Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 1-A Bài 151-200: Hãy tỉnh thức để sẵn sàng -------------------------------------------- Phúc Âm: Mt 24, 37-44: "Hãy tỉnh thức để sẵn sàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy. Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi. Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. "Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến". - Ðó là lời Chúa.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm Vũ Khắc Nghiêm)
Khi bị vây khốn ở đất Khuông, Khổng Tử nói: “Trời chưa muốn Đạo ta mất, thì người đất Khuông làm MV 1-A151 Lương
Khi bị vây khốn ở đất Khuông, Khổng Tử nói: “Trời chưa muốn Đạo ta mất, thì người đất Khuông làm gì được ta?” (LN. XIV,36 “Đạo tôi thi hành được là do mệnh Trời …”). Nguyễn Trãi đã tin vào lời cha là Nguyễn phi Khanh khuyên: “Nếu Trời muốn cho nước ta tiêu diệt thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh. Không bao giờ! Trãi con ơi! tương lai đầy ánh sáng, cha đứng đây trông suốt được ngàn thu …”. Cha bị quân Tầu bắt, Nguyễn Trãi đã không theo cha. Ông nghe lời cha, đã hy sinh trở về lập chí cứu quốc và đã chiến thắng quân Tầu.
Một đàng, Khổng Tử tin Trời vững chắc, ông hy vọng đạo thánh hiền sẽ tỏa sáng trong tương lai. Ông không sợ kẻ thù có thể hại ông. Ông đã quyết tâm truyền bá đạo lý và đã trở thành vạn thế sư biểu.
Một đàng, Nguyễn Trãi hy vọng vào tương lai đầy ánh sáng, ông quyết tâm tìm đường cứu quốc, và ông đã trở thành Đệ nhất khai quốc công thần.
Tin và hy vọng là lẽ sống của con người. Tin là nhận có một sự thật tồn tại. Hy vọng là mong ước đạt được sự thật đó. Tin và hy vọng đều hướng về một đối tượng chân thiện mỹ có thật, đáng khao khát, đáng ngưỡng vọng, vượt xa khỏi hiện tại. Hiện tại thường làm ta thất vọng vì nó đầy đau khổ, bất toàn. Ta cần vượt tới một tương lai tốt đẹp, hạnh phúc cao cả, mong thỏa mãn hy vọng. Nếu không có hy vọng, ta không còn muốn sống nữa, không ham hoạt động, không còn tiến bộ. Hiện tại không có gì vững chắc bền bỉ, luôn thay đổi, nay còn mai mất. Cuộc đời là cảnh phù vân, đến nỗi Cao bá Quát đã kêu lên:
“Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ. Mảnh hình hài không có có không”.
Cái không có luôn ám ảnh ta. Ta cần cái hằng có, hằng sống cho đời ta. Nếu không có cái hằng có, hằng sống, sẽ không còn đạo đức, không còn thiện hảo. Mục đích sống thiện hảo là để vươn tới sự tồn tại vĩnh cửu tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Chỉ có Thiên Chúa là hằng hữu, hằng sống. Chỉ có Thiên Chúa là thiện hảo, hạnh phúc. Chỉ có Ngài mới có thỏa mãn niềm tin và hy vọng của con người.
Mùa vọng giúp ta thực hiện niềm tin và hy vọng đó. Lời Chúa hôm nay trình bày những lý do đáng cho ta tin và đầy hy vọng.
Những lý do đáng tin: Thiên Chúa là Cha chúng con từ muôn thuở. Ngài là thợ gốm, chúng con là đất sét. Chính tay Ngài đã làm nên chúng con hết thảy (Is. 63, 16.19).
Những lý do đầy hy vọng: “Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, xin Ngài trở lại, xin Ngài xé trời mà ngự xuống” (Is. 63, 19).
“Chúng con đang mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô mặc khải vinh quang của Người, cho chúng con được hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (ICr. 1, 7-8).
Chúng ta tin và hy vọng vững chắc vào Thiên Chúa như thế, không phải hão huyền, ảo tưởng. Hy vọng và tin tưởng của chúng ta được bảo đảm hoàn toàn vì trong quá khứ “chính Ngài đã giải phóng dân Israel ra khỏi nô lệ Ai cập bằng cánh tay toàn năng, chính Ngài đã ngự xuống núi Sinai ban mười điều luật để giáo dục dân sống công chính, chính Ngài là Đấng trung tín đã giữ lời minh ước, ban Đấng Cứu Thế là Con một Ngài giáng sinh làm người, đã chịu chết, đã sống lại và lên trời để cho thấy Thiên Chúa là Cha đã yêu thương vô cùng và thấy sự sống lại vinh quang, bảo đảm cho chúng ta có cuộc sống hạnh phúc muôn đời”. Bài đọc hai, thánh Phaolô còn cho thấy giáo đoàn Côrintô được bao nhiêu ân huệ: ơn được kết hợp với Đức Giêsu Kitô, được nghe lời Chúa, được hiểu biết mầu nhiệm Thiên Chúa để trở nên phong phú đến nỗi không còn thiếu một ân huệ nào. Chỉ còn một ân huệ duy nhất là đón chờ ngày quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó là những bằng chứng bảo đảm chắc chắn cho niềm tin và hy vọng của chúng ta mà trong lịch sử thế giới không đâu có bằng. Israel đã thách đố “từ cổ chí kim, thiên hạ chưa hề được biết, tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được thấy một vị thần nào như Thiên Chúa đã làm cho kẻ trông cậy Ngài như vậy” (Is. 64, 3).
Hiện tại, trước mắt chúng ta, Thiên Chúa ẩn mình như một ông chủ đi xa vắng nhà. Chúng ta phải chăm lo làm tròn trách nhiệm Ngài trao phó, phải tỉnh thức đón nhận ơn Ngài, sống theo thánh ý Ngài, mãi mãi đi trong đường lối Ngài, đang khi trông chờ, hy vọng Ngài đến trong vinh quang, chúng ta được nhập đoàn những người con thảo theo Ngài về nước Cha hằng sống, hạnh phúc muôn đời.
Lạy Chúa, là Cha chúng con. Khả ái thay cung điện của Ngài, hồn con mong ước đến hao mòn. Thân con reo lên tới Thiên Chúa hằng sống. Lạy Chúa thiên binh, xin lắng nghe lời con khẩn nguyện. Xin cho con được ở trong nhà Ngài, còn hơn ấm cúng trong dinh thự lũ ác nhân. Lạy Chúa, phúc thay kẻ tin cậy ở Ngài (Tv. 84).
Trong bài có tựa đề “Sống Mùa Vọng”, LM Thái nguyên đã viết như sau: “Theo truyền thống Giáo MV 1-A152
Trong bài có tựa đề “Sống Mùa Vọng”, LM Thái nguyên đã viết như sau: “Theo truyền thống Giáo Hội, Mùa Vọng có bốn ý nghĩa sau: a- Mùa kỷ niệm thời gian chuẩn bị đón Chúa Kitô "đã đến" lần thứ nhất; b- Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ đến" lần thứ hai vào ngày tận thế; c- Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ đến" viếng thăm vào cuối đời mỗi người chúng ta; d- Mùa chuẩn bị tâm hồn Kitô hữu xứng đáng để mừng Lễ Giáng Sinh sắp tới” [1]
Như vậy, việc chuẩn bị Chúa Ki-tô sẽ đến thăm vào cuối đời mỗi chúng ta thuộc về một trong bốn ý nghĩa của Mùa Vọng. Phụng vụ Mùa Vọng kêu gọi chúng ta hoán cải, tỉnh thức để sẵn sàng đón Chúa, gặp Chúa, đặc biệt khi chúng ta lìa đời. Bài Tin Mừng của CN I MV năm nay cũng nhắc nhở các tín hữu, như sau: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24, 42-44).
Thông thường Mùa Vọng là dịp để giúp các tín hữu chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Dù đó là một lễ kỷ niệm, vì Chúa đã đến rồi, nhưng sự chuẩn bị cũng phải chu đáo và nghiêm túc. Chúng ta sẽ đi xưng tội, có thể siêng năng tham dự thánh lễ hơn, có thể đọc kinh cầu nguyện siêng hơn, có thể làm việc bác ái nhiều hơn. Bên cạnh đó nhiều người cũng có thói quen sửa sang và trang trí nhà cửa, đi mua sắm, chuẩn bị những bữa tiệc Giáng Sinh hoành tráng cho gia đình và bạn bè vv.
Xét cho cùng, những việc đó cũng cần thiết và tốt lành. Tuy nhiên, đó không thể là chính yếu và cấp bách so với những sự chuẩn bị khác quan trọng hơn. Như trên đã nói, một trong những chuẩn bị quan trọng của người tín hữu trong Mùa Vọng, đó là sống tỉnh thức để sẵn sàng đón Chúa vào giờ chết của mình. Đây là một cuộc thao dượt tâm linh đòi hỏi chúng ta kiên tâm, tích cực và mau mắn. Chúng ta biết rằng, sự chết sẽ không đợi chúng ta, nó đến rất bất ngờ.
Thực vậy, “Mùa Vọng là mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ đến" viếng thăm vào cuối đời mỗi người chúng ta. Không ai biết được ngày giờ nào, vì thế, hãy chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng. Như Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì chúng con không biết lúc đó là lúc nào!” (Mc 13, 33). Thánh Phaolô cũng khuyên: “Chúng ta mong chờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra …” và mong rằng: “Chúng ta bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Chúa Kitô, Chúa chúng ta ngự đến” (1Tx 5, 23).” [1]
Vì sự chết đến bất ngờ, nên chúng ta cần có những thái độ sau:
1- TỈNH THỨC VÀ LUÔN DỌN MÌNH CHẾT LÀNH
Tỉnh thức không có nghĩa là chúng ta chờ đợi một cách thụ động, trái lại theo nghĩa tích cực là chúng ta chu toàn việc bổn phận mình. Nhất là chúng ta luôn thực hành thánh ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, “Tỉnh thức là ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong khi ngủ, ngủ trong an bình như các cô trinh nữ khôn ngoan, như Thánh Phanxicô de Sales đã nói rằng: “Sự chờ đợi đích thực có nghĩa là chờ đợi mà không lo lắng gì cả”. Tỉnh thức để nhận ra Chúa nơi người anh em bé mọn, khốn khổ, bất ngờ đến với mình và nài xin mình trợ giúp. Thật thế, Đức Kitô đến với chúng ta qua hiện thân người đói khát, rách rưới, một người yếu đau, lỡ đường, thậm chí một phạm nhân trong nhà giam như chính Ngài đã khẳng định (x. Mt 25, 31-46). Ai tỉnh thức đón nhận những người bé mọn này là đón nhận Ngài, được Ngài đưa vào dự tiệc dành sẵn đời đời. Cha Charles de Foucault khuyên nhủ: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay.” [2]
Người ta nói, những ai thường xuyên dọn mình chết sẽ được chết lành. Chết lành là chết trong ơn nghĩa Chúa, là được gặp Chúa khi linh hồn lìa xác, là được đón nhận vào hàng ngũ những người Chúa chọn.
Trong bài “Chuẩn bị đón chờ Chúa đến”, LM Đan Vinh đã chia sẻ như sau:
“Về việc dọn mình chết lành: Hiện nay có nhiều người sống như không bao giơ phải chết. Họ không biết mình sống để làm gì và không biết chết rồi sẽ ra sao ? Do đó, họ chỉ lo hưởng thụ các đam mê lạc thú bất chính và không làm gì để chuẩn bị cho đời sau. Còn các tín hữu hôm nay cần ý thức về ngày giờ chết của mình để chuẩn bị chết lành, bằng việc thực hiện những việc như sau: Thanh toán nợ nần sòng phẳng, hồi tâm sám hối mỗi tối và năng lãnh bí tích Hòa giải, dọn mình dự lễ rước lễ mỗi ngày. Thực hành các việc bác ái cụ thể như kinh “Thương Người có mười bốn mối” và “Kinh Hòa Bình” (của thánh Phanxicô Assisi) đề ra. Ngoài ra còn phải chu toàn công việc bổn phận như: học tập, nội trợ, lao động trí óc chân tay… Làm được như vậy thì khi giờ chết đến gần, chúng ta sẽ không cảm thấy bồn chồn lo lắng, nhưng sẽ vui mừng chờ đón Chúa đến trong niềm tin tưởng cậy trông sẽ được Người thương đón nhận vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.” [3]
2- THƯỜNG XUYÊN SUY GẪM VỀ SỰ CHẾT
Các thánh là những người luôn suy gẫm về sự chết, sẵn sàng chết và coi cái chết như một “người thân”. Thánh Phanxicô Assisi đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa vì chị chết mà không ai thoát khỏi được. Vô phúc cho người chết trong tội trọng và diễm phúc cho người được chết trong ân nghĩa Chúa, vì cái chết lần thứ hai sẽ không làm cho họ đau khổ” (x. GLHTCG số 1014).
Sách GLHTCG số 1014 cũng viết như sau: “Hội thánh khuyên chúng ta chuẩn bị cho giờ chết (‘Xin cứu chúng con khỏi chết bất đắc kỳ tử’: kinh cầu các thánh cũ); khấn xin Mẹ Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta ‘trong giờ lâm tử’ (Kinh Kính Mừng) và trông cậy vào Thánh Giu-se là bổn mạng kẻ ‘mong sinh thì’. ‘Trong mọi hành động, trong mọi suy tư của con, con phải xử sự như hôm nay con phải chết. Thà giữ mình không phạm tội, hơn là trốn tránh sự chết. Nếu hôm nay con chưa sẵn sàng chết, thì làm sao ngày mai con sẵn sàng được’ (x. Sách Gương Chúa Giê-su)”.
Chúng ta biết rằng, “Thường xuyên suy gẫm về sự chết là cách thế hữu hiệu nhất để sống cách tốt nhất. ĐHY Phx. Nguyễn Văn Thuận chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm: “Nếu tôi biết ngày mai mình sẽ chết, thì hôm nay tôi sẽ sống một ngày đẹp nhất”. Chúng ta chưa sống từng ngày đẹp nhất là vì cứ tưởng mình còn lâu mới chết. Đó cũng là cám dỗ của ma quỷ để ta mê say cuộc sống này mà mất đi sự cảnh giác”. [1] . . .. . . . . . . . .
Người ta thường nói “Sống thế nào, chết thế ấy”. Nếu trong cuộc sống thường ngày của mình, Ki-tô hữu chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa thì chắc chắn lúc ta lìa đời, ta sẽ gặp được Chúa. Sự chết không còn bi đát nữa mà sẽ trở thành cuộc hội ngộ thần thiêng. Đúng như lời thánh Phao-lô đã viết: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi…” (Pl 1,21-23). Sống mật thiết gắn bó với Chúa cũng có nghĩa là chúng ta thông hiệp vào sự chết cứu chuộc của Ngài, để nên đồng hình đồng dạng với Ngài, trong sự chết cũng như trong sự sống lại, trong đau khổ cũng như trong vinh quang. Trong thư Rô-ma, thánh Phao-lô đã khẳng định: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6, 8).
Cuộc sống của Ki-tô hữu trên dương thế sẽ có kết cục thế nào đó là tùy vào sự chọn lựa và đáp ứng của ta đối với Đức Ki-tô và với Tin Mừng của Ngài. Nếu chúng ta đã sống cho Chúa, vì Chúa, trong Chúa thì cũng sẽ chết cho Ngài, vì Ngài và trong Ngài. Và phần thưởng của những ai đã sống-chết cho Chúa, vì Chúa, đó là sự sống đời đời. “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8, 51). Ở chỗ khác, Chúa Giê-su cũng đã nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 25). Thánh Phao-lô cũng khẳng định, “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14, 7-8).
Mùa Vọng đích thực là dịp để chúng ta suy gẫm về sự chết và sống tâm thế của một Ki-tô hữu tỉnh thức chờ Chúa đến bất cứ ngày giờ nào, đồng thời luôn sẵn sàng ra đi để gặp Chúa là cứu cánh đời mình.
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, khởi đầu cho Năm Phụng Vụ mới MV 1-A153
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, khởi đầu cho Năm Phụng Vụ mới. Chắc hẳn ta cảm nhận thời gian trôi qua thật nhanh. Khi khí trời se lạnh một chút, chúng ta đã thấy ngoài thị trường trưng bày bán đầy dẫy những đồ trang trí lễ Noel. Người ta rộn ràng mua sắm, chuẩn bị cho ngày lễ và mở nhạc Giáng Sinh khắp nơi. Thế nhưng, với mỗi người Kitô hữu, Hội Thánh mong muốn chúng ta sống Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị kính nhớ biến cố Con Thiên Chúa đến với nhân loại lần thứ nhất, đồng thời chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày cánh chung. Vì thế, Lời Chúa mời gọi ta "Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến." Vậy, chúng ta cần làm gì và sống như thế nào để có thể canh thức và sẵn sàng đón Chúa?
Khi mừng Lễ Giáng Sinh, chúng ta nhớ về một biến cố trong quá khứ đã diễn ra trước đây hơn hai ngàn năm. Chúng ta cử hành sinh nhật của Chúa Giêsu, Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa trở nên một người ở giữa chúng ta. Còn Mùa Vọng lại thúc đẩy chúng ta hướng về tương lai. Mùa Vọng nhắc chúng ta nhớ rằng một ngày nào đó Chúa Giêsu sẽ đến trong vinh quang, là ngày cùng tận của thế giới, để thay đổi, làm cho tất cả nên mới. Vì thế, "Hãy canh thức, hãy sẵn sàng" là điều Chúa Giêsu chỉ dạy và mong ước chúng ta thực thi.
Hãy Canh Thức. Chúa tha thiết kêu mời chúng ta hãy canh thức để có thể nhận biết sự hiện diện của Chúa trong trần gian và trong cuộc sống của chính chúng ta. Chúa Giêsu đưa ra quang cảnh ngày Chúa đến sẽ như nạn hồng thủy ập xuống bất ngờ "Thời ông Nôê thế nào thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy." Vì thế, cần phải canh thức mới nhận ra ngày giờ Chúa đến và mới được cứu. Người canh thức là người tỉnh, không ngủ mê trong những tội lỗi; là người tỉnh thức trước những cám dỗ của trần gian, của những ham mê danh lợi thú, của những lo lắng sự đời và tất cả những gì ngăn cản Chúa đến với ta.
Cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tỉnh thức hướng lòng về Chúa và không còn bám víu vào thế trần. Chính Chúa đã dạy các môn đệ "Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối."(Mc 14,38). Cầu nguyện là vũ khí của người Kitô hữu và là chìa khóa mở trái tim Thiên Chúa. Vì vậy, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta hãy "Cầm lấy cũ khí của sự sáng để chiến đấu."(Rm13,12) Nhờ vũ khí cầu nguyện, chúng ta mới thức dậy và mạnh mẽ loại trừ những việc làm đen tối, ăn ở đứng đắn, không chiều theo tính xác thịt hay dục vọng nhưng luôn mặc lấy Chúa Kitô (x. Rm 13,12-14). Vậy đừng bao giờ chúng ta ngừng cầu nguyện, vì "Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục."(Thánh Têrêsa Avila) Ước mong sao mỗi chúng ta biết dùng thời giờ trong ngày sống để dâng lên Chúa những tâm tình tôn vinh, chúc tụng, cảm tạ, hối lỗi và xin ơn lành...Như thế, cầu nguyện sẽ là chiếc thang nối trời với đất và giúp ta luôn tỉnh thức sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Hãy Sẵn Sàng. Lời Chúa tha thiết nhắc nhở ta hãy biết chuẩn bị chu đáo từ xa để có một tâm hồn sẵn sàng chờ đón Chúa. Bởi "Đời đâu học được chữ ngờ", thế nên thái độ sẵn sàng không bao giờ là thừa, nhất là sẵn sàng chờ đón giờ Chúa đến. Vì "chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến". Giờ và ngày ấy sẽ không bất ngờ nếu ta biết chuyên chăm cầu nguyện, cử hành các Bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể mỗi ngày. Chỉ trong cầu nguyện và cử hành Bí tích, ta mới có cơ hội tập quen dần đón Chúa, gặp gỡ Chúa và trò chuyện thân mật với Chúa. Nhờ cầu nguyện, Chúa ban cho ta sức mạnh và lòng can đảm để vượt qua những thử thách, những sự dữ và có thể đứng vững trong ngày Chúa đến.
Chúng ta cần lắng nghe Chúa nhắn nhủ và ý thức để sống Canh Thức và Sẵn Sàng, vì "Anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến." Hãy để Lời Chúa ngân vang trong lòng chúng ta, và cố gắng thực thi Lời Chúa dạy. Hãy dành thời gian cầu nguyện, tập nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đởi mình, trong những biến cố, trong anh chị em. Và ta cũng hãy biết đón Chúa qua việc tiếp đón, yêu thương chia sẻ với những anh chị em bé nhỏ, nghèo hèn đang sống quanh ta ngay nơi trần gian này. Có như thế, tâm hồn ta mới luôn ở trong tư thế canh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa. Đừng để ta bị bất ngờ về "Ngày ấy" Ngày Chúa đến với ta qua giờ chết của mỗi người và trong ngày Chúa quang lâm.
Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến. Xin hãy ban thêm lòng tin, cậy, mến, để chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa và được hưởng ơn cứu độ. Amen.
Mùa vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi. Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà MV 1-A154
Mùa vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi. Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử. Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một. Ðó là một ngày đáng sợ, không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy ra, nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết. Ngày đó còn là một ngày hội vui: ngày vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang, ngày vui của những người được cứu chuộc, ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng. Tận thế là cánh cửa mở ra trời mới đất mới. Tất cả được đưa vào thế giới vĩnh cửu.
Ngôn sứ Isaia cổ võ thêm cho sự mong chờ ấy bằng lời sấm đầy tràn hy vọng về đấng Emmanuel: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, đặt tên là Emmanuel” (Is 7, 14). Vị ngôn sứ còn loan báo một cuộc hành hương vĩ đại vào thời thiên sai: mọi dân nước trên mặt đất sẽ tiến về Giêrusalem, tập trung quanh Israel, để nhận biết và phụng thờ Giavê (Is 2, 2-5; x. Mk 4,1-5). Niềm hy vọng vội tan biến khi Israel bị Babylone xâm lăng và bị lưu đày (587).
Do Thái, dân tuyển chọn, lúc ấy đang sống trong thời kỳ bi thảm về chính trị, xã hội lẫn tôn giáo. Phương Bắc đã hoàn toàn bị đế quốc Assyri tiêu diệt (721), Phương Nam, tức đất nước Giuđa, sống dưới sức ép của đế quốc Babylone đang hăm he thôn tính. Xã hội đầy những bất công, áp bức và chèn ép: người giàu cứ phè phỡn hưởng thụ trong khi dân nghèo bị bỏ rơi và khốn khổ. Tôn giáo lỏng lẻo, pha trộn, vụ hình thức. Chính trong thời buổi nhiễu nhương và thất vọng ấy, sấm ngôn Nathan (2S 7,14) về việc Thiên Chúa hứa sẽ bảo đảm cho vương triều Đavít được miên trường khơi dậy trong lòng người nỗi mong chờ một vị Thiên Sai thuộc dòng tộc Đavít xuất hiện để giải cứu và phục hưng đất nước.
Trước hết Ngài dùng chuyện ông Nôê trong Cựu Ước để khuyến cáo các môn đệ mình: người ta dễ bị cuốn hút trong những lo lắng cho cuộc sống vật chất (ăn uống, cưới vợ lấy chồng). Những lo lắng này không có gì là tội lỗi, nhưng có thể khiến người ta quên mất điều quan trọng là luôn luôn sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Do đó khi ngày ấy đến một cách nhanh chóng và bất ngờ, thì những kẻ không sẵn sàng sẽ phải hư mất.
Tiếp theo là một số hình ảnh diễn nghĩa, giúp dễ hiểu: Có những người bề ngoài thì hoàn toàn giống nhau (hai người đàn ông cùng làm ruộng ngoài đồng, hai người đàn bà cùng xay một cối bột) nhưng số phận hoàn toàn khác nhau: kẻ có chuẩn bị sẵn sàng thì được đem đi (đem đi với Thiên Chúa), còn kẻ không chuẩn bị thì bị bỏ lại (bỏ lại trong hư vong).
Nếu trước đây Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập, giờ đây Người lại giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày để họ được hồi hương tái thiết Đền Thờ và đất nước.
Một lần nữa, hy vọng lại dâng cao với sự mong chờ vị Thiên Sai Ngôn sứ mà trước đây Môsê đã từng loan báo (Đnl 18,18). Đấng Thiên Sai Ngôn sứ này là người Tôi trung của Giavê mà Isaia II đã phác hoạ là người được Thiên Chúa tuyển chọn và ban tràn đầy Thần Khí, sẽ phải chịu nhiều đau khổ và chịu chết để cứu độ dân Người. Hy vọng và mong chờ vẫn kéo dài cho đến lúc người ta lại chuyển sang việc mong đợi Con Người, một nhân vật thiên quốc mà Daniel mô tả là Đấng ngồi bên hữu Thiên Chúa, được Thiên Chúa trao cho toàn quyền chung thẩm nhân loại (Dn 7,13-14).
Trong từng giai đoạn,Israel lại mong chờ vị Thiên Sai cứu tinh. Niềm hy vọng mong chờ đó đã nâng đỡ dân trong suốt thời kỳ đầy thảm hoạ. Sống là hy vọng và mong chờ. Suốt thời kỳ đầu của Giáo Hội tiên khởi, giữa trăm chiều thử thách, các tín hữu hằng mong chờ ngày Chúa trở lại và tha thiết kêu xin: Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!
Giữa lúc nhân loại đang chìm sâu trong đêm tối của lầm lạc và tội lỗi, khát mong ơn cứu độ. Khi Israel đang mòn mỏi mong chờ vị Thiên sai đến giải thoát. Một vì sao sáng xé ngang màn đêm. Ánh sáng xuất hiện. Thiên Chúa đã nhập thể đến giữa loài người, mang tên gọi Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,23).
Loài người khát khao cứu độ, nhưng nhận biết mình hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết trông đợi ở Chúa. Con người không thể lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa lại xuống với con người. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Người Con một ấy chính là Ngôi Lời vĩnh cữu đã trở nên người phàm (Ga 1,1.14), sinh bởi một người nữ và sống dưới Lề Luật để cứu những ai đang sống dưới Lề Luật, hầu cho họ được ơn làm nghĩa tử (Gl 4,4-5).
Đó là lần thứ nhất Thiên Chúa xuống trong lịch sử mà ta vui mừng tưởng niệm trong ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh sắp đến, hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa đến với ta, mang niềm vui, an bình và cứu độ.
Tưởng niệm không phải chỉ là một hoài niệm quá khứ, nhưng căn bản là hiện tại hoá việc Chúa đến hôm nay trong mỗi giây phút cuộc sống và nhất là hướng lòng về ngày Chúa quang lâm khi niên cùng nguyệt tận để phán xét toàn nhân loại. Lúc ấy Người sẽ phân định sự sống đời đời cho những người lành và án phạt muôn đời cho những kẻ dữ là những ai khi sống nơi dương thế đã chối từ Thiên Chúa để đặt mình dưới quyền thống trị của ma quỷ và tội lỗi.
Hãy biết lắng nghe, suy niệm và thực hành Lời Chúa bởi đơn giản rằng Chúa đến và đối thoại với ta trong Thánh Kinh.
Hãy thu xếp công việc để rồi năng tham dự thánh lễ và rước lễ, hãy chiêm ngắm, tôn thờ và sống bí tích Thánh Thể. Chúa đến và ở giữa chúng ta trong Thánh Thể bằng tất cả tình yêu tự hiến, và trở nên Bánh hằng sống nuôi dưỡng ta trên bước đường lữ thứ tiến về nhà Cha.
Trọn cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu là yêu thương và phục vụ hết tình và hết mình. Chúa đến trong anh em: “Sự gì các ngươi làm cho một anh em bé mọn là làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Người đã rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc ly như mẫu gương của sự phục vụ khiêm tốn và vô vị lợi (Ga 13,14-15). Người đã yêu thương đến tận cùng, đến chết trên thập giá. Hãy sống yêu thương và phục vụ vì đó là lề luật quan trọng nhất và là dấu chỉ của người môn đệ Chúa Giêsu (Ga 13,34-35).
Ngày Quang Lâm vào lúc thế tận sẽ rất bất ngờ. Sự chuẩn bị sẵn sàng được xác định qua tư cách biết đón Chúa đến mỗi ngày trong cuộc sống hiện tại. Sách Khải huyền viết: “Phúc cho ai chết trong ân nghĩa của Chúa”. Nhưng để chết trong ân nghĩa thì phải biết sống trong ân nghĩa. Chúa đứng ngoài cửa và gõ; ai sẵn lòng mở, Người sẽ vào và dự bàn tiệc với người ấy.
Hãy quay trở về nơi chốn thâm sâu nhất của cõi lòng mình và hãy nhận ra cho được ai và cái gì đang ngự trị trong chốn thâm sâu đó, và đang thực sự điều hướng tất cả mọi suy nghĩ, mọi ước muốn, mọi hành vi của mình…
Hôm nay Hội Thánh bước vào Mùa Vọng. Vọng là chờ, là mong. Nhưng chúng ta chờ mong điều MV 1-A155
Hôm nay Hội Thánh bước vào Mùa Vọng. Vọng là chờ, là mong. Nhưng chúng ta chờ mong điều gì? Phải chăng là mong chờ Lễ Giáng sinh? Thưa không, chúng ta không mong chờ một lễ vui, mà mong chờ chính Chúa sẽ đến với chúng ta. Khi Ngài đến, Ngài sẽ mang cho chúng ta bình an, hạnh phúc. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng những ơn lành ấy chỉ đến với những ai đã chuẩn bị lòng mình sẵn sàng. Vậy kể từ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tích cực chuẩn bị tâm hồn, vì ơn cứu độ của Chúa đã đến gần.
II. Gợi Ý Sám Hối
Một năm phụng vụ đã trôi qua, hôm nay bắt đầu một năm phụng vụ mới. Phải chăng trong năm phụng vụ vừa qua chúng ta đã có phần thờ ơ, ươn lười, nhiều lầm lỗi?
Xã hội ngày nay đầy dẫy sự xấu. Phải chăng chúng ta cũng có phần tạo nên tình trạng ấy?
Chúng ta cũng mong rằng thế giới sẽ tốt hơn, con người sẽ thương yêu nhau hơn. Nhưng chúng ta có làm gì cho tương lai ấy mau đến không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 2,1-5):
Vào hậu bán thế kỷ VIII trước công nguyên, vương quốc Giuđa khá thịnh vượng về mặt vật chất, nhưng lại rất suy đồi về mặt đạo đức. Trước tình trạng ấy, ngôn sứ Isaia một mặt thẳng thắn vạch tội dân và kêu gọi họ ăn năn sám hối, mặt khác loan báo rằng nếu dân trở lại thì Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tương lai tốt đẹp.
Tương lai ấy được Isaia diễn tả bằng những hình ảnh thi vị:
Ðó sẽ là thời dân Thiên Chúa được tôn vinh: "Núi Nhà Chúa sẽ được xây trên đỉnh các núi". Mà dân Thiên Chúa được tôn vinh cũng có nghĩa là Thiên Chúa được tôn vinh, vì chính nhờ đức tin của họ mà các dân tộc trên mặt đất sẽ biết tới Chúa và tôn thờ Ngài: "Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà của Giacóp".
Khi mọi người đã biết tôn thờ Chúa thì đó cũng sẽ là một thời thái bình: "Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa".
2. Ðáp ca (Tv 121)
Tâm tình đầy lạc quan hy vọng của Isaia được diễn tả qua Tv 121: "Ôi tôi sung sướng biết bao khi nghe nói: Chúng ta sẽ về nhà Chúa"
3. Bài Tin Mừng (Mt 24,37-44)
Ðức Giêsu cho biết Ngày tốt đẹp ấy sắp đến. Nhưng Ngài đặc biệt lưu ý ba điều:
a/ Ngày ấy sẽ đến một cách không ai ngờ cũng như chuyện Hồng thuỷ thời Nôe: thiên hạ cứ mải mê với những chuyện thế tục "Người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Nôe vào tàu mà người ta cũng không ngờ".
b/ Trong Ngày ấy, số phận loài người sẽ phân thành hai hạng khác nhau: có người sẽ "được đem đi" (được tiếp nhận), nghĩa là được nhận vào hưởng tương lai hạnh phúc với Chúa, nhưng có người sẽ "bị bỏ lại", nghĩa là không được hưởng hạnh phúc ấy (Chú ý: một số bản Việt ngữ đã dịch ngược nghĩa là "bị đem đi" và "được để lại").
c/ Ðược tiếp nhận hay bị bỏ rơi là do người ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không. Vì thế Ðức Giêsu kết luận: "Vậy các con phải sẵn sàng"
4. Bài đọc II (Rm 13,11-14)
Thánh Phaolô nói rằng Ngày tươi sáng đó rất gần rồi: "Giờ đây phần rỗi của chúng ta gần đến... Ðêm sắp tàn, ngày gần đến". Và Ngài giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng:
a/ Trước hết, tỉnh thức sẵn sàng là "từ bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu". Nghĩa là phải tích cực chiến đấu để loại trừ sự dữ và cổ vũ cho sự thiện.
b/ Kế đó, tỉnh thức sẵn sàng là thay đổi cách sống: Hãy bỏ nếp sống cũ theo xác thịt, thể hiện trong việc ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị, lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt; thay vào đó bằng một cuộc sống mới theo gương Ðức Giêsu Kitô.
IV. Gợi Ý Giảng
1. Phải biết nuôi hy vọng
Alan Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the Beloved Country trong đó ông mô tả hoàn cảnh khốn khổ của nước Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. Platon có một giấc mơ: ông mơ có một ngày mà mọi người dân trong đất nước của ông đều được đối xử công bình và bình đẳng. Và để thực hiện giấc mơ ấy, ông đã lao mình vào chính trị, đấu tranh suốt mấy mươi năm để xoá bỏ chế độ apartheid ấy. Nhiều người cho rằng mơ ước và việc làm của Platon là không thể nào thực hiện được. Nhưng ông vẫn kiên trì vì tin rằng ngày mơ ước ấy sẽ đến. Chỉ tiếc là ông đã chết trước khi thấy được ngày đó, nhưng lịch sử chứng minh rằng ông đã đúng.
Ngôn sứ Isaia còn có một giấc mơ táo bạo hơn nữa: Ông mơ tới ngày các nước sẽ không còn tuốt gươm chém giết lẫn nhau nữa, người ta sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm, và mọi người sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa. Thật là một giấc mơ tuyệt vời! Có người cho rằng giấc mơ ấy sẽ đến khi Ðấng Messia đến. Người khác cho rằng nó chỉ sẽ đến khi Ðấng Messia lại đến lần thứ hai. Có kẻ nói nó sẽ chẳng bao giờ đến, đó chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng vẫn có người tin rằng thế nào nó cũng đến nên miệt mài theo đuổi như Alan Platon trong chuyện trên.
Một chuyện khác: Một người thợ săn nghe nói tới một con chim đặc biệt có đôi cánh rộng màu trắng rực rỡ. Ðó là con chim đẹp nhất trong các loài chim trên mặt đất. Vì thế người thợ săn không quản ngại đường xa, trèo đồi vượt suối đi tìm nó hết ngày này sang ngày khác, tháng này đến tháng nọ, năm này đến năm kia. Một lần anh đã may mắn thấy được bóng dáng nó ở một khoảng cách rất xa. Nhưng chỉ thoáng thấy là nó bay đi mất. Anh vẫn kiên trì đi tìm. Một ngày kia anh nhặt được một cọng lông trắng của nó. Rồi anh chết đi mà không bao giờ bắt được con chim mơ ước của mình.
Cuộc săn tìm của người thợ săn là hình ảnh của loài người tìm kiếm hòa bình. Giấc mơ toàn thế giới vui hưởng thái bình của Isaia có thể không thực hiện được nhưng nó không chỉ đơn thuần là nằm mơ giữa ban ngày, mà giống như một ngọn núi mà ta mơ có ngày sẽ đứng trên đó. Dĩ nhiên muốn thế thì ta không thể cứ ngồi một chỗ mà mơ, hoặc ước chi nó từ trên trời hạ thấp xuống tận chân ta. Ta phải leo, phải có chương trình và kiên trì làm theo chương trình ấy, cho dù có chậm chạp và lâu dài.
Ngay cả khi giấc mơ thái bình ấy sẽ không bao giờ được thực hiện trọn vẹn trên toàn thế giới đi nữa, thì việc theo đuổi giấc mơ ấy cũng có ảnh hưởng tốt trên đời ta. Ðiều quan trọng không phải là đạt được mục đích mà là sống có mục đích. Nhiều khi, có một mục đích tốt cho đời mình thì kể như đủ, miễn là không bao giờ ta bỏ mục đích ấy.
Thế giới ngày nay nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ có thể làm được hầu như mọi điều, nhưng lại bất lực không tạo ra hòa bình được: bất hòa khắp nơi, trên bình diện lớn như nước này với nước nọ, dân này với dân nọ; hoặc trên bình diện nhỏ như nhóm này với nhóm kia, người này với người khác. Mỗi kitô hữu có thể góp phần mình vào việc thực hiện giấc mơ thái bình của Isaia, bằng những cố gắng xoá bỏ óc kỳ thị, sự đố kỵ, ích kỷ, chia rẻ nhau...; bằng cách gieo rắc hòa thuận, cảm thông, hợp tác...
Chúng ta cũng nên biết rằng chúng ta không cô đơn trong những cố gắng ấy, mà có Chúa giúp ta: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài đến ở với loài người chúng ta, thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian này, và cùng đồng hành với chúng ta trong nỗ lực leo lên đỉnh núi thái bình.
2. "Ðây là lúc chúng ta phải thức dậy"
Lời Thánh Phaolô trong bài đọc II làm cho chúng ta giật mình. Phải chăng chúng ta đang ngủ vùi?
Ðúng vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt mù:
- Chúng ta ngủ vì "những việc làm đen tối" - Chúng ta ngủ vì cứ "chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng" - Chúng ta ngủ vì lòng đầy "tranh chấp đố kỵ" - Chúng ta ngủ vì chỉ "lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt".
Nhưng Thánh Phaolô nhắc nhở rằng: "Ðêm sắp tàn, ngày gần đến" và "Giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo", vậy "Ðây là lúc chúng ta phải thức dậy".
- "Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày"
- Hãy "cầm lấy khí giới của sự sáng" để chiến đấu chống lại những sức mạnh của tối tăm tội lỗi.
- Hãy cởi bỏ con người cũ thiên về những dục vọng xác thịt để "mang lấy Ðức Giêsu Kitô".
3. Hai người, hai số phận
"Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi".
Ðức Giêsu chỉ nói tình trạng như thế thôi chứ không nói rõ lý do tại sao. Tuy nhiên chúng ta có thể biết lý do qua câu chuyện Ngài kể về thời ông Nôe: Ông Nôe chính là người được tiếp nhận, nhờ ông đã tỉnh táo nghe được lời Chúa báo sắp có nạn Hồng thuỷ, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất, "ăn uống, dựng vợ gả chồng". Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến lời Chúa. Giả như ông Nôe có kể lại cho họ nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông, không thiết thực như chuyện "ăn uống, dựng vợ gả chồng".
Trong cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời... Ai tỉnh táo thì nghe được và sẽ "được tiếp nhận", kẻ nào mãi thờ ơ thì như "đàn gãy tai trâu" và sẽ "bị bỏ lại".
4. Chúa cấm con thất vọng
* Hãy cố gắng, dù yếu đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc tế (ÐHV 971)
Cha Charles de Foucauld có để lại mấy giòng sau đây. Ðọc kỹ, con sẽ thấy phấn khởi tâm hồn và lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng:
- "Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó".
- "Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy. Chúa cũng vẫn bắt con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân Chúa trong tình thương và sự thánh thiện".
- "Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói 'Tôi không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp'"
- "Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói: 'Tôi không hề sửa mình được, tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào thiên đường...'"
- "Vậy Chúa muốn con phải trông cậy Chúa luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa" (ÐHY NVT, Trên đường lữ hành)
5. Thức dậy
Ở Mêhicô, giáo phận của Ðức Cha Samuel Ruiz có tới 80% giáo dân là người da đỏ bản xứ. Bản thân ngài nổi tiếng là người bênh vực cho dân da đỏ. Nhưng không phải tự nhiên mà ngài làm được việc đó đâu. Trong một buổi nói chuyện ở Nhà thờ Chính tòa Westminster Mùa Chay 1996, ngài đã thố lộ tâm sự như sau: "Suốt 20 năm làm giám mục giáo phận này, tôi như một con cá đang ngủ, nghĩa là mắt vẫn mở nhưng chẳng thấy gì. Tôi còn hãnh diện vì giáo phận có nhiều nhà thờ và giáo dân đông đúc. Rồi một hôm tôi gặp cảnh một người da đỏ bị trói vào một thân cây và bị ông chủ dùng roi quất túi bụi vì lý do người này không chịu làm thêm 8 giờ phụ trội nữa." Chính cái biến cố đó đã làm cho Ðức Cha Samuel Ruiz "thức dậy". Từ đó trở đi, ngài hăng hái tranh đấu cho quyền lợi người da đỏ.
Chuyện trên cho ta thấy hai điều: 1/ Thiên Chúa có nhiều cách để kêu gọi người ta thức dậy; 2/ Và cũng có nhiều cách thức dậy: thức dậy về thể xác (thôi ngủ), thức dậy về xã hội, thức dậy về đạo đức v.v.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến
Mùa Vọng, mùa Xuân của năm phụng vụ, là thời gian chuẩn bị đón mừng Ðức Kitô, Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa hướng lòng trông đợi Người đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Trong niềm khát khao trông chờ Chúa ngự đến, chúng ta cùng tin tưởng nguyện xin.
1. Hội Thánh được Chúa Giêsu thiết lập / và trao ban sứ mạng rao giảng mọi nước mọi dân biết Thiên Chúa là Tình yêu. / Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / luôn làm tròn sứ mạng cao quý nhưng hết sức khó khăn này.
2. Khát vọng sâu xa nhất của con người thời nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng. / Nhưng chiến tranh vẫn bùng nổ ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra biết bao cảnh tang thương. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương thâm nhập mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết thương yêu và tôn trọng nhau hơn.
3. Thánh Phaolô kêu gọi: / "Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày / không chè chén say sưa / không chơi bời dâm đãng / cũng không cãi cọ ghen tương" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết luôn ghi nhớ và thực hiện lời mời gọi của vị tông đồ dân ngoại / để có thể trở nên muối ướp mặn đời / và ánh sáng chiếu soi trần gian.
4. Ðức Giêsu nhắc nhở các môn đệ: / "Anh em hãy canh thức / vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến". / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn sẵn sàng đón Chúa ngự đến / bằng một đời sống sốt sắng thờ phượng Chúa và chan hòa tình bác ái yêu thương.
CT: Lạy Chúa, vì yêu thương thế gian, Chúa đã ban Con Một xuống thế làm người, sống kiếp phàm nhân, nên giống chúng con trong mọi sự, trừ tội lỗi. Xin cho tất cả chúng con thiết tha trông chờ Con Chúa ngự đến, biết chuẩn bị xứng đáng tâm hồn, để đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu xin...
(Phần "Lời nguyện cho mọi người" của Năm A này được trích từ Báo Công giáo và Dân tộc, số đặc biệt Giáng sinh năm Phụng vụ A, 1998-1999)
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Nên dùng Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh một số nơi:
. Sau lời tung hô sau truyền phép: "Vì vậy lạy Cha, giờ đây chúng con tưởng nhớ... đồng thời mong đợi Người lại đến, chúng con dâng lên Cha hy lễ hằng sống và thánh thiện này..."
. Sau truyền phép, đoạn 4: "Lạy Cha, xin cho hy lễ hòa giải này... Còn những con cái Cha đang tản mát bốn phương trời, xin thương quy tụ tất cả về với Cha..."
- Trước Kinh Lạy Cha: Trong niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp "danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời", chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha sau đây:
- Chúc bình an: Ngôn sứ Isaia đã mơ đến ngày thế giới không còn chiến tranh, người ta sẽ lấy gươm giáo rèn thành lưỡi hái lưỡi cày. Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an và trở thành những người xây dựng hòa bình cho cuộc sống.
- Trước lúc rước lễ: "Ðây Chiên Thiên Chúa, Ðấng đã đến xóa tội trần gian và sẽ lại đến thăm viếng chúng ta, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa".
VII. GIẢI TÁN
Dùng công thức ban phúc lành cuối lễ long trọng của Mùa Vọng (Sách lễ Rôma, xuất bản 1992, trang 575)
(Suy niệm của ĐGM. Gioan Baotixita Bùi Tuần – 25/11/2013)
Nghèo khó, khiêm nhường, bé nhỏ, tin cậy ở Chúa là mấy nét căn bản của đời sống nội tâm Kitô MV 1-A156
Nghèo khó, khiêm nhường, bé nhỏ, tin cậy ở Chúa là mấy nét căn bản của đời sống nội tâm Kitô giáo. 1. Mùa Vọng, tôi có hai hy vọng. Hy vọng thứ nhất là hy vọng tôi biết đón nhận Chúa. Hy vọng thứ hai là hy vọng tôi được Chúa đón nhận tôi. Hy vọng vẫn là hy vọng, nghĩa là chỉ trong ước mong. Còn điều tôi ước mong có được thực hiện hay không lại là chuyện khác.
Tôi rất lo cho sự thực hiện hai hy vọng trên đây của tôi. Nỗi lo của tôi có cơ sở Phúc Âm và thực tế lịch sử.
2.
Trước hết, xin nói về hy vọng biết đón nhận Chúa.
Phúc Âm cho thấy nhiều người theo đạo Chúa thời Đức Giêsu Kitô xuất hiện, đã không biết đón nhận Người.
Thánh Gioan Tông đồ đã viết ngay trong “lời tựa” Phúc Âm của Ngài những câu đau đớn: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có. Nhưng thế gian lại không nhận biết Người, Người đã đến nhà mình, nhưng những người nhà lại chẳng chịu đón nhận Người” (Ga 1,9-11). Thực là phũ phàng.
3.
Sự thực phũ phàng đó lại xảy ra ngay tại Nadarét, là quê hương của Chúa Giêsu.
Thánh sử Luca viết: “Rồi Đức Giêsu đến Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát, và đứng lên đọc sách thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng:
Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó
...
Người bắt đầu nói với họ: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? Người nói với họ: Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình. Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphácnaum, ông cũng hãy làm tại đây, là quê hương của ông xem nào. Người trả lời: Tôi bảo thật các ông: Không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương.
...
Mọi người trong hội đường đều phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,16-20).
Đồng hương của Chúa Giêsu không những không đón nhận Người, mà còn định tiêu diệt Người. Thực là một sự thực phũ phàng đầy đau đớn.
4.
Sự thực phũ phàng đau đớn như thế lại đã xảy ra một cách độc ác ngay chính những người đứng đầu đạo Chúa thời Chúa Giêsu.
Thánh sử Marcô ghi lại một cách rõ ràng: “Hai ngày trước lễ Vượt qua và lễ không men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu để bắt Đức Giêsu mà giết đi.
...
Họ điệu Đức Giêsu đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư đều tựu lại... Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng hội đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giêsu để làm án tử hình, nhưng họ không tìm ra ... Họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho quan Philatô.
Các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô lên án giết Đức Giêsu” (Mc 14,1-11).
5.
Những chuyện phũ phàng đau đớn và ác độc trên đây không phải là không tái diễn trong lịch sử Hội Thánh dưới nhiều hình thức khác nhau, rải rác đó đây, nơi này nơi nọ.
6.
Chuyện xua đuổi Chúa một cách quy mô có thể là không nhiều. Nhưng chuyện dửng dưng không đón nhận Chúa là chuyện phải nói là thông thường. Chúa phán: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa ra, thì Ta sẽ vào nhà người ấy” (Kh 3,20). Biết bao lần, tôi đã không tỉnh thức nghe tiếng Chúa gõ cửa lòng tôi. Biết bao lần, tôi nghe tiếng Chúa gọi, nhưng tôi đã không mở cửa lòng tôi ra, để đón Chúa.
Không đón Chúa đến với mình, đó là một thực tế đau lòng, mà tôi thấy đang xảy ra nơi nhiều người đạo Chúa.
Thực tế đau lòng đó cũng rất có thể đang xảy ra nơi tôi. Lạy Chúa, xin Chúa xót thương con.
7.
Bây giờ, tôi nhìn sang hy vọng thứ hai của tôi, đó là hy vọng tôi được Chúa đón nhận. Phúc Âm cho thấy điều này: Những điều Chúa Giêsu giảng dạy dưới mọi hình thức đều quy về mục đích đưa con người vào chính lộ dẫn về Nước Trời, nơi được hạnh phúc trường sinh bên Chúa. Những ai đi vào chính lộ, phấn đấu làm điều phúc đức, tránh điều tội lỗi, bước theo Chúa đến cùng, sẽ được Chúa đón nhận vào thiên đường. Còn những ai làm theo ý riêng mình, không từ bỏ tội lỗi, không sám hối, trở về với Chúa, sẽ không được Chúa đón nhận. Những ai được Chúa đón nhận và những ai không được Chúa đón nhận đều đã được Chúa nói rõ trong Phúc Âm, nhất là trong nhiều dụ ngôn, đặc biệt là trong bài nói về ngày phán xét.
8.
Phán đoán của Chúa rất công minh, và rất nhiệm mầu. Nhưng chắc chắn điều này là: Chúa ưa thích những ai khiêm nhường, chân thành, tin cậy vào Chúa và biết xót thương người khác, luôn tìm thực thi ý Chúa và biết sám hối. Tôi nhớ tới người phụ nữ tội lỗi (x. Lc 7,38-50) và người trộm cướp bị đóng đinh bên hữu Chúa (x. Lc 23,40-43).
Có thể nói tinh thần hưởng thụ, nếp sống thực dụng và thói quen đưa mình lên luôn là những cản trở khiến con người mọi nơi mọi thời không được Chúa đón nhận.
Lời Chúa phán sau đây làm tôi lo sợ: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Nhưng, bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố vói họ: Ta không hề biết các ngươi là ai. Hãy xéo đi cho khuất mặt Ta, hỡi những kẻ làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). Như vậy, tôi đừng có chủ quan tự mãn với những việc tôi làm, mà tôi tưởng là lành thánh. Bởi vì rất có thể khi tôi làm những việc đó, đã có pha mục đích khoe khoang, và trái ý Chúa.
9.
Với vài suy nghĩ trên đây, tôi thấy Mùa Vọng của tôi sẽ là thời gian quý giá để rà soát lại hai hy vọng của tôi.
Tôi rà soát lại bên Đức Mẹ Maria và bà thánh Isave, là hai phụ nữ quan trọng trong mùa Vọng.
Đức Mẹ Maria đã đón nhận Chúa một cách rất khiêm nhường, phó thác. Còn Chúa, Chúa đã đón nhận Mẹ một cách bất ngờ với tình yêu thương xót, và đã làm nơi Mẹ những sự lạ lùng, vì danh Người là Thánh.
Bà thánh Isave đã đón nhận Chúa với lòng tin mãnh liệt và tâm tình cảm tạ khiêm cung. Còn Chúa, Chúa đã đón nhận Bà một cách tế nhị kín đáo với một chương trình cứu độ hết sức lớn lao.
Đức Mẹ Maria cưu mang Chúa Giêsu, bà Isave cưu mang thánh Gioan Baotixita. Cả hai phụ nữ cưu mang ấy đã rất âm thầm, nhưng đã cộng tác rất đắc lực với chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Ở bên Đức Mẹ Maria và bà thánh Isave, tôi trở thành bé nhỏ. Và tự nhiên, tôi hiểu bé nhỏ, khiêm nhường, nghèo khó, tin tưởng ở Chúa chính là những điều kiện cần, để sống mùa Vọng với hai hy vọng của tôi.
Nghèo khó, khiêm nhường, bé nhỏ, tin cậy ở Chúa là mấy nét căn bản của đời sống nội tâm Kitô giáo. Nếu thiếu đời sống nội tâm với những nét căn bản đó, tôi có thể sẽ chỉ còn là người của một cơ chế tôn giáo, chứ không là chứng nhân đích thực của đức tin.
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên - Hải Phòng, Mùa Vọng 2016)
Khi nỗ lực đón Chúa ngự đến tâm hồn, chúng ta sẽ được hưởng sự ngọt ngào của ân sủng. Đó MV 1-A157
Khi nỗ lực đón Chúa ngự đến tâm hồn, chúng ta sẽ được hưởng sự ngọt ngào của ân sủng. Đó cũng là niềm vui và hạnh phúc Chúa ban cho những ai chuyên tâm quy hướng về Ngài.
Con hướng về Chúa Như đất khô mong nước nguồn Như tuần phiên mong trời sáng Như con thơ mong mẹ hiền (Thánh ca)
Lời của bài Thánh ca diễn tả niềm khát vọng của con người luôn hướng về Chúa, bất kể họ thuộc về thời đại hoặc nền văn hoá nào. Con người cần Chúa như thân xác cần hơi thở, như đất cần có mưa. Niềm mong đợi Chúa vừa thiêng liêng cao cả, vừa thân thiết gần gũi. Không có Chúa, đời sống sẽ khô cằn, vô nghĩa. Vắng bóng Ngài, cuộc đời sẽ lạc lõng, đau thương.
“Con hướng về Chúa”, đó là lời tuyên xưng đức tin vào Đấng là nguyên lý của muôn vật muôn loài. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng thiên nhiên vũ trụ và con người. Ngài dựng nên mọi sự từ hư vô. Ngài tiếp tục điều khiển vũ trụ, làm cho nó chuyển động trong trật tự kỳ diệu. Nhờ Chúa mà bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, thay nhau đắp đổi. Do Ngài mà bát tiết, tháng năm trật tự xoay vần. Với tình yêu thương quan phòng, Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ để công trình tạo thành của Ngài ngày càng tiến triển, đạt tới tầm vóc hoàn hảo trong tương lai, vào thời điểm Ngài muốn. Trong số các tạo vật, con người được Chúa ưu ái dựng nên giống hình ảnh Ngài. Ngài còn phú bẩm cho họ linh hồn bất tử. Thiên Chúa cũng chia sẻ cho con người vinh quang của Ngài. Ngài dựng nên họ để hưởng hạnh phúc đời này và đời sau. Khi tôn nhận Chúa là nguyên lý của muôn vật muôn loài, chúng ta sẽ yêu mến thiên nhiên và yêu mến cuộc sống này hơn, vì vũ trụ này phản ánh vinh quang và sự thánh thiện của Thiên Chúa. Hướng về Chúa là khuynh hướng tự nhiên thuộc bản tính con người, giống như nam châm hút sắt, như đoá hoa hướng dương ngả về mặt trời. Trong nỗi khắc khoải hướng về Chúa, tác giả Thánh vịnh đã thốt lên: “Ngay từ rạng đông, con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” (Tv 62,2). Từ xa xưa, khi con người bắt đầu hiện hữu trên trái đất, cũng là lúc con người khởi đầu những nỗ lực tìm kiếm Chúa, nhưng họ lầm tưởng Ngài với những hiện tượng thiên nhiên huyền bí. Đó là lý do tại sao những bộ lạc hoang sơ đã thờ mặt trời mặt trăng, cây đa cây đề, hoặc thần núi thần sông, thần sấm thần sét. Họ quan niệm rằng những hiện tượng và thực tại đó là những thần linh cao cả quyền năng.
“Con hướng về Chúa”, đó là tâm tình yêu mến của những ai tin vào Đấng là Cha chung của gia đình nhân loại. Tâm tình ấy thân thiết, gần gũi ấm êm “như con thơ mong mẹ hiền”. Chúa là Đấng đáng yêu đáng mến, vì Ngài tốt lành thánh thiện, và nhất là Ngài đã dựng nên chúng ta và cho chúng ta hiện hữu trên đời. Ngài còn ban cho chúng ta biết bao điều tốt lành trong cuộc sống. Trước những điều may mắn phúc lộc xảy đến trong cuộc đời, nhiều người nghĩ đó là điều ngẫu nhiên, nhưng những ai tin Chúa đều nhận ra đó là ân ban do lòng từ tâm và thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã khẳng định với chúng ta, những sợi tóc trên đầu mỗi người cũng được Chúa đếm cả, những con chim sẻ không tích trữ kho lẫm vẫn được Chúa nuôi dưỡng và những bông hoa huệ ngoài đồng không may vá dệt cửi vẫn được Chúa mặc cho vẻ đẹp huy hoàng (x. Mt 6,25-29). Người cũng dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha bằng tâm tình thân thương hiếu thảo: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”. Yêu mến Đấng đã dựng nên mình và là Cha của mình, đó là tình cảm tự nhiên và đó cũng là bổn phận của lòng hiếu thảo. Lòng yêu mến ấy giúp chúng ta mỗi ngày một đến gần Chúa hơn trong sự kết hiệp thâm sâu mà chúng ta thường gọi là đời sống nội tâm. Tâm tình ấy cũng giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, mỗi ngày một rõ nét hơn, để rồi, chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Ý thức Chúa sống trong tâm hồn, người tín hữu sẽ dễ dàng nên hoàn thiện trong lời nói, tư tưởng cũng như việc làm. Họ sẽ tìm thánh ý Chúa, cố gắng sống đẹp lòng Ngài và coi đó là điều ưu tiên quan trọng nhất trong đời.
“Con hướng về Chúa”, đó là lời cầu nguyện diễn tả niềm hy vọng cậy trông của người tín hữu. Giữa cuộc đời chìm nổi truân chuyên, nào ai biết những gì bất chợt sẽ đến? Giữa dòng đời bon chen xuôi ngược, nào ai đoán được hậu vận tương lai? Người tin Chúa luôn phó thác nơi Ngài, tin chắc rằng không bao giờ Ngài dửng dưng trước lời cầu nguyện chân thành tha thiết. Chúa Giêsu đã hứa: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho” (Mt 7,7). Người cũng hứa ngự giữa chúng ta khi chúng ta hội họp cầu nguyện nhân danh Người (x. Mt 18,19). Hướng về Chúa chính là niềm xác tín vào lời hứa ấy. Niềm cậy trông vào Chúa nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, đồng thời là nguồn sức mạnh giúp chúng ta vượt lên những khó khăn thử thách trên đường đời. Niềm hy vọng cũng giúp chúng ta nhìn cuộc đời này lạc quan hơn, để cùng nhau hướng thiện, dù còn nhiều bóng tối vây quanh bao phủ. Sống mà không có niềm hy vọng, con người giống như người mộng du ảo giác, lang thang vô định. Không có niềm hy vọng, chúng ta sẽ nhìn cuộc đời đen tối tiêu cực và dễ chán nản. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng hướng về Ngài, cầu xin Ngài giáng phúc ban ơn, để cuộc sống của chúng ta được bình an.
“Con hướng về Chúa”, tâm tình này thể hiện cuộc lữ hành trần thế của mỗi chúng ta. Sống một ngày trên đời là tiến tới gần Chúa hơn. Chẳng ai sống mãi ở đời này, nhưng mỗi người sinh ra được Chúa cho một quỹ thời gian nhất định. Hết quỹ thời gian đó, họ phải kết thúc cuộc sống, từ giã cõi đời. Mọi người sống trên đời, giàu sang phú quý hay nghèo nàn bất hạnh rồi cũng phải chết như nhau, nhưng hậu vận của họ lại không giống nhau. Những người sống một đời thánh thiện yêu thương sẽ được hưởng phúc thiên đàng; những ai sống bất công gian dối sẽ phải đau khổ trầm luân. Đừng vội trách Chúa nghiêm khắc với tội nhân! nhưng hãy tự trách mình đã dửng dưng và để lỡ nhiều cơ hội. Hạnh phúc thiên đàng hay hình phạt hỏa ngục là do chính mình tự chọn, qua thái độ sống ở đời. Chúa Giêsu đã nói tới hai con đường: con đường thênh thang rộng mở dẫn tới sự chết; con đường nhỏ hẹp khó đi dẫn tới sự sống (x. Mt 7,13-14). Nhiều người đã muốn chọn con đường rộng rãi thênh thang cho mình. Đó là sự buông thả, dễ dãi, chiều theo những tham vọng đam mê và ích kỷ. Mỗi người phải gánh trách nhiệm về sự lựa chọn ấy của mình.
Mỗi năm, khi Mùa Vọng về, Giáo Hội mời gọi các tín hữu cùng hướng về Chúa. Lời ngôn sứ diễn tả niềm khao khát của nhân loại mọi nơi mọi thời: “Trời cao, hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công chính” (Is 45,8). Niềm khao khát ấy, cũng nồng nàn tha thiết như đất mong nước nguồn, như tuần phiên mong trời sáng và như con thơ mong mẹ hiền.
Người Kitô hữu hôm nay không còn mong đợi Đấng Công chính với tâm trạng của thời ngôn sứ Isaia. Bởi lẽ Đấng Công chính là Đức Giêsu Kitô đã giáng trần cách nay hơn hai ngàn năm. Người đã đi vào lịch sử nhân loại với sứ mạng rao giảng tình thương của Thiên Chúa. Hôm nay, Người đang hiện diện giữa chúng ta. Khi nỗ lực đón Chúa ngự đến tâm hồn, chúng ta sẽ được hưởng sự ngọt ngào của ân sủng. Đó cũng là niềm vui và hạnh phúc Chúa ban cho những ai chuyên tâm quy hướng về Ngài.
Những ngày của tháng 09 và 10 mưa lớn như trút nước, lũ dữ từ thượng nguồn ào ạt đổ về MV 1-A158
Những ngày của tháng 09 và 10 mưa lớn như trút nước, lũ dữ từ thượng nguồn ào ạt đổ về. Nhiều tỉnh duyên hải miền Trung ngập chìm trong biển nước. Nhà cửa, của cải, hoa màu bỗng tiêu tan . ..
Miền Trung năm nay thật là “họa vô đơn chí”, vì hết họa này đến họa khác. Khởi đầu là Formosa tàn phá thiên nhiên khiến ngư dân thất ngiệp, cái đói lặn vào từng gia đình. Rồi liên tiếp lũ lụt lại tàn phá tan hoang đất đai, nhà cửa, hoa màu của cải cuốn trôi theo dòng nước.
Những tai họa của miền Trung đáng buồn là do nhân tai nhiều hơn là thiên tai. Con người đã phá thiên nhiên ở dưới biển khi thải chất độc. Con người lại tiếp tục phá rừng vì thiếu ý thức và vì những công trình thủy điện lãng phí . . .
Nhìn thấy cảnh tượng dân Miền Trung dồn dập tai ương khiến cho chúng ta cũng chạnh lòng với nỗi đau của anh em mình. Không đau sao được khi chỉ trong phút chốc, người dân dải đất miền Trung vốn được xem là khúc ruột của cả nước phải lâm cảnh trắng tay vì tài sản đã bị cuốn chìm trong dòng nước lũ! Không đau sao được khi công sức bao năm chắt chiu, dành dụm chỉ một đêm lũ về thì nửa hạt gạo cũng chẳng còn!
Có một người dân đã nói rằng trong nước mắt: “Chúng tôi đã thức trắng trên nóc nhà với nước trên đầu, nước dưới chân. Chưa bao giờ thấy nước dâng cao như vậy, nhà cửa tan tành hết rồi…” - những lời than như khóc của bao người dân quê nghèo các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh… giữa mênh mông biển nước tựa vết dao cứa lòng người.
Chạnh lòng với nỗi đau của anh em Miền Trung cũng mời gọi chúng ta chia cơm sẻ áo cho anh em. Một gói mì tôm, một chén gạo, một đồng tiền lẻ thật nhỏ bé nhưng được cả cộng đồng ý thức sẽ cứu cả hơn 20 triệu người dân Miền Trung. Đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta cuộc sống này chẳng có gì đảm bảo, tất cả sẽ có thể tan hoang, vuột khỏi tay ta cho dù ta có lắm kho lẫm kiên cố hay tiền dư bạc để rồi cũng chỉ là “phù vân trên mọi phù vân” . . .
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để ngày khốn đốn xảy đến mà chẳng hay biết gì, như “thời ông Noe, người ta vẫn ăn uống, vẫn cưới vợ, lấy chồng”. Người ta tưởng rằng thế giới mãi mãi là thế, chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì phải lo, phải sợ. Chỉ có một mình Noe, ông đã vượt ra khỏi thói quen của mọi người. Một mình ông đóng tàu. Một mình chuẩn bị đối phó với tai hoạ sẽ xảy đến cho ông và cho toàn thế giới. Và vì vậy, cũng chỉ một mình ông và gia đình được cứu thoát còn những người khác đã bị dòng nước cuốn đi khi họ vẫn ăn uống, vẫn đàn hát . . .
Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, sum họp gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu còn được mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Vâng, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim ảnh đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng. Cuộc sống sa đoạ đến mức mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng đam mê của mình . . .
Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần sống chuẩn bị cho đời sau đừng để những thói đời trụy lạc lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Hãy tích lũy cho mình kho lẫm ở trên trời là đời sống trong sạch, tiết độ, công bình và bác ái. Đừng mải mê tìm kiếm bổng lộc trần gian mà xa lìa Chúa, vì những của cái ấy chỉ là của đồng lần nay người mai ta. Có khi chỉ một cơn gió thoảng chúng cũng biến tan đi.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
Cha đố chúng con, chúng ta đã bước vào mùa gì của năm Phụng vụ ? - Mùa vọng - Cha đố thêm MV 1-A159
Cha đố chúng con, chúng ta đã bước vào mùa gì của năm Phụng vụ ?
- Mùa vọng . - Cha đố thêm Giáo Hội lập ra Mùa Vọng để làm gì? - Thưa để nhắc cho mọi người về việc Chúa đến. - Thế cha hỏi Chúa đã đến chưa?
- Chúa đã đến lần thứ nhất, trong ngày Ngài Giáng sinh. Ngài sẽ đến lần thứ hai, trong ngày Ngài Quang lâm. Ngài vẫn đang đến với mỗi người trong cuộc sống mỗi ngày.
- Để gặp được Chúa, Tin Mừng hôm nay dạy mọi người điều gì - Thưa dạy mọi người “Hãy tỉnh thức”. - Chúng con rât giỏi. Bây giờ cha giải thich cho chúng con.
1. Thế nào là tỉnh thức
Chúng con hãy nghe câu chuyện này:
Một hôm cũng vào tuần lễ đầu tiên của Mùa Vọng như ngày hôm nay, ngay đầu giờ dạy giáo lý, cha Don Bosco hỏi các em thiếu niên có mặt trong lớp: “Nếu các con đang vui chơi ngoài sân, bất thần Chúa đến và bảo rằng: 10 phút nữa, Chúa sẽ gọi các con về với Chúa, thì các con sẽ làm gì ngay lúc ấy ?” Cả lớp yên lặng suy nghĩ. Cha Bosco gọi em Antonio, em đứng lên ấp úng trả lời: “Dạ thưa cha, con sẽ chạy ngay về nhà để từ giã ba má con, rồi con sẽ quay lại kịp theo Chúa!”
Cha Bosco lại chỉ em Benado, cậu ta vội đáp: “Thưa cha, con sẽ về phân phát hết tủ quần áo của con cho những người ăn mày trong xóm, còn số đồ chơi thì con tặng hết cho lũ trẻ nghèo khổ con cái của họ. Chắc Chúa sẽ hài lòng và ban thưởng cho con nhiều hơn !”
Khi cha gọi đến Camillo, cậu này do dự một chút rồi trả lời, vẻ như vẫn còn bối rối ghê lắm: “Có lẽ con nên vào Nhà Thờ để ngồi cầu nguyện đợi Chúa, thời gian đâu có bao nhiêu, nhỡ Chúa đến sớm hơn một chút thì sao?”
Tới phiên Stephano, cậu trả lời ngắn gọn: “Con sẽ xin cha cho con xưng tội ngay, chắc chắn con sẽ được vào Nước Trời!”
Cả lớp, từng học sinh một đã dần dần trả lời, nhưng dường như Cha Bosco vẫn chưa tỏ vẻ hài lòng, các cậu bé nhìn nhau thắc mắc hết sức. Còn cha thì đi lui đi tới... Chợt như sực nhớ, cha chỉ tay gọi Dominico Savio, cậu đứng dậy khoanh tay nghe cha hỏi lại câu hỏi: “Thế còn phần con, Savio, nếu như con đang nô đùa vui vẻ với bạn bè ngoài sân chơi mà Chúa đột nhiên đến và gọi con về với Người thì con sẽ làm gì trong thời gian 10 phút?”Savio mỉm cười, đơn sơ trả lời: “Thưa cha, con sẽ vẫn tiếp tục vui chơi ạ !” Nghe vừa dứt, Cha Bosco vui mừng chạy tới ôm chầm lấy cậu bé 12 tuổi: “Ôi đúng rồi ! Đó chính là câu trả lời mà cha đã chờ suốt nãy giờ. Savio, con yêu dấu của cha, con thật là xứng đáng ra đón Chúa bất cứ lúc nào trong đời !”
Như vậy là chúng con đã hiểu tỉnh thức là gì. Là luôn ở trong tư thế hành động tích cực nhất.
2. Nhưng tại sao phải tỉnh thức
Trong Tin Mừng hôm nay chúa nói đến sự bất ngờ. Chúa đến thật bất ngờ.
Chúng con biết trước nạn hồng thủy, thiên hạ hầu như không quan tâm tới điều gì, ngay cả việc ông Nô-ê đang nỗ lực đóng một chiếc tàu khổng lồ trước mắt họ. “Thiên hạ vẫn ăn uống, cuới vợ lấy chồng. Tất cả những điều đó thật tự nhiên, bình thường. Chúa Giê-su đã không kể ra một tội nào của họ. Nhưng thiên hạ thời đó đã “không hay biết gì”.. Thiên hạ thời Nô-ê nghĩ rằng mình sẽ bất tử. cho tới khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy”. Lúc đó họ mới bừng tỉnh để thấy rằng: họ không phải là thần là thánh và nếu họ muốn sống, họ cần đến Thiên Chúa nhưng đã quá muôn mất rồi...
Chúa sẽ đến giữa nhân loại, giữa giòng đời một cách bất ngờ, không báo chí, không truyền thanh, truyền hình báo trước. Con Người đến ngay giữa những mối bận tâm khát vọng của loài người, ngay giữa những công ăn việc làm, ngay giữa nơi công sở, ngoài đồng ruộng nương rẫy, ở trong nhà, ở ngoài phố, ở những ngõ sâu hẻm tối hay nơi đô thị nhộn nhịp sa hoa.
Chúa đến. Ngài sẽ quyết định dứt khoát số phận con người. Có những số phận khác biệt nhau giữa những con người đang sống trong cùng một hoàn cảnh tưởng chừng như giống nhau: “Cùng đang làm ruộng, cùng xay bột...” Những ai đã chuẩn bị, đã sẵn sàng thì được “đem đi” có nghĩa là được cứu thoát. Những ai chỉ mải mê với công việc mà không nhìn xa trông rộng để biết thời biết buổi sẽ bị “bỏ lại”. Như người chủ hãng mải mê ngủ sẽ làm cho hãng bị phá sản. Như người trẻ không chuẩn bị tương lai, sẽ phải lãnh trách nhiệm trên đời mình. Như người chẳng bao giờ nhớ đến Chúa, sẽ lỡ hẹn khi Ngài viếng thăm
Chúa sẽ đến bất ưng như kẻ trộm. Sẽ không có đài thủy văn báo trước khi mực nước dâng cao gây nên trận hồng thủy. Sẽ không có chuông điện tử báo động khi kẻ trộm đột nhập vào nhà. Sẽ không có mạng lưới Radar tối tân báo hiệu có hỏa tiễn liên lục địa xâm phạm không phận một quốc gia. Sẽ không có các chỉ số xét nghiệm cho thấy một căn bệnh nan y... Con Người đến hoàn toàn bất ngờ.
3. Vậy phải luôn sẵn sàng.
Sẵn sàng là sống những giây phút hiện tại cho xứng đáng, đó là thái độ sẳng sàng tốt nhất. Ngày xưa có một thầy dòng viết lên trên mặt đồng hồ những dòng chữ sau đây:
“Dĩ vãng đã qua. Tương lai chưa tới, Hiện tại là lúc bạn đang làm chủ. Phút hiện tại ấy thuộc về bạn. Bạn hãy dùng cho hết. Làm điều có đức sẽ được thưởng. Làm điều ác phải chịu phạt. Đó là tất cả những cái gì làm sống lại”.(Toth, Chí khí người thanh niên)
Một ngày trong năm 1780, bóng tối lạ lùng trùm xuống lãnh thổ tiểu bang Connecticut. Mọi người đều nghĩ: Ngày Tận Thế đã đến. Trong phòng họp Quốc Hội có tiếng các đại biểu xin hoãn họp để họ có thể về nhà chờ Chúa đến cùng với người thân.
Vị chủ tọa, đại tá Davenport, phát biểu đôi lời: "Chẳng cần biết đây có phải là ngày phán xét hay không. Nếu không thì việc gì phải hoãn lại. Còn nếu đúng là ngày ấy thì Chúa sẽ thấy tôi đang làm việc bổn phận. Tôi ước mong mọi ngọn nến đều được thắp sáng." (Drinkwater)
Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là tiểu thánh.
Ngày nọ, đang lúc ông đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra và nói: "Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến”. Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời: “Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?” Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói: “Đây ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?”. Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra; lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài”. Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ: “Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc”. Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói: “Này vị tiểu thánh, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?”
Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần MV 1-A160
Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người; đồng thời qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế (x. AC 39). Chính vì vậy mà trong Chúa Nhật đầu tiên của năm Phụng Vụ hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng về việc tỉnh thức và chờ đợi ngày quang lâm của Chúa Giêsu Kitô.
Tin vào ngày tận thế, tức ngày Chúa quang lâm là một trong những điểm nòng cốt của Kitô giáo. Hàng ngày, trong Thánh Lễ, các tín hữu tuyên xưng sau truyền phép: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến”.
“Chúa lại đến”. Đức Giêsu nói rằng thực tại thần linh này không đến một cách hiển nhiên có thể quan sát được. Một điều chắc chắn là có chung kết lịch sử, nhưng không một ai từ hàng chư thánh, các thiên thần đến loài người được biết về thời gian ngày tận thế.
1. Tính bất ngờ của ngày quang lâm.
Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một thời điểm mà không ai biết trước được vào ngày Chúa Giêsu sẽ quang lâm. Thiên Chúa quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của sự sống vĩnh cửu, hạt giống ấy chỉ có thể nẩy mầm trên thửa đất của hiện tại mà thôi: không thể đi vào vĩnh cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến vĩnh cửu mà lại khước từ hiện tại.
Tính cách bất ngờ của Ngày Chúa Ðến, nên đòi hỏi các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi.
Chúa Giêsu dùng sự tích trong Cựu Ước để cảnh báo tính bất ngờ của một biến cố rất lớn lao và chắc chắn sẽ xảy đến. Đó là biến cố cánh chung, Chúa lại đến cách chung cuộc để cho ý nghĩa của mọi tạo vật được tỏ hiện. Và để minh họa cho tính bất ngờ của ngày tận thế ấy, Chúa Giêsu dùng sự kiện cụ thể trong thời Cựu Ước, đó là lụt Đại Hồng Thủy thời Nôe để mời gọi con người phải có thái độ sẵn sàng cho ngày ấy. Ngày tận thế sẽ đến bất ngờ và nhanh chóng và cái chết cũng đến với mỗi người bất ngờ như vậy. Vì thế, cần luôn tỉnh thức cầu nguyện và chuẩn bị hành trang thiêng liêng là làm việc lành phúc đức, để khi Chúa đến, Người sẽ gặp thấy chúng ta là những người đầy tớ trung thành và khôn ngoan và triều đại Thiên Chúa sẽ thuộc về ai bền chí đến cùng.
2. Một sự phân định dứt khoát.
Ngày tận thế, khi cuộc phán xét chung diễn ra. Đó là lúc chương trình của Thiên Chúa được hoàn tất, là ngày mà từng người đối mặt với vấn đề thiết yếu nhất của mình: được cứu độ hay không được cứu độ: “Ai sẽ được đem đi và ai bị bỏ lại”.
Hai người cùng làm một nghề, nhưng một người được đem đi và một người bị bỏ lại. Nghĩa là, lúc này, những người cùng trong một hoàn cảnh, sẽ đối xử bằng những cách đối nghịch nhau. Trong bối cảnh này, việc phân biệt đối xử giữa họ không phải là làm chức này cấp nọ, cũng không có nghề nghiệp nào là bảo đảm được cứu độ, không phải bậc tu trì hay giáo dân là được ưu tiên, nhưng sẽ được cứu độ dựa trên việc họ sẵn sàng như thế nào để đón chào Chúa đến. Ngày kẻ lành được thưởng công và kẻ dữ bị tiêu diệt. Chính vì thế, mỗi người được mời gọi sống trong tâm thế sẵn sàng đón Chúa quang lâm, trong khi vẫn dấn thân xây dựng trần thế tốt đẹp theo ý Chúa. Việc sẵn sàng đối diện với ngày Chúa đến không phải lo tích trữ đèn nến hay lương thực để đối phó (vì chỉ vô ích) mà hãy lo chuẩn bị tâm hồn trong sạch để xứng đáng với ngày Vua Công Chính ngự đến.
Với một tinh thần trách nhiệm và với một tinh thần phục vụ quên mình, Người Kitô hữu luôn dấn thân vào mọi ngõ ngách cuộc đời và làm chứng cho Tin Mừng khi sống chu toàn bổn phận của mình, khi sống hết trách nhiệm với tha nhân và trong tinh thần phục vụ quên mình. Có như vậy, mới đáng được Chúa thưởng công.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc sống mai sau được dệt bằng những gì chúng con đã nói và hành động nơi dương thế này. Xin cho chúng con trong khi hướng về quê trời thì cũng biết chu toàn bổn phận và trách nhiệm làm người con Chúa nơi cuộc lữ hành trần thế hôm nay, để khi Chúa đến, chúng con được cùng Chúa vào hưởng phúc bất diệt. Amen.
Khi những ngọn gió se lạnh cuối năm thổi về, cũng là lúc bài thánh ca: “Trời cao hãy đổ mưa MV 1-A161
Khi những ngọn gió se lạnh cuối năm thổi về, cũng là lúc bài thánh ca: “Trời cao hãy đổ mưa xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời” lại được hát lên, báo cho chúng ta biết một mùa Vọng và Giáng sinh, mùa của tình yêu và ơn cứu độ đang đến. Để chuẩn bị tâm hồn có thể đón nhận trọn vẹn niềm vui, an bình của Chúa Giáng sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta trải qua bốn tuần mùa Vọng với những lời dạy và việc làm cụ thể cho mỗi tuần.
Hôm nay, bước vào tuần đầu tiên, các bài đọc Lời Chúa phác họa một thời đại mới mà Chúa Cứu Thế sẽ đem đến cho nhân loại. Thời đại này được thể hiện ngay hôm nay, cho những ai chấp nhận đổi mới cuộc đời và lối sống cho phù hợp với những đòi hỏi của Đấng Cứu Thế. Tiên tri Isaia đã phác họa một khung cảnh hết sức vui tươi và hạnh phúc. Ngày Thiên Chúa đến, Ngài sẽ quy tụ muôn vật muôn loài dưới quyền thủ lãnh và chăm sóc của Ngài. Thiên Chúa sẽ là niềm vui và tự hào cho những ai tin tưởng bước đi theo Ngài: Ngày ấy, núi nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: Đến đây, ta cùng lên núi nhà Đức Chúa.
Ngày Thiên Chúa đến, Ngài sẽ ban cho nhân loại một lề luật mới, một thời đại mới. Lề luật của Chúa là lề luật của yêu thương, phục vụ; thời đại của Chúa là thời đại của bình an, hòa thuận, yên vui. Chính Thiên Chúa sẽ quy tụ muôn dân nước trở về và làm nên một gia đình duy nhất, Thiên Chúa sẽ là trọng tài để phân xử. Người ta sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Các dân tộc không còn vung kiếm đánh nhau và họ thôi học nghề chinh chiến.
Để bước từ thời đại hận thù chiến tranh qua thời thời kỳ hòa bình an vui này, thư Roma nói với chúng ta: Mỗi người phải chấp nhận một sự thay đổi sâu xa. Giống như rừng cây trút lá để chuẩn bị cho mùa xuân nở hoa, như con sâu phải tách khỏi cái vỏ xấu xí để trở thành con bướm đẹp, mỗi người cũng phải chấp nhận giũ bỏ con người cũ với những thói quen, tật xấu cũ, nếp sống cũ để khoác lên mình một con người mới, một gương mặt mới. Chúng ta không thể như con gấu ngủ đông, nhưng phải vươn mình thức dậy, đón chào một bình minh mới, thời đại mới của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nhắc chúng ta: Đừng để mình ngủ mê hoặc mê ngủ, vùi mình trong những thú vui, dục vọng thấp hèn, hoặc chìm ngập trong ăn chơi hưởng thụ. Để đón nhận được bình minh ơn cứu độ, chúng ta không thể thụ động ngồi chờ, nhưng cần phải quyết tâm loại bỏ những việc làm đen tối và mang lấy vũ khí của ánh sáng để chiến đấu. Cuộc chiến đầu tiên là loại trừ khỏi tâm hồn và hành động của mình những gì là gian dối, mờ ám để sống công minh chính trực như giữa ban ngày, như con cái của sự sáng.
Bên cạnh việc tẩy trừ con người cũ để mang lấy con người mới, đồng thời ta còn phải mang lấy Chúa Kitô. Mang lấy Chúa Kitô không phải như mặc cái áo, cũng không chỉ khoác Chúa Kitô một cách hời hợt bên ngoài, nhưng là mang trong tim, trong tâm hồn và trong cả cuộc đời của mình. Mang lấy Chúa Kitô là để Ngài luôn hiện diện và đồng hành với ta, đồng thời cũng là mang lề luật giáo huấn của Chúa trong cuộc đời như là chỉ nam hướng dẫn cho mọi hành động và cuộc sống của ta. Mang Chúa Kitô là sống gắn bó, kết hợp, nên một với Chúa, hướng cuộc đời mình về Chúa Kitô, để từ lời nói hành động của ta sẽ là cử chỉ hành động lời nói của Chúa Kitô chạm đến anh chị em khác.
Mùa Vọng nhắc ta chuẩn bị tâm hồn để mừng lễ Chúa Giáng Sinh, song Mùa Vọng còn là mùa nhắc chúng ta nhớ đến ngày Chúa sẽ trở lại lần thứ hai. Nhưng trước khi Chúa đến lần thứ hai, sẽ là ngày Chúa đến trong ngày lâm chung của mỗi người. Đây là ngày chắc chắn sẽ đến với mỗi người, nhưng không ai biết ngày ấy đến lúc nào, hay bằng cách nào. Ngày ấy có thể đến lúc ta đã về già, nhưng cũng có thể ngay khi còn trẻ, có thể là ngày mai, nhưng cũng có thể ngay đêm nay, Chúa sẽ gọi chúng ta trở về. Ta sẽ phải bỏ lại tất cả những gì ta yêu quý nhất, đó là người thân, gia đình và tất cả tài sàn, của cải mà một đời ta vất vả tìm kiếm, tích góp.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta một thái độ phải có để đón chờ ngày Thiên Chúa sẽ trở lại, đó là, phải canh thức và sẵn sàng, đừng để mình bị bất ngờ hoặc chủ quan thụ động. Ngày xưa, trước khi lụt Hồng Thủy xảy ra, Ông Noe và con cháu chuẩn bị chiếc tàu, những người chung quanh nhạo cười. Họ vẫn ăn uống, vui chơi, nhậu nhẹt cho đến ngày ông vào tàu, họ không quan tâm. Khi nước lũ ập đến, họ xoay sở không kịp và đã chết. Cũng giống như thế, trận lũ lịch sử tại miền Trung tháng trước. Do các thủy điện đồng loạt xả nước, khiến dân chúng bất ngờ không kịp trở tay, gây thiệt hại chết chóc nhiều. Lý do được đưa ra là những người quản lý không dự trù, không ngờ nước từ thượng nguồn về nhiều, sợ có nguy cơ vỡ đập, nên họ xả nước cho dân hứng chịu.
Thái độ tiếp theo Chúa Giêsu dạy là sống và làm việc hàng ngày, nhưng tâm hồn vẫn hướng về Thiên Chúa, làm việc trong sự hiện diện của Thiên Chúa và làm việc như làm việc cho Chúa. Ngày Thiên Chúa trở lại sẽ là ngày hạnh phúc hân hoan, hoặc trở thành ngày kinh hoàng là tùy mỗi người đã sống thế nào. Hai người tuy cùng làm chung một công việc giống nhau, như hai người đàn ông cùng đang cày ruộng, hoặc như hai phụ nữ đang xay bột, một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Ví dụ cho thấy, số phận chung cuộc của mỗi người tùy thuộc ở việc mình chọn lựa thái độ sống, chọn Thiên Chúa hay chọn thế gian.
Điều khó cho mỗi người đó là, cho dù biết chắc chắn Chúa sẽ trở lại, nhưng ta lại không biết giờ nào. Vì thế, Chúa cảnh báo chúng ta: Anh em hãy luôn canh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. Chúa muốn chúng ta phải tỉnh thức, sẵn sàng, như chủ nhà đề phòng kẻ trộm. Nếu như ngày nay người ta trang bị mọi thứ để đề phòng trộm, thì chúng ta cũng phải có nhiều phương án cho đời sống linh hồn của chúng ta. Nhưng ưu tiên và quan trọng hơn hết, vẫn là phải luôn tỉnh thức sẵn sàng, vì lúc chúng ta không ngờ, Chúa sẽ đến.
Có những người đang mở mắt, đang nhìn, đang nói, vẫn thức nhưng không tỉnh, họ sống tình trạng mơ màng như người mộng du. Cách đây mấy tuần, có một vị lãnh đạo tuyên bố: Nhìn tổng quát đất nước có bao giờ được như thế này không? Nhiều người cho rằng câu nói đó như của người mê sảng. Nhìn vào thực tế đất nước đang dầy dẫy nhưng nguy cơ khiến cho mọi người lo sợ, ai cũng thấy, chỉ những người có trách nhiệm là không thấy. Trong cuộc sống cá nhân và gia đình cũng thế, nhiều người tránh né không dám nhìn vào sự thật con người mình, hoặc tự ru ngủ mình bằng việc bằng lòng, an phận với tình trạng bê tha lười biếng của mình. Chúng ta ru ngủ mình bằng cách đánh lừa tiếng nhắc bảo của lương tâm, tránh né đối diện với tiếng lương tâm bằng những sự ồn ào hoặc vùi mình vào nhậu nhẹt, chơi bời.
Tỉnh thức, có nghĩa là thức trong tình trạng tỉnh táo, sáng suốt. Tỉnh thức để biết phân định, đánh giá lại từng lời nói, từng hành động và cách cư xử của ta, xem nó đúng hay sai, nên làm hay không nên, có phù hợp với Tin Mừng và giới răn của Chúa hay không. Các bậc cha mẹ tỉnh thức, để biết chọn lựa việc nào là cần thiết và là ưu tiên cho hạnh phúc đời mình và gia đình mình. Tỉnh thức bằng cách siêng năng đến với Chúa qua việc lãnh nhận Bí tích Giải tội và Thánh Thể, bằng giờ kinh sớm tối gia đình, Chúa sẽ giúp chúng ta có một lương tâm nhạy bén, một cái nhìn thật sáng, để nhận ra đâu là ý Chúa, đâu là những điều thuộc về thế gian, ma quỷ.
Các bạn trẻ ngày nay đang bị mê ngủ bởi cám dỗ sống ảo, sống hời hợt, sống câu like trên thế giới mạng, công nghệ, internet. Nhiều bạn khác đang sống hèn, sống nhục trong tình trạng bê tha nghiện ngập của mình, không tìm được lối thoát. Có nhiều bạn thức, nhưng không tỉnh, nên dễ để mình bị lôi kéo vào điều xấu. Để đón nhận được niềm vui và sự bình an của Chúa ban tặng trong mùa Giáng sinh sắp tới, các bạn cần mạnh mẽ vươn vai đứng dậy khỏi tình trạng ngủ đông của mình. Hãy rời khỏi màn hình vi tính để khám phá những điều tốt đẹp chung quanh ta. Hãy mạnh dạn bắt tay làm những điều tốt đẹp cho người khác, đừng đợi làm những việc vĩ đại, nhưng hãy bắt đầu từ những việc nhỏ bé với một tình yêu lớn lao, làm những việc tầm thường bằng một ý chí phi thường.
Xin Chúa cho chúng ta chuẩn bị trang trí bên ngoài, nhưng còn chuẩn bị tâm hồn thật tốt để đón Chúa đến. Amen
Thời buổi văn minh hôm nay dường như ai cũng có những chuyện riêng tư trên internet, ai MV 1-A162
Thời buổi văn minh hôm nay dường như ai cũng có những chuyện riêng tư trên internet, ai lại chẳng nóng lòng muốn đọc một vài cái email, hay nôn nao chờ mạng để vào thăm trang facebookcủa mình. Nhưng có bao giờ bạn nghĩ những cái riêng tư ấy sẽ đóng lại vĩnh viễn khi ta chợt thình lình ra đi? Cuộc đời rất khó nói trước. Có thể một ngày nào đó ta ra khỏi nhà và không hẹn được ngày trở lại như thi sĩ Phạm Thiên Thư từng nói:
“Cuộc đời chớp lóe mưa bay Càng đi, càng thấy dặm dài nỗi không…”
Cái email đó có thể không kịp có người đọc, trang facebook đó có thể sẽ vĩnh viễn đóng cửa, nhưng cái tâm tình hay cái tấm lòng của người viết nên chúng vẫn còn trăn trở, day dứt về cuộc sống còn quá nhiều điều chưa giải quyết xong. Nếu mọi việc còn dang dở thì sự ra đi bắt đắc kỳ tử sẽ đầy nuối tiếc buồn đau.
Thực ra, cái hạnh phúc lớn nhất của một kiếp người, theo tôi, là giả dụ có một ngày nằm xuống trên đường, chưa kịp về đến nơi chốn đã định, mình vẫn có thể yên tâm với những gì mình đã hoàn tất hay còn đang dở dang. Nếu mọi việc dù lớn dù nhỏ chúng ta làm bằng tất cả tâm tình nhiệt huyết thì lúc nào cũng là trọn vẹn và không còn ân hận điều chi. Vì cuộc ra đi không phải là kết thúc, nó chỉ là chuyển đổi cách sống từ mau qua đến cỏi vĩnh hằng bất tử như Nguyên Sa từng nói: “Cuộc đời dẫu có phù vân, ở trong mây nổi có phần thiên thu!”.
Cuộc sống vô thường. Con người chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Sống hay chết đều không do mình quyết định. Cái chết đến thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đào ngạch vào nhà lấy đi đồ đạc lúc nào chẳng hay biết. Cái chết cũng chẳng định lứa tuổi hay giai cấp, vì có thể cùng một lứa tuổi, cùng một công việc nhưng kẻ thì được mang đi, người thì vẫn còn ở lại.
Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức bằng cả một đời sống theo thánh ý Chúa. Tỉnh thức không để lòng mình buông theo những cám dỗ thế gian, những ước muốn tầm thường. Tỉnh thức để sống ngay thẳng không theo đường lối gian tà.
Chúa Giê-su hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời mà hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hãy sống công chính trước mặt Chúa. Sống trong ơn nghĩa của Ngài. Sống trung thành với giáo huấn của Ngài. Sống tự chủ bản thân mình đừng chiều theo tính xác thịt mà làm trái với luân thường đạo lý.
Đây cũng là thái độ của người khôn ngoan luôn tỉnh thức trước giờ Chúa đến. Tỉnh thức bằng việc cầm đèn cháy sáng như năm cô khôn ngoan có đủ dầu đèn. Dầu đèn ở đây chính là những việc lành bác ái, những ước vọng sống thánh thiện khước từ tội lỗi.
Mùa vọng là thời gian đợi chờ. Cuộc đợi chờ tân lang đến nhưng không hẹn rõ ngày giờ. Một cuộc đợi chờ luôn đòi hỏi chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức để xứng đáng dự tiệc vui muôn đời bên Chúa. Ước gì chúng ta hãy tận dụng mùa vọng để chuẩn bị cho mình hành trang cần thiết cho cuộc hội ngộ với Đức Lang Quân. Xin đừng vì những mải mê thế gian mà đánh mất cơ hội dự tiệc vui muôn đời. Amen
Với Chúa nhật I mùa Vọng, chúng ta bước vào một năm phụng vụ mới. Năm phụng vụ được tổ MV 1-A163
Với Chúa nhật I mùa Vọng, chúng ta bước vào một năm phụng vụ mới. Năm phụng vụ được tổ chức như một chu kỳ hàng năm để tưởng niệm những mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu Kitô và các ngày lễ của các Thánh.
Với Chúa nhật I mùa Vọng, chúng ta bước vào một năm phụng vụ mới. Năm phụng vụ được tổ chức như một chu kỳ hàng năm để tưởng niệm những mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu Kitô và các ngày lễ của các Thánh. Những mầu nhiệm này đã được hoàn tất trong thời gian của Chúa Giêsu Kitô, nhưng nay vẫn tiếp tục thể hiện trong thời gian của Giáo hội. Lễ Phục sinh chính là khởi điểm, là yếu tố căn bản và qui tụ tất cả các lễ khác. Năm phụng vụ có cơ cấu như hiện nay là cả một quá trình hình thành và phát triển dọc theo chiều dài lịch sử phụng vụ của Giáo hội. Bắt đầu chỉ có lễ Phục sinh, sau thêm lễ Hiện xuống, rồi mùa Chay. Đến thế kỷ IV, người ta bắt đầu mừng lễ Giáng sinh, lễ Hiển linh và cuối cùng thêm vào 4 tuần lễ mùa Vọng.
Mùa Vọng được tổ chức để chuẩn bị đón Chúa Giêsu trong hai lần Người ngự đến. Gồm có hai giai đoạn: Từ Chúa nhật I đến ngày 16/12, các bản văn Kinh thánh dùng trong phụng vụ nói lên sự mong đợi ngày Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang. Từ 17/12 đến 24/12, trực tiếp nói đến ngày sinh nhật của Người. Theo tinh thần canh tân phụng vụ hiện nay, mùa Vọng không còn là mùa thống hối nữa mà là mùa hân hoan mong đợi, mặc dầu phẩm phục vẫn là màu tím và không đọc Kinh Vinh danh.
Mùa Vọng là mùa của những lời loan báo: loan báo việc Chúa sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Giêsu. Vì thế, các bài đọc của mùa này xoay quanh các chủ đề loan báo ấy. Trong năm A này, các bài đọc I của các Chúa nhật mùa Vọng được trích từ phần I của Sách tiên tri Isaia. Trong các bài này, bài quan trọng nhất được dành cho Chúa nhật IV, với lời loan báo: Một Trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai được gọi là Emmanuel. Các bài Thánh thư chủ yếu trích thư gửi tín hữu Rôma của Thánh Phaolô và thư của Thánh Giacôbê nhấn mạnh đến việc loan báo Chúa Giêsu sẽ trở lại lần thứ hai. Về các bài Tin mừng thì Chúa nhật I nhắc lại lời kêu gọi "hãy tỉnh thức" của Chúa Giêsu. Chúa nhật II và III dành cho Gioan Tiền hô với lời kêu gọi dọn đường cho Chúa ngự đến và hướng về chính Đức Giêsu Kitô. Chúa nhật IV là Chúa nhật truyền tin cho Thánh Giuse.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 2,1-5
Giêrusalem mới
Trong một thị kiến huy hoàng, Tiên tri Isaia chiêm ngắm Thành Giêrusalem của Thiên Chúa vào ngày mà muôn dân tộc tuôn đổ về để vui hưởng hòa bình trong Thiên Chúa.
a. Bản văn này chắc chắn được viết sau khi Giêrusalem sụp đổ do bị quân đội của Nabuchodonosor, Vua Babylon chiếm đóng và tàn phá.
b. Tiên tri Isaia đã nhận thấy từ xa một ngày của Đức Chúa, nơi thành thánh, sự hồi sinh từ trong đổ nát ; mọi dân tộc trên mặt đất sẽ qui tụ tại đây để giao hòa với nhau. Giêrusalem sẽ trở nên Thành đô của Thiên Chúa, kinh đô của hòa bình.
c. Giêrusalem lý tưởng, trung tâm tôn giáo của nhân loại, chính là Giáo hội hôm nay. Giáo hội được Chúa Giêsu thiết lập sẽ là nơi chiếu tỏa ánh sáng hòa bình công lý và tình yêu của Thiên Chúa, để qui tụ mọi dân nước thành Dân của Ngài.
2. Bài đọc II: Rm 13,11-14
Ơn Cứu độ đã gần kề
Thánh Phaolô đã viết thư gửi giáo đoàn Rôma báo cho họ biết không được mê ngủ nữa phải tỉnh thức vì thời gian cứu độ đã gần kề, Ngày của Chúa đã đến gần, đừng đánh mất thời gian của mình.
a. Thánh Phaolô nói với những người đã trưởng thành, đã có đức tin phải biết thay đổi nếp sống so với lúc mới tin đạo.
b. Ngài khuyên dạy những người đã đón nhận ánh sáng Tin mừng đừng để bản thân chìm ngập trong bóng tối của tà giáo ; của lối sống vô luân.
c. Lời dạy của Thánh Phaolô nhắc nhở mỗi Kitô hữu chúng ta ngày nay phải biết tỉnh thức chờ đợi Đức Kitô đến bằng một đời sống đạo hạnh. Không mê ngủ trong tội lỗi, trong đam mê dục vọng xác thịt.
3. Tin mừng: Mt 24,37-44
Tỉnh thức trong sự chờ đón Đấng Cứu Thế
Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết rằng Người sẽ đến cách bất ngờ. Cần phải tỉnh thức để chuẩn bị cách tích cực đón chờ ngày Người đến, để khỏi phải ngạc nhiên.
a. Bản văn Tin mừng hôm nay được trích từ diễn từ về ngày cách chung, ở phần đầu (Mt 24,1-36), Chúa Giêsu nhấn mạnh Con Người chắc chắn sẽ đến. Nhưng cách thế và thời điểm mà Người đến thật là bất ngờ. Việc đối chiếu với lụt đại hồng thủy thời Noe nhấn mạnh tới yếu tố của việc đến bất ngờ và những hiểm họa của việc không hiểu biết gì về những đe dọa đang xảy đến. Khi ấy mọi toan tính không còn ý nghĩa gì nữa mà ngay từ bây giờ phải biết chuẩn bị.
b. Ngày Chúa Giêsu đến vừa là ngày Quang lâm của Người cũng vừa là ngày phán xét nhân loại. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hai người ngoài đồng, hai người đàn bà cùng xay bột để nói đến tình trạng phán xử cuối cùng của nhân loại. Người ở lại người được cất đi. Bên ngoài mọi người có vẻ giống nhau, cùng sống cùng làm việc, nhưng giờ ấy mới thấy rõ có sự tách biệt, người được cứu còn người thì không. Sự khác biệt ấy hệ tại ở chính đời sống luân lý của mỗi người, hệ tại ở đức tin của mỗi người.
c. Chúa Giêsu cho thấy con người không thể biết đâu là ngày giờ tận cùng của nhân loại cũng như của mỗi người. Do đó, mỗi người phải biết chuẩn bị cho ngày ấy, đó là thái độ tỉnh thức mà Người mời gọi. Vấn đề không phải là khi nào, lúc nào ngày ấy sẽ đến mà vấn đề là con người đón chờ ngày ấy như thế nào.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Tỉnh thức và sẵn sàng, một việc cần phải làm ngay
Ngày của Chúa đến thật là bất ngờ, thình lình khiến trở tay không kịp. Như thời ông Noe, bất thình lình đại hồng thủy ập xuống ; hai người cùng làm nhưng bất ngờ một người được cứu còn người khác thì không. Những hình ảnh Chúa Giêsu nêu ra này cho thấy tính khẩn thiết của việc tỉnh thức, sẵn sàng cho Ngày của Chúa. Không thể khoan giãn lần lựa được mà phải làm ngay. Các con hãy sẵn sàng, chính vào giờ các con không ngờ Con Người sẽ đến. Lời Chúa Giêsu không phải là một lời hù doạ, nhưng là một lời cảnh báo trước, một lời báo động. Tai ương treo trên đầu mỗi người và sẽ rơi xuống lúc nào không hay. Khi đó, mọi toan tính thì đã quá muộn. Cho nên, phải làm ngay, phải chuẩn bị từ bây giờ. Ngày giờ Chúa đến càng bí ẩn bao nhiêu thì việc tỉnh thức sẵn sàng càng khẩn thiết bấy nhiêu.
Lời Chúa Giêsu quả quyết không biết đâu là ngày giờ tận cùng mách bảo chúng ta mỗi Kitô hữu đừng giả định phỏng đoán ngày nào, lúc nào nhưng thay vào đó hãy lo chuẩn bị. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng trong sự giả định ngày ấy đã gần kề.
2. Chúa đến bất ngờ, con người không biết nhưng biết chuẩn bị đón Chúa
Ngày giờ tận cùng, ngày Chúa đến là bí mật của Chúa Cha. Tuy nhiên, một cám dỗ cố hữu nơi lý trí con người là mong muốn biết ngày giờ ấy và ngày ấy sẽ xảy ra như thế nào. Trong lịch sử loài người đã không ít lần chứng kiến những phỏng đoán về ngày tận thế, nhưng tất cả đều sai lầm. Con người không thể biết được. Thực ra Lời Chúa cho chúng ta thấy, ngày ấy chắc chắn sẽ đến. Vấn đề không phải ở việc biết đến lúc nào và như thế nào. Vấn đề quan trọng là biết trước có ngày đó thì phải lo chuẩn bị. Người ta không học được chữ 'ngờ' nhưng phải học được chữ 'phòng'. Đã không biết được ngày giờ nhưng biết sẽ có ngày ấy thế thì chuyện quan trọng và cần thiết là chuẩn bị. Chúa Giêsu không nói gì nhiều chỉ kêu gọi vắn tắt nhưng rõ ràng: Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng.
Là Kitô hữu, mỗi người chúng ta ý thức thế nào và chuẩn bị ra sao cho ngày Chúa đến. Ngày ấy có thể là ngày chết của mỗi cá nhân, cũng có thể là ngày chung thẩm của cả nhân loại. Chuẩn bị cho giờ chết của mình cũng là chuẩn bị cho ngày cánh chung.
3. Tỉnh thức là thái độ của nội tâm
Hai người cùng làm việc chung nhưng một người được cứu, một người không. Nhìn vào dáng vẻ, công việc và cuộc sống bên ngoài không có gì phân biệt giữa hai người, giữa hai người nông dân đang làm việc ngoài đồng hay hai người đàn bà đang cùng ngồi xay một cối. Thế nhưng, trước mặt Thiên Chúa lại có sự phân biệt, có sự khác biệt giữa họ. Đó là thái độ nội tâm. Người thì gắn bó với Chúa trong công việc, người thì không. Người thì tỉnh thức còn người mê ngủ… Thái độ nội tâm này làm cho công việc và cuộc sống của con người khác nhau trước mặt Thiên Chúa và cũng đưa tới một kết cục khác nhau hoàn toàn trong ngày của Chúa. Thái độ nội tâm ấy là thái độ của người tin tưởng vào Chúa. Sự tỉnh thức khởi đi từ chính một tâm hồn luôn gắn bó với Chúa, biết đón chờ Ngài. Chính nhờ đời sống nội tâm như thế, mọi công việc, sinh hoạt và trọn vẹn cuộc sống là cả một sự chuẩn bị, cả một sự tỉnh thức.
Lời kêu gọi hãy tỉnh thức ; hãy sẵn sàng phải vang dội từ trong tâm khảm của mỗi Kitô hữu. Lời đó phải thấm nhuần trọn vẹn con người và chi phối mọi thực tại cuộc sống. Càng gắn bó với Chúa, càng biết chuẩn bị. Càng có đời sống nội tâm sâu sắc càng biết tỉnh thức.
Dẫn vào Phụng vụ Thánh thể:
Để có sự kết hợp mật thiết nhất với Chúa Giêsu chúng ta có một phương thế bảo đảm đó là Bí tích Thánh thể. Mình Máu Thánh Chúa Giêsu vừa là một bảo chứng cho chúng ta trong ngày sau hết, vừa là của ăn giúp chúng ta có sức để lo liệu và lên đường đón chờ ngày Chúa đến.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu sẽ đến đón chúng ta chung hưởng hạnh phúc với Người trong ngày Người ngự đến vinh quang. Trong tâm tình hy vọng, chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời cầu xin:
1. Hội thánh tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu không ngừng vang lên lời mời gọi con cái mình và toàn thế giới hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho sứ điệp Tin mừng mà Hội thánh loan báo được mọi người đón nhận và thực thi.
2. Ngày nay biết bao người đang lầm đường lạc lối, ngủ mê trong tệ nạn, trong tội lỗi và trong lối sống vô luân. Chúng ta cùng cầu nguyện cho có nhiều người thành tâm thiện chí, quảng đại dấn thân trong việc giúp đỡ, hướng dẫn và nâng đỡ những người sa ngã lầm lạc trở về.
3. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng vì vào giờ các con không ngờ thì Con Người sẽ đến. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết tình thức bằng đời sống gắn bó với Chúa, chu toàn trách nhiệm được trao phó với tất cả lương tâm Công giáo.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót. Xin ban Thánh Thần của Chúa hướng dẫn chúng con biết sống đúng lời Chúa Giêsu dạy tỉnh thức hân hoan đón chờ ngày Người đến trong vinh quang. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Vào đêm giao thừa Mậu Thân năm 1968, biết rằng hầu hết quân lực miền nam Việt Nam từ tướng MV 1-A164
Vào đêm giao thừa Mậu Thân năm 1968, biết rằng hầu hết quân lực miền nam Việt Nam từ tướng đến quân lơ là trong việc canh phòng đồn trại, về nhà vui xuân chơi tết trong những ngày hưu chiến, quân đội miền bắc xông vào chiếm đóng 4 thành phố lớn, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ khác trên khắp miền nam cách dễ dàng.
Sự kiện lịch sử này cho thấy sự thiếu canh phòng, thiếu cảnh giác là yếu tố nguy cơ hàng đầu khiến người ta phải thất bại, thua thiệt và mất mát...
Trái lại, sự tỉnh thức và cảnh giác cao độ là yếu tố cần thiết để bảo toàn sinh mạng, của cải và phẩm chất cao đẹp của mình. Vì thế, qua các trang Tin mừng, Chúa Giê-su dạy chúng ta phải thường xuyên cảnh giác, Ngài nói: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình” (Mt 24, 42-43).
Cần cảnh giác trước những nguy cơ nào?
Có nhiều nguy cơ nghiêm trọng đe dọa con người cũng như xã hội chúng ta hôm nay. Ở đây, xin đề cập đến hai nguy cơ lớn:
1. Sự dối trá tràn lan trong xã hội
“Kết quả của cuộc khảo sát do Giáo sư tiến sĩ khoa học Trần Ngọc Thêm, giám đốc trung tâm văn hóa học lý luận và ứng dụng khiến xã hội bàng hoàng: Tỷ lệ nói dối ở học sinh bậc tiểu học là 22%; ở bậc Trung học cơ sở là 50%; ở bậc Trung học phổ thông là 64% và ở bậc đại học là 80%. (…)
Tóm lại, là sự dối trá đã len vào tận hang cùng ngõ hẻm của xã hội, ngự trị từ tầng thấp đến tầng cao. Chưa bao giờ người Việt Nam lại mất lòng tin, lại phải đề phòng, cảnh giác đối với người xung quanh mình, với xã hội đến thế. Sống trong một môi trường như vậy, thì các cháu, các em không nói dối, mới là chuyện lạ[1].”
Sự dối trá lan tràn như bệnh dịch nguy hiểm, tác hại nặng nề đến xã hội chúng ta. Đây là một nguy cơ lớn lao mà mọi người dân Việt phải hết sức cảnh giác, đề phòng.
2. Lòng tham
Trong xã hội chúng ta, lòng tham đang lan nhanh, tỏa rộng như một đám cháy rừng vô phương cứu chữa và có thể xâm chiếm tâm hồn chúng ta lúc nào không hay. Lòng tham xui khiến, xô đẩy người ta thực hiện đủ mọi hình thức tham ô, chiếm đoạt, sản xuất thực phẩm độc hại, làm hàng giả, lường gạt, giết người cướp của, kể cả buôn người xuyên quốc gia… để thu lợi về cho mình, bất chấp thiệt thòi, mất mát, đau thương, khốn cùng… của bao nhiêu người khác.
Điều đáng sợ là ngày nay, lòng tham ngày càng thắng thế. Lòng tham từng bước truất phế lương tri, lý trí, lòng đạo đức nơi rất nhiều người để chiếm lấy quyền thống trị tâm hồn và đời sống của họ; và điều đáng sợ hơn nữa là hầu như không có một quyền lực trần gian nào có thể lật đổ, truất phế lòng tham để cho đạo đức và lương tri được lên ngôi.
Hai nguy cơ này là những địch thù vô hình nhưng rất đáng sợ, đang âm thầm lặng lẽ xâm chiếm và liên lỉ gặm nhấm, đục khoét tâm hồn ta … như những loài sâu mọt bất trị, vì thế, mỗi người chúng ta phải hết sức đề phòng, cảnh giác.
Giờ đây chúng ta hãy nhìn lại cõi lòng mình và suy xét xem dối trá và tham lam đã len lỏi vào đời ta, đã chi phối cuộc sống ta chưa?
Trong tuần vừa rồi hoặc trong tháng qua, tôi đã nói dối mấy lần? Nếu có, thì thói dối trá đã tiêm nhiễm vào đời tôi, tôi cần phải cảnh giác để ngăn ngừa.
Lâu nay Chúa đã cho tôi no đủ rồi, tôi có còn ước ao khao khát có nhiều hơn không? Nếu có, thì lòng tham lam đang chi phối cuộc đời tôi, tôi cần phải tỉnh táo để tự giải thoát mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Sống trong một xã hội đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi tham lam và dối trá thì việc duy trì một tâm hồn trong sạch không hám lợi, giữ cho lòng trí luôn chân thật ngay thẳng là điều rất khó.
Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con không bị tiền bạc chỉ huy và lôi cuốn, không để cho dối trá chi phối tâm hồn và nhất là đừng bao giờ hóa thân thành người tham lam và dối trá.
Cuộc gặp gỡ giới trẻ châu Á do Cộng đoàn Taizé tổ chức tại Hong Kong vào tháng 8 năm 2019 đã MV 1-A165
Cuộc gặp gỡ giới trẻ châu Á do Cộng đoàn Taizé tổ chức tại Hong Kong vào tháng 8 năm 2019 đã chọn đề tài “Chúng ta đừng quên lòng hiếu khách”. Câu Kinh Thánh này được trích dẫn từ Thư gửi tín hữu Do Thái: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13,2). Nếu chúng ta cần tỏ lòng hiếu khách, là vì Thiên Chúa cũng rất quảng đại đón tiếp chúng ta. Qua công trình tạo dựng, Ngài đã gọi chúng ta từ hư vô tới hiện hữu. Khi chúng ta phạm tội, Ngài đã giang rộng vòng tay đón chào chúng ta trở về. Lòng hiếu khách của Thiên Chúa, vừa tạo dựng chúng ta, vừa tha thứ cho chúng ta với tình cha nhân hậu thắm thiết.
Chúng ta đã bước vào Mùa Vọng, là thời điểm nhắc nhớ chúng ta: Con Thiên Chúa đã đến trong lịch sử. Tài liệu hướng dẫn suy niệm của Cộng đoàn Taizé viết: “Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là tình yêu, trao gửi cho chúng ta tình bằng hữu. Một cách khiêm nhường, Chúa Kitô đứng trước nhà chúng ta và gõ cửa. Như một người nghèo, Người hy vọng và chờ đợi sự hiếu khách của chúng ta. Nếu ai đó mở cửa cho Người, Người sẽ bước vào”. Vâng, Chúa Giêsu đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay, Người vẫn tiếp tục đến trong tâm hồn chúng ta. Người kiên nhẫn gõ cửa và chờ đợi chúng ta mở cửa. Đó không phải là cánh cửa của một căn nhà, nhưng là cửa tâm hồn. Những ai mở rộng cửa tâm hồn để đón chào Chúa, chắc chắn sẽ gặp được bình an và hạnh phúc.
Lòng hiếu khách đối với Ngôi Lời nhập thể, nhưng mỗi chúng ta cũng phải có lòng hiếu khách đối với anh chị em mình, bởi vì, như lời tác giả thư Do Thái trích dẫn trên đây, trong khi chúng ta đón tiếp anh chị em, chúng ta được đón tiếp các thiên thần của Thiên Chúa và được đón tiếp chính Chúa Giêsu, vì Người đã tự đồng hóa với những người bé mọn, cô thế cô thân và không nơi nương tựa.
Để thể hiện lòng hiếu khách một cách cụ thể, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Sự tỉnh thức được nói đến trong Kinh Thánh, chính là sự khôn ngoan, cân nhắc và thận trọng để lựa chọn cho mình một hướng đi, một nghề nghiệp và một lối sống. Tỉnh thức cũng là sự sẵn sàng để bất cứ Chúa đến lúc nào, chúng ta không bị bất ngờ. Câu chuyện ông Nôê và trận đại hồng thủy là một bài học cho con người ở mọi thời đại. Khi ông Nôê đóng tàu, có nhiều người chê cười nhạo báng vì cho đó là điều ảo tưởng vô ích. Con người ngày nay cũng bỏ ngoài tai những lời giáo huấn của Chúa. Họ chỉ chú ý đến cuộc sống hiện tại, lấy vật chất làm tiêu chuẩn, lấy lợi nhuận làm định hướng cho cuộc đời.
Theo thánh Phaolô, tỉnh thức nghĩa là sống đàng hoàng, như ban ngày và từ bỏ những hành vi ám muội. Những kẻ trộm cắp hay hành động về ban đêm. Thánh nhân khuyên chúng ta: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Ngài cũng giải thích chi tiết khái niệm “sống giữa ban ngày”: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương”. Nhờ vậy, khi Chúa đến, chúng ta được thanh thản tâm hồn để đón Người.
“Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Sự chờ đợi nào cũng dễ làm cho chúng ta nóng lòng sốt ruột. Chúa đã hứa: những ai kiên trì và trung thành tỉnh thức sẽ được Chúa ban thưởng, vì họ có lòng hiếu khách và trân trọng đợi chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến trước hết là khi chúng ta kết thúc cuộc đời. Ai cũng sợ chết nhưng chẳng ai phủ nhận được sự chết. Dù trường thọ cao niên, dù dồi dào bổng lộc, chẳng ai sống mãi trên đời. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: Giờ chết là giờ phán xét riêng. Mỗi người phải trình diện trước nhan Chúa về hành vi cử chỉ của mình đối với Chúa và đối với tha nhân.
Ngày Chúa đến cũng là ngày “quang lâm”, tức là Chúa đến trong vinh quang để phán xét nhân loại. Đó là ngày vinh quang đối với những ai sống công chính, nhưng là ngày đại họa cho những kẻ sống hận thù. Chúa Giêsu là vị Thẩm phán công minh, sẽ căn cứ vào mối tương quan với tha nhân của chúng ta mà xét xử (x. Mt 25, 31-46).
Lời ngôn sứ Isaia (Bài đọc I) mang sắc thái của một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi tín hữu hãy lên đường tiến về Giêrusalem để đón Chúa. Những hình ảnh được diễn tả trong Bài đọc I cho thấy Giêrusalem là trung tâm điểm của thế giới. Mọi nơi đều hướng về trong niềm vui mừng hân hoan. Đây là sự khai mở một triều đại mới của lịch sử. Chúa đến để chúc phúc cho dân người. Nếu chúng ta lắng nghe lời hiệu triệu này mà đón Chúa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ an bình tốt đẹp và nở hoa. Có Chúa hiện diện, sẽ không còn chiến tranh. Con người sẽ “đúc gươm đao thành cuộc thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Một xã hội thanh bình sẽ được thiết lập nếu ta biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa và thực thi giáo huấn của Người.
Chúa Giêsu đã đến trong lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay Chúa vẫn đến với tâm hồn cá nhân mỗi người. Chúng ta hãy thể hiện lòng hiếu khách đối với Chúa, vừa đón Chúa đến trong tâm hồn, vừa dọn đường để Người đến nơi mọi nẻo đường trần gian, hầu vương quốc hòa bình của Chúa được lan tỏa khắp nơi.
Trong xã hội hiện nay, người ta thường khuyên mỗi người phải cảnh giác: cảnh giác với những MV 1-A166
Trong xã hội hiện nay, người ta thường khuyên mỗi người phải cảnh giác: cảnh giác với những kẻ bất lương, lừa đảo, với thực phẩm bẩn, với môi trường sống … Những phút giây mất cảnh giác thường khiến con người phải trả giá: lúc thì của cải không cánh mà bay, lúc thì sức khỏe bị tổn hại và nhất là có thể mất mạng sống như chơi.
Không chỉ là những chuyện ban ngày ban mặt ngoài đường phố nhưng nhiều khi tai ương lại sập đến ngay tại nơi trú ẩn an toàn nhất là ngôi nhà của chính mình. Cũng giống như “thời ông Nô-ê, người ta không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy”; các trận lũ lụt tràn về trong đêm tối khiến con người bàng hoàng trở tay không kịp. Nhà cửa ruộng vườn tan hoang, của cải vật dụng gia súc trôi theo dòng nước.
Tin Mừng Chúa Nhật khởi đầu mùa Vọng theo thánh Mát-thêu đề cập đến sứ điệp cánh chung. Lời loan báo thời đại Con Người sẽ đến với những đảo lộn vũ trụ đáng sợ. Chúa Giê-su nhắc đến thiên tai hủy diệt nhân loại trong thời Cựu Ước là cơn lụt hồng thủy và những ai không sống tỉnh thức thì sẽ bị tận diệt, còn ai tỉnh thức và sống công chính thì sẽ được thoát nạn.
Con Người quang lâm mang tính cách “bất ngờ”, ai có ý thức và sống tỉnh thức chờ đợi sẽ được nhận mặt “tích cực” của biến cố này. Ngược lại, sẽ thật buồn cho những ai mù tối ăn chơi và hưởng thụ cuộc sống trong lạc thú và tội lỗi, mà không chú ý tỉnh thức, sám hối và ăn năn.
Ngoài ra, Thánh Mát-thêu cũng đề cập thêm về hai nhóm người trong ngày quang lâm của Con Người. Nhóm thứ nhất là hai người đàn ông đang làm ruộng và nhóm thứ hai là hai người đàn bà đang kéo cối xay. Nghĩa là cả hai nhóm người đang làm những công việc thường nhật.
Một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Như thế, khi Chúa đến thì có người được chọn và có người không được chọn. Giống như biến cố đại hồng thủy, ông Nô-ê được chọn cùng với con cháu, trong khi những người khác thì không được chọn.
Qua dụ ngôn đơn sơ này, Chúa Giê-su nhấn mạnh một giáo huấn quan trọng: "Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu.”
Như vậy, dù kẻ trộm có đến bất ngờ hoặc chủ nhà đã tiên đoán được thời gian kẻ trộm đến thì người chủ vẫn không được phép lơ đãng, mà luôn phải giữ tinh thần tỉnh thức sẵn sàng đối phó khi kẻ trộm khoét vách nhà mình. Qua yếu tố Chúa đến cách bất ngờ, Chúa Giê-su muốn nhắc nhở chúng ta cần phải tỉnh thức luôn.
Tỉnh thức và sẵn sàng là thái độ nền tảng mà người Ki-tô hữu cần có trong cuộc sống. Khi sống tỉnh thức và sẵn sàng chính là lúc chúng ta thắng mình, không để mình rơi vào tình trạng “ngủ mê”, không sẵn sàng đón tiếp Chúa đến. Vì không biết khi nào Chúa đến nên chúng ta phải khiêm tốn và luôn mở rộng tấm lòng cho Chúa, luôn giữ cho được mối dây tương quan tình yêu với Ngài.
Đó là sự khôn ngoan trong cuộc sống của người Ki-tô hữu, nhất là trong bầu khí của mùa Vọng, là thời gian chúng ta chờ trông Chúa đến. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng để khi Chúa đến, Ngài sẽ thấy chúng ta vẫn đang mở rộng cánh cửa tâm hồn sẵn sàng mời đón Ngài vào.
Phụng vụ Lời Chúa suốt Mùa Vọng tha thiết kêu gọi, và mời chúng ta cùng lên đường với Giáo MV 1-A167
TMĐP- Phụng vụ Lời Chúa suốt Mùa Vọng tha thiết kêu gọi, và mời chúng ta cùng lên đường với Giáo Hội để “dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”(Mc 1,3).
Chúng ta đang sống trong một thế giới với quá nhiều rủi ro và đe dọa: những rủi ro thiên nhiên khi trái đất và môi trường sống không được con người tôn trọng, mà hậu qủa là cuồng phong, lũ lụt, động đất; những đe đọa ngày càng khủng khiếp do tham vọng điên rồ và tinh thần cuồng tín tôn thờ những chủ nghiã mang tính qúa khích, cực đoan của nhiều nguời đang đưa nhân loai vào những cuộc chiến tranh tự hủy diệt.
Quả thực, có quá nhiều lý do để chúng ta sợ cuộc sống, ngao ngán đời sống, mệt mỏi với người cùng sống và cô độc lầm lũi đi dần về phiá bóng tối thất vọng.
Nhưng chính trong hoàn cảnh không vui, ở những ngày thiếu nắng mai ấm áp, phấn chấn ấy, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng mắt nhìn về Đức Giêsu, Thiên Chúa cứu độ, Đấng đến với chúng ta giữa lòng cuộc đời đầy kịch tính, hiện diện bên cạnh chúng ta trong những rủi ro, đe dọa, lo sợ do chính chúng ta gây ra cho nhau, và đồng hành với chúng ta trên từng cây số đường đời nhiều oan khiên, khó khăn, trắc trở, và đầy những tai nạn, biến cố bi thương, để mở ra cho chúng ta con đường Hy Vọng, và làm rạng rỡ cuộc đời chúng ta bằng ánh sáng Hy Vọng là Hồng Ân của Thiên Chúa.
Nhưng niềm Hy Vọng, con đường Hy Vọng chúng ta đợi chờ từ Thiên Chúa ấy không là hy vọng bình thường, được hiểu theo nghiã thường, nhưng là Ơn Sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi được ban cho từng người qua “diện mạo con người ”của Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa khi Ngài xuống thế làm người và ở với loài người chúng ta. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa làm cho cuộc sống buồn thảm của chúng ta không còn bị che phủ bởi tang chế sầu thương, nhưng bừng lên ánh sáng Hy Vọng trong niềm vui khôn tả của cả đất trời như ngôn sứ Isaia đã tuyên sấm: “Trời hãy hò reo, đất hãy nhảy múa, núi non hãy bật tiếng hò reo, vì Đức Chúa ủi an dân Người đã chọn và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Người”(Is 49,13).
Quả thực, chúng ta là những kẻ nghèo khổ được Thiên Chúa thương ban niềm vui của Hy Vọng là chính Ngài, qua Lời Hứa: “Nước Trời là của những ai nghèo khó; Thiên Đàng là gia nghiệp của những ai hiền lành, khiêm nhường; Thiên Chúa sẽ ủi an, nâng đỡ và lau khô nước mắt những cõi lòng sầu khổ; Ngài thương xót những ai có lòng xót thương, và cho nhìn thấy tôn nhan Ngài những ai có lòng khiết tịnh, thanh cao; nhất là cho làm con và ban phần thưởng lớn lao trên trời cho những người bị thiên hạ sỉ vả, bách hại, vu khống, hàm oan, hiểu lầm vì làm vinh danh Thiên Chúa”(x. Mt 5, 3-12).
Vâng, Mùa Vọng là khởi đầu của hành trình sống niềm Hy Vọng là ơn sủng vô cùng lớn lao của Thiên Chúa ban cho loài người, ở đó Giáo Hội kêu gọi chúng ta sống niềm Hy Vọng , nhưng không sống như người ta chạy theo một chủ nghiã, một phong trào, trái lại, sống niềm Hy Vọng ở người Kitô hữu là đi theo một Thiên Chúa làm người, có tên “Emmanuen, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1, 23).
Bước chân đi theo Con Người Thiên Chúa ấy đòi người môn đệ phải can đảm ra khỏi bóng tối để đi với ánh sáng; phải yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương; phải kiên trì sống Lời Chúa và làm chứng cho mọi người: Thiên Chúa yêu thương họ.
Đó là tất cả những gì phụng vụ Lời Chúa suốt Mùa Vọng tha thiết kêu gọi, và mời chúng ta cùng lên đường với Giáo Hội để “dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”(Mc 1,3).
Ý định của Thiên Chúa là cứu vớt tất cả mọi người và Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Vì thế MV 1-A168
Ý định của Thiên Chúa là cứu vớt tất cả mọi người và Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Vì thế mà trong mùa Vọng, Giáo hội khuyên dạy chúng ta hãy cầu xin: “Lạy Chúa, xin hãy đến”.
Trần gian hứa hẹn bao nhiêu hạnh phúc, nhưng chúng ta vẫn thất vọng. Chỉ có hạnh phúc Chúa hứa mới làm cho lòng chúng ta sung mãn.
“Lạy Chúa, xin hãy đến”.
Tiếng van nài ngân vang suốt trong bốn tuần Mùa Vọng… Và Giáo hội vẫn không nản lòng kêu xin, trông chờ.
Chúa đã đến rồi từ bao thế kỷ, vậy Chúa còn đến lần nữa sao? Tiếng kêu vang trong suốt Mùa Vọng chỉ là một lời vang xin giả hiệu?
Phải, Chúa đã đến rồi, đã sống ở trần gian này hơn 30 năm… nhưng tại sao cứ kêu van mãi, chờ đợi mãi?
Chúa đã đến rồi, nhưng lòng người vẫn còn xa lạ. Con người của thế kỷ này vẫn còn xa lạ với Chúa, và có lẽ còn xa lạ hơn bao giờ hết. Con người bất cần Thiên Chúa: Chúa còn ích lợi gì cho tôi khi tôi đầy đủ mọi sự để sung sướng, hưởng thụ? Chúa chỉ là “thuốc phiện” mê hoặc con người. Thế giới hôm nay vẫn nói như thế. Những con người duy vật vẫn nói như thế.
Giáo hội vẫn bền lòng kêu xin: “Lạy Chúa, xin hãy đến”.
“Xin hãy đến”
Vì trong thế giới hôm nay, con người đang sống trong u tối lầm lạc, tôn thờ vật chất và dục tình, tưởng rằng đó là hạnh phúc của họ.
Xin hãy đến,
Vì chỉ có Chúa là ánh sáng muôn dân, ánh sáng từ nơi cha Toàn năng. Xin hãy đến,
Rọi sáng tâm hồn và cuộc đời chúng con bằng ánh sáng sự thật của Chúa. Xin hãy đến,
Vì thế giới hôm nay đang bị ô nhiễm vì hận thù tràn lan. Chúng con đang thở những khói đạn chiến tranh, những chia rẽ màu da chủng tộc, những ích kỷ đê hèn và tàn bạo. Xin hãy đến,
Ban cho chúng những lời thân ái yêu thương, cho chúng con hòa bình mà chúng con hằng khao khát. Chúa là yêu thương.
Xin hãy đến, Này đây những bãi chiến trường khốc liệt… Này đây những dòng sông máu hồng, Này đây những núi xương khô, Này đây những dòng nước mắt chưa cạn…
Này đây những ngục tù oi ngợp, Những con người tàn phế cả xác linh hồn.
Xin hãy đến,
Chúa là nguồn hy vọng ngàn đời, là Mặt Trời Công Chính, Xin ban cho chúng con những nụ cười hồn nhiên, những tâm hồn không cằn khô thất vọng.
Giáo hội vẫn mong mỏi đợi trông với từng con tim thoi thóp.
“Lạy Chúa, xin hãy đến” , Tâm hồn con khao khát Chúa hơn đất khô mong chờ cơn mưa, Hơn lính canh mong đợi hừng đông. Tâm hồn chúng ta phải khô khan ước vọng được cứu thoát khỏi xích xiềng tội lỗi. Để Thiên Chúa mang lại niềm tin đang yếu ớt, Nguồn sung mãn của tình yêu siêu thoát.
Lạy Chúa, xin hãy đến, Vì chúng con đang cần đến Chúa, Vì chúng con đang thiếu thốn tình yêu, hòa bình và hạnh phúc.
Hằng năm, Phụng Vụ Lời Chúa khai mở viễn cảnh về thời tận thế và Triều Đại Thiên Chúa. Như MV 1-A169
Hằng năm, Phụng Vụ Lời Chúa khai mở viễn cảnh về thời tận thế và Triều Đại Thiên Chúa. Như vậy, ngay từ đầu, ý nghĩa được ban cho suốt lộ trình mà Giáo Hội dẫn chúng ta đi, kể từ việc chuẩn bị Lễ Giáng Sinh cho đến lễ Chúa Ki-tô Vua: một cuộc hành trình về Nước Thiên Chúa, về thế giới không tội lỗi, được các ngôn sứ loan báo và được Chúa Ki-tô hứa vào ngày Quang Lâm của Ngài.
Đó là thực tại tương lai, vận mệnh tối hậu của nhân loại, và đồng thời đó cũng là thực tại hiện nay mà mọi người cũng như mỗi người không ngừng xây dựng. Đó là bài học mà Chúa Nhật I Mùa Vọng này đề nghị cho chúng ta.
Is 2: 1-5
Bài Đọc I là sứ điệp của ngôn sứ I-sai-a, biểu dương ơn gọi của dân Ít-ra-en nói chung và của Giê-ru-sa-lem nói riêng: dạy cho muôn dân biết những đường lối dẫn đến Thiên Chúa chân thật, như vậy chuẩn bị triều đại công lý và hòa bình chung cuộc.
Rm 13: 11-14
Trong thư gửi cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu phải ăn ở như con cái ánh sáng để chiến đấu chống lại tội lỗi, đó là cách thức duy nhất chuẩn bị cuộc gặp gỡ với Chúa Ki-tô.
Mt 24: 37-44
Trong đoạn trích Tin Mừng Mát-thêu hôm nay, từ bài diễn từ của Chúa Giê-su liên quan đến thời tận thế và ngày Quang Lâm của Ngài, Chúa Giê-su loan báo rằng việc Ngài trở lại hoàn toàn bất ngờ sẽ ấn định vĩnh viễn số phận của mỗi người. Vì thế, mỗi người phải sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón Chúa đến, như ông Nô-ê bắt tay vào việc đóng con tàu, chuẩn bị sẵn sàng cho trận hồng thủy mà ông không biết ngày nào, giờ nào.
BÀI ĐỌC I (Is 2: 1-5)
Muôn dân nước lũ lượt kéo nhau lên “Nhà Đức Chúa” để được lắng nghe Lời Thiên Chúa. Đó là viễn tượng hùng vĩ mà Bài Đọc I đề nghị cho chúng ta để khai mạc Mùa Vọng cũng như chu trình Năm Phụng Vụ, Năm A này.
Sấm ngôn này được định vị ở đầu tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên); chúng ta cũng gặp thấy sấm ngôn này với một phiên bản và một phần thêm vào, trong tác phẩm của ngôn sứ Mi-kha (Mk 4: 1-5), cũng vào cùng thời với ngôn sứ I-sai-a. Vì thế, sấm ngôn này có thể xuất xứ từ một ngôn sứ vô danh trước đó; tuy nhiên, giọng văn mang âm hưởng của ngôn sứ I-sai-a.
1. Lời Chúa quy tụ muôn dân nước
Vị ngôn sứ thoáng thấy trong một tương lai xa, không được xác định, có thể kỷ nguyên Mê-si-a hay, xem ra có thể hơn, kỷ nguyên của thời sau hết, cuộc hành trình của muôn dân về “núi Nhà Đức Chúa”, ngọn đồi Xi-on trên đó tọa lạc “Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp”. Tên Gia-cóp và tên Ít-ra-en được dùng thay cho nhau mà không phân biệt để chỉ tổ phụ của dân Chúa chọn (x. St 32: 29).
Chúng ta ghi nhận rằng vào đầu bài thơ của mình, vị ngôn sứ ngỏ lời với Giu-đa, tức là vương quốc Giu-đa mà Giê-ru-sa-lem là thủ đô; nhưng khi nêu lên Đền Thờ thì ông gọi “Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp”, theo kiểu nói này tác giả khẳng định rằng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là Đền Thánh chung cho mọi chi tộc, trong khi chờ đợi là Đền Thờ chung cho muôn dân. Như vậy ông công bố sứ mạng hoàn vũ của Giê-ru-sa-lem; ông không nhấn mạnh các lễ tế được dâng tiến cho Thiên Chúa chân thật, nhưng lời xuất phát từ miệng Thiên Chúa, Lời Chúa phải là dấu chỉ của việc quy tụ và hiệp nhất mọi dân mọi nước. Tính siêu việt và uy thế tâm linh của Lời Chúa này được diễn tả bởi biểu tượng ngọn núi:
“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao”.
Vào thời sau hết, núi thánh Xi-on sẽ vươn mình lên cao hơn tất cả các đỉnh núi, tức là “các nơi cao” mà lương dân thường dùng làm nơi tế tự cho các thần linh của mình.
Muôn dân nước lũ lượt kéo nhau lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem không phải để chiêm ngưỡng cảnh huy hoàng tráng lệ của Đền Thờ, hay để dâng tiến lễ tế lên Thiên Chúa, nhưng để gặp gỡ Thiên Chúa và lắng nghe Lời Ngài phán dạy. Lời mặc khải của Ngài được ký thác cho Giê-ru-sa-lem:
“Vì từ Xi-on, thánh luật ban xuống, từ Giê-ru-sa-lem, lời Đức Chúa phán truyền”.
Thánh luật được xem như Lời Thiên Chúa, như cách diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa:
“Để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ”.
Những hình ảnh “lối” và “đường” là từ vựng truyền thống của các sách Minh Triết và của các Thánh Vịnh, chẳng hạn như:
“Lạy Chúa, xin dạy con đường lối thánh chỉ, con nguyện đi theo mãi đến cùng. Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ. Trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi, vì con ưa thích đường lối đó” (Tv 119: 33-35).
2. Hậu cảnh lịch sử
Bất kỳ sấm ngôn nào đều có hậu cảnh lịch sử mà tầm nhìn của vị ngôn sứ vượt qua. Cũng vậy, Giê-ru-sa-lem phô bày một viễn cảnh về cuộc quy tụ đông đảo dân chúng vào những ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, lễ Lều. Người ta đặc biệt nghĩ đến lễ Lều vào mùa thu, lễ mang tính quần chúng như lễ thu hoạch mùa màng ở nơi các dân ngoại giáo, và vào ngày lễ này những khách ngoại kiều cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem đều được quyền tham dự (Đnl 16: 14).
Bản văn gợi lên lời giải thích này: “Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa”. Chính bằng những ngôn từ tương tự mà đám đông xướng lên những “bài thánh thi lên đền” khi cùng nhau tiến bước lên Đền Thánh (Tv 121, 122, 125, vân vân). Cũng vậy, lời khuyên bảo cuối cũng là lời mời gọi gia nhập vào đoàn rước:
“Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường!”.
Thị kiến của vị ngôn sứ nhắm đến bên kia đám đông này; nó phóng chiếu lòng nhiệt thành của Ít-ra-en đối với Lề Luật vượt ra bên ngoài những biên giới của miền đất Pa-lét-tin; nó mở rộng thời gian cho đến giờ sau hết, giờ của niềm vui và bình an, thành quả sự công chính của Thiên Chúa. Chiều kích phổ quát của sứ mạng Giê-ru-sa-lem là đề tài sẽ được các môn đệ của vị ngôn sứ lập lại, như I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày:
“Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49: 6).
3. Cung giọng thời Mê-si-a
“Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”.
Sự kiện chiến tranh không còn nữa là một trong những biểu thị thời cánh chung; thường nhất, chính Thiên Chúa phá hủy những chiến cụ gây tang tóc cho con người (x. Hs 2: 20; Dcr 9: 10; Tv 46: 10). Ở đây, một khi nhân loại cùng tin nhận và tôn thờ một Thiên Chúa đích thật, thì lúc đó, sẽ phát sinh những tương quan mới mẻ giữa con người với nhau: không còn mâu thuẫn và đối kháng giữa người với người nữa. Và lúc ấy, chắc chắn sẽ không còn chiến tranh nữa, những vũ khí để giết hại lẫn nhau sẽ biến thành những dụng cụ để phục vụ và thăng tiến đời sống con người.
Những đường nét phác họa chân dung Đức Chúa cũng sẽ là những đường nét tiêu biểu Đấng Mê-si-a vương đế, chồi non Đa-vít, trong những viễn cảnh được ngôn sứ I-sai-a nhiều lần mô tả như ở chương 9:
“Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hòa bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9: 6).
Ở chương 11, Đức Chúa nhiều lần công bố:
“Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang” (Is 11: 10).
Tất cả biểu tượng này được sử dụng nhất là trong khoa giáo lý phép rửa. Những người chịu phép rửa được gọi là “những người đã lãnh nhận ánh sáng”, “những người được ơn thần khải”.
4. Từ Giê-ru-sa-lem đến Giáo Hội
Giê-ru-sa-lem lý tưởng, mà vị ngôn sứ loan báo, tiên trưng Giê-ru-sa-lem trên trời mà muôn dân nước lũ lượt đưa nhau tới cho một cuộc tụ họp cánh chung vĩ đại, như sách Khải Huyền miêu tả (Kh 21: 24-26). Nhưng bài thơ này cũng giàu những linh cảm của các sách Tin Mừng. Theo thánh Mát-thêu, chính trên núi Ga-li-lê Chúa Giê-su công bố các Mối Phúc Thật vượt lên trên mọi lề luật của con người. Cũng theo tác giả Tin Mừng này, cũng chính trên núi Ga-li-lê Chúa Giê-su Phục Sinh gặp lại các môn đệ Ngài và truyền cho họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28: 19-20).
Giáo Hội lại được ủy thác Lời Chúa. Giáo Hội có trách nhiệm truyền đạt sứ điệp Tin Mừng và đứng lên làm cờ hiệu tụ họp muôn dân nước.
BÀI ĐỌC II (Rm 13: 11-14)
Bản văn này được chọn vì nó minh họa tuyệt vời bản văn Tin Mừng hôm nay. Bức thư này Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma, vào mùa xuân 57-58, chắc hẳn từ Cô-rin-tô.
1. Bối cảnh
Vị thừa sai không hề biết mệt mỏi này ôm ấp những dự định mới: viếng thăm Giáo Đoàn Rô-ma và sau đó đi loan báo Tin Mừng cho Tây Ban Nha. Thư của thánh nhân nhằm mục đích chuẩn bị cuộc hành trình của mình và cho sáng kiến của mình một phẩm chất: tư cách vị Tông Đồ của dân ngoại (Rm 1: 15). Thánh Phao-lô không có mối liên hệ nào với Giáo Đoàn Rô-ma: ngài đã không thiết lập Giáo Đoàn này, thật ra, người ta không biết gốc tích của Giáo Đoàn này và ai là người đã sáng lập Giáo Đoàn này. Thánh Phê-rô chắc chắn đã đến Giáo Đoàn này vào năm 60; thư thứ nhất của thánh nhân được viết từ Rô-ma.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô có linh cảm lành ít dữ nhiều; thánh nhân phải đến Giê-ru-sa-lem, ở đó ngài biết rằng, ngài có những kẻ thù không đội trời chung với ngài. Những người Do thái không tha thứ cho ngài, vì đối với họ ngài là kẻ phản đạo và bêu xấu Lề Luật; thánh Phao-lô xin các tín hữu Rô-ma cầu nguyện cho ngài. Quả thật, sau đó thánh nhân bị bắt ở Giê-ru-sa-lem vào ngày lễ Ngũ Tuần năm 58, bị giam ở Xê-da-rê trong hai năm, sau đó bị dẫn độ đến Rô-ma. Chính trong cảnh xiềng xích mà thánh nhân tiếp xúc với Giáo Đoàn này mà ngài đã mong ước được quen biết.
Thư tín hữu Rô-ma cốt yếu là đạo lý. Hai chủ đề chính yếu được đề cập ở đây: cứu độ nhờ ân sủng và tương lai của dân Ít-ra-en. Đoạn trích hôm nay thuộc phần thứ hai của bức thư.
2. “Đã đến lúc phải tỉnh thức”
“Đã đến lúc anh em phải thức dậy… Đêm sắp tàn, ngày gần đến”. “Đêm” và “bóng tối” ám chỉ đến những hoạt động gian ác, tội lỗi, điều quan trọng là từ bỏ lối sống xưa của dân ngoại. “Ngày” và “ánh sáng” diễn tả thời kỳ cứu độ, đây là giai đoạn quyết liệt trong lịch sử thánh, được khai mào từ ngày Đức Ki-tô Phục Sinh. Thánh Phao-lô lấy lại những hình ảnh này trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5: 8). Thánh nhân còn thêm câu trích dẫn: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ!” (Ep 5: 14).
Tất cả biểu tượng này được sử dụng nhất là trong khoa giáo lý phép rửa. Những người lãnh phép rửa được gọi “những người đã lãnh nhận ánh sáng”, “những người được ơn thần khải”.
3. Ngày cứu độ đã đến gần
“Vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo”. Phải chăng thánh Phao-lô nghĩ rằng mỗi ngày người Ki-tô hữu tiến gần đến ngày Quang Lâm của Chúa Ki-tô? Không nhất thiết phải là như thế: công thức mà thánh Phao-lô dùng: “đêm sắp tàn, ngày đến gần” là diễn ngữ cánh chung của các sách khải huyền Do thái, để nói lên sự khẳng định chắc chắn hơn là kỳ hạn thời gian. Đối với thánh nhân, thời cứu độ không chỉ là kỷ nguyên trung gian phân cách cuộc Tử Nạn-Phục Sinh của Chúa Ki-tô với cuộc trở lại vinh quang của Ngài. Đây là thời gian mà mọi tín hữu phải nổ lực đáp trả ân sủng trong tiến trình cuộc sống hiện nay của mình. Trong một đoạn văn song song của Thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân giải thích rõ hơn tư tưởng của mình: “Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu… Vậy đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cr 6: 1-2). Có thể nói là thánh Phao-lô đã nội tâm hóa ngày Quang Lâm.
Thế nên, về vấn đề liên quan đến ngày Quang Lâm, thái độ của thánh Phao-lô đã có những bước tiến triển trong bức thư này. Trong hai bức thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, hai thư đầu tiên của thánh Phao-lô, thánh nhân phát biểu rõ rằng thánh nhân chia sẻ với thế hệ Ki-tô hữu tiên khởi niềm hy vọng về ngày Quang Lâm sắp đến gần, dù thời gian vẫn chưa được xác định, nhưng nay mai, ngay chính trong thời của họ. Trái lại, vào lúc thánh nhân viết thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh nhân đã nghiền ngẫm một cách đau đớn về việc dân Ít-ra-en từ chối nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a; tuy nhiên, thánh nhân thâm tín rằng “con cái của Lời Hứa” một ngày kia sẽ đạt đến ơn cứu độ sau thời lương dân. Vì thế, thánh nhân lại đưa viễn cảnh ngày Chúa Ki-tô trở lại vào tương lai rất xa.
4. Cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu
Thánh Phao-lô nhiều lần diễn tả cuộc sống Ki-tô hữu như một cuộc chiến đấu trường kỳ chống lại sự ác; thánh nhân mượn từ vựng lúc thì ở lãnh vực thể thao, lúc thì ở lãnh vực quân sự như ở đây: “Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Kiểu nói “cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” được dịch theo sát từ là: “mặc lấy áo giáp mà chiến đấu”. Chiếc áo giáp đảm bảo cuộc chiến thắng không gì khác hơn là chính Chúa Ki-tô: “Quả thật, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3: 27), nghĩa là, người Ki-tô hữu phải nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, nên một với Ngài trong mọi sự và mọi lúc, và gặp thấy ở nơi sự hiệp nhất này sức mạnh chiến thắng. Nói cách khác, những người Ki-tô hữu phải giữ vững tư thế chiến đấu như những người chiến sĩ can trường: mình mặc chiếc áo giáp của Chúa Ki-tô để chiến đấu, tức là để Ngài hành động trong chúng ta đến mức chúng ta có thể nói như thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2: 20).
Cuộc chiến của con cái ánh sáng chống lại con cái bóng tối này xuất hiện rồi trong những bản văn trước Ki-tô giáo, như những bản văn Qumran làm chứng; một trong những thủ bản danh tiếng nhất của Biển Chết có nhan đề “luật cuộc chiến của con cái sự sáng chống lại con cái bóng tối”. Cuộc đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cũng là một trong những đề tài đem lại cung giọng đầy kịch tính cho Tin Mừng Gioan.
5. Một đời sống mới
“Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày”, nghĩa là trong sự chiếu sáng kỷ nguyên mới này, tức là kỷ nguyên của ân sủng, thời đại của Chúa Thánh Thần. Vì thế, “đừng chiều theo tính xác thịt”, chữ “xác thịt” được hiểu theo sắc thái ngữ nghĩa sê-mít để chỉ những thử thách trần thế, những ham muốn của con người yếu đuối và vị kỷ.
Chúng ta đừng lấy làm ngạc nhiên về những thói hư tập xấu mà thánh nhân vạch mặt chỉ tên ở đây: chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tuông. Thật thích hợp để đặt những thói hư tật xấu này lại vào trong bầu khí phóng đãng của thành phố Cô-rin-tô và cũng như nghĩ rằng thánh Phao-lô viết bức thư này vào mùa đông, thời kỳ của những lễ hội ngoại giáo ở Hy-lạp cũng như ở Rô-ma. Thánh Lu-ca, môn đệ và bạn đồng hành của thánh Phao-lô, cũng đưa ra những huấn lệnh tương tự: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời…Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Lc 21: 34-36).
TIN MỪNG (Mt 24: 37-44)
Ba Tin Mừng nhất lãm: Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca, đều định vị cuộc nói chuyện của Chúa về ngày tận thế và Quang Lâm vào sứ vụ sau cùng của Ngài ở Giê-ru-sa-lem, vài ngày trước cuộc Thương Khó của Ngài. Tại Lu-ca, cuộc nói chuyện này được nói công khai trước công chúng ngay trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (Lc 21: 5-7); tại Mác-cô, cuộc nói chuyện này là cuộc trò chuyện riêng tư giữa thầy và vài môn đệ: Phê-rô, Gia-cô-bê, Gioan và An-rê, trên núi Ô-liu (Mc 13: 1-4). Tại Mát-thêu, Chúa Giê-su ngỏ lời với “các môn đệ Ngài”, chính xác là nhóm Mười Hai, quây quần chung quanh Ngài trên núi Ô-liu (Mt 24: 1-3). Đây là diễn từ cuối cùng trong năm diễn từ của Chúa Giê-su, được gọi là “diễn từ về thời cánh chung”.
1. Bối cảnh
Trước đó, Chúa Giê-su đã rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và đang trên đường đến núi Ô-liu. Vào lúc này, các môn đệ Ngài chỉ cho Ngài xem công trình kiến trúc huy hoàng tráng lệ của Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả cho xây dựng lại và sắp được hoàn tất (khởi công từ năm 19 trước Công Nguyên và hoàn thành vào năm 64 sau Công Nguyên, chỉ trong vòng sáu năm trước khi bị các đạo quân Rô-ma phá hủy thành bình địa vào năm 70). Chúa Giê-su trả lời cho họ “Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó phải không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” (Mt 24: 2).
Các Tông Đồ, vốn là những người Do thái mộ đạo, biết rằng họ sống điều gì mới, nhưng đồng thời chắc chắn cũng bị giao động bởi viễn cảnh này. Kinh ngạc, họ không thể không liên kết thảm họa như thế với ý tưởng về ngày tận thế. Khi đến núi Ô-liu, họ hỏi Chúa Giê-su: “Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy xảy ra, và cứ điểm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế?” (Mt 24: 3).
Sau khi đã nói cho họ liền một mạch về các ngôn sứ giả, các cuộc bách hại, cơn gian nan khốn khó tại Giê-ru-sa-lem và những nỗi truân chuyên của thời sau cùng, Chúa Giê-su đề cập đến ngày Quang Lâm của Ngài được phác họa bởi những đường nét của “việc Con Người ngự đến”. Đoạn Tin Mừng hôm nay (Mt 24: 37-44) được trích từ cuộc nói chuyện này từ câu 37, tuy nhiên phải bắt đầu từ câu 36 mới phải, bởi vì hai từ ngữ: “ngày và giờ” ở câu 36 được lập lại ở các câu 42-44 làm thành lối hành văn đóng khung và cho phân đoạn này một đơn vị thống nhất: câu 36 là phần khai đề, các câu 37-41 là phần triển khai, và các câu 42-44 là phần kết.
2. “Con Người”
Kiểu nói “Con Người” là đặc ngữ sê-mít, không có nghĩa gì khác ngoài một con người với điểm nhấn được đặt trên tính chất con người trần thế của mình: “một phàm nhân”. Kiểu nói này thường được ngôn sứ Ê-dê-ki-en sử dụng và cũng được gặp thấy ở nơi khác như Is 51: 12; G 25: 6; Tv 8: 5. Ví dụ như trong Ed 2: 1: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây”, ở đây kiểu nói“con người” tương đương với đại từ “ngươi” để chỉ chính vị ngôn sứ, ông xem mình chỉ là một phàm nhân, qua ông Thiên Chúa sắp ký thác sứ điệp của Ngài cho dân Ngài.
Nhưng trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” xuất thân từ thiên giới. Vị ngôn sứ mô tả ngày khải hoàn của các thánh dưới quyền thống trị của “Con Người” ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho nhân vật này “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 13-14).
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” theo ngôn sứ Đa-ni-en để nói về chính mình. Khi thủ đắc tước hiệu này cho riêng mình, Chúa Giê-su diễn tả vừa tính siêu việt của mình vừa nhân tính mà Ngài dự phần vào, nhờ đó Ngài có thể mang lấy số phận của nhân loại; đồng thời phải hiểu rằng cuối cùng Ngài sẽ chiến thắng.
3. Lời mời gọi hãy sống trong tư thế sẵn sàng
Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ Ngài tính cách bất ngờ không thể đoán trước được của “ngày và giờ Con Người ngự đến”. Thiên hạ kinh ngạc như họ đã kinh ngạc khi trận hồng thủy bất ngờ ập đến.
Theo hình thức so sánh, Chúa Giê-su kêu gọi hãy luôn sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Ngài trở lại. Vào thời ông Nô-ê, thiên hạ vẫn lo ăn uống, cưới vợ lấy chồng, chơi bời phóng túng trong cuộc sống thường ngày mà không một chút bận lòng đến ngày phán xét của Thiên Chúa, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu mà vẫn không hay biết gì về tai họa sắp ập xuống trên họ. Việc Chúa Ki-tô trở lại để xét xử thế gian cũng xảy ra một cách đột ngột bất ngờ như thế: những người này “được đem đi” để vui hưởng hạnh phúc Nước Trời, những người khác “bị bỏ lại” để chịu án phạt. Hai người ở cùng một chỗ, làm cùng một việc, có thể có những số phận khác nhau. Ở đây đừng hiểu các con số này theo toán học, bằng không, chúng ta có thể tin rằng chỉ một nữa nhân loại sẽ được cứu. Đây là kiểu nói đối ngẫu sê-mít: chúng ta gặp lại kiểu nói này ở nơi dụ ngôn về năm cô trinh nữ khờ dại và năm cô trinh nữ khôn ngoan.
Việc so sánh theo sau cũng nhắm đến sự mê muội này: giả như chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã tỉnh thức. Đó cũng là lời khuyên bảo của thánh Phao-lô gửi cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5: 1-2).
Các môn đệ là những người duy nhất lắng nghe những lời này. Vì thế, từ nay đây sẽ là công việc của các ông: phá vỡ sự mê muội của con người và loan báo ơn cứu độ. Như vậy, cái bất ngờ của ngày Chúa đến không phải là không được báo trước, nhưng chính vì thái độ vô tâm mê muội của con người: cố chấp, nhắm mắt bịt tai trước lời cảnh giác của Ngài, lời ấy vẫn hằng vang lên trong Giáo Hội của Ngài.
Chúng ta không thể không liên tưởng đến vài ngày sau đó, hầu như cùng một nơi chốn, trong vườn Ô-liu, Chúa Giê-su sẽ nói với cũng chính các môn đệ này đến hai lần: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện…”, còn họ thì cứ ngủ mê miệt không sao mở mắt nổi.
Chúa Nhật thứ nhất mùa vọng làm sửng sốt hầu hết chúng ta khi giới thiệu Đức Giêsu là Đấng MV 1-A170
TMĐP- Chúa Nhật thứ nhất mùa vọng làm sửng sốt hầu hết chúng ta khi giới thiệu Đức Giêsu là Đấng sẽ đến trong thế gian một cách bất ngờ.
Bất ngờ như thời ông Nôê “những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu. Ho không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy” (Mt 24,38-39); bất ngờ như kẻ trộm đến khoét vách, đột nhập vào nhà (x; Mt 24, 43); và bất ngờ như thần chết đến lấy đi mạng sống khi chúng ta không ngờ.
Tuy bất ngờ như thánh Phaolô lên tiếng cảnh giác : “ Chính anh chị em đã rõ: ngày của Chúa sẽ đến bất ngờ, như kẻ trộm lúc đêm khuya” (1 Tx 5,2), và chính Đức Giêsu căn dặn: “Hãy tỉnh thức, vì Con Người sẽ đến phán xét chúng ta vào giờ chúng ta không ngờ ” (Lc 120), nhưng sự bất ngờ của ngày Đức Giêsu đến không là bất ngờ nặng nề những đe dọa, vì “Thiên Chúa luôn nhẫn nại…, để không một ai phải hư đi, trái lại muốn cho hết mọi người ăn năn hối cải.” (2P3,9).
Đây là chìa khóa của niềm hy vọng vào ngày Chúa “trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết” như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính, bởi nếu Đức Giêsu là Đấng sẽ đến, thì chúng ta là dân Ngài “trên đường hy vọng vào Ngài”, nói cách khác, chúng ta đang bước đi trên hành trình tìm đến với Ngài.
Bài đọc một khẳng định Lời Hứa của Thiên Chúa: “Trong tương lai, núi nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi” (Is 2,2), và ngày ấy “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến” (Is 2,4), vì Đức Giêsu; Đấng đến với nhân loại là “Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9,5).
Qua Lời Hứa này, niềm hy vọng được cứu rỗi của chúng ta được củng cố vững chắc vì Thiên Chúa sẽ quy tụ dân Ngài trong một thế gió mới như ý Chúa muốn: một thế giới hiệp nhất và bình an.
Bài đọc hai, thánh tông đồ dân ngoại nhắc nhở chúng ta tinh thần và thái độ phải có trên hành trình sống niềm hy vọng vào Lời Hứa của ngày Chúa trở lai, đó là sống như Chúa đang hiện diện, sống như Chúa đang đồng hành với chúng ta, mà không để mất một giây phút sống trống trải, vô nghiã nào, vì không có Chúa trong đời sống, vì vắng bóng Chúa trên đường đời.
Tinh thần và thái độ sống niềm hy vọng phải có của người Kitô hữu theo thánh nhân chính là “mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” : mặc cho trái tim lòng thương xót của Đức Giêsu; măc cho tâm trí sự khôn ngoan của Đức Giêsu chịu đóng đinh để nên giá cứu chuộc muôn người (x. Mt 20,28); và mặc cho thân xác “vũ khí của sự sáng để chiến đấu” chống lại những việc làm đen tối vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12).
“Mặc lấy Đức Giêsu Kitô” trong cố gắng trở nên tốt hơn mỗi ngày, dù yếu đuối vẫn trì kéo, dù xác thịt vẫn nặng nề, vì có “mặc lấy Đức Giêsu Kitô”, chúng ta mới có ơn phù trợ của Ngài để thoát ra khỏi bóng tối “ chè chén say sưa, chơi bòi dâm đãng, cãi cọ ghen tương” là những việc làm của đêm đen, bóng tối, vì chúng ta được niềm hy vọng vào Đức Giêsu thúc đẩy “ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày” (Rm 13,13).
Vì thế, không “mặc lấy Đức Giêsu Kitô”, mà chỉ trông ngóng xuông bằng môi miệng ngày Chúa đến; không “mặc lấy Đức Giêsu Kitô”mà chỉ ươn lười, ở lỳ trong bóng tối và không thể hiện bất cứ thiện chí, cố gắng nào để đi với ánh sáng, chúng ta không thể chiến thắng được kẻ thù của ánh sáng, và tất nhiên ngày Chúa đến.
Tóm lại, ngày Chúa quang lâm đối với người Kitô hữu không thể bị coi là ngày bất ngờ như chủ nhà kia không ngờ kẻ trộm đào tường, khoét vách nhà mình, nhưng phải được coi như cuộc gặp gỡ vô cùng hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, nghiã là “ở đây và lúc này” của người môn đệ trung tín đã luôn tỉnh thức và sẵn sàng trên đường đồng hành với Thầy mình bằng nuôi lớn từng ngày niềm hy vọng và tín thác vào Đức Giêsu, khi mặc lấy chính Ngài là Tình Yêu cứu độ.
Phải chăng ăn uống cưới vợ lấy chồng là tội lỗi, nên bị trừng phạt? Chúa Giêsu nói: “Trong những ngày MV 1-A171
Phải chăng ăn uống cưới vợ lấy chồng là tội lỗi, nên bị trừng phạt? Chúa Giêsu nói: “Trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noê vào tàu. Họ không biết gì cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn trôi đi hết thảy.” (Mt 24, 38-39).
Ăn uống cưới vợ lấy chồng chắc là tội lỗi, nên bị lụt hồng thủy cuốn trôi đi! Thật ra, việc ăn uống lấy vợ lấy chồng là điều tốt lành mà Thiên Chúa tạo dựng loài người, trong chương trình sáng tạo của Ngài. Tự bản chất việc này là tốt đẹp, là không xấu. Nhưng cái tội, cái xấu là do chỉ lo “ăn uống, cưới vợ lấy chồng”. Ở đây, đáng lưu ý là chữ “chỉ lo”; chỉ lo làm ăn, lao động sinh sống, chỉ lo học hành, chỉ lo kinh doanh buôn bán, chỉ lo làm giàu.
Cái tội là ở chỗ hạ mình xuống sống như một sinh vật tầm thường, chỉ lo việc trần thế mà quên đi chiều kích thiêng liêng của mình; quên đi cái linh thánh của mình. Sống giống như các sinh vật không có linh hồn khác, như Chúa Giêsu nói: “Họ không hay biết gì cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn trôi đi hết thảy.” (Mt 24, 39).
Trong thế giới ngày nay, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển, rất nhiều người chỉ lo học lo hành, chỉ lo làm ăn, chỉ lo cưới vợ lấy chồng, chỉ lo tiêu thụ, chỉ lo hưởng thụ... Như người anh ở Mỹ viết thư về cho người em sắp được bảo lãnh qua Mỹ như sau: “Bây giờ các cậu đang ở VN còn có thời giờ để ngồi uống cà phê, nhưng qua Mỹ rồi, các cậu không con thời giờ để mà ngồi cà phê, tán dốc nữa đâu.”
Dĩ nhiên chúng ta phải hòa nhập với cuộc sống, phải lo làm ăn sinh sống. Nhưng luôn có mối nguy hiểm là chúng ta dễ bị quên đi cái phẩm giá cao cả thiêng liêng của mình.
Các nhà tâm lý học nhận định như sau: Tất cả chúng ta hoạt động theo những hình ảnh chúng ta có về thế giới. Chính những hình ảnh định đoạt cho những hành vi của ta phải như thế nào. Nhưng những hình ảnh có thể bị thay đổi do những hình ảnh mới được lập đi lập lại. Khi những hình ảnh của ta thay đổi thì hành vi chúng ta cũng thay đổi. Câu chuyện sau đây minh họa điều vừa nói:
Một ngày kia có người lượm được một quả trứng của chim phượng hoàng, liền đặt nó vào ổ gà đang ấp ở sân sau. Từ quả trứng đó nở ra một chim phượng hoàng con và nó lớn lên giữa bầy gà con. Những ngày tháng đầu của cuộc đời phượng hoàng nhỏ này hoạt động như những gà con vì nó tưởng mình là một gà con như những gà con khác. Nó cũng bới đất tìm sâu, cũng kêu chiêm chiếp như gà con và cũng dương cánh lên một chút như gà con vậy. Nó vẫn nghĩ mình là gà con mà!
Cho tới một ngày đẹp trời, nó thấy một chú chim bay lượn hết sức nhẹ nhàng trên bầu trời quang đãng. Nó chiêm ngưỡng chim đó trong một màn biểu diễn tuyệt vời. Giữa cảnh trời gió lộng mà mà chim đó không hề đập cánh! Nó tò mò hỏi đàn gà chung quanh: “Ô kia! Gà gì mà bay lượn ngọan mục thế nhỉ?” Nó được cho biết rằng đó là phượng hoàng, ông vua các loài chim chứ đâu phải là gà. Thế rồi bổng chính chú chim phượng hoàng đó từ trời cao nhào xuống bên cạnh nó và hỏi nó: “Anh làm gì ở đây vậy?’ Nó thưa: “Tôi đang bới đất tìm ăn với bọn gà.” Phượng hoàng sửng sốt nói: “Nhưng anh cũng là phượng hoàng như tôi đây, anh có phải là gà đâu! Hãy coi đôi cánh dũng mãnh mà anh được trang bị để bay lên cao. Chúng ta được sinh ra để làm vua các loài chim, chứ đâu phải sinh ra để làm mồi cho dã thú! Nào, ta hãy cùng bay theo hướng mặt trời.”
Vậy là lần đầu tiên bỏ lại đàn gà đang bới đất ở sân sau, chim phượng hoàng tung cánh bay lượn một cách hạnh phúc giữa trời cao.
Sống giữ thế giới bon chen, hưởng thụ, nhiều người tưởng mình như đàn gà ở sân sau. Trong bụng họ vẫn nghĩ mình không thể vươn cao ra khỏi tình trạng của đàn gà, chỉ quen bới đất tìm sâu ở sân sau! Họ không biết phải làm sao để thay đổi được lối hành xử đó. Họ đã bán rẽ bản thân họ cho huyền thoại từ bên Mỹ là: “Nếu bạn nai lưng làm việc, bạn muốn gì được nấy và muốn trở nên người như thế nào tùy ý.” Huyền thoại ấy, ngày nay tràn ngập khắp nơi trên thế giới công nghiệp, không chỉ riêng bên Mỹ nữa!
Chính Đức Giêsu Kitô đã xuống thế làm người để nói cho chúng ta biết chúng ta là con cái Thiên Chúa và được sinh ra nhắm đến trời cao. Đức Giêsu không những đã thay đổi hình ảnh chim phượng hoàng tức loài người có về mình. Ngài còn dìu chúng ta lên cao giúp trãi qua kinh nghiệm đầu tiên, như chim phượng hoàng bay lượn gần mặt trời.
Nhờ Đức Giêsu dìu dắt, con người phải sống vượt trên những sinh hoạt bình thường của trần thế. Phải sống với chính đời sống thánh thiện của Thiên Chúa ban cho; sống xây dựng Nước Trời; không chỉ ăn uống cưới vợ lấy chồng cho đến khi chết, mà có khi đến bất ngờ. Cần phải lồng vào đời sống bình thường ấy sự cao cả của tình yêu thương, đối nghịch lại một xã hội ích kỷ, tham lam. Sứ điệp trọng tâm của Đức Kitô vẫn là kêu gọi chúng ta xây dựng Nước Trời bằng chính sự phục vụ, yêu thương.
Tin mừng Mt 24: 37- 44: Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay cho thấy: Chúa Giêsu loan báo cho chúng ta biết Người sẽ Quang Lâm bất chợt và chụp bắt chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi những lo toan hằng ngày.
Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay cho thấy: Chúa Giêsu loan báo cho chúng ta biết Người sẽ Quang MV 1-A172
Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay cho thấy: Chúa Giêsu loan báo cho chúng ta biết Người sẽ Quang Lâm bất chợt và chụp bắt chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi những lo toan hằng ngày, ra khỏi những công việc nội trợ, công việc đồng áng. Tình trạng tâm hồn mỗi người đang có lúc đó sẽ quyết định số phận đời đời của chúng ta. Chúa Giêsu dùng hình ảnh người xay bột, người làm ruộng… một người bị đem đi, người kia bị bỏ lại để xác định thưởng phạt cho mỗi người.
Rồi Chúa kết luận: “vậy anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44). Ở đây Chúa nói tới ngày Quang Lâm, ngày Cánh Chung, ngày Thế Mạt, nhưng Chúa cũng muốn nói đến ngày chết của mỗi người chúng ta. Ngày Quang Lâm của Chúa đến bất ngờ như thế nào, thì ngày chết của chúng ta cũng bất ngờ như vậy, cho nên thái độ của chúng ta là phải tỉnh thức, phải sẵn sàng.
Người ta kể một câu chuyện như sau: tại Tô Châu, có một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài nhỏ bằng gỗ bạch đàn, dài độ năm tấc, có một cái nắp có thể mở ra được.
Khách đến chơi hỏi nhà sư: ngài làm ra cái này để làm gì vậy? Nhà sư trả lời: người ta sống tất có chết, mà chết là vào ngay cái này. Ta thực thấy làm lạ: người đời ai cũng chỉ biết có phú quí, công danh, tài sắc mà chẳng biết đến cái chết. Như ta đây, mỗi khi có việc không vừa ý, ta cầm cái này lên mà ngắm, tức khắc tâm hồn ta được yên ổn, và muôn ngàn lo lắng đều tan biến hết.
Thường tình không ai muốn nhắc đến cái chết cả. Ấy thế mà nhà sư Viên Phủ Trung lại năng nhắc đến cái chết và đối với nhà sư, cái chết như một phép mầu hóa giải cuộc sống của mình. Hóa giải một cách thần kỳ. Vì khi nhắc đến cái chết, cái chết không làm nhà sư sợ hãi, nhưng chính cái chết lại làm tiêu tan bao lo lắng khắc khỏai và nhất là làm cho tâm hồn được thanh thản, làm cho tâm hồn được bình an.
Nhiều người trong chúng ta không ai muốn nói đến cái chết. Nhưng nếu ai cận kề với cái chết thì lại biết phải sống như thế nào.Trong các bài phỏng vấn những người cận tử (near death experience), một số bác sĩ Đức và Mỹ cho biết như sau: nhiều người vì một tai nạn hay một lý do gì đó mà ngất đi trong một khỏang thời gian dài. Về mặt thể lý, coi như đã chết, nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1.370 trường hợp. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn ham muốn kiếm tiền bạc, danh vọng và lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người
- Và sau cùng là không còn sợ chết nữa.
Những điều trên đây thực là một điều quí giá cho chúng ta. Chính khi cận kề với cái chết thì cái chết lại giúp con người biết sống như thế nào. Chúa Giêsu nhắc đến ngày Cánh Chung, ngày Thế Mạt, ngày chết của mọi người không phải là để hù dọa chúng ta, nhưng là để giúp cho chúng ta biết sống như thế nào cho xứng với con người, cho xứng với địa vị người con của Chúa. Chính vì vậy lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng về cái chết: “anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
Vào năm 79 trước công nguyên, núi Vésuve bất thình lình phun lửa dữ dội, chôn vùi thành phố Pompei phồn vinh dưới một lớp nham thạch dầy tới 7 mét. Năm 1748, sau 18 thế kỷ, người ta bắt đầu khai quật thành phố xấu số này. Giữa bao dinh thự đổ nát, bao đồ vật ngổn ngang, bao người chết đau đớn hỏang sợ, người ta ngạc nhiên tìm thấy xác của 38 người lính Rôma đang thi hành nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trong lúc xẩy ra tại họa khủng khiếp đó. Điều đáng nói là những người lính này đang tuần canh, tay còn cầm gươm, đi trong tư thế thi hành nhiệm vụ mặc dù cái chết kề bên. Chính vì thế Chúa cảnh báo chúng ta «vào thời Noe, người ta cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng cho đến khi nạn Hồng Thủy ập đến cuốn đi hết thảy “và Chúa kết luận « ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”.
“Vì không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trần gian chấm dứt, chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Ngài…”. Tỉnh thức có nghĩa là chúng ta phải sống mỗi ngày như là một ngày cuối cùng, “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi việc”.
Một vị linh mục lớn tuổi đã kể lại câu chuyện sau đây. Xưa kia ở New York, có một bà mẹ MV 1-A173
Một vị linh mục lớn tuổi đã kể lại câu chuyện sau đây. Xưa kia ở New York, có một bà mẹ sống với một người con trai. Chẳng may đứa con trai bị bệnh nặng. Bà mẹ không còn mong muốn gì hơn là tìm gặp được người thầy thuốc giỏi chữa lành bệnh cho con bà. Bà nghe người ta đồn về một ông bác sĩ rất giỏi từ Vienna, Aùo quốc, sẽ ghé thăm thành phố New York, và bà hy vọng sẽ mang đứa con trai đến cho ông chữa bệnh. Vào một buổi tối mùa đông, thời tiết rất xấu, bên ngoài trời mưa lạnh, bà nghe rõ có tiếng gõ cửa. Mở hé cửa ngó ra ngoài bà chỉ nhìn thấy một người đàn ông tóc phủ bờ vai cùng với bộ râu dài và lướt thướt. “Thưa bà, trời đêm tối lạnh lẽo và ướt át, tôi có thể vào nhà bà được không?” Người đàn ông hỏi. “Rất tiếc,” người đàn bà nói, “tôi không thể đón tiếp ông được!” Rồi bà đóng sầm cánh cửa và khóa kín lại.
Ngày hôm sau, người đàn bà mở tờ nhật báo ra. Ngay trang nhất, bà đọc được hàng chữ lớn in đậm: “Vị Bác Sĩ Nổi Tiếng Từ Vienna Viếng Thăm New York.” Phía dưới hàng chữ là bức hình chụp của ông bác sĩ. Với sự ngạc nhiên và buồn rầu, đây chính là người đàn ông tóc dài với bộ râu lướt thướt đã gõ cửa nhà bà tối hôm qua!
Trái với sự tỉnh thức là ngủ mê. Ngủ mê trong ảo tưởng của tội lỗi, vật chất và trần gian. Thánh Phaolô khuyên dạy dân thành Thêxalônica như sau: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ”.
Vài thập niên vừa qua, thành phố Pittsburgh, nơi có nhiều xưởng thép và những lò luyện kim vĩ đại gây nên những tiếng đập ồn ào suốt ngày đêm. Dân chúng sống chung quanh vùng này đã quen tai với những tiếng búa, tiếng nện đến nỗi họ vẫn ngủ yên an bình. Quả vậy, tiếng động đã ru họ ngủ ngon giấc. Nhưng vào một đêm, bất chợt tai nạn xảy đến làm ngưng trệ một nhà máy lớn. Tiếng nện ồn ào ngưng hẳn. Và mọi người đã tỉnh thức.
Có một điều gì đó giống như vậy cần xảy ra cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Chúng ta đang bị vây hãm bởi sự ồn ào và những cám dỗ chia trí xung quanh. Chỉ có một điều giúp tỉnh tức là sự im lặng. Sự im lặng thực sự của tâm hồn sẽ mang lại an bình và nghe được tiếng Chúa như lời khuyên của thánh Ingatiô Antiôkia: “Lời của Chúa phán ra trong thinh lặng”.
Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Đêm sắp tàn, ngày gần hết. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội, không ăn uống say xưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tị, chớ lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt”.
Ngài đã xuống tận đáy lòng con, xin cho con chỉ tập trung vào tận đáy lòng con. Ngài... Ngài đã MV 1-A174
Ngài đã xuống tận đáy lòng con, xin cho con chỉ tập trung vào tận đáy lòng con. Ngài... Ngài đã xuống tận đáy lòng con, xin cho con chỉ tập trung vào tận đáy lòng con.Ngài là thượng khách của lòng con, xin cho con bước vào nhà là chính đáy lòng con.Ngài chọn cư ngụ trong lòng con, xin cho con biết ngồi yên ngay tại đáy lòng con. Duy Ngài ở lại trong con, xin cho con biết chìm sâu xuống tận đáy lòng con.Duy Ngài hiện diện trong lòng con, xin cho con biết xóa mình khi Ngài ở bên con.Khi con đã gặp Ngài, không còn con và Ngài nữa. Con chẳng là gì cả, và Ngài là tất cả. (Rabbouni, 120 lời nguyện bạn trẻ VN – Theo Swami Abhisiktananda)
BẢY BƯỚC CẦU NGUYỆN
(15 phút mỗi buổi sáng, và 15 phút trước khi nghỉ đêm).
Buổi sáng
1. Mở đầu với Kinh Sáng Soi: Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen. 2. Thinh lặng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. 3. Đọc chậm rãi lời của Đức Thánh Cha và lời gợi ý. 4. Thinh lặng suy niệm và rút ra một lời một ý tưởng để sống trong ngày. Tâm sự với Chúa để kết thúc phần suy niệm buổi sáng.
Buổi tối.
1. Cuối ngày trước khi đi ngủ dành 10 phút để nhìn lại: Bài cầu nguyện hôm nay đã đi với tôi và đã giúp tôi như thế nào? Tôi có khó khăn gì trong cầu nguyện? Có thể tôi chưa thấy bài cầu nguyện giúp tôi trong ngày sống. Nếu vậy thì tại sao? Tôi có chú tâm và ý thức đủ để “dành một chỗ” cho bài cầu nguyện ở trong lòng tôi và trong ngày sống của tôi chưa? 2. Viết lại một vài hàng (tối đa nửa trang A4) về hoa quả mà tôi nhận được trong ngày sống cầu nguyện hôm nay. 3. Cám Ơn Chúa về những hồng ân trong ngày, và xin Chúa thứ lỗi về những yếu đuối. Xin Chúa ban thêm sức mạnh và bình an để nghỉ đêm và bắt đầu ngày sống mới.
Chúa nhật thứ I Mùa Vọng năm A
Lời của Đức Thánh Cha Phanxicô: Hôm nay, Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bắt đầu một năm phụng vụ mới. Điều đó có nghĩa là, cùng với Chúa Giê-su, Mục Tử của chúng ta, Dân Chúa lại bắt đầu một hành trình mới. Chúa Giê-su dẫn bước chúng ta xuyên suốt qua lịch sử của nhân loại để hướng về sự hoàn tất của Vương Quốc Thiên Chúa. Vì thế, ngày này thật đặc biệt: Ngài giúp cho chúng ta thấu hiểu được sâu hơn ý nghĩa của lịch sử. Chúng ta ý thức rằng, thật đẹp biết bao nhiêu, khi tất cả chúng ta cùng đi hành trình này chung với nhau: Giáo Hội với ơn gọi và sứ mạng của mình, cũng như toàn thể nhân loại với văn hoá đặc trưng và với các nền văn minh. Tất cả chúng ta đang cùng nhau trên trường để bước đi xuyên suốt qua thời gian này. Lời gợi ý: Bạn và tôi đều được là những thành viên trong Giáo Hội, trong cộng đồng nhân loại, để cùng có cuộc hành trình chung tiến về nhà Cha trên trời. Đó là một hồng phúc. Bạn hãy ý thức về điều này. Bạn không lẻ loi trên đường. Bạn có người thân trong gia đình bạn, trong cộng đoàn bạn, bạn có Đức Thánh Cha, có tôi và mọi người đi với bạn. Hãy vui mừng và cảm tạ Chúa về điều đó. Bạn suy nghĩ xem, bạn bắt đầu năm phụng vụ mới này với Chúa Giê-su như thế nào, để bạn tìm thấy được ý nghĩa và niềm vui sống của người con cái Thiên Chúa? Cuối cùng bạn hãy dành thời gian cầu nguyện với lời Thánh Vịnh 122,1: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: Ta cùng trẩy lên đền thánh CHÚA!” Bài tập trong tuần (05 phút): Chú tâm đến thời gian Tư thế có thể ngồi hoặc đứng. Thinh lặng, thở ra hít vào. Chú ý đến hơi thở. Sau một vài lần thở ra hít vào, chú ý đếm âm thầm: MỘT- khi thở ra. HAI – khi hít vào. MỘT – HAI chính là giây phút của cuộc sống. MỘT – HAI chính là thời gian của cuộc đời, là món quà cao quý Chúa ban. Hãy cảm tạ Chúa về thời gian bạn có.
Hôm nay, Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bắt đầu một năm phụng vụ mới. Điều đó có MV 1-A175
Hôm nay, Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bắt đầu một năm phụng vụ mới. Điều đó có nghĩa là, cùng với Chúa Giê-su, Mục Tử của chúng ta, Dân Chúa lại bắt đầu một hành trình mới. Chúa Giê-su dẫn bước chúng ta xuyên suốt qua lịch sử của nhân loại để hướng về sự hoàn tất của Vương Quốc Thiên Chúa. Vì thế, ngày này thật đặc biệt: Ngài giúp cho chúng ta thấu hiểu được sâu hơn ý nghĩa của lịch sử. Chúng ta ý thức rằng, thật đẹp biết bao nhiêu, khi tất cả chúng ta cùng đi hành trình này chung với nhau: Giáo Hội với ơn gọi và sứ mạng của mình, cũng như toàn thể nhân loại với văn hoá đặc trưng và với các nền văn minh. Tất cả chúng ta đang cùng nhau trên trường để bước đi xuyên suốt qua thời gian này.
Lời gợi ý:
Bạn và tôi đều được là những thành viên trong Giáo Hội, trong cộng đồng nhân loại, để cùng có cuộc hành trình chung tiến về nhà Cha trên trời. Đó là một hồng phúc. Bạn hãy ý thức về điều này. Bạn không lẻ loi trên đường. Bạn có người thân trong gia đình bạn, trong cộng đoàn bạn, bạn có Đức Thánh Cha, có tôi và mọi người đi với bạn. Hãy vui mừng và cảm tạ Chúa về điều đó.
Bạn suy nghĩ xem, bạn bắt đầu năm phụng vụ mới này với Chúa Giê-su như thế nào, để bạn tìm thấy được ý nghĩa và niềm vui sống của người con cái Thiên Chúa?
Cuối cùng bạn hãy dành thời gian cầu nguyện với lời Thánh Vịnh 122,1:
“Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: Ta cùng trẩy lên đền thánh CHÚA!”
Bài tập trong tuần (05 phút): Chú tâm đến thời gian
Tư thế có thể ngồi hoặc đứng. Thinh lặng, thở ra hít vào. Chú ý đến hơi thở. Sau một vài lần thở ra hít vào, chú ý đếm âm thầm: MỘT- khi thở ra. HAI – khi hít vào. MỘT – HAI chính là giây phút của cuộc sống. MỘT – HAI chính là thời gian của cuộc đời, là món quà cao quý Chúa ban. Hãy cảm tạ Chúa về thời gian bạn có.
Năm Phụng vụ mới lại bắt đầu bằng Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị, đón chờ ngày Chúa đến MV 1-A176
Năm Phụng vụ mới lại bắt đầu bằng Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị, đón chờ ngày Chúa đến.
Năm Phụng vụ mới lại bắt đầu bằng Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị, đón chờ ngày Chúa đến: Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới, nhưng căn bản là ngày Chúa quang lâm: Chúa sẽ trở lại trong vinh quang vào ngày thế tận, như lời tuyên xưng hằng ngày trong Thánh lễ: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.
Mùa vọng mới mà Giáo Hội bắt đầu cử hành trong Phụng vụ của mình với Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng, không phải là thời gian để Giáo Hội nhìn lại quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã Giáng Sinh và cử hành biến cố này với Lễ Giáng Sinh. Tắt một lời, Mùa vọng không phải là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, nhưng Mùa vọng là thời gian hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa Vọng là mùa trông chờ Chúa đến. Chúng ta trông chờ Chúa đến là bởi vì chúng ta không được thoả mãn với tình trạng hiện tại của chúng ta. Dầu có tận tâm tận lực, chúng ta vẫn gặp phải không biết bao nhiêu điều trái ý, chẳng hạn như bệnh tật, nghèo đói, cô đơn, chia ly và chết chóc. Chúng ta tin rằng Chúa sẽ đến để lấp đầy những khát vọng chính đáng của chúng ta, đồng thời sẽ mang lại một đời sống hạnh phúc.
Chờ đợi luôn chứa đựng hy vọng. Hy vọng đòi hỏi đợi chờ. Có những người tự tử vì họ không còn hy vọng. Họ không còn gì để đợi chờ. Có những người đầy nghị lực vượt gian khổ, vì họ luôn hy vọng điều tốt lành đang ở phía trước. Họ kiên nhẫn đợi chờ. Họ đợi chờ trong hy vọng.
Tháng ngày lênh đênh trên sóng nước bao la của con tàu No-ê là cuộc hành trình chờ đợi trong hy vọng. Mong đợi thấy được ánh mặt trời của ngày mới rực sáng trên mặt đất hồi sinh.
Đó là Mùa Vọng của con tàu Nô-ê. Mùa Vọng của những người luôn được Chúa yêu mến và luôn biết yêu mến Chúa. Những người luôn tỉnh thức để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
Muốn có được niềm hy vọng, người ta luôn phải phấn đấu. Không ai đạt được mục đích mà chỉ "nằm há miệng chờ sung". Để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa đòi hỏi con người luôn nổ lực để tự hoàn thiện bản thân. Phải có hy sinh, đau đớn, khổ luyện, con người mới vươn lên được. "Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi".
Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, xum họp gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu được mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta là hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Vị Mục Tử nhân lành Giêsu cảnh báo từ ngàn xưa: "Hãy tỉnh thức!"(Lc 21,36); " Sẽ có những điềm lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẻ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét"(Lc 21,25).
"Hãy tỉnh thức": - để sống cho ra sống, sống có mục đích, có lý tưởng, cố gắng hoàn thiện đời mình!
"Hãy tỉnh thức": - để tỉnh táo phân biệt chính- tà; tội- phước; cố gắng thoát kiếp "con"để sống đẹp kiếp "người"!
"Hãy tỉnh thức": - để làm vui lòng cha, để làm mát dạ mẹ, để gia đình luôn là bến đậu vững chắc trước bão đời đang vùi dập tình thân huyết thống; đang phá tan đạo Hiếu gia phong; đang hủy hoại nếp đời nếp đạo.
Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng người đời có một Thiên Chúa yêu thương và đời người có một vận mệnh tương lai. Có nhiều thứ tương lai lắm: tương lai gần như hôm nay đối với ngày mai; tương lai xa như đời này đối với đời sau; tương lai hẹp như chỉ giới hạn trong đời ta, tương lai rộng như mở ra với đời người; tương lai từng phần tùy theo mức độ khả thi và tương lai toàn phần chỉ có thể có khi con người tiến về vĩnh cửu.
Thế nhưng rồi điều quan trọng ở chỗ tương lai ấy không phải là một sự kiện mà chính là một Đấng, mà Đấng ấy vốn đã hy vọng vào ta, đợi chờ ta từ thuở nào, để khỏi phải tay chân thừa thãi ỏn ẻn làm quen mà gặp được là đã tay bắt mặt mừng đến độ thân tình của lòng trông cậy, để khỏi phải rỉ tai nhau như thế kỷ XIX với khẩu hiệu "con người là tương lai của con người" nên dẫn đến chiến tranh đổ vỡ, mà sẽ là hô vang sứ điệp "Thiên Chúa là tương lai của con người" cho xanh lên niềm hy vọng đượm thắm lẽ cậy trông.
Tỉnh thức trong hy vọng cũng là canh thức để cộng tác với ơn Chúa mà thể hiện niềm hy vọng đời mình. Sẽ là một thứ hy vọng quắt quay như những em bé ve chai gập mình bới tìm sự sống trên đống phế thải; sẽ là một thứ hy vọng mong manh như kẻ qua đường mua tấm vé số và sẽ là một thứ hy vọng đầy rủi ro như kẻ hùn hạp làm ăn mà không nắm trong tay vốn kiến thức kinh doanh; nhưng sẽ là một niềm hy vọng "bốn mùa" xanh tốt, khi con người biết kiên định phát triển vốn liếng ơn thánh và khả năng nơi mình, cho dẫu cuộc sống vẫn còn đầy dẫy những thử thách cam go.
Sự tỉnh thức của người Kitô hữu không gì khác hơn là cuộc sống trước mặt Thiên Chúa, cuộc sống với Thiên Chúa. Người ta làm đúng y cũng những điều đó, nhưng chúng có thêm một ích lợi, một chiều dày. "Một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại". Những người tỉnh thức đã bám rễ trong vĩnh cửu, những người thủ cựu thì ở trên bề mặt, lúc nào họ cũng có nguy cơ bị quét đi.
Và khi ta nghĩ đến ngày tận thế cũng cần như nghĩ đến cái chết của mình.
Cái chết dạy người ta biết cách sống. Ngày tận thế dạy người ta biết cách xây dựng thế giới trên nền tảng vĩnh cửu, trên những giá trị trường tồn.
Đối với Kitô giáo, ngày tận thế không phải là ngày buồn, ngày của hủy diệt và tang tóc, nhưng là ngày của thân xác được sống lại, ngày khai sinh một thế giới mới không bị hận thù và chết chóc đe dọa.
Ngày tận thế là ngày Chúa quang lâm. Chúng ta phải sẵn sàng ra đón Ngài. Sẵn sàng là cùng với Chúa xây dựng một trái đất đầy tình thương và công lý. Sẵn sàng là biến trái đất thành con đường dẫn tới Thiên đàng.
Ngày Chúa quang lâm là một ngày bất ngờ, nhưng nó sẽ ít bất ngờ đối với những ai biết sẵn sàng chờ đợi.
Lời Chúa hôm nay, Giáo Hội muốn đặt chúng ta trước số phận đời đời đang chờ đón. Thực vậy, Giáo Hội đã lên tiếng khuyên nhủ chúng ta: đừng để cho những vui thú ru ngủ, trái lại hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì Đức Kitô sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ và giờ chúng ta không biết. Nhất là qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trình bày về ngày sau hết như là một biến cố bất ngờ, không ai nắm vững. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại nghĩ rằng: Ngày ấy còn xa và có lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy đến.
Ngày Quang Lâm vào lúc thế tận sẽ rất bất ngờ. Sự chuẩn bị sẵn sàng được xác định qua tư cách biết đón Chúa đến mỗi ngày trong cuộc sống hiện tại. Sách Khải huyền viết: "Phúc cho ai chết trong ân nghĩa của Chúa". Nhưng để chết trong ân nghĩa thì phải biết sống trong ân nghĩa. Chúa đứng ngoài cửa và gõ; ai sẵn lòng mở, Người sẽ vào và dự bàn tiệc với người ấy.
Giả sử trần gian này vắng bóng tình yêu, một nhân loại sẽ không bao giờ tồn tại và giả sử nhân MV 1-A177
Giả sử trần gian này vắng bóng tình yêu, một nhân loại sẽ không bao giờ tồn tại và giả sử nhân loại này quên mất ý nghĩa tình yêu đích thật, nhân loại sẽ sống trong hỗn loạn, tội lỗi, sự xấu ngập tràn. Cần có một Tình Yêu đích thật giáng thế, để con người có thể đối chiếu, tỉnh thức với những cám dỗ, tránh được những dục vọng thấp kém đánh mất tình yêu đích thực để sống.
Tỉnh thức
Tỉnh thức chẳng bao giờ là thừa, chung quanh và ngay ở trong con người ta cũng đầy những cám dỗ, những ảo tưởng, những tham lam để sống.
Trong trần gian, những buôn bán chợ đời, những rong ruổi, vất vả lo âu, như trang Tin Mừng diễn tả: “Thời ông Nô-ê thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy.” (Mt 24, 38).
Ta có thể nói, không có thời gian để dừng lại, để suy nghĩ; nhưng vấn đề không biết dừng lại xem xét lại và để hồi tâm, con người đang tự đánh mất niềm vui sống đích thực. Cuộc sống đâu chỉ là ăn uống, làm lụng, hưởng thụ, ngày qua ngày như trả nợ đời.
Cuộc sống cần có tình yêu đích thật để sống. Thiếu tình yêu đích thật, con người trở nên chai cứng, sỏi đá, không hiểu trần thế mình đang sống đáng sống biết bao; không hiểu anh chị em mình chung sống dễ mến dường nào? Ta không hiểu vì ta không yêu thương, hoặc ta không yêu thương vì ta không hiểu. Ta dành hết thời gian lo cơm, áo, gạo, tiền, cuộc đời của ta là nhà cao, cửa đẹp. Những thứ vô hồn đẩy đưa ta vào chốn cô đơn.
Những khu rừng biến thành gỗ, những tài nguyên thành những món tiền, những tình yêu chỉ thoả lòng dục, những con người trở thành món hàng… Thiếu tình yêu nên sống với nhau là hận thù, ghen ghét, chiếm đoạt, lừa dối, đe doạ, giết chết lẫn nhau.
Trong tất cả những hỗn loạn đó, cần có thời gian dừng lại, suy gẫm, dọn lòng đón nhận tình yêu giáng thế, chính vì thế mà ta cần có mùa Vọng, bình tâm suy xét.
Tình yêu giáng thế.
Tình yêu không là ngôn từ sáo rỗng, tình yêu giáng thế là một Thiên Chúa xuống thế làm người, bằng xương, bằng thịt. Một tình yêu mang danh Giê su ở giữa nhân loại. Một tình yêu vô biên đổ rót vào những tình yêu giới hạn và vẫn không ngừng đổ rót: “Tặng vật người ban vô biên vô tận, nhưng để đón xin, tôi chỉ có hai tay bé nhỏ vô cùng. Thời gian lớp lớp đi qua, người vẫn chửa ngừng đổ rót, song lòng tôi thì hãy còn vơi.” (Lời dâng, bài số 1. R. Tagore).
Tình yêu đích thực dạy ta cách sống, chỉ cho ta những tặng vật tình yêu Chúa ban ngay trong tâm hồn. Cho ta niềm vui vĩnh cửu, lòng yêu mến tràn đầy ra khỏi những nhỏ nhoi đời sống. Thường khi ta nhận gì của ai, khi thiếu vắng tình yêu đích thật, ta chỉ nghĩ đến những giá trị đổi chác, qua mau, như người ta vẫn nói: “Có qua, có lại”, “Của biếu là của nợ”. Ta trao nhau bằng tình yêu đích thật như tình yêu của Chúa dành cho ta, Thánh Phaolô nói: “Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, trừ ra tình thương mến! (Rm 13,8). Đó là cuộc sống Chúa dạy để sống chan hoà yêu thương.
Tình Yêu giáng thế cho ta niềm vui để sống, nhận ra tương quan mật thiết giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giúp ta mến yêu cuộc sống này mà dấn thân cho những giá trị vĩnh cửu, mang tình yêu đến cho anh chị em, xoá vết lầm than đau khổ nơi người yếu thế, bị bỏ rơi, nghèo khó. Đem tình yêu vào chốn hận thù, xây dựng đời sống công bằng, bác ái yêu thương.
Tỉnh thức và cầu nguyện! Đêm an hoà, đêm an bình, đêm Tình yêu giáng thế, cho ta sống trọn vẹn niềm vui và bước vào một năm mới với tâm hồn mới, một chặng đường vươn tới trời cao với lòng hân hoan.
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa của sự mong chờ và tỉnh MV 1-A178
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa của sự mong chờ và tỉnh thức. Giáo Hội với tấm lòng yêu thương của người mẹ hiền đã chuẩn bị cho con cái những món ăn tinh thần nuôi dưỡng rất thích hợp qua phụng vụ lời Chúa của các mùa lễ.
Trong cuộc lữ hành trần thế với những đổi thay của thời khí và mùa màng. Giáo Hội dẫn chúng ta bước vào Mùa Vọng với nhiều ý nghĩa khác biệt. Nhà thờ được chuẩn bị với Vòng Hoa Mùa Vọng và từng cây nến được thắp lên mỗi tuần. Ánh sáng của cây nến đã dần đẩy lui đêm tối để mở cửa cho ánh sáng tinh tuyền chiếu dọi.
Bài phúc âm hôm nay giới thiệu cho chúng ta hình ảnh của ngày cuối đời nơi mỗi người. Ngày giờ sẽ đến với mỗi người trong những hoàn cảnh khác nhau. Như có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng làm việc, một người được tiếp nhận và một người bị bỏ rơi.
Trong cuộc sống, chúng ta chứng kiến biết bao những người anh em cùng lứa tuổi, cùng xóm làng và cùng hoàn cảnh đã ra đi. Có người ra đi một cách rất đột ngột như bị tai nạn, chiến tranh, động đất, sóng thần và nhiều nguyên nhân khác. Có người được chuẩn bị đôi chút trên giường bệnh. Sự ra đi nào cũng là sự bất ngờ. Không mấy ai thỏa mãn hoàn toàn với cái chết của mình trừ khi họ sống trong tỉnh thức.
Phải tỉnh thức như người lính gác mong trời rạng đông. Tỉnh thức như người bị lạc trong rừng sâu với muông thú hiểm nguy. Tỉnh thức như người đang lái xe trên đường. Cuộc đời chúng ta là một hành trình đi về một cùng đích. Thật vậy, nhiều khi chúng ta sống, nhưng lại không ý thức mình đang sống. Đôi khi thức nhưng chúng ta không tỉnh táo để quan sát sự việc xảy ra chung quanh. Không gì nguy hiểm bằng khi chúng ta đi lang thang không mục đích. Do vậy, sống là chúng ta không ngừng tiến về phía trước và tỉnh thức sẽ giúp chúng ta luôn định hướng để khỏi bị lạc đường.
Hãy chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Chúa sẽ đến với chúng ta qua nhiều cách trong cuộc sống hiện tại. Chúng ta có thể gặp gỡ Chúa qua người thân yêu, người nghèo khó ốm đau, trẻ em nơi đầu đường xó chợ, nơi những người bần cùng nhất của xã hội và qua sự cầu nguyện liên kết với Chúa. Đôi khi Chúa hiện diện gần bên mà chúng ta không hay biết. Chúng ta hãy mở rộng cửa đón Chúa qua môi trường và tha nhân.
Chúa cũng sẽ đến bất chợt vào giờ phút cuối cùng của cuộc đời và vào lúc không ngờ, chúng ta hãy sẵn sàng. Đây thực sự là giây phút quan trọng mà chúng ta cần chuẩn bị và thức tỉnh để đón Chúa cả bây giờ và ngày sau.
Kẻ trộm đến không bao giờ báo cho chủ nhà biết trước, vì thế chủ nhà thường hay đề phòng, chuẩn MV 1-A179
Kẻ trộm đến không bao giờ báo cho chủ nhà biết trước, vì thế chủ nhà thường hay đề phòng, chuẩn bị mọi thứ thật cẩn thận để bản thân không bị hại, cũng như của cải sẽ được bảo toàn. Cũng vậy, sự đến bất ngờ của tên trộm giống như ngày Chúa đến là hình ảnh mà Đức Giêsu muốn kêu mời những ai đang sống miên man trong những đam mê của mình, hãy mau tỉnh thức trở về với Chúa, nếu không họ sẽ không còn nhiều thời gian để chuẩn bị cho cuộc hội ngộ bất ngờ này.
Lời Đức Giêsu hôm nay cũng là lời thức tỉnh mỗi người chúng ta, bởi Thiên Chúa không muốn bất cứ một ai phải diệt vong trong ngày Con Người đến nhưng muốn họ được sống đời đời. Lời Ngài nói không có ý đe dọa chúng ta, làm cho cuộc sống của chúng ta bị phân tâm, ăn không ngon, ngủ không yên. Ngài báo trước những sự việc sẽ xảy ra để nhắc nhở chúng ta rằng, cuộc sống nơi trần gian này không phải là vĩnh cửu. Ngài thức tỉnh chúng ta bởi Ngài yêu thương chúng ta, mà những ai được Thiên Chúa yêu thương, sẽ luôn luôn được Người khuyên răn chỉ dạy (x. Dt 12 , 4 – 15). Vì lẽ đó, chúng ta hãy sống và lo cho tương lai vĩnh hằng của chúng ta chứ không chỉ sống cho cuộc sống tạm bợ này, để khi Chúa đến chúng ta không bị bối rối, bỡ ngỡ nhưng hân hoan ra đi với Người như những cô trinh nữ khôn ngoan luôn sẵn sàng đèn dầu đi đón chàng rễ (x. Mt 25, 1 – 13).
Tỉnh thức và sẵn sàng không có nghĩa là chúng ta không bao giờ chợp mắt, chúng ta cũng phải sống và sống một cách có ý nghĩa nơi trần gian này chứ không phải ngồi chờ sung rụng. Cuộc sống này đáng để cho chúng ta phải sống, vì chính Chúa đã tạo dựng nên nó cho chúng ta sử dụng. Tuy nhiên, cuộc sống trần gian này cũng chỉ là phương tiện Chúa dùng để chúng ta biết cách sinh lời cho tương lai vĩnh cửu của ta. Ngài không muốn chúng ta vì một chút lợi ích của cải trần gian mà quên mất nghĩa vụ của mình là làm thế nào để chiếm cho được phần thưởng Nước trời. Bởi “nếu được cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi” (Lc 9, 25).
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi để sống cho những giá trị Tin mừng. Chúng ta đang mang trong mình một trách nhiệm cao cả là làm cho Nước Chúa hiện diện giữa thế gian này. Chúng ta không sống cho những thú vui nơi trần gian của chúng ta nhưng làm cho cuộc sống chúng ta sinh hoa kết quả, nhờ vào những công đức chúng ta đóng góp vào việc xây dựng Nước Chúa. Giữ đạo và sống đạo không chỉ là việc chỉ đi nhà thờ, đọc kinh, xem lễ thường xuyên, nhưng còn bằng việc bác ái của chúng ta đối với anh chị em sống chung quanh chúng ta. Bởi Chúa nói “hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại” ( Mt 24, 40 – 41). Nếu là Kitô hữu mà chúng ta bị bỏ lại thì đó là chúng ta đang sống nhưng chưa thật sự tỉnh thức. Chúng ta sống với hình thức bên ngoài chỉ vì một chút danh vọng, địa vị chứ không vì tình yêu dành cho Thiên Chúa. Đừng nghĩ rằng, chúng ta là những người đã được rửa tội, mang danh Kitô thì sẽ được cứu thoát trong ngày Chúa đến, bởi việc cứu thoát còn tùy thuộc vào sự cộng tác trong cách sống của mỗi người chúng ta đối với Thiên Chúa. Hãy để cho Lời Chúa thức tỉnh chúng ta từng giây phút sống, giúp chúng ta biết cách chọn lựa thế nào cho phù hợp với ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa luôn yêu thương mời gọi chúng con hãy tỉnh thức và sẵn sàng cho ngày Chúa đến, vì Chúa biết thân phận yếu đuối của mỗi người chúng con luôn có thiện chí nhưng chưa đủ khả năng để hoàn thành trách nhiệm của một người Kitô hữu. Xin Chúa ban ơn thêm sức giúp chúng con biết nhận ra đâu là những giá trị bền vững cho cuộc sống vĩnh cửu, để chúng con luôn sống cho Chúa và chờ Chúa đến cách hân hoan trong ngày quang lâm. Amen.
Cuộc sống luôn có những bất ngờ. Có bất ngờ mang đến niềm vui, hạnh phúc tràn đầy nhưng cũng MV 1-A180
Cuộc sống luôn có những bất ngờ. Có bất ngờ mang đến niềm vui, hạnh phúc tràn đầy nhưng cũng có những bất ngờ dẫn đến nỗi sợ hãi và đau khổ. Hôm nay, Chúa Giêsu nói về ngày Con Người quang lâm. Ngày ấy cũng sẽ đến cách bất ngờ. Đó sẽ là ngày tràn ngập niềm vui hay là ngày mang lại những sợ hãi và đau khổ cho ta?
“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). Thánh Gioan Tông đồ đã xác tín như vậy và tất cả những ai được nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân lành đều cảm nhận được tình yêu thương vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho mình. Chắc chắn những gì Thiên Chúa để xảy đến cho ta đều xuất phát từ tình yêu bao la mà Ngài dành cho ta. Điều quan trọng là chính ta phải đón nhận tất cả những gì xảy đến với tâm tình và thái độ nào. Khi đứng trước sự ra đi của một người thân, ta được đặt trước một bước ngoặt quan trọng của cuộc đời. Có một trật tự mới đã được xếp đặt lại trong cuộc đời ta. Có một người ta yêu mến đã đi về cùng Chúa. Và sẽ có một ngày, ta cũng sẽ trở về với Thiên Chúa, trở về nơi ta đã xuất phát. Ngày người thân yêu của ta ra đi đã xảy đến cách bất ngờ. Nói cách khác, ta đã quá bất ngờ trước một sự thiếu vắng đến hụt hẫng. Bởi ta đã chưa bao giờ nghĩ đến hay dám nghĩ đến một sự thật dường như đầy phũ phàng như thế. Ta chưa hề sẵn sàng cho biến cố ấy. Đó là một lời nhắc nhở đầy yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho ta, để ta được thức tỉnh khỏi tình trạng ngủ mê trong nhịp sống đầy vội vã. Dường như càng vội vã, người ta càng không thể tỉnh thức được, vì họ quên mất rằng mình là ai và mình sẽ đi về đâu và đâu mới thật là ngôi nhà vĩnh cửu của con người, đâu mới là cùng đích của họ. Trước những sự bất ngờ như thế, thay vì khóc lóc đau khổ mãi thì ta phải dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã thức tỉnh ta ngang qua cái chết của người ta yêu thương.
Nghĩ đến ngày Con người quang lâm phải chăng có lẽ quá xa vời? Chẳng ai biết trước được ngày đó sẽ đến lúc nào. Hãy nghĩ đến ngày Thiên Chúa gọi ta về, có thể là lát nữa đây hay ngay ngày mai và có thể là những ngày sau đó. Ta sẽ làm gì đây? Ngồi chờ đợi trong sợ hãi hay sống thật vội vã? Không phải. Giây phút hiện tại ta đang có chính là giây phút kết dệt nên đời ta. Hãy sống từng giây phút đong cho đầy tình yêu, yêu Chúa và yêu người bằng một cuộc sống dấn thân phục vụ. Khi sống trong sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa, chắc chắn ta sẽ được Ngài ban sức mạnh và lòng cậy trông vững vàng, một niềm mến yêu tha thiết và một đức tin kiên cường trong thử thách. Hãy luôn luôn để Chúa làm chủ đời ta và sẵn sàng đón Chúa đến ngay nơi cung lòng ta từng ngày, để khi ngày Chúa gọi ta về, ta đang sẵn sàng. Nếu có bất ngờ khi Chúa đến thì đó cũng là một sự bất ngờ mang đến hạnh phúc đầy tràn vì được gặp Đấng mà lòng ta yêu mến.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết rõ con đang cần gì nhất. Xin Chúa hãy thức tỉnh con bằng những biến cố hằng ngày và bằng chính sự hiện diện đầy yêu thương nơi Bí tích Thánh Thể và chính trong Lời hằng sống của Chúa. Để khi Chúa đến, con không rơi vào sợ hãi và sa ngã nhưng đã sẵn sàng, lòng phấn khởi hân hoan. Con không biết trước những gì sẽ xảy đến cho mình và không có quyền định đoạt tất cả, nhưng Chúa cho con được tương quan với Chúa, bằng sự tỉnh thức và sẵn sàng. Amen.
Chúng ta vẫn thường nhận được những tấm thiệp mời, trong đó viết về đôi tân hôn và ngày giờ MV 1-A181
Chúng ta vẫn thường nhận được những tấm thiệp mời, trong đó viết về đôi tân hôn và ngày giờ tổ chức tiệc cưới. Đôi tân hôn và vị khách được mời sẽ có thời gian để sắp xếp và chuẩn bị cho phần việc của mình. Ngoài ra, có nhiều điều mà chúng ta biết trước nó sẽ diễn ra và kết thúc lúc nào khi chính chúng ta là chủ của việc đó. Thế nhưng, vẫn có những lúc chúng ta không biết trước về những biến cố bất ngờ xảy đến cho chính mình hay người khác.
“Không ngờ sáng nay cô ấy vẫn khỏe mà giờ lại phải nằm bất động”. Chúng ta vẫn thường thốt lên hai chữ “không ngờ” như thế. Chúng ta còn sẽ gặp nhiều điều không ngờ nếu không có một thái độ sẵn sàng để đón nhận những điều sẽ xảy ra cho mình và người thân. Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24,42). Canh thức là sẵn sàng và sẵn sàng là canh thức. Canh thức không có nghĩa là thụ động nhưng là một sự chủ động. Nghĩa là canh thức không dừng lại ở việc ngồi một chỗ để chờ mà phải được diễn ra và trải dài trong cuộc sống, trong mọi hoạt động và mọi công việc. Thánh Phêrô đã nói: “Anh em có nói thì nói lời Thiên Chúa, có phục vụ thì phục vụ sức mạnh của Thiên Chúa”(1Pr 4,11). Một người sống trong sự canh thức là người làm mọi việc luôn quy hướng về Chúa. Còn người dù sống trong sự công bằng nhưng không hướng về Chúa thì không được gọi là canh thức. Người canh thức là người không chỉ chu toàn bổn phận của mình mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Bởi vì, Chúa đến gặp chúng ta trong chính cuộc sống của chúng ta, trong lúc chúng ta làm việc, lúc chúng ta cùng mọi người vui đùa.
Thật sự để sống trong tinh thần canh thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn ý thức Chúa sẽ đến. Mỗi ngày, chúng ta cần từ bỏ dần các tật xấu của mình để có thể sống triệt để và hoàn thành nhiệm vụ Chúa trao. Khi Chúa đến, chúng ta được gặp Thiên Chúa tình yêu hay Thiên Chúa phán xét là tùy chúng ta đang sống như thế nào. Nếu mỗi ngày chúng ta yêu như Ngài yêu và trung thành với Ngài là chúng ta đang canh thức chờ đợi như trẻ thơ chờ đợi mẹ. Để khi Chúa đến, chúng ta không rơi vào vòng lưới “không ngờ” mà sẵn sàng theo Chúa vào chung hưởng hạnh phúc.
Lạy Chúa! Xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn, hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
Mùa Vọng là chờ đợi trong hy vọng, sự chờ đợi vì hy vọng được đổi mới, cũng là thời gian hy MV 1-A182
Mùa Vọng là chờ đợi trong hy vọng, sự chờ đợi vì hy vọng được đổi mới, cũng là thời gian hy vọng hòa bình vì Chúa sắp đến mang lại hòa bình thực sự cho các tâm hồn. Hằng năm Giáo hội lại khởi đầu năm phụng vụ bằng Mùa Vọng để chuẩn bị các tín hữu mừng mầu nhiệm Giáng sinh, sự nhập thể của Con Thiên Chúa làm người. Sự nhập thể này vừa có chiều kích hiện tại vừa có chiều kích cánh chung. Người đã đến và người vẫn đến trong cuộc đời chúng ta, và người sẽ còn đến trong vinh quang chói lòa của Thiên Chúa để dẫn đưa chúng ta vào đời sống thần linh vĩnh cửu. Vì thế Vọng là thời gian đặc biệt, sự chờ đợi đặc trưng của Kitô giáo: Chúa đến với mỗi người và Chúa sẽ đến trong vinh quang. Các bài đọc của Chúa nhật này làm vang vọng lên lời mời gọi tỉnh thức bởi vì Con người sẽ đến rất bất ngờ. Để chờ đợi con người đến, thái độ đúng đắn phù hợp nhất là phải tỉnh thức trong đức tin.
Từ thời Cựu ước đã vang vọng lên lời tiên báo của tiên tri Isaia về Giêrusalem. Đó là thời kỳ các dân nước sẽ đổ về núi Thiên Chúa để được lắng nghe lời Thiên Chúa dạy dỗ, để bước đi theo đường lối Thiên Chúa. Vì được lắng nghe lời dạy và lời khiển trách của Thiên Chúa, người ta sẽ biết sám hối, họ sẽ biết thay đổi đời sống và có những hành động cụ thể để thay đổi thế giới họ đang sống, từ bỏ những khí giới chiến tranh hủy diệt và tạo ra một thế giới bình an, hòa bình cho mọi người. Chính lời Chúa sẽ giáo huấn và thay đổi lòng trí của họ. Để hiểu về hoàn cảnh chính trị xã hội thời kỳ của tiên tri Isaia, cần nhớ đó là vào khoảng những năm sau năm 740 khi nhà vua Ozias băng hà, lúc đó Isaia nhận được ơn gọi loan báo sự sụp đổ của nhà Israel và nhà Giuđa vì những sự bất tín của họ. Đây là thời kỳ mà cả hai vương quốc do thái này bị đe doạ bởi đế quốc Assyria. Nhà vua trẻ Achaz của Giuđa tìm cách liên minh với nhà vua Assyria và Isaia đã tìm cách can ngăn vua Achaz nhưng không thành công, trong khi đó vương quốc phương bắc là Israel sụp đổ. Điều quan trọng trong sứ điệp của tiên tri Isaia, đó là luôn kêu gọi mọi người phải đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, đừng vội tìm kiếm những liên minh chính trị, bởi vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng sẽ bảo đảm cho họ ơn cứu độ và từ trong số sót của dân tộc sẽ phát xuất Đấng cứu thế từ dòng dõi Đavít, người sẽ cai trị trên toàn cõi địa cầu trong bình an và sự hiểu biết Thiên Chúa.
Bài phúc âm của tuần I mùa Vọng theo thánh Matthêu làm vang vọng sứ điệp cánh chung. Lời loan báo thời đại Con người sẽ đến với những đảo lộn vũ trụ ghê sợ. Chúa Giêsu nhắc đến hai thiên tai hủy diệt nhân loại trong thời Cựu ước đó là cơn lụt đại hồng thủy và lửa từ trời xuống thiêu đốt thành Sôđôma thời ông Lót. Trong khi mọi người vẫn bình an tiếp tục những lo lắng bận rộn thông thường của mình với những công việc cưới vợ lấy chồng, thì thiên tai đã ập xuống tiêu diệt mọi người. Đây là thời điểm quyết định đối với vận mệnh mỗi người, sẽ được cứu sống hay phải chết hư mất đời đời. Đứng trước những lời loan báo của Chúa Giêsu, người ta dễ nghĩ đến những biến đổi vũ trụ khủng khiếp như trời đất ra tối tăm, mặt trời mặt trăng không còn chiếu sáng v.v… mà mọi người có thể quan sát được như là dấu chỉ của sự kết thúc của thời gian và vũ trụ. Các Kitô hữu thời kỳ đầu cũng đã nghĩ như thế, họ nghĩ đến sự kết thúc thời gian với những thay đổi khủng khiếp của những hiện tượng thiên nhiên. Điều Chúa Giêsu muốn gợi ý là những dấu chỉ này đã bắt đầu, không phải là những hiện tượng thiên nhiên dễ sợ mà là những biến đổi âm thầm đã bắt đầu như hạt cải bé nhỏ âm thầm mọc lên, như chút men trộn trong đấu bột. Sự biến đổi này không nhất thiết phải là một sự cắt đứt hay đổ vỡ của thế giới mà chúng ta đang sống, nhưng tiến trình thay đổi của nó đang diễn ra. Chúng ta có thể hình dung những tiến bộ kỹ thuật đang diễn ra hằng ngày, tiến trình toàn cầu hóa với những hệ lụy kinh tế văn hóa, rồi là những biến đổi khí hậu đang làm thay đổi và đe doạ môi trường sống của con người.
Những thay đổi mới mẻ không ngừng diễn ra hằng ngày, và thách đố đối với chúng ta là những thay đổi đó có gợi lên trong chúng ta việc chờ đợi ngày của con người đến không? Việc chờ đợi ngày con người đến có nghĩa là gì? Sự chờ đợi của Kitô giáo không đơn giản chỉ là hình dung những gì sẽ xảy ra mà là một thái độ và hành động tỉnh thức trong đời sống bình thường của đời kitô hữu. Điều quan trọng là cách thế sống sự chờ đợi này, không phải để tìm cách xoay xở thế này hay thế khác, chẳng hạn mua nến đèn hay mua mì gói phòng hờ. Sự chờ đợi này không đơn giản chỉ là như thế mà là một sự tỉnh thức biết thay đổi đời sống một cách triệt để, đồng thời cũng là một cố gắng thay đổi để sống đời sống mới vì Nước Trời đang đến. Đây là công trình của Thiên Chúa đang thực hiện cho chúng ta, một trời mới đất mới đầy lòng thương xót của Thiên Chúa, là quà tặng tình yêu đầy tràn sự sống của Thiên Chúa cho con người và đòi hỏi mỗi người tự do một cách triệt để đáp lại. Sự chờ đợi của người kitô hữu vừa là lòng tin tưởng yêu mến vào hồng ân tuyệt đối của Thiên Chúa vừa là nhận thức một cách nghiêm chỉnh trách nhiệm của mình đứng trước những lời hứa của Thiên Chúa. Đây cũng là điều mà thánh Phaolô nhắc, đây là lúc chúng ta hãy thức dậy và không còn mê ngủ. Đây là lúc từ bỏ những hành vi ám muội như chè chén say sưa hay chơi bời dâm đãng mà ngược lại biết mặc lấy khí giới của sự sáng, mặc lấy Chúa Kitô.
Lời Chúa đánh thức nơi chúng ta một sự hy vọng năng động, biết từ bỏ những gì không thiết yếu để đón nhận chính Chúa Kitô và sức mạnh của Người. Chờ đợi, đó cũng là tin vào cái chưa tới, nhưng chắc chắn sẽ tới, là hướng về điều mới mẻ chưa từng có, bởi vì Thiên Chúa sẽ đến để thực hiện mọi điều nên mới. Hẳn nhiên, con người chúng ta vốn có cách chuẩn bị theo kiểu của chúng ta, cho sự an toàn của con người với những lo lắng vật chất và những đam mê của cải xác thịt. Nhưng biến cố ngày của Chúa đến vượt quá những hình dung giới hạn của chúng ta, vượt quá những chuẩn bị vật chất của con người bởi vì tự nó vốn không thể hình dung nổi, không thể nghĩ tưởng nổi. Thế nên tỉnh thức sẽ là thái độ đúng đắn khi chúng ta sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn với một trái tim khai mở theo hướng dẫn của Lời Chúa. Sự tỉnh thức này làm cho chúng ta biết tin tưởng hy vọng ngay cả trong những đau khổ, trong những thất bại và mất mát. Và đó chính là hoa quả của sự tỉnh thức đặt tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng đổi mới mọi sự, vượt quá những dự định chật hẹp của con người, sự tỉnh thức biết đặt tình yêu và hy vọng nơi Thiên Chúa như dấu chỉ của sự chọn lựa và dấn thân của chúng ta. Sự tỉnh thức làm chúng ta dám chấp nhận như bước đi trong bóng tối giữa những thử thách, những thất bại, mất mát từ bỏ đau đớn. Như thế, chúng ta đang chờ đợi ngày của Chúa đến mà mầu nhiệm giáng sinh nhập thể của con Thiên Chúa làm cho chúng ta cảm nếm sự khó nghèo là nơi mà con Thiên Chúa muốn đến để làm người, thân phận mong manh nhỏ bé của kiếp người bị bỏ rơi, bị xua đuổi và bị đe doạ đến tận cùng.
Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào năm Phụng vụ mới, năm A, bắt đầu là Mùa Vọng. Mùa Vọng MV 1-A183
Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào năm Phụng vụ mới, năm A, bắt đầu là Mùa Vọng. Mùa Vọng vừa là thời gian chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Giáng sinh, kỷ niệm Ngôi Hai Thiên Chúa đến lần thứ nhất khi Ngài giáng sinh ở Belem; vừa là thời gian mời gọi các tín hữu sống tâm tình trông đợi Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai trong ngày cánh chung, ngày tận cùng của thế giới. Chính vì thế mà mỗi năm Mùa Vọng về, là mỗi lần Mẹ Giáo hội mời gọi các tín hữu chuẩn bị tâm hồn với những thái độ sống căn bản sau đây:
– Với Chúa: sống tỉnh thức và cầu nguyện
– Với chính mình: Sửa lại con đường tâm hồn
– Với tha nhân: sống tình bác ái chia sẻ
Hôm nay Chúa nhật I Mùa Vọng, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì không biết ngày nào giờ nào Chúa các con sẽ đến.
Đọc lại những trang Tin mừng, Đức Giêsu dùng rất nhiều dụ ngôn nói về thái độ sống tỉnh thức và cầu nguyện, để sẵn sàng cho ngày giờ Chúa đến gọi ta về.
Chẳng hạn như: Tỉnh thức như người đầy tớ tốt đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa thì mở ngay cho chủ (Lc 12, 35); tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan, ngọn đèn đức tin luôn tỏa sáng và bình dầu luôn đầy tình Chúa, đầy ắp tình người, vì không biết ngày nào chàng rể Giêsu đến mời gọi chúng ta (Mt 25,1-13).
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói về những người sống thời ông Nô-e. Lúc bấy giờ người ta ăn chơi hưởng thụ tối đa. Trong khi đó chỉ một mình ông Nô-e nghe lời Chúa đi đóng tàu.
Bạn bè và làng xóm cho ông là một người khác thường không giống ai. Còn họ thì cứ sống thoải mái, ăn chơi nhảy nhót, dựng vợ gả chồng, chìu chuộng thân xác tối đa, như thể không có ngày mai.
Thế nhưng, giữa lúc dân chúng ăn chơi hưởng thụ như thế, thì lụt đại hồng thủy thình lình ập đến, cuốn đi tất cả nhân loại xấu xa đó chỉ trừ một mình gia đình ông Nô-e. Đức Giêsu nhắc lại biến cố này để nhắc nhở chúng ta giờ Chúa đến hết sức bất ngờ như thế đó.
Thật vậy, không ai trong chúng ta biết khi nào mình chết, và chết ở đâu, và sau khi chết linh hồn mình sẽ ra sao. Tất cả đều nằm trong thánh ý nhiệm mầu của Chúa.
Bởi lẽ, thân phận con người là một cuộc lữ khách. Sinh ký tử quy, sống gửi thác về. Và bản chất con người như một bông hoa sớm nở, tối tàn, nghĩa là đời người thật ngắn ngủi mong manh biết bao.
Mỗi ngày trên thế giới có rất nhiều mạng người biến khỏi mặt đất này, đó là một lời nhắc nhở chúng ta, rồi đây sẽ đến một lúc nào đó, chúng ta cũng phải giã từ cuộc đời tạm bợ này. Và không ai biết trước giờ mình chết và chết ở hoàn cảnh nào. Chết ở trên giường hay chết ở ngoài đường. Nếu tối nay hay ngày mai Chúa gọi, thì liệu chúng ta có sẵn sàng hành trang về với Chúa chưa?.
Chính vì thế mà Đức Giêsu luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức không để lòng mình buông theo những cám dỗ thế gian, những ước muốn tầm thường. Tỉnh thức là sống với lương tâm ngay thẳng không theo đường lối gian tà, không dín bén với của cải.
Tỉnh thức là đi vào con đường hẹp, con đường của Phúc âm, đừng tìm dễ dãi bản thân, nuông chiều theo xác thịt. Nếu chúng ta không tỉnh thức sẽ dễ rơi vào cơn cám dỗ của ba thù. Đó là: ma quỉ – xác thịt – thế gian. Kẻ thù đáng sợ nhất là ma quỉ.
Ma quỷ là cha của sự dối trá, nó đánh lừa rất tinh vi, làm chúng ta ươn lười, biếng nhác trong việc siêng năng đọc kinh dự lễ. Vì nghĩ rằng: mình còn trẻ, còn khỏe chưa chết đâu, cứ ăn chơi hưởng thụ tối đa, vì thời gian còn dài lo gì sửa mình, nhưng Chúa đến gọi vào lúc chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết thì đã muộn rồi.
Tỉnh thức để khỏi rơi vào cơn cám dỗ thứ 2, đó là xác thịt. Xác thịt nó gắn liền chúng ta như người bạn đồng hành. Người ta nói nhu cầu xác thịt còn lớn hơn nhu cầu ăn uống. Chỉ vì con người đắm chìm trong xác thịt, nên bất chấp luân thường đạo lý, mà hậu quả là những thai nhi bị sát hại không hề thương tiếc.
Tỉnh thức đừng để rơi vào cơn cám dỗ thứ 3, đó là thế gian. Thế gian chứ không phải thế ngay. Chúng ta sống trong một thế giới đầy dẫy những quyến rũ, tình – tiền – tài – rất ư là hấp dẫn lôi kéo chúng ta lung lạc đức tin rồi từ từ bỏ Chúa tìm những đam mê bất chính khác.
Cuối cùng, thưa anh chị em, tỉnh thức luôn phải đi đôi với cầu nguyện. Thật vậy, chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta giảm bớt những bận tâm lo lắng đời này, để lo cho phần rỗi đời sau.
Chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta biết từ bỏ những tính hư tật xấu làm buồn lòng Chúa. Và chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta xa lánh những cám dỗ, những thách đố trong cuộc sống đầy biến động này.
Xin Chúa giúp chúng ta tích cực sống tinh thần sám hối của Mùa Vọng dọn lòng đón mừng đại lễ Chúa Giáng sinh. Đồng thời, sống tỉnh thức và cầu nguyện chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón đợi Chúa đến với bất cứ hoàn cảnh nào. Amen.
Trời Gieo Sương Thánh Đổ Mưa Chính Trực, Đất Nẩy Cội Thiêng Vươn Nhánh Công Bình, Đó MV 1-A184
Trời Gieo Sương Thánh Đổ Mưa Chính Trực Đất Nẩy Cội Thiêng Vươn Nhánh Công Bình
Đó là điều ước mong trong Is 45:8. Và điều đó chắc chắn xảy ra. Chúng ta tin như vậy là tin vào lời hứa Thiên Chúa dành cho nhân loại – cách riêng đối với những người tin kính một Thiên Chúa duy nhất.
Sibyllina có cách nhận xét thú vị: “Mong đợi giống như đồ đựng. Đồ đựng càng lớn thì chứa được càng nhiều, đồ đựng càng nhỏ thì chứa được càng ít. Mong đợi lớn thì được ân điển nhiều, mong đợi nhỏ thì được ân điển ít.”
Sự mong đợi luôn là khoảng thời gian lạ lùng, lặng lẽ mà bồi hồi, như biển nhìn tĩnh lặng mà rất động. Có nhiều dạng mong đợi, mong ai đó hoặc đợi điều gì đó – đặc biệt là đối với người mà mình yêu quý hoặc điều tốt lành. Trong khoảng mong đợi đó có thể vui hoặc buồn, nhưng luôn có sự bồi hồi và thắc thỏm. Hy vọng càng nhiều thì nỗi khắc khoải càng khó tả, đặc biệt là khoảng mong đợi tâm linh – mong đợi Con Thiên Chúa.
Mùa Vọng mang sắc tím chờ đợi, nhưng màu tím này không buồn thảm mà tràn trề niềm hy vọng. Sự mong đợi là niềm hy vọng, và luôn là khoảng thời gian dài nhất, mặc dù thực tế thời gian không hề thay đổi. Khoảng mong đợi có yếu tố tâm lý, niềm hy vọng càng nhiều và càng cao thì càng thấy lâu. Có những khoảng mong đợi nối tiếp nhau như “điệp khúc” trong cuộc sống trần gian.
Là tín nhân, chúng ta phải chuẩn bị đón Chúa cả đời chứ chẳng riêng mùa nào. Thế nhưng có những mùa và những dịp đặc biệt nhắc nhở chúng ta lưu ý nhiều hơn về niềm mong đợi triền miên của mình: Mùa Vọng, Mùa Chay, Mùa Cầu Hồn,… những “khoảng” đó như các biển báo trên đường đời, và là những “cột mốc” nhắc nhở chúng ta trên đường lữ hành trần gian này. Mong đợi thì phải sẵn sàng và chuẩn bị, càng cẩn trọng càng tốt.
KHÁT VỌNG
Chắc chắn ai cũng mong đợi hòa bình, khát khao hạnh phúc, vì đó là điều rất tuyệt vời. Nghĩa là chẳng ai muốn chiến tranh – dù là bất cứ dạng nào.
Kinh Thánh cho biết điều mà ông Isaia được thấy về Giuđa và Giêrusalem: Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi. (Is 2:1-3a)
Với niềm vui nỗi mừng khôn tả, người ta không thể lặng im nên nhắn nhủ với nhau: “Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ. Vì từ Sion, thánh luật ban xuống, từ Giêrusalem, lời Đức Chúa phán truyền. Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường!” (Is 2:3b-5)
Tương tự, Mk 4:3 cũng nói: “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa muôn nước và phân xử cho các dân hùng mạnh mãi tận xa. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” Đó là thời hòa bình, người ta thực sự hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
Muốn có hòa bình thì cần có tự do, muốn tự do thì phải hành động, trước khi hành động thì phải chuẩn bị. Ai cũng háo hức, bồn chồn, bồi hồi mong đợi,… Nhân loại đau khổ vì đã phạm tội đối nghịch với Thiên Chúa, bị “vòng kim cô” của ma quỷ kiềm chế và bị tội lỗi điều khiển. Vì thế, nhân loại rất cần được Thiên Chúa giải thoát, càng sớm càng tốt. Khoảng mong đợi này da diết lắm, niềm hy vọng này mạnh mẽ và dâng trào như triều cường.
Tâm trạng rất háo hức trong khoảng thời gian mong đợi, Thánh Vịnh gia phấn khởi bày tỏ tấm lòng chân thành: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!” (Tv 122:1) Thật vậy, còn gì vui hơn khi đang trông mong mà lại nhận được tin vui như thế. Niềm hạnh phúc đã hiện thực: “Giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân. Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đa-vít.” (Tv 122:2-5) Rõ ràng, nhãn tiền, không mơ hồ.
Chắc hẳn ai cũng vậy, một khi đã cảm thấy vui mừng khi tận hưởng hạnh phúc thì cũng muốn chia sẻ với người khác, không thể trì hoãn cái sự sung sướng đó: “Chúc thân hữu của thành luôn thịnh đạt, tường trong luỹ ngoài hằng yên ổn, lâu đài dinh thự mãi an ninh. Nghĩ tới anh em cùng là bạn hữu, tôi nói rằng: ‘Chúc thành đô an lạc’. Nghĩ tới đền thánh Chúa, Thiên Chúa chúng ta thờ, tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô!” (Tv 122:6-9)
Chia sẻ niềm hạnh phúc không phải để khoe khoang mà thật lòng muốn người khác cũng vui lây, cũng được cảm nghiệm niềm hạnh phúc, đặc biệt niềm hạnh phúc đó chính là hồng ân Thiên Chúa, chắc chắn không thể không chia sẻ sự vui mừng lớn lao như vậy.
ĐỈNH ĐIỂM
Thánh LM TS Thomas Aquinô nói: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ, nhận ra những ai là người mà chúng ta phải tránh là một phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình.” Đó là cách sống trong khi mong đợi Chúa đến. Còn Thánh Phaolô nói: “Anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo.” (Rm 13:11)
Thời gian không ngừng, cứ trôi dần, tưởng là chậm mà nhanh, và cũng đồng nghĩa với ơn cứu độ đến gần hơn – gần tới mức chúng ta cảm thấy rất bất ngờ: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu.” (Rm 13:12) Nhanh hay chậm thì rồi cái gì đến cũng đến. Giờ G đã điểm, và chẳng ai có thể ngồi im hoặc thụ động, nghĩa là phải chủ động và tích cực hành động.
Thế nhưng phải hành động bằng cách nào? Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.” (Rm 13:14) Nói “mặc lấy Đức Kitô” thì rất dễ, nhưng hành động thì không hề đơn giản, bởi vì “tính xác thịt” dữ dội lắm. Ai cũng có tự ái – tức là “cái tôi”, nếu không quyết tâm nỗ lực “đè” nó xuống thì khó có thể chứng tỏ mình đang mong đợi Con Thiên Chúa. Phải thực sự cố gắng “mặc lấy Đức Kitô” trong khi chờ đợi thì mới có thể sẵn sàng chiến đấu, mọi nơi và mọi lúc, và với bất kỳ kẻ thù nào.
Khi mong đợi quá lâu, người ta có thể mất kiên nhẫn, chán nản, rồi khinh suất, thậm chí còn có thể hư đốn, mất nết, lăn vào vết xe cũ. Đời thường là như thế, bởi vì con người vốn yếu đuối, dễ ngả theo cái xấu – giống như xe xuống dốc, và khó có thể “lái” theo hướng đúng đắn – giống như xe lên dốc. Dĩ nhiên NÓI bao giờ cũng dễ hơn LÀM. Cổ ngữ có câu: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy.” – Một lời nói ra, bốn con ngựa đuổi theo không kịp. Thật đáng sợ! Ai cũng nói hay, nói giỏi, nói khéo, thế nhưng có làm được hay không mới là điều quan trọng. Coi chừng chỉ “nổ” hoặc “chảnh” chứ chẳng làm được gì. Thế thì nguy to, nguy cho chính mình chứ chẳng nguy tới ai. Nó như loại vũ khí boomerang của thổ dân Úc vậy, giống như người Việt nói là “gậy ông đập lưng ông” vậy. Rõ khổ!
Trong khoảng mong đợi có đỉnh cao là thời điểm Chúa Giêsu quang lâm (tái lâm, giáng lâm). Động từ được diễn tả ở thì tương lai gần: Sắp đến. Nhưng “sắp đến” mà đã hơn hai ngàn năm rồi thì sao? Đã nhiều lần người ta xôn xao, thậm chí là rúng động, khi nghe các “tiên tri dỏm” dự đoán ngày này hoặc ngày nọ sẽ tận thế – ví dụ: Ngày 12-12-2012 và 12-12-2014. Nhưng rồi tất cả cũng đã qua đi, dòng đời vẫn trôi bình thường. Có khi nào lại có “tin vịt” là ngày 20-02-2020 chăng? Chẳng qua là người ta cứ chọn những con số mà họ cho là “số đẹp” rồi bịa ra đủ thứ để lừa bịp hoặc hù dọa nhau mà thôi. Và cứ như thế, có thể người ta đang cố ý quên hoặc không muốn tin rằng sẽ có ngày tận thế. Tuy nhiên, người ta lại giả nai về điều này: Không phải Chúa Giêsu nói đùa cho vui, mà vì Thiên Chúa còn thương xót nhân loại, muốn trì hoãn, muốn kéo dài thời gian để người ta kịp ăn năn sám hối. Thật vậy, thời gian là sự chịu đựng của Thiên Chúa, là lúc Ngài “ăn xin” sự ăn năn của chúng ta. Đừng ảo tưởng mà tự mãn!
Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo từ hai ngàn năm trước: “Thời ông Nô-ê thế nào thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy.” (Mt 24:37-39) Ngày nay, rõ ràng người ta cũng vẫn đang hành động chẳng khác chi thời ông Nô-ê. Con tàu định mệnh ngày ấy được “ghi dấu” trong lịch sử nhân loại, người ta cũng đã tìm thấy con tàu đó, chứng tỏ sự kiện Đại Hồng Thủy có thật, không phải là huyền thoại hoặc câu chuyện bịa đặt. Sự kiện đó cũng vẫn còn trong ký ức của mọi người, thế nhưng có lẽ người ta chỉ coi đó là một “kỷ niệm buồn” mà thôi – Nghe để mà nghe, biết để mà biết. Thế thì đúng là buồn thật!
Chuyện xưa, tích cũ còn đó. Sự kiện xảy ra thật chứ không phải cổ tích: Thật lạ, trời vẫn nắng chang chang, đất khô cằn nứt nẻ, không khác chi hạn hán, xung quanh chẳng có dòng suối hoặc con sông nào, chứ nói chi tới biển, thế mà ông Nô-ê lại đi đóng tàu, mà lâu nay dòng họ ông có ai là ngư dân đâu. Vô cùng kỳ cục, lão già này điên rồi chăng? Kẻ chê, người trách, không ít người cho rằng ông già Nô-ê “dở hơi” thật. Nhưng việc ông phải làm thì ông cứ làm, bởi vì đó là lệnh truyền của Đức Chúa. Thiên hạ ngứa miệng thì cứ chê trách và nguyền rủa. Và rồi đùng một cái, mưa như trút, nước dâng cao hơn cả lũ lụt. Càng ngày nước càng dâng cao, mà mưa cứ đổ xuống liên tục cả tuần lễ. Thiên hạ giật mình, chợt nhận ra mình mới thực sự là kẻ ngu xuẩn, dại dột, còn ông Nô-ê thế mà khôn ngoan thật. Nhưng tất cả đã muộn, thế thì chết mất thôi!
Y như rằng, chẳng sai chút nào. Nước đến chân mới nhảy thì làm sao mà kịp chứ? Càng lo càng sợ, càng sợ càng hoảng, càng hoảng càng rối. Chết chắc! Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã từng nói rạch ròi đến từng chi tiết: “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em KHÔNG BIẾT NGÀY NÀO Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy SẴN SÀNG, vì chính giờ phút anh em KHÔNG NGỜ thì Con Người sẽ đến.” (Mt 24:40-44)
Ngài so sánh bằng hình ảnh rất cụ thể, đơn giản, thực tế và dễ hiểu. Ngài đã xác định như vậy thì đừng dại dột mà “mềm lòng” nghe bất kỳ ai nói ngày nào đó tận thế hoặc Chúa Giêsu tái lâm. Ngài bảo “phải canh thức” tức là chẳng ai có thể biết lúc nào Ngài đến. Mọi kẻ nói ngày đó hoặc tháng nọ thì chỉ là đại bịp bợm. Đã, đang và sẽ có những kẻ như vậy. Cảnh giác cao độ là điều cần thiết, chớ nhẹ dạ cả tin!
Trong lúc mong đợi Chúa Giêsu, hãy tự nhủ và cố gắng sống theo “quy ước thánh đức” của Dòng Đa-minh: “Cum Deo Aut De Deo – Nói Với Chúa và Nói Về Chúa.” Chắc chắn đó là cách “tỉnh thức” và “sẵn sàng” theo đúng Ý Chúa, là sống tinh thần Mùa Vọng. Tất nhiên Chúa Giêsu rất vui lòng, và chắc chắn Ngài sẽ chúc lành cho những ai luôn tỉnh thức như vậy. Và đây, Is 40:4 vừa là lời nhắn nhủ, vừa là mệnh lệnh:
Bao Núi Đồi Phải Bạt Cho Thấp Xuống Mọi Thung Lũng Mau San Lấp Cho Bằng
Cần phải sớm bạt xuống những núi đồi tự mãn, kiêu ngạo, hợm mình; cần phải mau san bằng những hố ngăn cách ghen ghét, đố kỵ; cần phải kịp làm phẳng phiu mọi chỗ lồi lõm và gồ ghề để đón Con Thiên Chúa giáng trần, ngự vào tâm hồn mỗi chúng ta. Đó là sự bình an tuyệt vời dành cho những người thiện tâm và thiện chí: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2:14)
Lạy Thiên Chúa nhân lành và giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con biết luôn sẵn sàng, tỉnh thức và kiên trì mong đợi Con Một Ngài ngự đến bất cứ lúc nào – dù sớm hay khuya, dù trưa hay chiều. Để nhờ đó chúng con xứng đáng được Đấng Thiên Sai cứu độ và thương cho theo Ngài vào Nơi Vĩnh Hằng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Chúng ta bước vào mùa Vọng, thời gian chuẩn bị tâm hồn đón Chúa giáng trần. Hiểu rõ mục MV 1-A185
Chúng ta bước vào mùa Vọng, thời gian chuẩn bị tâm hồn đón Chúa giáng trần. Hiểu rõ mục đích Chúa đến trần gian, chúng ta mới có thể mừng lễ theo đúng ý nghĩa và đón nhận được những ân sủng Chúa ban qua việc cử hành của chúng ta. Vậy trong bài đọc 1, ngôn sứ I-sai-a trình bày viễn ảnh về Nước Thiên Chúa là triều đại của bình an vĩnh cửu được mô tả bằng những hình ảnh cụ thể chấm dứt chiến tranh và chung sống hòa bình. Tiếp đến, Phụng vụ Lời Chúa trích bài giảng của Chúa Giê-su về thời cánh chung, để nhắc nhở chúng ta hãy canh thức và luôn sẵn sàng chờ ngày Chúa đến đem chúng ta vào thiên đàng. Dựa theo lời Chúa Giê-su, thánh Phao-lô đã đưa ra những phương thức cụ thể giúp chúng ta có được thái độ sẵn sàng ấy.
Vậy trước hết, chúng ta hãy nhìn lại viễn ảnh ngôn sứ I-sai nói về việc Thiên Chúa quy tụ muôn dân cho họ được hưởng hòa bình vĩnh cửu trong Nước của Người như thế nào. Hình ảnh biểu tượng cho Nước Thiên Chúa là Núi Xi-on và thành thánh Giê-ru-sa-lem. Thiên Chúa sẽ quy tụ muôn dân lại ở nơi đây, vì đây là Núi và Nhà Đức Chúa. Đáp lời mời gọi của Thiên Chúa, “dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi”. Tất cả tụ về đây là để lắng nghe Chúa dạy họ lối của Người và để biết theo đường Người chỉ vẽ. Lời tiên tri này đã ứng nghiệm, như các sách Tin Mừng thuật lại sứ vụ rao giảng của Chúa Giê-su: “Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người” (Mt 4:25; Mc 3:8; Lc 6:17-19). Cũng như “từ Xi-on, thánh luật ban xuống”, thì nay từ trên núi, Chúa Giê-su ban truyền bài giảng về Các Mối phúc là căn bản cho luật Tin Mừng. Giáo lý của Chúa Giê-su trở thành dụng cụ biến đổi bộ mặt trần gian như I-sai-a tiên báo. Đúng vậy, Tin Mừng sẽ giúp nhân loại “đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Nếu thực sự sống Tin Mừng, chúng ta sẽ biến đổi “gươm đao” và “giáo mác” trong tâm hồn mình thành cuốc, cày, liềm, hái để xây dựng hòa bình ngay tại trần gian này. Nếu ta thực hành lời Chúa Giê-su dạy yêu thương nhau, chắc chắn chúng ta “sẽ không còn vung kiếm đánh nhau” và không cần phải “học nghề chinh chiến” nữa. Như cuốc, cày, liềm, hái… là những dụng cụ giúp nhà nông đem lại cho ta đời sống no ấm, thì các mối phúc cũng là những kim chỉ nam giúp ta xây dựng một đời sống thiêng liêng và đạo đức.
Sau khi đã thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian, Chúa Giê-su về trời và Người sẽ trở lại trong Ngày quang lâm để xét xử trần gian, hoàn tất công trình cứu độ nhân loại. Trả lời những thắc mắc người ta hỏi Chúa khi nào là Ngày quang lâm, Chúa đã dùng câu chuyện ông Nô-ê chuẩn bị đối phó với nạn hồng thủy, để dạy bài học về thái độ sẵn sàng. Bên cạnh một xã hội sinh hoạt nhộn nhíp và bận rộn như ăn uống, cưới vợ lấy chồng, có một người là ông Nô-ê đã dành thời giờ để chuẩn bị cho một biến cố sẽ bất ngờ xảy đến. Phải, ông Nô-ê đã không để cho mình bị chi phối do những sinh hoạt ấy mà quên đi việc chính là đóng tàu để được cứu thoát khi cơn hồng thủy ập tới. Ông không quan tâm đến thời giờ chính xác biến cố sẽ xảy ra, ông chỉ cần tâm niệm rằng biến cố hồng thủy chắc chắn sẽ đến. Nếu đã là biến cố phải đến thì sẽ đến, tốt nhất là ta hãy sẵn sàng trước khi nó đến. Ở đây, Chúa Giê-su không chỉ nói về việc Người sẽ đến để phán xét trong ngày sau hết của thế giới, mà Người còn ám chỉ luôn ngày Người đến trong giờ chết của cá nhân chúng ta để phán xét chúng ta nữa! Thật đáng sợ nếu chúng ta không sẵn sàng. Ngoài ra, Chúa Giê-su còn cho chúng ta biết một chuyện đáng sợ khác, đó là không phải hết mọi người đều được cứu độ. Chắc chắn một số người sẽ không được cứu độ, vì họ từ chối hoặc không sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ. Những kẻ thời ông Nô-ê bị hồng thủy giết hại là những người “không hay biết gì”. Không hay biết gì là cụm từ diễn tả thái độ thờ ơ, bất cần đời, chọn lựa những giá trị tạm bợ thay vì những gì là vĩnh cửu. Những kẻ “không hay biết gì” chẳng phải là số ít, nhưng nhiều lắm, ít ra là một nửa số: “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại…” Lạy Chúa, xin cho con đừng ở trong số những kẻ bị bỏ lại!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúa Giê-su đã cho chúng ta một lời khuyên rất thực tế để giúp chúng ta chuẩn bị sẵn sàng: “Nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu”. Chúa nhấn mạnh đến điều ông chủ nhà phải làm: đó là hành vi canh thức. Tại sao phải canh thức? Là vì ông biết chắc chắn kẻ trộm sẽ đến. Chúa bảo chúng ta hãy làm giống như ông chủ nhà đã làm, vậy thôi! Nhưng canh thức như thế nào? Đây là cách thánh Phao-lô mách bảo: “Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Ngài kể ra một số việc làm đen tối, như chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng và cãi cọ ghen tương. Trái lại, ngài khuyên ta hãy cầm lấy vũ khí của sự sáng, có nghĩa là “mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô” để sống theo gương mẫu của Người, chứ không “chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”. Mong đây cũng là cách chúng ta chuẩn bị tâm hồn trong mùa Vọng này!
Thánh kinh Cựu ước là môt câu chuyện đợi chờ. Mùa Vọng là mùa chờ đợi, nhắc nhở cho người MV 1-A186
Thánh kinh Cựu ước là môt câu chuyện đợi chờ. Mùa Vọng là mùa chờ đợi, nhắc nhở cho người tín hữu về thời gian dân Chúa trong Cựu ước mong đợi Ðấng Cứu thế. Hôm nay Giáo hội muốn ghi vào ấn tượng người tín hữu hình ảnh Chúa Kitô là trung tâm điểm của vũ trụ, là Alpha và Ômêga, là khởi đầu và là cùng đích cuả mọi loài mọi vật. Dân chúng trong Cựu ước mong đợi Ðấng Cứu thế đến lần thứ nhất trong lịch sử loài người. Còn người tín hữu mong đợi việc Chúa đến lần hai, để kết thúc lịch sử loài người. Tuy nhiên ta không biết ngày giờ nào Chúa đến. Ngày Chúa đến lần hai có thể hiểu theo nghĩa là ngày chấm dứt lịch sử nhân loại, cũng có thể hiểu là ngày tận cùng của mỗi người, ngày chấm dứt cuộc sống của mỗi người tại thế. Việc đó có thể xẩy ra bất thình lình, bất cứ khi nào hay ở đâu.
Trong những ngày đầu và cuối năm phụng vụ, Giáo Hội dùng những đoạn Thánh Kinh có tính cách biểu tượng đề cập đến cảnh tàn phá, chết chóc khiến ta liên tưởng đến ngày tận thế. Trong thời ông Noe, trận lụt đại hồng thuỷ đã xẩy ra bất thình lình, khiến người ta kinh hoàng, hú vía. Cái lỗi lầm của dân chúng thời ông Noe như Phúc âm thuật lại là họ quá bận rộn với công việc hàng ngày (Mt 24:38). Ðang lúc dân chúng mải mê ăn uống, và bận rộn với việc thế sự, thì ông Noe sửa soạn đóng tầu để đối phó với lụt đại hồng thủy. Chỉ có mình ông biết lắng nghe lời Chúa cảnh tỉnh. Chỉ có mình ông tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi. Cho đến ngày ông và gia đình ông cùng với súc vật vào tầu, mà họ cũng không ngờ. Và khi nước lụt đại hồng thủy dâng lên bất chợt, đã cuốn họ vào lòng biển cả.
Vào thời ngay trước khi Chúa Cứu thế xuống thế làm người, thì dân chúng cũng vậy. Họ quá bận rộn, không lưu âm đến việc Chúa đến. Họ quan niệm sai lầm về Ðấng Cứu thế nên những lời tiên báo về việc Người đến, họ để ngoài tai. Hôm nay Chúa Giêsu cũng dùng dụ ngôn với loại ngôn ngữ khải huyền để cảnh giác họ. Hai người đàn ông đang làm việc ngoài đồng, và hai người đàn bà đang xay bột (Mt 24:40-41). Dưới cặp mắt thông thường thì hai người đàn ông làm cùng công việc như nhau. Hai người đàn bà cũng làm việc giống nhau. Nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, họ khác nhau trong ý hướng làm việc và cách thế làm việc. Một trong hai người đàn ông và một trong hai người đàn bà, biết lắng nghe lời cảnh giác của Chúa, và họ được tiếp nhận vào nước Trời, còn hai người kia bị bỏ rơi.
Dụ ngôn thứ hai Chúa dùng để cảnh giác họ là cũng như người chủ nhà phải tỉnh thức đề phòng kẻ trộm, Chúa bảo ta cũng phải tỉnh thức. Ðể được vào tàu Noe, để được đem đi như người đàn ông đang làm ruộng và người đàn bà đang xay bột, Chúa bảo ta phải tỉnh thức (Mt 24:42) và sẵn sàng (Mt 24:44).
Tuy nhiên trong thực tế, ta có sống trong tư thế sẵn sàng hay không? Ta có thể cố gắng thanh toán nợ nần với chủ nợ, với nhà băng về nhà ở và xe hơi, mà quên không lo thanh toán món nợ tâm hồn với Chúa. Ta có thể bận tâm lo việc kinh doanh về của cải vật chất, mà không kinh doanh cho đời sống thiêng liêng. Ta có thể coi đời này như là cùng đích, là cứu cánh của cuộc sống. Vì thế mà người ta mải miết lo việc thế sự, mà quên lưu tâm đến đời sống thiêng liêng, không còn thời giờ lo việc Chúa: không còn thời giờ đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ, không còn thời giờ để suy tư về thân phận làm người, để kiểm điểm mối liên hệ của mình với Chúa, không còn thời giờ cho cha mẹ, vợ chồng, con cái. Và theo ngày tháng trôi qua, những bận tâm và lo lắng về việc trần thế sẽ lôi kéo ta xuống, cho tới khi đức tin của ta trở thành nguội lạnh, không còn nghị lực thiêng liêng để vươn lên.
Hôm nay thánh Phaolô bảo ta: Phải thức dạy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia (Rm 13:11). Ta hãy chỗi dạy như ngôn sứ Isaia bảo: Ðể cùng lên núi Chúa.., để Người dạy ta biết lối của Người và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ (Is 2:3) và như lời Thánh vịnh dạy, để cùng: trẩy lên đền thánh Chúa (Tv 121:1).
Lời cầu nguyện xin cho được nghị lực thiêng liêng để chỗi dạy:
Lậy Thiên Chúa toàn năng! Ðể cảnh giác loài người khỏi ngủ mê, Chúa nhắc đến những tai hoạ để cảnh tỉnh chúng con. Xin ban cho con nghị lực để con chỗi dậy khỏi tính ươn hèn và mê ngủ, hầu có thể tỉnh thức để đón chờ ngày Chúa đến. Amen.
Cuộc sống tự nhiên cho chúng ta kinh nghiệm, ai cũng phải đối diện với hai cái sợ: sợ đau khổ MV 1-A187
Cuộc sống tự nhiên cho chúng ta kinh nghiệm, ai cũng phải đối diện với hai cái sợ: sợ đau khổ, sợ thất bại, dù chúng ta có tự do, có hoàn cảnh và điều kiện khác nhau. Trong các tương quan, mỗi người đều có cơ hội để học bài học của người đi trước, từ những bài học: cơm ngon khó kiếm, phở ngon đầy đường, xác suất thành công sẽ nhiều hơn cả: đừng vì một chút tầm thường của phở mà quên mất tầm cỡ của cơm. Được thành công ngoài xã hội, người ta sẽ tự tin: vui và sống có ý nghĩa, có trách nhiệm hơn với gia đình, người thân. Đâu phải tự nhiên mà cha ông chúng ta lại chia sẻ: khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn nào còn thấy ai ! Cũng không phải vô tình, may hơn khôn, ông No-e biết chuẩn bị “con thuyền” cho cả gia đình có nơi trú ẩn an toàn, vượt qua “nạn hồng thuỷ”.
Cứ sự thường, gặp đau khổ người ta phải tìm cách né tránh, nơi đâu thấp thoáng có niềm vui, thiên hạ dễ dàng tìm khám phá thụ hưởng, gia đình ông No-e là dấu hiệu cho mọi người mọi thời: vui sống tỉnh thức là thiết thực cho sự khôn ngoan, thành đạt. Nhờ tinh thần vui sống, các thành viên gia đình ông No-e vượt qua được sự khinh chê nhạo cười của xã hội, gia đình ông hoàn thành việc đục đẽo con thuyền cho sự tồn tại ở hiện tại và tương lai. Nhờ lạc quan vui sống, ông No-e nhắc nhớ được người thân, con cháu: tỉnh thức, cầu nguyện, gia đình ông đã trở nên gương sáng đức tin cho muôn thế hệ. Khi đưa ra sự kiện gia đình No-e được cứu thoát, Chúa Giêsu mở ra hình ảnh giải thoát mới, vẫn xây dựng trên sự tự do, tỉnh thức, một tình yêu, một con thuyền duy nhất, do Đấng Kitô là Thuyền trưởng.
Tiền nhân chúng ta thật hài hước khi nói: có ghen mới là đàn bà, có còn sợ vợ mới là đàn ông ; có vui cuộc đời mới nhẹ vơi được bao vất vả nhọc nhằn, có nuôi con mới hiểu rõ lòng mẹ cha, có sống niềm tin, người ta mới nghiệm ra thế nào là sức mạnh của tình yêu. Lụt đại hồng thuỷ đã huỷ diệt tất cả những ai thiếu chuẩn bị, không sống cầu nguyện, tỉnh thức, không sống bổn phận, đợi chờ. Sống vui với trọng trách là gắn liền với tình hiệp thông, Thiên Chúa sẽ soi sáng dẫn dắt con người qua các dấu lạ của thời đại, cho dù tín hiệu có lúc mờ lúc tỏ. Đọc được những nét cao đẹp của tình yêu mà ta lãnh nhận, cũng là phát hiện được giá trị của ơn cứu độ đã đến, đang đến và sẽ đến với muôn dân thiên hạ, khi ý chí và quyết tâm của chúng ta không hệ tại sự khôn ngoan thế gian này.
Nhân loại thời nào cũng chủ trương vui để sống, lao động làm việc vừa là cải thiện trí lực, vừa là góp phần xây dựng tình hiệp thông lớn mạnh và vững chắc hơn. Vui sống và hy vọng, tỉnh thức và cầu nguyện, đó là ơn gọi của những người đang sống liên đới với tình yêu thương ; thực tế thì chúng ta đã từng suy nghĩ làm gì để giảm bớt khổ đau, sống vui, sống khoẻ, sống có ý nghĩa, sống thánh ý Chúa ! Hãy vui để sống, hãy đặt niềm tin nơi Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn về ơn bình an yêu thương, Đấng là Thầy là Chúa đang hiện diện, đang canh tân lòng trí mỗi người. Sự khôn ngoan ở đời đã từng lên tiếng: có chí thì nên ; trong khi Chúa Giêsu lại nhắc nhớ: “anh chị em hãy tỉnh thức để đứng vững trước mặt Con Người”. Có phải đủ ơn Chúa, đủ tình yêu Chúa, là đứng vững, là thắng vượt khó khăn cám dỗ ? Vui sống theo thế gian, người ta tìm tiền của vật chất, danh vọng ; người học trò Đức Giêsu, người kitô hữu, theo Chúa, tìm tình yêu Chúa, tìm thánh ý Chúa, nhất định mỗi người sẽ đủ năng lượng cần thiết để gặt hái niềm vui hạnh phúc cả bây giờ và mai sau.
Hành trình đời người là ơn gọi cao quý yêu thương: vì con sống, mẹ cha suốt đời lam lũ, vì con vui cha mẹ gánh hết ưu phiền. Chúa Giêsu cho chúng ta biết: Thiên Chúa là tình yêu, chân lý bất di dịch: phải vượt qua thập giá mới đến vinh quang. Chỉ những ai ý thức mình vừa là học trò, vừa là môn đệ Đức Giêsu, người ấy mới hiểu tại sao ta phải tập luyện, phải ở trong tư thế sẵn sàng tỉnh thức ? Sẽ có sự chọn lựa cho những phần thưởng to lớn, cho những người biết sử dụng tự do, thời giờ, và sống các tương quan cách chuẩn mực nhất. Bốn tuần mùa vọng sẽ trôi qua, dù chúng ta có tỉnh, có thức, có cầu nguyện, có vui sống hay bê bối sầu buồn, phụng vụ giáo hội vẫn mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa giáng trần. Một đời người chúng ta có là mùa vọng, có chuẩn bị, có yêu thương vui sống tới mức độ nào, Thiên Chúa vẫn mời gọi chúng ta về trình diện khi đến giờ đến buổi. Xin tình yêu Chúa chúc lành cho những nỗ lực cố gắng sống vui, sống đúng, sống đẹp, trước ơn gọi yêu thương của Chúa. Amen.
Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng bắt đầu mùa phụng vụ. Giáo Hội hàng năm nhắc nhở con cái MV 1-A188
Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng bắt đầu mùa phụng vụ. Giáo Hội hàng năm nhắc nhở con cái mình hãy tỉnh thức tâm linh, tâm hồn luôn sẵn sàng để bất cứ khi nào Đức Kitô đến lần thứ hai thì người đó đã sẵn sàng. Đức kitô hứa Ngài sẽ đến, điều này chắc chắn sẽ xảy đến, nhưng ngày và giờ thì không ai biết, ngoại trừ Chúa Cha. Hình ảnh dùng trong dụ ngôn cho biết điều chắc chắn là Đức Kitô sẽ đến trong vinh quang, thời gian Ngài đến thì hoàn toàn giữ kín, không ai biết khi nào. Vì thế Giáo Hội mời gọi con cái mình đặt trọng tâm vào điều ‘chắc chắn sẽ xảy ra’ mà ít quan tấm đến ‘thời gian khi nào sẽ xảy ra’. Bởi điều chắc chắn sẽ xảy ra nên cần chuẩn bị kĩ để đón nhận điều sẽ xảy ra. Câu hỏi chuẩn bị bao nhiều thì đủ không phải là điều dễ trả lời. Sức riêng ta không thể cứu ta mà cần đến lòng Chúa xót thương. Lòng Chúa xót thương thì vô bờ nên ta không thể nào chuẩn bị đủ để đón nhận lòng Chúa xót thương. Chuẩn bị là dấu chỉ vui mừng, sẵn sàng đón nhận ơn Chúa ban. Chuẩn bị chờ thời gian dài thường làm cho ta nản lòng, chán nản và cuối cùng thờ ơ, thất vọng. Thái độ khôn ngoan nhất, là chuẩn bị ngắn hạn, hay nói rõ hơn, chuẩn bị mỗi ngày. Ngày nào chuẩn bị cho ngày đó.
Chuẩn bị ngắn hạn, hàng ngày, mất ít công sức cho việc chuẩn bị và thời gian chờ đợi cũng vắn, gọn. Cuối ngày tâm hồn đó nhìn lại, xem xét ngày đó gắn bó với Thiên Chúa ra sao để ngày kế tiếp còn chỉnh đốn, sửa sang. Chuẩn bị hàng ngày giúp cho việc chuẩn bị luôn đổi mới, cập nhật mỗi ngày và việc chuẩn bị không nhàm chán. Mỗi buổi sáng thức dậy, người thì dâng ngày cho Chúa, kẻ thì cho công việc trong ngày quan trọng hơn. Thánh Phaolô kêu gọi Kitô hữu hãy mặc lấy áo choàng công chính, sống tinh thần Phúc Âm, làm nhân chứng đức tin nơi gia đình và nơi công sở. Sống tinh thần đức tin chính là mang lại hy vọng cho mình và cho tha nhân. Chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều cạnh tranh, tranh chấp, bất hoà, không vì thế mà mất hy vọng, cậy trông; trái lại chúng ta mang hy vọng lại cho tha nhân. Đức Kitô dùng hình ảnh thời Noen vào tầu để nói về thế giới làm ngơ trước lời cảnh báo của Thiên Chúa. Họ coi thường lời cảnh báo, coi như là không có việc gì xảy ra cho đến ngày nước đổ ập xuống, họ vẫn sống như bình thường. Ngài cảnh báo con người bất lực trước hiểm hoạ thiên nhiên xảy đến. Thứ hai, thảm hoạ thiên nhiên mang đau khổ, sợ hãi cho mọi người. Tất cả cùng chung hoàn cảnh nhưng Kitô hữu có ơn đặc biệt. Thiên Chúa ban cho họ ơn can đảm, niềm hy vọng, cậy trông. Kitô hữu sống trong hy vọng, không nản lòng, mất cậy trông bởi trong cơn đau khổ, hoạn nạn chính là lúc sức mạnh của đức tin vùng lên trong tâm hồn, biến Kitô hữu thành người sống trong hy vọng. Chắc chắn tin tưởng, Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi họ.
Câu chuyện Noen, Thiên Chúa ban cho ông sức mạnh, nguồn cậy trông và ông không bao giờ tự kiêu, tự nhận vào sức mạnh riêng mình, tự nhận vào tài trí riêng mình nhưng luôn sống tin tưởng, phó thác. Con người với kiến thức của mình có khả năng chuẩn bị tránh tai nạn thiên nhiên ở cấp nhỏ, giới hạn. Từ đó họ tự tin con người có thể làm chủ tất cả, ngay cả làm chủ thiên nhiên. Đừng lầm, con người hoàn toàn bất lực trước thiên tai. Dụ ngôn trong Kinh Thánh cho biết sẽ có ngày phân chia, kẻ ở người đi mà không ai có khả năng ngăn chặn. Con người cũng không biết điều gì xảy ra cho người ở lại, và điều gì đến với người ra đi. Hoàn toàn không biết. Khi điều đó xảy đến Kitô hữu không thất vọng, nhưng luôn sống trong hy vọng vào Thiên Chúa Phục Sinh.
Từ hàng chục năm qua, điện ảnh Hollywood luôn thành công bởi các bộ phim về ngày tận thế MV 1-A189
Từ hàng chục năm qua, điện ảnh Hollywood luôn thành công bởi các bộ phim về ngày tận thế. Tất cả những bộ phim này đều diễn tả theo sự tưởng tượng của con người về ngày cuối cùng của vũ trụ và trái đất, khi tất cả con người và sự sống trên trái đất này đều bị huỷ diệt. Những hình ảnh thực cùng với kỹ thuật điện ảnh và nội dung các câu chuyện kinh hoàng sợ hãi được giới thiệu với khán giả, thu hút được rất nhiều người, ai cũng muốn biết ngày đó vũ trụ và trái đất sẽ như thế nào. Các bộ phim trình bày ngày tận thế qua những thảm hoạ của thiên nhiên như: núi lửa, động đất, bão lũ; cũng có khi là hậu quả của sự văn minh tiến bộ của nhân loại gây ra như thảm hoạ hạt nhân, khủng hoảng của điện toán và robot. Tất cả các bộ phim đều nhấn mạnh đến sự sợ hãi hoảng loạn của con người trước các biến cố đó.
Bước vào Mùa Vọng Lời Chúa luôn khẳng định cho chúng ta rằng: Vũ trụ và trái đất này sẽ có ngày cùng tận của nó, tất cả con người và sự sống trên trái đất sẽ đến ngày phải chấm dứt. Tuy nhiên, hoàn toàn khác với cách trình bày của điện ảnh nhằm gây sự tò mò thu hút khán giả, Kinh Thánh luôn khẳng định cho chúng ta rằng: Ngày tận thế sẽ là ngày Thiên Chúa trở lại trong vinh quang của Ngài, đó sẽ là ngày hân hoan vui mừng cho những ai đã chuẩn bị sẵn sàng để đón tiếp Chúa. Trái lại, nó sẽ là sự kinh hoàng cho những người để mình rơi vào tình trạng bất ngờ, không chuẩn bị mà thôi.
Bài đọc một, tiên tri Isaia cho thấy, ngày tận thế là ngày Thiên Chúa trở lại để quy tụ muôn dân muôn nước và mở ra một thời đại mới, thời đại vĩnh cửu, hoà bình yêu thương và hạnh phúc. Với những lời lẽ đầy hy vọng và vui mừng, vị tiên tri đã phác hoạ ngày Thiên Chúa đến giống như một ngày hội, ngày mà mọi người lũ lượt quy tụ về nhà Chúa: “Ngày ấy, núi Nhà Đức Chúa sẽ đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi.” Như thế, ngày Thiên Chúa đến hoàn toàn không có sự phá huỷ hay tiêu diệt như được trình bày trong các bộ phim, trái lại đó là ngày Thiên Chúa sẽ mở ra một thời đại mới, thời đại của yêu thương tha thứ và hoà bình. Sống trong thế giới mới của Thiên Chúa, tất cả mọi dân nước đều tuân theo một lề luật duy nhất đó là lề luật của Thiên Chúa. Ngày đó Thiên Chúa sẽ thể hiện vương quyền của Ngài cách công minh, Ngài quy tụ muôn dân và là trọng tài phân xử giữa các nước: “Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Các dân sẽ không còn vung kiếm đánh nhau nữa và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” Như vậy, ngày tận thế theo tiên tri Isaia quả là một ngày vui mừng hân hoan cho mọi dân mọi nước, ngày cả nhân loại được bước vào một đời sống mới, đời sống vĩnh cửu hạnh phúc bên Thiên Chúa.
Bài đọc hai thư Roma, thánh Phaolô giải thích thêm cho chúng ta về ngày Thiên Chúa trở lại: Đó sẽ là ngày của ơn cứu độ, là một ngày bình an nhẹ nhàng giống như một đêm trôi qua để nhường chỗ cho ngày mới và bình minh xuất hiện: Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày của Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia. Thánh Phaolô còn căn dặn chúng ta đừng để mình bị mê ngủ, nhưng phải luôn trong tư thế sẵn sàng tỉnh thức đón chờ giây phút quan trọng đó. Chúng ta phải canh thức như thế nào?
Bài Tin Mừng Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết phải canh thức bằng cách nhận ra ý Chúa qua các biến cố xảy ra thường ngày cho mình và cho những người chung quanh: Chúa Giêsu đưa ra những hình ảnh để nói về ngày Thiên Chúa đến, đó là hình ảnh của ông Noe. Nhắc đến ông Noe không ai có thể không biết về cơn Đại Hồng Thuỷ đã được đề cập đến trong Kinh Thánh. Lúc đó con người ngày càng gia tăng đông đúc. Thay vì thần phục Thiên Chúa, con người trở nên cao ngạo, sống buông thả và chạy theo các tà thần. Họ làm những điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa nên Thiên Chúa muốn thực hiện một cuộc thanh luyện và thanh tẩy cả nhân loại. Ông Noe và gia đình là những người sống công chính, trung thành với Chúa đã được Chúa cứu thoát bằng cách nói trước để ông chuẩn bị một con tàu cho gia đình và súc vật. Trong lúc ông và con cháu chuẩn bị đóng tàu thì mọi người chung quanh vẫn tỏ ra dửng dưng, không quan tâm. Họ vẫn ăn uống vui chơi, dựng vợ gả chồng và thậm chí còn cười chê gia đình ông Noe khi thấy ông đóng tàu. Thình lình đại hồng thủy đã ập xuống nhấn chìm tất cả mọi vật mọi loài không ai kịp trở tay, chỉ có gia đình ông Noe là được cứu sống. Qua câu chuyện này Chúa Giêsu nhắc ta chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại bằng việc nhận ra những sự kiện, những dấu chỉ đang xảy ra chung quanh. Tất cả những sự kiện diễn ra hàng ngày đều là lời mời gọi và nhắc nhở của Chúa để mỗi người biết chuẩn bị cho chính mình, không để mình bị bất ngờ trong ngày Chúa đến.
Chúng ta sẽ không chuẩn bị cách thụ động ngồi chờ nhưng bằng cách làm tốt công việc thường ngày của mình với tâm hồn hướng về Thiên Chúa, khao khát Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa sẽ đến bất ngờ vào ngày ta không ngờ, vào giờ ta không biết. Chúng ta vẫn phải chu toàn công việc thường ngày của mình như: “hai người đang làm ruộng ngoài đồng, thì một người được đem đi, người kia bị bỏ lại; hai người đàn bà xay chung cối bột, một người được đem đi còn người kia bị để lại… Vậy anh em hãy canh thức, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến.”
Vẫn biết rằng ngày tận thế, ngày Thiên Chúa trở lại sẽ đến. Tuy nhiên, con người chúng ta dễ bị tình trạng thức lâu, chầu mỏi, dễ quên, dễ chán, dẫn tới tình trạng sa đà say sưa vì ngủ mê không tỉnh thức. Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta những cách thế thể hiện sự tỉnh thức: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy anh em hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu.” Như vậy, việc trước hết là phải can đảm loại bỏ khỏi mình những việc làm đen tối, mờ ám. Đó là những việc gian tham dối trá, lỗi công bằng và lối sống mập mờ không ngay thẳng, cách làm ăn quanh co kiếm lợi, lừa đảo, dối gạt, gây thiệt hại tiền của sức khoẻ người khác. Ví dụ như làm hàng giả, hàng dỏm, sản xuất chế biến thực phẩm bẩn, thực phẩm nhiễm bệnh, nhiễm hoá chất…, những lối sống tăm tối mờ ám đó cần phải loại bỏ.
Tích cực hơn nữa là “phải cầm vũ khí của sự sáng để chiến đấu như người đang sống giữa ban ngày.” Như thế có nghĩa là ta không chỉ tránh xa những việc làm và lối sống của bóng tối mờ ám, mà còn phải chủ động để đương đầu và loại trừ sự gian dối và bóng tối trong xã hội này. Chúng ta phải mạnh dạn bênh vực sự thật, bảo vệ sự công bằng và trong sáng cho người khác, góp phần đẩy lui bóng tối gian dối, bất công ra khỏi gia đình và xã hội. “Sống như giữa ban ngày” là sống làm gương sáng cho mọi người chung quanh để không ai có thể chê trách hay bắt bẻ về đời sống của người Kitô hữu. Thánh Phaolô nhắn nhủ cụ thể hơn nữa là: “Anh em đừng chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.” Những thứ này sẽ làm cho cuộc đời ta ra mờ tối u mê không còn tỉnh thức đón đợi Chúa.
Thưa quý OBACE, bầu khí Mùa Vọng chuẩn bị tâm hồn chúng ta mừng Chúa Giáng Sinh, nhưng quan trong hơn còn là dịp nhắc ta nhớ đến ngày Thiên Chúa sẽ trở lại, ngày tận cùng của thế giới. Thế giới này có ngày khởi đầu thì sẽ có ngày kết thúc, đó là ngày Thiên Chúa trở lại để canh tân đổi mới tất cả địa cầu. Trước khi ngày tận thế xảy đến sẽ là ngày tận cùng cuộc đời của mỗi chúng ta, ngày Chúa trở lại với từng người. Do đó chúng ta được nhắc nhở để luôn canh thức và sẵn sàng, không để bị bất ngờ hay ngủ mê trong ngày Chúa đến với mỗi người.
Mỗi người cần phải chuẩn bị bản thân, gạt bỏ những gì còn ẩn khuất, những chỗ tăm tối trong tâm hồn do tội gây ra. Không chỉ lo xưng tội, tránh tội và những việc xấu xa mờ ám, Chúa còn muốn chúng ta “phải cầm vũ khí sự sáng và chiến đấu giữa ban ngày”, tức là phải chủ động làm cho mình và gia đình tràn ngập ánh sáng của sự thật, của Tin Mừng. Can đảm nói không với sự gian dối, lấy Tin Mừng làm tiêu chuẩn và là vũ khí chống lại tội lỗi và bất công; lấy đời sống đạo đức chuyên chăm thay thế cho sự lười biếng, lấy tình thương, sự quan tâm tha thứ thay thế cho bất hoà bất đồng trong gia đình.
Bắt đầu Mùa Vọng cũng là bắt đầu một chu kỳ mới, chúng ta được mời gọi quyết tâm làm mới lại các tương quan của ta với Chúa, với anh em và gia đình. Hãy tìm lại sự thanh thản của lương tâm và sự bình an trong tâm hồn qua Bí Tích Giải tội, vì Bí Tích này có sức làm mới lại tâm hồn và giúp cho cuộc sống nên nhẹ nhàng. Chúng ta cần nạp năng lượng cho đời sống thiêng liêng mỗi ngày qua việc siêng năng cầu nguyện riêng cũng như qua các giờ kinh tối gia đình, nhất là qua việc tham dự thánh lễ và rước lễ. Vì đây là những giờ phút giúp cho đời sống ta cân bằng khỏi những chao đảo, soi sáng giải gỡ những khó khăn và là nguồn trợ lực cần thiết cho cuộc sống.
Xin Chúa giúp chúng ta biết tận dụng thời gian còn sống Chúa ban để chuẩn bị sẵn sàng cho giờ phút quan trọng nhất của cuộc đời, giờ Chúa đến với mỗi người. Amen
Ngay khi dựng nên Ađam và Evà, Thiên Chúa đã ban cho hai ông bà Đất : “Thiên Chúa trồng một MV 1-A190
Ngay khi dựng nên Ađam và Evà, Thiên Chúa đã ban cho hai ông bà Đất : “Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Êđen, ở phiá đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. Một con sông từ Eđen chảy ra tưới khu vườn…Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eđen, để cày cấy và canh giữ đất đai”. Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng : “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn ; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2,8-17). Và Ađam, Evà sống hạnh phúc trên đất Thiên Chúa ban. “Ađam gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt… Cả hai trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau” (St 24-25).
Sách Sáng Thế cho chúng ta hình ảnh địa đàng, đất hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho con người, ở đó, con người có mọi sự, nhất là có tình yêu Thiên Chúa và tình yêu đồng loại. Họ được an vui, sung sướng và không chút vướng víu phiền muộn bởi mặc cảm, hay tội lỗi, bởi họ trong trắng, hồn nhiên trên Đất của Thiên Chúa.
Nhưng rồi Đất hạnh phúc “bị nguyền rủa vì ngươi, ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất” (St 3,17-19).
Vâng, tai hoạ đã ập đến trên đất người, sau khi Ađam, Evà bất tuân lệnh Thiên Chúa ăn trái cây biết điều thiện điều ác mà Thiên Chúa cấm (x. St 3,6) : địa đàng bị lấy lại, đất lành biến thành đất dữ và cả hai thấy mình trần truồng phải kết lá làm khố che thân (x. St 3,7), họ không dám giáp mặt Thiên Chúa, nhưng lẩn trốn Ngài (x. St 3,8-9), và bị trục xuất ra khỏi vườn hạnh phúc (x. St 3,24).
Qủa thực, chỉ một hình ảnh thấy mình trần truồng và xấu hổ kết lá làm khố che thân cũng đã đủ nói lên những mất mát kinh khủng và tận cùng của ông bà nguyên tổ sau khi phạm tội. Ông bà đã mất hết, và một trong những cái mất quan trọng chính là mất Đất sống, mất Đất lành, mất Đất tình yêu, mất Đất hoan lạc, mất Đất hạnh phúc, mất Đất bình an, mất Đất mà Thiên Chúa chúc phúc và đặt con người vào ở. Mất Đất của Thiên Chúa, con người trở thành vô gia cư, vì không đất ở khi sống, không nơi an nghỉ khi theo đất trở về .
Nhưng Thiên Chúa là Thiên Chúa “giầu lòng thương xót” sẽ làm “từ gốc tổ Giesê đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này… Sẽ không còn tai ác và tàn phá trên khắp núi thánh, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11,1-2.9). Với lòng bao dung, tha thứ, Thiên Chúa sẽ cho “dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước lũ lượt kéo nhau đi mà rằng : Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Giacóp, để Người dạy ta biết đường lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ” (Is 2,2-3). Và mọi người nhận ra : “Ơn phù trợ đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 121,2).
Trước ánh sáng của niềm hy vọng được thương xót, thánh Phaolô đã đặt cho tín hữu Rôma câu hỏi : “Anh em biết chúng ta đang ở thời nào không ?”, và ngài khẳng định : “Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia” (Rm 13,11).
Ngày ấy đã gần khi Thiên Chúa trả lại Đất hứa cho con người, và ban cho nhân loại Đấng Cứu Thế, bởi trong lòng thương xót vô bờ bến, “sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5,15). Ngài sẽ ban cho nhân loại trở nên công chính, nghiã là được sống và sống đời đời (x. Rm 5,18-20) trên Đất, và trong Nhà của Thiên Chúa, như ngôn sứ Giêrêmia đã tiên báo : “Thành sẽ được dựng nên trên nơi phế tích, dinh thự sẽ tọa lạc trên chính chỗ xưa. Từ các nơi ấy sẽ vọng ra lời cảm tạ và tiếng reo mừng… Con cái nó sẽ lại được như xưa, và cộng đoàn của nó sẽ đứng vững trước nhan Ta” (Gr 30,18-20).
Và cũng như thời Nôe, vào ngày cứu độ, Thiên Chúa tẩy sạch tội lỗi và thực hiện một sáng tạo mới, như thánh Gioan đã viết trong sách Khải Huyền : “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to : “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại. Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người là Thiên Chúa – ở – cùng – họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết ; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,1-4).
Họ đây chính là “những người có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3), nghèo khó để làm giầu hạnh phúc của đồng loại, nghèo khó để không ai chung quanh họ phải khổ vì nghèo, phải nhục nhằn, tủi phận vì túng thiếu ; họ đây là “những ai hiền lành” (Mt 5,4), hiền lành như Chiên Thiên Chúa, để cùng Thiên Chúa gánh tội trần gian, cùng Thiên Chúa mang lấy hết bệnh hoạn, tật nguyền của nhân loại, hiền lành để không ai sống gần họ bị từ bỏ, bị ruồng rẫy, hay bị lên án, khai trừ như Thiên Chúa bao dung, rộng lượng luôn yêu thương, đón nhận mọi người ; họ là “những người bị bách hại vì sống công chính” (Mt 5,10) để trở thành tiếng nói của người không tiếng nói, nơi ẩn náu an toàn của người cô qủa, vô gia cư, bị truy lùng, và chính họ sẽ nhận đuợc “Đất hứa làm gia nghiệp” (Mt 5,4), “Nước Trời là sở hữu” (Mt 5,3), và vương quốc Thiên Chúa là nơi cư ngụ.
Vâng, Mùa Vọng đến với niềm hy vọng tìm lại Đất hứa đã mất, gặp lại địa đàng đã từ đó bị đuổi ra, và niềm hy vọng ấy chỉ trở thành sự thật khi Thiên Chúa từ trời cao đến cư ngụ trên đất đã bị chúc dữ, nguyền rủa, và ở lại trên đất ấy với con người.
Vì thế, mầu nhiệm Nhập Thể cũng chính là mầu nhiệm Nhập Thế, khi “Thiên Chúa làm người” xuống trên đất này, ở giữa thế giới này, cư ngụ ngay trong nhà của những con người tội lỗi này để yêu thương, chữa lành, cứu chuộc. Với “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”, đất đã bị nguyền rủa, chúc dữ xưa, nay được tẩy rửa để nên đất mới, đất lành, đất sinh mầm ơn cứu rỗi. Với Thiên Chúa đến và cắm lều cư ngụ trên đất của con người, từ nay con người không còn sợ bị Thiên Chúa xua đuổi, trục xuất (x.St 3,24), cũng không như Cain bị Thiên Chúa qưở trách : “Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta. Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra” (St 4,10-11), và Cain cay đắng thở than : “Hình phạt dành cho con qúa nặng, không thể mang nổi. Đây, hôm nay, Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con” (St 4,13-15).
Mùa vọng về với niềm hy vọng “đất người” được đón Thiên Chúa đến “làm người và cư ngụ giữa loài người”, để đất người cằn khô được ơn Cứu Độ tưới mát, đất chết chóc được trở nên “đất hứa”, “một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất chảy sữa và mật ong” (Xh 3,8), đất sinh gai góc tội lỗi được trở thành vườn nho tuyệt vời (x. Mt 20,1-16), và đất hoang, không sự sống trở thành đồng cỏ xanh tươi có dòng nước trong lành (x. Tv 23), nhà của con người có Thiên Chúa, nhà của Thiên Chúa ở giữa con người (x. Ga 1,11.14).
Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng khởi đầu một năm phụng vụ mới. Nếu ngày đầu năm được gọi MV 1-A191
Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng khởi đầu một năm phụng vụ mới. Nếu ngày đầu năm được gọi là ngày Tết: Tết Ta, Tết Tây, thì ngày Chúa Nhật đầu năm phụng vụ phải là ngày Tết Đạo – ngày tết kết nối tình Chúa, tình người để sống vui tin yêu, vui hy vọng mong Chúa đến.
Mùa Vọng bắt đầu. Vậy Vọng là gì? Vọng có nghĩa là mắt nhìn, trí hướng, lòng mong về nơi, về người mà mình yêu mến nhớ nhung như người Việt thường nói: “Vọng về quê hương,” “Vọng phu chờ chồng.” Thế nên Mùa Vọng mời gọi chúng ta hướng về chính Chúa trong cả 3 chiều kích thời gian: Hướng về quá khứ mừng Chúa giáng sinh, hướng tới tương lai mong chờ Chúa quang lâm, và nhất là hướng vào hiện tại để mời Chúa ngự vào lòng mình, gia đình mình, giáo xứ mình.
Để Chúa ngự vào lòng mình, vào nhà mình thì chúng ta cần chuẩn bị sẵn sàng. Trong cuộc sống thường ngày, để đón một vị khách tới nhà, chúng ta luôn dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, chuẩn bị mọi sự đầy đủ đón khách. Càng mến khách chúng ta càng chuẩn bị chu đáo. Thế thì, để đón Chúa đến, chúng ta cũng cần dọn dẹp những đam mê nết xấu, và chuẩn bị đời sống vui vẻ hiền hòa, đứng đắn đàng hoàng như các bài đọc Lời Chúa hôm nay nói đến.
Mùa Vọng cũng là mùa hy vọng những điều tốt đẹp. Chúa Trời đến để yêu thương, để cứu độ con người là điều tốt đẹp nhất chon nhân loại. Một mặt, chúng ta đặt niềm hy vọng vào Chúa; mặt khác, Chúa cũng muốn mỗi người chúng ta, đặc biệt là giới trẻ, trưởng thành toàn diện để trở thành niềm hy vọng cho cha mẹ, gia đình, Giáo hội và xã hội như lời mời gọi của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm nay. Muốn được như vậy thì hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô để Chúa có thể nói với mỗi người: “Con là niềm hy vọng của Ta”. Amen.
Mùa vọng là mùa của chờ đợi và hy vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng lễ Giáng sinh, mừng MV 1-A192
Mùa vọng là mùa của chờ đợi và hy vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa đến trong thế gian để mang lại sự hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại. Trong mỗi chúng ta luôn khát khao được sống trong yêu thương, an lành và hạnh phúc, nhưng trong thực tế thì không phải ai cũng đạt được những điều mình mong ước trong cuộc sống. Thế thì, đâu là ý nghĩa của việc chờ đợi và hy vọng của Mùa Vọng?.
Vào Mùa Vọng năm 2008, tôi có dịp đi vào những vùng sâu, và viếng thăm những người nghèo. Tôi đến thăm một bé trai 9 tuổi bị bệnh ung thư máu, em đã nằm trên giường bệnh nhiều năm, thân hình tàn tạ chỉ còn da bọc xương, em đang chờ đợi cái chết sẽ xẩy đến trong một thời gian ngắn. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ trong lòng, tôi sẽ đưa em đi bệnh viện để em có thể sống được lâu hơn, vì gia đình em quá nghèo. Họ không còn tiền để mua thuốc hay một hộp sữa cho em uống. Tôi hỏi người mẹ có cho em ăn gì chưa? Chị ta trả lời: ” Hôm nay, nhà em không còn tiền và cũng không gì để ăn” Nghe lời chị ta nói, lòng tôi như bị thắt lại. Ngôi nhà thì rách nát, tả tơi, ngay cả chỗ em nằm cũng không được bảo đảm. Khi nhìn thấy hoàn cảnh đứa bé, tôi bị xúc động trước nỗi bất hạnh của em. Tôi đến cầm lấy tay và đỡ em ngồi dậy.Tôi nhìn đôi mắt của em, thì hai dòng nước mắt chảy xuống gò má gầy gò, và lúc đó tôi cũng không thể cầm được nước mắt của mình. Mặt dù, tôi không thể nói được điều gì với em, nhưng tôi tin chắc rằng, em sẽ hiểu được tình cảm của tôi dành cho em. Trước khi từ giã em ra về, tôi hứa với em rằng, tôi sẽ trở lại để đưa em đi bệnh viện. Đó là điều mong ước nhỏ nhoi của tôi. Thế nhưng, tôi chưa kịp quay trở lại, thì em đã vĩnh viễn ra đi.
Cậu bé đã từng có những hy vọng và chờ đợi. Hy vọng một tương lai tốt đẹp. Chờ đợi một phép lạ xẩy ra để em được sống, nhưng tất cả đều vô vọng, và em đã kết thúc cuộc đời. Và tôi luôn mang trong mình một nỗi khắc khoải về những gì mình chưa làm được với một lời hứa. Từ kinh nghiệm này giúp tôi liên tưởng đến ý nghĩa của sự chờ đợi và hy vọng.
Chờ đợi không chỉ là mong đợi những điều tốt có thể sẽ xảy ra trong tương lai, mà là biết nhận ra những ân ban của Thiên Chúa cho ta trong cuộc sống hiện tại này. Giá trị của cuộc sống hiện tại của con người là kết quả cho cuộc sống tương lai tốt đẹp. Chờ đợi không chỉ đón nhận những điều tốt mà thôi, nhưng là còn phải chấp nhận những gì ngoài ý muốn của mình. Hơn nữa, chờ đợi không phải là ngồi đó để than van, trách móc, tủi hờn cho số phận, nhưng phải biết tìm kiếm và im lặng để lắng nghe được tiếng Chúa nói trong ta, và thực hiện bằng việc làm cụ thể.
Mùa vọng là cơ hội tốt để cho chúng ta nhìn lại thời gian qua, sống với giá trị hiện tại, và hướng tới tương lai vĩnh cửu. Lời Chúa nhắc bảo chúng ta là hãy sẵn sàng và tỉnh thức trong mỗi hoàn cảnh và thời khắc, vì chúng ta chẳng biết giờ Chúa đến với mỗi người chúng ta. “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” Và ngày đó, Thiên Chúa phán xét chúng ta về lòng bác ái và yêu thương. Chân lý cuối cùng của cuộc đời là tình yêu: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người.Vì yêu thương con người, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm Người, sống kiếp con người với chúng ta, và Ngài chết cho con người để mang lại hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại, thì giờ đây Chúa đang ở cùng với chúng ta, và nơi những người anh em. Những người bất hạnh đang bị bỏ rơi, những người già bệnh tật, cô đơn, những trẻ em mồ côi đang cần có tình thương…
Có những mãnh đời đã đi qua đời tôi, nhưng tôi vẫn vô tình, thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, vì cái tôi chật hẹp và ích kỷ. Hình ảnh cậu bé ngày xưa vẫn còn đọng lại trong tôi như là một lời nhắc nhớ rằng: chờ Chúa đến không phải chỉ là ước mong những điều tốt đẹp cho mình, nhưng là phải biết chia sẻ, cảm thông, yêu thương. Chờ Chúa đến không phải là lúc ta ngồi đó để than vãn, oán trách cho số phận mà là hãy sẵn sàng, tỉnh thức, cầu nguyện và bác ái trong Mùa Vọng.
“Đến đây ta cùng lên núi Đức Chúa; lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người cho ta biết lối của Người và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ” (Is 2,3).
Núi Đức Chúa” là một nơi CAO. Bởi đó chúng ta thấy, thường những nơi cầu nguyện, những đền thờ MV 1-A193
“Núi Đức Chúa” là một nơi CAO. Bởi đó chúng ta thấy, thường những nơi cầu nguyện, những đền thờ được xây cất thường ở trên một chỗ cao; có khi là một ngọn núi. Nơi CAO, đó là một hình ảnh vượt lên trên những gì là đời thường, những gì là cuộc sống nhân sinh của con người chúng ta. Nơi CAO đó, có Chúa Trời ngự trị.
“Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp” là một ngôi NHÀ được dựng lên, để con người chúng ta đến và cầu nguyện. Ngày nay, đó là những Đền Thờ, Nhà Thờ, nơi yên tĩnh để chúng ta gặp Chúa và cầu nguyện. Đó cũng có thể là căn nhà Nội Tâm, là tâm hồn của ta hay căn phòng riêng của ta đang ở. Tất cả những nơi đó đều có thể giúp ta gặp Chúa và cầu nguyện.
Về Đền Thờ và Nhà Thờ thì có khi hơi xa chỗ ta ở, đôi khi ta có thể đến đó được; như ngày Chúa nhật chẳng hạn, chúng ta cùng với mọi người tham dự Thánh Lễ, mỗi tuần một lần. Thế nhưng trong căn nhà Nội Tâm hay căn phòng riêng của ta, nơi này lúc nào chúng ta cũng có thể gặp Chúa và cầu nguyện được.
Chúng ta có thể tự hỏi rằng : Ngày nay, chúng ta có thể làm gì trong một xã hội đầy những biến động và xô bồ này ? Tôi nghĩ, đây là câu trả lời. Sau một ngày làm việc ở công sở, ta hãy về lại với căn nhà nội tâm của ta; về với căn phòng của ta, để ta gặp Chúa và nói chuyện với Ngài. Đừng có lúc nào cũng dán mắt vào Iphone, hãy thinh lặng và cầu nguyện.
Đức Giê-su đã nói: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta là Nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Lc 19,46). Đúng vậy, nếu chúng ta làm cho căn nhà nội tâm hay căn phòng riêng của ta thành NHÀ cầu nguyện thì tốt biết mấy. Nhưng có mấy ai làm được. Chúng ta chỉ biến căn phòng của ta thành sào huyệt của bọn cướp thôi, nghĩa là chúng ta tự “cướp đi’ nơi để ta gặp Chúa, nơi để ta cầu nguyện, thay vào đó là Iphone hay những việc làm khác.
Iphone có thể giúp ích cho ta trong cuộc sống hằng ngày hay công việc, nhưng sẽ không giúp ích gì nhiều cho ta trong đời sống thiêng liêng cả. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã nói với giới trẻ Nhật Bản rằng: “Chúng ta không “Selfie” linh hồn ta được”. Điều đó có nghĩa là máy móc dù cho có thông minh và hiện đại bao nhiêu cũng không thể nào giúp ta gặp Chúa và cầu nguyện được. Chỉ có thinh lặng mới giúp ta có đời sống nội tâm sâu sắc, khả dĩ cân bằng con người của ta giữa linh hồn và thân xác.
Nếu không có sự cân bằng này, thì sớm muộn gì cũng làm cho con người chúng ta có một lỗ hổng lớn, dù chúng ta có nhiều tiền nhiều của, danh vọng hay chức quyền và một ngày nào đó chúng ta sẽ chán sống thôi. Điều này được tỏ rõ qua những cái chết của những người trẻ, được coi là đang trên đà danh vọng mà lại “tự tử”.
Thế nhưng bạn sẽ hỏi, về căn nhà nội tâm, về căn phòng riêng của mình, tôi sẽ làm gì ? Thinh lặng và ở một mình thì chán lắm !!!!!!! Đúng vậy, chỉ thinh lặng và ở một mình thì thật là chán, chẳng khác nào hỏa ngục. Chúng ta thinh lặng là để gặp Chúa và nói chuyện với Chúa. Để Chúa “dạy ta biết lối của Người và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ”.
Thường thì người ta đến cầu nguyện, thì chỉ xin cái này, xin cái kia thôi. Nếu Chúa cho thì đến cầu tiếp, không thì bái bai. Đó không phải là cầu nguyện, mà là đi XIN, giống như đi “ăn xin” ấy mà. Cầu nguyện được định nghĩa là “Nâng tâm hồn lên tới Chúa” mà chứ đâu phải chỉ có XIN.
Theo Lời Chúa trích sách tiên tri I-sai-a hôm nay, cầu nguyện là để Chúa dạy ta biết lối của Người và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ”. Chúa dạy gì cho ta?
Chúa dạy rằng : “Chúa sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc”, trong đó có mỗi người chúng ta nữa. Do đó, nếu chúng ta có bị cư xử bất công, chúng ta đừng lo lắng hay buồn sầu chi, Chúa sẽ phân xử cho ta thôi. Chúa sẽ trả lại cho ta sự công bằng, không ở đời này thì ở đời sau. Có nghĩa là có khi Chúa trả lại sự công bằng cho ta ngay ở đời này, ngay thời hiện tại. Nếu không có, ta cứ vững tâm, Chúa sẽ trả lại cho ta ở đời sau thôi, không mất đi hay thiệt thòi chi đâu mà sợ.
Quan trọng là ta có lòng tin vào Chúa hay không. Nếu ta tin, tâm hồn ta sẽ có sự an bình và ta tiếp tục sống vui và làm việc hăng say. Chúa đã nói : “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi con Người đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất này nữa chăng?” (x. Lc 18, 7-8).
Chúa sẽ dạy tiếp : “Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày; rèn giáo mác nên liềm, nên hái”, để “dân này nước nọ không còn vung kiếm đánh nhau và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến”. Nghĩa là Chúa kêu gọi các dân nước và mỗi người chúng ta hãy cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình. Mọi người phải tôn trọng sự sống. Tôn trọng sự sống của con người, của thiên nhiên, của vạn vật.
Đó cũng là chủ đề cho cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đến Nhật Bản trong thánh 11 vừa qua: “Protect all life” (すべての命を守るため)。
Nói chi cho xa, hãy nghĩ đến chính bản thân mình trước. Chính bản thân mình đừng có ghen ghét hay ganh tị ai đó nữa; đừng có tranh dành hơn thua với ai đó nữa; đừng có nói hành, nói xấu ai đó nữa; đừng có trù dập hay chê bai ai đó nữa; ta hãy thôi những chuyện chửi bới hay đấm đá ai đó nữa.
Ta hãy đúc những “ghen ghét” thành “yêu thương”; “ganh tị” thành “cố gắng”; Rèn “hơn thua” thành “tôn trọng”; rèn “nói hành” thành “nói đúng”; rèn “nói xấu” thành “nói tốt”, kiếm cái gì tốt mà nói; rèn “trù dập” thành “trân trọng”; biến “chê bai” thành lời “khuyến khích, an ủi”.
Đây là thái độ và việc làm căn bản mà mỗi người chúng ta cần làm. Có như thế, tâm hồn ta sẽ tràn đầy bình an và thế giới này sẽ có hòa bình.
Đó là đường lối của Chúa; đó là điều Chúa muốn chỉ dạy cho mỗi người chúng ta đó. Ta hãy thinh lặng, vào căn nhà nội tâm mà suy nghĩ; về với căn phòng riêng của ta mà suy gẫm: Ta sống ở đời này để làm gì và sẽ đi về đâu?
“Giàu có mà bước đi như thây ma nào có ích chi”(Đức Phan-xi-cô).
“Được lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì” (Đức Giê-su).
“Thông minh mà không trí tuệ thì không bảo vệ và không tôn trọng ai cả” (Lm. Bosco). Như Iphone được gọi là “điện thoại thông minh”, nhưng nó vô tri vô giác, không có trí tuệ, được cài làm sao nó vận hành như vậy.
Sống mà không có mục đích, không có hy vọng, thì cũng giống như Iphone, thì sống làm chi phải không bạn !!! Vậy chúng ta hãy bảo vệ sự sống; hãy tôn trọng phẩm giá của mỗi người. Hãy bảo vệ thế giới này, vì chúng ta là một. Chúng ta bảo vệ, chúng ta tôn trọng sự sống với sức mạnh của tình yêu thương, để ta nên người trí tuệ. Đó là đường lối của Thiên Chúa. Đó là mục đích chúng ta theo đuổi và chúng ta hy vọng sẽ đạt được.
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta bước vào Mùa Vọng. Tại sao gọi là Mùa Vọng? Mùa Vọng MV 1-A194
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta bước vào Mùa Vọng. Tại sao gọi là Mùa Vọng? Mùa Vọng, dịch từ tiếng La tinh “Adventus”, có nghĩa là “đến.” Vọng là mong đợi, mong chờ điều sắp đến. Mùa Vọng có 4 nghĩa sau đây. Thứ nhất, Mùa Vọng nhớ lại thời gian dân Do thái mong đợi Đấng Messia (là Chúa Giê-su Kitô) đến để “giải phóng” dân Israel khỏi ách nô lệ lầm than, đau khổ. Chúa đã khiêm nhường đến lần thứ nhất cách đây hơn 2 ngàn 19 năm, để giải thoát con người khỏi sự đau khổ, hình phạt do tội lỗi gây nên, bằng giáo lý tình yêu, tha thứ, bằng lòng thương xót và cái chết của Ngài. Thứ hai, Mùa Vọng còn có ý nghĩa chuẩn bị đón Chúa Giê-su Kitô sẽ đến lần thứ hai vào ngày tận thế. Không ai biết được ngày giờ nào. Nghĩa thứ ba, ngày nay, Mùa Vọng là mùa để dọn tâm hồn mừng kỷ niệm lễ Chúa Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12. Và nghĩa thứ tư cuối cùng là mỗi người cần “tỉnh thức, sẵn sàng” đón Chúa đến vào ngày tận thế đời mình, tức là giờ chết, để ra trước tòa phán xét của Chúa thưởng hay phạt.
Thời gian Mùa Vọng được Giáo hội ấn định dài 4 tuần trước lễ Giáng Sinh để nhớ thời gian dân Do thái, sau khi được đưa ra khỏi đất nô lệ Ai cập ,đã đi lang thang trong sa mạc 40 năm trước khi được vào đất hứa. Chúng ta thấy có vòng hoa 4 cây nến trước bàn thờ đây tượng trưng cho 4 tuần trước lễ Chúa Giáng sinh, mỗi tuần đốt thêm một cây. Ba cây màu tím tượng trưng cho sám hối, và một cây màu hồng sẽ đốt lên vào Chúa nhật thứ 3, nói lên niềm vui như Thánh Phaolô kêu gọi: “Hãy vui lên… vì Chúa đang đến!” Nến cháy tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô, và ám chỉ đức tin phải được cháy sáng lên. Vòng hoa tròn với cành lá xanh tượng trưng cho sự sống muôn đời. Trái hồ đào dùng để trang trí trên vòng hoa tượng trưng cho sự sống lại, tiêu biểu cho sinh lực, cho đời sống đức tin Kitô hữu.
Như chúng ta biết bài đọc trong Thánh lễ theo chu kì luân chuyển 3 năm A, B, C. Năm nay là năm A, vì thế chúng ta sẽ đọc Tin mừng thánh Mát-thêu. Qua năm tới, năm B, thì sẽ đọc Tin mừng thánh Mác-cô, và năm sau đó là năm C, sẽ đọc Tin mừng thánh Lu-ca, và tiếp tục luân chuyển thứ tự. Trong Mùa Vọng, chúng ta được kêu gọi thực hành những lời dạy bảo của thánh Gioan Tiền hô: “Hãy dọn đường đón Chúa. Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống. Đường là cuộc sống, tâm hồn. Quanh co là lừa dối, gian dối, thù ghét. Gồ ghề là tham lam, nghiện ngập. Hố sâu là ích kỷ, lười biếng và cá nhân thu hẹp. Đồi cao là sự tự cao, kiêu căng và tự ái. Đối với cá nhân, gia đình và cộng đoàn, trong Mùa Vọng này được kêu gọi nên xây một “hang đá tâm hồn” cho Chúa Hài Đồng, theo tinh thần 3 của lễ của 3 nhà đạo sĩ mang tới dâng Chúa là vàng, mộc dược và nhũ hương. Của lễ thứ nhất là vàng, có nghĩa là sống giới luật Yêu Thương, mến Chúa, yêu người; của lễ thứ hai là mộc dược, là những việc hi sinh hãm mình. Hy sinh thời giờ tình nguyện phục vụ, giúp đỡ, có lòng bác ái và quảng đại chia sẻ ơn lành của Chúa với những người nghèo khổ. Của lễ thứ ba là nhũ hương, có nghĩa siêng năng cầu nguyện hơn, tham dự Thánh lễ sốt sắng, đồng thời tham gia tuần tĩnh tâm và xưng tội do giáo xứ tổ chức. Nhất là chú tâm lắng nghe và can đảm sống Lời Chúa dạy để đổi mới tâm hồn.
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, và tỉnh thức chờ đợi. Bài đọc 1 cho chúng ta biết vào thế kỷ 7 trước Công nguyên, vương quốc miền Bắc Giu-đê-a Do thái thịnh vượng về mặt vật chất, nhưng lại rất suy đồi về mặt tinh thần, đạo đức và luân lý. Trước tình trạng ấy, ngôn sứ Isaia đã thẳng thắn vạch tội dân và kêu gọi họ ăn năn sám hối. Ngài báo cho họ biết nếu biết ăn năn trở lại thì sẽ sống trong an bình, hạnh phúc, và Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tương lai tốt đẹp, sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô tuyên báo rằng ngày tươi sáng đó rất gần rồi. Ngài nói: “Giờ đây phần rỗi của chúng ta gần đến. Ðêm sắp tàn, ngày gần đến.” Ngài giải thích cho chúng ta biết thế nào là tỉnh thức sẵn sàng. Trước hết, tỉnh thức sẵn sàng là: “từ bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu.” Có nghĩa là phải hãm mình và tích cực chiến đấu để loại trừ sự dữ, tội lỗi và thói hư tật xấu ra khỏi bản thân, phải cố gắng và hi sinh để có đời sống đạo đức, thánh thiện và yêu thương. Ngài còn cho chúng ta biết tỉnh thức sẵn sàng là: “thay đổi cách sống.” Từ bỏ nếp sống cũ theo xác thịt, thể hiện trong việc ăn uống say sưa, nghiện ngập, phóng đãng, tranh chấp, ganh ghét, ích kỷ, lo lắng thỏa mãn phần xác, thay vào đó bằng một cuộc sống mới theo gương Chúa Giêsu Kitô, là hy sinh, phục vụ, yêu thương và quảng đại.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết “Ngày Của Chúa” sắp đến, nhưng Chúa đặc biệt lưu ý ba điều quan trọng. Thứ nhất, ngày ấy sẽ đến một cách không ai ngờ cũng như chuyện Hồng thuỷ thời Nôe, thiên hạ cứ mải mê với những chuyện thế tục: “Người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Nôe vào tàu mà người ta cũng không ngờ.” Có nghĩa là họ chỉ chú trọng tới cuộc sống vật chất, thú vui, thờ ơ với đời sống tinh thần và Lời Chúa. / Thứ hai, trong Ngày ấy, số phận loài người sẽ phân thành hai hạng khác nhau: có người sẽ được nhận vào hưởng tương lai hạnh phúc với Chúa, nhưng có người sẽ bị bỏ lại, có nghĩa là không những không được hưởng hạnh phúc Nước Trời, mà còn bị hình phạt. Ðược tiếp nhận hay bị bỏ lại là do mọi người chúng ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không. Chúa không muốn xét xử chúng ta bất ngờ hay bất công, vì thế, Chúa dùng mọi phương cách và nhiều người để khuyên dạy chúng ta, và chính Chúa cũng khuyên dạy chúng ta: “Vậy các con phải sẵn sàng.”
Trong cuộc sống đã có biết bao lần Chúa khuyên dạy và mang ơn sủng đến cho chúng ta, nhưng một số người cứng lòng, khinh thường trước Lời Chúa dạy, hay chúng ta không nhận được bởi vì tâm hồn chúng ta xa Chúa, thờ ơ, hình thức bề ngoài, hay không chuẩn bị sẵn sàng để tiếp nhận. Vì thế, Chúa kêu gọi chúng ta: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.”
Trong mùa Vọng này, chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta biết canh tân đời sống tinh thần và đức tin, bằng cách chú ý và thành tâm lắng nghe Lời Chúa dạy bảo và can đảm thực hành trong đời sống hàng ngày, để đức tin của chúng ta vững mạnh và sống động hơn, sống mật thiết với Chúa hơn, và để chúng ta luôn sống trong ơn sủng và bình an của Chúa.
Khởi đầu mùa Vọng, Giáo hội mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy chuẩn bị tâm hồn mình đón chờ MV 1-A195
Khởi đầu mùa Vọng, Giáo hội mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy chuẩn bị tâm hồn mình đón chờ Chúa đến. Chúa đang đến trong tâm hồn mỗi người. Ta có thật sự tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến trong tâm hồn mình không? Cuộc sống vẫn tiếp diễn, nhịp sống vẫn hối hả đẩy con người về phía trước, lắm lúc làm họ mất phương hướng, quên đi mục tiêu, vùi lấp khát vọng thật sự của lòng mình: kiếm tìm hạnh phúc. Người ta có thể thành công trong sự nghiệp nhưng lại đánh mất hạnh phúc đích thực, hoặc họ không hay biết về một hạnh phúc đang mong chờ họ đón lấy. Hạnh phúc ấy chính là được Chúa đến viếng thăm.
Thầy Giêsu đã cho các môn đệ biết về thái độ mà họ phải có để đón chờ ngày Con Người quang lâm. Vào thời ông Nôê, người ta chẳng hay biết gì về nạn hồng thủy. Thấy ông Nôê đóng tàu, chuẩn bị theo lời Thiên Chúa chỉ dạy, mọi người đều chê cười, cho rằng ông không bình thường. Họ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng. Đến ngày ông Nôê vào tàu, họ vẫn không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy, chỉ còn gia đình ông Nôê sống sót. Sẽ đến ngày Con Người quang lâm, ngày ấy cũng đến cách bất ngờ, vì không ai biết ngày ấy là ngày nào. Chỉ những ai biết canh thức và sẵn sàng, họ mới xứng đáng được cứu.
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24,42). Chúa đến mang bình an và hạnh phúc cho con người. Việc canh thức để đón Chúa đến không phải là một điều dễ dàng, vì lắm lúc ta dễ ngủ mê trong tội lỗi, bị lạc đường. Khi gặp sóng gió trong cuộc đời, ta cũng có thể đánh mất niềm tin và hy vọng. Khi nỗi chán nản và âu lo bủa vây giăng mắc, ta mất dần khả năng chiến đầu. Canh thức không chỉ là công việc đòi hỏi ta phải có một ý chí mạnh mẽ nhưng còn đòi hỏi một tinh thần biết cầu nguyện. Chỉ khi cầu nguyện, ta mới có đủ sức mạnh để vượt qua những thử thách trong cuộc đời, chỉ khi cầu nguyện, có Chúa đồng hành, ta dần cảm nến được niềm hạnh phúc khi được thuộc về Chúa. Càng cảm nếm hạnh phúc được Chúa viếng thăm, ta càng khát khao được thuộc về Chúa mãi mãi. Như thế, tỉnh thức và biết dựa vào Chúa, biết để Chúa là chủ đời mình, biết đặt Chúa làm trung tâm cuộc sống mình.
Tỉnh thức không phải là dựa vào sức riêng nhưng là biết đặt cuộc đời mình trong quyền năng và tình yêu của Chúa, nỗ lực hết mình như Chúa muốn và trao lại cho Chúa khi Người mời gọi. Tỉnh thức còn là biết sống yêu thương, chia sẻ, biết lưu tâm đến hạnh phúc của người khác, biết trở thành sứ giả loan báo Tin Mừng bình an cho họ. Chắc chắn, trên quãng thời gian đằng đẵng chờ đợi, sẽ có những lúc ta rơi vào buồn chán, nhưng đừng bao giờ đánh mất niềm hy vọng vào Chúa, đừng đánh mất bản thân. Hãy cậy trông vào Chúa, vì chính Người là niềm hạnh phúc ta đang kiếm tìm. Khi đã cảm niếm được niềm hạnh phúc được Chúa viếng thăm, ta hãy can đảm nói cho người khác biết về hạnh phúc ấy và giúp họ được nhận biết Chúa. Đó là việc ta cần làm trong lúc chờ đợi ngày Chúa quang lâm.
Ai trong trong chúng cũng đã có lần chờ đợi: chờ đợi một biến cố quan trọng trong đời; chờ đợi MV 1-A196
Ai trong trong chúng cũng đã có lần chờ đợi: chờ đợi một biến cố quan trọng trong đời; chờ đợi người đi xa trở về; chờ đợi một tin vui của người thân. Cuộc chờ đợi nào cũng làm chúng ta hồi hộp lo lắng xen lẫn với khấp khởi mừng vui. Trong khi chờ đợi, thời gian dường như trôi đi rất chậm, rất dài. Mùa phụng vụ đầu tiên trong năm mới có tên là Mùa Vọng hay Mùa Đợi. Chúng ta chờ đợi Chúa đến. Đức Giê-su đã đến hai ngàn năm nay trong lịch sử, nhưng đối với mỗi cá nhân sống trên cõi đời này, thì Người vẫn đang đến. Và thế là, mỗi ngày sống của chúng ta trên trần gian là một ngày chờ đợi để gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ này mang màu sắc lạc quan hay bi quan tùy thuộc vào thái độ sống của mỗi người. Đối với ai thành tâm kiếm tìm Chúa thì cuộc gặp gỡ ấy là niềm vui và hạnh phúc. Đối với ai chỉ coi giá trị vật chất đời này là đích điểm, thì cuộc gặp gỡ ấy lại là sự kết án đau thương. Để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ yêu thương giữa Thiên Chúa với con người, Phụng vụ Mùa Vọng mở đầu bằng lời kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Chúa Giêsu trích dẫn sự kiện trong lịch sử Thánh Kinh mà người Do Thái nào cũng biết, đó là biến cố Đại Hồng thủy. Khi ông Nôê đóng tàu thì có nhiều người chê cười ông. Nhưng khi nước dâng lên thì họ bị nước cuốn trôi. Chúa kêu gọi mọi người hãy học bài học lịch sử đó như một kinh nghiệm sống, để luôn chuẩn bị sẵn sàng, vì không biết giờ nào và ngày nào sẽ là lúc tận cùng của cuộc sống cá nhân chúng ta. Lúc tận cùng ấy huyền nhiệm và khó hiểu, được diễn tả như việc có hai người đang làm ruộng, hay hai người đang xay bột, một người được để lại và người kia được đem đi. Hay cũng bất ngờ như người chủ đi xa trở về bất chợt, vào lúc những người giúp việc không ngờ. Tỉnh thức để đón Chúa, người tín hữu cũng được kêu mời tỉnh thức đối với anh chị em mình. Ngày nay người ta nói nhiều đến chứng bệnh vô cảm. Con người trở nên dửng dưng lạnh lùng trước những nhu cầu và nỗi đau của người thân hoặc những người xung quanh. Con đường dẫn ta đến gặp Chúa là con đường được nối kết bằng những việc bác ái ta làm đối với anh chị em mình. Bởi lẽ chúng ta không chỉ đi một mình đơn lẻ để gặp gỡ Chúa, mà ta đi với anh chị em, trong tình mến thân thiện của những người có cùng một Cha trên trời là Thiên Chúa tối cao. Không thể sống tinh thần Mùa Vọng mà lại dửng dưng hay thù ghét anh chị em của mình. Khi Chúa đến gặp ta, Người sẽ xét xử về cách sống của ta đối với những người xung quanh, nhất là những người nghèo khổ và bất hạnh. Như vậy, “tỉnh thức” có nghĩa là quan tâm đến người khác và ân cần giúp đỡ họ. Lời Chúa trong ngày mở đầu Năm Phụng vụ mang sắc thái của một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi tín hữu hãy lên đường tiến về Giêrusalem để đón Chúa. Những hình ảnh được diễn tả trong Bài đọc I cho thấy Giêrusalem là trung tâm điểm của thế giới. Mọi nơi đều hướng về trong niềm vui mừng hân hoan. Đây là sự khai mở một triều đại mới của lịch sử. Chúa đến để chúc phúc cho dân người. Nếu chúng ta lắng nghe lời hiệu triệu này mà đón Chúa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ an bình tốt đẹp và nở hoa. Có Chúa hiện diện, sẽ không còn chiến tranh. Con người sẽ “đúc gươm đao thành cuộc thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Một xã hội thanh bình sẽ được thiết lập nếu ta biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa và thực thi giáo huấn của Người. Hãy thức dậy những ai ngủ mê! Hãy ra khỏi bóng tối của ích kỷ hận thù, để bước vào ánh sáng huyền nhiệm của bác ái thứ tha. Sống theo ánh sáng, đó là một điều kiện không thể thiếu đối với những ai muốn đi theo và làm môn đệ của Đức Giêsu. Những ai thiện chí sống theo ánh sáng, phải can đảm bước ra khỏi đêm đen, vì ánh sáng và đêm đen lại hai thực tại bất dung hòa. Thánh Phaolô khuyên chúng ta, hãy loại bỏ những việc làm đen tối… hãy ăn ở đứng đắn như người sống giữa ban ngày… không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng (Bài đọc II). Cuộc đời này là sự chờ đợi liên lỉ. Chờ đợi Chúa không giống như tìm kiếm sự may rủi hay chờ một cơ hội có ngẫu nhiên, có thể đến mà cũng có thể không. Chúng ta chờ đợi Chúa trong niềm hy vọng và sự xác tín vào quyền năng của Ngài, và chắc chắn Người sẽ đến. Cuộc đời này được sánh ví như một con đường. Mỗi người chúng ta đang đi trên con đường đó. Ở cuối của con đường này, Chúa đang chờ đợi chúng ta, vì thế mà sự đợi của chúng ta là chờ đợi trong hy vọng. Chúng ta cũng tin chắc Chúa là Đấng yêu thương, luôn dành những điều bất ngờ cho những ai giữ một lòng trung tín và cậy trông nơi Người.
Mùa Vọng nữa lại về với mỗi chúng ta, sắc màu phụng vụ được chuyển sang màu tím. Như những MV 1-A197
Mùa Vọng nữa lại về với mỗi chúng ta, sắc màu phụng vụ được chuyển sang màu tím. Như những cánh hoa sim bên chiều mong mỏi đợi chờ, và mong sao tình yêu là chung thủy. Ngày nào chinh phụ ngóng bóng chinh phu, dù đã qua thời khói lửa chiến tranh, nhưng con người vẫn thấy mong manh vô tận. Tỉnh thức vẫn là lối mở cho người Ki-tô hữu bước vào Mùa Vọng. Chúa sẽ đến bất ngờ và không biết ngày giờ nào. Chỉ những ai thức tỉnh, mới có thể gặp được Chúa.
Những cái chết bất ngờ
Thảm họa xảy ra dịp EURO 2012. CĐV người Trung Quốc Jiang Xiaoshan đêm nào cũng thức trắng để xem EURO cùng bạn bè nhưng ngày vẫn đi làm bình thường. Sau 11 đêm liền không ngủ vì EURO, xem xong trận đấu giữa Italia và CH Ireland, Jiang Xiaoshan về nhà vào lúc 5 giờ sáng. Tắm gội xong, anh ngủ thiếp đi và… không bao giờ tỉnh dậy nữa.
Ngày 5/11/2011, trọng tài 42 tuổi Timoleon Castillo đang điều khiển một trận futsal tại thị trấn Cordero (Tachira, Venezuela). Chẳng hiểu trước đó Castillo đã đưa ra quyết định gây tranh cãi nào mà lúc các cầu thủ mải ăn mừng bàn thắng thì có một kẻ lao xuống sân, dí súng vào đầu ông rồi bóp cò 3 phát. Cảnh sát còn chưa kịp tóm tên sát nhân thì trọng tài Castillo đã mất mạng.
Tại Việt Nam, theo thống kê của Cục Cảnh sát giao thông năm 2015 cả nước xảy ra 22.827 vụ, làm chết 8.727 người, bị thương 21.069 người. Và còn nữa nhiều lắm, những cái chết bất ngờ xảy ra trong cuộc đời này, không ai có thể biết trước và đoán trước sinh mạng của mình, ngoài trừ một mình Thiên Chúa.
Anh em hãy tỉnh thức
Ngày quang lâm của Chúa xảy ra bất ngờ, khi con người mải mê lo tìm kiếm: danh vọng, của cải, lạc thú trần gian thì Chúa đến. Bất thình lình như một chiếc lưới chụp xuống, như kẻ trộm đến nhà vào ngày giờ chủ không ngờ đến. Tỉnh thức như các cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể, chẳng những mang theo đèn mà còn đổ đầy dầu vào các bình, để thắp sáng mỗi khi chàng rể đến. Vì họ không biết giờ, ngày nào chàng rể sẽ đến. Thái độ thụ động và chủ quan sẽ làm cho chúng ta không kịp trở tay, khi Chúa đến, như con tàu Nô-ê, trong lúc mọi ngươi đang vui hưởng lợi lộc, bỗng lộc trên trần gian thì nạn hồng thủy ập đến, cuốn trôi tất cả. Tỉnh thức để biện phân và nhận ra những dấu chỉ của Chúa, trong cuộc sống hằng ngày, để thoát khỏi vòng kềm kẹp của: danh, lợi, thú. Tỉnh thức cũng có nghĩa là cậy dựa vào tình thương, và ơn trợ giúp của Chúa, sám hối và quay về với Ngài, trong phút giây thường ngày: “ Hãy cố gắng, dù yếu đuối sa ngã, con hãy xin Chúa tha thứ và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sỹ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đạt giải vô địch quốc gia” ( Đường hy vọng số 971).
Sẵn sàng cho một cuộc hoán cải
Hành trình theo Chúa là con đường hẹp, con đường dẫn đến ơn cứu độ. Chúa đến trong trần gian là để Mạc khải mầu nhiệm Nước trời. Ngài chỉ cho con người con đường dẫn đến sự thật tuyệt hảo. Mong chờ Chúa đến không dừng lại ở thái độ bên ngoài, mà còn phải canh tân tận bên trong. Tỉnh thức thôi chưa đủ, cần phải hoán cải và thực hiện một cuộc thay đổi tận căn. Con người tự sức mình không thể chiến đấu nổi với ba thù: ma quỷ, xác thịt và thế gian. Nhưng một khi mặc lấy áo giáp là Chúa Ki-tô, với những ân sủng: Lời Chúa, Thánh Thể, các bí tích, thì có thể đứng vững, và ngẩng cao đầu để đón chờ ngày Chúa quang lâm.
Mùa Vọng kêu mời tất cả những ai tin vào Đấng Cứu Thế, hãy sẵn sàng, tỉnh thức và làm những việc lành phúc đức. Ngày giờ nào Chúa đến, không ai biết được. Mỗi người luôn ý thức về vai trò và trách nhiệm của những con cái Chúa, là chu tất mọi bổn phận, và bậc sống mình, sao cho xứng với tước hiệu là con cái Chúa Giê-su Ki-tô.
Giáo Hội vừa mừng kính trọng thể Lễ Đức KItô , Vua Vũ Trụ, đồng thời Người thật là Vị MV 1-A198
Giáo Hội vừa mừng kính trọng thể Lễ Đức KItô , Vua Vũ Trụ, đồng thời Người thật là Vị Vua Hòa Bình , Vua Vinh Hiển. Bời vì Vương Quyền của Người không có vũ khí, không quân đội, không bất công, không đàn áp, không bóc lột thần dân, và mặc nhiên không chiến tranh, vì vậy, Người đích thực là Vị VUA HÒA BÌNH, một Vị Vua Vinh Hiển đích thật.
Hôm nay, lịch Phụng Vụ bước sang một năm Phụng Vụ mới, mở đầu bằng chu kỳ thời gian là Mùa Vọng. Vâng, cái tên ” Mùa Vọng ” cho chúng ta biết được Giáo Hội canh thức cho chúng ta “chờ mong” Lễ Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, đồng thời Người là Thiên Chúa thật. Bên cạnh đó, ý nghĩa thứ hai của Mùa Vọng là” mong chờ “ Đấng Cứu Thế đến trong ngày chung thẩm.
Vâng, thưa quý vị, như vậy, ý nghĩa của Mùa Vọng trong Tân Ứơc cho chúng ta một sự chờ mong ngày Đấng Cứu Thế đến lần II. Còn trong Cược Ứơc cho chúng ta sống lại tâm trạng của dân tộc Dothai, không dân tộc nào có tâm trạng mong chờ Đấng Cứu Thế đến với họ , bằng dân tộc Dothai. Những bài đọc trong Cựu Ứơc diễn tả tâm tình, chờ mong Đấng Cứu thế đến với họ thật thơ mộng, nhưng lại thật thực tế như : “ Nai vàng tìm đến suối nước trong. Hồn con cũng trông mong chờ Đấng Cứu Chuộc.”
Như vậy, khi Đấng Cứu Thế đến, thì Người cũng tiên báo thời Quang Lâm của Người giống như thời ông Noe. Thiên hạ vẫn bình chân như vại, nhưng, Thiên Chúa chỉ mặc khải cho gia đình Noe, thì ngày cánh chung cũng vậy, không phải tất cả đều được cứu thoát. Mà chỉ thiểu số biết nghe Lời Thiên Chúa.
Vâng, Giáo Hội là Mẹ chúng ta hình bóng như “chiếc thuyền Noe” vậy. Ai chịu nghe và giữ lời Chúa, thì như những người ở trong “ thuyền”, sẽ được cứu.
Như vậy, Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta cách rõ ràng ngày Quang Lâm của Người lần thứ II. Như vậy, câu cuối cùng của ( Mt 24, 37 -44) hôm nay là ” Con Người sẽ đến “.
Vậy theo Lời Chúa hôm nay chúng ta cần có ba thái độ :
– Một là : sẵn sàng tình thức
– Hai là : phương thức để canh thức : lắng nghe Lời Chúa, nghĩa là canh thức bằng Lời Chúa.
– Ba là : sự bất ngờ, thình lình, không biết trước.
Như vậy, ba thái độ trên cho chúng ta một sự gắn kết mật thiết vào Chúa Giêsu, vì Chúa nói trong Tin Mừng hôm nay : cứ hai thì chọn một. Vì, nếu người ta biết được ngày Chúa đến một cách rõ ràng, thì họ không cần chuẩn bị, lo trước.
Vậy, tâm trạng chuẩ bị cần có không phải là thụ động, bị động, mà là chủ động cách tích cực không để cho cuộc sống trần thế chi phối. Điều đó, có nghĩa là mọi sự trong cuộc sống chúng ta sống theo Lời của Chúa Giêsu, có nghĩa là : Ai làm công việc gì cứ là, nhưng làm trong Lời Chúa, vì không có công việc nào xấu, chỉ có “LÒNG NHÂN “ mới xấu hay tốt thôi.
.Ngày Chúa đến là ngày nhất định phải xảy ra, ngày Chúa đến trong cuộc đời là ngày chết của chúng ta, rồi đến ngày chung thẩm. Dù tin hay không, giờ Chúa đến là một chân lý.
Hành trang của cuộc đời là Lời Chúa chứ không phải tiền bạc. Qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy. Giờ Chúa đến không bao giờ được báo trước, dù người đó là ai, làm gì, ở đâu. Theo đó, thời giờ chung thẩm cũng không phải bị tiêu diệt hết, mà là “chọn lựa”, một trong hai.
Khởi đi từ bài đọc I , (Is 2, 1- 5), chúng ta thấy cảnh thái bình nơi đền thánh mới, tức Giêrusalem trên trời, nơi đó Thiên Chúa ban bình an và hoan lạc cho những ai kính sợ Người. Chúng ta thấy, đường lên núi Chúa thật là binh an và hoan lạc, mà chúng ta gọi là thiên đàng.
Bài đọc II thánh Phaolo qua thư gởi tín hữu Roma (Rm13, 11 -14) khuyên rằng : “ Người tín hữu là con cái ánh sáng”. Hãy trở nên chuẩn mực và thánh thiện. Lời khuyên của thánh Phaolo là Lời rất phù hợp với Tin Mừng hôm nay. Thánh Phao lo cảnh báo cho chúng ta biết, người tín hữu là người tiết độ, nết na, không chè chén say sưa, chơi bời dâm đảng. Có nghĩa là đừng theo thói trụy lạc của thế gian. Vì tất cả bộ mặt thế gian sẽ qua đi.
Chúng ta thấy, chính Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta đừng sống như những con người thời ông Noe, lụt Đại Hồng Thủy, một trận lụt nhận chìm tất cả, vì họ không màng gì đến Thiên Chúa. Họ chỉ biết đến thế gian, khi thời Chúa đến , nước lụt nhấn chìm tất cả, chúng ta thấy, rồi đến thời dân Dothai bị Pharaol vau Ai-cập cai trị đè nén , áp bức. Chính Thiên Chúa cho nước hai bên tả hữu rẽ ra để cho dân Dothai đi qua, đến lúc quân Ai đến thì bị nhấn chìm..
Qua đó, chúng ta tin rằng, tất cả những ai, dù chưa nhận biết Thiên Chúa, nhưng ăn ở ngay chính, tiết độ, thì chắc chắn sẽ được cứu, còn chính những kẻ kiêu ngao không nhận biết Thiên Chúa, mà lại coi thường luân lý, kỷ cương, chắc chắn một ngày nào đó tai họa mà họ gây ra sẽ trở nên “ gậy ông đập lưng ông” mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là hình ảnh nhân lành của Thiên Chúa Cha, là sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, là Thầy Chí Thánh cho mọi người muốn bước theo chân lý.
Chúa đã mặc khải cách tỏ tường về ngày cứu độ, ngày Chúa sẽ đến trong vinh quang, hầu dẫn đưa chúng con đến cùng Chúa, để chúng con được hưởng Thánh Nhan Chúa cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, theo Lời giáo huấn cách tỏ tường về ngày Chúa quang lâm, mà giáo hội dạy chúng con mong chờ ./. Amen.
Cũng giống như một năm của trời đất có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông; một năm Phụng vụ cũng MV 1-A199
Cũng giống như một năm của trời đất có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông; một năm Phụng vụ cũng có nhiều mùa khác nhau tương ứng với những biến cố trong những giai đoạn khác nhau của cuộc đời Đức Giê-su Ki-tô. Nhân dịp mừng kính Chúa nhật I Mùa Vọng năm A, xin được dựa vào tài liệu của Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam tìm hiểu xem “Phụng vụ” là gì và Năm Phụng vụ có bao nhiêu mùa:
Ủy ban Phụng tự Giáo hội Việt Nam đã dịch từ La-tinh “Liturgia” là “Phụng vụ”, “Sacra Liturgia” là “Phụng vụ Thánh”. Theo từ nguyên, “Phụng” là dâng lên (người bề trên), tôn thờ (thần linh); “Vụ” là công việc. Phụng vụ ( 奉務 ) là công việc thờ phụng (Việt Nam quen đọc là “thờ phượng”). Công đồng Va-ti-ca-nô II đã chỉ rõ: “Phụng vụ” là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giê-su Ki-tô, trong đó công cuộc thánh hoá con người được thực hiện nhờ những dấu chỉ khả giác và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu chỉ (“dấu chỉ khả giác” là những gì mà khả năng của con người có thể nhìn thấy, nhận ra trong cuộc sống). Như vậy, Phụng vụ Thánh (“Sacra Liturgia”) là toàn thể việc phụng thờ, ca tụng, tạ ơn và xin ơn Thiên Chúa mà Giáo hội, với tư cách là Hiền Thê của Chúa Ki-tô, hàng ngày cử hành qua kinh nguyện, nhất là cử hành Thánh lễ Tạ Ơn và các Bí tích nhân danh Chúa Ki-tô (in personna Christi) để xin ơn cứu chuộc của Chúa tiếp tục ban phát cho những ai thành tâm thiện chí muốn hưởng nhờ, để hy vọng được sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau. Một năm Phụng vụ có 5 mùa:
I. Mùa Vọng: bắt đầu từ kinh chiều I của Chúa nhật I Mùa vọng và kết thúc trước kinh chiều I lễ Giáng Sinh. Mùa Vọng diễn tả hai đặc điểm khác nhau và được chia thành hai giai đoạn để diễn tả đặc tính như: * Giai đoạn thứ nhất: từ đầu Mùa Vọng đến hết ngày 16 tháng 12. Đây là thời gian chuẩn bị để người tín hữu hướng lòng đến ngày Chúa Ki-tô sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang. * Giai đoạn thứ hai: từ ngày 17 tháng 12 kéo dài trong một tuần lễ. Đây là thời gian để người Ki-tô hữu chuẩn bị trực tiếp mừng Đại lễ Giáng Sinh, để kính nhớ việc Con Thiên Chúa đã đến trần gian lần thứ nhất, tại Bê-lem.
II. Mùa Giáng Sinh: bắt đầu từ kinh chiều I lễ Gíáng Sinh đến hết lễ Chúa Hiển Linh hoặc Chúa nhật sau ngày 6 tháng Giêng. Trong truyền thống Phụng vụ, sau lễ Phục Sinh, Giáo hội không cử hành mầu nhiệm nào khác ngoài mầu nhiệm Nhập Thể và việc tỏ mình của Con Thiên Chúa, từ Bê-lem đến sông Gio-đan. Lễ Giáng Sinh cũng có tuần Bát nhật như lễ Phục Sinh, nhưng không được mừng kính với cùng mức độ như tuần bát nhật Phục Sinh, vì: + Mỗi ngày trong tuần Bát nhật Phục Sinh được mừng như lễ trọng. + Mỗi ngày trong tuần Bát nhật Giáng Sinh không đồng đều, tức là có ngày thì cử hành lễ trọng, ngày thì cử hành lễ kính, ngày thì cử hành như lễ thường.
III. Mùa Chay: là thời gian để người Ki-tô hữu chuẩn bị tâm hồn (hoán cải và sám hối, thanh luyện và củng cố đức tin) để chuẩn bị đón mừng biến cố Vượt Qua. Riêng đối với những người dự tòng, thì đây là thời kỳ để họ chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Khai tâm Ki-tô giáo vào chính đêm lễ Phục Sinh. Thời gian của Mùa Chay kéo dài 40 ngày. Con số 40 liên hệ với các biến cố: – 40 năm dân Do-thái đi trong hoang địa tiến về miền đất hứa. – 40 ngày ông Mô-sê ở núi Xi-nai diện kiến Đức Chúa. – 40 ngày vua Đa-vít phải đối đầu với Gô-li-át. – 40 ngày Ê-li-a đã trải qua để đến Hô-rét. – 40 ngày Ngôn sứ Giô-na rao giảng kêu gọi dân Ni-ni-vê hãy sám hối (Lc 11, 29-32; Mt 12, 38-42). Như vậy, thời gian 40 ngày Mùa Chay chính là thời gian để người tín hữu chuẩn bị tâm hồn đón nhận biến cố Vượt Qua cách ý nghĩa nhất.
IV. Mùa Phục Sinh: mừng Chúa chiến thắng tội lỗi và sự chết, sống lại hiển vinh. Mùa Phục Sinh bao gồm 50 ngày, bắt đầu từ Chúa nhật Phục Sinh và kết thúc vào lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. – Tuần lễ đầu tiên sau Chúa nhật Phục Sinh gọi là tuần Bát Nhật, long trọng cử hành như các lễ trọng kính Chúa. – Ý nghĩa của Mùa Phục Sinh là việc cử hành trong niềm hân hoan như một ngày lễ duy nhất, vì vậy các Chúa nhật trong mùa Phục Sinh không còn được gọi là Chúa nhật sau Phục Sinh như trước nữa, mà được thay bằng tên gọi Chúa nhật Phục Sinh với số thứ tự từ I đến VII.
V. Mùa Thường niên: chia thành hai phần: *Phần I là những tuần lễ nằm trong khoảng thời gian từ lễ Chúa Hiển Linh đến đầu Mùa Chay; *Phần II là những tuần lễ, sau lễ Hiện Xuống đến đầu Mùa Vọng. Mùa Thường niên là một tổng thể duy nhất, vì Giáo hội không cử hành một khía cạnh đặc biệt nào về mầu nhiệm Chúa Ki-tô, nhưng lại tôn kính mầu nhiệm Chúa Ki-tô trong toàn bộ, tức là cho ta thấy Đức Ki-tô đang sống, hiện diện và hoạt động nơi Giáo hội, bằng việc Người dạy dỗ, thánh hoá, nuôi dưỡng, ở và đến trong thới gian cánh chung. Mùa thường niên là thời gian Giáo hội mời gọi con người đi trên con đường mà chính Đức Ki-tô đã vạch ra, để đem ơn cứu độ cho loài người.
Mùa đầu tiên của năm Phụng vụ tiếng La-tinh gọi là “Adventus” (có nghĩa là “Đến” với ngụ ý: “Mùa Chúa Ðến”). Ủy ban Phụng tự VN dịch là Mùa Vọng (Vọng 望 là từ Hán Việt có nhiều nghĩa: Nhìn ra xa hoặc nhìn lên cao; Ước mong, mong mỏi; Bái phỏng, kính thăm; Tiếp cận, gần đến; Chí nguyện, tâm nguyện; Danh dự, tiếng tăm; Hướng về, về phía). Với nghĩa đó, mùa Vọng bao hàm được đầy đủ ý nghĩa sâu xa đặc tính 2 giai đoạn như đã dẫn trên (xc. I. Mùa Vọng: – nt -) Như vậy, Mùa Vọng nhắc lại thời gian nhân loại trông đợi Chúa đến lần thứ nhất (4 tuần lễ tượng trưng cho 4.000 năm thời Cựu Ước trông đợi Chúa đến). Đồng thời với việc kỷ niệm thời gian trông đợi Chúa đến lần thứ nhất, ngày hôm nay Giáo hội còn muốn nhắc nhở mọi tín hữu hãy chuẩn bị sẵn sàng trong tỉnh thức để chờ đón ngày Chúa đến lần thứ hai.
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa không chỉ đến với con người bằng Giao ước trên núi Si-nai, mà còn luôn đến với Tổ phụ Ap-ra-ham, đến với các tiên tri, ngôn sứ…, để thông qua các vị này mà đến với con cái nơi trần thế. Bước sang Tân Ước, thì chính Đức Giê-su Thiên Chúa đã hiện dịên bằng xương bằng thịt trên trái đất và Người luôn luôn đến với mọi người, nhất là những người nghèo đói, cùng khổ, bệnh tật, lao tù… Đến khi Người hoàn tất công trình cứu độ nhân loại, được rước về trời, thì chính Người cũng truyền dạy: “Và này đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Đó là chưa kể, hàng ngày hàng giờ, thậm chí từng giây từng phút, thông qua các thánh lễ Misa trên thế giới, Đức Ki-tô luôn hiện diện và sẵn sàng đi vào cung lòng mỗi người, nếu họ biết đón nhận. Nói cách khác, Đức Giê-su Con Thiên Chúa luôn đến với loài người và sẵn sàng ở trong cung lòng chật hẹp nhơ uế của mỗi người, ngoại trừ trường hợp con người xua đuổi, chối bỏ, xa lánh Người. Rõ ràng Đức Ki-tô Thiên Chúa đã đến, đang đến và sẽ đến với nhân loại. Tất cả mọi người ngay lành, công chính, luôn biết sống và hành động theo Lời Chúa dạy, thì luôn có Chúa ở cùng, và đó chính là điều rất đáng vui mừng, hạnh phúc.
Như vậy thì phải hiểu như thế nào khi phải đón chờ ngày Chúa đến lần thứ hai và sẽ có những hiện tượng xảy ra báo trước ngày ấy: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” (Lc 21, 25-27). Còn nữa, “Vậy, khi anh em thấy đặt trong nơi thánh Đồ Ghê Tởm Khốc Hại mà ngôn sứ Đa-ni-en đã nói đến (người đọc hãy lo mà hiểu!), thì bấy giờ ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi, ai ở trên sân thượng thì đừng xuống lấy đồ đạc trong nhà, ai ở ngoài đồng, đừng trở lại phía sau lấy áo choàng của mình. Khốn cho những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! Anh em hãy cầu xin cho khỏi phải chạy trốn vào mùa đông hay ngày sa-bát. Vì khi ấy sẽ có cơn gian nan khốn khổ đến mức từ thuở khai thiên lập địa cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra như vậy nữa. Nếu những ngày ấy không được rút ngắn lại, thì không ai được cứu thoát; nhưng, vì những người được tuyển chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn.” (Mt 24, 15-22).
Ôi chao! Chỉ mới đọc (nghe) đoạn văn Kinh Thánh này thôi, cũng đã đủ toát mồ hôi lạnh, bủn rủn chân tay, hồn xiêu phách lạc; và cứ theo bản năng yếu đuối mỏng giòn của con người, thì chắc chẳng ai còn muốn vui mừng trông đợi ngày ấy nữa. Tuy nhiên, bình tâm lại mà suy niệm chín chắn, sẽ thấy Lời dạy của Đức Giê-su Ki-tô không thừa, chẳng những thế mà còn rất cần thiết để cảnh tỉnh con người, bởi vì: “Anh hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Quả thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ.” (2Tm 3, 1-4); “Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường.” (2Tm, 4, 3-4).
Và đó mới chính là mấu chốt của vấn đề. Tại sao vậy? Vì những việc ấy (từ những thiên tai khủng khiếp đến những hậu quả khốc hại do tư tưởng và hành động của con người…) đã xảy ra trên trái đất này từ cuối thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI nó đã chuyển sang cao điểm. Chính vì thế, Đức Ki-tô mới dạy “hãy canh thức và sẵn sàng”. Canh thức không phải chỉ là thức suốt đêm này qua đêm khác như một người bị bệnh mất ngủ, mà là phải tỉnh táo, canh giữ, phòng vệ trong mọi trường hợp, mọi lúc, mọi nơi. Nói cách khác là phải cảnh giác trước những hiện tượng thiên nhiên và nhất là những trò lừa bịp, ma mị của ma quỷ thông qua con người, phải tìm đến với Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và kiên quyết sống theo Lời Chúa dạy.
Vâng, nhất quyết “Phải như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.” (Rm 13, 11-14).
Chưa hết đâu, đã đành là phải tỉnh thức, nhưng còn phải sẵn sàng chuẩn bị dầu đèn, sẵn sàng đem những nén bạc Chúa trao ra kinh doanh cho có hiệu quả để đầu tư vào kho báu Nước Trời, bằng cách làm theo lời dạy của thánh Gio-an Tẩy Giả, đó là “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? ” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì? ” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” (Lc 3, 12-14). Vâng, quả thực là “Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham; vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.” (Lc 3, 8-9).
Thực sự chỉ có như vậy mới gọi là tỉnh thức và sẵn sàng đòn chờ ngày Chúa đến, ngày Con Người quang lâm: “Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia.” (Mt 24, 30-31).
Mùa Vọng là mùa trông đợi, mùa chờ đón Tin Mừng Đấng Cứu Thế quang lâm lần thứ hai. Đã đành là Chúa đã đến, đang đến và luôn sẵn sàng ở lại trong cung lòng mỗi người hàng ngày hàng giờ, nhưng chỉ những người ngay lành, công chính mới thực sự được Chúa ở cùng “mọi ngày cho đến tận thế”. Tuy nhiên, ngày Chúa quang lâm lần thứ hai thì chưa tới và có thể tới bất cứ lúc nào, tới vào lúc loài người bất ngờ nhất, và khi Người tới thì toàn thể nhân loại đều được diện kiến. Duy chỉ có điều – và là điều cần quan tâm nhất, cần lo lắng nhất – là vào ngày giờ ấy, ai sẽ được đứng ở bên phải và ai sẽ phải đứng ở bên trái Chúa. Chính vì thế, xin hãy biến 4 tuần lễ Mùa Vọng đón chờ ngày Chúa giáng trần trong năm Phụng vụ thành mùa vọng trong suốt cuộc đời trông đợi Chúa quang lâm vào ngày cánh chung vũ trụ.
Ngay từ bây giờ, có thể anh vừa mới sinh ra, có thể chị đang ở tuổi thanh niên, trung niên, có thể ông bà đang ở vòng bóng xế, và cũng có thể các cụ đang thèm ăn đất hơn thèm ăn cơm, chân trên lỗ chân dưới lỗ, xin tất cả “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.” (Lc 12, 35-37). Vâng, xin hãy thực sự sống cuộc đời trần thế cho Mùa Vọng Nước Trời mai hậu sẽ được đứng ở bên phải Chúa, ngẩng cao đầu diện kiến Thiên nhan Đấng Cứu Tinh. Ước được như vậy. Amen.
Cơn siêu bão Haiyan vừa qua đã tràn vào thành phố Tacloban của Philiphin gây thiệt hại không MV 1-A200
Cơn siêu bão Haiyan vừa qua đã tràn vào thành phố Tacloban của Philiphin gây thiệt hại không ngờ. Toàn thành phố đã trở thành bình địa với hàng ngàn người chết. Những người sống sót kể lại khi cơn bão đến, mưa to, gió lớn. Sấm sét gầm thét trên bầu trời. Những cơn sóng thần từ ngòai biển cao trên 4 mét ập vào làm nhà cửa, xe cộ bị cuốn đi. Người ta không thể làm được gì khi những hiện tượng kinh thiên động địa ập đến. Cũng như nạn sóng thần tại Nhật Bản trước đây, nhà cửa, xe cộ bị nước cuốn trôi ra biển như những hộp diêm trên đại dương. Đã có người nhận xét đó là cơn đại hồng Thủy thứ hai sau thời Ông Nô-ê mà Tin Mừng hôm nay đề cập đến.
Lạy Chúa,
Ngày quang lâm của Chúa, ngày Chúa đến với mỗi người chúng con không phải là một tai họa, qua bài tin mừng hôm nay, Chúa muốn cho chúng con hiểu rằng việc Chúa đến với con sẽ rất bất ngờ, không ai có thể biết trước được. Điều Chúa nhắc chúng con là, Người đến để cứu thóat chúng con khỏi mọi xiềng xích tội lỗi, đưa chúng con vào cõi sống muôn đời. Phần còn lại là của mỗi người chúng con, có sẵn sàng bước vào một cuộc sống mới, bước vào một thế giới mới, thế giới trong con tàu của Ông Nô-ê, để được hưởng một cuộc sống mới và sống dồi dào bên Chúa, hay vẫn mải mê với những việc làm đen tối, chè chén say sưa hay chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tương? như Thánh Phaolô Tông đồ cảnh báo (Rm 13, 11-14a), trong Bài đọc II Chúa nhật thứ I Mùa Vọng.
Mùa Vọng lại trở về với mỗi người chúng con, Mùa Vọng mùa của những tiếng vọng lên trời kêu cầu ơn giải thóat của dân Chúa ngày xưa. Mùa vọng hôm nay còn là mùa của niềm hy vọng, trông chờ Chúa giải thóat nhân lọai khỏi những tranh chấp, khỏi những cuộc chiến tàn khốc, khỏi những dịch bệnh, đói nghèo, bóc lột lẫn nhau, đàn áp lẫn nhau… Chúa vẫn hiện diện nơi trái đất này, nhưng mỗi người chúng con có mở lòng mình để đón Chúa? Bài Thánh Ca mùa Vọng nhắc cho con lời khấn nguyện của dân Chúa ngày xưa, xin Chúa đến, Người sẽ là vị cứu tinh cho nhân lọai, vẫn mãi vang lên:
“Trời gieo sương xuống. Mây hãy mưa đấng cứu chuộc. Đất hãy mở ra, và làm mọc lên “Đấng Cứu tinh“.
“Lạy Chúa, là mục tử nhà Israel, Chúa là đấng hướng đạo dân Người. Xin đến mà chuộc lấy, trong uy quyền cánh tay của Chúa. Chúa ơi! Người hãy đến, đến cứu độ chúng con“… (LM NS Hoàng Kim)
Phần con, một người tự nhận tin vào Chúa, con có thực sự canh thức như người giúp việc đợi chủ trở về để mở cửa? Con có sẵn sàng tỉnh thức để biết phòng chống lại kẻ trộm linh hồn con đến, lôi kéo con vào thế giới của nền văn minh sự chết?
Xin Chúa cho con nhân mùa Vọng này, biết đổi mới con người mình, canh tân đời sống, tỉnh thức và sẵn sàng. Quyết ”lọai bỏ những việc làm đen tối, cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” hầu đón nhận được ơn giải thóat và bình an Chúa hứa ban. Amen.