Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 1-A Bài 51-100: Hãy tỉnh thức để sẵn sàng -------------------------------------------- Phúc Âm: Mt 24, 37-44: "Hãy tỉnh thức để sẵn sàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy. Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi. Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. "Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến". - Ðó là lời Chúa.
Lần nữa, mùa vọng lại trở về, phụng vụ quanh năm cứ luân chuyển đi lại và chúng ta như bắt gặp: MV 1-A51
Lần nữa, mùa vọng lại trở về, phụng vụ quanh năm cứ luân chuyển đi lại và chúng ta như bắt gặp một cái gì thật mới lạ mỗi năm mùa vọng tới. Nhân loại, con người càng lúc càng thâm thúy, càng khám phá ra những khía cạnh mới của lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người. Và như thế, nó sẽ quyết định số phận của mỗi con người, đưa con người đến” trời mới, đất mới”( Kh 21, 1 )một cách vĩnh cửu với Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
MỘT CUỘC GẶP GỠ TAO PHÙNG BẤT NGỜ:
Cứ sự thường, phụng vụ mùa vọng kêu mời nhân loại, con người tỉnh thức, cầu nguyện để đón chờ Chúa đến. Thiên Chúa quả thực đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến trần gian cách đay hơn hai ngàn năm. Con người vẫn được loan báo phải thức tỉnh, chóng vánh đón chờ ngày quang lâm của Chúa. Đây là điều rất quan trọng cho mỗi người Kitô hữu. Tỉnh thức để không bị nước đại hồng thủy cuốn trôi và vùi dập tất cả khi con người thời ông No-e trước hồng thủy vẫn ăn chơi trác táng, đắm chìm trong tội lỗi, không hay không biết, đến nỗi khi gia đình ông No-e đã vào tầu thì mọi việc đã quá muộn đối với tất cả mọi người.
Thánh Matthêu cũng cảnh tỉnh con người qua ví dụ hai người đang làm ruộng và hai bà đang xay bột. Ở đây họ chẳng khác nhau về công việc làm nhưng khác nhau về cách làm. Một người chỉ biết làm nhưng không suy nghĩ về Chúa, còn người người kia trong cung cách làm luôn hướng về Chúa, và khi làm Chúa cũng đang hiện diện trước mặt họ giống như công việc họ đang làm. Điều quan trọng không phải là công việc làm mà là cung cách làm việc, cung cách hành động, điều khiển công việc của mình. Thực tế, Chúa luôn mời gọi con người hội ngộ, gặp gỡ tao phùng nhưng là một cuộc tao phùng hoàn toàn bất ngờ( Mt 24, 43 ). Như hai người đàn ông làm ở ngoài đồng, như hai bà đang chăm chỉ xay bột ( Mt 24, 40-41 ) và như con người trong thế giới hôm nay đang làm trong các xưởng lớn, trong các xí nghiệp, các nhà máy, các công sở, trong các nơi đào tạo, nơi học đường vv…
Tựu trung ở mọi nơi trong các môi trường, trong các tụ điểm, trong moi ngóc ngách, hang cùng ngõ hẻm hay nơi đô hội, phồn hoa, nơi con người chẳng bao giờ lường trước, chẳng bao giờ được báo trước, cuối cùng có người được dự tiệc cưới ( Mt 25, 10 ), có người bị loại ra ngoài( Mt 25, 12 ).
CHÚA CẢNH TỈNH CON NGƯỜI:
Lời Chúa cảnh tỉnh nhân loại, cảnh tỉnh mỗi người chúng ta. Chờ mong Chúa đến không chỉ hướng vào ngày cùng tận, ngày tận thế, nhưng còn nhắm đến giờ chết của mỗi con người. Không ai biết trước được giờ chết, không ai định trước, dự phòng được ngày giờ mình nhắm mắt xuôi tay. Do đó, con người phải sẵn sàng chuẩn bị cái chết cũng như chuẩn bị ngày quang lâm của Đức Giêsu Kitô.
Quả thực, nếu con người quan tâm, chóng vánh tỉnh thức để đón chờ cái chết, họ cũng phải hiểu rằng thái độ sống đời Kitô là cung cách quan trọng nhất để chờ đón Chúa đến. Thế gian sẽ không thể nào hiểu được Giáo Hội, hiểu được người Kitô hữu khi họ đón chờ ngày Chúa quang lâm. Thế gian vẫn cho rằng đó là ảo tưởng, một sự dị thường nào đó của những con người bứ rượu, say xỉn.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh:” Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng…”. Đây là lời đánh thức mọi người mê ngủ và sống trong sự lầm lạc thiêng liêng. Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo dân đón chờ Chúa không phải bằng thái độ thụ động mà là bằng thái độ tích cực. Ngài nói:” Anh em không ở trong bóng tối… Anh em là con cái sự sáng, là con cái của ban ngày…Chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ, hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, hãy đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ”.
Mỗi người Kitô hữu cần phải luôn tỉnh thức với thái độ tích cực, đồng thời góp tay xây dựng” trời mới, đất mới” ngay giữa trần gian này bằng cung cách sống đạo đức, thánh thiện, bác ái của chúng ta.
Mùa vọng, Chúa sẽ tỏ mình ra cho nhân loại, cho mỗi người, đồng thời Người sẽ tỏ mình cách rõ ràng và minh nhiên qua Bí Tích Thánh Thể để thông ban chính sự sống vĩnh cửu của người cho chúng ta.
Bài Tin Mừng mở đầu cho Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng năm A, là một phần trong bài diễn từ của: MV 1-A52
Bài Tin Mừng mở đầu cho Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng năm A, là một phần trong bài diễn từ của Chúa Giêsu nói về thời cuối cùng và lúc Ngài trở lại ( đọan 24-25 trong Tin Mừng Matheu). Vì thế, Mt.24,37-44 Chúa Giêsu cảnh cáo dân chúng phải để ý tới những biến cố xẩy ra chung quanh, mà chuẩn bị sẵn sàng, kẻo ngày Con Người Quang Lâm đến bất ngờ và tức khắc sẽ trở tay không kịp. Cho nên, Chúa Giêsu so sánh ngày ấy với lụt hồng thủy thời ông Noe, như tên trộm là cốt nhắc nhở họ thức tỉnh đợi chờ.
1/ THỞI “ CON NGƯỜI QUANG LÂM”:
Để nói đến việc Con Người tái xuất hiện trong vinh quang vào ngày tận cùng của thế giới(1 Thess.2,19; 4,15; 2 Thess.2,1-9;1 Cor. 15,23). Trong ngày ấy con người phải trong sạch, không có chi đáng trách, vì sẽ có sự xét xử tất cả mọi người, theo như lời Thánh Phaolô căn dặn các tín hữu Thessalonica “ xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết….Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với thần thánh của Người”( 1 Thess.3,12-13).
Chúa Giêsu muốn nói điều gì khi so sánh thời Con Người quang lâm với thời Noe, hay như kẻ trộm? - Ngài muốn rằng vào lúc tận cùng là một tai nạn bất ngờ mà người ta không thể làm được gì để chống lại như thời ông Noe, thiên hạ không nghi ngờ gì hết, tiếp tục sống bình thường, cứ ăn uống, cứ cưới vợ gả chồng trước sự chuẩn bị lụt hồng thủy của gia đình ông Noe, họ không hay biết gì hết. Chính sự không hay biết ấy, hoặc giả điếc làm ngơ ấy mới nguy hiểm! ! ! Họ đã chết vì không hay biết, vì không nhận ra các điềm báo đi trước.
Tới ngày cuối cùng cũng thế, tai ương sẽ ập xuống trên trần gian vào bất cứ lúc nào, và lúc ấy người ta vội vã thì đã qúa trễ để hành động. Chính vì thế Chúa Giêsu khuyên nhủ con người ngay từ bây giờ phải mở mắt ra để nhìn xem các điềm báo, điềm báo có thể xẩy ra cho thế giới hoặc xẩy ra cho chính mình, chỉ ai tỉnh thức trong cầu nguyện mới nhận ra.
Cuộc phán xét không những xẩy đến bất ngờ mà còn ngay tức khắc. Lúc ấy thiên hạ sẽ không còn giờ hay phương tiện để chuẩn bị cho cuộc phân xử đó. Chúa Giêsu mượn hình ảnh hai người ở ngòai đồng và hai người xay cối, cả hai cùng làm một việc, cùng thực hiện một động tác nhịp nhàng như nhau, khách bàng quan nhìn họ mà không thể nhận ra sự khác biệt. Ấy thế mà “ một sẽ được đem đi và một bị bỏ lại”.
Vào giờ phân xử sẽ có sự tách biệt giữ những người mà mới xem tưởng là giống nhau, nhưng thực sự khác xa nhau, và sẽ có sự đối kháng mãnh liệt giữa họ: Một sẽ được cứu thóat, còn một sẽ bị diệt vong. Vào lúc người ta không ngờ thì một người đã ở trong ánh sáng, còn một ở nơi tối tăm, đã qúa trễ để đòi phân xử lại, qúa trễ để chuẩn bị và qúa trễ để hối cải.
2/ MUỐN TỈNH THỨC PHẢI SỐNG THẾ NÀO ?
Ngày Con Người đến hòan tòan bất ngờ, Con Người có thể đến bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào và cho bất cứ ai. Cho nên phải sẵn sàng luôn, đừng như ai kia mong ngày ấy đến nhưng lại lơ là, không màng sẵn sàng. Vậy đứng trước ngày tận cùng đầy bất ngờ và nhanh như chớp ấy, người tín hữu phải ở trạng thái tỉnh thức. Tỉnh thức không phải là căng thẳng hay bất động, ù lì của tâm hồn, hay một đức tính tiêu cực. Nó cũng không đồng hóa với sự chờ đợi nôn nóng và mất trật tự. Trái lại, đó là sự trung thành với sứ mạng được trao phó như người quản gia, đó là hòan thành chu đáo nhiệm vụ của mình như những người đầy tớ được trao nén bạc, đó là sự chuẩn bị cho Đức Kitô trở lại như mười cô trinh nữ. Nhất là hãy sống làm sao cho Chúa nhận ra mình (Lc.13,25-27), mà muốn Chúa nhận ra mình thì phải yêu nhau (Jn.13,35), phải yêu người nghèo (Mt.25,31-46).
3/ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG:
Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu không những cho những biến cố cuối cùng, lúc Ngài phân xử, mà còn cho giờ chết của mỗi người, chúng ta không ai biết được mình chết giờ nào và cũng không tính tóan được. Bởi thế, người ta phải chuẩn bị giờ chết cũng như chuẩn bị đón gặp Chúa ngày quang lâm.
Trong hai người, một người được cứu thóat và một người bị tiêu diệt, điều quan trọng là cách thức người ta sống trước mặt Chúa, cái ý hướng trong tâm hồn điều khiển hành động.
Trong suốt Mùa Vọng này, Thiên Chúa sẽ tỏ hiện với mỗi người chúng ta nếu tâm hồn ta bình an, tràn ngập Đức Ái và can đảm chu tòan các bổn phận hàng ngày, thì ta sẽ gặp được Ngài….Ngài sẽ cho ta nếm cảm tình yêu của Ngài và củng cố niềm tin của ta trong khi chờ Ngài trở lại.
Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con luôn tỉnh thức nhận ra Chúa trong mọi biến cố cuộc đời, và nơi mọi người để sẵn sàng thực thi ý Chúa, biết phục vụ trong khiêm tốn và yêu thương, biết can đảm vượt qua mọi thử thách gian nan, để chúng con có cơ hội chứng tỏ lòng trung thành với Ngài hầu ngày Chúa đến, chúng con có thể đứng vững trước mặt Con Người.
Sr Mai An Linh, OP
Lời Chúa cho hôm nay: PHẢI CANH THỨC / Be Watchful !!!
Bài đọc 1: Isaia 2, 1-5=Nhờ Anh sáng Chúa soi đường/ In the light of the Lord.
Bài đọc 2: Roma 13, 11-14=Đã đến lúc phải thức dậy/ The hour to wake up from sleep.
Tin Mừng: Matthêu 24,37-44: Anh em hãy sẵn sàng / You must be prepared.
Tôi cảm nghiệm Sống và chia sẻ 3 bài đọc trên: (Reflection, live out and share )
Trước nạn hồng thủy, người ta vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, cho đến ngày ông No-e vào tầu, họ không: MV 1-A53
1/ Trước nạn hồng thủy, người ta vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, cho đến ngày ông No-e vào tầu, họ không hay biết gì… Trong mọi sinh họat hằng ngày, tôi có một tâm hồn suy tư về gì?
In the days beforẹ the flood people were eating and drinking, marrying… ( Math. 24, 38-39 )
2/ Bấy giờ hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Bệnh tật và chiến tranh đang xảy ra đã nhắc bạn điều gì? Việc nào bạn cần làm hôm nay?
Two men will be out in the field, one will be taken and one will be left. ( Math. 24, 40-41 )
3/ Thánh Phaolô khuyên: Đêm sắp tàn, ngay gần đến, anh em hãy lọai bỏ những việc làm đen tối… Tôi đang làm gì cho gia đình và trong sở làm? Những tật xầu thói hư nào tôi đang từ bỏ?
The night is far spent; the day draws near. Let us cast off deeds of darkness.. . . ( Rom. 13, 12 )
4/ Tiên tri Isaia nói: Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc, thành cày; rèn giáo mác ra liềm, ra hái.
Những gì đang giúp gia đình và cộng đồng bạn sống an vui? Bạn đã đóng góp được những gì?
They shall beat their swords into plowshares and their spears into prunning hooks. ( Is. 2, 4 )
Câu Phúc âm tôi chọn để làm Châm ngôn Sống hôm nay: ( The best God"s Word )
* ANH HÃY CANH THỨC, VÌ ANH KHÔNG BIẾT NGÀY NÀO CHÚA CỦA ANH ĐẾN.
* Stay awake ,therefore ! You cannot know the day you Lord is coming. ( Math. 24, 42 )
Tuân này tôi phải làm gì qua những Cảm nghiệm trên. ( So what am I doing / For action )
Tôi chọn 1 trong 4 Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành. ( Reflection, live out)
Tôi không còn giận dỗi trong gia đình, thù hận với bạn bè, bè phái trong sở làm.Vui vẻ,tha thứ…
Tôi luôn cầu nguyện và Sống điều tôi cầu nguyện để Chúa nhận lời. ( I Pray and practice )
Lạy Chúa, Chúa đã nói: thời ông No-e thế nào thì cuộc quang lâm của Con người cũng sẽ như vậy.
Xin cho con luôn tỉnh thức bằng cách bỏ ngay những thói xầu và tập luyện những nhân đức tốt.
Thánh Phaolô nhắc bảo: Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã đến gần hơn. Xin Chúa giúp con đủ sức mạnh để chống trả những cạm bẫy của thế gian,.
CHÚNG TA HÃY ĂN Ở CHO XỨNG ĐÁNG NHƯ NGƯỜI ĐANG SỐNG GIỮA BAN NGÀY, KHÔNG CHÈ CHÉN SAY SƯA. . . ( Rom. 13,13 )
Với những bài Thánh kinh trên, Phụng vụ cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về ý nghĩa Mùa Vọng: MV 1-A54
Với những bài Thánh kinh trên, Phụng vụ cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về ý nghĩa Mùa Vọng, cũng như về thái độ căn bản của người tín hữu trong Mùa này.
A. Ý NGHĨA MÙA VỌNG
Isaia đã nói về tương lai. Ông nhìn thấy “vào những ngày mai sau, hết thảy mọi nước sẽ tuốn lên Đền thờ Thiên Chúa... Ngài sẽ phân xử mọi dân tộc và thiên hạ sẽ rèn gươm làm cày, nghĩa là không còn luyện binh đao nữa”. Đó là cái nhìn của nhà tiên tri. Ông không nghĩ rằng xã hội lý tưởng kia sẽ xảy ra vào thời ông. Ngược lại ông chắc chắn dân tộc Israel đang đi vào con đường đen tối. Nói rằng đây là những lời an ủi ông đưa ra trước để nói về thời phục hưng sau lưu đày, cũng chỉ một phần nào đúng thôi; vì xã hội tốt đẹp ông nhìn thấy lý tưởng quá, khó xảy ra trong một quê hương bị nạn binh đao tàn phá. Cũng có người tưởng, đoạn văn Isaia ở đây là một văn phẩm sau thời gian lưu đày. Dân Israel được khuyến khích trở về Yêrusalem xây dựng lại Đền thờ của Chúa.
Nhưng lịch sử cho biết số người trở về cũng không rầm rộ đắc thắng và cuộc trùng tu Đền Thờ đã gặp rất nhiều khó khăn. Như vậy, những lời tiên tri không ám chỉ tương lai gần thời Isaia. Cùng lắm cái nhìn thời cuộc lúc bấy giờ chỉ là khởi điểm hay điểm tựa để nhà Tiên tri phác họa ra tương lai của niềm tin. Ông diễn tả đức tin mạnh mẽ của ông vào lời Chúa. Ngay từ đầu, với Abraham, Ngài đã hứa cho Israel trở thành dân đông đão và mọi nước sẽ được chúc phúc ở trong ông. Lời hứa mỗi ngày mỗi được củng cố, đào sau và phổ biến. Dần dần lịch sử đã mở mắt và hướng dẫn cho dân Israel để họ hiểu Lời Hứa trên sẽ không thực hiện đầy đủ trong các biến cố lịch sử do con người tạo ra. Họ ý thức rằng: duy chỉ một mình Chúa có thể thực hiện Lời Hứa trên , và khi Ngài ra tay làm sự nghiệp vĩ đại ấy, lịch sử sẽ đi vào thời đại hoàn toàn mới mẻ, thời đại của chính Thiên Chúa, của Đấng Thiên Sai mà Ngài sai đến. Như vậy, lời sách Isaia ở trên nói về thời Thiên Sai, thời Đấng Cứu Thế.
Chúng ta biết: Ngài đã đến. Đó là Đức Yêsu Kitô Chúa chúng ta. Và các lời sách Isaia cũng đã được thực hiện. Các dân tộc đã tuốn về nhà Chúa là Giáo hội và người ta đang đi trong đường lối của Ngài. Tuy nhiên, chúng ta đều biết, chưa có sự hoàn toàn và đầy đủ. Chính Đức Kitô, trong bài Tin mừng hôm nay, bảo chúng ta phải chờ đợi “Ngày Con Người sẽ đến”, khiến thật sự, các lời tiên tri Isaia chỉ thực hiện hoàn toàn sau này, trong tương lai. Vậy dùng những lời ấy để khai mạc Mùa Vọng, và dùng chính lời Tin mừng để giải thích rõ lời Tiên tri, Phụng vụ hôm nay đã nói lên ý nghĩa đích thực của mùa này, là hướng lòng chúng ta về “Ngày Con Người sẽ đến”. Vì thế chủ yếu của Mùa Vọng không nhằm viêc dọn mừng lễ Giáng sinh; nhưng muốn khơi lại niềm tin về Ngày Chúa sẽ trở lại, để tất cả cuộc đời của chúng ta là Mùa Vọng, trông đợi “Ngày Chúa lại đến”.
B. VAI TRÒ CỦA VIỆC DỌN MỪNG GIÁNG SINH
Tuy nhiên việc dọn mừng lễ Giáng sinh rất cần thiết cho Mùa Vọng. Cả đời chúng ta phải chờ Ngày Chúa trở lại. Nhưng để nuôi dưỡng và phấn khích lòng chờ đợi này, chúng ta cần làm sống lại mầu nhiệm Chúa đến trong xác thịt hầu khi thấy Chúa đã nhập thể thế nào, chúng ta được thêm vững tin về việc Ngài sẽ trở lại như thế. Và nhất là chúng ta cần đến ơn Nhập thể của Chúa, mới biết chờ đợi và mới có khả năng chờ đợi Ngày Con Người sẽ đến sau này. Có thể nói Phụng vụ muốn giúp ta dọn mừng lễ Chúa Giáng sinh để ta thêm khả năng sửa soạn cho Ngày Chúa trở lại. Như vậy Mùa Vọng nhắm lễ Giáng sinh như mục tiêu gần để vươn tới và đạt tới mục tiêu cuối cùng là Ngày Đức Kitô lại đến để phân xử các nước và phán xét mọi dân tộc.
Nhưng việc dọn mừng lễ Giáng sinh chỉ có thể đóng được vai trò vừa nói, nếu Phụng vụ không phải chỉ là kính nhớ hay nhớ lại. Phụng vụ phải mang đến ơn Chúa Giáng sinh thật sự, nghĩa là phải làm sống lại thật sự cho chúng ta sự kiện Đức Kitô đã làm người. Phụng vụ phải hiện đại hóa cho chúng ta ngày nay, việc Ngài đã Giáng sinh ở Bêlem ngày trước, để chúng ta được tiếp nhận Ngài như Đức Maria và thánh Giuse, để chúng ta lại được như các Tông đồ lắng nghe Lời Chúa và thấy các việc Ngài làm, hầu chúng ta mới có thể chờ đợi Ngài trở lại. Thành ra không kể việc Chúa đã đến một lần trong lịch sử khi sinh ra làm người, và không kể việc Ngài sẽ đến sau này trong tương lai, còn có việc Ngài đến cách mầu nhiệm trong tâm hồn tín hữu nhờ việc lãnh nhận Bí tích với niềm tin yêu. Việc Ngài đến cách mầu nhiệm này là kết quả của việc Ngài đã đến trong xác thịt; và là bảo chứng cho việc Ngài sẽ đến trong vinh quang. Chúng ta dọn mình mừng lễ Giáng sinh, vì thế, vừa để tạ ơn vừa để xin ơn. Nhớ lại việc Chúa đã Giáng sinh, chúng ta cảm mến các ơn lành Người ban để biết chờ mong hạnh phúc viên mãn sẽ đến sau này.
C.LÀM THẾ NÀO?
Isaia đã khuyên nhà Yacob, hãy đi trong ánh sáng của Chúa. Thánh Phaolô cũng bảo, hãy từ bỏ công việc của đêm tối và mặc lấy mã giáp của sự sáng. Vì Chúa đã đến trong thế gian khi Ngài Giáng sinh làm người. Ngài đã đem giáo lý chân thật làm ánh sáng dẫn đưa các tín hữu của Ngài trên đường lữ thứ trần gian.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài dạy chúng ta biết thái độ căn bản trong thời “Con Người chưa đến”. Ngài bảo: “Vậy chúng con hãy sẵn sàng”. Và để chúng ta hiểu rõ khẩu lệnh này, chính Ngài đã cho chúng ta hai thí dụ, hay hai dụ ngôn để so sánh. Ngài nói: hãy nhớ lại thời Noe; cho đến ngày tổ phụ này vào tàu, người ta chẳng biết gì cả, cho đến khi nước lụt ập đến cuốn đi tất cả.
Thật ra sách Khởi nguyên còn yếm thế hơn. Tác giả nói thời ấy, người ta cứ ăn uống, cưới xin như không có việc gì sắp xảy tới. Như vậy, Ngài không cảnh cáo riêng gì kẻ tội lỗi. Ngài dạy mọi người không được sống “bình chân như vại”, chỉ lo việc đời nay, dường như không có đời sau. Không có việc Chúa trở lại, không có lễ Giáng sinh sắp tới. Những người sống như vậy chắc chắn sẽ không được ơn gì của lễ Giáng sinh và sẽ ngỡ ngàng khi Ngày Con Người đến.
Để diễn tả sự ngỡ ngàng này, Chúa Yêsu đã lấy hình ảnh hai người (đàn ông) cùng đang ở ngoài đồng và hai người (đàn bà) cùng đang xay bột ở nhà. Người sẵn sàng chờ đợi Chúa đến sẽ được Ngài đem đi (hưởng nơi hạnh phúc); còn người không chờ đợi sẽ chưng hửng thấy người bạn cùng làm với mình được cất lên trời, còn mình phải ở lại nơi trần tục. Như vậy rõ ràng Chúa muốn bảo chúng ta, đang khi chu toàn các phận sự ở đời này, phải thao thức về việc Ngài trở lại. Và ai sống như thế, chắc chắn sẽ được như lời thánh Tông đồ nói: không bê tha tửu sắc và giành giật gây chuyện với người khác, một sẽ càng ngày càng mặc lấy Chúa Yêsu để trở nên giống Ngài.
Chúa còn lấy một thí dụ khác để nói lên thái độ sống đạo căn bản. Nếu người chủ hộ biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt ông sẽ thức đến lúc đó, không để cho nó đào ngạch khoét vách. Nhiều lời khác như thế đã tạo nên trong Giáo hội thói quen canh thức cầu nguyện ban đêm. Ở đây, Chúa không đòi mọi người đến mức đó. Ngài chỉ bảo: vì chẳng biết giờ nào, Con Người sẽ đến, nên luôn luôn phải sẵn sàng. Và như trên đã nói, thái độ sẵn sàng là luôn nuôi dưỡng ý thức việc Chúa trở lại, để chúng ta được xứng đáng trong Ngày Chúa đến cất nhắc chúng ta lên với Ngài. Ý thức đó phân biệt người tin với kẻ không tin. Người không tin chỉ biết nói đến những sự việc đời này; còn kẻ tin làm tất cả mọi việc ở trần gian mà vẫn không ngơi quy hướng mọi sự về đời sau và Chúa. Họ phải làm tốt các nhiệm vụ trần gian để được nhìn thấy là xứng đáng trong Ngày Chúa trở lại. Không những thế, họ còn biết rằng bất cứ giây phút nào Chúa cũng muốn đến gõ cửa tâm hồn họ để vào ở với họ trong tình thân mật. Nên thái độ sẵn sàng đòi họ giữ tâm hồn trong trắng và muốn cầu nguyện tiếp xúc với Chúa và đón nhận ơn Ngài.
Như vậy, khi nêu cao ý thức “CHÚA SẼ ĐẾN” Mùa Vọng muốn chúng ta trở thành những con người có thái độ sẵn sàng, sẵn sàng đối với ơn Chúa đến viếng thăm và làm giàu cho đời sống, nên luôn luôn thao thức sống đẹp lòng Chúa. Thái độ ấy phải thực hiện ngay trong việc dâng lễ, để có Chúa đến trong tâm hồn, chúng ta có khả năng đón mừng lễ Giáng sinh và được Chúa cất nhắc khi Ngài lại đến.
Các con phải sẵn sàng” (Mt 24:44) vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13:12). “Hãy bước đi .MV 1-A55
“Các con phải sẵn sàng” (Mt 24:44) vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13:12). “Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa” (Is 2:5).
Đó là lời mời gọi cấp thiết khởi đầu cho một năm phụng vụ. Thế là một mùa Vọng lại về. Bao tâm hồn lại nao nức chuẩn bị cho ngày lễ Giáng sinh sắp đến.
“Đêm sắp tàn, ngày gần tới” rồi sao? Nhưng khi nào là đêm và lúc nào là ngày? Làm sao biết được ranh giới giữa ngày và đêm?
Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi với các học trò của mình: “Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào ngày bắt đầu?” Một anh nhanh nhảu: “Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt được nó là con bê hay con lừa.” Một anh khác, sau lúc suy tư cũng xin góp ý: “Thưa thầy, khi nào ta nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được là thù hay bạn.” Nhiều câu trả lời khác cũng được đưa ra nhưng dường như vị sư phụ không thoáng một chút hài lòng. Cuối cùng cả đám nhao nhao xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như muốn thấm sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng: “Khi nào các con nhìn vào tha nhân và nhận ra đó chính là anh chị em mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.”
Thế ra không phải việc “phân biệt” con vậg này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối ran đi và ánh sáng toả rạng.
Đêm đen sẽ mãi thống trị tâm hồn nếu đời tôi cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia rẽ, vô luân, lừa dối. Còn khi để cho yêu thương dẫn lối cuộc sống, ngày mới cuộc đời đã bắt đầu lên ngôi, nhờ ánh quang soi tỏ mọi lối đường.
Nỗi khát mong đợi chờ cho ánh sáng tình yêu thống trị địa cầu đã bắt đầu thành sự khi Đức Giêsu là “Mặt Trời Công Chính” bừng lên và cũng là “Hoàng tử Bình An” ngự đến.
Ấy thế mà dường như nỗi khát mong đợi chờ ấy vẫn không ngừng lập đi lập lại. Phải chăng vì tâm hồn nhân thế cứ bị bóng đêm của thế gian đe dọa chiếm đoạt, nên ước nguyện ánh sáng chân lý chiếu soi vẫn mãi là đặc tính của mùa Vọng hằng năm?
Ngày xưa, theo truyền thuyếg của dân Rôma, tối 24 tháng 12 là ngày sinh của thần mặt trời, để rồi sáng hôm sau vị thần đó vươn mình đứng lên mang lại ánh sáng và sự sống cho nhân gian. Thế nên, khắp cùng đế quốc, người ta mừng lễ Natalis Solis Invicti vào ngày đông chí, tức là ngày 25 tháng 12, khởi đầu thời kỳ thần ánh sáng thắng vượt tối tăm, bước qua giai đoạn ngày dài hơn đêm.
Vào năm 336, Đức Giáo Hoàng Jules I đã ấn định ngày đông chí như ngày kỷ niệm Đức Giêsu – “Mặt Trời Công Chính” – đã giáng sinh cho nhân loại. Thế là ngày lễ ngoại giáo đã được Kitô hoá. Nét truyền thuyết và thần thoại được thay bằng tính chất xác thực của biết cố Nhập thể.
Từ đó trở đi, cứ mỗi lần sắp đến 25 tháng 12, giáo dân khắp nơi nô nức chuẩn bị tâm hồn cho ngày đại lễ Giáng Sinh. Họ không ngừng ăn chay hãm mình, quảng đại thứ tha, đổi mới đời sống, chờ mừng ngày Chúa ngự đến. Dần dần những việc làm đó trở thành đặc tính căn bản của mùa Vọng, mùa trông mong ngày sinh nhật Đấng Cứu thế.
Đã bao mùa Giáng sinh trôi qua, nhưng có lẽ “tính chất căn bản” của mùa Vọng đó đã phai mờ trong lòng nhiều người. Khi xưa, Giáo hội Kitô hóa ngày lễ ngoại giáo thành lễ Giáng sinh để hướng con người đến với nguồn sáng và nguồn sống đích thực. Còn hôm nay, không chừng tôi lại đang tục hóa ngày lễ thiêng liêng kia để rồi lòng mình cứ mãi lắng lo trong bao sự đời.
Ngày xưa mùa Vọng đã trở nên lời nhắc nhở canh tân lối sống, sửa sang tâm hồn, dọn lòng mừng Chúa đến. Còn hôm nay, không chừng tôi chỉ nghĩ đến trang hoàng nhà cửa, giăng thêm đèn màu, mua sắm quà cáp chuẩn bị cho những cuộc liên hoan say sưa, cuồng loạn, có khi... tội lỗi.
Một lần nữa, lời nhắn nhủ trong thơ của Thánh Phaolô lại thức tỉnh hồn tôi: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô, và chớ lo lắng thoả mãn các dục vọng xác thịt”. (Rm 13:12-14)
Thực hành lời khuyên nhủ trên là khởi sự Kitô hoá cuộc đời, là sống trọn vẹn hơn ý nghĩa của mùa Vọng năm nay, và chắc chắn, là bắt đầu cảm nếm niềm vui nhiệm mầu sâu lắng trong lễ Giáng sinh sắp đến.
Qua bài Tin Mừng Mt 24,37-44, Đức Giêsu cho biết Ngài sẽ trở lại trần gian để xét xử nhân loại: MV 1-A56
Qua bài Tin Mừng Mt 24,37-44, Đức Giêsu cho biết Ngài sẽ trở lại trần gian để xét xử nhân loại và cho biết một số điều về ngày ấy như sau:
1. Ngài đến bất ngờ như kẻ trộm:
Đức Giêsu cho biết: «Chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến» (Mt 24,44; Lc 12,40), «Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm» (1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10). Sự bất ngờ của kẻ trộm có thể về mặt thời gian – nghĩa là không thể xác định được ngày nào, giờ nào – mà cũng có thể bất ngờ về cách thức: không biết được trộm đến theo cách thức nào, vô nhà bằng lối nào, lấy trộm thứ của cải nào, trộm sẽ giả dạng như thế nào, v.v… rất có thể kẻ trộm lại là người rất quen thuộc với ta, thậm chí là người nhà của ta nữa.
Hãy rút ra bài học từ quá khứ. Mặc dù việc Đức Giêsu đến trần gian đã được báo trước cả mấy trăm năm trước, và được toàn dân Ítraen mong đợi, thế mà khi Ngài đến, chẳng mấy ai nhận ra Ngài. Tệ hơn nữa, họ còn kết án và giết chết Ngài một cách tàn ác. Cách Ngài đã đến khác hẳn với cách mà hầu hết mọi người nghĩ tới trước đó. Cách Ngài đến thật bất ngờ mà người thường không ai có thể tưởng tượng ra nổi. Lời Kinh Thánh báo trước cả mấy trăm năm đều được ứng nghiệm, nhưng ứng nghiệm cách khác hẳn với cách giải thích hay cách hiểu truyền thống.
Ngày Chúa đến lần thứ hai để xét xử nhân loại cũng có thể có nhiều điều hết sức bất ngờ mà con người không thể đoán trước được, không chỉ về thời gian, mà còn về nhiều mặt khác nữa. Có như thế, sự công chính hay gian tà mới lộ diện rõ rệt, vì ở thế gian, sự gian tà rất nhiều trường hợp lại được ngụy trang bằng sự công chính, và tội lỗi lại mang những bộ mặt hết sức thánh thiện. Con mắt thế gian không thể nào khám phá được, nhưng không ai qua mặt được Thiên Chúa. Đức Giêsu đã từng nói về «các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi» (Mt 7,15). Thánh Phaolô đã từng vạch mặt những hạng người ấy: «Những kẻ đó là tông đồ giả, là thợ gian xảo, đội lốt tông đồ của Đức Kitô. Lạ gì đâu! Vì chính Xatan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính. Chung cục, chúng sẽ lãnh nhận hậu quả công việc chúng đã làm» (2 Cr 11,13-15).
Cách phán xử của Ngài công minh không ai ngờ trước được
Nếu Đức Giêsu đến để xét xử trần gian mà không vạch mặt được những giả hình gian dối ấy, nếu Ngài cũng bị hạng người này qua mặt như đã từng qua mặt mọi người trần, thì sự phán xử của Ngài còn gì là công minh nữa? Với tư cách là vị phán trần gian, cách xét đoán của Ngài sẽ phải hết sức công minh, công minh vượt hẳn và khác hẳn cách suy đoán của mọi người. Ngày ấy, biết bao điều bị che dấu thật khôn khéo và kỹ lưỡng, đến nỗi chưa hề có ai biết, sẽ bị đưa ra ánh sáng: «Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết» (Lc 12,2), và «những việc tốt thì đã rành rành; mà cả những việc không tốt cũng chẳng che giấu được» (1 Tt 5,25). Chính vì thế mới có những chuyện bất ngờ như: «nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu» (Mc 10,31; x. Mt 20,16; Lc 13,30).
Nhiều kẻ tưởng mình là công chính hoặc được mọi người tưởng là như thế nhưng lại bị Ngài xét là gian ác, ngược lại có nhiều kẻ tưởng mình thuộc loại xấu đáng kết án hoặc bị mọi người tưởng là như thế, nhưng lại được Ngài xét là công chính. Dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14) là một thí dụ điển hình cho sự trái ngược ấy. Còn bao nhiêu chuyện trái ngược như thế được biểu lộ trong Thánh Kinh: «Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12; nên xem thêm Rm 9,30-32; 10,20). Vì thế, tới lúc ấy, chẳng ai dám tự hào mình công chính, vì càng tự hào thì càng dễ trở nên bất chính do chính sự tự hào ấy: «Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã» (1 Cr 10,12).
Ngày ấy, sẽ có rất nhiều người tưởng mình công chính vì tự thấy mình chưa bao giờ làm một điều gì xấu, lại làm được biết bao việc phúc đức, nhưng lại không được coi là công chính, mà thậm chí ngược lại, vì:
– biết bao nhiêu lần họ đã bỏ qua không làm những việc quan trọng và cần thiết mà đấng bậc họ buộc phải làm
– họ có thói quen thờ ơ trước những đau khổ cùng quẫn của người chung quanh, họ không làm gì cả mà lương tâm chẳng hề cắn rứt
– họ thường xuyên nhắm mắt làm ngơ để mặc bất công hoành hành đang khi mình có khả năng can thiệp hoặc chặn đứng lại được
– họ hay tự hào về những việc tốt lành của mình đồng thời lên mặt khinh chê người khác
Và cũng biết bao người tỏ ra khô khan nguội lạnh nên tưởng mình là bất chính nhưng lại được Chúa xét là công chính, vì:
– đã thực tình sám hối và quyết tâm không bao giờ tái phạm
– khi đụng chuyện cần phải hy sinh cho tha nhân thì đã hy sinh một cách quảng đại, không tính toán, biết quên mình thật sự.
– biết mình yếu đuối, nên luôn luôn tỏ ra khiêm nhường, biết cảm thông với những yếu đuối, sai lầm của mọi người.
3. Số phận con người khi ấy được định đoạt khác nhau
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cho biết: «Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại». Chúng ta chưa biết ý nghĩa chắc chắn của hai từ «được đem đi» và «bị bỏ lại», nhưng qua đó, ta biết được số phận mỗi người lúc ấy được định đoạt một cách khác nhau: kẻ «bị» người «được», kẻ khổ người sướng. Tất cả đều tùy thuộc vào cách sống, cách cư xử và hành động của mỗi người ở trần gian: Ngài «cứ theo công việc mỗi người mà xét xử» (1 Pr 1,17; Kh 20,12-13), «sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm» (Mt 16,27; x. Rm 2,6). Thánh Giacôbê còn cho biết: «Đừng ham làm thầy thiên hạ, vì anh em sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn» (Gc 3,1).
Đó là ngày của công lý. Những kẻ gây bất công sẽ phải đền tội: «Thiên Chúa sẽ trả báo, nghĩa là bắt những kẻ gây gian truân cho anh em phải chịu gian truân» (2 Tx 1,6), «Ai ăn ở bất công sẽ được trả theo điều bất công mình làm; không có chuyện thiên vị» (Cr 3,25). Còn những kẻ đã phải đau khổ và chịu bất công vì Thiên Chúa, vì tha nhân, sẽ được đền đáp: «Anh em sẽ được coi là xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ» (2 Tx 1,5).
4. Cần phải tỉnh thức
Vì không ai biết được ngày quang lâm của Chúa xảy đến lúc nào, và xảy ra thế nào, nhưng có điều chắc chắn là sẽ có nhiều điều rất bất ngờ, không ai dè trước được. Chính vì thế, Đức Giêsu đề nghị với chúng ta một thái độ khôn ngoan, đó là phải tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là phải sống làm sao để dù Chúa đến vào bất kỳ lúc nào, dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc xét xử công minh đến đâu, thì ta vẫn có thể đứng vững trước mặt Ngài. Vậy cần phải tỉnh thức cách nào?
Thái độ tốt nhất trước mặt Thiên Chúa là thái độ tự hủy và yêu thương. Tự hủy là coi nhẹ cái tôi của mình, không coi mình là cái gì quan trọng, không tự hào, không tự cho mình hơn ai, không kết án ai, và cũng không coi ý riêng của mình là sáng suốt, khôn ngoan hơn người. Yêu thương là thể hiện tinh thần tự hủy một cách tích cực hơn, ích lợi hơn cho tha nhân: sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích và hạnh phúc của tha nhân. Yêu thương đòi hỏi phải tự hủy như một điều kiện cần thiết. Không thể yêu thương đích thực nếu không tự hủy. Sống tinh thần tự hủy và yêu thương như thế là cầu nguyện đúng nghĩa nhất: cầu nguyện bằng chính cuộc sống, là kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa nơi tha nhân, một sự kết hiệp thực tế và bằng hành động cụ thể. Đó là cách tích cực để ta nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Thiên Chúa xét xử ta khoan hay nghiêm tùy thuộc rất nhiều vào sự khoan nghiêm của ta đối với tha nhân: «Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót. Còn với ai biết thương xót, thì Người chẳng quan tâm đến việc xét xử» (Gc 2,13). Ngài không thể không tha thứ cho những ai luôn luôn tha thứ. Ngài sẽ phải tha thứ vô điều kiện cho những kẻ luôn luôn tha thứ vô điều kiện. Chắc chắn Ngài không thể thua con người về lòng khoan dung. Vả lại chúng ta đã hợp đồng với Chúa như thế khi đọc kinh Lạy Cha, theo sự chỉ dạy của Đức Giêsu: «Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con» (Mt 6,12; x. Lc 11,4). Khốn cho chúng ta nếu đã hợp đồng với Chúa như thế mà lại không biết tha thứ: «Nếu anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như vậy» (Mt 18,35). Như thế, luôn luôn tha thứ cho mọi người một cách vô điều kiện, dù lỗi họ có nặng đến đâu, không cần họ phải hối hận hay xin lỗi, là một bí quyết giúp ta hoàn toàn trắng án trong ngày đó, cho dù tội lỗi ta có nặng đến đâu.
Mở đầu năm phụng vụ, thánh Phaolô đã gởi cho chúng ta lời nhắn nhủ hết sức cấp bách qua thư Roma: MV 1-A57
Mở đầu năm phụng vụ, thánh Phaolô đã gởi cho chúng ta lời nhắn nhủ hết sức cấp bách qua thư Roma, chương 13:
“Đã đến lúc anh em phải thức dậy. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.”
PHẢI THỨC DẬY
Ủa ?! sao lại phải thức dậy, tôi là một trong những Kitô Hữu đàng hoàng, đã từng ăn cơm nhà Chúa cả chục năm trời, đã từng là một thầy giáo xứ, đã từng đóng vai trò giáo dục hướng dẫn con nít lẫn một số giáo dân khác trong cộng đoàn, thế thì cần gì phải thức dậy? Vấn đề thức dậy này chỉ dành cho những kẻ khô khan nguội lạnh, bê bối, chè chèn, say sưa, chơi bời, dâm đãng. Tôi đi lễ, đọc kinh tối sáng ngày thường, ăn chay đúng theo luật Giáo hội, hơn thế nữa, tôi còn là ca trưởng, giáo lý viên, ông trùm, làm huynh trưởng trong cộng đoàn giáo dân….. Đủ quá rồi, tôi tự đánh giá mình tệ nhất cũng vào hạng trung bình khá. Đủ chuẩn để không bị xuống hỏa ngục là tốt rồi, còn mong gì hơn. Thức dậy để làm gì mới được chứ?!!! Và tôi cứ vui vẻ tự hào, hãnh diện về con người có vẻ đạo đức của mình …...cho tới khi….
Cho tới khi tôi bắt đầu nghiên cứu Kinh Thánh một cách nghiêm chỉnh thì tôi mới đâm ra nghi ngờ việc tự đánh giá theo vẻ bên ngoài đạo đức của mình. Khi tôi suy tư về lời khuyên của thánh Phaolô: cầm lấy vũ khí của sự sáng, tôi chẳng hiểu mô tê gì. Như vậy, chứng tỏ tôi đang ngủ mê, bởi vì nếu thực sự thức tỉnh thì ắt là tôi phải hiểu tường tận vũ khí sự sáng là gì, tôi phải biết rõ mình đang cầm vũ khí đó trong tay và quan trọng là tôi phải biết sử dụng vũ khí đó một cách nhuần nhuyễn như Trương Vô Kỵ phát huy chưởng lực kinh hồn của Cửu Dương Chân Kinh. Thế mà đáng tiếc thay, đường đường là một Kitô Hữu có vẻ đạo đức mà lại mù tịt về vũ khí của sự sáng. Chính vì thế, tôi quyết tâm tìm hiểu cho ra mới được vì đã đến lúc phải thức dậy rồi, tôi không thể mãi ngủ mê trong tâm tưởng người Kitô Hữu trên trung bình.
LOẠI BỎ NHỮNG VIỆC ĐEN TỐI
Khi còn trẻ, tôi chỉ hiểu đơn giản như sau: mỗi khi tới mùa vọng thì tôi phải sửa đổi một vài thói quen xấu và mỗi ngày dâng lên Chúa Hài Nhi một vài Hy Sinh nho nhỏ như những cọng rơm để làm máng cỏ thiêng liêng cho Chúa nằm vào đêm giáng sinh. Rồi đêm giáng sinh tưng bừng rộn rã qua đi, phong trào hy sinh, hãm mình xẹp xuống như chiếc bong bóng xì hơi, tôi lại trở về con người cũ rích của mình. Chờ tới mùa chay, tôi lại được dịp hy sinh hãm mình theo phong trào để đón mừng Chúa phục sinh. Sau đó là Mùa Thường Niên buồn tẻ kéo dài lê thê cho tới mùa vọng…Đời sống tâm linh của tôi giống như chiếc đèn kéo quân quay tít mù theo chu kỳ phụng vụ, hết năm này qua năm khác - như một người mộng du - mà không biết cách nào thức dậy. Hoá ra những hy sinh hãm mình - từ bỏ những thói hư, tật xấu kiểu phong trào theo chu kỳ phụng vụ ắt không phải là từ bỏ đúng như ý thánh Phaolô đã từng khuyên.
Lớn lên, tôi được dạy rằng loại bỏ những việc đen tối, chính là từ bỏ ma quỷ và mọi sự sang trọng của ma quỷ. Satan là thủ lãnh thế gian với quyền lực kinh hồn và mưu mô tinh vi. Nó cám dỗ nhân loại bằng những lời đường mật, dụ dỗ con người lọt vào tròng của nó. Một khi lọt vào trong vòng tay của nó rồi, con người khó có thể thoát khỏi ách nô lệ kìm kẹp ma quái, giống như Đường Tăng vùng vẫy tuyệt vọng trong những sợi tơ nhền nhện mong manh nhưng lại rất bền chặt của lũ yêu tinh cực kỳ xinh đẹp. Tôi cũng đã từng một thời nghe lời ma quỷ mà ăn thử một trái táo cám dỗ, tôi ghé rằng cắn vào thử một miếng, quả nhiên, miệng nghe ngọt đắng. Thực vậy, thời gian đó, tôi như một người lỡ trượt chân xuống ao đầy bùn. Tôi leo lên bờ vội vàng dội một sô nước Bí tích Giải tội nhưng trong lòng biết chắc chắn chỉ vài ngày sau, tôi sẽ lại trượt chân lần nữa. Đúng như thế, tôi không những trượt một lần mà tới mấy chục lần. Lúc đó, tôi thừa biết rằng bùn đen chắc chắn dơ bẩn nhưng mùi của nó quả là thơm tho ngào ngạt quyến rũ. Khổ là ở chỗ đó. Giả sử tôi thấy Satan dữ dằn như quái vật trong lâu đài cổ tích và trái cấm của nó thối hoăng cả lên thì làm gì có chuyện sa chước ma quỷ cám dỗ một cách dễ dàng như vậy… Trái lại, nó dễ thương như thiên thần với lời mật ngọt rót vào tai và trái táo từ thời nguyên thủy ở vườn địa đàng ngày xưa… cho tới bây giờ vẫn còn mọng chín hấp dẫn thơm hương - trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý (St 3:6). Chính vì thế thay vì loại bỏ Satan, tôi lại quay ra làm tôi mọi cho nó.
Ngoài những thời gian vấp ngã kể trên, đời sống hàng ngày của tôi giống như bất cứ một người bình thường nào khác: tối ngày lo kiếm tiền, ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi giải trí… còn việc Chúa hay ma quỷ tôi chẳng quan tâm lắm. Như vậy, bình thường, chuyện từ bỏ ma quỷ chỉ thuần tuý là những câu đối đáp vô nghĩa. Tôi còn nhớ hôm đỡ đầu cho một em bé lãnh nhận bí tích Thanh tẩy, gần hai chục người tham dự. Cha hỏi: Anh chị em có từ bỏ…Thưa từ bỏ. Lần thứ tư cha hỏi: Anh chị em có tin Thiên Chúa… Thưa từ bỏ !!! Cha sở trợn mắt nhìn !!! Rõ ràng là chỉ nói ở ngoài miệng một cách vô thức.
Rõ ràng là đời sống thường ngày của tôi dường như chẳng liên quan tới ma quỷ bao nhiêu, nhưng thỉnh thoảng tên cám dỗ xuất hiện, thay vì tôi loại bỏ những việc tối tăm của ma quỷ, tôi lại chiều theo nó một cách ngu muội. Như vậy chứng tỏ việc loại bỏ những việc đen tối của ma quỷ cực kỳ khó khăn.
ĐỪNG CHIỀU THEO TÍNH XÁC THỊT
QUAN NIỆM THÔNG THƯỜNG
Tính xác thịt được tóm gọn trong 7 mối tội đầu: kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, làm biếng – quen gọi là khô khan nguội lạnh việc thờ phượng Đức Chúa Trời. Trong 7 mối tội đầu này, đứng đầu và là nền tảng chính là kiêu ngạo – chỉ thấy và phục vụ cho cái tôi.
Tất cả những tính xác thịt này gắn bó với con người gần như là một bản chất, như hình với bóng. Và xác thịt chính là mảnh đất lý tưởng cho Satan dụng võ với sự hỗ trợ đắc lực của đam mê thế gian. Xác thịt đã từng bị coi là kẻ nội thù trong hàng mấy thế kỷ, phải coi khinh nó.
Hiện nay, tuy không còn kết án xác thịt nữa, nhưng người ta vẫn dựa vào yếu đuối của xác thịt để chạy tội. Nếu tôi lỡ yếu đuối chiều theo tính xác thịt tôi đã có sẵn bửu bối: Vì Chúa đã biết từ ngàn xưa rằng thân con bởi tro bụi và được cưu mang trong tội lỗi. Kết quả là chuyện đừng chiều theo tính xác thịt khó còn hơn lên sao Hoả.
QUAN NIỆM TÍCH CỰC HƠN
Có người đã tìm ra cách chiến thắng xác thịt khá hay và khá bài bản.
Quan niệm: Xác thịt không phải là thân xác, cảm xúc , ham muốn tình dục. Xác thịt liên quan tới bản tính con người tách biệt khỏi Thiên Chúa, hoạt động cách xa Thiên Chúa và như thế là chống lại Ngài, cản trở người Kitô Hữu lớn lên trong đời sống tâm linh.
Chiến lược: Nếu ra sức làm trọn lề luật Chúa thì không kết quả lắm và thường sinh ra bất mãn. điều cần thiết là có sự thay đổi bản tính của chúng ta, một sự thay đổi vượt trên khả năng con người. Vì thế phải dựa vào khả năng biến đổi trong của Thánh Thần bằng cách tiếp cận giao ước mới trong Đức Kitô Điều mà Lề Luật không thể làm được, vì bị tính xác thịt làm cho ra suy yếu, thì Thiên Chúa đã làm: khi sai chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng ta, Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình.4 Thiên Chúa làm như vậy, để sự công chính mà Luật đòi hỏi được hoàn toàn thực hiện nơi chúng ta, là những người không sống theo tính xác thịt, nhưng theo Thần Khí.(Rm 8:3-4). Chúng ta phải trung thành suy phục Chúa Thánh Thần.
Giải pháp: Chiến lược đưa ra thật tuyệt vời nhưng tiếc một điều là giải pháp để thực hiện lại nửa vời. Khi đưa ra chiến lược là suy phục Chúa Thánh Thần, nhưng khi khai triển 4 phương thế lại chẳng thấy dính dáng gì lắm tới chuyện suy phục Chúa Thánh Thần. Tôi xin tóm tắt 4 phương thế thực hiện sau đây:
Quyết định để Chúa Giêsu làm Chúa trong mọi lãnh vực cuộc sống với thái độ vâng lời tích cực
Tạ ơn, vui mừng giữa những khó khăn
Chấp nhận Thánh giá để Thiên Chúa thanh luyện và củng cố mình.
Bỏ qua mọi nỗi tức tối: viết tên những người bạn với những điều mình khó chịu, cầu nguyện và trao hết những thứ đó cho Chúa.
Tôi nhận thấy quan niệm về thân xác và chiến lược quả thực là một khám phá mới và tích cực so với quan niệm thông thường, nhưng khi đề nghị phương pháp để thực hiện thì lại tỏ ra lúng túng theo kiểu: con kiến mà leo cành đa, leo phải cành cụt leo ra leo vào - vì vẫn còn mang cặp mắt nhận loại với thân xác nặng nề và cái tôi to đùng. Thực vậy, nếu quyết định để Chúa Giêsu làm Chúa và vui mừng giữa những khó khăn thì khó khăn sẽ trở nên nhẹ như lồng hồng, lúc đó làm gì còn thánh giá để cái tôi è cổ ra để vác?!? Chắc hẳn quý độc giả đã nhận ra sự mâu thuẫn giữa những ý niệm: để Chúa Giêsu làm Chúa sẽ mang lại hiệu quả: Vui mừng giữa những khó khăn; thế mà vẫn còn phải: Chấp nhận Thánh giá (tượng trưng cho những nặng nề, khổ sở) và bỏ qua mọi nỗi tức tối (cũng là hệ quả của những nặng nề, khổ sở)
Tóm lại, theo ánh mắt nhân loại, tôi nhận thấy từ bỏ ma quỷ và đừng chiều theo tính xác thịt hầu như không tưởng vì não trạng phân biệt tôi và Chúa quá rõ ràng và dứt khoát. Thành ra thế đối lập dường như không thể hoà hợp được dù ngoài miệng vẫn cứ ra rả loan báo: chúng ta hãy sống kết hợp với Chúa mà trong thâm tâm lại cứ tự nhủ Chúa Giêsu khác, tôi khác – xác tín mạnh mẽ như đính đóng cột. Nếu thế thì việc thức dậy chắc chắn sẽ mãi mãi như đèn kéo quân quay tít mù theo chu kỳ phụng vụ hết năm này tới năm khác mà vẫn không thức dậy nổi.
THỨC DẬY - THEO ÁNH MẮT TÂM LINH
Để thức dậy, theo ánh mắt tâm linh, tôi xin mạn phép dùng lý luận liên hoàn rất quen thuộc với độc giả
Muốn thức dậy Ta phải loại bỏ những việc làm đen tối Và đừng chiều theo tính xác thịt Muốn loại bỏ những việc làm đen tối Và đừng chiều theo tính xác thịt
Thì điều kiện là phải cầm lấy vũ khí của sự sáng Bằng cách mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô
Như vậy rõ ràng là tôi phải bắt dầu bằng việc mặc lấy Đức Giêsu Kitô. Giải quyết được vấn đề này cho tận gốc thì lập tức tôi sẽ thấu hiểu vũ khí của sự sáng là gì; tiếp theo là loại những việc đen tối và đừng chiều theo tính xác thịt sẽ dễ như ăn cơm sườn, tất nhiên là lúc đó tôi biết mình đã thực sự thức dậy, không còn ngủ mê nữa.
MẶC LẤY CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ
Theo tôi, có 4 cách mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô hay đi theo Chúa Giê-su Ki-tô
Theo Chúa Giê-su Ki-tô hình thức
Đây là mẫu người Kitô Hữu hình thức, họ mang danh là Kitô Hữu nhưng họ hoà mình vào trong đám đông láo nháo lũ lượt đi theo Ngài. Ai làm gì họ làm theo không cần hiểu, không thắc mắc. Họ giữ đạo như người máy: đi lễ như người máy, rước lễ như người máy, đọc kinh như người máy theo thói quen từ đời ông bà, cha mẹ để lại năm này qua năm khác.
Theo Chúa Giê-su Ki-tô để lập công
Họ quan tâm tới những hy sinh, những làm việc đạo đức và những việc tông đồ, bác ái mà họ gọi có vẻ dao to búa lớn: công trình của Chúa mục đích như thầm bảo: Chúa nhớ ghi sổ đấy nhé, để đời sau giảm hình phạt nơi luyện ngục và thưởng trên thiên đàng cao cao một chút.
Theo Chúa Giê-su Ki-tô để Ngài ban Thánh Thần
Nghe có vẻ hấp dẫn đấy, nhưng thực tế rất chua chát. Tôi biết rất nhiều thành viên trong những cộng đoàn kể cả các huynh trưởng cấp cao nhất, lẽo đẽo theo Chúa cả chục năm trời mà vẫn lờ mờ về Thánh Thần. Xin quý vị đừng nóng máu nghĩ là tôi huênh hoang láo khoét làm như chỉ một mình có Thánh Thần còn những người khác không có. Xin thưa, xin thưa, hoàn toàn không phải vậy. Thực ra ai cũng tràn ngập Thánh Thần - Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta - God has been poured out into our hearts - has been poured out: đã, đang và sẽ tuôn đổ hết sạch (Rm 5:5) - Vấn đề là ở chỗ: tôi có nhận ra và sống trong Thánh Thần hay không mà thôi. Thực đáng tiếc!! thay vì tìm hiểu con người đích thực của Đức Kitô để mà bắt chước sống cuộc đời tâm linh dồi dào, bình an, hạnh phúc trong tình yêu thương vô biên của Chúa Cha; họ lại quay ra chạy đến với Đức Kitô với tâm hồn rỗng tuếch, để năn nỉ Đức Kitô ban Thánh Thần cho họ. Còn Thánh Thần do Chúa Cha ban cho - vốn ở trong lòng mình (into our hearts), ít nhất là từ khi họ lãnh nhận Bí tích Thanh tảy - không biết bây giờ họ bỏ bê Thánh Thần ỏ nơi nào???
Theo Chúa Giê-su Ki-tô để sống nên một với Ngài
Nhờ đọc Kinh Thánh với phương pháp cá nhân hóa và nội tâm hoá, (xin vui lòng xem lại Maranatha số 22: Đọc Kinh Thánh theo ánh mắt tâm linh ) Tôi khám phá ra con người đích thực của Đức Giêsu Kitô.( xin vui lòng xem lại Maranatha số 27: Đức Kitô là vua hay là trưởng tử).
Một khi tôi nhận ra tôi giống Đức Kitô như đúc: con Thiên Chúa, tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa, đồng hình đồng dạng với Ngài, tôi chắc chắn nhận ra bản tánh tuyệt vời của mình. Tôi bắt đầu sống một cuộc đời đích thực bình an hạnh phúc, và lúc đó tôi mới cảm nghiệm được tôi sống, không còn là tôi sống mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Từ cảm nghiệm ngọt nào này, tôi khám phá ra vũ khí của sự sáng chính là Thần Khí Thiên Chúa vốn sẵn trong tôi vì thế tôi cũng nhận ra thân xác tôi không còn là kẻ nội thù mà đã biến thành đền thờ Chúa Thánh Thần, cùng vui hưởng hạnh phúc với tâm hồn vui vẻ bình ban, thoải mái. Dù khó khăn bên ngoài vẫn còn giăng mắc khắp nơi trên đường đời, nhưng trong lòng tôi không thấy nặng nề, khổ sở như thời còn ngủ mê. Tôi đón nhận với tâm hồn thoải mái, thì lập tức nỗi khó khăn dần dần trở nên nhẹ tênh – Đã lâu rồi tôi không còn thấy thánh giá để vác nữa, bởi vì thánh giá đã trở nên nhẹ như lông hồng. Thỉnh thoảng tên cám dỗ ló mặt tới, tôi liền dùng vũ khí ánh sáng chính là sức mạnh đầy quyền năng của Thần Khí Thiên Chúa bằng cách trầm mình xuống một chút để ‘thấy Thánh Thần’ trong mình, rồi đùa với nó rằng: “Này anh bạn, tớ bận lắm, không có giờ để tiếp bạn đâu nhé”. Tên Satan liền tiu nghỉu tẽn tò ra đi không kèn không trống. Nói cách khác, dù Satan suốt ngày bên tôi, thì thây kệ hắn – makeno - hắn chẳng liên quan gì tới tôi, bởi vì điều choán hết toàn bộ đời sống tâm linh của tôi lúc này là cố gắng sống kết hợp với Chúa ngay trong lòng mình, đâu còn thời gian dành cho Satan nữa.
Quả vậy, từ ngày mặc lấy Đức Kitô, tôi đã biết sử dụng vũ khí của sự sáng là Thần Khí Thiên Chúa. với vũ khí sắc bén này, tôi loại bỏ những việc làm đen tối một cách khá dễ dàng. Ngoài ra tôi đã biến kẻ nội thù thân xác làm người bạn lý tưởng để cùng vui hưởng hạnh phúc trong tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Trong niềm vui tuyệt vời này, tôi biết mình đã thực sự THỨC DẬY.
Nhân dịp mùa Vọng 2004 lại về, tôi xin gom góp một chút cảm nghiệm về chủ đề PHẢI THỨC DẬY, như là một món quà nho nhỏ với lời thì thầm ngọt ngào đầy tình mến: Trước hết, hãy mặc lấy Đức Kitô.
Hiện nay, rất nhiều Kitô hữu đang quan tâm đến ngày tận thế. Nhiều người đoán rằng ngày: MV 1-A58
Nhiều Kitô hữu nghĩ rằng ngày tận thế sắp đến
Hiện nay, rất nhiều Kitô hữu đang quan tâm đến ngày tận thế. Nhiều người đoán rằng ngày ấy gần đến rồi. Thực ra, ngay từ thời các tông đồ, rồi thời gian ngay trước năm 1000, rồi mới đây ngay trước năm 2000, và hiện nay khi thấy chiến tranh thế giới có nguy cơ xảy ra, các Kitô hữu nghĩ ngày tận thế sắp đến ngay tức thời. Vào những thời điểm kể trên, có rất nhiều dấu hiệu phù hợp với những lời tiên tri của Đức Giêsu về ngày tận thế: chiến tranh, thiên tai, động đất, lòng người nguội lạnh, sự ác lan tràn… Những thời điểm ấy, thời điểm nào các Kitô hữu cũng đều thấy rằng từ trước đến lúc ấy, chưa bao giờ những sự kiện được coi là điềm của tận thế lại dồn dập đến như những thời điểm ấy. Nhưng rồi những thời điểm ấy qua đi, và ngày tận thế vẫn chưa tới. Hiện nay, tâm lý người Kitô hữu vẫn y như vậy. Đó cũng là một điều tốt để cảnh tỉnh người Kitô hữu.
2. Coi chừng kẻo bị lường gạt
Đúng ra, khi nghĩ đến tận thế và chuẩn bị cho tận thế, người Kitô hữu phải tỉnh thức như Đức Giêsu khuyên nhủ, bằng cách sống tích cực tinh thần Tin Mừng của Ngài, cụ thể bằng sự yêu thương nhau. Nhưng trong thực tế, thay vì sống tinh thần tỉnh thức, họ bị lôi cuốn vào việc tìm những điềm thiêng dấu lạ, sưu tầm những lời khuyên nhủ mới nhất của đấng này đấng kia hiện ra… Lòng họ vì thế bị chao đảo, sợ hãi: thay vì cứ an tâm sống cho đúng tinh thần Tin Mừng, thì họ lại tìm cách đối phó với ngày ấy, hoặc tìm những phương cách dễ dàng do người này chỉ người kia bảo, những phương cách khôn ngoan kiểu thế gian… miễn sao được cứu rỗi vào ngày đó. Vì thế, họ dễ bị thần khí xấu lường gạt.
Theo tôi, ta nên nghe lời thánh Phaolô: «nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải… quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào» (2Tx 2,2-3). Và cũng nên lưu ý lời thánh Gioan: «Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian» (1Ga 4,1). Thần khí giả thời nay rất khôn khéo, không hề nói điều gì xấu hay sai trái, toàn nói những điều hay lẽ thật, nhưng lại chỉ nhấn mạnh đến những điều tương đối phụ thuộc hầu làm người ta quên đi điều cốt yếu của Tin Mừng. Hoặc cứ nhấn mạnh đến việc sử dụng những phương tiện để làm người ta quên đi mục đích: dùng phương tiện thật hay mà không xác định rõ ràng mục đích phải tới, thì mục đích ấy làm sao đạt được? Mục đích không đạt được thì phương tiện có ích lợi gì? Nhờ khôn khéo như thế, thần khí xấu ấy dối gạt được rất nhiều người (x. Mt 24,11), kể cả những người được chọn (x. Mt 24,24). Chỉ cần làm người ta lạc hướng Tin Mừng như thế là ma quỉ đã thành công lớn rồi! Chính Đức Giêsu cũng đã cảnh báo: «Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây”, và: “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ» (Lc 21,8). Thần khí xấu có thể không xưng mình là Đức Giêsu, vì như thế sống sượng quá, không lừa gạt được ai, mà xưng mình là một nhân vật uy tín nào đó!
Vì thế, thay vì quan tâm sống cho đúng tinh thần của Đức Giêsu, thì nhiều Kitô hữu chuẩn bị đón Chúa đến bằng sự gia tăng đọc kinh cầu nguyện cho nhiều và cho sốt sắng hơn, tham dự các bí tích thường xuyên hơn, đồng thời hối thúc người khác cũng chuẩn bị giống như họ, v.v… Quả thật, tất cả những việc ấy đều rất tốt, rất đáng làm, nhưng lại không phải là việc chính yếu cần phải làm để chuẩn bị ngày Chúa đến. Nhiều người còn nghĩ tới chuyện phải đối phó làm sao với cảnh tối ba ngày ba đêm bằng cách mua thật nhiều đèn cầy rồi đem đến xin linh mục làm phép để đốt trong những ngày ấy! Chỉ cần làm cho người ta quá quan tâm đến việc đối phó với tận thế mà quên đi việc sống đạo hay những bổn phận trước mắt là ma quỉ đã thắng lợi rồi!
Hãy chuẩn bị đón Chúa đến một cách khôn ngoan, đúng ý Thiên Chúa muốn
Đúng ra, theo tinh thần bài Tin Mừng trên, thì việc cần làm nhất là tỉnh thức và sẵn sàng, nghĩa là phải từng giây từng phút sống sao cho đúng thánh ý của Thiên Chúa, đúng tinh thần của Đức Giêsu. Cụ thể là:
– yêu mến Thiên Chúa bằng cách sống cho có tình có nghĩa với mọi người chung quanh, nhất là những người gần gũi mình nhất. Chính Đức Giêsu đã dùng tình yêu đối với loài người, được biểu lộ hùng hồn nhất qua cái chết của Ngài, để thờ phượng và thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
– nhận ra tha nhân là hình ảnh và là hiện thân của Thiên Chúa mà mình phải yêu thương. Làm sao ta dám cho rằng mình yêu mến Thiên Chúa vô hình khi mà những hình ảnh hay hiện thân hữu hình của Ngài thì mình lại chẳng yêu thương?
– thể hiện tình yêu thương ấy bằng hành động cụ thể là sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự cho họ. Tình yêu không được biểu lộ thành hành động cụ thể chỉ là thứ tình yêu giả dối, ngoài môi miệng.
Cách chuẩn bị cho ngày tận thế hay nhất vẫn là tỉnh thức theo kiểu thánh Louis Gonzaga, một vị thánh chết khi còn rất trẻ tuổi. Một hôm, vào giờ chơi, Louis đang chơi banh ngoài sân, cha linh hướng đến hỏi Louis: «Nếu một lát nữa Chúa gọi con về với Ngài, thì bây giờ con làm gì?» Câu trả lời của Louis làm cha linh hướng rất hài lòng: «Con sẽ tiếp tục chơi, vì bây giờ là giờ chơi, thánh ý của Thiên Chúa đối với con vào giờ này là muốn con chơi». Điều đó cho thấy Louis lúc nào cũng cố gắng sống đúng thánh ý Chúa, đúng theo đòi hỏi của tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, nên Louis có thể sẵn sàng về với Chúa bất kỳ lúc nào.
Nếu ta là Louis lúc đó, chắc hẳn ta sẽ trả lời: «Con sẽ đi gặp một linh mục để xưng tội, và vào nhà thờ cầu nguyện để chết trong khi cầu nguyện». Trả lời như thế chứng tỏ ta không thường xuyên sống trong tình trạng tỉnh thức chuẩn bị Chúa đến, mà đợi «nước đến chân mới nhảy». Như vậy, giả như Thiên Chúa gọi ta về với Ngài ngay lúc này, khiến ta không có một phút nào để kịp ăn năn hay xưng tội, thì số phận ta sẽ thế nào?
Nếu lúc nào ta cũng sống đúng theo thánh ý Thiên Chúa, sống đẹp lòng Thiên Chúa, thì dù Chúa sắp đến hay còn lâu mới đến, ta không có gì phải bận tâm. Đấy là cách chuẩn bị đón Chúa đến hay nhất, cách mà Đức Giêsu muốn ta thực hiện nhất. Nghĩa là lúc nào ta cũng sẵn sàng đến trình diện Chúa như Louis Gonzaga, nên luôn luôn làm mọi việc như bình thường, có vẻ như chẳng chuẩn bị gì cả, cho dù biết Chúa sẽ đến ngay ngày mai, hay chỉ trong chốc lát nữa! Đối với người luôn tỉnh thức và sẵn sàng, Chúa đến lúc nào cũng vậy thôi!
Sống giây phút hiện tại như giây phút cuối cùng đời mình
Một danh nhân nọ nói: «Ngày nào tôi cũng tự nhủ: “tôi sống như thể hôm nay là ngày đầu tiên và cũng là ngày cuối cùng cuộc đời tôi». Đó cũng là một cách sống tỉnh thức và sẵn sàng, rất phù hợp với tinh thần bài Tin Mừng hôm nay. Sống như thế, cuộc sống mỗi ngày sẽ trở nên tràn đầy, ý vị, vì không bị những buồn phiền, rắc rối, hối tiếc về quá khứ và những nỗi lo lắng cho tương lai làm bận tâm, làm mất năng lực. Sáng dậy, nếu ta nghĩ như thể ngày hôm nay là ngày duy nhất của cuộc đời ta, coi như không có quá khứ, cũng không có tương lai, chỉ có hiện tại, thì ta dễ tập trung mọi năng lực để sống thật tốt, sống thật đẹp lòng Chúa, để làm cho ngày hôm nay thành một của lễ sống động, thật giá trị dâng lên Thiên Chúa. Cuộc đời ta cứ dệt bằng những ngày như vậy thì cần gì phải lo tận thế! Đừng quan tâm hay thắc mắc bao giờ sẽ tận thế, nhưng hãy sống mỗi ngày như thể cuối ngày đó là tận thế! Cứ sống thử như thế đi, bạn sẽ thấy cuộc đời bạn đổi mới từ đây, với nhiều sức mạnh và hạnh phúc hơn.
Mùa Vọng, mùa của trông ngóng đợi chờ nhắc nhở người Việt Nam sự tích Hòn Vọng Phu. Theo như: MV 1-A59
Mùa Vọng, mùa của trông ngóng đợi chờ nhắc nhở người Việt Nam sự tích Hòn Vọng Phu. Theo như câu truyện, người chồng lên đường chinh chiến phương xa, người vợ ở nhà trông ngóng đợi chờ. Cuối cùng nàng bế con leo lên núi, mắt dõi nhìn, tìm kiếm hình ảnh người chinh phu. Nhưng rất tiếc, chàng không về. Và nàng, trên tay bồng con thơ, hóa thành tượng đá Hòn Vọng Phu.
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị đứng chờ đợi ai?
Ngày xưa trên đỉnh núi cao, cô phụ đứng đó, ngóng trông đợi chờ, hy vọng nhìn thấy bóng dáng chinh phu. Ngày hôm nay, trong suốt bốn tuần lễ của Mùa Vọng, chúng ta tiếp tục làm Hòn Vọng Phu mong đợi hình dạng chinh phu Ngôi Lời Nhập Thể; chúng ta tiếp tục hy vọng chinh phu Ngôi Lời sẽ hiện thân trong hình dạng của một trẻ thơ nhập thể vào trong máng cỏ lòng của chúng ta. Bởi thế, Mùa Vọng cũng chính là Mùa Hy Vọng.
Hy vọng không phải là một danh từ trừu tượng xa lạ. Hy vọng là một danh từ của hiện tại nhưng chỉ về tương lai. Bởi hy vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn, những nhọc nhằn và phiền muộn của ngày hôm nay được xoa dịu và trở nên bớt nhọc nhằn, bớt phiền muộn hơn.
Bởi hy vọng vào tương lai, cách sống của một người trong giây phút hiện tại có thể thay đổi. Thí dụ, bởi hy vọng vào một tương lai với nhà cao, cửa rộng, vợ đẹp, con khôn, thay vì say mê ngồi dán mắt vào màn ảnh TV hoặc ngớ ngẩn ngồi chatting hơn ba bốn tiếng đồng hồ, học sinh và sinh viên thức đêm học bài, thức khuya làm homework cho những điểm A. Tôi thấy có những cặp vợ chồng hy vọng con cái của mình sẽ có một mớ kiến thức vững chắc hơn làm hành trang đi vào tương lai, cho nên họ hy sinh ngày nắng cũng như ngày mưa cày hai jobs để có nhiều tiền gửi con mình vào những trường trung học tư thục mắc tiền. Bởi thế, ngày thứ Bẩy tuyết đổ cao tới cửa sổ, họ cào tuyết, lái xe ra xa lộ vắng tanh đi làm; ngày Chúa Nhật mưa rào, họ đội dù ra bến đón xe bus đi làm luôn.
Trong phạm trù tôn giáo, khái niệm hy vọng có một vị thế cũng khá quan trọng trong đời sống đức tin của người Kitô hữu. Bởi vì hy vọng, người tín hữu có thể sẽ thay đổi lối sống đạo của chính mình.
Một người lực sỹ chạy 100 mét của đại hội Thế Vận Hội Olympics, bởi hy vọng đoạt được huy chương vàng vô địch quốc tế, người lực sỹ sáng chiều luyện tập đôi chân, đêm ngày chạy bộ trong vận động trường. Người thương gia buôn ngọc trong Mátthêu 13:44-46, sau khi khám phá ra viên ngọc quý, đã bán tất cả những gì mình sở hữu để chiếm cho bằng được viên ngọc quý giá. Ngược lại, người nhà giầu trong Luca 16:19-31 không có niềm hy vọng vào cuộc sống đời sau. Bởi thế ông ta tiếp tục lối sống ích kỷ, tiếp tục nhắm mắt làm ngơ trước người hàng xóm ghẻ lở đầy mình đang nằm lăn lóc trước cửa nhà. Một cách tương tự, nếu không phải vì sợ mất cõi Thiên Đàng, nhưng mà là hy vọng đoạt được huy chương vàng của Đại Hội Olympics trên Nước Trời, cung cách sống đạo của người Kitô hữu cũng sẽ hoàn toàn đổi khác.
Vài người Kitô hữu giữ đạo trong tâm tình sợ hãi. Họ sợ Thiên Chúa phạt rớt xuống hỏa ngục. Họ sợ chết mất linh hồn. Họ sợ mai này chết đi, giơ tay ra gõ cửa thiên đàng, thánh Phêrô đứng bên trong ngoảnh mặt làm ngơ. Trong tâm tình sợ phải ngồi đếm và bóc lịch đời đời kiếp kiếp a-men ở trong cõi khóc lóc và nghiến răng ken két, họ nhọc nhằn đi xem lễ ngày Chúa Nhật, họ cố gắng nhịn miệng kiêng thịt vào ngày thứ Sáu mùa Chay, xưng tội trong Mùa Vọng. Tất cả những điều vừa liệt kê ở trên đây đều đúng, không có gì sai trái. Nhưng thật sự ra họ làm những điều này là bởi vì sợ, sợ chết rớt xuống hỏa ngục! Và nếu đúng là bạn và tôi sợ bị phạt rớt xuống hỏa ngục, chúng ta đang giữ đạo chứ chúng ta không sống đạo.
Một người chỉ giữ luật, nếu biết rằng không có ai đang theo dõi hành động của mình, người này sẽ xé rào phá luật. Trong khi đang lái xe, nếu không thấy bóng dáng của cảnh sát tại ngã tư đèn xanh đèn đỏ, người giữ luật sẽ sẵn sàng vượt đèn đỏ. Ngược lại, một người sống với luật, họ sẽ có thái độ tích cực hơn trong khi đang lái xe. Dù có hay không có bóng dáng của cảnh sát, họ vẫn tuân giữ điều luật căn bản của đèn xanh đèn đỏ, của vận tốc tối đa trên freeway, bởi vì họ tôn trọng luật pháp. Đèn đỏ bật sáng, họ ngừng lại ngay, bởi vì họ quan tâm đến an ninh xã hội và sinh mạng con người. Họ biết, nếu vượt đèn đỏ, họ có thể gây ra tai nạn, cản trở giao thông, và giết hại nhiều người.
Tương tự như vậy, nếu chúng ta sống đạo, chúng ta sẽ tích cực hơn trong đời sống đức tin. Khi sống đạo, chúng ta đi lễ Chúa Nhật vì yêu Chúa, vì muốn được tạ ơn Ngài cho một tuần lễ vừa trôi qua trong thanh bình và trong hạnh phúc. Và ngay cả nếu một tuần vừa qua là một tuần lễ khá nhọc nhằn với nhiều thất bại với nhiều nước mắt nhỏ giọt tuôn rơi, chúng ta vẫn tạ ơn Chúa cho những nhọc nhằn và thất bại này, bởi vì chúng ta tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa quyền năng. Khi sống đạo, chúng ta cẩn thận chọn lựa lời ăn tiếng nói và phương cách hành xử với tha nhân, bởi vì chúng ta hy vọng rằng mình sẽ không bao giờ hóa thành con dê, nhưng mà là con chiên trong dụ ngôn Ngày Phán Xét (Matt 25:31-46). Để rồi, đến ngày cuối đời, chúng ta hy vọng sẽ được đứng bên tay phải của Thiên Chúa, là phía của những con chiên.
Ngược lại, nếu chỉ giữ đạo vì sợ rớt xuống hỏa ngục, nếu không có người để ý theo dõi, chúng ta sẽ sẵn sàng nhổ rào đi hoang ngay. Cho nên hy vọng vào đời sống Thiên Đàng là một phương cách sống đạo mà chúng ta có thể bắt đầu thực hành trong tâm tình của hy vọng chinh phu Ngôi Lời nhập thể. Bởi chúng ta hy vọng vào nước Thiên Đàng, chúng ta sẽ làm tất cả mọi thứ, bằng mọi giá để chiếm lấy được huy chương vàng 24 carat của Nước Trời, tương tự như người lực sỹ chạy 100 mét của Thế Vận Hội Olympics hoặc người thương gia buôn ngọc. Người lực sỹ Olympics và người thương gia buôn ngọc trong câu chuyện dụ ngôn đã từng hy vọng chiếm được huy chương vàng và viên ngọc quý. Và bởi niềm hy vọng này, cả hai quyết định không ngồi hoặc nằm đợi chờ sung rụng; nhưng họ làm tất cả mọi thứ để biến giấc mơ của họ trở thành sự thật.
Ngày xưa, người thiếu phụ bế con đứng trên đỉnh núi dõi mắt tìm kiếm, hy vọng người chinh phu quay về. Nhưng chàng không về, để người thiếu phụ và người con mỏi mòn chết đi hóa thành tượng đá. Ngày hôm nay, chúng ta đang ở trong bốn tuần lễ của trông ngóng, đợi chờ chinh phu Ngôi Hai sẽ hiện thân làm người và định cư trong máng cỏ lòng của tâm hồn chúng ta. Không như người chinh phu của Hòn Vọng Phu, chinh phu Ngôi Lời chắc chắn sẽ quay về. Điều quan trọng là chúng ta đã chuẩn bị máng cỏ lòng để người chinh phu ngự vào hay chưa? Một trong những cách chúng ta có thể dọn máng cỏ lòng cho chinh phu Ngôi Lời là hãy thôi GIỮ ĐẠO, nhưng SỐNG ĐẠO.
Lạy Chúa, trong Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, xin dạy chúng con tiếp tục hy vọng vào huy chương vàng đính kim cương 24 carat của Đại Hội Olympics của Nước Trời.
Trong chu kỳ phụng vụ của Giáo Hội, Mùa Vọng (Advent) vừa gợi lại thời gian dân Do Thái xưa trông: MV 1-A60
Trong chu kỳ phụng vụ của Giáo Hội, Mùa Vọng (Advent) vừa gợi lại thời gian dân Do Thái xưa trông đợi sự giáng thế của Đấng Thiên Sai (Messiah) mà các Ngôn sứ đã loan báo trong thời Cựu Ước, đồng thời cũng chuẩn bị chúng ta ngày nay cho lần trở lại thứ hai ( parousia) của Chúa Kitô khi Người sẽ đến để “phán xét kẻ sống và kẻ chết” trong ngày Cánh chung ( the last Day).
Thật vậy, trước khi Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai, đến lần thứ nhất cách nay 2004 năm, hai Ngôn sứ Isaia và Gioan Tẩy Giả đã đặc biệt loan báo và chuẩn bị cho dân Do Thái đón mừng ngày giáng sinh của Ngài:
Tôi là tiếng kêu trong hoang địa
Hãy sửa đường cho ngay thẳng để Đức Chúa đi qua. (Jn 1, 23) Chúa Giêsu đã đến rồi, đến lần thứ nhất trong thân hình một “hai nhi bé nhỏ, bọc trong khăn và nằm trong máng có”. Ngài đến để cứu chuộc cho toàn thể nhân loại đáng phải phạt vì tội lỗi, và đã hoàn tất Chương trình Cứu Chuộc ấy qua cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài như Giáo Hội tin và dạy chúng ta tin.
Ngày nay, chúng ta chỉ còn trông đợi ngày Chúa đến lần thứ hai (parousia) nữa mà thôi. Nhưng mỗi năm cứ đến thời gian này, người ta lại tưng bừng chuẩn bị đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh. Khắp nơi người ta lại trưng bày những máng cỏ xinh đẹp, rực rỡ với ánh đèn mầu đủ kiểu, đủ loại và lại nô nức đi mua sắm và gửi qùa tặng cho nhau.
Tuy nhiên, ít ai để ý suy niệm ý nghĩa Chúa Hài Nhi nằm trong Máng cỏ lạnh lẽo của mùa đông giá buốt năm xưa. Không phải vô tình, ngẫu nhiên có sự kiện này.
Trước hết, ai cũng biết: mảng có (manger) là vật dụng người ta dùng để cho súc vật ăn. Ở đây là trâu, bò, lừa, ngựa, những con vật thích ăn cỏ. Chúng ăn những cỏ khô được bỏ vào máng đặt trong chuồng. Nhờ những thức ăn từ máng này mà chúng được nuôi sống, có sức để phục vụ cho nhu cầu của người nuôi chúng.
Chúa Giêsu phải có chủ đích rất thâm thúy khi Người chọn sinh ra trong hang bò lừa và nằm trong máng cỏ. Ngài nằm trong máng cỏ như “của ăn” để nuôi sống cho nhân loại đói khát vì lương thực trần thế không làm no thỏa được khát vọng của tâm hồn, của nhu cầu thiêng liêng tối thượng. Mọi lương thực trần gian , kể cả Manna mà dân Do Thái ăn trong sa mạc khi xưa, cũng không đem lại sự sống đời đời cho người ăn chúng. Chỉ có “Bánh từ trời xuống và ai ăn thì sẽ được sống đời đời” mà thôi (Jn.6, 58)
Chúa Giêsu chính là Bánh trường sinh ấy. Người đã hứa “ Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sống muôn đời,và Ta sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” ( Jn 6: 54).
Khi nằm trong máng cỏ, Chúa Giêsu không những dạy ta bài học đính đáng về đức khiêm nhường và khó nghèo, mà đặc biệt, còn mời gọi chúng ta đến ‘ăn Ngài” để được sống. đời đời, như bò lừa ăn cỏ từ máng để có sức sống phục vụ cho con người.
Trong tâm tình chờ ngày Chúa đến lần thứ hai, chúng ta được nhắc nhở phải tỉnh thức và luôn sẵn sàng vì “ anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” ( Bài Phúc Âm hôm nay). Ngày ấy sẽ bất ngờ như giờ kẻ trộm vào nhà lấy của trong lúc chủ nhà đang ngủ say, không đề phòng.
Nhưng chúng ta phải sẵn sàng như thế nào ? Thánh Phao Lô trong bài đọc 2 hôm nay chỉ cho ta bí quyết: “hãy mặc lấy Chúa Kitô và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng” ( Rm 13: 14)”Mặc lấy Chúa Kitô” như bộ y phục đẹp nhất để ra đón chào Chúa khi Người đến và cũng xứng đáng nhất để vào dự Bàn Tiệc Nước Trời đã dọn sẵn. cho những ai được mời và muốn đáp lời mời ấy
Và trong khi chờ đợi ngày Chúa đến lần sau hết, chúng ta phải luôn “ăn Chúa Kitô” để giải trừ mọi độc tố giết hại linh hồn đến từ những thực phẩm và không khí ô nhiễm của trần gian, của “văn hóa sự chết” đang lan tràn khắp nơi trên thế giới ngày nay, đặc biệt là trong môi trường xã hội chúng ta đang sống và làm việc.
Với những chuẩn bị này, thì chúng ta không còn phải lo sợ ngày nào Chúa đến, lúc nào chúng ta phải ra gặp Ngài nữa.
Phải chăng,đây cũng là tâm tình sống Mùa Vọng, và chuẩn bị đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh một lần nữa cho mọi tín hửu chúng ta năm nay ?
Lại thêm một năm phụng vụ mới bắt đầu, với lời cảnh cáo của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng mà chúng: MV 1-A61
Lại thêm một năm phụng vụ mới bắt đầu, với lời cảnh cáo của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe: “Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến”(Mt 24, 44).
Giờ phút không ngờ là sự chờ đợi của hy vọng.
Trong hai tuần này, giáo xứ chúng ta có hai giáo dân được Thiên Chúa gọi về: một người được gọi khi đang ngủ, và người kia Ngài gọi khi bệnh ung thư đến ngày cuối, cả hai người này, theo cái nhìn của một mục tử thì tôi thấy họ đã chuẩn bị rất kỹ cho mình trong những giây phút cuối: một người đón nhận ơn thánh của Thiên Chúa trên giường bệnh rất thảnh thơi, lạc quan và tin tưởng vào Thiên Chúa; và một người khác đã chuẩn bị cho mình vì không biết lúc nào thì “ra đi”, cho nên đã sắp xếp rất chu đáo cho gia đình và cho sự ra đi của mình và Thiên Chúa đến gọi khi bà ta đang ngủ, một giấc ngủ bình an dài thiên thu...
Cả hai trường hợp trên đây cho chúng ta suy nghĩ đến run sợ, bởi vì mạng sống của con người không tùy thuộc vào con người, nhưng tùy thuộc vào Đấng đã làm cho bùn đất trở thành con cái của Ngài...
Không có gì đáng lo sợ cho bằng “giờ phút không ngờ”, thật ra nó không phải là bất ngờ, nhưng đã được Chúa Giêsu báo trước, và cái “giây phút không ngờ ấy” đã trở thành “giây phút chờ đợi trong hy vọng” của chúng ta.
Có người chờ đợi trong lo âu và sợ hãi, cho nên họ tìm đến những thú vui để che lấp những lỗ hổng trong khi chờ đợi, họ không nhẫn nại chờ đợi Đấng luôn trung tín đã hứa với họ rằng Ngài sẽ đến.
Có người chờ đợi trong hân hoan và hy vọng, họ chờ đợi với tất cả tin tưởng và yêu mến, cho nên dù sống trong cảnh xô bồ của thế gian thì tâm hồn của họ vẫn hướng đến Đấng mà họ đang chờ đợi, đó là Chúa Giêsu.
Vì chờ đợi trong hy vọng nên họ biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn với tha nhân,
vì chờ đợi trong hy vọng nên họ biết phục vụ anh chị em với tất cả nhiệt tình,
vì chờ đợi trong hy vọng nên họ biết tha thứ những lỗi lầm cho nhau...
Vì chờ đợi trong hy vọng nến giờ phút bất ngờ sẽ không bất ngờ nữa, nhưng là giây phút linh thiêng nhất, thánh thiện nhất của người Kitô hữu tại trần gian này.
Anh chị em thân mến,
Theo Kinh Thánh, ông Noê đóng tàu một trăm năm mới hoàn thành, một trăm năm là giây phút chờ đợi và cũng là một cơ hội để mọi người có dư đủ thời gian xét mình, ăn năn tội, và sửa đỗi tính tình của mình, nhưng họ không muốn nghe và cũng chẳng muốn thấy nên đại họa hồng thủy thình lình ập đến...
Chủ nhật thứ nhất Mùa Vọng đã bắt đầu, cũng là thời điểm mỗi người Kitô hữu đi sâu vào đời sống nội tâm, nghe và thực hành lời của Thiên Chúa cách đặc biệt hơn, để có đủ thời gian chuẩn bị và thời gian vui mừng trong hy vọng của đợi chờ ngày Chúa đến...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật I mùa vọng tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan.
Vấn để được đặt ra là: “Cần phải có gì để thức tỉnh?” Đây là một trong những vần đề hóc búa: MV 1-A62
Vấn để được đặt ra là: “Cần phải có gì để thức tỉnh?” Đây là một trong những vần đề hóc búa và gai góc ngay cả đối với hàng ngũ linh mục.
Trước đây, trong thời gian mò mẫm tìm chân lý, chính tôi đã nhiều lần tham vấn các linh mục quen biết (trên một vài lớp trong chủng viện) với một câu hỏi rất nghiêm chỉnh: Làm cách nào để biết mình thức tỉnh?
Hầu hết các Ngài đều trợn mắt lên tưởng như tôi từ cung trăng rớt xuống. Có lẽ trong đời linh mục của các Ngài, chưa ai đặt ra cho một một vấn nạn nghe rất quen thuộc trong Phúc âm, nhưng không dễ trả lời chút nào.
Có vị ân cần bảo: Phải giữ mình cho sạch tội trọng, vì Chúa đến như kẻ trộm.
Tôi tâm sự: Cả mấy năm nay, em không mắc tội trọng, ngoài tội lo ra vớ vẩn. Còn chuyện giờ Chúa gọi, ai cũng biết phải đối diện với nó, nhưng có mấy ai chuẩn bị cho giờ kinh khủng ấy, trừ một số người nằm liệt giường liệt chiếu, biết sức khoẻ mình sắp tàn và giờ phút từ giã cõi trần sắp tới, mà trong lòng vẫn còn vương vấn cõi trần, và rất hoang mang không biết mình sẽ ra sao sau khi chết - "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?" (Ga 14:5) Rõ ràng vẫn chưa phải là tỉnh thức, vì em nghe nói thức tỉnh là tình trạng cực kỳ sáng suốt và bình an. Nếu vẫn còn lo sợ, bối rối thì chứng tỏ đang ngủ mê chứ làm sao gọi là thức tỉnh được?
Có vị lại khuyên: Phải cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ.
Tôi thắc mắc: Em đã từng nghe nói: Phải cầu nguyện liên lỉ, nhưng làm cách nào có thể cầu nguyện liên lỉ, trong khi đầu óc suy nghĩ đủ thứ chuyện trên đời và chân tay tất bật làm việc từ sáng tới tối; lấy đâu ra giờ để cầu nguyện? Thế anh cầu nguyện liên lỉ thế nào? Mỗi ngày được được bao nhiêu phút?
Ngài ngước mặt lên, dáng vẻ tự tin: Chú mày giỡn hả? Sáng chiều dâng lễ, đọc kinh phụng vụ đã ngốn hết cả vài tiếng đồng hồ rồi đấy.
Tôi hỏi tới: Tuyệt vời, nhưng em nghe dạy rằng cầu nguyện là sống những giây phút tương quan thân mật với Chúa của lòng mình. Vậy trong những giờ mà anh gọi là cầu nguyện, anh có thực sự sống thân mật với Chúa không?
Ngài cúi mặt xuống, trầm tư một vài giây: À, à ….. điều này coi bộ khó thực hiện. Thì ra bấy lâu nay mình vẫn tự hào là linh mục của Chúa, thi hành trọn vẹn bổn phận một linh mục của giáo hội. Hôm nay cậu đặt câu hỏi này khiến mình phải suy nghĩ lại cách sống của mình bấy lâu. Cám ơn những chia sẽ thẳng thắn của cậu.
Có vị chân thành hơn: Thú thật với cậu, tớ cũng còn đang lùng bùng về vấn đề gây cấn này.
Thật đáng tiếc! Các linh mục quen biết đều không giúp gì cho nỗi băn khoăn, khắc khoải, trăn trở của tôi vào thời gian đó.
Trong cộng đoàn, ngay cả các huynh trưởng cao cấp, hầu như không ai quan tâm vấn đề gai góc này. Người ta chỉ đặt nặng vấn đề vâng phục khi nhận công tác ở trên giao và dấn thân phục vụ cho công trình của Chúa trong việc Ra Khơi Loan Báo Tin Mừng. Chúng tôi thường nói đùa với nhau: nhớ dấn thân nhé, nhớ dấn thân nhé!
Trong công cuộc ra khơi Loan Báo Tin Mừng, chúng tôi dấn thân như một đàn cừu nối đuôi nhau theo một con đường đã được lập trình cụ thể và rất chi tiết. Thí dụ hát 3 bài và chỉ được chọn trong sách đã phát hành dành riêng cho cộng đoàn mình, không được hát bài khác. Khi huấn luyện, phải nói những gì ở trên soạn ra, chỉ thêm một chút cho có vẻ màu mè chứ không được nói những gì ngoài bài. Có thể nói chúng tôi là một đống cassette vô hồn. Ấn một phát là nói. Một số người chưa quen, có thể đọc một đoạn rồi giải thích sơ sơ những điều mà ai cũng hiểu, rồi lại đọc nguyên văn đoạn tiếp theo…cứ thế cho tới hết bài. Người nghe chẳng biết ý người thuyết trình muốn nhấn mạnh điều gì - cứ đều đều như một bài dân ca ru ngủ.
Ra khơi trong tình trạng mờ mịt như thế thì làm sao mà thức tỉnh tâm hồn người khác được?!!
Hàng năm, cứ vào mùa chay, ca đoàn đã từng hát nhiều lần bài Metanoya, lời kêu gọi thiết tha!! Nhưng ngay cả người hát lẫn người nghe cứ việc ngủ vùi trong cách sống đạo thường ngày.
Trong thời gian tìm hiểu, tôi khao khát gặp minh sư biết bao!! Mong sao một minh sư nào đó hé mở cho mình một vài tia sáng, để dựa vào đó mà mình tiếp tục đi. Không gặp được ai. Thôi, đành phải một mình một bóng lên đường tìm kiếm chân lý….
Sau này, khi trao đổi với các bạn bè cùng khao khát tìm chân lý như tôi, tôi khám phá ra một điều thực thú vị: Dường như mỗi người đi một con đường khác nhau, dùng những phương thế khác nhau, nhưng cuối cùng chúng tôi có một điểm chung. Đó là chúng tôi có một cái nhìn mới, một ánh mắt mới - tôi mạn phép gọi là Ánh Mắt Tâm Linh cho oai!
Như vậy, “Cần phải có gì để thức tỉnh?” Xin thưa: Chỉ cần có lối nhìn mới, đôi mắt mới, quan niệm mới, khám phá mới. Mới ở đây không phải là khác điều Đức Giêsu đã mặc khải, nhưng chính là mỗi người trong chúng ta thực sự nếm thử và cảm nghiệm được sức sống mãnh liệt của lời Thần Khí qua Kinh Thánh bằng cái tâm trong sáng, thức tỉnh.
Một câu hỏi tiếp theo chắc chắn sẽ bật lên: Làm thế nào để có ánh mắt mới?
Muốn ăn phải lăn vào bếp. Không ai có thể nhìn người khác ăn mà bụng mình lại no đủ!
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa. (Tv 23:5)
Kinh Thánh đã dọn cho chúng ta một bữa tiệc thịnh soạn Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường con đi.(Tv 119:105). Đức Giêsu còn khẳng định: Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.(Ga 6:63). Xin mời mỗi người trong chúng ta nếm thử để cảm nghiệm sức sống mãnh liệt của Chúa ngay trong tâm mình - những khám phá mới này khiến cho mắt ta trong sáng - chứ không còn mờ mịt như thời còn ngủ mê nữa.
Theo kinh nghiệm một vài anh em chúng tôi, nếm thử mới nghe tưởng dễ như ăn cơm sườn, nhưng thực ra đòi hỏi một điều kiện cần thiết đó là lòng khao khát, khắc khoải rồi tìm kiếm, kiên trì gõ liên tục bằng cách đặt những nghi vấn. Thí dụ: Thánh hoá là gì? Cứu độ là gì? Đồng hình đồng dạng với Chúa là sao? Linh hồn tôi ra sao? ….mỗi người tự đặt ra cho mình một nghi vấn rồi vừa tìm kiếm vừa tham vấn những người khác cho tới một lúc nào đó: thật bất ngờ, ta tìm được câu trả lời. Rồi lại câu hỏi thứ hai…cứ thế, mỗi khám phá mới khiến cho mắt ta trong sáng hơn…cho tới một lúc nào đó Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. (1Cr 13:11-12)
Còn gì tuyệt vời hơn khi tôi sẽ được biết hết như Thiên Chúa biết tôi. Nhờ đâu tôi được biết? Đức Giêsu đã tuyên bố mạnh mẽ:
"Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.10 Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho….Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao? " (Lc 11:9-13).
Cha không ban cho chúng ta nhà lầu xe hơi, tiền bạc như núi, nhưng Cha sẽ ban cho chúng ta Thánh Thần, chính nhờ Thần Khí Thiên Chúa mà chúng ta có lối nhìn mới với Ánh Mắt Tâm Linh trong suốt giúp chúng ta sống thức tỉnh dễ dàng hơn: Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an. (Rm 8:5-6). Hướng về ở đây chính là nhìn mọi vấn đề bẳng Ánh Mắt Tâm Linh, giúp chúng ta thức tỉnh sáng suốt ngay trên chốn hồng trần đầy bóng tối và hỗn loạn này.
Điềm sẽ xảy ra trong những ngày..", Câu này mở đầu những hiện tượng mà ngôn sứ Isaia nói đến: MV 1-A63
"…Điềm sẽ xảy ra trong những ngày..", Câu này mở đầu những hiện tượng mà ngôn sứ Isaia nói đến trong bài đọc thứ nhất của ngày chúa nhật hôm nay. Nó diễn tả niềm hy vọng cho tương lai. Hy vọng làm cho ánh sáng cậy trông trong tâm hồn chúng ta không bi phai mờ khi gặp những trở ngại khó khăn trong đời sống. Chính nhờ Đức hy vọng mà chúng ta có thể chống cự được với những thử thách hiện tại. Ngôn sứ Isaia giúp thêm hy vọng cho chúng ta ngày hôm nay trong hiện tình thế giới xung quanh chúng ta rất bất ổn dễ mất niềm tin và hy vọng.
Ngôn sứ Isaia sống vào thế kỷ thứ 8 trước Thiên Chúa. Thời bấy giờ không giống thời chúng ta, vì lúc đó có rất nhiều xung đột nguy hiễm. Dân Assyrian tàn phá miền bắc nước Israel. Ngoài những khó khăn về vật chất lại thêm những căng thẳng về tinh thần. Họ tự hỏi tại sao Chúa lại để những đau khổ như thế xãy đến cho dân Chúa? Chúa là Đấng che chở các con cái Ngài là con cái bởi lời giao ước xưa sao? Trong cơn khủng hoảng họ muốn tìm một quyền lực nào giúp đở họ chống dân Assyrian, và biết bao nhiêu người ở miền bắc Juda đi tìm sự giúp đỡ về vũ khí của các dân tộc sống gần họ.
Nhưng ngôn sứ Isaia không ủng hộ việc này. Ngôn sứ kêu gọi dân Israel hãy ăn năn sống lại lời giao ước với Chúa và hãy tin cậy vào Chúa. Ngôn sứ thấy Jerusalem và thánh đường là "chóp đỉnh ngọn núi cao", và là ngọn đèn chiếu soi cho các dân tộc khác. Ngôn sứ kêu gọi dân Do Thái hãy trung kiên với Chúa, hãy dẹp ý định đi tìm sự ủng hộ binh bị để chống đối kẻ thù, và nên tìm kế hoạch hòa bình. Ngôn sứ cũng hứa là nếu dân Do Thái nghe theo lời của ông ta thì họ sẽ trở thành ngọn đèn chiếu soi cho các dân tộc khác và thành Jerusalem sẽ là nơi Chúa dùng lời và gương mẫu để dạy dỗ cho tất cả..
"Và chúng sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, và giáo mác làm lưỡi liềm, quốc gia này không còn tuốt gươm đánh quốc gia kia nữa, và thiên hạ sẽ không còn luyện tập quân sự nữa" Đây là một ước vọng, một khao khát vô vọng cho việc quốc gia này không còn tuốt gươm đánh quốc gia kia". Chúng ta phải đợi đến bao giờ? Chúng ta trông chờ trong hy vong, nhưng vẫn tiếp tục trông thấy những cảnh bạo tàn trên thế giới. Chúng ta muốn tìm cách để đối phó với bạo lực bằng lời nói và hành động, và cũng như những dân thời ngôn sứ Isaia, chúng ta muốn ký kết với các dân tộc hùng cường trên thế giới bằng cách sống theo họ để đạt mục tiêu của chúng ta. Nhưng lời ngôn sứ Isaia nhắc chúng ta là ý Chúa muốn hòa bình cho chúng ta, nhưng chúng ta những nguời tin Chúa lại không muốn vậy. Trái lại Ngài muốn chúng ta hãy đứng vững bên chân Chúa là nơi hòa bình sẽ ngự trị.
Có phải ngôn sứ Isaia đang tưởng tượng về những hiện tượng sẽ không bao giờ xãy ra không? Nếu chúng ta nghỉ là chúng ta tranh đấu một mình thì đúng là Ngôn sư đang sống trong ảo vọng. Nhưng sự thật chúng ta không tranh đấu một mình, chúng ta nhờ có ơn Chúa hoạt động trong chúng ta và giúp chúng ta sống với hy vọng đem hòa bình của Chúa đến cho toàn thế giới. Mùa Vọng này có thể giúp chúng ta tiếp nhận niềm hy vọng của ngôn sứ Isaia, và hãy để niềm hy vọng ấy giúp chúng ta kiến tạo hòa binh và xa cách bạo lực.
Theo Giáo hội thời trước thì những tân tòng nào sẽ lãnh nhận bí tích rữa tội vào ngày 6 tháng một là ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép Rữa đều phải ăn chay khi vào mùa Vọng. Nhưng bây giờ chúng ta không đền tội vào mùa Vọng nữa, nhưng mùa Vọng vẫn là mùa mời gọi chúng ta nên cải hóa tâm hồn để đón Chúa. Chúa luôn nhắc chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng đón Ngài "vào giờ mà chúng ta không biết trước, đó là giờ Con Chúa Trời hằng sống sẽ đến."
Dựa theo lời hướng dẫn của ngôn sứ Isaia và điều chúng ta ao ước được canh tân theo Chúa, chúng ta có thể sữa soạn tâm hồn chúng ta bằng cách sống trong hòa bình. Chúng ta sẽ "rèn gươm làm lưỡi cày" trong mùa Vọng năm nay bằng những việc như sau:
Xóa bỏ những lời nói độc ác bạo tàn trong ngôn ngữ chúng ta.
Không xem những phim bạo lực trên màn ảnh hay trên truyền hình, hay chơi những trò chơi về chiến tranh
Cầu xin cho hòa bình ở các nơi trên thế giới và ngay trong cộng đồng chúng ta
Tìm đến làm hòa với những người từ trước đến nay không hòa thuận với chúng ta.
Khuyến khích con cái chúng ta nên dùng những lời nói hòa nhã đối với bạn bè, và chơi những trò chơi hòa bình.
Cầu xin ơn khôn ngoan để nhìn thấy trong đời sống tu trì và đời sống cộng đồng của chúng ta cần rèn gươm làm lưỡi cày ở chổ nào.
Ủng hộ những người hay nhóm hoạt động cho hòa bình trong những nơi có chiến tranh.
Chúng ta có thể không bao giờ trông thấy hòa bình trong xã hội vì hầu như đấu tranh là sự thường tình của cuộc sống. Chúng ta là những người nghe lời ngôn sứ Isaia kêu gọi hòa bình, nên chúng ta phải thực hiện lời kêu gọi đó trong đời sống hằng ngày của chúng ta để chúng ta sửa soạn đón Vua Hòa Bình. Vì Vua ấy sẽ đến với chúng ta một cách bất ngờ mà chúng ta không biết trước được thời gian và nơi chốn.
Nhân Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng, khi ngôn sứ giúp chúng ta nghĩ đến bình an trong lòng chúng ta, chúng ta nên nhớ đến những người đang sống trong cãnh bạo tàn của chiến tranh nhất là ở Trung Đông và Phi Châu. Tất cả đều đau khổ, buồn rầu vì chết chóc và tàn phá do chiến tranh gây nên. Chúng ta cũng nên nhớ đến những gia đình phải di tản vì chiến tranh. Ở Hoa Kỳ chúng ta vừa mừng lễ Tạ ơn, chúng ta đã cầu nguyện cho gia đình các binh sĩ bị xa cách vì chiến tranh. Chúng ta cũng cầu nguyện cho những người bên Iraq, và Afghanistan là những người bị thiệt thòi vì nội chiến tại nước họ. Và tất nhiên chúng ta phải cầu nguyện cho những kẻ thù của chúng ta nữa. Thời nay không giống thời của ngôn sứ Isaia kêu gọi dân chúng sống hòa bình bằng cách rèn gươm giáo làm lưỡi cày.
Chúng ta cũng chú trọng đến phúc âm thánh Matthêu trong năm phụng vụ mới này. Phúc âm được mở đầu với giòng dõi tổ phu của "Chúa Giêsu đấng Messia, Con vua David, Con của Abraham(1:1)” Chúa Giêsu là người Do Thái, con cháu của Abraham và thuộc giòng vua David. Thiên Chúa đã hứa với vua David là một hậu duệ của ngài sẽ được chọn ra để che chở dân ngài. Chúa Giêsu chính là hậu duệ đó và là Vua của Hòa Bình để ứng nghiệm lời Ngôn sứ Isaia. Mỗi đầu mùa Vọng chúng ta không chỉ quỳ trước máng cỏ mà thôi; Trái lại chúng ta mong đợi Chúa Kitô và chúng ta muốn sống theo chân Ngài. Thánh Matthêu dùng những từ về tận thế để diễn tả sự bất ngờ về việc Chúa Kitô sẽ lại đến trên thế giới này. Giáo hội thời thánh Matthêu cũng như thời nay, gặp bao nhiêu nỗi lo âu trong đời sống. Ngày nay mặc dù những lo âu khó khăn của cuộc sống không đến nỗi tệ hại lắm, nhưng cũng đủ để làm phân tâm lòng trí chúng ta và có thể làm chúng ta mất dịp đón Chúa Kitô.
Thời ông Noe không phải chỉ nói đến tội lỗi vì dân Do Thái có làm gì nên tội, và họ là những người đang ở ngoài đồng hay đang xay lúa. Họ chỉ sống đời sống hằng ngày của họ thôi. Nhưng vì giờ Chúa Kito đến sẽ là một bất ngờ nên chúng ta phải dọn mình sẵn sàng trong mùa Vọng năm nay. Theo phúc âm chúng ta không nên trì hoãn việc cải hóa. Chúa Giêsu sẽ đến trong đời sống chúng ta. Ngài sẽ đến một cách bất ngờ. Và vì sự bất ngờ ấy nên chúng ta phải tỉnh thức chờ đợi. Và rồi đời sống của chúng ta sẽ đến lúc kết thúc, chúng ta hãy thử suy gẩm về sự kết thúc ấy sẽ bị ảnh hưởng thế nào đến những quyết định của chúng ta hôm nay?
(Chuyển ngữ: Fx Trọng Yên,OP.)
Lm Jude Siciliano OP
Năm Phụng vụ bắt đầu bằng Chúa Nhật I Mùa Vọng. Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị đón rước: MV 1-A64
Năm Phụng vụ bắt đầu bằng Chúa Nhật I Mùa Vọng. Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị đón rước Chúa. Chúa đã đến trong lịch sử nhân loại qua giao ước với các tổ phụ và dân Ítraen, qua Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Hai làm người. Chúa sẽ đến trong Ngày Quang Lâm. Nhưng Chúa vẫn đến trong mỗi giây phút, mỗi giờ, mỗi ngày của chúng ta. Chúa đến với chúng ta trong các biến cố lớn nhỏ của cuộc sống. Đế đón Chúa và gặp được Người, chúng ta phải luôn CANH THỨC và SẴN SÀNG.
II. NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA
2.1 Bài đọc 1: Is 2,1-5: Hòa bình vĩnh cửu
2 Trong tương lai, núi Nhà ĐỨC CHÚA đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, 3 nước nước dập dìu kéo nhau đi.
"Đến đây, ta cùng lên núi ĐỨC CHÚA, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ. Vì từ Xi-on, thánh luật ban xuống, từ Giê-ru-sa-lem, lời ĐỨC CHÚA phán truyền. 4 Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. 5 Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng ĐỨC CHÚA soi đường!
11 Phải như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. 12 Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. 13 Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. 14 Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.
2.3 Bài Tin Mừng: Mt 24,37-44: Phải canh thức và sẵn sàng
37 "Quả thế, thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 38 Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. 39 Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy.
42 "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. 44 Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
III. KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ GIÁO HUẤN CỦA THIÊN CHÚA
3.1 Dung Mạo (Chúa là ai?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa là:
* Đấng ngự trên (núi) cao; là Đấng dạy con người biết đường lối của Người và là Đấng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Nghe Lời Chúa các dân tộc sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái, sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.
* Là Chúa Giêsu Kitô với danh hiệu là Con Người - nghĩa là người và đồng thời là nhân vật huyền bí đã được Đấng Lão Thành (Thiên Chúa) giao quyền thống trị, vinh quang và vương vị, trong thị kiến của tiên tri Đanien (7,13-14). Người đã đến trong lịch sử, sẽ đến trong ngày Quang Lâm, nhưng vẫn hằng đến trong cõi tâm linh của mỗi con người, vì Người vừa là Thiên Chúa vừa là Đấng Phục Sinh.
3.2 Giáo Huấn (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là:
(1) “Hãy lên núi ĐỨC CHÚA, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết đường lối của Người, và để ta bước theo Người” (Ngôn sứ Isaia).
(2) “Hãy canh thức… Hãy sẵn sàng chờ đón giờ phút Con Người đến” (Chúa Giêsu).
(3) “Hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng” (Thánh Phaolô).
IV. ĐÁP LẠI THIÊN CHÚA
Thiên Chúa mời chúng ta đáp lại Tình Thương và sự chờ đợi của Người lại bằng hai cách như sau:
4.1 Sống với Chúa: là ở trên núi cao với Chúa, là lắng tiếng Chúa, là chia sẻ tâm tình yêu thương và kế hoạch kỳ diệu của Chúa. Kế hoạch đó là xây dựng hòa bình trong thế giới và giữa các dân tộc.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa: là mặc lấy Chúa Kitô tức kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô; là noi gương bắt chước Chúa Kitô. Cụ thể là sống thánh thiện:
* một mặt là không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, không cãi cọ ghen tương, không chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng;
* một mặt là chiến đầu bằng vũ khí của sự sáng, là sống tỉnh thức, sẵn sàng và chờ đón Chúa như bề tôi chờ đón ông chủ, như cô dâu chờ đón chàng rể.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân trong Thánh Lễ)
5.1 Chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ về hồng ân Chúa lại ban cho chúng ta thêm một Mùa Vọng nữa để chúng ta đáp lại Tình Yêu và lời mời gọi của Chúa mà chuẩn bị đón rước Người vào tâm hồn và cuộc sống của chúng ta.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI, các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ để các vị giúp các tín hữu và mọi người nhận ra Thiên Chúa đã giáng trần và đang ở giữa chúng ta.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi dân tộc trên thế giới, nhất là cho các dân tộc đang phải khốn khổ vì chiến tranh, hận thù, để họ được ơn bình an và thịnh vuợng của Thiên Chúa ban.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con. 5.4 Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu đang sống trong u mê, hờ hững trước sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa trong dòng đời để họ được ơn tỉnh thức và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.5 Chúng ta hãy cầu nguyện cho chính chúng ta là những người không ý thức về sự hiện diện và đồng hành của Thiên Chúa là “Đấng Emmanuen = Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” mà coi Chúa như người xa lạ để chúng ta được Chúa ban on thứ tha và hoán cải.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Seattle (WA/USA) ngày 21 tháng 11 năm 2007
Tuần qua có dịp về quê, mới bước vào nhà, đứa cháu nhỏ ở tuổi mẫu giáo đi học giáo lý về tiến đến: MV 1-A65
Tuần qua có dịp về quê, mới bước vào nhà, đứa cháu nhỏ ở tuổi mẫu giáo đi học giáo lý về tiến đến chào mọi người. Khi biết tôi đang ở đó, nó chạy lại quấn quít hỏi: “Mùa Vọng, bác có lì xì cho cháu không?”. Tôi chưa biết trả lời ra sao thì nó đã líu lo quanh quẩn giải thích. Thì ra ở lớp giáo lý, giáo lý viên đã dạy rằng: tuần tới, tức hôm nay, Phụng Vụ chuyển sang năm mới được khởi đầu bằng Mùa Vọng. Đứa bé chẳng biết Phụng Vụ là gì, nhưng đã nhớ rất kỹ chữ “năm mới”, vì thế mới có chuyện vòi lì xì. Đành phải chiều thôi. Nhưng chỉ được một lát, nó đã vòng lại khoe: cháu còn biết viết chữ “mùa vọng” nữa. Tôi bảo nó viết. Nó nằm bò trên sàn nhà nắn nót ra chiều khổ sở lắm, rồi cuối cùng cũng xong và đưa đến cho mọi người xem. Nhưng ôi thôi, thay vì “Mùa Vọng”, cháu đã viết lộn một nét để thành “Màu Vọng” khiến cả nhà được cười một trận.
Tôi ra đi trong tiếng cười ấy và sự lẫn lộn của đứa cháu như đeo bám lấy mình, để cuối cùng bất giác tự hỏi: Mùa Vọng màu gì nhỉ? Xin được mượn tâm tư ấy làm chủ đề cho Mùa Vọng năm nay. Đó là gọi tên Mùa Vọng bằng những sắc màu.
Hôm nay Chúa Nhật I Mùa Vọng, xin được gọi Mùa Vọng là mùa màu xanh, hay đúng hơn là mùa xanh lên niềm hy vọng. Gọi thế sẽ nêu hai ý nghĩa:
1) Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
Đã đành, lúc nào Thiên Chúa mà chẳng hy vọng vào con người. Do hy vọng, Ngài đã tác sinh con người giống hình ảnh Ngài, cho họ bước vào vận hành sự sống của chính Ngài. Cho hy vọng, Ngài đã không ngừng hứa hẹn và kết ước yêu thương với họ, dù cho họ có ngàn lần sa ngã lỗi phạm và xa bỏ Ngài. Nhưng Mùa Vọng chính là thời gian, chính là một mùa qua đó Giáo Hội muốn khắc họa rõ hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng đã hy vọng vào con người qua lịch sử Dân Chúa, Đấng vẫn hy vọng vào con người trong lịch sử Giáo Hội và Đấng mãi hy vọng vào người đời trong chính cảnh huống cụ thể của từng đời người.
Dung mạo Thiên Chúa ấy được thể hiện nơi Đức Kitô qua những chuyến viếng thăm chính thức của Người. Lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập Thể, Người đã đến âm thầm làm một người chan hòa giữa muôn người để đảm lĩnh lấy thân phận con người cho đến tột cùng bằng cái chết để rồi Phục Sinh mở ra nẻo đường cứu độ cho những kẻ tin. Thế nhưng, lúc Người về trời, công trình của Người vẫn còn dở dang. Mọi sự dường như mới bắt đầu. Ơn cứu độ khách quan đã xong, nhưng chủ quan, áp dụng cho từng con người lại cứ tiếp tục phải khởi sự. Thế nên, Người hứa sẽ đến lần thứ hai vào ngày chung kết vũ trụ và con người, trong vinh quang để đặt mỗi người đối diện với chính Người như chuẩn mực phân chia đôi bờ thiện ác và đặt mỗi người đối diện với chính mình như trách nhiệm cuối cùng đối với ơn cứu rỗi.
Lần thứ nhất, do hy vọng, Người đến gieo ơn cứu rỗi và lần thứ hai, cho hy vọng, Người đến gặt những gì mình đã gieo và giữa hai lần đến chính thức ấy là cơ man nào mà kể những lần âm thầm đột xuất ngẫu hứng bất ngờ, Đức Kitô vẫn sáng kiến hy vọng mà bước đến với con người, qua những biến cố xảy đến với Giáo Hội, cộng đoàn hoặc cá nhân; qua những khuôn mặt người anh chị em dẫu lạ hay quen ta tiếp cận; và nhất là qua những cảm nghiệm đến với lòng ta và lòng người, cho xanh lên niềm hy vọng cứu rỗi. Và bất ngờ lớn nhất giữa những cái bất ngờ vẫn là cái giờ và cái cách Chúa đến với mỗi cá nhân trong cảnh tranh sáng tranh tối của họ giữa chốn chợ đời. Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
2) Mùa Vọng là mùa con người hy vọng vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng người đời có một Thiên Chúa yêu thương và đời người có một vận mệnh tương lai. Có nhiều thứ tương lai lắm: tương lai gần như hôm nay đối với ngày mai; tương lai xa như đời này đối với đời sau; tương lai hẹp như chỉ giới hạn trong đời ta, tương lai rộng như mở ra với đời người; tương lai từng phần tùy theo mức độ khả thi và tương lai toàn phần chỉ có thể có khi con người tiến về vĩnh cửu. Nhưng điều quan trọng ở chỗ tương lai ấy không phải là một sự kiện mà chính là một Đấng, mà Đấng ấy vốn đã hy vọng vào ta, đợi chờ ta từ thuở nào, để khỏi phải tay chân thừa thãi ỏn ẻn làm quen mà gặp được là đã tay bắt mặt mừng đến độ thân tình của lòng trông cậy, để khỏi phải rỉ tai nhau như thế kỷ XIX với khẩu hiệu “con người là tương lai của con người" nên dẫn đến chiến tranh đổ vỡ, mà sẽ là hô vang sứ điệp “Thiên Chúa là tương lai của con người" cho xanh lên niềm hy vọng đượm thắm lẽ cậy trông.
Tỉnh thức trong hy vọng cũng là canh thức để cộng tác với ơn Chúa mà thể hiện niềm hy vọng đời mình. Sẽ là một thứ hy vọng quắt quay như những em bé ve chai gập mình bới tìm sự sống trên đống phế thải; sẽ là một thứ hy vọng mong manh như kẻ qua đường mua tấm vé số và sẽ là một thứ hy vọng đầy rủi ro như kẻ hùn hạp làm ăn mà không nắm trong tay vốn kiến thức kinh doanh; nhưng sẽ là một niềm hy vọng “bốn mùa” xanh tốt, khi con người biết kiên định phát triển vốn liếng ơn thánh và khả năng nơi mình, cho dẫu cuộc sống vẫn còn đầy dẫy những thử thách cam go.
Và cuối cùng, tỉnh thức trong hy vọng cũng có nghĩa là thao thức thường xuyên cùng với Giáo Hội để gieo niềm hy vọng vào chính môi trường mình sống. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một cuộc lên Đền từng bước, nhưng biết rằng ở đỉnh cao có Chúa đang chờ đợi. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng giống như kẻ đắp xây hòa bình, hãy đúc gươm đao thành cuốc thành cày, hãy rèn giáo mác nên liềm nên hái. Từng hạt lúa gieo, từng bước đi tới, rất âm thầm nhưng sẽ dẫn tới những cánh đồng bát ngát màu xanh hy vọng. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một chuyến đi có đích và có ích; đừng để trở thành “Chuyến đi không đến đâu” như bộ phim Úc mới chiếu trên tivi.
Sống Mùa Vọng như thế chính là sống niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng hy vọng vào con người. Và như vậy là êm đềm gợn sóng màu xanh lên chính cuộc đời tín hữu của mình. Mùa Vọng là mùa màu xanh. Sáng nay ngang qua cuối nhà thờ Tân Định thấy bày la liệt những cây thông Noel. Hai, ba tuần trước đã thấy nhưng vẫn còn xa lạ, nhưng hôm nay cùng với tiết trời trở lạnh và nhịp Phụng Vụ trở mình bước vào Mùa Vọng, tôi mới thấy những cây thông ấy đẹp làm sao, không vì kiểu dáng chất liệu cho bằng chính sắc màu của nó. Trong mắt nhìn của tôi, màu xanh của những cây thông ấy chính là màu xanh của niềm hy vọng vươn lên. Chúc mỗi người có một cây thông xanh thiêng liêng hy vọng nơi mình, để dẫu sống giữa những vòng quay điên đảo thử thách trăm bề, vẫn luôn kiên định trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa giống như đứa bé đòi lì xì, cứ “lì” ra trong niềm hy vọng, Thiên Chúa sẽ “xì” ra bàn tay cứu độ. Và thế là gặp gỡ đẹp xanh hy vọng.
Sau khi Chúa Giêsu đã nói tới những dấu hiệu báo trước sự tàn phá thành Giêrusalem, thì hôm nay MV 1-A66
Sau khi Chúa Giêsu đã nói tới những dấu hiệu báo trước sự tàn phá thành Giêrusalem, thì hôm nay Người nói về ngày tận thế. Ngày ấy sẽ xảy đến bất ngờ. Một cách nào đó, những dấu hiệu mô tả trong Phúc Âm đã xảy ra trong lịch sử loài người, và nhân loại đã quen với chúng rồi. Trong lúc mà bằng vô vàn cách thức khác nhau, các biến cố xảy ra cho thấy rằng thế gian không phải là quê hương vĩnh viễn, thì con người vẫn dừng lại ở trình độ tìm tòi duy vật trong nỗ lực xây dựng văn minh. Đó là trường hợp của những người xưa kia bị hồng thủy thình lình ập xuống trên mình. Những ai không biết đọc dấu hiệu thời đại, rồi cũng sẽ bị tai họa bất ngờ như vậy. Cũng trong một viễn tượng gần như thế, ta hãy tự hỏi: Chúng ta có biết đọc dấu hiệu thời đại không? Thật vậy, hành động liên tục của Chúa trong nhân loại có thể quan niệm như một cuộc ngự đến không ngừng của Người trong nhân loại. Ta có biết nhận ra những dấu hiệu của cuộc ngự đến ấy không? Dựa vào Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II, chúng ta hãy tự hỏi: Chúng ta đang gắn ý nghĩa Phúc Âm nào cho những biến cố hiện đại đang tác động trên con người, trên cộng đồng nhân loại và hoạt động của loài người?
1) Con người
Chúng ta đang chứng kiến sự giảm sút kính trọng đối với nhân vị. Theo một số khoa học gia, bậc thầy trong khoa sinh vật học, con người là kết quả của một sự tình cờ may mắn trong đà tiến hóa của vật chất. Trong cách thức người ta quan niệm thì con người có giá trị gì? Con người có giá trị nào trước những vấn đề như phá thai, ngừa thai, công bằng, chính trị v.v… Phúc Âm đặt con người vào trình độ của tương quan giữa nó với Đức Giêsu Kitô. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Nó tội lỗi nhưng được cứu độ. Trong toàn con người nó, xác và hồn, nó là con cái Chúa. Sự sống của nó là một điều thiêng liêng. Phẩm giá con người đòi hỏi rằng trí khôn nó phải được soi sáng và con tim nó được huấn luyện. Chủ nghĩa duy vật hiện đại là một dấu hiệu thời đại phải thôi thúc người Kitô hữu quả quyết lại phẩm giá của con người một cách mạnh mẽ.
2) Cộng đồng nhân loại
Đang trên đường tìm kiếm, chưa bao giờ con người được sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật như thể gặp gỡ nhau khắp cùng trái đất. Đó là một dấu hiệu thời đại khiến người Kitô hữu phải tạo cho mình một não trạng phổ quát ‘công giáo’, bao trùm toàn thế giới. Hiện nay, đối với ai biết nhìn xem, Thiên Chúa đang đi tới con người qua tất cả những phương tiện dễ dàng làm cho con người gặp gỡ nhau.
3) Hoạt động của con người
Những cuộc chiến thắng, những thành công của con người là dấu hiệu biểu lộ sự phong phú vô biên của Chúa trong tạo vật. Nhưng uy quyền con người càng tăng, thì trách nhiệm của nó càng lớn. Con người sẽ làm việc cho con người, và làm việc trong một ý nghĩa tích cực, nếu nó duy trì liên quan của mình với Thiên Chúa. Nếu xa lìa Chúa, thì uy quyền nó càng nhiều, sức mạnh phá hủy của nó càng tăng. Trên các biến cố thời sự làm xao động thế giới, ta hãy luôn luôn chiếu giãi ánh sáng Phúc Âm. Phải tỉnh thức. Hơn nữa, ta hãy tùy theo phương tiện ta có mà can thiệp vào để giúp cho Chúa ngự đến trong thế giới chúng ta.
Tai họa khủng khiếp, đó là tựa đề một cuốn chuyện của Mark Twain, một nhà văn nổi tiếng: MV 1-A67
Tai họa khủng khiếp, đó là tựa đề một cuốn chuyện của Mark Twain, một nhà văn nổi tiếng người Mỹ, mô tả một nhóm người đang lâm vào một tình cảnh bi đát. Chết đến nơi rồi mà họ vẫn chưa tìm được lối thoát. Đúng là họ đang nằm trên bờ một tai họa khủng khiếp.
Tác giả không muốn cho câu chuyện kết thúc một cách bi thảm, nhưng ông không biết làm cách nào để cứu nhóm người đó. Vì thế ông đã viết: Tôi lỡ đặt các nhân vật của tôi vào một tình cảnh cực kỳ gian nan, đến nỗi tôi không thể nào cứu gỡ được. Ai nghĩ rằng mình có thể cứu gỡ được thì xin vui lòng chỉ giùm.
Xét về một mặt thì đây là một kết cục không hợp lý, nhưng xét về mặt khác thì đây lại là một kết cục hay, vì nó đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ, phải can dự vào.
Cũng thế, hàng ngàn năm trước, nhân loại đã rơi vào một tình cảnh thật bi đát. Tội lỗi đã đột nhập vào trần gian và tràn lan như một đám cháy. Nhân loại bị vây khốn và không tìm được lối thoát cho chính mình. Thiên Chúa đã nhìn thấy tình cảnh bi đát ấy. Ngài không muốn câu chuyện kết thúc một cách buồn thảm, bởi vì Ngài quá yêu thương nhân loại. Ngài đã nghĩ đến phương cách giải cứu, đó là sai chính Con một Ngài đến trần gian, để cứu chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và thiết lập vương quốc của Ngài. Vương quốc ấy đã được khởi sự rồi, nhưng cho đến nay vẫn chưa hoàn tất. Ngài ủy thác việc hoàn tất ấy cho chúng ta.
Mùa vọng nhắc nhở chúng ta nhớ lại tình cảnh bi đát của nhân loại trước khi Đức Kitô đến. Nhưng không phải chỉ có thế. Mùa vọng còn nhắc nhở chúng ta rằng Đức Kitô sẽ trở lại. Ngài sẽ đích thân xét xử mỗi người chúng ta về việc chúng ta cộng tác với Ngài trong công việc mà Ngài đã ủy thác cho chúng ta phải hoàn tất.
Chúng ta đang sống giữa cái rồi và cái chưa. Giữa biến cố Giáng sinh của Ngài và việc Ngài sẽ trở lại trong ngày sau hết. Hẳn chúng ta còn nhớ lời thiên thần nói với các môn đệ vào buổi sáng ngày lễ Thăng thiên: Sao các ngươi còn đứng đó mà nhìn trời. Đức Kitô vừa rời các ngươi mà về trời, thì Ngài cũng sẽ trở lại y như thế.
Trong khi đợi chờ Ngài lại đến, thì nhiệm vụ của chúng ta trên trái đất này, không phải là đứng đó mà nhìn trời và chẳng làm gì hết, trái lại chúng ta phải nhập cuộc, phải xắn tay áo lên để hoàn tất công việc Ngài đã trao phó. Đó là những hành động bác ái yêu thương: Cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, kẻ đau yếu được thăm viếng. Hãy xây dựng hòa bình bằng tình bác ái yêu thương.
Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta kiểm điểm xem bản thân chúng ta đã thực thi những điều ấy như thế nào? Là thời gian để chúng ta mong đợi Ngài lại đến trong vinh quang để phán xét chúng ta.
Vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: Đêm sắp tàn và ngày đang tới, anh chị em hãy từ bỏ những hành vi ám muội để mặc lấy chiến bào sự sáng.
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày: MV 1-A68
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp đậy mở được.
Khách đến chơi trông thấy cười nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Vị sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Ta thực lấy làm lạ: người đời ai ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu lo buồn vất vả suốt đời, chẳng biết cái chết là gì. Như ta đây, mỗi khi có việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm xem, là tức khắc trong lòng được yên ổn, mà muôn nghìn sự tư lự đều biến tan đi. Nhà sư Viên Phủ Trung quả là một con người biết tỉnh thức:
Tỉnh thức là biết nhìn xa trông rộng; nhìn tới cùng đích của kiếp người là cái chết, trông đến mục tiêu của nhân sinh là nước trời.
Tỉnh thức là biết lo trước nghĩ xa, vì không lo xa ắt có buồn gần. Bỏ cái lợi nhỏ trước mắt để được cái lợi lớn ở tương lai.
Tỉnh thức là biết phải hành động tốt đẹp cho hôm nay, để chờ đón bao phúc lộc, vạn hạnh cho ngày mai.
“Anh em hãy tỉnh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24,42).
Tỉnh thức để chờ đón Chúa đến thì còn gì vui sướng hơn. Tỉnh thức để chuẩn bị cho cuộc hạnh ngộ thì còn gì hạnh phúc bằng. Tuy nhiên, con người lại hay mê ngủ: tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt thì lại nặng nề.
Sợ rằng khi Chúa đến họ lại chẳng đủ sức để tỉnh thức ra đón Người. Thấu hiểu thân phận yếu của con người nên Chúa đã khuyên dạy: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
“Lúc Con Người đến” chính là ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, và cũng chính là giờ chết của mỗi người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng thật trớ trêu là nó lại đến một cách bất ngờ: bất ngờ như biến cố đại hồng thủy thời ông Noe, bất ngờ như kẻ trộm đêm khuya đột kích vào nhà. Chẳng bao giờ kẻ trộm gọi điện thoại báo trước giờ nó đến, vì vũ khí của hắn là sự bất ngờ. Chỉ có một cách duy nhất để tai họa khỏi chộp xuống đầu chúng ta như “tiếng sấm đánh không kịp bịt tai”, là chúng ta luôn tỉnh thức và sẵn sàng trong ơn nghĩa Chúa.
Con người có một nhược điểm hết sức phổ biến, là luôn cho rằng vẫn còn ngày mai để chuẩn bị, còn ngày mai để sám hối ăn năn, còn ngày mai để thay đổi nếp sống. Nhưng có một kinh nghiệm hết sức chua xót đã từng đổ ập xuống bao người là ngày mai ấy không bao giờ trở lại. Chần chừ, khất lần chính là cơn cám dỗ hiểm độc nhất của ma quỉ. Xin đừng để quá muộn ! Muốn vậy hãy tỉnh thức và đợi chờ.
Mùa Vọng là mùa của đợi chờ:
Không phải đợi chờ trong mỏi mòn, day dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong niềm hy vọng. Không phải đợi chờ mà không làm gì cả, nhưng là làm việc trong đợi chờ. Không phải đợi chờ một ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.
Chờ đợi như thế chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về tới nước trời. Chờ đợi như thế chính là chung tay xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương, an vui và hạnh phúc. Chờ đợi như thế thì ngày Chúa đến không còn là bất ngờ đáng sợ, nhưng lại là niềm vui bất ngờ.
Vui vì Chúa chúng ta đã toàn thắng vinh quang. Vui vì bao con người được ơn cứu rỗi. Vui vì vũ trụ này đã được giải thoát. Vui vì “trời mới đất mới” sẽ mở ra, dẫn đưa chúng ta vào nơi vĩnh phúc.
Giấc ngủ là thói quen của chúng ta. Nó làm chúng ta không ý thức được ngày giờ trôi qua. Chúa: MV 1-A69.
Giấc ngủ là thói quen của chúng ta. Nó làm chúng ta không ý thức được ngày giờ trôi qua.
Chúa Giêsu mô tả thói quen này như sau: “Vào thời Noe, người ta ăn uống, người ta dựng vợ gả chồng …”. Có một người thoát ra khỏi thói quen này đúng lúc, đó là Noe. “Noe bước lên tàu”. Còn những người khác vẫn sống “mà không nghi ngờ gì cả, cho đến khi trận lụt nhận chìm họ”.
Thói quen nhận chìm chúng ta. Bạn hãy nghĩ đến những câu: “Tôi phải phản ứng lại… Tôi phải bắt đầu… Không thể tin được là thời gian trôi qua nhanh thế… Nếu có thể làm lại điều đó… Nếu lúc trẻ mà biết thì …”.
Chúng ta biết chứ. Chỉ cần lắng nghe Chúa Giêsu thì đủ rõ: “Hai người cùng ở trong ruộng, thì một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại; hai bà cùng xay bột nơi cối, thì một sẽ bị đem đi và một sẽ được để lại. Vậy các ngươi hãy tỉnh thức”. Khi làm cùng những công việc, có người thì chết, có người thì sống. Có người không chuẩn bị gì cả, có người đã chuẩn bị sẵn sàng.
Sẵn sàng cho cái gì? Phải lặp đi lặp lại lời kêu gọi cảnh giác này vì Chúa Giêsu cũng lặp đi lặp lại lời kêu gọi cảnh giác đó, một sự cảnh giác thật sự. Sự cảnh giác có thể có vẻ như một sự lo âu làm cho tê liệt, hoặc đi đến chỗ đặt câu hỏi “ích lợi gì cơ chứ?” làm cho quay sang khinh dể thế gian và những công việc trần thế. Không, trái lại, sự cảnh giác trong Phúc Âm là một sức sống mạnh mẽ hiện tại, bởi vì người ta luôn luôn xác minh được ở đó ích lợi và sự biểu hiện thực sự của điều mà người ta đang làm.
Những thói quen của chúng ta (công việc, truyền hình, xe cộ), những lo toan của chúng ta (kiếm tiền nhiều hơn, hoàn thành nhiệm vụ nào đó), những dự định nghỉ ngơi (mong ngày cuối tuần mau đến, mong kỳ nghỉ hè mau đến), có phải những điều đó làm cho mỗi người chúng ta sử dụng cuộc sống đến nơi đến chốn rồi chăng? Đâu là tình yêu, nghĩa là cuộc sống 100%? Sự phục vụ huynh đệ, nỗi ám ảnh truyền giáo, kinh nguyện, ở đâu?
“Tôi không có thời giờ” đôi khi là tiếng than phiền của cuộc sống mãnh liệt. Nhưng thường thì đây là bài ca của thói quen. Thói quen ca bài này rất hay.
Sự tỉnh thức của người Kitô hữu không gì khác hơn là cuộc sống trước mặt Thiên Chúa, cuộc sống với Thiên Chúa. Người ta làm đúng y cũng những điều đó, nhưng chúng có thêm một ích lợi, một chiều dày. “Một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại”. Những người tỉnh thức đã bám rễ trong vĩnh cửu, những người thủ cựu thì ở trên bề mặt, lúc nào họ cũng có nguy cơ bị quét đi.
Khác xa việc lấy mất sở thích những gì thuộc về cuộc sống, sự tỉnh thức thật sự mang lại thú vị cho những bước khai tâm, những bước đầu học tập lý thú. Tuyệt vời làm sao, qua những gì người ta sống, khi trở thành một người được xây dựng cho sự vĩnh cửu và xây dựng một phần của nhân loại vĩnh cửu!
Chống lại thói quen là sao? Là suy nghĩ, lại tiếp tục, không buộc mình chỉ sống theo đồng hồ, lịch hoặc sự đều đặn máy móc và bảo “tôi luôn luôn làm điều đó”.
Người tín hữu Kitô “sẵn sàng” là người sống cái bình thường một cách hết sức tự do, ý thức, đến độ điều này giữ cho họ tỉnh thức đối với điều bất ngờ, trong đó có giờ phút cuối đời, giờ kẻ trộm đến: “Hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ các ngươi không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Mùa Vọng: Adventus (nghĩa là đã đến), không phải là Mùa chờ đợi, vì Chúa đã đến trong lịch: MV 1-A70
Mùa Vọng: Adventus (nghĩa là đã đến), không phải là Mùa chờ đợi, vì Chúa đã đến trong lịch sử nhân loại, Chúa đang đến và còn sẽ đến hằng ngày trong cuộc sống con người.
Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia cho thấy viễn tượng hoà bình vĩnh cửu như quang cảnh ngày đại hội: dân dân lũ lượt về, nước nước dập dìu kéo nhau về thành đô Thiên Chúa. Họ không còn chém.giết nhau. Vũ khí chiến tranh thành dụng cụ sản xuất. Thiên Chúa sẽ đứng ra làm trọng tài phân xử cho muôn dân tộc và họ sẽ bước đi trong ánh sáng của Người. Tất cả những hình ảnh êm đẹp của thời bình an, thái hoà được Isaia phác hoạ như điềm tiên báo ngày Chúa đến.
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô khuyên mọi người hãy mặc lấy ánh sáng, là Đức Kitô, nghĩa là sống tâm tình và theo quan điểm của Chúa. Là con cái sự sáng, người tín hữu phải biết tỉnh thức và ăn ở đúng đắn như đang sống giữa ban ngày, không còn theo bản năng tự nhiên, nhưng mặc lấy con người mới, có cái nhìn mới để đánh giá cho đúng những giá trị vật chất cũng như tinh thần.
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu dạy chúng ta sống tích cực, sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào. Chúa vẫn đến trong tâm hồn mỗi người và ngay giữa lòng thế giới. Ngay bây giờ, chúng ta có thể gặp Chúa nơi anh em, trong các biến cố của cuộc sống, trong những công việc bình thường như ăn, ngủ, nghỉ, làm việc…Làm sao tỉnh táo, nhạy bén nhận ra Chúa đến trong cái mới, cái đẹp, cái tích cực đang lộ ra nơi con người, trong xã hội và trong Mùa Vọng Giáo hội, như những dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa.
Như vậy, Mùa Vọng chính là Mùa xuân của năm Phụng vụ, mùa tràn đầy hy vọng . Chúa đến thiết lập vương quốc hoà bình và công lý trên toàn cõi đất. Mỗi Mùa xuân tới, cây cối, thảo mộc hút lấy nhựa sống mới để phát triển. Cũng vậy, người Kitô hữu tin vào Đấng là Mặt trời, là Ánh sáng, sẽ sống nhờ Người và vươn lên đạt tới “tầm vóc của Đức Kitô”, trở nên con người trưởng thành trong đức tin và đức ái.
Mùa Vọng của người tín hữu sẽ là mùa tích cực xây dựng Nước Trời, bằng chính cuộc sống thường ngày, luôn trong tư thế sẵn sàng, túc trực, xung phong và phục vụ.
Mùa Vọng sẽ là mùa nhập cuộc, lấy tương lai của Giáo hội, của đất nước, của con người làm ý nghĩa cuộc sống để phấn đấu vươn lên.
Mùa Vọng sẽ là mùa vui mừng và phấn khởi,vì có Chúa hiện diện và cùng đồng hành với con người.
Mùa Vọng sẽ là mùa tỉnh thức và cầu nguyện, để triển khai các mặt tích cực, để phấn đấu nhân lên những cái tốt và để nâng cao phẩm chất trong hành động mỗi ngày.
Trong thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên. Đức ôn hòa của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã đến gần” (4, 4-5).
“Chúa đến gần”. Đó là lý do để thánh Phaolô mời gọi, đồng thời nhắc đi nhắc lại lời mời gọi “hãy vui luôn”. Không chỉ vui mà còn “vui luôn trong Chúa”. Vui trong Chúa mới thực sự là vui, mới chính là niềm vui. Vui trong Chúa mới là niềm vui trọn vẹn. Vui trong Chúa chính là điểm nhấn, là đích đến của niềm vui. Vui trong Chúa là niềm vui bền đổ, mang đến cho người sở hữu nó sức sống vĩnh cửu.
Mùa Vọng không phải là thời gian mang màu sắc ảm đạm, bi thảm, không bao giờ ghi dấu ấn của sự buồn khổ. Nhưng mùa Vọng làm dấy lên niềm vui từ phía chân trời cứu độ. Với niềm vui mừng lớn lao trong mùa Vọng, tôi thấy lời thánh Phaolô trên đây rất am hợp để sống mùa Vọng. Nghe lời thánh Phaolô, tôi vui và vui trong Chúa. Vui trong Chúa vì Chúa đã đến. Vui trong Chúa vì Chúa ở cùng tôi. Vui luôn trong Chúa vì Chúa cứu độ tôi.
Vui trong Chúa là niềm vui tiêu biểu và đặc trưng của người Kitô hữu. Một niềm vui có nền tảng vững chắc là chính Chúa, là cậy dựa vào Chúa, là tín thác cho Chúa. Vì thế, đối với người Kitô hữu, vui trong Chúa là không hoàn toàn lệ thuộc hoàn cảnh bên ngoài. Những vui buồn của đời sống sẽ không làm người Kitô hữu lạc quan hay bi quan quá đỗi. Vui trong Chúa, sẽ làm cho người Kitô hữu, dù đối diện với vô vàn khó khăn, vô vàn nghịch cảnh, dù mọi nhọc nhằn có oằn nặng đôi vai, dù bị không biết bao nhiêu tai họa vùi dập, đổ xuống, vây bủa…, vẫn không dập tắt bình an, không làm chao đảo đức tin, nhưng vẫn trung thành hiến dâng lên Chúa tất cả.
Hơn nữa, mùa Vọng là mùa chuẩn bị tâm hồn trực tiếp hướng tới mầu nhiệm Nhập Thể của Đấng Thiên Chúa làm người. Vì thế, vui trong Chúa, trong tâm tình của mùa Vọng còn là cảm nhận tình yêu hải hà của Chúa. Bởi nhập thể là nhằm cứu độ chúng ta. Và nhập thể – cứu độ là dấu chỉ của tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta. Hội Thánh luôn cao rao tình thương này: “Ôi! Ân tình Cha thật kỳ diệu. Ôi! Ân phúc Cha thật khôn lường. Để cứu dân lầm than nô lệ, Cha đã thí Con Một quý yêu” (bài ca Exultet).
Thiên Chúa vì yêu đã hóa thân làm người. Thiên Chúa vì yêu, đã làm người để nâng con người lên địa vị làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa làm người đã là một niềm vui lớn cho chúng ta. Vậy mà Người không chỉ làm người. Tận cùng của việc Chúa làm người là nhắm: Để ta làm con Thiên Chúa. Chỉ là thân phận hèn kém, bỗng dưng làm con Thiên Chúa. Một niềm vui lớn vô cùng, lớn không thể hiểu hết. Bởi niềm vui vỡ òa ấy vượt tầm diễn tả đã làm ta không thể nói cho tròn chữ “vui”, ta chỉ có thể reo lên để gói gọn tâm tình vui sướng trong lời của thánh Phaolô: “Vui luôn trong Chúa!”.
2. Sống niềm vui.
Bắt đầu từ chương 17 sách Các Vua quyển 1 nói đến ơn gọi của tiên tri Êlia, vị tiên tri suốt một đời anh dũng chiến đấu bảo vệ đức tin. Thời của ông cũng là triều đại vua Akhab, một vị vua nhu nhược, đã để hoàng hậu Izabel, một kẻ ngoại giáo độc ác thao túng hoàng triều. Bà đã dựng bàn thờ thần Baan ngay tại thủ đô, thay vì dựng bàn thờ Thiên Chúa. Bà đặt các pháp sư trông coi đền thờ. Bà muốn biến Israel trở thành quốc gia thờ thần ngoại giáo. Trước nguy cơ đức tin của toàn dân bị đe dọa, tiên tri Êlia, vì lòng nhiệt thành của mình, đứng lên tố cáo sự yếu hèn của vua Akhab và tội ác của hoàng hậu Izabel. Một lần, ông đã một thân một mình chiến đấu với 450 tư tế của thần Baan. Trong cuộc chiến này, thắng lợi thuộc về tiên tri. Hoàng hậu Izabel vốn đã thù ghét ông, càng căm thù ông dữ dội. Bà đặt mối thù không đội trời chung với tiên tri Êlia.
Như vậy, trong Cựu Ước, tiên tri Êlia đã có công gìn giữ, bảo vệ đức tin. Ông đã chiến đấu đến cùng để toàn dân Israel quay về với chân lý là chính Thiên Chúa. Ông đã dọn đường cho dân quay về và trung thành thờ phượng Chúa. Về phía Chúa, Chúa dùng tiên tri Êlia để thanh tẩy đức tin của dân Israel trước sự suy đồi về tôn giáo.
Tôi đọc thấy trong câu chuyện cảm động về việc tiên tri Êlia anh dũng bảo vệ đức tin là cả một niềm hãnh diện đức tin của cá nhân ông. Tiên tri Êlia biết đức tin là quý báu. Ông nhận ra chỉ có Chúa là Đấng phải tôn thờ. Ông hiên ngang bảo vệ đức tin không chỉ của mình, mà còn của toàn dân, bất chấp mọi nghịch cảnh, mọi trả giá, dù bị sự áp bức của quyền lực đe dọa nghiêm trọng mạng sống mình. Ông quyết một lòng trung thành với Chúa, dù sau này ông phải chạy trốn kẻ tìm giết ông trong cô đơn, trong chán nản. Một đời bảo vệ đức tin, dù nguy nan đến đâu, cho thấy đó chính là niềm hãnh diện đức tin của tiên tri Êlia. Niềm hãnh diện đức tin là bằng chứng cho thấy tiên tri Êlia luôn vui trong Chúa. Bởi chỉ có vui luôn trong Chúa, Êlia mới có thể vững lòng tín thác đời mình cho Chúa. Nhờ vui luôn trong Chúa, Êlia đủ sức mạnh, đủ nghị lực vượt lên mọi khốn khó mà chu toàn hoàn hảo nghĩa vụ tiên tri của mình.
Chúng ta hãy mặc lấy niềm hãnh diện tôn giáo của tiên tri Êlia mà sống niềm vui trong Chúa. Có lẽ ta ít khi nghĩ đến “niềm vui trong Chúa”, vì thế mà đời ta vốn đã gánh vác nhiều long đong thử thách càng thêm nặng nề, càng mất bình an. Chính vì ta chẳng bao giờ ý thức “hãy vui luôn trong Chúa” nên đời ta có quá nhiều lỗi phạm, quá nhiều những mất mát về đức tin, về tình yêu, về sức chịu đựng.
Chính vì chẳng bao giờ “vui trong Chúa”, nên ta đi tìm nguồn vui độc hại. Hậu quả nghiêm trọng là đời ta mất cân bằng, luôn hướng chiều về tội, đức tin ngày càng teo đi, lòng mến Chúa, lòng yêu sự sống, lòng ham thích sống ngày càng nhạt nhòa.
Thiếu niềm vui trong Chúa, vì thế, đời ta đầy lo âu, buồn chán, rã rời, trống rỗng. Thiếu niềm vui trong Chúa, mọi nguy cơ chèn ép bình an, mọi nguy cơ làm cạn nghị lực và sức sống càng dễ dàng tấn công, sẽ làm ta ngày càng suy yếu, bạc nhược thậm chí sụp đổ hoàn toàn về nội tâm, và ơn thánh… Hậu quả kinh hoàng có nguy cơ ngày càng lớn phủ lên ta: Đó là làm ta xa rời Thiên Chúa.
Hãy bắt chước tiên tri Êlia mà sống niềm vui trong Chúa. chỉ có “vui luôn trong Chúa”, ta mới giống tiên tri Êlia đủ sức chống chèo cuộc đời mình đi tới bến bờ Bình An là chính Chúa. Bởi chỉ có Chúa mới là niềm vui tuyệt hảo của con người trong mọi phong ba bão tố.
Giáo Hội đang dẫn chúng ta vào những ngày đầu của một Năm Phụng Vụ mới, được mở màn: MV 1-A72
Giáo Hội đang dẫn chúng ta vào những ngày đầu của một Năm Phụng Vụ mới, được mở màn bằng 4 tuần lễ chuẩn bị đón mừng Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Tiên tri Isaia hơn 500 năm trước biến cố này đã nói: “Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta” (Is 7:14).
Lùi về lịch sử Cứu Độ, dân Do Thái một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn để hoàn thành sứ mạng đầu của lịch sử này, đã chuẩn bị đón mừng ngày lịch sử ấy qua hằng ngàn năm dài chờ đợi, than van, và cẩu khẩn. Nhưng lạ lùng thay, khi Thiên Chúa đã giáng trần và đến với họ, thì họ lại lạnh lùng từ chối, và thậm chí đã giết đi: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không đón nhận ánh sáng” (Jn 1:5).
Chúa Giêsu, qua trích đoạn Tin Mừng của Thánh Mátthêu hôm nay đã nói về thái độ thờ ơ và vô tình này khi so sánh dân tộc của Ngài, và con người của thời đại Ngài trước áng sáng Tin Mừng, trước ơn Cứu Độ bằng hình ảnh trước và sau khi nạn hồng thủy: “Trong thời Noe xảy ra như thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thủy, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tầu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thủy đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến cũng sẽ xẩy ra như vậy” (Mt 24: 37-39).
Nếu đem những lời Chúa Giêsu nói về dân Do Thái và bối cảnh con người thời bấy giờ so sánh với những gì mà con người thời đại chúng ta đang sống và đang đối diện với viễn ảnh đời đời, đối diện với việc rất trọng đại của đời mình, của toàn thể nhân loại là đón nhận Chúa vào cuộc đời mình, vào thế giới mình, thì cũng tương tự. Có nghĩa là, tâm trạng của con người xưa và nay cũng không mấy khác nhau, và quan niệm, lối sống của xưa và nay cũng không có gì khác biệt. Và hơn thế nữa, có thể nói não trạng và lối sống của con người ngày nay còn tệ hơn, còn nguy hiểm hơn não trạng và lối sống của con người ở vào thời Noe, ở vào thời Chúa Giêsu. Bởi vì, con người ở vào những gia đoạn ấy chỉ ăn chơi, chỉ say sưa, chỉ dựng vợ gả chồng. Họ chỉ hành động theo bản năng, theo những nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống tự nhiên; ngoài ra, họ chưa biết chế bom nguyên tử, hỏa tiễn, hoặc những vũ khí nguy hiểm để giết hại nhau, để khống chế nhau, và để cai trị nhau. Họ không áp dụng những chính sách, những quan niệm, và những thể chế độc hại, vô luân, và vô thần để thống trị một nhóm người, một quốc gia, hay nhiều quốc gia hầu thỏa mãn ước vọng bá quyền, độc tài, toàn trị, và củng cố địa vị. Nhưng nhất là họ không đang tâm diệt trừ và giết hại hàng loạt những thai nhi vô tội, những đứa trẻ mà chưa được một ngày nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Và có lẽ đây là cái não trạng, quan niệm, và lối sống tồi tệ nhất, khốn nạn nhất, và vô luân nhất của con người mang nhãn hiệu văn minh của thời đại chúng ta đang sống. Người giết hại người. Bố mẹ giết chính con cái mình.
Chỉ cần nhìn vào những công trình kiến trúc đồ sộ và tiện nghi của thế giới hôm nay. Chỉ cần nhìn vào những phát minh tân kỳ mà trí khôn con người sáng tạo nhằm thỏa mãn những đòi hỏi vật chất và tự nhiên. Và chỉ cần nhìn vào lối sống vội vã, hưởng thụ, tôn thờ vật chất hiện nay sẽ thấy được tầm quan trọng mà Chúa Giêsu đã nói hơn 2000 năm trước về cái nguy hiểm khi con người không tìm kiếm Thiên Chúa, và không có Chúa trong cuộc đời. Thử hỏi con người được gì sau khi buông tay, nhắm mắt. Và thử hỏi thế giới này sẽ đi về đâu nếu không có Chúa.
Hình ảnh một mất, một còn mà Chúa Giêsu nói đến khi so sánh: “Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi” (Mt 24: 40-41). Điều này có thể hiểu rằng, cơ may nhận biết Chúa và bỏ mất Ngài, hoặc cơ may được Ngài cứu độ hay bị trầm luân xảy ra với sác xuất 50%. Có thể có mà cũng có thể mất. Sự mất còn này tùy thuộc không chỉ ở nơi Thiên Chúa mà còn tùy thuộc vào sự chấp nhận hay từ chối của con người. Đại hồng thủy không chỉ xẩy ra trong thời Noe, mà ngay trong thời đại của chúng ta đang sống. Hàng loạt những trận động đất dữ dội, hàng loạt những đợt sóng thần, những trận cuồng phòng dữ dội đã và đang cuốn đi bao mạng người, phá hủy và san bằng bao công trình xây dựng, bao kiến trúc của con người. Hằng loạt những cuộc thanh trừng đẫm máu, những cuộc tàn sát tập thể được gây ra bởi chính lòng dạ độc ác của con người. Nhưng con người vẫn không ngán. Vẫn ngẩng đầu, vẫn đứng thẳng để thách thức Thượng Đế. Và đây là cái ngu xuẩn, và khốn nạn nhất của con người thời đại khi họ cố tình loại bỏ niềm tin và Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình.
Ai mà không biết rằng ngày chết là một đại hồng thủy của đời mình. Ai cũng sợ hãi và kinh hoàng trước giờ chết. Nhưng thử hỏi được mấy ai đã chuẩn bị một cách đầy đủ cho ngày và giờ ấy. Con tàu Noe là gì và con người phải làm sao để lên được con tàu này để khỏi bị cuốn trôi vào lòng biển cả. Chúa Giêsu dậy ta: “Hãy tỉnh thức”. Có lẽ chúng ta cũng chỉ làm được một việc đó là “tinh thức”, tức là cẩn trọng và đề phòng. Và dường như Thiên Chúa cũng chỉ đòi hỏi có vậy. Ngài muốn con người hãy tỉnh thức, hãy cẩn trọng để nhận ra Ngài và nhận ra những dấu chỉ của thời đại, để có thể kịp thời đón tiếp Ngài, và để Ngài đưa ta vào con tàu tình thương, con tầu cứu độ kịp thời trước khi cơn hồng thủy ập tới.
Chúa Giêsu đã giáng trần hơn 2000 năm trước. Chúng ta chẳng còn cơ hội để đón Ngài, hay đến thăm Ngài tại hang Bêlem như các mục đồng, hoặc như Ba Vua trước đây. Nhưng hình ảnh của mầu nhiệm Nhập Thể, của một đêm Giáng Sinh năm nào tại đồng quê Bêlem, và việc lặp lại biến cố quan trọng này mà Giáo Hội đang muốn nhắc nhở chúng ta, chính là cơ hội để chúng ta biết và chuẩn bị cho một biến cố quan trọng hơn sẽ xẩy đến cho cuộc đời mỗi người, đó là ngày mà chúng ta phải ra đón tiếp Đấng đã nhập thể và ở giữa chúng ta vì yêu thương chúng ta. Và đây cũng là ý nghĩa Mùa Vọng mà Giáo Hội muốn chúng ta phải để trước mặt như một cái nhìn về chân trời hạnh phức, về viễn ảnh đời đời, ở đó chúng ta được Chúa Giêsu đón tiếp và cũng ở đó, chúng ta nhận ra Ngài chính là Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngay trong cuộc sống này, và ngay trong cuộc đời mỗi người chúng ta.
Khi tôi chán chường, ủ rũ trong bệnh tật triền miên vào cuối năm 2003, một người anh em: MV 1-A73
Khi tôi chán chường, ủ rũ trong bệnh tật triền miên vào cuối năm 2003, một người anh em trong nhóm Canh Tân Đặc Sủng đã đến thăm và đã kể lại cho tôi câu chuyện hóan cải của anh. Hành trình trở về của anh đã giúp tôi đặt niềm hy vọng vào tình yêu nhân hậu của Chúa đã thể hiện trên cuộc đời một thời lầm lỗi của anh.
Anh là một thương phế binh loại hai trong thời chế độ cũ trước 1975. Anh bị thương hầu như toàn thân sau một trận càn quét khi còn là một khinh binh của đơn vị Biệt Động Quân. Hiện nay, cổ và bàn chân phải của anh rút lại không còn khả năng cử động co giãn được nữa. Do đó, anh phải cà nhắc, lê lết mỗi khi di chuyển. Ngoài ra, khi trái gió trở trời, những vết thương cũ hành hạ nhức buốt vì trong phần cơ thể của anh vẫn còn lại vài mảnh bom đạn nhỏ cắn cấu. Mỗi lần như thế, anh thật tê tái và buốt lạnh.
Sau giải phóng, cuộc sống gia đình anh càng khốn khó thêm vì anh đã không còn được hưởng trợ cấp xã hội mà lại phải lăn xả tìm công việc thích hợp với sức khỏe tàn tật của mình. Từ bán buôn lặt vặt nơi “chợ trời”, hoặc đạp xe đạp đi bơm quỵet gaz cho đến bán vé số để nuôi sống bản thân, thế mà khó vẫn hòan khó. Nên anh chán nản buông xuôi mặc cho đời xô đẩy, đẩy xô. Dần dần mất hy vọng, anh đi sâu vào con đường nhậu nhẹt xả láng, bất cần đời. Sáng trưa chiều tối anh chẳng còn ý thức, bởi rượu đã gặm nhấm, đã bào mòn sinh lực cũng như ý chí nghị lực của anh.
Cho đến một ngày, đứa con trai của anh cũng như một người bạn tốt bụng tha thiết năn nỉ mời anh tham dự một buổi sinh hoạt ca hát và học hỏi Lời Chúa. Anh cố gắng chiều theo ý con và nghe lời khuyên của bạn, nên có mặt nhưng chẳng hề có một chút hứng thú nào cả. Sau buổi tham quan hằng tuần ấy, anh lại tiếp tục cuộc hành trình ma men đã thấm vào máu huyết của anh. Lần thứ hai, đứa con nài nỉ thêm. Anh cũng xiêu lòng đến dự. Và rồi lần này, anh đã có thêm sự phấn khởi qua những bài hát ca ngợi hân hoan vỗ tay nhịp điệu khá thú vị, với bầu khí sôi động hơn. Tiếp tục như thế được bốn tuần, tâm hồn anh bắt đầu thay đổi ngay khi anh chị em đặt tay cầu nguyện cho anh. Thế là anh khóc như mưa, như trẻ thơ, không hề biết những ai chung quanh anh. Anh gọi đây là ơn hoán cải bằng nước mắt vì anh đã nhận ra anh là con người yếu đuối, tội lỗi. Trong khi Thần Khí Đức Kitô vẫn hằng ở trong anh, nhưng anh đã không nhận ra Ngài bởi anh đã không bao giờ biết cầu nguyện thế nào cho phải để có đủ sức mạnh mà lướt thắng hoàn cảnh nghiệt ngã của cuộc đời đầy sóng gió. Do đó, anh đã để mặc cho cơn lốc vô định của xác thịt nương theo rồi quỵ ngã.
Sau 18 tuần được hướng dẫn theo tài liệu “Chuẩn bị đón nhận Chúa Kitô” của Đức Ông Vincent Walsh, anh đã có phần nào thấu hiểu tâm tình mà thánh Phaolô đã tuyên tín: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi”. (Pl 3, 8) Sau đó ít lâu, anh nhận được ơn cầu nguyện trong Thần Khí hay còn gọi là cầu nguyện đầu phục bằng tiếng lạ.
Rồi sau một lần đau đớn vì không có sẵn thuốc giảm đau, anh nhớ lại câu chuyện Đức Giêsu chữa lành cho người nô lệ của viên sĩ quan Rôma mà thầm thĩ cầu nguyện tha thiết với Người bằng tất cả lòng tin: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con, nhưng xin Chúa phán một lời thì con sẽ lành mạnh!” Ôi thật tuyệt vời! Ngay sau đó anh nhận đựơc một nguồn năng lực bao trùm toàn thân. Từ đó cho đến nay đã 7 năm trôi qua, anh không còn dùng đến thuốc giảm đau nữa. Chúa Giêsu đang sống trong tâm hồn và trái tim anh bằng cách tha thiết cầu nguyện Lời Chúa mỗi khi anh nhớ đến Người! Anh luôn khao khát và hằng mong sẵn sàng mặc lấy Ánh Sáng Tình Yêu Đức Kitô để một ngày nào đó Chúa đến vào cuối cuộc đời của anh, anh sẽ được an nghỉ trong Người!
Nhờ nhớ lại câu chuyện kể về hành trình hóan cải để đón nhận Đức Kitô của anh, tôi mới thấu hiểu được lời Chúa Giêsu mời gọi tôi trong bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng là:
“Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.” (Mt 24, 42)
Và trước khi đưa ra lời giáo huấn ngắn gọn trên, Đức Giêsu đã khẳng định cuộc sống hữu hình của con người rất ngắn ngủi, quá giòn mỏng bởi chỉ cần một “nạn hồng thủy ập tới là cuốn đi hết thảy”. Nhưng cuộc sống vô hình tức linh hồn của con người sẽ phải dứt khoát bị xét xử vì “hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người đựơc đem đi, một người bị bỏ lại.” (Mt 24, 40-41)
Thánh Phaolô đã giúp tôi cảm nghiệm được tâm tình này vì ngài đã xác tín:
“Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn”. (2Cr 4, 18)
Và:
“Vì tất cả chúng ta đều phải đựơc đưa ra ánh sáng, trước tòa Đức Kitô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác.” (2Cr 5, 10)
Suy tới đây, tôi thầm thì cám ơn người anh em trong nhóm Canh Tân Đặc Sủng đã cho tôi niềm hy vọng và đã giúp tôi phần nào trên con đường hóan cải bằng chính đời sống chứng nhân thầm lặng của anh. Qua đời sống chứng tá của anh, nhất là bản thân chuyên cần đọc, suy niệm và cầu nguyện Lời Chúa hằng ngày mà tôi đã dần dà biết tỉnh thức bằng cách như thánh Phaolô khuyên nhủ cộng đoàn Rôma là:
“Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng; cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”. (Rm 13, 12-14)
Thật thâm thúy thay! Lời thánh Giêrônimô đã khuyên tôi như một người con thiêng liêng của ngài:
“Hãy yêu Kinh Thánh và sự khôn ngoan sẽ yêu con. Hãy yêu Kinh Thánh cách trìu mến, và Kinh Thánh sẽ bảo vệ con. Hãy tôn trọng Kinh Thánh, và con sẽ nhận lãnh những vuốt ve của Kinh Thánh. Hãy yêu khoa Kinh Thánh, và con sẽ không yêu những nết xấu xác thịt....
Bạn không cảm thấy sao, ở đây trên mặt đất này, bạn đang hưởng Nước Trời rồi, chính vì đựơc sống theo những bản văn này, suy gẫm về chúng, và không tìm kiếm sự gì khác.”
Lạy Cha Yêu Thương của con,
Cám ơn Cha đã ban cho chúng con cuộc sống với niềm tin và hy vọng tràn trề vào Lời Hằng Sống của Cha.
Xin Cha đổ tràn Thần Khí của Con Chí Thánh Cha để chúng con luôn biết canh thức và sẵn sàng mặc lấy Tình Yêu của Cha, hầu khi Cha gọi về, chúng con sẽ được an nghỉ trong Trái Tim Yêu Thương Nhân Hậu của Cha. Amen.
Bước vào Mùa Vọng, bài đọc 1 phụng vụ Lời Chúa thường trích sách Isaia. Ngôn sứ Isaia mô: MV 1-A74
Bước vào Mùa Vọng, bài đọc 1 phụng vụ Lời Chúa thường trích sách Isaia. Ngôn sứ Isaia mô tả cảnh thái bình giữa mọi dân tộc: Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Gicop hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng ĐỨC CHÚA soi đường.( Is 2,1-5).
Ngôn sứ Isaia ước mơ về một tương lai thế giới hoà bình, không còn đánh nhau, không còn chinh chiến nữa, gươm đao giáo mác trở nên liềm hái làm dụng cụ lao động. Bức tranh về một nền hoà bình tuyệt đẹp: "Sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm ngủ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô; trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc; các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào..."
Isaia hướng nhân loại về niềm hy vọng: Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan (Is 65,17-18).
Khát vọng của Ngôn sứ Isaia cũng như của nhân loại ngàn đời là một nền hoà bình vĩnh cữu. Chính trong niềm khát vọng ấy mà Tu sĩ Hermann Schaluck, OFM đã ước mơ đến “Trình Thuật Mới Về Công Việc Sáng Tạo”: - Và Thiên Chúa nhìn thấy cách thức loài người khắp cõi trần, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, không phân biệt nòi giống, nam nữ, đang khởi công liên hệ cùng nhau cách chân tình. Các dân tộc tự chọn giữa họ những người nam nữ tốt lành nhất và gởi họ tới lâu đài trứ danh bằng kính trên hòn đảo Manhattan (Trụ sở Liên Hiệp Quốc), nơi mở cửa đón tiếp tất cả các quốc gia hoàn cầu. Tại đây, họ lắng nghe đối thoại thân mật, thông cảm lẫn nhau và khai triển những dự án cộng đồng. Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đây là ngày đầu tiên của kỷ nguyên mới. - Và Thiên Chúa nhìn thấy cách các chiến sĩ hoà bình tách biệt các đạo quân đang lâm chiến với nhau, các tranh chấp được dàn xếp bằng lẽ phải và điều đình, chứ không phải bằng khí giới. Các nhà lãnh đạo quốc gia biết lắng nghe tiếng nói của các dân tộc, biết cùng nhau khởi sự coi trọng lợi ích toàn cầu và hoà bình thế giới kết hợp với lợi ích riêng biệt. Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đó là ngày thứ hai của hành tinh mới. - Và Thiên Chúa nhìn thấy cách loài người bắt đầu yêu chuộng và bảo vệ thay vì khai thác tạo vật: bầu khí quyển với lớp ozon, nước sông, nước biển, trái đất và nguyên liệu cũng như tất cả những gì sinh sống và phát triển tại đó. Và Thiên Chúa cũng thấy rằng bắt đầu loài người không còn thống trị và khai thác lẫn nhau, nhưng tự coi là con một Cha duy nhất và đối xử đồng đều với nhau. Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đó là ngày thứ ba của kỷ nguyên tư tưởng mới. - Và Thiên Chúa thấy cách loài người khắp hoàn cầu khởi công khám phá và loại trừ các nguyên nhân gây nên đói khát, bệnh tật, dốt nát và nghèo đói bất công. Họ khởi sự san sẻ cùng nhau những gì thuộc về tất cả và vì lợi ích chung và sự sống còn của toàn cầu, họ khởi sự xem xét các khía cạnh tích cực và quan điểm chung của các dân tộc và tôn giáo.
Và Thiên Chúa phán: “Sự việc phải như vậy”. Và đó là ngày thứ tư của cuộc sáng tạo mới. - Và Thiên Chúa thấy cách loài người, với một ý thức hoàn hảo, có trách nhiệm chứ không vì ham muốn quyền lực, khởi sự sử dụng tài nguyên thiên nhiên được giao phó cho mình, đặc biệt là chất đốt rút ra từ lòng đất và năng lượng nguyên tử. Thiên Chúa thấy cách lương tâm họ luôn thức tỉnh thúc đẩy họ tự vấn xem lại các dự án mới mà họ định nghiên cứu có thích hợp với việc phục vụ Thiên Chúa và nhân loại không. Họ từ bỏ ương ngạnh để chủ trương tế nhị, từ bỏ tham lam để chủ trương không vụ lợi, ích kỷ cá nhân và quốc gia để chủ trương tinh thần liên đới. Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Đó là ngày thứ năm của một thế giới nhân đạo hơn. - Và Thiên Chúa thấy cách loài người năm châu khởi sự tháo gỡ và phá bỏ các dàn phóng hoả tiễn, các kho bom đạn, vũ khí hoá học, vi trùng cũng như các vệ tinh do thám và hệ thống truy tầm, giải phóng quân đội và vì thế phổ biến trong học đường và chương trình giáo dục những mô hình sư phạm về hoà bình minh bạch và hữu hiệu đến nỗi các cuộc tranh chấp có thể được giải quyết bằng đường lối hoà bình.
Và Thiên Chúa phán: “Tất cả như thế là tốt”. Đó là ngày thứ sáu của một bầu trời mới. - Và Thiên Chúa nhận thấy cách loài người bắt đầu tái nhận biết Ngài nơi mọi sự, Ngài, Thiên Chúa hằng yêu quý sự sống. Họ coi cuộc tranh đấu cho sự sống, cho phẩm giá và cho việc nhìn nhận quyền lợi mỗi cá nhân là một việc phụng vụ Thiên Chúa. Và mỗi lần một trong những ý thức hệ họ sụp đổ, lúc thảo lại một hiến pháp mới, họ ghi vào đó rằng: Ta đừng bao giờ quên lãng Thiên Chúa là nguồn gốc và tận cùng một thế giới công bình và nhân đạo. Và họ nhìn nhận con người được sống và được giải phóng là dấu chỉ của Thiên Chúa trong lịch sử. Và Thiên Chúa phán: “Bây giờ, tất cả đều trở nên tốt lành”. Đó là ngày thứ bảy của việc sáng tạo hoàn cầu. Từ đây hoàn cầu đồng thuộc về nhân loại mới và Thiên Chúa.
Một nền hoà bình đích thực dẫn đưa con người đến “trời mới, đất mới” (Kh 21,1) một cách vĩnh cửu với Đấng là sự Thật và là Sự Sống. Loại bỏ những việc làm đen tối (Rm 13,13) và mặc lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14) thì nhân loại sẽ xây dựng được nền hoà bình vĩnh cửu.
Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia. Khi Ngài đến, Ngài đã thiết lập thời đại hoà bình vĩnh cửu.Thánh Marcô kể rằng trong 40 ngày ở hoang địa, Ðức Giêsu đã sống chung một cách hòa thuận với các dã thú, và các thiên sứ hầu hạ Ngài (Mc 1,12). Giáo Hội thời sơ khai cũng là một cảnh thái bình. Sách Công vụ tông đồ viết: "Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Ðền thờ. Khi làm lễ Bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến" (Cv 3,44-47).
Trong Mùa Vọng này, mỗi người hãy nỗ lực xây dựng cảnh thái bình trong gia đình, trong khu xóm, trong giáo xứ mà mình đang sống.
Hôm nay cung thánh đượm vẻ u buồn. Lễ phục mang màu tím. Màu tím của lặng lẽ hy sinh: MV 1-A75
Hôm nay cung thánh đượm vẻ u buồn. Lễ phục mang màu tím. Màu tím của lặng lẽ hy sinh. Màu tím của âm thầm cầu nguyện. Màu tím của tha thiết đợi chờ. Màu tím ấy nhắc cho ta biết: ”Hôm nay ta đã bước vào mùa Vọng.”
Mùa Vọng là mùa đợi chờ. Đợi chờ Chúa đến cứu độ ta. Cuộc đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi, quá nhiều bế tắc. Chỉ có Chúa mới có thể thay đổi đời ta, giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa ta vào tình trạng thánh thiện của con cái Chúa.
Như thế mùa Vọng cũng là mùa hy vọng. Đợi chờ chính là hy vọng. Như thế trong màu tím buồn chờ đợi đã thấy thấp thoáng màu xanh hy vọng vui tươi. Nhưng làm sao để màu tím biến thành màu xanh? Làm sao nắm bắt được niềm hy vọng? Làm sao gặp được Chúa khi Người ngự đến? Lời Chúa sẽ hướng dẫn ta sống tinh thần mùa Vọng này.
Trong tuần thứ nhất mùa Vọng, Chúa Giêsu khuyên ta noi gương tổ phụ No-e. Tổ phụ No-e đã được cứu thoát khỏi nạn hồng thủy nhờ thái độ sống tích cực trước lời hứa của Chúa. Thái độ tích cực đó gồm hai điểm hỗ tương.
1) Chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào cuộc đời tối tăm hiện tại
Người ta sống nhờ hy vọng. Không có hy vọng, không ai sống nổi ở đời. Cuộc đời phù du mau qua. Cuộc đời tràn ngập đau khổ. Cuộc đời quá nhiều thử thách. Nhờ hy vọng con người mới có thể tiếp tục sống, làm việc và thăng tiến.
Chính vì hy vọng một mùa gặt bội thu mà người nông dân không ngại dầm sương dãi nắng, thức khuya dậy sớm, cần cù cày bừa, gieo vãi và vun tưới.
Chính vì hy vọng đậu đạt mà học sinh, sinh viên không ngại vất vả, ăn uống đơn sơ, giảm bớt vui chơi, đêm đêm chong đèn đọc sách.
Chính niềm hy vọng được cứu thoát đã giúp tổ phụ No-e có đủ can đảm và kiên nhẫn, đầu tư thời giờ và công sức để đóng một con tàu lớn. Niềm hy vọng được nuôi dưỡng bằng lời hứa của Chúa. Tin tưởng vào Lời Chúa, tổ phụ No-e sống tràn đầy niềm hy vọng vào tương lai. Niềm hy vọng đó giúp Ngài vượt qua những khó khăn hiện tại.
2) Sống tích cực giây phút hiện tại để chuẩn bị cho tương lai.
Niềm hy vọng vào tương lai giúp ta thêm can đảm. Nhưng nó không cho phép ta thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Niềm hy vọng tách rời khỏi thực tế sẽ trở thành ảo vọng. Vì thế muốn đạt tới niềm hy vọng tương lai, ta phải tích cực sống phút giây hiện tại. Phải tích cực làm việc cho tương lai.
Tổ phụ No-e không ngồi khoanh tay chờ Chúa đến cứu, nhưng đã bắt tay vào việc. Ngài làm việc cật lực, bất chấp những lời dèm pha, dị nghị của những người chung quanh.
Tục ngữ Pháp có câu: Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp. Tổ phụ No-e đã thực hiện đúng như thế. Ngài đã dồn hết công sức vào việc chuẩn bị tương lai. Và Chúa đã cứu Ngài như lời đã hứa.
Đời sống ta là một mùa Vọng kéo dài. Mùa Vọng trần gian muốn phủ ta trong màu tím buồn của những gian nan thử thách, những thất bại, những chán nản, lo âu, nghi ngờ, mệt mỏi. Ta hãy noi gương tổ phụ No-e, tin tưởng vững chắc vào lời Chúa hứa. Lời Chúa sẽ chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào những tăm tối u buồn hiện tại. Như tổ phụ No-e, ta không ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng tích cực làm việc bổn phận trong hiện tại. Làm mọi việc thường ngày với lòng tin tưởng vững chắc. Làm những việc nhỏ mọn với tình mến Chúa yêu người tha thiết. Đó chính là cách ta sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Đó chính là ta tỉnh thức không bị lỡ cơ hội khi Chúa đến.
Qua phần phụng vụ Lời Chúa sáng hôm nay, Giáo Hội muốn đặt chúng ta trước số phận đời đời: MV 1-A76
Qua phần phụng vụ Lời Chúa sáng hôm nay, Giáo Hội muốn đặt chúng ta trước số phận đời đời đang chờ đón. Thực vậy, Giáo Hội đã lên tiếng khuyên nhủ chúng ta: đừng để cho những vui thú ru ngủ, trái lại hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì Đức Kitô sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ và giờ chúng ta không biết. Nhất là qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trình bày về ngày sau hết như là một biến cố bất ngờ, không ai nắm vững. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại nghĩ rằng: Ngày ấy còn xa và có lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy đến.
Trong phạm vi cá nhân, thì ngày sau hết chính là ngày cái chết gõ cửa. Đúng thế. Cái chết là một sự kiện vừa chắc chắn lại vừa gần gũi. Với cái chết chúng ta sẽ phải ra trước toà án tối cao của Thiên Chúa, để chịu phán xét về những việc lành dữ mình đã làm khi còn sống ở trần gian này.
Bài Phúc Âm đã cho chúng ta thấy hai giới tuyến rõ rệt: Bấy giờ, hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Vậy thì Lời Chúa có ý nghĩa gì?
Cả hai trường hợp đều cho chúng ta thấy hai người đang làm việc trong ngày Đức Kitô trở lại, thế nhưng số phận đời đời của họ thì lại hoàn toàn khác biệt nhau. Một người thì sẽ được đưa về trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, còn một người thì sẽ bị đày đoạ trong hoả ngục với muôn vàn khổ đau. Bởi vì họ đã chống đối ơn sủng và tình thương của Chúa cho đến cùng. Chính vì thế mà vấn đề quan trọng nhất đó là sống trong tình thương và ơn sủng của Chúa.
Vì yêu thương chúng ta và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Trong một ngày mà thôi, có biết bao nhiêu người đã phải vĩnh viễn ra đi vào lúc họ nghĩ rằng ngày ấy còn xa, nên chẳng kịp chuẩn bị và sửa soạn. Một tai nạn xe hơi. Một cơn đau tim hay một ngọn gió độc bất ngờ nào đó.
Chúng ta phải cảm phục thái độ can đảm của những người tín hữu trưởng thành, khi phải đối đầu với cái chết. Họ đã giục lòng ăn năn ám hối xin Chúa xoá bỏ tội lỗi. Họ coi đó như là một hồng ân Chúa ban bởi vì họ đã kịp chuẩn bị cho mình một cái chết tốt lành và thánh thiện. Cái chết là một biến cố quan trọng nhất của cuộc sống, còn quan trọng hơn cả ngày chúng ta mở mắt chào đời, bởi vì kể từ đó, số phận đời đời của chúng ta được ấn định.
Vì thế, bằng mọi cách chúng ta phải chuẩn bị cho giờ chết, và phải được chết đi trong tình thương và ơn sủng của Chúa. Để đạt tới mục đích này, không gì hơn là hãy thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô: Đừng ngủ quên, cũng đừng chìm đắm trong vui thú. Ngài nói: Đêm sắp tàn và ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vị ám muội và mang lấy khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tỵ. Chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng xác thịt. Nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô.
Bởi vì chỉ mình Ngài mới là đường, là sự thật và là sự sống của chúng ta mà thôi.
Phần đầu của diễn từ này đã kể ra những dấu hiệu rõ ràng báo trước cuộc Quang lâm. Còn đoạn văn: MV 1-A77
1. Phần đầu của diễn từ này đã kể ra những dấu hiệu rõ ràng báo trước cuộc Quang lâm. Còn đoạn văn chúng ta đây, khởi đầu phần hai, nhấn mạnh điều gì? Có mâu thuẫn giữa hai phần không?
2. Mt là người duy nhất trong bốn tác giả Tin Mừng dùng chữ "Quang lâm" (Parousia) (24,3.27.37.39). Chữ này có nghĩa nào trong thế giới La-Hy?
3. Phải chăng các câu 40-41 nhằm trình bày cuộc Phán xét tận cùng như một thứ định mệnh mù quáng và ngẫu nhiên? Đâu là điểm chung giữa nhung hình ảnh rút ra từ cuộc sống hằng ngày?
4. Các câu 42-44 có cho biết sự tỉnh thức hệ tại điều gì không? Các dụ ngôn tiếp theo đó (24, 45-51; 25, 1-13; 25, 14-30) có lấy lại và soi sáng chủ đề tỉnh thức này không?
5. Trong dụ ngôn ở câu 43-44, việc Con Người được so sánh với một tên trộm có đáng ngạc nhiên không? Phải chăng đấy là trọng tâm của dụ ngôn? Giáo Hội sơ khai đã mặc cho dụ ngôn này ý nghĩa nào?
***
1. Trong phần đầu của diễn từ Cánh chung (cc.1-36), Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: Con Người chắc chắn sẽ đến và đến một cách rõ ràng. Mặc dù có những hạng thiên sai và ngôn sứ giả (cc.24-26) mà các tín hữu phải đề phòng, người ta vẫn không thể lầm lẫn được. "Vì như sấm chớp lòe bên đông rạng bên tây thế nào, thì cuộc Quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy" (c.27). Dụ ngôn cây vả nằm trong chiều hướng, ý nghĩa đó (cc.32-34): đừng hoang mang trước làm gì vô ích, sẽ có những dấu hiệu chắc chắn báo động cho các ngươi.
Với các câu 37-41, ta đi sang một ý tưởng khác, không phải là hệ luận của ý tưởng trước đó. Nếu Con Người sẽ phải đến cách rõ ràng, ai nấy đều nhận ra được, thì Người cũng đến một cách đột ngột bất ngờ. Việc đối chiếu với câu chuyện lụt đại hồng thủy thời Noe nhấn mạnh tới nguy cơ của tình thế ấy.
Để nói về việc Con Người trở lại, thánh Matthêô, duy nhất trong bốn tác giả, đã dùng từ ngữ "Quang lâm" (Parousia) (24,3.27.37.39). Nguyên khởi, chữ này có nghĩa là "đến, hiện diện". Trong thế giới La-Hy (Hy lạp-La mã), người ta dùng nó để chỉ việc hoàng đế long trọng ngự đến hay chính thức thăm viếng một thành nào. Trong Kitô giáo sơ khai, từ ngữ sớm được sử dụng để nói về cuộc trở lại vinh quang của Chúa Kitô vào ngày cánh chung (x. 1Tx 2,19; 4, 15; 2Tx 2, 1.8.9; 1Cr 15,23). Trong ngày ấy, phải tỏ ra không gì đáng trách (1Tx 3,16; 5,23), vì như bản văn cho thấy, phán xét đi liền với Quang lâm.
Chúa Giêsu, khi kể các dụ ngôn, thường ưa dùng những ám dụ lấy từ Cựu ước, dễ hiểu đối với thính giả cây nho: hình ảnh Israel; người cha, vị quan tòa, ông chủ đất, người chủ hộ: hình ảnh Thiên Chúa, mùa gặt: hình ảnh cuộc Thẩm xét v.v...). ở đây Người tạo ra một ám dụ mới: cuộc Quang lâm của Con Người vào lúc tận cùng giống như một trận đại hồng thủy thứ hai. Hình ảnh được chọn cho thấy khá rõ ý tưởng diễn tả: cánh chung sẽ là một tai ương thình lình đổ xuống đầu mọi người. Thay vì mâu thuẫn với ý tưởng trước nói về biến cố được nhiều dấu hiệu tiên báo, các câu 37-41 trình bày một viễn tượng khác: thái độ của con người. Thiên hạ thời Noe không ngờ được chuyện gì cả và vẫn cứ ăn uống, cưới vợ lấy chồng. Sự vô tri này thật là nguy hiểm: họ đã chết vì đã không nhận ra dấu hiệu nào. Ngày tận cùng cũng vậy. Tai ương treo trên đầu mọi người và sẽ rơi lúc nào không hay. Trong ngày đó, toan tính gì thì đã quá muộn: phải mở mắt ngay từ lúc này đây!
2. Cuộc Phán xét chẳng những bất ngờ mà còn tức khắc. Người ta sẽ không còn giờ, còn cách nào chuẩn bị. Và khi mà thiên hạ tưởng là chẳng có gì khác biệt, thì lúc ấy lại có một cuộc lựa lọc: lúc ấy ta sẽ biết ai là trinh nữ khôn ngoan và dại khờ, ai là tôi tớ tín thành và bất trung (25, 1-30). Để diễn tả ý tưởng đó, bản văn dùng những hình ảnh lấy trong đời sống thường ngày: hai người làm ngoài đồng, hai bà đang xay bột.
Chắc hẳn đây là một nhóm thí dụ làm thành một ngạn ngữ bình dân mà Chúa Giêsu trích ra cho môn đồ. Thật thế, một bản văn Do thái còn giữ lại bằng tiếng copte, Khải huyền của Xôphônia (1, 8-16) có kể ra 3 thị kiến mà chẳng giải thích, như thể độc giả đã quá quen thuộc cảnh tượng; ba thị kiến này tương ứng lạ lùng với Mt và Lc: "Lúc bấy giờ tôi thấy hai người đang sóng bước trên cùng một lộ trình: tôi nhìn họ nói chuyện với nhau. Và tôi cũng thấy hai người đàn bà đang xay bột và tôi nhìn họ trong lúc họ cùng nhau trò chuyện. Và tôi cũng thấy hai người trên giường trong lúc họ đang nằm nghỉ" (x. P.Lacan, Joumal Asiatique, 1966, tr. 169-177). Ba lần lặp đi lặp lại này, thường thấy trong văn chương hy bá, cho ta liên tưởng tới một châm ngôn thông dụng mà các Tin Mừng cũng như cuốn sách Khải huyền Do thái nói đây đều tham chiếu.
Dầu sao, những thí dụ bình dân kia thật rõ ràng. Kẻ này người nọ đều lao động, đều cùng làm một công việc (hoặc cùng nghỉ ngơi, theo Luca), chẳng có gì khác nhau. Về phương diện này, cảnh hai người đàn bà đang xay bột thật đặc biệt sống động. Cối họ dùng là một thứ cối xay bằng tay nhỏ như ta còn thấy ngày nay bên Đông phương. Nó gồm hai khói đá tròn lắp chồng lên nhau; khối dưới nằm yên, và có một trục đứng; khối trên xoay động và có lỗ trũng ở giữa. Để xay, hai bà ngồi hai bên cối, cùng nắm một cái cán thẳng đứng và xoay tròn khối đá bên trên. Họ phải hòa hợp động tác với nhau và làm theo một nhịp điệu. Luca có nhấn mạnh đến tính cách tập thể của công việc này: "Hai bà cùng nhau xay bột". Nhìn họ làm việc ta chẳng thấy có gì khác giữa hai người. Thế nhưng, "một sẽ được đem đi, và một sẽ bị để lại".
Vì vào giờ ấy sẽ có sự phân biệt rẽ đôi giữa loài người bề ngoài xem ra giống nhau. Chỉ lúc đó mới thật sự xuất hiện sự xung khắc ghê gớm giữa họ: người này được cứu, người kia hư mất. Và dù không ai biết, người này đã ở trong ánh sáng và kẻ kia đã ngập trong tăm tối rồi. Đến lúc ấy mới chuẩn bị, mới ăn năn, mới xin can thiệp thì đã quá muộn.
3. Đứng trước giây phút chung cục cấp bách và thình lình như nước lụt đó, người tín hữu phải luôn tỉnh thức. Các câu 42 và 44 không cho ta biết phải tỉnh thức như thế nào mà chỉ nói: môn đồ Chúa hãy san sàng luôn vì đã được báo động. "Hãy tỉnh thức": mệnh lệnh đó kết thúc đoạn so sánh với lụt đại hồng thủy (c.42) và mở đầu một khai triển mới. Thật vậy, chủ đề tỉnh thức được lấy lại và minh giải qua những dụ ngôn cho thấy các hậu kết thực tiễn của việc chờ mong Chúa Kitô trở lại. Tỉnh thức chẳng phải là một thái độ nội tâm mơ hồ hay một nhân đức tiêu cực, cũng không có vẻ gì là một sự chờ đợi nôn nóng hay rối loạn cả. Đó là lòng trung thành với nhiệm vụ đã được giao phó (dụ ngôn người quản gia), là việc chuẩn bị đón Chúa Kitô trở lại (dụ ngôn mười trinh nữ), là yêu sách chu toàn trách nhiệm của mình (dụ ngôn các nén bạc), là bổn phận giúp đỡ các anh em hèn mọn nhất của Chúa Kitô.
4. Ý nghĩa dụ ngôn tên trộm (c.43) tự nó không khó hiểu. Cái tế nhị và khó khăn là vấn đề áp dụng dụ ngôn đó lúc ban đầu ở Đông phương, nơi trộm cắp hoành hành ban đêm, người ta thường rất sợ những cuộc thăm viếng như vậy lắm. Lề luật đã tiên liệu trường hợp gia chủ giết tên trộm nếu bắt gặp hắn đang đêm (Xh 22,2). Do đó, thay vì truy tầm nguồn gốc chủ đề tên trộm này trong những ám chỉ xa xôi, mơ hồ của Cựu ước (Gr 49, 4; G 24, 14), có lẽ nên nghĩ đến một vụ trộm vừa mới xảy ra tại địa phương - như động từ ở thì quá khứ muốn bảo (tất ông đã tỉnh thức và đã không để nhà bị đào ngạch). Chúa Giêsu dùng sự kiện đó để một lần nữa báo động cho các thính giả biết cơn khủng hoảng gần kề: hãy đề phòng để khỏi bị bắt chợt như gia chủ kia. Ông ấy đã không thể đoán trước; nhưng các ngươi, các ngươi chẳng được quyền nói: "Nếu tôi đã hay mọi chuyện". Vì đù không rõ ngày giờ, các ngươi vẫn biết tai biến sẽ tới bởi Ta đã báo cho hay. Như vậy ý nghĩa nguyên thủy của dụ ngôn này chắc hẳn trùng với ý nghĩa của dụ ngôn Noe.
Sự kiện trên giải thích một điểm có lẽ đã làm ta bỡ ngỡ là lối so sánh cuộc viếng thăm của tên đạo chích với cuộc trở lại của Con Người. Trọng tâm dụ ngôn không nằm trên lối so sánh đó, nhưng trên tính cách bất ngờ của biến cố. Một chuyện xảy ra không ai lường trước được. Vì vậy phải chờ đợi, cho dù chẳng biết thời cơ. Đàng khác, cần lưu ý rằng, đối với Kitô hữu, ngày trở lại của Chủ là một ngày vui chứ chẳng phải là một ngày tai biến.
Hình như ở đây truyền thống sơ khai đã mặc cho dụ ngôn này ý nghĩa ám dụ (và Kitô học). Ta thấy có dấu vết của việc chuyển từ dụ ngôn sang ám dụ khi so sánh Mc 13, 35:,"Các ngươi không biết lúc nào chủ nhà trở về " với Mt 24,42: "Các ngươi không biết ngày nào Chủ các ngươi đến." Ở đây cộng đoàn Kitô hữu đã áp dụng cho mình một dụ ngôn có ý nghĩa tổng quát hơn nhiều. Trong tình thế họ đang sống, trước sự trì hoãn của ngày Quang lâm, cộng đoàn đã hơi xê dịch trọng tâm dụ ngôn khi lấy tên trộm làm hình ảnh Con Người. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh sự đột ngột của ngày Chung thẩm. Còn Kitô hữu sơ khai lại nghĩ tới Đấng sẽ đến phán xét vào ngày cánh chung. Chủ sẽ đến, đó là điều họ đoan chắc, nhưng Người sẽ đến thình lình. Thành ra phải không ngừng thức tỉnh.
Ta biết hình ảnh tên trộm ấy được Tân ước nhắc lại nhiều lần. Chắc chắn nó phát xuất từ dụ ngôn này, bởi vì các bản văn Do thái giáo nói về ngày cánh chung không hề dùng đến nó. Thế mà trong 1Tx 5, 2-4 cũng như 2Pr 3,10, chính Ngày của Chúa theo nghĩa Cựu Ước (x. Am 5,18), tức là ngày sau cùng, (được so sánh với một tên trộm Ngày ấy bắt chợt mọi người, tín hữu cũng như lương dân; chỉ có những ai săn sàng mới không bị chộp thình lình. Như vậy, dụ ngôn đã được hiểu theo ý nghĩa Chúa Giêsu muốn. Tuy nhiên, trong Khải huyền (3,3; 16,15), Chúa Kitô đến như một kẻ trộm, và Người chỉ báo động cho Kitô hữu thôi. Chúng ta gặp lại ở đó ý nghĩa mà Giáo Hội sơ khai đã tìm thấy trong dụ ngôn.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Thiên hạ cứ ăn uống": Lụt đại hồng thủy xảy đến vì nhân loại đã hoàn toàn sa đọa. Nhưng ở đây Mt không chủ ý nhắc đến sự đồi trụy có tính cách truyền kỳ của thời Noe; ông chỉ muốn nói đến đời sống bình thường của con người. Điều bản văn muốn nhấn mạnh là: một đời sống hoàn toàn tự nhiên như thế, không trái gì với luật Thiên Chúa, chẳng đồi trụy chút nào, vẫn không hề làm cho người ta tưởng nhớ đến ngày phán xét. Vậy mà, chính trong những điều kiện như thế, cuộc chung thẩm sẽ bất ngờ xảy ra.
"Một sẽ được đem đi, và một sẽ bị để lại”: Được đem đi có nghĩa là được đem về Nước Trời, và bị để lại có nghĩa là bị hư mất mãi mãi.
KẾT LUẬN
Lời Chúa Giêsu khẳng quyết ta không thể biết đâu là ngày giờ tận cùng như muốn bảo chúng ta đừng tính toán, giả định thời gian Người đến. Mối hy vọng Người trở lại đừng biến thành một sự chờ mong nôn nóng, song như là niềm xác tín rằng: Đấng đã và đang đến sống giữa các thân thuộc Người, sẽ ban cho cuộc đời con người và vũ trụ một ý nghĩa đích thực, để Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người (1Cr 15, 24-28).
Nhưng được giải tỏa khỏi thắc mắc "khi nào và làm sao", Kitô hữu lại càng phải sống như thể ngày đó gần kề. Trong ý nghĩa này, bản văn không mời gọi ta luôn ngước mắt về trời cho bằng hãy quan tâm đến những bổn phận thường nhật mà Chủ bảo phải làm. Ngày giờ tận cùng càng bí ẩn bao nhiêu, thì sự tỉnh thức càng khẩn thiết bấy nhiêu. Lời kêu gọi của các Tin Mừng: "Hãy sẵn sàng? Hãy tỉnh thức" phải vang dội trong tâm khảm những ai đang đón chờ ngày hội ngộ lớn lao đó, không như một mối ám ảnh về ơn rỗi riêng tư, nhưng như một đòi hỏi trung thành với nhiệm vụ Chủ đã trao phó.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Bên ngoài, không có gì phân biệt hai nông dân đang làm việc ngoài đồng và hai bà đang xay bột. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, có một cái phân biệt họ, đó là thái độ nội tâm. Một người thuộc về số những kẻ không ngờ được chuyện gì, người kia thuộc về số biết rõ. Người thì chỉ lưu ý đến cuộc sống, dự định của mình, kẻ kia. quan tâm đến Thiên Chúa và ngày Ngài trở lại. Một chỉ nghĩ đến công việc riêng tư còn người kia làm việc trước mặt Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng hiện diện trước mặt họ y như công việc họ đang làm. Người thì ngủ, kẻ lại tỉnh thức. Lời này chiếu dãi ánh sáng trên cuộc sống hằng ngày của ta. Cái quan trọng không phải là việc làm nhưng là cách làm.
2. Lời khuyên tỉnh thức chờ mong Chúa Giêsu đến không chỉ nhắm vào thời sau cùng, nhưng còn nhắm tới việc Người đến trong đời mỗi người chúng ta: giờ chúng ta chết. Không ai hay được giờ ngày mình chết, chẳng ai biết cách tính toán, dự phòng. Giờ chết có thể đến thình lình, bất ngờ, đang lúc làm việc ngủ nghỉ, hay giải trí. Việc chuẩn bị chết cũng là việc chuẩn bị ngày Quang lâm. Nếu thật sự quan tâm đến tính cách bất ngờ và bí ẩn của giờ đó, nếu sẵn sàng luôn luôn, ta sẽ có một thái độ thực sự Kitô giáo để đón chờ Chúa đến.
3. Chúng ta, người tín hữu, đang sống trong một thế giới mà đối với nó, niềm xác tín việc Chúa Kitô trở lại với bao hậu quả kèm theo chẳng có một ý nghĩa gì. Thế giới quanh ta không chống cũng chẳng bênh việc trở lại đó; họ không hay biết điều ấy; họ cho là ảo tưởng, hão huyền. Niềm xác tín của chúng ta bị xem là dị thường, kỳ lạ; đức tin chúng ta vẫn luôn bị đồng hóa vào một thứ mê tín lỗi thời. Thế gian có lẽ chấp nhận sự hiện hữu của Giáo Hội như một tôn giáo tổ chức chặt chẽ, khả dĩ phục vụ được nhân loại trong vài vấn đề nhất thời hơi quá sức con người; thế gian thừa nhận Giáo Hội xét như Giáo hội giống với nó và đồng hóa với nó, nhưng ý nghĩa sâu xa của Giáo Hội là nhắc nhở và chuẩn bị ta chờ đón Chúa đến thì thế gian không bao giờ hiểu được. Thành ra thật là vô ích khi người tín hữu đi tìm trong thế gian và trong não trạng hiện thời những lý do để tin vào Chúa Giêsu và tin vào ngày Người trở lại; thế gian luôn bất lực, ngay cả trong nhung mộng ước, dự định điên rồ nhất và cuồng loạn nhất của nó. Vì thế, Chúa đã nhấn mạnh: "Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng". Người biết rõ rằng đời sống thường nhật với bao nhiệm vụ gia đình và xã hội, cũng như não trạng đang sinh động nhân loại quanh ta, không thể giúp gì cho ta trong chuyện ấy; hơn nữa, ta thường xuyên bị lôi kéo vào sự vô ý thức chung, vào sự mê ngủ thiêng liêng toàn diện. Đôi khi ta đau khổ, lắm lần ta bỡ ngỡ vì tình trạng đó; song đừng viện cớ ấy mà thoái thác và làm phai nhạt trong ta niềm xác tín ngày Chúa trở lại.
4. Suốt Mùa Vọng này, Chúa sẽ tỏ mình cho mỗi người chúng ta. Đấy là điều chắc chắn: Chúa sẽ thông ban chính mình cho kẻ tìm Người qua sự bằng an nội tâm sâu xa hơn, một đức ái thực sự hơn, một sức can đảm mạnh mẽ để đương đầu với trách nhiệm hơn. Ta hãy chú ý và tỉnh thức để bắt gặp giờ của Người; giờ ấy sẽ làm cho ta nếm được tình yêu đích thật của Người và củng cố niềm tin của chúng ta vào việc Người đến lần sau hết.
1. Những câu hỏi “khi nào” và “thế nào” không có giải đáp:
Chúng ta mở đầu bài Phúc Âm bằng đoạn cuối cùng, hay gần như cuối cùng của Tin Mừng thánh: MV 1-A78
Chúng ta mở đầu bài Phúc Âm bằng đoạn cuối cùng, hay gần như cuối cùng của Tin Mừng thánh Mátthêu. Như thế, Phụng vụ muốn khẳng định ngay rằng Đấng mà chúng ta đang chờ đón đến với chúng ta dịp lễ Giáng Sinh, chính là Đấng sẽ trở lại vào ngày tận thế, và cũng là Đấng luôn luôn đến với chúng ta.
Đáp lại lời các môn đệ đang trầm trồ trước vẻ huy hoàng của đền thờ Giêrusalem, Đức Giêsu khiến mọi người sửng sờ khi báo trước rằng, dấu chỉ tuyệt vời của sự hiện diện Thiên Chúa đối với dân Ngài ấy chắc chắn sẽ bị huỷ diệt. Ngài khẳng định: Tất cả những gì các con xem thấy, sẽ chẳng còn hòn đá nào trên hòn đá nào; tất cả sẽ bị huỷ diệt (24,2).
Trở lại núi Cây Dầu, nơi ta có thể nhìn thấy toàn cảnh Thành Thánh và Đền Thờ, Đức Giêsu ngồi xuống lập tức các môn đệ tới tấp đặt câu hỏi: Xin Thầy hãy nói cho chúng con biết khi nào điều đó xảy đến. Xin hãy nói cho chúng con đâu sẽ là dấu chỉ cho biết Thầy đến, và đâu là dấu chỉ cho biết ngày tận thế (24, 3).
Đức Giêsu bỏ qua không trả lời những câu hỏi này, bởi vì theo Ngài, đó là điều bí mật của Chúa Cha (24,36).
2. Một huấn lệnh cần phải được tuân giữ ngay lập tức.
Nếu Đức Giêsu từ chối không tham dự vào những cuộc tranh luận của các môn đệ - xưa cũng như nay - về việc Con Người sẽ trở lại "Khi nào" và "thế nào", thì Ngài lại mạnh mẽ khẳng định rằng đó là điều không thể tránh né. Vì thế, Ngài khuyến khích các tín hữu đang sống trong dòng lịch sử, hãy luôn luôn sẵn sàng: "Vậy hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết khi nào Chúa sẽ đến. Vậy các con hãy sẵn sàng: chính vào giờ các con không ngờ mà Con Người đến. Trong Phúc âm thánh Matthêu, có bốn dụ ngôn minh hoạ lời Ngài dạy. Sau đây là những dụ ngôn được chọn cho Chúa nhật thứ I Mùa Vọng:
- Dụ ngôn về lụt đại hồng thuỷ:
Vào thời Noe, chỉ một mình tổ phụ được "chừa lại", khi ngài vào trong tàu; chỉ một mình ngài được cứu thoát, bởi vì ngài biết nhìn thấy trước biến cố lụt lội phủ lấp trái đất, ngài đã đọc được những dấu chỉ loan báo việc sắp xảy đến. Những người khác cứ tiếp tục cuộc sống thường ngày, không chút mảy may nghi ngờ, nên đã bị "nuốt trửng", không phải vì hạnh kiểm họ xấu, mà vì không biết phòng xa. Cũng vậy, khi Con Người đến, Ngài sẽ quyết định dứt khoát mối liên hệ đời thường nhất giữa những người đang sát cánh bê nhau miệt mài trong cùng một công việc "đang làm ruộng" hay "đang xay bột". Một số người biết chuẩn bị tích cực sẽ "được đem đi", nghĩa là "được cứu thoát". Những người khác, cứ sống mà không biết thấy trước ngày sắp đến, sẽ bị "bỏ lại".
- Dụ ngôn kẻ trộm ban đêm:
Con Người đến như lụt đại hồng thuỷ không ai biết trước, như việc tên trộm lẻn đến ban đêm, âm thầm chọc thủng những tấm vách mỏng mang của những mái nhà rách nát xứ Palestine. Vì thế, thái độ duy nhất phải có là luôn luôn "tỉnh thức", "sẵn sàng". Không phải trong sợ hãi, mà là trong thanh thản; không phải co rúm tê liệt đi, mà là trong niềm khao khát và năng động mong chờ ngày Chúa đến. Bằng cách lãnh nhận trách nhiệm của chúng ta. Bằng cách chu toàn sứ mạng được trao phó (24,45-5l): Bằng cách đến cứu giúp những anh em nghèo túng.
"Vậy người Kitô hữu dấn thân sống như là ngày tháng xét đã đến. Hiện tại của thế giới bị chất vấn bởi tương lai. ước mong rằng người tín hữu luôn trung thành với ơn gọi và sứ mạng đã lãnh thận" ("Célébrer", n. 224, trang 18).
BÀI ĐỌC THÊM:
1.“Đức Giêsu đến gặp chúng ta một cách bất ngờ, nhưng không phải là không báo trước"
Ngày và giờ là bí mật của Chúa Cha. Đó không phải là cơn thịnh nộ và sự trừng phạt vào ngày đã định. Nói rằng chỉ một mình Chúa Cha biết ngày tận thế và việc con Người trở lại, có nghĩa là đặt thế giới và nhân loại trong tay của Ngài, trong đôi tay nhân từ của Ngài. Đó là đặt chúng ta trong sự thanh thản, an toàn: ai có thể rứt chúng ta ra khỏi đôi tay của Chúa Cha? Chúng ta còn sợ gì nếu chúng ta được ấp ủ trong tình yêu của Ngài?
Đức Giêsu không mời gọi ta sợ hãi, nhưng mời gọi ta tỉnh thức. Ngài so sánh lụt đại hồng thuỷ và ông Noe: Người ta không nghi ngờ gì hết cho đến khi lụt đại hồng thuỷ đến cuốn trôi hết tất cả mọi sự. Tất cả mọi người mãi lo lắng sự đời: người ta mãi lo ăn uống, cưới vợ gã chồng. Chúng ta cũng vậy, chúng ta mãi lo lắng sự đời, và đó là điều cần thiết! Chính lúc đó, Chúa đến gặp chúng ta. Nhưng để khỏi bị bất ngờ khi Ngài đến, chúng ta phải chuẩn bị như ông Noe. Cũng giống như ông, chúng ta có lời Chúa cảnh báo và nhắc nhở chúng ta; Đức Giêsu nói: Đó, Thầy đã báo trước cho các con. Ngài đến gặp chúng ta một cách bất ngờ, nhưng không phải là không báo trước. Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra vào lúc tận thế. Cái chết của mỗi người cũng sẽ bất ngờ. Phải chăng cái chết không là ngày tận thế, ngày tận thế riêng của mỗi người, lúc mà Đức Giêsu đến gặp riêng mỗi người? Ít nhất điều đó đã cảnh báo chúng ta qua ví dụ của Phúc âm: Bấy giờ hai người đàn ông trên cánh đồng: một người sẽ được đem đi, người kia bị bỏ lại; hai người đàn bà đang xay bột ở cối xay: một người được đem đi, một người bị bỏ lại... Quan trọng nhất vẫn là tỉnh thức. Không lo lắng, nhưng chú ý, chú ý vào Chúa Cha, chú ý vào Đức Giêsu Kitô. Nếu chúng ta không biết ngày và giờ, thì điều quan trọng là phải biết Ngài, và phải nhận ra Ngài khi Ngài đến với chúng ta. Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại hai lần rằng vì ta không biết nên ta phải tỉnh thức: Vậy hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết ngày nào Chúa sẽ đến... Để kết thúc, Ngài dùng một ví dụ chỉ cho thấy sự nghiêm trọng của tình thế, và sự gấp rút phải tỉnh thức. Ví dụ hơi mâu thuẫn, vì nói về một ông chủ nhà tỉnh thức, bởi lẽ ông ta biết giờ kẻ trộm lẻn đến ban đêm. Khi biết, thì dễ chờ đợi hơn còn chúng ta, chúng ta thấy thời gian dài, mà chẳng hay biết gì. Không biết là một lý do khiến chúng ta đừng ngủ say. Được hay thua thì điều quan trọng là đừng để tường nhà mình bị chọc thủng. Con Người đến gặp chúng ta. Đừng có ngủ say trong thời gian đó: "Đó là lý do tại sao các con phải tỉnh thức, bởi vì vào giờ mà các con không ngờ Con Người sẽ đến”.
2. “Vì không biết Ngài các con hãy tỉnh thức"
"Lời khẳng định của Đức Giêsu về việc chúng ta không biết Ngài, giờ tránh cho chúng ta khỏi mọi tính toán về ngày Chúa đến, niềm hy vọng Ngài trở lại luôn luôn còn đó, không phải là một chờ đợi bồn chồn, mà là một chắc chắn về Đấng đã đến, đang đến sống giữa những người thân yêu của Ngài, sẽ đen lại ý nghĩa đích thực cho cuộc sống và cho vũ trụ của chúng ta, Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi người" (1Cr 15,24-28).
Được giải thoát khỏi những vấn nạn "khi nào và thế nào" rồi, người Kitô hữu chỉ còn lo chú ý vào việc phải sống như là ngày đó đã đến thực sự. Trong ý nghĩa đó những câu chúng ta vừa đọc mời chúng ta hướng về trời ít hơn là gọi chúng ta quan tâm đến những bổn phận hằng ngày mà Thầy chúng ta đòi hỏi. Sự tỉnh thức càng quyết liệt hơn khi giờ kết thúc vẫn còn chưa điểm. Tiếng kêu của Phúc âm: "Hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức phải vang dội trong tâm hồn của người đang chờ đợi cuộc hội ngộ lớn lao, không phải như một nỗi árn ảnh liên hệ đến ơn cứu độ riêng tư của mình, mà như một đòi hỏi trung thành với những sứ mạng Thầy trao phó".
3. “Hãy có một con tim tỉnh thức”
"Thiên Chúa cứu chuộc dân Ngài. Thiên Chúa cứu chuộc nhân loại. Thiên Chúa thức tỉnh ta. Thiên Chua mời gọi ta. Tới phiên ta trả lời Ngài.
Nếu ta ngủ mê, quá bận rộn với những công việc vật chất, ta sẽ ở bên lề biến cố Thiên Chúa tỏ mình ra là Đấng Cứu độ. Chẳng lẽ mối lo mua bánh hay thu hoạch rau quả không thể nối tiếp những phút suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời. Những phút ta dừng 1ại để kiểm điểm mối tương giao với Thiên Chúa. Một tinh thần nhắc nhở chúng ta đừng quá đầu tư vào cuộc sống vật chất đến nỗi không nhìn ra ơn cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện nơi ta, "ngày tốt đẹp" mà Ngài đã nói với ta hay sao. Nếu muốn chụp lấy tấm ván cứu độ, ta hãy mở rộng đôi mắt. Tinh thần minh mẫn. Con tim tỉnh thức, tâm hồn đợi chờ. Và ta sẽ đi chuyến tàu đang tới".
Mùa Vọng đối với người Kitô hữu chúng ta là mùa Xuân, vì nó khởi đầu một niên lịch Phụng Vụ: MV 1-A79
Mùa Vọng đối với người Kitô hữu chúng ta là mùa Xuân, vì nó khởi đầu một niên lịch Phụng Vụ. Trong mùa Xuân, cây cối đâm chồi nẩy lộc, kết nụ đơm hoa, chuẩn bị cho mùa thu hoạch mới. Như vậy, mùa Xuân cũng là mùa vọng, là thời gian trông chờ, mong đợi…
Nhưng, thưa anh chị em, chúng ta mong đợi gì?
Sống là phải có hy vọng, đợi chờ. Còn hy vọng, con người còn nỗ lực, phấn đấu để sống. Mất hy vọng, con người sẽ không còn động lực nào để sống, để làm việc, dù bất cứ ở lãnh vực nào. Khoảng thời gian từ lúc bắt đầu đến khi hy vọng được thành tựu, là lúc người ta phải chờ đợi, ngóng trông. Làm sao tả hết được những tâm trạng chờ đợi? Vì nó đa dạng và có nhiều mức độ thao thức khác nhau:
- Với một em bé, chắc không còn nôn nóng nào hơn khi mong mẹ đi chợ về, mua cho bé gói bánh, món quà.
- Một học sinh đi thi, chắc hẳn không một việc gì có thể làm cậu gián đoạn sự trông chờ kết quả với đầy hồi hộp, bồn chồn.
- Với một thanh niên, còn gì thú vị hơn lúc chờ đợi người yêu.
- Trong lãnh vực nghề nghiệp, người ta cũng mong ngóng, đợi chờ: Người buôn bán thì mong trúng mối, đắt hàng, nhiều lời. Người nông dân chẳng mong gì hơn là mưa thuận gió hòa, cho mùa màng tốt tươi, hoa quả đầy vườn.
Ai cũng ôm một mối hy vọng, chờ mong. Đó là động cơ của cuộc sống con người. Hy vọng với những kết quả đạt được là hạnh phúc của con người: được mùa, thi đậu, là những món quà hạnh phúc của tuổi trẻ. Người yêu đến thăm, đến đón, người chồng đi xa trở về, là những hạnh phúc êm đềm, dịu ngọt. Được mùa, làm ăn phát đạt, là những hạnh phúc ấm no… Tất cả đều là những hạnh phúc nho nhỏ của con người.
Nhưng, thưa anh chị em,
Phải chăng con người chỉ mong đợi có những hạnh phúc nho nhỏ đó thôi sao? Con người không còn gì lớn lao hơn để đợi chờ sao? Bởi vì, những hạnh phúc cỏn con đó không thỏa mãn được khát vọng của con người: Trong cuộc sống, rất nhiều lúc chúng ta cảm thấy buồn chán, lạc lõng, không biết mình muốn cái gì và ước mơ điều gì nữa. Đó chính là một cảm nghiệm thiếu vắng tình thương, thiếu một “ai đó” có thể thỏa mãn được mọi khát vọng của chúng ta.
Hoặc có những người, sau khi đã hưởng thụ tất cả, bỗng cảm thấy chán chường mọi giàu sang phú quý và sống vất vưởng, tuyệt vọng. Nhưng họ không biết đó chính là tiếng réo gọi thiêng liêng đang đòi hỏi một cái gì có giá trị vô cùng so với mọi thứ hạnh phúc trần gian tổng hợp lại. Một hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Thật vậy, có một đối tượng hy vọng, một đối tượng trông đợi hạnh phúc nhất, tuyệt vời nhất đối với con người mà qua bao nhiêu thế hệ, con người vẫn mang khát vọng sâu xa tìm kiếm: đó là Thiên Chúa.
Thật vậy, đời người là cả một thời gian nôn nóng chờ đợi ngày giáp mặt Thiên Chúa tình thương. Chỉ có Thiên Chúa mới lấp đầy mọi khát vọng của con người. Vũ trụ, tạo vật, nhất là con người là kết quả của tình thương vô biên đó, nên con người luôn có những khao khát vượt thoát trần gian, mong được giải thoát khỏi những ràng buộc vật chất, thể xác và những đau khổ phiền muộn để sống với tình thương viên mãn, bất diệt. Nhưng con người lại gắn chặt vào thân xác, vào mặt đất. Vì vậy, con người luôn bị giằng co, ray rứt giữa trời và đất, giữa ước mơ siêu nhiên và thực tại vật chất, nhu cần thể xác.
Với người tín hữu, đối tượng mong chờ của chúng ta đã cụ thể: chúng ta mong chờ Chúa đến. Lẽ tất nhiên không phải mong chờ Chúa đến như một cuộc Giáng Sinh ở hai ngàn năm trước, nhưng là Chúa đến trong vinh quang, Chúa đến khi Nước Trời được hoàn tất. Chắc chắn Chúa sẽ đến, nhưng ngày nào, giờ nào, thì chúng ta không biết được vì vậy, “phải tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến… Phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Phải sẵn sàng luôn, đừng để bị bất chợt như dân chúng trong thời ông Noê đóng tàu, đã không ngờ nên bị Lụt Đại Hồng Thủy cuốn trôi đi; hay như chủ nhà đã không tỉnh thức để bị trộm vào nhà vét sạch tiền của.
Giờ Chúa đến chỉ mình Thiên Chúa biết, chúng ta đi tìm tòi có ích gì. Điều hệ trọng là sống cho có ý nghĩa ở ngày hôm nay, sống để tạo điều kiện cho Nước Trời mau đến. Như thánh Phaolô đã dạy: “Anh em biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và chớ lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt.
Anh chị em thân mến,
Mùa Vọng là những ngày Giáo Hội giúp chúng ta ý thức đến ý nghĩa cuộc sống của mình, ý nghĩa đó nối kết chặt chẽ với tương lai, với ngày Chúa đến. Tuy nhiên, chờ đợi Chúa đến, không làm cho chúng ta xa rời cuộc sống, trái lại, đòi hỏi chúng ta sống triệt để hơn, hoàn thành nhiệm vụ chu đáo hơn, bởi vì Thiên Chúa phán xét là tùy ở chỗ chúng ta sống trung thành với Ngài và yêu như Ngài yêu chúng ta, thì chúng ta có thể chờ đợi Chúa như đứa con chờ mẹ như người yêu chờ người yêu.
Sống ở trần gian, con người luôn đợi chờ và mong ước tìm được những điều thật may mắn tốt: MV 1-A80
Sống ở trần gian, con người luôn đợi chờ và mong ước tìm được những điều thật may mắn tốt đẹp cho cuộc đời mình. Tuy nhiên, để làm được việc đó, con người phải biết tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ, những tín hiệu đang xẩy ra xung quanh mình. Chúa nhật thứ I mùa vọng, năm A, cảnh tỉnh nhân loại, mọi người và mỗi người:” Hãy tỉnh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến “ ( Mt 24, 42 ).
Mùa vọng là mùa sống sự hiện diện của Chúa bởi vì Chúa đã đến trong lịch sử nhân loại, Chúa đang đến và vẫn còn đang đến với chúng ta hằng phút hằng giây, hằng ngày trong cuộc sống con người. Mùa vọng là mùa tỉnh thức. Tỉnh thức là biết nhìn cách sâu xa, nhìn tới cùng đích của cuộc sống là cái chết, để rồi biết hướng tới cái đích là Nước Thiên Chúa. Tỉnh thức là biết thực hiện những gì là tốt, những gì chứa đựng bác ái yêu thương. Tỉnh thức là biết chờ đợi những cái phúc đang tới với con người. Tỉnh thức để đón Chúa là một hạnh phúc tuyệt vời vì quả thực Chúa đến rất bất ngờ. Do đó, người đời thường nói không sai:” tinh thần nhanh nhẹn, mau mắn, nhưng xác thịt thì nặng nề, yếu đuối “. Chính vì thế, Chúa đã khuyên nhủ “ Hãy tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn mà lại mang theo cả đèn “ hoặc Ngài cảnh thức mọi người:” Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến “ ( Mt 24, 44 ). Chúa sẽ đến vào lúc chúng ta không ngờ. Chúa không cho người thổi loa loan báo ngày giờ hay lúc Ngài sẽ đến. Chúa sẽ đến chính là lúc tận thế, ngày sau cùng, ngày cánh chung, ngày quang lân và đó cũng là giờ chết của mỗi người. Chắc chắn Chúa sẽ đến nhưng Ngài đến đột xuất như kẻ trộm ban đêm, như Chàng rể đến, như đại hồng thủy thời ông Noe. Chúa nói chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng sống trong tình thân, sống trong ân nghĩa với Chúa.
Ngôn sứ Isaia đã vẽ ra một bức tranh hòa bình trong đó không còn chém giết, mọi người được sống trong cảnh thái bình. Đây là điềm tiên báo ngày Chúa đến. Thánh Phaolô khuyên con người hãy mặc lấy Đức Kitô để luôn sống trong ánh sáng và bình an. Đoạn Tin Mừng của thánh Luca 24, 37-44 cho chúng ta hay Đức Giêsu khuyên dạy chúng ta phải sống tích cực, sống tình thân với Chúa, sống chóng vánh, mau mắn, tỉnh thức đón Chúa bất cứ lúc nào, bất cứ thời điểm nào. Chúa vẫn đến với chúng ta và đến với nhân loại, thế giới. Hãy làm tất cả những gì có thể làm, đừng chần chừ, đừng trễ nải trong công việc. Đừng tưởng rằng mai chúng ta còn giờ để sửa đổi, để sống tốt hơn. Không chúng ta phải biết sám hối, biết thay đổi ngay từ bây giờ, ngay từ lúc này. Đừng để quá muộn, chúng ta sẽ hối hận vì trở tay không kịp. Chúa vẫn đến trong tâm hồn chúng ta từng giây, từng phút. Chúng ta có thể gặp Chúa “Lúc này và bây giờ “
(Hic et Nunc ) trong cuộc sống nơi anh em, bạn bè, nơi nhiều người và ngay trong các dấu chỉ tình thương, bác ái, ngay cả trong những việc xem ra hết sức bình thường như chơi, nghỉ, ăn, uống, giặt giũ, tắm rửa vv…Điều quan trọng là chúng ta biết nhạy bén nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc sống của chúng ta, nơi cuộc sống của từng người và qua những dấu chỉ của thời đại mà chúng ta đang đối mặt, đang sống.
Chúng ta sẽ hiểu rõ mùa vọng chính là mùa xuân nở rộ bông hoa của năm phụng vụ. Mùa vọng là mùa chờ đợi trong yêu thương và phục vụ. Mùa vọng là mùa của cây cỏ đâm chồi, nẩy sinh hoa lá. Nên, Mùa vọng là mùa con người hướng về Đức Kitô là mặt trời, là ánh sáng để mặc lấy Đức Kitô mà trở nên trưởng thành trong đức tin và tình yêu. Mùa vọng là mùa chờ đợi. Chờ đợi chính Đức Kitô, Đấng mở ra trời mới đất mới. Chờ đợi như thế không phải là chờ đợi bất ngờ lo âu, sợ sệt mà là niềm vui vỡ òa, niềm hạnh phúc trào dâng vì Chúa đã đến, đang đến và vẫn mãi mãi đến với nhân loại, với chúng ta, với mỗi người.” Anh em hãy thắp đèn cho sẵn, hãy làm như những người đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay.Khi chủ về mà thấy những đầy tớ này đang tỉnh thức thì thật là phúc cho họ “ ( Lc 12, 35-37 ).
Mùa vọng là mùa tỉnh thức, để tất cả chúng ta tự vấn lương tâm: “ Chúng ta đã thật sự tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa chưa ? “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn sẵn sàng, mau mắn và tỉnh thức để đón Chúa đến cách bất ngờ. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy. Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi. Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.
"Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến".
Giới Thiệu Mùa Vọng:
1. Năm Phụng Vụ:
Thiên Chúa đã có một chương trình, một kế hoạch đối với vũ trụ nói chung và loài người nói riêng: MV 1-A81
Thiên Chúa đã có một chương trình, một kế hoạch đối với vũ trụ nói chung và loài người nói riêng. Nói đúng hơn, Người dự tính cho loài người một lịch sử thật tốt đẹp và xếp đặt mọi sự theo quan niệm đó. Dự liệu của Người được trải ra trong thời gian. Và từ ngày đầu tiên tạo thành thiên địa cho đến ngày thế mạt được gọi là Lịch Sử Cứu Độ.
Giáo hội muốn chúng ta sống Lịch sử này trong chu kỳ một năm Phụng vụ. Từ lễ này qua lễ kia, Phụng vụ của Giáo hội trải ra cho chúng ta thấy chương trình và kế hoạch cứu chuộc mầu nhiệm của Chúa; để chúng ta đón nhận ơn lành Chúa ban, đem lịch sử cứu độ vào trong tâm hồn và đời sống của mình, hầu được cứu chuộc và tham gia và chương trình cứu thế.
2. Các Mùa Phụng Vụ:
Năm Phụng vụ bắt đầu từ hôm nay, với Chúa nhật I Mùa Vọng. Vì sao lại khởi sự vào một ngày mà xã hội không thấy có gì khác thường? Lịch sử cho biết, ngay từ đầu, Giáo hội đã mừng ngày Chúa Phục sinh, tức là các ngày Chúa nhật và đặc biệt ngày Chúa nhật Phục sinh. Biến cố Phục sinh là khởi điểm của niềm tin, lòng cậy và tình mến của Giáo hội đối với Đức Kitô. Mừng biến cố này một hôm, Giáo hội không lấy làm thỏa mãn. Các ngày Chúa nhật nhắc lại cũng không đủ. Mầu nhiệm Phục sinh không những gồm việc Chúa sống lại, mà còn bao hàm việc Người lên trời và ban Thánh Thần xuống. Nên Mùa Phục Sinh kéo dài mãi tới ngày lễ Ngũ Tuần, tức là 50 ngày sau khi Chúa sống lại, ngày Thánh Thần xuống chan hòa trên các môn đệ Chúa.
Để các tín hữu dọn mình đón nhận các ơn phong phú của mầu nhiệm Phục sinh, và nhất là để các tân tòng chuẩn bị sâu sắc việc nhập đạo, trở thành Dân được cứu chuộc nhờ mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại, Giáo hội đã đặt ra Mùa Chay, gồm 4 tuần lễ và Mùa Tử Nạn, gồm 2 tuần lễ, trước lễ Phục sinh. Suýt soát tất cả 40 ngày nhắc lại việc Chúa chay tịnh 40 ngày trước khi ra đi cứu thế. Tuần lễ I của Mùa Tử nạn, vì cử hành những mầu nhiệm thánh thiện nhất của lịch sử cứu độ, nên được gọi là Tuần lễ Thánh.
Như vậy, trong nhiều thế kỷ đầu, Giáo hội chỉ chú trọng đến mầu nhiệm Phục sinh, bao gồm mọi mầu nhiệm khác trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Cho mãi tới thế kỷ VI, Phụng vụ mới dứt khoát chọn một mầu nhiệm nữa làm một cái trục thứ hai để khai triển, dẫn vào mầu nhiệm Phục sinh. Đó là mầu nhiệm Chúa Nhập Thể cứu đời. Lễ Sinh nhật và Hiển linh của Đức Kitô trở thành một Mùa Phụng vụ mới, gọi là Mùa Giáng Sinh và Hiển Linh. Và cũng như Mùa Phục sinh đã được chuẩn bị bằng một số tuần lễ làm thành Mùa Chay và Mùa Tử nạn, thì Mùa Giáng sinh - Hiển linh cũng được sửa soạn bằng 4 tuần lễ Mùa Vọng, mà mục đích cũng là để chuẩn bị tâm hồn tín hữu và giúp đỡ tân tòng chịu phép Rửa tội.
Nhưng đang khi biến cố Phục sinh rõ rệt đã xảy ra vào dịp lễ Vượt Qua của người Dothái, việc Chúa giáng sinh vào đúng ngày nào, ai mà biết rõ? Vậy vì sao lại chọn ngày 25 tháng 12 để xếp đặt Mùa Giáng sinh và Mùa Vọng như hiện nay?
3. Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh:
Thực ra, lúc đầu người ta chỉ chú trọng đến việc Chúa chịu chết và sống lại, vì là hành vi dứt khoát cứu chuộc chúng ta. Đến khi muốn biết rõ ngày nào Chúa sinh ra, Đức Mẹ đã về trời rồi, không còn chứng nhân chắc chắn nào để hỏi nữa. Nhưng không thể không có ngày giờ Chúa sinh ra. Chọn ngày giờ nào thích hợp hơn cả? Ở Đông phương, người ta tính Đông chí là ngày 6 tháng 1; còn ở Tây phương, đó lại là ngày 25 tháng 12. Cả Đông Tây đều mừng rỡ trong ngày Đông chí, ngày mùa Đông xuống đến điểm cuối cùng, và mặt trời lại bắt đầu đi lên quỹ đạo, đem ánh sáng mới sưởi ấm trần gian sau những ngày đông lạnh buốt. Tạo vật bắt đầu hồi sinh. Sự sống mới lại xuất hiện, ngày Đông chí thật thích hợp để kỷ niệm ngày Chúa đem sự sống mới xuống thế gian.
Lương dân quý mến ngày đó đến nỗi hân hoan mừng rỡ chào đón mặt trời đi lên như vị thần đem sự sống đến cho loài người. Và như trong các cuộc liên hoan quá độ, không thiếu những hành vi say sưa, dâm dật không tốt đẹp. Giáo hội muốn con cái mình "luôn vui với người vui", nhưng không muốn có những lạm dụng. Không được thờ mặt trời, vì không phải là thần thánh mà chỉ là tạo vật. Không được say sưa tửu sắc. Chúa mới là Mặt Trời Công Chính; và ánh sáng của Người mọc lên phải đuổi xa tội lỗi và băng hoại. Thế là ngày 25 tháng 12 được chọn ở Tây phương để mừng Ngày Chúa Giáng Sinh; còn Đông phương chọn ngày 6 tháng 1 để mừng Chúa Hiển Linh khi cho Ngôi Sao của Người mọc lên trên nền trời phía Đông. Nhưng Giáng sinh cũng là Hiển linh và câu chuyện Ngôi Sao lạ hiện ra ở Đông phương cũng gắn liền với việc Chúa Giáng sinh. Giáng sinh - Hiển linh làm thành một Mùa Phụng vụ; và 4 tuần lễ đi trước là Mùa Vọng để chuẩn bị tâm hồn tín hữu và giáo huấn tân tòng.
4. Thực Hành Thế Nào?
Khỏi nói đến việc dạy dỗ tân tòng. Theo lịch sử và xếp đặt của Phụng vụ, Mùa Chay mới là thời gian chuẩn bị chính để tân tòng chịu thanh tẩy. Nhưng Mùa Vọng cũng đã được coi như giai đoạn phụ. Lễ Đêm Giáng sinh thật thích hợp để người tân tòng thấy họ được "kéo ra khỏi nơi tối tăm và đưa vào trong Nước ánh sáng của Chúa". Chọn Mùa Vọng để khởi sự giáo huấn tân tòng cho đến Đêm Phục sinh, lại càng quý hóa, vì họ sẽ có thời gian tập sống đạo dài hơn. Dĩ nhiên chúng ta đã biết phải dạy dỗ tân tòng như thế nào rồi.
Việc chuẩn bị tâm hồn đón nhận mầu nhiệm Giáng sinh, thực tế có thể khó hơn, vì sẽ đòi cá nhân chúng ta phải cố gắng đối với chính mình. Đừng đơn sơ nghĩ rằng chỉ cần đi xưng tội, dọn mình mừng lễ là xong! Quả thật, Phụng vụ dùng lễ phục màu tím để nói lên thời giờ thống hối ăn năn. Nhưng các Thánh ca và Kinh lễ Mùa Vọng lại chứa chan những cảm tình nồng nhiệt, phấn khởi. Nhất là từ ngày 17 tháng 12 trở đi, thời gian đầu tiên chuẩn bị lễ Giáng sinh, với các tiền khúc bắt đầu bằng tiếng "Ôi", Phụng vụ chỉ muốn đốt to dần dần ngọn lửa tình yêu nồng nàn đi đón Chúa Cứu Thế mỗi ngày mỗi tới gần.
Như vậy tâm tình chính phải phát triển trong Mùa Vọng là tình yêu. Người tín hữu hãy đốt lửa lòng mình lên để khao khát Chúa hơn. Không phải để rồi khư khư giữ lấy Chúa cho thỏa mãn khát vọng của mình. Nhưng vì Chúa đến với chúng ta là Cứu Chúa, nên người tín hữu phải khao khát Chúa Cứu Thế, Đấng đến cứu mình khi cứu chuộc mọi người. Do đó không thể chờ đón Người một cách riêng rẽ. Phải chia sẻ tâm tình trông đợi với mọi người. Phải khơi dậy cả một niềm tin yêu cứu thế trong môi trường mình sống. Mùa vọng tự bản chất không phải là mùa đạo đức cá nhân riêng rẽ, nhưng là mùa sống tập thể, vừa truyền giáo vừa công giáo.
Huấn giáo, sửa mình, tin yêu, bác ái là những công tác lớn của Mùa Vọng. Chúng ta đọc Lời Chúa để tu thân hầu mến Chúa và thương người hơn thì Nước Chúa không những sẽ tới mà còn lan rộng. Mầu nhiệm Chúa Nhập thể giáng thế cứu đời đã xảy ra ngày trước trong lịch sử, sẽ như dội lại ở nơi ta, đem ơn cứu độ lan xa hơn như làn sóng, để sang năm bằng giờ lại cuộn lên, lấy đà đổ xuống mang ơn cứu thế đi xa hơn nữa, cho đến mút cùng địa cầu, để cuối cùng ở chân trời thế mạt Đức Kitô sẽ lại xuất hiện như Vừng Đông, tỏa sáng vinh quang trên toàn thể vũ trụ và đặc biệt trên cả nhân loại được cứu độ, thiết lập Nước Trời hạnh phúc vĩnh cửu, cho Vinh Danh Chúa Cha đã xếp đặt một kế hoạch cứu độ tốt đẹp như vậy.
5. Các Chúa Nhật Mùa Vọng Năm A:
Tổng quát:
Danh từ Mùa Vọng đúng về ý nghĩa, nhưng cần giải thích. Nôm na mà gọi thì đây là "Mùa Chúa Đến" (bởi chữ Adventus, advenire là đến). Danh từ này, các tín hữu ngày xưa có lẽ đã mượn của dân ngoại. Thời đó ở Tây phương (cũng giống như ở Việt Nam) và lúc Đông chí hay sang Xuân, dân ngoại có thói quen rước thần hoàng. Đó là ngày thần đến ở với dân làng trong suốt năm. Nhưng Chúa chúng ta không chỉ đến để ở giữa chúng ta, như một Đấng "Emmanuel", mà còn để cứu chuộc chúng ta. Thế nên Mùa Vọng không phải là thời gian sắm sửa trang hoàng cho một ngày đại lễ, nhưng là muà khát khao ơn cứu độ.
Người ta có thể tưởng Phụng vụ muốn đồng hóa mùa này với thời gian dân Israel ngày xưa trông chờ Đấng Cứu Thế. Cao độ của việc mong đợi này thể hiện trong giai đoạn lưu đày. Thế nên Phụng vụ mượn các bài đọc Cựu Ước mùa này trong sách Isaia, quyển II. Nhưng phải cẩn thận! Không được đồng hóa Mùa Vọng với lịch sử Israel gần ngày Chúa đến. Phụng vụ không diễn xuất, không đóng kịch. Chúng ta không giả vờ sống lại tâm tình của Dân Chúa ngày xưa. Nhìn về Ngày Chúa "sẽ đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết", chúng ta thật sự phải trở thành những người chờ đợi Ngày Chúa đến cứu Dân Người. Chúng ta mượn lại những lời sách Isaia để hướng dẫn, kích thích những tâm tình thật sự chúng ta phải có để sống đúng giai đoạn hiện tại. Như lời thánh Phaolô nói Cựu Ước đóng vai trò "quản giáo" hay mẫu giáo, cần cho tuổi lớn lên, ta phải sống nhờ Tân Ước.
Các lời thư thánh Phaolô trong các bài đọc II sẽ nhắn nhủ ta những thái độ Kitô giáo trong thời gian trông chờ Ngày Chúa quang lâm. Chính thánh Tông đồ cũng chỉ rút ra những bài học đó từ Mạc khải của Chúa Giêsu mà các bản Tin Mừng còn làm vọng lại. Chúng ta sẽ được nghe những đoạn Tin Mừng về Gioan Tẩy Giả và về Đức Maria trước ngày sinh con. Như vậy các bài đọc III cũng rõ rệt muốn cho chúng ta đào sâu mầu nhiệm chờ Ngày Chúa đến. Isaia, Gioan Tẩy Giả, Đức Maria sẽ hướng dẫn chúng ta trong mùa này. Và ta sẽ được sức mạnh để sửa soạn ngày Chúa đến như các ngài, nhờ ở chính thần lực Thánh Thể mà ta được chịu lấy mỗi khi tham dự thánh lễ.
Như vậy, ta tạm coi ngày Chúa nhật I như để nghe tiếng nói của Isaia, giới thiệu ý nghĩa sâu xa của Mùa Vọng, cũng như để nói lên thái độ tổng quát của tâm hồn người tín hữu trong khi chờ mong Chúa đến.
Chúa nhật II và III cũng còn vọng tiếng nói của Isaia, nhưng nơi Gioan Tẩy Giả, vị Thần sứ đến trước Chúa cho ta thấy những sửa soạn cụ thể và khẩn trương hơn vì kìa "Con Thiên Chúa gánh tội thiên hạ đã đến".
Chúa nhật IV dọn dẹp chính nơi Chúa ngự đến trong lòng Trinh nữ Maria. Đó là chuẩn bị cuối cùng và mật thiết, đưa ta vào mầu nhiệm đón nhận Chúa Kitô như là bằng chứng của tình yêu nơi Thiên Chúa: Người đã yêu thương ta đến nỗi đã ban chính Con Một Người đến cứu chuộc chúng ta, để ai đón nhận Người Con ấy cũng sẽ yêu mến Cha trên trời như Ngài và bắt chước Ngài trong việc thi hành ý Cha trên trời là cứu độ trần gian về cho Người. Bốn Chúa nhật Mùa Vọng đưa ta đến nếp sống đạo chân thực mến Chúa-yêu người vậy.
Suy Niệm:
(Chúa Nhật 1 Mùa Vọng Năm A
(Ys 2,1-5; Rm 13,11-14; Mt 24,37-44)
Với những bài Thánh Kinh trên, Phụng vụ cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về ý nghĩa Mùa Vọng, cũng như về thái độ căn bản của người tín hữu trong Mùa này.
A. Ý Nghĩa Mùa Vọng
Isaia đã nói về tương lai. Ông nhìn thấy "vào những ngày mai sau, hết thảy mọi nước sẽ tuốn lên Đền thờ Thiên Chúa... Ngài sẽ phân xử mọi dân tộc và thiên hạ sẽ rèn gươm làm cày, nghĩa là không còn luyện binh đao nữa". Đó là cái nhìn của nhà tiên tri. Ông không nghĩ rằng xã hội lý tưởng kia sẽ xảy ra vào thời ông. Ngược lại ông chắc chắn dân tộc Israel đang đi vào con đường đen tối. Nói rằng đây là những lời an ủi ông đưa ra trước để nói về thời phục hưng sau lưu đày, cũng chỉ một phần nào đúng thôi; vì xã hội tốt đẹp ông nhìn thấy lý tưởng quá, khó xảy ra trong một quê hương bị nạn binh đao tàn phá. Cũng có người tưởng, đoạn văn Isaia ở đây là một văn phẩm sau thời gian lưu đày. Dân Israel được khuyến khích trở về Yêrusalem xây dựng lại Đền thờ của Chúa. Nhưng lịch sử cho biết số người trở về cũng không rầm rộ đắc thắng và cuộc trùng tu Đền thờ đã gặp rất nhiều khó khăn. Như vậy, những lời tiên tri không ám chỉ tương lai gần thời Isaia. Cùng lắm cái nhìn thời cuộc lúc bấy giờ chỉ là khởi điểm hay điểm tựa để nhà Tiên tri phác họa ra tương lai của niềm tin. Ông diễn tả đức tin mạnh mẽ của ông vào Lời Chúa. Ngay từ đầu, với Abraham, Ngài đã hứa cho Israel trở thành dân đông đảo và mọi nước sẽ được chúc phúc ở trong ông. Lời hứa mỗi ngày mỗi được củng cố, đào sâu và phổ biến. Dần dần lịch sử đã mở mắt và hướng dẫn cho dân Israel để họ hiệu Lời Hứa trên sẽ không thực hiện đầy đủ trong các biến cố lịch sử do con người tạo ra. Họ ý thức rằng: duy chỉ một mình Chúa có thể thực hiện Lời Hứa trên: và khi Ngài ra tay làm sự nghiệp vĩ đại ấy, lịch sử sẽ đi vào thời đại hoàn toàn mới mẻ, thời đại của chính Thiên Chúa, của Đấng Thiên Sai mà Ngài sai đến. Như vậy, lời sách Isaia ở trên nói về thời Thiên Sai, thời Đấng Cứu Thế.
Chúng ta biết: Ngài đã đến. Đó là Đức Yêsu Kitô Chúa chúng ta. Và các lời sách Isaia cũng đã thực hiện. Các dân tộc đã tuốn về nhà Chúa là Giáo hội và người ta đang đi trong đường lối của Ngài. Tuy nhiên chúng ta đều biết, chưa có sự hoàn toàn và đầy đủ. Chính Đức Kitô, trong bài Tin Mừng hôm nay, bảo chúng ta phải chờ đợi "Ngày Con Người sẽ đến", khiến thật sự, các lời tiên tri Isaia chỉ thực hiện hoàn toàn sau này, trong tương lai. Vậy dùng những lời ấy để khai mạc Mùa Vọng, và dùng chính lời Tin Mừng để giải thích rõ lời Tiên tri, Phụng vụ hôm nay đã nói lên ý nghĩa đích thực của mùa này, là hướng lòng chúng ta về Ngày "Con Người sẽ đến". Vì thế chủ yếu của Mùa Vọng không nhằm việc dọn mừng lễ Giáng sinh; nhưng muốn khơi lại niềm tin về Ngày Chúa sẽ trở lại, để tất cả cuộc đời của chúng ta là Mùa Vọng, trông đợi "Ngày Chúa lại đến".
B. Vai Trò Của Việc Dọn Mừng Giáng Sinh
Tuy nhiên việc dọn mừng lễ Giáng sinh rất cần thiết cho Mùa Vọng. Cả đời chúng ta phải chờ Ngày Chúa trở lại. Nhưng để nuôi dưỡng và phấn khích lòng chờ đợi này, chúng ta cần làm sống lại mầu nhiệm Chúa đến trong xác thịt hầu khi thấy Chúa đã nhập thể thế nào, chúng ta được thêm vững tin về việc Ngài sẽ trở lại như thế. Và nhất là chúng ta cần đến ơn Nhập thể của Chúa, mới biết chờ đợi và mới có khả năng chờ đợi Ngày Con Người sẽ đến sau này. Có thể nói Phụng vụ muốn giúp chúng ta dọn mừng lễ Chúa Giáng sinh để ta thêm khả năng sửa soạn cho Ngày Chúa trở lại. Như vậy Mùa Vọng nhắm lễ Giáng sinh như mục tiên gần để vươn tới và đạt tới mục tiêu cuối cùng là Ngày Đức Kitô lại đến để phân xử các nước và phán xét mọi dân tộc.
Nhưng việc dọn mừng lễ Giáng sinh chỉ có thể đóng được vai trò vừa nói, nếu Phụng vụ không phải chỉ là kính nhớ hay nhớ lại. Phụng vụ phải mang đến ơn Chúa Giáng sinh thật sự, nghĩa là phải làm sống lại thật sự cho chúng ta sự kiện Đức Kitô đã làm người. Phụng vụ phải hiện đại hóa cho chúng ta ngày nay việc Ngài đã giáng sinh ở Bêlem ngày trước, để chúng ta được tiếp nhận Ngài như Đức Maria và thánh Giuse, để chúng ta lại được như các Tông đồ lắng nghe Lời Chúa và thấy các việc Ngài làm, hầu chúng ta có thể chờ đợi Ngài trở lại. Thành ra không kể việc Chúa đã đến một lần trong lịch sử khi sinh ra làm người, và không kể việc Ngài sẽ đến sau này trong tương lai, còn có việc Ngài đến cách mầu nhiệm trong tâm hồn tín hữu nhờ việc lãnh nhận Bí tích với niềm tin yêu. Việc Ngài đến cách mầu nhiệm này là kết quả của việc Ngài đã đến trong xác thịt; và là bảo chứng cho việc Ngài sẽ đến trong vinh quang. Chúng ta dọn mình mừng lễ Giáng sinh, vì thế, vừa để tạ ơn vừa để xin ơn. Nhớ lại việc Chúa đã giáng sinh, chúng ta cảm mến các ơn lành Người ban để biết chờ mong hạnh phúc viên mãn sẽ đến sau này.
C. Làm Thế Nào?
Isaia đã khuyên nhà Yacob, hãy đi trong ánh sáng của Chúa. Thánh Phaolô cũng bảo, hãy từ bỏ công việc của đêm tối và mặc lấy mã giáp của sự sáng. Vì Chúa đã đến trong thế gian khi Ngài giáng sinh làm người. Ngài đã đem giáo lý chân thật làm ánh sáng dẫn đưa các tín hữu của Ngài trên đường lữ thứ trần gian. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài dạy chúng ta biết thái độ căn bản trong thời "Con Người chưa đến". Ngài bảo: "Vậy chúng con hãy sẵn sàng". Và để chúng ta hiểu rõ khẩu lệnh này, chính Ngài đã cho chúng ta hai thí dụ, hay hai dụ ngôn để so sánh. Ngài nói: hãy nhớ lại thời Noe; cho đến khi nước lụt ập đến cuốn đi tất cả. Thật ra sách Khởi nguyên còn yếm thế hơn. Tác giả nói thời ấy người ta cứ ăn uống, cưới xin như không có việc gì sắp xảy tới. Như vậy, Ngài không cảnh cáo riêng gì kẻ tội lỗi. Ngài dạy mọi người không được sống "bình chân như vại", chỉ lo việc đời này, dường như không có đời sau. Không có việc Chúa trở lại, không có lễ Giáng sinh sắp tới. Những người sống như vậy chắc chắn sẽ không được ơn gì của lễ Giáng sinh và sẽ ngỡ ngàng khi Ngày Con Người đến. Và để diễn tả sự ngỡ ngàng này, Chúa Yêsu đã lấy hình ảnh hai người (đàn ông) cùng đang ở ngoài đồng và hai người (đàn bà) cùng đang xay bột ở nhà. Người sẵn sàng chờ đợi Chúa đến sẽ được Ngài đem đi (hưởng nơi hạnh phúc); còn người không chờ đợi sẽ chưng hửng thấy người bạn cùng làm với mình được cất lên trời, còn mình phải ở lại nơi trần tục. Như vậy rõ ràng Chúa muốn bảo chúng ta, đang khi chu toàn các phận sự ở đời này, phải thao thức về việc Ngài trở lại. Và ai sống như thế, chắc chắn sẽ được như lời Thánh Tông đồ nói: không bê tha tửu sắc và giành giật gây chuyện với người khác, một sẽ càng ngày càng mặc lấy Chúa Yêsu để trở nên giống Ngài.
Chúa còn lấy một thí dụ khác để nói lên thái độ sống đạo căn bản. Nếu người chủ hộ biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt ông sẽ thức đến lúc đó, không để cho nó đào ngạch khoét vách. Nhiều lời khác như thế đã tạo nên trong Giáo Hội thói quen canh thức cầu nguyện ban đêm. Ở đây, Chúa không đòi mọi người đến mức độ đó. Ngài chỉ bảo: vì chẳng biết giờ nào, Con Người sẽ đến, nên luôn luôn phải sẵn sàng. Và như trên đã nói, thái độ sẵn sàng là luôn nuôi dưỡng ý thức việc Chúa trở lại, để chúng ta được xứng đáng trong Ngày Chúa đến cất nhắc chúng ta lên với Ngài. Ý thức đó phân biệt người tin với kẻ không tin. Người không tin chỉ biết nói đến những sự việc đời này; còn kẻ tin làm tất cả mọi việc ở trần gian mà vẫn không ngơi quy hướng mọi sự về đời sau và Chúa. Họ phải làm tốt các nhiệm vụ trần gian để được nhìn thấy là xứng đáng trong Ngày Chúa trở lại. Không những thế, họ còn biết rằng bất cứ giây phút nào Chúa cũng muốn đến gõ cửa tâm hồn họ để vào ở với họ trong tình thân mật. Nên thái độ sẵn sàng đòi họ giữ tâm hồn trong trắng và muốn cầu nguyện tiếp xúc với Chúa và đón nhận ơn Ngài.
Như vậy, khi nếu cao ý thức "Chúa Sẽ Đến" Mùa Vọng muốn chúng ta trở thành những con người có thái độ sẵn sàng, sẵn sàng đối với ơn Chúa đến viếng thăm và làm giàu cho đời sống, nên luôn luôn thao thức sống đẹp lòng Chúa. Thái độ ấy phải thực hiện ngay trong việc dâng lễ, để có Chúa đến trong tâm hồn, chúng ta có khả năng đón mừng lễ Giáng sinh và được Chúa cất nhắc khi Ngài lại đến.
Mt 24:37-44: 37 "Bởi vì những ngày thời Nôê thế nào, thì thời Con Người quang lâm cũng thể ấy, 38 Vì như những ngày trước lụt Hồng thủy, thiên hạ cứ ăn uống, cưới vợ, lấy chồng, mãi cho đến ngày Nôê vào tàu; 39 thiên hạ không biết gì, cho đến lúc lụt Hồng thủy đến mà cuốn đi hết thảy, - khi Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy.
40 "Bấy giờ hai người cùng ở trong ruộng, thì một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại; 41 hai bà cùng xay bột nơi cối, thì một sẽ bị đem đi và một sẽ được để lại.
42 "Vậy các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào Chủ các ngươi đến. 43 Hãy biết điều này: nếu gia chủ đã biết canh nào trộm đến, tất ông đã tỉnh thức và không để nhà bị đào ngạch. 44 Vì thế các ngươi cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ các ngươi không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Đoạn tin mừng được chia làm hai 24:37-41 và 24:42-44, có chủ đề chung với đoạn trước và: MV 1-A82
Đoạn tin mừng được chia làm hai 24:37-41 và 24:42-44, có chủ đề chung với đoạn trước và sau nó là không ai biết khi nào Con Người sẽ đến. Chủ đề nầy nói về “Ngày” của Con Thiên Chúa (24:36; x. 24:37.28[2x].42.44 “giờ”.50). Trong đoạn nầy Mathêô đưa ra các minh hoạ (24:39-41) và dụ ngôn kẻ trộm (24:42-44). Chúa Giêsu đã loan báo ngày Con Người sẽ đến trong quyền năng và vinh quang. Trong ngày ấy các thiên thần sẽ được sai đi qui tụ những người được tuyển chọn khắp mặt đất (24:30). Ngày Con Người đến liên quan đến từng người; như thế, mỗi người phải sống sao để ngày ấy đến không trở nên tai họa cho mình.
Không ai biết ngày giờ Người đến (24:39-41). Đoạn nầy gồm so sánh ngày Người đến với tai họa lụt hồng thủy vào thời Nôê (24:37-39); sự chọn lọc (24:40-41). “Con Người” đóng khung đoạn nầy (cc. 37.39).
Mathêô dùng “hospçr gar” “vì cũng như” để so sánh ngày Nôê vào tàu tương tự ngày Con Người đến (cc. 37.41). Ông nhấn mạnh sự không hay biết của con người về ngày ấy; cũng thế ngày Con Người đến (parousia). Trước lụt đại hồng thủy dân chúng chỉ biết ăn uống, cưới vợ lấy chồng (c. 38); các động từ nầy ở thể phân từ hiện tại chỉ sinh hoạt thường nhật của họ. Họ chẳng hay biết ngày Nôê vào tàu, và cuộc sống của họ đã không thay đổi. Lụt đại hồng thủy ập đến và cuốn họ đi mất (Kn 6:5-24). Sự hủy diệt nầy sẽ được ám chỉ trong câu 24:44. Ngày Chúa đến (parousia) được ví như lụt đại hồng thủy ấy (kataklysmos). Parousia chỉ việc Chúa đến (c. 39); đó cũng là lúc tận cùng của vũ trụ nầy (24:3.27). Chúa chưa đến, nhưng ngày ấy đã được loan báo. Đừng để ngày ấy trở nên tai hoạ cho mình vì không biết.
Mathêô tiếp tục nói đến hành động của Thiên Chúa trong ngày Người đến (24:40-41). “Tote”, trạng từ chỉ thời gian “bấy giờ” (c. 40), liên kết với đoạn lúc Con Người đến (c. 39b). Hình ảnh làm ruộng vườn và xay bột chỉ công việc thường ngày. Hai người cùng làm một việc giống nhau có nghĩa là nhìn từ bê ngoài không thấy có sự phân biệt nào giữa họ. Tuy nhiên, khi ngày của Chúa đến, Người sẽ đem một người đi, và để lại một người. Hai động từ “đem đi”, paralambanô, và để lại”, aphiçmi, đối nghịch nhau hoàn toàn. Paralambanô liên hệ đến sự tuyển chọn của Thiên Chúa (x. 24:31); trong khi aphiçmi liên hệ đến cái chết (x. 22:25). Như thế, khi Chúa đến, Người sẽ phân biệt cách rõ ràng ai được chọn và ai không được chọn. Cũng như chỉ khi lụt hồng thủy đến, người ta mới biết Nôê và gia đình ông được cứu, trong khi những người khác bị tiêu diệt.
Đoạn 24:42-44 là một trong hai dụ ngôn làm thành một đơn vị (24:42-51), nói về thái độ tỉnh thức phải có trước việc Người đến. Đoạn nầy dùng dụ ngôn về kẻ trộm, gồm: -mệnh lệnh “Hãy tỉnh thức” (c. 42); tính tương tự của việc kẻ trộm đến (c. 43); áp dụng (c. 44). Động từ “biết” ở thể phủ định đều có mặt trong cả ba câu 42.43.44. Chúa muốn nhấn mạnh lần nữa con người chẳng biết gì về ngày Người đến; nên phải tỉnh thức.
Dụ ngôn bắt đầu với mệnh lệnh “Hãy tỉnh thức” (c. 42). Mệnh lệnh nầy được dùng bốn lần, và chia hai trong hai tình huống khác nhau: một là lời loan báo Chúa sẽ đến (24:42; 25:13); hai là trong vườn Cây Dầu (26:38.41). Tỉnh thức theo nghĩ đen là không ngủ (x. 26:38); nghĩa bóng là canh chừng và chú ý để tránh khỏi tai họa ập tới như dụ ngôn kẻ trộm nầy; hay tránh khỏi cám dỗ (26:41). Trong cả hai trường hợp, tỉnh thức là bảo vệ chính mình được an toàn và giữ được thông hiệp với Thiên Chúa.
Hình ảnh kẻ trộm gắn liền với “đột nhập” và “ăn trộm” (6:19.20). Sự nguy hiểm của kẻ trộm, đột nhập và lấy đi của cải, rất lớn đến nỗi Chúa Giêsu khuyên phải tích trữ của cải trên trời, chứ không dưới đất. Kẻ trộm chỉ có thể lấy trộm nếu không ai biết. Ở đây dù chủ nhà đã biết kẻ trộm sẽ vào, ông vẫn phải tỉnh thức để của cải không bị lấy đi (c. 43). Vậy người môn đệ càng phải tỉnh thức hơn, vì họ không biết ngày giờ Người đến (c. 44). Động từ “dokeô” có nghĩa là “nghĩ”, “tưởng”. Con Người không đến vào ngày giờ người môn đệ nghĩ đến.
Chúa đã đến và vẫn đến mỗi ngày. Mùa Vọng chúng ta trông chờ Người hay Người trông chờ chúng ta? Người đến và trông chờ chúng ta mở lòng ra đón tiếp Người.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 24:37-44)
Đề tài chính bài giảng của Chúa Giê-su về ngày Quang lâm nhấn mạnh tới thái độ phải tỉnh thức: MV 1-A83
Đề tài chính bài giảng của Chúa Giê-su về ngày Quang lâm nhấn mạnh tới thái độ phải tỉnh thức và sẵn sàng cho ngày Chúa đến lần thứ hai. Nhưng tại sao lại phải tỉnh thức và sẵn sàng? Câu trả lời hết sức đơn giản: Vì “anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”.
Trước hết, Chúa Giê-su lấy sự kiện Lụt Hồng thủy để nói về thái độ “không hay biết gì” của những người sống đồng thời với gia đình ông Nô-ê. Thái độ “không hay biết gì” ở đây không hẳn có nghĩa là không có khả năng nhận ra, mà là không muốn biết. Việc ông Nô-ê đóng một con tàu lớn để chứa bao nhiêu súc vật và đại gia đình của ông không thể qua mắt được những người đương thời. Vậy mà “thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng”, làm như sẽ không có gì xảy ra cả! Thời ông Nô-ê, việc đóng tàu đã trở nên tín hiệu cho một thực tại chắc chắn sẽ xảy đến là nạn lụt hồng thủy. Cũng thế, trong thời đại cứu độ, thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị khốn khổ và tàn phá là tín hiệu của ngày Chúa Ki-tô quang lâm. Cũng như nạn hồng thủy là một sự kiện lịch sử đã xảy ra đột ngột, thì “ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”, nghĩa là Chúa Giê-su sẽ trở lại lần thứ hai vào một thời điểm nào đó không ai biết được. Biết một sự kiện chắc chắn sẽ xảy đến, nhưng lại không biết nó sẽ xảy ra vào lúc nào, điều này đưa chúng ta tới một cái biết khác, là biết phải chuẩn bị sẵn sàng như thế nào. Đó cũng chính là điểm Chúa Giê-su cảnh báo chúng ta: “Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Điểm quan trọng ở đây là chúng ta hãy nhận ra sự tương đồng giữa hành động đóng tàu của ông Nô-ê và công cuộc cứu độ của Chúa Giê-su. Ông Nô-ê chỉ cứu được gia quyến ông và một số sinh vật trong một biến cố ngắn hạn. Còn Chúa Giê-su cứu độ toàn thể nhân loại mọi thời mọi nơi, cho đến ngày Người trở lại phán xét trần gian. “Con Người sẽ đến” là sứ điệp đem lại niềm hy vọng và vui mừng cho chúng ta, chứ không phải là lời đe dọa tai họa sắp xảy tới. Ý thức như vậy, chúng ta sẽ có thái độ chuẩn bị một cách tích cực. Chuẩn bị tích cực không phải là cứ “ăn uống, cưới vợ lấy chồng”, sống như không có đời sau, nhưng là cố gắng “trở nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mát-thêu 5:48), hoặc “nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Phi-líp-phê 3:11), “sống trong tình bác ái như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta” (Ê-phê-xô 5:2). Chúng ta không biết ngày nào sẽ tận thế, nhưng chúng ta biết chắc chắn Chúa Ki-tô sẽ lại đến. Quan trọng hơn hết, là chúng ta biết rõ ràng Chúa muốn chúng ta phải chuẩn bị để sẵn sàng đón tiếp Người đến bất ngờ.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Giáo Hội sắp đặt mùa Vọng để giúp chúng ta chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Giáng Sinh. Những bài đọc trong Thánh lễ và những điều giảng dạy của Giáo Hội nói với chúng ta về lời hứa cứu độ của Chúa đã được thực hiện. Tuy nhiên mùa Vọng của mỗi người chúng ta không chỉ là bốn tuần lễ trước Giáng Sinh, mà là cả một đời chuẩn bị cho ngày Chúa đến với chúng ta vào phút cuối cùng cuộc sống. Cuộc đời chúng ta có thể ví như cộng tác vào việc “đóng tàu” của ông Nô-ê. Chúng ta không tự cứu được mình, nhưng là hoàn toàn nhờ Chúa Ki-tô là Nô-ê Mới và Đấng Cứu độ. Chúng ta không lên thiên đàng một mình, nhưng là đồng hành với Chúa Ki-tô và những người anh chị em chúng ta. Hy vọng cái nhìn này giúp chúng ta sống mùa Vọng cuộc đời cho đúng với ý nghĩa của nó. Người Việt Nam chúng ta nói: Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống. Chúng ta biết Con Người sẽ đến. Chúng ta biết Chúa Giê-su dạy chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng như thế nào. Nhưng nếu chúng ta có sống những điều biết ấy thì biết mới là sống vậy.
Mùa vọng mời gọi chúng ta tỉnh thức đón chờ Chúa đến, đồng thời cũng kêu mời chúng ta tỉnh: MV 1-A84
Mùa vọng mời gọi chúng ta tỉnh thức đón chờ Chúa đến, đồng thời cũng kêu mời chúng ta tỉnh thức với khổ đau của nhân lọai, của những người nghèo, người cô đơn, yếu thế, thấp cổ bé họng, với những cái ác, cái xấu đã trở thành nếp sống của xã hội con người.Sứ điệp mở đầu mùa vọng năm nay 2007, Chúa nói:” Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến “. Do đó, Người muốn nhân lọai đừng mải mê sự đời…
HÃY TỈNH THỨC: Điệp khúc tỉnh thức vẫn vang vọng nhiều lần trong suốt mùa vọng. Tỉnh thức nghĩa là không mải mê, xao nhãng với bổn phận, với nghĩa vụ làm người. Tỉnh thức là không ngủ say, ngủ vùi mà quên những gì sẽ xẩy đến bất ngờ cho con người. Thời ông Noe, dân chúng mải mê ăn chơi,phung phí, thoải mái, trong khi gia đình ông Noe lại nong nả, miệt mài, đóng tầu. Dân chúng thấy đó, đi qua đó, ngó, ngắm, nhìn nhưng mắt họ và tâm hồn họ lại chẳng nhậy cảm với những điều Kinh Thánh đã loan báo. Có lẽ Noe cũng đã thông báo cho nhiều người xung quanh khi họ hỏi ông đóng tầu làm gì, nhưng họ đâu có tin ông vì họ đang mải mê ăn nhậu, xài của cải, phung phí tiền bạc vv…Sự hời hợt, chểnh mảng của dân chúng đã khiến họ chết vùi và chết hết trong trận lụt đại hồng thủy lúc đó. Chúa nói:” Anh em hãy tỉnhthức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến “ ( Mt 24, 42 ). Tỉnh thức để đón chờ Chúa còn gì hạnh phúc hơn. Đọc lại câu chuyện năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trnh nữ khờ dại, con người sẽ hiểu thế nào là lúc Chúa đến. Do đó, Chúa nhắn nhủ:” Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến “ ( Mt 24, 44 ).
“Lúc con Người đến “, là chính giờ chết, là ngày tận thế, ngày Chúa đến lại. Giờ ấy phải đến, chắc chắn đến vì Chúa quả quyết, nhưng giờ ấy không ai biết trước, giờ ấy đến bất ngờ. Giờ ấy như kẻ trộm đến, như ông chủ về bất ngờ trong đêm khuya. Hai dụ ngôn này đều nhấn mạnh đến tính bất ngờ của nó và nói đến kết quả khác nhau tùy vào sự sẵn sàng hay không sẵn sàng của con người. Nên, mùa vọng là mùa của đợi chờ: đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong lúc làm việc và đợi chờ chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô. Chờ đợi như thế, chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về Nước Thiên Chúa.
HÃY NGHĨ TỚI ĐỜI SỐNG VẮN VỎI CỦA CON NGƯỜI, CỦA MỖI NGƯỜI:
Tỉnh thức như vừa nêu tức là xây dựng một thế giới hiệp nhất, yêu thương, công bình, bác ái. Chờ đợi trong tỉnh thức yêu thương, trong hạnh phúc thì việc chờ Chúa đến sẽ không còn là việc bất ngờ đáng ngại, đáng lo nữa, nhưng lại là niềm vui bất ngờ. Con người tin nhận vào Chúa sẽ là con người luôn nghĩ tới cuộc sống, vắn vỏi và tạm bợ của họ ở thế giới, ở gian trần này. Thật là hợp lẽ khi đem so sánh thời gian của con người sống ở trần gian với thời gian vĩnh cửu thì quả cuộc đời con người chỉ là tạm bợ và mong manh. Đời con người là tạm bợ, là phù du: của cải phù vân, hoa nở tối tàn vv…Đời là tạm bợ nhưng lại mang đầy tính bất ngờ: không ai biết được khi nào mình chết, không ai biết được khi nào mình sẽ bị đau vv…Ngày và giờ chết đã minh chứng qua kinh nghiệm bao đời của loài người và Kinh Thánh đã nói tới từ khi có con người trên vũ trụ, trên trái đất.
Chính vì tính bất ngờ của đời người, của con người mà Chúa dậy con người phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Tỉnh thức và sẵn sàng là luôn sống niềm vui vì Chúa đã chiến thắng sự chết cách vẻ vang. Vì Chúa đã mang ơn cứu độ cho muôn người. Vì tất cả đều là hồng ân và vũ trụ con người đang sống được giải thoát. Vì nếu đời con người lúc đang sống trong ơn nghĩa Chúa thì bất cứ khi nào Chúa đến, hay chết bất cứ lúc nào, con người vẫn có đủ điều kiện: “ Trời mới Đất mới “ sẽ mở ra, dẫn đưa con người vào nơi vĩnh phúc để hưởng hạnh phúc là gặp Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con và Maranatha:” Người ơi, mau tới “. Amen.
Mục đích của một kế hoạch hay chương trình thường được giới thiệu ngay ở phần đầu tiên: MV 1-A85
Mục đích của một kế hoạch hay chương trình thường được giới thiệu ngay ở phần đầu tiên. Nếu ta hiểu Phụng vụ Lời Chúa của một năm phụng vụ muốn trình bày cho ta kế hoạch của Thiên Chúa, thì ngay tuần thứ nhất mùa Vọng phải là lúc để Giáo Hội cho ta thấy được cái nhìn tổng quát về kế hoạch ấy. Vậy các bài đọc hôm nay sẽ cho ta biết kế hoạch của Thiên Chúa là kế hoạch gì, hoặc nói khác đi nhắm mục đích nào và ta phải làm gì trong kế hoạch ấy.
1. Kế hoạch của Thiên Chúa là muốn quy tụ muôn dân trong Nước vĩnh cửu của Người (Bài đọc Cựu Ước - Is 2:1-5)
Ngôn sứ I-sai-a là người được Chúa cho thấy trước một kế hoạch Người sẽ thực hiện cho tương lai của toàn thể nhân loại: Nhà Thiên Chúa sẽ mở rộng cửa đón nhận mọi người từ muôn dân muôn nước quy tụ về. Ở đó, Thiên Chúa sẽ dạy mọi người sống một lối sống mới và mối tương giao giữa con người với nhau cũng sẽ biến đổi từ hận thù chiến tranh sang yêu thương hòa bình. Thực ra đó là thao thức của con người ngay từ phút đầu lịch sử nhân loại. Người ta cố gắng đi tìm hòa bình rộng lớn hay bình an trong tâm hồn, nhưng không sao thực hiện được. Dù có ký kết hòa bình giữa nước này với nước kia, nhưng cũng chỉ là một nền hòa bình hoặc giả tạo hoặc tạm thời. Nguồn gốc của chiến tranh đã nằm ngay trong tâm hồn mỗi người dưới sự chi phối của tội tổ tông. Câu truyện ông Ca-in giết em (St 4:1-15) mở đầu cho lịch sử chiến tranh loài người. Một khi con người đã đối nghịch với Thiên Chúa do tội tổ tông thì con người cũng sẽ đối nghịch với nhau. Để bảo vệ mình hoặc để thống trị kẻ khác, người ta chế tạo khí giới, bắt đầu còn thô sơ như gậy gộc đao kiếm, rồi mỗi ngày một tinh vi và lợi hại hơn như ta thấy ngày nay.
Khát vọng hòa bình không phải là điều mới lạ. Câu truyện ông Áp-ra-ham và ông Lót (St 13:8) giàn xếp với nhau về những tranh chấp nói lên một khát vọng riêng tư, nhưng cũng là khát vọng của toàn thể nhân loại nữa. Nỗ lực tìm kiếm và kiến tạo hòa bình là điều luôn luôn được tán thưởng. Tuy nhiên Chúa Giê-su còn đi xa hơn khi Người xếp nỗ lực ấy vào số những mối phúc. “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9).
Nhân loại khát mong hòa bình và bình an. Thiên Chúa không những mong con người được bình an như khi Người đã đặt họ trong vườn địa đàng lúc tạo dựng, mà Người còn muốn sắp xếp một kế hoạch để tái lập hòa bình giữa Người với nhân loại và giữa loài người với nhau, thứ hòa bình đã bị mất đi do tội tổ tông và tội của mỗi người. Ý định này Người đã tỏ lộ ngay trước khi ông bà nguyên tổ bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và Người cũng lập lại nhiều lần trong lịch sử Dân Chúa, nhất là qua ngôn sứ I-sai-a. Tội lỗi đã làm cho con người xa cách Chúa và xa cách nhau, thì kế hoạch của Chúa là “trong tương lai, dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi… lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ” (Is 2:2-3). Đó chính là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
2. Thời gian thực hiện kế hoạch đã tới gần (Bài đọc Tân Ước - Rm 13:11-14a)
Ý định của Thiên Chúa đã có ngay từ sau khi A-đam và E-và phạm tội không vâng lời Chúa. Tin Mừng nguyên thủy được Người công bố: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3:15). Lời hứa này của Thiên Chúa là Đấng trung thành đã được lập lại nhiều lần trong lịch sử dân Ít-ra-en, đặc biệt qua một vài vị ngôn sứ như I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Xô-phô-ni-a, Mi-kha, như ta thấy qua những bài đọc Cựu Ước suốt mùa Vọng. Những bài đọc này giúp ta dễ nắm bắt được chủ đề Lời Chúa trong ngày thường cũng như Chúa Nhật, tất cả xoay quanh mục đích giúp ta suy niệm ý nghĩa kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và biết phải làm sao đáp lại lời gọi cứu rỗi của Người.
Thiên Chúa đã hứa và phác họa kế hoạch thì nhất định Người sẽ giữ lời hứa và thực hiện kế hoạch. Nhưng khi nào Người mới thực hiện, đó là điều thắc mắc và niềm hy vọng của nhân loại. Kế hoạch cứu độ là kế hoạch yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương ta đến độ trao nộp Con Một Người cho ta (Ga 3:16). Thánh Phao-lô đã cho ta thấy thời điểm Thiên Chúa thực hiện kế hoạch của Người. “(Thiên Chúa) cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1:9-10). Thời gian chờ đợi đã hết. Con Một Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô đến để mở ra cho ta cánh cửa cứu rỗi. Tuy nhiên, còn hơn cả cánh cửa cứu rỗi, chính Đức Ki-tô là sự cứu rỗi của ta, vì ta phải quy tụ trong Người, hay nói khác đi, phải hoàn toàn thuộc về Người. Thánh Tông đồ gọi đời sống có Đức Ki-tô là “ngày”, còn đời sống trong tội lỗi là “đêm”. Ngài mời gọi ta hãy ý thức ta đang sống trong thời được gọi là “đêm sắp tàn, ngày gần đến”. Thực vậy, Chúa Ki-tô đã đến để “dạy ta biết đường lối của Thiên Chúa và bước theo đường Người chỉ vẽ” (bài đọc 1). Người dẫn ta ra khỏi màn đêm tội lỗi và đưa ta vào ngày cứu độ. Tuy là hai thực tại, nhưng cùng một tiến trình. Càng được kéo xa khỏi đêm tối, ta càng gần Đấng là sự sáng thế gian; càng xa cái chết, ta càng gần Đấng là sự sống lại và là sự sống.
3. “Anh em hãy canh thức và hãy sẵn sàng” (Bài Tin Mừng – Mt 24:37-44)
Mặc dù Thiên Chúa đã cho ta biết kế hoạch cứu độ của Người là kế hoạch gì và kế hoạch ấy đã được thực hiện trong Đức Giê-su Ki-tô, rồi Người muốn ta đáp lại lời gọi cứu rỗi, ta vẫn thường rơi vào tình trạng giả điếc làm ngơ, hoặc không muốn được cứu độ. Mặc dù thánh Phao-lô Tông đồ đã thẳng thắn đề ra một quyết định sống “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày”, nhưng ta vẫn dễ để bị lôi cuốn “chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”. Thời gian để ta đáp lại ơn cứu độ là thời gian ta đang sống tại thế gian này và thời gian đó sẽ kết thúc vào ngày Con Người quang lâm, tức là vào giờ chết của ta. Lúc ấy quyết định cho số phận đời đời của ta. Cái chết xảy ra chung quanh ta từng giây từng phút. No cũng có thể đến với ta bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu. Nhưng nhịp sống của con người nhiều khi làm ta quên mất sự hiện diện của cái chết hoặc thời điểm dứt khoát cho số phận tương lai của ta. Trước cái chết của người thân hay bạn bè, ta đau khổ sững sờ một thời gian, rồi sau đó lại hòa mình vào nhịp sống. Tệ hơn nữa, ta vẫn quay lại với nếp sống cũ là đời sống của “đêm” thay vì “ngày” như ta đã nhất thời quyết định sau cái chết của người thân.
Chính vì không biết cái chết đến lúc nào hoặc không biết Chúa đến phán xét ta lúc nào, nên không gì tốt hơn là phải tình thức và sẵn sàng. Lại thêm một sự kiện nữa liên hệ tới việc được cứu độ là có người được cứu độ, có người không được cứu độ. Trong bài giảng về thời cánh chung, Chúa Giê-su đưa ra hình ảnh cụ thể để nói lên sự kiện này: cứ hai người thì một người được đem đi và một người bị bỏ lại. Đó không phải là một bài toán, nhưng là một cảnh báo cho mỗi người biết mình phải cố gắng làm người được đem đi, tức là được cứu độ.
4. Sống Lời Chúa
Cả ba bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày một chương trình sống, không phải cho một năm, nhưng cho tất cả cuộc sống của ta. Thiên Chúa có kế hoạch cứu độ ta và Người chỉ thực hiện nơi ta nếu ta bằng lòng cộng tác với Người. Để cứu độ ta, Người cho ta một mẫu sống là chính Con Yêu Dấu của Người và qua lời thánh Phao-lô kêu gọi ta: Anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô. Nghĩa là ta hãy bước đi theo Chúa Giê-su là Ngày, là Sự Sáng giúp ta rũ bỏ đi dần dần những tối tăm của đời sống tội lỗi.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô dạy: Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Vậy đâu là “những việc làm đen tối” của tôi? “Vũ khí của sự sáng” mà tôi cần để chiến đấu chống lại tội lỗi là thứ vũ khí nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin biểu dương uy quyền và lấy thần lực mà nâng đỡ chúng con, để mặc dầu tội lỗi chúng con cản trở, Chúa vẫn mở lượng khoan hồng sớm thực hiện công trình cứu độ chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. (Lời nguyện nhập lễ, Thứ Năm sau CN I mùa Vọng).
Sau biến cố 11/9/2001, Hoa Kỳ hầu như luôn đặt trong tình trạng báo động. Dân Mỹ trở: MV 1-A86
Sau biến cố 11/9/2001, Hoa Kỳ hầu như luôn đặt trong tình trạng báo động. Dân Mỹ trở nên tỉnh thức hơn trước những mưu mô phá hoại của những kẻ khủng bố. Nước Mỹ phải chi hàng tỉ Mỹ kim mới có thể đề phòng và ngăn ngừa được khủng bố kiếm được sự bình an. Trước những lo lắng về tương lai, Đức Giêsu cũng kêu gọi các Kitô hữu “hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Mt 24:44)
CĂNG THẲNG.
Đức Giêsu đã dùng hai hình ảnh lịch sử và thực tế để mô phỏng về “ngày Con Người quang lâm.” (Mt 24:37) Lịch sử Kinh Thánh tả lại sinh hoạt “trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy.” (Mt 24: 38-39) Số phận cuối cùng đã được định đoạt trong nháy mắt. Ai cũng biết cuộc đời mình phải có lúc kết thúc, nhưng không biết lúc nào. Chính sự vô tri đó đã khiến cho họ có thể nhởn nhơ vui chơi với hiện tại và xây dựng lâu đài tình ái cho tương lai.
Biến cố kinh hoàng đó vẫn không chấm dứt niềm hi vọng, vì số người được cứu không nhỏ. Thật vậy, “bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.” (Mt 24:40-41) Người được đem đi là người được cứu độ. Tại sao một hoàn cảnh lại có thể sinh ra hai số phận khác nhau như vậy ? Thế mới hay hoàn cảnh không thể quyết định cho bằng thái độ bên trong, tức là niềm tin đích thực của con người. Niềm tin đó cũng là một bí ẩn đối với con người. Mặc dù niềm tin chưa đủ, nhưng cũng giúp con người có thể tỉnh thức trước biến cố lớn lao cuộc đời. Vì đối tượng của niềm tin chính là Con Người hay Chúa của vận mệnh chúng ta. Niềm tin đó sẽ đặt con người trong sự căng thẳng giữa hiện tại và tương lai khi “Con Người sẽ đến.” (Mt 24:44) Chính sự căng thẳng đó sẽ giúp con người canh thức chờ mong giờ phút “Chúa của anh em sẽ đến.” (Mt 24:42) Không có đức tin đó, người ta không biết chờ đợi, không biết tỉnh thức. Họ thỏa mãn với những giây phút hiện tại. Họ không có tương lai để chờ đợi. Nếu có, tương lai đó chỉ là những tiện nghi vật chất hay danh vọng nhất thời. Đó là những thứ không có bề dầy lịch sử và chiều sâu niềm tin.
Nếu suy nghĩ sâu xa hơn, con người sẽ thấy mình không thể ngủ yên trước những căng thẳng chờ đợi “Con Người sẽ đến.” Căng thẳng đó không làm xáo trộn cuộc sống. Trái lại, “Con Người sẽ đến để cứu những gì đã mất” (Lc 19:10) vì tội lỗi nhân loại. Tội lỗi vì con người không tỉnh thức trước những mưu mô phá hoại của kẻ thù. Bao giờ hết kẻ thù, mới có bình an. Chỉ có bình an thực sự “trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá.” (Lc 12:33) Bao lâu còn sống nơi trần thế, con người cần sống trong tư thế của người chủ nhà, “phải canh thức, không để kẻ trộm khoét vách nhà mình.” (Mt 24:43) Nếu hớ hênh để kẻ trộm lẻn vào trong nhà, tất nhiên tài sản và mạng sống sẽ bị đe dọa. Nguy hiểm khôn lường ! Chỉ có tỉnh thức mới ngăn ngừa nổi những mất mát lớn lao đó !
Tỉnh thức không những tránh được những tai họa, nhưng còn bảo vệ gia đình hướng tới một tương lai tốt đẹp. Bởi vậy, đứng trước niềm hi vọng lớn lao, “anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Mt 24:44) Chúa đến để đem theo ân thưởng là ơn cứu độ. Người ta có thể mất phần thưởng đó, nếu để giây phút đó vụt qua ! Vậy phải làm gì để có thể tỉnh thức sẵn sàng chờ mong Chúa đến ? Trước hết, cần phải nhớ “hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu.” (Rm 13:11-12) Những việc làm đen tối tức là những hành vi “chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tương, chiều theo xác thịt mà thỏa mãn dục vọng.” (Rm 13: 13.14) Những hành vi đó phát xuất từ thái độ sống ích kỷ. Trái lại, những “vũ khí của sự sáng” là những hành vi công chính và bác ái. Tóm lại, muốn tỉnh thức, “chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày,” (Rm 13:13) sống như “con cái ánh sáng.” (Lc 16:8)
“Con cái ánh sáng” (Lc 16:8) “sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8:12) là chính Đức Giêsu, vì Người “là ánh sáng thế gian.” (Ga 8:12) Trên trần gian, mọi người đều có thể nhận được “ánh sáng của Đức Chúa” (Is 2:5) là Đức Giêsu Kitô. Người đến để “soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” (Lc 1:79) Bởi thế, cần tìm về với Người để sống bình an. Chỉ những người sống trong ánh sáng mới có thể canh thức để kịp thời đón nhận nguồn sống và nguồn sáng là Đức Giêsu Kitô.
NHỮNG NGƯỜI CANH THỨC.
Đức Giêsu không phải là kẻ trộm. Nhưng Người sẽ đến như kẻ trộm. Người không dấu giếm sự thật về việc Người đến, mặc dù ngày giờ vẫn bí mật. Nghe lời Người, nhiều người đang ráo riết chuẩn bị để kịp thời đón Chúa. Vậy ai là những người đang canh thức ngày đêm để xứng đáng lãnh nhận hồng ân Thiên Chúa trong ngày trọng đại đó ?
Đã đến lúc “ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Giacóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ.” (Is 2:3) Chỉ trong Nhà Chúa mới có đủ phương tiện canh thức, chờ mong Chúa đến, vì “núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.” (Is 2:2) Từ đó mới có ưu thế quan sát mọi kẻ thù đang vây bủa chung quanh.
Ngày nay, có đủ loại kẻ thù đang tấn công dân Chúa. Nếu không có những giáo huấn khôn ngoan, những nguyên tắc luân lý vững chắc và đức tin sáng suốt, Giáo hội không thể giúp dân Chúa tỉnh thức trước những thách đố của thời đại. Ví dụ, làm sao dân Chúa có thể vẫn trung thành với Giáo hội trong khi dấn thân đối thoại với các tôn giáo khác. Làm sao có thể canh thức giữa đêm đen trần gian với bao nhiêu thử thách trong ngoài ? Làm sao vẫn tin Chúa yêu thương tuyệt đối giữa bao đau khổ giày vò tinh thần và thể xác ? Làm sao vẫn có thể giữ vững lập trường trước những phong trào nữ quyền quá khích ?
Muốn đứng vững giữa bao nhiêu thách đố thời đại đó, cần phải có nguồn ân sủng lớn lao là Đức Kitô. “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5) Chỉ một mình Người mới có thể ổn định mọi sự trong bình an của Thiên Chúa. Thật vậy, chỉ có “bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó.” (Cl 3:15) Sự bình an đó chỉ có thể chiếm được sau những ngày giờ canh thức trong căng thẳng của đức tin. Có canh thức, mới thấy cái giá phải trả cho sự bình an. Chính vì thế, trong những giờ phút này, tổng thống Bush đang khuyến cáo dân Mỹ canh thức. Những ngày tháng rất khó khăn đang chờ đợi trước mặt. Riêng trong giới Công giáo, mức canh thức của có thể tính theo thống kê. Chẳng hạn, theo Catholic World News (16/11/2001), tại Hoa kỳ, chừng năm mươi tư phần trăm đi lễ hằng tuần, tám phần trăm dự lễ hằng ngày. Giới già ( 50 đến 64 tuổi) dự lễ hằng tuần nhiều hơn giới trẻ (25-34 tuổi): 49-43%. Hơn hai phần ba người Công giáo còn cho rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào, phá thai là sai lầm và nhiều người đồng ý đồng tính luyến ái là vô luân. Bốn mươi tư phần trăm cho rằng thụ thai trong ống nghiệm là vô luân. Sáu mươi mốt phần trăm cũng cho rằng việc nghiên cứu tế bào gốc là sai lầm. Từ sau biến cố 11/9/2001, một phần tư những người Công giáo sống đức tin mạnh hơn. Thực tế chắc chắn còn lâu mới biết được mức độ canh thức của toàn thể dân Chúa.
Tôi sống nơi đất khách quê người đã lâu. Tôi thực sự không thể nào hình dung ra bầu khí mùa: MV 1-A87
Tôi sống nơi đất khách quê người đã lâu. Tôi thực sự không thể nào hình dung ra bầu khí mùa Vọng và mùa Giáng Sinh bây giờ tại quê nhà! Nhìn bề ngoài, tôi chỉ có thể so sánh với dịp tết Nguyên đán hằng năm. Mùi tết đã trào về trước cả tháng. Khắp nơi từ nhà tới phố chợ đều nô nức đón mừng.
Ở Tây phương dịp lễ Giáng sinh có một sức hấp dẫn kỳ lạ. Ai cũng bị bầu khí thu hút bắt buộc phải nhập cuộc và ngay tự trong thâm tâm mỗi người không ai muốn mình là kẻ đứng ngoài cuộc. Không ai muốn để mình bỏ lỡ cơ hội, những người vô thần hay những người mà lòng tin vào Thiên Chúa đã ngụp tắt cũng không ngoại lệ! Tuy tất cả đều biết rõ, không ai có thể sống an nhàn trong những ngày trước lễ Giáng sinh: nào là đi bát phố, nào là sắm đồ đạc, nào là chuẩn bị nhà cửa đón khách, chuẩn bị quà cáp cho người thân, … Các nhóm, các hội đoàn tổ chức ăn mừng Giáng sinh mà trong thực tế họ đang sống trong mùa Vọng, chuẩn bị đón chờ!
Mùa Vọng và mùa Giáng sinh là thời gian làm sống lại những kỷ niệm đẹp trong lòng mỗi người, nhất là những kỷ kỷ niệm thuở ấu thơ. Trong mùa đông trời mau tối, ai cũng nhảy cảm với ánh sáng đặc biệt của cây mến. Bốn cây mến tương trưng cho bốn tuần của mùa Vọng được dần dần thắp lên mỗi tuần. Tất cả làm nảy sinh niềm khát vọng thầm kín về một thế giới an lành, về một mái ấm gia đình hạnh phúc, về một tình yêu ươm ưóc mơ, về một nền hoà bình đích thực mà thế giới không thể tự mình ban tặng. Niềm khát vọng này được giấu kín trong lòng mỗi người, không phải tôn giáo, tuổi tác hay phái tính. Ai cũng có quyền đạt đến ước mơ, mong một ngày nào đó sẽ thành hiện thực.
Tiên tri Isaia đã mô tả khát vọng này trong một thị kiến. Tất cả mọi dân tộc, mọi quốc gia, không cần biết xuất xứ, tất cả đều lên đường và có chung một mục đích: tiến về núi thánh của Thiên Chúa. Tất cả đều đồng tâm nhất trí đến độ cùng quyết tâm đúc giươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Khắp nơi mọi người đều có thể chung sống hoà bình. Đó là một hình ảnh tuyệt vời, đầy hy vọng, hoàn toàn phù hơp khi con người sống mùa Vọng.
Một viễn tượng khác hoàn toàn trái ngược đươc phô bày trước mắt chúng ta qua lời của Đức Giêsu: hình ảnh ngày cánh chung, hình ảnh của ngày Đức Kitô xuất hiện. Ngài giống như phong ba bão tố ập tới lôi kéo theo tất cả. Đó chính là ngày chấm dứt mọi sự. Chúng ta bắt buộc phải xa lìa thế giới quen thuộc, cắt bỏ mọi lưu luyến quan hệ để đến trình diện trước mặt Chúa. Ngày ấy đến bất chợt, không ai kịp chuẩn bị hoặc thay đổi bất cứ điều gì.
Thật ra, Đức Giêsu không nói gì mới mẻ cả. Trong cuộc đời mỗi người đã từng sống và chứng kiến những sụp đổ. Con người vất vả, gắng công xây dựng, nhưng thoáng chốc tất cả chỉ còn lại đống tro tàn. Thế giới chúng ta đang sống có những lúc giống như bụi hồng đầy gai nhọn. Ai vô tình hay cố ý đụng phải sẽ bị thương. Cuộc sống riêng tư của mỗi người cũng vậy. Theo thời gian sẽ thêm nhiều vết khâu, bởi vì vết thương quá sâu, bị nhiễm độc mưng mủ! Chúng ta không tài nào tránh né, cho dù cố chốn chạy vào thế giới mộng tưởng.
Đường đời nhiều lúc đầy chông gai nhưng ngay chính tại đây nảy sinh một niềm hy vọng lớn lao. Thiên Chúa không bỏ mặc thế giới. Ngài không ngoảnh mặt làm ngơ. Ngài không muốn tiêu diệt và thay vào đó một thế giới mới. Ngài chỉ muốn biến đổi mà thôi. Ngài muốn bụi gai có thể trổ bông. Ngài muốn thế giới trổ sinh hoa trái trong chốn thâm sâu. Ngài không mất niềm tin nơi con người, mặc dầu con người vô ơn tệ bạc, bất trung, … Ngài chấp nhận thế giới với những mảnh đất khô cằn, đầy đá sỏi và gai nhọn, nhưng bên trong còn chứa đầy khao khát mong được đổ đầy.
Nơi nào Thiên Chúa đụng chạm, nơi đó sẽ nảy sinh bông hồng. Có lẽ hình ảnh bông hồng có thể đồng hành với chúng ta trong suốt mùa Vọng. Đó là hình ảnh tương trưng tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Nhưng đồng thời nhắn nhủ chúng ta không thể xin tỵ nạn trong thế giới mơ tưởng hão huyền, chẳng liên quan gì đến thực tế. Bông hồng nào không có gai! Tôi mơ ước một mùa Vọng, trong đó chúng ta sẵn sàng đón nhận những gì xảy đến với những gai nhọn và những nụ bông tuyệt vời phát sinh từ đó. Tôi ước mơ một mùa Vọng, trong đó chúng ta cùng đồng hành để gặp gỡ Thiên Chúa, nhất là một mùa Vọng đầy sức sống, có thể phát hiện những bông hồng Thiên Chúa ban tặng, có sức minh chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Mùa Vọng là thời gian Giáo Hội giúp chúng ta hướng về Chúa Giê-su, Đấng đã đến trong: MV 1-A88
Mùa Vọng là thời gian Giáo Hội giúp chúng ta hướng về Chúa Giê-su, Đấng đã đến trong lịch sử, đang đến trong Giáo Hội và sẽ đến trong ngày thế mạt. Bài Tin Mừng hôm nay nói về ngay tái lâm của Chúa, nhưng lại muốn đưa ta vào một hoàn cảnh thu hẹp hơn, đó là sự kiện Chúa đến với từng cá nhân qua cái chết và ta phải đối diện với số phận tương lai mà chính ta đã phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. Lời giảng của Chúa Giê-su không dọa nạt ta về việc Người sẽ trở lại bất ngờ hoặc về cái chết của ta sẽ tới mà không báo trước. Chúa chỉ muốn nhắc nhở ta những điều ta không muốn nhìn nhận, nhưng lại vô cùng quan trọng và quan hệ tới phần rỗi của ta.
a) Có những người sống chủ nghĩa hiện sinh, không muốn chấp nhận tương lai
Trưng dẫn hoàn cảnh trước thời lụt hồng thủy, Chúa Giê-su nói đến những người sống mà “không hay biết gì, cho tới khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy.” Sống mà không muốn biết gì về tương lai không phải chỉ là lối sống của những người thời ông Nô-ê, nhưng ta còn gặp thấy họ ở mọi thời mọi nơi. Họ không muốn nhìn nhận sự sống con người với cái nhìn toàn diện, như cái nhìn của Đấng Tạo Hóa khi Người dựng nên họ. Những thực tại về cuộc sống của ta không chỉ nằm trong những phạm trù “con người” và hiện tại, nhưng còn là thần linh và vĩnh cửu, vì ta được dựng nên không chỉ từ đất bụi mà còn do sinh khí từ Thiên Chúa chuyển sang và được dựng nên “theo hình ảnh” Người.
Những kẻ sống hiện sinh chỉ nhìn thấy hiện tại và những gì liên hệ tới sự sống thể xác của họ, như ăn uống, dựng vợ gả chồng... Mục đích cuộc sống chỉ nằm trong bình diện thể chất ấy, chứ không hướng tới mục đích đích thực là được sống đời đời với Đấng đã dựng nên họ. Nói khác đi, họ mới chỉ dừng lại ở phương tiện và coi đó đã là mục đích rồi. Thánh I-nhã Loyola giúp ta đặt lại vấn đề ý nghĩa cuộc sống của ta ở đời này. Ngài xác định “Nguyên lý và Nền tảng” của cuộc sống là: Con người được dựng nên để ngợi khen, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình. Mọi loài khác dưới đất cũng được tạo dựng cho con người, để giúp họ đạt tới cùng đích Đấng Tạo Hóa đặt cho họ. Bởi thế người ta chỉ được dùng tạo vật theo mức độ chúng giúp đạt tới cứu cánh và phải gạt bỏ chừng nào chúng làm cản trở (Linh Thao, số 23).
Đặt mục đích cuộc đời vào hiện tại, kẻ sống chủ thuyết hiện sinh coi cái chết như kết thúc và sau đó không còn gì nữa. Họ không muốn nhìn nhận tương lai. Do đó, họ lừa dối chính mình và cố ru ngủ thao thức căn bản của con người, thao thức mà thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa: Lạy Chúa, linh hồn con chỉ được bình an khi nào được nghỉ yên trong Chúa mà thôi!
Chúa Giê-su đã sử dụng hình ảnh hai người đàn ông làm ruộng và hai người đàn bà xay lúa, để giúp ta xác tín thực tại là có những người được cứu rỗi (“được đem đi”) và có những người không được cứu rỗi (“bị bỏ lại”). Thực tại này đưa ta tới kết luận thực hành là ta sẽ thuộc nhóm người được cứu rỗi hay không là do ta có tỉnh thức và chuẩn bị cho ngày giờ Chúa đến với ta trong giờ chết của ta hay không. Vậy ta phải chuẩn bị như thế nào?
b) “Hãy canh thức. Hãy sẵn sàng”
Nếu ta thực sự tin có sự sống đời sau, thì ta sẽ làm gì để đạt được sự sống ấy? Trước khi trả lời, Chúa Giê-su lại cho ta thêm một hình ảnh thực tế. “Nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu.” Chắc chắn kẻ trộm không điện thoại hoặc email cho ta để báo tin hắn sẽ đến vào ngày giờ nào! Khí giới của hắn là sự bất ngờ. Càng bất ngờ càng thuận lợi. Có một câu truyện vui ta thường nghe. Ba tên quỷ mới lớn, học việc, đến thưa với xếp quỷ Xa-tan về kế hoạch cám dỗ của chúng. Tên thứ nhất bẩm: “Tôi sẽ nói với người ta là không có Thiên Chúa nào hết!” Xa-tan bảo: “Mày không cám dỗ được nhiều người đâu, vì ai cũng biết là có Thiên Chúa.” Tên thứ nhìn thưa: “Tôi sẽ bảo chúng là không có hỏa ngục đâu!” Xa-tan lắc đầu: “Mày cũng chẳng cám dỗ được ai cả, vì họ đều biết là có hỏa ngục.” Tên thứ ba trình: “Tôi sẽ khuyên người ta đừng vội vàng, cứ tà tà.” Xa-tan vỗ tay: “Tốt, tốt! Đi làm ngay đi!” Khí giới của ma quỷ là sự bất ngờ. Chúng tạo bất ngờ cho ta bằng cách bảo ta đừng vội vàng chuẩn bị cho đời sau. Còn kịp chán! Cứ ăn chơi đã! Giống như nhà phú hộ trong dụ ngôn (Lc 12:16-21) nhủ lòng: “Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”
Còn Chúa Giê-su, Người khuyên ta phải canh thức. Canh thức chứ không phải tỉnh thức. Canh thức mang ý nghĩa mạnh hơn và nhất là có tính cách hành động. Đó là hành động giữ gìn ta khỏi rơi vào tình trạng “không hay biết gì”, tức là ăn không ngồi rồi và không muốn chấp nhận những thực tại như cái chết có thể đến bất ngờ và mình có thể bị loại bỏ thay vì được cứu rỗi. Ý thức đưa ta đến hành động. Người lính canh biết rằng kẻ địch có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, cho nên bất cứ lúc nào anh cũng chăm chú nhìn tứ phía, đi lại để không buồn ngủ, vũ giới trên tay sẵn sàng để ứng phó với những gì có thể xảy ra...
Ki-tô hữu canh thức cũng giống như vậy để đối phó với bất ngờ. Chúa Giê-su bảo lý do ta phải canh thức là vì “anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.” Chúa Giê-su đã được tôn vinh là Chúa (Pl 2:11). Ở đây Người nhấn mạnh đến danh hiệu “Chúa của anh em” để ám chỉ về mối quan hệ giữa Người với ta. Canh thức là cố gắng phát triển mối quan hệ giữa ta với Người, làm quen với dung mạo của Người, để ta không còn là kẻ xa lạ đối với Người, giống như những người Do-thái bất trung đã bị Người từ chối khi họ đến gõ cửa: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!” (Lc 13:25). Canh thức và sẵn sàng đều là hành động để đối phó với bất ngờ.
Trong thế giới hôm nay, càng ngày người ta càng khó nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Có quá nhiều cái làm cho ta dễ quên đi tương lai đích thực là sự sống đời đời. Có quá nhiều sự hấp dẫn ở trên mặt đất làm ta dễ quên đi kho tàng vĩnh cửu và mối mọt không thể đục khoét ở trên trời. Đâu kém gì thời ông Nô-ê! Qua mùa Vọng, Giáo Hội gióng lên lời kêu gọi mời ta trở về thực tại. Cuộc sống đời này chỉ là phương tiện chứ không phải đích đến. Cùng đích của ta là được ở bên Chúa, chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Người.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Mùa Vọng khởi đầu năm Phụng vụ. Đó có phải là cơ hội để tôi thực hiện một khởi đầu mới cho cuộc sống của tôi không? Tôi phải đặt lại ý nghĩa cuộc sống thế nào cho đúng và thực tế để làm cho cuộc sống tôi có ý nghĩa đích thực?
Cách tôi sử dụng của cải đời này như thế nào? Nó là phương tiện hay mục đích? Nói khác đi, tôi có làm nô lệ cho của cải tiền bạc nên quên mất kho tàng đích thực là sự sống đời đời không? Nếu có, thì trong những lãnh vực nào?
Tôi có chương trình gì thực tế trong mùa Vọng để “canh thức và sẵn sàng”? Tôi sẽ thực hiện bằng những cách nào chắc chắn có thể làm được?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. A-men.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 13)
Không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi có sự liên tục giữa Phụng vụ Lời Chúa cuối: MV 1-A89
Không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi có sự liên tục giữa Phụng vụ Lời Chúa cuối năm C với đầu năm A. Ngày của Chúa là chủ đề Phụng vụ của những Chúa Nhật cuối năm B và chủ đề ấy được lập lại trong Chúa Nhật I mùa Vọng đầu năm A. Như thế, rõ ràng chu kỳ Năm Phụng vụ đã được Giáo Hội sắp đặt nhằm nói lên sự liên tục ấy.
Như chúng ta đã nhận thấy, các bài đọc Tân Ước (thư thánh Phao-lô hoặc các Tông đồ khác) thường nhắm đến những suy niệm thần học, giáo lý hay luân lý thực hành. Do đó, khi nói về Ngày của Chúa, đoạn trích thư Rô-ma hôm nay giới thiệu với chúng ta một suy niệm sống đức tin như thế nào để chờ đợi Chúa Cứu Thế đến.
Trước hết, để nói lên tính cách khẩn thiết phải thay đổi lối sống, thánh Phao-lô nêu lên thời điểm cánh chung, tức "Ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta" sắp đến. Ngài muốn nhắc nhở tín hữu Rô-ma hãy mau mau tu sửa cuộc sống mình. "Đêm sắp tàn, ngày gần đến" diễn tả thời điểm của Đức Ki-tô và Giáo Hội Người đang chiếm lĩnh nhân loại. Nhưng thay đổi cuộc sống như thế nào? Trong các thư của thánh Phao-lô, hình ảnh ban ngày thường được dùng để diễn tả cuộc sống mới của Ki-tô hữu, đối nghịch với đêm tối tượng trưng cho đời sống tội lỗi trước khi họ được rửa tội. Viết cho tín hữu giáo đoàn Rô-ma, thánh Phao-lô muốn nhấn mạnh đến đời sống mới ấy. Ngài xin họ hãy nhìn vào đời sống mới Ki-tô hữu của họ với cái nhìn sáng suốt, mở lòng và toàn diện, tựa như họ nhìn rõ mọi vật quanh mình lúc trời sáng nhất, để can đảm nhận ra "những việc làm đen tối" và mau mắn "cầm lấy vũ khí của sự sáng mà chiến đấu."
Như vậy, thay đổi lối sống phải được thực hiện trên hai phương diện: tiêu cực là nhận diện lối sống đen tối, và tích cực là sử dụng những vũ khí của sự sáng. Mô tả lối sống đen tối, thánh Phao-lô chỉ trưng dẫn một vài điểm tiêu biểu đối với tín hữu sống trong văn hóa Rô-ma thời ấy, như "chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tương" (c. 13). Nhưng chắc chắn đó cũng là những tiêu biểu cho lối sống đen tối mọi thời, đặc biệt trong văn hóa Tây phương.
Là công dân Rô-ma, Phao-lô không lạ gì những hình ảnh đặc thù Rô-ma như lực sĩ chạy đua, người lính chiến với đủ thứ vũ khí. Một lần nữa ngài sử dụng những hình ảnh quen thuộc với người Rô-ma, để sứ điệp được trình bày một cách cụ thể hơn. Chính ngài đã cụ thể hóa những nhân đức Ki-tô bằng những hình ảnh quen thuộc như áo giáp của Thiên Chúa (Ep 6:10), áo giáp đức tin, đức mến và mũ giáp là lòng trông cậy (1 Tx 5:8), khí giới công chính (Rm 6:13; 2 Cr 6:7), chiến đấu cho chân lý Tin Mừng (Gl 2:6). Cho nên ở đây khi nhắc đến những vũ khí của sự sáng, ngài mời gọi tín hữu Rô-ma (dĩ nhiên cả chúng ta nữa!) hãy "mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô." Mặc lấy Chúa Ki-tô cũng có nghĩa là trang bị bằng những vũ khí của Người. Đó cũng là điểm tích cực của việc thay đổi lối sống chúng ta.
Nếu áp dụng cái nhìn của thánh Phao-lô về duy vật chủ nghĩa nơi người Rô-ma vào thời đại chúng ta, chúng ta thấy mình cũng cần phải "loại bỏ những việc làm đen tối." Duy vật chủ nghĩa hôm nay làm cho chúng ta sống không phải là con người nữa. Những đen tối thiêng liêng khiến chúng ta lẫn lộn, không nhận ra được mình đang đi về đâu, không phân biệt được những giá trị căn bản. Dường như xã hội càng văn minh thì đen tối lại càng ập đến nhanh hơn. Hiểu như thế, "Ngày cứu độ" sẽ cho chúng ta ánh sáng để nhận ra "những việc làm đen tối" của chúng ta và sẽ trang bị cho chúng ta những vũ khí cần thiết cho cuộc chiến đấu cam go của chúng ta với ma quỷ, thế gian và tội lỗi.
Đoạn thư Rô-ma 13:11-14 được đưa vào Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật I mùa Vọng sẽ là một suy niệm thực hành hết sức thực tế và thích hợp, để giúp chúng ta chuẩn bị tâm hồn mừng Mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
"Đã đến lúc anh em phải thức dậy" là lời thánh Phao-lô nhắc nhở tín hữu Rô-ma. Có lẽ tôi cũng đã nói với mình nhiều lần câu ấy. Nhưng tôi có thực hành không? Điều gì khiến tôi ngại ngùng, lừng khừng hoặc tránh né?
Tôi đã nhìn công cuộc Cứu chuộc của Chúa Ki-tô như thế nào? Như một người ngoại cuộc? Nếu quan hệ đối với tôi thì quan hệ như thế nào?
Thánh Phao-lô có cái nhìn linh động về công cuộc Cứu chuộc ("Vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia"). Tôi có thấy tương tự như vậy không? Hay vẫn còn xa lắc xa lơ?
Vũ khí nào của sự sáng tôi đã sử dụng nhiều nhất và lợi hại nhất cho tôi?
Tôi có chương trình nào đặc biệt để chuẩn bị mừng và sống mầu nhiệm Giáng Sinh cho năm nay?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, hát một bài, hoặc cầu nguyện:
"Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đến. Xin đừng mỉm cười mà nói rằng Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa. Nhưng biết Chúa thì được cái gì: Chúa đến để làm gì nếu đời sống con cái Chúa cứ tiếp tục y như cũ?
Xin hoán cải chúng con. Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa trở nên máu thịt của chúng con, trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con. Ước gì sứ điệp đó lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại, và đòi buộc chúng con, làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế, sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con bình an sâu xa, thứ bình an khác hẳn, đó là Bình An của Chúa. A-men." - Helder Camara
Giáo hội khai mạc năm Phụng Vụ bằng Mùa Vọng với hai đặc tính nổi bật: mùa chuẩn bị: MV 1-A90
Giáo hội khai mạc năm Phụng Vụ bằng Mùa Vọng với hai đặc tính nổi bật: mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, và mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai. Isaia đã nhìn ngày ấy trong mối liên hệ toàn cầu: "Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi." Vì khi Đức Kitô đến Người mở ra lối đi đến hòa bình cho mọi dân tộc, và theo thánh Phaolô, những ai đi theo Đức Kitô sẽ không "chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng" vốn là nguyên nhân của mâu thuẫn và tai họa. Cũng như trong Tin Mừng khi Chúa nói về ngày Quang Lâm của Người, chúng ta cũng có thể thấy con đường Ngài khai mở và kêu gọi người ta tiến vào không phải là đường đi lối về thường ngày, theo đó "thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noe vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy".
Mùa Vọng hướng chúng ta nhìn về con đường của Đức Kitô.
Con đường ấy với điểm khởi đi của nó phát xuất trên mảnh đất Á Châu "Thật vậy, chính tại Châu Á, ngay từ đầu Thiên Chúa đã mặc khải và thực hiện ý định cứu độ của Ngài." (THGHTAC 1.) Ai có thể hiểu được vì sao ? Vui mừng trước đặc ân lớn lao này "Giáo Hội tại Châu Á không ngừng cất cao lời: "Hãy tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (ib.)
Nhưng dẫu sao khi nhìn vào Ơn Gọi thuở ban đầu khi Chúa gọi Abraham, Môsê... chúng ta đều có thể hiểu được điều mà Isaia đã nói đó là "Núi Đức Chúa" là "Nhà Thiên Chúa", từ đó Thiên Chúa dạy cho muôn dân nước "biết lối của Người" "đường Người chỉ vẽ", "Thánh Luật" và "Lời Chúa phán truyền".
Thực vậy, những tổ phụ của chúng ta khi được Lời Chúa kêu gọi chỉ có một thân thế hầu như quá mờ nhạt. Trong khi trung tâm văn minh và quyền lực lúc ấy nằm dọc trên bờ sông Euphrate hay trên bờ sông Nil thì Ur hay Madian chỉ là những xóm làng của những bộ tộc nhỏ bé. Abram vừa mất cha, còn Môsê chỉ là kẻ tử tội bị truy đuổi... Thánh Phaolô đã nói về sự tuyển chọn của Thiên Chúa như sau: "những gì thế gian cho là điên dại... những gì thế gian cho là hèn yếu... thì Thiên Chúa đã chọn...". Chúa đã chọn Châu Á chỉ vì nó nghèo, nó yếu kém...để nói lên tính cách tuyệt đối là Hồng Ân của Tình Yêu Người. Muôn dân nước sẽ chẳng thấy gì khác nơi dân được tuyển chọn ngoài Thánh Luật, và Lời Giao Ước. Và quả thực trải dài 5000 năm lịch sử của mình, Dân được tuyển chọn khám phá và xác tín "Chúa là phần gia nghiệp duy nhất" mà họ có. Khi họ chăm lo phát huy gia nghiệp ấy giữa muôn dân thì đó là những thời điểm họ được vinh quang, ngược lại khi họ không thiết tha với "Phần Gia Nghiệp" thiêng thánh này, họ cũng mất tất cả.
Kể từ các tổ phụ thuở ban đầu "mảnh đất Tây Á nhỏ bé này đã trở thành một miền đất của hứa hẹn và hy vọng cho toàn thể nhân loại.." Đến thời các môn đệ của Đức Kitô, các Ngài cũng đã thiết lập khắp miền Tiểu Á những cộng đoàn tiên khởi. Về những cộng đoàn ấy có thể trưng dẫn sách Công Vụ Tông Đồ để nói về họ:"Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến". Trong thực tế "Các tín hữu chuyên cần nghe lời các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng". Và ngay cả khi trải qua những cuộc bách hại dữ dội, người người phải tản mác, "Những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo Lời Chúa" mà lòng "được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần". Và theo thánh Phêrô thì đấy chính là dấu chỉ đặc trưng nhất của ơn gọi, sứ mạng, và phẩm giá của họ: "Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi tâm can đã chứng tỏ Người chấp nhận họ, khi ban Thánh Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta" (Cv 15,8).
Như thế, chiêm nghiệm lịch sử Dân Chúa, Giáo Hội tại Á Châu hôm nay cũng sẽ phải khẳng định và xác tín "Phần Gia Nghiệp" thiêng thánh của tổ tiên mình để có thể đón nhận được lời mời gọi khẩn thiết của chính Đức Kitô "Cả các anh nữa, hãy vào làm vườn nho cho tôi đi". Công việc trong vườn nho của Chúa nói theo Isaia cũng chính là "làm trọng tài và phân xử cho muôn dân, là đúc đao gươm thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái", hay nói theo Phaolô là "loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng". Đó là hoa quả của Thánh Thần.
Ngày nay trên mảnh đất Châu Á này đang bị bao trùm bởi những đau thương của chiến tranh tàn phá, chính trong thời điểm cấp bách này mà người tín hữu giáo dân "có thể giữ một vai trò độc nhất vô nhị" trong việc "đưa Đức Giêsu từ bi, Đấng chữa lành và hòa giải, đến với dân Á Châu, nhất là những người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội." Giống như những tín hữu giáo dân thưở ban đầu trên lục địa này.
Trong cách nhìn mới mẻ và sâu sắc ấy, Đức Thánh Cha đã khẳng định "Thánh Thần Thiên Chúa đã luôn hoạt động trong lịch sử Giáo Hội Á Châu, hẳn cũng sẽ tiếp tục hướng dẫn Giáo Hội ấy... làm chúng ta thêm hy vọng vào "một mùa xuân mới của đời sống Kitô hữu". Niềm hy vọng này mới chính là MÙA VỌNG đích thật mà chúng ta được mời gọi bước vào.
Từ khi tôi còn rất bé, từ khi còn chưa cắp sách đến trường tôi đã được mẹ dạy cho biết chắc chắn: MV 1-A91
Từ khi tôi còn rất bé, từ khi còn chưa cắp sách đến trường tôi đã được mẹ dạy cho biết chắc chắn có ngày tận thế còn gọi là ngày cánh chung. Ngày đó Chúa sẽ đến thật bất ngờ. Khi đó ngày nào mẹ tôi cũng nhắc nhở tôi và anh em tôi phải đọc kinh tối sáng, phải đi lễ mỗi ngày thi mới được lên thiên đàng. Thú thật, lúc đó tôi rất sợ khi nghe kể đến ngày tận thế. Nhưng mẹ tôi đã trấn tôi an bằng cách khuyên tôi, nếu con sống tốt mọi ngày thì đến ngày Chúa đến Ngài sẽ bồng con lên thiên đàng bất cứ lúc nào Ngài đến. Đến sau này lớn lên tôi mới hiểu được từ tỉnh thức. Đ1o là những việc tôi đã được mẹ dạy từ đó, cuộc phán xét không những bất ngờ mà còn tức khắc, người sẽ không còn giờ còn cách nào chuẩn bị. Đức Giêsu đã dùng ba hình ảnh để nói về ngày cánh chung. Khi thiên hạ thời Nô-e không ngờ chuyện gì cả, và vẫn cứ ăn uống, cưới vợ lấy chồng. Sự thờ ơ này thật là nguy hiểm, họ đã chết vì không nềơ! Ngày tận thế cũng vậy. tai ương treo ngay trên đầu mỗi người “như ngàn cân treo trên sợi tóc”. Nó có thể rơi xuống bất cứ lúc nào chúng ta sẽ không hay không bíêt. Trong ngày đó toan tính gì thì đã qúa muộn, con người cần chuẩn bị và mở mắt ngay từ lúc này.
Ngày 26- 9 vừa qua sự cố sập nhịp cầu dẫn Cần Thờ là một biến cố cho mọi người về việc thức tỉnh. Không một công nhân, kỹ sư nào lại nghĩ nhịp cầu Cần Thơ lại sập bất ngờ, lại cướp gần 100 sinh mạng con người. Lại càng không ngờ mình có trong “danh sách” đó. Một chiếc cầu vững chắc, đồ sộ với công trình thế kỷ, ai cũng an tâm, đang khi mà con người không ngờ, không chuẩn bị thì Thiên chúa đã đến. Ngài đến vào ngày sau cùng, nhưng Ngài cũng có thể đến trong đời của từng người, trong giờ chúng ta chết. Vì không ai hay được giờ mình chết, chẳng ai biết tính toán và dự phòng. giờ chết có thể đến thình lình, bất ngờ có thể đang lúc làm việc, ngủ nghỉ khi giải trí. Việc chuẩn bị ngày chết cũng giống như chuẩn bị ngày tận thế. nếu chúng ta thật sự tỉnh thức, này đó có đến bất ngờ thì ta vẫn sẳng sàng ra đón Chúa với đèn sáng trong tay.
Thức tỉnh không phải là một thái độ nội tâm mơ hồ hay một nhân đức khó tập, cũng không có vẻ gì là một sự chờ đợi nôn nóng rói loạn. đó là hoàn thành nhiệm vụ được giao trong trách vụ của mình ngay giấy phút hiện tại, nghĩa là biết sống tốt với các mối tương quan, sắp sếp cuộc sống mình một cách hài hoà qua những những tương quan với Thiên chúa và tha nhân. Khi chúng ta đã có mối tương quan tốt với Thiên Chúa, thì giữa ta và Thiên chúa không còn khoảng cách nữa. Do đó, Thiên Chúa có thể đến với ta bất cứ lúc nào trong cuộc sống, ta không còn lo sợ nữa, vì lúc đó có thể nói ta như người “con trong Con”. Như vậy rõ ràng Chúa muốn bảo chúng ta hãy tỉnh thức ngay trong cuộc sống bình thường. Chính công việc và cuộc sống hôm nay đóng vai trò quan trọng trong việc đón rước Chúa, trong ngày Ngài đến. Thức tỉnh ngay giây phút hiện tại là một công việc thúc bách và cần làm ngay.. Như thánh Phaolô đã thúc bách giáo đoàn Rô ma:”Anh em hãy nghĩ đến thời gian mình đang sống, đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên chúa cứu độ đã đến gần” (Rm 1,3-11).
Trong thực tế, người tín hữu phải đối mặt với một thế giới đang trên đà tục hoá. Đối với họ chỉ có trước mắt , sờ được, rờ được và nhìn thấy thì họ mới tin. Hay những trào lưu vô thần thực tiễn. Thần linh đối với họ chẳng có ý nghĩa gì. Do đó, ngày Đức Kitô trở lại, họ cho là ảo tưởng hảo huyền. Còn niềm tin vào tôn gíaoì bị cho là mê tín lỗi thời. Những người không có niềm tin là thế! Chuyện này không phải mới xảy ra mà từ thời Nô-e. Ông thức tỉnh chuẩn bị thì con người cho là điêng rồ, chế nhạo. cũng thế khi Giáo Hội nhắc nhở và chuẩn bị ta chờ đón Chúa đến thì thế gian không bao giờ hiểu được.
Do đó là người Kitô hữu, là người con trong Giáo Hội dọn mừng lễ Giáng Sinh đón Chúa chúng ta hãy nêu cao ý thức Chúa đến trong đời mỗi người. Mùa vọng là thời gian giúp ta chuẩn bị đón Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết chuẩn bị tâm hồn sẳng sàng ra đón Chúa với đèn sáng trong tay, như những trinh nữ khôn ngoan biết chuẩn bị sẳng sàng để vào dự tiệc cưới với Ngài
Cđ: Chúa phán: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”. (Lc 21, 36)
Anh chị em thân mến,
Kho tàng chuyện cổ có kể một câu chuyện: một con nhện to, rất khỏe, sống trong vườn bắp. Nó: MV 1-A92
Kho tàng chuyện cổ có kể một câu chuyện: một con nhện to, rất khỏe, sống trong vườn bắp. Nó giăng màn nhện rất chắc chắn giữa các hàng bắp. Nó đớp no nê các con bọ sa lưới. Một hôm, bổng một con bọ sắp bị đớp lên tiếng: “nếu ông thả con ra, con sẽ cho ông biết một tin quan trọng”. Chú nhện cười khì: “Mày lo cho mày chưa xong”. “mùa gặt bắp sắp đến rồi đó, ông ơi!”Chú nhện ngọ nghể không tin. Con bọ nói: “Ông coi, trái bắp võ đã vàng, lá đã khô, người ta sẽ đem máy đến gặt. Lúc đó, bắp bị hạ xuống, và ông cũng bị chiếc máy chém chết.” Cho đến cùng, con nhện cũng không tin, và kết quả thế nào, chúng ta cũng hiểu rồi. Câu chuyện trên chắc chắn cũng nhắc nhở chúng ta: hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, đừng chủ quan như con nhện. Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay sẽ soi sáng cho ta hiểu rõ câu chuyện trên. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Bài Tin Mừng hôm nay, được Chúa nói với các môn đệ hôm thứ Ba tuần thánh, trên sườn núi Cây Dầu, đối diện với thành thánh Giêrusalem huy hoàng tráng lệ vào một buổi chiều, ánh tà dương chiếu rực rở trên đền thờ.
Trước hết, Chúa kể câu chuyện Ông Noê (Stk 6, 6). Chúa thấy dân tội lỗi quá, muốn thanh tẩy thế giới, chỉ để lại Ông Noê, gia đình ông và các vật cần sống sót, đã truyền cho ông đóng tàu; nhờ con tàu này, gia đình ông sống sót, và từ đó phát sinh thế giới mới. Đang khi ông đóng tàu, chẳng ai để ý gì đến chuyện đóng tàu của Ông hết.
Từ câu chuyện đó, Chúa Giêsu kêu gọi hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Chúa sẽ đến. tỉnh thức như chủ nhà khi biết lúc nào kẻ trộm đến, chắc chắn ông sẽ canh phòng kỷ lưỡng không để cho nó đào ngạch khoét vách nhà mình.
b/. Năm nào khi đến Mùa Vọng, chúng ta cũng lại nghe nhắc nhở: “hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng…”, nhắc hoài đến nhàm tai. Thực ra tại sao phải tỉnh thức, phải sẵn sàng?
Trước tiên, Hội thánh nhắc nhở chúng ta: hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng để chờ đón Chúa Kitô sắp đến, trong ngày lễ Giáng sinh, đến với ơn sũng, với tình thương, với sự bình an, nguồn hạnh phúc thật mà trên đời này, con người luôn luôn mơ ước. Hình ảnh Ông già Noel làm cho các em nhỏ náo nức như thế nào, thì ngày Chúa giáng sinh, Chúa đến đem lại sự bình an, nguồn hạnh phúc, niềm vui cho cá nhân và gia đình. Vậy tại sao ta lại không sẵn sàng tỉnh thức chờ đón?
Kế đến, lời Chúa hôm nay còn nhắc nhở ta; hãy tỉnh thức, sẵn sàng vì Chúa sẽ đến ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta: ngày chết, ngày ta nhắm mắt lìa đời, cũng gọi là chuyến đi xa…Vậy mà xem ra với cuộc đi xa này, có mấy ai chịu ngồi lại chuẩn bị kỷ lưỡng cho cuộc đi xa đó? Người ta tự nhiên rất sợ cái chết, nhưng khi càng sợ, người ta càng tránh không dám nói đến; có khi cấm kỵ nữa. Xem như vậy thật lạ đời, vì tránh không nói, không đụng đến, đâu phải là nó không đến? Có ai trên đời này đã không chết đâu?......
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
* Hãy tỉnh thức: năm nào vào Mùa Vọng, ta cũng nghe câu nói này. Nếu năm nay, hay tháng này, Chúa gọi tôi về với Chúa, tôi sẽ phản ứng ra sao? Nhất là bao lâu nay, tôi đã chuẩn bị cho ngày đó thế nào đây?
* Mùa Vọng là mùa hi vọng, chuẩn bị đón Chúa đến, với phúc lành, bình an, niềm vui cho mỗi người chúng ta. Bao lâu nay ta đã chờ đợi Chúa như thế nào để xứng đáng với phúc hành và bình an mà Chúa Kitô muốn đem đến cho mọi người chúng ta?
Trong tâm tình biết ơn Thiên Chúa, cùng với toàn thể Giáo hội chúng ta tiếp tục được bước: MV 1-A93
Trong tâm tình biết ơn Thiên Chúa, cùng với toàn thể Giáo hội chúng ta tiếp tục được bước sang năm Phụng vụ mới 2008. Bắt đầu năm Phụng vụ, chúng ta được sống trong những ngày Mùa vọng. Ý nghĩa của Mùa vọng là mùa trông chờ. Chúng ta tưởng niệm lại việc dân Do thái trông chờ Đấng Cứu Thế. Quan trọng hơn là mỗi người chúng ta trông chờ Chúa đến với mình. Một trong những thái độ cần có khi trông chờ là tỉnh thức. Tỉnh thức để được sống.
Ai trong chúng ta cũng đều muốn sống. Tuy nhiên sống phải thì sung túc, dồi dào chứ không èo ọt hay suy dinh dưỡng. Chúa Giêsu đa nói: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Như thế, tự mình chúng ta không thể sống dồi dào mà phải cần nhờ đến ơn Chúa. Sự sống của ta được chìm ngập trong tình yêu Chúa thì mới bảo đảm được viên mãn tròn đầy.
”Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24, 42). Đây là lời nhắc nhở của Chúa Giêsu cho chúng ta trong những ngày đầu của năm Phụng vụ mới này. Thật ra, từ những ngày đầu khi tạo dựng Thiên Chúa đã cho con người chúng ta được có sự sống dồi dào rồi. Tiếc thay, tổ tông chúng ta vì không vâng phục Thiên Chúa nên con người phải chịu thử thách một thời gian ở đời tạm này. Cho nên, mỗi ngày chúng ta sống trong sự chờ đợi để được trở về sống trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thánh Augustinô đã nói: “Lòng con băn khoăn khắc khoải cho tới khi nào được nghỉ an trong Chúa”.
Muốn được trở về sống dồi dào trong Chúa thì Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức là sống như Chúa Giêsu đã sống. Cả cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Người luôn chu toàn tốt những gì Chúa Cha trao phó. Người đã nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4, 34). Nhờ đó, không những Chúa Giêsu được sống mãi trong tình yêu của Chúa Cha mà còn là lời hứa bảo đảm nhất cho chúng ta. Ai muốn được sống dồi dào và sung mãn thì không cách nào khác ngoài việc sống như Chúa Giêsu đã sống.
Trong kinh Tin Kính chúng ta đã tuyên xưng: “Chúa Giêsu sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Đúng ra lúc ấy chính chúng ta tự phán xét về mình. Vì khi đó những gì chúng ta làm khi còn ở trần gian sẽ được phơi bày. Những gì tốt xấu của mỗi người đều được sáng tỏ. Để rồi từ đó chúng ta sẽ thấy mình có được xứng đáng cùng với Chúa Giêsu về cùng Chúa Cha không. Vì thế, Chúa Giêsu chỉ đón những ai đã sống như Người là sống và làm theo ý Chúa Cha.
Ngược lại chúng ta thấy Chúa Giêsu nhắc tới những người thời ông Noê. Họ mãi mê làm theo ý mình để rồi khi lụt Đại Hồng Thủy đến thì họ đã phải chịu chết. Chỉ có gia đình ông Noê nhờ biết vâng theo lời Chúa dạy nên được cứu sống.
Mỗi khi vào mùa vọng chúng ta thường nghĩ ngay đến phải dọn lễ Giáng sinh thế nào, trang trí ra sao… Đó là những sự chuẩn bị cần thiết. Tuy nhiên, cần thiết hơn là làm sao mỗi ngày chúng ta luôn sống trong sự tỉnh thức. Tỉnh thức là làm theo ý Chúa Cha chỉ dẫn. Làm theo ý Chúa Cha chỉ dẫn chắc chắn chúng ta sẽ được sống dồi dào và sung mãn.
Hằng năm, cứ đến mùa vọng là chúng ta được nghe những bài sách thánh mà ý nghĩa tựu trung: MV 1-A94.
Hằng năm, cứ đến mùa vọng là chúng ta được nghe những bài sách thánh mà ý nghĩa tựu trung mời gọi chúng ta sửa đổi đời sống, tẩy sạch tâm hồn xứng đáng đón chờ Chúa đến. Nhưng chúng ta phải hiểu ngày Chúa đến theo hai nghĩa: một là chờ đón Chúa đến lần thứ nhất cứu cuộc nhân loại qua mầu nhiệm nhập thể trong dịp lễ Giáng Sinh, hai là chuẩn bị đón ngày Chúa đến trong vinh quang để phán xét nhân loại đó là ngày quang lâm.
Nhưng cho dù hiểu theo ý nghĩa nào đi chăng nửa thì cách chung, sứ điệp mà Giáo hội muốn gởi đến toàn thể Dân Chúa trong mùa vọng vẫn là chủ đề tỉnh thức. Tỉnh thức để canh tân đời sống, cải thiện nội tâm và tránh thái độ mê muội chạy theo thói đời mà buông trôi giáo huấn của Chúa.
Có thể nói đây là chủ đề chính và nổi bật nhất trong mùa vọng mà chúng ta sẽ được nghe lập đi lập lại nhiều lần. Nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi: Tại sao lại phải tỉnh thức và tỉnh thức mang lại lợi ích gì cho tôi trong cuộc sống đời thường cũng như đời sống đức tin? Nếu nhìn viêc tỉnh thức dưới cái nhìn sinh lý, thì con người trong thời đại này thức nhiều hơn ngủ.
Nhưng tỉnh thức ở đây có ý nhấn mạnh về khía cạnh nội tâm. Do đó tỉnh thức đây không thể hiểu là không ngủ. Vì thế có thể nói được có người thức nhưng mà không tỉnh, mắt và tai vẫn mở nhưng không thấy, không nghe, không cảm nhận được cuộc sống đang diễn ra quang mình. Vì thế chúng ta cần phài tỉnh thức vì con người vốn dễ bị cám dỗ sống buông thả theo thói quen, hành động và nói năng theo bản năng và cảm tính mà không thể làm chủ con người mình được cách đúng mức. Tỉnh thức là ý thức mọi hành vi của mình, nghĩa là mỗi hoạt động của mình đều được suy nghĩ cách cẩn thận.
Người thiếu tỉnh thức là người có đời sống cách mái móc trôi theo giòng đời. Họ ăn mà không biết mình ăn, nói nhưng không biết mình nói, hành động nhưng không hiểu được tại sao. Chính vì thế mà cuộc sống họ luôn bị tội lỗi xâm nhập và dễ dàng sa chước cám dỗ. Các nhà tu đức cho rằng không ai có thể phạm tội khi người đó hiểu hết những tai hại mà tội đó mang đến. Cũng như chúng ta không thể đặt vào tai người anh em những lời khó nghe khi ý thức rằng việc đó chẳng ích lợi gì cho tôi. Vì nếu tôi hiểu được những lời thô lỗ, nhục mạ xúc phạm hay những hành động tiểu nhân, bỉ ổi… mà tôi dành cho người khác chẳng mang lại lợi ích gì cho tôi ngoại trừ sự tức tối, thù ghét mà người đó sẽ trả lại. Và đây chính là nguyên nhân làm cho đời sống đức tin của chúng ta không sinh hoa kết quả được.
Tỉnh thức là đưa lý trí vào trong lời nói, hành động… hay đưa mọi vấn đề cuộc sống vào trong suy nghĩ để từ đó chúng ta có những cách cư xử đúng đắn, cao thượng, đầy nhân bản, thấm tình người. Chính vì thiếu tỉnh thức mà chúng ta làm trì truệ cuộc sống nội tâm và bóp nghẹt nó, khiến nó không thể triển nở. Mùa vọng là thời gian mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Nghĩa là từng hành động của mình trong cuộc sống phải được ý thức cách sâu sắc. Nhưng ý thức và suy nghĩ theo tiêu chuẩn nào? Tiên tri Isaia nói rõ trong bài đọc I: Chính Chúa Giêsu là ánh sáng mà Thiên Chúa gởi đến để soi đường dẫn lối cho nhân loại, để những ai biết chạy đến với Ngài thì sẽ được sống trong nước thái bình, hạnh phúc.
Nhưng con người vốn hay quên sót và dễ bị ru ngũ bởi những cám dỗ, những đam mê đầy hấp dẫn của cuộc sống. Chúng ta thường để cho sự hưởng thụ tầm thường làm mờ mắt mà không thể nhìn thấy những giá trị thiêng liêng, cao thượng khác từ Thiên Chúa. Bài học của dân chúng thời ông Noe được Chúa Giêsu nhằc lại như một kinh nghiệm hết sức thực tế đáng để chúng ta suy nghĩ. Vì chưng, lối sống chỉ lo ăn uống hưởng thụ của họ cũng chính là lối sống mà mỗi người chúng ta đang theo đuổi, tìm kiếm mỗi ngày. Chính lối sống hưởng thụ cách vô độ đã ru ngũ và làm cho chúng ta quên mất mục đích và ý nghĩa của chúng ta nơi trần gian tạm bợ này.
Chúa Giêsu nhắc nhở và cảnh tỉnh chúng ta chớ nên bám víu vào những giá trị của trần gian này như mục đích cuối cùng. Vì nếu chúng ta có đủ tỉnh thức để suy xét thì cuộc sống này chỉ là tạm bợ và chóng qua. Vì ai cũng biết rằng có một chân lý, một sự thật không thể chối cải được là tôi sẽ phải chết. Nhưng không vì thế mà chúng ta có thái độ, suy nghĩ bi quan, khinh thường hay được phép bê tha cuộc sống đời này. Vì cuộc sống đằng sau cái chết của ta được xây dựng từ chính cuộc sống hôm nay, bắt đầu từ trần gian này. Vì thế có thể nói mức độ cao nhất của việc tỉnh thức là suy nghĩ về cái chết của mình. Chính thái độ đó sẽ chi phối toàn bộ cuộc đời của tôi. Như một triết gia nào đó đã nói: “Hãy sống như ngày mai bạn sẽ chết, nhưng hãy hành động như mình bất tử”. Nếu chúng ta biết được ngày nào mình chết chắc chắn chúng ta sẽ sống tốt hơn. Nhưng thông thường chúng ta hay phất lờ hay không muốn để ý hoặc trốn tránh sự thật này.
Tỉnh thức là nhìn cuộc sống với giá trị thật cuả nó, không trốn tránh nhưng đối mặt và chấp nhận nó. Vì có trốn tránh hay không thì chúng ta vẫn phải chết. Điều quan trong ở đây không phải là trốn tránh nhưng là làm sao cho cuộc sống mình có ý nghĩa và đáng sống hơn. Vì cái chết không dẫn chúng ta vào cỏi hư mất muôn đời nhưng là dẫn vào sự sống vĩnh cữu. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức để mỗi hành động, lời nói của chúng ta trong đời thường sẽ tồn tại vĩnh cữu và chúng sẽ theo ta vào Vương quốc vĩnh cữu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian này và đã sống trọn phận con người. Ơ đó, Chúa cũng đã nếm biết mùi vị của những đau khổ, hạnh phúc và nước mắt của kiếp người, xin cho chúng con nhận ra những vất vả, đau khổ trong cuộc sống này là những cơ hội để chúng con bước vào cuộc sống đời sau. Xin Chúa cũng cho chúng conbiết luôn tỉnh thức để có thể nhận ra được nhưng vẻ đẹp và sự hấp dẫn của đời này không ngăn cản bước chân con tiến về bên Chúa, mà cho chúng con luôn biết tìm đường lên trời bằng cuộc sống yêu thương, tận hiến. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con mọi người nhận ra Chúa và Nước vĩnh cữu của Chúa đang tỏa hiện.
Hiện nay, giáo dục đang là một vất đề thời sự nóng bỏng. Do đó, HĐGM VN đã lấy giáo dục: MV 1-A95
Hiện nay, giáo dục đang là một vất đề thời sự nóng bỏng. Do đó, HĐGM VN đã lấy giáo dục Kitô giáo làm chủ đề cho Thư Chung năm nay, nhằm nhắc bảo mỗi Kitô hữu chú trọng sứ mạng của mình đối với tương lai của Giáo Hội và dân tộc. Đây là sứ mạng đặc biệt hơn so với sứ mạng của những nhà giáo dục trần thế. Bởi vì giáo dục Kitô giáo không chỉ rèn luyện con người sống đúng nhân cách, mà còn giúp con người sống xứng đáng là con Chúa.
Thư Chung xác định giới trẻ là một trong những thành phần cần được ưu tiên quan tâm. Do đó, trong năm Phụng Vụ nầy, mục "suy niệm Lời Chúa" sẽ có bài viết dành riêng cho các bạn. Rất mong các bạn đón nhận như món quà Thiên Chúa ưu ái tặng ban để giúp các bạn "ngày nay học tập, ngày mai giúp đời".
"Hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến" (Mt 25,42)
Hôm nay, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới với Chúa Nhật I Mùa Vọng. Trong Mùa Vọng, công việc cụ thể trước mắt là chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh, mừng biến cố "Con Chúa đã hạ mình sống kiếp phàm nhân". Tuy nhiên, mục đích chính yếu của Mùa Vọng là hướng chúng ta nhìn về tương lai, chờ đợi ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang. Do đó, những hình thức chuẩn bị bên ngoài không quan trọng cho bằng việc chuẩn bị tâm hồn của mỗi người. Tâm tình mà Phụng Vụ Lời Chúa gởi đến chúng ta hôm nay là: sống tỉnh thức. Thế nhưng, tỉnh thức là gì? và thái độ sống tỉnh thức phải như thế nào?
Tỉnh thức, theo đúng nghĩa, là giữ mình không rơi vào giấc ngủ để kéo dài công việc hoặc để tránh khỏi một điều tai hại chợt đến. Chẳng hạn, người ta tỉnh thức khi lái xe, khi canh gác, khi học bài... Tỉnh thức còn mang thêm một nghĩa ẩn dụ: tỉnh thức là canh phòng, là chiến đấu chống lại sự mê muội và cẩu thả để đạt mục đích nhắm đến. Đối với người Kitô hữu, mục đích đó là sẵn sàng đón tiếp Chúa.
Báo Thanh Niên, số ra ngày 19.11.2007, có bài phóng sự nhan đề: "Những tay lái kiệt xuất". Đây không phải là những "yên hùng" trên xa lộ chuyên đua xe, đánh võng; mà là những tài xế lái xe cấp cứu. Với thực trạng giao thông hiện nay, việc chuyển bệnh nhân cấp cứu gặp không ít khó khăn. Nào là kẹt xe, nào là người tham gia giao thông vô tư trước tiếng còi xin nhường đường của xe cấp cứu, thậm chí có người cố tình gây cản trở nữa. Mỗi lần ngồi vào tay lái, tài xế phải căng hết các dây thần kinh, sẵn sàng né tránh, lạng lách như trong phim hành động! Vừa phải cố gắng đưa bệnh nhân tiếp cận cơ sở y tế cách nhanh nhất, vừa phải bảo đảm an toàn cho những người trên xe. Đó là tỉnh thức.
Đời người là một cuộc hành trình tiến đến sự hoàn thiện. Trong đó, mỗi người được chỉ dẫn bởi tiếng nói chung của cộng đồng xã hội, và người Kitô hữu còn nhận được sự hướng dẫn của Giáo Hội. Tuy nhiên, quyền lựa chọn và quyết định vẫn tuỳ thuộc nơi mỗi người. Mỗi cá nhân chính là tài xế phải chịu trách nhiệm về chuyến xe đời mình. Bảng chỉ đường luôn luôn hiện hữu trong suốt cuộc hành trình, nhưng đường đi không phải lúc nào cũng bằng phẳng êm ái mà luôn đầy dẫy những cạm bẫy. Do đó, mỗi người phải luôn tỉnh thức để có sự lựa chọn và quyết định sáng suốt.
Xã hội đương đại phát triển theo hướng hai mặt, bạn trẻ có nhiều điều kiện để phát huy triển vọng của mình, nhưng qua đó cũng luôn có hiểm họa đang rình rập. Chẳng hạn, cùng bước vào thế giới mạng, bạn nầy tìm kiếm thông tin, ứng dụng phục vụ cho mình, cho cộng đồng nhân loại; nhưng bạn khác có thể mài mò trong cái vô bổ, thậm chí gây nên biết bao hiểm họa cho mình, cho đời.
Sự tỉnh thức là quy luật an toàn cho đời sống thường ngày của chúng ta. Nếu bạn chăm chú lắng nghe lời giảng trong giờ lớp, bạn sẽ có kết quả học tập tốt hơn. Nếu bạn chịu khó xem - xét cặn kẽ rồi mới làm, bạn sẽ có cơ hội thành công nhiều hơn. "Chăm chú", "cảnh giác", "suy cho kỹ"... là những cách nói khác của "sự tỉnh thức".
Sự tỉnh thức còn áp dụng đặc biệt trong đời sống đạo. Bạn trẻ ngày nay có xu hướng sống thực dụng, thực nghiệm và đặt nặng các giá trị trần thế. Việc tham gia các sinh họat tôn giáo như tham dự Thánh lễ, học Giáo lý, tham gia các hội đoàn... dần trở nên những việc thứ yếu đối với các bạn. Việc học văn hoá, vui chơi giải trí chiếm hết thời gian của các bạn, thời giờ dành cho Chúa trở nên ít ỏi và chỉ là những giờ rãnh rỗi. Hôm nay Chúa nhắc bảo các bạn phải coi chừng, Chúa sẽ đến bất ngờ đấy! Chúa đến, mọi thứ mà bạn đang lo tìm sẽ trở nên vô dụng. Do đó, bây giờ vẫn chưa muộn để các bạn chạy đến với vòng tay của Chúa qua sự quan tâm nâng đỡ của cộng đoàn họ đạo. Bạn hãy cứ lo trao dồi kiến thức xã hội, nhưng đừng quên nuôi dưỡng đời sống đạo của mình, để khi đứng trước sự trở lại của Chúa Giêsu, bạn vẫn "vui sống như mình đã sống", chứ không "xin cho con thêm thời gian".
Mở đầu năm Phụng Vụ, người Kitô hữu được mời gọi sống tỉnh thức. Điều đó cho thấy sự tỉnh thức là quan trọng và trải dài suốt đời người. Tỉnh thức không chỉ trong đời sống xã hội, mà quan trọng nhất là tỉnh thức trong đời sống đức tin. Tỉnh thức để có sự lựa chọn và quyết định sáng suốt, ngõ hầu tương lai tốt đẹp sẽ đến với mỗi người chúng ta. Xin Chúa Giêsu giúp cho các bạn biết sống tỉnh thức để đưa chuyến xe đời mình tiến về đích điểm cách an toàn.
Sống trong thời đại khoa học tân tiến, con người dễ bị ru ngủ với những phương tiện và máy móc: MV 1-A96
Sống trong thời đại khoa học tân tiến, con người dễ bị ru ngủ với những phương tiện và máy móc hiện đại. Những người giàu có cảm thấy an tâm với những gì họ đang sở hữu. Họ nghĩ rằng: chúng sẽ bảo vệ cho họ được an toàn. Đó là một sai lầm đáng tiếc.
Thật ra, con người ngày nay đang sống trong một thế giới bấp bênh hơn bao giờ hết. Nào là chiến tranh, khủng bố, tội ác khắp nơi; nào là thiên tai, bệnh tật, nguy hiểm . . . Có thể nói, sự dữ đang lan tràn và hoành hành một cách dữ dội. Miền Trung nước ta vừa trải qua một đợt lũ kéo dài và nguy hiểm mà báo Tuổi trẻ ngày 13/11/2007 đã gọi nó là “Đại Hồng Thuỷ 2007”. Những biến cố, những sự kiện hay những tai ương đó muốn nói với chúng ta điều gì hay chúng ta thấy được gì qua những điều đó?
Bài Tin mừng hôm nay là một chỉ dẫn, một sự soi sáng tuyệt vời cho những ai muốn tìm ý nghĩa cuộc đời này hoặc đang khoa khát một cuộc sống đích thực. Chúa Giêsu nhắc lại biến cố Đại hồng thuỷ thời ông Nôe để dạy các môn đệ và tất cả chúng ta bài học về sự tỉnh thức trong cuộc sống. Vì nếu biết tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta sẽ được ra đi đón Chúa và được Chúa tiếp nhận vào Nước của Ngài.
1. Sống tỉnh thức
Cha Maximilien Kolbe, người Ba-lan, là một tu sĩ dòng Phanxicô rất hăng say hoạt động. Ngài đã tình nguyện sang truyền giáo ở Nhật. Ngài cũng có dịp ghé qua Sài gòn, nhưng vì bệnh lao phổi, ngài phải trở về Ba-lan để điều trị. Tại quê nhà, ngài vừa chữa bệnh vừa hoạt động không ngừng. Ngài dùng sách báo để truyền bá lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt. Vì thế, ngài được gán cho biệt hiệu “người con điên của Đức Mẹ”.
Sống tỉnh thức là sống hết mình, phát huy và sử dụng hết tài năng Chúa ban để mưu cầu lợi ích cho người khác. Người sống tỉnh thức là sống tròn đầy giây phút hiện tại, chu toàn công việc bổn phận của mình cách vui tươi và đầy lòng yêu mến.
Người sống tỉnh thức là người vẫn sống nếp sống của một người bình thường nhưng với một tình thần phi thường. Tinh thần ấy là sự xa tránh những cám dỗ tầm thường: ham mê ăn uống, vui chơi truỵ lạc, lo lắng chuyện đời . . . Tinh thần phi thường còn là tinh thần của sự hy sinh, từ bỏ, can đảm khước từ những gì cản bước ta đến với Chúa, ngăn cản ta sống Lời Chúa. Tinh thần phi thường là chấp nhận lội ngược dòng đời, chấp nhận đi trên con đường chẳng mấy ai đi, chấp nhận “làm con đứa con điên của Chúa và Mẹ Maria” theo tinh thần của cha Maximiliem Kolbe đã nói ở trên.
2. Sống niềm hy vọng
Khi mang trong mình một niềm hy vọng vững vàng, con người sẽ cố gắng sống cho những chọn lựa của mình với một tâm hồn vui tươi và tin tưởng. Người Kitô hữu đích thực phải là người sống niềm hy vọng triệt để hơn ai hết. Bởi lẽ, niềm hy vọng được cứu độ là lớn lao và cao trọng hơn bất cứ niềm hy vọng nào khác của con người. Người Kitô hữu đang mang trong mình mầm sống bất diệt nhờ niềm tin vào Đức Giêsu Kitô hằng sống. Tuy bên ngoài, họ cũng sống như bao nhiêu con người khác, nhưng đến ngày sau hết thì niềm hy vọng mà họ đã trung thành tuân giữ và theo đuổi sẽ chiếu toả ra. Ai biết sống niềm hy vọng mà Chúa Giêsu đã hứa sẽ là người được tiếp nhận vào Quê hương Thiên quốc. Trong ngày sau hết: “ có 2 người ở ngoài ruộng, thì có một người được đem đi còn người kia bị bỏ lại.” . . .
Chúa chỉ ra cho chúng ta thấy số phận đời đời của mỗi người mỗi khác và sẽ được phân biệt dứt khoát trong giờ chết. Số phận của người bị bỏ rơi là những người không mang trong mình niềm hy vọng hằng sống đã được Chúa gieo trong lòng mình. Đức hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Chỉ có một sự thất bại là không hy vọng vào Chúa. Nếu con đã hy vọng vào Chúa thì con sẽ không phải hổ thẹn đến muôn đời” (ĐHV 43)
Chúa sẽ đến là điều chắc chắn. Tuy Chúa có trì hoãn thời gian ấy. Nhưng nếu Chúa có chậm đến cũng là vì Ngài yêu thương chúng ta và muốn cho chúng ta và những người tội lỗi có thời giờ ăn năn hối cải và làm việc lành. Nhưng đời người không thể là mãi mãi, nên chúng ta phải tranh thủ thời gian để sống cho xứng đáng và đúng với ý định Thiên Chúa. Đừng quá ỷ lại vào lòng nhân từ của Chúa để chai lì và ngoan cố sống trong đam mê, trong tội lỗi, trong bóng tối . . .
“Hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào”. Chúa sẽ đến nhưng Ngài đến cách bất chợt. Điều quan trọng nhất đối với cuộc đời con người là “sống như con cái ánh sáng”, sống đứng đắn như đang sống giữa ban ngày. Chúa sẽ đến và mang theo phần thưởng chiến thắng cho những ai đang hướng lòng trông cậy vào Ngài và chờ mong Ngài ngữ đến. Những ai sống tỉnh thức và sống trong hy vọng là những người sống khôn ngoan. Sống khôn ngoan chính là sống đúng với ý định của Thiên Chúa. Chắc chắn những ai sống như thế sẽ được Ngài cho vào dự tiệc cưới muôn đời và chung hưởng hạnh phúc bất diệt với Ngài trên Quê hương vĩnh cửu. Amen.
Hôm nay chúng ta chính th ức bắt đầu một năm phụng vụ mới. Chúng ta cử hành Mùa Vọng trong: MV 1-A97
Hôm nay chúng ta chính th ức bắt đầu một năm phụng vụ mới. Chúng ta cử hành Mùa Vọng trong niềm tin Chúa Giêsu đang đến. Giáo hội hiện tại việc Chúa Giêsu ngự đến trong ba cách:
Trước hết, chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, "sự giáng lâm thứ nhất" của Đấng Cứu Thế xuống làm người trên trần gian đã hơn 2000 năm qua. Sự kiện này đã xảy ra trong quá khứ và được gọi là mầu nhiệm Nhập Thể.
Thứ đến, chúng ta cử hành việc Chúa Giêsu đang ngự đến trong các tâm hồn, qua việc cử hành Phụng Vụ và các Bí Tích của Giáo Hội, qua những biến cố, kinh nghiệm trong cuộc đời của con người. Sự kiện này đang xảy ra trong hiện tại (GLCG 1084, LG 50, SC 8).
Sau cùng chúng ta "nóng lòng mong đợi cuộc giáng lâm thứ hai của Chúa Giêsu", ngày Ngài đến trong vinh quang (Kh 20, 7-15). Sự kiện này sẽ xảy ra trong tương lai mà không một ai biết được khi nào. Các nhà thần học gọi ngày này là ngày Cánh Chung, "Parousia", hay Sự Đến Lần Thứ Hai của Chúa Giêsu Kitô (Tertio Millennio Adveniente, đoạn 10; GLCG 673, 1001, 1038-1040).
Trong bài Phúc Âm hôm nay (Mt 24, 36- 44) Chúa Giêsu nói Ngài sẽ trở lại, nhưng không xác định thời giờ. Vì thế, bổn phận của chúng ta không phải là tìm hiểu xem bao giờ ngày trọng đại ấy sẽ xảy ra, nhưng là chuẩn bị cho mình bằng cách tỉnh thức, bởi vì ngày đó sẽ đến thật hết sức bất ngờ cho những kẻ miệt mài chạy theo của cải vật chất trần gian. Trong câu chuyện Thánh Kinh, nghe tiếng Thiên Chúa phán dạy, Noe đã chuẩn bị cho mình khi thời tiết còn tốt, nhằm sẳn sàng cho trận đại hồng thủy, đang khi ấy, những kẻ còn lại thì mải mê ăn uống, cưới gả, nên đã bị nước lụt cuốn trôi. Vì thế, chúng ta đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi sống đời đời, đừng quá quan tâm đến thế gian, mà quên rằng có một Thiên Chúa và vấn đề sống hay chết đều nằm ở trong bàn tay của Ngài. Bất kỳ khi nào Ngài gọi, ban sáng, ban trưa, ban chiều hay ban tối, chúng ta đều phải sẵn sàng. Kinh nghiệm trong cuộc sống hằng ngày cho chúng ta thấy điều đó.
Một tên trộm sẽ không bao giờ báo trước mình sẽ viếng thăm nhà nào. Lợi thế của hắn ta chính là sự bất ngờ. Vì vậy chủ nhà lúc nào cũng phải canh chừng. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhớ rằng: Chúa cảnh giác chúng ta chứ không chơi khăm chúng ta bằng cách cứ nhắm vào lúc chúng ta sơ hở mà trở lại. Hơn thế nữa, người Kitô hữu không trông chờ trong sợ hãi kinh khiếp, nhưng trông chờ trong hân hoan vui mừng vì Chúa sẽ đến và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta.
Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu: “Anh em biết rằng đã đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày” (Rm 13, 11- 14). Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu sống trong sự sẳn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc âm Chúa nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm: “Các con cũng phải sẳn sàng vì lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24, 44). Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn phận. Tỉnh thức là thái độ cơ bản của người Kitô hữu. Bởi vì Thiên Chúa là đấng đang đến trong từng phút giây cuộc đời, trong từng biến cố và trong mỗi con người. Tỉnh thức để nhận ra Ngài và nhất là đáp trả một cách tích cực tiếng gọi của Ngài. Tỉnh thức đón Chúa không chỉ là chu toàn bổn phận của mình, mà còn là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để tỉnh thức đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn.
Mùa vọng là thời gian chờ mong Chúa đến. Kitô hữu không còn chờ Chúa sinh lại trong máng cỏ hang lừa, nhưng chờ mong Chúa đến trong vinh quang để giải phóng trọn vẹn con người, cho con người được sống vĩnh cửu với Thiên Chúa.
1) Không có hạnh phúc trọn vẹn nơi cuộc đời chóng qua này
Thế gian này không phải là nơi ngập tràn hạnh phúc. Nghèo đói, bệnh tật, làm cho con người đau khổ. Không phải những người nghèo, vì bản thân bị đói nên họ cảm thấy khổ. Cái nghèo của bản thân, còn kéo theo những hậu quả xảy đến cho những người thân như con cái, cha mẹ, anh em. Cái nghèo khổ thể xác, đôi khi kéo theo cái nghèo khổ về tinh thần.
Những thất bại trên đường đời, thất bại trên đường tình (yêu mà không được đáp trả), thất bại về công danh sự nghiệp, cũng làm con người chán nản và đôi khi không muốn sống. Đời người tuy có những lúc hạnh phúc nhưng cũng nhiều vất vả, gian nan và đau khổ.
Cái chết, làm người ta phải xa lìa những người thân yêu, và nó cũng là một điều làm con người đau khổ. Có ai muốn xa người mình thương yêu, có ai an lòng khi phải xa những người thân yêu của mình, mà mình biết nếu thiếu vắng mình người đó sẽ bị đe doạ hay nguy hiểm. Cái chết làm người ta phải xa lìa những người thân yêu mà không ai cản được.
Những áp bức bất công thường xảy đến với con người. Những bất công xã hội và chiến tranh chết chóc vẫn đang tiếp diễn. Tất cả những điều này làm con người đau khổ. Ai giúp con người thoát cảnh súng đạn chết chóc và sống trong an bình? Ai giúp mang lại công bằng cho những người này? Ai có thể mang lại hạnh phúc bền vững cho con người?
2) Ơn cứu độ nơi Thiên Chúa
Cái chết làm con người khổ, vì thế con người mong có thuốc trường sinh bất tử. Con người ngày nay như muốn tìm trường sinh bất tử nơi “cloning”, nhưng “cloning” lại làm nảy sinh bao nhiêu điều đáng lo sợ. Trong cuộc sống có nhiều người “tàng tàng” đã sát hại bao người khác. Con người mới chỉ “cloning” được thân xác, nhưng đâu “cloning” được tinh thần. Con người được “cloning” này với bao yếu tố tâm lý ảnh hưởng, có chắc gì những người đó là những người bình thường, biết đâu những người đó có thể là mối đe dọa cho xã hội con người. Liều thuốc trường sinh còn xa vời với con người hôm nay. Hơn nữa, ngay cả người được sống hoài, có thể sau một thời gian sống lâu, cũng cảm thấy chán và muốn chết. Câu chuyện tưởng tượng một người được thuốc trường sinh bất tử nên sống hoài khi những người thân cùng thế hệ chết, rồi con cháu của người đó cũng chết; rồi cứ thế mãi cho đến một ngày người đó cảm thấy cô độc, và rồi cảm thấy sống hoài lại là nỗi khổ. Sau cùng, người đó lại ao ước được chết như tất cả mọi người. Phải chăng con người chỉ muốn sống, khi cuộc sống hạnh phúc? Phải chăng hạnh phúc không chỉ hoàn toàn nằm trong tầm tay con người? Ai có thể cứu độ con người? Ai có thể đong đầy ao ước hạnh phúc của con người?
Con người chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa niềm hy vọng giải phóng trọn vẹn con người, làm con người hạnh phúc vĩnh cửu. Bài đọc I cho thấy ao ước của người xưa về thời cánh chung, thời đó người ta không còn chém giết đánh nhau nữa. Sở dĩ vậy vì người ta tin vào Thiên Chúa, người ta sống theo ánh sáng của Thiên Chúa. Cũng với tinh thần này các tín hữu mong chờ ngày Chúa trở lại trong vinh quang, để giải phóng trọn vẹn con người.
Ngày Chúa tới trong vinh quang, là ngày Ngài tới để cứu độ con người, ngày Ngài giải phóng con người trọn vẹn, cả về tinh thần lẫn thân xác. Ngày đó con người sẽ sống lại, và người lành được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngày đó, sách Khải Huyền diễn tả, có trời mới đất mới. Sẽ không còn chết chóc, không còn khóc lóc nữa. Con người sẽ được hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu.
3) Sống trọn vẹn đời này
Bài đọc II thánh Phaolô khuyên bảo tín hữu vì không biết khi nào mình chết, nên hãy từ bỏ những công việc đen tối, đừng chiều theo những đòi hỏi của xác thịt. Tuy dù đời này chỉ là “đời tạm” nhưng con người được mời gọi để sống trọn vẹn thời gian của cuộc đời này một cách tuyệt vời.
Trở về với Thiên Chúa là Cha và cùng đích của mình. Tâm niệm và xác tín Thiên Chúa yêu thương mình. Phó thác đời mình cho Thiên Chúa. Cố gắng hoàn thiện và sống hạnh phúc trong từng giây phút của đời mình. Chấp nhận những gì xảy ra sau khi đã cố gắng hết sức để làm theo điều mình thấy tốt nhất. Tha thứ những gì người khác xúc phạm đến mình ngay cả khi họ không nhận lỗi. Cố gắng làm cho đời này tươi đẹp hơn, làm cho người khác vui hơn và hạnh phúc hơn, bằng cách yêu thương và tươi cười với họ, giúp đỡ họ khi họ cần.
Thánh Thần của Đức Yêsu đang ở với con người. Chính Thánh Thần sẽ giúp con người sống trọn vẹn từng ngày khi mong chờ ngày Đức Yêsu trở lại trong vinh quang.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Thật lòng mà nói, bạn có mong ước Chúa đến không? Tại sao? 2. Ngày Chúa đến trong vinh quang, con người được gì? 3. Bạn cần làm gì trong thời gian chờ mong Ngài đến? Điều bạn nói, có thể thực hiện được không?
Người Ý vốn nổi tiếng là có máu nghệ thuật cao, từ văn chương, hội họa, kiến trúc, điêu khắc: MV 1-A99
Người Ý vốn nổi tiếng là có máu nghệ thuật cao, từ văn chương, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, đến âm nhạc... Ai có dịp qua Ý thăm các kho tàng nghệ thuật đều để ý một pho tượng bị bể đầu gối. Đó là tượng Môsê do Michelngelo tạc bằng cẩm thạch trắng. Truyền thuyết cho biết tại sao tượng này bị bể đầu gối, thì không phải do tai nạn gì cả, mà do chính Michelangelo đập bể.
Sau nhiều ngày căm cụi đục đẽo và chuyển được hồn nghệ sĩ vào khối đá cứng ngắc cho thành một người sống động toát ra được sinh lực, Michelangelo sung sướng chiêm ngưỡng một đại tác phẩm vừa hoàn thành. Bức tượng giống mọi nét của Môsê mà Michelangelo muốn diễn tả. Từ nét quả quyết của một người lãnh đạo biệt tài, đến nét sức mạnh nội tâm của niềm tin và con mắt sáng ngời toát lên tia viễn kiến cho tiền đồ dân tộc Do Thái qua những vùi giập đọa đầy. Những bắp thịt quả cảm, những đường gân cương nghị đều nổi rõ nét. Giống quá! Tuyệt quá! Bị hút hồn như đang đứng trước một Môsê bên bờ Biển Đỏ lúc dẫn dân chạy vượt biên trốn quân Ai Cập qua sa mạc, Michelangelo van xin Môsê: Nói Đi! (tiếng Ý là: Parla!) . Tượng Môsê sống động như vậy mà nói không được! Thế là Michelangelo đã lên cơn, không chịu nổi giới hạn của con người, sẵn búa đập vào đầu gối khiến bị bể như thấy ngày nay.
THỜI ĐIỂM AN NHIÊN VỚI LÊ ĐÌNH ĐIỂU
Một số nghệ sĩ đã lần lượt ra đi: Trần Đại Lộc, rồi Mai Thảo, Nguyên Sa, Tô Thế Liệu, Becky Ngô (Trần Bích Thược) Bệnh ung thư là nguyên nhân trong hầu hết các trường hợp. Chưa bao giờ ta thấy căn bệnh ngặt nghèo này gần và dữ đến thế. Cuộc sống vẫn tiếp tục, nhưng hai yếu tố "bệnh" và "tử" cứ đến thường xuyên một cách bất thường, khiến cho dù muốn dù không, chúng ta vẫn phải đối diện, nhìn thẳng vào nó.
Và rồi cũng đến lượt Lê Đình Điểu, là một trong những người sáng lập và từng là chủ nhiệm tạp chí Thế Kỷ 21, cũng lâm bệnh ung thư, người mà tôi rất mến và đã có dịp gặp gỡ nói chuyện tại tòa soạn Người Việt ở Nam Cali. Sau khi đi giải phẫu về, ông đã viết một lá thư cho bạn bè tâm sự trước khi qua đời. Đây là một trích đoạn:
Cám ơn các bạn đã cho tôi sự yểm trợ vô cùng quí báu. Các bác sĩ và y tá ở đây cũng lấy làm lạ là tại sao tôi có vẻ như người không có bệnh! Họ thấy tôi ngồi nghe nhạc classic, viết thư, hoặc nhìn ra cửa sổ ngắm cảnh (tuy cảnh chẳng có gì để ngắm), cứ như một du khách đang ở khách sạn, họ ngạc nhiên. Cô ý tá hỏi bà Dung: "ông ấy không biết ông ấy bị bệnh cancer?" Bà Dung bảo, 'ông ấy biết chứ.'
Quả thật hôm nghe bác sĩ thông báo kết quả thử nghiệm "positive" (tức là có cancer), tôi hơi choáng một chút. Nhưng nghĩ cho cùng, năm nay tôi 60 tuổi (ta) rồi, vừa tròn một hoa giáp, cũng đủ cho một đời người. Nếu phải "ra đi" thì cứ thản nhiên lên đường thôi. Còn nhiều việc muốn làm mà chưa làm được hay chưa làm xong thì cũng đành chứ sao?
Nay nhờ y khoa tiến bộ cãi lại mệnh trời, sống thêm ít lâu, cứ coi như được... bonus, càng vui! Thành ra vấn đề vẫn là giá trị đời sống, chứ không phải là chiều dài của đời sống, mới là điều quan trọng. Mỗi người có một thước đo giá trị riêng. Thước của tôi là niềm vui của người khác khi mình còn ở với họ. Hôm qua nhâm nhẩm trong đầu mấy câu thơ sau đây, gửi các bạn đọc chơi:
Vừa tròn sáu mươi tuổi
"Tri chỉ" cũng đủ rồi
Chia tay mong để lại
Nụ cười bạn mình thôi.
TIN VUI MỞ MẮT NHẬN RA QUÀ THƯỞNG THÊM
Một nghệ sĩ đại tài như Michelangelo cũng chẳng có thể làm cho một pho tượng nói được. Khoa học chẳng sáng tạo ra gì, dù một mầm sống, dù một tế bào, nhưng chỉ mở mắt nhận ra những nhịp điệu của vạn vật, mà chuyển thành định luật, định lý, định đề. Thế thôi.
Ngay trong cả nghệ thuật chụp hình, nhà ảnh Gary Braasch cũng nhận định như vậy trong cuốn "Chụp Được Nhịp Điệu Của Thiên Nhiên" (Photographing The Patterns of Nature. Amphoto)
“Một trong những chìa khóa chụp được diễn tiến của thiên nhiên là cái nhìn thấy toàn thể trong từng phần. Chẳng hạn như chụp chi tiết một vỏ ốc trên bãi biển là đã có thể diễn tả cả một bãi biển mênh mông đó rồi, cũng như diễn tiến tăng trưởng của loài ốc. Những đường vòng xoáy vào cũng như xoáy ra như cùng diễn tả một lúc. Nó gợi lên những kỉ niệm, và cũng có thể là biểu tượng cho con đường nội tâm. Nó vẽ lên trong mắt mình hình ảnh một đứa trẻ đang lắng nghe tiếng sóng vỗ với tất cả vẻ kinh ngạc hút hồn” (trang 9).
Thiên nhiên có vô vàn đường nét diễn tiến. Những bức chụp cận ảnh mở ra những chân trời kì thú về vũ trụ khiến ta kinh ngạc. Dường như ngón tay nhà chụp hình đang có quyền sáng tạo trong việc cảm nhận những phép lạ diễn biến không ngừng ngay chung quanh mình. Những diễn tiến theo một qui trình được nhận ra nơi cây cối, súc vật, hòa nhịp với thiên nhiên. Những diễn tiến trong nhịp điệu lúc đổi mùa, trên mặt đất, trên cõi trăng sao. Mọi vật đang hòa vào một dòng sức sống chuyển động không ngừng. Cỏ cây uốn mình theo gió; sóng nước bãi biển và những làn nước gợn lăn tăn mặt hồ; đàn chim đang bay lượn...
Vẻ đẹp vô biên của vũ trụ thấy được ngay trước mắt, dù trong những phố thị ngột ngạt. Mình có thể đuổi theo những chiếc lá vàng đang chạy bên đường, hay nhìn ngắm những đường nét và mầu sắc nơi những bông hoa ngay trong vườn. Cái “nhà máy” nào mà sản xuất màu sắc lạ lùng vậy. Còn “nhà máy” sản xuất chất ngọt, chất chua cho trái cây mới kì thú chứ. Tất cả đều là những viên kim cương chờ nhà ảnh khám phá ra. Nghệ sĩ đúng là một người giầu có đúng nghĩa nhất, vì chụp bắt được vẻ đẹp và đào lên được kho tàng giàu sang trong thửa vườn địa đàng vũ trụ.
Những diễn biến như những nhịp điệu chuyên chở đầy ý nghĩa biểu tượng, nên những tấm hình đều vang lên những bài thơ tiềm ẩn của đất trời, những dòng nhạc trầm bổng nhịp nhàng, mà nếu không để giờ đủ mà mở mắt nhìn sâu vào thì khó mà thấy được.
Chính vì thế mà Hội Thánh Công Giáo khai mạc cho năm phụng vụ bằng chính Lời Chúa: Hãy tỉnh thức, hãy mở mắt, hãy sẵn sàng (Mt 24:42, 44).
Sống thêm một tháng, một năm, và ngay cả một ngày, một phút với một ngụm khí thở, chẳng phải là nhận được quà "thưởng thêm" (bonus) là gì? Tại sao cứ đợi bị đụng xe liệt chân mới thấy đi được là ơn ban? Tại sao cứ đợi bị nghẹt tim hết thở nổi, mới thấy mỗi hớp hơi thở đang là một quà tặng quí báu không tiền bạc nào mua nổi? Văn hóa Việt thấm sâu ơn Trời, "vần giữ đạo Trời khăng khăng" nên dễ an nhiên với mọi nhịp trầm bổng biến rời. Có vần vũ mấy trên cuộc sống này rồi đến lúc cũng phải nhận ra bàn tay huyền nhiệm của Đức Chúa Trời, như tâm tình đầy chất đạo của người Việt qua ca dao:
Ta về ta dựng mây lên
Trời xe mây lại một bên hòn Lèn.
Mình đang mang sức sống, đang có thể nói được, cử động đánh máy được, nhìn được màu sắc, nghe được âm thanh, cảm được buồn vui, đầu mình đang nối kết hàng tỉ tỉ tín điệp qua những tế bào óc làm việc ngày đêm. Tất cả chẳng phải là phép lạ của đời sống sao? Và tim mình bỗng đánh nhịp reo vui khi cảm nghiệm được chất mầu nhiệm, được hiện hữu trên quả địa cầu này.
PHÚT CẢM NHẬN QUÀ TẶNG
Mọi ơn ban đã sẵn sàng, đã bày biện ra đó qua bàn tiệc vũ trụ. Chỉ cần mình cũng sẵn sàng nhận hưởng thôi. Mình cần mở mắt để nhận ra được dòng sức sống đang tuôn chảy qua vạn vật, qua từng cây cỏ, từng cành lá, qua từng bông hoa dại, qua mạch máu của mỗi người. Cũng chỉ là một dòng sống thôi. Và như vậy mỗi vật đều trở thành một nhiệm tích, một mạch chuyển sinh lực từ dòng thác nước vô biên. Chỉ cần cắm được vào đó, hòa nhập vào đó, nối vào đó, giơ hai bàn tay ra mà đón nhận, và chụp lấy. Có cần gì phải tới tận thác Bridal Veil ở Yosemite mới có cảm nghiệm dòng ơn thánh đâu. Ngay ở trong phòng này mình cũng đang thấy dòng thác nước ngày đêm tuôn chảy ào ào như vậy, qua từng bình cây, từng cái bút, ánh sáng đang ùa vào qua cửa sổ. Nhìn thấy thế thì cuộc sống hút hồn lắm, và sẽ chụp được những tấm hình thành những tác phẩm tuyệt vời.
Mình đang nhận quà thưởng thêm (bonus) mỗi phút giây, và nói lên lời cảm ơn với thi hào Rabindranath Tagore, cảm nghiệm dòng sức sống ơn Trời ban vẫn ngày đêm tuôn đổ xuống đời mình qua mọi chuyện, kể cả những gì tầm thường nhất:
Ân sủng Người ban thì vô biên vô tận
Để lãnh nhận tôi chỉ có hai bàn tay nhỏ bé vô cùng.
Ngày ngày lớp lớp qua đi Người vẫn không ngừng đổ rót
Song hồn tôi vẫn trống và tay tôi thì hãy còn vơi. Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
Khi nghiên cứu về Giáo hội Đại Hàn, người ta ngạc nhiên về sức phát triển vượt bực trong vòng: MV 1-A100
Khi nghiên cứu về Giáo hội Đại Hàn, người ta ngạc nhiên về sức phát triển vượt bực trong vòng chưa đầy một thế kỷ. Thời gian cam go nhất trong các cuộc chiến thế kỷ 20 cũng là những cơ hội khiến cho người Đại Hàn bớt tự ái và tự hào dân tộc mà khiêm tốn đón nhận những tư tưởng ngoại lai. Nhờ đó, họ càng dễ chấp nhận Tin Mừng hơn. Nói khác những thất bại chua cay trong thực tế đã làm cho dân tộc Đại Hàn thức tỉnh trước những giá trị cao cả và giá trị có sức cứu thoát của Chúa Kitô.
Nếu không trải qua những biến cố đau thương đó, chắc chắn không bao giờ con người có thể học được bài học khôn ngoan. Thời gian đúng là ông thày dạy khôn cho nhân loại. Nếu thời gian là ông thày dạy khôn, phải nói sao về Đấng làm chủ cả thời gian (x. Mt 18:8; Mc 2:28; Lc 6:5)? Hôm nay Chủ thời gian là Chúa Giêsu lên tiếng cảnh giác mọi người về niềm hy vọng lớn lao của con người đứng trước giới hạn của thời gian .
THỜI GIAN NHƯ MỘT GIỚI HẠN
Thời gian là một giới hạn lớn nhất của kiếp người. Khi nào đụng đầu vào giới hạn đó, con người mới giật mình hoảng sợ. Chính vì thế Chúa muốn nhắc nhở nhiều lần giới hạn thời gian để con người tỉnh thức. Chưa bao giờ Chúa đề cập nhiều lần đến giới hạn thời gian trong một đoạn văn ngắn như Tin Mừng hôm nay. Mở đầu Người nhắc lại lịch sử nhân loại trước thời gian ông Nôe vào tàu tránh nạn hồng thủy. Sau đó, Chúa liên tục nhắc đến ý niệm thời gian như: “ngày” (cc.38.39.42); “bấy giờ” (c. 40); “canh”(c.43); “giờ phút” (c. 44). Những nhắc nhở về thời gian như những chặng mốc cần thiết để thức tỉnh chúng ta về giới hạn của kiếp người. Không để ý giới hạn đó, không thể tỉnh thức.
Nhưng có lẽ ý thức về giới hạn đó cũng chỉ giúp con người phần nào. Thời gian chỉ là cái khung. “Con Người” mới là tất cả nội dung của vấn đề nhân loại phải tỉnh thức ngóng chờ. Thế nên, Chúa phải cảnh giác mãnh liệt hơn khi nói đến “ngày Con Người quang lâm” (c. 39) và “Con Người sẽ đến.”(c. 44) Dù lần thứ nhất hay lần thứ hai xuất hiện nơi trần gian, Chúa đã quả quyết, “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” (Lc 19:10) Bởi vậy, khác với thời gian và vũ trụ, không những Chúa không bị hủy diệt, mà còn đem đến sự sống sung mãn cho muôn loài.
Sở dĩ Chúa kêu gọi mọi người “canh thức” vì không ai biết trước giờ phút Chúa đến. Tất cả diễn ra rất bất ngờ. Như vậy có căng thẳng lắm không? Chúa sẽ đem đến những gì cho cuộc hội ngộ lần cuối đó? Làm cách nào có thể “sẵn sàng” khi “Con Người” đến?
Con Người trở thành trung tâm vũ trụ. Tất cả mọi nỗ lực phải tập trung vào Người. Lý do vì Người đem lại cho vũ trụ và thời gian một ý nghĩa và một hướng sống. Nếu cứ để các giới hạn thời gian, vật chất, kiến thức, của cải v.v. bao vây, chúng ta không thể nào nhìn thấy Người. Dĩ nhiên, sống giữa trần gian, con người khó thoát những hấp lực vật chất. Nhưng Thày sẽ giúp thoát khỏi ma lực ấy, như đã khiến chứng nhân đối đáp khôn ngoan trước bao luận điệu quỷ quyệt trần gian (x. Lc 21:15). Không có Thày, cuộc sống sẽ sống rất căng thẳng. Nhưng có Thày, chúng ta sống bình an.
Có nhiều cách để sống canh thức và sẵn sàng trước giờ Chúa đến. Muốn khám phá cách đúng nhất theo ý Chúa, thiết tưởng chúng ta không thể quên, ngay sau Tin Mừng hôm nay, Chúa kể ba dụ ngôn người đầy tớ trung tín (Mt 24:45-51), mười trinh nữ (Mt 25:1-13) và những yến bạc (Mt 25 14-30). Chúa rất chu đáo khi nói ba dụ ngôn này như ba con đường giúp chúng ta chuẩn bị đón Chúa. Con đường thứ nhất là công bình. Nếu không tỉnh thức trước giờ ông chủ về, chắc chắn người đầy tớ sẽ xử bất công với các đồng bạn. Công bình là một đặc tính của “người đầy tớ khôn ngoan” (Mt 24:45) luôn tỉnh thức đón hạnh phúc lớn lao từ ông chủ. Hạnh phúc ấy lớn đến nỗi “tất cả tài sản” (Mt 24:47) ông chủ đều giao cho anh quản lý.
Con đường thứ hai là trung kiên như các cô trinh nữ chờ đợi mãi tới khuya để đón chàng rể đến. Có trung kiên mới thấy mình phải chuẩn bị những gì và tới mức nào để xứng đáng bước vào phòng cưới. Các nhà chú giải vẫn thấy dầu cần đổ đầy bình là lòng bác ái. Không ai có thể thay ai gánh lấy trách nhiệm sống bác ái và công bình. ĐGH Phaolô VI đã nói: “Tôi kiên quyết kêu gọi tất cả các Kitô hữu hãy hành động ... Mỗi người hãy xét mình xem tới lúc này họ đã làm gì và phải làm gì. Nhắc lại các nguyên tắc, nói lên ý định, vạch ra những bất công và cao giọng tố cáo như ngôn sứ vẫn chưa đủ. Các lời này sẽ không có giá trị thực sự, nếu mỗi người không ý thức mãnh liệt hơn về bổn phận của mình và hành động hữu hiệu.”(1)
Con đường thứ ba là dấn thân đầu tư thời giờ và cuộc sống cho một mục đích duy nhất là Nước Trời. Đời là một cuộc đầu tư không ngừng để sinh lời. Một thái độ thụ động trước những tiêu cực của cuộc đời sẽ khiến con người trở thành bất công đối với Thiên Chúa và đồng loại. Đó là một thái độ mê ngủ. Không canh thức, sẽ làm hoang phí bao của cải Thiên Chúa, đáng lý phải được đầu tư để sinh lời, như Chúa Giêsu đã căn dặn: “Chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại.” (Ga 15:16)
Tất cả những nẻo đường công bình, trung kiên và dấn thân đó đều mở ra trước mắt tín hữu. Không đi vào những nẻo đường ấy, không thể gặp gỡ Chúa. Nhưng làm sao khám phá và đi vào ba con đường đó, nếu người ta không muốn gặp gỡ Chúa? Làm sao gặp gỡ Chúa, nếu không tin? Nếu không tin, làm sao tỉnh thức? Nhưng nếu tin, con người sẽ khám phá ra luật công bình, luật bác ái và những công việc phải hoàn thành trên hành trình về gặp gỡ Chúa. Đó là những quy luật tất yếu giúp con người nuôi hy vọng lớn lao vào cuộc sống hạnh phúc đời đời.
RANH GIỚI ĐẠO ĐỜI
Nếu tỉnh thức, người ta sẽ thấy cuộc đời là cơ hội gặp gỡ Chúa. Chúa đang hiện diện từng giây phút trong mọi lãnh vực. Dĩ nhiên, cứu cánh chỉ có một. Nhưng Chúa dùng nhiều phương tiện và cơ hội khác nhau để đạt cứu cánh đó. Chúa mới là điểm nối kết và là cứu cánh duy nhất làm cho mọi sinh hoạt đạo đời thống nhất.
Trong các sinh hoạt và tương quan đạo đời, nếu không tỉnh thức, con người có thể lạc bước và không thể gặp gỡ Thiên Chúa cũng như đồng loại. Không gặp gỡ Chúa, mọi sinh hoạt trở thành vô nghĩa. Trong tương giao muôn mặt hôm nay, Chúa hiện diện như Đấng Công Chính và đầy Tình Thương. Bởi đó, nếu không đem lại công lý và tình yêu, mọi tổ chức xã hội và Giáo Hội đều vô giá trị. Chính vì vậy, công lý luôn là một đòi hỏi của nhân loại mọi thời mọi nơi. Không dấn thân tranh đấu cho công lý, chúng ta sẽ đánh mất cơ hội lớn cho Chúa đến viếng thăm trần gian.
Nhìn vào lịch sử nhân loại, nếu không có đức tin, khi tách biệt nhà nước khỏi Giáo hội, nhiều người tưởng có thể xua đuổi Chúa ra khỏi xã hội. Nhưng thật ra Chúa đang hướng dẫn toàn thể nhân loại về một cứu cánh duy nhất. Tuy thế, tương quan giữa nhà nước và Giáo Hội đang gây nhiều nhức nhối và tạo nhiều hỏa mù. Chúa muốn vạch một lằn ranh giữa hai thực thể đó để con người biết tôn trọng và giúp đỡ nhau thi hành sứ mệnh giữa những phương tiện và lãnh vực phức tạp nơi trần thế. Không phân biệt nổi lằn ranh giữa đạo đời và không nhận ra cứu cánh lớn lao vượt trên lằn ranh đó, không thể canh thức giờ Chúa đến trong lịch sử và không thể đón vua hòa bình.
Căn cứ ngay trên lời Chúa "Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa."(Mt 22:21), người ta đặt một ranh giới tách biệt đạo đời. “Tách biệt như thế không những ngăn cản được những bước quá đà của nhà nước thần quyền, mà còn cho thấy nguồn gốc quan niệm về giới hạn của nhà nước. Quyền lực nhà nước có giới hạn và phải tôn trọng lương tâm mỗi người.”(2)
Dinesh D’Souza, một học giả nghiên cứu tại Viện Nghiên Cứu Hoover thuộc Đại Học Stanford, cảnh báo: “Các nhà chủ trương trần tục hóa xã hội muốn lãnh vực công sạch bóng tôn giáo và luân lý dựa trên tôn giáo để họ có thể độc quyền lấy quan điểm riêng thao túng xã hội. Hậu quả tiến trình này là các tín hữu sẽ bị xếp vào loại công dân hạng hai. Việc tách biệt Giáo hội và nhà nước không được dùng như một thứ vũ khí chống lại Kitô giáo, nhưng phải làm sao để sự tách biệt ấy trở thành nguyên nhân làm cho xã hội được bình an và tôn giáo được tự do.”(3)
"Sự tách biệt đó hiện rõ trong lề lối tổ chức và mục tiêu phục vụ con người. Giáo hội tổ chức làm sao đáp ứng nhu cầu thiêng liêng của tín hữu, trong khi các cộng đồng chính trị tạo thêm mối tương quan và các cơ chế để phục vụ tất cả những gì thuộc công ích đời sống.”(4) Tách biệt để thấy rõ lãnh vực hoạt động và tôn trọng nhau, chứ không nhằm đẩy vào tình trạng thù nghịch hay băng giá. Từ đó, hai bên tìm mọi cách lợi dụng nhau. Trái lại, cả hai đều nhằm phục vụ ơn gọi cá nhân và xã hội của con người, mặc dù dưới những danh hiệu khác nhau.
“Vì có bổn phận phải tôn trọng tự do tôn giáo, công đồng chính trị phải bảo đảm cho Giáo Hội có chỗ thực hiện sứ mệnh của mình.”(5) Sứ mệnh Giáo hội chỉ nhằm giúp con người tỉnh thức trước giờ Chúa đến mang ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại mà thôi. Nếu không, con người dễ ngủ mê trước những tranh chấp quyền lực và bả vinh hoa vật chất. Muốn chu toàn sứ mệnh, “chắc chắn Giáo hội có quyền được mọi người công nhận có căn tính riêng về phương diện pháp lý.”(6)
“Vì mật thiết liên hệ đến nhân loại và lịch sử, nên Giáo hội đòi quyền tự do bày tỏ lập trường đạo đức về thực tại này, bất cứ khi nào Giáo Hội được yêu cầu bênh vực những quyền căn bản làm người hay phần rỗi các linh hồn.”(7) Không phải khi nào nói đụng tới con người, Giáo Hội đều làm chịnh trị. Nói khác, con người không phải là đối tượng duy nhất của chính trị. Chính trị không nắm giữ độc quyền trên con người.
Vì lợi ích thực tế, nên tìm cách giảm bớt những xung đột và dung hòa các quyền lợi giữa Giáo Hội và nhà nước. Nếu không, con người sẽ bị mắc kẹt và thiệt thòi giữa cảnh “trâu bò húc nhau” đó. Con người phải là mục tiêu tối hậu mọi lãnh vực. Tách biệt đạo đời cũng chỉ vì lợi ích cho con người mà thôi.
Bằng mọi cách phải bảo vệ con người khỏi những áp lực từ mọi phía. Bởi thế, trong lịch sử, “qua việc bảo vệ nhân quyền, Kitô giáo cũng làm nguồn cảm hứng cho các phong trào chấm dứt nô lệ, thực thi dân chủ và cổ động quyền tự trị, cũng như những nỗ lực đầu tiên xây dựng một học thuyết về nhân quyền. Nhiều công cuộc xây dựng nhân quyền có được là nhờ Kitô giáo rất nhiều.” Nếu không có Kitô giáo như một ý thức cảnh giác nhân loại, làm sao con người có được nhân quyền và bình đẳng như hôm nay. Nhưng Kitô giáo là gì, nếu không phải là một niềm tin vào Đấng đang đến trong lịch sử và hoàn thành những gì Chúa Cha đã lên kế hoạch?
Không thể bảo vệ nhân quyền , nếu không tách biệt lãnh vực và mục tiêu của Giáo hội và nhà nước. Do đó, nếu can thiệp vào lãnh vực tôn giáo, nhà nước đã vượt quá quyền hạn và xâm phạm nhân quyền. Các tổ chức đan chéo và dẫm chân lên nhau khiến các hoạt động tê liệt hay đi sai mục tiêu. Ngược lại, nếu muốn trung thành với Chúa, Giáo hội không thể tránh xa những con đường tìm gặp Chúa. Phải rất tỉnh thức mới có thể làm cho mọi người, nhất là Kitô hữu, thấy rõ vị trí và niềm hy vọng của mình. Chính vì thấy rõ nhân vị được nâng lên tới chiều kích Chúa Kitô, nên Giáo Hội đã không hề mỏi mệt tranh đấu cho nhân quyền.
Muốn thế, Kitô hữu phải hoạt động để thiết lập công lý trong mọi lãnh vực xã hội. Đây là lãnh vực đòi họ phải dấn thân và hy sinh rất nhiều. Không thể giản lược sứ mệnh Giáo hội vào công cuộc bác ái và thỏa mãn với những công cuộc phát chẩn hay bố thí. Thực tế, “việc thi hành bác ái và tranh đấu cho công lý phải được coi là khuôn mẫu thường xuyên của Giáo Hội.”(8) Chính vì quá chú trọng tới sinh hoạt bác ái và quên tranh đấu cho công lý, nên cảnh nghèo đói và bất công tràn ngập khắp các nước đang phát triển, đặc biệt tại Châu Mỹ La tinh. Bởi thế, ĐHY Oscar Rodríguez Maradiaga, Chủ Tịch cơ quan Caritas Quốc Tế, lên tiếng báo động: “Nếu sự phát triển là cái tên mới của hòa bình thì sự kém phát triển tại Mỹ Châu Latin và tình trạng bất công có các đặc điểm khác nhau tại mỗi nước, sẽ gia tăng tình trạng căng thẳng đưa đến nguy cơ cho nền hòa bình.”(9) Đó là dấu chỉ Giáo Hội không tỉnh thức và không chuẩn bị cho mọi người mong chờ Chúa đến.
Không tranh đấu cho công lý, Kitô hữu không thể hoàn thành sứ mệnh. Lý do vì “mục tiêu của sự phát triển không phải là chỉ nâng cao mức sống của dân chúng bằng mức sống trong các nước giầu có, mà phải dựa trên căn bản đời sống có được nhân phẩm hơn hay không trong các công việc có tính liên đới, đời sống và óc sáng tạo của mỗi con người có thể tăng lên một cách hữu hiệu, kể cả cái khả năng của cá nhân đáp trả về ơn kêu gọi của riêng mình và do vậy đáp ứng lại lời mời gọi của Thiên Chúa”(10) Không có Giáo Hội, ai sẽ nhắc nhở và hoạt động cho mọi người đạt tới mục tiêu cao cả như thế? Nếu không can đảm đứng tách biệt khỏi nhà nước, không bao giờ Giáo Hội có đủ tư cách và khả năng hoàn thành sứ mệnh của mình.
ĐƯỜNG NÀO CHO CHÚA ĐẾN
Cho tới nay, việc phân biệt đạo đời cho thấy điều gì? Rõ ràng tôn giáo bị gạt ra ngoài xã hội và không có một ảnh hưởng gì tới nhà nước. Nhiều người trong Giáo Hội vẫn mơ tưởng dùng đường lối đối thoại hay gương sáng ảnh hưởng tới các đảng viên hay chính sách nhà nước. Nhưng thực tế, sau 32 năm nhuộm đỏ, các tôn giáo ở Miền Nam Việt Nam đã thay đổi được nhà nước, hay ngược lại?
Hợp tác với nhà nước đã đem lại cho GHCGVN những gì? Phải chăng sau bao năm cố gắng tự bịt miệng rồi khúm núm mở miệng dâng kiến nghị “xin,” GHCGVN đã được nhà nước “cho” phép xây các nhà thờ, tòa giám mục, chủng viện, tu viện và truyền chức linh mục hàng loạt v.v.? Những món quà đó hấp dẫn đến nỗi một số vị lãnh đạo tôn giáo đã bày tỏ công khai sự mãn nguyện!!!
Thực ra, những bổng lộc đó chỉ là những phương tiện giúp nhà nước đẩy Giáo Hội vào bốn bức tường nhà thờ hay nhà chùa, để họ mặc tình làm mưa làm gió ngoài xã hội. Không những thế, họ còn thọc sâu vào nội bộ Giáo hội để lũng đoạn và chi phối. Đây là những bằng chứng:
a- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hôm 8-6-2007 vừa ký Quyết-định số 83/2007 QDD-TTg chủ-trương sẽ huấn luyện khoảng 22 nghìn cán bộ chuyên trách xử lý các vấn đề liên quan tới các tôn giáo dựa theo chương trình của Bộ Nội vụ và Học viện Chính trị Hành chánh Quốc gia Hồ Chí Minh (hai tổ chức công an mật vụ của đảng CSVN). Mấy chục ngàn cán bộ tôn giáo này có nhiệm vụ chủ yếu là theo dõi, kiểm soát, báo cáo và lũng đoạn các tôn giáo.
b- Nhà cầm quyền VN can thiệp vào việc bổ nhiệm các chức sắc cao cấp trong GH Công giáo là các Giám mục, chứ Tòa Thánh Vatican không có toàn quyền. Điều đó đã dẫn tới việc tấn phong nhiều Giám mục không hoàn toàn theo tiêu chuẩn của Giáo Hội và Giáo Luật. Hậu quả là có hai giám mục đã xin từ chức khi đang thi hành nhiệm vụ: (...). Trước năm 1975, tại VN không hề xảy ra chuyện từ chức như vậy.
c- Nhà cầm quyền VN buộc các chủng viện (là nơi đào tạo các linh mục quản xứ tương lai) phải học chủ nghĩa Mác xít, lịch sử đảng CS và pháp luật nước CHXHCNVN và phải thi với hệ số điểm cao. Điểm thi này sẽ là căn cứ để nhà cầm quyền cho chủng sinh chịu chức linh mục hay không. Việc học lý thuyết duy vật vô thần song song với giáo lý nhân bản hữu thần đã làm cho lương tâm các chủng sinh ra tê liệt, chẳng còn biết đâu là sự thật, các chức sắc tôn giáo này chỉ còn thuần túy lo việc lễ nghi, hay nếu có làm việc từ thiện bác ái, thì chỉ cho các nạn nhân của thiên tai, chứ không phải cho các nạn nhân của nhân tai (tức là những kẻ bị áp bức, bóc lột ). Bằng chứng là các linh mục dấn thân tranh đấu cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền thì rất hiếm!”(11)
Sống trong một xã hội với những cơ chế như thế, làm sao con người có thể tỉnh thức? Chẳng lẽ mục tiêu Giáo hội cuối cùng chỉ còn là những hình thức và những lợi lộc vật chất? Chúa sẽ đến qua ngả nào, khi Giáo hội đang lóa mắt trước những hào nhoáng vật chất và vinh quang trần thế? Nếu không trải qua những thất bại sau bao cuộc chiến, dân tộc Đại Hàn có tỉnh thức trước giờ Chúa đến với bao hồng ân từ lời Chúa không?
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống khiêm tốn như dân tộc Đại Hàn sẵn sàng đón Chúa đến với tấm lòng khiêm cung. Xin hãy đốt lên niềm hy vọng để mọi người có thể sống vững mạnh giữa đêm trường thế kỷ. Amen.
đỗ lực
02.12.2007 ----------------------------------- [1] Phaolô VI, A Call to Action (Octogesima Adveniens), 1971. [2] http://www.zenit.org/article-21112?l=english. [3] ibid. [4] Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, 424. [5] ibid. [6] ibid, 426. [7] x. Luật Giáo Hội, 747, triệt 2; Giáo lý Công giáo, 2246. [8] Oscar Rodríguez Maradiaga,
http://www.vietcatholic.net/News/Read.aspx?id=49236. [9] ibid. [10] ibid. [11] Phan văn Lợi, http://tiengnoigiaodan.net/anews/0711_060.html