Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 3-A Bài 1-50: Thầy có phải là Đấng chúng tôi mong đợi không? ----------------------------- Phúc Âm: Mt 11, 2-11 "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?"
Vui tươi và ôn hòa là hai đặc điểm quan trọng biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi một: MV 3-A1
Vui tươi và ôn hòa là hai đặc điểm quan trọng biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi một cộng đoàn và nơi chính người đồ đệ của Ngài. Ai sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa, hay cộng đoàn nào có Chúa hiện diện thì người đó hay cộng đoàn đó sẽ sống vui tươi và ôn hòa.
Mở đầu bài suy niệm Chúa nhật 3 Mùa Vọng hôm nay, Giáo Hội nhắc lại sự thật này qua lời dạy của thánh Phaolô: “Hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại cho anh chị em là hãy vui lên, đức ôn hòa của anh chị em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã đến gần…”.
Hai tuần Mùa vọng đã qua rồi, ngày Đại Lễ Giáng Sinh sắp đến, khắp nơi nhất là tại các thành phố, ngày Đại Lễ Giáng Sinh đã xuất hiện qua những trang hoàng, những đèn điện được xếp theo hình các ngôi sao, Giáo Hội lên tiếng nhắc lại cho các con cái mình lý do sâu xa nhất của niềm vui Kitô vui không phải vì những lợi lộc hay vì được chiếm hữu của cải vật chất, mà vui vì được Thiên Chúa đến hiện diện với con người và ở giữa cộng đoàn con người.
Dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa tình thương được thực hiện và sự an lành được ban cho con người. “Mù được thấy, què được đi, kẻ chết sống lại”, những lời loan báo này được thực hiện nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người trong Israel, dân Do Thái.
Thực vậy, chính Ngài đã khẳng định: “Hãy về thuật lại cho Gioan điều các ông nghe và thấy, người mù được thấy, què được đi, phong hủi được thấy, điếc được nghe, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo khó, phúc cho ai không bị vấp ngã vì Ta”.
Chúa Giêsu đã thực hiện các dấu chỉ đó qua các phép lạ công khai mà dân chúng được chứng kiến, giờ đây Ngài nhắc lại các dấu chỉ đó cho Gioan để củng cố niềm tin của ông đang gặp thử thách và mang lại cho ông niềm vui thuở ban đầu khi ông tuyên xưng niềm tin: “Tôi đã thấy và tôi làm chứng, Ngài thực là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế. Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
Chủ đề chính của phụng vụ Chúa nhật hôm nay là niềm vui mừng và hy vọng. Thực vậy: MV 3-A2
Chủ đề chính của phụng vụ Chúa nhật hôm nay là niềm vui mừng và hy vọng. Thực vậy, tiên tri Sophonia luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, một Thiên Chúa đầy tình yêu thương và tha thứ. Chính trong niềm tin tưởng ấy mà tiên tri đã kêu gọi: hãy vui lên, hỡi thiếu nữ Sion. Hãy mừng lên, hỡi Israel, vì Thiên Chúa đang ở giữa ngươi. Người là Đấng Cứu tinh oai hùng, sẽ lấy tình thương mà đổi mới các ngươi.
Cũng trong chiều hướng ấy, thánh Phaolô cũng đã kêu gọi: hãy vui lên anh em, tôi nhắc lại: hãy vui lên trong Chúa.
Và đoạn Tin mừng diễn tả: chính trong niềm hy vọng ơn Cứu độ mà những người Do thái thiện chí đã phấn khởi đến với Gioan Tiền hô xin ông cho biết phải làm gì để đón nhận Đấng Cứu thế sắp đến.
Như vậy qua các bản văn Kinh thánh, chúng ta thấy: Thiên Chúa chính là niềm vui mừng và hy vọng của con người. Bởi chính mình Ngài mới có thể giải thoát nhân loại khỏi mọi nỗi cơ cùng, khỏi kiếp sống nô lệ. Chỉ mình Ngài mới có thể ban cho nhân loại niếm vui, bình an và hạnh phúc. Do đó, lời kêu gọi: hãy vui lên, hãy vui lên trong Chúa là điều rất hợp lý.
Ngày hôm nay chúng ta không còn phải đón chờ Chúa đến như dân Do thái ngày xưa, bởi vì Chúa đã đến rồi. Ngài đang hiện diện bên chúng ta như Ngài đã nói: Này đây, Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Ngài vẫn tiếp tục thi ân cho chúng ta như Ngài đã thi ân cho dân Do thái ngày xưa.
Nhưng có thật là chúng ta vui mừng vì sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời mình ? Có thật chúng ta vui mừng vì được Chúa viếng thăm ? Có thật chúng ta vui mừng vì được làm con Chúa, được làm người có đạo ? Phải chăng đã chẳng có những lúc chúng ta nghĩ rằng: làm con Chúa vui đâu chẳng thấy, mà chỉ thấy những phiền lụy cho cuộc đời ? Những người không tin có Thiên Chúa, họ có thể an tâm ăn chơi xả láng, có thể mánh mung, lường gạt để kiếm cho được lắm bạc nhiều tiền với hy vọng một cuộc sống thỏa mái ung dung. Còn làm con Chúa ư ? Có cả một mạng lưới lề luật vây bọc quanh chúng, đến nỗi chúng ta cỉam thấy mình như bị ngộp thở bởi những trói buộc và cấm đoán…
Nếu Thiên Chúa của chúng ta là một hung thần luôn đàn áp con người, nếu lề luật của Ngài như là những thứ giết chết tự do của chúng ta, thì quả thật chúng ta chẳng nên vui mừng vì được làm con Thiên Chúa như vậy. Nhưng Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa của tình yêu thương. Một Thiên Chúa luôn nhẫn nhục trước sự bất tín, bất trung của dân Ngài. Một Thiên Chúa luôn biết nhỏ lệ trước những nỗi đớn đau của kiếp người. Một Thiên Chúa cảm thông và tha thứ cho những yếu đuối của con cái mình. Chính trong tình yêu thương vô biên ấy mà Thiên Chúa có đặt ra những lệ luật, thì đó chỉ là những lời diễn tả tình yêu, là hàng rào gìn giữ chúng ta trong tình yêu và là con đường dẫn chúng ta tới sự sống. Chúng ta phải vui mừng vì được tôn thờ một Thiên Chúa như thế trong đời mình.
Nếu ngày hôm nay chúng ta hỏi thánh Gioan tiền hô: Chúng tôi phải làm gì ? Có thể ông sẽ bảo chúng ta rằng: hãy thay đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Hãy nhìn Ngài như một người cha, như một người ban thân hay như một người tình để thấy được tình yêu vô bờ của Ngài. Thấy được tình yêu vô bờ của Ngài, chúng ta cũng sẽ thấy được điều mình phải làm để đáp trả lại tình yêu tuyệt đối ấy.
Một khuôn mặt không thể thiếu vắng trong mùa Vọng, đó là khuôn mặt của Gioan Tiền hô: MV 3-A3
Một khuôn mặt không thể thiếu vắng trong mùa Vọng, đó là khuôn mặt của Gioan Tiền hô. Vậy Gioan Tiền hô là ai ?
Ông là con của Giacaria và Isave, mở mắt chào đời khoảng sáu tháng trước Chúa Giêsu, tại làng Ain Karim, gần Giêrusalem. Ông có họ hàng với Chúa Giêsu, bởi vì mẹ ông, bà Isave, là chị họ của Đức Maria. Khi đã khôn lớn, ông vào trong hoang địa sống một cuộc sống khắc khổ, mặc áo da lạc đà, ăn châu chấu với mật ong rừng. Sau đó, vâng lệnh Chúa, ông rảo khắp vùng sông Gióc đan, rao giảng sự ăn năn và trao ban phép rửa sám hối, dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lời giảng của ông thật đơn sơ: với người thu thuế, ông đòi hỏi sự công bằng, với binh lính, ông đòi hỏi sự ngay thẳng. Tùy theo từng lớp người, ông đưa ra những lời khuyên cụ thể. Ông loan báo cho mọi người được biết Đấng Cứu đã gần đến, Đấng ấy sẽ tẩy rửa trong Thánh Thần và trong Chân Lý, Đấng ấy sẽ rê sân lúa, nghĩa là sẽ làm một cuộc thẩm phán để thanh lọc. Và khi Chúa Giêsu xuất hiện, ông không ngần ngại giới thiệu Ngài với dân chúng: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian. Sau cùng, vì can đảm dám lên tiếng can ngăn Hêrôđê, ông đã bị tống ngục và bị chém đầu.
Nhìn vào cuộc đời của ông, chúng ta thấy nổi bật một mẫu gương khiêm nhường. Chính nhờ thái độ khiêm nhường này mà ông đã gặp được Chúa.
Thực vậy, sứ điệp ông loan truyền bên bờ sông Giócđan là gì, nếu không phải là sứ điệp sám hối. Thế nhưng, muốn sám hối thì điều kiện đầu tiên cần phải có, đó là sự khiêm nhường. Thái độ khiêm nhường của Gioan Tiền hô còn được biểu lộ qua những lời ông nói với dân chúng.
Khi được hỏi ông là ai, thì Gioan Tiền hô đã trả lời một cách khiêm tốn:
- Tôi chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc: hãy dọn đường Chúa đến. Khi nhận ra Đức Kitô, ông đã xác quyết:
- Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Sau khi đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng, ông đã để cho các môn đệ thân tín của mình bước theo Ngài. Chính vì thế, ông xứng đáng được Chúa Giêsu khen ngợi: - Trong số những người nam được sinh ra, không có ai cao trọng hơn Gioan.
Sự khiêm nhường cũng chính là điều chúng ta cần phải thực hiện trong mùa Vọng, bởi vì chỉ những người khiêm nhường mới gặp được Chúa mà thôi.
Đúng thế, Kinh Thánh đã nhiều lần nói về sự thật này. Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những người phận nhỏ. Ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, thì sẽ được nâng lên. Chính trong chiều hướng ấy, thánh Grêgoriô đã xác quyết:
- Kiêu ngạo là dấu chỉ chắc chắn nhất của kẻ đã bị Chúa loại trừ.
Đúng thế, một Lucifer vì không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa, nên đã bị đày đọa trong hỏa ngục. Một Adong Evà, vì muốn trở nên bằng Thiên Chúa, nên phải lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Trong khi đó, một Maria khiêm nhường, chấp nhận thân phận tôi tá, nên đã được Thiên Chúa cất nhắc và đặt làm mẹ Đấng Cứu Thế.
Kinh nghiệm cũng cho hay: một người khô khan mà kiêu căng tự mãn khó trở lại hơn một trăm người sa ngã về xác thịt., bởi vì người sa ngã do yếu đuối dễ nhận ra mình tội lỗi và trống vắng, nên cũng dễ khiêm nhường trở về cùng Chúa.
Hơn thế nữa, muốn bỏ một vật gì vào túi, thì tiên vàn chiếc túi phải rỗng, phải có chỗ. Nếu đã chặt rồi, thì làm sao nhét vào được nữa. Cũng vậy, linh hồn muốn được Chúa ngự trị, cần phải rỗng, nghĩa là cần phải nhận mình nghèo nàn và thiếu thốn. Trong khi đó, kẻ kiêu ngạo tâm hồn chất đầy cái tôi với những tự cao, tự đại, tự mãn thì còn chỗ đâu mà dành cho Chúa nữa.
Ngày kia, một du khách đang đứng chiêm ngắm tượng Chúa chịu nạn của Thorwaldsen. Và hình như ông ta chẳng khám phá ra được một vẻ đẹp nào cả trên bức tượng thời danh này. Bỗng ông ta nghe thấy như có tiếng thì thầm bên tai:
- Xin ông hãy quì xuống và nhìn ngắm khuôn mặt của Chúa.
Ông ta đã quì xuống và khám phá ra vẻ đẹp tuyệt vời của bức tượng.
Chúng ta cũng vậy. Hãy quì xuống, có nghĩa là hãy sống khiêm nhường và rồi chúng ta sẽ gặp được Chúa.
Alpua Robil là một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng nhất trong các thiên tài dương cầm trên thế: MV 3-A4
Alpua Robil là một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng nhất trong các thiên tài dương cầm trên thế giới hiện nay. Tuy tự xưng mình là người vô thần, nhưng đã nói về Chúa Giêsu như sau: “Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô đã và luôn luôn là một nhân vật siêu việt cao vời và lí tưởng nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại”. Sự kiện Ngài là người Do thái khiến cho tôi kiêu hãnh lây, vì tôi cũng thuộc dòng giống Do thái. Cuộc sống của Ngài, các lời Ngài giảng dạy, sự hy sinh và lòng tin của Ngài đã trao ban cho thế giới món quà quí báu cao trọng nhất mà thế giới chưa bao giờ nhận được. Đó là món quà của “tình yêu thương”, tình yêu thương đối với tha nhân, tình yêu thương đối với người nghèo khó, tình thương xót, tình nhân loại và sau cùng là tất cả các tâm tình khiến cho con người trở thành cao thượng.
Phải ! Nhận xét trên đây của nhạc sĩ Alqua Robil thật sâu sắc và chí lý. Đúng thế! Ở đâu có tình yêu thương, thì ở đó có hạnh phúc tươi vui và an bình đích thực. Bởi vì, tình yêu thương là phương thế duy nhất hữu hiệu giúp con người xây dựng một thế giới tốt lành hơn mà không gây đổ máu, chết chóc và tàn phá thương đau cho con người.
Là người có nếp sống chay tịnh khắc khổ, khi nghe ngài giảng, người ta tưởng đâu là thán Gioan cũng nghiêm ngặt đòi buộc mọi người sống khổ hạnh tiết chế như ngài. Nhưng không, thánh nhân không đòi buộc họ làm những việc lạ thường khó khăn, mà chỉ khuyên mọi người thay đổi kiểu cách sống và thái độ hành sử đối với người khác. Thánh nhân đề nghị với một thái độ sống quân bình, biết thực thi công lý và yêu thương, chia sẻ cụ thể với tha nhân chẳng hạn như:
- Ai thuộc lớp người giàu có, dư tiền dư của và phương tiện vật chất thì từ nay đừng sống ích kỷ, bo bo vơ vét tích trữ cho chính mình như trước nữa, mà hãy biết chia sẻ cơm áo, quảng đại trợ giúp cho họ có công ăn việc làm, tạo điều kiện sinh sống cho các anh chị em nghèo khó thiếu thốn hơn mình, cốt sao để họ có cuộc sống hạnh phúc sung sướng và đầy đủ, xứng đáng với phẩm giá con người.
Qua Bí tích Rửa tội, Ngài đã giải thoát họ khỏi xích xiềng nô lệ tội lỗi, trả lại cho họ sự tự do, ơn làm con cái Thiên Chúa. Tin vui cứu độ ấy không cho phép Kitô hữu buồn sầu thất vọng như những người không có niềm tin. Có Chúa trong lòng, có Chúa trong đời, có Chúa kề bên thì người Kitô hữu có được tất cả.
Vì thế, họ phải sống tin yêu phó thác và an bình, tươi vui, không âu lo, không sợ hãi. Kết hợp với Chúa qua lời cầu nguyện, qua cuộc sống đối thoại thân tình với Ngài. Họ phó thác mọi sự cho Chúa, và noi gương Chúa Giêsu sống nhân hậu, sống tốt với mọi người, yêu thương thông cảm và quảng đại với mọi người. Nếu Giáo hội đánh mất đi sự tươi vui của mình, thì điều đó có nghĩa là Giáo hội đã đánh mất đi tất cả. Khi đó Giáo hội không làm chứng cho niềm hạnh phúc là hôn thê của Chúa Kitô nữa, và điều đó cũng có nghĩa là tình yêu đã chết hay đang hấp hối. Tuy nhiên, khi đó Giáo hội sẽ không còn khả năng yêu thương con người hay yêu thương với một tình yêu buồn sầu, mà tình yêu buồn sầu thì không phải là tình yêu.
Cũng thế, một tín hữu không còn khả năng sống tươi vui là dấu chỉ họ chưa gặp gỡ Thiên Chúa đích thực. Khi người Kitô hữu đánh mất đi niềm vui, thì họ phải tự vấn lương tâm mình xem nó có phải là ấu trĩ hay không ? Và nếu quả thật có như vậy, thì đây là lúc chúng ta phải nghe lời thánh Phaolô kêu mời: “Anh chị em hãy tìm lại Chúa Kitô, nghĩa là hãy nhìn lại niềm vui của Chúa Kitô”. Đó chẳng phải là món quà và ơn thánh quí báu nhất trong Mùa Vọng hay sao ?
Càng gần lễ Giáng sinh niềm hy vọng càng dâng cao trong lòng chúng ta. Dù muốn dù không: MV 3-A5
Càng gần lễ Giáng sinh niềm hy vọng càng dâng cao trong lòng chúng ta. Dù muốn dù không chúng ta cũng hy vọng một điều gì đó, người thì nghĩ đến những ngày nghỉ sắp tới, kẻ khác nghĩ đến những cuộc hội họp gia đình quy tụ anh chị em ở xa về. Cha mẹ mong sao con cái sẽ thỏa thích khi chúng mở những món quà được chọn lựa kỹ càng, và con cái thì ấp ủ những giấc mơ đủ loại.
Đồng thời với những hy vọng này đã chớm nở một hy vọng khác trong lòng toàn thể nhân loại. Một hy vọng sâu xa hơn, cao cả hơn: “Ước mong lễ Giáng sinh năm nay sẽ mang tới cho mọi người nhiều điều tốt lành hơn những Giáng sinh trước đây… Ước mong hòa bình lan rộng thêm một chút nữa… Ước mong tình huynh đệ được kéo dài… Ước mong sự nghèo nàn khổ sở biến hẳn đi”.
Một người ngồi trong nhà tù vẫn mơ ước những điều họ hy vọng. Họ đã hiến dâng toàn bộ cuộc đời của mình vì một điều gì đó: Họ hy vọng Đấng Mêsia đến. Họ cảm thấy rằng Ngài sắp tới rồi. Họ vội vã và chuẩn bị cho biến cố này.
Hôm nay, Gioan Tẩy Giả đang ở tù. Ông có mơ ước hão huyền không ? Ông có khơi dậy trong xứ sở những niềm hy vọng trống rỗng không ? Có phải vô ích mà ông mất sự tự do của mình không ? Tóm lại, Chúa Giêsu có phải là câu đáp cho sự chờ mong của ông không ? Ông có phải chờ đợi ai khác nữa không ?
Gioan Tẩy Giả đã thừa hưởng niềm hy vọng của Israel. Người ta chờ đợi một Môisê mới sẽ cầm đầu và vạch ra con đường trở về từ chốn lưu đày. Người ta chờ đợi một ngôn sứ mới, một Êlia, đến mặc khải Thiên Chúa. Ông chờ đợi Con người từ nơi Thiên Chúa mà đến. Người Do Thái không hy vọng gì khác ngoài Thiên Chúa và việc tỏ hiện quyền năng của Ngài. Đây là câu trả lời: Những hành động, những việc chữa lành. Một quyền năng đang hoạt động: Những người mù được sáng mắt, người điếc được nghe, những người bệnh được chữa lành. Tim Mừng gồm những hành động cứu độ.
Ít lâu sau, thánh Gioan tông đồ sẽ trình bày việc thể hiện niềm hy vọng của Israel như sau: Ngôi Lời đã nhập thể. trong đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu trả lời: Đây là những hành động, đây là những sự kiện. Không thể nào lầm về căn tính của Ngài được, Đấng phải đến đã có mặt ở đó rồi: Ngài hoạt động. Giấy căn cước của Ngài chính là những gì Ngài làm. Chữ ký của Ngài chính là những hành động của Ngài.
Với những gì được ghi chép trong Tin Mừng hôm nay, giờ đây ta hãy tìm cách xem xét lại cuộc sống của chúng ta. Chúng ta tràn đầy hy vọng vào những thời gian lễ hội. Chúng ta cũng biết rằng những thời gian đều chóng qua. Nhưng có những thời gian khác bền bị hơn, sâu sắc hơn, và vì chúng, mà ta đã dám đánh đổi toàn bộ cuộc đời ta !
Vì ước muốn hạnh phúc, một người nam và một người nữ đã kết hợp cùng nhau và thề hứa trung thành với nhau. Vì ước muốn sự sống họ đã sinh con cái. Vì hy vọng có nhiều công bằng hơn, nhiều người đã dấn thân vào đời sống xã hội và Giáo Hội. Những người khác đã chọn nghề nghiệp với hy vọng giúp cho trần thế tốt đẹp hơn nhờ công việc họ làm. Tất cả những sự dấn thân này, cho thấy chiều sâu của những niềm hy vọng.
Khi mong chờ lễ Giáng sinh chúng ta có thể nêu câu hỏi này: Những cuộc dấn thân như thế có được đáp ứng không ? Chúa Giêsu có thể thỏa mãn những niềm hy vọng của chúng ta không?
Chúng ta cũng có thể biết chắc câu trả lời rồi. Nó đến từ Chúa Giêsu: “Hãy nhìn xem những gì đang xảy ra!”. Những sự kiện nào, những cuộc chữa lành nào, những hạnh phúc nào xung quanh chúng ta có thể là câu trả lời ấy ?
Chúng ta thường cầu nguyện: “Lạy Chúa, con rất vui vẻ thi hành thánh ý Ngài. Con chỉ xin: MV 3-A6
Chúng ta thường cầu nguyện: “Lạy Chúa, con rất vui vẻ thi hành thánh ý Ngài. Con chỉ xin Ngài tỏ cho con biết thật rõ ràng Chúa muốn con phải làm gì ?”.
Khi còn nhỏ, tôi nghĩ rằng các đấng thánh là những người biết chính xác điều Thiên Chúa muốn. Khi Ngài muốn các thánh làm điều gì, Ngài gửi sứ giả đến. Sứ giả là các thiên thần thường mặc áo dài trắng và đàng sau lưng có khoét hai cái lỗ lớn để đeo cánh. Nhưng khi lớn lên, đọc hạnh các thánh, tôi biết thêm về đời sống của các ngài cũng rất giống tôi. Họ cũng thường gặp khủng hoảng rắc rối để tìm ra điều Thiên Chúa muốn. Đôi khi còn tệ hơn nữa, có những vị lúc đầu nghĩ rằng mình đã biết chính xác ý muốn của Thiên Chúa, nhưng sau nhiều năm, các ngài lại không còn chắc chắn nữa. Có những vị lại khám phá thấy mình đã đi sai đường, và phải quay trở về để hoàn toàn bắt đầu lại một đường hướng mới.
Trường hợp của Thánh Gioan tẩy giả ngồi trong tù, trong bài Phúc âm hôm nay, đặt vấn đề hoài nghi về Chúa Giêsu là một điển hình: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác”. Gioan nghi ngờ về những điều Thiên Chúa muốn ông đã rao giảng trước đây rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để các anh giục lòng sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người”.
Gioan Tẩy giả đang bị ngồi tù. Nhà tù là nơi thử thách, gây thất vọng và nghi ngờ. Đành rằng trước đây, Gioan đã biết rõ Đức Giêsu là ai rồi, nhưng trong tù niềm tin đó có thể gặp thử thách. Trong tù Gioan mong đợi ngày giờ giải phóng của Đấng Cứu Thế.
Dân Do Thái cũng không khác gì Gioan, đang bị giam cầm bởi đế quốc Rôma. Gioan đặt vấn đề chắc chắn không phải vì ích lợi của cá nhân ông, nhưng của những người môn đệ theo ông và của toàn dân Do thái. Phúc âm ghi rõ lời của Gioan: “Chúng tôi còn phải đợi…”. Trong cách hỏi này, đã ẩn ý Gioan là đại diện cho toàn thể dân Do Thái đang mong đợi Đấng Cứu Thế.
Nhà tù mang hình ảnh của mùa vọng. Một người chỉ ngồi chờ đợi, hy vọng, làm những việc không cần thiết và hoàn toàn tùy thuộc vào nỗi ước mong rằng cánh cửa tự do sẽ được mở ra “từ phía bên ngoài” (Bonhoeffer).
Con người hôm nay cũng đang ngồi trong những nhà tù của riêng mình. Chúng ta đang mong chờ một người nào đó sẽ đến để giải thoát. Khi phải đối diện với những giới hạn của cuộc sống và của thân phận con người, chúng ta cũng đặt vấn đề như Gioan. Nhà tù là những thử thách của đau khổ, thất bại và đổ vỡ trong gia đình như vợ chồng ly dị, con cái xung khắc nhau, thất nghiệp, bệnh tật lâu ngày, ung thư, những người thân yêu phải chết, con cái sinh ra mang tật nguyền v.v… Thỉnh thoảng qua bạn bè chúng ta cũng sai người đi dò hỏi xem: “Có người nào có thể giúp tôi thay đổi được tình trạng này không ?”.
Tác giả sách “Gương Chúa Giêsu” viết như sau: “Bao lâu chúng ta sống trong thế giới này: MV 3-A7
Tác giả sách “Gương Chúa Giêsu” viết như sau: “Bao lâu chúng ta sống trong thế giới này, chúng ta không thể tránh được đau khổ và cám dỗ”. “Tại sao lại đi tìm kiếm sự nghỉ ngơi trong khi chúng ta đã được sinh vào nỗi khốn khổ”. Tác giả biết không ai có thể tránh được đau khổ vì con người đã bị mất ơn sủng. Đau khổ nhắc nhở chúng ta rằng thế giới này không phải là nơi ở vĩnh viễn của con người. Trong đau khổ chúng ta học cách tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa, những lời hứa cho tương lai, không phải ở hiện tại. Những lời hứa chỉ được hoàn thành trong Chúa Giêsu Kitô.
“Chúa Giêsu, dù là Con, nhưng đã nhờ sự chịu đau khổ mà học được đức vâng lời”, phương chi chúng ta, những tạo vật và những tội nhân, đã được nhận làm những nghĩa tử ở trong Ngài”.
Trong đau khổ, thử thách và gian nan, Chúa Giêsu Kitô chính là niềm hy vọng, là những dấu hiệu chứng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa mà Gioan tẩy giả đã mong đợi. Chính Ngài sẽ giúp chúng ta định hướng cho cuộc đời: “Người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó ; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng, màu của phụng vụ là màu hồng. Mầu hồng biểu tượng cho niềm vui và hy vọng. Giáo Hội gọi Chúa nhật này là “Chúa nhật gaudete”, Chúa nhật Vui mừng”. Vui mừng vì Đấng Cứu Thế đã đến gần. Tôi biết sẽ có người nói rằng: “Tôi chẳng cảm thấy vui chút nào !” “Đúng, ngay cả Gioan Tẩy giả ở trong tù cũng không cảm thấy vui !” Niềm vui tôn giáo, nhất là sự vui mừng của Tin Mừng không phải là một cảm giác, hay một cảm xúc, nhưng là một niềm xác tín của đức tin, đức cậy và đức mến nơi Chúa Giêsu Kitô. Sách Giáo lý Công giáo dạy: “Đức tin cho ta nếm trước niềm vui và ánh sáng của sự hưởng kiến diễm phúc trên trời…”
Vị thầy vĩ đại đã cảm nghiệm được niềm vui đích thật chính là thánh Phanxicô thành Assisi. Khi còn là một thanh niên trẻ, ngài đến viếng thăm Rôma, quì gối cầu nguyện trước mộ thánh Phêrô, và trong sự biết ơn đối với thánh cả, Phanxicô đã quăng vài đồng tiền kẽm vào, qua những chắn song sắt. Nhưng khi vừa bước ra ngoài đường ngài liền gặp một người ăn xin. Trong giây phút xúc cảm, Phanxicô đã yêu cầu người ăn xin đổi chiếc áo choàng của anh cho ngài. Phanxicô đang làm việc cho cha là một thương gia giàu có, chiếc áo choàng của ngài rất đắt tiền và quí phái. Người ăn xin rất sung sướng, và còn sướng hơn nữa vì có những đồng tiền cắc sót lại trong túi áo. Rồi sau đó, Phanxicô đã ngồi ở góc đường, làm công việc rất nhục nhã: xin ăn những người qua lại bên đường. Nhưng ngày hôm đó ngài đã cảm nghiệm được một niềm vui không tả xiết. Nguồn vui ấy đã hình thành nền tảng cho một trong những dòng tu lớn nhất của lịch sử Kitô giáo.
Chỉ nhờ vào niềm tin cậy mến nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa sẽ ngự đến trong tâm hồn chúng ta trong suốt mùa vọng và Giáng sinh để ban cho ta khả năng chịu đựng những đau khổ, gian truân, thử thách và cảm nghiệm được niềm vui cũng giống như thánh Phaolô và thánh Gioan tẩy giả khi xưa ngồi trong tù.
Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì đế quốc La mã đang ở vào thời đại hoàng kim, thời đại: MV 3-A8
Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì đế quốc La mã đang ở vào thời đại hoàng kim, thời đại rực rỡ nhất với uy quyền bành trướng khắp nơi. Vi hoàng đế không phải chỉ cai trị một cách tuyệt đối tại kinh thành La mã, mà còn ở tất cả những quốc gia, những dân tộc nằm trong lãnh địa của mình.
Nếu vị hoàng đế quyết định ghé thăm thủ đô của một thuộc địa xa xôi nào đó, ông ta sẽ sai sứ giả đi trước, có nhiệm vụ báo tin cho dân chúng biết cuộc viếng thăm và đốc thúc họ chuẩn bị cuộc đón rước sao cho linh đình và trọng thể. Trong khi chờ đợi, chính vị sứ giả cũng sẽ được tiếp nhận với tất cả vinh dự của mình.
Đúng thế, vào lúc vị vua tối cao của trời và đất sắp đến thăm hành tinh nhỏ bé này để ở giữa chúng ta, Ngài cũng đã chọn lựa cho mình một vị tiên tri, một vị sứ giả, như lời tiên tri Malachia đã loan báo:
- Này đây, ta sai sứ giả của ta đi trước con để dọn đường cho con.
Lời nói này ám chỉ về Gioan tẩy giả. Bởi vì ở bờ sông Giócđan, Gioan tẩy giả đã rao giảng và trao ban phép rửa thống hối cho người Do thái để họ chuẩn bị đón mừng đấng cứu thế:
- Có tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Gioan tẩy giả không bảo họ treo cờ, giăng biểu ngữ hay làm cổng chào, nhưng bảo họ hãy sống tinh thần sám hối, xa lánh tội lỗi, vì tội lỗi chính là những chướng ngại vật ngăn chặn không cho Chúa đến với chúng ta.
Nếu không hoán cải, nếu không quay trở về với Chúa, thì này đây, cái dìu đã được đặt dưới gốc cây và cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Gioan tẩy giả cũng tụ tập chung quanh mình một số môn đệ. Nhưng rồi một ngày kia, khi Chúa Giêsu xuất hiện và đi ngang qua. Gioan tẩy giả đã vội vã giới thiệu Chúa Giêsu cho họ:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây đấng xóa tội trần gian.
Và lập tức các môn đệ ấy đã rời bỏ Gioan tẩy giả để theo Chúa Giêsu. Đó chính là điều Gioan đã mong ước.
Chúng ta có thể nói được rằng:
- Khát vọng duy nhất của Gioan tẩy giả là dẫn đưa các linh hồn về với Chúa Giêsu.
Phải chăng ông đã chẳng công bố:
- Đức Kitô phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Một sự từ bỏ dứt khoát đáng cho chúng ta ca tụng và bắt chước, vì chúng ta không có quyền tìm kiếm cho mình những vinh dự đã được dành cho Chúa Giêsu.
Hơn nữa, chính Chúa Giêsu còn nói rõ qua đoạn Phúc âm vừa nghe: Gioan đã hoàn tất sứ mạng của mình mà không lo lắng gì đến dư luận, Gioan đã mặc cho người nói ngược nói xuôi, còn mình vẫn vững như kiềng ba chân. Phải chăng người ta đã trách cứ ông chỉ là một cây sậy bé bỏng, một cái đạp nhẹ cũng sẽ làm cho nó bị dập nát ? Hay chỉ là một ngọn cờ bị cuốn theo chiều gió. Không, Gioan có con đường của mình, Gioan có sứ mạng phải theo đuổi.
Sau khi đã tìm hiểu một vài nét chính yếu về Gioan tẩy giả, mỗi người kitô hữu chúng ta cũng phải trở nên một vị tiền hô, một vị sứ giả của Thiên Chúa. Mỗi người kitô hữu chúng ta cũng có bổn phận phải đem Chúa, phải giới thiệu Chúa cho những người chung quanh.
Chúng ta phải làm chứng về Chúa bằng lời nói và nhất là bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bái ái và yêu thương của chúng ta. Tất cả những người đã lãnh nhận bí tích rửa tội đều được mời gọi để chuẩn bị con đường cho chúa đến trong tâm hồn mình và trong tâm hồn người khác, tùy theo cách thức và hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Có một em bé mới lên bốn đã cảm hóa được người cha, để ông làm dấu và đọc kinh trước bữa ăn. Câu chuyện rất đơn sơ. Trưa hôm đó, em đang chơi đồ hàng ngoài sân, thì người chị kêu về ăn cơm. Ngồi vào bàn, em lén lút nhìn người cha, và khẽ nói:
- Ba à, Ma-sơ bảo phải đọc kinh trước khi ăn cơm.
Lúc đó người cha chỉ còn cách làm dấu và đọc Kinh Lạy Cha, một thói quen mà ông đã bỏ từ lâu.
Có một bác sĩ giải phẫu đã ăn năn trở lại chỉ vì một em bé đau yếu, em vừa mới được bảy tuổi và bị giải phẫu. Ông bác sĩ ấy đã kể lại như sau:
Hôm đó, em được đưa vào phòng mổ và trước khi gây mê cho em, tôi đã nói với em:
- Chúng tôi sắp sửa chữa cho cháu được khỏi, nhưng trước hết cháu cần phải ngủ.
Nhưng em bé đã trả lời với tôi:
- Vậy hãy để cho cháu cầu nguyện một chút.
Nói đoạn em quỳ xuống bên cạnh bàn mổ, hai tay chắp lại, đôi mắt ngước lên cao, em khẽ đọc một kinh lạy cha. Lúc bấy giờ vị bác sĩ và những cô y tá đều cảm động đến nỗi rưng rưng như muốn khóc. Vị bác sĩ đã kể tiếp : Sau đó, tôi cảm thấy lương tâm cắn rứt, tôi đã đi xưng tội, và mỗi buổi tối, tôi không bao giờ đi ngủ mà không đọc kinh, mà không cầu nguyện.
Này ta sai sứ giả của ta đi trước con để dọn đường cho con. Những lời nói này làm cho chúng ta liên tưởng tới Gioan tiền hô, nhưng cũng được áp dụng cho mỗi người chúng ta. Phải, mỗi người chúng ta đều được mời gọi để trở nên một vị tiền hô, một vị sứ giả của Chúa.
Trong mùa vọng này chúng ta hãy suy nghĩ và sống cái sứ mạng đó, bởi vì chúng ta chỉ có một nỗi băn khoăn và bận tâm, đó là phải sống thế nào để Chúa đến trong tâm hồn anh em của chúng ta ?
Người đàn ông đã sáng chế ra lại "Cái Ôm Hôn Thánh Thiện" ở thời đại chúng ta là ông Leo: MV 3-A9
Người đàn ông đã sáng chế ra lại "Cái Ôm Hôn Thánh Thiện" ở thời đại chúng ta là ông Leo Busaglia. Ông đã viết một bài trong cuốn báo "Women's Day" với tựa đề là "Cuộc Giáng Sinh theo Matthêu Mập." Buscaglia lúc đó mới tốt nghiệp đại học là một thầy giáo và được bổ nhiệm để tổ chức một hoạt cảnh Giáng Sinh. Các vai trong hoạt cảnh đã được các em trong lớp sắp đặt. Riêng vai Thánh Giuse thì do em "Matthêu Mập" phụ trách. Các học sinh đều cho rằng Matthêu Mập đóng vai Thánh Giuse là đúng nhất, tuy nhiên Buscaglia thì lưỡng lự bởi vì em là một học sinh cao nhất trong lớp và đồng thời cũng là một đứa trẻ hiếu động nhất. Sau những tuần tập dợt, ngày trình diễn đã đến. Sau khi bài thánh ca hát đến câu cuối, "Chúa Kitô, Đấng Cứu Tinh đã sinh ra... Chúa Kitô Đấng Cứu Tinh đã giáng trần," thì tấm màn sân khấu mở ra. Trên sân khấu, Đức Mẹ và Thánh Giuse đang nằm ngủ trên những bao bột, và xung quanh là các con vật đang kêu ra những tiếng của chúng. Cynthia đã quên vai của cô là con chiên, và cô đã rống "mu mu", tiếng của con bò. Còn Paul thì chỉ quay xuống nhìn khán giả và chạy vô trong. Sau đó, thiên thần thứ nhất xuất hiện. Trên tay của thiên thần là Chúa Hài Đồng. Một cách cẩn thận, thiên thần đặt em bé trên đống rơm ở phía chân của Đức Mẹ và đọc bài Phúc Âm Giáng Sinh của Chúa Giêsu theo Thánh Luca. Sau đó, Matthêu Mập, trong vai Thánh Giuse, thức dậy, ngáp, và giựt mình khi nhìn xuống phía chân của Đức Mẹ. "Cho đến ngày hôm nay", Tiến Sĩ Buscaglia viết, "tôi vẫn không thể tưởng nổi điều gì đã ám ảnh nó. Matthêu Mập đánh thức Đức Mẹ và hét lên, "Maria, Maria, thức dậy và nhìn xem em bé bà đã có trong đêm qua!"
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả đã khuyến khích đám đông đang vây quanh ông hãy mở mắt và tâm hồn mình ra mà nhìn vào Chúa Giêsu, Đấng đến sau ông, nhưng có trước ông, và ông không đáng cởi dây giày cho Ngài.
Chúa Giêsu là Người độc nhất trong lịch sử của loài người. Sự giáng trần của Ngài là một sự kiện độc nhất, mà Ngài đã hiện hữu từ muôn đời và bây giờ đến trong thế gian với thân phận con người. Ngài độc nhất trong lời giảng dạy và việc làm. Ngài độc nhất trong sự hiền lành và quyền năng. Ngài độc nhất trong cái chết và sự phục sinh. Ngài độc nhất vô tội. Điều mà Thánh Gioan Tẩy Giả tuyên bố cũng giống như lời thiên thần báo tin Giáng Sinh của Chúa Giêsu cho các mục đồng"...này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa" (Lc 2:10-11).
Dân Chúa là đoàn dân của sự vui mừng, bởi vì trong và qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa ban chính Ngài cho chúng ta cho dù trong cảnh tối tăm nhất của cuộc đời chúng ta. Toàn bộ Tân Ước là những cuốn sách vui mừng từ đầu cho tới cuối. Sự vui mừng này được diễn tả một cách đặc biệt trong thư của Thánh Phaolô. Ngài đã phải trải qua bao nhiêu đánh đập, sỉ nhục, gian nan, tù tội. Hơn nữa, ngài còn phải đương đầu với biết bao nhiêu vấn đề trong xã hội cùng với biết bao nhiêu người khác: cả triệu người trong cảnh nô lệ; cả triệu người đói khổ, và hàng ngàn người chết oanh liệt chỉ vì họ là Kitô hữu. Và trong những lúc như thế, Thánh Phaolô đã không ngừng khuyến khích các cộng đoàn: "Anh em hãy vui mừng luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!... Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu" (Phil 4:4-7).
Thánh Tông Đồ Phaolô đã biết rằng cuộc sống vui mừng có động lực thu hút sự sống vào chính nó. Điều đó có nghĩa là sự chan chứa niềm vui thì tự đặt mình vào chỗ đón nhận thêm sự sống, niềm vui, và hy vọng. Ngược lại, người chối bỏ cuộc sống là người luôn than thở và thất vọng. Họ hướng về sự tiêu cực, tối tăm, bệnh tật, và sự chết. Chúng ta nhìn thấy rõ sự đó. Đó là một định luật của cuộc sống. Đó là một phần mà Chúa Giêsu đã có ý nói tới khi Ngài phán: "Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất" (Mt 13:12). Đó là cách xoay tròn của cuộc sống. Khi mà tâm hồn của bạn tràn ngập niềm vui, thì bạn sẽ lãnh nhận nhiều hơn nữa; ngược lại, khi tâm hồn bạn không có chút niềm vui nào, thì bạn sẽ mất tất cả. Thánh Phaolô cũng biết rằng cuộc sống vui tươi thì có chiều hướng lan truyền cho người khác.
Bạn hãy nghĩ đến một người nào đó mà đã gây ảnh hưởng lớn lao trong cuộc sống của bạn. Người đó không phải là người sống tiêu cực hoặc thất vọng, nhưng là một người biết vui sống. Chúng ta nhìn thấy một điều gì đó ở trong họ mà chúng ta cũng muốn ôm ấp. Trong công cuộc truyền giáo của chúng ta, đó là cách thức mà chúng ta có thể kéo người khác đến với Chúa Kitô.
Các Kitô hữu thời sơ khai đã có thể lôi kéo thế giới tin theo Chúa Kitô là bởi vì họ đã biết lan tràn sự vui mừng của họ ra cho thế giới. Đánh mất niềm vui đó là dấu hiệu chúng ta đã đánh mất Thiên Chúa. Và thế giới không còn trông mong điều gì ở chúng ta.
Thiên Chúa ban cho dân Ngài sự vui mừng, và qua đó, Ngài ban sự vui mừng cho thế giới!
Anh em ra xem gì trong hoang địa?" Đức Giêsu đã ba lần đặt câu hỏi như thế. Hẳn không phải: MV 3-A10
"Anh em ra xem gì trong hoang địa?" Đức Giêsu đã ba lần đặt câu hỏi như thế. Hẳn không phải để xem một cây sậy bị gió lay, vì Gioan chẳng phải là người dễ lung lay, khuất phục. Cũng không phải để xem người mặc lụa là gấm vóc, vì Gioan chỉ có áo lông lạc đà và dây lưng da. Nhưng để gặp một vị ngôn sứ cao trọng hơn cả, vì ông ở đỉnh cao kết thúc Cựu Ước, đồng thời ông là người giới thiệu Đức Kitô cho dân Ít-ra-en.
Đối với ông, Đức Kitô là Đấng mạnh mẽ. Ngài đến sau ông, nhưng mạnh hơn ông (x.Mt 3,11). Ngài như người cầm rìu chặt mọi cây không sinh trái và quăng vào lửa (x.Mt 3,10). Ngài còn như người cầm nia sàng sảy (x.Mt 3,12), thóc lép thì cho vào lửa, thóc mẩy thì thu vào kho. Ngài sẽ thanh tẩy trong Thánh Thần và lửa (x.Mt 3,11).
Quả thực Ngài là vị thẩm phán đáng sợ. Ngài trừng phạt tội nhân bằng ngọn lửa không hề tắt.
Khi ở tù, Gioan vẫn nghe biết các việc Đức Giêsu làm. Thật chẳng có gì giống với những điều ông đã loan báo. Ngỡ ngàng, hoang mang, ông sai môn đệ đến gặp Ngài.
Đức Giêsu kín đáo cho thấy Ngài thật là Đức Kitô, vì Ngài làm ứng nghiệm những lời ngôn sứ Isaia loan báo. Ngài không phải là một Mêsia đoán phạt, báo thù, nhưng là một Mêsia xót thương cúi xuống người đau khổ.
Gioan đứng trước một thách đố. Ông có chịu đổi quan niệm của mình về Đấng Mêsia không? Nếu không đổi, ông chẳng thể nào đón nhận Đức Giêsu, Đấng mà ông đã giới thiệu là Kitô, là Mêsia. "Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
Phêrô cũng đã vấp ngã sau khi tuyên xưng đức tin. Ông không thể nào chấp nhận một Đấng Mêsia chịu đau khổ. Giona cũng nổi giận, vì Thiên Chúa không phạt dân Ninivê như lời ông loan báo (x. Ga 3,4; 4,1). Như thế cả Giona, Gioan hay Phêrô đều phải mở ra để đón lấy Thiên Chúa bất ngờ.
Ngài không như điều ta tưởng, thậm chí có khi Ngài ngược với điều ta rao giảng.
Gioan đã vượt qua chính mình khi nói: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga 3,30). Ông đã giới thiệu môn đệ và dân chúng đến với Đức Giêsu. Nhưng ông còn phải vượt qua chính mình một lần nữa, khi chấp nhận thanh lọc cái nhìn của mình về Đấng Mêsia.
Mùa vọng là thời gian chờ đợi Chúa đến.
Ta nghĩ Chúa đến một cách ồn ào, oai phong lẫm liệt, thì Ngài lại đến cách âm thầm lặng lẽ.
Ta tưởng Chúa đến qua những đại lộ thênh thang, thì Ngài lại đến qua ngõ hẹp tăm tối.
Ta chờ Ngài những câu trả lời, còn Ngài lại đặt câu hỏi! Xin cho chúng ta đừng đi tìm Ngài, khi Ngài đang ở kề bên.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa thích chơi ú tim với con người. Ta tưởng Ngài ở đây, thì Ngài lại ở kia. Ngài luôn vượt quá điều ta nghĩ về Ngài. Vậy theo ý bạn, làm sao gặp được Ngài?
Đức Giêsu đã kể ra những việc Ngài làm để cho thấy Ngài thật là Đức Kitô (x. Mt 11,5). Theo ý bạn, đâu là những việc bạn phải làm để cho thấy bạn là Kitô hữu thật sự?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Nguời là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người. Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)
Cách đặt câu hỏi để rồi phủ nhận của ba câu 7, 8 và 9, có mục đích nhấn mạnh một điểm. Ý: MV 3-A11
Cách đặt câu hỏi để rồi phủ nhận của ba câu 7, 8 và 9, có mục đích nhấn mạnh một điểm. Ý thứ nhất, một người bạo dạn như Gioan thì tương phản với cây sậy mỏng manh. Thứ hai, một người bình dị và khắc khổ như Gioan chắc chắn không mặc sang trọng. Thứ ba, Gioan khác hẳn với những tiên tri thông thường, và đây là điểm chính. Gioan khác biệt hẳn ở chỗ ông là người dọn đường cho Chúa tới. Điều đó làm cho Chúa và những ai theo Ngài trở nên cao trọng hơn nữa.
Gioan biết Đức Giêsu là Đấng Kitô nhưng ông không thể hình dung ra được. Trước tiên, ông thắc mắc tại sao Đức Giêsu lại muốn chịu phép rửa, kế đến ông phân vân tại sao Đức Giêsu không làm những việc trọng đại như trừng phạt kẻ có tội và giải phóng những người bị áp bức.
"Người mù được thấy": Sách Cựu Ước đã nói rằng Đấng Mêsia sẽ chữa lành kẻ bị đui mụ Đức Giêsu là người duy nhất trong Cựu Ước cũng như Tân Ước đã chữa lành người mù, và đây cũng là phép lạ mà Ngài thường làm nhất.
"Người cùi được sạch", bệnh phong cùi là điều ô uế không những cần được chữa khỏi mà còn đươc rửa sạch nữa.
"Kẻ nghèo được nghe tin mừng", đây là điểm cuối cùng, và là tột điểm, làm ta liên tưởng đến các Mối Phúc Thật trong Mt 5:3.
Đứng về phía những người nghèo khó luôn là việc làm phản với văn hóa, và đó không phải là điều người ta mong đợi nơi Đấng Cứu Thế sẽ làm. Bởi vậy, "phúc thay kẻ nào không bị vấp ngã vì Ta."
Một Điểm Chính
NGƯỜI CAO TRỌNG NHẤT
Gioan là người cao trọng nhất. Đối với đân chúng đó là điều thật khó hiểu vì ai có thể cao trọng hơn Abraham, Môisen, Đavít, v.v. Gioan là người cao trọng nhất vì ông là người dọn đường cho Chúa. Thật rõ ràng rằng những người được Chúa chúc phúc sẽ cao trọng hơn, và trở thành những người cao trọng nhất. Họ là ai? Họ là những người nghèo khó đã được Chúa đem tin mừng tới. Chúa Giêsu đã hoàn toàn đảo lộn thế giới. Vì thế không có gì lạ khi ngay cả Gioan cũng không hiểu nổi.
Suy Niệm
Chúa Giêsu nói: "hãy thuật lại cho Gioan những gì các ngươi nghe và thấy."
- Tôi thấy gì và nghe gì? - Chúa Giêsu nói gì và làm gì? - Người ta phản ứng ra sao? - Tôi nghĩ và cảm nhận những gì Chúa Giêsu nói và làm? - Tôi có tin rằng nước Chúa cao trọng, cao trọng nhất? - Cao trọng ở khía cạnh nào? - Tôi có nghe và thấy nước Chúa cao trọng nhất trong cuộc sống hàng ngày không? - Tôi có phải là người nghèo đón nhận tin mừng không? - Tôi có thể nào tin rằng tin mừng của Chúa Giêsu là cho kẻ nghèo khó không?
Gioan ở trong tù đã nghe nói về những việc làm của Đức Kitô, và đã sai môn đệ đến hỏi: MV 3-A12
Gioan ở trong tù đã nghe nói về những việc làm của Đức Kitô, và đã sai môn đệ đến hỏi Ngài: "Ngài có phải là 'Đấng sẽ phải đến' hay chúng tôi còn phải chờ đợi người khác?" - Chúng ta biết câu trả lời của Đức Kitô (Mat. 11:2-5). Và sau khi tán dương ông "Gioan người-làm-phép-rửa", Ngài thêm: "... Hơn nữa, người bé mọn nhất sinh vào Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông" (Mat. 11:11).
Câu hỏi của Gioan và câu trả lời của Đức Kitô làm chúng ta liên nghĩ đến rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng, rải rác trong các bài giảng hoặc dụ ngôn hoặc động tác của Đức Kitô đối với "người bé mọn nhất sinh vào Nước Thiên Chúa". Chúng ta chỉ cùng nhau suy niệm câu của chính Đức Kitô nêu lên hỏi các môn đệ Ngài, và hỏi mỗi một chúng ta, hôm nay, bây giờ: "... Còn anh em, anh em bảo tôi là ai?" (Mat. 16:15)
Thánh Phêrô hăng hái trả lời: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mat. 16:16), nhưng sau đó chối từ Thầy kính yêu, "Con Thiên Chúa hằng sống". Chẳng những một lần mà đến ba lần! Chẳng những chối "không hề biết", mà còn thề "...tôi thề là không biết người đó!" (Mat. 26:69-75; Mc.14:66-71; Lc. 22:54-60; Ga.18:25-27).
Thánh Phaolô, trái lại, hùng hổ lên đường tìm bắt những người tin theo Đức Kitô, "bất luận đàn ông hay đàn bà, đều trói giải về Giêrusalem". Trên đường tới gần Damas, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe tiếng nói: "Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ tôi?". Ông hỏi lại: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Tiếng từ trời đáp: "Tôi là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ." (Cv. 9:1-5).
Thánh La San bị người nhà chê bai và khinh thị vì bán hết gia tài phân phát cho người nghèo đói, bị giáo quyền đương thời "treo chén" vì cùng một số thầy giáo quê mùa dấn thân trọn vẹn dạy dỗ và giáo dục "con em gia đình nghèo hèn giới thợ thuyền không ai chăm lo", để rồi cuối cùng trước khi tắt thở đã thốt lên: "Tôi thờ lạy thánh ý Chúa qua mọi biến cố xảy ra trong đời tôi".
Phần chúng ta, hôm nay, bây giờ, chúng ta trả lời làm sao cho Gioan Tẩy giả? Chúng ta trả lời làm sao cho câu hỏi của chính Đức Kitô ?
Phải chăng
* mỗi lần chúng ta "thật tình yêu thương hướng dẫn một em bé lớn lên trong lối sống đạo dức, lành mạnh" (thánh La San); * mỗi lần chúng ta đưa tay giúp đỡ một người già yếu; * mỗi lần chúng ta mĩm cười thông cảm, ủi an một người đang buồn sầu; * mỗi lần chúng ta thật tình chung vui chia sẻ với một người gặp điều may mắn và cùng họ cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa; * mỗi lần chúng ta tự dè xẻn chi tiêu hằng ngày để chia sẻ và thông phần giúp đỡ một người đang gặp tai ương; * mỗi lần v.v....
là câu trả lời thích đáng nhất cho câu hỏi của chính Đức Kitô: "Còn anh em, anh em bảo tôi là ai?" ?
“Có phải Ngài là Đấng sẽ đến, hay chúng tôi phải đợi người khác?”
Bà Terry có một cô con gái tên là Cathy đến tuổi kết hôn. Bà bắt đầu để ý giúp con chọn bạn: MV 3-A13
Bà Terry có một cô con gái tên là Cathy đến tuổi kết hôn. Bà bắt đầu để ý giúp con chọn bạn trăm năm. Cathy rất thân mẹ và tâm sự với mẹ về mẫu người lý tưởng của cô: “Anh ấy phải là người hơn con ít là hai tuổi, phải cùng là Công giáo, tương đối dễ coi, phải bằng con hay hơn con ít nhiều về trình độ học thức nghĩa là phải có bằng BA hay BS, chưa bao giờ kết hôn, không bồ bịch lăng nhăng, biết đàn ca và nhảy đầm chút ít, không hút thuốc hay rượu chè cờ bạc, có công ăn việc làm đàng hoàng, biết cách đối xử với gia đình của anh ấy, và nhất là phải được mẹ bằng lòng.”
Nghe con tâm sự như thế, bà Terry rất đỗi vui mừng vì bà cũng có cùng ý nghĩ như Cathy. Bà sung sướng khi được Cathy kể cho bà nghe các liên hệ tình cảm của nàng để bà góp ý. Có rất nhiều chàng trai để ý Cathy, nhưng không ai hội đủ những điều kiện hợp với mẫu người lý tưởng mà nàng đã đưa ra.
Đến một ngày nọ, bà nghe Cathy kể về một chàng trai đang để ý nàng tên là Tony với tất cả những phẩm chất mà Cathy hằng mong mỏi. Chỉ còn một điều kiện duy nhất Tony chưa có là phải được bà bằng lòng. Thế là bà Terry nói Cathy mời Tony về nhà chơi để bà góp ý. Chỉ sau ít lần gặp gỡ Tony, bà đã nhận ra đây đúng là mẫu người chồng lý tưởng cho con mình và đúng là mẫu rể quý bà hằng mong đợi. Bà nói với Cathy: “Đây chính là người rất xứng hợp với con, mẹ hoàn toàn bằng lòng và sẽ tận tình lo chuyện thành hôn cho hai đứa.”
Nhưng bà ngạc nhiên khi nghe Cathy nói: “Nhưng con sẽ không lấy Tony đâu vì con không có cảm tình với anh ấy.” Bà Terry buồn bực nói với con: “Già kén kẹn hom. Con còn đợi chờ ai?”
Cũng như Cathy đang kiếm tìm một người bạn trăm năm lý tưởng, mỗi người trong nhân loại qua bao thế hệ cũng chờ mong một Đấng Cứu Thế, một mẫu người lý tưởng có thể làm thỏa mãn mọi khao khát chân thiện mỹ của lòng người.
Chúa Giêsu Kitô chính là mẫu người lý tưởng mà con tim nhân loại qua mọi thời đại hằng khao khát mong chờ. Ngài là người duy nhất có thể làm thỏa mãn mọi ước mơ sâu thẳm nhất của lòng người – ước mơ được thóat khỏi ách nô lệ của tội lỗi và nết xấu, ước mơ được sự sống đời đời, ước mơ được biết chân lỳ toàn vẹn, ước mơ được chiếm hữu sự thiện tuyệt đối, ước mơ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp vô cùng. Vì Ngài chính là Đấng Cứu Chuộc nhân thế, là nguồn Chân-Thiện-Mỹ, là Thiên Chúa làm người để đưa con người lên hàng Thiên Chúa, nghĩa là cho con người được chia sẻ chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.
Nhưng làm sao có thể biết được Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa làm người và là Đấng Cứu Thế mà nhân loại hằng mong đợi, khi có quá nhiều bậc vĩ nhân từng xuất hiện trong lịch sử nhân loại, những vĩ nhân đã có hàng triệu người sùng bái như Socrates, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca, Mohammed?
Đức Cha Fulton Sheen đã đưa ra ba tiêu chuẩn để giúp ta nhận biết ai là Đấng Cứu Thế đích thực được Thiên Chúa sai đến cho nhân loại.
Thứ nhất: Người ta phải được thông báo trước về sự xuất hiện của người ấy.
Thứ hai: Người ấy phải làm được những phép lạ để mọi người thấy rõ quyền năng của Thiên Chúa ở nơi người ấy.
Thứ ba: Những lời nói và việc làm của người không được đi ngược với lương tâm và lý trí tự nhiên của con người.
Tất cả những nhân vật vĩ đại nói trên đã không thỏa mãn tiêu chuẩn đầu tiên, chưa nói đến hai tiêu chuẩn sau.
Chỉ một mình Chúa Giêsu Kitô đủ cả ba tiêu chuẩn trên.
Sự ra đời, nơi sinh, hoàn cảnh tị nạn, các hoạt động, cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu đều đã được các ngôn sứ nói đến trước đó cả ngàn năm trong thời Cựu Ước.
Chúa Giêsu đã thực hiện rất nhiều phép lạ để chứng minh Ngài thực sự là Đấng Thiên Sai. Phép lạ cả thể và lớn lao nhất mà Ngài đã thực hiện chính là phép lạ phục sinh của chính Ngài.
Tất cả các giáo huấn của Ngài không đi ngược với lương tâm và lý trí tự nhiên của con người, nhưng đã hướng lòng trí con người đến những gì cao trọng nhất và đáng yêu nhất là chính Thiên Chúa. Chính Ngài đã thực hiện hoàn hảo tất cả những gì Ngài hướng dẫn kẻ khác.
Như vậy, Chúa Giêsu Kitô chính là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất đáng chiếm hữu trọn vẹn tình yêu của trái tim nhân loại.
Đó chính là điều mà Tin Mừng hôm nay muốn nói với chúng ta.
Các môn đệ của Gioan được sai đến với Chúa Giêsu đã thay mặt toàn thể nhân loại qua mọi thời đại để hỏi Ngài câu hỏi quyết định sau: “Có phải Ngài là Đấng sẽ đến hay chúng tôi còn phải đợi người khác?” (Mt 11:3)
Chúa Giêsu đã tự xác nhận Ngài là Đấng Thiên Sai vì chính Ngài đã thực hiện những phép lạ và hoàn tất những lời tiên tri về Ngài như sau: “Các ông hãy tin lại cho Gioan mọi điều tai nghe mắt thấy: Mù được sáng mắt và què được đi, phung hủi được sạch, và điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại, và ngườ nghèo khó được nghe báo Tin Mừng; và phúc cho người không bị vấp ngã vì Ta.”(Mt 11:4-6)
Đấng Thiên Sai mà nhân loại mong mỏi đợi chờ qua bao thế hệ đã đến với nhân loại và đã hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chua dành cho chúng ta. Đó là niềm vui của Hội Thánh suốt hơn hai ngàn năm nay, và Hội Thánh không ngừng mời gọi mọi người chia sẻ niềm vui ấy, nhất là trong mùa vọng.
Thật thích hợp khi Giáo Hội biểu lộ niềm vui lớn lao ấy qua việc gọi Chúa nhật tuần này là “Chúa Nhật Mừng Vui” với việc xử dụng màu hồng trong phụng vụ. Nhưng chúng ta chỉ cảm nhận niềm vui này cách trọn vẹn khi chúng ta có cùng một niềm tin của Hội Thánh nơi Chúa Kitô và chấp nhận bước vào liên hệ tình yêu thiết thân với Chúa Kitô, qua việc lắng nghe và thực hành tất cả những lời Chúa Kitô và Hội Thánh truyền dạy.
Đó chính là điều các thánh đã chọn để thực hiện trong cuộc đời các ngài.
Nếu không chấp nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Thiên Sai, thì chúng ta còn đợi chờ ai?
Lạy Mẹ Maria là Đấng “làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy”, xin Mẹ hãy cầu cùng Chúa cho chúng con ngày thêm xác tín rằng chỉ một mình Chúa Giêsu Con Mẹ là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất có thể đem lại niềm vui viên mãn và ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống của chúng con. Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giêsu cho chúng con luôn gắn bó với Người trong mọi nơi mọi lúc, và hân hoan làm chứng về Người cho những ai chưa nhận biết Người để niềm vui cứu độ được lan rộng nơi tất cả những tâm hồn thiện chí. Amen.
Một trong những điều chúng ta thường phải làm trong cuộc sống hôm nay khi đi xin việc, ghi: MV 3-A14
Một trong những điều chúng ta thường phải làm trong cuộc sống hôm nay khi đi xin việc, ghi danh đi học, gặp bác sĩ, đi máy bay... là điền đơn trả lời các câu hỏi về căn tính nghề nghiệp khả năng của mình và rồi kiên nhẫn ngồi đợi chờ.
Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến chuyện thánh Gioan ngồi trong tù đợi chờ câu trả lời thánh nhân hỏi về căn tính của Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”
Người ta bảo tìm ra căn tính của mình là một điều quan trọng trong cuộc sống. Nếu biết rõ mình là ai chúng ta sẽ bớt đi sự nóng nảy căng thẳng khó chịu với chính mình và với người khác. Chúng ta sẽ bình an, hạnh phúc, dễ sống hòa hợp hơn, và có thể bình tâm khám phá căn tính của người khác, nhờ đó đem đến sự thông cảm nơi gia đình, bạn bè, quen thuộc hay trong cộng đoàn, quốc gia.
Tìm ra căn tính của mình, của tha nhân, của Chúa Giêsu, đòi thời gian. Thời gian đó dài bằng của cuộc sống của mình, đòi kiên nhẫn. Tuy nhiên, câu hỏi của thánh Gioan phản ảnh cuộc sống con người: muốn biết rõ và biết rõ ngay.
Chuyện thần thoại Ấn Độ kể rằng: Shiva là vị thần tạo dựng muôn loài. Ngài sung sướng trong công việc tạo dựng với đôi tay của Ngài, nhưng dẫu là thần ngài không tránh khỏi sự nhàm chán. Shiva chán ngán những gì Ngài tạo dựng. Phải làm gì? Dễ dàng, Shiva phá hủy những gì đã tạo dựng và làm nên cái mới. Cái mới cũng lại dần trở nên quen thuộc và ngài lại phá hủy rồi bắt đầu lại. Tiến trình tạo dựng, tiêu hủy, tạo dựng, tiêu hủy vẫn tiếp diễn liên tục. Shiva là một vị thần không kiên nhẫn.
So sánh thần Shiva và Thiên Chúa, chúng ta thấy có sự tương phản rõ rệt. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa kiên nhẫn. Dù con người sa ngã phạm tôi, Ngài không bất nhẫn hủy diệt. Ngài không chỉ tạo dựng nhưng còn hứa cứu chuộc. Lời hứa cứu chuộc có lẽ là điều khó nhất cho con người chúng ta hiểu được. Thiên Chúa đã đi vào lịch sử con người với điều kiện sống của con người để chỉ cho thấy tình yêu của Thiên Chúa và giá trị của con người. Ngài đến với thân phận con người dưới hình một em nhỏ. Ngài không đến như một vị vua oai hùng khiến chúng ta sợ hãi nhưng đến mong chờ chúng ta đáp trả tình yêu.
Chúng ta sống trong một xã hội đòi hỏi giải pháp nhanh chóng ngay lập tức cho mọi vấn đề. Nhanh hơn thì tốt hơn, người ta bảo chúng ta vậy. Và điều đòi hỏi trả lời nhanh chóng ngay lập tức này còn đi sâu cả vào trong lãnh vực tâm linh nữa. Chúng ta muốn Chúa Giêsu đến và đến nhanh. Chúng ta muốn được ơn cứu độ ngay mà không muốn đón nhận đau khổ do sự từ bỏ mình hay phải chờ đợi. Nếu Thiên Chúa không hòa hợp với chương trình thời gian tính của chúng ta, chúng ta cảm thấy mình bị lường gạt hay tệ hơn nữa Thiên Chúa đã quên chúng ta rồi.
Lá thư thánh Giacôbê nhắc nhở: Kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ. Thiên Chúa đã đến và sẽ đến, thái độ đợi chờ của chúng ta sẽ như thế nào? Phải chăng chúng ta cố gắng tìm hiểu căn tính của Đấng Kitô, noi gương bắt chước Đấng đã đến đem niềm vui, niềm hy vọng đến cho những người không có hy vọng. Điều cần để ý là những người mù, què, câm, điếc, phong hủi là những người đã đang phải đối diện với những thách đố của cuộc sống, gặp những trở ngại cần vượt qua. Nói một cách chung, họ là những người đang sống được nhờ tình thương lòng bác ái quảng đại của người khác. Chúa đến đem hy vọng cho họ là những người không có niềm hy vọng.
Phải chăng chúng ta kiên nhẫn đợi chờ trong an bình hạnh phúc: Một đêm nọ hai vợ chồng đang ngủ bỗng họ cảm thấy mùi khói nhà cháy. Người chồng mau lẹ nhảy ra khỏi giường tìm hiểu lý do rồi vội vàng nói với người vợ là một góc nhà của họ đang bị cháy. Nói xong, anh cầm tay vợ và cả hai mò mẫm bò qua hành lang đầy khói. Sau một lúc vất vả mệt nhọc mới đến được cửa đàng trước. Khi qua được cửa, người chồng lấy làm lạ khi thấy trên mặt vợ một nụ cười mỉm. Anh kêu lên: “Nhà của mình đang bị cháy, và chúng ta may mắn thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Vậy điều gì có thể khiến em có thể cười được trong lúc này chứ?” Người vợ đáp: “Xin lỗi anh, em không thể nhịn không cười được, vì đây là đêm đầu tiên hai vợ chồng mình đi ra ngoài chung với nhau sau 5 năm lập gia đình.” Người vợ kiên nhẫn đợi chờ với tâm hồn an bình để có thể cười được khi gia đình gặp tai biến.
Sau cùng, một đàng phải kiên nhẫn đợi chờ, một đàng phải noi gương yêu thương của Đấng Kitô tích cực dấn thân: Don’t wait for a smile to be nice. Don’t wait to be loved, to love. Don’t wait for best job, to begin to work. Don’t wait to have a lot, to share a bit. Don’t wait for the fall, to remember the advice. Don’t for pain, to believe in prayer. Don’t wait to have time, to be able to serve. Don’t wait for any one else pain, to ask for apologies... neither separation to make it up. Don’t wait, because you don’t know how long it will take. Đừng chờ nột nụ cười rồi mới niềm nở. Đừng chờ được yêu rồi mới yêu. Đừng chờ cô đơn mới nhận thức được tình bạn. Đừng đợi việc làm thật tốt rồi mới bắt tay vào việc. Đừng đợi có nhiều mới chia sẻ một chút. Đừng đợi vấp ngã, mới nhớ lại lời khuyên nhủ. Đừng đợi đớn đau, mới tin vào lời nguyện cầu.... Đừng đợi có thời giờ, mới có thể phục vụ. Đừng đợi có thêm kẻ đau khổ, mới xin thứ tha. Cũng đừng đợi chia rẽ, mới giải hòa. Đừng đợi, vì bạn không biết sẽ phải chờ đến bao giờ (TLQ phỏng dịch)
Theo thói thường, người ta sẽ cảm thấy rất khó chấp nhận những ai dám sửa sai, nói thẳng: MV 3-A15
Theo thói thường, người ta sẽ cảm thấy rất khó chấp nhận những ai dám sửa sai, nói thẳng đến những lỗi lầm của mình. Nếu người sửa sai là công chính, hành động và ngôn từ đồng nhất thì người nghe sẽ cảm thấy phải nghe theo lời sửa đổi đó hoặc phải tìm cách tống khứ người kia đi; và trong trường hợp của Gioan Tẩy giả đã rơi vào tình trạng thứ hai: ông lên án sự loạn luân của nhà vua nên bị giam tù và cuối cùng đã bị chém đầu.
Trong tù, Gioan đã sai các môn đệ đến gặp Chúa Giêsu để hỏi xem Ngài có phải là đấng Messiah mà muôn dân đang mong đợi không. Có một số nhà chú giải cho rằng chính trong nhà giam, Gioan cảm thấy cô đơn và đâm ra nghi ngờ về “ông Giêsu” với sứ mạng của ông ấy, nên mới cho môn đệ đi hỏi thay cho mình, nhưng lời chú giải này xem ra cũng không có lý lắm trong trường hợp của Gioan Tẩy Giả. Ông vốn quen với đời sống âm thầm, đơn lẻ trong rừng vắng với những khó khăn, thử thách của chốn cô tịch. Ông đã đặt tất cả niềm tin nơi Thiên Chúa, hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẵn sàng lên tiếng chống lại những bất công của xã hội, của quyền thế nên ông đã biết và chấp nhận hậu quả đi kèm: đụng đến vua thì sẽ bị tù tội. Thế thì việc ông sai môn đệ đến gặp Chúa Giêsu để làm gì?
Vai trò của Gioan Tẩy giả luôn luôn thống nhất: người tiền phong mở đường cho Chúa đến. Ông trung thành với sứ vụ của mình trong việc kêu gọi mọi người sống công minh chính trực. Ngay trong tù giam, ông không nỡ để các môn đệ bơ vơ như rắn mất đầu nên đã sai các môn đệ mình đến gặp và hỏi Chúa Giêsu về vai trò của Ngài. Gioan đã nói thẳng cho môn đệ biết mình không phải là Đấng Messiah (dù rằng ngay sau khi Gioan mới chết rồi, vẫn có một nhóm nhỏ tin rằng Gioan mới là Messiah) đồng thời ông cũng muốn giới thiệu các môn đệ đến với Chúa Giêsu để chính họ được nghe, được biết về đấng Messiah thật sự. Vì thế, việc “sai đi” của Gioan không có nghĩa tiêu cực như một sự nghi ngờ, mà là điều tích cực của việc gián tiếp giới thiệu về Đấng Messiah.
Và xem ra Chúa Giêsu cũng trả lời theo cùng một đường lối “gián tiếp” đó. Thay vì trực tiếp trả lời “Phải” hoặc “Không phải”, Ngài lại nói: “Các anh hãy về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy, tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng...” Tuy nhiên, những công việc mà Chúa Giêsu làm đó, lại chính là những gì mà trong Cựu Ước, tiên tri Isaiah đã loan báo về Đấng Cứu thế.
Xét về vai trò của Gioan Tẩy giả hôm nay, chúng ta có thể học được một bài học rất quý giá nơi ông: ông luôn luôn hướng người khác về Chân lý, về Đấng Cứu thế mà ông biết rõ mình không phải là Cứu Cánh đó. Nghe thì đơn giản nhưng nhiều khi người ta dễ mắc phải sai lầm khi muốn người khác chạy đến cầu cứu mình về vật chất hoặc tinh thần và khi làm ơn thì muốn được mang ơn trả ơn hoặc chỉ muốn xây dựng tinh thần, nghĩa thiết cá nhân thay vì hướng dẫn họ đến với Thiên Chúa là nguồn Ủi an và Cứu cánh thật sự của con người. Vô tình chúng ta có thể làm cho hình ảnh Chúa bị mờ nhạt trong đời mình và trở nên bức tường cản trở ơn Chúa xuống cho người khác qua con người của mình. Do đó, chúng ta có thể vô tình làm cho người thụ ơn mỗi khi cần gì thì chỉ biết chạy đến với chúng ta là một thụ tạo và dừng lại ở đó thay vì chạy đến với Thiên Chúa.
Ngoài ra, trong phương diện này hay phương diện khác, chính chúng ta cũng là những người mù, què, cùi, điếc, hoặc chết trong đời sống thiêng liêng. Chúng ta hãy xin Chúa chữa lành con yếu đuối của chúng ta và ban cho chúng ta ơn kiên nhẫn và bền đỗ để có thể nhận ra Chúa trong cuộc sống và hướng dẫn chúng ta về quê hương đích thực.
Tại sao Gio-an Tẩy Giả lại sai môn đệ mình tới hỏi Đức Giê-su xem Ngài có phải là Đấng Cứu: MV 3-A16
1. Tại sao Gio-an Tẩy Giả lại sai môn đệ mình tới hỏi Đức Giê-su xem Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không? Theo ông nghĩ, nếu Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, là Vua Do Thái, thì ông sẽ đóng vai trò gì bên cạnh Ngài?
2. Đức Giê-su đến có đúng theo sự suy nghĩ và lòng mong ước của Gio-an Tẩy Giả và của những người Do Thái thời đó không? Nếu Ngài đến lần thứ hai thì liệu có đúng theo sự suy nghĩ và lòng mong ước của chúng ta không?
3. Tại sao khi Đức Giê-su đến lại có biết bao người vấp phạm vì Ngài? Vì họ thiếu thiện chí, hay vì họ chấp nhất vào nguyên tắc? Có thể rút kinh nghiệm lần Ngài đến trước để khi Ngài đến lần thứ hai ta khỏi vấp phạm vì Ngài không?
Suy Niệm
1. Thắc mắc của Gio-an Tẩy Giả
Gio-an Tẩy Giả là người được Thiên Chúa kêu gọi làm một ngôn sứ, đồng thời làm vị Tiền Hô để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Ông rất ý thức điều ấy, và đã hoàn thành nhiệm vụ ấy một cách hoàn hảo. Chính vì thế, ông đã bị ngồi tù do dám tố cáo những sai trái của chính quyền đương thời là vua Hê-rốt. Tình trạng khó khăn và tuyệt vọng trong tù dễ làm người ta xuống tinh thần, vì thế, đức tin của Gio-an vào Đức Giê-su phần nào bị thử thách.
Có thể lúc đó ông tự hỏi: Nếu Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế mà ông có sứ mạng tiền hô cho Ngài, thì tại sao ông lại phải ngồi tù thế này? Nếu Ngài là Đấng Cứu Thế, thì ắt hẳn Thiên Chúa phải để ông ơ ngoài hầu hợp tác với Ngài thiết lập triều đại mới chứ! Ông sẽ phải là cánh tay mặt của Ngài chứ! Chắc chắn Gio-an cũng quan niệm như mọi người Do Thái khác rằng Đấng Cứu Thế sẽ giải phóng dân Do Thái và sẽ trở thành một vị Hoàng Đế cai trị toàn cầu. Vì thế, khi Ngài đã bắt đầu ra mặt mà ông vẫn còn phải ngồi tù thế này thì quả là khó hiểu? Do đó, ông đã sai môn đệ của ông đến gặp Đức Giê-su để hỏi cho rõ. Và họ đã đến gặp Ngài.
2. Những điều ứng nghiệm nơi Đức Giê-su, Đấng Cứu Thế
Đức Giê-su đã không trả lời trực tiếp bằng cách xác định mình chính là Đấng Cứu Thế, nhưng trả lời gián tiếp bằng những dấu hiệu mà trước đó khoảng 700 năm ngôn sứ I-sa-i-a đã tiên báo về thời đại của Đấng Cứu Thế: «Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng» (xem Is 26,19; 29,18-19; 35,5-6a; 61,1). Đó là những điều mà Đức Giê-su đã dùng quyền năng của mình thực hiện trước mắt mọi người.
Thử đặt mình vào địa vị Gio-an Tẩy giả và người Do Thái thời ấy xem, ta có thể tin được Ngài là Đấng Cứu Thế không, khi mà đầu óc ta cứ nghĩ rằng Ngài sẽ giải phóng đất nước Do Thái bằng binh hùng tướng mạnh, bằng chính trị và quân sự? Thế mà hiện tại trước mắt, Ngài chỉ là một thầy đạo không một tấc sắt trong tay! Làm sao tin được Ngài là Đấng ấy, nhất là khi thấy Ngài bị nộp và bị đem đi giết như một tội nhân?
Chính vì thế, ngay từ lúc này Ngài đã nói: «Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi». Liệu câu nói ấy có ứng cho chính chúng ta khi Ngài trở lại không? Nếu Ngài trở lại theo một cách thức thật bất ngờ, không đúng như cách ta vẫn thường nghĩ, liệu ta có vấp ngã vì Ngài không? Vì nếu Ngài trở lại đúng theo cách ta thường nghĩ, thì lời Ngài tiên báo là sẽ đến «như kẻ trộm» đâu còn đúng nữa? Vậy, ta cần phải tỉnh táo khi Ngài đến để khỏi vấp ngã vì Ngài.
3. Đức Giê-su đến để thực hiện một cuộc cách mạng tôn giáo.
Tôi e rằng khi Ngài đến lần thứ hai, rất nhiều người sẽ vấp ngã và xúc phạm đến Ngài như lần Ngài đến trước, vì Ngài sẽ không đến theo như quan niệm của họ, nhất là về mặt tư tưởng và giáo thuyết. Lý do:
Nhân loại luôn luôn tiến hóa và đổi mới. Vì thế, các tôn giáo - vốn là phương tiện phục vụ con người, dẫn con người đến với Thiên Chúa - cũng phải thay đổi theo để phục vụ con người một cách phù hợp và hữu hiệu hơn. Hiện nay, nhân loại đã bước sang thời đại internet, toàn cầu hóa, với tinh thần khoa học thực nghiệm, kỹ thuật hết sức tân tiến. Về mặt chính trị, nhân loại không còn chấp nhận được những chế độ độc tài, bưng bít thông tin, tự do hà hiếp bóc lột dân chúng. Những quan niệm tôn giáo cũ có thể thích hợp với nhân loại cũ, thời đại cũ, với những quan niệm khoa học cũ. Nay nhân loại đã đổi mới, những quan niệm và thể chế tôn giáo không thay đổi để phù hợp sẽ bị đào thải. «Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư» (Lc 5,37). Đương nhiên trong tôn giáo có những điều cốt tủy không bao giờ thay đổi được. Vấn đề quan trọng là phân biệt cái nào có thể thay đổi và cái nào là cốt lõi không thể thay đổi được.
Tôn giáo và luật lệ của tôn giáo là một cái gì linh thiêng, thần thánh, được hiểu là do Thiên Chúa thiết lập, được vĩnh cửu hóa và tuyệt đối hóa bằng những lời chắc nịch trong Kinh Thánh (chẳng hạn: St 9,12; Xh 12,14; 32,13b; Đnl 29,28; 1 V 8,13; Tv 98,5; và vô số câu khác). Vậy thì con người nào ai dám thay đổi? Chỉ có những Đấng Thiên Sai như Đức Giê-su mới có thể làm chuyện ấy. Chính Đức Giê-su đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại về tôn giáo. Và cũng chính vì làm cuộc cách mạng ấy Ngài mới bị giết bởi tay các nhà lãnh đạo tôn giáo cũ. Thế là, như ta đã biết, vô số người đã vì Ngài mà vấp ngã!
4. Cuộc cách mạng tôn giáo của Đức Giê-su
Tôn giáo Do Thái do Thiên Chúa thiết lập nhưng do Mô-sê hình thành. Những luật lệ do Mô-sê ban hành được coi là linh thánh và vĩnh cửu, vì được hiểu là luật của Thiên Chúa. Nhưng thật ra luật ấy chỉ phù hợp với trình độ văn hóa và tâm linh của dân Do Thái thời thượng cổ. Luật ấy được xây dựng trên sự sợ hãi của dân chúng. Tương tự như khi con người còn là một đứa trẻ, muốn nó sống tốt thì không thể chỉ dùng lời khuyên và trông chờ vào sự hiểu biết của nó mà được. Lời khuyên hay mệnh lệnh phải đi đôi với roi vọt. Đối với một đứa trẻ, chỉ cần nó sợ roi để làm theo những mệnh lệnh của người lớn là đã đạt yêu cầu, và chỉ cần như thế nó đã được coi là một đứa trẻ ngoan. Tôn giáo thời Cựu Ước ứng với phương pháp giáo dục dành cho trẻ con, không thể trông mong vào sự ý thức, hiểu biết, hay tình yêu của con người được. Tiêu chuẩn của sự công chính vào thời này là chỉ cần giữ luật cho đúng là được. Và người Pha-ri-siêu thời Đức Giê-su chính là mẫu người được coi là trọn hảo của thời Cựu Ước. Không ai còn có thể giữ luật trọn vẹn hơn họ!
Nhưng từ Mô-sê đến Đức Giê-su, dân Do Thái đã trải qua khoảng 1250 năm, trình độ văn hóa và tâm linh của họ đã thay đổi. Họ đã thoát khỏi giai đoạn tạm gọi là «trẻ con» của họ để bước sang một giai đoạn trưởng thành hơn. Do đó, tôn giáo cũng phải thay đổi để thích hợp với trình độ mới của họ, và chính Đức Giê-su là người có sứ mạng thực hiện sự thay đổi ấy. Tôn giáo mới không còn được xây dựng trên sự sợ hãi nữa, mà xây dựng trên nền tảng tình yêu. Dân Do Thái hay nhân loại lúc này được so sánh với một con người đã bước vào tuổi thanh niên. Cha mẹ không còn giáo dục anh chàng theo kiểu roi vọt nữa, mà mong đợi nơi anh sự ý thức tự giác và tình yêu. Lúc này, nếu anh học hành hay làm việc chỉ vì sợ cha mẹ đánh đòn, thì anh không còn được coi là hay là tốt nữa, mà phải do một động lực khác thúc đẩy: chẳng hạn do biết tự lo lắng cho tương lai, do biết yêu thương và làm hài lòng cha mẹ, muốn làm nở mày nở mặt cho gia tộc. Vì thế, cách sống hay giữ đạo «vị luật» của người Pha-ri-siêu không còn được Đức Giê-su coi là công chính nữa: «Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời» (Mt 5,20).
Những cuộc cách mạng vĩ đại về tôn giáo như Đức Giê-su đã từng thực hiện chắc chắn thời nào cũng bị những người đương thời chống đối vì chưa nhận ra sự hợp lý của nó. Họ còn chấp vào những hiểu biết cũ, quan niệm cũ, nguyên tắc cũ đã được nhập tâm từ nhỏ, và được coi là những chân lý bất di bất dịch. Họ cảm thấy cần bảo vệ những chân lý ấy. Chính vì thế rất nhiều người vấp phạm khi Ngài đưa ra những quan niệm mới, nguyên tắc mới.
Để nói lên sự ưu việt của thời «hậu cách mạng» do Đức Giê-su, Ngài đã đưa ra một thí dụ điển hình: «Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông». Gio-an Tẩy Giả là mẫu người công chính của Cựu Ước, sự công chính của ông không thể sánh ngang với sự công chính của thời Tan Ước được. Thật vậy, về tinh thần và phong cách sống đạo, giữa Gio-an Tẩy giả và Đức Giê-su, giữa các môn đệ của hai vị có sự khác biệt rõ rệt. Điển hình như: «Các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: "Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?”» (Mt 9,14; Mc 2,18).
Vậy, chúng ta hãy tỉnh táo để khi Đức Giê-su đến lần thứ hai, với những bất ngờ không dè trước được, chúng ta không vấp phạm vì Ngài: «Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi» (Mt 11,6).
Cầu nguyện
Lạy Cha, lần trước Đức Giê-su đến đã có biết bao người vấp phạm vì Ngài. Xin cho con rút ra được những kinh nghiệm và bài học quí báu từ những sự kiện trong Tin Mừng để khi Ngài đến lần thứ hai, chính con nhờ đó sẽ không vấp phạm vì Ngài. Xin giúp con sáng suốt nhận ra kinh nghiệm và bài học ấy. Amen.
Trong một lớp học giáo lý dành cho các em lớp Sáu mới chuyển cấp, một thầy giáo muốn dạy: MV 3-A17
Trong một lớp học giáo lý dành cho các em lớp Sáu mới chuyển cấp, một thầy giáo muốn dạy về Chúa Giêsu nên khai mào bằng những lời sau đây: “Hôm nay thầy muốn giới thiệu với các em về một nhân vật mà tất cả chúng ta đều phải gặp mặt. Nhân vật đó là một người rất yêu thương và quan tâm đến các em còn hơn cả cha mẹ, anh chị, hay bạn bè của các em. Ngài là người rất nhân từ và sẵn sàng tha thứ cho dù lầm lỗi của các em có khủng khiếp đến đâu đi chăng nữa. Dù các em có xấu xa thế nào thì ngài vẫn đón nhận, cảm thông và yêu mến.”
Đang khi nói, thầy giáo để ý thấy một đứa bé chăm chú lắng nghe và tỏ vẻ thích thú lắm. Thế rồi, dường như không cầm lòng được, cậu ta buộc miệng thốt lên: “Ồ, em biết thầy đang nói về ai rồi. Có phải là cha quản nhiệm của chúng ta không?"
Chẳng biết thầy giáo trả lời với em bé thế nào, nhưng câu nói của em đã khiến tôi giật mình. Em đã nhìn thấy nơi vị linh mục quản nhiệm hình ảnh của Đức Giêsu mà thầy giáo đang muốn trình bày. Không biết các hành vi, thái độ, lối sống nơi con người tôi có làm toát lên dung mạo của Đấng Cứu Thế không? Người ta sẽ thấy và nghĩ tôi là ai, một người có Chúa Giêsu hay một kẻ vô đạo?
Ngày xưa, khi Gioan sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”, Ngài đã không trả lời bằng những câu rất dễ như: “Đúng vậy” hay “Ta là Đấng các ngươi mong chờ.” Trái lại, Đức Giêsu đã hướng hai ông đến với các việc Ngài làm. Những gì mà xưa kia Isaia tiên báo về Đấng Cứu Thế thì nay đang thành sự. Ấy là: “Mù được sáng mắt, què được đi, phong hủi được sạch, điếc được nghe, kẻ chết sống lại, và người nghèo khó được loan báo tin vui.”
Đúng là trăm nghe không bằng mắt thấy. Lời nói dễ hơn việc làm, nhưng hành động mới chinh phục mạnh hơn ngôn từ. Đức Giêsu đã khẳng định Ngài là Đấng phải đến không phải chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động. Và Ngài mời gọi hai môn đệ hãy nhìn vào bao sự lạ lùng đang xảy ra để thuật lại cho Gioan, hầu củng cố niềm tin của ông vào Đức Mesiah.
Chắc hẳn niềm tin này không mang ông ra khỏi bao tù của vua độc gài và gian dâm Hêrôđê, người đã loạn luân khi lấy vợ của anh mình; niềm tin đó cũng chẳng giúp ông thoát được cái chết đớn đau cô độc, nhưng nó lại có sức trợ lực ông vững bước đến cùng trên hành trình rao giảng và bênh vực cho Chân lý. Đây là phúc lộc lớn lao mà Đức Giêsu muốn trao tặng cho vị tiền hô của mình: “Phúc cho người không vấp ngã vì Ta.” (Mt 11:6)
Có thể nhiều khi trong đời, tôi phải trải qua những bế tắc của chốn “lao tù” thế gian, chung quanh chỉ là bóng tối của khốn khổ lao đao. Nào là tai ương ập xuống, vợ chồng mất việc, tài sản hư hao, con cái bệnh tật... rồi bao cảnh trái tai gai mắt dường như muốn đánh gục niềm tin của chính mình. Và có lẽ đã không ít lần tôi hỏi Chúa: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không, hay tôi phải tìm đến người nào khác? Có lẽ thầy này, bà kia, hay chiêm tinh gia này, tử vi bói toán nọ còn có thể cứu tôi, chứ theo Đức Giêsu... sao chẵng thấy được gì.” Phải chăng không ít lần tôi cũng đã đặt vấn đề như thế?
Trước bao tăm tối và nghi nan nơi ngục tù, lời nói của Chúa Giêsu - “Phúc cho người không vấp ngã vì Ta” đã trở thành lời an ủi khích lệ lớn lao cho Gioan. Cuối cùng, ông đã đóng trọn vẹn vai trò tiền hô cho Đấng Cứu Thế bằng những giọt máu hành anh của mình.
Không mong được giải thoát bằng phép lạ, nhưng chỉ khát khao được đỡ nâng để đi đến cùng hành trình đức tin của mình chính là mẫu gương cho tôi nhắm tới. Khi nền luân lý bị nhiễu nhương, khi đam mê xác thịt quật ngã bao lớp người, khi tình trạng rối vợ rối chồng xảy ra như cơm bữa, tôi phải có can đảm lội ngược dòng đời, dù như thế sẽ bị cô độc lẻ loi, dù như thế sẽ bị giam hãm đọa đày, nhưng chỉ có sống như thế, tôi mới làm sáng tỏ dung nhan Đức Kito, Đấng là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống.
Nói tôi có đạo, dễ quá. Chứng minh tôi có niềm tin vào Thiên Chúa bằng lối sống ngay chính và bằng hành vi yêu thương quả là một thách đố không nhỏ bé gì.
Song, “Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi,” ngôn sứ Isaiah đã nói như thế, bởi vì rồi đây “Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy (ánh quang chân lý), tai người điếc sẽ được nghe (Tin mừng cứu độ), người què sẽ nhảy như nai (trên lối đường công chính) ...người ta sẽ hoan hỉ triền miên và vui mừng khoái trá. Họ sẽ không còn đau buồn nữa, và rên siết sẽ trốn xa .” (Is 35)
Sự đỡ nâng lớn lao nhất cho người Kitô hữu chính là Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ai siêng năng rước Chúa sẽ nhận được sức mạnh vượt thắng bao giông tố của dòng đời. Ai thường xuyên tiếp đón Ngài sẽ được trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”, và lúc ấy, “Tôi sống nhưng không phải tôi sống nhưng Đức Kitô sống trong tôi.” (Ga 3:20)
“Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng con phải đợi Đấng khác?” (Mt 11:3).
Niềm vui của cha mẹ là sinh con ra đời, và ước muốn cũng như sự quan tâm của cha mẹ là tìm: MV 3-A18
Niềm vui của cha mẹ là sinh con ra đời, và ước muốn cũng như sự quan tâm của cha mẹ là tìm trường có thầy giỏi để gửi con theo học. Ai cũng biết rằng gia đình là "mái trường" đầu tiên cho mọi người con và cha mẹ là "thầy" có nhiều ảnh hưởng nhất cho con từ thuở nhỏ. Nhưng khi con lớn, thì cần những khả năng chuyên môn để vào đời. Nhiều lãnh vực cha mẹ không giúp con được, nhất là những phương diện làm người trong xã hội cần có thầy cô dạy dỗ. Cho dù ở nhà hay đi tới trường, tương lai của người học sinh đều chịu ảnh hưởng của sự giáo dục.
Trong lãnh vực tôn giáo, sự ảnh hưởng lại còn quan trọng hơn vì tôn giáo tạo nên những con người tốt cho xã hội. Nếu may mắn, ta được giáo dục trong một Tôn giáo chân chính, thì đời của ta sẽ sống trong hạnh phúc và trọn đầy ý nghĩa. Những thử thách chỉ là cơ hội để rèn luyện và tăng cường niềm tin cho ta mà thôi. Nếu không may, ta gặp những thầy không chân chính, họ là những "tiên tri giả", thì đời của ta bồng bềnh như con thuyền vô định hướng và đi tới chỗ nguy hiểm.
Hiện nay có nhiều "tiên tri giả" xuất hiện để lôi cuốn thị hiếu của nhiều người. Những người thích nghe theo các tôn giáo mới thường tìm nơi đó những thỏa mãn của cảm tình tạm thời, hoặc những "mặc cả - thương lượng" xoa dịu ý riêng của ta! Chẳng hạn, chúng ta thấy có nhiều tôn giáo mới "Doomsday" xuất hiện lôi cuốn nhiều tín đồ vào chỗ chết tập thể bởi những hứa hẹn không căn bản. Trong số tín đồ đó, đa số lại là những người tài giỏi chuyên môn về các ngành của khoa học tân kỳ. Chúng ta làm học trò một lần trong đời. Nếu học sai bài của "tiên tri giả" thì đời chúng ta sẽ bị nhiều thiệt thòi vô ích. Biết tìm đâu được "Thầy" chân chính? Muốn phân biệt thầy chân chính hay tạm thời, chúng ta hãy nhìn cách sống của họ. Thầy giả thì khai thác tín đồ, còn thầy chân chính thì đem ích lợi cho tín đồ. Gương sống động của Đức Kitô cho ta biết Thiên Chúa sai Con của Người xuống để ở với chúng ta "Emmanuel". Ngài trả lời câu hỏi muôn người bằnt việc làm và sự cứu độ. Ngài mời chúng ta đến chứng kiến, “Kìa nhìn xem, người mù được thấy, người què đi được, người phung hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại” (Mt 11:4) Ai làm được như vậy, nếu không phải là Đức Kitô, một người Thầy chân chính mà chúng ta đang chờ đợi trong Lễ Giáng Sinh?
THỰC HÀNH:
“Lạy Chúa, xin đến cứu độ chúng con ” (Is 35:4).
Mọi người đang sống trên trần gian là một khách hành hương. Có những người đang bơ vơ lạc lõng mà không biết kêu cứu ai! Phúc thay cho các Kitô hữu được Thiên Chúa đến đồng hành và hướng dẫn về nơi vĩnh cửu.
Cái giá cho sự bảo vệ chân lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức: MV 3-A19
Cái giá cho sự bảo vệ chân lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức truyền thống đã đẩy Gioan Tẩy Giả vào con đường ngục tù. Ở trong tù, điều Gioan Tẩy Giả băn khoăn lo lắng không phải là cái giá của lẽ phải mà ông đang phải gánh chịu, nhưng chính là những thắc mắc xung quanh Đấng mà ông vẫn hằng rao giảng. Chính vì thế, ông đem những thắc mắc này hỏi trực tiếp Chúa Giêsu khi sai các môn đệ đến hỏi Người: “Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
Chúng ta biết, Gioan Tẩy Giả không ngừng loan báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa đời đời.
Thế nhưng, những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương; Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ; đối với người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, Người ra sức yêu thương, bao bọc chở che và chữa lành chứ không phải xa lánh vì sợ luật ô uế như các Rabbi. Chính vì thế, cuộc khủng hoảng về niềm tin của Gioan Tẩy Giả xảy ra cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, đối diện với cuộc khủng hoảng đó, cùng với hoàn cảnh ngục tù, đã không làm cho ông lún sâu vào đường hoang mang lo lắng. Ông tìm đến Đấng “gây nên” cho ông sự khủng hoảng đó để tìm sự giải đáp. Và ông đã tìm thấy.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp những thắc mắc của Gioan Tẩy Giả, Người mời gọi các môn đệ của ông chứng kiến những gì Người đang thực hiện. Các môn đệ Gioan Tẩy Giả đến với Chúa Giêsu đúng vào lúc Người đang thi hành sứ vụ rao giảng nước Thiên Chúa. Và vì thế, các ông đã tận mắt chứng kiến những việc Chúa Giêsu đang thực hiện- điều mà xưa kia, Ngôn sứ Isaia đã loan báo về thời của Đấng Mêsia: người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng. Chắc một điều, khi nghe các môn đệ kể lại, Gioan Tẩy Giả sẽ hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ đây Gioan Tẩy Giả hiểu rằng Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại.
Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn biểu dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các môn đệ ông. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các Ngôn sứ; Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa, là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo: “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử vì đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó.
Mùa Vọng chỉ thật sự có ý nghĩa khi mỗi người chúng ta biết chạy đến với Chúa, không ngừng xin Chúa củng cố, nâng đỡ niềm tin; đồng thời xin Chúa hoá giải những hoang mang lo lắng trong cuộc sống nhân sinh để giữ vững niềm tin, ngõ hầu không một chướng ngại, thử thách nào có thể làm chúng ta “vấp ngã vì danh Chúa Kytô”.
Ngày hôm nay, có lẽ không có gì nhiều hơn là quảng cáo. Quảng cáo có mặt khắp nơi: đơn: MV 3-A20
Ngày hôm nay, có lẽ không có gì nhiều hơn là quảng cáo. Quảng cáo có mặt khắp nơi: đơn giản như một tờ áp phích dán trên tường, một tờ bướm cho đến các phương tiện hiện đại hơn như truyền thanh, truyền hình… cũng đầy dẫy các tiết mục quảng cáo.
Các hình thức để quảng cáo thật phong phú, nhưng mục đích chỉ có một: sản phẩm đang được quảng cáo là thứ tốt nhất trong các sản phẩm cùng loại. Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong cùng một chương trình quảng cáo, vừa giới thiệu thứ dầu gội đầu này là số một, thì sau đó lại giới thiệu một thứ dầu gội khác là hàng đầu thế giới. Thứ bột giặt này là “chuyên gia giặt tẩy vết bẩn”, còn thứ bột giặt kia thì lại được giới thiệu như là “một chọn lựa của người nội trợ đảm đang…” Nghe qua, tôi cũng không biết thứ nào là tốt thật, thứ nào chỉ là quảng cáo. Bởi lẽ, nếu thứ nào cũng số một, thì vị trí thứ hai dành cho ai?
Chính vì thế, con người chúng ta hôm nay như đang bị lạc lối giữa thật và giả. Có những điều tưởng là giả, nhưng lại là thật, và có những điều tưởng chừng như là đúng, nhưng lại là sai. Nhiều khi cái sai, điều xấu lại mang những dáng vẻ bên ngoài rất tốt đẹp. Do đó, để nhận ra được đâu là chân lý, đâu là cái tốt thật, chúng ta không thể chỉ nghe theo những lời quảng cáo, nhưng cần nhìn vào chính hiệu quả của sản phẩm. Tương tự như thế, lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta nhìn xem những dấu chỉ để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
1. Một thắc mắc của đời thường:
Ngay mở đầu bài Tin mừng, thánh sử Matthêu ghi lại một vấn nạn của Gioan về chính con người của Đức Kitô: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”. Khi nghe câu hỏi này của Gioan, có lẽ nhiều người trong chúng ta thắc mắc: Tại sao ngay trong Chúa Nhật vừa rồi, Gioan vừa làm phép rửa, vừa lớn tiếng giới thiệu Đức Kitô cho toàn dân Israel, như là Đấng Messia của Thiên Chúa, Đấng mà ông “không đáng xách giày Người”. Vậy mà giờ đây, ông lại cho người hỏi Đức Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng?”. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cần biết rằng theo niềm tin và suy nghĩ của Gioan cũng như của toàn dân, khi Đấng Messia xuất hiện, Ngài sẽ thực thi công lý trên toàn cõi đất. Vậy mà giờ đây, Gioan đang ở tù vì can đảm tố cáo sự loạn luân của vua Hêrôđê, thế mà Đức Giêsu không hề có một tiếng nói nào. Điều này đã khiến cho Gioan bối rối, và ông phải sai các môn đệ đến đặt vấn đề trực tiếp với Đức Giêsu.
Thắc mắc của Gioan có lẽ cũng là thắc mắc của tôi và của quý OBACE và của con người thuộc mọi thời đại.Chúng ta thường thích đi tìm những cái rõ ràng, cụ thể theo suy nghĩ của chúng ta. Trong khi đó hành trình của đức tin là một hành trình phó thác. Hành trình này đôi khi có vẻ như là đi trong đêm tối, nhưng nếu để ý, thì chúng ta sẽ luôn thấy có những ánh sáng, những dấu hiệu chỉ đường. Những dấu hiệu này, đôi khi cũng không dễ nhận ra nếu chúng ta không thật tâm chú ý. Do đó, thay vì trả lời trực tiếp cho câu hỏi của Gioan, Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ của Gioan thuật lại cho Gioan những gì họ đã nghe và đã thấy, để Gioan tự đánh giá. Đức Giêsu đã không tự quảng cáo cho chính mình, nhưng Ngài mời gọi Gioan và mỗi người chúng ta hãy “nhìn quả để biết cây”.
Đức Giêsu nói với các môn đệ của Gioan: “Hãy về thuật lại với Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó”. Đến đây, chúng ta nhớ lại lời loan báo của ngôn sứ Isaia khi ông loan báo về ngày của Thiên Chúa trong bài đọc một. Trong ngày Thiên Chúa đến ban ơn cứu độ thì “Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ đuợc nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy như nai”.Và giờ đây, những điều đó đang được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, thì điều đó là một minh chứng tỏ tường: Đức Giêsu chính là Đấng Messia mà Thiên Chúa đã hứa. Ngài chính là vị Thiên Chúa đang ở giữa nhân loại, ở giữa chúng ta.
2. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta:
Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Ngài vẫn đang nói và hành động trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có thấy việc Ngài làm và nghe được tiếng nói của Ngài hay không. Bởi vì có thể đôi khi chúng ta cũng giống như những người Do thái vào thời của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu (x. Mt 13, 13).
Thiên Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài vẫn đang tiếp tục điều khiển lịch sử nhân loại ngang qua không chỉ những điều tốt lành mà cả những điều xem ra là sự dữ trước mắt chúng ta. Do đó, trong tâm tình chờ mong ngày Con Thiên Chúa lại đến, phụng vụ mùa Vọng gởi đến chúng ta một lời mời gọi tin tưởng, không nản lòng trước sự dữ, nhưng luôn kiên trì “bền chí và vững tâm”, như “người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu”. Chúng ta cần kiên nhẫn đợi đúng giờ, đúng khắc của từng con nước để cắm đăng, quay đáy. Nếu vội vàng, hoặc chậm trể, chắc chắn lưới của chúng ta sẽ không kéo được tôm cá như đáng phải có.
Chúng ta cần kiên trì, vì cho dù trước mắt và cuộc đời của chúng ta đang xảy ra điều gì đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn đang ở bên cạnh, và đang sẵn sàng ra tay nâng đỡ chúng ta. Thiên Chúa vẫnđang hiện diện với chúng ta qua cha mẹ, anh chị em, bạn bè và mọi người mà chúng ta gặp gỡ. Mọi biến cố vui buồn xảy ra trong cuộc đời của chúng ta không phải là ngẫu nhiên, nhưng đó là điều tốt nhất để đem lại ơn cứu độ đời cho chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận với một tâm tình yêu mến và cậy trông (x. Rm 8, 28). Chính trong tâm tình đó, thánh Giacôbê khuyên nhủ chúng ta: “Anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến… Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa”
Như thế, hành trình đức tin không phải là một hành trình của “mì ăn liền”. Thiên Chúa luôn hiện diện ở giữa chúng ta, nhưng Ngài không làm thay cho chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác cách tự do và tích cực vào chương trình cứu độ của Ngài, để nhờ đó, mọi việc làm của chúng ta trở nên một hành vi nhân linh có giá trị. Thiên Chúa vẫn đang hiện diện bên cạnh và ngay trong đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Do đó, trong những ngày mùa Vọng này, mỗi người chúng ta hãy cố gắng chuyên chăm lắng nghe và suy niệm lời Chúa, và nhất là siêng năng và sốt sắng lãnh nhận Thánh Thể, bí tích của tình yêu, để có thể nhận ra bàn tay yêu thương của Chúa ngay trong cuộc đời mình. Đồng thời, bằng chính cuộc sống yêu thương, chia sẻ và công chính của mình, chúng ta hãy làm cho mọi người chung quanh cũng nhận ra rằng Thiên Chúa vẫn đang hiện diện ở giữa họ. Nhờ đó, tất cả chúng ta có thể hân hoan ra đón Chúa trong ngày Ngài ngự đến. Amen.
Hằng năm, cứ đến Chúa Nhật III Mùa Vọng, Giáo Hội lại mượn lời thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Philipphê để nhắc nhở chúng ta rằng: "Anh em hãy vui luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại một tần nữa là anh em hãy vui lên, vì Chúa đã đến gần".
Niềm vui trong cuộc sống phải là thái độ cơ bản nhất của những người tin ở Thiên Chúa cứu độ. Chúng ta vui, bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta là những người được cứa rỗi. Niềm vui đó cũng phải là một sự dấn thân của chúng ta, có nghĩa là chúng ta phải chia sẻ, phải sống niềm vui đó với tất cả mọi người.
Hợp nhau đây tưởng niệm công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện qua Cái Chết và sự Phục Sinh của Con Ngài, chúng ta xin Chúa tẩy rửa chúng ta. Xin Ngài chuẩn bị tâm hồn chúng ta cho xứng đáng, xin Ngài tha thứ cho tất cả những tần mà cách này hay cách khác chúng ta không muốn đón nhận niềm vui cứu độ mà Ngài đã mang lại cho chúng ta.
Anh chị em thân mến !
Có người kể lại câu chuyện khôi hài như sau: Một người Anh, một người Pháp và một người Liên-xô, tức là những người công dân của nước Nga trước kia, họ trao đổi với nhau về quan điểm hạnh phúc của mỗi người.
Người Anh nói trước: Tôi sung sướng nhất là sau một ngày lao động mệt nhọc, về đến nhà đã thấy sẵn chai rượu "dzin " nằm trên bàn.
Người Pháp thì tâm sự: Niềm vui lớn nhất của tôi là mỗi khi đi công tác đều có bên cạnh một cô gái đẹp mà khi nhỡ tay mình không cảm thấy hối tiếc gì.
Đến lượt mình, người Liên-xô cười hóm hỉnh và nói: Tôi thấy như chết sống lại, ngay một đêm nọ, nghe có tiếng gõ cửa, tôi ra mở và thấy một đám đông công an đứng trước nhà, họ xông đến đọc bản cáo trạng và còng tay tôi. May quá, người có tên trong bản cáo trạng không phải là tôi, mà là người bên cạnh tôi. Tôi bèn chỉ sang phòng bên cạnh, vậy là tôi được tự do. Như vậy không phải là ngày vui nhất đời sao?
Mỗi người chúng ta cũng có thể nhớ lại hoặc tưởng tượng và nhân lên không biết bao nhiêu dịp vui trong cuộc sống của mình. Chúng ta có niềm vui và chúng ta không ngừng đi tìm niềm vui trong cuộc sống. Cả cuộc sống của con người phải chăng không phải là cuộc săn đuổi tìm kiếm niềm vui hay sao?
Theo một thống kê mới đây, hàng năm nước Mỹ chi ra trên 160 tỷ mỹ kim, và dịch vụ liên quan đến không phải là giải trí tiêu khiển. Nhưng chắc chắn không phải cứ có tiền là mua tiên cũng được, và cũng không hẳn cứ có tiền là đương nhiên có niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng, không có niềm vui nào là tuyệt đối trong cuộc sống này, và mãi mãi cũng không có niềm vui nào thoả mãn được nỗi khát khao của lòng người.
Chán chường sau một cuộc đuổi bắt những lạc thú trần tục, thánh Augustinô đã gặp được Chúa và ngài đã phải thốt lên rằng: "Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, tâm hồn con chỉ được nghỉ ngơi khi được an nghỉ trong Chúa ".
Thật thế, con người chỉ được an nghỉ trong niềm vui đích thực là chính Chúa. Đó là niềm vui mà hôm nay trong Chúa Nhật III Mùa Vọng, Giáo Hội đã mượn lời nhắn nhủ của thánh Phaolô để giúp chúng ta tìm kiếm: "Anh em hãy vui luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại một tần nữa là anh em hãy vui luôn, vì Chúa đã đến gần ". Anh chị em thân mến!
Niềm vui của người Kitô hữu là niềm vui có Chúa ở cùng. Niềm vui ấy phải được thể hiện qua nét mặt cũng như qua dung mạo của người Kitô hữu. Do đó, không thể là người tin ở một Thiên Chúa cứu độ mà không rạng rỡ niềm vui. Vì thế, Kitô hữu phải là người của niềm vui, bởi vì Kitô giáo thiết yếu là đạo của Tin Mừng. Tín hữu Kitô là người đã hân hoan đón nhận Tin Mừng, sống Tin Mừng và nhất là loan báo Tin Mừng. Và dĩ nhiên không gì chướng kỳ cho bằng đi loan báo Tin Mừng với một bộ mặt ủ dột, buồn bã của đám ma. Vậy, hân hoan, vui mừng là đồng phục của người môn đệ Đức Kitô.
Thế nhưng, chúng ta tự hỏi: Thế nào là niềm vui đích thực của người Kitô hữu? Có lẽ chúng ta sẽ tìm được câu trả lời lòng Tin Mừng hôm nay, Đó là khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả được sai đến hỏi Chúa Giêsu: "Thầy có phải là Đấng Cứu Thế không?", Chúa Giêsu trả lời cho các ông rằng: "Hãy về tường thuật cho Gioan những gì các ông đã nghe, đã thấy, tức là người mù được thấy, què được đi, người phong hủi được khỏi, kẻ điếc được nghe và người chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo khó ".
Qua câu trả lời trên đây, Chúa Giêsu muốn nói rằng: Tin Mừng không là những lời loan báo suông, mà trước tiên phải là những việc làm được thực hiện một cách cụ thể. Nước Chúa không phải là một ý niệm trừu tượng, mà là một thực lại được thể hiện trong chính con người của Chúa Giêsu và những việc làm của Ngài.
Niềm vui đích thực của người Kitô hữu do đó cũng được gắn liền với Tin Mừng của Chúa Giêsu, được loan báo bằng những hành động cụ thể. Niềm vui đích thực của người Kitô hữu sẽ có những danh hiệu mới là: phục vụ, quảng đại, yêu thương, cảm thông, chia sẻ, tha thứ... Một vị thánh phụ nào đó đã nói: "Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống". Người tín hữu Kitô chúng ta cũng có thể nói:
"Niềm vui của tôi là khi người khác được vui sống". Đó cũng chính là khuôn vàng thước ngọc của Chúa Giêsu mà thánh Phaolô đã ghi lại như sau: "Cho thì có phúc hơn là nhận ".
Anh chị em thân mến !
Chúa Giêsu đã thiết tập Bí tích Thánh Thể như một bữa ăn, trong đó, Ngài trao ban chính Mình Ngài cho chúng ta và chúng ta được chia sẻ cùng một tấm bánh. Ước gì cử chỉ chia sẻ ấy cũng được nối dài và cụ thể hóa trong cuộc sống mỗi ngày của chúng ta, bằng những hành động của trao ban, san sẻ, liên đới, phục vụ. Sống như thế là sống Tin Mừng của Đức Kitô.Sống như thế là chia sẻ và loan báo Tin Mừng của Ngài cho tha nhân, và sống như thế chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui đích thực của người Kitô hữu.
Bài Tin Mừng Chúa nhựt hôm nay nêu gương một người đã tích cực chờ đợi Chúa, đó là Gioan: MV 3-A22
Bài Tin Mừng Chúa nhựt hôm nay nêu gương một người đã tích cực chờ đợi Chúa, đó là Gioan Tẩy giả:
- Ông sống trong hoang địa với một lối sống giản dị và thanh đạm. - Ông tích cực dọn đường cho Chúa bằng lời rao giảng kêu gọi sám hối. - Ông nôn nóng mau được thấy ngày Chúa đến, nên đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu.
Chính vì thế, ông đã được Chúa Giêsu hết lời khen ngợi: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan tẩy giả”. Tuy nhiên Ngài nói thêm là những người sống vào thời Tân Ước còn “cao trọng” – nghĩa là có phúc – hơn Gioan.
B.... nẩy mầm.
1. Ngày xưa Đấng Cứu Độ cần có Gioan dọn đường, thì ngày nay cũng vẫn thế. Việc này ngày nay được gọi là “Tiền phúc âm hóa”. Việc “tiền phúc âm hóa” tạo những điều kiện thuận lợi cho mãnh đất, để khi hạt giống phúc âm gieo xuống thì mọc lên ngay. Vậy tôi sẽ làm công việc tiền phúc âm hóa này cho những ai ? Và làm bằng cách nào ?
2. Gioan tẩy giả đã tự dọn con đường lòng mình bằng cuộc sống trong sa mạc, nghĩa là trong một khung cảnh thinh lặng. Tôi cũng chỉ có thể gặp Chúa và nghe được tiếng gọi của Ngài nếu tôi biết đi vào “sa mạc” bằng tĩnh tâm, cầu nguyện và không để mình bị xáo trộn bởi những lo lắng sự đời.
3. Chẳng những tôi phải dọn đường cho Chúa đến với bản thân tôi, mà cũng phải dọn con đường cho Chúa đến với anh chị em tôi nữa. Tôi có quan tâm đến điều này không ? Và tôi đã làm được những gì rồi ?
4. Khi trả lời cho Gioan biết Ngài có phải là Đấng Cứu độ không, Chúa Giêsu đã đưa ra những việc cụ thể Ngài đã làm: “người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”. Ngày nay, người ta cũng chỉ có thể nhận ra Chúa của chúng ta là Đấng cứu độ qua những việc làm cứu nhân độ thế cụ thể và thiết thực của chúng ta.
Chức vụ của Gioan kết thúc trong nỗi đau đớn bất hạnh. Gioan không có thói quen gia giảm chân lý cho vừa ý người khác, cũng không thể thấy điều ác mà không quở trách. Ông nói rất mạnh dạn thẳng thắn đến lụy cả bản thân.
Trong chuyến du hành từ Galilê đến La mã thăm em trai, vua Hêrôđê Antipas đã quyến rũ vợ của em mình. Khi trở về xứ, ông bỏ vợ chính thức để cưới cô em dâu mà ông đã dụ dỗ. Gioan công khai và nghiêm khắc quở trách Hêrôđê. Dám chỉ trích một vị vua Đông phương thì không bao giờ được yên thân. Hêrôđê đã trả thù: Gioan bị quăng vào ngục của thành lũy Mchaerus, trong vùng núi gần Biển Chết.
Người ta thường nói: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” (một ngày ở trong tù bằng cả ngàn năm sống ở bên ngoài). Đối với người bình thường số phận đó đã khủng khiếp rồi, nhưng đối với Gioan thì càng kinh khủng hơn bội phần. Ông là người của sa mạc mênh mông quen sống giữa trời đất bao la, với gió thoảng mây ngàn, thế mà giờ đây phải chôn chân trong bốn bức tường chật hẹp dưới mặt đất. Với Gioan, một người có lẽ chưa hề sống tù túng dưới một mái nhà nào, điều này quả là một nỗi thống khổ không lường được.
Trong lâu đài Carlisle có một phòng giam nhỏ. Ngày xưa có lần người ta tống giam một sĩ quan biên phòng vào đó trong mấy năm liền. Phòng giam đó có một cửa sổ ở trên cao, người đứng dưới đất không thể nhìn ra ngoài được. Sau này người ta thấy trên vách đó bên vách cửa sổ có hai dấu lõm vào. Đó là dấu tay của người sĩ quan biên phòng ngày ngày đu mình lên đó để được nhìn ra dải thung lũng xanh rờn, nơi ông ta không bao giờ còn hi vọng trở lại nữa.
Chắc Gioan cũng mang một tâm trạng như thế cho nên không có gì đáng ngạc nhiên hoặc đáng chỉ trích khi ta thấy những thắc mắc bắt đầu thành hình trong trí ông. Ông đã tin rằng Chúa Giêsu là Đấng phải đến, là Đấng Cứu Thế mà dân Do thái nóng lòng mong đợi... Một người sắp chết thì không thể nào để cho lòng mình vương vấn chút ngờ vực nào. Ông cần phải biết thật chắc nên ông đã sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng? Hay chúng tôi phải đợi Đấng khác?” Câu hỏi đó có thể có nhiều lý do:
1. Một số người nghĩ rằng câu đó không phải hỏi cho Gioan mà cho các môn đệ của ông.
Có thể Gioan đàm đạo với các môn đệ của ông trong tù, họ hỏi ông Chúa Giêsu có thật là Đấng phải đến không, Gioan bảo họ: “Nếu các ngươi nghi ngờ, chưa rõ Chúa Giêsu là ai thì hãy đi xem Ngài đang làm gì, và có thể làm được những gì, lúc đó các ngươi sẽ hết nghi ngờ ngay”. Nếu có ai cãi lý với chúng ta về Chúa Giêsu và thắc mắc về quyền năng tối thượng của Ngài, câu trả lời hay nhất không phải là dùng lý luận chống lại lý luận, nhưng là “anh hãy trao phó đời sống anh cho Ngài thì sẽ thấy quyền năng hành động của Ngài”. Cách tranh biện tốt nhất cho Chúa không phải là dùng lý lẽ tri thức nhưng là đưa ra kinh nghiệm về quyền năng biến cải của Ngài .
2. Có thể là câu hỏi của Gioan là do thiếu kiên nhẫn.
Sứ điệp của Gioan là sứ điệp về sự phán xét: cái búa đã kề gốc cây, việc sàng sẩy đã bắt đầu, lửa phán xét của Thiên Chúa đã bắt đầu cháy. Có thể lúc đó Gioan nghĩ rằng: “Khi nào Chúa Giêsu mới bắt đầu hành động? Khi nào Ngài mới bắt đầu tiêu diệt quân thù? thiêu hủy sự ác? Khi nào ngày hủy diệt thánh của Thiên Chúa mới bắt đầu khởi sự?” Có thể Gioan đã mất kiên nhẫn vì Chúa Giêsu đã không hành động như ông mong đợi. Một điều chắc chắn là người nào chờ đợi Chúa Giêsu giáng cơn thịnh nộ bạo tàn, sẽ luôn bất mãn về Ngài, nhưng ai tìm kiếm tình yêu nơi Ngài sẽ không bao giờ thất vọng.
3. Một số người cho rằng câu hỏi của Gioan phát xuất từ niềm tin và hy vọng đang vươn lên.
Ông đã thấy Chúa lúc Ngài chịu phép rửa, bây giờ ở trong tù ông càng nghĩ nhiều hơn về Ngài. Càng suy nghĩ, ông càng tin chắc Ngài là Đấng phải đến. Và bây giờ ông đặt tất cả hy vọng của mình vào câu hỏi trắc nghiệm này. Có thể đây không phải là câu hỏi của một người thất vọng và thiếu kiên nhẫn mà là câu hỏi của một người mà ánh mắt đang sáng ngời hy vọng. một người hỏi chỉ cốt để xác chứng hy vọng của mình.
Chúa Giêsu trả lời câu hỏi đó với giọng đầy tin tưởng: “Hãy về, đừng thuật lại cho Gioan những điều ta nói, nhưng hãy thuật lại cùng Gioan những điều ta làm! Đừng thuật lại cho Gioan những điều ta cao rao, nhưng hãy thuật lại cho Gioan những điều đã xảy ra”. Chúa Giêsu bảo người ta hãy dùng những trắc nghiệm gay go nhất để thử Ngài, trắc nghiệm về hành động và kết quả. Chúa Giêsu là người duy nhất có thể thách thức người ta phê phán những việc Ngài làm không cần giới hạn, không cần điều kiện. Lời thách thức của Ngài vẫn không thay đổi, Ngài không kêu gào: “Hãy nghe những điều ta phán đây” nhưng Ngài nói “Hãy nhìn xem những gì ta có thể làm cho các ngươi cùng những điều ta đã làm cho nhiều người khác”.
Những điều Chúa Giêsu đã làm ở xứ Galilê thì Ngài vẫn còn làm ngày nay. Trong Ngài, những ai đui mù không thấy được sự thật về chính mình, về người khác và về Thiên Chúa , đều được sáng mắt. Trong Ngài, những ai có đôi chân yếu ớt, không đủ sức đứng vững trong đường ngay nẻo chính đều được mạnh mẽ. Trong Ngài, ai không nghe tiếng phán của lương tâm và của Chúa Trời đều bắt đầu nghe được. Trong Ngài, những kẻ chết và bất lực trong tội lỗi đều bắt đầu sống lại cuộc đời mới và thánh khiết. Trong Ngài, những người nghèo nhất được hưởng sự giàu có về tình yêu của Thiên Chúa .
Nhưng cuối cùng là lời cảnh cáo “phúc cho kẻ nào không vấp phạm vì ta”. Chúa phán điều này với Gioan vì Gioan chỉ nắm có phân nửa chân lý. Gioan rao giảng Phúc Âm về sự thánh thiện với sự hủy diệt từ trời; Chúa Giêsu rao giảng Phúc Âm về sự thánh thiện với sự yêu thương từ trời. Vì vậy Chúa Giêsu nói với Gioan rằng “có thể ta không làm điều ngươi trông đợi ta, nhưng những quyền năng đang bị đánh bại, bị đánh bại không phải bởi sức mạnh vô địch mà bởi tình yêu vô hạn ! Đôi khi người ta bị vấp phạm vì Chúa Giêsu bởi Ngài cắt ngang quan niệm của họ về tôn giáo, Ngài không làm theo đúng như suy diễn về tôn giáo của họ.
Chúng ta sống trong thời đại máy móc lấy sự mau chóng lẹ làng làm tiêu chuẩn. Nhưng đời sống có tiết tấu của nó và vạn vật cũng có thời điểm của nó. Thánh Giacobê Tông Đồ nói với giáo dân "Anh hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến" như người nông phu chờ đợi mùa thu nắng hạ, mùa gặt đến.
Theo Thánh Kinh, sự nhẫn nại là một đặc tính lớn lao của Chúa. Moisê nói: " Thiên Chúa là Chúa hay thương xót, chậm giận dữ, trung thành với bao thế hệ, người không chấp tội lỗi…” (Ex. 34, 6-7), thì vũ trụ của Chúa cũng nhẫn nại, thời nào tiết nấy, cây cỏ sinh hoa màu. Phaolô cũng gọi sự nhẫn nại là một trong các hoa quả của Chúa Thánh Thần (Ga 5 , 20)
Vậy chúng ta hãy nhẫn nại chờ đón Chúa đến. Trên bờ sông Giođan, Gioan đã giới thiệu Chúa Cứu Thế như mộc vị thẩm phán chí công, tay cầm chiếc nia tay cầm chiếc rìu, Ngài đến để đổi mới mọi sự, Ngài đến làm một cuộc cách mạng mà thế giới mong đợi.
Gioan vì tiết khí đã bị Herôđê tống giam vào ngục Machironte trên bờ Biển Chết. Phải chăng Gioan cũng mong đợi, nhưng cuộc cách mạng ấy vẫn không tới và không có dấu hiệu nào báo trước sẽ đến gần. Bàn tay Chúa vẫn chỉ giơ lên để chúc lành, đề chữa bệnh, để tha thứ. Ngài không màng đần vấn đề chính trị. Ngài kêu gọi người nghèo khó đi theo, đối xử nhân hậu với hết mọi người. Sấm ngôn ám chỉ một nhà cách mạng nhưng lại xuất hiện một Đấng chăn hiền lành.
Ta phải đặt câu hỏi của Gioan trong vị trí và hòan cảnh ấy. Câu hỏi hướng về con người của Chúa Giêsu hơn là về các việc Ngài làm. Chúa là ai? “Thầy là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?
Câu trả lời của Chúa như một bản Phúc âm bỏ túi, được cấu kết bằng nhiều bản văn trích ở Tiên tri Isaia. Nơi Ngài ứng nghiệm nhiều lời sấm ngôn, một đấng quyền năng: người mù được thấy, kẻ què được đi..., người chết sống lại. Nhưng Ngài cung là con người khiêm tốn, con người đau khổ, hiến mình để đền tội ta.
Nhưng muốn nhận ra chân tướng của Chúa, ta phải kêu gọi đến Đức Tin, bám víu lấy Đức Tín: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”
Rồi đến phiên Chúa Giêsu ca ngợi vị Tiền hô của Ngài. Người ta đổ xô vào rừng không phải để nhìn ngắm cây sậy phất phơ trước gió... mà để nghe một Tiên tri. Một Tiên tri lỗi lạc, gạch nối giữa Cựu ước và Tân ước. Mọi Tiên tri đều hướng vọng về Chúa Cứu Thế Nhưng Gioan đã chỉ rõ về Ngài, giới thiệu các môn đệ đi theo Ngài. Tuy vậy ông vẫn ở lại bên bờ Cựu Ước. Và Chúa nói: "Người nhỏ nhất trong Nước Trời sẽ trọng hơn ông”. Ai hiểu được những bí ẩn của nước Trời!
Gioan là vị Tiền hô của Chúa, nhưng Gioan cũng là một điểm đoo lường giá trị của Nước Trời mà Chúa đến khai mở. Ta hãy dọn tâm hồn để đón Chúa nhân kỷ niệm ngày ngài đến.
Trong diễn biến của Tin Mừng của ông, Mát-thêu bốn lần nói về Gioan Tẩy Giả... và luôn có liên quan với đức Giêsu...
Mt 3,1-7 Gioan Tẩy Giả rao giảng "Nước Thiên Chúa" và làm phép rửa cho Đức Giêsu...
Mt 4,12 Việc bắt giữ Gioan Tẩy Giả, người định đoạt cho Đức Giêsu "khởi đầu”...
Mt 11,2-18 Gioan từ trong ngục, đặt những câu hỏi về Đức Giêsu và Đức Giêsu đặt những câu hỏi về Gioan cho đám đông. Đó là đoạn chúng ta đọc hôm nay.
Mt 14,1-13 cái chết của Gioan, loan báo phần thứ hai của sứ vụ của Đức Kitô.
Ông liền sai các môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi phải đợi ai khác?
Chính với lòng nhiệt thành mà Gioan trông đợi Đấng Mê-si-a. Chúa nhật trước chúng ta đã thấy sự sôi sực của quần chúng đã được khơi dậy do tiếng "kêu của ông, do "tin mừng" của ông: "Nước Trời đã gần kề!".
Thế mà này đây là Gioan, bây giờ do dự," nao núng. Có lẽ ông ta sẽ không lầm lẫn chăng? Cái "hoài nghi" này có gây xúc động như thế ư? Và chúng ta cố đặt vào địa vị của Gioan. Ông đang ở trong ngục, trong cái chiến lũy Macheronte, một cái pháo đài, khiếp đảm và kiên cố của Hê-rô-đê xây dựng chắc chắn vào một mỏm núi đá của hoang mạc Mô-áp, phía Đông Biển Chết. Ông ta có giờ để suy nghĩ. Đó là một tù nhân bị giam trong bốn bức tường. Đây là cái thử thách khủng khiếp nhất: “đức tin" bị nao núng.. Một thứ tiếng kêu phá hoại khơi gợi ông ta: "tất cả chuyện gì anh tin cho tới giờ, đều sai lầm cả... Giêsu của anh đâu phải Đấng Mê-si-a; ông ta không có khả năng giải thoát mi ra khỏi ngục.
Vâng, Gioan Tẩy Giả, vừa nghĩ đến những dòng dõi cứu thế thời mình, vừa chờ một Mê-si-a chiến thắng: một Đức Kitô của dòng Đa-vít, Đấng được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng có lẽ giải phóng Do Thái khỏi tay quân thù... một Đức Kitô siêu việt, Con người mà đa-ni-en loan báo, đến từ đám mày trời để phán xét tất cả những kẻ dữ của “hơi thở từ miệng người". Và đó chính là Mê-si-a mà Gioan đã loan báo những đám người ở hoang mạc: viên quan xét đã có sẵn chiếc rìu trong tay để chặt hết tất cả cây nào không sinh trái, người xay lúa cầm sẵn cái nia để rê trấu khỏi lúa mì.
Sự thất vọng! Đức Giêsu đang làm thất vọng. Thiên Chúa đang làm thất vọng.
Thiên Chúa cũng hay làm thất vọng chúng ta. Người không phải như chúng ta tưởng tượng. Thiên Chúa làm cho người ta chưng hửng. Và như Gioan Tẩy Giả, chúng ta cứ tiếp tục mong ước rằng Thiên Chúa làm theo "ý muốn của chúng ta" và giống như hình ảnh mà chúng ta tạo ra về Người. Bạn hãy nói cho tôi biết tại sao Thiên Chúa lại để cho vị tiên báo của Người vào tù? Tại sao Thiên Chúa không bênh vực các bạn hữu của Người? Tại sao Thiên Chúa lại không giải thoát cho những người bị tù tội vì Người? Tại sao dường như Thiên Chúa luôn luôn bị những kẻ thù của mình chiến thắng? Tại sao, Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Thiên Chúa lại bị Hê-rô-đê khoá miệng tại? Tại sao lời Chúa lại "quá lặng lẽ" thế?
Tại sao Chúa ơi, Chúa yên lặng, khi có biết bao người đang cáo giác người? Tại sao có biết bao điều xấu, biết bao đau khổ, biết bao chết chóc trong vạn vật thụ tạo? Lạy Chúa, hôm nay, xin "Chúa trả lời cho chúng con hay. Chúa có phải là Đấng đem đến cho chúng con niềm vui, sự sống và hạnh phúc không hay chúng con lại phải đợi một người khác?
Chúng con có phải tiếp tục tin vào Chúa không, hay chúng con phải khước từ Chúa để chúng con hiến mình cho nhũng người khác? Khủng hoảng đức tin...
Những nhà lao tối tăm ở Macheronte... đêm tăm tối của Gioan Tẩy Giả.
Đức Giêsu trả lời: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng".
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi đặt ra. Người không nói: "Tôi là người phải đến". Người không cho một giải pháp có sẵn. Người gợi cho người chất vấn phải tự mình tìm câu trả lời cho vấn đề mình đặt ra.
Đức Giêsu, Đấng Mê-si-a làm cho người ta chưng hửng, dẫn lại những đoạn Kinh Thánh, lấy trong ngôn sứ I-sai-a (Is 26,19 - 29,18 - 35,5 - 61,1). Khi đắn do kể những đoạn này, hơn là các đoạn khác, Đức Giêsu cho thấy người đã chọn là "loại Mê-si-a nào": Thiên Chúa Đấng đã sai Người đến không tự tỏ mình ra qua những cử chỉ của quan xét và của người hiếu thắng, nhưng bằng những cử chỉ tốt lành đối với những người thất thế và người đau khổ: mù lòa, què quặt, phong cùi, điếc lác,... Và ý nghĩa sâu xa của hành động chữa lành này được thấy rõ trong hai việc lành sau cùng được nói lên: "cái chết" bị đánh bài...người nghèo được rao giảng Tin Mừng... Đấy chính là, niềm vui mới!
Những câu hỏi mà chúng ta đặt ra về Gioan Tẩy Giả, những hoài nghi mà chúng ta có về Chúa, thì bây giờ chính chúng tại đem ta trở lại với “chính ta": bạn đã cáo giác Chúa, bạn làm gì trên thế gian này để giúp đỡ những người đau khổ, để giải phóng những người bị đè nén, để làm cho số phận của các anh chị em ta trở nên tốt hơn?
Dấu hiệu đích thực là Thiên Chúa ở đó, và nước Người đã bắt đầu, chính khi có tình yêu! Chúng ta không "phải đối một ai khác nữa"...
Câu trả lời của Đức Giêsu cho Gioan Tẩy Giả phải trở nên một câu hỏi khẩn thiết đối với mỗi Kitô hữu, và đối với Giáo Hội nói chung: Giáo Hội hôm nay, Người có là cộng đoàn tình yêu của Đức Giêsu và của "tin mừng của Người cho người nghèo không hay chúng tôi phải chờ đợi một Giáo Hội khác nữa? Và bạn, Pierre, Chantal, Francois Monique (Dung, Thanh, Trang Diễm)... bạn có tự hiến thân cho những người thấy bạn sống những dấu chỉ của Đức Giêsu không? Đón tiếp, ủi an, cứu vớt, yêu thương.
Phúc thay cho người nào không vấp ngã vì tôi
Bản văn Hy Lạp nói ở đây: "Phúc cho ai không bị làm gương mù vì tôi". Tiếng "skandalon" là hình ảnh gợi ra viên đá trên đường mà người nào cũng dẵm lên. Đức Giêsu, nhờ những dấu chỉ bất ngờ Người đưa ra, có thể trở nên một cơ hội "vấp ngã" đối với chính Gioan Tẩy Giả. Điều nghịch lý. Người rao giảng, hôm Chúa nhật trước, đã mời các đám đông người sám hối ở trên bờ sông Gio-đan, bây giờ được mời để tự sám hối. Vâng, Gioan Tẩy Giả được mời đi tới một đức tin sâu xa hơn. Vị tiền hô được mời để "tin" vào Thiên Chúa, ngay trong cảnh tù đầy, bằng cách chấp nhận như một lối thoát khỏi cảnh tù đày này mà không phải là sự cứu thoát bởi một Thiên Chúa toàn năng... nhưng cái chết của mình, hiệp thông với cái chết, chẳng bao lâu nữa, của Đấng Mê-si-a trên thập giá. Lòng tin của chúng ta cũng thế, không phải là một "sự vật" chiếm hữu lấy một lần thay cho tất cả. Thật là tốt cho chúng ta biết mấy khi thấy một người khổ tu, một vị thánh, "ngôn sứ vĩ đại nhất”... được mời để làm cho đức tin lớn lên... được mời để không bị "vấp phạm" vì Đức Giêsu .
Họ đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng "Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem cái gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngồn sứ nữa”
Đức Giêsu bây giờ khen ngợi Gioan Tẩy Giả.
"Giêsu, ông là ai? Đức Giêsu hỏi đám đông. Đám đông không trả lời chi cả. Yên lặng. Dẫu vậy câu hỏi của Đức Giêsu trở nên sống động, tiến lên từng nấc, nhắc lại ba lần: một cây sậy? một ông hoàng? một ngôn sứ? A không! Người không phải là cây sậy bị cơn gió nào cũng làm lung lay, người đàn ông chốn hoang địa này đáng phải vào tù vì thái độ cương nghị của ông: đó là một người can đảm (Gr 1,10-17).
A, không, ông không phải là người tinh tế, có khả năng sống trong sự dễ dãi, người đàn ông này mặc áo da súc vật như Ê-li-a (2 V l,8).
Đức Giêsu nói: Đó là một ngôn sứ và còn hơn là một ngôn sứ
Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này ta sai sứ giả của ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến "
Như trong phần thứ nhất, để xác định căn tính của Đấng Mê-si-a, ở đây Đức Giêsu dẫn một lời Kinh Thánh, để xác định căn tính của Gioan. Và đó là đoạn sách Ma-la-khi (3,1). Nhưng Đức Giêsu đã sửa nguyên văn của Cựu ước, và điều này rất có ý nghĩa Ma-la-khi đã viết: "Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta". Trong đoạn này chỉ có hai nhân vật: Thiên Chúa và sứ giả của Người...Đức Giêsu khi giải thích đoạn trích dẫn, đặt vấn đề ba nhân vật: Thiên Chúa, sứ giả đi dọn đường, và Đấng sẽ đến"...tức là Đấng mà Thiên Chúa xưng là cha con: "trước mặt Con!".
Khi Đức Giêsu dẫn kinh Thánh, người cho mình như Đấng Mê-si-a đã được loan báo. Và vì thế, Người đi đến chỗ dùng kỹ xảo với nguyên bản: Ma-la-khi tập trung vào “người sứ giả"... Đức Kitô chú trọng đến "Đấng chuẩn bị sứ giả"...
Như thế bằng cách bày tỏ cho đám đông hiểu căn tính sâu xa của Gioan Tẩy Giả, thì Đức Giêsu còn tỏ cả căn tính của mình.
Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
Chúng ta lặn ngụp, "một lần lữa, vào trong ý thức mà Đức Giêsu có về bản thể sâu xa, và vai trò của Người trong lịch sử Đức Giêsu có ý thức khơi động một thay đổi lịch sử thật sự. Có “trước” người và “sau” người. Lịch sử thế giới đang ở một bước ngoặt. Nếu Đức Giêsu Na-da-rét này chỉ là một anh dân làng nhỏ bé kiêu kỳ, thì cuộc phiêu lưu của Người sẽ không kéo dài. Điều đó có lẽ không đúng, nhưng cuộc phiêu lưu lại kéo dài liên miên.
Đức Giêsu đã dứt khoát và thực sự chia cắt lịch sử làm hai: Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu với Người. Và Đức Giêsu có thể nội thực sự rằng con người thánh thiện nhất, vĩ đại nhất của Cựu ước, còn là người bé nhỏ hơn người Kitô hữu hèn mọn nhất của kỷ nguyên mới bắt đầu... Một cách nghịch lý chúng ta đi vào thời đại của "những người bé mọn” từ khi Thiên Chúa nhập thể làm "đầy tớ", thì sự vĩ đại quyền lực, chính là trở nên "bé mọn". Trong khi chịu thử thách, Gioan đã học được điều đó.
Nhìn bề ngoài thì xem ra con người thời nay rất đầy đủ. Nhưng nếu tới sâu đến tận đáy lòng, ta mới thấy nhiều khoảng trống mênh mông rất cần được lấp đầy:
-Khoảng trống “siêu vật chất”: Mặc dù tiền bạc, của cải, tiện nghi... -nói chung là vật chất - có rất nhiều, nhưng lòng người vẫn luôn thấy thiếu. Chỗ thiếu vắng này không thế lấy tiền mà mua được, không thể lấy vật chất mà lấp đầy được.
-Khoảng trống “tình yêu”: người ta sống với nhau vì quyền lợi. Ai có lợi cho tôi thì tôi đến; ai không có lợi thì tôi thờ ơ, ai không còn có lợi thì tôi bỏ, ai có hại thì tôi tìm cách diệt trừ...Hình như tình yêu không có chỗ trong lòng người.
-Khoảng trống “vĩnh hằng”: mọi thứ mà người thời nay có đều chỉ là tạm bợ, kéo dài lắm cũng chỉ là trăm năm trong cõi người ta. Con người cần cái gì đó dài hơn, lâu hơn, mãi mãi...
Những khoảng trống ấy thật là mênh mông, và không ai ngoài Chúa có thể lấp đầy. Con người thời nay đang rất cần Chúa.
2. Đừng nóng vội
Trước một vấn đề quan trọng cần giải quyết, người ta chia thành hai hạng khác nhau:
-Những người nóng vội: muốn giải quyết ngay tức khắc, bằng cách nào; cũng được, kết quả thế nào cũng được.
-Những người kiên nhẫn: tìm hiểu kỹ vấn đề suy nghĩ cách giải quyết thỏa đáng nhất, chờ có đủ điều kiện thuận lợi nhất.
Phần Thiên Chúa, Ngài không nóng vội nhưng rất kiên nhẫn, bởi vì Ngài muốn cứu chữa tận căn, muốn cải tạo con người, muốn canh tân thế giới.
Phần mỗi người chúng ta, cũng chớ tìm những giải pháp nhanh chóng mà hời hợt, nhưng hãy kiên nhẫn: kiên nhẫn điều trị tận gốc căn bệnh của mình, kiên nhẫn cải tạo từng mặt cuộc sống của mình, và kiên nhẫn góp phần canh tân thế giới.
3. “Hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?”
Tuy Gioan là một ngôn sứ và còn là vị Tiền hô, nhưng câu hỏi này của ông lại rất phàm trần: ông nghĩ rằng Đức Giêsu là Đấng Messia Thẩm phán. Nhưng khi thấy Ngài chẳng xét xử và trừng trị ai thì ông nghĩ tới một Đấng nào khác.
Nhưng chúng ta còn phàm trần hơn Gioan nhiều: Dù đã biết Đức Giêsu chính là Đấng Messia, nhưng chúng ta không đủ tin nơi Ngài, chúng ta hướng về nhiều “Đấng Messia khác”: messia-tiền-bạc, messia-thế-lực, messia- lạc-thú...
Tuyên ngôn Dominus Jesus khẳng định rằng Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, ngoài Ngài ra chẳng có, Đấng Messia nào cả. Không hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu là vấp ngã, chạy theo những Đấng Messia khác cũng là vấp ngã. Vì thế Đức Giêsu đã khuyến cáo: Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta.
4. Một cây sây phất phơ trước gió
Gioan Tẩy giả không phải là một cây sậy phất phơ trước gió, vì Gioan không phải là người yếu đuối nhu nhược dễ uốn mình trước áp lực và dư luận.
Nhưng hình ảnh cậy sậy phất phơ trước gió có thể dạy ta nhiều điều:
-Nó vừa mềm vừa nhẹ nên gió thổi nó nghiêng về hướng nào cũng được.
-Nhưng nó lại rất mạnh: giông to gió lớn có thể xô ngã những cây cổ thụ to lớn, nhưng không thể bứng ngốc cây sậy nhỏ bé này.
Lạy Chúa,
-Xin dạy chúng con hiểu rằng sức mạnh ở trong sự yếu đuối và dịu đàng
-Xin dạy chúng con khôn ngoan biết khi nào phải cong xuống và khi nào. phải trụ vững vàng.
5. Chuyện minh họa
a/ Ông có phải là Chúa Giêsu không?
Một nhóm thương gia dự một cuộc họp. Người nào cũng báo trước với vợ con là sẽ về nhà đúng giờ ăn bữa tối. Nhưng cuộc họp kéo dài hơn dự định. Tan buổi họp, ai nấy hối hả chạy ra xe buýt. Một người xô phải quầy bán táo của một cậu bé, táo rơi tứ tung. Nhưng không ai dừng lại để lượm giúp cậu. Rồi mọi người đều lên được xe buýt, thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng ít giây sau, một người trong nhóm cảm thấy bứt rút về chuyện cậu bé bán táo. Ông xuống xe trở lại chỗ cũ ông thấy cậu bé đang vất vả mò tìm từng trái táo để lượm lại. Thì ra cậu bị mù! Tội nghiệp quá, ông giúp cậu lượm lại từng quả cho đến hết. Một số quả đã bị giập. Ông móc túi dúi vào tay cậu bé một món tiền, rồi ra đi. Cậu bé bán táo hỏi với theo: “Ông có phải là Chúa Giêsu không?”
Theo một nghĩa nào đó, ông ta là Chúa Giêsu. Thời nay đang cần có nhiều Chúa Giêsu như thế.
b/ Đối phó với Đấng Messia
Ngày kia đang lúc trời mưa như trút nước, một người chủ nông trại giàu có từ đồng trở về nhà và than phiền với giọng đầy lo lắng:
-Rebecca, nghe đâu trong thành người ta đang kể một câu chuyện kinh khủng lắm: Đấng Messia đã đến giữa chúng ta!
Người vợ hỏi:
-Có gì mà kinh khủng hả? Tôi tưởng đó là chuyện tuyệt vời chứ. Sao mà ông hoảng hốt vậy?
Người chồng lớn tiếng than:
-Tôi hoảng hốt ư? Sao biết bao năm trời vất vả lao nhọc, chúng ta mới được giàu có với bầy súc vật hàng ngàn con, với những kho lẫm đầy ắp và cây cối nặng trĩu quả. Thế mà, bà biết không, chúng ta sắp phải bỏ hết để đi theo Ngài.
Bà vợ ôn tồn như muốn an ủi ông:
-Thôi, bình tĩnh đi ông. Chúa là Thiên Chúa nhân lành. Ngài biết rõ người Do thái chúng ta đã luôn luôn phải chịu đau khổ, chúng ta phải đương đầu với Pharaon, Haman, Hitler... nghĩa là luôn luôn với một kẻ nào đó. Nhưng Thiên Chúa chúng ta đã có cách đối phó với họ mà, phải không? Thế thì Ngài cũng có cách đối phó với Đấng Messia chứ!
Không ai chối cãi được rằng Công Đồng Vatican II đem lại một làn gió mát, một sức sống sinh động, một tinh thần hoán cải sâu sắc cho Giáo Hội Công Giáo khắp năm châu trong bốn thập niên qua. Cao điểm của Công Đồng là lời tuyên bố mở đầu Hiến Chế Mục Vụ "Giáo Hội trong thế giới ngày nay": "Vui Mừng và Hy Vọng (Gaudlum et Spes), ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ" (số 1). Sở dĩ Giáo Hội Công Giáo tại Công Đồng Vatican II khẳng định được như vậy, là vì chính Đấng Thiên Chúa đã coi những vui mừng và hy vọng, những ưa sầu và lo lắng của con người, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, là vui mừng và hy vọng, là ưu sầu và lo lắng của chính Thiên Chúa. Dĩ nhiên Thiên Chúa hạnh phúc trọn hảo, không có hy vọng, và cũng chẳng có ưu sầu và lo lắng nơi Người. Nhưng Kinh Thánh mặc khải cho ta một Thiên Chúa vì hạnh phúc con người, một Thiên Chúa phục vụ con người, gắn bó mật thiết với con người.
I. LỜI MỜI GỌI VÀ TRẤN AN CỦA NGÔN SỨ ISAIA
(bài đọc 1).
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, dân Israel luôn đứng trước một mâu thuẫn nội tại: giữa một bên là một thực tế tầm thường, bé nhỏ, yếu đuối, bị áp bức, bị đe dọa từ mọi phía (thiên nhiên cũng như con người chung quanh), và một bên là lời hứa của Thiên Chúa sẽ dành cho dân một chế độ "tối huệ quốc" không phải trên địa hạt kinh doanh thương mại, mà trên địa hạt hiện hữu và tình thương dành cho họ. Luôn luôn là một cuộc đấu tranh không ngơi nghỉ, để xuyên qua một thực tế đôi khi phũ phàng, lắm lúc tang thương, con dân Israel vẫn giữ vững một niềm tin vào một tương lai tươi sáng của Thiên Chúa đến cứu độ và biến đổi. Các ngôn sứ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh một mất một còn này. Vì chưng lời mời gọi, những lời trấn an, thậm chí đôi khi cả những lời đe dọa của các ngài, có một sức mạnh khôn tả, điều chỉnh suy nghĩ và cách hành xử của cộng đồng kẻ tin.
Trong Isaia 35,1-6A.10 chúng ta đọc được một lời an ủi đầy sức thuyết phục của vị đại ngôn sứ, sống ở thế kỷ thứ VIII trước công nguyên. Nằm trong lời an ủi ấy, ngôn sứ loan báo về một thời đại cứu độ khi mà Thiên Chúa ra tay cứu giúp những người đau khổ, tàn tật, đem lại sự lành lặn và niềm hạnh phúc cho họ.
II. LỜI NHẮN NHỦ CỦA THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ
(bài đọc II)
Chúa Giêsu, Đấng cứu độ do Thiên Chúa gửi đến, đã đến trần gian, đã rao giảng về Nước Trời đã hình thành một cộng đoàn mới là Hội Thánh. Nhưng Đức Giêsu cũng lại đã biến khỏi mặt đất và không phải mọi vấn đề của cuộc sống con người đã được giải quyết một lần cho xong tất cả. Các cộng đoàn tín hữu thời các tông đồ nôn nóng chờ mong ngày Đức Kitô quang lâm (tức trở lại trong vinh quang). Nhưng vì họ quá đơn sơ, cứ chủ quan cho rằng ngày ấy đến nơi rồi, nên sốt ruột chờ mong. Chờ mãi mà không đến thì sinh ra mất kiên nhẫn, nản chí, nghi ngờ. Đối lại với thái độ nôn nóng, ngờ vực, kêu trách... của người tín hữu, thánh Giacôbê mời họ hãy học gương người nông dân: họ lao động và kiên nhẫn đợi chờ ngày thu hoạch, họ cũng trông chờ sự bù đắp của thiên nhiên (đất đai, khí hậu, thời tiết...). Chờ một mùa gặt, người nông dân không quản nhọc nhằn, thì chờ một thời đại cứu độ người tín hữu lại không đủ niềm tin và sự kiên trì sao?
III. CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA GIOAN TIỀN HÔ VÀ ĐỨC GIÊSU.
(Bài đọc II)
Thật vô cùng lý thú nếu chúng ta đành thời gian để đọc và nghiên cứu mối quan hệ giữa Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Có nhiều đoạn văn Tân ước đề cập đến mối quan hệ đặc biệt ấy. Có khi thì Gioan nói về Đức Giêsu. Có khi ngược lại Đức Giêsu nói về Gioan. Cũng có những cuộc trao đổi giữa hai vị. Ở đậy chúng ta có được một cuộc đối thoại rất độc đáo mà chúng ta có thể gọi là cuộc đối thoại không đối mặt giữa hai nhân vật quan trọng này.
1. Dấu Chỉ thới cứu độ
Từ bước đầu, Gioan đã làm chứng về Đức Giêsu, đã giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ của mình và cho dân chúng đang trông đợi Đấng Mesia: “Này là Chiên Thiên Chúa". Với Đức Giêsu, Gioan còn xác định vì trí của mình chỉ là người dọn đường, chỉ là người phụ rể: chính Đức Giêsu mới là Đấng Thiên Sai, mới là Chàng Rể của Nàng Dâu Israel Mới là Hội Thánh. Ngồi trong tù, Gioan vẫn tiếp tục theo dõi hoạt động của "Kẻ đến sau mà có trước" và nỗi bức xúc đã bật thành câu hỏi. "Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không?". Khi Gioan đặt câu hỏi này với Đức Giêsu, thông qua mấy môn đệ của mình, đâu phải Gioan không hay biết gì về những "dấu lạ" mà Đức Giêsu đã thực hiện tại Cana, tại Galilê, tại Giêrusalem... và các nơi khác. Thế tại sao Gioan vẫn thắc mắc?
Dù giải thích nỗi thắc mắc ấy của Gioan bằng giả thiết này (Gioan muốn cho các môn đệ của mình khám phá ra Con Người đích thực của Đức Giêsu) hay giả thiết khác (bản thân Gioan cũng bắt đầu ngờ vực về niềm tin của mình), thì tựu trung vẫn là vấn đề này: Những việc Đức Giêsu thực hiện có phải là những dấu chỉ (không thể sai lầm) của thời cứu độ của Thiên Chúa không? Đức Giêsu đã dùng Kinh Thánh (Is 35, 5-6) để trả lời cho Gioan, chứ Ngài không nói CÓ mà cũng chẳng nói KHÔNG với Gioan. Cách đáp lại như thế, có lẽ còn mạnh hơn cả một lời xác định . "Phải, tôi chính là Đấng Thiên Chúa sai đến, anh em không còn phải chờ đợi ai khác nữa".
2. Sự cao tăng trọng của người đóng vai trò chứng nhân
Tiếp theo cuộc đối thoại là một cuộc độc thoại, trong đó chỉ có một người nói là Đức Giêsu, mà nhiều người nghe là đám đông. Đức Giêsu nói với đám đông về người vừa đối thoại với mình là Gioan. Những lời ca ngợi tuyệt vời Đức Giêsu dành cho vị tiền hô của mình chính lại là những lời đáp trả kỳ diệu nhất cho câu hỏi được đặt ra trước đó:"Thầy có phải . . . ? " .
Vậy thì không phải ai cũng nhận ra dấu chỉ của thời cứu độ mà cần phải có chăng người đi trước, dọn đường, chỉ dẫn làm chứng cho Đấng Cứu Độ, đọc ra những dấu chỉ cứu độ nhắc cho đám đông biết rằng họ đang sống trong thời đại cứu độ của Thiên Chua. Mà đã sống trong thời đại cứu độ thì không còn chỗ cho thất vọng, nghi ngờ, chán nản hay sầu buồn. Trái lại chỉ còn Niềm Vui và Niềm Hy Vọng. Chỉ còn hạnh phúc và ước mơ.
IV. NHỮNG THÁCH ĐỐ THỜI ĐẠI ĐỐI VỚI NỖI "VUI MỪNG VÀ HY VỌNG" CỦA CHÚNG TA
Nói như thế liệu có viển vông không! Vì chưng thực tế đâu có đẹp như thế! Cứ đảo mắt một vòng thành phố hay thôn làng, chúng ta thấy đó đây đầy rẫy những đau khổ, bất công, bệnh tật, tham ô, thối nát, ích kỷ hẹp hòi, độc ác đang hoành hành như giữa chơi rừng hoang! Trong môi trường ấy, làm sao người nghèo, kẻ đau khổ ... có cho mình được niềm vui và hy vọng. Dường như sức mạnh của kẻ thù là sa tan mạnh hơn bao giờ hết trong thế giới con người. Người ta chuyển từ cuộc chiến tranh này sang một cuộc chiến tranh khác. Người ta khai thác lợi nhuận bằng bất cứ giá nào, với bất kỳ con người nào rơi vào trong bàn tay của người ta (nạn ma túy, mại dâm chẳng hạn) ... Thú thật rằng chán nản và buông xuôi mới là thái độ lôgích của những người có mắt quan sát xã hội loài người ngày hôm nay. Nhưng có thật như thế không? Trong thế giới hôm nay phải chăng chỉ có tội ác và bóng đen, chỉ có ích kỷ và hận thù chỉ có tiêu cực? Bằng con mắt đức tin, chúng ta sẽ nhìn ra và phải nhìn ra sự phát triển của hạt cải, sức tất động của bột men, sự lớn lên cửa cây lúa. Bằng con mắt đức tin, chúng ta sẽ nhìn thấy sức mạnh của Thánh Linh đang thay đổi lòng con người cung như bộ mặt trái đất.
Thật vậy, loài người hôm nay ý thức hơn bao giờ hết về phẩm giá và quyền lợi của mình: Con người hôm nay cũng ý thức về tình liên đới và nhu cầu phải đoàn kết với nhau để xây dựng một xã hội tiến bộ văn minh. Cũng ngày hôm nay, con người đầu tư bao công sức để giảm bớt nạn nghèo đói, mù chữ, bệnh tật trong xã hội. Hàng triệu con người thầm lặng trong lao động nhằm đem lại sự thăng tiến giá trị nhân bản, giá trị tâm linh ... Bao nhiêu người mù được thấy, bao nhiêu người què đi được bao nhiêu người nghèo được tôn trọng phẩm giá và nâng đỡ, yêu thương ... Đó là những dấu chỉ thời cứu độ đang diễn ra hôm nay và chung quanh ta. Chúng ta có biết nhận ra chúng để cảm tạ Cha không?
Như thế vẫn chưa đủ, chúng ta phải trở thành đấu chỉ của Niềm Vui Mừng và Hy Vọng cho những người khác nữa. Muốn thế, cuộc đời chúng ta phải là cuộc đời mang thay đổi, thăng tiến cho những con người kế cận ta. Làm việc đó, có khi chúng ta phải chấp nhận mất mát, thiệt thòi... Có khi chúng ta phải chịu ngục tù đầy ải như Gioan và bao vị ngôn sứ khác của Thiên Chúa.
Kết luận
Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn và cuộc sống dành cho Chúa, thích hợp với đường lối Chúa. Cũng có nghĩa là thời gian hoán cải. Và điều trước tiên chúng ta phải hoán cải là nhận phần lỗi của mình trong việc không biết đọc dấu chỉ của thời đại, không tạo ra dấu chỉ của ơn cứu độ. Đức Gioan Phaolô II mời gọi cả Hội Thánh sám hối về những thiếu sót của mình trong việc sống và rao giảng Phúc âm. Lời mời gọi ấy đáng chúng ta áp dụng ngay vào cuộc sống tuần lễ thứ ba Mùa Vọng này
+ Chúa đến cứu nhân loại, và loài ngươi không cần chờ một ai khác. Nhưng người ta có trông đợi Chúa không? Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo Hội và thế giới mở rộng lòng đón tiếp Đấng Cứu Độ.
1. Chúa đến cứu độ loài người: Ngài mở mắt kẻ mù, mở tai người điếc, Chúa làm cho người nghèo không còn đau khổ hết phải khóc than. Xin cho Giáo Hội được nhìn thấy và lắng nghe kẻ cùng khổ đem niềm vui cho hết mọi người.
2. Chúa đến giải thoát con người khỏi ngục tù tội lỗi trả lại cho kẻ thất vọng niềm cậy trông. Xin cho các dân tộc bị áp bức được giải phóng, tự do, cho các quốc gia giàu mạnh trở thành người phục vụ chân thành.
3. Chúa đến tẩy sạch người cùi, phục sinh kẻ chết và mở ra con đường mới cho kẻ hồi sinh. Xin cho những anh em chị em bị đẩy ra ngoài lề xã hội vì thân xác hư hao vì quá khứ tồi tệ được tìm lại niềm tin và làm lại cuộc đời, nhờ bàn tay thân ái.
4. Chúa đến xét xử chúng con và thưởng công phạt tội. Xin giúp chúng cơn nhìn rõ cuộc đời mình và lắng nghe Lời Chúa sửa sai mà đổi mới tâm hồn, canh tân cuộc sống.
+ Lạy Cha là Chúa giàu lòng nhân ái, xin lắng nghe lời con cái khấn cầu. Cha dạy chúng con đừng sọ hãi, xin mở miệng chúng con lớn tiếng ngợi khen: Công lý của Cha là sức mạnh cho con người ân huệ của Cha là nơi chúng con nương tựa. Con Cha sai đến là Bạn đường chỉ lối về Nhà Cha. Chúng con chúc tụng Cha đến muôn thuở muôn đời.
Lớp học về “xã hội học” ở trường Đai học miền Trung Tâu đang bàn về những nhóm và những tổ chức khác nhau đang hoạt động cho người nghèo trên thế giới. Giáo sư hỏi một trong số các sinh viên đang chuẩn bị cho đề tài: “Lòng bác ái trên cả thế giới”. Mặc dầu người sinh viên không phải là công giáo, nhưng anh cũng hỏi Vị Tuyên úy cho biết Giáo hội công giáo đã làm gì cho người nghèo trên thế giới.
Vị Tuyên úy hơi bỡ ngỡ, rồi Ngài cũng cho anh sinh viên xem những hình ảnh trong nước và kể cho anh biết về công cuộc truyền giáo của Giáo hội công giáo trên khắp thế giới, hàng trăm ngàn giáo dân, tu sĩ, linh mục đang làm việc ở mọi nơi giữa mọi tầng lớp dân chúng. Mắt anh sinh viên mở rộng và anh buột miệng nói ra: “chưa bao giờ tôi có ý tưởng như vậy. Tại sao người công giáo không nói cho chúng tôi biết về lòng bác ái này trên cả thế giới ?”
Sự thật đáng buồn là nhiều người công giáo không có ý tưởng gì về những công cuộc bác ái vĩ đại mà gia đình con cái Thiên Chúa, do Chúa Kitô đã thực hiện. Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng: Thánh Gioan Tẩy giả sai một số môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu rằng: Ngài có phải là Đấng Cứu thế đã được Chúa hứa ban chăng ? Chúa đáp lại rằng: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người què đi được, người chết sống lại, và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo khó”. Đó là những dấu chỉ cho biết Chúa Giêsu là Đấng thiên sai, đó cũng là những dấu chỉ về Giáo hội đích thực do Chúa Kitô thiết lập. Chúa Kitô vẫn còn làm những phép lạ, phép lạ của lòng bác ái qua những kẻ tin theo Ngài.
Người công giáo chúng ta cần biết hơn về những gì Giáo hội đang làm cho người nghèo túng trên thế giới không phải để khoe khoang, không phải để chúng ta cảm thấy đã làm đủ rồi. Nhưng để nhận thức rằng lòng bác ái là dấu chỉ về Giáo hội của Ngài.
Ở Hoa Kỳ có hơn 700 bệnh viện công giáo với hơn 160.000 giường bệnh, có hơn 100 cô nhi viện, săn sóc cho hơn 16.000 trẻ em, có 432 viện dưỡng lão, săn sóc cho 43.000 người già cả. Cơ quan cung cấp cho 19.000 trẻ em có chỗ nuôi nấng.
Dây chi là ở Hoa Kỳ, xã hội công cuộc bác ái của Giáo hội trênkhắp thế giới thỉ rấtbao la. Chúng ta hãy nhớ rằng đó chỉ là công việc bác ái công khai của Giáo hội, nhưng chỉ có Chúa biết những gì mỗi cá nhân công giáo đang làm, để xóa bỏ sự nghèo túng khốn khổ. Có trên 100 nhóm bác ái trong Giáo hội, như bác ái thánh Vinh Sơn giúp đỡ cho vô số những người nghèo khổ, yếu đau, mù lòa, câm điếc, chậm trí.
Phải, lòng bác ái là dấu chỉ về Chúa Kitô. Nó cũng là dấu chỉ về Giáo hội của Ngài. và lòng bác ái là dấu chỉ về người tín hữu đích thực của Chúa Kitô. Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu – lễ Giáng sinh. Đó là dấu chỉ về Đấng đã chết cho mọi người. Đó là dấu chỉ về những ai tôn thờ Ngài khi Ngài tái diễn cuôc khổ nạn trên bàn thờ cho mọi người, nhất là những người đau khổ. Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Đã gần lễ Giáng sinh. Ánh mắt các em vui lên rõ rệt. Giọng thánh ca đã có tác dụng trong lòng mọi người. Giáo hội là người mẹ rất nhạy cảm. Để chia sẻ niềm hân hoan đang dâng lên trong lòng con cái, Giáo hội đặt Chúa nhật này làm Chúa nhật màu hồng. Lễ phục có thể dùng hồng thay vì màu tím. Và các bài kinh tiếng hát hôm nay như đi trước niềm vui Giáng sinh. Tuy nhiên đây chỉ là nỗi hân hoan trong bầu khí chờ đợi và thái độ cần thiết là biết nhẫn nhục.
A. VUI TRONG ĐỢI CHỜ
Ngay những lời đầu tiên trong sách Isaia đầy những từ ngữ: hoan lạc, hân hoan, trổ hoa, nhiệt liệt, reo hò. Diễn được hết ý của nhà tiên tri, thật là khó! Niềm vui trong lòng ông rất to lớn. Nhưng đó chỉ là niềm vui trong tương lai mà khi trình bày tác giả chưa được nếm. Ông nói về niềm vui sau Lưu đày khi Dân Chúa được hồi hương. Quả thật, ai sung sướng bằng dân được độc lập, giải phóng! Ngày đó người què cũng muốn nhảy, người điếc cũng muốn nghe, người câm chỉ muốn nói. Và đất nước tuy tan hoang nhưng hứa hẹn sẽ nở hoa. Isaia muốn diễn tả niềm vui đó, niềm vui được nhìn thấy quê hương sau những năm đô hộ, nô lệ và lưu đày. Giáo hội mượn lại lời ông để nói đến niềm vui khi Chúa đến. Và thật ra những lời tiên tri kia cũng chỉ thực hiện đầy đủ khi Chúa đến và cứu chuộc chúng ta. Thế nên đó là niềm vui của thời Thiên sai, của Ngày Chúa trở lại. Chỉ khi ấy mọi người què mới đi được, mọi người câm mới nói được, và mọi người điếc mới nghe được. Tất cả mọi khổ sở, đau phiền, bệnh tật, chết chóc bấy giờ mới chấm dứt; và người ta mới có thể nói như Isaia: vĩnh biệt phiền sầu than vãn.
Nhưng mọi sự sẽ xảy ra trong Ngày Chúa đến đều đã khởi sự từ ngày Chúa Giáng sinh. Và Đức Kitô đã có lý khi bảo người ta: hãy về thuật lại cho Yoan những điều mắt thấy tai nghe, kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại. Những điều đó Chúa đã làm ngay từ Ngày Ngài xuất hiện. Đó là dấu chỉ thời Thiên Sai đã tới. Phải vui mừng! Nhưng chưa phải là Ngày Chúa đến lần sau hết. Nên niềm vui hiện nay còn là niềm vui đợi chờ.
Yoan có hiểu được bài học đó không? Chúng ta ngày nay có biết vui trong đợi chờ không? Hoàn cảnh của Yoan giúp ta đón nhận bài học của Chúa.
B.HOÀN CẢNH CỦA YOAN
Tin mừng Thánh Matthêô hôm nay nói: bấy giờ Yoan Tẩy Giả đang ở trong tù. Một người như ông sao lại phải như thế? Lần trước ông xuất hiện như một nhà đại tiên tri. Toàn dân công nhận nhân đức của ông. Nên từ mọi nơi, thôn quê cũng như tỉnh thành, người ta tuốn đến xin ông dội nước cho để thống hối tội lỗi. Uy tín của ông cao đến độ dám có những lời rất nghiêm nghị với bậc cai trị dân. Thế mà đột nhiên, ông bị bắt và ở tù. Tại ông đã cảnh cáo, vua Hêrôđê loạn luân cướp vợ của anh mình. Yoan buồn vì số phận hiện nay ư? ông đã quá biết số phận của các tiên tri. Có lẽ ông đã không sai người đến hỏi Chúa Giêsu như Tin Mừng hôm nay kể, nếu ông đã không giới thiệu Ngài như Chúa nhật trước chúng ta đã thấy. Ông loan báo Ngài là Đấng sẽ đến để xét xử công minh, để phân biệt thóc với trấu và để ném trấu vào lửa cháy. Thế mà sao Ngài vẫn dửng dưng đối với việc ông ngồi tù và trước hành vì bất chính rõ rệt của Hêrôđê. Vậy Ngài có phải là Đấng sẽ đến, Đấng đến để xét xử công minh không?
Đó có thể là thắc mắc duy nhất trong đời Yoan. Chắc chắn đó là vấn nạn của mọi thời đại Cựu Ước và của chính chúng ta ngày nay. Điều làm cho mọi thế hệ loài người khó hiểu đến nổi muốn vùng lên không tin tưởng gì nữa và thấy đời thật vô lý: là cớ sao kẻ dữ cứ sống phây phây và kẻ lành bị khổ cực đến thế? Chúa đã đến có phải là Đấng phân xử công minh không? Trường hợp Yoan là hoàn cảnh của chúng ta, là vấn đề của đời sống con người. Lời Chúa giải đáp cho Yoan thật đáng chú ý.
C. GIÁO LÝ CỦA CHÚA
Chúa đã trả lời ngay câu hỏi của Yoan. Người bảo người ta hãy về nói cho ông biết Đấng Thiên Sai, Đấng Xét Xử đã đến rồi. Cứ xem các việc Người làm thì rõ. Kẻ què đi được, người câm nói được, kẻ mù xem thấy. Isaia đã tiên báo những điềm đó: nay đang ứng nghiệm. Nhưng Chúa đã thêm: “Phúc cho người không vấp ngã vì Ta” nghĩa là phúc cho người không bực bội khó chịu vì thái độ của Ta, khi thấy Ta không hoàn toàn như họ nghĩ. Chúa muốn nói với Yoan và chúng ta rằng: Ngài chính là Chúa, nhưng Ngài không hoàn toàn như ta nghĩ đâu! Ta phải tin Ngài chứ không được xét đoán Ngài. Nếu Ngài phải y như ta nghĩ, thì Ngài không còn là Chúa của ta nữa. Thiên Chúa vượt quá mọi khả năng của ta. Chúng ta phải tin Ngài, phó thác mọi sự nơi Ngài. Có như vậy, chúng ta mới là tín hữu.
Nhưng để giúp Yoan và chúng ta tin tưởng, Chúa đã quay ra nói với mọi người về Yoan. Ngài ca tụng ông là người lớn nhất sinh ra bởi người nữ. Ngài công nhận các nhân đức và sự thánh thiện của ông. Ngài là Đấng phân xử công minh ngay từ khi Ngài đến. Nhưng việc phân xử của Ngài mới chỉ là khởi sự. Nó chỉ kết thúc khi Ngài trở lại. Lúc đó thóc sẽ được đưa vào lẫm và trấu sẽ bị quăng vào lửa. Ai tin ở Ngài mới được vào Nước Trời. Và bất cứ ai được vào Nước đó cũng sẽ lớn hơn Yoan nếu ông không tin và chấp nhận đường lối của Chúa.
D. THÁI ĐỘ CỦA TA
Chắc chắn Yoan đã sung sướng khi nhận được câu trả lời của Chúa và biết rằng Chúa thấu hiểu tâm can của mình. Ông tin ở Chúa và đã sống phó thác hoàn toàn. Thánh Yacôbê trong bài thư hôm nay khuyên ta noi gương cam khổ và kiên tâm của các tiên tri, những vị đã tuyên ngôn Danh Chúa. Chúng ta hãy bắt chước Yoan Tẩy Giả là khuôn mặt đáng kính của Mùa Vọng Phụng vụ. Hoàn cảnh của ông giúp ta hiểu thân phận con người của mình sống ở trần gian trong thời kỳ trông đợi Ngày Chúa đến. Chúng ta hãy vui mừng hân hoan. Không phải vì tất cả đã sáng sủa, tươi tắn như lễ phục màu trắng đẹp trong ngày lễ Giáng sinh. Mọi sự sẽ chỉ được phơi bày ra một cách công khai trong Ngày Chúa trở lại. Nhưng ngay bây giờ, Chúa cũng đã đến rồi. Giáo lý của Ngài đã bắt đầu phân xử lương tâm mọi người. Mỗi người đọc giáo lý của Chúa và nghe tiếng lương tâm mình đã tự biết mình thánh thiện hay tội lỗi như thế nào. Chúa phán xử ngay trong lòng mọi người. Còn ở ngoài, chưa phải là lúc Chúa đến trong uy quyền thật sự, lành dữ chưa hoàn toàn phân minh. Ai tin vào đường lối của Chúa đã được an tâm, hân hoan trong tâm hồn. Đời tuy chưa trắng đẹp hoàn toàn nhưng cũng đã mặc màu hồng vui hơn màu tím nhờ có niềm tin giúp ta nhìn đời.
Thế nên ta hãy chấp nhận lời khuyên của thánh Yacôbê: hãy kiên tâm chờ ngày quang lâm của Chúa. Kìa coi nhà nông, kiên tâm chờ cho đến mùa... Thế nên đừng phàn nàn trách nhau. Một thái độ như thế chắc chắn không dễ gì. Không dễ gì có thể sống thuận hòa như Phụng vụ dạy ta lần trước. Hôm nay, Phụng vụ chỉ thêm cho ta phương thức để tạo bầu khí thuận hòa. Đó là theo gương Yoan kiên tâm nhẫn nhục tin tưởng vào đường lối của Chúa và không vấp ngã vì Ngài.
Và cũng như mọi lần, Phụng vụ cống hiến cho ta sức mạnh để thi hành các nhân đức khi mời gọi ta tham dự mầu nhiệm Thánh Thể. Ở đây, ta thấy Chúa kiên tâm trong mầu nhiệm đau khổ để đem niềm tin vào tâm hồn chúng ta, để ta bắt chước Chúa khởi sự thời đại Thiên Sai hầu dần dần đi tới ngày nhìn quê hương mặt đất này, chúng ta sẽ thấy như Isaia mọi nơi đều trổ hoa. Và cả những nơi hoang địa cũng hân hoan vì niềm vui vĩnh cửu đã đội trên đầu mọi người và vĩnh biệt phiền sầu than vãn.
Muốn tới chỗ nào dù gần hay xa, dù đi bộ hay đi xe, cũng phải chọn đúng đường hướng để đi. Nếu không, sẽ vừa mất thời giờ, tốn công sức, tiền bạc, vừa tới trễ hẹn và có thể sẽ không tới được nơi muốn đến.
Thánh Gioan Tiền Hô kêu gọi trong Mùa Vọng: "Hãy ăn năn thống hối, trở về đúng đường!" Tại sao Ngài lại kêu gọi như thế? Phải chăng chúng ta đang đi lạc đường, sai hướng? Không, Ngài không kêu gọi rẽ sang đường khác để ra chợ, ra ngân hàng, ra nhà ga, đến xưởng thợ nhà máy... Nhưng Ngài kêu gọi: Trở về đúng đường, vì Nước Trời đã gần kề chúng ta!
Nước Trời, còn gọi là Thiên đàng, nhà Phật gọi là "cõi Niết Bàn", là nơi không còn đau khổ, không còn nước mắt, chiến tranh hận thù, chia rẽ, phân biệt mầu da chủng tộc, giầu sang hèn kém, không còn lo âu sợ sệt. Đó là nơi bình an, là quê hương đích thật của con người.
Nước trời không phải chỉ đến sau cuộc sống trên trần gian, nhưng Nước trời bắt đầu ngay từ cuộc sống ngày hôm nay. Đường đi tới Nước trời là đích điểm của con người không lệ thuộc vào chuyện làm, hay sử dụng động cơ máy nổ, bỏ đường này sang đường khác, hay ra chương trình kế hoạch... Nhưng là đời sống trong tương quan với Thiên Chúa là Cha của mình, với mọi người xung quanh mình, họ đều là con cái, tạo vật của Thiên Chúa.
Đời sống trong tương quan đó là Tình Yêu. Là lòng khiêm nhượng, chân thành với Thiên Chúa, như người con hoang đàng trở về với cha mình (Lc 15,11-32). Đó là lòng thương người, tình liên đới với nhau; là lòng khoan dung quảng đại, tha thứ làm hòa với nhau, như tục ngữ có câu: "Dĩ hòa vi quý hay là lành đùm là rách!"
Tôi xin kể một câu truyện ngụ ngôn nói về Tình Yêu thương liên đới với nhau làm kết luận cho bài suy niệm:
"Dưới thung lũng vùng đồi núi dãy Trường Sơn bên Việt Nam, ba chú bươm bướm trong bộ y phục mầu Vàng, mầu Trắng và mầu Đỏ, tung tăng nô đùa bay lượn chuyền từ nụ hoa này sang nụ hoa nọ, vừa tắm nắng, vừa hút mật. Vẻ tung tăng vui đùa của ba chú bướm, cộng với mầu sắc của y phục mang lại cho thiên nhiên phần khởi sắc giữa bầu trời thanh bình trong ánh nắng. Thình lình cơn mưa rào kéo đến, đổ nước như thác lũ xuống, thế ba chú Bướm bị thấm nước mưa, ướt đẫm rét run.
Ba chú cố bay chuyền tìm đường về nhà, nhưng cơn mưa càng lúc càng to. Dọc đường các chú ghé vào bụi bông Huệ, ba chú nài xin Huệ hé mở cửa để cả ba cùng chui vào ẩn thân. Nhưng bông Huệ ra điều kiện: "Được rồi, ta sẽ mở cửa cho các ngươi vào, nhưng chỉ có chú mầu Trắng được vào thôi. Vì chú mầu Trắng giống ta, còn các chú khác không được đâu, xin vui lòng cảm phiền đứng ngoài!"
Ngoài trời cơn mưa mỗi lúc một to, trên bầu trời mây kéo đen nghịt. ba chú đã thề sống chết đót rét có nhau, nên cả ba liền cám ơn Huệ và bay tiếp sang bụi hồng. Ba chú cũng xin Hồng mở cửa để cả ba cùng vào ẩn thân cho qua cơn mưa. Bụi Hồng cũng chỉ muốn nhận cho chú mầu Đỏ và Vàng vào thôi. Còn chú mầu Trắng hoa Hồng không muốn tiếp nhận.
Hai chú bướm mầu Đỏ và Vàng liền trả lời: cám ơn bạn, nhưng rất tiếc, nếu bạn không cho cô bạn mầu Trắng chúng em cùng vào trọ ẩn mưa, hai chúng em cũng không thể vào một mình được. Chúng em đi đâu, làm gì cũng có nhau. Lúc gặp hoạn nạn là lúc chúng em cần gắn bó với nhau hơn khi nào. Hai chúng em không thể để cô bạn mầu trắng đứng ngoài chịu trận mưa gió một mình được. Thôi chúng em cám ơn chị, chúng em cùng bay đi tiếp với nhau!"
Mặt Trời từ trên cao nghe ba chú Bướm biểu đồng tình sống liên kết với nhau, cảm động liền xuất hiện từ từ ló dạng sau làn mây, nhìn xuống trần gian. Chân trời sáng dần, cơn mưa cũng từ từ giảm cường độ và tạnh hẳn.
Ánh nắng chiếu dọi xuống địa cầu mang hơi nóng sưởi ấm và không khí trong lành cho vạn vật. ba chú Bướm không còn bị thấm nước rét run, lông cánh đã hong khô. Thế là lại tung tăng bay lượn nô đùa trong gió dưới bầu trời trong sáng, khoe hương sắc tươi thắm, biểu lộ tâm hồn vui tươi hạnh phúc. Và chiều dần tàn ba chú cùng nhau bay về tổ ấm nghỉ dưỡng sức cho ngày mai".
Sức nặng của bài Tin Mừng hôm nay nằm ở câu hỏi do nhóm môn đệ của ông Gioan Tẩy giả: MV 3-A32
Sức nặng của bài Tin Mừng hôm nay nằm ở câu hỏi do nhóm môn đệ của ông Gioan Tẩy giả nêu lên với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi phải đợi ai khác?” (c.3).
Đấng phải đến thiết lập Nước Thiên Chúa
Không riệng nhóm môn đệ của Gioan Tẩy giả, toàn dân Do thái từng chờ đợi Đấng phải đến thiết lập Nước Thiên Chúa. Đó là niềm tin không gì có thể lay chuyển. Lịch sử của dân tộc này từng trải qua những thời kỳ đen tối nhất, như thời dân bị bắt đi lưu đày nơi Babylon, đất khách quê người vào năm 586 trước Công Nguyên. Nhưng người Do thái luôn nhìn về phía trước. Họ luôn chờ ngày Giêrusalem sẽ là thành đô của bình an, nơi muôn dân sẽ tuốn đến (x.Is 2,1-4).
Hai hướng chờ đợi được thấy rõ. Nhiều người hy vọng một cuộc nổi dậy để lật đổ chính quyền thực dân do đế quốc Roma dựng nên. Phải loại bỏ ách đô hộ ấy đi dân Chúa mới có thể name quyền thống trị chống lại các nước dân ngoại. Suốt cuộc đời trần thế, Đức Giêsu luôn bị ước vọng chính trị đó vây hãm và thách đố từ phía dân chúng. Khác hẳn ước vọng chính trị là ước vọng văn chương khải huyền. Ở đây Nước Thiên Chúa sẽ xuất hiện khi mà toàn bộ lịch sử loài người như ta hiện đang sống sẽ cáo chung. Sách ngôn sứ Đaniên đã cung cấp cho loại ước vọng khải huyền này một hình thù trong các giải nghĩa giấc mơ của vua Ngũ Bành Chấn (Nabuchadnezzar) về pho tượng bằng vàng, bạc, đồng, sắt và đất sét, bi đập vỡ tan tành, do một tảng đá từ trên rớt xuống trên pho tượng: Tảng đá đó đập vỡ pho tượng như thế nào, thì “Thiên Chúa từ trời cao sẽ thiết lập một vương quốc không hề bị phá hủy…; ngược lại, chính vương quốc ấy sẽ phá vỡ tan tành mọi vương quốc liên hệ và đưa chúng tới diệt vong để một mình vương quốc ấy sẽ đứng vững mãi mãi.” (Đn 2,44). Đó là loại ước vọng khải huyền, cho thấy lịch sử loài người sẽ không được cứu chuộc. Tự nó, lịch sử ấy sẽ tiến đến cảnh suy tàn và bị phá hủy. Nhưng Nước Thiên Chúa vĩnh hằng sẽ được thiết lập mãi mãi trên đống tro tàn của lịch sử đó.
Cả hai luồng ước vọng đều có chung một mục tiêu phải nhắm là chu toàn luật Chúa dạy: Nếu nhà Ít-ra-en trung thành tuân giữ Luật Chúa, Thiên Chúa sẽ đổi mới dân Ngài. Đức Giêsu là thành viên của dân tộc Ngài. Ngài không đứng biệt lập ngoài vòng ảnh hưởng của những người dân Do thái từng hy vọng và khát vọng. Sứ điệp của Ngài, tức nội dung của lời Ngài giảng về Nước Thiên Chúa, có bao gồm những yếu tố của cả hai loại ước vọng nói trên, nhưng đặc sắc vẫn thuộc riêng về Ngài. Một đàng, Ngài chủ trương rằng Nước Thiên Chúa mà Ngài đứng ra thiết lập phải được thiết lập ngay giữa thế giới ta đang sống. Đàng khác, Nước đó phải được hài hoà với trật tự tự nhiên và bình an giữa muôn dân muôn nước. Nước đó không phải là một giấc mơ hão huyền chẳng bao giờ trở nên hiện thực. Không riêng người Do thái thời Đức Giêsu, chính chúng ta ngày nay cũng dễ bị cám dỗ từ khước cái thế giới ta đang sống, vì nó có quá nhiều tệ nạn, nên ta bị cám dỗ hy vọng nơi thế giới bên kia mà thôi. Đức Giêsu không bao giờ nuôi dưỡng ý tưởng đó. Ngài tuyên bố công trình cứu chuộc áp dụng ngay với thế giới ta đang sống, để thế giới ấy được canh tân và được thánh hiến cho Thiên Chúa. Chính thế giới ta đang sống phải trở nên cộng đoàn yêu thương mà mọi người nam nữ đều sống thân tình như anh chị em ruột một nhà vì có Thiên Chúa là CHA.
Đàng khác, một số người Do thái thời Đức Giêsu chủ trương hồi phục lại triều đại vua Đavít trong viễn tượng làm bá chủ mọi quốc gia. Chính Giáo Hội thời Trung Cổ cũng bị cám dỗ thể hiện quyền bá chủ trên mọi quyền lực trần thế. Và ngày nay cám dỗ tương tự vẫn còn lôi kéo một số người muốn đặt Giáo Hội cậy dựa vào cơ chế, vào tài chính và ảnh hưởng chính trị để tồn tại. Đó là những điều mà Đức Giêsu không hề giảng dạy.
Đức Giêsu cũng không hề chủ trương phá hủy cái thế giới này để xây dựng một thế giới khác. Làm như vậy là nhìn nhận một sự thất bại về phía Thiên Chúa, là Đấng đã dựng nên thế giới này. Thế giới chúng ta đang sống không thể bị loại bỏ, vì đó là công trình của Thiên Chúa, công trình mà Ngài đã dựng nên và nhìn nhận là “tốt lành”.
Thế giới ta đang sống có mục đích làtrở về với Đấng sinh thành nên mình
Thế giới ta đang sống có mục đích nhắm là để loài người trở về với Đấng sinh thành nên mình. Trên đường về nhà CHA, điều quý báu nhất và có giá trị nhất, là tự do mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Với tự do ấy loài người nhận sự sống cùng với trách nhiệm trong tay. Chính nhờ có tự do loài người vượt trên mọi thọ tạo trên trái đất, để gắn bó với Đấng Thiên Chúa Tình Yêu.
Thiên Chúa không gạt loài người sang một bên, để thiết lập một thế giới trong đó tự do của con người không còn được nhìn nhận nữa. Ngược lại, Thiên Chúa vẫn tôn trọng thế giới như Ngài đã dựng nên. Nơi thế giới ấy nếu loài người đã lạm dụng tự do khiến thế giới bị biến chất, thì nay nhờ Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, loài người được giúp đỡ cách hữu hiệu để sử dụng quyền tự do của mình hầu gia nhập Nước Thiên Chúa.
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu là “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần” (Mt 14,17). Nước Trời là Nước Thiên Chúa. Nước đó được hình thành ngang qua lời nói, việc làm và trọn cuộc sống làm người của Đức Kitô. Cho nên khi được hỏi “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (c.3), Đức Kitô vạch cho người đến chất vấn thấy những việc Người đang thực hiện, đang hình thành nên Nước Thiên Chúa - đúng như lời ngôn sứ Isaia (26,19; 2,18-19; 35,5-6) từng loan báo về Nước Thiên Chúa sẽ đến. Một cách gián tiếp Đức Giêsu có ý trả lời ông Gioan Tẩy giả (và cho độc giả Tin Mừng Matthêu nữa) rằng: Tôi đúng là vị Cứu Tinh các ngôn sứ từng loan báo. Nhưng Đức Giêsu còn thêm “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (c.6). Người có ý nói rằng: Các ông sẽ nhận ra kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa nếu các ông hiểu lời Kinh Thánh theo cách mới mẻ khác hẳn với cách các ông từng gắn bó với tư cách là các vị biệt phái hoặc các nhà thông luật; dù sao, các ông cũng phải gỡ bỏ khỏi các ông quan niệm về Nước Thiên Chúa gắn liền với một chế độ chính trị hoặc với những ước vọng khải huyền như nói trên.
Thiên Chúa không đứng trung lập: Nước Thiên Chúa như Đức Giêsu đứng ra thiết lập, hệ ở Tin Mừng được công bố cho người nghèo (c.5). Thiên Chúa không đứng trung lập. Ngài dành dự ưu ái cho người nghèo, do đó họ được hạnh phúc (Mt 5,3). Người không loại bỏ người giầu. Người vẫn đến với họ nhưng mục đích là đòi họ phải được hoán cải để yêu thương và giúp đỡ người nghèo: Ông Giakêu là một trường hợp điển hình về ơn hoán cải đó (Lc 19,1-10). Đức Giêsu kể ra một loạt những người nghèo được Người thương chữa trị, như người mù, kẻ què, người cùi, kẻ điếc, người chết (c.5) tất cả đều cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến gần. Người ta chỉ cần chọn bước theo Đức Giêsu, là được tham gia Nước đó.
Ông Gioan Tẩy giả trở nên cao trọng (c.11) chính vì ông giới thiệu Đức Giêsu là Đấng thiết lập Nước Thiên Chúa. Từ nay sự cao trọng là do việc người ta sống gắn bó với Đức Giêsu, không do bất cứ tư cách cá nhân nào khác. Về điều này, ông Gioan Tẩy giả quan niệm rất đúng khi nói “Người - Đức Giêsu - phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn hiểu thế nào về ước vọng chính trị và ước vọng văn chương Khải huyền liên quan tới Đấng phải đến thiết lập Nước Thiên Chúa?
2. Chính bạn có bao giờ bị cám dỗ loại bỏ thế giới bạn đang sống chăng? Riêng Đức Giêsu có thái độ gì về thế giới Ngài đang sống; thái độ ấy tích cực hay tiêu cực?
Thánh Gioan Tiền hô là sứ giả là chứng nhân. Đức Kitô là Đấng Thiên sai, Đấng đem lại Niềm Vui cho người khác. Ai dám nói là thánh Gioan không bị thử thách. Ngày xưa, các nhà thuyết giảng vẫn bình luận: thánh Gioan dù trong hoàn cảnh nào, ngài vẫn đóng vai trò chứng nhân. Đang trong vòng tù tội, ngài vẫn muốn cho các môn đệ học bài học chứng nghiệm: xem tận mắt, nghe tận tai... về Đấng Cứu Thế. Trước bao thử thách, ngài vẫn vững như bàn thạch.
Ngày nay, lại có ý kiến đặt ngược lại: Rất có thd thánh Gioan cũng bị thử thách. Trong tối tăm của ngục tù, tuy chân mang xiềng xích, Gioan cũng bị giao động: lạ thật, nếu là Đấng Thiên sai thì mình phải được giải oan chứ (xc Is 61:1-2 và Lc 4:18-20). Sao không thấy trả tự do cho người tù tội...
Còn Đức Kitô lại nhân cơ hội này, Ngài muốn tái khẳng định chương trình Cứu thế được ngôn sứ Isaia loan báo vẫn đang được họa lại từng nét.
An tâm đi,
Người mù được sáng
Người què chạy nhảy như hươu nai
Kẻ cùi hủi được lành sạch
Người chết sống lại
Và nhấg là kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.
Vậy thì thầy trò các anh cứ yên trí lớn.
Các anh vẫn có quyền Vui Mừng và Hy Vọng,
vì Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.
Đức Giêsu vẫn như vậy đó.
Hôm qua, hôm nay, và ngày mai, mãi mãi vẫn như vậy đó: Thương Yêu, Nhân Hậu với tất cả mọi người đặc biệt là với những người khổ đau.
Bạn có tin vào Ngài không?
Niềm tin phải đi vào cuộc sống. Đức tin không việc làm là đức tin chết (Gc 2:17). Thánh Gioan đã không bỏ lỡ cơ hội nào mà không làm chứng. Dù thuận tiện hay không thuận tiện, Lời Chúa vẫn được rao giảng. Chính đời sống chúng ta là một lời loan báo, một cách rao giảng có sức thuyết phục nhất.
Chỉ có loài thú mới làm ngơ trước những nỗi đau của người khác. Trong một đất nước còn nghèo đói, chúng ta không thể không bức xúc trong việc xây dựng quê hương (dĩ nhiên trong khả năng của mình). Còn bao nhiêu trẻ em nghèo không được đến trường. Còn bao nhiêu người bệnh tật già nua, neo đơn...không ai chăm sóc? Còn bao nhiêu... vẫn còn bao nhiêu thứ phải làm trong cõi đời nhân thế này?
Lạy Đức Giêsu là Cứu Chúa của con.
Là Đấng muôn dân mong đợi.
Ngài đã đến và đã ở cùng chúng con.
Ngài đã chia sẻ đến tận cùng của kiếp sống.
Ngài đã thi ân và đem lại niềm vui cho cõi sống nhân gian.
Xin cho con được trở nên giống Chúa, Đấng cư ngụ ở giữa cộng đồng nhân loại chúng con. Xin cho con biết xắn tay áo để hàn gắn thế giới và quê hương còn quá nhiều thương đau. Và xin cho con nên chứng nhân giữa lòng đời và chứng ta cho Tình Thương của Chúa.
Thánh Gioan Tiền Hô là một vị tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực, cường quyền. Ngài chỉ quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê Antipas cướp vợ của người anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công kích hành động vô luân của nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục Machéronte. Khi bị giam trong ngục, thánh nhân vẫn theo dõi những hoạt động của Chúa Giêsu. Hôm nay thánh nhân sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng cho ta: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Đấng khác?”.
Thật lạ lùng đến khó hiểu. Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ Người mà mình giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho thấy thánh nhân ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo. Nửa tin nửa ngờ.
Sự hoang mang của thánh Gioan Tiền Hô đến do hai nguyên nhân sau:
1) Nguyên nhân thứ nhất: Chúa Giêsu có những việc làm khác với lời Gioan loan báo.
Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Phúc Âm tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc. Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi. Thế mà khi Chúa Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực, Chúa Giêsu tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: “Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào Gioan chẳng hoang mang.
2) Nguyên nhân thứ hai: Gioan bị giam trong tù.
Ông bị ngược đãi, tất nhiên. Hơn nữa ông cảm thấy mình thất bại. Đi rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp bất công. Đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Hết rồi những sứ điệp rực lửa. Hết rồi thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Sao Đấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Ngài để cho sứ giả của Ngài mòn mỏi trong tù? Sao Ngài để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Lời sấm của Isaia còn rành rành: “Đấng Cứu Thế sẽ mở cửa phóng thích tù nhân”. Thế mà sao chờ đợi hoài chẳng thấy. Và Gioan nghi ngờ: hay Ngài không phải là Đấng Cứu Thế. Bị giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Đấng khác?” Câu hỏi táo bạo nhưng quan trọng, vì quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.
Trước câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật cho Gioan những việc Ngài làm: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Với câu trả lời ấy, Chúa Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của Isaia về Đấng Cứu Thế. Đồng thời cũng thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế không phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ sơ sinh xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.
Đấng Cứu Thế không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo hèn sống trong một làng quê hẻo lánh.
Đấng Cứu Thế không phải là vị quan tòa oai nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.
Đấng Cứu Thế không đến trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa như một người bạn thân thiết.
Đấng Cứu Thế không đến trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.
Câu trả lời của Chúa Giêsu khiến tôi tỉnh ngộ. Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về dung mạo Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng: Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.
Ta đang chờ đón Chúa đến. Hãy cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Chúa đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang vẽ nên dung mạo của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận ra dung mạo đích thực của Chúa, để con biết đón tiếp Chúa trong Mùa Giáng Sinh năm nay. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đức Thánh Cha đã khiêm nhường xin lỗi Trung Quốc. Bạn nghĩ sao về cử chỉ này? Cử chỉ của Đức Thánh Cha có làm tổn thương đến uy tín của Giáo Hội không? 2) Bạn muốn một Giáo Hội yêu thương phục vụ hay một Giáo Hội cai trị quyền uy? 3) Bạn nghĩ gì về những lầm lỗi trong Giáo Hội? 4) Bạn phải làm gì để làm chứng cho Chúa. Bằng những việc lớn lao hay bằng những việc nhỏ bé hằng ngày?
Vui mừng và Hy Vọng giữa gian truân. Hôm nay, Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng, là Chúa Nhật của niềm vui. Chúa Nhật của niềm vui, vì Đấng Cứu Thế của chúng ta, Đấng Messsia Thiên Chúa hứa, nay đến gần. Ngôn sứ Isaia tuyên bố điều sẽ xảy ra: “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc nghe được; bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò…” Tuy nhiên, là đoàn dân lữ hành của Chúa đang còn đi trong “thung lũng đầy nước mắt này”, niềm vui của chúng ta không phải dễ dàng. Chúng ta được mời gọi vui lên giữa những gian truân, thử thách và cám dỗ. Gioan Tẩy Giả qua bài Tin Mừng cho ta thấy chính ông cũng bị thử thách đang khi bị Hêrôđê cầm tù. Ong sai các môn đệ của mình đến gặp Đức Giêsu và hỏi: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Niềm tin của Gioan vào Đấng Cứu Thế cũng bị thử thách, dù ông là người mà Đức Kitô đã khen tặng là: “trong số những phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả.” Thật có lý, phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta “kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm”. Trước hết, chúng ta được kêu mời lớn lên trong niềm cậy trông. Chúng ta đừng vấp ngã vì Đức Kitô vì những nghịch cảnh trong đời sống vì chúng ta sẽ được chỗ trong Nước Trời. Chỉ trên trời những lời sứ ngôn về Đấng Cứu Thế mới hoàn toàn được thực hiện. Chỉ nơi đó ta mới được “rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu”. Chỉ nơi đó, một cách dứt khoát, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
SỨ ĐIỆP NIỀM TIN
Đức Kitô là căn nguyên, động lực và là đối tượng của niềm cậy trông của ta. Thật là một đau khổ lớn lao Gioan Tẩy Giả phải chịu mòn mỏi trong tù vì thắc mắc không biết Đức Giêsu có phải là Đấng Messia Thiên Chúa đã hứa không! Có lẽ ông cũng đã trải qua “đêm tối của tâm hồn” mà Thánh Gioan Thánh Giá đã diển tả. Đức Kitô không mảy may xúc động trước nỗi nghi ngờ của Gioan mà một trong các môn đệ của ông đã thay mặt phát biểu sao? Gioan-vị ngôn sứ đã kêu gọi dân Ítraen sám hối trở về chuẩn bị con đường cho Đấng Cứu Thế. Gioan- người không e ngại sống đời khổ hạnh trong hoang địa, cũng chẳng sợ ngăm đe của Vua Hêrôđê, thái độ thù hận của các ký lục và pharisêu, đã mạnh dạn loan báo Đấng Cứu Thế gần đến. Chính Ong Gioan đó giờ đây đặt câu hỏi: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Tin Mừng cho ta thấy Đức Kitô xúc động sâu xa vì nỗi khổ của Gioan, cũng như Ngài xúc động khi chúng ta đau khổ và muộn phiền. Đức Kitô xác nhận để Gioan được vững niềm cậy tin. Ngài thuật lại những việc Ngài đã thực hiện, mà ngôn sứ Isaia xưa đã loan báo, những dấu lạ minh chứng Ngài chính là Đấng Messia. Các anh cứ về thuật lại cho Ong Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” Rồi Ngài còn thêm những lời thật cần thiết cho ta khi gặp những thử thách bất ngờ ập đến: “Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” Niềm trông cậy mà Đức Kitô muốn làm cho Gioan được vững mạnh là nhân đức thứ hai trong ba nhân đức đối thần: đức tin, đức cậy, và đức mến. Đức Kitô muốn ta gia tăng lòng trông cậy vào Ngài trong suốt Mùa Vọng này. Sách Giáo Lý nhấn mạnh tầm quan trọng của các nhân đức đối thần. Và rồi nhận ra ba thuộc tính chung cho ba nhân đức ấy:
Các nhân đức đối thần quy chiếu trực tiếp về Thiên Chúa. Chúng giúp người kitô hữu sống với Ba Ngôi Chí Thánh. Thiên Chúa Ba Ngôi và Duy Nhất là căn nguyên, động lực và đối tượng của các nhân đức đối thần. (CCC, 1812). Cũng như mưa cho người nông dân hy vọng được mùa, Đức Kitô, trong bài Tin Mừng, là căn nguyên, động lực của niềm trông cậy nơi Gioan. Ta không thể đạt được bất cứ nhân đức đối thần nào bằng sức riêng ta, cũng như người nông dân không thể làm được gì cho trời mưa. Nhân đức đối thần là quà tặng củaThiên Chúa. Ngài ban tặng nhưng không cho ta.
Đức Kitô cũng là động lực cho niềm cậy trông của Gioan. Xét theo phương diện con người, Gioan chẳng có lý gì mà hy vọng cả, vì ông đang bị Hêrôđê nhốt trong ngục tối. Nhưng Đức Kitô là Đấng Messia Thiên Chúa hứa ban. Vương quốc của Ngài đang được thiết lập – vương quốc mà Gioan đã hy sinh cả đời mình để rao giảng. Hêrôđê không thể ngăn cản vương quốc của Đức Kitô đến, ngay cả bằng bạo lực tàn ác. Sức mạnh vô cùng của ân sủng Đức Kitô thúc đẩy bên trong tâm hồn Gioan và những kitô hữu tiên khởi chính là động lực cho niềm cậy trông của Gioan. Sau cùng, Đức Kitô là đối tượng cho niềm cậy trông của Gioan. Đâu còn cách nào hy vọng nơi con người? Những gì còn lại cho Gioan chỉ là một ít ngày, vài tháng trong tù cho đến ngày Hêrôđê ra lệnh chặt đầu ông và đặt trên dĩa. Đối tượng cho niềm trông cậy của Gioan chính là Đức Kitô, được ở với Đức Kitô mãi mãi trong Nước Trời. Qua lệnh xử trảm Gioan, vô tình Hêrôđê lại mở cửa cho Gioan vào Nước Trời. Không ai trong chúng ta có thể nghĩ ra Nước Trời giống như thế nào cả, “khi ấy người què sẽ nhảy như nai”. Sau khi đặt Gioan ở địa vị ưu tiên trong số những người lọt từ lòng mẹ, Đức Kitô tuyên bố: “Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.”
GỢI Ý MỤC VỤ
Làm sao lớn lên trong niềm trông cậy? Nước Trời không đáng cho ta chịu những đau khổ thứ thách sao? Chẳng ai thích chịu khổ. Tuy nhiên, chúng ta không thể không thán phục những con người can đảm chấp nhận đau khổ, trong thanh thản và bình an. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm xúc động nhiều người bất cứ nơi nào Ngài đến trên thế giới bằng chính việc chấp nhận đau bệnh như đến từ bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Trường Hợp: Cha Gapp, một linh mục người Đức đã chịu tử đạo dưới thời Đức Quốc xã trong trại tập trung vào thế chiến thứ hai, là một gương mẫu về sự kiên trì trong những tình huống giống như Gioan Tẩy Giả. Sau đây là những dòng chữ cuối cùng Ngài ghi lại vào buổi sáng hành quyết:
Nơi đây tôi đã chiến đấu đến cùng. Tôi đã bị bắt tám tháng qua chỉ vì bảo vệ đức tin Công giáo; Vào dịp lễ Thánh Tâm họ đã tuyên án tử hình tôi. Tôi đã làm hết sức mình chỉ vì một mục đích duy nhất là: mọi người được tự do đến với ơn cứu độ. Tôi đã chiến đấu cho đức tin bằng lời nói và bằng hành động. Giây phút định đoạt đã đến với tôi để hành động một lần cho cả đời. Hôm nay là ngày hành quyết. Vào lúc 7g, tôi sẽ trình diện truớc mặt Đấng Cứu Chuộc tôi, Đấng mà tôi đã hết lòng yêu mến. Xin đừng thương tiếc tôi. Mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Nước Trời tồn tại…Tôi đã sống, không chút nghi ngờ, từng giây phút từ khi bị bắt cho đến nay… Tôi đã trải qua những ngày chìm ngập trong nỗi buồn âm u; nhưng tôi đã có cơ hội để chuẩn bị cho cái chết của tôi tốt hơn. Đổ máu cho Đức Kitô và cho Hội Thánh của Ngài là niềm khao khát của tôi.
Làm sao có thể can đảm như thế khi đối diện với cái chết? Chỉ nhờ vào lòng trông cậy. Lòng cậy trông cho ta cảm nghiệm niềm vui ngay trong những nghịch cảnh và thử thách. Có lẽ ta sẽ đặt vấn đề, “làm sao ta có thể vững lòng trông cậy để cảm nghiệm niềm vui sâu xa của ngày Chúa Nhật màu hồng này – và để rồi loan truyền niềm vui này cho người khác khi mà ta đang phải âm thầm gánh chịu đau khổ? Vì lòng trông cậy là quà tặng của Thiên Chúa – Ngài là căn nguyên, động lực và là đối tượng cho lòng cậy trông của ta – ta cần khiêm tốn cầu xin Ngài gia tăng lòng trông cậy của ta. Đức Giáo Hoàng Clêmentê XI đã để lại cho ta một mẫu gương cầu xin cho được những nhân đức đối thần: “Lạy Chúa, con tin Chúa, xin giúp con vững tin nơi Chúa. Con cậy trông Chúa, xin giúp con vững lòng trông cậy Chúa hơn. Con yêu mến Chúa, xin giúp con yêu Chúa nồng nàn hơn nữa.” Phương cách cuối cùng để thêm lòng cậy trông nơi Chúa đó là biết chiêm ngắm nước trời. Những tháng ngày của cuộc đời lữ hành trần thế thật chóng qua so với vĩnh cữu! Những dòng chữ của Cha Gapp: “Mọi sự sẽ qua đi, chỉ nước trời tồn tại.” Một cậu bé 10 tuổi, sau này trở thành linh mục, được Chúa mạc khải về sự vĩnh cữu, đã viết lên những suy tư của cậu lúc thiếu thời như sau:
Tôi nhớ lại những buổi chiều tôi thường leo lên một ngọn đồi cách xa thành phố nơi tôi sinh ra. Từ đỉnh đồi, trong lúc thưa chuyện với Chúa, tôi nhìn xuống nghĩa trang nằm dưới chân đồi với những ngôi mộ chạm khắc thật đẹp, và xa xa trong cánh đồng những nóc nhà đỏ của ngôi làng nhỏ, và nổi bậc lên trên là tháp chuông và mái vòm của ngôi nhà thờ xứ đạo. Tôi tự hỏi, một cách đơn sơ, đâu là ý nghĩa của cuộc sống nếu sớm hay muộn gì ta cũng kết thúc cuộc đời trong nấm mộ?
Lòng cậy trông Đức Kitô muốn tặng ban cho ta trong suốt Mùa Vọng này, có thể cho ta khả năng cảm nghiệm niềm vui giữa những thử thách – và làm chứng về niềm vui ấy cho những người khác. Lòng cậy trông ấy cho ta can đảm làm chứng cho Đức Kitô như Gioan Tẩy Giả và như Cha Gapp.
QUYẾT TÂM
Những ngày cuối cùng trước lễ Giáng Sinh, ta hãy cầu xin Đức Kitô thật nhiều trong thinh lặng: “Lạy Chúa, con trông cậy Chúa, xin gia tăng lòng cậy trông của con.” Ta hãy cầu xin Mẹ Maria giúp ta suy niệm trong lòng niềm vui của trời cao, niềm vui mà Đức Kitô cho ta cảm nếm ngay trần đời này khi ngài đến, để Ngài sẽ thực sự là căn nguyên, động lực và là đối tượng của lòng ta cậy trông.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê
Chúa nhật 3 Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật mầu hồng hay Chúa nhật “mừng vui lên”. Vấn đề liên: MV 3-A36
Chúa nhật 3 Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật mầu hồng hay Chúa nhật “mừng vui lên”. Vấn đề liên hệ là hiện tại và tương lai. Trong hiện tại, khi phải chịu đau khổ để sống hoặc để vượt qua khó khăn, thì người ta nhìn vào tương lai, với hy vọng sẽ có ngày chấm dứt. Không hy vọng, tinh thần chúng ta héo khô và giơ cả hai tay lên cao than trời hoặc đầu hàng số phận mà nguyền rủa mình chết đi cho sớm. Jean de la Fontaine đã cụ thể hoá tình trạng này trong bài thơ người lượm củi: “Lão tiều nhặt củi cành một bó, củi đã nhiều niên tuế lại cao... Hỡi ông thần chết đâu nào? Bắt tôi đi, khỏi lao đao chốn này...”
Hôm nay, chúng ta cũng được nghe tiếng kêu than thảm sầu trong bài đọc 1, trích sách tiên tri Isaia. Số phận dân tộc Do thái chịu cảnh lầm than nô lệ Babylone. Nhưng tiên tri cũng nhìn vào tương lai mà hy vọng. Con đường từ Assyria về Palestine qua sa mạc nóng cháy, người bình thường phải cực nhọc lắm mới vượt được. Nhưng tiên tri đã trông thấy ngày trở về đầy hoan hỷ, nên hạ bút: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông. Hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ và hân hoan múa nhảy reo hò”. Ngay cả thiên nhiên cũng được vui lây: “Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ huy hoàng của núi Các -men và đồng bằng Saron.” Sự thực không phải như vậy, dân tộc đang chịu cảnh lưu đầy, tối tăm, không tương lai, không lối thoát. Họ không có khả năng tự cứu, mọi sự trông chờ vào bàn tay Thiên Chúa. Ngài trung tín với Giao ước đã ký kết cùng các tổ phụ nhất định sẽ can thiệp và họ sẽ được giải cứu. Đó là lời hứa của Isaia. Một Tin Mừng cho tương lai, chứ không phải lúc này. Những hình ảnh lạc quan vị tiên tri nêu trên, tượng trưng cho việc Thiên Chúa thay đổi hoàn cảnh và dân tộc sẽ bật lên tiếng reo hò.
Xét theo tình thế hiện thời, thì lời hứa xem ra xa vời, không thực hiện được. Và nếu có đi nữa thì cuộc trở về rất khó khăn, phải băng qua sa mạc khô cằn với bao nhiêu hiểm nguy trước mắt. Đói khát, bệnh tật và chết chóc là không thể tránh khỏi. Nó sẽ là cuộc xuất hành đầy gian khổ giống như cuộc xuất hành Ai Cập. Cuộc hành trình qua hoang địa với những kẻ thù hung hãn, thiên nhiên nghiệt ngã. Tuyển dân không có hy vọng sống sót. Nhưng qua miệng tiên tri, Thiên Chúa hứa hoang địa sẽ nở hoa cho họ. Đúng là điều kỳ diệu, gần như nói ngoa. Tuy nhiên, nói ngoa không phải là phong cách của Thượng đế, cho nên lời sấm hoàn toàn là sự thật. Nó sẽ được ứng nghiệm khi đến thời gian viên mãn. Vị tiên tri yên ủi và khích lệ tuyển dân đang nhát đảm hãy đặt hy vọng vào Thiên Chúa tín trung. Thực tế, ông khuyên bảo họ trông chờ Chúa đến: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi, sắp đến ngày báo phúc, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em”.
Khi việc đó xảy ra, cả vũ trụ sẽ được biến đổi nhờ ân huệ của tuyển dân. Bởi lẽ mọi tạo vật đều do bàn tay Thiên Chúa sáng tạo. Chúng sẽ được chia sẻ hành động giải phóng của Ngài. Do tội lỗi nhân loại, hiện thời chúng đang rên xiết, quằn quại. Tội tham lam, bất cẩn, khai thác vô độ đang phá hoại thiên nhiên, làm môi trường trái đất tan hoang, không thích hợp cho sự sống nữa. Cho nên chúng ta chiêm ngắm cuộc xuất hành tưởng tượng của Isaia như điều nhắc nhớ: Thiên Chúa có ý định giải phóng loài người và vạn vật khỏi áp bức của sự dữ. Nếu lúc này thiên nhiên chịu đựng sự huỷ hoại và khai thác bừa bãi do lòng tham của con người, thì lời hứa của vị ngôn sứ cũng có hiệu quả trên vũ trụ.
Như thế cả hai, thiên nhiên và con người, đều được hưởng lợi ích từ việc Chúa ngự đến. Mùa Vọng chính là mùa chúng ta chờ đợi hạnh phúc đến. Chúng ta phải tỉnh thức suy tư về những hồng ân ấy. Ăn ở tiết kiệm, khai thác chừng mực tài nguyên của trái đất, bảo vệ môi trường sống là cách thức tốt nhất chúng ta trông đợi Chúa. Thiên nhiên được phục hồi, môi trường được an toàn sẽ góp phần lớn lao vào tinh thần hoan hỷ khi Chúa đến: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy. Vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông”. Viễn cảnh này sẽ chẳng thể có, nếu loài người cứ tiếp tục tàn phá thiên nhiên, phí phạm tài nguyên và nhất là vẫn xa rời Thiên Chúa. Ngoài ra, chúng ta có thể hiểu lời sấm trên về sự thay đổi thiêng liêng trong các linh hồn. Hoang địa trổ bông, người đau ốm được chữa lành, và một số hình ảnh khác vị tiên tri liệt kê (người mù xem thấy, kẻ điếc nghe được, kẻ què được đi, người câm nói được...) mô tả sự thay đổi nội tâm mà Thiên Chúa thực hiên nơi nhân loại, kể cả dân tộc Israel. Chúa Giêsu đã áp dụng lời sấm vào chính sứ vụ của mình và khẳng định hy vọng của chúng ta được nên trọn nơi bản thân Ngài. Ngài nói với môn đệ ông Gioan: “Hãy về nói với ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe...” các dấu Ngài đã làm, đúng như Isaia mơ thấy hàng sáu thế kỷ trước. Như vậy, sự giải phóng không những về vật chất mà cả về chính trị, kinh tế, thiêng liêng nữa. Hãy rao giảng tin mừng cho họ, và trong Chúa Giêsu, tương lai Isaia hy vọng đã trở thành hiện thực rõ ràng.
Tuy nhiên, xin đừng vội nhận định mọi sự đã hoàn thành. Thiên Chúa còn phải thu xếp mọi loài mọi vật vào thứ tự khuôn phép như Ngài đã định. Tội lỗi vẫn hoành hành, làm hư hỏng công trình của Ngài ngay từ đầu tạo dựng. Hiện thời thế giới vẫn là một khối bòng bong, lùng nhùng đam mê, nết xấu. Giấc mơ của Isaia vẫn cần được triển khai. Điều này phải có sự cộng tác của các tín hữu. Tin Mừng hôm nay kể: Chúa Giêsu nói với môn sinh ông Gioan: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe”. Hiện thời ông Gioan đang ở trong tù, chẳng thể tự thân mục kích những việc Chúa làm giữa dân chúng. Ông chỉ có thể nghe nói mà thôi. Thời ấy, ở xứ Palestine, tù nhân không hoàn toàn cách ly khỏi thế giới bên ngoài. Như vậy, “Lời” phải được gởi vào tù cho Gioan. Chắc chắn ông chẳng bao giờ được thả ra còn sống như dân Israel được sống trở về từ cuộc lưu đầy. Cho nên, lời của Chúa Giêsu phải được các nhân chứng chân thật mang đến cho ông. Việc này nhắc nhớ bổn phận chúng ta đối với những người, vì lý do nào đó, không được trực tiếp đón nhận lời Chúa. Ví dụ: những người thuộc tôn giáo khác, các kẻ không tin, các tội nhân... Chúng ta phải trung thực mang lời Chúa đến cho họ, bằng cuộc sống chứng tá và lời nói chân thật, không bẻ cong, không thêm bớt xuyên tạc. Có lẽ chúng ta là phương tiện duy nhất họ được tiếp xúc với Chúa Giêsu. Nếu chúng ta không trung thành với Lời Chúa trong ngôn ngữ và việc làm thì quả là điều bất hạnh cho họ và thiệt hại nặng nề cho Hội thánh. Nhưng khốn khổ thay việc này xảy ra thường xuyên. Ít khi nếp sống của chúng ta am hợp với lời chúng ta rao giảng. Đi xe hơi, ở nhà lầu, sống nhung lụa mà lại hô hào khó nghèo, khiêm nhường giống như Chúa Giêsu!
Đúng là chuyện ngược đời, tuy nhiên chúng ta không hề nhận ra cái chướng đó, vì quá quen với nếp sống như vậy. Nên cho là chuyện bình thường, không đáng quan tâm. Ông Mahatma Gandhi, vì thế, không bao giờ trở thành người Công giáo, mặc dầu ông rất am hiểu Kinh thánh và đọc sách “Gương Chúa Giêsu” hằng ngày. Biết bao trường hợp tương tự xảy ra trong Giáo hội địa phương và toàn cầu. Muốn truyền giáo hữu hiệu chúng ta chẳng có con đường nào khác ngoài trung thành với Lời Chúa trong ngôn ngữ và hành động như các môn sinh của Gioan tiền hô. Nếu muốn họ được tự do khỏi lầm lạc, đói khổ, áp bức, bất công, ngu dốt, cô đơn... thì chúng ta phải là những kẻ đem tin mừng đến cho họ bằng lời nói ngay thật và nếp sống trung thành, yêu thương: “Hãy đi và nói cho họ những điều mắt thấy tai nghe”. Bằng không thì lời rao giảng của chúng ta là nói dối. Trong cuộc sống chúng ta đã từng được nghe và xem thấy Chúa Giêsu. Vậy phải truyền lại thật trung thực cho kẻ khác, những người đang cần được nghe lời hy vọng, để có thể sống vui tươi hạnh phúc trong thử thách và gian truân trên cõi đời này.
Cụ thể hôm nay, điều gì là sự hiện diện sống động của Chúa Giêsu trên thế giới? Câu trả lời không khó. Chính là lời Thiên Chúa mà tổ tiên đức tin của chúng ta đã truyền lại. Họ giống như môn đệ của Gioan, trung thực và đáng tin cậy. Thêm vào đó là hàng xóm láng giềng đang hoạt động cứu giúp những nạn nhân nghèo đói của chiến tranh, hận thù, chia rẽ, cấm vận; của thiên tai lũ lụt; của bệnh tật xã hội, sida, aids, đĩ điếm, xì ke, gian lận...điều chúng ta chúng kiến lòng tốt của nhau, tức sự hiện diện chữa lành của Chúa Giêsu, phải được nhân rộng lên, ngõ hầu những kẻ bất hạnh được hưởng ân phúc của Chúa. Mặt khác, phải loại trừ những rào cản giả hình, gương mù gương xấu, khoe khoang tư lợi, hậu ý háo danh, để cho lời Chúa được tinh tuyền hữu hiệu.
Mối bận tâm lớn nhất của Gioan tiền hô là trình bày sự vĩ đại của Chúa Giêsu cho thế giới, trước mắt, cho các môn sinh của ông. Vì thế, ông đã sai họ đi tiếp xúc với Chúa và giới thiệu Chúa cho họ: Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian (Ga 1,35). Hai môn đệ của ông là Gioan và Andrê lập tức nhận ra sự thật, bỏ ông mà đi theo Chúa. Ông không ghen tỵ, trái lại tuyên bố với những người còn lại: “Ngài phải lớn lên và tôi phải nhỏ đi” (Ga 3,30). Khi không thấy Chúa Giêsu tỏ hiện vinh quang như ông dự kiến, thì ông gởi lời thắc mắc đến hỏi Chúa. Thay vì trực tiếp trả lời, Chúa chỉ ra sự ứng nghiệm của sấm ngôn mà tiên tri Isaia loan báo trước cho tổ tiên dân Do thái. Lúc nghe các môn sinh kể lại, Gioan hài lòng và vui mừng. Ông lấy máu đào của mình mà minh chứng cho sự thật.
Vì thế, khi các môn đệ của Gioan đi khỏi, Chúa Giêsu hết lời ngợi khen ông, cất tiếng hỏi đám đông: “Anh em xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? " Thính giả lúc ấy hiểu ngay là Chúa ám chỉ đến tính cương trực đạo đức của ông Gioan. Họ không đến hoang địa để xem một người chao đảo trước quyền lực như cây sậy ngả nghiêng trước gió, mà một Gioan kiên định, vững vàng như bàn thạch, thà chịu mất đầu chứ không lùi bước trước tội loạn luân của Herode. Câu hỏi thứ hai là về nếp sống và sứ vụ của ông Gioan: “Thế thì anh em xem gì? Một người ăn mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ ăn mặc gấm vóc lụa là đang ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế... đây còn hơn cả một vị ngôn sứ”. Sự thực, tuần trước chúng ta đã biết Gioan ăn cào cào châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú. Nếp sống đạm bạc thường được mô tả nơi các ngôn sứ thời Cựu ước (2V 1,8). Đúng vậy, Gioan đã mặc hình dạng Êlia mới, đối diện với Chúa Giêsu, như tiên tri Malachia viết: “Này ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi trước khi ngày Thiên Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng (3,23)”. Chính Chúa Giêsu nhắc lại lời Kinh thánh này để nói về nhiệm vụ của Gioan. Ông rao giảng tính cấp bách của lòng thống hối chân thật để đón nhận Chúa Cứu Thế. Những ai không có lòng ăn năn thật sự thì chẳng thể nhận ra Ngài. Đây là sự cao cả của ơn gọi Gioan. Nhưng ơn gọi rao giảng Nước Trời còn cao trọng hơn, tức ơn gọi của các tín hữu ngày nay.
Chính Thiên Chúa sẽ cứu độ dân Người. Isaia loan báo như vậy. Và Gioan đã mường tượng ra ngày cứu độ thật rực rỡ huy hoàng. Đấng Cứu Thế sẽ mang lửa sinh diêm bởi trời mà phán xét thế gian. Nhưng thay vì vậy, ông chỉ được gặp Đức Kitô, người anh em họ của mình, khiêm nhu và hiền lành, rao giảng ơn tha thứ vô tận và lòng xót thương không bờ bến của Thiên Chúa cho những linh hồn mà ông gọi là “vỏ trấu”, sẽ bị lửa đời đời thiêu đốt. Bài học cho chúng ta là đừng chiếm lấy vai trò quan toà trước ngày cánh chung. Hiện thời hãy noi gương Chúa Cứu Thế mang hy vọng đến hang cùng ngõ hẻm của thế giới, rao giảng Đấng có quyền năng “cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ chết sống lại, người điếc nghe được”, nghĩa là hy vọng cho mọi người. Gioan tiền hô là gương mẫu sáng chói để chúng ta sống Mùa Vọng này: khắc khổ, chay tịnh, can đảm và đầy lòng mong đợi ơn Cứu Độ nhân loại. Có thể tâm trí chúng ta đầy tràn những chương trình riêng tư. Nhưng Thiên Chúa luôn luôn vượt xa hy vọng của chúng ta. Vậy xin đừng hạn chế quyền phép của Ngài. Hãy để Ngài làm Thượng đế và nhân loại sẽ rất ngạc nhiên chiêm ngắm điều bất ngờ của đêm Giáng Sinh. Amen.
Một số nhà chú giải cho rằng khi bị thử thách trong tù, Gio-an đâm ra thắc mắc: không biết: MV 3-A37
Một số nhà chú giải cho rằng khi bị thử thách trong tù, Gio-an đâm ra thắc mắc: không biết Đức Giê-su có đích thực là Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã loan báo hay không. Ông thắc mắc vì nếu quả thật Ngài là Đấng Cứu Thế, thì tại sao người có sứ mạng chuẩn bị cho Ngài đến là ông lại phải ngồi tù ? Lẽ ra ông phải ở ngoài để cộng tác với Ngài trong việc thành lập Nước Trời mới phải! Các môn đệ của ông chắc chắn cũng thắc mắc như thế. Vì thế, ông đã sai người đến trình bày thắc mắc ấy cho Đức Giê-su.
Để trả lời, Đức Giê-su đã dùng chính những dấu chỉ của Ngôn Sứ I-sai-a về thời Đấng Cứu Thế: “Sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội ( ... ) Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò» ( Is 35, 4 – 6 ). Ngài bảo: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”. Với những sự kiện xảy ra mắt thấy đúng như ngôn sứ I-sai-a mô tả, Gio-an Tẩy Giả có thể xác định Đức Giê-su là ai. Tuy nhiên, có điều quan trọng mà Đức Giê-su muốn nhắn nhủ Gio-an: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”.
2. PHÚC THAY NGƯỜI NÀO KHÔNG VẤP NGÃ VÌ TÔI
Đức Giê-su được Thánh Kinh mô tả là “một hòn đá làm cho vấp, một tảng đá làm cho ngã” ( Rm 9, 33; 1 Pr 2, 8 ). Nhưng chính Ngài lại nói: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” ( Mt 11, 6; Lc 7, 23 ). Thánh Kinh cũng cho biết có rất nhiều người vấp ngã vì Ngài ( x. Mt 15, 12; 26, 31; Mc 6, 3; 14, 27; Rm 9, 32 ). Trong Thánh Kinh, “vấp ngã” có nghĩa là vì một cớ nào đó mà làm điều sai trái, không đúng, xúc phạm, hoặc không tin hay mất niềm tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su. Khi Gio-an Tẩy Giả bị tù, ông bị thử thách về niềm tin đối với Đức Giê-su. Dù sao ông vẫn là con người, nên cũng có khuynh hướng suy nghĩ kiểu loài người. Thánh Thần đã cho ông biết một cách không minh nhiên – nghĩa là chỉ qua những dấu chỉ – rằng: Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, và ông có sứ mạng dọn đường cho Ngài. Ông đã tin điều đó. Nhưng khi ngồi tù một thời gian quá dài, ông đâm ra nghi ngờ niềm tin ấy. Vì nếu quả thật Ngài là Đấng Cứu Thế, thì ông đang phải là cánh tay mặt của Ngài, sát cánh bên Ngài để cùng Ngài hành động !
Nếu ông mất niềm tin đó, thì ông đã vấp phạm vì Ngài. Nhưng Đức Giê-su đã gián tiếp cho ông biết niềm tin của ông vào Ngài là chính xác. Nhờ đó, ông không mất niềm tin. Vì thế, Ngài khen ông: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa có ai cao trọng hơn Gio-an Tẩy Giả”. Ông cao trọng vì cho đến lúc đó, ông là người đầu tiên được vinh hạnh góp phần trực tiếp vào sứ mạng cứu thế của Con Thiên Chúa, và ông đã hoàn thành sứ mạng của mình cách hoàn hảo. Tuy nhiên, ông vẫn là người của Cựu Ước, não trạng của ông vẫn là não trạng của thời Cựu ước. Não trạng Cựu Ước là: sự công chính được xây dựng trên việc giữ trọn lề luật, thực hành các nghi thức tôn giáo, và làm những điều tốt đẹp.
Ông không có cơ hội hấp thu những giáo huấn mới cao cả của Đức Giê-su để có một não trạng mới: sự công chính được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, sự công chính của ông không cao bằng sự công chính của những người sống đúng tinh thần Tân ước. Do đó, Ngài mới nói: “Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” ( x. thêm Mt 5, 20 ).
3. TINH THẦN MỚI CỦA TÂN ƯỚC SO VỚI CỰU ƯỚC
Đức Giê-su đến để khai mạc Nước Trời tại trần gian, mà Gio-an là người dọn đường. Nước Trời, xét về mặt xã hội, là một xã hội lý tưởng, trong đó mọi người đối xử với nhau bằng yêu thương đích thực. Nhờ đó, mọi người được hạnh phúc. Thật vậy, thế giới này, cũng như Giáo Hội mà Đức Giê-su lập ra, chỉ có thể hạnh phúc và trở thành Nước Trời khi mọi người biết yêu thương nhau. Hiện nay, thế giới cũng như Giáo Hội, có rất nhiều tiêu cực, đau thương, chính vì các thành viên không yêu thương nhau.
Đức Giê-su đến đem lại cho thế giới một tinh thần mới, một lề luật mới xây dựng trên yêu thương. Tiêu chuẩn mới của sự công chính là tình yêu, khác với tiêu chuẩn cũ trong Cựu Ước. Thật vậy, Thánh Kinh cho biết “Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật” ( Ep 2, 15 ) và lập ra luật mới cho kỷ nguyên mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” ( Ga 13, 34 ). Đức Giê-su chính là tư tế mới thay cho các tư tế cũ của Cựu ước, mà “một khi chức tư tế thay đổi, thì nhất thiết phải thay đổi Lề Luật” ( Dt 7, 12 ).
Dựa trên tinh thần mới của Tân Ước, Thánh Phao-lô đã nói rất rõ và rất nhiều lần rằng chính đức tin mới làm cho con người nên công chính ( x. Rm 1, 17; 5, 1; 9, 30 . 32; Gl 3, 8.11 . 24; Dt 11, 7 ) chứ không phải việc giữ luật ( Rm 3, 20 – 21 . 28; 4, 13; 9, 31; Gl 2, 16 . 21; 3, 11; 5, 4 ), hay những việc làm tốt đẹp ( x. Rm 4, 5 – 6; 9, 32; 11, 6 ). Mà mục đích và tinh hoa của đức tin lại là Đức Mến, vì theo cũng Thánh Phao-lô, Đức Mến cao trọng hơn Đức Tin và Đức Cậy ( x. 1 Cr 13, 13 ). Đức Giê-su cũng xác nhận tình yêu quan trọng hơn các lễ nghi tôn giáo: “Yêu mến Thiên Chúa ( ... ) và yêu người thân cận ( ... ) là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” ( Mc 12, 33; x. Mt 5, 23 – 24 ); “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” ( Mt 9, 13; 12, 7 ). Tất cả những thứ tốt đẹp đó là biểu hiện tất nhiên phải có của tình yêu. Nhưng nếu chỉ có những biểu hiện ấy ở bên ngoài chứ không có cốt tủy bên trong là tình yêu, thì những biểu hiện ấy chỉ là giả dối, hoàn toàn vô giá trị trước Thiên Chúa.
4. CHIỀU KÍCH MỚI CỦA SÁM HỐI
Vì thế, ta cần khám phá chiều kích mới của sám hối trong sứ điệp Gio-an. Sám hối không chỉ là nhận ra và sửa đổi những sai trái trong cách hành động, mà còn là sẵn sàng từ bỏ những quan niệm cũ, nề nếp cũ, để đón nhận những quan niệm mới cao cả hơn, đúng đắn hơn của Đức Giê-su, đồng thời sống phù hợp với quan niệm mới đó. Sở dĩ giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái vấp ngã vì Đức Giê-su, chính vì họ không chấp nhận được những quan niệm mới của Ngài, cho rằng Ngài là kẻ phá đạo và giết chết Ngài.
Điều đáng buồn cho thế giới hiện nay là Đức Giê-su đã đến những 2.000 năm nay để đưa ra những quan niệm mới về sự công chính, thế mà rất nhiều Kitô hữu thời nay vẫn chưa hấp thụ được giáo huấn mới với quan niệm mới, lề luật mới của Ngài. Họ vẫn đặt rất nặng tiêu chuẩn công chính cũ của Cựu ước, mà coi rất nhẹ tiêu chuẩn công chính mới của Ngài là tình yêu thương. Sự giáng lâm của Đức Giê-su cách đây 2000 năm vẫn còn là vô ích, là dư thừa đối với họ. Và như thế, một cách nào đó họ đã vấp phạm vì Ngài. Đành rằng việc giữ luật lệ, thực hành các nghi thức tôn giáo, và làm những việc tốt lành vẫn cần thiết và ích lợi, nhưng đó không phải là điều cốt yếu của việc sống đạo. Đó chỉ là những phương tiện tốt và hữu hiệu để giúp ta thực hiện điều cốt yếu của đạo Chúa là yêu thương nhau mà thôi. Chúng chỉ là những biểu hiện tất yếu của tình yêu chứ không phải là tình yêu.
Ngay cả việc cầu nguyện, nếu việc cầu nguyện không đem lại hiệu quả là tăng trưởng tình yêu thương trong lòng ta – là mến Chúa yêu người hơn – thì chắc chắn việc cầu nguyện ấy không đẹp lòng Thiên Chúa. Muốn biết chúng ta có cầu nguyện đúng hay không, thì hãy nhìn vào hiệu quả của cầu nguyện. Nếu cầu nguyện đem lại cho ta sức mạnh, bình an, niềm vui và hứng khởi để có thể hy sinh cho Thiên Chúa và tha nhân nhiều hơn, thì chúng ta đã cầu nguyện đúng cách. Nếu không, chúng ta cần phải thay đổi cách cầu nguyện vì đã cầu nguyện không đẹp lòng Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta đã tỏ ra ích kỷ, thiếu tình thương, lấy cái tôi của mình là trung tâm khi cầu nguyện. Cầu nguyện như thế chỉ làm tăng tính ích kỷ của mình thôi! Có những câu Thánh Kinh cho biết Thiên Chúa chán ngán những buổi cầu nguyện, những nghi thức tôn giáo rỗng tuếch tình yêu của con người ( x. Is 1, 11 – 17; Am 5, 21 – 24; Gr 14, 11 – 12 ). Ấy thế mà biết bao Ki-tô hữu suốt đời cầu nguyện, dâng lễ theo kiểu ấy ! Hoặc cố giữ luật, cố làm những việc lành phúc đức, không phải do tình yêu thúc đẩy, mà chỉ nhắm để được Thiên Chúa thưởng công, để được mọi người khen ngợi. Thiết tưởng để đón Chúa đến, chúng ta cần phải sám hối về cách sống đạo kiểu ấy !
Lạy Cha, trong Mùa Vọng này, xin cho con hiểu được tinh thần mới mà Đức Giê-su đã rao giảng từ hai ngàn năm nay, nhưng chính con vẫn chưa hiểu được và áp dụng. Xin hãy đổi mới quan niệm và cách sống của con trong Mùa Vọng này.
Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa kêu gọi làm một ngôn sứ, đồng thời làm vị Tiền Hô để: MV 3-A38
Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa kêu gọi làm một ngôn sứ, đồng thời làm vị Tiền Hô để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Ông rất ý thức điều ấy, và đã hoàn thành nhiệm vụ ấy một cách hoàn hảo. Chính vì thế, ông đã bị ngồi tù do dám tố cáo những sai trái của chính quyền đương thời là vua Hêrốt. Tình trạng khó khăn và tuyệt vọng trong tù dễ làm người ta xuống tinh thần, vì thế, đức tin của Gioan vào Đức Giêsu phần nào bị thử thách.
Có thể lúc đó ông tự hỏi: Nếu Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế mà ông có sứ mạng tiền hô cho Ngài, thì tại sao ông lại phải ngồi tù thế này? Nếu Ngài là Đấng Cứu Thế, thì ắt hẳn Thiên Chúa phải để ông ở ngoài hầu hợp tác với Ngài thiết lập triều đại mới chứ! Ông sẽ phải là cánh tay mặt của Ngài chứ! Chắc chắn Gioan cũng quan niệm như mọi người Do Thái khác rằng Đấng Cứu Thế sẽ giải phóng dân Do Thái và sẽ trở thành một vị Hoàng Đế cai trị toàn cầu. Vì thế, khi Ngài đã bắt đầu ra mặt mà ông vẫn còn phải ngồi tù thế này thì quả là khó hiểu? Do đó, ông đã sai môn đệ của ông đến gặp Đức Giêsu để hỏi cho rõ. Và họ đã đến gặp Ngài.
2. Những điều ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế
Đức Giêsu đã không trả lời trực tiếp bằng cách xác định mình chính là Đấng Cứu Thế, nhưng trả lời gián tiếp bằng những dấu hiệu mà trước đó khoảng 700 năm ngôn sứ Isaia đã tiên báo về thời đại của Đấng Cứu Thế: «Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng» (xem Is 26,19; 29,18-19; 35,56a; 61,1). Đó là những điều mà Đức Giêsu đã dùng quyền năng của mình thực hiện trước mắt mọi người.
Thử đặt mình vào địa vị Gioan Tẩy giả và người Do Thái thời ấy xem, ta có thể tin được Ngài là Đấng Cứu Thế không, khi mà đầu óc ta cứ nghĩ rằng Ngài sẽ giải phóng đất nước Do Thái bằng binh hùng tướng mạnh, bằng chính trị và quân sự? Thế mà hiện tại trước mắt, Ngài chỉ là một thầy đạo không một tấc sắt trong tay! Làm sao tin được Ngài là Đấng ấy, nhất là khi thấy Ngài bị nộp và bị đem đi giết như một tội nhân?
Chính vì thế, ngay từ lúc này Ngài đã nói: «Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi» (Mt 11,6). Liệu câu nói ấy có ứng cho chính chúng ta khi Ngài trở lại không? Nếu Ngài trở lại theo một cách thức thật bất ngờ, không đúng như cách ta vẫn thường nghĩ, liệu ta có vấp ngã vì Ngài không? Vì nếu Ngài trở lại đúng theo cách ta thường nghĩ, thì lời Ngài tiên báo là sẽ đến «như kẻ trộm» đâu còn đúng nữa? Vậy, ta cần phải tỉnh táo khi Ngài đến để khỏi vấp ngã vì Ngài.
3. Đức Giêsu đến để thực hiện một cuộc cách mạng tôn giáo
Tôi e rằng khi Ngài đến lần thứ hai, rất nhiều người sẽ vấp ngã và xúc phạm đến Ngài như lần Ngài đến trước, vì Ngài sẽ không đến theo như quan niệm của họ, nhất là về mặt tư tưởng và giáo thuyết. Lý do:
Nhân loại luôn luôn tiến hóa và đổi mới. Vì thế, các tôn giáo – vốn là phương tiện phục vụ con người, dẫn con người đến với Thiên Chúa – cũng phải thay đổi theo để phục vụ con người một cách phù hợp và hữu hiệu hơn. Hiện nay, nhân loại đã bước sang thời đại internet, toàn cầu hóa, với tinh thần khoa học thực nghiệm, kỹ thuật hết sức tân tiến. Về mặt chính trị, nhân loại không còn chấp nhận được những chế độ độc tài, bưng bít thông tin, tự do hà hiếp bóc lột dân chúng. Những quan niệm tôn giáo cũ có thể thích hợp với nhân loại cũ, thời đại cũ, với những quan niệm khoa học cũ. Nay nhân loại đã đổi mới, những quan niệm và thể chế tôn giáo không thay đổi để phù hợp sẽ bị đào thải. «Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư» (Lc 5,37). Đương nhiên trong tôn giáo có những điều cốt tủy không bao giờ thay đổi được. Vấn đề quan trọng là phân biệt cái nào có thể thay đổi và cái nào là cốt lõi không thể thay đổi được.
Tôn giáo và luật lệ của tôn giáo là một cái gì linh thiêng, thần thánh, được hiểu là do Thiên Chúa thiết lập, được vĩnh cửu hóa và tuyệt đối hóa bằng những lời chắc nịch trong Kinh Thánh (chẳng hạn: St 9,12; Xh 12,14; 32,13b; Đnl 29,28; 1 V 8,13; Tv 98,5; và vô số câu khác). Vậy thì con người nào ai dám thay đổi? Chỉ có những Đấng Thiên Sai như Đức Giêsu mới có thể làm chuyện ấy. Chính Đức Giêsu đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại về tôn giáo. Và cũng chính vì làm cuộc cách mạng ấy Ngài mới bị giết bởi tay các nhà lãnh đạo tôn giáo cũ. Thế là, như ta đã biết, vô số người đã vì Ngài mà vấp ngã!
4. Cuộc cách mạng tôn giáo của Đức Giêsu
Tôn giáo Do Thái do Thiên Chúa thiết lập nhưng do Môsê hình thành. Những luật lệ do Môsê ban hành được coi là linh thánh và vĩnh cửu, vì được hiểu là luật của Thiên Chúa. Nhưng thật ra luật ấy chỉ phù hợp với trình độ văn hóa và tâm linh của dân Do Thái thời thượng cổ. Luật ấy được xây dựng trên sự sợ hãi của dân chúng. Tương tự như khi con người còn là một đứa trẻ, muốn nó sống tốt thì không thể chỉ dùng lời khuyên và trông chờ vào sự hiểu biết của nó mà được. Lời khuyên hay mệnh lệnh phải đi đôi với roi vọt. Đối với một đứa trẻ, chỉ cần nó sợ roi để làm theo những mệnh lệnh của người lớn là đã đạt yêu cầu, và chỉ cần như thế nó đã được coi là một đứa trẻ ngoan. Tôn giáo thời Cựu Ước ứng với phương pháp giáo dục dành cho trẻ con, không thể trông mong vào sự ý thức, hiểu biết, hay tình yêu của con người được. Tiêu chuẩn của sự công chính vào thời này là chỉ cần giữ luật cho đúng là được. Và người Pharisiêu thời Đức Giêsu chính là mẫu người được coi là trọn hảo của thời Cựu Ước. Không ai còn có thể giữ luật trọn vẹn hơn họ!
Nhưng từ Môsê đến Đức Giêsu, dân Do Thái đã trải qua khoảng 1250 năm, trình độ văn hóa và tâm linh của họ đã thay đổi. Họ đã thoát khỏi giai đoạn tạm gọi là «trẻ con» của họ để bước sang một giai đoạn trưởng thành hơn. Do đó, tôn giáo cũng phải thay đổi để thích hợp với trình độ mới của họ, và chính Đức Giêsu là người có sứ mạng thực hiện sự thay đổi ấy. Tôn giáo mới không còn được xây dựng trên sự sợ hãi nữa, mà xây dựng trên nền tảng tình yêu. Dân Do Thái hay nhân loại lúc này được so sánh với một con người đã bước vào tuổi thanh niên. Cha mẹ không còn giáo dục anh chàng theo kiểu roi vọt nữa, mà mong đợi nơi anh sự ý thức tự giác và tình yêu. Lúc này, nếu anh học hành hay làm việc chỉ vì sợ cha mẹ đánh đòn, thì anh không còn được coi là hay là tốt nữa, mà phải do một động lực khác thúc đẩy: chẳng hạn do biết tự lo lắng cho tương lai, do biết yêu thương và làm hài lòng cha mẹ, muốn làm nở mày nở mặt cho gia tộc. Vì thế, cách sống hay giữ đạo «vị luật» của người Pharisiêu không còn được Đức Giêsu coi là công chính nữa: «Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời» (Mt 5,20).
Những cuộc cách mạng vĩ đại về tôn giáo như Đức Giêsu đã từng thực hiện chắc chắn thời nào cũng bị những người đương thời chống đối vì chưa nhận ra sự hợp lý của nó. Họ còn chấp vào những hiểu biết cũ, quan niệm cũ, nguyên tắc cũ đã được nhập tâm từ nhỏ, và được coi là những chân lý bất di bất dịch. Họ cảm thấy cần bảo vệ những chân lý ấy. Chính vì thế rất nhiều người vấp phạm khi Ngài đưa ra những quan niệm mới, nguyên tắc mới.
Để nói lên sự ưu việt của thời «hậu cách mạng» do Đức Giêsu, Ngài đã đưa ra một thí dụ điển hình: «Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông». Gioan Tẩy Giả là mẫu người công chính của Cựu Ước, sự công chính của ông không thể sánh ngang với sự công chính của thời Tân Ước được. Thật vậy, về tinh thần và phong cách sống đạo, giữa Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu, giữa các môn đệ của hai vị có sự khác biệt rõ rệt. Điển hình như: «Các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Đức Giêsu rằng: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?”» (Mt 9,14; Mc 2,18).
Vậy, chúng ta hãy tỉnh táo để khi Đức Giêsu đến lần thứ hai, với những bất ngờ không dè trước được, chúng ta không vấp phạm vì Ngài: «Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi» (Mt 11,6)
Khi đọc đoạn Tin Mừng Mt 11,2-11 một số nhà chú giải cho rằng khi bị thử thách trong tù, Gioan: MV 3-A39
Khi đọc đoạn Tin Mừng Mt 11,2-11 một số nhà chú giải cho rằng khi bị thử thách trong tù, Gioan đâm ra thắc mắc: không biết Đức Giêsu có đích thực là Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã loan báo hay không. Ông thắc mắc vì nếu quả thật Ngài là Đấng Cứu Thế, thì tại sao người có sứ mạng chuẩn bị cho Ngài đến là ông lại phải ngồi tù? Lẽ ra ông phải ở ngoài để cộng tác với Ngài trong việc thành lập Nước Trời mới phải! Các môn đệ của ông chắc chắn cũng thắc mắc như thế. Vì thế, ông đã sai người đến trình bày thắc mắc ấy cho Đức Giêsu.
Để trả lời, Đức Giêsu đã dùng chính những dấu chỉ của ngôn sứ Isaia về thời Đấng Cứu Thế: «Sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội (…) Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò» (Is 35,46). Ngài bảo: «Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng» (Mt 11,4-6). Với những sự kiện xảy ra mắt thấy đúng như ngôn sứ Isaia mô tả, Gioan có thể xác định Đức Giêsu là ai. Tuy nhiên, có điều quan trọng mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ Gioan: «Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi» (Mt 11,6).
2. «Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi»
Đức Giêsu được Thánh Kinh mô tả là «một hòn đá làm cho vấp, một tảng đá làm cho ngã» (Rm 9,33; 1Pr 2,8). Nhưng chính Ngài lại nói: «Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi» (Mt 11,6; Lc 7,23). Thánh Kinh cũng cho biết có rất nhiều người vấp ngã vì Ngài (x. Mt 15,12; 26,31; Mc 6,3; 14,27; Rm 9,32). Trong Thánh Kinh, «vấp ngã» có nghĩa là vì một cớ nào đó mà làm điều sai trái, không đúng, xúc phạm, hoặc không tin hay mất niềm tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu. Khi Gioan bị tù, ông bị thử thách về niềm tin đối với Đức Giêsu. Dù sao ông vẫn là con người, nên cũng có khuynh hướng suy nghĩ kiểu loài người. Thánh Thần đã cho ông biết một cách không minh nhiên – nghĩa là chỉ qua những dấu chỉ – rằng: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, và ông có sứ mạng dọn đường cho Ngài. Ông đã tin điều đó. Nhưng khi ngồi tù một thời gian quá dài, ông đâm ra nghi ngờ niềm tin ấy. Vì nếu quả thật Ngài là Đấng Cứu Thế, thì ông đang phải là cánh tay mặt của Ngài, sát cánh bên Ngài để cùng Ngài hành động!
Nếu ông mất niềm tin đó, thì ông đã vấp phạm vì Ngài. Nhưng Đức Giêsu đã gián tiếp cho ông biết niềm tin của ông vào Ngài là chính xác. Nhờ đó, ông không mất niềm tin. Vì thế, Ngài khen ông: «Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả» (Mt 11,11). Ông cao trọng vì cho đến lúc đó, ông là người đầu tiên được vinh hạnh góp phần trực tiếp vào sứ mạng cứu thế của Con Thiên Chúa, và ông đã hoàn thành sứ mạng của mình cách hoàn hảo. Tuy nhiên, ông vẫn là người của Cựu ước, não trạng của ông vẫn là não trạng của thời Cựu ước. Não trạng Cựu ước là: sự công chính được xây dựng trên việc giữ trọn lề luật, thực hành các nghi thức tôn giáo, và làm những điều tốt đẹp. Ông không có cơ hội hấp thu những giáo huấn mới cao cả của Đức Giêsu để có một não trạng mới: sự công chính được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, sự công chính của ông không cao bằng sự công chính của những người sống đúng tinh thần Tân ước. Do đó, Ngài mới nói: «Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông» (Mt 11,11; xem thêm Mt 5,20).
3. Tinh thần mới của Tân ước so với Cựu ước
Đức Giêsu đến để khai mạc Nước Trời tại trần gian, mà Gioan Tẩy Giả là người dọn đường. Nước Trời, xét về mặt xã hội, là một xã hội lý tưởng, trong đó mọi người đối xử với nhau bằng yêu thương đích thực. Nhờ đó, mọi người được hạnh phúc. Thật vậy, thế giới này, cũng như Giáo Hội mà Đức Giêsu lập ra, chỉ có thể hạnh phúc và trở thành Nước Trời khi mọi người biết yêu thương nhau. Hiện nay, thế giới cũng như Giáo Hội, có rất nhiều tiêu cực, đau thương, chính vì các thành viên không yêu thương nhau.
Đức Giêsu đến đem lại cho thế giới một tinh thần mới, một lề luật mới xây dựng trên yêu thương. Tiêu chuẩn mới của sự công chính là tình yêu, khác với tiêu chuẩn cũ trong Cựu ước. Thật vậy, Thánh Kinh cho biết «Người đã hủy bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật» (Ep 2,15) và lập ra luật mới cho kỷ nguyên mới: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau» (Ga 13,34). Đức Giêsu chính là tư tế mới thay cho các tư tế cũ của Cựu ước, mà «một khi chức tư tế thay đổi, thì nhất thiết phải thay đổi Lề Luật» (Dt 7,12). Dựa trên tinh thần mới của Tân ước, thánh Phaolô đã nói rất rõ và rất nhiều lần rằng chính đức tin mới làm cho con người nên công chính (x. Rm 1,17; 5,1; 9,30.32; Gl 3,8.11.24; Dt 11,7) chứ không phải việc giữ luật (Rm 3,2021.28; 4,13; 9,31; Gl 2,16.21; 3,11; 5,4), hay những việc làm tốt đẹp (x. Rm 4,56; 9,32; 11,6). Mà mục đích và tinh hoa của đức tin lại là đức ái, vì theo cũng thánh Phaolô, đức ái cao trọng hơn đức tin và đức cậy (x. 1Cr 13,13). Đức Giêsu cũng xác nhận tình yêu quan trọng hơn các lễ nghi tôn giáo: «Yêu mến Thiên Chúa (…) và yêu người thân cận (…) là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ» (Mc 12,33; x. Mt 5,23-24); «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mt 9,13; 12,7). Tất cả những thứ tốt đẹp đó là biểu hiện tất nhiên phải có của tình yêu. Nhưng nếu chỉ có những biểu hiện ấy ở bên ngoài chứ không có cốt tủy bên trong là tình yêu, thì những biểu hiện ấy chỉ là giả dối, hoàn toàn vô giá trị trước Thiên Chúa.
4. Chiều kích mới của sám hối
Vì thế, ta cần khám phá chiều kích mới của sám hối trong sứ điệp của Gioan. Sám hối không chỉ là nhận ra và sửa đổi những sai trái trong cách hành động, mà còn là sẵn sàng từ bỏ những quan niệm cũ, nề nếp cũ, để đón nhận những quan niệm mới cao cả hơn, đúng đắn hơn của Đức Giêsu, đồng thời sống phù hợp với quan niệm mới đó. Sở dĩ giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái vấp ngã vì Đức Giêsu, chính vì họ không chấp nhận được những quan niệm mới của Ngài, cho rằng Ngài là kẻ phá đạo và giết chết Ngài.
Điều đáng buồn cho thế giới hiện nay là Đức Giêsu đã đến những 2000 năm nay để đưa ra những quan niệm mới về sự công chính, thế mà rất nhiều Kitô hữu thời nay vẫn chưa hấp thụ được giáo huấn mới với quan niệm mới, lề luật mới của Ngài. Họ vẫn đặt rất nặng tiêu chuẩn công chính cũ của Cựu ước, mà coi rất nhẹ tiêu chuẩn công chính mới của Ngài là tình yêu thương. Sự giáng lâm của Đức Giêsu cách đây 2000 năm vẫn còn là vô ích, là dư thừa đối với họ. Và như thế, một cách nào đó họ đã vấp phạm vì Ngài. Đành rằng việc giữ luật lệ, thực hành các nghi thức tôn giáo, và làm những việc tốt lành vẫn cần thiết và ích lợi, nhưng đó không phải là điều cốt yếu của việc sống đạo. Đó chỉ là những phương tiện tốt và hữu hiệu để giúp ta thực hiện điều cốt yếu của đạo Chúa là yêu thương nhau mà thôi. Chúng chỉ là những biểu hiện tất yếu của tình yêu chứ không phải là tình yêu.
Ngay cả việc cầu nguyện, nếu việc cầu nguyện không đem lại hiệu quả là tăng trưởng tình yêu thương trong lòng ta – là mến Chúa yêu người hơn – thì chắc chắn việc cầu nguyện ấy không đẹp lòng Thiên Chúa. Muốn biết chúng ta có cầu nguyện đúng hay không, thì hãy nhìn vào hiệu quả của cầu nguyện. Nếu cầu nguyện đem lại cho ta sức mạnh, bình an, niềm vui và hứng khởi để có thể hy sinh cho Thiên Chúa và tha nhân nhiều hơn, thì chúng ta đã cầu nguyện đúng cách. Nếu không, chúng ta cần phải thay đổi cách cầu nguyện vì đã cầu nguyện không đẹp lòng Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta đã tỏ ra ích kỷ, thiếu tình thương, lấy «cái tôi» của mình là trung tâm khi cầu nguyện. Cầu nguyện như thế chỉ làm tăng tính ích kỷ của mình thôi! Có những câu Thánh Kinh cho biết Thiên Chúa chán ngán những buổi cầu nguyện, những nghi thức tôn giáo rỗng tuếch tình yêu của con người (x. Is 1,11-17; Am 5,21-24; Gr 14,11-12). Ấy thế mà biết bao Kitô hữu suốt đời cầu nguyện, dâng lễ theo kiểu ấy! Hoặc cố giữ luật, cố làm những việc lành phúc đức, không phải do tình yêu thúc đẩy, mà chỉ nhắm để được Thiên Chúa thưởng công, để được mọi người khen ngợi. Thiết tưởng để đón Chúa đến, chúng ta cần phải sám hối về cách sống đạo kiểu ấy!
Chúa nhật thứ Ba mùa Vọng, chúng ta lại được dịp suy niệm đoạn Kinh Thánh rất quen thuộc: MV 3-A40
Chúa nhật thứ Ba mùa Vọng, chúng ta lại được dịp suy niệm đoạn Kinh Thánh rất quen thuộc: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng,và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi." (Mt 11:4-6)
Sự xuất hiện với lời giảng dạy và cách sống của Đức Giêsu đã khiến cho người Do-Thái vấp ngã.
Các tư tế vấp ngã vì các ông cho rằng phải thờ phượng Chúa trong đền thờ Giêrusalem, hội đường hay tại ngã ba, ngã tư cho người ta thấy (Mt 6:5) và cầu nguyện lâu giờ (Mt 23:14); trong khi Đức Giêsu hô hào phải thờ phượng Chúa trong Thần Khí và sự thật. (Ga 4:23-24).
Các kinh sư cứ chiếu theo Kinh Thánh mà giảng dạy dân chúng như vẹt trong khi Đức Giêsu vớ đâu nói đấy, gần như phớt lờ Kinh Thánh cựu ước. "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. (Mt 5:43-44)
Đặc biệt là các luật sĩ, những người luôn thượng tôn luật pháp, bị vấp ngã nhiều nhất vì dường như Đức Giêsu cứ nhè ngày Sabat để chữa bệnh, hoặc làm một điều gì đó như: Hôm ấy, vào ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. (Mt 12:1) Ngài còn tuyên bố thẳng thừng: "Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát." (Mc 2:28)
Dân chúng, thậm chí nhiều môn đệ cũng vấp ngã vì Đức Giêsu. Người Do-thái liền xầm xì phản đối, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi? "Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa.(Ga 6:41,60,66)
Thế còn chúng ta, những người Kitô hữu, chúng ta có vấp ngã không? Có lẽ chúng ta có đầy kinh nghiệm và mau mắn trả lời với vẻ rất tự tin: chỉ có quân Giu-rêu mới vấp ngã chứ, chúng tôi làm sao mà vấp ngã nổi. Họ đâu nhìn nhận Đức Giêsu là Chúa, còn chúng tôi biết Chúa Giêsu từ khuya rồi.
Nhưng ..nhìn lại cho kỹ, thì có khi tôi còn vấp ngã gấp mười lần. Mang tiếng là Kitô hữu nhưng tôi lại thực sự là một trong những tên Giu-rêu gộc qua những vấp ngã điển hình như sau:
Giống y như các tư tế, tôi phân chia rất rõ ràng: việc đạo: trong nhà thờ - việc đời: giữa phàm trần này. Sau thánh lễ thờ phượng Chúa, tôi liền bái bai Chúa ở lại, và ra về sống giữa đời, bon chen làm ăn, học hành, vui chơi.. y như người chưa hề biết Chúa, y như người chưa từng rước Chúa trong thánh lễ Chúa nhật Việc thờ phượng Chúa trong Thần Khí và sự thật chỉ để lộng kiếng, hù ma thiên hạ.
Tôi đọc Kinh Thánh như vẹt, nghe Lời Chúa từ tai này, lập tức bay sang tai kia. Lời Chúa không lưu lại và sinh hoa trái. Nhưng khi chia sẻ Lời Chúa thì phải biết! tôi nghiên cứu hết sách nọ tới sách kia, nói vanh vách những tư tưởng cao siêu của các nhà thần học nổi tiếng, khiến anh em cứ thưởng tôi xịn lắm, nhưng thực ra chỉ là thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng..(1Cr 13:1)
Y chang như các luật sĩ chính hiệu, tôi đánh giá người khác dựa vào những biểu hiện đạo đức bên ngoài. Hiện nay, tôi chỉ còn giữ 2 luật duy nhất: đi lễ Chúa nhật, xưng tội một năm ít là một lần. Như vậy là đủ để khỏi phải xuống hoả ngục. Còn chuyện sống đạo thực sự của một người Kitô hữu trong tâm tình người con yêu dấu của Chúa chỉ dành cho một số người khác…trừ tôi!
Giả sử có người phát biểu: ‘chúng ta hầu hết đều mù cả’ tôi lập tức phản ứng: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi? " thế là tôi gạt phăng sang một bên mà không cần biết tôi mù hay sáng - tất nhiên đây là mù loà tâm linh. Nếu tôi chưa cảm nhận được thờ phượng Chúa trong Thần Khí thì chắc chắn tôi mù thật rồi. Nếu tôi sáng, hẳn nhiên là tôi hiểu rất rõ và đã thực hiện việc thờ phượng Chúa trong Thần Khí mỗi ngày nhiều lần một cách thoải mái.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho tôi biết tình trạng của tôi mù hay sáng? Tôi đang đứng vững hay vấp ngã liên tục trong cuộc sống đạo thường ngày của mình?
Hôm nay chủ nhật thứ ba mùa vọng, cũng được gọi là chủ nhật vui mừng. Vui mừng vì ngày cứu độ: MV 3-A41
Hôm nay chủ nhật thứ ba mùa vọng, cũng được gọi là chủ nhật vui mừng. Vui mừng vì ngày cứu độ sắp đến, vui mừng vì nhân loại đang đi trong bóng đêm sắp được nhìn thấy ánh sáng chân lý, đó là Chúa Giêsu. Chúng ta càng vui mừng hơn vì chúng ta tin tưởng Đấng cứu độ đã đến và sẽ đến lại trong vinh quang.
1. Thầy có thật là Đấng phải đến không ?
Một người ngồi trong tù bị bốn bức tường sắt che mất với thế giới bên ngoài, nhưng vẫn cứ trông mong Đấng mà thiên hạ đợi chờ như lời loan báo của các tiên tri.
Thầy có thật là Đấng phải đến không ? - Vâng Ngài đã đến rồi, đến cách đây hơn hai ngàn năm trong hang lừa máng cỏ nơi thành Bêlem: nghèo nàn, bé nhỏ và tội nghiệp. Ngài đã đến nhưng người ta đã xua đuổi Ngài, không cho Ngài trú ngụ, và ba mươi năm sau ấy lại đóng đinh Ngài vào thập giá, và coi Ngài như tên trộm cướp...
Thầy có thật là Đấng phải đến không ? - Vâng Ngài đã đến và đang ở giữa chúng ta, nơi những người nghèo như Ngài năm xưa, không phải nơi hang đá Bêlem nhưng là nơi các viện mồ côi, nơi những trại phong cùi, những trại điều trị bệnh sida. Ngài đang cần đến những tâm hồn quảng đại của các mục-đồng-thời-đại chia sẻ với Ngài những lời nói động viên an ủi, những bó củi sưởi ấm những tâm hồn đang lạnh vì thiếu tình yêu đồng loại, tình yêu gia đình, bè bạn...
Thánh Gioan Tẩy Giả ở trong ngục nhưng vẫn đợi chờ Đấng sẽ phải đến để ban ơn cứu độ cho nhân loại; chúng ta được sồng trong tự do nhưng không chờ đợi Đấng cứu thế, đó là một sai lầm rất lớn và là một dấu hiệu để cơn thịnh nộ của Thiên Chúa ập đến trên chúng ta...
2. Anh em xem gì trong hoang địa ?
Trong hoang địa thì có gì mà xem chứ, chỉ có thánh Gioan Tẩy Giả mà thôi, nhưng ngài đang bị cầm tù và sắp bị chém đầu.
Anh em xem gì trong hoang địa ? - Có người vào hoang địa để cảm nghiệm cái tịch mịch của nó, có người vào hoang địa để tìm gặp Thiên Chúa, lại có người vào hoang địa để ngắm cảnh. Thời nay hoang địa đã có người ở, rừng sâu cũng có người ở, nhưng hoang địa mà người Kitô hữu biết chính là nhà tù, nơi đây không có tương lai, không có bóng mát của tình yêu. Đến mà xem cho biết để an ủi họ -những người đang bị ngục tù...
Anh em xem gì trong hoang địa ? - Thời nay hoang địa thì không có nhiều, nhưng hoang địa nơi mỗi tâm hồn thì có nhiều, đó là những tâm hồn thiếu bóng dáng tình yêu của Thiên Chúa, đó là những tâm hồn thiếu tình người khi họ đang sống giữa xã hội chỉ có hưởng thụ và bất công.
Anh chị em thân mến,
Đừng để tâm hồn mình biến thành hoang địa thiếu vắng tình yêu đích thực của Thiên Chúa, đừng để tâm hồn mình trở nên khô cằn như hoang địa vì thiếu tình người, nhưng hãy làm cho tâm hồn mình ấm áp hơn bằng những phục vụ hy sinh cho người bất hạnh và khốn khó, đó là hoa đẹp trổ bông trong sa mạc của thời hiện nay...
Chủ nhật màu hồng là chủ nhật của vui mừng, màu hồng của tình yêu thương đang tô đẹp tâm hồn của người tín hữu, màu hồng là niềm vui chờ đợi ngày viên mãn của Con Thiên Chúa giáng trần với mỗi người trong chúng ta. Hãy dọn lòng cho trong trắng để chờ đón Ngài. Alleluia.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật thứ ba mùa vọng tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan.
“Các anh cứ thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe, …” Mt 11,4)
Chúa Giêsu có cách giảng dạy rất thực tế. Ngài rao giảng Tin Mừng là mẫu mực cho chương trình: MV 3-A42
Chúa Giêsu có cách giảng dạy rất thực tế. Ngài rao giảng Tin Mừng là mẫu mực cho chương trình mục vụ của chúng ta ngày hôm nay. Chúa dùng những phuơng tiện rất đơn giản nhưng không tốn kém tiền bạc mà lại rất hữu hiệu. Trong khi chúng ta ngày hôm nay, phát minh ra đủ thứ; mất biết bao nhiêu giờ để hội họp mà quên đi chính Chúa là người dạy chúng ta phải làm mục vụ như thế nào cho đúng ý Ngài.
Rao giảng Lời Chúa và chữa lành các bệnh tật là công việc Chúa Giêsu đã làm ngày xưa khi bước chân Ngài rảo qua trên mọi lãnh thổ vùng Palestine. Ngài Giải thoát con người toàn diện về tâm linh cũng như thể xác. Giải thoát khỏi mọi trói buộc làm cho con người bị kềm chế trong ách của tội lỗi.
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho các người được Gioan Tẩy Giả phái tới mời gọi chúng ta hãy nhận ra nơi Ngài dấu chỉ của sự can thiệp của Thiên Chúa: Người mù thấy được, kẻ què đi thẳng, người điếc nghe được, kẻ bệnh được lành, kẻ chết sống lại,… và Tin Mừng được loan báo. Thật đơn sơ nhưng đầy quyền năng. Vậy chúng ta có thích đi tìm quyền năng và phương cách của Chúa không?
Cầu nguyện
Lạy Chúa, trong thời đại con đang sống, tất cả đều được nghiên cứu kỹ lưỡng, ngay cả cách truyền giáo. Ðiều này con thấy rất hợp lý và tốt. Nhưng con xin Chúa dạy con trong mọi lúc phải làm gì. Xin quyền năng của Chúa tuôn đổ xuống trên con và qua con tới cho anh em con, để con được trở nên chứng nhân thực sự của Chúa; để rồi, khi người ta nhìn vào công việc chúng con làm, họ nhìn thấy được bàn tay quyền năng của Chúa luôn hoạt động và Chúa của con luôn luôn sống trong thời đại chúng con.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 11:2-11)
Chúa Nhật trước chúng ta đã nghe thánh Mát-thêu thuật lại ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng kêu gọi: MV 3-A43
Chúa Nhật trước chúng ta đã nghe thánh Mát-thêu thuật lại ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng kêu gọi ngưới ta sám hối khi ông thi hành sứ vụ tại bờ sông Gio-đan. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại việc ông làm khi ông đang ngồi tù.
Đã vào tù là hoàn toàn bị hạn chế sinh hoạt, vậy mà ông Gio-an Tẩy Giả vẫn không chịu ngồi yên, nhưng tiếp tục sứ mệnh giúp người ta chuẩn bị đón Chúa Giê-su đến. Qua tin tức bên ngoài, ông đã “nghe biết những việc Đức Ki-tô làm”. Bản thân ông đã nhận ra Chúa và giới thiệu cho môn đệ ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Gio-an 1:29). Tuy nhiên đó mới chỉ là Thánh Thần Chúa linh hứng để ông nói lên như vậy, rồi sau đó ông ngồi tù và không được tận mắt thấy Chúa Giê-su thi hành sứ mệnh. Còn các môn đệ của ông và nhiều người khác vẫn chưa biết gì về Chúa hoặc chưa tin vào Người, cho nên ông Gio-an có cách để trước hết giúp mình và giúp họ xác tín về con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su. “Ông sai môn đệ đến hỏi Người rằng: ‘Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?’” Làm như thế, ông Gio-an muốn môn đệ có dịp trực tiếp gặp gỡ Chúa Giê-su và mắt thấy tai nghe nhưng việc Người làm và giảng dạy, nhờ đó họ sẽ tin Chúa như ông đã tin. Rồi khi các môn đệ tin vào Chúa Giê-su rồi, hoặc họ sẽ đi theo làm nôn đệ Chúa theo lời khuyên của ông, hoặc họ sẽ đi nói cho những người khác biết về Chúa. Đó là cách ông Gio-an Tẩy Giả loan báo Tin Mừng, mặc dù ông đang bị tù đày. Lời Chúa không thể bị xiềng xích được!
Nếu ông Gio-an Tẩy Giả đã tạo dịp để môn đệ mắt thấy tai nghe Chúa Giê-su làm cho “người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy và kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”, nhờ đó họ nhận biết căn tính Đấng cứu độ, thì Chúa Giê-su cũng không tiếc lời ca tụng ông Gio-an Tẩy Giả đã chu toàn vai trò sứ giả cho Chúa. Người tôn ông lên trên cả hàng ngũ ngôn sứ là những người được toàn dân Ít-ra-en kính trọng. Hơn thế nữa, Người còn quả quyết “trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả”. Đến đây Chúa Giê-su đã đóng lại thời đại Cựu Ước và mở ra cho nhân loại một trời mới đất mới, đó là Nước Trời, trong đó “kẻ nhỏ nhất còn cao trọng hơn ông”. Sứ vụ của ông Gio-an Tẩy Giả cao cả như vậy đó, nhưng ông lại hết sức khiêm nhường và chỉ mong muốn Chúa Giê-su phải được nổi bật lên, còn ông phải lu mờ đi (Gio-an 3:30).
Sống sứ điệp Tin Mừng
Những gì thánh Gio-an Tẩy Giả làm đang khi ngài bị tù đày cũng là những điều chúng ta có thể làm trong cuộc sống đầy ràng buộc hôm nay. Chúng ta bị “cầm tù” trong những giới hạn của con người, những bận rộn của đời sống hằng ngày, những nặng nề của bổn phận, những yếu đau cả thể xác lẫn tinh thần… Tuy nhiên chúng ta vẫn có điều kiện thuận lợi hơn thánh Gio-an Tẩy Giả và có nhiều phương tiện thông tin để loan báo Tin Mừng. Chúng ta có thể đích thân nói với người khác về Chúa. Chúng ta cũng có thể làm như các môn đệ của thánh Gio-an Tẩy Giả, là ra đi để mắt thấy tai nghe những điều Chúa làm cho chúng ta và những người thân yêu, rồi kể lại cho người khác biết về Chúa.
Nhưng đặc biệt nhất là Chúa Giê-su quả quyết với chúng ta về giá trị lớn lao của những ai thuộc về Nước Trời. Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta được gọi làm “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời”, làm con cái của Cha trên trời. Vinh dự luôn đi đôi với bổn phận. Vậy để sống xứng đáng với phẩm giá của kẻ thuộc về Nước Trời, chúng ta phải làm gì? Một lần nữa, chúng ta hãy nghe lại sứ điệp của thánh Gio-an Tẩy Giả: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Lm. Đaminh Trần đình Nhi 7-12-2010
Sau khi trình bày đề tài tổng quát trong việc rao giảng lòng thống hối của Gioan tẩy giả và: MV 3-A44
1. Sau khi trình bày đề tài tổng quát trong việc rao giảng lòng thống hối của Gioan tẩy giả và những lời ông đe dọa án xử của vị Thiên sai (cc. 7-9), Luca cho thấy rõ những lời Gioan khuyên bảo những người đến bàn hỏi với ông. Vì Gioan tẩy giả không muốn bắt mọi người sống theo cách sống của ông. Thực ra ông có lập một nhóm môn đệ thân tín và dạy cho họ một công thức cầu nguyện (Lc 11,1); họ cũng có ngày ăn chay (Lc 5,33). Ông chuẩn bị cho họ cách đặc biệt để gởi họ cho Đấng Thiên sai ngay khi có thể.
Nhưng ông cũng kêu mời nhiều người khác sống thánh thiện tùy theo hoàn cảnh của mình. Ông ban cho mỗi người sống những lời khuyên tùy theo hoàn cảnh của mình. Ông ban cho mỗi người những lời khuyên thích hợp vị địa vị của họ. Với tất cả mọi người, ông truyền dạy phải thực thi bác ái; với nhân viên thu thuế và bộ đội, ông nhắc nhở sống công bình trong khi thi hành nhiệm vụ, chống lại những ước muốn tham lam. Đó là những ý kiến đúng và rõ ràng, có thể áp dụng ngay. Về phương diện này, Gioan không tự cho mình là người đầu tiên đưa ra những lời khuyên đó, ông chỉ lấy lại những yêu sách các tiên tri đã công bố. Đó là lời giảng dạy mà ta gặp thấy ví dụ như trong tiên tri Mikêa: “Với cái gì tôi sẽ trình diện trước Giâvê, tôi sẽ phủ phục trước Thiên Chúa Đấng tối cao ? Tôi ra trình diện với của lễ, với bò con một năm ư ? Đức Giavê lại thích hàng ngàn chiên đực hay là hàng vạn sông dầu sao ? Phải chăng tôi nên dâng con đầu lòng của tôi vì sự phạm pháp của tôi và trái của thân thể tôi vì tội lỗi linh hồn tôi sao ? Hỡi ngươi, Người đã tỏ cho ngươi điều gì là thịên; điều mà Đức Giavê đòi ngươi lại không phải là thực thi công bình, yêu mến sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường với Thiên Chúa của ngươi sao ? (Mi 6,6-8).
Như thế Gioan dạy một luân lý “tạm thời” mà trọng tâm là: “Hãy làm hết sức mình trong các hoàn cảnh hiện tại, đang khi chờ đợi thời đại thiên sai đến”. Vì thế ông không đòi buộc người ta phải tách lìa khỏi thế gian xấu xa hoặc phải từ bỏ các nghề nghiệp trong thế gian. Ông chỉ đòi hỏi lòng nhân hậu và đức công bình: đó là những hoa trái biểu lộ lòng sám hối đích thực trong lúc này. Những việc làm cụ thể của đức ái mà ông đề nghị đã được qui định trong CƯ (Is 58,7; Giop 31,17.19.21; Ez 18,7.16...) và trong đạo Do thái sau này, như là dấu hiệu phân biệt làng đạo đích thực đẹp lòng Giavê. Giáo huấn của Gioan chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt hơn của Chúa Giêsu (Lc 6,29t 32-36; Mt 5,39-48).
Sứ điệp của vị tiền hô liên quan đến Đấng Thiên Sai (cc. 15-18) được đóng khung trong một câu nhập đề và một câu kết luận theo lối hành văn thông thường trong Phúc âm thứ ba. Chúng ta biết dân chúng đang chờ đợi sự thực hiện các lời hứa Thiên sai. Cho nên lời rao giảng của Gioan gặp được thửa đất thuận lợi để sinh hoa trái vì ông loan báo Tin mừng (c.18). Nhưng dần dần người ta tự hỏi có phải Gioan là Đấng Thiên sai không, nên ông cố gắng đánh tan sự ngộ nhận đó.
Gioan so sánh phẩm giá của hai nhân vật mà dân chúng dễ lẫn lộn: người này là chủ, người kia là nô lệ. Để cho dân chúng hiểu rõ hơn, ông lấy hình ảnh người đầy tớ đi theo chủ tiệc đến dự tiệc: khi vào phòng tiệc, ông chủ cởi giày, thì người đầy tớ cúi xuống chân chủ (chi tiết này chỉ có Mc 1, tả lại thôi) để cởi sợi dây buộc giày và trong suốt bữa tiệc, người đầy tớ cầm giày của chủ trên tay (Mt 3,11). Trong cả ba phúc âm nhất lãm, chúng ta có thể đọc lời tuyên xưng của vị tiền hô về địa vị thấp kém của mình đối với Đấng Thiên Sai. Ý tưởng diễn tả trong ba bản văn đều giống nhau; hình ảnh trình bày ý tưởng đó cũng giống nhau, nhưng trong các lời nói của Gioan, ba bản văn đã không giữ lại cùng một chi tiết của cũng một hình ảnh: hai bản Lc và Mc chú trọng đến cử chỉ của người đầy tớ đang cởi giày, bản văn Mt thì làm nổi bật thái độ của người đầy tớ xách đôi giày ấy.
Người ta cũng còn có thể so sánh hai phép rửa. Đó là điều mà Gioan đã không bỏ quên. Nét khác biệt rất rõ ràng: “Phần tôi, tôi thanh tẩy các người bằng nước... Đấng quyền thế hơn tôi... chính Ngài sẽ thanh tẩy các người trong Thánh Thần và lửa”.
Sự đối nghịch rõ rệt đó có thể làm cho ta tưởng rằng phép rửa do Đấng sẽ đến, Đấng Thiên sai, sẽ không là phép rửa bằng nước như phép rửa của vị tiền hô. Tuy nhiên, sau này Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô là sự tái sinh Kitô giáo được thực hiện bởi Thánh Thần và nước, trong phép rửa (Ga 3,1-10).
Phép rửa mà Đấng Thiên sai thiết lập sẽ vừa là một phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa. Nước chỉ nghi thức bên ngoài, rửa sạch trên thân xác, lửa là biểu tượng cho sự biến đổi trong tâm hồn sâu thẳm. Vì trong lúc nước chỉ chạm tới mặt ngoài của sự vật, thì lửa trái lại, xuyên thấu vào trong, thanh tẩy, soi sáng và đốt nóng Ta sẽ không tìm gặp được nơi phép rửa do Đấng Thiên sai lập một thứ lửa nào khác ngoài lửa của Thánh Thần: vì chính Ngài thánh hóa các tâm hồn.
Tuy nhiên về điểm này, hãy xem lại những giải thích đã học được trong loạt bài chú giải về Mt 3,11 (bộ chú giải phúc âm chủ nhật năm A). Có thể là trên bình diện lịch sử của Gioan tẩy giả, không nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng đúng hơn là phép rửa trong “gió” điểm này cho phép kết luận là chỉ “lửa” giữ nguyên cùng một ý nghĩa như “lửa phán xét” được nói qua cả đoạn văn. Sau nữa, khi người Kitô hữu đọc lại phúc âm, thì họ giải thích “gió” như là hơi thở của Thánh linh: lối giải thích như thế không có gì lạ, vì trong tiếng Do thái cũng như Hy Lạp, cũng một chữ đó (ruâ: Do thái; pneuma: Hy lạp) vừa chỉ gió và Thánh Linh. Cho nên theo lối tái lập lịch sử thì có lẽ Gioan tẩy giả đã nói đến phép rửa “trong gió và lửa” của sự phán xét; nhưng từ thuở ban đầu (có lẽ bắt đầu từ thời truyền khẩu) người Kitô hữu đã hiểu những chữ này như báo trước một phép rửa trong “gió hay trong Thánh Linh và lửa” của ngày hiện xuống.
Cũng nên nói ngay là hình như không cần phải hạn hẹp tầm quan trọng của Lời Gioan vào phép rửa Kitô giáo: “Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Linh và lửa”. Phải xem câu này là lời loan báo về sự chuyển thông Thánh Linh do Chúa Giêsu, hoặc bằng phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng phép thêm sức, hoặc bằng các cách khác.
Đó là ngọn lửa lớn mà Chúa Giêsu đã đến để ném vào thế gian (Lc 12,49). Trước khi lên trời, ngay thăng thiên, Ngài đã truyền cho các tông đồ hãy ở lại Giêrusalem để chờ đợi “điều Chúa Cha đã hứa, như các con đã nghe Ta nói”. Vì chưng, Gioan đã được thanh tẩy bằng nước, còn các con, không mấy ngày nữa, sẽ được thanh tẩy bằng Thánh Thần (Cv 1,4-5). Và trong chính ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần đã xuống trên đầu họ dưới hình lưỡi lửa, đem lại phép rửa trong Thánh Thần và lửa cách tỏ tường (Cv 2,1-5).
Như thế, giữa phép rửa của Gioan và của Đấng Thiên sai không có cùng một giá trị. Phép rửa của Gioan không luôn luôn là phép rửa bằng nước và chỉ là phép rửa bằng nước. Đó là một nghi thức tượng trưng nhằm thúc đẩy và diễn tả tâm tình thống hối. Phép rửa của Đấng thiên sai là sự tuôn tràn Thánh linh mà có thể không cần phải rửa bằng nước và ngay chính khi nghi thức bên ngoài là việc rửa bằng nước (phép rửa Kitô giáo), thì vẫn nhằm nóiđ ến hoạt động bên trong tâm hồn nơi Thánh linh xuyên thấu như lửa.
Nhưng đây còn có một thứ lửa khác mà Đấng Thiên sai trang bị sẵn sàng: lửa của phán xét. Như thế chúng ta được đặt giữa hai thứ lửa: lửa của thánh linh và lửa giận dữ không hề tắt. Vì Đấng Thiên sai sẽ là quan án: sân lúa là thế gian, kho lẫm là cõi trời. Khốn cho ai bị Ngài ném vào lửa như vỏ trấu vô dụng hoặc như rơm rạ vụn vặt. Vì “Đấng uy quyền” hơn Gioan thật đáng sợ . Hình như đó là nét chính yếu của lời rao giảng và hành động tượng trưng của Gioan tẩy giả.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai, là quan án thời tận thế. Đức tin và lời kinh của Giáo hội không có quyền chểnh mảng vai trò của mình trong khía cạnh này. Lời rao giảng của Gioan tẩy giả vẫn còn giá trị, dù không chứa đựng tất cả những gì Chúa Thánh Thần đã mạc khải Luca đã hiểu bài diễn từ của Gioan như một lời rao giảng hiện đại cho hoàn cảnh Giáo hội của ông bấy giờ. Điều đó biểu lộ qua câu 15 dùng để nhập đề, với câu hỏi: Gioan có phải là Đấng Thiên sai không ? Vị Tẩy giả làm chứng Đấng Thiên sai là một người khác: là Đấng mà ông chiêm ngưỡng và loan báo như là quan án. Hình ảnh quan án vẫn là hình ảnh cốt yếu cho Tân ước và Giáo hội. Không phải chỉ có những thính giả thời ấy, nhưng tất cả mọi Kitô hữu đều có sự chọn lựa được “thanh tẩy” trong Chúa Thánh Thần.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thính giả Gioan tẩy giả chất vấn: “chúng tôi phải làm gì ?” Lòng thống hối đích thực không bao giờ dừng lại nơi những tình cảm bên trong, nơi những tư tưởng tốt đẹp, nhưng còn phải thể hiện qua hành động bằng một cuộc sống phù hợp với giáo huấn của Chúa kitô. Không phải những người nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa là vào được nước trời, nhưng những ai thực hành ý Chúa, nghĩa là thực thi công bằng xã hội, chia sẻ, tha thứ xúc phạm, liêm chính trong nghề nghêịp.
2. Gioan tẩy giả sai mỗi người trở về nghề nghiệp hiện tại, với nhiệm vụ của mình. Không phải việc ta làm khiến ta trở thành môn đệ hoặc không phải là môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng là cách thế ta làm. Chúa Giêsu không đòi ta từ bỏ nghề nghiệp và từ bỏ thế gian để đi tu. Ngài đòi chúng ta phải thi hành nghề nghiệp chúng ta theo Phúc âm: nghĩa là phục vụ anh em trong yêu thương và công bằng, chú ý đến kẻ khác và quên mình, chuyên cần làm việc và vui tính. Nhờ nghề nghiệp khiêm tốn mấy đi nữa của chúng ta mà người khác “sẽ thấy ánh sáng và ca tụng vinh quang Chúa: (Mt 5,16).
3. Gioan tẩy giả tự nhận mình dưới quyền Chúa Giêsu: ông là đầy tớ chỉ đáng lo giày dép cho Ngài thôi. Khi tự coi mình như thế, trước mặt Chúa, Gioan tẩy giả không tìm cách hủy diệt mình bằng một thứ tình cảm giận ghét chính bản thân. Ông không tìm cách chối cãi những ưu điểm có thật và những năng khiếu tự nhiên của mình. Không khinh chê ơn gọi tiên tri của mình. Ông chỉ làm cho người ta nhận ra địa vị đích thực của ông: là vị tiền hô, chứ không phải là Đấng Thiên sai. Đó chính là Đức khiêm nhượng đích thực của người Kitô hữu: nhận biết mình là gì trước mặt Chúa. Vui vẻ chấp nhận mình chỉ là Đấng thụ tạo trước mặt Đấng tạo hóa, một tội nhân trước mặt Đấng cứu chuộc. Đức khiêm nhượng đích thực không dừng lại nơi chính mình, dù là chỉ để chê bai: người nào luôn nói tới những lỗi lầm của mình, những thiếu sót khả năng, sự bất xứng... người đó có ít cơ may trở thành kẻ khiêm tốn, họ quá lo lắng về chính mình. Cái nhìn khiêm tốn thật sự phải hướng về Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, phải ý thức đến vực thẳm ngăn cách mình với Ngài, nhưng còn phải ý thức nhiều hơn về lòng nhân hậu, cao sang của Đấng mình yêu.
4. Gioan thanh tẩy trong phép rửa thống hối. Về điểm này, sứ điệp của ông vẫn luôn thực hiện cho chúng ta. Vì chúng ta phải luôn luôn thống hối, phải chuẩn bị cho “Đấng uy quyền hơn chúng ta” đến phải thanh tẩy tâm hồn khỏi những khát vọng bất chính, khỏi những hẹp hòi, khỏi chai đá. Nhất là trong mùa vọng này, chúng ta phải làm cho các năng lực của phép rửa tội tái hoạt động bằng việc canh tân tâm hồn để mừng đại lễ Giáng sinh và dịp đó Đức Giêsu sẽ tự trao ban Ngài cho chúng ta với một nguồn súc mạnh và ánh sáng phong phú để nối kết chúng ta trong tình thân mật với Ngài.
5. Lời Gioan tẩy giả hứa về một phép rửa tương lai của Thánh linh đã được thực hiện cho chúng ta. Khi ta lãnh nhận bí tích rửa tội, Chúa Thánh Thần đã thực sự thông ban cho chúng ta. Ngài làn cho chúng ta trở thành đền thờ, nơi cư ngụ thường xuyên của ngài, dấy lên trong lòng chúng ta những tâm tình con thảo đối với cha trên trời. Chính Thánh Linh, giây tình ái giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu, hằng cầu nguyện trong ta và giúp ta dần dần trở nên giống Chúa Giêsu con thật của Chúa Cha, nếu ta biết vâng theo cảm hứng của Ngài và các tác động êm dịu của Ngài trong tâm hồn chúng ta. Hoạt động của Thánh Linh trong ta sẽ thanh tẩy ta bừng một, sẽ đốt cháy những ngọn rơm ích kỷ và hèn nhát, sẽ giữ gìn đến muôn đời hạt cúa công phúc và trung tín của ta đối với việc bổn phận.
Cuối tháng 8.2006, Mỹ đã thực hiện một vụ dẫn độ hy hữu trong lịch sử tội phạm, khi trao trả:MV 3-A45
Cuối tháng 8.2006, Mỹ đã thực hiện một vụ dẫn độ hy hữu trong lịch sử tội phạm, khi trao trả về Đức một phụ nữ đã 84 tuổi, Elfriede Rinkel, vốn là một nữ cai ngục Đức trong Thế chiến thứ 2, đã chạy trốn sự trừng phạt của công lý trong suốt sáu thập kỷ qua. Theo sự thú nhận của Rinkel thì bà ta là một trong số 958 nữ cai ngục của trại tập trung Ravensbruck tại nam Berlin, Đức.
Đây là một trại tập trung khét tiếng chủ yếu dành cho phụ nữ với số tù nhân lên đến 150.000 người ( trong đó 130.000 là nữ ), khoảng 90.000 tù nhân đã bị đưa vào phòng hơi ngạt hoặc chết vì đói rét. Cơ quan điều tra Mỹ đã phải nghiên cứu, sàng lọc trong số 70.000 hồ sơ liên quan đến trại Ravensbruck và quyết tâm tìm kiếm bằng được vì "đây là những kẻ giữ vai trò quan trọng đưa đến những cái chết đau thương của tù nhân trong các trại tập trung của Đức quốc xã". Năm 1962, Rinkel kết hôn với Fred Rinkel, một người Do Thái gốc Đức có cha mẹ đều đã bị Đức quốc xã giết hại trong trại tập trung. Cho đến khi qua đời, người chồng của Rinkel vẫn không hề hay biết quá khứ đen tối của người vợ yêu qúy. Người xưa nói: Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát. Cái kim để trong bị lâu ngày cũng sẽ lòi ra.
Chuyện "bằng giả" hay "bằng thật, học giả" không mới, nhưng đáng kinh ngạc là nó được tổ chức rất quy mô và công khai. Hàng ngàn người cũng nộp đơn, cũng đi thi nhưng thật sự chẳng phải thi gì cả, mà chỉ cần chi vài trăm ngàn đồng là có ngay cái bằng tin học hay Anh Văn do Bộ GD-ĐT cấp hẳn hoi. Rất nhiều khách hàng của đường dây này là cán bộ công chức nhà nước sẵn sàng chấp nhận cái kiểu "học giả, bằng thật". Chỉ từ tháng 6 năm 2000 đến nay, các cấp quản lý đã phát hiện tới 7.425 trường hợp văn bằng chứng chỉ không hợp pháp. Con số đó có lẽ chưa phản ánh đúng thực tế nghiêm trọng của vấn đề. Cái giả tồn tại và nhiều khi lấn lướt cái thật, vì biết núp kín dấu kỹ và biết dùng danh lợi để che dấu mọi khuất tất giữa cái xã hội cũng chạy theo thành tích và sẵn sàng bao che những sự giả dối.
Nhưng có một con số khiến mọi người phải chưng hửng: Trong 1.000 năm trong tổng thể lịch sử của dân Israel, đã có 600.000 nam tiên tri và 600.000 nữ tiên tri. Hiệp ước Avodâ Zara chỉ giữ lại 48 tên của nam tiên tri và 7 nữ tiên tri vì họ có ích lợi cho các thế hệ. “Tiên tri” vì vậy mất dần ý nghĩa trong đại. Vì thế, khi xác nhận Gio-an Tẩy Giả là một tiên tri, Chúa Giê-su nói tiếp ngay như một lời thanh minh cho ý nghĩa từ “tiên tri” mà Người đã dùng: “Đây còn hơn cả tiên tri nữa” ( Mt 11, 9 c ), là sứ giả do Chúa sai đi dọn đường ( x. Mt 11, 10 )
TỪ PHÍA GIO-AN TẨY GIẢ
Bị rơi vào tay vị vua dâm ác, Gio-an Tẩy Giả biết cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, Ngài lo nghĩ nhiều về những môn đệ vẫn trung thành với Ngài. Ngài muốn gửi gắm họ cho Chúa Giê-su, nhưng phải làm sao để đánh động họ và làm cho họ “tâm phục khẩu phục” trước khi dạy họ gắn bó với Đấng Messia đích thực. Ngài đã cho họ những dấu chỉ để nhận ra Đấng Thiên Sai và ai đáp ứng đầy đủ các tiêu chí ấy, thì đó chinh là và mới là Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi: “người mù xem thấy; kẻ què đi được; người cùi được sạch; kẻ điếc nghe được; người chết sống lại; kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”. Những điều đó, các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã mắt thấy tai nghe. Những điều đó cũng là những gì Kinh Thánh đã nói. Trọn vẹn các tiêu chí ấy đã thể hiện nơi hành động của Chúa Giê-su, Đấng mà Thầy Gio-an gửi họ đến. Trăm nghe không bằng một thấy!
Cách làm khôn ngoan cho thấy Gio-an Tẩy Giả làm một nhà sư phạm lỗi lạc. Cách Ngài chỉ dạy cho các môn đệ khiến ta không khỏi nghĩ đến phương pháp “đỡ đẻ” của nhà hiền triết Hy Lạp Socrates. Phương pháp này hệ tại ở chỗ gợi ý, rồi để cho người nghe tự khám phá ra chân lý. Câu hỏi duy nhất mà Thánh Gio-an Tẩy Giả căn dặn các môn đệ hỏi Chúa Giê-su, khi họ đến gặp Người: “Thầy có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi ai khác ?” ( Mt 11, 3 ). Hiểu ý người anh họ Gio-an, Chúa Giê-su không trả lời khẳng định, mà chỉ đưa ra những lời đã ghi trong Kinh Thánh, mà ai đã nghe, đều biết đó là dấu chỉ của Đấng Ki-tô: cũng là những gì họ thấy nơi Chúa Giê-su.
TỪ PHÍA CHÚNG TA
Ngày nay, dưới bàn tay đạo diễn của Xa-tan, đủ loại tiên tri giả theo nhau xuất hiện: làm cho con người luôn lo sợ bất an, như những kẻ xúi giục một số người quá khích điên cuồng giết người vô tội, phỉnh gạt họ sẽ đạt hạnh phúc thiên đàng bằng sự căm thù và giết chóc; làm cho con người lung lạc đức tin, nghi ngờ chân lý và rời xa Thiên Chúa và Hội Thánh Công Giáo như những người sử dụng sách báo, phim ảnh, các phương tiện truyền thông để “giết chết Thiên Chúa” ( lời tuyên bố của Phillip Pullman, tác giả cuốn sách “Chiếc la bàn bằng vàng” chuyển thể thành phim vừa mới trình chiếu ngày 7 tháng 12 năm nay ); tôn thờ vật chất, xác thịt đẩy con người tới việc coi nhau như những món đồ vật để thoả mãn sự ích kỷ và dâm ô, trụy lạc, đã làm cho đời sống luân lý đạo đức của không ít người trẻ tuổi hư đốn, sai lạc. Ma túy lúc ấy chỉ là phương tiện làm cho người sa đà không còn ý chí để dừng bước và quay lui.
Những hành vi của “văn hóa sự chết” như ngừa thai, nạo phá thai, an tử hay là hôn phối đồng tính…chỉ là hậu quả tất yếu; tiếp tay vào đó phá hoại một cách “tích cực”, làm cho anh em mình sa vào hố sâu lầm lạc, mất đức tin, khiến Xa-tan và các thế lực thù ghét Hội Thánhh vui mừng hoan hỉ, chính là những người thừa thông thái, thừa địa vị danh giá, nhưng vô cùng thiếu khiêm nhường, - trong đó không thiếu những Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ, những nhà thần học lỗi lạc: tất cả đều thông tuệ. Họ chỉ quên một điều: sứ mệnh Chúa giao cho họ.
Đúng ra, họ quên rằng tất cả những điều tốt đẹp họ đang có, chỉ là những nén vàng Chúa trao cho họ sinh lời. Họ đã đem nó sinh rất nhiều lãi, song là làm lợi cho Xa-tan và hoả ngục, phát xuất từ sự ích kỷ và kiêu căng của họ. Hai tiêu chí để họ tự thẩm định những gì họ làm có phải là suy nghĩ, lời nói và hành vi của ngôn sứ thật hay của tiên tri giả, Phản Ki-tô ( Anti Christ ): phải xuất phát từ Thiên Chúa và vì tha nhân. Không có bất cư ai trong số những người này có được những tiêu chí đó, dù chỉ là một chút hơi hướng !
Đang buồn thay, lạy Chúa, cái đáng sợ nhất nơi chúng con và cũng là cái đáng cho chúng con sợ nhất, ấy là sự vô cảm đến rợn người. Trong cuộc mưu sinh bận rộn vất vả vì cơm-gạo-áo-tiền đang vắt kiệt dần thể xác và tinh thần mỗi người, chúng con thấy Chúa cứ xa dần, Lời của Chúa ngày càng lộ ra khắt khe hơn, sứ mệnh Ki-tô hữu ngày càng lạc lỏng và nên gánh nặng, bỏ đi không được – vì áy náy lương tâm – nhưng còn đâu sức hơi tâm trí và thời giờ để thực hiện.
Đời sống Ki-tô hữu của chúng con, vì thế, như “bèo dạt mây trôi”, đến đâu hay đó, được chăng hay chớ. Có chăng một lúc nào đó, nhìn lại cuộc đời, chúng con còn biết giật mình trước câu hỏi do những người thân, do tha nhân đặt ra cho chính con: Anh chị có thật là người đã lãnh nhận Chúa Ki-tô và sứ mệnh ngôn sứ của người, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác ? Khi ấy, con sẽ trả lời ra sao ?
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu Số 80
Qua bài Tin Mừng Mt 4, 12-23 thánh Matthêu quả là tài tình khi phác họa được những nét nổi bật: MV 3-A46
Qua bài Tin Mừng Mt 4, 12-23, thánh Matthêu quả là tài tình khi phác họa được những nét nổi bật về Nhân Vật mà “ông đã đứng dậy đi theo Người”, chỉ vì một lời mời gọi ngắn gọn “Anh hãy theo tôi!” (Mt 9, 9), và chỉ bởi ánh mắt nhìn của Người tựa “ánh sáng huy hoàng” “bừng lên chiếu rọi” con tim khốn khổ của một người thu thuế, mà hầu như mọi người tự cho mình là công chính thời đó đã coi ông là người “đang ngồi trong bóng tối của tử thần” tức một người tội lỗi (Mt 4, 16).
Trước khi chấm phá những nét nổi bật của Đức Giêsu, Người đã kêu gọi đi theo Người, thánh Matthêu đã khẳng định chương trình cứu độ của Thiên Chúa bằng cách khéo léo dẫn chứng những câu Kinh Thánh mà ngôn sứ Isaia đã được mặc khải trước đó đã hơn 600 năm về ánh sáng huy hoàng tức về Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ muôn dân. Rồi dựa vào những bước chân ra đi chuyển hướng của Đức Giêsu, ngài cũng đưa ra nội dung chính yếu trong giảng dậy của Người bằng lời tóm gọn rất ư là thú vị nhưng thực sự hàm súc là:
“Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 4, 17)
Lời giảng dậy của Người, theo cảm nghiệm của tôi, rất tuyệt vời, bởi như Gioan thánh sử đã chiêm niệm trong phần Lời Tựa rằng:
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Ngưới. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1, 9-11)
Sự việc “người nhà chẳng chịu đón nhận” được minh chứng một phần bằng biến cố “khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp” (Mt 4, 12) mà “ông Gioan đến để làm chứng và làm chứng vế ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga 1, 7-8) Do sự chối bỏ người làm chứng về ánh sáng thật đó mà Đức Giêsu đã thiết lập một Dân Mới với những môn đệ nồng cốt mà Người gọi là tông đồ để cùng với Người thi hành sứ vụ Đấng Cứu Thế mà thánh Matthêu đã phác họa bằng vài chữ rất súc tích:
“Thế rồi Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dậy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyện của dân.” (Mt 4, 23)
Cũng thế, sau biến cố “ông Gioan Tẩy Giả đã bị nộp”, hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả là Anrê và Gioan đã phải trở về hành nghề đánh cá cùng với hai người em và anh của hai ông là Phêrô và Giacôbê, với một tâm tình chắc chắn đã trao đổi cùng với nỗi chán nản và buồn khổ về lòng chai dạ đá của Hêrôđê mà thầy của các ông đã phải bị ngồi tù. Còn các ông biết đâu một ngày nào đó cũng có thể bị dính líu vào cùng với thầy của mình. Các ông nào có khác gì như “những người ngồi trong bóng đêm của tử thần” cùng với thầy của mình.
Hơn nữa, Đức Giêsu là người mà Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu rất thâm hậu: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”(Ga 1, 29). Thế cho nên, các ông đã mau mắn đi theo Người sau khi được kêu gọi vì biến cố đau lòng mà các ông đã và đang trải qua. Cũng giống như Matthêu, người đã phải cay đắng khốn khổ vì bị coi khinh là người tội lỗi. Nhưng một khi biết Đức Giêsu là người đã sống gần gũi, hòa đồng vớí mọi người, nhất là những người thu thuế và tội lỗi, như ông đã phải ghi lại rằng: “Thật vậy, những người Pharisêu nói với các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” (Mt 9, 11), thì ông đã dứt khoát liền “đứng dậy đi theo Người”.
Suy tới đây, tôi nhớ lại hành trình gặp gỡ Ánh Sáng Huy Hoàng Là Đức Kitô của một phụ nữ còn khá trẻ, thông minh, duyên dáng và đầy lòng nhân ái mà tôi đã có dịp gặp, rồi tâm sự vài lần tại Mái Ấm Phan Sinh, nơi dành cho những người mang chứng bệnh liệt tủy sống, nhân dịp mừng kính Giáng Sinh năm 2007 vừa qua...
Khi còn là sinh viên, chị đã yêu một người bạn trai khá thắm thiết, khá thân tình. Nhưng sau khi biết được người bạn trai đó đã có người yêu từ trước đó 4 năm, chị đã tự nguyện chia tay, dù đã phải vật lộn với mối tình đang nồng thời xuân xanh nhưng pha chút trái ngang này. Sự hy sinh của chị không ngoài lòng yêu thương người bạn gái kia đã là người đến trước. Chị đã thể hiện được lòng cao thượng đối với người khác vì không muốn đánh mất hạnh phúc mà họ đang có với nhau. Còn chị, chị đón nhận phần mất mát về mình nhằm đem lại niềm vui cho người khác.
Rồi sau khi ra trường Y, chị kết hôn với một doanh nhân khá thành đạt, với bao thăng trầm của cuộc đổi đời trong xã hội thời mở cửa. Qua 7 năm sống với nhau và có một cậu con trai, chị không ngờ tình yêu chân tình của chị đã bị chồng phụ bạc, bỏ bê để chạy theo những thác loạn trong đời sống đã có nhiều đổi thay trong nấc thang giầu nghèo. Chị cảm thấy chán nản vì tình yêu chân thành mà chị đã hiến dâng nay đã gần như trôi dần vào quên lãng bằng những lần đi hoang, đàn đúm, sa đọa trong rượu chè và trác táng của người chồng mà chị đã từng quí yêu, tin tưởng.
Trứơc những biến động về một tình yêu bị xem thường, chị bỗng gặp lại người tình thời trai trẻ. Quả là, “tình cũ không rủ cũng đến”. Hậu quả của cuộc tình “trở về chốn xưa” này làm chị điên đảo, hao mòn. Chị cảm thấy tâm hồn và trí tuệ bị giao động, bị stress đến cao độ. Lắm lúc chị như muốn bất chấp tất cả để sống thỏa mãn như con tim réo gọi. Nhưng rồi, với tâm hồn cao thượng mà trước kia chị đã sống qua, lại níu kéo chị một lần nữa thăng hoa. Cứ thế, thời gian làm chị quay cuồng điên lọan, nhưng lại chẳng tìm ra được lối thoát hòan hảo nào, kể cả trong các trang sách triết lý siêu thoát hoặc tâm sinh lý hiện đại.
Nhân một chuyến đi chơi về Bãi Dâu, Vũng Tầu do một vài người bạn Công Giáo hiểu và khuyên nhủ chị hãy tìm đến với Mẹ của Đấng Cứu Thế, chị đã bất ngờ khóc nức nở dưới chân tượng Đức Mẹ bởi sự yếu hèn quá đắng cay của chị đã không thể nào từ bỏ vừa là sự trả thù, vừa là cách hận đời đen bạc vì thiếu tình yêu thương tha thứ. Và sau chuyến đi ân sủng đó, chị đã quyết định tìm đến với Phúc Âm.
Dù là một người không tôn giáo chỉ sống theo đạo ông bà, nhưng chị đã miệt mài kiên trì tìm niềm an ủi nơi những trang Tin Mừng và dần dà rồi chị cũng nguôi ngoai sau một thời gian âm thầm cầu nguyện đơn sơ với Đấng Cứu Độ mà vài người bạn Công Giáo đã chỉ vẽ, giúp đỡ, khích lệ. Cho đến một ngày, chị nghe được Ánh Sáng Lời Đức Giêsu nhắn bảo chị rằng: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “rabbi” vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau.” (Mt 23, 8)
“Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau”. Lời này đã giúp chị nghiền ngẫm, giúp chị tỉnh táo hơn và rồi nhờ ân ban từ Đấng mà chị bắt đầu tin và yêu mến qua cầu nguyện lặng lẽ, đã biến đổi tâm hồn và trái tim của chị. Với chồng, chị cũng đã biết yêu thương trở lại như một người anh em và không còn thù hận về những gì đã xẩy ra trong quá khứ. Kể cả với người tình năm xưa, chị cũng đã không còn có những rung động mặn mà như trước đây nữa. Ngoài ra, chị cũng đã nhìn mọi người khác, nhất là những người bệnh hoạn khốn khổ, khuyết tật đều cùng là anh em với nhau của chị.
Rồi cách nay một năm, chị đã lãnh nhận phép Thánh Tẩy làm con cái Chúa. Đồng thời, chị đã dành nhiều thời gian rảnh rỗi để đến chia sẻ với những người bệnh tật vừa bằng vật chất và tinh thần. Chính nhờ vào Ánh Sáng Lời Chúa chiếu rọi mà chị đã thoát ra khỏi vũng lầy của tội ngoại tình. Không những thế, chị còn biết cho đi thời gian, của cải cũng như đôi chân, đôi tay để hàn gắn những nỗi khổ đau của nhiều người bất hạnh là những người anh em của chị, là con cùng một Cha trên trời. Nơi cửa hàng mắt kiếng của chị, tất cả những người khuyết tật đều được chị giảm 30% chi phí khám và cắt kiếng.
Từ câu chuyện hoán cải trên do ân ban từ Lời Hằng Sống, tôi liên tưởng đến lời ĐTC Bênêđictô XVI ban huấn từ cho các đan sĩ Xitô Thánh Giá tại Áo. Ngài xác tín rằng:
“Thiên Chúa, Đấng Tự Hữu, không đặt để nhân loại chúng ta trong tối tăm kinh khủng, trong đó chúng ta phải mò mẫm, tìm kiếm một ý nghĩa tối hậu của mình một cách tuyệt vọng. Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta trong sa mạc hư vô, vô nghĩa, chỉ có chết chóc chờ đợi chúng ta. Không phải vậy, Thiên Chúa đã soi sáng những nơi tối tăm của chúng ta bằng Ánh Sáng của Người là Đức Giêsu Kitô. Trong Chúa Con, Thiên Chúa đã đi vào thế giới chúng ta với tất cả sự sung mãn của Ngài.”
Lạy Cha Chí Thánh,
Xin ban cho chúng con sự kiên trì học hỏi, suy niệm cùng cầu nguyện Lời Chúa.
Xin mở mắt tâm hồn để chúng con nhìn “thấy Ánh Sáng Huy Hoàng luôn bừng lên chiếu rọi” trong cuộc đời chúng con còn có quá nhiều “những vùng bóng tối của tử thần”. Amen.
Như chúng ta đã biết, Gioan Tiền Hô vì lên tiếng chỉ trích Hêrôđê nên đã bị tống vào ngục: MV 3-A47
Như chúng ta đã biết, Gioan Tiền Hô vì lên tiếng chỉ trích Hêrôđê nên đã bị tống vào ngục. Từ thế giới tù đày, ông đã sai hai môn đệ thân tín đến gặp Chúa Giêsu và đưa ra câu hỏi: Thầy có phải là Đấng sẽ đến, hay là chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?
Câu hỏi này thoạt xem ra thì có vẻ vô lý và mâu thuẫn với sứ mạng tiền hô, với sứ mạng dọn đường của Gioan. Phải chăng ông đã chẳng long trọng giới thiệu Chúa Giêsu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian đó sao? Phải chăng bên bờ sông Giođan ông đã chẳng xác quyết: Ngài phải rửa cho tôi chứ không phải là tôi rửa cho Ngài. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài? Rồi với những sự kiện lạ lùng sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, với sự tỏ lộ đặc biệt của Chúa Thánh Thần, ông đã tin chắc Chúa Giêsu người Nadarét chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ những thế kỷ về trước. Vậy thì tại sao bây giờ ông lại nghi ngờ và phản lại những lời đã xác quyết? Theo tôi nghĩ vấn đề được đặt ra thật quan trọng. Quan trọng không phải cho bản thân của Gioan vì ông không hề nghi ngờ chi nữa, nhưng quan trọng cho các môn đệ của ông, bởi vì họ còn đang phân vân, lưỡng lự và chưa dứt khoát được lập lập trường đối với Chúa Giêsu. Ông tin chắc câu trả lời và những lý chứng của Chúa Giêsu sẽ là một thứ ánh sáng phán tan mọi thứ nghi ngờ còn đọng lại trong cõi lòng của họ. Thực vậy, những phép lạ Ngài làm là một lý chứng hùng hồn nhất về sứ mạng cứu thế của Ngài: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người chết sống lại và những kẻ nghèo túng được loan báo Tin Mừng. Và sau đó Chúa Giêsu đã lên tiếng ca tụng Gioan Tiền hô.
Người Do Thái luôn trông chờ một Đấng Cứu thế. Còn chúng ta thì khác, chúng ta đã tin tưởng chắc chắn Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ muôn ngàn thuở trước và chúng ta là những người đã Ngài được cứu chuộc. Ngài là Đấng chúng ta đặt trọn vẹn niềm cậy trông. Hãy kiên nhẫn trông đợi ngày Ngài trở lại. Không vội vàng, không hấp tấp. Hãy tin tưởng vào thời gian và sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa trên những nẻo đường chúng ta đi.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII thường nói: Chúng ta hãy tin tưởng vào thời gian bởi vì thời gian sẽ sắp đặt mọi sự. Nó sẽ giúp chúng ta nhìn rõ bàn tay yêu thương của Chúa, cũng như giúp chúng ta gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chân lý này đã được thực hiện trong chính cuộc đời của ngài. Với tính tình hiền hoà và đôn hậu người ta tưởng rằng ngài sẽ chẳng làm được những việc phi thường trên ngôi giáo hoàng. Thế nhưng Chúa đã dùng ngài để hướng dẫn Giáo Hội. Chính ngài đã quyết định triệu tập Công đồng Vatican II và đã thổi vào Giáo Hội một tinh thần, một luồng sinh khí mới.
Thánh Giacôbê tông đồ cũng đã khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy kiên nhẫn trông chờ ngày Chúa đến. Như người nông phu kiên nhẫn trông chờ những giọt nước mưa, và hoa màu của đồng ruộng. Anh em cũng hãy bền chí và vững tâm vì Chúa đã gần đến.
Thánh Vincentê luôn cảnh giác chúng ta: Đừng hấp tấp vội vã vì đó là mưu mô của ma quỷ, lừa dối những người thiện chí để rồi cuối cùng chẳng làm được gì cả. Để kết luận chúng ta hãy nhớ tới lời Chúa: Ai kiên tâm và bền chí đến cùng thì sẽ được cứu thoát.
Nếu khởi đầu Mùa Vọng là một màu xanh của những tâm hồn biết rằng Thiên Chúa hằng: MV 3-A48
Nếu khởi đầu Mùa Vọng là một màu xanh của những tâm hồn biết rằng Thiên Chúa hằng hy vọng vào mình và hành trình Mùa Vọng là một màu tím của những cuộc đời sám hối, thì ở giữa lòng Mùa Vọng, đời người đã được đặt vào một vận hành mới với một năng lực mới cho một cuộc đời mới. Những cái mới ấy Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay diễn tả bằng một niềm vui và lễ phục minh họa bằng một tông màu bất ngờ tươi sáng để cùng với Giáo Hội, Chúa Nhật hôm nay xin được gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng.
Vâng! Màu hồng. Nhưng không phải là một thứ ửng hồng e lệ của tình yêu buổi đầu gặp gỡ, cũng không phải là thứ bột hồng điểm trang của hương phấn trong ngày lễ hội, mà chính là màu hồng của niềm vui chan hòa và những chí bền chiến đấu đã làm nên sức sống và sức mạnh không ngừng gieo hưng phấn trên hành trình đức tin.
Qua cách gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng, xin được gợi ý về hiệu quả của niềm hy vọng.
1) Niềm hy vọng đem lại cho đời tín hữu một niềm vui chan hòa.
Không phải vô cớ mà thánh Phaolô năm xưa đã kêu gọi các tín hữu của mình “Hãy vui lên!” cũng chẳng phải tình cờ khi Phụng Vụ gọi Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng là Chúa Nhật của niềm vui, mà tất cả đã là một hữu ý dàn dựng để làm nổi bật lên nỗi vui mừng và niềm hy vọng không phải như hai nỗi niềm đặt cận kề nhau, mà như hai yếu tố tương tại vào nhau của cùng một nỗi niềm duy nhất kết nên đời sống Kitô hữu. Có hy vọng là có niềm vui.
Bởi có hy vọng nên đời tín hữu cũng có một vũ trụ quan tươi vui: Họ không chấp nhận cuộc đời theo kiểu “cũng liều nhắm mắt đưa chân” trôi nổi vật vờ theo dòng nước cuốn, mà là đón nhận cuộc đời bằng một phong thái thanh thản vui tươi. Họ không chấp nhận nhìn môi trường mình đang sống như những sự kiện bên lề mà biết nhận ra đó chính là nơi mình được kêu gọi đến để thể hiện ơn gọi làm người và làm con Chúa. Cho dẫu cuộc đời có thế nào cũng vẫn có đó niềm hy vọng vươn cao. “Trong khi chưa có được điều mình thích, hãy bắt đầu bằng cách thích những điều mình đang có”. Tôi muốn một cuộc đời rộng đẹp nhưng trước mắt tôi vẫn chỉ là những mảnh đời chật hẹp thì trong niềm hy vọng, tôi phải bắt đầu bằng cách nới rộng đời mình ra.
Bởi có niềm hy vọng nên đời tín hữu cũng có một nhân sinh quan chan hòa. Trong đại dương không ai là một hòn đảo. Trong chuyến đi cuộc đời chẳng ai là người lữ khách cô đơn. Thế nên, trong tinh thần liên đới, tín hữu là những kẻ đồng hành và đồng hành cũng có nghĩa là biết cho đi và nhận về. Cũng giống như tình yêu, hy vọng là rộng mở, là biết cho đi. Trong đổi chác, không ai có thể cho cái mình không có, nhưng trong niềm hy vọng, không ai có thể có được điều mà mình không biết cho đi. Bởi lẽ bạc tiền cho đi sẽ có lúc vơi cạn, nhưng niềm hy vọng biết cho đi thì ngược lại, bỗng trở nên phong phú lạ thường. Nỗi vui cho đi sẽ thành nỗi vui lớn hơn của kẻ cho và người nhận gộp lại, và niềm hy vọng biết cho đi sẽ nên niềm hy vọng vĩ đại của một sự sống triển nở sinh sôi.
Rõ ràng là với niềm hy vọng, cuộc sống đã biến thành niềm vui, cho dẫu niềm vui ấy chưa ở độ tinh ròng mà vẫn còn đan xen với những nỗi niềm riêng tư hay nỗi lo đại cuộc, nhưng đã hồng hào lên một sức sống tươi trẻ vì đó chính là thành quả của niềm hy vọng.
Chắc cộng đoàn còn nhớ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I. Triều đại Giáo Hoàng của ngài chỉ có ba mươi ba ngày nhưng hình ảnh của ngài thì thế giới khó mà quên. Đó là hình ảnh của một Giáo Hoàng với nụ cười thật tươi, nụ cười trong hồn và nụ cười ngoài miệng. Chính ngài là người đã lập lại quan điểm của thánh Tôma để chủ trương: vui vẻ là một nhân đức. Và Mẹ Têrêsa Calcutta, một trong mười phụ nữ được xếp vào hàng vĩ nhân hiện đại, khi người ta hỏi Mẹ xem phải làm gì cho cuộc sống tốt hơn, Mẹ bảo: “Hãy mỉm cười. Cười là thông điệp hòa bình. Cười là nếm cảm thực tại Thiên Chúa”.
2) Niềm hy vọng đem lại cho đời tín hữu một chí bền chiến đấu.
Những lúc an bình, niềm hy vọng mở ra một cuộc sống tươi vui nhưng khi gặp phải thử thách, niềm hy vọng lại trở nên sức mạnh kiên cường. Chính vì thế, hy vọng không chỉ được xem là nhân đức của nụ cười mà còn được khẳng định là nhân đức của sự chiến đấu trước những thách đố không thiếu trong đời.
Có những thách đố đến từ những nghịch lý trong đời sống đức tin thể hiện qua những câu hỏi “tại sao?” khó mà trả lời nếu không có niềm hy vọng. Như câu hỏi tại sao của Cựu Ước: “Tại sao kẻ lành thường gặp hoạn nạn còn kẻ dữ lại cứ phây phây?”. Như câu hỏi của thánh Phaolô: “Tại sao điều tốt muốn làm tôi lại chẳng làm, còn điều xấu muốn tránh tôi lại hay vấp phải?”. Như câu hỏi về Giáo Hội: “Tại sao Giáo Hội bản chất là duy nhất mà trong lịch sử vẫn cứ mãi ghi dấu bằng những cuộc phân ly?”. Như câu hỏi của các bạn trẻ Tây Ban Nha đặt ra cho Đức Gioan Phaolô II năm 1982: “Tại sao Thiên Chúa tốt lành mà trong tạo thành của Ngài lại có quá nhiều tội ác?”. Như câu hỏi của báo chí: “Tại sao người ta cứ phải lo đề phòng đối phó mà không biết yêu thương nhau?”. Hay như câu hỏi mỗi người thường đặt ra với lòng mình: “Tại sao nhân đức như lúa tốt chăm hoài vẫn khó mọc còn nết xấu như cỏ dại nhổ mãi vẫn cứ còn?” Những câu hỏi ấy được đặt ra và còn được đặt ra mãi mãi. Sẽ là hoang mang chao đảo nếu không tìm được giải đáp; nhưng sẽ không có câu trả lời đích thực nếu không nại đến niềm hy vọng vào điều toàn bích vốn chỉ có nơi Thiên Chúa và trong cuộc sống mai sau.
Có những thách đố đến từ những nghịch biến trong lối sống đạo như sự ly thân giữa giáo lý tốt lành của đạo với đời sống kèn cựa của người tín hữu, như cách sống thực dụng của một số thành phần có đạo, như xu hướng tục hóa đang có nguy cơ tràn lan, và phổ biến nhất vẫn là thái độ “mackeno” dửng dưng với đạo của một số kẻ tự nhận là có đạo mà thực tế chẳng tốt hơn ai. Sẽ là dị ứng co cụm nếu chỉ thở dài thất vọng, nhưng sẽ là bản lĩnh hy vọng nếu biết vươn lên khẳng định niềm tin.
Và cũng có những thách đố đến từ những nghịch cảnh trong cuộc đời như tai nạn bất ưng, như sức khỏe yếu kém, như hoàn cảnh không thuận lợi cho ngành nghề, như những thất bại nhiều mặt. Sẽ là thất vọng nếu cúi gập trên nỗi đau của mình, nhưng sẽ là hy vọng nếu biết vươn lên, cho dẫu hoàn cảnh có tuyệt vọng đi nữa thì ở đó vẫn cứ sáng rỡ một niềm cậy trông.
Trọn trang Tin Mừng hôm nay là một thách đố không nhỏ mà Gioan Tẩy Giả đã gặp phải: rao giảng về một sự trừng phạt đến cận kề nhưng lại gặp phải sự chậm trễ; loan báo về Đấng Cứu Thế như một vị Chúa oai phong đáng sợ nhưng lại thấy Chúa Giêsu chan hòa nhân ái; công bố về thời mở cửa cứu độ nhưng chính mình lại bị cầm tù vào giữa lúc mọi người xôn xao hạnh phúc. Đã có lúc nóng lòng chờ đợi như việc gửi môn đệ đến chất vấn Chúa Giêsu qua đoạn Phúc Âm hôm nay, nhưng từ những thách đố ấy, nơi Gioan Tẩy Giả đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường: ông không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẽ cậy trông.
Niềm hy vọng chính là sức mạnh hồng hào giúp Gioan Tẩy Giả và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.
Tóm lại, với hiệu quả của niềm hy vọng là niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu, đời sống của tín hữu đã được đặt vào một vận hành mới vươn tới một điều còn lớn lao hơn cả chính nỗi niềm của mình. Đó không chỉ là chân lý cho trí ta đong đầy, không chỉ là thiện hảo cho lòng ta mê thích, cũng không chỉ là nét đẹp cho mắt nhìn no thỏa mà chính là một Đấng, Đấng ấy là Thiên Chúa hằng hy vọng vào ta.
Và như thế, thiết tưởng đã đến lúc đặt ra vấn đề: liệu ta có niềm hy vọng ấy chưa?
Bài đọc thứ nhất nhắc nhở “Đừng sợ”. Đừng sợ không có niềm hy vọng vì trước khi ta có thể hy vọng thì Chúa đã hy vọng vào ta. Đó là một hồng ân. Cũng đừng sợ mình mất niềm hy vọng như thể ta sống có một mình. Có một Đấng cùng sống với ta và Đấng ấy không dễ gì để mất ta đâu. Cũng đừng sợ niềm hy vọng của ta sao quá nhạt nhòa, bởi hy vọng là một công trình cả đời. Điều đáng sợ đáng ngại và đáng đau khổ nhất là “thấy Thiên Chúa bị bóp chết trong một đời người”, nghĩa là người ta khước từ hy vọng, bóp nghẹt hy vọng nhân danh sự tự do hoặc danh lợi thú.
Bài đọc thứ hai khuyến khích “Hãy vui lên!” Vui vì ta là niềm hy vọng trong mắt nhìn cứu độ của Thiên Chúa và đồng thời cũng là niềm hy vọng thắp sáng cho anh em mình nữa, để không chỉ gây thắc mắc “nghĩ gì vui thế mà cười một mình” như Trần Tiến trong ca khúc “Thành phố trẻ”, mà còn để chuyển tải đến môi trường xung quanh một niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu.
Ai đã coi cuốn phim “Cuộc đời Chúa Cứu Thế” chắc còn nhớ lúc kết, sau khi đã có biến cố lên trời và lời trao sứ vụ đến với muôn dân, người ta cho xuất hiện trên màn ảnh một chân dung của Chúa Giêsu thật lớn tươi cười với chiếc răng khểnh đàng hoàng. Không biết dụng ý của đạo diễn thế nào, nhưng phải nói là có tác dụng phấn khích, vừa đem lại nét tươi tắn cho cuốn phim, vừa đem đến niềm vui chan hòa hy vọng.
Mong rằng nụ cười thật lạ ấy cũng trở thành niềm vui cho ta trên nẻo sống đức tin và thể hiện niềm hy vọng. Được như thế, Chúa Nhật hôm nay đích thực là Chúa Nhật của niềm vui, và Mùa Vọng cũng thêm sáng nghĩa là mùa màu hồng hy vọng thật đẹp thật tươi thật nhiều nụ cười cho người người hạnh phúc.
Gioan Tẩy Giả là một nhân vật quan trọng của Mùa Vọng. Trong Tin Mừng Chúa Nhật trước: MV 3-A49
Gioan Tẩy Giả là một nhân vật quan trọng của Mùa Vọng. Trong Tin Mừng Chúa Nhật trước, chúng ta đã nghe Gioan Tẩy Giả loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến là một Thẩm Phán chí công, thưởng phạt nghiêm minh. Ngày Đấng Cứu Thế đến sẽ là một ngày kinh hoàng đối với những người gian ác, tội lỗi, không chịu hối cải.
Nhưng rồi, khi Chúa Giêsu đến, Gioan Tẩy Giả đã thất vọng, vì ông chẳng thấy có gì là kinh hoàng như ông đã loan báo trước. Đang lúc đó chính Gioan Tẩy Giả lại phải ngồi tù, vì đã ăn ngay nói thẳng. Thật là trớ trêu!
- Gioan Tẩy Giả đã loan báo sai chăng?
- Hay là Chúa Giêsu chưa phải là Đấng Cứu Thế thực sự phải đến mà còn phải chờ đợi ai khác nữa?
Gioan sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một lần cho rõ: Xin Thầy nói thật cho chúng tôi: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác nữa?”.
Để trả lời Gioan và các môn đệ, Chúa Giêsu đã mượn lời Ngôn sứ Isaia loan báo về Đấng Cứu Thế: “Người mù được thấy, người què được đi, người phong hủi được sạch, người điếc được nghe, người chết sống lại…”.
Thì ra Chúa Cứu Thế đến “không phải để xét xử luận phạt, nhưng để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư hỏng”. “Ngài đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi sinh hoạt ăn năn”. “Ngài đến để cho con người được sống và được sống dồi dào”. “Và Ngài còn đến không phải để được người ta hầu hạ phục vụ, nhưng để phục vụ và thí mạng sống cứu chuộc loài người”.
Bao lâu còn quan niệm như Gioan Tẩy Giả, còn chờ mong Chúa đến can thiệp kiểu vua chúa trần gian để áp đặt một quyền lực, chúng ta sẽ mãi mãi ảo vọng. Trong khi Gioan Tẩy Giả và dân Do Thái mong một Đấng Cứu Thế đến tái lập uy quyền và vinh quang Thiên Chúa, thì Thiên Chúa lại chỉ mãi lo cho vinh quang của con người, ưu tiên cho những con người bị coi rẻ nhất: người mù, người què, người điếc, là những hạng người phải ăn mày để sống, ăn mày sự sống với những người quyền thế giàu có vẫn coi thường khinh bỉ họ, và nắm quyền sinh tử trên họ. Ngài coi đó là trả lại sự sống cho hạng người sống mà như chết dở, những người cùi hủi, những người bị khinh tởm, bị xua đuổi khỏi xã hội, chỉ được sống trong những nấm mồ hoang giữa người chết.
Ngày xưa, khi Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, các luật sĩ và cả vua Hêrôđê và dân thành Giêrusalem đã không nhận ra Chúa Cứu Thế, vì họ quan niệm Chúa Cứu Thế phải đến trong oai phong lẫm liệt, phải sinh ra ở lầu son gác tía, chứ không phải ở chuồng bò.
Chúa Cứu Thế phải xuất hiện trong cung cách như thế đó. Chúng ta ngày nay phải hết sức tỉnh táo mới khỏi đón hụt mất Chúa Cứu Thế. Bởi vì, vẫn như ngày nào, Chúa đang hiện diện ở giữa chúng ta; không ồn ào giữa hàng lũ người tuỳ tùng hầu hạ kiểu vua chúa phong kiến, mà ẩn mình trong thân phận những con người nghèo đói, ốm đau, bệnh tật… Vẫn như ngày nào và sẽ mãi mãi cho đến tận thế. Ngài không dạy chúng ta đón nhận Ngài bằng bất cứ một hình thức nào khác hơn là đón nhận chính con người anh em, những người bé nhỏ, đói khát, mình trần thân trụi, không nhà không cửa, ốm đau bệnh tật, tù đày… Vì vậy, nếu không hết sức tỉnh táo, chúng ta sẽ đón hụt mất Ngài.
Anh chị em thân mến,
Hai ngàn năm rồi, Chúa đã đến, nhưng cũng còn những người vãn đang mong chờ một Chúa Cứu Thế khác sẽ đến, chứ Ông Giêsu này không phải là Chúa Cứu Thế. Thậm chí có cả những người Công Giáo cũng nghi ngờ Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế của họ. Bởi vì, tại sao Chúa cứ bắt tôi phải đói khổ, bệnh tật? Tại sao Chúa không trừng trị địch thù, những bọn gian ác? Chúng tôi phải chờ một Đấng Cứu Thế khác. Ngài sẽ đến thanh trừng với bạo lực, thống trị với quyền năng hiển hách như lời các ngôn sứ loan báo.
Chúa Giêsu Kitô chính là “Đấng phải đến”. Ngài đã đến rồi. Đó là niềm tin của chúng ta hôm nay như đã là niềm tin của Thánh Phêrô. Ngài nói: “Ngoài Đức Giêsu ra, dưới bầu trời này, ơn cứu độ chúng ta không có ở một người nào khác, không có một ai khác có khả năng cứu độ chúng ta” (Cv 4,12).
Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đã đến, đã chết để cứu chuộc chúng ta, đã sống lại và đang sống ở giữa chúng ta. Ng đã giải phóng chúng ta và bao nhiêu con người khác đang bị giam cầm trong tội lỗi. Chúng ta hãy vui mừng vì chúng ta đã được Ngài cứu độ và được sống trong Ngài. Chúng ta không phải chờ đợi một ai khác nữa.
Sứ vụ Gioan Tẩy Giả kết thúc trong nỗi đớn đau khốc liệt. Gioan chẳng có thói quen gia giảm: MV 3-A50
Sứ vụ Gioan Tẩy Giả kết thúc trong nỗi đớn đau khốc liệt. Gioan chẳng có thói quen gia giảm chân lý cho vừa ý người khác, cũng không thể nào thấy điều gian ác mà không quở trách. Gioan đã nói rất mạnh dạn thẳng thắn đến luỵ cả bản thân.
Trong chuyến du lịch từ Galilê đến Rôma thăm em trai, vua Hêrôđê Antipa đã quyến rũ vợ của em mình. Khi trở về xứ, ông bỏ vợ chính thức để cưới em dâu mà ông đã dụ dỗ. Gioan công khai và nghiêm khắc quở trách Hêrôđê. Dám chỉ trích một vị vua phương Đông thì không bao giờ được yên thân. Hêrôđê đã trả thù: Gioan bị quăng vào ngục Machaerus, trong vùng núi gần Biển Chết.
Đối với người bình thường số phận đó là rất khủng khiếp; riêng đối với Gioan thì càng kinh khủng bội phần. Ông là đứa con của hoang địa, cả đời sống ngoài trời bao la, với gió thoảng mây ngàn, thế mà bây giờ phải chôn chân trong bốn bức tường chật hẹp dưới mặt đất. Với Gioan, một người có lẽ chưa hề sống tù túng dưới một mái nhà nào, điều này quả là một nỗi thống khổ không lường được.
Trong lâu đài Carlisle có một phòng giam nhỏ. Ngày xưa có lần người ta tống giam một sĩ quan biên phòng vào đó trong mấy năm liền. Phòng giam đó có một cửa sổ nhỏ trên cao, người đứng dưới đất không thể nhìn ra ngoài được. Sau này người ta thấy trên vách đá bên mép cửa sổ có hai dấu lõm vào. Đó là dấu tay của người sĩ quan biên phòng ngày ngày đu mình lên đó để được nhìn ra giải thung lũng xanh rờn, nơi ông ta không bao giờ còn hy vọng trở lại nữa.
Chắc Gioan cũng mang một tâm trạng như thế cho nên không có gì đáng ngạc nhiên hoặc đáng chỉ trích khi ta thấy những thắc mắc bắt đầu thành hình trong trí ông. Ông đã tin Chúa Giêsu là Đấng phải đến, là Đấng Mêsia mà dân Do Thái nóng lòng mong đợi (Mc 11,9; Lc 13,35; Dt 10,37; Tv 118,26). Một người sắp chết thì không thể nào để cho lòng mình vương vấn chút ngờ vực nào. Ông cần phải biết thật chắc nên ông sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng? Hay chúng tôi còn phải đợi Đấng khác?”. Câu hỏi đó có thể có nhiều lý do:
1. Một số người cho rằng câu đó không phải là câu hỏi cho Gioan mà là cho các môn đệ của ông. Có thể khi Gioan đàm đạo với môn đệ mình trong tù, họ hỏi ông Chúa Giêsu có thất là Đấng phải đến không, Gioan bảo họ: “Nếu các ngươi nghi ngờ, chưa rõ Giêsu là ai thì hãy đi xem Ngài đang làm gì, và có thể làm được những gì, lúc đó các ngươi sẽ hết nghi ngờ ngay”. Nếu có ai cãi lý với chúng ta về Chúa Giêsu và thắc mắc về quyền năng tối thượng của Ngài, câu trả lời hay nhất không phải là dùng lý luận chống lại lý luận, nhưng là: “Anh đã giao phó đời sống anh cho Ngài thì sẽ thấy quyền năng hành động của Ngài”. Cách tranh biện tốt nhất cho Chúa không phải là dùng lý lẽ tri thức nhưng là đưa ra kinh nghiệm về quyền năng biến cải của Ngài.
2. Có thể câu hỏi của Gioan là do thiếu kiên nhẫn. Sứ điệp của Gioan là sứ điệp về nhận xét (Mt 3,7-12). Cái búa đã để kề gốc cây, việc sàng sảy đã khởi sự, lửa phán xét thanh tẩy của Chúa đã bắt đầu chay. Có thể lúc đó Gioan nghĩ rằng: “Khi nào Chúa Giêsu mới bắt đầu hành động? Khi nào Ngài mới bắt đầu tiêu diệt kẻ thù, thiêu huỷ cái ác? Khi nào ngày huỷ diệt thánh của Chúa mới khởi sự?”. Có thể Gioan đã mất kiên nhẫn vì Chúa Giêsu đã không hành động như ông mong đợi. Một điều chắc chắn là người nào chờ đợi Chúa Giêsu giáng cơn giận bạo tàn, sẽ luôn luôn bất mãn về Ngài, nhưng ai tìm kiếm tình yêu nơi Ngài sẽ không bao giờ thất vọng.
3. Một số người cho rằng câu hỏi của Gioan phát xuất từ niềm vui và hy vọng đang vươn lên. Ông đã thấy Chúa lúc Ngài chịu phép rửa, bây giờ ở trong tù ông càng nghĩ nhiều hơn về Ngài. Càng suy nghĩ, ông càng tin chắc Ngài là Đấng phải đến. Và bây giờ ông đặt tất cả hy vọng của mình vào câu hỏi trắc nghiệm này. Có thể đây không phải là câu hỏi của một người thất vọng và thiếu kiên nhẫn mà là câu hỏi của một người mà ánh mắt đang sáng ngời hy vọng, một người hỏi chỉ cốt để xác minh hy vọng của mình.
Chúa Giêsu trả lời câu hỏi đó với giọng đầy tin tưởng: “Hãy về đừng thuật lại cho Gioan những điều Ta nói, nhưng hãy thuật lại những điều Ta làm. Đừng thuật lạ cho Gioan những gì Ta cao rao, nhưng hãy thuật lại cho Gioan những điều xảy ra”. Chúa Giêsu bảo người ta hãy dùng những trắc nghiệm gay go nhất để thử Ngài, trắc nghiệm về hành động và kết quả. Chúa Giêsu là người duy nhất có thể thách thức người ta phê phán những việc Ngài làm không cần giới hạn, không cần điều kiện. Lời thách thức của Ngài vẫn không đổi thay. Ngài không kêu gào: “Hãy nghe những điều Ta phán đây”, nhưng Ngài nói: “Hãy nhìn xem những điều Ta có thể làm cho các ngươi cùng những điều Ta đã làm cho nhiều người khác”.
Những điều Chúa Giêsu làm ở xứ Galilê thì Ngài vẫn còn làm ngày nay. Trong Ngài, những ai đui mù không thấy được sự thật về chính mình, về người khác và về Thiên Chúa, đều được sáng mắt. Trong Ngài, những ai có đôi chân yếu ớt, không đủ sức đứng vững trong đường ngay nẻo chính đều được mạnh mẽ. Trong Ngài, những ai bị tì ố vì tội lỗi đều được thanh tẩy. Trong Ngài, ai không nghe được tiếng nói của lương tâm và của Chúa đều bắt đầu nghe được. Trong Ngài, những kẻ chết và bất lực trong tội lỗi đều bắt đầu sống lại cuộc đời mới và thánh thiện. Trong Ngài, những người nghèo được hưởng tình yêu sung mãn của Thiên Chúa.
Nhưng cuối cùng là lời cảnh cáo: “Phúc thay người người nào không vấp ngã vì Tôi”. Chúa phán điều này với Gioan vì Gioan chỉ nắm có phân nửa chân lý. Gioan rao giảng Tin Mừng về sự thánh thiện, với sự huỷ diệt từ trời, Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng về sự thánh thiện, với tình yêu từ trời. Vì vậy Chúa Giêsu nói với Gioan rằng: “Có thể Ta không làm điều ngươi trông đợi Ta, nhưng những quyền lực tà ác đang bị đánh bại, bị đánh bại không phải bởi sức mạnh vô địch mà bởi tình yêu vô hạn”. Đôi khi người ta bị vấp phạm vì Chúa Giêsu bởi Ngài cắt ngang quan điểm của họ về tôn giáo, Ngài không làm theo đúng suy diễn của họ về tôn giáo.
GIỌNG TÁN TỤNG (11,7-11)
Ít người được Chúa Giêsu ca ngợi nhiều như Gioan Tẩy Giả. Mở đầu cho câu chuyện, Ngài hỏi dân chúng là họ đi xem gì trong hoang địa khi họ đổ xô đi xem Gioan.
1. Có phải họ đi xem cây sậy trong gió rung không? Điều này có thể mang một trong hai ý nghĩa:
a. Dọc bờ sông Giođan có những cây sậy dài và cây sậy bị gió rung là một thành ngữ để chỉ những cảnh thông thường nhất. Khi dân chúng đổ xô đi xem Gioan, phải chăng họ đi xem một cái gì bình thường, bình thường như những cây sậy vẫn bị gió rung bên bờ sông Giođan?
b. Cây sậy bị gió rung có thể chỉ “một người mềm yếu” một người không thể đứng vững trước những ngọn gió thử thách hiểm nguy như cây sậy bên bờ sông không thể đứng thẳng khi gió thổi qua.
Dù dân có đổ vào hoang địa để xem gì đi nữa, chắc chắn họ cũng không đi tìm xem một người bình thường. Sự kiện dân chúng đổ xô đi xem, cho thấy Gioan là người hết sức khác thường, vì không ai lại băng ngàn lội suối vào tận hoang địa để xem một người bình thường như mọi người mình gặp hằng ngày. Dù có đi xem chăng nữa, họ cũng không xem một người chao đảo hèn yếu. Hạng người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có thể trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình thường cũng không phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió.
2. Có phải họ đi xem một người mặc áo đẹp chăng? Một người như thế phải ở trong cung điện nhà vua và chắc chắn Gioan không phải là một người trong cung điện. Ông không biết tí gì về nghệ thuật lấy lòng vua. Trái lại ông theo đuổi nghề bạc bẽo hiểm nguy của một kẻ can gián vua. Gioan sứ giả của Chúa chứ không phải là triều thần của vua Hêrôđê.
3. Có phải họ đi xem một ngôn sứ không? Ngôn sứ là người rao truyền chân lý của Chúa, là người được Chúa tin tưởng: “Cũng vậy, Chúa chẳng có làm việc gì mà Ngài chưa tỏ sự tín nhiệm Ngài ra trước cho tôi tớ Ngài là các ngôn sứ” (Am 3,7). Có hai điều về ngôn sứ: đó là người mang sứ điệp của Chúa và là người can đảm nói ra sứ điệp đó. Ngôn sứ là người có sự khôn ngoan của Chúa trong tâm trí, có chân lý của Chúa trong miệng và có sự can đảm của Chúa trong lòng, đó là điều chắc chắn Gioan có.
4. Nhưng Gioan có điểm vượt xa hơn một ngôn sứ. Người Do Thái đã và vẫn tin rằng trước khi Đấng Mêsia đến, Êlia trở lại để loan báo việc Ngài đến. Cho đến ngày nay, khi cử hành Lễ Vượt Qua, người Do Thái vẫn còn chừa một ghế trống cho Êlia “Nầy Ta sẽ sai ngôn sứ Êlia đến cùng các ngươi trước ngày lớn và đáng sợ của Đức Chúa sẽ đến” (Ml 4,5). Vì vậy Chúa Giêsu nói Gioan chính là vị sứ giả từ trời, là nhà tiên phong của Chúa, có nhiệm vụ và đặc quyền loan báo sự xuất hiện của Đấng Mêsia. Gioan là một sứ giả của Chúa và không một người nào có công tác lớn hơn công tác đó.
5. Chúa Giêsu dành cho Gioan những lời ca ngợi chí tình như thế này, Ngài nói về con người đó bằng giọng tán tụng. Trong suốt lịch sử không hề có ai được tôn trọng hơn Gioan, nhưng tiếp đó là một câu bất ngờ “Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”.
Đây là một chân lý chung cho mọi đời. Sự xuất hiện của Chúa Giêsu đem đến cho thế gian này một cái gì mới mẻ. Các ngôn sứ là những người vĩ đại và sứ điệp của họ rất quý báu, nhưng sự xuất hiện của Chúa Giêsu làm nổi bật lên một cái gì vĩ đại hơn, một sứ điệp tuyệt diệu hơn. Ông C.G. Monterfiore, một người Do Thái không tin Chúa, viết: “Kitô giáo đánh dấu cho một kỷ nguyên mới trong lịch sử tôn giáo và văn minh nhân loại. Những điều thế giới nhận được từ Chúa Giêsu và Phaolô thật lớn lao. Sự vật và tư tưởng con người không thể nào giữ y nguyên như trước khi hai vĩ nhân này xuất hiện”. Ngay cả một người không tin Chúa cũng phải vô tư thừa nhận rặng mọi việc bây giờ không thể nào giống như trước khi Chúa Giêsu đến.
Nhưng Gioan đã thiếu điều gì? Cái gì người Kitô hữu có nhưng Gioan không bao giờ có thể có? Câu trả lời rất đơn giản và cũng rất căn bản: Gioan chưa hề thấy Thập giá. Vì thế Gioan không thể nào biết được sự mặc khải trọn vẹn về tình yêu của Thiên Chúa. Ông có thể biết về sự thánh thiện của Chúa, có thể nói về sự công chính của Ngài, nhưng ông không bao giờ có thể biết về tình yêu đầy tràn của Thiên Chúa. Nghe sứ điệp của Gioan và đối chiếu với sứ điệp của Chúa Giêsu, không ai có thể gọi sứ điệp của Gioan là Phúc Âm, là Tin Mừng. Ta thấy cái ý trong sứ điệp của Gioan là đe doạ, huỷ diệt; còn Chúa Giêsu thì Thập Giá của Ngài bày tỏ cho người ta thấy chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Thiên Chúa. Điều ngạc nhiên là một Kitô hữu bình thường cũng có thể biết về Chúa nhiều hơn Đấng ngôn sứ thời Cựu Ước. Chúng ta có thể biết nhiều về tấm lòng của Chúa hơn ngôn sứ Isaia, Giêrêmia hoặc các ngôn sứ khác. Người nào thấy được Thập Giá là thấy được cả tấm lòng của Chúa, theo một cách mà không ai sống trước Thập Giá lại có thể thấy được. Chỉ trong Thập Giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được mặc khải trọn vẹn về tình yêu của Thiên Chúa. Như thế, quả thật kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời thì lớn hơn bất cứ người nào trước đó.
Gioan đã phải chịu một thân phận hẩm hiu như một số người là ông chỉ dẫn cho người ta đi đến một chân trời xán lạn mà chính mình lại chưa được đến. Một số người được dùng làm bảng chỉ đường của Chúa, họ chỉ cho người ta đến một lý tưởng mới, một tầm cao mới để người khác bước vào, còn họ thì chưa vào được. Những người đại cải cách có tên tuổi gắn liền với các cuộc cải cách trong lịch sử thường không phải là những người đầu tiên lao thân khổ trí vì những cuộc cải cách đó. Trước khi ông ta xuất hiện trên sân khấu lịch sử, đã có nhiều người đi trước. Những người này không nhìn thấy vinh quang của cuộc cải cách nhưng đã đổ công sức, đôi khi đã chết vì nó. Có một người kể lại quang cảnh mà ông ta thường thấy qua cửa sổ nhà ông ta mỗi tối. Đêm nào ông cũng chờ mong người thắp đèn đi dọc theo con đường để đốt những ngọn đèn, nhưng người đốt đèn lại là người mù. Ông ta mang ánh sáng đến cho mọi người mà chính ông ta lại không bao giờ thấy được.
Đừng ai thất vọng (dù trong Hội Thánh hay trong bất cử nẻo đường nào của cuộc đời), nếu những điều mơ ước và theo đuổi không thực hiện được trước buổi xế chiều của đời mình. Thiên Chúa cần Gioan, cần những người làm dấu chỉ đường để cho người khác biết đường, mặc dầu chính họ không đạt đến đích. Chỉ có người khác một mục tiêu, dù chính mình chưa đạt đến mục tiêu đó, là một phận sự lớn lao trong đời sống.