Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 2-A Bài 101-150: Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến

Chủ nhật - 08/12/2019 09:01
Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 2-A Bài 101-150: Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến
Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 2-A Bài 101-150: Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến
Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 2-A Bài 101-150: Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến
------------------------------------
Phúc Âm: Mt 3, 1-12: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Ngày ấy, Gioan Tẩy Giả đến giảng trong hoang địa xứ Giuđêa rằng: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Chính ông là người mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: "Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".
Bởi vì chính Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Bấy giờ dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan.
Thấy có một số đông người biệt phái và văn nhân cũng đến xin chịu phép rửa, thì Gioan bảo rằng: "Hỡi nòi rắn độc, ai bảo các ngươi trốn lánh cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối. Chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng ta là Abraham. Vì ta bảo cho các ngươi hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Ðây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, để các ngươi được lòng sám hối; còn Ðấng sẽ đến sau tôi có quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách giày Người. Chính Ðấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt". - Ðó là lời Chúa.

--------------------------------------------
MV 2-A101: Vai trò của Chúa Giê-su Ki-tô trong kế hoạch cứu độ. 2
MV 2-A102: Sám hối 6
MV 2-A103: Trở về cùng Chúa. 7
MV 2-A104: Thời Hoang Dã – Lm Vũ Đình Tường. 8
MV 2-A105: Anh em hãy hối cải 11
MV 2-A106: Sứ mạng Tiền Hô. 13
MV 2-A107: Hãy thống hối vì Nước Trời đã đến gần. 14
MV 2-A108: Mở đường Chúa đến. 17
MV 2-A109: Lời công bố của Gioan Tẩy Giả. 20
MV 2-A110: Dọn đường Tình Yêu -ĐGM Antôn Vũ Huy Chương. 22
MV 2-A111: CHÚA ĐANG ĐẾN.. 24
MV 2-A112: Làm việc. 26
MV 2-A113: HÃY SÁM HỐI 28
MV 2-A114: CHÚA NHẬT II MV-A.. 29
MV 2-A115: CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG, NĂM A.. 31
MV 2-A116: CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG.. 34
MV 2-A117: Thế giới luôn cần những con đường đầy hoa. 36
MV 2-A118: DẤU CHỈ CHÚA ĐẾN.. 37
MV 2-A119: Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến” – ViKiNi 48
MV 2-A120: Hoa trái cuộc đời 49
MV 2-A121: Thanh lọc - Trầm Thiên Thu. 51
MV 2-A122: Anh em hãy thống hối, vì Nước Trời đã đến gần. 56
MV 2-A123: Dọn Sẵn Con Đường Cho Đức Chúa. 59
MV 2-A124: Chúa Nhật II Mùa Vọng, Năm A.. 62
MV 2-A125: Noi Gương Gioan Sống Khiêm Tốn. 66
MV 2-A126: Sứ Vụ Dọn Đường. 68
MV 2-A127: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI 71
MV 2-A128: Sám hối là con đường dẫn tới ơn cứu độ. 74
MV 2-A129: Dọn đường cho một Ðấng Thiên Chúa thánh thiện ngự đến. 76
MV 2-A130: Tìm một con đường. 80
MV 2-A131: Sám hối 82
MV 2-A132: Hãy sám hối 84
MV 2-A133: Nước Trời đã đến gần. 86
MV 2-A134: Dựng xây nước Đức Kitô trong bác ái và công. 89
MV 2-A135: Làm việc lành cho xứng với lòng thống hối 94
MV 2-A136: Không sám hối sẽ bị hủy diệt 96
MV 2-A137: Lời công bố của Gioan Tẩy Giả. 98
MV 2-A138: Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 108
MV 2-A139: TÌM MỘT CON ĐƯỜNG.. 120
MV 2-A140: VỊ TIÊN TRI TỪ HOANG MẠC.. 122
MV 2-A141: HOÁN CẢI 124
MV 2-A142: SỐNG LỜI CHÚA.. 125
MV 2-A143: SÁM HỐI TRỞ VỀ.. 126
MV 2-A144: TIẾNG GỌI 128
MV 2-A145: SỐNG MÙA VỌNG BẰNG NIỀM VUI TRONG CHÚA.. 130
MV 2-A146: NGUYÊN NHÂN BẤT CÔNG.. 131
MV 2-A147: MỘT CON ĐƯỜNG.. 137
MV 2-A148: SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC SỐNG.. 139
MV 2-A149: BÌNH AN ĐÍCH THỰC.. 140
MV 2-A150: TIÊN PHONG.. 144

----------------------------------

 

MV 2-A101: Vai trò của Chúa Giê-su Ki-tô trong kế hoạch cứu độ

 

Phụng vụ Lời Chúa tuần trước cho ta một cái nhìn chung kế hoạch cứu độ Chúa sẽ thực hiện: MV 2-A101


Phụng vụ Lời Chúa tuần trước cho ta một cái nhìn chung kế hoạch cứu độ Chúa sẽ thực hiện để đưa nhân loại tội lỗi về với Người.  Người muốn tái lập sự bình an trong quan hệ giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau.  Các bài đọc ngày thường trong tuần thứ nhất mùa Vọng đã quảng diễn chủ đề trên.  Bài đọc I (ngôn sứ I-sai-a) dùng những hình ảnh khác nhau để diễn tả Triều Đại mới đầy bình an và niềm vui của Dân mới.  Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giê-su thi hành sứ vụ cứu thế, biểu tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa trước những khát vọng và những đau khổ của nhân loại.  Một tuần lễ chỉ tạm đủ để giới thiệu đề tài về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.  Bước sang tuần II mùa Vọng, Phụng vụ Lời Chúa chú tâm đặc biệt tới vai trò của Chúa Giê-su Ki-tô trong việc thực hiện kế hoạch ấy.

1.  “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người” (bài Tin Mừng)

          Mỗi bài đọc nói về một khía cạnh đặc biệt vai trò của Chúa Giê-su.  Trước hết ta bắt đầu với bài Tin Mừng.  Thông thường ta hay chú trọng tới vai trò của ông Gio-an Tẩy giả qua bài Tin Mừng hôm nay.  Nhưng nếu đọc cả ba bài đọc, có lẽ ta sẽ có một cái nhìn khác, nghĩa là bài Tin Mừng thay vì đề cập tới vai trò của ông Gio-an thì lại đề cao vai trò của Chúa Giê-su được Chúa Cha sai đến để thi hành sứ vụ cứu độ.

          Tại miền Giu-đê, ông Gio-an xuất hiện như “tiếng người hô trong hoang địa”.  Như thế vai trò của ông không hơn không kém chỉ là một lời hô mà thôi.  Nhưng ông hô lên điều gì thì đó mới là điều quan trọng.  Vậy ông hô lên cho mọi người biết: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa… Đấng đến sau tôi thì quyền phép hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người”.  Xác nhận như thế, ông Gio-an bảo ta đừng chú ý tới ông, nhưng hãy chú ý đến Đấng ông rao giảng.  Nói với các môn đệ mình, ông còn vui vẻ nhìn nhận uy quyền của Chúa Giê-su một cách tuyệt đối:  “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3:30).  Người Do-thái tự hào có tổ phụ Áp-ra-ham và vỗ ngực họ là con cháu ngài.  Nhưng đối với ông Gio-an, điều đó chẳng có nghĩa lý gì nếu đem so sánh Áp-ra-ham với Đấng Cứu Thế, vì “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”.  Sau này, chính Chúa Giê-su đã xác nhận điều Gio-an nói khi Người nói với người Do-thái về nguồn gốc của Người:  “Ông Áp-ra-ham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi.  Ông đã thấy và ông đã mừng rỡ… Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!” (Ga 8:56-57).

          Điều mới lạ ông Gio-an Tẩy giả cho người Do-thái biết về Đấng Cứu Thế, là “Người sẽ làm phép rửa cho các anh bằng Thánh Thần và bằng lửa” (Mt 3:11).  Ông làm phép rửa bằng nước, một cử chỉ biểu tượng để kêu gọi người ta sám hối, và phép rửa của ông chẳng rửa sạch được tội lỗi loài người.  Nhưng chỉ có phép rửa của Chúa Giê-su, rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa, mới có thể xóa sạch tội lỗi trần gian, đúng như ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo về Người.

2.  Chúa Giê-su là Đấng đầy tràn Thần khí của Thiên Chúa (bài đọc Cựu Ước)   

          Qua cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a, Chúa Giê-su là Đấng tái tạo hòa bình, xóa bỏ mọi chia rẽ và đưa muôn loài muôn vật trở về trong sự hài hòa với nhau và với Thiên Chúa.  Nhưng để thực hiện sứ mệnh ấy, Người không thể chỉ hành động theo đường lối và khả năng con người, mà phải nhờ vào Thánh Thần.  Chính vì thế, “Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này:  thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” (Is 11:2).  Ngôn sứ còn chỉ cho ta thấy một viễn tượng hòa bình mà con người hoàn toàn bất lực không sao thực hiện nổi.  Làm sao “sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ… bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục… Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta”?  Những kẻ tội lỗi được ví như sói, beo, sư tử, rắn lục, hổ mang.  Nhưng Đấng Cứu Thế sẽ đến và “hơi miệng Người thở ra (thần khí) giết chết kẻ gian tà” (tội lỗi và ma quỷ) để tiêu diệt khả năng của tội lỗi và thần chết nơi ta, biến đổi ta từ những kẻ tội lỗi trở thành người công chính.

Chúa Giê-su đã thi hành sứ mệnh cao cả ấy khi Người “được đầy Thánh Thần” hoặc “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy”.  Người bênh vực ta như những người “thấp cổ bé miệng”, những kẻ nghèo hèn của Đức Chúa.  Tương đương với hình ảnh Đấng Cứu Thế theo ngôn sứ I-sai-a, chính Chúa Giê-su đã nói lên cùng một hình ảnh ấy khi Người tuyên đọc Sách Thánh trong hội đường Na-da-rét.  “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4:18-19).  Suốt cuộc đời trần gian và thi hành sứ vụ cứu thế, Chúa Giê-su sống, hành động và rao giảng trong quyền năng Thánh Thần, kể từ lúc Mẹ Ma-ri-a mang thai Người do “Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ” (Lc 1:35) cho đến khi Người trao lại Thần Khí cho Đức Chúa Cha trên thập giá (Ga 19:30).

3.  Chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến (bài đọc Tân Ước và bài Tin Mừng)

          Thánh Gio-an Tẩy giả và ngôn sứ I-sai-a đã giới thiệu cho ta về Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế.  Người đến để cứu độ mọi người, Do-thái cũng như dân ngoại (Rm 15:8-9).  Đáp lại, “các dân tộc sẽ tìm kiếm Người và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang” (Is 11:10).  Việc cứu độ mang hai chiều kích:  một đàng Chúa đến với ta, đàng khác ta nghe tiếng Chúa mời gọi và đến với Người.  Con đường Chúa đến với ta là con đường yêu thương.  Tình yêu đã khiến Chúa “trút bỏ vinh quang” (Pl 2:7) từ trời đến với ta, thì tình yêu cũng phải là con đường đưa ta đến với Người.  Vậy con đường tình yêu đưa Chúa đến với ta và đưa ta đến với Chúa là con đường thế nào?

          Thánh Phao-lô nói lên một nét vô cùng độc đáo của tình yêu trong bài đọc trích thư gửi tín hữu Rô-ma: yêu thương là đón nhận nhau.  Ngài viết:  “Anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em”.  Đón nhận không trừ ai, vì Thiên Chúa đã sai Con Một Người đến với “những người được cắt bì” (Do-thái), thì Người cũng thương xót các dân ngoại để họ được “cất lời cảm ta, dâng điệu hát cung đàn mừng danh thánh Chúa”.  Định nghĩa này của thánh Phao-lô thật là đơn sơ, nhưng cũng thật là khó thực hiện.  Làm sao ta đón nhận nhau trong khi có biết bao khác biệt, bất đồng giữa ta với người khác.  Vì nghĩ rằng đón nhận nhau là chuyện không thể có, nên một ông triết gia người Pháp mới quả quyết “hỏa ngục là kẻ khác”!  Trái lại, thánh Phao-lô căn cứ vào nguyên lý Chúa Ki-tô đã đặt ra là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” để áp dụng vào việc đón nhận nhau:  Anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em.  Ta tốt lành thánh thiện, Chúa đón nhận ta đã đành; nhưng ta xấu xa tội lỗi, Chúa vẫn đón nhận ta, như Người đã đón nhận những kẻ tội lỗi và thu thuế được kể lại thường xuyên trong sách Tin Mừng.

          Trở lại với bài Tin Mừng, ta được nghe những lời thẳng thắn của thánh Gio-an Tẩy giả kêu gọi ta “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”.  Đối với ngài, muốn dọn đường tình yêu là phải sám hối một cách hữu hiệu.  Không phải là thứ sám hối trên môi miệng, nhưng là thứ sám hối sinh hoa quả tốt.  Tình yêu đích thực mới sinh được hoa quả tốt đẹp.  Thực là một thách đố to lớn khi ta phải thành thật tra vấn mình về lối sống yêu thương.  Nếu ta là một cây thiếu hoặc không có nhựa sống yêu thương, thì làm sao đời sống ta có thể nảy sinh quả tốt được.  Tra vấn để mà sám hối và sám hối để mà yêu thương.  Nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và Xa-đốc muốn đến nhận phép rửa của ông Gio-an như một thứ bùa phép, nghi thức bề ngoài để “trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, chứ không muốn thật lòng thay đổi và sống yêu thương để dọn đường đón nhận Đấng Cứu Thế.  Do đó, họ đã bị ông Gio-an thẳng thắn cảnh cáo.  Với ông Gio-an, sám hối có nghĩa là nếu ta không thực sự mến Chúa yêu người, thì giờ đây ta phải thay đổi lối sống ấy, nhìn thấy Chúa trong anh chị em và nhìn thấy anh chị em trong Chúa.

4.  Sống Lời Chúa

          Sứ mệnh của Chúa Giê-su là thiết lập một vương quốc an bình và yêu thương.  Người đến thi hành sứ mệnh ấy hoàn toàn dưới sự hướng dẫn và quyền năng của Chúa Thánh Thần.  Tuy nhiên vương quốc an bình và yêu thương ấy phải được xây dựng ngay trong tâm hồn của mỗi người, bằng cách để cho Chúa Giê-su và Tin Mừng của Người đến thay đổi con người của ta.  Cuộc thay đổi nay không diễn ra trong nháy mắt hoặc trong một thời gian ngắn, nhưng là cả một tiến trình suốt cuộc đời.  Vì thế, mỗi ngày ta hãy chuẩn bị cho Chúa đến bằng mọi cách, nhưng cách hay nhất và cũng khó nhất, đó là cách sống yêu thương.

Suy nghĩ:  “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau”, đó là lời cầu nguyện của thánh Phao-lô cầu xin cho anh chị em tín hữu Rô-ma.  Tại sao kiên nhẫn và an ủi lại giúp ta được đồng tâm nhất trí với nhau?  Kinh nghiệm nào cho tôi thấy thiếu kiên nhẫn và chê trách đã làm gia đình tôi, nhóm tôi hoặc cộng đoàn tôi bị phân rẽ hoặc chống đối nhau?  Làm sao chúng tôi có thể trở về con đường yêu thương hiệp nhất?

Cầu nguyện:  Bài hát “Đâu có tình yêu thương” hoặc “Xin hiệp nhất chúng con”.  Cũng có thể cầu nguyện bằng “Kinh hòa bình” của thánh Phan-xi-cô.

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

----------------------------------

 

MV 2-A102: Sám hối

 

Tất cả các lời kinh và các bài đọc của thánh lễ hôm nay đều nói lên tâm tình chuẩn bị đón Chúa MV 2-A102 Lượng


Tất cả các lời kinh và các bài đọc của thánh lễ hôm nay đều nói lên tâm tình chuẩn bị đón Chúa cứu thế. Chuẩn bị cách nào thì Phúc Âm trả lời rõ ràng.

Qua bài Phúc Âm ta thấy thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu với ta một cách chuẩn bị tốt nhất mà chính ngài đã rao giảng. Cách chuẩn bị đó là ăn năn sám hối. Ai cũng hiểu ăn năn sám hối là gì. Đó là vấn đề quen, nhưng thực hiện vấn đề quen chưa chắc đã là quen. Vì thế tôi xin chia sẻ vài nhận xét vắn tắt của tôi mong góp phần giúp thực hiện sự ăn năn sám hối một cách chu đáo hơn.

Nhận xét thứ nhất của tôi là khi ăn năn sám hối, ta thường rất chú trọng đến việc nhìn vào chính mình. Đó là việc làm đúng. Nhưng trong tôn giáo của ta, nếu quá nhấn mạnh đến việc nhìn vào chính mình thì sự ăn năn sám hối sẽ rất thiếu sót. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối rất cần nhìn lên Chúa, rất cần gặp gỡ Chúa. Thánh Gioan Tẩy giả chỉ vào Đức Kitô mà nói: Đây Chiên Thiên Chúa. Với lời đó, thánh Gioan Tẩy giả muốn ta nhìn vào Chúa Giêsu, lấy đức tin gặp gỡ Chúa Giêsu, xin Chúa thương xót, ban ơn giúp ta thấy được sự xấu xa độc hại của tội lỗi, giúp ta biết gớm ghét tội lỗi, giúp ta biết chọn lựa đàng lành.

Nhận xét thứ hai của tôi là khi ăn năn sám hối ta thường rất chú trọng đến những bổn phận đối với Chúa, như đi lễ, đọc kinh tin cậy mến, đó là việc làm đúng. Nhưng trong tôn giáo của ta, nếu hầu như chỉ chú trọng đến việc đó, thì ăn năn sám hối rất thiếu sót. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối, rất cần nghĩ tới những bổn phận đối với gia đình, bạn bè, đồng bào, xã hội, tổ quốc, cứ xem lại những lời thánh Gioan Tẩy giả trả lời từng giới người đến hỏi ý kiến ngài, ta sẽ thấy ngài luôn khuyên mọi người giữ đức công bằng. Đừng làm hại đồng bào, dù là của cải, dù là tính mạng, dù là thanh danh, dù là thời giờ. Hơn nữa, hãy đối xử tốt theo đức công bằng với mọi người mình có liên hệ.

Nhận xét thứ ba của tôi là khi ăn năn sám hối, ta thường rất chú trọng đến “tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”, đó là việc làm đúng nhưng trong tôn giáo của ta, nếu hầu như chỉ chú trọng đến những sự đó, thì việc ăn năn sám hối vẫn còn thiếu sót lắm. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối còn cần để ý đến những nguồn, người gốc, đã gây nên những tội tư tưởng, tội lời nói, tội việc làm, và tội do thiếu sót. Một trong những nguồn gốc đó là tính hư nết xấu. Thánh Gioan Tẩy giả đã nói tới những núi đồi cần phải bạt đi, những con đường cong queo đều phải uốn ngay lại. Tôi hiểu ngài cố ý nói về tính hư nết xấu tự nó chưa phải là tội, nhưng nó là đầu mối đưa tới tội lỗi. Tính hư nết xấu, chẳng hạn như tính tự cao tự đại, tính tham lam, tính nhỏ nhen. Đó là những cong queo, đó là những đồi núi cần phải sửa lại.

----------------------------------

 

MV 2-A103: Trở về cùng Chúa

 

Trong khi thực hiện bức hoạ nổi tiếng “Bữa tiệc ly” Leonard de Vinci đã cãi vã với một người MV 2-A103


Trong khi thực hiện bức hoạ nổi tiếng “Bữa tiệc ly” Leonard de Vinci đã cãi vã với một người bạn. Ông nhiếc mắng bạn ấy bằng những lời gay gắt và những cử chỉ doạ nạt. Khi cuộc cãi vã đã qua, ông trở lại công việc đang làm là vẽ khuôn mặt Chúa Giêsu. Nhưng ông không thể phác hoạ được một nét. Cuối cùng ông nhận ra sự lo lắng phiền lòng. Ông liền bỏ bút vẽ, đi tìm người bạn mà ông đã xúc phạm và xin người bạn ấy tha thứ cho mình. Thế rồi ông trở về và bình tĩnh vẽ khuôn mặt Chúa Giêsu.

Như nhà hoạ sĩ, chúng ta đang cố gắng đặt Chúa Giêsu vào tác phẩm của mình là lễ Giáng sinh. Chúng ta muốn Chúa Giêsu là trung tâm của việc chúng ta cử hành. Và chúng ta nghe tiếng Gioan Tiền hô khuyên nhủ: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến. Vậy đâu là sự liên kết giữa tâm tình sám hối và việc chuẩn bị đón mừng Chúa đến?

Như chúng ta đã biết trở ngại lớn nhất cho việc đón mừng Chúa đến chính là tội lỗi. Vì thế để dọn đường cho Chúa, chúng ta phải từ bỏ tội lỗi, phải sống tinh thần sám hối. Léonard de Vinci đã không thể vẽ được khuôn mặt Chúa Giêsu khi ông cảm thấy mình còn tội lỗi, mình còn xúc phạm đến người khác. Chúng ta cũng không thể đặt Chúa Giêsu vào bức hoạ giáng sinh bao lâu chúng ta chưa sám hối. Vậy sám hối là gì?

Tôi xin thưa sám hối là lo buồn về điều đã vấp phạm hay hối hận vì điều mình đã không làm. Thực vậy, tâm tình sám hối không phải chỉ là việc quay trở về dĩ vãng, bằng cách ăn năn những gì đã lỗi phạm, mà hơn thế nữa còn phải hướng tới tương lai, bằng cách dốc quyết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi vấp phạm ấy, để thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời. Và như vậy, sám hối đòi hỏi phải có một cái nhìn mới, một thái độ mới, một cuộc sống mới, và cốt lõi của nó bao gồm sự trở về cùng Chúa.

Trong cuộc sống, rất nhiều lần chúng ta đã không thực hiện những điều làm vui lòng Chúa chẳng hạn như: cầu nguyện, học hỏi giáo lý, cảm thông và giúp đỡ những người chung quanh. Trái lại, chúng ta thường hay làm những điều Chúa không muốn, và chẳng bao giờ làm điều Chúa muốn cã. Đó chính là hàng rào cản ngăn Chúa đến với chúng ta, và chúng ta đến với Chúa, nhất là trong mùa Giáng sinh này.

Chính vì thế, trong những ngày nay chúng ta hãy chạy đến nơi toà giải tội để được tha thứ. Việc xưng tội không chỉ để tẩy xoá những vết nhơ tội lỗi mà hơn thế nữa còn giúp chúng ta xa tránh tội lỗi, nhờ đó mà phục vụ Chúa một cách chân thành hơn.

Hãy ra sức khử trừ tội lỗi, Hãy cố gắng phá huỷ cho bằng được những chướng ngại vật trên con đường Chúa sẽ đến viếng thăm. Khử trừ tội lỗi sẽ giúp chúng ta nhìn thấy Đức Kitô một cách rõ ràng hơn. Khử trừ tội lỗi sẽ làm cho con đường Chúa đến với chúng ta và chúng ta đến với Chúa được trở nên bằng phẳng và dễ dàng hơn. Khử trừ tội lỗi sẽ biến tâm hồn chúng ta trở thành một hang đá, máng cỏ sống động cho Chúa. Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì để dọn đường Chúa đến?

----------------------------------

 

MV 2-A104: Thời Hoang Dã – Lm Vũ Đình Tường

 

Những tuần sắp tới Kinh Thánh nhắc nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả vì thế chúng ta đi tìm hiểu MV 2-A104


Những tuần sắp tới Kinh Thánh nhắc nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả vì thế chúng ta đi tìm hiểu về con người đặc biệt này.

Là người đặc biệt với sứ vụ đặc biệt. Sứ vụ đó nghe có vẻ đơn giản nhưng là nguyên nhân dẫn đến việc đầu Gioan lìa cổ. Một là do giằng co giữa hai thế lực giữa sự công chính và sự gian ác. Hai là do quyết định hồ đồ, quyết định lúc cao hứng của người lãnh đạo trong dân chúng. Ba là do con người quan trọng hóa danh tiếng, địa vị cá nhân hơn mạng sống người khác. Điểm này cho thấy việc quí sự sống cách hẹp hòi, ích kỉ dẫn đến tình trạng sự sống cá nhân mình, thân nhân mình thì trọng còn sự sống thiên hạ thì coi thường. Bắt người khác hi sinh để mình sống hạnh phúc đồng nghĩa tội sát nhân.

Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi thay đổi quan niệm sai lầm phò sự sống một cách hẹp hòi, ích kỉ. Sự sống con người quí trọng giống nhau, dù lớn hay nhỏ, dù khôn hay khờ sự sống của họ đều quí vì đều do Thiên Chúa ban cho. Trước khi xuất hiện trước công chúng, rao giảng về thống hối và kêu gọi mọi người hãy tỉnh thức, đừng ngủ mê nhưng tỉnh thức chuẩn bị tấm lòng đón mừng Chúa Cứu Thế, thánh Gioan Tẩy Giả sống một cuộc sống hoang dã thời xưa. Mình mặc áo lông lạc đà, đai lưng bằng da thú và sống nơi xa mạc. Nuôi thân bằng châu chấu và mật ong rừng nhưng ngài nuôi đời sống tâm linh bằng một tình yêu cao vời. Tình yêu cao vời đó thấm nhuần cuộc đời Gioan. Nhờ cha mẹ sống trung tín, thánh thiện của ông Zacaria và bà Elizabeth. Chính lối sống cao trọng đó thấm nhập vào tâm hồn con trẻ Gioan. Ông lớn lên trong một gia đình hết lòng yêu mến Thiên Chúa. Tình yêu chân chính uốn nắn tâm hồn Gioan biến ông thành người khiêm nhường.

Thánh Luca 3,16 thuật lại lời của Gioan

Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho người.

Ơn gọi làm nhân chứng cho Đức Kitô là kêu gọi mọi người thống hối, ăn năn, thay đổi cách sống theo xã hội để trở về với đường lối Chúa. Gioan không mang một chức vị nào trong xã hội thế nhưng lời kêu gọi của Gioan đánh động tâm não hàng nhiều ngàn người. Phúc âm thuật lại khắp mọi ngành nghề tìm đến hỏi Gioan về cách hoán cải tâm hồn. Gioan trở nên nổi tiếng giữa muôn người nhưng danh tiếng vang lừng không mê hoặc lòng ông, không rơi vào cạm bẫy của vinh quang giả tạo, không lạc vào mê hồn của phồn hoa. Gioan đứng vững, không lung lay trước cám dỗ, tán tụng, tung hô của đại chúng mong ông làm lãnh đạo họ. Ông biết rõ nhiệm vụ của mình là mở đường cho Chúa. Ông luôn vững vàng trong ơn gọi chứng nhân. Đời sống chứng nhân được an bài nơi Thiên Chúa. Kinh thánh thuật lại,

Cậu bé càng lớn thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt Israel. Lc 1,80.

Kinh thánh không ghi chép về cuộc đời của phân phụ ông là Zacaria nhưng truyền thống thuật lại là ông bị hoàng đế Hêrôđê cha giết chết nên bà Elizabeth phải bồng con chạy trốn trong hoang địa, trở thành dân tị nạn chính tại quê hương mình.

Dù là dân tị nạn, dù bị bách hại, dù phải sống nơi hoang địa nhưng sứ mạng của Gioan là đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế vẫn được thực hiện một cách trọn hảo. Điều này cho thấy quyền hành, thế lực thế gian không đủ khả năng ngăn cản điều Thiên Chúa muốn thực hiện để cứu dân Người. Thiên Chúa có cách riêng của Ngài và cách đó thường vượt quá trí hiểu, vượt trên suy đoán, vượt qua mọi tính toán của cả ma quỉ lẫn con người. Lời Gioan rao giảng không mới lạ gì. Nếu có mới là cách rao giảng mới mẻ. Cái mới trong con người Gioan chính là ông rao giảng với tất cả tâm hồn và thực hiện điều mình rao giảng và cuối cùng là sẵn sàng đổ máu đào làm chứng điều ông tin và rao giảng. Chính lối sống chứng nhân nhiệt thành làm rung động bao tâm hồn, chuyển hoá bao con tim.

Nhiệm vụ của Gioan được tiên tri Isaiah 40,3 tiên báo trước đó bảy thế kỉ

Có tiếng hô trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chống gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.

Tiên tri Malachi cũng tiên đoán về ơn gọi của Gioan khi ông thông báo,

Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. 3,1

Sứ giả đây chính là Gioan và Ta chính là nói về Đấng Cứu Thế.
 
 

----------------------------------

 

MV 2-A105: Anh em hãy hối cải


(Suy niệm của Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)

 

Suốt tuần I Mùa Vọng đã vang lên lời loan báo đầy hứa hẹn của ngôn sứ Isaia về một Đấng Thiên MV 2-A105


Suốt tuần I Mùa Vọng đã vang lên lời loan báo đầy hứa hẹn của ngôn sứ Isaia về một Đấng Thiên sai cứu độ thuộc vương triều Đavít, mang tên gọi Emmanuel (Is 7,14), sẽ xuất hiện như vị Thủ lãnh để giải cứu dân Chúa khỏi vùng bóng tối (Is 9,1-5) và phục hưng dân Chúa trong trật tự công lý và hoà bình (Is 11,1-9); bấy giờ toàn nhân loại sẽ hành hương về Giêrusalem để phụng thờ Giavê (Is 2,2-5). Vào những lúc bi thảm của lịch sử, những sấm ngôn ấy đã nung nấu nơi tâm hồn con người niềm hy vọng tha thiết: “Trời cao hãy đổ sương mai và ngàn mây hãy mưa vị Cứu tinh”. Chúa nhật II Mùa Vọng hôm nay nói cho ta vị Cứu tinh mà nhân loại ngàn năm chờ mong ấy đang đến qua sự dọn đường của Gioan Tẩy giả, vị ngôn sứ cuối cùng của thời chuẩn bị, đồng thời là vị Tiền hô loan báo và chỉ cho thấy khi Đấng Cứu thế xuất hiện.

1. Gioan Tẩy giả là vị Tiền hô

Gioan Tiền hô, cũng gọi là Tẩy giả, xuất hiện trên sân khấu cứu độ cách đặc biệt. Đặc biệt vì ông được cưu mang và sinh hạ cách lạ thường khi cha mẹ là Giacaria và Elisabeth đã hết thời sinh nở (Lc 1,7). Điều đó nói lên tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đúng với tên mà thiên thần đã đặt cho ông ngày truyền tin: Gioan nghĩa là “Thiên Chúa thương”. Đặc biệt vì ông đã được thánh hoá từ trong lòng thân mẫu nhờ cuộc viếng thăm của Đức Maria đang cưu mang Ngôi Lời (Lc 1,15.44). Ngày ông sinh ra, phụ thân hết câm và mở miệng tiên báo về sứ mệnh cao cả và định mạng của con mình (Lc 1,64.67), đến nỗi mọi người đều sửng sốt và tự hỏi: “Rồi đây con trẻ này sẽ thế nào ?” (Lc 1,66). Ông rút vào hoang địa tĩnh lặng, sống đời khổ chế, ăn châu chấu và uống mật ong rừng (Mt 3,1-4), để trầm tư  mặc tưởng về sứ vụ sắp thi hành. Ông xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng và làm phép rửa sám hối chuẩn bị cho phép Rửa của Chúa Giêsu bằng Thánh Thần để ban ơn tha tội (Mt 3,11) Ông khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa (Mt 3,3), là người tôi tớ không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng sắp đến, Đấng có trọn quyền phán xét (Mt 3,11), là tiền hô dọn đường cho Đấng Thiên sai cứu độ đang đến là chính Chúa Giêsu (Ga 1,15). Ông đã làm chứng Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34) và chỉ cho mọi người biết Ngài là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,35). Thế mà khi ngồi trong tù vì đã thẳng thắn vạch tội nhà vua, ông đã băn khoăn sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu là đấng phải đến hay còn phải đợi một ai khác (Lc 7,18). Cái chết của ông vì chân lý cũng loan báo trước cái chết vô tội của Đấng mà ông có sứ vụ dọn đường. Cả cuộc đời của Gioan là một chuẩn bị và dọn đường cho Đấng Thiên sai Giêsu xuất hiện để cứu độ.

Giáo hội tiếp tục bước đi trên con đường của Gioan để thực thi sứ vụ truyền giáo mà Giáo hội xác tín là lý do hiện hữu của mình: “Giáo hội lữ hành, tự bản chất, là truyền giáo”(AG 2). Kitô hữu luôn noi theo gương Gioan để sống ơn gọi của mình là làm chứng nhân cho Đức Kitô, giới thiệu Ngài cho mọi người và dọn đường để Ngài đến với mọi tâm hồn.

2.  Hãy sám hối

Lời rao giảng của Gioan gồm tóm trong câu:Hãy sám hối. Các ngôn sứ thời Cựu ước luôn mời gọi mọi người hãy trở về với Thiên Chúa để được tha thứ. Khi bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu cũng tha thiết mời gọi hãy sám hối (Mc 1,15). Ngài truyền cho các Tông đồ hãy đi rao giảng để mọi người sám hối mà nhận lãnh ơn tha tội (Lc 24,47).

Hoán cải là sự thay đổi tận căn và toàn diện: từ não trạng, tư tưởng đến bản thân, hành động và cuộc sống. Cuộc trở lại nào cũng đòi phải chiến đấu cam go, cho đến lúc được Chúa chiếm hữu qua những thanh luyện. Chướng ngại lớn nhất của hoán cải là tính kiêu căng, sự tự mãn cho mình là công chính không cần ơn cứu độ, là mãi mê với sự đời và hưởng thụ vật chất. Gioan đã tuyên bố cách đanh thép: “Hãy làm việc lành chứng tỏ lòng sám hối. Lưỡi rìu đã kề sẵn gốc cây. Cây nào không sinh quả tốt, sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,7-10). Ông Giakêu đã thật sự hoán cải khi sẵn sàng đền bù gấp bốn cho những ai bị ông làm thiệt hại, bố thí phân nữa tài sản cho kẻ nghèo và từ bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu (Lc 19,8). Hoán cải theo sấm ngôn Isaia là lấp đầy những hố sâu của lòng ích kỷ, tham vọng và hưởng thụ, là bạt đi những đồi cao của kiêu căng tự mãn, là uốn cho ngay những quanh co lươn lẹo trong tư tưởng và hành động dối trá, để có thể đón nhận Đấng Cứu thế và sống tình liên đới huynh đệ với mọi người.

Kết luận

Hãy hoán cải. Hãy thành tâm trở về với Chúa, nổ lực tìm kiếm Người, nhiệt thành đáp ứng lời mời gọi sám hối bằng việc thực thi đức bác ái là giềng mối trọn lành (Cl 3,14) và là sự chu toàn mọi lề luật (Rm 13,10). Đó là điều kiện tiên quyết để dọn đường Chúa đến trong tâm hồn và đời sống của mình và của mọi người.

----------------------------------

 

MV 2-A106: Sứ mạng Tiền Hô


(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)

 

Vâng, người ta thường nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Đó là cụm từ dùng để cổ vũ một nhân vật có thế MV 2-A106


Vâng, người ta thường nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Đó là cụm từ dùng để cổ vũ một nhân vật có thế giá nào đó. Từ bậc quan đến bậc vua chúa, hoặc như quan trạng về làng, hay là “võng anh đi trước, kiệu nàng theo sau”.

Quả thật, một nhân vật trần thế được đón rước một cách trịnh trọng, thì người ta nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Nhưng hôm nay, theo lịch phụng vụ Công giáo, Giáo Hội trình bày cho chúng ta một nhân vật đảm nhận vai trò “ Tiền Hô”, đó là Gioan Tiền Hô. Vâng, Gioan Tiền Hô thực thi sứ mạng Tiền Hô của mình đối với ai? Thưa đối với “ Vua Hòa Bình”, vâng, Vị Vua Hòa Bình đến.

Vị Vua Hòa Bình, mà Thiên Chúa đã Hứa từ ngàn xưa qua các tiên tri sẽ đến. Giữa loài người, không có vị vua nào xừng đáng để thay mặt Thiên Chúa chăn dắt muôn dân, thì Thiên Chúa ban Con Một của Ngài cho thế gian, nhưng Vị Vua ấy rất nhân từ, xứng với tước hiệu của Người, đó là “ Vua Hòa Bình” hay là” Vua Bình An”.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay ( Is 11,1-10), chúng ta thấy, Đấng Cứu Thế chính là Vị Vua nhân ái. Sự nhân từ của Người mang đến sự bình an đích thực. Sự bình an đến độ mọi thứ, mọi vật hung ác đều phải hiền hòa. Mọi sự vật phải thay đổi hoàn toàn180 độ. Vì Người là Thần khôn ngoan duệ trí, thần mưu sự can trường, thần thông minh hiếu thảo ( Is11,2).

Vì thế, sự hòa bình và an lạc sẽ ngự trị giữa chúng dân đến độ chiên con chơi đùa với sư tử và trẻ con. Vâng, ngày nay Vị Vua ấy sắp đến, tất nhiên sẽ có một người làm sứ mạng Tiền Hô cho Người, đó là Gioan Tiền Hô, mà Isaia đã nói: “ Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” ( Mt 3,3)

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy, nhân vật Gioan rất thành công trong sứ vụ Tiền Hô của mình. Ông nói: “ Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” ( c 2). Và cách thức sám hối là chịu phép rửa, vì vậy Gioan Tiền Hô được gọi là Tẩy Giả. Nhưng phép rửa được thực hiện bởi Gioan là phép rửa bằng nước, chỉ có giá trị để giục lòng sám hối. ( c11). Nhưng Đấng mà Gioan rao giảng sẽ làm phép rửa trong”Thánh Thần và Lửa”. Thánh Thần và Lửa chính là Thiên Chúa.

Thiên Chúa sẽ dùng Thánh Thần để Thánh Hóa và dùng Lửa để thiêu đốt. Có nghĩa là sự thanh tẩy trọn vẹn, chính là tình yêu của Thiên Chúa, là sự cứu chuộc của Đấng Cứu Thế. Thánh Thần và Lửa là một tình yêu bao la, một sự tha thứ vô cùng, vô hạn. Phép Rửa ấy chính là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô. Nhưng Gioan Tiền Hô cũng cho thấy sự công minh, lý đoán của Người bằng một câu nói theo nghĩa đen: “ Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. ( c 12).

Như vậy, Vị Vua Hòa Bình đồng thời cũng chính là Vị Thẩm Phán chí công, Người nhân từ nhưng không nhu nhược. Điều nầy cho thấy, từ khi Người đến lần thứ I cho đến khi Người lại đến, là một hành trình cứu chuộc duy nhất kế tiếp, không đứt quãng. Dựa vào ý tưởng nầy, Giáo Hội mong đợi Đức Kitô lại đến lần Thứ II. Đây cũng là ý nghĩa đích thực của mùa vọng, vì không phải chỉ đón mừng Người đến bằng hình thức bên ngoài là Lễ Giáng Sinh, nhưng quan trọng không kém là chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người trong bất cứ giây phút nào. Đón mừng Lễ Giáng Sinh là Đón Mừng một Mầu Nhiệm Nhập Thể của Đấng Cứu Thế, để suy tôn, thờ là, cảm tạ Người. Nhưng để đón Người đến với chính tâm hồn của từng người trong chúng ta là một điều quan trọng, đó là giờ chết, một sự thật không thể chối cải được.

Nên chi, khi Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người mà chúng ta tỉnh thức thì thật là diễm phúc.

Vậy chúng ta là dân ngoại được kêu mời bởi lòng thương xót của Người, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ mọi người, chúng ta hãy cùng với thánh Phaolô cất lên lời ca: “ Vì thế giữa muôn dân, con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn, ca mừng Danh Thánh Chúạ” ( c 9).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cư ngụ giữa loài người, dù phàm nhân bất xứng. Nhưng để ban ơn cứu độ, Chúa đã trở nên Hy Tế. Khởi sự là Máng Cỏ Bêlem, ôi! Mầu nhiệm thật cao vời, xin cho chúng con biết nhận ra và đền đáp muôn một tình Chúa yêu thương chúng con. Amen.

----------------------------------

 

MV 2-A107: Hãy thống hối vì Nước Trời đã đến gần


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion... (Này hỡi Dân Sion...) làm cho tâm hồn MV 2-A107


Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion... (Này hỡi Dân Sion...) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực chuẩn bị đón Chúa đến. Sự kiện này đã được ghi khắc từ lâu trong lịch sử. Một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta: « Hãy sửa đường Chúa », nghĩa là: hãy hoán cải tâm hồn. Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình hài một trẻ thơ, Ngài mời chúng ta đến gặp gỡ Ngài trong khiêm hạ: "Này dân Sion hỡi, Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy... " (Ca nhập lễ).

Bài đọc I vang lên làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: "Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở... " (x. Is 11, 1-10).

Tin Mừng theo Thánh Matthêu (3, 1-12) trình bày cho chúng ta nhân vật Gioan Tẩy Giả, là nhân vật đã được tiền báo trong một lời tiên tri nổi tiếng của sách ngôn sứ Isaia (Is 42,3). Gioan Tẩy giả lui vào sa mạc của vùng Giuđêa, dùng lời rao giảng của mình kêu gọi toàn dân hoán cải để sẵn sàng đón Đấng Mesia quang lâm. Lời kêu gọi của Thánh Gioan, vị tiên tri được Thiên Chúa sai đến như là vị tiền hô của Đấng Thiên Sai, vang lên trong tuần thứ II của Mùa Vọng, vạch ra cho chúng ta thái độ cần phải có để sẵn sàng đón chờ Chúa đến: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Nếu như xưa kia Gioan rao giảng và kêu gọi người ta ăn năn thống hối, kết quả là: "Dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan"; thì ngày nay sứ điệp này vẫn vang dội qua các thời đại và gửi đến với chúng ta ngày nay với tính cách thật cấp bách.

Với giới biệt phái và văn nhân, Gioan Tẩy Giả bảo họ: "Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối". Thánh Grêgôriô Cả, Giáo hoàng (540 – 610) đã bình giải rằng: "Gioan Tẩy Giả rao giảng kêu gọi một Đức Tin chân thật và những việc làm tốt lành, để nhờ đó sức mạnh của ân sủng được thấm nhập, ánh sáng của chân lý được chiếu giãi, và những nẻo đường hướng về Thiên Chúa được sinh ra trong những tư tưởng thành tâm thiện chí, sau khi đã lắng nghe Lời Chúa, là Lời dẫn đến mọi sự tốt lành".

"Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng: Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.

Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự bành trướng Vương Quyền Chúa Kitô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn.

Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: "Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an". Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến. Trích "Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng", 39, 1-3.

Có thể nói bốn tuần Mùa Vọng là như "tiền đường" dẫn chúng ta chuẩn bị tinh thần sẳn sàng tiếp đón Đấng Cứu Thế ngự đến! "Hãy ăn năn thống hối". Để gặp được Đấng cứu thế, con người cần phải hoán cải chính mình, nghĩa là tiến đến cùng Chúa Kitô với đức tin tươi vui, bỏ đi những cách thức suy tưởng và nếp sống ngăn cản chúng ta sống theo Chúa cách trọn hảo.

Trước Tin Mừng của một Vị Thiên Chúa vì yêu thương chúng ta đã tự hạ chính mình và mặc lấy thân phận con người, chúng ta không thể nào không mở rộng tâm hồn ăn năn hối cải. Để gặp được Hoàng Tử Bình An, chúng ta phải mở rộng lòng mình, khiêm tốn và ngay thẳng.

Đó là lý do tại sao Mùa Vọng là thời gian chờ đợi và hy vọng. Giáo Hội lấy lại vào chúa nhật II Mùa Vọng lời tiên tri đầy an ủi của ngôn sứ Isaisa như sau: "Mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu rỗi của Thiên Chúa". Chúng ta hãy đặt tay chúng ta vào tay Mẹ Maria, Nữ Vương của niềm hy vọng để Mẹ giúp chúng ta sống Mùa Vọng này cho xứng. Amen.

----------------------------------

 

MV 2-A108: Mở đường Chúa đến


(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

Có câu chuyện vui kể rằng: Một lần, để phát động phong trào An Toàn Giao Thông, một tổ chức thuộc MV 2-A108


Có câu chuyện vui kể rằng: Một lần, để phát động phong trào An Toàn Giao Thông, một tổ chức thuộc Liên hiệp quốc đã tổ chức cuộc thi xã luận quốc tế với chủ đề “Con đường với cuộc sống”. Sau đây là một số bài thi được ban giám khảo đánh giá cao:

- Nước Pháp (2 bài): “Con đường tình yêu”, “Nên tỏ tình trên đoạn đường như thế nào?”.

- Nước Mỹ: “Con đường nào có thể rút lui sau khi phát động cuộc chiến tranh?”.

- Nước ý: Những con đường trong tranh trừu tượng!

- Nước Anh: “Đường đến các trường Đại học và câu lạc bộ bóng đá”!

- Nước Đức: “Luận về con đường trong triết học”!

- Nước Singapor: “Cần phải làm gì để các con đường luôn sạch sẽ?”.

- Nước Trung Quốc: “Người ta có thể làm những con đường… giả, đường nhái được không?”.

- Và… Việt Nam (3 bài): “Tại sao cần đào lấp?”, “Khi đường trở thành dòng sông”, “Những con đường cát bụi”!

Con đường thật muôn màu muôn vẻ. Có con đường vật chất để đi và cũng có con đường là hướng đi của cả một dân tộc, một đất nước. Con đường được làm tốt sẽ phục vụ tốt cho cuộc sống. Ngược lại sẽ là bất hạnh cho những ai đi trên con đường ấy.

Việt Nam đang đi trên con đường hướng tới xã hội chủ nghĩa. Có người bảo sẽ không bao giờ tới. Có người cho rằng tới mà rất chậm. Dù ai nói ngã nói nghiêng thì dân tộc Việt Nam đã đi trên con đường này suốt mấy chục năm dù vẫn xây chưa xong hạ tầng cơ sở, vẫn là bài toán nan giải để hoàn thành.

Người ta nói đường và chân là đôi bạn. Đường không có dấu chân người, sẽ không còn là con đường, chỉ là cỏ dại hoang vu phủ kín lối đi. Người không có đường sẽ không đi về đâu cả. Có khi còn mất cả hường đi. Con người và con đường. Đôi bạn làm nên cuộc đời nhau. Con người làm thành lối mòn cho con đường và con đường thành một kỷ niệm đẹp cho con người một khi đã đi qua.

Nhà văn Lộ Tấn khi 20 tuổi được cha mẹ gửi sang du học tại Nhật. Ông theo học ngành Y. Tình cờ ông được xem một đoạn phim thời sự, trong đó có cảnh một người Trung quốc bị người Nhật hành hình, điều đáng buồn là rất nhiều người Trung quốc khỏe mạnh đứng xem với vẻ mặt đần độn, không phản ứng gì. Ông lập tức bỏ học ngành Y năm thứ 2 và chuyển sang viết văn. Bởi ông nhận thấy học chữa bệnh trong lúc này không quan trọng, bởi dân mà con ngu muội, hèn nhát, thì dù thân thể có khỏe mạnh cũng chỉ là nô lệ mà thôi. Từ đó ông muốn dùng ngòi bút để chữa bệnh tật trong tính cách dân tộc. Chính chàng trai này là tác giả của câu nói nổi tiếng để khích lệ những người mở đường: “Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường, người ta đi mãi rồi thành đường mà thôi”.

Hôm nay giữa sa mạc hoang vu, Gioan mời gọi mọi người hãy làm thành một con đường. Một con đường thẳng ngay thay cho đường quanh co. Một con đường bằng phẳng thay cho đồi núi gồ ghề. Con đường vốn đã không có ở hoang địa, vì hoang địa đâu có người qua lại, nhưng Gioan mời gọi mọi người hãy đi vào hoang địa để tạo thành một con đường sám hối ăn năn cho Con Chúa Trời ngự đến. Hãy mở lối trong hoang địa bằng lối mòn của tình người liên đới và cảm thông. Hãy mở lối cho con người đến với nhau trong hòa bình và thân ái. Đường của yêu thương xóa bỏ ngăn cách hận thù. Đường của thứ tha để xây dựng tình bằng hữu của anh em bốn bể một nhà. Đường của bác ái để xây dựng hạnh phúc cho tha nhân. Con đường của Nước Trời còn hướng cho mọi người biết nhìn về trời cao để sống thanh thoát với những bon chen trần gian, sống vượt lên trên những tham sân si để sống vui tươi và hạnh phúc.

Vâng thưa anh chị em, cuộc đời rất cần những con đường, nhưng đừng bao giờ mở đường để gây đau khổ cho nhau bằng chiến tranh, bằng hận thù. Và cũng đừng mở đường để tìm tư lợi riêng, nhưng mở đường để tạo tình liên đới giữa con người với nhau được gần gũi hơn. Và mở đường phải nhắm đến phục vụ cho nhu cầu con người chứ không phải cho một nhóm người hay một giai cấp nào.

Lời ngôn sứ Gioan vẫn đang mời gọi chúng ta mở lối đường cho Chúa ngự trị. Gioan vẫn thiết tha mời gọi chúng ta hãn san bằng núi đồi của kiêu căng. Hãy lấp đầy thung lũng của đam mê tật xấu. Hãy nắn cho ngay thẳng tính gian dối hại người. Hãy sống một cuộc đời cho xứng với lòng sám hối ăn năn để cho Con Chúa Trời giáng trần nơi cung lòng mỗi người chúng ta. Amen.
 
 

----------------------------------

 

MV 2-A109: Lời công bố của Gioan Tẩy Giả


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

 

Gioan, có biệt danh là Tẩy giả. Mátthêu trích dẫn Isaia 40,3 để giới thiệu: Gioan Tẩy giả chính MV 2-A109


Gioan, có biệt danh là Tẩy giả. Mátthêu trích dẫn Isaia 40,3 để giới thiệu: Gioan Tẩy giả chính là tiếng kêu trong hoang địa mà ngôn sứ Isaia tiên báo, có nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sống trong hoang địa từ thời niên thiếu (Lc 1, 80), Gioan xa lánh mọi tiện nghi (Mt 11,8; Lc 7,25), xa lánh những khuôn khổ đạo đức Dothái, đặc biệt của đền thờ và hội đường. Ông gần những người Esseniens ở Qumrân. Mátthêu khi phục sức cho Gioan Tẩy giả giống Êlia, mang một bộ áo da lông, ngang lưng thắt dây da (2V 1,8). Mátthêu mặc nhiên bảo, Gioan Tẩy giả chính là Êlia. Theo truyền thống, ÊLia đã được đưa lên trời, không chết, sẽ trở lại làm Tiền hô cho ngày cánh chung, ngày Đấng Messia đến (Mt 3,23).

Trong hoang địa, Gioan lấy châu chấu và mật ong làm thức ăn. Mátthêu không quả quyết Gioan chỉ sống bằng hai thức ăn đó. Châu chấu chẳng phải thức ăn lạ thường. Người Bédouins hiện thời thường ăn châu chấu chiên hoặc ướp muối. Tài liệu Damas ở Qumrân có bảo phải chiên hoặc luộc chúng mà ăn. Còn mật hoặc mật ong tìm trong các hốc đá, hoặc nước rỉ của cây Tây hà liễu.

Bởi cuộc sống đơn sơ đạm bạc, Gioan không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, tiểu đường hay dư cholesterone. Gioan, một con người với thân hình khoẻ mạnh và khắc khổ, nhưng nơi ông toát ra một tâm hồn thánh thiện. Hữu xạ tự nhiên hương, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđêa, cùng khắp vùng ven sông Giođan kéo đến với ông.

Thi hành sứ vụ trong hoang địa, có lẽ Gioan muốn gắn liền với truyền thống khá phổ biến trong Israel. Theo truyền thống, thời Israel lang thang trong hoang địa, từ Ai cập vào đất hứa, được xem như một thời kỳ chứa chan ân sủng, tuyển dân sống thân tình với Thiên Chúa, được Ngài đối xử nhân hậu (Đnl 2,7). Vì thế, người ta tin, thời cánh chung, nước Thiên Chúa sẽ khởi đầu trong hoang địa và Đấng Messia sẽ xuất hiện tại đấy (Mt 24,26). Do đó, một vài thủ lãnh các phong trào thiên sai thường dẫn đồng đảng của mình vào hoang địa (Cv 21,38).

Ở hoang địa Gioan rao giảng gì? Gioan kêu gọi: "Anh em hãy sám hối, vì Nước trời đã gần đến". Sám hối hay hối cải, tiếng Latinh "conversio", tiếng hy lạp "metanoia", có nghĩa thay đổi não trạng, ăn năn trở lại, canh tân đổi mới. Trong Cựu ước, từ này có nghĩa bỏ tà thần trở về với Đức Giavê. Trong Tân ước, nó giả thiết một sự thay đổi toàn diện bao hàm cả về phương diện tiêu cực bỏ đàng tội lỗi, lẫn phương diện tích cực hướng con người về Thiên Chúa.

Với Gioan, chốn hoang địa không còn là nơi cô tịch, nó đã trở thành trung tâm khơi động một phong trào sám hối, đầy nghịt những người. Thấy nhiều người thuộc phái Pharisiêu và Sađốc đến chịu phép rửa, Gioan nói với họ: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?" Tại sao Gioan gọi họ như thế? Có lẽ Gioan thấy nơi họ có sự gian dối, giống con rắn trong sách Sáng thế. Họ đến chịu phép rửa không để được tha tội, nhưng để dò xét ông (Ga 1,19-28).

Tuy gọi là "nòi rắn độc", nhưng Gioan vẫn cho họ một lời khuyên: "Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối, đừng nghĩ: Chúng ta đã có tổ phụ Abraham." Người Dothái thường tự hào là con cháu Abraham. Họ quan niệm: Ngày cánh chung, ngày Giavê sẽ biểu lộ cơn thịnh nộ của Người. Cơn thịnh nộ ấy sẽ giáng trên lương dân, những kẻ tội lỗi. Còn toàn thể con cái Israel được tham dự vào thế giới tương lai, bởi lời Thiên Chúa hứa cho Abraham và các tổ phụ vẫn có giá trị cho hậu duệ. Theo lối cắt nghĩa của các giáo sĩ, hậu duệ ấy là những người con xác thịt của Abraham. Bởi đấy, trong Dothái có câu châm ngôn quả quyết, ai thuộc dòng máu Dothái, chắc chắn sẽ được cứu rỗi. Một châm ngôn kiểu đó dễ làm cho một số người Dothái sống phóng túng về mặt luân lý và làm cho những người Pharisiêu và Sađốc tự mãn kiêu căng. Đối với Thiên Chúa là con cháu Abraham hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là có giữ giao ước, có yêu mến và thực thi ý Người hay không. Nếu Israel không trung thành với Thiên Chúa, không tin vào Đấng Người sai đến, Người sẽ làm cho những hòn đá trở nên con cháu Abraham, nghĩa là loại trừ Israel và kêu gọi lương dân làm thành một Israel mới phát sinh hoa trái (Mt 8,11-12).

Bởi thế, Gioan đã kêu gọi họ sám hối. Nếu họ không sinh quả phúc đức để chứng tỏ lòng sám hối, họ không thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Theo Gioan điều đó cần thiết và cấp bách, không trì hoãn được, vì Nước trời đã đến: "Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa". Cũng như không gì có thể cứu cây khô khỏi lửa đốt, cũng chẳng có gì cứu nổi Israel chai đá khỏi cơn oán phạt.

Đấng sáng lập đến sau ông, quyền thế hơn ông. Sánh với Người ông chẳng là gì. Phép rửa ư? Phép rửa của Gioan là phép rửa tạm thời, phép rửa bằng nước, giục lòng sám hối. Phép rửa của Người là phép rửa bằng Thánh Thần và lửa, là sự thanh tẩy tuyệt đỉnh, ban ơn tha tội và sự sống mới. Con người ư? Ông chỉ là Tiền hô, là người dọn đường không đáng xách dép cho Người. Người là Đấng Messia, là Đấng thẩm phán đầy quyền năng: tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân, thóc mẩy thu vào kho lẫm, thóc lép bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.

Thật tuyệt vời, Gioan Tẩy giả đã khiêm nhường tự xóa mình đi trước Đấng mà ông đã nhận nhiệm vụ dọn đường. Đức Giêsu phải lớn lên, ông phải nhỏ đi. Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ là lúc ông vào nhà tù Macheronte, ở đó ông đã bị chém đầu. Với cái chết, Gioan đã hoàn thành sứ vụ Tiền hô dọn đường. Ông là người vĩ đại. Jean Perron viết: "Thu tóm trong chính mình tất cả những ngôn sứ từ thời Êlia, đấng Tiền hô rõ ràng là ngôn sứ sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo, kết thúc ngôn sứ và mở đầu Phúc âm, ông là bản lề nối Cựu ước và Tân ước". Đức Giêsu quả quyết: "Trong các người nam không ai trọng hơn Gioan Tiền hô".

----------------------------------

 

MV 2-A110: Dọn đường Tình Yêu -ĐGM Antôn Vũ Huy Chương


(Suy niệm của ĐGM. Antôn Vũ Huy Chương)

 

Giáo hội bước vào Mùa Vọng, 4 tuần lễ chuẩn bị cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngôi Lời Nhập MV 2-A110


Giáo hội bước vào Mùa Vọng, 4 tuần lễ chuẩn bị cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngôi Lời Nhập Thể. Ngôi Lời đã làm người bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và đã được Đức Trinh Nữ Maria sinh hạ cách đây hơn 20 thế kỷ. Cử hành Mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh là cử hành việc Chúa ĐÃ ĐẾN để khởi đầu công trình cứu độ trần gian, mà cao điểm là sự kiện CHẾT và SỐNG LẠI của Người, một lần là đủ cho tất cả mọi thời và mọi nơi, nhưng mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo này được cử hành trong Thánh Lễ mà chúng ta cử hành mỗi ngày nhằm “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Chính vì thế, Mùa Vọng còn hướng về việc Chúa SẼ ĐẾN.

Khi cá nhân và tập thể định hướng cho THỜI GIAN thì con người và thời gian đó làm nên LỊCH SỬ. Khi cá nhân người Kitô hữu và tập thể Giáo hội định hướng cho lịch sử theo ý định của Thiên Chúa là cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho lịch sử đó trở thành LỊCH SỬ CỨU ĐỘ. Như thế, lịch sử mỗi người và lịch sử nhân loại nằm giữa RỒI và CHƯA: Chúa đã đến rồi (Giáng Sinh) để định hướng cho Lịch Sử Cứu Độ, nhưng chưa hoàn tất, nghĩa là chưa đạt tới cứu cánh chung cuộc (Cánh Chung). Mùa Vọng vừa cử hành việc Chúa đã đến RỒI, vừa hướng về việc Chúa CHƯA đến. Do đó, nhiệm vụ của mỗi người Kitô hữu cũng như của tập thể Giáo hội, trong thời gian này của Lịch Sử Cứu Độ, là cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô sớm tới ngày hoàn tất, ngày đó Chúa Kitô sẽ đến lần thứ hai để khánh thành công trình cứu độ mà Người đã khởi sự.

Theo bài Tin Mừng, sống tinh thần Mùa Vọng là sống tinh thần SÁM HỐI theo lời mời gọi của ông Gioan Tẩy Giả: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần… Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi… Hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”. Dọn đường là tuyên xưng Đức Tin và Đức Cậy vào Tình yêu Nhập Thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, là sống Đức Ái một cách cụ thể và thiết thực theo gương Người, để đem lại niềm tin và hy vọng cho những người chung quanh. Đặc biệt khi làm việc bác ái từ thiện, mọi người nhớ lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Cagliari: “Chúng ta phải thực thi các công việc từ bi bác ái với lòng từ bi, dịu dàng, và luôn luôn với lòng khiêm tốn! Anh chị em biết không: Đôi khi người ta  cũng thấy sự kiêu hãnh trong việc phục vụ người nghèo! Một số người làm đẹp, sống bằng người nghèo; một số người lợi dụng người nghèo để phục vụ cho tư lợi hoặc cho phe nhóm của họ. Tôi biết đó là chuyện phàm nhân, nhưng điều ấy không tốt! Và tôi muốn nói hơn nữa, đó là tội lỗi! Tốt hơn những người ấy nên ở nhà”.

Thánh Gioan Tông Đồ viết: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 9-11). Chúa Giêsu đã không nói “chúng ta cũng phải yêu thương Thiên Chúa”, mà nói “chúng ta cũng phải yêu thương nhau”. Rõ ràng yêu người và mến Chúa là một giới răn duy nhất!

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải cho Môsê biết Ngài là “Thiên Chúa thương xót và nhân hậu, nhẫn nại và đầy lòng trắc ẩn” với những ai cậy trông vào Ngài (Xh 34,6). Trong Tân Ước, lòng thương xót của Chúa Cha trở nên hữu hình và sống động nơi Đức Giêsu,  vì ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9). Qua những dụ ngôn nói về lòng thương xót, dụ ngôn về con chiên lạc, dụ ngôn về đồng bạc được tìm thấy và dụ ngôn về người cha với hai người con (x. Lc 15,1-32), Chúa Giêsu đã mạc khải bản tính Thiên Chúa như một người Cha luôn đi bước trước cảm thương và tha thứ.

Chúng ta cùng nhau DỌN ĐƯỜNG TÌNH YÊU để đón Chúa đến trong Mùa Giáng Sinh, đến trong cuộc đời mỗi người và đến trong ngày Chúa quang lâm.

----------------------------------

 

MV 2-A111: CHÚA ĐANG ĐẾN

 

Hoang mạc là vùng đất rất khô do có lượng giáng thủy thấp ( chủ yếu là mưa, còn tuyết hay  MV 2-A111


Hoang mạc là vùng đất rất khô do có lượng giáng thủy thấp ( chủ yếu là mưa, còn tuyết hay sương giá thì rất thấp ), thường có ít lớp phủ thực vật. Các hoang mạc còn được mô tả là những khu vực mà nước bị mất theo phương thức bốc hơi nhiều hơn so với mưa. Nhìn chung các hoang mạc có lượng mưa ít hơn 250mm mỗi năm.

Các hoang mạc chiếm khoảng 1/3 diện tích bề mặt Trái Đất. Các hoang mạc nóng thường có sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm và theo mùa, với nhiệt độ ban ngày cao và ban đêm thấp. Ở các hoang mạc nóng, nhiệt độ ban ngày có thể lên đến 45°C/318F, hoặc cao hơn trong mùa hè, và xuống 0°C/273F, hoặc thấp hơn vào ban đêm trong mùa đông. Không khí các hoang mạc không có khả năng ngăn chặn ánh sáng mặt trời ban ngày ( trời không mây ) hoặc giữ nhiệt vào ban đêm. Do đó, vào ban ngày hầu hết nhiệt từ mặt trời sẽ tiếp cận đến mặt đất, và ngay sau khi mặt trời lặn, hoang mạc lạnh rất nhanh. ( Wikipedia ).

Ông Gioan Tiền Hô đã không khôn ngoan chọn chốn thành thị đông đúc để tiện rao giảng, nhưng lại dại dột vào hoang địa, vốn gay gắt, khắc nghiệt, cả ngày lẫn đêm, lại chẳng khoác áo Tu Sĩ đúng quy cách, cũng chẳng dùng lương thực đủ dinh dưỡng, thế mà thiên hạ cứ ồ ạt kéo vào hoang địa nghe ông kêu gọi sám hối.

Tịnh tâm

Ngày nay, chỉ những du khách thừa tiền lắm của, mới có thể đi đến hoang địa, để thưởng ngoạn những cảnh vật thiên nhiên kỳ vỹ, cùng thụ hưởng đầy đủ tiện nghi, với chi phí ngất ngưởng cao. Có lẽ bây giờ ông Gioan Tiền Hô sẽ chẳng kêu gọi Kitô hữu đi vào hoang địa nữa, mà chỉ yêu cầu tìm những giây phút tĩnh lặng tại tư gia, hay chốn yên tĩnh nào đó, như Giáo Đường, Tu Viện, để tịnh tâm xét mình và cầu nguyện.

Thoát ra khỏi xã hội xô bồ, ô nhiễm tiếng động, vấy bẩn bởi tiền bạc tanh tưởi, ngột ngạt tranh chức, giành quyền, bon chen hưởng lạc, sống mái danh lợi, thì con người mới có thể thư giãn, khỏi trầm cảm, mà thanh thoát, bình tĩnh nhìn lại bản thân, cùng dâng lời nguyện cầu.

Nếu mỗi ngày chỉ dành ít nhất 15 phút trong 1.440 phút, để tịnh tâm, tự vấn đã làm gì tốt và xấu trong ngày, đã kết thêm bạn, giúp đỡ phục vụ ai, hay chỉ chuốc thêm oán thù, ganh ghét, dối gian, để ăn năn, sám hối và cầu nguyện, thì chắc hẳn mai rày sẽ khấm khá hơn, thăng tiến hơn.

Sám hối

“Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng." Nếu tử tế tịnh tâm, khách quan và khiêm nhu, thì có thể dễ dàng nhận ra mình đã tà tâm, tà ý, tiểu xảo, ma mãnh, ứng xử vụ lợi, vun quén cá nhân, hay đã bỏ mình, hy sinh, dấn thân phục vụ tha nhân. Tư tưởng, lời nói, hành động của mình liệu có cảm thông, chân thành, chính đáng, hữu ích, chia sẻ, giúp đỡ, yêu thương và thương xót tha nhân, hay hoàn toàn ngược lại. Vậy chần chừ chi nữa, mà không ăn năn, sám hối ?

Sám hối không dừng lại việc thống thiết hối hận, xin chừa thói hư tật xấu, mà còn cải tiến, đổi mới, tân trang, lên đời sao cho xứng đáng là chiên ngoan của Mục Tử Nhân Lành. Người luôn đòi hỏi tấm lòng nhân ái chân tình, chứ đâu thích hình thức rềnh rang bề ngoài.“Ta muốn tình yêu, chứ không cần hy lễ.” ( Hs 6, 6 và Mt 12, 7)

Ông Gioan Tiền Hô còn chỉ dạy chu đáo về tâm tình sám hối, chứ không chỉ kêu gọi dân chúng đến chịu phép rửa qua loa chiếu lệ cho xong. “Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối.” Như thế, sám hối cần có hành động cụ thể tốt lành tiếp theo, chứ không thể thú tội suông là đã hoàn tất. Với mình, cần chay tịnh, hãm mình, bỏ mình, không chiều theo tánh xác thịt. Với người, cần nhân ái, khoan dung, tha thứ, tận tuỵ phục vụ, vác thập giá mà theo Chúa.

Đón Chúa

Đức Giêsu đã đến rồi, vẫn còn mãi đang đến và sẽ đến. Người đã đến hơn hai nghìn năm tại Bêlem, vẫn đang ở với con người qua Tin Mừng và Thánh Thể, qua tha nhân chung quanh mỗi người. Người đang đến qua Mùa Vọng năm nay. Người còn sẽ đến vào thời mạt thế. “Chính Đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa.” Với ơn cứu độ, Người đến giải thoát con người khỏi kiếp vong nô, thánh hoá con người, đưa con người trở lại vị thế con Thiên Chúa, nếu con người sẵn sàng hoan hỷ chấp nhận.

Nhưng để xứng đáng đón rước Đấng Cứu Thế, mỗi người cần trở nên bé mọn, đơn sơ, nghèo khó, vâng phục, như chính Người đã làm gương sáng, trở nên hài nhi yếu đuối, bị truy sát giữa một xã hội thực dụng, bái vật, thậm chí từ khước Thiên Chúa. Chính Người đã tiết lộ rằng, những đối tượng đón nhận Chúa là những kẻ bé mọn."Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn" ( Lc 10, 21-24 ).

Người còn nhiều lần tái khẳng định mục đích đến thế gian cứu độ những kẻ bé mọn lầm lạc, tội lỗi: "Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi" ( Mc 2, 17 ). Những người đạo đức giả hình, kiêu căng, tự phụ, mạo nhận là công chính, thì dĩ nhiên chẳng thể nào thật lòng muốn đón Chúa.

 Ông Gioan Tiền Hô, Ngôn Sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, tuy đã vào sống trong hoang mạc chay tịnh, đạm bạc, kham khổ, nghèo khó, thế mà ngài còn tự nhận rằng không đáng xách giày cho Đức Kitô, thì người Kitô hữu liệu còn hy vọng gì chăng ? Rất hy vọng, vì Đức Giêsu vô cùng đại lượng, giầu lòng thương xót, đã mở rộng vòng tay mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng" ( Mt 11, 28-30 ). Vấn đề là có thành tâm ước nguyện đón rước Chúa hay không ?

“Người Công Giáo là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, và là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng.” ( Đường Hy Vọng, số 950 ).

Trời cao hãy đổ mưa xuống. Và ngàn mây hãy mưa đấng chuộc tội. Trời cao hãy đổ sương xuống. Và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu đời. Trong đêm u tối chúng con mong ngày mau tới. Như nai đang khát ước mong mau tìm thấy suối. Chúa ơi! Dừng con giận Chúa lại thôi. Chúa ơi ! Đoàn con đã hối tội rồi… ( sáng tác Duy Tân, Trời Cao ).

Kính xin mẹ Maria cầu bầu cho chúng con khiêm nhu, sốt sắng sám hối, đổi mới, hoan hỷ và hy vọng đón Chúa giáng sinh trong tâm hồn chúng con. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

----------------------------------

 

MV 2-A112: Làm việc

 

Cây nào không sinh trái sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Một cây cột gỗ có nhiệm vụ chống đỡ cho căn MV 2-A112


Cây nào không sinh trái sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Một cây cột gỗ có nhiệm vụ chống đỡ cho căn nhà, nếu nó mục nát không còn chống đỡ được nữa, người ta sẽ hạ xuống làm củi thổi. Một mái lá bị dột, không còn che nắng che mưa được nữa, người ta sẽ dỡ xuống để đun bếp. Mặt trời và mặt trăng có nhiệm vụ soi sáng ban ngày và ban đêm. Nếu chúng không còn tỏa sáng, thì sẽ không đủ lý do tồn tại, mặt đất sẽ tối om. Xem đó, chúng ta thấy mặc dù là vật chất vô linh, chúng vẫn làm việc nhờ đó mà trái đất xanh tươi, muôn loài sống động.

Bước vào thế giới loài vật, chúng ta cũng thấy như vậy. Con chó để coi nhà, con mèo để bắt chuột, con gà để đẻ trứng, con heo để bán thịt. Những con vật đó làm tròn bổn phận thì chủ được hài lòng. Nếu con chó thôi coi nhà, con gà thôi đẻ trứng, con mèo thôi bắt chuột, con heo thôi không lớn, chủ sẽ bực mình và lúc bấy giờ chỉ có nước hạ thịt mà thôi.

Đối với loài người cũng vậy. Trông ra đường, chúng ta thấy kẻ ngược người xuôi, mục đích của họ là gì? Tôi xin thưa, là kiếm tiền bằng cách này hay cách khác vì có làm mới có ăn, có hoạt động mới có tiền bạc. Ngay cả những nhà trí thức, chúng ta tưởng họ nhàn hạ. Không phải là như thế, họ không lao động bằng chân tay nhưng lao động bằng trí óc, và công việc lao động này cũng vất vả, cũng mệt mỏi, nhưng nhờ đó mà đem lại những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật. Suốt nhiều năm vùi đầu vào phòng thí nghiệm để nghiên cứu, Pasteur mới tìm ra phương thuốc chủng, Edison mới phát minh ra điện, Marconi mới hoàn thành xong hệ thống điện báo. Xem như thế, chúng ta thấy nhờ việc làm con người góp tiếng của mình vào bản hòa tấu chung của vũ trụ, cộng tác với Thiên Chúa trong công việc sáng tạo.

Bởi vậy, không có lý do để lười biếng, chơi bời và ăn bám. Đời ta sống lâu lắm là một trăm năm, cắt xén hai đầu lúc trẻ thơ và già cả, còn lại tám mươi năm. Trong quãng tám mươi năm này, đâu phải sung sướng hạnh phúc luôn. Nào bệnh hoạn, nào tai ương, nào chiến tranh, làm vẩn đục niềm hạnh phúc của chúng ta… thế mà chúng ta vẫn tha thiết, vẫn lo lắng, vẫn cặm cụi để bám lấy.

Còn cuộc đời tương lai, kéo dài mãi mãi thì chúng ta lại thờ ơ, không lo, không làm, như vậy đâu phải là khôn ngoan và sáng suốt. Hãy làm việc cho đời sống hiện tại và nhất là cho đời sống tương lai.

Cho đời sống hiện tại, chúng ta làm việc để nuôi sống mình và gia đình. Cho đời sống tương lai, chúng ta làm việc bằng cách sống đạo để được hưởng niềm hạnh phúc bất diệt. Đừng tham cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng. Đừng cúi gằm mặt xuống đất mà quên mất quê trời mai sau, nhưng hãy lợi dụng cuộc sống hiện tại với những thực tại trần gian làm bàn đạp đưa mình vào quê hương nước trời.

----------------------------------

 

MV 2-A113: HÃY SÁM HỐI


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG, năm A

Is 11,1-10   Rm 15, 4-9  Mt 3, 1-12

 

Để dọn đường cho Con Thiên Chúa, các ngôn sứ đã đi trước để nói cho dân Chúa biết theo ngôn MV 2-A113 Dalat


Để dọn đường cho Con Thiên Chúa, các ngôn sứ đã đi trước để nói cho dân Chúa biết theo ngôn ngữ của con người, biết Thiên Chúa sẽ sai Con của Người là Đức Giêsu Kitô đến trần gian để cứu độ loài người, cứu rỗi con người. Do đó, sứ điệp của mỗi ngôn sứ mang dấu hiệu của thời gian, dân tộc, xứ sở của mỗi vị đang sống.Các ngôn sứ không phải là người viết sử, họ nói về tương lai nhưng chỉ biết được chút nào đó về sự xuất hiện của Đấng Messia, của Đấng Cứu Thế mà muôn dân đang trông đợi.

Gioan Tẩy Giả là một ngôn sứ đã được tiên tri Isaia nói tới :” Có tiếng người hô trong hoang địa ‘ Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi “. Sứ mạng của Gioan Tất Giả rất cao trọng bởi vì chính Ngài đã nhận ra Đấng Messia giữa đám đông dân chúng. Ngài đã chỉ cho các môn đệ của Ngài và dân biết Đấng phải đến “ Chúa Giêsu đang xuất hiện giữa dân chúng mà họ không nhận ra “. Gioan Tấy Giả luôn là Vị tiền hô, chỉ đường cho nhân loại đến với Thiên Chúa.

 Gioan Tẩy Giả đã đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, kêu gọi con người, mời gọi nhân loại :” Ăn năn sám hối “. Để đón nhận và hiểu biết, tin và đi theo Đức Kitô, điều căn bản, cốt yếu của con người, của loài người là ăn năn thống hối. Đây cũng là nét căn bản của Tin Mừng. Ăn năn thống hối theo nghĩa Thánh Kinh là thay đổi cuộc sống, biến đổi con người từ tư tưởng, lời nói, hành động, làm cho đời người thay đổi hoàn toàn, thay đổi toàn diện. Bởi vì theo Gioan Tẩy giả, con người chỉ có thể đón nhận được Chúa, chỉ có thể đi theo Chúa khi họ biết sửa đổi, biết quay trở về với Thiên Chúa …Chướng ngại lớn nhất của con người là sự kiêu ngạo, tự mãn, tự phụ, tự che lấp để lúc nào cũng cho mình là đủ, là khôn ngoan.Sự tự phụ, tự tôn làm co con người chai lì, làm cho con người xa rời Thiên Chúa. Mỗi lần sám hối là bước khởi đầu của nên thánh. Thực tế, ai cũng có tội vì tất cả đều là loài thọ tạo. Gioan Tẩy Giả đã kết án phái Pharisêu và phái Xa-đốc:” Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ? “ . Ngài bảo họ :” Phải thành thật, đừng giả dối, đừng tự phụ , đừng nghĩ rằng tổ phụ của mình là Áp ra ham là đủ, là được cứu rỗi, nhưng phải làm việc lành cho xứng với lòng thống hối vì Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp ra ham “. Ngài nói tiếp :” Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa “. Gioan Tẩy Giả đã khiển trách nặng nề những Pharisêu và Biệt phái…Vậy, phải chăng Ngài còn ám chỉ nhiều Vị lãnh đạo tôn giáo đã sống giả hình, đã tự cao, tự mãn, tự đại coi mình là nhất, không chịu ăn năn sám hối ?

Mùa vọng giúp mọi người suy nghĩ về cuộc hành trình đức tin của mình. Đây là cơ hội thuận tiện để con người, để chúng ta bạt núi đồi cho phẳng, uốn ngay đường, hố sâu lấp cho đầy. Quả thực tội lỗi sẽ đẩy con người xa Chúa, óc Biệt phái và Pharisêu cũng làm con người xa Chúa vời vợi. Ơn trở lại là hồng ân nhưng không của Chúa. Sám hối là nhìn vào Chúa để thấy mình còn quá yếu hèn tội lỗi, cần phải có ơn Chúa giúp. Thống hối là ăn năn khóc lóc tội mình đã làm mất lòng Chúa và xin ơn tha thứ của Chúa. Mađalêna đã trở lại với Chúa, và yêu mến Chúa vì được Chúa tha thứ nhiều.Hầu hết các thánh là những người luôn biết ăn năn sám hối, luôn biết phó thác và tin tưởng nơi Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết tín thác vào Chúa và được ơn ăn năn trở lại để Chúa tha thứ, yêu thương. Amen.
 
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Gioan Tẩy Giả là ai ?
2.Phép rửa của Gioan Tẩy Giả là phép rửa gì ?
3.Tại sao Gioan Tẩy Giả lại gọi phái Pharisêu và phái Xa-đốc là nòi rắn độc ?
4.Sám hối là gì ?

----------------------------------

 

MV 2-A114: CHÚA NHẬT II MV-A


SUY NIỆM :

 

Lời Chúa trong Chúa nhật thứ 2 mùa vọng tiếp tục hướng dẫn các bạn trẻ làm thế nào để thực sự  MV 2-A114


Lời Chúa trong Chúa nhật thứ 2 mùa vọng tiếp tục hướng dẫn các bạn trẻ làm thế nào để thực sự chuẩn bị cho đời sống hôn nhân và gia đình.

Trong Chúa nhật trước, chúng ta đã biết theo ý định của Thiên Chúa khi tạo dựng và thiết lập hôn nhân cho con người là theo Hình Ảnh là Chúa Kitô, nhờ Người và cho Người.

Hôm nay Isaia cho biết Chúa Kitô chính là “chồi” là “bông hoa” của gốc Giessê. Là gốc Thiên Chúa đã tuyển chọn và đem trồng nơi đất hứa cho các tổ phụ. Như thế Đức Kitô trước hết thuộc dòng dõi một dòng tộc được tuyển chọn cho Giao Ước với Thiên Chúa. Hôn nhân là sự tiếp nối cho sự tuyển chọn và giao ước này. Do đó để chuẩn bị cho đời sống hôn nhân các bạn trẻ trước hết phải tìm hiểu qua sự cầu nguyện để nghe được tiếng gọi tuyển chọn và giao ước của Thiên Chúa muốn dành cho họ.

Cũng theo Isaia trên Đức Kitô “thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống” để “Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng, và lấy sự trung tín làm đai lưng” để thiết lập một gia đình, một triều đại làm cho “Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở”. Như vậy cách cụ thể các bạn trẻ cần biết biện phân tiếng gọi của Thiên Chúa mời gọi các bạn vào đời sống hôn nhân là mời gọi các bạn cùng Đức Kitô làm cho gia đình tương lai của mình khiến cho “Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở”. Muốn thế theo thánh Phaolô các bạn phải học biết để “biết thông cảm với nhau” và “tiếp rước nhau như chính Chúa Giêsu đã tiếp nhận anh em”.

Chúng ta thường thấy để đi tới hôn nhân các bạn trẻ không thiếu sự tìm hiểu nhau qua gặp gỡ và trao đổi, tuy nhiên sự tìm hiểu chỉ loanh quanh về gia thế, về tính tình, về cách ứng xử theo những tiêu chuẩn trần tục, những điều mà thánh Gioan Tẩy Giả khái quát trong một kiểu nói mạnh mẽ là thuộc “nòi rắn độc”. Chắc chắn ông nghĩ đến những gì con rắn xưa đã cám dỗ nguyên tổ.

Để xác định được sự công chính và nền hòa bình mà Đức Kitô muốn cho gia đình Ngài thì theo thánh Phaolô chúng ta cần đọc và nghiền gẫm “những gì đã viết ra là có ý để giáo huấn chúng ta, hầu nhờ Thánh Kinh thêm sức và an ủi, chúng ta được cậy trông”. Chính tông huấn là thành quả của 2 thượng hội đồng về gia đình của Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã bắt đầu những suy nghĩ của mình dựa vào Kinh Thánh. Vì thế để chuẫn bị cho đời sống hôn nhân các bạn trẻ phải luôn lấy Kinh Thánh làm người hướng dẫn trong mọi suy nghĩ và hành động. Nói cách khác phải tìm hiểu xem người bạn đường tương lai cũng như chính bản thân là ai trong sự công chính và nền hòa bình của Đức Kitô, và là ai trong Giao Ước của Người với Hội Thánh.

Một sự chuẩn bị như thế thật sự mà nói khó tìm thấy nơi các bạn trẻ ngày hôm nay, trừ khi họ là những người sẵn sàng đáp lại lời kêu gọi của Thánh Gioan Tẩy Giả “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”, “Hãy ăn năn thống hối,” để muốn cho hôn nhân của họ thực sự là “nước trời gần đến”.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
 
----------------------------------

 

MV 2-A115: CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG, NĂM A

HÃY TRỞ THÀNH CON ĐƯỜNG TỐT CHO CHÚA NGỰ ĐẾN

(Is 11,1-10; Rm 15, 4-  9; Mt 3,1-12)

Ts. Giuse – Vinh Sơn Ngọc Biển, S.S.P.

 

Mỗi khi chuẩn bị đón tiếp một vị khách đặc biệt nào đó, người ta thường hay thăm dò để biết vị thượng MV 2-A115


Mỗi khi chuẩn bị đón tiếp một vị khách đặc biệt nào đó, người ta thường hay thăm dò để biết vị thượng khách này thích những thứ gì, hầu đáp ứng nhu cầu để làm hài lòng khách đến chơi.

Cũng vậy, Đức Giêsu chính là vị Đại Thượng Khách. Ngài đến viếng thăm dân của Ngài. Không những thế, Ngài còn ở lại và đồng hành với mọi người. Vì thế, Gioan, trong vai trò là người chuẩn bị, ông đã làm những điều cần thiết để sửa soạn lòng dân đón đợi Đấng Cứu Thế đến một cách xứng đáng.

1.      Uy tín của Gioan

Một trong những điều mà Gioan chú tâm và không ngừng lên tiếng, đó là sự sám hối, ông nói: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,1); “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi” (Mt 3,3).
Lời mời gọi của Gioan cộng với đời sống gương mẫu nơi ông trong hoang địa đã khiến cho dân chúng từ khắp nơi, đâu đâu người ta cũng hướng về ông như một điểm quy chiếu. Cũng chính vì uy tín của ông nên lời mời gọi một khi cất lên, đã được hưởng ứng cách rất tích cực qua tất cả mọi thành phần.

Thật vậy, không chỉ những người bình dân học vụ đến nghe giảng, mà cả những người học thức sâu rộng; không dừng lại ở người thường dân, mà cũng rất nhiều binh lính; không chỉ với người nghèo mà cả giới thượng lưu; không chỉ người đạo đức, nhưng có luôn cả những người tội lỗi…

Tại sao Gioan lại hấp dẫn đến như vậy? Lời rao giảng sao lại hợp thời đến thế? Thưa, bởi vì nơi ông, ngôn hành thống nhất. Ông đã thực hành rồi mới nói. Quả thật, Gioan đã sám hối, ăn chay, hãm mình trước rồi mới khuyên răn người khác, vì vậỵ: “Hữu xạ tự nhiên hương” .

Khi đã thu phục được lòng dân, Gioan lên tiếng kêu gọi họ hãy sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi, trở về với Thiên Chúa. Nói cách khác, sám hối chính là thay đổi lối sống cho phù hợp với Tin Mừng.

          2.  Những ai cần phải sám hối?

Vào thời Gioan, khi ông cất tiếng kêu gọi dân chúng sám hối, người ta đã ùn ùn kéo đến với ông và nghe ông giảng. Người ta không cần phải thắc mắc xem: tôi có cần phải sám hối hay không? Nhưng lòng dân lúc này là: cần phải lãnh nhận phép rửa để tỏ lòng sám hối và quay trở về với Thiên Chúa.

Còn thời nay, lời mời gọi của Gioan có còn trở nên cấp bách hay không? Ai là người cần sám hối?

Trước khi đi sâu vào vấn đề, chúng ta cần phải khẳng định ngay rằng: lời mời gọi của Gioan: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,1); “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi” (Mt 3,3), vẫn rất thời sự và khẩn thiết ở mọi thời.

Tuy nhiên, khẩn thiết là vậy, cấp bách là thế, nhưng con người ngày hôm nay lại xem thường đến độ dửng dưng. Họ viện đủ mọi lý do để không cần phải sám hối, hay sống như vậy là đủ rồi…

Nguyên nhân chính yếu dẫn đến thái độ tự mãn như vậy chính là không biết mình, nhưng lại đề cao cái tôi.

Nếu không biết mình thì không thể sám hối được. Cũng vậy, nếu đề cao cái tôi sẽ dẫn đến thái độ kiêu ngạo. Biết mình chính là điều cốt yếu trong hành trình sám hối. Từ bỏ cái tôi chính là biết ý thức giới hạn của kiếp con người.

Nhà hiền triết Socrate đã khởi đầu triết thuyết của mình bằng câu châm ngôn “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même). Ông nói như thế là vì nếu không biết mình thì không thể nào phát huy cái tốt và loại trừ cái xấu được. Không biết mình thì chẳng khác gì: “Vô tri bất mộ”. Những người không biết mình thì không hề biết sai trái để mà sửa, cũng chẳng cần biết những điều hay mà học. Vì thế, người ta rất sợ những người không biết mình. Vì thế có câu: điều làm ta sợ nhất chính là “người không biết sợ”. Nói cách khác: “Sợ nhất là người không biết mình”.

Khi họ không biết những giới hạn của mình, lúc đó, họ ung dung và coi mình là “đệ nhất đế vương”, là “cái rốn của vũ trụ”.

Thấu hiểu được lòng dạ con người, vì thế, thời xưa Gioan đã kêu gọi mọi thành phần cần phải sám hối để quay trở về với Thiên Chúa. Không ai là người tinh tuyền đến độ không cần phải sám hối. Thì ngày nay, cũng lời mời gọi ấy, Gioan tiếp tục kêu mời mỗi người chúng ta cần phải sám hối để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì đã là con người, không ai là người vô tội.

3.      Sống sứ điệp Lời Chúa

Lời Chúa hôm nay làm cho chúng ta nhớ lại suy tư của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp Đấng Cứu Độ Nhân Trần số 4, ngài viết: “Con người là con đường của Giáo hội”.

Nói cách khác, mỗi người là một con đường. Ngang qua con đường ấy, Thiên Chúa có thể đi vào cuộc đời của ta và đi đến với tha nhân.

Tuy nhiên, muốn cho con đường ấy được xứng đáng để đón Chúa ngự đến, chúng ta hãy thực thi những gì mà Gioan đã kêu gọi dân chúng khi xưa.

Nếu con đường tâm hồn chúng ta đầy rẫy những sự hận thù, chia rẽ, ghen ghét, nói hành nói xấu, thì giờ đây, hãy thay thế nó bằng con đường của yêu thương, bác ái, hiệp nhất, chân thành.

Nếu lòng dạ chúng ta không trong sạch, mà là đầy những âm mưu đen tối, lừa thầy, phản bạn, gian dối lọc lừa, luôn trách móc, than phiền và lợi dụng nhau, thì giờ đây, hãy thay vào đó một trái tim nhân hậu, một lối sống công bằng, liêm chính, trung thực, nhất là ý ngay lành.

Nếu lựa chọn của chúng ta là sống huênh hoang, tự đắc, kiêu ngạo, coi khinh người khác, ham mê danh vọng, tiền bạc và sắc dục, thì giờ đây, hãy thay vào đó một tâm hồn khiêm nhường, yêu thương, tôn trọng anh chị em thật lòng, sống trong sạch và biết từ bỏ…

 Nếu thái độ chúng ta đang thờ ơ, lãnh đạm, dửng dưng trong mối tương quan với Thiên Chúa và vô cảm với nhu cầu và sự liên đới với anh chị em, thì giờ đây, hãy thay vào đó một ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn, yêu anh chị em như chính mình.

Nếu chúng ta can đảm để cho lời mời gọi của Gioan chạm đến tâm hồn, trái tim và khối óc của mỗi chúng ta, thì chắc chắn mỗi người sẽ là một con đường xứng hợp để cho Thiên Chúa đi vào cuộc đời của mình và đến với tha nhân.

Lạy thánh Gioan Tiền Hô, lời mơi gọi của ngài đã vang lên cách đây hơn 2000 năm. Tuy nhiên, ngày nay chúng con vẫn thấy rất cấp bách và ý nghĩa trong thời đại mà chúng con đang hiện diện. Vì thế, xin ngài bầu cử cho mỗi người chúng con biết sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón nhận lời mời gọi của ngài để biết sám hối, ngõ hầu tâm hồn được trở nên xứng đáng đón Chúa ngự đến trong cuộc đời của chúng con cũng như đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.
 
----------------------------------

 

MV 2-A116: CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG


Chúa Giê-su Ki-tô Đến Để Thực Hiện Kế Hoạch Cứu Độ

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 11:1-10;  Rm 15:4-9;  Mt 3:1-12)

 

Như chúng ta đã nghe trong Chúa Nhật trước, ngôn sứ I-sai-a loan báo rằng Thiên Chúa đặt kế hoạch MV 2-A116


Như chúng ta đã nghe trong Chúa Nhật trước, ngôn sứ I-sai-a loan báo rằng Thiên Chúa đặt kế hoạch quy tụ mọi người trong vương quốc của Đức Giê-su Ki-tô, để cho họ hưởng bình an vĩnh cửu.  Vậy Đức Giê-su Ki-tô là ai?  Người sẽ làm gì để thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa?  Bài trích sách I-sai-a cho chúng ta biết những điều Thiên Chúa sẽ thực hiện qua Đức Ki-tô.  Đặc biệt thánh Phao-lô còn khẳng định rằng kế hoạch của Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho dân Do-thái, mà cho hết mọi dân tộc.  Đến lúc thời gian viên mãn, trước khi Chúa Giê-su thi hành sứ vụ rao giảng Nước Thiên Chúa, ông Gio-an Tẩy Giả đã được Thiên Chúa sai đến để giúp người ta chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa Giê-su và vương quốc của Người.  Chúa Giê-su, Đấng sẽ giáng trần để thực hiện kế hoạch cứu độ chính là đề tài Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.

          Muốn biết Chúa Giê-su là ai, chúng ta cần tìm đến gốc tổ của Người.  Ngôn sứ I-sai-a chỉ cho chúng ta thấy:  “Ngày ấy, từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ…, sẽ mọc lên một mầm non”.  Ngôn sứ gọi Đấng cứu độ là nhánh nhỏ hoặc mầm non.  Nhưng ngài không quên nói lên sức mạnh của nhánh nhỏ và mầm non ấy, vì mọi “thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này”.  Chính những thần khí này đã tạo dựng vũ trụ, thì giờ đây cũng sẽ bắt đầu thực hiện một “cuộc tạo dựng mới”.  Chúng ta hãy xem thần khí Đức Chúa hành động trong Chúa Giê-su như thế nào.

          Thần khí “khôn ngoan và minh mẫn” được biểu lộ qua việc xét xử công minh và phán quyết vô tư.  Chúa Giê-su đã dùng mọi lời lẽ khôn ngoan và sáng suốt để truyền đạt những điều Thiên Chúa muốn nói với nhân loại.  Thần khí mưu lược và dũng mãnh hoạt động trong sứ vụ rao giảng của Chúa Giê-su, vì “lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở” và “hơi miệng Người thở ra giết chết kẻ gian tà”.  Thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa đã giúp Chúa Giê-su luôn trung thành với sứ mệnh và vâng phục thánh ý Chúa Cha.  Luôn hành động dưới sự hướng dẫn của Thần khí Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã thiết lập một vương quốc bình an.  Mọi mối thù nghịch, chia rẽ… như đã từng có trước đây giờ không còn nữa.    Những hình ảnh bình an được mô tả như “sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ…, bé thơ chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ thọc tay vào ổ rắn hổ mang”.  Tại sao?  Vì “sẽ không còn ai tác hại và tàn phá” nữa.

          Tuy nhiên, điều đặc biệt nhất Chúa Ki-tô thực hiện trong kế hoạch của Thiên Chúa đã được thánh Phao-lô nói lên như sau:  “Đức Ki-tô có đến phục vụ những người được cắt bì [tức là người Do-thái], để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ… Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người”.  Đúng vậy, Chúa Giê-su thi hành kế hoạch cứu độ là để thể hiện sự trung thành của Thiên Chúa đã giữ lời hứa với dân Ít-ra-en và để biểu lộ lòng thương xót Thiên Chúa dành cho dân ngoại.  Như thế, lòng trung thành và lòng thương xót của Thiên Chúa là động lực để Người cứu độ chúng ta nhờ Chúa Giê-su Ki-tô.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Sứ mệnh của Chúa Giê-su đã được trình bày qua hai bài đọc I-sai-a và thư thánh Phao-lô.  Tuy nhiên bài Tin Mừng cũng quan trọng không kém, vì ông Gio-an Tẩy Giả cho chúng ta biết phải chuẩn bị thế nào để tiếp đón Chúa Giê-su và ơn cứu độ của Người.  Ông Gio-an không nói nhỏ nhẹ đâu!  Cũng như ngôn sứ Ê-li-a ngày xưa “nóng như lửa”, thì ông Gio-an Tẩy Giả, tức “Ê-li-a Mới” (Mt 11:14), cũng muốn “hô lên” thật lớn để “ai có tai thì nghe”.  Như ngôn sứ Ê-li-a, ông thẳng tay quở trách “nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và Xa-đốc” và gọi họ là “nòi rắn độc”.  Ông cảnh báo họ phải “sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”.  Nhưng ông cũng đủ bình tĩnh để chỉ cho họ thấy địa vị quan trọng của Chúa Giê-su, Đấng “sẽ làm phép rửa cho các anh bằng Thánh Thần và bằng lửa”.  Tiếng hô và lời quở trách thẳng thắn của ông Gio-an Tẩy Giả phải vang lên trong tâm hồn chúng ta, những người đang chuẩn bị đón mừng Chúa giáng sinh.  Chúng ta hãy nhận biết Đấng đến sau Gio-an là ai và sứ mệnh của Người là gì.  Chúng ta cũng không quên hình ảnh “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân:  thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”.  Vậy chúng ta là thóc mẩy hay thóc lép đây?  Chúng ta hãy trả lời Chúa trong mùa Vọng này.

             Lm. Đa-minh Trần đình Nhi 

----------------------------------

 

MV 2-A117: Thế giới luôn cần những con đường đầy hoa


(Lm. Giuse Trương Đình Hiền)

 

Mùa Vọng thường gợi lên hình ảnh những con đường: con đường về Núi Thánh Sion, con đường MV 2-A117 LX


Mùa Vọng thường gợi lên hình ảnh những con đường: con đường về Núi Thánh Sion, con đường hồi hương tái thiết lại Sa Lem, con đường trong hoang mạc, con đường gồ ghề, con đường cong queo…cùng với những nỗ lực để có những con đường đẹp, con đường thẳng như “bạt thấp nổng đồi”, “lấp đầy hố sâu”, “uốn thẳng con quẹo…”.

Và tất cả những cuộc hành trình đó, những con đường đó chỉ là hình ảnh, biểu trưng để dẫn dắt chúng ta biến thời gian cử hành Mùa Vọng thành một cuộc “lên đường”, một cuộc tiến bước trên “lộ trình” hướng đến và gặp gỡ Thiên Chúa. Và trong cuộc lên đường để gặp gỡ Thiên Chúa không chỉ phải “bạt xuống nhưng đồi núi của kiêu căng, hợm hĩnh, của tham vọng ngông cuồng”, mà còn phải “lấp đi những hố sâu của hận thù chia rẽ, ghen ghét giận hờn, đố kỵ, cách ngăn”. Có nghĩa là để đón nhận Đức Kitô và sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa, phải sửa dọn con đường thích hợp, con đường ăn năn sám hối (metanoia), con đường từ bỏ hy sinh, con đường yêu thương thuận hòa…. Chúng ta cần sửa dọn “con đường tâm hồn” ta, “con đường cuộc sống” ta. Chúng ta cần sửa dọn những con đường đến với anh em, những con đường là các tương quan người với người trong gia đình, trong cộng đoàn, trong môi trường xã hội quanh ta…

Câu chuyện “con đường giữa hai cái hang” sau đây có thể là một minh họa rõ nét cho câu chuyện “dọn đường, sửa đường đón Chúa” mà chúng ta chia sẻ với nhau hôm nay:

Tại một vùng núi nọ, người ta truyền tụng cho nhau câu chuyện nầy: Ngày xưa, có hai thầy dòng quyết tâm nên thánh bằng cách chọn con đường ẩn tu. Để thực hiện việc nầy, cả hai thầy lên núi, tìm hai hang động cách xa nhau làm chỗ dung thân để qua hết cuôc đời trong thinh lặng và kết hợp với Chúa. Để cuôc sống ẩn tu đạt kết quả cao, và để khỏi bận tâm, chia trí về những "sự thế gian", cả hai quyết định, hang ai nấy ở, mỗi người môt không gian riêng, một thế giới riêng, không liên hệ, không giao tiếp với nhau và với mọi người…

Rồi năm tháng qua đi. Cả hai chết lúc nào không ai biết. Hai hang động trở thành hoang phế, như nhai chiếc mồ hoang lạnh giữa rừng sâu. Thời gian sau đó, có hai tên cướp bị săn đuổi, đã thay tên, đổi họ, lần mò trốn lên núi nầy để ẩn danh tìm chút bình an cho cuộc sống thừa. Gặp được hai cái hang hoang lạnh của người xưa, cả hai nẩy sinh sáng kiến: chọn nơi đây làm chốn dừng chân để sám hối và làm lại cuộc đời. Thế là cả hai dọn sạch hang cũ và bắt đầu cuộc sống mới của những người "ẩn tu bất đắc dĩ." Chỉ khác với hai thầy dòng trước một điều là cả hai quyết định làm một con đường nối liền hai hang để thường xuyên qua lại, thăm viếng, giúp đỡ, ủi an …Dần dà, dọc theo con đường nối hai hang đã mọc đầy hoa, xung quanh hang động cảnh trí phô đầy sức sống và vẻ đẹp. Hai tên cướp năm nào giờ đây đã trở thành hai vị ẩn tu hiền lành, thánh thiện, đến nổi hương thơm thánh đức lan toả khắp vùng khiến nhiều người cất công lên núi để xin "Hai Thầy" cầu nguyện và hưóng dẫn đạo đức. Từ đó, phát xuất phát từ hai cái hang đó, đã có nhiều lối đi, nhiều con đường dẫn đến các khu dân cư, và trên các lối đi đó cùng mọc đầy hoa tươi thắm… Và rồi, hai "thầy tướng cướp ẩn tu" đó qua đời. Vì đời sống thánh thiện và vì có những phép lạ xảy ra cho một số người lên núi cầu xin, nên dân chúng vùng đó "tự động" phong thánh cho hai "thầy cướp ẩn tu" nầy…

Con đường đến với Thiên Chúa và đến với anh em của mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng nầy cũng phải được phát quang và trồng đầy hoa như thế. Và chỉ có những con đường “hiệp thông, chia sẻ, bác ái, khoan dung, quảng đại, tha thứ…như thế mới có thể biến những “hang đá tâm hồn” lạnh lẽo hiu quạnh của những tên cướp trở thành thánh nhân, mới biến chúng ta trở nên những Kitô hữu đích thực, mới biến thế giới quanh ta trở thành an vui hòa bình, và đặc biệt, biến Mùa Vọng, Mùa Giáng sinh năm nay trở thành một “Tin Vui đích thực” cho chính chúng ta và cho mọi người quanh ta. Quả thật trong thế giới nầy, trong cuộc đời nầy, cần thiết biết bao những con đường đầy hoa như thế. Amen.

----------------------------------

 

MV 2-A118: DẤU CHỈ CHÚA ĐẾN

 

Mùa Vọng đến là lúc Năm Mới Phụng Vụ khởi đầu. Việt ngữ gọi là Mùa Vọng – nghĩa là hy vọng, MV 2-A118 Ephata


Mùa Vọng đến là lúc Năm Mới Phụng Vụ khởi đầu. Việt ngữ gọi là Mùa Vọng – nghĩa là hy vọng, mong chờ. Nhưng theo ngoại ngữ không có nghĩa “mong chờ”, mà có nghĩa là “đến” – Latin là Adventus, Anh ngữ là Advent. Ý nói là Chúa Đến.

Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn để mừng đón Con Thiên Chúa giáng trần làm người, đem Ơn Cứu Độ đến cho nhân loại. Mùa Vọng cũng là khoảng mong chờ Chúa đến riêng với mỗi người, đặc biệt là chung với mọi người: Ngài Chúa Giêsu tái lâm, Ngày Cánh Chung, Ngày Tận Thế – ngày Ngài đến trong vinh quang và để xét xử loài người.

Chúng ta đang sống trong Thời Cánh Chung, nhưng làm sao nhận biết ? Có những dấu chỉ nào ?

I. TƯƠNG LAI XA HAY GẦN ?

Ngôn ngữ nhân loại khá mơ hồ, không chính xác, dù chỉ là tương đối chính xác. Ví dụ: Hẹn gặp nhau lúc 7 giờ, có ai đến đúng 7 giờ chưa ? Thì tương lai có tương lai gần và xa, nhưng thế nào là xa hoặc gần ? “Sẽ xảy ra” và “sắp xảy ra” đều là tương lai, nhưng “sẽ” và “sắp” là khi nào ? Thật khó xác định !

Từ vài chục năm rồi, nhất là trong thời gian gần đây, có nhiều “lời tiên tri” về cuối thời. Người ta có nhiều cách “đồn thổi”, nhưng thường liên quan “ba ngày, ba đêm”. Khi nghe “tin đồn” về ba ngày tối thui, có người gởi mail cho biết: “Lo thì có lo, nhưng lo vẫn hơn. Điều dự đoán có thể xảy ra hoặc không, nhưng có thể thật đấy !”

Đã có nhiều lần người ta rỉ tai nhau chuyện Chúa đến hoặc tận thế. Có người nói rằng nghe tin “biến động” mà người Maya dự báo xảy ra vào ngày 21.12.2012, hoặc đất trời tối đen vào các ngày 23, 24 và 25.12.2012, thì “toát mồ hôi hột”; có người lại cho đó là “tin vịt”, không đáng tin. Mỗi người mỗi vẻ, chẳng ai giống ai; kẻ nhát đảm thì chết khiếp, người gan lì thì coi trời bằng… nắp bia ! Chắc hẳn cũng có người thở dài, bĩu môi, và nói: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi !”

Tôi đặt ra những cái “nếu”. Một thanh niên cho rằng người ta có những cái nuối tiếc, còn tôi thì “không có gì để mất”, ý nói tôi chỉ có cái “mạng cùi” thì có gì phải tiếc ( sic ! ). Tôi biết, dù là “mạng cùi” thì người ta vẫn có loại “của cải riêng” khiến người ta vẫn nuối tiếc và sợ chết. Tại sao ? Ai cũng biết mình không trường sinh bất tử, trước sau gì cũng chết, thế mà nghe nói đến sự chết thì người ta cho là “xui xẻo”, hoặc mới chợt “thấy” tử thần đứng nhìn từ xa mà người ta đã run còn hơn tử tội ra pháp trường. Chưa chết thật nhưng đã chết khiếp !

Thật ra người ta chưa thực sự hiểu đúng ý tôi. Giả sử “sự cố” xảy ra đúng như người ta dự báo thì sao ? Đặc biệt nếu đúng là tận thế thì sao ? Cứ nghĩ cho cùng thì tiếc có được không ? Và như thế, chắc chắn người ta chỉ miễn cưỡng ! Người ta chỉ tin cái gì “hợp” ý mình, còn cái “không hợp” ý mình thì họ cương quyết không tin.

Thông tin trên internet cũng có nhiều thứ “tạp pí lù”. Có những website đáng tin, nhưng có những website không đáng tin. Lướt web cũng cần có khả năng chọn lựa nhạy bén, vì nếu không khéo sẽ nguy hiểm! Kể cũng lạ, có những cái xạo thì người ta dễ tin, có những cái thật thì người ta lại không tin hoặc không muốn tin. Cũng có thể họ đang tự đánh lừa mình. Và rồi những lần “dự báo tận thế” đó lại qua đi, người ta lại “vô tư” như xưa !

Tất nhiên, điều dự báo hoặc tiên đoán thì có thể hoặc không thể xảy ra, không ai dám chắc chắn, dù chỉ 1%. Tuy nhiên, dù đó là “tin vịt” hay “tin gà”, nếu bạn tin ( chứ không dị đoan hoặc cuồng tín ) thì vẫn có lợi hơn là không tin ( chứ không nhẹ dạ cả tin, thiếu suy xét ). Tin không phải để dao động, hoang mang hoặc run sợ, mà tin để sẵn sàng “trực chiến”. Đó là mong chờ Chúa đến, chờ đợi cả đời chứ không chỉ trong Mùa Vọng hoặc trong một khoảng thời gian nào đó.

Chúng ta cũng đã nghe Phúc Âm nhiều lần về lời cảnh báo của Chúa Giêsu: “Cũng như thời ông Nôê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót: thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơđôm, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả.

Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mặc khải. Ngày ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót. Ai tìm cách giữ mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình thì sẽ bảo tồn được mạng sống. Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại” ( Lc 17, 26-36 ).

Quá rõ ràng ! Thế nhưng “nghe để mà nghe”, có “nghe” nhưng có “tin” hay không lại là chuyện khác, vì có “tin” thì người ta mới “hành động”.

Khi nghe Thầy mình nói vậy, các môn đệ cũng đã phải lên tiếng hỏi: “Thưa Thầy, ở đâu vậy ?” Ngài thản nhiên nói với các ông: “Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó” ( Lc 17, 37 ). Có lẽ Ngài thấy người ta vẫn cứng lòng nên không thèm nói rõ nữa, vì có nói cũng như “nói với đầu gối”, chỉ là “nước đổ đầu vịt” hoặc “nước đổ lá môn” mà thôi.

Chúa vẫn thường nói: “Ai có tai thì nghe ( Mt 11, 15; Mt 13, 9; Mt 13, 43; Mc 4, 9; Mc 4, 23; Mc 7, 16; Lc 8, 8; Lc 14, 35; Kh 13, 9 ). Tùy mỗi người, Chúa không hề ép buộc bất kỳ ai !

II. TẠI SAO NGƯỜI TA VẪN CỨNG LÒNG ?

Các tin đồn về “biến động” nọ hoặc “sự cố” kia, rốt cuộc không thấy gì xảy ra. Và đã nhiều lần như vậy. Rồi những lần Đức Mẹ hiện ra, điển hình là Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ em tại Fatima, nhưng rồi từ đó tới nay gần trăm năm rồi, thậm chí từ thời Chúa Giêsu đến nay hơn 2.000 năm rồi, thế nên người ta lại cứ “vô tư”, và tất cả cũng chỉ là… “chuyện nhỏ” ! Có lẽ người ta nghĩ Chúa và Đức Mẹ là những người thích đùa dai, chứ người ta có thể không nghĩ đó là sự nhẫn nại của Lòng Chúa Thương Xót, chỉ muốn mọi người được cứu độ, được Chúa Giêsu diễn tả qua hình ảnh người cha nhân hậu mong ngóng đứa con hoang đàng trở về ( Lc 15, 11-32 ).

Thiên Chúa biết chúng ta vừa yếu đuối vừa cứng lòng, nóng không nóng hẳn, mà lạnh cũng chưa nguội hẳn, chỉ dở dở ương ương ( x. Kh 3, 16 ), thế nên Ngài mới tiếp tục cho chúng ta cơ hội. Nước đến chân thì không ai nhảy kịp. Lửa đã bốc cháy thì chỉ có nước khóc. Tất cả đã muộn ! Thật vậy, Thánh Phaolô nói: “Bạn lòng chai dạ đá, không chịu hối cải, và như vậy bạn càng làm cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chồng chất trên đầu bạn, trong ngày Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và biểu lộ phán quyết công minh” ( Rm 2, 5 ). Gậy ông đập lưng ông. Tự mình hại mình mà thôi. Thánh Phaolô giải thích: “Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban, vì lòng chai dạ đá khiến họ trở nên dốt nát” ( Ep 4, 8 ).

Nhiều lần Đức Mẹ hiện ra ở nhiều nơi với nhiều dạng, kể cả nhiều mặc khải tư, đều cho biết rằng thời đại của chúng ta hiện nay là “cuối thời”. Chủ đề chung của những lần Đức Mẹ hiện ra và các mặc khải tư: Thời của chúng ta sẽ chứng kiến Đức Kitô đến lần thứ hai.

Khi hiện ra ở Rwanda ( Phi châu ), các thị nhân nhận sứ điệp chuẩn bị cho lần đến thứ hai của Chúa Giêsu. Alphonsine cho biết: “Đức Mẹ nói phải cầu nguyện nhiều – hiện nay chúng ta phải chuẩn bị cho lần đến thứ hai của Chúa Giêsu”.

Chắc hẳn chúng ta không thể làm ngơ sứ điệp mà Chúa Giêsu đã trao cho Thánh Maria Faustina Kowalska ( Ba Lan, 1905-1938 ) về Lòng Chúa Thương Xót: “Con chuẩn bị cho thế giới về lần đến cuối cùng của Ta… Hãy làm cho cả nhân loại nhận biết Lòng Thương Xót sâu thẳm khôn dò của Ta. Đó là dấu hiệu của thời cuối cùng, sau đó sẽ là ngày công lý”. Và chúng ta thấy trên cả thế giới, việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót càng ngày càng được lan rộng và được nhiều người dần dần nhận biết.

Khi hiện ra với Nữ Tu Agnes Katsuko Sasagawa ở Akita ( Nhật Bản, 1973 ), Đức Mẹ cũng nhắc đến ngày giáng lâm của Con Thiên Chúa. Thị nhân Akita đã nói về “sự trừng trị dữ dội bằng lửa” sẽ xảy ra nếu nhân loại không ăn năn.

Chắc chắn Chúa Giêsu sắp đến thế gian lần thứ hai, nghĩa là sắp tận thế. Nhưng người ta không muốn tin đó là sự thật. Có tin cũng chỉ là môi miệng ! Chúng ta không thể biện luận bằng cách nào vì động thái của phàm nhân đã và đang thể hiện rõ tư tưởng của mình. Chính miệng Chúa Giêsu nói mà chúng ta còn chưa tin thì chẳng ai có thể làm chúng ta tin. Đó là động thái cố chấp, mà cố chấp thì vô cùng nguy hiểm!

Qua lịch sử, Thiên Chúa luôn trao các sứ điệp qua các “mặc khải tư”. Bụi cây cháy với Ngôn Sứ Môsê, rồi từ các tiên tri Nôê, Đanien, tới Gioan Tông Đồ ( sách Khải Huyền ), tất cả các mặc khải tư đó không hề khác với những gì đã và đang xảy ra ngày nay. Sự khác nhau giữa các mặc khải tư thời xưa và các mặc khải tư thời nay là các mặc khải tư thời xưa được ghi lại trong Kinh Thánh. Nếu chúng ta làm ngơ các mặc khải tư, không chịu tìm tòi và không xin Chúa ban ơn hiểu biết, chúng ta sẽ chẳng khác những người trong thời ông Nôê. Người ta đã chế diễu ông Nôê và coi thường lời ông cảnh báo về trận Hồng Thủy, cuối cùng thì họ phải “trả giá”.

Ngay cả cách đối xử của chúng ta với Lòng Chúa Thương Xót cũng vậy. Thật ra Lòng Chúa Thương Xót có từ xa xưa, vì chính Đức Maria đã nói: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” ( Lc 1, 50 ). Người ta không tin, rồi Chúa Giêsu lại mặc khải cho Thánh Margarita Maria Alacoque ( 1647-1690 ) về Thánh Tâm, đặc biệt là tháng 6 năm 1675, nhưng rồi người ta cũng chỉ tin một thời gian, cuối cùng Chúa Giêsu lại đổi cách khác là mặc khải Lòng Thương Xót cho Thánh Faustina.

Khi mặc khải về Thánh Tâm với Trái Tim Chúa bị lửa và vòng gai quấn quanh, Chúa Giêsu truyền cho cách cầu nguyện vắn tắt: “Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài !” Khi mặc khải về Lòng Chúa Thương Xót, Chúa Giêsu truyền cho cách cầu nguyện vắn tắt: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài !” Chúng ta thấy rất giống nhau, dù hai cách sùng kính mang tên gọi khác nhau. Mà Thánh Tâm Chúa hay Lòng Chúa Thương Xót cũng là MỘT, vì cũng vẫn là Thiên Chúa Tình Yêu như Thánh sử Gioan định nghĩa ( 1Ga 4, 8 và 16 ).

Vậy mà có những người vẫn cho rằng việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót là thế này, thế nọ, thậm chí là ngăn cản. Tôn vinh và chúc tụng Thiên Chúa là trách nhiệm và bổn phận, nghĩa là phải truyền bá ( cũng như loan báo Tin Mừng và truyền giáo ), chứ không phải vui thì cho, mà buồn thì cấm.

Trong sách nguyện “Hồng Ân và Lòng Thương Xót” ( Graces and Mercy ), Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII ( 1623-1644 ) đã viết: “Trong những trường hợp liên quan các mặc khải tư, nên tin hơn là không tin, vì nếu bạn tin thì điều đó được minh chứng, và bạn sẽ hạnh phúc vì bạn đã tin, vì Đức Mẹ đã yêu cầu như vậy. Còn nếu bạn tin mà điều đó sai, bạn vẫn được chúc lành như thể điều đó đã xảy ra, vì bạn tin điều đó là thật”. Quả thật, Chúa Giêsu đã xác định trong trường hợp đa nghi của Tông Đồ Tôma: “Phúc thay những người không thấy mà tin” ( Ga 20, 29 ).

Trường hợp mặc khải tư cho Lm. Gobbi, các sứ điệp được loan truyền khắp thế giới, đó là Phong trào Đức Mẹ của các Linh Mục và Giáo Dân ( Marian Movement of Priests and Lay People ) mà ngày nay có hàng triệu hội viên trên khắp thế giới, trong đó có hơn 300 Giám Mục và 60.000 Linh Mục. Đức Mẹ gọi các Linh Mục của phong trào này là “Tông Đồ của Thời Cuối Cùng” ( Apostles of the Last Times ). Trong sứ điệp ngày 24.12.1990, Đức Mẹ cho Lm. Gobbi biết rằng Đức Mẹ đặc biệt nhắc đến “cuộc trở lại của Chúa Giêsu trong vinh quang” đã gần: “Con đang đi vào thời cuối cùng. Như vậy, hãy nhận lấy những lời tiên báo được trao cho con là Lần Sinh Thứ Hai của Chúa Giêsu đã gần kề. Với tư cách là Mẹ của Mùa Vọng Thứ Hai, Mẹ đang chuẩn bị cho con về lần sinh mới này. Vì vậy, ở khắp nơi trên thế giới, Mẹ đang quy tụ những người con bé nhỏ của Mẹ, đó là những người nghèo khổ, những người khiêm nhường, và những người có lòng trong sạch để chuẩn bị chiếc nôi quý giá cho Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang”.

Trong thông điệp ngày 31.12.1992 trao cho Lm Gobbi, Đức Mẹ nói: “Mẹ đã nói nhiều lần rằng thời cuối cùng đang đến và việc Chúa Giêsu đến trong vinh quang cũng đã gần. Bây giờ Mẹ muốn con nhận biết các dấu chỉ đã được mô tả trong Kinh thánh, cho thấy việc trở lại trong vinh quang của Con Mẹ gần lắm rồi... Mẹ muốn dạy cho con biết các dấu chỉ mà Chúa Giêsu đã nói trong Phúc Âm, để chuẩn bị cho con về thời cuối cùng, vì các dấu chỉ này sẽ xảy ra trong thời của con”.

+ Dấu Chỉ Thứ Nhất: LAN TRUYỀN SỰ LẦM LẠC

Trong thư thứ hai gởi giáo đoàn Thêxalonica, Thánh Phaolô nói: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” ( 2Tx 2, 2-3 ). Thánh nhân gọi đó là “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” ( 2Tx 2, 7 ), và nói về việc xuất hiện của tên bịp bợm: “Tên gian ác xuất hiện là do tác động của Satan, có kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ” ( 2Tx 2, 9-10 ). Như vậy, “tất cả những kẻ không tin sự thật, nhưng ưa thích sự gian ác thì sẽ bị kết án” ( 2Tx 2, 12 ).

Những sai lầm về đức tin cũng đang lan tràn khắp thế giới, thậm chí ngay cả các thần học gia danh tiếng cũng bắt đầu lệch lạc về Giáo lý và Giáo huấn về sự hiện hữu của Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, vai trò trung gian của Đức Mẹ, luật độc thân, và nhiều vấn đề khác. Hậu quả chung là mất đức tin ở nhiều người trên thế giới ngày nay. Đúng như Chúa Giêsu đã quan ngại: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” ( Lc 18, 8 ).

+ Dấu Chỉ Thứ Nhì: CHIẾN TRANH, TAI ƯƠNG và HUYNH ĐỆ TƯƠNG TÀN

Chiến tranh, loạn lạc, cha mẹ và con cái đối nghịch nhau, anh chị em ruột hại lẫn nhau, nước này “gờm” nước kia, mọi người nghi ngờ lẫn nhau, nhìn nhau bằng ánh mắt mang hình viên đạn hoặc gươm giáo, chỉ là xích mích nhỏ mà người ta cũng có thể đâm nhau chết, tai ương hoành hành, bệnh dịch nan y… Những chuyện đó đã và đang xảy ra từng ngày, thậm chí là “chiến tranh lạnh” ngay trong các gia đình và các cộng đoàn.

+ Dấu Chỉ Thứ Ba: BÁCH HẠI CÁC KITÔ HỮU

Chúa Giêsu nói cặn kẽ: “Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính Ta đây là Đấng Kitô”, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã; coi chừng, đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận cùng. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi. Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn. Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” ( Mt 2, 4-13 ).

Tại nhiều nước trên thế giới vẫn thường xảy ra những cuộc đàn áp tôn giáo, không chỉ là người vô thần ghét người có đạo, mà thậm chí là các tôn giáo vẫn đàn áp lẫn nhau. Trung quốc có hơn 1 tỷ người vô thần, Giáo Hội tại Trung Quốc chủ yếu là Giáo Hội thầm lặng. Thậm chí Trung Quốc còn có phe không hiệp thông với Tòa Thánh và bất tuân lệnh của Giáo Hoàng.

+ Dấu Chỉ Thứ Tư: TỘI PHẠM THÁNH

Đó là những người phản Kitô. Kinh Thánh đã nói trước về việc xuất hiện của những người xảo quyệt có quyền lực đối với thế giới, họ xuất hiện ngay trước khi Chúa Giêsu đến lần thứ hai, họ sẽ cai trị thế giới và lừa bịp nhiều quốc gia trên thế giới.

Thánh Phaolô cho biết: “Tên đối thủ tôn mình lên trên tất cả những gì được gọi là thần và được sùng bái, thậm chí nó còn ngồi trong Đền Thờ Thiên Chúa và tự xưng là Thiên Chúa. Khi tôi còn ở với anh em, tôi đã từng nói những điều ấy, anh em không nhớ sao ? Anh em biết cái gì hiện đang cầm giữ nó, khiến nó sẽ chỉ xuất hiện được vào thời của nó. Thật vậy, mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành. Chỉ đợi người cầm giữ nó bị gạt ra một bên, bấy giờ tên gian ác sẽ xuất hiện, kẻ mà Chúa Giêsu sẽ giết chết bằng hơi thở từ miệng Người, và sẽ tiêu diệt bằng ánh huy hoàng, khi Người quang lâm. Còn việc tên gian ác xuất hiện là do tác động của Xatan, có kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ. Vì thế Thiên Chúa gửi đến một sức mạnh mê hoặc làm cho chúng tin theo sự dối trá; như vậy, tất cả những kẻ không tin sự thật, nhưng ưa thích sự gian ác, thì sẽ bị kết án” ( 2 Tx 2, 4-12 ).

Con người dễ ảo tưởng, thậm chí là tự đánh lừa mình bằng những ảo giác. Thật thế, Thánh Phaolô nói: “Khi người ta nói: ‘Bình an biết bao, yên ổn biết bao !’ thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được” ( 1Tx 5, 3 ).

Kinh Thánh còn tiên báo sẽ có “sự hy sinh vĩnh viễn” bị hủy bỏ, tức là Thánh Lễ. Điều này có trong những lời tiên tri của Đanien, một trong những lời tiên tri về “thời cuối cùng” trong Kinh thánh: “Tiên tri Đanien nghe tiếng nói của người mặc áo vải gai đứng trên mặt sông. Người ấy giơ tay phải, tay trái lên trời mà thề nhân danh Đấng Hằng Sống: “Cho đến một thời, hai thời và nửa thời. Khi nào sức mạnh của dân thánh hết bị bẻ gãy, thì tất cả các điều ấy cũng sẽ hoàn tất”. Tôi nghe mà không hiểu. Tôi liền nói: “Thưa ngài, cuối cùng những điều ấy sẽ như thế nào ?” Người đáp: “Không sao, Đanien, những lời ấy được giữ kín và niêm phong cho đến thời cùng tận. Nhiều kẻ sẽ được thanh luyện, tẩy trắng và thử bằng lửa. Ác nhân tiếp tục làm điều ác và không ai trong họ sẽ hiểu, còn hiền sĩ thì sẽ hiểu. Từ thời lễ thường tiến bị bãi và đồ ghê tởm khốc hại được đặt lên, sẽ có một ngàn hai trăm chín mươi ngày. Phúc thay ai kiên tâm chờ đợi suốt một ngàn ba trăm ba mươi lăm ngày. Phần ngươi, hãy đi cho tới cùng. Ngươi sẽ được an nghỉ, rồi sẽ đứng lên lãnh phần dành cho ngươi khi thời gian chấm dứt” ( Đn 12, 7-12 ).

Đức Mẹ giải thích với Lm. Gobbi rằng lời tiên tri trên đây về việc bỏ “Hy Lễ Hằng Ngày” bao gồm việc hủy bỏ Thánh Lễ bởi kẻ phản Kitô: “Bằng cách chấp nhận giáo lý phản nghịch, người ta sẽ cho rằng Thánh Lễ không là Hy Lễ mà chỉ là bữa ăn thánh, nghĩa là chỉ tưởng nhớ việc Chúa Giêsu làm trong Bữa Tiệc Ly. Như vậy, việc cử hành Thánh Lễ sẽ bị bỏ. Trong việc bỏ Hy Lễ hằng ngày như thế là tội phạm thánh của kẻ phản Kitô, việc này sẽ kéo dài khoảng ba năm rưỡi, tức là một ngàn hai trăm chín mươi ngày”. Điều này chưa xảy ra, nhưng khi nó xảy ra, chúng ta có thể chắc rằng các sự kiện dẫn tới việc Chúa Giêsu đến lần thứ hai đang dần tới cao điểm – phàm ngôn gọi là Giờ G.

+ Dấu Chỉ Thứ Năm: DẤU LẠ

Những hiện tượng lạ xuất hiện trên trời, chúng ta thường gọi là “điềm thiêng, dấu lạ”. Chúa Giêsu giải thích những gì sẽ xảy ra ngay trước khi Ngài đến lần thứ hai: “Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến” ( Mt 24, 30 ).

Dấu lạ Con Người xuất hiện là Dấu Thánh Giá xuất hiện trên trời mà Chúa Giêsu mặc khải cho Thánh Faustina được ghi trong Nhật Ký: “Trước ngày công thẳng sẽ có dấu lạ trên trời: Mọi ánh sáng trên trời sẽ tắt lịm, và sẽ có tối tăm bao trùm trái đất. Rồi Dấu Thánh Giá sẽ xuất hiện trên trời, từ những lỗ đóng đinh chân và tay Đấng Cứu Thế sẽ chiếu tỏa ánh sáng soi chiếu trái đất một lúc. Điều này sẽ xảy ra ngay trước ngày cuối cùng”.

III. KHI NÀO TẬN THẾ ?

Chẳng ai biết trước: “Về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” ( Mt 24, 36; Mc 13, 32 ).

Trong sứ điệp trao cho Lm. Gobbi ngày 15.9.1991, Đức Mẹ mô tả đó là tân kỷ nguyên ( thời đại mới ) của hòa bình và niềm vui xảy ra đồng loạt với thời cuối cùng: “Tân kỷ nguyên xảy ra đồng loạt với sự hoàn tất Ý Chúa... Từ việc hoàn tất Ý Chúa, cả thế gian đang trở nên mới, vì Thiên Chúa thấy đó là Vườn Địa Đàng Mới, nơi Ngài có thể cư ngụ trong tình yêu thương hài hòa với các thụ tạo... Tân kỷ nguyên mà Mẹ đang chuẩn bị cho con sẽ xảy ra đồng loạt với sự sụp đổ của Satan và triều đại của nó. Mọi quyền lực sẽ bị hủy diệt”.

Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” ( Pl 4, 6-7 ). Sau hàng loạt biến động xảy ra, “kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” ( Mt 24, 13 ). Và Chúa Giêsu kết luận: “Bấy giờ sẽ là tận cùng” ( Mt 24, 13-14 ).

IV. TẬN THẾ – VUI HAY BUỒN ?

Trước bất kỳ sự kiện nào đó đều có những cách nhìn và cảm nhận khác nhau. Có người vui, có người buồn, và cũng có người bàng quan – chẳng vui chẳng buồn. Trước sự kiện trọng đại Tận Thế cũng không tránh khỏi “lẽ thường” ấy. Người Việt chúng ta có câu: “Thà chết một đống hơn sống một mình”. Thế cũng hay đấy !

Dù biến động nào xảy ra thì chúng ta vẫn phải tiếp tục cuộc sống đời thường, nhưng có điểm khác: Cầu nguyện nhiều hơn và thành tâm hơn, tỉnh thức hơn và sẵn sàng hơn. Chúng ta tiếp tục sống theo cách sống của một Kitô hữu đích thực: Sống mỗi ngày như ngày cuối cùng. Nghĩa là phải hành động như mình bất tử, nhưng hãy sống như mình sắp chết. Chân thành yêu thương mọi người như thể mình không còn cơ hội để thể hiện nữa, và hãy cầu nguyện như thể mình cầu nguyện lần cuối với Chúa.

Chúng ta có sẵn những linh cụ là Ơn Chúa, Thánh Lễ, Bí Tích Hòa Giải, Chuỗi Mai Khôi, Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót, và Ơn Toàn Xá. Nếu chúng ta tận dụng các linh cụ đó thì ngày tận thế sẽ không làm chúng ta lo sợ, mà đó là lúc vui mừng tận hưởng hạnh phúc. Khi một người qua đời, chúng ta không nói là “hân hoan về Nhà Cha” đó sao ? Về Nhà Cha sao lại buồn ? Nếu về Nhà Cha mà cảm thấy buồn thì vậy là bạn thích đi hoang !

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ cách cầu nguyện khi một trong các Tông Đồ nói: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện” ( Lc 11, 1 ). Và Ngài đã dạy lời cầu nguyện “tiêu chuẩn” nhất: Kinh Lạy Cha ( Mt 6, 7-13; Lc 11, 2-4 ). Trong đó có mọi thứ con người mong muốn. Lương thực hằng ngày, sự tha thứ và sống tốt lành là những vấn đề “nóng” của cuộc sống, Thiên Chúa biết hết. Vì thế mà các Thánh luôn khôn ngoan: Phó thác cho Thiên Chúa quan phòng. Quả thật, “lòng có đầy, miệng mới nói ra” ( x. Lc 6, 43-45 ).

Dù có điều gì xảy ra, điều lớn hoặc nhỏ, điều bất thường hay bình thường, hãy noi gương Đức Mẹ “ghi nhớ và suy niệm trong lòng” ( x. Lc 2, 19 và 51 ). Vì người khôn là người nghe nhiều, nhìn nhiều và làm nhiều nhưng ít nói, không ngừng suy nghĩ và cân nhắc vấn đề cho thấu đáo.

Thiên Chúa đã “tính rất kỹ” khi tạo dựng con người: Hai con mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi, hai tay, hai chân, thậm chí là hai bán cầu não, thế nhưng chỉ một miệng và một trái tim. Hai con mắt để nhìn nhiều, hai lỗ tai để nghe nhiều, hai lỗ mũi để “ngửi” nhiều ( hiểu theo nghĩa bóng ), hai tay để hành động nhiều, hai chân để đi nhiều, hai bán cầu não để suy nghĩ nhiều. Ngược lại, một miệng để nói ít, một trái tim để chung thủy: Kính mến Chúa hết lòng, hết sức và hết trí khôn, đồng thời cũng yêu thương mọi người như chính mình. Chúa quả là Đại Siêu Nhân. Bạn thấy kỳ diệu không ?

Để không dao động và hoang mang trước mọi biến cố, hãy áp dụng “bí quyết” mà Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” ( Lc 21, 36 ). Thánh Phaolô cũng cầu chúc: “Chúa là nguồn mạch bình an, xin Người ban cho anh em được bình an mọi lúc và về mọi phương diện. Xin Chúa ở cùng tất cả anh em” ( 2Tx 3, 16 ). Chắc chắn Chúa luôn ở với chúng ta, vì Đức Kitô đã hứa: “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 20 ).

Nói cho cùng, có sợ cũng chẳng làm gì được, thế thì sợ làm gì cho “tổn thọ” chứ ? Chuyện gì đến sẽ đến: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào, sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” ( Lc 21, 25-27 ).

Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết trước như vậy, và Ngài căn dặn: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” ( Lc 21, 28 ). Ai được chứng kiến giây phút tận thế là người diễm phúc. Không biết chúng ta có được diễm phúc đó hay không, nhưng chắc chắn một điều là ai cũng chứng kiến giây phút tận thế của chính cuộc đời mình: CHẾT. Đó là lúc tận thế thực tế nhất và minh nhiên nhất đối với mỗi chúng ta.

Mùa Vọng lại về, nhắc mọi người phải luôn tỉnh thức mà chờ Chúa Giêsu đến, đó là lúc Ngài gọi chúng ta ra khỏi thế gian để trình diện và báo cáo về cuộc đời mình với Thiên Chúa Cha. Hãy tập trung vào Chúa Giêsu và tín thác vào Ngài, đừng chú ý vào ngày tận thế, nếu “yếu bóng vía” sẽ hoang mang và có thể mất đức tin !

Lạy Thiên Chúa, xin Ngài nên như núi đá cho chúng con trú ẩn, và như thành trì để cứu độ chúng con ( Tv 31, 3 ). Xin thêm Đức Tin cho chúng con để chúng con an tâm, can đảm vững bước và kiên trì mong chờ Chúa đến. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

----------------------------------

 

MV 2-A119: Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến” – ViKiNi


(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

 

Việc rao giảng của Gioan Tẩy giả, của Chúa Giêsu và các tông đồ đều khởi đầu bằng câu: “Hãy MV 2-A119


Việc rao giảng của Gioan Tẩy giả, của Chúa Giêsu và các tông đồ đều khởi đầu bằng câu: “Hãy ăn năn trở lại vì nước trời đã đến gần (Mt. 4, 17; 10, 7; Cv. 2, 38). Đây là việc khẩn trương, không thực hiện thì sẽ diệt vong. Khi nghe những lời hô hào của các nhà bác học về cứu thế giới khỏi ô nhiễm môi trường, khởi tệ nạn ma túy và dịch bệnh sida, thì ai cũng lo thực hiện những phương pháp đề phòng, trừ hạng cố chấp liều mạng lao đầu vào chốn tử thần. Lời hô hào của Gioan mang tính chất cứu nguy cho cả thế giới hôm qua, hôm nay và mãi mãi, nếu muốn sống trong nước Trời.

I- Nước Trời là gì cho con người được sống?

Nếu thế giới vật chất muốn tồn tại cần có thiên nhiên nguyên thủy trong lành như Thiên Chúa đã dựng nên nó, thì thế giới loài người muốn trường tồn bất tử còn cần hơn nữa một nước trời như Thiên Chúa muốn. Thiên Chúa đã muốn một nước trời lạ lùng mà tiên tri Isaia chỉ có thể mô tả bằng những hình ảnh kỳ diệu trong bài đọc một:

1- Về Đấng cai quản nước trời: đó là Đấng thần trí Chúa, thần trí khôn ngoan, minh mẫn, thấu hiểu, anh dũng, sáng suốt, sùng tín và sủng ái của Thiên Chúa. Công việc của Ngài là xét xử công minh nhân từ cho người thấp cổ bé miệng, phán quyết vô tư, bênh kẻ nghèo. Lời Ngài như gậy đập tan bọn cường hào, hơi thở Ngài giết chết phường gian ác (Isaia). Ngài là nguồn kiên nhẫn, an ủi và đầy lòng thương xót. Ngài đến phục vụ Do-thái và các dân ngoại (Phaolô).

2- Về dân trong nước trời là ai? đó là tất cả các dân tộc: Do thái cũng như dân ngoại. Họ là những người ăn năn trở lại, được rửa bằng Thánh thần và lửa. Họ được sống trong triều đại đua nở hoa công lý và thái bình thịnh vượng trong hạnh phúc, như beo sống với dê con, bò ăn chung với sư tử và gấu.

II- Điều kiện sống trong nước trời vinh phúc là ăn năn trở lại.
Ăn năn trở lại hay sám hối trở về là từ bỏ tình trạng tội lỗi trở về sống ơn cứu độ, từ bỏ lối sống xa Chúa, về sống với Chúa (Os. 14, 2; Ger. 3, 14), như thế ăn năn trở về là biến đổi sâu xa của hai trạng thái tâm lý: đổi mới não trạng và đổi mới nội tâm do Thần trí Đức Kitô tác động.

a/ Đổi mới não trạng nhờ trí khôn nhận ra và hối tiếc về tội mình (metanoia: repentir). Đây là công việc của trí khôn luôn luôn xét mình, kiểm tra cuộc sống mình đối chiếu với lời Chúa, luật Chúa. Sự ăn năn sám hối được thể hiện qua nhân vật điển hình: người thâu thuế. Khi nhận ra lầm lỗi của mình, ông đã khiêm tốn đấm ngực ăn năn, cúi mặt xuống đất, nhận mình tội lỗi và cũng không dám xin tha. Não trạng ông đã đổi mới vì hoàn toàn nhận ra mình khốn nạn trước mặt Chúa. Trái lại, người biệt phái không thấy tội lỗi mình, chỉ thấy mình đầy công đức, đã kiêu hãnh ngẩng đầu lên khen mình và chê trách người thu thuế.

b/ Đổi mới nội tâm nhờ ý chí quyết tâm trở về nguồn gốc vinh quang của mình (epistrephein: revenir), mình đã bỏ nguồn gốc ra đi, cuộc đời lang thang bơ vơ, trụy lạc, chỉ gặp những khốn cùng “cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”. Đó là thứ con thiêu thân, như đứa con hoang đàng: ôm hết của cha đi ăn chơi trác táng, gặp nạn đói cùng khốn khó mới nhận ra mình xúc phạm đến cha hiền. May thay, anh đã kịp thời ăn năn khóc lóc hối cải, chỗi dậy tiến về nhà cha, nguồn gốc tổ ấm chan hòa tình thương vui mừng hạnh phúc chân thật. Phaolô cũng nhận ra tình thương vô biên đó, đã trở lại và đã mạnh mẽ tuyên bố trước vua Agripa “Tôi đi rao giảng kêu gọi chư dân sám hối và trở về cùng Thiên Chúa” (Cv. 2 6, 20). Đó là nước Trời thật.

----------------------------------

 

MV 2-A120: Hoa trái cuộc đời

 

Qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã đưa ra một tương lai tốt đẹp, ở đó chỉ có hòa bình và yêu MV 2-A120


Qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã đưa ra một tương lai tốt đẹp, ở đó chỉ có hòa bình và yêu thương, ở đó chỉ có hạnh phúc tinh ròng, không hề bị mây đen che phủ. Người ta sẽ không còn lo sợ chiến tranh và tiền bạc sẽ được dùng để xoa dịu những khổ đau và bất hạnh. Thế nhưng phải chăng đó chỉ là một giấc mơ?

Đúng, đó chỉ là một giấc mơ, nhưng giấc mơ ấy phải biến thành sự thật, nếu như mọi người đều nhận biết Đức Kitô, đều thực thi giới luật yêu thương của Ngài, đều coi nhau như anh em một nhà. Niềm hạnh phúc ấy không phải là một quà tặng  được trao banm nhưng là một công trình mà mỗi người chúng ta phải ra sức góp phần, phải cố gắng xây dựng. Thiên đàng chỉ được hứa cho những người tận tâm phục vụ Chúa và anh em.

Chúng ta không phải là những cây khô héo và cằn cỗi, bởi vì  như lời thánh Gioan tilền hô đã cảnh cáo: cây nào không đâm bông kết trái sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Và rồi Gioan đã kết luận bằng những lời ld thật nghiêm khắc:

 - “Đấng đến sau tôi nhưng lại quyền năng hơn tôi. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Chính đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và trong lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Ngài, rồi Ngài sẽ thu lúa vào kho còn rơm thì đốt trong lửa không hề tắt.

Chúng ta đã được loan báo, nên chúng ta không thể đến cùng Chúa với đôi bàn tay trống rỗng, nhung phải đến cùng Chúa với đôi bàn tay chất đầy công nghiệp. Vậy chúng ta phải làm gì?

Tôi xin thưa hãy tôn vinh Chúa bằng chính những hành động bác ái yêu thương của mình. Hãy giúp đỡ những người có thiện cảm cũng như những kẻ đầy ác cảm với chúng ta, cùng chia sẻ những ước mơ, những sở thích với chúng ta hay không, như lời thánh Phaolô đã yêu cầu: Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Chú đã tiếp rước anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.

Để kết luận, tôi xin đưa ra một vài mẫu gương, như những chứng từ sống đông giữa lòng cuộc đời, để chúng ta bắt chước. Mẫu gương thứ nhất về cha Thelliler de Poncheville. Ngài là một nhà giảng thuyết nổi tiếng, nhưng lại giàu lòng bác ái yêu thương. Ngày kia khi nghe biết có một người đàn bà tội lỗi bị đau nặng tại nhà thương, ngài liền mua một chiếc quạt, đem đến biếu và thăm hỏi. Ngài nói với bà ấy:

- Tôi tới đây thăm bà vì tôi yêu thương linh hồn bà.

Người đàn bà thực sự cảm động và nói:

- Thưa cha, nhiều người cũng đã đến thăm con và nói rằng yêu thương con, nhưng Lời Chúa và chiếc quạt này đã mang lại cho con một ý nghĩa khác.

Tình thương của cha đã làm cho tâm hồn bà tìm về cùng Chúa, trong khi đó, sự khinh bỉ đã đảy bà tới chỗ oán hận và tuyệt vọng.

Mẫu gương thứ hai về thánh Gioan Cottolengô. Ngài là một người đã hiến trọn cả cuộc đời để chăm sóc những người đau yếu, điên khùng và bất hạnh. Ngài tận tình giúp đỡ họ bằng những việc làm cụ thể. Ngài an ủi họ bằng những lời lẽ đơn sơ và chân thành, bởi vì ngài luôn ý thưc mỗi khi làm như thế là làm cho chính Chúa. Từ lời nói đến việc làm, bao giờ ngài cũng tỏ cho họ thấy một tình yêu thương trìu mến.

Noi gương các thánh, chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống để chúng ta luôn bước đi dưới sự soi dẫn của đức tin, nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa.

Cầu nguyện.

Lạy Chúa, trong mùa vọng này, xin cho chúng con biết lắng nghe và thực thi sứ điệp của Gioan tiền hô, bằng cách sám hối ăn năn và chất đầy trên đôi tay nhỏ bé của chúng con những hành động bác ái yêu thương, đó là những hoa trái cuộc đời chung con đem đến cùng Chúa, nhờ đó chúng con sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.

----------------------------------

 

MV 2-A121: Thanh lọc - Trầm Thiên Thu

 

Thanh lọc là làm cho trong sạch, làm cho tinh khiết, bỏ chất dơ bẩn và lấy chất tốt lành. Anh ngữ MV 2-A121


Thanh lọc là làm cho trong sạch, làm cho tinh khiết, bỏ chất dơ bẩn và lấy chất tốt lành. Anh ngữ dùng chữ “purge” để chỉ hành động thanh lọc, do đó sinh ra tính từ “purgatory” (có tính chất làm trong sạch), vì thế mà sinh ra danh từ “purgatory” (nơi thanh lọc, chốn thanh luyện). Theo Công giáo, Purgatory có nghĩa là Luyện Hình hoặc Luyện Ngục.

Mùa Vọng là thời gian tẩy rửa linh hồn để đón Con Thiên Chúa giáng sinh. Thanh lọc là hành động cần thiết trong cuộc sống, nhất là thời đại ngày nay, nhiều thứ ô nhiễm. Càng phải thanh lọc kỹ hơn khi sống trong môi trường ô nhiễm nặng như Việt Nam hiện nay – mọi nguồn đều ô nhiễm, kể cả ẩm thực.

Thanh lọc là bảo vệ mình khỏi những thứ tác hại do môi trường. Đơn giản nhất là dạng “khẩu trang” được đa số sử dụng khi ra đường, có người không chỉ đeo vài lớp khẩu trang, mà còn thêm vải tấm chụp từ đầu tới cổ, đôi khi nhìn phụ nữ Việt Nam mà cứ ngỡ là phụ nữ Hồi giáo. Ai cũng bịt kín mít, thật khó có thể nhận biết ai quen hay lạ. Kỹ quá cũng… mệt!

Thể lý đã vậy, tinh thần còn cần được bảo vệ kỹ hơn nữa. Ngày nay có quá nhiều thứ rác rưởi nguy hiểm trên internet – net trắng thì ít mà net đen thì nhiều. Facebook được nhiều người “ưa dùng” nhưng lại có quá nhiều mối nguy hiểm. Có những người commen những câu chẳng đâu vào đâu, vu vơ, linh tinh, vớ vẩn. Và tất nhiên cũng không ít kẻ lợi dụng Facebook để mưu tính những chuyện khuất tất.

Có những tên nghe rất “kêu” hoặc có vẻ “đạo đức” nhưng trong đó có mối nguy tiềm ẩn khó lường trước. Ngay cả hình đại diện cũng chưa đáng tin nếu chúng ta không biết họ là ai, vì có những kẻ lấy “râu ông nọ cắm vào cằm bà kia”, không biết đâu là thật hay giả. Cũng có những trang xem chừng “nghiêm túc” nhưng biết đâu chừng phía sau là một ổ virus độc hại. Những kẻ câu LIKE (thích) là những kẻ tồi tệ. Nên block (khóa) họ để tự bảo vệ, tức là tự thanh lọc trước khi quá muộn!

Vì thế mà luôn phải cảnh giác cao độ, đúng như tiền nhân đã xác định: “Cẩn tắc vô ưu”. Thời buổi này cũng nên “di truyền” máu-đa-nghi của Tông đồ Tôma lắm đấy! Và thật chí lý với câu nói nghe như vè thế này: “Đừng cãi lý với kẻ say, đừng bắt tay với kẻ xấu, đừng chiến đấu với kẻ liều, đừng nói nhiều với kẻ ngu”. Chí lý lắm đấy chứ. Thật thà thì thẳng thắn, thẳng thắn thì thật tốt. Những kẻ nói ngọt và lấy lòng thì chẳng ra gì, người Anh gọi họ là dân “fair-weather” – tức là những người bạn phù thịnh, ưa nịnh, chỉ chấp nhận quen khi chúng ta có cái gì đó mà họ có thể lợi dụng, nhưng khi chúng ta gặp hoạn nạn thì họ không bao giờ xuất hiện.
Mùa Vọng về, năm mới Phụng Vụ tới, đó là thời điểm chúng ta cần thanh lọc kỹ lưỡng hơn, thanh lọc bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.

Trình thuật Is 11:1-10 nói về vị Minh Quân thuộc dòng dõi Đa-vít. Ngôn sứ Isaia mô tả: “Từ gốc tổ Giessê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà. Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành”.

Nông dân Việt Nam có câu: “Nó bé nhưng gié nó to”. Ý nói về những cây lúa tuy nhỏ bé nhưng trổ ra những gié lúa trĩu nặng những hạt căng mọng. Những thứ nhỏ bé thường là những thứ quan trọng và cần thiết. Chẳng hạn như DNA (deoxyribonucleic acid), dạng chuỗi xoắn đôi quá nhỏ bé, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng nó lại khả dĩ duy trì sự sống, khỏe hay yếu lệ thuộc vào nó và nó mang tính di truyền. DNA ở người có khoảng 3 ngàn tỷ cặp base – gồm 4 hóa chất: Adenine (A), Guanine (G), Cytosine (C), và Thymine (T). Thật kỳ diệu, và chỉ có Thiên Chúa mới tạo được như vậy!

Kinh Thánh cho biết về thời đại của Thiên Chúa: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. Đến ngày đó, cội rễ Giessê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang”.

Đó là sự bình an đích thực, chỉ có ở Vương Quốc của Thiên Chúa. Hòa bình mà chúng ta hưởng ngày nay không vững bền, đôi khi chỉ là hòa-bình-ảo, nghĩa là không có chiến tranh súng đạn nhưng vẫn lo sợ đủ thứ, sợ vì nạn ô nhiễm khắp nơi, ngay cả thực phẩm cũng không an toàn thì làm sao bình an được đây? Ảo giác về hòa bình thôi!

Chưa được hưởng nền hòa bình đích thực vì chưa có công lý nghiêm minh. Có công lý mới khả dĩ có hòa bình. Có thời đại nào kỳ cục đến mức độ phải báo cáo hoặc khai báo khi đi làm từ thiện? Những người hảo tâm muốn làm từ thiện là có tội sao? Thật tồi tệ! Thảo nào tác giả Thánh Vịnh đã từng phải tha thiết cầu xin: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:1-2).

Vương Triều Thiên Chúa rất tuyệt vời, bởi vì Ngài là Quốc Vương Chân Lý, và Ngài chỉ tuyển trạch các quần thần thực sự có lòng nhân ái, vì thế “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Tv 72:7-8).

Thế lực trần gian luôn coi thường công lý và rất sợ sự thật, đám dân đen luôn bị những kẻ ăn trên ngồi trước đày đạo và áp bức, ăn chặn mọi thứ, kể cả túi mì tôm. Những người hảo tâm biếu một chút thực phẩm và ít tiền thì bị chúng cướp mất. Từ ngàn xưa, Kinh Thánh đã nói rất chính xác: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn 29:2). Trái ngược với nhân gian, Thiên Chúa là tình yêu, Ngài luôn chạnh lòng trắc ẩn với những kẻ thấp cổ bé miệng: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ” (Tv 72:12-13).

Lời hay thì không thật, lời thật thì không hay, thế nên người ta nói rằng “sự thật thì hay mất lòng”. Thà mất lòng trước rồi được lòng sau. Thiên Chúa luôn thẳng thắn, những người ưa lươn lẹo cảm thấy khó chịu và chói tai khi nghe Ngài giáo huấn, nhưng ai chịu nghe thì sẽ được an tâm và sống thanh thản. Quốc Vương Công Lý là Đức Giêsu Kitô, luôn nói thật và nói thẳng. Không thế cũng không được, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát con người khỏi lầm lạc (x. Ga 8:32).

Kinh Thánh xác định rạch ròi: “Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ, nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời. Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc” (Tv 72:17). Chắc chắn như thế. Sự thật mãi mãi là sự thật, người ta có cố ý bóp méo cỡ nào cũng không được. Người Việt cũng có câu: “Cây ngay không sợ chết đứng”.

Kinh Thánh cũng đã nói rõ: “Nịnh hót ai là giăng lưới dưới chân kẻ ấy” (Cn 29:5). Những kẻ bất tài vô dụng thì ưa nịnh bợ, khoái tâng hót. Chắc chắn kẻ nịnh hót là kẻ xấu, không đáng tin, vì họ là kẻ giăng bẫy hại chúng ta. Vậy mà thế gian lại “chuộng” phong cách đó. Thế nên ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã gióng lên hồi chuông cảnh báo: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:4 & 6). Con đường đó chính là lòng dạ con người, là chính nếp nghĩ và các động thái khúc khuỷu đầy mưu mô thâm độc. Sửa cho thẳng con đường là một cách thanh lọc cần thiết để tâm hồn trở thành nơi xứng đáng cho Thiên Chúa ngự vào.

Dù có thế nào thì cũng đừng tự ái, đừng tuyệt vọng về tình trạng của mình. Mùa Vọng không chỉ nhắc chúng ta mong chờ Đấng Cứu Thế, mà còn dạy chúng ta duy trì niềm hy vọng. Có “lửa” hy vọng rồi sẽ có thể thắp sáng những thứ khác. Hãy lưu ý “chuỗi liên kết” này: Cuộc sống sẽ chấm dứt khi chúng ta NGỪNG mơ ước, hy vọng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn tin tưởng, tình yêu cũng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn quan tâm người khác. Thật đáng lưu ý biết bao!

Kinh Thánh là kho tàng vô giá, vì mọi thứ đều có thể tìm thấy trong đó. Càng biết Kinh Thánh càng thấy kỳ diệu. Thánh Phaolô cho biết: “Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15:4). Vững lòng trông cậy tức là tiếp tục hy vọng. Niềm hy vọng là cửa ngõ dẫn tới những vùng miền kỳ diệu mà con người chưa bao giờ ngờ tới.

Là con người, ai cũng rất yếu đuối, vấn đề là có cố gắng hay không. Thánh Phaolô đã kinh nghiệm như vậy, thế nên ông chân thành cầu mong: “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 15:4-6).

Không ai có thể giúp mình bằng chính mình tự giúp mình. Thánh Phaolô cầu mong như vậy, nhưng chúng ta có nỗ lực thay đổi hay lại là chuyện khác. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. Thật vậy, tôi xin quả quyết: Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa” (Rm 15:7-9).

Phục vụ là điều cao cả. Chính Chúa Giêsu đã phục vụ và khuyên chúng ta phải phục vụ lẫn nhau. Phục vụ không hẳn là phục dịch như tôi tớ, mà đơn giản chỉ là yêu thương nhau, thiện cảm phải chân thành thể hiện từ ánh mắt.

Trình thuật Mt 3:1-12 nói về “con người giao thời” có tên gọi là Gioan. Ông là người-nối-kết-Tân-Cựu-Ước, là người tiền phong đi trước “mở đường” cho Chúa Giêsu.

Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đã rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Kinh Thánh cho biết rằng ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. DỌN và SỬA là hai hành động cần thiết: DỌN là làm sạch, SỬA là làm cho ngay ngắn. Phải DỌN trước rồi mới SỬA, không thể làm ngược lại.

Ông Gioan là “dị nhân” thứ thiệt, “bụi đời” chính cống, sống rất giản dị: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, thực phẩm là châu chấu và mật ong rừng. Người giản dị là người có chiều sâu nội tâm, thần kinh vững mạnh. Tất nhiên ông cũng có đặc điểm khác người: thật thà và thẳng thắn. Và chỉ vì ông nói thật, nói thẳng, muốn bảo vệ công bình xã hội, bảo vệ luân thường đạo lý nên ông bị những kẻ mưu ác ghét bỏ, toa rập với nhau lấy thủ cấp của ông (x. Mt 14:3-11).

Nghe nói có “anh chàng bụi đời” tên là Gioan ăn nói lưu loát và có phong cách lạ lùng, từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, người ta kéo đến ùn ùn để xem “người cõi trên” thế nào. Có lẽ mới đầu họ chỉ tò mò theo bản tính hiếu kỳ mà thôi, nhưng càng nghe càng thấm. Thế là họ cùng nhau thú tội và xin ông Gioan làm phép rửa cho họ ở sông Gio-đan.

Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc đến chịu phép rửa, ông biết họ giả vờ để mưu mô chuyện khuất tất, nên ông nói thẳng với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham’. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”. Mèn ơi, nói “xóc óc” ghê đi! Nhưng không thể không nói thẳng với những người giả hình, bề ngoài hiền như chiên ngoan mà bề trong là con cọp dự gầm gừ.

Chắc là họ cũng “chạm tự ái” lắm, nhưng họ không biết nói gì để phản đối, và lại họ thấy ông Gioan “chửi” đúng quá trời mà! Thấy họ im như thóc thối, ông Gioan nói luôn một lèo: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Cách thanh lọc của Thiên Chúa rất kỹ lưỡng!

Những lời của ông Gioan nói với nhóm Pharisêu và Sađốc cũng là lời cảnh báo dành cho mỗi chúng ta hôm nay. Có hồn thì tự liệu lấy. Thuận ngôn thì nghịch nhĩ, thuốc đắng mới đã tật. Phúc cho ai cảm thấy “ngứa tai” và “đắng lòng” khi nghe những lời thật như vậy!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận ra Ngài qua các biến cố của cuộc đời để con kịp chấn chỉnh trong thời gian còn Giờ Thương Xót của Ngài. Xin giúp con dọn sạch và sửa lại đường đời con cho ngay ngắn để con được diễm phúc đón Đấng Emmanuel, Con Yêu Dấu Ngài, ngự vào hôm nay và mãi mãi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại và luôn ở với chúng con. Amen.

----------------------------------

 

MV 2-A122: Anh em hãy thống hối, vì Nước Trời đã đến gần

 

Trước hết, ta tìm hiểu 3 điều: 1/ Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay không phải là Gioan Tông đồ MV 2-A122


Trước hết, ta tìm hiểu 3 điều:

1/ Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay không phải là Gioan Tông đồ. Gioan hôm nay là con ông bà Giacaria và Elizabet, bà đã sinh Gioan lúc tuổi già. Không rõ Gioan bỏ nhà, vào sống trong rừng hồi nào. Nay ông cũng tới 30 tuổi như Chúa Giêsu. Ông được gọi 2 tên: 1/ là Gioan Tiền hô, vì xuất hiện trước để kêu gọi dân thống hối dọn đường cho Chúa, 2/ là Gioan Tẩy giả, vì ông làm phép Rửa cho Chúa dưới sông Giodanô.

Gioan Tẩy giả tu rừng thời đó mặc áo lông thú vật, ăn châu chấu, mật ong rừng, đó là thức ăn của người nghèo, từ bỏ thú vui trong đời để trở thành người của Thiên Chúa.

Gioan kêu gọi người dân Thống hối: Nghĩa là "Thay đổi con người, từ xấu nên tốt, từ tốt nên tốt hơn, từ tư tưởng, lời nói, hành động, quay về cùng Thiên Chúa, để được sống muôn đời.

2/ Phép rửa của Gioan: đây là nghi thức bên ngoài "gìm người xuống nước" để tỏ ra lòng thống hối bên trong, không phải là Bí tích như Chúa Giêsu lập sau này".

3/ Phép Rửa của Chúa Giêsu: Là Bí tích (bí: bên trong, mắt không thấy nhưng 1- tha tội, 2- ban đức tin, 3- cho làm con Chúa. Tích: bên ngoài mắt ta thấy đổ nước trên trán, xức dầu thánh).

Ta suy 3 điều:

1- "Anh em hãy thống hối, vì Nước Trời đã đến gần." Đây là một thông điệp rất ngắn mở đầu sứ mạng của thánh Gioan. Ngắn thì dễ nhớ, nhưng không dễ thực hành.

Lời của thánh nhân có một sức mạnh to lớn làm cho nhiều người Do thái " từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, khắp vùng bờ sông Giođan kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan" . Những người không thành tâm bị ông mắng là "nòi rắn độc, đừng hòng thoát cơn giận của Chúa. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt và ném vào lửa Hỏa ngục. Mọi người đều có tội. Người ăn năn thống hối thì được tha, người không thống hối sẽ bị phạt.

2- Phần mỗi người chúng ta ngày nay, có cần thống hối không?

21. Có lẽ không, vì xét sơ sơ, không thấy mình có tội lỗi gì lớn? Không giết người, không trộm cắp, không ngoại tình..., nhưng thử hỏi: Tôi có kính mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn chưa? Tôi có thương yêu người ta như mình không? Chỉ sơ sơ 2 điều đó là thấy tội lò mò ra rồi.

22. Người ta phạm tội, vì nghĩ rằng đó không phải là tội, phá thai không phải là tội, gian lận không phải là tội. nói xấu không phải là tội, chửi bới không phải là tội...Người khác cũng làm như thế, có sao đâu!, Đó là lương tâm bừa bãi, biến tội thành không, biến trọng thành nhẹ, vì thế, người ta không ăn năn, không dốc lòng chừa, không xưng tội, không đền tội, không xa lánh dịp tội, và không sợ bị ném vào lửa hỏa ngục, người ta vào, tôi cũng vào. Không biết rằng mất Thiên đàng là sự thiệt thòi vô cùng.

23. Tôi phải nghe lời thánh Gioan kêu gọi, Chúa Giêsu kêu gọi, Giáo hội kêu gọi, Đức Mẹ Fatima cũng đang kêu gọi "Ăn năn thống hối". Tại Fatima, Đức Mẹ đã nói "Đừng phạm tội nữa, Chúa đã bị xúc phạm quá nhiều rồi".

Vậy tôi cần thống hối. Lỗi tại tôi mọi đàng.

Truyện: Có một gương lành ăn năn thống hối, đền tội cải thiện đời sống đáng nhớ hôm nay, đó là thánh Khảm, được kính ngày 13 tháng 1 hàng năm:

Thánh Luca Phạm Trọng Thìn, người tỉnh Nam Ðịnh, trí khôn thông minh, nhanh nhẹn, được lên chức Chánh tổng hồi còn trẻ, và giao tiếp với nhiều người quan quyền, ông đã có vợ nhỏ, như nhiều người thời đó, vì thế sống thờ ơ với đạo.

Nhưng nhờ lời khuyên của bố, của cha giải tội, có thể của bà tổng, ông đã thành tâm thống hối, cải thiện đời sống. Sự thành tâm của ông sinh quả tốt là sau khi xưng tội, ông đã đổi đời, nên người đạo hạnh, một gia trưởng và hội viên dòng Ba Ðaminh đạo đức, một ông Chánh tổng đáng tin cậy. Hơn nữa, khi bị bắt vì đạo, ông đã cương quyết trước tòa, dù bị đánh, đập, mất danh dự, ông không bước qua Thập giá. Ông khai trong bản tuyên xưng đức tin rằng:

"Tôi là người có đạo Kitô, tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, ngay cả cái chết đau đớn nhất, hơn là phạm một lỗi rất nhỏ trong đạo. Chính tay tôi viết điều này. Luca Thìn".

3- Tôi quyết tâm: theo của lễ 3 nhà đạo sĩ dâng Chúa Hài đồng (Vàng, nhũ hương, mộc dược)

1/ Trong tuần này, tôi chú ý hơn mục YÊU MẾN (vàng): mỗi ngày làm tử tế 50 lần Tác động Mến yêu "Giêsu-Maria-Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi các linh hồn" để làm hang đá thiêng liêng mừng Chúa Hài đồng.

2/ Xin Mẹ Maria giúp con gia tăng lòng mến Chúa mến Mẹ và Thánh Giuse, Bạn Trăm năm của Mẹ, và cứu các linh hồn.

* Nhớ lời kêu gọi của Thánh Gioan Tiền hô:"Anh em hãy thống hối, vì Nước Trời đã đến gần."

(Ca: Hãy chỗi dậy hỡi ai ngủ mê)

----------------------------------

 

MV 2-A123: Dọn Sẵn Con Đường Cho Đức Chúa


Lm. Giuse Nguyễn

 

Phát triển giao thông là nhu cầu thiết yếu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Vì vậy nhà nước MV 2-A123


Phát triển giao thông là nhu cầu thiết yếu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Vì vậy nhà nước sẵn sàng bỏ ra những số tiền lớn để làm sân bay, làm đường cao tốc, chỉnh sửa lại những tuyến đường đã hư hỏng, xuống cấp…

Đối với người Công giáo, Mùa Vọng cũng là thời gian để “làm đường và sửa đường”. Điều đó làm cho ý nghĩa của Mùa Vọng mang tính tích cực hơn vì không chỉ là sự chờ đợi, mà còn phải chờ đợi trong hành động cụ thể. Hành động cụ thể đó được tiên tri Isaia loan báo trong Cựu ước, và Matthêu nhắc lại trong trang Tin Mừng hôm nay: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3, 3)

Có thể nói Gioan Tẩy Giả là “bộ trưởng bộ giao thông vận tải Nước Trời”. Ông làm việc không vì lương bổng hay chức quyền, mà vì đó là sứ mạng. Vì vậy ông đã làm với tất cả tâm huyết, nhiệt huyết. Điều đó được thể hiện bằng một đời sống đơn sơ, đạm bạc: sống trong hoang địa, “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt 3,4) ; khác hẳn với những cán bộ của những quốc gia trần thế. Ông làm việc một cách mạn dạn, dứt khoát, quyết liệt. Sứ điệp chính yếu của ông là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3, 2). Ông sẵn sàng la rầy, quở trách nặng lời những cán bộ khác, cụ thể là nhóm Pharisêu và Xa đốc: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng suống vậy?” (Mt 3, 7b). Dân chúng thì tùy mỗi thành phần mà ông chỉ cho cách phải “làm đường” như thế nào: từ đám đông, người thu thuế, binh lính, cho đến cả những cô gái điếm nữa… Kể cả vua Hêrôđê làm tầm bậy, ông cũng sẵn sàng vạch mặt: “Còn tiểu vương Hêrôđê thì bị ông Gioan khiển trách vì đã lấy bà Hêrôđia là vợ của anh mình, và vì tất cả các tội ác mà tiểu vương đã phạm” (Lc 3, 19).

Một cán bộ như Gioan đáng để mỗi người chúng ta nể phục, kính trọng, học tập về đời sống cũng như sứ điệp của ông. Ông “dành cả tuổi thanh xuân” chỉ để dọn đường. Con đường này không đơn giản là đường đi, mà chính là đường về quê trời. Con đường này không chỉ để Chúa đến, mà còn để đến với Chúa.

Cuộc sống và sứ điệp của Gioan cho ta thấy được “Đấng đến sau” quan trọng đến mức nào, và đó chính là lý do tại sao ông sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả mạng sống mình để thi hành sứ mạng. Vì: “Hài nhi hỡi con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên”.

Khi đón một nguyên thủ quốc gia, hay một quan chức, hoặc một nhân vật quan trọng nào đó thì chính quyền phải làm cho con đường đón vị khách đó được tốt về mọi mặt, kể cả an ninh, và chắc chắn một điều là không được có những gì cản trở trên con đường lưu thông đó, nếu có phải dọn dẹp ngay. Con đường từ trần gian lên thiên đàng còn phải chuẩn bị công phu hơn. Vì thế Mùa Vọng là thời gian để ta “dọn sẵn con đường cho Đức Chúa”, là thời khắc để ta “sửa lại mọi sự trong ngoài” nhờ lửa Thánh Thần Chúa. Nói một cách ngắn gọn là để ta sám hối.

Sám hối là thành thật nhìn nhận những điều sai trái. Có một bản xét mình của Linh mục Thái Nguyên mà tôi rất thích, nó dường như tóm kết tất cả mọi hành động sai lầm của chúng ta, xin được giới thiệu như một gợi ý xét mình giúp chúng ta sám hối

Trong bản xét mình này, tác giả đưa ra những sai lầm của con dựa trên 3 nền tảng căn bản là đời sống nhân bản, tâm linh và trí thức. Trong tuần thứ 2 mùa vọng này, chúng ta hãy xét mình về đời sống nhân bản của chúng ta:

Quá chú trọng đến bản thân mình mà ít quan tâm đến tha nhân.

Coi trọng việc riêng mà coi nhẹ việc chung.

Chỉ làm những điều mình muốn làm mà không làm những điều mình phải làm.

Đòi hỏi người khác mà không hề đòi hỏi mình.

Góp phần xây dựng thì ít mà chê bai phê phán thì nhiều.

Ham quyền hành chức vụ mà không khiêm tốn phục vụ.

Phục vụ theo ý mình mà không theo nhu cầu của người khác.

Ưa chuộng và quí mến người này nhưng ghét bỏ và khinh thường người kia.

Cởi mở và vui vẻ với người này nhưng đóng kín và lạnh lùng với người khác.

Đặt nặng công việc mà coi nhẹ con người. (xem con người làm phương tiện).

Đặt nặng hiệu năng mà coi thường tính cách và ý hướng. (Bệnh thành tích).

Đòi hỏi có tự do mà không có khả năng sống tự chủ.

Khôn nhưng không ngoan, thẳng nhưng không khéo.

Phán đoán bên ngoài mà không tìm hiểu bên trong. (Nông cạn, hình thức)

Đánh giá mình và người khác dựa vào công việc, mà không dựa vào phẩm cách.

Biết lỗi mà không nhận lỗi; nhận lỗi mà không sửa lỗi. (Cố chấp)

Làm theo những gì mình nghĩ, mà không nghĩ về những gì mình làm.

Nhiệt thành mà thiếu khôn ngoan. (Chủ quan, nhẹ dạ).

Ham nghe người khác tâng bốc mà không muốn nghe sự thật. (tự lừa dối mình).

Muốn mọi người phải giúp mình nhưng mình chẳng giúp ai. (ích kỷ).

Chúng ta hãy nhìn lại xem, nếu thấy mình bị đánh động điều gì trong những lối sống đó thì hãy lo sửa đổi.

Mùa Vọng còn là thời gian của trang hoàng để mừng Chúa Giáng Sinh. Vì vậy ngoài việc làm đường cho bảo đảm, chúng ta còn phải làm đường cho đẹp. Sau khi đã sám hối, chúng ta còn phải sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối đó. Nghĩa là hãy làm những hành động cụ thể.

Con đường của Kitô hữu đẹp nhất khi trổ sinh những bông hoa bác ái yêu thương. Con đường đó sẵn sàng đón tiếp và vui vẻ khi mọi người tìm đến để họ cảm thấy mình như một vị thượng khách. Thế cho nên Giáo hội khuyến khích trong Mùa Vọng này những việc làm sẻ chia yêu thương.

Xin Chúa qua lời bầu cử của Mẹ Maria cho mỗi người, mỗi cộng đoàn biết vui mừng, phấn khởi, hăng say để dọn đường cho đến bằng việc sám hối để sửa những điều sai và trổ sinh hoa trái yêu thương trong đời sống hằng ngày. Xin Chúa cho mỗi người biết góp phần vào việc loan báo Tin Mừng trên chính con đường mình đang bảo trì, nâng cấp bằng nhiều cách thức khác nhau để con đường đến với Chúa sẽ có nhiều người đi chung.

----------------------------------

 

MV 2-A124: Chúa Nhật II Mùa Vọng, Năm A


 Bài đọc 1: Is 11,1-10

 

Năm 745 trước Công nguyên, Tiglath-pileser III lên ngôi vua Assyria (745-727). Ông quyết định MV 2-A124


Năm 745 trước Công nguyên, Tiglath-pileser III lên ngôi vua Assyria (745-727). Ông quyết định chinh phục tất cả các nước nằm về phía tây, bao gồm cả Israel. Ngôn sứ Isaia viết những lời này vào thời đó. Trong những câu trước đoạn này, ông sử dụng hình ảnh về các cây bị đốn chặt (10,33-34). Ông tiếp tục như vậy trong bài đọc của chúng ta. Ông nói tới một vị minh quân như một nhánh cây nhỏ sẽ mọc lên, sẽ phát triển mạnh mẽ. Vị vua tương lai sẽ xuất thân từ dòng dõi Giêsê và Đavít. Thần khí của Đức Chúa (c. 2), đã từng ngự trên Môsê, trên Đavít và nhiều vị lãnh đạo khác, giúp họ thực hiện những điều dường như không thể, thì cũng ở lại với vua. Sáu năng lực tinh thần mà thần khí ban cho vị vua tương lai được nói tới ở đây (c. 2): “Thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa”. Những ơn ban này khiến vua hoàn toàn khác biệt với những nhà lãnh đạo tầm thường khác. Vua sẽ dùng trí lực để bảo vệ dân, dùng sự khôn ngoan minh mẫn để thấu rõ đường lối của Đức Chúa, vua tỏ lòng kính sợ tuân phục các mệnh lệnh của Chúa. Vị vua lí tưởng này vừa có thể hiểu được các đường lối của Đức Chúa dành cho dân Ngài, và vừa có khả năng thi hành ý muốn ấy. Vua sẽ thực thi công lí, xét xử công minh, bênh vực thần dân cùng khổ (c. 4). Vua sẽ sử dụng uy quyền của mình mà trừng phạt những kẻ bất chính gian tà. Trong câu 5, “đai thắt lưng” và “giải buộc” có ý nói lòng trung thành thực thi công lí, và gần gũi với dân như những đồ dùng thiết thân nhất đối với mình.

Trong các câu 6-8 những hình ảnh yên bình giữa các con vật nói đến sự khôi phục tình trạng nguyên thủy mà Thiên Chúa dành cho loài người trước khi họ phạm tội chống lại Ngài. Sự hài hòa cũng được phục hồi giữa con người và súc vật. Một “môi sinh” mới được thiết lập: Mọi người sẽ được yên ổn và an vui trong triều đại của vị vua tương lai (x. Rm 8,19-22). “Sự hiểu biết Đức Chúa” ở đây không nằm trong lãnh vực tri thức, mà ở mối tương quan thân mật gắn bó. Vị vua này (cội gốc Giêse) (c. 10) sẽ đứng lên để làm cờ hiệu cho các dân. “Cờ hiệu” trước đây dùng để hiệu triệu các nước chống lại Israel để chịu xét xử (Is 5,6), nhưng bây giờ được dùng để mời gọi các dân các nước tới để hưởng phúc lành của vua mới.

Đáp ca: Tv 71,1-7,18-19

Đây là một lời cầu nguyện, xin Chúa phù hộ cho một vị vua, có lẽ được sử dụng trong lễ đăng quang của ông hoặc trong một buổi phụng vụ cử hành vào ngày kỷ niệm. Lời cầu nguyện này vừa nói lên địa vị hợp pháp của vua, là “Thái Tử” chứ không phải kẻ chiếm đoạt, vừa ước mong triều đại của vua được vĩnh tồn (c. 7). Lời cầu nguyện này cũng phản ánh một quan niệm cổ xưa cho rằng vua là cột trụ của công lí, chính vua thực thi lề luật và đề ra các quyết định. Vua là người bảo đảm công bằng cho mọi thần dân, có khả năng xác định điều gì đúng sai. Vua bênh vực đặc biệt những người nghèo hèn, cùng khổ (cc. 2, 4, 12); ông quyết đập tan (nghiền nát) những kẻ áp bức. Tác giả ước mong triều đại của vua được đánh dấu bằng sự thịnh vượng, sự thanh bình phủ khắp núi đồi (c. 3). Người xưa cho nhà vua là “thiên tử”, do vậy, sự phú túc, hòa bình, an lạc của một đất nước nói lên tình trạng vua có “được nghĩa” với Đức Chúa hay không (cc. 5-7). “Mưa sa”, “nội cỏ” cần thiết cho đất đai trổ sinh hoa mầu thế nào, thì địa vị của vua cũng cần thiết như vậy. Các câu 18-19 là lời Vinh tụng ca kết thúc Thánh vịnh. Suy nghĩ về sự cao cả, uy quyền và công trình của Đức Chúa như vậy tự nhiên tác giả Thánh vịnh cầu mong cho vinh quang ấy được tỏa rạng khắp hoàn cầu.

Bài đọc 2: Rm 15,4-9

Ở đầu chương này Phaolô khuyến giục các độc giả của ngài rằng “Chúng ta là những người có đức tin vững mạnh” thì chúng ta phải nâng đỡ những người yếu đuối (c. 1), giúp họ sống chân thực với lương tâm của họ. Chúng ta cần phải sẵn lòng chấp nhận những yếu kém của tha nhân để xây dựng cộng đoàn của Chúa Kitô. Chính Chúa là mẫu gương cho chúng ta, Người đặt mọi ưu tiên cho kẻ khác.

Phaolô trích dẫn Cựu Ước năm lần trong Rm 15,1-13. Giờ đây Phaolô cho chúng ta biết giá trị của Cựu Ước, được viết trong những ngày trước đây (c. 4). Khi Chúa Giêsu đón nhận những đau khổ và bất công vì vinh danh Chúa, thì Người kiện toàn những lời của Thiên Chúa đã được Cựu Ước loan báo. Chúa Giêsu trở nên mẫu gương cho chúng ta bởi vì chúng ta thường nóng vội biện minh cho mình chứ không để Chúa làm điều ấy cho chúng ta. Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa biện minh cho chúng ta thì trọn vẹn và tốt đẹp. Các câu 5-6 là một lời cầu nguyện, Phaolô cầu xin ơn hiệp nhất trong cộng đoàn tín hữu Rôma và cho điều này được thành tựu để họ có thể làm vinh danh Thiên Chúa. “Thiên Chúa kiên nhẫn”, Ngài luôn kiên nhẫn còn chúng ta thì thường vội vàng. Dường như Thiên Chúa luôn thực hiện quá chậm những lời cầu xin của chúng ta. Tuy nhiên, nếu Chúa không kiên trì nhẫn nại đối với những lỗi lầm và khuyết điểm của con người thì chúng ta đã bị tiêu diệt rồi! Trong Rm 15,9 một lần nữa Phaolô trở lại với Cựu Ước để xác quyết lập trường của ngài. Ngài trích dẫn Tv 18 (17),49 là một lời tiên tri phác họa một hoạt cảnh cho thấy mọi dân nước sẽ đến thờ lạy và ca mừng danh thánh Chúa.

Tin Mừng: Mt 3,1-12

Mátthêu đã trình bày thân thế của Chúa Giêsu xuất phát từ hoàng tộc Đavít, về sự ra đời và thời thơ ấu của Người, và đặc biệt về hành trình của những nhà chiêm tinh đến từ phương Đông đến thờ lạy Chúa. Bây giờ Mátthêu bỏ qua một quãng thời gian dài để bước vào khoảng năm 26-27 AD, và đưa chúng ta đến một vùng sa mạc cằn khô của miền Giuđê nơi ông Gioan Tẩy Giả khởi đầu sứ vụ. Khác với Luca, Mátthêu không nói gì về nguồn gốc của Gioan Tẩy Giả, cũng không cho chúng ta biết ông là bà con với Chúa Giêsu.

Tuy nhiên, Gioan là nhân vật của Mùa Vọng, chúng ta cũng cần biết đôi nét về thân thế của ngài, dựa vào Luca 1,5-17; 24-28:

-Gioan là con của tư tế Zacaria.
-Thiên thần báo trước việc ngài hạ sinh.
-Gioan được đầy ơn Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ.
-Ngài là anh em họ hàng với Chúa Giêsu.
-Sứ vụ của Gioan là đưa dân trở về với Chúa; và nhờ “thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia”, một ngôn sứ ở thế kỉ thứ chín, Gioan hướng dẫn họ bước đi trong nẻo chính đường ngay để chuẩn bị đón Chúa.
-Cũng như cha mình, Gioan thuộc dòng dõi Aaron và làm tư tế.
-Gioan lớn hơn Chúa Giêsu sáu tháng tuổi.

Gioan sống ở thế kỉ thứ nhất AD, còn ngôn sứ Êlia ở thế kỉ thứ chín BC, nhưng cả hai đều có những điểm chung trong sứ vụ:

            -Cả hai đều được sai đi để kêu gọi dân hoán cải để trở về với Chúa
            -Cả hai đều phải đối diện với các vua gian ác và thù nghịch
            -Những nhân vật quan trọng hơn kế tục sứ vụ của hai ngài
            -Cả hai đều nhận được những mặc khải từ sông Giorđan
Gioan kêu gọi mọi người thống hối, nghĩa là quay trở lại với lối sống mà Israel đã cam kết trong giao ước với Thiên Chúa, giống như lời các ngôn sứ đã từng vang lên trong Cựu Ước. Sứ điệp của Gioan rền rĩ ngân vang, nhắc bảo dân chúng rằng triều đại của Thiên Chúa đã đến gần, và những gì Thiên Chúa hứa với dân tuyển chọn cũng sắp được thực hiện trọn vẹn. Lời giảng của Gioan cũng là tâm điểm sứ điệp của Chúa Giêsu. Người cũng sẽ nhắc lại cùng một điều như vậy (Mt 4,17) để mời gọi người ta sám hối đón nhận Nước Trời. Dân CƯ hiểu rõ sự cần thiết của việc xưng thú tội và hoán cải để có thể sống thân tình với Thiên Chúa. Những hi lễ đền tội tại đền thờ Giêrusalem đều bắt đầu với việc xưng thú tội lỗi và dâng lễ kì an để có thể hiệp thông với Chúa. Những của lễ bất toàn này chỉ là tượng trưng cho lễ tế hoàn hảo mà Chúa Giêsu Kitô dâng tiến (Hr 10,1-10); cũng vậy, phép rửa mà Gioan đòi hỏi dân chúng đón nhận chỉ là hình ảnh mờ nhạt báo trước Bí tích Rửa Tội của Kitô giáo.

Cc.7-12: Vào thế kỉ nhất ở miền Giuđêa xuất hiện những nhóm tôn giáo tìm tạo ảnh hưởng trên quần chúng mà nổi bật nhất là hai nhóm Pharisêu và Sađốc. Người ta biết rất ít về tổ chức của các nhóm này ngoài sách Tân Ước và những tài liệu ít ỏi của Flavius Josephus (một tư tế và sử gia Do Thái sống ở thế kỉ thứ nhất AD). Có vài điều chúng ta có thể ghi nhận về nhóm Pharisêu: (1) Ông Nicôđêmô cũng là một người Pharisêu (Ga 3,1-3; 7,45-48); (2) Cộng đoàn Kitô hữu ở Giêrusalem cũng có những người Pharisêu (Cv 15,5); (3) Ông Phaolô là một Pharisêu (Cv 23,6-9; 26,5; Pl 3,5).

Ông Gioan khiển trách hai nhóm này có lẽ bởi vì ngài không tin họ sám hối chân thành. Rắn lục là loài rắn nhỏ cực độc sống trong sa mạc. Gioan chủ ý nói họ là dòng dõi của một loài rắn độc hại, dữ dằn hơn, Con Rắn, tức là Satan. Suy nghĩ của ngài là: cũng như Satan những người này ương ngạnh chống lại Thiên Chúa và kế hoạch của Ngài cho loài người (St 3,1; 14-15; Kn 2,24; Kh 12,9; 20,2; Mt 12,34 và 23,33). Thánh Phaolô cũng cho rằng những công việc tốt đẹp là dấu chứng của một lòng thống hối chân thành (Cv 26,20).

Ông Gioan sử dụng những hình ảnh của ngày mùa để có ý nói đến “mùa gặt sau cùng” khi Thiên Chúa tách biệt những người công chính đã làm trổ sinh hoa trái khỏi những kẻ gian ác trong Ngày Phán Xét cuối cùng (x. Mt 13,30; Is 41,16; Gr 15,7). Ngày ấy, những người công chính sẽ được đưa vào “kho lẫm” trên trời, còn những kẻ gian ác phải chịu thiêu đốt trong lò lửa không hề tắt. Hình ảnh này cũng là một thị kiến của thánh Gioan Tông đồ về ngày Chung Thẩm (Kh 21,11-15).

Vấn đề hôm nay là chúng ta có sẵn sàng lắng nghe và thực hành những lời khuyến giục của Lời Chúa để sám hối và đổi mới không. Chúng ta có chú tâm và tỉnh thức để có thái độ sẵn sàng cho ngày Chúa Kitô trở lại trong vinh quang không. Chúng ta có chuẩn bị để cho Đẩng Thẩm Phán “rê sảy” chúng ta như người nông dân sàng lúa để chọn lúa mẩy và loại bỏ thóc lép? Xem GLHTCG 1038-41 về ngày Phán Xét sau cùng.

*****

MỘT SỐ CHỦ ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN GIÁO LÍ

+ GLHTCG 50-58: Thiên Chúa đến gặp con người và tự mặc khải cho họ. “Kế hoạch yêu thương” dành cho con người. Các giai đoạn mặc khải. Giao ước với ông Nôê.

 + GLHTCG 522-524, 533-537: Gioan Tẩy Giả vị Tiền Hô của Chúa. Phép Rửa bởi nước và Thánh Thần.

 + GLHTCG 702: Thần Khí của Thiên Chúa chuẩn bị cho thời đại Đấng Messia.

Lm. Giuse Ngô Quang Trung

----------------------------------

 

MV 2-A125: Noi Gương Gioan Sống Khiêm Tốn

 

Đọc bài tin mừng hôm nay chúng ta thấy cảm phục con người của Gioan. Ngài thật thánh thiện và MV 2-A125


Đọc bài tin mừng hôm nay chúng ta thấy cảm phục con người của Gioan. Ngài thật thánh thiện và đầy khiêm tốn. Ngài không lợi dụng để đánh bóng tên tuổi mình. Ngài luôn biết mình là ai để sống đúng với vai trò của mình.

Phúc âm tường thuật rằng với lối sống chay tịnh khắc khổ và lời giảng dạy cứng rắn, thuyết phục đã khiến hàng ngàn người tuôn đến với Gioan. Gioan có thể lợi dụng sự tin tưởng của dân chúng để xưng mình là Đấng Cứu Thế có thể ban phát ơn lành, nhưng ông đã không làm vậy. Ông biết đó là hư danh, là hão huyền. Ông chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa. Ông còn nói rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho người”.

Gioan đã biết mình là ai? Nhờ đó mà Gioan đã sống đúng với phận mình. Còn chúng ta, có bao giờ chúng ta đã dừng lại để nghĩ: TA LÀ AI CHƯA?
Có ai đó từng hỏi với mình như vậy:

“Thử hỏi một lần ta là ai?
Mà sao mộng mãi giữa đêm dài
Đêm dài quên ngủ trong sinh tử
Thử hỏi một lần ta là ai?”

Ta là ai vậy nhỉ, ta có phải là cái tên này không? Không rồi, cái tên là do cha mẹ đặt cho, nên nó không thuộc về mình. Ta là ai phải chăng là thân xác này, nhưng thân xác này rồi cũng không ra khỏi vòng sinh lão bệnh tử, sẽ có ngày trở về cát bụi. Ta là ai mà giữa trốn hồng trần này, cứ mải miết, mải miết trong những vòng xoáy cuộc đời, và rồi cứ luẩn quẩn trong kiếp sinh tử cát bụi.

Và như thế , ta chẳng là gì, chỉ là cát bụi hư vô. Và một khi ta trở về hư vô thi chẳng ai biết ta và ta cũng chẳng còn quan trọng với ai?

Nhưng có một Đấng biết ta, và Ta biết Đấng ấy. Đó chính là Đấng tạo thành ta. Một mai ta sẽ trở về hư không, chẳng ai biết ta, cần đến ta, nhưng lại là thời gian ta ở trọn vẹn bên Đấng đã sinh ra ta. Đấng đã nuôi dưỡng ta và mãi mãi yêu ta, thế nên, ở đời này ta chẳng là gì nhưng với Đấng đã sinh ra ta thì ta mãi mãi là hình ảnh của Ngài, là con cái thần linh của Ngài.

Mùa vọng luôn nhắc nhở chúng ta về Đấng tạo thành đã đến trần gian và đang đi tìm chúng ta.  Ngài là Đấng đã sai Gioan và hôm nay đang sai chúng ta đi trước để dọn lối cho Người. Người dọn đường phải biết khiêm tốn để cho Chúa được lớn lên còn mình thì nhỏ lại. Đừng ngộ nhận mình là Đấng cứu thế có thể ban phát ơn lành. Hãy biết khiêm tốn nhìn nhận mình chỉ là hư vô như tiếng kêu vô nghĩa trong sa mạc mà thôi.

Nhưng thật đắng lòng khi nhìn vào những ngôn sứ trong thời đại hôm nay. Dường như họ đang tìm vinh quang và bổng lộc cho bản thân. Có những người tự hào là ai đến với họ thì sẽ được ơn lành của Chúa. Có những người tự hào về khả năng xây dựng những công trình nguy nga đồ sộ cho Chúa. Có những người tự hào nhờ họ mà biết bao lương dân trở về với Chúa. Hoá ra Chúa phải nhờ họ mới có thể ban phát ơn lành cho dân, nhờ họ mà Chúa mới có những nhà thờ hay đền đài nguy nga , nhờ họ mà Chúa mới có thêm những tín hữu cho  Ngài . . .

Lịch sử Giáo hội đã nhiều lần chứng minh khi con người đề cao mình là họ đang gieo vãi sự chia rẽ và phản loạn. và lịch sử Giáo hội cũng từng chứng minh rằng Thiên Chúa chỉ tuyển chọn những ai khiêm tốn để làm việc cho chương trình của Ngài như Gioan, hay như Mẹ Maria.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy bắt chước Gioan luôn biết khiêm tốn trước mặt Chúa dầu mình có làm được việc gì cũng chỉ là nhỏ bé tầm thường. Xin cho chúng ta luôn biết nhận ra mình là thụ tạo nên phải  tôn thờ Đấng tạo hoá hết linh hồn mình và biết sống để cho Chúa lớn lên còn tôi thì nhỏ bé đi. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

----------------------------------

 

MV 2-A126: Sứ Vụ Dọn Đường

 

Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi trước dọn đường và dọn MV 2-A126


Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi trước dọn đường và dọn lòng người để đón Đấng Cứu Thế. Thực thi sứ vụ dọn đường, Ngôn Sứ Gioan luôn gắn bó với Thiên Chúa và sống gần gũi với con người. Lời Chúa Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ngài tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Gioan nghe đã trở thành lời Chúa ngài công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ngài mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.

Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ngài  đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ngài đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.

Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế : ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.

Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.

Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.

Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.

Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đày và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường, sang Ai cập, về Nazareth, vào sa mạc, lên đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa, ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Người lên đường về nhà Cha.

Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô thường cổ võ nền văn hóa đối thoại và gặp gỡ : “Môn đệ của Chúa Giêsu là người luôn cố gắng đi gặp gỡ tha nhân, trao tặng sự đón tiếp, đối thoại với bất kỳ ai, làm chứng về kinh nghiệm sống của mình được thay đổi nhờ gặp gỡ với Chúa Kitô, Đấng là lòng Thương Xót, vì một cuộc sống được biến đổi, chắc chắn sẽ lây sang người khác (x.vaticannews.va).

Cuộc đời mỗi người là một con đường: con đường hai chiều đưa ta đến với Chúa và Chúa đến với ta, hay đưa ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Người.Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.

Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thần dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Người đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.

Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như người lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, những vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển. 

Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.

Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.

Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

----------------------------------

 

MV 2-A127: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI


 CN 2 MV NĂM AIn trang nàyLượt xem: 298

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

 

Chúng ta vừa nghe Lời Chúa trong Tin Mừng Matthêô. Cha đố chúng con hôm nay Lời Chúa nói MV 2-A127


Chúng ta vừa nghe Lời Chúa trong Tin Mừng Matthêô.

Cha đố chúng con hôm nay Lời Chúa nói với mọi người về vấn đề gì nào?

- Thưa cha về vấn đề sám hối.
- Chúng con giỏi. Chúng con trả lời rất hay. Cha khen chúng con.

1. Sám hối là gì?

Chúng con hãy nghe câu chuyện có thực này: Đài truyền hình Nhật bản trước đây đã trực tiếp trình chiếu hình ảnh của Ban quản trị một công ty dược phẩm tại Nhật bản đã quì gối gục đầu xuống sàn nhà để nhận tội. Trong hình ảnh mà thán thính giả trên toàn nước Nhật đã thấy được, toàn bộ Ban quản trị của một công ty cung cấp máu có tên là “Thập tự xanh” đã ra trước ống kính truyền hình để thú nhận vai trò của họ trong việc phân phối máu có nhiễm vi rút HIV hồi năm 1986 làm cho nhiều người phải mang bệnh sida. Sau khi chủ tịch của công ty đọc lời thú tội, thì trong đám đông có tiếng la lớn: “Hãy qùi xuống”. Đó là tiếng kêu của một trong những nạn nhân của hành động thiếu trách nhiệm trên đây. Liền sau đó, một người khác cũng hô lớn: “Hãy nhận lấy trách nhiệm của các ngươi về tội ác”. Tức khắc, ông chủ tịch và 5 người trong Ban quản trị công ty đã quỳ gối trước mặt cử tọa và gục đầu xuống sàn trong vòng mười phút để nhận tội và tỏ dấu sám hối.

Biết mình có tội, can đảm nhận tội, thành khẩn xin tha tội và quyết tâm sửa lại tội lỗi hay lỗi lầm của mình. Làm được như thế chúng ta gọi là sám hối. Đây là điều làm cho con người khác với ma quỉ.

Satan phàn nàn với Chúa:

- Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điếu sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời.

Chúa nói:

- Đã bao giờ ngươi ăn năn xin tha thứ chưa?

2. Tại sao phải sám hối.

Một ngày nọ, một nhà báo đã hỏi mẹ thánh Têrêsa một câu hỏi kỳ lạ. Anh ta hỏi rằng:

- Ngay cả Mẹ cũng xưng tội sao?

Tôi trả lời:

- Vâng, đúng vậy, tôi đi xưng tội mỗi tuần

Tỏ ra ngạc nhiên, anh ta nói:

- Chúa hẳn phải khắt khe lắm bởi đến Mẹ mà cũng phải xưng tội.

Tôi hỏi lại:

- Đứa con bé bỏng hiền ngoan như thiên thần của anh đôi khi cũng làm điều sai. Vậy anh nghĩ gì nếu một ngày, con anh đến gặp anh và nói: “Cha ơi, con xin lỗi? Anh sẽ làm gì? Anh sẽ vòng tay ôm lấy đức nhỏ và hôn nó. Tại sao vậy? vì đó là cách anh nói với con rằng anh yêu nó. Chúa cũng làm vậy. Ngài yêu tôi thật dịu dàng”. Ngay cả khi phạm phải điều lầm lỗi, chúng ta hãy cho phép mình đến gần hơn với Chúa. Chúng ta hãy nói với Ngài: “Con biết lỗi lầm làm con xa Cha, con không xứng đáng làm con Cha nữa, nhưng con vẫn cầu xin được tha thứ”

Nếu chúng ta mắc phải lỗi lầm hãy tìm đến Chúa và nói: “Con xin lỗi, con thực sự hối tiếc”. Chúa là một Người Cha khoan dung. Lòng nhân từ của Ngài còn lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Ngài sẽ tha thứ cho ta.

Thiên Chúa không mong chờ nơi con người điều gì khác hơn là tấm lòng sám hối: “Chúa ở bên những người sám hối, và cứu chữa những ai sầu khổ” (Tv 33,19). Chính lòng sám hối chân thành đã đem lại niềm vui cho cả Thiên đàng: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,7).

3. Bài học về lòng sám hối.

Chúng con hãy cùng cha suy nghĩ vể câu chuyện cảm động này. Câu chuyện có tên là: Tìm lại giá trị của cuộc đời, ở giây phút cuối”

Làm cảnh sát hơn 20 năm, từng chạm trán với vô số tội phạm nhưng ký ức về một lần truy đuổi khiến tôi suốt đời không quên.

Hôm ấy, tôi mặc thường phục đi tuần trên phố. Tôi nhìn thấy một gã thanh niên tóc dài đang bám theo sau một phụ nữ trung niên. Dựa trên trực giác của người cảnh sát, tôi đoán gã kia là một tên trộm. Quả nhiên đúng như sự dự đoán của tôi, ở chỗ rẽ gần siêu thị, hắn ta thò tay vào túi của người phụ nữ. Tôi nhanh chóng xông đến nắm chặt cái tay đang chuẩn bị rụt lại của hắn. Khi tôi rút chiếc còng từ phía sau lưng, thì hắn lùi lại một bước, bất ngờ dùng tay kia đấm thẳng vào mặt tôi, rồi co chân bỏ chạy.

Tôi vừa đuổi vừa kêu: “Bắt trộm, bắt trộm”. Lúc bấy giờ, trên đường phố có rất đông người, nhưng ai nấy đều hốt hoảng tránh ra hai bên, sau đó bàng quan đứng nhìn. Tên trộm chạy mỗi lúc một xa, nhưng chẳng có ai chịu giúp tôi một tay. Đúng lúc tôi bắt đầu nản chí, thì trước mặt tôi xuất hiện một cảnh tượng kịch tính. Từ trong đám đông, một người ăn mày chạy ra, giơ ngang chiếc gậy cản đường tên trộm. Bị tấn công bất ngờ, tên trộm ngã sõng xoài xuống đường. Người ăn mày lại xông đến, ôm chặt lấy chân tên trộm. Tên trộm thấy vậy liền bò dậy, rút dao đâm người ăn mày. Đúng lúc đó, tôi chạy đến, đấm thẳng vào mặt tên trộm.

Người ăn mày được đưa vào bệnh viện. Một lúc sau, bác sỹ từ trong phòng cấp cứu bước ra nhìn tôi, lắc đầu thất vọng. Người ăn mày được đưa ra khỏi vòng cấp cứu, hơi thở anh ra rất yếu ớt. Tôi nắm chặt lấy tay anh ta, nghẹn ngào nói:

- Tôi xin lỗi xin anh.

Người ăn mày mở to mắt, dùng chút sức lực cuối cùng, thều thào nói với tôi:

- Tôi phải cảm ơn anh. Trước đây tôi cứ nghĩ mình sẽ lặng lẽ chết đi giống như một con chó. Chính anh đã giúp tôi có cơ hội để trở thành một người đàn ông thực sự.

Tôi cảm thấy mình không sống uổng phí.
Mọi người có mặt ở đó đều rơi nước mắt.

Người ăn mày đã ra đi. Ra đi một cách oanh liệt, ra đi một cách đáng được trân trọng. Trong giây phút cuối cùng, anh đã tìm lại giá trị cho cuộc sống người ăn mày vốn dĩ bị coi là thấp hèn. Anh dùng cái chết để đổi lấy sự thừa nhận của xã hội đối với anh, cùng với sự tôn nghiêm của người đàn ông.

Người ăn mày đã ra đi. Ra đi một cách oanh liệt, ra đi một cách đáng được trân trọng. Trong giây phút cuối cùng, anh đã tìm lại giá trị cho cuộc sống người ăn mày vốn dĩ bị coi là thấp hèn. Anh dùng cái chết để đổi lấy sự thừa nhận của xã hội đối với anh, cùng với sự tôn nghiêm của người đàn ông.

Người ăn mày này đã làm được một việc mà nhiều người khác trong xã hội không làm được đó là đã làm cho cuộc đời của mình trở thành ý nghĩa.

Nếu chúng ta cũng biết làm tương tự như thế khi chúng ta thấy mình có lỗi với Chúa bằng lòng sám hối ăn năn, chắc chắn Chúa sẽ ban ơn tha thứ và phần thưởng Thiên đàng cho chúng ta. Amen.

Lm Giuse Đinh Tất Quý

----------------------------------

 

MV 2-A128: Sám hối là con đường dẫn tới ơn cứu độ


Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 11:1-10;  Rm 15:4-9;  Mt 3:1-12)

 

Nhờ Phụng vụ Lời Chúa tuần I mùa Vọng, chúng ta đã hiểu được ý nghĩa và mục đích của việc MV 2-A128


Nhờ Phụng vụ Lời Chúa tuần I mùa Vọng, chúng ta đã hiểu được ý nghĩa và mục đích của việc Con Thiên Chúa giáng trần:  Người đến thiết lập triều đại cứu độ.  Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta đi trên con đường dẫn vào triều đại ấy:  con đường sám hối.  Trước khi bước vào con đường sám hối mà thánh Gio-an Tẩy Giả đã rao giảng và mời gọi, chúng ta dừng một chút với bài đọc 1 để chiêm ngưỡng hình ảnh triều đại cứu độ được ngôn sứ I-sai-a mô tả.  Tiếp đến là bài đọc 2 với lời thánh Phao-lô kêu gọi chúng ta hướng về nhân vật chính đã thiết lập và điều hành triều đại ấy là Chúa Ki-tô, Đấng cứu độ mọi người, để ta “được đồng tâm nhất trí với nhau” mà tôn vinh Thiên Chúa.  Cuối cùng, chúng ta lắng nghe những đề nghị thực tế thánh Gio-an Tẩy Giả nói với những ai muốn thực hành việc sám hối và đó cũng có thể là những lời khuyên cho ta nữa.

          Vậy ngôn sứ I-sai-a đã nhìn thấy trước triều đại cứu độ sẽ xuất hiện như thế nào?  Đấng thiết lập triều đại ấy giống như “một mầm non” đâm ra “từ gốc tổ Gie-sê”.  Mà Gie-sê là cha của vua Đa-vít, cho nên Đấng cứu độ xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít.  Người sẽ được đầy tràn Thánh Thần của Thiên Chúa là “thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mạnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa”.  Những đức tính này chúng ta đều gặp thấy nơi con người Chúa Giê-su, vì sách Tin Mừng đã mô tả Chúa Giê-su “được Thánh Thần xức dầu tấn phong” để thi hành sứ vụ và Người luôn hành động dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần (Lc 4:14, 18-19).  Đặc biệt cách hành xử của Đấng thiết lập triều đại là cách hành xử của lòng Chúa thương xót:  Người không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài hoặc theo sự phê phán của kẻ khác, luôn bênh vực người thấp cổ bé miệng và kẻ nghèo hèn.  Nhưng Người lại thẳng tay trừng trị kẻ gian tà.  Nhờ việc cai trị của Người, triều đại cứu độ sẽ là triều đại đầy ắp bình an của Thiên Chúa.  Bình an ấy được nói lên qua những hình ảnh thật dễ thương:  Nào là cảnh sống chung hòa bình, như sói ở với chiên con, beo với dê nhỏ, bò tơ với sư tử, thêm vào là khung cảnh thực sự gây ấn tượng: “một cậu bé sẽ chăn dắt chúng”!  Rồi lại một hình ảnh không thể tin được, là “bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang”.  Ở đây sự đối nghịch giữa thiện và ác, độc dữ và hiền hòa không phải chỉ nói lên thực tại “sống chung hòa bình”, mà còn quả quyết rằng Đấng cứu độ sẽ thiết lập một triều đại để hoán cải.  Sám hối có sức mạnh thay đổi ác tính của sói, beo và sư tử.  Cũng vậy, bản chất độc hại của rắn rết không còn tác dụng giết hại đối với trẻ thơ nữa.  Tất cả chỉ còn là sự bình an giữa người với người và giữa con người với Thiên Chúa!

          Làm sao chúng ta được thu nhận vào triều đại cứu độ ấy?  Phải đi qua con đường sám hối.  Song song với việc sai Chúa Giê-su đến trần gian, Thiên Chúa còn sai một người đến trước để giúp chúng ta chuẩn bị tiếp nhận Con Một Người, đó là thánh Gio-an Tẩy Giả.  Ngài xuất hiện trước Chúa Giê-su và lời giảng của ngài quy tụ vào chủ đề duy nhất:  “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.  Lời kêu gọi đã được hưởng ứng nhiệt tình.  Rất nhiều người đến với ngài, họ thú tội và nhận phép rửa của ngài như một dấu chỉ chứng nhận họ quyết tâm thi hành sứ điệp “Anh em hãy sám hối”.  Mọi người đều phải sám hối, nhưng các sách Tin Mừng chỉ ghi lại vài ba thành phần tiêu biểu trong xã hội đã được thánh Gio-an chỉ dạy phải sám hối cách nào.  Đặc biệt thánh Mát-thêu, ngài “quan tâm” đến nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc!  Tại sao?  Vì độc giả của ngài là người Do-thái, mà nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc có ảnh hưởng lớn đối với dân tộc họ.  Thật ra nhóm này đến không phải để thực tâm sám hối.  Họ chỉ muốn nhận phép rửa Gio-an như dấu hiệu bề ngoài để “trình diễn” với thiên hạ rằng họ sám hối, nhưng tâm hồn họ thì “vũ như cẫn” (vẫn như cũ).  Thánh Gio-an đã lột mặt nạ giả hình của họ bằng những lời nghiêm khắc, kèm theo lời cảnh báo:  Này, cái rìu đã đặt sát gốc cây rồi đấy!  Liệu sám hối cho mau!  Đấng đến sau tôi và phép rửa của Ngài mới quan trọng.  Phép rửa tôi làm là để kêu gọi các anh sám hối thôi, chứ không tha thứ tội lỗi cho các anh được.  Chỉ có phép rửa của Ngài, phép rửa bằng Thánh Thần và lửa, mới xóa bỏ tội lỗi cho các anh và mọi người.  Ôi, chỉ Chúa biết có bao nhiêu người Pha-ri-sêu và Xa-đốc sám hối!

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Vậy chúng ta, nếu muốn có được một lời khuyên thực tế để sống tinh thần sám hối, ta hãy lắng nghe thánh tông đồ Phao-lô nhắn nhủ.  Trước hết ngài dạy chúng ta cứ tin vào Đấng Cứu Độ là Chúa Giê-su đã được  Kinh Thánh nói đến, để ta được “kiên nhẫn”, được “an ủi” và “vững lòng trông cậy”.  Theo ngài, những ơn vừa kể sẽ giúp chúng ta “đồng tâm nhất trí” mà tôn vinh Thiên Chúa.  Rồi khi chúng ta đã đồng lòng phụng sự Thiên Chúa, thì hệ quả tất nhiên là sẽ yêu thương đón nhận nhau để làm rạng danh Thiên Chúa.  Thực hiện được lý tưởng này có nghĩa là chúng ta đã quay một trăm tám mươi độ, từ bỏ con người tội lỗi, ích kỷ, thù địch với Chúa và anh chị em để trở thành công dân chân chính của Nước Trời.  Không phải trong nháy mắt là chúng ta quay một trăm tám mươi độ đâu, nhưng đòi hỏi thời gian.  Sống sám hối là một diễn trình kéo dài suốt cuộc đời.  Nhưng Chúa Giê-su, Đấng cứu độ đã tới gần và đang đợi chúng ta!

         Lm. Đa-minh Trần đình Nhi 

----------------------------------

 

MV 2-A129: Dọn đường cho một Ðấng Thiên Chúa thánh thiện ngự đến


(Ys 11,1-10; Rm 15,4-9; Mt 3,1-12)

Phúc Âm: Mt 3, 1-12

"Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến".

Ngày ấy, Gioan Tẩy Giả đến giảng trong hoang địa xứ Giuđêa rằng: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Chính ông là người mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: "Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".

Bởi vì chính Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Bấy giờ dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan.

Thấy có một số đông người biệt phái và văn nhân cũng đến xin chịu phép rửa, thì Gioan bảo rằng: "Hỡi nòi rắn độc, ai bảo các ngươi trốn lánh cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối. Chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng ta là Abraham. Vì ta bảo cho các ngươi hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Ðây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, để các ngươi được lòng sám hối; còn Ðấng sẽ đến sau tôi có quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách giày Người. Chính Ðấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt".

Suy Niệm:

(Chúa Nhật II Mùa Vọng Năm A)

(Ys 11,1-10; Rm 15,4-9; Mt 3,1-12)

 

Các bài Kinh thánh hôm nay cho chúng ta hiểu rõ hơn về Ðấng sẽ đến và khuyên chúng ta có MV 2-A129


Các bài Kinh thánh hôm nay cho chúng ta hiểu rõ hơn về Ðấng sẽ đến và khuyên chúng ta có thái độ thích hợp với Người.

A. Ðấng Sẽ Ðến

Bài sách Isaia tiếp nối tư tưởng Chúa nhật lần trước: khi Ðấng Thiên Sai đến, Ngài sẽ phân xử mọi nước và thiết lập thời đại thái bình. Hai tư tưởng này đã được khai triển thêm. Khi xét xử, Ðấng Thiên Sai tỏ ra nhân ái một cách đặc biệt với những người nghèo khó. Còn đối với hạng bất nhân vô đạo, thì hơi thở của Ngài sẽ làm họ tiêu tan. Ðang khi ấy, những nét tả về thời đại thái bình thật là thi vị. Người ta quên sao được hình ảnh: chó sói sống chung với chiên non, sư tử gặm cỏ như bò và trẻ em giỡn với rắn lửa mà chẳng hề chi?

Tuy nhiên chủ yếu của bài sách Isaia hôm nay không nhằm quảng diễn những tư tưởng của Chúa nhật trước. Nhà Tiên tri còn muốn đi xa hơn và nói một cách cụ thể hơn. Ngay những hàng chữ đầu tiên đã đề cập tới "chồi sẽ xuất từ gốc Yêssê"; và câu kết còn nhắc lại danh hiệu ấy. Tức là với bài sách Isaia hôm nay, Phụng vụ muốn cho chúng ta hiểu hơn về Ðấng sẽ đến sau này. Ngài thuộc tộc Yêssê, thân phụ của Ðavít. Ngài sẽ là "Con Vua Ðavít". Ngài sẽ đến đầy Thánh Linh, đến nỗi không nơi nào trong Kinh Thánh nói đến bảy ơn Chúa Thánh Thần như trong đoạn Isaia này. Ngài sẽ xét xử mọi người, và rộng rãi cách đặc biệt với người nghèo khó. Ngài sẽ lập thời đại thái bình và muôn dân sẽ đến thỉnh ý Ngài.

Nhưng người nào trong tộc Ðavít sẽ là Ðấng Thiên Sai? Gioan Tẩy Giả trong bài Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho dân Israel. Họ tuốn đến với ông. Họ xin ông làm phép rửa cho họ. Họ chấp nhận cả những lời khiển trách nặng nề. Nhưng Gioan vẫn chưa bằng lòng. Ông bảo mọi người phải thống hối thêm, để chịu được phép Rửa bởi Thánh Thần và bằng lửa. Chịu rửa bằng nước chưa phải là khó. Chịu rửa bằng lửa sẽ đau đớn hơn vì lửa mới làm cho những dơ bẩn ở trong chảy ra, đang khi nước chỉ rửa được những bụi bặm bám ở ngoài. Thế mà Ðấng sẽ đến là Ðấng đầy Thánh Thần. Ngài còn khỏe hơn Gioan, tức là đầy Thần lực hơn, đầy thánh thiện hơn, đầy đòi hỏi hơn. Ngài sẽ quan sát mọi người và thấu đạt tâm can như người sàng thóc hay rê lúa. Không ai lọt được sự phán xét của Ngài.

Như vậy cả bài tiên tri Isaia, cả bài Tin Mừng Matthêô đều muốn cho chúng ta hiểu hơn về Ðấng sẽ đến. Ngài sẽ là Ðấng xét xử mọi người. Ðó là viễn tượng về ngày thế mạt hơn là về ngày Giáng sinh. Chủ yếu của Mùa Vọng vẫn là hướng lòng ta về Ngày Con Người sẽ đến trong những ngày sau hết. Tuy nhiên Mùa Vọng cũng hướng ta nhìn vào Ngày Chúa Giáng sinh như tương lai gần, để chuẩn bị tương lai cuối cùng. Và chúng ta cũng phải nhìn thấy việc Chúa sinh ra như để phán xét mọi người.

B. Ðấng Phán Xét

Nhiều người thường nghĩ chỉ có phán xét khi linh hồn lìa xác về trước Tòa Chúa và đặc biệt lúc sống lại sau hết, mọi người sẽ phải trình diện trước mặt Ðấng Chí Công. Nhưng không phải. Cả Isaia, cả Gioan không nghĩ như vậy đâu. Theo các ngài, khi Ðấng Cứu Thế đến, dù là đến trong thế gian để làm công việc cứu chuộc, Ngài đã là Ðấng Thẩm Phán Chí Công rồi. Cụ già Simêon chia sẻ quan niệm đó. Nhìn thấy Hài Nhi ở trong Ðền thờ, ông đã cất tiếng loan báo: Trẻ này sẽ làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy, nghĩa là hư đi hay được cứu rỗi. Và thật sự hễ Ðức Kitô đến nơi nào là ở chỗ đó có người tin theo và có người chống đối. Giáo lý Người truyền ra tức khắc làm cho nhiều kẻ thấy chói tai và nhiều người khác đón nhận như tin mừng cứu rỗi. Ở nơi thân mật với các Tông đồ, Ngài đã khiến Yuđa trở thành tên phản phúc và các người dân chài kia trở nên kẻ đi chài lưới người. Ở nơi công cộng trên đỉnh đồi Núi Sọ, Ngài cũng làm cho một tên trộm phải lộng ngôn, đang khi người trộm khác được vào nơi an nghỉ. Ðấng Thiên Sai là Ðấng Xét Xử. Bản chất Ngài là vậy, vì như Isaia và Gioan đã nói: Ngài là Ðấng đầy Thánh Linh. Mà Thánh Linh là tình yêu. Ðấng Thiên Sai mang tình yêu Thiên Chúa nhập thế giáng trần vì Chúa Cha đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho ta. Ðức Kitô là Tình Yêu của Chúa Cha gửi đến cho loài người. Và tình yêu không chấp nhận dửng dưng. Người ta chỉ có thể đáp trả lại bằng yêu thương hay bằng từ khước, vì dửng dưng đã là từ khước rồi.

Thế nên, đang khi dọn mình mừng lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta phải sẵn sàng đón nhận Ðấng đến để phán xét, để phân biệt những người yêu mến Người và những kẻ từ chối Người. Và như vậy cũng là sẵn sàng để đón nhận Ðấng sẽ đến phán xét sau này. Chúng ta phải biết ơn Isaia và Gioan. Cả hai đã cho chúng ta hiểu điều đó. Có điều hai ông dường như mâu thuẫn với nhau: Isaia nói đến một Ðấng phán xét dịu dàng, còn Gioan lại trình bày Ngài như người sàng thóc, để bỏ trấu vào lửa. Dung hòa hai ông thế nào? Chúng ta phải nghe ai?

C. Thái Ðộ Ðạo Ðức

Thật ra, như lời thư Rôma nói, mọi điều đã viết xưa kia, thì đã được viết để dạy dỗ ta. Thế nên ta không tìm cách bỏ mất điều nào. Ðấng phán xét của Isaia sở dĩ sẽ phân xử công minh cho người hèn yếu và đoán định ngay chính cho kẻ nghèo hèn, là vì Ngài không phân xử theo mã mắt thấy hay đoán phỏng chừng tai nghe. Ngài thắt đai lưng bằng công chính và nịt hông bằng tín thành. Nghĩa là Ngài là Ðấng chính trực và thông suốt. Ðứng trước một Ðấng Thiên Chúa thánh thiện như vậy, và nhất là phải dọn đường cho Ngài tới giữa một dân tộc còn nhiều tội lỗi, Gioan không thể làm khác hơn là kêu gọi người ta ăn năn thống hối. Ông là người tiên tri Isaia đã ám chỉ. Ông tiếp nối sứ mệnh của Isaia. Nhà tiên tri đã báo trước rất xa về Ðấng xét xử sẽ đến. Gioan biết Ðấng đó đã gần đến rồi. Chính ông đã phải sống cuộc đời tu hành khắc khổ với thức ăn, áo mặc khác thường để mong được cứu độ. Lời ông giảng phát xuất từ đời sống chân thật, khiến người nghe chấp nhận như lẽ đương nhiên phải vậy. Chúng ta không thể nói ông đòi hỏi hơn Isaia hay một tiên tri nào khác. Cả ông lẫn Isaia chỉ nói lên một sự thật: Ðấng đang đến sẽ xét xử rất công mình. Thế nên ai nấy hãy thống hối tội lỗi.

Thánh Phaolô không những được kinh nghiệm của Isaia và của Gioan, ngài còn đã được biết về cuộc đời của Ðức Yêsu. Ngài thấy các việc lành Cựu Ước dạy làm chưa đủ để giúp ta được ơn thánh hóa. Các của lễ đền tội ngày xưa không đủ sức xóa bỏ tội lỗi. Duy chỉ có lòng thương xót của Chúa. Việc ta thống hối tội lỗi vẫn cần, nhưng tha thứ vẫn là hành vi hoàn toàn quảng đại của Chúa. Mà rõ ràng Chúa muốn quảng đại. Chúa muốn cứu cả giới cắt bì lẫn lương dân. Ngài muốn thi hành lòng thương xót cho mọi người miễn là người ta muốn nhận lòng thương xót. Chỉ ai muốn tha thứ mới đón nhận ơn tha thứ. Có tìm được mảnh đất thích hợp, ơn Chúa mới kết quả như hạt giống rơi vào đất tốt. Thế nên trong ngày Phụng vụ giới thiệu cho ta biết, Ðấng sẽ đến là Ðấng đến để xét xử, thì không những Giáo hội muốn cho ta thi hành việc thống hối tội lỗi; nhưng để chắc chắn nhận được ơn cứu độ thứ tha, dùng lời thánh Phaolô, Giáo hội khuyên ta hãy có thái độ chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau và sống thuận hòa với nhau. Bức họa về thời đại thái bình trong bài sách Isaia thúc giục chúng ta xây dựng một nếp sống xã hội thuận hòa để chứng tỏ Nước Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta sẵn sàng cho Ngày Ngài trở lại.

Chúng ta sẽ sống thuận hòa trong mọi ngày chờ đón Chúa đến. Chúng ta cần tinh thần hòa thuận ngay trong lúc này để đi vào Thánh Lễ, vì nếu khi mang lễ vật tới bàn thờ mà nhớ đang còn xích mích với ai, hãy đặt của lễ đó, về làm hòa đã rồi sẽ trở lại dâng của lễ sau. Xin Chúa cho tâm hồn chúng con được thật sự bình an để dâng lễ vật này. Nghĩa là xin Chúa tha thứ những nỗi bất hòa giữa chúng con, để hôm nay dâng lễ vật bình an này về, chúng con sẽ nỗ lực xây dựng xã hội thuận hòa để chờ đón Chúa.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

-----------------------------------

 

MV 2-A130: Tìm một con đường


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Tìm một con đường, tìm một lối đi.... Đó là lời mở đầu bài hát “Và con tim đã vui trở lại” của MV 2-A130


“Tìm một con đường, tìm một lối đi
ngày qua ngày, đời nhiều vấn nghi
lạc loài niềm tin, sống không ngày mai
sống quen không ai cần ai”

Đó là lời mở đầu bài hát “Và con tim đã vui trở lại” của Đức Huy. Bài hát mở ra một cái nhìn lạc quan giữa cuộc sống còn đầy nghi ngờ, chia rẽ và hận thù. Vâng, giữa bối cảnh hỗn độn và đầy vấn nghi đó, cần phải tìm một con đường để đem lại niềm vui cho con người, giúp họ sống tích cực yêu thương, bất kể trong hoàn cảnh nào.

Mỗi khi Mùa Vọng về, lại thấy xuất hiện hình ảnh Gioan Tẩy giả trong Phụng vụ. Vị ẩn sĩ này khiêm tốn chỉ nhận mình là một tiếng kêu trong sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu bát ngát, chỉ có nắng, gió và cát. Một tiếng kêu trong sa mạc nhiều khi như vô vọng và vô ích. Tuy vậy, tiếng kêu ấy vẫn vang lên, và đã lôi kéo nhiều người trở lại với Chúa. Ông được gọi là vị “Tiền hô”, nghĩa là người đi trước mở đường. Gioan Tẩy giả kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối thẳng để Người đi”. Con đường mà vị ẩn sĩ này nói đến, chính là con đường tâm hồn. Ông đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể với dân chúng và với từng hạng người đang xếp hàng xin ông thanh tẩy. Tựu trung những lời khuyên nhắm tới tâm tình sám hối, sửa lại những sai lầm, thay đổi cuộc sống và thân thiện với tha nhân. Lời phê phán của ông rất nghiêm khắc: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: chúng ta đã có tổ phụ Abraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Qua những lời này, ông cảnh báo: một thứ đạo đức bề ngoài không có khả năng cứu rỗi con người, nhưng cần có tâm tình đạo đức và đời sống nội tâm, thiện chí quay về với Chúa và phục thiện.

Mùa Vọng là mùa tìm một con đường để đến với Chúa, nhưng cũng là dọn một con đường để Chúa đến với mình. Thiên Chúa là Cha, luôn bao dung chờ đợi và giang rộng vòng tay ôm lấy các tội nhân để họ trở về và được tha thứ. Tuy vậy, nhưng tâm hồn ngổn ngang bề bộn những đam mê dục vọng hoặc đầy ắp những hận thù thì không thể đón Chúa. Khi thiện chí canh tân đời sống và thanh tẩy tâm hồn, chúng ta sẽ được đón Chúa đến. Con đường Chúa đến tâm hồn ta sẽ thênh thang rộng mở.

Và con tim đã vui trở lại
tình yêu đến cho tôi ngày mai
tình yêu chiếu ánh sáng vào đời
tôi hy vọng được ơn cứu rỗi.
Và con tim đã vui trở lại
và niềm tin đã dâng về người
trọn tâm hồn, nguyện yêu mãi riêng người mà thôi…

Nhạc sĩ Đức Huy không trực tiếp nhắc đến Chúa trong ca từ của ông, nhưng chúng ta thấy hiện rõ hình ảnh của một Đấng là đối tượng của tình yêu và niềm tin tuyệt đối. Đấng ấy, người Kitô hữu gọi là Cha. Hình ảnh “dẫu như tôi phải đi qua vực sâu tối, tôi vẫn không sợ hãi gì vì người gần bên tôi mãi” chính là ý tưởng của Thánh vịnh 23, câu 4 mà chúng ta vẫn thường xuyên hát trong Đáp ca của Thánh lễ cầu hồn.

Một khi có Chúa đến trong tâm hồn, con tim chúng ta sẽ được phục hồi và vui trở lại. Tình yêu đến thức tỉnh chúng ta và chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc đời. Đó là kết quả của thiện chí sám hối phục thiện.

Xã hội hôm nay đang có nguy cơ bị hoang mạc hóa. Mỗi người tín hữu được mời gọi trở nên một tiếng kêu giữa sa mạc để giới thiệu Chúa và chuẩn bị con đường cho Ngài đến giữa con người. Ta hãy xem ngôn sứ Isaia diễn tả một xã hội mơ ước trong tương lai, khi Chúa đến: “Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò (cái) và gấu (cái) sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô. Trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta. Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa, như nước tràn đầy đại dương”. Vâng, chính chúng ta hãy cộng tác với Chúa để làm cho hình ảnh ấy trở thành hiện thực. Giáo Hội của Chúa Giêsu, xuyên suốt lịch sử, vẫn đang cố gắng để làm giảm thiểu bạo lực và chiến tranh. Giáo Hội cổ võ hòa bình và phát triển, giúp con người xích lại gần nhau hơn để sống trong sự thân thiện hài hòa. Nhờ lời cầu nguyện và cộng tác của Giáo Hội, các cường quốc trên thế giới đã có thể bàn bạc với nhau tìm ra những giải pháp xây dựng hòa bình và góp phần thăng tiến phẩm giá con người.

Hãy cùng tìm một con đường để dẫn đưa cuộc sống này tới niềm vui. Con đường ấy chính là Chúa Giêsu. Chính Người đã tuyên bố là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Nhờ con đường Giêsu mà chúng ta gặp Chúa Cha là suối nguồn hạnh phúc và là nguồn mạch của sự thánh thiện. Đến với Chúa Giêsu, chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và con tim chúng ta sẽ vui trở lại sau những tháng năm u buồn. Hạnh phúc sẽ tràn trề như đại dương và tình yêu sẽ nối kết muôn người.

--------------------------------

 

MV 2-A131: Sám hối


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

 

Yoan Tẩy Giả rao giảng: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Sám hối là thái độ cần thiết MV 2-A131


Yoan Tẩy Giả rao giảng: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Sám hối là thái độ cần thiết để đón nhận Tin Mừng Đức Yêsu.
1. Nhận ra sự thật

Yoan, con của Zacharia, đã sống nơi hoang địa và rao giảng ở đó. Nơi con người của Yoan Tẩy Giả người ta nhận ra điều không quan trọng: quần áo, thức ăn, nơi ở. Người xưa có câu: “ăn để mà sống, chứ đâu phải sống để mà ăn”. Qua lời rao giảng của Yoan, người ta nhận ra điều thực sự quan trọng: thái độ nội tâm, cách sống.

Sứ điệp Yoan rao giảng: “hãy sám hối”. Sám hối, đòi con người nhận biết mình thực sự, nhận biết mình sai lệch và cần trở về với Thiên Chúa. Người ta vẫn thuờng đánh giá con người qua vải vóc họ khoác trên mình, với những mốt thời trang, và những món ăn người ta được thưởng thức. Không phải chỉ những người “đời” đánh giá con người theo kiểu trần thế, nhưng cũng có cả những người “tu hành” sống và đánh giá con người theo kiểu trần thế. Tuy nhiên, qua cách ăn vận và lối sống, Yoan cho người ta hiểu, đó không phải là đúng. Con người phải sửa đổi cách suy nghĩ, cách đánh giá của mình.

Sám hối, đòi người ta nhận ra sự thật về chính mình. Nhận ra cái nhìn và tiêu chuẩn đánh giá sự vật và con người của mình không đúng đắn, nhận ra lời nói và thái độ sống của mình còn bất công đối với những người thấp cổ bé miệng. Khiêm tốn xin Chúa giúp mình sửa đổi, để mình có cái nhìn và cách đánh giá giống như Chúa. Đó là sám hối thật sự. Sám hối không là chỉ đơn thuần đấm ngực và đọc “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”, nhưng là nhận ra và chấp nhận sự thật về chính mình, để sửa đổi theo cái nhìn và cách cư xử của Thiên Chúa.

2. Không tự mãn

Với những người biệt phái và Sađốc, Yoan Tẩy Giả cảnh cáo: đừng cho rằng mình có Abraham là cha, và như thế là đủ. Có lẽ theo cách nói này, ngày nay phải nói: “đừng ỷ mình là Kitô hữu, đừng ỷ mình là tu sĩ, đừng ỷ mình là linh mục, và tưởng thế là đủ”. Sám hối là thái độ tất cả mọi người cần có.

Thái độ cho mình là đủ, làm điều này điều kia là đủ, không phải là thái độ sám hối thật sự. Chỉ là sám hối khi nhận ra mình còn điều sai lệch phải sửa đổi, và ao ước sửa đổi. Người sám hối thực sự cũng nhận biết rằng, tự sức mình, mình không thể sửa đổi được, nhưng cần Thiên Chúa giúp mình.

Những người kiêu ngạo, không chấp nhận chính mình, không nhận ra mình có gì dở hoặc cần sửa đổi, không thể có lòng sám hối thật sự. Người sám hối, là người khiêm nhường, người mở lòng đón nhận sự thật về chính mình.

3. Làm việc thiện

“Tất cả những gì được viết, là để giáo huấn chúng ta”. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người, Ngài luôn ở với con người và giúp con người nhận biết chính mình, để sám hối và trở lại với Ngài. Ai cho mình biết tất cả, và không cần biết gì hơn nữa, e rằng không phải là người mở lòng và sẵn sàng đón nhận chân lý. Thiên Chúa vẫn tiếp tục dạy dỗ chúng ta qua Kinh Thánh, qua những người chung quanh, qua những biến cố xảy đến với chúng ta. Cần mở lòng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, để nhận ra sự thật, để trở lại với Ngài.

“Hãy làm việc thiện, đó là dấu chỉ cho thấy mình có sám hối thật hay không”. Thái độ nội tâm, lời nói và hành động luôn đi liền với nhau. Việc làm cho thấy tình trạng tâm hồn của mỗi người. Không chỉ là nói, không chỉ là làm một vài hành vi tôn giáo và cho rằng đó là đủ. Sám hối thật sự, được diễn tả qua hành vi làm việc thiện, làm việc bác ái, yêu thương tha nhân bằng những hành vi cụ thể thậm chí đòi mình phải hy sinh.

Thiên Chúa yêu thương và mời gọi con người trở nên con Ngài, nghĩa là, trở nên giống Ngài hơn. Yêu thương không là hành vi một lần cho cả đời, nhưng là yêu thương liên lỉ từng giây phút hiện tại của cuộc đời. Qua khao khát thuộc trọn về Chúa và yêu thương tha nhân, người ta hình thành chính mình từng giây phút.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Xin bạn mô tả một người khiêm nhường? Đâu là nét căn bản của người khiêm nhường?
2. Sám hối, đòi hỏi chính yếu điều gì?
3. Đâu là tương quan căn bản giữa Thiên Chúa và tạo vật?

------------------------

 

MV 2-A132: Hãy sám hối


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mt 3:1-12 Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, Người sẽ làm Phép Rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa.

 

Dân Do Thái đã trông chờ, cho đến ngày nay vẫn đang trông chờ Đấng Mêsia. Dân Do Thái tin MV 2-A132


Dân Do Thái đã trông chờ, cho đến ngày nay vẫn đang trông chờ Đấng Mêsia. Dân Do Thái tin rằng họ là dân được tuyển chọn. Họ tin tưởng Thiên Chúa sẽ can thiệp để giải cứu dân Ngài.

Họ trông mong Đấng Mêsia sẽ đem đến hòa bình cho cả thế giới, chính vì thế họ mong đợi một vị tướng lãnh vô địch, sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do Thái đi chinh phục cả thế giới để đem hòa bình cho mọi dân tộc.

Họ tưởng Gioan là Đấng Mêsia, nhưng ông trả lời: “Tôi không phải là Đấng Kitô”

Họ lại hỏi ông có phải là Êlia không? Dân Do Thái tin rằng, trước khi Đấng Mêsia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước, và chuẩn bị cho thế gian tiếp đón Ngài. Đặc biệt Êlia đến để dàn xếp mọi bất hòa; ông sẽ định những gì, những ai là thanh sạch hay không thanh sạch. Ông sẽ phân chia đâu là người Do Thái, đâu là người ngoại; ông sẽ đem lại đoàn kết, hòa thuận cho các gia đình từng xa lạ với nhau. Họ tin tưởng điều đó đến nỗi luật xưa của dân Do Thái ghi rằng số tiền bạc và của cải đang tranh chấp, hoặc bất cứ tài sản nào bị xem là vô chủ đều phải “chờ cho đến chừng nào Êlia đến”.

Gioan Tẩy Giả đã phủ nhận vinh dự đó, nhưng ông xác định rằng ông là người dọn đường cho Đấng Mêsia: Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, Người sẽ làm Phép Rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa.

Quả thật khi Gioan tẩy Giả xuất hiện bên giòng sông Giođan, dân chúng rất phấn khởi. Gioan bắt đầu sứ mạng của ông tại một địa điểm không xa Biển Chết. Đó là tụ điểm của những đoàn hành hương và các du khách từ khắp nơi trên thế giới đến và là một nơi tuyệt hảo để mọi người gặp gỡ nhau và trao đổi những tin tức thế giới. Vì thế đó cũng là một nơi lý tưởng để Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng và làm phép rửa. Sứ điệp Gioan thật rõ ràng: “ anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”.

Trong tiếng Hy Lạp chữ sám hối, metanoia, vừa có nghĩa một cảm xúc hối tiếc về những tội lỗi quá khứ làm xúc phạm đến Thiên Chúa, vừa là việc xét mình tỉ mỉ những tội đã phạm, từng tội một, để xin Chúa tha thứ, vừa là một sự đòi hỏi hoán cải sâu xa trong tâm trí và cuộc sống.

Sự biến đổi cuộc sống là dấu chỉ của lòng sám hối đích thật. Phải thay đổi cách suy nghĩ, cách cư xử, và cách hành động. Giáo Hội vừa thánh thiện, vừa gồm những tội nhân. Như một thành phần trong Giáo Hội, chúng ta chưa là thánh, nhưng đang được kêu gọi để trở nên thánh, và luôn được mời gọi để thay đổi. Nhưng trong quá trình hoán cải, giống như thánh Augustinô, đôi khi chúng ta cũng có khuynh hướng cầu xin với Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy thay đổi con, nhưng xin thay đổi con từ từ thôi”. Chúng ta cũng còn muốn giữ lại một điều gì đó dính bén với tật xấu, thói quen tội lỗi và trần gian. Sự do dự chần chừ trong việc thay đổi cuộc sống như thế thường xảy ra trong đời sống thiêng liêng của con người và nhiều khi chưa quan tâm đến lời kêu mời của Gioan Tẩy Giả.

Ngày xưa, có một con chim đại bàng kiêu ngạo, đậu trên thân cây chuối, mà người ta cắt bỏ, trôi bồng bềnh trên một con sông chảy xiết. Con chim to ấy dường như không để ý đến một thác nước khổng lồ ở phía trước.
Thình lình có một thợ săn đi xuống dọc theo bờ sông. Nhìn thấy con chim to đậu trên thân cây chuối, ông vỗ tay và gào to: “này này, bay đi, nguy hiểm ở phía trước!” Con chim đại bàng uể oải quan sát và nhún vai bằng đôi cánh to của nó như thể muốn nói: “đừng lo lắng cho tôi, tôi biết tôi phải àm gì”.

Vì thân cây chuối mỗi lúc càng trôi gần đến thác nước, người thợ săn càng gào to và ra dấu rối rít: “này, có một thác nước ở phía trước đấy!” Một lần nữa con đại bàng tự mãn lại nhún vai.

Đúng lúc đó, con đại bàng nhìn xuống và thấy thân cây chuối đã trôi đến bờ của thác nước, chỗ mí nước đổ xuống. Nó vươn rộng đôi cánh và chuẩn bị bay lên, nhưng nó không thể bay lên được. Những móng vuốt sắc bén của nó đã cắm sâu vào thân của cây chuối. Thế là nó nhào xuống thác nước, tàn đời một con chim tự mãn, không biết quan tâm đến lời cảnh báo.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy lắng nghe lời kêu mời của Gioan “hãy sám hối” như quyết tâm của một triết gia Ấn Độ khi nhìn lại quãng đời của mình và đã tâm sự như sau:

- Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất của tôi là dâng lên Thiên Chúa là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để con thay đổi thế giới.

- Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận ra rằng một nửa đời người của tôi đã đi qua mà tôi chưa thấy thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin cho con được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày. Và như vậy là con mãn nguyện rồi.

- Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ đây, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được thay đổi chính mình con. Amen.

------------------------------------

 

MV 2-A133: Nước Trời đã đến gần


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Mỗi năm, Giáo hội vẫn thúc giục chúng ta chờ đợi Chúa đến với những lời ca vãn hết sức tha MV 2-A133


Mỗi năm, Giáo hội vẫn thúc giục chúng ta chờ đợi Chúa đến với những lời ca vãn hết sức tha thiết. Tại sao? Vì chúng ta đang sống trong một thế giới hỗn độn, vì tâm hồn chúng ta chưa tìm được hạnh phúc. Cuộc sống hôm nay không mang lại cho chúng ta những gì chúng ta mong đợi. Chúng ta luôn khắc khoải “cho đến khi nào được yên nghỉ trong Chúa”.

Nhiều người hôm nay không trông chờ gì cả. Họ chỉ sống như không có ngày mai. Họ không có vấn đề gì, vì họ không cần lẽ sống cũng không cần hạnh phúc. Họ chỉ sống cho cái xác hay chết của họ thôi. Họ chỉ cần thứ hạnh phúc vật chất, chỉ cần hưởng thụ mà không cần biết mình sẽ đi về đâu. Người Công giáo không thể sống “như trâu bò”, không chỉ cần cơm bánh, mà cần được hạnh phúc và hạnh phúc thật, chứ không phải thứ hạnh phúc chóng tàn mau qua.

Chúng ta có nghe thấy tiếng mời gọi của Giáo hội không?

Nhiều người tín hữu vẫn sống như không cần đến Chúa. Vì họ thấy không có gì phải lo. Họ chỉ lo chén cơm manh áo. Họ nghĩ rằng Giáo hội rắc rối. Tại sao lại quấy rầy cuộc sống vô lo của họ. Cứ đưa ra những vấn đề xét ra không cần thiết. Cuộc sống hôm nay vẫn bình thường, mặt trời vẫn mọc, hoa vẫn nở, và cuộc sống vẫn đầy tiện nghi. Cần gì phải lo xa!

Không, cuộc sống không êm ả như nhiều người tưởng. Thế giới này không đẹp như mơ và cuộc sống hôm nay không phải chỉ là vui chơi, hưởng thụ. Thế giới không yên lành đâu. Hơn bao giờ hết, nhân loại đang ngợp thở và đang đi đến tuyệt vọng. Thế chiến thứ ba như một bóng ma chập chờn ghê rợn. Những kho vũ khí sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào có thể tiêu diệt nhân loại trong một khoảnh khắc. Sống trong đe dọa và sợ hãi, con người của thế kỷ hai mươi mốt này đang mong hòa bình mà không bao giờ có. Thế giới đang sôi sục căm hờn. Bất công đang đè nặng trên một phần ba thế giới, đè bẹp người nghèo, đưa họ vào những cảnh nô lệ ghê rợn hơn bất cứ lúc nào. Người ta tiêu diệt từng dân tộc, chỉ vì quyền lợi của một số người. Người ta vẫn ung dung ca hát trên cái chết thê thảm của hàng triệu người… Bức tranh của thế giới hôm nay không tốt đẹp như chúng ta tưởng. Những phát minh khoa học không đem lại hạnh phúc mà càng làm cho cuộc sống khốn khổ hơn. Hố sâu giữa người giàu với người nghèo càng ngày càng sâu. Bất công, bạo lực lan tràn như một cơn sóng thần đang cuốn trôi con người thấp cổ bé miệng.

Không, thế giới này không ổn.

Chỉ có Chúa và tình thương của Ngài mới phục hồi con người, và đem lại hạnh phúc mà chúng ta đang mong ước. Chỉ có Ngài thôi. Con người có ký bao nhiêu thỏa ước, con người cũng không thể có hòa bình. Không có Chúa, con người chỉ tiêu diệt lẫn nhau mà thôi.

Giáo hội mời gọi chúng ta kêu cầu Chúa đến cứu thoát chúng ta. Hãy nhìn về Chúa với tất cả lòng tin cậy, vì Chúa không chê bỏ một ai. Hãy kêu cầu Chúa, xin Ngài hãy đến vì chúng ta không thể tự mình cứu mình, vì chúng ta đang chìm sâu trong đau khổ.

Lịch sử dân Do Thái là một thời trông đợi triền miên. Trải dài trong thời gian, dân Do Thái vẫn luôn ngước nhìn về Chúa và van xin Đấng Cứu Thế.

Đến thời cuối cùng, Gioan Tẩy Giả xuất hiện. Một tiên tri chăng? Dân đổ xô đến nghe người giảng. Họ vui mừng bỡ ngỡ. Tiếng nói của Gioan đã vang động tận tâm hồn nhiều người. Ông kêu gọi: “Hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”. Tiếng gọi ấy đã đánh thức bao tâm hồn từ lâu yên phận trong nếp sống tầm thường, khơi lên niềm hy vọng cho những tâm hồn thiện chí đang mong chờ Đấng Cứu Thế, như Chúa đã hứa từ ngàn xưa.

Dân Do Thái, theo lời kêu gọi của Gioan, đã ăn năn sám hối và chịu phép rửa, nhưng không mấy người hiểu được rằng Nước Trời là một Nước thiêng liêng. Họ nghĩ rằng Nước Trời chính là nước Israel. Họ cầu xin Chúa khôi phục lại nước Israel.

Từ khi vua Xêđêkia băng hà vào năm 587, trước Chúa giáng sinh, Giêrusalem đã bị vua Nabukôđônôso tàn phá, dân Do Thái vẫn nuôi trong lòng ước vọng phục quốc và xây dựng lại Đền thờ Giêrusalem, nhất là sau khi ách thống trị Lamã đè nặng lên trên dân Do Thái từ năm 63 trước Chúa giáng sinh.

Toàn dân đang mỏi mòn mong đợi Vị Cứu Tinh. Người ta nóng lòng tìm kiếm. Gioan xuất hiện trong lò lửa sôi bỏng hy vọng đó. Nhưng Gioan không làm thỏa mãn khát vọng ấy, ông hướng họ về một viễn tượng mới là Nước Trời.

Gioan là điểm hội tụ của bao nhiêu niềm tin, của bao nhiêu nghi vấn: “Ông là ai? Ông có phải là tiên tri Êlia không? Tại sao ông làm phép rửa? Bao nhiêu thắc mắc, bao nhiêu ưu tư, Gioan quét sạch tất cả bằng một lời kêu gọi: “Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến”.

Nước Trời không phải là một mộng mơ đế quốc, không là một thế lực chính trị, nhưng là một thực thể thiêng liêng phải đón nhận bằng lòng sám hối ăn năn. Gioan chính là mẫu gương của những người tìm Nước Trời. Cuộc đời khắc khổ căng thẳng về một hướng duy nhất: Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người”. Chính Đấng đó sẽ đem lại hồng ân được hứa ban: một người nữ sẽ đạp đầu con rắn. Chỉ có Đấng ấy mới“rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”.

Chúng ta đã nghe lời Gioan kêu gọi, và Giáo hội vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta đi vào con đường sám hối. Chúng ta có lắng nghe không, hay những tiếng ồn ào của thế gian đã làm mờ đi tiếng gọi cứu rỗi? Chúng ta có muốn Chúa đến không, hay chúng ta vẫn ngủ yên trong tội, trong nếp sống xô bồ của chúng ta mà không cần ngày mai, không cần hạnh phúc của Chúa? Đây là lúc chúng ta cần tỉnh thức. Chúa vẫn không ngừng lắng nghe tiếng kêu cầu của chúng ta, nhưng chúng ta có thực sự chú ý đến Ngài, đến niềm hạnh phúc Ngài mang lại cho chúng ta không? Cuộc sống hôm nay đã cho chúng ta được gì khiến chúng ta cứ mê mải như thế?

Hãy dừng lại để tìm về tâm hồn. “Bộ mặt thế gian này sẽ qua đi”. Thiên Chúa vẫn là Tình Thương. Chúng ta chọn cuộc sống vô nghĩa của trần gian hay tình yêu Chúa? Đừng để thời gian qua đi mà lòng chúng ta không mang lại hoa trái công chính. “Cái rìu đã đặt dưới gốc cây rồi: cây nào không sinh hoa trái sẽ bị chặt đi…” Chúng ta có sinh hoa trái như Chúa mong ước không? Bao nhiêu ngày sống của chúng ta có ý nghĩa gì không?

“Chúa đến viếng thăm và cứu chuộc dân Người” . Chúa đến mang lại bình an và yêu thương. Chúng ta đợi đến khi nào mới đón nhận Ngài?

Hôm nay, Chúa đến với chúng ta bằng một tấm bánh, ngày mai Ngài sẽ đến với chúng ta trong vinh quang, Ngài chính là Đấng đã yêu thương chúng ta đến tận cùng, chúng ta có đáp trả tình yêu của Ngài không?

Hãy ăn lấy Ngài. Ngài muốn như thế. Ngài trở thành một tấm bánh nhỏ để đến với chúng ta thật sâu, thật huyền diệu, để ngày mai, khi mọi sự được hoàn tất trong Nước Trời, chúng ta mới nhìn thấy chúng ta được yêu thương như thế nào. Đừng để thời gian qua đi vô ích. Hãy đến, chúng ta là dân Ngài, là đoàn chiên Ngài chăn dẫn, Ngài là hạnh phúc duy nhất. Ngoài Chúa ra, không thể có hạnh phúc mà chỉ có đổ nát mà thôi. Hãy lắng nghe tiếng mời gọi yêu thương để “sống trong tình yêu của Ngài”.

--------------------------------

 

MV 2-A134: Dựng xây nước Đức Kitô trong bác ái và công


(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

 

Chúa nhật II mùa Vọng bắt đầu đưa chúng ta đi vào vương quốc lý tưởng mà Chúa Giêsu thiết lập MV 2-A134


Chúa nhật II mùa Vọng bắt đầu đưa chúng ta đi vào vương quốc lý tưởng mà Chúa Giêsu thiết lập trên trái đất dành cho nhân loại chúng ta.

Chúa nhật II mùa Vọng bắt đầu đưa chúng ta đi vào vương quốc lý tưởng mà Chúa Giêsu thiết lập trên trái đất dành cho nhân loại chúng ta. Nhưng không phải cứ ai muốn là được vào vương quốc ấy. Để có quyền đi vào, đòi hỏi phải thực hiện một số điều kiện. Trước hết là muốn trở nên những cộng sự thiết lập với Đức Kitô, điều này đòi hỏi phải biết dấn thân đổi mới tận căn con người của mình từ suy nghĩ đến hành động. Như Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi: "Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến".

I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1. Bài đọc I: Is 11,1-10

Đấng Messia, Vị Vua Công Chính và Hòa Bình

Bằng những ngôn từ giàu tình cảm và hình tượng, Tiên tri Isaia miêu tả sự xuất hiện của Đấng Messia và vương quốc của Ngài thiết lập. Đấy là một vương quốc loại trừ hận thù và sự dữ, chỉ có tình yêu và công lý hiển trị.

a. Dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, dân Do Thái sống trong sự chờ đợi Đấng Cứu Thế, thuộc dòng dõi Vua Đavít và Giêsê.

b. Được tràn đầy Thần Khí của Thiên Chúa, Đấng Messia sẽ thiết lập một kỷ nguyên công lý và hòa bình.

c. Hơn hai ngàn năm sau khi Chúa Giêsu đến, thế giới chúng ta vẫn còn rất xa những gì mà vương quốc của Đấng Messia có được. Lỗi ở đâu? Chính bởi lỗi lầm của Kitô hữu, của lòng người ích kỷ, bởi sự hèn nhát không dám đón nhận và sống sứ điệp của Đức Kitô, Đấng Messia của Thiên Chúa.

2. Bài đọc II: Rm 15,4-9

Phổ quát tính của ơn Cứu độ

Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Rôma một cách sống động: hãy biết cảm thông đón nhận nhau theo gương Đức Kitô, Đấng đã đến đón nhận cứu độ tất cả mọi người.

a. Cộng đoàn tín hữu Rôma tiên khởi được hình thành do những người đến từ mọi miền khác nhau. Do đó, sự cảm thông, nhất trí của mọi người xem ra khó được thực hiện.

b. Thánh Phaolô nói với họ, cần phải bắt chước Đức Kitô, Đấng đã mang ơn Cứu độ cho tất cả mọi người không phân biệt cội nguồn, văn hóa; Do Thái hay dân ngoại.

c. Một khi đã tin theo Đức Kitô thì phải tạo dựng trong cộng đoàn của mình sự hiệp nhất với nhau trên nền tảng của đức tin và đức ái.

3. Tin mừng: Mt 3,1-12

Chỉ dẫn của Gioan Tẩy giả

Đức Kitô đã đến khởi sự sứ mạng của Người. Thánh Gioan, người bà con của Đức Kitô với tính hăng say và mạnh mẽ của một vị tiên tri kêu mời người Do Thái hãy chuẩn bị đón Đấng Cứu Độ đang đến bằng việc thay đổi cuọc sống của mình.

a. Sứ vụ của Gioan khai mạc môt giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ. Các tiên tri loan báo việc Chúa Giêsu đến, còn ông chuẩn bị cho Người. Ông xứng danh là một Êlia mới. Vai trò của ông mang hai tác vụ: rao giảng và thanh tẩy.

b. "Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến": Câu này tóm tắt lời rao giảng của Gioan và tương ứng với từng câu từng chữ lời rao giảng của Chúa Giêsu ở Mt 4,17. Như thế lời loan báo của Gioan thống nhất với lời của Chúa Giêsu. Mạc khải về Mầu nhiệm Nước Trời đã đến trong thế gian, phải sám hối để xứng đáng là người của Nước Trời.

c. Như các vị tiên tri tiền nhiệm, Gioan tố cáo sự giả hình của lối sống đạo bên ngoài. Cũng như Chúa Giêsu, lời rao giảng của Gioan nhấn mạnh đến thái độ nội tâm để có sự hoán cải, canh tân thực sự.

II. GỢI Ý BÀI GIẢNG

1. Sám hối canh tân - một đòi hỏi khẩn thiết:

"Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến", sứ điệp của Thánh Gioan Tẩy giả trong Tin mừng hôm nay tương ứng với lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu. Sám hối là điều cần thiết để đi vào Nước Trời. Nếu không biết canh tân hoán cải cuộc đời thì không thể nào xứng đáng là công dân của Nước Thiên Chúa. Nước Trời đã gần đến thì việc sám hối cần phải làm ngay không thể chần chờ được nữa. Lời của Thánh Gioan là một lời mời gọi khẩn thiết, thúc bách con người phải hành động ngay. "Cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây, cây nào không sinh trái tốt sẽ phải chặt đi và cho vào lửa".

Sám hối luôn là một đòi hỏi khẩn thiết phải làm ngay. Với mỗi Kitô hữu hôm nay sứ điệp của Tin mừng vẫn còn nguyên giá trị, không hẳn vì tận thế đã đến nơi, cũng có thể không hẳn vì mình đã sắp chết nhưng điều quan trọng vì con người phải biết vươn lên sống một đời sống thánh thiện xứng đáng là con cái Chúa. Bản tính con người vốn dĩ yếu đuối trước mọi cám dỗ, dễ sa ngã. Vì vậy, để luôn sống trong tình trạng ân sủng thì cần phải biết nhận thức sự yếu đuối, tội lỗi của mình và phải cố công hoán cải biến đổi mình tốt hơn. Đó cũng chính là thái độ tỉnh thức và sẵn sàng mà Chúa Giêsu kêu gọi.

2. Sám hối - một sự biến đổi tận căn:

Thánh Gioan Tẩy giả đã cảnh cáo những người Biệt phái, văn nhân và những người tự phụ mình là con cái Abraham: Hãy sám hối, hãy làm việc lành, chớ tự phụ, vì Thiên Chúa cũng có thể khiến những hòn đá thành con cái Abraham. Không có bất cứ một sự miễn trừ nào nếu không biết thành tâm hối cải sống theo Thánh ý Chúa. Như thế việc là con cái Abraham, là Dân riêng của Chúa không phải chỉ là tên gọi, một danh xưng, một ân sủng nhưng cũng là một nỗ lực của con người sống xứng đáng với những gì đã lãnh nhận, nghĩa là lúc nào cũng phải sống đúng phẩm giá đã được Thiên Chúa trao ban. Điều này đòi hỏi phải nỗ lực không ngừng trong cuộc sống.

Nhiều người ngày nay cũng dễ có thái độ tự hào mình là Kitô hữu, đi lễ, kinh kệ thường xuyên như vậy là có một bảo đảm trước mặt Chúa rồi. Không bao giờ, những điều bên ngoài đó sẽ không có giá trị gì nếu không có một tâm tình bên trong thực sự. Sẽ chỉ là giả hình nếu bên trong tâm hồn không thực lòng sống theo Chúa. Danh hiệu Kitô hữu, Bí tích Thánh tẩy đã lãnh nhận không đủ bảo đảm cho chúng ta được ơn Cứu độ nếu không hoán cải mình nên con người mới.

3. Sám hối - một thể hiện của niềm tin tưởng và hy vọng vào Thiên Chúa:

Việc sám hối không phải là việc làm thêm hay làm theo thời vụ xuân thu nhị kỳ, năm đôi ba lần vào mùa Vọng và mùa Chay. Nhưng là một việc làm thể hiện một niềm tin, một niềm hy vọng vào Thiên Chúa. Sám hối để đón chờ Chúa đến, sám hối để xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu độ của Ngài. Chính vì tin vào Chúa, chính vì hy vọng vào sự phán xét công minh của Ngài mà người ta sám hối. Thánh Gioan Tẩy giả đã cho thấy mối liên hệ giữa niềm tin và lòng sám hối: "Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, để các ngươi có lòng thống hối. Còn Đấng đến sau tôi … Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và Lửa". Như thế, sám hối là điều kiện để đón nhận hồng ân của Chúa Giêsu. Do đó, phải có niềm tin mới sám hối. Vì tin nên sám hối; sám hối vì hy vọng sẽ đón nhận lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa.

Ngày nay, vào mùa Chay, mùa Vọng người ta lại lũ lượt đến với tòa giải tội. Nhìn bề ngoài thì chắc chắn đó là biểu lộ cụ thể của một lòng tin, lòng sám hối. Nhưng bên trong tâm hồn xem ra chưa hẳn như thế. Có nhiều người sám hối vì thói quen, vì luật buộc hơn là vì tin; có người sám hối vì muốn thể hiện sự đạo đức của mình hơn là vì hy vọng trông chờ tình yêu tha thứ của Chúa.

* Dẫn vào Phụng Vụ Thánh Thể:

Để xứng đáng đón nhận Chúa đến, chúng ta cần phải có lòng sám hối. Nơi Bí tích Thánh thể hôm nay chúng ta cũng đón Chúa đến trong tâm hồn mỗi người. Giờ đây chúng ta cùng hân hoan tiến đến Bàn tiệc thánh với Chúa Giêsu.

III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Mở đầu: Anh chị em thân mến, vì yêu thương muốn cứu độ chúng ta, Thiên Chúa mời gọi chúng ta sám hối quay về với Ngài. Trong niềm tin tưởng vào lòng quảng đại của Thiên Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Qua Bí tích Giao hòa được cử hành trong Giáo hội, Thiên Chúa mời gọi mọi người sám hối và lãnh nhận ơn Cứu độ của Ngài. Chúng ta cùng cầu nguyện cho tinh thần sám hối, hòa giải được đề cao trong lòng mọi thành phần Dân Chúa.

2. Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong xã hội chúng ta, đặc biệt cho các nhà lãnh đạo quốc gia mạnh dạn quyết tâm tiêu trừ mọi tệ nạn xã hội đang làm băng hoại đời sống đạo đức của bao lớp người.

3. "Hãy ăn năn thống hối vì Nước Trời đã gần đến". Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi gia đình trong cộng đoàn chúng ta, biết thực thi lòng sám hối với tất cả niềm tin, lòng trung thành và tình yêu mến dành cho Thiên Chúa.

Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương sai Con Một của Chúa là Đức Giêsu đến cứu độ nhân loại. Xin cho mọi người chúng con được lãnh nhận hồng ân của Chúa để tất cả biết hoán cải, canh tân đời sống, xứng đáng với tình yêu của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

--------------------------------

 

MV 2-A135: Làm việc lành cho xứng với lòng thống hối


(Suy niệm của Lm. JB Lê Ngọc Dũng)

 

Chính Thần Khí của Thiên Chúa đã khiến lời rao giảng của Gioan đã thật trong sáng, rõ ràng MV 2-A135


Chính Thần Khí của Thiên Chúa đã khiến lời rao giảng của Gioan đã thật trong sáng, rõ ràng, mãnh liệt: Ngài nói: “Hỡi nòi rắn độc, ai bảo các ngươi trốn lánh cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với lòng thống hối” (Mt, 3,8).

Nhiều người trong chúng ta vẫn muốn thống hối, cụ thể đi xưng tội, để biểu lộ lòng thống hôi để được ơn tha tội. Để mừng lễ Giáng Sinh chúng ta thấy cần đi xưng tội. Nếu không đi thì thấy lòng áy náy không yên. Đi xưng tội rồi thì mới thấy yên. Tuy nhiên xét cho kỹ hơn thì vẫn thấy mình chưa yên lòng, hay nói cách khác là ta chưa có được sự bình an trong tâm hồn.

Vì sao vậy?

Vì thấy mình chưa biến đổi được cuộc sống, chưa thực sự hoán cải; vì chứng nào vẫn tật nấy, có khi lại không nhẹ bớt mà ngày càng nặng tội hơn!.

Vậy thì chúng ta hãy làm như lời Gioan Tẩy Giả khuyên thử xem: “Hãy làm việc lành phúc đức cho xứng với lòng sám hối”.

Zenkai là một thanh niên con của một hiệp sĩ Samourai. Anh được tuyển vào phục dịch cho một viên chức cao cấp trong triều đình. Không mấy chốc, Zenkai đem lòng say mê người vợ của chủ mình. Anh lập mưu giết người chủ và đem người đàn bà đó trốn sang một vùng đất lạ. Anh tưởng có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà. Nhưng không mấy chốc, người đàn bà đã để lộ nguyên hình của một con người ích kỷ, đê tiện. Zenkai đành bỏ người đàn bà và ra đi đến một vùng đất khác, ở đó anh sống qua ngày bằng nghề ăn xin.

Trong cảnh bần cùng khốn khổ, Zenkai đã bắt đầu hồi tâm để nhớ lại những hành động tội lỗi của mình. Anh quyết định làm một việc thiện để đền bù cho quá khứ nhơ nhớp của mình.

Anh đi về một vùng núi hiểm trở, nơi mà nhiều người đã bỏ mình vì khí hậu khắc nghiệt cũng như vì công việc nặng nhọc. Zenkai đem hết sức lực của mình để khai phá một con đường xuyên qua vùng núi ấy.

Ban ngày đi khất thực, ban đêm đào đường xuyên qua núi. Zenkai cặm cụi làm công việc ấy ròng rã trong 30 năm trời.

Hai năm trước khi Zenkai hoàn thành công trình của mình, thì người con của viên chức triều đình mà anh đã sát hại trước kia bỗng tìm ra tung tích của anh. Người thanh niên thề sẽ giết Zenkai để trả thù cho cha mình. Biết trước mình không thoát khỏi án phạt vì tội ác mình đã gây ra mấy chục năm trước, Zenkai phủ phục dưới chân người thanh niên và van xin:

"Tôi xin sẵn sàng chịu chết. Nhưng cậu hãy cho phép tôi được hoàn thành công việc tôi đang làm dở. Khi mọi sự đã hoàn tất, cậu hãy giết tôi".

Người thanh niên ở lại để chờ cho đến ngày trả được mối thù cho cha. Nhưng trong khi chờ đợi, không biết làm gì, người thanh niên đành phải bắt tay vào việc đào đường với Zenkai mà vẫn nuôi chí báo thù cha.

Nhưng chỉ một năm sau cùng làm việc với kẻ đã giết cha mình, người thanh niên cảm thấy mọi ý muốn báo thù đều tan biến trong anh. Thay vào đó, anh lại thấy dậy lên trong lòng sự cảm phục và thương mến đối với sự nhẫn nhục, chịu đựng của Zenkai.

Con đường đã được hoàn thành trước dự định. Giờ đây dân làng có thể qua lại vùng núi hiểm trở một cách dễ dàng không còn gặp nguy hiểm chết người như ngày xưa nữa. Họ rất vui mừng khôn xiết đến tạ ơn Zenkai.

Tuy nhiên, giữ đúng lời hứa, Zenkai đến phủ phục trước mặt người thanh niên để chấp nhận sự trừng phạt, chịu chết trước kẻ muốn báo thù cho cha mình. Nhưng người thanh niên vừa đỡ Zenkai dậy vừa nói trong tiếng khóc:

"Làm sao tôi có thể chém đầu được thầy của tôi!"

Người thanh niên đã nhận ra nét đẹp quí phái nhất nơi Zenkai. Đó là lòng người biết hồi tâm, biết nhận ra lỗi lầm và từ đó quyết tâm xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. ZenKai đã quyết tâm, nhẫn nhục xây dựng một con đường xuyên qua khu rừng núi hiểm trở để cho người ta có thể đi lại.

Zenkai đã thể hiện được lòng sám hối như Chúa muốn, như thánh Gioan đã chỉ dạy: “Hãy làm việc lành phúc đức cho xứng với lòng thống hối”.

Xin Chúa cho chúng ta biết thực hiện lời kêu gọi của thánh Gioan Tẩy giả là biết sám hối một cách tích cực, không phải là thống hối một cách hời hợt hay cách biệt khỏi nếp sống hằng ngày. Nhưng đó là sống tích cực giúp đở người khác, tìm những việc lành phúc đức, việc bác ái hy sinh vì tha nhân. Sống bác ái có nghĩa là biết chia sẻ trong yêu thương.

Chúng ta cũng cần sống trong sạch ngay thẳng. Đó là biết san phẳng những chỗ gồ ghề của tâm hồn bằng tinh thần khiêm tốn, để những hố sâu trống rỗng của con tim chúng ta có thể được lấp đầy bằng những việc lành phúc đức. “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng thống hối” (Mt, 3,8).

-----------------------------------

 

MV 2-A136: Không sám hối sẽ bị hủy diệt


(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

 

Có một số tín hữu vin vào chuyện người trộm lành cùng bị đóng đinh với Chúa Giê-su và được MV 2-A136


Ngài cho hưởng phúc thiên đàng để rồi sống buông thả phóng túng. Họ cho rằng: Cứ ăn chơi, cứ sa đà trong tội, chẳng cần sám hối… đến lúc cuối đời thì chỉ cần quay về với Chúa và thưa với Ngài: “Lạy Chúa, xin thương xót con, xin tha thứ cho con…” là đủ để được tha thứ mọi tội lỗi và được lên thiên đàng như người trộm lành năm xưa.

Đây là chủ trương sai lầm và tai hại.

Sai lầm vì trái với lời răn dạy của Chúa Giê-su;

Tai hại vì chủ trương này đưa đến đời sống buông thả, suy đồi.

Trước hết, chúng ta cần nhớ rằng: Người “trộm lành” được thuật lại trong các sách Tin mừng[1] cho dù có phạm tội trộm cướp đi nữa… nhưng anh ta đã chịu đền tội bằng án tử hình, đền tội như thế là quá đủ rồi… nên đáng được Chúa Giê-su đón vào thiên đàng. Hơn nữa, đến giờ phút cuối, anh ta còn lập công bằng cách tuyên xưng Chúa Giê-su là là vua Nước Trời, khi nói: “Ông Giê-su ơi! Khi Ông vào Nước của Ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23, 43).

Trong khi đó, nhiều tội nhân cứ sa đà trong tội và chưa từng chịu phạt cách tương xứng vì những tội lỗi đã gây ra, mà đòi được khoan hồng và hưởng phúc như anh ta là phạm phải sai lầm tai hại.

Chúa Giê-su không hề dạy người ta sống buông thả, chờ đến giờ chết đến mới nài xin tha tội; trái lại, Ngài đòi buộc mọi người phải sám hối, hoán cải ngay từ hôm nay. Ngài đã nhiều lần, nhiều cách cảnh báo rằng bất cứ ai không sám hối, không cải thiện cuộc đời thì sẽ bị huỷ diệt.

Sám hối, cải thiện cuộc đời là điều kiện tối cần để được cứu độ

Khởi đầu công cuộc rao giảng, sứ điệp đầu tiên mà Chúa Giê-su gởi đến nhân loại là lời kêu gọi: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 4,17).

Trước đó ít lâu, khi Gioan Tẩy giả bắt đầu rao giảng, thì sứ điệp đầu tiên mà ngài gửi đến mọi người cũng là lời kêu gọi sám hối: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3, 2).

Không ăn năn hối cải thì sẽ bị huỷ diệt

Nhân sự kiện có một số người Ga-li-lê bị Phi-la-tô tàn sát cách man rợ, Chúa Giê-su cảnh báo: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy” (Lc 13, 3).

Và Chúa Giê-su cũng nêu lên trường hợp mười tám người bị tháp Si-lô-e đổ xuống đè chết thình lình, để cảnh báo: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy” (Lc 13, 5).

Qua bài Tin mừng được trích đọc hôm nay, thánh Gioan tẩy giả cảnh báo rằng:

- Ai không ăn năn hối cải thì bị xem như một thứ cây xấu, sẽ bị chặt bỏ đi và bị ném vào lửa. Ngài nói: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 10).

Thánh Gioan cảnh báo tiếp:

- Ai không ăn năn hối cải thì bị xem như lúa lép sẽ bị thiêu đốt trong lửa không hề tắt. Ngài nói: Thiên Chúa sẽ cầm nia và “rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3, 12).

Chúa Giê-su cũng răn đe những người không ăn năn hối cải, không cải thiện cuộc đời bằng nhiều dụ ngôn khác.

- Họ bị xem như một thứ cá xấu bị vứt ra ngoài. Ngài nói: “Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 13, 47-50).

- Họ bị xem như cỏ lùng trong ruộng lúa, khi cuối mùa, sẽ bị đốt đi như lời Chúa nói: “Cứ để cả lúa và cỏ lùng cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi" ( Mt 13, 30).

- Họ sẽ bị xếp vào thành phần bị chúc dữ và sẽ bị Chúa Giê-su lên án như được viết trong dụ ngôn “Phán xét cuối cùng”: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó...” Mt 25,41).

Lạy Chúa Giêsu,

Hậu quả của việc không sám hối thật là khủng khiếp.

Xin giúp chúng con quyết tâm sám hối, làm lành lánh dữ, hầu có thể tránh thoát hậu quả khủng khiếp sau này và được hưởng phúc thiên đàng với Chúa muôn đời. Amen.
----------
[1] (Lc 23,33.43. Mt 27,37.44. Mc 15,27-32. Ga 19.18)

-------------------------

 

MV 2-A137: Lời công bố của Gioan Tẩy Giả


(Suy niệm và chú giải của Học viện Giáo hoàng Piô X Đà Lạt)

CÂU HỎI GỢI Ý

 

Mt dùng cùng một động từ “xuất hiện” để đưa Gioan (3, 1) và Chúa Gỉêsu (3,13) vào câu chuyện MV 2-A137


1. Mt dùng cùng một động từ “xuất hiện” để đưa Gioan (3, 1) và Chúa Gỉêsu (3,13) vào câu chuyện; sứ điệp của Gioan (3, 2) và của Chúa Giêsu (4,17) đều giống nhau; lời ngôn sứ Isaia được trích ra trong câu chuyện của cả hai nhân vật: sự song đối này có ý nghĩa gì? Mt có đưa vào những yếu tố dị biệt không ?

2. Đâu là chủ đề rao giảng của Gioan? Chủ đề đó đóng vai trò nào trong trình thuật Tin Mừng?

3. Vào thời Chúa Giêsu, đâu là những bè phái hay khuynh hướng tôn giáo khác nhau? Chúng có đặc điểm nào?

4. Trong tất cả đoạn này, chủ đề sa mạc gợi lên những âm hưởng nào trong Cựu ước?

5. Vào thời Chúa Giêsu, có những thiên sai chủ nghĩa hiện hành nào? Chúa Giêsu tỏ thái độ gì đối với chúng?

CHÚ GIẢI

1. Để hiểu việc nhập cuộc của Gioan, cần nhớ rằng vào thời ấy, thời đô hộ của đế quốc Rôma, thời ra oai tác quái của vua Hêrôđê, người Do thái tìm mọi cách để được giải phóng. Giữa lòng Do thái giáo và đặc biệt tại Giêrusalem, nhiều “phe phái” dần dần thành hình. Nhóm Biệt phái (hay phái cách biệt), phát sinh từ thời Macabê (x.1 Mcb 2, 42) mà Flavius Josèphe bảo là có hơn 6000 phần tử (Antiquités Juives, XVIII,42), đã quy tụ được một vài tư tế với một số lớn thường dân, thường mộ từ các ký lục hay tiến sĩ Luật. Nhờ trung thành với lề luật, với khẩu truyền của tổ tiên, họ trở thành những nhà lãnh đạo tinh thần của dân chúng thời Chúa Gìêsu; do đó ảnh hưởng tôn giáo và luân lý cua họ rất đáng kể; trên phương diện chính trị, họ bênh vực sự tự trị của dân tộc Do thái và tỏ ra dè dặt trong việc tiếp xúc với người Rôma. Bên cạnh họ, nhóm Saducêo, con cháu Sađốc, vị thượng tế thời Salomon (1V 2, 35), làm thành phái các tư tế, vì quy tụ những gia đình tư tế khá giả.

Họ chấp nhận các phong tục Hy lạp và thích nghi với chế độ thống trị của Rôma; thừa nhận sách Torah hay Ngũ kinh trên phương diện tôn giáo, nhưng chối bỏ khẩu truyền, chối bỏ đức tin về sự sống lại, sự hiện hữu của các thiên thần và việc Thiên Chúa quan phòng. Người ta cũng thấy có nhiều khuynh hướng cực đoan. Một trong những khuynh hướng đó là phái Nhiệt thành (Zélotes), một đảng chính trị và tôn giáo quá khích, được Giuđa người Galilê lập năm thứ sáu kỷ nguyên chúng ta. Với niềm mơ ước một quốc gia thần quyền, họ cho rằng chỉ Giavê mới là vua Israel và nhằm dùng bạo lực bẻ gấy ách thống trị của Rôma. Họ từ chối đóng thuế và lánh vào hoang địa để chuẩn bị cuộc thánh chiến; cuộc thánh chiến này sẽ thực sự bùng nổ vào năm 66, khi xảy ra “vụ nổi loạn của người Do thái”. Ngược lại những người Essêni cũng rút vào sa mạc, nhưng để âm thầm chuẩn bị cho cộng đoàn thiên sai của giao ước. Chính trong môi trường đa diện ấy đã hiện ra khuôn mặt vĩ đại của Gioan Tẩy Giả, con người đang cực lực kêu gọi toàn dân Israel hối cải trở về.

2. Lời công bố kiểu ngôn sứ của ông có ý nghĩa gì? Đối với Gioan, nó xác quyết rằng sự chờ mong của toàn dân đã đến ngày loại nguyện; như các người đương thời, ông tin rằng người ta chỉ được thỏa lòng chờ mong khi xuất hiện Đấng Thiên Sai, Đấng mà ông sẽ giới thiệu như vị Thẩm phán của thời sau hết (3, 10-12). Thực vậy, giữa thời Gioan rao giảng và “ngày tận thế”, chỉ còn chỗ cho một biến cố duy nhất, việc Quang lâm của Đấng đến để chấm dứt thế giới. Gioan lớn hơn một ngôn sứ nhiều (11, 9),ông là kết tinh của mọi ngôn sứ, vì ông không loan báo một biến cố xảy ra trong lịch sử, mà loan báo biến cố chấm dứt lịch sử (Guillet).

3. Như các vị ngôn sứ tiền nhiệm, Gioan Tẩy Giả tố cáo sự giả hình của lối sống đạo thuần túy bên ngoài (Am 5,21-27; Is 1,10- 20; 29, 13-14; Gr 7, 1 – 8, 3; v.v…). Ông chống lại óc duy luật, thái độ tự mãn, tự trấn an rằng mình là con cháu Abraham (3, 9). Đức tin đâu phải là một di sản giống nòi: Đức tin là một dấn thân đích thực, một cuộc tự đặt lại vấn đề không lúc nào nguôi. An phận trong ơn gọi là một cạm bẫy không ngừng đối với Israel, trong lúc sự hối cải đích thực đòi hỏi phát sinh những hoa trái bên ngoài (3, 10; 7, 17- 19; 12, 33). Gioan đã đặt giai cấp lãnh đạo Do thái trước sự phán xét của Thiên Chúa, y như Chúa Giêsu sẽ làm về sau (ch.23). Như vậy, qua việc trình hãy vai trò của Gioan và Chúa Giêsu trong lịch sử cứu rỗi cũng như trình bày thái độ các ngài chống lại Israel cứng lòng, Mt đã liên kết cả hai lại. Có sự liên tục hoàn toàn giữa Gioan và Chúa Giêsu. Sự liên tục này nhất thiết cũng có ở mọi ngôn sứ thuộc mọi thời đại, vì sự cứng lòng và giả hình là một đe dọa thường xuyên đối với bất cứ cộng đoàn nào tự cho mình là cộng đoàn được cứu độ. Và đấy là lý do sâu xa khiến Mt đưa vào trong Tin Mừng của ông những lời xỉ vả của Gioan: các lời quở trách thủ lãnh Israel ấy cũng nhắm đến những kẻ điều hành cộng đoàn Mt, cũng như cộng đoàn Kitô hữu, nhắm đến những kẻ lãnh đạo chẳng hề quan tâm đến việc phát sinh “hoa quả tốt lành” (3, 10). Thái độ của họ là cách duy nhất giúp người ta nhận ra họ là ngôn sứ giả vậy (7,16).

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

Câu 1 nói đến việc Gioan Tẩy giả xuất hiện trong sa mạc Giuđêa. “Trong những ngày ấy” không phải là một tiếng xác định thời gian, vì những sự kiện tường thuật trong chương 3 xảy ra khoảng 30 năm sau những biến cố của chương 2, song là một công thức chuyển mạch có ít nhiều tính chất thần học, một công thức các ngôn sứ Cựu ước quen dùng để chỉ thời đại phục hưng của Đấng Thiên sai (Is 25, 9; 26, 1; 27, 1 .2.6. 12. 13…). “Xuất hiện”: động từ được dùng ở thì hiện tại để đặc trưng việc Gioan và Chúa Giêsu đến (3, 1. 13) và gợi lên tính cách hiện thực của lời các ngài loan báo. “Rao giảng” (kêrussôn, kerygma): một từ ngữ chuyên môn trong Tân ước (61 lần) dùng để chỉ việc công bố Tin Mừng. Chủ từ của động từ này luôn luôn là Gioan, Chúa Giêsu, các sứ đồ. Đối tượng của việc công bố bao giờ cũng là Tin Mừng, Nước Trời hay một cái gì tương đương. Mượn từ Cựu ước (38 lần theo bản 70), có lẽ từ Is 61, 1 , từ ngữ “rao giảng” như vậy liên kết Gioan Tẩy giả với truyền thống lớn của bao lời giảng có tính cách tiên tri, thiên sai và khải huyền. “Trong sa mạc Giudêa”: sa mạc nằm giữa tuyến đường Giêrusalem- Hêbron và Biển chết.

Câu 2 tóm tắt lời rao giảng của Gioan và tương ứng từng chữ một với lời rao giảng của Chúa Giêsu ở 4, 17. Viết như thế, Mt muốn nhấn mạnh rằng lời loan báo của Gioan Tẩy giả hoàn toàn liên lục với lời của Chúa Gỉêsu. Như Chúa Giêsu, Gioan chuyên rao giảng việc thống hối.

“Hãy hối cải”: Metanocô, theo nguyên ngữ, là “nghĩ lại, suy tư tiếp sau “, do đó mà có nghĩa là: “thay đổi ý kiến” rồi “hối tiếc, ăn năn, hoán cải”. Bản 70 dùng động từ này đặc biệt trong các lời ngôn sứ kêu gọi Israel từ bỏ tà thần và trở về (shub) với Giavê. Ngôn ngữ Hy-lạp bình dân hiểu tiếng này theo một nghĩa rất đơn sơ: thay đổi ý kiến, hối tiếc một hành động, chứ không hối tiếc một tình trạng. Trong – Tân ước, metanocô nói lên việc đi từ tình trạng này sang tình trạng khác. Nó giả thiết một sự thay đổi toàn diện, biểu lộ ra trong toàn thể thái độ sống. Việc thay đổi ấy bao hàm một phương diện tiêu cực (bỏ đàng xấu xa tội lỗi) và một phương diện tích cực (hướng cả con người về với Thiên Chúa). Nguyên nhân hối cải là vì Nước thiên sai gần đến. Câu 2 này tiên báo 3, 7-10 (lời kêu gọi hoán cải) và 3, 11- 12 (lời công bố Đấng Thiên Sai sắp thiết lập Vương quốc). “Đã gần bên”: công thức chung cho lời rao giảng của Gioan lẫn của Chúa Giêsu đây mô phỏng theo công thức sách Isaia đệ nhị đã dùng để nói về sự công chính và ơn cứu rỗi cánh chung đang “đến gần” (với dộng từ Hy bá qârab, được bản 70 dịch ra là eggizein, động từ mà Mt dùng ở đây = có lẽ ám chỉ Is 46, 1 3; 50, 8; 51, 5; 55, 6; 56, 1; 58, 2). Khi minh nhiên tham chiếu Isaia trong câu tiếp theo, Mt muốn dạy rằng lời rao giảng của Gioan Tẩy giả dựa trên chính quyền bính của Thiên Chúa.

Câu trích dẫn Is 40, 3: Đầu “Sách an ủi” (Is 40- 55), Thiên Chúa loan báo Ngài sẽ nâng đỡ dân Ngài, lúc phục hưng họ sau thời lưu đày (Is 40, 1-2). “Tiếng hô” nơi Is 40, 3 xem ra khác tiếng Thiên Chúa (Is 40, 1), vì lời công bố của Thiên Chúa đã chấm dứt nơi câu 2, trong khi câu 3 mở đầu với một “tiếng hô” đưa vào lời công bố tiếp; hơn nữa, khó mà hiểu được Thiên Chúa lại bảo: “Hãy vạch một con đường cho Thiên Chúa chúng ta”. Cho nên đấy là một tiếng nói mông lung, có lẽ của một thiên thần. Thể song đối của câu này khiến các nhà chú giải thời nay đặt hai chấm trước chữ “trong sa mạc”: Có tiếng hô: “trong sa mạc hãy dọn đường cho Giavê, trong đồng cỏ hoang hãy vạch thẳng lối cho Thiên Chúa chúng ta”. Theo bản Hy bá, nơi vang lên tiếng vô danh ấy không được xác định rõ ràng. Tiếng hô loan báo rằng Thiên Chúa sắp dẫn đầu dân Ngài trong một cuộc tiến rước khải hoàn. Ngài sẽ dẫn Israel từ Babylon về Giêrusalem. Bỏ lộ trình thông thường đi qua miền lưỡi liềm phì nhiêu, đoàn người sẽ trực liếp ngang qua sa mạc Siri Ả-rập. Nhân danh Thiên Chúa, tiếng nói ra lệnh phải sửa đường cho bằng phẳng, thẳng tắp. Khi dịch câu này, bản 70 có đổi một ít chi tiết. Chữ “trong sa mạc” được nối liền với chữ “một tiếng hô”.

Các tác giả Tin Mừng Nhất lãm lấy lại nguyên văn bản 70, trừ nơi đoạn cuối, họ bỏ chữ “Thiên Chúa chúng ta” mà thay bằng chữ “của Người”. Vậy là “tiếng của người hô trong sa mạc” bấy giờ rõ ràng trở thành Gioan Tẩy giả. “Chúa” trong thành ngữ “đường Chúa” ở đây chỉ Chúa Kitô: “Chúa” là tước hiệu chính mà Giáo Hội gán cho Chúa Giêsu sau khi người phục sinh, một tước hiệu cho thấy trong cuộc tôn vinh đó lời Tv 2,7 đã được hoàn thành. Việc thay chữ “Thiên Chúa chúng ta” bằng chữ “của Người” xác nhận lối giải thích chữ “Chúa” theo ý nghĩa thiên sai. Như trong nhiều câu trích dẫn khác ở đây Tân ước gán cho Chúa Giêsu một phẩm vị mà Cựu ước thường dành cho Giavê. “Hãy sửa lối đi của Người cho thẳng” nghĩa là hãy sửa lối của Đấng Thiên Sai đang đến gần. Bởi vì tiếng hô được đồng hóa với Gioan, nên những lời này là lời ông ngỏ với dân để chuẩn bị cho họ đón. Đấng Messia tới, việc sửa soạn đó là hối cải, điều kiện cần thiết để được tha tội.

Việc bốn Tin Mừng đồng trích dẫn Is 40, 3 cho thấy “chứng từ” đó được phổ biến rộng rãi trong Giáo Hội sơ khai. Đàng khác, Isaia là vị ngôn sứ có ảnh hưởng nhất trong Giáo Hội thời ấy; ông được Tân ước nhắc đến tên 22 lần và như vậy là cuốn sách Cựu ước được trích dẫn nhiều nhất.

“Trong sa mạc”: Vì sống trong sa mạc từ thời niên thiếu (Lc 1, 80), nên Gioan đã xa lánh mọi tiện nghi của đời sống (Mt 11, 8; Lc 7, 25), nhất là xa hẳn những khuôn khổ đạo đức Do thái, đặc biệt của Đền thờ và của hội đường. Nét đó đưa ông đến gần những người phái Qumrân. Tại sao Gioan lại thi hành sứ vụ trong sa mạc thay vì rao giảng như Chúa Giêsu trong. Các hội đường? Không chắc là vì chỉ để làm phép rửa tại sông Giođanô. Về điểm này, Gioan xem ra gắn liền với một truyền thống khá phổ biến trong Israel. Theo truyền thống ấy, thời Israel lang thang trong hoang địa, từ lúc ra khỏi Ai-cập đến khi vào Đất hứa, được xem như một thời kỳ chứa chan ân sủng, thời kỳ tuyển dân sống thân tình với Thiên Chúa, được Ngài đối xử nhân hậu (Đnl 2,7; 8, 2- 5; Gr 2, 25; Hs 2,16). Vì thế người ta tin rằng vào thời cánh chung, Nước Thiên Chúa sẽ khởi đầu từ trong sa mạc và Đấng Mêsia sẽ xuất hiện tại đấy (Mt 24, 26). Do đó một vài thủ lãnh các phong trào thiên sai thường dẫn đồng đảng của mình vào sa mạc (Cv 21, 38).

Y phục và thức ăn của Gioan (c.4) biểu lộ con người đã từ bỏ mọi tiện nghi để trở thành người của Thiên Chúa. Qua lối sống đó ông cũng gợi lên hình ảnh ngôn sứ chính danh. Song ở đây ông đặc biệt gợi lên hình ảnh Elia, kẻ thường mang “một bộ lông và ngang lưng quấn xiêm da” (2V 1 ,8). Theo một truyền thống kỳ cựu (2 V 2), Elia đã được đưa lên trời không chết, truyền thuyết xác nhận thế) và sẽ trở lại làm tiền hô cho Ngày cánh chung (Mt 3, 23). Khi phục sức cho Gioan giống Elia, Mt măc nhiên bảo rằng Gioan Tẩy giả chính là Elia, nghĩa là kẻ thi hành chức vụ Elia, chức vụ tiền hô. Nên lưu ý là theo Dcr 13, 4, chiếc áo lông tượng trưng nét đặc biệt của các ngôn sứ “Châu chấu” và “mật ong dại” là hai thức ăn đơn giản của Gioan, nhưng Mt không quả quyết là Gioan chỉ sống bằng châu chấu và mật. Châu chấu chẳng phải là một thức ăn lạ lùng đâu: Tài liệu Damas (Document de Damas, của Qumrân) có bảo phải chiên hoặc luộc chúng mà ăn; người Béđouins hiện thời thường ăn châu chấu chiên hoặc ướp muối. Còn mật thì hoặc là mật ong tìm trong hốc đá, hoặc là nước rỉ của cây tây hà liễu (tamaris).

Câu 5 ghi nhận ảnh hưởng sâu xa của Gioan trên dân chúng. “Và trẩy đến với ông” (nguyên tự: và đi ra đến với ông – kai exseporeueto): có thể động từ này gợi lại Is 48, 20 và 52, 11 (lời khuyên bả o đi ra khỏi Babylon để thanh tẩy). Từ thời Isaia đệ nhị, hình ảnh một cuộc hành hương thanh tẩy tội lỗi luôn nằm trong cánh chung luận Do thái. “Tất cả” dân chúng: trái với những người Essêni, Gioan ngỏ lời với toàn thể Israel chứ không với một giai cấp nào đặc biệt. Dầu sao đây là một thành ngữ phóng đại, vì ta biết rằng nhóm Biệt phái và Sađucêo đã từ chối sứ điệp và phép rửa của Gioan (Mt 21, 32; Mc 9, 13; 11, 31; Lc 7, 29tt). Kiểu nói phóng đại này, vừa gợi lên thành công Gioan thu đạt được, vừa nối kết sứ mệnh Gioan với Is 40, 3, nơi mà “tiếng của người hô” ngỏ cho toàn dân và chuẩn bị mọi người đón chờ Đấng Messia đến.

“Xưng thú tội lỗi”: Exsomologeô, “thừa nhận, tuyên xưng, cáo mình công khai”. Trong bản 70, động từ này đặc biệt diễn tả sự khen ngợi, lòng tạ ơn (so sánh với Mt 11, 25). Việc xưng thú tội lỗi hình như đi liền sau phép rửa hoặc xảy ra ngay trước đó. Có lẽ đây chỉ là một lời xưng tội tổng quát.

“Ông thấy nhiều người Biệt phái và bè Sađucêo đến chịu thanh tẩy”. Xét theo lịch sử, khuynh hướng của hai nhóm này thường đối nghịch nhau. Tuy nhiên Mt gộp chung họ lại (x. 16, 1; 16, 11 -12), đặt họ cùng hứng những lời quở mắng của vị Tẩy giả. Đó là vì Mt muốn tấn công trực tiếp các thủ lãnh của dân, muốn vạch trần thái độ tráo trở và tự mãn của họ, thái độ mà mỗi người có thể khám phá thấy nơi chính mình. Chắc hẳn, vào thời Mt biên soạn Tin Mừng, nhóm Sađucêo đã mất ảnh hưởng, nhất là từ lúc thành Giêrusalem bị tàn phá; tuy nhiên mối tranh chấp giữa các cộng đoàn Do thái và Kitô giáo ngày càng thêm sâu rộng. Trong bối cảnh ấy, thành ngữ “Biệt phái và Sađucêo” có ý chỉ các lãnh tụ tôn giáo nói chung, thường dân lẫn giáo sĩ. “Đến chịu thanh tẩy”:.giới từ epi ở đây xem ra hàm hồ, vì có thể làm cho người ta nghĩ rằng Biệt phái và Sađucêo đến xin chịu thanh tẩy. Thật ra, sau này ta sẽ thấy, Biệt phái không tin vào Gioan và chẳng chấp nhận phép rửa của ông (Mc 11, 27- 33; Mt 21, 32; Lc 7, 30); ở đây có lẽ họ đến là để điều tra về ông (Ga 1, 19- 28). Ta biết rằng Do thái giáo chính thức đã bắt bớ những người Essêni ở Qumrân. Do đó có thể nghĩ rằng nhóm Biệt phái cũng có thái độ thù nghịch tương tự đối với Gioan là kẻ cũng đang đứng bên lề tôn giáo chính thức.

“Nòi rắn độc” nghĩa là con cháu Satan. St 3 đã từng trình bày con rắn như là tiêu biểu của tính xảo trá lừa lọc. Về sau rắn được liên kết với Satan; Kh 12, 9 mô tả Satan như “con rắn thuở xưa”. Lời của Gioan Tẩy giả ở đây đối nghịch dữ dội với mặc cảm tự tôn của Biệt phái (x. “con cái Abraham” ở câu 9).

“Cơn Thịnh nộ hòng đến”: Cơn Thịnh nộ, theo nghĩa tuyệt đối là cơn thịnh nộ của “Ngày giao”. Truyền thống ngôn sứ Cựu ước đã liên kết hai ý niệm này với nhau Is 13, 6-9; Xp 2, 2; Ml 3, 2. 23- 24). Nó là yếu tố chính mà niềm hy vọng thiên sai hằng chờ đợi. Mặc dầu các ngôn sứ đã quả quyết: Cơn Thịnh nộ cánh chung ấy sẽ giáng xuống trên các tội nhân (x. Am 3, 2), Do thái giáo thời Tân ước vẫn quan niệm rằng nó chỉ dành cho lương dân (tức những kẻ chẳng phải là “con cái Abraham”), những kẻ bị coi là tội lỗi. Quan niệm độc đoán ấy bắt nguồn từ thời bách hại của các vua Hy lạp dòng dõi Séleucos (tk IV-I) do ảnh hưởng của luồng tư tưởng khải huyền. Cơn Thịnh nộ ấy của Thiên Chúa, một cơn thịnh nộ tiêu diệt bọn lương dân thống trị Israel, đã được đưa vào trong một thuyết thiên sai đầy màu sắc chính trị. Phản ứng của Gioan là nhằm đưa người ta trở về viễn tượng đích thực của các sứ ngôn: cơn giận Thiên Chúa sẽ đè nặng trên mọi tội nhân, bất kể họ là ai. Bởi đấy mà ông tuyên bố, như Chúa Giê su (Mt 4, 17; Mc 1, 15) là mọi người cần phải hối cải và lãnh nhận phép rửa, một điều tương đương với việc tái nhập vào Israel đích thực, y như người tân tòng đi vào cộng đoàn Israel qua phép rửa vậy. Thánh Phaolô đã lấy lại thành ngữ “Cơn Thịnh nộ hòng đến” (1Tx 1, 10; Rm 5, 9) để khẳng định rằng Chúa Kitô sẽ cứu ta khỏi cơn giận ấy.

“Hy sinh quả phúc đức xứng với lòng hối cải”. Hối cải, một tình cảm nội tâm, phải được minh chứng ra bên ngoài bằng những hành vi tương ứng. Hình ảnh được lấy từ câu 10: cây sinh trái (so sánh với Mt 7, 16- 19; kết luận của Diễn từ trên núi, và với Lc 13, 6: cây vả cằn cỗi).

“Chúng tôi có cha là Abraham” (so sánh với Ga 8, 33). “Cha Abraham” là một thành ngữ các giáo sĩ Do thái năng dùng. Nó đã xuất hiện trong Is 51, 2. Tân ước cho thấy nó cũng được sử dụng thường xuyên vào thời ấy (Lc 16, 24; Cv 7, 2; Rm 4, 1). Từ ngữ nhắc đến một trong những lý do vững tâm của Israel: lời Thiên Chúa hứa cho Abraham và cho “các tổ phụ” vẫn có giá trị cho hậu duệ. Thế mà theo lối cắt nghĩa của các giáo sĩ, hậu duệ ấy là những người con xác thịt của Abraham. Bởi đấy mà trong Do thái giáo có câu châm ngôn quả quyết ai thuộc dòng máu Do thái thì chắc chắn sẽ được cứu rỗi: “Toàn thể Israel được tham dự vào thời tương lai”. Một châm ngôn kiểu đó giả thiết rằng mỗi người Do thái đều được một quyền lợi mà Thiên Chúa phải thỏa mãn; họ không còn là người tôi tớ trông chờ Chủ mình thương xót ban ơn. Thứ an toàn đó tự nhiên dễ làm cho một số người Do thái sống phóng túng về mặt luân lý và giải thích được thái độ tự mãn kiêu căng của nhóm Biệt phái.

“Vì Thiên Chúa có thể lấy các viên đá này mà gầy nên con cái cho Abraham cũng được”. Ở đây có một lối chơi chữ theo tiếng Aramêo: abenyyâ “viên đá” và benayâ “con cái”. Do thái giáo ít ra mặc nhiên kết luận rằng Thiên Chúa, vì bị trói buộc bởi lời hứa cứu rỗi với Abraham, nên cần có Israel để trung thành với chính lời mình. Phản ứng của Gioan là đòi lại tự do hoàn toàn cho Thiên Chúa, Đấng vẫn chu toàn lời hứa được khi loại trừ con cháu Abraham theo xác thịt nếu họ từ chối hối cải và tạo nên một Israel mới. Bằng cách đó, rõ ràng là Gioan khai mào cho lời công bố của Chúa Giêsu: Israel sẽ bị khai trừ và lương dân sẽ được kêu gọi làm thành một lsrael mới phát sinh hoa quả (Mt 8, 11- 12; 21, 43; so sánh với Rm 9, 6- 8). Tuy nhiên tư tưởng của Gioan chưa có tính cách phổ quát như tư tưởng Chúa Giêsu. Tầm nhìn của ông vẫn còn giới hạn nơi Israel. Ông chỉ trực tiếp tấn công ảo tưởng kiêu căng dựa trên những đặc quyền quốc gia, thứ ảo tưởng muốn chối bỏ tự do Thiên Chúa và miễn cho Israel khỏi thống hối trở về.

“Lưỡi rìu đã sẵn gốc cây”: Trong Cựu ước, cây là hình ảnh các dân tộc. Chắc ta còn nhớ hình ảnh cây thông bị đốn ngã (Is 6, 13) hay cây trắc bá vĩ đại tượng dưng Israel bị quân xâm lăng tàn phá (Ed 31,10- 13), một hình ảnh đã được Đanien lấy lại để diễn tả sự bành trướng và tàn lụi của đế quốc Babylon (Đn 4,7-12). Ở đây các động từ đều ở thì quá khứ hay hiện tại, chứ chẳng bao giờ ở tương lai: nghĩa là cuộc phán xét tương lai được xem như hiện tại. Cũng như không gì có thể cứu cây khô khỏi lửa đốt, thì cũng chẳng có gì cứu nổi Israel chai đá khỏi cơn đoán phạt. Bài diễn từ trên núi cũng chứa một lời cảnh cáo tương tự (7, 19): Mt tái xác nhận sự hòa hợp hoàn toàn giữa lời rao giảng của Gioan và của Chúa Giêsu vậy.

“Người sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Thần”: Đối với Mt và cộng đoàn của ông, đó là việc ban Thần khí của Thiên Chúa (x. Lc 24, 49; Cv 1, 5; 11, 16; 19, 1 -7). Phép rửa trong Thần khí để ban sự sống mới ấy đã hoàn thành lời hứa của Ge 3, 1 mà Is 44, 3; Ed 11, 19; 18, 31; 36, 25tt; Dcr từng loan báo.

“Trong Thánh Thần và lửa”, lai pu ri: Thành ngữ này tạo nên một khó khăn cổ điển. Ta có thể hiểu nó bầng hai cách. Hoặc lửa, liên kết với Thánh Thần, tượng trưng cho sự thanh tẩy mà Ngài thực hiện, thanh tẩy hiệu lực hơn là với nước hoặc lửa là hình ảnh cuộc phán xét cánh chung mà Đấng Thiên Sai đang đến thi hành.

Sau đây là vài chỉ dẫn chính của khoa chú giải giúp ta giải thích đoạn văn. Cũng một giới từ en (tương đương với dia, chỉ nguyên nhân tính dụng cụ) đứng đầu “Thánh Thần” và “lửa” cho phép ta nghĩ rằng Mt cố ý nối kết “lửa” với “Thánh Thần” và cả hai phải hiểu trong tương quan với nhau. Tuy nhiên văn mạch gần đó lại cho thấy là “lửa” tượng trưng sự phán xét. Quả vậy, “lửa” xuất hiện trong ba câu liên tiếp nhau. Thế mà trong câu 10 và 12, “lửa” rõ ràng tượng trưng sự phán xét. Vậy thì làm sao “lửa” của câu 11, đóng khung bởi “lửa” phán xét, có thể có một nghĩa khác được? Vả lại tất cả sứ điệp của Gioan đều nhấn mạnh đến vai trò Thẩm phán cánh chung của Đấng Thiên sai: “cơn thịnh nộ hòng đến” (c.7), “rìu” và “lửa ” (c. 10), việc phân biệt người công chính và kẻ tội lỗi (c. 12).

Nhưng nếu khảo sát văn mạch xa hơn, ta nhận thấy rằng “lửa” được liên kết với Thần khí trong quang cảnh ngày Hiện xuống: việc ban Thánh Thần được biểu trưng bằng các ngọn lửa (Cv 2,3). Thế mà Chúa Kitô phục sinh đã loan báo việc ban Thần Khí đó như là một phép rửa” (Cv 1, 5; so sánh với Cv 11, 16). Đoạn Cv 1, 5 này liên hệ chặt chẽ với bản văn của ta đây bởi vì Chúa Giêsu, như ở đây, cũng đặt phép rửa nước của Gioan gần kề phép rửa bằng Thánh Thần. Về phần Cựu ước, người ta biết có tới hai lời loan báo về thời đại cánh chung: loan báo Thần khí (Is 44,3; Ed 11, 19; 18, 31; 36, 25- 28; Ge 3, 1tt) và loan báo lửa báo thù quân vô đạo (Is 30, 33; 34, 9tt; Ml 3, 19). Biểu tượng lửa tương quan với Thiên Chúa thường được nhắc tới trong Cựu ước. Giavê biểu lộ sự hiện diện của Ngài bằng lửa. Lửa trừng phạt quân vô đạo nhưng thanh tẩy người công chính (ví dụ thị kiến khai mạc của Is 6). Lửa loại trừ những gì xấu xa và biểu lộ sự đòi hỏi thánh thiện của Thiên Chúa.

Tất cả mọi chỉ dẫn chú giải ấy đều có giá trị, nhưng lại đẩy bản văn chúng ta theo hai hướng khác nhau: lửa của Thần khí và lửa của phán xét. Chọn một trong hai cách giải thích là độc đoán phủ nhận các lập luận vững chắc. Giả thuyết dung hòa hơn cả là cho rằng trước tác sau cùng của Mt đã giữ lại câu nói của Gioan với ít nhiều thay đổi mà người ta đã thêm khi lưu truyền lại bằng miệng hoặc bằng viết. Vào thời đầu lúc mới lưu truyền, lời ấy loan báo cuộc phán xét, và tiếng “lửa” của câu 11 có cùng một nghĩa như nơi câu 10 và 12 so sánh Ml 3, 1- 3). Kiểu nói lúc bấy giờ có lẽ là: “Người sẽ thanh tẩy các ngươi trong gió (tiếng aramêo rua và tiếng Hy lạp tương ứng: pneuma đều có nghĩa là “gió” và “sinh khí” hay “thần khí”) và “lửa” “Gió ” và “lửa” đồng tượng trưng việc phán xét, như câu 12 về việc sảy sạch bằng rê lúa cho thấy. Phép rửa lúc bấy giờ là hình ảnh của việc hủy diệt (Mc 10, 38tt; Lc 12, 50). Ẩn dụ này đã từng được dùng trong Cựu ước rồi: con người gặp cảnh đau khổ được Cựu ước trình bày như kẻ bị đắng chìm, ngụp lặn trong đó (Tv 69, 2- 4; 124, 4- 5). Như vậy, vào thời đầu ấy, người ta không nói có sự đối nghịch giữa phép rửa của Gioan và một nghi thức cao cả hơn; đối nghịch đúng ra nằm trong ngôn từ (thanh tẩy bằng nước và thanh tẩy bằng lửa), và ám chỉ rằng phép rửa của Gioan là cơ hội sau cùng giúp người ta tránh được một phép rửa khủng khiếp hơn, tức là cuộc phán xét.

Một thời gian sau khi lưu truyền câu đó, các Kitô hữu, được giáo huấn Chúa Giêsu và kinh nghiệm Hiện xuống soi sáng, đã đọc lại và khai triển lời loan báo của Gioan. Câu nói nguyên thủy có lẽ đã muốn đặt nổi vai trò Thẩm phán cánh chung của Chúa Kitô. Còn các Kitô hữu lại muốn nói đến vai trò cứu rỗi của Chúa Kitô, Đấng đã ban Thần khí, đã dùng Thần khí hầu tái tạo nhân loại. Để phù hợp với quan điểm đó, có lẽ người ta đã thêm chữ “thánh” vào chữ “thần khí” (pneuma) để hiểu chữ này theo nghĩa Thánh Thần Chúa Kitô đã ban, cùng hiểu từ ngữ “lửa” theo nghĩa “biểu tượng của Thánh Thần”. Thành ra trong đoạn này, Mt đã gán cho Gioan lời loan báo: phép rửa chuẩn bị của ông đối nghịch với phép rửa chung quyết trong đó con người sẽ được Thần khí của Thiên Chúa biến đổi từ bên trong.

Câu 12 đưa ra một hình ảnh mới về Đấng Mêsia-thẩm phán. Lối so sánh trong câu mượn từ các ngôn sứ. Các ngôn sứ mô tả việc Giavê đến lần sau hết như một người, sau khi gặt lúa xong, bắt đầu sàng gạo để bỏ vào kho và quét trấu dọn sạch sân lúa (Hs 9, 1- 2; Mca 4, 11 -13; Gr 4, 11); ngọn lửa thiêu hủy và thanh tẩy diển tả việc Thiên Chúa hăng say trừng phạt quân vô đạo (Am 1, 4-2, 5; Ed 22, 18- 22; Xp 1, 18; Ml 3, 2- 19; Is 66, 15-16). Biểu tượng của việc phán xét thần linh ấy ta sẽ thấy lại trong dụ ngôn cỏ lùng (Mt 13, 30). “Lúa” dĩ nhiên chỉ những kẻ đã hối cải và sinh hoa quả thống hối trước khi cuộc phán xét xảy ra. “Trấu” nói đến những quân vô đạo không chịu’sinh hoa kết quả. Lửa “không hề tắt” (Is 66, 24; Mt 13, 42. 50) là một kiểu nói Gioan dùng để diễn tả số phận chung cục, vĩnh viễn của con người tội lỗi.

KẾT LUẬN

Sứ vụ của Gioan khai mạc một chương mới trong lịch sử cứu rỗi: các ngôn sứ đã loan báo việc Chúa đến, còn ông là kẻ sửa soạn cho Người. Với tấm lòng nhiệt thành, Gioan xứng danh là Elia mới, người chuẩn bị cho Đấng Thiên sai đến và là kẻ mà thiên hạ mong chờ. Sự cao cả của ông là ở chỗ đó.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Mọi Kitô hữu đều có thể bị cám dỗ bắt chước người đương thời của Gioan Tẩy giả, những kẻ tự hào về danh hiệu “con cái Abraham”, khi tự nhủ mình rằng: tôi đã chịu thanh tẩy trong Giáo Hội, tôi thuộc về một giới trọng vọng, tôi đi lễ thường xuyên, như vậy là tôi được bảo đảm trước mặt Chúa. Gioan Tẩy giả bấy giờ sẽ trả lời cho ta như cho người Biệt phái: không phải hễ được mang danh hiệu tín hữu, đã chấp nhận nghi thức như một thứ bùa chú hộ mệnh, là được miễn thực thi trong thân xác, tâm hồn và trí tuệ việc sám hối mà Chúa đòi hỏi khi Người khai mạc Nước trời.

2. Chấp nhận việc Chúa đến trong ngày Giáng Sinh là mong cho ngọn lửa mà Chúa Kitô mang tới sẽ thanh tẩy và biến đổi ta, là muốn rằng Thánh Thần của Người trở thành sự khôn ngoan và sức mạnh cho ta.

3. Lòng ăn năn đích thật, sự hối cải chân thành không nằm nơi những tình cảm đẹp đẽ suông hay nơi những nghi thức bên ngoài, nhưng nơi những công việc và hành vi cụ thể lôi kéo toàn thể con người ta.

-------------------------------

 

MV 2-A138: Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này nêu bật hai viễn cảnh thời Mê-si-a: viễn cảnh xa là sấm MV 2-A138


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này nêu bật hai viễn cảnh thời Mê-si-a: viễn cảnh xa là sấm ngôn của I-sai-a vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, và viễn cảnh gần là lời loan báo của thánh Gioan Tẩy Giả vào thời Đức Giê-su. Hai viễn cảnh này sẽ được thực hiện ở nơi Chúa Ki-tô và bởi Chúa Ki-tô, như thánh Phao-lô giúp chúng ta hiểu điều này.

Is 11: 1-10

Ngôn sứ I-sai-a tiên báo rằng một vị vua công chính, thuộc dòng dõi Đa-vít, sẽ đến trong tương lai. Ngài sẽ quan tâm đến những người khiêm hạ, sẽ làm cho sự công chính hoàn hảo ngự trị và sẽ thực hiện sự hòa giải giữa muôn loài thọ tạo.

Rm 15: 4-9

Thánh Phao-lô mời gọi những người tín hữu Rô-ma phải nên tâm đầu ý hợp với nhau, theo tinh thần Chúa Ki-tô, Đấng đã hiệp nhất và hòa giải người Ki-tô hữu gốc Do thái với người Ki-tô hữu gốc lương dân; người đầu tiên là con cái của Lời Hứa, người thứ hai, con cái của Lòng Xót Thương.

Mt 3: 1-12

Thánh Gioan Tẩy Giả loan báo một biến cố được chờ mong và chuẩn bị trong suốt nhiều thế kỷ: Đấng đến, Ngài sẽ tuyển lựa giữa thóc mẩy được đưa vào kho và thóc lép bị thiêu đốt. Không có lối thoát nào có thể ngoài tấm lòng hoán cải, đó là điều kiện tất yếu.

BÀI ĐỌC I (Is 11: 1-10)

Bản văn này là một trong ba sấm ngôn về Đấng Mê-si-a được gặp thấy ở đầu sách I-sai-a, thuộc các chương 7, 9 và 11. Trong Năm Phụng Vụ Năm A này, chúng ta sẽ đọc cả ba sấm ngôn này, vào Chúa Nhật II Mùa Vọng này, vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng và vào ngày lễ Giáng Sinh.

Cả ba sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đều nêu bật “Đấng Mê-si-a vương đế”, vì chúng được định vị vào trong sự nối dài của sấm ngôn Na-than cho vua Đa-vít: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi… Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7: 12-16). Vì thế, cả ba sấm ngôn này đều hướng đến cuộc sinh hạ của một con trẻ thuộc hoàng tộc Đa-vít, mà tên của con trẻ này là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7: 14-17). Con trẻ này sẽ giải thoát dân Thiên Chúa khỏi cảnh đời tối tăm và áp bức (Is 9: 1-6), sẽ thiết lập triều đại công minh chính trực và kiến tạo một nền hòa bình viên mãn (Is 11: 1-9).

Cả ba sấm ngôn này được công bố cho dân thành Giê-ru-sa-lem vào hậu bán thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Đối với toàn dân Ít-ra-en, đây là thời kỳ bi thảm: đế quốc Át-sua đang bành trướng thế lực, bắt triều cống và cuối cùng tiêu diệt vương quốc miền Bắc vào năm 721 trước Công Nguyên. Vương quốc miền Nam cũng không thể tránh khỏi, phải chịu số phận chư hầu và nhận biết những đột biến đầy bi thảm.

Bản văn chúng ta đọc vào Chúa Nhật này là sấm ngôn thứ ba trong ba sấm ngôn này; niên biểu của nó thật khó xác định; chắc chắn phải đặt nó vào một trong những giờ phút lịch sử nghiêm trọng này (có thể vào cuối thế kỷ thứ tám khi vua Xan-khê-ríp, vua Át-sua, xâm lăng và bao vây thành đô Giê-ru-sa-lem?). Dù hoàn cảnh lịch sử có nghiêm trọng đến mấy đi nữa, sấm ngôn này là bài ca tràn đầy niềm hy vọng.
1. Một niềm hy vọng lớn lao

“Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,

từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non”.

Hình ảnh này chắc chắn gợi lên tình trạng bi thương của vương tộc Đa-vít được ví như một cây bị chặt cả thân lẫn cành chỉ còn trơ trọi một gốc cây; nhưng vương tộc này sẽ hồi sinh, như gốc rễ mà người ta tưởng là đã chết lại đâm chồi nẩy lộc. Trong sấm ngôn, vị ngôn sứ tránh nêu tên Đa-vít, thậm chí cả tước hiệu vương đế nữa; ông chỉ kể một tên duy nhất: Gie-sê.

2. Gốc tổ Gie-sê

Việc không nêu tên Đa-vít có thể xem ra khác thường. Nhưng nếu khảo sát Kinh Thánh, chúng ta nhận ra rằng ông Gie-sê luôn luôn được gọi là “người Bê-lem”, trong khi vua Đa-vít gắn liền tên tuổi mình vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Về phương diện lịch sử, ông Gie-sê vẫn là một nông dân khiêm tốn của làng Bê-lem. Có thể qua cách phác họa đạm bạc này, vị ngôn sứ có một linh cảm: hậu duệ tương lai của ông Gie-sê sẽ là một con trẻ Bê-lem khiêm tốn.

3. Thánh Thần xức dầu tấn phong

“Thần Khí Chúa sẽ ngự trên vị này”. Những ân huệ của Chúa Thánh Thần được liệt kê từng cặp, theo kiểu văn chương Do thái:

– thần khí khôn ngoan và minh mẫn,
– thần khí mưu lược và dũng mãnh,
– thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.

Như vậy tổng cộng là sáu ân huệ. Bản Bảy Mươi, bản dịch Hy lạp, đã thêm vào “lòng xót thương” để cho có bảy ân huệ, bởi vì con số bảy là con số chỉ sự viên mãn. Đây là nguồn gốc bảy ơn Chúa Thánh Thần của chúng ta.

Việc nhấn mạnh đến những ân huệ phong phú và thường hằng của Chúa Thánh Thần thật đáng chú ý. Nhân vật thuộc hậu duệ Gie-sê sẽ lãnh nhận ơn phù trợ, không phải tùy dịp, nhưng thường hằng. Chúng ta biết rằng Đấng mà Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong này bắt nguồn từ chữ Hy bá “Mê-si-a”, được dịch sang Hy ngữ “Christos” và được phiên âm sang tiếng Việt là “Ki-tô” nghĩa là “Đấng được xức dầu” phong vương.

4. Triều đại của vua công chính

“Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài,
cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói,
nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng,
và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở”.

Chân dung của vị vua lý tưởng trước hết là chân dung của vị vua công chính: đức công chính của vua được thể hiện ở nơi việc bênh vực những kẻ nghèo hèn trong xứ sở, vốn là những kẻ thấp cổ bé miệng không có tiếng nói trong xã hội, những nạn nhân của những kẻ quyền cao chức trọng.

Được cai trị theo lẽ công minh, vương quốc của Ngài sẽ được hưởng một nền hòa bình chân thật và viên mãn. Những bất công xã hội mà các ngôn sứ không ngừng tố cáo và lên án sẽ không còn nữa. Sẽ không còn cảnh người bốc lột người, sẽ không còn cảnh áp bức và cấu xé lẫn nhau như lang sói, thiên hạ sẽ vui hưởng cảnh thái bình. Cảnh thái bình này được vị ngôn sứ diễn tả bằng những hình ảnh rất sống động:

“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.
Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,
một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.
Bò cái kết thân cùng gấu cái,
con của chúng nằm chung một chỗ,
sư tử cùng ăn rơm như bò.
Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,
trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang”.

Phải chăng ở nơi bức tranh nhiều hình tượng tuyệt đẹp này chúng ta thấy chủ đề về vườn địa đàng đã mất nay được tái lập? Thực ra, đề tài này thì hiếm tại các văn sĩ kinh thánh, họ quan niệm lịch sử thánh theo chiều hướng đi lên: nhân loại tiến bước đến một trật tự mới của các tạo vật, họ hướng đến một Đấng. Cuộc trở về “thời hoàng kim” thuộc văn chương ngoại giáo, theo đó lịch sử được quan niệm như một chu trình: “hết hồi bĩ cực lại sinh thời thái lai”.

Vì thế, chắc chắn đề tài được đề cập ở nơi sấm ngôn này là đề tài Kinh Thánh, đề tài về sự liên đới của thiên nhiên với vận mệnh của con người. Chúng ta có thể trích dẫn nhiều ví dụ về đề tài này. Chẳng hạn như vào Chúa Nhật tới chúng ta sẽ đọc thấy rằng sa mạc tưng bừng nở hoa hân hoan chào đón bước chân của những người lưu đày Ba-by-lon trở về cố hương (Is 35: 1-10).

5. Sự hiểu biết về Thiên Chúa

Thiên hạ sẽ vui hưởng cảnh thái bình chân thật, bởi vì mọi người đều được hiểu biết Thiên Chúa cách sung mãn:

“Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta,
vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này,
cũng như nước lấp đầy lòng biển”.

Đó là những dấu chỉ của thời đại Mê-si-a, thời mà sự hiểu biết về Thiên Chúa sẽ tràn ngập giữa con người. Đó sẽ là công trình của chồi non Gie-sê. Không có sấm ngôn nào tốt hơn sấm ngôn này về việc mặc khải Chúa Cha mà Chúa Con đem đến.

Câu cuối cùng này đã được ngôn sứ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ thời hậu lưu đày, lấy lại hầu như theo sát từng từ, và đặt vào trong viễn cảnh cánh chung:

“Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,
không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa
……
Sói với chiên con sẽ cùng ăn cỏ,
sư tử cũng ăn rơm như bò,
còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực.
Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta” (Is 65: 17 và 25).

6. Cờ hiệu cho các dân tộc

“Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân.
Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người,
và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang”.

Đề tài này rất gần với chủ đề mà ngôn sứ đã khai triển ở chương 2, chương nói về thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ, thật sự lôi cuốn tâm trí của toàn thể nhân loại.

BÀI ĐỌC II (Rm 15: 4-9)

Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Rô-ma này, thánh Phao-lô đề cập đến hai chủ đề: chủ đề thứ nhất về tầm quan trọng của Kinh Thánh trong việc nâng đỡ đức tin và đức cậy của người Ki-tô hữu và chủ đề thứ hai về lời kêu gọi hãy đồng tâm nhất trí với nhau giữa người Ki-tô hữu gốc Do thái và người Ki-tô hữu gốc lương dân.

1. Tầm quan trọng của Kinh Thánh

Ở đoạn văn trước, thánh Phao-lô đã trích dẫn Thánh Vịnh 69 mô tả những nỗi đau khổ của người công chính bị bách hại:

“Lời kẻ thóa mạ Ngài, này chính con hứng chịu” 15: 3). Đây là một ví dụ tuyệt vời cho thấy một sấm ngôn đã được chứng thực ở nơi con người và sứ vụ của Đức Ki-tô. Đây cũng là dịp để thánh nhân nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc đọc Kinh Thánh: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiễn nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy”.

Chúng ta lưu ý rằng trong thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô, khi nói về người Do thái đọc Kinh Thánh, thánh Phao-lô viết: “Cho đến nay, khi họ đọc Cựu Ước, tấm màn ấy vẫn còn, chưa được vén lên, vì chỉ trong Đức Ki-tô, tấm màn ấy mới được vứt bỏ” (2Cr 3: 14). Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “Cựu Ước” xuất hiện trong văn chương Ki-tô giáo. Thánh Phao-lô biết Kinh Thánh rõ hơn bất cứ ai, vì trước kia khi còn là một người Do thái nhiệt thành với niềm tin của cha ông, thánh nhân đã nghiên cứu Kinh Thánh một cách cẩn trọng qua việc thụ giáo với kinh sư Ga-ma-li-en danh tiếng; bây giờ đã là môn đệ của Chúa Ki-tô, thánh nhân thích thú đọc và chiêm niệm những mầu nhiệm loan báo cuộc đời của Đức Ki-tô trong Kinh Thánh.

Lời khuyên bảo của thánh nhân cho ông Ti-mô-thê-ô, vừa là người môn đệ vừa là cộng tác viên thân tín của mình, chứng thực điều đó: “Tất cả những gì viết trong Kinh Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2Tm 3: 16-17). Giờ đây, lời khuyên bảo tương tự như thế được gửi đến cho các tín hữu Rô-ma: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trong cậy”. Lời khuyên này chứng thực rằng những người Ki-tô hữu gốc lương dân đã bắt đầu học Kinh Thánh mà không cần phải học tiếng Híp-ri, vì họ đã có trong tầm tay bản Bảy Mươi, bản dịch Kinh Thánh bằng Hy ngữ.

Thật có ý nghĩa biết bao khi mà trong các sách Tin Mừng những lời trích dẫn Cựu Ước hầu như luôn luôn được trích dẫn từ bản Bảy Mươi chứ không từ bản Híp-ri. Sự kiện này ghi nhận một điều rất quan trọng theo đó, ngay từ khởi đầu Giáo Hội, những Ki-tô hữu gốc lương dân đã được Lời Chúa quy tụ và hiệp nhất với nhau nhờ bản Bảy Mươi, bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Hy-lạp. Hiện nay cũng thế, các Ki-tô hữu thuộc mọi dân mọi nước trên thế giới được quy tụ và hiệp nhất với nhau nhờ các bản dịch Kinh Thánh sang tiếng mẹ đẻ của mình. Bởi lẽ, đối với mỗi người Ki-tô hữu, trước tiên, Kinh Thánh chính là Lời Thiên Chúa và trên tất cả là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thứ nữa, khi đọc Kinh Thánh, họ ý thức với một niềm xác tín sâu xa rằng không đơn thuần đọc lại những lời nói và những hành động của Thiên Chúa trong quá khứ mà cốt yếu là nhận ra rằng vị Thiên Chúa, Đấng đã phán: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, vẫn tiếp tục nói và hành động trong Giáo Hội và trong cuộc đời hiện nay của họ qua từng biến cố nhỏ to.

2. Lời kêu gọi hãy đồng tâm nhất trí với nhau

“Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Giê-su Ki-tô đòi hỏi”. Lời khẩn cầu này khai mào chủ đề thứ hai và nói lên nỗi bận lòng sâu xa của vị Tông Đồ: sự hiệp nhất của cộng đồng gồm những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô hữu gốc lương dân, mà biết bao những đối kháng ngay từ đầu có nguy cơ dẫn đến sự đối lập giữa họ.

Đây không là một vấn đề đặc thù mà cộng đoàn Rô-ma gặp phải, tất cả thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên đều đã nhận biết những căng thẳng như thế. Tuy nhiên, trong thủ đô đế quốc, tình trạng đã trở nên trầm trọng hơn vì hoàn cảnh lịch sử. Hoàng đế Claudius đã ban chiếu chỉ vào năm 49 ra lệnh trục xuất những người Do thái khỏi kinh thành Rô-ma, lấy cớ những rối loạn “do bởi ông Ki-tô”. Có lẽ lời rao giảng của Ki-tô giáo đã gây nên những xáo trộn trong cộng đồng Do thái, một cộng đồng quan trọng trong thủ đô Rô-ma. Và vì không thể phân biệt giữa những người Do thái trung thành với luật Mô-sê và những người Do thái theo Ki-tô giáo, nên chiếu chỉ này được áp dụng cho cả hai (chính vì thế mà ông bà A-qui-la và Pơ-rít-ki-la rời Rô-ma và đến lánh nạn ở Cô-rin-tô: Cv 18: 2-3).

Sau khi hoàng đế Claudius băng hà vào năm 54, những Ki-tô hữu gốc Do thái trở lại Rô-ma. Ấy vậy, chỉ sau vài năm, Giáo Đoàn Rô-ma chỉ còn toàn những người Ki-tô hữu gốc lương dân. Những xích mích khó mà tránh khỏi giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô đã viết thư này vào mùa xuân năm 57. Những sự căng thẳng vẫn còn hiển hiện trong bức thư này.

“Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa”. Lời khuyên bảo của thánh Phao-lô chủ yếu gửi đến những người Ki-tô hữu gốc lương dân, họ phải cho thấy mình là anh em đối với những người con của Lời Hứa, tức người Ki-tô hữu gốc Do thái; chính nhờ họ, những lương dân, do lòng thương xót của Thiên Chúa, đã trở thành những người con mới của Lời Hứa, nhờ đó họ cũng có thể tôn vinh Thiên Chúa chân thật.

Và như để nhắc lại lời khẳng định ban đầu về giá trị của Kinh Thánh, thánh Phao-lô kết thúc khi trích dẫn Tv 18: “Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa”. Qua hình thức đóng khung này, thánh Phao-lô một lần nữa nhắc cho họ nhớ rằng không phải lời giáo huấn của thánh nhân, nói cách chính xác lời khuyên bảo của thánh nhân chỉ là phục vụ Lời Chúa mà thôi, nhưng chính Lời Chúa mới có thể quy tụ và hiệp nhất tất cả các tín hữu, dù người Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái hay từ lương dân, và thậm chí cả người Do thái nữa. Đó cũng là phương sách mà Đấng Phục Sinh đã vận dụng khi đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau “bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24: 27).

TIN MỪNG (Mt 3: 1-12)

Thánh Mát-thêu dẫn đưa chúng ta vào lãnh vực hoạt động của Gioan Tẩy Giả mà không có bất kỳ lời mào đầu nào. Chính nhờ một tác giả Tin Mừng khác, thánh Lu-ca, mà chúng ta nhận biết nhân cách của Gioan Tẩy Giả, gia đình của ông, hoàn cảnh chào đời của ông, vân vân (Lc 1: 5-25, 57-80). Như vậy, chắc hẳn khoa giáo lý tiên khởi bắt đầu với sự xuất hiện đột ngột của vị Tiền Hô và sứ điệp của ông. Sách Tin Mừng Mác-cô và sách Tin Mừng Gioan xác nhận lời chứng này, theo cùng một hướng đi như phần mở đầu đột ngột của Tin Mừng Mát-thêu. Phân đoạn mà chúng ta thường gọi là “Tin Mừng Thời Thơ Ấu” theo Thánh Mát-thêu (ch. 1-2) đã được thêm vào sau như Tựa Ngôn.

1. Hoang địa miền Giu-đê-a

Việc thánh Gioan Tẩy Giả chọn hoang địa làm khung cảnh cho lời rao giảng của ông không phải là chuyện ngẫu nhiên. Đối với dân Ít-ra-en, hoang địa gợi lên biết bao kỷ niệm sống động trong tâm trí của họ. Hoang địa là nơi dân Ngài gặp gỡ Thiên Chúa của mình, là nơi Thiên Chúa kết giao đính ước với dân Ngài và cũng là nơi dân Ngài đã trải qua kinh nghiệm tôn giáo trong những gian nan thử thách. Đã có một khoa thần bí về hoang địa, mà sự hiện diện của cộng đoàn Qum-ran trong vùng đất này làm chứng. Cộng đoàn này chuẩn bị tâm hồn trong đời sống khổ chế, cầu nguyện và thanh tẩy để chờ đón kỷ nguyên Mê-si-a. Mặt khác, hoang địa ban cho “nước” ý nghĩa tròn đầy của nó: hơn bất cứ nơi nào khác, ở đây nước là sự sống, đồng nghĩa với ơn cứu độ. Sau cùng, hoang địa còn mang biết bao giá trị biểu tượng: chính hoang địa khô khan cằn cỗi của những tâm hồn mà Gioan Tẩy Giả mời gọi biến thành những mảnh đất tâm linh phì nhiêu.

2. Nước Trời đã đến gần

“Anh em hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. “Ăn năn sám hối” được dịch từ động từ Hy lạp, có hai nghĩa, nghĩa tiêu cực: suy nghĩ lại, đổi mới tâm tư tình cảm, thay lòng đổi dạ, thay đổi cách ăn nếp ở, và nghĩa tích cực: từ bỏ đàng tội lỗi mà quay trở về cùng Thiên Chúa. Nguyên do của việc hoán cải là vì “Nước Trời đã đến gần rồi”.

Động từ Hy ngữ được dùng trong câu: “Nước Trời đã đến gần” ở thì hiện tại chưa hoàn thành, vì thế, phải hiểu: “Nước Trời đã đến và hiện có mặt ở đây rồi”. Thánh Mát-thêu hầu như luôn luôn dùng diễn ngữ: “Nước Trời”, khác với thánh Mác-cô và thánh Lu-ca: “Nước Thiên Chúa”. Đây là kiểu nói sê-mít để tránh gọi tên cực thánh của Thiên Chúa. Ngoài ra, từ Hy-lạp “basileia” có nghĩa, “nước” hay “vương quốc”, hoặc “triều đại”. Thuật ngữ “triều đại” thích hợp hơn, vì trong Tin Mừng thuật ngữ này được dùng để chỉ không là một thực thể địa lý: một nước, một quốc gia, hay một vương quốc, nhưng là thời điểm thánh ý Thiên Chúa sẽ được thực hiện ở dưới đất cũng như ở trên trời. Đó là mục đích mà Thiên Chúa nhắm đến cho toàn thể vũ trụ như trong lời kinh Chúa dạy: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

Thánh Gioan Tẩy Giả cất tiếng kêu gọi sự hoán cải. Nhiều ngôn sứ đã cất cao lời mời gọi như thế rồi. Nhưng từ lâu, đã không còn có ngôn sứ nào xuất hiện trong dân Ít-ra-en kể từ ngôn sứ Ma-la-khi, Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ cuối cùng, ông công bố Đấng Mê-si-a sắp đến rồi, ông là vị Tiền Hô mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã loan báo: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẳn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Trong bối cảnh của mình, vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo cuộc hồi hương trở về của những người lưu đày Ba-by-lon sắp đến và mời gọi những người lưu đày này hãy chuẩn bị chờ đón Đức Chúa, Ngài sẽ thực hiện một cuộc xuất hành mới để dẫn dân Ngài hồi hương trở về quê cha đất tổ.

Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu trích dẫn Is 40: 3 theo bản dịch Hy-lạp, bản Bảy Mươi, chứ không theo bản gốc Híp-ri. Có hai điểm khác nhau giữa bản Híp-ri và bản Hy lạp về cách ngắt câu và về từ ngữ. Về cách ngắt câu, trong bản Híp-ri cụm từ chỉ nơi chốn: “trong hoang địa”, bổ nghĩa cho câu theo sau và có vài sửa đổi từ ngữ giữa bản Híp-ri và bản Hy-ngữ: thay vì “hãy mở một con đường” và “hãy vạch một con lộ”, bản Hy-ngữ lại viết: “hãy dọn sẵn một con đường” và “hãy sửa cho thẳng những nẻo đường”. Như vậy, bản Híp-ri viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”, thì bản Hy-ngữ điều chỉnh lại: “Có tiếng người hô trong hoang địa: ‘Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, hãy sửa cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta”. Vì thế, qua việc ngắt câu khác và qua các việc sửa đổi vài từ ngữ, bản Hy-ngữ đem lại cho sấm ngôn I-sai-a một chiều kích tâm linh hơn.

Các sách Tin Mừng Nhất Lãm trích dẫn Is 40: 3 theo bản Hy-ngữ, tuy nhiên các tác giả Tin Mừng có vài sửa đổi cho phù hợp với bối cảnh hiện nay của mình. Thay vì kiểu nói mơ hồ không xác định: “Có tiếng hô trong hoang địa” của bản Hy-ngữ, Tin Mừng Nhất Lãm thêm từ “người”: “Có tiếng người hô trong hoang địa”, nhờ đó các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm có thể áp dụng câu này vào sứ mạng của Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Đấng Mê-si-a. Và thay vì kiểu nói: “sửa lối cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta” của bản Hy-ngữ, thì các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm lại thay từ “Người” cho từ “Thiên Chúa”: “sửa lối cho thẳng để Người đi”, nhờ đó Tin Mừng Nhất Lãm dễ dàng quy chiếu đến Đức Giê-su.

3. Cách sống của thánh Gioan Tẩy Giả

Cách ăn mặc quá đạm bạc của Gioan Tẩy Giả: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, cho thấy mẫu gương của đời sống khổ chế và tấm lòng sám hối. Cách ăn mặc này gợi nhớ cách ăn mặc của ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ đã chọn cách ăn mặc như thế để bày tỏ sự phản kháng của mình chống lại thói xa hoa và hư hỏng của vương quốc Ít-ra-en (2V 1: 8). Ấy vậy, rõ ràng ngôn sứ Ê-li-a là vị ngôn sứ mà dân chúng đang mong đợi sự trở lại của ông vào thời đại Mê-si-a. Còn về châu chấu và mật ong rừng, mà vị Tiền Hô dùng làm lương thực, là những thức ăn được gặp thấy trong hoang địa này.

4. Phép rửa tỏ lòng sám hối

Nghi thức phép rửa mà thánh Gioan Tẩy Giả đề xướng như dấu chỉ bày tỏ sự hoán cải là nghi thức rất phổ biến vào thời đó. Các vị lãnh đạo tôn giáo đòi hỏi các tân tòng muốn gia nhập vào cộng đoàn Ít-ra-en phải lãnh nhận phép rửa, ngoài phép cắt bì. Người Do thái thực hành nhiều nghi thức thanh tẩy, và họ còn thêm một số lượng lớn vào thời hậu lưu đày. Những nghi thức này được thực hành hằng ngày tại cộng đoàn Qum-ran. Tuy thế, phép rửa mà thánh Gioan Tẩy Giả đề xướng là một nghi thức thanh tẩy độc nhất vô nhị; bởi vì ngoài việc thanh tẩy bên ngoài, nghi thức này là dấu hiệu của việc thanh tẩy nội tâm: chuẩn bị tâm hồn để đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nhưng chưa có quyền năng tha thứ tội lỗi.

5. Khắp miền Giu-đê-a

“Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê-a, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông”. Việc Gioan Tẩy Giả rao giảng thành công là điều chắc chắn. Sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta biết rằng có những cộng đoàn tự nhận mình là môn đệ của vị Tiền Hô lâu sau khi Gioan Tẩy Giả qua đời. Những cộng đoàn này đã được hình thành thậm chí vượt ra bên ngoài miền Giu-đê-a nữa, như ở Ê-phê-xô (Cv 19: 1-7) và ở A-lê-xan-ri-a (Cv 18: 24-25). Nhưng kiểu nói của thánh Mát-thêu “khắp miền Giu-đê-a” là kiểu nói phóng đại có chủ ý để nhấn mạnh trước sự tương phản mà sau này đám đông dân chúng căm thù Đức Giê-su bày tỏ ra.

6. Những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc

Đây là lúc tác giả Tin Mừng cất cao giọng: qua Gioan Tẩy Giả, thánh ký lớn tiếng tố cáo thói giả hình của những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc, như sau này Chúa Giê-su cũng sẽ làm như vậy. Những người này đến chịu phép rửa để tỏ lòng sám hối, nhưng tự thâm tâm, họ tự hào tự phụ rằng mình chẳng có gì phải sợ sự phán xét của Thiên Chúa cả, vì mình là “con cháu ông Áp-ra-ham” (x. Ga 8: 33-40; Rm 9: 7-8).

- Phái Xa-đốc cốt yếu là giai cấp giáo sĩ; họ đại diện khuynh hướng bảo thủ tôn giáo: chỉ chấp nhận truyền thống văn tự mà các tư tế là những người chú giải duy nhất, chứ không các kinh sư giải thích Luật; họ thuộc vào giai cấp giàu có và tán thành cuộc chiếm đóng của đế quốc Rô-ma. Phái này biến mất sau năm 70, tức là, sau khi kinh thành Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ và Đền Thờ bị phá hủy.

- Phái Pha-ri-sêu, đông hơn phái Xa-đốc nhiều, đại diện yếu tố sống động của Do thái giáo. Ngoài truyền thống văn tự, họ còn chấp nhận các truyền thống miệng. Nhưng lòng nhiệt thành của họ đối với Lề Luật đã sinh ra muôn vàn luật cảnh huống nghiêm nhặt; họ hình thành nên một tầng lớp trung lưu; họ không là những người phục vụ Đền Thờ nhưng phục vụ các hội đường; chính qua các kinh sư thuộc phái của họ mà họ có ảnh hưởng trên dân chúng. Những kinh sư danh tiếng đều thuộc phái Pha-ri-sêu, như kinh sư Ga-ma-li-en, thầy của thánh Phao-lô sau này.

Thánh ký liên kết trong cùng một tiến trình hai nhóm người rất đối lập với nhau, bất đồng sâu xa về thái độ tôn giáo, xã hội và chính trị; nhưng họ đại diện những đối thủ tiêu biểu của Chúa Giê-su cũng như của Giáo Hội tiên khởi sau này. Những lời chỉ trích sinh động được đặt trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả, tiên báo hoàn cảnh căng thẳng mà Chúa Giê-su và Giáo Hội tiên khởi sẽ trải qua.

Gioan Tẩy Giả chỉ trích nặng lời hai nhóm này bằng ba câu. Trước hết, “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các ngươi cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?”. “Ai” được ám chỉ ở đây nếu không là quỷ? Do đó, việc kể ra con rắn độc là ám chỉ đến con rắn của sách Sáng Thế, con rắn dẫn đưa con người đến chỗ xa rời Thiên Chúa. Nhưng “nòi rắn độc” cũng là thành ngữ chung của mọi nền văn hóa để chỉ những những con người có tâm địa ác độc bày mưu tính kế giết người.

Thứ đến, thánh Gioan nhắc nhớ rằng đừng tự hào tự phụ mình là con cháu ông Áp-ra-ham vì “Thiên Chúa có thể làm cho những viên đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”. Qua câu nói này, thánh Gioan nhắc cho họ nhớ rằng đừng tự hào tự phụ mình là con cháu ông Áp-ra-ham, vì không có gì Thiên Chúa không làm được.
Và cuối cùng, “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Trong Cựu Ước, dân Ít-ra-en được ví như cây không sinh trái tốt như lòng Thiên Chúa mong đợi. Như vậy, hành vi sám hối mà thánh Gioan mời gọi không đơn giản đón nhận nghi thức phép rửa mà phải phát sinh những việc lành phúc đức. Đó là điều Thiên Chúa chờ đợi ở nơi từng người tín hữu.

Theo văn mạch, chắc chắn những lời này nhắm đến tính tự phụ tự mãn của những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc, nhưng bài học cũng được gửi đến cho bất cứ những ai lấy cớ này hay cớ nọ để ru ngủ tiếng lương tâm mình.

7. Đức khiêm hạ của vị Tiền Hô

Gioan Tẩy Giả có một cảm thức sâu xa về sự cao cả của Thiên Chúa, đồng thời ông có một ý thức sắc bén về tội lỗi. Hai thái độ này chung chung được liên kết với nhau trong con người của Gioan: ông nhận ra sự nhỏ bé của mình trước Đấng đến sau ông đến mức ông không xứng đáng xách dép cho Ngài. Hình ảnh so sánh này rất sinh động: những hối nhân cởi dép trên bờ để bước xuống sông Gio-đan. Quả thật, truyền thống kinh sư dạy rằng không được bắt những nô lệ gốc Do thái làm những việc quá nặng nhọc hay thấp kém, như “cởi dép cho chủ hay rửa chân cho chủ”. Như vậy, thánh Gioan Tẩy Giả tự đặt mình vào hàng nô lệ rốt hết để nhấn mạnh một khoảng cách quá lớn giữa thánh nhân, vị Tiền Hô, và Đấng Mê-si-a mà thánh nhân có sứ mạng loan báo.

Sau cùng, thánh nhân tuyên bố phép rửa mà ông làm thì chưa đủ, bởi vì phép rửa trong nước này chỉ thúc giục lòng ăn năn sám hối để chuẩn bị đón nhận ơn tha thứ mà Đấng Mê-si-a đem đến. Còn Đấng mà ông loan báo đến sau ông, Ngài sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Phép rửa của Ngài mới có quyền năng tha thứ tội lỗi.

8. Đấng Mê-si-a Thẩm Phán

Gioan Tẩy Giả thoáng thấy Đấng Mê-si-a đến như một vị Thẩm Phán. Quả thật, đây là một chủ đề thường hằng của trào lưu ngôn sứ, các ngài loan báo “Ngày của Chúa” như Ngày Chung Thẩm và trình bày kỷ nguyên Mê-si-a như khai mào kỷ nguyên cánh chung. Đức Giê-su thật sự sẽ là vị Thẩm Phán của thời cuối cùng: sự hiện diện của Ngài sẽ đòi buộc một sự chọn lựa dứt khoát.

Hình ảnh mùa gặt là hình ảnh kinh điển để chỉ cuộc tụ họp vĩ đại của ngày cánh chung, ví dụ như Is 27: 12: “Rồi ngày kia Đức Chúa sẽ đập lúa từ sông Cả cho tới suối Ai-cập. Và anh em, hỡi con cái Ít-ra-en, từng người một, anh em sẽ được Chúa mót nhặt về”. Chủ đề “lửa” xuất hiện ở đây với hai giá trị: lửa thanh luyện người công chính và ngay lành, vì thế, tác dụng của lửa gần với tác động của Chúa Thánh Thần: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thần Khí và lửa”; đồng thời cũng là lửa trừng phạt không hề tắt sẽ thiêu hủy những kẻ bất chính và bất lương.

Thánh Gioan Tẩy Giả đã thấy sự xuất hiện của Đức Giê-su như vị Thẩm Phán: thưởng những người lành thánh và phạt những kẻ gian ác. Vì thế, thánh nhân so sánh hành động của Ngài như một người tiều phu dùng rìu hạ những cây nào không sinh trái tốt và như một người nông dân sàng sẩy sân lúa, lúa tốt thì chất vào khó lẫm, còn lúa xấu thì sẽ dùng lửa không hề tắt mà thiêu hủy.

-----------------------------

 

MV 2-A139: TÌM MỘT CON ĐƯỜNG


Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Tìm một con đường, tìm một lối đi... Đó là lời mở đầu bài hát “Và con tim đã vui trở lại” của MV 2-A139


“Tìm một con đường, tìm một lối đi
ngày qua ngày, đời nhiều vấn nghi
lạc loài niềm tin, sống không ngày mai
sống quen không ai cần ai”.

Đó là lời mở đầu bài hát “Và con tim đã vui trở lại” của Đức Huy. Bài hát mở ra một cái nhìn lạc quan giữa cuộc sống còn đầy nghi ngờ, chia rẽ và hận thù. Vâng, giữa bối cảnh hỗn độn và đầy vấn nghi đó, cần phải tìm một con đường để đem lại niềm vui cho con người, giúp họ sống tích cực yêu thương, bất kể trong hoàn cảnh nào.

Mỗi khi Mùa Vọng về, lại thấy xuất hiện hình ảnh Gioan Tẩy giả trong Phụng vụ. Vị ẩn sĩ này khiêm tốn chỉ nhận mình là một tiếng kêu trong sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu bát ngát, chỉ có nắng, gió và cát. Một tiếng kêu trong sa mạc nhiều khi như vô vọng và vô ích. Tuy vậy, tiếng kêu ấy vẫn vang lên, và đã lôi kéo nhiều người trở lại với Chúa. Ông được gọi là vị “Tiền hô”, nghĩa là người đi trước mở đường. Gioan Tẩy giả kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối thẳng để Người đi”. Con đường mà vị ẩn sĩ này nói đến, chính là con đường tâm hồn. Ông đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể với dân chúng và với từng hạng người đang xếp hàng xin ông thanh tẩy. Tựu trung những lời khuyên nhắm tới tâm tình sám hối, sửa lại những sai lầm, thay đổi cuộc sống và thân thiện với tha nhân. Lời phê phán của ông rất nghiêm khắc: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: chúng ta đã có tổ phụ Abraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Qua những lời này, ông cảnh báo: một thứ đạo đức bề ngoài không có khả năng cứu rỗi con người, nhưng cần có tâm tình đạo đức và đời sống nội tâm, thiện chí quay về với Chúa và phục thiện.

Mùa Vọng là mùa tìm một con đường để đến với Chúa, nhưng cũng là dọn một con đường để Chúa đến với mình. Thiên Chúa là Cha, luôn bao dung chờ đợi và giang rộng vòng tay ôm lấy các tội nhân để họ trở về và được tha thứ. Tuy vậy, nhưng tâm hồn ngổn ngang bề bộn những đam mê dục vọng hoặc đầy ắp những hận thù thì không thể đón Chúa. Khi thiện chí canh tân đời sống và thanh tẩy tâm hồn, chúng ta sẽ được đón Chúa đến. Con đường Chúa đến tâm hồn ta sẽ thênh thang rộng mở.

Và con tim đã vui trở lại
tình yêu đến cho tôi ngày mai
tình yêu chiếu ánh sáng vào đời
tôi hy vọng được ơn cứu rỗi
và con tim đã vui trở lại
và niềm tin đã dâng về người
trọn tâm hồn, nguyện yêu mãi riêng người mà thôi…

Nhạc sĩ Đức Huy không trực tiếp nhắc đến Chúa trong ca từ của ông, nhưng chúng ta thấy hiện rõ hình ảnh của một Đấng là đối tượng của tình yêu và niềm tin tuyệt đối. Đấng ấy, người Kitô hữu gọi là Cha. Hình ảnh “dẫu như tôi phải đi qua vực sâu tối, tôi vẫn không sợ hãi gì vì người gần bên tôi mãi” chính là ý tưởng của Thánh vịnh 23, câu 4 mà chúng ta vẫn thường xuyên hát trong Đáp ca của Thánh lễ cầu hồn.

Một khi có Chúa đến trong tâm hồn, con tim chúng ta sẽ được phục hồi và vui trở lại. Tình yêu đến thức tỉnh chúng ta và chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc đời. Đó là kết quả của thiện chí sám hối phục thiện.

Xã hội hôm nay đang có nguy cơ bị hoang mạc hóa. Mỗi người tín hữu được mời gọi trở nên một tiếng kêu giữa sa mạc để giới thiệu Chúa và chuẩn bị con đường cho Ngài đến giữa con người. Ta hãy xem ngôn sứ Isaia diễn tả một xã hội mơ ước trong tương lai, khi Chúa đến: « Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò (cái) và gấu (cái) sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô. Trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta. Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa, như nước tràn đầy đại dương » (Is 11,6-9). Vâng, chính chúng ta hãy cộng tác với Chúa để làm cho hình ảnh ấy trở thành hiện thực. Giáo Hội của Chúa Giêsu, xuyên suốt lịch sử, vẫn đang cố gắng để làm giảm thiểu bạo lực và chiến tranh. Giáo Hội cổ võ hòa bình và phát triển, giúp con người xích lại gần nhau hơn để sống trong sự thân thiện hài hòa. Nhờ lời cầu nguyện và cộng tác của Giáo Hội, các cường quốc trên thế giới đã có thể bàn bạc với nhau tìm ra những giải pháp xây dựng hòa bình và góp phần thăng tiến phẩm giá con người.

Hãy cùng tìm một con đường để dẫn đưa cuộc sống này tới niềm vui. Con đường ấy chính là Chúa Giêsu. Chính Người đã tuyên bố là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Nhờ con đường Giêsu mà chúng ta gặp Chúa Cha là suối nguồn hạnh phúc và là nguồn mạch của sự thánh thiện. Đến với Chúa Giêsu, chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và con tim chúng ta sẽ vui trở lại sau những tháng năm u buồn. Hạnh phúc sẽ tràn trề như đại dương và tình yêu sẽ nối kết muôn người.

----------------------------------

 

MV 2-A140: VỊ TIÊN TRI TỪ HOANG MẠC


Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

Thư Do Thái viết rằng: “ Ðã lắm phen cùng nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông MV 2-A140


Thư Do Thái viết rằng: “ Ðã lắm phen cùng nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông nơi các tiên tri. Vào thời sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với ta nơi một Người Con.” (Dt 1, 1 -2). Vị tiên tri cuối cùng Cựu Ước cũng như khởi đầu Tân Ước không ai khác là Gioan Tẩy Giả. Một vị tiên tri đi ra từ hoang mạc với lời mời gọi hùng hồn “Dọn con đường Chúa đến!”

Tính cách của Gioan Tẩy Giả có lẽ ảnh hưởng từ lối sống của nhóm Ê xen, giữ thanh khiết tâm hồn bằng lối sống nhiệm nhặt trong hoang địa. Tâm tình tôn giáo sâu đậm, một lòng thiết tha sửa soạn “con đường của Thiên Chúa”. Thường nhóm Ê xen tổ chức như một tu viện ẩn, không tiếp xúc với dân chúng. Vào thời của Chúa Giê su, những người Ê xen đã thu nhận thêm khoảng bốn ngàn người. Họ vẫn giữ những nhiệm nhặt, tránh những xa hoa, những tham muốn thấp kém, họ bước vào thế gian như một tu sỹ thực thụ, một số có thể kết hôn, sống đời sống gia đình đạo nghĩa.

Gioan tẩy giả có lẽ là con người đặc biệt trong nhóm Ê Xen. Vẫn giữ đời sống thanh khiết, ẩn tu, ăn châu chấu, mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà, đi ra từ hoang địa. Sứ điệp của ông mang tính khẩn thiết và nghiêm khắc: “Lưỡi rìu đã sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa.” (Mt 3, 10).

Tại sông Gio đan, Goian tẩy giả làm phép rửa tỏ lòng sám hối cho nhiều người đã nghe sứ điệp rao giảng của ông. Thời đó, những người rao giảng như Gioan tẩy giả không hiếm; nhưng thần thái của Gioan tẩy giả có gì đó rất đặc biệt làm cho người ta kéo đến với ông nhiều hơn. Đủ các thành phần trong xã hội được lời rao giảng của ông thuyết phục, họ tuôn đến chịu phép rửa và hỏi ông: “tôi phải làm gì? (Lc 3, 10).

Gioan tẩy giả có sức hút mãnh liệt với quần chúng, nhiều người tự hỏi: “Không biết ông có phải là Đấng Messia phải đến?” (Lc 3, 16). Ông thẳng thắn trả lời: “Phần ta, ta thanh tẩy các ngươi bằng nước để lo hối cải; còn Ðấng sẽ đến sau ta, quyền thế hơn ta và ta không đáng xách dép cho Ngài; Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3, 11).

Bài giảng của Gioan tẩy giả cũng liên hệ với chúng ta ngày nay. Không chỉ là những người bình dân, ngay cả những người biệt phái, sa đốc, binh lính, quan quyền… Tất cả đều cần sám hối để dọn mình đón nhận hồng ân cao cả nhất là chính Chúa sinh hạ trong tâm hồn.

Trong bài diễn văn tại bữa ăn sáng cầu nguyện quốc gia lần thứ 66, tại khách sạn Hilton, Washington city. Tổng thống Trump giảng về Chúa như một linh mục giảng đạo hùng hồn, ông nói “Đức tin là trung tâm của cuộc sống và niềm tự do của Hoa Kỳ” và trong giấy bạc của Hoa kỳ: “Chúng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa”.

Cần trở về với Thiên Chúa để có thể xây dựng trên nền tảng công chính, hoà bình, bác ái, yêu thương. Những giá trị cơ bản của con người vươn tới cũng là những giá trị của Tin Mừng. “Hãy sinh quả phúc đức, xứng với lòng hối cải !” (Mt 3, 8). Lời kêu gọi này chẳng bao giờ lỗi thời, vì con người cần được sống trong hoà bình và yêu thương, xoá tan mọi hận thù, tham lam, ích kỷ, gian dối..

Sám hối để Chúa sinh hạ trong tâm hồn! Không có Thiên Chúa, cuộc sống con người trở nên vô nghĩa và chẳng thể xây dựng công bình, bác ái. Đón nhận Chúa sinh hạ, “Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa”. (Is 2, 4).

---------------------------------

 

MV 2-A141: HOÁN CẢI


Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Một cha bề trên đang đi dạo với các đệ tử, một em trong nhóm hỏi: Thưa cha, khi nào con người MV 2-A141


Một cha bề trên đang đi dạo với các đệ tử, một em trong nhóm hỏi: Thưa cha, khi nào con người nên hối cải? Cha bề trên trả lời cách nhẹ nhàng: “Con hãy bảo đảm rằng con sẽ hối cải vào ngày sau cùng của cuộc đời”. Nhưng rồi có vài em khác phản kháng lại, chúng ta không bao giờ biết được ngày giờ nào là ngày sau cùng của cuộc đời. Cha bề trên cười và nói: “Cách đơn giản nhất là hãy hối cải ngay bây giờ”.

Thánh Gioan được sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ngài kêu gọi rằng hãy dọn đường Chúa và hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Dọn đường bằng cách hoán cải cuộc sống. Sự hoán cải sẽ giúp cải đổi và chuyển biến trong cách sống. Đã bao lần chúng ta có những thái độ quanh co, dối trá, dối mình và dối người. Hoán cải sẽ dẫn chúng ta tới hành động cụ thể. Hoán cải đưa ta ra khỏi sự tự mãn trong sự công chính.

Sự hoán cải sẽ sinh hoa quả tốt. Hối cải phải là nỗ lực thường xuyên để điều chỉnh hướng đi của mình. Giống như người hoa tiêu luôn điều khiển con tàu đi đúng hướng. Hối cải tự bản chất là một ơn huệ Chúa ban. Một lời mời gọi thân thương trở về. Trở về với lòng mình và trở về với Thiên Chúa, Đấng yêu thương và chờ đợi chúng ta. Chúa Giêsu đến không phải để tiêu diệt nhưng là để cứu độ.

Mỗi người chúng ta, ai cũng là tội nhân. Chúng ta sa ngã phạm tội nhiều lần. Chúa mời gọi chúng ta đừng ngụp lặn trong vũng tội. Những giây phút hoan lạc, những con đường rộng rãi thênh thang và những ánh sáng chập chờn dễ đưa chúng ta vào con đường trụy lạc xa Chúa.

Lắng nghe lời thánh Gioan kêu gọi, chúng ta hãy bắt đầu hối cải từ chính mình. Thật ra từ bỏ con đường cũ không dễ, xa tránh dịp vui sẽ không thoải mái và chừa tội như cảm thấy mất mát thiệt thòi. Biết rằng tất cả những thú vui trong tội chỉ mau qua chóng hết. Hãy bắt đầu trở về ngay bây giờ. Không khi nào trễ nếu chúng ta biết bắt đầu.

Rìu đã để sẵn gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa. Mùa Vọng là cơ hội tốt giúp mỗi người tự sửa mình và dọn đường đón Chúa. Chúa sẽ đến đem sự bình an và an vui đích thực. Chúa chính là niềm hoan lạc của tuổi xuân.

--------------------------------

 

MV 2-A142: SỐNG LỜI CHÚA


Bông hồng nhỏ

 

Hôm nay, Lời Chúa cho ta lắng nghe một tiếng gọi rất tha thiết, tiếng gọi trong sa mạc. Đó là MV 2-A142


Hôm nay, Lời Chúa cho ta lắng nghe một tiếng gọi rất tha thiết, tiếng gọi trong sa mạc. Đó là lời mời gọi của ông Gioan Tẩy Giả: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”(Mt 3,2).

Có rất nhiều người đã đến xin ông làm phép rửa tỏ lòng sám hối, trong đó có cả những người Pharisêu và những người thuộc nhóm Xađốc. Ông Gioan nói với họ rằng: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối” (Mt 3,9-10). Ngày hôm nay, ta cũng được mời gọi như vậy. Thánh Giacôbê đã dạy: “Anh chị em hãy thuộc về số những người thực thi Lời Chúa chứ không phải chỉ nghe suông mà thôi” (Gc 1, 22). Để sống Lời Chúa không phải là điều dễ dàng, bởi nhiều lúc ta thích nghe Lời Chúa nhưng chưa quyết tâm sống Lời Chúa. Lời Chúa không chỉ đánh động tâm hồn ta nhưng còn có sức uốn nắn ta thành một con người mới, con người thuộc về Chúa Kitô. Nếu chỉ dừng lại ở những cảm xúc, ơn an ủi khi lắng nghe Lời Chúa mà không tiến xa hơn, nghĩa là để Lời Chúa trở nên cuộc sống của ta thì ta vẫn chưa sám hối thật sự. Lời Chúa được cưu mang tâm hồn ta sẽ trổ sinh hoa trái trong cuộc sống. Hoa trái của Lời Chúa chính là tình bác ái huynh đệ. Thật khó chấp nhận một người Kitô hữu đạo đức, siêng năng tham dự Thánh lễ, tham gia các đoàn hội nhưng lại thiếu lòng cảm thông với những người sống bên cạnh mình. Thực tế vẫn có những trường hợp đáng buồn như thế. Một người vừa ra khỏi nhà thờ lại tức tối la mắng người vừa vô ý giẫm lên chân mình: “Con này mày bị mù à!”. Nhìn người khác để nhìn lại chính mình, đã lắm lúc ta cũng thiếu lòng bác ái với người chị em. Vì sao ta dễ tự ái trước một lời nói thiếu thông cảm? Cũng có khi chính ta lại là người mang lại nỗi buồn phiền cho người khác. Điều gì khiến ta chưa quảng đại để đón nhận người khác, chưa khiêm tốn nhìn nhận con người đầy giới hạn của ta?

Vẫn còn đó một lời mời gọi tha thiết, rất tha thiết vang lên trong lòng ta. Lời Chúa vẫn không ngừng chất vấn ta. Những khi Lời Chúa ban tràn đầy an ủi, đỡ nâng và bổ sức cho ta cũng chính là lúc Lời Chúa mời gọi ta tiến xa hơn, đó là sống Lời Chúa. Lời Chúa ở rất gần ta, ngay nơi miệng, ngay trong lòng cốt để ta đem ra thực hành (x. Đnl 30, 14). Để có thể sống Lời Chúa đòi hỏi ta phải luôn luôn biết trở về với sa mạc lòng mình, để lắng nghe, để nhìn lại và nhận định. Điều gì khiến ta làm như vậy? Nếu Chúa Giêsu ở trong hoàn cảnh của ta, Ngài có làm như ta đã làm không? Điều ta làm có phải là điều Chúa muốn? Chúa Giêsu có hài lòng với cách ta đã làm không? Đó là những câu hỏi giúp ta lắng nghe được thánh ý của Chúa. Khi nhìn tất cả dưới ánh sáng Lời Chúa, mọi sự đều được sáng tỏ. Nếu quá vội vã và cuốn theo nhịp sống hối hả này, ta sẽ không nghe được Lời Chúa nói dù ta vẫn nghe đọc Tin Mừng mỗi ngày. Chỉ những ai để tâm lắng nghe thật sự, muốn nghe thật sự và biết mở lòng thì mới đi đến việc sám hối để thay đổi đời sống. Tự sức ta thì sẽ chẳng bao giờ làm được vì con người tự nhiên trong ta vẫn nghiêng chiều về tội lỗi. Quả đúng như kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí nhưng tôi lại mang tính xác thịt. Điều tôi muốn thì tôi không làm nhưng điều tôi ghét thì tôi cứ làm” (Rm 7,14-15).

Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết con yếu đuối và hay thay đổi. Xin ban ơn cho con biết hăng say yêu mến Lời Chúa và không ngừng để Lời Chúa trở thành cuộc sống của con. Nếu mỗi ngày con biết nỗ lực sống Lời Chúa dạy thì con tin, chính Chúa sẽ làm trổ sinh hoa trái thiê ng liêng trong đời sống của con, để khi sám hối cũng chính là khi con trổ sinh hoa trái của tình yêu. Amen.

----------------------------------

 

MV 2-A143: SÁM HỐI TRỞ VỀ

 

Hành động sám hối, trở về đẹp lòng Thiên Chúa hơn tất cả chính là ý thức Thiên Chúa đã đón MV 2-A143


TMĐP- Hành động sám hối, trở về đẹp lòng Thiên Chúa hơn tất cả chính là ý thức Thiên Chúa đã đón nhận chúng ta, vốn là dân ngoại, “do lòng thương xót của Người”(Rm 15,9) và quyết tâm sống lòng thương xót đối với anh em một cách khiêm tốn, chân thành, quảng đại.     

Chúa nhật thứ hai mùa vọng vang lên lời  kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa miền Giuđê: “Anh em hãy sám hối vì nước trời đã đến gần”(Mt 3, 2).

Nhưng thế nào là sám hối như tiếng kêu của Gioan, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế?

Sám hối như tiếng kêu của Gioan: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”(Mt 3, 3) là trở về với Đấng đang đến gặp chúng ta, vì yêu chúng ta, Đấng mà ngôn sứ Isai đã tuyên sấm: “Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vi này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu luợc và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa… Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư cho kẻ nghèo trong xứ sở”(Is 11,2-4).

Sám hối như lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả: “Các anh hãy sinh hoa qủa để tỏ lòng sám hối ”(Mt 3,8) là tin vào sức mạnh đổi mới của  tâm hồn, vì thế giới sẽ được đổi mới, nếu tâm hồn  của mỗi người chúng ta được đổi mới. Thế giới được đổi mới nhờ những tâm hồn được đổi mới do sám hối trở về ấy sẽ là một thế giới được trị vị bởi Đức Vua nhân hậu, Thủ Lãnh hoà bình là Đức Giêsu, và “ bấy giờ  sói sẽ ở với chiên con , beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử được nuôi chung với nhau.. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa tọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai ác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập , đất này, cũng như nước lấp đày lòng biển.”(Is 11, 6-9).

Đây là thời hạnh phúc khi con người hiểu biết Thiên Chúa và yêu mến Ngài bằng thực hiện lòng sám hối chân thành và quyết tâm trở về với Thiên Chúa là nguồn tình yêu thương xót mang lại hạnh phúc và sự sống đời đời, vì chỉ khi con người nhận biết Thiên Chúa và sống theo đường lối yêu thương của Ngài, thì tâm hồn mới được đổi mới, và thế giới  mới được bình an, điều mà con người  hôm nay đang làm ngược lại và hậu qủa là ganh ghét, hận thù, chiến tranh lan tràn, đe dọa, tiêu diệt, tàn phá không tiếc thương  sự sống và hạnh phúc của nhân loại.

Sám hối như tiếng hô lạc giọng của Gioan trong hoang địa: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng”(Lc 3, 4-5) là tin rằng việc sám  hối, trở về là có thể thực hiện, ước mơ đổi mới là khả thi, khát vọng trở nên  tốt hơn  nằm trong khả năng của con người, cụ thể là những thung lũng của dục vọng đê hèn, bất chúnh  sẽ được lấp đầy; mọi núi đồi tham vọng, kiêu căng sẽ được bạt thấp ; những khúc quanh co gian dối, thủ đọan, “mưu hèn kế bẩn” sẽ được uốn cho ngay, với điều kiện phải thành tâm thiện chí đi vào con đường phân định  giữa ánh sáng và bóng tối, thiện và ác, tốt và xấu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, trong niềm xác tín: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”(Lc 3,6).

Sở dĩ chúng ta cần ơn Chúa Thánh Thần, và niềm xác tín vào ơn cứu độ của Đức Giêsu, vì sám hối sẽ không có giá trị nếu sám hối mà không trở về với Đức Giêsu, sám hối mà không dựa vào ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần, bởi một lý do rất đơn giản nhưng thiết yếu, đó là chúng ta sám hối để trở về với Thiên Chúa, sám hối để nối lại tương quan cha con với Thiên Chúa, sám hối để sống và làm chứng Tin Mừng: Chúa yêu thương cứu độ chúng ta.

Tóm lại, cứu độ và quy tụ toàn thể nhân loại trong tình yêu là chương trình của Thiên Chúa được thực hiện qua mầu nhiệm nhập thể và cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Phần chúng ta, vốn là những tội nhân, nên cần phải sám hối trở về với Thiên Chúa hầu được hưởng ơn cứu độ trong chương trình yêu thương nhân loại của Ngài.

Để được như vậy, đồng thời cũng là việc làm cụ thể và sống động của tâm hồn  sám hối, trở về,  thánh Phaolô tông đồ dân ngoại tha thiết mời gọi chúng ta: “Anh em hãy đón nhận nhau như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa”(Rm 15,7).

Thực vậy, hành động sám hối, trở về đẹp lòng Thiên Chúa hơn tất cả chính là ý thức Thiên Chúa đã đón nhận chúng ta, vốn là dân ngoại, “do lòng thương xót của Người”(Rm 15,9) và quyết tâm sống lòng thương xót  đối với anh em một cách khiêm tốn, chân thành, quảng đại.

Jorathe Nắng Tím

----------------------------------

 

MV 2-A144: TIẾNG GỌI


Anna Cỏ may

 

Hằng ngày, chúng ta nghe và đọc rất nhiều thông tin của cuộc sống qua truyền hình, qua các trang MV 2-A144


Hằng ngày, chúng ta nghe và đọc rất nhiều thông tin của cuộc sống qua truyền hình, qua các trang mạng và báo chí. Lời Chúa hôm nay nói về một thông tin được loan báo bằng lời của vị ngôn sứ được Thiên Chúa tuyển chọn. Ông kêu gọi và báo cho mọi người biết về Đấng sẽ đến: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”(Mt 3,2).

Ông Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa thánh hiến và tuyển chọn. Ông thi hành sứ mạng dọn đường cho Chúa và mời gọi dân chúng chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa đến. Khi đó, người Do thái cũng đang mang trong mình sự chờ mong Đấng Mesia đến để giải phóng dân tộc, mong đợi một kỷ nguyên mới và hòa bình. Từ sứ mạng được trao cùng sự thao thức của dân, lời rao giảng của ông đã thu hút rất nhiều người đến thú tội và chịu phép rửa (x.Mt 3,6). Trong số những người đó, có những người thuộc nhóm Pharisêu và phái Xađốc cũng đến. Ông Gioan đã nhìn thấy hành động sám hối của họ chỉ là để tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống (x.Mt 3,7). Ông cho họ biết, Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can của con người, chính Ngài mới là Đấng thật sự thanh tẩy mỗi người bằng Thánh Thần và lửa quyền năng. Chỉ những ai thật sự sám hối mới được hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa. Ông Gioan khuyên nhủ: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối” (Mt 3,9-10).

 Nhìn lại chính mình, mỗi người chúng ta là một Gioan Tẩy Giả mới của Thiên Chúa trong cuộc sống này. Nhờ bí tích Rửa tội, mỗi người được lãnh sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Liệu chúng ta có dùng thời gian và khả năng để ra đi dọn đường cho Chúa đến, hay chúng ta chỉ biết nghe người khác nói thôi? Trong cuộc sống, bí quyết để thành công trong việc rao giảng Tin Mừng là làm rồi hãy nói, không để việc làm mâu thuẫn với lời nói. Biết bao nhiêu người nói về Chúa rất hay, đi nhà thờ rất chăm nhưng lại thất bại trong đời sống, chỉ vì thái độ và nếp sống của họ không thể hiện bác ái với người khác. Nói cách khác, chúng ta không rao giảng Tin Mừng bằng lời hô hào hùng mạnh nhưng bằng chính cuộc sống bác ái yêu thương của mình.

 Dù bất cứ ai hay thuộc địa vị nào đi chăng nữa, thì mỗi người trong chúng ta cũng là kẻ có tội và cần sự thống hối, cần thật lòng quay về cùng Thiên Chúa. Mỗi người cần kiểm điểm lại cuộc sống của mình, xem còn có trở ngại nào khiến chúng ta không thể sống cho Chúa. Bởi vì, Thiên Chúa vẫn đang đứng gõ cửa lòng chúng ta trong cuộc sống hiện tại mỗi người.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã không ngừng gọi tên chúng con mỗi ngày. Xin Chúa tiếp tục gọi chúng con và ban cho chúng con lòng khao khát lắng nghe Lời Chúa, mau mắn quay trở về để chuẩn bị tâm hồn ngay thẳng đón Chúa đến. Amen.

--------------------------------

 

MV 2-A145: SỐNG MÙA VỌNG BẰNG NIỀM VUI TRONG CHÚA


Lm JB Nguyễn Minh Hùng

 

Hãy sống mùa Vọng bằng sự vui tươi của niềm hy vọng và nụ cười. Đã bao lâu rồi bạn chưa có MV 2-A145


Hãy sống mùa Vọng bằng sự vui tươi của niềm hy vọng và nụ cười. Đã bao lâu rồi bạn chưa có những nụ cười thực sự, nụ cười của những người ấp ủ những hoài bão, những định hướng mới trong niềm tín thác, biết đặt trọn lòng tin tưởng vào Chúa?

Hãy lợi dụng tinh thần mùa Vọng, lợi dụng bầu khí thánh thiện của mùa chờ đợi Chúa đến, chờ đợi niềm vui Giáng sinh mà khoác lấy niềm vui trong tinh thần, trong cuộc sống từng ngày của mình.

1. Xác tín niềm vui trong Chúa của người Cựu Ước.

“Đừng buồn bã vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nhm 8, 10). Đó là lời mà tư tế Nehemiah mời gọi toàn dân sau khi kết thúc 70 năm lưu đày bên Babylon và được trở về cư ngụ trên chính quê Cha đất Tổ.

Toàn dân vui mừng họp lại cùng nhau cử hành phụng vụ trên chính quê hương. Từ đây, họ bắt đầu công cuộc tái thiết quê hương trong rạng rỡ của niềm hạnh phúc.

Họ lắng nghe tư tế Ezra công bố Lời Chúa. Họ khóc. Nhưng không khóc vì thân phận lưu đày, mà khóc trong niềm vui sướng, khóc vì lại được sống trên quê hương là đất mà Thiên Chúa ban cho cha ông và dòng dõi của họ.

Vừa trở về từ phương xa, từ đất lưu đày khổ ải, cho nên họ khóc. Họ khóc vì cứ ngỡ mình đang mơ, trong khi đang thực sự hiện diện trong nhà mình, nơi quê hương của mình. Khóc vì cuộc gặp gỡ thân tình gắn bó cùng cội rễ của chính mình.

Nhưng trên hết mọi sự, họ khóc trong sung sướng vì tin rằng, Chúa giải thoát họ. Và nơi Chúa cũng đang tràn đầy niềm vui. Thiên Chúa vui trong niềm vui tuyệt đỉnh của chính Người.

Từ đây họ sống niềm vui của tương lai đời họ, tương lai dân tộc họ là niềm vui trong Chúa. Và niềm vui của Chúa là niềm vui của họ, là “thành trì bảo vệ họ”.

2. Xác tín niềm vui trong Chúa của chúng ta.

Sống những ngày mùa Vọng, Như người Cựu Ước vừa thoát ách lưu đày, chúng ta hãy tận hưởng niềm vui của Chúa bằng cách sống niềm vui trong Chúa.

Sống niềm vui trong Chúa là biết cậy dựa vào Chúa, tín thác đời mình trong tay Chúa, biết để Chúa an bài trong sự khôn ngoan quan phòng của Người.

Hãy xác tín mạnh mẽ như niềm xác tín của dân Chúa xưa, đó là: chỉ có niềm vui của Chúa mà chúng ta tận hưởng mới thực là “thành trì bảo vệ” chúng ta mà thôi.

Vui trong Chúa mới thực là vui, mới chính là niềm vui. Vui trong Chúa mới là niềm vui trọn vẹn. Vui trong Chúa chính là điểm nhấn, là đích đến của niềm vui. Vui trong Chúa là niềm vui bền đổ, mang đến cho người sở hữu nó sức sống vĩnh cửu.

Vui trong Chúa là niềm vui mang lấy sự hãnh diện của đức tin. Tin rằng, Thiên Chúa là gia nghiệp, là lẽ sống, là tình yêu, là nguồn đón nhận bền bỉ không chê chối ai, không bao giờ mai một, không bao giờ suy giảm.

Vui trong Chúa là tin tưởng tuyệt đối, một khi có Chúa, thì không còn gì đáng sợ. Bởi “án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại; thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa” (Sph 3, 15).

Vui trong Chúa còn là niềm ý thức rằng, trong mọi khó khăn, ta luôn có thể hướng về Chúa, Người không bao giờ từ chối những lời khẩn cầu của ta.

Vui trong Chúa là niềm vui có sức nuôi dưỡng trong ta tràn đầy hy vọng và can đảm, ngay cả khi đối diện khó khăn và đau khổ.

Vui trong Chúa còn là niềm vui xác tín: Không có bất cứ hoàn cảnh nào có thể cướp mất niềm bình an nội tâm mà Thiên Chúa trao ban cho bất cứ ai tin tưởng và yêu mến Người.

--------------------------------

 

MV 2-A146: NGUYÊN NHÂN BẤT CÔNG


Trầm Thiên Thu

 

Tín Nghĩa Với Ân Tình Nay Hội Ngộ, Hoà Bình Và Công Lý Đã Giao Duyên. Tv 85:11 đã xác MV 2-A146


Tín Nghĩa Với Ân Tình Nay Hội Ngộ
Hoà Bình Và Công Lý Đã Giao Duyên

Tv 85:11 đã xác định như vậy. Hòa bình không chỉ là không có bom đạn và máu lửa, mà là không có thù hận, hiềm khích, áp bức, bóc lột, cướp phá,… Muốn có hòa bình thì công lý phải được tôn trọng đúng mức.

Rất có thể có người ngạc nhiên về lời xác định của Thánh GH Phaolô VI: “Chính trị là một trong các hình thức bác ái cao cấp nhất.” Chính trị không là gì xa lạ mà là những gì rất đời thường liên quan công lý.

Vì kiêu ngạo mà sinh ra tội lỗi, vì tội lỗi mà hành xử bất công, vì có bất công nên cần có công lý, ở mọi cấp độ – từ gia đình tới xã hội. Vì thiếu công lý mà người ta nổi loạn, đấu tranh, để đòi lại công lý – cho chính mình và cho người khác. Chính Chúa Giêsu đến thế gian để đòi lại công lý cho chúng ta.

Công lý là gì? Đó là công bằng xã hội, là nghĩa vụ đầu tiên của xã hội, đặc biệt là Thánh Luật của Chúa. Bất công xã hội là phi công lý. Theo La ngữ, chữ “Justitia” nghĩa là Nữ Thần Công Lý (Lady Justice), một nhân vật nữ được cách điệu hóa để trở thành biểu tượng của công lý, pháp luật, được khắc họa và được miêu tả với ba biểu tượng đặc trưng: [1] một tay cầm thanh gươm (biểu tượng về quyền lực cưỡng chế, quyền uy của toà án; [2] một tay cầm chiếc cân để phân định cái thiện và cái ác (biểu tượng cho lẽ phải, sự công bằng, chính trực, nghiêm minh, không thiên vị); [3] mắt bịt chiếc khăn (tượng trưng cho ý tưởng công lý, đối lập với áp lực và sự ảnh hưởng từ bên ngoài).

Thần Công Lý là một trong các biểu tượng tiêu biểu, nhưng Thần Công Lý đến từ đâu và ủng hộ cái gì? Chắc chắn vị thần này bảo vệ công lý và chân lý. Chúa Giêsu đã xác định: “SỰ THẬT sẽ giải phóng quý vị.” (Ga 8:32)

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã ban luật về công lý: “Ngươi không được phao tin đồn nhảm. Đừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu. Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái; trong một vụ kiện, ngươi không được ngả theo số đông mà làm chứng, khiến công lý bị sai lệch. Ngươi không được thiên vị người yếu thế khi họ có việc kiện tụng.” (Xh 23:1-3) Ngài luôn thẳng thắn, nói tận nơi, không vòng vo, vì sợ nên người ta tìm cách né tránh, thích đường vòng, để thừa nước đục thả câu rồi tìm cách “chơi bài chuồn” luôn. Con chó sủa to là con chó nhát, và người ta cũng thế.

Kinh Thánh luôn đề cập rõ ràng vấn đề công lý, cả Cựu Ước và Tân Ước. Tuy nhiên, nhân danh lòng thương xót, công lý cũng phải được thể hiện đối với kẻ thù: “Nếu gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, ngươi phải dẫn nó về cho người ấy. Nếu thấy lừa của kẻ ghét ngươi quỵ ngã vì chở nặng, ngươi không được để mặc người ấy; ngươi phải giúp người ấy đỡ lừa dậy.” (Xh 23:4-5) Công lý rất cần thiết và rất quan trọng, phải được tôn trọng tuyệt đối và phải được thể hiện với mọi người, không trừ ai. Thật vậy, Eleanor Roosevelt xác định: “Công lý không phải chỉ dành cho một phía, nó phải dành cho cả hai phía.” Đó là lý lẽ chung, không dành riêng cho ai, và cũng không ngăn cấm ai.

Người ta lạm dụng và áp dụng sai trái nên cố ý làm lệch cán cân công lý. Nhưng từ xưa, sách Đệ Nhị Luật đã nói rõ: “Anh em KHÔNG ĐƯỢC làm sai lệch công lý, KHÔNG ĐƯỢC thiên vị ai và không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ khôn ngoan hoá ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính.” (Đnl 16:19) Ngày nay người ta còn nói tới “chỉ số công lý”, tức là đề cao sự công tâm và tính hợp lý. Horace Walpole định nghĩa: “Công lý là hành động của sự thật hơn là đạo đức. Sự thật cho chúng ta biết điều gì do người khác, và công lý thực hiện sự thích đáng đó. Sự bất công là hành động của dối trá.” Một cách nhận định và lý luận tuyệt vời!

Thế gian bất an vì thiếu công lý, loài người có nhiều kiểu bất công, vì vậy mà người ta luôn khao khát bình an. Do đó nhân loại không ngừng mong chờ Đấng Thiên Sai – Đức Giêsu Kitô – xuất hiện để đòi lại công lý cho những chính nhân, bởi vì họ bị áp bức, bị đối xử tệ quá nhiều. Không thể tách rời công lý và hòa bình, có cái này thì ắt có cái kia, không có cái kia thì cũng chẳng có cái này. Điều đó như một hệ lụy tất yếu vậy.

Thuở xưa, ngôn sứ Isaia đã xác định: “Từ gốc tổ Gie-sê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.” (Is 11:1-2) Thánh Phaolô cho biết: “Ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn thì đều là con cái Thiên Chúa.” (Rm 8:14) Ai không yêu công lý là người không chuộng chân lý, ai bóp méo sự thật là người không thích hòa bình, ai cố ý né tránh sự thật là kẻ hèn nhát – đối với cả Chúa và tha nhân. Đó là một hệ lụy vừa minh nhiên vừa mặc nhiên, không thể biện hộ bằng bất kỳ lý do nào hoặc bất cứ kiểu lý luận nào. Thiên Chúa là Đấng công chính, (Tv 11:7) là Đấng không ưa thích bạo tàn. (Tv 11:5)

Từ cổ chí kim, thời nào cũng vậy, xã hội luôn có bất công, đủ kiểu và đủ mức, nên luôn cần công lý của Thiên Chúa, vì chính Ngài là công lý: “Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.” (Is 11:3-4) Còn có bất công vì con người bất chính, thế nên cứ lẩn quẩn trong cái “tam giác” Tham-Sân-Si của kiếp phàm nhân.

Thật thú vị với cách giải thích của ngôn sứ Isaia: “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành. Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò.” (Is 11:5-7) Có công lý thì có hòa bình, đó là thời đại mà Đức Kitô xuất hiện. Ngài chưa xuất hiện nên loài người ngày đêm mong đợi Ngài đến giải thoát, cứu độ.

Trong thời đại đó, mọi thứ trở nên dễ dàng, tuyệt vời, ngỡ là điều không tưởng, nhưng lại là sự thật minh nhiên: “Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang.” (Is 11:8-10) Nhân loại biết mình không làm được gì nên hằng khao khát Đức Kitô như đất hạn chờ mưa. Trong xã hội loài người, có những người lấy danh nghĩa là công lý nhưng thực ra lại chỉ mạo danh để trục lợi cho mình mà làm khổ người khác. Công lý của họ là “đầu môi, chót lưỡi,” hành động của họ lại trái ngược. Tất nhiên điều đó không hợp với Thiên Chúa.

Như một lời cảnh báo với câu nói của người Pháp: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác.” Câu nói giản dị mà thâm thúy, đơn giản mà sâu sắc. Rất hay và chí lý biết bao!

Thánh Vịnh gia đã sử dụng lời của vua Salômôn: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.” (Tv 72:1-2) Quả thật, công lý luôn “gắn liền” với đám dân đen, những người vừa nghèo vừa hèn, vừa thấp cổ vừa bé miệng, vừa khốn khổ vừa bị nhục, không có ăn mà còn bị bóc lột tận xương tủy. Khốn thay những kẻ lạm dụng quyền bính mà hành hạ người khác, trong khi đáng lẽ phải dùng quyền mà phục vụ. Thế nhưng họ lại làm sai ý muốn của Thiên Chúa.

Thật tồi tệ đối với những người có quyền hành và chức tước chỉ lo vinh thân phì da chứ chẳng làm lợi gì cho dân, thế mà vẫn “mồm loa mép dải”, thế nên mới có vụ “cóc kiện trời”. Xã hội ngày nay cũng vẫn có những người “liều mình” như Cóc ngày xưa, nghèo và khổ nhưng vẫn kiên trì đòi cho được công lý. Tuy nhiên,, ai cũng biết rằng “quan nhất thời, dân vạn đại,” đáng lẽ biết vậy để sống sao cho dân thương, đàng này họ lại hiểu theo ý riêng họ, thế nên họ “tận dụng” thời gian làm quan mà “vơ vét” lợi lộc để hưởng riêng. Thật hèn nhát với lũ “đỉa người” như vậy! Người ta không thể không mơ ước thời vua Nghiêu, vua Thuấn. (Ba ông vua Thuấn, Nghiêu và Vũ được Khổng giáo coi là các vua kiểu mẫu, nêu gương đạo đức, thời Tam Hoàng Ngũ Đế, năm 2852-2205 trước công nguyên, nhân dân an cư lạc nghiệp.)

Xã hội nhân loại quá lộn xộn, Thiên Chúa biết rõ đám người “bụng to” (cả đời và đạo) làm ăn ra sao nên Ngài mới sai Con Một Ngài tới trần gian. Con Một Thiên Chúa chính là Đức Kitô, là Hoàng Tử Bình An, là Vua Công Lý. Khi Con Ngài tới cai trị thì đám dân đen mới có thể ngóc đầu lên được. Thánh Vịnh gia cho biết: “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.” (Tv 72:7-8) Thật tuyệt vời! Và vì thế mà nhân loại luôn khao khát Đấng Công Bình – Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.

Thật vậy, công lý của Thiên Chúa luôn được thực hiện đúng mức: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ, giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn.” (Tv 72:12-14) Đức Kitô chính là Vua Hòa Bình, vì thế danh Ngài sẽ lưu trong sử sách và trong trí nhớ của mọi người ở mọi thời: “Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ, nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời. Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.” (Tv 72:17) Đó là điều tất yếu – ắt có và đủ.

Như một cách giải thích, Thánh Phaolô nói: “Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.” (Rm 15:4) Và thánh nhân chân thành cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.” (Rm 15:5-7) Lời cầu chúc này đồng nghĩa với lời khuyên nhủ, mệnh lệnh hoặc cảnh báo. Và đó cũng là “phong cách sống” mà ai cũng phải thực hiện, nhất là trong Mùa Vọng – thời gian tín nhân chúng ta chờ đợi Đấng Cứu Thế đến thực hiện công lý cho mỗi tội nhân chúng ta.

Thánh Phaolô quả quyết: “Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.” (Rm 15:8-9) Thánh nhân cũng nói đến lòng thương xót của Chúa, vì lòng thương xót này đã có từ ngàn xưa, trải qua đời nọ đến đời kia, chứ chẳng riêng gì là lòng sùng kính Thánh Tâm hoặc lòng sùng kính Lòng Chúa Thương Xót. Hai cách gọi lòng sùng kính nhưng vẫn chỉ là một, phát xuất từ Tình Yêu của Thiên Chúa. Sống tinh thần Mùa Vọng cũng là sống lòng thương xót của Chúa, và Lòng Chúa Thương Xót cũng chính là công lý.

Chắc chắn ai cũng phải sống lòng thương xót, và mọi người đều phải thể hiện công lý. Tuy nhiên, những người mệnh danh là những người truyền bá Lòng Chúa Thương Xót, là hội viên của cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót, là hội viên của hội này hay đoàn nọ thì phải chứng tỏ rõ nét hơn. Nếu vẫn cứ kèn cựa và phe cánh thì đó là trái ngược với Thiên Chúa – ngôn hành không song song. Như thế thì thật nguy hiểm, nghĩa là đi ngược với tinh thần Mùa Vọng: Chưa thực sự sám hối, chưa sửa đường-lòng-mình cho thẳng, mà cái gì chưa “thẳng” thì không thể là công lý, tức là giả hình, loại người mà Chúa Giêsu đã nhiều lần nguyền rủa là “nòi rắn độc” hoặc “mồ mả tô vôi” mà thôi.

Theo lời kể của Thánh sử Mát-thêu, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 3:2) Ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Ông chỉ là “tiếng kêu trong hoang địa” nên chẳng ai thèm nghe, có nghe thì “tai này qua tai kia” mà thôi. Ông cũng bị người ta ghét vì ông là người dám nói thẳng nói thật, nói “chạm tự ái” bất kỳ ai, đồng thời luôn thể hiện công lý, vì ông yêu chuộng hòa bình và chân lý của Đức Giêsu Kitô.

Là người sống nội tâm và rất giản dị, dạng rất “bụi đời”, ông Gioan thể hiện ra cả bề ngoài: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Thế thì đúng là “dân bụi đời” thứ thiệt. Như vậy mới là “ngon” vì dám sống “khác người.” Ở đời dễ có mấy ai, thế nhưng loại “hàng hiếm” mới quý giá.

Nhưng rất lạ, bởi vì vẫn có người thích tìm hiểu “sự lạ” về Ông-Bụi-Đời ấy. Chứng cớ là người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. Có thể mới đầu họ chưa thực tâm mà chỉ vì tò mò và hiếu kỳ, nhưng rồi sẽ khác, mưa dầm thấm sâu.

Đúng là lạ thật, người ta quyết tâm thú tội và xin ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. Lạ hơn nữa là còn có nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa. Thấy vậy, ông biết lòng họ thế nào nên nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3:7) Chúa Giêsu luôn thẳng thắn, nhiều lần dùng cụm từ “nòi rắn độc” để nguyền rủa những kẻ ưa thói giả hình, thính khoe hình thức.

Và rồi Ông-Bụi-Đời nói một lèo với đám người giả hình: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham’. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” (Mt 3:8-12) Nghe mà thấy “đầy lỗ tai” quá!

Chắc hẳn những ai thành tâm thiện chí thì sẽ cảm thấy “rát tai” với những lời thẳng thắn của Ông-Bụi-Đời. Nếu nghe và thấy “giật mình” thì thật là phúc, bởi vì có cảm thấy như vậy mới chân thành sám hối và cố gắng chấn chỉnh lối sống.

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con luôn biết sống tích cực khi trông mong Đấng Thiên Sai – đặc biệt là sẵn sàng chờ đợi Con Chúa đến thế gian lần thứ hai, xin soi sáng để chúng con biết yêu mến chân lý, quyết tâm bảo vệ công lý, sống công bình, và triệt tiêu mọi bất công. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

-------------------------------

 

MV 2-A147: MỘT CON ĐƯỜNG


Lm. Jos. DĐH.

 

Dọn đường sửa lối để lưu thông, kiêng ăn bớt uống để giảm cân hoặc chữa bệnh, quy cách đó MV 2-A147


Dọn đường sửa lối để lưu thông, kiêng ăn bớt uống để giảm cân hoặc chữa bệnh, quy cách đó nhiều người vẫn áp dụng, chẳng có gì là bí mật cả. Biết tìm nơi thanh vắng nghỉ ngơi, đến với thầy tài giỏi đức độ để thọ giáo, tư vấn, cũng đâu còn là chuyện mới mẻ. Người hùng, người tài giỏi, thời nào cũng xuất hiện như một nguyên lý: tre già măng mọc. Khả năng suy tính mỗi người rất riêng tư, tuy nhiên mơ ước chung đều muốn được công thành danh toại, cho dù ý chí quyết tâm có khác nhau. Sở thích nghề nghiệp ở thời điểm hôm nay và tương lai người ta có thể điều chỉnh, nhưng hướng tới mục đích ở phía trước vẫn luôn cố định là “hạnh phúc”. Có được thiên thời địa lợi mà nhân không hoà, hẳn không ai gọi là thành công. Tìm được việc làm như ý, sắm được phương tiện di chuyển tốt, mà đường xấu, đường hư hỏng, cũng không ai nói là bạn đã có một cuộc sống hài hoà, hạnh phúc.

Chúa nhật 2 mùa vọng, người tín hữu chúng ta được nghe vị Tiền hô nhắc nhớ dọn đường, dọn tâm hồn, dù ở đời có nhiều con đường để tới thành công, Gioan vẫn hô hoán mọi người: “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Dù thiên hạ chủ trương: to khoẻ béo bền, mập nhưng tấp nập người theo…, Gioan vẫn giữ lập trường tự sống kham khổ ở hoang địa, và không ngừng kêu gọi mọi người ý thức, chỉ duy một con đường dẫn tới hạnh phúc thật: “hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”. Thông thường người ta tìm đến những vị quan thanh liêm, những người thầy có tâm, có đức, hoặc đến với những quân sư nhiều kinh nghiệm để mong được các ngài vẽ đường chỉ lối cho công việc làm giầu. Nơi hoang địa hôm xưa, người ta từ Giêrusalem, từ Giuđêa, từ khắp vùng phụ cận tìm đến sông Gio-đan, không phải xin địa vị, xin no cơm ấm áo, mà họ xin Gioan làm phép rửa sám hối ăn năn.

Chắc không phải bằng cấp cao là sẽ có việc làm tốt, không phải giầu có địa vị sẽ không cần đến chuyên gia tư vấn, cũng không phải đường rộng rãi thênh thang là con đường đưa tới thành công, hạnh phúc. Gioan thu hút được số đông mọi thành phần xã hội, ông trở nên vĩ đại, đáng được lưu danh hậu thế, nhiều người đã phát hiện ra là ông thiên về đời sống thực hành hơn là lý thuyết. Ông Gioan đã tìm thấy một con đường đưa tới sự sống: sám hối, hầu nhận ra nước trời đang tới, ông đã sống kỷ luật, sống niềm tin vào Đấng đang đến, sẽ đến. Gioan tự sống nhiệm nhặt khó nghèo như câu thành ngữ: cán bộ đi trước, làng nước theo sau, tất cả những gì ông trải lòng nơi hoang địa không phải là bậc quân vương, mà là sứ mạng Tiền hô như lời ông chia sẻ: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi giây giầy cho Ngài”.

Ở trần gian này, không ai tự phong chức tước cho mình, kitô giáo không chủ trương nên thánh một mình, trong đời sống cầu nguyện, chẳng ai ích kỷ đến độ chỉ xin ơn cho riêng mình. Gioan bằng đời sống cầu nguyện, ông nhận ra sứ mạng của ông là dọn đường, dọn lòng, là tiếng kêu, giúp mọi người sám hối ăn năn. Gioan vào sa mạc không phải là tìm đường tiến thân, ông đã phản chiếu được thế nào là từ bỏ, là tin vào Đấng cứu độ trần gian đang tới, sẽ tới. Ngày hôm nay, bằng tình yêu, bằng những hy sinh, những từ bỏ, cũng là bằng chứng người tín hữu đang góp phần làm cho tiếng hô nơi tâm hồn mỗi người sẽ vang vọng hơn nữa. Gioan đã cho đám đông hiểu rằng, sức mạnh của tình yêu, tác động của ý chí, là dịp thuận tiện cho việc thực hành sám hối, người ta sẽ đi, sẽ tự tin bước trên một con đường duy nhất vào sa mạc lòng mình, và mọi người sẽ nhận biết thế nào là Thiên Chúa cứu độ.

Gioan năm xưa đã hô vang ở hoang địa: “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở thành con cháu Abraham. Cái rìu đã để sát gốc, cây nào không sinh trái quả, đều bị chặt và quăng vào lửa”. Đúng, Thiên Chúa làm được mọi sự, Ngài đã cho các sứ giả đến chỉ đường dẫn lối, đã cho Vị Tiền hô đến chuẩn bị tâm hồn cho từng đối tượng, tiếng hô vang ở hoang địa có khả năng thức tỉnh mọi người nhận biết con đường đưa tới sự sống: hãy sám hối và tin vào Tin-mừng. Nếu các đấng bậc của chúng ta nói: bến hiền, thuyền đậu, bến dữ, thuyền lui, thì mãi mãi: yêu và được yêu, tin và sống niềm tin, chính là kết quả minh chứng một con đường sám hối cho Nước Trời đến thật với tâm hồn con người. Sứ mạng của Gioan là tiếng kêu dọn đường, sửa đường, tiếng kêu chỉ hữu hiệu khi tâm hồn đến được với sa mạc của cõi lòng, là nhận biết mình tội lỗi cần được thứ tha, cần được thánh hoá, hầu đáng được dự phần vào mầu nhiệm cứu độ Con Thiên Chúa thực hiện. Amen.

------------------------------

 

MV 2-A148: SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC SỐNG


Sr. Anna Nguyễn Như Ý

 

Mùa vọng là thời gian Thiên Chúa tỏ lòng thương xót những ai đang trông đợi Người đến. Mùa MV 2-A148


Mùa vọng là thời gian Thiên Chúa tỏ lòng thương xót những ai đang trông đợi Người đến. Mùa vọng cũng là thời gian chờ đợi. Nhưng ai sẽ chờ ai. Chúa đang chờ ta hay ta chờ Chúa đến giống như lời của một bài hát vẫn được cất lên “Chúa chờ ta, từ bao năm ta vẫn ngủ mê, từ bao năm quên lối đường về, Chúa chờ ta” (K.T). Chúa chờ ta để cho ta thấy rằng, dù là thân phận mỏng giòn yếu đuối hay lầm lỗi thì ta vẫn luôn được Người yêu thương, quan tâm và chăm sóc. Vì lẽ đó, Gioan Tẩy giả trong Tin mừng hôm nay tha thiết mời gọi những ai khao khát muốn được sống hạnh phúc trong tình yêu của Chúa thì “hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (x. Mt 3, 2).

Sám hối không chỉ là việc đi xưng thú tội lỗi với linh mục là xong, nhưng là sự từ bỏ tận căn những việc làm đen tối. Đó cũng là lý do tại sao khi thấy những người Pharisêu và Xađốc đến chịu phép rửa, thì Gioan lại trách mắng họ, chẳng lẽ việc họ làm lại không xứng đáng để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa hay sao? Hình ảnh này cho chúng ta nhận ra rằng ơn cứu độ không phụ thuộc vào việc được chịu phép rửa hay không, nhưng “phải được chứng tỏ bằng hoa trái của lòng sám hối” (x. Mt 3, 8 ).

Lời mời gọi sám hối cách quyết liệt và dứt khoát của Gioan đã thức tỉnh  chúng ta, những Kitô hữu đang mang trong mình hình ảnh Chúa Kitô cũng phải suy xét lại việc làm của chính mình. Để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa hứa, chúng ta cũng phải cố gắng sống hết mình qua những đòi hỏi của Tin mừng ngay từ trần gian này. Trần gian chỉ là phương tiện để ta chiến đấu và lập công cho tương lai vĩnh hằng. Sống nơi trần gian, chúng ta cũng dễ bị lôi kéo đi theo chiều hướng của nó, nó hấp dẫn đến nỗi làm cho nhiều người trong chúng ta lắm lúc không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Thiên Chúa vô hình tạo dựng nên trần gian hữu hình với sức cuốn hút quá mạnh làm cho chúng ta quên mất định hướng của cuộc đời. Hơn thế nữa, có nhiều người còn cho rằng trần gian là thiên đường và rồi họ chẳng còn thèm khát chi thiên đàng vĩnh cửu nữa. Họ mê muội trong những cái hảo huyền đến nỗi lầm tưởng mình chỉ có sống ở trần gian này thôi. Tuy nhiên, cho dù là thiên đàng trần gian thì nó cũng không thể đem lại cho chúng ta hạnh phúc viên mãn, cái chúng ta đang hưởng thụ chỉ có thể là thứ chóng qua và chắc chắn mỗi người trong chúng ta vẫn luôn khao khát một điều gì đó mang tính bất tận.

Bởi thế, Gioan Tẩy Giả đã không ngại mời gọi chúng ta hãy thật lòng ăn năn sám hối, phải được cắt tỉa, sinh hoa trái và để được lãnh ơn cứu độ từ nơi Thiên Chúa. Chúa không muốn chúng ta giống như “cành nho bị chặt đi và quăng vào lửa” (x. Mt 3, 12) nhưng sẽ là những thóc mẩy được thu vào kho lẫm của Nước Trời, nơi đó chỉ có tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Có lẽ ai trong chúng ta cũng mong mình là thóc mẩy, nhưng chẳng ai muốn mình bị cắt tỉa bởi vì điều đó làm cho chúng ta đau đớn và đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ những cái chúng ta không muốn rời xa. Nếu muốn hạnh phúc vĩnh hằng, chúng ta phải chịu đau đớn thiệt thòi, nhưng đó chỉ là thử thách trong thời gian ngắn, còn nếu không, chúng ta sẽ không cùng Chúa chung hưởng vinh quang mãi mãi. Vì thế, chúng ta hãy để cho Lời Chúa cắt tỉa cuộc đời mỗi người chúng ta. Lời Chúa có khi rất khó để cho chúng thi hành, nhưng mang lại sức sống, ánh sáng, hi vọng và hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta. 

Lạy Chúa, chúng con biết rằng sống theo lời dạy của Chúa không mấy dễ dàng cho những con người mang thân phận yếu đuối như chúng con, nhưng nếu không có ơn Chúa giúp sức và đỡ nâng, chúng con không thể làm gì được. Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa để biến đổi cuộc đời, hầu mai sau chúng con được cùng Chúa hưởng hạnh phúc Nước Trời. Amen.

--------------------------------

 

MV 2-A149: BÌNH AN ĐÍCH THỰC


Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

 

Chúng ta nghe lại những lời sau đây từ các bài đọc của Lời Chúa trong thánh lễ này: “Bấy giờ MV 2-A149


Chúng ta nghe lại những lời sau đây từ các bài đọc của Lời Chúa trong thánh lễ này:

“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau” (Is 11,6).

“Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc” (Is 2,4).

“Thái bình thịnh trị tới này nào tuế nguyệt chẳng còn” (Thánh Vịnh đáp ca 72,7).

Nếu Lời Chúa mà chúng ta suy niệm làm cho chúng ta rơi vào khủng hoảng nội tậm, thì đó là dấu chỉ của sự tác động của Lời đó trên chúng ta. Khi so sánh với những cảnh tượng mà chúng ta chứng kiến trong cuộc sống hằng ngày, trên tivi và mặt báo, những lời này xem ra như một điều mỉa mai cay đắng, xa rời thực tiễn. Bình an ở đâu? Thánh lễ kết thúc, nhưng đâu thấy cảnh thái bình thịnh trị xuất hiện? Ngược lại, thế giới tiếp tục với các cuộc chiến tranh. Chiến tranh và rồi một lần nữa tiếp tục chiến tranh: chiến tranh thế giới hay quốc gia, địa phương hay các sắc tộc, chiến tranh bên ngoài hay chiến tranh “dân sự.” Quả thế, thế giới đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu, xương chất thành núi, máu đổ thành sông. Đất nước chúng ta cũng đã trải qua những kinh nghiệm đau thương như thế.

Trong một bài thơ của mình, Charles Péguy trình bày cho chúng ta nhân vật Jeanne d’Arc trong thời chiến “một trăm năm” giữa Pháp và Anh, sau khi đã đọc Kinh Lạy Cha, ông chú giải một cách chua xót: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, sao nước Cha lại không đến! Sao ý Cha lại không được thực hiện! Sao chúng con hôm nay không có lương thực hằng ngày!” Chúng ta có thể thêm: “Sao cảnh thái bình thịnh trị của Chúa vẫn mãi xa vời.”

Thánh lễ xong, nhưng sao người ta không đúc gươm đao thành lưỡi cày, cũng không biến giáo mác nên liềm nên hái. Hay đúng hơn, sao hôm nay người ta không biến súng đạn thành đồ chơi trẻ em và tên lửa thành những máy bay miễn phí. Đây là lý do mà người Do Thái không tin vào Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Bởi vì họ không thấy Người thực hiện những lời tiên báo về Đấng Cứu Thế. Họ giải thích lời hứa về một nền thái bình đó theo nghĩa đen và chính trị.

Chúng ta có thể nói gì về vấn đề này? Trước hết, chúng ta cần tránh cảm tưởng rằng chúng ta có câu trả lời ngay lập tức và dễ dàng cho vấn đề này theo cái nhìn đức tin. Cả những vấn đề khác giống như vấn đề này.

Chúng ta cần khởi đi từ Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu sinh ra, các thiên thần ca hát: “Bình an dưới thế cho người Chúa thương.” Đây không phải là một lời chúc, một lời nguyện cầu, nhưng là một sự kiện, một sự hiện hữu xuất hiện. Bình an đã đến trên trái đất. Nhưng thứ bình an này rất khác, rất mới. Như có lần Chúa Giêsu giải thích: ““Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27a).

Từ những lời này, chúng ta có thể diễn giải thế này: bình an không có nghĩa là vắng bóng chiến tranh, hoặc là cân bằng lực lượng đối lập, như điều người ta gọi trong những thập niên gần đây, đó là “chiến tranh lạnh.”

Nhưng trước hết, bình an là sự hòa điệu, sự viên mãn, sự an toàn của cuộc sống. Kinh Thánh gọi đó là “hoa quả của công lý.” Theo nghĩa này, thánh Augustinô định nghĩa: “Bình an là bình thản trong trật tự của mình,” nghĩa là giữ đúng trật tự giữa chúng ta với Thiên Chúa, giữa chúng ta với tha nhân, giữa các giai cấp xã hội, giữa lý trí và bản năng trong mỗi người chúng ta. Kinh Thánh định nghĩa: Bình an là “hoa trái của Thánh Thần.” Hay bình an là chính Chúa Kitô, như thánh Phaolô quả quyết: “Người là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Trong từ bình an có điều gì đó vô biên hơn những gì mà con người suy tưởng. Bình an là “sự viên mãn và là chóp đỉnh của sự thiện hảo cứu độ,” mà chúng ta khao khát, tin tưởng và tìm kiếm. Nếu chúng ta hỏi dân chúng: “Bạn tìm kiếm cái gì nhất trong cuộc sống?” Tôi chắc chắn rằng nhiều người sẽ trả lời: “Tôi tìm kiếm sự bình an.”

Vậy, tại sao Chúa Giêsu nói: “Thầy ban bình an cho anh em, nhưng không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27)? Thế gian ban bình an như thế nào? Ở Tiểu Á người ta tìm thấy một tấm bia mộ, trên đó hoàng đế Augustô khắc ghi những công trình của mình, nhất là về “Pax Romana” (nền hòa bình La Mã) do ông thiết lập trên thế giới. Ông cho rằng nền hòa bình này có được là nhờ “Victoriis Pax,” nghĩa là nền hòa bình này có được nhờ những chiến tích lừng danh. Như vậy, trong nền hòa bình này, cũng như trong tất cả các công trình con người, có những người thất bại và những người chiến thắng. Cả Chúa Giêsu đã chinh phục nền hòa bình cho chúng ta với một chiến thắng, nhưng chiến thắng nào? Câu trả lời là chiến thắng thập giá, như thánh Phaolô quả quyết: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần” (Ep 2,16-17). Người đã tiêu diệt mọi sự thù địch, chứ không phải là địch thù, Người đã tiêu diệt sự thù địch nơi chính mình, chứ không phải nơi người khác, nhờ sự tự hủy chính mình, chứ không phải hủy diệt người khác. Trên thập giá, Đức Giêsu là người “chiến thắng vì là nạn nhân” (victor quia victima). Bình an quả thực đã được ban cách dồi dào nhờ Người và không thể tính được có bao nhiêu người có kinh nghiệm về sự “bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4,7). Họ sẵn sàng làm chứng cho chân lý qua câu nói nổi tiếng của văn hào Dante Alighieri: “Sống theo ý muốn của Người, chúng ta có bình an.”

Điều mà tiên tri Isaia loan báo đã được ứng nghiệm, nhưng ở trên cấp độ cao cả, theo nghĩa tinh thần và hoàn vũ. Không phải dành riêng cho một dân tộc nào, nhưng là cho mọi dân tộc. Khởi đi từ Chúa Giêsu, hòa bình không chỉ là ước mơ, nhưng là thực tại đã thực hiện, ít ra là “khả thể” đích thực ban tặng cho tất cả “mọi người thiện tâm.” Bình an của Chúa Giêsu là thứ bình an mà thế gian không thể ban, cũng như không thể xóa bỏ được.

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng trái tim là trung tâm lưu giữ và lan tỏa sự bình an ra bên ngoài. Trái tim là nguồn gốc phát xuất sự bình an hoặc sự bất an. “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? (Gc 4,1). Chúng ta nhận thấy rằng, tất cả các cuộc chiến tranh đều phát xuất từ lòng người, thường từ lòng của những người có quyền lực. Lòng người thực sự là “ổ chiến tranh.” Hàng triệu giọt nước bẩn sẽ làm cho đại dương không sạch; cũng vậy, hàng triệu người không có bình an trong tâm hồn, sẽ làm cho nhân loại bất an. Bình an hệ tại nơi lòng người.

Tuy nhiên chúng ta đừng ảo tưởng khi nghĩ rằng ở trần gian này sẽ có sự bình an trọn vẹn. Không phải thế. Sự bình an hoàn toàn và trọn vẹn chỉ có thể đạt được trong ngày cánh chung, nghĩa là vào thời sau hết. Chúng ta chỉ có bình an thực sự khi mọi sự được hoàn tất, “chúng ta mong đợi trời mới và đất mới, nơi công lý sẽ ngự trị” (2 Pr 3,13).

Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một phương thế để đạt được bình an: “Anh em hãy sám hối! Anh em hãy làm những dấu chỉ sám hối.”

Cần phải có sự thay đổi tận căn của con tim. Hãy hoán cải để có bình an. Bình an đích thực mà chúng ta có được, vâng, nhờ những “chiến thắng” như Cesare Augustô nói, nhưng là chiến thắng chính mình, chứ không phải chiến thắng người khác.

Tôi không thể làm cho mọi nơi trên thế giới và những nơi đang có chiến tranh được bình an, nhưng tôi có thể mang bình an đến trong gia đình tôi. Tôi không thể mang bình an đến các bộ tộc đang xung đột ở Châu Phi, nhưng tôi có thể mang bình an cho những người anh em tôi, cho vợ, chồng, con cái, bạn bè, người đồng nghiệp, cho những người xung quanh…

Thật đẹp thay khi chúng ta làm những nghĩa cử hòa bình và hòa giải! Chúa Giêsu nói rằng: “Phúc cho những người xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.” Tại sao chúng ta không bắt đầu biến gươm giáo nên liềm nên hái ngay lúc này? Nghĩa là biến những lời nói cứng cỏi, khó nghe, thành những lời nói cảm thông, tha thứ; biến những bàn tay đóng kín và gây gỗ thành những cánh tay mở rộng để hòa giải và yêu thương? Chúng ta đã quá nhiều đau khổ: chúng ta có cần phải làm cho cuộc sống và người khác ra nặng nề hơn không?

“Hỡi con người, bình an! Trên mặt đất quá nhiều huyền nhiệm!” Đó là một trong những câu đẹp nhất của triết gia Blaise Pascal. Bình an phụ thuộc nơi tôi và nơi mỗi người. Nếu chúng ta thực hiện những điều đó, thì lời tiên báo trên sẽ được hiện thực: “Thái bình thịnh trị tới ngày nào tuế nguyệt chẳng còn.” Chúng ta kết thúc với lời cầu nguyện được cho là của thánh Phanxicô:

“Lạy Chúa, xin dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp.”

Vâng, lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa. Amen!

-------------------------------------

 

MV 2-A150: TIÊN PHONG


Lm Vũđình Tường

 

Hai ba tháng trước lễ Giáng Sinh các cửa hàng trưng bày đèn chớp và mầu sắc xanh, vàng, đỏ MV 2-A150


Hai ba tháng trước lễ Giáng Sinh các cửa hàng trưng bày đèn chớp và mầu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng báo hiệu Giáng Sinh sắp đến. Mục đích chính của nhóm thương mại là nhắc nhở khách hàng mua sắm càng nhiều, người bán thu lợi càng lớn. Giáo Hội mừng kính Giáng Sinh hoàn toàn khác. Mục đích chính chú trọng ít về hình thức hào nhoáng bên ngoài. Mừng Giáng Sinh chính là chú trọng vào việc chuẩn bị tâm hồn, đón Đức Kitô vào trong tâm hồn, vào trong gia đình, vào trong đời sống con người. Đây không phải là cách mới mẻ gì bởi các bài đọc trong tuần này chú trọng đến thánh Gioan Tiền Hô. Thánh Gioan kêu gọi đổi mới tâm hồn. Một đề tài cũ rích, cũ từ ngàn xưa được lập đi, lập lại hàng năm. Lạ lùng thay đề tài cũ rích, cách đổi mới cũng cũ nhưng nếu tuân theo sẽ đổi mới, làm trong sáng tâm hồn. Như thế cho biết không phải tất cả những gì cũ, lâu đời đều không có giá trị trong xã hội tân tiến. Phương pháp Gioan rao giảng là phương pháp cũ, nhưng phương pháp này không bao giờ quá hạn, lỗi thời vì nhiều lí do. Thứ nhất những gì Gioan rao giảng là kinh nghiệm bản thân của thánh nhân. Thứ hai, kinh nghiệm khôn ngoan, kinh nghiệm sống còn này học được trong những ngày sống trong hoang địa. Thứ ba, thánh nhân trải qua kinh nghiệm ngày nóng cháy da, đêm lạnh thấu xương, đói, khát, sống, chết cạnh kề nhau. Thứ tư thánh nhân tận mắt chứng kiến cảnh sống, chết cạnh tranh, giành giựt từng phút giây. Chỉ cần sơ í là chết hay mang thương tật suốt đời. Thứ năm thánh nhân tận mắt trông thấy cảnh con vật giả chết rình mồi, nhìn thấy cảnh súc vật giết nhau, một cái vồ của móng vuốt, hay của cào cắn ngay tim mạch, đoạt mạng nhanh như chớp.

Tất cả những kinh nghiệm đó được thánh nhân học được không phải bằng suy luận của khối óc, mà của rung động con tim. Bởi chúng đến từ tim nên không bao giờ cũ, không bao giờ lỗi thời vì nhịp đập, rung động của con tim luôn luôn mới. Thánh nhân kêu gọi đổi mới, canh tân con tim để sống đời sống mới, và được sống muôn đời. Đường lối cũ là đường dẫn đến diệt vong. Thần chết nấp sau hào nhoáng bên ngoài, nghiện ngập ẩn sau mùi men, chất độc lắng đọng sau làn khói. Cái đê mê của lạc thú làm say đắm chí khí phấn đấu. Điểm khác thánh Gioan chọn cuộc sống đơn sơ, sống nghèo nhưng không hèn, bởi thánh nhân không sống cho chính mình mà sống cho Đấng Cứu Thế. Ngài kêu gọi khán thính giả đến nghe hãy nhìn sâu vào hồn mình, tâm mình, nghe tiếng mời gọi thay đổi; thay đi những gì có hại cho cuộc sống tâm linh, vứt bỏ những gì cản trở ta đến cùng Chúa; đổi cách sống cũ ngăn cản ta đến với anh em; dứt khoát từ bỏ những gì cản trở ta thương yêu đồng loại. Thánh nhân dùng hình ảnh núi rừng để nói về núi rừng trong tâm hồn. Bạt đi núi cao trong tâm hồn ngăn cản ta đến cùng Đấng Cứu thế.

Từ bỏ thung lũng thấp ngăn cản ta có cái nhìn rộng lượng; uốn thẳng con đường cong để nhìn thấy tương lai tươi sáng. Lắng nghe chọn lựa tiếng nói trung thực, tiếng kêu gọi sống công chính và tiếng van nài xin tha thứ. Rừng rậm, núi đồi, thung lũng trong tâm hồn trở thành bức màn khói ngăn ta nhìn nhận thực tế cuộc sống. Nhìn sai, dẫn đến nhận xét sai, phán đoán sai và hiểu sai về í nghĩa cuộc đời, mục đích cuộc sống. Thánh Gioan biết rất rõ về mục đích của Ngài nơi trần gian, bởi trong tâm trí Ngài không có núi đồi, hố thẳm. Chúng ta đôi khi biết rõ mục đích cuộc sống nhưng núi vô hình, rừng giả tưởng và đường thênh thang dẫn ta đi vào con đường xa lánh mục đích Chúa dựng nên ta. Một số còn phản bác sự hiện diện của Chúa trong vũ trụ. Vì sao thế? Vì đặt niềm tin vào vật chất, vào khoa học và ngay cả vào tài chánh dồi dào. Thành phần trí thức này bị vật chất đánh lừa, đến độ họ không biết họ sai vì thế rất khó cho họ nghe theo lời Gioan rao giảng. Gioan ra đời trước Đức Kitô, vào hoang địa trước Đức Kitô, rao giảng công khai trước Đức Kitô, làm phép rửa tại sông Giođan, và chết trẻ, trước Đức Kitô.

Ông không làm phép lạ, cũng không làm gì đặc biệt, ngôn ngữ ông rao giảng là ngôn ngữ bộc trực, nói thẳng, nói thật, không ngoại giao. Ôn sống rất đơn sơ, chân thành và hoà toàn rao giảng về Đấng Cứu thế. Chỉ điểm này thôi cũng đủ cho tên tuổi ông sống mãi trong Giáo Hội Chúa. Gia đình có lịch trình mua sắm mừng Giáng Sinh. Tốt hơn hãy có chương trình cho Đức Kitô, xin ơn khôn ngoan biết nhận điều công chính, ơn can đảm chấp nhận trở về, dù có bị thiệt thòi, khi vượt qua được núi đồi lòng mình. Không quà Giáng Sinh nào tốt hơn, cao quí hơn là chuẩn bị tâm lòng mình đón nhận Chúa Cứu thế. Làm như thế chính ta có lợi nhưng Đức Kitô hài lòng bởi đó là lí do chính Ngài đến trần gian, mang an vui, hạnh phúc cho đời và ban ơn trường sinh cho những con tim thống hối, ăn năn.

--------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây