Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 4-A Bài 1-50: Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria.

Thứ ba - 17/12/2019 05:28
Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 4-A Bài 1-50: Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria.
Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 4-A Bài 1-50: Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria.
Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 4-A Bài 1-50: Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria.
---------------------------------
Phúc Âm: Mt 1, 18-24 "Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria, đính hôn với Thánh Giuse con vua Ðavít".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.

Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".

Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------
MV4-A1. Sống Lời Chúa- Đức Trinh Nữ Maria. 2
MV4-A2. SLCTTY/21- Công chính. 5
MV4-A3. SLCTTY/21- Công chính. 6
MV4-A4. Thiên Chúa làm gì cho chúng ta?. 7
MV4-A5. Đừng ngại 9
MV4-A6. Chúa Cứu Thế giáng sinh. 12
MV4-A7. Gợi ý của Nhóm Đồng Hành. 13
MV4-A8. “Ông Giuse là người chính trực”. 15
MV4-A9. Suy Niệm của JKN.. 16
MV4-A10. SLC – Emmanuel 20
MV4-A11. SN/76 - DÒNG TỘC.. 23
MV4-A12. MNMTV/38 - Ý CHÚA.. 25
MV4-A13. Thiên Chúa là Đấng trung thành- Lm. Trần thanh Sơn. 26
MV4-A14. Thánh Giuse trong mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. 28
MV4-A15. Emmanuel- Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. 30
MV4-A16. Đừng sợ – Lm. JB. Nguyễn minh Hùng. 33
MV4-A17. Điều xảy đến bất ngờ - Lm. Nguyễn ngọc Long. 35
MV4-A18. Giuse, con vua Đavít 37
MV4-A19. Emmanuel, Thiên Chúa ở với loài người 38
MV4-A20. Rắc rối của đọan Kinh Thánh. 40
MV4-A21. GIUSE ĐẤNG CÔNG CHÍNH.. 43
MV4-A22. Tin mừng về tuổi thơ của Chúa Giêu. 45
MV4-A23. ĐỨC KITÔ CHÍNH LÀ EMMANUEL. 49
MV4-A24. Thái độ và phản ứng của Thánh Giuse. 52
MV4-A25. THIÊN CHÚA THẬT, CON NGƯỜI THẬT. 56
MV4-A26. CHÚA CỨU THẾ GIÁNG SINH.. 58
MV4-A27. Chúa nhật của Đức Mẹ - Gm Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm.. 61
MV4-A28. Giu-se đã hành xử thế nào?  - JKN.. 63
MV4-A29. ĐỨC GIÊSU LÀ AI? Lm Augustine S.J. 67
MV4-A30. MỌI NGƯỜI ĐƯỢC BÌNH ĐẲNG TRONG CHÚA KITÔ.. 70
MV4-A31. Này đây một Trinh Nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai 72
MV4-A32. GIUSE ĐÓN VỢ VỀ NHÀ MÌNH - Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh. 74
MV4-A33. Chúa ở cùng chúng ta. 77
MV4-A34. Nhiệm Mầu Của Một Sự Hiện Diện. 79
MV4-A35. NIỀM TIN CỦA THNH GIUSE.. 83
MV4-A36. Tìm gặp Chúa trong sự thanh vắng của tâm hồn. 85
MV4-A37. Đừng Sợ. Chúa Ở Cùng Chúng ta. 88
MV4-A38. Em-na-nu-en, Thiên-Chúa- ở-cùng-chúng-ta. 91
MV4-A39. TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC.. 93
MV4-A40. Đừng ngại nhận Maria làm vợ. 97
MV4-A41. TIN TƯỞNG VÀO LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG.. 99
MV4-A42. CUỘC THĂM VIẾNG.. 103
MV4-A43. CON MẮT LÀ CỬA SỔ CỦA LINH HỒN.. 108
MV4-A44. NGƯỜI CÔNG CHÍNH.. 109
MV4-A45. THIÊN SỨ BÁO TIN CHO GIUSE.. 111
MV4-A46. Thiên Chúa ở cùng chúng ta. 120
MV4-A47. Điều kiện để đón tiếp Chúa –ĐTGM. Ngô quang Kiệt 124
MV4-A48. Giải quyết một vấn đề nhờ đức tin. 126
MV4-A49. Mùa Vọng: Mùa trong veo –ĐGM Vũ duy Thống. 128
MV4-A50. Giuse im lặng. 131

------------------------------------

 

MV4-A1. Sống Lời Chúa- Đức Trinh Nữ Maria

 

Một khuôn mặt nổi bật trong những ngày cuối cùng của mùa vọng, đó là khuôn mặt của Đức: MV4-A1


Một khuôn mặt nổi bật trong những ngày cuối cùng của mùa vọng, đó là khuôn mặt của Đức Trinh Nữ Maria. Chúng ta có thể nói được rằng Mẹ là người đầu tiên được diễm phúc đón nhận Chúa. Tại sao thế ? Vì tâm hồn Mẹ vô cùng trong trắng, không vướng mắc tội lỗi, đã trở thành chiếc nôi hồng ấm áp và tuyệt vời nhất cho Chúa ngự trị. Từ đó, chúng ta đi tới một kết luận: tội lỗi chính là chướng ngại vật ngăn cản không cho Chúa đến với chúng ta, cũng như không chúng chúng ta đến cùng Chúa.

Đúng thế, Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, còn tội lỗi thì xấu xa., nên không thể đội trời chung với nhau, trái lại luôn đối kháng nhau như trắng với đen, như lửa với nước, như ánh sáng với đêm tối. Giữa Thiên Chúa thánh thiện và tội lỗi xấu xa là cả một vực thẳm ngàn trùng ngăn cách, không thể có được một nhịp cầu cảm thông. Nơi nào có Thiên Chúa ngự trị, thì nơi đó phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi. Trái lại, nơi nào tội lỗi ngập tràn, thì chắc chắn sẽ không có được sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chính vì thế, tâm hồn tội lỗi sẽ không thể nào đón nhận Chúa mỗi khi Ngài viếng thăm, bởi vì Ngài luôn ghét bỏ tội lỗi, dù rất mực yêu thương  các tội nhân.

Thực vậy, tội lỗi là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, người cha toàn  năng và giàu lòng nhân ái. Từng giây và từng phút, chúng ta đã nhận được biết bao ơn lành của Ngài. Chẳng hạn nếu không có khí trời, thì chỉ trong dăm ba phút, chúng ta sẽ không thể nào sống được. Nếu không có cơm ăn và nước uống, thì chỉ trong dăm ba ngày, chúng ta cũng sẽ không thể nào tồn tại. Vì thế, tội lỗi chính là một sự vô ơn bạc nghĩa đối với Chúa. Khi phạm tội, chúng ta giống như chàng trai phung phá trong Phúc Âm, đã bỏ mặc ngoài tai những lời khuyên nhủ, những lời van xin của người cha.

Hơn thế nữa, tội lỗi còn là một sự phản bội lại tình thương của Chúa. Vì khi phạm tội, chúng ta đã dùng những ân huệ Ngài ban để chống lại Ngài. Chẳng hạn Chúa ban cho chúng ta cặp mắt là để chúng ta chiêm ngưỡng những kỳ công của Ngài mà lên tiếng ca tụng, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để nhìn vào những sự xấu xa, khả dĩ làm cho tâm hồn bị hoen ố.

Chúa ban cho chúng ta đôi bàn tay là để chúng ta lao động sản xuất, kiếm tìm chén cơm manh áo cũng như cộng tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để đánh đập người khác và thực hiện những hành động gian tham trộm cắp.

Chúa ban cho chúng ta một trái tim là để chúng ta kính mến Ngài và yêu thương anh em, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để chất chứa những hận thù ghen ghét.

Cũng vậy, chính vì tội lỗi chúng ta mà Chúa đã phải sinh ra nghèo túng nơi máng cỏ Bêlem và đã phải chết một cách tủi nhục trên thập giá Canvê. Bởi đó, mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta hò hét như dân Do Thái ngày xưa:

- Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào cây thập giá.

Mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta giết Chúa, là một lần chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá. Đồng thời, mỗi tội chúng ta phạm là một lằn roi, là một gai nhọn, là một khạc nhổ chúng ta đổ xuống trên thân xác Chúa. Như thế, sống trong tội lỗi là chúng ta đã làm cho những khổ đau Chúa phải chịu và những giọt máu Chúa đã chảy ra trở nên vô ích.

Có một tên sát nhân âm mưu giết hại hoàng tử. Rất may hoàng tử chỉ bị thương nặng và được cứu sống.  Hoàng tử đã xin vua cha tha tội chết cho tên sát nhân. Cảm động trước tấm lòng khoan dung ấy,, vua cha đã dẫn tên sát nhân tới gặp hoàng tử và hỏi hắn:

- Ngươi sẽ làm gì để đền đáp tấm lòng khoan dung tha thứ của hoàng tử ?

Tên sát nhân không ngần  ngại trả lời:

- Tôi sẽ tìm cách để giết chết hoàng tử một lần nữa.

Đức Kitô đã xuống thế và đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta cũng nói như tên sát nhân:

- Tôi sẽ tìm cách để giết chết Ngài một lần nữa.

Sau cùng, tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ bẩn, không còn xứng đáng làm nơi cho Chúa cư ngụ. Trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục xức dầu dự tòng cho chúng ta và nói:

- Hời thần ô uế, hãy ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thiên Chúa ngự trị.

Thế nhưng, khi phạm tội, chúng ta nói ngược lại với những lời ấy:

- Hỡi Thiên Chúa, hãy ra khỏi tâm hồn tôi, để nhường chỗ cho ma quỉ và tội lỗi ngự trị.

Tội lỗi sẽ biến tâm hồn chúng ta trở thành một hang trộm cướp, nếu Chúa có ghé thăm, chắc chắn Ngài sẽ phải nổi nóng, rút dây lưng mà xua đuổi, như ngày xưa Ngài đã từng xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem.

Vì thế, để đón mừng Chúa, để tìm gặp Chúa, cũng như để được Chúa ngự trị, điều kiện đầu tiên chúng ta phải có đó là một tâm hồn trong sạch. Muốn được như vậy, chúng ta phải ra sức chống trả những cám dỗ, xa tránh những dịp tội, là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta vấp ngã. Vì lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy, chơi dao có ngày đứt tay. Sống trong dịp tội mà không vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng.
Có khử trừ tội lỗi, thì tâm hồn chúng ta mới sẽ trở nên một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự đến.

-------------------------------------

 

MV4-A2. SLCTTY/21- Công chính

 

Sách Điển Ngữ thần học Thánh Kinh xác định: “Theo trào lưu tư tưởng đầu tiên qua suốt toàn: MV4-A2


Sách Điển Ngữ thần học Thánh Kinh xác định: “Theo trào lưu tư tưởng đầu tiên qua suốt toàn bộ Thánh Kinh, thì công chính là nhân đức luân lý mà chúng ta biết, được nới rộng để chỉ sự tuân giữ hoàn toàn các giới răn Thiên Chúa, nhưng đồng thời lại luôn được coi như một phẩm tính để đáng được công nghiệp trước mặt Thiên Chúa”.

Khi Matthêu gọi Giuse “là người công chính”, không chỉ vì Giuse tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhưng còn vì trái tim của Giuse tràn ngập lòng nhân từ, quảng đại và thương yêu đối với Maria: “không muốn tố giác bà”. Thánh Kinh gọi Giuse là người công chính, vì Giuse thánh thiện và vô tội nữa. Khi viên đại đội trưởng chứng kiến Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, đã nói: “Người này quả thật là công chính”. Công chính còn có nghĩa là thánh thiện và vô tội, Giuse đã có lòng kính sợ và thi hành thánh ý Thiên Chúa qua mọi hình thức mạc khải, dù là giấc mơ: “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như sứ thần Chúa dạy”. Vì thế Giuse đã được chọn để đặt tên cho Đức Giêsu, “Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi”. Một người có tội không thể nào đặt tên cho Đấng Cứu Thế được !

Quả vậy, bản tường thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu trong Phúc âm của thánh Matthêu đã tập trung vào vai trò của thánh Giuse hơn là của Đức Maria. Bởi Phúc âm của thánh Matthêu được viết cho những người Kitô hữu gốc Do Thái, Matthêu muốn chứng tỏ cho họ thấy rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã đến qua dòng dõi vua Đavid. Đấng đã được hứa ban và loan báo bởi các tiên tri trong Thánh Kinh. Giuse thuộc dòng dõi vua Đavid. Chính Giuse đã đặt tên cho con trẻ, đã dâng hiến cuộc đời mình và làm tất cả mọi sự cho con trẻ. Con trẻ là Con Thiên Chúa và con Đức Maria, nhưng qua việc đặt tên của Giuse, con vua Đavid.

Mỗi vị thánh đều có một ơn đặc sủng và một nét độc đáo. Đặc sủng ấy, nét độc đáo ấy nơi  thánh Giuse là sự công chính.

-------------------------------------

 

MV4-A3. SLCTTY/21- Công chính

 

Qua phần chia sẻ hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thánh cả Giuse. Trước hết thánh: MV4-A3


Qua phần chia sẻ hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thánh cả Giuse.

Trước hết thánh cả là người tin tưởng nơi cha mẹ và truyền thống. Tin mừng giúp chúng ta hiểu sự liên hệ giữa thánh Giuse và Đức Maria trước khi Chúa Giêsu sinh ra. Theo phong tục Do Thái, đám cưới  gồm ba giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất là sự cam kết. Sự cam kết được thực hiện bởi cha mẹ hai bên hay bởi ông bà mai mối. Thường thường cả hai người bạn trẻ đã không biết nhau trước khi cam kết. Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Thời gian này kéo dài cả năm để cho đôi trai gái có cơ hội quen biết nhau. Sau khi hứa hôn họ được coi như vợ chồng, mặc dù không được sống chung với nhau. Nhưng nếu không muốn tiến tới hôn nhân nữa, họ phải xin ly dị. Giai đoạn thứ ba là đám cưới: xảy ra vào cuối năm của giai đoạn hứa hôn. Chính trong giai đoạn thứ hai của đám cưới Do Thái, Giuse biết Maria đã có thai như bài Phúc âm hôm nay tường thuật.

Tiếp đến, thánh cả Giuse là người tin tưởng bạn mình, Maria. Trong thời gian hứa hôn, nếu người vợ ngoại tình và bị tố cáo, sẽ bị xử tội “ném đá”. Sự kiện Maria đã có thai làm Giuse phải đau khổ, bối rối, nghi ngờ và khó xử lắm ! Nhưng với tình yêu, sự khoan dung và lòng nhân từ Giuse “không muốn tố giác bà”, nhưng chỉ “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Trong hoàn cảnh khó khăn này, chính tình yêu đã hòa giải sự đối nghịch giữa luật lệ và con người để khám phá ra sự quan phòng của Thiên Chúa. Tình yêu đã dẫn tới niềm tin.

Maria đã xác tín rằng, mặc dù nàng đồng trinh, nàng “đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” như lời thiên thần đã loan báo. Khi được sứ thần báo trong giấc mơ phù hợp với điều bạn mình đã nói, Giuse liền tin tưởng vào tấm lòng thành thật của Maria và “nhận Maria về nhà làm vợ mình”. Họ đã thành thật tin tưởng nhau.

Một trong những điều sợ hãi và kinh khủng nhất của con người là phải sống trong nghi ngờ và đố kỵ. Đó là hỏa ngục trần gian. Và một trong những khó khăn nhất của cuộc sống ở mọi thời đại là sự tin tưởng lẫn nhau.

Sau cùng, thánh cả Giuse là người tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người Do Thái quan niệm Chúa Thánh Thần là người mang sự thật đến cho con người. Chúa Thánh Thần đã dạy cho các tiên tri trong Cựu Ước phải nói gì và làm gì. Và cũng chính Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn con người nhìn nhận ra sự thật khi gặp thấy. Bởi Giuse là người công chính, nên đã được Chúa Thánh Thần mang sự thật đến. Ông đã nhận ra sự thật và tin tưởng vào sự thật được mạc khải đó, cho dù cách thức mạc khải chỉ là trong giấc mơ.

Một câu ngạn ngữ của người Nigeria nói rằng, “Hãy lắng nghe, và bạn sẽ nghe được những bước chân của các con kiến”. Chúng ta cũng được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa đến trong cuộc đời qua những cách thức không ngờ tới. Chính ở nơi Chúa Thánh Thần, chúng ta đón nhận được sự thật: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu”.

Chúng ta ca tụng thánh Giuse là “Đấng công chính” đã nêu cao tấm gương nhân từ, thánh thiện và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, Giuse là tôi tớ trung tín. Vì thế trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngài được chọn làm bạn của Đức Trinh Nữ Maria, và dưới dòng họ của ngài, Con Thiên Chúa đã làm người thuộc dòng tộc Đavid, đã âu yếm gọi ngài là “Cha”.

Với lòng nhân hậu, thánh Giuse luôn phù trợ cho các con cái của ngài như thánh Têrêsa Avila đã nói với chúng ta: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp ta việc này việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà xem”.

-------------------------------------

 

MV4-A4. Thiên Chúa làm gì cho chúng ta?

 

Trong Thánh Lễ sáng Chúa Nhật, vị linh mục bước lên tòa giảng và đọc một đoạn trong sách: MV4-A4


Trong Thánh Lễ sáng Chúa Nhật, vị linh mục bước lên tòa giảng và đọc một đoạn trong sách Cựu Ước. Cuốn sách này đã cũ kỹ, nhưng được cha dùng keo để gián lại. Vì vô tình khi dùng keo để dán, cha đã để lại một chút keo ở trang đàng sau, và như thế khi cha lật từ trang cha đang đọc sang trang sau, nó dính vô trang kế tiếp đó, bởi thế nên cha đã đọc đoạn sách thánh đó như sau: "Vậy khi loài người bắt đầu thêm đông trên mặt đất, và sinh ra những con gái, thì các con trai Thiên Chúa thấy con gái loài người xinh đẹp; những cô họ ưng ý thì họ lấy làm vợ... (chỗ này nhà giảng thuyết lật trang sau để đọc tiếp thì) chiều dài một trăm năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước, chiều cao mười lăm thước..." (Gn 6:1-2,15). Sau một phút bối rối, nhà vị linh mục nói: "Tôi xin cáo lỗi cùng Quí Vị. Tuy nhiên, theo một khía cạnh, tôi thấy rằng đoạn Thánh Kinh trên diễn tả vẻ tuyệt diệu về con người chúng ta đã được Chúa tạo dựng."

Mỗi một người là một món quà đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng và tình yêu vô hạn. Ngài không chỉ ban cho chúng ta món quà sự sống nhưng còn ban tặng chúng ta sự toàn năng và tình yêu vô hạn của Ngài để giúp chúng ta có một cuộc sống sung mãn. Đó là điểm mà đạo Công Giáo của chúng ta bắt nguồn. Căn bản của đạo chúng ta không phải là điều chúng ta có thể làm cho Chúa, nhưng là Thiên Chúa làm gì cho chúng ta.

Đó là tất cả ý nghĩa của Kitô giáo. Đó là Tin Mừng của đức tin chúng ta. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã sinh ra tại hang Bêlem. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã được nuôi dưỡng trong gia đình thợ mộc nghèo khổ. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đi từ làng này sang làng khác rao giảng về sự siêu việt của Nước Chúa, chữa lành, và bài trừ những người giả hình của phái Pharisiêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã kiên nhẫn chịu đựng những khổ hình và chịu đóng đinh vào thánh giá. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã ra khỏi mồ và phán: "Bình an cho các con." Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã thổi Thánh Thần vào thế giới qua các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa Giêsu đã sống, đã chết, và đã sống lại để làm tất cả mọi sự đổi mới bằng ngọn lửa thanh tẩy của tình yêu Thiên Chúa. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là chỉ cho chúng ta con đường biết hàng phục một cách vô điều kiện với sự mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa.

Đối với tình yêu bao la của Chúa, chúng ta chỉ có thể đón nhận, chứ không phải là kiếm được. Đó là món quà của Chúa ban cho một cách nhưng không mà không bao giờ chấm dứt; trước sau như một, bền bỉ, mãi mãi. Chúng ta không thể nào dứt bỏ được. Chúng ta không thể nào làm cho Chúa ngừng yêu thương chúng ta. Chúng ta không thể nào làm cho tình yêu ấy nhạt đi, biến mất, hoặc bắt buộc nó phải đi chỗ khác. Tình yêu ấy không câu nệ gì đến việc chúng ta là ai, đang ở đâu, và là cái gì. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta có là cái gì đi chăng nữa. Câu hỏi được đặt ra là "Ngay trong giây phút này, các bạn có trong sạch như Thánh Gioan Tông Đồ hoặc Maria Mađalêna không? Các bạn có sẵn sàng để đón nhận món quà của lòng từ bi vô biên của Chúa ở tận thâm tâm của các bạn chưa? Các bạn có sẵn sàng để chấp nhận sự thật đó như là một điều khẩn thiết cho cuộc lữ hành tiến tới sự sung mãn chưa?"

Không có một tội nào ngăn cản Thiên Chúa không ban cho các bạn bất cứ điều gì, cả những điều  các bạn không tưởng tượng nổi. Không có một phản nghịch nào có thể làm cho Thiên Chúa thất vọng với các bạn. Không có một buồn phiền nào có thể ngăn cản Thiên Chúa không tiếp tục dẫn dắt các bạn. Ngài tiếp tục, trước sau như một, để đi vào cuộc sống của bạn bằng cả ngàn cách thức. Ngài kiên cố và bền vững trong cách thế đó, từ tình yêu vô bờ cho các bạn và lòng ao ước mạnh mẽ để đem các bạn tới chỗ sung mãn.

Bài Phúc Âm hôm nay bắt đầu cuộc truyền tin mà thiên thần loan báo cho Mẹ rằng Mẹ sẽ sinh ra Đấng Cứu Thế. "Này tôi là nữ tỳ của Chúa," Mẹ đáp, "Xin hãy thành sự nơi tôi theo như lời ngài truyền." Chúng ta sẽ không có Lễ Giáng Sinh nếu Mẹ không mở rộng bàn tay để đón nhận món quà từ tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Sự ưng thuận của Mẹ là trung tâm điểm của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Sau khi thiên thần từ giã, Mẹ liền vội vã đi thăm bà dì Elisabét. Như là muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự nhậm lời của Mẹ, bà dì Elisabét đã chào Mẹ rằng: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lk 1:45).

Trong Sách ngôn sứ Isaiah, Thiên Chúa phán: "Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta" (Is 49:16). Đó là hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả thật đúng cách thức Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngài nhìn chúng ta trên bàn tay của Ngài đã dùng để tạo dựng và ghi khắc. Chúng ta là một phần không thể tẩy xóa được trong sự sống của Thiên Chúa bởi vì chúng ta được dựng nên bằng hình ảnh của Ngài. Thánh Kinh cho chúng ta biết Thiên Chúa gần chúng ta như thế đó. Ngài không ghi khắc chúng ta ở trong bàn tay Ngài như là một phần thưởng. Chúng ta không giành được cái chỗ vinh dự như thế ở trong sự sống của Thiên Chúa. Thêm nữa, chúng ta không thể nào thay đổi được. Chúng ta có thể xa cách Ngài nhưng đối với Ngài thì luôn luôn trao ban cho chúng ta tất cả để chúng ta có thể đạt được sự sống sung mãn trong tình yêu Ngài.

Thiên Chúa mong muốn chúng ta cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Ngài trong lúc này. Sự hưởng nếm ngọt ngào nhất về tình yêu của Thiên Chúa đến với chúng ta bằng yêu và được yêu. "Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con," Chúa Giêsu đã ra lệnh như thế.

-------------------------------------

 

MV4-A5. Đừng ngại

 

Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ, còn Tin Mừng Mátthêu lại nói đến việc truyền: MV4-A5


Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ, còn Tin Mừng Mátthêu lại nói đến việc truyền tin cho Giuse. Sứ thần Chúa giải tỏa nỗi lúng túng và bối rối của ông, khi báo cho ông hay thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình.

Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.

Maria là một mầu nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần cũng là mầu nhiệm. Giuse đã để cho các mầu nhiệm vây bọc mình.

Cả cuộc đời Giuse là chiêm ngắm các mầu nhiệm diễn ra một cách bình thường, sát bên ông. Và chính cuộc đời của ông cũng là một mầu nhiệm.

Giuse chấp nhận ý định của Thiên Chúa dù nó phá vỡ ước mơ ông ấp ủ từ lâu. Ông muốn làm chồng cô Maria, người ông yêu mến, nhưng Thiên Chúa lại muốn ông làm bạn của cô thôi. Ông muốn là cha của một đàn con đông đúc, nhưng ông chỉ là cha nuôi của Đức Giêsu.

Bề ngoài, Giuse vẫn gánh trách nhiệm làm chồng, làm cha, nhưng căn tính sâu xa của ông, ít ai biết.

Ông sống một mình mầu nhiệm đời ông trước Thiên Chúa.

Giuse đã mau mắn nói tiếng Xin Vâng.

Ông luôn bị đánh thức vào lúc đang an nghỉ. Sứ thần Chúa bảo ông chỗi dậy để làm điều gì đó. Ông bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya. Từ Nadarét lên Bêlem, từ Bêlem đi Ai cập, rồi lại trở về. Giuse chịu trách nhiệm về những kho báu Chúa giao.

Vâng phục một cách đơn sơ: đó là thái độ của Giuse.

Hôm nay có thể Chúa không nói với tôi qua giấc mơ, nhưng qua bao con đường khác, rất riêng tư, mà chỉ mình tôi cảm nhận được. Nếu tôi mau mắn nói tiếng Xin Vâng như Giuse, tôi sẽ góp phần vào việc cứu độ cả thế giới.

Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.

Nhờ Giuse, Đức Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).

Cùng với Giuse, xin được gọi tên Con Thiên Chúa là GIÊSU.

Cùng với cả vũ hoàn, xin gọi tên Ngài là EMMANUEL. GIÊSU là Thiên-Chúa-ở-với-ta cho đến tận thế.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa thường nói với bạn bằng những cách thức nào?  Có khi nào bạn xin vâng khi dự tính của bạn bị tan vỡ không?

Con Thiên Chúa được gọi bằng nhiều tên: Giêsu, Kitô, Con vua Đavít, Emmanuel.  Bạn thích tên nào hơn cả?  Tại sao?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu.  Amen.

-------------------------------------

 

MV4-A6. Chúa Cứu Thế giáng sinh

 

Chúa nhật IV Mùa vọng hướng tâm trí chúng ta đến thật gần mầu nhiệm Nhập Thể của Con: MV4-A6


Chúa nhật IV Mùa vọng hướng tâm trí chúng ta đến thật gần mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, mầu nhiệm mà mỗi người con của Giáo Hội được mời gọi đón nhận với tâm hồn được chuẩn bị kỹ lưỡng trong suốt bốn tuần Mùa vọng. Tất cả ba bài đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều hướng về sự kiện căn bản này: "Con Thiên Chúa Nhập Thể và sinh ra bởi Người Nữ Đồng Trinh, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần", theo như lời hứa của Thiên Chúa trong lịch sử dân Chúa.

Bài tường thuật biến cố Con Thiên Chúa Giáng Sinh nơi Phúc Âm thánh Luca sẽ được dùng trong Thánh Lễ Giáng Sinh vào Chúa nhật IV Mùa vọng, Giáo Hội nhắc đến biến cố căn bản qua bài tường thuật của Phúc Âm thánh Mátthêu (x. Mt 1,18-24). Dĩ nhiên, tác giả Phúc Âm theo thánh Mátthêu không tường thuật biến cố Nhập Thể và Giáng Sinh của Con Thiên Chúa trong cùng một cách thức như Phúc Âm thánh Luca. Tác giả Phúc Âm thánh Mátthêu nhắc đến biến cố trong vai trò của thánh Giuse, thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, tức Con Thiên Chúa được sinh ra trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse được mạc khải cho biết và đồng thời mời gọi Ngài tích cực tham dự vào chương trình đó, là người cha nuôi của Con Thiên Chúa, là Đấng bảo vệ cho Mẹ Maria và Chúa Giêsu.

Qua đó, Thánh Giuse được mạc khải cho biết nguồn gốc thần linh của Đấng được Mẹ Maria cưu mang. Trong mạc khải đó, Thánh Giuse được nhắc lại cho biết lời tiên tri được loan báo trong dân Israel và được ghi chép lại trong sách Isaia nơi chương VII mà bài đọc I Chúa nhật IV Mùa vọng đã nhắc lại, đó là lời tiên tri được loan báo gần 8 thế kỷ trước khi biến cố thực sự xảy ra. Là một người Công Chính như thánh Giuse, chắc chắn Ngài đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về lời tiên tri này như bao thành phần tốt của dân Israel thời đó. Tuy nhiên, khi biến cố thực sự xảy đến trước mắt mình và có liên quan đến chính mình, thì thánh Giuse có phản ứng đầu tiên là không chấp nhận, như Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại như sau: "Thánh Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo". Luật Do Thái phạt nặng nề một người phụ nữ đã đính hôn mà đi ngoại tình với kẻ khác. Giuse có thể đi tố cáo Mẹ Maria, vì khi thấy Bạn mình chưa về chung sống mà đã mang thai. Phúc Âm không nói gì, nhưng người ta có thể hiểu là Maria có thể đã kể cho Giuse biết biến cố thiên thần truyền tin và việc mang thai là do quyền phép Chúa Thánh Thần như lời thiên thần loan báo, nhưng có thể thánh Giuse không hiểu, không tin hoặc tin lời Maria nói nhưng lại cảm thấy mình không xứng đáng, không muốn tham dự vào chương trình cao cả của Thiên Chúa, vì thế mà Ngài định tâm rút lui.

Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng ông không làm như vậy, Ông muốn trốn đi, vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha, và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: "Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần", và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.

Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.

Mùa Giáng Sinh sắp đến, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa làm người được người đồ đệ suy niệm bắt chước, nhưng không dừng lại hưởng niềm vui cứu rỗi nơi mình, nhưng cần để cho ơn Chúa chiếm lấy nơi mình và dấn thân mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta cầu chúc cho mọi người được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha. Amen.

-------------------------------------

 

MV4-A7. Gợi ý của Nhóm Đồng Hành


Chi Tiết Hay

 

Phúc âm thánh Matthêu bắt đầu bằng một "genesis". Chữ này có nhiều nghiã. Một nghĩa ở: MV4-A7


Phúc âm thánh Matthêu bắt đầu bằng một "genesis". Chữ này có nhiều nghiã. Một nghĩa ở dây là gia phả. Một nghiã khác, như trong sách Sáng Thế Ký, có nghiã là khởi nguyên. Bài đọc hôm nay cũng là một khởi nguyên từ Chúa Thánh Thần.

(c.18) Thời đó những người lớn tuổi trong dân Do Thái sắp đặt chuyện đính hôn cho các cô từ 12 trở lên và các cậu từ 13 trở lên. Đính hôn có giá trị trước pháp luật. Sau khi đính hôn, các cô tiếp tục ở với bố mẹ thêm vài năm trước khi về nhà chồng. Trong thời gian chờ đợi đó, nếu cô ta ăn nằm với chàng nào khác thì cả hai có thể bị ném đá chết, theo sách Đệ Nhị Luật 22:23-27. Thay vì hình phạt đó, chàng rể tương lai có thể ký giấy ly dị trước hai nhân chứng và người phụ nữ đã đính hôn có quyền lấy người khác.

(c. 20) Trong Cựu Ước thiên thần Chúa hay hiện ra để cho biết ý Chúa trong những giây phút quan trọng trong lịch sử. Báo mộng là một cách khác mà Chúa dùng, như với Jacob và Giuse trong Sáng Thế Ký (28:10-17 và 37:5-11).

Phúc âm thánh Luca nhấn mạnh tới Đức Mẹ, còn Matthêu nói nhiều hơn về Giuse vì ông ta là giòng dõi vua Đa-vít, và vì ông ta trưởng thành dần trong Chúa, đi từ chỗ thắc mắc khó khăn tới chỗ tin tưởng và được Chúa soi sáng. Qua câu chuyện này, thánh Matthêu cho thấy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa ngay từ đầu.

Một Điểm Chính

Chúa Giêsu, là Vua và là Con Thiên Chúa, xuống thế và sống giữa chúng ta, với những nhân vật đơn sơ nhưng anh hùng như Giuse và Maria.

Suy Niệm

Tôi muốn sưả soạn tâm hồn tôi như thế nào để đón Chúa Hài Đồng?

Tôi có trưởng thành dần trong Chúa, đi tới chỗ tin tưởng và được soi sáng, hay rút lui dần vào chỗ thất vọng?

Làm sao tôi biết được ý Chúa?

-------------------------------------

 

MV4-A8. “Ông Giuse là người chính trực”

 

Thường thì trong suốt mùa Vọng cũng như mùa Giáng Sinh, và ngay cả trong suốt năm phụng: MV4-A8


Thường thì trong suốt mùa Vọng cũng như mùa Giáng Sinh, và ngay cả trong suốt năm phụng vụ, chúng ta ít nói đến ông Giuse, "người đã đính hôn cùng Maria, là người chính trực, không muốn gây khó khăn cho Maria theo luật pháp [vì Maria đã thụ thai bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần trước khi hai ông bà về ở với nhau] nên đã quyết định âm thầm từ bỏ vị hôn thê" (Mt. 1:19-20).

Trong bài suy niệm Lời Chúa ngày lễ mừng kính Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, chúng ta thấy ông Adong, nguyên tổ loài người, đã vấp phải "trái cấm", thì ông Giuse cũng phải đương đầu với "trái cấm": ông Giuse ít nhiều bị chạm tự ái vì người vợ chưa cưới mà đã mang thai, nên "tìm cách âm thầm từ bỏ Maria vì không muốn gây khó khăn cho Maria theo luật pháp". Phản ứng trước "trái cấm" của Adong và Giuse hoàn toàn trái ngược nhau.

* Phản ứng của Adong: "... người đàn bà mà Chúa đặt để ở đây với tôi – bà ấy đã cho tôi trái cây, và tôi đã ăn." (Kn. 3:13)

* Phản ứng của Giuse: "... Khi Giuse thức giấc, ông đã làm theo lời thiên sứ truyền bảo và đã đón nhận Maria về nhà mình làm vợ" (Mt. 1:24).

Trong cơn buồn sầu và nghi ngờ, Giuse đã không phản ứng hành động theo tính tự nhiên của con người - không vội lên án đổ lỗi cho nhau, không vội trút cơn tức giận chua cay vì tưởng rằng bị phản bội - trái lại Giuse chỉ biết LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng Chúa thì thầm chỉ bảo trong mọi hoàn cảnh.

Chúng ta không tìm được một câu nói nào của Giuse trong tất cả các sách Tin Mừng, chúng ta chỉ học biết phương thức hành động - phương thức SỐNG của Giuse trong suốt cuộc hành trình và đồng hành của Người với Maria và Giêsu ở trần gian này.

Trong cuộc sống thực tế của mỗi một người chúng ta, không ai trong chúng ta mà không gặp phải những nghịch cảnh, những "trái cấm" hầu như từng phút từng giây, từ những nghịch cảnh nhỏ nhất đến những chuyện "tày trời" tưởng như thế giới sắp sụp đổ:

+ anh/chị/em tôi "chơi gác" tôi
+ bạn bè tôi ích kỷ, khó tính
+ học trò tôi ngang ngược, lười biếng, láo xược
+ con tôi ngỗ nghịch, hỗn láo
+ người tôi yêu lừa gạt tôi, không thành thật với tôi, hình như không còn yêu thương tôi nữa
+ vợ/chồng tôi mọi ngày rất tốt, nhưng hôm nay làm sao ấy
+ đồng nghiệp của tôi "ma giáo"
+ vân vân và vân vân...

Chúng ta quên bẵng đi rằng chúng ta thường đặt căn bản cho mối nghi ngờ hay giận dữ trên một hiện tượng nhất thời nào đó, rồi phản ứng theo tính tự nhiên ngay tức khắc, mà chưa hay không muốn LẮNG NGHE tiếng thì thầm chỉ bảo của lương tâm, của chính Thánh Thần Thiên Chúa đã được ban cho mỗi một chúng ta.

Tâm tình LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng Chúa thì thầm chỉ bảo của thánh cả Giuse - và cũng là của Đức Maria và Đức Giêsu - là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống của mỗi một chúng ta. Muốn cho chính bản thân mình, cho gia đình mình được an vui hạnh phúc, thiết tưởng chỉ có một phương cách duy nhất là theo gương thánh cả Giuse, và ráp theo khuôn mẫu của thánh gia Giuse-Maria-Giêsu vậy.

Thánh Lasan xin thánh cả Giuse làm quan thầy cho Dòng, để các Frères, các thầy cô cũng như tất cả những ai được trao phó sứ mạng và nhiệm vụ giáo dục trẻ em, noi gương thánh cả Giuse yêu thương dìu dắt Đức Giêsu Hài Nhi như thế nào thì cũng yêu thương dìu dắt con em và học sinh mình như vậy. Mỗi ngày thứ tư trong tuần, cả nhà Dòng đọc kinh sau đây để tôn kính thánh cả Giuse và cầu xin Người cho chúng ta được noi theo gương Người, SỐNG như Người. Xin mời mọi người chúng ta cùng hợp tiếng với Dòng LaSan, đọc kinh này mỗi ngày thứ tư.

Lạy thánh Giuse rất trung tín, là Đấng được Chúa chọn làm cha nuôi Người, là Đấng nâng đỡ Thánh Mẫu, là người cộng tác và trung thành trong công cuộc trọng đại của Chúa.

Xin thánh cả cầu cho chúng con được ơn thi hành thánh ý Đức Chúa Cha, được âu yếm suy niệm những sự đã thực hiện nơi Đức Chúa Con, và nhờ ơn phong phú Đức Chúa Thánh Thần, chúng con giữ xác hồn thanh sạch, để xứng đáng phụng sự Chúa luôn – AMEN

-------------------------------------

 

MV4-A9. Suy Niệm của JKN


Câu hỏi gợi ý:

 

Nếu gặp hoàn cảnh của Giuse, tâm trạng của bạn sẽ thế nào? Bạn sẽ đối xử thế nào với người: MV4-A9


1. Nếu gặp hoàn cảnh của Giuse, tâm trạng của bạn sẽ thế nào? Bạn sẽ đối xử thế nào với người yêu mà bạn ngỡ là đã phản bội bạn?

2. Trong trường hợp này Giuse đã hành xử thế nào? Tình yêu của Giuse đối với Maria là thứ tình yêu nào? vị kỷ hay vị tha? chiếm đoạt hay dâng hiến?

3. Tại sao Thiên Chúa lại chủ trương Đức Giêsu phải được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh, nghĩa là không do sự kết hợp với một người nam?

4. Giới răn yêu thương của Đức Giêsu phải được áp dụng ưu tiên hàng đầu cho những ai? Tại sao?

Suy tư gợi ý:

1. Tâm trạng của Giuse khi thấy Maria có thai

Theo tục lệ Do Thái, để trở nên vợ chồng thực thụ, đôi nam nữ phải trải qua ba giai đoạn: (1) Hai gia đình tiếp xúc với nhau, đồng ý cho đôi nam nữ tiến tới hôn nhân. (2) Đính hôn hay hứa hôn: đôi nam nữ hứa hôn với nhau trước mặt hai gia đình, bà con, bạn bè và mọi người. Kể từ đây, đôi nam nữ được coi như vợ chồng, nhưng chưa được sống chung hoặc có quan hệ tính dục với nhau. Mối liên hệ này chỉ được hủy bỏ khi một trong hai người qua đời, hoặc khi tuyên bố ly dị. (3) Lễ cưới: đôi nam nữ chính thức là vợ chồng và bắt đầu sống chung với nhau. Khi Maria thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần và Giuse được sứ thần báo mộng, thì hai người đang ở giai đoạn thứ hai: đính hôn.

Trước khi được sứ thần báo mộng, Giuse thấy Maria – người bạn đã đính hôn với mình – có thai. Cứ theo cách cắt nghĩa tự nhiên cũng là duy nhất, thì rõ ràng Maria đã ngoại tình. Chắc chắn Giuse rất bối rối, buồn phiền, thậm chí thấy mình bị xúc phạm mãnh liệt. Theo luật dân sự, trong trường hợp này, Giuse có quyền từ hôn. Chàng có thể tố cáo Maria về vụ việc này, và nhà cầm quyền Do Thái có thể xử tử nàng bằng cách ném đá cho đến chết, chiếu theo luật trong Đnl 22,23-24. Nhưng chàng không làm như thế. Mặc dù cảm thấy như bị xúc phạm và phản bội, chàng chỉ định tâm bỏ nàng cách kín đáo, cho đến khi được sứ thần báo mộng.

Mặc dù chỉ biết qua giấc mộng – nghĩa là không chắc chắn và rõ ràng – rằng Maria thụ thai bởi Thánh Thần, Giuse đã chấp nhận đem Maria về nhà mình, bất chấp dư luận không hay về mình. Vì Giuse làm như thế, dư luận sẽ cho rằng: hoặc hai người đã quan hệ vợ chồng một cách bất chính trước khi được phép, điều này chứng tỏ hai người thiếu đạo đức; hoặc Giuse đã chấp nhận cái nhục «người ta ăn ốc, mình đổ vỏ». Do đó, việc chàng chấp nhận Maria phải nói là can đảm, hy sinh, và tình yêu của chàng đối với Maria quả là chân thật và mãnh liệt. Chàng đúng là một người công chính, cao thượng, biết tuân phục thánh ý Thiên Chúa.

2. Đức Giêsu sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh

Việc Đức Giêsu được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh, không do ý muốn của người nam, là do ý định khôn ngoan của Thiên Chúa. Điều này rất quan trọng trong Kitô giáo. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, với sứ mạng giải phóng con người khỏi tội lỗi, Ngài phải hoàn toàn không bị vướng vào tội lỗi. Nếu chính Ngài mà còn có tội, còn sống dưới ách tội lỗi, thì Ngài có thể giải phóng tội lỗi cho ai? Mà mọi người sinh ra bởi người nam, đều vướng tội tổ tông do Ađam truyền lại. Vì theo quan điểm của xã hội phụ hệ Do Thái, sự kế thừa từ thế hệ trước sang thế hệ sau hoàn toàn qua người nam. Do đó, nếu Đức Giêsu sinh ra từ một người nam, Ngài không khỏi kế thừa tội tội tổ tông từ cha mình. Để Ngài không chịu ảnh hưởng tội tổ tông, Thiên Chúa đã dùng quyền năng Thánh Thần của mình để Đức Giêsu chỉ được sinh ra duy nhất từ một người nữ – vốn là điều cần thiết để trở nên một người trần – mà không do sự kết hợp với người nam. Nhờ thế, Ngài không bị ảnh hưởng của tội tổ tông, lại hoàn toàn và duy nhất là Con của Thiên Chúa, đồng thời vẫn là một con người trọn vẹn.

3. Tình yêu đích thực trong đời sống vợ chồng

Trong sứ mạng cứu chuộc nhân loại, thì một trong những mục đích quan trọng của Đức Giêsu là dạy con người sống yêu thương nhau. Ngài đã lập nên luật mới cho kỷ nguyên của Ngài là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Ngài đã làm gương cho cả nhân loại bằng cách yêu thương đến tận cùng (x. Ga 13,1), hy sinh cả mạng sống cho nhân loại mà mình thương yêu (x. Ga 15,13). Nhưng Ngài không sống đời hôn nhân, nên Ngài không thể có một tấm gương cụ thể của một người chồng yêu thương vợ mình. Nhưng bù lại, cha nuôi của Ngài là thánh Giuse đã cho nhân loại gương sáng ấy. Bài Tin Mừng cho thấy Giuse đã yêu Maria bằng một tình yêu đầy tính vị tha và dâng hiến.

Tình yêu trong đời sống vợ chồng có thể phân thành hai loại:

– tình yêu vị kỷ hay chiếm đoạt: Trong thứ tình yêu này, người ta coi người mình yêu như một phương tiện để thỏa mãn nhu cầu tình cảm của mình, hay như một đối tượng mà mình phải chiếm đoạt làm của mình. Với tình yêu vị kỷ, người ta coi người mình yêu phải phục vụ cho hạnh phúc của mình. Và người ta đặt hạnh phúc của mình lên trên hạnh phúc của người mình yêu. Khi có sự xung đột giữa hạnh phúc của mình và của người yêu, thì họ sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của người yêu cho hạnh phúc của mình, sẵn sàng chấp nhận để người mình yêu đau khổ miễn mình được hạnh phúc. Và họ không thể chấp nhận bị người yêu phản bội. Họ sẵn sàng đày đọa người mình yêu vì sự phản bội ấy. Họ không thể chấp nhận cho người mình yêu được hạnh phúc với một ai khác ngoài mình. Thực ra, đây không phải là tình yêu đích thực. Người ta chỉ yêu chính bản thân mình một cách gián tiếp qua người yêu của mình, chứ không phải yêu thương người ấy thật sự.

– tình yêu vị tha hay dâng hiến: Với tình yêu này, người ta cảm thấy có nhu cầu ra khỏi chính mình để hướng về người mình yêu, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Người ta sẵn sàng chấp nhận mình thiệt thòi để người mình yêu được lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Với tình yêu này, người ta sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi người này lầm lỗi. Đây mới chính là tình yêu đích thực mà Thiên Chúa muốn mọi cặp vợ chồng phải có đối với nhau. Giuse đã yêu Maria bằng thứ tình yêu này.

Người yêu bằng tình yêu vị tha hay dâng hiến, gặp trường hợp tương tự như Giuse – thấy người sắp kết hôn với mình có vẻ như phản bội – thì chỉ biết đau khổ cho mình, chứ không hề muốn làm một điều gì có hại cho người mình yêu. Người ấy sẽ nghĩ: nếu người mình yêu cảm thấy sống với người khác sẽ hạnh phúc hơn sống với mình, thì mình cũng sẽ an tâm và sẵn sàng chấp nhận đau khổ, hy sinh để người mình yêu được hạnh phúc.

4. Đối tượng phải yêu thương hàng đầu là người trong gia đình

Giới răn yêu thương của Đức Giêsu cần được áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả kẻ thù hay người làm hại mình (x. Mt 5,44; Rm 12,20). Nhưng trước hết, nó phải được áp dụng ưu tiên cho những người gần mình nhất, có quan hệ ruột thịt với mình, cùng sống trong một gia đình hay một nhà với mình: cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, cháu chắt… Trong số đó không ai gần gũi mình cho bằng vợ hay chồng mình, vì là vợ chồng thì «không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt» (Mt 19,5; x. St 2,24; Ep 5,31). Vì thế, giới răn yêu thương của Đức Giêsu phải được áp dụng ưu tiên hàng đầu cho vợ hay chồng mình, rồi tới cha mẹ, con cái mình. Nếu những người ruột thịt này mà ta không yêu thương được bằng một tình yêu chân thật, vị tha, dâng hiến, thì ta không thể yêu ai khác bằng tình yêu này được. Mọi thứ tình yêu ta có đối với người khác đều chỉ là tình yêu vị kỷ, hoặc tệ hơn nữa, tình yêu môi miệng, tình yêu đóng kịch, tình yêu xây dựng trên sự đổi chác quyền lợi… Đó không phải là tình yêu đích thực.

Thiết tưởng trong việc chuẩn bị đón Chúa đến, không gì thích hợp và đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng canh tân, đổi mới lại tình yêu trong chính gia đình của mình. Hãy yêu mọi người trong gia đình mình bằng một tình yêu chân thật, mãnh liệt, đầy tính vị tha và dâng hiến. Tình yêu đối với gia đình sẽ là mẫu mực và là căn bản để từ đó ta áp dụng đối với tất cả mọi người.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, xin cho con có được một tình yêu đích thực, thứ tình yêu vị tha, dâng hiến, chứ không phải thứ tình yêu mang tính vị kỷ, chiếm đoạt, hay tình yêu giả hiệu, ngoài môi miệng. Xin cho con biết áp dụng tình yêu đích thực ấy ngay trong gia đình của con, để từ đó lan tỏa ra với tất cả mọi người.

-------------------------------------

 

MV4-A10. SLC – Emmanuel

 

Đọc lại Cựu Ước, chúng ta thấy được hình ảnh nào của Thiên Chúa ? Theo tôi nghĩ, điều Cựu: MV4-A10


Đọc lại Cựu Ước, chúng ta thấy được hình ảnh nào của Thiên Chúa ? Theo tôi nghĩ, điều Cựu ước nhấn mạnh cho dân Do thái, đó là một Thiên Chúa duy nhất đầy quyền uy.

Thực vậy, ngay những trang đầu của sách Sáng thế ký, sau khi Adong Evà phạm tội, thì buổi chiều Thiên Chúa đã tản bộ đi trong vườn địa đàng với làn gió nhẹ. Adong Evà đã hoảng sợ và tìm kiếm chỗ ẩn núp, nhưng cũng không thể nào thoát khỏi cái nhìn của Thiên Chúa, để rồi cuối cùng đã lãnh nhận bản án của đau khổ, của chết chóc cho hành vi phản bội đầu tiên ấy.

Tiếp theo là việc Thiên Chúa hiện ra và kêu gọi Maisen lên đường giải phóng dân tộc Do thái, đang sống dưới ách nô lệ, dưới sự kìm kẹp của vương quốc Ai cập. Lúc bấy giờ Maisen nhìn thấy một bụi gai bừng cháy, ông mon men tiến tới, thì được Giavê đã phán:

- Chớ lại gần, hãy cởi dép vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh.

Maisen đã phải che mặt vì ông sợ không dám nhìn Thiên Chúa.

Và sau cùng trong cuộc xuất hành trở về miền đất hứa, Đức Giavê đã tàn sát các con trai đầu lòng Ai cập, đã vùi dập binh đội của Pharaon nơi lòng biển cả. Và tại đỉnh núi Sinai, Đức Giavê đã trao ban lề luật cho Maisen trong một cảnh tượng hùng vĩ. Kinh thánh ghi lại rằng: Bấy giờ ngọn núi cuồn cuộn như bốc khói. Ngay cả sau khi Maisen xuống núi, khuôn mặt ông vẫn còn chói lọi, đến nỗi dân chúng sợ hãi không dám tiến lại với ông.

Bằng đó những sự kiện chỉ có ý muốn nói lên rằng: Thiên Chúa trong Cựu ước là Thiên Chúa của uy quyền. Ngài hiện ra trong sấm chớp hãi hùng, để  truyền khiến, để sửa phạt. Đứng trước vị Thiên Chúa toàn năng ấy, con người nhỏ bé của chúng ta chỉ có một thái độ, đó là run sợ và khiếp hãi.

Thế nhưng, Cựu ước chỉ nắm giữ vai trò chuẩn bị, vai trò sửa soạn cho Đức kitô xuất hiện. Tất cả Cựu ước đều qui hướng về Đức Kitô và cùng với Đức Kitô, chúng ta có được một hình ảnh đầy yêu thương của Thiên Chúa. Hình ảnh này đã được tiên tri Isaia loan báo gần 700 năm về trước:

- Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Lời loan báo này đã trở thành một sự thật trong Tân ước. Phải, đúng thế, Tân ước đã làm tròn những hình ảnh được nói đến trong Cựu ước, nhờ đó chúng ta thấy rõ Đức kitô chính là Thiên Chúa.

Qua bài Phúc âm hôm nay, sứ thần đã nhắc lại cho Giuse trong một giấc mộng lời nói tiên tri Isaia, để rồi một vài ngày nữa, trong đêm Giáng sinh, lời hứa về đấng Emmanuel sẽ được thực hiện. Thiên Chúa đã đến ở giữa chúng ta, không phải trong uy quyền với áng mây cột lửa, nhưng trong yêu thương với quang cảnh ngèo nàn và đơn sơ của máng cỏ Bêlem.

Từ một Thiên Chúa uy quyền và công bằng, Ngài đã trở nên một Thiên Chúa yêu thương và tha thứ. Ngài đó, một hài nhi bé bỏng như muôn ngàn vạn hài nhi khác. Ngài không đến trong sấm chớp, nhưng trong yên lặng của đêm khuya, trong rét mướt của mùa đông và trong nghèo hèn của chuồng bò. Ngài không làm cho bụi cây trong sa mạc bốc cháy, nhưng khi trông thấy Ngài các vì sao như rực sáng long lanh. Ngài không đòi phải có đền thánh huy hoàng, nhưng một nắm cỏ khô đã đủ cho ngài. Không phải là những biểu ngữ, những cổng chào của đám đông cuồng nhiệt đã tiếp đón Ngài như một ngày hội lớn, nhưng là nụ cười hiền dịu của Đức Maria và tấm lòng chân thành của thánh Giuse và các mục đồng, đúng như lời tiên tri Isaia đã loan báo:

- Ngài sẽ không la to, không nói lớn và người ta sẽ chẳng nghe thấy tiếng Ngài ngoài phố. Ngài đã không bẻ gẫy cây sậy đã dập và không thổi tắt ngọn đèn còn leo loét.

Thiên Chúa của chúng ta là như thế đó. Vậy đâu là nguyên nhân, là động lực thúc đẩy Ngài trở thành một Emmanuel, một Thiên Chúa ở cùng chúng ta ? Tôi xin thưa:

- Đó chính là vì tình yêu.

Thực vậy, người ta thường nói:

- Yêu nhau chẳng quản xa gần,

  Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.

Nhìn vào kinh nghiệm thường ngày chúng ta cũng thấy được như vậy. Chẳng hạn hai anh chị yêu thương nhau, họ luôn mong muốn và làm mọi cách để có thể gặp nhau, để có thể ngồi tâm sự vui với nhau giờ này qua giờ khác.

Chẳng hạn người chồng phải đi học tập cải tạo tại, nhưng vì yêu thương, người vợ không bao giờ quản ngại đường sá xa xôi. Mỗi tháng lếch thếch với đứa con nhỏ và những đồ tiếp tế để đi thăm chồng.

Nếu quả thực là như vậy, thì hẳn tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta phải lớn lao, phải vĩ đại biết bao nhiêu. Bởi vì Ngài đã đi con đường dài nhất, con đường từ trời xuống đất, từ Thiên Chúa toàn năng đến một hài nhi yếu ớt. Khoảng cách ngàn trùng ấy đã được Chúa Giêsu vượt qua cho đến đời đời, bởi vì Ngài đã ở lại với chúng ta luôn mãi. Chúng ta có thể nói được rằng:

- Ngài đã kết hôn với bản tính nhân loại chúng ta để ăn mày đến vô biên.

Điểm đặc sắc của kitô giáo là ở chỗ đó: Thiên Chúa của chúng ta không phải là một ý niệm trừu tượng, một nhân vật hoang đường, nhưng là một con người cụ thể đã, đang và sẽ còn sống mãi bên chúng ta suốt những chặng đường đời, để yêu thương và tha thứ. Một Emmanuel, nghĩa là  một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Thiên Chúa đã đi quãng đường dài nhất để đến với chúng ta, còn bây giờ chúng ta sẽ phải đi nốt những bước chân còn lại. Ngài đến ở giữa chúng ta, nhưng  có yêu thương và gắn bó với Ngài hay là chúng ta đã lạnh nhạt và xua đuổi Ngài như hánh Gioan đã viết:

- Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà đã chẳng đón nhận.

Nếu như bây giờ Chúa trở lại, liệu Ngài có tìm thấy một nơi trú ngụ trong tâm hồn chúng ta hay không ?

-------------------------------------

 

MV4-A11. SN/76 - DÒNG TỘC

 

Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh: MV4-A11


Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.

Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quàn nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng củng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.

Đến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.

Động lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.

Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”

Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuận việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.

Xết về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: “Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống côn chính, mầu giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước”. Hoặc ở một chỗ khác: “Chúa sẽ lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi”.

Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ David. Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.

Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút ?

Theo luật Do thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung  ngãi đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngái muốn để mặc cho nàng tự phận xử.

Đang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đả trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa thì khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.

Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Giaon tẩy giả cũng phải do người cha tặc tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết òng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người con đang cưu mang.

Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mổi người chúng ta do yêu thương hay dận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hứng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.

-------------------------------------

 

MV4-A12. MNMTV/38 - Ý CHÚA

 

Thiên Chúa là Đấng toàn năng, nếu Ngài đã tạo dựng thế giới chỉ bằng một lời quyền năng của: MV4-A12


Thiên Chúa là Đấng toàn năng, nếu Ngài đã tạo dựng thế giới chỉ bằng một lời quyền năng của Ngài, thì Ngài cũng có thể cứu chuộc con người một cách dễ dàng bằng một lời tha thứ. Nhưng Thiên Chúa đã không làm thế. Ngài tôn trọng tự do của con người và muốn chính con người sử dụng tự do của mình để cộng tác vào công trình cứu độ. Nhưng bằng cách nào? Thưa, đó là luôn vâng theo ý Chúa như Đức Maria và thánh Giuse đã sống.

Thật vậy, Đức Maria chỉ là một thiếu nữ bình thường như bao thiếu nữ khác, sống trong một làng quê nhỏ bé, âm thầm; chỉ có một điều khác biệt là người đã luôn vâng theo ý Chúa trong mọi sự. Người đã thưa xin vâng, dù chưa biết rõ chương trình lạ lùng của Thiên Chúa. Cũng thế, thánh Giuse chỉ là bác thợ mộc nhà quê, nghèo hèn, nhưng có điều khác biệt là ngài đã luôn tuân theo ý Chúa, điển hình là ngài đã rước Đức Maria về nhà mình sau khi được sứ thần cho biết là Đức Maria thụ thai là bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.

Mỗi kitô hữu chúng ta cũng có thể là một Giuse hay một Maria khác. Mặc dù chỉ là những con người bé nhỏ, tầm thường, tội lỗi, chúng ta cũng có thể góp phần vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa nếu chúng ta biết thể hiện cuộc sống hàng ngày của chúng ta trong sự tuân phục thánh ý Chúa, được biểu lộ qua luật Phúc âm, qua giáo huấn của Giáo Hội và của các vị Bề trên… Cuộc sống tốt đẹp của chúng ta sẽ trở thành một dấu hỏi cho người chung quanh: Tại sao người Công giáo lại vui tươi, bình an như thế; gương sống đạo của chúng ta sẽ tác động những người khô khan và là một khuyến khích nâng đỡ cần thiết cho những anh em đồng đạo của chúng ta.

Ước gì chúng ta ý thức được phần đóng góp tuy nhỏ bé, nhưng hữu hiệu của chúng ta, trong việc làm cho mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu được mọi người nhận biết, và làm cho nhiều tâm hồn trở thành nơi an bình cho Chúa giáng sinh.

-------------------------------------

 

MV4-A13. Thiên Chúa là Đấng trung thành- Lm. Trần thanh Sơn

 

Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của mùa Vọng, mùa sự đợi trông Chúa đến. Đức Giêsu Kitô: MV4-A13


Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của mùa Vọng, mùa sự đợi trông Chúa đến. Đức Giêsu Kitô đã đến không chỉ là một lần trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, nhưng Ngài vẫn đang đến, đang hiện diện với chúng ta hôm nay, và nhất là Ngài sẽ lại đến trong vinh quang để phán xử toàn thể thế giới.

Chính trong tâm tình đó, trong hai tuần lễ đầu của mùa Vọng, tiếp nối với tư tưởng của những ngày cuối năm Phụng vụ, lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta tỉnh thức và sám hối để xứng đáng đón chờ ngày Đức Kitô tái lâm trong vinh quang. Còn trong Chúa nhật vừa qua, lời Chúa cho thấy Đức Giêsu vẫn đang hiện diện đồng hành với chúng ta trong mỗi nẻo đường của cuộc sống. Ngài vẫn đang đến với chúng ta qua mọi biến cố lớn nhỏ, vui buồn trong cuộc sống mỗi ngày. Và hôm nay, lời Chúa trực tiếp hướng tâm hồn chúng ta đến sự kiện có một không hai trong lịch sử: Con Thiên Chúa nhập thể làm người.

1. Từ một lời hứa: Ngay khởi đầu của lịch sử nhân loại, kể từ sau khi Nguyên tổ sa ngã, quay lưng lại với Thiên Chúa để đi vào cõi diệt vong, Thiên Chúa đã hứa sẽ ban một Đấng Cứu Thế, để nhờ Ngài mà con người chuộc lại được sự sống đã mất (x. St 3, 15). Thế rồi qua dòng lịch sử, mặc cho sự phản bội liên tục của con người, Thiên Chúa vẫn trung thành mãi và tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục đeo đuổi lấy con người (x. 2 Tm 2, 13). Từng bước một, Thiên Chúa đã chọn Abraham làm tổ phụ một dân riêng, để từ dân đó, Con Ngài được sinh ra. Và trong dân đó, Đấng Messia của Thiên Chúa đã được báo trước là sẽ thuộc dòng tộc vua David (x. 2 Sm 7, 12-16).

Thế nhưng, mặc dù đã nhận được lời hứa, con cháu của vua David vẫn không giữ được lòng trung thành như chúng ta vừa nghe thuật lại trong bài đọc một. Khi đó vào khoảng thế kỷ VIII tr. CN, các vua phương Bắc đang đem quân tiến đánh thành Giêrusalem. Vua của Giuđa lúc bấy giờ là Akhaz thay vì hoán cải đời sống và tin tưởng vào Thiên Chúa, ông lại đi cầu viện đế quốc Assyrie. Và để làm đẹp lòng vua của Assyrie, ông đã dẹp bỏ bàn thờ của Giavê Thiên Chúa, và thay vào đó là tế đàn của các thần dân ngoại. Thậm chí, ông còn theo thói tục của dân ngoại, thiêu sinh cả con ông làm của lễ toàn thiêu. Trong hoàn cảnh đó, Thiên Chúa đã cho ngôn sứ Isaia đến để kêu gọi nhà vua quay trở lại với Thiên Chúa, và đặt trọn niềm tin nơi Ngài. Chính Ngài sẽ giải thoát dân Ngài khỏi mọi sự dữ. Và như để bảo đảm cho lời của mình, vị ngôn sứ bảo nhà vua “hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi một dấu ở dưới lòng đất hay ở trời cao”.

Thế nhưng, nhà vua vẫn không chịu xin, vì sợ rằng khi nhận được dấu chỉ, điều đó sẽ chứng tỏ sự sai trái của nhà vua. Ông vẫn cố chấp và tiếp tục sống trong tội lỗi của mình. Nhưng cho dù vua không xin, thì đây, Thiên Chúa vẫn cho ông một dấu chỉ để chứng tỏ lòng trung thành của Ngài: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chính Thiên Chúa sẽ đến ở với dân Ngài và giải thoát họ khỏi mọi đe doạ của quân thù.

2. Đức Giêsu, Đấng kiện toàn lời hứa: Dấu chỉ mà ngôn sứ Isaia loan báo đã được thực hiện. Êdêkiel đã được sinh ra, và các vua phương Bắc đã lui quân. Vị vua mới này mặc dù cũng rất trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa phải là Đấng Messia. Cuối cùng, vào năm - 587, Giuđa cũng đã mất vào tay đế quốc Babilon. Như thế, lời tiên báo của ngôn sứ Isaia không dừng lại ở vua Êdêkien, nhưng còn đi xa hơn, hướng đến Đấng Cứu Thế.

Vâng, với việc nhập thể của Đức Giêsu lời loan báo của các ngôn sứ đã được thực hiện, lòng mong ước của muôn dân từ bao đời nay đã được đáp ứng. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không gò ép con người. Ngài vẫn tôn trọng tự do và mời gọi con người cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Lúc đó, Ngôi Hai đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ bởi quyền năng của Thánh Thần, nhưng Đức Maria vẫn chưa về nhà chồng. Đức Giêsu vẫn chưa chính thức được nhận vào dòng dõi vua David như lời Thiên Chúa đã hứa. Thế là Thiên Chúa đã lên tiếng mời gọi sự cộng tác của một người thuộc dòng dõi vua David, đã đính hôn với Đức Maria, có tên gọi là Giuse. Trong một giấc mơ, thiên thần Chúa đã cho Giuse biết ý định của Thiên Chúa và muốn ông đón Đức Maria về nhà, và ông sẽ trở thành dưỡng phụ của Con Thiên Chúa. Một vinh dự thật lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm thật nặng nề. Thế nhưng, vì là “người công chính”, nên trong niềm tin tưởng và phó thác, Giuse đã sẵn sàng đáp lời. Tin mừng ghi lại: “Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền”.

Từ đây, với người cha là thánh Giuse, Đức Giêsu thật sự thuộc về hoàng tộc David, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ muôn thuở. Đây đúng là một tin vui, một tin mừng vĩ đại không chỉ cho dân Chúa mà là cho toàn thể nhân loại. Cảm nghiệm điều đó, ngay trong những lời mở đầu thư gởi cho các tín hữu thành Roma, thủ đô của cả đế quốc thời bấy giờ, thánh Phaolô đã tuyên bố: “Tôi đã được kêu gọi làm tông đồ và đã được tuyển chọn để rao giảng tin mừng Thiên Chúa. Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người; Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi David, đã được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần… Đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

3. Chúng ta hôm nay: Thiên Chúa đã giữ trọn lời hứa. Ngài đã đến và ở giữa chúng ta, thế nhưng chúng ta phải làm gì để xứng đáng với vinh dự ấy? Đó cũng chính là suy nghĩ của tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca: “Ai sẽ được trèo lên núi Chúa. Ai sẽ được dừng bước trong thánh điện Người”. Và cùng với câu hỏi, vịnh gia cũng đã đưa ra cho chúng ta câu trả lời: “Đó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá”. Hay nói cách khác, đó là người sống công chính, có lòng yêu thương anh em, luôn nghĩ đến ích lợi cho người khác. Tắt một lời, đó là người có tâm hồn bác ái, yêu mến. Mà theo thánh Phaolô: “lòng mến thì khoan dung, nhân hậu; lòng mến không ghen tuông; lòng mến không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không vui mừng trước sự bất công, nhưng luôn biết chia vui cùng lòng chân thật” (1 Cr 13, 4-6).

Tóm lại, khi hướng chúng ta nhớ lại mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa, Giáo Hội không chỉ là tưởng niệm lại một sự kiện đã qua, nhưng Mẹ Giáo Hội muốn mỗi người chúng ta xác tín rằng: Con Thiên Chúa một khi đã đến thì chắc chắn Ngài sẽ lại đến, để rồi khi vui sống mầu nhiệm Giáng Sinh, mỗi người chúng ta càng thêm tin tưởng và hy vọng, sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, gian truân trong đời sống với một lòng yêu mến, cậy trông và phó thác. Nhờ đó, ngay từ bây giờ, chúng ta xứng đáng đón Con Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta trong bí tích Thánh Thể và vào ngày Ngài trở lại, chúng ta cũng được hân hoan ra đón Ngài. Amen.

-------------------------------------

 

MV4-A14. Thánh Giuse trong mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa

 

Trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, Thánh Cả Giuse đóng vai trò vô cùng quan trọng: MV4-A14


Trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, Thánh Cả Giuse đóng vai trò vô cùng quan trọng trong mầu nhiệm cứu độ. Có thể nói, Chúa Giêsu có được “nhập khẩu” vào dòng dõi vua David hay không đều phụ thuộc vào lời đáp trả của Thánh nhân. Chính vì thế, Chúa nhật 4 mùa Vọng, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Đấng Emmanuel đã đến và ở giữa dân Người như thế nào thông qua vai trò của Thánh Giuse- người Cha Công chính.

Tin mừng hôm nay khiến cho không ít người thắc mắc xung quanh một nhân vật có tên là Giuse. Thắc mắc ở đây là, ông Giuse lúc đó có biết mình bị “cắm sừng” trước khi được sứ thần truyền tin? Đây quả là một vấn nạn không dễ trả lời.

Ngày xưa, câu trả lời cho vấn nạn đó rất ư dễ thương và giản dị, vốn chỉ vỏn vẹn có mỗi hai từ: không biết! Họ lý luận rằng, vì Tin mừng không cho biết Thánh Giuse có biết Đức Maria có thai là do đâu, nên chúng ta cũng… không biết!

Thế nhưng, Chúa ban cho con người có trí hiểu nên đâu chịu câu trả lời dễ thương và giản dị như vậy. Chính vì thế mới có lời giải đáp mang tính logic và hiện đại hơn. Dựa vào câu: “Ông Giuse, là người công chính, không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo”, họ lý luận rằng, chắc chắn Thánh Giuse thấy có gì “khang khác” nơi người bạn đời của mình, ông tự điều tra và phát hiện người bạn đời của mình “hổng biết sao” lại đang mang thai. Và vì thế, ông hoang mang, đau khổ, dự tính bỏ bà cách kín đáo để khỏi làm nhục cho bà. Chính vì thế, sứ thần đến truyền tin cho ông là vì vậy. Đây là lối giải thích khá phổ thông, nhưng vẫn chưa sáng tỏ gì cho lắm.Các nhà chú giải Kinh thánh thì đưa ra một lối giải thích khác xem ra dễ hiểu và sáng sủa hơn. Họ cho rằng, Đức Maria đã chia sẻ với Thánh Giuse về sứ mạng cao trọng này. Và do đó, thánh Giuse đã biết trước khi hai người về chung sống rằng Đức Maria mang thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Chúng ta thấy lối lý giải này thích hợp với bản văn Tin mừng. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy nơi Tin mừng Luca, Đức Maria sau khi nhận lời sứ thần truyền tin, Mẹ đã không giữ niềm vui trọng đại này cho riêng mình, Mẹ đã đem tin vui đó loan báo cho người chị họ là bà Êlisabét (x. Lc 1, 39-45). Người chị họ ở xa mà còn được Mẹ loan báo, thì chẳng lẽ Mẹ lại giấu vị lang quân của mình?

Mặt khác, chúng ta thấy, sứ thần hiện ra với Giuse và nói với ngài rằng “đừng ngại” khi đón Đức Maria về nhà mình. Thánh Giuse tại sao lại ngại nếu người đã không biết trước việc Đức Mẹ mang thai. Mà nếu biết bào thai là kết quả do Đức Mẹ muốn người “bị cắm sừng” thì đó không phải là lý do để người phải ngại. Bởi luật Dothái cho đi tố cáo mà. Thế thì điều gì khiến Thánh Giuse ngại? Thánh Giuse ngại là bởi vì người được biết trong việc này có sự can thiệp của Thiên Chúa, mà người lại quá ư hèn mọn không xứng đáng để lãnh nhận niềm vinh dự cũng như trách nhiệm trong kế hoạch trọng đại ấy.

Lý giải như thế, hiệu quả tiếp theo là chúng ta sẽ dễ dàng hiểu vì sao Kinh thánh lại gọi Thánh Giuse là “người công chính”. Công chính của Thánh Giuse ở đây chắc chắn không phải ở chuyện giữ luật Môsê đến từng chi tiết, bởi nếu như thế, hẳn người đã làm thủ tục để đưa Đức Mẹ ra toà. Công chính ở đây cũng không phải là việc Thánh Giuse không muốn làm cha “bất đắc dĩ”. Thánh Giuse Công chính là bởi vì người thấy mình không xứng đáng làm cha một đứa trẻ mà ông biết nguồn gốc xuất phát không do con người mà do thần linh. Làm chồng của một người mà ông biết là bà đã được hiến thánh cho Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ.

Lời Ngôn sứ Isaia nói về Đấng Emmanuel hoàn toàn được ứng nghiệm khi Thánh Giuse đón Đức Maria về nhà mình. Cũng chính từ đây, Chúa Giêsu đàng hoàng bước vào dòng họ vua David, tiếp tục làm nên những kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Được như thế, nhờ có công rất lớn của Cha Thánh Giuse.

Lễ Giáng Sinh gần kề, là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại vai trò cao trọng của Thánh Cả Giuse trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Đồng thời cũng là lúc để mỗi người trong chúng ta vất bỏ những vướng bận, những hận thù chia rẽ để đồng thanh cất tiếng tung hô: “Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy đến!”

-------------------------------------

 

MV4-A15. Emmanuel- Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta

 

John P., một linh mục Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở: MV4-A15


 John P., một linh mục Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như "nước đổ lá môn."

Một lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ rời thành phố. Ai về nhà nấy.

Trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo vang phá tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu giây bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào:

- "Alô, con muốn xưng tội với cha. Con muốn trở về cùng Giáo hội."

- "Chuyện gì xảy ra cho anh vậy?" Vị linh mục hỏi lại. Ngài tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình ra đi.

Nhưng anh ta trả lời:

- "Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động lòng con rất nhiều."

Vị linh mục ngạc nhiên:

- "Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để gặp riêng anh?"

- "Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: "Chúa ở với các con."

Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa:

- "Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa?"

Anh thanh niên chậm rãi giải thích:

- "Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình."

Một câu nói không phát ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục xã giao thông thường thúc đẩy, nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả năng thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của danh hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Trong một Thánh lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: "Chúa ở cùng anh chị em," nhưng thử hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước sự kiện này? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện có cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên Chúa hiện hữu thật sự trong cuộc đời của mình? Tôi không có, phải chăng vì đã chưa đọc và nghe với tất cả tâm hồn?

Nếu thấu hiểu được thế nào là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta," chắc chắn sẽ không có một tác nhân gì có thể làm cho con người phải run sợ bất an hay ưu sầu lo lắng.

Ngày xưa, khi Môisen đang chạy trốn người Aicập, tránh né bàn tay ác độc của Pharaô, Giavê đã hiện ra và bảo ông trở về đất Ai để giải thoát dân Israel. Trước một trách nhiệm lớn lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như thế, Moisen can đảm lên đường, vì Thiên Chúa đã nói với ông: "Ta sẽ ở với ngươi" (Xh 3:12).

Rồi khi Giêrêmia được Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các dân tộc, ông đã tìm cách thoái thác: "Tôi đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ như một đứa trẻ con." Nhưng Chúa nói: "Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi" (Gr 1:8). Với lời hứa ấy của Giavê, Giêrêmia lên đường.

Trong Tân ước, khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao giảng Tin mừng. Sứ mạng chất đầy gian nan, không khác chi như chiên con đi giữa sói rừng. Ấy thế mà sự bảo đảm lại chỉ là một lời hứa: "Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28:20). Vậy rồi các ông ra đi.

Sẽ không lời hứa nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con người cho bằng lời hứa "ở cùng người yêu," và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt cho bằng được "sống chung với người yêu." Một chàng thanh niên có thể hứa với người con gái: "Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm quà Giáng sinh; anh sẽ cố học thành tài để em không phải lam lũ sau này...," nhưng nếu không có lời hứa "ở cùng em" thì vô ích hết. Cao điểm hạnh phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ không phải nơi chiếc áo cưới soirée lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi chiếc nhẫn cưới hay lời chúc tụng của thân hữu đôi bên, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước đó họ hứa "ở cùng nhau suốt đời."

Một linh mục đã nhận xét: "ở cùng" chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến "ở cùng."

Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến "ở cùng" con người, mới có danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người, và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.

Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Để cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ không nỗi đợi chờ hay một thoả mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.

Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi bạn và tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người.

Như Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên--giữa Tạo hoá và loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình--chúng ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để việc tôi "ở cùng" tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

-------------------------------------

 

MV4-A16. Đừng sợ – Lm. JB. Nguyễn minh Hùng

 

Lần giở lại những trang Tin Mừng, bạn và tôi sẽ bắt gặp ở đó đến bốn cuộc truyền tin của Thiên: MV4-A16


Lần giở lại những trang Tin Mừng, bạn và tôi sẽ bắt gặp ở đó đến bốn cuộc truyền tin của Thiên Chúa nói với loài người, liên quan đến mầu nhiệm Con Chúa giáng sinh. Ba cuộc truyền tin được ghi trong Tin mừng theo thánh Luca và một trong Tin mừng theo thánh Mathêu. Cả bốn cuộc truyền tin đều do thiên thần mang sứ điệp của Thiên Chúa đến cho con người. Quan trọng hơn, cả bốn cuộc truyền tin, thiên thần đều có chung một lời trấn an: “Đừng sợ!”

Đối với ông Giacaria: “Giacaria, đừng sợ! Vì lời cầu của ngươi đã được chấp nhận”. Sau đó, thiên thần cho biết ông sẽ có một con trai như lòng mong ước. Người con này sẽ nên cao trọng vì “nó sẽ làm lớn trước mặt Chúa” (Lc 1, 5- 20).

Đối với Đức Maria: “Maria, đừng sợ! Vì Người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa”. Qua lời thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Mẹ làm mẹ Đấng Cứu Thế (Lc 1, 26- 38).

Đối với các mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại”. Qua lời thiên thần, các mục đồng là những người được Thiên Chúa báo tin mừng giáng sinh trước tiên (Lc 2, 8- 15).

Đối với thánh Giuse: “Giuse, đừng sợ! Vì thai nơi bà là do Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 18- 24).

Hôm nay Chúa nhật áp lễ Giáng sinh, Giáo Hội muốn ta suy niệm cuộc truyền tin cho thánh Giuse. Để rút ra cho mình bài học Thánh Kinh từ câu chuyện truyền tin này, tôi lại rút ra bài học từ lời của thiên thần: “Đừng sợ”.

Lần giở tiếp những trang Tin Mừng, ta sẽ phát hiện rất nhiều lần Chúa bảo các môn đệ “đừng sợ”. Khi căn dặn các ông làm chứng cho Người, Chúa nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 28). Trong bữa tiệc ly, ngay trước giờ tử nạn của mình, Chúa căn dặn: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 27). Sau khi sống lại, ban bình an hoặc trấn an môn đệ “Đừng sợ! Hãy đi báo tin cho anh em của Thầy” ( Mt 28, 10).

“Đừng sợ”! Lời Chúa ngày xưa nói với Giacaria, Đức maria, các mục đồng, thánh Giuse, và các môn đệ. Ngày nay lời này của Thiên Chúa cũng đang là lời nhắn gởi bạn và tôi. Bạn có sợ không? Riêng tôi, tôi thấy bạn và tôi sống trong cuộc đời này mà như chìm trong nỗi sợ. Tôi không bi quan đâu, sự thật đấy. Ngày nhỏ chúng ta sợ ma, sợ đòn. Lớn hơn một chút: sợ học tập thua sút bạn bè. Lớn hơn một chút nữa: sợ người yêu bội phản. Ngày ta lập gia đình, cũng là ngày ta sợ mình không tròn trách nhiệm của một người sống đời gia đình. Và cả cuộc đời ta, nỗi sợ lớn nhất, có lẽ là sợ chết.

“Đừng sợ, hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Nếu tôi nhớ không lầm, thì ngay sau khi làm giáo hoàng, đức Gioan Phaolô II đã mở đầu triều đại của mìn bằng một sứ điệp với những lời lẽ như thế. Trải dài trên 20 năm làm giáo hoàng của mình, Đức thánh cha không ngừng nhắc đi nhắc lại với thế giới: “Đừng sợ!”. Xoay quanh hai tiếng “đừng sợ”, Đức thánh cha mở ra cho ta thấy có những cái sợ rất nghịch lý. Lẽ ra ta không được sợ, lẽ ra ta phải xây dựng nó, thì ta lại sợ. Bằng chứng là hai sứ điệp ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 15 và lần thứ 16, Đức thánh cha nhắc tới nỗi sợ nghịch lý này: “Các con đừng sợ trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới” (ngày QTGT lần thứ 15, số 3), và các con đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi” (ngày QTGT lần thứ 16, số 6). Nên thánh mà sợ? Đi con đường của Chúa mà sợ? Đúng lắm! Vì đi trên con đường của Chúa để được nên thánh là khổ nạn, là từ bỏ bản thân, là sống các giá trị Tin Mừng như nghèo khó, khiêm nhu, hiền từ, vâng lời… Suy nghĩ như thế, cho tôi cảm nhận trọn vẹn lời của Đức thánh cha: “Các con đừng sợ nen thánh, đừng sợ đi trên con đường của Chúa”. Đức thánh cha chắc phải có một cảm nghiệm thiêng liêng sâu đậm lắm, người mới vượt lên trên sự sợ hãi, tông du khắp thế giới làm cho nhiều tâm hồn thay đổi, Lời Chúa được loan báo.

Nhưng chắc chắn, khi nói tới sợ hãi, thì cái sợ của chúng ta không chỉ là sợ ma, sợ học thua sút, sợ mất người yêu, sợ không tròn trách nhiệm gia đình… mà nỗi sợ còn lớn hơn nhiều. Đó là nỗi sợ trước một thế giới mà giá trị của Tin Mừng bị xem nhẹ. Một thế giới màvật chất đang lên ngôi, quyền lực đang thắng thế, tự do tình dục đang được ưa chuộng, quyền của trẻ thơ, của thai nhi bị tước mất. Có khi chính những người cha, người mẹ lại tước mất quyền sống của con mình. Một thế giới mà ngòi nổ của khủng bố, chiến tranh lúc nào cũng sẵn sàng. Sự bình an của tôi, của anh chị em, của cả nhân loại luôn bị đe dọa. Ngay trên quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà ngày xưa Chúa sinh ra, lại không có được một thánh lễ trong đêm sinh nhật Chúa, vì người ta đang gieo rắc bạo lực và chiến tranh…

Trước viễn cảnh của thế giới như thế, người Kitô hữu lại được mời gọi hãy sống các giá trị của Tin Mừng. Nghĩa là phải ngay thẳng trong một thế giới nhiều gian dối, yêu thương trong những hận thù, có tinh thần nghèo khó trong một xã hội đề cao tiền của, sống tha thứ giữa những chống đối và bạo lực… Sống như thế chỉ toàn là thiệt thòi thôi. Bởi đó ai mà không sợ. Tôi cũng sợ lắm bạn ạ! Nhưng chính trong lúc này đây, chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, bạn và tôi được mời gọi “đừng sợ”, để có thể sống trong bình an của ngày Giáng sinh. Để có bình an, bạn và tôi hãy đặt hết niềm tin vào Chúa. Tin rằng Chúa sẽ thực hiện chương trình của Người theo ý mà Người muốn. Và xin cho Thánh Ý được thể hiện nơi trần gian trong mọi hoàn cảnh của thế giới, của nhân loại, của Giáo Hội, và của mỗi người. Tin nơi Thiên Chúa là gói trọn cuộc đời mình trong tay Người, để mặc Ý Chúa được thể hiện, chắc chắn ta sẽ có bình an. Tôi xin mượn lời thiên thần lặp lại một lần nữa: “Bạn và tôi, đừng sợ!”.

-------------------------------------

 

MV4-A17. Điều xảy đến bất ngờ - Lm. Nguyễn ngọc Long

 

Khi sống trong trông mong chờ đợi, mà bỗng dưng xảy đến điều gì bất ngờ mang lại sự may lành: MV4-A17


Khi sống trong trông mong chờ đợi, mà bỗng dưng xảy đến điều gì bất ngờ mang lại sự may lành thích thú hơn điều mong đợi. Lúc đó lòng ta tràn đầy niềm vui hạnh phúc.

Nhưng trái lại, khi điều xảy đến bất ngờ, không những không như mong đợi mà còn đưa đến điều lo âu suy nghĩ. Lúc đó, ta mang tâm trạng buồn lo thất vọng. Thánh Giuse sau khi kết hôn với Đức Mẹ Maria, cũng đã trải qua điều xảy bất ngờ mang lại nhiều suy nghĩ bối rối.

Ông Giuse kết hôn với cô Maria, nhưng ông liền khám phá ra: Cô Maria đã có thai. Điều này xảy đến thật bất ngờ ngoài điều ông trông chờ... Bao nhiêu câu hỏi diễn ra trong tâm trí ông và ông không tìm ra câu giải đáp: Tại sao cô Maria lại mang thai trước khi cưới hỏi, với ai vậy? Phải chăng cô không trung tín với người chồng của cô, là ta đây? Bây giờ phải làm sao? Cô đã bất trung với ta, thì ta bỏ cô vậy, mặc cô muốn sống sao như ý cô?

Ông âm thầm suy nghĩ ngày đêm về chuyện này, thì lại một bất ngờ xảy đến nữa. Thiên thần Chúa hiện đến với ông trong một giấc mơ và báo cho ông biết: con trẻ trong bào thai cô Maria là Con Thiên Chúa. Cô Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần tác động. Con đừng sợ. Đó là chương trình của Thiên Chúa xuống trần gian làm người!

Ông Giuse tuy là người đạo đức, có lòng yêu mến kính sợ Thiên Chúa, nhưng làm sao ông có thể hiểu nổi điều xảy đến bất ngờ vượt quá sức tưởng tượng của một bác thợ mộc chất phác nơi miền thôn quê! Dẫu vậy, lần này thì ông không hồ nghi. Ông âm thầm chấp nhận cô Maria và những lời Thiên Thần nói cho ông về Con Thiên Chúa và để bụng suy nghĩ tiếp về chương trình dự định của Thiên Chúa. Ông tin vào sự quan phòng của Người.

Điều xảy đến bất ngờ lần này mang lại cho ông sự bình an trong tâm hồn.

Không chỉ Đức Mẹ Maria và ông thánh Giuse sống trải qua những điều bất ngờ về chương trình của Thiên Chúa, nhưng còn có những người khác nữa: các mục đồng. Họ là những người quê mùa thất học, suốt đời chỉ sống với súc vật ngoài cánh đồng cỏ. Bỗng dưng họ cũng nhận được điều xảy đết bất ngờ. Thiên thần Chúa hiện đến báo tin cho họ: “Các Bạn đừng sợ! Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sinh hạ trong chuồng súc vật của các Bạn. Các Bạn hãy đến mà xem!”

Họ ngạc nhiên nhưng trong tâm trạng vui mừng. Vì điều bất ngờ xảy đến mang lại cho họ nhiều thích thú lạ lùng. Họ đâu có thể ngờ bỗng dưng có khách cao trọng từ trời cao đến thăm và sống trong nhà mình. Và từ đó làm biến đổi cuộc sống của họ: từ người chăm sóc thú vật thành người được nhìn thấy Thiên Thần của Chúa, được đến thăm viếng trò truyện với Con Trẻ Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa.

Không chỉ với biến cố Thiên Chúa xuống thế làm người mới có những điều xảy bất ngờ, nhưng điều xảy ra bất ngờ thường có ngay trong cuộc đời mỗi người. Điều đó có thể là điều may lành an vui, nhưng cũng có thể là điều gây ngạc nhiên bỡ ngỡ xa lạ đến độ lo âu suy nghĩ bối rối mất bình an.

Thông thường ai cũng mong điều xảy đến bất ngờ mang lại niềm vui hạnh phúc hơn điều mang đến sự bất an trong cuộc sống. Như cuộc đời thánh Giuse đã trải qua, đôi khi những điều xảy ra bất ngờ làm lo âu suy nghĩ bối rối, không mấy ai muốn chấp nhận, lại là tín hiệu quan trọng mang tin lành bình an cho con người.

Những đau khổ, bệnh tật, điều gây bối rối, điều trái ý gây khó chịu là những điều xảy đến bất ngờ và chẳng ai muốn có. Nhưng nếu như thánh Giuse với một tâm hồn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, mà vui lòng chấp nhận, điều đó có thể trở nên giá trị tốt đẹp cho đời sống chính mình và người khác nữa.

Đức Mẹ Maria cũng đã vui lòng chấp nhận sứ điệp Thiên Thần Chúa mang đến bất ngờ ngoài điều mong muốn cho đời mình, nên Chúa mới giáng sinh xuống trần gian. Ngài mang ánh sáng tình yêu từ trời cao xuống cho con người. Và qua biến cố đó, nhân loại mới có ngày lễ mừng trọng đại: Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên Chúa.

-------------------------------------

 

MV4-A18. Giuse, con vua Đavít

 

Theo C.G.Jung, một nhà tâm lý nổi tiếng của Tây phương, giấc mơ bày tỏ chiều kích vô thức của: MV4-A18


Theo C.G.Jung, một nhà tâm lý nổi tiếng của Tây phương, giấc mơ bày tỏ chiều kích vô thức của tâm trí con người, hướng về biến cố tương lai, và bộc lộ lãnh vực bị quên lãng nơi cá tính đương sự. Giấc ngủ là nhu cầu của thân xác hơn là của linh hồn. Do đó có thể nói rằng khi ngủ linh hồn vẫn tiếp tục sinh hoạt qua tiềm thúc, tức là giấc mơ. Tuy nhiên vì linh hồn không được nối kết chặt chẽ với thế giới linh thiêng, giấc mơ chỉ là sự ráp nối hỗn tạp những gì hình ảnh tồn đọng trong trí nhớ, hầu hết không có ý nghĩa gì.

Trong Thánh Kinh, giấc mơ đóng vai trò khá quan trọng. Tổ phụ Giuse đã bị anh em chế nhạo là “kẻ mơ màng” vì ông đã kể ra mình nằm mơ thấy bó lúa của các anh em cúi xuống thần phục bó lúa của mình; và trong một giấc mơ khác ông thấy mặt trời, mặt trăng, và 11 ngôi sao cúi mình trước mặt ông (Gn 37:5-9). Đây là điềm báo trước ông sẽ lên chức tể tướng của nước Ai cập. Ở đây giấc mơ làmạc khải bí nhiệm của Thiên Chúa về tương lai của đương sự. Thiên Chúa hé mở một phần chương trình của Ngài cho con người biết. Tổ phụ Giuse là người được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu nước Ai cập và gia đình khỏi nạn đói. Ông là người công chính, biết kính sợ Chúa, nên tâm hồn nhạy cảm dễ đón nhận mạc khải của Thiên Chúa.

Vào Chúa nhật 4 mùa Vọng, Giáo hội muốn giới thiệu một nhân vật có vai trò quan trọng trong mầu nhiệm Thiên Chúa Giáng sinh; đó là thánh Giuse. Ngài được Phúc âm giới thiệu là người công chính, người sống gần Thiên Chúa. Thánh Giuse đã đính hôn Đức Mẹ, nhưng không hề biết Mẹ thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Nên khi thấy có dấu hiệu khác thường nơi Đức Mẹ, thánh Giuse bị bối rối không biết làm sao, nên định âm thầm rút lui có trật tự. Thiên Chúa đã dùng giấc mơ để mạc khải cho thánh Giuse vai trò của thánh nhân trong chương trình cứu chuộc nhân loại. Khi hiện ra trong giấc mơ, thiên thần đã gọi: “Hỡi Giuse, con vua Đavít”. Tuy thánh Giuse chỉ là cha nuôi, nhưng theo truyền thống của Do thái, người cha xác định dòng dõi của con cái. Chúa Kitô được tiên báo sinh ra trong dòng dõi vua Đavít. Ngài là Vua theo dòng dõi vương giả chính tông của Do thái. Sứ mệnh cứu thế của Ngài gắn liền với uy quyền của một Vị vua trên hết các vua.

Thánh Giuse là nhân vật quan trọng trong biến cố Chúa Giáng sinh, nhưng Phúc âm không ghi lại lời nói nào của Ngài. Thánh Giuse tỏ ra là người quản gia trung tín săn sóc hai kho tàng quí giá nhất trần gian đó là Chúa Giêsu hài nhi và Mẹ Maria. Tinh thần âm thầm phục vụ như người tôi tớ của Thiên Chúa là tiếng nói sâu xa mà thánh Giuse để lại cho nhân loại.

Trong mùa Vọng, Giáo hội kêu gọi các tín hữu chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến với tâm tình chờ đợi như người đầy tớ gọi chủ đến bất ngờ, như những trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể. Thánh Giuse chính là gương mẩu để chúng ta học hỏi. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình khiêm tốn, âm thầm, tận tụy, và nhất là sống liên kết với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Bầu khí ồn ào của những ngày lễ Giáng sinh khiến chúng ta xa rời ý nghĩa chân thực của Ngày Lễ. Chúng ta vui mừng nhưng không phải bằng cách say sưa, chè chén, nhậu nhoẹt linh đình. Chúng ta vui mừng bằng sự chia sẻ của ăn, áo mặc, với những người nghèo khổ; bằng những nụ cười với người không quen biết, không ưa thích; bằng lời nói tốt cho người súc phạm đến mình; bằng lòng rộng rãi bao dung với con cái; bằng những lời nói, cử chỉ yêu thương, biết ơn đối với cha mẹ; và hơn hết bằng lời cầu nguyện cho thế giới được hòa bình, cho những tấm lòng hận thù bị tan biến, thay vào đó là những trái tim đầy ắp tình người.

-------------------------------------

 

MV4-A19. Emmanuel, Thiên Chúa ở với loài người


Mt 1,18-24

A. Hạt giống...

 

Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu Chúa Cứu Thế sắp sinh ra là Emmanuel, Thiên Chúa ở với: MV4-A19


Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu Chúa Cứu Thế sắp sinh ra là Emmanuel, Thiên Chúa ở với loài người (Câu 23). Bài Tin Mừng cũng giới thiệu một người đóng vai trò tích cực cho việc Ngài sinh ra: Thánh Giuse.

1. Phần đóng góp của Thánh Giuse vào công trình nhập thế của Chúa Giêsu là: a/ Cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Đavít, nhờ thế thực hiện đúng lời Thiên Chúa đã hứa xưa từ thời Cựu Ước (Câu 20b: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít” ; Câu 21 “Ông sẽ đặt tên cho con trẻ”: Thánh Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu nghĩa là nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý) ; b/ Bảo bọc Đức Maria và Chúa Giêsu (câu 20c “Đừng ngại đón Maria về ; câu 24 “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như lời sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” ; câu 25 “Và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”)

2. Về ý định ban đầu của Thánh Giuse muốn bỏ đi cách âm thầm kín đáo, các chuyên viên Thánh Kinh còn chưa nhất trí nhau ở một số chi tiết. Nhưng mọi người đều nhất trí về động cơ hướng dẫn mọi hành động của thánh Giuse (ý định ban đầu, và quyết định ở lại sau đó), đó là vì “Giuse là người công chính”. Một giải thích rất đáng lưu ý là: Ban đầu, Giuse biết mình không phải là cha của đứa bé nên vì công chính mà không dám nhận quyền làm cha, bởi đó định âm thầm ra đi (Công chính = không xâm phạm quyền lợi của người khác) ; sau đó khi biết ý Thiên Chúa muốn mình bảo bọc Đức Maria và Chúa Giêsu thì, cũng vì công chính nên Ngài đã ở lại (Công chính = thi hành ý Thiên Chúa).

3. Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Ngài đã nhập thề sống chung với loài người, bất chấp mọi nghèo nàn, túng thiếu, hèn hạ, khổ sở... Yêu thương là chia vui sẻ buồn, chia sẻ thân phận...

B.... nẩy mầm.

1. Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”: Chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Đức Giêsu Kitô. Muốn cứu người, không phải chỉ đứng xa chỉ tay năm ngón, hoặc vẽ kế hoạch rồi cho người khác thực hiện. Nhưng là chia sẻ thân phận, đồng hành, và cuối cùng là chịu thiệt vào thân, leo lên cây thập giá. Thập giá là bước cuối cùng của nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu Kitô. - Lạy Chúa, xin dạy con biết dấn thân phục vụ như Chúa.

2. Giuse đã thay đổi kế hoạch của mình để theo được ý Chúa. Những nhận định và tính toán của ta, dù đầy thiện chí, nhiều khi lại không hợp với chương trình và ý định của TC. Người công chính là người biết bỏ ý riêng, biết thi hành ý Chúa, biết sống lời Fiat như Mẹ Maria, biết sống câu ‘Xin đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha” như CG.

3. Với con mắt người đời, tình yêu của đôi nam nữ Giuse và Maria xem ra chỉ là chuyện bình thường. Nhưng với kế hoạch của TC, với sự quảng đại đáp trả ơn Chúa gọi, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã góp phần cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. - Lạy Chúa, xin cho con biết dùng tình cảm và tình yêu của con để phục vụ nước Chúa.

4. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như thiên thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24)

Tên thánh của tôi là Giuse. Tôi rất tự hào về điều đó và thường tự hỏi “Mình phải làm thế nào để trở nên giống thánh bổn mạng ?” Thánh Giuse đã làm như thiên thần dạy là đón nhận Đức Maria. Ngài chấp nhận cuộc sống âm thầm để phục vụ Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Còn tôi thì sao ? Một lần, tôi nhờ mẹ giặt hộ một bộ quần áo để đi dự tiệc. Vì bận việc, mẹ tôi đã quên. Tôi cằn nhằn và bỏ luôn buổi tiệc… Ngay cả chuyện nhỏ như vậy mà tôi chưa sẵn sàng vui vẻ đón nhận thì kể gì đến những chuyện lớn lao.

Xin Thánh Giuse dạy con biết khiêm tốn đón nhận và thực thi ý Chúa cách trọn vẹn như Ngài. (Epphata)

5. Một cha giảng đã nói với các gia trưởng trong một cuộc tĩnh tâm rằng: “Thánh Giuse đáng là mẫu gương cho các gia trưởng noi theo”. Một ông lên tiếng: “Hoàn cảnh của thánh Giuse rất khác hoàn cảnh của tôi: Ngài là một vị thánh, vợ Ngài không có tội lỗi nào, và con Ngài là Con Thiên Chúa. Vậy làm sao tôi bắt chước sống theo Ngài được ?” Cha giảng vặn lại: “Thế vợ ông có mang thai trước khi về với ông mà ông không biết bào thai ấy là con của ai không ? Và con ông có lạc mất khỏi gia đình ông suốt 3 ngày mà ông không biết nó đang ở đâu không ?” Và người gia trưởng ấy không phản đối nữa. (Mark Link, Vision 2000).

6. Sinh con thì dễ hơn là làm cho con coi mình là cha của nó (lấy ý của ĐGH Gioan 23).

7. Mầm khác:

-------------------------------------

 

MV4-A20. Rắc rối của đọan Kinh Thánh


Matthêu 1, 18-24

 

Những mối liên hệ trong đoạn Kinh Thánh này thật rắc rối. Trước hết, Giuse được nói là hứa: MV4-A20


Những mối liên hệ trong đoạn Kinh Thánh này thật rắc rối. Trước hết, Giuse được nói là hứa hôn với Maria, sau đó lại nói chàng định âm thầm ly dị nàng, và kế đó Maria lại được gọi là vợ Giuse. Những mối liên hệ này tiêu biểu cho thể thức hôn nhân thông thường của người Do thái . Trong thủ tục hôn nhân Do thái có ba giai đoạn:

1. Hứa hẹn khi đôi bạn còn nhỏ, chưa biết nhau, sự hứa hẹn thường do cha mẹ hoặc do người chuyên làm mai mối. Hôn nhân là một việc vô cùng quan trọng nên không thể để tùy thuộc đam mê và tình cảm của con người được.

2. Đính hôn: Đính hôn tức là xác nhận sự hứa hẹn khi trước. Vào lúc này, sự hứa hẹn do cha mẹ đôi bên chủ xướng hoặc người mai mối thực hiện có thể bị xóa bỏ, nếu người nữ không bằng lòng. Nhưng một khi đã đính hôn thì đôi bên bị ràng buộc với nhau cách tuyệt đối. Thời gian đính hôn kéo dài chừng một năm. Trong năm đó, đôi bạn được kể là vợ chồng dù họ không có những quyền của chồng và vợ. Nếu muốn chấm dứt thì chỉ có cách duy nhất là ly dị. Trong luật pháp Do thái chúng ta thường thấy câu nói hơi lạ này: người con gái có vị hôn phu chết trong năm hứa hôn được gọi là “trinh nữ góa”. Maria và Giuse đang ở trong giai đoạn này, họ được hứa gả cho nhau. Nếu Giuse muốn chấm dứt sự hứa hôn trên thì không thể làm gì khác hơn là ly dị, và theo luật thì trong năm hứa hôn đó Maria được kể như là vợ chàng.

3. Giai đoạn thứ ba là hôn nhân chính thức được cử hành vào cuối năm hứa hôn. Nếu chúng ta hiểu biết phong tục cưới gả thông thường của người Do thái  thì mối quan hệ trong khúc sách này hoàn toàn là bình thường và rõ ràng.

Chính trong giai đoạn này Giuse được báo tin là Maria đã mang thai và con trai đó được dựng thai bởi phép Chúa Thánh Thần, và phải đặt tên con trai đó là Giêsu. Tiếng Hi lạp Giêsu tương đương với tên Do thái là Joshua (Giôsuê). Giôsuê có nghĩa Chúa-Giavê-là-sự-cứu-rỗi. Nhiều năm trước đó tác giả thánh vịnh đã nghe Thiên Chúa phán: “Chính Người sẽ cứu chuộc Is-ra-en , cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn” (129,8), và Giuse được báo cho biết con trẻ sinh ra, lớn lên sẽ làm Chúa Cứu Thế, Đấng sẽ cứu dân mình khỏi tội. Đức Giêsu được sinh ra để là Đấng Cứu Thế hơn là để làm Vua. Ngài đã bước vào thế gian không phải vì Ngài nhưng vì loài người và để cứu rỗi loài người chúng ta.

Khúc sách này cũng cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã được sinh ra do tác động của Chúa Thánh Thần, và do một trinh nữ. Đây là một sự sinh ra đặc biệt, nhưng “không có gì mà Thiên Chúa không làm được”. Chúng ta cần tìm hiểu ở đây”thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần’ do thiên sứ mạc khải cho Giuse để hiểu biết sứ mệnh của Đấng sẽ được sinh ra.

a) Chính Chúa Thánh Thần đem chân lý đến cho loài người: chính Chúa Thánh Thần dạy các tiên tri điều phải nói, chính Thần của Thiên Chúa dạy cho loài người điều phải làm, chính Thánh Thần trải qua các thời đại và thế hệ đã đem chân lý của Thiên Chúa đến với loài người. Nói khác đi, Chúa Giêsu có thể cho chúng ta biết Thiên Chúa như thế nào, Ngài muốn chúng ta ra sao? Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa như thế nào. Trước khi Chúa Giêsu đến, con người chỉ có một ý niệm mơ hồ và sai lạc về Thiên Chúa , cùng lắm họ chỉ có thể đoán chừng và dò dẫm. Nhưng Chúa Giêsu đã phán: “Ai thấy Ta tức là Thấy Cha” (Ga 19,4). Trong Chúa Giêsu ta thấy tình yêu, lòng thương xót, tấm lòng tìm kiếm, sự thánh thiện của Thiên Chúa như chưa từng thấy ở nơi nào trong thế gian. Khi Chúa Giêsu đến thì giai đoạn đoán mò đã qua và giai đoạn biết chắc sẽ đến. Trước khi Chúa Giêsu đến, con người không biết sự thiện chân chính là gì, chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là con người chân chính, sự thiện chân chính và sự vâng phục chân chính thánh ý của Thiên Chúa . Chúa Giêsu  đã đến  để chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa và về loài người.

b) Chính Chúa Thánh Thần làm cho loài người nhận ra chân lý: Thánh Thần không chỉ đem chân lý của Chúa đến cho loài người, nhưng cũng chính Thánh Thần dạy cho loài người có thể nhận ra chân lý. Cũng vậy, Chúa Giêsu mở mắt cho con người nhận ra chân lý. Con người bị mù bởi chính sự ngu dốt của mình và họ bị thành kiến dẫn đi sai lạc. Tội lỗi và đam mê làm nhãn quan và tâm trí họ tăm tối. Chúa Giêsu có thể mở mắt cho chúng ta thấy được chân lý. Tiểu thuyết gia M.Locke có kể chuyện về một người đàn bà giàu có, suốt nửa đời nàng dành cho các chuyến du lịch thăm các thắng cảnh và các phòng triển lãm tranh trên khắp thế giới. Nàng mệt mỏi, buồn chán, nhưng rồi nàng gặp một người Pháp tuy không giàu nhưng có một kiến thức uyên bác và lòng yêu cái đẹp tha thiết. Người ấy đến với nàng và tình bạn này đã làm mọi sự hoàn toàn đổi khác. Nàng nói với chàng: “Tôi chưa bao giờ biết vạn vật như thế nào cho đến khi anh dạy tôi cái nhìn chúng”. Đời sống cũng hoàn toàn khác hẳn khi Chúa Giêsu dạy ta cách nhìn đời. Khi Chúa Giêsu ngự vào lòng, mắt chúng ta sẽ thấy sự việc hoàn toàn đổi khác, vì Ngài mở mắt để chúng ta có thể thấy chúng cách xác thực.

c) Chính nhờ  Thánh Thần mà Thiên Chúa hoàn thành công cuộc sáng tạo. Ngay từ đầu Thánh Thần Chúa vận hành trên mặt nước và trên cảnh hỗn mang để tạo thành thế giới (Kn 1,2). Tác giả thánh vịnh nói: "Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi chúa thở tạo thành muôn tinh tú" (32,6). Cả tiếng Hêbơrơ “ruach” lẫn tiếng Hi lạp “pneuma” đều dùng chỉ vừa “hơi thở” vừa “thần linh”: sinh khí, “Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên” (103,30). Gióp nói: “Thần của Đức Giavê đã sáng tạo tôi, hơi thở của Đấng Toàn năng đã ban cho tôi sự sống” (33,4). Thánh Thần là Đấng tạo dựng thế gian và là Đấng ban sự sống. Cũng vậy, trong Chúa Giêsu có quyền năng sáng tạo và quyền năng ban sự sống của Thiên Chúa cho thế gian. Trong Chúa Giêsu chính quyền năng và sự sống của Thiên Chúa đã vào trong thế gian. Chính quyền năng đó đã khiến cảnh hỗn loạn thuở ban sơ trở nên trật tự, và chính quyền năng đó đã đem lại trật tự cho cuộc sống rối loạn của chúng ta. Chính quyền năng đó hà sinh khí vào trong vật không có sự sống, cũng đến để hà sinh khí vào trong sự yếu đuối hư hỏng của chúng ta. Có thể nói rằng chúng ta không thật sự sống cho đến chừng nào Chúa Giêsu ngự vào đời sống chúng ta.

d) Thánh Thần còn đặc biệt liên kết với việc tái tạo: tiên tri Êzêchiel vẽ bức tranh ảm đạm của thung lũng đầy xương khô, rồi ông tiếp tục mô tả những hài cốt khô đó đã sống lại như thế nào, kế đó ông nghe Chúa phán: “Ta đặt Thần Khí Ta trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống” (37,14). Khi con người chết trong tội lỗi, trong sự mê muội thì Thần của Chúa có thể khiến họ sống lại. Cũng vậy, trong Chúa Giêsu có quyền năng thay đổi và tái tạo sự sống. Ngài có thể khiến linh hồn chết trong tội sống lại. Ngài có thể phục hưng những tư tưởng đã chết, Ngài có thể khiến ý hướng thiện đã hư mất được mạnh mẽ trở lại, Ngài có thể đổi mới và tái tạo cuộc sống khi nó đã mất tất cả ý nghĩa.

Với sự giáng sinh của Chúa Giêsu ,Thánh Thần Chúa hoạt động chưa từng có trong thế gian này. Thánh Thần của Chúa đã đem chân lý từ Trời xuống cho nhân loại. Chính Thánh Thần đã khiến cho người đời nhận ra chân lý khi được nghe, và chính Thánh Thần duy nhất có thể tái tạo linh hồn con người khi đã mất sự sống. Chúa Giêsu mở mắt tâm linh khiến chúng ta có thể thấy chân lý của Thiên Chúa . Chúa Giêsu là quyền năng sáng tạo đến giữa vòng loài người. Chúa Giêsu là quyền năng tái tạo có thể giải phóng linh hồn khỏi sự chết và hậu quả của tội lỗi.

-------------------------------------

 

MV4-A21. GIUSE ĐẤNG CÔNG CHÍNH


“Hai ông bà chưa ở cùng nhau”

 

Chúa nhật trước, Phúc âm giới thiệu với chúng ta một gương mẫu trong việc dọn lòng đón Chúa: MV4-A21


Chúa nhật trước, Phúc âm giới thiệu với chúng ta một gương mẫu trong việc dọn lòng đón Chúa đến là Gioan Tiền hô.

Hôm nay, Phụng vụ nói đến một gương khác, ấy là Thánh Cả Ciuse, "nguội công chính", dưỡng phụ Chúa Hài Nhi, Bạn thanh sạch của Đức Mẹ.

Sau khi viếng thăm Bà chị họ, Maria “trở về nhà” (Lc I,56). Giuse gặp lai Đức Mẹ vui buồn đắp đổi. Vui vì gặp lại vị hôn thê, buồn vì lương tâm xao xuyến trước mộc dữ kiện mà Matheô mô tả như sau: "Hai ông bà chưa ở cùng nhau, thì Bà đã thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần”  (Mt 1,18) .

Giuse rất phân vân. Một đàng Ngài biết Đức Mẹ rất nhân đức muốn giữ mình đồng trinh, đàng khác những dữ kiện bên ngoài đặt ra một câu hoi không sao giải đáp được.

Về phía Đức Mẹ, người ta nghĩ rằng: Ngài giữ im lặng có  vì bản tính kín đáo trinh bạch hay vì không dám tiết lộ bí mật của Thiên Chúa dành riêng cho mình. Phúc âm nói: "Guse bạn Bà  người công chính và không muốn làm ố danh Bà, nên đã định bỏ đi cách kín đá”" (Mt 4,19).

Vì  câu quả quyết của Thánh Kinh: “Giuse là người công chính" mà chúng ta phải đặt vấn đề như sau: Nếu Ngài có phần nào nghi ngờ cho vợ thì phải biện minh, phải tố giác như lề luật dạy. (Deut. 22, 23-26). Làm thế khác là bất chính, là lỗi phạm lề luật.

 Ngài không làm, không thuốn làm ô danh vợ, chỉ vì thương vợ và nếu muốn xa vợ cách kín đáo thì phải có một lý do sâu xa, ấy là Ciuse đã biết Mana bạn Người mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần. Ngài biết chắc là do sự chia sẻ của Đức Mẹ, người bạn mà Ngài thương yêu nhất đời. Và Đức Mẹ thật ra không có lý do nào, theo Phúc âm, để bắt buộc phải giữ bí mật với cả người bạn đường mà Ngài rất yêu mến.

Giuse biết rõ bí mật, sao lại muốn bỏ ra đi? Giuse rất vui sướng cũng rất lo âu trước những gì xảy ra cho người bạn thương mến. Ngài cảm thấy vô cùng bất xứng để “rước người về nhà", chia sẻ cuộc  và số phận. Ngài cảm thấy hoàn toàn không xứng đáng đến gần người Bạn đang mang Chúa, như Moisê trước bụi gai đang cháy mà không tiêu hao. Thiên Chúa đã chọn Maria và dành riêng cho Người. Còn mình chỉ có một lối thoát là âm thầm rút lui, "vĩnh biệt cách kín đáo”

Đó cũng là ý kiến Thánh Bênađô khi người giải thích nguyên do ý định ra đi của Giuse.

Giuse đã cầu nguyện và suy nghĩ nhiều, thì này dây Thiên Chúa đã đáp ứng Thiên Thần Chúa hiện ra trong giấc mơ và bảo: "Giuse, con vua Đavít, ông chớ ngại nhận Maria về, vì Bà thụ thai bởi quyền Chúa Thánh Thần, Bà se. sinh con và ông đặt tên cho con là Giêsu, vì chính Ngài s cứu dân Ngài khỏi tội". Tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên Thần Chúa truyền. Đám cưới chính thức được cử hành: "Giuse đón bạn về nhà, giữa ông bàko có việc tri giao vợ chồng, cả đến lúc Bà sinh con và ông đặt tên là Giêsu (Mt 1, 24-25).

Giuse thật là Đấng Công chính, bạn thanh sạch Đức ME, dưỡng phụ Chúa Giêsu, một gióng máu rạng ngời cho việc đón mừng Chúa.

-------------------------------------

 

MV4-A22. Tin mừng về tuổi thơ của Chúa Giêu


 Mt 1,18-24

 

Những "tin mừng về tuổi thơ” là những trang Tin Mừng kỳ diệu, rất khác với các Tin Mừng khác: MV4-A22


Những "tin mừng về tuổi thơ” là những trang Tin Mừng kỳ diệu, rất khác với các Tin Mừng khác: Mát-thêu và Luca là những người  duy nhất nói cho chúng ta hay, lại không phải là những chung nhân trực tiếp. Các ông đã sưu lập lại những kỷ niệm được lưu giữ trong các môi trường “Do thái- Kitô”   và nhất là trong gia đình Đức Giêsu. Và với, “dữ kiện cơ bản" này, các ông đã xây dựng một “Dẫn nhập thần học” có phần giống như một nhạc sĩ soạn một “Khúc dạo đầu" mà ở đó nhạc sĩ làm cho người ta nghe thấy những chủ đề chính mà ông muốn khai triển tiếp theo. Dưới vẻ bề ngoài thô thiển và vụn vặt, đó là những văn bản phong phú những giáo lý sâu sắc, dĩ nhiên được viết sau khi Đức  Giêsu sống lại và cần phải đọc “trong đức tin". Điều ấy không có ý nói rằng,  tính nhân bản không có trái lại là khác"  

Mát-thêu, khác Luca,  không tập trung tuổi thơ của Đức Giêsu vào Đức Maria,  nhưng vào Giuse:

1. Gia phả Đức Giêsu, theo dòng dõi Giuse;

2. Loan báo việc sinh Đức  Giêsu cho Giuse, và chấp nhận vai trò của mình: chồng Đức Maria và cha pháp lý của Đức Giêsu;

3. Việc thờ phụng của các nhà chiêm tinh và vai trò chủ chốt của Giuse, bảo đảm an toàn hài nhi khi trốn sang Ai Cập; 4. Trở về Na-da-rét, theo lệnh của  một Thiên Thần luôn luôn nói với Giuse (Mt 1,1- 2,23).

Chúa nhật này trước lễ Giáng sinh, Giáo Hội đề nghị chúng ta nghe "tin loan báo cho Giuse".

Đây là gốc tích ("khởi nguyên") của Đức Giêsu  Kitô.

Nói "khởi nguyên" là nói đến "bắt đầu”. Đó là tiếng trang trọng lớn lao của khởi đầu thế giới, trong sách đầu tiên của Kinh Thánh .  

Đối với người Sê-mít, quan niệm "nhân vị" như một cái toàn thể, vừa có tính thể xác và linh thiêng, khác với những người Hy Lạp, coi "nhân vị" trước hết như một linh hồn, thực tại linh thiêng,  nhập  thể vào trong một thân xác Đức Giêsu Kitô bắt đầu ở  chính khoảnh khắc mà người nhập thân vào “lịch sử con người", vào biến cố này, vào tình huống mà Đức  Giêsu sinh ra.  

Bà  Maria, Mẹ Đức Giêsu đã thành hôn với  ông Giuse.  

A, tất cả mọi người đều tin là biết lịch sử về con người của Giuse. Một con người trở thành đề tài để giễu cợt trong trại lính và trong xưởng thợ. Người ta đã đặt thành những bài hát dân gian giễu cợt con người ngây thơ và nạn nhân này; ông Giuse đáng thương! không phải thế sao? Như thế là chế nhạo Tin Mừng và không biết tí gì về cặp Maria và Giuse. Cặp này chắc chắn là cặp  hạnh phúc nhất trong suốt lịch sử. Người mà, trong tất cả  các cặp được thành hình từ khi tạo thành thế giới, được mang dấu ấn một  lịch sử phổ quát! Cặp này cũng là cặp "phong nhiêu nhất trong các cặp. Ban đầu, tình hình của họ thế nào: hai thanh niên ở giữa tuổi 15 và 20, đính hôn với nhau, vì cùng có một dự tính kỳ diệu là thành vợ chồng. Bạn hãy nhớ đến cuộc đính hôn của các bạn! Cái thời hạnh phúc đó Hãy nhìn các bạn trẻ đang lui tới với nhau và xây dựng ý định lứa đôi .

Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà là người công  chính là không muốn tố giác bà nên mới định  tâm bỏ bà cách kín đáo.

Đây là chặng thứ hai: “dự tính tan vỡ"... khủng hoảng chuyện đôi lứa, khi Giuse thấy người đính hôn của mình mang thai. Tất cả mọi  giấc mơ đều bị phá tan. Có lẽ ta không thể hiểu được nỗi đau đớn tinh thần dày vò còn bị che khuất đằng sau  đoạn Tin Mừng vắn tắt này? Ở giai đoạn tình huống này, Giuse quyết định  không cưới Maria nữa. Và quyết định này là quyết định của người đàn ông công chính.

Người ta đưa ra nhiều cách giải thích về sự công chính này của Giuse. Thánh Justin nghĩ rằng Giuse công chính bởi vì người muốn áp dụng luật (Đnl 22,23). Điều kỳ lạ và có vẻ không đúng là người ta đã có thể nghĩ đến một sự nghi ngờ tội ngoại tình, mà luật Môisê đòi phải phạt. Thánh Giê-rôm, chính người lại kết luận rằng Giuse "công chính" bởi vì ông muốn "bỏ bà Maria một cách kín đáo".

Nhưng cũng ở chính đó, có phải là điều công chính khi bỏ mặc cho số phận một người vợ mà người ta nhìn nhận là vô tội ư? Giải pháp thỏa đáng duy nhất cho vấn đề này, chính là điều mà bản văn đã gợi ra. Quả thế, ngay trước lúc diễn tả cuộc tranh chấp tâm lý của Giuse, thì Mát-thêu, một cách rất rõ ràng, giả định là người ta có biết việc "thụ thai mà còn trinh nguyên một con trẻ", thụ thai bởi tác động của Thánh Thần.

Do đó có lẽ chính Đức Maria đã tiết lộ tâm sự với người mình đính hôn (hay đúng hơn, mẹ của Đức Maria theo tập quán Phương Đông). Và Giuse, sau khi suy nghĩ bằng những phương tiện nhân loại của  mình, sau khi đã hiểu rằng con trẻ này do Chúa mà đến, ông không muốn đòi hỏi về quyền hành đối với đứa con không phải là con mình... Ông nhận ra "quyền làm cha" của Thiên Chúa, và ông nghĩ rằng, chính ông, Giuse, không được coi như cha của đứa con đó. Thế là ông quyết định từ khước ý định lứa đôi của mình. Cũng như Abraham, hy sinh cho Thiên Chúa, Giuse là "người công chính": ông quyết định hy sinh mình.

Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về...

Như thế chính Thiên Chúa can thiệp để thay đổi dự tính của Giuse. Để nhấn mạnh đến khía cạnh "tôn giáo", “thần linh", của quyết định mới mà Giuse có, Mát-thêu để cho "mạc khải" của mình chảy theo "thể loại văn chương" thường thấy của việc "loan báo theo ngôn ngữ quen thuộc Kinh Thánh, chứa đựng ở đây sự can thiệp của “Thiên Thần của Chúa", và của "giấc chiêm bao" loan tin. Thường đó là vấn đề về các giấc chiêm bao trong Kinh Thánh và đặc biệt trong  cuộc đời của Giuse (Mt 1,20 - 2,13 - 2,22).

Giuse, một anh thợ tầm thường, ở đây được gọi lên một cách trang trọng là "con nhà Đa-vít". Chính là với danh nghĩa  "dòng dõi của hoàng gia" Do Thái, mà Thiên Chúa yêu cầu ông thay đổi ý kiến và nhận Maria làm vợ mình. Ông đã quyết định "bỏ nàng và như thế khước từ làm cha đứa bé mà Maria mang thai... Tình hình cũng đúng như đại tổ phụ trong đức tin, Abraham tin điều đó, khi ông chấp nhận hy sinh con trai I-xa-ác của mình, thì ông xem con trai mình như một "của lễ của Thiên Chúa" (St 22). Với Giuse, người vừa khước từ một đứa con trai, cũng thế. Thiên Thần của Thiên Chúa đòi ông đón nhận đứa con trai theo cách khác: Người phải nhận đứa con như một của lễ", trong đức tin đứa con mà ông đã khước từ "theo xác thịt", thì ông lại nhận đứa con đó như "con của lời hứa" (Gl 4,23-28). 

Chắc chắn người con bà cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên con trẻ... 

Câu văn, bằng tiếng Hy Lạp, được xây dựng, trên sự đối lập mà chúng ta đã nhấn mạnh; bộ phận đầu tiên của câu nói bắt đầu bằng "gar", có nghĩa là "quả thế, chắc chắn". Bộ phận thứ hai của câu nói bắt đầu "dé",có nghĩa là  nhưng, tuy nhiên"  

 Vì thế thiên thần không báo cho Giuse biết việc thụ thai đứa con còn trinh nguyên, mà ông đã biết. Nhưng thiên thần yêu cầu ông mặc dù ông đã biết,  là thay đổi quyết định của ông. Không những Giuse không biến mình đi như ông tính làm nhưng trái lại, Thiên Chúa cần ông. Thiên Chúa giao cho Giuse hai vai trò: 1. nhận lấy Maria về nhà mình; 2. đặt tên cho con trẻ. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, theo thói quen Sê-mít, điều ấy có nghĩa rõ ràng là "nhận lấy quyền làm cha pháp lý" cho đứa con. Người ta hiểu tại sao Giuse đã được chào kính với danh hiệu: Con Đa-vít. Chính do dòng họ Giuse mà Đức Giêsu lại trở nên "con của Đa-vít, để hoàn thành  tất  cả mọi lời hứa của Thiên Chúa" (Mt 1,1 - 9,27 - 12,23 - 20,23 - 21,9).

Đối với ai hiểu văn bản này một cách sâu xa, như đã chép Giuse không hề thuộc về thứ nhân vật xanh xao và thụ động mà người ta đã làm biến dạng một cách sai lầm. Đó là một  “người công chính" thực sự. Một người can đảm thực sự đã thay đổi quyết định mà mình đã có với tất cả lòng thành. Một người tin tưởng vào người đã đòi mình một "lòng tin", vào nhịp độ của biến cố khủng khiếp sắp xảy ra. Và ta hãy thêm, "một người chồng" hoàn toàn hiệp thông với lòng tin của người vợ mình... Ngày nay, tâm lý học hiện đại nhấn mạnh đến khái niệm "đôi lứa", "đồng trách  nhiệm”. Bất chấp tất cả những cái bề ngoài hời hợt mà người ta có thể dừng lại, than ôi... Maria và Giuse sống, một cách vượt hẳn thường lệ, một cuộc sống đôi lứa kết hợp một cách phi thường: họ "đối thoại"  ở mức độ sâu xa nhất, bằng cách mỗi người đi tìm ý của Thiên Chúa, và bằng cách chấp nhận cùng một thái độ... phải vượt qua những cái nhìn nhân loại đơn giản để có thể tin tưởng vào một tương lai mà Thiên Chúa mở  ra trước mắt họ. Và còn điều này, bất chấp "cơn khủng hoảng một lúc nào đó một chuyện không thể tiên liệu được đã tạo ra giữa họ. Như vậy trong cuộc sống chúng ta, có thể xảy ra một tình huống bắt buộc, bất ngờ, mà khi đó  dường như Thiên Chúa đến phá vỡ những dự tính của  chúng ta, tức là, trong thực tế, kêu gọi ta tiếp nhận ý chí mới của Thiên Chúa... Nhưng đó là trong đêm tối đức tin... như trong một giấc chiêm bao ban đêm.   

Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Hai từ này là cả một nền thần học: Thiên Chúa cứu độ... Thiên Chúa ở cùng chúng ta... Giuse, lúc này, chỉ muốn có tên thứ nhất, "Giêsu-Thiên-Chúa-Cứu-Độ". Và chính Đức Giêsu Phục sinh sẽ đảm nhận tên thứ hai, hàm nghĩa Sê-mít ở cuối sách Tin Mừng: Còn tôi, tôi ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế" .(Mt 28,20). Con trẻ mà tôi sắp mừng lễ ngày Giáng sinh, con trẻ ấy có đúng là Giêsu kia không? Tôi có đón nhận người  như Đấng giải thoát tôi khỏi tội lỗi của tôi không? Tôi có đón nhận dấu chỉ nhiệm tích của người không?   

Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dậy và đón vợ về nhà ông không ăn ở với bà, cho  đến khi  bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu.

Cuối cùng bây giờ chúng ta tìm thấy lại cái dự tính đôi lứa muốn hình thành lúc đầu câu truyện ("Maria thuận cưới Giuse")... dự tính này, trong khoảnh khắc bị tan vỡ do tình huống đã gây ra khủng hoảng... và bây giờ thành hình (nhưng khác hẳn với dự kiến ("không có quan hệ vợ chồng” , "ông ấy không hề biết bà ấy"). Bản văn có một sự sáng tỏ làm lóa mắt, giống như  tất cả những gì thuộc về thần linh: Giuse, nhờ quyết định của Thiên Chúa được đúng thuận tự do trong đức tin đón nhận một chức năng làm cha đích thực mà không có quan hệ xác thịt. Tôi tưởng tượng thấy điều đó, sung sướng, hồ hởi. Tất cả chuyện đó là huyền nhiệm, như Thiên Chúa là huyền nhiệm, cũng như "Phục sinh" , như “Thánh Thể" đều là huyền  nhiệm.

-------------------------------------

 

MV4-A23. ĐỨC KITÔ CHÍNH LÀ EMMANUEL


 “THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA”

1. Chỉ cần một so sánh tầm thường

 

Đức Giêsu là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chỉ cần một so sánh rất tầm thường, chúng: MV4-A23


Đức Giêsu là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Chỉ cần một so sánh rất tầm thường, chúng ta sẽ thấy đó là một ơn rất to lớn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta:

Tôi có một người bạn vừa tốt vừa đa tài đa năng. Mỗi khi có chuyện gì cần, tôi gọi thì anh đến và anh giúp tôi giải quyết rất tốt đẹp. Tôi sung sướng lắm. Nhưng nhiều khi tôi đang cần mà anh lại đang đi vắng xa nên không giúp gì cho tôi được. Khi đó tôi ao ước: phải chi người bạn ấy luôn ở với tôi!.

Chúa Giêsu hơn người bạn ấy rất nhiều: Ngài không chỉ là một con người mà còn là Thiên Chúa. Ngài không chỉ đa tài đa năng mà còn là toàn tài toàn năng.

Ngài nói: “Này Ta ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Ngài đúng là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Còn gì quý hơn!

2. Thế nào là một Tin Mừng.

Một tin chỉ là Tin Mừng khi nó đáp ứng một ước mong mà người ta chờ đợi. Thí dụ chén cơm là tin mừng cho người đang đói, mùa gặt bội thu là tin mừng cho người nông dân dã khổ công cấy cày. Nếu không ước mong đợi chờ thì chẳng có tin mừng: chén cơm không phải là tin mừng cho người đã no, mùa gặt cũng chẳng là tin mừng cho người không làm ruộng.

Thánh Phaolô nói với tín hữu Rôma rằng ngài mang đến cho họ một Tin Mừng, đó là Thiên Chúa đã bao Con của Ngài cho loài người. Và tín hữu Rôma đã vui mừng vì họ có được một Đức Chúa cao cả quyền năng hơn các thần thánh nhan nhãn trong các đền thờ ở Rôma.

Lẽ ra sống trong Mùa Vọng thì phải mong chờ Chúa. Nếu ta không mong chờ Chúa thì việc Chúa Giáng sinh không là Tin Mừng cho ta gì cả.

3. Chúa ở cùng chúng con

Lạy Chúa, tên Chúa là Emmanuel, Chúa ở cùng chúng con.

Nhưng đã có biết bao người lấy danh thánh Chúa khắc vào dây lưng, hùng hùng hổ hổ xông ra trận để chém giết anh em đồng loại! Biết bao người đã đi tàn sát nhân danh Chúa, tuy họ không xâm tên Chúa vào ngực hay khắc vào dây nịt.

Chúa ở với chúng con để kéo chúng con ra khỏi tội lỗi chứ không phải làm cớ cho chúng con bênh vực mình, bênh vực những hành vi tội lôi của mình.

Chúa ở với chúng con để giúp chúng con vượt qua những chướng ngại trên con đường đi tìm công lý và tình huynh đệ, chứ không phải để dẫn chúng con đến những quần đảo thoát ly.

Chúa hãy ở với chúng con những khi vì sợ hãi, chúng con ngừng bước hay lui bước. Chúa hãy ở với chúng con khi vì lơ đễnh chúng con đi lạc đàng chính nẻo ngay.

Thân lạy Emmanuel, xin Chúa hãy luôn ở cùng chúng con!

4. Chuẩn bị Lễ Giáng sinh

Ngày nay thói quen mừng lễ Giáng sinh có thể nói là rất phổ biến: hầu hết mọi người trên thế giới, dù là người có đạo hay không có đạo, cũng đều quen mừng lễ Giáng sinh. Tuy nhiên, hầu như ai ai cũng coi đây là một dịp lễ vui, có nhiều hoa đèn, nhiều tiếng thánh ca. Trong dịp lễ Giáng sinh người ta cũng sáng tác nhiều tiêu phẩm văn nghệ rất cảm động nhưng qua đó ta thấy được khía cạnh mỉa mai là lễ Giáng sinh đã không được mừng đúng ý nghĩa. Có một tiểu phẩm kể chuyện một em bé  gái nghèo, đêm Giáng sinh phải co ro lặn lội trong sương tuyết để bán từng hộp que diêm, trong khi đó thì xa xa vọng lại tiếng hát thánh ca réo rắt; một tiểu phẩm khác kể chuyện một tên ăn trộm coi lễ Giáng sinh là dịp tốt để hành nghề, nó biết dêm đó nhà giàu nào cũng có  nhiều bánh trái, cho nên nó đợi đến lúc người ta di lự lễ ở nhà thờ; để lẻn vào ăn trộm, và xa xa vọng lại cũng  những hồi chuông Giáng sinh rộn rã.   

Cũng có một tác phẩm tuy không nói về lễ Giáng sinh nhưng cũng mang cùng một ý nghĩa. Đây là một chuyện phim tưởng tượng. Đạo diễn tưởng tượng có một Đức Giáo hoàng vì chán cảnh lễ nghi rườm rà trong Tòa Thánh Vatican nên nhân một dịp đi lạc khỏi Tòa Thánh, đã đi luôn vào sống ở một ngôi làng nghèo. Làng này đang bị bệnh dịch hoành hành nên bị cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài, lương thực khan hiếm. Trong làng có một cái cối dùng sức gió để cung cấp nước, nhưng cối gió đã hư và không ai sửa. Nếp sống quá khổ cực khiến người ta không đến nhà thờ nữa, nhà thờ bị hoang phế, và chính vị Linh mục coi sóc nhà thờ đó cũng chán nản hồi tục đi làm nghề chăn cừu. Đức Giáo hoàng đã cùng với dân làng đi moi đống rác, tiếp xúc với những trẻ em lang thang bụi đời, và động viên người ta cùng Ngài sửa lại cái cối xay nước. Sau một thời gian làm việc vất vả với rất nhiều khó khăn, cái cối xay gió ấy dã được sửa chữa và hoạt động lại. Cho tới lúc đó dân làng mới biết Ngài chính là Giáo hoàng. Và Ngài giã từ họ trở về Tòa Thánh.

Cuốn phim kết thúc với cảnh Đức Giáo hoàng chủ tọa một Thánh lễ có rất đông người tham dự, đặc biệt trong số đó có dân chúng của cái làng nghèo khổ kia và cả vị Linh mục nữa, vị Linh mục này đã trở về với đoàn chiên giáo dân của mình. Chắc chúng ta hiểu được ngụ ý của đạo diễn: Nếu giáo hội chỉ thu mình trong các lễ nghi ở nhà thờ thì dần dần Giáo hội sẽ xa lìa quần chúng và quần chúng cũng xa lìa Giáo hội. Còn Giáo hội dấn thân phục vụ những nhu cầu thiết thực của quần chúng thì quần chúng sẽ đến vây quanh Giáo hội.

Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Giáo Hội cũng phải là Emmanuel. Và mỗi tín hữu cũng phải là Emmanuel.

-------------------------------------

 

MV4-A24. Thái độ và phản ứng của Thánh Giuse


Is 7,10-14; Rm 1,1-7 ; Mt 1,18-24

 

Với óc thực dụng của con người hiện đại ngày nay, khi đứng trước những gì có vẻ khó hiểu: MV4-A24


Với óc thực dụng của con người hiện đại ngày nay, khi đứng trước những gì có vẻ khó hiểu, có thể gây rắc rối phiền hà cho mình, người ta thường có khuynh hướng chọn giải pháp tránh né để khỏi bận tâm, lo lắng đối phó. Đọc thoáng qua bài Tin Mừng hôm nay, ta có thể bị cám dỗ đễ có ấn tượng như thế trong trường hợp của Thánh Giuse. Nhưng thực ra thái độ và phản ứng của Thánh Giuse không tầm thường như chúng ta tưởng.

I. BỐI CẢNH KINH THÁNH

Khi đoạn Tin Mừng này được viết ra, thì đối với não trạng của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai lúc bấy giờ, Đức Giêsu Nagiarét, Đấng chịu đóng đinh vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, rồi sau đó ba ngày sống lại: Ngài quả thực là vị Tiên Tri. Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn, là Con vua Đavít, là Đấng phải đến và được muôn dân trông đợi.

Vào thời điểm khởi đầu mới mẻ của Giáo Hội, người Kitô Hữu cho rằng họ có được sự sống và chúc lành viên mãn của Thiên Chúa cũng là nhờ Đấng ấy với cái tên đầy ý nghĩa: GIÊSU, có nghĩa là Thiên Chúa Cứu Độ, mà Thánh Giuse đã nhận được lệnh truyền của Thiên Thần đặt tên cho con trẻ đang hình thành trong cung lòng của Đức Maria, vị hôn thê của mình.

Với bối cảnh đặc biệt như thế, theo André Bouton “Con Trẻ đang thụ thai trong cung lòng của Đức Maria không phải là để đáp ứng ý muốn của người chồng, cũng không phải để làm thỏa mãn khát vọng chính đáng của người vợ. Nhưng sự xuất hiện của Con Trẻ hoàn toàn xuất phát từ ý muốn tối thượng của Thiên Chúa (Assemblées du Seigneur, số 8 tr. 17)

Đây là một thực tại huyền nhiệm mà Thánh Giuse phải đối điện và kiếm cách xử lý sao cho hợp tình hợp lý. Đang khi ông loay hoay tìm kiếm giải pháp thỏa đáng thì Thiên Chúa đã cạn thiệp, và với lời giải thích của Thiên Thần, Chúa đã cho ông thấy rõ quyết định của Ngài; nhờ vào thái độ từ bỏ ý riêng để đi đến sự vâng phục và tình nguyện chấp nhận của Giuse  con cháu đích thực của vua Đavít trước chương trình của Ngài, mà Người Con Độc Nhất của Thiên Chúa đã trở thành người con của nhân loại, sinh ra bởi một người phụ nữ (x.Ga 4, 4), và trở thành người con hợp pháp theo luật lệ của xã hội Do Thái lúc bấy giờ, vì có Thánh Giuse là người cha trên danh nghĩa pháp luật và xã hội. Lý đo là lúc đó Thánh Giuse và Đức Maria đã đính hôn với nhau và khi Thánh Giuse tuân lệnh Thiên Thần đưa Đức Maria đang mang thai về nhà mình, thì mọi diễn tiến tiếp sau đó đều trở nên hợp luật, để khi Đức Giêsu sinh ra thì Ngài trở thành người con thuộc dòng dõi Đavít.

II. SỰ CÔNG CHÍNH CỦA THÁNH GIUSE

Theo phong tục của xã hội Do Thái thời bấy giờ, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn:

Đầu tiên là giai đoạn hứa hôn: công việc này thường đo cha mẹ đôi bên hay người mai mối sắp xếp, và đôi bạn trẻ thường chưa hề biết nhau trước đó. 

Kế đến là giai đoạn đính hôn: giai đoạn này thường kéo dài cả năm trước khi rước dâu, để cho đôi bạn trẻ quen biết và tìm hiểu nhau. Lễ đính hôn thường được cử hành rất trang trọng. Vì người ta coi thời gian này rất quan trọng, và nếu  chẳng may có sự cố hay trục trặc kỹ thuật thì chỉ có ly dị mới xóa bỏ được mà thôi. Thông thường sau lễ đính hôn, người ta coi đôi bạn trẻ như vợ chồng, cho dù họ chưa thực sự ăn ở với nhau như vợ chồng. Cứ sự thường thì đôi bạn trẻ không chung sống với nhau trước khi rước dâu, nhưng giả như họ có con vào giai đoạn quan trọng này, thì đứa con sinh ra vẫn  được mọi người xem là con hợp pháp trước mặt xã hội.

Giai đoạn cuối là kết hôn đúng nghĩa.

Sự kiện Đức Maria thụ thai Đức Giêsu cách mầu  nhiệm, xảy ra ở giai đoạn thứ hai, về hôn nhân theo truyền thống của Do Thái, nghĩa là sau khi Đức Maria và Thánh Giuse đã đính hôn với nhau.

Có lẽ bình thường ta phải hiểu Đức Maria đã phải thông báo cho Thánh Giuse, vị hôn phu tương lai của mình, biết việc mình thụ thai do quyền năng của Thánh Thần, như lời Thiên Thần loan báo. Vậy lời Thiên Thần nói với Thánh Giuse trong bài Tin Mừng hôm nay có thể hiểu là lời xác nhận điều mà Thánh Giuse đã biết.

Như thế, sự công chính của Thánh Giuse nằm ở chỗ ông tôn trọng mầu nhiệm mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Maria, vị hôn thê tương lai của ông, nên ông khiêm tốn không dám "tiếp quản” sự kiện huyền nhiệm đó, vì cảm thấy mình bất xứng.

Dù sao đi chăng nữa, lời Thiên Thần nói với Thánh Giuse cũng là để nói với mỗi người chúng ta nhầm giải thích nguồn gốc và sứ mạng của Đức Giêsu: Ngài từ Thiên Chúa mà đến, sinh làm người con thuộc dòng dõi nhà Đavít, để cứu nhân loại khỏi tội lỗi.

Với lối nhìn như thế, ta có thể nói như cha X. Léon Dufour: Thánh Giuse tỏ ra là người công chính, không phải vì ông tuân giữ lề luật cho phép ông ly dị trong trường hợp ngoại tình (vì ông biết rõ mình không phải là tất giả bào thai nên Đức Maria có thể bị qui trách nhiệm là ngoại tình), cũng không phải vì ông tỏ ra nhu nhược (vì không dám công khai giải quyết vấn đề), hoặc cũng không phải vì lý do ông phải đối xứ công bằng với người vô tội (là Đức Maria mà ông biết quá rõ hạnh kiểm tốt), nhưng chỉ vì ông không muốn được coi như người cha của Con Trẻ thần linh ấy, nên ông tính đường rút lui, nhưng vẫn tỏ ra tế nhị lưu tâm đến chương trình của Thiên Chúa và trường hợp đặc thù của Đức Maria, bằng cách không tiết lộ ra ngoài mầu nhiệm đang liên hệ trực tiếp với Đức Maria (x. Le juste Joseph, trong nrt, số 91, tr 230-231).

Còn theo lối nhìn con người chúng ta, Thánh Giuse là con người điềm tĩnh đáng khâm phục. Đứng trước biến cố lạ  thường, rõ ràng dẫn đến hậu quả làm đảo lộn mọi dự tính tương lai của mình, thánh nhân đã không nổi giận, không than phiền, không hùng hổ phản kháng, nhưng ngược lại cổ thái độ kín đáo, cho dù là có thất vọng đi chăng nữa, vẫn luôn tôn trọng trước điều lạ thường, không hiểu nổi. Mặc dù bị đụng chạm đến tận cốt tủy của vấn đề, làm đổi hẳn hướng đi cuộc đời mình, nhưng rõ ràng Thánh Giuse cảm thấy mình đứng trong tư thế khống được phép đua tranh với Thiên Chúa, được biểu lộ bằng thái độ càm rám trách móc, và thay vào đó, thánh nhân đón nhận sự kiện bất thường đó như một sứ mạng được Chúa giao phó, và ông có nghĩa vụ phải hoàn thành, với thái độ phó thác của niềm tin.

Cách xử sự của Thánh Giuse để lại cho người Kitô hữu chúng ta một mẫu gương tuyệt vời để noi theo. Trong cuộc sống trần thế, có lẽ cũng có nhiều lần chúng ta cũng phải giáp mặt với những vấn đề hay những biến cố xem chừng như có vẻ huyền nhiệm, vượt quá tầm hiểu biết hạn hẹp của trí khôn nhỏ bé của chúng ta, lắm khi chúng còn gây cho chúng ta biết bao nhiêu trăn trở hay buồn phiền. Phản ứng thông thường của chúng ta là kêu rêu trách móc Chúa, cho là Chúa gây khó khăn phiền hà cho chúng ta. Có bao giờ chúng ta xử sự với tư cách của một người có niềm tin phó thác như Thánh Giuse, trước những biến cố nghiêm trọng của cuộc đời, và coi đó như một lời mời gọi tích cực, mời chúng ta đi vào chương trình của Thiên Chúa dành sẵn cho mình?

III. SỨ MẠNG CỦA THÁNH GIUSE

 Sứ điệp mà Thiên Thần loan báo cho Thánh Giuse trong giấc mộng gồm hai phần rõ rệt:

-Phần thứ nhất là việc Đức Maria thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.
-Phần thứ hai là việc Thánh Giuse lãnh nhận trách nhiệm đặt tên cho Con Trẻ.

Đây không phải là hai sứ điệp khác biệt nhau như người ta vẫn thường nghĩ: một là loan báo việc thụ thai đồng trinh, hai là vai trò đặc thù của Thánh Giuse trong biến cố này. Nhưng đây chỉ là một sứ điệp duy nhất: với tư cách là người thuộc dòng dõi vua Đavít, Thánh Giuse phải đưa Mẹ Đấng Cứu Thế về nhà mình, để thể hiện quyền làm cha theo luật định đối với Đấng Cứu Thế.

Với lời giải thích và lệnh truyền của Thiên Thần, chắc hẳn Thánh Giuse ý thức rõ về vai trò mà sự quan phòng thượng trí của Thiên Chúa đã dành sẵn cho Ngài để đảm bảo  cho việc Đấng Cứu Thế thuộc dòng dõi vua Đavít.

Lối nhìn thần học của thánh sử Matthêu đối với gia phả của Đức Giêsu cho ta hiểu rằng việc Thánh Giuse chấp nhận tình trạng huyền nhiệm đó đã đặt dấu chấm hết cho gia phả của Đức Giêsu là con vua Đavít, là con Abraham.

Mọi diễn tiến trong huyền nhiệm Nhập Thể của Đấng Cứu Thế đều nhằm cho chúng ta hiểu rằng tất cả mọi sáng kiến đều phát xuất từ Thiên Chúa.. Nhìn dưới hai khía cạnh của huyền nhiệm này, trước tiên ta thấy Thánh Giuse không là gì cả trong việc Thiên Chúa thực hiện ân sủng nơi Đức Maria, kế đến việc đưa Con Trẻ Giêsu vào dòng dõi vua Đavít cũng không thuộc quyền của Giuse theo huyết nhục. Nhưng chỉ sau khi Thiên Thần Chúa can thiệp, Thánh Giuse mới có nghĩa vụ hành động đối với Đức Giêsu theo tư cách là người cha đích thực về phương diện xã hội và luật pháp, đồng thời thái độ khiêm tốn đón nhận thánh ý Chúa, đã làm cho lời hứa của Thiên Chúa từ ngàn xưa mang đầy đủ ý nghĩa. 

Đem đối chiếu với Đức Maria, ta thấy Thánh Giuse nổi bật theo cung cách riêng của mình: nơi Đức Maria nét nổi bật là niềm tin vào dự định của Thiên Chúa, còn nơi Thánh Giuse là thái độ tín thác vô điều kiện trước thánh ý Thiên Chúa. 

Kết luận

Với sự công chính và thái độ chấp hành nghiêm chỉnh sứ mạng Thiên Chúa giao phó, Thánh Giuse xuất hiện như một con người có thái độ khiêm tốn kính trọng những ý định khôn dò của Thiên Chúa. Chính vì thế, Ngài được coi như vị Tổ Phụ cuối cùng của Cựu Uớc. Một vị tổ phụ với những tính cách tế nhị, cần mẫn, dễ thương, vâng phục kính trọng, trầm lặng và nhất là vô vị lợi.

Chính con người của Thánh Giuse đã làm cho Mầu Nhiệm Nhập Thể với Lễ Giáng Sinh chúng ta mừng tối nay trở nên trọn vẹn, với đầy đủ ý nghĩa và chiều kích trần thế, để Chúa Giêsu thực sự trở thành vị Thiên Chúa ở giữa chúng ta

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Lm.  Chúa Giêsu là Đấng Emmanuen nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Cha cho mọi người đón nhận Đấng Ngài phái đến.

1. Cầu cho Hội Thánh Chúa mau mắn đón nhận Tin Mừng, đem Lời Cứu Độ gian trần cho thế giới.

2. Cầu cho mọi tầng lớp chính quyền ở khắp nơi nỗ lực xây dựng công lý, hòa bình và tình liên đới khơi dậy ngọn lửa yêu thương cho những nạn nhân của hận thù ích kỷ.

3. Cầu cho các đôi vợ chồng chuẩn bị tổ ấm cho dứa con đầu lòng sinh ra cũng được sống mầu nhiệm đón chờ Đấng Cứu Thế.

4. Cầu cho cộng đoàn họp mừng Chúa hôm nay tin tưởng đón nhận Lời Chúa dạy và mau mắn thi hành như thánh Giuse.

Lm. Lạy Thiên Chúa là Đấng không ngừng đến viếng thăm chúng con qua mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời. Xin giúp chúng con xác tín Chúa hằng hoạt động dể cứu sống chúng con và canh tân địa cầu. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

-------------------------------------

 

MV4-A25. THIÊN CHÚA THẬT, CON NGƯỜI THẬT.

 

Tiến sĩ John Coleman là hiệu trưởng trường Đại học Haverford ở bang Pensylvania. Ông cũng là: MV4-A25


Tiến sĩ John Coleman là hiệu trưởng trường Đại học Haverford ở bang Pensylvania. Ông cũng là thành viên của ban giám đốc ngân hàng liên bang. Mới đây, ông đã dần dần từ bỏ những địa vị dặc biệt này. Vì muốn có kinh nghiệm về sự làm việc tay chân, ông đã cố gắng đào những đường mương, làm việc trên cánh đồng, thu quét rác rưởi, rửa chén dĩa. Ong đã học những gì phải làm với mồ hôi trán là trí óc. Ông đã làm những công việc khó khăn và mệt nhọc, nhưng vì không có khả năng chuyên môn, lại làm việc giữa những người xa lạ, nên ông đã bị thải hồi làm người rửa chén dĩa. Ong đã bị thất nghiệp một thời gian, nhưng nhờ những kinh nghiệm hiện thực đó ông đã khám phá ra những gì mà nhiều người đang trải qua.

Có một Vị vô cùng nổi tiếng và có ảnh hưởng hơn tiến sĩ Colenan. Tên Ngài là Giêsu Kitô, Ngài là Thiên Chúa thượng trí và toàn năng, nhưng đã chấn nhận thân phận làm người, sinh ra dưới hình hài con trẻ cách đây  gần 2000 năm, mà chỉ ít ngày nữa, chúng ta sẽ hân hoan cử hành sinh nhật của Đấng Thiên Chúa làm Người đó. Để chuẩn bị biến cố vui mừng này, chúng ta cần suy nghĩ về Đấng là Thiên Chúa thật đã trở nên con người thật.

Trong Giáo hội sơ khai, có một số người nghĩ rằng: Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng không phải là người. Đang khi đó, một số người khác lại nghĩ rằng: Ngài là người, nhưng không phải là Thiên Chúa. Ngày nay cũng còn có những người chạy theo những lối suy nghĩ sai lầm này. Chúng ta có nhận thúc rằng Chúa Kitô là người thật, và điều đó có nghĩa là gì ?

1. Chúa Kitô đã sinh ra làm trẻ nhỏ như tất cả chúng ta. Câu chuyện trong Tin Mừng chẳng   cho thấy Ngài thật là người đó sao ?

2. Như tất cả chúng ta, Ngài là trẻ thơ bơ vơ. Thánh Giuse đã “đem con trẻ và Mẹ Ngài” trốn sang Ai cập .

3. Chúa Kitô đã lớn lên: “Ngài càng khôn lớn, và được Thiên Chúa, cũng như mọi người thương mến “ (Lc 2,510

4. Ngài đã chịu đói: “Khi ăn chay... Ngài cảm thấy đói”.

5. Ngài chịu khát, như khi Ngài kêu ở trên thánh giá, “Ta khát”.

6. Ngài mệt nhọc: “Chúa Giêsu ... mệt nhọc vì cuộc hành trình, nên Ngài ngồi trên bờ giếng”.

7. Ngài chịu ma quỉ cám dỗ trong sa mạc; Ngài đau đớn trong vườn cây dầu, Ngài hấp hối trên thánh giá.

8. Chúa Giêsu khóc thương Giêrusalem và nơi mộ Lagiarô.

9. Ngài chết đau đón kinhkhủng.

Thật vậy, Chúa Giêsu là một người trọn hảo. Chúng ta càng nên giống Ngài thì chúng ta sẽ càng là “con người” hơn. Bao nhiêu người tàn ác, bất nhân, lầm lẫn, đưa lời bào chữa: “Phải, tôi biết tôi chỉ là con người” – mà thực sự họ không phải là con người trọn vẹn. Muốn là con người thực sự, chúng ta phải hiền lành, yêu mến, kiên nhẫn,. Thương xót như Chúa Giêsu.

Một lát nữa chúng ta sẽ cầu nguyện trong kinh Tin Kính: “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người”. Vâng, một người thật, một người lý tưởng, người nổi bật nhất trong tất cả lịch sử. Chúng ta hay nghĩ đến điều này khi chuẩn bị mừng sinh nhật của con trẻ là Thiên Chúa thật vì là người thật.

Xin Chúa chúc lành  cho các bạn.

-------------------------------------

 

MV4-A26. CHÚA CỨU THẾ GIÁNG SINH


Mt 1. 18-24

Anh chị em thân mến!

 

Một nhóm các kỹ sư âm thanh ngành điện ảnh đồng ý với nhau là những loại tiếng sau đây gây: MV4-A26


Một nhóm các kỹ sư âm thanh ngành điện ảnh đồng ý với nhau là những loại tiếng sau đây gây ảnh hưởng nơi khán giả như: tiếng còi báo động, tiếng búa đập tiếng cháy rừng, tiếng rơi của từng giọt nước, tiếng chân ngựa phi, tiếng rú còi của xe lửa từ đàng xa, tiếng chó tru trếu, điệu nhạc của lễ cưới, nhưng đứng đầu là tiếng khóc của một trẻ thơ. Bởi lẽ tiếng khóc của một trẻ sơ sinh gợi lên trong tâm trí con người nhiều tình cảm trái ngược nhau như: thương xót, lo tắng, bâng khuâng trộn tẫn với niềm vui và niềm hy vọng; niềm vui cho cuộc sống và niềm hy vọng cho tương tai. Vì thế, đối với mọi người thuộc mọi nền văn hoá thì một trẻ thơ mang tiếng khóc ban đầu luôn gây một niềm hy vọng, luôn khơi dậy một niềm vui. Cũng vì những lý do trên, chúng ta không nên lấy làm lạ khi thay trong bài đọc 1 hôm nay, tiên tri lsaia đã nêu lên sự kiện: Một hài nhi được sinh ra trong hoàng cung như một dấu chỉ gây niềm hy vọng là Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi dân Ngài giữa lúc Do Thái thời đó đang bị nạn Nam-Bắc phân tranh và có nguy cơ bị nạn ngoại xâm. Bấy giờ vua Israel thuộc Mtền Bắc cấu kết với vua nước Syria đe dọa sẽ tấn công phần đất Mtền Nam, lấy tên là Giuđa. Vua Giua bấy giờ là Aica định tâm sẽ liên Mtnh với vua nước Syria để quân bình cán cân quật ngược. Nhưng ngôn sức Isaia đứng lên can thiệp, ngài đề nghị vua Aica bỏ ý định lệ thuộc, nên trông cậy vào một mình Thiên Chúa.

Rồi mặc dầu vua Aica từ chối không xin một dấu lạ, ngụy biện là không dám thử thách Thiên Chúa để che đậy tâm trạng hoàn toàn mất tin tưởng vào Thiên Chúa của mình. Ngôn sức Isaia vẫn loan báo một dấu chỉ gieo niềm hy vọng: "Này đây, chính Thiên  Chúa sẽ cho các ngươi một dấu lạ, một TrinhNữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ởcùng chúng ta".

Anh chị em thân mến !

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu trích lại lời ngôn sức Isaia lên đây để giải thích cho Thánh Giuse và chúng ta hiểu ý nghĩa công cuộc Giáng Sinh của Chúa Kitô. Và một tần nữa, sự kiện một Hài Nhi được sinh ra đã gieo vào lòng Thánh Giuse và chúng ta, cũng như cho toàn thể nhân loại một niềm vui đầy tràn hy vọng cho tương tai của cuộc sống.

Điều đó được thánh Phaolô Mtnh chứng trong bài đọc II hôm nay. Đức Giêsu thuộc dòng dõi David, thiên thần Chúa gọi Giuse là con vua David và trao cho ông quyền đặt tên Giêsu cho Hài Nhi sẽ được Đức Maria sinh ra. Qua việc đặt tên này, Giuse thuộc dòng dõi vua David sẽ thể hiện quyền làm cha trên Hài Nhi Giêsu trước pháp luật. Đồng thời việc Chúa Giêsu thuộc dòng tộc vua David đã làm cho mọi lời tiên tri và những lời Thiên Chúa hứa với nhà David được ứng nghiệm trên Đức Giêsu.

Qua đó, Ngài sẽ được gọi và thực sự sẽ đóng vai trò mưu sư, Thần anh dũng, Cha đời đời, Vua bình an, quyền bính bao ta, bình an vô tận trên ngai David, như  ngôn sừ Isaia đã tiên báo. Như thế, tất cả những gì Cựa ước loan báo về Đấng Cứu Thế được ứng nghiệm trên Đức Giêsu để giấc mơ của bao thế hệ trong quá khứ được trở thành sự thật.

Nhưng thánh Matthêu không chỉ nhìn về quá khứ, Ngài còn đưa mắt hướng về tương tai để giải thích cho Giuse và cho chúng ta những gì loài Nhi do Đức Marìa sinh ra: "Ngài là Đấng được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần ". Sự kiện này khai mào cho một chuỗi hành động sáng tạo và giải phóng Mt của Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu thự hiện, Thánh Thần Chúa như hơi thở sự sống thổi vào con người, để con người được sống sự sống của Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu xuất hiện, Thánh Thần Chúa sẽ đổ trên Ngài, biến Ngài trở thành người đầy tớ của Thiên Chúa, để thực hiện lời tiên báo của tiên tri Isaia được Phúc Âm thánh Matthêu trích như sau:

"Này tôi tớ Ta, kẻ Ta tuyển chọn, kẻ chí ái mà hồn Ta sùng mộ. Ta sẽ đặt Thánh Thần Ta trên Ngài và Ngài sẽ truyền chính đạo cho muôn dân. Ngài sẽ không cãi cọ, không kêu gào. Nơi đường cái không ai nghe thấy tiếng Ngài. Cây sậy dập Ngài không bẻ gãy tim đèn ngút khói Ngài không tắt, cho đến lúc Ngài làm cho chính đạo khải hoàn và nơi danh Ngài muôn dân đặt niềm hy vọng".

Khi Chúa Giêsu xuất hiện, Ngài sẽ hoàn thành những công tác mà ngôn sức Isaia đã tiên báo. Điều đó Đức Giêsu đã sử dụng để trả lời cho Gioan Tẩy Giả khi vị tiền hô sai môn đệ đến hỏi Ngài: "Thầy có phải là Đấng phải đến không hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?" Đức Giêsu bảo họ: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ngươi đã nghe và thấy, Đó là người mù được thấy, kẻ què được đi, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo khó Vậy, khi Chúa Giêsu xuất hiện, Thánh Thần Chúa sẽ trở nên năng nổ như thuở ban đầu sáng tạo để đổi mới bộ mặt trái đất. sau cùng, quá khứ và tương tai của Hài Nhi được Đức Ma ria sinh ra sẽ cô đọng lại trong một tên đầy ý nghĩa đã có từ ngàn xưa, tên ấy là "Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta ". Emmanuel là tên chính của Thiên Chúa khi Ngài tự xưng tên mình cho Môi sê trong bụi gai đang bố cháy. Emmanuel là tên Thiên Chúa đã áp dụng để giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ bên Aicập và đồng hành với họ trên suốt con đường dài trong sa-mạc. Emmanuel là tên của hài nhi được sinh ra đời, và cuối cùng Emmanuel là mạc khải của Thiên Chúa trung chính cuộc đời của Đức Giêsu.

Vì thế, Emmanuel là tên Đức Giêsu mang trong quá khứ của những lời hứa và những hành động của Thiên Chúa trong lịch sử của dân Do Thái . Trong hiện lại, khi Ngài còn lại thế và từ giây phút đó đến thiên thu vạn đại như lời Ngài tuyên bố sau biến cố Phục Sinh: "Này Ta sẽ ở cùng với các con mọi ngày cho đến tận thế".

Anh chị em thân mến!

Hôm nay là Chúa Nhật IV Mùa Vọng là Chúa Nhật cuối cùng trước lễ Giáng Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa của biến cố Chúa Giáng Sinh. Ngài cũng chào đời bằng tiếng khóc như mọi hài nhi khác, để trong đêm Giáng Sinh chúng ta nhận ra Chúa Giêsu Hài Đồng, dấu chỉ niềm vui của cuộc sống và cũng là dấu chỉ của niềm hy vọng trong tương tai. Nhờ đó chúng ta có thể gọi Ngài là Emmanuel, để ấp ủ, để yêu mến như một món quà cao quí nhất mà Thiên Chúa trao ban cho nhân loại và cho mỗi người chúng ta.Vậy tự đáy tâm hồn, chúng ta hãy cùng với các thiên thần, các thánh và mọi người thiện chí có thể dâng lên Thiên Chúa một khúc hoan ca như các thiên thần xưa: "Vinh danh Thiên Chúa lên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm". .

-------------------------------------

 

MV4-A27. Chúa nhật của Đức Mẹ - Gm Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm


Is 7:10-14;Rm 1:1-7;Mt 1:18-24

 

Truyền thống vẫn gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Đức Mẹ, Bài tiên tri Isaia nói về một: MV4-A27


Truyền thống vẫn gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Đức Mẹ, Bài tiên tri Isaia nói về một Trinh nữ sẽ sinh con trai. Và bài Tin mừng kể chuyện về việc Đức Maria mang thai. Như vậy, Phụng vụ muốn ta suy nghĩ về việc Đức Mẹ sinh Chúa Cứu thế cho chúng ta và chúng ta hãy đón nhận Người.

A.ĐỨC MARIA BAN CHÚA CỨU THẾ

Thật ra, bài tiên tri Isaia không trực tiếp nói về Đức Mẹ và Chúa Cứu Thế. Các học giả bàn nhiều về đoạn văn vắn tắt này. Đại khái bối cảnh của đoạn văn như sau: Akhaz bấy giờ là vua xứ Yuđa. Mấy vua phía Bắc lăm le xăm lăng xứ sở của ông. Ông sợ hãi. Thay vì trông cậy vào Chúa, ông lại chỉ nghĩ đến việc xin viện trợ nước ngoài. Isaia đến can gián ông, khuyên ông tin tưởng vào Chúa. Ông vẫn không nghe và sai sứ ra ngoại quốc xin việc binh. Đồng thời ông tiếp tục đường lối tội lỗi, lập các đền thờ quấy, đến nỗi thiêu sinh cả con mình để làm tế lễ. Isaia đến can thiệp lần nữa. Và để bảo đảm lời khuyên của mình, nhà Tiên tri giục vua cứ xin một dấu chỉ, dù ở trên trời hay ở dưới đất: tức là nhà vua xin dấu chỉ nào, Chúa cũng sẽ cho để làm chứng rằng lời tiên tri nói là thật. Nhưng nhà vua vốn không tin Chúa. Vua lại sợ xin được dấu chỉ sẽ phải tin lời tiên tri và phải từ bỏ tà thần để sống trung thành với Chúa. Ông giở giọng đạo đức, nói rằng loài người không nên thử thách Thiên Chúa, cốt ý để ông khỏi phải nghe Lời Chúa dạy.Isaia bực mình, coi nhà vua như dân ngoại rồi. Ông nói: làm loài người khó chịu thôi chưa đủ sao mà còn làm cực lòng Chúa tôi? Chúa tôi, chứ không phải Chúa của các ông nữa, Isaia muốn nói như thế. Tuy nhiên, chẳng ai cưỡng lại được lệnh Chúa: Này, Chúa sẽ cho nhà Đavít một dấu chỉ: Cô Nương sẽ sinh con trai và Danh Người là Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Đây làmột sự vô cùng bất ngờ. Người ta cứ tưởng dấu chỉ mà Chúa sẽ cho là một điềm dữ vì thái độ của Akhaz như vậy. Nhưng ngược lại, đây là một điềm lành, một dấu chỉ vô cùng quý hóa. Nhà Đavít sẽ có thái tử kế vị và vị hoàng đế này sẽ đẹp lòng Chúa, đến nỗi Chúa sẽ ở giữa dân. Như vậy không phải lo gì chiến tranh. Tương lai Yuđa còn đó vì sau nhà sau này vẫn còn hoàng tử kế vị. Hơn nữa vị Vua tương lai sẽ được Chúa ở cùng và dân chúng sẽ được hạnh phúc.

Mà quả thật, các vua phương Bắc đã phải rút quân. Akhaz có hoàng tử kế vị là Ezêkia. Thoạt đầu nhà vua nầy rất đạo đức, khiến cả nước đều vui mừng. Nhưng về sau, ông đã tội lỗi, sa ngã... Như vậy ông chưa ứng dụng hết lời tiên tri. Có lẽ ngay từ cuối đời Isaia, người ta đã nghi lời tiên tri kia còn phải đi xa hơn nữa và phải đưa về Đấng Cứu Thế. Do đó lời Isaia đã trở thành lời tiên báo về Đấng Thiên Sai, mặc dầu gần thì đưa về Ezêkia. Và truyền thống Tân Ước đã mau mắn dùng bản dịch Hy Lạp để đọc chữ “Cô Nương” trong lời tiên tri trên là “Trinh nữ”. Và từ đó ta có câu: “Một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh một Con Trai, được gọi tên là Emmanuel!”.

Đặt trong bối cảnh của lịch sử, lời tiên tri này nói lên lòng Chúa tốt lành nhường bao! Đang khi loài người, (như Akhaz vua Yuđa) tội lỗi và khước từ mọi cố gắng yêu thương cứu giúp của Chúa, Chúa đã không giận dữ, nhưng vẫn dự tính chương trình cứu chuộc đầy tình thương, không thể ngờ được.

B.CHÚNG TA ĐÓN NHẬN THẾ NÀO?
Chắc chắn không ai muốn bắt chước Akhaz. Nhưng trong thực tế nhiều người đã theo đường lối của ông. Thiên Chúa đã ban cho ta một Hài Nhi. Nhiều người đã không nhận, vì sợ phải bỏ nếp sống cũ. Lễ Giáng sinh sắp đến nhắc lại Ân ban của Chúa. Chúng ta sẽ đón nhận thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay nêu cho chúng ta một gương mẫu. Chúa dạy Yuse hãy nhận lấy Maria và Con Trẻ. Câu truyện xem ra có nhiều điều khó hiểu. Chúng ta phải nhớ lại bối cảnh và ý của thánh Matthêô khi viết bài này.

Ai cũng biết, các tín hữu thời Giáo hội sơ khai không quan tâm nhiều lắm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Kitô. Họ tin Ngài đã sống lại sau khi chết. Việc này làm chứng Ngài là Người Thiên Chúa Cha gửi tới, và là Thiên Chúa. Do đó phải nghe lời Ngài, giữ lệnh Ngài và chờ đợi Ngài và chờ đợi Ngày Ngài trở lại. Thánh Matthêô, khi viết quyển Tin Mừng, cũng chỉ quan tâm trình bày những điều ấy. Và để cho người Do thái hiểu: Đức Kitô thực sự là Đấng Thiên Sai do Chúa Cha gởi tới, ngài phải làm chứng Đức Kitô là con vua Đavít. Thế mà ngài lại biết Đức Kitô đã không sinh bởi ý muốn nam nhân, nhưng do tự Thiên Chúa Cha. Đức Kitô chỉ có một người mẹ đồng trinh như lời Isaia đã tiên báo. Làm thế nào để có thể nói Ngài là Con Vua Đavít? Thánh Matthêô đã phải tìm hiểu. Và bài Tin Mừng hôm nay là kết quả. Yuse, thuộc dòng dõi Đavít đã đính hôn với Maria. Maria được chọn, được truyền tin. Yuse thắc mắc. Sứ thần Chúa hiện ra báo tin cho Yuse. Một người công chính chờ đợi Đấng Thiên Sai như ông lập tức chỉ còn một thái độ: hân hoaan đón nhận Tin mừng; được tin này là được tất cả: không gì ở trần gian này còn đáng kể nữa; từ nay chỉ còn sống cho Tin Mừng, vì như lời Đức Kitô nói sau này: Ai tìm được Nước Trời rồi, sẽ bán tất cả, cho đi tất cả để nhận lấy Tin Mừng, sống với Tin Mừng, hy sinh cho Tin Mừng. Thế nên thánh Matthêô đã không cần kể chuyện dài dòng. Những thắc mắc của ta, của những con người ít đạo đức, có thể nói là tiểu nhân thích để ý đến những chi tiết nhỏ mọn và bỏ rơi điều chính yếu, những thắc mắc của ta liên quan tới liên hệ giữa Maria và Yuse đã không được Matthêô giải thích. Ta hãy theo gương thánh nhân: nhìn vào điểm chính yếu và Tin Mừnt Chúa gửi đến cho ta. Qua miệng sứ thần, Chúa báo tin: “Một Trinh Nữ sẽ sinh cho ta một Con Trai”. Nghe tin ấy, Yuse đã đón nhận ơn cứu độ hằng chờ mong. Và nhờ việc ông đón nhận, và lãnh trách nhiệm đặt tên cho Con Trẻ, nhận Con Trẻ là con của mình, Đức Kitô trở thành Con vua Đavít như lời các tiên tri đã loan báo. Yuse thấy mình gần Maria hơn, hiệp nhất với nhau hơn cả những đôi bạn uyên ương, vì cả hai đã đồng thân đồng phận, trở thành dụng cụ cho chương trình của Thiên Chúa, được là những người đầu tiên lãnh nhận Lời Hứa từ bao ngàn năm để đem lại cho loài người. Chỉ những ai không hiểu giá trị của ơn cứu chuộc và không đánh giá đúng mức tinh thần của Yuse và Maria, mới còn nêu ra những câu hỏi vụn vặt. Ngược lại, ai coi việc Chúa ban Ơn cứu độ là lớn, là hạnh phúc vượt qua mọi hạnh phúc và bao gồm hết thảy mọi phúc lộc, sẽ bắt chước Maria và Yuse, từ bỏ mọi sự, hy sinh mọi sự để đón nhận Ơn Chúa và cho đến chết sẽ chỉ còn biết sống cho Ơn đó.

C.THÁI ĐỘ THỰC TẾ


Lễ Chúa Giáng sinh đã gần đến. Chúng ta muốn đón nhận Chúa sâu xa? Hãy theo gương Đức Maria và thánh Yuse. Lấy Chúa làm đủ và sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa. Và như Đức Maria góp máu thịt với Ngôi Lời, như Yuse giúp Chúa trở thành Con vua Đavít, chúng ta phải làm gì đưa Chúa vào thế gian, vào xã hội? Mà thế gian, xã hội trước hết là con người và đời sống của ta. Nếu Chúa ngự trị trong con người của ta hơn, khi ta xua đuổi mọi tâm tư, cảm nghĩ, khuynh hướng xác thịt và thế gian đi, Chúa sẽ nhập thế nơi ta vì ta đã trở thành Kitô hữu nhiều hơn. Và nếu thái độ, hành vi của ta nơi xã hội chiếu tỏa tinh thần của Chúa, xã hội sẽ thấy Ơn Chúa hiện đến với mọi người và ta sẽ như Yuse đưa Chúa vào dòng dõi loài người.

Chúng ta không cần đợi đến lễ Giáng sinh để đón nhận Chúa và sống cho Chúa như vậy. Thánh lễ cử hành bây giờ cũng ban cho chúng ta một Hài Nhi. Nếu ta đón nhận như Đức Maria và thánh Yuse, ra khỏi nhà thờ hôm nay, ta có thể coi mình như một Phaolô: tôi đã chọn làm Tông đồ của Đức Yêsu Kitô. Ngài là Lời Hứa từ ngàn xưa, đã nhập thế trong lòng Đức Maria và đã sinh ra là Con vua Đavít nhờ thánh Yuse. Nay Ngài dùng tôi và đời sống của tôi đem Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người, để tất cả chúng ta đều trở nên thánh thiện và chứa chan ơn lành và bình an.


-------------------------------------

 

MV4-A28. Giu-se đã hành xử thế nào?  - JKN


Câu hỏi gợi ý:

 

Khi biết Ma-ri-a có thai không phải do mình, thì Giu-se đã hành xử thế nào? Cách hành xử đó: MV4-A28


1. Khi biết Ma-ri-a có thai không phải do mình, thì Giu-se đã hành xử thế nào? Cách hành xử đó chứng tỏ điều gì? Tình yêu của Giu-se đối với Ma-ri-a là một tình yêu vị kỷ hay vị tha? Qua bài Tin Mừng, ta có thể nhận ra những đức tính chủ yếu nào của Giu-se?

2. Người Ki-tô hữu tin rằng Đức Ma-ri-a đồng trinh trọn đời. Giữa đồng trinh thể chất và đồng trinh tinh thần, sự đồng trinh nào quan trọng hơn trước mặt Thiên Chúa?

3. Khi làm con Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se, Đức Giê-su đã trở nên người y như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Điều ấy có trở nên nguồn an ủi cho bạn không? Có làm cho bạn bớt cô đơn khi đau khổ không?

Suy tư gợi ý:


1. Giu-se là người công chính

Giu-se và Ma-ri-a đã đính hôn với nhau, dự tính sẽ tiến tới một cuộc hôn nhân để có thể sống bên nhau trọn đời. Chắc chắn hai người rất thương yêu nhau. Mọi sự đang diễn biến tốt đẹp thì Giu-se bỗng thấy Ma-ri-a có thai mà không phải do mình. Ta thử đặt mình trong hoàn cảnh của Giu-se để cảm thông nỗi thắc mắc và buồn khổ vô hạn của Giu-se. Trước tình huống này, là con người, chắc chắn Giu-se phải có lúc nghĩ rằng mình đã bị người yêu phản bội. Càng yêu Ma-ri-a, ông càng cảm thấy bị xúc phạm, ghen tức và đau khổ. Những chàng trai khác mà gặp hoàn cảnh này có thể sẽ phản ứng bằng cách trả thù và rửa nhục. Cách trả thù hợp pháp nhất là đi tố cáo, vì sách Đệ nhị luật đã qui định: «Khi một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người đàn ông, mà một người đàn ông khác gặp cô và nằm với cô, thì cả hai phải bị lôi ra cửa thành để chịu ném đá, và chúng sẽ phải chết» (Đnl 22,23-24).

Nhưng cách hành xử của Giu-se là «định tâm bỏ bà cách kín đáo». Chàng không muốn để người yêu của mình phải đau khổ và chết trong nhục nhã. Cho dù không được sống gần người mình yêu, cho dù nàng có phản bội mình và thuộc về người khác, Giu-se vẫn luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc. Đó mới là tình yêu đích thực. Vì thật ra, có hai thứ tình yêu:

· Tình yêu vị kỷ: tức yêu người khác vì hạnh phúc của chính mình. Do đó, luôn luôn coi hạnh phúc của mình quan trọng hơn hạnh phúc của người mình yêu. Đây chỉ là một tình yêu giả hiệu, vì xét cho cùng thì hóa ra mình đã yêu chính mình qua người kia, chứ không phải là yêu người ấy thật sự. Người kia chỉ là một phương tiện đem hạnh phúc đến cho mình. Giu-se đã không yêu Ma-ri-a bằng thứ tình yêu này. Người Ki-tô hữu cũng không nên yêu bằng thứ tình yêu vị kỷ này.

· Tình yêu vị tha hay tình yêu dâng hiến: yêu người khác vì chính người mình yêu, coi hạnh phúc của người yêu quan trọng hơn hạnh phúc của mình, nên sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc hy sinh hạnh phúc của mình cho người mình yêu. Đây mới là tình yêu đích thực mà Giu-se đã dành cho Ma-ri-a. Đúng ra, mọi cặp vợ chồng Ki-tô hữu đều phải yêu thương nhau bằng thứ tình yêu này thì họ mới đúng là Ki-tô hữu đích thực, nhờ đó gia đình họ sẽ luôn luôn hạnh phúc.

Thế rồi Giu-se nằm mơ thấy sứ thần cho biết sự thật về Ma-ri-a, và sứ thần khuyên ông: «đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về». Chỉ có lòng khoan dung và tình yêu mạnh mẽ chân thật đối với Ma-ri-a, cộng với tinh thần nhạy cảm với thánh ý Thiên Chúa, Giu-se mới có thể làm theo lời sứ thần bảo trong giấc mơ. Vì bình thường những người có đầu óc thực tế mấy ai lại tin vào giấc mơ. Do đó, ta thấy có một sự dằng co mãnh liệt trong tâm hồn Giu-se. Và để đưa Ma-ri-a về nhà mình, ông đã phải thắng được tính tự ái cá nhân, đã can đảm bất chấp dư luận bất lợi của những người ngoài cuộc, và chấp nhận sự nhục nhã có thể xảy ra (khi nhận ra giấc mơ chỉ là ảo ảnh). Tin Mừng còn cho biết: sau đó, «ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai»; điều đó nói lên khả năng tự chủ, bản lĩnh và sức mạnh tinh thần cao độ của Giu-se.

Như vậy, cách hành xử của Giu-se trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người có tình yêu chân thực, khoan dung, nhân hậu, kín đáo, tự chủ, có bản lĩnh, có lập trường vững chắc, nhẫn nhục và rất nhạy cảm với thánh ý Thiên Chúa. Những đức tính ấy chứng tỏ ông đúng là một người công chính, xứng đáng là cha nuôi Đức Giê-su, là bạn trăm năm của Đức Maria, và là mẫu gương thánh thiện rất thực tế cho chúng ta.

2. Đức Giê-su sinh ra bởi mẹ đồng trinh


Chủ ý của bài Tin Mừng hôm nay không nhắm vào sự công chính của Giu-se cho bằng sự thụ thai kỳ diệu của Đức Giê-su nơi cung lòng đồng trinh của Ma-ri-a do quyền năng Thánh Thần. Thông thường, nói tới sự đồng trinh của Đức Ma-ri-a, người ta thường nghĩ tới sự đồng trinh thể chất, ít ai nghĩ tới sự đồng trinh về mặt tinh thần của Ngài. Cả hai mặt của sự đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nhưng nếu chỉ đồng trinh về mặt thể chất mà không có mặt tinh thần thì đồng trinh ấy chẳng còn ý nghĩa! Sự đồng trinh về tinh thần nơi Đức Ma-ri-a quan trọng hơn rất nhiều.

Trước mặt Thiên Chúa, đồng trinh về mặt tinh thần có nghĩa là có tâm hồn trọn vẹn hướng về Ngài, hoàn toàn dâng hiến bản thân cho Ngài để hoàn toàn thuộc về Ngài, không còn thuộc về chính mình nữa. Trong chiều hướng đó, Đức Ma-ri-a đã sống tinh thần «tự hủy», để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Biểu hiện quan trọng và rõ rệt nhất là không còn coi ý riêng của mình là quan trọng, thậm chí không còn ý riêng nữa, để chỉ biết có thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Đức Ma-ri-a cũng có thể nói như Đức Giê-su: «Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi» (Ga 5,30; x. 6,38), hay như thánh Phao-lô: «Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Thiên Chúa sống trong tôi» (Gl 2,20). Trọn cuộc đời của Ngài đã chứng tỏ sự đồng trinh tinh thần ấy, được biểu hiện qua mọi hành vi của Ngài, cụ thể nhất qua hai chữ «Xin vâng» khi sứ thần truyền tin cho Ngài.

Mọi người Ki-tô hữu, kể cả người sống bậc vợ chồng, nhất là những kẻ quyết tâm theo Chúa, quyết tâm nên thánh, đều có thể và cần phải sống «đồng trinh» hiểu theo nghĩa tinh thần, nghĩa là sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, một người đồng trinh về mặt thể chất, nhưng lại không đồng trinh về mặt tinh thần, chắc chắn không có giá trị bằng những người tuy không đồng trinh về mặt thể chất, nhưng lại đồng trinh về mặt tinh thần. Vì đồng trinh thể chất chỉ là phương tiện đồng thời là một dấu chỉ hay hình thức cụ thể nhất của sự đồng trinh tinh thần vốn phải là bản chất và nội dung của đồng trinh thể chất. Quá nhấn mạnh và đề cao sự đồng trinh thể chất mà quên lãng hay không đề cao sự đồng trinh tinh thần là một thứ tu đức què quặt và bị lạc hướng. Sự đồng trinh tinh thần bao giờ cũng có giá trị hơn rất nhiều, cho dù đồng trinh thể chất vẫn có giá trị riêng của nó.

3. Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, cũng làm người giống y như ta


Qua bài Tin Mừng, ta thấy: để là một con người, Đức Giê-su đã sống trong một gia đình, có cha có mẹ, trong một xã hội có vua có quan, có phép có tắc, trong một tôn giáo có phẩm có trật, là luật có lệ, y trang như mọi người. Ngài đã hoàn toàn «trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế» (Pl 2,7), cũng «sinh làm con của một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật» (Gl 4,4) như chúng ta, cũng «phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục» (Dt 5,8-9). Vì thế, Ngài «không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội» (Dt 4,15-16). Chắc chắn Ngài có thể nói như một triết gia nào đó: «Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi».

Ngài cũng từng kinh nghiệm những yếu đuối của con người khi bị ma quỉ cám dỗ (x. Mt 4,1-11). Vì thế, khi tôi yếu đuối, sa ngã, tội lỗi, tôi cảm thấy Ngài có thể thông cảm với tôi một cách sâu xa, và tôi biết Ngài sẵn sàng tha thứ chính vì Ngài đã từng cảm nhận được sự yếu đuối của con người như tôi.

Những điều của con người mà Ngài cảm nghiệm được nhiều nhất chính là đau khổ và sự chết. Dường như mọi hình thức quan trọng của đau khổ Ngài đều đã cảm nghiệm: phản bội, oan ức, bị đàn áp, bóc lột, mất mát, roi vọt, nhục nhã… Điều này làm tôi cảm thấy rất được an ủi khi gặp đau khổ. Tôi nhận ra Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của tôi. Ngài đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của tôi (x. l Pr 2,24b). Nghĩ như thế, tôi không cảm thấy cô đơn trong đau khổ, vì tôi cảm thấy như Ngài đang cùng đau khổ với tôi, để biến những đau khổ của tôi thành một giá trị cao cả.

Cầu nguyện


Lạy Cha, xin cho con học được tình yêu chân thật, vị tha nơi Đức Giê-su, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Cho con biết yêu Cha vì Cha, yêu mọi người vì mọi người. Như vậy để yêu chân thực, con phải có tinh thần tự hủy, quên mình. Xin cho con thực hiện được thứ tình yêu chân thực ấy trong đời sống thường ngày của con. Amen.

-------------------------------------

 

MV4-A29. ĐỨC GIÊSU LÀ AI? Lm Augustine S.J.

 

Người phụ nữ Hoa Kỳ gốc Do thái Ross Price. Năm 1940, Ross Price mới13 tuổi, đã bị lính Đức: MV4-A29


Người phụ nữ Hoa Kỳ gốc Do thái Ross Price. Năm 1940, Ross Price mới 13 tuổi, đã bị lính Đức Quốc Xã bắt giam ở trại Đỗ Bình Cang (Robincaz) sau được chuyển về Darkham của Ba Lan. Năm 1945, khi quân đội đồng minh tới giải phóng Au Châu, cô Mai khi ấy lên 18 tuổi, may mắn được sống sót và được định cư tại Hoa Kỳ. Điều bà Ross Price không thể nào quên được là những năm kinh hoàng nơi trại tập trung Đức Quốc Xã.

Đêm Noen ấy, bà không thể tưởng được rằng chính những người lính Đức và quản giáo đã họp nhau mừng lễ Giáng sinh với những bài hát để tung hô vị Cứu Tinh mà người Do thái hằng mong đợi qua nhiều thế kỷ. Bà tự hỏi Vị Cứu Tin Thiên Chúa đã hứa cho dân tộc bà nay ở đâu? Sao Ngài không đến tiêu diệt bọn dã man ấy đi để chúng khỏi tiếp tục hành hạ dân tộc bà?

Xảy ra vào năm 1980 Ross Price được mời phát biểu tại một cuộc họp để lên án Đức Quốc Xã ở thành phố Bá Linh. Bà đã quỳ cầu nguyện lâu giờ trước khi nhận lời mời. Năm 1981, bà đã có mặt tại sân vận động Bá Linh của nước Đức. Trước mặt cử tọa gồm 40 ngàn người, Ross Price đã kể lại chuỗi ngày đen tối của bà nơi các trại tập trung. Để kết thúc, Ross Price đã trích lời ngôn sứ Isaia nói rằng: “Đẹp thay những bước chân người sứ giả đã loan báo Tin Mừng – Chính những nỗi khổ đau của chúng tôi Người đã gánh chịu và Người đã bị đâm thâu qua vì tội lỗi chúng tôi; Người đã hiến thân chịu chết và đã bầu cử cho những tội nhân” (Is 52,7).

Ross Price thuật lại rằng khi bà trở về chỗ ngồi, thì có một số người tiến lại bên cạnh bà. Họ van xin với một giọng rất cảm động khi nói: “Chúng tôi chính là những người canh tù tại các trại tập trung nơi bà bị nhốt. Vậy bà có sẵn sàng tha thứ cho chúng tôi không?” Ross Price đã trả lời giữa hai dòng lệ: “Nếu Thiên Chúa đã tha thứ cho tôi nhờ nỗi chết của Con Ngài, thì tại sao tôi lại không tha thứ cho các ông?” Một người đàn ông đã quỳ khóc dưới chân Ross Price. Từ đó Ross Price không còn nghi ngờ gì về Chúa Kitô nữa.

Người cứu dân Người khỏi tội khởi đi từ hoàn cảnh nào?

Câu chuyện kể trên cho thấy ý nghĩa của danh xưng Giêsu là Đấng Thiên Chúa cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ (c.21). Toàn bộ Tin Mừng Matthêu (1,1-25) một đàng định vị Đức Giêsu vững vàng giữa dân Thiên Chúa; đàng khác nó còn cho thấy địa vị ngoại thường của Người vượt trên mọi nhân vật được đề cập trong bản gia phả của Matthêu (Mt 1,2-16). Ngay trong bản gia phả này điều nổi bật là sự có mặt của bốn phụ nữ (Tama, Rakháp, Urigia và Rút) mà hoàn cảnh làm mẹ chẳng được coi là thánh thiện theo luật Do thái giáo. Nhưng chính giữa hoàn cảnh đó, Đức Giêsu đã đến cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ (c.21).

Nếu muốn thực tế, người Kitô hữu cũng phải khởi đi từ cái thế giới mình đang sống. Đó là một thế giới chẳng thánh thiện gì; ngược lại, còn có nhiều đổ vỡ cần được hàn gắn.

Quả thật, con người được dựng nên để tán dương tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, nhờ đó hưởng được hạnh phúc vĩnh viễn ở bên Chúa. Nhưng cái thế giới ta đang sống không nghiêng theo chiều hướng tốt lành đó. Đúng là có khó khăn để con người trung thành với ơn tạo dựng là tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa nơi bản thân, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Không thiếu những tội ác xảy ra như cơm bữa. Tệ nạn xã hội, như ma túy chẳng hạn, đang đe dọa giới trẻ cách khủng khiếp. Trầm trọng hơn nữa là nội tâm con người như chính Đức Giêsu đã vạch ra khi nói: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả các điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,21-23).

Vậy tội là gì?

Tội thường được quan niệm là hành vi lỗi luật Thiên Chúa. Đúng như vậy. Nhưng quan niệm đó có tính cá nhân và luật định, chưa nói hết được bản chất của tội.

Đúng hơn, nên hiểu tội là từ khước tình yêu, từ khước chính kế hoạch của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ là Đấng ban luật buộc ta phải giữ để được hạnh phúc. Đúng hơn, Thiên Chúa là Tình Yêu: Người luôn bao bọc và săn sóc ta. Chính Tình Yêu Thiên Chúa phải lôi kéo ta đến với Ngài hơn là luật đòi buộc ta.

Cần nhìn tội dưới cái nhìn của Phúc Âm cho thấy đó là sức phá hoại đã thấm nhuần vào thế giới ta đang sống, khiến con người bị lệch lạc ngay nơi tiềm thức của mình. Khi sức phá hoại của tội thấm sâu nơi lòng con người, nó phát sinh ra ác ý và hình thành nên những cơ cấu xã hội, chính trị, kinh tế, khiến xã hội cứ vậy đi xuống thay vì đi lên theo lý tưởng cao đẹp. Con người trở nên chai lì trong sự tự mãn, bất kể tới Thiên Chúa là Đấng sinh thành nên mình, và bất kể tới đồng loại lẽ ra phải được xử đối như anh chị em một nhà.

Vì phạm tội, con người tách rời mình khỏi Thiên Chúa là nguồn suối của tình yêu và mọi ơn lành. Đó là tình trạng cách ly từ tận gốc rễ do tội gây nên. Con người tự phá vỡ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, tự đặt mình làm mục đích cho đời mình, kể mình là trung tâm cho sự sống nơi mình và trung tâm cho mọi hành động của mình.

Nếu Đức Giêsu đến cứu dân Người khỏi tội, Người cho ta biết tội là gì dưới cái nhìn của Người. Tin Mừng Matthêu ghi lại lời Đức Giêsu quở trách giới lãnh đạo Do thái giáo, trong đó ta đọc được ý của Đức Giêsu về tội. Thành Giêrusalem là biểu tượng của những người có trách nhiệm lãnh đạo dân.

Tội dưới cái nhìn của Chúa Giêsu

Đức Giêsu nói: “Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi. Thật vậy, ta nói cho các ngươi hay, từ nay các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa, cho đến khi các ngươi nói: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!” Khi Đức Giêsu từ trong Đền Thờ đi ra, thì các môn đệ của Người lại gần chỉ cho Người xem công trình Đền Thờ. Nhưng Người nói: “Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó, phải không? Thầy bảo thật anh em: Tại đây sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” (Mt 23,37-24,2).

Tội chống lại Tình Yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu mô tả tình yêu ấy bằng hình ảnh rất dễ thương của gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh.

Tội chính là từ khước tình yêu Thiên Chúa, như Đức Giêsu trách giới lãnh đạo Do thái giáo và còn trách qua lương tâm mọi Kitô hữu vì không chịu nghe tiếng nói của Tình Yêu Thiên Chúa.

Thì đây nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang - Trong thực tế, thành Giêrusalem sẽ bị phá hủy. Cuộc tàn phá ấy tượng trưng một sự phá sản do tội gây nên. Với người Do thái, gốc gác của tội là do họ không tin. “Ai không tin thì đã bị kết án rồi” (Ga 3,18). Riêng với các Kitô hữu, họ cần khám phá ra bộ mặt thực của tội họ từng phạm. Thiên Chúa ban cho ta tự do. Người tôn trọng tự do chính Người ban. Người chờ đợi ta chọn con đường yêu mến. Đó là con đường danh dự và trách nhiệm. Cần chọn giữa sự sống và sự chết (Đệ Nhị Luật 30,15).

Ý hướng cơ bản là Tán Dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa

Không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. - Đền thờ vẫn đứng vững. Nó vẫn huy hoàng, rực rỡ khiến các môn đệ tắc lưỡi ngợi khen. Nhưng Đức Giêsu đã thấy rõ số phận của Đền Thờ ấy. Người Kitô hữu cũng cần nhìn thấu hiện trạng của mình dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Bề ngoài cho dầu ta có thành đạt mấy đi nữa, giá trị thực chất của đời Kitô hữu của ta vẫn là ý hướng cơ bản mà ta cần theo đuổi. Thử hỏi ý hướng ấy có phải để tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa chăng?


Một số câu hỏi gợi ý

1. Bà Ross Price gốc Do thái, tin Đức Giêsu là ai? Tại sao bà tha thứ cho những người đã từng bách hại bà?

2. Mục đích trọn cuộc sống bình an nhằm điều gì? Tội phá hoại đời bạn như thế nào?

-------------------------------------

 

MV4-A30. MỌI NGƯỜI ĐƯỢC BÌNH ĐẲNG TRONG CHÚA KITÔ


Lm P. Hà Ngọc Đoài

Is 70:10-14; Rm 1:1-7;Mt 1:18-24

SUY NIỆM:

“Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria, đính hôn với thánh Giuse con vua Đavid” (Mt 1:18-19).

 

Ý lực các bài đọc hôm nay hướng đến sự canh tân đổi mới trong mọi lãnh vực nhờ Đức Kitô: MV4-A30


Ý lực các bài đọc hôm nay hướng đến sự canh tân đổi mới trong mọi lãnh vực nhờ Đức Kitô. Chúa chọn một gia đình để sinh ra và sống với nhân loại. Người nam cũng như người nữ có những quyền lợi và bình đẳng trước Thiên Chúa. Chúa chọn một người nữ bình thường, nhưng thánh thiện để làm mẹ Chúa Giêsu ở trần gian. Ngài cũng có người cha công chính, thuộc dòng dõi Đavit để che chở và nuôi dưỡng. Trong gia đình, người cha vẫn có nhiều trách nhiệm để che chở và dẫn gia đình đến Thiên Chúa. Tập thể rộng lớn hơn gia đình là dân nước. Vua được chọn để thay mặt dân và hướng dẫn dân nước trong bình an dưới sự che chở của Thiên Chúa. Nếu vua không biết cầu khẩn ơn Chúa để bảo vệ dân nước, thì sẽ dùng tham vọng cá nhân và sức mạnh trần gain để cai trị.

Lúc vua Ahaz đang đi lầm lạc thì Chúa sai tiên tri Eliah đến thức tỉnh để vua biết trở về với Chúa Nhưng vua cố chấp không nghe! Lại nghe lời người vợ ngoại đạo, đi cầu cứu sức mạnh binh mã của các vua ngoại! Đã thế lại còn nghe lời vợ tìm cách cướp của hại dân nghèo bên cạnh, sau đó lại tìm cách làm hại tiên tri Elia! Cuối cùng thì cả dân nước bị giặc tàn phá và bắt đi làm nô lệ!

Giáo Hội là nơi ẩn núp cho mọi công dân nước trời. Kitô hữu được lớn lên và trưởng thành nhờ sống và đồng hành với Giáo Hội. Giáo Hội luôn luôn hướng dẫn dân Chúa trên đường trần gain về quê trời. Đôi khi những giáo huấn cả Giáo Hội không hợp ý riêng ta, nhưng là những dấu đường chỉ hướng đúng tới Thiên Chúa. Là dân của Chúa, các Kitô hữu nên vâng theo giáo huấn của Giáo Hội.

THỰC HÀNH:


“Tên con trẻ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7:14)

Gia đình Thánh Gia có Chúa Giêsu ngự trị, nên giữ được hạnh phúc. Vua nào biết cai trị dân theo Lời Chúa dạy thì nước giàu dân mạnh. Có Chúa ở trong ta thì luôn có ánh sáng chỉ đường đưa lối mà không sợ lạc. Xin cho con biết tín thác vào Chúa.

(Nguồn:NS Dân Chúa Úc Châu)

-------------------------------------

 

MV4-A31. Này đây một Trinh Nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai


 Lm Jos Vũ Mộng Thơ

Is 7,10-14; Rm 1,1-7; Mt 1,18-24

 

Với bài Tin Mừng hôm nay cũng như bài đọc I, sách Tiên tri Isaia, Giáo Hội Hội muốn chứng minh: MV4-A31


Với bài Tin Mừng hôm nay cũng như bài đọc I, sách Tiên tri Isaia, Giáo Hội muốn chứng minh cho ta một điều: Chúa Cứu Thế sinh bởi một Trinh Nữ.

Ai trong chúng ta cũng biết từ khuya điều đó, nhất là đối với người tín hữu Công Giáo Việt Nam, chúng ta coi như là một điều hầu như hiển nhiên hay ít là không có gì "trục trặc" và bận tâm với niềm tin sẵn có nơi Chúa Toàn Năng ("điều gì mà Thiên Chúa cả làm được") và nhất là đối với Mẹ Maria "trọn đời đồng trinh". Nhưng thực ra với người Âu Tây vấn đề này (cũng như thiên chức của Đức Trinh Nữ Maria) đã và vẫn còn là nguồn tranh luận sôi nổi không ngừng nơi các nhà thần học và triết gia hiện tại cũng như một số giáo dân với khuynh hướng "cấp tiến"... Rồi từ đó kéo theo luôn vấn đề phụng vụ và các nghi lễ liên hệ trong việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria rất khác nhau ngay trong chính một địa phận Công Giáo Âu Châu. Đấy là chúng ta chưa dám bàn luận đến vấn đề tín lý giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Tin Lành về sứ mạng "đồng công cứu chuộc" của Đức Trinh Nữ Maria.

Cho nên người giáo dân Việt Nam thường nói với tôi: "Bên Tây Phương này lòng sùng kính Đức Mẹ không như xứ mình... có người giáo dân Tây còn cho rằng việc lần hạt là cách đọc kinh của mấy cụ già..."

Điều này không lạ. Tuy nhiên ở đây chúng ta không bàn về vấn đề mục vụ Tây phương khác với Ta thế nào nhưng là bài suy niệm về mầu nhiệm cứu chuộc.


Chúng ta có 3 bằng chứng xác định rõ về sự trinh tiết của Mẹ Maria:

1. Sách Isaia 7,14: "Chúa sẽ cho các ngươi một dấu lạ, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Điều này cũng có nghĩa là từ xưa đến nay chưa bao giờ xẩy ra điều đó, chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng đã sáng tạo nên vũ trụ mới có thể làm được, mà điều Ngài thực hiện với chỉ một mục đích là ban tặng cho nhân gian từ khi biến cố Adong và Evà.

2. Phúc Âm Mt 1,21 lập lại và xác định rõ ràng lời tiên tri trên đây qua miệng thiên thần Chúa nói với thánh Giuse trong giấc mộng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta..." Đoạn đầu bài Phúc âm còn xác định thật rõ: "Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần..."


Không còn nghi ngờ gì nữa vì có lời tiên báo từ ngàn xưa, vì có bằng chứng chính xác về sự kiện trên đây trong chính thời của Đức Mẹ và các thánh tông đồ, Giáo Hội đã xác quyết và tuyên xưng đức tin của mình mỗi Chúa nhật trong kinh Tin Kính (Credo) tín điều nhập thể của Chúa Cứu Thế.

3. Kinh Tin Kính: "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người..."
Nhưng điểm quan trọng hơn cả ở đây mà Giáo Hội muốn tuyên xưng và xác quyết là "Bởi phép Đức Chúa Thánh thần" tức là bởi quyền năng của Ngài, chính Chúa Thánh Thần đã và còn đang thực hiện muôn ngàn việc lạ lùng mà trí khôn ta cũng như khoa học hiện nay dù có tân tiến đến đâu cũng không bao giờ suy cho thấu. Xác quyết và tuyên xưng rằng Đức Mẹ đồng trinh trọn đời là tuyên xưng Thiên Chúa toàn năng. Ngài đã chọn một thiếu nữ dù bình thường như chúng ta lên thiên chức Nữ Vương Mẹ Thiên Chúa và Đồng công cứu chuộc với Con Ngài.

Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng và ít ngày nữa chúng ta sẽ mừng Chúa ra đời trong đêm Giáng Sinh. Ngoài trời thông reo và gió tuyết cùng ngàn vạn vì sao lấp lánh hợp với muôn tiếng nhạc du dương của bản thánh ca Noel hiền hoa... ai ai chúng ta cũng rộn rã trong tim một niềm vui thánh miên man đầm ấm khó tả. Hồn chúng ta bỗng chùng hẳn lại... bâng khuâng nhớ về những mùa Giáng Sinh thật đẹp năm xưa tại quê nhà dù không có tuyết rơi gió lạnh nhưng với ngàn vạn kỷ niệm yêu dấu không bao giờ quên.

Mẹ Maria và thánh Giuse năm xưa cũng xa quê nhà như chúng ta: thiếu thốn mọi sự ngay cả nơi trú thân. Cùng quỳ gối và suy niệm trước Chúa Hài Đồng trong máng cỏ, Mẹ Maria và các thiên thần sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn trong đức tin về mầu nhiệm giáng trần của Con Một Thiên Chúa sinh bởi một trinh nữ là Mẹ Thiên Chúa và là mẹ chúng sinh.

(Trích Nguyệt San Dân Chúa Âu Châu)


-------------------------------------

 

MV4-A32. GIUSE ĐÓN VỢ VỀ NHÀ MÌNH - Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh

 

Theo tiến trình phụng vụ của Giáo Hội, trước Đại Lễ Giáng Sinh, bao giờ Giáo Hội cũng cử: MV4-A32


Theo tiến trình phụng vụ của Giáo Hội, trước Đại Lễ Giáng Sinh, bao giờ Giáo Hội cũng cử hành một tuần lễ áp, từ ngày 17 đến ngày 24, để nhắc lại tất cả những gì xẩy ra trước Biến Cố Giáng Sinh và trực tiếp liên quan đến Biến Cố Giáng Sinh. Đầu tiên là hai bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu, một cho ngày 17, về nguồn gốc loài người của Chúa Kitô theo gia phả của Người, và một cho ngày 18, về nguồn gốc Biến Cố Nhập Thể của Người, sau đó, Phúc Âm Thánh Luca thứ tự cho thấy chi tiết hơn, ở ngày 19, về việc thiên thần báo tin Gioan Tẩy Giả ra đời, ở ngày 20, về việc truyền tin Lời Nhập Thể, ở ngày 21, về việc Mẹ Maria thăm viếng bà Isave, ở ngày 22, về ca vịnh Mẹ Maria ngợi khen Thiên Chúa là Đấng chẳng những “đã thương đến phận thấp hèn tì nữ của Ngài” là Mẹ mà còn “săn sóc Yếu Duyên tôi tớ của Ngài theo lòng Ngài xót thương, như Ngài đã phán hứa với các vị tổ phụ”, ở ngày 23, về việc đặt tên cho Gioan Tẩy Giả, và ở ngày 24, về ca vịnh Giacaria, thân phụ của hài nhi Gioan, báo trước việc “Chúa là Thiên Chúa của Yến Duyên đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài”. Theo chiều hướng ấy, các bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ Bốn, Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng này, cũng cho thấy, ở chu kỳ phụng vụ Năm A theo Phúc Âm Thánh Mathêu, về việc thiên thần báo mộng cho Thánh Giuse liên quan đến Lời Nhập Thể, ở Năm B theo Phúc Âm Thánh Luca, về biến cố Truyền Tin theo Phúc Âm Thánh Luca, (vì Phúc Âm Thánh Marcô cho chu kỳ Năm B không có một chi tiết nào về sự kiện Nhập Thể), và ở Năm C cũng theo Phúc Âm Thánh Luca, về việc Mẹ Maria thăm viếng và được bà Isave nhận biết Đấng cưu mang trong lòng Người. Riêng bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu hôm nay cho chúng ta thấy nguồn gốc của việc “Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:32) nhập thể, một biến cố trực tiếp liên quan đến cha mẹ của Người, nhất là liên quan đến vị cha nuôi của Người.

Thật vậy, hai tuần Mùa Vọng trước đây chúng ta đã thấy nhân vật Gioan Tiền Hô nổi bật trong các bài Phúc Âm Thánh Mathêu, hôm nay, cũng theo Phúc Âm Thánh Mathêu, đến phiên nhân vật Giuse, nhân vật chính được Thánh Ký Mathêu ghi nhận, “Maria đã đính hôn” và “là một con người chính trực”. Và cũng chính vì “là một con người chính trực” mà Thánh Giuse, như Phúc Âm kể tiếp, “không muốn tố cáo (Mẹ) nên “định tâm bỏ (Mẹ) cách kín đáo”. Tuy Phúc Âm không thuật lại cho biết “con người chính trực” này tại sao lại đi đến quyết tâm như vậy, chúng ta cũng hiểu là thánh nhân đã nhìn thấy tận mắt Mẹ Maria đang mang thai, trong khi hai người mới đính hôn với nhau, chưa về chung sống vợ chồng với nhau. Sự kiện Chúa Giêsu được thụ thai trong thời gian Mẹ Người đính hôn này cho thấy, theo pháp lý Do Thái bấy giờ, một khi đã đính hôn, hai người nam nữ có thể ăn ở với nhau như vợ chồng. Bằng không, Chúa Giêsu có thể bị coi là đứa con tiền hôn, thậm chí có thể trở thành một đứa con ngoại hôn hay một đứa con hoang, nếu hôn nhân không thành theo kiểu đính hôn thời nay, hay sau khi Thánh Giuse âm thầm bỏ đi. Phúc Âm cũng không thuật lại cho chúng ta biết “con người chính trực” này đã thấy được sự kiện phũ phàng oái oăm này lúc nào, (chắc chắn là sau thời gian Mẹ Maria đi thăm mẹ con Thánh Gioan Tẩy Giả về), và cuộc chiến đấu nội tâm đã xẩy ra như thế nào nơi Thánh Giuse sau khi chứng kiến thấy sự lạ xẩy ra trên thân xác của người vợ đính hôn của mình. Thế nhưng, căn cứ vào những chi tiết hết sức quan trọng, dù ngắn ngủi của Phúc Âm hôm nay, (cũng là bài Phúc Âm cho Lễ Kính Thánh Giuse 19/3 hằng năm, và cho cả lễ ngày 18/12 trong tuần trước Đại Lễ Giáng Sinh), chúng ta có thể cảm thấy được tâm trạng đau khổ quằn quại của Thánh Giuse, và cũng mới có thể thông cảm được việc ngài quyết định “bỏ (Mẹ) cách kín đáo”, một quyết định mà đối với ngài bấy giờ hết sức sáng suốt và khôn ngoan của “một con người chính trực”.

Trước hết, Thánh Giuse đã quằn quại với một tâm trạng đau khổ, đến nỗi, đã quyết định âm thầm bỏ đi. Phải chăng quyết định âm thầm bỏ đi của thánh nhân là một quyết định khôn ngoan sáng suốt, hay chỉ là một quyết định bối rối quá không biết phải làm sao hơn? Chúng ta có thể nghĩ rằng, sau khi chợt thấy người vợ đính hôn của mình rõ ràng là có bầu, với cái bụng phồng lên trông thấy, có thể nào về phương diện nhân loại, thánh nhân lại không bật ngửa ra, vô cùng lạ lùng bỡ ngỡ. Chắc chắc ngài đã không lên tiếng hỏi Mẹ Maria cho rõ ràng minh bạch về vấn đề này. Bởi thế, chúng ta cũng có thể suy ra rằng ngài đã bất chợt trông thấy Mẹ có bầu chứ không trực diện với Mẹ. Cho dù như thế, dù không trực diện với Thánh Giuse, Mẹ Maria chắc cũng linh cảm thấy, nếu không muốn nói là biết được rằng vị phu quân của Mẹ đã thấy chuyện lạ nơi thân xác của Mẹ. Cho dù có linh cảm thấy hay biết được điều này đi nữa, Mẹ Maria cũng đã chấp nhận nó ngay từ khi thưa lời “xin vâng” (Lk 1:38). Cả hai đều khó mở lời với nhau đối với vấn đề này. Về phần Thánh Giuse, nếu Mẹ Maria không tự động nói ra, chẳng lẽ ngài lại đi vặn hỏi, như thể ngờ vực và ghen tương, trong khi thánh nhân “là một con người chính trực”, cao thượng. Phần Mẹ Maria, chẳng lẽ phu quân của mình không hỏi mà lại tự động nói ra, như thể sợ bị ngài hiểu lầm, trong khi đó Mẹ lại là một con người “có phúc vì đã tin những gì Chúa phán sẽ được thực hiện” (Lk 145), nghĩa là, Mẹ không lo gì cả, hoàn toàn phó thác cho Chúa tất cả mọi sự, để Ngài tự giải quyết vấn đề theo ý định và đường lối của Ngài, không phải vì Mẹ muốn thách đố Chúa, ở chỗ, nếu Mẹ bị ném đá chết thì Chúa Kitô cũng sẽ chết, như thế những gì Chúa phán sẽ bất thành.

Chúng ta không biết khi quyết định âm thầm bỏ Mẹ Maria mà đi như thế, Thánh Giuse có nghĩ ra rằng, nếu làm vậy, cho dù thánh nhân không trực tiếp ra mặt khiến cho Mẹ bị ném đá chết, thì ngài cũng gián tiếp gây ra sự việc đáng tiếc ấy nếu chẳng may xẩy ra thực sự. Bởi vì, sau khi ngài đi rồi, mà Mẹ Maria lại bị khám phá ra không chồng mà có chửa thì cuối cùng Mẹ cũng bị ném đá chết thôi. Như thế, phải chăng Thánh Giuse chỉ nghĩ đến mình, đến danh thơm tiếng tốt của mình, hơn là dám liều mình che chở cho người khác, kể cả kẻ làm ô danh mình đi nữa, nếu quả thực là như vậy? Thế nhưng, khách quan mà nói, có một điều không thể tránh được là “chính trực” bao giờ cũng ngược với bất chính và không thể nào chấp nhận gian tà, như dâm ô, trộm cướp, giết người v.v. Bởi thế, sự kiện Mẹ Maria mang thai ngoại hôn khách quan là một chuyện không thể chối cãi, một chuyện tự bản chất thật là bất chính và gian tà, không thể chấp nhận được. Thánh Giuse có nghĩ rằng Mẹ Maria đã phạm tội ngoại tình hay chăng, không ai dám khẳng định và quả quyết. Tuy nhiên, việc mang thai ngoại hôn của Mẹ Maria trước mắt thánh nhân bấy giờ quả thực là một việc ngoại tình, và việc ngoại tình này không phải chỉ phạm đến thánh nhân mà nhất là phạm đến chính lề luật, tức đến chính Thiên Chúa. Việc ngài quyết định âm thầm bỏ đi không tố cáo Mẹ nghĩa là ngài hoàn toàn không dám phán đoán Mẹ, trái lại, trao phó những gì ngoài thẩm quyền phán quyết của ngài cho lề luật, cho Thiên Chúa Tối Cao là Đấng duy nhất có quyền phán xét Mẹ.

Như thế, quyết định âm thầm bỏ vị hôn thê của mình mà đi chứ không muốn ra mặt tố cáo người của Thánh Giuse cho thấy thánh nhân chẳng những “là một con người chính trực” theo luật cũ, mà còn là một con người nhân hậu theo luật mới nữa, một thứ luật mới được “Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:32), “quả phúc nơi lòng” (Lk 1:42) vị hôn thê của ngài bấy giờ mà ngài không biết, sau này sẽ khuyên dạy trong Bài Giảng Trên Núi, được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 7 câu 1, như sau: “Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét”. Phải, nếu Thiên Chúa đã làm sáng tỏ những mầu nhiệm của Ngài cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn nhất (xem Mt 11:25), thì Ngài quả thực đã thực hiện điều này nơi trường hợp điển hình của “con người chính trực” Giuse. Ở chỗ, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, “đột nhiên thiên thần Chúa hiện ra trong giấc mộng của ông mà nói: 'Hỡi Giuse, con Đavít, đừng sợ nhận Maria làm vợ. Chính bởi Thánh Thần mà người đã thụ thai con trẻ ấy. Người sẽ sinh ra một bé trai và ông sẽ đặt tên cho bé là Giêsu, vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội'”. Chính vì “là một con người chính trực”, nhưng không phải kiểu công minh chính trực của nhóm Pharisiêu đầy những tự cao, tự đại, xét nét, khinh người, mà là một thứ công chính nhân hậu của Tân Ước, với một tinh thần hết sức đơn sơ bé mọn, nên thánh nhân đã chấp nhận ngay mạc khải của Thiên Chúa, cho dù mạc khải của Ngài không tỏ ra cho thánh nhân thấy giữa thanh thiên bạch nhật mà chỉ qua một giấc mộng. Thánh nhân đã mau mắn chấp nhận mạc khải của Thiên Chúa ở chỗ, như phần kết của bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: “Khi Giuse thức giấc ông đã làm như lời thiên thần chỉ dẫn và đã đón vợ về nhà mình”.

Trong câu chuyện của bài Phúc Âm hôm nay, câu chuyện Thánh Giuse định tâm âm thầm bỏ Mẹ Maria mà đi rồi sau đó đã đón Mẹ về nhà mình khi nhận được mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta chẳng những thấy được hình ảnh của một Đấng Thiên Sai khổ nạn và tử giá, một cuộc khổ nạn và tử giá đã rọi chiếu nơi cha mẹ của Ngài ngay trước khi Người xuất hiện, mà còn thấy được cả ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa tỏ ra cho chúng ta thấy trong biến cố này nữa. Ý định đó là, muốn chấp nhận Vị Thiên Chúa Nhập Thể, tức chấp nhận Đấng Thiên Sai khổ nạn và tử giá, dù có nhận ra Người hay không, con người chẳng những phải chấp nhận thập giá khổ đau bởi Người và với Người, mà còn phải chấp nhận cả Mẹ của Người là Trinh Nữ Maria nữa. Khi Thánh Giuse “đón vợ về nhà mình” cũng chính là lúc thánh nhân đón cả “Giêsu quả phúc” trong lòng vị hôn thê “đầy ơn phúc” của thánh nhân về nhà của thánh nhân vậy.

Vấn đề thực hành sống đạo: Không một tạo vật nào trên trời dưới đất gần gũi Mầu Nhiệm Nhập Thể bằng Mẹ Maria, vì Mẹ là Mẹ của Lời Nhập Thể. Nếu con khổng long và bọn ngụy thần của hắn bị hất nhào xuống đất mất chỗ đứng của mình trên trời (xem Rev 12:8) là vì chúng không chấp nhận Lời Nhập Thể, tức không chấp nhận loài người được làm Mẹ Thiên Chúa (xem Rev 12:4), và nếu tinh thần phản kitô hay thành phần phản kitô là tinh thần và là thành phần “không chấp nhận Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt” (2Jn 7; xem 1Jn 4:3), thì quả thực muốn chấp nhận hay muốn cảm nghiệm thần linh về Lời Nhập Thể, nhất là trong Mùa Vọng, phải chăng con người cần “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3), ở chỗ, trước hết, chấp nhận Mẹ Maria, tức đến với Mẹ để Mẹ dẫn họ đến với Chúa, vì Chúa đã thực sự nhờ Mẹ đến với loài người: Mẹ chính là Điểm Hẹn Thần Linh, nơi Thiên Chúa hẹn gặp gỡ loài người và là nơi loài người chắc chắn sẽ gặp được Ngài là Vị Thiên Chúa Làm Người trong lòng Mẹ và được hạ sinh bởi Mẹ?


-------------------------------------

 

MV4-A33. Chúa ở cùng chúng ta


CHA NHẬT 4 MA VỌNG A / 4th Sunday of Advent

Lời Chúa cho hôm nay: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

* God is with us *


BÀI ĐỌC 1: Isaia 7, 10-14= Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en./ The virgin shall be with child shall be a son, and shall name him Immanuel.

BÀI ĐỌC 2: Rom 1, 1-7= Theo thể lý, Đức Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavit; nhưng Người là Con Thiên Chúa với đầy quyền năng./ Christ was descended from David according to the flesh but was made Son of God in power.

TIN MỪNG (Gospel): Mat 1, 18-24= Này ông Giuse…đừng ngại đón vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng của Thánh Thần./ Joseph…, have no fear about taking Mary as your wife, it is by the Holy Spirit.

A-Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Some points of Reflection, live out and share)

 

Nguồn gốc Đức Giêsu: Bài Tin Mừng Chúa nhật 4 Mùa Vọng cho tôi thấy Mẹ Chúa Giêsu đa: MV4-A33


1- Nguồn gốc Đức Giêsu: Bài Tin Mừng Chúa nhật 4 Mùa Vọng cho tôi thấy Mẹ Chúa Giêsu đã đính hôn với ông Giuse để ứng nghiệm sấm ngôn về Đấng Em-ma-nu-en như sau: “Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.” ((Mat 1,18), ông Giuse có nhiệm vụ nhận người con do Đức Maria sinh ra làm con của mình. Thật là mầu nhiệm lạ lùng trong chương trình Thiên Chúa cứu độ tôi và nhân loại qua Chúa Thánh Thần. Tôi đã cảm nghiệm tình Chúa yêu tôi như thế nào?

2- Ông Giuse biết lắng nghe: Trước sự yếu đuối của con người, ông đã âm thần bỏ bà Maria; nhưng Sứ thần Chúa đã báo ngay cho ông biết ngay: “Này ông Giuse, con cháu Đavit, đừng ngại đón vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.”(Mat 1,20) Ông đã tôn trọng mầu nhiệm Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Maria và Chúa cũng nói với bạn về nguồn gốc và sứ mạng của Chúa Giêsu, Chúa vẫn nhắc bảo bạn qua những người nhỏ bé bất hạnh. Bạn thấy Chúa nói với bạn qua hình thức nào?

3-Dấu hiệu Chúa yêu tôi: Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia đã nói với vua A-khát là ông cứ xin đi thì Thiên Chúa sẽ cho một dấu, nhưng ông không xin vì không dám thử thách Chúa. Vì thế Chúa đã ban: “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en.” ((Is 7,14) Ngày nay Chúa đang làm nhiều dấu lạ như thiên tai, chiến tranh, khủng bổ, bệnh tật lan tràn để nhắc nhở tôi hãy tỉnh thức. Chúa cũng dạy bảo tôi qua kẻ chống đối, thù hận, chia rẽ. Chia sẻ những khó khăn tôi đang phải đối đầu?

4- Sứ mệnh của Đức Giêsu: Thánh Mathêu đã ba lần nhắc Chúa Giêsu được sinh ra là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần qua Mẹ Maria và ông Giuse: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân người khỏi tội lỗi cuả họ.” (Mat 1, 21) Thánh Phaolô trong thư gởi Rôma cũng nói: “Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ tông đồ làm cho tất cả dân ngoại.” (Rom 1, 5) Trách nhiệm của tôi hôm nay trong Gia đình và xã hôị về cách ăn nết ở và hành động cần phải ăn nhập vào đời sống luôn có Đức Kitô hiện diện. Cho vài kinh nghiệm phục vụ trong môi trường?

B- Câu Kinh Thánh đánh động Nhóm và tôi Sống tuần này: (The Best God’s Word)

BÀ SẼ SINH CON TRAI VÀ ÔNG PHẢI ĐẶT TÊN CHO CON TRẺ LÀ GIÊSU (Mat 1, 21)

She is to have a Son and you are to name Him Jesus

C- Thực hành Lời Chúa: (So what am I doing/For Action): 1/ Mở lòng đón Chúa vào tâm hồn mình. 2/ Thực sự thay đổi để gặp Chúa. 3/ Ôn tồn khiêm tốn lắng nghe. 4/ Cảm nhận Chúa trong moị người.

D- Bạn và tôi cùng cầu nguyện và Sống Cầu nguyện: (I pray and practice/ ) Laỵ Cha, Sứ thần đã nói với ông Giuse: Này ông Giuse con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về. Xin cho con biết niềm nở đón tiếp người thân cũng như kẻ ghét con trong mọi lúc, vì họ cũng là hình ảnh và Con yêu quý của Cha mà con gặp gỡ hàng ngày.


Take time to think about God and His many Blessings

Phó tế Nguyễn Định

-------------------------------------

 

MV4-A34. Nhiệm Mầu Của Một Sự Hiện Diện


CHA NHẬT THỨ IV MA VỌNG

NHIỆM MẦU CỦA MỘT SỰ HIỆN DIỆN


 

Thiên Chúa tình yêu chưa bao giờ ngã lòng trung thành và không ngừng hiện diện giữa dân: MV4-A34


Thiên Chúa tình yêu chưa bao giờ ngã lòng trung thành và không ngừng hiện diện giữa dân Người. Đó không chỉ là đề tài xuyên suốt dòng lịch sử cứu độ, quan trọng hơn, đó còn là sự thật làm thành một dòng chảy không bao giờ ngơi nghỉ trên mỗi cá nhân con người, suốt dọc dài thời gian. Ngay trong hoàn cảnh bi đát nhất, thương đau nhất của lịch sử, sự thật về tình thương yêu ấy vẫn ngời ngời sáng, sưởi ấm niềm hy vọng của đoàn dân Thiên Chúa, của từng người một. Không phải chỉ hôm nay, sau khi mọi biến cố trên dòng lịch sử cứu độ đã nắn đúc bao nhiêu kinh nghiệm quý báu cho đức tin, ta mới thốt lên như thế. Nhưng ngay trong chính các biến cố đang xảy ra, dân Chúa đã từng thấm thía bài học đức tin này: Thiên Chúa luôn trung thành yêu thương, không bao giờ ngừng hiện diện giữa dân Người.

Nhất là các cuộc lưu đày viễn xứ, càng cho thấy tình yêu ấy quá diệu vợi. Vì quên giao ước, ngụp lặn trong tội, hết miền bắc, rối đến miền nam lưu đày, hết đế quốc Assyri giày vò đến Babylon xâu xé, đã làm toàn dân rã rời, thổn thức, thương đau. Nhất là sự tàn phá miền nam bởi bàn tay Babylon là cuộc bình địa thảm khốc: Đền thờ và hòm bia giao ước, bảo vật quý giá vô cùng, là hình ảnh của Thiên Chúa ở giữa dân Người, cùng lúc bị phá hủy, mọi lễ nghi tôn giáo bị giết chết, các tư tế bị tê liệt vì không còn tế lễ, các tầng lớp giàu sang, trí thức bị lưu đày. Ở lại chính quốc chỉ là đám dân nghèo khổ, hèn hạ, đói rét. Sêđêkia, vua đương kim, dòng dõi của Đavid, lẽ ra phải huy hoàng muôn thuở, bị hành hạ nhục nhã, bị đâm mù mắt, và biệt xứ. Cuộc lưu đày lần này còn lớn hơn các lần lưu đày của Cựu ước. Dân Thiên Chúa tuyển chọn không còn tổ quốc, tôn giáo cũng cáo chung.

Đây là một thử thách quá sức chịu đựng. Đức tin bắt đầu nảy sinh những vấn đề bất lợi. Trong chiến tranh, các quốc gia đều cậy dựa vào thần linh. Vì thế, thắng hay bại đều do thần của mình thắng hay bại. Bởi đó, hai cuộc lưu đày của cả hai miền dường như phủ nhận mọi lời Chúa hứa. Đau đớn hơn, Thiên Chúa của họ thất bại. Người ở đâu khi để dân tộc bị tước đoạt tất cả, ngay danh dự của những kẻ cùng làm người, điều căn bản nhất của con người cũng không còn? Nhục nhã hơn, khi bị lưu đày không phải thành phần thấp kém, nhưng là những người uy thế, trí thức, giàu sang. Quyền năng Thiên Chúa ở đâu, sao để dân phải sống một đời lầm than, tủi nhục, nghèo khổ? Có Chúa chăng, sao lại để đền thờ, hòm bia giao ước, tượng trưng sự hiện diện của Người, bị phá hủy không thương tiếc? Ích lợi gì lời hứa về một vị vua thuộc dòng Đavid, bởi trong số họ, trừ một vài người, hầu như tất cả đều bất tài, thất đức, tội lỗi đầy tràn? Thực tế phủ phàn đã làm nhiều người mất đức tin. Tệ hơn, nhiều người quay sang thờ các thần linh của đế quốc.

Nhưng khi tỉnh táo nhìn lại, lưu đày lại mang niềm hy vọng. Trong cảnh lầm than của thân phận đày ải, dân thấm thía lời tiên tri cảnh báo hậu quả của tội, điều mà họ từng cho là đinh tai nhức óc, lại chính là lời yêu thương, vỗ về. Họ ân hận vì bỏ ngoài tai những gì Thiên Chúa đã dùng để chứng minh tình thương, sự hiện diện của Người. Họ ân hận vì đã giết các tiên tri, những người cứu sống họ nếu biết vâng nghe lời các ngài. Bây giờ họ mới quý các sách luật, quý sứ điệp của các tiên tri. Họ thu tập thành sách, để giữa cảnh lưu đày, không đền thờ, không tư tế, họ biết tự mình gìn giữ đức tin bằng cách học tập, nghiên cứu, tập họp quanh nhau giải thích và truyền cho nhau những gì đã hấp thụ từ cha ông. Họ nhận ra một chân lý không nhỏ chút nào: Trong thử thách, Thiên Chúa vẫn hiện diện giáo dục mình. Chính trong nỗi đau tù đày, khi sống cùng dân ngoại, Israel nhận ra ơn cứu độ phổ quát. Chúa không chỉ là Thiên Chúa của Israel, nhưng còn là của mọi dân. Từ đó ơn cứu độ lóe lên. Ơn cứu độ đã được loan báo từ ngàn xưa, điều mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta suy niệm trong bài đọc I,: “Chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, Nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7, 14), một lần nữa lại được công bố, không phải tại quê nhà nhưng từ đám dân bị đày ở Babylon. Vì chính trong cảnh tha hương, dân chúng được thanh luyện đức tin. Chỉ những ai, nơi nào lòng tin đã được thanh luyện, biết nhận ra lỗi của mình, biết tìm đến Chúa, những con người ở nơi ấy mới xứng đáng đón nhận niềm vui ơn cứu độ.

Lời Chúa qua miệng các tiên tri, nhất là trong những lần ly táng, Chúa an ủi dân Người, được thực hiện nơi Chúa Kitô. Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người, một cuộc hiện diện vĩ đại, cuộc hiện diện lớn chưa từng có, độc đáo, hoàn hảo trên hết mọi cuộc hiện diện, đúng với những gì tiếng Emmanuel-Thiên Chúa ở cùng chúng ta, diễn tả. Vì dù là Thiên Chúa, một khi làm người, Chúa Kitô làm người đúng nghĩa, sống giữa mọi người như chính con người là người chứ không khác người.

Dù thực sự đến trong lòng người, đến giữa lòng thế giới trong thân kiếp con người, Thiên Chúa vẫn chỉ một đường lối nhiệm mầu muôn thuở. Tiếp tục hiện diện, nhưng chính người trong cuộc được mời gọi cộng tác để ơn cứu độ thành toàn, vẫn không thể hiểu hoặc hiểu hết. Đức Maria, khi được cho biết mình sẽ mang thai Con Thiên Chúa, đã phải thốt lên: “Việc ấy xảy ra cách nào được” (Lc 1, 34). Cuộc đời làm Mẹ Thiên Chúa, vinh quang đâu chẳng thấy, trước mắt và hết mọi ngày sống, cùng Con mình, Mẹ đã liên tục xin vâng để chấp nhận thập giá.

Cũng thế, hôm nay Tin Mừng theo thánh Matthêu, một lần nữa cho ta thấy hình ảnh hoang mang của thánh Giuse vì không hiểu hết lối đường của Chúa. Cũng vẫn hai tiếng xin vâng, dù không thốt thành lời, nhưng đã có trong tâm khảm, nhờ đó, thánh Giuse can đảm đón nhận thánh ý Chúa: “Đừng sợ nhận Maria về nhà làm bạn mình: vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu”. Điều mà Giuse chấp nhận hôm nay, chính là điều “Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: Này đây, một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Nhưng Giuse chỉ hiểu như thế, vẫn chưa phải là rốt ráo của vấn đề. Cuộc đời làm cha nuôi của Chúa Giêsu, sẽ còn nhiều thử thách mà thánh Giuse phải đối mặt. Làm sao có thể hiểu nổi, Thiên Chúa ở với mình, lại chỉ là một con người bị người ta muốn giết chết ngay từ ấu thơ. Giêsu ấy là Thiên Chúa, nhưng vì sao lại chìm khuất giữa làng quê Nagiaret, nghèo khổ, lam lũ. Là Con Thiên Chúa, nhưng dưới mắt người đời, không ai tin được. Ai cũng chỉ nói một sự thật rõ ràng trước mắt: Giêsu ấy là con của mình. Họ vẫn cứ bảo: đó là con của bác thợ mộc Giuse thôi.

Khác gì ngày xưa, Thiên Chúa hiện diện giữa dân của Người, sự hiện diện ấy lạ lùng quá, vượt ra ngoài trí hiểu của dân. Đến khi Thiên Chúa hóa thân làm một người con trong gia đình, thì sự hiện diện của Người càng diệu kỳ, gây ngỡ ngàng và hoang mang quá đỗi cho mọi thành viên trong gia đình. Thánh Giuse và Đức Maria chỉ còn biết thốt lên tiếng xin vâng để cả một đời chấp nhận mà thôi.

Bạn và tôi, chắc chẳng khác gì dân riêng của Chúa, chẳng khác gì thánh Giuse, Đức Mẹ và vô vàn những vị thánh trong lịch sử Giáo Hội. Ta vẫn biết, Chúa đang hiện diện trong cuộc đời hôm nay, trong chính tâm hồn mình. Nhưng sự hiện diện ấy cũng vẫn chỉ là một sự hiện diện nhiệm mầu. Dù Chúa đã hứa: “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế”, nhưng xung quanh ta sao vẫn còn đó quá nhiều sự dữ, đói nghèo, bất công, tham lam… Nhất là sự hiềm khích trong nhân loại dường như ngày một tăng dần, đến mức trở thành nỗi hận thù khó có gì ngăn cản. Sự thù hận giữa những cá nhân, tập thể, của quốc gia, đảng phái với nhau… đã kéo theo những cuộc giết người hàng loạt không thương tiếc.

Đối với cá nhân của mỗi người cũng không khác hơn. Nhiều lần đi giữa đêm đen của đau khổ, có lúc đau khổ tột cùng, tưởng như không thể thoát, chúng ta đã chao đảo đến mức nghi ngờ về chính đức tin của mình. Chỉ có một cách làm cho ta bình an, đó là học lấy hai tiếng xin vâng để có thể can đảm chấp nhận mọi biến cố xảy đến cho mình. Đàng khác, nếu ngày xưa, dân Chúa xem các biến cố là phương thế Thiên Chúa giáo dục mình, hôm nay Người cũng đang hiện diện để giáo dục lòng tin, sự trung thành và tình yêu của ta.

Lễ Giáng sinh, chúng ta kỷ niệm cuộc hiện diện đầy tình yêu của một vì Thiên Chúa đã cúi sâu xuống trên thận phận con người. Một tình yêu lớn đến nỗi, làm cho Người chấp nhận cách thế hiện diện như chúng ta là người, để chia sẻ đến cùng cái giới hạn của kiếp người bất tất của ta. Đó là tiếng xin vâng quan trọng và cao cả trên mọi tiếng xin vâng, dù là của Đức Mẹ hay của thánh Giuse. Chính vì xin vâng trọn vẹn như thế, Chúa Giêsu đã làm nên sự hiện diện lạ lùng, vượt quá sức hiểu biết của loài người chúng ta. Vậy chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, nhìn vào hang đá, chúng ta có cả một bài học xin vâng thế giá như thế, lẽ nào ta còn nghi nan, còn nề hà mà không để Chúa dẫn dắt mình?


Lm Vũ Xuân Hạnh

-------------------------------------

 

MV4-A35. NIỀM TIN CỦA THNH GIUSE


CHA NHẬT 4 MA VỌNG

(Mt 1,18-24)


 

Chỉ có thánh Mát-thêu kể lại tấm thảm kịch nặng nề và đặc biệt đã xảy ra trong tâm hồn thánh: MV4-A35


Chỉ có thánh Mát-thêu kể lại tấm thảm kịch nặng nề và đặc biệt đã xảy ra trong tâm hồn thánh Giuse. Thảm kịch đó thế nào ? Chúng ta biết: Đức Maria không hề cho thánh Giuse hay biết gì về việc truyền tin và về việc thụ thai lạ lùng Thiên Chúa thực hiện nơi mình. Vì thế khi việc có thai của Đức Mẹ đã trở thành quá hiển nhiên đối với những người quen biết trong làng Na-da-rét, thì thánh Giuse rất ngạc nhiên lo lắng, và vì không hay biết gì về phép lạ, nên ngài chỉ có thể nghĩ tới một điều tự nhiên là Maria đã phạm tội ngoại tình, trái luật phu thê và như thế là thất trung. Đàng khác, có lẽ Maria đã tỏ cho Giuse biết ý định của mình là sống trinh khiết tận hiến cho Thiên Chúa. Trong trường hợp này, Giuse nghĩ là Maria đã vi phạm lời hứa đó. Chắc chắn Giuse ngạc nhiên, vì một thiếu nữ vẹn toàn như Maria sao lại có thể phạm tội như thế !

Có người cho rằng Đức Maria thiếu khôn ngoan, bởi vì ngài có thể đoán được mối lo lắng của Giuse như thế nào khi biết ngài có thai, nên đáng lẻ ra ngài phải nói cho Giuse biết trước về điều đó để tránh mối lo lắng của ông. Tại sao Maria lại không nói gì ? Thực ra việc nói chuyện rất khó, vì hình như Maria và Giuse, theo phong tục thời đó, chẳng bao giờ gặp mặt nhau, trừ khi có sự hiện diện của cả gia đình. Hơn nữa, trước con mắt Giuse, Maria hình như là một kẻ tội lỗi. Mà một người đã bị tố cáo, nếu nói để chữa mình, không những không gỡ được tội đó mà còn bị coi như phạm một tội khác nữa: Tội nói dối, nhất là khi điều người ta nói ra để thanh minh lại thuộc phạm vi khác thường như việc truyền tin. Nếu Maria nói điều này mà Giuse không thấy có chứng cớ gì thì Giuse rất có thể và phải hồ nghi lời Maria, như thế tình trạng càng căng thẳng thêm. Bởi vậy Maria không nói gì là khôn ngoan nhất và mong đợi Thiên Chúa sẽ giải thích cho Giuse.

Phần Giuse, vì là một người công chính, không muốn làm mất thể diện Maria, nên dự định bỏ ngài cách kín đáo. Chúng ta biết, nơi người Do Thái, không phân biệt rõ thời kỳ đính hôn và cưới hỏi. Mặc dù chưa cưới hai người đã đính hôn cũng có thể ăn ở như vợ chồng mà không có lỗi gì đối với luật lệ. Do đó, khi người ta thấy vị hôn thê có thai, thì chỉ một mình vị hôn phu có thể phán đoán trong việc đó là có tội hay không. Như vậy, thánh Giuse có thể hành động theo hai cách: hoặc là tuyên bố theo sự hiểu biết tự nhiên của mình là Maria đã phạm tội ngoại tình, và như thế Maria bị mất thể diện hoàn toàn, hoặc là để mặc cho người ta tin rằng ngài là cha của đứa bé sắp sinh. Giuse đã chọn giải pháp nào ? Thật khó nghĩ quá ! Một đàng ngài không muốn công khai bộc lộ ý tưởng của mình là Maria đã phạm tội, vì ngài không muốn gây tổn thương cho Maria, một thiếu nữ ngài rất yêu mến và không muốn cho cô phải đau khổ. Nhưng đàng khác, giả sử Maria đã phạm tội thật mà nhận cô làm vợ thì không được. Bởi đó đành thực hành luật Môsê chăng ? cho phép bỏ vợ khi có lý do chính đáng quan trọng.

Đang phân vân lo nghĩ không biết xử trí ra sao thì Thiên Chúa đã tỏ cho Giuse biết: mặc dù bề ngoài như vậy, cô Maria không có tội gì, vì cô thụ thai không theo thói thường nhân loại, nhưng đó là một kết quả của phép lạ Chúa Thánh Thần. Giuse sung sướng biết bao khi nghe tin mừng ấy, điều đó giải thích rõ biến cố một cách thích hợp với sự thánh thiện và thanh sạch của Đức Maria. Vì thế Giuse vui mừng nhận lời Thiên Chúa, tin tưởng và quyết định sẽ hết lòng vâng theo sứ mệnh đặc biệt và cao cả đó.

Ngoài ra, khi sai sứ thần đến trấn an và báo tin vui cho thánh Giuse, Thiên Chúa còn muốn cho chúng ta biết sứ mạng của Chúa Giêsu. Thực vậy, lời sứ thần giải thích tên gọi của Chúa Giêsu chính là lời công bố sứ mạng của Người. Trong Sách Thánh, nhưng tên gọi đều có ý nghĩa riêng như chúng ta thường nói: tên là người. Vậy Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa Cứu Chữa: “Chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Lời giải thích này hàm chứa nhiều điều. Người Do Thái trông đợi một Đấng Mêsia sẽ nối nghiệp Đavít giải phóng họ khỏi mọi kẻ thù và đưa họ lên địa vị bá chủ muôn dân. Nhưng Chúa Giêsu sẽ cứu dân mình khỏi tội lỗi. Ngài cứu khỏi tội lỗi chứ không cứu khỏi ách thống trị của Rôma. Dân của Người đây không phải chỉ là dân Do Thái nhưng là tất cả những ai đón nhận ơn giải thoát của Người để được khỏi tội.

Quả thực, biến cố hay sự kiện Chúa Giêsu đến trần gian làm cho chúng ta khám phá ra rằng: người ta còn hy vọng ngay cả khi chẳng có lý do để hy vọng. Vì Thiên Chúa đã giáng trần để chúng ta trở nên con Thiên Chúa, sống trong tình thương mến của Người Cha chí ái chí nhân. Ngài đã giáng trần để tìm lại nếp sống tươi đẹp cho chúng ta, cho dù chúng ta là ai. Vì những người con của Thiên Chúa, không biết đến màu da tiếng nói, không phân biệt giai tầng xã hội, không câu nệ kẻ lưu manh người chính trực. Cho dù chúng ta đối xử với nhau như thế nào, chúng ta vẫn phải nhớ rằng: đừng vì lòng chúng ta hẹp hòi mà bắt lòng Thiên Chúa không được quảng đại, đừng vì tâm địa chúng ta bất chính mà chúng ta buộc Thiên Chúa phải nhỏ nhoi ti tiện. Hình như biết thế nên Thiên Chúa đã rào đón dặn dò chúng ta: “Chẳng phải người khoẻ mạnh cần đến y sĩ mà là kẻ ốm đau. Hãy đi và học cho rõ nghĩa câu này: Ta muốn tình thương chớ không muốn lễ vật. Vì Ta đến không phải để gọi kẻ ngay lành, nhưng để kêu mời người tội lỗi”. Đó là tất cả ý nghĩa sứ mạng của Chúa Giêsu.

Đọc lại đoạn Tin Mừng này vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta chuẫn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh. Thánh Giuse đã đón nhận mầu nhiệm này vì lòng tin. Thiên Chúa cần đến ngài để ngài đứng ra chấp nhận làm cha Chúa Giêsu trước pháp luật. Ngài đã vâng theo, nên ngài được tôn phong là gương mẫu sự công chính, không phải vì ngài cam lòng để cho pháp luật chi phối cho bằng vì ngài tôn trọng công việc của Thiên Chúa, ưng thuận lãnh nhận vai trò Thiên Chúa ủy thác và hết lòng làm đến nơi đến chốn. Cũng vậy, chúng ta cũng phải nhờ lòng tin đón nhận Chúa Giêsu vào lòng mình, để Chúa hoạt động nơi chúng ta, nhưng chúng ta phải cộng tác với Ngài. Bởi vì chúng ta không được mong chờ sự cứu rỗi một cách thụ động, chúng ta phải tích cực cộng tác vào hoạt động cứu rỗi của Chúa thì chúng ta mới cứu được mình, như thánh Au Tinh đã nói: “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta, không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Ngài không thể cứu rỗi chúng ta, nếu chúng ta không ưng thuận”.

Trích Chia Sẻ Tin Mừng Chúa Nhật Năm A


Lm. Giacơb Phạm Văn Phượng, OP

-------------------------------------

 

MV4-A36. Tìm gặp Chúa trong sự thanh vắng của tâm hồn


Is 7: 10-14; Rm 1: 1-7; Mt 1: 18-24

 

Vấn đề cô đơn không những có ảnh hưởng đến người già, người goá bụa, mà còn tác dụng đến: MV4-A36


Vấn đề cô đơn không những có ảnh hưởng đến người già, người goá bụa, mà còn tác dụng đến cả người trẻ và người có gia đình. Tuy nhiên cô đơn không đồng nghĩa với cô độc, bởi vì người ta có thể cô độc, nghĩa là ở một mình, mà không cảm thấy cô đơn. Trái lại người ta có thể vẫn cảm thấy cô đơn, mặc dù sống giữa gia đình, giữa đám đông và giữa cảnh vui nhộn. Chẳng thế mà đại thi sĩ Nguyễn Du đã dệt cái buồn của nàng Kiều vão cảnh truyện thơ Đoạn Trường Tân Thanh có đượm vẻ buồn man mát: Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ. Mùa đông với thời tiết âm u càng khiến cho lòng người ảm đạm. Theo thống kê thì mùa đông con số người tự huỷ diệt mạng sống cao hơn các mùa khác. Vào mùa này tại Hoa Kỳ giữa khoảng thời gian từ dịp lễ Tạ ơn vào cuối tháng mười một cho tới sau tết dương lịch, cái buồn của những người già sống một mình lại càng thấm thía khi họ thấy người có gia đình hay bạn bè gửi thiệp chúc mừng nhau, đi thăm hỏi lẫn nhau, tặng quà cho nhau và ăn uống với nhau, còn họ thì cứ lủi thủi một mình. Nếu có con cháu đến thăm hỏi, gửi thiệp hay quà cáp, họ có thể đặt câu hỏi tại sao trong năm bị con cháu quên lãng mà chỉ vào dịp này mới được con cháu nhớ tới? Như vậy có phải con cháu chỉ làm theo phong tục tập quán hơn là do lễ nghĩa và tình hiếu thảo thúc đẩy không?

Ở những xã hội kỹ nghệ hoá, nếp sống người không tu cũng giống người đi tu: nhiều người cũng ở một mình, cũng tự đi chợ, nấu ăn, giặt giũ, quét dọn.. Vậy thì để đối phó với cảnh cô độc, cô thân cô thế: không vợ, không chồng, không bạn, người ở một mình mà không đi tu cũng cần tìm cho mình một lý tưởng sống nào đó, nghĩa là tìm phương pháp tu tại gia để cho đời thêm ý nghĩa. Người ở một mình cũng như người có gia đình cần tìm cái sự thân mật với chính mình. Thân mật với chính mình có nghĩa là biết mình, biết những ưu khuyết điểm của mình. Đa số người ta chỉ để ý đến những ưu điểm, mà không biết đến những khuyết điểm của mình. Thân mật với chính mình còn có nghĩa là tiếp xúc với những cảm giác của chính mình: vui, buồn, hạnh phúc, chán nản, mệt nhọc, hối hận..., những cảm giác hãnh diện cũng như những cảm tình tội lỗi. Không những cần tiếp xúc với những cảm xúc của chính mình, người ta còn cần biết tại sao mình có mối cảm xúc đó trong lúc đó trong cuộc sống. Biết được tại sao mình cảm thấy xuống tinh thần lúc đó để mình đề phòng cho khỏi xẩy ra và đối phó khi xẩy đến. Xuống tinh thần có thể là tại thiếu ăn thiếu ngủ, thiếu dinh dưỡng, thiếu chất gì đó trong người, hay thiếu được nâng đờ và đánh giá. Nói tóm lại người ta cần quan sát để lắng nghe những dấu hiệu của cơ thể, những cảm giác của tâm trí và những khát vọng của tâm hồn.

Cái sự thân mật với chính mình sẽ giúp mình nhận ra những yếu hèn và tội lỗi của mình hầu đặt tin tưởng cậy trông phó thác vào lòng thương xót của Chúa. Cái sự thân mật với chính mình còn giúp mình nhận ra những tài năng và ân huệ nơi mình hầu cảm tạ đội ơn Chúa cho những tài năng và ân huệ nhận được. Cái hệ quả của sự thân mật với mình trên đây sẽ đưa mình đến sự thân mật với Chúa. Thân mật với chính mình và với Chúa còn giúp mình đối phó với những giờ phút cô đơn. Có sự thân mật với mình và với Chúa, cái cô đơn sẽ đưa đến sự thanh vắng của tâm hồn, là nơi người ta có được cái sự tĩnh mịch và phẳng lặng của tâm hồn. Thiếu sự thân mật với mình và với Chúa, thì cái cô độc, tức là cô thân hay cô thế, sễ trở thành cô đơn. Và cô đơn sẽ trở thành mối nguy hại cho chính mình. Bởi vì để đối phó với cảnh cô đơn buồn chán, người ta có thể tìm đến xì-ke, ma tuý hay rượu mạnh, hoặc coi phim ảnh đồi tệ cho qua ngày giờ. Hồi mới qua Mỹ, có những người coi phim chưởng suốt cả ngày đêm. Để đối phó với cảnh cô đơn, người ta cũng có thể tìm đến những thú vui bất chính, những mối tình ngang trái và tạm bợ. Mà những mối tình tạm bợ và ngang trái thì không bền, nghĩa là có lúc nào đó, người ta phải tự cắt đứt hay buộc phải cắt đứt vì những lý do khác nhau. Và khi phải cắt đứt cái mối tình ngang trái và tạm bợ, người ta sẽ phải chuốc lấy cái đau khổ về cho mình. Có những người cảm thấy chới với như người mất hồn: ăn không ngon, ngủ không yên, làm việc mà lòng trí để nơi khác. Có người đi tu kia đến chiều Chúa nhật hay ngày nào rảnh mà không ra ngoài, gặp bạn bè ăn uống nói chuyện lành mạnh, thì cảm thấy cái gì thiếu thốn. Khi có được sự thân mật với Chúa và với mình, vị tu hành đó không còn cảm thấy nhu cầu phải đi gặp người nọ người kia như trước nữa.

Vậy thì phải chăng chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới lấp đầy được sự trống rỗng trong tâm hồn. Thời xưa Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại bằng nhiều cách thế khác nhau: trong đám mây, trên đỉnh núi, nơi bụi cây, ngoài hoang địa. Tuy nhiên cái sự hiện diện của Thiên Chúa qua những cách thế biểu lộ có tính cách gián tiếp như vậy vẫn còn cái gì ẩn khuất. Vì thế ngôn sứ Isaia trong Cựu ước hôm nay hứa cho nhân loại một sự hiện diện mới của Thiên Chúa: một sự hiện diện có tính cách cá biệt, qua một biến cố kỳ diệu. Đó là: Một người nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, và đặt tên cho con trẻ là Emmanuen' (Is 7:14). Cái điều mà ngôn sứ Isaia chỉ hứa, thì Thánh Sử Mathêô đã nhìn thấy được thực hiện nơi người Con của trinh nữ Maria, tên là Emmanuen, có nghĩa là: Thiên- Chúa- ở- cùng- chúng- ta (Mt 1:23).

Trong cái biến cố Giáng sinh, Thiên Chúa đã biến thành nhục thể và ở giữa loài người, và thiết lập sự hiện diện giữa loài người. Có Chúa hiện diện và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa, ta sẽ không còn cảm thấy cô đơn. Cái cảm nghiệm về sự hiện diện của Chúa, giống như cái cảm nghiệm của hai người yêu vắng bóng nhau. Mặc dù họ không hiện diện bằng thân xác, họ thường tư tưởng về nhau, cảm nghĩ về nhau, nhớ nhung nhau, nghĩa là họ cách mặt mà không xa lòng. Cái cảm nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống cũng tương tự như vậy. Người có cảm nghiệm về sự hiện diện của Chúa thì thường tưởng nghĩ về Chúa, cảm thấy Chúa ở quanh mình, bao bọc và che chở mình, cảm thấy Chúa cùng ăn uống, làm việc và nghỉ ngơi với mình. Và đó chính là ý nghĩa của lời Thánh Phaolô: Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi (Gl 2:20). Đức Kitô sống trong ta bằng ơn thánh, bằng tư tưởng, cảm tình, bằng mơ ước và hoài bão của ta. Hai người yêu nhau thường có cảm nghiệm về sự hiện diện của người yêu, bóng dáng người yêu. Yêu Chúa và được Chúa yêu, ta cũng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa, bóng dáng của Chúa, cùng với sự bao bọc, ấp ủ và che chở của Người.

Trích NS Dân Chúa Mỹ Châu

Lm Trần Bình Trọng, USA

-------------------------------------

 

MV4-A37. Đừng Sợ. Chúa Ở Cùng Chúng ta


Cha nhựt 4 Ma Vọng năm A

Is 7: 10-14; Rom 1: 1-7; Mt 1: 18-24 Dec. 19, 2004

Đừng sợ. Cha ở cng chng ta.


 

Lịch sử ơn cứu độ là lịch sử của tình yêu, Thiên Chúa ở cùng Dân Người, đặc biệt qua mầu: MV4-A37


Bài Tin mừng hôm nay, thánh sử Matthew tập chú nhiều vào thánh Giuse. Việc đấng Cứu thế, đấng Messiah sinh ra được tường thuật trong bài Tin mừng hôm nay mang tính chất thần học hơn là lịch sử và có nhiều uẩn khúc.

Trước hết, đấng Messiah, theo lời các tiên tri, phải được sinh ra bởi dòng dõi Đavit mà Giuse là miêu duệ. Nhưng trước khi hai người về chung sống với nhau thì Maria đã có thai, vậy Hài nhi đâu có phải là con ông Giuse mà gọi “ Giêsu con vua Đavit”.

Việc Maria thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh thần, Giuse không hề hay biết. Sau khi Maria đi thăm bà Elizabeth và ở lại với người chị họ ba tháng trở về, Giuse mới khám phá ra “nàng đã có thai”. Một cú shock mạnh, khác nào sét đánh ngang tai, và chàng có những toan tính như PÂ tường thuật. Giuse sợ hải, bối rối tìm cách đối phó sao cho hợp tình hợp lý vì Giuse được xem là người rất mực công chính.Tiếng công chính đây theo quan niệm Á đông là chính nhân quân tử.

Tưởng cũng nên biết sơ qua về hôn nhân của người Do thái thời bấy giờ.

Hôn nhân Do thái gồm có ba giai đoạn:

1- Hứa hôn, do cha mẹ hai bên sắp đặt, hai trẻ không hề hay biết gì cả.

2- Đính hôn, thời kỳ này kéo dài một năm. Trước khi đính hôn, đôi trai gái gặp nhau và có quyền nói lên ý định của mình, rồi ông bố vợ chúc lành cho đôi trè trước hai nhân chứng. Từ giờ phút nầy, hai người sẽ trở nên vợ chồng theo luật Mai sen mặc dù nhà ai nấy ở, song của nàng là của chàng và nếu chẳng may chàng có mệnh hệ gì thì nàng trở thành goá phụ. Kinh thánh cũng cho biết Giuse là người công chính nên không hề có chuyện đụng chạm xác thịt như nhiều người khác.

3- Tiệc cưới, kéo dài một tuần lễ như tiệc cưới tại Cana xứ Galilê.

Mặc dù Giuse là người công chính nhưng ông cũng vẫn là con người, cũng có tam tư thất tình như ta, ai cấm Giuse không có những phản ứng tự nhiên như thường tình con người khi vị hôn thê của mình đã có thai. Hơn nữa ở đời ai biết được chữ ngờ.

Phản ứng thông thường và hợp pháp là đi tố cáo nàng về tội ngoại tình và kết quả đương nhiên là nàng phải bị ném đá cho chết theo luật và đứa con mang trung dạ cũng phải chết theo.

Phản ứng thứ hai Giuse có thể có là giữ thái độ im lặng, nhưng lại phạm vào tội đồng loã, còn nặng hơn. Liệu ông có yêu thương đứa con không phải là giọt máu của mình không?

Giuse định tâm chọn giải pháp thứ ba xem ra hợp pháp và ít tổn thương danh dự cho nàng hơn là viết tờ ly dị trao cho nàng rồi lặng lẽ ra đi. Nhưng xét cho cùng thì giải pháp nầy cũng không ổn vì đứa bé sinh ra sẽ là đứa bé không có cha, là đứa con ngoại hôn, làm sao ứng nghiệm lời tiên tri: “Đấng Messaiah được sinh ra bởi dòng dõi Đavit”.

Giuse đang trong cơn buồn phiền, bấn loạn, tinh thần căng thẳng tột độ, chàng thiếp đi thì sứ thần Chúa hiện đến: Hởi Giuse, con vua Đavit, đừng sợ, hãy nhận Maria về làm vợ vì bà thọ thai là do quyền năng Chúa Thánh thần và ông phải đặt tên con trẻ là Giêsu. Và sứ thần còn lặp lại lời tiên tri Isaiah:” Nầy đây, trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, Chúa ở cùng chúng ta”.

Giật mình thức dậy, Giuse thở phào một cái nhẹ nhỏm và Giuse đã âm thầm lặng lẽ thực hành những điều mà sứ thần đã bảo.

Giuse đã thực sự cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Maria đả sinh ra Hài nhi. Giuse đã đặt tên cho Hài nhi. Đặt tên cho con, theo truyền thống là xác nhận quyền làm cha đứa trẻ, hợp pháp, như trường hợp ông Zachariah đặt tên cho con mình là Gioan.

“Hởi Giuse, con vua Đavit đừng sợ”. Câu chuyện không phải dừng tại đây. Giuse đã đem Maria về nhà mình để rồi tiếp tục những chuổi ngày vô định, đầy gian truân và thử thách. Lên Bethlehem để làm sổ kiểm tra. Hài nhi sinh ra trong cảnh cơ hàn. Chạy trốn sang Ai cập. Trở về lại Nazareth. Sự nghiệp chỉ có hai bàn tay, tài sản gói trọn trên lưng con lừa. Giuse đã dưỡng nuôi, bảo bọc Hài nhi và Mẹ Người, một kho tàng vô giá mà Thiên Chúa đã tín thác cho và Giuse đã hoàn thành sứ mạng một cách hoàn hảo. Giuse đã đặt hết niềm tin của mình nơi Thiên Chúa.

Không phải chỉ có Giuse được trấn an bằng hai chữ “đừng sợ”. Maria cũng được sứ thần Gabriel trấn an khi truyền tin cho Mẹ: “ Maria, đừng sợ”(Lc 1: 30) để rồi lưỡi gươm sẽ đâm thủng trái tim Mẹ, để rồi, dưới chân thập giá Mẹ đã đồng công cứu chuộc với con mình. Maria tín thác vào Thiên Chúa. Chúa ở cùng bà, bà có phước hơn mọi người nữ.

Maria, Giuse đã cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.

Chúng ta còn phát hiện trong PÂ, nhiều lần Đức Giêsu bảo cảc môn đệ “đừng sợ”:

“Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn các con”(Mt 10:28)

”Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ (Jn 14:27) Trong bữa tiệc ly, trước giờ tử nạn. ” Đừng sợ, hãy đi báo tin cho an hem Thầy.” (Mt 28:10) Sau khi từ cõi chết sống lại.

Chiều hôm nay, Chúa cũng nói cùng anh, cùng chị, cùng tôi “ĐỪNG SỢ” mỗi khi chúng ta gặp gian nan, thử thách như thánh cả Giuse, như mẹ Maria vì ”Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28:20).

Hai tiếng “Ở CÙNG” nghe nó êm ái, dịu ngọt làm sao. Chỉ có yêu nhau mới ở cùng nhau. Chúa yêu ta nên mới ở cùng ta. (Bí tích Thánh thể).

Trong sách “Đời truyền giáo”tại miền thượng Kon tum của LM thừa sai Pierre Dourisbourre có đoạn viết như sau:

Tại làng thượng Kon Kơ Xâm có 20 người đạo mới, họ phải hứng chịu những quấy nhiễu, những khó chịu, những chế diễu liên tục của những người Thượng đang còn lương dân. Cuối cùng, tức quá không nói được, họ quyết định lập một làng riêng và đến trình với cha Combes. Cha cười bảo họ: Các con nghỉ rằng cha từ xa ngàn dặm đến đây cũng chính là để ở cùng họ sao? Vậy các con hãy can đảm lên, đừng sợ! Họ càng đối xử cứng rắn, bất công thì các con phải tỏ ra hiền lành đối với họ, lần hồi họ sẽ noi gương các con và các con sẽ chiếm được linh hồn họ”. Quả thật, nhiều người trong họ trước đó tỏ ra thù nghịch nhất, nay là những kẻ đầu tiên xin học đạo để chịu phép thánh tẩy.(trang 170-171). Kon Kơ Xâm sau nầy đã trở nên Trung tâm truyền giáo với hơn 40,000 người Ban na công giáo, ấy cũng nhờ sự “Ở CÙNG” của đoàn chiên bé nhỏ người Thượng đạo mới nầy. Ở cùng là truyền giáo, ở cùng là Thánh thể vậy.

Giáng sinh đã gần kề, bằng tất cả tâm hồn, bằng tất cả con tim, tôi cầu chúc quý ông bà và anh chị em câu: Chúa ở cùng anh chị em! Emmanuel ! Chúa ở cùng chúng ta! A-men. /.


MERRY CHRISTMAS !

Phó Tế Joseph Huỳnh Văn Ngọc

-------------------------------------

 

MV4-A38. Em-na-nu-en, Thiên-Chúa- ở-cùng-chúng-ta


CHA NHẬT IV MA VỌNG, A

EM-MA-NU-EN, THIN-CHA-Ở-CNG-CHNG-TA

Mt 1, 18-24


 

Chúa nhật IV mùa vọng như có một cái gì đó thật xôn xao, lắng đọng, một điều gì đó như thúc: MV4-A38


Chúa nhật IV mùa vọng như có một cái gì đó thật xôn xao, lắng đọng, một điều gì đó như thúc giục con người, thôi thúc con người tìm về cội nguồn của mình, tìm về Đấng tạo hóa, Đấng đã đến cư ngụ giữa trần gian…Và như thế, cái nguồn cội càng rõ nét khi vai trò của Đức trinh nữ Maria hôm nay thật nổi bật. Thánh Matthêu trong đoạn Tin Mừng 1, 18-24 thuật lại một câu chuyện thật hấp dẫn, thật lôi cuốn: “ Đấng Thiên sai xuống thế, nhận kiếp phàm nhân với một thân phận nhỏ bé, khó nghèo…diễn ra trong một lịch sử lâu dài của hồng ân cứu độ.

BỐI CẢNH CỦA LỊCH SỬ CỨU ĐỘ CHÚA CỨU THẾ SINH RA:

Đọc lại Tin Mừng nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và khâm phục những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho nhân loại, đã làm cho thế giới, con người. Riêng thánh sử Luca đã kể lại câu chuyện về Đức trinh nữ Maria và thánh Giuse một cách thật ly kỳ, nhưng cũng rất thực tế đời thường. Tin Mừng Lc 1, 26-38 thuật lại rằng: ” Maria, đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Đavít” ( Lc 1, 27 ). Cái trớ trêu vẫn là Maria và Giuse chưa về chung sống với nhau, nhưng Maria đã thụ thai, bởi phép Chúa Thánh Thần”( Lc 1, 35 ). Điều này cho thấy nỗi lòng của Maria như thế nào khi chưa ở với chồng mà đã mang thai…. Và sự việc này đã làm cho Giuse càng khó giải quyết hơn nữa khi phát hiện vợ mình đã có thai trước khi về chung sống với nhau. Đây là nỗi trăn trở lớn lao và mệt mỏi của Giuse, nói cách nôm na hơn Giuse đã tủi nhục khi chưa hiểu được ý Thiên Chúa. Chúa Giêsu chấp nhận một hoàn cảnh thật đời thường như thế. Tuy nhiên, Maria và Giuse là những người hoàn toàn công chính, hoàn toàn trinh trong trước mặt Giavê Thiên Chúa. Nên lời xin vâng của Maria” Vâng tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”( Lc 1, 38 ) và Giuse vì là người công chính, hiểu được ý Thiên Chúa, Giuse đã lãnh nhận Maria về nhà mình. Do đó, Maria và Giuse những con người bé nhỏ của Thiên Chúa lại có một chỗ đứng hết sức quan trọng trong lịch sử cứu độ nhân loại. Nhờ lời xin vâng của Maria và sự đơn sơ, thánh thiện của Giuse chấp nhận đem Maria về nhà mình để chăm sóc, giúp đỡ, đã làm cho lịch sử nhân loại hoàn toàn thay đổi, hoàn toàn được đổi mới.

CỘI NGUỒN CỦA CHÚA GIÊSU:

Thánh sử Matthêu đã tài tình kể lại gia phả của Chúa Giêsu. Dầu rằng ChúaGiêsu là Em-ma-nu-en nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng, nhưng Người cũng phải biết đâu là nguồn cội: tổ tiên, ông bà, cha me, anh chị em, chú bác, dòng họ, gia phả, dân tộc, quê hương của mình. Thánh Matthêu đã ghi lại một cách tường tận, kỹ càng về thời còn thơ của chúa Giêsu: Cha mẹ đưa Chúa Giêsu trốn khỏi Bêlem qua Ai Cập để tránh bàn tay của bạo chúa Hêrôđê, rồi Người lại được Giuse và Maria đưa từ Ai Cập trở về Galilêa để suốt 30 năm ở tại làng quê Nagiarét. Chúa Giêsu lúc nào cũng được sống trong sự che chở, bao bọc của cha mẹ Người. Quả thực, Chúa Giêsu đã chấp nhận kiếp làm người để sống với con người, cho con người và vì con người chỉ trừ tội lỗi. Người đã chấp nhận được sinh ra thế giới này cách rất bình thường, cách rất đời thường để thông cảm kiếp làm người với mọi người. Người đã có một người cha và một người mẹ như mọi người bình thường.

VÀ CHÚNG TA HÃY NOI GƯƠNG MẸ MARIA VÀ THÁNH GIUSE:

Mẹ Maria đã xin vâng tuân theo ý định của Thiên Chúa để làm mẹ Chúa Giêsu bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse đã đón nhận Đức Giêsu Kitô. Thánh Giuse im lặng, Ngài là con cháu vua Đavít và đã cho Đức Giêsu được nên con Đavít.

Noi gương mẹ Maria và thánh Giuse, chúng ta như được mời gọi sống gắn bó và kết hiệp với Chúa Giêsu. Vâng, Em-ma-nu-en, Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta nghĩa là Ngài luôn hiện diện giữa chúng ta, luôn cứu độ chúng ta, ban bình an và hoan lạc, hồng ân cho cuộc đời của mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu là Em-ma-nu-en bởi vì ngày hôm nay khi Ngài đã chết, đã phục sinh, Ngài hứa ở cùng nhân loại và chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Chúa nhật IV mùa vọng, Giáo Hội kêu gọi chúng ta hãy mở lòng, mở tâm hồn rộng ra để đón Chúa đến. Chúa đã ở giữa nhân loại, giữa chúng ta từ bao ngàn năm qua, thử hỏi nhân loại và mỗi người chúng ta đã sẵn sàng để cho Ngài đến thăm chúng ta hay chưa ? Hay chúng ta cũng như thánh Gioan viết:” Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”( Ga 1, 11 ).

Mẹ Maria và thánh cả Giuse luôn là mẫu gương sống động cho mọi người chúng ta nhớ về cội nguồn của mình, đồng thời là mẫu gương nổi bật nhất để chúng ta cung chiêm Hài Đồng Giêsu đã sinh ra tại Bêlem hơn 2.000 năm nay.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1) Bạn hiểu thế nào về vai trò của thánh Giuse trong lịch sử cứu độ ?

2) Tại sao Chúa Giêsu cũng có gia phả ?

2) Bạn biết gì về mẹ Maria ?


Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

-------------------------------------

 

MV4-A39. TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC


1.      TÂM TRẠNG CỦA GIU-SE KHI THẤY MA-RI-A CÓ THAI

 

Theo tục lệ Do Thái, để trở nên vợ chồng thực thụ, đôi nam nữ phải trải qua ba giai đoạn: Trước: MV4-A39


Theo tục lệ Do Thái, để trở nên vợ chồng thực thụ, đôi nam nữ phải trải qua ba giai đoạn: Trước tiên là hai gia đình tiếp xúc với nhau, đồng ý cho đôi nam nữ tiến tới hôn nhân. Kế đó là đính hôn hay hứa hôn: đôi nam nữ hứa hôn với nhau trước mặt hai gia đình, bà con, bạn bè và mọi người. Kể từ đây, đôi nam nữ được coi như vợ chồng, nhưng chưa được sống chung hoặc có quan hệ tính dục với nhau. Mối liên hệ này chỉ được hủy bỏ khi một trong hai người qua đời, hoặc khi tuyên bố ly dị. Cuối cùng là Lễ cưới: đôi nam nữ chính thức là vợ chồng và bắt đầu sống chung với nhau. Khi Ma-ri-a thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần và Giu-se được sứ thần báo mộng, thì hai người đang ở giai đoạn thứ hai: đính hôn.

Trước khi được sứ thần báo mộng, Giu-se thấy Ma-ri-a – người bạn đã đính hôn với mình – có thai. Cứ theo cách cắt nghĩa tự nhiên cũng là duy nhất, thì rõ ràng Ma-ri-a đã ngoại tình. Chắc chắn Giu-se rất bối rối, buồn phiền, thậm chí thấy mình bị xúc phạm mãnh liệt. Theo luật dân sự, trong trường hợp này, Giu-se có quyền từ hôn. Chàng có thể tố cáo Ma-ri-a về vụ việc này, và nhà cầm quyền Do Thái có thể xử tử nàng bằng cách ném đá cho đến chết, chiếu theo luật trong Đnl 22, 23 – 24. Nhưng chàng không làm như thế. Mặc dù cảm thấy như bị xúc phạm và phản bội, chàng chỉ định tâm bỏ nàng cách kín đáo, cho đến khi được sứ thần báo mộng.

Mặc dù chỉ biết qua giấc mộng – nghĩa là không chắc chắn và rõ ràng – rằng Ma-ri-a thụ thai bởi Thánh Thần, Giu-se đã chấp nhận đem Ma-ri-a về nhà mình, bất chấp dư luận không hay về mình. Vì Giu-se làm như thế, dư luận sẽ cho rằng: hoặc hai người đã quan hệ vợ chồng một cách bất chính trước khi được phép, điều này chứng tỏ hai người thiếu đạo đức; hoặc Giu-se đã chấp nhận cái nhục “người ta ăn ốc, mình đổ vỏ”. Do đó, việc chàng chấp nhận Ma-ri-a phải nói là can đảm, hy sinh, và tình yêu của chàng đối với Ma-ri-a quả là chân thật và mãnh liệt. Chàng đúng là một người công chính, cao thượng, biết tuân phục thánh ý Thiên Chúa.

2.      ĐỨC GIÊ-SU SINH RA BỞI MỘT NGƯỜI MẸ ĐỒNG TRINH

Việc Đức Giê-su được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh, không do ý muốn của người nam, là do ý định khôn ngoan của Thiên Chúa. Điều này rất quan trọng trong Ki-tô giáo. Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, với sứ mạng giải phóng con người khỏi tội lỗi, Ngài phải hoàn toàn không bị vướng vào tội lỗi. Nếu chính Ngài mà còn có tội, còn sống dưới ách tội lỗi, thì Ngài có thể giải phóng tội lỗi cho ai ? Mà mọi người sinh ra bởi người nam, đều vướng tội tổ tông do A-đam truyền lại. Vì theo quan điểm của xã hội phụ hệ Do Thái, sự kế thừa từ thế hệ trước sang thế hệ sau hoàn toàn qua người nam. Do đó, nếu Đức Giê-su sinh ra từ một người nam, Ngài không khỏi kế thừa tội tội tổ tông từ cha mình. Để Ngài không chịu ảnh hưởng tội tổ tông, Thiên Chúa đã dùng quyền năng Thánh Thần của mình để Đức Giê-su chỉ được sinh ra duy nhất từ một người nữ – vốn là điều cần thiết để trở nên một người trần – mà không do sự kết hợp với người nam. Nhờ thế, Ngài không bị ảnh hưởng của tội tổ tông, lại hoàn toàn và duy nhất là Con của Thiên Chúa, đồng thời vẫn là một con người trọn vẹn.

3.      TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC TRONG ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG

Trong sứ mạng cứu chuộc nhân loại, thì một trong những mục đích quan trọng của Đức Giê-su là dạy con người sống yêu thương nhau. Ngài đã lập nên luật mới cho kỷ nguyên của Ngài là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 13, 34 ). Ngài đã làm gương cho cả nhân loại bằng cách yêu thương đến tận cùng ( x. Ga 13,1 ), hy sinh cả mạng sống cho nhân loại mà mình thương yêu ( x. Ga 15, 13 ).

Thế nhưng Đức Giê-su không sống đời hôn nhân, Ngài không thể có một tấm gương cụ thể của một người chồng yêu thương vợ mình. Nhưng bù lại, cha nuôi của Ngài là thánh Giu-se đã cho nhân loại gương sáng ấy. Bài Tin Mừng cho thấy Giu-se đã yêu Ma-ri-a bằng một tình yêu đầy tính vị tha và dâng hiến.

Tình yêu trong đời sống vợ chồng có thể phân thành hai loại:

Tình yêu vị kỷ hay chiếm đoạt:

Trong thứ tình yêu này, người ta coi người mình yêu như một phương tiện để thỏa mãn nhu cầu tình cảm của mình, hay như một đối tượng mà mình phải chiếm đoạt làm của mình. Với tình yêu vị kỷ, người ta coi người mình yêu phải phục vụ cho hạnh phúc của mình. Và người ta đặt hạnh phúc của mình lên trên hạnh phúc của người mình yêu.

Khi có sự xung đột giữa hạnh phúc của mình và của người yêu, thì họ sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của người yêu cho hạnh phúc của mình, sẵn sàng chấp nhận để người mình yêu đau khổ miễn mình được hạnh phúc. Và họ không thể chấp nhận bị người yêu phản bội. Họ sẵn sàng đày đọa người mình yêu vì sự phản bội ấy. Họ không thể chấp nhận cho người mình yêu được hạnh phúc với một ai khác ngoài mình. Thực ra, đây không phải là tình yêu đích thực. Người ta chỉ yêu chính bản thân mình một cách gián tiếp qua người yêu của mình, chứ không phải yêu thương người ấy thật sự.

Tình yêu vị tha hay dâng hiến:

Với tình yêu này, người ta cảm thấy có nhu cầu ra khỏi chính mình để hướng về người mình yêu, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Người ta sẵn sàng chấp nhận mình thiệt thòi để người mình yêu được lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Với tình yêu này, người ta sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi người này lầm lỗi. Đây mới chính là tình yêu đích thực mà Thiên Chúa muốn mọi cặp vợ chồng phải có đối với nhau. Giu-se đã yêu Ma-ri-a bằng thứ tình yêu này.

Người yêu bằng tình yêu vị tha hay dâng hiến, gặp trường hợp tương tự như Giu-se – thấy người sắp kết hôn với mình có vẻ như phản bội – thì chỉ biết đau khổ cho mình, chứ không hề muốn làm một điều gì có hại cho người mình yêu. Người ấy sẽ nghĩ: nếu người mình yêu cảm thấy sống với người khác sẽ hạnh phúc hơn sống với mình, thì mình cũng sẽ an tâm và sẵn sàng chấp nhận đau khổ, hy sinh để người mình yêu được hạnh phúc.

4.      ĐỐI TƯỢNG PHẢI YÊU THƯƠNG HÀNG ĐẦU LÀ NGƯỜI TRONG GIA ĐÌNH

Giới răn yêu thương của Đức Giê-su cần được áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả kẻ thù hay người làm hại mình ( x. Mt 5, 44; Rm 12, 20 ). Nhưng trước hết, nó phải được áp dụng ưu tiên cho những người gần mình nhất, có quan hệ ruột thịt với mình, cùng sống trong một gia đình hay một nhà với mình: cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, cháu chắt... Trong số đó không ai gần gũi mình cho bằng vợ hay chồng mình, vì là vợ chồng thì “không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” ( Mt 19, 5; x. St 2, 24; Ep 5, 31 ).

Vì thế, giới răn yêu thương của Đức Giê-su phải được áp dụng ưu tiên hàng đầu cho vợ hay chồng mình, rồi tới cha mẹ, con cái mình. Nếu những người ruột thịt này mà ta không yêu thương được bằng một tình yêu chân thật, vị tha, dâng hiến, thì ta không thể yêu ai khác bằng tình yêu này được. Mọi thứ tình yêu ta có đối với người khác đều chỉ là tình yêu vị kỷ, hoặc tệ hơn nữa, tình yêu môi miệng, tình yêu đóng kịch, tình yêu xây dựng trên sự đổi chác quyền lợi... Đó không phải là tình yêu đích thực.

Thiết tưởng trong việc chuẩn bị đón Chúa đến, không gì thích hợp và đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng canh tân, đổi mới lại tình yêu trong chính gia đình của mình. Hãy yêu mọi người trong gia đình mình bằng một tình yêu chân thật, mãnh liệt, đầy tính vị tha và dâng hiến. Tình yêu đối với gia đình sẽ là mẫu mực và là căn bản để từ đó ta áp dụng đối với tất cả mọi người.

Lạy Cha, xin cho con có được một tình yêu đích thực, thứ tình yêu vị tha, dâng hiến, chứ không phải thứ tình yêu mang tính vị kỷ, chiếm đoạt, hay tình yêu giả hiệu, ngoài môi miệng. Xin cho con biết áp dụng tình yêu đích thực ấy ngay trong gia đình của con, để từ đó lan tỏa ra với tất cả mọi người.

Gs. NGUYỄN CHÍNH KẾT

-------------------------------------

 

MV4-A40. Đừng ngại nhận Maria làm vợ.


CHỦ NHẬT 4 MA VỌNG

Tin mừng: Mt 1, 18-24

Anh chị em thn mến,


 

Mùa vọng sắp kết thúc, mùa giáng sinh sắp đến, mọi người đang hân hoan chờ đợi ngày đại: MV4-A40


Mùa vọng sắp kết thúc, mùa giáng sinh sắp đến, mọi người đang hân hoan chờ đợi ngày đại lễ giáng trần của Con Thiên Chúa -Đức Giêsu Kitô- với tất cả tâm tình vui tươi và hy vọng. Trong niềm hân hoan ấy, tôi xin chia sẻ với anh chị em hai điểm này:

1. Đừng ngại nhận Maria làm vợ.

Được gọi là người công chính, tất nhiên là người có cuộc sống rất đạo đức thánh thiện, cho nên không lạ gì mà thánh Giuse đã rất buồn khi thấy Mẹ Maria mang thai ngoài ý muốn, đó là một sự nhục nhã cho mình là vị hôn phu của Maria.

Buồn da diết và cảm thấy mình bị xúc phạm, nhưng là người công chính nên thánh Giuse âm thầm quyết định phải ra đi mà không muốn làm tố cáo Maria, đó là hành động của người công chính, nhưng Thiên Chúa đã can thiệp kịp thời và đúng lúc vì đó là việc của Ngài. Thiên thần nói: “Này ông Giuse, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về...”. (Mt 1, 20) Người công chính thì dễ dàng nghe được thánh ý của Thiên Chúa qua hoàn cảnh, qua cuộc sống, qua nơi những người mà mình tiếp xúc, thánh Giuse đã nghe và đã vui lòng đón nhận bà Maria làm vợ mình...

Càng đau khổ thì niềm vui càng nhân lên gấp bội, đó là niềm vui của thánh Giuse, trong đau khổ biết nghe được tiếng của Thiên Chúa và thực hành lời của Ngài, đó là người công chính, đau khổ của người công chính đã trở nên niềm vui vì đã biết để cho ân sủng của Ngài hoạt động trong mọi nghịch cảnh.

2. Đừng ngại đối thoại với người mình không thích.

Dưới ánh sáng của Tin Mừng hôm nay và qua bài học phó thác trong tay Thiên Chúa của người công chính -thánh Giuse- chúng ta nhận ra được tin vui trong đau khổ của người công chính, đó là chấp nhận người anh em như là một món quà quý giá mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.

Có rất nhiều lúc chúng ta tự cho mình là người công chính mà khinh thường tha nhân khi họ phạm lỗi, từ thái độ khinh thường ấy chúng ta xa lánh người anh em chị em của mình, không thèm trò chuyện với họ, không muốn nghe lời góp ý và chia sẻ của họ, đó không phải là thái độ của người công chính nhưng là thái độ của người kiêu ngạo.

Đừng ngại đối thoại với những người mà mình cho là tội lỗi, nhưng học theo gương lành của thánh Giuse, mau mắn chấp nhận và đón họ đồng hành với mình trong cuộc sống hằng ngày, bởi vì Con Thiên Chúa đã chấp nhận sinh ra trên trần gian là để cùng đồng hành và chia sẻ với con người những vui buồn, hạnh phúc cũng như đau khổ...

Anh chị em thân mến,

Chỉ còn mấy ngày nữa là chúng ta hân hoan đón mừng ngày trọng đại làm người của Con Thiên Chúa, mọi trang hoàng nhà thờ làm hang đá tráng lệ đẹp đẽ, hoạt cảnh thiên thần mục đồng cũng đã chuẩn bị xong và chỉ chờ ngày ấy đến, mọi người đều nô nức chờ đợi...

Nhưng quan trọng hơn đó là sứ điệp của thánh Giuse trong những ngày cuối mùa vọng này: mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng để đón Thiên Chúa đến, cũng có nghĩa là, chúng ta hãy làm cho tâm hồn của chúng ta trở thành hang đá để Chúa Giêsu Hài Nhi sinh ra, bằng cách chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa đón nhận tha nhân như đón nhận chính Con Thiên Chúa giáng trần.

Có những tâm hồn đau khổ đang chờ đợi chúng ta nói lời tha thứ, có những tâm hồn đang chờ đợi chúng ta đem niềm vui và hy vọng đến cho họ...

Cửa trời đã mở và mưa ân sủng đã đổ xuống trên trần gian, nhưng tin vui Con Thiên Chúa giáng trần đang bị chận lại không bay tới nơi các tâm hồn vì những kiêu căng và gương xấu của chúng ta...

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.


Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

-------------------------------------

 

MV4-A41. TIN TƯỞNG VÀO LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG


CHA NHẬT 4 MA VỌNG A

TIN TƯỞNG VO LỊNG CHA XĨT THƯƠNG

(Mt 1, 18-24)

Thưa quý vị,


 

Bài đọc thứ nhất tuần này xem ra gây xáo trộn trong cộng đoàn. Vì nếu chúng ta đứng vào: MV4-A41


Bài đọc thứ nhất tuần này xem ra gây xáo trộn trong cộng đoàn. Vì nếu chúng ta đứng vào địa vị người nghe từ các hàng ghế, chúng ta sẽ nhìn ra khó khăn. Bản văn ngắn ngủi, vào đề đột ngột và hình như lạc lõng. Thiên Chúa nói với ông Achaz: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi một dấu, dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh.” Achaz là ai vậy? Tại sao tiên tri Isaia xúi ông xin Đức Chúa một dấu lạ? Dấu lạ đó để xác nhận điều chi? Tại sao dấu lạ càng ngoạn mục càng tốt? Trên trời xanh hay dưới âm phủ! Chắc chắn giáo dân sẽ bắt chước ông Achaz trả lời: “Chúng tôi là ai mà dám thử thách Đức Chúa, chúng tôi phải sống bằng đức tin chứ. Trong Phúc âm Chúa Giêsu đã khiển trách Phariseô và Saduceô xin dấu lạ chứng minh Ngài là người của Thiên Chúa đó sao (Mt 16,1)? Cho nên bản văn cần vài lời dẫn nhập.

Achaz là vua nước Giuđa vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên. Lúc ấy Assyria làm bá chủ miền Trung Đông. Hai nước chư hầu Syria (Đa mát) và Israel (Samaria)) âm mưu nổi loạn chống lại Assyria. Họ muốn lôi kéo thêm đồng minh là nước Giuđa. Nhưng Achaz không đồng ý. Để trừng phạt vua Giuđa chẳng về phe với mình. Hai nước kéo quân sang vây Giêrusalem, thủ đô của Giuđa. Vua Achaz sợ hãi, một mặt cho củng cố hào lũy quanh Giêrusalem, mặt khác cứu viện vua Assyria. Giữa lúc ấy thì Đức Chúa truyền tiên tri Isaia đón gặp vua ở cuối kinh dẫn nước của hồ trên, phía đường tới cánh đồng Thợ Nện Rạ (Is 7,1). Đức Chúa can thiệp hai lần. Lần thứ nhất phán thế này: “Chuyện đó sẽ không xảy ra, sẽ không có... Sáu mươi năm nữa Đa-mát sẽ tan tành, không còn là một dân”. Lần thứ hai là bài đọc hôm nay.

Nhà tiên tri muốn vua Achaz tin tưởng vào sự trợ giúp của Thiên Chúa hơn là cầu cứu ngoại bang. Vua Achaz từ chối lời đề nghị của tiên tri Isaia, lấy cớ không dám thử thách Đức Chúa. Nhưng thực tế ông ngạo mạn không tin. Ông đã lập một bàn thờ ngẫu tượng ở Giêrusalem và tế lễ chính con trai mình (2V). Tuy nhiên vị tiên tri vẫn loan báo cho ông một dấu: “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, hạ sinh con trai và đặt tên là Emmanuel”, Lời sấm bảo đảm Đức Chúa luôn hiện diện giữa dân Ngài, không bao giờ bỏ rơi họ, mặc dù Achaz không tin. Ngài sẽ can thiệp để Giuđa được tự do, tự chủ, kiểu như Ngài từng làm để dân tộc thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập và cuộc lưu đầy Babylon. Trước thính giả đương thời, lời sấm không đi xa như chúng ta hiểu ngày nay. Nó chỉ nói về người vợ trẻ của Achaz đang mang thai tên là Abya và đứa con của nàng sau này sinh ra, tức Ezechias. Từ 'trinh nữ' (Alma) ở đây nói về tuổi trẻ của Abya và tên Emmanuel có nghĩa thuộc dòng dõi vua Đa-vít, vì Thiên Chúa đã hứa như vậy (Tv 88,5). Thế thì làm sao lời sấm là một dấu chỉ?

Trước hết Ezechias chưa sinh ra, nhưng tiên tri đã loan báo nó là một đứa con trai, tức là ở trong sự quan phòng của Đức Chúa Trời. Ngài biết nó và dẫn dắt dòng lịch sử Do thái bằng những sự hạ sinh theo chương trình Ngài dự tính. Chính Thiên Chúa tiếp tục điều khiển các thế hệ loài người, kể cả dòng giống vương giả Đa-vit.

Thứ hai: Danh xưng Emmanuel có ý nghĩa biểu tượng: Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta tức dân tộc Do thái để giải cứu họ khỏi khó khăn hiện tại, khỏi yếu kém về tôn giáo và chính trị. Cũng như tên Giavê nghĩa là “ta đây” để hoạt động hữu hiệu giữa tuyển dân, thì danh xưng Emmanuel có nghĩa là Đức Chúa Trời ngự giữa họ bằng những can thiệp có hiệu quả theo quan phòng của Ngài. Mặc dù thực tế Ezechias không phải là ông vua thiên sai. Trách nhiệm thiên sai quá lớn, quá nặng nề đối với ông. Tuy ông không thể biểu tượng trọn vẹn ý nghĩa, thì ít ra ông ở trong dòng chảy lịch sử thiên sai. Ông là một nhân vật báo trước Đấng Cứu Thế. Cũng vậy bà Abya không phải là nữ đồng trinh sinh con, nhưng bà sinh Ezechias theo ý định của Đức Chúa Trời, nên bà là hình bóng rất bất toàn của trinh nữ Maria. Bản 70 đã theo truyền thống thiên sai mà dịch từ Alma (tuổi trẻ) tiếng Do thái cổ, thành Paethenos (trinh nữ) tiếng Hy lạp tân thời. Ngày nay chúng ta vẫn theo ý tưởng linh hứng đó mà hiểu về Đức Maria.

Dù rằng Isaia không có ý định tuyên sấm dấu chỉ của mình cho tương lai quá xa đến thời Chúa Giêsu, xa như vậy làm sao là dấu chỉ cho Achaz được? Nhưng các tín hữu tiên khởi đã nhìn ra sự ứng nghiệm của nó nơi Đấng Cứu Thế.

Trong Tin mừng hôm nay, thánh sử Matthêu đã ghi lại niềm tin đó và nhắc nhở chúng ta Đức Giêsu chính là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Ngài là bảo chứng bằng xác thịt, Thiên Chúa chẳng hề lãng quên nhân loại, Đức Chúa Trời hằng ở với chúng ta luôn mãi, quá khứ, hiện tại, tương lai và muôn đời. Phần chúng ta phải đặt tin tưởng căn bản nhất vào Chúa Giêsu. Đừng bắt chước Achaz giả hình đạo đức, không dám thử thách Đức Chúa, nhưng thực tế phản bội Ngài, đặt trông cậy vào ngoại bang, tiền bạc, chức quyền, danh vọng, địa vị, tâng bấc, tình cảm. Thiên Chúa phải là trung tâm điểm của cuộc sống mỗi người. Nhất là trong Mùa Vọng này chúng ta luôn được Hội thánh kêu gọi thống hối, bỏ đàng gian tà, cải thiện đời sống., lấy Chúa và thánh ý Ngài làm nguồn mạch hướng dẫn cuộc đời mình.

Thánh Matthêu khởi đầu và kết thúc Tin mừng của ông với cụm từ “Chúa-ở -cùng-chúng-ta”. (Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Một tư tưởng mang nhiều hy vọng và an ủi. Phúc âm hôm nay nhắc độc giả: Chúa Giêsu chính là Đấng làm tròn lời tiên tri Isaia và phụng vụ tuần IV Mùa Vọng chuyển chú ý tín hữu từ Gioan tiền hô sang sự kiện Đức Mẹ mang thai “bởi phép Chúa Thánh Thần”. Đây là sự chuyển hướng quan trọng. Đức Maria đã đính hôn với Giuse thuộc dòng tộc Đa-vít. Trong thời đó việc đính hôn này tương đương với chứng chỉ kết hôn, tuy là thời kỳ chuyển tiếp (thường là 1 năm). Đức Maria chưa về nhà thánh Giuse nhưng đã bắt đầu cuộc sống hôn nhân. Người Phương tây gọi là fiancée (đã đính hôn). Việc hôn nhân không cấm, nhưng bị coi là bất bình thường. Vì thế các cô gái bình thường vẫn còn đồng trinh. Trường hợp Đức Mẹ thì Ngài đã thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần. Đây quả là vấn đề khó khăn. Vì theo tục lệ, tiến trình từ hôn không dễ, nó tương đương với thủ tục ly dị. Tất cả gánh nặng đè lên vai thánh Giuse.

Trong Tin mừng hôm nay, tên Maria chỉ được nhắc thoáng qua, còn thánh Giuse giữ vai chính trong câu chuyện. Toàn thể 4 Tin mừng không nói gì nhiều về thánh nhân. Nhưng Phúc âm thánh Matthêu lại ghi rõ ràng gia phả của thánh Giuse, ngược lên đến tổ phụ Abraham, thông qua vua Đa-vít. Như vậy, việc thụ thai của Chúa Giêsu được xét theo quan điểm của thánh Giuse chứ không theo phía Đức Mẹ như thánh sử Luca. Điều này có dụng ý nêu rõ tính pháp lý của Chúa Giêsu thuộc dòng tộc Đa-vít. Nhưng vấn đề không phải dễ dàng như chúng ta suy nghĩ ngày nay. Ngược lại, rất khó khăn đối với các tín hữu tiên khởi.

Một mặt họ phải tin thật vào sự sinh nở đồng trinh nơi Đức Mẹ, nghĩa là Chúa Giêsu không có cha trần thế. Mặt khác, Ngài phải hoàn toàn là con “vua Đa-vít”, thì mới ứng nghiệm lời tiên tri của ngôn sứ Isaia và truyền thống thiên sai. Vấn đề xem ra bế tắc. Tuy nhiên, bằng cách đưa thánh Giuse vào trung tâm của việc sinh hạ Chúa Giêsu, cộng đồng thánh Matthêu đã cống hiến một giải pháp sáng suốt và hợp lý. Trước hết, việc thánh Giuse không tố cáo và từ bỏ Đức Maria, ngược lại, đã đưa vợ về nhà mình, chứng tỏ thánh nhân công khai chấp nhận chức vụ làm cha đứa trẻ, một cách chính thức theo luật pháp. Lúc ấy, Chúa Giêsu hoàn toàn thuộc dòng dõi Đa-vít trước mặt xã hội. Giấc mộng của thánh Giuse là hợp lý theo chương trình của Thiên Chúa và ngoài dự tính của hai người hứa hôn. Đúng là một mầu nhiệm, loài người không thể lường hết. Thứ hai, thánh Giuse với tư cách là người cha, đứng đầu trong gia đình, đặt tên cho con trẻ. Như vậy, Chúa Giêsu được quyền thừa hưởng gia sản của tổ tiên mình, kể cả tước hiệu Emmanuel. Ngài đúng thật là con vua Đa-vít, không thể phủ nhận. Thánh sử Luca cũng đi đến kết luận tương tự khi mô tả thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ ở Nazaret, và Đức Kitô hạ sinh tại Bêlem, quê hương của Đa-vít. Do đó, thánh Giuse là người cha trinh khiết của Đức Kitô như Đức Maria là người Mẹ đồng trinh. Cả hai chu toàn hoàn hảo mục tiêu Thiên Chúa trao cho. Yếu tố hôn nhân đồng trinh là điều căn bản Thiên Chúa quan phòng để hoàn tất chương trình của Đức Chúa Trời mà các nhà thần học gọi là nhiệm cục cứu độ.

Thiên Chúa thường vượt qua ý định của loài người để mang hạnh phúc đến cho nhân loại. Ngài vượt qua tiến trình bình thường của thánh Giuse và Đức Maria để đổ ân phúc tràn đầy cho loài người. Lúc đầu thánh Giuse không hề hiểu biết gì về điều đó. Ngài đã phải trải qua lo âu, thất vọng tột độ khi hay tin Đức Maria, người yêu của mình, đã mang thai. Thiên thần trong giấc mơ định mệnh của thánh nhân đã làm sáng tỏ mọi sự. Chúng ta cũng nên cầu xin cho mọi nguy nan của mình sớm được giải toả nhờ vào sự can thiệp của Thiên Chúa “Này con, đừng lo lắng chi, con nằm trong chương trình của Ta”. Chúng ta ước mong được nghe Thiên Chúa nói như vậy mỗi khi gặp lo âu, tăm tối. Trong cuộc sống con người chúng ta gặp đầy dẫy khó khăn. Có gia đình phải chăm nuôi hai ba đứa con tàn tật vì chất độc da cam, những đứa trẻ ngớ ngẩn, tính tình kỳ quặc, bất thường. Chăm sóc chúng còn khó khăn hơn các cha mẹ nuôi nấng những đứa con bình thường bội phần. Hoặc một vài người dự tính thay đổi nếp sống cho phù hợp với ý nguyện của mình, gạt sang một bên, nghề nghiệp, tương lai để dấn thân vào các chương trình từ thiện bác ái. Có những người vợ phải chịu đựng say sưa, khó nết của chồng con hoang đàng, bỏ học, đi bụi, xì ke, cờ bạc. Có những người cha đơn độc phải nuôi các con còn nhỏ dại. Một số gia đình đầu tắt mặt tối, ngày làm hai công việc thấp lương, để đủ tiền chi phí cho các con ăn học. Số người khác lại xung phong giúp đỡ kiều dân di cư, công nhân bất hợp pháp đang bị xua đuổi, chịu đựng những khinh bỉ, chê cười của hàng xóm láng giềng. Chúng ta chẳng có thiên thần chỉ bảo. Nhưng nhờ ánh sáng đức tin soi dẫn chúng ta lần mò từng bước khó khăn. Cuối cùng Thiên Chúa sẽ cứu vớt. Chúng ta không cô đơn trên cõi đời này. Mùa Vọng không chỉ là chu kỳ hàng năm, mà còn là bước tiến trong lòng thương xót của Thiên Chúa. Cuộc đời thánh Giuse là câu chuyện khích lệ mọi người tin tưởng vào lòng Chúa xót thương, dù có phải ngập chìm trong gian nan. Thiên Chúa vẫn ở bên chúng ta. Ngài không bỏ rơi một ai, nhưng cùng hoạt động với mọi người và niềm hy vọng lại được tăng cường.

Lạy Chúa, lúc này đang Mùa Vọng, xin ban cho chúng con lòng cậy trông nhìn qua những tối tăm của cuộc sống. Có những lúc chúng con rơi vào khủng hoảng tột độ như thánh Giuse, chẳng biết bám víu vào đâu. Xin cho chúng con đủ can đảm bước thêm một bước nữa trong lòng cậy trông, hy vọng tìm thấy bàn tay Chúa dẫn dắt. Xin cho thánh ý Chúa luôn vẹn toàn, ngay bây giờ, qua những cố gắng nhỏ bé của chúng con, mặc dù cuộc đời toàn tăm tối, lộn xộn, nguy nan. Xin cho chúng con theo gương thánh Giuse, bình thản, kiên cường, không nghi ngờ, phản bội bạn mình cho dù bị dồn vào đường cùng của lòng tín trung. Mọi sự xem ra tan nát, sụp đổ trước mặt thánh nhân. Nhưng cuối cùng Chúa kiến tạo mọi sự thật tốt đẹp cho Ngài và cho chúng con. Vì Chúa là Emmanuel. Amen


ĐIỀU TỐT NHẤT ĐANG ĐẾN:

Trước khi chết, bà cụ cố gắng trối lại cho con cháu: Khi bà tắt thở, các con phải cho bà cầm chiếc nỉa (dĩa) bằng nhựa, rồi mới bỏ bà vào quan tài. Con cháu làm đúng như ý nguyện của bà. Những người đến viếng xác đều lấy làm lạ. Tại sao bà lại cầm chiếc nỉa? Người nhà giải thích: Thưa, đó là ý muốn của cụ chúng tôi. Chẳng là trước kia, khi còn sinh thời, cụ luôn phục vụ bữa ăn từ thiện trong nhà xứ. Mỗi tuần một lần, hơn 50 năm. Khi thực khách ăn xong món chính, cụ luôn xuất hiện, bảo mọi người sẵn sàng nỉa trên tay: Món ngon nhất sắp tới (the best is yet to come). Đúng vậy, đó là món tráng miệng do chính tay cụ làm. Mọi thực khách đều trầm trồ khen ngợi. Cụ rất hãnh diện mỗi khi phục vụ mọi người. Bây giờ qua đời, cụ muốn chuyển đổi ý nghĩa của thông điệp việc cụ làm: Cụ nhắc nhớ mọi người: Điều tốt nhất đang chờ đón chúng ta trên thiên đàng. (Pathways of trust, truyện số 50). Đêm Giáng sinh sắp tới, Thiên Chúa cũng nói với các tín hữu như vậy: “the best is yet to come”. Chúng ta hãy dọn lòng sẵn sàng chờ đón Chúa bằng hy sinh, hãm mình và cầu nguyện.


Lm Jude Siciliano, OP

-------------------------------------

 

MV4-A42. CUỘC THĂM VIẾNG


(Lc 1,39-45)

 

Được đoản văn phụng vụ trước, đã nói về quyền năng của Đấng tối cao sẽ “bao phủ” (episkiasei): MV4-A42


1. Được đoản văn phụng vụ trước, đã nói về quyền năng của Đấng tối cao sẽ “bao phủ” (episkiasei) Đức Maria (1,35) hoàn toàn giống như Đám Mây chói sáng “bao phủ” Lều tạm của Môisen (Xac 40,35), tượng trưng việc Giavê hiện diện vinh quang giữa dân Israel. Cách dùng cùng một động từ (episkiazô) trong hai trường hợp gợi lên một sự tương đồng giữa Đức Maria và hòm bia Giao ước. Luca có hiểu như thế không, chúng ta sẽ minh chứng. Thật vậy, việc thăm viếng được liên kết chặt chẽ với 1,35-36 qua việc ghi nhận bà Elizabét già cả son sẻ đã thụ thai, khai triển hình ảnh hòm bia giao ước. Trình thuật, rất mạch lạc, gồm có những nét chọn lọc khiến ta thấy tương hợp với trình thuật việc Đavit di chuyển hòm bia về Giêrusalem.

Trong cả hai trường hợp, cuộc hành trình đều tiến về Giuđêa (2Sm 6,2). cũng xảy ra những quang cảnh giống nhau: nỗi vui mừng của dân thành Giêrasalem, niềm sung sướng của bà Elizabeth và con bà, sự nhảy mừng của Đavit (2Sm 6,16) và của Gioan tẩy giả (Bible de giêrusalem dịch là tressaillement nên quá yếu, còn traduction Oecuménique de la Bible dịch là “a bondi d'allégresse” nên sát nghĩa hơn với động từ Êskirtêsen của 1,44). Sau hết tiếng kêu của dân chúng và tiếng kêu của Êlixabet: phonê (giọng nói) và kraugê (tiếng kêu) đều có ghi trong hai bản văn; người ta cũng ghi nhận: động từ anêphônêsen (1,42) diễn tả tiếng kêu của mẹ Gioan tẩy giả đã được dành riêng để chỉ những lời tung hô có tính cách phụng vụ (1Sk 16,4.5.42) và đặc biệt hơn nữa là những lời tung hô khi di chuyển hòm bia giao ước (1Sk 15,28 và 2Sk 5,13; động từ này không bao giờ được dùng trong bản LXX (70) ngoài 5 dẫn chứng nêu trên).

Hòm bia khi tiến về Giêrusalem và đó cũng là hướng đi của Đức Maria - được dựa vào nhà của Obededom (2Sm 6,10) còn Đức Maria vào nhà ông Giacaria (1,40)

Trong cả hai nhà, sự hiện diện của hòm bia và sự hiện diện của Đức Maria đều là nguồn phúc lành (2Sm 6,11-12 và Lc 1,41-42).

Và đây ta thấy những sự trùng hợp rõ ràng cụ thể hơn:

 
Tiếng kêu Đavít (2Sm 2,9) Tiếng kêu của Êlisabét (Lc 1,43)
Bởi đâu có thể xảy ra Bời đâu tôi được thế này
Là hòm bia Chúa Là Mẹ Chúa tôi
Đến tại  nhà tôi Đến với tôi

Sự song đối này bao hàm sự đồng hóa mẹ Chúa với hòm bia Chúa và bắt buộc hiểu chữ “Chúa” (le Seigneur) theo nghĩa siêu việt.

Điểm tương đồng sau cùng:

 
2Sm 6,11 Lc 1,56
Hòm bia của Giavê Đức Maria
ở lại ở lại
Nhà Obededom Với Êlisabét
ba tháng Chừng ba tháng

Trong khi nó tiếp tục gợi lên sự đồng hóa điển hình giữa Đức Maria và Hòm bia, điểm tương đồng sau cùng này cũng xác nhận với chúng ta tính cách khách quan lịch sử của Lc. Phương thức biểu tượng mà ông ta dùng có thể làm cho chúng ta nghi rằng ông không ghi lại những sự kiện thực tế (x. Lc 1,2), nhưng chỉ có ý làm nổi bật các biểu tượng. Tiếng chừng (hôs) cho thấy ngay sự kính trọng của ông đối với những dữ kiện lịch sử.

Bằng chứng sau cùng: sự liên hợp này phú hợp với việc khai triển Lc 1-2. Hai chương này được xoay quanh việc Chúa Giêsu “đi lên đền thờ Giêrusalem (Lc 2,4.42; Lc 2,22) và 1Sm 6 cũng ghi lại hòm việc Hòm bia lên giêrusalem. Cũng như “hòm bia Chúa” dừng lại tại nhà Obededem, việc “mẹ Chúa” dừng lại tại nhà ông Giacaria diễn tả một chặng đường trong cuộc đăng trình tiến lên đền thánh. Trong hai trường hợp, việc lưu lại đều kéo dài suốt ba tháng, trong một ngôi nhà được chúc phúc. Sự liên lạc giữa cảnh thăm viếng với việc di chuyển Hòm bia Chúa (2Sm 6) xác nhận cùng một phương thức hành văn của Lc 1,2 (ông diễn tả các sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu bằng cách tham chiếu vào kinh thánh) và hai ý chính trong phần triển khai: Chúa Giêsu lên nơi của Ngài là: đền thờ Giêrusalem; Đức Maria, Đấng mang Chúa Giêsu là hình ảnh hòm bia giao ước.

2. Chỉ có một câu trong cảnh Thăm viếng (1,42) không có điểm tương đồng với 2Sm 6; câu đó xem ra trùng hợp với Gđt 13, 18-19:

 
Gđt 13,18-19 Lc 1,42
Trong nữ giới Trong nữ giới
Có bà là diễm phúc Có bà là diễm phúc
Và Chúa là Thiên Chúa Và hoa quả lòng bà
Đáng chúc tụng thay Đáng chúc tụng thay
(eulogêmennos) (eulogêmennos)

Ở đây Chúa Giêsu là Đấng đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa: đó là một dấu hiệu có giá trị nhờ qui chiếu với những dấu hiệu khác. Nhưng nhất là điểm tương hợp này đã đánh tan lập luận chối bỏ thần tính của Đức Kitô nhân danh câu này. Người ta đã bảo chữ eulogêmenos áp dụng cho loài người, còn chữ eulogetos áp dụng cho Thiên chúa. Nếu trong Lc 1,42 Chúa Giêsu chỉ được eulogemennos, là vì Ngài được coi như một thụ tạo đơn thuần chứ không như Thiên Chúa (Plummer, Lagrange, Ceuppens). Nhưng chính trong Gđt 13,19 (bản 70), Chúa Thiên Chúa (le Seigner Dieu) được eulogemenos (và ngược lại chính bà Giuđith được eulogêtê).

3. Một vài tác giả (Stanley) ghi nhận rằng kiểu nói “mẹ Chúa” phản ảnh óc chú trọng đến Đức Maria của thời các tông đồ. Thực vậy, theo nghi lễ của triều đình Cận Đông cổ thời thì tước hiệu “mẹ chúa” đầy vinh dự đó được dành cho bà Hoàng thái hậu, là nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong triều sau nhà vua. Trong chế độ đa thê, không có một bà hoàng hậu nào (vì vua cũng có nhiều vợ) có thể hưởng được một địa vị ưu tiên cách chắc chắn cho đến khi bà thành công trong việc đưa con mình lên ngôi (ví dụ bà bethsabec, mẹ vua Salomon). Vì vậy, trong một nền văn minh như thế, chính bà Hoàng thái hậu chứ không phải một bà hoàng hậu nào khác, có chức quyền cao trọng nhất sau vị hoàng đế.

Có thể lấy một ví dụ về việc ảnh hưởng của một nhân vật như thế trong sách Đanien. Trong một bữa tiệc do vua Balthazar thết đãi có một bàn tay mầu nhiệm đã viết lên tường phòng tiệc (Đn 5,1tt). Nhà vua triệu mời các nhà chiêm tinh và bói toán đến nhưng họ hoàn toàn bất lực không thể giải thích được hiện tượng lạ lùng đó, nên tất cả hàng quí tộc và nhà vua đều hoang mang. Nghe tiếng kêu kinh hãi của họ, “mẹ Chúa” liền đi vào và làm chủ tình thế tuyệt vọng đó (Đn 5,10-12).

Tương tự như thế, người ta thấy ảnh hưởng lớn của Hoàng thái hậu Bethsabec trên vua Salomon trong giai thoại vua giết anh mình là Ađonias: “Vua đứng dậy đi đón bà, cúi xuống lạy bà, rồi lên ngai và sai đặt một ngai khác cho mẹ mình và bà ngồi bên hữu vua (1V 2,19).

Những hình ảnh rút ra từ cuộc sống của triều đình Cận Đông cổ thời đó làm chứng về quyền hành của “mẹ chúa” và giúp chúng ta lượng giá được ý nghĩa tước hiệu vương giả ấy mà Lc áp dụng cho Đức Maria với tư cách là Mẹ Chúa Giêsu. Tước hiệu ấy như là một dấu chứng quí giá cho thấy Giáo hội trong thập niên 70-80 đã cung kính tôn sùng Đức Maria như thế nào. Tước hiệu ấy như muốn nói rằng Đức Maria là người đã cộng tác chặt chẽ nhất với Chúa Giêsu trong công cuộc cứu thế.

KẾT LUẬN

Qua vài nét chấm phá, Lc chỉ cho ta thấy Đức Maria là hòm bia giao ước mới, là “mẹ chúa”, là hình ảnh cột Abraham mới. Nhưng tất cả mọi tước hiệu đó chỉ làm nổi bật mầu nhiệm của Đấng mà bà đã cưu mang trong lòng, mầu nhiệm của Đấng phải chỉ là Messia Con Đấng Tối cao, nhưng siêu việt hơn thế nữa, cũng chính là Đấng Thánh, Con Thiên Chúa.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Đức Maria đon đả ra đi tiến lên miền núi. cuộc hành trình vất vả nhưng Người vẫn vội vàng. Cuộc đăng trình vĩ đại Luca trình bày luôn trong tác phẩm của ông. Phúc âm thứ ba và Công vụ sứ đồ bắt đầu từ đây. Lời của Thiên Chúa, Ngôi Lời, đi từ trời xuống thế, từ Nazareth đến Giêrusalem, từ Giêrusalem đến Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất, luôn luôn vội vàng, bất kể những khó khăn.

2. Đức Maria vội vã đem Chúa Giêsu đến cho người khác. Đó cũng là bổn phận đặc biệt của người Kitô hữu, Trong cuộc sống mình, chúng ta cũng phải làm chứng Chúa Giêsu luôn sống trong chúng ta và thôi thúc chúng ta gieo rắc sự vui mừng và bình an cho mọi người chung quanh trong một thế giới u buồn và tăm tối.

3. Đức Maria đã lưu lại chừng ba tháng trong nhà người chị họ cho đến khi Gioan tẩy giả chào đời. Tự nhận là “tôi tớ Chúa”, người cũng muốn làm tôi tớ mọi người. Không nghĩ đến phẩm chức cao trọng làm mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã phục vụ, đã chứng tỏ Mẹ thật là Mẹ của Đấng đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ. Và ta cũng phải nói rằng vì Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu nên cũng là tôi tớ mọi người. Như thế, Mẹ tỏ cho chúng ta thấy ai muốn gần Chúa Giêsu thì cũng phải sống cuộc đời như thế.

4. Đức Maria là hòm bia giao ước mới. Người mang trong mình Đấng Thánh, mạc khải của Thiên Chúa, nguồn ân phúc, nguồn vui ơn cứu độ và trung tâm của việc phụng tự mới.

5. Hoàn toàn giống Abraham, cha các kẻ tin. Đức Maria đã tin vào lời Chúa loan báo cho mình một việc xem ra không thể được: là một trinh nữ sẽ làm mẹ. Vì mẹ đơn sơ khiêm tốn và sống gần gũi Chúa nên mẹ biết rằng không có gì mà Thiên Chúa không làm được (1,37).

6. Được sống gần Đức Maria là nguồn vui sâu xa đối với bà Elisabet và Gioan tẩy giả, vì họ linh cảm rằng Người mang đến ơn cứu độ. Mỗi ngày Đức Maria cũng mang đến ơn cứu độ cho chúng ta. Là mẹ của giáo hội (theo công đồng Vaticano II), Người lưu tâm đến mỗi con cái người, và tìm cách mang đến ơn cứu độ cho họ là Chúa Giêsu.

7. Ơn gọi của Gioan tẩy giả bắt đầu ngay trước khi sinh ra, vì việc ông nhảy mừng trong lòng bà Elisabet đã là một cuộc loan báo đầu tiên về Đấng Messia. Chúng ta cũng vậy, trước khi sinh ra, Thiên Chúa đã trao cho chúng ta một sứ mệnh đặc biệt, một vai trò độc đáo mà không ai có thể thay thế được. Do đó, cần phải để Chúa Thánh thần tác động lay chuyển như bà Êlisabet và Gioan tẩy giả để ngày càng trung thành với ơn gọi riêng biệt của mình hơn. Như thế một ngày kia chúng ta sẽ nếm được niềm vui sung mãn trong cuộc sống thiên đàng với Chúa và Đức Maria là tôi tớ trung thành của Ngài.

-------------------------------------

 

MV4-A43. CON MẮT LÀ CỬA SỔ CỦA LINH HỒN


1 Sm 16:1b.6-7.10-13a; Ep 5:8-14; Ga 9: 1-41

 

Con người có ngũ quan. Nếu như hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải hủy bỏ một trong ngũ quan: MV4-A43


Con người có ngũ quan. Nếu như hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải hủy bỏ một trong ngũ quan, chúng ta sẽ chọn lựa như thế nào: câm điếc hay là mù lòa, cụt tay, cụt chân!... Tất cả đều đáng sợ, chẳng ai muốn mình phải rơi vào tình trạng này. Nhưng bất đắc dĩ phải đắn đo suy nghĩ để chọn lựa, tôi tin rằng, sống trong cảnh mù lòa là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một trẻ ngay từ khi mở mắt chào đời đã phải sống trong tăm tối, phải chấp nhận một cuộc đời không thấy ánh sáng, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng như cỏ cây! Lúc lớn lên có thể nghe mọi chuyện, có thể sờ mó tất cả, nhưng không thể nào hình dung ra được!

Bài Phúc âm hôm nay cũng nói về những sự việc xẩy ra bên lề của cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và một người bị mù từ thuở mới sinh. Anh ta không thể nào hiểu nổi, tại sao từ khi chào đời mình đã phải mang số phận hẩm hiu như thế này? Mình sinh ra đời làm người như thế này để làm gì? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời tôi? Tôi đã làm gì nên tội để rồi phải sống bên lề xã hội, phải đi ăn xin! Phải chăng đây là hình phạt do tội lỗi của cha mẹ gây nên? Anh ta phải quờ quạng, sờ mó mọi vật chung quanh, mong sẽ khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống, nhưng tất cả đều vô vọng. Chỉ có một làn da mong manh che đậy đôi mắt, nhưng anh có cảm giác, nó giống như một bức tường dầy đặc, không có cách nào đột phá, khai thông!

"Thà thắp nên một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối." Đức Giêsu đến và làm cho anh được thấy ánh sáng. Nhưng hành động của Đức Giêsu đã tạo nên xáo trộn. Tất cả đều bị lôi cuốn vào một cuộc tranh tụng sôi nổi. Họ đã chứng kiến phép lạ nhưng sự việc xảy ra không đúng lúc, bởi vì ngày Sabát. Đàng khác một số người lại nghĩ rằng, một kẻ tội lỗi không thể làm dấu lạ! Người mù đã được sáng mắt. Đó là sự thực không thể chối cãi, nhưng không ai dám tin vào mắt của mình. Cha mẹ của anh mù thì tìm cách thoái thác, tránh né. Anh mù thì quả quyết rằng, Đức Giêsu là một tiên tri.

Bài Phúc âm cũng phản ánh hình ảnh thực tế của cuộc sống con người ngày nay! Chúng ta có mắt nhưng nhiều khi giống như kẻ đui mù. Nhiều người đi ngang qua nhìn thấy anh mù, nhưng làm ngơ giống như không hề nhìn thấy.

Tương tự như thế, chúng ta chỉ để mắt nhìn những gì chúng ta muốn, chúng ta chỉ quan tâm đến những người chúng ta có cảm tình. Dĩ nhiên trong ngày có rất nhiều hình ảnh đập vào mắt, đặc biệt qua mạng lưới truyền hình với kỹ thuật tân tiến hiện nay. Chúng ta phải chọn lựa nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào đây?

Đam mê dễ biến thành cực đoan, tình yêu cũng có thể thành mù quáng! Nhiều người vẫn tự hào nhìn nhận mình thuộc thành phần trí thức, gia đình gia giáo nhưng không bao giờ để tâm chú ý tới những cảnh bất công, bần cùng bên lề đường, những kẻ sống trong cảnh đầu đường xó chợ, phải đi bới rác để sống qua ngày. Thực tế cho thấy, còn có nhiều cảnh man rợ đáng sợ hơn cảnh mù lòa gấp ngàn lần. Đó chính là thái độ sống của những kẻ nghĩ rằng mình là kẻ sáng mắt, nhưng trong thực tế còn tệ hơn kẻ đui mù.

Người mù đã được Đức Giêsu chữa lành nhưng đồng thời cũng lột trần bộ mặt thật của những người chung quanh. Anh đã làm chứng tá cho Đức Giêsu. Người là ánh sáng đích thực, có sức làm tan biến lớp sương mù dầy đặc che phủ tầm mắt của chúng ta.

Qua bí tích Rửa tội, Đức Giêsu đã ban tặng cho chúng ta một cặp mắt lành mạnh. Nhờ đó chúng ta có thể khám phá những khía cạnh tốt đẹp nơi người anh em sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta chỉ nhìn và khám phá ra thế giới muôn vẻ muôn màu ở chung quanh với con mắt đầy tình thương, với con mắt của đức tin, của tâm hồn.

NS Dân Chúa Âu Châu


Lm Phêrô Trần Minh Đức

-------------------------------------

 

MV4-A44. NGƯỜI CÔNG CHÍNH


(CN 4MV – Mt 1, 18-24)

 

Mầu Nhiệm Thiên Chúa thuộc về thượng trí của Thiên Chúa.  Đã là thần trí thì:MV4-A44


Mầu Nhiệm Thiên Chúa thuộc về thượng trí của Thiên Chúa.

Đã là thần trí thì luôn luôn vượt quá lý trí của con người. Và để kết hợp với thần trí, con người buộc đi sâu vào trong đức tin. Chỉ nhờ lý trí kết hợp trong đức tin, con người mới cảm nghiệm được thế nào là ân ban. Khi đón nhận ân huệ của Thiên Chúa thì con người phải tự hạ, tự thu nhỏ lại không phải vì mặc cảm tự ti  mà chỉ vì Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng Toàn Năng cao cả. Còn ta là thụ tạo nhỏ bé được hình thành trong tình yêu nâng cao để ta không còn là nô lệ mà là tự do đáp trả lại tình yêu mời gọi sự tự do của đức tin.

Chắc một điều, thánh Giuse là người rất tự do bởi Người đã chọn một cuộc hôn nhân khác thường. Một cuộc sống lệ thuộc bởi Lề Luật nhưng người đã tự do chọn lựa không hòan toàn đi vào trong trói buộc như nô lệ của qui định xã hội mang đậm nét tôn giáo Do Thái lúc đó. Người thành hôn với bà Maria theo luật buộc nhưng lại không bị trói buộc, vì sự tự hiến sống trinh khiết trọn vẹn cho Thiên Chúa và vì mọi người đang đón đợi Đấng Cứu Thế như một sự đáp trả trong tình yêu mà chỉ trong đức tin mới sống được tự do đến như thế.

Từ lối sống khiết tịnh trao ban trong tự do đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa mà thánh Giuse được gọi “là người công chính” (Mt 1, 19). Không chỉ với tiếng gọi trên mà Người còn thể hiện tình yêu đối với tha nhân, cụ thể là với người bạn kết hôn với mình nữa. Với tình yêu nồng nàn, thánh Giuse đã không thi hành theo luật hiện hành là có quyền tố cáo sự bất trung nơi bà Maria. Thay vào đó, Người âm thầm lặng lẽ chấp nhận phần thua thiệt, sự thiệt hại danh dự về cho mình. Người đã chọn sự tự do không ồn ào, âm thầm để đem lại sự tự do cho bà Maria, như Kinh Thánh viết:

“Ông Giuse, chồng bà, là người công chính, không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo”. (Mt 1, 19)

Từ ân ban được từ bỏ cái bản tính xác thịt, Người lại tiếp tục nhận đuợc ân ban yêu thương người khác. Đức ái đã triển nở đầy đủ cả hai hướng: thanh dọc của Thập Giá và rồi lại thanh ngang nữa. Như vậy thánh Giuse đã sống thập giá của đời mình trước cả khi tình yêu Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô. Sống thập giá phải là người tràn đầy Thánh Thần Chúa cũng như thánh Phaolô đã mặc  khải:

“Thiên Chúa là Thần Khí và ở đâu có Thần Khí của Chúa ở đó có tự do” (2Cr 3, 17).

Với một vài chữ “ông Giuse, chồng bà Maria là người công chính”, thánh Matthêu đã đủ để nói lên tất cả sự vuợt trội của cha thánh Giuse. Dù nằm trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa nhưng Ngài vẫn luôn mời gọi sự cộng tác của con người. Đặc biệt thánh Giuse, người cha nuôi Chúa Giêsu, đã tự do đón nhận ân huệ của Thiên Chúa và khi đứng trước Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Giêsu, người vẫn luôn lắng nghe, vẫn cầu nguyện và cầu nguyện. Khi nghe được tiếng đáp trả của Thiên Chúa qua sứ thần trước khát khao sống thánh ý Chúa, Ngài đã vâng theo. Quả là mẫu gương sống công chính để tiếp nhận mầu nhiệm Nhập Thể.

Tôi phải sống thế nào để đón nhận mầu nhiệm Quang Lâm mà nhập thể cũng là một lần Đến của Chúa Giêsu. Để được nhập thân xác và tâm hồn của tôi vào trong mầu nhiệm Phục Sinh vinh hiển của Chúa, không còn cách nào khác là hãy sống tự do thập giá Đức Kitô mà thánh Giuse sẽ giúp tôi bằng cách chiêm ngắm đời sống công chính của Ngài cho tường tận.

Lạy Chúa Giêsu Tình Yêu của con,

Chúa là hiện thân Mầu Nhiệm Thiên Chúa, là thần trí và là quyền năng của Ngài. Xin biến đổi con luôn mãi bởi con đã quá đau khổ trong thân xác yếu hèn dù Chúa đã soi rọi vào đức tin của con rằng:

“Đau khổ quả là điều hữu ích để giúp con học biết Thánh chỉ Ngài”  (Tv 118, 71).

Lạy Thánh Cả Giuse, Ngài đã đau khổ khi bị dằn vặt bởi mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Giêsu, đã đau khổ khi đời sống khiết tịnh đang bị phá vỡ bởi hai tiếng “xin vâng” của mẹ Maria.

Xin Ngài tăng thêm sức mạnh cho con để con được trở nên công chính và biết thu nhỏ mình lại hòng cho chúa Giêsu lớn lên trọn vẹn và thập toàn trong con. Sống Thập Giá Chúa Kitô là sống công chính vậy. Amen.

Mùa vọng, 18/12/2006
Phêrô Vũ văn Quí CVK64
Email: peterquivu@gmail.com


-------------------------------------

 

MV4-A45. THIÊN SỨ BÁO TIN CHO GIUSE


Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

CÂU HỎI GỢI Ý

 

Ai là nhân vật chính của trình thuật: Chúa Giêsu? Đức Maria? Thánh Giuse? Ai là chủ từ các câu:MV4-A45


1. Ai là nhân vật chính của trình thuật: Chúa Giêsu? Đức Maria? Thánh Giuse? Ai là chủ từ các câu xét về văn phạm? Tại sao nơi câu 18, tác giả lại dùng kiểu nói thụ động ("bà đã chịu thai") ?

2. Bí ẩn của trình thuật: thánh Giuse tỏ ra công chính ở chỗ nào? phải chăng là công chính theo luật? Như vậy thì tại sao ngài hành động cách bí mật? Phải chăng là lòng từ tâm ? Vậy thì tại sao ngài định ly dị Đức Maria nếu nghĩ rằng bà vô tội? Muốn trả lời, phải giải quyết bí ẩn khác sau đây: thánh Giuse cho rằng Maria có tội hay vô tội? hay ngài tôn kính bà như hòm bia Thiên Chúa? Có nền tảng văn chương nào cho những lập trường ấy không? hay chỉ có những khó khăn không vượt qua được?

3. Việc hiện ra cho Giuse được tường thuật với thể văn của các cuộc truyền tin, loại biến cố trong đó luôn có vấn đề một dấu chỉ được mặc khải và một sứ mệnh được trao phó: so sánh với St 16,11 ; 17, 19 ; Tl 13, 3- 5 ; Is 7, 14 ; Lc 1, 26- 28. Trong trình thuật Mt, ta có gặp lại những yếu tố của lược đồ chung ấy không?

4. Trong các lần hiện ra của thiên sứ sau đó, Giuse có còn được gọi là “con Đavít” nữa không? Nơi Mt 1, 1 , phải chăng Chúa Giêsu đã không được gọi là Con Đavít ? Đối chiếu hai trường hợp.

5. So sánh câu trích dẫn Is 7,14 trong Mt và trong nguyên bản: đâu là chi giết thay đổi chính ? Chi tiết này có ám chỉ điều gì về ý nghĩa của trình thuật không ?

6. Phải chăng không có đồng nhất cơ cấu giữa sứ điệp (cc.20- 21), câu trích dẫn sấm ngôn (c. 23) và trình thuật (c.25) ? Hãy nhấn mạnh đến những hạn từ được lấy lại trong mỗi phần cửa ba phần câu chuyện.

7. So sánh viễn tượng của Mt và của Lc trong các trình thuật thời thơ ấu. Lc muốn dạy về việc thụ thai đồng trinh và cho thấy Thiên Chúa làm được mọi sự. Mt có mục đích khác không? (x. 1, 1- 17).

8. Hãy thử tái lập lại cách dịch cc.20- 21: chữ "vì" mở đầu câu nói đến việc thụ thai đồng trinh có ý nghĩa gì?

9. Nên gán cho đoạn văn tiêu đề nào: "Việc thụ thai Chúa Giêsu cách đồng trinh" hay “Giuse đứng trước mầu nhiệm"? Có thể tìm được một tiêu đề hay hơn không ? Hãy tra cứu các ấn bản sách Tin Mừng.

10. Có thể so sánh Giuse với Gioan tiền hô theo nghĩa nào ? Đâu là vai trò của Giuse trong nhiệm cục cứu rỗi ?

*******

1. Nếu đem so sánh bản văn này với các câu song song của Luca, ta thấy có một liên hệ nào đó về nội dung:

+ Mt: "Maria, mẹ Người, đã đính hôn với Giuse ".

- Lc: "... một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse ... và tên của trinh nữ là Maria ...".

+ Mt: "Chớ sợ lấy Maria, vợ ông, vì thai sinh nơi bà là do tự Thánh Thần ".

- Lc: "Maria, đừng sợ, vì ... Thánh Thần sẽ đến trên bà ...".

+ Mt: "Bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu ".

- Lc: "Nầy đây bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai mà bà sẽ gọi tên là Giêsu".

Nhưng, trong lúc Lc trình bày việc truyền tin cho Maria, thì Mt lại trình bày việc truyền tin cho Giuse - và vì thế mọi viễn tượng đều thay đổi.

Hơn nữa, do việc Mt 1-2 không có một đoạn nào song song với Lc 1-2, nên các trình thuật về thời thơ ấu, nơi Mt, có những dị biệt quan trọng sánh với Lc 1-2: (a) nơi Mt, Giuse, "con Đavít" (c.20b), kẻ đưa Chúa Giêsu vào dòng dõi Đavít, là khuôn mặt chính yếu chứ không phải Maria (Lc) ; b) Xem ra Giuse và Maria sống tại Bêlem (Mt), vì hình như họ trở về Nadarét là theo một mặc khải đặc biệt nào đó; (c) Trình thuật của Mt chất chứa cả một loạt hành động được truyền làm từ trong giấc mơ, trong lúc Luca không kể lại giấc mộng nào hết ; (d) Các chi tiết chính của trình thuật Mt xem ra được chọn lọc phù hợp với một sấm ngôn, như thể để hoàn thành sấm ngôn ấy.

Đặc điểm sau cùng này (đ) cho thấy Mt, khi chọn lựa chất liệu của mình, đã tự giới hạn vào những chi tiết có một nền tảng Kinh Thánh minh nhiên. Mục đích của ông xem ra có tính cách hộ giáo: trình bày Giuse là cha Chúa Giêsu theo pháp luật và như thế thực sự liên kết Người vào dòng dõi Đavít (x. gia phả Chúa Giêsu). Lối trích dẫn Cựu ước dồi dào, và theo cách riêng của Mt, cho phép nghĩ rằng ở đây tác giả tự do khởi thảo bản văn theo quan điểm riêng của mình hơn. Về hình thức văn chương, ông cảm hứng từ một thể văn khá thịnh hành trong Kinh Thánh, thể văn "truyền tin sinh ha” (x. St 18, 9-15; Tl 13, 2-7; 1Sm 1, 9-18; Is 7, 13-17; Lc 1, 11-22. 26-38); những cuộc truyền tin này thường chứa đựng các yếu tố sau đây, được sắp xếp theo một trật tự thay đổi:

- Việc can thiệp của Thiên Chúa, thường được một thiên sứ loan báo (c.20).
- Một lời kêu gọi nhấn mạnh đương sự được thăm viếng với danh nghĩa nào (ở đây là "con Đavít", c.20).

- Một trở ngại phải vượt qua, thông thường là sự son sẻ của người đàn bà (ở đây, Giuse phải lấy một trinh nữ mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: các.18 và 20).

- Một dấu hiệu được ban như bảo chứng về sự hoàn thành lời truyền tin (ở đây là sự sinh hạ cách lạ lùng).

- Sau cùng là nhựng xác định về danh tánh và tương lai của đứa bé (ở đây, tên Giê-su và ý nghĩa của tên ấy, c.21).

2. Liên hệ văn chương giữa 1, 18-25 và 1, 1-17 nằm trong thành ngữ to gennêthen "thai sinh" (cái được sinh ra) (c.20c), tiếng nhắc lại động từ "sinh" nằm suốt cả đoạn 1, 1 -17: việc Chúa Giêsu sinh hạ, tuy có vẻ lạ thường, vẫn nằm trong đường hướng các cuộc sinh hạ trước đó . Tiêu đề của đoạn 1, 18-25: "Chúa Giêsu Kitô sinh ra thế này" (c. 18a) gợi lại tiêu đề ở 1, 1 và củng cố mối tương quan chặt chẽ giữa hai đoạn văn chương một. Về phương diện luận lý, 1, 18-25 đưa ra những lời giải thích cho thành ngữ ở 1,16. Bản gia phả đã mặc khải cho ta biết Chúa Giêsu là ai: là Đấng Thiên sai, con của lời hứa cho Abraham, và phát xuất từ gốc Đavít; bản văn tiếp theo cho thấy Người mang nguồn gốc đó thế nào. Thành ra tiếng "Giêsu Kitô", kết thúc đoạn văn đầu và khai mở đoạn văn sau, là bản lề của cả hai, nhưng đồng thời là trọng tâm của mỗi một đoạn.

Đôi lúc ta thấy như có một đối nghịch giữa 1, 1-17 và 1, 18-25: các cuộc sinh hạ trước Chúa Giêsu đều thuần túy tự nhiên, thuộc lãnh vực sinh vật, trong lúc việc sinh hạ của Chúa Giêsu hoàn toàn siêu nhiên. Thế nhưng Mt lại muốn nhấn mạnh hơn đến sự kiện này là: chính Thiên Chúa Tạo hóa và Cứu chuộc đã hành động trong mọi cuộc sinh hạ của lịch sử cứu rỗi và trong việc sinh hạ Chúa Giêsu. Ngược lại, phải tránh xem 1, 18-25 như là tiếp tục bình thường của 1, 1-17: không có dấu gì trong bảng gia hệ 1, 1-17 cho phép nghi ngờ việc Chúa Giêsu xuất hiện một cách lạ lùng như 1, 18-25 kể lại. Thành ra ở đây cũng như khắp nơi trong Tân ước, ta gặp lại sự đối nghịch giữa hai chi tiết đánh dấu việc Chúa Kitô xuất hiện: Người hoàn toàn liên tục với tất cả các tiền nhân của lịch sử cứu rỗi, lịch sử mà Ngươi hoàn thành; nhưng đàng khác? Hoạt động cứu rỗi của Thiên Chúa trong Người siêu việt hẳn mọi cái đi trước.

3. Chắc chắn 1,18-25 trước tiên không có mục đích mô tả việc thụ thai Chúa Giêsu cách lạ lùng; việc này chỉ được nhắc sơ qua như một sự kiện mà ai nấy đều biết. Ta cũng có thể bảo, như sẽ chứng minh dưới đây, là tất cả đoạn văn này nhằm trình bày tại sao Giuse phải đem Maria về nhà mình: không phải vì bà được thụ thai đồng trinh, nhưng đúng hơn là: mặc dù bà thụ thai đồng trinh. Theo khía cạnh đó thì mục đích của Mt rõ ràng có tính cách giáo thuyết. Ông chẳng tìm cách tường thuật lại chính giai thoại ấy đâu, vì ông bỏ qua mọi chi tiết thuật sự thông thường như chẳng xác định thời gian, nơi chốn, đặc tính của các nhân vật; trái ngược với Luca, ông không nêu lên danh tánh vị thiên sứ hiện ra. Loại trình thuật sơ sài cô đọng này là đặc điểm của Mt: thật ra đó là một giáo huấn dưới hình thức thuật sự.

Đàng khác, phải nhận rằng sự kiện cưu mang đồng trinh Chúa Giêsu chỉ có một địa vị hạn hẹp trong lời rao giảng nguyên thủy của Kitô giáo ở thế kỷ I, bởi vì ngoài Mt 1 và Lc 1 ra, thì Tân ước không nói tới điều đó chỗ nào nữa cả. Ví dụ các bản tóm tắt giáo lý và các bản tuyên tín cổ xưa nhất, cũng như các thư Phaolô và văn phẩm của Gioan đâu có ghi nhận sự kiện này. Bởi vậy nhiều nhà phê bình đã cho rằng trình thuật cưu mang đồng trinh Chúa Giêsu chỉ là một sản phẩm muộn màng của Kitô giáo chịu ảnh hưởng những thần thoại Hy-La bàn về việc sinh hạ có tính cách thần linh của các nhân vật quan trọng. Nhưng nếu so sánh tỉ mỉ các huyền thoại ấy với trình thuật của Mt lẫn Lc, ta sẽ thấy vấn nạn thật là yếu ớt. Từ ngữ và tư tưởng của Mt lẫn Lc cho thấy trình thuật của họ bắt nguồn từ môi trường Cựu ước, một môi trường hoàn toàn xa lạ với đa thần giáo Hy-la.

Mt 1, 18-25 được chia ra làm 5 phần:

1) Tiêu đề của đoạn văn (c. 18a) ;

2) Tình cảnh của Giuse và Maria (cc. 18b-19) ;

3) Chúa dùng vị thiên sứ can thiệp để giải thích tình cảnh và thông ban một mệnh lệnh (cc.20-21);

4) Tác giả gợi lên những chiều kích của hành động thần linh đó (cc 22-23);

5) Sau sùng, Giuse thi hành răm rắp mọi điều Chúa đã truyền cho (cc. 24-25)

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

Qua tiêu đề bản văn (c.18a), Mt muốn ngỏ lời với các tín hữu để xác định hoặc sửa sai quan niệm của họ về việc Chúa Giêsu Kitô sinh ra. Mt không đưa ra một chỉ dẫn nào về Maria và Giuse; ông nói đến các ngài như những người mà độc giả đều biết rõ. Chủ ý của ông chẳng phải là trưng tài liệu song là dạy giáo lý.

Câu 18b gợi ý (song không minh nhiên quả quyết) rằng Giuse đã biết việc thụ thai con trẻ là do Chúa Thánh Thần.

Động từ sunelthein, theo tự nghĩa là "đến với, phối hợp với một người nào đó", có thể chỉ việc giao hợp hoặc việc sống chung. Văn mạch gần phù hợp với nghĩa đầu hơn. Cô thiếu nữ Do thái, được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14 tuổi (việc chuyển tiếp này, khai mạc việc sống chung, làm nên lễ hôn phối).

"Do tự Thánh Thần": giới từ "ek" ở đây nói đến một nguyên nhân lịch sử: do một hành động độc nhất của Thánh Thần. Lc 1,35 thì loan báo một hoạt động tích cực hơn: Thánh Thần "sẽ đến trên" Đức Maria. Từ ngữ của Mt, vì chỉ ghi nhận sự kiện, nên có vẻ dè dặt hơn. Vả lại, Mt mỗi lần nói đến Thánh Thần, là để công bố hoạt động cao siêu của Thiên Chúa, nhưng không giải nghĩa hoặc phân tích gì thêm (3,11; 4,1; 10,20; 12,18; 12,28.31).

"Giuse, chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà": sự công chính của Giuse hệ tại chỗ nào? Giai thoại ta đang nghiên cứu đã làm các nhà chú giải bối rối không ít. Phần lớn cho rằng sự công chính đó chính là việc mặc khải cho Giuse biết Maria đã thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, hầu chấm dứt mối băn khoăn nghi ngờ nơi ngài. Nhưng lập trường này đẩy ta vào những vấn đề tâm lý giả tạo và khó giải quyết, những vấn đề hoàn toàn xa lạ với tinh thần của tác giả và độc giả Tin Mừng. Đúng hơn là hình như Giuse băn khoăn không phải về tiết hạnh của bạn mình, song là về mối liên hệ giữa ngài và đứa trẻ, về nhiệm vụ ngài phải gánh vác đối với đứa bé đó. Giuse không công chính theo nghĩa là ngài vâng lời Lề luật vì chả có luật nào buộc phải ly dị vị hôn thê mới bị coi như là ngoại tình cả (Đnl 22,13-21.23-27 chỉ liên hệ tới hôn nhân hoàn hợp, như Đnl 24,1 làm chứng).

Đàng khác, nếu âm thầm ly dị Maria, thì Giuse lại càng bất tuân Lề luật, vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý khi mang tính cách chính thức công khai (Đệ nhị luật có nói đến việc ly dị tổ chức ở cửa thành). (Vẫn biết pháp chế của các tiến sĩ luật có cho phép tổ chức việc ly dị riêng tư trước hai nhân chứng - x.Mishnah, Sotah 1, 5- song hình như pháp chế ấy nằm sau thời Chúa Giêsu; hơn nữa, kiểu ly dị như vậy không thể là điều Giuse nghĩ tới, vì bản văn Mt rõ ràng nói đến một việc ly dị "âm thầm, bí mật" - từ ngừ hy lạp lathra, theo Zorelle, Bauer ..., chỉ có ý nghĩa ấy - với lại ly dị mà có hai nhân chứng thì sức mấy giữ được bí mật lâu trong một ngôi làng nhỏ như Nadarét ...). Sau cùng, mọi lối giải thích sự công chính của Giuse như là "công chính chiếu luật" sẽ đẩy ta vào chỗ tiến thoái lưỡng nan. Thật vậy nếu theo con mắt của Giuse, Maria phạm tội ngoại tình, thì ta hiểu ngay là ngài đã nghĩ tới chuyện ly dị, song ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến việc ly dị âm thầm, vì bấy giờ việc ly dị sẽ chẳng có hiệu lực pháp lý và lại không thể giữ bí mật được lâu. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô tội, thì ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp luật đâu cho phép và vì, xét như là hôn phu, người có bổn phận bảo vệ vị hôn thê vô tội chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác. Thành ra không thể cắt nghĩa sự công chính của Giuse như là "công chính theo luật" được.

Vấn đề ở đây là sự công chính tôn giáo, sự công chính đòi hỏi Giuse tôn trọng công trình Thiên Chúa nơi Maria và cấm ông không được đoạt lấy công lao của một hành động thần linh: Giuse nghĩ rằng mình không được quyền đem về nhà một kẻ mà Giavê đã dành riêng cho Ngài. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui, và vì tế nhị đối với Thiên Chúa. Ngài cẩn thận không muốn "tiết lộ" mầu nhiệm thần linh nơi Maria (tiếng deigmatisai, theo Origène và Eusèbe, không bao hàm ý nghĩa xấu tố giác? bêu nhục) như tiếng paradeigmatisai; Jouon cũng dịch là tiết lộ, bày tỏ "). Ngài phản ứng như hết thảy mọi kẻ công chính trong Thánh Kinh trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Môisen cởi giày trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm truởc sự xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh, như Elidabét tự hỏi tại sao mình được mẹ Chúa viếng thăm, như viên bách quản trong Tin Mừng, như Phêrô cúi mình tâu: "Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ tội lỗi "... Như "Abel người công chính", Giuse đã tỏ mình ra là kẻ hết dạ tôn thờ Thiên Chúa tabel là người "công chính" duy nhất được Mt gọi tên trong Tin Mừng của ông, 23, 36, công chính không phải vì tuân hành Lề luật, vì Lề luật chỉ được công bố với Môisen !).

Lối giải thích này được văn mạch chung của chương 1 Mt xác nhận. Thật vậy, trong đoạn văn đầu tiên, Mt kể lại gia phả của Chúa Giêsu bắt đầu từ Abraham và Đavít, đi ngang qua Giuse. Nhưng chính gia phả ấy lại gặp một vấn đề hóc búa nơi Giuse. Hóc búa là vì Chúa Giêsu chẳng phải là con Giuse theo xác thịt. Thành ra bản văn chúng ta đây có mục đích giải thích làm sao Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi Đavít, mặc dù Người chẳng phải là con Giuse. Và lời giải thích nằm ngay trong việc Giuse thừa nhận Chúa Giêsu trước mặt pháp lý. Do đó ta thấy rõ trình thuật không có mục đích bênh vực việc thụ thai đồng trinh cho bằng là chứng minh làm sao Chúa Giêsu đã trở nên con cháu Đavít và là Đấng Thiên sai dòng dõi Đavít, mặc dầu Người được mang thai đồng trinh, một yếu tố đã gây nên vấn nạn lớn lao. Hai phần của chương đầu Mt như thế làm nên hai vế của cùng một chứng minh vậy.

Một luận cứ xác nhận khác là chính lời của thiên sứ (cc 20-21), nếu được hiểu đúng. Cách dịch hay nhất có lẽ như thế này: "Hỡi Giuse, con Đavít, chớ sợ đem Maria về nhà làm vợ vì quả thật (Hy ngữ: gar ; pháp ngữ: can certes) thai sinh nơi bà là công thành của Thánh Thần, nhưng (Hy ngữ: dé) bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu; vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội lỗi ". Đúng vậy, lối dịch chữ gar ra vì quả thật thường được thấy trong Tân ước (1 Cr 9, 19; 2 Tx 2, 20; Mt 18, 7; 22,14; 24,6 ...). Thành ra qua lời mình, thiên sứ giả thiết là Giuse đã biết Maria mang thai đồng trinh rồi và chính việc thụ thai này đã thúc đẩy ngài rút lui trước sự can thiệp của Thiên Chúa; tuy nhiên thiên sứ ra lệnh cho ông dù sao ("nhưng") cũng phải chấp nhận đặt tên cho đứa trẻ và đưa nó vào dòng dõi Đavít.

"Giêsu": tên chỉ định con người và, đặc biệt trong Kinh Thánh, chỉ định chức vụ mà Thiên Chúa đặt định cho trong lịch sử cứu rỗi. Iêsous là phiên âm hy lạp của tiếng hy bá Yehôshua (Xh 24, 1 3) hoặc Yéthua (Nhm 7, 7), "Giavê là sự cứu độ", một tên riêng khá phổ thông trong Cựu ước và Tân ước.

"Vì (từ ngữ mở đầu câu nói về ơn gọi, cái ơn gọi được diễn tả qua danh tánh mà Thiên Chúa truyền phải đặt cho đứa trẻ) chính Người sẽ cứu (động từ “cứu” cũng tái xuất hiện trong ba Tin Mừng Nhất Lãm: 15- 15- 17 là n trong Mt-Mc-Lc, trong khi chỉ mình Lc gán cho Chúa Giêsu tước hiệu "Đấng Cứu Thế" nơi chương 2, 11 và dùng chữ "ơn cứu độ ") dân mình tức Giáo Hội, Israel đích thực; lao, "dân", là một từ ngữ riêng của Mt (14 lần, trong lúc Mc chỉ dùng hai lần) dùng để chỉ dân Thiên Chúa) khỏi tội lỗi (x.Tv 130, 8 ; ta không được bảo toàn thể Do thái giáo đương thời Tân ước đều mong chờ một Đấng Thiên sai thuần túy có tính cách quốc gia và chính trị; Thánh vịnh Salomon 17 vẫn hy vọng rằng Con Đavít sẽ quy tụ dân Người, thanh tẩy và thánh hóa họ).

"Mọi sự này xảy ra ... " (cc.22-23). Công thức quen thuộc này của Mt không muốn quả quyết rằng giữa các bản văn Cựu ước và thực tai của Tân ước có một cái gì bình đẳng. Mt cho rằng bao giờ cũng vẫn là chính Thiên Chúa điều khiển lịch sử thánh, nhưng các thực tại Tân ước mới là đích điểm và là sự viên mãn của Cựu ước.

"Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai": Mt trích Is 7,14 (x.2V 16, 5- 9) theo bản 70 với chữ parthenos, "tính nữ", trong lúc nguyên bản dùng chữ almâ, là tiếng vừa chỉ một thiếu nữ, vừa chỉ một người vợ trẻ. Vì thế, dựa vào Is 7,14, Do thái giáo miền Palestine không mong chờ một Đấng Thiên sai sinh hạ đồng trinh, nhưng dù vậy Đấng Thiên sai cũng sẽ là một người con đầu lòng (Lc 2,7). Trong hoàn cảnh lịch sử của Is 7,14, vị ngôn sứ chỉ loan báo một biến cố sắp gây chưng hửng cho vua Achaz cũng lòng tin.

"Emmanuel”: Mt chẳng cố ý nêu ra một tên mới của Đấng Thiên sai, song chỉ muốn nói lên ý nghĩa của con người và của công cuộc Người thực hiện. Chính Is 7,14, bản văn ông trích dẫn, và 8,8 cũng đã không nhấn mạnh đến sự hiện diện đơn thuần của Thiên Chúa, điều mà cả Kinh Thánh đều giả thiết, nhưng đến sự hiện diện tích cực, hằng cứu giúp của Ngài. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu vớt họ. Lời hứa long trọng của Chúa Kitô vinh hiển “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế", 28,20) đánh dấu việc thể hiện hoàn toàn lời loan -báo trên. Như thế, Tin Mừng Mt mở đầu và kết thúc với ý tưởng này là: Thiên Chúa đã hiện diện tích cực với nhân loại trong con người Chúa Giêsu.

Nơi câu 24-25, Mt ghi nhận: sau khi được Thiên Chúa báo mộng, Giuse không còn thụ động nữa; ngài "tỉnh giấc" hay "chỗi dậy" tuân hành răm rắp lệnh truyền. Chi tiết các câu 24- 25 tương ứng sít sao với lời dạy của thiên sứ (cc.20-21) và với lời giải thích cùng trích dẫn sấm ngôn (cc.22-23). Như câu 23, câu 25 nhận xét rằng Maria còn đồng trinh lúc hài thi sinh ra; thành ra kiểu nói "ông đã không biết bà cho tới ngày bà sinh con" không phủ nhận cũng chẳng ám chỉ sự đồng trinh sau đó. Vả lại ta nên nhớ mẫu tính đồng trinh của Đức Maria không có ý nghĩa sinh vật học (mặc dầu sự kiện có thật) song là Kitô học, nghĩa là diễn tả đức tin của Giáo Hội vào thần tính và nhân tính của Chúa Giêsu.

KẾT LUẬN

Ở hai đầu của lịch sử Lời hứa, có hai ơn gọi làm âm vang cho nhau và bổ túc nhau: ơn gọi Abraham, cha của Lời hứa, và ơn gọi Giuse, kẻ mà lòng vâng phục mệnh lệnh thần linh đã giúp thực hiện lời Thiên Chúa hứa là cho Đấng Emmanuel tới. Và nhờ được Giuse đưa vào dòng dõi Đavít, kẻ thụ thác Lời hứa, Chúa Kitô từ nay liên hệ trực tiếp với mỗi người con cháu Abraham, đón con cháu đông như sao trên trời chẳng ai đếm nổi (St 15, 5).

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Sự công chính của thánh Giuse không nằm ở chỗ ngài muốn bí mật ly dị Đức Maria. Thật ra nó nằm ở chỗ thánh nhân từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà ngài biết là Con Thiên Chúa. Ngài sợ mang tiếng chiếm đoạt vai trò mà Chúa không ủy thác. Sở dĩ ngài muốn ly dị Đức Maria đó là vì tế nhị, vì vâng theo thánh ý Chúa, Đấng không giao cho ngài sứ mạng gì đối với Đức Maria và Hài nhi cả. Đối với Giuse, Thiên Chúa có mặt trong công chuyện này. Thiên Chúa đã sử dụng vị hôn thê của ngài, và vì thế ngài muốn rút êm để khỏi làm cản trở việc thực hiện một chương trình ngài không hiểu thấu. Nói cho đúng, sự "công chính" của thánh Giuse chính là ý thức của ngài về Thiên Chúa, là sự tôn trọng của ngài đối với mầu nhiệm và thánh ý Thiên Chúa. Người Kitô hữu cũng phải có lòng kính trọng sâu xa như vậy đối với các dự tính của Thiên Chúa về mình, phải có ý thức về sự siêu việt của Thiên Chúa mỗi khi Ngài cho ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài trong đời sống thường ngày: qua niềm vui, qua Thánh Thể, qua thử thách, qua lời kêu van giúp đỡ của tha nhân v.v...

2. Thánh Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu Kitô hằng sống. Chúng ta cũng phải đón nhận Người như thế, vì Chúa đang thực sự sống động trong Giáo Hội ; nhờ Giáo Hội mà Người tự thông ban cho ta qua Thánh Kinh và Thánh Thể. Ngày nay, tin vào sự hiện diện sống động của Chúa trong Thánh Kinh và Thánh Thể không khó hơn việc thánh Giuse tin rằng con trẻ mà vị hôn thê của ngày chờ đợi thật là Con Đấng Tối Cao. .

3. Thánh Giuse im lặng: Thánh Kinh không ghi lại một lời nào của ngài, một kẻ dù sao vẫn là con cháu Đavít và đã cho Chúa Giêsu được nên con Đavít.

4. Emmanuel: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Giêsu: Thiên-Chúa-cứu. Sở dĩ Thiên Chúa ở với chúng ta, đó là để luôn luôn cứu chúng ta. Sự hiện diện của Người trong đời ta là nguồn bình an và hoan lạc lớn lao nhất. Ngày nay, Chúa Giêsu là Emmanuel đối với chúng ta hơn bao giờ hết, vì sau khi sống lại, người đã hứa ớ với chúng ta cho đến tận thế.

-------------------------------------

 

MV4-A46. Thiên Chúa ở cùng chúng ta

 

Bản văn này khơi lên nhiều câu hỏi. Chẳng hạn, chúng ta có thể thắc mắc tại sao Matthêu, ngược:MV4-A46


Bản văn này khơi lên nhiều câu hỏi. Chẳng hạn, chúng ta có thể thắc mắc tại sao Matthêu, ngược lại với Luca, đã trình bày khuôn mặt của Giuse chứ không phải của Maria như là người đón nhận tin báo của Thiên Chúa về cuộc sinh hạ Đấng Cứu Độ Israel. Chúng ta có thể tự hỏi đâu là những động lực thúc đẩy Giuse muốn lìa bỏ hôn thê của mình (vì bản văn không nêu rõ những động lực này). Chúng ta một lần nữa có thể đặt vấn đề (rất phổ biến gần đây) về sự trình bày các chi tiết lịch sử ở đây nhằm mô tả cuộc sinh hạ đồng trinh và về ý nghĩa của cuộc sinh hạ đó đối với niềm tin của chúng ta. Chúng ta có thể xem xét ý nghĩa của việc đặt tên và ý nghĩa của cái tên Giêsu -“Chúa Cứu Thế”- chúng ta cũng có thể đặt vấn đề đâu là ý định ban đầu của vị ngôn sứ qua trích dẫn Isaia 7,14 -một câu trích dẫn mang ý nghĩa rất gây tranh luận ở đây.

Song đó là những vấn đề không thuộc phạm vi mà bài suy niệm ngắn này muốn đề cập đến.

Ở đây chúng ta dành quan tâm đến cái tên “Emmanuel” -cái tên công bố rằng “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nơi con người Giêsu này.

Rất đáng đề cập một hàm nghĩa khác nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một hàm nghĩa không hề vu vơ hay vô căn cứ. Khi chúng ta nói rằng con người –trong tư cách là một tạo vật- chắc chắn có mối quan hệ với Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa là Chúa và là cùng đích của con người -và nếu gạt Ngài ra thì cuộc sống của chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa, rằng Ngài là Đấng phù trợ và là Đấng Cứu Độ của chúng ta- chúng ta ở trong sự quan phòng hồng phúc của Ngài, rằng Ngài với lòng nhân hậu sẽ thứ tha tội lụy chúng ta, rằng chúng ta phải trả lời về trách nhiệm của mình trước toà phán xét của Ngài, rằng đối với những ai tin vào Ngài, trông cậy vào Ngài và yêu mến Ngài, Ngài dọn sẵn cho họ cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… Khi nói như thế là chúng ta đã giải thích “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” theo đúng chiều hướng và đã vận dụng sự thực ấy vào các chiều kích khác nhau. Thật hồng phúc tuyệt vời biết bao nếu tất cả mọi người có thể nhận ra ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” ấy trong cuộc sống của họ. Tất cả những giải thích ấy cuối cùng đều được quy hướng –trong niềm hy vọng- về một mầu nhiệm thâm sâu hơn nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Nhưng không một giải thích nào trong những giải thích nói trên lột tả được cảm thức tuyệt đối Kitô giáo về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong những ân huệ hữu hạn của Ngài, chỉ trong việc Ngài đặt chúng ta –là những hữu thể có năng lực sáng tạo- vào trong thực tại riêng của mình và trong việc Ngài hướng dẫn thực tại ấy tới sự hoàn thành định mệnh của nó xuyên qua sự thứ tha tội lụy chúng ta và sự chuẩn nhận chung cuộc tình trạng hiện hữu trưởng thành của chúng ta; nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong mức độ bởi vì tất cả những thực tại thụ tạo của con người đều xuất phát từ Ngài và quy chiếu về Ngài đồng thời nhắc nhở chúng ta quy hướng về Ngài trong thái độ nhận hiểu và biết ơn, trong thái độ cầu nguyện chan hoà cảm mến… nếu chỉ thế thì quả chúng ta đã sai lầm về bản chất nền tảng của nhận thức Kitô giáo về “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Chính Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở cùng chúng ta bằng chính bản thân Ngài chứ không chỉ bằng trung gian của những ân sủng hữu hạn ban cho một tạo vật hữu hạn. Thánh Kinh và Truyền Thống làm chứng cho bản chất rất độc đáo của huyền nhiệm chung cục của cuộc hiện sinh chúng ta, đó là, Thiên Chúa thông ban chính bản thân Ngài cho chúng ta trong chính thực tại vô hạn và bất khả thấu hiểu của Ngài. Ngài trao ban cho ta Thánh Thần của Ngài, Đấng thể hiện tư tưởng của Thiên Chúa, Đấng chính là sự sống nội tại của Thiên Chúa. Vì thế Chúa Cha và Chúa Con đến cư ngụ trong chúng ta, như Chúa Con là một với Chúa Cha từ đời đời. Chúng ta tham dự vào thiên tính, chúng ta không còn chỉ là tôi tớ nhưng đích thực là con ruột của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhìn thấy và yêu mến Thiên Chúa –không phải lờ mờ trong gương kiểu như một trung gian tạo vật- nhưng là một cách trực tiếp diện đối diện. Vì thế, thần học truyền thống –nhằm bảo vệ cho bản chất nền tảng của giáo huấn Thánh Kinh này khỏi bị giảm trừ dần về sau- đã nói về “ơn phi tạo” của việc cảm nhận trực tiếp Thiên Chúa không thông qua trung gian một thực tại thụ tạo. Thần học cổ điển nói về sự cư ngụ trực tiếp của Thiên Chúa Ba Ngôi trong con người nhân loại và về sự tự thông truyền của Ngài.

Tất cả những điều này thoạt nghe có vẻ trừu tượng. Song đó là sự thật cuối cùng về con người chúng ta, dù chúng ta đã đạt đến nó và nhận ra nó trong cuộc hiện sinh bình dị hằng ngày của mình hay chưa. Là những hữu thể hữu hạn, khi chúng ta sống đóng kín nơi mình mà thôi, chúng ta dễ hàng phục một xu hướng bất khả kháng để suy nghĩ một cách thuần tuý hữu hạn về chính mình và về sự hoàn thành của mình. Chúng ta có khuynh hướng đánh giá sai lầm về tiềm năng nơi mình và từ đó thoả mãn với những gì mà mình trông thấy và sờ thấy được. Nếu đây chỉ là vấn đề quan điểm riêng của mình mà thôi thì hẳn chúng ta không có gì sai trái khi cảm thấy hài lòng với một hạnh phúc hữu hạn. Nhưng mọi tội lỗi trên trần gian đều có chung một đặc tính là tuyệt đối hoá cái tương đối –do đó cho thấy sự hài lòng nói trên của chúng ta là một thái độ sai lầm, một sai lầm ta không dễ gì bứt ra.

Chúng ta không được phép dễ dãi hài lòng như thế, đây không chỉ bởi một quy luật ngoại giới nào đó không cho phép ta (luật này còn khá xa lạ với chúng ta), mà còn bởi sự kiện rằng Thiên Chúa –trong bản tính vô hạn của Ngài và với lòng khoan dung nhân hậu siêu việt của Ngài, đã tự làm cho chính Ngài trở thành luật nội tại khắc ghi trong bản tính chúng ta, trước khi ta ý thức về chính mình và sợ hãi không dám gieo mình vào cõi vô hạn bất khả thấu hiểu ấy- cái vô hạn vốn lấp đầy chúng ta tận trong cốt lõi thâm sâu của hữu thể mình, rồi chúng ta đi tìm náu ẩn trong những vành đai hữu hạn của cuộc hiện sinh và cố tìm kiếm hạnh phúc của mình ở đó. Tuyên bố rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta (như các Kitô hữu nhận thức một cách đầy đủ) là nói rằng chúng ta khao khát mấy cũng không vừa trong nỗi khát khao mà chính Thiên Chúa đã ban tặng cho ta, trong khát vọng tự do, hạnh phúc, trong khát vọng gần gũi thân tình, khát vọng hiểu biết, an bình và khát vọng thành toàn ở chung cuộc. Ngẫm cho kỹ, mọi sự thái quá mang dấu ấn tội luỵ trong đời ta chung quy chỉ là một tình trạng thiếu kiểm soát dẫn ta đến chỗ coi một thực tại hữu hạn nào đó là cái không thể thiếu cho hạnh phúc của mình. Một người như vậy là một người ở trong tội, bởi vì người ấy không dám thực hiện bước nhảy –bước nhảy của niềm tin, của lòng trông cậy và của tình yêu- vào trong cõi hạnh phúc đích thực khôn cùng và bất khả thấu hiểu, là chính Thiên Chúa và chỉ là Ngài mà thôi.

Sự diễn giải có tính trừu tượng như thế về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” của bản văn Tin Mừng hôm nay thật ra không xa xăm như ấn tượng có thể có lúc ban đầu. Sở dĩ ta cảm thấy xa xăm bởi vì ta vốn xa xăm với “siêu nhiên tính” của chính mình, tức xa xăm với chính Thiên Chúa. Bất cứ khi nào chúng ta nghe trong chính mình tiếng gào réo bất tận đòi tồn sinh, ta cảm thấy không chấp nhận điều kiện hay giới hạn nào nữa ngoài một điều rằng ta là cái vô hạn đang ở chặng khởi đầu chứ chưa phải ở mức hoàn thành; bất cứ khi nào ta khắc khoải muốn yêu thương vô điều kiện bằng một tình yêu rộng mở hướng về người khác đến độ dám liều bỏ mình; bất cứ khi nào đứng trước thật gần bóng tối mịt mù của sự chết và ta vẫn tin rằng chính cái chết cũng chỉ là một cái gì hữu hạn –còn niềm hy vọng sống vĩnh cửu mới là vô cùng… Trong những cảm nghiệm như thế về cuộc nhân sinh, ta cảm nghiệm niềm hy vọng và niềm tin rằng chỉ có Thiên Chúa –chứ không phải bất cứ một thực tại hữu hạn nào- mới là sự lấp đầy cho một kiếp người hữu hạn.

Đó là ý nghĩa của “ơn phi tạo”. Ân sủng này được thông ban nơi Đức Giêsu Kitô, tuy nhiên nó vẫn hoạt động xuyên suốt giòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại –biểu hiện nơi tiềm năng hiện thực hoá thâm sâu nhất của chính ân sủng này. Vì thế, nó là cốt lõi nền tảng của mọi cuộc hiện sinh.

Nhưng giáo thuyết về “ơn phi tạo” không đóng khung ở chỗ chỉ nói lên một niềm phấn khích khôn tả về tương lai loài người. Với ơn sủng này, chúng ta đạt đến chiều sâu nhất của nhận thức Kitô giáo về con người. Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” không còn chỉ là một mầu nhiệm mông lung, một mầu nhiệm cứ mãi còn là mầu nhiệm tuyệt đối ngay cả trong nỗ lực trực tiếp nắm bắt Ngài; và con người chỉ có thể cảm nhận được điều ấy khi chính nhận thức của họ được đổ tràn tình yêu. Vâng, chỉ tình yêu mới có thể làm cho chúng ta hiểu ra rằng Thiên Chúa (Đấng là tình yêu) vĩ đại hơn cả cõi lòng mình, một cõi lòng luôn luôn bỏng cháy niềm khát khao giác ngộ.

Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” này không phải chỉ là Thiên Chúa của sự tự do tuyệt đối (của những quyết định không còn có thể bị phủ định, và của những sự sắp đặt tất yếu phải được nhận chịu trong sự hàng phục vô điều kiện của tình yêu –một tình yêu biết cảm mến sự tự do thần linh này đến mức đó). Đúng hơn, chính sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là nhân tố đặt nền tảng căn bản cho nền “luân lý” Kitô giáo. Với số cuộc đổi thay diễn ra trong lịch sử loài người và trong cuộc đời riêng mỗi người được thấy như là không thích đáng nếu lấy bản tính của con người và của thế giới hữu hạn này làm thước đo –vì thế, những đổi thay ấy bị tẩy chay một cách khách quan bởi những nguyên tắc đạo đức của con người, nhưng chúng không thực sự phá đổ mối tương quan tích cực cuối cùng với Thiên Chúa là Đấng tự trao ban chính Ngài và –do đó, gần gũi chúng ta đến mức không ngờ. (Có nhiều tội “khách quan” không bao hàm chút “sai quấy chủ quan” nào và do đó không gây cản ngại cho ơn cứu độ –thần học kinh viện đã khẳng định như thế).

Tuy nhiên, sự tự do của con người (là cái tác động đến cơ cấu những nguyên tắc đạo đức thế trần) không ngừng chống cưỡng lại Thiên Chúa là Đấng vô cùng gần gũi, cho dù nó không tự đặc tả nó như vậy. Thế là chúng ta có tội (“tội trọng”) theo nghĩa Kitô giáo. Tội không chỉ là đi ngược lại cơ cấu khách quan của con người và thế giới và qua đó đi ngược lại các lệnh truyền của Thiên Chúa là Đấng muốn có những cơ cấu ấy (dĩ nhiên ý muốn của Thiên Chúa không mâu thuẫn với bản tính hữu hạn và có điều kiện của những cơ cấu này); tội còn là nói “không” với chính Thiên Chúa, Đấng vô cùng gần gũi chúng ta. Đó là lời nói “không” của sự tự do của con người, qua đó nó chối từ cuộc phiêu lưu liều lĩnh của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của chính mình.

Sống trong sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là một cái gì vừa rất khủng khiếp vừa đầy sức ủi an. Được chính Thiên Chúa yêu thương cũng thế –đến nỗi quà tặng đầu tiên và cuối cùng mà ta nhận được chính là cái vô cùng vượt ngoài khả năng thấu hiểu của ta. Nhưng ta đâu còn có sự chọn lựa nào khác. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta đây rồi!.

-------------------------------------

 

MV4-A47. Điều kiện để đón tiếp Chúa –ĐTGM. Ngô quang Kiệt


Web
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 1,18-24

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

 

Ngày 17 tháng 12 vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa:MV4-A47 FB


Ngày 17 tháng 12 vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu sinh bởi dòng dõi vua Đavít. Hôm nay, Phúc Âm lại trình bày cho ta một gốc tích khác của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như thế?

Thánh sử Matthêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít. Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người thực là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.

Nhờ đâu mà thánh Giuse và Đức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Đấng Cứu Thế. Qua bài Phúc Âm Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây.

1. Các Ngài có tâm hồn khiêm nhường sâu xa.

Đức Maria là một thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: “Này là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”. Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng. Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.

Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ thuyền. Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

2. Các Ngài mau mắn vâng lời Thiên Chúa.

Các Ngài có chương trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh. Thánh Giuse muốn sống âm thầm trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất chấp những đau khổ, khó khăn đang chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.

Vì Chúa, các Ngài đã từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống. Thay đổi quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau mắn.

Thái độ của các Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ tự hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn. Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.

Đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.

Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó những sợi cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời. Amen.

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1) Ngày càng có nhiều người mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng Lễ Giáng Sinh đã bị thương mại hóa. Bạn sẽ chuẩn bị Lễ Giáng Sinh thế nào cho phù hợp với tinh thần của Chúa?

2) Sống khiêm nhường và vâng lời trong xã hội hôm nay có dễ không?

3) Bạn nghĩ gì về việc Chúa Giêsu tự nguyện xuống thế, làm một người, làm con trong một gia đình?

-------------------------------------

 

MV4-A48. Giải quyết một vấn đề nhờ đức tin

 

Nếu đây không phải là một bài Thánh Kinh, người ta sẽ có thể rút ra từ bài tường thuật của:MV4-A48


Nếu đây không phải là một bài Thánh Kinh, người ta sẽ có thể rút ra từ bài tường thuật của thánh Matthêu những yếu tố của một thảm kịch lạ lùng. Song ở Thiên Chúa gọi ta suy nghĩ sâu xa, một suy tư vượt quá óc phân tích, vượt quá nghệ thuật. Những cõi lòng đơn sơ, nghĩa là những ai không vướng mắc vào một hệ thống tư tưởng phiền phức, nhận ra trong biến cố tường thuật lại đây một ‘phát minh’ của tình yêu Thiên Chúa. Một trong những hậu quả lớn lao nhất của mọi mối tình, và dấu hiệu của nó, là làm cho trí khôn phải sửng sốt. Ở đây là tình yêu của Thiên Chúa; nó còn làm trí khôn sửng sốt gấp bội. Nó làm cho trí khôn chưng hửng không phải để hạ thấp trí khôn, song là để nâng cao nó lên nếu nó biết khiêm tốn.

Tác giả Phúc Âm báo trước Chúa Giêsu sẽ sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh. Sự kiện đó không phải là không gây ra vấn đề cho hai người trong cuộc, là Maria và Giuse. Thánh Giuse bị đặt ở điểm then chốt của một hoàn cảnh bi đát. Trước hết, cũng như Maria, Người được Chúa mời giải quyết vấn đề của mình, từ ‘trên cao’ nghĩa là bởi một hành vi đức tin. Điều đã nói về Maria: bà có phúc vì đã tin, cũng áp dụng cho Giuse.

Thử rút ra từ đoạn Phúc Âm này hai ý tưởng:

1) Maria đã để cho Thiên Chúa làm việc báo tin cho Giuse biết tình trạng của Người.

Có những kinh nghiệm tinh thần liên quan tới kẻ khác mà người ta vẫn không thể nói tới, bởi vì chúng xảy ra ở một bình diện quá sâu xa. Chúng tôi không nói: Maria và Giuse không hề nói với nhau về việc thụ thai lạ lùng, chẳng hạn sau khi Thiên Chúa can thiệp với Giuse, nhưng Đức Trinh Nữ phó thác cho Chúa việc khai triển ‘cái lý’ của biến cố và các phương tiện của biến cố. Ở những trình độ khiêm tốn hơn nhiều, cũng xảy ra như vậy trong đời sống, nhất là đời sống giữa vợ chồng Kitô hữu. Mọi Kitô hữu ý thức, đều có những ơn sủng riêng tư, nhưng không ơn nào chỉ dành cho mình mà thôi; ơn sủng của Chúa, dù riêng tư nhất, vẫn có một chiều kích hiệp thông huynh đệ. Tuy thế loại ơn này cần phải được giữ gìn kín đáo. Vừa phải đón nhận nó trọn vẹn, vừa phải phó thác cho Chúa công việc làm cho kẻ khác hiểu biết, nhìn nhận nó. Người ta có thể mang trong mình một ơn Chúa làm cho người khác thắc mắc: nếu đó là ơn đích thực, phải để mặc cho Chúa phương tiện giải đáp thắc mắc ấy, hay nói đúng hơn: hãy giao cho Chúa trước đã; phần việc ta có thể sẽ tới sau.

2) Ta nên lưu ý tới tình hình rất cao đẹp của thánh Giuse.

Người đã có thể chiều theo luật lệ sơ đẳng của xã hội đương thời mà tố giác Maria. Một sự ngay thẳng căn bản khiến người hành động cách khác. Qua hành động này ta thấy một giá trị nhân bản sâu xa, vượt xa mặt chữ của lề luật. Lúc đó Thiên Chúa can thiệp. Sự kiện này gợi cho ta một câu hỏi: ta có xác tín rằng các hồng ân cao cả nhất Chúa ban, cái mà ta gọi là các ơn siêu nhiên, cần được dựa trên nền móng các nhân đức tự nhiên như: tính ngay thẳng, lương thiện, can đảm, tinh thần phục vụ, tấm lòng cởi mở… hay không? Sau Đức Mẹ, thánh Giuse nêu cho ta tấm gương đầu tiên trong Hội Thánh về sự thánh thiện được phát triển từ những nền tảng nhân bản rất cao quý.

-------------------------------------

 

MV4-A49. Mùa Vọng: Mùa trong veo –ĐGM Vũ duy Thống

 

Trên chuyến xe xuôi miền lục tỉnh, người ta chuyển đến tôi một cuốn truyện cũ đã mất bìa để:MV4-A49


Trên chuyến xe xuôi miền lục tỉnh, người ta chuyển đến tôi một cuốn truyện cũ đã mất bìa để đọc cho quên đường dài. Truyện kể lại mối tình giữa một chàng trai là con sĩ quan học tập và một cô gái là con cán bộ chức quyền. Họ thương nhau và muốn kết hôn với nhau, nhưng khi công khai ý định ấy, họ đã gặp phải những lực cản từ hai phía gia đình. Đã có nhiều nghi ngờ từ phía cha chàng trai và cũng có lắm nghi ngại từ phía cha cô gái. Giải pháp phải chọn là chia xa đôi lứa.

Đành lòng làm thế, nhưng họ vẫn âm thầm chờ đợi nhau, cho đến khi cha chàng trai mãn hạn học tập về nhà và cha cô gái đã đến tuổi về hưu. Hai người cha có dịp gần gũi cảm thông làm chất keo thân ái cho tình yêu đôi trẻ có điều kiện gắn hàn. Kết truyện là đám cưới.

Truyện có hậu và có nét hấp dẫn riêng của thể loại, nhưng điều hấp dẫn hơn hết đối với tôi không phải là cốt truyện cho bằng chính tựa đề “Tình yêu trong veo”: trong veo giữa hai người cha biết xoá tan ngờ vực để thêm gần gũi; trong veo giữa hai bạn trẻ biết vượt qua thử thách để giữ vững tình yêu. Xin mượn tựa đề “Tình yêu trong veo” ấy để gọi tên Mùa Vọng là mùa trong veo một tình yêu.

1. Bằng tình yêu trong veo, Thiên Chúa trao thân cho con người.

Trong khi người Do Thái còn đang mải miết với một vì Chúa ở trên cao và dường như say sưa về một Đấng ở xa con người, đến nỗi trong quan hệ nguyện cầu, thay vì xin những biểu tỏ gần gũi để dễ dàng nắm bắt, họ lại chỉ dám xin một dấu lạ điềm thiêng mãi tận trời cao vượt quá tầm nhìn; và trong niềm mong chờ Đấng Cứu Thế, vốn là mạch sống hy vọng cho cả dân tộc, họ những tưởng nghĩ rằng Người sẽ đến, nhưng là đến trong cung cách của một vị Chúa oai phong lẫm liệt, cho muôn dân nếu không phải cúi đầu sợ hãi thì cũng phải bái phục tôn thờ. Có ngờ đâu, khi Chúa đến, Người lại chọn cho mình một cách đến rất khác lạ.

Người đến thật gần: trong thân phận của một con người để làm người giữa muôn người trần thế. Người đến thật thấp: thấp đến nỗi chọn cho mình cách sống của một người cùng khổ dưới đáy xã hội. Người yêu thương con người để sẵn sàng trao thân cho họ, chấp nhận phải điều đình, chấp nhận được cưu mang, chấp nhận được sinh hạ, chấp nhận được làm người: “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14)

Phải chăng khi trao thân cho con người như thế, Thiên Chúa sẽ được thêm vinh quang? Phải chăng nếu không trao thân cho nhân loại, Thiên Chúa vẫn là Chúa, nhưng là một vị Chúa không được ai biết đến hay là một vị Chúa bị kết án phải cô đơn? Thưa không phải thế. Chính khi trao thân cho con người trong mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa không còn úp mở như trong thời Cựu Ước nữa, Người đã dứt khoát cho thấy mình là Đấng giải cứu con người và sẵn sàng làm hết cách để thực hiện bằng được chương trình của Người mà không đợi chờ mảy may vinh quang nào ngoài lợi ích cứu độ cho người trần gian. Để độ thế, Thiên Chúa đã nhập thể; để cứu người, Thiên Chúa đã làm người.

Chính hai Danh xưng được nêu lên trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã nói lên tất cả. Danh xưng Emmanuel khẳng định “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Danh xưng Giêsu bộc lộ “Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ” (Mt 1,23-25). Nối kết hai Danh xưng ấy nơi Đấng Cứu Thế, ta sẽ thấy một tình yêu trong veo Thiên Chúa dành cho con người: Người là Thiên Chúa ở cùng ta để cho ta ơn cứu rỗi, và Người là Thiên Chúa cứu độ ta bằng cách ở cùng ta.

2) Bằng tình yêu trong veo, con người gửi phận cho Thiên Chúa.

Nếu bằng tình yêu trong veo cứu độ, Thiên Chúa trao thân cho con người, thì Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng cho thấy những nhân vật gần gũi với mầu nhiệm Giáng Sinh nhất là Đức Maria và thánh Giuse đã bằng tình yêu trong veo tự nhiên gửi phận mình cho Thiên Chúa.

Đối với Đức Maria, tình yêu trong veo đã rõ qua tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà Phụng Vụ hữu ý mừng kính ở đầu Mùa Vọng. Tình yêu ấy đã rõ trong việc Mẹ dâng mình vào Đền Thánh, nhưng tình yêu ấy còn rõ ràng hơn khi tiếp cận với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Ngày Truyền Tin, mới gặp sứ thần, Đức Maria đã bối rối, thứ bối rối của một tình yêu trong sạch buổi đầu gặp gỡ. Rồi, lúc được đề xuất làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã băn khoăn, thứ băn khoăn của một tình yêu trong sáng muốn được giải thích đôi câu. Và chính lúc thưa “Xin vâng” (Lc 1,38) là cả một tình yêu trong veo như chưa bao giờ trong đến thế, Đức Maria đã gửi trọn phận mình vào tay Thiên Chúa, bất chấp đó là một mạo hiểm chết người: trinh nữ mà lại mang thai, phải ăn nói ra sao với thánh Giuse? Mới đính hôn thôi mà sắp thành mẹ, phải dàn xếp thế nào cho hợp luật pháp?

Còn thánh Giuse, con người lặng thầm nhất của Mùa Vọng, đã được đặt vào một tình huống khó xử đến độ ray rứt, nhất là trong những ngày trước lúc Đấng Cứu Thế giáng sinh như Phúc Âm hôm nay mô tả. Nhưng chính ở đây ông đã chứng minh bằng những nét đẹp kín đáo hào hùng về một tình yêu trong veo từ lâu đã dệt nên đời sống qua những lựa chọn xé lòng. Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, ông cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất. Nhưng chính lúc ấy, được tỏ nguồn cơn, ông đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong veo, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).

Nhìn như thế, tình yêu trong veo đã liên kết Đức Maria và thánh Giuse, để mái nhà chung sống không chỉ là nơi che nắng trú mưa cho qua ngày đoạn tháng, mà đã trở thành một mái ấm của những tấm lòng biết mở ra cưu mang Con Thiên Chúa và sẵn sàng để sinh Người ra cho dương thế, cho dẫu tình yêu trong veo ấy trên đường cứu độ như một bản trường ca sẽ không thiếu những quãng nghịch, mà việc khó xử hôm nay trong Phúc Âm mới chỉ là những nốt nhạc mở đầu.

3) Cũng bằng tình yêu trong veo, ta đón mừng lễ Giáng Sinh.

Hiểu như trên, Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng rõ ràng là một tình yêu hai chiều trao gửi: Thiên Chúa trao thân cho con người để con người biết gửi phận mình cho Thiên Chúa. Đồng thời cũng là Chúa Nhật trong veo của những tấm lòng biết gửi trao tấm lòng trong ơn cứu độ.

Trên nền tảng ấy, tình yêu trong veo đã trở nên tinh thần phải có để đón Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày này, đi ra phố xá, đã nghe vang lên những bài ca Giáng Sinh quen thuộc; ngang qua nhà thờ, đã thấy trưng bày những bộ Noel với hang đá, cây thông, đèn sao đẹp mắt; và đi tới chỗ nào cũng thấy thấp thoáng Giáng Sinh với muôn màu lấp lánh. Nhưng có một màu được xem là không thể quên hay không bao giờ quên đối với mọi tín hữu mừng lễ Giáng Sinh, màu đó không ở trên áo quần giầy dép, môi mép tóc tai, hoa cài áo khoác, mà là ở trong tấm lòng kìa! Đó là màu trong veo của những tâm hồn trinh trong biết cưu mang ý Chúa và biết sinh hoa kết trái trong cuộc sống công minh chính trực của mình.

Nếu ngày xưa trong khúc hát quan họ Sion, câu xướng “Ai được lên Núi Chúa?” đã nhận được lời đáp “Chỉ những người thật thà ngay chính tay sạch lòng thanh mới được bước tới Thánh Cung” (Tv 23,3-4), thì hôm nay cũng thế, trong bài ca cuộc sống ai cũng nôn nao xôn xao ồn ào huyên náo tiếp cận lễ Giáng Sinh cả, kẻ tiếp thị, người tiếp tân; nhưng chỉ có những tấm lòng trinh trong mới xứng đáng trở nên Hang đá tiếp đón Chúa sinh vào. Chúa chỉ một lần đến sinh ra trên trần thế là đủ để cứu chuộc muôn người, nhưng giả như Người có đến sinh ra nhiều lần hơn nữa cũng vẫn thiếu, nếu lòng người chưa sẵn sàng một tình yêu trong veo mở ra đón nhận. Liệu ta hôm nay đã sẵn có một tâm hồn như thế trước lễ Giáng Sinh?

Hơn nữa, tình yêu trong veo cũng là tiếng nói cuối cùng của Mùa Vọng thúc đẩy ta đến với những người xung quanh. Không thể có Mùa Vọng đầy đủ nếu bỏ quên chiều kích tha nhân trong tình yêu của mình, và cũng chẳng tiếp đón Chúa cho đủ nếu từ chối tiếp nhận anh chị em gần gũi với mình trong những sinh hoạt hằng ngày.

Trong Phúc Âm, Giuse biết tiếp nhận ý Chúa “qua giấc mơ”, để rồi sau đó “tỉnh dậy” ông mau mắn đón Đức Maria nên bạn đường bạn đời của mình, cho dẫu hậu thế có kẻ điều ong tiếng ve xem ông như kẻ “vô tư”. Nhưng đó lại là bước đột phá của một tình yêu trong veo biết nhận ra rằng: Thiên Chúa đã ân cần trao thân cho mình qua mầu nhiệm Nhập Thể, thì mình cũng tín thác gửi phận mình trong mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Đó là hai chiều gặp gỡ của tình yêu Giáng Sinh.
Tóm lại, tình yêu trong veo là động lực khiến Chúa đến với con người và là nguồn lực thúc đẩy con người tiếp đón Chúa, để trong cuộc sống cụ thể trở thành nỗ lực của mọi tín hữu đón lễ Giáng Sinh. Trong khi còn chuẩn bị và chưa thực sự được tiếp đón Chúa, hãy bắt đầu bằng cách thực tập tiếp đón những hình ảnh sống động của Chúa là những người ta gặp hoặc những người gặp ta bằng một tình yêu trong veo luôn thăng tiến. “Nếu không gặp Ngài trong nghèo khổ, sẽ chẳng gặp Ngài giữa cao sang. Nếu không gặp Ngài ở dưới đất, sẽ chẳng gặp Ngài chốn Thiên Đàng” (thơ Xuân Ly Băng).

Đến đây, xin được khép lại những chia sẻ Mùa Vọng năm nay. Xin cám ơn Mùa Vọng đã đem đến những ý nghĩ đẹp màu. Xin cám ơn cộng đoàn đã vui lòng lắng nghe. Hy vọng những tâm tình chia sẻ cũng cung cấp chút ý tưởng giúp mỗi người hình thành được Máng Cỏ tâm hồn. Và cám ơn đứa cháu nhỏ đã tình cờ viết lộn chữ Mùa Vọng thành chữ “Màu Vọng” để có được bốn sắc màu chia sẻ nơi đây. Qua xanh đến tím gặp hồng, dìu ta đón Chúa với lòng trong veo.

-------------------------------------

 

MV4-A50. Giuse im lặng

 

Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về bài học thinh lặng và đợi chờ trong đức tin của thánh Giuse:MV4-A50


Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về bài học thinh lặng và đợi chờ trong đức tin của thánh Giuse.

Thông thường khi bản thân hay gia đình gặp phải những tai ương hoạn nạn, bị người khác hiểu lầm và chà đạp lên danh dự, chúng ta có khuynh hướng trả đũa, bằng cách bêu xấu đối phương và phân trần với người khác về nỗi bực tức của mình. Thậm chí, chúng ta còn tức giận và tìm đủ mọi cách thức để phản pháo theo kiểu mắt đền mắt, răng đền răng.

Thế nhưng, những người tin Chúa thì phản ứng một cách khác. Thay vì rêu rao phân trần với những người chung quanh, họ sẽ thưa lên với Chúa, tha thiết xin Chúa giải oan cho mình khỏi những chước mốc thiên hạ. Khi chúng ta kêu lên với Chúa, chúng ta hãy ghi nhớ một điều mà chúng ta thường hay quên đó là sự thinh lặng.

Phải, thinh lặng cũng là một cách cầu nguyện rất hữu hiệu. Kinh thánh nói rằng:

- Khi cõi lòng chất nặng nỗi ưu tư, khi ngôn ngữ không nói lên được nỗi sầu buồn của mình, thì chính Chúa Thánh Thần sẽ lấy những điều đang đè nặng tâm hồn chúng ta mà trình lên cùng Chúa Cha, cầu khấn thay cho chúng ta.

Bởi đó sự thinh lặng là điều rất cần thiết. Đúng thế, trước hết sự thinh lặng sẽ giúp chúng ta bình tĩnh lại để có thể lắng nghe được tiếng nói của Chúa và giúp chúng ta tập trung niềm tin tưởng vào Ngài.

Thứ đến, sự thinh lặng sẽ làm rung động Chúa Thánh Thần, khiến Ngài sẽ cầu nguyện thay cho chúng ta. Liệu có lời cầu nguyện nào linh ứng hơn lời van xin của Chúa Thánh Thần ? Ngài hiểu rõ ý muốn của Chúa Cha và biết rõ nhu cầu của chúng ta.

Thánh vịnh 37 đã khuyên chúng ta:

- Hãy thinh lặng và đợi chờ, chớ buồn lòng.

Vậy những lý do ấy đã đủ làm cho chúng ta thinh lặng và đợi chờ hay chưa ? Nhiều khi chúng ta thêm buồn vì thấy kẻ làm khổ chúng ta lại được nhiều may mắn.

Dưới con mắt trần gian, một người dù làm điều xấu mà vẫn thu hoạch được những kết quả tốt đẹp thì đó là thành công. Nhưng dưới con mắt đức tin, thì đó không phải là thành công thật. Thành công hay không là tùy vào kết quả sau này. Khi kẻ làm điều xấu mà được may mắn thì nên biết rằng Thiên Chúa muốn tỏ lòng tốt đối với họ, trước khi trừng phạt họ một cách xứng đáng.

Trên đời này không thiếu gì những trường hợp ác giả ác báo nhãn tiền. Thiên bất dung gian. Trời xanh con mắt là gương, người ghét nó ít, người thương nó nhiều.

Nhưng cũng có những trường hợp Thiên Chúa chưa làm ngay mà lại để dành đời sau hay dòng dõi của kẻ ác. Dù sao những hình phạt chúng ta nghe được vẫn là nhẹ lắm, nếu đem so với án phạt của ngày phán xét. Thiên Chúa có luật công bình và thánh thiện của Ngài. Ngài không bao giờ quên người công chính bị oan khiên. Hãy xác tín Ngài luôn can thiệp thật đúng lúc. Hãy ghi nhớ trường hợp của thánh Giuse hôm nay để thấy được bàn tay Thiên Chúa quan phòng luôn sẵn sàng thi ơn giáng phúc.

Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải biết yên lặng chờ đợi và trao phó mọi khó khăn oan trái cho Ngài phân xử, chứ đừng nóng lòng khi thấy kẻ dữ được sống thảnh thơi. Nhưng vấn đề là chung cuộc ai mới là người chiến thắng thật sự. Hãy can đảm yên lặng và chờ đợi ý Chúa và thời giờ của Chúa. Ý Chúa thì cao vời và Ngài có một chương trình tốt đẹp.

Tin rằng khi Thiên Chúa giải quyết thì sẽ không trí óc nào suy tưởng nổi. Cho nên nếu giờ đây gia đình chúng ta còn đang hoạn nạn hoặc người ngoài làm nhục thì bí quyết để thành công, đó là yên lặng trong đức tin, hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa. Đó cũng chính là bí quyết giúp chúng ta sống vui, sống mạnh giữa những đổ vỡ của đời mình.

Lạy thánh Giuse, là gương sự nhịn nhục, xin giúp đỡ chúng con.

-------------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây