Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 3-A Bài 51-100: Thầy có phải là Đấng chúng tôi mong đợi không? ----------------------------- Phúc Âm: Mt 11, 2-11 "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?"
1. Vào một khúc quanh quyết định, một cuộc đối thoại kỳ lạ:
Phúc âm Chúa nhặt vừa qua trích dẫn thời gian đầu của sứ vụ của Gioan Tiền Hô, chương thứ: MV 3-A51
Phúc âm Chúa nhặt vừa qua trích dẫn thời gian đầu của sứ vụ của Gioan Tiền Hô, chương thứ bốn Phúc âm thánh Matthêu. Ông loan báo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần. Đấng đến sau tôi thì quyển thế hơn tôi. Đốt giai đoạn, sách bài đọc hôm nay đưa chúng ta đến chương thứ 11 của thánh Matthêu, nơi diễn ra cuộc đối thoại kỳ lạ giữa vị tiên tri vùng hoang địa và Đức Giêsu. -Thực ra Gioan đang ở trong tù (xem 4,12). Trong khi chờ đợi trả giá sự can đảm bằng chính mạng sống mình, ông đành mất tự do vì đã tố cáo phẩm hạnh xấu của Hêrôđê Antipas, con của Hêrôđê Cả (ông ta sống với nàng Hêrôđiađê, là vợ của Philipphe, anh ông ta: 14,4-5). Về phương diện thể xác, ông từ từ tự xoá mình đi trước Đấng mà ông đã nhận lãnh sứ mạng loan báo đang đến. Còn Đức Giêsu, sau nhiệt tình ban đầu của cuộc đời công khai, Ngài đã có kinh nghiệm đau đớn về tính hay thay đổi của những đám đông xứ Galilê. Lời giảng dạy của Ngài, thôi thúc thính giả phải chọn lựa, phải quyết định, đã gây chia rẽ về con người của Ngài. "những công trình" của Ngài không phải là những việc mà cách chung người ta chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế! Và sự đối lập căng thẳng sẽ buộc Ngài phải khôn ngoan rút lui. Chính ở khúc ngoặt quyết định này, đối với Đức Giêsu, cũng như với Gioan Tiền Hô, mà tác giả Phúc âm đã đặt cuộc đối thoại kỳ lạ, qua trung gian những người được sai đến.
2. Câu hỏi của một tiên tri bị hoang mang:
Như chúng ta thấy trong Chúa nhật vừa qua, Gioan Tiền Hô không ngừng loan báo việc Đấng Cứu Thế sẽ đến, "sức mạnh của Ngài giáng xuống" như sấm sét. Nhưng thái độ của Đức Giêsu rất không phù hợp với những lời khuyên bảo nghiêm khắc của ông. Không hề có ý định tiêu diệt những người tội lỗi, Ngài đi từ làng này sang làng khác, mở rộng đôi tay đón nhận tất cả những cảnh khốn khổ cùng quẫn của con người, chữa lành bệnh nhân (8 và 9), tha thứ tội lỗi (9,l-8), kêu gọi một người thu thuế bước theo Ngài (9,9), đồng bàn với những người tội lỗi (9,10). Khác xa với vị quan toà đáng sợ mà Gioan đã loan báo, Đức Giêsu xuất hiện như người tôi tớ kín đáo, người ta không nghe tiếng Ngài trên quảng trường, Ngài không bẻ gãy cây sậy bị giập nát và không làm tắt tim đèn còn bốc khói (12,19-20). Ở đây Gioan đối đầu với cớ vấp phạm (scadale), nghĩa là đối đầu với một chướng ngại có nguy cơ làm ông sụp ngả. Một Đấng Cứu Thế Tôi Tớ, khiêm nhường và đau khổ, khác xa với Đấng mà ông đã loan báo. Đó là thử thách đức tin của ông: đang chờ đợi một sự biểu lộ công bình, thì ông lại gặp lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế, từ trong tù ngục Machéronte, từ đáy sâu suy tư mà hoàn cảnh đã nhận chìm ông vào, Gioan, vị tiên tri bị hoang mang, đã sai các môn đệ đến đặt cho Đức Giêsu câu hỏi từ lâu thiêu đốt tâm hồn và môi miệng ông: ông có phải là Đấng phải đến (một sự chỉ định Kitô-giáo về Đấng Cứu Thế, lấy từ Thánh vịnh 118,26), hay chúng tôi còn phải chờ đợi "một Đấng khác?”
3. Câu trả lời của một Đấng Cứu Thế gây hoang mang.
Đức Giêsu trả lời trong hai hồi. Trước hết là nói với chính Gioan. Sau đó, là nói về Gioan. Trong hồi thứ nhất, Đức Giêsu gởi gắm một sứ điệp cho những người được Gioan phái đến: "Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được loan báo Tin mừng. Một sứ điệp diễn tả những hoạt động từ thiện của Đức Giêsu ưu ái dành cho đám đông. Một sứ điệp thực sự đưa Gioan Tiền Hô về lại với những lời loan báo tiên tri của sách Isaia; đặc biệt là Is.35 của bài đọc thứ nhất Chúa nhật hôm nay: "Bấy giờ "mắt người mù sẽ mở ra và tai người điếc..., và Is.61: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi Ngài sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó”. Như A.Marchadour giải thích điều đó rõ ràng trong một tác phẩm mới xuất bản: "Trong kinh nghiệm của dân Israel, phép lạ được định vị chủ yếu trong thời gian cuộc Xuất Hành... Dân Israel hy vọng rằng, những dấu lạ này sẽ lại đến trong thời gian sau hết, khi Thiên Chúa còn gần gũi với dân Ngài và sẽ bày tỏ điều đó ra bằng những dấu chỉ: "Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra, và tai người điếc sẽ nghe được. Bấy giờ người què sẽ nhảy lên như nai, và lưỡi người câm sẽ kêu lên vui mừng! Bởi vì, nước sẽ chảy vọt ra trong hoang địa và thác sẽ trào dâng trong thảo nguyên (Is 35,5-6). Đó là điều mà Đức Giêsu và Giáo Hội kế tiếp Ngài sẽ hiểu (xem 7,18,23). Chỗ đứng quan trọng của các phép lạ thời Đức Giêsu (và cũng một phần trong thời Giáo Hội sơ khai) là sự hoàn thành của thời gian sau hết (Les Evangiles au feu de la critique", Bayard Editions, Centurion 1995, trang 120-121).
Như vậy thời gian viên mãn đã đến; Đấng Cứu Thế được mong đợi đã đến. Nhưng còn phải phân định những dấu chỉ của sự hiện diện của vương quốc, và, như vậy là, như J.Radermarkers dã viết: chấp nhận được kể vào số những người mù được nhìn thấy, người câm điếc được nghe, người nghèo được Phúc âm hoá (‘Au fil de l’évangile selon saint Mathieu’ trang 154). Sau cùng, Đức Giêsu nói với Gioan: "Phúc cho ai không vấp phạm vì Ta. Nói khác đi, phúc cho ai sẽ vượt qua chướng ngại, sẽ phá vỡ cạm bẫy được giương ra, sẽ không vấp ngã? Ngoài Gioan, một thứ phúc thật có thể được áp dụng cho tất cả các tín hữu, cho mỗi người chúng ta.
- Sau khi các sứ giả trở về trại giam (pháo đài) Machéronte, sang hồi thứ hai, Đức Giêsu, đối chiếu sứ vụ của Gioan với sự vụ của mình, đã khen ngợi Gioan Tẩy giả. Nếu những nhân chứng tuốn về phía con người của sa mạc.
+ Không phải là đến để xem "cây sậy phất phơ trước gió" trên bờ sông Giođan, một con người nhu nhược ngả nghiêng trước gió: can đảm trong việc giảng thuyết, Gioan đã tỏ ra không nao núng trong nghịch cảnh và cơn bách hại.
+ Cũng không phải là để đi xem. "một người mặc y phục sang trọng", một nhân vật trần thế: nhà khổ hạnh của sa mạc mặc y phục của tiên tri Êlia, vị tiên tri được mong đợi trong thời sau hết, kẻ phải đến trước Đấng Cứu Thế;
+ Chính là để đi đến với "một vị tiên tri", và Đức Giêsu khẳng định: "còn hơn một vị tiên tri nữa": ông là "vị sứ giả" cuối cùng, được tiên tri Malachia loan báo (3,1), "kẻ dọn đường", Đấng tiền hô. Theo nghĩa đó, ông là vi tiên tri lớn nhất trong các tiên tri, bởi vì ở nơi ông, tất cả sự trông đợi được diễn tả qua truyền thống các tiên tri đã đạt đến đích điểm: Đức Giêsu long trọng tuyên bố: "Giữa con cái loài người, không ai lớn hơn Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, ngay lập tức Ngài nói thêm một cách ngược đời: "người nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn hơn ông ta". Cl. Tassin diễn giải: "Theo lịch sử nhân loại, không có ai lớn hơn ông. Thế nhưng, người bé nhỏ nhất, trong các Kitô hữu lại vượt qua ông trong phẩm cách, với tư cách là thành viên của một vương quốc đảo ngược những tiêu chuẩn nhân loại và ưu đãi những người bé mọn" (“L'evangile de Matthieu, Centurion, trang l22).
BÀI ĐỌC THÊM
1.”Những dấu chỉ của sự hiện diện nước Thiên Chúa không có ly kỳ"
Người ta chờ đợi một người làm sáng tỏ công lý không biết thương xót và ở đây lại là một vị chuyên chữa thân xác, một lương y của các tâm hồn. Người ta đã loan báo sự báo oán của Thiên Chúa, thế mà ở đây lại là lòng thương xót được trao ban với sự dịu hiền và khiêm nhường. Một nhà giải phóng kỳ lạ và rất khác biệt với dung mạo được tiên báo!... "ông có phải là Đấng phải đến hay là chúng tôi còn phải đợi một người khác. Đấng tiền hô sẽ thoả mãn với những dấu chỉ và bằng chứng. Thế nhưng ở đây, không phải là vinh quang rực rỡ, cũng không phải là sự báo oán thẳng tay. Cũng không là một lời giải đáp cho những hy vọng chính trị, tôn giáo, ái quốc của một số đông. Đấng Cứu Thế đang ở đó sự giải phóng đã bắt đầu. Nước Thiên Chúa đã khai mào. Một cách khác. Bất thình lình. Không ngờ. Đức Kitô thực sự không đáp ứng dễ dàng những tiêu chuẩn tự nhiên, những cái nhìn quá chật hẹp và quá khô cứng bởi những lợi lộc vật chất trần tục của chúng ta. Nếu Gioan đã có thể hồ nghi, điều này cũng dễ hiểu, thì những người khác đã hiểu ngay tức khắc, dù Thiên Chúa thinh lặng: những người được chữa lành, những người được thanh tẩy, những người được biến đổi và đám đông những người nghèo hèn này sau cùng được nhìn với sự yêu thương, được xem như là những con người được hoàn toàn ưu ái, con cái của vương quốc, những người thừa kế thực sự. Có thể là họ không biết tất cả những sắc thái của các lời tiên tri, không biết đến cả ngàn thứ quy định của Lề Luật, dù là thuộc về giáo thuyết phụng vụ hay luân lý. Họ không có kiến thức khoa học, không quyền bính, không tiền bạc và không cả sự kính trọng. Phúc cho "những con người bé nhỏ này", nghèo túng rất nhiều thứ, nhưng lại giàu sự hiểu biết của con tim. Họ hiểu biết mà không xét nét, và đã trở nên bằng chứng sống động của sự thâm nhập của một thế giới khác. Những nhân chứng đầu tiên còn lớn hơn cả Đấng tiền hô nữa.
Những dấu chỉ sự hiện diện của Nước Thiên Chúa và của Đấng Cứu Tinh không cố gì là ly kỳ cả. Trái lại, kín đáo và ẩn giấu trong khối bột của đời sống thường ngày, chúng dễ dàng lướt qua, không ai để ý. Những bằng chứng về tính đích thực không bị đông cứng lại trong những tuyên bố những nguyên tắc, những đe doạ và những vạ tuyệt thông ầm ĩ, cũng không có trong sự rõ ràng của những tín điều được công bố. Chính Đức Giêsu từ chối trả lời cho đấng tiền hô qua việc giới thiệu những danh hiệu của Ngài, cho những thái độ khiêu khích gây kinh ngạc, đụng chạm và chia rẽ của Ngài. Những bằng chứng ư? Những cử chỉ yêu thương và tha thứ, bằng chứng của một tinh thần rộng mở và luôn luôn niềm nở, một trái tim không biên giới, một sự hoàn toàn kính trọng tất cả mọi người, một sự say mê chân lý và công bình, một sự trung thành không ngừng bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa và của con người. Thiên Chúa và con người không thể tách rời nhau.
2. “Mở mắt mở tai… tâm hồn”
Tìm kiếm sự phi thường, kỳ diệu luôn luôn là một cám dỗ; còn tế nhị hơn nữa, tìm kiếm sự thành công, sự kính trọng, lòng khao khát lôi cuốn sự chú ý, thủ đắc uy tín xã hội cho chúng ta hay cho Giáo Hội. Chúng ta muốn gây một ấn tượng tốt, nếu có thể gây nên cảm giác, muốn giới thiệu nhưng dấu chỉ như là những thư giới thiệu. Thế nhưng, những dấu chỉ đích thực của Đấng Thiên Sai lại chiếu cố đến những người bé mọn, những người bệnh tật, nhưng người nghèo. Vì thế, dấu chỉ của ơn cứu độ thường được giấu kín, không hiểu thấu được. Để có thể thấy được, phải tìm kiếm, phải chú ý, lắng nghe và nhìn xem: "Hãy đi báo cho Gioan những gì các ông nghe và thấy”. Đang ở trong tù, Gioan vẫn theo dõi những gì người ta nói về Đức Giêsu: ông sai các môn đệ đến với Đức Giêsu để phỏng vấn Ngài: Cũng phải mở rộng con tim để hiểu: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”. Chính những dấu chỉ phải đương đầu với sự mâu thuẫn. Quả thật người ta có thể bỏ qua, quả thật người ta có thể thấy chúng "không có gì đáng kể", hay người ta có thể lầm lạc khi tìm kiếm những việc phi thường. Để nhận ra Đức Kitô, phải mở mắt, mở tai... và mở con tim nữa.
3. “Phép lạ, dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người"
"Không được cô lập phép lạ ra khỏi toàn bộ Phúc âm. Đó là phần chính yếu của sứ mạng Đức Giêsu. Có nghĩa là, ơn cứu độ do Đức Giêsu đem đến không phải chỉ là Tin Mừng suông, một sự hiểu biết giúp thoát khỏi sự tối tăm ngu dốt, và chuyền thông một kiến thức mới về Thiên Chúa; nhưng đó cũng là một sự giải phóng thân xác, một sự khôi phục toàn diện cho những người què quặt cho những người sống bên lề, cho những người bị đánh mất chính mình (bị ám ảnh bởi một người khác), cho những ngườibị loại trừ ra khỏi xã hội. Phép lạ tượng trưng cho một chương trình cứu độ, chịu trách nhiệm về những thực tại thân xác, vật lý, thiêng liêng và xã hội của con người. Phép lạ luôn luôn xuất hiện như một sự phản kháng, chống lại một trạng thái nào đó của những sự vật một sự từ chối chống lại tai ương, dù là sinh vật học, thiên nhiên hay xã hội. Người có ơn đoàn sủng là người vượt qua những ranh giới và giúp cho người khác vượt qua những ranh giới đó. Có thể chúng ta chạm ngón tay vào một nét lớn của phép lạ, là phải nắm giừ lại khi chúng ta tự hỏi về tính thời sự của phép lạ. Ngày nay, chúng ta ít thấy những phép lạ thuộc loại sinh vật học; tuy nhiên, phải tự hỏi về những vươn lên, những vượt qua các giới hạn mà chúng ta được mời gọi. Phép lạ giả thuyết hai người nghèo túng: người thứ nhất là Đức Giêsu, "Ngài là Đấng vốn giàu có đã tự trở nên nghèo hèn vì anh em" (2Cr 8,9). Người thứ hai là người đón nhận dấu chỉ của Đức Giêsu, là người khốn quẫn đến nỗi đã để cho sức mạnh của Đức Giêsu hành động trên chính mình và qua chính mình".
Ngài có phải là Đấng sẽ đến. Câu hỏi của Gioan làm cho chúng ta ngạc nhiên và phân vân hay là: MV 3-A52
Ngài có phải là Đấng sẽ đến. Câu hỏi của Gioan làm cho chúng ta ngạc nhiên và phân vân hay là chính Gioan cũng nghi ngờ không biết Đức Kitô có phải là Đấng Thiên sai hay không? Chắc hẳn không phải là như vậy, chúng ta hãy nhìn vào con người và cuộc đời của Gioan sẽ rõ.
Ngày sinh của ngài đầy những việc lạ lùng nói lên sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa. Cuộc sống nơi hoang địa đầy những khắc khổ mặc áo da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng. Người ta đến để nghe Gioan, thì ông đã không đem lại một sự khen ngợi ủi an, lời lẽ của ông thì ngăn đe và cảnh cáo: Hỡi nòi rắn độc. Cái rìu đã đặt dưới gốc, cây nào không sinh trái sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Ông đã miễn cưỡng ban phép rửa cho Chúa Giêsu vì ông nghĩ rằng mình không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài. Ông đã giới thiệu Đức Kitô là con chiên Thiên Chúa sẽ xóa bỏ tội lỗi trần gian.
Qua những sự kiện ấy, nếu ông nghi ngờ Đức Kitô thì đó là điều không thể nào chấp nhận được. Ông đã được Chúa Giêsu khen ngợi là người cao trọng nhất trong số những con cái của người nữ sinh ra. Chẳng lẽ ông lại là một kẻ đa nghi và thiếu lòng tin tưởng? Sự thật là như thế này: Gioan có một lòng tin tưởng mạnh mẽ vào Chúa Giêsu, nhưng còn các môn đệ của ông thì chưa được xác tín cho lắm, vì thế ông muốn soi dẫn và tạo hoàn cảnh để họ nhìn rõ, nghe kỹ và tự nhận ra Ngài là Đấng Thiên sai đã được tiên báo từ hàng trăm năm về trước.
Đức Kitô đã hiểu được ý nghĩ thâm sâu của Gioan và Ngài muốn tế nhị chứng thực điều đó. Tiên vàn Ngài đã chữa lành các bệnh tật trước sự quan sát của những người được sai đến, rồi Ngài nói với họ: Các ngươi hãy đi thuật lại cho Gioan biết những điều đã nghe và đã thấy: người mù được xem, kẻ què được đi, người phong hủi được lành sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại và Tin Mừng được rao giảng cho những người nghèo khó.
Đó chính là dấu chỉ của vị Thiên Sai mà các tiên tri, nhất là Isaia đã đề cập đến. Thực vậy, Ngài đã làm các phép lạ, để biểu lộ quyền năng và sứ mạng của Ngài xuất phát từ Thiên Chúa. Từ trước đến nay chưa một ai có thể chữa lành bệnh cùi và cho người chết sống lại. Hơn thế nữa, tiên tri Isaia cũng bảo Tin Mừng được rao giảng cho người nghèo khó, Đức Kitô đã giảng dạy cho mọi người không trừ một ai, từ những người giàu sang quyền thế, đến những kẻ túng cực và bất hạnh, Ngài đã đặc biệt lưu ý tới hạng người thứ hai này, vì nhiều lần Ngài đã phán: Tất cả những gì các con làm cho một trong số những kẻ bé mọn nhất là các con đã làm cho Ta.
Ngài đã hướng dẫn dân chúng tới những chân lý cao siêu bằng những ngôn từ đơn sơ, rõ ràng, bằng những hình ảnh sống động và cụ thể… Chính nhờ đó mà các môn đệ của Chúa không còn nghi ngờ gì nữa. Con người này, Đức Kitô thành Nagiarét chính là Đấng Cứu Thế thiên hạ đợi trông. Khi các người được Gioan sai đến đã trở về. Chúa Giêsu nói với dân chúng: Các ngươi vào sa mạc để làm gì? Để tìm gặp một vị tiên tri.
Vị tiên tri ấy chính là Gioan, ông đã can đảm nói lên sự thật, đã trình bày cho mỗi người biết bổn phận của mình, và bây giờ ông đang bị tù tội. Ông còn cao trọng hơn một vị tiên tri nữa vì Kinh Thánh đã nói về ông. Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con để dọn đường cho con. Gioan chính là người đã được Chúa sai đi dọn đường trực tiếp cho Đấng Cứu Thế. Ông được đặc ân chiêm ngưỡng Chúa và giới thiệu Chúa cho mọi người. Hãy lắng nghe và thi hành sứ điệp mà Gioan gửi đến, để nhờ đó chúng ta cũng nhận biết Chúa trong mùa Giáng Sinh này.
Tể tướng lưng gù là một câu chuyện huyền thoại về một vị tể tướng có hình thể dị dạng bị gu: MV 3-A53
Tể tướng lưng gù là một câu chuyện huyền thoại về một vị tể tướng có hình thể dị dạng bị gù lưng, nhưng rất anh minh trong việc trị nước.
Chuyện xảy ra vào đời nhà Thanh: Lưu Dung là con của một thầy giáo, sở học và thú đánh cờ đều giỏi như nhau. Tiểu thư Hà là con gái của vị tể tướng trong triều vừa xinh đẹp, vừa cao thủ cờ tướng, được rất nhiều người yêu mến, trong đó có cả nhà vua. Tiểu thư lá ngọc cành vàng ấy chỉ lấy làm chồng người nào vô địch trong cuộc tỉ thí cờ do cô mở ra. Đúng lúc Lưu Dung về kinh thi trạng nguyên và chàng đã lấy được người đẹp. Sau đó lại thi đỗ trạng nguyên, được làm tể tướng.
Tuy hình thù dị dạng nhưng tể tướng họ Lưu là một người coi trọng công bằng và chính nghĩa. Ông đã lật tẩy nhiều thói hư tật xấu của bọn tham quan, hương lý. Ông trở thành vị cứu tinh của dân nghèo, những người bị hà hiếp và bị đàn áp. Tuy ở địa vị tể tướng nhưng ông lại dùng mưu lược nhiều hơn là vũ lực để đối nhân xử thế, nên ông được dân chúng đặt trọn niềm tin.
Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta một Gioan Tẩy giả có cuộc sống rất dị thường nhưng lại làm được những việc phi thường: Ông chỉ mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong rừng. Con người khổ hạnh ấy lại kiên quyết ngăn cản vua Hêrôđê không được lấy chị dâu là nàng Hêrôđia làm vợ. Chính vì lòng can đảm thi hành vai trò ngôn sứ ấy, mà ông đã bị bạo chúa Hêrôđê bắt giam trong tù.
Hôm nay, từ chốn lao tù ông đã sai các môn đệ của mình còn ngờ vực về sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu, để hỏi Người rằng: “Thầy có đúng là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?” (Mt 11,3). Đức Giêsu không muốn chứng minh sứ mạng của mình bằng lời nói, nhưng Người đã trả lời bằng việc làm, mà chính việc làm này đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về Đấng Thiên Sai: “Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được loan báo Tin Mừng”.
Đây chính là một cuộc hành trình đức tin của Gioan, của các môn đệ ông, và cũng là của mỗi người chúng ta. Con đường đến với đức tin không phải là con đường tơ lụa, mà là con đường đau khổ. Con đường ấy đi từ vùng tối tăm tới miền ánh sáng, từ dấu chỉ hữu hình đến thực tại vô hình, từ các phép lạ đến quyền năng siêu việt của Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu. Con đường không dẫn người ta đến Rôma vinh hiển, Athêna thông thái, Babylon kiều diễm, hay Giêrusalem thành thánh… Nhưng đưa họ đến một góc nhỏ của thôn nghèo Nadarét, để thấy một con người khiêm hạ, một cuộc đời ẩn dật, một trái tim yêu thương, và một cái chết ô nhục trên thập giá: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Trước dáng vẻ bề ngoài xem ra tầm thường đó, có một con người không những chẳng hề vấp phạm; trái lại, can đảm bất khuất đóng xuất sắc vai trò tiền hô cho Người: “Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến” (Mt 11,10). Đó chính là Gioan Tẩy Giả, người được Đức Giêsu khen ngợi: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ chưa từng có ai cao trọng hơn ông” (Mt 11,11a).
Ông cao trọng vì ông là ngôn sứ chuẩn bị gần nhất cho Tân Ước, vì ông đã được nhìn thấy Đấng Cứu Thế và tin vào các việc Người làm, và nhất là vì ông mang một sứ mạng cao cả. Tuy nhiên, Gioan vẫn còn ở bên bờ của Cựu Ước, nên Đức Giêsu mới nói tiếp: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,11b). Đây chính là một niềm vinh hạnh cho chúng ta, những người sống trong thời Tân Ước, vì Cựu ước chỉ là thời chuẩn bị, còn Tân Ước mới là lúc ban ơn cứu độ.
Được may mắn sống trong thời cứu độ của Tân Ước cũng có nghĩa là chúng ta đang mang trên vai sứ mạng cứu rỗi.
Nếu Đấng Cứu Thế đã đến với chúng ta trước để cứu độ chúng ta, lẽ nào chúng ta lại không tận tình cứu giúp anh em.
Nếu Đấng Cứu Thế đã muốn xây dựng thế giới này thành một cộng đoàn yêu thương, lẽ nào chúng ta lại sống trong hận thù ganh ghét.
Nếu Đấng Cứu Thế đã luôn ở với chúng ta mặc dù chúng ta không luôn luôn sống với Người, lẽ nào chúng ta lại không sống thuận hòa với nhau.
Sống Mùa Vọng có nghĩa là trong trí ta phải thấy một rừng lửa rực cháy yêu thương, và trong tim ta phải vang lên một tiếng gọi lên đường.
Gioan Tẩy Giả biết mình là sứ giả đi trước Đấng Cứu Thế và vào thời ngài còn làm phép rửa: MV 3-A54.
Gioan Tẩy Giả biết mình là sứ giả đi trước Đấng Cứu Thế và vào thời ngài còn làm phép rửa tự do trong giòng sông Giorđanô, ngài đã tuyên bố Đức Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa. Nay ở trong tù dường như ngài có một thoáng hồ nghi. Ngài biết số phận mình lệ thuộc ở lòng thù hiềm của một người đàn bà muốn ngài phải chết. Có thể là ngài bị cám dỗ ngã lòng, trong đêm lâm nạn. Điều đó càng dễ hiểu, vì các môn đệ ngài còn bối rối hơn ngài nữa. Những giờ phút trong sáng khi ngài và Chúa Giêsu gặp nhau bên giòng sông Giorđanô, bây giờ dường như đã chìm sâu trong đêm đen của cơn thử thách. Cần phải hỏi Chúa Giêsu. Chúa trả lời bằng cách trích dẫn tiên tri Isaia về những người bệnh tật được chữa lành. Chúa Giêsu biết ý nghĩa mà Gioan sẽ gán cho dấu hiệu đó; và Chúa chắc vị Tiền Hô sẽ được an ủi. Nhưng rồi Chúa Giêsu nói lên hai câu khiến ta phải suy nghĩ:
1) “Phúc cho người không phải vấp ngã vì Ta!”
Người ta có thể vì Đức Kitô mà vấp ngã được không? Đức Kitô có thể làm cớ cho ai vấp ngã chăng? Vấp ngã nói đây là thứ nào? Đối với Gioan Tẩy Giả, hiểm họa vấp ngã là hiểm họa hết tin vào Chúa Giêsu. Sự vấp ngã trước cơn thử thách của đức tin, trước những khó khăn làm sao kiên trì được trong đức tin khi mà ta sống trong một hoàn cảnh đau đớn cùng cực dường như bị Chúa bỏ quên, sự vấp ngã đó chính là một mối nguy mà Chúa nhắc tới. Và Chúa nói rằng hạnh phúc cho kẻ nào vượt qua khỏi mối nguy ấy. Thánh Gioan ở trong một hoàn cảnh nhục nhã và phi lý khiến mạng sống ngài bị đe dọa. Vì thế con người tự nhiên trong Gioan thắc mắc. Câu nói của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là: Phúc cho Gioan vì đã không hết tin. Nhưng lời của Người cũng nhắn nhủ chính chúng ta nữa. Hạnh phúc cho ta nếu trên đường thử thách gian truân, đức tin ta luôn vẫn đứng vững. Như Gioan, chúng ta cần chạy tới Chúa Giêsu, truy vấn Người. Ở đâu? Thưa trong Hội Thánh Người, trong cuộc gặp gỡ thân mật của lời cầu nguyện và các bí tích, nhất là Thánh Thể.
2) “Người nhỏ hơn trong Nước Trời lại lớn hơn ông”
Chúa nói như thế về Gioan sau khi tuyên bố rằng trong những kẻ bởi người nữ sinh ra chẳng ai lớn hơn Gioan. Câu nói của Đức Kitô cho biết rằng vai trò của Gioan nằm ở bình diện của lời hứa và công cuộc chuẩn bị. Trên bình diện ấy không ai hơn Gioan. Nhưng khi Nước Trời bắt đầu được thực hiện, sau công cuộc cứu độ, thì kẻ nhỏ nhất giữa đám tín dân cũng vượt quá vị tiên tri lớn nhất, xét về lợi lộc ân sủng. Ta có thể rút ra bài học cho hoạt động tông đồ của ta. Hoạt động tông đồ bao gồm khía cạnh chuẩn bị con người gặp gỡ Đức Kitô. Trên bình diện chuẩn bị này, người ta có thể hoạt động một cách hết sức đắc lực, nhưng hoạt động cần phải tổ chức thế nào để kết thúc nơi Đức Kitô. Hành vi đức tin vào Đức Kitô, dù nhỏ nhất, miễn là đích thật, vẫn đem lại giá trị thật cho tất cả những gì đã chuẩn bị nó.
Gioan Tẩy Giả là nhân vật nổi bật của Mùa Vọng. Ông thể hiện tính cách rất khớp với Mùa:MV 3-A55
Gioan Tẩy Giả là nhân vật nổi bật của Mùa Vọng. Ông thể hiện tính cách rất khớp với Mùa Vọng của chúng ta. Đời sống chúng ta há không phải là một Mùa Vọng đó sao – Mùa Vọng của đức tin, của niềm mong đợi, của lòng kiên nhẫn và của nỗi khắc khoải về điều mình chưa nhìn thấy? Đời Kitô hữu dựa trên cái gì nếu không phải là dựa trên cái mà mình tin và hy vọng? Làm Kitô hữu đích thực là chấp nhận sự điên rồ của Thiên Chúa để dám liều mất con chim trong tay mình hôm nay nhằm có thể bắt được hai con chim khác trong bụi rậm trên trời. Làm Kitô hữu đích thực là dám hy sinh những mối lợi tiền bạc, những khoái lạc thân xác; là không khư khư cố bám các quyền lợi của mình, vì Nước Trời. Nước Trời ấy, hỡi ôi, chưa từng mắt nào nhìn thấy được.
Gioan Tẩy Giả của bài Tin Mừng hôm nay thuộc về một Mùa Vọng như thế: Mùa Vọng của nỗi mong chờ điều vẫn còn đang đến. Ông quả là mẫu người mà chúng ta phải trở nên trong Mùa Vọng suốt đời người. Con người ấy đã bị bỏ tù. Con người ấy đã điên rồ đến nỗi dám nói lên “sự thật mất lòng” ngay cả với nhà vua. Có ai hành động khờ khạo về chính trị như thế không? Ông ngồi đó, trong bóng tối ngục tù. Thật đáng đời ông. Không ai cứu ông ra. Các bạn hữu ông không phát động một cuộc cách mạng. Họ làm gì có khả năng đó. Họ chỉ thao thức với thần học và hoàn toàn ngu ngơ trong đời sống thực tiễn - hay ít ra là có vẻ như thế.
Và cả Thiên Chúa nữa, cũng bỏ mặc vị ngôn sứ rao giảng sám hối của Người. Cả Thiên Chúa cũng dường như đứng về phía thế lực hùng mạnh của nhà vua. Thiên Chúa đang thực hiện các phép lạ nơi Con của Người. Nhưng, bi kịch hay hài kịch đây, khi mà những phép lạ ấy chỉ cứu chữa có vài kẻ bất hạnh xem ra chẳng giữ tầm quan trọng nào đối với Nước Thiên Chúa. Những phép lạ ấy đã không giải thoát vị ngôn sứ thánh – là người có liên hệ máu huyết và là vị sứ giả mở đường chính thức cho Đấng đang thực hiện các phép lạ ấy. Gioan vẫn bị giam cầm trong ngục tối cho đến ngày bị chém đầu!
Đối với một ngôn sứ, thật không gì khó chịu cho bằng phải ngồi trong tù chờ chết, bị xem là hết thời, song lại phải quan tâm đến những phép lạ chẳng chút ích lợi gì cho mình.
Nhưng Gioan không phải là một cây sậy ngả nghiêng trước gió. Ông vẫn tin, bất chấp mọi sự. Ông là sứ giả dọn đường cho Chúa, trước hết bằng chính đời sống và tâm hồn ông. Ông dọn đường cho Chúa, Đấng chần chừ mãi một cách bất nhẫn trước khi đến, và Người thậm chí chẳng tỏ vẻ hối hả gì khi vị ngôn sứ của Người đang lâm nạn: Vị Thiên Chúa dường như bao giờ cũng chỉ nghĩ đến khi đã quá muộn màng! Song Gioan Tẩy Giả biết rằng Thiên Chúa luôn luôn có lý của Người, rằng Người chiến thắng bằng cách nhận chịu thất bại, rằng Người sống và thông ban sự sống bằng cách trao nộp mình chịu chết, rằng Người là tương lai đích thực cuối cùng của mọi thứ tương lai.
Tắt một lời, Gioan Tẩy Giả chỉ biết tin và tin. Và điều đó đối với ông thật không dễ. Lòng ông đắng cay và bầu trời thì mù mịt. Nỗi khắc khoải cào cứa trong ông: “Có phải Người là Đấng phải đến?”. Có phải là chuyện tình cờ, khi câu hỏi ấy được đặt ra với đúng đối tượng – tức vị Thiên Chúa làm người. Trong cầu nguyện, người ta có thể trang trải ngay cả một cõi lòng đầy xao động với Thiên Chúa, một cõi lòng mà trong thực tiễn chẳng còn điểm tựa và cũng không biết nghị lực mình sẽ còn cầm cự được bao lâu. Bao lâu một tâm hồn còn là một tâm hồn cầu nguyện, bấy lâu tâm hồn ấy vẫn còn đức tin và sẽ nhận được một câu trả lời thỏa đáng: “Hãy đi và nói với Gioan những gì các anh xem thấy… và phúc cho kẻ không đối đầu với Ta”. Gioan đã nhận được tiếng trả lời của Chúa dẫu là ông đang ngồi trong ngục tối!
Cả cuộc đời chúng ta là một Mùa Vọng, vì Kitô hữu là những người mong đợi một Đấng sẽ đến. Và chỉ khi Đấng ấy đến, chúng ta mới được chứng minh là đúng đắn. Bao lâu còn phải đợi trông, bấy lâu ta còn thấy dường như thế gian mới đúng. Thế gian sẽ vui cười, còn anh em sẽ khóc lóc. Thầy Chí Thánh đã từng nói thế. Chúng ta cũng đang ngồi trong một ngục tù, ngục tù của sự chết, của những câu hỏi còn bỏ ngỏ, của sự yếu đuối nơi mình, của tính ích kỷ hẹp hòi của mình, của những cam go và những bi kịch trong cuộc sống.
Nhưng mỗi ngày, bằng đức tin và lời cầu nguyện của mình, chúng ta sẽ gửi các sứ giả của chúng ta đến với Đấng sẽ đến xét xử người sống và kẻ chết. Và các sứ giả Mùa Vọng này sẽ trở lại với câu trả lời: “Ta đang đến đây, phúc cho kẻ không đối đầu với Ta”.
Làm sao giải thích câu hỏi của Gioan (11, 2-3)? Gioan đã nghe biết các "việc" gì của Chúa Kitô: MV 3-A56
1) Làm sao giải thích câu hỏi của Gioan (11, 2-3)? Gioan đã nghe biết các "việc" gì của Chúa Kitô (11,2)? Phải chăng ông nghi ngờ, và nghi ngờ về điểm nào? Chúa Giêsu đã đưa ra lý chứng ngôn sứ nào để trả lời ông (11, 4-6)?
2) Câu hỏi của Gioan (11,3) được đặt trong thế giới chúng ta và trong Giáo Hội hiện nay như thế nào?
3) Chúa Giêsu đặt Gioan Tẩy Giả trong tương quan thế nào với mình (11,7-15)? Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả liên tục hay đứt đoạn với trào lưu ngôn sứ của Cựu Ước? Sự cao cả của Gioan nằm ở chỗ nào (c. 11)?
***
1) Các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, vào thời Mt, đã gặp nhiều lôi thôi với đồ đệ của Gioan Tẩy Giả (x. Cv 19,1-7 chẳng hạn), với "người phái Gioan", những kẻ cứ mải lặp lại câu hỏi của thầy họ: Đấng Thiên Sai mà thầy loan báo có đúng là Chúa Giêsu không? Vấn đề thành ra còn mang tính cách thời sự khi Mt viết Tin Mừng, cũng như đối với chúng ta ngày nay: Phải chăng chúng ta không là người phái Gioan một cách nào đó khi còn mong chờ một Đấng Thiên Sai hùng mạnh khác đến thay đổi thế giới và canh tân mọi cơ cấu, khi chẳng dám tin rằng Chúa Giêsu thật sự đã hoàn tất mọi sự cho chúng ta? Và như vậy là Chúa Giêsu đã bị đặt lại vấn đề, vừa do câu hỏi của Gioan, vừa do thắc mắc của người đời, xưa cũng như nay.
2) Chẳng có người nào được Chúa Giêsu đề cập đến cách tỉ mỉ hơn Gioan Tẩy Giả. Một diễn từ rất sôi nổi, với những câu hỏi ngắn móc nối nhau, tất cả đều cho thấy Gioan là một đại ngôn sứ. Những điều Chúa Giêsu nói không chỉ mặc khải ý nghĩa vai trò của Gioan Tẩy Giả trong diễn tiến lịch sử cứu rỗi, mà còn cho thấy Gioan đã gây ấn tượng sâu xa cho Người đến chừng nào.
3) Câu hỏi mà vị Tẩy Giả nhờ môn đồ đặt ra là một câu hỏi đích thực, trang nghiêm. Mt chứng minh điều đó bằng cách cho biết Gioan hiện bị cầm tù, sống xa cách mọi người trong chốn lao lung. Ông đã nghe nói về các việc Chúa Giêsu làm, nhưng không tài nào giải thích được. Phải chăng ông đã chờ đợi những "việc" thuộc loại khác, như một phong trào quần chúng bột phát, một cuộc phán xét công thẳng trên các kẻ thù của Thiên Chúa chẳng hạn? Thế nhưng cuộc phán xét đầy sóng gió mà chính Gioan đã cảm thấy được vài dấu hiệu đầu tiên (khi Chúa Giêsu chịu phép rửa) lại đã chẳng xảy đến.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp không làm chứng về mình. Tuy nhiên, Người đã có thể đáp lại bằng một tiếng "phải" rõ ràng, đánh tan mọi nghi ngờ, như khi đứng trước vị thượng tế sau này. Song ở đây, Người tránh làm vậy, đồng thời lại chỉ cho Gioan con đường phải theo, con đường của mọi môn đồ: đó là biết nhìn các dấu hiệu và biết giải thích, biết nhận ra chúng như là "công việc" của Đấng Thiên Sai. Đấy là con đường của đức tin, khởi hành từ những hậu quả hữu hình để đi đến chỗ khám phá Chúa Giêsu. Đó là con đường đi từ tối tăm đến ánh sáng, từ dấu chỉ đến thực tại.
Nếu biết nhìn các công việc của Chúa Giêsu, nhất là nếu có khả năng liên kết chúng, ta sẽ chẳng chút nghi ngờ. Chính Chúa Giêsu đã chỉ con đường đức tin bằng một câu tuyên bố lấy lại một đoạn ngôn sứ Isaia: "Người mù được thấy” (Is 35, 5-6; 61,1). Thần Khí xức dầu cho Đấng Được Chọn đã ban cho Người khả năng thực hiện mọi kỳ công đó. Nhưng ta không được dừng lại nơi một trong các việc ấy, chỉ nhìn phép lạ này mà không thấy phép lạ kia, chỉ lắng nghe lời nói mà chẳng quan tâm đến việc làm. Không, tất cả đều bộc lộ khuôn mặt đích thực của Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu không chỉ là một nhà giảng thuyết lôi cuốn được quần chúng hay một tay chuyên làm phép lạ. Người đã chẳng chữa lành như một y sĩ mà thôi, song còn phục sinh được kẻ chết. Chính loàn thể công việc mới cho phép ta quyết đoán chắc chắn Người là Đấng Được Xức Dầu của Thiên Chúa đang hiện diện và hành động, Đấng mà Isaia đã từng loan báo.
4) Mới thoạt nghe, câu trả lời của Chúa Giêsu làm ta thất vọng, vì hình như nó chẳng trực tiếp mặc khải con người của Người. Thật ra nó bắt Gioan nhìn vào chính Chúa Giêsu: "Phúc cho người không phải vấp ngã vì Ta" (11,6) vì đã mách cho vị Tẩy giả biết một "chân phúc" mà ông sẽ khám phá ra ý nghĩa qua chính cuộc đời của ông. Tin rằng các dấu hiệu thiên sai vừa được nhắc lại cho ông (11, 5) đã thật sự được hoàn tất trong con người tầm thường, khiêm tốn của Chúa Giêsu, điều đó đòi hỏi một sự từ bỏ bản thân hoàn toàn, từ bỏ cho đến chết. Và đấy là điều mà Gioan thấy mình đang được kêu mời thực hiện.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Bấy giờ Gioan, đang ở trong tù... ": Gioan đã chẳng sợ phê bình hạnh kiểm của Hêrôđê Antipas, kẻ đang sống với chị dâu. Để khóa miệng ông, vị tiểu vương đã giam ông trong pháo lũy Makêron (lời chứng của F.Josèphe, Ant. Jud. XVIII, 5,2) nằm trên bờ đông Từ Hải. Tuy nhiên nhà vua vẫn đối xử tử tế với tù nhân và cho phép ông gặp môn đồ. Chính Gioan đã nhờ họ đi hỏi Chúa Giêsu.
"Ngài có phải là Đấng sẽ đến hay không?": Khi nghe câu hỏi ấy, độc giả Tin Mừng không thể không nhớ lại lời Gioan đã nói về Chúa Giêsu: "Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi" (3, 11). Câu nói này là âm vang của Is 40, sấm ngôn mà Gioan cho là lời định nghĩa về sứ mạng riêng của mình: "Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa cho thẳng lối Thiên Chúa ta" (Is 40, 3; x. Mt 3, 3); phần tiếp trong sấm ngôn ấy có loan báo: "Này đây Chúa đến với uy hùng dũng lực và cánh tay Ngài sẽ thống trị" (c.10). Như thế sức mạnh là đặc điểm của "Đấng sẽ đến".
Về tính chất của sức mạnh sắp biểu dương ấy, Gioan đã có những ý tưởng rất chính xác. Trước tiên ông so sánh nó với sức mạnh của người nông phu cầm rìu đốn ngã thân cây không sinh trái và ném vào lửa (3, 10). Ông cũng minh giải nó bằng hình ảnh người nông phu quét sạch sân lúa, thiêu đốt những gì không phải là giống tốt (c.12). Gioan kêu mời các tội nhân hối cải và ban cho họ phép rửa tha tội, mà họ phải mau mấn chịu lấy trước khi xuất hiện Đấng sẽ làm phép rửa bằng Thần Khí và lửa, một phép rửa hủy diệt (c. 11). Nói cách khác, Gioan thấy "Đấng sẽ đến" như là một Thẩm phán đáng sợ lấy lửa chẳng hề tắt mà tiêu trừ mọi tội nhân không ăn năn hối cải.
Ta cũng đi đến một kết luận như vậy khi khởi từ Ml 3, 1, một bản văn cũng được dùng để định nghĩa sứ mệnh Gioan (x Mt 11, 10): "Này Ta sai sứ giả Ta, và nó sẽ dọn đường trước mặt Ta". Tiếp theo sứ giả, Chúa sẽ thân hành đến: “Ai chịu đựng nổi ngày Người đến? Ai đứng vững được khi Người hiện ra? Vì người đến như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của người giặt ủi người sẽ ngự mà luyện kim, mà lọc bạc; Người sẽ thanh luyện con cái Lêvi..." (Ml 3, 2-3). Hình ảnh có thay đổi đấy nhưng bao giờ cũng vẫn là cuộc phán xét thanh luyện sẽ xô nhào tội nhân vào lửa.
Vì thế Gioan tự coi mình như có trách nhiệm chuẩn bị Israel đón chờ cuộc phán xét khủng khiếp; gương sáng và lời nói của ông chỉ muốn đưa tội nhân hối cải và thoát khỏi hình phạt đời đời đang đe dọa họ. Một khi "Đấng phải đến” xuất hiện, thì không còn giờ tránh thoát sức mạnh hủy diệt của Người. Đàng khác, Gioan cũng ý thức vai trò phụ tá của mình đối với Chúa Giêsu. Song những gì ông biết về cách thức Chúa Giêsu thi hành sứ vụ Người hoàn toàn không tương ứng với ý tưởng ông có về cuộc phán xét sẽ phải xảy ra. Do đó mà câu hỏi của ông đầy vẻ ngạc nhiên.
Hơn nữa, có một tương quan hiện sinh giữa câu hỏi của vị Tẩy Giả và thân phận tù đày của ông: Đấng Thiên Sai mong chờ sẽ giải cứu những tù nhân, nhất là các tù nhân đức tin (Lc 4, 18; Is 61, 1); phải chăng ông không là người đầu tiên được giải cứu?
"Các ông hãy đi tin lại cho Gioan mọi điều tai nghe mắt thấy": Gioan biết các phép lạ Chúa Giêsu làm (c.2). Và Chúa Giêsu bảo ông hãy nhìn vào phép lạ. Đâu là sức mạnh của lập luận? Theo quan niệm bấy giờ, dựa trên các sách ngoại thư và truyền thống giáo sĩ Do Thái, thì ơn làm phép lạ tự nó không phải là một trong những đặc điểm của Đấng Thiên Sai. Như thế Gioan có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu không đóng vai trò và nhiệm vụ Đấng ấy. Thế nhưng Chúa Giêsu kêu mời Gioan suy nghĩ về những phép lạ đó bằng cách thu gộp chúng trong những từ ngữ gợi lại các sấm ngôn thiên sai. Nên Người đã chu toàn ít ra là một phần phận sự của Đấng Thiên Sai vậy.
Chúa Giêsu không phán trực tiếp và với uy quyền: "Ta là Đấng Thiên Sai", song kêu mời Gioan hãy cứu xét những gì mà các sứ giả của ông có thể thấy và nghe, tức là công việc và lời nói của Chúa Giêsu: đấy là con đường duy nhất để đi tới đức tin. Thành ra những kẻ không tin và người mù và điếc (23, 16), chẳng có khả năng giải thích các dấu hiệu Chúa Giêsu ban ra (13, 13). Bởi vậy Chúa Giêsu có thể bảo với những ai theo Người: “Mắt các ngươi có phúc vì thấy, tai các ngươi có phúc vì nghe” (13, 16).
“Người mù xem thấy...”: Câu Chúa Giêsu trả lời không quy chiếu một bản văn nào nhất định (trừ Is 61,1) cho bằng quy chiếu toàn bộ các lời tuyên sấm mà sách Isaia đã dùng để mô tả các việc thiện của thời thiên sai... hơn là các hình phạt tiên báo. Gioan sẽ nhận ra lối ám chỉ đó. Ông sẽ hiểu rằng Chúa Giêsu không chỉ muốn quả quyết Người là Đấng Thiên Sai song còn đưa ra bằng chứng: hành động hào hiệp của Người thực hiện những gì mà Isaia đã loan báo về thời thiên sai. Nhưng đồng thời - và đây hẳn là cao điểm của câu trả lời – Chúa Giêsu kín đáo kêu mời Gioan quan niệm vai trò Đấng Thiên Sai dưới một khía cạnh hơi khác khía cạnh mà ông đã lưu tâm. Khía cạnh mới này thiếu hẳn tính chất uy hùng đến nỗi trở thành một cơ hội nghi ngờ cũng như tin tưởng. Đấy là điều mà câu tiếp minh nhiên khẳng định.
“Phúc cho ngươi không phải vấp phạm vì Ta”. Theo nghĩa đầu tiên, "cớ vấp phạm" trong Hy ngữ ám chỉ việc giăng bẫy, rồi được áp dụng cho chính cái bẫy, theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Trong bản Kinh Thánh Hy Lạp, nghĩa của nó còn rộng hơn nữa, và được dùng để nói về bất cứ chướng ngại nào trên đường, đặc biệt hòn đá vấp chân. Vậy “cớ vấp phạm” là tất cả những gì có thể gây ra một sự vấp ngã, và nói theo ẩn dụ, là nguyên nhân của một sa ngã luân lý hay tôn giáo. Trong Tin Mừng, thường có đối ngẫu giữa "vấp phạm" và "tin": kẻ không chấp nhận tin hoặc suy yếu đức tin sẽ phải "vấp phạm". Chúa Giêsu phát biểu cách tổng quát: "Phúc cho người không phải vấp phạm vì Ta". Người chẳng nhắm Gioan trực tiếp, nhưng rõ ràng là lời ấy nhắc nhở ông vì nằm trong sứ điệp dành cho ông. Người tiên đoán câu Người trả lời cho Gioan có thể làm ông thất vọng. Giữa quan niệm của Gioan về Đấng Thiên Sai và quan niệm của Người, đối nghịch không phải nhỏ! Gioan có đi đến chỗ chấp nhận được mặc khải về tình yêu bày tỏ trong khiêm cung và yếu đuối chăng? Ta đừng ngạc nhiên về thử thách đang chờ đợi ông. Hãy nhớ lại phản ứng của Phêrô tại Césarée Philipphê (16, 22-23) hoặc phản ứng của Giona khi Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).
“Các người đi ra sa mạc để coi cái gì? cây sậy rung trước gió ư”. Ba lần, Chúa Giêsu hỏi tại sao thiên hạ đi ra sa mạc? Việc chỉ nơi chốn có vẻ mơ hồ. Nói đến sông Giođanô không rõ hơn. Nhưng việc nhắc đến sa mạc dễ gợi lên ngay hình ảnh con người xuất hiện như “tiếng kêu trong sa mạc” (3,3). Chính Gioan mà người ta nghĩ tới ngay từ đầu; con người của ông làm nổi bật các câu hỏi liên hệ tới ông.
Thiên hạ không đi vào sa mạc để nhìn xem một cây sậy phất phơ trước gió. Chắc hẳn Chúa Giêsu muốn đặt đối nghịch cây sậy với sự kiên cố bất lay chuyển của Gioan. Đức tính này làm cho Gioan gần giống với ngôn sứ Giêrêmia (Gr 1, 17-19), một con người bất khuất trước mọi sự nhờ luôn ý thức sứ mệnh thần linh của mình và nhờ được sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa nâng đỡ. Tính bất khuất ấy của Gioan là nơi đầu tiên nâng ông vượt trên thiên hạ và đặc trưng sự cao cả của ông.
“Để thấy một ngôn sứ ư? Phải! Ta bảo các người...”. Dòng dõi đứt đoạn của các ngôn sứ (1 Mcb 9, 27; Tv 74,9) đã được nối lại với Gioan Tẩy Giả. Và xét cho cùng, đó chính là cái lôi kéo mọi người đến với ông: Thiên Chúa lại bắt đầu phán bằng lời ngôn sứ, như Ngài đã từng làm trong bao thế kỷ qua tất cả lịch sử Israel. Những kẻ nghe Chúa Giêsu đều biết mọi điều ấy; lời của Người hẳn âm vang sâu xa trong tâm hồn họ. Nhưng Người còn nói hơn thế nữa.
"Và còn hơn ngôn sứ nữa". Dân chúng đã nhận ra Gioan là một ngôn sứ; nhiều người còn coi ông hơn cả một ngôn sứ, nghĩa là chính Đấng Thiên Sai (Lc 3, 15; Ga 1, 20; Cv 13, 25); dĩ nhiên, ông lớn hơn một ngôn sứ, nhưng theo ý nghĩa khác: ông là vị Tiền Hô. Đấng mà mọi ngôn sứ trước đây loan báo, thì Gioan đã thấy và đã chỉ cho biết: ông vừa đứng ở tận điểm và cao điểm thời kỳ đoan hứa, vừa đứng nơi ngưỡng của thời đại mới, thời đại Nước Trời.
“Kẻ nhỏ nhất trong Nước trời lại lớn hơn ông”: Một câu khó hiểu từng phát sinh nhiều lối giải thích khác nhau. Một số nhà chú giải, trong đó có các Giáo phụ, cho rằng "kẻ nhỏ nhất" là chính Chúa Giêsu. Văn mạch quả thật có trình bày Chúa Giêsu như là "bạn của người thu thuế và tội lỗi " (c. 19), Người có được đồng hóa một cách nào đó với các "kẻ nhỏ" ấy và nhờ vậy khác với Gioan (F.Dibelius, F.Hanck, W.Grundmann...). Nhưng lối giải thích này vấp phải nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất là ta không thấy làm sao, mặc dầu đã cố ý tự hạ, Chúa Giêsu lại có thể tuyên bố mình là "kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời". Thật vậy, Chúa Giêsu không đi vào trong một Nước Trời đã được thành hình, nhưng là loan báo và thiết lập Nước ấy trong chính con người của mình.
Đúng ra, có lẽ không nên đem Chúa Giêsu vào mà so sánh. "Kẻ nhỏ nhất trong nước Trời" chỉ một trong những kẻ đã chấp nhận sứ điệp của Người. Tuy nhiên cần phải lưu ý. Khó mà cho rằng kẻ kém nhất trong họ về sự thánh thiện lại trổi vượt Gioan trong phương diện ấy: như thế là bảo Chúa Giêsu đã phân biệt sự cao cả của sứ mệnh thần linh (loan báo Đấng Thiên sai) và sự toàn thiện của người được trao sứ mệnh (sự thánh thiện riêng của Gioan), một lối phân biệt chẳng phù hợp tí nào với tư tướng Kinh Thánh: cao cả nhờ sứ mệnh được ủy thác, Gioan không thể bị xem như thua kém người môn đồ tồi nhất của Chúa Kitô về phương diện trung thành được. Thật ra ở đây không cố ý nói đến sự thánh thiện cá nhân, nhưng, như văn mạch cho thấy, là nói đến hai trật tự, hai kinh nghiệm, hai thiên chức. Gioan đã xuất hiện như một ngôn sứ cao cả vào lúc kết thúc thời gian hứa hẹn và chờ đợi, song ông vẫn chỉ là một tiền hô; sau ông, khi Chúa Giêsu xuất hiện, là bắt đầu thời đại cứu rỗi thiên sai mới mẻ và chung cục. Thuộc vào thời đại ấy là một số phận may mắn, vượt xa những gì đi trước. Thành ra, kẻ trông nhỏ nhất giữa các phần tử Nước Trời lại được cao cả hơn những ai thuộc về các thời trước vậy.
KẾT LUẬN
Tư tưởng thần học của đoạn văn này không dừng lại nơi Gioan Tẩy Giả song còn đi xa hơn. Đi xa hơn trước tiên bằng cách đối chọi sự cao cả trần gian với sự cao cả của Nước Trời sẽ đến. Sau đó bằng cách cho thấy: vai trò của vị Tiền Hô được soi chiếu nhờ phẩm cách thần linh của Chúa Giêsu, Đấng mà ông đi trước dọn đường. Phận sự của Gioan, và của các thánh nói chung, không phải là làm người ta chú ý đến mình, nhưng là dẫn đưa tới Chúa, Đấng họ đang làm chứng giữa loài người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Câu hỏi môn đồ Gioan đặt ra cũng thượng được đặt do mọi thế hệ muốn đi tìm một thứ thiên sai chủ nghĩa mới, có tính cách triết học, chính trị hoặc xã hội. Đó là câu hỏi đặt ra do những ai mà đức tin trở nên do dự, mỏng dòn, do những ai thỉnh thoảng đi tìm trong các khuynh hướng tôn giáo khác (chiêu hồn, dị đoan, giáo phái) một câu trả lời cho bao mối lo âu của họ. Câu trả lời duy nhất nằm trong mặc khải về một Thiên Chúa nhân từ hằng ngỏ lời cách riêng với những kẻ nghèo nàn, khốn khổ để mang lại cho họ Tin Mừng cứu rỗi.
2) "Người què được đi": Chúa Giêsu đem lại cho người lảo đảo sự vững lòng và sức mạnh, đặt họ lại trên con đường ngay chính. Giáo Hội cũng không ngừng trả lại cho con người khả năng bước đi trong con đường của Chúa Kitô để tiến đến sự sống sung mãn.
3) “Người mù được thấy”, họ không còn phải tìm một Thiên Chúa vô danh cách mò mẫm trong bóng tối nữa (Cv 17, 23- 28). Những kẻ sống nhờ Chúa Kitô là những người "nhìn thấy ánh sáng chan hòa" (Mt 4, 16) sau khi đã bước đi trong u tối.
4) “Kẻ phong cùi được sạch, người chết sống lại”: Không ai bị loại ra khỏi Nước Trời: cho dù bị tội ác và thất vọng bôi bẩn hay giết chết, người ta vẫn có thể sống lại nhờ đức tin vào Đức Kitô, Đấng nâng dậy và tha thứ, chữa lành và tác sinh.
5) Sứ mạng của Kitô hữu giống với sứ mạng của vị Tiền hô: chuẩn bị các tâm hồn sẵn sàng đón Chúa Kitô. Và như Gioan Tẩy giả, Kitô hữu sẽ được kêu mời chịu đau khổ vì đức tin.
6) Giáo Hội tiếp tục công việc của Chúa Giêsu. Nhờ Giáo Hội, "kẻ nghèo, tức chúng ta, “kẻ nghèo của Đức Giavê, được nghe loan báo Tin Mừng", được phụng vụ Lời Chúa, bài giảng, giáo lý và giáo huấn của các vị lãnh đạo Giáo hội dạy dỗ cho. Chính Giáo Hội cũng chữa lành các tâm hồn và không ngừng bao bọc nỗi khổ thể xác của con cái mình bằng việc thực thi bác ái, giáng phúc thi ân.
Chúa nhật III mùa vọng được gọi là Chúa nhật “ Hãy vui lên “ vì Chúa quả thực đã đến, đang: MV 3-A57
Chúa nhật III mùa vọng được gọi là Chúa nhật “ Hãy vui lên “ vì Chúa quả thực đã đến, đang đến và vẫn tiếp tục đến với nhân loại, với con người. Do đó, Đạo Chúa thiết lập là Đạo tình yêu. Người Kitô hữu có Chúa trong tâm hồn thì phấn khởi, hồ hởi và hạnh phúc biết bao. Tin Mừng hôm nay lại giới thiệu một con người, một vị ngôn sứ lớn: Gioan Tẩy Giả mà Kinh Thánh đã viết:” Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con đến “.
Nhân vật Gioan Tiền Hô mà Tin Mừng nói đến là một người rất dị thường, lạ lùng nhưng lại làm được những việc xem ra hết sức phi thường. Thánh Gioan Tẩy Giả đã được Thánh Kinh thuật lại như một con người rất giản dị ; mình mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Con người ấy sống rất khổ hạnh, rao giảng sám hối, ăn chay, cầu nguyện. Tuy nhiên, thánh Gioan Tiền Hô có lòng thánh thiện, đạo đức cao sâu, Ngài cương quyết và nghiêm khắc với tội, với những con người lợi dụng chức quyền, địa vị để phạm tội. Chính thánh Gioan Tẩy Giả đã cương quyết ngăn cản Vua Hêrôđê không được lấy chị dâu là nàng Hêrođiađê làm vợ. Vì tính cương trực, lòng can đảm và cương quyết mà Gioan Tẩy Giả đã bị bạo chúa Hêrôđê ra lệnh bắt tống giam vào ngục và cuối cùng đã bị chém đầu để làm chứng cho Chúa. Trong lao tù, Gioan Tiền Hô đã sai các môn đệ khi các ông còn nghi ngờ về sứ mạng và con người của Đấng Thiên Sai tức Chúa Giêsu, để hỏi Người:” Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi phải đợi ai khác ? “.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp Ngài là người thế nào, Người là ai ? Nhưng Ngài trả lời và nói với họ hãy về thuật lại cho Gioan Tẩy Giả về những việc mà Ngài đã làm:” Mù lại thấy, câm nói được, điếc nghe được, què đi được và người nghèo được nghe giảng Tin Mừng “ ( Mt 11, 5 ). Đây là những dấu chỉ cho thấy Chúa đã đến. Tìm và đi theo Đức Kitô là một cuộc hành trình đức tin thật khó khăn và vất vả như lời Chúa dạy:” Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác Thập Giá mình mà theo Ta “. Con đường theo Chúa là con đường khổ giá, con đường hẹp. Con đường ấy là con đường Gioan Tẩy Giả, các môn đệ của Ông, của mọi Kitô hữu và của mỗi người chúng ta. Đường dẫn tới gặp Chúa, và rồi ở lại, đi theo Chúa là con đường khổ giá, đường dẫn từ tối tăm tới ánh sáng, đường hẹp, không phải con đường rộng thênh thang, trải nhựa và tơ lụa nhưng là đường dẫn tới Bêlem, dẫn tới làng quê Nagiarét, nơi gia đình của Chúa Giêsu: thánh Giuse, mẹ Maria và Chúa Giêsu đã sống rất khiêm hạ, khó nghèo. Đặc biệt Chúa Giêsu đã xuất thân từ Nagiarét, đi rao giảng và rồi bị kết án khi Người vô tội và lãnh nhận cái chết khổ hình trên Thập giá. Con đường đó đã đưa Gioan Tẩy Giả tới chỗ tù tội vì Ông làm chứng cho Chúa, đập tan bóc lột bạo quyền và tội lỗi.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã được diễm phúc thấy Đấng cứu thế, đã chỉ cho nhiều người nhận ra Đấng cứu thế và đã chứng kiến những phép lạ, những công việc tốt lành của Chúa. Thánh Gioan Tiền Hô lại là vị ngôn sứ chuẩn bị gần nhất cho Tân Ước. Tuy nhiên, Ông vẫn sống trong thời Cựu Ước. Thời Cựu Ước chỉ là thời chuẩn bị, còn Tân Ước là thời Chúa ban ơn cứu độ. Người môn đệ Chúa là sứ giả dọn đường cho Chúa. Chính vì thế, người Kitô hữu được sai đến mọi môi trường như giáo xứ, giáo họ, điểm giáo, đi vào mọi lãnh vực như vùng kinh tế mới, vùng Dân tộc, các bệnh viện, trường học, nơi có các bệnh xã hội:aids, siđa, ung thư vv…để làm chứng cho Chúa và loan báo tình thương của Chúa. Người Kitô hữu nhờ đức tin sẽ kiên nhẫn chờ đợi cho sa mạc nở hoa, cho đất trổ sinh hoa mầu như bài đọc I và 2 mô tả. Người Kitô hữu tỉnh thức và tích cực xây dựng Nước Chúa, xâ dựng Trời mới Đất mới là loan báo Nước Thiên Chúa đã tới gần.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn mau mắn lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa để sa mạc được dạt dào suối nước và sa mạc nở hoa tươi tốt. Xin cho chúng con biết xây dựng Nước Chúa hơn là chỉ biết tìm kiếm những của cải chóng qua ở đời. Amen.
Mt 11,2-11: 2 Trong tù, Yoan nghe biết các việc Đức Kitô làm, thì nhờ môn đồ ông nhắn nói với: MV 3-A58
Mt 11,2-11: 2 Trong tù, Yoan nghe biết các việc Đức Kitô làm, thì nhờ môn đồ ông nhắn nói với Ngài: 3 "Có phải Ngài là Đấng sẽ đến, hay chúng tôi phải đợi người khác?" 4 Đức Yêsu đáp lại và bảo họ: "Các ông hãy đi tin lại Yoan mọi điều tai nghe mắt thấy: 5 Mù được sáng và què được đi, phung hủi được sạch, và điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại, và người nghèo khó được nghe báo Tin Mừng; 6 và phúc cho người không phải vấp ngã vì Ta!"
7 Họ đi rồi Đức Yêsu nói với dân chúng về Yoan: "Các người đi ra sa mạc để coi cái gì?- Cây sậy rung trước gió ư? 8 Mà các người đi ra để xem gì? Một người ăn vận mịn màng ư? Nhưng này, những kẻ ăn vận mịn màng thì ở đền vua. 9 Mà tại sao các người ra đi? Để thấy một tiên tri ư? Phải! Ta bảo các người: và còn hơn tiên tri nữa. 10 Về ông ta đã viết:Này Ta sai thần sứ Ta đi trước mặt ngươi, kẻ sẽ dọn đàng cho ngươi, đằng trước ngươi.
11 "Quả thật, Ta bảo các ngươi: Trong những kẻ sinh bởi người nữ chưa một người nào lớn hơn Yoan Tẩy giả đã chỗi dậy; nhưng người nhỏ hơn trong Nước Trời lại lớn hơn ông.
Chương 11 vừa là kết luận của phần thứ nhất (11:1) vừa chuyển tiếp sang phần thứ hai của tin mừng Matthêô. Mở đầu phần thứ hai Matthêô trở lại câu hỏi về chân tính của Chúa Giêsu: Có phải Người là Đấng phải đến (11:2-6)? Tiếp theo, Matthêô nói về Gioan Tẩy Giả qua chứng từ của Chúa Giêsu (11:7-15). Sau cùng Matthêô nói đến phản ứng của dân chúng trước cả Chúa Giêsu lẫn Gioan (11:16-19). Chúa Giêsu trả lời câu hỏi của Gioan Tẩy Giả (11:2-6).
Cấu trúc của đoạn nầy gồm: - Câu hỏi của Gioan (11:2-3); - Câu trả lời của Chúa Giêsu (11:4-6). Chủ đề chính của đoạn nầy là đặt vấn đề Chúa Giêsu có phải là Đấng phải đến hay không. Những từ quan trọng liên hệ với nhau là: “những điều Chúa Kitô đã làm” (c. 2), “Đấng sẽ đến” (c.3), “Chúa Giêsu” (c. 4) và “tôi” (c. 6).
Bối cảnh là khi Gioan đang ở trong ngục (x. 14:3-12), ông sai các môn đệ đến với Chúa Giêsu. Câu hỏi của Gioan nêu lên vấn đề là Gioan có biết Chúa Giêsu là ai không? Không phải ông đã nói về Người là Đấng sẽ đến (3:11)? Không phải ông đã làm phép rửa cho Người (3:14)? Nếu đã biết, tại sao bây giờ ông lại thắc mắc?
Gioan thắc mắc về Chúa Giêsu khi nghe kể lại những việc Người đã làm (c. 2)
“Việc của Đấng Kitô”, ergon, (c. 2) không chỉ là những phép lạ Chúa Giêsu đã làm (c. 5), mà cả những lời Người đã rao giảng (chương 5-9); nghĩa là cả những điều có thể “thấy và nghe” (c. 4; 4:23-24). Những “việc” nầy làm chứng về nguồn gốc của Người (x. 11:19). Câu 11:2 nầy đóng lại đoạn 4:23-11:2 chủ yếu trình bày những “việc” của Chúa Giêsu. “Đấng Kitô” ngay câu đầu của tin mừng Matthêô đã gắn liền với tên “Giêsu”, và chỉ cả nguồn gốc bởi Abraham, và thuộc dòng tộc Đavít “Con Vua Đavít”. Bởi đó, “Đấng Kitô” cũng được hiểu là Đấng Mêssia mà dân Israel đang trông đợi (x. 1:1.16tt; 2:4). Câu hỏi của Gioan ở dạng trực tiếp (c. 3). Ông muốn được xác nhận điều ông biết về “Đấng sẽ đến”, mà ông đã loan báo (3:11). “Đấng sẽ đến” chỉ Đấng được Thiên Chúa sai đến (x. 3:11; 11:3; 21:9; 23:39; Tv 118:26; Đaniel 7:13; 9:25-27; Mal 3:1). Động từ “trông đợi” chỉ sự mong chờ Chúa đến; mọi người đang mong chờ (x. 24:5). “Chúng tôi” ở đây chỉ dân Israel cách chung. Vậy, qua lời giảng dạy và phép lạ Chúa Giêsu làm, Gioan có lý do để đặt câu hỏi về chân tính của Người.
Câu trả lời của Chúa Giêsu (11:4-6)
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của Gioan, mà sai các môn đệ của Gioan đi làm chứng cho ông: “Hãy đi nói cho ông biết điều các anh nghe và thấy” (c. 4). “Loan báo”, angellô, bao giờ cũng là loan báo một tin vui (2:8; 11:4; 28:10). “Nghe” là nghe lời của Chúa (10:27; 13:7;15:10), đặc biệt là nghe lời của chính Con của Thiên Chúa (17:5); cũng thế “thấy” những điều kỳ diệu Chúa Giêsu đã làm (13:17). “Nghe” và “thấy” gắn liền với nhau, vì tất cả đều phát xuất từ Chúa Giêsu. Câu 11:5 kết cấu bằng 5 câu ngắn và nối với nhau bằng liên từ “và”. Những điều mô tả trong câu nầy là tập hợp những lời hứa thiên sai trong Cựu ước: về người điếc và mù, què quặt và tàn tật (Is 29:17-19; 35:4-6; 42:18); về kẻ chết sống lại (Is 26:19); về loan báo tin mừng cho người nghèo (Is 61:1). Những điều loan báo ở đây Chúa Giêsu đã thực hiện: người phung hủi được sạch (8:2); bệnh tật (8:6); người mù và tàn tật (21:14); người nghèo được loan báo tin mừng (5:3). Khi loan báo tất cả những điều nầy Matthêô muốn cho thấy Thiên Chúa đang thực hiện trong Chúa Giêsu điều Người đã hứa. Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Người là Đấng Kitô, nghĩa là “Đấng được xức dầu”, điều nầy được thực hiện trong phép rửa tại sông Giorđan khi Thánh Thần ngự xuống trên Người (3:16; Is 61:1). Tuy nhiên, nếu so sánh những câu nầy với Luca 4:18, sẽ thấy có những khác biệt. Trong Lc 4:18 không hề nói gì đến việc giải thoát cho những người nằm trong ngục tù, không nói đến ngày ân xá cho tội nhân. Chính điều nầy liên quan đến hiện trạng của Gioan.
Câu kết luận nói đến thái độ phải có đối với Đấng phải đến (c. 6)
Xem ra không có mạch lạc giữa những điều tốt lành Chúa Giêsu bảo đi loan báo và việc vấp ngã vì Người. Qua câu trả lời cho các môn đệ của Gioan, Chúa Giêsu đã xác nhận chính Người là Đấng phải đến. Vậy sao lại phải “vấp ngã” vì Người? Chắc chắn câu nầy nhắm trước tiên là cho Gioan. “Vấp ngã”, skandalizô, theo nghĩa tượng hình là đặt một hòn đá trên đường để ai đó bị vấp chân vào đá và ngã xuống; nghĩa bóng là “làm dịp cho ai đó rơi vào trong tội” (5:29.30; 13:21); do đó, xa đức tin, xa Thiên Chúa. Chúa Giêsu có thể làm cho ai xa Thiên Chúa? Matthêô ghi nhận một vài trường hợp: các Pharisêô (15:12); các môn đệ (26:31.33). Khi áp dụng động từ nầy cho Chúa Giêsu, Matthêô thường dùng thể thụ động “bị vấp ngã” vì Người. Tại sao Chúa Giêsu nhắn với các của môn đệ về nói với Gioan là “Phúc cho ai không bị vấp ngã vì Người”?
Gioan đang ở trong tù. Ông đã biết Chúa Giêsu là Đấng phải đến. Người là Đấng Kitô. Tuy nhiên, Người chẳng làm gì cho ông cả. Trong những “việc” của Người chẳng có việc nào là giải thoát tù nhân, mặc dù điều nầy đã được loan báo bởi ngôn sứ Isaia (Is 61:1). Ông đang bị giam trong tù. Đó là lý do làm ông thắc mắc về chân tính “Đấng Kitô” của Người. Không chỉ ông, mà cả những người do thái thời ấy (x. 22:42). Họ hình dung một Đấng Kitô theo nghĩa trần thế. Có nhiều người đã tự xưng là “Kitô” như thế (24:5.23). Trái lại, Chúa Giêsu hoàn toàn khác. Người là Đấng Kitô và cũng là Con Thiên Chúa. Tước hiệu và nguồn gốc Con Thiên Chúa của Người đi đôi với nhau (16:16; 26:63). Đấng Kitô đến chỉ để giải thoát con người khỏi tội lỗi (1:21), chứ không chính trị, bạo lực. Nếu như thế Người tất trở nên hòn đá vấp ngã cho những ai không chấp nhận Người như thế. Họ sẽ tránh xa Người, xa Thiên Chúa và ở trong tội của mình. Các Pharisêô đã không tin vào Người (11:20-24; 12:38-42), các môn đệ bỏ chạy trốn khi Người chịu thương khó (26:31.33); người do thái chế nhạo (26:68) và đóng đinh Đấng Kitô nầy vào thập giá (27:22). “Phúc cho ai”, makarios, chỉ sự cứu độ do Chúa Giêsu mang đến cho những ai biết nhận ra Người qua việc thấy và nghe (13:16; 16:17), gắn bó với Người (11:6) và thực hành lời của Người (chương 5). Gioan đã chấp nhận chết trong tù, nghĩa là đã không vấp ngã vì Người.
Đấng Cứu Độ đã được Thiên Chúa gởi đến trần gian. Tùy theo việc nhận biết Người là ai mà con người chọn thái độ đi theo Người hay từ chối Người. Ai nhận biết Người, sẽ được chúc phúc (10:32-33). Ai chối từ tin vào Người, sẽ chẳng được ơn cứu độ.
Con người suốt đời săn tìm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc vẫn xa tầm tay mọi người. Ai nắm: MV 3-A59
KHẮC KHOẢI.
Không ai khao khát hạnh phúc bằng người đang bị giam cầm. Toàn dân đang ngột ngạt vì cảnh nô lệ và nóng lòng chờ đợi Đấng Thiên Sai. Hơn ai hết, ông Gioan Tẩy Giả cảm thấu nỗi mong chờ đó một cách cụ thể và sống động. Bởi vậy, “đang ngồi tù, ông Gioan nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: ‘Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?’” (Mt 11:2-3) “Đấng phải đến” để giải phóng và làm cho muôn dân hạnh phúc. Đó là sứ mệnh Thiên Sai thời cánh chung.
Thay vì giải đáp trực tiếp câu hỏi của ông Gioan, Đức Giêsu đã mạnh tay hơn ngôn sứ Isaia khi phác họa lại hình ảnh thời Thiên Sai: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng …” (Mt 11:4-5; Is 35:5-6a) Đó là một cuộc giải thoát hoàn toàn khỏi kiếp lầm than. Nhân loại không còn lệ thuộc sinh bệnh lão tử nữa. Cũng không còn cảnh người bóc lột người. Trái lại, người nghèo bỗng thấy mình hạnh phúc hơn cả vì “được nghe Tin Mừng.” Nói tóm, không còn quyền lực nào có thể áp chế con người, vì Thiên Chúa “sẽ đến cứu anh em.” (Is 35:4) Người sẽ đến trong Đức Giêsu Kitô. Ai không nhận ra hồng ân Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, sẽ lãnh nhận tất cả hậu quả khốc hại.
Quả thực, Đức Giêsu nói: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Mt 11:6) Nhiều người đã không thể tránh khỏi vấp ngã, vì đã thấy nơi Người một trở ngại lớn lao cho những mưu đồ trần thế của họ. Có thể tìm thấy mưu đồ ấy nơi những con người đang làm giàu trên xương máu người khác hay đang cởi lên đầu lên cổ anh em để bước lên đài danh vọng. Những con người tham lam và kiêu ngạo ấy không phải là đối tượng cứu độ. Trái lại, đối tượng Chúa nhắm tới là những người bị áp bức, đói nghèo, tù tội, mù lòa, câm điếc, cô nhi quả phụ, nghĩa là những người không còn hi vọng. Đã đến lúc đảo ngược thế cờ. Thiên Chúa sẽ “xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phong những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù lòa. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên.”(Tv 145:7-8) Đó là những người có phúc. Họ sẽ không vấp ngã vì Đức Giêsu, vì Người đến để chứng minh “Chúa là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời.” (Tv 145:6b)
Chính vì thế, vượt trên sứ mệnh Gioan Tẩy giả, Đức Giêsu đến mạc khải Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa trung tín với giao ước tình yêu cũng là Đấng Công chính. Muốn đến gần Thiên Chúa tình yêu, con người cần phải trở nên công chính như ông Gioan. Sự công chính lót đường cho tình yêu. Bởi vậy, ông Gioan có sứ mệnh tiền hô cho Đấng Cứu thế, như “Kinh Thánh đã nói: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.” (Mt 11:10) Bộ mặt ông đanh lại khi cao giọng: “Nòi rắn độc kia … Cái rìu đã đặt sát gốc cây.” (Mt 3:7.10) Oâng đã hoàn thành sứ mệnh khi kêu gọi mọi người sám hối để chuẩn bị đón Chúa. Chính ông cũng có thái độ và lối sống thích hợp để mở đường cho Chúa đến với dân Người. Bởi vậy, Đức Giêsu đã đề cao ông: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả.” (Mt 11:11)
Mặc dù cao cả như thế, ông Gioan vẫn có một thái độ khiêm tốn và lối sống giản dị, khác hẳn mọi người. Nhìn vào ông, cũng có thể biết mình phải có thái độ nào khi ra đón Chúa. Bởi thế, thánh Giacôbê đã khuyên: “Anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa.” (Ga 5:10) Trong các ngôn sứ, chắc chắn ông Gioan xứng đáng nhất để chúng ta noi theo. Vì chính ông sẽ cho mọi người biết “Đức Chúa giải thoát sẽ trở về.” (Is 35:10) Còn ai cảm thấy được giải thoát hơn ông Gioan Tẩy Giả ? Toàn thân ông không bị lệ thuộc bất cứ nhu cầu vật chất nào. Oâng như sa mac hoang sơ. Nhưng đã đến lúc ông nghe được tiếng Chúa: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng kho cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng vỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò.” (Is 35:1-2) Bởi vậy, ngay khi ngồi trong tù, tâm trí ông vẫn chan chứa niềm vui khi hướng về ngày giải thoát toàn dân. Thực ra, không phải ông nghi ngờ. Nhưng ngay khi bị tước đoạt hết mọi phương tiện, ông vẫn có thể rao giảng Tin Mừng. Oâng mơ ước củng cố niềm tin của các môn đệ vào con người và sứ mệnh Đức Kitô. Oâng đã được mãn nguyện. Ông đã trở thành cuốn Tin Mừng sống viết lên những nét tuyệt vời về tình yêu Thiên Chúa nơi Đức Kitô Giêsu.
THỜI KỲ CỨU ĐỘ.
Đức Giêsu đã đến đáp ứng những đòi hỏi thời đại cánh chung. Mọi người mong ước một vị cứu tinh đến chữa lành và cảm thông. Đức Giêsu đến với nhân loại như một “thày lang biết ủi an và khích lệ.” (Fahey 1995:34) Người khuyến khích chúng ta đem phúc lành chia sẻ với người thời đại. Muốn sống trong thời đại Thiên Sai, cần phải noi gương Người tạo hạnh phúc cho người khác và sống vì người khác. Tất cả đau khổ phải chấm dứt khi Đấng Thiên Sai ngự đến. Tất cả đều tốt đẹp như cảnh bồng lai. Căn cứ vào tường thuật của môn đệ, chắc chắn ông Gioan Tẩy giả đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Nếu vậy, ông phải nghe rõ Tin Mừng hơn hết, vì như chàng phù rể, ông “vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng rể.” (Ga 3:29) Như ông Môsê, mặc dù là ngôn sứ Cựu Ước, ông Gioan cũng chỉ cho dân biết việc xây dựng Nước Chúa bắt đầu từ đâu. Công cuộc đó vẫn được tiếp nối cho đến tận thế.
Quả thực, như ông Gioan Tẩy Giả, Giáo hội luôn dấn thân tranh đấu cho công lý. Giữa một xã hội tràn đầy tội ác hôm nay, “Giáo hội không ngừng chống lại việc hợp pháp hóa việc xử dụng ma túy.” (CWNews 4/12/2001) Không những thế, Giáo hội phải can đảm nêu lên những nguyên tắc luân lý bất chấp những phản đối ồn ào của bọn con buôn và phá hoại: “Các bạn trẻ phải được khích lệ và huấn luyện để tự khép mình vào kỷ luật. Phải chữa trị những bạn trẻ ghiền ma túy và phải giáo dục các bạn trẻ xa lánh ma túy. Chính quyền có bổn phận dẹp bỏ việc buôn bán ma túy.” (CWNews 4/12/2001)
Khi lên tiếng như thế, Giáo hội đang góp phân canh tân xã hội và chuẩn bị cho Nước Chúa như ông Gioan Tẩy Giả. Nhưng công cuộc xây dựng Nước Chúa còn khổ công hơn nhiều. Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói: “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.” (Mt 11:11) Việc nhỏ bé nhất trong nghĩa cử yêu thương còn đáng giá ngàn lần hơn việc tranh đấu cho công bình. Xây dựng Nước Trời khổ công hơn chuẩn bị đón chào Nước Chúa. Để thực hiện sứ mệnh làm chứng cho Chúa và xây dựng Nước Trời, Giáo hội đang phải nỗ lực mở cửa đón những luồng gió bốn phương. Nói khác, công cuộc đối thoại với các tôn giáo, nhất là những anh em Kitô giáo, đang đem lại những kết quả khả quan. Chẳng hạn, mới đây Nữ Hoàng Anh Quốc đã mời Đức Hồng Y Cormac Murphy-O’Connor giảng cho hoàng gia trong dịp nghỉ cuối năm. Trước đây chưa đầy một thế hệ không thể tưởng tượng có lời mời thếù. Lời mời đó cho thấy có những bước tiến rất dài trong tương quan đại kết kể từ năm 1982 khi Nữ Hoàng tiếp đón Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại Cung Điện Buckingham. Một phát ngôn viên Cung Điện nói: “Chính trong tinh thần hợp tác, hiệp nhất, và thân thiện mà Nữ Hoàng luôn làm như thế. Đó là một dấu chỉ chúng ta đang sống thời kỳ đại kết.” (CWNews 4/12/2001) Còn niềm vui nào lớn hơn khi Giáo hội ngày càng thấy rõ Thiên Chúa ngày càng đổ tràn ân sủng xuống dân Người như vậy không ?
Đấng Cứu Thế đầy quyền năng Thánh Thần đang đến gần. Nhưng thái độ chờ đợi lại có: MV 3-A60
Đấng Cứu Thế đầy quyền năng Thánh Thần đang đến gần. Nhưng thái độ chờ đợi lại có thể khác biệt nơi con người. Dân Do-thái đang sống dưới ách thống trị của đế quốc Rô-ma, nên nóng lòng chờ đợi một vị anh hùng xuất hiện để giải phóng họ. Những kẻ bần cùng lép vế và sống bên lề xã hội thì chờ đợi một nhà cách mạng đến để xóa đi những bất công và phục hồi nhân phẩm cho họ. Ai ai cũng nôn nóng với câu hỏi: khi nào mới có được vị anh hùng hay nhà cách mạng như thế? Những khát vọng đầy tính cách chính trị xã hội chỉ là bề mặt của nhân loại, trái lại, những khát vọng sâu xa của con người sống dưới ách thống trị của tội lỗi mới quan trọng hơn. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặc biệt là bài đọc Cựu Ước và bài Tin Mừng, đã soi sáng cho ta hiểu ý nghĩa đích thực của việc giải phóng.
1. Cái nhìn Cựu Ước về giải phóng: “Chính Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em” (bài đọc Cựu Ước – Is 35:1-6a.10)
Sống trong hoàn cảnh chính trị thời bị đô hộ, ta dễ dàng bị lôi cuốn vào khát vọng chung của dân tộc là mong được giải phóng. Có thể khát vọng của dân Do-thái không thể vượt qua được giới hạn chính trị, mặc dù các vị ngôn sứ thường cho họ thấy liên hệ giữa sự kiện họ bất trung với Thiên Chúa và sự kiện họ bị ngoại bang đánh phá hoặc thống trị. Cứ mỗi lần họ bỏ Thiên Chúa để thờ phượng các thần ngoại là quốc gia họ gặp tai ương, chiến tranh, lưu đày… Do đó, người ta dễ dàng nhận ra những điều xảy đến ấy là những dấu chỉ nhắc nhở họ quay về với Thiên Chúa. Do-thái là nước nhỏ bé giữa những lân bang hùng mạnh như Xi-ri, Ai-cập, Rô-ma. Cho nên khi họ cầu cứu với Thiên Chúa thì không khỏi vẫn mang màu sắc chính trị của một chế độ thần quyền.
Có một người đến nói thay cho Thiên Chúa để hướng dẫn dân Chúa vượt qua hàng rào chính trị trần thế mà bước sang lãnh vực thiêng liêng. Người ấy là ngôn sứ I-sai-a. Từng bước, I-sai-a giúp ta hiểu giải phóng đích thực là gì. Do thống trị của tội lỗi, thế giới ta sống đã trở thành “sa mạc và đồng khô cỏ cháy”. Bóng đen tội lỗi đã bao phủ địa cầu. Ai có thể biến sa mạc thành núi Li-băng và Các-men bốn mùa xanh tươi, và đồng khô cỏ cháy thành đồng bằng Sa-ron đất đai màu mỡ? Thực là một hình ảnh sống động giúp dân Chúa xác tín rằng ngoài Thiên Chúa ra không ai có thể thực hiện được “phép lạ”, diệt trừ sức mạnh và quyền năng của tội lỗi. Chống cự với tội lỗi khiến con người mệt mỏi, bàn tay rã rời, đầu gối bủn rủn. Con người sắp bước vào tuyệt vọng, thì đây, lời ngôn sứ vang lên: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Sứ điệp của I-sai-a thật rõ ràng: Thiên Chúa đến không để phục thù cho người Do-thái về nỗi tủi nhục bị đô hộ, nhưng để thưởng công phạt tội, tức là thuộc lãnh vực thiêng liêng. Người đến cứu ta khỏi tội lỗi và những hệ quả nó gây ra khiến ta không thể tiếp cận với Thiên Chúa và đồng loại. Những căn bệnh mù lòa, câm điếc, tê liệt tinh thần ngăn cản ta nhìn thấy Chúa, nghe tiếng Chúa, đến với Chúa. Đối với anh chị em cũng vậy, mối quan hệ giữa ta với họ bị những căn bệnh ấy của tội lỗi ngăn cách ta với anh chị em.
Sứ điệp của I-sai-a không dành riêng cho dân Do-thái, nhưng cho toàn thể nhân loại mọi thời mọi nơi. Nếu vậy, Thiên Chúa đang đến với mỗi người để cứu ta. Ngôn sứ bảo: Thiên Chúa của anh em đây rồi! Người ở bên ta, trong tâm hồn ta, trong anh chị em. Người muốn mở mắt, mở tai, chữa lành ta. Nhưng chính ta phải chủ động xin Người: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10:51), hoặc “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (Lc 5:12).
2. Cái nhìn Tân Ước về giải phóng: Thiên Chúa đến cứu ta qua Đức Giê-su (bài Tin Mừng – Mt 11:2-11)
Ngôn sứ I-sai-a trong Cựu Ước đã giúp ta hiểu đâu là việc giải phóng đích thực, thì vị ngôn sứ của Tân Ước là Gio-an Tẩy giả sẽ chỉ cho ta biết Thiên Chúa thực hiện việc giải phóng ấy thế nào. Khi Chúa Giê-su bắt đầu thi hành sứ vụ cứu thế là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Emmanuel) rồi. Tuy nhiên không ai có thể tin được việc Thiên Chúa đến với ta bằng cách làm người. Ngay cả ông Gio-an có lẽ cũng chưa hoàn toàn tin, mặc dù ông đã nghe người ta kể lại những việc Chúa Giê-su làm. Ông muốn đích thân nghe Chúa Giê-su xác quyết điều ông tin, nhưng Chúa chỉ muốn cho ông biết qua những nhân chứng do chính ông sai đến, cho nên Người bảo họ: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Tuy nhiên ta đừng bỏ qua lời nhắn cuối cùng của Chúa Giê-su, vì nó vô cùng quan trọng: “Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Đây là lời mở đầu để Chúa Giê-su nói về ông Gio-an. Ông là người đầu tiên nhận ra Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế khi ông còn trong lòng mẹ (Lc 1:41) cũng như khi ông rao giảng sám hối và làm phép rửa (Ga 1:36). Tuyên bố “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” là Chúa Giê-su muốn ám chỉ ông Gio-an, khẳng định ông là người có phúc. Tin Mừng muốn đặt ông Gio-an như là “gương mẫu” cho những người tin vào Chúa Ki-tô. Ông tin vì đã nhận ra việc làm của Chúa Giê-su thể hiện những điều các vị ngôn sứ đã tiên báo trong Cựu Ước, nhất là ngôn sứ I-sai-a. Chẳng những ông tin, mà ông còn được Thiên Chúa Cha đặt làm “sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Để nói lên sự cao trọng của ông, Chúa Giê-su đã khéo léo sử dụng kiểu so sánh kín đáo: trong nhân loại không có ai hơn ông Gio-an, thì trong Nước Trời cũng chẳng có ai hơn ông Gio-an. Tại sao? Bởi vì nếu kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông Gio-an giữa nhân loại thì ông Gio-an trong Nước Trời đâu phải là kẻ nhỏ nhất!
3. Để được giải phóng, “anh em hãy bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới” (bài đọc Tân Ước – Gc 5:7-10)
Được giải phóng nghĩa là được cứu độ. Công trình cứu độ của Thiên Chúa sẽ hoàn tất vào ngày Chúa quang lâm, tức là ngày Chúa Giê-su lại đến lần thứ hai để xét xử muôn loài. Nhưng đối với từng người, ngày Chúa lại đến với ta chính là giây phút ta phải lìa bỏ cõi đời và bị xét xử trước mặt Người. Dù ta có sống lâu trăm tuổi thì ngày Chúa lại đến với ta cũng chẳng là mấy. Xa gần không còn là quan trọng nữa, nhưng quan trọng là ta phải chờ đợi ngày ấy như thế nào. Thánh Gia-cô-bê Tông đồ là người cha rất thực tế. Lời khuyên của ngài không nặng phần lý thuyết, nhưng đơn giản và dựa vào kinh nghiệm sống. Ngài chỉ nêu lên một điểm: cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm, vì “Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa”. Rồi ngài giải thích thế nào là kiên nhẫn qua kinh nghiệm nhà nông. Nông gia phải đợi mưa xuống cho hoa màu. Chưa có mưa thì cũng cứ đợi, vì mưa là nhân tố quan trọng cho cây cỏ. Tuy nhiên đợi không có nghĩa là ngồi đấy không làm gì cả hoặc làm bậy làm xằng, nhưng nông gia sẽ sử dụng thời giờ để làm những việc khác ích lợi cho mình, cho gia đình, cho làng xóm. Như thế thánh Tông đồ muốn diễn tả sự chờ đợi của Ki-tô hữu gồm có hai mặt: một đàng tin tưởng và trông đợi vào ơn cứu độ của Chúa như nông gia đợi mưa, đàng khác sử dụng thời giờ mà làm việc tốt và sống đời Ki-tô xứng đáng, “không phàn nàn kêu trách lẫn nhau”.
4. Sống Lời Chúa
Ngôn sứ I-sai-a và thánh Gio-an Tẩy giả đã giúp ta có cái nhìn đúng đắn về việc giải phóng hoặc cứu độ. Còn thánh Gia-cô-bê Tông đồ thì giúp ta một lời khuyên thực tế làm thế nào để chờ đợi ngày Chúa quang lâm cho phải. Chúa Giê-su đã đến với ta để cứu thoát ta. Người đang ở đây rồi! Người đến để dạy ta sống như con cái Thiên Chúa. Nhưng ta có tiếp đón Người hay không lại là chuyện khác. Ta cần phải gặp gỡ Người, yêu mến Người, trung thành theo Người và trở nên giống Người. Nếu ta luôn sống trong quan hệ mật thiết với Người, thì ngày Người đến phán xét ta, Người sẽ nhận biết ta là bạn hữu của Người.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su khẳng định: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Có những người vấp ngã vì Chúa Giê-su, nghĩa là họ không muốn tin Chúa và sứ mệnh của Người. Tôi có thuộc hạng người đó không? Nhiều khi tôi sống không xứng danh là Ki-tô hữu, đó là những lúc nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một giáng trần, để biến đổi chúng con thành tạo vật mới, thành những công trình của lòng Chúa yêu thương. Này chúng con đang chờ Người ngự đến, xin đoái nhìn và thanh tẩy chúng con khỏi mọi vết nhơ con người cũ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. (Lời nguyện nhập lễ, Thứ Ba tuần III mùa Vọng).
Cuộc đời của con người thường được đan dệt bằng nhiều biến cố trong cuộc sống. Có những: MV 3-A61
Cuộc đời của con người thường được đan dệt bằng nhiều biến cố trong cuộc sống. Có những người sinh ra và lớn lên cách bình thường, nhưng lại có những người gặp trăm ngàn sự khó khăn thử thách. Có người lớn lên như Phù Đổng, có người lại lẹt đẹt, ốm yếu vv…Tin Mừng Chúa Nhật thứ 3 mùa vọng giới thiệu Gioan Tẩy Giả, một con người có cuộc sống rất dị thường, một cuộc sống có thể nói được không giống ai nhưng Gioan lại làm được những chuyện thật phị thường: Ông là ngôn sứ dọn đường cho Chúa đến.
MỘT CON NGƯỜI. MỘT CUỘC ĐỜI: Gioan Tẩy Giả theo như Tin Mừng thuật lại, chúng ta có thể ví von Ông giống một con người lập dị, khác thường: “ cuộc sống của Ông thật bình dị, Ông mặc áo lông da thú lạc đà, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Ông đi khắp mọi nơi từ thôn quê, tới rừng núi và sa mạc. Cuộc sống của Ông thật kham khổ, thật khó nghèo. Xem ra Ông dị thường nhưng Ông lại có đức tính hết sức can đảm, một bản lãnh vững chắc. Gioan Tẩy Giả rất cương quyết, Ông không sợ bất cứ ai, nên Ông đã ngăn cản Vua Hêrôđê không được phạm tội loạn luân, lấy chị dâu của mình là Hêrođia làm vợ ( Mt 14, 3 và Mc 6, 17 ). Vì quyết tâm ngăn cản Hêrôđê không được làm một chuyện trái đạo lý, do đó, Gioan Tẩy Giả bị bạo chúa Hêrôđê ra lệnh bắt giam tống vào ngục. Tin Mừng hôm nay thuật lại, Gioan Tẩy Giả từ chốn lao ngục đã sai các môn đệ của mình còn đang bán tín bán nghi về sứ mạng của Đấng Thiên Sai là Đức Giêsu, đến hỏi Chúa Giêsu:” Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác ? “ ( Mt 11, 3 ).
Và như chúng ta biết, Đức Giêsu đã không trả lời trực tiếp cho các môn đệ của Gioan Tẩy Giả biết về mình, về Con Người Thiên Sai của mình bằng lời nói, nhưng Ngài đã trả lời bằng việc làm, những việc làm của Chúa Giêsu đã ứng nghiệm lời gôn sứ Isaia nói về Đấng Thiên Sai:” Người mù được thấy, kẻ què được đi, người hủi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được loan báo Tin Mừng “ ( Mt 11, 5 ). Gioan Tẩy Giả quả thực đã đi từ tối tăm tới ánh sáng, từ đau khổ tới vinh quang và đó cũng là con đường hành trình đức tin của các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và cũng la cuộc hành trình đức tin của mỗi người chúng ta.Con đường dẫn tới Nagiarét chứ không phải đến Giêrusalem hay là Roma…để chiêm ngắm một con người ẩn dật, khiêm hạ và một cái chết thảm sầu trên thập giá…Trước một con người xem ra bình thường nhưng lại là chính Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả đã không hề vấp phạm, Ông đã đóng xuất sắc vai trò tiền hô cho Đấng Cứu Thế:” Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến “ ( Mt 11, 10 ). Đó là Gioan Tẩy Giả, người được Đức Giêsu khen ngợi, ca tụng:” Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ chưa từng có ai cao trọng hơn Ông”( Mt 11, 11a).
PHÚC CHO CHÚNG TA:
Gioan Tẩy Giả cao trọng thật vì Ông là vị ngôn sứ chuẩn bị gần nhất cho Tân Ước, cho Đấng Cứu Thế, Ông đã được nhìn thấy Đấng Cứu Thế và tin vào các việc Người làm, và nhất là Gioan Tẩy Giả mang một sứ mạng hết sức cao cả, hết sức quan trọng và lớn lao. Tuy nhiên, Gioan vẫn còn bên bờ của Cựu Ước, nên Đức Giêsu mới nói:” Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn Ông”( Mt 11, 11 b ). Đây là cái phúc lớn cho chúng ta, những người sống trong thời Tân Ước, thời của Chúa Giêsu, thời Cựu Ước là thời chuẩn bị, còn thời Tân Ước, thời Chúa Giêsu là lúc ban ơn cứu độ. Phúc cho chúng ta vì chúng ta đang sống trong thời cứu rỗi, chúng ta cũng có sứ mạng cứu rỗi. Chúa Giêsu đã đến cứu rỗi nhân loại, con người và chúng ta, lẽ nào chúng ta lại không chia sẻ, tận tình cứu giúp anh em. Chúa Cứu Thế xây dựng cộng đoàn huynh đệ yêu thương, lẽ gì chúng ta lại sống hận thù, chia rẽ, ganh tỵ vv…Chúa đem hòa bình, yêu thương, hiệp nhất lẽ nào chúng ta lại sống bất hòa, gây hấn và hận thù.
Mùa vọng giúp chúng ta vươn tới Nước Trời. Lời Chúa, Bí Tích hòa giải, Bí Tích Thánh Thể là cao điểm, là trung tâm giúp chúng ta vươn tới Chúa. Chúng ta hãy mau mắn làm hòa với Chúa và với anh em. Chúng ta có phúc vì Chúa để lại chính mình và máu làm lương thực nuôi sống chúng ta.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết dọn đường cho Chúa đến như Gioan Tẩy Giả đã dọn đường cho Chúa đến gian trần này. Amen.
· Is 35,1-6a.10: (5) Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, (6) kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
· Gc 5,7-10: (8) Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới.
· TIN MỪNG: Mt 11,2-11
Đức Giêsu trả lời câu hỏi của ông Gioan Tẩy Giả
(2) Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Giêsu làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: (3) «Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?» (4) Đức Giêsu trả lời: «Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: (5) Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, (6) và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi».
(7) Họ đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: «Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? (8) Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. (9) Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. (10) Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.
(11) «Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Tại sao Gioan Tẩy giả lại sai môn đệ mình đến hỏi Đức Giêsu? 2. Tại sao Đức Giêsu nhắn: MV 3-A62
1. Tại sao Gioan Tẩy giả lại sai môn đệ mình đến hỏi Đức Giêsu? 2. Tại sao Đức Giêsu nhắn Gioan: «Phúc thay người không vấp ngã vì tôi»? 3. Người Kitô hữu – cụ thể là chúng ta – có bị vấp ngã vì Đức Giêsu không? Vấp ngã thế nào? Chúng ta phải làm gì để không vấp ngã?
Suy tư gợi ý:
1. Điều nghi nan và thắc mắc của Gioan Tẩy giả
Một số nhà chú giải cho rằng khi bị thử thách trong tù, Gioan đâm ra thắc mắc: không biết Đức Giêsu có đích thực là Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã loan báo hay không. Ông thắc mắc vì nếu quả thật Ngài là Đấng Cứu Thế, thì tại sao người có sứ mạng chuẩn bị cho Ngài đến là ông lại phải ngồi tù? Lẽ ra ông phải ở ngoài để cộng tác với Ngài trong việc thành lập Nước Trời mới phải! Các môn đệ của ông chắc chắn cũng thắc mắc như thế. Vì thế, ông đã sai người đến trình bày thắc mắc ấy cho Đức Giêsu.
Để trả lời, Đức Giêsu đã dùng chính những dấu chỉ của ngôn sứ Isaia về thời Đấng Cứu Thế: «Sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội (…) Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò» (Is 35,4-6). Ngài bảo: «Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng». Với những sự kiện xảy ra mắt thấy đúng như ngôn sứ Isaia mô tả, Gioan có thể xác định Đức Giêsu là ai. Tuy nhiên, có điều quan trọng mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ Gioan: «Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi».
2. «Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi»
Đức Giêsu được Thánh Kinh mô tả là «một hòn đá làm cho vấp, một tảng đá làm cho ngã» (Rm 9,33; 1Pr 2,8). Nhưng chính Ngài lại nói: «Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi» (Mt 11,6; Lc 7,23). Thánh Kinh cũng cho biết có rất nhiều người vấp ngã vì Ngài (x. Mt 15,12; 26,31; Mc 6,3; 14,27; Rm 9,32). Trong Thánh Kinh, «vấp ngã» có nghĩa là vì một cớ nào đó mà làm điều sai trái, không đúng, xúc phạm, hoặc không tin hay mất niềm tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu. Khi Gioan bị tù, ông bị thử thách về niềm tin đối với Đức Giêsu. Dù sao ông vẫn là con người, nên cũng có khuynh hướng suy nghĩ kiểu loài người. Thánh Thần đã cho ông biết một cách không minh nhiên – nghĩa là chỉ qua những dấu chỉ – rằng: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, và ông có sứ mạng dọn đường cho Ngài. Ông đã tin điều đó. Nhưng khi ngồi tù một thời gian quá dài, ông đâm ra nghi ngờ niềm tin ấy. Vì nếu quả thật Ngài là Đấng Cứu Thế, thì ông đang phải là cánh tay mặt của Ngài, sát cánh bên Ngài để cùng Ngài hành động!
Nếu ông mất niềm tin đó, thì ông đã vấp phạm vì Ngài. Nhưng Đức Giêsu đã gián tiếp cho ông biết niềm tin của ông vào Ngài là chính xác. Nhờ đó, ông không mất niềm tin. Vì thế, Ngài khen ông: «Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả». Ông cao trọng vì cho đến lúc đó, ông là người đầu tiên được vinh hạnh góp phần trực tiếp vào sứ mạng cứu thế của Con Thiên Chúa, và ông đã hoàn thành sứ mạng của mình cách hoàn hảo. Tuy nhiên, ông vẫn là người của Cựu ước, não trạng của ông vẫn là não trạng của thời Cựu ước. Não trạng Cựu ước là: sự công chính được xây dựng trên việc giữ trọn lề luật, thực hành các nghi thức tôn giáo, và làm những điều tốt đẹp. Ông không có cơ hội hấp thu những giáo huấn mới cao cả của Đức Giêsu để có một não trạng mới: sự công chính được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, sự công chính của ông không cao bằng sự công chính của những người sống đúng tinh thần Tân ước. Do đó, Ngài mới nói: «Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông» (xem thêm Mt 5,20).
3. Tinh thần mới của Tân ước so với Cựu ước
Đức Giêsu đến để khai mạc Nước Trời tại trần gian, mà Gioan là người dọn đường. Nước Trời, xét về mặt xã hội, là một xã hội lý tưởng, trong đó mọi người đối xử với nhau bằng yêu thương đích thực. Nhờ đó, mọi người được hạnh phúc. Thật vậy, thế giới này, cũng như Giáo Hội mà Đức Giêsu lập ra, chỉ có thể hạnh phúc và trở thành Nước Trời khi mọi người biết yêu thương nhau. Hiện nay, thế giới cũng như Giáo Hội, có rất nhiều tiêu cực, đau thương, chính vì các thành viên không yêu thương nhau.
Đức Giêsu đến đem lại cho thế giới một tinh thần mới, một lề luật mới xây dựng trên yêu thương. Tiêu chuẩn mới của sự công chính là tình yêu, khác với tiêu chuẩn cũ trong Cựu ước. Thật vậy, Thánh Kinh cho biết «Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật» (Ep 2,15) và lập ra luật mới cho kỷ nguyên mới: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau» (Ga 13,34). Đức Giêsu chính là tư tế mới thay cho các tư tế cũ của Cựu ước, mà «một khi chức tư tế thay đổi, thì nhất thiết phải thay đổi Lề Luật» (Dt 7,12). Dựa trên tinh thần mới của Tân ước, thánh Phaolô đã nói rất rõ và rất nhiều lần rằng chính đức tin mới làm cho con người nên công chính (x. Rm 1,17; 5,1; 9,30.32; Gl 3,8.11.24; Dt 11,7) chứ không phải việc giữ luật (Rm 3,20-21.28; 4,13; 9,31; Gl 2,16.21; 3,11; 5,4), hay những việc làm tốt đẹp (x. Rm 4,5-6; 9,32; 11,6). Mà mục đích và tinh hoa của đức tin lại là đức ái, vì theo cũng thánh Phaolô, đức ái cao trọng hơn đức tin và đức cậy (x. 1Cr 13,13). Đức Giêsu cũng xác nhận tình yêu quan trọng hơn các lễ nghi tôn giáo: «Yêu mến Thiên Chúa (…) và yêu người thân cận (…) là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ» (Mc 12,33; x. Mt 5,23-24); «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mt 9,13; 12,7). Tất cả những thứ tốt đẹp đó là biểu hiện tất nhiên phải có của tình yêu. Nhưng nếu chỉ có những biểu hiện ấy ở bên ngoài chứ không có cốt tủy bên trong là tình yêu, thì những biểu hiện ấy chỉ là giả dối, hoàn toàn vô giá trị trước Thiên Chúa.
4. Chiều kích mới của sám hối
Vì thế, ta cần khám phá chiều kích mới của sám hối trong sứ điệp Gioan. Sám hối không chỉ là nhận ra và sửa đổi những sai trái trong cách hành động, mà còn là sẵn sàng từ bỏ những quan niệm cũ, nề nếp cũ, để đón nhận những quan niệm mới cao cả hơn, đúng đắn hơn của Đức Giêsu, đồng thời sống phù hợp với quan niệm mới đó. Sở dĩ giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái vấp ngã vì Đức Giêsu, chính vì họ không chấp nhận được những quan niệm mới của Ngài, cho rằng Ngài là kẻ phá đạo và giết chết Ngài.
Điều đáng buồn cho thế giới hiện nay là Đức Giêsu đã đến những 2000 năm nay để đưa ra những quan niệm mới về sự công chính, thế mà rất nhiều Kitô hữu thời nay vẫn chưa hấp thụ được giáo huấn mới với quan niệm mới, lề luật mới của Ngài. Họ vẫn đặt rất nặng tiêu chuẩn công chính cũ của Cựu ước, mà coi rất nhẹ tiêu chuẩn công chính mới của Ngài là tình yêu thương. Sự giáng lâm của Đức Giêsu cách đây 2000 năm vẫn còn là vô ích, là dư thừa đối với họ. Và như thế, một cách nào đó họ đã vấp phạm vì Ngài. Đành rằng việc giữ luật lệ, thực hành các nghi thức tôn giáo, và làm những việc tốt lành vẫn cần thiết và ích lợi, nhưng đó không phải là điều cốt yếu của việc sống đạo. Đó chỉ là những phương tiện tốt và hữu hiệu để giúp ta thực hiện điều cốt yếu của đạo Chúa là yêu thương nhau mà thôi. Chúng chỉ là những biểu hiện tất yếu của tình yêu chứ không phải là tình yêu.
Ngay cả việc cầu nguyện, nếu việc cầu nguyện không đem lại hiệu quả là tăng trưởng tình yêu thương trong lòng ta – là mến Chúa yêu người hơn – thì chắc chắn việc cầu nguyện ấy không đẹp lòng Thiên Chúa. Muốn biết chúng ta có cầu nguyện đúng hay không, thì hãy nhìn vào hiệu quả của cầu nguyện. Nếu cầu nguyện đem lại cho ta sức mạnh, bình an, niềm vui và hứng khởi để có thể hy sinh cho Thiên Chúa và tha nhân nhiều hơn, thì chúng ta đã cầu nguyện đúng cách. Nếu không, chúng ta cần phải thay đổi cách cầu nguyện vì đã cầu nguyện không đẹp lòng Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta đã tỏ ra ích kỷ, thiếu tình thương, lấy «cái tôi» của mình là trung tâm khi cầu nguyện. Cầu nguyện như thế chỉ làm tăng tính ích kỷ của mình thôi! Có những câu Thánh Kinh cho biết Thiên Chúa chán ngán những buổi cầu nguyện, những nghi thức tôn giáo rỗng tuếch tình yêu của con người (x. Is 1,11-17; Am 5,21-24; Gr 14,11-12). Ấy thế mà biết bao Kitô hữu suốt đời cầu nguyện, dâng lễ theo kiểu ấy! Hoặc cố giữ luật, cố làm những việc lành phúc đức, không phải do tình yêu thúc đẩy, mà chỉ nhắm để được Thiên Chúa thưởng công, để được mọi người khen ngợi. Thiết tưởng để đón Chúa đến, chúng ta cần phải sám hối về cách sống đạo kiểu ấy!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, trong mùa Vọng này, xin cho con hiểu được tinh thần mới mà Đức Giêsu đã rao giảng từ 2000 năm nay, nhưng chính con vẫn chưa hiểu được và áp dụng. Xin hãy đổi mới quan niệm và cách sống của con trong mùa Vọng này.
Vấn nạn của Gioan Tẩy Giả đặt ra cho Chúa Giêsu cách đây hơn 2.000 năm luôn gây thắc mắc: MV 3-A63
Vấn nạn của Gioan Tẩy Giả đặt ra cho Chúa Giêsu cách đây hơn 2.000 năm luôn gây thắc mắc cho mọi người, mọi thời đại.” Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi phải đợi ai khác”( Mt 11, 3 ). Tuy nhiên, đối với người Kitô hữu hôm nay, câu hỏi này không còn thích hợp nữa, không còn hợp thời nữa.Chúa Giêsu quả là Đấng Thiên sai đã đến trong thế giới, nơi trần gian này rồi. Chúa đã đến, nhân loại không còn phải đợi bất cứ Đấng nào khác nữa. Vấn nạn này nếu còn gây thắc mắc cho ai thì người đó là người do dự, mỏng dòn, đức tin yếu kém.
Câu trả lời khơi lên cho chúng ta về mạc khải duy nhất: Thiên Chúa nhân từ, khiêm nhu, hiền hậu hằng ngỏ lời cách đặc biệt với những kẻ nghèo nàn, bần cùng, khốn khổ để mang lại cho họ Tin Mừng cứu rỗi.
ĐẤNG THIÊN SAI ĐÃ ĐẾN TRONG THẾ GIỚI,NƠI NHÂN LOẠI:
Các sách Tin Mừng giới thiệu cho ta Đức Giêsu là ai, Ngài đã nói gì, đã làm gì nơi cuộc đời trần thế của Ngài. Truyền thống của Giáo Hội, giáo lý công giáo cũng cho ta biết về một Đức Giêsu Kitô nhân từ hay chạnh lòng thương xót, một Đức Kitô luôn nong nả đến với mọi người, không loại trừ một ai, không khinh khi bất cứ hạng người nào. Nhân loại, con người phải chăng khi tìm gặp Đức Giêsu trong thánh lễ, trong lời cầu nguyện, đúng là Đấng Thiên Chúa sai phải đến trần gian này ? Hay con người chỉ vẽ ra, chỉ tưởng tượng ra một Đức Giêsu theo ý nghĩ của mình ? Nếu quả thế thì Đấng Thiên sai ấy hoàn toàn khác với Đấng Thiên sai mà ngôn sứ Isaia đã loan báo:” Đấng làm cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”( Mt 11, 5 ). Đức Giêsu, Đấng Thiên sai hoàn toàn khác với những gì người ta mong chờ. Người ta cứ tưởng, Đấng Thiên sai sẽ là vua Đavít xuất hiện lại để củng cố vương quyền Israen hoặc Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến phải là Đấng oai hùng lẫm liệt, hét ra lửa, phán quyết những điều nẩy lửa làm cho mọi người trên trần gian run sợ. Đức Giêsu đã đến: Ngài là Đấng Thiên Chúa sai tới thế giới với cung cách khiêm tốn, hiền từ và nhân hậu. Đấng Thiên sai đã đến khác với mọi ý nghĩ, mọi suy tưởng của con người. Té ra Ngài không phải là một ai đó theo nét vẽ của con người. Câu trả lời duy nhất của Chúa Giêsu cho những người được Gioan Tẩy Giả sai đến hỏi Ngài:” Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe”( Mt 11, 4 ).
VAI TRÒ CỦA GIOAN TẨY GIẢ VÀ CỦA CHÚNG TA HÔM NAY:
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho những phái viên của Gioan vẫn là lời nhắn nhủ nhân loại: Đấng Thiên sai mãi mãi là Đấng yêu thương, nhân hậu. Đức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn như vậy, nghĩa là Ngài vẫn chỉ là Đấng Thiên sai như ngôn sứ Isaia đã loan báo trước:
Người mù được sáng mắt. Người què chạy nhảy như nai hươu. Kẻ phong cùi được lành sạch trơn tru. Người chết sống lại chui ra khỏi mồ.
Và kẻ nghèo được nghe rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa.
Dung mạo của Đấng Thiên sai là vậy đó. Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho Chúa Giêsu. Ông là tiếng hô trong sa mạc: hãy dọn đường cho Chúa, hố sâu phải lấp cho đầy. Núi cao phải san cho phẳng…
Tiếp nối sứ mạng của Gioan Tẩy Giả, nhiều sứ giả của Chúa đã loan báo Tin Mừng lúc thuận cũng như lúc nghịch. Thánh Phaolô xác tín:” Tôi coi mọi sự là rác rến so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô”( Pl 3, 8 ).Giáo Hội cứ thế, hết thế hệ này tới thế hệ khác, luôn làm chứng cho Chúa, luôn rao giảng về một Tin Mừng. Đời sống của mỗi người Kitô hữu cũng là lời chứng của Tin Mừng, cũng là lời loan báo về một Đức Giêsu, hôm qua, hôm nay và ngày mai, mãi mãi vẫn chỉ là một Thiên Chúa tình yêu.
Nhân loại phải chẳng dễ làm ngơ trước những sự đau khổ của người khác ? Chúa Giêsu luôn xuất hiện từng giây, từng phút với dung mạo mới. Ngài nói trong Tin Mừng Mt 25, 31-46:” Ngài tự đồng hóa với mọi hạng người, đặc biệt những người nghèo”. Làm chứng về Đức Giêsu Kitô là mọi người chúng ta hằng ngày hãy lắng tai nghe, hãy mở mắt to, mắt sáng để hướng về một Hài Nhi Giêsu đã đản sinh nơi hang đá Bêlem xưa trong cảnh nghèo nàn, túng cực và hăng say làm chứng cho Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn tin nhận Chúa và nhận ra Chúa nơi những người khác.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Bạn hiểu sao về Đấng Thiên sai ? Vấn nạn của Gioan Tẩy Giả nói cho ta điều gì ? Đức Giêsu Kitô là ai đối với bạn ?
Tôi sống ở nước Đức đã 18 năm, nhưng cho đến nay xe đạp vẫn là phương tiện chính tôi dùng: MV 3-A64
Tôi sống ở nước Đức đã 18 năm, nhưng cho đến nay xe đạp vẫn là phương tiện chính tôi dùng trong khi làm công tác mục vụ. Tôi không dám mua loại đắt tiền bởi vì sợ ăn trộm. Tuy vậy, đây là chiếc xe đạp đẹp nhất và bảo đảm nhất trong đời. Tôi vẫn còn nhớ đoạn đường trước đây 30 năm. Con đường từ nhà xứ tới trường khoảng 10 cây số, nhiều dốc, đầy ổ gà! Đôi lúc lầy lội vì mưa bão. Ba năm trời dòng dã làm bạn với chiếc xe đạp, thường phải dùng chân làm thắng! Ăn sáng chỉ có khoai lang, thường ăn vội vã bị mắc nghẹn, bởi vì cha xứ giảng quá dài. Nhiều ngày không tới trường bởi xe hư dọc đường! Có thể nói, đây là những tháng ngày u ám, cực khổ nhất, sống không biết đến ngày mai, không biết tương lai mình sẽ đi về đâu!
Ngày nay, rất nhiều người vẫn phải sống cảnh màn trời chiếu đất như tại Irắc, Phi châu, … Họ dễ dàng cảm thông nỗi hoài nghi, sống phập phồng trong tù của Gioan. Trước đây ông đã từng khẳng định rằng: Hoài bão lớn lao nhất trong đời ông sẽ thành hiện thực nơi Đức Giêsu. Ông đã tin vào cuộc cách mạng vĩ đại của Thiên Chúa, Đấng sẽ làm thay đổi toàn diện bộ mặt của thế giới. Niềm xác tín này đang từ từ rung rinh, có nguy cơ sụp đổ khi ông bị áp bức sống trong cảnh tù đầy! Suốt đời ông đã hy sinh tận tụy, chiến đấu cho lý tưởng. Phải chăng tất cả bây giờ thành công dã tràng? Ông cân nhắc rất kỹ lưỡng: Đức Giêsu là Đấng phải đến, hay là ông còn phải đợi ai khác?
Đức Giêsu không chấp nhận để mình bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp của Gioan. Ngài không chịu ép buộc phải quyết định chọn lựa một trong hai khả năng đã được đề xướng. Ngài muốn đi xa hơn một bước. Ngài muốn ông mở rộng tầm mắt, muốn ông có một lối nhìn mới mẻ, phong phú hơn. Ngài nói với môn đệ của ông Gioan: #Các anh cứ về tường thuật cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, …
Con người thường có những giấc mơ tuyệt vời khi sống trong túng quẫn tù đầy. Ngày ấy, tôi cũng đã từng tưởng tượng: đất Mỹ, thế giới Tây phương là thiên đường trần thế! Giống như tiên tri Isaia, ông đã từng mơ ước một thế giới tốt đẹp hơn. Sự diễn tả của ông có thể lột trần khát vọng của con người cũng như mọi dân tộc sống trên thế giới. Tất cả những gì tới nay bị đèn nén cưỡng bức trở nên sung mãn, tràn đầy sức sống: #Sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông!#
Thuở xưa, sa mạc trổ bông là hình ảnh tượng trưng cho niềm hy vọng. Sự sống phát sinh nơi chúng ta nghĩ chỉ có hoang vu, chết chóc. Tin mừng ngày hôm nay gửi đến những người nhát đảm, những người sống trong cảnh cùng đường bí lối, sống không biết đến ngày mai: #Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng.#Còn có gì tốt đẹp hơn khi mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què nhảy nhót như nai! Thật vậy, những người sống trong thất vọng, đói nghèo, bị bỏ rơi là những kẻ cần được cẩu võ, khích lệ để có thể ngẩng đầu lên, đứng dậy bắt tay xây dựng, làm lại cuộc đời mới.
Tin mừng ngày hôm nay là lời hứa dành cho những kẻ chất phát, ngu muội không tìm được lối thoát khỏi cảnh thiếu thốn, bần cùng. Tiên tri Isaia muốn nhắn nhủ những kẻ sống trong vòng nô lệ rằng: Hãy sống xứng đáng kiếp người. Bởi vì lòng thương xót bao la của Thiên Chúa đặt biệt lưu tâm đến những kẻ yếu đuối, bị áp bức, phải sống trong đói khổ, nghèo nàn. Thiên Chúa muốn con người được sống tự do, đặt biệt và trên hết được thoát khỏi vòng kiềm toả của tội lỗi và sự chết. Dĩ nhiên Thiên Chúa cũng muốn con người tránh khỏi mọi hình thức bất công, đầy đọa. Sa mạc hoang vu, khô cằn còn có cơ hội phát triển những gì ẩn chứa bên trong. Sa mạc còn có thể, huống chi con người! Bởi vì ai hoàn toàn đặt niềm tin vào Đức Giêsu, kẻ ấy có cơ may làm lại cuộc đời. Cơ hội như thế ai cũng muốn ngay tức khắc. Là người Kitô hữu chúng ta cầu mong được hưởng phúc thiên đàng mai hậu. Thật ra, công trình cứu độ đã khởi sự nơi Đức Giêsu, nhưng đến nay vẫn chưa hoàn tất. Thiên Chúa cần đến sự công tác của con người. Chúng ta đóng góp xây dựng một thế giới mới. Như tiên tri loan báo, chính Chúa sẽ đến và giải thoát chúng ta. Chúng ta tin vào ngày không còn sự chết, than van oán hờn. Nhưng Thiên Chúa muốn con người ngay từ bây giờ có thể sống trong hạnh phúc, tự do và hoà bình. Tất cả sẽ thành hiện thực khi con người góp tay vào. Lm. Phêrô Trần Minh Đức
Ông Gio-an là người tích cực xây dựng Nước Trời. Cuộc đời của ông được cống hiến để làm: MV 3-A65
Ông Gio-an là người tích cực xây dựng Nước Trời. Cuộc đời của ông được cống hiến để làm công cụ giới thiệu cho người ta biết Nước Trời và chuẩn bị tâm hồn để người ta tiếp nhận Nước Trời. Lời giảng về thống hối của ông đã đánh động nhiều người, nhưng đồng thời cũng làm cho một số người nhức nhối, thí dụ nhóm Pha-ri-sêu, Xa-đốc, kinh sư và cả triều đình Hê-rốt nữa. Người ta không muốn nghe những lời “sự thật mất lòng” của ông. Cho nên việc ông ngồi tù là hậu quả do lòng hăng say kêu gọi người ta sám hối và sống công chính. Nhưng chính thời gian trong tù cũng là lúc ông tiếp tục chu toàn sứ vụ của mình, chỉ cho người ta thấy rõ ràng Chúa Giê-su là ai. Không chỉ là một lời giới thiệu tổng quát như trước kia: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người” (3:11). Nhưng là nói cho người ta biết tất cả về sứ mệnh của Đấng ấy như ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo (Is 35:5tt; 60:1). Đáp lại, Chúa Giê-su cũng khéo léo ca tụng Gio-an là người cao trọng trong Nước Trời.
a) Rao giảng từ nơi ngục tù
Người ta bắt Gio-an giam trong tù, những hy vọng ông sẽ không còn cơ hội nào để nói về Đấng Cứu Thế và kêu gọi người ta sám hối nữa. Nhưng lời Chúa không thể bị xiềng xích. Ở đâu người ta cũng có thể rao giảng. Và Gio-an đã có cách để tiếp tục sứ vụ rao giảng về Đấng Cứu Thế. Ông không đến được với dân chúng thì đã có đám môn đệ của ông. Đó chính là lý do ông sai họ đi đến hỏi Chúa Giê-su xem Người có phải là Đấng Cứu Thế không. Những môn đệ này đã đích thân mắt thấy những việc Chúa thực hiện và tai nghe những lời Người giảng. Chúa Giê-su cũng có cách khôn ngoan của Người để thông tin cho Gio-an. Người bảo những môn đệ của Gio-an cứ về lập lại cho ông nghe lời của ngôn sứ I-sai-a, tức khắc ông sẽ biết Chúa Giê-su là ai. Đó là “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” Giữa cơn bách hại, Thiên Chúa đã ban ơn khôn ngoan cho các ngài để khéo léo xử sự!
Nhưng ta có thể tin rằng bản thân ông Gio-an không cần biết những điều ấy, vì quả thực ông đã được Thánh Thần soi sáng và đã biết Chúa Giê-su là ai rồi. Các môn đệ ông mới là những người cần biết, để họ sẽ thay ông mà đến với dân chúng và tiếp tục sứ vụ của ông. Họ được sai đi để xác tín con người và sứ mệnh của Đấng ông đã chỉ cho họ trước đây (Ga 1:36). Ông cần phải lu mờ đi để Chúa Giê-su được sáng lên. Các môn đệ ông đã có những người nghe lời ông giới thiệu Chúa Giê-su nên đi theo Chúa (Ga 1:38). Ông không buồn, không ghen tức, trái lại rất vui mừng và thỏa mãn vì đó là nguyện vọng của ông.
Con người khiêm tốn ấy cần phải để cho Chúa Giê-su nhận định. Người thời nào cũng kính trọng các ngôn sứ. Nhưng Chúa Giê-su bảo: ông Gio-an còn hơn cả ngôn sứ nữa, vì ông kết thúc sứ vụ của các ngôn sứ Cựu Uớc và mở ra sứ vụ của ngôn sứ Tân Ước. Ông, các môn đệ ông và mọi Ki-tô hữu đều phải làm ngôn sứ cho Chúa Cứu Thế, loan báo cho thế giới biết và chuẩn bị lãnh nhận ơn cứu độ.
Như vậy, người ta tưởng ngục tù sẽ ngăn chặn sứ vụ ngôn sứ Tân Ước của Gio-an thì đó lại là nơi sứ vụ của ông đạt tới cao độ và điểm chót là cái chết làm chứng cho những gì ông rao giảng!
b) Ông Gio-an là “người trong Nước Trời”
Câu cuối cùng Chúa Giê-su nhận định về Gio-an làm ta có cảm tưởng như Chúa chơi trò tung hứng, nâng đập. “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.” Nghe lời này, ta dễ dàng hiểu lầm là Chúa Giê-su đã quá đề cao người trong Nước Trời và khinh thường Gio-an. Không phải vậy đâu. Mà là kiểu khen thật tế nhị, kín đáo của Chúa Giê-su đó. Hẳn ta nhớ có lần Chúa Giê-su đang giảng dạy thì có người lên tiếng ca tụng Mẹ Người: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” Chúa Giê-su đáp lại: “Đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:27-28). Trả lời như thế, đâu phải Chúa Giê-su phủ nhận phúc trọng của Đức Mẹ! Trái lại, ta phải hiểu ý của Chúa muốn nói như thế này: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa, vậy thì ai là người đã thực sự “lắng nghe và tuân giữ lời Chúa” cho bằng Mẹ tôi? Chắc chắn là không có ai hơn Mẹ tôi đâu! Đấy, Chúa khen ngợi Đức Mẹ một cách ý nhị và tài tình như vậy đó. Và hôm nay, Người cũng khéo léo sử dụng cùng một kiểu nói để khen ông Gio-an. Vậy ta có thể hiểu cách lập luận của Chúa như thế này. Ông Gio-an cao trọng hơn mọi ngôn sứ, hơn mọi người. Vậy nếu “người trong Nước Trời” còn cao trọng hơn ông Gio-an, thì chỗ đứng của ông Gio-an hơn các ngôn sứ và mọi người vẫn chưa xác định đủ, vì ông Gio-an không những chính là “người trong Nước Trời”, mà ông còn là vị rao giảng và chuẩn bị cho những ai muốn trở thành “người trong Nước Trời”.
Như thế, ông Gio-an của cuối thời Cựu Ước cao trọng như vậy mà còn kém một “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời” thì ông Gio-an của đầu thời Tân Ước sẽ cao trọng đến mức nào, vì chắc chắn ông không phải là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời! Chúa Giê-su muốn phân biệt hai thời đại Cựu Ước và Tân Ước, để nâng giá trị của ông Gio-an lên mức độ cao trọng nhất, vì ông mở đường để dẫn người ta đến gặp gỡ Chúa Giê-su là Nước Trời đã đến.
c) “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con”
Lời ngôn sứ Ma-la-khi đã ám chỉ về Gio-an và sứ vụ của ngài. Ki-tô hữu hôm nay cũng đón nhận lời sai đi ấy để ra đi làm chứng cho Chúa Giê-su. Sứ vụ Tiền hô không đòi ta phải vào hoang địa, phải làm giống như ông Gio-an. Nhưng ta có những hoang địa, những dòng sông Gio-đan ở chung quanh ta. Có thể là nơi sở làm. Có thể là một khu phố nơi người ta không sống tốt đẹp. Cũng có thể là chính gia đình đang thiếu tình thương giữa vợ chồng con cái. Chỉ cần ta làm sao chứng tỏ được “Đấng phải đến” đã đến trong tâm hồn ta và hình ảnh Người được biểu lộ qua lối sống bác ái yêu thương của ta, qua tư cách công chính ngay thẳng của ta...
Lời sai đi của Chúa Giê-su thật súc tích. Một trong những cách Người sai ta đi, đó là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em; người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, đó là anh em yêu thương nhau.”
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
“Anh em cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe...” Có khi nào tôi thuật lại cho những người khác những ân sủng Chúa đã làm cho tôi không? Thuật lại như thế, tôi có nói lên được hình ảnh đích thực Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế, hay chỉ là hình ảnh của một Đấng để tôi cầu được ước thấy?
Chúa Giê-su nói lên giá trị của “người trong Nước Trời”. Tôi có là người ấy không? Hay tôi chỉ là một Ki-tô hữu có tên, nhưng vẫn sống ở ngoài Nước Trời? Điều gì chứng tỏ tôi là “người trong Nước Trời”?
Sau lời tán dương giá trị của Nước Trời, Chúa Giê-su khẳng định: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được.” Vậy sức mạnh nào ngăn cản Nước Trời đến với tôi? Tiền bạc của cải? Tham vọng? Tôi phải làm gì để thắng vượt những sức mạnh đó?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa. Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con. Lạy Chúa Giê-su trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa. Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 99)
Đoạn thư thánh Gia-cô-bê Tông đồ đưa chúng ta tới một thái độ cần thiết của những người chờ: MV 3-A66
Đoạn thư thánh Gia-cô-bê Tông đồ đưa chúng ta tới một thái độ cần thiết của những người chờ đợi. Qua lời thánh Phao-lô, chúng ta đã được mời gọi hãy "đồng tâm nhất trí" (CN I) và "đón nhận nhau như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi" (CN II). Hôm nay, lời thánh Gia-cô-bê nhắn nhủ chúng ta "cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm."
Kinh nghiệm về sự thiếu kiên nhẫn đầy dẫy trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Nhiều người đồng ý rằng biến cố 11 tháng 9 đã dạy cho dân Mỹ bài học kiên nhẫn khi chờ đợi. Người ta không còn kêu ca khi xếp hàng chờ soát vé máy bay hoặc để nhân viên kiểm soát an ninh thi hành nhiệm vụ. Bài đọc Tân Ước Chúa Nhật III mùa Vọng cho thấy hoàn cảnh thiếu kiên nhẫn của các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai khi họ chờ đợi Chúa Ki-tô trở lại để phán xét nhân loại. Một phần vì áp lực của những bách hại phải chịu quá lâu, một phần vì nghĩ rằng sắp đạt được phần thưởng và sự cứu rỗi khi Chúa trở lại, các tín hữu đã chờ đợi Chúa đến với thái độ thiếu kiên nhẫn mỗi ngày một tăng thêm. Khi không còn kiên nhẫn thì người ta hay lầu bầu kêu ca. Do đó, thánh Gia-cô-bê, "người anh em của Chúa" và đứng đầu cộng đoàn tiên khởi Giê-ru-sa-lem, đã lên tiếng kêu gọi tín hữu hãy kiên nhẫn. Ngài bảo đảm với họ rằng kế hoạch của Thiên Chúa chắc chắn sẽ được hoàn tất. Tuy nhiên thời gian hoàn tất là do Thiên Chúa, Đấng hoạch định. Để cụ thể hóa thái độ kiên nhẫn, thánh Gia-cô-bê sử dụng một hình ảnh quen thuộc: nhà nông kiên nhẫn chờ đợi những cơn mưa trong suốt mùa trồng trọt.
Sự thiếu kiên nhẫn không chỉ ảnh hưởng từng cá nhân chúng ta, mà người khác thường cũng phải gánh chịu hậu quả do việc thiếu kiên nhẫn của chúng ta nữa. Thí dụ trong Thánh lễ hoặc những giờ Phụng vụ, trẻ em thiếu kiên nhẫn đã làm cho người lớn phải chia trí vì những ồn ào, chọc phá chúng gây nên. Thánh Gia-cô-bê đã nêu lên một hậu quả tiêu biểu của sự thiếu kiên nhẫn, đó là "phàn nàn kêu trách lẫn nhau." Người ta đổ bực bội sang người khác khi mất kiên nhẫn. Người ta xét xử lẫn nhau khi mất bình tĩnh hoặc nóng nảy.
Cuộc sống chúng ta cần phải có được sự an tâm của nhà nông khi họ tín thác vào kế hoạch của Thiên Chúa về chu kỳ mùa màng gặt hái. Họ biết định kỳ Thiên Chúa đã sắp đặt: mùa xuân để gieo hạt, mùa hè để chăm sóc, tưới bón cho hoa mầu lớn lên và sinh hoa kết trái, mùa thu để gặt hái. Nhà nông tin vào tiến trình thiên nhiên căn bản ấy. Lệ thuộc vào tiến trình ấy và kiên nhẫn cộng tác với kế hoạch thiên nhiên của Thiên Chúa là tất cả thái độ của họ, hết năm này sang năm khác. Nếu họ không tin tưởng như vậy, thì chúng ta sẽ chẳng có cơm gạo, ngũ cốc, hoa trái để mà ăn và sống.
Thánh Gia-cô-bê sử dụng khuôn mẫu nông nghiệp ấy để nói với chúng ta rằng kế hoạch của Thiên Chúa luôn tiến hành chậm nhưng chắc chắn. Cho nên chúng ta phải chấp nhận kế hoạch ấy với tất cả kiên nhẫn và hiểu biết. Điều quan trọng hơn cả không phải là chờ đợi một cách thụ động, nhưng phải là những người thực hành lời Chúa. Trong suốt lá thư, thánh Gia-cô-bê đã đề cập tới hai điểm chính: thứ nhất là tránh bất công xã hội, điển hình là những chênh lệch giàu nghèo và những bất công người giàu gây nên; thứ hai là cần phải tỏ ra đức tin sống động qua những việc làm cụ thể - "Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (2:17). Trích dẫn lời thánh Gia-cô-bê kêu gọi "Xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm", Phụng vụ Lời Chúa ngầm hiểu chúng ta hãy cố gắng sống tất cả những gì ngài nhắc đến trong thư, chứ không phải chỉ nghe một lời kêu gọi suông. Sự kiện "Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa" phải là một lý do để chúng ta sống niềm hy vọng, kiên nhẫn và chịu đựng, tức là vẫn tiếp tục xây dựng cho công bình xã hội và làm chứng cho đức tin của chúng ta vào Chúa Ki-tô qua những hành vi đạo đức.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Để chờ đợi Chúa lại đến, kiên nhẫn và cầu nguyện là hai điều được lập đi lập lại (xem 1 Tx 5:1-11.17.18; Mt 26:41). Tôi đã ý thức tầm quan trọng của kiên nhẫn và cầu nguyện như thế nào? Tôi đã hiểu kiên nhẫn chịu đựng nghĩa là gì đối với Ki-tô hữu? Sống như môn đệ Chúa Ki-tô đã đem lại cho tôi những khó khăn nào?
Suy nghĩ về thái độ thiếu kiên nhẫn của mình, tôi đã gây cho những người chung quanh, trong gia đình hoặc trong nhóm, những phiền hà và đau khổ nào?
Phụng vụ Lời Chúa vẫn tiếp tục hướng dẫn chúng ta trong chủ đề Ngày quang lâm của Chúa Ki-tô trong những Chúa Nhật mùa Vọng. Vậy tôi chuẩn bị đón Chúa đến với tôi trong giờ sau hết, hay chuẩn bị kỷ niệm Chúa đến trong bầu khí lễ lạc tưng bừng? Nếu là chuẩn bị cho ngày Chúa đến với tôi, tôi đã có được những thái độ nào như thánh Phao-lô và thánh Gia-cô-bê đã mời gọi?
Tôi có nhìn những biến cố, diễn tiến trong cuộc đời mình như những mốc điểm nói lên cuộc cứu độ Chúa đang thực hiện dần dần nơi tôi không? Chúng đã nói lên những gì tôi cần phải thay đổi để trở nên "thụ tạo mới" hoặc nên giống Chúa Ki-tô?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, hát một bài thích hợp, hoặc đọc kinh sau đây: Lạy Chúa Giê-su, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa. Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào... Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ. Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại. A-men. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 48)
(1) Vui lên nào, hỡi sa mạc đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, (2) Hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của ĐỨC CHÚA, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta. (3) Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. (4) Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính người sẽ đến cứu anh em." (5) Bấy giờ, mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. (6) Bấy giờ kẻ què sẽ ngảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. (10) Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
(8) Anh em hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang đã gần tới. (9) Kìa vị thẩm phán đang đứng ngoài cửa. (10) Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa.
· Tin Mừng: Mt 11,2-11: Câu hỏi của Thánh Gio-an Tẩy Giả và câu trả lời của Đức Giê-su.
(2) Ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: (3) "Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" (4) Đức Giê-su trả lời: "Các anh cứ về thuật lại cho Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: (5) Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe giảng Tin Mừng, (6) và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi".
(7) Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: "Anh em xem gì trong hoang địa?...Để xem một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. (10) Chính ông là người kinh thánh đã nói tới khi chép rằng: Này ta sai sứ giả của ta đi trước mặt con, người sẽ dọn đường cho con đến. (11) "Tôi nói thật với anh em: Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ chưa, từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông.
NGẪM
· Câu hỏi gợi ý:
Ý nghĩa các bài đọc Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng? 2. Ơn cứu độ: sáng kiến từ Thiên Chúa: MV 3-A67
1. Ý nghĩa các bài đọc Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng? 2. Ơn cứu độ: sáng kiến từ Thiên Chúa. 3. Chúng ta phải làm gì để đón mừng ngày Chúa Giáng Sinh?
· Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa: Các bài đọc hôm nay giới thiệu cho chúng ta Vị Cứu Tinh, Đấng đã được các ngôn sứ loan báo trước, chính là Đức Giê-su.
Bài sách ngôn sứ I-sai-a (3,-6.10a)loan tin vui cho dân Chúa,những kẻ đang sống trong u tối ,bị áp bức đọa đầy. Họ sẽ nhìn thấy ánh sáng huy hoàng của ĐỨC CHÚA. Ngài sẽ đến cứu giúp và chữa lành mọi bệnh tật củahọ. Họ sẽ tiến vào thành thánh Xi-on giữa tiếng reo hò.
Thư Thánh Gia-cô-bê (5,7-10) khuyên các tín hữu hãy kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa quang lâm.
Tin Mừng Thánh Matthêu (11,2-11) thuật lại việc Thánh Gio-an Tẩy gỉa sai môn đệ đến hỏi Đức Giê-su xem Ngài có phải là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi không . Một cách gián tiếp Đức Giê-su trả lời:"Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng. Đây chính là những công việc Vị Cứu Tinh sẽ thực hiện như lời ngôn sứ I-sai-a đã loan báo trước (Is 35,5-6).
2. Ơn cứu độ: sáng kiến từ Thiên Chúa.
Ngay từ khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu độ cho con người (St 3,15). Khởi từ Áp-ra-ham, Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với ông, thành lập một dân riêng (St 16,18; 17,4-14), ban bố luật điều cho Mô-sê (Xh 20,1-21).Từ thế hệ này qua thế hệ khác, Ngài luôn trung thành với lời giao ước và đã tỏ bày kế hoạch cứu rỗi của Ngài qua miệng các tổ phụ, các ngôn sứ: loan báo, giới thiệu Đấng Mê-si-a, Vị Cứu Tinh nhân loại. Sách ngôn sứ I-sai-a chương 53 nói về "Người Tôi Tớ"như họa lại cho chúng ta từng nét dung mạo của Đức Giê-su khổ nạn: không duyên dáng, không oai vệ..bị khinh khi.bị tra tấn, ngài chịu đựng, và không mở miệng ...chính vì sự ngỗ nghịch của dân ngài, ngài đã bị sát phạt.(Is 53,2-9). Và đặc biệt bài sách ngôn sứ I-sai-a hôm nay cho chúng ta hình ảnh Thiên Chúa quang lâm. Ngài đến để cứu giúp: làm cho "những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ..những đầu gối bủn rủn được vững vàng".Ngài sẽ thưởng phạt công minh.giải thoát con người khỏi khổ đau, bệnh tật: mù, què, câm, điếc.và đưa tất cả vào niềm vui vĩnh cửu trên núi thánh của Ngài.
Tuy nhiên , Thiên Chúa không nhất thiết phải đợi đến thời điểm đã ấn định mới ra tay cứu độ. Ngài sẵn sàng hành động khi có ai kêu cầu Ngài.
-Khi dân It-ra-en gặp nguy khốn, bị dồn đuổi đến bờ Biển đỏ,ông Mô-sen giơ tay lên cầu xin Chúa và Ngài đã dùng quyền lực cho dân vượt qua biển chân khô ráo, còn xa mã và binh đội của Pha-ra-ô đuổi theo bị vùi dập trong làn nước biển (Xh14,15-334). Thời dân mới lập cư tại đất hứa, các nước xung quanh thường xâm lấn quấy phá. Họ đã kêu lên với Chúa và Ngài đã gởi các vị Thẩm Phán đến cứu. Khi It-ra-en mới có vua, quân Phi-li-tinh thường đến gây chiến .Với Danh Gia-vê ,Chúa các cơ binh, Đa-vit đã dám xông đến đánh Gô-li-at,một người to lớn mặc chiến bào và vũ khí đầy đủ.chỉ vì tên này dám thách thức Ya-vê Thiên Chúa It-ra-en (1Sm 17,40-51).
Có thể nói: Lịch sử Dân Chúa chính là lịch sử về lòng thương xót của Chúa đối với dân của Ngài, một dân tộc nhỏ bé,nhưng lại hay ương bướng và bất trung . Mỗi lần dân phản nghịch cùng Chúa, Ngài lại để cho họ rơi vào tay quân thù, đến khi họ biêt sám hối ăn năn và kêu xin thì Ngài lại tha thứ và đến giải cứu họ.
3. Chúng ta phải làm gì để đón mừng Chúa Giáng Sinh?
· Để dọn tâm hồn đón Chúa đến một cách sốt sắng, trước hết chúng ta cần sám hối, sứa mình. Thánh Gio-an Tẩy Giả dạy: "Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa." (Lc 3,5-6). Phải làm tròn bổn phận đối với Chúa, đối với gia đình và đối với xã hội. Về việc này, chúng ta phải cảm tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta mẫu gương Cha Thánh Khôi Bình: Một người con hiếu thảo trong gia đình, một bông hoa xinh tươi trọn đời dâng hiến cho Chúa, phục vụ xã hội. Cả đời Ngài đã tận tụy hi sinh vì lợi ích của những người công nhân nghèo khó, thấp cổ bé miệng. Ngài đã bênh vực, nâng đỡ, đem lại cho họ niềm vui, hy vọng vào Thiên Chúa tình yêu.
· Cần củng cố Đức Tin, vì chính Đức Tin sẽ giúp cho chúng ta sống công chính. Trong xã hội ngày nay, song song với việc phát triển đô thị , các tệ nạn xì ke, ma tuý, cướp giật ngày một gia tăng, đặc biệt tệ nạn hối lộ đang trở thành quốc nạn. Phải chăng vì còn quá nhiều người không tin vào Cháu, Đấng làm chủ vũ trụ. Ngài sẽ phân xử mỗi người tuỳ theo công việc họ làm.
· Sau nữa cần phải tỉnh thức sẵn sàng: Đấng Cứu Thế đã đến cách đây 2000 năm,thế mà nhiền người Do Thái vẫn còn chờ đợi. Họ vẫn chưa nhận ra Đức Giê-su chính là Đấng phải đến. Chúa đến như kẻ trộm, và Ngài có thể đến với chúng ta bằng nhiều thể thức khác nhau. Nếu không tỉnh thức, chúng ta sẽ không nhận ra Ngài.
NGUYỆN
Lạy Đấng Cứu Thế của chúng con, ngày kỷ niệm Chúa giáng trần đang tới gần.Chúng con cảm thấy tâm hồn mình còn ngổn ngang trăm bề, thật bất xứng để đón tiếp Chúa. Nhưng cũng chính vì sự bất xứng đó mà chúng con càng cần Chúa đến viếng thăm hơn. Vì chỉ có bệnh nhân mới cần đến thầy thuốc. Xin giúp chúng con có được tấm lòng thống hối chân thành, xin tăng thêm lòng tin cậy mến để chúng con nhiệt thành hơn trong việc góp phần làm thăng tiến xã hội chúng con đang sống. Một xã hội vốn còn nhiều bất công, phân biệt đối xử nhất là đối với những thành phần dân nghèo. Chúng con tha thiết cầu xin Chúa. Amen.
"Biết được cái thế giới trong đó Đấng Cứu Thế "cư ngụ giữa chúng ta" là chìa khóa...."
"Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được..." (Is.35,5) "Các anh cứ về thuật lại cho ông những điều mắt thấy tai nghe...". (Mt 11,4)
Theo Chúa Giêsu, "Những điều mắt thấy tai nghe" đều mật thiết có thể trả lời cho những thắc:: MV 3-A68
Theo Chúa Giêsu, "Những điều mắt thấy tai nghe" đều mật thiết có thể trả lời cho những thắc mắc "Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác". Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu vì vậy đã viết "Cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa,...,đã diễn ra trong một bối cảnh lịch sử và địa lý nhất định. Bối cảnh ấy cũng có một tầm ảnh hưởng quan trọng trên cuộc đời và sứ mạng của Đấng Cứu Thế trong thân phận làm người. "Nơi Đức Giêsu người Nazareth, Thiên Chúa đã nhận lấy những yếu tố đặc thù của bản tính nhân lọai, kể cả việc thuộc về một dân tộc nhất định và một xứ sở nhất định. Nét đặc thù vật lý của xứ sở và những yếu tố địa lý của miền đất ấy là điều không thể tách rời được với sự thật là Ngôi Lời đã nhận lấy thân xác con người." "Những điều mắt thấy tai nghe" cũng chính là những hòan cảnh cụ thể của không gian và thời gian, những biến cố, những thực tại xã hội, chính trị, tôn giáo, văn hóa và kinh tế.
Tuy nhiên, cũng còn phải đọc thấy trong Tin Mừng cách thức khám phá ra ý nghĩa của "những dấu chỉ thời đại" ấy. Thực vậy, "Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng...", tất cả những biến cố ấy đã được hằng trăm nghìn con mắt chứng kiến, nó cũng chỉ là những sự việc như muôn vàn sự việc khác. Cũng như bản thân Gioan Tẩy Giả một nhân vật gây chấn động khắp mọi miền đất nước vì cách ăn mặc, lối sống, những bài thuyết giảng, phép rửa và nhất là sự cương quyết bảo vệ giá trị của lề luật hôn nhân không lùi bước trước vua chúa. Nhưng mọi người đã thấy gì nơi ông? Người ta đã tống giam ông, và cuối cùng cho ông một cái chết nhục nhã. Chính Đức Giêsu mời gọi con người tìm lại trong Thánh Kinh những quy chiếu để nhận biết thực tại: "Chính ông là người Thánh Kinh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến". Và những gì người ta thấy Đức Giêsu đã làm nếu quy chiếu vào lời tiên tri Isaia 35, 5 - 10, người ta sẽ nhận ra căn tính Thiên Sai Cứu Thế của Người.
"Sự thật là Ngôi Lời đã nhận lấy thân xác con người" đã được Thánh Kinh loan báo không chỉ trong những tường thuật về biến cố Nhập Thể, Giáng Sinh, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu, mà đúng như chính Người đã nói với hai môn đệ trên đường về Emmaus "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ ." "Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh". Và thánh Gioan trong Tin Mừng còn ngược giòng về tận "Lúc Khởi Nguyên" để thấy "Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có". Sự thật là như thế, thế nên Công đồng Vaticanô II và sau đó Tông Huấn Người Kitô hữu Giáo Dân đã không ngần ngại để khẳng định "...từng công việc và bổn phận trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngòai xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống...học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa...thực sự là một thực tại nhằm tìm thấy ý nghĩa trọn vẹn của mình nơi Đức Kitô" "Chính Ngôi Lời Nhập Thể đã muốn chia sẻ tình liên đới này..."
Những suy nghĩ trên đây mở ra trước mắt người kitô hữu giáo dân chúng ta một sự trân trọng đối với thực tại trần thế, cách riêng những truyền thống và di sản của dân tộc mình. Điều ấy đòi hỏi một sự kiên nhẫn và chịu đựng chờ đợi "cho tới ngày Chúa quang lâm", ngày mà thánh Phaolô vẫn thường nói là ngày "Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người"
Gioan Tẩy Giả đang ở trong tù, sai các môn đệ của ông đến hỏi Chúa Giê-su: “Ngài có phải: MV 3-A69
Gioan Tẩy Giả đang ở trong tù, sai các môn đệ của ông đến hỏi Chúa Giê-su: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác nữa?”
Có lẽ Gioan thấy môn đệ ông đang thắc mắc về người đang giảng bên kia sông Gio-đan. Gioan đã sai họ đến để xác nhận rõ cho họ, Đấng họ mong đợi là ai. Đối với Gioan, vấn đề đã rõ từ lâu vì ông đã biết Chúa Giê-su là ai khi Ngài đến để xin chịu phép rửa nơi sông Gio-đan: “Chính Thầy phải rửa cho tôi mới phải.” Và nơi khác: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống vàngự trên Người”. (Ga 1,32). Hơn nữa: “Tôi đã không biết Người, nhưng chính Đấng đã sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong ThánhThần”. Tôi đã thấy và chứng thực rằng Người là Đấng ThiênChúa tuyển chọn.” (Ga 1,33-34).
Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp, nhưng Ngài chủ tâm chỉ cho họ những gì Người đang làm trước mắt họ:
Người mù xem thấy, Kẻ què bước đi, Người cùi được sạch Kẻ điếc được nghe Và người nghèo được nghe Tin Mừng…
Đây phải chăng là một trang sách tiên tri I-sa-i-a đang mở ra trước mắt họ và đang được thực hiện? Như thế chứng minh cho họ thời nầy là thời thiên sai và Đấng làm những việc ấy chính là Đấng người ta đang trông đợi?
Và lạ thay, Chúa Giê-su lại thêm một câu khó hiểu: “Và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta!” Không vấp ngã nghĩa là tin vào Ta, là nhìn nhận Ta là Đấng mọi người đang mong đợi.
Hôm nay, Giáo Hội nhờ Gioan Tẩy Giả xác định cho chúng ta biết thời cứu rỗi đã đến rồi, hãy đón nhận ơn cứu độ, hãy đón chào Đấng Cứu thế.
Vì thế, phụng vụ Chúa nhựt hôm nay mang một màu sắc khác hẳn: Giáo Hội bảo chúng ta vui lên.
Mùa Vọng là mùa ăn năn sám hối, nhưng hãy ăn năn sám hối trong niềm vui, vì ơn cứu rỗi là một điều chắc chắn không nghi ngờ gì nữa. “Người mù xem thấy… Người điếc được nghe”… Tâm hồn chúng ta mù lòa, nay được thấy, què trệt nay bước đi…
Niềm vui nầy như niềm vui nắng rộ sau bao ngày mưa ảm đạm. Niềm vui nầy đến như niềm vui của kẻ tù tội sắp được thấy vùng trời tự do. Niềm vui nầy của những người lạc trên đảo hoang và thấy bóng con tàu cứu vớt. Niềm vui của những người thợ mỏ bị nạn dưới hầm sâu đang nghe thấy tiếng người cứu nạn sắp đến…
Thánh Phao-lô bảo chúng ta: “Hãy vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã đến gần.” ( Pl 4,4-5 ).
Chúng ta không còn đợi Đấng nào khác nữa. Chúa chúng ta sẽ đến mang ơn cứu độ cho chúng ta. Không có lý do gì phải buồn bực lo âu nữa, vì “dưới gầm trời nầy, không một Danh hiệu nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ Danh đó mà được cứu độ.” ( Cv 4, 12 ).
Trong dịp nầy, Chúa Giê-su nói đến Gioan Tẩy Giả và khen ngợi vị Tiền Hô:
“Anh em xem gì nơi hoang địa? Một người sang trọng ư? Một cây lau phất phơ trước gió ư? Không! Một vị ngôn sứ ư?
Đúng! Một vị ngôn sứ, nhưng còn hơn thế nữa, sứ giả của Ta… đi trước dọn đường cho Ta. Chưa ai cao trọng hơn Gioan. Một lời chứng có giá trị. Chính Chúa Giê-su đề cao Gioan và đó là điều hợp lý, vì Gioan cả một đời chỉ sống cho Thiên Chúa, và sau cùng là sứ giả cho Người. Và cũng vì sứ mệnh cao cả ấy mà Gioan phải ngồi tù để rồi hiến dâng tất cả cho Đấng ông loan báo.
Chúng ta không phân bì với Gioan, trái lại, vui mừng cho ông và vui mừng cho cả chúng ta…vì “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng ơn Gioan…”
Chúa nói về ai, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời, phải chăng là nói về chúng ta? Phép Thánh Tẩy đã cho chúng ta vinh dự làm công dân Nước Trời, và như thế, chúng ta cũng là sứ giả của Chúa, loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người.
Chúng ta cao trọng hơn Gioan, chúng ta đã làm được gì để được vinh dự cao cả như thế?
Chúa bảo: “Hãy tường thuật lại cho mọi người những gì mắt thấy tai nghe… Hãy giảng dạy muôn dân…”
Chúng ta đã làm được gì? Tin Mừng của Chúa không biên giới, không lệ thuộc vào một quyền bính nào. Tin Mừng là của mọi người, cho mọi người, không phân biệt màu da chủng tộc, cũng không bị hạn chế trong một lãnh vực nào…
Nhờ Phép Thánh Tẩy, chúng ta đã trở nên sứ giả của Chúa… dọn đường cho Chúa đến… Sứ mệnh thật cao đẹp! Nhưng chúng ta đã làm được gì?
Chúng ta không thể chỉ là những con người chỉ lo cho bản thân. Chúng ta không thể là “những cây lau phất phơ trước gió” chẳng ích lợi gì cho ai.
Chúng ta phải là những tiên tri của Chúa, những con người dám dấn thân cho Nước Trời: “Nước Cha trị đến…”
Đây không phải là một việc thông thường như cô thầy giáo bước vào lớp học, hay người đi chợ về… Chúa đến là một biến cố lớn lao, là cả một vùng trời yêu thương đang rộng mở. Chúng ta biết Chúa yêu thương chúng ta như thế nào không?
Người công giáo là con người luôn ngỡ ngàng trước tình thương bao la của Chúa. Hãy nói lên cho mọi người biết Chúa thương mọi người. Từ ngôi vị Thiên Chúa, Ngài đã đến chia sẻ phận người của chúng ta, cứu thoát chúng ta khỏi sự hư hèn tro bụi của chúng ta. Điều nầy không đáng cho chúng ta lưu tâm và loan báo cho mọi người sao? Hãy vui lên vì Chúa yêu thương chúng ta! Hãy vui lên, vì Chúa đã đến với chúng ta, mang cho chúng ta những gì mà thế gian không thể mang lại cho chúng ta.
“Phúc cho những ai không vấp phạm vì Ta.” Nguồn phúc nầy sẽ dành cho chúng ta nếu chúng ta dám dấn thân thực sự cho Nước Chúa, như Gioan Tẩy Giả.
Hiến tế tạ ơn mà chúng ta đang cử hành là một mời gọi khẩn thiết. Hãy về kể lại cho mọi người biết những gì mắt thấy tai nghe tại đây, nơi bàn thờ nầy.
Nơi đây chúng ta chứng kiến một Thiên Chúa gần gũi, thân cận, một Thiên Chúa yêu thương quên mình, một Thiên Chúa trở nên lương thực, tan biến cho mọi người, một Thiên Chúa đến để chúng ta được sống và được sống dồi dào, sung mãn. Hãy nói lên cho mọi người biết đừng lặng thinh.
Ngày 10 tháng 5 năm 1975, gia đình tôi cùng với hơn 80 người nữa xuống chiếc thuyền mang số VT3228: MV 3-A70
Ngày 10 tháng 5 năm 1975, gia đình tôi cùng với hơn 80 người nữa xuống chiếc thuyền mang số VT3228 hướng về phía Malaysia. Sau 15 ngày lênh đênh trên vịnh Thái Lan, cuối cùng chúng tôi cũng đến được Singapour và tạm cư trên đảo St. John. Giai đoạn chờ đợi định cư bắt đầu. Chờ đợi! Sáu tháng chờ đợi là một khoảng thời gian dài lê thê, tinh thần căng thẳng, sức lực hao mòn. Ngày nào cũng tò tỏ bên phòng Cao Ủy Tỵ Nạn để xin phỏng vấn, và lần nào cũng bị khước từ. Bỗng một hôm, văn phòng cho gọi lên và bảo tôi giơ tay tuyên thệ, gia đình được chấp thuận cho đi Mỹ. Ôi! không ngôn từ nào, bút mực nào tả hết nỗi vui mừng của tôi lúc bấy giờ.
Hôm nay đọc Bài Đọc 1 tôi cảm thông sâu xa nỗi vui mừng của người Do Thái ngày nào, sống trong cảnh lưu đầy tại Babylon, chờ đợi, không biết ngày nào về lại cố hương, được ngôn sứ Isaia báo tin: "Ngày vui sắp đến. Ngày giải phóng đã gần kề". Ôi! vui quá là vui. Mừng quá đỗi mừng, mừng đến độ thằng què cũng nhảy như nai, đứa câm cũng bật lên nói, ngay cả kẻ điếc người đui cũng như nghe, thấy được tin vui. Đó là hình bóng ngày Đấng Messia, Đấng mà muôn dân bốn ngàn năm mong đợi sắp đến.
Nhưng ở đời có lắm chuyện trái ngang. Oái oăm thay, "Ánh sáng đã đến giữa thế gian nhưng thế gian đã không nhận ra ánh sáng (Jn 3:19). Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Jn 1:11). Gioan đang ở trong ngục tối nhưng đã nhận ra ánh sáng ấy, đã nhận ra người nhà mình. Tại sông Giođan, Gioan đã nói: "Chính tôi mới cần Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi (Mt 3:14). Nơi khác, Gioan đã tuyên xưng: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xoá tội trần gian. Người đến sau tôi, nhưng có trước tôi, tôi xin chứng thực Người là Đấng Messia, Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Jn 1:29-34). Thế mà dân chúng vẫn không tin, ngay cả một số môn đệ của ông. Hôm nay ông cử hai người đến hỏi Đức Giêsu: "Ngài có thật là Đấng phải đến hay chúng tôi còn đợi ai khác (Mt 11:3). Gioan không hỏi cho mình nhưng để chính mắt môn đệ của mình cũng được thấy, chính tai họ cũng được nghe mà tin vào Đức Kitô, Đấng Messia ngàn năm mong đợi. Phòng giam, ngục tối đã không thể cản được sứ vụ tiền hô của Gioan.
"Có phải ông là người mà chúng tôi mong đợi hay không, hay chúng tôi còn phải đi tìm người nào khác?" Câu hỏi trên lại là một thách thức lớn đối với tôi, nó đập mạnh vào não trạng tôi. Là một người Công Giáo, là một người chồng, một người cha, lúc nào đó bất chợt có kẻ hỏi tôi: "Ông có phải là người Công Giáo không? Ông có phải là một người cha không? Ông có phải là người chồng lý tưởng hay một người nào khác?" Câu trả lời có thể như thế này: "Xin đừng hỏi tôi, cứ xem những việc tôi đã làm thì biết". Câu trả lời thật đơn sơ, ngắn gọn, nhưng đòi tôi phải cố gắng hết sức mình, và cố gắng mỗi ngày để nên hoàn thiện hơn, để giống Đức Kitô hơn, để hình ảnh của Người phản chiếu trên người tôi, như lời Người đã trả lời cho hai môn đệ của Gioan: "Hãy về nói lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe".
Chứng nhân là tiền hô, chứng nhân là ngôn sứ, chứng nhân là tông đồ. Xin hãy làm chứng nhân cho Đức Kitô trong mọi cảnh huống để đem niềm vui và hy vọng cho đời.
Chúa nhật 3 Mùa Vọng hôm nay quả quyết với chúng ta rằng: Đấng Cứu Thế mà mọi người đang: MV 3-A71
Chúa nhật 3 Mùa Vọng hôm nay quả quyết với chúng ta rằng: Đấng Cứu Thế mà mọi người đang mong đợi phải đến, và chúng ta không còn cần phải mong đợi một Đấng nào khác nữa. Chính Ngài là Đấng mà tiên tri Isaia đã tiên báo: "Chúng ta sẽ nhìn thấy vinh quang huy hoàng của Chúa. Chính Ngài sẽ đến và cứu độ chúng ta" (Is 35:2,4). "Chính Ngài sẽ làm cho nơi hoang địa cằn cỗi nở bông" (Is 35:1). "Ngài sẽ mở mắt người mù, cho người điếc được nghe, người què nhảy như nai" (Is 35:5-6). Phải, chính Đấng ấy đã đến và đã tỏ cho môn đệ của Gioan những phép lạ Ngài đã làm đúng hệt như tiên tri Isaia đã nói ở trên: "Người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe" (Mt 11:5). Và hơn thế nữa Ngài còn làm những phép lạ phi thường mà duy chỉ Thiên Chúa mới có thể làm: "cho kẻ chết sống lại và những người nghèo khó được nghe báo Tin Mừng" (Mt 11:5). Như vậy để trả lời và đồng thời để chứng minh cho các môn đệ Gioan cũng như chúng ta rằng "Ngài quả là Đấng Kitô phải đến và đã đến không còn cần phải mong đợi một Đấng nào khác".
Ngài đã đến và sẽ còn đến một lần nữa với từng người và với tất cả chúng ta vào giờ chết và vào ngày thế mạt. Để đón chờ Ngài sẽ đến lần thứ hai đó chúng ta hãy thực hiện lời thánh Giacôbê khuyên trong bài đọc 2: "Hãy vững lòng, hãy kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ" (Jac 5:7,10). Hãy sống bác ái "đừng kêu trách lẫn nhau" (Jac 5:9).
Thánh Phanxicô Xaviê Cần trong khi đón chờ ngày Chúa đến, giờ tử đạo, đã sống lời khuyên của Thánh Giacôbê. Ngài kiên nhẫn vững lòng chịu gian khổ trong giam cầm tra tấn dữ dằn đến nỗi quan huyện Thanh Oai phải chịu thua mà nói với ngài: "Ta đã làm hết sức để gỡ tội cho ông mà ông chẳng nghe. Vậy ta đặt tên cho ông là Ông Lì". Những người bên lương cũng phải khen: "Ông này có gan thánh gan thần. Mới có bấy nhiêu tuổi mà đã khôn ngoan quả quyết". Ngài cũng không oán trách ai nhưng bác ái và tha thứ cho cả những kẻ làm khổ ngài: "Đừng than khóc về cái chết của tôi. Nhưng hãy vui với tôi vì tôi được đến gần Chúa tôi. Đừng than trách những người đã bắt bớ tôi, vì qua bàn tay họ mà tôi được ơn cao cả ngày" (Dòng Máu Anh Hùng).
Lạy Chúa, tuần này con quyết tâm sống nhịn nhục hoà nhã bác ái với mọi người dù có gặp khó khăn trái ý để đón chờ Chúa đến như Thánh Phanxicô Xaviê Cần.
Lm. Tiến Huân - NS_TTDM 2007
Cùng Chúa Vào Đời kính gởi tới quý vị những thao thức suy tư
1. Đấng cứu độ vắng mặt ở đời này. Lung Linh
2. Đấng Mesia giả dạng giữa chúng ta. Anthony De Mello
Tin mừng Mat-thêu trong thánh lễ này đã mở đầu bằng một nỗi khắc khoải của Gioan Tảy Giả: MV 3-A72
Tin mừng Mat-thêu trong thánh lễ này đã mở đầu bằng một nỗi khắc khoải của Gioan Tảy Giả:
Ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? " (Mt 11:2)
Chúng ta còn nhớ rất rõ. Gioan đã vui vẻ giới thiệu với các môn đệ rằng.
Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói:
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian.
Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.” (Ga 1:29, 31)
Lạ thật !! Gioan đã long trọng giới thiệu Đức Giêsu với một niềm xác tín sâu xa như thế.
Vậy mà khi vào tù, Gioan lại đâm ra nghi ngờ, bèn sai môn đệ tới hỏi Đức Giêsu:
"Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không,
hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? " (Mt 11:2)
Dường như là Đấng Cứu Độ vắng mặt ở đời này Gioan nghi ngờ thì cũng hợp lý thôi.
Vì can gián vua Herode lấy vợ anh của mình, Gioan trở thành “người tù lương tâm” Gioan ngày đêm hy vọng Đức Giêsu - Đấng phải đến – đấng Mêsia – Đấng giải phóng – sẽ tính toán làm phép lạ bánh hóa nhiều sớm hơn một chút… cho 4 ngàn ngừơi ăn bánh no nê để xách động họ kéo tới trước dinh Heredo biểu tình với mục đích áp lực Herode phải thả “người tù lương tâm” vô điều kiện và ngay lập tức..
Nhưng rồi ngày này qua ngày khác chẳng thấy Đức Giêsu đoái hoài gì cả, như vậy biết đâu Đức Giêsu vẫn chưa phải là đấng giải thoát như lòng mình mong đợi !!!
Cuối cùng, Gioan đã bị chém đầu mà không được gặp lại Đấng Cứu Độ.
Dường như là Đấng Cứu Độ vắng mặt ở đời này.
Dường như thôi, vì Gioan vừa là một vị ngôn sứ cuối cùng trong thời Cựu Ước vừa là một người mà Đức Giesu đã từng khen: “Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an. (Lc 7:28)
Chúng ta thì sao?
Chúng ta nhắc nhở nhau giữ đạo cho đàng hoàng bằng cách cộng tác với Ơn Chúa – Ơn Chúa chứ không phải cộng tác với chính Chúa!!!
Có nghĩa là tương quan giữa ta với Chúa phải qua trung gian Ơn Chúa.
Nói cách khác, chúng ta hoàn toàn sống nhờ vào Ơn Chúa dù rằng ta có Rước Chúa cả ngàn lần cũng để cho vui thôi!!! Chúa vẫn ở ngoài kia..ngoài cữa tâm hồn ta!!!
Chúa chẳng dính dáng gì với ta cả, đã có Ơn Chúa là đủ rồi !!!
Rồi chúng ta chỉ còn biết khích lệ nhau: Hãy hy vọng … hy vọng vào lòng từ bi lân tuất của Chúa, Chúa sẽ cứu độ ta sau khi chúng ta chết đi.
Rõ ràng là Đấng Cứu Độ vắng mặt ở đời này.
Hiện tại chúng ta sống bằng Ơn Thánh sủng hay là Ơn Thánh hóa. Chúng ta luôn nơm nớp lo sợ… bởi vì chỉ cần một tội trọng thôi… cũng đủ làm cho Ơn Thánh Hóa biến mất.
May sao, còn Ơn Trợ Giúp ngày đêm thúc giục ta đi xưng tội.. để lấy lại ơn thánh hóa đã mất..
Còn chính Thiên Chúa Ba Ngôi thì dường như các Ngài vẫn cứ mải vui chơi hưởng hạnh phúc với cả triều thần thánh trên Thiên Đàng …mặc xác lũ phàm nhân phải ngày đêm chiến đấu sao cho khỏi phạm tội trọng.
Mai này, tụi nó chết đi, chỉ cần mang sổ bìa vàng và sổ bìa đen “cân đo đong đếm giữa công và tội” để quyết định phạt chúng bao lâu trong lửa luyện tội “cho biết thế nào là lễ độ”.
Quả thật là Đấng Cứu Độ vắng mặt ở đời này.
Kết luận
Một câu hỏi thật nghiêm chỉnh được đặt ra trong mùa Vọng đầu tiên của chu kỳ 3 năm phụng vụ:
Đối với tôi Đấng Cứu Độ vắng mặt ở đời này?
Hay là Đấng Cứu Độ hiện diện ở đời này?
Câu trả lời thuộc về riêng Cá nhân của từng người,
không ai có thể làm thay cho ai được, kể cả vợ chồng chung chăn chung gối!!!
Nếu Đấng Cứu Độ vắng mặt
Tất nhiên mỗi người phải gõ, phải tìm cho ra
Đấng Cứu Độ đang thực sự hiện diện sống động ngay tại đời này.
Vị Guru đang thiền định trong một hang núi Hymalayas. Mở mắt ra, ông trông thấy trước mặt: MV 3-A73
Vị Guru đang thiền định trong một hang núi Hymalayas.
Mở mắt ra, ông trông thấy trước mặt mình là một người khách không mời. Đó là tu viện trưởng của một tu viện nổi tiếng.
“Ông cần gì vậy?” Guru hỏi.
Vị tu viện trưởng bắt đầu kể lể. Số là trước đây tu viện của ông rất nổi tiếng ở khắp Tây Phương. Tất cả cơ sở tu viện đều đầy ắp những ứng viên trẻ đến xin dự tu. Thánh đường của tu viện luôn luôn rộn rã tiếng đàn hát thánh ca của các tu sĩ. Nhưng rồi, tu viện gặp phải một giai đoạn khó khăn. Người ta không còn ùn ùn tuốn đến xin bồi dưỡng đời sống thiêng liêng của họ nữa. Các ứng viên trẻ dần dần biến sạch. Thánh đường vắng lặng, trống trơn. Chỉ còn một nhúm thầy dòng sót lại, tiếp tục các bổn phận của họ trong uể oải, nặng nề.
Kể lể sự tình xong, tu viện trưởng hỏi:
“Có phải đấy bởi vì một tội nào đó của chúng tôi đã làm cho tu viện bị suy thoái thê thảm đến mức này?”
“Đúng vậy” - Guru trả lời - “Đấy bởi vì tội thờ ơ của các ông.”
“Thờ ơ về điều gì, thưa ngài?”
“Một người trong các ông là Đấng Mêsia giả dạng. Và các ông chẳng hề hay biết điều đó.”
Nói xong, Guru nhắm mắt lại, tiếp tục thiền định.
Suốt cả con đường trở về tu viện, trống ngực vị tu viện trưởng cứ đánh thình thình mỗi khi ông nghĩ rằng Đấng Mêsia – chính Đấng Mêsia – đã xuống thế trở lại và đang ở ngay trong tu viện của mình.
Vậy sao lâu nay mình không nhận ra nhỉ?
Và đó là ai vậy cà? Thầy Cook? Thầy Sacristan? Thầy Treasurer? Thầy Prior?
Ồ không, không thể là anh ta; anh ta có quá nhiều khuyết điểm. Mà này, Guru nói rằng Đấng Mêsia giả dạng. Có thể những khuyết điểm kia cũng là một cách giả dạng lắm chứ? Xem nào, mọi người trong tu viện đều có khuyết điểm. Và một người trong đó là Đấng Mêsia!
Về đến nhà, tu viện trưởng triệu tập tất cả các thầy lại và nói cho họ biết sự khám phá của mình. Tất cả các thầy đưa mắt nhìn nhau, ngờ ngợ.
Mesia à? Ở ngay đây? Thật không thể nào tin được!
Nhưng đó là một Đấng Mêsia giả dạng. Vậy rất có thể là chuyện thực lắm chứ.
Nhưng đó là ai? Thầy này? Thầy kia? Hay thầy nọ? ...
Có một điều chắc chắn. Nếu Đấng Mêsia giả dạng thì khó mà nhận ra Ngài.
Thế là tất cả các thầy trong tu viện bắt đầu cư xử với nhau một cách đầy quan tâm và kính trọng. Mỗi người trong họ đều tự nhủ:
“Biết đâu đó, có thể Mêsia là người này ...”
Kết quả là bầu khí trong tu viện trở nên ngày càng sinh động và vui tươi hơn. Các ứng viên trẻ lại ùn ùn tuốn đến xin gia nhập dòng. Thánh đường lại rộn rã các khúc ca. Tu viện lại đầy ắp tình yêu.
Một nhóm thương gia dự cuộc họp. Người nào cũng báo trước với vợ con là sẽ về nhà đúng: MV 3-A74
Một nhóm thương gia dự cuộc họp. Người nào cũng báo trước với vợ con là sẽ về nhà đúng giờ ăn cơm tối. Nhưng cuộc họp kéo dài hơn dự tính. Tàn cuộc họp, ai nấy hối hả chay ra xe buýt. Một người xô phải quầy bán táo của một cậu bé, táo rơi tứ tung. Nhưng không ai dừng lại để lượm giúp cậu. Rồi mọi người đều lên được xe buýt, thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng ít giây sau, một người trong nhóm cảm thấy bứt rứt về chuyện cậu bé bán táo. Ông xuống xe, trở lại chỗ cũ. Ông thấy cậu bé đang vất vả mò tìm từng trái táo để lượm lại. Thì ra cậu bị mù! Tội nghiệp quá, ông giúp cậu lượm lại từng quả cho hết. Một số quả đã bị giập. Ông móc túi đút vào tay cậu bé một số tiền rồi ra đi. Cậu bé bán táo hỏi với theo: “Ông có phải là Đức Giêsu không?”.
Chắc là cậu bé này đã nghe hoặc đọc Phúc Âm nhiều rồi, nên thấy người ấy có hành động tốt lành như Chúa nên phản ứng nói cách tự nhiên rằng: “Ông có phải là Đức Giêsu không?”.
Ở đời này người ta nhận biết nhau qua những dấu chỉ: Lời nói, việc làm, tư cách bên ngoài hay điều thổ lộ tâm tư v.v. Người ta nói rằng: “chuông thử tiếng, người thử lời nói”. Có giọng nói chua cay, gắt gỏng, mạnh mẽ; mà cũng có những lời nói êm ái, ngọt ngào như mật ngọt rót vào tai, vào tận đến con tim cảm mến của lòng người. Cũng thế có những nụ cười thân thiện hay nụ cười mỉa mai chua chát; hoặc có những ánh mắt nhân từ dịu dàng hay dữ tợn. Đi xa hơn nữa, người ta đánh giá con người qua cách ăn mặc, đi đứng, điệu bộ v.v. Tất cả những biểu hiện đó là những trang sách mô tả nội tâm mỗi người. Chúa Giêsu cũng nói rằng: “Cứ xem quả thì biết cây. Người ta không hái được trái vả nơi bụi gai!”.
Hôm nay bài Phúc Âm có tường thuật về việc môn đệ của thánh Gioan đến hỏi Chúa xem Ngài có phải là Đấng Kitô không? Điều này xem ra có vẻ mâu thuẫn với những lời nói của thánh Gioan trước đó, khi ông làm chứng về Chúa: “Hôm sau thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan nói: Đây là Chiên Con của Đức Chúa Trời, đây là Đấng cất tội thiên hạ. Chính Ngài là Đấng tôi đã nói: “Có người đến sau tôi, trọng hơn tôi, vì vốn Ngài có trước tôi” (Ga. 1,29-30). Như vậy việc thánh Gioan sai môn đệ mình đến hỏi Chúa là để các ông khỏi nghi ngờ về thế giá của Chúa, vì đã có lần các môn đệ Gioan đã đem lòng ghen tị với Chúa Giêsu và môn đệ Ngài (Ga. 3,25-26). Và thánh Gioan chỉ là vị tiền hô đi dọn đường cho Chúa Giêsu, chính Ngài mới là Đấng Cứu Thế thực. Thế là để cho các môn đệ mình thâm tín về vai trò Đấng Cứu Thế, thánh Gioan mới nghĩ ra diệu kế là sai họ đến phỏng vấn Chúa Giêsu. Để nhờ sự tiếp xúc mắt thấy tai nghe, thánh Gioan hy vọng các ông sẽ đặt niềm tin vào Chúa. Nhưng Chúa Giêsu trả lời cách gián tiếp là hãy nhìn vào việc Ngài làm: “Người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được lành và Tin Mừng được loan báo…”.
Còn chúng ta thấy Chúa là Đấng phi thường: nhìn vào cuộc sống của Ngài, ta biết Ngài đầy vẻ nhân đức: giữa cuộc đời tìm vật chất để sống cao sang, sống hưởng nhàn, Chúa Giêsu lại sống rất nghèo nàn: Mặc dù Ngài có thể biến nước thành rượu và hoá bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê, nhưng bản thân Ngài là: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”. Chúng ta còn thấy Ngài đầy quyền lực mà vẫn vâng lời trong việc nhỏ mọn. Ngài lại có con tim rất nhậy cảm nhưng chỉ yêu đời thanh khiết và yêu thương những kẻ cần đến lòng thương xót hải hà của Chúa. Nếu xét về nét tu hành, chúng ta thấy thánh Gioan cũng nhiều điểm ưu việt, Ngài sống khổ hạnh trong sa mạc, ăn châu chấu với mật ong rừng. Chính Chúa Giêsu cũng khen ngợi thánh Gioan khi nói với dân chúng rằng: không uổng công khó nhọc mà vào hoang địa để xem cây sậy phất phơ trước gió hay xem người ăn mặc là lướt, nhưng người ta đến hoang địa để tìm gặp một tiên tri. Chức vụ tiên tri của thánh Gioan đã được tiên tri Malakia loan báo trước: “Này Ta sai sứ thần Ta đi trước Con, để dọn đường sẵn cho Con”(Ml.3,1).
Ôi! Một điều kỳ diệu trong các việc Chúa làm, đây cũng là điểm Chúa tỏ cho các môn đệ của thánh Gioan tin theo là Chúa đến trần gian không những đem Tin Mừng để giải thoát trần gian khỏi mọi tối tăm u mê, đem con người về nguồn ánh sáng chân lý đích thực, nhưng Ngài còn gỡ bỏ cả xiềng xích thân xác bằng việc chữa bệnh nan y, những bệnh nhân mà bị xã hội loại trừ ra khỏi cộng đồng. Như thế không còn sự phi thường nào vượt qua thế giá của Đấng Kitô, Đấng từ trên trời mà xuống trần gian.
Còn chúng ta, qua dấu chỉ bên ngoài của cuộc sống hằng ngày, những người sống quanh ta, nhất là những kẻ ngoại đạo, có nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa Kitô không? Các tu sĩ có phản chiếu nhân đức của bạn thân Chúa Kitô không? Các linh mục có là ánh sáng chiếu soi khắp mọi nẻo đường trần thế không? Những người dâng hiến cho Thiên Chúa khi lẫn lộn giữa cuộc đời, thiên hạ có nhận thấy rằng: Cô này hiền như “ma soeur” hay chàng này có vẻ giống thầy tu không?. Ước gì mọi phần tử trong Giáo Hội luôn được thấm nhuần tinh thần Phúc Âm nhờ Lời Chúa và gương sáng của Ngài, chúng ta sẽ chiếu toả cho mọi người chưa nhận biết Chúa, được trở về với nguồn chân lý đích thực là Đức Kitô. Những nhân đức và những xử thế tốt lành, đó là những tín hiệu tuyệt hảo làm lay chuyển mọi tâm hồn. Cứ như thế, người này gieo, người kia vun trồng, người khác gặt hái, dần dần nước Thiên Chúa càng ngày càng rộng mở lớn thêm mãi, cho nước Mẹ trị đến, nước Chúa toàn thắng vinh quang trên khắp mặt đất cho đến muôn đời.
Khởi đầu phúc âm thánh Marcô đoạn thứ 3 câu thứ nhất đến câu thứ 6 nhắc lại lời Tiên tri Isaia: MV 3-A75
Khởi đầu phúc âm thánh Marcô đoạn thứ 3 câu thứ nhất đến câu thứ 6 nhắc lại lời Tiên tri Isaia rằng: Đây ta sai thiên thần của ta đến trước mặt ngươi để dọn dường cho Người. Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Gioan xuất hiện trong hoang địa rao giảng phép rửa sám hối và cầu xin ơn tha tội. Dân chúng khắp miền Giuđêa và Giêrusalem tuốn đến với người, xin thú tội và chịu phép rửa trên sông Giodan".
Việc sửa đường ở nước Mỹ là một chuyện thường. Tiểu bang nào, thành phố nào cũng sửa đường. Người ta phải vất vả nhiều về việc tu sửa đường xá. Nào là dùng xe ủi, xe ban sang bằng những chỗ cao, lấp đầy những chỗ thấp, san bằng núi non, chỗ nào có sông rạch phải bắc cầu. Có những nơi phải dùng xi măng cốt sắt, có những chỗ phải dùng nhựa đường trộn lẫn với đá sỏi phủ lên, tốn phí biết bao nhiêu là tiền, biết bao nhiêu là công lao sức lực, để có được những con đường rộng rãi thênh thang, những con đường êm đềm phẳng phiu.
Để Chúa đến được với chúng ta, Chúa cũng phải mất một thời gian dài đằng đẵng để dọn đường, với hơn hai ngàn năm lịch sử. Chúa phải dùng biết bao nhiêu là ngôn sứ, biết bao nhiêu là tiên tri, biết bao nhiêu là các đấng tổ phụ, biết bao nhiêu là người lành, người công chính để loan báo con đường cứu độ của Chúa, và rồi đến thời viên mãn Ngài mới sai Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người và ở giữa chúng.
Để dọn dường cho Chúa ngự đến, chúng ta cũng phải chuẩn bị như lời thánh Phaolô nhắn nhủ: "Anh em thân mến, biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ đây phần rỗi của chúng ta đã gần đến. Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang lấy khí giới công chính. Hãy đi đứng đàng hoàng đang hoàng gữa ban ngày. Không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tị. Nhưng hãy mặc lấy sự công chínhvà niềm thi ân. Tránh thỏa mãn danh vọng hão huyền. Tránh đòi hỏi quá lố và hãy giữ mình thang sạch, để đón Chúa Kitô". Chúng ta phải làm gì với lời thanh Phaolô nhắn nhủ? Hãy đi giữa ban ngày tức là hãy dẹp bỏ thói kiêu căng, tự ái, những thung lũng ích kỷ, ghen tương, quạu cọ, thiếu tình bác ái, dễ chán nản, lười biếng. Những khúc quanh co thiếu thành thật, chưa sống đúng với chính mình. Hãy dẹp bỏ tính ươn hèn, biếng nhác, ham chơi.... Nhưng hãy chú tâm làm việc đạo đức, đọc kinh cầu nguyện, than thở với Chúa Mẹ, năng nâng tâm hồn lên với Chúa. đó là phưong pháp tốt nhất để sửa dọn tâm hồn mừng đón Chúa Giáng sinh.
Thường thì có nhiều loại: Có đường biển, đường bộ, đường mòn, đường làng, đường đất, đường đèo, đường quốc lộ, đường xa lộ liên bang... Mỗi đường có gí trị khác nhau tùy múc đích, sự nỗ lực và ốn phí. Dọn đường chờ Chúa đến cũng tương tự như thế. Nếu chúng ta đặt hết nỗ lực, góp hết tinh thần và ý chí vào việc sửa dọn, thì chúng ta sẽ thấy con đường của chúng ta khang trang, rộng rãi, con đường an bình thoải mái khi Chúa đến, nghĩa là chúng ta dâng trọn 4 tuần mùa vọng cho Chúa và sốt sáng thực hiện việc ăn chay, hãm mình, chừa bỏ tính xấu, khử trừ đam mê, tập tành các nhân đức của đời thơ bé là sống đơn sơ, khiêm nhường, dễ dạy, phó thác trong tay Mẹ, vui hòa với anh em, nhã nhặn với thầy cô, cư xử lịch thiệp với bạn bè... tức là chúng ta đã thi hành lời khuyên gọi của thánh Gioan tiền hô "Dọn đường cho Chúa, uốn nắn nẻo quanh con, lấp hố sâu cho đầy, bạt núi đồi cho phẳng". Như thế là chúng ta có một con đường quốc lộ, con đường xa lộ sạch sẽ, an toàn cho Chúa ngự đến.
Lạy Chúa, trong tuần lễ mùa vọng này, chúng cho đã ý thức được lời mời gọi của thánh Gioan là dọn đường nẻo tâm hồn chúng con cho ngay thẳng để đón Chúa. Xin Chúa cho chúng con mỗi khi nhìn cảnh trang hoàng của mùa sinh nhật, nhìn ánh điện lung linh muôn màu trên khắp nẻo đường, chúng con nhớ đến việc đổi mới tâm hồn và canh tân cuộc sống, cho xứng đáng ngôi đền thờ Chúa ngự đến. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen. (12.12.2004).
Bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu của Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng Năm A hôm nay có hai: MV 3-A76
Bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu của Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng Năm A hôm nay có hai phần rõ rệt, phần thứ nhất Chúa Giêsu làm chứng về mình, và phần thứ hai Chúa Giêsu làm chứng về Gioan Tẩy Giả. Tuy phần Phúc Âm hôm nay nói về những lời Chúa Giêsu làm chứng về mình hơi có vẻ lạc đề với ý nghĩa của Mùa Vọng là thời điểm trông đợi Người đến như một Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Tinh dân Do Thái cũng là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại, nghĩa là thời điểm Chúa Giêsu chưa giáng sinh, chưa “đến trong thế gian để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37) là chính Người, nhưng phần thứ nhất này cần phải có và không thể thiếu để làm nổi bật phần thứ hai. Tại sao? Theo tôi, tại vì mối liên quan mật thiết giữa Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả là Tiền Hô của Người, một mối liên hệ đã được tiên tri Isaia loan báo từ trước và cũng đã được chính Chúa Giêsu trích lại trong bài Phúc Âm hôm nay, đó là: “Thánh Kinh đã viết về con người này như sau: ‘Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con để dọn đường lối cho Con sẵn sàng’”.
Như thế, mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả đây là mối liên hệ của một kẻ đi trước với vai trò “sứ giả” để làm công việc “dọn đường” cho một “Đấng đến sau”. Đúng thế, sứ mệnh của Gioan Tẩy Giả với biệt hiệu Tiền Hô chính là sứ mệnh của một “sứ giả” loan báo “Đấng đến sau” mình cho dân Yến Duyên biết, để sửa dọn lòng dân chúng, nhờ đó họ có thể nhận biết và chấp nhận Đấng “quyền năng hơn” (Mt 3:11) ngài, khi Đấng ấy “tỏ mình ra cho Yến Duyên” (Jn 1:31) “vào thời sau hết” (Heb 1:2). Sứ mệnh này của Gioan Tẩy Giả đã được chính thân phụ của thánh nhân là tư tế Giacaria bật miệng nói trước từ khi thánh nhân mới lọt lòng mẹ, như Phúc Âm Thánh Luca thuật lại ở đoạn 1 câu 76 và 77 như sau: “Hỡi con, con sẽ được gọi là tiên tri của Đấng Tối Cao. Vì con sẽ đi trước Chúa để dọn đường lối ngay thẳng cho Ngài, ở chỗ tỏ cho dân chúng biết về việc họ được cứu thoát khỏi tội lỗi”.
Đến đây, vấn đề đã được sáng tỏ, đó là, nếu Dân Ngoại muốn nhận biết “Đấng Cứu Tinh Nhân Trần” Redemptor Hominis, họ cần phải chấp nhận chứng tá liên quan đến Người là chính lời rao giảng về Người cũng như chứng nhân thừa sai của Người thế nào, đối với trường hợp dân Do Thái cũng thế, để có thể nhận biết Đấng Thiên Sai, Đấng họ đợi trông như đã được tiên báo trong Thánh Kinh của họ, họ cần phải chấp nhận những lời tiên tri nói về Người, và để có thể chấp nhận những lời tiên tri liên quan đến Đấng Thiên Sai ấy, họ còn phải chấp nhận cả con người của vị tiên tri ấy nữa, bằng không, những lời tiên tri của các vị ấy về Đấng Thiên Sai đối với họ chỉ là giả tạo. Không biết có phải nhận thấy rằng thành phần môn đồ của mình không tin vào lời chứng của mình về “Đấng đến sau”, mà, như phần đầu của bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, Gioan Tẩy Giả ở trong tù mới sai họ trực tiếp đến với Đấng ấy để họ có thể nghe tận tai và thấy tận mắt những gì thánh nhân đã nói là sự thực, chứ tự mình, thánh nhân hoàn toàn không có vấn đề về những gì ngài tin vào Đấng ấy.
Nếu quả thực đúng như vậy, thì việc sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “’Có phải ‘Ngài là Đấng phải đến chăng’ hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?” trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan Tẩy Giả như âm thầm muốn nhắn nhủ với các môn đồ của ngài rằng: “Đấy, nếu các con không tin thày, thì các con hãy tự mình đi mà coi sẽ biết. Phần thày, thày không cần phải làm như thế. Bằng không, khi thày chưa bị ngục tù thày đã đến quan sát xem Ngài có thật là Đấng phải đến hay không rồi. Thày đã thấy Ngài và biết rằng Ngài là ‘Đấng Thiên Chúa tuyển chọn’, Đấng ‘uy quyền hơn’ thày, thế thôi. Các con đã quên lời thày khẳng định với các con khi các con có lần báo cho thày biết về việc dân chúng kéo đến xin Người làm phép rửa cho đông hơn thày rồi sao. Thày đã nói với các con lúc ấy rằng: ‘Không ai có thể làm gì nếu không được từ trên ban cho’ (Jn 3:27)”.
Thật vậy, để trả lời cho vấn nạn của môn đồ Gioan Tẩy Giả về nguồn gốc của mình, Chúa Giêsu đã nói đến “uy quyền” của Người, một “quyền uy” được thể hiện qua lời nói và việc làm của Người, tức Người muốn nói đến những gì Gioan Tẩy Giả thày của họ không làm được như Người (chẳng hạn các phép lạ) hay không làm được bằng Người (chẳng hạn về nội dung và tác dụng của lời Người rao giảng): “Các người hãy về thuật lại cho Gioan những gì các người đã nghe và đã thấy (chắc có thể trước khi lên tiếng hỏi Chúa Giêsu, thành phần môn đồ của Gioan Tẩy Giả đã âm thầm nghe lời Người nói và đã thấy việc Người làm rồi), đó là kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, và kẻ nghèo được nghe rao giảng tin mừng”. Câu Chúa Giêsu trả lời cho thành phần môn đồ của Gioan Tẩy Giả chẳng khác gì như Người có ý xác nhận với họ rằng: “Điều thày của các người làm chứng về Tôi rất là chính xác, như những gì các ngươi đã nghe và đã thấy đấy”.
Như thế, khi Chúa Giêsu tự làm chứng về mình thì đồng thời Người cũng làm chứng cả cho Gioan Tẩy Giả nữa. Tuy nhiên, với thành phần môn đồ của Gioan Tẩy Giả thì Người làm chứng về Gioan Tẩy Giả một cách gián tiếp như vậy, một việc làm chứng trực tiếp căn cứ vào lời của Gioan làm chứng về Người, còn đối với chung dân chúng ở lại sau khi các môn đồ của Gioan “đi khỏi”, Người lại làm chứng cho Gioan Tẩy Giả một cách trực tiếp, liên quan đến chính bản thân và sứ vụ của thánh nhân, khi Người cho họ biết rằng thánh nhân thực sự là vị tiên tri Tiền Hô của Đấng Thiên Sai được Thánh Kinh nhắc đến trong Sách Tiên Tri Isaia, và Người kết luận: “Tôi bảo thật cho các người biết, trong lịch sử không hề có một người nào do phụ nữ sinh ra lại cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”. Vấn đề được đặt ra ở đây là, chẳng lẽ thánh nhân lại cao trọng hơn cả Mẹ Maria, một nhân vật cũng do phụ nữ sinh ra, song lại là một đệ nhất tạo vật về ân sủng, thậm chí hơn cả Chúa Giêsu hay sao, vì Người cũng là người thật, cũng được sinh ra bởi một người nữ? Nếu quả thực như vậy thì, theo ý của Chúa Giêsu ở đây, thánh nhân cao trọng nhất trong cả loài người đây phải hiểu như thế nào?
Đúng thế, trong cả loài người không có một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả theo lời mạc khải và tuyên bố của Chúa Giêsu ở đây, theo tôi, có thể hiểu về vai trò Tiền Hô của thánh nhân. Là một Tiền Hô, thánh nhân không phải chỉ thực hiện việc rao giảng về Đấng Thiên Sai, như những vị tiên tri cũng thuộc thời Cựu Ước trước ngài, mà còn tự mình nhận diện Người, và nhất là chẳng những điểm mặt Người cho dân Do Thái thấy, mà còn giới thiệu Người cho dân Tân Ước nữa. Thánh nhân vừa tự nhận diện vừa điểm mặt Đấng Thiên Sai cho dân Do Thái, khi thánh nhân tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 1 câu 34: “Giờ đây chính tôi đã thấy và làm chứng: ‘Đó là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn’”. Cũng trong Phúc Âm Thánh Gioan câu 35 ngay sau đó, thánh nhân còn giới thiệu Đấng Thiên Sai cho cả dân Tân Ước như sau: “Ngày hôm sau Gioan lại ở đó với hai môn đồ của mình. Khi thấy Chúa Giêsu đi ngang qua thì nói: ‘Kìa! Chiên Thiên Chúa đó!’”. Thành phần dân Tân Ước đây, như Phúc Âm Thánh Gioan ghi nhận tiếp ở câu 27, đó là: “Hai môn đệ nghe ngài nói thế thì đã đi theo Chúa Giêsu”.
Phải, Cựu Ước và Tân Ước gặp nhau chính vào lúc này, cách nhau giữa ngày hôm trước và “ngày hôm sau”. Giao điểm giữa Cựu Ước và Tân Ước cũng chính là ở chỗ này, ở địa điểm “Chúa Giêsu đi ngang qua” ấy. Bởi vì, sau khi hai môn đệ của thánh nhân đã “đến mà xem chỗ Người ở và đã ở lại với Người hôm đó”, như Phúc Âm Thánh Gioan tiếp tục cho biết ở câu 39, và kể tiếp ở các câu 40-42 như sau: “Một trong hai người môn đồ đã nghe Gioan mà theo Người này là Anrê anh em của Simon Phêrô. Việc đầu tiên của Anrê là đi tìm người anh em của mình là Simon mà nói rằng: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Thiên Sai!’. Anh đã dẫn người anh em của mình đến với Chúa Giêsu, Đấng đã nhìn người anh em ấy mà phán: ‘Con là Simon, con Gioan; tên của con sẽ được gọi là Kêpha (tức là Đá)”.
Việc giới thiệu Đấng Thiên Sai cho dân Tân Ước như thế hết sức quan trọng. Ở chỗ, nếu giới thiệu sai, nghĩa là nếu Đấng Thiên Sai ấy là một kitô giả, thì Giáo Hội Kitô giáo bây giờ cũng chỉ là một tôn giáo nhân bản, đạo bởi người, hơn là một thiên đạo, đạo bởi trời. Mà nếu Đấng Thiên Sai là một kitô giả thì ơn cứu chuộc cũng là giả, vì Đấng Thiên Sai ấy không phải là Đấng Cứu Thế, “vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1Tim 2:5). Về phần dân Do Thái, chính vì họ không chấp nhận chứng của Gioan (xem Gioan 5:35-36) nên họ mới tiếp tục chờ Đấng Thiên Sai của họ cho tới nay. Bởi thế, nếu trong Dự Aùn của Thiên Chúa, chỉ có một nhân vật được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa là Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc, thì cũng chỉ có một nhân vật duy nhất được tuyển chọn làm tiền hô cho Thiên Chúa Làm Người, và nếu vai trò tiền hô là một vai trò độc nhất vô nhị vô cùng quan trọng đến đức tin và phần rỗi đời đời của loài người như thế, thì thân phận của con người tiền hô Gioan Tẩy Giả quả thực là một con người “cao trọng” nhất vậy.
Thậm chí, có thể nói, nếu về nhân tính Đấng Thiên Sai là con của Trinh Nữ Maria thế nào, thì về thời điểm, Gioan Tẩy Giả cũng “cao trọng” hơn cả “Con Người Giêsu Kitô” (1Tim 2:5) lúc Người đến để được thánh nhân làm phép rửa cho, cũng như để nhờ phép rửa của thánh nhân mà, như thánh nhân tuyên bố ở Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 1 câu 31: “Người có thể tỏ mình ra cho dân Yến Duyên”. Nếu Gioan Tẩy Giả, khi làm phép rửa cho Đấng Thiên Sai, đã đóng vai trò như thể “cha thiêng liêng” của Người, nghĩa là về vai vế “cao trọng” hơn Người, như trong liên hệ huyết tộc thánh nhân là anh họ của Người, mà còn ai “cao trọng” hơn Đấng Thiên Sai, thì quả thực, đúng như lời Chúa Giêsu mạc khải và tuyên bố về con người vị tiền hô của Người trên đây: “Tôi bảo thật cho các người biết, trong lịch sử không hề có một người nào do phụ nữ sinh ra lại cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”, kể cả Mẹ Maria.
Cho dù Giáo Hội Công Giáo Rôma vẫn mừng Lễ Sinh Nhật của Mẹ Maria ở bậc lễ kính, còn của Thánh Gioan Tẩy Giả ở bậc lễ trọng, thế nhưng, về lãnh vực ân sủng, như Chúa Giêsu khẳng định trong cùng một câu Người tuyên nhận tính chất “cao trọng” nơi tác vụ của Gioan Tẩy Giả, đó là: “Tuy nhiên, một kẻ nhỏ mọn nhất trong vương quốc của Thiên Chúa còn cao trọng hơn ngài”. Bởi vì, như Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 5 câu 35, “ngài là một cây đèn chiếu sáng” mà thôi, nghĩa là, theo Thánh Ký Gioan cắt nghĩa ở đoạn 1 câu 6-8: “ngài đến như một chứng nhân làm chứng cho ánh sáng, để nhờ ngài tất cả mọi người có thể tin tưởng, nhưng ngài chỉ làm chứng cho ánh sáng thôi, chứ chính ngài không phải là ánh sáng”. Trong khi đó, Kitô hữu nói chung, và các tông đồ ngày xưa ở Bài Giảng Trên Núi nói riêng, bao gồm cả Anrê, người môn đệ của Gioan Tẩy Giả, người đã nghe thánh nhân giới thiệu Đấng Thiên Sai, đã đi theo Người, ở với Người, nhận ra Người và rủ anh em mình đến cùng Người, thành phần môn đệ theo lời Chúa Giêsu mạc khải và khẳng định về họ, được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi nhận ở đoạn 5 câu 14: “Các con là ánh sáng thế gian”, một thứ ánh sáng không phải tự họ mà có, song phản chiếu Đấng tuyên bố cũng trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 8 câu 12: “Tôi là ánh sáng thế gian”.
Như thế, sở dĩ “một kẻ nhỏ mọn nhất trong vương quốc của Thiên Chúa còn cao trọng hơn ngài”, hơn Gioan Tẩy Giả là con người “cao trọng” nhất trong thành phần được phụ nữ sinh ra, là vì họ được hiệp thông với Con Thiên Chúa Làm Người, một trạng thái hiệp thông bí tích khiến cho họ có thể phản ảnh Người về phương diện chứng nhân tông đồ. Chính vì ở trong trạng thái hiệp thông ân sủng thần linh này mà Giáo Hội mới là hiền thê, là nhiệm thể (bên trong hay thuộc về) Chúa Kitô, và Kitô hữu mới là chi thể của Người, trong khi đó, Gioan Tẩy Giả chỉ đóng vai trò phù rể (bên cạnh hay sát cạnh) trong tiệc cưới Nước Trời, trong Mầu Nhiệm Nhập Thể của Thiên Chúa Làm Người mà thôi, như chính ngài tự nhận ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 29: “Chính chàng rể mới là người lấy cô dâu. Người phù rể đợi ở đó nghe chàng rể và hân hoan nghe thấy tiếng của chàng. Đó là niềm vui của tôi, và là một niềm vui trọn vẹn”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Thánh Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho Chúa Kitô, một “Đấng đến sau” thánh nhân; Giáo Hội Kitô giáo chúng ta làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng đã đến: “triều đại Thiên Chúa đã đến” (Mt 3:2). Bởi thế, thánh Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho Chúa Kitô như một vị tiên tri Tiền Hô, còn Dân Tân Ước làm chứng cho Người như một chứng nhân Tông Đồ. Mà đã nói đến chứng nhân là phải nói đến Thánh Thần, như lời Chúa Giêsu đề cập tới ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 26-27: “Thần Chân Lý đến từ Cha… sẽ làm chứng về Thày. Các con cũng phải làm chứng nữa”, hay như lời Người báo cho các môn đệ biết trước khi Người thăng thiên về trời ở Sách Tông Vụ đoạn 1 câu 8: “Các con sẽ nhận được quyền năng khi Thánh Thần xuống trên các con; rồi các con sẽ là những chứng nhân của Thày…”. Vậy Thánh Thần nơi Gioan Tẩy Giả với Thánh Thần nơi Các Tông Đồ nói riêng, cũng như thành phần Kitô hữu nói chung, có khác nhau không? Nếu cũng chỉ là một Thánh Thần thì tại sao Chúa Giêsu chưa sống lại, tức chưa đến lúc thông Thánh Thần của Người ra cho các Tông Đồ, như Phúc Âm Thánh Gioan ghi nhận ở đoạn 20 câu 22 cũng như ở đoạn 7 câu 39, Thánh Gioan Tiền Hô đã có thể làm chứng về Người? Phải chăng không có Thánh Thần không ai có thể cảm nhận được Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa Làm Người như dân Do Thái vẫn mong đợi, cũng là Vị Thiên Chúa “hiện có, đã đến, và sẽ đến” (Rev 1:4), như ý nghĩa làm nên Mùa Vọng chúng ta đang cử hành đây?
Đọc Thánh Kinh những đoạn nói về mối liên hệ giữa Gioan Tiền Hô và Chúa Giêsu, đặc: MV 3-A77
Đọc Thánh Kinh những đoạn nói về mối liên hệ giữa Gioan Tiền Hô và Chúa Giêsu, đặc biệt, ở giai đoạn đầu đời sống công khai của Đức Kitô, ta có cảm tưởng như cho đến trước khi chết, Gioan vẫn chưa nhận ra nhân dáng Đức Kitô một cách rõ ràng, đầy đủ và xác tín. Và điều này được Thánh ký Mátthêu ghi lại qua mẩu đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Gioan.
“Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ người vị khác?” (Mt 11:3). Đó là câu hỏi mà theo thánh Mátthêu đã ghi là chính Gioan nhờ các môn đệ ông hỏi Chúa Giêsu vì lúc này ông đang bị ở tù.
Hẳn là Gioan còn lạ gì Giêsu Nazareth? Là em họ của chính ông. Người mà ông đã nhẩy mừng trong lòng mẹ khi được Ngài đến thăm. Người mà ông đã long trọng giới thiệu với các môn đệ của mình, và với mọi người trên bờ Giođan: “Đây là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Gio 1:29). Người mà chính ông đã khiêm tốn xác nhận là mình “không xứng đáng cởi dây giầy”, và đã xin nhận phép rửa từ tay Ngài, nhưng vì vâng lời, lại làm phép rửa cho Ngài. Thế nhưng tại sao lúc này Gioan lại hồ nghi? Tại sao Gioan lại muốn xét lại thân thế và vai trò của Đức Kitô. Vì đức tin Gioan sút kém hay vì đức tin của nhiều người. Hay vì Gioan muốn nhân cơ hội này, một lần nữa làm sáng tỏ sứ mạng Cứu Thế của Chúa và chỉ cho mọi người lần chót Chúa Giêsu là ai, và vai trò của Ngài như thế nào trong vai trò tiền hô của mình trước khi chịu chém đầu.
Thật vậy, nếu không vì mọi con người, vì nhân loại trải qua mọi thời đại, chắc chắn Gioan đã không sai môn đệ đến phỏng vấn Chúa bằng một câu xem như trắng trợn và hoàn toàn nghi ngờ về Ngài. Một câu hỏi mà mới nghe qua không thấy tế nhị một tí nào: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải trông đợi một vị khác?” (Mt 11:3). Và Chúa Giêsu cũng đã trả lời bằng một cách hết sức rõ ràng và huỵch tọet: “Mù được xem, què được đi, phong hủi được lành sạch, điếc được nghe, người chết sống lại” (Mt 11:5). Nói một cách theo tự nhiên, thì Chúa Giêsu như muốn nói với các môn đệ của Gioan rằng, chừng ấy đủ chưa? Có mù, có điếc, và có ngu không vậy? Không nhìn thấy, không nghe thấy, và không hiểu sao, người phàm trần từ tạo thiên lập địa đến nay đã có ai cho người chết người mù được thấy, què được đi, cùi hủi được sạch; nhất là cho người đã chết được sống lại chưa? Nếu chưa, thì còn gì mà thắc mắc nữa. Còn gì mà nghi ngờ nữa, sao lại không tin tưởng vào sứ mạng Thiên Sai của ngài, không tin ngài là Đấng phải đến. Nhưng đó chỉ là những nốt dạo đầu của một bản hợp ca để dẫn đến phần kết quan trọng hơn về vai trò Cứu Thế của Ngài: “Và người nghèo khó được nghe giảng Tin Mừng” (Mt 11:5). Những người nghèo khó, thiện tâm, thiện chí được đón nhận Tin Mừng Cứu Độ. Đó là mục đích của Ngài khi nhập thể, giáng trần. Chắc chắn ở trong tù, khi nghe câu trả lời của Đức Kitô, Gioan đã hài lòng lắm. Bởi chính ông đã dọn đường cho Ngài để có câu trả lời, vì ông luôn luôn là một tiền hô của Ngài, nói cho mọi người biết về Ngài. Và đó cũng là điều mà ông sẽ làm chứng về Ngài sau này qua cái chết của ông.
Nhưng liệu những gì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Gioan có sức chinh phục con người, nhất là con người thời đại chúng ta đang sống không? Thánh Kinh không ghi nhận thêm gì hoặc bình luận thêm gì về phản ứng của các môn đệ Gioan cũng như chính Gioan về câu trả lời ấy. Phải chăng Thánh Ký muốn dành phần nhận định, phê phán, và chấp nhận câu trả lời cho mỗi người đọc là chính chúng ta đây qua câu: “Phúc cho ai không vấp ngã vì ta” (Mt 11:6). Thật vậy, Chúa Giêsu đã đến với nhân loại hơn 2000 năm. Giáo Hội của Ngài thiết lập trải qua các thời đại với những gương chứng nhân anh hùng của các vị tữ đạo và của các tâm hồn thánh đức. Các nhân đức, phép lạ xẩy ra đã và đang minh chứng về giáo lý của Ngài, về sứ mạng và ơn cứu độ mà Ngài đã thực hiện cho nhân loại, nhưng có nhiều người vẫn không tin. Vẫn có những người như các môn đệ của Gioan muốn xét lại, muốn nghi ngờ, và muốn tìm hiểu. Nhưng tìm hiểu sao được nếu những điều đang xẩy ra trước mắt, mà họ không hiểu hay không muốn hiểu, thì làm sao có thể hiểu và chấp nhận Tin Mừng cứu độ, điều mà con người phải nhìn bằng cặp mắt đức tin.
Mù được xem. Có biết bao cặp mắt tâm hồn đã được mở ra để họ nhìn thấy chân lý và ơn cứu độ. Què được đi. Có bao tâm hồn đã vững chãi bước trên nẻo trọn lành nhờ vào ơn trợ giúp của Chúa. Cùi hủi được sạch. Có biết bao tâm hồn, và ngay cả chính chúng ta cũng đã được rửa sạch và nên trong trắng nhờ vào máu cứu chuộc Ngài đổ ra trên thập giá. Chết sống lại. Có bao nhiêu tâm hồn như đã chết trong tội lỗi, trong đam mê mà nhờ vào tình thương tha thứ của Ngài, họ đã sống lại, đã trở thành con cái năng động đầy sức sống của Thiên Chúa. Nhất là người nghèo được nghe rao giảng tin mừng. Chính chúng ta cũng là những người nghèo túng trong số những người nghèo túng may mắn được đón nhận tin mừng cứu chuộc. Chúng ta được ơn tin nhận Chúa nhưng không trong cái nghèo khốn cùng của mình. Và đó là lý do khiến chúng ta đang chuẩn đón mừng kỷ niệm ngày Ngài nhập thể và giáng trần.
Gioan đã không hỏi cho mình, nhưng cho những người khác. Chúa Giêsu cũng không trả lời cho Gioan mà là trả lời cho những người khác, trong đó có chính chúng ta. Nhưng liệu rằng trong cuộc sống, chúng ta có khám phá và nhìn nhận ra những phép lạ thường ngày vẫn xẩy ra chung quanh mình. Có nghe được tiếng mời gọi và thức tỉnh lương tâm mình. Có đón nhận và rửa sạch lỗi mình qua lòng từ bi thương xót của Ngài. Nhưng nhất là có dám tin nhân, đón tiếp Ngài là Đấng muôn dân mong đợi, Đấng đã đến vì phẫn rỗi nhân loại và vì phần rỗi chúng ta không? Nếu không, việc chuẩn bị và đón mừng ngày Ngài giáng trần, cũng chỉ là một cuộc chuẩn bị cho một ngày hội lớn, cho một biến cố xẩy ra trong quá khứ. T.s. Trần Quang Huy Khanh
Gioan Tẩy Giả là người của Mùa Vọng và vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Ông bị tù đầy vì dám sống MV 3-A78
Gioan Tẩy Giả là người của Mùa Vọng và vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Ông bị tù đầy vì dám sống những lời mình rao giảng, thẳng thắn nói lên sự thật, lên tiếng trách cứ vua Hêrôđê không được cướp vợ của anh về làm vợ mình (x. Mt 14,3-4).
Ở trong tù, Gioan vẫn không ngừng theo dõi tin tức về Chúa Giêsu. Không thấy Chúa Giêsu hành xử theo như lời mình đã loan báo, Gioan phân vân, dao động. Ông nhờ người đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác”?
Không trả lời trực tiếp, thẳng vào câu hỏi đã được đặt ra, để khẳng định rõ ràng “Tôi chính là Đấng phải đến”. Dựa vào lời ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu gởi đến cho Gioan những dấu chỉ, để ông tự đọc ra: “Anh cứ về kể lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người chết sống lại, mù được thấy, câm nói được, người nghèo được nghe Tin Mừng” (x. Is 35,5-6; Mt 11,4-5).
Không những gởi dấu chỉ, Chúa Giêsu còn gởi sứ điệp cho Gioan: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Thật lạ thường! Mới đây Gioan đầy tự tin khi lên tiếng rao giảng, kêu gọi người ta “hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (x. Mt 3,2). Nay ông lại có thể dễ dàng vấp ngã, chao đảo, vì những điều mình rao giảng xem ra vẫn chưa xảy ra. Chúa Giêsu, Đấng mà ông loan báo, tin tưởng dường như vẫn chưa thực hiện, thậm chí, còn làm khác với những điều ông nghĩ tưởng (x. Mt 3,7-12).
Đây quả là một sự thử thách khủng khiếp nhất ! Đức tin bị nao núng ! Một tiếng kêu phá hoại đang âm thầm gặm nhấm tâm hồn ông: Gioan ơi ! Tất cả những chuyện gì anh tin cho tới giờ này, đều sai lầm cả... Giêsu của anh đâu phải là Đấng Mêsia ! Ông ta không có khả năng giải thoát anh ra khỏi ngục tù!
Gioan đang bị thử thách. Chúa Giêsu có vẻ đang làm ông thất vọng ! Vì Người vượt trên những điều ông rao giảng. Nhưng Gioan không vấp ngã vì Chúa ! Dù cuộc đời ông có chao đảo, ‘phất phơ’ trước gió táp phong ba của thế gian nghiệt ngã như ‘cây lau cây sậy’, thì ông vẫn trụ vững kiên cường, khiến Chúa Giêsu phải thốt lên lời khen ngợi: “Trong số con cái người nữ sinh ra, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan”.
Trong cuộc sống lữ hành trần thế tiến bước về quê trời, được ví như ‘thung lũng đầy nước mắt’, chúng ta cũng luôn luôn bị thử thách. Chúa Giêsu có vẻ cũng thường hay làm cho chúng ta thất vọng ! Người không giống như chúng ta tưởng tượng ! Tư tưởng và đường lối của Người vượt trên chúng ta (x. Mt 16,23)!
Như Gioan Tẩy Giả, chúng ta cứ tiếp tục mong muốn rằng ‘Thiên Chúa làm theo ý của chúng ta’ và giống như hình ảnh mà chúng ta phác vẽ về Người. Chúng ta có bao giờ tự hỏi tại sao Chúa Giêsu lại để cho vị tiên tri về Người vào tù ? Tại sao Chúa lại không bênh vực bạn hữu của Người ? Tại sao Chúa lại không giải thoát cho những ai đang bị tù tội vì danh Người ? Tại sao Chúa luôn bị những kẻ thù của mình chiến thắng ? Tại sao Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Chúa lại bị Hêrôđê khoá miệng ?
Tại sao Chúa ơi, Chúa lại yên lặng khi có biết bao người đang tố giác Chúa ? Tại sao hàng ngày hàng giờ vẫn có biết bao điều xấu, biết bao đau khổ, chết chóc trong vũ trụ vạn vật ?
Lạy Chúa, hôm nay xin Chúa trả lời cho chúng con biết. Chúa có phải là Đấng đem đến cho chúng con niềm vui, sự sống và hạnh phúc hay chúng con phải đợi một người khác ?
Chúng con có phải tiếp tục tin vào Chúa nữa không ? hay chúng con nên khước từ Chúa để chúng con hiến mình, phục vụ cho những người khác?
Đó là khủng hoảng đức tin ! Đêm tăm tối của chúng ta ! Giữa cơn khủng hoảng ấy, Chúa nhắc nhở chúng ta như đã từng nhắc nhở Gioan ‘phúc cho ai không vấp ngã vì tôi’.
Lạy Chúa Giêsu, Gioan Tẩy Giả đã không vấp ngã vì Chúa, nên ông đã được kể vào số ‘những người cao trọng nhất trong số phàm nhân lọt lòng mẹ’. Xin cho chúng con trong khi mong chờ Chúa đến, được bền trí trung thành, không vấp ngã vì Chúa. Amen.
Hồi còn sinh thời, Tổng Thống Kennedy đã đến dự lễ trong một ngôi Thánh Đường bé nhỏ và: MV 3-A79
Hồi còn sinh thời, Tổng Thống Kennedy đã đến dự lễ trong một ngôi Thánh Đường bé nhỏ và nghèo nàn tại một làng quê hẻo lánh. Thái độ sốt sắng, đơn sơ và bình dân của một vị Tổng Thống, đã nói lên Đức Tin sâu xa vào giá trị đích thực cao trọng của Thánh Lễ, không lệ thuộc vào nơi cử hành sang trọng hay hèn mọn nghèo nàn ấy, đã làm cho mọi người thán phục.
Tại một quốc gia chậm tiến kia, nhà Vua vì muốn cho người dân thoát khỏi nạn mù chữ và lạc hậu, Vua đã hô hào dân chúng đi học, chính Vua cũng cắp sách đến trường như mọi người. Trước tấm gương khiêm nhu đó, người dân đã bị lôi cuốn, nên không một ai ca thán gì; trái lại, còn nô nức vui vẻ thi đua nhau đến trường học theo gương bắt chước Vua. Thế là nạn mù chữ, dốt nát đã bớt dần và cả nước được cải tiến văn minh.
I. MỘT TIÊN TRI CAO TRỌNG NHẤT
Một vị tiên tri cuối cùng, tiên tri lớn nhất và đặc biệt nhất trong việc chuẩn bị tâm hồn mọi người đón mừng Chúa Cứu Thế, đó là Thánh Gioan Tiền Hô. Cũng như Isaia, Gioan là một trong những mẫu gương tuyệt vời Giáo Hội muốn chúng ta noi theo bắt chước trong Mùa Vọng, để dọn tâm hồn được xứng đáng đón mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh và đáng lãnh nhận muôn ơn phúc Chúa ban cho chúng ta trong dịp trọng đại này.
Ngay từ nhỏ, Gioan đã từ giã cha mẹ, họ hàng thân quyến, quê hương xứ sở và sống một cuộc đời khắc khổ chay tịnh thầm lặng trong sa mạc, để chuẩn bị thi hành sứ mạng Chúa đã ủy thác. Ngài chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng; mặc áo bằng da thú vật, suốt đời không uống một chút rượu. Trong thanh vắng, ngài chuyên lo cầu nguyện, kết hợp với Thiên Chúa cách tha thiết và nỗ lực thánh hóa bản thân trong tinh thần khiêm tốn, đơn sơ, nghèo nàn.
Lúc Chúa bắt đầu xuất thân truyền bá Tin Mừng, thì Gioan cũng trở về các làng mạc dọc theo bờ sông Giođanô và rao giảng sự thống hối, ơn tha thứ tội lỗi, làm Phép Rửa sám hối cho mọi người, để chuẩn bị tâm hồn họ đón tiếp Chúa Cứu Thế. Đang lúc ngài rao giảng và làm Phép Rửa cho dân chúng, thì chính Chúa Giêsu cũng đến chịu Phép Rửa. Gioan đã giới thiệu với mọi người khi giơ tay hướng về Chúa Giêsu: "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian". Ngài còn khiêm nhu quả quyết với mọi người: "Ngài đến sau tôi, nhưng Ngài có trước tôi, cao trọng hơn tôi; còn tôi, tôi không đáng cởi giây giầy cho Ngài". Lần khác, Gioan còn quả quyết với mọi người đang ngưỡng vọng tôn sùng ngài, về Chúa Giêsu: "Ngài cần phải trổi lên, còn tôi cần phải hạ xuống". Chính Gioan đã sống đúng với khẩu hiệu đó trong trót cuộc sống của ngài. Ngài chỉ luôn tự nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc, không dám nhận cho mình cái danh vị là tiên tri của Chúa, ngài luôn ẩn mình đi, che giấu mình đi, để chỉ đề cao Chúa Kitô đúng với mục tiêu ngài đã đề ra như một lẽ sống: "Chúa cần phải trổi lên, còn tôi phải hạ xuống".
II. CỦNG CỐ ĐỨC TIN CHO THA NHÂN
Vì thấy một vài môn đệ của ngài còn đang hoài nghi về Chúa Kitô, nên Thánh Gioan đã khôn khéo sai họ đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài: "Gioan sai chúng tôi đến thưa: Thầy có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?" Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp, nhưng nói với họ: "Hãy về thuật lại cho Gioan mọi điều các ông đã chứng kiến: Kẻ què đi được, kẻ mù được thấy, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được nghe giảng Tin Mừng". Gioan làm thế không phải vì ngài không tin, nhưng là vì muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ của ngài, để họ được tận mắt chứng kiến các phép lạ Chúa đã làm. Khi những người được sai đến hỏi Chúa ra đi, thì Chúa Giêsu đã công khai khen ngợi Gioan trước mọi người: "Ta bảo cho các ông hay, trong các nam nhân bởi người phụ nữ sinh ra không ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả".
Chính đời sống khiêm nhu, khắc khổ, chay tịnh, nghèo khó của Gioan Tẩy Giả đã là lời rao giảng hùng hồn nhất, là tấm gương có sức lôi cuốn nhất, có sức chinh phục và cải hóa tội nhân nhất, để giới thiệu Chúa Cứu Thế cho mọi người, chu toàn sứ mạng Chúa đã ủy thác cho ngài.
III. SỨ MẠNG CHÚNG TA LÀ RAO GIẢNG CHÚA
Không những chúng ta có nhiệm vụ phải thánh hóa bản thân theo đúng ơn gọi làm con cái Chúa, nhưng cũng như Thánh Gioan Tiền Hô, chúng ta còn có sứ mạng dọn đàng cho Chúa đến, rao giảng Tin Mừng Ơn Cứu Độ của Chúa, chinh phục các linh hồn trở về với Chúa; hay nói cách khác, là đem Chúa đến cho các linh hồn, tùy theo địa vị, chức phận và lãnh vực của mỗi người chúng ta.
1. Là những vị Tông Đồ, chúng ta chỉ có thể chu toàn được sứ mạng cao cả Chúa ủy thác, là chinh phục các linh hồn về với Chúa, khi chúng ta có đời sống khiêm nhu trước mặt mọi người, chỉ muốn dìm mình đi, che giấu mình đi, quên lãng mình đi, để chỉ đề cao Chúa, Đấng mình rao giảng và tôn sùng kính mến, đúng như chủ chương như Thánh Gioan tiền Hô: "Chúa cần phải trổi lên, còn tôi phải trụt xuống".
2. Là những bậc Phụ Huynh, chúng ta cũng chỉ có thể chu toàn việc dưỡng dục con cái, bằng chính gương mẫu đời sống khiêm nhu thánh thiện của chúng ta. Chúng ta đừng ngại nhận điều lầm lỗi của mình trước mặt con cái và xin con cái thông cảm tha thứ... Tấm gương khiêm tốn đó còn có sức giáo hóa chinh phục con cái gấp ngàn vạn lần những lời giáo huấn khôn ngoan.
3. Là những Tín Hữu đích thực của Chúa Kitô, chúng ta chỉ có thể gây được ảnh hưởng, chinh phục được anh em trong các tôn giáo bạn, anh em đồng hương, những bạn hữu thân thuộc về với Chúa và gia nhập Giáo Hội Công Giáo, khi chúng ta có đời sống khiêm nhu đạo hạnh, tôn trọng, hiền dịu, nhún nhường, kính nể người khác.
Kết Luận
Thánh Gioan Tiền Hô là một vị tiên tri đã được Chúa Kitô khen thưởng trước mặt mọi người: "Trong các nam nhân bởi người phụ nữ sinh ra, không ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả". Thế nhưng, ngài vẫn giữ thái độ khiêm nhu, không tự cao tự đại.
Tổng Thống Kennedy được người ta thán phục vì ông tỏ ra có một tinh thần Đức Tin sống động, lòng khiêm tốn bình dân. Một nhà vua mà không ngại cắp sách tới trường đi học với dân chúng. Tất cả đều có sức cảm hóa được tha nhân, hơn tất cả những phương thế chinh phục khác.
Xin Mẹ Maria, Đấng rất khiêm nhu đã được Ngôi Hai Thiên Chúa sủng ái, Ngài không nệ nhập thể trong cung lòng khiêm tốn của Mẹ, trở nên Con Ngoan Thảo của Mẹ, chịu sinh thành dưỡng dục bởi Mẹ. Xin Mẹ chia sẻ cho chúng ta lòng khiêm nhu sâu thẳm của Mẹ, để chúng ta cũng được Chúa đoái thương ngự đến tâm hồn chúng con và ban cho chúng con những ơn cần thiết, để chúng con được sống xứng đáng ơn gọi làm con cái Chúa.
Đi theo Chúa, trung thành thờ phượng Chúa, là nhiệm vụ của con người. Hãy biết rằng, chỉ vì Thiên: MV 3-A80
Đi theo Chúa, trung thành thờ phượng Chúa, là nhiệm vụ của con người. Hãy biết rằng, chỉ vì Thiên Chúa là Đấng Phải được tôn thờ mà tôi tôn thờ Người, chứ không phải vì bất cứ một lý do nào khác. Bởi đó, nếu ai nghĩ rằng thờ phượng Chúa để được một cuộc sống dễ dàng, một sự bình an bảo đảm cho cuộc đời này, hay thoát khỏi những vây bũa của bệnh tật, của đói nghèo…, người đó thất bại. Chúa không hứa ban hạnh phúc trần gian. Ngược lại, Chúa mời gọi hãy vác thập giá đời mình theo Chúa, nghĩa là hãy chấp nhận mọi hoàn cảnh, mọi biến cố trong cuộc đời mà vẫn trung thành giữ vững đức tin.
Cuộc đời thánh Gioan Tẩy giả là bằng chứng. Suốt đời mình, Thánh Gioan đã trung thành thờ phượng Chúa, trung thành với sứ mệnh tiên tri Chúa trao phó. Ngài đã trung thành với ơn gọi đến nỗi bất chấp mọi nguy hiểm, bất chấp mọi quyền hành đe dọa mạng sống mình, dám lên tiếng phản đối cả tội lỗi của vua chúa, phản đối cả hoàng triều Hêrôđê Antipas. Ngay đầu bài Tin Mừng, thánh Mathêô đã ghi nhận: “Lúc bấy giờ ông Gioan đang ở trong tù”, nghĩa là thánh Gioan đang phải nếm trải khổ ải bởi sự bị giam cầm gây ra. Thánh Gioan phải ngồi tù vì Hêrôđê Antipas muốn bịt miệng ngài, vì ngài dám chống lại việc nhà vua sống loạn luân với người chị dâu của mình.
Một con người trung thành với Thiên Chúa, với đức tin, với lề luật như thánh Gioan, lẽ ra phải được bình an, phải sống trong hạnh phúc, phải được cảm nhận về sự nâng đỡ của Thiên Chúa, thì ngược lại, thánh Gioan lại có một cuộc sống trần gian không bảo đảm chút nào. Bài Tin Mừng cho biết thánh Gioan Tẩy giả đang bị cầm tù. Giống như chúng ta nhiều lần bị giao động khi đối diện với đau khổ, trong lao khổ của nhà tù, hình như thánh Gioan đã bị giao động. Qua các môn đệ của mình, thánh Gioan đã phải nặng lòng cất tiếng hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”. Như bao nhiêu người Dothái cùng thời, thánh Gioan đang mong mỏi Đấng Cứu Chuộc trần gian đến giải thoát con người. Đến khi Chúa Giêsu xuất hiện, mọi người đều hy vọng Chúa sẽ cứu dân của Người khỏi bàn tay bạo quyền, khỏi mọi áp bức, khỏi cảnh bị đô hộ. Nhưng càng chờ đợi, càng hy vọng nơi Chúa, người ta càng mỏi mòn, bởi Chúa không làm một hành động nhỏ nào để giải thoát cuộc đời trần thế của dân chúng, mà chỉ hứa ban hạnh phúc xa xôi nào đó chỉ có ở đàng sau cái chết. Nhất là đối với bản thân, sống một đời yêu mến Chúa, bây giờ lại phải ngồi tù, mạng sống cũng đang bị đe dọa từng ngày, đã khiến thánh Gioan chới với hơn, chao đảo hơn.
“Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”. Nghe lời hỏi này, làm gợi nhớ trong ta tất cả những lời rao giảng của thánh Gioan đã từng rao giảng rất mạnh mẽ, rất dứt khoát, rất xác tín: Ngài coi biến cố Chúa đến là một biến cố biểu dương sức mạnh đến nỗi như người cầm rìu đốn ngã thân cây không sinh lợi ích và ném vào lửa (Mt 3, 10); hoặc hình ảnh một người sàng sảy sân lúa và ném lúa xấu vào lửa (Mt 3, 12); hoặc “Người (Đấng Thiên Sai) đến sau tôi, nhưng mạnh hơn tôi, tôi không đáng xách giày cho Người” (Mt 3, 11); khi Đấng Thiên Sai đến, Người sẽ thanh tẩy tâm hồn con người “trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3, 11). Đối với thánh Gioan, Đấng Thiên sai, quả thật, rất đáng sợ. Người không những mạnh mẽ, mà còn uy quyền, còn cao cả vô cùng.
Sự gợi nhớ này cho ta thấy, nơi nội tâm thánh Gioan đang diễn ra một cuộc chiến đấu đầy mâu thuẫn. Đó cũng là một nội tâm trăn trở, dằn co, xung khắc. Một nội tâm hình như cũng không có bình yên như chính sự ngồi tù của thánh Gioan. Một mặt, thánh Gioan vẫn biết và biết rất rõ, Đấng Thiên Sai là Đấng quyền năng, là Đấng xuất phát từ Thiên Chúa, là Đấng thống trị toàn dân, là Đấng được Thiên Chúa xức dầu phong vương trên trời dưới đất, vì thế không có bất cứ sức mạnh nào có thể sánh ví. Mặt khác, nhìn vào thực tế, ngài cũng nhận ra Chúa Giêsu là chính Đấng Thiên sai của Thiên Chúa. Nhưng những gì đang diễn ra thì không như thánh Gioan hiểu: Chúa Giêsu như chẳng có quyền hành gì, Chúa vẫn giữ im lặng trước bao nhiêu bất công, trước tình trạng một đất nước và một dân tộc là chính đất nước và dân tộc của mình đang bị đô hộ. Đặc biệt hơn, nhiều người công chính, mà thánh Gioan là đại diện, bị cầm tù, bị tiêu diệt… Nỗi hoang mang của thánh Gioan có lý do: Tại sao Đấng Thiên sai, Đấng Cứu tinh trần thế đã đến rồi, mà nhân loại vẫn cứ còn đó bao nhiêu thống khổ, bao nhiêu nghi nan, bao nhiều tối tăm giăng mắc và đè bẹp… Phải chăng còn phải chờ đợi Đấng cứu tinh trần thế nào khác, chứ không phải Người, Chúa Giêsu Kitô?
Những năm đầu mới lãnh nhận đức tin, tôi ngay thơ nghĩ rằng, các thánh là những người biết rõ thánh ý Chúa. Họ là những người mà khi cần, Chúa sẽ dùng trung gian, có khi là những trung gian rất thế giá (thiên thần chẳng hạn), mạc khải cho họ. Với suy nghĩ ấy, đối diện cùng đau khổ của chính mình, tôi đã không ít lần ghen với các thánh. Nhưng trải qua năm tháng trong đời sống đức tin, nhất là đọc nhiều mẫu gương các thánh, tôi càng hiểu ra rằng, các thánh không tự nhiên trở thành thánh. Các ngài là những anh hùng của đức tin, các ngài dọi sáng một đức tin kiên cường trong mọi cảnh huống của đời mình, dù trải qua và hứng chịu không biết bao nhiêu thăng trầm của đời sống. Đặc biệt, khi phải vật lộn cùng thử thách đeo bám cả đời, các thánh vẫn một mực tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, dám ngã vào vòng tay Chúa để đi đến cùng của cuộc chiến đầy thương tích giành lấy đức tin.
Thánh Gioan Tẩy giả mà bài Tin Mừng nêu gương và chúng ta đang suy niệm về ngài, cũng không là trường hợp ngoại thường. Như các thánh của Hội Thánh, thánh Gioan đang bị thử thách. Và cuộc thử thách của thánh Gioan là cuộc thử thách liên quan trực tiếp đến chính mạng sống của ngài. Ngài biết rất rõ, kẻ thù có thể đi xa hơn, chứ không chỉ giam cầm trong nhà tù, trong cuộc bịt miệng ngài đối với lời chân lý mà ngày đã anh dũng loan báo. Đúng như thế, trong cuộc thử thách này, ngài sẽ bị giết chết bởi âm mưu của bà Hêrôđia (chị dâu của vua Hêrôđê mà vua lấy làm vợ) và bàn tay vấy máu của Hêrôđê, một ông vua nhu nhược đã để cho người chị dâu, kẻ lăn loàn với mình, giật giây.
Ngoài ra, còn một yếu tố nữa, đó là dân tộc Dothái đang nô lệ dưới gót giày Lamã. Vì thế, sự nhiễu nhương của thời đại, cũng có thể là yếu tố tác động không nhỏ lên chính nội tâm của thánh Gioan. Hiểu như thế, ta thấy câu hỏi “Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” của thánh Gioan không đơn giản chỉ là câu hỏi cho cá nhân mình, nhưng còn phản ánh nỗi nhục nhằn, lời than thở của dân tộc, của tất cả những ai tin tưởng vào Chúa. Đặc biệt, dân tộc Dothái, không những là dân của giao ước, của lời hứa, mà còn là dân riêng Thiên Chúa đã tuyển chọn. Dân Thiên Chúa tuyển chọn mà lại đày ải như thế sao? Còn đâu là quyền năng của Thiên Chúa, của Đấng “nhân danh Chúa mà đến”? Quả thật, nỗi hoang mang của thánh Gioan không nhỏ chút nào.
Câu hỏi “Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”của thánh Gioan, cũng chính là câu hỏi của chúng ta. Nhiều lần mất bình an, chúng ta đã nghi ngờ Chúa, trách móc Chúa: “Có Chúa không? Tại sao Chúa lại để tôi phải khổ sở thế này?”. Đành rằng, chúng ta yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng hãy nhớ rằng, theo Chúa không là nhung là lụa, là gấm vóc, nhưng theo Chúa là vác thập giá đời mình. Hiểu như thế, chúng ta sẽ bắt chước thánh Gioan sống tiếp cuộc đời của mình và can đảm đón nhận tất cả những biến động trong cuộc đời ấy. Nếu thánh Gioan đã đổ máu cho đức tin, chúng ta cũng hãy sống cuộc sống tử đạo từng ngày, suốt đời mình.
Không chỉ thánh Gioan, nhiều anh chị em chân chính trong thời đại chúng ta, cùng là anh em với chúng ta, cùng mang lấy thánh giá như thánh Gioan và như chúng ta. Chẳng hạn, vào khoảng gần giữa thế kỷ XX, khi mà nỗi đau diệt chủng của Đức Quốc xã đang lan tràn, thì nhiều tấm gương của nhiều anh chị em Công giáo sáng lung linh. Người ta ghi nhận trường hợp của cha Gapp. Ngài là người Đức, đã bị cầm tù và chịu tử đạo trong nhà tù phátxit. Trọn một lòng trung thành với Thiên Chúa, ngài đã để lại những dòng chữ cuối cùng vào buổi sáng hôm bị hành quyết: “Nơi đây, tôi đã chiến đấu đến cùng. Tôi đã bị bắt tám tháng qua chỉ vì bảo vệ đức tin Công giáo. Vào dịp lễ Thánh Tâm, họ đã tuyên án tử hình tôi. Tôi đã làm hết sức mình, chỉ vì một mục đích duy nhất là: mọi người được tự do đến với ơn cứu độ. Tôi đã chiến đấu cho đức tin bằng lời nói và hành động. Giây phút định đoạt đã đến với tôi để hành động một lần cho cả đời. Hôm nay là ngày hành quyết. Vào lúc 7 giờ, tôi sẽ trình diện trước mặt Đấng Cứu chuộc tôi, Đấng mà tôi đã hết lòng yêu mến. Xin đừng thương tiếc tôi. Mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Nước Trời tồn tại… Tôi đã sống, không chút nghi ngờ, từng giây phút từ khi bị bắt cho đến nay… Tôi đã trải qua những ngày chìm ngập trong nỗi buồn âm u; nhưng tôi đã có cơ hội để chuẩn bị cho cái chết của tôi tốt hơn. Đổ máu cho Đức Kitô và cho Hội Thánh của Ngài là niềm khao khát của tôi” (Sách đã dẫn, Vietcatholic News, linh mục Phêrô Phạm Ngọc Lê).
Các thánh cũng như mọi Kitô hữu chấp nhận hiến dâng đời mình cho Chúa, là những anh chị em của chúng ta. Họ được vẻ vang trong ánh sáng rạng ngời của chân lý, thì vẻ đẹp đó, không phải tự nhiên mà có, nhưng vẻ đẹp đó đã được mua với giá đắc là chính cuộc đời đầy bất ổn của họ. Hãy bắt chước họ mà tiến lên trong tinh thần vâng phục và phó thác. Đừng tìm an thân, nhưng hãy lao vào cuộc chiến dành lấy phần thắng cho đức tin thêm lung linh, thêm tỏa sáng. Hãy luôn tâm niệm rằng, theo đạo, giữ đạo và sống đạo là nhiệm vụ cao cả của mọi tín hữu, để trung thành với Thiên Chúa, Chủ tể đời mình. Một khi theo Chúa, thì cũng sẽ nên giống như Chúa, hoàn thành cây thập giá không phải trong một ngày, một buổi, nhưng là suốt chiều dài của đời mình. Bởi thế, chúng ta sẽ thất bại nặng nếu nghĩ rằng, đạo sẽ mang lại sự an thân cho ta trong cuộc sống này. Nhưng trên hết, ta phải hiểu rằng, sự trả giá nào cũng đau đớn. Cuộc trả giá cho đức tin đòi ta chấp nhận sự đau đớn bằng nỗi đau thập giá, một nỗi đau khó có đủ lời diễn tả. Ta hãy xác tín rằng, đạo là đường dẫn ta đi qua thử thách của đời này để vinh hiển bước vào đời vĩnh cửu.
Lạy Chúa, xin cho chúng con can đảm đón nhận thánh ý Chúa. Xin cho chúng con đừng nghi nan nhưng luôn tin tưởng và phó thác cho Chúa mọi hoàn cảnh của đời sống chúng con. Xin thánh Gioan, đấng đã trung thành gìn giữ đức tin suốt đời mình, cầu bàu cho chúng con trong mọi cuộc chiến bảo vệ đức tin của chính chúng con. Amen.
“Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe...”
Tôi rất yêu thích câu trả lời đầy hiện thực của Đức Giêsu, vì đó là một thực tại trong cuộc: MV 3-A81
Tôi rất yêu thích câu trả lời đầy hiện thực của Đức Giêsu, vì đó là một thực tại trong cuộc sống thực dụng hiện nay. Câu trả lời của Người làm tôi liên tưởng đến cách diễn giải rất ư là thực tế của thánh Gioan tông đồ vì:
“Nếu ai có của cải thế gian
và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu,
mà chẳng động lòng thương,
thì làm sao tình yêu Thiên Chúa
ở lại trong người ấy đựơc?
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ,
chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi trót lưỡi,
nhưng phải yêu thương cách chân thật
và bằng việc làm.” (1Ga 3, 17-18)
Suy tới đây, tôi nhớ lại thời gian cách đây 2 tháng, tôi đã phải phân vân và day dứt để tìm một câu giải đáp cho lời đề nghị quá đỗi làm tôi ngỡ ngàng về sự bất ngờ nhưng hàm chứa lời tha thiết ân cần.
Số là một độc giả mà tôi chưa hề quen biết gửi đến tôi một thư điện tử với lời mời tôi đến thăm Mái Ấm Phan Sinh gồm gần 20 người mang chứng bệnh gẫy rồi liệt tủy sống. Phần đông phải ngồi xe lăn, gặm nhấm nỗi đau thương tê tái và chịu đựng những di chứng của căn bệnh ác liệt mỗi ngày mỗi phát tăng. Họ rất đỗi cô đơn và có lúc chán chường vì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì đối với họ nữa. Độc giả trên khuyến khích tôi đến đó thăm họ, mặc dù người này biết tôi cùng mang mầm bệnh như họ qua những bài chia sẻ Lời Chúa hằng tuần của tôi. Cuối thư, chị còn dứt khoát để lại cho tôi địa chỉ và số phôn của Mái Ấm đáng yêu ấy.
Và thế là tôi tự hỏi: tôi làm gì đựơc cho họ khi tôi cũng còn đang sống nhờ vào lòng hảo tâm của người khác tốt bụng? Tôi nói về Chúa Giêsu với họ sao được khi họ đang quá đau khổ? Câu hỏi cứ thế làm tôi vấn vương, xao xuyến và trăn trở. Rồi cuối ngày, về đêm, trong tĩnh lặng, tôi bỗng chợt nhớ đến câu chuyện về ông Gióp và tôi vội mở Kinh Thánh để lắng nghe lại ghi chép trong sách của ông. Tôi đọc đi đọc lại và suy gẫm những lời sau đây:
“Ba người bạn của ông Gióp nghe biết tất cả những tai họa xảy ra cho ông, liền kéo đến .... Họ bàn nhau đến để chia buồn và an ủi ông.... Rồi họ ngồi xuống đất, bên cạnh ông, suốt bảy ngày đêm, chẳng nói với ông một lời, vì họ thấy rằng nỗi đau khổ của ông quá lớn.” (G 2, 11-13)
Quả là trước nỗi đau khổ quá lớn của ông, ba người bạn làm sao nói được gì! Nhưng họ vẫn ở lại để lắng nghe, để nhìn thấy. Sự hiện diện của họ, ngay vào thời điểm đó, là tối cần thiết để xoa dịu nỗi đau của ông mà ông đang rất cần có người đồng cảm, sẻ chia lo lắng.
Sau khi tìm đựơc sự khích lệ cùng sức sống mới qua Lời Kinh Thánh, tôi đã hiểu ra và rồi tôi đã quyết định đến với Mái Ấm Phan Sinh quí yêu ấy bằng sự cố gắng vượt lên phía trước, không cần phải hỏi độc giả đã viết thư mời gọi tôi. Đến với người đau khổ, tôi chỉ cần chấp nhận lắng nghe, lắng nghe tiếng kêu, lắng nghe nỗi thống khổ, đo lường chiều dài vô tận của nó, và thấu hiểu cũng như chấp nhận rằng: ngôn từ không thể nào đáp ứng được mà phải dấn thân cả cuộc đời mình vào. Có như thế mới có thể trở nên một Tin Mừng hữu hiệu.
Khi chiêm ngắm lại bài Tin Mừng CN 3 Mùa Vọng, tôi đã hiểu thêm được lời ngợi khen của Đức Giêsu khi nói về ông Gioan Tẩy Giả:
“Chính ông là người Kinh Thánh nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.” (Mt 11, 10)
Gioan Tẩy Giả đã thể hiện những hoạt động rất cụ thể để “dọn đường” cho Đấng Cứu Thế đến. Ngài không chỉ kêu gọi sám hối suông bằng lời nói, mà chính ông đã dấn thân trọn vẹn con người của ông vào việc sửa lối cho thẳng để Chúa đi, bằng những hy sinh hãm mình. Ông đã ra “đi” đến với nhiều ngưới nghèo đang chờ đợi Đấng Messia đến. Ông mời gọi họ đi vào thực hiện:
“Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” (Lc 3, 11)
Ông đã mạnh dạn đấu tranh cho chân lý để rồi phải ngồi tù trước sự ghen tương đố kỵ của kẻ khác. Ngay trong khi tù tội, ông vẫn giới thiệu Đức Giêsu cho các môn đệ của ông để những người này nhận ra Người là Đấng Phải Đến chứ không phải ông mà họ lầm tưởng. Quả thật, Gioan đã từ bỏ được cái tôi vị kỷ của mình bằng nhiều cách để quyết tâm làm cho nhiều người nhận ra Đức Giêsu là Đấng Messia như lời Kinh Thánh đã tiên báo. Ông hăng say và miệt mài làm chứng cho Ánh Sáng.
Con đường Nhập Thể của Đức Giêsu được Người mời gọi rất tha thiết trước khi ra đi về với Chúa Cha là:
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới
là anh em hãy yêu thương nhau;
anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em.
Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết
anh em là môn đệ của Thầy:
là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 34-35)
Quả là huyền nhiệm khi ĐTC Gioan Phaolô II nói về Mẹ Têrêsa Calcutta, người đã sống trọn vẹn cho Tin Mừng:
“. . Thấm nhuần sâu xa tinh thần bác ái Phúc Âm, Mẹ xác tín: khát tình yêu là khát các linh hồn, đụng vào thân xác của người đau khổ là đụng vào thân xác Đức Kitô. Mẹ muốn mang ơn Cứu Độ đến cho dân nghèo, cho lớp người bị bỏ quên. Mẹ muốn đem các linh hồn về cho Thiên Chúa và đem tình yêu của Thiên Chúa cho các linh hồn”.
Lạy Cha yêu thương và nhân hậu,
Xin mở đôi mắt của con để con nhìn ra những người anh em đang gặp khó khăn hoạn nạn là hiện thân của Chúa Giêsu, Con Cha.
Xin mở tai con để con lắng nghe được những tiếng than thở của họ và rồi xin dẫn con đi theo con đường Nhập Thể mà Con Cha đã mời gọi là “anh em hãy có lòng yêu thương nhau.”
Có mắt thấy tai nghe, có dấn thân đi vào hiện thực cuộc sống như Mẹ Têrêsa, chúng con mới có thể làm chứng cho Sự Hiện Diện đích thực của Chúa nơi tha nhân. Amen.
Phêrô Vũ văn Quí CVK64
Email: peterquivu@gmail.com Phêrô Vũ văn Quí
Is 35, 1-6a. 10 Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10 Gc 5, 7-10 Mt 11, 2-11
Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô. Ông sai môn đệ đến thưa Ngài rằng: "Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?" Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".
...
Khi những người được sai đến đã đi rồi, Chúa Giêsu liền nói với đám đông về Gioan rằng: "Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: 'Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con'. Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả; nhưng người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông".
SUY NIỆM
Chúng ta không thể trách Gioan Tẩy giả khi ông có thái độ nghi ngờ về Danh tính đích thật của: MV 3-A82
Chúng ta không thể trách Gioan Tẩy giả khi ông có thái độ nghi ngờ về Danh tính đích thật của Chúa Giêsu. Cách ăn nói thẳng thắn và dứt khoát của ông trước vua Hêrốt đã khiến cho ông bị giam cầm trong tù ngục và chắc chắn ông sẽ bị lãnh án tử hình. Trong ngục tù, Gioan vẫn tiếp tục theo dõi và nghe nhiều chuyện kể về thái độ hái hòa của Đức Kitô, đó là thái độ mà Gioan không thể tưởng tượng và chấp nhận vì ông vẫn đinh ninh rằng, Đấng Messiah phải là một người nghiêm nghị, đến với quyền bính oai phong để xét xử thế nhân.
Nóng lòng để tìm cho được mọi lý do chứng minh rằng, chính Ngài là Đức Kitô của Thiên Chúa - mà ông đã rao giảng để dọn đường cho Ngài. Gioan đã sai hai môn đệ của mình đến gặp Chúa Giêsu và hỏi Ngài rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Matthew 11: 3)
Cách trả lời của Chúa Giêsu nói lên rằng sứ mạng của Ngài là cứu chữa và ban phát sự sống. Người điếc được nghe; người mù được thấy. Mọi người bắt đầu cảm nghiệm được sự sống mới và những người đau khổ đói nghèo đã nhận được tin vui rằng Thiên Chúa ở cùng họ. Thật không trễ cho Gioan khi ông được nghe nói về những việc Ngài làm hoàn toàn đúng như lời tiên báo trong kinh thánh...những chứng từ này đã giúp ông đi đến kết luận rằng, chính Ngài là Đấng Messiah mà muôn dân muôn nước đang ngóng chờ đợi trông – và như thế ông sẵn sàng để chết vì cuộc sống và sứ mạng chứng nhân của ông đã đến lúc vuông tròn.
Bài Phúc âm hôm nay đặt ra vấn đề chấp nhận hoặc từ chối Đức Kitô. Vấn nạn về Ngài mà Gioan nêu lên là một đề tài được bàn cãi mọi nơi mọi thời và trở nên thật quan trọng cho mỗi người chúng ta, bởi vì điều kiện cơ bản đòi hỏi để được vào nước trời hoàn toàn lệ thuộc vào thái độ đón tiếp Đức Kitô - đồng thời vào lòng cương quyết loại trừ mọi chướng ngại vật làm cản trở sứ mạng của Ngài thực hiện nơi cuộc sống của chúng ta.
Vì thế Mùa Vọng chính là “thời may vận tốt” để mọi người đón nhận sức mạnh tác động và sự ảnh hưởng hướng thiện mà chính Ngài đã khơi dậy - bằng cách gieo vào tâm trí của mỗi người những giá trị chính đáng được phát xuất từ hành động của chúng ta. Đức Kitô luôn luôn dành thời gian cho những kẻ vấp ngã, những trái tim đổ vỡ đau thương, những tâm hồn bầm dập muộn phiền và chúng ta dựng xây nước Ngài bằng cách chia sẻ lòng độ lượng xót thương của Ngài đến năm châu bốn bể- có nghĩa là sứ mạng của Ngài được tiếp tục phát triển qua mọi thời mọi chốn và cho mọi người.
Qua muôn hình vạn vẻ của cuộc sống thế nhân mà Đức Kitô cùng có mặt và chia sẻ - không bao giờ thiếu vắng những sự diệu kỳ huyền nhiệm xảy ra. Ngài thường đến với chúng ta qua sự hiện hữu ‘rất là con người’ để cứu chữa con người khỏi tội lỗi và xoa dịu mọi khát vọng cứu độ của chúng ta bằng những lời ủi an và khích lệ. Như vậy, điều tối cần thiết nhất là chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị lòng mình để đón tiếp Ngài. Cách chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh tuyệt hảo nhất là cách sống độ lượng và yêu thương vì sẽ làm cho sự hiện diện của Đức Kitô thể hiện qua lối sống hoàn toàn mới mẻ và vẹn toàn của chúng ta.
Chuyện tưởng như bịa, thiên hạ xôn xao, cách riêng nhiều tín hữu Kitô hoang mang khi nghe: MV 3-A83
Chuyện tưởng như bịa, thiên hạ xôn xao, cách riêng nhiều tín hữu Kitô hoang mang khi nghe biết chuyện về Mẹ Têrêxa thành Cancutta đã từng dai dẳng đi trong đêm tối của đức tin. Đã từng nhiều lần mẹ hoài nghi cả sự hiện diện của Thiên Chúa khi mẹ đứng trước bao nổi khổ đau thật khó lý giải của con người. Nhiều người đã vội lo lắng kiểu “bao đồng”, nghĩa là quá thiên về tình cảm, vì sợ ảnh hưởng đến việc Hội Thánh tuyên phong hiển thánh cho mẹ. Chắc hẳn những người tạm gọi là lo chuyện bao đồng ấy đều có ý tốt mà thôi. Tuy nhiên chỉ vì có ý tốt mà ta có thể trình bày hay cắt nghĩa cách phiếm diện một sự thật căn bản của kiếp người đang lữ thứ trên trần gian đó là chưa và không thể nào nắm được chân lý kiểu “diện đối diện”.
Về việc nhận thức các thực tại, thánh Phaolô nói: “Hiện nay, chúng ta chỉ thấy “lờ mờ” như thấy trong gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt” (1Cor 13,12) Xin đừng quên cái được gọi là gương của thời các tông đồ chỉ là tấm đồng được đánh bóng mà thôi không được như tấm kính được tráng lớp bạc phía sau như ngày nay. Chính yếu tố “lờ mờ” này là một thách đố rất lớn cho tín hữu, cách riêng cho những người nhiệt tình dấn thân trong niềm tin.
Bài trích Tin Mừng theo Thánh Matthêu của Chúa Nhật III mùa Vọng năm A mà Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta một cách nào đó nói đến đêm tối đức tin của thánh Gioan Tẩy giả. Ý thức mình được kêu gọi làm tiếng hô trong sa mạc để dọn đường cho Đấng Cứu Thế, Gioan Tẩy Giả nhiệt thành, hăng say mời gọi mọi người, mọi thành phần dân Chúa xưa sám hối ăn năn. Dân chúng tuôn đến với Ngài trên bờ sông Giođan nhiều khôn xiết. Dân nghèo hay người thất học có đó. Kẻ giàu sang hay người quyền quý cũng không thiếu. Người thu thuế hay binh lính vẫn có mặt. Thậm chí đến các vị đang được xem là đạo đức như người biệt phái hay các vị tinh thông lời Chúa như các luật sĩ vẫn hiện diện. Tất cả dường như nghe theo lời khuyên bảo của Gioan, cho dù Ngài thỉnh thoảng nói với họ những lời chói tai, khó nghe.
Mình chỉ là người dọn đường, người tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Và kìa, Đấng Cứu Thế, Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian đã đến. Đã như xong phận vụ, giờ thì cần Người phải lớn lên còn mình thì phải nhỏ lại (x.Ga 3,30). Người mà lớn lên thì triều đại nước Thiên Chúa sẽ hiển trị. Và chắc chắn nhiều sự sẽ có đổi thay, dĩ nhiên là theo hướng tốt đẹp, đặc biệt những gì Ngôn Sứ Isaia loan bào sẽ trở thành hiện thực. Mình đã thấy Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên Người. Chắc chắn Người sẽ “loan báo tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, giập nát, giải thoát những kẻ bị giam cầm…” (x.Is 61,1-2). Thế mà cớ sao mình vẫn mãi chịu cảnh chôn chân trong bốn bức tường ngục tù? Không lẽ Đấng Cứu Thế lại thua một bạo vương Hêrôđê? Ngài có phải là Đấng phải đến chăng, hay mình còn phải đợi Đấng nào khác? Không được gặp trực tiếp với Người thì mình đành nhờ các môn đệ gửi lời nhắn hỏi.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà chú giải Thánh Kinh hiện nay, chính Gioan cũng đã phải trải qua sa mạc đức tin. Quả vậy, nhiều khi vì quá lo bảo vệ sự tinh tuyền của đức tin của Gioan Tẩy giả nên nhiều nhà tu đức đã từng cắt nghĩa rằng thánh nhân tận dụng dịp thuận tiện để củng cố đức tin cho các môn đồ. Không thể tiên thiên loại trừ giả thiết này. Tuy nhiên nhiều khi vì qua lo chuyện bao đồng mà ta vô tình hay hữu ý lãng quên một hiện thực của kiếp người. Đang còn lữ thứ trần gian thì chúng ta mãi vẫn còn thấy cách “lờ mờ” về các thực tại. Và đêm tối đức tin là một sự thật luôn tồn tại với kiếp người trần gian khó có thể chối cãi.
Vào trần gian, mang lấy kiếp người Đức Kitô cũng không là ngoại lệ cho dù Người là Con Chiên tinh tuyền, vẹn sạch. Cơn xao xuyến bồi hồi của Chúa Giêsu là rất thật. Máu của Người đã rỉ ra theo các tuyến mồ hôi không phải là kiểu nói phóng đại. “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”( Mc 15,34 ). Những lời than thở của Người trên cây thập giá, phút giây hấp hối minh chứng cho ta sự thật này: Dù là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô vẫn phải trải qua nhiều thử thách. Dù luôn tín thác vào Cha nhưng Người cũng đã trải qua những đau khổ, một cách nào đó giống như những cuộc thử thách đức tin mà chúng ta chịu.
Trong số các Tông đồ thì dường như Thánh Tông đồ dân ngoại là người chịu thử thách lớn lao hơn cả. Hăng say, nhiệt tình loan báo tin mừng thế mà số phận của Ngài thật lắm truân chuyên: “năm lần bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh trên biển khơi.” (2Cor 11,24-25). Ngục tù là nơi thường đón đợi thánh nhân. Những khó khăn bên ngoài do hoàn cảnh, do tha nhân mà Ngài phải chịu thì đã đành, thế mà ngay cả cái dằm trong thân xác của Ngài cũng chẳng để Ngài yên. Thánh Phaolô cảm nghiệm rằng Chúa không để ta chịu thử thách quá sức đâu. Ơn Người luôn đủ cho ta. Và ai bền đổ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.
Hãy bền chí trong gian truân và kiên nhẫn trong đêm tối, rồi Chúa sẽ đến cứu thoát chúng ta. Đây là những lời động viên của thánh Giacôbê tông đồ, qua bài đọc thứ hai (x.Gia 5,7-10), đã nói với đoàn tín hữu thời sơ khai cũng như với chúng ta mọi thời.
Tuy nhiên, Thiên Chúa lại muốn bày tỏ sự hiện diện của Người qua con người, qua chính chúng ta. “Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm tăng sức những đầu gối mõi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi” (Is 35, 3-4). Làm sao để nâng đỡ tinh thần những người đang chao đảo? Làm sao giúp họ thêm vững tin vào Chúa Kitô là Đấng Thiên sai mà Thánh Kinh đã loan báo? Tiên tri Isaia đã phác họa những việc làm cụ thể của Đấng Thiên sai bằng những hình ảnh: “người mù sẽ thấy; người điếc sẽ được nghe và người què sẽ nhảy như nai” (Is 35,5-6).
Trước sự chao đảo của Gioan Tiền Hô, Chúa Kitô cũng đã nhắn gửi các môn đệ ông rằng: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó.” (Mt 11,5).
Đức Kitô đã thắng thế gian, nhưng cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn, nghĩa là chưa chấm dứt nơi con cái loài người. Thần dữ và những kẻ đồng minh với nó vẫn đang ra sức hoạt động, hòng làm lung lay niềm tin chúng ta. Với sự công phá của thế lực đen tối, không ít Kitô hữu hôm nay như mất phương hướng. Thậm chí có người dám tuyên bố là đã đến thời kỳ hậu Kitô giáo. Thiết nghĩ không gì hơn là kiên trì thực thi những dấu chỉ của Nước Trời: Loan báo tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, làm cho người câm nói được, người què lại nhảy như nai… Chính khi ta góp phần với Chúa một tay dù là bé nhỏ để làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, làm tăng sức cho những đầu gối mõi mòn thì chúng ta lại được vững vàng và mạnh mẽ trong đức tin. Trong tình yêu, có nhiều điều như nghịch lý mà rất hiện thực, như lời thánh Phanxicô Axidi trong lời “Kinh Hoà bình”. Quả thật, chính khi trao ban là lúc lãnh nhận và chắc chắn sẽ lãnh nhận gấp muôn ngàn lần.
Ông Nguyễn Hữu Cầu sinh năm 1947, quê quán ở Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Nguyên là MV 3-A84
Ông Nguyễn Hữu Cầu sinh năm 1947, quê quán ở Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Nguyên là Đại úy Chủ Lực Quân, xuất thân khóa 6/68, sĩ quan trừ bị Thủ Đức, ra trường về phục vụ tại Tiểu Khu Quảng Nam, thuộc vùng 1 chiến thuật, quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Ông bị bắt làm tù binh, sau khi Vùng 1 chiến thuật thất thủ vào đầu tháng 4 năm 1975. Sau 30.4.1975 chuyển thành học tập cải tạo và được thả về vào cuối năm 1980, sau hơn 5 năm bị tù cải tạo.
Sau đó, do làm đơn tố giác hai cán bộ đảng viên CS của tỉnh Kiên Giang hãm hiếp một số nữ thuyền nhân, ông bị đưa ra xét xử vào năm 1983 và bị kết án tử hình với tội danh "Chống phá nhà nước CHXHCN Việt Nam," bằng chứng dựa vào những bài thơ và các ca khúc do ông sáng tác. Bản án được giảm xuống thành tù chung thân đày biệt giam ở khu tù chính trị, phân trại K2, Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai, sau khi xử phúc thẩm năm 1985.
Trải qua tất cả 37 năm bị giam cầm, ông luôn giữ vững lập trường, cương quyết không nhận tội, không xin ân xá trước một bản án mà ông cho là vô lý. Dưới áp lực của Ủy ban Nhân Quyền Quốc Tế ( Human Rights Watch ), báo chí quốc tế, và do sức khỏe của ông ngày càng suy giảm: tim yếu, tai gần như điếc, một mắt bị mù lòa không còn thị lực, cuối cùng ông đã được nhà cầm quyền trả về nhà vào 9 giờ tối ngày 21.3.2014 ( Wikipedia ).
Ông Gioan Baotixita Nguyễn Hữu Cầu, tù nhân lương tâm bị giam lâu nhất ở Việt Nam, đã hạnh phúc tìm thấy ánh sáng Đức Tin ngay trong chốn tối tăm, được vinh dự làm con Chúa qua Bí Tích Thánh Tẩy của Lm. tù nhân Giuse Nguyễn Công Đoan, Dòng Tên, vào lễ Phục Sinh 1986.
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Hồng hôm nay, ông Gioan Baotixita cũng đang bị giam cầm trong ngục thất tăm tối, cũng muốn chuyển lửa tin yêu cho các môn đệ, nên sai các ông đến gặp gỡ Chúa Giêsu, để trực tiếp lãnh hội mạc khải: "Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác ?" Không trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu chỉ nhắc họ, về thuật lại những gì nghe và thấy Người làm, như Ngôn Sứ Isaia đã từng cụ thể giới thiệu sứ mạng của Đấng Mêsia. ( Is 26, 19; 29, 18; 61, 1 ).
“Và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta." Chúa Giêsu còn kín đáo dặn đò, đừng ngộ nhận trông chờ một Đấng Mêsia xuất chúng, đến với vinh quang, chiến thắng về chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội. Sau đó, Người tôn vinh Ngôn Sứ Gioan Tiền Hô khiêm hạ, trong sạch, dũng cảm, kiên trung ơn gọi, vâng lời Thánh Ý.
Ngôn sứ bé mọn
"Các ngươi đi xem gì ở hoang địa ? Ba lần liên tiếp hỏi dân chúng, vào hoang địa xem gì, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh, đề cao nhân đức và sứ mạng của ông Gioan Tiền Hô. “Một cây sậy phất phơ trước gió ư ?” Đức Giêsu không sánh ngài là đại thụ, như cây tùng, cây bách, hay cây bá hương trên núi Liban, mà chỉ ví von là cây sậy yếu ớt, tầm thường, xoàng xĩnh, trong đầm lầy sông Giođan.
“Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” ( Ga 3, 30 ). Ngôn Sứ Gioan Tiền Hô đã công khai tự hạ mình trước Đấng Mêsia. Bé mọn, nghèo nàn, thấp kém, khiêm nhu, là đức tính đầu tiên mà Chúa ưu tiên tuyển chọn làm ngôn sứ, làm người thân cận, như Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Tông Đồ. "Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn" ( Mt 11, 25 ). Khiêm hạ, nhu mì, ngôn sứ đích thực, chứng nhân đức tin, thường chịu thua thiệt, chịu bạc đãi, hà hiếp, xỉ vả, chịu vu oan cáo vạ, bắt bớ, kết án, tù đày, thảm sát.
Ngôn sứ trong sạch
“Vậy các ngươi đi xem gì ? Một người ăn mặc lả lướt ư ? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện nhà vua.” Gioan Tiền Hô vẫn kiên quyết giữ lòng thanh sạch, vẫn dứt khoát không dây dưa, nịnh nọt, luồn cúi, xin xỏ thế quyền, vua quan, đại gia, mặc dù nghèo khổ, thiếu thốn, chỉ “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.”
Dứt khoát không thoả hiệp, cấu kết với quyền lực đen tối để tồn tại, để rao giảng. Cũng chẳng im lặng trước việc sai trái của thế quyền. Gioan Tiền Hô thẳng thừng lên tiếng tố cáo vua Hêrôđê loạn luân. Sẵn sàng chịu sự trả thù hèn hạ, gian nan, khốn khó. “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.” ( Mt 5, 5-6 ).
Ngôn sứ vâng phục
“Vậy các ngươi đi xem gì ? Một tiên tri ư ? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa.” Cao cả vì Gioan Baotixita chính là Ngôn Sứ Tiền Hô chân chính của Đấng Mêsia. “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” ( Ml 3, 1 ). Vâng Thánh Ý, ngài cương quyết làm trọn bổn phận và trách nhiệm, mặc dù đầy gian nan, khó khăn, nguy hiểm, thách đố, của Ngôn Sứ Tiền Hô dọn đường.
Cao cả vì Ngôn Sứ Tiền Hô can đảm, không hề khúm núm, sợ hãi, dám công kích hết sức nặng nề cả đến giới thần quyền, nhiều người phái Pharisêu và phái Xađốc giả hình, dối trá, tà tâm. "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ?” ( Mt 3, 7 ).
“Nếu Chúa muốn con chịu sỉ nhục vì bổn phận, chính lúc ấy Chúa cho con vinh hiển vì Thánh Giá Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 29 ).
Lạy Chúa Giêsu, đã đến thế gian và sẽ trở lại khi mạt thế, xin giúp chúng con trở thành ngôn sứ trung kiên của Chúa, như Gioan Tiền Hô, biết từ bỏ mình, trọn đời theo Chúa, dấn thân làm chứng nhân, dẫu muôn vàn khó khăn, trở ngại. Xin Chúa sẽ dìu dắt chúng con đến cùng.
Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu chúng con thành tâm theo Chúa, đem Tin Mừng đến mọi người, nhất là yêu thương, phục vụ những người bé nhỏ, côi cút, đau khổ, bị bỏ rơi. Amen.
Lời Chúa hôm nay phác họa cho chúng ta chân dung hoàn hảo của Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, không MV 3-A85
Lời Chúa hôm nay phác họa cho chúng ta chân dung hoàn hảo của Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận ra chân dung hoàn hảo đó.
Trước hết, đối với người Do thái, Đấng Cứu Thế mà họ trông chờ là một vị vua lỗi lạc, thuộc dòng dõi Đa-vít. Ngài đến để giải thoát dân tộc của họ thoát khỏi ách nô lệ Rôma, sẽ phục hưng nền độc lập quốc gia, mở rộng đất nước cả về phương diện chính trị lẫn về phương diện tôn giáo.
Thánh Gioan Tẩy Giả cũng ảnh hưởng quan niệm của người Do Thái, nên dường như ông cũng quên đi khía cạnh nhân từ của Đấng Cứu Thế, ông quan niệm về Đấng Cứu Thế như là một vị thẩm phán uy nghi, đến để xét xử và trừng phạt những tội lỗi của con người: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(x. Mt 3,10); “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”(x. Mt 3,12); khi đám đông lũ lượt kéo đến xin ông làm phép rửa, ông đã nặng lời quở trách họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?”(x. Mt 3,7).
Chính vì có những quan niệm như trên, nên cả người Do thái và Thánh Gioan Tẩy Giả không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế khi Ngài xuất hiện. Nói đúng hơn, nhiều người Do Thái không tin nhận Đức Giêsu, còn Thánh Gioan Tẩy Giả thì nghi ngờ Đức Giêsu. Sự nghi ngờ đó thể hiện qua việc, Thánh Gioan sai các môn đệ đi hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”(x. Mt 11,3). Đức Giêsu không trả lời trực tiếp. Ngài muốn Gioan nhớ lại hình ảnh Đấng Cứu thế mà sách tiên tri Isaia diễn tả hàng thế kỷ trước: “Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai...”(x. Is 35,5-6).
Vì vậy, Đức Giêsu bảo họ: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng." (x. Mt 11,4-5).
Chân dung hoàn hảo về Đấng Cứu Thế là như vậy: Ngài không chỉ là một vị thẩm phán uy nghi mà còn là một người Cha đầy tình yêu thương hằng quan tâm săn sóc đến dân Người. Trong suốt thời gian tại thế, Ngài đã thể hiện tình yêu thương đó đối với tất cả mọi người, nhất là những người bệnh hoạn tật nguyền. Chính Ngài đã chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá để hoàn thành ý định của Thiên Chúa Cha là cứu độ nhân loại. Nhờ Ngài chúng ta được cứu độ. Nhưng cũng như ngày xưa, ngày hôm nay vẫn còn đó những quan niệm sai lầm về Đấng Cứu Thế. Vì vậy, vẫn có rất nhiều người không tin nhận Đức Giêsu là vị Cứu Tinh. Chúng ta phải có trách nhiệm làm cho người khác hiểu về chân dung hoàn hảo của Đấng Cứu Thế. Đồng thời, Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta dọn lòng sốt sắng để đón mừng ngày lễ Giáng Sinh sắp tới. Ngoài ra, đây cũng là thời gian thuận tiện để chúng ta chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai trong ngày Tận thế và trong giờ chết của mỗi người.
Vậy, chúng ta cần phải làm gì?
Thứ nhất: Chúng ta cần phải chờ đợi Đấng Cứu Thế đến trong niềm vui. Vui vì chúng ta sẽ được gặp Ngài, một vị vua uy nghiêm nhưng cũng rất nhân từ. Vui vì Ngài sắp đến với chúng ta. Ngôn sứ Isaia mời gọi: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta” (x. Is 35,1-2). Niềm vui đó không chỉ là niềm vui bề ngoài mà còn phải là niềm vui trong tâm hồn. Nghĩa là niềm vui của người đang sống trong ơn nghĩa Chúa. Hay nói như Thánh Phaolô, đó là niềm vui trong Chúa: "Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!" (x. Pl 4,4).
Thứ hai: Chúng ta cần phải chờ đợi ngày Chúa đến trong sự kiên nhẫn. Dẫu biết rằng, Đấng Cứu Thế sẽ đến, nhưng không biết Ngài đến lúc nào? Chính vì vậy, cần phải có thái độ chờ đợi trong sự kiên nhẫn. Thánh Giacôbê mời gọi: “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới” (x. Gc 5,7-8).
Kiên nhẫn tức là luôn ở trong tư thế sẵn sàng, tâm hồn luôn phải trong sáng, luôn phải sạch tội nặng. Nhưng, thông thường, con người hay nản chí sờn lòng, thiếu kiên nhẫn, dễ “phàn nàn kêu trách lẫn nhau” (x. Gc 5,9). Đặc biệt, khi phải chờ đợi trong một khoảng thời gian quá lâu. Trong tình trạng đó, con người thường quên mất nhiệm vụ chờ đợi của mình: giống như 5 cô trinh nữ khờ dại, họ đi ngủ mà không chuẩn bị dầu đèn (x. Mt 25,1-13); giống như tình trạng của người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới về, anh ta không làm theo ý chủ, mà còn chè chén say sưa, đánh đập tôi trai tớ gái (x. Lc 12,45). Nhiều người trong chúng ta cũng vậy: tình trạng tâm hồn lúc đầu có thể tốt lành thánh thiện, nhưng theo thời gian, tình trạng tâm hồn có thể trở thành xấu xa. Vậy, xin Chúa giúp chúng ta có sự kiên nhẫn chờ đợi trong niềm vui cho đến khi Chúa đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết nhận ra Chúa là Đấng Cứu Thế, đồng thời biết dọn mình mừng lễ Giáng Sinh sốt sắng và luôn ở trong tư thế sẵn sàng để đón chờ Chúa quang lâm. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành -----------------------------------------
Mt 11,2-11: 2 Trong tù, Yoan nghe biết các việc Ðức Kitô làm, thì nhờ môn đồ ông nhắn nói với Ngài: 3 "Có phải Ngài là Ðấng sẽ đến, hay chúng tôi phải đợi người khác?" 4 Ðức Yêsu đáp lại và bảo họ: "Các ông hãy đi tin lại Yoan mọi điều tai nghe mắt thấy: 5 Mù được sáng và què được đi, phung hủi được sạch, và điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại, và người nghèo khó được nghe báo Tin Mừng; 6 và phúc cho người không phải vấp ngã vì Ta!"
7 Họ đi rồi Ðức Yêsu nói với dân chúng về Yoan: "Các người đi ra sa mạc để coi cái gì?- Cây sậy rung trước gió ư? 8 Mà các người đi ra để xem gì? Một người ăn vận mịn màng ư? Nhưng này, những kẻ ăn vận mịn màng thì ở đền vua. 9 Mà tại sao các người ra đi? Ðể thấy một tiên tri ư? Phải! Ta bảo các người: và còn hơn tiên tri nữa. 10 Về ông ta đã viết:Này Ta sai thần sứ Ta đi trước mặt ngươi,
kẻ sẽ dọn đàng cho ngươi, đằng trước ngươi.
11 "Quả thật, Ta bảo các ngươi: Trong những kẻ sinh bởi người nữ chưa một người nào lớn hơn Yoan Tẩy giả đã chỗi dậy; nhưng người nhỏ hơn trong Nước Trời lại lớn hơn ông.
Chương 11 vừa là kết luận của phần thứ nhất (11:1) vừa chuyển tiếp sang phần thứ hai của tin mừng MV 3-A86
Chương 11 vừa là kết luận của phần thứ nhất (11:1) vừa chuyển tiếp sang phần thứ hai của tin mừng Matthêô. Mở đầu phần thứ hai Matthêô trở lại câu hỏi về chân tính của Chúa Giêsu: Có phải Người là Đấng phải đến (11:2-6)? Tiếp theo, Matthêô nói về Gioan Tẩy Giả qua chứng từ của Chúa Giêsu (11:7-15). Sau cùng Matthêô nói đến phản ứng của dân chúng trước cả Chúa Giêsu lẫn Gioan (11:16-19). Chúa Giêsu trả lời câu hỏi của Gioan Tẩy Giả (11:2-6).
Cấu trúc của đoạn nầy gồm: - Câu hỏi của Gioan (11:2-3); - Câu trả lời của Chúa Giêsu (11:4-6). Chủ đề chính của đoạn nầy là đặt vấn đề Chúa Giêsu có phải là Đấng phải đến hay không. Những từ quan trọng liên hệ với nhau là: “những điều Chúa Kitô đã làm” (c. 2), “Đấng sẽ đến” (c.3), “Chúa Giêsu” (c. 4) và “tôi” (c. 6).
Bối cảnh là khi Gioan đang ở trong ngục (x. 14:3-12), ông sai các môn đệ đến với Chúa Giêsu. Câu hỏi của Gioan nêu lên vấn đề là Gioan có biết Chúa Giêsu là ai không? Không phải ông đã nói về Người là Đấng sẽ đến (3:11)? Không phải ông đã làm phép rửa cho Người (3:14)? Nếu đã biết, tại sao bây giờ ông lại thắc mắc?
Gioan thắc mắc về Chúa Giêsu khi nghe kể lại những việc Người đã làm (c. 2)
“Việc của Đấng Kitô”, ergon, (c. 2) không chỉ là những phép lạ Chúa Giêsu đã làm (c. 5), mà cả những lời Người đã rao giảng (chương 5-9); nghĩa là cả những điều có thể “thấy và nghe” (c. 4; 4:23-24). Những “việc” nầy làm chứng về nguồn gốc của Người (x. 11:19). Câu 11:2 nầy đóng lại đoạn 4:23-11:2 chủ yếu trình bày những “việc” của Chúa Giêsu. “Đấng Kitô” ngay câu đầu của tin mừng Matthêô đã gắn liền với tên “Giêsu”, và chỉ cả nguồn gốc bởi Abraham, và thuộc dòng tộc Đavít “Con Vua Đavít”. Bởi đó, “Đấng Kitô” cũng được hiểu là Đấng Mêssia mà dân Israel đang trông đợi (x. 1:1.16tt; 2:4). Câu hỏi của Gioan ở dạng trực tiếp (c. 3). Ông muốn được xác nhận điều ông biết về “Đấng sẽ đến”, mà ông đã loan báo (3:11). “Đấng sẽ đến” chỉ Đấng được Thiên Chúa sai đến (x. 3:11; 11:3; 21:9; 23:39; Tv 118:26; Đaniel 7:13; 9:25-27; Mal 3:1). Động từ “trông đợi” chỉ sự mong chờ Chúa đến; mọi người đang mong chờ (x. 24:5). “Chúng tôi” ở đây chỉ dân Israel cách chung. Vậy, qua lời giảng dạy và phép lạ Chúa Giêsu làm, Gioan có lý do để đặt câu hỏi về chân tính của Người.
Câu trả lời của Chúa Giêsu (11:4-6)
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của Gioan, mà sai các môn đệ của Gioan đi làm chứng cho ông: “Hãy đi nói cho ông biết điều các anh nghe và thấy” (c. 4). “Loan báo”, angellō, bao giờ cũng là loan báo một tin vui (2:8; 11:4; 28:10). “Nghe” là nghe lời của Chúa (10:27; 13:7;15:10), đặc biệt là nghe lời của chính Con của Thiên Chúa (17:5); cũng thế “thấy” những điều kỳ diệu Chúa Giêsu đã làm (13:17). “Nghe” và “thấy” gắn liền với nhau, vì tất cả đều phát xuất từ Chúa Giêsu. Câu 11:5 kết cấu bằng 5 câu ngắn và nối với nhau bằng liên từ “và”. Những điều mô tả trong câu nầy là tập hợp những lời hứa thiên sai trong Cựu ước: về người điếc và mù, què quặt và tàn tật (Is 29:17-19; 35:4-6; 42:18); về kẻ chết sống lại (Is 26:19); về loan báo tin mừng cho người nghèo (Is 61:1). Những điều loan báo ở đây Chúa Giêsu đã thực hiện: người phung hủi được sạch (8:2); bệnh tật (8:6); người mù và tàn tật (21:14); người nghèo được loan báo tin mừng (5:3). Khi loan báo tất cả những điều nầy Matthêô muốn cho thấy Thiên Chúa đang thực hiện trong Chúa Giêsu điều Người đã hứa. Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Người là Đấng Kitô, nghĩa là “Đấng được xức dầu”, điều nầy được thực hiện trong phép rửa tại sông Giorđan khi Thánh Thần ngự xuống trên Người (3:16; Is 61:1). Tuy nhiên, nếu so sánh những câu nầy với Luca 4:18, sẽ thấy có những khác biệt. Trong Lc 4:18 không hề nói gì đến việc giải thoát cho những người nằm trong ngục tù, không nói đến ngày ân xá cho tội nhân. Chính điều nầy liên quan đến hiện trạng của Gioan.
Câu kết luận nói đến thái độ phải có đối với Đấng phải đến (c. 6)
Xem ra không có mạch lạc giữa những điều tốt lành Chúa Giêsu bảo đi loan báo và việc vấp ngã vì Người. Qua câu trả lời cho các môn đệ của Gioan, Chúa Giêsu đã xác nhận chính Người là Đấng phải đến. Vậy sao lại phải “vấp ngã” vì Người? Chắc chắn câu nầy nhắm trước tiên là cho Gioan. “Vấp ngã”, skandalizō, theo nghĩa tượng hình là đặt một hòn đá trên đường để ai đó bị vấp chân vào đá và ngã xuống; nghĩa bóng là “làm dịp cho ai đó rơi vào trong tội” (5:29.30; 13:21); do đó, xa đức tin, xa Thiên Chúa. Chúa Giêsu có thể làm cho ai xa Thiên Chúa? Matthêô ghi nhận một vài trường hợp: các Pharisêô (15:12); các môn đệ (26:31.33). Khi áp dụng động từ nầy cho Chúa Giêsu, Matthêô thường dùng thể thụ động “bị vấp ngã” vì Người. Tại sao Chúa Giêsu nhắn với các của môn đệ về nói với Gioan là “Phúc cho ai không bị vấp ngã vì Người”?
Gioan đang ở trong tù. Ông đã biết Chúa Giêsu là Đấng phải đến. Người là Đấng Kitô. Tuy nhiên, Người chẳng làm gì cho ông cả. Trong những “việc” của Người chẳng có việc nào là giải thoát tù nhân, mặc dù điều nầy đã được loan báo bởi ngôn sứ Isaia (Is 61:1). Ông đang bị giam trong tù. Đó là lý do làm ông thắc mắc về chân tính “Đấng Kitô” của Người. Không chỉ ông, mà cả những người do thái thời ấy (x. 22:42). Họ hình dung một Đấng Kitô theo nghĩa trần thế. Có nhiều người đã tự xưng là “Kitô” như thế (24:5.23). Trái lại, Chúa Giêsu hoàn toàn khác. Người là Đấng Kitô và cũng là Con Thiên Chúa. Tước hiệu và nguồn gốc Con Thiên Chúa của Người đi đôi với nhau (16:16; 26:63). Đấng Kitô đến chỉ để giải thoát con người khỏi tội lỗi (1:21), chứ không chính trị, bạo lực. Nếu như thế Người tất trở nên hòn đá vấp ngã cho những ai không chấp nhận Người như thế. Họ sẽ tránh xa Người, xa Thiên Chúa và ở trong tội của mình. Các Pharisêô đã không tin vào Người (11:20-24; 12:38-42), các môn đệ bỏ chạy trốn khi Người chịu thương khó (26:31.33); người do thái chế nhạo (26:68) và đóng đinh Đấng Kitô nầy vào thập giá (27:22). “Phúc cho ai”, makarios, chỉ sự cứu độ do Chúa Giêsu mang đến cho những ai biết nhận ra Người qua việc thấy và nghe (13:16; 16:17), gắn bó với Người (11:6) và thực hành lời của Người (chương 5). Gioan đã chấp nhận chết trong tù, nghĩa là đã không vấp ngã vì Người.
Đấng Cứu Độ đã được Thiên Chúa gởi đến trần gian. Tùy theo việc nhận biết Người là ai mà con người chọn thái độ đi theo Người hay từ chối Người. Ai nhận biết Người, sẽ được chúc phúc (10:32-33). Ai chối từ tin vào Người, sẽ chẳng được ơn cứu độ.
"Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?"
Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô. Ông sai môn đệ đến thưa Ngài rằng: "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?" Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".
Khi những người được sai đến đã đi rồi, Chúa Giêsu liền nói với đám đông về Gioan rằng: "Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: "Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con". Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả; nhưng người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông". Suy Niệm:
(Chúa Nhật III Mùa Vọng Năm A)
(Ys 35,1-6a.10; Yc 5,7-10; Mt 11,2-11)
Ðã gần lễ Giáng sinh, ánh mắt các em vui lên rõ rệt. Giọng thánh ca đã có tác dụng trong lòng mọi MV 3-A87
Ðã gần lễ Giáng sinh, ánh mắt các em vui lên rõ rệt. Giọng thánh ca đã có tác dụng trong lòng mọi người. Giáo hội là người mẹ rất nhạy cảm. Ðể chia sẻ niềm hân hoan đang dâng lên trong lòng con cái, Giáo hội đặt Chúa nhật này làm Chúa nhật màu hồng. Lễ phục có thể dùng màu hồng thay vì màu tím. Và các bài kinh, tiếng hát hôm nay như đi trước niềm vui Giáng sinh. Tuy nhiên đây chỉ là nỗi hân hoan trong bầu khí chờ đợi và thái độ cần thiết là biết nhẫn nhục. A. Vui Trong Ðợi Chờ
Ngay những lời đầu tiên trong sách Isaia đã đầy những từ ngữ: hoan lạc, hân hoan, trổ hoa, nở hoa, nhiệt liệt, reo hò. Diễn được hết ý của nhà tiên tri, thật là khó! Niềm vui trong lòng ông rất to lớn. Nhưng đó chỉ là niềm vui trong tương lai mà khi trình bày tác giả chưa được nếm. Ông nói về niềm vui sau Lưu đày khi Dân Chúa được hồi hương. Quả thật, ai sung sướng bằng Dân được độc lập, giải phóng! Ngày đó người què cũng muốn nhảy, người điếc cũng muốn nghe, người câm chỉ muốn nói. Và đất nước tuy tan hoang nhưng hứa hẹn sẽ nở hoa. Isaia muốn diễn tả niềm vui đó, niềm vui được nhìn thấy quê hương sau những năm đô hộ, nô lệ và lưu đày. Giáo hội mượn lại lời ông để nói đến niềm vui khi Chúa đến. Và thật ra những lời tiên tri kia cũng chỉ thực hiện đầy đủ khi Chúa đến và cứu chuộc chúng ta. Thế nên đó là niềm vui của thời Thiên sai, của Ngày Chúa trở lại. Chỉ khi ấy mọi người què mới đi được, mọi người câm mới nói được, và mọi người điếc mới nghe được. Tất cả mọi khổ sở, đau phiền, bệnh tật, chết chóc bấy giờ mới chấm dứt; và người ta mới có thể nói như Isaia: vĩnh biệt phiền sầu than vãn.
Nhưng mọi sự sẽ xảy ra trong Ngày Chúa đến đều đã khởi sự từ ngày Chúa Giáng sinh. Và Ðức Kitô đã có lý khi bảo người ta: hãy về thuật lại cho Yoan những điều mắt thấy tai nghe, kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại. Những điều đó Chúa đã làm ngay từ Ngày Ngài xuất hiện. Ðó là dấu chỉ thời Thiên sai đã tới. Phải vui mừng! Nhưng chưa phải là Ngày Chúa đến lần sau hết. Nên niềm vui hiện nay còn là niềm vui đợi chờ.
Yoan có hiểu được bài học đó không? Chúng ta ngày nay có biết vui trong đợi chờ không? Hoàn cảnh của Yoan giúp ta đón nhận bài học của Chúa. B. Hoàn Cảnh Của Yoan
Tin Mừng thánh Matthêô hôm nay nói: bấy giờ Yoan Tẩy Giả đang ở trong tù. Một người như ông sao lại phải như thế? Lần trước ông xuất hiện như một nhà đại tiên tri. Toàn dân công nhận nhân đức của ông. Nên từ mọi nơi, thôn quê cũng như tỉnh thành, người ta tuốn đến xin ông dội nước cho để thống hối tội lỗi. Uy tín của ông cao đến độ dám có những lời rất nghiêm nghị với bậc cai trị dân. Thế mà đột nhiên, ông bị bắt và ở tù. Tại ông đã cảnh cáo vua Hêrôđê loạn luân cướp vợ của anh mình. Yoan buồn vì số phận hiện nay ư? ông đã quá biết số phận của các tiên tri. Có lẽ ông đã không sai người đến hỏi Chúa Yêsu như Tin Mừng hôm nay kể, nếu ông đã không giới thiệu Ngài như Chúa nhật trước chúng ta đã thấy. Ông loan báo Ngài là Ðấng sẽ đến để xét xử công minh, để phân biệt thóc với trấu và để ném trấu vào lửa cháy. Thế mà sao Ngài vẫn dửng dưng đối với việc ông ngồi tù và trước hành vi bất chính rõ rệt của Hêrôđê. Vậy Ngài có phải là Ðấng sẽ đến để xét xử công minh không?
Ðó có thể là thắc mắc duy nhất trong đời Yoan. Chắc chắn đó là vấn nạn của mọi thời đại Cựu Ước và của chính chúng ta ngày nay. Ðiều làm cho mọi thế hệ loài người khó hiểu đến nỗi muốn vùng lên không tin tưởng gì nữa và thấy đời thật vô lý: là cớ sao kẻ dữ cứ sống phây phây và kẻ lành bị khổ cực đến thế? Chúa đã đến có phải là Ðấng phân xử công minh không? Trường hợp của Yoan là hoàn cảnh của chúng ta, là vấn đề của đời sống con người. Lời Chúa giải đáp cho Yoan thật đáng chú ý. C. Giáo Lý Của Chúa
Chúa đã trả lời ngay câu hỏi của Yoan. Người bảo người ta hãy về nói cho ông biết Ðấng Thiên Sai, Ðấng Xét Xử đã đến rồi. Cứ xem các việc Người làm thì rõ. Kẻ què đi được, người câm nói được, kẻ mù xem thấy. Isaia đã tiên báo những điềm đó; nay đang ứng nghiệm. Nhưng Chúa đã thêm: "Phúc cho người không vấp ngã vì Ta" nghĩa là phúc cho người không bực bội khó chịu vì thái độ của Ta, khi thấy Ta không hoàn toàn như họ nghĩ. Chúa muốn nói với Yoan và chúng ta rằng: Ngài chính là Chúa, nhưng Ngài không hoàn toàn như ta nghĩ đâu! Ta phải tin Ngài chứ không được xét đoán Ngài. Nếu Ngài phải y như ta nghĩ, thì Ngài không còn là Chúa của ta nữa. Thiên Chúa vượt quá mọi khả năng của ta. Chúng ta phải tin Ngài, phó thác mọi sự nơi Ngài. Có như vậy, chúng ta mới là tín hữu.
Nhưng để giúp Yoan và chúng ta tin tưởng, Chúa đã quay ra nói với mọi người về Yoan. Ngài ca tụng ông là người lớn nhất sinh ra bởi người nữ. Ngài công nhận các nhân đức và sự thánh thiện của ông. Ngài là Ðấng phân xử công minh ngay từ khi Ngài đến. Nhưng việc phân xử của Ngài mới chỉ là khởi sự. Nó chỉ kết thúc khi Ngài sẽ trở lại. Lúc đó thóc sẽ được đưa vào lẫm và trấu sẽ bị quăng vào lửa. Ai tin ở Ngài mới được vào Nước Trời. Và bất cứ ai được vào Nước đó cũng sẽ lớn hơn Yoan nếu ông không tin và không chấp nhận đường lối của Chúa. D. Thái Ðộ Của Ta
Chắc chắn Yoan đã sung sướng khi nhận được câu trả lời của Chúa và biết rằng Chúa thấu hiểu tâm can của mình. Ông tin ở Chúa và đã sống phó thác hoàn toàn. Thánh Yacôbê trong bài thư hôm nay khuyên ta noi gương cam khổ và kiên tâm, tức là các tiên tri, những vị đã tuyên ngôn Danh Chúa. Chúng ta hãy bắt chước Yoan Tẩy Giả là khuôn mặt đáng kính của Mùa Vọng Phụng vụ. Hoàn cảnh của ông giúp ta hiểu thân phận con người của mình sống ở trần gian trong thời kỳ trông đợi Ngày Chúa đến. Chúng ta hãy vui mừng hân hoan. Không phải vì tất cả đã sáng sủa, tươi tắn như lễ phục màu trắng đẹp trong ngày lễ Giáng sinh. Mọi sự sẽ chỉ được phơi bày ra một cách công khai trong Ngày Chúa trở lại. Nhưng ngay bây giờ, Chúa cũng đã đến rồi. Giáo lý của Ngài đã bắt đầu phân xử lương tâm mọi người. Mỗi người đọc giáo lý của Chúa và nghe tiếng lương tâm mình đã tự biết mình thánh thiện hay tội lỗi như thế nào. Chúa phán xử ngay trong lòng mọi người. Còn ở ngoài, chưa phải là lúc Chúa đến trong uy quyền thật sự, lành dữ chưa hoàn toàn phân minh. Ai tin vào đường lối của Chúa đã được an tâm, hân hoan trong tâm hồn. Ðời tuy chưa trắng đẹp hoàn toàn nhưng cũng đã mặc màu hồng vui hơn màu tím nhờ có niềm tin giúp ta nhìn đời.
Thế nên ta hãy chấp nhận lời khuyên của thánh Yacôbê: hãy kiên tâm chờ ngày quang lâm của Chúa. Kìa coi nhà nông, kiên tâm chờ cho đến mùa... Thế nên đừng phàn nàn oán trách nhau. Một thái độ như thế chắc chắn không dễ gì. Không dễ gì có thể sống hòa thuận như Phụng vụ dạy ta lần trước. Hôm nay, Phụng vụ chỉ thêm cho ta phương thức để tạo bầu khí thuận hòa. Ðó là theo gương Yoan kiên tâm nhẫn nhục tin tưởng vào đường lối của Chúa và không vấp ngã vì Ngài.
Và cũng như mọi lần, Phụng vụ cống hiến cho ta sức mạnh để thi hành các nhân đức khi mời gọi ta tham dự mầu nhiệm Thánh Thể. Ở đây, ta thấy Chúa kiên tâm trong mầu nhiệm đau khổ để đem niềm tin vào tâm hồn chúng ta, để ta bắt chước Chúa khởi sự thời đại Thiên Sai hầu dần dần đi tới ngày nhìn lại quê hương mặt đất này, chúng ta sẽ thấy như Isaia mọi nơi đều trổ hoa. Và cả những nơi hoang địa cũng hân hoan vì niềm vui vĩnh cửu đã đội trên đầu mọi người và vĩnh biệt phiền sầu than vãn.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 11:2-11)
Chúng ta biết người khác dưới cái tên hoặc một biến cố hay sứ mệnh gắn liền với người ấy. MV 3-A88
Chúng ta biết người khác dưới cái tên hoặc một biến cố hay sứ mệnh gắn liền với người ấy. Nhưng ông Gio-an Tẩy Giả lại muốn biết về Chúa Giê-su như một Đấng phải đến, một Đấng tất cả mọi người đang mong đợi. Vì đang bị cầm tù nên không thể trực tiếp đến gặp Chúa, ông Gio-an đã sai môn đệ tới hỏi Người một câu thôi: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Để trả lời câu hỏi của Gio-an, Chúa Giê-su không khẳng định mình là Đấng phải đến, nhưng Người mời gọi ông và hết thảy chúng ta hãy nhìn vào những công việc Người làm để tự mình trả lời. Vậy những điều mắt thấy tai nghe nào giúp chúng ta nhận biết Chúa Giê-su là Đấng phải đến?
Khi tin rằng Chúa Giê-su là Đấng phải đến, ông Gio-an đã nghĩ đến sự cần thiết của việc Chúa hiện diện trong thế giới này. Người phải đến với nhân loại, vì nhân loại đang cần một Đấng có thể chữa lành những căn bệnh trầm kha của họ. Họ đã bị tổn thương trước tấn công của tội lỗi, trở thành đui mù, què quặt, cùi hủi, câm điếc, nghèo nàn đói khát và cuối cùng là phải chết nữa. Không phải chỉ là những tổn thương về thể xác, nhưng những căn bệnh tâm lý và thiêng liêng mới là lý do chính để nhân loại cần tới Đấng phải đến.
Từ trong ngục tù, ông Gio-an đã “nghe biết” về những việc làm của Chúa Giê-su qua những tin đồn của dân chúng. Tuy nhiên ông không chỉ bằng lòng với những tin đồn, mà còn muốn tra cứu đích xác về những việc làm của Chúa. Biết rõ chủ ý của ông, Chúa Giê-su đã cho ông một câu trả lời không phải là tin đồn, nhưng là “những điều mắt thấy tai nghe” qua các môn đệ của ông. Chúa bảo họ: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe”. Họ đã chứng kiến những gì Chúa thực hiện khi Người thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng? Kèm theo lời giảng của Người là những phép lạ chữa lành. Đó là những điều nhân loại cần đến trong tình huống hiện tại, và đó cũng là những dấu chỉ chắc chắn nói lên sứ mệnh của Đấng phải đến. Nhắn tin cho Gio-an, Chúa Giê-su không quên nhờ ông nói với mọi người một lời cảnh báo: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Nghĩa là phúc cho những ai đón nhận Chúa Giê-su là Đấng phải đến vì nhu cầu của thế giới và của riêng họ.
Dù đang bị lao tù, ông Gio-an Tẩy Giả vẫn có thể chu toàn sứ mệnh của ông là chỉ cho người ta biết Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ phải đến. Còn Chúa Giê-su thì tế nhị ca tụng ông Gio-an và biết ơn sứ mệnh của ông. Sứ mệnh và tước vị của một vị ngôn sứ được hết sức kính trọng trong dân Ít-ra-en. Vậy mà Chúa Giê-su khẳng định ông Gio-an còn “hơn cả ngôn sứ” nữa. Bởi vì ông là cây cầu nối Cựu Ước với Tân Ước, chuyển tiếp giữa các ngôn sứ với Chúa Giê-su. Ngoài ra, theo cách nói khéo của Chúa Giê-su, ông còn cao trọng nhất trong số những người làm chứng cho Chúa, vì thử hỏi có ai khác hơn được ông ở trong Nước Trời nữa!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta đã quá quen thuộc với lời kêu gọi sám hối của thánh Gio-an Tẩy Giả, nhưng có lẽ ít khi để ý tới sự kiện ngài trực tiếp hay gián tiếp chỉ cho người ta biết Chúa Giê-su là Đấng nào. Ngài cho các môn đệ của mình biết Chúa Giê-su là “Con Chiên Thiên Chúa”. Ngài bảo dân chúng rằng ngài không đáng xách dép cho Chúa Giê-su. Ngài cho thấy Chúa Giê-su làm phép rửa bằng lửa và Thánh Thần. Nhưng với câu chuyện Tin Mừng hôm nay, thánh Gio-an còn cho chúng ta biết một khía cạnh hết sức đặc biệt về Chúa Giê-su: Người là “Đấng phải đến”.
Chúa Giê-su là Đấng phải đến theo kế hoạch cứu độ yêu thương của Chúa Cha. Nhưng Chúa Giê-su là Đấng phải đến vì nhu cầu cá nhân mỗi người chúng ta. Chắc chắn chúng ta cần đến Người. Chắc chắn chúng ta là người cần được Chúa chữa lành một căn bệnh nào đó. Chúng ta mù con mắt nội tâm không nhận ra Chúa nơi anh chị em. Chúng ta điếc trước tiếng kêu thống thiết của người thân cận. Chúng ta nghèo nàn tâm hồn cần được đón nghe Tin Mừng. Có khi chúng ta đang chết do tội lỗi. Điều quan trọng là chúng ta nhận ra mình thực sự là ai và tuyệt đối cần được Đấng phải đến chữa lành!
+ Liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác ?: Gio-an rất vui khi nghe môn đồ thuật lại những việc Đức Giê-su làm (x. Ga 3,28-30). Ông đã được chứng kiến cuộc thần hiện cho thấy sứ mạng Thiên Sai của Đức Giê-su khi ông làm phép rửa cho Người tại sông Gio-đan. Đang khi các môn đệ của ông lại tỏ ra ganh tị khi thấy Đức Giê-su thành công hơn thày mình (x. Ga 3,26). Giờ đây Gio-an sai môn đệ đến gặp Đức Giê-su, để họ tin Người thực là Đấng Thiên Sai. Tuy nhiên, chính Gio-an cũng thắc mắc tại sao Đức Giê-su không hành xử công thẳng như Đấng Mê-si-a thẩm phán, mà ông đã loan báo cho dân chúng trước đó (x. Mt 3,10.12).
+ Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Khi các môn đệ của Gio-an tới thì gặp lúc Đức Giê-su đang chữa nhiều bệnh hoạn tật nguyền trong dân, xua trừ ma quỷ (x. Lc 7,21). Đức Giê-su đã gián tiếp trả lời cho Gio-an về sứ mạng Thiên Sai của Người khi cho họ thấy các việc Người đang làm ứng nghiệm sấm ngôn của I-sai-a về Đấng Thiên Sai (x. Is 26,19).
+ Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi: Đức Giê-su cũng cảnh báo: Cần loại bỏ quan niệm về một Đấng Thiên Sai hành xử công thẳng và thiết lập một Nước Trời thế tục như dân Do thái đang mong.
- C 7-9:
+ Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về Gio-an rằng: Đức Giê-su đã hết lời khen ngợi Gio-an để đánh tan hiểu lầm của dân chúng cho rằng ông đã bị thất bại và bị Thiên Chúa bỏ rơi khi Chúa bỏ mặc ông cho vua Hê-rô-đê bắt bớ.
+ Anh em ra xem gì ở hoang địa…: Gio-an được đề cao vì đức tính can đảm bất khuất, không luồn cúi trước bạo lực.
+ Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ?: Gio-an không sống giàu sang buông thả nhưng có nếp sống đơn giản khổ hạnh.
+ Để xem một vị ngôn sứ chăng…: Gio-an chính là một ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến.
- C 10-11:
+ Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Đây là lời tuyên sấm của ngôn sứ Ma-la-khi về một vị tiền hô đi trước dọn đường cho Chúa ngự đến (x Ml 3,1) đã được ứng nghiệm nơi Gio-an là vị tiền hô có sứ mạng đi trước dọn đường cho Đức Giê-su.
+ Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông: Gio-an tuy là ngôn sứ cao trọng nhất trong thời Cựu Ước, nhưng ông vẫn không thể sánh được với Đức Giê-su trong thời Tân Ước.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao Gio-an bị vua Hê-rô-đê bắt giam vào tù ? 2) Gio-an có tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai không ? Tại sao ? 3) Tại sao ông sai môn đệ đến hỏi Đức Giê-su về vai trò Thiên Sai của Người ? 4) Đức Giê-su đã làm gì để chứng tỏ Người thật là Đấng Thiên Sai ? 5) Đức Giê-su khen ngợi Gio-an về những gì ? 6) Sứ vụ của Gio-an đã được ngôn sứ nào nói tới? 7) Tại sao Gio-an vừa cao trọng lại vừa nhỏ bé nhất ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em ra xem gì trong hoang địa ?” (Mt 11,7).
Vào một buổi chiều, sau ngày lên ngôi vị giáo chủ, đức Gio-an 23 ra khu vườn của điện Va-ti-can đi bách bộ để tìm thư giãn sau một ngày làm việc căng thẳng. Ngài thấy một người đang làm vườn, bên mình bác ta có đeo một chai rượu. Vị giáo chủ khả ái tiến lại gần hỏi chuyện và không chút ngần ngại ngồi xuống đất uống rượu chung với bác ta. Vì chưa biết mặt vị tân giáo chủ, nên trước vẻ xuề xòa của ngài, bác làm vườn nghĩ ngài cũng chỉ là một viên chức cao cấp trong giáo triều, nên bác ta hết lời ca ngợi vị tân giáo chủ dựa theo dư luận mà bác đã nghe biết về ngài. Sau khi đã uống cạn bình rượu với bác làm vườn, trước khi từ giã, đức Gio-an 23 mới hỏi rằng: “Này bác, bác chưa bao giờ thấy mặt vị giáo chủ mới phải không ?” Bác ta trả lời: “Thưa chưa ạ”. Bấy giờ Đức Gio-an 23 mới ôn tồn nói: “Thế là hôm nay bác đã thấy rõ rồi nhé. Giáo chủ mới chính là người đã ngồi uống rượu với bác từ nãy đến giờ đó !”.
3. SUY NIỆM:
1) “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”:
Dù bị Hê-rô-đê bắt giam vào tù, nhưng Gio-an vẫn được các môn đệ thông báo về các hoạt động của Đức Giê-su. Khi thấy Đức Giê-su không hành xử nghiêm khắc trừng phạt tội nhân như ông đã rao giảng (x. Mt 3,10-12), Gio-an trở nên hoang mang nghi hoặc, nên sai môn đệ đến gặp Đức Giê-su để nêu thắc mắc về sứ mạng cứu thế của Người: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”.
Đức Giê-su đã không trực tiếp trả lời vấn nạn của Gio-an. Người chỉ nêu ra những công việc Người đang làm. Qua đó, Đức Giê-su gián tiếp cho Gio-an biết Người thực là Đấng Thiên Sai, nhưng là một vị Thiên Sai mục tử, xót thương và làm các dấu lạ để cứu giúp những người bệnh tật bất hạnh phù hợp với sấm ngôn của I-sai-a về sứ mạng Đấng Thiên Sai: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Is 35,5-6a). Qua đó, Đức Giê-su muốn Gio-an thay đổi quan niệm về một Đấng Thiên Sai thế tục, giải phóng đất nước Do Thái bằng bằng chính trị và binh hùng tướng mạnh, để thiết lập một triều đai hiển hách như thời vua Đa-vít và Sa-lô-mon xưa. Vì nếu không thay đổi, Gio-an chắc sẽ khó tránh khỏi bị vấp ngã (x. Mt 11,6), như ông Phê-rô sau đó đã ngăn cản Đức Giê-su và đã bị Người nặng lời trách mắng như Tin Mừng Mát-thêu thuật lại: “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23).
2) “Anh em ra xem gì trong hoang địa ?”:
Sau khi môn đệ Gio-an về, Đức Giê-su đã khen ngợi Gio-an tẩy giả về ba phương diện: một là tính tình dũng cảm cương nghị chứ không hèn hạ luồn cúi như loài lau sậy phất phơ trước gió (c 7); Hai là có nếp sống đơn sơ khổ hạnh chứ không đua đòi ăn mặc gấm vóc lụa là như người trong đền vua chúa (c 8); Ba là có sứ mạng tiền hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai (c 10).
Sau khi làm phép rửa cho Đức Giê-su ở sông Gio-đan và được chứng kiến cuộc thần hiện xảy ra trên Người, Gio-an đã tin Người chính là Đấng Thiên Sai. Ông đã giới thiệu Người là “Con Chiên Thiên Chúa” với hai môn đệ và khuyến khích họ bỏ ông để theo làm môn đệ Người (x. Ga 1,36-37). Gio-an đã khiêm tốn thừa nhận vai trò thấp kém của mình “không đáng cởi quai dép cho Người” (x. Lc 3,16) và khẳng định sự lệ thuộc của mình: “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn”. Cuối cùng ông còn khiêm tốn tuyên bố như sau: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,29-30).
3) “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”:
Gio-an đã được Đức Giê-su khen là người cao trọng nhất trong con cái loài người: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”. Vậy Đức Giê-su muốn dạy gì khi nói: “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” ?
Đức Giê-su đến thiết lập Nước Trời ban ơn cứu độ, mà Gioan có sứ mạng đi trước dọn đường cho Người. Nước Trời là một gia đình của Thiên Chúa, trong đó chỉ có một Thiên Chúa là Cha, chỉ có Đức Giê-su là Thầy và là người chỉ đạo, còn hết mọi người đều là anh em với nhau (x. Mt 23,8-10). Đây là một xã hội lý tưởng, trong đó mọi người có bổn phận yêu thương nhau và nhờ đó họ sẽ được sống trong niềm vui hạnh phúc. Hiện nay, trên thế giới vẫn có nhiều tiêu cực, đau khổ là do người ta thiếu tình thương với nhau. Đức Giêsu có sứ mạng đem đến cho thế giới một tinh thần mới, một lề luật mới xây dựng trên tình yêu thương. Từ nay tiêu chuẩn mới của sự công chính là tình yêu, khác với tiêu chuẩn cũ là lề luật như lời thánh Phao-lô: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy” (Rm 3,28).
4) Dọn lòng đón Chúa đến bằng lối sống khiêm tốn phục vụ với lòng yêu mến:
Mùa Vọng là thời gian các tín hữu chúng ta mong chờ Chúa đến. Trong khi người Do thái mong Đấng Thiên Sai đến trong uy quyền vinh quang thì Chúa lại chọn đến trong khiêm hạ khó nghèo và âm thầm không ai hay biết. Trong khi người đời mong Chúa đến ban ơn cứu độ bằng con đường rộng rãi, thì Chúa lại chọn đi con đường thánh giá chật hẹp leo dốc và ít người dám đi. Ngày nay để nhận được ơn cứu độ là được vào Nước Trời, đòi người tín hữu phải tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, lắng nghe Lời Người và thi hành ý muốn của Chúa Cha (x. Mt 7,21-23). Đức Giê-su cũng cho biết đến ngày phán xét, chỉ những ai phục vụ Người hiện thân trong những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi mới được vào Thiên Đàng (x. Mt 25,34-36).
Ngoài ra, chúng ta cũng cần làm các việc đạo đức và bác ái chia sẻ với lòng mến Chúa. Muốn biết việc cầu nguyện dâng lễ của mình có đẹp lòng Chúa không, thì cần phải nhìn vào hiệu quả: Nếu việc cầu nguyện dâng lễ làm cho tâm hồn chúng ta được bình an, thêm niềm vui và phấn khởi hiến thân phục vụ Chúa và tha nhân hơn… là dấu chúng ta đã làm các việc đạo đức theo thánh ý Thiên Chúa. Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Chúa cho thấy Ngài “chán ngán những buổi cầu nguyện, những nghi thức tôn giáo rỗng tuếch vì thiếu tình yêu” (x. Is 1,11-17). Ấy thế mà rất nhiều Ki-tô hữu hiện nay vẫn đang cầu nguyện dâng lễ theo luật nhưng lại thiếu lòng yêu mến như thế, hoặc đang làm các việc bác ái để tìm tiếng khen hay chỉ mong được thưởng công sau này (x. Mt 6,1-6). Vậy trong những ngày Mùa Vọng này, mỗi người chúng ta cần thực hành các việc đạo đức với tâm tình nào để chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến?
4. THẢO LUẬN: Noi gương Đức Giê-su cứu thế bằng con đường vâng phục, yêu thương và khiêm tốn phục vụ (x. Mt 11,5), trong những ngày này bạn sẽ làm gì để nên môn đệ thực sự của Đức Giê-su trước mặt anh em lương dân ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng con rất khâm phục thánh Gio-an, vị tiền hô của Chúa khi ngài can đảm đứng ra nói lên sự thật, dù bị Hê-rô-đê thù ghét và sau đó ngài đã anh dũng chết để làm chứng cho sự thật ấy. Xin đừng để chúng con bao giờ hèn nhát, vào hùa với kẻ mạnh để hiếp đáp những kẻ thân cô thế cô, giống như loài lau sậy ngả nghiêng theo chiều gió. Gio-an đã sống khổ hạnh, đi ngược lại trào lưu đam mê ích kỷ trong đền vua chúa. Xin cho chúng con biết tiết giảm mua sắm các vật dụng quần áo, để dành tiền chia sẻ cho những anh chị em nghèo khổ bất hạnh chung quanh chúng con. Gio-an đã trung thành với sứ mạng công bố Lời Chúa để giúp những kẻ gian ác bỏ đường tội lỗi trở về với Chúa, xin cho chúng con cũng biết chu toàn sứ mạng ngôn sứ khi dám lên tiếng bênh vực công lý, bất chấp những sự đe dọa trả thù và làm mọi việc lành với lòng mến Chúa để xứng đáng được Chúa vui nhận.
Nhẫn nại là một đức tính quan trọng của cuộc đời, của con người, của mỗi người. Thế giới ngày nay MV 3-A90
Nhẫn nại là một đức tính quan trọng của cuộc đời, của con người, của mỗi người. Thế giới ngày nay chạy theo đà tiến bộ của văn minh, các phương tiện điện máy, Internet, I phone làm choáng ngợp nhiều người. Con người luôn muốn cái gì cũng mau chóng.Các phương tiện vận chuyển cũng được cải thiện hết sức tân tiến. Cái gì người ta cũng tính thời gian. Càng mau, con người càng thích. Tuy nhiên, có những điều không thể tính theo thời gian được bởi vì “ đối với Chúa ngàn ngày cũng như một ngày vv và vv…”.Thánh Giacôbê khuyên các tín hữu:” Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến “.
Dựa vào Lời của Chúa qua các bài Sách Thánh hôm nay, chúng ta nhận ra rằng tất cả mọi sự thành công đều phải kiên nhẫn. Bài đọc I, ngôn sứ cho hay:” Dân Do Thái bị lưu đầy đã có lúc cảm thấy thất vọng, có khi tuyệt vọng. Họ nản chán vì chờ đợi quá lâu. Trong lúc nản chán, mất kiên nhẫn thì ngôn sứ Isaia xuất hiện, động viên, khích lệ dân chúng hãy vui lên, hãy can đảm vì “ Thiên Chúa của anh em đây rồi…Chính Người sẽ đến cứu anh em”. Lời của ngôn sứ Isaia đã đem lại sự hy vọng, niềm tin cho dân Chúa để họ nhẫn nại chờ đợi trong tinh thần vui tươi, phấn khởi. Thánh Giacôbê trong thư của Ngài đã khuyên nhủ dân chúng trong khi chờ đợi Chúa đến:” Hãy sống thuận hòa, yêu thương và hiệp nhất với nhau như những người nông chờ thời gian cho mùa lúa chín vàng. Hai bài đọc này đưa chúng ta đi vào cốt lõi của đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 11, 2-11. Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ tuyệt vời nối Cựu Ước và Tân Ước, đã xuất hiện: ông sống trong hoang địa ăn chay, cầu nguyện, lương thực của ông dùng hằng ngày là châu chấu và mật ong rừng, ông mặc áo lông thú.
Ông là tiếng kêu trong sa mạc để dọn đường cho Chúa Cứu Thế và chỉ cho môn đệ của mình, cũng như cho nhiều người biết Đấng Cứu Độ, Đấng Thiên Sai. Gioan Tẩy Giả đã kêu gọi người ta hoán cải, thay đổi đời sống vì Nước Trời đã đến gần. Đã có biết bao nhiêu người nô nức tuôn đến nghe Gioan Tẩy Giả rao giảng, và xin ông làm phép rửa để sám hối ăn năn, đã có nhiều người lầm tưởng Gioan Tẩy Giả là Đấng Cứu Thế. Gioan Tẩy Giả đã biết ai là Đấng Cứu Thế nhưng môn đệ của ông cứ đinh ninh ông là Đấng phải đến, ông là Đấng Thiên Sai. Do đó, ông đã kín đáo sai họ đến với Chúa Giêsu để họ mở mắt, thấy và tin Đấng Cứu Thế Giêsu. Ông sai phái họ đến và hỏi Chúa Giêsu:” Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi Đấng nào khác nữa ?” . Chúa Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi của các môn đệ của Gioan Tẩy Giả, nhưng Ngài đã nói họ hãy về thuật lại cho Gioan Tẩy Giả những điều mắt thấy, tai nghe, những phép lạ Ngài đã làm như cho người mù thấy được, kẻ điếc nghe được, ke câm nói được, người cùi được sạch, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe giảng Tin Mừng. Gioan Tẩy Giả đã khôn khéo, tài tình giới thiệu cho các môn đệ biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế muôn dân hằng trông đợi hằng biết bao ngàn năm và chỉ cho môn đệ nhận ra Chúa Giêsu nơi dòng sông Giorđăn, và xin Chúa Giêsu nhận họ đi theo Ngài, ở với Ngài và làm môn đệ của Ngài.
Gioan Tẩy Giả và các môn đệ của ông đã hiểu Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, nhưng là vị Thiên Sai của lòng nhân hậu, xót thương, một Đấng Cứu Độ hiền lành, khiêm nhường, một Đấng Cứu Tinh đầy quyền phép nhưng lại hiền hậu, đầy tình thương chứ không phải là Vị Cứu Tinh của quyền lực, thống trị và khắt khe.
Mùa vọng là mùa chờ đợi, mùa đòi hỏi thay đổi để đón chờ Chúa đến. Chúa nhật III Mùa vọng nói lên niềm vui, vì các linh mục mặc áo mầu hồng gợi lên sự phấn khởi, vui vẻ của mọi người. Chúa nhật này cũng hướng về ngày Chúa đến lại:” Anh em cũng vậy hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa Quang Lâm đã gần tới “ ( Gc 5, 8 ). Ca nhập lễ viết:” Anh em hãy vui luôn trong Chúa ! Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên ! vì Chúa đã đến gần “( Pl 4,4.5 ), trong khi đó ca hiệp lễ lại khích lệ:” Hãy nói với những kẻ nhát gan ‘ can đảm lên, đừng sợ ! Này Thiên Chúa chúng ta sẽ ngự đến cứu độ chúng ta “ ( Is 35, 4 ).
Vâng, chúng ta đang sống trong thế giới văn minh tiến bộ, nhưng lại là một thế giới đang xa dần Thiên Chúa, nên muốn nhận ra bộ mặt đầy yêu thương, nhân hậu và chạnh lòng thương xót của Thiên Chúa, mọi Kitô hữu hãy thay đổi đời sống, đổi mới cách nhìn, cách nghĩ, hãy đẩy xa ra khỏi con người mình tính ích kỷ, xấu xa, chia rẽ, hãy quảng đại, yêu thương, làm nhiều việc từ thiện bác ái, noi gương Thầy Chí Thánh Giêsu để phục vụ, loan báo Tin Mừng như Chúa đã sống và đã phục vụ.
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của Mầu Nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề . Amen “( Lời nguyện nhập lễ, Chúa nhật III Mùa Vọng ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: 1.Chúa nhật III Mùa vọng nói lên ý nghĩa gì ? 2.Tại sao các môn đệ của Gioan Tẩy Giả chưa nhận ra Đấng Cứu Thế ? 3.Muốn nhận ra chân dung của Đấng Cứu Độ, chúng ta phải làm gì ? 4.Vai trò của Gioan Tẩy Giả ? 5.ÔBACE phải làm gi trong Mùa Vọng ?
Với các chương 11–12 này, chúng ta đến một khúc quanh trong Tin Mừng Mt. Trong mười chương MV 3-A91
Với các chương 11–12 này, chúng ta đến một khúc quanh trong Tin Mừng Mt. Trong mười chương trước, Nước Trời đến gần, dường như không hề gặp trở ngại nào; ở đây, có điều mới xuất hiện: các câu hỏi chính xác được đặt ra cho Đức Giêsu.
Gioan Tẩy Giả phái các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (11,3). Phía họ, những người Pharisêu cùng với các kinh sư (x. 12,38) đã ngỏ lời lần đầu tiên trực tiếp với Đức Giêsu với giọng trách móc và phê phán: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát” (12,2). Đó là những câu hỏi quan trọng vừa xuất hiện. Đứng trước bản thân và hoạt động của Đức Giêsu, người ta phải lấy lập trường. Dường như Đức Giêsu có thể là “đối tượng gây vấp phạm” (11,6), còn “thế hệ này” không sẵn sàng đón tiếp Nước Trời đang đến gần, các thành ở bờ hồ không hoán cải (x. 11,20), phong thái của Đức Giêsu thực sự bị tranh luận (x. cả ch.12), và người ta đã “bàn bạc để tìm cách giết Đức Giêsu” (12,14) .
Bầu khí ngờ vực và đặt vấn đề này là bầu khí mới so với những gì xảy ra trước đây. Quả thật, cho tới nay, chúng ta đã thấy Đức Giêsu tỏ mình ra dần dần như là Đấng Mêsia; các chặng chính được Đức Giêsu trình bày với một nội dung huấn giáo phong phú:
1. Như một đoạn văn tổng quát báo trước, các ch. 1–2 đã giới thiệu xuất xứ của Đức Giêsu, con cháu vua Đavít và tổ phụ Abraham; ngay vào thời thơ ấu, Người đã tỏ ra là Đấng Kitô, là Đấng Mêsia, hoàn tất lịch sử thánh của Israel nơi bản thân và bằng số phận của Người.
2. Ở ch. 3–4, Vị Tiền Hô mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, đã ban phép rửa cho Đức Giêsu: dịp này, Đức Giêsu đã đăng quang làm Đấng Mêsia; sau khi đã được Chúa Cha ban chứng từ thánh hiến, đã chịu quỷ thử thách, Người đã đi loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.
3. Trong các ch. 5–7, qua huấn giáo của Đức Giêsu, người ta đã nhận ra quyền lực của Nước Thiên Chúa và đòi hỏi phải dấn thân; Bài Giảng trên núi đã khiến cho các đám đông phải kinh ngạc và thán phục.
4. Xuyên qua các phép lạ chữa bệnh mà Đức Giêsu đã thực hiện cũng như lời nói đầy hiệu năng của Người, các ch. 8–9 giúp khám phá ra uy quyền được ban cho Người cũng như quyền lực đầy năng động của Nước Thiên Chúa.
5. Ở ch. 10, qua bài sai ban cho Mười Hai Tông đồ và bài diễn từ truyền giáo, ta khám phá ra rằng các sứ giả của Nước Thiên Chúa được thực sự chia sẻ uy quyền của Đức Giêsu, do các ông được liên kết mật thiết với bản thân Người.
Xuyên qua tất cả các chương này, ta thấy danh tiếng của Đức Giêsu ngày càng lan rộng, bay sang cả các miền chung quanh (x. 4,24; 9,26.31). Sự chống đối chưa lộ rõ bao nhiêu, chỉ có một vài lời chỉ trích phát xuất từ nhóm Pharisêu (x. 9,11) hoặc các môn đệ của ông Gioan (x. 9,14), dưới dạng những câu hỏi lịch sự, chỉ có một phản ứng quyết liệt hơn lộ ra ở 9,34, nhưng cũng còn ngắn ngủi, để rồi chỉ được nhắc lại và triển khai ở 12,24. Nói đúng ra, trong tất cả những chuyện này, chưa có tranh luận, và ngôn ngữ ẩn dụ của các dụ ngôn chưa được sử dụng, ngoại trừ câu truyện về hai loại nhà kết luận Bài Giảng trên núi (x. 7,24-27).
Tuy nhiên, nên ghi nhận phương diện đe doạ và xung đột đã được mười chương đầu này của Tin Mừng nêu lên: ý định nham hiểm của vua Hêrôđê (x. 2,16), cuộc chiến đấu chống các cám dỗ (x. 4,1-11), lời loan báo những bách hại (x. 5,10-12.44; và nhất là 10,16-23.38). Nhưng đấy là một sự đối kháng mà Đức Giêsu luôn chiến thắng, hoặc là một lời Đức Giêsu kêu gọi đừng sợ hãi, mà hãy nhận ra mối phúc của Nước Thiên Chúa ngay giữa cuộc đối đầu gian khổ. Dù sao, dường như ơn cứu độ đã được đảm bảo cho người nào đứng vững tới cùng (x. 10,22). Do giọng điệu tha thiết của Đức Giêsu nhằm giúp các môn đệ đối phó với những khó khăn và trở ngại họ sẽ gặp, Bài diễn từ truyền giáo đã mở ra một viễn tượng mới: đó là cuộc thử thách đức tin sẽ phải trải qua.
Đã đến lúc phải tự hỏi về ý nghĩa của hoạt động của Đức Giêsu, như Mt đã trình bày khá dài: phải nghĩ gì về những “việc Đức Giêsu làm” (11,2.19)? Phải hiểu thế nào về những “cử chỉ quyền lực” ấy (11,20.21.23)? Thật ra đây là câu hỏi về tư cách Mêsia của Đức Giêsu: từ ngữ “Kitô” mà Mt đã sử dụng trong ch. 1–2, đến đây mới xuất hiện lại (x. 11,2). Dường như bây giờ chúng ta đã rơi vào tình trạng lưỡng lự: ơn cứu độ vẫn còn được trình bày như có thể đạt được mà thôi, trong khi đó rõ ràng các lần từ khước, các chống đối, các tranh luận lại nối tiếp nhau đặt Đức Giêsu thành vấn đề. Tác giả sẽ trình bày phần Tin Mừng còn lại như câu truyện về một sự từ khước. Chính là theo chiều hướng này mà chúng ta có thể nói đến một khúc quanh trong diễn tiến của Tin Mừng Mátthêu. 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (11,2-3); 2) Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (11,4-6); 3) Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (11,7-11; ở trong TM, thì đọc tới c. 15). 3.- Vài điểm chú giải
- Đấng phải đến (3): dịch sát ho erchomenos là “Đấng đang đến”. Chúng ta nhớ đến lời rao giảng trước đây của Gioan: “Đấng đến sau tôi thì mạnh hơn tôi (ho opisô mou erchomenos)” (3,11). Lời này đưa chúng ta trở lại với sấm ngôn Isaia 40: “Kìa Đức Chúa đến với sứ mạnh [quang lâm hùng dũng], tay nắm trọn chủ quyền” (Is 40,10). Do đó, Đấng Mêsia cũng được gọi là “Đấng được chờ đợi”, “Đấng sẽ đến”, “Đấng Thẩm phán” (x. Dcr 9,9; Tv 118,26; St 49,10). Gioan đã so sánh sức mạnh của Đấng Mêsia với việc người tiều phu dùng rìu hạ cây (x. 3,10), rồi với người nông dân sàng sảy sân lúa (3,12). Ông mời gọi người tội lỗi hoán cải và ban một phép rửa giúp bày tỏ lòng sám hối, trước khi Đấng ấy đến, là Đấng ban phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa để tiêu diệt (3,11). Đây chính là vị Thẩm phán đáng sợ sẽ dùng lửa không hề tắt mà tiêu diệt tất cả những kẻ tội lỗi không chịu hoán cải (x. Ml 3,2-3).
- phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (6): “Cớ vấp phạm”, skandalon, là “cái bẫy đặt trên đường; chướng ngại vật làm cho người ta té ngã”; và nghĩa bóng là tất cả những gì làm cho người ta rơi xuống về mặt luân lý hay tôn giáo. Đức Giêsu tiên liệu rằng câu trả lời của Người có thể làm cho Gioan thất vọng, bởi vì quan niệm của ông về Đấng Mêsia quá khác với cách Đức Giêsu đang thực hiện hình ảnh Đấng Mêsia của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến phản ứng của Phêrô khi nghe loan báo Thương Khó (Mt 16,22-23) hoặc Giôna sau khi thấy Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4). 4.- Ý nghĩa của bản văn
Gioan Tẩy Giả đã loan báo là đến sau ông, sẽ có một người mạnh hơn ông và vượt xa ông về phẩm cách. Người ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và sẽ tách lúa với vỏ trấu ra (3,11t; x. Is 40,10).
Bây giờ Vị Tẩy Giả đang ở trong tù. Do bởi thái độ cứng rắn và những lời nói đanh thép của ông, vua Hêrôđê Antipa đã phải ra lệnh bắt giam ông. Nhưng vì ông nổi tiếng là đạo đức, ông được đối xử đặc biệt; các bạn bè có thể đến thăm ông, cho ông biết những tin tức ở bên ngoài. Ông đặc biệt quan tâm đến Đức Giêsu Nadarét. * Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (2-3)
Gioan nghe nói đến những hành động của Đức Giêsu. Phải nghĩ về Đức Giêsu như thế nào? Người có thật là Đấng mà ông đã loan báo là đang đến chăng? Quyền bính và năng lực của Người đang đang được biểu lộ ra ở đâu? Chẳng lẽ trong thân phận tù tội, ông không đáng được Đức Giêsu dùng quyền lực Người mà giải thoát sao? Người có thật đang tách hạt lúa khỏi vỏ trấu chăng? Ở đâu? Đức Giêsu là ai? Hẳn là Người phải nói năng và hành động cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn chứ?
Khởi đi từ hoàn cảnh cá nhân ông và sự hiểu biết của ông về các hoạt động của Đức Giêsu, Gioan nêu ra câu hỏi quyết liệt: Phải chăng đã đến lúc hoàn tất mọi sự? Chúng tôi có thể tín nhiệm vào Người chăng? Người là ai? Các môn đệ của Vị Tiền Hô đã đến gặp Đức Giêsu và nêu câu hỏi đúng như thầy họ đã dặn. * Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (4-6)
Đức Giêsu không cung cấp một câu trả lời rõ ràng và trực tiếp. Qua các môn đệ Gioan, Đức Giêsu đưa Vị Tiền Hô trở lại điểm xuất phát của câu hỏi của ông. Gioan phải diễn dịch ra được câu trả lời từ các việc Đức Giêsu làm, là chính những việc đã thúc đẩy Gioan đặt câu hỏi (11,2). Các môn đệ ông lại phải về làm chứng cho thầy về những việc Đức Giêsu đã làm (“Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe”) và Đức Giêsu mô tả các việc ấy ra bằng cách nhắc đến các lời hứa Cựu Ước (Is 35,5t; x. Is 35,4; 29,18-19; 61,1).
Đức Giêsu khẳng định rằng lời hứa ấy đang được hoàn tất nơi các hành vi của Người; qua các hành vi này, quả thực Thiên Chúa đang can thiệp để ban ơn cứu độ. Qua các hành động của Đức Giêsu, Nước Trời hay là quyền chúa tể của Thiên Chúa với quyền lực và ân sủng, đang thật sự trở nên gần gũi (4,17). Quyền chúa tể này trước tiên không được tỏ ra như là khả năng thắng vượt các quyền lực đối lập của loài người: Gioan sẽ bị chém đầu trong ngục (14,10); Đức Giêsu sẽ chết trên thập giá; các môn đệ Người sẽ bị bách hại (10,16-25). Triều đại Thiên Chúa cũng chưa tỏ hiện rõ ràng như việc tức khắc tách biệt lúa và vỏ trấu. Việc phán xét chung kết được dành cho ngày Con Người đến: khi đó kẻ dữ sẽ bị tách ra khỏi những người công chính (13,36-43.47-50). Nước Trời sẽ được biểu lộ nơi sự kiện những người sống trong cảnh cùng quẫn sẽ được Thiên Chúa trợ giúp (8,2–9,35) và nơi sự kiện Tin Mừng được loan báo với tất cả uy quyền (5,1–7,29). Đức Giêsu bắt đầu công việc rao giảng bằng cách loan báo mối phúc cho người nghèo (5,3); ở tại trung tâm của lời rao giảng này, có sứ điệp về vị Thiên Chúa quyền năng và nhân ái, sứ điệp về Cha Người và Cha của tất cả mọi người, Đấng muốn cho tất cả mọi người được hiệp thông mãi mãi trong vinh phúc với Ngài. Đức Giêsu tự giới thiệu mình như là Đấng cứu chuộc những người cùng khổ và như sứ giả làm chứng về niềm vinh phúc ấy. Trước tiên Người không đến như một người đấu tranh chống lại bạo lực và như thẩm phán nghiêm khắc.
Mỗi người phải tự nhận định và lấy lập trường đối với Người (x. 11,20-24). Đức Giêsu cũng giúp chúng ta ý thức về điểm này: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (11,6). Người không áp đặt cách hành động của Người nhờ sức thuyết phục của những sự kiện hoàn toàn hiển nhiên; Người dành không gian cho người ta đón nhận hoặc từ khước, cho người ta tin hoặc không tin. * Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (7-11)
Sau khi đã trả lời câu hỏi về thân thế Người, bây giờ Đức Giêsu đề cập đến công việc và bản thân của Vị Tẩy Giả (11,7-15). Người ca ngợi lối xử sự cương nghị và lối sống không ngạo mạn tự phụ của đấng không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý như một cây sạy cong người trước gió (x. 14,3-12) và không ăn mặc lụa là mềm mỏng. Chính sự trung tín và sự dơn giản của ông làm cho ông trở nên đúng là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa (x. 21,26.32) và đáng tin. Nhưng ông còn hơn là một ngôn sứ. Tất cả những vị đến trước ông đều thuộc về thời đại lời hứa, các vị ấy chỉ loan báo từ xa biến cố Đấng Mêsia đến trong quyền lực và mang theo ân sủng (11,13). Gioan là vị ngôn sứ của thời kỳ hoàn tất, nên cao trọng hơn tất cả các vị đi trước. Ông là sứ giả đi ngay trước Đức Chúa và chuẩn bị trực tiếp cho Người đến (11,10). Ông là Êlia đi trước Đức Chúa và chuẩn bị cho dân chúng đón tiếp Người (11,14; x. Ml 3,23; H c 48,10).
Với cách đánh giá Vị Tẩy Giả như thế, Đức Giêsu một lần nữa trả lời gián tiếp cho câu hỏi của ông. Nếu Gioan ở rất sát thời kỳ hoàn tất, thì với Đức Giêsu, thời này đã đến. Nếu Gioan là vị sứ giả dọn đường, thì với Đức Giêsu, người ta đã đón được Đức Chúa đến: không chính xác theo kiểu ông hình dung và chờ đợi (x. 3,12), mà là theo cách Thiên Chúa đã định. Sánh với những người đã đến trước, ông là người cao trọng nhất. Sánh với những người đang thuộc về Đức Giêsu và có thể trải nghiệm sự gần kề của Nước Trời trong sự hiệp thông với Người, ông là người nhỏ. Sự vĩ đại và nhỏ bé ấy không liên hệ đến ơn cứu độ hoặc giá trị luân lý của con người, nhưng liên hệ đến thời gian và biến cố trong đó người ấy được tham dự vào. Chính vì thế Đức Giêsu bảo rằng các môn đệ có phúc so với nhiều ngôn sứ và người công chính (13,16t). Như thế, thời đại và công trình của Đức Giêsu có một ý nghĩa duy nhất. + Kết luận
Qua các môn đệ của Vị Tẩy Giả, Đức Giêsu cũng trả lời cho chúng ta: Người chính là Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Chúa từ ngàn xưa. Thiên Chúa vẫn trung thành với lời Ngài hứa; chỉ có con người qua dòng thời gian, đã giải thích sai lạc lời Thiên Chúa hứa để đưa nhau đến những niềm chờ mong hão huyền, theo lòng dạ hẹp hòi của mình. Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta điều chỉnh lại cách chúng ta nhìn lịch sử cứu độ: không theo khuôn khổ các giấc mơ của chúng ta, nhưng đúng theo chương trình của Thiên Chúa. Và nếu qua Lời Chúa hôm nay, người môn đệ nhận ra rằng mình cũng được mời gọi làm Tiền Hô của Đức Kitô đối với con người hôm nay, thì chúng ta cũng cần nhớ rằng, chúng ta chỉ có thể chu toàn được sứ mạng nếu dựa vào phẩm cách cao quý của Đức Giêsu, Đấng chúng ta loan báo. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay, nhiều Kitô hữu vẫn đang mơ một ơn cứu độ không phù hợp với cách Thiên Chúa quan niệm. Việc Đức Giêsu chữa bệnh và nhất là việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo cho thấy rằng Người không phải là một thẩm phán nghiêm khắc nhưng là một vị Mêsia ân cần và từ bi. Thay vì trừng phạt những kẻ tội lỗi, loại trừ những kẻ gian ác, Người lại ban ơn chữa lành cả tâm hồn và thân xác, Người an ủi, Người soi chiếu, Người trợ giúp những ai đang đau khổ, Người đi qua giữa loài người để chỉ làm điều thiện (ch. 8–9), tha thứ tội lỗi (9,2). Hẳn là có những người khó chịu? Ngay chúng ta đây, chúng ta có chấp nhận được việc Thiên Chúa mạc khải tình yêu của Ngài ra trong sự khiêm nhường và yếu đuối chăng? Do đó Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Đây cũng chính là “cớ vấp phạm” do các Mối Phúc gây ra.
2. Con đường tất cả các môn đệ phải theo là nhìn thấy các dấu chỉ mà biết giải thích đúng đắn, biết nhận ra đó là các công trình của Thiên Chúa. Đây là nẻo đường đức tin, khởi đi từ những điều thấy được và đưa tới chỗ khám phá ra Đức Giêsu là ai. Đây là con đường đưa từ bóng tối đến ánh sáng, đi từ những dấu chỉ đến với thực tại được ám chỉ. Nhìn Hài Nhi bé bỏng yếu ớt nằm trong máng cỏ, mà nhận ra đó là Cứu Chúa và Đức Chúa; nhìn Con người bị đóng đinh đau đớn và nhục nhã nhất mà nhận ra đó là Đức Vua Cứu thế, đấy là qua dấu chỉ mà khám ra được thực tại.
3. Đức Giêsu tôn trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người. Trái lại, chúng ta phải thấy thực sự Người là ai và Người đang làm gì, để rồi đón tiếp Người với niềm vui và tri ân, cho dù chúng ta phải sửa chữa và bỏ đi một vài ý tưởng hoặc sự chờ đợi sai lạc nào đó.
4. Là những con người sống ở thời đại “cuối cùng”, chúng ta “có phúc” hơn là chính Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, chúng ta có biết trân trọng những ân huệ đang nhận và dùng những ân huệ đó mà xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho người khác chăng? Lm. Fx Vũ Phan Long, ofm
Trong cuộc sống, nếu chúng ta đang mong ngóng chờ đợi một điều gì đó đến với mình, và khi MV 3-A92
Trong cuộc sống, nếu chúng ta đang mong ngóng chờ đợi một điều gì đó đến với mình, và khi biết nó sắp đến, phải chăng lòng chúng ta lại chẳng rạo rực lên niềm vui và hy vọng? Hoặc khi chúng ta sắp hoàn tất một chế tác nào đó, tâm hồn luôn rộn lên niềm vui, bởi vì đứa con tinh thần của chúng ta sắp ra đời.
Cũng vậy, Mùa Vọng là mùa sống lại tinh thần chờ đợi Chúa đến lần thứ nhất của người Dothái khi xưa, đồng thời cũng diễn tả niềm mong đợi Chúa đến lần thứ hai trong ngày quang lâm của mỗi chúng ta. Nếu tính về mặt thời gian thực tại, hôm nay, chúng ta đã đi được 2/3 chặng đường của Mùa Vọng. Như vậy, gần đến đích, lẽ nào chúng ta lại không vui! Chính vì vậy, Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Hồng. Hồng là bởi vì toàn bộ phụng vụ Lời Chúa toát lên niềm hy vọng trong vui tươi.
1. Niềm vui và hy vọng qua các bài đọc Kinh Thánh
Bài đọc 1: Is 35,1- 6a, hôm nay gợi cho chúng ta hình ảnh về dân Israel đang phải sống trong cảnh sầu thương tang tóc. Bóng tối bao trùm cả vực thẳm. Dân chúng sinh ra lòng chán nản và thất vọng tột cùng. Trong lúc ấy, tiên tri Isaia xuất hiện và loan báo cho họ về viễn cảnh tương lai sắp đến, đồng thời khuyên bảo dân chúng hãy can đảm và vui tươi, vì: “Thiên Chúa anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em”. Rồi ông cũng nói rõ: “Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất”.
Chính lời loan báo đầy hy vọng này đã mang lại niềm tin cho dân vì họ sắp được giải thoát.
Sang bài đọc II: Gc 5,7-10, thánh Giacôbê cũng cùng mạch tư tưởng như tiên tri Isaia để khơi gợi lên trong lòng dân niềm hy vọng. Nhưng thánh Giacôbê thì nhấn mạnh khía cạnh kiên trì khi mời gọi họ hãy kiên nhẫn trong chờ đợi. Sự kiên nhẫn này được ví như người nông dân trồng lúa, phải vất vả chăm bón và chờ đợi ngày đơm bông kết hạt. Như vậy, để niềm vui được trọn vẹn, thánh nhân đã khuyên bảo tín hữu hãy sống hòa thuận trong vui tươi.
Sang bài Tin Mừng: Mt 11,2-11, thánh sử Mátthêu trình thuật việc ông Gioan Tẩy Giả sai các môn đệ của ông đến gặp Đức Giêsu và hỏi xem: “Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác”?
Khi sai môn đệ đi hỏi như thế, không phải Gioan không biết về Đấng Cứu Thế, tuy nhiên, có lẽ, ông muốn cho các môn đệ của mình gặp được niềm vui trọn vẹn, bởi vì vai trò của ông chỉ là người đưa đò, dẫn đường, chỉ lối, còn Đức Giêsu mới là con đường, là đích đến. Chính vì vậy, các môn đệ của ông sẽ không thể có được niềm vui và hy vọng trọn vẹn nếu cứ bám theo ông. Niềm vui của họ chỉ có thể tràn đầy khi đã gặp trực tiếp Đức Giêsu và chứng kiến những việc Ngài làm, đồng thời sẵn sàng đi theo Ngài.
Tuy nhiên, niềm vui và hạnh phúc thực sự chỉ có khi con người tự do xây dựng hay lựa chọn. Vì thế, khi được các môn đệ Gioan hỏi về sự xuất hiện của mình, Đức Giêsu đã không trả lời trực tiếp, mà Ngài đã chỉ cho các ông biết nhận ra Ngài qua các dấu chỉ như: người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, đúng như lời tiên tri Isaia đã báo trước về Đấng Cứu Thế.
2. Sứ điệp Lời Chúa
Trong cuộc sống của con người mọi thời, chúng ta không thể nào nói rằng: tôi không bao giờ buồn hay thất vọng; tôi không bao giờ đau khổ hay tủi nhục; tôi không bao giờ bị lung lạc niềm tin…!
Thực tế cho thấy: cuộc đời của chúng ta nhiều khi cũng bị rơi vào ngõ cụt đường cùng; cũng vẫn còn đó biết bao nhiêu bóng mây đen tối vây phủ tâm hồn; niềm tin cũng đã có lúc bị thách đố đến tột cùng. Những lúc như thế, phản ứng của chúng ta đôi khi cũng chẳng khác gì những người Dothái trước kia, đó là: hoang mang, thất vọng, trách móc, thách thức và mất đức tin. Chính vì vậy, nhiều khi chúng ta còn nghi ngờ luôn cả sự hiện hữu của Thiên Chúa nữa, bởi vì nếu Chúa hiện hữu, thì tại sao Chúa lại để cho tôi phải chịu cảnh bất công như vậy? Nếu Chúa có mặt thì tại sao Chúa lại không bảo vệ tôi khi tôi gặp phải thử thách gian truant? Và nếu Thiên Chúa là Đấng Giàu Lòng Thương Xót, thì tại sao Chúa lại để con cái của Ngài quằn quại trong khổ đau…???
Biết bao nhiêu thắc mắc được đặt ra trong sự đau khổ. Tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay sẽ là niềm an ủi và là câu trả lời cho mỗi chúng ta. Nếu chúng ta kiên trì, tin tưởng, phó thác, sống hài hòa, nhân hậu và xót thương anh chị em mình, không than van phàn nàn hay phản kháng thì sẽ được đẹp lòng Thiên Chúa và được Người thưởng công xứng đáng. Lúc đó, tâm tình của chúng ta cũng tràn ngập niềm vui như dân Israel khi xưa: “Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất”.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa trong niềm vui
Ở đời, người ta không thích nói chuyện buồn. Ngược lại, niềm vui luôn luôn hấp dẫn. Đức Cố Hồng Y F.x. Nguyễn Văn Thuận cũng đã nói: “Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn”.
Thật vậy, là người Công Giáo, chúng ta không thể không có niềm vui trong mình, bởi lẽ: Vui vì được trở nên con cái Chúa; vui vì có Chúa là nguồn hạnh phúc; vui vì mọi biến cố trong cuộc đời đều được Chúa chúc lành; vui vì niềm hy vọng của chúng ta sẽ được ở bên Chúa trong Nước Trời.
Tuy nhiên, niềm vui ấy chỉ có thể có được, nếu chúng ta biết chấp nhận hy sinh. Biết vui lòng đón nhận cuộc sống hiện tại với những sự giới hạn của nó. Nhất là biết đón nhận thánh giá trong cuộc đời là những bổn phận, nghĩa vụ trong vui tươi phấn khởi. Nếu không biết hy sinh, chúng ta sẽ không bao giờ có được niềm vui chia sẻ, bởi vì: cho thì có phúc hơn là nhận. Nếu chúng ta không biết vui lòng đón nhận sự giới hạn của mình hay của mọi người, thì không bao giờ cảm thấy đủ để mà tạ ơn cũng như vui vẻ để dâng hiến, trao tặng! Và nếu chúng ta không biết vui lòng đón nhận những thánh giá Chúa gửi đến trong cuộc đời để giúp ta sám hối, sửa sai, nhằm thánh hóa để qua đó, thánh giá trở thành con đường đưa tới sự sống đời đời, thì chúng ta sẽ mãi mãi sống trong đau khổ, thất vọng và kéo lê thánh giá cuộc đời và biến nó thành khổ giá trong cuộc sống.
Vì vậy, Chúa Nhật Hồng hôm nay Giáo Hội mời gọi mỗi chúng ta hãy can đảm đón nhận cuộc sống này trong vui tươi. Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay. Vì thế, hãy an tâm, đừng sợ, kiên nhẫn chờ đợi trong vui tươi, Chúa sẽ đến giải thóat chúng ta và lúc đó niềm hoan lạc chúng ta sẽ được tràn đầy.
Ước mong sao trong cuộc đời và qua mọi biến cố, chúng ta luôn có Chúa đồng hành và nâng đỡ, để dù trong cảnh huống nào đi nữa, đầu và tâm hồn chúng ta vẫn ngẩng cao và hướng về phía trước trong niềm vui và hy vọng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là niềm vui và hy vọng cho tất cả chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con luôn biết gắn bó cuộc đời của mỗi người nơi Chúa, để chúng con được sống trong tình yêu của Chúa. Đồng thời biết kiên tâm, vững dạ trong sự phó thác, để cuối cuộc đời, chúng con được ở bên Chúa là niềm vui và hạnh phúc đích thực của chúng con. Amen.
Dựa vào Lời Chúa 2 Chúa Nhật trước, để chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, các bạn trẻ được mời MV 3-A93
Dựa vào Lời Chúa 2 Chúa Nhật trước, để chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, các bạn trẻ được mời gọi để hiểu biết, chờ đợi và đón nhận Đức Kitô như là Tình Yêu mạnh mẽ và an bình của chính cuộc hôn nhân các bạn đang hướng tới. Muốn thế cần nhờ Kinh Thánh để biết mình cũng như người bạn đường tương lai là ai trong tình yêu và sự tuyển chọn của Thiên Chúa.
Thế nhưng con đường tiến tới hôn nhân dường như không cho phép các bạn đáp ứng những đòi hỏi ấy, cũng như Isaia thấy nơi dân Israel xưa, trước mắt họ chỉ là “hoang địa cằn cỗi”, là “cõi tịch liêu” chỉ khiến “những bàn tay rời rã,” “những đầu gối mỏi mòn”. Biết bao bạn trẻ hôm nay nghĩ rằng để chuẩn bị cho cuộc hôn nhân thì cần phải lo có sự nghiệp và tài chánh, và 2 điều đó luôn đặt họ trước những hoang địa, những cõi tịch liêu, khiến tay rời rã, gối mỏi mòn… đâu có thời gian và tâm trí nghĩ về Đức Kitô. Trong lòng họ qủa thực Đức Kitô không phải là “Đấng phải đến” mà họ luôn chờ đợi “một đấng nào khác”. Họ chờ đợi và tìm kiếm những con người giúp họ giải quyết sự nghiệp và tài chánh…
Lịch sử dân Israel, cũng như mọi dân tộc, chỉ là lịch sử mưu cầu thăng tiến một sự phồn vinh trần thế, làm giàu của cải và thế lực, trên bình diện dân tộc từ sự phồn vinh và quyền lực của mỗi gia đình. Do đó mới có thành ngữ “môn đăng hộ đối” trong việc xây dựng hôn nhân. Nếu không được những điều kiện như thế, biết bao chuyện tình đã không thể đi tới hôn nhân… và làm tốn biết bao giấy mực của nhân loại để khóc thương và tiếc nuối. Nhưng tất cả bài học lịch sử dù của cá nhân, hay của một gia đình và của bất kể dân tộc nào đều khẳng định điều này là sự tồn tại, sự phồn vinh không hệ tại cái gọi là“môn đăng hộ đối” trong của cải, sự nghiệp và quyền lực, nhưng chỉ hệ tại tình yêu chân thành và vĩ đại. Điều mà nhân loại không thể tìm đâu có ngoài Thiên Chúa là Tình Yêu.
Đối diện với những hoài nghi “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?” của Gioan, đúng hơn là của các môn đệ ông, cũng như của các bạn trẻ hôm nay, Chúa Giêsu mượn lời của Isaia để trả lời “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó”. Muốn có một xác tín về Chúa Giêsu đích thật là “Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ”, là cùng đích của mọi ơn gọi, trong đó có ơn gọi hôn nhân, thì thánh Giacôbê mời gọi các bạn trẻ “hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến” “Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri”. Bởi vì Chúa Giêsu cho thấy Ngài đến với người mù, người què, người phong hủi, người điếc, người chết, người nghèo… những con người bị loài người không những không yêu thương mà còn loại trừ loại trừ, vì Ngài mới là Tình Yêu đến để làm cho Lửa Tình Yêu bùng cháy lên.
Ngày hôm nay các bạn trẻ có thể cảm nghiệm được Giáo Hội của các bạn vẫn trung thành với chứng tá Tình Yêu của Thầy Giêsu để kiến tạo một cộng đồng, một gia dình của Tình Yêu, và đem đến cho nhân loại Niềm Vui, Bình An và Hy Vọng.
Chớ gì các bạn trẻ xác tín được những gì Lời Chúa nói với các bạn hôm nay để chuẩn bị một cách tốt nhất cho hôn nhân và gia đình các bạn cũng trở thành một Giáo Hội tại gia. Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Trong thời buổi hiện tại, thời buổi kinh tế thị trường, thời buổi gọi là văn minh, hiện đại. Chúng ta: MV 3-A94
Trong thời buổi hiện tại, thời buổi kinh tế thị trường, thời buổi gọi là văn minh, hiện đại. Chúng ta nhìn thấy tuổi trẻ bây giờ rất ham học. Những trường phổ thông đầy ấp học sinh, ngay cả những trường trung học chuyên nghiệp và đại học cũng thế. Các sinh viên từ các vùng xa tới rất đông, cũng vì sự hiếu học. Nếu có dịp, chúng ta hòa nhập cùng các sinh viên để hiểu chút về đời sống của họ.
Một số trong họ, cố gắng học rất tốt. Họ ý thức được việc họ xa gia đình, ý thức được sự lo lắng thương yêu của nhiều người thân, ý thức được trách nhiệm phải làm và còn nhìn thấy được tương lai của mình. Nếu họ muốn tương lai được rạng rở vui mừng, thì phải biết chuẩn bị ngay từ bây giờ. Nếu không họ sẽ không có được niềm vui cần thiết.
Một số họ dường như khôn quá sớm. Họ lợi dụng môi trường sống, để tìm những nguồn lợi trước mắt, qua việc làm kinh tế giữa những người không quen nghề đó. Họ được thành công, có nhiều tiền và chi tiêu thoải mái. Chính vì những mối lợi đó, mà họ đã quên đi mục đích chính của mình là HỌC. Họ không có được niềm vui cần thiết khi thời kỳ đến.
Cũng có một ít người, bị lây nhiễm bạn bè không tốt, nên vướn vào những tệ nạn xã hội. Họ chỉ còn biết đến mình trong hiện tại, chỉ biết lo tận hưởng những khoái cảm của thân xác, của đam mê. Họ không cần biết đến tương lai, không cần những người thân. Họ bất chấp tất cả. Nên họ cũng không có được niềm vui mà bao nhiêu người đạt được trong khi cần thiết.
Chúa Giêsu chất vấn người đương thời "Các người xem gì trong hoang địa? Một cây sậy?.... - Vô ích. Tìm kiểu mẩu mới? Cũng không hiệu quả. Chỉ có Tiên Tri, và còn hơn cả tiên tri nữa". Đến tìm tiên tri để lắng nghe lời người chỉ dạy mà thay đỗi đời sống. Nếu biết lắng nghe, biết thay đỗi đời sống, thay đỗi cái nhìn, thay đỗi suy tư, mới nhận ra được Đấng Cứu Thế. Cũng như vị tiến hô đã nghe được những giải đáp, ông đã nhận ra Đấng Cứu Thế, ông vui mừng.
Chúng ta những con người của thời đại mới, là những sinh viên của nước Thiên Chúa. Chúng ta đang sống trong ngôi trường của trần gian, đang cố gắng học hỏi để chờ ngày thi vào Nước Trời. Nhiều lần trong cuộc sống chúng ta cũng được hỏi: Đang tìm gì? Hôm nay, một cách trang trọng hơn, mỗi người cũng đang được hỏi lại câu hỏi đó:" Các người đang tìm gì". Chúng ta trả lời ra sao?
Chúng ta đang tìm cây sậy phất phơ trước gió. Đó là trong những lúc chúng ta bị cuốn theo chiều gió, chúng ta bị đời sống nầy làm ngã nghiêng, chúng ta không đứng vững trên đôi chân của mình, lo âu, sợ sệt. Những lúc chúng ta bị những đam mê cuộc đời cuốn trôi đi không cưỡng lại được, chúng ta mất phương hướng cho đời sống, chán nản thất vọng, không còn nhìn thấy được tương lai tốt đẹp đang chờ đón nữa. Khi đó chúng ta giống như một sinh viên quên đi mục đích của mình, chỉ biết chơi bời lêu lỏng, rơi vào những tệ đoan xã hội.
Chúng ta đang tìm một người ăn mặc lã lướt, đi tìm vinh hoa phú quí, tìm vui sướng cho hiện tại. Đó là những lúc chúng ta quá lo cho đời sống vật chất, quá lo cho những gì hiện tại, quá lo cho bản thân, quá lo cho cái Tôi đáng ghét nầy. Chúng ta lo vun bồi nó bằng những ích kỷ, những đòi hỏi, những toan tính mưu mô. Chúng ta không chấp nhận được những gì trái ý khó nghe.
Nếu như hai trường hợp trên, làm sao chúng ta nhận ra Đấng Cứu Thế, làm sao chúng ta nhận ra được những dấu chỉ của Ngài, làm sao chúng ta có thể hòa được niềm vui chung mà hôm nay Giáo Hội kêu mời mọi người Hãy vui lên. Chúng ta chỉ có thể nhận ra Chúa qua những dấu chỉ của đời sống, nhiều khi không vừa với sở thích. Nếu biết chấp nhận những gì trái ý, để rồi suy tư tìm hiểu. Nếu biết tôn trọng những người chung quanh, cho dù có những khó khăn. Nếu biết lắng nghe để chấp nhận sự thật, cho dù phải mang lấy đau thương. Đó là chúng ta đã nhận ra Chúa qua những dấu chỉ của Người. Đó là chúng ta đã đạt được niềm vui ngày Chúa Đến. Đó là chúng ta đã đi đúng hướng của đời sống
Xin Chúa cho chúng biết lắng nghe Tiếng Chúa, biết nhận ra Chúa trong đời sống, để được tận hưởng niềm vui Ngày Chúa Đến.
Khi đang ngồi trong tù Gioan Tẩy Giả cũng muốn biết Đức Giêsu là ai? Ngài có phải là Đấng Thiên Sai: MV 3-A95.
Khi đang ngồi trong tù Gioan Tẩy Giả cũng muốn biết Đức Giêsu là ai? Ngài có phải là Đấng Thiên Sai mà cả ông và dân chúng đang mong đợi không? Cũng cám ơn Chúa, nhờ thời gian này mà Gioan có nhiều thời giờ để suy nghĩ về Đấng Cứu Thế mà ông từng rao giảng, từng khát khao mong đợi. Có thể nói ông đã hòan tòan sống phó thác vào Đấng Cứu Thế qua việc ông kêu gọi mọi người hay ăn năn sám hối để đón Người. Ông tin tưởng bao nhiêu, hy vọng bao nhiêu, phó thác bao nhiêu thì qua bài Tin mừng hôm nay dễ dàng cho ta thấy ông đang tỏ ra nghi ngờ và đang gặp phải sự dằn xé nội tâm bấy nhiêu. Hình ảnh một vị Thiên Sai đến để xét xử công minh, lấy lại lẽ phải và công bằng, phân biệt thóc với trấu và ném trấu vào lửa cháy đâu sao lại dửng dưng trước việc ông làm chứng cho chân lý và bị Hêrôđê bắt ngồi tù thế này, sao lại không lấy lại công bằng cho ông. Thật tình trong suy nghĩ của Gioan Tẩy Giả ông không bao giờ muốn bóp méo đi hình ảnh của vị Thiên Sai mà ông tôn thờ, nhưng ông vẫn muốn những gì ông rao giảng phải được chứng thực.
Để làm sáng tỏ điều đó ông phải được chính Đấbg Thiên Sai xác nhận. Trong suốt cuộc đời Gioan ông chỉ có một thắc mắc duy nhất, đó cũng chính là thắc mắc của những người thời đại chúng ta ngay nay, mà đến nay họ vẫn còn đang đi trong đêm đen, vẫn đang tìm kiếm lần mò, họ không chấp nhận, họ qúa cố chấp không chịu tìm đến ánh sáng để đi, trong khi Áng Sáng đã đến hơn hai ngàn năm. Không phải họ không biết, không nghe Đức Giêsu, mà là họ không chịu và không thèm nghe để rồi chỉ biết lần mò mãi trong bóng tối.
Còn số khác cũng như suy nghĩ của Gioan hôm nay, biết đặt câu hỏi, biết tìm kiếm nhưg lại hơi có phần bất mãn vì khó hiểu qúa, Đấng Thiên Sai đã đến sao còn có bất công, người lành vẫn cứ bị chèn ép , áp bức, kẻ dữ thì vẫn sống phây phây. Chính vì những sai lầm từ trong thâm tâm, suy nghĩ sai về một Đấng Thiên Sai, mà con người dễ bị sụp vào bẫy của thế gian, tự chui vào như một con thiêu thân lao vào lửa để tìm một thứ thiên sai chủ nghĩa mới, thích dựa vào những thầy bói tóan, những mê tín dị đoan...
Điểm hay ở Gioan là ông đã biết chạy đến cùng Đức Giêsu để hỏi, ông biết chạy đến ánh sáng để cầu cứu chiếu soi khỏang mờ trong tâm hồn ông. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của Gioan, mà Ngài đã nêu ra một số công việc mà Ngài đã làm cho môn đệ Gioan nghe để về thuật lại cho ông: "Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng". Nghe được công việc Đức Giêsu đã làm chắc chắn Gioan không còn suy nghĩ sai lệch về Đấng Cứu Thế nữa. Đấng Cứu Thế không phải đến trong vinh quang, không phải đến để làm chính trị, hay làm cuộc cách mạng giải phóng đô hộ bằng chiến tranh bạo lực. Nhưng Đấng Cứu Thế đến ngược hẳn với suy nghĩ của con người, Ngài đến trần gian để mang ơn cứu độ cho tất cả mội người. Ngài cũng làm cuộc cách mạng, mà đó là cuộc cách mạng tình yêu, cũng giải phóng con người nhưng không phải giải phóng khỏi nô lệ đế quốc, mà giải phóng con người khỏi nô lệ tội lỗi.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho Gioan hôm nay cũng khiến cho nhiều người nhận ra từ trước đến nay mình cũng có những quan niệm lệch lạc về Đấng Cứu Thế trong cuộc sống như vậy. Đấng Cứu Thế không đến trong uy hùng cao sang, mà Ngài đã đến qua những người ăn xin nghèo khổ đang cần sự giúp đỡ của chúng ta, Ngài đã đến qua những vòng tay nhân ái biết yêu thương giúp đỡ mọi người. Ngài đến cách âm thầm qua lời cầu nguyện, lời kinh trong thánh Lễ. Đặc biệt là Ngài đang ở bên cạnh chúng ta, đang cùng đồng hành với chúng ta, ở bên ta cả khi vui lẫn khi buồn, nhưng chúng ta có nhận ra Ngài, biết mở rộng lòng để đón Ngài chưa?
Trong Mùa Vọng Giáo Hội luôn kêu gọi ta tin tưởng và nhận ra Đấng Cứu Thế đã và đang đến trong lịch sử của đời mình. Ngài không chỉ đến trong thành công, trong niềm vui mà Ngài còn đến trong cả thất bại và buồn phiền của con người. Vì thế, chúng ta hãy mạnh dạn lên biết chạy đến đón nhận niềm tin từ Thiên Chúa để không những đem hy vọng đến cho mình mà còn đem hy vọng đến cho người khác, vì còn rất nhiều người đang sống trong bóng tối u mê tội lỗi
Tham dự Thánh lễ hôm nay, bạn có thấy điều gì khác hơn so với hai Chúa Nhật vừa qua không? Bạn: MV 3-A96
Tham dự Thánh lễ hôm nay, bạn có thấy điều gì khác hơn so với hai Chúa Nhật vừa qua không? Bạn sẽ dễ dàng nhận ra Phụng vụ hôm nay diễn tả niềm vui mừng: các bài thánh ca mang âm điệu hân hoan, lễ phục màu hồng thay vì màu tím... Vâng, hôm nay là Chúa Nhật hồng của Mùa Vọng. Hôm nay, chúng ta được mời gọi: Mừng vui lên! Mừng vui vì đã gần đến thời điểm "đất với trời giao duyên, Thiên Chúa ở với con người...". Bạn có nhận ra được niềm vui nầy chưa? và bạn sẽ làm gì để niềm vui được trọn vẹn?
Tại thời điểm nầy, bầu khí Giáng Sinh đang về: khí trời se lạnh, những cánh thiệp được gởi cho nhau, những khúc ca Giáng Sinh vang khắp đó đây, hang đá - ngôi sao - đèn bắt đầu được dựng lên... Nghe thấy những điều đó, chắc lòng bạn không khỏi nôn nao mong chờ ngày đại lễ.
Tiếc thay, lễ nghi tôn giáo đã bị xã hội hoá thành một lễ hội. Và như thế, người ta chỉ lo tìm kiếm, chuẩn bị cho những thú vui bên ngoài, những việc làm hình thức. Nếu bạn cũng chỉ dừng lại ở những hình thức bên ngoài ấy, bạn sẽ không khỏi lo âu thất vọng. Bởi vì ngày lễ mà bạn đang mong đợi sẽ đến và qua đi nhanh chóng, tiếp sau đó là cả khối bài kiểm tra cuối học kỳ đang chờ bạn. Bên cạnh đó, bạn cũng sẽ cảm nhận được những cảnh khổ vẫn đang song hành với biến cố tươi vui nầy. Chúng ta cất lời ca "trời cao hãy đổ sương xuống..." mà lòng không khỏi quặn đau khi nghĩ về miền trung lũ lụt. Bão lũ gây thiệt hại nặng nề vừa qua đi thì cơn bão giá tiếp đến. Vật giá leo thang đến chóng mặt! Giá tăng làm cho các người chủ gia đình, các bậc cha mẹ lại oằn thêm đôi vai, lả mồ hôi trong những ngày cuối năm nầy. Như thế, niềm vui phải chăng chưa trọn vẹn mà chỉ tạm bợ chóng qua?
Bạn sẽ không tìm được niềm vui đích thực nếu bạn chỉ lẩn quẩn tìm kiếm nó trong những biến cố đời thường. Bởi cuộc đời không chỉ toàn là niềm vui mà là một chuỗi đan xen giữa vui - buồn, sướng - khổ. Niềm vui thật sự chỉ có được khi bạn hướng lòng mình về biến cố "Con Thiên Chúa làm người để con người được làm con Thiên Chúa". Thật vậy, niềm vui Giáng Sinh không hệ tại ở hang đá, cánh thiệp, lời ca tiếng hát... mà là chính Chúa Giêsu, "Hoàng Tử Bình An" mà Thiên Chúa ban cho con người.
Ngài đến để làm cho "người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe và người chết sống lại" (Mt 11,5). Ngài đem lại niềm vui cho những người được giải thoát khỏi xích xiềng tội lỗi. Ngài chính là "Hoàng Tử Bình An", một Hoàng Tử tuyệt vời đến giải cứu nàng công chúa đang bị tội lỗi giam cầm là mỗi người chúng ta. Như thế, niềm vui đích thực mà chúng ta đang chờ đón là "Hoàng Tử Giêsu", Ngài sẽ đến với từng người và với mọi người.
Đến bây giờ, bạn đã chuẩn bị được những gì cho cuộc gặp gỡ với Hoàng Tử Giêsu? Một người con gái chuẩn bị đón bạn trai đến thăm nhà sẽ làm gì? Chắc chắn việc trước tiên cần làm là dọn dẹp ngôi nhà của mình cho sạch sẽ, gọn gàng. Cũng thế, việc trước tiên bạn cần làm là dọn dẹp ngôi nhà tâm hồn bạn nhờ Bí tích giải tội. Một tâm hồn thanh sạch sẽ được Chúa vui lòng ngự đến.
Bên cạnh đó, niềm vui chỉ thật sự trọn vẹn khi mọi người quanh bạn đều có được niềm vui. Hiện nay, thế giới vẫn đang giá lạnh bởi sự thờ ơ của con người, nó đang cần chúng ta sưởi ấm lại bằng tình thương. Bạn có biết rằng hàng triệu người trên thế giới mang bụng đói đi ngủ không? Trong số đó có những người bên cạnh bạn mà có thể vô tình bạn chưa nhận ra.
Trong những ngày nầy, tại các họ đạo đều có những hoạt động từ thiện nhằm đem đến niềm vui cho những người có hoàn cảnh khó khăn. Đó là lời mời gọi thiết thực để bạn trở nên cánh tay nối dài của Chúa Giêsu nhằm xoa dịu nỗi đau mà thế giới đang gặp phải. Hãy chung tay với cộng đoàn họ đạo của mình mang niềm vui đến cho mọi người: một chút đóng góp cho quỹ từ thiện, cùng đi thăm viếng người già cả neo đơn... Hãy hành động một cách thiết thực để niềm vui Giáng Sinh lan toả khắp nơi.
Bạn đang vui vì đã gần đến ngày lễ Giáng Sinh, nhưng bạn sẽ không gặp được Chúa Giêsu nếu ngôi nhà tâm hồn bạn chưa sẵn sàng. Niềm vui Giáng Sinh cũng sẽ không trọn vẹn nếu bạn chưa trở nên cánh tay nối dài của Ngài. Từ bây giờ, bạn hãy mở rộng cửa tâm hồn ra với Chúa và với mọi người. Chúa đã gần đến!
Rất nhiều người Balan gốc Do thái sống ở thành phố Warsaw đã chết trong thời gian quân Đức chiếm MV 3-A97
Rất nhiều người Balan gốc Do thái sống ở thành phố Warsaw đã chết trong thời gian quân Đức chiếm đóng thành phố này trong chiến tranh thế giới thứ 2. Nhưng có một số người sống sót và trong số đó có những người sống được là nhờ vào niềm tin mãnh liệt. Trong số những năm tháng tối tăm ấy, thì có ai đó đã viết những dòng sau lên bức tường trong các khu vực dành riêng cho người Do thái:
Tôi tin vào mặt trời cho dù lúc này mặt trời không chiếu sáng
Tôi tin vào tình yêu cho dù lúc này tôi không cảm nhận được cảm xúc này.
Tôi tin vào Thượng Đế cho dù lúc này tôi không thể nhìn thấy Người .
Như vậy, lòng tin, dù lớn hay nhỏ, cũng có thể làm nên những điều kỳ diệu.
Bài Tin mừng hôm nay đã làm cho nhiều người thắc mắc. Người ta cho rằng Gio-an tẩy giả là người được sai đi để dọn đường cho Đức Giêsu, vậy tại sao ông còn hoang mang như thế. Hoá ra ông đã rao giảng vế một Đấng mà ông biết hay sao?
Có nhà chú giải lại cho rằng: Gioan Tẩy Giả làm bộ nói vậy thôi để có dịp giới thiệu môn đệ mình cho Đức Giêsu và để có dịp cho môn đệ ông được gặp và nói chuyện với Đức Giêsu. Sự thật có phải là như thế hay không?
Đọc lại các sách Tin mừng, ta thấy được vấn đề tương đối rõ ràng. Gioan Tẩy Giả đã rao giảng về một Đấng Messia uy quyền, nghiêm khắc, sẵn sàng triệt hạ những người tội lỗi, bất công; và Ngài sẽ bênh vực những người bị áp bức và nhất là Ngài sẽ tiến hành một cuộc cách mạng triệt để để giải phóng con người. Nhưng giờ đây, Gioan Tẩy Giả lại nghe thấy Đức Giêsu không đi theo đường đó, nên chính ông cũng bị chao đảo trong niềm tin vào Đức Giêsu, nên ông mới sai môn đệ đến thưa với Đức Giêsu rằng: "Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?".
Và Đức Giêsu đã trả lời thắc mắc của Gioan Tẩy Giả bằng cách nhắc lại cách khéo léo về sứ mạng của Đấng Messia thiên sai đã được nói đến trong chính sách tiên tri Isaia "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo cho kẻ nghèo hèn, Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa". Tất cả những việc này đã được Đức Giêsu thực hiện. Đó chính là lời minh chứng hùng hồn nhất và đáng tin cậy về một Đấng Messia thiêu sai.
Đấng thiên sai là chính Đức Giêsu. Ngài đang thực hiện một cuộc cách mạng, một cuộc giải phóng, bằng con đường yêu thương và hiền dịu. Cuộc cách mạng ấy mang chút màu sắc nào của bạo động, của trả thù, trừng phạt hay giết chóc . . . mà hoàn toàn được thực hiện bằng con đường yêu thương và cứu thoát. Bởi lẽ, Thiên Chúa là Tình yêu, và Đức Giêsu được sai đến là để "cứu trần gian".
Hành trình theo Chúa của chúng ta chắc chắn có những lúc gặp khó khăn và thử thách. Những khi đó, sự nao núng và chao đảo trong chúng ta là điều khó tránh khỏi. Điều quan trọng là phải đọc ra được thánh ý của Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta, và phải có một niềm tin, dù là nhỏ bé, để thắp sáng lên lòng mến của chúng ta vào Thiên Chúa và vững bước đi theo Ngài.
Chúng ta đừng bao giờ vẽ đường cho Thiên Chúa để "bắt" Ngài phải đi trên đó hay phải theo đó. Vì đường lối của chúng ta, tư tưởng của chúng ta không phải là đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa. Hãy là kẻ "đi theo" , "bước theo" dấu chân của Thiên Chúa, chứ đừng là kẻ "dẫn đường" cho Thiên Chúa.
Biết bao nhiêu kẻ đã bị mất đức tin, hay nghi ngờ Thiên Chúa vì Philipphê thấy bóng dáng của Thiên Chúa đâu trên những con đường họ vạch ra cho Thiên Chúa. Bài học của Gioan Tẩy Giả là một kinh nghiệm quí báu cho chúng ta. Gioan Tẩy Giả đã loan báo, hay nói cách khác là ông đã vẻ ra một con đường cho Đấng Messia bước đi. Rồi khi Đấng Messia đến, thấy Ngài không theo đúng những gì ông đã rao giảng, đã "vẽ ra" trước đó, ông bắt đầu chao đảo và dao động tinh thần và niềm tin. Nhưng sứ điệp của Đức Giêsu đã đến kịp thời, giúp ông bừng tỉnh và từ đó mạnh dạn bước đi và trung tín trong sứ mạng làm chứng của mình suốt cả cuộc đời, sứ mạng mà ông đã lãnh nhận từ Thiên Chúa tình thương. Ông xứng đáng là một tiên tri cao cả nhất trong những con cái do loài người sinh ra.
Chúng ta hãy lo chu toàn sứ mạng loan báo về Đức Giêsu là Đấng Messia thiên sai cho con người trong thế giới hôm nay bằng đời sống chứng tá của chúng ta trong đời sống hằng ngày. Đồng thời, chúng ta cũng hãy cần thắp sáng lên niềm tin, cần giữ vững dù là "một chút lòng tin" đúng đắn và thâm sâu nơi cõi lòng ta vào Thiên Chúa. Hãy là kẻ dọn đường cho Chúa ngự đến và ngoan ngoãn bước theo sau Người trên hành trình về nhà Cha trên trời. Amen.
Một trong những điều đem lại cho con người hạnh phúc là họ gặp được niềm vui. Mỗi một niềm: MV 3-A98
Một trong những điều đem lại cho con người hạnh phúc là họ gặp được niềm vui. Mỗi một niềm vui như là thang thuốc bổ tăng thêm sức sống cho con người. Dầu vậy, những niềm vui trong cuộc sống tại thế này dường như khó có thể vững bền mãi mãi. Cho nên người ta hay thốt lên lời có vẻ chua chát: "Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí". Nghĩa là niềm vui thì ít khi gặp lại còn nỗi buồn thì nhiều khi lại không mong mà đến nhiều lần. Vậy đâu mới là niềm vui bền vững và là niềm vui thật đối với đức tin của người Công giáo chúng ta? Ðó là niềm vui trong Chúa - niềm vui vì Ðấng Cứu Thế đến.
Những lời tiên tri Isaia loan báo trong Bài đọc 1 cho thấy một viễn tượng hết sức vui mừng khi Ðấng Cứu Thế đến: "Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò... Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Vì có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. Miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra. Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên". (Is 35, 1 - 6a. 10)
Đáng tiếc một điều là dân Do thái chỉ nghĩ Ðấng Cứu Thế đến theo nghĩa hoàn toàn trần tục. Cái nhìn ấy không loại trừ nơi Thánh Gioan Tẩy Giả. Do đó, đang ngồi trong tù ông đã sai người đến gặp Chúa Giêsu để hỏi: "Thầy có phải là Ðấng phải đế hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?" (Mt 11, 3) Ông nghĩ nếu Chúa Giêsu thật là Ðấng Cứu Thế thì chắc hẳn đã không để cho ông phải ngồi mãi trong tù cho đến bây giờ. Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp nhưng nói: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng" (Mt 11, 4 - 5). Chúa Giêsu muốn cho Gioan cũng như mọi người chúng ta nhớ rằng Người đến là đem niềm vui trọn vẹn và bền vững. Chúng ta nhớ mỗi khi chữa bệnh cho ai Người đều nói "Ðức tin đã cứu con" hay là "Tội con đã được tha".Qua đó, Người muốn chúng ta đến với Người trước hết bằng lòng tin. Tin rằng Người là Ðấng Cứu Thế của Chúa Cha sai đến chứ không phải Ðấng Cứu Thế theo sự mong ước của con người.
Hôm nay, Giáo hội cho phép các Linh mục mặc lễ phục màu hồng nói lên sự vui mừng. Vui mừng vì ngày Ðại lễ Giáng sinh đã gần kề. Chỉ còn hơn một tuần lễ nữa thôi. Dầu vậy, chúng ta vui mừng không đơn thuần chỉ vì không khí ồn ào náo nhiệt bên ngoài. Nhưng vui mừng vì qua lễ ấy nhắc chúng ta nhớ rằng Ðấng Cứu Thế đã đến đem niềm vui trọn vẹn. Niềm vui mà thế gian này không sao kiếm được. Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta tin chắc điều ấy để rồi chúng ta cần biết phải làm gì để đón mừng Ðại lễ sắp đến cho thật có ý nghĩa. Và nhất là chúng ta xin Người cho biết phải sống như thế nào để đón mừng Người trở lại đón chúng ta.
Lời Chúa hôm nay có nhiều điều để ta suy nghĩ. Nhưng tôi nghĩ thiết thực, gần gũi nhất va có ích: MV 3-A99
Lời Chúa hôm nay có nhiều điều để ta suy nghĩ. Nhưng tôi nghĩ thiết thực, gần gũi nhất va có ích cho đời sống đức tin là chúng ta nên suy nghĩ về cuộc đời chứng nhân của Gioan tiền hô và cuộc đời của Chúa Giêsu.
Tin Mừng cho thấy hiện tại Gioan tiền hô đang bị vua Hêrôđê giam giữ trong ngục. Nếu chúng ta biết được lý do nào khiến vị tiền hô phại chịu cảnh lao tù, chắc chắn chúng ta không khỏi bùi ngùi xúc động, thương cảm và ngưởng mộ về cuộc đời ông. Cũng chỉ vì bảo vệ chân lý trong lề luật luân thường đạo lý của Giavê, ngăn cản một tội lỗi xúc phạm đến lề luật cho dù người đó là vua, là người có mọi quyền hành trong xã hội thời đó. Chắc chắn Gioan tiền hô biết trước hậu quả ông phải chịu khi nói lên sự thật này. Nhưng không vì sợ chết mà ông im lặng để cho tội lỗi cứ lan tràn và kẻ phạm tội cảm thấy vô tư thoải mái. Đây có thể nói được là cao điểm của sứ mạng tiền hô cho Đấng Cứu thế của Gioan. Với sứ mạng dọn đường cho Đấng Messia, Gioan cương quyết đẩy lui và không đội trời chung với tội ác, cho dù người đó là ai. Khi nghĩ thế, Gioan tiền hô chấp nhận tất cả những hậu quả do sứ mạng dọn đường thanh trừng tội lỗi cho dù đánh mất mạng sống. Chính vì nhiệt thành với sứ mạng đó mà ông phải chuốt lấy thảm cảnh như hôm nay. Thất là một hành động cao cả của bậc chính nhân quân tử.
Nhưng nếu chúng ngưỡng mộ trước nghĩa cử cao đẹp, anh hùng của Gioan dám đứng lên bảo vệ lề luật của Thiên Chúa Giavê, cương quyết chống lại tội ác thì chúng ta càng phải cảm kích hơn nhiều khi suy nghĩ về cuộc đời và cái chết của Chúa Giêsu.
Cái chết của Gioan là cái chết cho lề luật của Thiên Chúa, chết cho Thiên Chúa. Nhưng cái chết của Chúa Giêsu là cái chết của một vì Thiên Chúa đến trần gian này để chết cho người tội lỗi. Cảm nghiệm sâu sắc điều này làm cho thánh Phaolô phải thốt lên: " Hiếm có mấy ai dám chết cho người công chính, họa chăng là có kẻ dám chết cho người lương thiện, nhưng khi chúng ta còn là tội nhân thì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta " (Rm 5, 7-8).
Qua đó, chúng ta cũng đủ thấy cái giá phải trả cho cuộc đời nhân chứng đau đớn và nặng nề biết bao. Chỉ vì làm chứng cho sự thật, cho lề luật, cương quyết chống lại điều xấu mà Gioan tiền hô đã phải trả bằng mạng sống. Và cũng vì đến trần gian để bày tỏ và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại mà Chúa Giêsu đã phải bước lên thập giá.
Cuộc đời chứng nhân của chúng ta ngày nay cũng đòi phải trả giá biết bao. Dù hôm nay chúng ta không phải đổ máu thân xác ra để làm chứng nhân cho Chúa. Nhưng đau đớn hơn nhiều là chúng ta phải đổ mau trong tâm can, phải chịu đau đớn khi dám chết cho con người tội lỗi mình mỗi ngày. Chúng ta sẽ đau đớn biết bao khi phải chết cho những ham thích của mình, chết cho cái tôi thích quyền lực thống trị, chết cho cái tôi thích được sở hữu chiếm đoạt, chết cho cái tôi thích được phục vụ và chết đi cho cái tôi thích được thỏa mãn nhục dục. . . Quả thật, chết cho con người ích kỹ đó mới là đỉnh cao của sự hy sinh. Chúng ta có thể bố thí, có thể giúp anh em trong một vài chuyện trong tầm tay .... Nhưng tất cả những thứ đó đều nằm bên ngoài ta và chúng ta có thể lấy lại được. Do đó có thể nói, tiêu chuẩn để đánh giá mức độ của tình yêu và lòng hy sinh là chết đi những tham vọng ích kỹ của mình, nghĩa là ta hoàn toàn tan biến để người khác được hạnh phúc.
Nhưng không một hy sinh nào không mang lại đau đớn, cũng không một sự từ bỏ làm mà lại không làm con tim rĩ máu. Để làm chứng và dọn dường cho Đấng Cứu Thế, Gioan tiền hô đã phải trả giá bằng một đời kham khổ, một cuộc sống hoàn toàn thua kém người khác và bằng chính mạng sống của ông. Nhưng dù tất cả nhưng hy sinh đó mang lại nhiều đớn đau nhưng tất cả không mất đi, chúng như con đường dẫn vào hạnh phúc vĩnh cữu. Cuộc sống hôm nay đòi hỏi người Kitô hữu phải hy sinh nhiều, chúng ta phải lội ngược dòng với cuộc sống trụy lạc và trào lưu hưởng thụ của xã hội. Đặc biệt, người thời nay không thích nghe nói về Chúa cho bằng thấy được Chúa hiện diện nơi những chứng nhân của Ngài. Người ta cần nhân chứng dám chết cho tình yêu, cho cống lý hơn những lời chứng suông.
Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta nhìn lại sứ mạng và cuộc sống chứng nhân của mình. Chúng ta có làm chứng cho Chúa trong từng ngày sống chưa? Chúng ta có dám sống chứng nhân trước những nghịch cảnh của cuộc đời, những đòi hỏi của hy sinh, có dám minh chứng cho tình yêu Chúa, dám làm chứng cho công lý khi phải nhận những hậu quả không vừa ý mình hay chúng ta vẫn còn sự thiệt thòi, sợ liên lụy mà im lặng? Làm ngơ hay thinh lặng trước tội lỗi hay trước sự áp bức bất công trong cuộc sống, trước nỗi đau của anh em là phản chứng cho tình yêu Thiên Chúa.
Vào một buổi chiều, sau ngày lên ngôi vị giáo chủ, đức Gio-an 23 ra khu vườn của điện Va-ti-can: MV 3-A100
Vào một buổi chiều, sau ngày lên ngôi vị giáo chủ, đức Gio-an 23 ra khu vườn của điện Va-ti-can đi bách bộ để tìm thư giãn sau một ngày làm việc căng thẳng. Ngài thấy một người đang làm vườn, bên mình bác ta có đeo một chai rượu. Vị giáo chủ khả ái tiến lại gần hỏi chuyện và không chút ngần ngại ngồi xuống đất uống rượu chung với bác ta. Vì chưa biết mặt vị tân giáo chủ, nên trước vẻ xuề xòa của ngài, bác làm vườn nghĩ ngài cũng chỉ là một viên chức cao cấp trong giáo triều, nên bác ta hết lời ca ngợi vị tân giáo chủ dựa theo dư luận mà bác đã nghe biết về ngài. Sau khi đã uống cạn bình rượu với bác làm vườn, trước khi từ giã, đức Gio-an 23 mới hỏi rằng: "Này bác, bác chưa bao giờ thấy mặt vị giáo chủ mới phải không ?" Bác ta trả lời: "Thưa chưa ạ". Bấy giờ Đức Gio-an 23 mới ôn tồn nói: "Thế là hôm nay bác đã thấy rõ rồi nhé. Giáo chủ mới chính là người đã ngồi uống rượu với bác từ nãy đến giờ đó !".
3. SUY NIỆM:
1) "Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?":
Dù bị Hê-rô-đê bắt giam vào tù, nhưng Gio-an vẫn được các môn đệ thông báo về các hoạt động của Đức Giê-su. Khi thấy Đức Giê-su không hành xử nghiêm khắc trừng phạt tội nhân như ông đã rao giảng (x. Mt 3,10-12), Gio-an trở nên hoang mang nghi hoặc, nên sai môn đệ đến gặp Đức Giê-su để nêu thắc mắc về sứ mạng cứu thế của Người: "Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?".
Đức Giê-su đã không trực tiếp trả lời vấn nạn của Gio-an. Người chỉ nêu ra những công việc Người đang làm. Qua đó, Đức Giê-su gián tiếp cho Gio-an biết Người thực là Đấng Thiên Sai, nhưng là một vị Thiên Sai mục tử, xót thương và làm các dấu lạ để cứu giúp những người bệnh tật bất hạnh phù hợp với sấm ngôn của I-sai-a về sứ mạng Đấng Thiên Sai: "Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng" (Is 35,5-6a). Qua đó, Đức Giê-su muốn Gio-an thay đổi quan niệm về một Đấng Thiên Sai thế tục, giải phóng đất nước Do Thái bằng bằng chính trị và binh hùng tướng mạnh, để thiết lập một triều đai hiển hách như thời vua Đa-vít và Sa-lô-mon xưa. Vì nếu không thay đổi, Gio-an chắc sẽ khó tránh khỏi bị vấp ngã (x. Mt 11,6), như ông Phê-rô sau đó đã ngăn cản Đức Giê-su và đã bị Người nặng lời trách mắng như Tin Mừng Mát-thêu thuật lại: "Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mt 16,22-23).
2) "Anh em ra xem gì trong hoang địa ?":
Sau khi môn đệ Gio-an về, Đức Giê-su đã khen ngợi Gio-an tẩy giả về ba phương diện: một là tính tình dũng cảm cương nghị chứ không hèn hạ luồn cúi như loài lau sậy phất phơ trước gió (c 7); Hai là có nếp sống đơn sơ khổ hạnh chứ không đua đòi ăn mặc gấm vóc lụa là như người trong đền vua chúa (c 8); Ba là có sứ mạng tiền hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai (c 10).
Sau khi làm phép rửa cho Đức Giê-su ở sông Gio-đan và được chứng kiến cuộc thần hiện xảy ra trên Người, Gio-an đã tin Người chính là Đấng Thiên Sai. Ông đã giới thiệu Người là "Con Chiên Thiên Chúa" với hai môn đệ và khuyến khích họ bỏ ông để theo làm môn đệ Người (x. Ga 1,36-37). Gio-an đã khiêm tốn thừa nhận vai trò thấp kém của mình "không đáng cởi quai dép cho Người" (x. Lc 3,16) và khẳng định sự lệ thuộc của mình: "Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn". Cuối cùng ông còn khiêm tốn tuyên bố như sau: "Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi" (Ga 3,29-30).
3) "Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông":
Gio-an đã được Đức Giê-su khen là người cao trọng nhất trong con cái loài người: "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông". Vậy Đức Giê-su muốn dạy gì khi nói: "kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông" ?
Đức Giê-su đến thiết lập Nước Trời ban ơn cứu độ, mà Gioan có sứ mạng đi trước dọn đường cho Người. Nước Trời là một gia đình của Thiên Chúa, trong đó chỉ có một Thiên Chúa là Cha, chỉ có Đức Giê-su là Thầy và là người chỉ đạo, còn hết mọi người đều là anh em với nhau (x. Mt 23,8-10). Đây là một xã hội lý tưởng, trong đó mọi người có bổn phận yêu thương nhau và nhờ đó họ sẽ được sống trong niềm vui hạnh phúc. Hiện nay, trên thế giới vẫn có nhiều tiêu cực, đau khổ là do người ta thiếu tình thương với nhau. Đức Giêsu có sứ mạng đem đến cho thế giới một tinh thần mới, một lề luật mới xây dựng trên tình yêu thương. Từ nay tiêu chuẩn mới của sự công chính là tình yêu, khác với tiêu chuẩn cũ là lề luật như lời thánh Phao-lô: "Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy" (Rm 3,28).
4) Dọn lòng đón Chúa đến bằng lối sống khiêm tốn phục vụ với lòng yêu mến:
Mùa Vọng là thời gian các tín hữu chúng ta mong chờ Chúa đến. Trong khi người Do thái mong Đấng Thiên Sai đến trong uy quyền vinh quang thì Chúa lại chọn đến trong khiêm hạ khó nghèo và âm thầm không ai hay biết. Trong khi người đời mong Chúa đến ban ơn cứu độ bằng con đường rộng rãi, thì Chúa lại chọn đi con đường thánh giá chật hẹp leo dốc và ít người dám đi. Ngày nay để nhận được ơn cứu độ là được vào Nước Trời, đòi người tín hữu phải tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, lắng nghe Lời Người và thi hành ý muốn của Chúa Cha (x. Mt 7,21-23). Đức Giê-su cũng cho biết đến ngày phán xét, chỉ những ai phục vụ Người hiện thân trong những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi mới được vào Thiên Đàng (x. Mt 25,34-36).
Ngoài ra, chúng ta cũng cần làm các việc đạo đức và bác ái chia sẻ với lòng mến Chúa. Muốn biết việc cầu nguyện dâng lễ của mình có đẹp lòng Chúa không, thì cần phải nhìn vào hiệu quả: Nếu việc cầu nguyện dâng lễ làm cho tâm hồn chúng ta được bình an, thêm niềm vui và phấn khởi hiến thân phục vụ Chúa và tha nhân hơn... là dấu chúng ta đã làm các việc đạo đức theo thánh ý Thiên Chúa. Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Chúa cho thấy Ngài "chán ngán những buổi cầu nguyện, những nghi thức tôn giáo rỗng tuếch vì thiếu tình yêu" (x. Is 1,11-17). Ấy thế mà rất nhiều Ki-tô hữu hiện nay vẫn đang cầu nguyện dâng lễ theo luật nhưng lại thiếu lòng yêu mến như thế, hoặc đang làm các việc bác ái để tìm tiếng khen hay chỉ mong được thưởng công sau này (x. Mt 6,1-6). Vậy trong những ngày Mùa Vọng này, mỗi người chúng ta cần thực hành các việc đạo đức với tâm tình nào để chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến?
4. THẢO LUẬN: Noi gương Đức Giê-su cứu thế bằng con đường vâng phục, yêu thương và khiêm tốn phục vụ (x. Mt 11,5), trong những ngày này bạn sẽ làm gì để nên môn đệ thực sự của Đức Giê-su trước mặt anh em lương dân ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng con rất khâm phục thánh Gio-an, vị tiền hô của Chúa khi ngài can đảm đứng ra nói lên sự thật, dù bị Hê-rô-đê thù ghét và sau đó ngài đã anh dũng chết để làm chứng cho sự thật ấy. Xin đừng để chúng con bao giờ hèn nhát, vào hùa với kẻ mạnh để hiếp đáp những kẻ thân cô thế cô, giống như loài lau sậy ngả nghiêng theo chiều gió. Gio-an đã sống khổ hạnh, đi ngược lại trào lưu đam mê ích kỷ trong đền vua chúa. Xin cho chúng con biết tiết giảm mua sắm các vật dụng quần áo, để dành tiền chia sẻ cho những anh chị em nghèo khổ bất hạnh chung quanh chúng con. Gio-an đã trung thành với sứ mạng công bố Lời Chúa để giúp những kẻ gian ác bỏ đường tội lỗi trở về với Chúa, xin cho chúng con cũng biết chu toàn sứ mạng ngôn sứ khi dám lên tiếng bênh vực công lý, bất chấp những sự đe dọa trả thù và làm mọi việc lành với lòng mến Chúa để xứng đáng được Chúa vui nhận.