Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 2-A Bài 51-100: Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến ------------------------------------ Phúc Âm: Mt 3, 1-12: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Ngày ấy, Gioan Tẩy Giả đến giảng trong hoang địa xứ Giuđêa rằng: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Chính ông là người mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: "Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng". Bởi vì chính Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Bấy giờ dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan. Thấy có một số đông người biệt phái và văn nhân cũng đến xin chịu phép rửa, thì Gioan bảo rằng: "Hỡi nòi rắn độc, ai bảo các ngươi trốn lánh cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối. Chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng ta là Abraham. Vì ta bảo cho các ngươi hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Ðây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, để các ngươi được lòng sám hối; còn Ðấng sẽ đến sau tôi có quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách giày Người. Chính Ðấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt". - Ðó là lời Chúa.
Để hiểu đoạn văn của tiên tri Isaia trích dẫn ở đây, phải nhớ rằng não trạng Do Thái bị đánh: MV 2-A51
Để hiểu đoạn văn của tiên tri Isaia trích dẫn ở đây, phải nhớ rằng não trạng Do Thái bị đánh dấu sâu xa bởi kinh nghiệm về sự Xuất Hành. Cuộc Xuất Hành đầu tiên là vụ trốn thoát khỏi Ai Cập. Nhưng về sau, dân Israel còn trải qua những cuộc lưu đầy khác, theo sau là những cuộc giải phóng, những vụ Xuất Hành mới. Ở đây lời tiên tri của Isaia liên quan đến cuộc giải thoát khỏi ách thống trị Babylone. Cũng như xưa khi ra khỏi Ai Cập, Do Thái sẽ phải đi qua sa mạc, sa mạc Syria.
Theo Isaia thì tiếng kêu hiệu triệu rằng phải dọn cho Chúa một con đường trong sa mạc. Còn theo Gioan Tẩy Giả, đó lại là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường cho Chúa. Hai cách nói trên không chống nghịch nhau, nhưng bổ túc cho nhau. Nếu biết rằng não trạng Kitô giáo được đánh dấu sâu xa bởi kinh nghiệm trở về với Chúa, bởi cuộc ‘xuất hành thiêng liêng’, người ta có thể chấp nhận rằng tiếng Chúa gọi giữa loài người thường giống như một tiếng kêu trong sa mạc, nhưng đàng khác người ta kinh nghiệm rằng, nếu biết nghe tiếng ấy, thì cuộc trở về với Chúa, nghĩa là sự trở lại, gồm có những giai đoạn ‘lột xác’ trong sa mạc, từ bỏ, trần trụi. Song không được ngã lòng, bởi vì tiếng Chúa là tiếng loan báo Tin Mừng, loan báo Tự Do.
Trong cách thức hành động của Gioan, ta hãy nêu ra hai điểm:
1) Người làm phép rửa trong giòng sông Giođan. Nghi thức tẩy rửa với nước, từ việc rửa tay đến việc tắm gội toàn thân, là một tục lệ thông thường của người Do Thái và nơi các dân tộc khác. Nghi thức đó có ý nghĩa tôn giáo. Mối nguy mà Gioan nói tới, là ở chỗ tin rằng chỉ cần làm nghi thức là có thể coi mình đã trong sạch rồi. Dù vậy Gioan vẫn không coi thường nghi thức ấy, vẫn áp dụng, vẫn làm phép rửa.
Phép Thánh Tẩy Kitô giáo sử dụng nước để rửa, như một dấu hiệu. Con người hiện đại dễ coi khinh các dấu hiệu bên ngoài. Cần phải nhấn mạnh với họ rằng những yếu tố hình thức cho phép đi tới những thực tại sâu xa, miễn là được áp dụng trong một số điều kiện nào đó. Bí tích là những dấu hiệu của một thực tại thiêng liêng; bí tích biểu hiệu bên ngoài điều mà ơn sủng thể hiện bên trong.
2) Phép rửa Gioan kèm theo việc tự cáo tội. Đó là một việc bề ngoài. Thiên Chúa thấy tận thâm sâu của cõi lòng ta, và chính là trong chỗ thầm kín đó mà Người thôi thúc, cật vấn con người. Mà nếu nhìn vào đáy sâu của lương tâm mình, nó không thể không thấy mình khốn nạn. Lúc đó hoặc là nó trở nên mù quáng, hoặc ngã lòng, hoặc sẽ cầu xin Chúa thanh tẩy mình. Chúa thanh tẩy và giúp đỡ con người thành thực có lòng ao ước ra khỏi vòng tội lỗi. Đó là một kinh nghiệm khởi đầu và đi theo suốt cuộc đời người Kitô hữu.
Ông Khấu Chuẩn thuở nhỏ tính hay du đãng, không giữ lễ phép, lại thích chơi chim chơi cho: MV 2-A52
Ông Khấu Chuẩn thuở nhỏ tính hay du đãng, không giữ lễ phép, lại thích chơi chim chơi chó. Bà mẹ vốn là người nghiêm khắc thấy con như thế thì quở phạt luôn mà cậu vẫn không chừa.
Một hôm, ông bỏ học đi chơi, bà mẹ giận lắm, cầm quả cân ném trúng chân ông máu chảy đầm đìa. Từ bấy giờ ông không dám lêu lổng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập.
Về sau ông thi đỗ làm quan đến chức tể tướng. Lúc ông quí hiển thì mẹ ông đã tạ thế rồi. Mỗi khi ông sờ đến vết thương ở chân thì ông lại nức nở khóc lóc mà nói rằng: “Chính vết thương này đã làm cho ta nên người”.
Có nhiều dòng nước mắt trong cuộc đời: Có những nước mắt của đau khổ, nước mắt của niềm vui, nước mắt của ly biệt, nước mắt của tiếc thương. Nhưng chỉ có nước mắt của sám hối là có giá trị hơn cả. Nước mắt sám hối khép lại quá khứ để mở cửa tương lai. Nước mắt sám hối rửa sạch tội lỗi để lộ ra ân sủng.
Trong Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy giả đã khơi lên dòng nước mắt ấy: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2). Chính Chúa Giêsu khi bắt đầu cuộc đời rao giảng cũng đã gói trọn sứ điệp nền tảng của Kitô giáo trong lời kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Sám hối là bước khởi đầu và là nền tảng của đời sống đức tin. Một trong những nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo là càng nhận ra sự nhỏ bé yếu đuối của mình, con người càng lớn lên trong ân sủng và tình thương của Chúa. Càng nhận ra thân phận tội lỗi của mình, con người càng dễ cảm thông trước vấp ngã của anh em.
Thiên Chúa không mong chờ nơi con người điều gì khác hơn là tấm lòng sám hối: “Chúa ở bên những người sám hối, và cứu chữa những ai sầu khổ” (Tv 33,19). Chính lòng sám hối chân thành đã đem lại niềm vui cho cả thiên đàng: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 17,7). Toàn bộ Tin Mừng cao rao Đức Giêsu nhân hậu với người tội lỗi.
Tuy nhiên, lòng sám hối đích thực đòi hỏi con người phải có một quyết định dứt khoát. Sám hối, theo truyền thống Kinh Thánh, chính là quay trở lại hoàn toàn theo hướng ngược lại. Sám hối, theo tiếng Hy Lạp “metanoia” có nghĩa là “thay đổi = Meta não trạng = noia”. Như vậy, sám hối đòi hỏi người ta phải triệt để thay đổi: từ tư tưởng cho đến hành động, từ hướng đi cho đến cách sống. Cuộc đời của thánh Phaolô là một kinh nghiệm thật sâu sắc về lòng sám hối, và ngài có đầy uy tín để khuyên bảo chúng ta: “Hãy quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước” (Pl 3, 13b).
Sám hối không chỉ là công việc của cá nhân mà là của cả Giáo hội. Đức Thánh Cha Phaolô VI là vị Giáo Hoàng đầu tiên thay mặt Hội Thánh bày tỏ lòng sám hối: “Nếu có lỗi lầm nào về sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là do lỗi lầm của chúng tôi, chúng tôi thành thật xin Chúa tha thứ và chúng tôi cũng xin anh em bị xúc phạm tha thứ cho chúng tôi”. Đặc biệt, trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã liệt kê rất nhiều lỗi lầm của Giáo hội trong hai thiên niên kỷ qua. Ngài đã công khai cử hành nghi thức sám hối và xin tha thứ hôm 12 tháng 3 năm 2000.
Ngọn lửa sám hối mà Đức Thánh Cha đã thắp lên trong lòng Giáo hội, không chỉ là ánh sáng xua tan bóng đêm tội lỗi, mà còn là sức nóng thôi thúc mỗi người tín hữu Kitô cũng hãy thật lòng sám hối những lỗi lầm của mình xúc phạm đến Chúa và anh em.
Thông thường khi nói tới sám hối thì chúng ta nghĩ tới những người tội lỗi: có tội lỗi thì mới: MV 2-A53
Thông thường khi nói tới sám hối thì chúng ta nghĩ tới những người tội lỗi: có tội lỗi thì mới cần sám hối. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, những người mà Gioan Tẩy giả kêu gọi sám hối không phải là những người tội lỗi, mà là những người “đạo đức”.
Họ là ai ? Thưa là những người thuộc phái Pharisêu và phái Sa đốc. Phái Sa đốc gồm các tư tế, tức là những người chủ sự các lễ nghi, những người nắm giữ quyền cao chức trọng trong đạo, những gương mẫu cho người khác noi theo. Còn phái Pharisêu tuy không phải là những chức sắc trong đạo nhưng là những người có uy tín nhất trong đạo thời ấy, bởi vì tuân giữ lề luật rất chặt chẽ. Nếu dùng kiểu nói thời nay, họ còn “trên cả tuyệt vời”. Thí dụ: luật chỉ buộc ăn chay mỗi năm một ngày vào lễ Đền Tội. Vậy mà có nhiều người Pharisêu ăn chay mỗi tuần 2 ngày (x Lc 18, 12). Như vậy là mỗi năm 104 ngày tức lá gấp 104 lần hơn luật buộc.
Tại sao những người đạo đức mà phải sám hối ? Thưa vì có thể chính cái nếp đạo đức ấy ru ngủ người ta, làm cho người ta tự mãn trong các thói quen đạo đức ấy của mình, dần dần chỉ còn làm “việc đạo đức “ mà không có “ lòng đạo đức”. Nói cách khác chỉ còn hình thức mà không còn tấm lòng, giống như một cái cây sum suê cành lá mà không có hoa quả. Những người phái Sa đốc và Pharisêu, chính là những cây như thế. Bởi đó khi Gioan Tẩy giả thấy họ đến thì ông nổi giận, gọi họ là “nòi rắn độc”, cảnh cáo họ rằng “ cái rìu đã kề sát gốc cây “. Gioan thúc đẩy họ phải sám hối bằng cách “ sinh hoa trái”.
Nếu chỉ xét bề ngoài thì có lẽ chúng ta cũng là những người đạo đức. Tuy không bằng những người phái Sa đốc Pharisêu xưa, nhưng chúng ta cũng đạo đức: đọc kinh sáng tối, dự lễ Chúa nhật đều đặn, tuân giữ mười điều răn Chúa và sáu điều răn Hội Thánh…Nghĩ tới sám hối, chúng ta cho rằng đó là việc của những người rối rắm hôn nhân, những người bỏ mùa Phục sinh, những kẻ giết người, gian dâm, trộm cắp v. v… Phần chúng ta, đã làm đầy đủ các bổn phận và không phạm tội gì trọng, cho nên đâu cần phải sám hối.
Hãy coi chừng: Tuy bề ngoài chúng ta là những cây tốt tươi sum suê cành lá, nhưng biết đâu cái rìu đã kề sát gốc cây, sẵn sàng chặt xuống, bởi vì chúng ta không snh hoa quả.
Nhưng hoa quả là gì ? Thưa đó chính là Tình yêu, cụ thể hơn nữa là những việc yêu thương.
- Tôi vẫn đọc kinh dự lễ thường xuyên. Nhưng tôi có làm những việc đó vì lòng yêu mến Chúa thật không ?
- Tôi sống với người khác một cách an bình, không đụng chạm ai, không làm hại ai. Nhưng tôi có yêu thương họ không, có đoán được những khó khăn và đau khổ họ đang chịu không, có an ủi họ không, có làm gì để giúp đỡ họ không…?
Sống không yêu thương không phải là sống đạo. Giống như một cây hoa mà không có hoa, một cây ăn trái mà không có trái. Bởi vậy, người “đạo đức” cũng phải sám hối, sám hối bằng cách sinh hoa trái, hoa trái chính là những việc yêu thương.
Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì đế quốc La mã đang ở vào thời đại hoàng kim, thời đại: MV 2-A54
Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì đế quốc La mã đang ở vào thời đại hoàng kim, thời đại rực rỡ nhất với uy quyền bành trướng khắp nơi. Vi hoàng đế không phải chỉ cai trị một cách tuyệt đối tại kinh thành La mã, mà còn ở tất cả những quốc gia, những dân tộc nằm trong lãnh địa của mình.
Nếu vị hoàng đế quyết định ghé thăm thủ đô của một thuộc địa xa xôi nào đó, ông ta sẽ sai sứ giả đi trước, có nhiệm vụ báo tin cho dân chúng biết cuộc viếng thăm và đốc thúc họ chuẩn bị đón rước sao cho linh đình và trọng thể. Trong khi chờ đợi, chính vị sứ giả ấy cũng sẽ được tiếp nhận với tất cả vinh dự của mình.
Đúng thế, vào lúc vị Vua tối cao của trời và đất sắp đến thăm hành tinh nhỏ bé này để ở giữa chúng ta, chia sẻ thân phận làm người của chúng ta và nhất là để cứu chuộc chúng ta, Ngài cũng đã chọn lựa cho mình một vị tiên tri, một vị sứ giả, như lời tiên tri Malachia đã loan báo: Này đây, ta sai sứ giả của ta đi trước con để dọn đường cho con.
Lời loan này ám chỉ về Gioan Tẩy giả. Đúng thế, bên bờ sông Giođan, Gioan Tẩy giả đã rao giảng và trao ban phép rửa sám hối cho người Do thái để họ chuẩn bị đón mừng đấng cứu thế: Có tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa, (Mt 3,3), quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Gioan Tẩy giả không bảo họ treo cờ, giăng biểu ngữ hay làm cổng chào, nhưng bảo họ hãy sống tinh thần sám hối, xa lánh tội lỗi, vì tội lỗi chính là những chướng ngại vật ngăn chặn không cho Chúa đến với chúng ta. Nếu không hoán cải, nếu không quay trở về với Chúa, thì này đây, cái dìu đã được đặt dưới gốc cây và cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt và quăng vào lửa. (Mt 3,10).
Ngoài ra, cũng như các vị tiên tri đi trước, Gioan Tẩy giả còn tố cáo sự giả hình và thái độ tự mãn của người Do thái vì cho rằng mình đã có tổ phụ Abraham. (Mt 3,9). Đúng thế, đức tin không phải là một di sản của nòi giống, của chủng tộc, nhưng là một cuộc dấn thân đích thực, một cuộc tự đặt lại vấn đề không lúc nào nguôi. An phận trong ơn gọi là một cạm bẫy không ngừng đối với người Do thái, trong lúc sự hoán cải đích thực đòi hỏi phải luôn canh tân và đổi mới.
Thái độ của người Do thái phải chăng cũng là thái độ của chúng ta, những người luôn tự hào: Tôi là người đạo gốc, tôi là người đạo dòng, tôi giữ đạo từ tấm bé, tôi luôn thuộc về Giáo Hội, tôi xưng tội rước lễ thường xuyên và như vậy đã bảo đảm cho tôi phần rỗi linh hồn.
Gioan trả lời cho chúng ta hay: Không phải là như thế. Chính Chúa Giêsu cũng xác quyết: Thiên Chúa có thể biến những hòn đá trở nên con cháu Abraham. (Mt 3,8). Và như vậy, trong ngày sau hết, con cháu trong nhà sẽ bị quăng ra ngoài, vào chốn tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. (Mt 8,11-12).
Thực vậy, danh hiệu người có đạo mà thôi không đủ để miễn trừ cho chúng ta bổn phận phải sám hối ăn năn, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, nhờ đó thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời. Bởi vì sống là bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, chúng ta sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.
Mùa vọng đã trở về, đây chính là thời gian thuận tiện nhất để chúng ta lắng nghe và thực thi sứ mạng của Gioan Tiền hô: sám hối và canh tân để dọn đường đón mừng Chúa đến, bởi vì tâm tình sám hối chính là bước chân đầu tiên trên con đường trở về cùng Chúa và cõi lòng ăn năn chính là một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ.
Hay như thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Tâm tình sám hối ăn năn chính là sự cộng tác, chính là sự góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Hôm nay, một hình ảnh khẩn thiết được trình bày một cách sống động trước mắt chúng ta. Người ta: MV 2-A55
Hôm nay, một hình ảnh khẩn thiết được trình bày một cách sống động trước mắt chúng ta. Người ta tách vỏ trấu ra khỏi hạt lúa mì bằng cách dùng một chiếc máy tung cả hai lên cao trước một ngọn gió đang thổi, những hạt lúa sẽ rơi xuống những chiếc thúng được đặt sẵn ở phía dưới, trong khi đó toàn bộ vỏ trấu và các thứ rơm rạ bụi bặm sẽ bị gió thổi cuốn bay đi. Vâng, những gì có giá trị thì nằm ở lại, còn những gì vô dụng thì bị gió cuốn trôi đi. Ngọn gió quyết định và tách biệt giữa những hạt lúa tốt và những rác rưởi.
Ðó là cả một hình ảnh đầy ấn tượng và khẩn thiết ! Khẩn thiết đến nỗi người ta sợ rằng những ý nghĩa quan trọng của nó có thể bị mai một đi chăng ! Một điều có thể gây cho chúng ta một cảm giác bất an khi chúng ta cảm nhận được rằng hình ảnh đó muốn ám chỉ cuộc sống của mỗi người chúng ta và câu hỏi được đặt ra ở đây là cuộc sống chúng ta được so sánh với vỏ trấu hay với hạt lúa tốt ! Giữa hạt lúa mì và vỏ trấu thì một thứ có thể tiếp tục tồn tại, còn thứ kia thì không !
Hình ảnh cụ thể trên giúp chúng ta suy tư và nhìn lại chính cuộc sống của mình: Nếu tôi phải đứng trước ngọn gió đang thổi mạnh của Chúa Thánh Thần thì những gì trong đời tôi sẽ còn nằm sót lại ? Ðâu là « hạt lúa mì» của cuộc đời tôi để có thể tồn tại trước án quyết của Thiên Chúa ? Và sau cùng, những gì trong cuộc sống của tôi được coi như những vỏ trấu vô dụng bị gió thổi và cuốn trôi đi như những rác rưởi và chỉ còn đáng quẳng vào lửa mà thiêu đốt đi ?
Những suy tư trên đượm màu sắc nhắc bảo và cảnh cáo một cách nghiêm chỉnh ! Bởi vậy, bằng mọi giá, tôi phải ăn năn hối cải và quay trở lại với Thiên Chúa là chân thiện mỹ tuyệt đối, là nguồn sống vô biên và là cứu cánh đời tôi. Tuy nhiên, theo tâm lý, không một ai trong chúng ta muốn làm bất cứ một điều gì vì bất đắc dĩ hay vì bị cưỡng ép. Nếu một ai đó nói cho tôi hay là tôi đã sống không đúng và nhất thiết tôi phải cải thiện và sửa đổi lại chính mình, tự nhiên một cảm giác bất đồng và phản đối bừng lên trong tôi. Và đó là điều hợp lý, vì nó nói lên tôi là một nhân vị độc lập và có tự do. Vâng, mỗi người trong chúng ta – đàn ông cũng như đàn bà - phải biết rõ là mình phải làm tốt và sống tốt đời mình như thế nào !
Hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau bình tĩnh nhìn kỹ lại hình ảnh «vỏ trấu và hạt lúa mì». Tôi nghĩ rằng đàng sau sự cảnh cáo là lời mời gọi đi khám phá ra một sự nhắn nhủ và hướng dẫn đầy tâm tình yêu thương: Chúng ta phải làm thế nào để đời mình có thể trở nên tốt đẹp và hạnh phúc hơn !
Trước hết, vỏ trấu: Nó không thuộc về hoa màu, nó chỉ là thứ vỏ bao phủ hạt gạo bên trong. Vì thế nó cũng cần thiết để hạt gạo bên trong có thể phát triển, lớn lên và chín mùi. Ý nghĩa được áp dụng vào con người: Theo thiển ý, tôi nghĩ rằng ở đây muốn đề cập tới những đòi hỏi và yêu sách. Vâng, những đòi hỏi mà chúng ta tự đặt ra cho mình hay người khác đặt ra cho chúng ta và chúng ta chấp nhận là chúng ta phải làm theo ý họ. Tuy nhiên, những yêu sách và đòi hỏi đó không đụng chạm trực tiếp vào cốt lõi cuộc sống chúng ta. Chắc hẳn chúng ta đều trải qua kinh nhgiệm là nhiều khi chúng ta khệng khạng chạy theo những đòi hỏi: Anh phải làm cho xong việc này hay anh phải giải quyết gấp chuyện kia, v.v… Ðối với tôi là cả một điều khủng khiếp: trong khi soạn sửa dọn mừng lễ Giáng Sinh mà phải điên đầu vì bao nhiêu chuyện dồn dập, chồng chất hết chuyện này đến chuyện kia: nào là tất tưởi chạy hết cửa hàng này đến cửa hàng kia để chọn mua các thứ quà tặng, nào còn lo phải mua cho được thứ bánh này bánh nọ hay thứ rượu này thứ rượu kia, nào còn bao thư thiếp mừng Giáng Sinh phải viết cho xong chiều nay để gửi cho kịp, v.v… tất cả đã biến những tuần lễ Mùa Vọng trở thành những tuần lễ rộn ràng và vất vả nhất trong năm !
Nhưng thực ra, tất cả những lo lắng đó chỉ thuộc loại thứ yếu. Ðiều quan trọng và chủ yếu ở đây phải là tình trạng tâm hồn chúng ta: An vui, thanh thản, hoan lạc, tin yêu và phó thác ! Vì thế, lời mời gọi hãy ăn năn và hoán cải cuộc sống nhắm tới việc khích lệ và động viên chúng ta phải giải thoát đời mình khỏi những bận tâm và đòi hỏi như thế hay những đòi hỏi tương tự khác. Bởi vì, có nhiều việc chúng ta phải làm và muốn làm, không hề có liên quan đến trọng tâm của cuộc sống chúng ta, nhưng chỉ là những việc thứ yếu và phụ thuộc mà thôi. Có những hoạt động hay những sự việc thoạt nhìn qua tưởng là có giá trị, nhưng khi quan sát và kiểm kê lại kỹ càng thì chỉ là những việc vô ý nghĩa, không đáng quan tâm.
Nhưng việc nhằm tới vấn đề trọng điểm của cuộc sống, có nghĩa là lên đường trở về với nội tâm lòng mình. Vì thế, thái độ ăn năn hối cải chân thành phải được hiểu là phải thực sự quay trở về với lòng mình, với đời sống nội tâm của mình. Cảnh vật thiên nhiên trong mùa đông cũng có thể giúp chúng ta bắt kịp và hiểu rõ được ý nghĩa đó dễ dàng hơn: Cây cối và cỏ hoa rụng hết chiếc lá cuối cùng và thu rút sức sống vào trong chính mình, cuộc sống xem ra như hoàn toàn ngừng phô trương ra bên ngoài để chỉ lưu thông trong chính mình. Cũng thế, đối với con người chúng ta cũng là một điều hữu ích và hợp lý khi chúng ta tìm về nội tâm mình, tìm lại sự an bình thanh thản trong tâm hồn. Khí hậu giá lạnh bên ngoài và những buổi chiều mùa đông dài mời gọi chúng ta hãy để lắng đọng lại những ồn ào của nghề nghiệp trước cửa lòng mình, dĩ nhiên không phải để dẹp bỏ, nhưng là:
• để chúng ta có chút thời giờ rảnh rỗi để suy tư,
• để tạm dừng lại mọi đòi hỏi và mọi lo toan của cuộc sống, hầu có thể trở về với chính mình,
• để có thể tìm gặp được một nơi chỉ có một mình mình tôi, một nơi thực sự chỉ riêng một mình tôi với tôi mà thôi.
Có rất nhiều cách thế để bắt đầu con đường trở về với chính mình. Chẳng hạn: viết thư! Các bạn hãy cố gắng tìm cho mình chút giờ rảnh để có thể yên tĩnh viết thư cho một người thân quen nào đó: Hãy kể cho họ nghe hiện các bạn đang sống thế nào, điều gì đang làm các bạn vui, các bạn đang gặp khó khăn nào, đối với các bạn điều gì đặc biệt quan trọng nhất trong cuộc sống, v.v… Ðàng khác, tôi cũng nghĩ rằng còn có một vài cách thế khác cũng rất quan trọng, có thể giúp chúng ta thực sự trở về với chính mình, như đi gặp gỡ một vị linh hướng để bàn hỏi về tình trạng nội tâm mình hay để xưng tội, hoặc trong những lúc rảnh rỗi cố gắng đi viếng nhà thờ trong giây lát, chỉ đơn giản là để tìm lại cho tâm hồn mình chút thư thái yên tĩnh và để cầu nguyện.
Chắc chắn rằng, con đường trở về với nội tâm của lòng mình không phải luôn luôn là con đường dễ dãi, ai cũng bước đi được. Bởi vì, khi đi trên con đường đó, chúng ta sẽ luôn luôn phải chạm trán với chính sự bất ổn của lòng mình, một sự bất ổn mà bình thường rất được ngụy biện che đậy, mà lý do thường là: còn phải làm điều này điều nọ quan trọng hơn. Ðể có thể tự chủ được trước sự bất ổn của chính mình, đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn. Người ta không có thể dễ dàng đi thẳng vào nguyên nhân của sự bất ổn đó, trái lại tốt nhất là chấp nhận chính cái nguyên nhân đó. Cũng tương tự như nơi sự chín vàng của hạt lúa mì: Ðể có thể loại bỏ được vỏ trấu từng bảo vệ và bao bọc hạt gạo, cần phải kiên nhẫn tạm chấp nhận cái vỏ trấu kia, hầu hạt gạo bên trong có đủ thời gian phát triển và tới hồi chín vàng.
Trong việc cảm nhận được điều chính yếu của cuộc sống chúng ta: Ai bỏ quên điều đó và chỉ chạy lo từ trách nhiệm này đến bổn phận nọ, thì tự cắt đứt giòng nước mát đang tuôn chảy về mình. Hoặc như hình ảnh được bài Tin Mừng hôm nay nói đến: Chính người đó đã tự đặt cái rìu dưới gốc cây của đời mình. Một đàng, không gì có thể làm giảm thiểu được tính chất nghiêm trọng của bài thuyết giáo của Gioan Tẩy Giả. Nhưng đàng khác, theo ý nghĩa của bài thuyết giáo thì ai ăn năn hối cải và tiếp tục hành trình trên con đường trở về với chính mình, người đó cũng có thể dọn đường cho Ðức Chúa, sửa soạn đường cho Người trong chính cuộc đời mình.
«Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến!»> Nhưng Nước Trời sẽ không thể đến gần bất cứ một nơi nào khác hơn là chính nội tâm và chính trọng tâm cuộc đời chúng ta !
Trong các bài Sách Thánh hôm nay có nói nhiều đến các con thú vật. Bài đọc thứ nhất trích trong: MV 2-A56
Trong các bài Sách Thánh hôm nay có nói nhiều đến các con thú vật. Bài đọc thứ nhất trích trong sách tiên tri Isaia nói: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, môt cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thờ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang”. Thật là một cảnh tượng thiên nhiên thanh bình đáng mơ ước. Cảnh tượng đó chỉ có khi Thiên Chúa ngự đến. Đó là dấu chỉ của thời đại Đấng Cứu Thế.
Trong bài Tin mừng, thánh Gioan Baotixita kêu gọi sám hối. Trước những lời rao giảng của thánh nhân, mọi người bị đánh động, lũ lượt kéo đến xin chịu phép rửa sám hối. Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và Sađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ? Các anh hãy sinh hoa quả để tỏ lòng sám hối”. Thánh nhân gọi những người Pharisêu và Sađốc là nòi rắn độc. Thì ra thánh nhân dùng thú vật để chỉ những người sống theo thú tính. Và mời gọi họ sám hối.
Nếu thế thì bên trong chúng ta có những con thú dữ đang ẩn nấp. Vì ta còn nặng thú tính trong nếp sống, trong đối xử với nhau.
Nếu chó sói tham mồi, thì bên trong ta có nhiều con chó sói, lúc nào cũng tham lam muốn chiếm đọat của người khác. Để chiếm đọat, sói phải hung dữ, mưu mẹo, giết chết đối thủ. Người ta đối với nhau nhiều khi độc ác không kém. Vì thế mà một triết gia đã nói: “Người là chó sói đối với người” (Homo homini lupus).
Nếu hổ hung dữ, tấn công, ức hiếp các loài khác, thì bên trong ta cũng có nhiều con hổ, lúc nào cũng muốn thống trị người khác. Và để thống trị, nhiều khi ta thô bạo, tàn nhẫn dùng sức mạnh chèn ép ức hiếp người khác không chút thương tâm.
Nếu rắn độc địa, gian xảo, thì bên trong ta có hàng ổ rắn, luôn bày mưu tính kế độc địa, lừa đảo, hãm hại người khác. Ta phun những nọc độc gian dối, nói hành nói xấu, phao tin thất thiệt, độc địa làm hại người khác.
Hôm nay thánh Gioan Baotixita mời gọi ta hãy sám hối. Sám hối không chỉ là than khóc, nhưng là thay đổi đời sống. Hãy xua đuổi những con thú dữ ra khỏi tâm hồn ta. Hãy xua đuổi thói độc ác để ta trở nên hiền lành dễ thương, thân thiện với mọi người. Hãy diệt trừ thói tham lam để ta sống công bình, lương thiện, vị tha giúp đỡ mọi người. Hãy sống thành thực với nhau. Luôn nghĩ sự thật, nói sự thật và làm sự thật.
Hôm nay giáo xứ Yên Mỹ có hai cử hành quan trọng. Nhà thờ mới được cung hiến và trẻ em được chịu phép Thêm Sức.
Cung hiến nhà thờ là xức dầu thánh hiến nhà thờ cho Thiên Chúa. Khi thánh hiến nhà thờ, ta xin Chúa thánh hiến tâm hồn mọi giáo dân trong xứ, để mỗi tâm hồn trở thành một đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự. Vì thế các tâm hồn phải được tẩy rửa sạch mọi bóng dáng thú dữ, sống hiền lành như con chiên ngoan, như em bé thơ ngây trong trắng.
Chịu phép Thêm Sức là nhận ơn Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa. Chúa Thánh Thần ban sức mạnh biến đổi tâm hồn con người. Việc sám hối không phải dễ dàng, phải có ơn Chúa soi sáng ta mới nhận biết tội lỗi mà sám hối. Việc chừa cải càng khó hơn nữa. Cần phải có ơn sức mạnh của Chúa ta mới quyết tâm từ bỏ con người cũ xấu xa tội lỗi để sống theo con người mới tốt lành thánh thiện.
Xin Chúa giúp cho giáo xứ Yên Mỹ trong năm mới sắp tới, trở thành những con người mới, hiền lành, khiêm nhường, hăng hái làm việc tông đồ, để dọn con đường ngay thẳng cho Chúa ngự đến, và giáo xứ sẽ được tràn đầy ơn phúc của Chúa.
Đường hay đạo là một điều hết sức quan trọng trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống: Trong:MV 2-A57
Đường hay đạo là một điều hết sức quan trọng trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống tự nhiên, chúng ta luôn cần có một con đường để đi, cho dù đó chỉ là một con đường mòn, nhỏ bé đi chăng nữa thì chúng ta vẫn luôn luôn cần đến nó. Không có đường, chúng ta không thể di chuyển, không thể đến được nơi chúng ta muốn đến, cũng như không thể lìa bỏ nơi chúng ta muốn tránh.
Tương tự như thế, trong đời sống thiêng liêng, mỗi người chúng ta cũng rất cần một con đường để Thiên Chúa đến với con người, và để chúng ta có thể đến với Thiên Chúa.
Chính vì thế, sau lời mời gọi chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng trong Chúa Nhật I vừa qua, phụng vụ lời Chúa trong Chúa Nhật II của mùa Vọng này đã mượn lời của thánh Gioan Tiền Hô để mời gọi chúng ta sửa soạn lại con đường trong tâm hồn của chúng ta cho ngay thẳng, chuẩn bị cho việc đón chờ ngày Con Thiên Chúa trở lại.
CON ĐƯỜNG GIÊSU
Con đường mà thánh Gioan Tiền hô mời gọi chúng ta đi vào không phải là một con đường cao vời, xa xôi khiến không ai trong chúng ta có thể đạt tới. Trái lại, con đường đó rất gần với chúng ta. Con đường đó chính là con người của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Trong Tin mừng Gioan, chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14, 6a). Con đường đó chính là con đường của Tin mừng, con đường của thập giá mà chính Con Thiên Chúa trong thân phận con người đã đi qua. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu chính là con đường duy nhất mà Thiên Chúa đã dùng để tỏ mình ra cho chúng ta. Đồng thời, Chúa Giêsu cũng là trung gian duy nhất, để dẫn đưa chúng ta đến với Thiên Chúa. Thế nhưng qua dòng thời gian, mỗi người chúng ta đang ngày càng xa rời con đường có tên gọi là Giêsu, mỗi người chúng ta đang đi trên con đường riêng của mình.
Trong bối cảnh đó, Thánh Gioan kêu gọi: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
SỬA ĐƯỜNG CHO NGAY THẲNG
Con đường ngay thẳng theo tinh thần Tin mừng, con đường mang tên gọi Giêsu, đó là con đường của sự thật, của chân lý. Trong bài đọc một, khi loan báo về Đấng Messia, hình ảnh của Đức Kitô, ngôn sứ Isaia đã nói như sau: “Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe”.
Con người ngay thẳng theo Tin mừng không bao giờ xét đoán sự vật, hay người khác theo suy nghĩ chủ quan của mình. Theo tâm lý tự nhiên, chúng ta dễ dàng áp đặt cách suy nghĩ của mình để đánh giá người khác: “Ai không sống, không làm như tôi là sai”. Thậm chí kể cả những điều chúng ta tận mắt nhìn thấy, nhưng lắm khi vẫn không đúng sự thật, vì có những điều “thấy vậy mà không phải vậy”. Và những nhận xét của chúng ta lắm khi dẫn đến những sự hiểu lầm hết sức nguy hiểm. Vì thế, chúng ta đừng xét đoán, cũng đừng lên án người khác khi không có bổn phận, vì chúng ta không hiểu rõ hết hoàn cảnh của anh chị em mình.
Sự ngay thẳng theo Tin mừng còn đòi hỏi chúng ta không được quanh co dối trá, nhưng “có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5, 37). Chúng ta cũng không được nhân danh bất cứ điều gì để biện hộ cho sự ghen tương, ganh tỵ, ích kỷ của mình. Không biết từ bao giờ, mỗi khi có một lỗi lầm nào đó, là tất cả chúng ta, từ người lớn cho đến trẻ nhỏ ngay lập tức tìm một lý do nào đó để biện hộ cho mình. Chúng ta thường đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho người khác… Chúng ta cứ nói “Tại thế này, tại thế khác”, nhưng không bao giờ đấm ngực và nói “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”, như lời thú nhận mà chúng ta vẫn đọc ở đầu mỗi thánh lễ.
Muốn đi vào con đường có tên gọi là Giêsu, tâm hồn chúng ta phải được tràn đầy Thần Khí của Thiên Chúa như lời ngôn sứ Isaia trong bài đọc một: “Trong ngày ấy, từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi, và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh Thiên Chúa sẽ ngự xuống. Thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa”. Chỉ với sức mạnh của Thần Linh Chúa chúng ta mới có đủ sức đi trọn con đường Giêsu.
XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN HUYNH ĐỆ
Không chỉ thanh tẩy bản thân, lời Chúa còn tiếp tục mời gọi chúng ta xây dựng cộng đoàn chúng ta đang sống thành một cộng đoàn hiệp thông huynh đệ. Thánh Phaolô trong bài đọc hai nhắc bảo chúng ta: “Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Chúa Giêsu đã tiếp nhận anh em để làm rạng danh Thiên Chúa”. Mở rộng vòng tay để đón tiếp tất cả mọi người, theo bản tính tự nhiên, quả thật là điều không phải dễ dàng gì, bởi vì trong thực tế đã có những người từng làm cho chúng ta đau khổ thật nhiều. Do đó, thánh Phaolô muốn chúng ta đón tiếp nhau, không phải vì người đó dễ thương, hợp với ý của chúng ta, nhưng chúng ta cần tiếp đón tất cả mọi người theo gương của chính Chúa Giêsu, Đấng đã nhập thể làm người và đã mở rộng vòng tay đón tiếp hết thảy anh chị em chúng ta. Chúa Giêsu đã đón tiếp tất cả mọi người: từ người đạo đức thánh thiện cho đến kẻ tội lỗi; từ những người khiêm nhu, phó thác cho đến những người yếu đuối năm lần bảy lượt sa ngã, chống đối Ngài, thì Ngài vẫn mở rộng vòng tay chờ đón từng người chúng ta trở về. Thiên Chúa không bao giờ loại trừ bất cứ người nào. Chỉ khi chúng ta mở rộng vòng tay và con tim yêu thương của chúng ta cho hết thảy mọi người như thế, chúng ta mới có thể xứng danh là môn đệ của Thầy Giêsu và làm rạng danh Thiên Chúa.
Tóm lại, con đường của người Kitô hữu chúng ta đó là con đường của Tin mừng, đó là con đường mà Chúa Giêsu đã đi. Muốn được hưởng ơn cứu độ, chúng ta cần phải nhìn vào chính con người của Đức Kitô, suy nghĩ và sống theo giáo huấn của Ngài đã để lại cho chúng ta, vì Đức Kitô chính “là Đường, là Sự Thật và là Sự sống” (Ga 14, 6a), như lời HĐGMVN nhắc nhở chúng ta trong năm phụng vụ mới này. Trong tất cả mọi việc, từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động, chúng ta hãy quy chiếu về Đức Kitô. Xem thử trong trường hợp của tôi, Ngài sẽ nói gì và làm gì? Nhờ đó, mỗi người chúng ta “sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (All). Amen.
Ta hãy ngờ vực. Ta đừng bị lẫm lẫn. Cách nói này không chỉ là câu nói tầm thường chuyển tiếp: MV 2-A58
Ta hãy ngờ vực. Ta đừng bị lẫm lẫn. Cách nói này không chỉ là câu nói tầm thường chuyển tiếp theo thói quen: Nhưng ngày mà Matthêu muốn nói đến là những ngày quyết định.:. Có một sự khẩn trương đang đến gần. Ngày mai thì quá trễ rồi. Đó là ngày N, đó là Giờ G sắ đến ngay bây giờ.
Ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng
Nếu ta đọc Matthêu như những người đọc ông ban đầu, không biết đến Tin Mừng Luca (trong đó Gioan Tẩy Giả đã choán hết thời thơ ấu của Đức Giêsu), thì mọi chuyện diễn ra ở đây như thể chúng ta đang chứng kiến một ‘khởi đầu tuyệt đối’: “Hồi ấy, Gioan Tẩy Giả đến”. Giáo Hội sơ khai khi ấy bắt đầu Tin Mừng trực tiếp bằng hoạt động của Gioan Tẩy Giả (Cv 10,37; Mc 1,4; Ga 1,19). Những Tin Mừng thời thơ ấu chỉ được đưa vào sau này, như một thứ dẫn nhập thần học trước.
Ta hãy thử tưởng tượng mình vào trong sa mạc này ở bên bờ sông Giođan. Tất cả lịch sử Kitô giáo bắt đầu bằng tiếng kêu của Gioan:
“Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”
Đấy là chuyện “khẩn trương”. Đấy là “Tin Mừng” Thiên Chúa sắp ngự trị.
Ta đang ở vào mùa thu năm 27, có thể như thế. Ta khó tưởng tượng ra một “tiếng kêu” như thế sẽ gợi ra chuyện gì Đối với những người vào thời đó, thì nó có tác dụng như một trái bom. Đấy là một chàng điên nói... hay nếu đúng thế, thì đấy là cả một sự chờ đợi hừng hực của Do Thái sắp được mãn nguyện: một “chồi non của cội nguồn Đavít sẽ nảy sinh”; “một nhánh lá, một hy vọng điên cuồng”; “Người sẽ dùng công lý phán xét những kẻ bé mọn”; “một nền hòa bình phổ quát và dứt khoát sẽ thành hình trên mặt đất: Sói sẽ ở với chiên. Sư tử và bò cùng ăn cỏ với nhau, trẻ thơ sẽ vui đùa trên ổ rắn hổ mang”; “sẽ không còn sự ác nữa”; “mọi người sê nhận biết Thiên Chúa” (Is 11,1-10).
Chính đó là tin vui: đấy là “Tin Mừng”, là “loan báo tốt lành”; “eu-angelion” trong tiếng Hy Lạp, “besôrâ” trong tiếng Do Thái. Đó là “tin lành” mà, trong hai năm Đức Giêsu đến lượt Người bắt đầu kêu lên. Đó chính là cùng một thứ tin vui mà Đức Giêsu rao giảng (Mt 4,17). Thiên Chúa đến gần rồi. Thiên Chúa ở giữa người ta, Thiên Chúa ở trên đường đi, Nước Người đang đến gần! Hãy đến! Hãy đến! Chớ chi Nước người ngự đến! Chớ chi tình yêu Người đến! Chớ gì hòa bình đến! Chớ chi công lý đến! Tất cả những của cải mà loài người khát mong.
Tất cả đều ở đó! Gioan Tẩy Giả nói. Ta hiểu rằng cái “tin” này không thể để cho ai còn dửng dưng được. Còn tôi, tôi có phải là một người khát khao không? Tôi có biết phát hiện ra trong thế giới thực tế mỗi ngày, tất cả những khát vọng sâu xa này không? Cái “mong chờ” này không?
Nhưng, chú ý! chú ý! Gioan Tẩy Giả kêu lên. Đừng chỉ mong chờ, khát khao suông. Hãy xây dựng “Nước Thiên Chúa” này, hãy làm đi. Đi đi, lên đường đi, hãy năng động, hãy sám hối; hãy thay đổi!
Gioan chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong sa mạc. Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi”.
Lạy Chúa, chúng con được “giải ngũ”, chính chúng con, so với những người kia, thế đấy! Chúng con đã làm dịu bớt Tin Mừng. Chúng con đã làm cho Tin Mừng thành một sức mạnh “truyền không”. “bảo thủ” quá khứ. Và khi đó chính là niềm hy vọng lớn lao của quần chung muốn biến đổi xã hội. Thế thì chúng ta hãy cứ lạ lùng trước các chủ nghĩa vô thần hiện đại đã đến tiếp sức khi chúng ta bỏ chạy: “đó là cuộc đấu. tranh cuối cùng. Chúng ta hãy tập hợp lại và ngày mai cuộc đấu tranh quốc tế sẽ là loài người?, là Kitô hữu, chúng ta có say mê xâydựng một thành thị mới không? Chúa chúng ta không phải chỉ “ở trên cao”, Người “ở phía trước”. Người đến, người gần quá rồi; bạn hãy làm cho Người đến, hãy dọn đường cho Người!
Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.
Đó là một “tay cứng cỏi”, một “anh chàng nổi tiếng”, cái gã đó, đã kêu lên: “hãy sám hối”. Chính bản thân anh, anh ta đã bắt đầu thực hiện. Anh ta sống một cuộc đời đạm bạc, sơ khai, hợp với môi sinh một cách lành mạnh từ lâu rồi: Không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, hay dư cholesterol!
Khi đó người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê đến với ông.
Chốn hoang mạc này đang đầy nghịt những đám đông! Nó sống lại! Chốn hoang mạc ở chỗ bờ sông Giođan này trở thành một trung tâm, khởi động một phong trào từ khắp nơi: từ thành thị (Giêrusalem!) ở phía Tây, miền thôn dã (sông Giođan!) ở phía Đông.
Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trên sông Giođan.
Vâng đúng là hoang mạc tâm hồn bỗng nhiên bắt đầu sống lại trong khiêm tốn và sám hối. “Thay đổi xã hội” không chưa đủ nhưng cũng phải thay đổi chính bản thân mình. Thời gian của Mùa Vọng trước hết không phải thời gian bày ra những mặt hàng đầy thực phẩm và tặng phẩm. Chính là thời gian trở về lòng mình. Thời gian Mùa Vọng trước hết không phải thời mơ mộng của những bé ngoan: đó là thời gian ‘phải quyết định’. Đối với truyền thống Kinh Thánh: “sám hối” chính là quay trở lại hoàn toàn để đi theo chiều hướng ngược lại với chiều mà ta đã đi theo. Tiếng La tinh “conversio”, từ đó mới có tiếng “conversion”, phiên dịch tiếng Hy Lạp “metanoia”, có nghĩa theo sát chữ là: ‘thay đổi’= meta, ‘não trạng’= noia’. Và hai từ này phiên dịch tiếng Do Thái “shub”, đặc trưng về rao giảng có tính ngôn sứ. Mùa Vọng năm nay, đối với tôi, phải chăng sẽ là một thời gian ‘trở lại’, một thời gian ‘canh tân’, một thời gian ‘thay đổi’, một thời gian ‘sám hối’? Hay là phải chăng tôi cứ tiếp tục cuộc đời rong ruổi của tôi, đôi chân rúc vào đôi giày bố xó nhà, và ngồi ghế bành thoải mái bên tách cà phê? Khi nghe loan báo “Tin mừng về Nước Thiên Chúa đã gần kề, người người thời đó chạy bộ tuồn đến hoang mạc, và nhận ra tội lỗi của mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao? Phải chăng lương tâm của ta có lẽ không bị va chạm với tội lỗi? Chúng ta có lẽ bị mù quáng chăng? Có lẽ chúng ta thiếu một sự trong sáng cơ bản nhất? Để chuẩn bị cho con đường Giáng sinh, ta có “nhận ra” điều xấu trong ta không? Và đón nhận “nhiệm tích thánh tẩy thứ hai”, nhiệm tích kỳ diệu của hòa giải không? Hay là có lẽ ta giống như người Pharisêu và Xa-đốc chăng?
Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa. ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia. ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa kết quả đế chứng tỏ lòng sáng hối “. Đấng tưởng có thế bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì tôi nói cho các anh hay, “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham”.
Khi có một điều gì hoàn toàn mới đang bắt đầu đối với tất cả những người sáng suốt, thì một số người nào đó lại không “động đậy”, dù một cách lầm lẫn, bọ đã trấn an mình bằng những điều chắc chắn: nhưng cứ xem kìa, chính họ, chẳng có gì thay đổi nơi họ, họ thuộc “chủng người được tuyển chọn”.
Họ tưởng là mình tự do. Họ không nhận thức được rằng họ chịu ảnh hưởng của “một người khác”. Một người bí nhiệm chống lại dự tính về Nước Thiên Chúa trên họ: Một người “không được nhận dạng”. “Ai” đã chứng minh cho bạn cách thoát khỏi Thiên Chúa? Kẻ đối phương là người không lộ mặt đối mặt, nhưng hành động không cho ai biết. Gioan Tẩy Giả đã lột mặt nạ của hắn: chính là Con Rắn tứ thời Eva, đã xúi đàn ông và đàn bà cứ ăn trái cấm không có gì liều lĩnh đâu; và đã biến đổi một cách tinh ma tất cả những người nghe nó thành “nòi rắn” (St 3,15), thành “nòi rắn độc” (Mt 3,7). Không “trở lại”, thì chính là thần phục “nòi kia”.
Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.
Khẩn cấp! Khẩn cấp! Ta hãy mau lên!
Chỉ nữa giây, lưỡi dao sắc bén của cây rìu sẽ làm cho cây đổ máu và hạ nó xuống, để quăng vào lửa, cái cây vô ích kia không sinh hoa trái. Và chúng ta hé thấy số phận của “cây vả không sinh sản” trên đường Giêrusalem, hai năm sau (Mt 21,18). Lạy Chúa, xin giúp con sản sinh được những quả “tốt”.
Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và Lửa.
“Người ngự đến... còn mạnh mẽ hơn” (x. Mc 1,7; Lc 3,16). ở nơi Gioan Tẩy Giả, người cuối cùng trong các ngôn sứ, đấy không phải là một tuyên ngôn khiêm tốn: Tôi không đáng là đầy tớ của Người; chính là một tuyên ngôn đức tin: “Người ngự đến, đó là một linh thể” đó là Vua của Nước Thiên Chúa, đó là phán quan thời thế mạt, đã mặc lấy cơn lôi đình của Thiên Chúa chống lại cái ác.
Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu và kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.
Những hình ảnh Kinh Thánh truyền thống để chỉ về Ngày Phán xét! Cuộc phán xét chỉ dành cho một mình Thiên Chúa! Và tất cả bối cảnh của truyện kể buộc chúng ta phải nhận diện. “Người” ngự đến là chính Đức Giêsu! Tuyên ngôn thuộc lãnh vực thần học. Sân rê lúa là nơi phân biệt hẳn ‘lúa mì’ và ‘trấu'. Một thứ thì đem vào lẫm, còn thứ kia chỉ đáng bỏ vào lửa. Xấu và Tốt không thể đánh đồng với nhau. Ai có dị ứng khi “xưng thú tội lỗi mình”, nếu người đó nhận thức ra, hắn sẽ đắn đo khi phải nhận các trọng lượng nhẹ nhõm của cái vỏ trấu phù du, thay vì làm “lúa mì”.
Chính dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh sẽ đến trong ngày quang lâm mà ta khai mạc mùa Vọng: MV 2-A59
Chính dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh sẽ đến trong ngày quang lâm mà ta khai mạc mùa Vọng này. Cũng chính dưới ánh sáng ấy, với thánh Matthêu, ta cùng đến vào thời đầu sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Một câu nói đủ gợi lên sự nhập vai của Gioan: “Vào những ngày ấy, Gioan xuất hiện, loan báo trong hoang địa rằng: Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần” Vào lúc ấy một công thức báo trước một giai đoạn mới. Một bắt đầu mới. “... Gioan xuất hiện”
Sự bắt đầu mới này loan báo việc nhập vai của Gioan, giới thiệu sự xuất hiện của Đức Giêsu, trong câu 3,13: “Bấy giờ, Đức Giêsu đến từ Galilêa, xuất hiện bên bờ sông Giôđan”.
Ở đây, Gioan nhận lấy biệt danh: Tẩy Giả (người làm phép rửa), danh hiệu xếp ông vào vòng ảnh hưởng những nhóm tu sĩ thực hành nghi thức làm phép rửa, vào thời Đức Giêsu; một nghi thức mà các Kitô hữu sẽ du nhập. Và có thể đó là dấu vết của sự căng thẳng liên lỉ, mãi cho tới thời thánh Matthêu, giữa một số môn đồ của Gioan Tẩy Giả và cộng đoàn các môn đệ Đức Gìêsu?
Ông loan báo trong hoang địa xứ Giuđê.Trong ký ức tập thể của dân Israel, hoang địa là nơi thử thách, nhưng cũng là nơi tình nghĩa cha con của Thiên Chúa, và là nơi của mọi khởi đầu. Chỉ cần gợi lại bốn mươi năm vượt qua sa mạc, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của tiên tri cha trên đường về nơi Herob, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của Đức Giêsu nơi hoang địa, bắt đầu sứ vụ của Ngài.
Ông loan báo điều gì? “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Thiên Chúa đã gần đến. Trọng tâm của lời giảng của Gioan Tẩy Giả, trong Phúc âm Matthêu, cũng sẽ là trọng tâm của lời công bố của Chúa Giêsu (Mt 4,l7), cũng như sẽ là trọng tâm lời rao giảng của Giáo Hội, theo Tông đồ Công vụ 10,7. Điều Gioan loan báo đã là Phúc âm rồi: Phúc âm của Đức Kitô, Phúc âm của Giáo Hội Ngài. Từ nay, theo sự hướng dẫn của Matthêu, chúng ta có thể hiểu con người của hoang địa này hơn, ngài vừa nhập vai mở màn cho một đoạn mới của lịch sử ơn cứu độ
Vấn đề một tiên tri mà sứ mạng làm trọn lời tiên báo của Isaia 40: trong sa mạc có tiếng kêu: Hãy dọn đường Chúa, hãy săn phẳng lối Ngài”. Cl. Tassin chú giải: “Ngày xưa, Isracl sinh ra từ hoang địa trong cuộc xuất Hành, rồi từ chuyến trở về từ nơi lưu đày. Ngày nay, phải tái sinh nhờ lắng nghe lời tiên tri, và phải dọn đường Chúa đến. Chính Đức Giêsu sẽ làm gương qua việc Ngài chịu phép rửa và thời gian ở trong hoang địa”
“Y phục ngài bằng lông lạc đà, nghệ thuật làm tượng thường trình bày như thế, có thể là rất lạ lùng đối với chứng ta ngày nay. Vào thời đó, nó có giá trị biểu tượng rất lớn, bởi vì nó gợi nhớ y phục của Elia (xem sách Các Vua, quyển thứ hai 1,8), mà theo truyền thống Do Thái, sự trở lại phải mở đầu cho chính Đấng Cứu Thế đến (xem Mt 11,4).
Còn sự toả lan ra của lời giảng của ngài, thì cũng giống như của Đức Giêsu trong câu 4,23-25, “Giêrusalem, tất cả xứ Giuđêa và khắp miền sông Giođan”. Theo lời kêu gọi của tiên tri trong sa mạc, một dân tộc tội lỗi sẽ đến dìm mình trong dòng nước mà ngày xưa họ đã vượt qua để vào Đất Hứa: “Họ để ông làm phép rửa trong sông Giôđan khi nhìn nhận tội lỗi họ. Đó là một khởi đầu mới, một sự sinh thành mới được chuẩn bị kỹ lưỡng. Jean Perron kết luận trong “Lire la Bible”, số 52, trang 14-15: “Thu tóm trong chính mình tất cả những tiên tri từ thời Elia, Đấng tiền hô rõ ràng lời tiên tri sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo; kết thúc tiên tri và mở đầu Phúc âm, ngài là bản lề nối kết Cựu ước và Tân ước”.
2. Sự cấp bách trở về.
Sau khi đưa ra một cái nhìn tổng quát về những đám đông tuốn đến sông Giođan, tác giả Phúc âm kể ra những loại người đặc biệt: “Những người biệt phái và những người Sađuceo” đến “chịu phép rửa” rất đông?
Xuất thân từ giới bình dân, danh xưng biệt phái (Pharisêu) chỉ “những người tách biệt”, “những người tinh sạch”, họ rất lo lắng đến sự tinh sạch và tuân theo lề luật đó cũng là một khuynh hướng nệ luật triệt để và nẹ hình thức tôn giáo.
Xuất thân từ giới thượng lưu và tư tế, những người thuộc phái Saduceo, đồng minh với trật tự đã được thiết lập, chấp nhận sự có mặt của người Roma, khác với những người biệt phái, nỗi tiếng bảo thủ trong vấn đề tôn giáo. Tuy hoàn toàn đối lập họ với nhau, hai nhóm tôn giáo này cùng có mặt ở đây, cùng đi về sông Giođan theo lời kêu gọi của Gioan, cũng như chẳng bao lâu sau, họ sẽ cùng liên kết với nhau để bắt bẻ Đức Giêsu Nagiarét. Vị tiên tri của sa mạc không nể nang họ. Vừa nhìn thấy họ, ông đã mạt sát: “Hỡi loài rắn độc” nghĩa là: “những môi miệng chỉ tuôn ra những lời độc địa”, ai đã chỉ dạy cho các ngươi tránh khỏi cơn thịnh nộ sắp tới?”. Liệu những con người độc địa, túi tiết ra nọc độc có thể thoát khỏi sự phán xét sắp tới của Thiên Chúa không? Lời nói nghiêm khắc nhắm vào họ tựu trung ở hai điểm, bằng một lời đe doạ tương tự như nhau: ở câu 10, “cái rìu đã ở kề gốc cây”, và ở câu 12, “tay Người cầm nia”.
Điểm thứ nhất là một lời khuyến khích “sinh hoa kết quả”, một hoa trái diễn tả sự trở về của các anh”. Kêu nài đến Abraham cũng không ích lợi gì cả. “Con cái đích thực của Abraham” không phải là những người nói hay nghĩ những điều đúng đắn về Thiên Chúa, mà là những người sống theo ý Thiên Chúa. Cl. Tassin chú giải: “Như thế, trái ngược với một phép rửa cứu thoát một cách tự động, Gioan đòi phải có một sự trở lại thục sự (OC. trang 40).
Sau cùng, trong điểm thứ hai, Gioan trình bày phép rửa “trong nước dẫn đến sự trở lại” như để chuẩn bị cho một phép rửa khác, một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. Bởi vì kẻ “đến sau ông (một từ ngữ chỉ môn đệ), thực ra lại “mạnh mẽ” hơn ông. Đến độ Gioan nhìn nhận rằng mình “không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”, là nhiệm vụ dành riêng cho người nô lệ. Gioan Tẩy Giả đã khiêm nhường tự xoá mình đi trước Đấng mà ông đâ nhận nhiệm vụ dọn đường.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Không thể có Phúc Âm hóa mà không có sự trở lại.
“Gioan chất vấn bằng lời nói, nhưng cũng bằng cách sống của ông: hoang địa, y phục, lương thực... Chính cuộc sống của ông đặt vấn đề và lôi cuốn. Sau này, Đức Giêsu nhắc lại điều đó: “Các ông nhìn thấy gì nơi hoang địa. Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy thì các ông thấy gì? Một người ăn mặc lịch sự sang trọng ư? Nhưng những người ăn mặc lịch sự sang trọng thì ở trong cung điện nhà vua” (11,7-8). Tiên tri là người đầu tiên phải trở lại. Trước khi loan báo Nước Trời cho người khác, chính ông phải sẵn sàng đón tiếp Nước ấy. Không thể nào loan báo cho người khác nếu chính mình không hồi tâm trở lại, bởi vì đó không phải chỉ đơn thuần là chuyển giao một kiến thức. Thông tin về Nước Trời chỉ có thể được tiếp nhận bởi người nào chấp nhận biến đổi đời mình:
Hãy ăn năn thống hối Nước Trời đã gần đến. Không ăn năn trở lại, thì Nước Trời vẫn ở ngoài cửa mà thôi. Chúng ta cần nghe lại sứ điệp của Gioan Tẩy Giả. Trong một thế giới mà việc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa là nước không được nhận biết, không được chấp nhận, thì không được quên rằng, sẽ không được Phúc âm hoá nếu không có sự ăn năn trở lại của người loan báo, cũng như của người lắng nghe Phúc âm. Chúng ta luôn luôn phải chạm trán với sự không tin hay với sự thờ ơ? dửng dưng. Chúng thách thức ta phải kiểm điểm lại sự trung thành với Phúc âm, trình bày Phúc âm không phai là một giáo huấn đơn thuần cho trí hiểu nhưng là một lời mời gọi biến đổi đời mình. Bởi vì Phúc âm là sức mạnh đổi mới, hướng dẫn đời sống một cách khác. Phúc âm khơi gợi một sự ý thức về tội lỗi một ý chí muốn thay đổi cuộc sống. Đó là ý nghĩa của phép rửa của Gioan: trong khi xưng thú tội lỗi, họ để ông làm phép rửa trong sông Giođan”.
2. Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận.
Gioan không rào trước đón sau, mắng nhiếc thậm tệ những người đến với ông. Chúng ta có thể nghĩ rằng những người đến với ông đều tỏ ra thiện chí. Bởi vì họ đã bước xuống nước sông Giođan. Bởi vì họ đã dầm mình xuống dòng sông thanh tẩy. Nhưng không đúng thế.
Nghi thức tự nó không đủ. Chính con tim và cách sống mới can hệ. Và khi Thiên Chúa đến thì sẽ là phép rửa bằng lửa: một ngọn lửa tinh luyện và đức rèn. Một ngọn lửa thiêu đốt thế giới. Một ngọn lửa cháy lên huy hoàng vinh quang. Chúng ta thấy đó: không phải là vấn đề giả bộ. Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận. Và nhất là, nếu chúng ta để Thiên Chúa hành động thì Ngài sẽ cho thực hiện các phép lạ. Các bạn sẽ sản xuất ra nhiều hoa trái một cách dồi dào phong phú, các kho lẫm trên trời se đầy tràn chan chứa. Nhưng trước tiên, các bạn hãy ăn năn trở lại! Hãy từ bỏ sự tự mãn! Hãy để Thiên Chúa tràn ngập các bạn và đốt lửa lên trong lòng các bạn! Các bạn hãy thành thật đi! Đừng tìm cách đánh lừa, Thiên Chúa, hãy từ bỏ sự bảo đảm dựa trên các tập quán để mở rộng con tim các bạn đón nhận những cái mới căn bản của Nước Trời!
Thiên Chúa sẽ tỏ mình cho nhân loại. Việc tỏ mình được các ngôn sứ loan báo: triều đại của: MV 2-A60
Thiên Chúa sẽ tỏ mình cho nhân loại. Việc tỏ mình được các ngôn sứ loan báo: triều đại của Ngài như là một triều đại thịnh vượng, an bình, công lý. Muôn dân nước sẽ sống trong cảnh hòa bình: sói nằm chung với chiên con, trẻ con thò tay vào hang rắn mà không sợ rắn độc cắn vv…Trong Nước Thiên Chúa, người nghèo khó, kẻ thấp bé, người cùng khốn bị đẩy ra bên lề xã hội sẽ được Chúa xét xử công minh, người thấp cổ bé họng có tiếng nói như mọi người và mọi người sẽ được lãnh nhận ơn cứu độ vì Chúa là Đấng công minh, chính trực và hết mực trung thành.
Hình ảnh Nước Thiên Chúa đã được ngôn sứ Isaia mô tả rất đẹp và rất ấn tượng trong bài đọc I như Thiên Chúa sẽ khai sinh một kỷ nguyên công bình vắng bóng bạo lực, hận thù và để củng cố niềm tin, niềm hy vọng vào một triều đại mới ấy, thánh Phaolô trong bài đọc 2 đã viết:” Kinh Thánh qui về Đức Kitô. Thánh Kinh mời gọi mọi người noi gương Chúa “. Do đó, để hướng dẫn nhân loại về mùa vọng, Chúa nhật II, năm A, đã giới thiệu một bộ mặt nổi bật: Thánh Gioan Tẩy Giả. Dù Ngài đã thu hút một số rất đông quần chúng nhưng Ngài không tự giới thiệu mình mà luôn hướng con người đến chỗ nhận biết Đấng Cứu Thế:” Người phải lớn lên còn tôi thì nhỏ lại “.Thánh Gioan Tẩy Giả đã mời gọi con người:
“Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến “ ( Mt 3, 2 ) hoặc “ Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “ ( Mc 1, 15 ). Sám hối là bước đầu cần thiết cho đức tin. Không ai được tự coi mình là người công chính mà không cần sám hối. Ngay các thánh là những người đã tự nhận mình yếu hèn, tội lỗi cần phải sám hối để lãnh nhận ân sủng và sự tha thứ của Chúa. Thánh Phêrô, thánh Phaolô, thánh Augustinô, thánh Charles de Foucauld, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, tất cả đã phải sám hối. Nếu Mađalanêna không khóc lóc, không sám hối thì Hội Thánh đâu có một thánh nữ đã phạm tội nhiều, đã yêu nhiều, nên được tha thứ nhiều… Sám hối triệt để, quay lên Chúa để xin Chúa thứ tha và quay vào mình để nhận ra mình đầy những khiếm khuyết. Làm hòa với Chúa và với anh em là bước đường quan trọng nhất để gặp Chúa. Thánh Phaolô khuyên nhủ mọi người:” Hãy quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước “ ( Pl 3, 13 b ). Do đó, mùa vọng là mùa để noi gương Mẹ Maria suy niệm về việc Nhập Thể của Chúa Giêsu:” Người đã suy nhớ những sự việc đó và suy niệm trong lòng “ ( Lc 1, 29 ). Đọc và suy niệm các Kinh Tiền Tụng mùa phụng vụ Giáng Sinh nhân loại sẽ nhận ra tính sâu xa của Kitô giáo về sự Nhập Thể của con Thiên Chúa, nhờ đó, mỗi người sẽ nhận ra ý nghĩa của việc dọn đường mà thánh Gioan Tiền Hô đã rao giảng, loan báo. Bây giờ chúng ta hãy suy gẫm một đoạn nhỏ trong Kinh Tiền Tụng thứ ba:”…Chính Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mặc lấy nơi chính Người sự yếu đuối của bản tính nhân loại chúng ta và ban cho bản tính hay chết của chúng ta một giá trị bất tử “. Thánh Gioan Tẩy Giả vì thế đã không ngừng hô to, gào to cho mọi người:” Hãy dọn đường cho Chúa. Mở lối cho thẳng để Người đi. Hết mọi người sẽ được chiêm ngưỡng. Vị cứu tinh của Chúa”.
Đón chờ Chúa có nghĩa là xây dựng triều đại của Ngài cách hòa bình, đầy tình thương và bác ái. Chính vì thế, mọi Kitô hữu phải cởi bỏ con người cũ mà mặc lấy Đức Kitô.Và để làm được việc ấy, mọi Kitô hữu và mỗi người chúng ta phải nhờ Chúa Thánh Thần:” Thánh Thần sẽ đổi mới đời sống chúng ta và dẫn đưa chúng ta tới Chúa”.
Chúng ta hãy xây dựng triều đại của Thiên Chúa bằng sự thay đổi đời sống, bằng sự sám hối chân thành để “ Khi Chúa Kitô đến, Người tìm thấy chúng ta đang tỉnh thức và cầu nguyện “.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy mau tới. Maranatha ! Lạy Chúa Giêsu, xin mau tới. Amen.
Mt 3,1-12: 1 Trong những ngày ấy Yoan Tẩy giả xuất thân rao giảng trong sa mạc xứ Yuđê, 2 rằng: "Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên". 3 Ông là người đã được tiên tri Ysaya nói đến rằng:
Tiếng của người hô trong sa mạc:
Hãy dọn đường Chúa. Hãy bạt lối Người đi.
4 Ông Yoan này, có áo lông lạc đà, ngang lưng thì thắt xiêm bằng da thú vật, còn thức ăn của ông là châu chấu và mật ong dại.5 Bấy giờ Yêrusalem và cả xứ Yuddê và khắp vùng giáp cận sông Yorddan trẩy đến với ông 6 và người ta nhờ ông thanh tẩy cho trong sông Yorddan mà xưng thú tội lỗi.
7 Thấy nhiều người Biệt phái và bè Sađoc đến chịu thanh tẩy, thì ông bảo họ: "Nòi rắn độc, ai mách cho các ngươi trốn cơn thịnh nộ hòng đến? 8 Hãy sinh quả phúc đức, xứng với lòng hối cải, 9 đừng tưởng nói được với mình: Ta có cha là Abraham! Ta bảo các ngươi:Thiên Chúa có thể lấy các viên đá này mà gầy nên con cái cho Abraham. 10 Lưỡi rìu đã sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
11 Phần ta, ta thanh tẩy các ngươi bằng nước để lo hối cải; còn Đấng sẽ đến sau ta, quyền thế hơn ta và ta không đáng xách dép cho Ngài; Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Thần và lửa. 12 Cái rê lúa sẵn trong tay, Ngài sẽ sảy sạch lúa sân Ngài; lúa của Ngài, Ngài sẽ thu vào lẫm, còn trấu lép thì Ngài sẽ thiêu lửa không hề tắt".
Matthêô bắt đầu nói về Chúa Giêsu từ chương 3 trong tương quan với Gioan Tẩy Giả (3:1-12).: MV 2-A61
Matthêô bắt đầu nói về Chúa Giêsu từ chương 3 trong tương quan với Gioan Tẩy Giả (3:1-12). Theo sau đoạn nầy là hai biến cố quan trọng: Chúa Giêsu chịu phép rửa (3:13-17), và chịu cám dỗ (4:1-11). Sau đó, sứ vụ của Chúa Giêsu bắt đầu cách chính thức (4:12-17) với lời rao giảng: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (4:17).
Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: - Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3:1-6); - Gioan ngỏ với nhóm Pharisêô và Sađucêô (3:7-10); - Gioan loan báo Đấng sẽ đến và sứ vụ trổi vượt của Người (3:11-12). Chủ đề chính của đoạn nầy là “sám hối”, metanoeô (3:2.8 ) và “phép rửa” baptizô (3:1.7.11[2x]). Gioan rao giảng sự sám hối vì “Nước Trời đã gần đến” (3:2), và ông thanh tẩy bằng nước cho những ai tỏ lòng sám hối (c.11). Chúa Giêsu sẽ xuất hiện ở câu 3:13. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trước khi Người đến để chuẩn bị lòng dân đón tiếp Người.
Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3:1-6): - Gioan xuất hiện và lời rao giảng của ông (3:1-2); - Những đặc tính nơi Gioan (3:3-4); - Dân chúng đến với ông (3:5-7).
Trong hai câu đầu tiên Matthêô giới thiệu ngay khung cảnh, thời gian và lời rao giảng của Gioan (c.1). Gioan xuất hiện (c.1), paraginomai, “đến”, động từ nầy cũng được dùng cho Chúa Giêsu (3:13). Matthêô muốn gắn liền sứ vụ của Gioan vào sứ vụ của Chúa Giêsu (4:17). Chỉ dẫn thời gian “trong những ngày ấy” ám chỉ lúc Gioan xuất hiện Chúa Giêsu đang còn ở Giuđêa (x. 2:1). Khung cảnh “trong sa mạc xứ Giuđêa” đặt con người Gioan và lời loan báo của ông liên hệ đến Isaia người loan báo kế hoạch cứu độ mới của Thiên Chúa cho dân Israel (x. Is 40:1-11).
Lời kêu gọi của Gioan là “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (3:2; 4:17; 10:7)
Đặc điểm của Matthêô là đặt việc sám hối liên hệ với Nước Trời, chứ không trực tiếp với việc tha tội (x. Mc 1:4; Lc 3:3). Động từ metanoeô theo nguyên tự có nghĩa là “thay đổi tâm trí” “thay đổi cách hiểu/cách suy nghĩ”; trong meta-noeô có “meta” có nghĩa là “thay đổi”, “chuyển sang”, “biến đổi” (x. 21:29.32; 17:2); và “noeô” có nghĩa là nhận thức bằng tâm trí, là hiểu biết. Matthêô dùng động từ noeô nầy ở thể phủ định trong lời Chúa Giêsu khiển trách hoặc người Pharisêô hoặc các môn đệ của Người, vì họ không hiểu đúng theo cách của Chúa (x. 15:17; 16:9.11). Liên quan đến động từ metanoeô, trong 11:20-21 Chúa Giêsu trách dân thành Kôrazin và Bêthsaiđa vì họ đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện, nhưng họ không “sám hối”, vì họ đã không hiểu/nhận ra Người là ai dù đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện (x. 11:20.21; 12:41). Cũng thế, trong 12:41 Chúa Giêsu lại khiển trách “thế hệ nầy” vì họ đã không “sám hối” khi nghe lời Người rao giảng. Lý do duy nhất là vì họ không nhận Người là “cao trọng hơn Giôna”.
Cách nói “Nước Trời” là theo cách dùng của người Do thái để tránh gọi tên “Thiên Chúa”. Matthêô dùng nó đến 24 lần, trong khi “Nước Thiên Chúa” chỉ bốn lần (12:28; 19:24; 21:31.43). Ý nghĩa của hai cách nói nầy giống nhau (x. 19:23-24). Động từ “gần đến”, egizô, chỉ một sự kiện tới giai đoạn cuối cùng và sắp hoàn tất. Khi Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem là lúc Người sắp kết thúc của sứ vụ cứu chuộc (21:1; 26:45-46); cũng thế về mùa gặt (21:34). Như thế, “Nước Trời đến gần” là giai đoạn cuối cùng trong chương trình cứu chuộc và không còn một nước nào khác nữa. Nước Trời nầy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy, sám hối là thay đổi cách suy nghĩ để nhận ra Nước Trời đang đến và có điều kiện đi vào Nước Trời. Đó cũng chính là nhận ra và tin vào Chúa Giêsu.
Những đặc tính nơi Gioan (3:3-4)
Câu 3:3 trích dẫn từ phần mở đầu của sách Isaia 40:1-11. Đoạn mở đầu nầy loan báo thời kỳ cứu độ mới cho dân Israel. Tiếng kêu “dọn đường cho Chúa” ngỏ đến một tập thể. Hình ảnh “bạt lối Người đi” nói đến việc tiến vào khải hoàn của một vị vua. Theo sau lời kêu gọi dọn lối sửa đường, Isaia loan báo việc Thiên Chúa đến để cứu độ dân Người (Is 40:4). Matthêô mô tả Gioan Tẩy Giả theo hình tượng của Isaia là thắt lưng bằng da thú vật (3:4; 2 V 1:8) để xác nhận ông là chính là Isaia mà các ngôn sứ loan báo là phải đến trước để dọn đường cho Đấng Kitô (x. 11:14). Như thế sự cứu độ mà Isaia đã loan báo, nay sắp được thực hiện. Như Isaia đã chỉ chuẩn bị đường cho Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả cũng thế. Đấng sắp đến không phải là một ngôn sứ, mà là Thiên Chúa. Tuy nhiên, Gioan còn hơn mọi ngôn sứ thời Cựu ước, khi ông loan báo cùng một sứ điệp Chúa Giêsu và các tông đồ sẽ làm là “Nước Trời đang đến gần” (3:2; 4:17; 10:7). Làm như thế ông được thông phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu thời Tân ước, và được nhận là “còn hơn một ngôn sứ nữa!” (x. 11:9).
Dân chúng đến với ông (3:5-6)
“Tote” “bấy giờ”, mở đầu câu 5, liên kết đoạn nầy lại với câu 3:2. Nghe lời Gioan rao giảng dân chúng kéo đến với ông. Matthêô kể tên Giêrusalem, Giuđêa và vùng dọc theo sông Giorđan (c. 5); nghĩa là cả miền Giuđêa. Khi Chúa Giêsu đến rao giảng, dân chúng sẽ kéo đến với Người, không chỉ từ các vùng nầy mà cả Galilêa và Đêcapolis nữa (4:25). Chú ý ở đây là Matthêô phân biệt “dân chúng từ Giêrusalem” ở đây với “tất cả Giêrusalem với vua Hêrôđê” (x. 2:3). “Tất cả” bấy giờ có cả nhóm Pharisêô và Sađucêô nữa (c. 7). Họ đến để chịu phép rửa tại sông Giorđan trong khi xưng thú tội lỗi (c. 6). Tên Gioan “Tẩy Giả” liên kết với việc thanh tẩy ông làm và sông Giorđan. Việc xưng thú tội của dân chúng được xem là kết quả của lời rao giảng “hãy sám hối” của ông (c. 2; 3:11). Trong Cựu ước sông Giorđan gợi lại giai đoạn sau cùng của thời gian 40 năm lưu lạc trong sa mạc: vượt qua sông để vào đất hứa, theo sự chỉ huy của Giôsuê (Giôsua 3-4). Giôsuê là tên bằng tiếng hipri của cùng tên Giêsu bằng tiếng aramaic. Tên nầy có nghĩa là “Chúa cứu độ” (x. 1:21). Như thế, sông Giorđan có ý nghĩa đặc biệt trong kế đồ cứu chuộc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng sẽ bước xuống sông Giorđan để dẫn đầu cuộc xuất hành mới nầy (3:13-17).
Chúa Giêsu đến để dẫn dân Người vào Nước Trời, chứ không vào bất cứ một đất nước nào. Chỉ ai biết sám hối, nghĩa là thay đổi tâm và trí theo ý Thiên Chúa, mới có thể nhập vào cuộc xuất hành nầy.
Mỗi Mùa vọng về lại như có một cái gì đó thôi thúc con người sám hối canh tân. Mà sao không: MV 2-A62
Mỗi Mùa vọng về lại như có một cái gì đó thôi thúc con người sám hối canh tân. Mà sao không đổi mới sao được khi Chúa Cứu Thế đã giáng sinh vào một đêm đông lạnh giá và Người đã ban hòa bình cho nhân lọai. Lời của các thiên thần năm xưa trên không trung vẫn còn văng vẳng bên tai mọi người:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” ( Lc 2, 14 ). Thiện tâm là con người có tấm lòng ngay chính, tâm hồn khiêm nhu, khiêm tốn, tâm hồn biết hoán cải đổi mới. Và muốn thay đổi phải có người vạch cho con người thấy những lỗi lầm, những thiếu sót cần thay đổi, sám hối và canh tân. Người đó không ai khác chính là Gioan Tẩy Giả:” Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi “( Lc 3, 4 ).
MỘT CON NGƯỜI.MỘT CUỘC ĐỜI: Người ta vẫn ví von, Gioan Tẩy Giả là tiếng kêu, là người gõ mõ để thúc giục cho dân Do Thái, cho con người biết thời gian canh tân, đổi mới, hoán cải. Gioan Tẩy Giả vị ngôn sứ tuyệt vời, đã thấy các nhân vật đạo đời thời Ông sống: Từ Hoàng Đế Tibêriô đến quan tổng trấn Philatô, từ Vua Hêrôđê, Philíp, Lyxaria cho đến các vị thượng tế Hanna và Caipha.Tất cả những con người này đều lòng dạ nham hiểm, xấu xa, lòng đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng hố sâu, núi đồi hiểm trở. Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả luôn nhắc lại lời Isaia:” Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng “ ( Lc 3, 5 ). Thánh nhân kêu gọi con người ăn năn sám hối, sửa sang đường sá. Và con đường quan trọng nhất là con đường vào cõi lòng:” Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi “ . Con người của Gioan Tẩy Giả là làm chứng và dọn đường cho Đấng Mêsia như lời Zacaria tuyên bố:” Này, con trai của ta sẽ được gọi là ngôn sứ của Đấng tối cao, vì con sẽ đi trước Chúa và sửa sọan đường cho Người”. Gioan Tẩy Giả đã làm tròn sứ mạng Thiên Chúa trao phó. Bởi vì, cả cuộc đời của thánh nhân là làm chứng cho Đấng Mêsia. “ Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại “.
HÃY BẮT CHƯỚC THÁNH GIOAN TẨY GIẢ:
Cuộc đời của mỗi người Kitô hữu phải trở nên mới, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Kitô hữu có nghĩa là mặc lấy Đức Kitô, hướng đời sống đến Đức Kitô và tỏ hiện Người cho những người khác. Và để trở thành ngôn sứ của Đấng tối cao, người Kitô hữu phải nói và hành động nhất nhất qui chiếu niềm tin vào Đức Kitô. Thánh Gioan Tẩy Giả đã vì niềm tin, đã vì sự thật, đã vì Đức Kitô mà bị Hêrôđê ra lệnh chặt đầu. Người Kitô hữu phải sống chính sự sống của Đức Kitô:” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Do đó, người Kitô hữu phải nghe giáo huấn của Chúa, phải trân trọng sự dâng hiến Chúa Giêsu đã hoàn toàn dâng lên Thiên Chúa Cha qua cái chết của Người trên thập giá:” Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Gương của thánh Gioan Tẩy Giả luôn thúc giục mỗi người Kitô hữu phải noi gương, bắt chước Ngài. Thánh nhân kêu gọi mọi người phải lấp cho đầy những hố sâu lam, ích kỷ, hẹp hòi, ươn hèn, lười biếng. Phải làm cho cõi lòng mình ngay chính, thẳng ngay. Phải san cho bằng những tự mãn, tự kiêu. Phải bạt cho bằng được những gồ ghề của bất minh, bất chính, bộc trực, gian manh, lừa dối, cong queo. Thánh Gioan Tẩy Giả đã đi trước như chàng thổi tù và loan báo cho nhân lọai, cho mỗi người hãy sám hối, canh tân và tỉnh thức đón chờ Chúa đến. Gioan Tẩy Giả là sứ giả dọn đường cho Chúa đến lần thứ nhất.Mỗi người chúng ta phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến mỗi phút giây, mỗi ngày trong đời sống của chúng ta. Chúa Cứu Thế chỉ có thể tới gặp gỡ con người trong những tâm hồn thẳng ngay, chính trực và ơn cứu độ của Người cũng chỉ được trao ban cho những ai biết mở lòng đón nhận.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết nhìn nhận và sửa chữa lỗi lầm của mình, đồng thời biết cảm thông với những yếu đuối của anh em chúng con. Amen.
Nhân loại khao khát hòa bình. Nhưng lúc nào thế giới cũng căng thẳng vì những mâu thuẫn: MV 2-A63
Nhân loại khao khát hòa bình. Nhưng lúc nào thế giới cũng căng thẳng vì những mâu thuẫn về nhiều phương diện. Ai có thể đem lại cảnh hòa bình trăm họ ? Có thể có hòa bình thực sự trên trái đất không ?
MỘT THÁCH ĐỐ.
Ngôn sứ Isaia đã phác ra một cảnh tượng không thực. Làm sao “sư tử cũng ăn rơm như bò” được ? Cảnh không tưởng đó diễn tả chính xác giấc mộng hòa bình của nhân loại. Mộng bao giờ mới thành sự thật ? Đó là một thách đố. Ngày xưa người Do thái cứ tưởng dòng máu Abraham bảo đảm họ được giải thoát và sống bình an trong Nước Chúa. Nhưng ông Gioan Tẩy giả đã vạch rõ giấc mộng hoang tưởng đó (x. Mt 3:9). Thiên Chúa không bao giờ lệ thuộc bất cứ khuôn khổ nào. Trái lại, muốn thuộc về Dân Chúa, muốn được cứu độ, muốn hưởng hòa bình chân chính, “hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.” (Mt 3:8) Tội lỗi làm tê liệt mọi sinh lực.
Tội lỗi hàng đầu phải kể là bất công. Đó là nguyên nhân mọi xáo trộn và chiến tranh. Chẳng hạn, trong cộng đoàn Giáo hội tiên khởi, đã có bất công trong tương quan giữa giới cắt bì và không cắt bì. Bởi đấy, khi viết Tin Mừng hậu Phục sinh, bận tâm lớn nhất của thánh Mathêu là phải dẹp tan nguy hiểm lớn lao đó. Nếu không, cộng đoàn sẽ sụp đổ. Muốn chấm dứt bất công, “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” (Mt 3:3) Rõ ràng đây là những hình ảnh sống động phác họa những cắc cớ trong tâm tư và tương quan nhân loại. Thánh Gioan Tẩy giả còn mạnh mẽ lên tiếng: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.” (Mt 3:10) Nguy cơ cận kề chấm dứt mọi niềm hi vọng. Bởi thế, muốn sống, “anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 3:2) Sám hối để xứng đáng đón nhận hồng ân lớn lao là Nước Trời. Nước Trời không thể chồng chất những bất công, vì “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 17:17) Nói khác, Nước Trời không phải là vấn đề lợi lộc cá nhân hay tập thể, nhưng là sự công chính làm cho con người sống hòa hợp và vui tươi.
Thực tế, phe nhóm Pharisêu và Xađốc đã làm những gì đến nỗi thánh Gioan chỉ thẳng mặt: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ?” (Mt 3:7) “‘Nòi rắn độc’ không phải chỉ là một từ nguyền rủa, nhưng còn phác họa hình ảnh những ông thày chuyên dạy những điều độc hại, sai lầm và bất công làm hư hoại quần chúng.” (NIB 1995:157) Giữa một xã hội đang được hướng dẫn sai lầm như thế, tất nhiên tận thâm tâm con người phải mong chờ một vị thày quyền thế có sức chuyển núi dời non. Lúc đó thiên hạ đang hướng về ông Gioan. Quả thực, “bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông.” (Mt 3:5) Lời giảng này đã đánh động muôn người, đến nỗi “họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan.” (Mt 3:6)
Nhưng giữa lúc mọi người đặt tất cả niềm hi vọng nơi ông Gioan, thì chính ông lên tiếng: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh bằng nước để giục lòng các anh sám hối.” (Mt 3:11) Oâng đã nhìn thấy giới hạn của chính mình nơi lời giảng và phép rửa. Tất cả chỉ để chuẩn bị cho một nguồn ân sủng vô cùng lớn lao. Vua công chính sắp đến với muôn dân để đem lại cảnh thái bình trăm họ. Quả thế, chính ông Gioan giới thiệu: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh bằng Thánh Thần và bằng lửa.” (Mt 3:11) Thánh Thần chính là lửa Đức Giêsu ném xuống trần gian để thiêu rụi những rơm rác bất công. Quả thực, “Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.” (Is 11:2) Để xây dựng lại trần gian, cả ông Gioan lẫn Đức Giêsu đều bắt đầu bằng lời kêu gọi sám hối. Không sám hối, không thể đón nhận được Nước Thiên Chúa.
Lòng sám hối phải biến thành việc phục vụ. Quả thực, mặc dù là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng đã bị “Thiên Chúa biến thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta.” (2 Cr 5:21) Bởi vậy, Người không còn con đường nào khác để bước vào vinh quang Thiên Chúa ngoài việc phục vụ cho đến chết trên cây thập giá. Quả thế, “Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người.” (Rm 15:8) Phục vụ vô giới hạn. Chính vì thế, Người trở thành nguyên động lực “làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau.” (Rm 15:5) Sự công chính của Thiên Chúa đã đổi mới tương quan nhân loại và trở thành nguyên nhân đưa lại hòa bình và hạnh phúc cho toàn thế giới.
HÒA BÌNH HÔM NAY.
Chưa nhìn ra nguồn hạnh phúc và bình an đó, con người vẫn ngụp lặn trong nỗi lo sợ và hoang mang. Điểm nóng Palestine chưa xong, nhân loại đã phải hồi hộp theo dõi cuộc chiến Afghanistan. Thời chiến tranh lạnh mấy lần thế giới căng thẳng tới tột độ vì hiểm họa nguyên tử. Chưa hết bài toán Cộng sản, nhân loại lại cắm đầu giải quyết vấn nạn các nước Hồi giáo. Nhưng đầu mối gây nên chiến tranh chính là sự bất công thâm căn cố đế trong mọi cơ chế và nếp sống con người. Trước mắt ai cũng tưởng diệt được quân khủng bố, thế giới sẽ vui hưởng hòa bình. Nhưng theo Đức Thượng phụ Michel Sabbah, “đánh bại chủ nghĩa khủng bố phải gắn liền với công lý về kinh tế.” (VietCatholic 30/11/2001) Không phải chỉ có công bằng trong việc phân chia của cải. Hơn nữa, sự bất công còn tràn ngập trong các lãnh vực văn hóa, chính trị, tôn giáo v.v. Aâu Mỹ vẫn tự hào về nền văn minh Tây phương cao vượt hơn tất cả mọi nền văn mình khác trên thế giới. Người da trắng vẫn tự cho mình có quyền bá chủ về mọi phương diện. Các cuộc viện trợ vẫn thường kèm theo ý đồ chính trị. Các cường quốc vẫn tìm cách thống trị ngay cả khi làm việc nhân đạo.
Bởi thế, khi được vực dậy khỏi cảnh bần cùng, người nghèo bỗng thấy mình không còn được làm người nữa. Cảnh người áp bức người phổ biến khắp hoàn cầu. Bất công có nền tảng sâu xa nơi sự chênh lệch về quyền bính và của cải. Đức Thượng Phụ Michel Sabbah cũng đồng ý như thế khi nói: “Sự khác biệt toàn cầu là mối nguy căn bản cho nền an ninh thế giới.” (VietCatholic 30/11/2001) Lối sống ích kỷ và bất công hoàn toàn dựa trên sự khác biệt đó. Chính ĐGH Gioan Phaolô II “đã nhắc nhở mọi người về những thách đố chính chúng ta phải đương đầu hôm nay gồm nền văn hóa hưởng thụ, ích kỷ, và sự chết. Khắp nơi đang phổ biến một lối sống dựa trên nhưng tiêu chuẩn hoàn toàn vật chất, lối sống khuyến khích việc cạnh tranh tiêu thụ.” (CWNews 30/11/2001)
Sự thật đã được phơi bày ra ánh sáng. Nhưng ai dám nhìn thẳng vào sự thật đó ? Nếu nhìn thẳng vào sự thật, người ta sẽ thấy phải canh tân tinh thần đạo đức sâu xa và tìm một hướng sống đem lại hạnh phúc và tự do đích thực. Đó chính là sự# sám hối chân thật. Thực vậy, “sám hối hay thống hối là sự chuyển hướng tinh thần tận căn, từ tình trạng tội lỗi trở về với Thiên Chúa.” (Fahey 1994:19) Muốn sám hối, Kitô hữu cần biết lắng nghe, ngay cả khi phải nghe những điều chói tai. Có chấp nhận người khác như tôi tớ và sứ giả Thiên Chúa ngay cả khi họ không thuộc về cùng cộng đoàn với chúng ta, mới có thể đối thoại với nhau. Từ đó mới có hòa bình lý tưởng như ngôn sứ Isaia đã mơ về thời Thiên sai …
· Is 11,1-10: (3) Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, (4) nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo hèn.
· Rm 15,4-9: (4) Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.
(1) Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê rằng: (2) «Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần». (3) Ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
(4) Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. (5) Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông. (6) Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan. (7) Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: «Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? (8) Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. (9) Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham”. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham. (10) Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. (11) Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. (12) Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Sứ điệp chính của Gioan Tẩy giả là gì? Là sám hối? Nhưng phải hiểu sám hối thế nào? Dựa trên: MV 2-A64
1. Sứ điệp chính của Gioan Tẩy giả là gì? Là sám hối? Nhưng phải hiểu sám hối thế nào? Dựa trên điều gì để biết được một người thật lòng sám hối?
2. Người Pharisêu và Xađốc là những người nắm giềng mối của tôn giáo, được dân chúng coi là gương mẫu về đạo đức, tại sao Gioan Tẩy giả lại gọi họ là «nòi rắn độc»? Ông có quá đáng không?
3. Cách đánh giá của Đức Giêsu và Gioan Tẩy giả về đạo đức và thánh thiện có khác cách thường tình của chúng ta không? Các Ngài đánh giá dựa trên tiêu chuẩn nào? Chúng ta thường dựa trên tiêu chuẩn nào? Suy tư gợi ý:
1. Gioan Tẩy giả kêu gọi sám hối
Gioan Tẩy giả xuất hiện để dọn đường cho Đức Giêsu. Ông chuẩn bị tâm hồn dân chúng để họ xứng đáng đón nhận Nước Trời do Đức Giêsu sắp đến khai mạc. Theo ông, điều tiên quyết phải làm để đón nhận Nước Trời là sám hối: «Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần».
Sám hối là nhận ra sự sai trái của mình đối với đường lối của Thiên Chúa và quyết tâm sửa sai. Sám hối đích thực phải dẫn đến một sự thay đổi toàn diện, một đời sống mới, với quan niệm mới, nhìn mọi sự và suy nghĩ mọi vấn đề theo cung cách mới, phù hợp với cách nhìn .và đường lối của Thiên Chúa. Người nào nói mình sám hối mà đời sống không hề thay đổi, người ấy là người nói dối.
2. Coi chừng! những người tưởng mình là công chính nhiều khi lại cần sám hối hơn ai hết
Điều khiến ta phải lấy làm lạ là thái độ của Gioan Tẩy giả đối với những người Pharisêu và Xađốc. Họ là những người dạy dỗ dân chúng về tôn giáo, về lề luật của Chúa. Họ nắm giữ những giềng mối của tôn giáo Do Thái, và được coi là mô phạm, là gương mẫu cho dân chúng. Họ là những người giữ lề luật một cách rất nhiệm nhặt, chi ly đến từng chi tiết. Vì thế, dưới con mắt loài người, họ rất có lý khi tự hào về sự đạo đức, thánh thiện của mình.
Ta không hề thấy Gioan Tẩy giả nặng lời với bọn gái điếm, thu thuế, vốn bị coi là hạng tội lỗi. Nhưng ông lại rất nặng lời với những người thuộc hai phái đạo đức này. Ông gọi họ là: «nòi rắn độc!» Sự kiện này rất đáng cho chúng ta suy nghĩ. Thông thường, mọi người đều nghĩ: nếu phải dùng từ «nòi rắn độc» để chỉ ai đó, thì bọn thu thuế và gái điếm xứng đáng với từ này nhất. Nhưng Gioan Tẩy giả không nghĩ như vậy. Ông dùng từ độc địa này để gọi chính những người được mọi người coi là đạo đức nhất trong dân chúng. Ông sai lầm chăng? Nếu cho rằng Gioan sai lầm, thì cũng phải cho rằng Đức Giêsu sai lầm luôn khi Ngài nói thẳng với hai nhóm người đạo đức này: «Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông» (Mt 21,31). Rõ ràng hai vị đồng quan điểm với nhau!
3. Đức Giêsu nhìn và đánh giá con người dựa trên tình yêu
Đức Giêsu – cũng như Gioan Tẩy giả – không đánh giá con người theo cách của chúng ta. Ngài nhìn thẳng vào chính tâm hồn con người để đánh giá, chứ không chỉ nhìn vào chức vụ, vào những việc làm tốt đẹp, những nhân đức được tỏ lộ ra bên ngoài ai cũng thấy như chúng ta. Vì thế, rất có thể những người bị chúng ta cho là tội lỗi vì những hành động xấu xa bên ngoài, lại được Ngài đánh giá cao hơn những con người được chúng ta cho là thánh thiện, đạo đức vì những nhân đức hay việc làm tốt lành của họ. Chính vì Ngài đánh giá khác con người, nên Ngài mới báo trước một sự đảo lộn không ngờ vào ngày chung cuộc: «Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên đầu» (Mc 10,31; xem thêm Mt 7,22-23; 8,11-12).
Đức Giêsu đánh giá con người như thế nào? Tiêu chuẩn đánh giá của Ngài chính là tình yêu, tình yêu đích thực, vì bản chất của Ngài chính là tình yêu (x.1Ga 4,8.16). Ai càng có nhiều tình yêu thì càng giống Ngài và càng có giá trị trước mặt Ngài. Do đó, sự thánh thiện hệ tại tình yêu mà con người có trong lòng mình, chứ không hệ tại những nhân đức hay những việc tốt đẹp mà con người làm được. Những thứ này chỉ là biểu hiện tất yếu của tình yêu chứ không phải là tình yêu. Nếu là tình yêu đích thực thì đương nhiên phải được thể hiện thành những nhân đức hay việc làm tốt đẹp. Ai nghĩ hay nói rằng mình có tình yêu, nhưng lại không hề thể hiện tình yêu ấy thành việc làm, thành nhân đức, thì đó là kẻ nói dối hay ảo tưởng.
4. Không có tình yêu, mọi việc tốt đẹp đều vô giá trị trước mặt Thiên Chúa
Tuy nhiên người ta vẫn có thể có những nhân đức hay việc làm hết sức tốt đẹp mà chẳng hề có tình yêu ở bên trong. Những nhân đức hay việc làm tốt đẹp ấy có thể phát xuất:
– từ tham vọng cá nhân: một người có tham vọng làm tổng thống, bộ trưởng hay làm một chức sắc cao cấp trong một tôn giáo vẫn có thể tập luyện để có những nhân đức, hay làm được những việc rất tốt đẹp chủ yếu để đạt được những địa vị cao cả đó.
– từ chức năng: một cán sự xã hội, một nhân viên tiếp thị, một đại lý bảo hiểm… phải có những lời nói thật dễ thương, đầy vẻ khiêm nhường và vị tha, phải có thái độ sẵn sàng giúp đỡ… (mà bình thường mình không có) thì mới có thể thành công trong nghề nghiệp mình. Làm chức sắc tôn giáo cũng phải ăn nói hay hành động thế nào để tỏ ra có tình yêu đúng như chức vụ mình đòi hỏi. Tình yêu này là thứ «tình yêu do chức năng» hay «tình yêu vì mục vụ».
– từ tính sĩ diện, ham được ca tụng, thích được bái phục, hoặc sợ bị chê cười, trách móc: biết bao hành động tốt đẹp trên đời được thành tựu do sự thúc đẩy của động lực rất phổ biến này.
Như vậy, «yêu thật sự» và «có vẻ yêu» thì bề ngoài rất giống nhau đến nỗi con người nhiều khi không thể phân biệt được, nên trước mặt con người, giá trị của chúng có thể như nhau, nhưng trước mặt Thiên Chúa lại rất khác nhau. Thánh Phaolô cho chúng ta biết về sự vô giá trị trước mặt Thiên Chúa của những hành động tốt đẹp nhưng không phát xuất từ tình yêu, cũng như những đặc sủng không phục vụ cho tình yêu: «Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và các thiên thần (…) có ơn nói tiên tri và biết hết mọi bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có đức tin chuyển núi dời non (…) có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,1-3). Không có tình yêu, thì trước mặt Thiên Chúa, mọi nhân đức, đặc sủng, việc làm tốt đẹp, thậm chí đức tin, chỉ là một dãy số không với chữ số to nhỏ khác nhau mà thôi. Có ai hãnh diện vì số không của mình to hơn, đẹp hơn, hay dãy số không của mình dài hơn của người khác không? Đã là số không, thì dù to hay nhỏ, dù đẹp hay xấu, dù là một chữ số hay nhiều chữ số kết hợp lại, thì cũng đều có giá trị bằng không.
Dãy số không – tượng trưng cho những nhân đức hay việc làm tốt đẹp – dù dài hay ngắn, dù to hay nhỏ, đều không có giá trị gì. Nhưng nếu thêm vào đầu dãy số ấy con số 1, thì giá trị của dãy số hoàn toàn biến đổi. Tình yêu chính là số 1 đứng ở đầu dãy số không ấy, biến tất cả những số không vô giá trị kia thành một giá trị lớn lao.
Mà tình yêu đích thực lại đặt nền tảng trên tinh thần tự hủy, nghĩa là coi nhẹ «cái tôi» của mình. Đấy chính là ý nghĩa đích thực và chủ yếu của hai chữ «từ bỏ» trong Tin Mừng. Mọi công trình của con người mà bị đổ bể thường chỉ vì thiếu tinh thần «từ bỏ» này của Tin Mừng. Một người coi «cái tôi» của mình quá quan trọng khó có thể có được tình yêu đích thực.
Vậy, để sám hối hầu đón Chúa đến trong tâm hồn mình, thiết tưởng ta cần nghiêm túc xét xem sự thánh thiện và đạo đức của chúng ta xây dựng trên nền tảng nào: trên tình yêu? hay trên tham vọng cá nhân, trên chức vụ, trên sĩ diện? Nếu sự đạo đức thánh thiện ấy không được xây dựng trên tình yêu, thì chính chúng ta mới là những người phải sám hối trước tiên. Vì rất có thể những kẻ có vẻ tội lỗi hơn chúng ta lại có nhiều tình yêu hơn chúng ta, họ đối xử với tha nhân có tình có nghĩa hơn chúng ta. Nên trước mặt Thiên Chúa, chúng ta không giá trị bằng họ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, nhiều khi con cầu nguyện nhiều hơn người khác, nhưng chính trong khi cầu nguyện, con lại tỏ ra ích kỷ, kiêu ngạo và thiếu tình yêu hơn lúc nào hết, khiến việc cầu nguyện của con làm cho Cha chán ngán. Nhiều khi chúng con giống như những người Pharisêu, cầu nguyện nhiều để được mọi người coi là đạo đức (x. Mt 6,5), hoặc tự hào về mình trước mặt Cha khi cầu nguyện (x. Lc 18,11-12). Xin cho con hiểu rằng chỉ có tình yêu chứ không phải bất cứ điều gì khác làm cho con trở nên giống Cha, nghĩa là nên thánh thiện thật sự.
Trong mùa vọng, hai nhân vật được nhắc đến và gây chú cho nhân loại nhất là thánh Gioan: MV 2-A65
Trong mùa vọng, hai nhân vật được nhắc đến và gây chú cho nhân loại nhất là thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Trinh Nữ Maria. Ảnh hưởng của Gioan Tẩy Giả thật rộng lớn: từ khắp Giêrusalem, Giuđêa và tất cả miền Gio-đan đều tuôn đến xin Ông làm phép rửa, đồng thời lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa. Gioan rao giảng sự sám hối ăn năn. Vậy, sám hối là gì ? Phụng vụ lời Chúa hôm nay nói lên cho chúng ta điều gì ? SÁM HỐI ( MÊTANOIA ) LÀ GÌ ?
Theo nguyên ngữ là” nghĩ lại, suy tư tiếp sau “, do đó có nghĩa là” thay đổi ý kiến”, rồi hối tiếc, ăn năn, hối cải”. Ngôn ngữ Hy Lạp bình dân hiểu động từ này theo một nghĩa rất đơn sơ: thay đổi một ý kiến, hối tiếc một hành động, chứ không hối tiếc một tình trạng. Trong Tân Ước, Mêtanoia nói lên việc đi từ một tình trạng này sang một tình trạng khác. Theo nghĩa thiêng liêng, đây là cuộc thay đổi tận căn cuộc đời, biến sự xấu thành sự tốt lành và thay đổi nội tâm nguyên vẹn, trong trắng, tinh tuyền. Thực tế, Gioan đã khai mở việc kêu gọi của mình để dọn đường cho nhân loại đón Chúa Cứu Thế đến:” Hãy sám hối, hãy hối cải và ăn năn vì Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Gioan Tẩy Giả nói rằng việc hối cải là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để gia nhập Nước Thiên Chúa:” Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “( Mt 4, 17; Mc 1, 15 ).
Sám hối ở đây là thay đổi tâm can, thay đổi nội tâm và tin vào Chúa Giêsu. Khi rao giảng sám hối và lãnh nhận phép rửa để được ơn tha thứ của Chúa. Gioan Tẩy Giả muốn chỉ cho mọi người, cho nhân loại, đặc biệt là cho những người chỉ chú trọng đến các nghi lễ bề ngoại, chỉ chú tâm đến cái vỏ lề luật không hồn, một tôn giáo mới và hết sức bình dị. Tôn giáo mới ấy là Đạo của Đức Giêsu Kitô. Người là tình thương, là ơn cứu độ. Cốt lõi tôn giáo của Người mạc khải là tình thương. Do đó, tất cả đoàn lũ tuôn đến với Gioan Tẩy Giả làm thành một dân tộc mới, một tôn giáo mới khiến đảo lộn trật tự cũ từ xưa do biệt phái và pharisiêu khuynh đảo và như thế gây nên sự nghi kỵ, ngại ngùng của giới cầm quyền thời đó. Chúa Giêsu kêu gọi sự hòa giải giữa mọi người, Ngài nói:” Tôi đến để gọi gọi người tội lỗi”( Mc 2, 17 ). Như thế, Chúa Giêsu đến để qui tụ mọi người, không loại trừ bất cứ ai, không loại bỏ bất cứ người nào. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA HÔM NAY NÓI GÌ CHO CHÚNG TA ?
Hồi tâm, thay đổi con người cũ, mặc lấy con người mới, mặc lấy Đức Kitô và sinh hoa kết quả tốt đẹp là lời mời gọi của Chúa Giêsu, và Giáo Hội. Hãy thay đổi con người, hãy làm cho tâm hồn nên mới vì Nước Thiên chúa đã gần đến. Vâng, Chúa Giêsu Kitô đã không kêu gọi con người phải luôn khổ hạnh trong những sa mạc khô cằn, nóng cháy. Ngài đã hòa giải mọi người với Thiên Chúa trong cuộc hành trình rao giảng của Ngài: trên hè phố, trên các nẻo đường Giêrusalem, Giuđêa, Samaria và tất cả các vùng phụ cận. Ngài đã đồng bàn với những người tội lỗi, thu thuế, trong các làng mạc, núi đồi, thị trấn, phố xá, Chúa Giêsu đã loan báo một Nước Trời rất gần gũi với con người. Chúa Giêsu không làm phép rửa, nhưng Ngài mở ra một thế giới mới, một chân trời thật mới lạ bằng những lời chân thật, những việc làm thực tế của Ngài. Chúa mời gọi con người đi theo Ngài vì Ngài chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Sau này, khi nói đến phép rửa, Chúa Giêsu nói về cái chết của chính Ngài, cái chết ấy rửa sạch tội lỗi cho nhân loại. Tuy nhiên, trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã sai các môn đệ đi khắp tứ phương thiên hạ làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Ngài. Ngài nói:” Ai tin các con hãy rửa tội cho họ” ( Mt 28, 20 ). Thánh Phaolô đã xác tín:” Chúng tôi luôn mang trong mình cuộc khổ nạn của Đức Kitô, để sự sống của Đức Kitô cũng được biểu lộ nơi mình chúng tôi”( 2Co 4, 10 ) hoặc” Phần tôi, tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá của Đức Kitô. Nhờ thập giá đó, thế gian đã chết đối với tôi và tôi đã chết đối với thế gian”( Gl 6, 14 ). Thánh Phaolô đã chỉ cho nhân loại, cho con người biết chính là để phục sinh với Chúa mà con người đã được rửa tội trong Đức Kitô, trong cái chết của Ngài.
Người Kitô hữu là người đã được dìm mình trong nước và máu của Đức Kitô. Việc rửa tội và các em bé được lãnh nhận phép rửa bởi tay linh mục hay phó tế là khai mở cho các em trở nên gắn bó với Đức Giêsu Kitô trong cái chết, và sống lại của Chúa Giêsu.
Chúa nhật thứ hai mùa vọng trong năm Thánh Thể phải là cơ hội cho mọi người Kitô hữu, cho toàn thể Giáo Hội ăn năn đích thực và hối cải chân thành. Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô là lương thực nuôi sống con người để con người được trở nên tinh tuyền và tâm hồn trở nên đền thờ sống động cho Chúa Thánh Thần.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mọi Kitô hữu biết hoán cải, ăn năn và tin vào tình thương bao la của Chúa. Tình thương tuyệt vời vì:” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình thương của kẻ hiến mạng vì người mình thương”( Ga 15, 13 ). GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Mêtanoia là gì ? Tại sao Chúa lại rao giảng:” Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “ ? Mùa vọng trong năm Thánh Thể nói gì cho chúng ta ? Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT 19-11-2004
Thế giới đang chuẩn bị một trang sử mới. Mọi công sở đều lo tính sổ sách. Nhiều người đưa: MV 2-A66
Thế giới đang chuẩn bị một trang sử mới. Mọi công sở đều lo tính sổ sách. Nhiều người đưa ra những dự đoán cho năm mới. Báo chí, truyền hình làm thống kê, thường đề cập tới những chuyện không may trong thời gian qua: nơi này phong ba bão tố; nơi kia hạn hán mất mùa, chiến tranh. Ngoài những tai nạn xe cộ, còn có tai nạn máy bay, thậm chí còn đụng nhau trên bầu trời bao la nữa! Sắp tận thế chăng? Khắp nơi đều cho thấy những dấu hiệu bất ổn về mọi phương diện, nhất là về an ninh và kinh tế. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải là ngồi cắt nghĩa điềm thiêng dấu lạ, mà là giữa một thế giới hỗn độn chúng ta sáng suốt nhận ra dấu chỉ của thời đại và lời kêu gọi sám hối ăn năn. Tất cả đều tuỳ thuộc vào đó.
Năm xưa, Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể. Ông được kêu gọi và sai đến với dân Do thái. Sứ mạng của ông luôn gắn liền với khởi điểm của cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Điều này được tất cả bốn tác giả Phúc âm nói đến. Sứ mạng của Gioan được thánh Mátthêu trình bày tóm tắt qua bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay. Ngài nhấn mạnh tới lời kêu gọi sám hối ăn năn hơn là phép Rửa. Có thể nói, phép Rửa của Gioan Tẩy giả là dấu chỉ dành cho những người đã nhận biết lỗi lầm của mình, đồng thời sẵn sàng sám hối ăn năn.
Sám hối trước hết là từ bỏ nếp sống giả hình, nếp sống #khẩu phật tâm xà#: môi miệng đọc hết kinh này sang kinh khác nhưng lòng dạ đầy những toan tính xấu xa; ngoài xã hội thì khuyên người khác ăn ngay ở lành còn riêng mình thì lại sống bê tha, khuyên mọi người hãy thương mến nhau nhưng sau lưng thì toàn đi nói xấu kẻ khác!
Sám hối có nghĩa là từ bỏ những hình thức suy tôn tạo vật, những hình thức ỷ lại vào danh vọng, tiền tài. Đừng nghĩ rằng đậu được bằng bác sĩ kỹ sư thì tự cho rằng mình là bậc thông thái, biết hết mọi chuyện. Đừng nghĩ rằng mình sinh ra trong một gia đình giầu có, muốn gì cũng được. Đừng nghĩ rằng mình là con nhà gia giáo, là con ông cháu cha, có quyền ngồi xét đoán kẻ khác. Giống như thái độ kiêu căng tư phụ của dân Do thái xưa: Họ nhìn đời bằng nửa con mắt, vênh vang tự đắc, khinh khi người khác vì nghĩ rằng mình là con cháu Ápraham.
Sám hối không có nghĩa chỉ là nhìn nhận lỗi lầm của mình nhưng còn phải đi xa hơn một bước nữa. Sám hối phải dẫn tới việc sửa đổi đời sống như Gioan đã nói: #Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối#, và cụ thể như thánh Phaolô khuyên: #Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Đức Giêsu đã tiếp nhận anh em.
Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào #trời mới đất mới# mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.
Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm.
Trước khi nói cho chúng ta về sứ vụ rao giảng của Chúa Giê-su, các thánh sử đều đề cập tới: MV 2-A67
Trước khi nói cho chúng ta về sứ vụ rao giảng của Chúa Giê-su, các thánh sử đều đề cập tới sứ vụ rao giảng của ông Gio-an Tẩy giả. Nhưng đối với thánh Mát-thêu, những lời mở đầu rao giảng của Gio-an có ý nghĩa đặc biệt vì nó giống hệt với lời mở đầu rao giảng của Chúa Giê-su: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3:2 và 4:17). Thánh Mát-thêu viết như thế để hiểu ngầm rằng không thể so sánh Gioan với Chúa Giê-su được, vì Người là Đấng sẽ đến rửa nhân loại bằng lửa và Thánh Thần. Gio-an đã tự nhận mình không đáng cởi dây giày cho Người. Gio-an là tiếng kêu, còn Chúa Giê-su mới là người rao giảng. Gio-an răn đe, còn Chúa Giê-su dạy dỗ và hoàn tất. Gio-an nói đến niềm hy vọng cuộc sống mới, còn Chúa Giê-su thể hiện niềm hy vọng ấy. Gio-an là chiếc cầu nối liền Cựu Ước với Tân Ước. Cựu Ước không bị hủy bỏ, nhưng sát nhập với Tân Ước như dòng sông nối vào biển cả. Cuộc chuyển tiếp này được thực hiện như một chương trình: chương trình sám hối canh tân. a) Tại sao phải canh tân? Thánh Gio-an Tẩy giả trả lời: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” Câu trả lời của Gio-an trích lại lời của ngôn sứ I-sai-a (40:3) kêu gọi người Do-thái chuẩn bị cho cuộc hồi hương từ Ba-by-lon để trở về xây dựng lại Ít-ra-en. Dân chúng sắp được trả lại tự do, được giải phóng khỏi ách nô lệ. Họ chuẩn bị cho cuộc xuất hành lần thứ hai sau cuộc xuất hành khỏi Ai-cập.
Lập lại lời sấm của ngôn sứ I-sai-a nói với người xưa, thánh Gio-an Tẩy giả muốn nói với người hôm nay về một cuộc xuất hành thiêng liêng mà tất cả những ai muốn đi vào Nước Trời đều phải thực hiện. Không phải chỉ xuất hành khỏi Ai-cập để đi vào Đất Hứa chảy sữa và mật. Không phải chỉ xuất hành khỏi vương quốc Ba-bi-lon để trở về xây dựng lại Đền Thờ đã bị phá hủy. Nhưng là xuất hành khỏi con người tội lỗi của ta để lột xác thành con người mới và làm con đường cho Chúa đến với ta. Như thế, muốn được trở thành con người mới và con đường cho Chúa đến, ta phải sám hối, phải quay đầu trở lại. Quay mặt lại để hướng về Chúa và quay lưng về phía tội lỗi để dứt bỏ nó. Đó là một hành động nhưng gồm hai động tác cùng một lúc. Đã quay mặt thì phải quay lưng, ta không thể “cùng một lúc làm tôi hai chủ” được. b) Phương pháp canh tân của thánh Gio-an Tẩy giả
Sinh trưởng trong một gia đình khá giả và có địa vị, Gio-an không muốn an phận trong cảnh sung sướng ấy, nhưng ông đã chọn một nếp sống khổ hạnh. Cách ăn mặc của ông không những đã nói lên điều ấy, nhưng còn diễn tả một sứ mệnh ông đang thi hành là trở thành “tiếng người hô trong hoang địa.” Ông hô lên cho mọi người biết: Nước Trời đã đến gần, nên hết thảy mọi người hãy sám hối. Có thể ông chưa cảm nghiệm được thế nào là Nước Trời, nên ông không thể diễn tả cho người nghe hiểu Nước Trời là gì. Hoặc có thể ông muốn để cho những người nghe phải tự mình khám phá ra Nước Trời và ông chỉ xin họ: nếu các bạn muốn hiểu Nước Trời, muốn để cho Nước Trời chiếm ngự tâm hồn mình, thì trước hết phải sám hối; sám hối là điều kiện tiên quyết để chuẩn bị đón Nước Trời.
Nếu chỉ nói suông, có lẽ chẳng ai lưu ý. Cần phải có hành động nào đó để giúp người ta khởi đầu cuộc sám hối. Ông Gio-an chọn một nghi thức thật ý nghĩa: phép rửa. Thanh tẩy là một nghi thức quen thuộc với người Do-thái. Nhưng người ta đã quá quen nên thường rơi vào tình trạng không để ý tới ý nghĩa của việc thanh tẩy nữa. Thay vì là một nghi thức đã được luật quy định, để người ta cứ thế mà làm, thì giờ đây chính ông Gio-an chủ động thực hiện nghi thức cho những người đến với ông. Kèm theo nghi thức tẩy rửa, chắc chắn ông cũng có những lời nhắn nhủ, có khi thân tình như nói với người bạn, có khi dịu dàng như người mẹ nhắn nhủ đứa con. Tuy Mát-thêu không ghi lại những lời nhắn nhủ của Gio-an với dân chúng, nhưng căn cứ vào những lời răn đe của ông dành cho đám Pha-ri-sêu và Xa-đốc, ta có thể chắc chắn ông cũng có những lời nói riêng với dân chúng nữa.
Sám hối và canh tân trước hết đòi hỏi ta phải khiêm nhường nhìn thẳng vào con người mình để nhận ra những gì cần phải thay đổi. Một thí dụ cho ta thấy: ông Gio-an đi thẳng vào một thái độ gốc rễ cần phải thay đổi của nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc. Họ lúc nào cũng tự phụ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham mà khinh người và sống câu nệ vào Lề Luật đến nỗi hoàn toàn mất đi động lực đích thực là giữ luật vì lòng yêu mến. Cho nên ông Gio-an nói thẳng nói thật: “Tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham.”
Tiếp đến, sám hối phải được thực hiện một cách hữu hiệu. Nói khác đi sám hối phải nảy sinh hoa trái. Hoa trái ấy là những thay đổi trong lối sống, là sắp đặt lại cuộc sống cho đúng với những giá trị ưu tiên, là thay đổi não trạng, là sẵn sàng và mở lòng để Chúa Giê-su đến và Ki-tô hóa cuộc sống của ta.
Sám hối còn là một tiến trình. Trong tiến trình ấy, vai trò của ông Gio-an chỉ là chuẩn bị. Ông khẳng định: “Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối.” Còn giai đoạn chính là công việc của Chúa Giê-su, “Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” Do đó, nếu ta cứ tiếp tục để cho Chúa Giê-su là Nước Trời đi vào tâm hồn ta, thì Nước Trời đã thể hiện trong ta ngay khi ta đang sống trên đời này rồi. c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nước Trời hay Nước Thiên Chúa là kiểu nói của người Do-thái để ám chỉ chính Thiên Chúa. Hiểu như thế, tôi có thực sự ý thức Nước Trời đang ở trong tôi không? Ý thức ấy giúp tôi sống thế nào cho đúng nghĩa?
Tôi tưởng tượng mình đến với ông Gio-an trong mùa Vọng này. Vậy ông Gio-an sẽ nhắn nhủ tôi điều gì? Tôi có một vài cách nào thực tế để sống theo lời khuyên của ông Gio-an?
Tôi có rơi vào tình trạng tự mãn của người Pha-ri-sêu không? Nếu có thì trong những lãnh vực nào? Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi. Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gio-an ban phép rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con. Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Gia-kêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 89)
Mượn lời thánh Phao-lô để công bố thời giờ Chúa đến và kêu gọi chúng ta thay đổi cuộc sống: MV 2-A68
Mượn lời thánh Phao-lô để công bố thời giờ Chúa đến và kêu gọi chúng ta thay đổi cuộc sống mà đón mừng Chúa (bài đọc Chúa Nhật I mùa Vọng), Phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn đi sâu hơn vào Mầu nhiệm Đức Ki-tô qua đoạn kế tiếp của thư gửi tín hữu Rô-ma.
Mầu nhiệm Đức Ki-tô trước hết được thánh Phao-lô giới thiệu ở đây qua lời khẳng định: "Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh đều được chép để dạy dỗ chúng ta." Vậy Kinh Thánh là nguồn mạc khải dạy dỗ chúng ta điều gì? Nói rõ hơn, Kinh Thánh cho chúng ta biết gì về kế hoạch của Thiên Chúa và về Đức Ki-tô? Qua những sách Cựu Ước, không những chúng ta biết Thiên Chúa hiện hữu và muôn vật đều do Người tác thành, nhưng chúng ta còn biết Người là Cha ("Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta") yêu thương chúng ta và muốn chúng ta được chia sẻ phần phúc với Người. Vậy để cho chúng ta biết những điều này, qua dòng Kinh Thánh Cựu Ước, Chúa đã bắt đầu bằng việc tỏ mình ra cho ông Áp-ra-ham và đặt ông làm tổ phụ một Dân được tuyển chọn. Rồi Người sai Con Một đến nhập thể làm người trong số miêu duệ ông. Đó là tất cả sứ điệp Tin Mừng của Cựu Ước.
Đã là Tin Mừng thì sứ điệp ấy phải đem lại những điều tích cực. Thánh Phao-lô nêu lên những hiệu quả ấy: "Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy." Cho nên ngài cầu xin Thiên Chúa thực hiện những hiệu quả ấy nơi anh chị em tín hữu Rô-ma, cho họ được "đồng tâm nhất trí với nhau" để "đồng thanh tôn vinh Thiên Chúa."
Tuy nhiên, có một bài học đặc biệt tín hữu giáo đoàn Rô-ma cần phải học hỏi nơi Mầu nhiệm Đức Ki-tô. Vậy đó là bài học gì? Trước hết, hoàn cảnh của giáo đoàn có phần nào chia rẽ, nghi kỵ giữa tín hữu gốc Do-thái và tín hữu gốc Dân ngoại. Họ không muốn đón nhận nhau. Hoàn cảnh phân rẽ này đã được ngầm hiểu qua lời cầu xin của thánh Phao-lô, giờ đây được ám chỉ rõ ràng hơn qua lời nhắn nhủ trực tiếp của ngài: "Anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi." Gương phục vụ của Đức Ki-tô đòi hỏi tín hữu Rô-ma và cả chúng ta nữa, cần phải tiếp nhận nhau, như Người đã tiếp nhận và phục vụ mọi người, không phân biệt chủng tộc hay địa vị xã hội (xem Gl 3:27-29). Trước hết, Người đến để phục vụ "những người được cắt bì", tức người Do-thái giữ luật Mô-sê, để nói lên Thiên Chúa trung thành giữ lời hứa. Nhưng Người cũng đến với anh chị em Dân ngoại, để biểu tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Đó là diễn tiến suy niệm của Phao-lô về Mầu nhiệm Nhập Thể mà Giáo Hội muốn lập lại ở đây để giúp chúng ta chuẩn bị cử hành Mầu nhiệm Giáng Sinh. Điều khéo léo của Phao-lô là ngài trình bày dung mạo Đức Ki-tô như một người Do-thái đích thực, một người được cắt bì để phục vụ những người được cắt bì. Tuy nhiên, bên cạnh hình ảnh Do-thái của Đức Ki-tô, Phao-lô lại sử dụng những trích dẫn Kinh Thánh Cựu Ước (xem tiếp các câu 10-12) để chứng tỏ Đức Ki-tô chính là Tình yêu Nhập Thể mà Thiên Chúa muốn tỏ ra cho toàn thể nhân loại.
Hiểu được ý nghĩa của đoạn thư Rô-ma, chúng ta mới thấy thật ý nghĩa khi Phụng vụ Lời Chúa chọn đoạn này để giúp chúng ta có một suy niệm thần học về Mầu nhiệm Nhập Thể. Tuy vậy, đây không chỉ là một suy niệm thuần lý, nhưng là những áp dụng thực hành cụ thể cho đời sống Ki-tô hữu chúng ta. Lời Chúa trong Kinh Thánh có sinh hiệu quả nơi chúng ta như hạt giống gieo trong đất mầu không? Chúng ta có để cho Lời Thiên Chúa Nhập Thể là Đức Ki-tô giúp chúng ta kiên nhẫn, an ủi và làm cho chúng ta vững lòng trông cậy không? Có lẽ bài học cụ thể nhất là sống tinh thần hiệp nhất, "quy về một mối" trong Đức Ki-tô (recapitulation) và ý thức tính cách phổ quát của ơn cứu rỗi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tôi đã không đón nhận một số anh chị em vì lý do gì? Gương đón nhận của Đức Ki-tô trong sách Tin Mừng giúp tôi nhìn lại thái độ của mình như thế nào?
Trong những mùa Vọng trước đây, có bao giờ tôi thực sự dành thì giờ để suy niệm về ý nghĩa của việc Thiên Chúa làm người không? Hay cũng chỉ là những chuẩn bị theo người đời như trang hoàng nhà cửa, sắm quà Giáng Sinh...?
Suy niệm về Mầu nhiệm Nhập Thể giúp tôi cầu nguyện thế nào? Tôi nghe Chúa nói gì với tôi và tôi đáp lại lòng yêu thương của Người như thế nào?
Tính cách phổ quát của Tình yêu Thiên Chúa dạy tôi những bài học nào?
Tôi làm gì để đón nhận anh chị em trong nhóm, trong cộng đoàn, giáo xứ...?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài về mùa Vọng. Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
"Đức Giêsu đã biết và đã yêu mến mảnh đất này." (THGHTAC 1.)
"Ngày ấy, từ gốc Giessê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ...Cội rễ Giessê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân." (Is. 11, 1- 10).
"Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham."
(Mt,3,1 - 12).
Kể từ Abraham, dân Israel luôn hướng về ơn đặc tuyển của Thiên Chúa đã cam kết với tổ phu: MV 2-A69
Kể từ Abraham, dân Israel luôn hướng về ơn đặc tuyển của Thiên Chúa đã cam kết với tổ phụ họ như là nguyên lý của mọi niềm hy vọng và phát triển của mình. Môsê đã ghi khắc niềm tin ấy trong lời khẩn nguyện vào thời cao điểm cuộc xuất hành "Nếu Ngài không đích thân đi, xin Ngài đừng đưa chúng con lên khỏi đây. Nhưng làm thế nào biết được là con và dân của Ngài được nghĩa với Ngài ? Há chẳng phải vì có Ngài đi với chúng con sao ? Như thế, con và dân của Ngài mới khác với mọi dân tộc trên mặt đất.".
Đặt trong bối cảnh lịch sử thế giới, trong cùng thời điểm của bộ tộc Israel, mọi dân tộc trên châu lục Á Châu này quy tụ chung quanh những con người anh hùng cái thế, văn võ song toàn, đi theo và phục vụ cho tham vọng bá chủ, làm nên những triều đại rực rỡ, đẩy nền văn minh xã hội, khoa học và kỹ thuật lên những đỉnh cao. Và nhiều dân tộc đã thành công nắm được quyền thống trị những vùng lục địa rộng lớn. Israel trong lịch sử 5000 năm của mình dường như lại là lịch sử của nô thuộc hết đế quốc này tới đế quốc khác, họ không để lại một dấu ấn nào trong tiến trình văn minh xã hội, khoa học và kỹ thuật, vào thời cực thịnh nhất, họ cũng không có một quyền lực khống trị nào bên ngoài mảnh đất nhỏ bé và ít được ưu đãi của thiên nhiên. Nhưng chính trong cái góc độ khiêm hạ và vô danh ấy trên bình diện lịch sử toàn cầu, mà Israel đã trở nên Lời loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Lịch sử Israel trong cách nhìn của truyền thống Tiên Tri và Lề Luật, cũng như truyền thống Tin Mừng phải quy chiếu về điều mà Isaia hoan hỷ loan báo "Một chồi lộc nảy sinh từ gốc Giessê" hay nói theo Giêrêmia "Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavid...".
Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu đã tái khẳng định quan điểm lịch sử ấy khi viết "Thiên Chúa đã chọn dân này từ lâu và đã tỏ mình cho họ biết để chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế đến, và cũng từ mảnh đất này, qua việc rao giảng Tin Mừng dựa vào quyền năng của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã ra đi "làm cho muôn dân trở thành môn đệ". Nói như thế, không có nghĩa là Tin Mừng và lịch sử của dân tộc cưu mang Tin Mừng là hai thực thể riêng biệt không có liên hệ ràng buộc. Tông Huấn muốn nhìn vào trung tâm và đích điểm của lịch sử để khám phá ra tính thống nhất là chính bản chất của Tin Mừng khi viết "Đức Giêsu đã quen biết mảnh đất này và yêu thương nó, Ngài đã lấy lịch sử, khổ đau và hy vọng của dân tộc ở đó làm lịch sử, khổ đau và hy vọng của mình. Ngài yêu quý dân tộc Do Thái và đón nhận những truyền thống và di sản của họ." Nói theo Thánh Phaolô: "Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì... đó là lòng trung thành của Thiên Chúa." Xem như thế, lịch sử Israel không hình thành bởi "Ý muốn xác thịt", bởi những tham vọng thống trị, nhưng là lịch sử được dệt nên bởi sự Phục Vụ của lòng trung tín hay thương xót của Thiên Chúa theo lời hứa dành cho tổ tiên và cho chính họ. Và điều ấy làm nên Niềm Hy Vọng của cả nhân loại. Trong cách nhìn ấy quả thực như Isaia tiên báo, "Cội rễ Giessê đứng lên làm cờ hiệu cho các dân".
Trong cách nhìn này, trong suốt lịch sử mình, và ngày nay trong lòng Giáo Hội tại Á Châu đã diễn ra một cuộc đấu tranh rất gay gắt để lột bỏ cái nhìn "máu huyết, xác thịt" về lịch sử của chính mình. Họ đã được các tiên tri, và các thế hệ môn đệ của Đức Kitô, giắng lên lời cảnh báo của chính Đức Kitô "Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu của ông Abraham", để luôn luôn phải làm mới lại và thành hiện thực lời khuyên của thánh Tông Đồ "Vậy anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em...". Đó là con đường duy nhất để loan báo "Ơn Đặc Tuyển" điều mà Tông Huấn Người Kitô hữu giáo dân đã viết "Mỗi người đã được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô ... là chủ thể tích cực trong sứ vụ cứu độ của Giáo Hội ... cố gắng nhận định đâu là những dấu chỉ về sự hiện diện hoặc ý định của Thiên Chúa trong mọi biến cố, mọi yêu sách và ước vọng mà họ dự phần với những người đương thời. Thực vậy, đức tin lấy ánh sáng mới mà chiếu soi mọi sự và biểu lộ ý định của Thiên Chúa về thiên chức toàn vẹn của con người, và do đó hướng dẫn lý trí tới những giải pháp hoàn toàn nhân bản".
Một người lính bị lạc đơn vị trong lúc hành quân, phần do mất bình tĩnh, phần vì lo sợ và không: MV 2-A70
Một người lính bị lạc đơn vị trong lúc hành quân, phần do mất bình tĩnh, phần vì lo sợ và không quen địa hình, anh đã bị sa vào một hố bom. Hố bom là vùng đất bị bom thả từ trên máy bay xuống tạo thành một thung lũng lớn. Theo thời gian, nước mưa và đất cát, lá cây, rác rưởi đọng lại thung lũng này tạo thành một lớp bùn sệt loãng lấp đầy cả mặt hố. Cho nên bất cứ người hay vật rơi vào “cái bẫy” này đều phải chết. Chết trong vô vọng và đau khổ. Người lính đang trong tình thế cực kỳ bi đát, chỉ còn chờ đợi cái chết đến. Bùn đã lún đến vai của anh. Nhưng bỗng nhiên chân trái anh trụ vào một vật cứng. Anh không thụt xuống nữa, cố gắng đứng thật cẩn thận bằng một chân để kéo dài sự sống, thì ra đó là một đoạn rễ cái của một cây bị bom thả trúng. Anh đứng như thế suốt mười tiếng đồng hồ. Cái đói và cái khát làm anh bắt đầu thất vọng và thầm nghĩ: kiểu này không chết vì lún bùn cũng chết vì đói, vì khát, vì lạnh mà thôi. Rồi anh lại chờ chết. Nhưng kìa, trước mặt anh một vùng trời bị che bởi bụi mù và tiếng động mỗi lúc một gần hơn. Mở căng mắt chờ cơ hội sống, anh lính nhận ra đó là đàn bò cả trăm con đang lầm lũi tiến về phía anh. Anh lo qúa, chết chắc rồi. Chết chung với bò, không những bị chết lún mà còn bị bò đè! Anh lấy hết sức còn lại gào thét thật to. Cuối cùng anh được cứu sống bởi những trẻ em chăn bò. Chúng cứu anh bằng những sợi dây thừng tháo ra từ cổ những con bò.
Qua câu chuyện trên, chúng ta có thể áp dụng vào bài Tin mừng chúa nhật thứ hai mùa vọng hôm nay xuất hiện một nhân vật đến trước để loan báo, để dọn đường vì nước trời đang gần đến. Nhân vật này chính là Gioan Tẩy Giả. Gioan đến để không chỉ loan tin bằng lời nói, nhưng cả bằng chính cuộc sống của ông nữa: sống trong hoang địa, y phục mặc là da thú hoang dã, thức ăn cũng chính là những đặc sản rừng xanh: châu chấu, mật ong. Gioan đến để thông tin về sự giải thoát cho những ai biết tiếp nhận. Gioan dùng nước để thanh tẩy cho những ai tự nguyện tin và đón chờ Đấng Thiên Sai.
Đấng Thiên Sai là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ trần gian, là Đấng Giao Hoà giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và nhân loại tội lỗi. Chính nhờ Ngài mà nhân loại đã thoát nạn.
Trong cuộc sống mỗi người đã trải qua, chắc hẳn không ai mà không có những kỷ niệm về cái mà chúng ta gọi là “may mắn”. Người thì thoát chết trong một tai nạn xe hơi. Người khác được cấp cứu rửa ruột kịp thời sau khi ăn nhằm thức ăn bị ngộ độc. Kẻ khác đang lênh đênh trên mặt biển vì đắm tầu đã may mắn ôm được một khúc gỗ.
Đúng thế, đàn bò xuất hiện đã đem lại sự sống cho người chiến binh.
Khúc gỗ mà người sắp chết đuối ôm được là vật cứu anh thoát chết.
Gioan Tiền Hô xuất hiện để loan báo cho nhân loại chuẩn bị dọn đường cho Chúa đến, Đấng đến sau ông chính là Chiên Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ trần gian. Gioan đến thông báo cho nhân loại sự no thoả bởi Lương Thực Thần Linh nuôi sống linh hồn. Ông dùng nước để thanh tẩy cho những ai tin và đón chờ Đấng Thiên Sai. Tiếc thay! Rất nhiều người biết Gioan là ai, nghe Gioan nói gì, nhìn thấy Gioan làm gì. Nhưng họ vẫn giả điếc, câm lặng và không quan tâm chút gì đến biến cố đang xảy ra. Họ cứ bền chân như vại, vui vẻ tiếp tục cuộc sống tự do buông thả.Cuối cùng lời chúc dữ và hậu quả nghiêm trọng cũng đã đến với họ.
- Adong, Evà bất tuân ăn trái Chúa cấm, không chỉ ông bà bị trừng phạt mà còn truyền sang cả con cháu nữa.
- Gia đình ông Nôê đã đóng tầu cả trăm năm trời hầu để mọi người nhận ra lỗi tội mà sám hối mong chờ sự tha thứ. Nhưng nào có ai nghe và trở về đâu. Họ vẫn cứ tiếp tục “lắc đầu” để chấp nhận sự trừng phạt qua trận lụt đại hồng thuỷ.
- Chưa hết, ngay cả khi đang trong thời điểm tiến vào đất hứa của dân Chúa, cũng chỉ vì những cái “lắc đầu” để than thở, trách cứ, so sánh mà đã khiến rất nhiều người bị rắn độc cắn chết.
- Giuđa Ích ca ri ốt cũng nhất quyết “lắc đầu” để chối từ lời cảnh báo của Thầy, Đấng đã biết được ý đồ đen tối của ông: “Thật, Thầy bảo thật với anh em, có một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Yn 13,21). Chúa nhận thấy Giuđa chưa có thái độ gì, Ngài làm một cử chỉ cụ thể và rõ nét gần như một sự khẳng quyết: “Thầy chấm miếng bánh đưa cho ai thì chính là kẻ ấy, rồi Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa Ích ca ri ốt” (Yn 13,26). Kết quả sao thì chúng ta đều biết, Giuđa vẫn nhất mực và vững lập trường với cái “lắc đầu” của mình.
Còn chúng ta thì sao? Những người đã qua nước rửa tội, qua lời từ bỏ tà thần và lời tuyên tín tin vào tình yêu Thiên Chúa, hãy tự vấn lương tâm xem đã có lần nào hay bao nhiêu lần chúng ta “lắc đầu” khước từ Ngài chưa? Hoặc giả có “gật đầu” nhưng lại không làm theo ý Ngài âu cũng đồng hành với cái “lắc đầu” vậy thôi.
Hãy sám hối, hãy trở về, ơn cứu độ đang gần đến.
Hãy tìm đến Gioan để thanh tẩy tâm hồn.
Hãy san bằng các ngõ ngách trong lòng để dọn đường cho Chúa.
Hãy tốc hành, hãy gấp rút lên bạn ơi!
Lạy Mẹ Thiên Chúa, xin Mẹ ban cho chúng con ơn tiên liệu và sự chuẩn bị sắc bén như Mẹ xưa đã chuẩn bị cho Ngôi Lời Nhập Thể ẩn ngự trong lòng Mẹ. Xin cho lòng chúng con rộng mở luôn để đón mừng Ngôi Hai Thiên Chúa. Bắt đầu từ đây, tâm hồn từng người chúng con sẽ là một hang đá, một nôi hèn cho Chúa. Đó niềm mong đợi, sự tiên liệu nơi mỗi chúng con trong mùa vọng thánh này.
Thời gian gần đây, có nhiều bài báo phản ảnh tình trạng kẹt xe ở Tp. HCM. Nhiều ý kiến đã được đưa ra nhằm tháo gỡ tình trạng nầy, nhưng xem ra “lực bất tòng tâm”, “mèo lại hoàn mèo”! Sáng kiến mở rộng hay mở thêm đường giờ cũng không khả thi, bởi khi mở thêm đường cũng đồng nghĩa với việc nhà cao ốc, siêu thị, văn phòng sẽ lại ra đời dọc hai bên đường mới. Mọi người đổ về để làm việc, để tìm kế sinh nhai... và kẹt xem lại xảy ra. Kẹt nầy lại dẫn đến kẹt khác.
Cách đây 2000 năm, dân Do thái cũng phải lâm vào một tình cảnh như thế. Dưới ách đô hộ của Rôma, nhiều phe phái ra đời với ước mong giải phóng dân tộc, nhưng cũng không ít kẻ ủng hộ đế quốc “rước voi giầy mả tổ”. Những kẻ nầy chối bỏ lề luật Thiên Chúa đã đành, nhưng chính những người được xem là lãnh đạo tinh thần, trung thành với Giavê cũng đang cố gắng đẩy Ngài ra khỏi cuộc sống của mình, như những người Pharisêu, Sađôc. Tiếng hô của Gioan Tẩy Giả như mời gọi mọi người hãy quay về với Thiên Chúa thật của mình. “Anh em hãy sám hối... hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3,2-3).
Xét về niềm tin và sự chính chắn trong việc giữ đạo thì những thầy thông luật, những tiến sĩ, những người Pharisêu quả là những người có công trong việc giữ lấy đạo. Họ cố gắng để duy trì một đạo Do Thái tinh ròng. Nhưng họ chỉ giữ mà không sống, họ cố gắng ôm lấy việc đạo đức chứ không phải sống đạo đức. Họ đã quên cái tinh thần của lề luật. Chính vì cái gốc đã hỏng nên cuộc sống họ đầy những hờn ghen, đố kỵ, mưu mô, những gian trá, tham lam, dục vọng... Họ lo dọn dẹp cái bề ngoài cho đẹp mà quên đi những núi đồi, hố sâu trong chính tâm hồn mình. Họ lo tranh tụng cho những quyền lợi trần gian được bao bởi vỏ bọc tôn giáo. Do đó, nếu Đấng Cứu Thế có đến thật thì liệu họ có thể chấp nhận không, khi mà họ còn mãi lẩn quẩn với những luật lệ. Bình an của Đấng Cứu Thế không phải là cảnh thái bình thịnh vượng phần xác, lụa là giàu sang, danh dự. Nhưng đó là sự an ổn lương tâm, sự cảm thông, chia sẻ, trân trọng, yêu thương với thực tại mà mình đang tiếp cận. Làm sao bạn có thể nhận ra được Chúa Hài Đồng khi mà chính thẳm sâu lòng bạn đang sôi sục những lo âu, toan tính?
Muốn giải quyết được vấn đề cho rốt ráo thì phải tìm cho rõ căn nguyên của nó. Bạn đang trông chờ một thời đại bò kết thân với gấu ư? Sư tử ăn cỏ non ư? Trẻ thơ đùa vui bên rắn lục ư? Không còn ai tàn phá ư? (x. Is 11,6-9) Bạn muốn có một việc làm tốt ư? Một tình yêu đẹp? Một cuộc sống ấm êm? Điều nầy không có gì sai trái. Nhưng điều đặt ra là bạn đã chọn cách hành động nào để đạt những điều đó.
Bạn đang học để gầy dựng tương lai. Tốt, nhưng nếu bạn học vì điểm số và vì chứng chỉ thì bạn đừng than vãn khi việc làm sau đó không thuận lợi. Bạn có đủ khả năng đâu, bạn có học để làm đâu, bạn chỉ học vì điểm và chứng chỉ để ra trường thôi.
Bạn muốn có một hôn nhân đẹp, một cuộc tình lãng mạn, nhưng bạn không biết trân trọng và gìn giữ thì làm sao có được! Bạn muốn điều tốt cho bạn nhưng bạn quên làm điều tốt cho người. Bạn muốn có một cuộc sống hoà bình nhưng chính bạn là người gây rối...
Điều đó thử hỏi làm sao bạn trở nên khắc khe, ích kỷ, giả dối? Bởi bạn đã chọn lựa sai lầm. Bạn cố thủ cho những ích lợi tầm thường cho riêng mình. Nên bạn luôn căng thẳng giữa cái tốt lành bạn muốn với cái xấu xa mà bạn có. Vì chính bạn không bắt tay cho một điều tốt lành thì làm sao bạn gặt được một điều tốt lành. Khi bạn để cho Đấng thật sự an lành vượt ra khỏi bạn thì bạn phải bám víu vào cái khác là lẽ thường. Khi bạn dũng cảm sống theo ánh sáng của Thiên Chúa thì cho dù đang sống giữa tốt tăm nhất cũng không làm cho bạn ngột ngạt, hay ưu phiền. Vì lẽ Thiên Chúa không bao giờ là nguồn gốc của đau khổ.
Giờ đây bạn không cần phải bước xuống dòng sông Giodan để được thanh tẩy, vì bạn đã được thanh tẩy bằng Thánh Thần rồi. Bạn muốn làm một hang đá thật đẹp trong ngày Giáng Sinh ư? Bạn hãy cứ lên chương trình để thực hiện, nhưng trước hết bạn hãy vào hang đá lòng mình, nơi đó là sự yên tĩnh, chỉ bạn và Chúa thôi, để nhìn lại cuộc sống của mình xem mình cần phải lên kế hoạch thế nào để cuộc sống mình từ nay không còn xung đột nữa.
Cũng như con người cần tắm rửa mỗi ngày để giữ cho thân xác được sạch sẽ và mát mẻ thế nào, thì họ cũng cần thiết phải sám hối và hoán cải để làm tươi trẻ tâm hồn của mình như vậy. Sám hối là hành động chỉ có ở nơi con người. Con người cần sám hối mỗi ngày để trở người hơn. Vì thế, ai không biết ăn năn, sám hối thì có thể nói, họ chưa là con người theo đúng nghĩa của nó; hoặc họ chưa trưởng thành dù tóc trên đầu của họ đã bạc màu theo thời gian. Nhưng sám hối thật sự và đúng nghĩa thì phải đi đến hoán cải. Sám hối mà không hoán cải thì trở nên giả hình, ảo tưởng và vô ích. Sám hối khi đó trở thành sáo ngữ và một tiếng kêu vô hồn.
Sám hối và hoán cải là lời mời gọi của Tin Mừng
Tin mừng hôm nay nói về việc Gioan Tẩy Giả thi hành sứ vụ của ông. Khởi đầu sứ vụ của mình, Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người hãy sám hối. “Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến”.
Theo nguyên ngữ, thống hối được dịch từ nguyên ngữ “metanoia”, có nghĩa là “thay đổi ý kiến, hối tiếc ăn năn, hối cải”. Trong Cựu Ước, sám hối là quay về với Thiên Chúa chân thật và từ bỏ tà thần hay các thần ngoại bang. Còn trong Tân Ước, sám hối mang một ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là việc biến đổi từ một tình trạng xấu sang một tình trạng tốt hơn bằng một quyết tâm thay đổi toàn diện và được biểu lộ ra cách rõ ràng trong cuộc sống. Câu chuyện về sự biến đổi của Da-kêu là điển hình rõ nét nhất cho vấn đề này.
Những người đến với Gioan Tẩy Giả ngày xưa có thể nói, có rất nhiều những tâm hồn thiện chí, muốn sám hối về những lầm lỗi của họ. Họ can đảm nhìn nhận mình có lỗi và tha thiết muốn được Gioan Tẩy Giả chỉ cho biết cách thức để làm lại cuộc đời. Và thánh nhân đã không ngần ngại chỉ cho họ biết con đường ăn năn sám hối bằng những hành động rất cụ thể. Chúng ta thấy rõ được điều đó trong Tin mừng của thánh Luca. “Đám đông hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải làm gì đây? " Ông trả lời: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy."Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: "Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? "Ông bảo họ: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh." Binh lính cũng hỏi ông: "Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì? " Ông bảo họ: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình."
Sám hối thật sự là đi đến việc hoán cải và có những hành động cụ thể như thế đó.
Như vậy, chúng ta cũng nhận ra một điều rất cơ bản này nữa là: muốn sám hối và hoán cải thì phải nhìn nhận mình có lỗi, phải nhận ra mình còn nhiều thiếu sót trong cuộc sống này. Khi đó, ta mới cần sám hối và ăn năn. Đức Giáo hoàng Piô 12 đã nói như sau: tội lỗi lớn nhất của con người trong thời đại này không phải là tội này hay tội kia, mà chính là sự mất cảm thức về tội. Phải, khi con người mất cảm thức về tội, thì con người không còn nhận ra đâu là chân lý và đâu là sai lầm của họ nữa. Họ phạm nhiều tội lỗi tày trời mà vẫn cảm thấy lương tâm bình an và thư thái vô cùng. Sự mất cảm thức về tội có thể còn là không nhận thấy mình có tội mà chỉ thấy tội lỗi nơi người khác mà thôi. Đó chính là thái độ của những người Pharisêu mà Chúa Giêsu đã nhiều lần lên án và cảnh tỉnh họ. Chính Gioan Tẩy Giả hôm nay cũng gọi họ là nòi rắn độc khi thấy họ đến với ông. Bởi lẽ, họ đến với ông không phải để thú nhận tội lỗi hay mong đợi được ông chỉ dạy cho con đường sám hối mà là để dò xét.
Chúng ta cũng cần phải tuyệt đối tránh thái độ mất cảm thức về tội hay thái độ dò xét người khác như thế. Khi đoán xét người khác, chúng ta thấy mình hoàn toàn sạch tội và tự hào, tự phụ. Chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận rằng: không ai là hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa cả.
Có nhiều người đến toà giải tội, nhưng không xưng thú tội của mình là là xưng tội của người khác. Chẳng hạn: thưa cha, chồng con nó bê bối quá trời cha ơi, nhậu nhẹt tối ngày, lại còn về nhà đánh đập vợ con; hay cha ơi, người hàng xóm của con sao mà tham lam quá, lại còn hỗn hào nữa . . . Họ không thấy mình có tội gì hết, chỉ thấy người khác có tội thôi.
Gioan Tẩy Giả hôm nay cũng nói cho chúng ta biết ràng: chúng ta đừng cậy dựa vào thành tích của mình hay của cha ông mình mà tiếp tục sống phóng đãng và tội lỗi. Vì Thiên Chúa sẽ không căn cứ vào đó mà xét xử chúng ta đâu. Đừng nghĩ rằng mình là con cháu Abraham; cũng đừng nghĩ rằng mình có luật Môsê rồi. Và chúng ta cũng đừng nghĩ rằng: tôi là đạo gốc, tôi đi lễ mỗi ngày, tôi làm được rất nhiều việc từ thiện, bác ái . . . Không. Tất cả chỉ là những tiếng kêu rỗng tuếch trước mặt Thiên Chúa nếu chúng ta không sám hối và xét mình mỗi ngày. Đừng để cho những thành tích của chúng ta ru ngủ và lừa gạt chúng ta. Hãy ăn năn sám hối và hết lòng cậy trông vào tình thương của Thiên Chúa.
Bí tích Rửa tội mà mỗi người tín hữu lãnh nhận là một lời mời gọi và là một cam kết rằng: phải nhất quyết từ bỏ tội lỗi và hướng về Thiên Chúa. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng lời mời gọi và cam kết đó không phải chỉ quyết định một lần cho cả đời, mà là một quá trình quay về liên lỉ. Chúa cũng không kêu gọi chúng ta một lần rồi thôi, nhưng Ngài kêu gọi chúng ta liên tục để bước theo Ngài và đi trong đường lối của Ngài. Hãy lắng nghe và suy gẫm lời nói của Gioan Tẩy Giả: “Tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”.
2. Cần phải sám hối thường xuyên và liên tục.
Lịch sử của dân Israel là một bài học quí báu cho chúng ta về việc sám hối. Dù là tuyển dân, nhưng Israel đã phản bội với giao ước và lỗi phạm với Thiên Chúa của họ liên tục. Và cứ mỗi lần lỗi phạm, Chúa lại sửa dạy họ qua biến cố này hay biến cố nọ. Rồi khi họ nhân ra tội lỗi của mình, thì Chúa tha thứ cho họ. Và điệp khúc ấy đã diễn đi diễn lại không biết bao nhiêu lần trong Kinh Thánh.
Lịch sử của Israel cũng chính là lịch sử của chính mỗi người chúng ta. Chúng ta thấy rằng: con người chúng ta rất mỏng dòn, yếu đuối, tham lam, ích kỷ . . . nên rất cần sự ăn năn, hoán cải thường xuyên. Sám hối là một đòi hỏi và là một bổn phận chính yếu mà những người con cái Chúa phải cố gắng chu toàn suốt đời và không bao giờ có thể nói được là đã hoàn thành.
Sám hối là để đi đến biến đổi và hoán cải. Sau một lỗi phạm, một vấp ngã là một quyết tâm sửa đổi và đứng lên để làm lại. Có thể nói, sám hối là niềm vui và niềm hy vọng của chúng ta. Vì khi biết sám hối và hoán cải, chúng ta thấy tâm hồn mình được bình an và tràn đầy sức sống để có thể can đảm dấn thân và tiến bước trên con đường theo Chúa.
Tôi sinh ra và lớn lên ở một họ đạo xứ Bắc, phần lớn giáo dân là những người di cư vào Nam: MV 2-A73
Tôi sinh ra và lớn lên ở một họ đạo xứ Bắc, phần lớn giáo dân là những người di cư vào Nam . Tuy đã hơn nửa thế kỷ nhưng họ vẫn giữ được truyền thống của các ngày lễ lớn. Đặc biệt là ngày lễ Giáng Sinh, trước đó một hoặc hai tuần, xứ đạo rất vui người tấp nập đi đến nhà thớ để dọn lễ Giáng Sinh, ai ai cũng có vẻ lo lắng chu tất mọi sự cho ngày lễ. Người góp công kẻ góp của làm cho bầu không khí tràn ngập vẻ vui tươi rộn ràng, thể hiện một tâm tình hiệp thông hòa thuận. Mọi người không chỉ dọn Giáng Sinh ở nhà thờ, mà mỗi gia đình đều có máng cỏ để rước Chúa Hài Đồng. Ngoài các ngõ đi thì cờ xanh, đỏ đủ màu, tiếng nhạc tưng bừng trong các quan cafê cũng như nhà giáo dân hát vang. Trong bầu không khí chuẩn bị đón Chúa đến ở họ đạo tôi nơi nào cũng thật là rộn rã và tưng bừng. Những chuẩn bị bên ngòai là rất tốt, rất đẹp, vì đó là dịp chúng ta tỏ lòng hân hoan. Nhưng điều làm cho tôi thích nhất là những ngày tĩnh tâm trong Mùa Vọng, với những giây phút thinh lặng để tôi có dịp suy nghĩ lại "sám hối" về những gì mình đã suy nghĩ, những gì mình đã nói và những việc mình đã làm. Khi đó, chính là lúc tôi đang thật sự dọn lòng để đón Chúa.
Làm hang đá chuẩn bị máng cỏ đó chỉ là những sắm sửa, những điều bên ngoài. Dọn lễ Giáng Sinh mà chỉ nhắm đến bên ngoài mà thôi thì chưa đủ, mà chúng ta cần phải dọn lòng sửa đổi nội tâm, phá đi từng cục đá to ngăn lối Chúa vào. Do đó, chúng ta cần nỗ lực dọn sẵn con đường cho Chúa đến, như Gioan đã từng kêu gọi: "Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để cho Người đi". Nghĩa là khi Chúa đến thì những con đường gồ ghề không còn nữa, mà thay vào đó là những đại lộ đã được trải thảm để đón Người.
Ở bên ngoài thì thông thường người ta dọn rất tốt; nào là đèn sáng, nào là cây thông to, nào là hang đá đẹp. Thì ngay bây giờ và lúc này phải dọn bên trong ngay, vì giờ này " Chúa đã đến gần". Bên ngoài, với những ngọn nến lung linh, với ánh sáng chớp tắt lúc ẩn lúc hiện và những ngọn đèn cao áp nằm tít trên cao xóa tan màn đêm tăm tối. Những gì bên ngoài đã qúa đủ để đón Chúa, vậy còn trong tâm hồn thì sao? Tất cả những cái tốt đẹp bên ngoài chẳng có ý nghĩa gì khi tâm hồn mình vẫn còn tăm tối mù mịt, lại không được chiếu sáng bởi ánh đức tin, ánh sáng hy vọng, và ánh sáng của tình yêu với mọi người. Để làm được điều đó, trước tiên chúng ta hãy mở cánh cửa tâm hồn để đón Chúa với tình hiệp thông, biết chấp nhận người khác, sống với nhau bằng tình bác ái. Khi đã mở được cánh cửa tâm hồn thì tiếp theo phải dọn đường Chúa vào bằng cách san bằng những tảng đá làm cản lối mình đến với Chúa và Chúa đến với mình, hay cản những bước tiến trong cuộc đời ta.
Chúng ta hãy hời tưởng lại hơn hai ngàn năm trước, Chúa Cứu Thế đã từ bỏ vinh quang để mặc lấy xác phàm con người. Chính nhờ con trẻ mà định mệnh thế giới được thay đổi, được đổi mới theo ý định của Người. Nhưng không phải tất cả đều biết đón nhận Đấng Cứu Thế, không phải tất cả đều dọn lòng để đón Người. Còn rất nhiều người đang sống nhởn nhơ, vô lối, không những thế nhiều lúc họ còn là vật cản không cho Thiên Chúa đến với người khác. Những hành động đó thật đáng trách.
Khi dọn lòng sửa đổi đời sống là lúc chúng ta không những tự mình sám hối, mà còn đang giúp người khác cùng sám hối, vì qua suy nghĩ, lời nói hành động của chúng ta đều là mẫu gương thúc đẩu người khác cùng noi theo. Do đó, sám hối là điều rất quan trọng để đón Chúa, nó xuất phát từ bản thân mình có lòng ước muốn thay đổi, không ai có thể làm dùm mình được. Trong Mùa Vọng này chúng ta hãy hưởng ứng lới của Gioan Tiền Hô mỗi người hãy tự san bằng những định kiến đóng khung người khác, những hận thù chia rẽ. lấp đầy những hố sâu ngăn cách giữa ta với Thiên Chúa, và giữa ta với tha nhân. Chúng ta phải lấp đầy mỗi ngày trong cuộc sống
Chúa Nhật hôm nay Giáo hội cho ta thấy khuôn mặt của vị Tiền Hô đi trước dọn đường cho: MV 2-A74
Cd: Chúa Nhật hôm nay Giáo hội cho ta thấy khuôn mặt của vị Tiền Hô đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Gioan Tẩy Giả xuất hiện và kêu gọi dân chúng hãy cấp bách ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến, nếu không thì “cái riều đã đặt sẵn ở dưới góc cây, cây nào không sinh hoa kết trái sẽ bị chặt đi và quăn vào lửa”. Dân chúng đã đáp lời Gioan và chạy tới xin Gioan làm phép rửa ở sông Giorđan.
a/. Trước hết, hãy tìm hiểu về Gioan Tẩy giả và lời rao giảng của ông:
* Ông Gioan Tẩy giả: là con trai của tư tế Zacaria và bà Isave, sinh trước Chúa Giêsu 6 tháng, và có ba con với Chúa Giêsu, được ơn khỏi tội tổ tông ngay trong lòng mẹ (Lc 1, 36). Lớn lên ông vào hoang địa sống ẩn mình; sau đó xuất hiện rao giảng và làm phép rửa chuẩn bị cho dân chúng đón mừng Đấng Cứu thế. Về sau ông bị vua Hêrôđê giết vì ông đả kích việc vua cướp vợ của anh mình.
* cách sống của Gioan: Mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây là cách ăn mặc của người từ bỏ nhu cầu cần thiết của mình.
* Lời kêu gọi của Gioan: Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến: Metanoia: ăn năn và thay lòng đổi dạ. Nước Thiên Chúa gần đến, nên cần phải thay đổi toàn diện.
* Gioan còn kêu gọi dân chúng: Hãy sinh hoa quả, chứng tỏ lòng sám hối. Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái, sẽ bị chặt đi. Nói lên việc cấp bách phải lo ăn năn sám hối vì Nước Chúa đã gần.
* Tiên báo Đấng Cứu Thế: Phần tôi, tôi rữa anh em trong nước; nhưng Người, Người sẽ rữa anh em trong Thánh Thần. Chính Gioan xác nhận mình không phải là ĐCT. Gioan cũng nhìn nhận mình chỉ rữa anh em trong nước, nói lên lòng sám hối mà thôi và ông không xứng đáng cởi giày cho Chúa nữa. Gioan khiêm tốn đến độ không dám nhận mình như là đầy tớ của Chúa nữa, vì cởi giày cho ai là làm đầy tớ của người đó.
b/. Kinh thánh nhìn nhận Gioan Tẩy giả như là vị Đại tiên tri, đi trước dọn đường cho Đấng Cứu thế. Rõ ràng chính Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Gioan Tẩy giả lãnh nhận sứ mạng như tiên tri Êlia, người được loan báo đi trước dọn đường cho triều đại Nước Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu cũng xác nhận: Gioan Tẩy giả chính là Êlia, mà Cựu Ước loan báo. Vì thế qua lời rao giảng và cách sống của Gioan Tẩy giả, nói lên Ngài là vị tiên tri , người được Thiên Chúa tuyển chọn….
Gioan đã sống cho sứ mạng Tiền hô mình như thế, nên lời rao giảng của ông cũng mạnh dạng không kém. Gioan kêu gọi hãy ăn năn sám vì Nước Trời đã gần. Gioan còn mạnh dạng cảnh cáo những người sống không ngay thẳng. Ông gọi họ: Loài rắn độc. gioan còn nói mạnh: cái rìu đã sẵn bên gốc cây, nếu không sinh hoa trái, sẽ bị đốn ngay….
Hôm nay Hội thánh cho chúng ta nhìn lại gương sống của Gioan Tiền Hô, cũng như chính lời rao giảng của ngài, chắc chắn Hội thánh cũng mong muốn cho chúng ta, khi nghe lời thánh Gioan ngày hôm nay, cũng biết thực tâm ăn năn sám hối, để sẵn sàng đón chờ Đấng Cứu thế…
c/. Gợi ý sống và chìa sẻ: * Mùa Vọng nhắc nhở ăn năn sám hối. Lời Thánh Gioan TG cũng kêu gọi như thế. Mùa Vọng năm nay, ta có muốn thực tâm sửa đổi đời sống không? Lời canh báo của thánh Gioan dành cho những người cứng lòng, lời đó có đánh động lòng chúng ta không?
Có những người Do Thái khiêm tốn, đến thú tội với Gioan Tẩy Giả và xin ông làm phép rữa cho. Phần ta, để thực tâm sám hối trong Mùa Vọng, ta phải làm gì? Ta có nghỉ rằng, mình phải khiêm tốn trước mặt Chúa, khiêm tốn đến tòa cáo giải xưng thú tội lỗi, khiêm tốn sửa đổi đời sống không? Ta có nghỉ rằng, chỉ có một kẻ không sám hối được, đó là Satan, vì nó không bao giờ biết khiêm tốn, nhìn nhận tội lỗi của mình không?
Những ngày đầu của Mùa Vọng năm Phụng vụ 2008 dần dần trôi qua. Hôm nay chúng ta bước: MV 2-A75
Những ngày đầu của Mùa Vọng năm Phụng vụ 2008 dần dần trôi qua. Hôm nay chúng ta bước sang Chúa nhật II. Mùa Vọng là mùa trông chờ Chúa đến. Một tâm tình không kém phần quan trọng trong việc đón chờ Chúa đến đó là:"Anh em hãy sám hối." Ðây là lời kêu gọi của Thánh Gioan cho dân Do thái ngày xưa và cũng như cho tất cả chúng ta ngày nay.
Chúng ta có thể hiểu sám hối cách nôm na là “cải tà quy chánh” hay “quay trở lại”. Nghĩa là chúng ta bỏ những gì không thích hợp với lối sống của Tin mừng - lối sống của một người con Chúa. Chúng ta sẽ trở lại con đường mà Chúa Giêsu cũng như Giáo hội chỉ dẫn.
Chúng ta nhớ dân thành Ninivê sau khi nghe tin Giôna loan báo kêu gọi sám hối họ đã mau chóng thay đổi cách sống như thế nào. “Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình”. (Gn 3, 8) Ông Dakêu là người tham tiền nhưng khi được Chúa Giêsu đến thì ông đã sám hối bằng câu tuyên bố: “ Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." (Lc 19, 8b). Thánh Phaolô từ là người chuyên đi bắt đạo nhưng sau biến cố ngã ngựa ông đã trở thành người hăng say loan báo Tin mừng của Chúa. Thánh Augustinô cũng là một người biết sám hối không còn ăn chơi trụy lạc mà nhất tâm sống theo con đường của Tin mừng.
Muốn sám hối trước hết chúng ta cần phải nhìn nhận chính con người thật của mình. Con người thật của chúng ta quả thật rất mỏng dòn yếu đuối. Vì thế, chắc hẳn không ai trong chúng ta dám cho là mình vô tội. Không ít thì nhiều chúng ta đều là những tội nhân. Mỗi khi phạm tội là chúng ta không còn đi đường Chúa và Giáo hội chỉ dẫn nữa. Do đó, trước mỗi Thánh lễ Giáo hội luôn kêu mời chúng ta sám hối nhìn nhận con người thật của mình. Chỉ khi nào nhìn ra được như vậy chúng ta mới biết quay trở lại.
"Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.". Thật ra đây là Chúa đã đến gần. Vì theo phong tục của người Do thái họ tránh đi tiếng “Chúa” để thay vào tiếng “Nước Trời”. “Ðến gần” nghĩa là sát bên chỉ cần sám hối thì sẽ được Chúa đến ở với họ. Ý định yêu thương từ ngàn đời của Thiên Chúa là muốn cho con người được sống trong Người. Từ khi tổ tông phạm tội, Thiên Chúa luôn tìm mọi cách đến ở với con người. Phải công nhận là con người là thụ tạo được Chúa yêu thương nhiều nhất nhưng lại là những thụ tạo làm cho Người khổ nhiều nhất.
Chúa sẵn sàng đến ở với từng người chúng ta. Khi biết nhìn nhận con người thật của mình để rồi quyết tâm từ bỏ những gì không thích hợp với lối sống của Tin mừng chắc chắn Chúa sẽ đến ở với chúng ta.
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thấy mình cần phải sám hối. Việc sám hối này cần được làm liên tục trong cuộc sống của chúng ta. Cách riêng trong Mùa vọng này chúng ta hãy quyết tâm và xin Chúa cho mình đủ can đảm từ bỏ những cách sống nào không phù hợp với Tin mừng với lời dạy của Chúa và Giáo hội. Có như thế thì lễ Giáng sinh sắp tới chúng ta mừng mới thật sự có giá trị bền vững.
Gia đình bà Tâm có 7 người con, 4 trai 3 gái. Gia đình sống hạnh phúc, đầm ấm, đến nỗi làm cho: MV 2-A76
Gia đình bà Tâm có 7 người con, 4 trai 3 gái. Gia đình sống hạnh phúc, đầm ấm, đến nỗi làm cho nhiều người phải thán phục khen ngợi. Nhiều vị phụ huynh thấy thế đã sinh lòng thèm khát ước mong gia đình mình cũng được như vậy; nhưng trái lại, toàn gặp phải những đau xót chua cay tủi nhục. Một hôm, một bà hàng xóm đã giãi bày tâm sự với bà Tâm về nỗi lòng đau buồn của bà, chồng bà thì rượu bia nhậu nhẹt tối ngày, nóng nảy đập đánh vợ con; con cái thì lêu lổng chơi bời và luôn xảy ra những cuộc tranh cãi bất bình và đánh lộn. Trong gia đình thường luôn phải hô hấp một bầu không khí chiến tranh.
Để an ủi bà bạn, bà Tâm đã chân thành tỏ bày tâm sự một cách khiêm nhu sự thật về gia đình mình: "Chị thấy gia đình em được như ngày nay thật là một ơn trọng Đức Mẹ ban; nhưng đồng thời chúng em cũng phải cộng tác với Mẹ, bằng cách cố gắng lo giáo dục con cái nên người tốt, xứng với nhiệm vụ Chúa trao phó. Sự thực thì 7 đứa con nhà em, tính tình cũng rất ngạo ngược, xung khắc nhau, không đứa nào chịu đứa nào cả... luôn có những bất đồng cãi vã. Trước tình cảnh đau buồn đó, vợ chồng em đã cầu nguyện và bàn tính với nhau tìm cách nào để giúp đỡ các con. Một buổi tối nọ, em đã họp các cháu lại trước sự chứng giám của chồng em, em đã thành thật nói với các cháu: "Chúng con tuy tính tình khác nhau, sở thích khác nhau, quan niệm và nghề nghiệp cũng khác nhau; nhưng chúng con cũng hãy nhớ rằng: Chúng con là con cùng một cha một mẹ. Chính do lòng mẹ đây đã sinh ra các con. Vậy tại sao chúng con không thương yêu nhau, đùm bọc và xây dựng cho nhau?"
Rồi như để nêu cho các con một tấm gương, bà Tâm đã cảm động nói với các con: "Chính cha mẹ đây cũng đã phải nhường nhịn nhau nhiều, cha mẹ không những khác nhau xa vời về phái tính; mà sở thích, xu hướng và quan niệm của mẹ cũng rất khác với ba, nhưng vì yêu thương nhau, chấp nhận nhau và đã được Chúa liên kết nên một, nên cha mẹ đã sẵn sàng hy sinh cho nhau, bù trừ, chịu đựng, tha thứ lẫn cho nhau, để tạo nên một gia đình và nếp sống hạnh phúc cho nhau như chúng con đã thấy đây. Vậy mẹ xin chúng con hãy tha thứ cho cha mẹ về những điều thiếu sót và xin chúng con hãy noi gương cha mẹ, để chúng con biết hiệp nhất nên một, hòa thuận thương yêu nhau, hy sinh cho nhau, hầu cùng nhau tạo dựng một cuộc sống an bình và hạnh phúc".
Đó là tất cả một nghệ thuật mà bà Tâm đã giáo dục con cái bà và do sự tài khéo đó, gia đình bà đã được nhiều người khen ngợi.
I. CON CÙNG MỘT CHA TRÊN TRỜI
Qua thư gởi Tín Hữu Roma, Thánh Phaolô cũng đã cầu nguyện cùng Chúa cho chúng ta: "Xin Thiên Chúa là nguồn sự kiên tâm và an ủi, ban cho anh chị em biết thông cảm với nhau theo gương Chúa Kitô, để anh chị em đồng tâm tôn vinh Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rom 15:5). Ai trong chúng ta cũng đều thực nghiệm thấy rằng: "Bá nhân bá tính", trăm người trăm tính, không ai giống ai. Điều đó không lạ gì, vì một bàn tay có 5 ngón, cũng có ngón dài ngón vắn. Mà cũng chính vì sự khác biệt, sự bất đồng ý kiến, những tương phản đó mà chúng ta đã tìm ra những điểm tương đồng, những lẽ phải, để cùng nhau chấp nhận một luật lệ, một lẽ sống xứng hợp với chân lý, với thánh ý tối thượng của Thiên Chúa.
Không quốc gia hay cộng đồng nào, không đoàn thể hay gia đình nào không có những khác biệt, đối chọi, xung khắc nhau; nhưng nếu chúng ta biết tôn trọng nhau, nhường nhịn nhau, hy sinh tư kiến và chấp nhận lẽ phải, coi nhau như anh chị em con cùng một Cha Trên Trời, cùng chung một Giáo Hội duy nhất chính Chúa Kitô thiết lập, cùng tuân giữ một luật lệ, cùng tiến về một mục đích là Thiên Chúa, thì tất cả những xung khắc dị biệt sẽ được giải quyết dễ dàng.
Nếu chúng ta có tình bác ái huynh đệ chân thành, có lòng xả kỷ vị tha, chúng ta sẽ có thể đoàn kết xây dựng công ích để làm vinh danh Thiên Chúa, khi đó chúng ta mới dễ dàng: "Biết đón nhận anh chị em mình như chính Chúa Kitô đã đón nhận chúng ta, để làm rạng danh Thiên Chúa" (Rom 15:6-7) theo giáo huấn của Thánh Tông Đồ đã dạy. Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ không còn lý do để chia rẽ nhau; mà trái lại, chúng ta sẽ biết xích lại gần nhau hơn, thông cảm chia sẻ, tôn trọng yêu thương và đùm bọc lẫn nhau, chỉ lo xây dựng hạnh phúc cho nhau, tạo nên một sức mạnh vô song của tập thể, một đại gia đình Thiên Chúa, là anh chị em con cùng một Cha Trên Trời.
II. DỌN LÒNG ĐÓN CHÚA XỨNG ĐÁNG
Mùa Vọng là mùa trông đợi Chúa đến, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta sống theo lời kêu gọi của tiên tri Isaia và lời kêu gọi của Thánh Gioan Tiền Hô: "Hãy dọn đàng Chúa cho ngay thẳng, đồi cao hãy bạt xuống, hố sâu hãy lấp cho đầy, đường cong queo hãy nắn cho ngay, nơi gồ ghề hãy san cho phẳng" (Lc 2:4-5). Chúng ta hãy bạt núi đồi kiêu căng tự phụ, hãy lấp đầy hố chia rẽ ganh tỵ, hãy nắn cho ngay những mưu mô quanh quéo, hãy san cho phẳng những bất đồng ý kiến... Khi đó, chắc chắn chúng ta sẽ cùng nhau tạo dựng được một đại gia đình hiệp nhất và vững mạnh của Giáo Hội Chúa Kitô, cổ động được tình đoàn kết đồng hương dân tộc, biến đổi gia đình chúng ta nên một tổ ấm yêu đương, trên thuận dưới hòa, cha mẹ, con cái, anh chị em thương yêu nhau, tâm đồng ý hiệp để cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc.
Kết Luận
Vậy để đón Chúa ngự đến cộng đồng chúng ta, gia đình và tâm hồn chúng ta cách xứng đáng, chúng ta hãy đón rước Mẹ Maria ngự đến làm Nữ Vương cai trị cộng đồng, gia đình và tâm hồn chúng ta trước. Với tư cách là một người Mẹ, Mẹ có biệt tài chinh phục, hướng dẫn, giáo huấn chúng ta nên những người con ngoan thảo của Thiên Chúa, biết thương yêu nhường nhịn nhau, xây dựng hạnh phúc cho nhau, như anh chị em con một Cha Chung Trên Trời và con cùng một Hiền Mẫu Maria, là Mẹ yêu dấu của tất cả và của riêng mỗi người chúng ta.
Hình ảnh bà Tâm trong câu truyện vừa kể trên đây, chính là hình bóng Mẹ Maria ngự giữa chúng ta. Bao lâu chúng ta biết lắng nghe và tuân giữ lời giáo huấn đầy yêu thương của Mẹ, gia đình chúng ta sẽ thuận hòa hạnh phúc, vợ chồng thương yêu nhau, con cái theo gương tốt lành của cha mẹ, trọng kính và ngoan thảo với cha mẹ, cha mẹ yêu thương săn sóc giáo dục con cái Chúa trao ban theo tinh thần Chúa, anh chị em biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, và tất cả tạo nên một cuộc sống hạnh phúc, xứng danh con cái ngoan thảo của Thiên Chúa và của Mẹ Maria.
Trong bài Phúc Âm, thánh Mathêu đoạn 3, câu 1 đến 12 đã nói đến lời tiên tri Isaia, một vị tiên tri: MV 2-A77
Trong bài Phúc Âm, thánh Mathêu đoạn 3, câu 1 đến 12 đã nói đến lời tiên tri Isaia, một vị tiên tri sống vào khoảng 765 năm trước Chúa Cứu Thế đã nói: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Một lời mà Gioan tiền hô đã suy gẫm, đã ăn chay, đã sống nhiệm nhặt, ăn chay đánh tội, đến nỗi Chúa khen ông là người cao trọng nhất trong Cựu Ước (Mt.11:11). Ngài đã kêu gào người ta thống hối và tin vào phép rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa của đấng đã thiết lập sau này.
Mùa Vọng này, Giáo Hội muốn chúng ta dọn đường cho Chúa, hãy dọn tâm hồn mình cho trong sạch, đời sống của mình còn có điểm nào quanh co, hãy sửa chữa cho ngay thẳng, cho đoan chính, cho ăn nhập với lời khuyên của Phúc Âm. Những hố sâu tội lỗi, hãy bồi đắp cho bằng, những quăn queo, gồ ghề của tư tưởng vẹo vò, của kiêu ngạo, của tự ái, của ích kỷ, hãy bạt xuống cho bằng. Hãy nghe lời Gioan Tiền hô kêu gọi mà thực hành cho ráo riết, đừng coi thường và hãy thúc đẩy mọi người trong gia đình, trong chòm xóm thi hành lời kêu gọi. Hãy lấy đức ái mà che lỗi cho người sai lầm, chữa chạy cho họ, để cả hai được minh chính trước mặt Chúa, kẻo cái rìu đã đặt dưới gốc cây, cây nào mà không sinh trái, người nào mà không sửa mình sẽ bị chặt và quăng vào lửa. (Mt.3:10).
Cũng tại Hoa Kỳ, Luật Tiểu Bang cấm gọi điện thoại khi lái xe. Ai vi phạm sẽ bị phạt 100 đồng. Một hôm ông Thị Trưởng đi làm bị kẹt xe giữa đường. Hàng xe dài nối duôi nhau chẳng tiến mà cũng chẳng lùi được. Quên luật cấm, ông Thị Trưởng móc điện thoại di động ra liên lạc xem Ty Cảnh Sát có trách nhiệm giải quyết vụ kẹt xe đến đâu rồi. Bị nhà báo chụp hình ông đang nói điện thoại vi phạm luật cấm. Khi nạn kẹt xe được tháo gỡ, lưu thông trở lại bình thường. Ông Thị Trưởng lái xe thẳng tới sở Cảnh Sát, ông bình thản móc túi nộp 100 đồng tiền phạt.
Khi được hỏi, ông trả lời: "Đã có luật thì phải chấp hành, bất kể trong trường hợp nào và là ai. Tôi vi phạm nên tôi phải nộp phạt".
Khi đã khẳng định: Thượng bất chính thì hạ tắc loạn, nghĩa là người trên, kẻ lớn chả ra sao, thì cấp dưới, con cái nhất định cũng chẳng ra lề thói gì. Ngược lại, lời khẳng định trên cũng hàm chứa điều này: Nếu người trên, kẻ cả tuân thủ luật pháp một cách nghiêm túc, thì chắc chắn cấp dưới sẽ chẳng có cửa nào để làm càn. Chẳng cần ngồi lắc đầu nhìn những việc lỗi đạo hoặc than ngắn thở dài về sự xuống cấp đạo đức nơi gia đình, ngoài xã hội, có lẽ nên bắt chước gương người cha hoặc gương cấp trên của ông Thị Trưởng, chắc là hữu ích.
Lạy Chúa, để dọn mình chờ đón Chúa đến, con xin hứa sẽ nghe lời Gioan kêu gọi mà thực tâm cải thiện đời sống chính mình và kêu gọi người khác cùng thi hành với con (5.12.2004).
Trong xã hội ngày nay, con người đề cao tự do nên rất quen thuộc với sự lựa chọn. Khi đi mua: MV 2-A78
Trong xã hội ngày nay, con người đề cao tự do nên rất quen thuộc với sự lựa chọn. Khi đi mua quần áo, đồ đạc, người ta lựa chọn những cái có mầu sắc hợp với thị hiếu, kiểu cách hợp với thời trang hoặc sở thích. Khi lựa chọn người để làm nơi nương tựa, các cô thích tìm những anh chàng cao ráo, đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, có bằng kỹ sư, bác sĩ, luật sư.... Và loại bỏ những cậu có chiều cao khiêm tốn, "nhan sắc" kém cỏi, nghèo lủng cả túi quần... Khi lựa chọn những cái đó người ta có quyền đặt tiêu chuẩn theo ý riêng mình. Thiên Chúa cũng lựa chọn con người để cho họ được hưởng phúc thiên đàng hay phải đoạ phạt trong hoả ngục. Hình ảnh tượng trưng mà thánh Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy về Đấng Cứu Thế lựa chọn đó là "cầm nia trong tay mà sảy lúa"; lúa được thu vào kho, còn rơm bị đốt trong lửa không hề tắt.
Thiên Chúa lựa chọn theo tiêu chuẩn nào? Thánh Gioan Tẩy Giả là bậc tiên tri được Thiên Chúa tuyển chọn, cách sống và lối ăn mặc của ngài đã nói lên điều đó. Ngài là ngôn sứ của Thiên Chúa, ánh mắt nhìn và sự xét đoán của ngài dựa vào tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Dân chúng đủ loại từ khắp miền Giuđêa, người giầu sang cũng như nghèo khó, nông dân cũng như thương gia, học giả cũng như người thất học, tuốn đến để xin Gioan làm phép rửa. Gioan không lên án một ai ngoài những người Pharisiêu và ký lục. Họ là những người tự cho mình là công chính, sau này cũng bị Chúa Giêsu lên án. Họ bày tạo ra những luật thanh tẩy rườm rà và giữ rất nghiêm nhặt, nhưng lại lơ là với những điều chính yếu trong sách luật. Chúa đã lên án họ là bọn giả hình, nối dài thẻ kinh và tua áo để nuốt chửng gia tài các bà goá. Gioan cũng thấy việc họ đến xin chịu phép rửa là một hành vi giả tạo nên đã cảnh cáo: đừng tự phụ là con cái Abraham rồi sống bừa bãi, làm điều xằng bậy. Nếu không ăn năn hối cải, sửa đổi đời sống, họ vẫn bị tiêu diệt như một cây sinh ra trái xấu là những hành động tội lỗi ngấm ngầm của họ.
Tật xấu tự phụ, cho mình là người công chính có lẽ ai cũng nghĩ rằng mình không có. Nhưng xét cho kỹ thì hầu như không ai tránh khỏi. Khi chúng ta nhìn người khác làm điều sai rồi kết án họ là người xấu, chê họ thế này, chê họ thế khác, đó là lúc chúng ta ngầm cho rằng mình khá hơn những người đó, nên có quyền xét đoán, kết án họ. Đây là những hoa quả xấu mà cây đời sống của chúng ta có thể sinh ra, còn nhiều hoa quả xấu nữa như lòng ghen tỵ, hằn thù, ganh ghét, kiêu căng, chia rẽ, chống đối, bạo động... Những hoa quả xấu đó sẽ đưa chúng ta vào số cây bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy chúng ta hãy cẩn thận, cố gắng đạt được tiêu chuẩn mà Thiên Chúa muốn tìm kiếm nơi mỗi người chúng ta: đó là hoa quả yêu thương, hy sinh, quảng đại, phục vụ, đoàn kết, tha thứ.
Có tiếng kêu trong hoang địa”. Tiếng kêu giữa đám đông, giữa chốn thị thành nhộn nhịp họa: MV 2-A79
“Có tiếng kêu trong hoang địa”. Tiếng kêu giữa đám đông, giữa chốn thị thành nhộn nhịp họa may mới kéo được sự chú ý của người qua lại, chứ tiếng kêu trong hoang địa, thì chỉ là tiếng kêu vô vọng. Kêu giữa thinh không. Kêu cho sỏi đá, cát bụi, và cho nóng cháy nghe. Thế nhưng tại sao Isaia trước đó hàng 5 trăm năm đã nghe được tiếng kêu ấy, và đã nhận ra được tiếng kêu ấy: “Hãy dọn đường Chúa đến” (Mt 3:3). Tại sao?
Đó chỉ là vì giữa dòng đời con người luôn phải ngập chìm và đinh tai nhức óc với trăm ngàn tiếng khua động. Những tiếng động của dục vọng, tham lam, quyền lực, giận hờn, ghen tương, bất công, nghèo đói, và chết chóc. Đó là những tiếng kêu phát xuất từ đời sống con người. Ngoài ra, con người còn phải choán ngợp bởi những tiếng khác của âm thanh, bom đạn, và chém ghiết nữa. Những âm thanh mà chính con người tạo nên cho nhau. Do đó, tiếng kêu mà Isaia đã nghe được chỉ xuất hiện ở nơi xa xôi, hẻo lánh, không tiếng ồn ào, khua động của con người và cuộc sống chung quanh con người.
Có tiếng kêu trong hoang địa. Chỉ khi nào con người đi vào trong sa mạc đời mình, tức đi vào tâm linh của mình. Chỉ khi nào con người thoát ra ngoài những lo lắng, bon chen, và những tiếng ồn ào của đời sống, lúc ấy họ mới nghe được tiếng nói mà Isaia đã nghe, và mới hiểu được tiếng ấy như Isaia đã hiểu. Tóm lại, để nghe được tiếng kêu ấy, con người phải vào hoang địa, phải tìm đến cô tịch, đến thanh vắng. Trong đời sống tâm linh, điều này có nghĩa là con người phải đi vào lòng mình, trong chốn thâm sâu ấy, nơi không có những ồn ào, những va chạm của thế giới bên ngoài mới có thể nghe và hiểu được tiếng kêu ấy. Đó là tiếng nói của Thánh Thần, là tiếng thức tỉnh của lương tâm, và cũng là tiếng Thiên Chúa muốn nói với mỗi người: “Trong nơi thanh vắng, ta sẽ dậy bảo con”.
- Đó là những tiếng nức nở, thổn thức và nghẹn ngào của chồng, của vợ, của cha mẹ, và của con cái. Họ đang kêu thét lên nói với bạn hãy dừng bước trước hố sâu, trước cửa ngõ của cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, buông túng, và sa đọa.
- Đó là những tiếng rên rỉ của những hành khất tật nguyền tinh thần và thể xác đang ngày ngày đứng ở các xó xỉnh, hoặc ngồi lê la bên các lề đường nhìn bạn qua lại.
- Đó là những tiếng kêu van xin tha mạng của các thai nhi, của chính con cái bạn. Chúng đang giẫy dụa, đớn đau trước lưỡi kéo, lưỡi dao, trước mũi kìm dùng để xé nát thân thể chúng ngay trong bụng mẹ.
- Đó là những tiếng kêu của các em vị thành niên đang van xin bạn đừng dụ dỗ, đừng lường gạt thân xác và linh hồn của các em. Đừng dẫn các em vào con đường sa đọa.
- Đó là những tiếng kêu của phần đông nhân loại nghèo túng. Họ kêu xin để được tha nợ. Để tránh khỏi cảnh hà khắc, bóc lột, bất công, và ức hiếp.
- Đó là những tiếng kêu của các bệnh nhân, những người già cả đang bị bỏ rơi và quyên lãng trên giường bệnh, hoặc tại các viện dưỡng lão, các nhà mồ côi.
Những tiếng đó còn lớn hơn tất cả tiếng sấm chớp, giông bão. Hơn cả tiếng bom đạn, động cơ và máy móc. Tiếc thay, lại cũng chỉ là một tiếng kêu giữa sa mạc cuộc đời.
Chúa đến, Gioan đã là tiếng kêu của Ngài. Nhưng dường như chẳng mấy ai để ý. Và lúc này, chính Chúa lại là tiếng kêu. Ngài vừa là người kêu vừa là người nói về tiếng kêu. Ngài cũng đang kêu gào con người hãy thức tỉnh, hãy sẵn sàng vì ơn cứu độ đang ở giữa nhân loại. Ngài đang lang thang giữa sa mạc cuộc đời để kêu mời con người đừng giết người nữa. Đừng phá thai nữa. Đừng ly dị nữa. Đừng rượu chè, nghiện hút, bài bạc nữa. Đừng lợi dụng và phá hoại trinh tiết nhau nữa. Đừng kiện tụng, tranh dành và tham lam vô độ nữa. Đừng bóc lột và hà hiếp nhau nữa. Mặc dù biết rõ không mấy ai nghe, nhưng có lẽ Ngài đang hy vọng bạn là người nghe và hiểu Ngài. Hiểu được rằng những tiếng ấy được nói lên vì bạn và cho bạn. Vì như Phêrô đã thưa: “Chúa có lời ban sự sống”.
Sống là hy vọng. Không có niềm hy vọng, con người không thể lớn lên giữa bao thách đố và: MV 2-A80
Sống là hy vọng. Không có niềm hy vọng, con người không thể lớn lên giữa bao thách đố và cám dỗ. Bởi đó, hy vọng chính là sức mạnh giúp con người có thể đạt tới mục đích hay lý tưởng cuộc đời.
Trên con đường theo Chúa hôm nay, ai dám tự hào mình có thể đi tới cùng và đạt mục đích tối hậu? Nếu có đi tới cuối chặng đường chắc chắn phải nhờ Lời Chúa, “chúng ta vững lòng trông cậy.” (Rm 15:4) Lời Chúa đã đem lại niềm hy vọng lớn lao. Nhìn lại con người và cuộc đời, chúng ta mới biết tại sao nhiều lần mình đánh mất niềm hy vọng. Nhìn đến dân tộc, liệu chúng ta có dám quả quyết “hy vọng đã vươn lên” không?
TỪNG BƯỚC TỪNG BƯỚC THẦM
Có lần Chúa Giêsu đã ám chỉ Thánh Gioan là người phù rể của Người (x. Mt 9:15). Phù rể đã xuất hiện trước để chuẩn bị cho Người Yêu đến với Cô Dâu là Giáo hội. Giữa tình thế xôn xao về Ðấng Thiên Sai, Thánh Gioan xuất hiện. Tất cả sứ điệp và con người ông đều được bộc lộ công khai, trước khi ông tự xóa mình trước Ðấng ông đã loan báo. Ông mở ra cho muôn dân niềm hy vọng cứu độ lớn lao. Nhưng ông chờ đợi gì?
Trước hết, ông chờ đợi dân chúng sám hối. Ðó là điều khó khăn nhất. Ông không hấp dẫn như các nhà ảo thuật. Con người ông cũng không giống ai, nếu không nói là lập dị. Không biết có phải vì sống quá lâu trong hoang dã, xa cách lối sống văn mình, mà ông chỉ còn biết nói năng cứng cỏi và không khoan nhượng? Nhưng có lẽ vì lòng nhiệt thành, ông đã lôi kéo mọi người từ khắp nẻo đường đất nước (x. Mt 3:5).
Nhưng nhất là vì ai cũng nhận ông là người của Thiên Chúa. Cả những người cứng đầu nhất như Pharisêu và Xađốc cũng “đến thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong dòng sông Giođan.” (Mt 3:7) Tuy thế, sống quá lâu trong truyền thống và quá nặng nề với lợi lộc trần thế, họ không có cách nào trở về với Thiên Chúa. Ðúng hơn, họ không muốn sám hối. Sự sám hối đích thực phát xuất từ trong tâm hồn, chứ không dừng lại ở một vài hình thức thú tội bên ngoài. Tất cả các việc thú tội và chịu phép rửa đều chỉ là hình thức che đậy những dã tâm của họ. Ông cố thuyết phục họ, nhưng thất bại. Bởi vậy, ông mới nổi giận và vạch mặt chỉ tên: “Nòi rắn độc kia …” (Mt 3:7) Cuộc đời trở thành bi kịch. Bầu khí vẫn còn đầy ô nhiễm và không thể tẩy sạch. Cuộc đời còn lại gì? Khi tất cả đều phủ màn đêm, niềm hy vọng vẫn còn đó.
Đâu là niềm hy vọng của Gioan? Trên hết, ông ngóng đợi bước chân “Ðấng sẽ làm phép rửa cho các anh bằng Thánh Thần và bằng lửa.” (Mt 3:11) Một kỷ nguyên mới sẽ khai sinh. Chỉ có sức mạnh vô song mới có thể giải quyết toàn bộ vấn đề. Sức mạnh đó chính là Thiên Chúa Tình Yêu đang đến trong Chúa Giêsu Kitô. Người sẽ sai Thánh Linh đến đổi mới mặt địa cầu. Một thế giới mới sẽ sinh ra. Nhưng ông Gioan còn hy vọng nơi phép rửa “bằng lửa” sẽ hủy diệt sự dữ, nhất là những cơ chế bất công (Pharisêu, Xađốc), trên trần gian. Niềm hy vọng đó sẽ hoàn toàn đươc thực hiện trong ngày Ðức Kitô ngự đến và Thánh Linh được sai đi. Niềm hy vọng đó không phải chỉ “thanh tẩy” trần gian khỏi sự dữ như ông hiểu biết và mơ ước.
Ông nóng lòng muốn thấy trần gian được thanh tẩy tức khắc khỏi những gì dẫn đến sự dữ. Tuy niềm mơ ước chưa hình thành, nhưng Thánh Linh sẽ cho ông cơ hội loan báo chuẩn bị cho bước đường Ðức Kitô ngự đến. Ông sẽ sống tới khi tử đạo … Nhờ cái chết của ông, Ðức Kitô “sẽ thanh tẩy” trần gian khỏi mọi sự dữ. Chắc chắn Người sẽ đem lại ơn cứu độ. Ðược Ðức Kitô hướng dẫn, niềm hy vọng của chúng ta sẽ hoàn thành nơi Người.
Ngày nay đang mở ra một chân trời hy vọng. Chúng ta mong đợi nhiều sự từ nơi Thiên Chúa.Dù những lời cầu xin lớn hay nhỏ, nếu tín thác nơi Chúa, chúng ta sẽ được ban Thánh Thần. Có thể xin Thiên Chúa mọi sự, vì Người yêu thương con cái trong những chi tiết nhỏ nhất trong cuộc sống. Chắc chắn, niềm hy vọng của Kitô hữu dựa trên những mong đợi chính xác, nhưng lại đi quá xa: hy vọng sống với Thiên Chúa. Sống với Thiên Chúa là sống vĩnh hằng ngay từ bây giờ! Niềm hy vọng đem lại niềm vui giữa những hạnh phúc và buồn sầu trong cuộc đời này. Niềm hy vọng là Thần Khí tình yêu đang hiện diện đầy ắp trong cả cuộc đời chúng ta.
HY VỌNG ÐÃ VƯƠN LÊN
Mở đầu thông điệp Spe Salvi ÐGH Bênêđictô XVI nhắc lại lời thánh Phaolô: “Chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong.” (Rm 8:24) Chỉ có thể trông mong khi biết rõ Chúa Giêsu là “Con Ðường, Sự Thật và Sự Sống.” (Ga 14:6) “Có chiêm ngắm dung nhan Chúa, chúng ta mới có thể vững chắc tin tưởng và hy vọng Người là Ðấng Cứu độ duy nhất và là cứu cánh của lịch sử.”(1) Không có niềm tin và hy vọng đó, nhân loại không biết lịch sử hướng về đâu. Nếu vũ trụ và nhân loại sinh ra để chết, thì lịch sử và cuộc sống con người thật phi lý. Chỉ Ðấng có thể cứu sống, mới có thể vạch hướng cho lịch sử và đem lại cho cuộc đời một ý nghĩa đích thực mà thôi.
Thực vậy, “Chúa Giêsu đã ‘trả giá mắc’ (1 Cr 6:20; x 1 Pr 1:18-19) mới chiếm đoạt và hoàn thành ơn cứu độ cho cuộc sống mới, một cuộc sống đang chờ đợi người công chính sau khi chết. Nhưng ơn cứu độ cũng đang thẩm thấu vào thế giới hôm nay trong các thực tại kinh tế và lao động, kỹ thuật và truyền thông, xã hội và chính trị, cộng đồng quốc tế và những tương quan giữa các nền văn hóa và các dân tộc.”(2) Lý do vì mọi dân tộc đều được chúc lành trong Người (x. Tv 71:17).
Công cuộc cứu độ vĩ đại ấy phải được chuẩn bị kỹ càng và đón nhận trang trọng. Cao điểm trên bước đường chuẩn bị là ông Gioan Tẩy Giả. Ông đã được sai tới làm chứng Thánh Thần và lửa là tất cả đặc điểm thời đại Chúa Giêsu (x. Mt 3:11). Không gì có thể tồn tại trước sức mạnh đó. Mọi sư đều phải thay đổi để đón nhận sự sống mới. Một trời mới đất mới tràn ngập bình an và thịnh vượng, vì được Chúa cai trị bằng công lý. Quả thế, “triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nào tuế nguyệt chẳng còn.” (Tv 71:7) Cuối cùng chỉ còn lại các tôi tớ trung thành vì Chúa lấy công lý bảo vệ và “bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.” (Tv 71:2)
Như vậy, ảnh hưởng Người không chỉ quanh quẩn trong biên giới Do thái, mặc dù họ là những người đầu tiên được kêu gọi hưởng ơn cứu độ và lời hứa dành cho các Tổ phụ. Nói khác, từ nay Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại. Thánh Phaolô quả quyết: “Vì thế, giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.” (Rm 15:9) Lời ca thốt lên từ những tâm hồn và con người hoàn toàn tự do vì được quyền lực Thần Khí giải thoát và sống dưới quyền một vị vua lý tưởng là Ðấng Thiên Sai. “Trong các lời sấm về Ðấng Thiên Sai, muôn dân mong chờ một vị vua được ban đầy Thần Khí, khôn ngoan và có thể trả lại công lý cho người nghèo vào thời cánh chung (x. Is 11:2-5; Gr 23:5-6). Như vị mục tử đích thực của dân Do thái (x. Ed 34:23-24, 37:24), Người sẽ làm muôn dân sống trong hòa bình (x. Dc 9:9-10).”(3)
Vị vua công chính đó chỉ đến với nhân loại qua đường công lý và tình thương. Kitô hữu chân chính sẽ nỗ lực hi sinh cả cuộc đời để xây dựng con đường này. Quả thực, “Giáo hội dạy rằng Thiên Chúa đã ban cho họ khả năng vượt qua sự ác và đạt đến điều thiện. Chúa đã cứu chuộc nhân loại ‘bằng một giá mắc.’ (1 Cr 6:20) Ý nghĩa và nền tảng lời cam kết của Kitô hữu trong thế giới có nền tảng vững chắc khiến niềm hy vọng dâng trào, mặc dù tội lỗi đã khắc sâu vào lịch sử nhân loại. Lời Thiên Chúa hứa bảo đảm nhân loại không còn khép kín, nhưng mở cửa đón nhận Nước Thiên Chúa.”(4) Tội lỗi không thể hủy diệt niềm hy vọng, vì niềm tin và tình yêu mạnh hơn sự chết. Ðó là tất cả sức mạnh xây dựng Nước Thiên Chúa trong công lý và hòa bình.
Từ tình yêu thập giá, “niềm hy vọng Kitô bơm thêm năng lực lớn lao vào sự cam kết trong lãnh vực xã hội, vì làm cho họ tin chắc có thể xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, ngay cả khi không bao giờ có ‘một địa đàng trên mặt đất.’ Giáo hội khuyến khích các Kitô hữu, đặc biệt người giáo dân, hành động làm sao cho ‘quyền lực Phúc âm có thể chiếu sáng trong đời sống hằng ngày trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Họ xử sự như những con cái của lời hứa. Bởi thế, họ phải biết tận dụng thời buổi hiện tại (x. Ep 5:16; Cl 4:5) và kiên nhẫn chờ đợi vinh quang sắp tới (x. Rm 8:25) mà sống vững mạnh trong đức tin và niềm hy vọng. Như thế, họ đừng che giấu tận đáy con tim, nhưng hãy diễn tả niềm hy vọng này ra bằng cách sám hối liên tục và chiến đấu ‘với những bậc thống trị thế giới tối tăm này’ (Ep 6:12)”(5) đang núp trong những cơ chế bất công.
Không có niềm hy vọng, con người dễ chùn bước trước mãnh lực đang đè bẹp xã hội. Có hy vọng, mới nhìn rõ mục tiêu và thêm nghị lực hành động. Nếu tin tưởng vào Ðấng đã chiến thắng tử thần và giành sự sống cho nhân loại, con người sẽ đủ sức mạnh chiến đấu. Chiến đấu bằng một tình yêu bất bạo động như Chúa trên Thánh giá.
CHỨNG TỪ NIỀM HY VỌNG
Hiện tại, các ý hệ chính trị, các mô hình kinh tế và các học thuyết xã hội đề xướng một niềm hy vọng bắt nguồn từ bên ngoài con người. Ðó là niềm hy vọng giả tạo, khiến cuộc sống con người bị ngột ngạt. Niềm hy vọng Kitô muốn cứu con người khỏi bị ngộp thở vì những cơ chế xã hội tàn bạo. Thực thế, “Kitô Giáo không mang lại một sứ điệp cách mạng xã hội bất hạnh như kiểu Spartacus, tranh đấu đến đổ máu quá nhiều. Chúa Giêsu không phải là Spartacus, Ngài không dấn thân vào một cuộc chiến giải phóng chính trị như Barabbas hay Bar-Kochba. Khi chết trên Thánh Giá, chính Chúa Giêsu đã mang lại cho chúng ta một cái gì đó hoàn toàn khác: một cuộc gặp gỡ với Chúa của các chúa, một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, và qua đó gặp gỡ một niềm hy vọng còn mạnh hơn những cơ cực của kiếp nô lệ, một niềm hy vọng, do đó, thay đổi cuộc sống và thế giới tự bản chất bên trong.”(6) Thật vậy, theo ÐGH Bênêđictô XVI, hy vọng không thể xuất phát từ việc chúng ta chống nghèo đói, bất bình đẳng hay bất công. Muốn có niềm hy vọng, phải có một lý do tích cực để sống. Lý do đó không gì khác hơn là Thiên Chúa.
Kitô hữu biết rằng “họ có một tương lai. Họ không biết ngọn ngành chi tiết về tương lai này. Nhưng nói chung, họ biết cuộc sống họ sẽ không kết thúc trong sự trống rỗng. Chỉ khi nào tương lai chắc chắn như một thực tại tích cực, chúng ta mới có thể sống niềm hy vọng đó trong hiện tại.”(7) Niềm hy vọng đó không dành riêng cho Kitô hữu, nhưng cho tất cả những ai đang mơ ước sống một cuộc đời có ý nghĩa. Có thể họ không cùng chia sẻ với các Kitô hữu một niềm tin vào Thiên Chúa. Nhưng khi loan báo niềm hy vọng phát xuất từ nội tâm con người, một lãnh vực thuộc niềm tin và lương tâm, Kitô hữu cũng nhắm tới họ nữa. Chính vì thế, trong Tin Mừng Chúa Giêsu đã nêu cao gương sống, tức chứng từ của niềm hy vọng, từ những người ngoại giáo.
Ngay trong đời thường, chúng ta cũng thấy rất nhiều chứng từ của niềm hy vọng nơi phố xá hay trong gia đình. Hai giai thoại sau đây có thể chiếu sáng lên màn ảnh cuộc đời những chứng từ đó:
1. Bà Lê Hiền Đức, nhà giáo nghỉ hưu, đã được báo chí Việt Nam nhắc đến nhiều lần qua những chuyện bị kết án là "lẩm cẩm" như viết đơn khiếu kiện dùm người dân ít học.
Có báo còn gọi đùa bà một cách đáng yêu là "Bà già lắm chuyện" kể lại rằng có lần bà đi sang đường Trần Phú ở Hà Nội, thấy viên cảnh sát giao thông kéo người lái xe sang bên kia đường mới chịu ghi phạt, bà nổi máu 'hình sự' kín đáo kéo sụp nón bước theo sang. Núp sau gốc cây, bà già 'lắm chuyện' chứng kiến trọn cảnh viên cảnh sát từ xin xỏ, sang quát tháo dọa nạt, đến cảnh cậu lái xe buồn bã đưa tờ 50 ngàn cho viên cảnh sát mà không được nhận biên lai gì.
Báo VietnamNet viết rằng "xấp xỉ 80 nhưng bà cụ không thiếu những mưu mẹo, mánh khóe đấu tranh để đưa những tiêu cực ra ánh sáng."(8)
2. Chúa Nhật 21-10-2001 - Ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 75 - Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II (1978-2005) long trọng nâng cặp vợ chồng người Ý lên hàng Á Thánh. Ông Luigi và Bà Maria Beltrame Quattrocchi.
Khi bà Maria mang thai được 4 tháng, bác sĩ Regnoli của nhà thương "Nữ Hoàng Elena” ở Roma đã khám phá ra nơi bà một chứng bệnh hiểm nghèo. Nếu không chữa trị kịp thời, chứng bệnh sẽ đưa đến cái chết của cả hai mẹ con. Đối với bác sĩ, không có hy vọng cứu sống bào thai. Hoặc giả đứa bé sống sót thì sẽ bị tàn tật suốt đời. Chi bằng tốt nhất nên cứu sống người mẹ. Trong trường hợp này, bà Maria phải quyết định ngưng mang thai tức khắc.
Chính Linh Mục Paolino - người con thứ ba - gợi lại biến cố đau thương này.
Sau khi lặng lẽ nghe bác sĩ tuyên án, đôi mắt Má ngước nhìn Ba. Bốn con mắt giao nhau trong cùng ý tưởng. Rồi cả hai lặng lẽ hướng về cây Thánh Giá treo trên tường, như âm thầm kín múc sức mạnh để sẵn sàng nói: "Không phá thai!” Khi biết rõ quyết định của Ba Má, bác sĩ kinh ngạc nói với Ba:
- Luật sư không biết rằng, rồi đây luật sư sẽ mất vợ và sẽ một mình dưỡng dục ba đứa con thơ sao?
Nhưng quyết định của Ba Má trước sau như một:
- Không giết chết bào thai trong dạ!
Sức mạnh duy nhất giúp Ba Má thắng vượt khó khăn trong lúc này chính là lòng tin tưởng tuyệt đối nơi sự trợ giúp của THIÊN CHÚA và Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA. Và THIÊN CHÚA đã thưởng công. Sau 8 tháng cưu mang, bác sĩ quyết định mổ và đưa đứa bé ra. Hôm ấy là ngày Thứ Hai Tuần Thánh 6-4-1914. Đó là bé Enrichetta. Đứa con đáng lý không được sinh ra đã tận hiến cho THIÊN CHÚA tại gia và phụng dưỡng Cha Mẹ suốt cuộc đời mình, cho đến khi Chúa lần lượt gọi Ba Má về với Ngài.(9)
Thật tuyệt vời! Niềm hy vọng đã biến đổi tận thâm tâm con người. Ðúng như ông Gioan Tẩy Giả quả quyết, Chúa Giêsu đã dùng Thánh Thần và lửa để thay đổi tất cả và làm mới lại trái đất. Bao giờ được ngọn lửa Thánh Linh chiếu sáng, niềm hy vọng mới vươn lên trên quê hương yêu dấu của chúng ta.
Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần thắp lên ngọn lửa hy vọng trong lòng chúng con, hầu cho cuộc sống ngày càng có ý nghĩa hơn. Xin cho những chứng từ hy vọng hôm nay làm cho mọi người nhận ra Chúa Giêsu, Con Chúa, là Ðấng cứu độ trần gian. Amen.
đỗ lực
09.12.2007 --------------------------------- [1] Toát Yếu Học Thuyết Giáo Hội về Xã hội, 1. [2] ibid. [3] ibid, 378 [4] ibid, 478. [5] ibid, 479. [6] ibid, 4. [7] Benedict 16, Spe Salvi. [8] http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2007/12/05/Transparency_
International_awards_first_Vietnamese_LDan/ [9] http://tamlinhvaodoi.net/tinvui/index.php?
mod=article&cat=chungnhan&article=463
Sang Mỹ ăn nhiều bơ thịt, tạng người trẻ Việt có vẻ cao ráo gồ ghề hẳn ra, hình ảnh cô em Bắc: MV 2-A81
Sang Mỹ ăn nhiều bơ thịt, tạng người trẻ Việt có vẻ cao ráo gồ ghề hẳn ra, hình ảnh cô em Bắc Kỳ nho nhỏ đôi khi cũng nhạt nhòa theo với Nguyễn Tất Nhiên.
Bệnh phì mỡ hiện đã trở thành một thứ nạn rất tốn tiền nơi lớp trẻ Mỹ, bị tới 22% lận. Karl Marx "đỉnh cao trí tuệ loài người là con vật kinh tế" đã phát ngôn sai bét! Ông ta và đám đồ đệ háu đói chỉ mơ tranh ăn không cũng đủ hả hê trên cõi đời này lắm rồi. Thiên hạ bây giờ lại chỉ sợ chết no, phải lo nhịn ăn bớt đi cho đỡ mập, vất mớ lý thuyết "tiên tiến tiền sử" vào sọt rác!
Mập một tí cũng đẹp chứ có sao? Nhưng bệnh ứ mỡ không ngờ mà tai hại quá sức. Thở hết nổi, đi lại ì ạch, tim bị nghẹt, mạch máu bị tắc, đầu óc trì trệ, và sinh ra mặc cảm thấy mình chẳng giống ai.
Báo chí tuần này lại lên tiếng ồn ào, bảo rằng tỉ lệ bệnh phì mỡ nơi đám trẻ tăng vọt dữ dội từ mười năm nay, kể từ khi có nhiều chương trình hoạt họa và máy chơi trên màn ảnh TV và Internet. Trẻ cứ chúi đầu vào đó suốt buổi, quên luôn xe đạp và trò chơi ngoài trời; rồi tiện tay có hằng "xe vận tải" các đồ ăn vặt liên tục tốc hành chạy vào miệng, vừa chơi vừa "cạp" Big Mac. Ngồi nhiều thì sinh ứ và đạt thói quen lười biếng rất nhanh. Rồi đồ ăn vặt lại chứa quá nhiều chất làm rửng mỡ. Thành ra đứa trẻ tưởng rằng ngồi chơi mà hóa ra đang bị cơn bão khích động hoành hành từ cơ thể cho đến tâm tính! Dư nhiệt thừa mỡ quá làm sao kềm nổi?
ENNEAGRAM, PHƯƠNG PHÁP CHÍN SỐ VỚI CHÍN CÁI MẶT NẠ
Không ngờ mình lại bị biến chất người do đồ ăn và đồ chơi. Chẳng lạ gì mà hãng "Toys are Us" đã chọn cái tên thật độc: đồ chơi là chính chúng ta. Cũng như đã từng có bảng quảng cáo quần áo tỉnh bơ thế này: bạn là chính quần áo bạn mặc (you are what you wear). Đồ chơi giáo dục đào tạo con cái chứ có phải cha mẹ đâu.
Mà chẳng phải trẻ em không, mỗi người cũng có thể đang bị "đào tạo biến chất người" một cách khác nhau. Hiện nay những ngành về tâm lý và linh hướng, thường thêm môn học về Enneagram, tức là Phương Pháp Chín Số, khá thịnh hành và hiệu nghiệm. Đó là một phương pháp bí truyền của các sư phụ Sufi vùng Cận Đông dùng để huấn luyện môn sinh. Enneagram nhằm đào sâu vào mặc cảm con người, rất gần với khoa tâm lý miền sâu ngày nay, nhưng đã được hệ thống hóa một cách đơn giản để áp dụng thực hành ngay được. Một trong những khía cạnh hấp dẫn của Enneagram là cho thấy rõ mỗi người có một chiều hướng khổ nằm mãi tận trong mạch máu. Đó là một động lực tiềm ẩn đun đẩy trong suốt cuộc đời; mọi hành vi ngôn ngữ đều do động lực này điểu khiển một cách vô thức. Một người hay chê bai chỉ trích là vì bên trong có nhiều cái không bằng lòng với chính mình, nên phóng rọi những bóng đen đó ra ngoài, phản ánh nơi người khác, như ca dao Việt đã tài tình diễn tả:
Một người hay khoe khoang và thích chôm chỉa chộp giật là vì trong thâm tâm có mặc cảm mất mát hụt hẫng nên phải gỡ gạc bù trừ. Một người luôn tỏ ra hung hãn ăn thua đủ với mọi người là vì đời sống đã ăn quá nhiều đòn, giống như kiểu vết thù hằn trên lưng ngựa hoang.
Hóa ra ít người đang là chính mình lắm. Chẳng lạ gì mà trong nghệ thuật sân khấu Á Đông, các vai diễn thường mang mặt nạ, có ý nói lên rằng cuộc đời là một vở kịch mà mỗi người cũng đang đóng một vai trò kịch cỡm nào đó, chứ chưa chắc là con người thật của mình. Ngôn ngữ tâm lý miền sâu của Karl Jung thì gọi là Persona, là con người mang mặt nạ, con người giả, phàm ngã (false self), không phải là con người thật, chân ngã (the self).
ĐIỂM MẶT ĐỨA SAI KHIẾN MÌNH
Mọi hành vi ngôn ngữ của con người đều do động lực bên trong điểu khiển một cách vô thức, bắt mình phải giẫy, phải cắn, phải khoe mẽ, phải gỡ gạc chôm chỉa. Người đang hành động theo ẩn ức này thì cảm thấy khổ vì không bao giờ thỏa được, mà lại làm khổ nhiều người. Rồi người khác bị hành khổ lại nối tiếp đi làm khổ người khác nữa, làm nên cái vòng luẩn quẩn mà chữ nghĩa gọi là cái vòng hệ lụy nghiệt ngã trói chặt không thoát ra được.
Điều mình đang khổ tâm, không chấp nhận được ở trong mình, thì lại phóng rọi sang người khác. Từ tâm lý bây giờ gọi là hiện tượng phóng chiếu (projection). Nói khác hơn, cứ xem những biểu hiện qua hành vi ngôn ngữ của một người thì biết ngay động lực nào từ bên trong để chữa trị. Chẳng hạn một người hay chê bai chỉ trích và tiêu cực là dấu chắc chắn đang bị nỗi khổ mặc cảm thua kém, là "cái đứa" điều khiển mình. Người Việt đã biết khoa tâm lý uyên nguyên này từ lâu, trước Sigmund Freud và Karl Jung xa. Chả cần những cuốn sách khảo cứu dầy cộm, người Việt tóm gọn chỉ trong hai câu:
Con lươn vốn dài và con trạch thì vốn ngắn. Con sò con trai thì vốn có miệng không đều một cách nghệ thuật. Chúng được dựng nên vậy mà, đẹp lắm chứ. Thế mà chỉ vì có anh lươn nào tự mặc cảm thấy mình không "cao ráo sáng sủa" thì mới đi chê chú trạch dài chi mà "quá cỡ thợ mộc!" Cô thờn bơn nào mặc cảm không có bờ môi hình trái tim mới đi chê nàng sò vốn có cái răng khểnh duyên dáng chứ có lệch lạc gì cho đành. Ấy, cái khổ bên trong nó phóng rọi ra là vậy. Và mình dễ giẫy giụa trở thành những hiện tượng, những mặt nạ làm trò hề.
TIN VUI GỬI CÔ BẮC KỲ NHO NHỎ
Nỗi khổ này đã từng hành hạ Nguyễn Tất Nhiên và nhiều người với "Này Cô Em Bắc Kỳ Nho Nhỏ":
đời chia muôn nhánh khổ nguy nan
mà anh mang tội gốc chưa tan.
....
cửa chùa tuy rộng mở
tà đạo khó nương thân
anh đành xưng quỉ sứ
lãnh đủ ngọn dao trần!
qua giáo đường kiếm Chúa
xin được làm chiên ngoan
Chúa cười rung thánh giá
bảo: đầu ngươi có sừng!
Thấy mình có sừng quỉ sứ khiến vỡ tình là một nỗi khổ. Cũng là một trong 9 mặt nạ hay 7 "tội gốc chưa tan", tiếng trong Đạo Chúa gọi là bẩy mối tội đầu, là bẩy cái gốc của mọi giống tội tham sân si, mãi mãi hành hạ làm khổ đời mình, làm khổ đời nhau, và trở thành những hiện tượng, những mặt nạ lố bịch.
Cảm nghiệm sâu xa được điều này, người Việt diễn thành phong tục: "miếng trầu làm đầu câu chuyện". Đến với nhau mà không nghiền nát xóa bỏ cái tôi giả của mình ra như trầu cau thì tình thương không thể phát khởi được, không thấy được nét đẹp thực của nhau. Và rất có thể chỉ là dịp để đóng kịch, lợi dụng nhau và hành khổ nhau.
Chính vì thế mà khởi đầu Tin Mừng của Chúa là lời kêu gọi từ sa mạc trống vắng: "Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần bên. Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi." (Mt 3:2-3).
Nước tình yêu hạnh phúc đang ở ngay bên rồi. Chỉ cần xả trống mặt nạ, buông bỏ những gì đang cản trở chặn vít, là nhận ra liền.
PHÚT ĐÁNH TRỐNG MỞ TÂM
Trong các lễ nghi trang trọng, người Việt thường đánh ba hồi trống để khai mạc. Đây chính là nghi thức mở màn mặt nạ chắn vít con người thật của mình, để dòng lực tình có thể luân lưu. Cũng như phải đấm vào ngực mình ba lần như ba hồi trống khi đọc "Kinh Cáo Mình" lúc đầu lễ trong đạo Chúa.
Nhà thờ vùng New Orleans, trong những dịp lễ truyền thống Việt Nam như ngày Tết, ngày Giỗ Tổ v.v. thường áp dụng nghi thức đánh trống và dâng hương vào nghi thức thống hối đầu lễ: khai trống cõi tâm cho Thần nhập, xả bỏ phàm ngã để hòa nhập vào Chân Ngã là chính Chúa, như diễn tiến Vũ Khúc Vuông Tròn: hòa nhập cõi vuông góc cạnh trần thế vào cõi Trời tròn viên mãn.
Muốn được thanh thoát, mình cần dành giây phút thảnh thơi, ngồi tĩnh lặng, nhận diện một "tội gốc chưa tan" vốn điều khiển sai bảo mình từ bấy lâu nay, khiến mình cứ phải tự hành hạ và làm khổ nhiều người. Và mình điểm ba hồi trong tâm tưởng cho lòng mình trống ra, lâm râm với Nguyễn Tất Nhiên, cảm nhận giây phút bừng tỉnh:
chuông nhà thờ đổ mệt,
tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ, có lẽ
rơi xuống trần gian, mưa.
Mùa vọng là mùa trông đợi. Chúng ta trông đợi Chúa đến trong đêm giáng sinh. Đó là một sự trông: MV 2-A82
Mùa vọng là mùa trông đợi. Chúng ta trông đợi Chúa đến trong đêm giáng sinh. Đó là một sự trông đợi có tính cách nghi lễ nhằm kỷ niệm sinh nhật Chúa Giêsu tại Bêlem. Nhưng đồng thời mùa vọng còn là trông đợi Chúa lại đến vào ngày sau hết như lời Ngài đã hứa. Và lời rao giảng của Gioan được coi như là một lời kêu mời chúng ta tích cực chuẩn bị để bước vào thời đại mới ấy. Vậy thì đâu là sứ điệp của Gioan?
Trước hết ông đã rao giảng sự ăn năn hối cải vì Nước Trời đã gần đến. Những hình ảnh ông sử dụng gợi lên một cảnh tượng tiêu điều của sa mạc cát nóng, của hoang địa khô chồi cằn cỗi. Thế nhưng, người Do Thái và nhất là giai cấp lãnh đạo đã coi thường lời kêu gọi ấy. Họ nghĩ rằng mình là dân riêng của Chúa, nhưng thực ra họ chỉ là một loài rắn độc. Con rắn của ma quỷ, đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế Gioan đòi buộc họ phải sám hối ăn năn, đừng nại vào dòng dõi xác thịt. Dân riêng của Chúa trong thời đại mới được tạo nên nhờ sám hối khi lãnh nận dòng nước thanh tẩy.
Trong phần thứ hai của đoạn Tin Mừng, Gioan giới thiệu Đấng đến sau ông nhưng lại quan trọng hơn ông gấp bội. Gioan tự nhận không xứng đáng làm một kẻ nô lệ hèn hạ nhất của Ngài.
Theo tục lệ Do Thái, thì một kẻ nô lệ không buộc phải cởi giày hay xách dép cho chủ. Người môn đệ có thể giúp việc thầy như một nô lệ, trừ việc xách dép hay cởi giày. Trong việc tế tự, trước khi tư tế hành lễ thì một trong các nô lệ phục dịch tại đền thờ, sẽ cởi giày dép để tư tế đi chân không. Hạng người này bị loại vĩnh viễn khỏi mọi đặc quyền Do Thái. Người Do Thái không bao giờ được cưới hỏi với loại người này.
Nếu có ám chỉ đến tục lệ này thì Gioan cũng vạch rõ sự khác biệt giữa ông và Đấng Cứu Thế sẽ đến. Đấng sẽ đến có quyền phán xét, thiêu huỷ kẻ dữ và thánh hoá người lành. Trong khi đó, thanh tẩy của Gioan được hiểu như là một nghi thức áp dụng cho đoàn người hối cải, trông nhờ vào thanh tẩy của thời cứu chuộc để thoát khỏi sự phán xét sắp đến.
Trông chờ Chúa đến, cũng có nghĩa là chuẩn bị đón mừng Chúa trong đêm giáng sinh cũng như trong những biến cố cuộc đời. Và lời kêu gọi của Gioan vẫn có giá trị đối với chúng ta ngày hôm nay: Hãy sám hối, hãy trở nên người mới, trong cách suy nghĩ, trong cách cư xử đối với Chúa và đối với anh em. Bởi vì đón nhận Chúa là đi vào một cuộc sống mới, một thời đại mới.
Nói đến hối cải chúng ta thường chỉ dừng lại ở việc xét mình xưng tội, nhưng lại không mấy nghĩ rằng mình phải trở thành một con người mới, sống trong một thời đại mới, thời đại cứu chuộc, thời đại ân sủng và tình thương của Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 3,1-12) bắt đầu bằng sự kiện ông Gioan “đến”. “Hồi ấy, ông Gioan: MV 2-A83
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 3,1-12) bắt đầu bằng sự kiện ông Gioan “đến”. “Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê” (c.1). Tác giả Tin Mừng không cung cấp các thông tin chính xác về thời điểm ông Gioan xuất hiện, nhưng cẩn thận cung cấp thông tin về nơi chốn: “trong hoang địa miền Giuđê”. Đây không chỉ là một ghi chú địa dư, mà chính yếu là một ghi nhận thần học. Quả thực, trong truyền thống Thánh Kinh, “hoang địa” là nơi chốn lý tưởng của những cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và chính trong hoang địa, Thiên Chúa đã nói lời của Ngài với ông Môsê, với ông Êlia và với Israel (Xh 3; 1V19; Xh 19).
Vậy, trong nơi chốn đặc biệt như thế, ông Gioan rao giảng. Động từ “rao giảng” là một thuật ngữ của Tân Ước để chỉ việc công bố Tin Mừng. Chủ từ của động từ này là ông Gioan (3,1), Chúa Giêsu (4,17) và các tông đồ (10,7). Nội dung lời rao giảng của ông Gioan là: "Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần" (c.2). “Nước Trời đã đến gần” là thông tin được công bố, và điều kiện để có thể “đi vào” Nước đó chính là sự hoán cải đời sống (metanoia). “Nước Trời” là một kiểu nói sêmít để tránh đọc tên Thiên Chúa, vì thế, có ý nghĩa như kiểu nói “Nước Thiên Chúa” trong các Tin Mừng khác. Để gia nhập Nước Trời, người ta phải hoán cải (metanoeô), tức là thực hiện một sự thay đổi con người mình, từ nội tâm bên trong đến thái độ bên ngoài, hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa. Sự hoán cải đời sống hay cuộc metanoia đó có nền tảng trong lời giảng dạy ngôn sứ, như được trình bày trong Is 1,16-17: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ”.
Trong niềm trông chờ Nước Thiên Chúa, vốn rất mãnh liệt suốt lịch sử Israel, dân chúng nói chung nghĩ rằng Nước ấy sẽ được thực hiện nhờ Đấng Mêsia, vị Vua thuộc dòng dõi Đavít, Đấng sẽ chiến thắng muôn dân và đem lại vinh quang vĩ đại cho Israel. Tuy nhiên, khi rao giảng về sự hoán cải đời sống như là một điều kiện để được gia nhập Nước Thiên Chúa, ông Gioan đã cho thấy rằng Nước Thiên Chúa không chỉ là kết quả can thiệp của Thiên Chúa, mà còn đòi hỏi sự cộng tác của con người.
Tác giả Mt quy chiếu lời rao giảng của ông Gioan về một bản văn ngôn sứ Isaia. Ông viết: “Ông [Gioan] chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c.3). Đây là lời trích từ Is 40,3tt theo bản LXX, khác biệt một chút với bản văn Hípri. Bản văn Hípri viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa hãy dọn sẵn một con đường cho Đức YHWH; trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Lời ngôn sứ này nói đến cuộc giải thoát và hồi hương từ chốn lưu đày của dân Do Thái. Tác giả Tin Mừng áp dụng lời này vào sự kiện ông Gioan rao giảng và công cuộc Đức Giêsu sắp khởi sự. Ngoài ra, cả bản Hípri lẫn bản LXX đều không xác định ai là người cất tiếng hô, nhưng Mt gán vai trò đó cho ông Gioan, và thay thế hạn từ “Thiên Chúa” trong bản văn Is bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Chúa Giêsu. Kiểu nói “hô trong hoang địa” không có nghĩa là tiếng hô vô vọng trong nơi hoang vắng không người, mà là tiếng hô từ hoang địa, nhưng vọng vang ra bên ngoài hoang địa, vang đến tận Giêrusalem và khắp miền Giuđê (c.5).
Thần học của các rabbi Do Thái, dựa trên Ml 3,23 (“Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”), đã khai triển sâu rộng một quan điểm, theo đó, ngôn sứ Êlia sẽ đến như người tiền hô của Đấng Mêsia, để thanh luyện Israel và chuẩn bị cho dân đi vào Vương quốc Mêsia. Chính với hậu cảnh thần học đó mà ông Gioan được miêu tả trong hình dung của chính ngôn sứ Êlia: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (c.4). Quả thực, hình ảnh ông Gioan mặc áo dệt bằng lông lạc đà và nhất là thắt lưng bằng dây da, khiến người đọc nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2V 1,8; chú ý: chỉ Êlia và Gioan mới được Kinh Thánh mô tả là thắt lưng bằng dây da). Có thể nói, trong ý hướng của mình, tác giả Mt có ý khẳng định ông Gioan chính là ngôn sứ Êlia. Mà nếu như thế, thì có nghĩa là biến cố sắp xảy đến chính là “Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”, vì nhiệm vụ của ngôn sứ Êlia quy chiếu về chính Thiên Chúa, và ông không chuẩn bị cho biến cố “đến” của bất cứ ai khác.
Đáp lại lời rao giảng của ông Gioan là một sự kiện đặc biệt.“Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông Gioan” (c.5). Rõ ràng đám đông kéo đến bao gồm hai “cánh” khác nhau: một bên là những người đến từ trung tâm quyền lực tôn giáo – chính trị (Giêrusalem) và bên kia là từ khắp vùng xung quanh “hoang địa miền Giuđê”. Đám đông dân chúng, như vậy, đã tỏ rõ thái độ không hài lòng đối với các thiết chế tôn giáo – chính trị đương thời và đối với những nhà lãnh đạo thuộc về các thiết chế đó.
Đám đông đó kéo đến với ông Gioan, đoạn “họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (c.6). Đương thời, người Do Thái rất quen với những nghi thức thanh đẩy theo luật lệ và thói tục. Nhưng phép rửa của ông Gioan ở đây có những yếu tố khác thường. Thay vì cử hành nghi thức thanh tẩy cho chính mình tại một nơi do Luật ấn định và nước phải được giữ sạch theo quy định, ông Gioan lại làm phép rửa cho những người khác và là trong dòng nước sông Giođan . Đàng khác, phép rửa này được ban với dấu chỉ của một sự hoán cải luân lý, và có ý nghĩa đánh dấu sự thay đổi đã hoặc sắp xảy đến nơi người lãnh nhận.
Trong số những người kéo đến với ông Gioan, có nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc. Những người Pharisêu thường tự hào về sự trung thành của họ đối với Luật được giải thích theo các truyền thống rabbi. Họ có ảnh hưởng trên dân chúng và đại diện cho một thứ quyền bính thiêng liêng. Những người Xađốc thì thuộc về tầng lớp lãnh đạo, gồm phần đông là những nhà quý tộc hoặc giới tăng lữ quý tộc giàu có. Họ là những đại diện cho quyền lực kinh tế, chính trị và tôn giáo. Họ kéo đến với ông Gioan để chịu phép rửa, nhưng lại không ý thức đầy đủ về tình trạng bất chính của mình, trái lại, hình như còn có thể làm cho dân chúng tưởng rằng những hệ thống áp bức bất chính đó không đối nghịch với hình ảnh ngôn sứ của ông Gioan và biến cố mà ông công bố rằng sắp xảy đến.
Vậy, “thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ sắp giáng xuống? Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” (cc.7-8). Ông Gioan không chấp nhận họ, trái lại, còn thẳng thắn và gay gắt khiển trách họ. Ông gọi họ là “nòi rắn độc”, tức là ông xác định bản chất gian ác của quyền bính chính trị - tôn giáo mà họ có trong tương quan với dân chúng. Sau này, chính Đức Giêsu cũng nặng lời như thế đối với những người Pharisêu và các kinh sư (12,32; 23,33). Ông khẳng định rằng điều họ cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”.
Rồi ông Gioan tiếp tục nói với họ: “Đừng tưởng có thể tự nhủ rằng: "Chúng ta có tổ phụ là ông Abraham." Quả thật, tôi bảo các anh: Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (c.9). Họ tưởng rằng để được cứ, chỉ cần là con cháu ông Abraham là đủ. Ông Gioan cho họ biết rằng không phải dòng dõi mà chính hành động của người ta mới là yếu tố quan trọng. Ông chơi chữ khi cho biết có là con cháu (benayyâ’) của ông Abraham hay chỉ là những hòn đá (abenyyâ’) thì cũng chẳng khác gì. Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10).
Như thế, không phải sự tinh tuyền về di truyền (là người Do Thái chính hiệu), không phải sự thực hiện các nghi lễ phụng tự tại đền thờ (phái Xađốc), cũng chẳng phải sự trung thành giữ những quy định chi li của Luật (phái Pharisêu), mà chính thái độ sống với những người khác trong thực tế, mới là yếu tố làm cho người ta không “bị chặt đi và quăng vào lửa”.
Cuối cùng, ông Gioan so sánh mình với Đấng sắp đến. Ông nói: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh hối cải. Còn Đấng đang đến sau tôi thì quyền thế hơn (ischyroteros) tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (cc.11-12). Ông Gioan tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng đang đến, tức là không đáng làm một công việc bình thường mà người đầy tớ vẫn làm cho chủ mình. Đồng thời, ông cũng cho thấy Đấng đang đến có ba đặc điểm quan trọng: (1) có “quyền thế”, (2) “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”, và (3) là thẩm phán cánh chung rất nghiêm khắc “sẽ rê sạch lúa trong sân”.
Việc gắn tính từ “thánh” vào hạn từ “Thần Khí”, trước hết, có nghĩa là phép rửa trong Thần Khí mà Đấng đang đến sẽ thực hiện chính là thực tại thuộc về cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Thứ hai, điều đó có nghĩa là hoạt động của Đấng đang đến sẽ là hoạt động thánh hóa, tức là đưa con người vào cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Sự thông ban sự sống thần linh từ bên trong sẽ biến đổi con người, làm cho con người gắn kết với Thiên Chúa và trung thành với Người (Ed 36,26t).
Gợi ý suy niệm và chia sẻ:
Đọc bài Tin Mừng hôm nay trong khung cảnh Mùa Vọng, chúng ta có thể suy niệm về ba điểm quan trọng:
1. Đấng đang đến chính là Đức Chúa.
Một trong những điểm nhấn quan trọng của bài Tin Mừng hôm nay là việc giới thiệu Đấng đang đến trong dung mạo Đức Chúa. Sứ điệp của ông Gioan (“Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần”: c.2) liên quan đến chính Đức Chúa. Việc giới thiệu ông Gioan là ngôn sứ Êlia cho thấy Đấng sắp đến sau ông sẽ chính là Đức Chúa, vì ngôn sứ Êlia có nhiệm vụ chuẩn bị cho Đức Chúa ngự đến chứ không phải chuẩn bị cho một ngôn sứ khác xuất hiện. Bằng việc cử hành phép rửa, ông Gioan nhấn mạnh sự cần thiết phải thanh luyện để đến gần Đức Chúa đang đến. Khi so sánh mình với Đấng đang đến, ông Gioan nhấn mạnh quyền thế hơn hẳn của Đấng ấy, và nhất là ông khẳng định rằng Thánh Thần (vốn là sự sống và sức mạnh của chính Thiên Chúa) sẽ hiện diện với Đấng đang đến; Đấng ấy sẽ hành động trong quyền năng của Đức Chúa và sẽ ban cho người ta sự sống của Thiên Chúa. Với Đấng ấy, chính Thiên Chúa đến để ban sự sống và đồng thời để phán xét.
Đó chính là Đấng mà chúng ta đang đợi chờ trong suốt Mùa Vọng này. Mùa Vọng không phải là sự chuẩn bị và chờ đợi một lễ hội lớn lao, hoành tráng và vui tươi sẽ được cửa hành vào cuối tháng 12! Mùa Vọng là thời gian đón chờ chính Đức Chúa, Đấng đang đến.
2. Hoán cải là đòi hỏi khẩn thiết.
Nội dung căn bản trong lời rao giảng của ông Gioan là: "Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần" (c.2). Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10). Đấng đang đến là Thẩm Phán cánh chung, “tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”” (c.12).
3. Những nghi thức và hoạt động bề ngoài không phải là điều chính yếu trong khi chuẩn bị đón Chúa đến.
Những người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc muốn tránh cơn thịnh nộ sắp giáng xuống bằng cách đặt mình vào một nghi thức bề ngoài nhưng không thực hiện đòi hỏi nghiêm túc là phải hoán cải đời sống, tức là không thay đổi hệ thống bất chính đang kềm tỏa mình. Theo ông Gioan, những nghi thức bề ngoài không đủ để người ta được bước vào Nước Thiên Chúa; cần phải thay đổi đời sống thật sự.
Đó cũng có thể là vấn đề của chúng ta trong Mùa Vọng này. Tất nhiên những hành động bề ngoài là cần thiết: trong bài Tin Mừng hôm nay, việc hoán cải được thể hiện qua việc để cho mình được dìm trong một phép rửa tỏ lòng sám hối, tức là qua một hành động bề ngoài. Nhưng chỉ những hoạt động bề ngoài thấy được thôi, thì chưa đủ. Điều chính yếu cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”. Đó chính là điều quan trọng nhất trong Mùa Vọng này.
Một trong những điều tôi cảm thấy thấm buồn khi màu tím mùa vọng ngày càng đậm nét trong mùa: MV 2-A84
Một trong những điều tôi cảm thấy thấm buồn khi màu tím mùa vọng ngày càng đậm nét trong mùa Phụng vụ đón mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng trần là: “Rất nhiều người không đủ can đảm tha thứ cho chính mình vì những lầm lỗi đã vô tình hay cố ý mắc phải trong đạo làm chủ quản lý đối với tâm hồn và thân xác mình; trong đạo làm người đối với ông bà cha mẹ và tha nhân; và đặc biệt là đạo làm con đối với Đấng đã yêu thương tạo tác nên mình!”
Đâu phải mỗi lần đối diện với thử thách của cuộc sống, là ai cũng thắng được hết đâu? Không ai muốn mình xấu bao giờ! Không ai muốn mình thất bại bao giờ! Và cũng chẳng ai muốn mình sai lầm bao giờ! Nhưng không ai có thể lường trước được hết những gì sẽ sắp xảy tới cho mình! Những “biển báo giao thông tâm linh” vẫn có đó nhưng đâu phải lúc nào mình cũng chú tâm nhìn chúng để đừng vấp ngã, đừng lỡ chân, đừng trật bước trên vạn nẻo đường đời mà ngày ngày mình dấn bước đâu? Chủ quan luôn là một thói tật không hay, không tốt, không đẹp! Nhưng mấy ai trong đời không từng thất bại, không từng đau đớn, không từng cay đắng ngập lòng bởi cá tính này đâu? Và điều này đã từng được Đức Giêsu thốt lên trong đau khổ nhưng với trọn tấm lòng đầy cảm thông cùng ba môn đệ thân tín trong vườn cây dầu năm xưa: “các con hãy canh thức cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối”(Mt 26,41; Mc 14,38). Một sự thương cảm đầy tình người, bởi ngoài Đấng tối cao, còn có ai hoàn hảo?
Mặc cảm lỗi lầm kéo dần ta ra xa nguồn ân phúc; né tránh mối tình tự hiến mà Con Chúa Trời đang mong mõi ban tặng cho đời, cơn cám dỗ “mình không xứng đáng vì đã xúc phạm quá nặng nề đến Đấng Cao Xanh” nên “ làm sao Chúa có thể tha cho tôi được!” đã đẩy ta vào mạng nhện của sự dữ, làm ta quên hay cố tình quên Đấng Cứu Tinh đã từng khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”(Mt 9, 13; Mc 2, 17; Lc 5, 32) bởi vì “người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”(Mc 2,17; Lc 5,32). Biết thụ tạo mạnh sức - yếu hồn, Chúa đã tự nguyện bước tới đưa tay ra trước để chờ đợi ôm ta vào lòng, để Người có cơ hội vỗ về an ủi, để Người có điều kiện thể hiện chức năng của một lương y tâm linh đầy nhiệt huyết, sao ta cứ xa tránh Người?
Khi mở quyển “Vượt Lên Nghịch Cảnh” của loạt sách Chicken Soup for the Surviving Soul” do nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn in ấn, trong câu chuyện đầu tiên “Cậu bé và nhà tỷ phú”, tôi gặp ngay câu tiêu đề cho cả cốt truyện: “Không có cái gọi là tuyệt vọng” (Henry Ford) làm tôi rộn lên trong lòng một niềm vui khó tả vì hiểu rằng, tình đồng loại không thể thiếu cho tôi, nếu tôi biết vượt lên mặc cảm của đời mình. Cậu bé Craig Shergold là niềm vui không những cho gia đình, mà còn cho cả chòm xóm, láng giềng, bạn bè và cả thầy cô nữa. Vậy mà một khối u trong não đã làm cho mọi người thân của cậu bé vùng Carohalton, ngoại ô London hốt hoảng bởi biết rằng sinh mạng của cậu khó được bảo toàn. Nhưng rồi cậu bé đã dũng cảm chấp nhận hoàn cảnh hiện tại để đi vào phòng mổ với lời khuyên của người mẹ thân yêu: “Mẹ muốn con phải thật dũng cảm!”
Với khối u ác tính, một dạng ung thư não hoạt tính, mấy ai thoát chết đâu? Nhưng rồi những cánh thiệp khắp nơi đổ về động viên, khuyến khích đã làm cậu bé phấn chấn hơn. Với 1.000.266 thiệp, trong đó có cả những tấm thiệp của một số vị lãnh tụ trên thế giới như Magaret Thatcher, Thái tử Charles, George Bush, Ronald Reagan, Mikhail Gorbachev và cả hai thần tượng của Craig là Michael Jackson và Sylvester Stallone, Craig đã phá vỡ kỷ lục Guinness về người nhận được nhiều thiệp nhất mà trước đây một cậu bé người Anh khác nắm giữ (1.000.265 thiệp). Niềm vui nối tiếp niềm vui, cách đó 6000km nhà tỷ phú 77 tuổi- John Kluge ở Charlottesville, bang Virginia đã nhận được một lá thư từ những người bạn về tình trạng quá hiểm nghèo của cậu bé. Ông đã từng quyên góp hàng triệu đô la cho những người xứng đáng, nhưng chưa bao giờ ông tặng tiền trực tiếp cho một cá nhân nào. Và cũng không muốn tạo thành một tiền lệ hay khơi dậy những hy vọng hư ảo cho gia đình Craig. Nhưng rồi, khi tiếp xúc với gia đình, qua câu nói dũng cảm của cậu bé bởi gia đình không muốn cậu đau đớn nữa vì đã chịu phẫu thuật nhiều lần: “Mẹ ơi, không có thắng lợi nào mà không phải trả giá mà mẹ!” chính ý chí phấn đấu của cậu bé đã làm nhà tỷ phú quyết tâm nổ lực bằng mọi giá giành lại mạng sống cho em.Và rồi nụ cười đã tỏa rạng trên mọi khuôn mặt: Ca phẫu thuật đã thành công vượt quá mong đợi của nền y học hiện đại. Mùa xuân đã trở về trên khắp nước Anh với lời tạ ơn của Manon khi nói với chồng là Ernie lúc nhận được tin nhà tỷ phú John Kluge đã tài trợ trọn vẹn cho ca phẫu thuật của con mình: “Em nghĩ Chúa đã ban cho chúng ta một phép mầu!”.
Nhìn lại đời mình, tôi cũng đã từng chán nản, đã từng thất vọng, đã từng không ít lần mặc cảm với Chúa, tránh né Chúa, xa lìa Chúa vì phải đối diện, phải đối đầu, phải chứng kiến với quá nhiều nghịch cảnh mà sức mình không kham nỗi bởi chẳng ai đỡ nâng, chẳng ai trợ giúp, chẳng ai đồng hành! Nhưng rồi, trong thanh vắng, trong trầm lặng, trong những đêm hôm khuya khoắt, bỗng nghe như có tiếng thủ thỉ bên tai tôi những lời thánh thi trong kinh sáng ngày thường của mùa vọng vọng về:
“Đừng mê ngủ đứng lên hồn ta hỡi, Dẫu thấy mình còn hôi hám bùn nhơ, Vì hào quang chói lọi của kim ô Làm tiêu tan hết những gì nguy hại. Chiên Thiên Chúa đã từ nơi thượng giới Xuống cõi trần đền tội vạ chúng ta. Nào cùng nhau chạy đến lượng hãi hà, Xin tha thứ bằng lời kinh thắm lệ" Rồi lời thánh vịnh 26, 10 lại tiếp tục trấn tĩnh tôi: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, Thì hãy còn có Chúa đón nhận con”
Và thúc giục tôi hãy xóa đi mặc cảm: mặc cảm thật! bởi thấy mình bất xứng với tình yêu vời vợi từ Trời. Mặc cảm giả! Bởi mình chỉ muốn sống theo ý mình,đạt ý mình mà vẫn biết rõ điều mình đang muốn không phải là ý Chúa! Cũng chẳng đi đúng nền đạo đức nhân gian!
“Hãy cậy trông vào Chúa, Mạnh bạo lên can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa.” (Tv 26, 14)
Cậu thiếu niên Craig đã phấn đấu hết mình, cố vượt qua những giây phút chán nản, suy sụp để vươn lên tìm nguồn sống với sự trợ lực của tình người và sự can thiệp thần thiêng của Đấng Tạo Thành. Và cậu đã chiến thắng! Còn tôi? Còn chúng ta? Lời mời gọi từ vị Tiền Hô của Đấng Cứu Tinh thúc giục: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Mt 3, 3), không lẽ nào không động lòng ta? Nếu thực lòng ta quay về với NGUỒN BÌNH AN ĐÍCH THỰC, với tâm tình khiêm tốn như thánh Gioan Tiền Hô: “còn Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến sau tôi, quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách dép cho Người” (Mt 3, 12), chắc chắn cơn cám dỗ với mặc cảm TA KHÔNG XỨNG ĐÁNG sẽ không còn là chướng ngại, không còn là rào chắn, không còn là e dè sợ hãi cản bước ta mở rộng lòng mình, để Đấng Cứu Tinh có thể đến cư ngụ nơi mái nhà đổ nát của ta! Chúa chỉ cần nơi ta tấm lòng chân thành, còn mọi sự, Chúa sẽ tính cho! Ta có tin điều đó không?
Ngôn sứ Isaia đã nói trước về ông Gioan Tẩy Giả, gọi ông là “tiếng người hô trong hoang địa”. Hôm: MV 2-A85
Ngôn sứ Isaia đã nói trước về ông Gioan Tẩy Giả, gọi ông là “tiếng người hô trong hoang địa”. Hôm nay tiếng hô ấy không lọt tai chút nào, trái lại ít ra làm cho nhiều người thuộc phái Pharisêu và Xa-đốc phải khó chịu hoặc choáng váng mặt mày. Tại sao thế? Vì ông Gioan thẳng thắn sửa sai họ. Vậy chúng ta hãy xem tiếng hô đã nói gì về nhóm người ấy và có lẽ cả về chúng ta hôm nay nữa.
Chúng ta thử hình dung khung cảnh bờ sông Gio-đan, khuôn mặt ông Gioan Tẩy Giả, nhóm người Pharisêu và Xa-đốc. Nét mặt ông Gioan không dữ dằn hay đỏ gay vì nóng giận, nhưng nghiêm nghị và đượm một chút thất vọng. Ông nhìn thẳng vào họ và cất tiếng nói. Ông không nói bóng gió hay rào đón, nhưng đi thẳng vào vấn đề của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa như bao người thì đâu là vấn đề? Theo lời ông Gioan, đây là vấn đề thứ nhất của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” thôi, chứ họ đâu có thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của ông Gioan là một thứ nghi thức hay phù phép để giữ cánh tay trừng phạt của Thiên Chúa lại. Cái chứng đặt nặng hình thức bề ngoài vẫn là căn bệnh trầm kha của nhóm người tự cho mình là công chính! Nhưng thực ra phép rửa của ông Gioan chỉ là dấu hiệu mời gọi họ hãy thay đổi cuộc sống mà “sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”.
Vấn đề thứ hai của nhóm Pharisêu và Xa-đốc là tính tự tôn, dựa vào gốc gác là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Quả thực họ mang cái vỏ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng trong lòng họ đâu còn chút tinh thần nào của tổ phụ Áp-ra-ham nữa! Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của đức tin. Còn họ thì sẽ chẳng tin vào Chúa Giêsu và sứ mệnh cứu độ của Người (xem Gioan 8:31-41). Tổ phụ Áp-ra-ham “đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của [Chúa Giêsu]”. Còn họ thì “lượm đá để ném Người” (8:56-57).
Để sửa sai các “vấn đề” của họ và cũng là vấn đề của chúng ta hôm nay, ông Gioan Tẩy Giả kêu gọi tất cả hãy thực lòng sám hối và tin vào Đấng sẽ đến sau ông, tức là Chúa Giêsu, Đấng “sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa, tay cầm nia rê sạch lúa trong sân”. Nói khác đi, chúng ta phải tin vào sứ mệnh của Chúa Giêsu là làm cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa và sẽ tiếp tục thanh tẩy chúng ta thành “thóc mẩy” để được thu vào kho lẫm đời đời của Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có lẽ chúng ta tự hào mình không giống như những người nhóm Pharisêu và Xa-đốc, và những lời cảnh báo của ông Gioan Tẩy Giả không nhắm vào chúng ta. Không phải vậy đâu! Cách sống đạo của chúng ta nhiều khi không khác gì “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, làm mọi sự vừa đủ để khỏi bị xuống… hỏa ngục! Chúng ta đi lễ Chúa Nhật vì luật buộc, đọc kinh hạt theo số lượng mà không có lòng. Chúng ta cứ tưởng hễ mình mang danh Công giáo là mai sau sẽ ung dung bước vào thiên đàng. Chúng ta không cần để ý phải “sinh quả tốt” là đời sống Kitô hữu đích thực với đức tin sống động ngay ở đời này.
Sứ điệp của ông Gioan Tẩy Giả thuộc loại “sự thật mất lòng”! Nó đòi chúng ta phải can đảm nhìn thẳng vào cuộc sống mình, để nhận diện những “vấn đề” trong đời sống thiêng liêng cũng như gia đình và xã hội của chúng ta. Sứ điệp của ông Gioan không đe dọa, nhưng thành thực giới thiệu với chúng ta Đấng cứu độ là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Vậy thì mùa Vọng cũng là thời gian để chúng ta thay đổi lối sống và theo Chúa Giêsu làm môn đệ Người.
Nói đến “hoang địa”, “sa mạc”, ta nghĩ ngay đến nơi vắng vẻ, hiu quạnh. Đó là những vùng đồi núi: MV 2-A86
Nói đến “hoang địa”, “sa mạc”, ta nghĩ ngay đến nơi vắng vẻ, hiu quạnh. Đó là những vùng đồi núi chập chùng cằn khô sỏi đá, hoặc là những vùng đất cát thênh thang trải dài như bất tận. Điều kiện sống ở đây khắc nghiệt quanh năm, nên hầu như không có ai lai vãng đến đây. Sự sống ở đây là một cuộc chiến đấu cam go. Cuộc chiến đấu thanh luyện để tồn tại.
“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắc lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt.3,4).
“Lạc đà” là biểu tượng của sa mạc. Hầu như đó là phương tiện duy nhất để di chuyển trên sa mạc. Người ta gọi con lạc đà là “con thuyền sa mạc, con thuyền trên biển cát”. “da”, “châu chấu”, “mật ong rừng” là những thứ hoang dã. Gioan đã tự nguyện thành “người sa mạc” để thanh luyện mình. Tiếng “người hô trong sa mạc” không phải là người thành phố sang trọng vào sa mạc để réo gọi, Nhưng đó chính là người thật sự đang sống với cung cách sống ở sa mạc, đã kêu lên bằng chính tiếng nói và đời sống của mình. Đời sống được thanh luyện để lời nói được trong sáng, đủ sức chuyên chở thông điệp của Thiên Chúa về ngày Thiên Chúa đến. Như hình ảnh các ngôn sứ xưa, mang sứ mạng chuyển tải Lời Chúa đến với dân riêng Ngài. (2V.1,8).
Tiếng người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa. Hãy bạt lối người đi. (Mt.3,3). (Bản dịch của Cha Thuấn).
Tiếng vọng từ sa mạc, chỉ có ai biết tìm về sa mạc mới nghe thấy được. Tìm về nơi thanh vắng, tìm về cõi tĩnh lặng để lắng nghe tiếng gọi vang vọng trong chính tâm hồn mình.
“Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-dê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan”. (Mt. 3,5-6). Đón nhận cách giả hình:
“Có tiếng người hô trong sa mạc…” (Mc.1,3).
Sao không là tiếng hô trong thành phố? Sao không là tiếng hô ở Giêrusalem? Vì con người cần phải vào sa mạc. Sa mạc ở đâu? - Sa mạc ngay tại lòng mình.
Đó là cõi nội tâm thênh thang với những buồn vui, những yếu đuối, những khát vọng của kiếp người. Trong thinh lặng nội tâm, ta dễ dàng nhận ra tiếng lòng mình. Tiếng Chúa hướng dẫn đời ta. Đó là giây phút gặp gỡ Chúa một cách thân tình. Đó là giây phút cầu nguyện, ta biết ta yếu đuối và ta biết Chúa yêu thương ta. Ta dọn đường Chúa đến với niềm tin yêu vững vàng. Ta loại trừ những chướng ngại đang vây quanh ta, làm cản bước Chúa đến với ta. Những chướng ngại mà từ lâu ta tưởng chúng bảo vệ ta, hóa ra chúng cô lập ta, chúng làm ta mất liên lạc với Chúa. Chúng ta được vây bọc bởi những tham vọng và thụ hưởng trần tục, và chính ta biết những điều ấy không phải là những điều thuộc về Thiên Chúa, trong sâu xa cõi lòng mình, ta biết mình đang ở vị trí nào trên nấc thang đạo đức, trên nấc thang vươn lên Thiên Chúa ta còn ở vị trí là đà trên mặt đất, nhưng lòng ta vẫn muốn mọi người tin rằng ta cao cả, ta đang ở trên cao, và, thế là, ta sống giả hình. Ta khoát lên mình chiếc áo đạo đức giả hình đề che dấu một tâm hồn kiêu căng và gian dối.
“Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt.23,27).
Thế nên, phải dọn cho Chúa một con đường nội tâm chân chính. Con đường ấy là một cuộc hành trình sa mạc đầy thử thách gian nan, như dân It-ra-en trải qua 40 năm sa mạc để về miền Đất Hứa. Con đường ấy, trong ánh sáng mạc khải Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, đó là Con Đường Thập Giá.
“Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.” (Mt.3,7-8)
... ĐẾN TIẾNG GỌI TRONG LÒNG
Tình Yêu và Chân Lý có tiếng nói mạnh mẽ trong con tim mỗi người, khó mà chối bỏ được. Nhiều khi vì danh vọng, bạc tiền, tư lợi nào đó, người ta tìm cách chối bỏ Thiên Chúa. Người ta khóa chặt cửa lòng từ chối đón Chúa vào căn nhà tâm hồn mình. Nhưng tiếng gọi trong lòng vẫn không hề tắt lịm. Tiếng gọi thiêng liêng vẫn mãi mãi còn đó như Tình Yêu của Thiên Chúa đối với con người mãi mãi còn đó. Con người chối bỏ là sự chọn lựa của chính mình. Là do con tim nguội lạnh. Ngọn lửa tình yêu không còn bùng cháy trong trái tim nữa.
“Thầy đã đến ném lửa trên thế gian và Thầy mong biết bao nhìn thấy nó bùng lên” (Lc.12,49).
Con người chối bỏ Thiên Chúa, vì con người không đón nhận Thánh Thần. Không lớn lên trong Thánh Thần. Không có Thánh Thần con người không thể được nâng lên khỏi lãnh vực xác thịt, không thể trở nên con Thiên Chúa, không có khả năng công nhận Thiên Chúa là Cha.
“Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga.4,24).
Chính vì thế, chúng ta phải dọn cho Chúa một con đường để Ngài đến với ta. Để Ngài thật sự thuộc về ta, ta thuộc về Ngài. Chỉ có Ngài - Đấng Cứu Thế - mới có thể ban phát cho ta hồng ân vô biên đó, vì được làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, là hạnh phúc lớn nhất mà con người tìm kiếm. “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt.3,11).
Khi ấy, lòng ta trải rộng, Ta nhận ra Thiên Chúa, Đấng yêu thương ta một cách trọn vẹn. Hình ảnh Thiên Chúa không còn đóng khung trong trí tưởng tượng hẹp hòi của con người. Con tim ta sẽ mở ra, để đón nhận và cho đi suối nguồn tình yêu mà nhờ Chúa Giêsu Kitô ta được ban phát dồi dào đến vô tận. Khi ta khát khao tìm Chúa, ta mới được Chúa soi sáng tâm trí để nhận ra chân dung đích thực của Chúa. Có nhận ra được chân dung đích thực của Chúa, ta mới cảm nhận được sự cao cả và ngọt ngào của Thiên Chúa Tình Yêu. Và đó là niềm tin yêu và hy vọng mà ta hằng luôn ấp ủ trong tận cùng khối óc và con tim ta trong suốt cả đời. Và đó cũng là Mùa Vọng của một đời người.
Có một câu chuyện kể về một bé trai sống trong viện mồ côi: Một đêm nọ, nó giật mình thức giấc. Trời vẫn tối đen, nhưng nó biết rằng hừng đông chẳng mấy chốc nữa sẽ tới. Nó cảm thấy rất nóng lòng muốn thấy cảnh bình minh bên bờ hồ, nhưng các quy định trong viện thật khắt khe: không có lý do chính đáng thì không một em nào được thức dậy trước chuông và cấm ngặt không được ra khỏi phòng ngủ tập thể cho đến khi được phép. Nhưng nó quyết định liều một phen. Nó vội vàng mặc quần áo, cầm giày trên tay và bò ra ngoài để khỏi đánh thức ai. Nó bò một hồi đến hành lang dài và không muốn bắt gặp những cái nhìn không tán thành của các hình ảnh trên tường.
Sau cùng cũng đến được bờ hồ, trong bóng tối, nó ngồi đợi hừng đông. Và kìa! Ngày mới đang bắt đầu, ánh dương ngả từ màu cam sang màu đỏ. Nó mải mê ngắm những tia sáng phản chiếu trên mặt hồ, say sưa với vẻ đẹp tinh khôi. Thình lình nó chợt nhớ đã hết giờ. Lúc này mọi người hẳn đã thức dậy. Nó sẽ trễ mất. Nhất định gặp rầy rà rồi. Nghĩ vậy, nó đứng lên và nói những lời sau cùng với hồ nước: “Bây giờ mình phải về đây. Cám ơn bạn. Mình không lo nếu có bị phạt, bởi vì mình đã hiểu ra rồi. Bây giờ mình biết rằng Thiên Chúa của hồ nước vĩ đại hơn Thiên Chúa của viện mồ côi (Gallagher).
Lạy Chúa, Xin soi sáng lòng trí con, Để con nhận ra những lỗi lầm. Sửa đổi cuộc đời con, Để nên một con đường, Ngài đoái thương thăm viếng. Amen.
GIĂNG-KAI (Zenkai) là một thanh niên Nhật bản khỏe mạnh, là con trai của một gia đình Công: MV 2-A87
GIĂNG-KAI (Zenkai) là một thanh niên Nhật bản khỏe mạnh, là con trai của một gia đình Công giáo. Anh đến thành phố Ê-đô lập nghiệp. Anh được nhận làm cận vệ cho một quan chức cao cấp của thành phố này. Giăng-kai đem lòng yêu cô vợ trẻ của ông chủ và rồi "cây kim lâu ngày cũng lộ ra", một hôm ông chủ đã bắt gặp hai người phạm tội thông dâm với nhau. Đang lúc nóng giận, ông đã thách đấu kiếm với Giăng-kai. Trong cuộc đọ sức, Giăng-kai khỏe và tài giỏi hơn nên đã đâm ông chủ một nhát trúng ngực và ít ngày sau thì ông qua đời, để lại một đứa con trai mới được 7 tuổi. Giăng-kai đem bà vợ ông chủ đi chạy trốn. Hai người đến một vùng đồi núi hẻo lánh và phải sống những ngày nghèo khổ đói khát, nhiều khi phải đi trộm lương thực của dân địa phương ăn cho đỡ đói. Nhưng khi sống gần nhau, Giăng-kai mới phát hiện ra người phụ nữ trẻ đẹp kia chỉ là một mụ đàn bà lăng loàn trắc nết. Nhiều lần chị ta đã nặng lời mắng chửi Giăng-kai và sau cùng đã bỏ rơi anh để theo làm hầu thiếp cho một người giàu có thế lực trong vùng. Anh cảm thấy buồn bã không thiết đến ăn uống. Càng suy nghĩ anh lại càng thấm thía cho tình đời đen bạc. Rồi anh quyết tâm sám hối bằng việc dành trọn quãng đời còn lại làm một công việc nào đó hữu ích để chuộc lại phần nào tội lỗi của mình.
Một hôm thấy trên sườn núi gần nơi đang ở có một đường đèo lồi lõm trơn trượt rất nguy hiểm cho người qua lại. Nhiều người đã bị té xuống vực sâu chết thảm khi đi qua đoạn đường này. Anh quyết định sẽ đào một con đường hầm xuyên qua núi để giúp người ta khỏi bị tai nạn tương tự. Ban ngày anh vào làng làm thuê kiếm sống. Đêm đến anh đốt đèn và miệt mài đào hầm xuyên qua vách núi. Mười ba năm sau, khi Giăng-kai được 40 tuổi, thì con đường hầm đã gần hoàn tất. Ước tính chỉ hai năm nữa là anh sẽ hòan thành đường hầm. Ngày nọ, đứa con trai của ông chủ cũ giờ đây đã trở thành một trang thanh niên 20 tuổi khỏe mạnh tìm đến gặp Giăng-kai và đòi thách đấu để trả thù cho cha. Giăng-kai đồng ý nhưng yêu cầu hoãn lại 2 năm để có thời giờ hoàn thành tâm nguyện và được anh kia đồng ý. Rồi khi thấy Giăng-kai hằng ngày phải làm việc quá vất vả, anh ta đã tình nguyện giúp một tay cho công việc chóng xong hầu sớm trả thù cho cha. Nhưng trong thời gian làm việc chung, chàng thanh niên rất khâm phục trước dũng khí và sự chuyên cần của kẻ thù đã giết cha. Cuối cùng thì công việc đào hầm cũng xong và dân chúng hai bên đã có thể qua lại cách an toàn. Bấy giờ Giăng-kai nói với chàng thanh niên: "Tâm nguyện của ta đã hoàn tất. Vậy anh hãy lấy đầu của ta để báo thù cho cha anh". Nhưng chàng thanh niên kia đã nghẹn ngào xúc động nói: "Bây giờ làm sao con có thể giết chết thầy được, khi mà thầy đã thật lòng sám hối và đã làm được một việc lớn lao như thế kia để đền tội ?".
Chính tinh thần sám hối và sự quyết tâm làm việc thiện của Giăng-kai đã có sức mạnh cảm hóa và biến một kẻ vốn là kẻ thù trở thành bạn hữu của mình. Một con người mang tâm trạng thù hận mà còn mủi lòng trước sự thành tâm sám hối như vậy, phương chi Thiên Chúa lại chẳng đoái thương tha thứ và ban ơn cứu độ cho những tội nhân thật lòng sám hối hay sao?
3. SUY NIỆM:
1) "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần":
Đây là lời rao giảng của Gio-an Tẩy Giả trong hoang địa miền Giu-đê. Sứ mạng tiền hô cho Đấng Thiên Sai của Gio-an đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm như sau: "Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi". Ông mang dáng vẻ của ngôn sứ Ê-li-a ngày xưa qua việc mặc áo bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng giống Ê-li-a.
Nội dung những điều Gio-an Tẩy Giả loan báo đã được Tin Mừng Mát-thêu tóm lại như sau: Hãy chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai sắp đến thiết lập Nước Trời. Đấng ấy sẽ là vị Thẩm Phán công minh tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ, giống như người nông dân phân biệt thóc mẩy với thóc lép: "Thóc mẩy thì thu vào kho, thóc lép thì bỏ vào lửa mà đốt đi" (Mt 3,12). Người sẽ thanh tẩy người ta nhờ quyền năng Thánh Thần và trong lửa tin yêu như trong ngày lễ Ngũ Tuần sau này. Muốn được ơn cứu độ thì ngay từ bây giờ người ta phải thực lòng sám hối ăn năn.
2) Phải thực lòng sám hối bằng việc sinh quả tốt:
Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông Gio-an. Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến xin chịu phép rửa, Gio-an đã nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ?" Gio-an biết việc đến xin chịu phép rửa chỉ là "cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống" mà thôi, chứ bọn người này không thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của ông Gio-an chỉ là một nghi thức để tránh bị Thiên Chúa trừng phạt. Thái độ trọng hình thức bề ngoài là căn bệnh cố hữu của những người Pha-ri-sêu và Xa-đốc vốn tự coi mình là người công chính! Gio-an đã nghiêm khắc cảnh cáo họ như sau: "Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa" (Mt 3,10).
Thực ra Đấng Thiên Sai là Đức Giê-su không phải là vị Thẩm phán ưa trừng phạt như Gio-an đã rao giảng, nhưng lời kêu gọi sám hối của ông vẫn còn nguyên giá trị. Ngày nay các tín hữu chúng ta cũng không sám hối do sợ hãi, nhưng sám hối nhờ tin vào tình thương của Đức Giê-su là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mùa Vọng là thời kỳ thôi thúc chúng ta sám hối để chờ đón Đấng Thiên Sai sắp đến. Đức Giê-su đã đến trong âm thầm ở Bê-lem cách đây hơn hai ngàn năm, và Người sẽ lại đến vào ngày tận thế để phán xét nhân loại. Ngày nay Người vẫn đang đến với mỗi người chúng ta qua bí tích Thánh Thể và trong các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc đời chúng ta.
3) Sám hối là giao hòa với Thiên Chúa và hòa giải với tha nhân:
- Sám hối thực sự là ăn năn vì đã làm những điều xấu khiến khuôn mặt Đức Giê-su trở nên méo mó trước mặt thế gian. Sám hối đòi mỗi người tự vấn lương tâm về lời nói việc làm đã gây ra sự thù oán với người khác, về những hành động thiếu khoan dung đã xử với đồng loại. Sám hối là khiêm tốn nhận phần trách nhiệm của mình trước bao cái xấu cái ác đã và đang xảy ra trên thế giới hôm nay. Một tín hữu có lòng sám hối ăn năn thực sự chính là bước đầu để nên hoàn thiện. Một Hội Thánh can đảm sám hối, dám nhìn nhận phần thiếu sót của mình trong lịch sử là dấu chỉ Hội Thánh ấy đang quyết tâm vươn tới sự thánh thiện thực sự.
- Trong bài Tin Mừng hôm nay, Gio-an đã kéo chúng ta ra khỏi thái độ tự mãn của người Pha-ri-sêu xưa khi ông nói: "Đừng tưởng có thể nghĩ rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham" (Mt 3,8). Cũng vậy, người tín hữu hôm nay đừng nghĩ rằng khi chịu phép rửa tội trở thành người công giáo là đương nhiên sẽ được vào Nước Trời, đừng tưởng rằng cứ đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật theo luật buộc, cứ đọc kinh lần hạt hằng ngày cách máy móc là đương nhiên sẽ được hưởng ơn cứu độ. Hôm nay Gio-an dạy chúng ta: muốn được vào Nước Trời thì điều quan trọng nhất là phải nhìn nhận tội lỗi của mình để giao hòa với Thiên Chúa, và phải "sinh quả tốt" là làm các việc lành. Trong ngày phán xét, Vua Thẩm Phán sẽ xét xử chúng ta không dựa trên đức tin hình thức nhưng trên đức tin thực sự biểu lộ qua đức ái cụ thể. Bấy giờ Vua Thẩm Phán sẽ nói với những kẻ không làm việc lành như sau: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi đã không cho ăn, Ta khát các ngươi đã không cho uống. Ta là khách lạ các ngươi đã không tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã không cho mặc. Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom" (Mt 25,41-43).
4) Sám hối đòi phải quyết tâm hoán cải cụ thể:
Trong những ngày Mùa Vọng này, ngoài việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Vọng và lãnh bí tích giao hòa để dọn tâm hồn mừng Chúa Giáng Sinh, mỗi người chúng ta còn phải hoán cải đời sống cách cụ thể bằng việc quyết tâm tu sửa một thói hư đang mắc phải như: hạn chế uống rượu say sưa, bớt hút một điếu thuốc để dành tiền cho người nghèo; Kiềm chế tính nóng giận, đi lễ trước giờ cử hành 5-10 phút, mỗi ngày làm ít nhất một việc tốt phục vụ tha nhân... để cuộc đời chúng ta ngày một nên tốt hơn hầu xứng đáng được hưởng ơn cứu độ như lời Gio-an rao giảng.
4. THẢO LUẬN:
1) Hiện nay bạn thấy Giáo xứ, Hội đoàn hay Gia đình của bạn có điều gì chưa phù hợp với đòi hỏi bác ái yêu thương của Đức Ki-tô, và nên cớ cho lương dân khinh thường đạo Chúa không ?
2) Hiện giờ bạn thấy mình cần cấp thời hoán cải và canh tân điều gì trong những ngày Mùa Vọng này ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sám hối không phải là điều dễ làm, vì chúng con thường không đủ khiêm tốn để nhìn nhận lỗi lầm của mình. Xin cho chúng con biết dũng cảm điều chỉnh những sai lỗi, luôn tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng về sự thánh thiện của mình và tránh thói đạo đức giả hình của người Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc xưa đã bị ông Gio-an nặng lời quở trách.
- LẠY CHÚA. Con cảm thấy những lời quở trách của Gio-an trong Tin Mừng hôm nay rất phù hợp với thực trạng tâm hồn con. Nhiều lần con cũng tự mãn về lòng đạo đức hình thức và nghĩ mình đáng hưởng ơn cứu độ. Thực ra muốn được Chúa ban ơn cứu độ, ngòai việc cầu nguyện dự lễ, con còn cần phải hồi tâm sám hối tội lỗi và quyết tâm đổi mới đời sống để nên giống Chúa hơn. Xin cho con trong Mùa Vọng này quyết tâm phát sinh trái tốt bằng việc tập làm các việc tốt ngược lại thói xấu con đang mắc phải như kinh "Cải tội bảy mối có bảy đức" để xứng đáng nhận được ơn cứu độ của Chúa.
Trong lãnh vực kinh doanh mua bán: Một trong những cách để hấp dẫn và thu hút khách hàng: MV 2-A88
1/ Trong lãnh vực kinh doanh mua bán: Một trong những cách để hấp dẫn và thu hút khách hàng yêu thích sản phẩm, đó là chương trình quảng cáo. Hằng ngày khi xem tivi, báo chí, hay qua những nhân vật tiếp thị..., chúng ta đã tận mắt xem thấy rất nhiều mặt hàng hấp dẫn cho người tiêu dùng, hay đã từng nghe rất nhiều câu nói quảng cáo hoa mỹ không kém phần hấp dẫn người mua. Càng quảng cáo hay thì càng thu hút khách hàng không nhiều thì ít, cũng như mặt hàng đó sẽ được tiêu thụ với số lượng rất khả quan.
2/ Thánh Gioan Tẩy Giả trong trang Tin mừng hôm nay cũng đóng vai trò như người quảng cáo: Ngài quảng cáo Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, ngài giới thiệu cho dân chúng Đấng Cứu Thế sẽ đến sốngvới nhân loại, Đấng ấy sẽ giải thoát dân Israel.
Đấng Cứu Thế mà Thánh Gioan giới thiệu là Đấng đến sau ngài, quyền phép hơn ngài, uy nghiêm hơn ngài. Đến nỗi Thánh Gioan đã tự thú bản thân ngài không dám xách dép cho Đấng Cứu Thế là Vua Irael.
Hơn nữa, Đấng Cứu Thế mà Thánh Gioan giới thiệu là Đấng rất hấp dẫn người khác: Ngài hấp dẫn người khác vì Ngài là Đấng đem lại ơn bình an cho con người, bằng sự giao hoà tội nhân với Thiên Chúa qua phép rửa trong Thánh Thần và Lửa (x.Mt 3,11). Ngài hấp dẫn người khác vì Ngài là nguồn hoan lạc cho mọi tâm hồn đang đợi trông và khao khát Ngài; Ngài hấp dẫn người khác bởi vì Ngài là Vị thẩm phán xét sử trần gian trong ngày sau hết, qua hình ảnh "Người sẽ rê sạch lúa trong sân, thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi". (Mt 3,12).
Khi nghe lời giới thiệu của Thánh Gioan Tẩy Giả về Đức Giêsu, chúng ta thấy đó là những lời vang vọng rất bổ ích cho đời sống chúng ta. Vậy những gì là bổ ích cần thiết cho đời sống chúng ta cố gắng tìm mọi cách để đón nhận và chiếm hữu, nhờ đó đời sống chúng ta sẽ thêm nhiều bình an và hoang lạc trong Chúa.
3/ Để việc đón nhận Đấng Cứu Độ đến trong cuộc đời chúng ta cách chân thành, cũng như để được đón rước Chúa đến trong tâm hồn chúng ta đem lại nhiều niềm vui thiêng liêng thánh thiện. Điều cơ bản và trước hết chúng ta phải can đảm thực hiên một cuộc biến chuyển: Biến chuyển cách sống từ thân nô nệ tội lỗi trở nên người tự do trong Chúa, từ tội nhân trở nên thánh nhân như Chúa là Đấng Thánh. Về thái độ biến chuyển này, chính Thánh Gioan cũng đã kêu gọi chúng ta là "Hãy ăn năn sám hối vì nước trời đã đến gần" (Mt 3,2).
4/ Ăn năn sám hối trước hết là một hành động khiêm tốn, nhìn nhận thân phân yếu hèn tội lỗi của mình. Bước tiếp theo là nỗ lực canh tân bản thân, quyết tâm xa lìa những hành động của cách sống đi ngược với sự thánh thiện của Thiên Chúa.
An năn sám hối còn là lời kêu gọi thúc bách chúng ta phải thực hiện ngay trong đời sống, thực hiện ngay trong tâm tình của mùa vọng. Thực hiện cách tự do mà không phải giằng co, thực hiện cách tích cực không cần phải do dự. Vì bao lâu chúng ta còn sống trong tình trạng của lối sống cũ thì chúng ta đang tự cô lập mình. Vì con người cũ của những đam mê quyền hành chức tước, của cải vật chất, thế gian xác thịt, kiêu căng giả dối...,đó là những con đường chật hẹp, quanh co, lầy lội, đầy những trông gai. Nó như là một bức tường ngăn cách, một sự cản trở rất tai hại, khiến Chúa không thể đến được với chúng ta.
5/ Khi cho chúng ta biết Đấng Cứu Thế sẽ xuất hiện trong trần gian, cũng có nghĩa là Thánh Gioan Tẩy Giả đang loan báo tin vui cho chúng ta. Thế nhưng từ mốc điểm của tin vui cho đến khi được chiếm hữu niềm vui vẫn còn có một khoảng cách rất xa, nhưng cũng rất khó khăn. Vậy để phá vỡ khoảng cách phức tạp ấy, không gì khác hơn là chúng ta hãy thực hành lời của Thánh Gioan Tẩy Giả bằng những cố gắng thay đổi lối sống với những suy nghĩ mới, ứng sử mới của con người mới, sau khi đã được đổi mới bằng quyết tâm mới, cũng như sau khi được đón nhân ơn tha thứ của Chúa qua lòng thành sám hối ăn năn, đặc biệt là qua Bí tích giải tội.
Để thực hiện những lời khuyên của Thánh Gioan Tẩy Giả thì đó không phải là chuyện dễ. Nhưng mọi sự sẽ trở nên dễ dàng khi chúng ta có niềm xác tín về Đức Giêsu Kitô là Đấng rất cần thiết, rất hấp dẫn cho cuộc sống chúng ta. Vì tính cách hấp dẫn và cần thiết ấy, nên chúng ta phải yêu mến Ngài. Và vì yêu mến Ngài nên chúng ta phải tìm mọi cách để chiếm hữu Ngài, cho dẫu chúng ta phải trải qua một cuộc lột xác đau đớn và rướm máu.
Nếu chúng ta xác tín và sống được như tâm tình trên, thì cuộc đời của chúng ta sẽ là một con đường bằng phẳng, một con đường rộng mở thênh thang để cho Chúa đi vào cõi lòng, đi vào cuộc đời chúng ta. Một khi đời sống chúng ta có Chúa thì chúng ta sẽ có niềm vui. Có niềm vui là chúng ta có ơn cứu độ.
Sau khi nghe Thánh Gioan Tẩy Giả "quảng cáo" về Đấng Kitô Con Thiên Chúa sắp đến trong trần gian. Lúc này rất nhiều thành phần cũng như giai cấp trong dân Irael đã tuôn đến để thể hiện lòng ăn năn sám hối và thú tội. Ước gì hôm nay chúng ta được nghe lại lời loan báo của Thánh Gioan Tẩy Giả về Đấng Cứu Thế: Mỗi người chúng ta hãy khiêm tốn đón nhân lời vang vọng ấy cách chân thành, hãy quyết tâm sống những điều cần thiết ấy cách thành tâm. Nhờ vậy đời sống chúng ta sẽ thoát ra khỏi cảnh màn đêm u tối, luôn luôn hướng đến Đức Giêsu Kitô là ánh bình minh đem lại đời sống mới và sức sống mới cho từng người chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ hằng cứu giúp! Xin Mẹ luôn đồng hành và nâng đỡ những quyết tâm mới trong việc biến đổi đời sống chúng con. Amen.
Đấng Cứu Thế mà dân Chúa mong đợi được Tiên Tri Isaia báo trước là một Đấng Xét Xử công: MV 2-A89
Đấng Cứu Thế mà dân Chúa mong đợi được Tiên Tri Isaia báo trước là một Đấng Xét Xử công bình cho người thấp cổ bé miệng. Người đến từ Gốc Gies-sê, thân phụ của Đavít, thuộc dòng dõi Đavít. Người tràn đầy bảy ơn Thánh Thần của Đức Chúa. Người sẽ kiến tạo một nền hòa bình viên mãn, mà trong đó, công lý làm tiêu tan bao thế lực gian tà. Luật ưu tiên sẽ không còn thuộc về số đông của những người thống trị nhờ tiền hay quyền lực, nhưng thuộc về những người cùng đinh bị trị, không tiền không quyền. Thế lực của những gian tà sẽ không còn nơi dung thân và nền hòa bình vững chắc dựa vào công lý, tín thành tự nơi con người Đấng Cứu Thế. Vâng, một tin vui cho toàn thể nhân loại, khi sói, khi beo không còn hung hản dử tợn, mà ngược lại, trở nên hiền lành vui với lũ chiên ngoan, bé thơ còn đang bú giởn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang... (x. Is. 11,1-8) Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ làm cho mọi sự dữ, sự ác nơi vũ trụ nầy tan biến đi và trở thành những sự lành dễ thương như ngày sáng thế: tất cả mọi sự đều tốt đẹp trước mặt Đức Chúa. Như thế viễn ảnh hòa bình mà Isaia đề cập đến, chính là sự tái lập một địa đàng tuyệt đẹp trên trần gian, nơi ấy con người và Thiên Chúa chứa chan an vui trong mối tương quan mật thiết, mối giao hảo toàn vẹn của tình yêu và lòng thương xót...Tái lập tương quan với Thiên Chúa và nền hòa bình viên mãn lúc ban đầu tổ tiên nhân loại đã đánh mất, đó chính sứ mệnh của Đấng Cứu Thế.
Dọn lòng đón Đấng Cứu Thế đến
Để xứng đáng đón tiếp Đấng Cứu thế và ơn lộc hòa bình mà Ngài mang lại qua sứ mệnh của Ngài, Tiên tri Isaia đã báo trước: "Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi" (Is 40,3). Và hôm nay, lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm khi Thánh Gioan Tiền Hô xuất hiện và lớn tiếng hét lên cho nhân loại một mệnh lệnh khẩn cấp: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến" (Mt 3,2). Như vậy, Nước Trời - hiểu theo nghĩa đã triển khai: một đất nước của tình yêu thương và hòa bình viên mãn, đã đến, và việc "dọn sẵn con đường cho Đức Chúa", cho "Nước Trời" chính là "sám hối". Theo trình thuật Tin mừng hôm nay, thì sám hối không chỉ là biết mình có tội, mà còn phải "thú tội", nhận lấy "phép rửa" và hơn thế nữa, còn phải "sinh hoa quả" các nhân đức để tỏ lòng sám hối. Sám hối không thể là một hành vi đạo đức có tính cách dối trá lừa đảo theo kiểu vụ hình thức của nhóm Pharisieu và Sadu. Thiên Chúa không chấp nhận kiểu sám hối nhân danh nòi giống của những người công chính, của các tổ phụ; kiểu sám hối cho qua chuyện dựa trên thân thế của các thánh nhân. Một kiểu sám hối tự phụ của những con người sám hối công khai. Việc "trổ sinh hoa quả của lòng sám hối" theo lời dạy của Thánh Gioan Tiền hô nhắc đến tính tích cực của lòng sám hối là "tin vào tin mừng" và biến đổi thành "con người mới của Tin mừng". Một bài học về Đức Tin và lòng sám hối mà Thánh Gioan Tiền Hô thay lời cho Thiên Chúa cảnh cáo thật nghiêm nhặt: "Các anh đừng tự phụ mà cho rằng chúng ta đã có tổ phụ Abraham. Vì tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho loài sỏi đá trở thành con cháu ông Abraham". Vì thế, "Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt, đều bị chặt đi và quăng vào lửa" (Mt 3, 9-10).
Cũng trong chiều hướng ấy, người tín hữu Việt Nam vui mừng được HĐGM VN kêu gọi hưởng ứng năm 2008 Giáo Dục Đức Tin Kitô Giáo, mà trong một đoạn suy niệm ngày 6-12 của nguoitinhuu đã triển khai gọn gàng nhưng đầy ý nghĩa:
"Trong trường giáo dục đức tin thì học nhất thiết phải đi đôi với hành: Lời Chúa phải được thực hành bằng chính sự hoán cải tấm lòng, chứ không chỉ để chia sẻ hay rao giảng cho người khác. Để sống được Lời Chúa, bạn hãy bắt đầu bằng sự thay đổi chính mình, bạn sẽ khám phá ra điều Chúa muốn bạn sống, trước khi bạn nói người khác sống". (Suy niệm 6-12.Nguoitinhuu)
Dẹp bỏ những rào cản
Dọn đường cho Chúa đến, trước tiên dọn cõi lòng mình bằng một khát vọng hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, để khao khát ấy sôi sục lên trong lòng những thôi thúc hoán cải cho phù hợp với ý của Đấng Cứu Thế, Người ta mong đợi. Ý của Đấng Cứu Thế là tái lập một tương quan toàn vẹn với Thiên Chúa Cha. Vì thế, tất cả những rào cản làm trở ngại hoặc phá hủy tương quan nầy đều phải được dẹp bỏ. Ngoài những rào cản thông thường là tội lỗi có thể thấy được, nay còn thêm những rào cản tinh vi là "tội lỗi không thể thấy được" của những ảo tưởng tốt lành.
-Có thể nói việc bất tín nhiệm các thành phần quan trọng trong giáo hội là một khúc quanh co cần phải uốn cho ngay thẳng không những phía các thành phần bất tín nhiệm mà cả phía cần được tín nhiệm. Từ những sự bất tín nhiệm ấy, trổ sinh bao ảo tưởng xây dựng giáo hội theo cách ảo tưởng tốt chủ quan của mình, kéo theo cả một tầng tầng lớp lớp xa dần sự hiệp nhất cần có trong cùng một Đức Kitô, một Adam mới trong một Địa Đàng mới. Thiết nghĩ, sự hoán cải tấm lòng của mỗi người và mọi người, của cá nhân và tập thể cộng đồng, sự hoán cải đồng bộ và phổ quát mới có sức làm nên một nền hòa bình viên mãn trong Nước Thiên Chúa thể hiện qua Giáo Hội trần gian. Nói như thế không có ý hàm chứa đặt điều kiện với nhau trong mọi thành phần, nhưng thiết nghĩ, đó chính là ước muốn của Thiên Chúa qua tiên tri Isaia và Thánh Gioan Tiền Hô. Việc hoán cải tấm lòng và thay đổi chính mình theo tinh thần của Tin mừng luôn là một đòi buộc không miễn trừ ai. Và càng có trách nhiệm trong giáo hội càng phải trở nên gương soi, nên tiêu chuẩn cho tinh thần hoán cải nầy: Hoán cải để nên hiệp nhất, cần dẹp bỏ những ảo tưởng chủ quan, như Thánh Phao Lô tha thiết: "Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (2Rm 15,5-6). Hoán cải để hiệp nhất, cụ thể, cũng theo Thánh Phaolô: "Vậy, anh em hãy đón nhận nhau như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa". (2Rm 15,7)
-Đã có những người trong giáo hội nghiêng về những xu hướng chính trị một cách thái quá để bảo vệ cho một chân lý không thuộc về Đức Kitô với ảo tưởng là để làm chứng cho Đức Kitô, có thể nói là không quá cần thiết và cũng không mang lại một hiệu quả nào cho nền hòa bình viên mãn mà Đức Kitô mong muốn. Không có một thế lực chính trị nào mà không có những thủ thuật nằm ngoài sự thật của Chúa Kitô. Dù là chủ thuyết nào, cũng đều có ước muốn duy trì một quyền lực trần thế. Cơn cám dỗ làm vui lòng nhân loại để an định thái độ chính trị đôi khi đành để Tin mừng Chúa Kitô phải chấp nhận nhường đường hay thua thiệt. Bênh vực cho Chân Lý Chúa Kitô hay bênh vực cho một chủ trương trần thế đang là một thách đố dẫn con cái Chúa đi vào khúc vòng vo cần phải sửa lại cho ngay thẳng để đón Chúa đến. Lời hứa khi rửa tội "từ bỏ ma quỷ và các việc của ma quỷ" vẫn đòi buộc mỗi người suy nghĩ và thực hiện lời hứa ấy từng ngày. Nhưng để thấy được "các việc của ma quỷ" trong thời đại tinh vi nầy thì quả là một điều cần cảnh tỉnh: Ước vọng chủ quan truyền giáo cho thế lực không nhìn nhận Thiên Chúa, đôi khi phải chấp nhận dừng lại, để dành cho lòng thương xót của Thiên Chúa quyết định, như Thánh Phao lô dạy: "Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa thì đó là do lòng thương xót của Người" (2Rm 15, 9). Như thế, khi đã nhận ra tính chủ quan mạo hiểm, thì việc "sám hối" không chỉ dừng lại ở việc nhìn thấy, mà còn phải dứt khoát, không thể tiếp tục làm công cụ cho một thế lực nào ngoài Tin mừng Chúa Kitô, vì không có một khuôn mẫu cứu thế nào khác hơn là Đức Kitô và Tin mừng của Ngài.
Để kết
Lời Chúa chúa nhật 2 vọng là một lời cảnh tỉnh khẩn thiết cho tất cả những ai chưa tha thiết với một nền hòa bình tự bên trong là tương quan tốt đẹp giữa cá nhân với Thiên Chúa và cũng là lời cảnh tỉnh cho những người có trách nhiệm giới thiệu nền hòa bình mới nầy cho nhân loại. Không ai có thể làm cản trở hoặc dừng lại công cuộc cứu thế của Đấng Cứu Thế và ý định ngàn đời của Ngài. Và mỗi chúng ta, ngoài việc "hoán cải tấm lòng" "biến đổi chính mình" thì "hoa trái của lòng sám hối" khả thi nhất là lời cầu nguyện cho sự "hiệp nhất Giáo Hội" và sự "dứt khoát với những việc của ma quỷ", để chuẩn bị cho Thiên Chúa thật sự Giáng Sinh trong mỗi cõi lòng và trong toàn thể nhân loại- một thế giới hòa bình viên mãn theo tinh thần của Tin Mừng.
Lời rao giảng, "Hãy cải thiện vì nước trời đã gần đến" được Phúc Âm ghi lại hai lần; một lần từ: MV 2-A90
Lời rao giảng, "Hãy cải thiện vì nước trời đã gần đến" được Phúc Âm ghi lại hai lần; một lần từ Gioan Tẩy Giả (Mt. 3:2), và lần khác do chính Chúa Giêsu (Mc. 1:15). Cải thiện gì? Cải thiện thế nào? Mẫu mực nào cho sự cải thiện, trong môi trường ra sao, và nơi giai đoạn nào? "Nước Trời, Nước Thiên Chúa đã gần đến" ảnh hưởng chi tới con người hoặc đem lại lợi ích nào nơi cuộc sống tâm linh?
Động từ "Cải Thiện" được dịch từ động từ "Metanoia" nơi ngôn ngữ Hy Lạp. Từ metanoia có nhiều nghĩa, "Theo nghĩa gốc là khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận" (Kinh Thánh Tân Ước bản dịch 1994; phần chú giải tr. 184; NXB Du Sinh Saint-Joseph; 1994; USA). Theo tự điển tiếng Anh, Metanoia còn có nghĩa, đổi chiều hướng, đổi hướng đi, suy nghĩ khác thường, có lối nhìn mới, nghiệm xét, tránh lệ thuộc.
Nơi bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt được viết, "Nước Trời, hay Nước Thiên Chúa, hoặc triều đại Thiên Chúa đã đến gần." Nơi những bản Kinh Thánh tiếng Anh được dịch, "The kingdom of God is at hand" hoặc "The kingdom of heaven is at hand." Điều này có nghĩa Nước Trời hay Nước Thiên Chúa đang hiện diện nơi đây vào lúc này như lời Chúa Giêsu trả lời khi những người Biệt Phái thỉnh vấn Ngài, "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được, 'Này ở đây,' hay, 'Ở đó,' vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:20). Những nơi khác, Chúa Giêsu minh định, "Nước Thiên Chúa ở giữa các ông," "Nước Thiên Chúa ở trên các ông."
Qua những kinh nghiệm hồi tâm suy tưởng, suy nghiệm, hay nghiệm chứng nơi cuộc đời mỗi người, chúng ta nhận biết rõ ràng Thiên Chúa chính là quyền lực hiện hữu nơi mọi loài, mọi vật từ vô hình đến hữu hình. Lẽ đương nhiên, Thiên Chúa hiện diện nơi từng ý nghĩ, ước muốn, tham vọng, cũng như mưu đồ vì chúng có sự hiện hữu trong tư tưởng dẫu vô hình. Thế nên, chúng ta nói, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, và như vậy, Nước Thiên Chúa, Nước Trời, triều đại Thiên Chúa là chính Ngài. Suy thế, "Nước Trời ở trong các ông" có nghĩa Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Gioan Tiền Hô rao giảng, "Hãy cải thiện vì Nước Thiên Chúa đã gần đến" cũng chính là lời rao giảng của Chúa Giêsu (Mc. 1:15). Thay vì dùng tiếng cải thiện, nếu chúng ta thay thế bằng ngôn từ Metanoia theo từng nghĩa của nó và suy nghiệm từng ý nghĩa của câu Phúc Âm theo sự thay đổi của từng ý nghĩa mà động từ Metanoia án định, chúng ta sẽ nhận biết, sẽ nghiệm được tại sao Phúc Âm được ghi lại lời tiên tri ngàn xưa nơi Thánh Kinh, "Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi" (Mt. 1:23).
Người ta gọi Chúa Giêsu là Emmanuel. Như vậy, danh hiệu của Chúa Giêsu là Emmanuel, và vì Ngài mang sứ vụ, Ngài làm nhiệm vụ rao giảng "Thiên Chúa ở cùng chúng ta;" "Nước Thiên Chúa ở trong các ông;" "Nước Thiên Chúa đã gần đến;" "Nước Thiên Chúa ở giữa các ông" như Ngài đã rõ ràng minh định sứ vụ này của Ngài, "Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà ta đã được sai đến" (Lc. 4:43).
Lời Chúa khuyến khích chúng ta mở rộng tâm hồn để suy nghiệm Phúc Âm.
Lời Chúa hôm nay gợi lại lời kêu gọi thiết tha của thánh Gioan tẩy giả. Ngài mời gọi hãy làm: MV 2-A91
Lời Chúa hôm nay gợi lại lời kêu gọi thiết tha của thánh Gioan tẩy giả. Ngài mời gọi hãy làm con đường cho Chúa đi qua. Đường quanh co hãy uốn cho ngay. Núi cao hãy san cho bằng. Sông sâu hãy lấp cho đầy. Hãy sữa lối cho thẳng để người đi.
Con đường mà thánh Gioan nhắm đến không làm bằng vật liệu ximăng cốt thép, không làm bằng những dây cáp khổng lồ mà bằng lối sống của chúng ta. Lối sống cũng tựa như con đường mà hằng ngày chúng ta phải đi theo. Lối sống sai lệch cũng có thể giết chết bản thân và làm hại đến biết bao nhiêu người khác. Như sự kiện cầu Cần Thơ xây chưa xong đã xập vào ngày 26.09.2007 khiến hơn 50 người thiệt mạng, dù rằng chẳng ai nhận trách nhiệm về vụ tai nạn thảm khốc, nhưng dầu muốn dầu không nó cũng gây thiệt hại nặng nề cho xã hội và đặc biệt nơi các gia đình nạn nhân. Lối sống của chúng ta cũng vậy. Dầu muốn dầu không nó vẫn ảnh hưởng trên người khác. Lối sống tốt sẽ mang lại cho anh em niềm an vui hạnh phúc. Lối sống ích kẻ nhỏ nhen sẽ gây phiền hà khổ sở cho tha nhân. Lối sống thiếu trách nhiệm sẽ là gánh nặng cho anh em. Lối sống độc ác sẽ là mối hiểm hoạ cho tha nhân. Có bao nhiêu lối sống khác nhau nhau là có bấy nhiêu con đường khác nhau. Vì thế:
Con đường quanh co là con đường của những kẻ phỉnh lừa gian dối. Họ chính là những kẻ sống hai lòng, lừa thầy dối bạn chỉ làm hại đời hại người. Cần phải chỉnh đốn lại con đường này bằng sự chân thành, ngay thẳng mới có bình an cho chính mình và cho tha nhân.
Con đường núi cao là con đường của kẻ tự cao tự đại, luôn cho mình hơn người hơn đời. Họ tưởng rằng mình tài giỏi nên thường hay chỉ trích phê bình người khác. Họ luôn cho rằng mình là đúng nên thường hay cố chấp và coi thường anh em. Cần phải chỉnh đốn lại con đường này bằng lối sống hoà nhã, khiêm tốn mới có thể nối lại tình người mà từ lâu, sự kiêu căng đã gây nên sự xa cách giữa người với người.
Con đường sông sâu là con đường của những kẻ sống trong tội lỗi, chính họ đã nhận chìm cuộc đời mình trong đam mê lầm lạc mà còn kéo theo biết bao người khác, lao vào con đường trụy lạc bởi gương xấu của họ. Cần phải bắc nhịp cầu vượt lên trên những đam mê thấp hèn, cần phải vượt qua những cám dỗ để sống đúng với phẩm giá làm người của mình và nhất là, không vì những đam mê tội lỗi của mình mà gây nên nỗi thống khổ cho gia đình và xã hội.
Mùa vọng là mùa mời gọi chúng ta điều chỉnh lại lối sống của mình cho phù hợp với tin mừng. Đừng vì những lối mòn tội lỗi của mình mà giết hại bản thân và gia đình. Hãy tỉnh thức đừng quá ngủ mê trong những vinh hoa trần thế, trong những thành công cuộc đời, vì có thể trong những thành công của chúng ta có nước mắt đau khổ của biết bao kẻ thất bại, trong những vinh hoa của chúng ta vô tình đã giết chết niềm mơ ước của biết bao con người.
Ngày xưa Alfred Nobel đã chế tạo ra chất nổ để giúp khai phá giao thông nhanh chóng và đỡ tốn nhân lực nhưng ông đâu ngờ rằng, người ta lại sử dụng phát minh của ông để phục vụ chiến tranh. Ông hối hận vì mình đã làm ra chất nổ. Ông không ngờ rằng sự phát minh của mình lại giết chết hàng vạn người. Từ đó ông đã quyết định dùng tài sản của mình để thưởng cho những ai có công xây dựng hoà bình cho thế giới. Và giải thưởng đó vẫn tồn tại cho tới hôm nay với tên gọi giải Nobel hoà bình.
Kính thưa,
Con người luôn mang chiếu kích xã hội, dầu muốn dầu không vẫn luôn có liên hệ và tác động trên cuộc đời của nhau. Vì thế, chúng ta muốn cho xã hội tốt thì trước hết chúng ta phải tốt. Chúng ta muốn cho con đường chúng ta sạch sẽ thì trước hết mỗi người chúng ta đừng làm xấu con đường mà chúng ta đang đi. Chúng ta khao khát cho đường đời này không còn hận thù, chiến tranh thì chính chúng ta đừng đào bới những chia cách bởi sự thiếu công bình bác ái và hãy là những người đi gieo vãi yêu thương và cùng nhau xây dựng hoà bình.
Nguyện xin Chúa là Đường là sự thật dẫn dắt chúng ta đi trong chân lý và tình thương để mỗi người chúng ta cũng trở thành những con đường dẫn anh em tới chân lý vẹn toàn. Amen
Nói đến Gioan Tẩy Giả, chúng ta phải biết đến con người của Ông. Gioan Tẩy Giả là Vị ngôn: MV 2-A92
Nói đến Gioan Tẩy Giả, chúng ta phải biết đến con người của Ông. Gioan Tẩy Giả là Vị ngôn sứ nối Cựu Ước và Tân Ước. Ông xuất hiện trước mọi người với sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Gioan là Vị ngôn sứ đặc biệt, Ngài được đánh giá như một Êlia mới, ngay trong lòng mẹ, Gioan Tẩy Giả đã được thánh hiến cho Thiên Chúa và được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Hôm nay, sau một thời gian dài ăn chay, hãm mình, cầu nguyện trong sa mạc, Ngài đã xuất hiện và công khai rao giảng:" Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến ".Thực tế, có điều đó vì dân Do Thái từ lâu đã mong đợi một Vị Cứu Tinh, Một Đấng Cứu Thế đến, Vị Cứu Thế sẽ khôi phục lại Vương Quốc Israen, giải thoát dân khỏi ách nô lệ của ngoại xâm, đem lại hạnh phúc, phồn vinh cho dân tộc Israen, đồng thời mở rộng bờ cõi, đánh Đ6ng dẹp bắc vv...Vương Quốc của Israen sẽ được tái thiết lập: muôn dân ấm no hạnh phúc theo trí ý của con người. Tuy nhiên, sự suy nghĩ của dân, cũng như cái nhìn trần tục của họ, không phải là ý của Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế sẽ đến để cứu độ con người, giải thoát loài người khỏi tội lỗi. Đấng Cứu Thế đến để phục vụ, chứ không đến để được hầu hạ, để được phục vụ.
Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối bởi vì Nước Trời đã đến gần.Đức Giêsu Kitô đã tới trần gian từ lâu, tuy nhiên Ngài vẫn tiếp tục đến để dẫn đưa chúng ta vào một Mùa Vọng, Mùa Vọng mới, chúng ta không còn chờ đợi một triều đại nào ở trần gian, vì mọi sự rồi cũng sẽ qua đi, tất cả rồi cũng biến tan, nhưng là một Mùa Vọng hướng về đời sau, hướng về Quê Trời, nơi sự sống và hạnh phúc sẽ tồn tại mãi mãi. Vâng, Chúa luôn luôn đứng gõ bên cửa hồn của chúng ta.Ý nghĩa mà thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng cũng hướng chúng ta về giờ chết, dù rằng chúng ta không biết được giờ chết, nhưng thực tế, giờ chết của chúng ta rất gần, bởi vì đối với Chúa một ngày cũng như ngàn năm và ngàn năm cũng như một ngày. Gioan Tẩy Giả có uy tín rất lớn đến nỗi lời rao giảng của Ngài thu hút được biết bao nhiêu người ăn năn sám hối và quay trở về với Chúa. Chúng ta thấy có biết bao hạng người đã đến để xin Gioan chỉ bảo cách sống cho phù hợp với ý Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta tự hỏi tại sao lời nói, việc rao giảng của Gioan đã cải hóa, đã thu hút được nhiều người. Sở dĩ, Gioan đã cảm hóa biết bao hạng người vì Người đã sống, đã làm gương rồi mới nói, mới loan báo, mới rao giảng.Gioan Tẩy Giả đã ăn năn, sám hối trước. Ngài đã sống những năm dài trong sa mạc, khắc khổ, hãm mình và sống thân tình với Chúa. Chính đời sống kham khổ trong ăn chay, cầu nguyện, trong sự khó nghèo, đơn sơ, phó thác đã thanh luyện Gioan Tẩy Giả. Ngài thành công trong việc giảng dạy vì Ngài đã sống rồi mới nói, việc làm không mâu thuẫn với lời nói và lời nói không mâu thuẫn với việc làm.Thánh Gioan luôn luôn có sự sống đích thực khác hoàn toàn với Pharisêu và Kinh sư. Pharisêu và Kinh sư nói mà không làm, ngôn hành bất nhất.
Chúng ta là sứ giả cho việc đến lại của Chúa Giêsu lần thứ hai, chúng ta cũng phải là một Gioan Tẩy Giả cho thế giới chúng ta đang sống. Ngày nay, nhân loại ít thích nghe nói mà thích thấy gương chúng ta sống. Lời nói của mỗi người chúng ta đừng mâu thuẫn với việc làm của chúng ta. Nói về Chúa, chúng ta phải sống, cảm nghiệm về Chúa để những ai nghe chúng ta nói, họ cũng nhận ra Chúa nơi chúng ta như thánh Phaolô đã nói:" Tôi sống không phải là tôi sống mà là đức kitô sống trong tôi ". Chúng ta phải trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.
Xin mượn lời của Bernadette Escaffre để kết luận bài suy niệm này:" Chúng ta không thể vào Nước Chúa bằng việc mua cho mình một tấm vé hay một vị trí trong đó. Cánh cửa Nước Chúa luôn rộng mở cho mỗi người chúng ta. Hãy đón nhận và lắng nghe những lời rao giảng của Gioan, như một lời mời gọi để dọn chỗ cho ta trước mặt Thiên Chúa với một trái tim và tâm hồn ao ước được biến đổi ".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con một trái tim nhạy cảm, một tấm lòng nhiệt thành trước những con người đang khao khát được nghe lời Chúa và thực thi lời Chúa. Amen.
Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ còn sống đúng một ngày nữa thôi? Đây là câu hỏi của một: MV 2-A93
Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ còn sống đúng một ngày nữa thôi? Đây là câu hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường học và có kết qủa như sau: 20% trả lời rằng các em sẽ dùng thời gian còn lại để vui chơi và ăn uống say sưa cho thỏa thích. Có một số em muốn về gặp gỡ những người thân trong gia đình. Một số khác không thể quyết định sẽ thực hiện điều gì. Cuối cùng có một nữ sinh 18 tuổi trả lời: Tôi sẽ dành thời giờ còn lại để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng để đến gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một đời sống hạnh phúc và đầy đủ.
Vào Mùa Vọng, mọi người tín hữu lại có cơ hội nghe lời Chúa khuyên dạy: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến" (Mt 3, 2). Ăn năn thống hối là một diễn tiến đi vào nội tâm của chính mình. Thống hối ăn năn là một trong những sự việc ngại ngùng và khó khăn nhất trong đời sống. Bước tới và lăn xả vào cuộc sống thì dễ dàng hơn là dừng lại và kiểm điểm xét mình. Tâm hồn của chúng ta rất dễ hướng ngoại và nhìn vào cuộc sống của người khác. Chúng ta nhận diện những sai lầm và tội lỗi của người khác rất nhạy bén. Sự phê bình chỉ trích và kết án tha nhân thật dễ dàng. Nhưng để nhìn lại mình và xét mình lại là điều không dễ thực hiện. Chúng ta có thể tán gẫu hằng giờ về những tật hư, thói xấu và truyện riêng của người khác nhưng dừng lại đôi chút để xét mình thì thật khó. Xét mình để nhận ra lỗi lầm của mình. Có lỗi mới có lời xin lỗi. Xin lỗi là tự biết mình đã làm một điều gì không đúng. Nhận lỗi và xin lỗi là bước đầu để tiến tới việc sửa lỗi.
Xét mình giúp chúng ta biết mình đang ở đâu và sống trong bậc thang nhân đức nào. Một người thánh thiện, tốt lành và kiên vững hệ tại đời sống nội tâm chân thành. Chúng ta khó có thể đo lường được sức mạnh của ý chí và đời sống tâm linh của người khác. Xét về diện mạo và cách cư xử bên ngoài thì nhiều người có vẻ giông giống nhau, nhưng đời sống nội tâm, người ta có thể khác nhau một trời một vực. Có sự khác biệt tâm linh giữa người đại tâm và tiểu tâm, giữa sự thánh thiện và tội lỗi, giữa sự quảng đại rộng lượng và bủn xỉn ích kỷ. Sự sâu thẳm của lòng người là một bí nhiệm không thể dò thấu. Mỗi con người là một huyền nhiệm. Đôi khi chúng ta thấy vậy mà không phải vậy. Tiên tri Isaia đã diễn tả sự xét đoán của Thiên Chúa: Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở (Is 11, 3-4). Thiên Chúa thấu suốt mọi tâm can. Chúng ta có thể đóng kịch lừa dối người khác, nhưng trước sự sáng láng của Thiên Chúa, chúng ta chỉ là thụ tạo trần trụi và yếu đuối tội lỗi.
Mỗi người chúng ta có kinh nghiệm bản thân cả về thân bệnh và tâm bệnh. Về thân bệnh, có nhiều người sợ hoặc ngại đi khám bác sĩ. Nói rằng tôi đang khỏe, cần gì đi khám bệnh. Đi khám, lại sinh ra đủ thứ bệnh và lo lắng. Có người than rằng bác sĩ chỉ bới ra bệnh để kiếm tiền của các bệnh nhân. Thế là chúng ta cứ khất lần để nuôi con bệnh trong người. Thực tế, ai trong chúng ta cũng có chút bệnh nào đó, không nặng thì nhẹ. Nếu được phòng ngừa hay chữa trị sớm sẽ mau bình phục. Đời sống tâm linh cũng giống như thế, đôi khi chúng ta ngại xét mình và sửa mình. Biết rằng chúng ta có tâm bệnh nhưng không muốn động chạm vào, sợ nó quấy rầy lương tâm. Và thế là chúng ta để tâm bệnh ngủ yên cho lòng bớt gợn sóng. Chúng ta cố gắng ẩn dấu những vết thương âm ỉ trong lòng. Đôi khi còn muốn phấn son lớp da non mịn màng bên ngoài để trình làng. Để rồi cứ tháng này qua tháng khác hoặc năm này qua năm kia, chúng ta chôn vùi, khỏa lấp và che dấu những lỗi lầm và tội lụy. Mùa Vọng, Giáo Hội quan tâm giới thiệu cho chúng ta nhiều phương thế, cơ hội và dược phẩm để chữa lành tâm linh.
Khi bắt đầu ra rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã gặp ông Gioan Tẩy Giả. Gioan là vị Tiền Hô đi trước dọn đường cho Chúa. Chính ông là người mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: "Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" (Mt 3, 3). Văng vẳng bên tai lời mời gọi chuẩn bị dọn đường đón Chúa. Con đường nội tâm rẽ ra muôn nẻo. Đời sống nội tâm nơi mỗi người không khác gì những hình ảnh đồi núi của sự kiêu hãnh, những hố sâu của sự tham lam, gian tà và dâm ô, những quanh co của gian dối và những khúc mô gồ ghề của tị hiềm, ghen ghét. Hãy sửa đường cho ngay thẳng, có nghĩa là chúng ta phải bỏ công gắng sức lấp san cho bằng phẳng để trở nên hồn trong tâm sạch. Chúng ta có thể đã nhận biết, suy gẫm và thấu hiểu tình trạng nội tâm, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải thực sự bước vào sự phấn đấu tinh luyện. Đòi hỏi sự chiến đấu liên lỉ và bền tâm vì ngày tháng cuộc đời tiếp tục làm soi mòn và vỡ lở tâm can. Hãy nhắm hướng mà tiến tới trên con đường trọn lành. Đừng bỏ cuộc!
Trước mỗi thánh lễ, chúng ta cùng xưng thú các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu xót. Và đấm ngực lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng nhưng ra khỏi thánh đường, chứng nào lại hoàn tật đó. Có một sự thật không mấy vui là ý chí phấn đấu của chúng ta trên đường trọn lành còn qúa non yếu. Chúng ta không thể dứt khoát ngay với các cơn cám dỗ hướng về đàng xấu và tội lỗi. Hình như có một ma lực nào đó luôn cuốn hút chúng ta đòi hỏi thỏa mãn tham sân si và nhục dục. Chúng ta dễ dàng gieo mình vào những sự dối trá, bất công, ghen tương, hận thù, gièm pha, gây rối và dục tình. Mỗi ngày chúng ta đối diện với nhiều cám dỗ mới, mỗi dịp tội này lại mang một vẻ mặt mới và với sự hấp dẫn riêng. Hầu như khi đối diện với các cơn cám dỗ, tâm chúng ta lại yếu xìu và buông thả. Ý chí phấn đấu hầu như co cụm và đầu hàng. Thế là chúng ta lại rơi vào lỗi lầm. Ý chí quyết định của chúng ta qúa mỏng dòn và yếu nhược.
Với thời gian, cuộc sống đạo của chúng ta rơi vào nhiều thói hư và tật xấu. Nhiều thói xấu đã bám rễ dần dần. Minh họa: Nếu bạn để một con nhái vào trong bình nước nóng, nó sẽ lập tức phóng ra ngoài. Nhưng nếu bạn để nó trong một bình nước lạnh, rồi đun nóng lên từ từ. Con nhái không cảm thấy gì lạ cả vì nước âm ấm, cứ ở yên trong đó. Nó quen dần nên không cảm thấy nguy hiểm gì cả. Muốn nó nhảy ra, thì cần phải lấy một vật gì chọc vào thân nó. Đối với các dịp tội cũng thế, những cách tốt nhất có thể thắng được các cơn cám dỗ là tỉnh thức, cầu nguyện và đào vi thượng sách. Hãy tránh khỏi, chạy trốn, cắt ngang và dứt khoát không nhùng nhằng, không nhìn, không nghe và không nói thêm bớt những điều không đúng, không thật và không thanh lịch.
Thánh sử Matthêô đã viết: Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa (Mt 3, 10). Lời nhắn nhủ này là một lời cảnh cáo mạnh mẽ và mời gọi mọi người hãy biết làm sinh lợi số vốn đã lãnh nhận. Mục đích của chủ vườn trồng cây là mong rằng cây sẽ sinh hoa kết trái tốt lành. Thiên Chúa cũng mong con người sinh hoa trái tốt qua việc thực hành các nhân đức, làm việc phúc thiện và sống đạo tốt. Ai trong chúng ta cũng có khả năng làm thiện và sống tốt lành. Hãy bước theo đường lối Chúa, Chúa Giêsu đã nêu gương sống hòa đồng, yêu thương và quan tâm đối với mọi người dù họ là những kẻ tội lỗi, nghèo hèn và cùng đinh trong xã hội. Thánh Phaolô đã khuyên dạy: Vì thế, anh em hãy tiếp rước nhau như chính Chúa Giêsu đã tiếp nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa (Rm 15, 7). Sinh hoa trái trong Chúa Kitô qua việc bái ái yêu thương lẫn nhau. Đức ái là đầu mối của tất cả các nhân đức.
Lạy Chúa, tâm hồn chúng con đã bị vương nhiễm bụi trần đời, xin giúp chúng con can đảm san bằng chỗ gồ ghề, lấp đầy nơi hố sâu vũng lầy và uốn ngay mọi khúc quanh co gian xảo. Xin ban ơn phù trợ để chúng con dọn đường ngay thẳng đón Chúa.
Tin Mừng Mt 3, 1 – 12 hôm nay tường thuật sứ mạng tiền sứ của Gioan Tẩy Giả. Ông chính là “Tiếng hô trong hoang địa kêu gọi người ta dọn đường đón Đấng Thiên Sai”. Ông đã thi hành sứ mạng bằng một lối sống khổ hạnh, nên được dân chúng tín nhiệm và kéo đến nghe giảng, thú tội và chịu phép rửa tại sông Giođan. Ông kêu gọi sự sám hối thực sự, tránh thói đạo đức giả và loan báo về sứ mạng của Đấng Thiên Sai sắp đến.
2. CHÚ THÍCH:
Ông Gioan Tẩy Giả: Là con trai của tư tế Dacaria và bà Êlisabét. Gioan là tên mà sứ thần đã đặt cho khi hiện ra với cha của ông là Dacaria trong Đền Thờ ( x. Lc 1, 13 ). Gioan là anh họ của Đức Giêsu và lớn hơn Người sáu tháng tuổi ( x. Lc 1, 36 ). Ông được đặc ân khỏi tội tổ tông truyền biểu hiệu qua việc nhảy mừng trong dạ mẹ, khi bà nghe lời chào của Đức Maria đang cưu mang thai nhi Giêsu đến viếng thăm ( x. Lc 1, 44 ). Ngay từ nhỏ Gioan đã ẩn mình trong hoang địa. Trước khi Đức Giêsu ra giảng đạo, ông đã đến rao giảng tại vùng sông Giođan và làm phép rửa cho những ai thành tâm sám hối dọn lòng đón Đấng Mêsia hay Đấng Thiên Sai sắp đến ( x. Lc 3, 3 – 6 ). Cuối cùng ông đã bị vua Hêrôđê giết chết vì đã dám đứng ra ngăn cản nhà vua lấy bà chị dâu làm vợ ( x. Mt 14, 3 – 12 ).
Đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê: Đây là vùng đồi núi khô cằn phía Nam thành Giêrikhô, cách Biển Chết 6 cây số.
Anh em hãy sám hối: Sám hối ( Metanoia ) nghĩa là: nghĩ lại, thay đổi ý kiến, hoán cải, thay đổi hoàn toàn con người từ nội tâm đến cách sống để trở về với Thiên Chúa.
Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời hay Nước Thiên Chúa ( trong các Tin Mừng khác ). Đây là kiểu nói tránh nêu thánh danh Thiên Chúa. Người Do thái thời Đức Giêsu đang mong đợi Đấng Mêsia đến thiết lập một Nước Trời mang tính thế tục. Ở đây Gioan kêu gọi dân chúng sám hối để chuẩn bị gia nhập Nước Trời thiêng liêng do Đấng Mê-si-a sắp đến sẽ thiết lập.
Ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới…: Ngôn Sứ Isaia sống vào thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên. Ông đã tuyên sấm về thân thế, nơi sinh và triều đại của Đấng Thiên Sai. Lời tuyên sấm của Isaia ( 40, 3 – 5 ), gợi lại cuộc giải phóng và hồi hương của người Do Thái từ xứ Babylon. Lời này được một ngôn sứ vô danh loan báo sắp xảy ra như một cuộc Xuất Hành thứ hai của dân Do Thái. Lời tuyên sấm ấy được ứng nghiệm nơi Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu.
Ông Gioan mặc áo lông lạc đà: Cách ăn mặc của Gioan giống như Ngôn Sứ Êlia ( x. 2V 1, 8 ). Ông có sứ mạng tiên báo về “Ngày của Thiên Chúa” sắp đến ( x. Mt 3, 1 – 23 ).
Ông làm phép rửa cho họ: Thời bấy giờ, người Do Thái đã quen với các nghi thức tự mình thanh tẩy theo tục lệ và Lề luật. Ở đây Gioan cử hành nghi thức thanh tẩy bằng nước cho những ai đến nghe giảng để bày tỏ lòng sám hối và chuẩn bị tâm hồn đón chờ Đấng Mêsia sắp đến. Phép rửa của Gioan chỉ là một nghi lễ biểu lộ lòng sám hối, chứ không tha tội như Bí Tích Thánh Tẩy do Đức Giêsu thiết lập sau này.
Phái Xađốc: Xađốc hay Văn nhân là nhóm người xu thời và phóng khoáng, không nhìn nhận truyền thống mà chỉ tuân giữ Lề luật. Họ theo khuynh hướng duy vật, thích văn hóa Hy Lạp. Họ giữ địa vị cao trong hàng hàng giáo phẩm và thường là người giàu có, nên dù chỉ là thiểu số nhưng họ rất có thế lực. Họ ủng hộ chính quyền Rôma, nên bị dân chúng không ưa.
Nòi rắn độc kia: Trong Kinh Thánh, loài rắn đồng nghĩa với sự xảo trá lọc lừa ( x. St 3, 1 ).
Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống: Theo các ngôn sứ, cuộc chung thẩm và báo oán sẽ xảy ra khi thời đại của Đấng Mêsia bắt đầu. Lúc đó, mọi kẻ tội lỗi đều bị loại khỏi Nước của Đấng Mêsia ( x. Is 30, 27 – 33 ). Ông Gioan tiên báo vị thẩm phán thời cánh chung sẽ đến trong uy quyền, đang khi Đức Giêsu lại xuất hiện như một người tôi tớ hiền lành và khiêm nhường ( x. Mt 12, 18 – 21 ).
Sinh hoa quả xứng với lòng sám hối: Việc ăn năn sám hối trong lòng phải được chứng minh bằng những việc làm bác ái cụ thể.
Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham: Ápraham sống vào thế kỷ 20 trước Công Nguyên. Ông là tổ tiên của người Do thái và tên ông nghĩa là “Cha của những kẻ tin vào Đức Chúa”. Người Do thái cho rằng chỉ cần là con cháu của Áp-ra-ham là đương nhiên được cứu độ như lời Đức Chúa đã hứa ( x. Lc 1, 55 ). Nhưng họ đã lầm, vì để được cứu độ người ta còn phải tuân phục thánh ý Thiên Chúa nữa ( x. Mt 8, 11 ).
Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham: Thiên Chúa sẽ chỉ ban ơn cứu độ cho những ai có lòng ăn năn sám hối.
Cái rìu đã đặt sát gốc cây: Trong Cựu Ước, cây là hình ảnh ám chỉ các dân tộc ( x. Is 6, 13 ). Cái rìu để sẵn gốc cây nhằm diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa dành cho dân Do thái đã sắp xảy ra.
Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước…: Gioan đã cho thấy sự khác biệt giữa mình với Đấng Thiên Sai như sau: Một là ông chỉ làm phép rửa bằng nước sông để khơi dậy nơi người chịu phép tâm tình sám hối, còn Đấng Thiên Sai sẽ thanh tẩy người ta nhờ ơn của Chúa Thánh Thần và lửa tin yêu. Hai là ông chỉ là người có thân phận thấp kém đang khi Đấng Thiên Sai lại mang thân phận cao quý. Ba là ông chẳng có quyền hành gì, đang khi Đấng Thiên Sai có quyền xét xử để thưởng người lành và phạt kẻ dữ.
Tay Người cầm nia…: Các ngôn sứ Cựu Ước thường diễn tả ngày tận thế bằng hình ảnh của một người đang sàng sảy sân lúa của mình ( x. Is 9, 2 ). Ở đây vai trò của Đấng Thiên Sai được diễn tả như ông chủ trong dụ ngôn Nước Trời giống thửa ruộng có pha lẫn cỏ lùng ( x. Mt 13, 30 ).
Zenkai là một thanh niên Nhật bản khỏe mạnh, là con trai của một gia đình Công Giáo. Anh đến thành phố Edo lập nghiệp. Anh được nhận làm cận vệ cho một quan chức cao cấp của thành phố này. Zenkai đem lòng yêu cô vợ trẻ của ông chủ, và rồi “cây kim lâu ngày cũng lộ ra”, một hôm ông chủ đã bắt gặp hai người phạm tội thông dâm với nhau. Đang lúc nóng giận, ông đã thách đấu kiếm với Zenkai kai. Trong cuộc đọ sức, Zenkai khỏe và tài giỏi hơn nên đã đâm ông chủ một nhát trúng ngực và ít ngày sau thì ông qua đời, để lại một đứa con trai mới được 7 tuổi.
Zenkai đem bà vợ ông chủ đi chạy trốn. Hai người đến một vùng đồi núi hẻo lánh và phải sống những ngày nghèo khổ đói khát, nhiều khi phải đi trộm lương thực của dân địa phương ăn cho đỡ đói. Nhưng khi sống gần nhau, Zenkai mới phát hiện ra người phụ nữ trẻ đẹp kia chỉ là một mụ đàn bà lăng loàn trắc nết. Nhiều lần chị ta đã nặng lời mắng chửi Zenkai và sau cùng đã bỏ rơi anh để theo làm hầu thiếp cho một người giàu có thế lực trong vùng.
Anh cảm thấy buồn bã không thiết đến ăn uống. Càng suy nghĩ anh lại càng thấm thía cho tình đời đen bạc. Rồi anh quyết tâm sám hối bằng việc dành trọn quãng đời còn lại làm một công việc nào đó hữu ích để chuộc lại phần nào tội lỗi của mình.
Một hôm thấy trên sườn núi gần nơi đang ở có một đường đèo lồi lõm trơn trượt rất nguy hiểm cho người qua lại. Nhiều người đã bị té xuống vực sâu chết thảm khi đi qua đoạn đường này. Zenkai quyết định sẽ đào một con đường hầm xuyên qua núi để giúp người ta khỏi bị tai nạn tương tự. Ban ngày anh vào làng làm thuê kiếm sống. Đêm đến anh đốt đèn và miệt mài đào hầm xuyên qua vách núi. Mười ba năm sau, khi Zenkai được 40 tuổi, thì con đường hầm đã gần hoàn tất. Ước tính chỉ hai năm nữa là anh sẽ hoàn thành đường hầm.
Ngày nọ, đứa con trai của ông chủ cũ giờ đây đã trở thành một trang thanh niên 20 tuổi khỏe mạnh tìm đến gặp Zenkai và đòi thách đấu để trả thù cho cha. Zenkai đồng ý nhưng yêu cầu hoãn lại 2 năm để có thời giờ hoàn thành tâm nguyện và được anh kia đồng ý. Rồi khi thấy Zenkai hằng ngày phải làm việc quá vất vả, anh ta đã tình nguyện giúp một tay cho công việc chóng xong hầu sớm trả thù cho cha. Nhưng trong thời gian làm việc chung, chàng thanh niên rất khâm phục trước dũng khí và sự chuyên cần của kẻ thù đã giết cha.
Cuối cùng thì công việc đào hầm cũng xong và dân chúng hai bên đã có thể qua lại cách an toàn. Bấy giờ Zenkai nói với chàng thanh niên: “Tâm nguyện của ta đã hoàn tất. Vậy anh hãy lấy đầu của ta để báo thù cho cha anh”. Nhưng chàng thanh niên kia đã nghẹn ngào xúc động nói: “Bây giờ làm sao con có thể giết chết thầy được, khi mà thầy đã thật lòng sám hối và đã làm được một việc lớn lao như thế kia để đền tội ?”
Chính tinh thần sám hối và sự quyết tâm làm việc thiện của Zenkai đã có sức mạnh cảm hóa và biến một người vốn là kẻ thù trở thành bạn hữu của mình. Một con người mang tâm trạng thù hận mà còn mủi lòng trước sự thành tâm sám hối như vậy, phương chi Thiên Chúa lại chẳng đoái thương tha thứ và ban ơn cứu độ cho những tội nhân thật lòng sám hối hay sao ?
3. SUY NIỆM:
“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”
Đây là lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa miền Giuđê. Sứ mạng tiền hô cho Đấng Thiên Sai của Gioan đã được Ngôn Sứ Isaia tuyên sấm như sau: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Ông mang dáng vẻ của ngôn sứ Êlia ngày xưa qua việc mặc áo bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng giống Êlia.
Nội dung những điều Gioan Tẩy Giả loan báo đã được Tin Mừng Mátthêu tóm lại như sau: Hãy chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai sắp đến thiết lập Nước Trời. Đấng ấy sẽ là vị Thẩm Phán công minh tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ, giống như người nông dân phân biệt thóc mẩy với thóc lép: “Thóc mẩy thì thu vào kho, thóc lép thì bỏ vào lửa mà đốt đi” ( Mt 3, 12 ). Người sẽ thanh tẩy người ta nhờ quyền năng Thánh Thần và trong lửa tin yêu như trong ngày lễ Ngũ Tuần sau này. Muốn được ơn cứu độ thì ngay từ bây giờ người ta phải thực lòng sám hối ăn năn.
Phải thực lòng sám hối bằng việc sinh quả tốt
Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông Gioan. Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến xin chịu phép rửa, Gioan đã nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ?” Gioan biết việc đến xin chịu phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” mà thôi, chứ bọn người này không thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của ông Gioan chỉ là một nghi thức để tránh bị Thiên Chúa trừng phạt. Thái độ trọng hình thức bề ngoài là căn bệnh cố hữu của những người Pharisêu và Xađốc vốn tự coi mình là người công chính ! Gioan đã nghiêm khắc cảnh cáo họ như sau: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” ( Mt 3, 10 ).
Thực ra Đấng Thiên Sai là Đức Giêsu không phải là vị Thẩm Phán ưa trừng phạt như Gioan đã rao giảng, nhưng lời kêu gọi sám hối của ông vẫn còn nguyên giá trị. Ngày nay các tín hữu chúng ta cũng không sám hối do sợ hãi, nhưng sám hối nhờ tin vào tình thương của Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mùa Vọng là thời kỳ thôi thúc chúng ta sám hối để chờ đón Đấng Thiên Sai sắp đến. Đức Giêsu đã đến trong âm thầm ở Bêlem cách đây hơn hai ngàn năm, và Người sẽ lại đến vào ngày tận thế để phán xét nhân loại. Ngày nay Người vẫn đang đến với mỗi người chúng ta qua bí tích Thánh Thể và trong các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc đời chúng ta.
Sám hối là giao hòa với Thiên Chúa và hòa giải với tha nhân
Sám hối thực sự là ăn năn vì đã làm những điều xấu khiến khuôn mặt Đức Giêsu trở nên méo mó trước mặt thế gian. Sám hối đòi mỗi người tự vấn lương tâm về lời nói việc làm đã gây ra sự thù oán với người khác, về những hành động thiếu khoan dung đã xử với đồng loại. Sám hối là khiêm tốn nhận phần trách nhiệm của mình trước bao cái xấu cái ác đã và đang xảy ra trên thế giới hôm nay. Một tín hữu có lòng sám hối ăn năn thực sự chính là bước đầu để nên hoàn thiện. Một Hội Thánh can đảm sám hối, dám nhìn nhận phần thiếu sót của mình trong lịch sử là dấu chỉ Hội Thánh ấy đang quyết tâm vươn tới sự thánh thiện thực sự.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Gioan đã kéo chúng ta ra khỏi thái độ tự mãn của người Pharisêu xưa khi ông nói: “Đừng tưởng có thể nghĩ rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham” ( Mt 3, 8 ).
Cũng vậy, người tín hữu hôm nay đừng nghĩ rằng khi chịu phép rửa tội trở thành người Công Giáo là đương nhiên sẽ được vào Nước Trời, đừng tưởng rằng cứ đến Nhà Thờ dự lễ Chúa Nhật theo luật buộc, cứ đọc kinh lần hạt hằng ngày cách máy móc là đương nhiên sẽ được hưởng ơn cứu độ.
Hôm nay Gioan dạy chúng ta: muốn được vào Nước Trời thì điều quan trọng nhất là phải nhìn nhận tội lỗi của mình để giao hòa với Thiên Chúa, và phải “sinh quả tốt” là làm các việc lành. Trong ngày phán xét, Vua Thẩm Phán sẽ xét xử chúng ta không dựa trên Đức Tin hình thức nhưng trên Đức Tin thực sự biểu lộ qua Đức Ái cụ thể. Bấy giờ Vua Thẩm Phán sẽ nói với những kẻ không làm việc lành như sau: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi đã không cho ăn, Ta khát các ngươi đã không cho uống. Ta là khách lạ các ngươi đã không tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã không cho mặc. Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom” ( Mt 25, 41 – 43 ).
Sám hối đòi phải quyết tâm hoán cải cụ thể:
Trong những ngày Mùa Vọng này, ngoài việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Vọng và lãnh bí tích giao hòa để dọn tâm hồn mừng Chúa Giáng Sinh, mỗi người chúng ta còn phải hoán cải đời sống cách cụ thể bằng việc quyết tâm tu sửa một thói hư đang mắc phải như: hạn chế uống rượu say sưa, bớt hút một điếu thuốc để dành tiền cho người nghèo; Kiềm chế tính nóng giận, đi lễ trước giờ cử hành 5 – 10 phút, mỗi ngày làm ít nhất một việc tốt phục vụ tha nhân… để cuộc đời chúng ta ngày một nên tốt hơn hầu xứng đáng được hưởng ơn cứu độ như lời Gioan rao giảng.
4. THẢO LUẬN:
Hiện nay bạn thấy Giáo xứ, Hội đoàn hay Gia đình của bạn có điều gì chưa phù hợp với đòi hỏi bác ái yêu thương của Đức Kitô, và nên cớ cho lương dân khinh thường đạo Chúa không ?
Hiện giờ bạn thấy mình cần cấp thời hoán cải và canh tân điều gì trong những ngày Mùa Vọng này ?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ làm, vì chúng con thường không đủ khiêm tốn để nhìn nhận lỗi lầm của mình.
Xin cho chúng con biết dũng cảm điều chỉnh những sai lỗi, luôn tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng về sự thánh thiện của mình và tránh thói đạo đức giả hình của người Pharisêu và phái Xađốc xưa đã bị ông Gioan nặng lời quở trách.
Lạy Chúa, con cảm thấy những lời quở trách của Gioan trong Tin Mừng hôm nay rất phù hợp với thực trạng tâm hồn con. Nhiều lần con cũng tự mãn về lòng đạo đức hình thức và nghĩ mình đáng hưởng ơn cứu độ. Thực ra muốn được Chúa ban ơn cứu độ, ngoài việc cầu nguyện dự Lễ, con còn cần phải hồi tâm sám hối tội lỗi và quyết tâm đổi mới đời sống để nên giống Chúa hơn.
Xin cho con trong Mùa Vọng này quyết tâm phát sinh trái tốt bằng việc tập làm các việc tốt ngược lại thói xấu con đang mắc phải như kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” để xứng đáng nhận được Ơn Cứu Độ của Chúa.
Mùa Vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu: MV 2-A95
Mùa Vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh của Chúa Nhật.
Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa Nhật 4, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc Âm: Chúa Nhật 1 Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa Nhật 2 và 3 dành cho Gioan Tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa Nhật 4 là Chúa Nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh Thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Với Chúa Nhật 2, chúng ta bước vào lịch sử: những loan báo trong Cựu Ước bắt đầu thực hiện và giấc mơ của nhân loại trở thành hiện thực. Người loan báo Tin Vui này là Gioan Tẩy Giả, một ngôn sứ đầy tràn ơn Thánh Linh. Gioan mời gọi: “Hãy hối cải vì Nước Trời đã cận kề”. Giống như các Ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài ( x. Am 5, 21 – 27; Is 1,10 – 20; Gr 7,1 – 8, 3… ), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Ba bài Tin Mừng từ Nhất Lãm ( Mt 3, 1 – 12; Mc 1, 1 – 8; Lc 3, 1 – 6 ), thuật lại niềm hăng say rao giảng của Đấng Tiền Hô, kêu mời hối cải và loan báo sẽ có một đấng quyền năng hơn, Ngài sẽ rửa tội trong Chúa Thánh Thần.
Gioan Tiền Hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa và cũng rất gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước. Sau năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ ( x. Mt 14, 3 – 12; Mc 6, 17 – 19 ). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời Ngôn Sứ Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” ( Lc 3, 5 ). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Apraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ua để sang Đất Hứa. Và lịch sử Do Thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai Cập, về Nadarét, lên sa mạc, vào Đền Thánh và trở lại Galilê. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về Nhà Cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất, đá, nhựa, bêtông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Hội Thánh cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Tự thành lập một tổ chức trẻ em vì môi trường ( ECO ) khi mới 10 tuổi, hai năm sau đó lại cùng bạn: MV 2-A96
Tự thành lập một tổ chức trẻ em vì môi trường ( ECO ) khi mới 10 tuổi, hai năm sau đó lại cùng bạn bè quyên tiền, trang trải mọi chi phí tham dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Trái Đất đầu tiên, ở Rio de Janeiro, Brazil, năm 1992, Severn Suzuki đã trở thành “cô gái khiến cả thế giới im lặng trong 6 phút”. Nước mắt và những gương mặt sững sờ của các nhà lãnh đạo trên thế giới còn hiện rõ trong băng ghi hình vì bài phát biểu của cô bé.
“Cháu sợ ra ngoài ánh nắng mặt trời vì những lỗ thủng trên tầng ozone. Cháu sợ hít thở không khí vì cháu không biết có những loại hóa chất gì trong đó. Mới vài năm trước cháu vẫn thường đi câu cá với bố ở quê Vancouver, còn bây giờ cháu thấy lũ cá với đầy tế bào ung thư”.
“Cháu đang đấu tranh cho tương lai của bản thân. Cháu ở đây để nói thay cho những đứa trẻ đang chết đói, mà không ai nghe được tiếng khóc của chúng. Cháu ở đây để nói thay cho vô số loài động vật đang chết dần trên cả hành tinh này, vì không có nơi nào để đi.”
Không quá thể hiện cảm xúc bằng đôi mắt hay bàn tay, nhưng với giọng điệu quả quyết, có những lúc cô bé gần như cầu xin các đại biểu: “Cháu chỉ là một đứa trẻ và cháu không biết hết mọi giải pháp, nhưng cháu muốn các cô chú hiểu rằng các cô chú cũng thế. Các cô chú không biết cách xử lý những lỗ thủng ở tầng ozone, không biết cách khiến cá hồi trở lại một con suối đã ngưng chảy, không biết cách hồi sinh một loài vật đã tuyệt chủng và cũng không thể mang lại những khu rừng ở những nơi giờ đây chỉ còn là sa mạc. Nếu các cô chú không biết cách khắc phục hậu quả thì xin đừng phá hoại thêm nữa !”
Hiện nay, cô Severn Suzuki đã 34 tuổi, vẫn tiếp tục hiện thực hóa mọi lời nói trong bài phát biểu thành hành động. Cô đã bỏ ra hơn 20 năm đi khắp thế giới, diễn thuyết và cảnh báo về hiểm họa môi trường bị hủy hoại. Còn Thánh Gioan Tiền Hô hơn 2000 năm trước, đã hùng hồn, gay gắt, cảnh báo khẩn cấp và quyết liệt hơn nữa, về cuộc phán xét của Thiên Chúa: “Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa.”
Thời kỳ đã mãn
Con người thường hay quên một thực tế rất quan trọng. Đó là thân phận quá mong manh, mỏng dòn, dễ vỡ, có thể chết bất cứ lúc nào. Biết đâu, đây chính là những dòng chữ cuối cùng của cuộc đời tôi ? Ngộ độc thực phẩm, tai nạn giao thông, tai bay vạ gió, cháy nhà, bão lụt, tất cả đều có thể xảy ra cho tôi, cũng như cho người thân, bạn bè, hay kẻ xa lạ bất cứ lúc nào, nơi nào. Thế mà tôi cứ tưởng như sống đời, sỗng mãi, sống hoài, y như vọng tưởng hão huyền của con người hằng bao đời.
Nếu Chúa gọi tôi ngay lúc này, một giờ, một ngày, hay một tháng nữa, tôi phải ứng xử ra sao ? Nếu không phải là xưng tội, rước Mình Thánh Chúa ? Nhưng tôi có gì đem theo, ngoài tội lỗi đen đúa, ngoài tâm hồn lấm len ? Hay là đúng như lời Thánh Gioan Tiền Hô và Đức Giêsu nhận xét: “Nòi rắn độc kia!” ( Mt 3, 7 ), hay là “mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” ( Mt 23, 27 )
Sám hối
Thiên Chúa thấu suốt hết mọi sự, từ bên ngoài đến tận cõi lòng, tâm tư, suy nghĩ, ước muốn, đam mê. Tôi chỉ có thể giả vờ đóng kịch với tha nhân, nhưng không thể nào qua mắt Ngài. Tôi có thể là người đàng hoàng tử tế với mọi người, nhưng là người con hoang đàng với Chúa.
Tôi theo Đạo, nhưng chưa sống đạo. Tôi chấp hành và thực hiện đủ những luật lệ, Mười Điều Răn và các điều Hội Thánh dạy, tôi mới chỉ giữ đạo hình thức theo luật buộc. Nào có ích gì trước mặt Chúa ? Vì tôi “bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong thì toàn là giả hình và gian ác” ( Mt 23, 28 ). Vì tôi chỉ mới làm những việc đạo dức bắt buộc, chứ tâm hồn tôi còn mải đi hoang, khẩu phật tâm xà.
Chừng nào tôi tự giác theo Chúa, sống đạo, sống Lời Chúa, khiêm tốn, nhìn nhận ra những tội lỗi vấp phạm đến tha nhân và Thiên Chúa, tôi mới thấy cần đến Lòng Thương xót Chúa, mới muốn trở về với Người Cha Nhân Từ, vốn đang mong mỏi chờ đón tôi trở về.
Sinh hoa kết trái
Canh tân, đổi mới tâm hồn, tôi mới sinh hoa kết trái, khi biết nhìn nhận tha nhân là anh em của tôi, thấy động lòng và giúp đỡ những người nghèo khó, hoạn nạn, tàn tật, kém may mắn. Những người lâu nay tôi hờ hững chẳng quan tâm, chẳng để ý gần gũi.
Sinh hoa kết trái là sống Tin Mừng chân thật, thực hiện đúng đắn Lời Chúa, làm chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa, chứng nhân của Đức Giêsu trong môi trường xã hội chuộng vật chất phù phiếm.
Nhưng khó khăn hơn hết là đối phó với chính mình, là vượt qua bản thân với những ích kỷ nhỏ nhen, đố kỵ, ganh ghét, thù hằn, oán hận, với những đòi hỏi hưởng thụ, danh lợi, tà tâm tà ý. Tôi có chịu chết đi thân xác, chết đi những nhục dục, những ham hố, tham lam, thì mới xứng đáng được Chúa đoái thương, ban Ơn Cứu Độ. “Chính khi chết đi là vui sống muôn đời !” ( Kinh Hòa Bình ).
Lời cảnh báo gay gắt và khẩn cấp của Thánh Gioan Tiền Hô sẽ chẳng thể lay động tôi, bao lâu tôi cứ nhắm mắt theo nếp sống cũ, tham sân si. Nhưng chẳng lẽ tôi đã thấy quan tài mà chưa nhỏ lệ sao ?
“Một người giữ đạo, đọc nhiều kinh, dự nhiều lễ, mà không sống đạo, chẳng khác gì người được hỏi: “Bạn có khỏe không ?” Liền đáp: “Tôi ăn một ngày sáu bữa.” Chưa hẳn ăn nhiều bữa là đã khỏe.” ( Đường Hy Vọng, số 101 ).
Lạy Chúa Giêsu, xưa Thánh Gioan đã kêu gọi: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần.” Xin Chúa thức tỉnh chúng con khỏi giấc ngủ u mê thế gian, để sốt sắng sám hối, canh tân đời sống, làm việc lành cho xứng với sự thống hối, hầu được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ chúng con biết kết hiệp việc đạo đức với đời sống đạo trung tín, để chúng con thực thi cụ thể và hữu hiệu Lời Hằng Sống. Amen.
Khi đón tiếp vị khách quí nào, người ta thường chuẩn bị nghi thức mọi mặt rất chu đáo, hoành: MV 2-A97
Khi đón tiếp vị khách quí nào, người ta thường chuẩn bị nghi thức mọi mặt rất chu đáo, hoành tráng. Đó là thói lệ nhân loại dành cho nhau. Người ta thích bề ngoài, thích những lời hoa mỹ, văn vẻ hầu cung chúc lẫn nhau. Thế nhưng, cho dù có trịnh trọng đến đâu, cho dù có sang trọng thế nào, thì rồi ra cũng hết. Phù vân trả về phù vân, vui lắm, cười lắm, hạnh phúc lắm rồi cũng qua đi, chẳng có gì tồn tại vĩnh cửu, trường tồn cả.
Có một Đấng mà đúng hơn nhân loại phải đón tiếp, cần phải chuẩn bị… đó chính là Con Một Thiên Chúa. Đấng là Vua Tình Yêu, là nguồn Sự Sống, là Ơn Cứu Độ của thế giới. Cuộc vui đón tiếp Ngài thì bền vững muôn đời, không mau qua, cũng chẳng chóng tàn. Đấng mà Ngôn Sứ Gioan hôm nay đã loan báo.
Thánh Gioan đã thực hiện đúng với sứ mệnh của mình là loan báo Đấng phải đến, là rao giảng quyền thế Con Thiên Chúa. Mặc dù được người đương thời coi trọng, nhưng ngài đã không hề nâng cao bản thân để làm lu mờ hình ảnh Thiên Chúa. Trái lại, trong thái độ khiêm tốn, chân thành, ngài đã một mực làm cho Chúa được lớn lên. Lời kêu gọi thống thiết: “Hãy dọn sẵn con người cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” ( Mt 3, 3 ) đã lay động được nhiều người, họ thú tội và chịu phép rửa trên sông Giođan.
Thế nhưng, Gioan đã không hề tìm vinh danh bản thân, nhưng luôn ý thức vị thế của mình chỉ là người tông đồ của Thiên Chúa. Thánh nhân loan báo Đấng sắp đến, chính Ngài mới là Đấng Cứu Tinh thực sự mà thế giới cần nhận biết: "Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” ( Mt 3, 11 ).
Thật vậy, chỉ có Đấng vô tội mới có quyền tha tội. Con người chẳng có ai hoàn hảo để có thể kết án hay tha tội cho người khác. Phép rửa mà Gioan thực hiện hôm nay chỉ có giá trị tạm thời, còn phép rửa Đức Giêsu đến, dùng chính mạng sống của mình đánh đổi, phép rửa ấy mới có giá trị vĩnh cửu ngàn đời.
Lời loan báo trong hoang địa đã vang lên hơn 2.000 năm qua rồi, thế nhưng, vẫn còn đó những con người chối từ Thiên Chúa, chối từ Ơn Cứu Độ. Ngày nay nhân loại đã không còn nhu cầu cần phải ăn năn hay sám hối. Người ta chỉ còn biết đến tiền của và hưởng thụ, làm sao cho có thật nhiều tiền hầu thủ đắc mọi thứ sang trọng ở đời là đủ.
Không riêng gì những con đường gồ ghề tội lỗi về vật chất của nhân loại, mà ngay cả con đường ý thức tâm linh cũng nhiều mấp mô. Nhân loại ngày nay ngại bỏ mình lắm, để thay đổi một cái nhìn, một lối suy nghĩ hầu có thể hòa mình cùng đồng loại xem ra khó lắm. Ai cũng thích được nổi nang làm người trên hết, để rồi đặt mình vào vị thế ưu việt, Thiên Chúa, tha nhân bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Rồi chiến tranh, loạn lạc, hận thù thi nhau xuất hiện…
Nếu như Thiên Chúa không đến, trên mặt đất chẳng còn công lý, chẳng còn thánh thiện, thì cuộc sống thật tẻ nhạt và bất hạnh đến chừng nào ! Thế nhưng, trong mớ hỗn độn của bóng tối và sự dữ thế gian, Đấng Cứu Độ đã xuất hiện. Điều quan trọng là chính mỗi người, có dám bỏ mình, có can đảm mở lòng đón nhận hay không. Vì một khi có Chúa, cũng chính là khi tôi không còn sống, như Gioan, nào có màng đến bản thân mình, chỉ cần mọi người được nhận biết danh Thiên Chúa là đủ.
Lạy Chúa, ai cũng muốn vinh danh bản thân thì tha nhân bên cạnh ra sao ? Cái tôi cá nhân càng lớn, thì Đấng làm Chủ tâm linh càng nhỏ hẹp. Nếu nói rằng con khao khát công chính, thì chẳng phải Đấng Chí Công đã xuất hiện cứu độ con ? Xin giúp con nhận biết mình, chỉ khi nào dám nhận thật sự bất toàn của bản thân, mới hòng mong được biến đổi. Có lẽ chỉ vì quên đi quyền năng Thiên Chúa: “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” ( Mt 3, 12 ) cho nên con đã sống buông tuồng trong tội. Xin giúp con, nếu đã một lần chịu phép rửa trong Thánh Thần và lửa, thì hãy một lần… trở về đi.
Phần Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức: MV 2-A98
Phần Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai, có hai người khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường song song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4). Giuse thì được thiên thần Chúa báo tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua Đavít, còn Gioan thì được một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt các vị được mời đảm nhận trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng Mêsia trong phép rửa. Trong cả hai trường hợp, cảm thức về sự bất xứng của hai vị đã là động lực khiến các vị có thái độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải hiểu sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối rối của các vị đã được thiên thần hoặc chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp nhận đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê, Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là phân đoạn đầu thuọc nửa hai của Phần Mở.
Phần hai của phần Mở dường như làm thành một bức tranh bộ đôi: ba đoạn liên hệ đến Gioan, và ba đoạn liên hệ đến Đức Giêsu. Về Gioan: giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của ông (3,1-6); lời rao giảng sự sám hối (3,7-10); lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12). Về Đức Giêsu: phép rửa (3,13-17); các cám dỗ (4,1-11); các lời mào đầu về sứ vụ (kết thúc sứ vụ của Gioan, Đức Giêsu trở về Galilê, Người cư ngụ ở Caphácnaum: 4,12-16).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Những chi tiết tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (3,1-6); 2) Lời rao giảng sự sám hối (3,7-10); 3) Lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12). 3.- Vài điểm chú giải
- Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến (1): Động từ paraginomai có nghĩa là “đến, xuất hiện [trên sân khấu]”. Sau này, Đức Giêsu cũng được TM I giới thiệu như thế ở 3,13. Gioan Tẩy Giả chính là người giới thiệu trước Đức Giêsu. Cả hai đều hoạt động tại hoang địa, loan báo Nước Trời và sự hoán cải (3,2 // 4,17), và có làm một phép rửa (c. 11a // c. 11c). Chỉ có điều Đức Giêsu “mạnh hơn” (c. 11), nên Gioan không xứng đáng xách dép cho Người (c. 11), càng không xứng đáng làm phép rửa cho Người (c. 14).
- hoang địa (1): Đây là một ghi chú địa lý (thung lũng sông Giođan), nhưng hơn thế nữa, còn là một ghi chú thần học. Trong truyền thống Kinh Thánh, “hoang địa” là nơi lý tưởng để gặp gỡ Thiên Chúa (x. Hs 12,16-22; Gr 2,2-3; Ed 16,23; Đnl 8,2). Trong hoang địa, Đức Chúa (Yhwh) đã nói với Môsê (Xh 3), với Israel (Xh 19), với ngôn sứ Êlia (1 V 19).
- Ông rao giảng (1): Động từ Hy Lạp kêryssô, “làm người tiền hô; rao giảng; loan báo”. Đây là một động từ chuyên biệt của Tân Ước (61 lần) để chỉ công việc công bố Tin Mừng. Các chủ từ của động từ này luôn luôn là Gioan (3,1), Đức Giêsu (4,17) và các Tông Đồ (10,7). Đối tượng của việc công bố này luôn luôn là Tin Mừng, Nước Thiên Chúa. Vì được vay mượn từ Cựu Ước (38 lần, theo Bản LXX. Xem chẳng hạn Is 61,1tt), như thế động từ này nối kết Gioan Tẩy Giả vào truyền thống các ngôn sứ, thiên sai và khải huyền.
- hối cải (2): Động từ metanoeô, “suy tưởng sau”, “suy nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải” (động từ Híp-ri shub). Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác, tức là thay đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một phương diện tiêu cực (bỏ [apo, from] con đường tội lỗi: x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương diện tiêu cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa: Cv 20,21; 26,20).
Trong TM Mt, danh từ metanoia được dùng 2 lần (3,8.11) và động từ metanoeô được dùng 5 lần (3,2; 4,17; 11,20; 11,21; 12,41). Xin so sánh: metanoia: Mc một lần, Lc 5 lần, Ga 0 lần, Cv 6 lần, Phaolô 4 lần, Dt 3 lần, 2 Pr một lần; metanoeô: Mc 2 lần, Lc 9 lần, Ga 0 lần, Cv 5 lần, Phaolô một lần, Kh 12 lần. Tác giả chỉ áp dụng động từ metanoeô cho hoạt động của Gioan Tẩy Giả (3,2) và Đức Giêsu (4,17) mà thôi, tức là chỉ liên kết vị Tiền Hô và Đức Giêsu với nhau.
- Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (3): Câu này trích ở đầu “Sách Yên Ủi” (Is 40–55). Bản văn Híp-ri là: “Có tiếng người hô: Trong hoang địa, hãy dọn sẵn một con đường cho Yhwh (Đức Chúa); trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Bản LXX: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, hãy sửa cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta”. Các bản văn đều không xác định ai là “người hô”; phải chăng một thiên thần? Các Tin Mừng đã trích Bản LXX, và gán cho Gioan là “người hô”, và thay thế “Thiên Chúa” bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Đức Giêsu.
- mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn (4): Trichas kamêlou, “lông lạc đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà; đây là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà. Zônê, “dây thắt lưng”, không phải là dây thắt lưng của người Tây phương, nhưng là một thứ như cái “ruột tượng” của ta. “Châu chấu” là thức ăn của các dân trong sa mạc (rang với muối hay phơi khô, ăn với dấm và mật ong rừng hoặc làm nhân bánh đa). Kiểu mô tả Gioan khiến độc giả nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8); thật ra Mt mặc nhiên nói rằng Gioan là ngôn sứ Êlia.
- nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa (7): dịch sát là “đến với (giới từ epi + đối-cách[1][1]: “trên; về phía; nhằm mục đích”) phép rửa”. Câu văn có phần hàm hồ: có thể hiểu là họ đến nhận phép rửa hoặc đến nơi có ban phép rửa. Một đàng, chúng ta được biết là họ không tin vào Gioan và không chấp nhận phép rửa của ông (x. Mt 21,32), nên có thể cho rằng họ đến là để điều tra về ông (x. Ga 1,19-28). Nhưng đàng khác, vì có lời trách của Gioan: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ…”, nên rất có thể họ đến nhận phép rửa thật sự, dù lòng họ không tin.
Phái Pharisêu (= những người “tách biệt”) phát sinh vào thời dòng họ Macabê (x. 1 Mcb 2,42). Sử gia Gioxép cho biết vào lúc đó, họ có khoảng 6.000 thành viên (Ant. J., 18,42), trong đó có một vài tư tế, còn đa số là giáo dân, được chiêu mộ trong số các kinh sư hoặc tiến sĩ Luật. Là những người trung thành với Lề Luật và truyền thống truyền miệng nhận từ các tiền nhân, họ đã trở thành những người linh hoạt đời sống thiêng liêng của dân Chúa vào thời Đức Giêsu. Về mặt chính trị, họ bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc Do Thái và tỏ ra dè dặt trong các quan hệ với người Rôma.
Phái Xađốc, là hậu duệ của thượng tế Xađốc (thời vua Salômôn: 1 V 2,35), chính là phái các tư tế, vì quy tụ các gia đình tư tế giàu có. Họ chấp nhận các thói tục Hy Lạp và thích nghi với nền đô hộ Rô-ma. Về phương diện tôn giáo, họ nhìn nhận Tôra, tức Bộ Ngũ Thư, loại bỏ truyền thống khẩu truyền, không tin vào sự sống lại, sự hiện hữu của các thiên thần và sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Nòi rắn độc (6): nghĩa là dòng dõi của Satan. St 3 đã coi con rắn là loài “rất tinh khôn” (phronimôtatos). Nó là biểu tượng của sự “khôn khéo” (như rắn: 10,16), nhưng hơn nữa là biểu tượng của sự gian tà xấu xa, do nó cắn và giết người ta bằng nọc độc (x. 12,34; 23,33). Sau này, con rắn được kết nối với Satan (x. Kh 12,9). Lời mắng của Gioan hoàn toàn ngược lại với niềm tự hào của người Pharisêu về bản thân họ (“Chúng ta có tổ phụ [cha] là ông Ápraham”, c. 9; x. Ga 8,3).
- cơn thịnh nộ (7): “Cơn thịnh nộ [orgê]” ở dạng tuyệt đối[2][2] có nghĩa là cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, được tỏ ra trong “Ngày của Đức Chúa” (x. Is 13,6-9; Xp 2,2; Ml 3,2.23-24). Các ngôn sứ khẳng định “cơn giận” này sẽ được giáng xuống trên những kẻ tội lỗi (x. Am 3,2), nhưng Do Thái giáo thời Tân Ước lại dạy rằng cơn giận này chỉ được giáng xuống trên Dân Ngoại, đặc biệt trên những kẻ áp bức Israel: như thế là bắt đầu quan niệm về Đấng Mêsia chính trị.
- những hòn đá này trở nên con cháu (9): Có lẽ ở đây có một kiểu chơi chữ bằng tiếng A-ram: hai từ số phức abenyyâ’, “những hòn đá” và benayyâ’, “những con cháu”, nghe gần giống nhau.
- gốc cây (10): Trong Cựu Ước, “cây” là hình ảnh chỉ “dân chúng” (cây vân hương: Is 6,13; cây hương bá: Ed 31,10-13; một cây [= đế quốc Babylon]: Đn 4,7-12).
- quăng vào lửa (10): Lửa thiêu đốt tượng trưng hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên kẻ vô đạo (x. Am 1,4–2,5; Ed 22,18-22; Xp 1,18; Ml 3,2-19; Is 66,15-16).
- quyền thế (11): dịch sát là “mạnh hơn” (ischyroteros, do danh từ ischys, “sức mạnh; quyền lực; quyền thế”).
- trong Thánh Thần và lửa (11): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23; Ml 3,2; Dcr 13,9), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy có thể hiểu là Chúa Thánh Thần tẩy luyện như lửa (Khi đó, liên từ và có vai trò giải thích). Nhưng ở c. 10 và đến c. 12, “lửa [không hề tắt]” lại là “hình phạt, tức là “cơn thịnh nộ” của Thiên Chúa (x. c. 7). Vậy hợp lý là cho rằng không lý gì mà tác giả thay đổi quá nhanh ý nghĩa của một từ như thế từ c. 10 sang 11 rồi lại trở về nghĩa cũ ở c. 12 mà không báo trước gì cả, nên “lửa” ở cc. 11-12 đều có nghĩa là “cơn thịnh nộ” con người gánh chịu khi đối diện với sự thánh thiện của Thiên Chúa (Khi đó, liên từ và thêm vào một sắc thái đặc biệt). Xem dụ ngôn “Cỏ lùng” (Mt 13,37-42).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (1-6)
Các ghi chú của Mt về Gioan không phải là một bản tiểu sử, nhưng là một bản văn mang tính thần học và biện giáo. Các ghi chú này không nhắc đến hoàn cảnh gia đình ông, cuộc chào đời, ơn gọi (như Lc 1–2), nhưng chỉ nêu ra những điểm liên hệ đến con người và hoạt động của ông, nơi chốn, đề tài và nội dung lời ông rao giảng, các nghi thức kèm theo.
Gioan xuất hiện trong hoang địa, nơi gặp gỡ với Thiên Chúa, nơi đã là sân khấu cho một thời kỳ hồng ân, khi dân Israel đang tiến về Đất hứa, sống trong tình trạng thân mật với Thiên Chúa (Đnl 2,7; Gr 2,2t; Hs 2,16). Ông xuất hiện như là nhà rao giảng về Đấng Mêsia (cc. 1-3) với dáng vẻ một ngôn sứ (c. 4); đặc biệt với y phục của ông, ông giống với ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8) là vị ngôn sứ mà dân chúng chờ đợi đến để khai mạc thời đại thiên sai (x. Ml 3,23; Mt 11,10). Quả thật, vào thời ấy, người ta tin rằng Êlia chưa chết thật, nên ông sẽ tái xuất hiện để giới thiệu Đấng Mêsia cho thế giới. Nhưng Mt cho biết rằng ngôn sứ Êlia mà người Do Thái vẫn trông mong chính là Gioan (x. Mt 11,14; 17,13). Mt giới thiệu Gioan như một ẩn sĩ (x. 11,8), ăn mặc thô sơ, ăn uống kham khổ (3,4) và so sánh lời rao giảng của ông với một lời than vãn trong đám tang (x. 11,17). Ông đã loan báo một sứ điệp được tóm tắt là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (c. 2).
Ông Gioan không nói cho biết “Nước Trời” nghĩa là gì; nhưng chúng ta biết những nỗi niềm chờ mong của dân chúng thời Đức Giêsu. Israel đã được những vị vua bất trung và bất xứng cai trị lâu quá rồi. Ho nghĩ, nay đã đến lúc Thiên Chúa nắm lấy mọi sự và thay đổi. Có những nhà thuyết giảng đến bảo dân chúng đừng mất tinh thần, họ bảo rằng thế giới cũ sắp chấm dứt rồi, và một thế giới mới sẽ đến. Khi đó, những buồn phiền đau khổ không phải là dấu chỉ của sự chết, mà là của sự sống, giống như những đau đớn của người mẹ sắp sinh con. Đấng Mêsia sẽ chà đạp những kẻ áp bức và một vương quốc mới sẽ được thiết lập, trong đó Thiên Chúa trực tiếp cai quản. Dân chúng sẽ làm bất cứ đòi hỏi nào để được vào trong vương quốc ấy.
Dân chúng “từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến” với Gioan. Ghi chú này có phóng đại nhưng không phải là không có phần đúng, bởi vì vào những thời điểm có những căng thẳng trầm trọng về tôn giáo và chính trị, một ngôn sứ thường thành công. Gioan làm một nghi thức diễn tả lòng thống hối kèm theo lời rao giảng (c. 6). Cách làm của Gioan hoàn toàn phù hợp với bối cảnh thời ông, khi mà người ta vẫn cử hành các nghi thức thanh tẩy được Lề Luật quy định (x. Lv 14–15). Nhưng cách làm của ông cũng có phần khác: phép rửa của ông được ban dưới dấu chỉ metanoia, của sự hoán cải luân lý, tức là lấy lại điểm cốt yếu trong giáo huấn của Cựu Ước, nhưng đặt vào viễn tượng của Nước Thiên Chúa đang đến gần. Không có chỗ nào nói rằng nhờ nghi thức này, người ta được tha các tội, nhưng nghi thức này đánh dấu việc thay đổi đã xảy đến hoặc sắp xảy đến nơi người nhận phép rửa.
* Lời rao giảng sự sám hối (7-10)
Lời rao giảng của Gioan mà Mt ghi lại là những lời đe dọa hơn là một lời loan báo đầy tính an ủi. Giọng điệu của bài là giọng châm biếm, nội dung thì mang tính khải huyền. Thay vì nói đến ơn cứu độ gần kề, hay là giảng về phép rửa, Gioan cho thấy “ngày của Đức Chúa” (ngày phán xét) đã gần bên, ngày chất chứa cơn thịnh nộ đổ xuống dân Chúa (x. Am 5,18-20; Hs 6,1-3; 9,7-9; Mk 4,6-7).
Có những người thuộc phái Pharisêu và Xađốc đã đến có lẽ để nhận phép rửa dù không tin, Gioan đã gọi họ bằng một tên rất nặng: “nòi rắn độc”, họ là những đứa con thoái hóa của tổ phụ Abraham (c. 9), những cây không sinh quả (c. 10). Không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước đã nói với cử tọa nặng lời như thế. Và Gioan khẳng định rằng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên mọi kẻ tội lỗi, dù là Dân Ngoại hay Do Thái; do đó, mọi người phải hoán cải và nhận phép rửa để được tái tháp nhập vào dân Israel chân chính. Sau này tư tưởng này được hỗ trợ bằng các hình ảnh “cái rìu”, “lửa” và “công việc sàng sảy lúa” (cc. 10.12). Đứng trước cái khối người kiêu ngạo và phản loạn này, Gioan nói như thể để phản đối và thách thức: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống?” Câu hỏi này là kiểu nói hùng biện nhằm nhấn mạnh rằng không thoát được án phạt.
Dù thế vị Tiền Hô cũng nói với họ một lời khích lệ. Để tránh được “cơn thịnh nộ gần kề”, chỉ có một con đường duy nhất, con đường hoán cải, được chứng thực không phải bằng lời nói suông, mà bằng những công việc tốt lành (c. 8; x. 5,16). Người hoán cải là một cây mới đang cho thấy có sự thay đổi tích cực (“quả”). Dân Do Thái tưởng rằng họ sẽ thoát khỏi án phạt bởi vì họ là thành viên của dân Thiên Chúa tuyển chọn (“con cháu tổ phụ Abraham”); chính sự yên tâm này đã đưa một số người đến chỗ sống buông thả về luân lý và giải thích thái độ tự mãn tự phụ của người Pharisêu. Gioan khẳng định rằng tư cách đó không bảo đảm gì cả và có là “con cháu” (benayyâ’) hay là “các hòn đá” (abenyyâ’) thì cũng như nhau. Người Do Thái tưởng có thể kết luận rằng vì Thiên Chúa đã hứa, thì Ngài cần có Israel để trung thành với lời hứa. Gioan phản ứng để khẳng định sự tự do hoàn toàn của Thiên Chúa: Ngài có thể hoàn tất lời hứa khi loại trừ con cháu Abraham về xác thịt, nếu họ từ chối hoán cải, bởi vì Ngài có thể tạo thành một Israel mới (x. Mt 8,11-12; 21,43; Rm 9,6-8). Israel là một cây, nếu không sinh hoa kết trái tốt lành thì chỉ đáng chặt đi mà quăng vào lửa.
* Lời rao giảng về Đấng Mêsia (11-12)
Bây giờ bản văn giới thiệu dung mạo Đấng Mêsia. Ở đây nổi rõ những bận tâm Kitô học, nhưng cũng có bận tâm biện giáo: tác giả giới thiệu Đức Giêsu nhưng cũng xác định khoảng cách giữa Đức Kitô và vị Tiền Hô. Gioan đi trước Người, nhưng chỉ như người nô lệ đi trước chủ mình, để dọn đường. Gioan làm phép rửa, nhưng chỉ là phép rửa trong nước để thôi thúc đi tới hoán cải. Đấng Mêsia (“Đấng đang đến”: erchomenos) thì “mạnh [quyền thế]” hơn (ischyroteros) và làm một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. “Quyền lực” (ischys) là một phẩm tính của Thiên Chúa; nhưng đối với Is (9,6), đây là một đặc điểm của Đấng Emmanuel, và đối với Mt, đây là một đặc điểm của Đấng Mêsia (x. 12,29). Đứng trước Người, Gioan không xứng đáng làm công việc của một người nô lệ thông thường là xách dép cho chủ. Điểm này cho thấy vị Tẩy Giả hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng Mêsia.
Đấng Mêsia được giới thiệu như là Vị thẩm phán cánh chung: Người sẽ đến với sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa để loại trừ các kẻ bất chính và bất lương. Lịch sử Israel đã đến lúc kết thúc. Thời gian thu hoạch đã gần kề. Lúa đã được gặt về và đập rồi, nay chỉ con chờ được rê để tách vỏ trấu ra khỏi hạt gạo. Nhưng người nông phu (Đức Kitô) đã cầm nia trong tay mà rê sạch gạo. Rơm và trấu thì cháy nhanh, nhưng lửa sẽ thiêu đốt người gian ác thì sẽ cháy mãi cũng như sự gian ác của họ vẫn còn đó.
+ Kết luận
Như thế, bằng ba cách, Gioan đã khẳng định sự trổi vượt của Đức Giêsu: 1) Người là Đấng mạnh hơn, Người vượt xa Gioan bằng sức mạnh thực thụ. 2) Người có phẩm giá cao vời: ngay đến việc xách dép cho Người, Gioan cũng không xứng đáng. 3) Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, trong khi Gioan chỉ làm phép rửa trong nước.
Tuy nhiên, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả còn giúp chúng ta ở nhiều điều khác nữa. Đây không chỉ là một hồi niệm, nhưng còn là một lời khuyến cáo nghiêm khắc cho mọi người mọi thời. Qua bút pháp của Mt, lời rao giảng của Gioan cũng phản ánh cuộc bút chiến giữa các Kitô hữu tiên khởi với hội đường. Tuy nhiên, Mt cũng muốn gửi đến cho giáo đoàn Kitô hữu một sứ điệp. Lời mời gọi “hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” hẳn là nhắm đến các Kitô hữu hơn là đến người Pharisêu. Các Kitô hữu có thể nhìn vào người Pharisêu như nhìn vào một tấm gương để điều chỉnh đời sống mình.
Lời đe dọa bị kết án cũng liên hệ đến các Kitô hữu nào chỉ bằng lòng với việc nhận bí tích thánh tẩy mà không quan tâm sống phù hợp với những cam kết đã lấy. Vẫn còn đó ảo tưởng cho rằng mình là môn đệ của Đức Giêsu, là thành viên thực thụ của Họi Thánh, thì đã được bảo đảm hạnh phúc muôn đời.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta được mời gọi tin vào sự trung tín của Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch cứu độ, thì khi đến thời Ngài đã định, Ngài sẽ ban gửi các vị loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến. Sứ điệp Gioan loan báo mang lại cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì ông nói cho dân chúng biết rằng họ bị thất sủng, tương quan của họ với Thiên Chúa đã bị rối loạn, nhưng đồng thời ông khẳng định rằng Thiên Chúa đầy lòng thương xót đối với họ và Ngài muốn thắng vượt tình trạng thất sủng của họ.
2. Giống như các ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3…), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Đức tin không phải là một di sản quốc gia hay dòng tộc, nhưng là một dấn thân của trọn vẹn con người. Trong cuộc dấn thân này, con người cứ phải liên tục rà soát lại bản thân để có thể đáp trả trọn vẹn hơn những đòi hỏi của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
4. Các lời Gioan trách giới lãnh đạo Israel cũng liên hệ đến các nhà hữu trách của cộng đoàn Mt, cũng như tất cả các vị hữu trách của mọi cộng đoàn Kitô hữu mọi thời. Các ngài cũng được mời gọi “sinh hoa quả tốt”. Và đây chính là tiêu chí giúp biện phân ra các ngôn sứ thật với các ngôn sứ giả.
Tin Mừng hôm nay tường thuật sứ mạng tiền sứ của Gio-an Tẩy Giả. Ông chính là “Tiếng hô trong hoang địa kêu gọi người ta dọn đường đón Đấng Thiên Sai”. Ông đã thi hành sứ mạng bằng một lối sống khổ hạnh, nên được dân chúng tín nhiệm và kéo đến nghe giảng, thú tội và chịu phép rửa tại sông Gio-đan. Ông kêu gọi sự sám hối thực sự, tránh thói đạo đức giả và loan báo về sứ mạng của Đấng Thiên Sai sắp đến.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3:
+ Ông Gio-an Tẩy Giả: Là con trai của tư tế Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Gio-an là tên mà sứ thần đã đặt cho khi hiện ra với cha của ông là Da-ca-ri-a trong Đền Thờ (x. Lc 1,13). Gio-an là anh họ của Đức Giê-su và lớn hơn Người sáu tháng tuổi (x. Lc 1,36). Ông được đặc ân khỏi tội tổ tông truyền biểu hiệu qua việc nhảy mừng trong dạ mẹ, khi bà nghe lời chào của Đức Ma-ri-a đang cưu mang thai nhi Giê-su đến viếng thăm (x. Lc 1,44). Ngay từ nhỏ Gio-an đã ẩn mình trong hoang địa. Trước khi Đức Giê-su ra giảng đạo, ông đã đến rao giảng tại vùng sông Gio-đan và làm phép rửa cho những ai thành tâm sám hối dọn lòng đón Đấng Mê-si-a hay Đấng Thiên Sai sắp đến (x. Lc 3,3-6). Cuối cùng ông đã bị vua Hê-rô-đê giết chết vì đã dám đứng ra ngăn cản nhà vua lấy bà chị dâu làm vợ (x. Mt 14,3-12).
+ Đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê: Đây là vùng đồi núi khô cằn phía Nam thành Giê-ri-khô, cách Biển Chết 6 cây số.
+ Anh em hãy sám hối: Sám hối (Mê-ta-noi-a) nghĩa là: nghĩ lại, thay đổi ý kiến, hoán cải, thay đổi hoàn toàn con người từ nội tâm đến cách sống để trở về với Thiên Chúa.
+Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời hay Nước Thiên Chúa (trong các Tin Mừng khác). Đây là kiểu nói tránh nêu thánh danh Thiên Chúa. Người Do thái thời Đức Giê-su đang mong đợi Đấng Mê-si-a đến thiết lập một Nước Trời mang tính thế tục. Ở đây Gio-an kêu gọi dân chúng sám hối để chuẩn bị gia nhập Nước Trời thiêng liêng do Đấng Mê-si-a sắp đến sẽ thiết lập.
+ Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới…: Ngôn sứ I-sai-a sống vào thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên. Ngôn sứ này đã tuyên sấm về thân thế, nơi sinh và triều đại của Đấng Thiên Sai. Lời tuyên sấm của I-sai-a (40,3-5), gợi lại cuộc giải phóng và hồi hương của người Do thái từ xứ Ba-by-lon. Lời này được một ngôn sứ vô danh loan báo sắp xảy ra như một cuộc Xuất Hành thứ hai của dân Do thái. Lời tuyên sấm ấy được ứng nghiệm nơi Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su.
- C 4-6:
+ Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà: Cách ăn mặc của Gio-an giống như ngôn sứ Ê-li-a (x. 2V 1,8). Ông có sứ mạng tiên báo về “Ngày của Thiên Chúa” sắp đến (x. Mt 3,1-23).
+ Ông làm phép rửa cho họ: Thời bấy giờ, người Do thái đã quen với các nghi thức tự mình thanh tẩy theo tục lệ và Lề luật. Ở đây Gio-an cử hành nghi thức thanh tẩy bằng nước cho những ai đến nghe giảng để bày tỏ lòng sám hối và chuẩn bị tâm hồn đón chờ Đấng Mê-si-a sắp đến. Phép rửa của Gio-an chỉ là một nghi lễ biểu lộ lòng sám hối, chứ không tha tội như bí tích Rửa tội do Đức Giê-su thiết lập sau này.
+ Phái Xa-đốc: Xa-đốc hay Văn nhân là nhóm người xu thời và phóng khoáng, không nhìn nhận truyền thống mà chỉ tuân giữ Lề luật. Họ theo khuynh hướng duy vật, thích văn hóa Hy-lạp. Họ giữ địa vị cao trong hàng hàng giáo phẩm và thường là người giàu có, nên dù chỉ là thiểu số nhưng họ rất có thế lực. Họ ủng hộ chính quyền Rô-ma, nên bị dân chúng không ưa.
+ Nòi rắn độc kia: Trong Kinh Thánh, loài rắn đồng nghĩa với sự xảo trá lọc lừa (x St 3,1).
+ Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống: Theo các ngôn sứ, cuộc chung thẩm và báo oán sẽ xảy ra khi thời đại của Đấng Mê-si-a bắt đầu. Lúc đó, mọi kẻ tội lỗi đều bị loại khỏi Nước của Đấng Mê-si-a (x. Is 30,27-33). Ông Gio-an tiên báo vị thẩm phán thời cánh chung sẽ đến trong uy quyền, đang khi Đức Giê-su lại xuất hiện như một người tôi tớ hiền lành và khiêm nhường (x. Mt 12,18-21). + Sinh hoa quả xứng với lòng sám hối: Việc ăn năn sám hối trong lòng phải được chứng minh bằng những việc làm bác ái cụ thể. + Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham: Áp-ra-ham sống vào thế kỷ 20 trước Công Nguyên. Ông là tổ tiên của người Do thái và tên ông nghĩa là “Cha của những kẻ tin vào Đức Chúa”. Người Do thái cho rằng chỉ cần là con cháu của Áp-ra-ham là đương nhiên được cứu độ như lời Đức Chúa đã hứa (x. Lc 1,55). Nhưng họ đã lầm, vì để được cứu độ người ta còn phải tuân phục thánh ý Thiên Chúa nữa (x. Mt 8,11). + Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham: Thiên Chúa sẽ chỉ ban ơn cứu độ cho những ai có lòng ăn năn sám hối.
- C 10-12:
+ Cái rìu đã đặt sát gốc cây: Trong Cựu Ước, cây là hình ảnh ám chỉ các dân tộc (x. Is 6,13). Cái rìu để sẵn gốc cây nhằm diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa dành cho dân Do thái đã sắp xảy ra.
+ Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước…: Gio-an đã cho thấy sự khác biệt giữa mình với Đấng Thiên Sai như sau: Một là ông chỉ làm phép rửa bằng nước sông để khơi dậy nơi người chịu phép tâm tình sám hối, còn Đấng Thiên Sai sẽ thanh tẩy người ta nhờ ơn của Chúa Thánh Thần và lửa tin yêu. Hai là ông chỉ là người có thân phận thấp kém đang khi Đấng Thiên Sai lại mang thân phận cao quý. Ba là ông chẳng có quyền hành gì, đang khi Đấng Thiên Sai có quyền xét xử để thưởng người lành và phạt kẻ dữ.
+ Tay Người cầm nia…: Các ngôn sứ Cựu Ước thường diễn tả ngày tận thế bằng hình ảnh của một người đang sàng sảy sân lúa của mình (x. Is 9,2). Ở đây vai trò của Đấng Thiên Sai được diễn tả như ông chủ trong dụ ngôn Nước Trời giống thửa ruộng có pha lẫn cỏ lùng (x. Mt 13,30).
4. CÂU HỎI:
1) Gio-an Tẩy Giả là ai ? 2) Sứ mạng của ông là gì ? 3) Phái Pha-ri-sêu khác với phái Xa-đốc ở những điểm nào ? 4) Áp-ra-ham là ai ? Điều kiện để được ơn cứu độ là gi ? 5) Gio-an so sánh sự khác biệt giữa ông với Đấng Thiên Sai thế nào về phép rửa, thân thế và quyền năng ?
GIĂNG-KAI (Zenkai) là một thanh niên Nhật bản khỏe mạnh, là con trai của một gia đình Công giáo. Anh đến thành phố Ê-đô lập nghiệp. Anh được nhận làm cận vệ cho một quan chức cao cấp của thành phố này. Giăng-kai đem lòng yêu cô vợ trẻ của ông chủ và rồi “cây kim lâu ngày cũng lộ ra”, một hôm ông chủ đã bắt gặp hai người phạm tội thông dâm với nhau. Đang lúc nóng giận, ông đã thách đấu kiếm với Giăng-kai. Trong cuộc đọ sức, Giăng-kai khỏe và tài giỏi hơn nên đã đâm ông chủ một nhát trúng ngực và ít ngày sau thì ông qua đời, để lại một đứa con trai mới được 7 tuổi. Giăng-kai đem bà vợ ông chủ đi chạy trốn. Hai người đến một vùng đồi núi hẻo lánh và phải sống những ngày nghèo khổ đói khát, nhiều khi phải đi trộm lương thực của dân địa phương ăn cho đỡ đói. Nhưng khi sống gần nhau, Giăng-kai mới phát hiện ra người phụ nữ trẻ đẹp kia chỉ là một mụ đàn bà lăng loàn trắc nết. Nhiều lần chị ta đã nặng lời mắng chửi Giăng-kai và sau cùng đã bỏ rơi anh để theo làm hầu thiếp cho một người giàu có thế lực trong vùng. Anh cảm thấy buồn bã không thiết đến ăn uống. Càng suy nghĩ anh lại càng thấm thía cho tình đời đen bạc. Rồi anh quyết tâm sám hối bằng việc dành trọn quãng đời còn lại làm một công việc nào đó hữu ích để chuộc lại phần nào tội lỗi của mình.
Một hôm thấy trên sườn núi gần nơi đang ở có một đường đèo lồi lõm trơn trượt rất nguy hiểm cho người qua lại. Nhiều người đã bị té xuống vực sâu chết thảm khi đi qua đoạn đường này. Anh quyết định sẽ đào một con đường hầm xuyên qua núi để giúp người ta khỏi bị tai nạn tương tự. Ban ngày anh vào làng làm thuê kiếm sống. Đêm đến anh đốt đèn và miệt mài đào hầm xuyên qua vách núi. Mười ba năm sau, khi Giăng-kai được 40 tuổi, thì con đường hầm đã gần hoàn tất. Ước tính chỉ hai năm nữa là anh sẽ hòan thành đường hầm. Ngày nọ, đứa con trai của ông chủ cũ giờ đây đã trở thành một trang thanh niên 20 tuổi khỏe mạnh tìm đến gặp Giăng-kai và đòi thách đấu để trả thù cho cha. Giăng-kai đồng ý nhưng yêu cầu hoãn lại 2 năm để có thời giờ hoàn thành tâm nguyện và được anh kia đồng ý. Rồi khi thấy Giăng-kai hằng ngày phải làm việc quá vất vả, anh ta đã tình nguyện giúp một tay cho công việc chóng xong hầu sớm trả thù cho cha. Nhưng trong thời gian làm việc chung, chàng thanh niên rất khâm phục trước dũng khí và sự chuyên cần của kẻ thù đã giết cha. Cuối cùng thì công việc đào hầm cũng xong và dân chúng hai bên đã có thể qua lại cách an toàn. Bấy giờ Giăng-kai nói với chàng thanh niên: “Tâm nguyện của ta đã hoàn tất. Vậy anh hãy lấy đầu của ta để báo thù cho cha anh”. Nhưng chàng thanh niên kia đã nghẹn ngào xúc động nói: “Bây giờ làm sao con có thể giết chết thầy được, khi mà thầy đã thật lòng sám hối và đã làm được một việc lớn lao như thế kia để đền tội ?”.
Chính tinh thần sám hối và sự quyết tâm làm việc thiện của Giăng-kai đã có sức mạnh cảm hóa và biến một kẻ vốn là kẻ thù trở thành bạn hữu của mình. Một con người mang tâm trạng thù hận mà còn mủi lòng trước sự thành tâm sám hối như vậy, phương chi Thiên Chúa lại chẳng đoái thương tha thứ và ban ơn cứu độ cho những tội nhân thật lòng sám hối hay sao?
3. SUY NIỆM:
1) “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”:
Đây là lời rao giảng của Gio-an Tẩy Giả trong hoang địa miền Giu-đê. Sứ mạng tiền hô cho Đấng Thiên Sai của Gio-an đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm như sau: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Ông mang dáng vẻ của ngôn sứ Ê-li-a ngày xưa qua việc mặc áo bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng giống Ê-li-a.
Nội dung những điều Gio-an Tẩy Giả loan báo đã được Tin Mừng Mát-thêu tóm lại như sau: Hãy chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai sắp đến thiết lập Nước Trời. Đấng ấy sẽ là vị Thẩm Phán công minh tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ, giống như người nông dân phân biệt thóc mẩy với thóc lép: “Thóc mẩy thì thu vào kho, thóc lép thì bỏ vào lửa mà đốt đi” (Mt 3,12). Người sẽ thanh tẩy người ta nhờ quyền năng Thánh Thần và trong lửa tin yêu như trong ngày lễ Ngũ Tuần sau này. Muốn được ơn cứu độ thì ngay từ bây giờ người ta phải thực lòng sám hối ăn năn.
2) Phải thực lòng sám hối bằng việc sinh quả tốt:
Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông Gio-an. Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến xin chịu phép rửa, Gio-an đã nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ?” Gio-an biết việc đến xin chịu phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” mà thôi, chứ bọn người này không thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của ông Gio-an chỉ là một nghi thức để tránh bị Thiên Chúa trừng phạt. Thái độ trọng hình thức bề ngoài là căn bệnh cố hữu của những người Pha-ri-sêu và Xa-đốc vốn tự coi mình là người công chính! Gio-an đã nghiêm khắc cảnh cáo họ như sau: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10).
Thực ra Đấng Thiên Sai là Đức Giê-su không phải là vị Thẩm phán ưa trừng phạt như Gio-an đã rao giảng, nhưng lời kêu gọi sám hối của ông vẫn còn nguyên giá trị. Ngày nay các tín hữu chúng ta cũng không sám hối do sợ hãi, nhưng sám hối nhờ tin vào tình thương của Đức Giê-su là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mùa Vọng là thời kỳ thôi thúc chúng ta sám hối để chờ đón Đấng Thiên Sai sắp đến. Đức Giê-su đã đến trong âm thầm ở Bê-lem cách đây hơn hai ngàn năm, và Người sẽ lại đến vào ngày tận thế để phán xét nhân loại. Ngày nay Người vẫn đang đến với mỗi người chúng ta qua bí tích Thánh Thể và trong các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc đời chúng ta.
3) Sám hối là giao hòa với Thiên Chúa và hòa giải với tha nhân:
- Sám hối thực sự là ăn năn vì đã làm những điều xấu khiến khuôn mặt Đức Giê-su trở nên méo mó trước mặt thế gian. Sám hối đòi mỗi người tự vấn lương tâm về lời nói việc làm đã gây ra sự thù oán với người khác, về những hành động thiếu khoan dung đã xử với đồng loại. Sám hối là khiêm tốn nhận phần trách nhiệm của mình trước bao cái xấu cái ác đã và đang xảy ra trên thế giới hôm nay. Một tín hữu có lòng sám hối ăn năn thực sự chính là bước đầu để nên hoàn thiện. Một Hội Thánh can đảm sám hối, dám nhìn nhận phần thiếu sót của mình trong lịch sử là dấu chỉ Hội Thánh ấy đang quyết tâm vươn tới sự thánh thiện thực sự.
- Trong bài Tin Mừng hôm nay, Gio-an đã kéo chúng ta ra khỏi thái độ tự mãn của người Pha-ri-sêu xưa khi ông nói: “Đừng tưởng có thể nghĩ rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham” (Mt 3,8). Cũng vậy, người tín hữu hôm nay đừng nghĩ rằng khi chịu phép rửa tội trở thành người công giáo là đương nhiên sẽ được vào Nước Trời, đừng tưởng rằng cứ đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật theo luật buộc, cứ đọc kinh lần hạt hằng ngày cách máy móc là đương nhiên sẽ được hưởng ơn cứu độ. Hôm nay Gio-an dạy chúng ta: muốn được vào Nước Trời thì điều quan trọng nhất là phải nhìn nhận tội lỗi của mình để giao hòa với Thiên Chúa, và phải “sinh quả tốt” là làm các việc lành. Trong ngày phán xét, Vua Thẩm Phán sẽ xét xử chúng ta không dựa trên đức tin hình thức nhưng trên đức tin thực sự biểu lộ qua đức ái cụ thể. Bấy giờ Vua Thẩm Phán sẽ nói với những kẻ không làm việc lành như sau: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi đã không cho ăn, Ta khát các ngươi đã không cho uống. Ta là khách lạ các ngươi đã không tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã không cho mặc. Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom” (Mt 25,41-43).
4) Sám hối đòi phải quyết tâm hoán cải cụ thể:
Trong những ngày Mùa Vọng này, ngoài việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Vọng và lãnh bí tích giao hòa để dọn tâm hồn mừng Chúa Giáng Sinh, mỗi người chúng ta còn phải hoán cải đời sống cách cụ thể bằng việc quyết tâm tu sửa một thói hư đang mắc phải như: hạn chế uống rượu say sưa, bớt hút một điếu thuốc để dành tiền cho người nghèo; Kiềm chế tính nóng giận, đi lễ trước giờ cử hành 5-10 phút, mỗi ngày làm ít nhất một việc tốt phục vụ tha nhân… để cuộc đời chúng ta ngày một nên tốt hơn hầu xứng đáng được hưởng ơn cứu độ như lời Gio-an rao giảng.
4. THẢO LUẬN:
1) Hiện nay bạn thấy Giáo xứ, Hội đoàn hay Gia đình của bạn có điều gì chưa phù hợp với đòi hỏi bác ái yêu thương của Đức Ki-tô, và nên cớ cho lương dân khinh thường đạo Chúa không ? 2) Hiện giờ bạn thấy mình cần cấp thời hoán cải và canh tân điều gì trong những ngày Mùa Vọng này ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sám hối không phải là điều dễ làm, vì chúng con thường không đủ khiêm tốn để nhìn nhận lỗi lầm của mình. Xin cho chúng con biết dũng cảm điều chỉnh những sai lỗi, luôn tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng về sự thánh thiện của mình và tránh thói đạo đức giả hình của người Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc xưa đã bị ông Gio-an nặng lời quở trách.
- LẠY CHÚA. Con cảm thấy những lời quở trách của Gio-an trong Tin Mừng hôm nay rất phù hợp với thực trạng tâm hồn con. Nhiều lần con cũng tự mãn về lòng đạo đức hình thức và nghĩ mình đáng hưởng ơn cứu độ. Thực ra muốn được Chúa ban ơn cứu độ, ngòai việc cầu nguyện dự lễ, con còn cần phải hồi tâm sám hối tội lỗi và quyết tâm đổi mới đời sống để nên giống Chúa hơn. Xin cho con trong Mùa Vọng này quyết tâm phát sinh trái tốt bằng việc tập làm các việc tốt ngược lại thói xấu con đang mắc phải như kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” để xứng đáng nhận được ơn cứu độ của Chúa.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 3:1-12)
Thánh Gio-an Tiền hô không thể vắng mặt trong Phụng vụ mùa Vọng, vì sứ vụ và lời giảng của ngài: MV 2-A100
Thánh Gio-an Tiền hô không thể vắng mặt trong Phụng vụ mùa Vọng, vì sứ vụ và lời giảng của ngài gắn liền với biến cố Giáng Sinh của Chúa Giê-su. Ngài đến trước để xướng lên sứ điệp “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”, cũng là sứ điệp Chúa Giê-su sẽ lập lại khi Người khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, bài Tin Mừng của thánh Mát-thêu hôm nay, sau khi giới thiệu lai lịch của thánh Gio-an, đã thuật lại sự kiện vị Tiền hô nghiêm khắc cảnh báo những người Pha-ri-sêu và Xa-đốc về thái độ ngoan cố không chịu sám hối để chuẩn bị tâm hồn đón nhận Đấng Cứu độ: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”.
Khi ông Gio-an rao giảng việc sám hối tại bờ sông Gio-đan, dân chúng từ các nơi đến nghe. Kết quả lời ông giảng là “họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan”. Nhưng khi nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc tới xin chịu phép rửa thì ông Gio-an lại thẳng thắn sửa sai họ về thái độ kiêu căng, vì họ tự phụ cho mình là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham nên không cần sám hối! Họ khác biệt với dân chúng khi họ không “thú tội”, nghĩa là họ nghĩ mình là những người thánh thiện và không cần phải thay đổi đời sống. Trái lại, ông Gio-an thấy điều chủ yếu họ phải làm lúc này không phải chỉ là lội xuống sông Gio-đan để chịu phép rửa, nhưng là quyết tâm quay lưng lại với lối sống kiêu căng và tội lỗi. Họ tưởng cứ đến lãnh nhận một nghi thức thanh tẩy là đủ để “trốn được cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống”! Nghi thức thanh tẩy của Gio-an không phải là một phù phép giúp họ che mắt Thiên Chúa. Nhưng phép rửa của ông chỉ là cách mời gọi họ hãy “sinh quả tốt”, tức là thực sự thay thế lối sống giả hình của họ bằng đời sống thánh thiện đích thực. Phép rửa của ông chỉ là “nước” so với với phép rửa bằng “lửa và Thánh Thần” của Chúa Giê-su, Đấng đến sau ông. Cách so sánh này chính là lời khẳng định nói lên sự cao cả và siêu việt của Chúa Giê-su. Ông Gio-an còn thẳng thắn xác tín uy quyền của Người và nói ông “không đáng xách dép cho Người”. Do đó, đám Pha-ri-sêu và Xa-đốc cần đến với Chúa và tin vào Người.
Tại sao phải đến với Chúa và tin vào Người? Vì chỉ nơi Chúa Giê-su mới có “lửa và Thánh Thần” giúp “rê sạch lúa trong sân” tâm hồn họ. Chỉ có lửa và Thánh Thần mới có thể thu góp những “thóc mảy” của nhân đức vào kho lẫm tâm hồn họ và đốt đi những “thóc lép” của tội lỗi và thói hư tật xấu. Đó là cách Chúa Giê-su làm phép rửa cho họ! Được thanh tẩy như thế, họ sẽ “sinh hoa quả” thiêng liêng và tránh được cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, tức tránh được lưỡi rìu đã đặt sát gốc cây! Vấn đề của những người Pha-ri-sêu và Xa-đốc là họ không tin vào Chúa Giê-su và chấp nhận sứ mệnh cứu độ của Người. Họ không muốn sửa đường dọn lối cho Chúa Giê-su đi vào tâm hồn họ, để Người giúp họ thay đổi. Vì kiêu căng dựa vào căn tính “con cháu ông Áp-ra-ham”, họ từ chối hướng mặt về Chúa Giê-su và quay lưng bỏ lối sống giả hình của họ. Hơn ai hết, họ mới thực sự là những người cần sám hối!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Cái rìu đã đặt sát gốc cây! Quả thực là một lời cảnh báo nghiêm túc và đáng sợ! Đó không chỉ là lời cảnh báo của thánh Gio-an Tiền hô nói với nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc ngày xưa, nhưng cũng là những lời hôm nay nói với chúng ta, những cây không sinh quả tốt để chứng tỏ lòng sám hối. Chúng ta đã bước vào tuần thứ hai mùa Vọng và không còn mấy thời gian để thực thi sứ điệp “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Để thực thi sám hối, trước hết thánh Phao-lô dạy chúng ta phải xác tín lòng thương xót Chúa dành cho chúng ta, những người không phải là Do-thái (Rô-ma 15:9). Nếu Chúa thương xót chúng ta thì chúng ta không còn ý do gì mà ngần ngại hoặc sợ hãi phải quay về với Chúa. Tiếp đến, sứ điệp Tin Mừng dạy chúng ta hãy dẹp đi cái tính tự cao tự đại kiểu vỗ ngực ta đây là người Công giáo lâu đời, để hoàn toán tín thác vào Chúa Giê-su, “mầm non đâm ra từ gốc tổ Giê-sê” và đầy Thần Khí của Đức Chúa (I-sai-a 11:1-2). Sau hết, chúng ta hãy để cho sự hiện diện của Chúa Giê-su trong cuộc sống làm công việc sàng sảy chúng ta, giúp chúng ta sinh hoa quả tốt, tức là cộng tác với ân sủng của Người để thực hiện một diễn trình thay đổi tâm hồn. Công việc sửa đường dọn lối cho Chúa không thể xong trong nháy mắt, nhưng kéo dài suốt cuộc đời. Không sao, có Chúa ở cùng, chúng ta sẽ làm được!