Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 3-A Bài 101-150: Thầy có phải là Đấng chúng tôi mong đợi không? ----------------------------- Phúc Âm: Mt 11, 2-11 "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?"
T rong một quốc gia mà có nhiều cảnh tệ đoan như bất công, tham nhũng, thất nghiệp, thiếu thực phẩm, và vật giá leo thang, thì người dân sẽ mất tin tưởng vào chính quyền. Cái xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu cũng là một xã hội có nhiều tệ đoan. Quốc gia của họ bị chính quyền ngoại bang là người La Mã đô hộ. Trong nội bộ lại có sự chia rẽ trầm trọng giữa các đảng phái chính trị và tôn giáo. Bất công, tham nhũng và vô luân lan tràn từ trên xuống dưới, nơi những nhà lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo. Ông vua bù nhìn của họ là Hêrôđê đã dẫn đầu đời sống loạn luân, bất kể luân thường đạo lý và lễ nghĩa, đã cướp vợ của em mình. Và khi Gioan tiền hô phản đối việc loạn luân của nhà Vua, thì ông đã bị tống giam rồi bị chém đầu.
Từ trong tù, nghe nói về Chúa Giêsu như Phúc âm hôm nay thuật lại, Gioan tiền hô sai người đến hỏi Chúa Giêsu: Có phải Thầy là Đấng (Cứu Thế) phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi một đấng nào khác? (Mt 11:2). Suy luận ra thì câu hỏi của Gioan có nghĩa là: có phải Thầy là vị cứu tinh phải đến để bài trừ những tệ đoan, bất công và tham nhũng trong xã hội? Cũng lạ là trước đó khi làm phép rửa cho dân chúng, Gioan tiền hô đã nói cho các môn đệ của ông về Chúa Giêsu: "Tôi lấy nước mà rửa anh em, song có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Người" (Mt 3:11). Chính Đấng ấy sẽ rửa các ngươi bằng nước và Thánh Thần. Và khi thấy Chúa Giêsu, Gioan tiền hô đã giới thiệu với các môn đệ của ông: "Đây chính là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Ga 1:29)
Vậy mà hôm nay Gioan tiền hô còn sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu, xem Người có phải là Đấng Cứu thế phải đến không? Như vậy thì có phải Gioan chỉ hỏi giả vờ hay không? Hay ông đã hồ nghi về sứ mệnh thiên sai của Đấng Kitô. Hay là ông quá nóng lòng, không còn đủ nhẫn nại để chờ đợi Chúa đến ra tay sát phạt, gieo rắc cơn thịnh nộ của Thiên Chúa? Nếu cái ẩn ý của Gioan là như vậy, thì câu hỏi của ông có ý thúc giục Chúa hành động. Chúa không trả lời là có hay không. Chúa không xác nhận, cũng không phủ nhận Ta là Đấng sẽ đến.
Đây chính là câu trả lời của Chúa: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ngươi đã nghe và thấy: người mù được sáng, người què đi được, người phong cùi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho người nghèo khó" (Mt 11:4-5). Đó chính là Tin mừng của việc Chúa đến. Bài trích Sách Tiên tri Isaiah hôm nay ghi lại cái cảnh cực khổ và quẫn bách của dân chúng trong quá khứ. Bị lưu đày khỏi quê hương, xứ sở, người Do thái không biết có ngày mai, không biết bao giờ mới được hồi hương để xây dựng lại cuộc đời. Tuy nhiên, tiên tri Isaia nhờ có kinh kinh nghiệm sống gần Chúa, đã cho họ một niềm hi vọng vào Chúa trong tương lai. Trong bài trích thư thánh Giacôbê, thánh nhân cũng khích lệ giáo dân: "Anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng kêu trách lẫn nhau để khỏi bị kết án." (Gc 5:8-9).
Như vậy cả tiên tri Isaia và thánh Giacôbê đã có được cái giác quan thứ 6 để nhìn lên trên sự vật, vượt qua cái cảnh lầm than hiện tại, để giúp người ta hướng về một tương lai tươi sáng và đổi mới. Phải chăng chúng ta cũng đang sống trong cảnh lưu đầy, xa cách quê hương. Chúng ta cũng có thể đang sống trong cảnh lưu đày về tình cảm: tình nghĩa vợ chồng đã phai nhạt, hoặc đã chết trong con tim, tình nghĩa cha mẹ và con cái đã trở nên long lẻo... Và chúng ta cũng có thể đang sống trong cảnh lưu đầy về đời sống thiêng liêng: đức tin đã bị lu mờ, đưa đến chỗ hồ nghi về sự hiện diện của Thiên Chúa và quyền năng của Người.
Và chúng ta cũng có thể đặt những câu hỏi tương tự như Gioan tiền hô:
- có phải Chúa là Đấng sẽ đến hàn gắn những vết thương lòng giữa vợ chồng, cha mẹ, anh chị em và con cái chúng con không?
- có phải Chúa là Đấng sẽ đến giúp con cháu chúng con sửa đổi cách sống, làm lại cuộc đời không?
- có phải Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát chúng con khỏi cảnh cô đơn, buồn chán không?
- hay chúng con đang mong đợi một quyền lực nào khác như bói toán, tướng số, cơ may?
Gioan Tẩy Giả đã thu hút được đông đảo quần chúng Do Thái khi Ông rao giảng việc ăn năn sám hối ở bờ sông Giođan. Các tư tế, các thượng tế, Lêvi, Biệt phái đều tỏ ra thắc mắc về Gioan là ai ? Họ muốn biết Ông giữ vai trò gì trong lịch sử cứu rỗi của Thiên Chúa ? Ông có phải là Đức Kitô, Đấng được xức dầu và sẽ đến vào thời cứu rỗi? Là Elia ? là ngôn sứ hay là một nhân vật nào đó mà họ tin rằng sẽ trở lại nơi trần gian để rao giảng sự thống hối vào ngày sau hết của việc phán xét cuối cùng ? Lời rao giảng và những việc làm của Gioan Tẩy Giả quả làm chấn động xã hội thời Ông.
Bên giòng sông Giođan, Gioan Tẩy Giả đã rao giảng, đã làm phép rửa bằng nước, Ông đã gây chú ý cho biết bao nhiêu người đồng thời. Ông rao giảng:" Hãy từ bỏ tội lỗi mình...Hãy dọn đường cho Chúa đến: hãy làm một lối thật thẳng để Ngài đi ". Tin tức về những hoạt động của Ông chẳng mấy chốc lọt đến tai những vị lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem. Do đó, họ sai một phái đoàn gồm Lêvi và Tư tế đến với Gioan Tẩy Giả để tìm hiểu sự thật.
Các Tư tế lưu tâm đến Gioan vì Cha của Gioan là Giacaria cũng là một Tư tế như họ. Điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc dòng dõi Tư tế hoặc dòng Aaron. Nên, các tư tế ở Giêrusalem hết sức bỡ ngỡ về thái độ và cung cách kỳ dị của Gioan Tẩy Giả. Khi phái đoàn đến họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan ngay:" Ông là ai ?".
Gioan biết họ đang nghĩ gì về Ông, nên Ông trả lời tức khắc:" Tôi không phải là Đấng cứu thế ". Các Tư tế hỏi:" Nếu Ông không phải là Đấng cứu thế, vậy Ông là ai?
Ông có phải là Elia không ?". Gioan nói thẳng Ông không phải là Elia mà các người Do Thái tin sẽ trở lại dương thế vì Elia đã được đưa về trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ. Họ hỏi:" Vậy Ông có phải là một vị ngôn sứ không ? ". Gioan lại trả lời:"
Không, tôi không phải là một ngôn sứ như Giêrêmia hay Êdêkiên ". Họ hỏi tiếp:" Vậy Ông là ai ?" Gioan trả lời bằng câu nói của ngôn sứ Isaia:" Tôi là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến". Để hiểu được tiếng tiền hô, ta phải trở về thời Gioan Tẩy Giả để hiểu: đường sá lúc đó hầu hết là đường đất, trũng, lầy lội khi mưa gió. Do đó, khi có vị quan hoặc vua tới thì vị tiền hô đi trước để mời gọi dân chúng lo đường cho tốt hầu vua hoặc quan đi qua cho tốt đẹp. Tiền hô cũng còn một nhiệm vụ nữa là dậy dân chúng nghi thức tiếp tân cho tốt đẹp để đón tiếp các Cấp trên. Gioan Tẩy Giả cũng lưu tâm dân chúng thái độ tiếp tân dân cần phải có để đón Chúa tới:" Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa"(Mc 1, 4 ).
Gioan không phải là chính, sứ điệp của Ông ta có thể hiểu như sau:" Tôi không phải là Đấng cứu thế, nhưng tôi là người tiền hô cho Ngài". Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Gioan đã chu toàn sứ mạng tôn giáo của mình. Ông không để nhân loại và đám đông chỉ chú ý tới Ông:" Ngài phải lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại". Gioan hướng con người chú ý tới Chúa. Đây cũng là sứ điệp Mùa vọng mà Giáo Hội đang hướng chúng ta. Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Kitô đến. Ngài đến trong lịch sử nhân loại và Ngài lại đến với thế giới vào ngày sau hết. Phụng vụ các bài đọc Chúa nhật hôm nay cho nhân loại hay:" Gioan không phải là Đấng Cứu Thế. Ông chỉ là tiếng hô trong sa mạc để dọn đường cho Chúa đến". Ông dậy chúng ta phải đón Chúa như thế nào và chúng ta chuẩn bị Chúa đến không như các người Do Thái xưa mà chờ đón Chúa đến để phán xét con người, phán xét chúng ta vào ngày tận thế. Nào chúng ta cùng ăn năn sám hối và cầu nguyện:
Chủ nhật thứ 3 mùa vọng, được gọi là chúa nhật vui mừng. Vì chủ đề chính của chúa nhật này là: MV 3-A103
Chủ nhật thứ 3 mùa vọng, được gọi là chúa nhật vui mừng. Vì chủ đề chính của chúa nhật này là niềm vui. Hôm nay, ngôn sứ Isaia được Thiên Chúa sai đến loan báo cho cộng đoàn đang sống trong thử thách biết rằng, "ngày vui mừng của họ sắp đến, đó là ngày nơi hoang địa cằn cỗi vui mừng, vì Thiên Chúa sẽ giải thoát họ khỏi thử thách đau thương." Cho nên sứ điệp loan báo hôm nay mời gọi mọi người hãy can đảm lên, đừng sợ hãi, vì Ngài sẽ đến và cứu độ các ngươi. Và bấy giờ, mắt người mù sẽ nhìn thấy và tai người điếc sẽ nghe được và người què sẽ nhảy như nai.
Còn thánh Phaolô thì nói rằng, "anh em hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại cho anh chị em là hãy vui lên, hãy vui lên vì Chúa đã đến gần."
Thưa anh chị em, tại sao phụng vụ chủ nhật này lại chọn niềm vui làm đề tài chính? Lý do là vì chúa nhật III Mùa Vọng này chia mùa vọng làm đôi, điều này còn là dấu hiệu của ngày đại lễ Giáng Sinh sắp đến, và giáo hội thấy thời điểm này là thuận tiện nhất để nhắc chúng ta nhớ. Mùa vọng không được mang màu sắc ảm đạm, bi thảm gây ấn tượng nặng nề. Chúng ta đang chờ đợi Chúa đến, nhưng không chờ trong tuyệt vọng, chờ trong nghi ngờ không biết người mình chờ có đến không? nhưng phải chờ với lòng cậy trông. Trái lại, ngay khi chờ đợi, chúng ta phải cảm thấy Chúa gần gũi, tâm hồn phải cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài. Cho nên, niềm vui trong Thiên Chúa không phải là niềm vui vì mình có được nhiều của cải vật chất, mà là niềm vui có Chúa hiện diện và vì có Chúa hiện diện cho nên tâm hồn người tín hữu được sự bình an. Nơi đâu Thiên Chúa hiện diện, thì nơi đó xuất hiện tình thương và sự bình an cho con người. Bình an đó là gì "người mù được xem thấy, què đi được và kẻ chết sống lại" những lời loan báo này đã được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu Kitô, con Thiên Chúa Nhập Thể làm người.
Cho nên, thưa anh chị em, niềm vui lớn nhất của người Kitô hữu là niềm vui có Chúa hiện diện. Là kho tàng quí giá vô tận, qúi giá là bởi vì có Chúa làm cho chúng ta no thoả nỗi khao khát mong chờ. Chính vì vậy, người tín hữu cần phải khao khát được chiếm hữu Chúa nhiều hơn, tràn đầy hơn, trọn vẹn hơn.
Cũng vậy, trong khi nhiều người quá lo lắng theo đuổi những ước mơ vô vọng, theo đuổi mà chẳng tin tưởng bao nhiêu, thì người kitô hữu lại với tâm trạng hoàn toàn thanh thản, an tâm. Thanh thản an tâm là vì mình đã và đang có Đấng mình khao khát. Mà một khi đã có Chúa mà lại biết mình có mãi mãi và càng ngày càng có nhiều hơn, thì làm sao có thể lo lắng, phiền muộn được. Chính vì thế mà thánh Phaolô cất cao lời mời gọi là " anh em hãy vui mừng trong Chúa"
Vui mừng trong Chúa là vì Thiên Chúa có thể biến những đau buồn trở thành niềm vui cho chúng ta. Cho nên, dẫu người tín hữu có những nghịch cảnh đưa đến, những khó nhọc đè chĩu đôi vai, những tai hoạ có bất ngờ chụp xuống trên mình, thì cũng không thể dập tắt nổi bình an và niềm vui trong lòng người tín hữu. Bởi vì niềm vui của người tín hữu là trong Chúa và bởi Chúa.
Thưa anh chị em, có lẽ ít khi chúng ta nghĩ đến niềm vui trong Chúa. Có khi chúng ta thường quên rằng, niềm vui là nét tiêu biểu của đời sống kitô hữu. Có lẽ bởi vậy mà ít khi chúng ta vui thật, vui sâu xa và lâu bền trong lòng. Một niềm vui đem đến sự bình an cho tâm hồn. Là vì sao? Nếu không phải là vì, chúng ta chưa biết đặt niềm vui của chúng ta trong Chúa, cho nên chúng ta thường lo đi tìm nguồn vui độc hại ở nơi khác ngoài Chúa. Chính vì thế, nó dẫn chúng ta đến hậu quả đáng tai hại, đó là những lo âu, thất vọng, buồn chán và mất sự bình an, và còn làm cho tâm hồn chúng ta cảm thấy trống rỗng, không còn tha thiết gì cuộc sống này nữa là vậy.
Thưa anh chị em, người kitô hữu phải sống sao cho mình cảm thấy như Chúa đang hiện diện, và cố gắng để có Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời của mình mãi. Và nếu muốn cho Chúa hiện diện trong cuộc đời mình mãi mãi, thì trước hết, chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa hiện diện, qua việc lãnh nhận Bí Tích Giao Hoà, phải siêng năng lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể. Mà bởi vì nơi đâu có Chúa hiện diện, thì ở đó có tình yêu thương, đó là con đường dẫn chúng ta đến với tha nhân, qua việc sống bác ái chia sẻ, giúp đỡ cho người khốn cực. Chỉ có lòng yêu thương bác ái, là dấu chỉ có Chúa hiện diện nơi người ấy.
Cho nên, trong những ngày của những tuần cuối của mùa vọng này, anh chị em không chỉ dọn tâm hồn mình bằng cách đi xưng tội của mình mà thôi, nhưng hãy làm một nghĩa cử bác ái nào đo, cho người anh chị em nghèo đang sống chung quanh khu xóm chúng ta, để công việc chúng ta làm mới là lời chứng thực sự có Chúa hiện diện nơi tâm hồn anh chị em. Bởi vì, nếu nói sự hiện diện của Chúa thì chúng ta phải trở nên chứng nhân, chứng nhân sống cái điều mình xác tín, đó là phải biết yêu thương anh chị em đói khổ.
Cũng như khi các môn đệ Gian Tẩy Giả được sai đến hỏi Chúa Giê-su "thầy có phải là Đấng cứu thế không?" Chúa Giê-su trả lời cho các ông rằng, hãy về tường thuật cho Gioan những gì các ông đã nghe, đã thấy, tức là người mù được thấy, què đi được, người phong hủi được khỏi, kẻ điếc đượcx nghe và người chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo.
Qua câu trả lời trên đây, Chúa Giê-su muốn nói rằng, Tin Mừng không là những lời loan báo suông, mà trước tiên phải là những việc làm được thực hiện một cách cụ thể. Cho nên, người tín hữu phải trở nên chứng nhân từ trong gia đình của mình. Là bởi vì, Có khi mình chỉ biết làm chứng nhân ở đâu đó, còn trong gia đình thì mình chẳng quan tâm gì cả. Vì vậy, chứng nhân trước tiên phải từ trong đời sống gia đình, bằng cách sống yêu thương phục vụ gia đình mình để cho cuộc sống nó tốt hơn. Làm chứng bằng cách, cùng nhau quan tâm và giáo dục con cái hơn nữa, chứ không phải như từ trước đến nay, chỉ biết lo làm kiếm tiền là đủ, mà còn phải có bổn phận và trách nhiệm dạy bảo con cái, để con cái nó cũng mang cái hình ảnh, cái khuôn mặt của ChúaKitô. Chứng nhân, rất khó chứ không phải dễ dàng đâu. Cho nên, để có Chúa hiện diện và mọi người trở nên chứng nhân cho Ngài, thì tự sức mình không bao giờ làm gì được, nhưng cần phải có ơn Chúa giúp, và để có ơn Chúa ta phải cầu xin cho mình biết mở rộng con tim và cõi lòng ra, để có thể dành cho Chúa nơi ở xứng đáng trong tâm hồn mình, qua việc sống thánh thiện tốt lành, việc thay đổi cách sống cũ kỹ không phù hợp với thánh ý Chúa từ trước đến nay. Và như vậy, chắc chắn, tâm hồn chúng ta lúc nào cũng cảm thấy được niềm vui, vì có Chúa hiện diện trong cuộc đời của mình.
Chúa nhật vui mừng chẳng những gợi lên tính vui tươi của mùa vọng, mà còn chỉ cho chúng ta thấy, nguồn vui vô tận luôn tiềm ẩn trong lòng người tín hữu. Nguồn vô tận ấy chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn. Và điều quan trọng đó là, chúng ta hãy giữ Chúa ở lại mãi trong tâm hồn của mình, đó chính là mình phải từ bỏ con đường tội lỗi, con đường cũ kỹ và chọn lựa con đường mới, con đường phù hợp với thánh ý Chúa Amen.
Mùa vọng là mùa mong đợi Con Thiên Chúa đến trần gian. Vì vậy tâm tình của mùa đợi trông này: MV 3-A104
Mùa vọng là mùa mong đợi Con Thiên Chúa đến trần gian. Vì vậy tâm tình của mùa đợi trông này là cần phải lấy niềm vui thay cho ảm đạm, hân hoan thay cho u buồn, hy vọng thay cho tuyệt vọng. Tại sao chúng ta phải sống những tâm tình lạc quan như thế ? Thưa vì niềm vui là nét đặc trưng của người Kitô hữu. Chính Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê cũng khuyên mọi người là hãy vui lên, vui luôn trong Chúa. (x Pl 4,4 )
Như vậy làm thế nào để chúng ta có được niềm vui trong Chúa?
1/ Niềm vui trong chúa là niềm vui chia sẻ:
Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe giúp sẽ giúp chúng ta cảm nhận được thời của Đấng Thiên Sai. Thời hồng phúc ấy sẽ ứng nghiệm những lời tiên báo của Tiên tri Isaia trong bài đọc I, nghĩa là Thiên Chúa sẽ cứu độ con người qua Đức Giêsu Kitô, Đấng muôn dân mong đợi. Trong thời ấy: người mù sẽ được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó.
Từ những việc làm của Đức Giêsu Kitô cho những người đau khổ. Chúng ta sẽ khám phá được hình ảnh của một Thiên Chúa làm người: Đó là Thiên Chúa gần gũi hơn là xa cách, Thiên Chúa cứu vớt hơn là bỏ rơi, Thiên Chúa cứu độ hơn là hủy hoại, Thiên Chúa luôn mong mỏi đem niềm vui hơn là bất hạnh đến cho con người. Vì biết rằng niềm vui là món quà ai ai cũng mong muốn, nên Đức Giêsu sẵn sàng tìm mọi cách đem niềm vui đến cho con người. Cho dẫu Ngài phải chịu nghi ngờ, khinh khi, nhục mạ, thù hận, đánh đập và giết chết trên thập giá.
Nguyên nhân nào mà Đức Giêsu đành phải hy sinh quá mức như vậy? Thưa vì những cử chỉ ân cần phục vụ hy sinh của Chúa đã đem lại niềm vui trọn vẹn cho Chúa. Niềm vui trọn vẹn của Chúa Giêsu là Ngài được sống theo Thánh ý của Chúa Cha, sống theo lý tưởng sứ mạng yêu thương phục vụ của Ngài.
Đời sống người Kitô hữu cũng vậy: Chúng ta có được niềm vui, và niềm vui ấy sẽ được gọi là niềm vui trong Chúa, khi chúng ta biết đem Tin mừng sự sống đến cho những người nghèo khổ, đói khát, bỏ rơi, bệnh tật, bất hạnh... Chúng ta cho đi mà không ngại mất mát, cho đi mà vẫn thấy niềm vui rạng ngời trong hành động, cho đi mà vẫn thấy nụ cười nở trên môi, cho đi mà vẫn giữ mãi nét đẹp của người kitô hữu là niềm vui đang tồn đọng mãi trong ta.
Tóm lại: Để có niềm vui trong Đức Giêsu Kitô là chúng ta phải biết chia sẻ như Đức Kitô. Cho dẫu nếu cần phải hy sinh như Đức Kitô, thì chúng ta vẫn vui mừng chia sẻ để được niềm vui trọn ven như Đức Kitô, hay cho dẫu chúng ta phải chịu thiệt thòi tất cả, mất tất cả, ngay cả đến mạng sống của chúng ta.
2/ Niềm vui trong Chúa là gắn kết với Chúa:
Phải nói rằng ngoài niềm vui mà Đức Giêsu đón nhận khi được phục vụ mọi người, thì điều rất cần thiết để Đức Giêsu được đón nhận niềm vui nữa, đó là đời sống cầu nguyện.
Kinh thánh luôn ghi nhận Đức Giêsu là một con người luôn cầu nguyện: Ngài cầu nguyện trong mọi hoạt động của cuộc đời Ngài, Ngài cầu nguyện trong những lúc như bị bỏ rơi trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Ngài cầu nguyện trong những lúc nghiệt ngã ở những giây phút cuối đời của Ngài trên thập giá.
Đức Giêsu thường xuyên cầu nguyện vì Ngài xác tín Chúa Cha luôn là niềm vui của Ngài. Ngài rất sung sướng khi được gặp gỡ Chúa Cha, khi được thưa chuyện với Chúa Cha, khi được sống thân tình với Chúa Cha, khi được đi vào mối tương quan sâu thẳm của một người con với Cha của mình.
Khi tìm được niềm vui trong đời sống gắn kết mật thiết với Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng không ngần ngại kêu gọi chúng ta luôn phải cầu nguyện: Ngài dạy chúng ta phải cầu nguyện, cầu nguyện không được nản chí ( x Lc 18,1), cầu nguyện để xua trừ mọi niềm vui giả tạo của ma quỷ ra khỏi cuộc sống chúng ta, cầu nguyện để được hiệp thông với Chúa là nguồn vui như cây nho và cành nho, cầu nguyện để được ở lại với Chúa, được múc sức mạnh từ nơi Chúa để có được tư tưởng, lời nói và hành động yêu thương phục vụ như Chúa, cầu nguyện để chúng ta có Chúa trong ta. Một khi có Chúa trong ta là cuộc sống sẽ có niềm vui. Niềm vui thiêng liêng ấy thế gian không thể nào ban tặng được, chỉ có Chúa là Đấng đem lại niềm vui sung mãn cho ta mà thôi.
Về điểm này chúng ta cũng thấy nơi Thánh Phaolô: Vì ý thức sự cần thiết của đời sống cầu nguyện, nên trong thư gởi tín hữu Thêssalônica, trong khi kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn chờ ngày Chúa quang lâm, điều cơ bản Thánh Phaolô khuyên các tín hữu là: "Hãy cầu nguyện không ngừng" (1Thes 5, 16). Theo Thánh Phaolô: Cầu nguyện để khơi lên nguồn hy vọng, cầu nguyện để chuẩn bị đón nhận chính Chúa là niềm vui, cầu nguyện để được Thần khí đổi mới, để sống theo sự hướng dẫn của Thần khí, cầu nguyện để được Chúa thánh hoá bản thân cách toàn diện. Như vậy, hoa quả của cầu nguyện đó là sự đón nhận chính Chúa, là sự đổi mới bản thân, là sự thánh hoá toàn diện trong Chúa là nguồn vui.
Hôm nay chúng ta bước sang Chúa nhật III mùa vọng, cũng gọi là Chúa nhật của niềm vui. Phụng vụ hôm nay qua những phẩm phục và dấu chỉ bên ngoài, đã gợi lên trong tâm hồn chúng ta niềm hân hoan trong mùa mong đợi Con Thiên Chúa đến trần gian. Bên cạnh đó, ý hướng và tâm tình của ngày vui này cũng thúc giục chúng ta, phải cố gắng gặt hái được niềm vui đích thực trong đời sống đức tin của mình. Niềm vui trọn vẹn và vô tận mà chúng ta có được, khi chúng ta biết sống cho đi bằng hành động yêu thương phục vụ, đồng thời hành động chia sẻ ấy phải được tác động bằng những giây phút gắn bó mật thiết thân tình với Chúa. Đây là phương thế thích hợp nhất để chúng ta được sống trong Chúa là nguồn vui muôn đời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ niềm hy vọng! Xin Mẹ giúp chúng con luôn nỗ lực không ngừng để tìm kiếm niềm vui vĩnh cửu trong đời sống chúng con. Amen.
Chúng ta cảm thấy thế nào khi nghe hoặc đọc câu Phúc Âm, "Thật Ta bảo các ngươi, trong các: MV 3-A105
Chúng ta cảm thấy thế nào khi nghe hoặc đọc câu Phúc Âm, "Thật Ta bảo các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả; nhưng người nhỏ nhất trong nước trời cũng còn cao trọng hơn ông" (Mt. 11:11). Cuộc đời của Gioan Tẩy Giả ra sao và ông đã thực hiện những chuyện gì để được coi là cao trọng hơn con cái loài người? Ai là người không được sinh ra bởi người nữ? Nước Trời là chi và người nhỏ nhất hay thuộc về nước trời là người như thế nào?
Theo Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả đã sống và rao giảng nơi hoang địa đồng thời thực hiện phép rửa minh chứng lòng thống hối cho những ai đón nhận lời rao giảng của ngài. Gioan rao giảng chỉ một điều, "Hãy ăn năn thống hối vì nước trời đã gần đến" (Mt. 3:2). Gioan Tẩy Giả cũng được gọi là Gioan Tiền Hô, người chuẩn bị tâm trí dân chúng để đón nhận Tin Mừng do Chúa Giêsu công bố. Phúc Âm chép rằng, "Chính người là đấng mà tiên tri Isaia đã tiên báo: Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" (Mt. 3:3).
Lẽ đương nhiên, ai cũng có mẹ vì chính mẹ sinh ra mình. Ai cũng đều được sinh ra bởi người nữ. Chúa Giêsu cũng có mẹ và mẹ Ngài là Maria. Theo Phúc Âm nơi lối nhìn nhân sinh, không ai cao trọng hơn Gioan bởi vì Gioan chuẩn bị lòng người để đón nhận Tin Mừng Nước Trời. Xét thế chúng ta cần nhận biết Tin Mừng Nước Trời là gì; Nước Trời là gì; và ai có thể được coi là nhỏ nhất trong nước trời.
Phúc Âm dùng hai danh hiệu "Nước Trời" và "Nước Thiên Chúa" mang cùng một ý nghĩa. Theo cuốn Holy Bible; Catholic Douay-Rheims; 1899, danh hiệu Nước Trời (Kingdom of heaven) được dùng nơi Phúc Âm Matthew 32 lần. Danh hiệu Nước Thiên Chúa (Kingdom of God) được dùng nơi cả ba cuốn Phúc Âm Nhất Lãm, tổng cộng 53 lần. Tưởng cũng nên nhận chân thực thể hiển hiện ngay trước mắt mà chúng ta thường không để ý. Thiên Chúa là cội nguồn, là quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống hiện diện nơi mọi loài, mọi vật hữu hình cũng như vô hình. Thiên Chúa hiện diện khắp mọi nơi, và vì thế, Nước Thiên Chúa, Nước Trời là chính Thiên Chúa bởi không có sự hiện diện của Thiên Chúa, không có sự hiện hữu. Nhận chân như thế, Tin Mừng Nước Trời chính là Thiên Chúa đang hiện diện nơi mọi vật, mọi loài; Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Người thuộc về Nước Trời, thuộc về Nước Thiên Chúa là những ai nhận chân được sự hiện hữu của Thiên Chúa nơi chính mình vì không có sự hiện hữu của Thiên Chúa sẽ chẳng có mình. Người thuộc về Nước Trời cũng là người nhận biết và sống nơi tâm trạng sự hiện hữu của mình nơi trần thế chính là sự hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh. Con người của mình, cuộc đời của mình là sự hiện thể của sự thánh thiện từ Thiên Chúa phát sinh ra. Như vậy, mình có bổn phận sống và tuyên dương, tuyên xưng sự thánh thiện của Thiên Chúa nơi mình. Bất cứ điều gì từ ý nghĩ, lời nói, tới hành động một cách sai lạc sự thánh thiện của Thiên Chúa đang hiện diện nơi mình đều phải được nghiêm cẩn chấm dứt như thánh Phao Lô khuyên dạy, "Hãy kị điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:21).
Mỗi người Công Giáo khi chịu phép rửa tội đều được thông quyền tiên tri, rao giảng, được chung vương quyền, và được tham dự thiên chứa linh mục với Chúa Giêsu. Như thế, mỗi người chúng ta mang chung sứ vụ rao giảng Tìn Mừng Nước Trời với Chúa Giêsu. Gioan Tẩy Giả chỉ dọn đường cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu mà được coi là cao trọng hơn bất cứ ai. Chúng ta đang sống trong thực thể hiện hữu của chính Thiên Chúa; chúng ta đang sống trong Nước Thiên Chúa. Nhìn cho đúng sự thật, vị thế của mỗi người cao trọng hơn bất cứ gì chúng ta có thể nghĩ tới.
Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện từ lâu, cách đây hơn hai ngàn năm và Ngài đã cho môn đệ của Ngài: MV 3-A106
Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện từ lâu, cách đây hơn hai ngàn năm và Ngài đã cho môn đệ của Ngài đến gặp Chúa Giêsu, đặt câu hỏi như sau:" Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi phải đợi ai khác " ( Mt 11, 3 ). Đây là vấn nạn mà Gioan Tẩy Giả trong suốt quãng đời rao giảng đã luôn thắc mắc, do đó, Gioan đã sai các môn đệ đến chất vấn Chúa để xem Chúa trả lời thế nào ? Tuy nhiên, khi các môn đệ trở về để trả lời cho Gioan Tẩy Giả về những lời Chúa Giêsu nói, Gioan đã nhận ra ngay Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế phải đến trong thế gian. Vấn nạn của Gioan cũng cho chúng ta hiểu Chúa Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian, là Đấng cứu độ, Đấng mang ơn cứu rỗi cho mọi người...
Đấng Thiên Sai không phải là một Thiên Chúa như con người tự nghĩ, do con người vẽ ra. Thực tế, dân Do Thái xưa và ngay chính các môn đệ cứ tưởng Đấng cứu thế phải là một Vị Vua thật oai phong, đánh Đông, dẹp Bắc, Đấng tới để khôi phục Vương Quyền cho Israen, để rồi muôn dân sẽ được sung sướng, giầu sang phú quí theo kiểu trần gian và rồi các môn đệ sẽ được chia nhau ghế ngồi trong nội các của Vua Giêsu.Chúa Giêsu đã đến thế giới trong cảnh nghèo nàn của hang đá máng cỏ Bêlem. Chúa Giêsu đã lớn lên trong gia đình Nagiarét nơi làng quê không có gì làm nổi bật, không có gì là giầu có. Chúa đồng hóa với những con người khó nghèo, cơ cực, những người bị tù đầy, những người neo đơn, tất bạt. Chúa đến như một vị Vua hiền từ, khiêm nhượng, và rồi trong ba năm giảng đạo, Ngài đã đi đây đi đó:" Chồn có hang, chim có tổ, con Người không có đá gối đầu ". Ngài đã tiến vào Giêrusalem trên mình con lừa, được trẻ em Do Thái và dân chúng tung hô là Vua, nhưng cái trớ trêu Vua là Vua thiêng liêng, Vua nhân hậu, Vua không quân đội, không có cung điện như các Vị Vua trần gian.Loài người, con người ở muôn thời vẫn cứ mường tượng, vẫn cứ suy nghĩ, vẫn cứ vẽ ra một Vị Vua theo ý của họ. Tuy nhiên, Vua Giêsu là Vua mà ngôn sứ Isaia đã loan báo: " Đấng làm cho kẻ mù xem thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ què đi được, người cùi được sạch, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe giảng Tin Mừng " ( Mt 11, 5 ).Té ra Đấng Thiên Sai là như thế ! Ngài là Vua uy quyền, oai phong nhưng lại hết mực nhân từ, khiêm nhường. Câu trả lời duy nhất của Chúa cho các môn đệ của Gioan đến găp Chúa:" Các anh cứ về thuật lại cho ông gioan những điều mắt thấy tai nghe"( Mt 11, 4 ).
Đọc lại Tin Mừng và suy nghĩ kỹ câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Gioan Tẩy Giả, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì những điều con người vẽ ra về một Đấng Cứu Thế hoàn toàn sai lạc. Đấng Cứu Thế mãi mãi từ muôn đời vẫn chỉ là Một Con Thiên Chúa làm người thật nhân hậu, hiền lành và đầy yêu thương. Chúa Giêsu luôn là Đấng Thiên Sai như ngôn sứ Isaia đã loan báo từ bao nhiêu nghìn năm trước. Dung mạo của Ngài trước sau vẫn chỉ là Đấng Cứu Thế hiền lành và khiêm nhượng.
Gioan Tẩy Giả chỉ là Đấng dọn đường cho Chúa.Ngài cũng là người hạnh phúc vì được giới thiệu Đấng Cứu Thế cho nhiều người.Chúa nhật III Mùa Vọng nói lên niềm vui vì Đấng Thiên Sai đã gần đến như lời thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê đã viết:" Anh em hãy vui luôn trong Chúa !Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên ! Vì Chúa đã đến gần " ( Pl 4, 4-5 ).
Xin mượn lời Véronique Margron để kết luận bài suy niệm này:" Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng chuẩn bị con đường này. Những người bạn đồng hành, những con người nghèo khó hay cả những người tàn tật, họ đang ở đây quanh ta. Nơi đây, không có chỗ cho những ai nghĩ rằng mình tốt lành, hay nghĩ rằng mình có mọi thứ. Đấng chúng ta hy vọng sẽ không lừa dối chúng ta. Ngài không hứa hẹn một thế giới không bạo lực và không có sự dối trá. Sự Giáng sinh, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài thể hiện cho chúng ta thấy sự gần gũi thân ái bằng chính cả cuộc sống của Ngài...Để tưới mát tâm hồn đang khô cằn trong ta, chúng ta không cần phải chờ đợi một ai khác ngoài Đấng mang hy vọng.
Vào một ngày đẹp trời, có một ông cụ ngồi trên ghế xích đu vẻ đăm chiêu, lòng mong đợi Chúa: MV 3-A107
Vào một ngày đẹp trời, có một ông cụ ngồi trên ghế xích đu vẻ đăm chiêu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ một bé gái tung banh rơi vào sân nhà ông. Cô bé chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen: Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên ghế này, ông đang chờ đợi ai vậy? Ông nói: Cháu còn qúa nhỏ làm sao hiểu được điều ông mong đợi. Ông à, mẹ cháu nói rằng nếu có điều gì trong lòng, thì hãy nói ra mới hiểu rõ hơn. Nghe cô bé nói thế, ông liền thố lộ tâm tình: Ông đang chờ đợi Chúa đến. Cô bé kinh ngạc, ông già giải thích: Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa hiện hữu. Ông cần một dấu hiệu, cháu à. Bấy giờ cô bé lên tiếng: Ông chờ một dấu hiệu hả? Thưa ông, Chúa đã cho ông dấu hiệu rồi: Mỗi khi ông hít thở không khí, nghe tiếng chim hót, nhìn hạt mưa rơi...Chúa cho ông dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ và trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu. Chúa luôn hiện diện nơi đây.
Thiên Chúa vô hình hiện diện mọi nơi và trong mọi lúc. Thiên Chúa luôn đồng hành với dân Ngài đã chọn để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Mầu Nhiệm về Thiên Chúa Ngôi Hai được hé mở từng bước. Trải qua lịch sử cứu độ, dân chúng luôn khao khát mong chờ một chung cục được tự do giải thoát. Qua từng giai đọan, Thiên Chúa đã sai các tiên tri đến kêu gọi lòng trung tín, sự phấn chấn và khuyến khích hướng dẫn dân chúng. Tiên tri Isaia đã khơi dậy niềm hy vọng: Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan (Is 35, 1). Hình ảnh cảnh hoang địa trơ trọi, khô cằn và cạn nguồn mong đợi suối nguồn sự sống. Isaia khơi lên tia hy vọng của sự vui mừng và hân hoan. Dân Chúa phải trải nghiệm nhiều thăng trầm khổ ải qua các thế hệ để mong chờ Đấng Cứu Thế đến. Isaia loan báo: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi (Is 35, 4).
Trong bất cứ một dự kiến nào muốn đạt kết qủa tốt, chúng ta đều phải kiên nhẫn đợi chờ mọi sự diễn tiến. Vấn đề niềm tin sống đạo cũng thế, chúng ta không thể cắt bớt thời gian. Sự gì đến ắt sẽ đến. Thánh Giacôbê nhắc nhở các tín hữu: Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu (Giac 5, 7). Hình ảnh của bác nông phu nơi ruộng rẫy cầy bừa và trồng trọt là hình ảnh rất đẹp và chính xác. Chính xác cả về phẩm lẫn lượng, cả về thời gian và không gian. Kiên nhẫn đợi chờ là một đức tính tốt trong đời sống đạo. Mọi sinh họat của đời sống Giáo Hội trên trần thế cần phải được thử thách, tôi luyện để phát triển và trưởng thành. Thời gian là của Chúa. Mầu nhiệm ơn cứu độ được lồng vào đời sống của con người theo sự phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Chúng ta không thể đi những bước nhảy vọt trong cuộc sống đạo nhưng phải kiên trì phấn đấu từng bước.
Sự kiên tâm sống đạo đòi hỏi mỗi tín hữu phải cố gắng không ngừng. Mời gọi tu tâm luyện tính và tập tành các nhân đức trong đời sống hằng ngày. Đời sống đạo, nếu chúng ta không gieo, lấy gì mà gặt. Trong Giáo Hội có biết bao nhiêu dòng tu, tu hội và hội đoàn, các tu sĩ nam nữ miệt mài thanh luyện đời sống trong cầu nguyện và tu thân để nên trọn lành. Là người tín hữu cũng thế, chúng ta cần trải nghiệm những thử thách, phấn đấu, kiên trì sống đạo và hành đạo. Không hy sinh khổ luyện, làm sao có thể vững bước trên đường nhân đức. Chúng ta đừng nhẹ dạ để rơi vào những hình thức kéo lôi phù phiếm và cảm xúc nhất thời. Muốn được lãnh nhận ân sủng của Chúa, chúng ta cần chuẩn bị tâm hồn thanh sạch, sống đời ngay thẳng và thực hành tin yêu. Nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào những nghi thức bề ngoài thì không thể sinh hiệu qủa biến đổi nội tâm. Trong hiện tại có nhiều khuynh hướng hành đạo giống như kiểu'mì ăn liền'. Họ nghĩ rằng cứ thực hành đủ các thủ tục nghi thức là đương nhiên sẽ nhận ân sủng nhãn tiền. Sự kiên trì tin đạo, sống đạo và hành đạo trưởng thành đòi hỏi niềm tin và cam kết nhiệt thành. Chúng ta cần vun xới và củng cố lòng tin qua mọi biến cố cuộc đời.
Ông Gioan Tẩy Giả đang bị giam giữ cũng nóng lòng muốn biết Chúa Giêsu có chính thật là Đấng Cứu Thế hay không. Ông sai môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?" (Mt 11, 2). Ông Gioan muốn các môn đệ của mình nhận biết Chúa Giêsu. Câu trả lời của Chúa không chỉ cho riêng ông Gioan, nhưng cho các môn đệ của ông. Các ông đã an tâm nhận diện ra sứ mệnh và vai trò của Chúa Giêsu trong công cuộc cứu độ qua các dấu chỉ: Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó (Mt 11, 4-5). Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời mà các tiên tri đã loan báo về Ngài.
Các dấu hiệu từ trời cao với quyền năng của Chúa đã đem lại hiệu qủa thực sự biến đổi môi trường và chữa lành toàn diện con người. Suốt dọc lịch sử nhân loại, từ tạo thiên lập địa, ngoài Chúa Giêsu Kitô, không có vị nào có thể trực tiếp thực hiện các phép lạ từ chính sức mạnh nội tâm của mình. Biết rằng đôi khi Thiên Chúa cũng trao ban các đặc sủng cho một số vị tổ phụ và các thánh như thánh Gioan Vianney, Piô Năm Dấu quê ở Pietrelcina, Antôn Pađua, Vinh Sơn Ferrier..., các ngài có thể thực hiện một số việc lạ lùng trong giới hạn. Các thánh sống là những người có đời sống kết hợp sâu xa, chuyên tâm ăn chay, cầu nguyện và chìm đắm trong ân sủng của Chúa. Những trường hợp có sự lạ ngoại thường này cũng rất hiếm xảy ra trong đời sống Giáo Hội. Các phép lạ của Chúa Giêsu là dấu chỉ của tin mừng cứu độ. Tuy nhiên, qua mọi thời, đều có những người tự thần thánh hóa chính mình để chiêu hồn người khác. Họ cũng không khác gì các tiên tri giả và những nhà làm ảo thuật đại tài dùng kỷ xảo để dễ dàng qua mắt mọi người. Chúng ta phải luôn cảnh giác và tỉnh thức học hỏi kỹ lưỡng những hình thức mị dân này. Họ không phải là Chúa có uy quyền biến đổi chữa lành thân xác và linh hồn, mà chỉ có thể tạo gây cảm giác thân, sinh, lý và xúc động tâm linh nhất thời chóng qua.
Chúa Giêsu xác nhận Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô dọn đường: Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: 'Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con' (Mt 11, 10). Gioan được vinh dự giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng: Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Biết bao người đã nghe Chúa giảng, gặp gỡ và nhận lãnh các dấu lạ nhưng có mấy người nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Trong đám đông theo Chúa, có người chỉ tò mò nhìn xem cho biết, có người chỉ muốn được nhận lãnh ân huệ và có người ùa theo đám đông vì hiếu kỳ. Đâu có mấy người thực sự muốn đi theo Chúa để thực sự đổi đời và canh tân cuộc sống. Xưa cũng nay, tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì dân Do-thái xưa. Chúng ta nghe, đọc, viết và suy gẫm thật nhiều lời của Chúa, các giáo huấn của Giáo Hội và chứng kiến biết bao sự lạ lùng trong cuộc sống nhưng mấy ai tin theo Chúa cho trọn.
Lạy Chúa, đời sống đạo của chúng con hầu như vẫn cứ dậm chân tại chỗ. Tinh thần thì nguội lạnh và mệt mỏi, còn thân xác nặng nề và yếu đuối kéo lôi chúng con lùi bước. Chúng con chỉ tìm kiếm sự hơn thua ở đời trọc này mà quên đi sứ mệnh cao cả là mong tìm ơn cứu độ. Thánh Giacôbê nhắc nhở: Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi phải bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa (Giac 5, 9).
Có một văn sĩ, khi chết đi, còn để lại trên bàn tập bản thảo của một vở kịch. Tất cả mới chỉ là khởi: MV 3-A108
Có một văn sĩ, khi chết đi, còn để lại trên bàn tập bản thảo của một vở kịch. Tất cả mới chỉ là khởi đầu, chuẩn bị cho nhân vật chính xuất hiện, còn nhân vật chính ấy như thế nào thì chưa một ai được biết.
Toàn bộ Cựu Ước cũng giống như một vở kịch còn dang dở kể trên, trong đó nhân vật chính chưa hề xuất hiện. Mọi người đều bàn tán, đều mong đợi Đấng Cứu Thế, nhưng tất cả mới chỉ là sự chuẩn bị mà thôi. Còn Đấng Cứu Thế như thế nào, thì chưa một ai được biết.
Từ bối cảnh này, chúng ta hãy nhìn ngắm khuôn mặt của Gioan Tiền Hô. Trên dòng sông Giođan có một khúc nước cạn, cách biển Chết không xa. Đây là chỗ dân chúng thường qua lại để buôn bán và trao đổi tin tức. Chính tại chỗ này, Gioan Tiền Hô đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Dân chúng thắc mắc và tự hỏi: Ông là ai? Ông có phải là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi hay không?
Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay Chúa Giêsu đã trả lời cho những câu hỏi này. Ngài nói với dân chúng: Gioan là người mà Kinh thánh đã đề cập đến: Ta sai sứ giả Ta đi trước Con để dọn đường cho Con. Ngài cũng trả lời một câu hỏi khác được các môn đệ cua Gioan đặt ra cho Ngài: Thầy có phải là Đấng sẽ đến hay chúng tôi còn pải đợi một Đấng nào khác?
Để trả lời cho vấn nạn này, Chúa Giêsu đã mượn lời tiên tri Isaia. Thực vậy, khi nói về Đấng Cứu Thế, Isaia đã đưa ra những dấu chỉ để mọi người nhận biết Ngài: Đó là người mù được thấy, kẻ què được đi, người điếc được nghe và kẻ câm sẽ reo vui. Chủ đích của Chúa Giêsu thực rõ ràng. Chính những phép lạ Ngài làm sẽ xác quyết Ngài là ai? Là Đấng Cứu Thế tiên tri Isaia đã loan báo. Ngài đến để thiết lập vương quốc của Ngài ở trần gian.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết: Vương quốc ấy đã được thiết lập rồi nhưng chưa hoàn tất. Ngài trao phó cho chúng ta tiếp nối công trình của Ngài, xây dựng và hoàn tất vương quốc của Ngài trên trần gian này. Vào ngày sau hết, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét chúng ta về công việc này.
Hiện giờ chúng ta đang sống giữa hai biến cố: Việc Ngài giáng sinh và việc Ngài trở lại. Nhiệm vụ chúng ta không phải là ngồi chơi xơi nước mà phải xắn tay áo lên, dấn thân vào công việc Chúa đã trao phó, khi Ngài đến lần đầu trong lịch sử.
Nói một cách cụ thể hơn, đó là chúng ta phải xây dựng Nước Chúa trên trần gian, phải đem tình thương để xoá bỏ hận thù, phải đem chân lý thay cho sự giả dối, phải xây dựng cái thế giới hôm nay theo tinh thần của Chúa.
(Trích từ ‘Bước Theo’ – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Vâng! Kính thưa quý vị, Mùa Vọng đã đi hơn nửa chặng đường, tâm tình Mùa Vọng cũng làm cho: MV 3-A109
Vâng! Kính thưa quý vị, Mùa Vọng đã đi hơn nửa chặng đường, tâm tình Mùa Vọng cũng làm cho conngười trĩu nặng, bởi đặc tính của nó. Chúng ta thấy ngay tâm tình đó của Gioan Tiền Hô, người mang trọng trách loan báo Đấng Cứu Thế. Ông Gioan đang ngồi tù, chúng ta biết: “nhất nhật tù....”, chúng ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh hiện tại của Gioan. Vâng, chính ông cũng nghĩ rằng: Đấng Cứu Thế sẽ đến trong uy quyền mạnh mẽ, một dũng lực siêu phàm, đánh tan những thế lực chống đối. Nhưng, ông thấy Đấng Cứu Thế, sao mà có vẻ yếu đuối thế, như vậy sứ mạng Tiền Hô của ông có lẽ sẽ mai một chăng? Thật vậy, Gioan đang mang tâm trạng của những ai chưa biết về Chúa Giêsu mà làm chứng về Người. Thật vậy, không ai có thể nói về Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần của Người. Thật vậy, đoạn Tin Mừng (Mt 11,2-11) hôm nay có thể chia làm 3 phần:
- Ông Gioan Tiền Hô muốn biết về Đấng Cứu thế (c 3) - Chúa Giêsu khen Gioan (c 9- 11a) - Chúa Giêsu mặc khải vể Nước Trời (11b -12).
Vâng, nhưng thật ra,điểm chính của đoạn Tin Mừng hôm nay là sự so sánh giữa hai nhân vật, chính là Gioan Tiền Hô và Đấng Cứu Thế.
Dù là rất thành công trong sứ mạng Tiền Hô của mình, nhưng Gioan là một phàm nhân do lòng mẹ sinh ra. Tuy nhiên, nhân vật Gioan hết sức khiêm tốn, ông luôn giữ đúng vị trí của mình, không mạo nhận là Đấng Cứu Thế. Bản thân ông không làm được những điều kỳ diệu. Vì vậy, khi nghe Chúa Giêsu làm những việc lạ thường, thì ông muốn xác định cho rõ ràng, để khỏi nhầm lẫn.Chính ông cũng như bao nhiều người khác, nghĩ rằng Đấng Cứu Thế xuất thân từ dòng dõi Vua Đavit, nghĩa là phải có binh hùng, tướng mạnh. Chứ không lặng lẽ, âm thầm đến độ “tầm thường” như vậy. Nên cho người đến hỏi thẳng Chúa Giêsu.Nhưng Chúa Giêsu không vỗ ngực xưng tên, mà là trả lời một cách: “cứ nhìn quả thì biết cây”. Vâng, và Chuá Giêsu đã trả lời cho môn đệ của Gioan bằng cánh nhắc lại lời của Isaia xưa: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” (c5).
Vâng! Đây chính là sự khác nhau giữa Đấng Cứu Thế và Gioan Tiền Hô. Và cũng chính vì vậy, mà Chúa Giêu đã khen Gioan, vì ông là người công chính, sự công chính của ông vượt trên mọi sự công chính của phàm nhân. Điều nầy không phải do công trạng của Gioan, mà là do chân lý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu khen Gioan không phải vì Gioan,mà là do bởi chương trình Cứu Chuộc của Thiên Chúa. Vì chính Gioan muốn xác định Đấng Cứu Thế do chính bởi Đấng Cứu Thế.
Lại thêm một lần nữa, Chúa Giêsu mặc khải về Nước Trời, theo đó, Chúa nói: “kẻ nhỏ bé trên Nước Trời, thì còn cao trọng hơn Gioan...” (c 11b). Câu nầy không phải Chúa Giêsu muốn hạ bệ Gioan, mà là Chúa muốn xác định sự thật. Câu nầy có hai ý quan trọng:
1/ Cho muôn thế hệ hiểu về Nước Trời. Nước Trời là một điều gì đó mạnh mẽ hơn, cố gắng hơn và cam go hơn. Có nghĩa là Nước Trời là một sự phấn đấu không dừng. Vì thực sự Gioan không phải là siêu phàm, mà cũng chỉ là một phàm nhân. Nhưng “phàm nhân ấy” trổi vược trên thảy phàm nhân, phàm nhân trên hết phàm nhân. Những kẻ nhỏ bé trên Nước Trời là sự siêu phàm. Mặc nhiên siêu phàm thì hơn phàm nhân.
2/ Theo đó, Nước Trời dành cho những ai “mạnh sức”, vì phải chiến đấu cam go. Nhưng như thế, liệu có mâu thuẫn với sự nhỏ bé không? Thưa không, vì sao? Thưa vì, sự nhỏ bé về hình thể cũng như kích thước trên Nước Trời không giống như trần thế. Như gương Thánh nữ Teresa Hài Đồng chẳng hạn.
Và như vậy, vấn đề mà Gioan thắc mắc về Đấng Cứu Thế, đã được giải đáp qua câu Lời Chúa nầy.
Như vậy, ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay trình bày ý nghĩa của tâm tình Mùa Vọng tuần thứ III đó là:
Mong đợi Thiên Chúa, hay là mong đợi ơn Cứu Chuộc là một hành trình tiệm tiến. Tiến một cách dần dần theo Thiên định chứ không theo ý muốn của loài người.
Thiên Chúa đã hiện diện trong thế gian bằng mầu nhiệm Nhập Thể Hữu Hình, để thu về những linh hồn nhỏ bé trong Nước Trời. Theo đó, ngày quang lâm chung cũng như riêng của từng cá nhân sẽ đến, hoặc ngay hôm nay, hoặc ngày mai. Ngày mà Đấng Cứu Độ sẽ không đến như lần thứ I, mà là sẽ đến trong vinh quang của Thiên Chúa. Sự đợi chờ kiên nhẫn, là sự bình an của Thiên Chúa.
Tâm trạng của Gioan cũng là tâm trạng của người Dothai mang đợi ĐẤNG Cứu Chuộc đến. Lời giáo huấn của thánh Giacobe Tông Đồ (Gc 5, 7 -10) hôm nay, nhắc nhở cho chúng ta về sự kiên nhẫn đó. Sự kiên nhẫn đón chờ Chúa đến lần thứ II trong cuộc đời mỗi người, là một sự mong chờ đích thực vậy. Đây là một Mùa Vọng duy nhất.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến lần thứ I, mang lấy sự yếu hèn của nhân loại, đó là mặc lấy kiếp phàm nhân, để cứu chuộc phàm nhân. Từ hang đá Bethlehem, đến hành trình Nhập Thế ba mươi ba năm, và sau cùng chịu tử nạn trên Thập Gía. Ôi! Tất cả Hành Trình đó là để giải thoát con người khỏi tội lỗi. Xin Chúa thương ban cho con người biết nhận ra tình Chúa cao vời, mà đáp đền muôn một, bằng cách nhận ra tình Chúa đối với nhân loiại, để họ được sống và sống dồi dào. Amen
Chỉ có nếp sống yêu thương, phục vụ, hy sinh của các Kitô hữu mới chứng tỏ cho mọi người thấy: MV 3-A110
Chỉ có nếp sống yêu thương, phục vụ, hy sinh của các Kitô hữu mới chứng tỏ cho mọi người thấy họ thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu.
Qua lời rao giảng của mình, ông Gioan đã từng loan báo về Đấng Cứu Thế sẽ đến như là vị thẩm phán uy nghi đáng sợ; Ngài đến để xét xử và trừng trị nghiêm khắc những lỗi phạm của con người. Ông gióng lên những lời răn đe nẩy lửa: “Chiếc rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa… Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Ngài, lúa tốt thì cho vào kho, còn lúa lép thì đốt đi trong lửa không hề tắt” (Mt 3, 10.12).
Vậy mà từ bấy lâu nay, Gioan chưa từng thấy Chúa Giêsu trừng phạt bất cứ tội nhân nào; chưa thấy Ngài kê “rìu” để đốn hạ những “cây không sinh trái”; chưa từng thấy Ngài loại trừ phường gian ác như những thứ “lúa lép” và “thiêu đốt họ trong lửa không hề tắt”…
Ngoài ra, theo như mong đợi của dân Do-thái, khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ tiêu diệt quân thù, giải thoát những ai bị giam cầm tù tội… Vậy mà Chúa Giêsu đâu có đánh đuổi quân xâm lược Rô-ma, chưa thấy Ngài giải thoát kẻ bị xiềng xích tù đày…
Thế là trong tâm tư của ông Gioan phát sinh một nghi vấn. Vì vậy, ông phái các môn đệ đến gặp và hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
Trước câu hỏi của Gioan, Chúa Giêsu không dùng lời nói nhưng dùng chính việc làm để minh chứng về mình, như có lần Ngài đã nói: “Công việc tôi làm nhân danh Cha tôi làm chứng về tôi (Gioan 5, 36).
Vì thế, Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ của Gioan thấy những việc Ngài đang làm và bảo họ: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng…”
Từ ngàn xưa, Ngôn Sứ I-sa-i-a đã tiên báo rằng khi Đấng Thiên Sai đến, Ngài sẽ cho “người mù được thấy, người điếc được nghe, người què sẽ nhảy như nai…” (Is 35, 10…).
Gioan là người am hiểu lời các lời ngôn sứ tiên báo về Đấng Thiên Sai và thấy rằng Chúa Giêsu đã thực hiện đúng như lời ngôn sứ I-sa-i-a đã tiên báo như trích dẫn trên đây, tất nhiên Gioan biết rằng Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai mà ngôn sứ I-sa-i-a đã loan báo. Như vậy, chính việc làm của Chúa Giêsu minh chứng cho biết Ngài là Đấng cứu thế.
Hôm nay, người đời cũng thường chất vấn chúng ta như xưa kia, môn đệ của Gioan đã từng chất vấn Chúa Giêsu. Họ hỏi chúng ta: “Bạn có phải là môn đệ của Chúa Giêsu không?”
Trước câu hỏi nầy, chúng ta không thể đáp gọn: “Phải, tôi chính là môn đệ của Thầy Giêsu”, vì một câu trả lời suông mà chẳng dựa trên cơ sở nào cả thì chẳng thuyết phục được ai.
Người khôn ngoan và thận trọng không dễ tin vào lời tự khẳng định của người khác nhưng căn cứ vào việc làm. Chính việc làm của từng người sẽ chứng tỏ cho người khác biết bản chất của người đó.
Thế thì, trước câu hỏi: “Bạn có phải là môn đệ của Chúa Giêsu không”, chúng ta cần dựa vào câu đáp của Chúa Giêsu trước thắc mắc của các môn đệ Gioan, (Ngài nói: “Hãy về thuật lại cho ông Gioan những gì tôi đã làm…”) để đáp lại như sau: “Các bạn hãy xem công việc tôi làm… Các bạn cứ nhìn vào lối sống của tôi thì biết…
Đúng vậy, chỉ có nếp sống yêu thương, phục vụ, hy sinh của các Kitô hữu mới chứng tỏ cho mọi người thấy họ thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu, như Lời Ngài dạy: “Người ta cứ dấu nầy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Gioan 13, 35).
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con biết sống thế nào để cho việc làm của chúng con không tố cáo chúng con là người môn đệ giả, nhưng luôn minh chứng cách thuyết phục rằng chúng con đích thực là môn đệ chân chính của Chúa. Amen.
Chủ đề: Thánh Gioan tiền hô là sứ giả, còn Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai (Mêsia). Chúng ta phải hoàn tất công việc của hai Đấng.
Nathaniel hawthorne là một văn sĩ người Mỹ, vào năm 1864 ông mất đi mà trên bàn viết vẫn còn: MV 3-A111
Nathaniel hawthorne là một văn sĩ người Mỹ, vào năm 1864 ông mất đi mà trên bàn viết vẫn còn bản phác thảo của một vở kịch mà không may ông chưa hoàn tất được. Vở kịch này tập trung vào một nhân vật chưa hề xuất hiện trên sân khấu. Mọi người đều nói, đều mơ, đều chờ đợi nhân vật này đến nhưng vị ấy chẳng hề đến. Tất cả các nhân vật phụ đều đồng loạt mô tả nhân vật chính ấy. Họ kể cho mọi người nhân vật chính ấy sẽ như thế nào, sẽ làm những gì. Tuy nhiên nhân vật chính ấy đã chẳng xuất hiện.
Toàn bộ Cựu ước cũng giống như vở kịch của Nathaniel Hawthorne bỏi vì Cựu ước chấm dứt mà không có đoạn kết.
Trên dòng sông Giôđan có một khúc cạn nước, cách Biển Chết không xa. Như người ta còn ghi nhớ, đây là chỗ băng qua sống thuận tiện cho các đoàn tuần hành có xe ngựa kéo, các thương buôn và các du khách từ khắp nơi trên thế giới. Đây cũng là chỗ đại chúng thường gặp gỡ nhau để trao đổi đủ thứ tin tức từ khắp mọi nơi. Chính tại chỗ này, Gioan Tẩy Giả đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Ông cũng bận áo da thú giống như các tiên tri thuở xưa. Và đám dân bắt đầu thắc mắc: “Ông này là ai vậy? Ông ta có phải là Đấng Mesia được Chúa hứa không? Hay ông là vị sứ giả dọn đừơng cho Đấng Mesia?”
Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu sẽ trả lời cho những câu hỏi này.
Ngài nói với dân chúng: “Gioan là kẻ mà Thánh Kinh đã nói: “Ta sẽ sai sứ giả Ta đi trước con để mở đường cho con”. Chúa Giêsu cũng trả lời câu hỏi khác mà đám môn đệ của Gioan Tẩy Giả đặt ra cho Ngài: “Có phải Ngài là Đấng mà Gioan bảo sẽ phải đến, hay chúng tôi còn phải mong chờ Đấng khác?” Để trả lời câu hỏi này, Chúa Giêsu liền trưng ra những lời của tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Khi nói về Đấng Mesia, Isaia bảo rằng những dấu hiệu sau đây sẽ là bằng cứ xác nhận lai lịch vị ấy: “Người mù sẽ thấy được và người điếc sẽ nghe được. Kẻ què sẽ nhảy múa và người câm sẽ reo vui”.
Chủ ý của Giêsu thực là rõ ràng. Ngài trình bày ra những phép lạ Ngài đã làm – cho người mù thấy, kẻ điếc nghe, người què bước, kẻ câm nói được. Đây là những dấu hịêu mà các lời tiên tri báo trước rằng sẽ phải ứng nghiệm khi Đấng Mesia đến.
Như vậy, bài Phúc Âm hôm nay muốn nói gì cho anh chị em cũng như cho tôi? Xin thưa đó là sứ điệp sau: Chúa Giêsu là Đấng Mesia đã được các vị ngôn sứ tiên báo và Ngài đã thiết lập vương quốc Thiên Chúa trên trần gian đúng như các tiên tri báo trước. Tuy nhiên Chúa Giêsu uỷ thác cho chúng ta nhiệm vụ hoàn tất vương quốc ấy. Ngài giao phó cho chúng ta việc xây dựng nước Chúa trên trần gian này. Vào lúc thế mạt, Chúa Giêsu sẽ trở lại để phán xét chúng ta về công việc này.
Người Roma xưa có thời một vị thần tên là Janus. Từ đó chúng ta có danh từ January (tháng giêng). Vị thần này được các hoạ sĩ mô tả bằng hình đầu người có hai mặt: một mặt nhìn về đằng sau, mặt kia nhìn về đằng trước. Mùa vọng cũng tương tự như thế. Nó nhìn về hai phía: một đàng nhìn lại lần giáng sinh đầu tiên của Chúa Giêsu trong lịch sử, đằng khác là hướng đến cuộc tái giáng của Ngài vào cuối lịch sử.
Anh chị em cũng như tôi đang đứng ở giữa hai biến cố lịch sử trọng đại này. Phận vụ chúng ta không phải là cứ lè phè ngồi chơi trên đỉnh đồi ngoái cổ về đằng sau và ngóng trông về đằng trước, mà phải xăn tay áo lên dấn thân vào công việc Chúa Giêsu đã trao phó cho chúng ta khi Ngài đến lần đầu tiên trong lịch sử.
Nói một cách cụ thể, điều này có ý nghĩa gì? Nghĩa là chúng ta phải xây dựng nước Chúa trên trần gian, phải đem yêu thương lắp đầy ganh ghét, đem thứ tha che phủ hận thù, đem chân lý thay cho giả trá, đem sự cảm thông Kitô giáo thay cho sự vô cảm lạnh lùng. Tóm lại, chúng ta phải xây dựng một kiểu thế giới mà chính Chúa Giêsu sẽ dụng xây nếu Ngài ở vào vị trí chúng ta.
Đó chính là sứ điệp trong các bài đọc hôm nay. Sứ điệp ấy minh chứng Chúa Giêsu là Đấng Mesia, Ngài sẽ trở lại vào chung cục lịch sử và sẽ phán xét chúng ta về việc chúng ta đã xây dựng nước Chúa trên trần gian này như thế nào.
Vậy chúng ta hãy kết thúc với lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu, là Đấng Mêsia cũng là Đấng Cứu Độ chúng ta:
Lạy Chúa Giêsu, Chúng con tin Chúa đã đến trần gian đầy ganh ghét này để giúp chúng con xây dựng nó thành thế giới của tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúng con tin rằng Chúa đã đến với chúng con để giúp chúng con cũng biết đến kẻ khác.
Lạy Chúa Giêsu, Chúng con tin rằng Chúa hiểu chúng con, ngay cả khi chúng con không hiểu được chính mình.
Lạy Chúa Giêsu, Chúng con tin rằng Chúa luôn luôn ở với chúng con cho dù chúng con không luôn luôn sống với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúng con tin rằng Thiên Chúa là Cha chúng con, bởi vì chính Chúa đã đối xử với chúng con như anh chị em của Chúa.
(Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)
Đức Giêsu tôn trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng: MV 3-A112
Đức Giêsu tôn trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người.
1- Ngữ cảnh
Với các chương 11–12 này, chúng ta đến một khúc quanh trong Tin Mừng Mt. Trong mười chương trước, Nước Trời đến gần, dường như không hề gặp trở ngại nào; ở đây, có điều mới xuất hiện: các câu hỏi chính xác được đặt ra cho Đức Giêsu.
Gioan Tẩy Giả phái các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (11,3). Phía họ, những người Pharisêu cùng với các kinh sư (x. 12,38) đã ngỏ lời lần đầu tiên trực tiếp với Đức Giêsu với giọng trách móc và phê phán: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát” (12,2). Đó là những câu hỏi quan trọng vừa xuất hiện. Đứng trước bản thân và hoạt động của Đức Giêsu, người ta phải lấy lập trường. Dường như Đức Giêsu có thể là “đối tượng gây vấp phạm” (11,6), còn “thế hệ này” không sẵn sàng đón tiếp Nước Trời đang đến gần, các thành ở bờ hồ không hoán cải (x. 11,20), phong thái của Đức Giêsu thực sự bị tranh luận (x. cả ch.12), và người ta đã “bàn bạc để tìm cách giết Đức Giêsu” (12,14).
Bầu khí ngờ vực và đặt vấn đề này là bầu khí mới so với những gì xảy ra trước đây. Quả thật, cho tới nay, chúng ta đã thấy Đức Giêsu tỏ mình ra dần dần như là Đấng Mêsia; các chặng chính được Đức Giêsu trình bày với một nội dung huấn giáo phong phú:
1. Như một đoạn văn tổng quát báo trước, các ch. 1–2 đã giới thiệu xuất xứ của Đức Giêsu, con cháu vua Đavít và tổ phụ Abraham; ngay vào thời thơ ấu, Người đã tỏ ra là Đấng Kitô, là Đấng Mêsia, hoàn tất lịch sử thánh của Israel nơi bản thân và bằng số phận của Người.
2. Ở ch. 3–4, Vị Tiền Hô mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, đã ban phép rửa cho Đức Giêsu: dịp này, Đức Giêsu đã đăng quang làm Đấng Mêsia; sau khi đã được Chúa Cha ban chứng từ thánh hiến, đã chịu quỉ thử thách, Người đã đi loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.
3. Trong các ch. 5–7, qua huấn giáo của Đức Giêsu, người ta đã nhận ra quyền lực của Nước Thiên Chúa và đòi hỏi phải dấn thân; Bài Giảng trên núi đã khiến cho các đám đông phải kinh ngạc và thán phục.
4. Xuyên qua các phép lạ chữa bệnh mà Đức Giêsu đã thực hiện cũng như lời nói đầy hiệu năng của Người, các ch. 8–9 giúp khám phá ra uy quyền được ban cho Người cũng như quyền lực đầy năng động của Nước Thiên Chúa.
5. Ở ch. 10, qua bài sai ban cho Mười Hai Tông đồ và bài diễn từ truyền giáo, ta khám phá ra rằng các sứ giả của Nước Thiên Chúa được thực sự chia sẻ uy quyền của Đức Giêsu, do các ông được liên kết mật thiết với bản thân Người.
Xuyên qua tất cả các chương này, ta thấy danh tiếng của Đức Giêsu ngày càng lan rộng, bay sang cả các miền chung quanh (x. 4,24; 9,26.31). Sự chống đối chưa lộ rõ bao nhiêu, chỉ có một vài lời chỉ trích phát xuất từ nhóm Pharisêu (x. 9,11) hoặc các môn đệ của ông Gioan (x. 9,14), dưới dạng những câu hỏi lịch sự, chỉ có một phản ứng quyết liệt hơn lộ ra ở 9,34, nhưng cũng còn ngắn ngủi, để rồi chỉ được nhắc lại và triển khai ở 12,24. Nói đúng ra, trong tất cả những chuyện này, chưa có tranh luận, và ngôn ngữ ẩn dụ của các dụ ngôn chưa được sử dụng, ngoại trừ câu truyện về hai loại nhà kết luận Bài Giảng trên núi (x. 7,24-27).
Tuy nhiên, nên ghi nhận phương diện đe doạ và xung đột đã được mười chương đầu này của Tin Mừng nêu lên: ý định nham hiểm của vua Hêrôđê (x. 2,16), cuộc chiến đấu chống các cám dỗ (x. 4,1-11), lời loan báo những bách hại (x. 5,10-12.44; và nhất là 10,16-23.38). Nhưng đấy là một sự đối kháng mà Đức Giêsu luôn chiến thắng, hoặc là một lời Đức Giêsu kêu gọi đừng sợ hãi, mà hãy nhận ra mối phúc của Nước Thiên Chúa ngay giữa cuộc đối đầu gian khổ. Dù sao, dường như ơn cứu độ đã được đảm bảo cho người nào đứng vững tới cùng (x. 10,22). Do giọng điệu tha thiết của Đức Giêsu nhằm giúp các môn đệ đối phó với những khó khăn và trở ngại họ sẽ gặp, Bài diễn từ truyền giáo đã mở ra một viễn tượng mới: đó là cuộc thử thách đức tin sẽ phải trải qua.
Đã đến lúc phải tự hỏi về ý nghĩa của hoạt động của Đức Giêsu, như Mt đã trình bày khá dài: phải nghĩ gì về những “việc Đức Giêsu làm” (11,2.19)? Phải hiểu thế nào về những “cử chỉ quyền lực” ấy (11,20.21.23)? Thật ra đây là câu hỏi về tư cách Mêsia của Đức Giêsu: từ ngữ “Kitô” mà Mt đã sử dụng trong ch. 1–2, đến đây mới xuất hiện lại (x. 11,2). Dường như bây giờ chúng ta đã rơi vào tình trạng lưỡng lự: ơn cứu độ vẫn còn được trình bày như có thể đạt được mà thôi, trong khi đó rõ ràng các lần từ khước, các chống đối, các tranh luận lại nối tiếp nhau đặt Đức Giêsu thành vấn đề. Tác giả sẽ trình bày phần Tin Mừng còn lại như câu truyện về một sự từ khước. Chính là theo chiều hướng này mà chúng ta có thể nói đến một khúc quanh trong diễn tiến của Tin Mừng Mátthêu.
2- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (11,2-3); 2) Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (11,4-6); 3) Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (11,7-11; ở trong TM, thì đọc tới c. 15). 3- Vài điểm chú giải
- Đấng phải đến (3): dịch sát ho erchomenos là “Đấng đang đến”. Chúng ta nhớ đến lời rao giảng trước đây của Gioan: “Đấng đến sau tôi thì mạnh hơn tôi (ho opisô mou erchomenos)” (3,11). Lời này đưa chúng ta trở lại với sấm ngôn Isaia 40: “Kìa Đức Chúa đến với sứ mạnh [quang lâm hùng dũng], tay nắm trọn chủ quyền” (Is 40,10). Do đó, Đấng Mêsia cũng được gọi là “Đấng được chờ đợi”, “Đấng sẽ đến”, “Đấng Thẩm phán” (x. Dcr 9,9; Tv 118,26; St 49,10). Gioan đã so sánh sức mạnh của Đấng Mêsia với việc người tiều phu dùng rìu hạ cây (x. 3,10), rồi với người nông dân sàng sảy sân lúa (3,12). Ông mời gọi người tội lỗi hoán cải và ban một phép rửa giúp bày tỏ lòng sám hối, trước khi Đấng ấy đến, là Đấng ban phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa để tiêu diệt (3,11). Đây chính là vị Thẩm phán đáng sợ sẽ dùng lửa không hề tắt mà tiêu diệt tất cả những kẻ tội lỗi không chịu hoán cải (x. Ml 3,2-3).
- phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (6): “Cớ vấp phạm”, skandalon, là “cái bẫy đặt trên đường; chướng ngại vật làm cho người ta té ngã”; và nghĩa bóng là tất cả những gì làm cho người ta rơi xuống về mặt luân lý hay tôn giáo. Đức Giêsu tiên liệu rằng câu trả lời của Người có thể làm cho Gioan thất vọng, bởi vì quan niệm của ông về Đấng Mêsia quá khác với cách Đức Giêsu đang thực hiện hình ảnh Đấng Mêsia của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến phản ứng của Phêrô khi nghe loan báo Thương Khó (Mt 16,22-23) hoặc Giôna sau khi thấy Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).
4- Ý nghĩa của bản văn
Gioan Tẩy Giả đã loan báo là đến sau ông, sẽ có một người mạnh hơn ông và vượt xa ông về phẩm cách. Người ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và sẽ tách lúa với vỏ trấu ra (3,11t; x. Is 40,10).
Bây giờ Vị Tẩy Giả đang ở trong tù. Do bởi thái độ cứng rắn và những lời nói đanh thép của ông, vua Hêrôđê Antipa đã phải ra lệnh bắt giam ông. Nhưng vì ông nổi tiếng là đạo đức, ông được đối xử đặc biệt; các bạn bè có thể đến thăm ông, cho ông biết những tin tức ở bên ngoài. Ông đặc biệt quan tâm đến Đức Giêsu Nadarét.
* Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (2-3)
Gioan nghe nói đến những hành động của Đức Giêsu. Phải nghĩ về Đức Giêsu như thế nào? Người có thật là Đấng mà ông đã loan báo là đang đến chăng? Quyền bính và năng lực của Người đang đang được biểu lộ ra ở đâu? Chẳng lẽ trong thân phận tù tội, ông không đáng được Đức Giêsu dùng quyền lực Người mà giải thoát sao? Người có thật đang tách hạt lúa khỏi vỏ trấu chăng? Ở đâu? Đức Giêsu là ai? Hẳn là Người phải nói năng và hành động cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn chứ?
Khởi đi từ hoàn cảnh cá nhân ông và sự hiểu biết của ông về các hoạt động của Đức Giêsu, Gioan nêu ra câu hỏi quyết liệt: Phải chăng đã đến lúc hoàn tất mọi sự? Chúng tôi có thể tín nhiệm vào Người chăng? Người là ai? Các môn đệ của Vị Tiền Hô đã đến gặp Đức Giêsu và nêu câu hỏi đúng như thầy họ đã dặn.
* Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (4-6)
Đức Giêsu không cung cấp một câu trả lời rõ ràng và trực tiếp. Qua các môn đệ Gioan, Đức Giêsu đưa Vị Tiền Hô trở lại điểm xuất phát của câu hỏi của ông. Gioan phải diễn dịch ra được câu trả lời từ các việc Đức Giêsu làm, là chính những việc đã thúc đẩy Gioan đặt câu hỏi (11,2). Các môn đệ ông lại phải về làm chứng cho thầy về những việc Đức Giêsu đã làm (“Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe”) và Đức Giêsu mô tả các việc ấy ra bằng cách nhắc đến các lời hứa Cựu Ước (Is 35,5t; x. Is 35,4; 29,18-19; 61,1).
Đức Giêsu khẳng định rằng lời hứa ấy đang được hoàn tất nơi các hành vi của Người; qua các hành vi này, quả thực Thiên Chúa đang can thiệp để ban ơn cứu độ. Qua các hành động của Đức Giêsu, Nước Trời hay là quyền chúa tể của Thiên Chúa với quyền lực và ân sủng, đang thật sự trở nên gần gũi (4,17). Quyền chúa tể này trước tiên không được tỏ ra như là khả năng thắng vượt các quyền lực đối lập của loài người: Gioan sẽ bị chém đầu trong ngục (14,10); Đức Giêsu sẽ chết trên thập giá; các môn đệ Người sẽ bị bách hại (10,16-25). Triều đại Thiên Chúa cũng chưa tỏ hiện rõ ràng như việc tức khắc tách biệt lúa và vỏ trấu. Việc phán xét chung kết được dành cho ngày Con Người đến: khi đó kẻ dữ sẽ bị tách ra khỏi những người công chính (13,36-43.47-50). Nước Trời sẽ được biểu lộ nơi sự kiện những người sống trong cảnh cùng quẫn sẽ được Thiên Chúa trợ giúp (8,2–9,35) và nơi sự kiện Tin Mừng được loan báo với tất cả uy quyền (5,1–7,29). Đức Giêsu bắt đầu công việc rao giảng bằng cách loan báo mối phúc cho người nghèo (5,3); ở tại trung tâm của lời rao giảng này, có sứ điệp về vị Thiên Chúa quyền năng và nhân ái, sứ điệp về Cha Người và Cha của tất cả mọi người, Đấng muốn cho tất cả mọi người được hiệp thông mãi mãi trong vinh phúc với Ngài. Đức Giêsu tự giới thiệu mình như là Đấng cứu chuộc những người cùng khổ và như sứ giả làm chứng về niềm vinh phúc ấy. Trước tiên Người không đến như một người đấu tranh chống lại bạo lực và như thẩm phán nghiêm khắc.
Mỗi người phải tự nhận định và lấy lập trường đối với Người (x. 11,20-24). Đức Giêsu cũng giúp chúng ta ý thức về điểm này: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (11,6). Người không áp đặt cách hành động của Người nhờ sức thuyết phục của những sự kiện hoàn toàn hiển nhiên; Người dành không gian cho người ta đón nhận hoặc từ khước, cho người ta tin hoặc không tin.
* Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (7-11)
Sau khi đã trả lời câu hỏi về thân thế Người, bây giờ Đức Giêsu đề cập đến công việc và bản thân của Vị Tẩy Giả (11,7-15). Người ca ngợi lối xử sự cương nghị và lối sống không ngạo mạn tự phụ của đấng không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý như một cây sạy cong người trước gió (x. 14,3-12) và không ăn mặc lụa là mềm mỏng. Chính sự trung tín và sự dơn giản của ông làm cho ông trở nên đúng là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa (x. 21,26.32) và đáng tin. Nhưng ông còn hơn là một ngôn sứ. Tất cả những vị đến trước ông đều thuộc về thời đại lời hứa, các vị ấy chỉ loan báo từ xa biến cố Đấng Mêsia đến trong quyền lực và mang theo ân sủng (11,13). Gioan là vị ngôn sứ của thời kỳ hoàn tất, nên cao trọng hơn tất cả các vị đi trước. Ông là sứ giả đi ngay trước Đức Chúa và chuẩn bị trực tiếp cho Người đến (11,10). Ông là Êlia đi trước Đức Chúa và chuẩn bị cho dân chúng đón tiếp Người (11,14; x. Ml 3,23; H c 48,10).
Với cách đánh giá Vị Tẩy Giả như thế, Đức Giêsu một lần nữa trả lời gián tiếp cho câu hỏi của ông. Nếu Gioan ở rất sát thời kỳ hoàn tất, thì với Đức Giêsu, thời này đã đến. Nếu Gioan là vị sứ giả dọn đường, thì với Đức Giêsu, người ta đã đón được Đức Chúa đến: không chính xác theo kiểu ông hình dung và chờ đợi (x. 3,12), mà là theo cách Thiên Chúa đã định. Sánh với những người đã đến trước, ông là người cao trọng nhất. Sánh với những người đang thuộc về Đức Giêsu và có thể trải nghiệm sự gần kề của Nước Trời trong sự hiệp thông với Người, ông là người nhỏ. Sự vĩ đại và nhỏ bé ấy không liên hệ đến ơn cứu độ hoặc giá trị luân lý của con người, nhưng liên hệ đến thời gian và biến cố trong đó người ấy được tham dự vào. Chính vì thế Đức Giêsu bảo rằng các môn đệ có phúc so với nhiều ngôn sứ và người công chính (13,16t). Như thế, thời đại và công trình của Đức Giêsu có một ý nghĩa duy nhất.
+ Kết luận
Qua các môn đệ của Vị Tẩy Giả, Đức Giêsu cũng trả lời cho chúng ta: Người chính là Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Chúa từ ngàn xưa. Thiên Chúa vẫn trung thành với lời Ngài hứa; chỉ có con người qua dòng thời gian, đã giải thích sai lạc lời Thiên Chúa hứa để đưa nhau đến những niềm chờ mong hão huyền, theo lòng dạ hẹp hòi của mình. Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta điều chỉnh lại cách chúng ta nhìn lịch sử cứu độ: không theo khuôn khổ các giấc mơ của chúng ta, nhưng đúng theo chương trình của Thiên Chúa. Và nếu qua Lời Chúa hôm nay, người môn đệ nhận ra rằng mình cũng được mời gọi làm Tiền Hô của Đức Kitô đối với con người hôm nay, thì chúng ta cũng cần nhớ rằng, chúng ta chỉ có thể chu toàn được sứ mạng nếu dựa vào phẩm cách cao quý của Đức Giêsu, Đấng chúng ta loan báo.
5- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay, nhiều Kitô hữu vẫn đang mơ một ơn cứu độ không phù hợp với cách Thiên Chúa quan niệm. Việc Đức Giêsu chữa bệnh và nhất là việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo cho thấy rằng Người không phải là một thẩm phán nghiêm khắc nhưng là một vị Mêsia ân cần và từ bi. Thay vì trừng phạt những kẻ tội lỗi, loại trừ những kẻ gian ác, Người lại ban ơn chữa lành cả tâm hồn và thân xác, Người an ủi, Người soi chiếu, Người trợ giúp những ai đang đau khổ, Người đi qua giữa loài người để chỉ làm điều thiện (ch. 8–9), tha thứ tội lỗi (9,2). Hẳn là có những người khó chịu? Ngay chúng ta đây, chúng ta có chấp nhận được việc Thiên Chúa mạc khải tình yêu của Ngài ra trong sự khiêm nhường và yếu đuối chăng? Do đó Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Đây cũng chính là “cớ vấp phạm” do các Mối Phúc gây ra.
2. Con đường tất cả các môn đệ phải theo là nhìn thấy các dấu chỉ mà biết giải thích đúng đắn, biết nhận ra đó là các công trình của Thiên Chúa. Đây là nẻo đường đức tin, khởi đi từ những điều thấy được và đưa tới chỗ khám phá ra Đức Giêsu là ai. Đây là con đường đưa từ bóng tối đến ánh sáng, đi từ những dấu chỉ đến với thực tại được ám chỉ. Nhìn Hài Nhi bé bỏng yếu ớt nằm trong máng cỏ, mà nhận ra đó là Cứu Chúa và Đức Chúa; nhìn Con người bị đóng đinh đau đớn và nhục nhã nhất mà nhận ra đó là Đức Vua Cứu thế, đấy là qua dấu chỉ mà khám ra được thực tại.
3. Đức Giêsu tôn trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người. Trái lại, chúng ta phải thấy thực sự Người là ai và Người đang làm gì, để rồi đón tiếp Người với niềm vui và tri ân, cho dù chúng ta phải sửa chữa và bỏ đi một vài ý tưởng hoặc sự chờ đợi sai lạc nào đó.
4. Là những con người sống ở thời đại “cuối cùng”, chúng ta “có phúc” hơn là chính Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, chúng ta có biết trân trọng những ân huệ đang nhận và dùng những ân huệ đó mà xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho người khác chăng?
Khác hẳn với các xã hội do con người thiết lập, xã hội mới của Thiên Chúa sẽ dành những chỗ nhất MV 3-A113
Khác hẳn với các xã hội do con người thiết lập, xã hội mới của Thiên Chúa sẽ dành những chỗ nhất cho những người nghèo và khiêm tốn. Còn người lớn nhất sẽ là những người có tâm hồn rộng mở đón nhận tất cả mọi người. Đó là những người đã được thanh luyện qua những đau khổ và thử thách mà họ đã trải qua trong gần hết cuộc đời mình.
Sách Tiên tri Is 35, 1-6a.10
Trong lúc Assyri tàn phá Vương quốc Giu đa và lưu đày Vương quốc Israen, Isaia loan báo rằng một đám đông người bị bỏ rơi, bị khinh dể, bị thương tích sẽ được Thiên Chúa đến Cứu độ. Dân Thiên Chúa sẽ phải trải qua những đau khổ trong một cuộc xuất hành mới trước khi được Thiên Chúa ban cho sự sống phong phú.
Thánh Vịnh 145
Khác với những kẻ nắm quyền hành trên trần gian, Thiên Chúa là nơi nương tựa vững chắc mà tất cả những kẻ bé nhỏ có thể tin cậy
Thư Gia cô bê 5, 7-10
Trong thư, Thánh Gia cô bê mạnh mẽ nhắc lại rằng trong Giáo hội, những kẻ bé nhỏ và những người nghèo hèn không thấp kém hơn những người giàu. Ngài khuyên nhủ phải kiên trì và tin tưởng như người gieo giống.
Tin mừng: Mt 11,2-11
Ngữ cảnh
Trong tù, nghe thuật lại những gì Chúa Giê su đã làm, Gioan hoang mang tự hỏi: Phải nghĩ về Ngài như thế nào? Ngài có thật là Đấng đã được loan báo không? Những nghi vấn đặt ra về Chúa Giê su, một điều không hề có trước đây, đã khởi đầu một khúc quanh trong Tin Mừng Mát thêu. Các chương đi trước trình bày Chúa Giê su đầy quyền năng trong việc giảng dạy (cc.5-7), làm phép lạ (8-9) cũng như trong việc sai các Tông đồ truyền giáo (c.10), thật khác xa với hình ảnh một vị Thẩm phán mà người ta được loan báo (3,101-2). Bây giờ, đã đến lúc đặt vấn đề về căn tính Mê sia của Chúa Giê su. Ngài có thật là đấng Mê sia không?
Có thể đọc đoạn tin mừng nầy theo bố cục sau đây:
- Nhập đề: câu hỏi Gioan đặt ra cho Chúa Giê su (11,2-3) - Câu trả lời của Chúa Giê su (11,4-6) - Chúa Giê su ca ngợi Gioan Tẩy giả (11,7-11)
TÌM HIỂU
Ông Gioan đang ngồi tù: Gioan thẳng thắn chỉ trích hành vi của Hêrôđê vì ông ta đang sống bất chính với chị dâu của mình. Và hậu quả là ông đã bị Hêrôđê trả thù, và bị tống giam trong ngục.
Thầy có thật là Đấng phải đến không?: đối với Gioan, đấng phải đến là một đấng đầy quyền uy (x. 3,11: Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi). Một vị Thẩm phán đáng sợ, lấy lửa chẳng hề tắt mà tiêu diệt mọi tội nhân không ăn năn hối cải (x. 3,10-12) đúng theo truyền thống CƯ (x. Ml 3,1-3). Nhưng những gì ông biết về cách thức Chúa Giê su thi hành sứ vụ hoàn toàn không tương ứng với ý tưởng mà ông có về cuộc phán xét sẽ phải xảy ra. Do đó câu hỏi của ông khiến mọi người ngạc nhiên.
Hơn nữa có một tương quan mật thiết giữa câu hỏi của vị Tẩy giả và thân phận tù đầy của ông. Đấng Thiên sai mà người ta mong chờ sẽ đến giải cứu tù nhân, nhất là các tù nhân đức tin (Lc 4,18; Is 61,1), ông chẳng phải là người đầu tiên được cứu thoát sao?
Các anh cứ về thuật lại cho Gioan: thay vì trả lời thẳng cho Gioan, Chúa Giê su mời gọi ông hãy tự mình tìm ra câu trả lời ngang qua những gì những dấu chỉ Ngài đã làm. Đó là con đường đưa con người đến đức tin.
Không vấp ngã vì tôi: dịch sát chữ: “hòn đá hay chướng ngại làm cho ai vấp té” chỉ tất cả những gì khiến cho người ta sa ngã trên con đường luân lí hay đức tin. Chúa Giê su thấy trước rằng cách trả lời của Ngài có thể làm cho Gioan thất vọng, vì hình ảnh của ông về Đấng Mê sia quá khác biệt với những gì Chúa Giê su đã thực hiện.
Về ông Gioan: Chúa Giê su khen ngợi ông Gioan: Ngài coi ông ngang hàng với các Tiên tri lớn nhất thời Cựu Ước và ca ngợi ông đã nghiêm khắc và kiên cường rao giảng Tin mừng. Đồng thời Ngài cũng cho thấy khoảng cách giữa vị Tiền hô và Đấng mà ông chuẩn bị con đường cho Ngài.
SỨ ĐIỆP
“Ngài có phải là đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một đấng khác?”. Đó là câu hỏi đầy khó khăn mà Gioan Tẩy giả đặt ra cho Chúa Giê su sau một thời gian dài nhìn thấy những gì Chúa Giê su đã làm. Thật vậy, khi làm phép rửa cho Ngài ở bờ sông Gio đan, ông đã thực sự xác tín rằng Ngài chính là Đấng Messia. Ông đã lớn tiếng nói cho mọi người biết điều ấy, và đồng thời loan báo rằng Đấng Messia sẽ nghiêm khắc thực hiện phán quyết của Thiên Chúa.
Thế rồi tháng ngày trôi qua, Gioan Tẩy giả đã bị cầm tù. Còn Chúa Giê su rời xa gia đình để bắt đầu sứ vụ. Và không có điều gì xảy ra như ông đã báo trước. Những lời giảng dạy và hành vi của Đức Ki tô không có gì giống với cuộc phán xử chung thẩm. Trái lại, Ngài đã qui tụ một nhóm người chài lưới quê mùa, thất học làm môn đệ; Ngài thường lui tới tiếp xúc với những người tội lỗi và những kẻ tai tiếng. Điều ấy khiến Gioan Tẩy giả tự nhủ: mình có lầm về đấng Messia không? Ngài có phải là Đấng mà thiên hạ đợi trông không? Ông nghi ngờ về chính những gì mình đã loan báo.
Cách thế tốt nhất để biết rõ, là đi hỏi. Ông mong muốn được Chúa Giê su soi sáng, giúp ông thấy rõ hơn về sứ mạng của Ngài. Nên ông quyết định sai một vài môn đệ đến hỏi: “Thầy có phải là đấng phải đến không?”. Thay vì trả lời thẳng cho Gioan, Chúa Giê su mời gọi ông hãy nhìn và hãy tin: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các người đã thấy: Người mù được thấy, người què đi được, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho những người nghèo khổ”.
Tất cả những điều ấy dường như trái ngược hoàn toàn với bài đọc thứ nhất loan báo sự báo oán của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ, thì chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa không báo thù bằng cách tàn sát con cái của Ngài. Thiên Chúa đến là để cứu thoát và nâng con người chỗi dậy. Đó là sự chiến thắng của sự lành trên sự dữ. Đấng Thiên Chúa mà Chúa Giê su loan báo là tình yêu và lòng thương xót. Đó là một tin mừng mà chúng ta tìm thấy trong các sách tin mừng và đem lại cho chúng ta niềm vui và hi vọng.
Rõ ràng Thiên Chúa đến là để cứu độ, nhưng với điều kiện là chúng ta cần đến và tiếp nhận Ngài. Vì thế, những ai cậy dựa vào sức mạnh, quyền thế, kiến thức hay của cải thì không thể tiếp nhận ơn ban giải thoát của Người. Những ai chỉ cậy vào sức riêng mình để tự giải thoát thực sự không cần đến Thiên Chúa. Chính vì thế mà Gioan Tẩy giả đã loan báo cơn thịnh nộ dữ dội của Thiên Chúa dành cho họ. Án phạt sẽ được thi hành ngay tức khắc.Và sám hối là điều cần phải làm ngay.
Chúa Giê su không phủ nhận vai trò của ông Gioan Tẩy giả, trái lại khi đề cập đến ông, Ngài hết lời ca tụng ông. Nhưng vì ông là một tiên tri giao thời giữa Cựu và Tân ước, nên Chúa Giê su kết luận rằng người nhỏ nhất trong Nước Trời lại lớn hơn ông vì thuộc về Giao Ước mới.
Tin mừng mạc khải cho chúng ta một khuôn mặt khác của Thiên Chúa. Quả thật, Người là đấng toàn năng, nhưng đó không phải là sự toàn năng đáng sợ của một người khổng lồ, mà là sức mạnh của một tình yêu không biên giới. Ngài không đến để tiêu diệt, nhưng để ban cho chúng ta cơ hội để sám hối, vì Ngài không muốn một ai phải hư mất. Nước Thiên Chúa mà Ngài vừa loan báo dành cho tất cả mọi người. Đó là ơn ban không tốn phí và không đòi hỏi một công trạng nào về phía chúng ta.
Vì thế, Thiên Chúa báo thù bằng cách sai chính Chúa Giê su đến với chúng ta. Bằng những bước chân êm đềm, nhưng chắc chắn Ngài đến để mạc khải cho chúng ta thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. Người ta chỉ có thể nhận ra Ngài nếu biết thay đổi cái nhìn về Ngài. Đó là điều quan trọng, vì Thiên Chúa của chúng ta không tương ứng với hình ảnh mà chúng ta có về Ngài. Chúng ta hình dung Ngài theo cách nghĩ của người thời nay, chỉ biết quan tâm đến những lợi ích cá nhân. Có người chờ đợi một vì Thiên Chúa kiểu ông già Nô ên, để xin ban cho mọi sự được an lành trong đời sống. Có người thì tưởng tượng một vì Thiên Chúa cảnh sát, dùng sức mạnh và áp chế lập lại trật tự trong thế giới đầy ích kỉ nầy, một vì Thiên Chúa sẽ ra tay uy quyền chận đứng mọi chiến tranh và trừng phạt những người từ chối chia sẻ.
Không, Thiên Chúa không phải là một vì Thiên Chúa tháo gỡ các khó khăn thay cho chúng ta và miễn cho chúng ta khỏi trách nhiệm. Một vì Thiên Chúa đích thật thì hoàn toàn khác: trong lễ Giáng sinh, Ngài hiện đến trong vóc dáng của một bé thơ bé bỏng, mềm yếu, một người không có gì để cho. Đôi tay nhỏ bé của Ngài không mang theo gì cả, hoàn toàn tùy thuộc và cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Nhưng khi giúp cho chúng ta ra khỏi chính mình để hướng về phía Ngài, Ngài sẽ biến đổi trái tim chúng ta, giúp chúng ta cảm nghiệm niềm vui và hạnh phúc khi trao ban.
Do đó, sứ điệp lớn nhất của mùa vọng chính là một lời mời gọi đặt chúng ta trong tư thế tiếp nhận: đã đến lúc chúng ta phải ra khỏi giấc ngủ mê. Thiên Chúa không ban tặng chúng ta một Vương Quốc làm sẵn nhưng đang hình thành. Chúng ta phải dọn một con đường cho Chúa đến trong chúng ta. Chúng ta đang sống trong một thế giới mang dấu ấn chiến tranh, hận thù, và thiếu hiểu biết. Và chính trong thế giới đó mà Chúa Giê su muốn gặp chúng ta, vì Ngài mang đến một tin vui: tình yêu của Ngài không ngừng ban tặng cho chúng ta. Ngài là nguồn suối đem lại bình an nội tâm. Nơi Ngài chúng ta học cách sống chung liên đới với nhau như anh chị em một nhà. Như thế mỗi người sẽ được nhìn nhận trong sự khác biệt và sự phong phú, sẽ phục vụ thiện ích cho mọi người.
Xin Chúa Ki tô mở mắt và tai chúng ta, xin Ngài đặt chúng ta trên đường đến với Ngài và đến với tha nhân; ước gì Tin mừng Ngài đã đến mang lại biến đổi thực sự đời sống chúng ta và cho thế giới.
Thánh Gioan Tiền Hô không thể không lên tiếng cảnh cáo cách sống vô luân của Hêrôđê Antipa: MV 3-A114
Thánh Gioan Tiền Hô không thể không lên tiếng cảnh cáo cách sống vô luân của Hêrôđê Antipa, con của Hêrôđê chung sống với nàng Hêrôđiađê, là vợ của Philipphê, anh ông ta. Và kết quả là Thánh Gioan bị giam trong tù.
Rõ ràng là Thánh Gioan không chỉ kêu gọi mọi người hãy sám hối, hãy dọn đường cho Chúa đến, mà còn chỉ rõ ra việc cần làm ngay, cần khắc phục chấn chỉnh ngay, mà không hề ngán sợ ngục tù lao lý. Việc ông ở tù, không phải là thất bại, nhưng là việc tất yếu phải xảy đến với người dọn đường cho Chân Lý của Thiên Chúa. Thiên Chúa tôi luyện niềm tin và hy vọng của ngôn sứ của Ngài trong ngục tù trần gian.
Ngục tù trần gian có thể làm cho lòng người ta hoang mang nao núng, nhưng Thánh Gioan đã tìm được phương thế vượt qua điều ấy bằng cách sai các môn đệ mình tìm gặp trực tiếp Chúa Giêsu. "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?" Đức Giê-su trả lời: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” ( Mt 11, 3 – 6 ).
Nghe thuật lại thế nầy, thì chắc chắn Thánh Gioan sẽ liên hệ ngay tới lời tiên báo của Isaia ( Is 35, 1 – 6a.10 ) và như thế, niềm tin của Ông và các môn đệ được Thánh Kinh soi dẫn và củng cố: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” ( Is 35, 4 – 6 ).
Đấng Cứu Thế, “Đấng Phải Đến, Đã Đến” là ông Giêsu quá tầm thường như thế, là một con người thật, sống giữa con người và sẻ chia những nỗi bi thương nhất của con người. Ngài đã sẻ chia cách cụ thể là đến thăm dân người, và thi thố quyền năng và tình thương của Thiên Chúa qua các phép lạ. Ở nơi Ngài, chúng ta gặp được bình an, niềm vui, và hạnh phúc mà con người trần gian không ban tặng được. Đó phải là niềm tin của mỗi chúng ta trong những ngày mừng đón Chúa Giáng Sinh.
Bởi vậy, Chúa Nhật 3 Mùa Vọng là Chúa Nhật Hồng, một màu hồng của niềm vui Giao Duyên Trời với Đất, niềm vui của Đôi Tân Hôn mà chàng rể là Chúa Giêsu Kitô và hiền thê của Ngài là Giáo Hội, là chúng ta, là mỗi người. Một màu hồng hạnh phúc. Niềm hạnh phúc là được sống với Chúa Giêsu “Đấng Phải Đến, Đã Đến”. Và cụ thể niềm hạnh phúc ấy, là được sống trong Giáo Hội của Ngài, nơi đây, không chỉ là dung mạo, là khuôn mặt là hình ảnh của Chúa Giêsu mà còn là chính Chúa Giêsu đang tác động trong và qua Giáo Hội.
Bạn và tôi đều có thể đã có hơn một lần cảm nghiệm tuyệt vời về nỗi mong đợi “Đấng Cứu Thế” đến trong Giáo Hội, nơi các Bí Tích, và trong cuộc đời
Hơn một lần bạn và tôi cùng với cả bà con trong Giáo Xứ ước mong và khẩn xin có một Linh Mục đến để dâng Thánh Lễ, và ban các Bí Tích. Nhất là ở các Giáo Xứ vùng sâu, vùng xa thì nỗi khát mong càng mãnh liệt hơn. Mỗi lần như thế cho chúng ta cảm thông sâu sắc với những nơi, đến hôm nay, vẫn còn một Mùa Vọng dài đôi ba chục năm, năm bảy chục năm mà chưa thấy bóng dáng “Đấng phải đến, đã đến”.
Hơn một lần, cảm xúc sung sướng trào dâng khi được đón Linh Mục quản xứ tiên khởi như đón chính “Đấng phải đến, đã đến”. Có người mừng đến rơi lệ vì cảm nghiệm được ơn Chúa đã thương đáp lại nỗi khát mong của dân Ngài. Và từ cảm nghiệm ấy, chúng ta sống được niềm vui của bao nhiêu Giáo Xứ, bao nhiêu con người thỏa niềm khao khát
Gần hơn, thường xuyên hơn, chúng ta đã hồi hộp đợi chờ gặp được Đấng Cứu Thế nơi tòa Giải Tội, để xưng thú tội lỗi, để quyết tâm sám hối, để được thứ tha và nhất là để tình yêu nên trọn vẹn. Và gần hơn nữa, lòng chúng ta thấy đói, thấy khát của ăn của uống Thường Sinh là chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu qua Bí Tích Thánh Thể.
Hình ảnh “Đấng Phải Đến, Đã Đến” còn là hình ảnh của những con người đang đứng ngay trước cửa nhà mình, ngay trong cuộc sống thường ngày, nơi những người ta gặp, và nhất là nơi những người nghe và thực hiện công việc của Đấng Cứu Thế là yêu thương nhân loại. Cho dù là Linh Mục, Tu Sĩ hay Giáo Dân và kể cả những người bần cùng tội lỗi bệnh tật yếu đuối nhất trong nhân loại, khi đã đến với mỗi chúng ta, thì thiết nghĩ việc tiếp đón của chúng ta cũng phải đàng hoàng như tiếp đón “Đấng phải đến, đã đến”.
Một người bạn làm gương cho tôi việc này, là anh ta chọn cho mình câu “Đấng phải đến, đã đến” làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình. Và điều đã xảy ra là anh ta luôn sẵn lòng lịch sự, yêu thương và sẻ chia với hết mọi người. Anh ta có một cuộc sống bình an, hạnh phúc, vì anh ta không những tiếp đón “Đấng phải đến đã đến” mà còn sống tinh thần của Đấng Cứu Thế là đem lại niềm vui cho mọi người.
Gần đây, đang nảy sinh những tâm thức nghi hoặc, hoang mang, bất ổn, đặt câu hỏi với Giáo Hội y như thời ông Gioan: “Ông có phải đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi đấng khác ?” Nguyên do là vì có tư tưởng nghi hoặc rằng người này, người kia, không phải “Đấng Nhân Danh Chúa mà đến”, nhưng lại là nhân danh bản thân mình hoặc nhân danh nhà nước thế gian mà đến.
Đáng tiếc thay, vì thiếu cảnh giác hoặc vì chủ quan, chúng ta đã tạo cơ hội cho những hỗn độn của trần gian len lỏi vào bên trong Giáo Hội để làm mất đi sự bình an hiệp nhất và cả sự thánh thiện cần có. Vì thế, thay vì “Đấng phải đến đã đến” đem niềm vui, niềm hy vọng cho Dân Chúa thì “người đã đến” đem lại cho Dân Chúa bao nỗi sầu thương thất vọng, thay vì giải thoát khỏi những bức bách thì lại đặt vào cổ dân đen những cái ách nặng nề.
Trong giai đoạn hỗn độn do những kịch bản của ma quỷ khiến chúng ta bán tín bán nghi về sự chân chính của sứ vụ mỗi người, tạo nên những thất vọng và mất kiên nhẫn, Thánh Giacôbê đã kịp thời gửi thông điệp đến chúng ta: “Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa” ( Gc 5, 9 – 10 ).
Lời Chúa Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng mang đến cho chúng ta niềm vui nhưng cũng nhắc nhở cho mỗi chúng ta phải trở thành một niềm vui cho người khác. Niềm vui ấy là làm cho “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”. Và cụ thể hơn trong toàn cảnh Việt Nam, niềm vui ấy là làm cho người xa rời Nhà Thờ trở về với Hội Thánh Chúa, người nghèo khổ bất hạnh có được niềm an ủi, được thăm viếng; người bệnh tật được giúp đỡ, người bị áp bức được đồng thanh tiếp cứu, công lý, sự thật được tôn trọng và nhất là nhân phẩm con cái của Thiên Chúa được bảo vệ đúng mức, không thể để cho thế lực gian tà chà đạp.
Lạy Chúa, chúng con được vui mừng tiếp đón Đấng Cứu Thế. Xin cho cuộc sống chúng con mang lại niềm vui cho mọi người. Amen.
Kyle Lambert, hoạ sĩ người Anh đã dùng iPad để vẽ chân dung thật như ảnh của nam diễn viên: MV 3-A115
Kyle Lambert, hoạ sĩ người Anh đã dùng iPad để vẽ chân dung thật như ảnh của nam diễn viên 76 tuổi, Morgan Freeman. Anh cho biết bức chân dung Morgan Freeman hoàn toàn được tạo ra trên phần mềm Procreate. Phần mềm này giúp biến các vệt nhấn ngón tay thành đầu bút lông ảo, cũng như cho phép ghi và xuất quá trình tạo tranh dưới dạng video.
Với bức chân dung của Morgan Freeman, Lambert đã vuốt ngón tay tổng cộng 285.000 lần trên màn hình iPad và mất hơn 200 giờ để hoàn thành. Chân dung của Freeman sinh động và thật đến mức nhiều người đã không tin họa sĩ Lambert vẽ trên tablet của Apple. Morgan không phải ngôi sao duy nhất được họa sĩ này vẽ chân dung... ( www.kylelambert.co.uk )
Tin Mừng theo Thánh Mátthêu hôm nay, Đức Giêsu phác họa chân dung của vị Ngôn Sứ Gioan Tiền Hô, với vài nét chấm phá tuy thật đơn giản, mà thật tài tình, rõ ràng và chính xác, chỉ bằng mấy lời vắn tắt, cô đọng, không quá cầu kỳ, không mất thời giờ lâu lắc như Kyle Lambert, hì hục, cặm cụi vẽ chân dung Morgan Freeman.
Thoát tục
Ngôn Sứ Gioan Tiền Hô vào hoang địa, vào sa mạc là biểu lộ một thái độ, một quyết định, một chọn lựa dứt khoát giữa hưởng thụ xác thịt và hy sinh, hãm mình, giữa vật chất và tinh thần, giữa phù phiếm và vĩnh cửu, giữa ảo và chân, giữa tội lỗi và đạo hạnh, giữa thế gian và Thiên Chúa. Ngay từ đầu, sứ vụ ông đã được Sứ Thần Gabriel loan báo cho vị Tư Tế Dacaria, thân phụ ông: “Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Israen về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ” ( Lc 1, 15 ).
Trước tiên, Đức Giêsu hỏi đám đông: “Anh em ra xem gì trong hoang địa ? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng ?” ( Mt 11, 7 ). Câu hỏi kèm theo một câu trả lời dự kiến. Nhưng Ngôn Sứ Gioan không phải là một cây sậy ngả nghiêng trước gió. Ông vẫn hùng dũng đứng vững, thành tín và cậy trông, không hề chao đảo trước cuộc sống hoang mạc khắc nghiệt, khốn khó, bất chấp mọi sự gian lao, thử thách. Ông là Tiền Hô, sứ giả dọn đường cho Chúa, trước hết bằng chính đời sống và tâm hồn ông. Ông dọn đường cho mọi người đến với Chúa bằng lời kêu gọi sám hối và làm công đức.
Vì không nhiễm bụi trần, không bị tiền bạc, công danh mua chuộc, hay thỏa hiệp, Gioan Tiền Hô mới can đảm công khai tố giác tội lỗi của vua Herôđê. Vì sứ vụ Ngôn Sứ, ông sẵn sàng chịu chết cho công lý và sự thật.
Ngôn Sứ Gioan thoát tục, còn tôi trái lại, cứ hồ hởi, hoan hỷ nhập tục, dính sâu, lặn sâu vào những thứ phù vân, mà ông đã điềm nhiên khước từ, chối bỏ, như tiền của, công danh. Làm sao san phẳng núi đồi, quanh co lối đi tham lam, gian manh, điêu ngoa, xảo trá, lừa đảo, giả hình ?
Khiêm nhu
Đức Giêsu hỏi dân chúng lần thứ hai: “Thế thì anh em ra xem gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua.” ( Mt 11, 8 ). Chẳng màng giàu sang, phú quý, Ngôn Sứ Gioan Tiền Hô cũng chẳng màng hư danh, chức tước, bổng lộc, quyền hành. Ông tự khẳng định sứ vụ, như Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: "Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi” ( Mt 3, 3 ).
Để tránh ngộ nhận, Ngôn Sứ Gioan cúi đầu khiêm nhường tự nhận: “Tôi làm phép rửa các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi, thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người” ( Mt 3, 11 ).
Nhưng tôi hơi làm được điều chi tốt lành, đạo đức, từ thiện, tôi lại muốn rêu rao, khoe khoang, tiếp thị rộng rãi, kẻo thiên hạ không biết mà tung hô, ca ngợi ! Thay vì cho Chúa lớn lên, thì tôi lại lợi dụng Thánh danh Chúa để trở thành ngôi sao, siêu sao. Trong khi, Gioan Tiền Hô lại khẳng định với mọi người như đinh đóng cột: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" ( Ga 3, 30 ).
Phục vụ
Lần thứ ba, Đức Giêsu lại hỏi tiếp mọi người: “Thế thì anh em ra làm gì ? Để xem một vị ngôn sứ chăng ? Đúng thế đó, mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới, khi chép rằng: Nay Ta sai sứ giả Ta đi trước mặt con, người sẽ dọn đường cho con đến” ( Mt 11, 9 – 10 ).
Xả kỷ vị tha, qua y phục và nếp sống khắc khổ, trong hoang địa ngay từ thuở thiếu thời, Gioan Tiền Hô là một Êlia mới, xuất hiện như một bậc thầy có nhiều môn đệ. ( Ga 1, 35 ), dạy họ ăn chay và cầu nguyện. Tiếng nói hùng hồn, đanh thép của ông lay động cả miền Giuđa. Mời gọi mọi người ăn năn thống hối, qua dấu chỉ phép tắm rửa trong dòng sông Giođan. Hơn nữa, còn phải nỗ lực canh tân, làm việc lành chuộc tội.
Ngôn Sứ Gioan không giới hạn chỉ phục vụ rao giảng với quảng đại dân chúng, cánh thu thuế, đám binh lính, mà còn phục vụ các đấng bậc vị vọng đáng kính, Tư Tế, Kinh Sư, Luật Sĩ, Pharisêu, Xađốc, đến cả các vua quan đương thời. Cuối cùng chịu tù tội và chịu chém đầu vì làm chứng nhân cho công lý và sự thật, chứng nhân cho Đấng Cứu Thế.
Còn tôi trái lại, chỉ dám tiếp xúc, quan hệ xã giao với những người đồng trang đồng lứa, bạn bè, thân hữu. thân tộc gần xa. Nhưng tôi luôn “khôn ngoan” im lặng, đồng lõa với những thói hư tật xấu, gian lận, mưu mô, quỷ quyệt, bất công và bất nhân của chính tôi và người quen biết. Mặc kệ người ta, hồn ai nấy giữ, mặc kệ thiên hạ.
“Kể từ hôm nay, từ nét mặt con, từ cử chỉ con, từ sự thinh lặng, từ quả tim con, từ tâm hồn con, từ mọi hành động, từ cách sống, từ cách chết của con, phải tỏa ra ánh sáng của Chúa hiện diện trong con, qua những nơi con đi, vào những người con gặp” ( Đường Hy Vọng, số 649 ).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phác họa cho chúng con chân dung ngôn sứ, biết bỏ đi mọi sự để tìm Chúa, biết khiêm nhu với thân phận hèn mọn, để vinh danh Thiên Chúa, biết phục vụ quảng đại mọi người, mọi lúc, để yêu thương như Chúa dạy và thực hành. Xin giúp chúng con noi theo để được hưởng Ơn Cứu Độ.
Lạy Mẹ Maria, khi Mẹ “Xin Vâng” là chấp nhận mọi sự gian nan, khó khăn, là Mẹ khiêm hạ theo Thánh Ý, là Mẹ phục vụ Thánh Gia trọn hảo. Xin Mẹ cầu bầu chúng con biết sám hối và canh tân, luôn sẵn sàng chào đón Chúa đến ngự vào lòng con. Amen.
Trong một cuộc hội thảo dành cho các sinh viên tại Hoa Kỳ, người ta đã đưa ra một đề tài như sau: MV 3-A116 Lượng
Trong một cuộc hội thảo dành cho các sinh viên tại Hoa Kỳ, người ta đã đưa ra một đề tài như sau: Lòng bác ái trên thế giới. Có một sinh viên không phải là công giáo đã hỏi một vị tuyên uý để xin ngài cho biết Giáo Hội Công giáo đã làm được những gì cho các người nghèo trên thế giới? Vị tuyên uý lúc đầu đã tỏ ra bỡ ngỡ, rồi ngài cho anh biết về những hoạt động bác ái của Giáo Hội trên toàn thế giới: hàng trăm ngàn linh mục, tu sĩ và giáo dân đang làm việc cho mọi tầng lớp dân chúng. Thế rồi anh sinh viên buột miệng kêu lên: tại sao người Công giáo không nói cho chúng tôi hay về lòng bác ái này trên trái đất? Sự thật đáng buồn là nhiều người Công giáo không có ý tưởng gì vềt những công cuộc bác ái vĩ đại mà gia đình con cái Chúa đã thực hiện.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay nói với chúng ta rằng: Gioan tiền hô sai một số môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: Ngài có phải là Đấng sẽ đến hay là chúng ta còn phải đợi chờ một Đấng nào khác? Chúa đáp lại: hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông đã nghe và đã thấy: Người mù được thấy, người què được đi, người chết được sống lại và người nghèo khó được đón nhận Tin Mừng. Đó là những dấu chỉ cho biết Chúa Giêsu là Đấng thiên sai. Đó cũng là những dấu chỉ đích thực của một Giáo Hội do Ngài thiết lập. Đồng thời đó cũng là dấu chỉ của người môn đệ Chúa.
Đức Kitô ngày hôm nay vẫn còn thực hiện những phép lạ, đó là những phép lạ của lòng bác ái nơi những người tin theo Ngài. Người Công giáo chúng ta cần biết hơn về những gì Giáo Hội đang làm cho người nghèo trên toàn thế giới. Không phải để khoe khoang, nhưng để nhận thức rằng lòng bác ái là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Chẳng hạn ở Hoa Kỳ có hơn 700 bệnh viện công giáo với hơn 160.000 giường bệnh. Có hơn 100 cô nhi viện chăm sóc cho hơn 16.000 trẻ em. Có 432 viện dưỡng lão chăm sóc 43.000 người già cả. Cơ quan bác ái còn cung cấp cho 19.000 trẻ em có chỗ nuôi nấng. Đó mới chỉ ở Hoa Kỳ, nhưng công cuộc bác ái của Giáo Hội trên toàn thế giới thì rất bao la và rộng lớn. Đồng thời chúng ta cũng nên nhớ rằng đó chỉ là những việc bác ái công khai của Giáo Hội và chỉ có Chúa mới biết được tất cả những gì mỗi cá nhân người Công giáo chúng ta đang làm để xoa dịu sự nghèo đói túng khổ. Còn chúng ta, chúng ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc bác ái của Giáo Hội?
Ai trong chúng ta cũng hơn một lần cảm được cái nóng của thời tiết. Khi ấy, chỉ mong có một MV 3-A117
Ai trong chúng ta cũng hơn một lần cảm được cái nóng của thời tiết. Khi ấy, chỉ mong có một cơn mưa làm dịu đi khí trời nóng bức. Khi nóng bức như vậy, ai cũng mong và thậm chí cầu khẩn "ơn trên" để cho có mưa móc. Và, khi có mưa rồi thì niềm vui khôn tả được bày tỏ.
Trong tâm tình chờ đợi mưa móc đó, Isaia cho ta thấy niềm vui của những đồng cỏ cháy gặp được mưa: Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.
Niềm vui mà Isaia nói đây không chỉ dừng lại ở ơn mưa móc mà còn hơn thế nữa, đó là Đấng Công Chính - Đấng Cứu Độ trần gian đến. Khi Đấng Cứu Độ trần gian đến thì muôn dân sẽ thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa.
Isaia nói tiếp: Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta. Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em." Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Vì có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
Cũng dễ hiểu niềm vui mà Isaia nói vì không phải là mưa móc tự nhiên mà là Đấng Cứu Độ. Và vì thế, niềm vui này là niềm vui khôn tả bởi lẽ khi Đấng Cứu Độ trần gian đến rồi thì sẽ cứu muôn dân thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Và, khi đó, họ vui cười hớn hở vì đau khổ và khóc lóc không còn nữa.
Và, như Gioan đã loan báo, Đấng Cứu Độ trần gian đã đến trần gian.
Đấng Cứu Độ trần gian đã đến không chỉ dọn lòng mà còn phải đương đầu với những thế lực đen tối mới có thể gặp và đoạt được. Chúa Giêsu nói rõ trong Tin Mừng hôm nay: "Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được".
Trong chờ đợi, có những người đã mất kiên nhẫn để rồi nản chí và khi nản chí rồi không đủ sức mạnh để chiếm lấy Nước Trời. Thánh Giacôbê mời gọi ta sống tâm tình kiên nhẫn trong thư của Ngài: "Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa".
Phận con người mỏng dòn non yếu nên đôi khi đánh mất kiên nhẫn, đánh mất sự chờ đợi.
Thật sự thì Chúa đã đến giữa cuộc đời ta rồi nhưng lòng ta không hân hoan để đón Chúa bởi lẽ đón Chúa vào lòng ta thì làm sao ta sống như Chúa muốn được. Ta đã buông lòng ta theo những cám dỗ của trần gian, của xác thịt để rồi chúng ta không đủ "công lực" để đón Chúa nữa.
Cuộc sống, nhất là ngày hôm nay giữa sóng xô của cuộc đời và ngày mỗi ngày con người tăng thêm lòng ích kỷ, hờn ghen, chụp giật thì lại càng căng thẳng cho sự chiến thắng của ta với những cám dỗ cứ bày ra trước mặt của ta. Phần con người, chúng ta dễ ngã để đi tìm nhưng giá trị trần gian mau qua chóng tàn mà quên đi rằng quê hương chúng ta ở trên Trời và chúng ta ngày mỗi ngày vẫn trông mong và chờ đợi.
Gioan Tẩy Giả cũng là người mỏng dòn xác thịt và như Chúa Giêsu nói Gioan là người nhỏ nhất nhưng vì Gioan biết tìm ai và chọn ai. Dĩ nhiên Gioan cũng phải đấu tranh với lòng mình để khỏi phải thiệt thân, thiệt mạng của mình. Cũng chỉ vì sự thật, chân lý mà Gioan đã bị chém đầu. Không giản đơn để chấp nhận cuộc xử trảm như Gioan. Chỉ vì niềm tin vào Thiên Chúa đặc biệt qua Chúa Giêsu mà Gioan đã chấp nhận chém đầu.
Cuộc chiến đấu mà Gioan chiến đấu không phải là cuộc chiến đấu đơn giản nhưng là cuộc giằng co kinh khủng trong cuộc đời. Gioan chiến thắng bởi vì Gioan từ ngày lọt lòng mẹ cho đến ngày chết luôn luôn gắn kết với Chúa, kết hiệp với Chúa và đặc biệt sống tâm tình khiêm hạ nhỏ bé.
Ngày mỗi ngày, chúng ta đã vẫn phải chiến đấu giữa những phong ba bão táp của cuộc đời với Nước Thiên Chúa. Tự sức người của ta chắc chắn ta sẽ không làm được nhưng nhờ ơn Chúa giúp ta sẽ chiến thắng để đạt được Nước Trời như lòng Chúa mong muốn và lời Chúa mời gọi.
Trong lễ kỷ niệm tròn 30 năm ngày cha xứ nọ về với xứ đạo, một chính khách hàng đầu của địa MV 3-A118
Trong lễ kỷ niệm tròn 30 năm ngày cha xứ nọ về với xứ đạo, một chính khách hàng đầu của địa phương được mời tới để đọc diễn văn.
Thế nhưng, vì ông ta đến muộn nên linh mục quyết định nói đôi lời với các giáo dân để kéo dài thời gian.
- Các con sẽ hiểu - cha nói - ta có ấn tượng đầu tiên về xứ đạo này kể từ khi ta nghe lần thú tội đầu tiên ở đây. Khi ta tới đây vào 30 năm trước, ta đã nghĩ rằng mình được bổ nhiệm đến một nơi cực kỳ tệ hại. Người đầu tiên tới phòng xưng tội kể cho ta nghe anh ta đã lấy cắp một cái tivi và khi cảnh sát tới anh ta đã giết người cảnh sát. Hơn thế nữa, anh ta thụt két từ nơi làm của mình và chim chuột với vợ của ông chủ. Các con có thể tưởng tượng là ta cảm thấy thế nào. Nhưng ngày tháng trôi qua, ta dần hiểu rằng không phải tất cả mọi người đều như vậy, và ta có một giáo xứ tốt với toàn những người đáng yêu và dễ thông cảm.
Ngay khi linh mục vừa dứt lời thì chính trị gia tới, xin lỗi vì đã đến muộn. Ông ta ngay lập tức thực hiện bài nói chuyện của mình.
- Tôi sẽ không bao giờ quên ngày đầu tiên vị linh mục đã tới giáo xứ này. - Chính trị gia nói. - Bởi vì, tôi có vinh dự là người đầu tiên đến xưng tội với ngài...
Thật xấu hổ khi tội của mình bị phanh phui trước toàn dân thiên hạ. Thế nhưng, xét cho cùng ai mà không có những lầm lỗi. Ai cũng có những yếu đuối. Ai cũng có những lầm lỡ. Ai cũng từng sống trong tâm trạng hối tiếc về những việc mình đã làm. Có điều chúng ta ít xấu hổ vì người ngoài không biết. Chúng ta thường rất khôn khéo trong việc che đậy tội lỗi mình. Chúng ta tự an tâm trong vẻ giả tạo bề ngoài của mình. Nhưng, dù sao nếu không sống thật với bản thân, con người cũng không bao giờ bình an hạnh phúc, chỉ có sám hối chân thành mới mang lại niềm vui tâm hồn.
Chúa nhật III mùa vọng được gọi là Chúa nhật hồng. Đây là Chúa nhật của niềm vui vì giờ cứu độ đã gần tới. Giờ của hân hoan, của hy vọng vì đã tới ngày Thiên Chúa viếng thăm dân Người. Ngài đến không phải để kết án. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài là Thiên Chúa của yêu thương vì khi Người đến mắt người mù sẽ nhìn thấy, tai người điếc được nghe, người câm nói được và người què nhảy nhót như nai. Ngài là hoàng tử của bình an và hoan lạc. Ngài đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Ngài giúp con người khống chế những thói hư tật xấu để sống tràn đầy niềm vui và bình an.
Gioan đã làm chứng về Ngài khi mời gọi dân Người sửa lại lối sống cho phù hợp với tin mừng. Gioan mời gọi dân người sám hối và canh tân đời sống. Chính Gioan đã sống một đời chứng nhân khi ông rời xa chốn đô hội thị thành để sống trong hoang địa ăn chay nhiệm nhặt. Gioan trở thành mẫu gương cho những người công dân Nước trời khi ông để Chúa lớn lên còn mình thì nhỏ bé lại.
Xin Chúa cho chúng ta luôn hưởng trọn niềm vui khi dám nói không với tội lỗi. Xin giúp chúng ta biết sám hối ăn năn về những lầm lỗi của mình và quyết tâm canh tân đời sống cho phù hợp với tin mừng. Chớ gì chúng ta luôn tràn ngập niềm vui khi để Chúa lớn lên trong ta và loại bỏ những thói hư tật xấu ra khỏi cuộc đời chúng ta. Amen.
Bên bờ sông Giođan, Gioan Tẩy Giả xuất hiện, rao giảng và làm phép rửa sám hối để dọn đường MV 3-A119
Bên bờ sông Giođan, Gioan Tẩy Giả xuất hiện, rao giảng và làm phép rửa sám hối để dọn đường cho Đấng Thiên Sai sắp đến, như lời ông tự giới thiệu:“Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám hối; Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”(Mt 3,11). Sứ điệp của ông về sự hoán cải thật đanh thép và minh bạch: “Lưỡi rìu đặt sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả tốt sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10); “Người sẽ cam nia rê lúa, thóc tốt sẽ thu vào kho và lúa lép sẽ quăng vào lửa” (Mt 3,12). Theo ông, Đấng Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường sẽ xuất hiện như vị thẩm phán chí công: tiêu diệt sự dữ, trả lại công bình cho những kẻ bị ức hiếp, cứu thoát những ai khốn khổ và khai mở thời cánh chung tràn trề hoan lạc, như Isaia đã từng loan báo (Is 35, 1-6.10). Ông nhiệt thành rao giảng và sung sướng chờ đón ngày ấy chóng đến ! Và này, Chúa Giêsu xuất hiện. Ông đã làm chứng về Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34), là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,36) và chỉ cho mọi người biết đó chính là Đấng mà ông đã loan báo (Ga 1,29). Sau đó, ông bị bỏ tù (Mt 11,2) vì đã can đảm làm chứng cho sự thật khi can ngăn nhà vua Hêrôđê Agrippa không được lấy vợ của anh mình là Philippê (Mt 14,3-12). Sứ vụ dọn đường của Gioan chấm dứt với việc ông vào tù, để bắt đầu sứ vụ của Chúa Giêsu với việc Người chịu phép rửa và được tấn phong Mêsia ngôn sứ và vương đế (x. Lc 3,19.21). Giai đoạn chuẩn bị kết thúc với Gioan Tẩy Giả, mở ra giai đoạn mới: Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng và rao giảng Nước Thiên Chúa.
2. Chúa đã đến
Thật khác xa với những gì mà Gioan đã quan niệm vì Chúa Giêsu đến không phải để đoán phạt nhưng để cứu chữa những gì hư mất; Người không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt 9,13). Người chính thật là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã từng loan báo, như chính Người, trong buổi khai mạc sứ vụ tại Hội đường Nadarét, đã áp dụng cho mình sấm ngôn Isaia chỉ về Đấng Thiên Sai(Lc 4,16-21). Người quan tâm và yêu thương hết mọi người, đặc biệt những người khó nghèo và tội lỗi là những hạng người bị xã hội ruồng rẫy và bỏ rơi. Người chữa lành các bệnh nhân; và mỗi khi chữa lành bệnh phần xác, Người quan tâm hơn đến việc chữa trị tâm hồn, nghĩa là giải thoát họ khỏi sự thống trị tội lỗi và đưa vào đời sống ân tình với Thiên Chúa và tha nhân. Người hiền lành, khiêm tốn và hết tình phục vụ: “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình”. Mọi người từ khắp nơi tuôn đến để nghe Người giảng dạy và để được Người chữa lành các thứ bệnh tật.
3. “Ông có phải là Đấng phải đến...?”
Ngồi trong tù, Gioan vẫn hướng lòng về Đấng Thiên Sai và chờ đợi thời mới. Khi được nghe biết về những hoạt động của Chúa Giêsu, ông cảm thấy băn khoăn và hoang mang. Đấng Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường phải là Đấng đến để tiêu diệt sự dữ, tái lập trật tự công lý và khai mở thời cánh chung. Đàng này Chúa Giêsu mà ông đã từng làm chứng và chỉ cho mọi người biết lại cư xử hiền hoà, khiêm tốn, yêu thương và tha thứ. Ông sai các đồ đệ đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng phải đến, hay còn phải đợi một Đấng khác.
Gioan nóng lòng chờ đợi Đấng Mêsia, nhưng lại là một Mêsia theo quan niệm của các ngôn sứ thời chuẩn bị, đồng thời cũng là quan niệm của người đương thời về một Mêsia chính trị, đến để phục hưng dân tộc. Còn Chúa Giêsu, Người xác nhận mình là một Mêsia mà các ngôn sứ đã từng loan báo: rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, chữa lành các bệnh tật, xua trừ ma quỷ ...., nhưng không phải là một Mêsia theo quan niệm chính trị, mà là một Mêsia đến thiết lập vương quốc sự thật và yêu thương bằng năng lực tình yêu và phục vụ, một Mêsia cứu độ nhân loại bằng con đường đau khổ của người Tôi trung. Và đó chính là điều gây cớ vấp phạm cho nhiều người như ông Simêon đã từng loan báo ngày Đức Maria dâng trẻ Giêsu vào Đền Thờ (Lc 2,34). Cách trả lời gián tiếp của Chúa Giêsu vừa là một trấn an Gioan, đồng thời xác định cho ông biết Chúa Giêsu thực hiện công cuộc cứu độ nhân loại không phải bằng con đường vinh quang, nhưng bằng con đường thương khó và tử nạn như Isaia đã loan báo về người Tôi trung (Is 52,13-53,12). Cần nhìn vào các việc Người đang làm mà coi đó như là những dấu chỉ để có thể nhận ra Người là Đấng Mêsia.
4. Nhẫn nại đón chờ Chúa đến
Trong một thời đại mà xem ra sự dữ đang lấn lướt, công lý không được tôn trọng, người công chính thường bị ghét bỏ và thua thiệt. Người tín hữu mong chờ Chúa đến để tiêu diệt sự xấu và kẻ gian ác, thiết lập lại trật tự công bình, và khai trương thời đại mới. Đó cũng chính là điều mà Gioan hằng nóng lòng chờ đợi. Thế nhưng, Thiên Chúa đã mạc khải Ngai là Thiên Chúa hay thương xót, chậm giận và không chấp tội (Xh 34,6-7). Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng yêu thương và tha thứ. Người thiết lập vương quốc tình yêu bằng sự phục vụ và tình yêu tự hiến. Vì thế, Người nhẫn nại chờ mong con người hoán cải để ban ơn tha thứ (Lc 13,6-9). Thánh Phaolô coi sự nhẫn nại là hoa trái của Thần Khí (Gl 5,20). Thánh Giacôbê khuyên dạy tín hữu hãy kiên nhẫn đón chờ ngày Chúa đến, như người nông dân mong chờ mùa gặt (Gc 5,7-10). Sự kiên nhẫn giúp thanh luyện và biểu lộ lòng trung thành, đồng thời tạo điều kiện và thời gian cho kẻ tội lỗi biết hồi tâm sám hối.
5. Người nhỏ nhất trong Nước Trời
Chúa Giêsu khen ngợi Gioan: “Trong số những người nam đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”(Mt 11,11). Gioan cao trọng vì ông là vị ngôn sứ cuối cùng của thời chuẩn bị cho Đấng Cứu thế, như sấm ngôn Malaki đã loan báo: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (Ml 3,1). Không những dọn đường, Gioan còn nhìn thấy, làm chứng và chỉ cho người khác khi Đấng Cứu thế xuất hiện. Gioan đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, chấp nhận cuộc sống khắc khổ trong hoang địa, để chuẩn bị cho sứ vụ và để có thể toàn tâm toàn ý thực hiện sứ mệnh. Gioan đã can đảm làm chứng và sẵn sàng chết để bảo vệ sự thật.
Gioan cao trọng thế đó, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”. Dù cao trọng, Gioan vẫn còn là người đang đứng bên ngưỡng cửa Nước Trời, như Môsê xưa đứng ở ngưỡng cửa Đất Hứa. Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời cao trọng hơn ông vì được diễm phúc tham dự vào vương quốc do Chúa Giêsu thiết lập. Chỉ nhờ lòng tin mà người ta mới có thể gia nhập Nước Trời và cũng chính đức tin mới làm nên sự cao trọng đó, như bà Elisabeth đã từng khen ngợi Đức Maria: “Bà thật có phúc vì đã tin... ” (Lc 1,45).
“Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is.35, 1-2).
Hạnh Phúc, Bình An và Hy Vọng, luôn là điều mà ta mơ ước đạt được trong nhịp sống hằng ngày MV 3-A120
Hạnh Phúc, Bình An và Hy Vọng, luôn là điều mà ta mơ ước đạt được trong nhịp sống hằng ngày. Đặc biệt là Hy vọng.
Một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:
Trong một căn phòng nhỏ khang trang và ấm cúng. Vào một buổi tối, chủ nhân căn phòng thắp lên 3 ngọn nến. Ngọn nến thứ nhất sắc màu đỏ, mang tên Hạnh Phúc, ngọn nến thứ 2 sắc màu vàng mang tên Bình An, và Hy Vọng mang sắc màu xanh là tên của ngọn nến thứ 3.
Sau khi đã thắp sáng ba ngọn nến và đặt chúng gần nhau, chủ nhân lui ra. Điều đầu tiên là cả ba ngọn nến đều cảm thấy tự hào vì với ánh sáng tuy nhỏ bé, nhưng rọi sáng cả một gian phòng, hơn nữa hơi nóng từ ánh sáng của chúng làm ấm lên giữa tiết trời đông giá. Sau niềm tự hào đó, ba ngọn nến cùng tâm sự, kể cho nhau nghe những điểm nổi bật của bản thân.
Đầu tiên, ngọn nến Hạnh Phúc cất tiếng tâm sự với hai bạn rằng:
- Này hai bạn, đối với cuộc sống của con người, mình rất quan trọng, vì không có mình thì những nước mắt và khổ đau, luôn đi theo con người. Hơn nữa mình rất mạnh mẽ, không có gì có thể dập tắt mình được. Vì thế chủ nhân đã cho mình mang sắc màu đỏ.
Ngọn nến Hạnh Phúc vừa dứt lời, ngọn nến Bình An tiếp lời:
- Cuộc sống của con người, nếu không có mình, họ luôn cảm thấy bất an, lo lắng… đời sống của họ như chìm vào bóng tối, mình cũng như bạn rất khỏe và rất mạnh mẽ, mình có thể chịu đựng và luôn sáng tỏ dẫu có phong ba bão táp ập đến. Mình mang màu sắc vàng là vì thế.
Cả hai ngọn nến Hạnh Phúc và Bình An đều cảm thấy tự hào về những gì mình bộc bạch, tâm sự. Riêng ngọn nến Hy Vọng, sau khi nghe hai bạn tâm sự. Ngọn nến Hy Vọng cất tiếng nhỏ nhẹ rằng.
- Hai bạn ơi! Hai bạn đều ngang tài ngang sức với nhau, riêng mình thì chỉ là bóng mờ mà thôi, nhưng mình nghĩ, trong nhịp sống của con người, nếu vắng bóng hai bạn, mà không có mình kề bên thì chắc có lẽ sẽ tồi tệ biết là dường nào phải không? Tuy mình yếu ớt và mờ nhạt, nhưng mình tin chắc mình sẽ chịu đựng được, khi gặp phải những làn gió nhẹ cũng như mạnh, màu sắc xanh của mình muốn nói lên điều đó.
Ngọn nến Hy Vọng vừa dứt lời, hai ngọn nến Hạnh Phúc và Bình An cảm thấy đắc ý với những gì mình đang có, cùng cất lên tiếng cười sảng khoái. Bỗng một làn gió thổi ngang, đầu tiên là ngọn nến Hạnh Phúc vụt tắt chỉ còn lại làn khói mỏng manh, kế đến là ngọn nến Bình An cùng chung số phận, riêng ngọn nến Hy Vọng, tuy chao đảo nhưng ánh sáng vẫn cứ leo lét rồi bừng sáng khi cơn gió đi qua.
Sau khi được chủ nhân thắp sáng lại nhờ ánh sáng của ngọn nến Hy Vọng, ngọn nến Hạnh Phúc và Bình An quay sang cám ơn ngọn nến Hy Vọng và nói: “Cám ơn bạn rất nhiều, may mà có bạn, tụi này lại được thắp sáng ”.
Vâng! Chính niềm hy vọng là động lực giúp ta vượt qua những nghịch cảnh của cuộc sống.
Trong cuộc sống thường nhật, dù là ai, lứa tuổi nào; trình độ cao, thấp, giàu hay nghèo, đời sống tận hiến, hay giữa đời thường… Đều nuôi và dưỡng niềm hy vọng như:
Nơi những bậc làm cha làm mẹ, luôn hy vọng gia đình ấm êm, hạnh phúc, con cái khôn lờn, khỏe mạnh và nên người.
Với tuổi trẻ, luôn hy vọng một tương lai rực sáng, với những thành công cả về tri thức, công việc, tình yêu.
Những bậc cao niên, sau một thời bương chải, giờ gối mỏi tay run, luôn hy vọng có sức khỏe, con cháu sum họp kề bên, để vui hưởng tuổi già trong bình an và hạnh phúc.
Với những hoàn cảnh như: Thất nghiệp, nợ nần, thiếu thốn, bệnh tật hiểm nghèo, bất hòa, chia rẽ… luôn hy vọng “sau cơn mưa trời lại sáng”.
Khi những cám dỗ của tiền, quyền, danh lợi, lạc thú… đánh gục những thành viên trong gia đình, và ngay như chính bản thân, luôn hy vọng một ngày nào đó, người ngã quỵ sẽ đứng lên để vượt thắng cám dỗ.
Đời người hữu hạn, luôn hy vọng sau khi từ giã cuộc đời trần thế, được vui hưởng phúc Thiên Đàng…
Tất cả những niềm hy vọng đó, đều được thắp sáng nhờ một Đấng mà khi xưa dân Do Thái đã ngày đêm ngóng đợi, không chỉ dân Do Thái xưa, nhưng toàn thể nhân loại qua mọi thời đại, trong đó có ta vẫn luôn khắc khoải mong chờ. Đó chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng khơi nguồn hạnh phúc, bình an và luôn thắp sáng niềm hy vọng cho những ai đón nhận Ngài là Cứu Chúa của mình. Đây chính là tâm tình sống mùa vọng.
Nhưng để thực sự nhận ra Thiên Chúa qua Đức Kitô là Cứu Chúa, Đấng thắp sáng niềm hy vọng cho ta trong cuộc sống, là điều không phải dễ, những lúc yên hàn đã khó, gặp phải những lúc đắng cay, thử thách, điều này còn khó gấp vạn lần. Hình ảnh của ông Gioan Tẩy Giả minh chứng cho ta thấy.
Là một ngôn sứ vĩ đại và cuối cùng của thời Cựu Ước, một Ngôn Sứ mà chính Đức Kitô đã nói về ông: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt11,11). Nơi dòng sông Giođan, chính ông Gioan Tẩy Giả đã hân hoan, mạnh dạn, giới thiệu một con người mang tên Giêsu, xuất thân từ làng quê Nararét, sinh trưởng trong một gia đình nghèo hèn là Đấng Kitô, là Chiên Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian, đây chính là Đấng mà các Ngôn Sứ khi xưa đã tiên báo, là niềm đợi trông và hy vọng của toàn dân Do Thái.
Như ta đã biết khi ông Gioan Tẩy Giả bị cầm tù, niềm đợi trông, hy vọng, những gì ông Gioan Tẩy Giả đã từng giới thiệu như bị xáo trộn và chợt lu mờ, ông không dám chắc lời giới thiệu của mình đúng hay sai, qua việc ông sai đệ tử đến gặp và hỏi Đức Kitô như Tin Mừng đã trình thuật: “Ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt.11,2-30).
Để thắp sáng lên niềm đợi trông và hy vọng nơi ông Gioan Tẩy Giả, Đức Kitô đã không trả lời đúng hay sai Ngài trả lời theo như những gì mà trước đây Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt11,4-6). Câu trả lời bao hàm sự nhắc khéo ông Gioan hãy mạnh dạn và đừng sợ, hãy làm chứng cho sự thật dù có phải hy sinh tính mạng, niềm mong đợi và hy vọng của dân Do Thái và của chính ông đã và đang thành sự nơi Đức Kitô
Tuy không giáp mặt, chỉ bằng lời nhắn gởi, Đức Kitô đã thắp sáng niềm hy vọng nơi ông Gioan Tẩy Giả, để rồi ông mạnh dạn bảo vệ sự thật, bảo vệ luân lý và tiếp tục làm chứng cho Đức Kitô. Điều này đã đưa ông đến cái chết qua việc trả thù của người phụ nữ lăng loàn Hê-rô-đi-a (Mt14,3-12).
Ta đang sống trong mùa vọng, đặc biệt trong tuần lễ thứ 3, với phẩm phục màu hồng của vị chủ tế, Thiên Chúa qua Giáo hội mời gọi ta hãy sống trong tâm tình vui lên và hy vọng Đức Kitô đã đến, sẽ đến và đang đến, chính Ngài sẽ đem lại cho ta Hạnh Phúc và Bình An, ban tặng cho ta hạnh phúc Nước Trời, Ngài sẽ thắp sáng niềm Hy Vọng cho ta, dẫu ta đang phải bị những cám dỗ bủa vây và ngã quỵ; hay ta đang sống trong cảnh màn trời chiếu đất; đang phải chống trả với những khổ đau của bệnh tật, nợ nần, đói nghèo, thất nghiệp, bất hòa chia rẽ. Chính Ngài là chất xúc tác là sức mạnh, là động lực cho ta đứng lên và tiến bước.
Ngày xưa ông Gioan Tẩy Giả tuy sống cảnh tù đày, không có cơ hội chứng kiến, giáp mặt Đức Kitô, nhưng Lời của Đức Kitô đã giúp ông lấy lại tất cả sức mạnh, niềm hy vọng tưởng chừng vụt tắt giữa quyền lực của thế gian. Đây chính là bài học cho ta trong cuộc đời Kitô hữu, đặc biệt trong bổn phận và trách nhiệm làm chứng và giới thiệu Đức Kitô cho mọi người, nhất là những người chưa có khái niệm gì về Đức Kitô. Chính Đức Kitô luôn ở bên ta, với ta nơi bí tích Thánh Thể, Lời Ngài nói với ta qua Tin Mừng, Ngài hiện diện quanh ta qua những người anh em.
Để nhận ra Đức Kitô và lời của Ngài, Như ông Gioan xưa, trước tiên là ta lui vào cõi lặng, lui vào hoang địa, sống đời sống khiêm hạ, đơn sơ. Hình ảnh của Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse là tấm gương sống động nhất cho ta noi theo, trong việc đón nhận và lắng nghe Lời của Đức Kitô trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống, kế đến là ta sống trong tâm tình mà Thánh Giacôbê nhắn nhủ ta qua thư của ngài: “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm... Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa. Kìa xem: chúng ta tuyên bố: phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp và đã thấy mục đích Chúa nhắm, vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu” (Gc.5,7-11).
Ước chi nhờ ơn Chúa giúp, ta có được đức tin sắt đá, sự tỉnh thức, lòng kiên nhẫn, niềm hy vọng. Đây chính là những điều cần thiết giúp ta hân hoan đón nhận tất cả những phúc lành của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên ta, như viễn cảnh mà Ngôn Sứ Isaia xưa đã giới thiệu: “Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is.35, 1-2).
Lạy Chúa! Con đang sống trong tuần lễ mà Giáo Hội là Mẹ mời gọi con hãy vui lên, hãy hy vọng vì Chúa đã đến gần. Xin Chúa giúp con biết dành thời gian tâm sự với Chúa nơi bí tích Thánh Thể, chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa nơi Tin Mừng. Nhờ đó mà niềm vui và niềm hy vọng của con luôn được Chúa thắp sáng bằng tình yêu của Chúa ngay bây giờ và mãi về sau. Amen.
Bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta: «Hãy tỉnh thức» (Mt 24, 44). Sang MV 3-A121
Bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta: «Hãy tỉnh thức» (Mt 24, 44). Sang Chúa nhật thứ II, tiếng hô lớn của Gioan Tẩy Giả vọng vang: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Chúa nhật thứ III hôm nay, Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng như Chúa nhật IV Mùa Chay, đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng được đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), Giáo hội mời gọi con cái mình «Gaudete» Hãy vui lên.
Vui lên, vì theo tiên tri Ôsê loan báo: "Với Ít-ra-en Đức Giêsu sẽ như làn sương mai làm nó vươn lên như bông huệ" (Os 14, 6). Chúng ta tỉnh thức, làm việc lành chứng tỏ lòng thống hối nhưng không buồn rầu, trái lại vui tươi "anh em hãy vui luôn trong Chúa...vì Chúa đã gần đến" (Ph 4,4-5). Với những lời trên của Thánh Phaolô Tông Đồ làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên. Niềm vui này nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với con người sinh động là Chúa Giêsu.
"Gaudete" là chủ đề của Chúa nhật này; " Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên!" (Ph 4,4-5). Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: "Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề".
Chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ: "Các tầng trời, hãy trổ hoa công chính, và ngàn mây hãy mưa ơn cứu độ! Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao! Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Giêrusalem, hãy mạnh dạn cất tiếng! Hãy cất tiếng cao đừng sợ, hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Đây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực" (Is 40, 9).
Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: "Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em." (Is 35, 4) Và làm sao không thể không mừng khi "nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nẩy chồi non và hoan hỉ vui mừng" (Is 35, 1). Lại nữa: "Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa" (Is 35, 6).
Đọc Trang Tin Mừng, chúng ta bắt gặp một nhân vật có vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị đón Chúa Giêsu giáng sinh đến với nhân loại là Gioan Tẩy Giả. Ngài xuất hiện trong tư cách là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Ngài được các tiên tri báo trước: "Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, người sẽ dọn đường cho con đi" (Mt 11, 10). Chúng ta đang vui sẵn, sự xuất hiện của ngài làm cho chúng ta vui thêm, vì lời hứa đã trở thành hiện thực. Việc ngài sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu có phải là Đấng phải đến không cho chúng ta câu trả lời đầy niềm vui vì Chúa đã đến thật rồi.
"Gaudete" Hãy vui lên, chúng ta lặp lại lời thánh Phaolô lần nữa: "Anh em hãy vui lên!" (Ph 4,4). Niềm vui chân thực không phải là kết quả sự vui chơi giải trí, nhưng gắn liền với một cái gì sâu xa hơn, đó là quan hệ với Thiên Chúa. Ai đã gặp được Chúa Kitô trong cuộc đời, người ấy sẽ cảm nghiệm sự thanh thản và niềm vui trong tâm hồn mà không một ai hoặc hoàn cảnh nào có thể tước mất. Thánh Augustinô đã hiểu điều đó rất rõ. Trong cuộc tìm kiếm của ngài đối với chân lý, an bình và mừng vui, sau khi đã kiếm tìm trong nhiều sự mà không có kết quả, thánh nhân đã kết luận với câu thời danh rằng: "Tâm hồn bất an của con người chỉ tìm được thanh thản và an bình cho đến khi được an nghỉ trong Chúa" ( Le Confessioni, I,1,1). Niềm vui đích thực không phải chỉ là một tâm trạng chóng qua, cũng chẳng phải là điều ta đạt tới bằng sức riêng của mình, nhưng là một hồng ân, nảy sinh từ sự kiện ta dành chỗ cho Chúa trong chúng ta, Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và tiếp tục đổi mới sự hiện diện an ủi, yêu thương và vui mừng của Ngài. Chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô cũng đã quả quyết, do kinh nghiệm của ngài: "Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình" (Le Confessioni, III, 6,11).
Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Đức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Đấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.
Cuộc sống xã hội ngày hôm nay đang quá ồn ào náo nhiệt, mọi hình thức vui chơi được bày ra để lôi MV 3-A122
Cuộc sống xã hội ngày hôm nay đang quá ồn ào náo nhiệt, mọi hình thức vui chơi được bày ra để lôi kéo các tầng lớp trong xã hội, từ những trò chơi game show dành cho mọi lứa tuổi, đến các hình thức tụ điểm vui chơi thu hút giới trẻ, các khu du lịch, các câu lạc bộ… tất cả đểu muốn đem lại niềm vui cho con người. Nhưng điều đó lại chứng tỏ rằng cuộc sống ngày nay có quá đầy đủ vật chất, nhưng dường như con người vẫn cảm thấy buồn sầu, lo âu. Vì cuộc sống quá buồn tẻ trống rỗng nên dẫn đến tình trạng đánh bài cho vui, uống rượu cho vui và nhiều cách chơi bời tìm vui khác, thế nhưng sau những cuộc vui ấy, người ta lại càng cảm thấy mình trống rỗng và buồn chán hơn.
Hôm nay bước vào tuần lễ thứ ba Mùa Vọng Lời Chúa mời gọi mọi người: Hãy vui lên anh em, tôi nhắc lại một lần nữa anh em em hãy vui lên. Lời mời gọi này có dư thừa hay không?
Những niềm vui mà ngày nay xã hội đang tạo ra, nó chỉ là những thứ niềm vui ồn ào ở bên ngoài, đôi khi có một chút ảnh hưởng đến cảm giác và cảm xúc của con người, những niềm vui này sẽ mau chóng tan biến khi cuộc vui đã tàn. Còn niềm vui của của Chúa đem đến là niềm vui sâu xa phát xuất từ bên trong tâm hồn được lan tỏa ra bên ngoài và có ảnh hưởng trên hành động của con người. Với niềm vui phát xuất từ trong tâm hổn, nó sẽ làm cho con người được hạnh phúc và bình an, cho dù bên ngoài có đang gặp nghịch cảnh.
Tiên tri Isai giới thiệu cho chúng ta một niềm vui, đó là niềm vui được giải thóat, được cứu độ. Bằng rất nhiều hình ảnh, tiên tri Isai đã gợi lên cho chúng ta thấy, ngày Thiên Chúa đến, Ngài sẽ giải thoát và biến đổi chúng ta khỏi sư khô cằn chết chóc, như hoang địa đón được mưa trời, như cây cối vũ trụ mong chờ mùa xuân sau một mùa đông băng giá và nhanh chóng sẽ trổ sinh hoa lá mới và đem lại hương sắc và hồi sinh cho trái đất, thì ngày Thiên Chúa đến, Ngài cũng sẽ biến những tâm hồn khô cằn thành mảnh đất màu mỡ, biến cuộc đời héo tàn trổ sinh hoa lá mới.
Tiên tri còn cho thấy niềm vui sâu xa mà Thiên Chúa mang đến, đó chính là niềm vui vì có sự hiện diện của Chúa trong mỗi tâm hồn, có Ngài, Ngài sẽ ban sức mạnh để chúng ta không còn sợ hãi, Ngài sẽ giải cứu con người khỏi sự ràng buộc của đau khổ bệnh tật và chết chóc, là những thứ vốn gây lo âu buồn sầu cho con người. Thiên Chúa cũng sẽ tái lập lại sự công bình cho xứ sở, Ngài sẽ mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc, chân người què sẽ được chữa lành, và mọi người sẽ sung sướng hò reo, đó là niềm vì Thiên Chúa sẽ đổi mới mọi sự.
Bài Tin Mừng chỉ cho chúng ta một khía cạnh khác của niềm vui sâu xa trong tâm hồn đó là chúng sẽ cảm nhận niềm vui vì đã sống đúng với ơn gọi và hoàn tất sứ mạng của mình. Câu chuyện xảy ra là khi Gioan đang bị cầm tù, ông nghe nói về Đức Giêsu, ông sai các môn đệ đến hỏi Chúa: Thày có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi phải đợi ai khác? Có lẽ không phải Gioan nghi ngờ về vai trò Chiên Thiên Chúa của Đức Giêsu, nhưng vì có lẽ vì ông sốt ruột muốn sớm nhìn thấy ngày Đức Giêsu tỏ vinh quang là một vị Thiên Chúa, và hơn nữa, ông cũng muốn cho các môn đệ của ông được gặp gỡ tiếp xúc với chính Đức Giêsu, để nhờ cuộc gặp gỡ này họ sẽ có kinh nghiệm và niềm vui gặp gỡ với Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói với các môn đệ của Gioan: Các anh hãy về và nói với Gioan những gì đã xem thấy: người què được đi người mù được sáng. Khi nói như thế, thì chắc chắn Gioan sẽ hiểu được lời tiên tri Isai nói về thời đại của Đấng Mêsia nay đã đến. Như thế, dù thân xác có bị cầm tù thì Gioan vẫn vui vì sứ mạng dọn đường của ông đã hoàn tất.
Nói về Gioan Tẩy giả, Chúa Giêsu đã ca ngợi ông và còn cho thấy nơi Gioan như một con người có một tâm hồn thật đẹp, một tâm hồn thanh thoát không bị dính bén lệ thuộc vào của cải vật chất và danh vọng. Gioan đã chọn một cuộc sống nhiệm nhặt nghèo khó, thay vì tìm kiếm sự xa hoa thì ông lai lui vào sống nơi hoang địa, Vì thế Gioan vui với nhiệm vụ của mình, với sứ mạng của mình. Ông vui vì ông biết điểm dừng của mình, cho dù có lúc dân chúng tuốn đến với ông rất đông, có lúc người ta đã coi ông như là đấng Mêsia, thế nhưng Gioan không ảo tưởng về mình, nên ông chấp nhận rút lui để nhường chỗ cho Ngài phải lớn lên còn tôi thì nhỏ lại. Gioan đã biết lui vào hậu trường và vui vì mình đã cống hiến, đã hoàn thành nhiệm vụ thay vì tìm kiếm danh vọng quyền lực; kể cả những môn đệ cuối cùng của mình Gioan cũng không muốn giữ lại để họ phục vụ ông, mà hôm nay ông đã giới thiệu họ đến gặp Đức Giêsu, và để họ có những kinh nghiệm về Đức Giêsu và nên môn đệ Đức Giêsu.
Thưa quý OBACE, như thế, giữa một cuộc sống buồn chán tẻ nhạt hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta vui, không chỉ vì những vẻ từng bửng bên ngoài, cũng không chỉ là những cảm xúc vì bầu khí lễ Giáng sinh đang tới, mà Giáo Hội muốn chúng ta vui với niềm vui phát xuất từ trong tâm hồn, niềm vui vì nhận ra sự hiện diện và đồng hành của Chúa, niềm vui vì chúng ta là những người được Chúa cứu độ, và vui vì chúng ta chu toàn nhiệm vụ Chúa trao. Đó mới là niềm vui đích thật và chỉ có niềm vui đích thật này mới làm cho cuộc sống chúng ta tươi vui, hạnh phúc.
Trong bầu khí của năm Gia đình sống và Loan báo tin Mừng, trước hết các bậc làm cha mẹ được mời gọi hãy sống vui trong bổn phận là vợ chồng, là cha mẹ của mình. Nhiều gia đình ngày nay đã trở nên nhàm chán buồn bã, để có thể tìm lại niềm vui thì cha mẹ sẽ phải là những người sống niềm vui mà hôm nay Lời Chúa đã chỉ cho chúng ta, và làm cho niềm vui này lan tỏa trong gia đình. Hãy vui vì chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, hãy đem Chúa vào trong đời sống của gia đình qua các giờ kình sớm tối, qua những phút cầu nguyện trước bữa ăn mỗi ngày hãy làm việc hằng ngày trong sự hiện diện của Chúa, vì có Chúa luôn ở bên chúng ta. Rượu chè, cờ bạc, cá độ không thể giải sầu, không thể đem lại niềm vui, vì thế đừng tìm vui trong rựou, đừng giải sầu trong bài bạc, vì những thứ đó chỉ đem đến bất hòa và đổ vỡ, chứ không thể đem đến niềm vui và bình an. Hãy đem đến cho vợ chồng con cái những nụ cười thay những chửi bời, các người vợ hãy dùng sự hiền hòa khả ái của một người nữ mà đem lại hơi ấm niềm vui cho gia đình.
Cũng vậy nhiều bạn trẻ ngày nay đang lao vào những cuộc vui của xã hội bày ra, nhưng càng lao vào càng thấy mình trống rỗng, và mất phương hướng. Các tụ điểm vui chơi sẽ không bao giờ đem lại niềm vui đích thực trong tâm hồn, mà nó chỉ đem đến sự bất an và chán nản, nó sẽ làm cho các bạn mất phương hướng nếu cứ cắm đầu chạy theo nó. Các bạn hãy tìm kiếm niềm vui đích thật nơi Đấng Cứu thế là Đức Giêsu, hãy chọn Ngài và để Ngài lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn trẻ của chúng ta. Hãy sống cho có ý nghĩa, đừng bỏ phí thời giờ và tuổi trẻ, các bạn chỉ có thể vui khi biết dùng tuổi trẻ của mình để phục vụ Chúa và giáo Hội, và mọi người, tức là sống chu toàn nhiệm vụ Chúa đang trao cho mỗi người.
Nhưng quan trọng hơn nữa chúng ta chỉ có thể vui và bình an khi tâm hồn chúng ta sạch tội, không bị sự ràng buộc của đam mê dục vọng, không bị cắn xé dày vò của lương tâm, hãy đến với lòng thương xót chúa qua Bí tích Giải tội, và hãy đón rước Chúa vào tâm hồn qua việc rước lễ thì tâm hồn chúng ta sẽ có một niềm vui đích thực dù bề mặt cuộc sống có nhiều phong ba thì tận đáy tâm hồn chúng ta vẫn vui và bình an.
Có người nói rằng tại sao bây giờ con người hay gây gỗ với nhau? Thưa vì tâm họ hồn họ bất an. Như thế chỉ khi tâm hồn chúng ta vui và bình an, thì chúng ta mới có thể trở thành người đem Tin Mừng Bình an đến cho người bên cạnh được, bằng không chúng ta chỉ có thể đem bất an và xung đột mà thôi. Amen.
Gioan Tẩy Giả dám phê bình thủ hiến Hêrôđê Antipas. Để làm cho con người cố chấp này im lặng, MV 3-A123
Gioan Tẩy Giả dám phê bình thủ hiến Hêrôđê Antipas. Để làm cho con người cố chấp này im lặng, vị thủ hiến đã nhốt Gioan vào ngục Macheronte. Dù sao thì tại đây, Gioan vẫn có nhiều người đến thăm viếng. Ông nóng lòng đặt câu hỏi và điều ông biết được làm cho ông thất vọng. Tiếng nói của Gioan mạnh mẽ vang lên đầy đe dọa. Ông đã nói: “Đấng đến sau tôi thì quyền phép hơn tôi!”. Ông loan báo một vị quan tòa sẽ ném vào lửa tất cả những gì xấu xa và không sinh hoa kết trái, và người ta nói với ông về một người hiền lành, một người có tài chữa bệnh! Ông không kiềm chế được và sai người đến hỏi: “Ngài có phải là Đấng-phải-đến hay không?”
Có ai mà không đặt những câu hỏi như thế? Giêsu, Ngài là tất cả những gì người ta nói về Ngài phải không? Câu trả lời cho Gioan làm cho chúng ta chưa thỏa mãn: “Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được chữa lành, kẻ điếc được nghe, người chết được sống lại, Tin Mừng được loan báo cho người nghèo khó”. Đó là điều người ta chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế, đó chính là điều mà Chúa Giêsu đã làm ở đó, hồi xưa. Nhưng bây giờ thì sao? Từ hơn hai ngàn năm nay thế giới đã đi đến đâu rồi? Biết nói thế nào với những người hỏi chúng ta: “Chúa Kitô của bạn mang lại điều gì? Điều đó có thay đổi gì không?”.
Từ ngục tù của chúng ta, chúng ta cũng đặt câu hỏi cho Chúa Giêsu. Chúng ta bị giam hãm trong những chân trời rất hạn hẹp, và có thể trong sự thiếu nhạy bén để hiểu rằng Chúa Kitô đang hành động: “Phúc thay kẻ nào không vì Ta mà nghi ngờ”.
Học biết Nước Trời đang đến như thế nào! Trong thế giới có nhiều người nổi danh của chúng ta chỉ có một số tên tuổi được nhắc đi nhắc lại: Mẹ Têrêsa, Đức cha Camara, Đức cha Romeo, cha Guy Gilbert và những thanh niên bụi đời của cha, sư huynh Roger ở Taizé và không quên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Nhưng còn có hàng ngàn người nghèo mà các linh mục, các nữ tu và các giáo dân, bản thân họ cũng nghèo, đang rao giảng Tin Mừng và thực hành Tin Mừng đó.
Chính nhờ các tín hữu này mà Chúa Kitô tác động trên thế giới. Người cũng nói với chúng ta như đã nói với những người được Gioan phái đến: “Các ngươi hãy thuật lại điều mà các ngươi đã nghe và đã thấy”. Nhưng những “công việc của Chúa Kitô” ít ồn ào hơn tiền bạc và chiến tranh. Phải chú ý mới thấy được tất cả tình yêu được làm “nhân danh Chúa Giêsu”. Cũng như nói rằng chúng ta đối diện với một Chúa Kitô vô danh mà chúng ta chỉ biết vào thời cánh chung, khi đó chúng ta sẽ biết Người không ngừng hoạt động như thế nào.
Chúa Kitô vô danh sao? Phải, nếu chúng ta dừng lại ở những tư tưởng và những câu hỏi về Người. Nhưng khi chúng ta tác động với Người, chúng ta thấy những kẻ què bước đi ra sao và những kẻ chết sống lại như thế nào. Người tín hữu anh hùng ở Liên Xô hoặc người Kitô hữu Braxin dấn thân hoạt động cho công bằng và giải phóng, chắc chắn không tự hỏi Chúa Giêsu có phải đúng là Đấng mà người ta chờ đợi hay không?
Có lẽ đôi khi chúng ta tự đặt cho mình một câu hỏi khác: “Có phải Giáo Hội đúng là dấu chỉ Chúa Giêsu đã đến hay không?” Đây là một câu hỏi hay nếu nó không phải là một cái mẹo đối với những khiếm khuyết riêng của chúng ta. Giáo Hội là chính tôi, kẻ loan báo hay không loan báo Tin Mừng. Giáo Hội là nơi tôi sống, là nơi có lẽ do lỗi lầm của tôi mà người ta không thấy được tác động của Thiên Chúa.
CHÚ GIẢI VÀ GỢI Ý SUY NIỆM CỦA LM INHAXIÔ HỒ THÔNG
Hằng năm vào Chúa Nhật III Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi người Ki tô hữu hãy vui MV 3-A124
Hằng năm vào Chúa Nhật III Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi người Ki tô hữu hãy vui lên vì đại lễ Giáng Sinh sắp đến gần rồi.
Is 35: 1-10
Bài đọc I, trích sách I-sai-a, mô tả trước niềm hân hoan mà những tù nhân Ba-by-lon cảm thấy giờ giải thoát của họ sắp đến. Cùng chung niềm vui với họ, thiên nhiên và sa mạc, nơi bước chân của họ đi qua, sẽ tưng bừng nở hoa.
Gc 5: 7-10
Trong Thư gởi cho các tín hữu đang phải chịu những thử thách trăm chiều, thánh Gia-cô-bê khuyên họ hãy kiên nhẫn, thậm chí hãy vui lên, “vì Chúa sắp đến rồi”.
Mt 11: 2-11
Tin Mừng thuật lại việc Gioan Tẩy Giả trong cảnh tù ngục đã sai các môn đệ của mình đến hỏi Chúa Giêsu có phải là Đấng Mê-si-a hay không. Chúa Giêsu đáp lại bằng cách nhấn mạnh rằng Tin Mừng được loan báo cho những người nghèo hèn và bất hạnh: người mù được thấy, người điếc được nghe, người phong hủi được chữa lành. Chúa Giêsu khai mạc triều đại tình yêu và tha thứ.
BÀI ĐỌC I (Is 35: 1-10)
Như chúng ta đã biết, tác phẩm I-sai-a không là tác phẩm của một tác giả, nhưng công trình sưu tập ba tác phẩm của ba tác giả thuộc ba thời kỳ khác nhau: trước hết, tác phẩm thứ nhất, từ chương 1 đến chương 39, là tác phẩm của chính vị ngôn sứ I-sai-a, vị ngôn sứ tiền lưu đày vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên; tiếp đó, tác phẩm thứ hai, từ chương 40 đến chương 55, là tác phẩm của một vị ngôn sứ thời lưu đày, biệt danh là ngôn sứ I-sai đệ nhị; sau cùng, tác phẩm thứ ba, từ chương 56 đến chương 66, là tác phẩm của vị ngôn sứ hậu lưu đày, biệt danh ngôn sứ I-sai-a đệ tam.
Tuy nhiên, chương 35 thì ngoại lệ: chương này có thời biểu muộn thời hơn và qua chủ đề và cung giọng của nó gần với tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hơn, vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, ông an ủi đồng bào của ông và báo trước cho họ biết cuộc giải phóng gần kề (giữa năm 550 và 540 trước Công Nguyên). Chính xác đây là chủ đề của đoạn văn mà Phụng Vụ Chúa Nhật III Mùa Vọng mời gọi chúng ta suy gẫm hôm nay. Bị giam cầm gần một nữa thế kỷ đã qua ở Ba-by-lon, những người lưu đày cứ ngở rằng mình sẽ gởi nấm xương tàn ở đất khách quê người. Ấy vậy, vị ngôn sứ loan tin rằng Đức Chúa sắp giải thoát họ và dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.
1. Những viễn cảnh diệu kỳ:
Để từ Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem, những người lưu đày sẽ phải băng qua sa mạc Sy-ri. Đức Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu thuận tiện cho cuộc xuất hành mới này, vì “sắp tới ngày Thiên Chúa báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội”. Qua bài thi ca, theo văn phong phóng dụ, đầy những hình ảnh thi vị, vị ngôn sứ mô tả sa mạc không còn là vùng đất hoang vu khô cằn nắng cháy, nhưng tưng bừng nở hoa, rợp bóng mát của những cây cối tốt tươi như rừng Li-băng, và phản chiếu vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron (đồng bằng Pa-lét-tin vốn nổi tiếng là phì nhiêu và nhiều hoa hồng tuyệt đẹp). Cuộc hồi hương trở về Thành Thánh quá phấn khởi đến mức người mù sẽ thấy được, người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ kêu lên trong niềm vui vỡ òa.
2. Dấu chỉ của việc Thiên Chúa thứ tha:
Trước tiên, chúng ta nhận ra chủ đề Kinh Thánh về sự liên đới của thiên nhiên với vận mệnh con người. Mặt đất liên kết mình với niềm hoan hĩ của đoàn người hồi hương. Ngoài ra, những tật nguyền thể lý sẽ biến mất. Chúng ta biết rằng vào thời xa xưa này – thậm chí vào thời Chúa Giêsu (Ga 9: 1-3) – những tật nguyền thể lý được xem như những án phạt của tội lỗi. Nếu những người mù thấy lại ánh sáng, người điếc nghe được tiếng cười vui và người què nhảy nhót như nai, chắc chắn đây là cách diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày gặp lại quê cha đất tổ của mình, nhưng nguyên do còn sâu xa hơn: những tội lỗi của dân đã được Thiên Chúa tha thứ.
Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương: “Chính Người sẽ đến cứu chuộc anh em”. Ngài sẽ cứu chuộc dân Ngài như một người thân chuộc lại bà con họ hàng của mình lâm vào cảnh đời nô lệ vì nợ nần và đưa họ trở lại gia tộc của mình. Theo tập tục vào thời đó, ai không thể trả nợ bị người chủ nợ bắt làm nô lệ. Người thân gần nhất đứng ra chuộc lại mà ngôn ngữ Hy bá gọi là “goèl”. Chính người này cũng đảm nhận trách nhiệm báo thù cho những oan ức mà người ấy phải chịu.
Bản văn này minh họa một khái niệm căn bản của Cựu Ước: mối liên hệ giữa ý tưởng Tạo Dựng và ý tưởng Cứu Chuộc. Chính vì Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo nên Ngài cũng là Đấng Cứu Chuộc, vì sự tha thứ tội lỗi là một công trình sáng tạo mới. Ở đây, trong đoạn văn này, mối liên hệ này rất minh nhiên. Thiên Chúa sáng tạo khi biến đổi sa mạc, Thiên Chúa sáng tạo khi phục hồi những kẻ tật nguyền. Chính sự tha thứ của Ngài là nguồn mạch của cuộc sáng tạo mới này, sự tha thứ của Ngài hoàn lại sự sống.
Cảnh tù đày ở Ba-by-lon (như cảnh đời nô lệ ở bên Ai-cập) là hình ảnh về cảnh đời nô lệ của tội lỗi. Cuộc giải phóng mà vị ngôn sứ loan báo tiên trưng cuộc giải phóng triệt để hơn, vĩnh viễn hơn, đó là cuộc giải phóng mà Đức Kitô mang đến, “việc chuộc lại” này mà chúng ta gọi “Ơn Cứu Chuộc”, không có nghĩa gì khác hơn là “tái tạo chúng ta”. Vào những ngày gần đến lễ Giáng Sinh, giọng nói của vị ngôn sứ vang lên qua nhiều thế kỷ: “Thiên Chúa đích thân ngự đến và sắp cứu chuộc chúng ta”.
BÀI ĐỌC II (Gc 5: 7-10)
Thánh Gia-cô-bê mời gọi các tín hữu hãy kiên nhẫn. Bản văn này có chủ ý đặt vào giữa hai thời điểm: những người lưu đày nóng lòng được trở về quê cha đất tổ (bài đọc I) và Gioan Tẩy Giả) mong chờ Đấng Mê-si-a sớm thực hiện sứ mạng “thưởng công phạt tội” của Ngài (đoạn Tin Mừng hôm nay).
1. Tác giả và tác phẩm:
Bức thư này được gán cho thánh Gia-cô-bê, anh em họ của Chúa Giêsu, vị lãnh tụ cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi, bị ném đá chết vào năm 62 sau Công Nguyên do sự xúi dục của vị thượng tế thời đó. Vì thế, thánh nhân không là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, hai con của ông An-phê, được phúc tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại ngay từ đầu thư, thánh nhân tự giới thiệu mình không là Tông Đồ mà là: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu Kitô”. Để phân biệt hai vị thánh trùng tên này, người ta gọi thánh Gia-cô-bê Tông Đồ là thánh Gia-cô-bê Tiền và thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Chúa Giêsu, là thánh Gia-cô-bê Hậu. Chính thánh Gia-cô-bê Hậu này mà, theo thánh Phao-lô, Chúa Giêsu hiện ra sau khi Ngài sống lại (1Cr 15: 6-7).
Thư này được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, phân tán khắp thế giới La-Hy. Sống ở giữa những anh em Do thái vẫn một mực trung thành lề luật Mô-sê. Những người Ki tô hữu gốc Do thái này gặp phải biết bao khó khăn trong việc thực hành đức tin của mình và là đối tượng của những quấy nhiễu. Vì thế, ngay từ đầu thư thánh Gia-cô-bê an ủi họ: “Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1: 2-4).
2. Vị Thẩm Phán đang đứng ở ngoài cửa:
Đoạn trích Thư chúng ta đọc hôm nay thuộc vào những lời khuyên bảo sau cùng của thánh nhân: thực hành đức kiên nhẫn trong thinh lặng, đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, ngay cả những người bách hại mình; có như vậy, anh em mới “khỏi bị xét xử”, hàm ý quy chiếu đến lời của Chúa Giêsu: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6: 37). Lý do được nêu lên: “Vì Chúa sắp đến gần rồi”. Thế hệ Ki tô hữu đầu tiên đã sống trong niềm hy vọng này: “Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa”. Vào thời xưa, người ta xử án ở ngoài cổng thành. Ở đây, thánh Gia-cô-bê chuyển dời hình ảnh này sang lãnh vực tinh thần và muốn nói rằng vị Thẩm Phán đang đứng ngoài ngưỡng cửa nhà chúng ta, Ngài sẵn sàng bước vào (x. Mt 24: 33; Mc 13: 29). Thậm chí sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh này, nhưng không còn trong viễn cảnh của ngày chung thẩm, mà là trong viễn cảnh của mối thân tình: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3: 20). Chúng ta có thể nói thêm mà không sợ ngược lại tư tưởng của tác giả: “Hãy kiên nhẫn, vì anh em không biết ngày nào giờ nào”. Chữ “kiên nhẫn”, theo nghĩa mạnh của từ, có nghĩa là biết chịu đựng những gian khổ như các ngôn sứ đã từng chịu.
3. Noi gương các ngôn sứ:
“Về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ, là những vị đã nói nhân danh Chúa”. Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ I-sai-a bị xử tử, ngôn sứ Mi-kha bị lăng nhục, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua A-kháp và vua Giô-a-kim, và cũng có thể dưới triều đại vua Ma-na-sê vô đạo. Lời khóc thương thành Giê-ru-sa-lem của Chúa Giêsu chứng thực sự kiện này: “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được được sai đến cùng ngươi!” (Lc 13: 34). Trong Tin Mừng Mát-thêu, Mối Phúc sau cùng kết thúc với việc nêu lên những bách hại mà các ngôn sứ phải chịu: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sĩ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa…Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5: 11-12).
Rõ ràng thánh Gia-cô-bê thấm nhuần giáo huấn của các Mối Phúc Thật. Phúc thay những người nghèo và những người bị bách hại, được lập đi lập lại trong Thư của thánh nhân như một điệp khúc. Việc thánh nhân ám chỉ đến số phận của các ngôn sứ, dù rất ngắn, dẫn đưa chúng ta vào bản văn Tin Mừng: thánh Gioan Tẩy Giả bị tống giam vào ngục.
TIN MỪNG (Mt 11: 2-11)
Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị Hê-rô-đê An-ti-pát tống giam vào ngục. Vị tiểu vương cai trị miền Ga-li-lê này là một trong những con của vua Hê-rô-đê Cả. Vị Tiền Hô đã cực lực tố cáo nhân vật quyền cao chức trọng này mà không một chút e dè sợ hãi, vì vị tiểu vương này đã muốn lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh mình là tiểu vương Phi-líp-phê. Như vậy, thánh nhân đã chịu bạo lực như Chúa Giêsu đã loan báo cho các môn đệ Ngài (10: 16-25).
Trong tù, thánh Gioan nghe nói về những việc Chúa Giêsu làm và ông đâm lòng ngờ vực. Chính thánh Gioan đã loan báo rằng thời Chúa Giêsu, thời xét xử đã đến, lúa tốt thì thu vào kho lẫm, còn lúa xấu thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt. Ấy vậy, Chúa Giêsu công bố rằng mùa thu hoạch, nghĩa là ngày Thiên Chúa thưởng công báo oán, chưa đến.
1. Câu hỏi của thánh Gioan Tẩy Giả:
Thánh Gioan là một người rất nhạy bén trước tội lỗi, ông không thể chịu đựng tội lỗi, ông đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, bất chấp hậu quả mà mình phải gánh chịu. Ấy vậy, ông nghe tường thuật rằng Đức Giêsu giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà của họ, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Vì thế, thánh nhân sai các môn đệ của mình đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.
2. Câu trả lời của Chúa Giêsu:
Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn I-sai-a đều có hậu cảnh Mê-si-a: trước hết, Is 29: 17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; tiếp đó, Is 26: 19: người chết sống lại; sau cùng, Is 61: 1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Câu trích dẫn sau cùng là rõ ràng nhất, vì được đặt lại vào trong mạch văn của nó, đoạn văn này hình thành nên một sứ điệp mà Chúa Giêsu nhắn gởi cho thánh Gioan Tẩy Giả. Quả thật, lời loan báo đầy đủ của I-sai-a như sau: “Thần Khí Đức Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn”. Vì thế, Chúa Giêsu đồng hóa mình với Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, tức Đấng Mê-si-a. Còn đối với lời loan báo của I-sai-a tiếp theo sau: “băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân”, Chúa Giêsu có chủ ý không trích dẫn. Việc bỏ rơi này cũng có ý nghĩa. Gioan Tẩy Giả không thể không hiểu: thánh nhân phải đảm nhận sự thử thách của mình.
Những ám chỉ Kinh Thánh này nhắc nhở cho vị Tiền Hô rằng kỷ nguyên Mê-si-a phải được thiết lập, nhưng không bằng bạo lực mà bằng những ân phúc, Kinh Thánh đã thấy trước cách thức hành động này của Đấng Mê-si-a. Nhiều vị thánh đã kinh qua những giai đoạn nghi nan ngờ vực, đêm tăm tối của đức tin. Hơn nữa, cuộc đời của Gioan Tẩy Giả báo trước nhiều điểm cuộc đời của Chúa Kitô. Chúa Giêsu cũng đã cảm thấy chơ vơ cô quạnh trong viễn cảnh của cuộc khổ nạn sắp đến. Thánh Thần, Đấng đã hằng nâng đỡ Ngài, dường như đã bỏ rơi mình.
3. Chúa Giêsu ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả:
Sau khi các môn đệ của Gioan ra đi, Chúa Giêsu ngỏ lời với đám đông, Ngài hết lời ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả. Đức Giêsu ca ngợi đức công minh chính trực của thánh nhân: không khuất phục trước bạo quyền và cách sống đạm bạc của thánh nhân. Chính qua cung cách sống của mình, thánh nhân hiện thân một vị ngôn sứ, tức là người nói nhân danh Thiên Chúa, thế vì Thiên Chúa. Nhưng thánh nhân còn cao trọng hơn các ngôn sứ trước ông, bởi vì các ngôn sứ chỉ loan báo Đấng Mê-si-a, trong khi thánh Gioan không chỉ loan báo mà còn đích thân gặp gỡ Đấng Mê-si-a và chỉ cho người ta thấy Đấng Mê-si-a nữa.
Bất ngờ cung giọng thay đổi, Chúa Giêsu công bố những lời gây bối rối cho người nghe: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời con cao trọng hơn ông”. Ở đây, Chúa Giêsu không nhắm đến công đức cho bằng hai thời kỳ, thời Cựu Ước và thời Tân Ước, và những người được dự phần vào hai thời kỳ ấy. Thời kỳ mà Chúa Giêsu khai mạc là thời kỳ Tân Ước, tức là thời kỳ thực hiện và hoàn tất, vì thế trổi vượt hơn nhiều thời kỳ Cựu Ước, tức là thời kỳ loan báo và chuẩn bị mà thánh Gioan, một trong các ngôn sứ, vẫn còn thuộc về thời kỳ Cựu Ước ấy. Lúc đó, phản đề nhắm đến hai trật tự vĩ đại: cái vĩ đại của Gioan Tẩy Giả được xem như ngôn sứ và vị Tiền Hô trực tiếp của Đấng Mê-si-a và cái vĩ đại khôn sánh của những những người thuộc về thời đại của Đấng Mê-si-a, thời Tân Ước, như sau này Chúa Giêsu nói rõ với các môn đệ Ngài: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc, vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thạt anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13: 16-17).
Trong một bối cảnh khác, Chúa Giêsu sử dụng lập luận tương tự: trong đám đông có một phụ nữ lên tiếng: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”, Chúa Giêsu đáp lại: “Phúc thay kẻ lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa” (Lc 11: 27-28). Chúa Giêsu không muốn giảm thiểu sự cao cả của Mẹ Ngài một chút nào, rõ ràng Mẹ Ngài là mẫu gương của những ai lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa, nhưng nhằm mở rộng “mối phúc này” cho hết mọi người. Ở đây cũng vậy, Chúa Giêsu không tìm cách giảm thiểu Gioan Tẩy Giả, nhưng nhằm đảm bảo với thính giả của Ngài: Nước Thiên Chúa không chỉ được dành riêng cho các ngôn sứ, nhưng cho hết mọi người; ai cũng đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa mà Ngài khai mạc.
Ngày 5/12, cựu tổng thống Nam Phi-Nelson Mandela qua đời ở tuổi 95. Ông là người lãnh đạo phong MV 3-A125
Ngày 5/12, cựu tổng thống Nam Phi-Nelson Mandela qua đời ở tuổi 95. Ông là người lãnh đạo phong trào xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid ở Nam Phi, giúp cho người da đen được hưởng các quyền bình đẳng như thiểu số da trắng.
Bước ra ánh sáng sau 27 năm bị giam cầm vào năm 1990, việc đầu tiên Mandela làm là tìm cách hòa giải một dân tộc bị chia rẽ bởi thù hận và định kiến trong hàng thế kỷ qua.Ông hiểu rằng hòa giải không thể thiếu sự thật: nếu tội ác của chế độ Apartheid không được làm sáng tỏ và công lý không được thực thi thì người dân Nam Phi sẽ sống trong một nền hòa bình rất mong manh, chỉ cần một biến cố nhỏ là bạo lực sẽ lại bùng phát.
Ông biết rằng, nếu đi tìm công lý bằng một cuộc tắm máu khác, chắc chắn đất nước sẽ bị đẩy vào vòng nội chiến.Ông đã dùng tài ngoại giao, trí thông minh, và cả trái tim bao dung của mình để “đi trên dây” giữa hai làn ranh giới.Một mặt ông đi gặp những nhà lãnh đạo của người Afrikaner, chủng tộc da trắng nắm quyền trong chế độ apartheid để đàm phán về tương lai đất nước. Mặt khác, ông tích cực thuyết phục quần chúng giận dữ phải giữ bình tĩnh vì lợi ích chung.
Ông nói với những thành phần cực đoan muốn trả nợ máu với người da trắng ở Johannesburg vào năm 1993: “Tôi là lãnh đạo của các bạn. Nếu các bạn không cần tôi nữa, thì tôi sẽ lui về nghỉ. Nhưng chừng nào tôi còn làm lãnh đạo, tôi phải lên tiếng rằng: điều chúng ta đang làm là rất sai”. Đám đông này sau đó tự động giải tán.
Để xử lý vấn đề tội ác của chế độ Apartheid, Mandela đã lựa chọn một giải pháp mà chưa từng một lãnh đạo nào trong hoàn cảnh của ông thực hiện.Thay vì tạo ra một phiên toàn xét xử tội ác của chế độ như thông thường, ông cho thành lập “Ủy ban Sự thật và Hòa giải” với mục đích đúng như tên gọi của nó: làm lành đi những vết thương quá khứ. Nạn nhân kể về những tội ác mà họ đã chứng kiến hoặc trải qua dưới chế độ apartheid, và những kẻ cầm quyền cũ sẽ được khoan hồng nếu thừa nhận những tội ác mà họ gây ra.
Với tài năng của một chính trị gia, và hơn tất cả là một trái tim biết khoan dung, Nelson Mandela đã tạo ra sự khởi đầu cho điều kỳ diệu ở Nam Phi: từ một quốc gia bị chia rẽ sâu sắc bởi chủng tộc, Nam Phi trở thành một “đất nước cầu vồng,” nơi tất cả màu da đều được tôn trọng và đối xử bình đẳng. Nam Phi vươn lên thành quốc gia giàu nhất ở lục địa Đen, có mặt trong nhóm các quốc gia “quyền lực mới” BRICS, và xây dựng lên một xã hội tự do và hiện đại (x. Khắc Giang, tuanvietnam.net).
Ông Mandela đã trải qua gần 30 năm ngục tù vì cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người da màu. Vị Tổng thống này đã được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1993.
Lên tiếng cho Sự thật và lương tri, Thánh Gioan Tiền Hô, vị Ngôn sứ công lý bị nhốt vào tù ngục. Xã hội Do Thái thời Gioan có rất nhiều tệ đoan. Quốc gia bị chính quyền La Mã đô hộ. Trong nội bộ lại có sự chia rẽ trầm trọng giữa các đảng phái chính trị và tôn giáo. Bất công, tham nhũng và vô luân lan tràn từ trên xuống dưới, nơi những nhà lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo.Vua Hêrôđê có đời sống loạn luân, cướp vợ của em trai mình. Người ta cảm thấy rất khó chịu khi có ai dám sửa sai, dám nói thẳng về những lỗi lầm của mình. Người cầm quyền càng khó chịu hơn và thường dùng quyền lực để đàn áp. Vì thế quyền lực thường tạo nên sợ hãi và im lặng. Gioan rất nhạy bén trước tội lỗi nên đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hêrôđê, bất chấp hậu quả tù đày. Hêrôđê người đàn ông quyền lực và ham mê sắc dục, gian dìu với Hêrôđiađê, người đàn bà đẹp nhưng ham mê quyền bính. Hai con người đó làm nên bi kịch của lịch sử. Ai cũng sợ hãi, không dám nói. Chỉ có Thánh Gioan Tiền Hô lên tiếng phản đối nên đã bị tống giam. Bênh vực công lý, nói lên sự thật đã đưa Gioan tới cái chết. Chết là cái giá rất đắt cho chứng nhân bảo vệ công lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức truyền thống.
Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ Isaia bị xử tử, ngôn sứ Mikha bị lăng nhục, ngôn sứ Giêrêmia bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua Akháp và vua Giôakim, và cũng có thể dưới triều đại vua Manasê vô đạo. Ngôn sứ Gioan thật cương nghị với lối sống không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý (x.Mt 14,3-12). Thực thi công lý nên Gioan là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa và đáng tin (x.Mt 21,26.32).
Thánh Gioan đã từng trải qua những giờ phút vinh quang khi dân chúng kéo đến với ông trong sa mạc, bên bờ sông Giođan xin ông làm phép rửa. Giờ đây, thời vàng son đã khép lại. Chỉ còn các môn đệ liều mình vào tù thăm nuôi rồi kể chuyện bên ngoài cho Gioan nghe.
Thánh Gioan băn khoăn lo lắng khi nghe tường thuật về Chúa Giêsu thường giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà người tội lỗi, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Ngôn Sứ Tiền Hô đang ở trong tù mà không được Đấng Cứu Thế đến giải thoát.Nổi khắc khoải cào cứa trong lòng.Vì thế, Gioan đã sai các môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.
Trước đây, Gioan đã từng giới thiệu về Chúa Giêsu cho dân chúng: “Tôi lấy nước mà rửa anh em, song có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giày cho Người” (Mt 3,11); “Chính Đấng ấy sẽ rửa anh em bằng nước và Thánh Thần”. Gioan cũng đã giới thiệu với các môn đệ về Chúa Giêsu: “Đây chính là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29).
Gioan không ngừng loan báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa đời đời. Đối với Gioan, Đấng Cứu Thế đến giải phóng Ít-ra-en cả trong phạm vi trần thế nữa, về chính trị và kinh tế như kiểu một vị vua Do Thái bách chiến bách thắng để đem vinh quang nước Ítraen lên tột đỉnh. Gioan nóng lòng vì chưa thấy Chúa Giêsu thực thi sứ vụ theo sứ điệp “dữ dội” mà ông rao giảng, nên Gioan muốn hỏi rằng: có phải Thầy là vị cứu tinh phải đến để bài trừ những tệ đoan, bất công và tham nhũng trong xã hội không?
Những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương. Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ. Đối với người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, Người hết mực yêu thương, bao bọc chở che chăm sóc chữa lành chứ không xa lánh khinh khi vì sợ lỗi luật như các Rabbi. Chính vì thế, khủng hoảng niềm tin của Gioan Tẩy Giả cũng là điều dễ hiểu. Trong hoàn cảnh ngục tù, Gioan đã biết tìm đến Chúa Giêsu để tìm sự giải đáp cho những thao thức canh cánh trong lòng. Và Gioan đã tìm thấy.
Chúa Giêsu không bị giới hạn trong cái nhìn chật hẹp của Gioan. Người muốn Gioan mở rộng tầm mắt với một lối nhìn mới mẻ, phong phú hơn: Các anh cứ về tường thuật cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch,người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Mt 11,4-5).
Như vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn Isaia đều có hậu cảnh Mêsia: Is 29,17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; Is 26, 19: người chết sống lại; Is 61,1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chúa bảo họ hãy về thuật lại những việc Chúa đã làm và những lời Chúa đã nói, những điều đó đủ minh chứng Người là ai. Những điều đó đã được các ngôn sứ loan báo từ dọc dài lịch sử rồi. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu gián tiếp bảo cho họ biết: Người không phải là một vị cứu tinh đầy uy quyền, đến giải phóng dân tộc Do Thái như họ mong đợi. Đồng thời Chúa trực tiếp xác nhận sứ mạng và quyền năng của Người: là con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai đem ơn cứu độ cho mọi người.
Chúa Giêsu còn biểu dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các môn đệ. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các Ngôn sứ. Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa, là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo: “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó. Trong tù, Gioan đã có thời gian để chiêm niệm.Cần phải thay đổi nhận thức và quan điểm của mình về Thiên Chúa. Quyền năng Thiên Chúa là quyền năng của tình thương. Đấng Cứu Thế đi đến đỉnh cao quyền năng là đồi Canvê và thập giá. Từ nay, Gioan hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ đây Gioan hiểu rằng, Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại. Thánh Gioan hạnh phúc an bình ra đi sau khi hoàn tất sứ vụ của mình.
Thánh Gioan Tẩy Gỉa đã trải qua những thách đố trong sứ vụ. Chính Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế nhưng khi lâm cảnh đau khổ ngục tù không thấy ai giải thoát nên đâm ra nghi ngờ. Nhưng cuối cùng, Gioan đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường. Ngài không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẻ cậy trông. Hạng người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có thể trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình thường cũng không phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió. Niềm hy vọng chính là sức mạnh giúp Gioan và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.
Khi chúng ta gặp đau khổ thử thách, đức tin, lòng cậy trông, niềm hy vọng bị lung lay chao đảo. Hãy nhớ Thánh Gioan đã chịu như thế và các tiên tri trong lịch sử cũng mang tâm trạng như vậy. Thánh Gioan không chết trong thất vọng mà chết trong đức tin, chết trong niềm hy vọng, đã đi cho đến cùng sứ mạng làm chứng cho Tin mừng.
Trong cuốn “Thư ngỏ tuổi đôi mươi”, André Maurois cảnh báo về “những mối nguy của thời đại MV 3-A126
Trong cuốn “Thư ngỏ tuổi đôi mươi”, André Maurois cảnh báo về “những mối nguy của thời đại chúng ta”, về cái dại khờ đáng kể trong sự nhận biết. Ông viết:
Chúng ta đã thấy những cái điên khùng không tưởng tượng nổi. Nhật báo Anh đã đăng tin một nhà chơi dương cầm vô danh quảng cáo rầm rộ rằng sẽ có một buổi diễn tấu nhạc yên lặng. Đúng ngày đó, phòng chật ních thính giả. Bậc diệu thủ im lặng ngồi trước mặt đàn, làm bộ chơi đàn không gây một âm thanh nào cả. Thính giả liếc trộm các người ngồi bên xem có nên phản kháng không. Nhưng các ông ngồi bên cứ thản nhiên, cử toạ đều kiên nhẫn, ngồi yên. Sau hai giờ yên lặng buổi tấu nhạc chấm dứt. Nhạc sĩ đứng dậy chào thính giả. Cử toạ nồng nhiệt vỗ tay khen. Hôm sau, trên vô tuyến truyền hình, nhạc sĩ im lặng đó kể lại câu chuyện và kết: “Tôi muốn biết xem cái ngu xuẩn của con người tới mức nào; nó thật vô biên.”
Maurois nói: “Tôi thì tôi không nói “cái ngu xuẩn” mà nói “cái nhu nhược” của con người. Những thính giả đó biết rằng họ không nghe thấy gì cả, nhưng họ sợ rằng nếu phản kháng thì không hợp thời.”
Cái vấn đề ở đây không phải là phải gọi nó như thế nào, mà là người ta có thực sự muốn tìm kiếm sự thật hay không.
Đấng Cứu Thế đã đến, với những dấu chỉ đã được tiên tri Isaia tiên báo: “Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được …” nhưng sự cứng lòng của dân chúng mới thực sự là vấn đề phải quan tâm. Cái trở ngại đáng kể cho việc đón nhận Đấng Cứu Thế là người ta chỉ ao ước và tìm kiếm một ơn cứu độ đậm màu trần tục, mà không nhận ra và từ chối, và chống đối chính Đấng Cứu Thế: “phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”
Cho một cuộc vui, thì việc không thấy được điều cần thấy cũng có thể được trả lời bằng một lý do biện minh nào đó, nhưng chẳng thể coi câu hỏi về ơn cứu độ là một trò đùa: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng?” (Mt 11,7-8)
Gioan xác tín Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, và rao giảng về Người: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt 3,11). Thế nên khi Chúa Giêsu đến xin ông làm phép rửa cho thì “ông một mực can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3,14)
Vậy thì tại sao ông lại khi sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu “Thầy có thật là Đấng phải đến không”? Khi sai môn đệ đến hỏi Chúa về điều mà ông đã xác tín, Gioan muốn gửi một sứ điệp đến chúng ta, để chúng ta ý thức rằng tin không là việc chạy theo số đông, mà là dấn thân một cách ý thức cho một chọn lựa riêng tư và quan trọng nhất của đời mình;
Cuộc dấn thân đó là hết sức quan trọng vì người ta chỉ có một cuộc đời để sống, và không có chỗ để thử: “Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”
Tin theo Đấng Cứu Thế là một cú nhảy chí mạng nên đã tin là phải theo đến cùng, như thánh Giacôbê cổ vũ các tín hữu sơ khai kiên nhẫn, đón chờ kết quả phải đến của đời sống đức tin: “xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá.” (Gc 5,7)
Một người đàn bà mua vé xe lửa đi qua một vùng có nhiều phong cảnh đẹp để thưởng ngoạn. Lên tàu, bà loay hoay mãi mới để các gói hành lý lên giá cho đúng ý mình, rồi chỉnh lại màn che cửa sổ cho phù hợp với ánh nắng, rồi lại đi lên đi xuống kiếm cho được một chỗ ngồi êm ái, rồi mở ví ra kiểm tra lại xem tiền có còn đủ cho chuyến về không, và tính toán xem có thể mua những gì với túi tiền của mình.
Cuối cùng, khi vừa ngồi yên để thưởng ngoạn phong cảnh đẹp bên ngoài thì cũng là lúc tàu đến chỗ chỗ dừng tàu. Bà càu nhàu: “Xe chạy mau quá, chưa kịp xem gì thì đã đến nơi rồi!”
Cuộc du ngoạn của đã bị đánh mất, vì những việc chẳng đâu vào đâu! Thế nhưng đâu là những việc choán đầy cuộc sống của tôi hôm nay? Phải chăng cuộc đời tôi giống như những gì được ĐHY Nguyễn văn Thuận đã mô tả: “Đứng trên tầng lầu cao nhìn xuống đường, con thấy làn sóng người cuồn cuộn. Đủ loại xe, đủ hạng người, dành nhau, tông nhau, đâm đầu chạy, vội vã hấp tấp, hốt hoảng, vì tình, vì tiền, vì tham vọng, vì đua sống.” (ĐHV 82)
Tôi nói rằng tôi tin vào Chúa … nhưng nay Chúa đang ở đâu trong đời tôi?
Một đất nước có nhiều tệ đoan như bất công, tham nhũng, luân lý suy đồi, thất nghiệp, vật giá MV 3-A127
Một đất nước có nhiều tệ đoan như bất công, tham nhũng, luân lý suy đồi, thất nghiệp, vật giá leo thang…tất nhiên dân chúng mất tin tưởng vào chính quyền. Xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu cũng có nhiều tệ đoan. Quốc gia bị chính quyền La Mã đô hộ. Trong nội bộ lại có sự chia rẽ trầm trọng giữa các đảng phái chính trị và tôn giáo. Bất công, tham nhũng và vô luân lan tràn từ trên xuống dưới, nơi những nhà lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo. Vua Hêrôđê có đời sống loạn luân cướp vợ của em mình. Gioan Tiền Hô lên tiếng phản đối nên đã bị tống giam rồi bị chém đầu trong tù.
Người ta cảm thấy rất khó chịu khi có ai dám sửa sai, dám nói thẳng về những lỗi lầm của mình, người cầm quyền càng khó chịu hơn và thường dùng quyền lực để đàn áp. Vì thế quyền lực thường tạo nên sợ hãi và im lặng. Mục sư Martin Luther King nói: tội lỗi lớn nhất của chúng ta là im lặng trước cái ác và cái xấu, nhất là khi cái ác và cái xấu đang nắm quyền… Cuộc đời của chúng ta bắt đầu kết thúc khi chúng ta im lặng về những điều lẽ ra phải lên tiếng. Trong thế giới này, chúng ta xót xa không chỉ vì lời nói và hành động của những kẻ xấu, mà còn vì sự im lặng đáng sợ của cả những người tốt.
Gioan Tẩy Giả là Ngôn sứ công lý, khẳng khái lên án đời sống vô luân của nhà vua nên bị giam và bị chém đầu.
Thánh Gioan đã từng trải qua những giờ phút vinh quang khi dân chúng kéo đến với ông trong sa mạc, bên bờ sông Giođan xin ông làm phép rửa. Giờ đây, thời vàng son đã khép lại. Chỉ còn các môn đệ liều mình vào thăm nuôi rồi kể chuyện bên ngoài cho Gioan nghe. Gioan rất nhạy bén trước tội lỗi, không thể chịu đựng tội lỗi nên đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hêrôđê Antipát, bất chấp hậu quả tù đày. Hêrôđê người đàn ông quyền lực mà ham mê sắc dục gắn bó với Hêrôđiađê, người đàn bà đẹp nhưng ham mê quyền bính, hai con người đó làm nên bi kịch của lịch sử. Không ai dám nói, chỉ có Thánh Gioan lên tiếng. Bênh vực chân lý, nói lên sự thật đã đưa Gioan tới cái chết. Chết là cái giá rất đắt cho chứng nhân bảo vệ chân lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức truyền thống.
Thánh Gioan băn khoăn lo lắng khi nghe tường thuật về Chúa Giêsu thường giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà người tội lỗi, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Ngôn Sứ Tiền Hô đang ở trong tù mà không được Đấng Cứu Thế đến giải thoát.Nổi khắc khoải cào cứa trong lòng.Vì thế, Gioan đã sai các môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.
Trước đây, Gioan đã từng giới thiệu về Chúa Giêsu cho dân chúng: “Tôi lấy nước mà rửa anh em, song có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Người” (Mt 3,11); “Chính Đấng ấy sẽ rửa anh em bằng nước và Thánh Thần”. Gioan cũng đã giới thiệu với các môn đệ về Chúa Giêsu: “Đây chính là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29).
Gioan không ngừng loan báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa đời đời. Đối với Gioan, Đấng Cứu Thế đến giải phóng Ítraen cả trong phạm vi trần thế nữa, về chính trị và kinh tế như kiểu một vị vua Do Thái bách chiến bách thắng để đem vinh quang nước Ítraen lên tột đỉnh. Gioan nóng lòng vì chưa thấy Chúa Giêsu thực thi sứ vụ theo sứ điệp “dữ dội” mà ông rao giảng, nên Gioan muốn hỏi rằng: có phải Thầy là vị cứu tinh phải đến để bài trừ những tệ đoan, bất công và tham nhũng trong xã hội không?
Những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương. Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ. Đối với người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, Người hết mực yêu thương, bao bọc chở che chăm sóc chữa lành chứ không xa lánh khinh khi vì sợ lỗi luật như các Rabbi. Chính vì thế, khủng hoảng niềm tin của Gioan Tẩy Giả cũng là điều dễ hiểu. Trong hoàn cảnh ngục tù Gioan đã biết tìm đến Chúa Giêsu để tìm sự giải đáp cho những thao thức canh cánh trong lòng. Và Gioan đã tìm thấy.
Chúa Giêsu không bị giới hạn trong cái nhìn chật hẹp của Gioan. Người muốn Gioan mở rộng tầm mắt với một lối nhìn mới mẻ, phong phú hơn ″Các anh cứ về tường thuật cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch,người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Mt 11,4-5).
Như vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn Isaia đều có hậu cảnh Mêsia: Is 29,17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; Is 26, 19: người chết sống lại; Is 61,1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chúa bảo họ hãy về thuật lại những việc Chúa đã làm và những lời Chúa đã nói, những điều đó đủ minh chứng Chúa là ai. Những điều đó đã được các ngôn sứ loan báo từ dọc dài lịch sử rồi. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu gián tiếp bảo cho họ biết: Người không phải là một vị cứu tinh đầy uy quyền, đến giải phóng dân tộc Do Thái như họ mong đợi. Đồng thời Chúa trực tiếp xác nhận sứ mạng và quyền năng của Người: là con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai đem ơn cứu độ cho mọi người.
Chúa Giêsu còn biểu dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các môn đệ. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các Ngôn sứ. Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa, là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo: “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó. Trong tù, Gioan đã có thời gian để chiêm niệm.Cần phải thay đổi nhận thức và quan điểm của mình về Thiên Chúa. Quyền năng Thiên Chúa là quyền năng của tình thương. Đấng Cứu Thế đi đến đỉnh cao quyền năng là đồi Canvê và thập giá. Từ nay, Gioan hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ đây Gioan hiểu rằng Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại. Thánh Gioan hạnh phúc an bình ra đi sau khi hoàn tất sứ vụ của mình.
Thánh Gioan Tẩy Gỉa đã trải qua những thách đố trong sứ vụ. Chính Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế nhưng khi lâm cảnh đau khổ ngục tù không thấy ai giải thoát nên đâm ra nghi ngờ. Nhưng cuối cùng, Gioan đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường. Ngài không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẽ cậy trông. Hạng người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có thể trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình thường cũng không phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió. Niềm hy vọng chính là sức mạnh giúp Gioan và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.
Khi chúng ta gặp đau khổ thử thách, đức tin, lòng cậy trông niềm hy vọng bị lung lay chao đảo. Hãy nhớ Thánh Gioan đã chịu như thế và các tiên tri trong lịch sử cũng mang tâm trạng như vậy. Thánh Gioan không chết trong thất vọng mà chết trong đức tin, chết trong niềm hy vọng, đã đi cho đến cùng sứ mạng làm chứng cho Tin mừng.
Thánh Gioan Tẩy Giả là nhân vật nổi bật của Mùa Vọng. Ngài là Ngôn sứ hy vọng. Đời sống chúng ta là một Mùa Vọng. Mùa Vọng của đức tin, của niềm mong đợi, của lòng kiên nhẫn.
Xin Chúa cho chúng ta vững một niềm tin cậy trông vào Thiên Chúa tình thương.
Người xưa thường nói “cái nết đánh chết cái đẹp” nhưng hôm nay người ta lại nói: “Cái đẹp đè MV 3-A128
Người xưa thường nói “cái nết đánh chết cái đẹp” nhưng hôm nay người ta lại nói: “Cái đẹp đè bẹp cái nết”, và ngày xưa người ta nói: “Hồng nhan bạc phận”, còn ngày nay người ta nói: “Hồng nhan bạc triệu”. Đôi khi xấu người còn bị xem thường như trong chuyện vợ xấu Vũ Trọng Phụng đã miêu tả thật mỉa mai như sau: Chị Doãn là một người đàn bà, có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp trai…”. Đàn bà mà có nhan sắc của đàn ông thôi cũng đủ là thiệt thòi quá rồi, lại thêm “người đàn ông không đẹp trai” thế thì coi như tiêu tùng về phần nhan sắc luôn rồi.
Vì cái đẹp thể xác được ưa chuộng nên chúng ta thấy ngày nay người ta chỉ chú trọng làm đẹp thể xác mà quên đi điều quan trọng là cần có một tâm hồn đẹp. Họ mặc áo lụa là, gấm vóc, sang trọng nhưng tâm hồn thì nhếch nhác bởi biết bao tội lỗi chồng chất. Họ chú trọng rửa tay chân mà quên rửa sạch tâm hồn. Cái nết không được dạy dỗ, uốn nắn nên ngày nay chúng ta thấy xã hội đầy những con người xấu và gương xấu tràn lan.
Lời kêu gọi sửa lại cách sống dường như cũng đang vang lại cho nhân thế hôm nay. Gioanmời gọi mọi thành phần dân Do thái hãy làm đẹp phẩm chất của mình để đón tiếp Đấng Messia. Đối với đám đông dân chúng hãy biết sống chia sẻ với nhau. Hãy sống đùm bọc nhau trong tình bác ái chân thành qua việc chia sẻ cơm ăn, áo mặc. Đối với người thu thuế và người giầu có hãy sống công bình bác ái. Đừng cho vay nặng lãi. Hãy sống bằng một trái tim nhân ái biết xót thương kẻ bần cùng lầm than. Đối với binh lính, Gioan đề nghị hãy biết thương dân, đừng hà hiếp bóc lột, đừng sống theo kiểu tham quan vô nại, hãy sống theo chức vụ của mình là để bảo vệ và gìn giữ sự an ninh cho dân làng.
Nghe lời Gioan ai nấy đều muốn thay đổi lối sống cho đẹp lòng Đấng Messia. Từng đoàn người đến sông Giordan. Trong đó có đủ mọi thành phần già trẻ, lớn bé. Quyền qúy cao sang và đói khổ bần hàn. Tất cả đều cúi mình sám hối. Tất cả đều muốn thay đổi lối sống. Sửa lại những quanh co gian trá của lòng người. Lấp đầy những hố sâu của ngăn cách bằng tình yêu chân thành. Và san bằng núi đồi kiêu căng bằng đời sống hoà hợp mến yêu. Một bầu khí thật vui tươi và an bình trải rộng khắp giòng sông Giordan. Một niềm hy vọng cho một thế giới không còn bất công, không còn hận thù chỉ còn có sự chia sẻ, cảm thông trong yêu thương chân thành. Một bầu khí hứa hẹn những ngày tháng thanh bình như lời tiên tri Isaia đã nói: “sói nằm chung với chiên con. Trẻ con thò tay vào hang rắn độc. Người ta sẽ lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cầy và nhân loại sẽ cùng nhau hát vang tiếng hát hoà bình”.
Hôm nay, Giáo hội cũng gợi lại hình ảnh đó để nhắc nhở con người thời nay. Chúa đã đến với chúng ta hôm nay qua tha nhân, qua các bí tích. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày cuối cùng của đời người dương gian, và Chúa sẽ đến trong uy nghi vinh hiển trong ngày quang lâm. Vậy có ai đó đã tự hỏi lòng mình: tôi phải làm gì để đón tiếp Chúa? Nếu chúng ta tin rằng Chúa đã giáng sinh và đang ở cùng chúng ta, liệu rằng chúng ta có gì để dâng cho Chúa? Có lẽ Chúa không cần chúng ta xây nhà nguy nga lộng lẫy cho Chúa. Chúa cũng không cần chúng ta trải thảm lót đường cho Chúa. Chúa chỉ cần chúng ta dâng cho Chúa tấm lòng thanh sạch không vương vấn tội nhơ. Một con tim tràn đầy tình yêu thương đồng loại. Một tấm lòng muốn sửa đổi, muốn thăng tiến bản thân cho tốt hơn, cho đúng với giáo huấn và lề luật của Chúa.
Xin cho chúng ta cũng biết sửa đổi tính hư nết xấu để trở thành người đẹp trước mặt Chúa và tha nhân. Chúng ta cũng cầu nguyện một cách đặc biệt cho các bạn trẻ đang lầm đường lạc lối, đang nghiện ngập được ơn hoán cải, cho những người cha đang say xưa rượu chè, cờ bạcbiết sống có trách nhiệm với gia đình, và cho những người tham lam cho vay nặng lãi, những người có chức có quyền đang hà hiếp kẻ yếu hèn biết sống lòng xót thương. Xin cho họ được ơn hoán cải để họ luôn là người đẹp trước mặt anh em. Amen
Ngôn sứ Isaia loan báo Đấng Cứu độ sẽ đến (Bài đọc I) – Tv 145 cầu xin Chúa đến (Đáp ca) – Gioan MV 3-A129
– Ngôn sứ Isaia loan báo Đấng Cứu độ sẽ đến (Bài đọc I)
– Tv 145 cầu xin Chúa đến (Đáp ca)
– Gioan Tẩy giả sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu xem Ngài có phải là Đấng cứu độ không (Tin Mừng)
– Thánh Phaolô khuyên tín hữu bền chí chờ đợi Chúa lại đến lần thứ hai (Bài đọc II)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Trong Mùa Vọng, lễ phục của chủ tế màu tím. Nhưng hôm nay chủ tế mặc lễ phục màu hồng, màu vui mừng ! Bởi vì hôm nay Lời Chúa loan báo cho chúng ta một tin hết sức vui mừng: Chúa sắp đến viếng thăm chúng ta !
Nhưng không phải là Chúa đã đến ở Bêlem cách nay khoảng 2000 năm hay sao ? Tại sao lại nói là Chúa sắp đến ? Thưa quả thực ở Bêlem Chúa đã đến với trần gian, nhưng chưa đến với tâm hồn mọi người. Mà điều Chúa thiết tha mong muốn không phải là đến một nơi nhưng là đến với con người.
Chỉ còn hơn một tuần lễ nữa thôi là chúng ta lại mừng lễ Giáng sinh, kỷ niệm lần đầu tiên Ngôi Hai Thiên Chúa đến trần gian. Nhưng phải chăng một lần nữa Chúa chỉ đến trong hang đá lạnh lẽo, mà không đến được với tâm hồn mỗi người chúng ta ?
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy chúng ta phải làm gì để Chúa có thể đến tận tâm hồn chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Đã bao nhiêu lần Chúa muốn đến thăm viếng tâm hồn chúng ta, nhưng bấy nhiêu lần Ngài đều không đến được vì cánh cửa tâm hồn chúng ta đã khóa chặt.
– Chúng ta mong chờ biết bao người đến thăm chúng ta, như những người thân, những người mang lại lợi lộc vật chất. Nhưng rất ít khi chúng ta mong chờ Chúa đến.
– Thậm chí nhiều lần chúng ta còn xua đuổi Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 35,1-6a):
Nhìn chung quanh mình, ngôn sứ Isaia thấy những cảnh bất hạnh: nhiều người mệt mỏi chán chường với “những bàn tay rời rã, những đầu gối mỏi mòn” ; nhiều người khác bi quan sợ hãi trước những áp bức, bất công ; nhiều người khác nữa đau buồn rên siết trong biển khổ cuộc đời…
Ngôn sứ Isaia an ủi và khích lệ họ: mọi bất hạnh sẽ biến mất khi Thiên Chúa đến: “Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi”
2. Đáp ca (Tv 145):
Lời cầu nguyện của Tv 145 này biểu lộ niềm tin tưởng vào lời Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia. Tác giả tin rằng khi Thiên Chúa đến, Ngài sẽ minh oan cho người bị áp bức, nâng đỡ những người yếu đuối, chở che những người cô thế cô thân… Bởi thế, tác giả cất tiếng nài van “Lạy Chúa, xin đến cứu thoát chúng tôi”.
3. Tin Mừng (Mt 11,2-11):
Cũng như mọi người khác đương thời, Gioan Tẩy Giả nôn nóng chờ Đấng Messia của Thiên Chúa đến. Gioan cũng đoán rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia ấy. Chỉ có điều Gioan lại quan niệm rằng Đấng Messia là một vị Thẩm phán nghiêm minh. Ngài đến để trừng trị những người gian ác. Vì thế khi thấy Đức Giêsu chưa làm gì để trừng trị kẻ ác, thậm chí bản thân Gioan đang bị kẻ ác giam giữ trong ngục mà Ngài cũng chưa ra tay. Gioan đâm ra hoang mang, ông sai môn đệ đến thưa Người rằng: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng ?”
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp. Ngài bảo các môn đệ của Gioan về thuật lại cho thầy họ tất cả những điều họ thấy Ngài làm: những kẻ bệnh hoạn tật nguyền được cứu chữa và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo. Đó là những chi tiết mà ngôn sứ Isaia dùng để mô tả Đấng Messia, nhưng không phải là một Đấng Messia thẩm phán, mà là một Đấng Messia Tôi Tớ.
Như thế, một cách gián tiếp, Đức Giêsu đã trả lời cho Gioan biết rằng Ngài chính là Đấng Messia ; đồng thời Ngài cũng điều chỉnh lại quan niệm Messia của Gioan: Đấng Messia đến không phải để trừng trị mà để cứu vớt.
Quan niệm này quả là quá xa lạ với suy nghĩ của Gioan. Vì thế, Đức Giêsu nhắn với ông “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
4. Bài đọc II (Gcb 5,7-10):
Thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu mong chờ Chúa lại đến lần thứ hai. Càng khổ sở vì cuộc sống vất vả, càng cảm thấy yếu thế trước những áp bức bất công, họ càng mong Chúa mau đến. Thế nhưng mong chờ đã lâu mà sao vẫn chưa thấy Chúa đến ? Họ bắt đầu nản lòng.
Thánh Giacôbê khuyến khích họ hãy làm như bác nông phu: đã gieo giống rồi thì thế nào cũng tới mùa gặt hái, chỉ cần kiên nhẫn chờ đợi thôi: “Anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến”.
IV. GỢI Ý GIẢNG
Người ta đang cần Chúa
Nhìn bề ngoài thì xem ra con người thời nay rất đầy đủ. Nhưng nếu đi sâu đến tận đáy lòng, ta mới thấy nhiều khoảng trống mênh mông rất cần được lấp đầy:
– Khoảng trống “siêu vật chất”: Mặc dù tiền bạc, của cải, tiện nghi… – nói chung là vật chất – có rất nhiều, nhưng lòng người vẫn luôn thấy thiếu. Chỗ thiếu vắng này không thế lấy tiền mà mua được, không thể lấy vật chất mà lấp đầy được.
– Khoảng trống “tình yêu”: người ta sống với nhau vì quyền lợi. Ai có lợi cho tôi thì tôi đến ; ai không có lợi thì tôi thờ ơ, ai không còn có lợi thì tôi bỏ, ai có hại thì tôi tìm cách diệt trừ… Hình như tình yêu không có chỗ trong lòng người.
– Khoảng trống “vĩnh hằng”: mọi thứ mà người thời nay có đều chỉ là tạm bợ, kéo dài lắm cũng chỉ là “trăm năm trong cõi người ta”. Con người cần cái gì đó dài hơn, lâu hơn, mãi mãi…
Những khoảng trống ấy thật là mênh mông, và không ai ngoài Chúa có thể lấp đầy. Con người thời nay đang rất cần Chúa.
Đừng nóng vội
Trước một vấn đề quan trọng cần giải quyết, người ta chia thành hai hạng khác nhau:
– Những người nóng vội: muốn giải quyết ngay tức khắc, bằng cách nào cũng được, kết quả thế nào cũng được.
– Những người kiên nhẫn: tìm hiểu kỹ vấn đề, suy nghĩ cách giải quyết thỏa đáng nhất, chờ có đủ điều kiện thuận lợi nhất.
Phần Thiên Chúa, Ngài không nóng vội nhưng rất kiên nhẫn, bởi vì Ngài muốn cứu chữa tận căn, muốn cải tạo con người, muốn canh tân thế giới.
Phần mỗi người chúng ta, cũng chớ tìm những giải pháp nhanh chóng mà hời hợt, nhưng hãy kiên nhẫn: kiên nhẫn điều trị tận gốc căn bệnh của mình, kiên nhẫn cải tạo từng mặt cuộc sống của mình, và kiên nhẫn góp phần canh tân thế giới.
“Hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác ?”
Tuy Gioan là một ngôn sứ và còn là vị Tiền hô, nhưng câu hỏi này của ông lại rất “phàm trần”: Ông nghĩ rằng Đức Giêsu là Đấng Messia Thẩm phán. Nhưng khi thấy Ngài chẳng xét xử và trừng trị ai thì ông nghĩ tới “một Đấng nào khác”.
Nhưng chúng ta còn “phàm trần” hơn Gioan nhiều: Dù đã biết Đức Giêsu chính là Đấng Messia, nhưng chúng ta không đủ tin nơi Ngài, chúng ta hướng về nhiều “đấng messia khác”: messia-tiền-bạc, messia-thế-lực, messia-lạc-thú…
Tuyên ngôn Dominus Jesus khẳng định rằng Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, ngoài Ngài ra chẳng có đấng messia nào cả. Không hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu là “vấp ngã”, chạy theo những đấng messia khác cũng là “vấp ngã”. Vì thế Đức Giêsu đã khuyến cáo: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Một cây sậy phất phơ trước gió
Gioan Tẩy giả không phải là một cây sậy phất phơ trước gió, vì Gioan không phải là người yếu đuối nhu nhược dễ uốn mình trước áp lực và dư luận. Nhưng hình ảnh cậy sậy phất phơ trước gió có thể dạy ta nhiều điều:
– Nó vừa mềm vừa nhẹ nên gió thổi nó nghiêng về hướng nào cũng được. – Nhưng nó lại rất mạnh: giông to gió lớn có thể xô ngã những cây cổ thụ to lớn, nhưng không thể bứng gốc cây sậy nhỏ bé này.
Lạy Chúa,
– xin dạy chúng con hiểu rằng sức mạnh ở trong sự yếu đuối và dịu dàng – xin dạy chúng con khôn ngoan biết khi nào phải cong xuống và khi nào phải trụ vững vàng.
Chuyện minh họa
a/ Ông có phải là Chúa Giêsu không ?
Một nhóm thương gia dự một cuộc họp. Người nào cũng báo trước với vợ con là sẽ về nhà đúng giờ ăn bữa tối. Nhưng cuộc họp kéo dài hơn dự định. Tan buổi họp, ai nấy hối hả chạy ra xe buýt. Một người xô phải quầy bán táo của một cậu bé, táo rơi tứ tung. Nhưng không ai dừng lại để lượm giúp cậu. Rồi mọi người đều lên được xe buýt, thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng ít giây sau, một người trong nhóm cảm thấy bứt rứt về chuyện cậu bé bán táo. Ông xuống xe trở lại chỗ cũ. Ông thấy cậu bé đang vất vả mò tìm từng trái táo để lượm lại. Thì ra cậu bị mù ! Tội nghiệp quá, ông giúp cậu lượm lại từng quả cho đến hết. Một số quả đã bị giập. Ông móc túi dúi vào tay cậu bé một món tiền, rồi ra đi. Cậu bé bán táo hỏi với theo “Ông có phải là Chúa Giêsu không ?”
Theo một nghĩa nào đó, ông ta là Chúa Giêsu. Thời nay đang cần có nhiều Chúa Giêsu như thế.
b/ Đối phó với Đấng Messia
Ngày kia đang lúc trời mưa như trút nước, một người chủ nông trại giàu có từ đồng trở về nhà và than phiền với giọng đầy lo lắng:
– Rebecca, nghe đâu trong thành người ta đang kể một câu chuyện kinh khủng lắm: Đấng Messia đã đến giữa chúng ta !
Người vợ hỏi:
– Có gì mà kinh khủng hả ? Tôi tưởng đó là chuyện tuyệt vời chứ. Sao mà ông hoảng hốt vậy ?
Người chồng lớn tiếng than:
– Tôi hoảng hốt ư ? Sao biết bao năm trời vất vả lao nhọc, chúng ta mới được giàu có với bầy súc vật hàng ngàn con, với những kho lẫm đầy ắp và cây cối nặng trĩu quả. Thế mà, bà biết không, chúng ta sắp phải bỏ hết để đi theo Ngài.
Bà vợ ôn tồn như muốn an ủi ông:
– Thôi, bình tĩnh đi ông. Chúa là Thiên Chúa nhân lành. Ngài biết rõ người do thái chúng ta đã luôn luôn phải chịu đau khổ, chúng ta phải đương đầu với Pharaon, Haman, Hitler… nghĩa là luôn luôn với một kẻ nào đó. Nhưng Thiên Chúa chúng ta đã có cách đối phó với họ mà, phải không ? Thế thì Ngài cũng có cách đối phó với Đấng Messia chứ ! (Anthony de Mello, Lời kinh của Con Ếch)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Đức Giêsu Kitô, Ngôi hai Thiên Chúa, sắp ngự xuống trần gian. Người sẽ mang đến cho nhân loại đang đau khổ vì chiến tranh ơn hòa bình, đang oằn oại trong tội lỗi ơn giải thoát, đang sống trong bất hạnh được hạnh phúc tràn đầy. Chúng ta cùng chung lời cảm tạ Chúa và tha thiết khẩn cầu:
1- Sứ mạng cao cả của Hội Thánh / là rao giảng Tin Mừng cứu độ cho các dân tộc. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho việc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh / luôn đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
2- Trên thế giới ngày nay / việc phân bố tài nguyên các quốc gia không đồng đều / vì có những nước quá giàu / trong khi đó có những nước quá nghèo. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những nước giàu / biết quan tâm giúp đỡ một cách vô vị lợi / những nước chậm phát triển / cách riêng những nước mà một phần lớn dân chúng sống dưới mức tối thiểu.
3- Trong cuộc sống thường ngày / có một số người tôn thờ cá nhân chủ nghĩa / chỉ lo sống hưởng thụ ích kỷ. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người kitô hữu hiểu rằng / không ai sống cho mình / mà là sống cho Chúa và sống vì người khác / vì không ai là một hòn đảo trong đại dương bao la của cuộc đời này.
4- Ngày xưa / Đức Giêsu đã chinh phục người khác bằng tình thương hy sinh / bằng việc phục vụ hết lòng. / Ngày nay / Người đòi hỏi các kitô hữu cũng phải sống như Người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho mọi người trong giáo xứ chúng ta / biết yêu thương / tôn trọng / và giúp đỡ những người chung quanh mình / nhất là những ai đói nghèo / túng thiếu và đang gặp đau khổ.
CT: Lạy Chúa là Cha từ bi nhân hậu, xin cho chúng con biết kiên trì tỉnh thức mà chờ đợi Ngôi Hai Con Chúa giáng trần, và biết cầm đèn cháy sáng trong tay mà hăm hở đón Người đang ngự đến. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
– Kinh Tiền Tụng: nên dùng Kinh Tiền Tụng Mùa Vọng II vì nó nhấn mạnh đến vai trò của Gioan Tẩy Giả và diễn tả niềm vui của tín hữu đang khi chờ đợi lễ Giáng sinh.
– Kinh Nguyện Thánh Thể: nên dùng KNTT 4, nhấn mạnh một số nơi:
. (Cuối đoạn 3): “… Người đã loan Tin Mừng cứu độ cho người nghèo khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ tù đày, đem lại niềm vui cho những ai sầu khổ.”
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy tha thiết dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha, xin cho Nước Ngài mau trị đến, để lấp đầy những khát vọng của những kẻ nghèo hèn là con cái đích thực của Ngài.
VII. GIẢI TÁN
Đức Giêsu đã nói với các môn đệ của Thánh Gioan Tẩy giả: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các anh nghe và thấy”. Giờ đây, anh chị em sắp trở về với cuộc sống xã hội, Đức Giêsu cũng nói với anh chị em: Hãy đi thuật lại cho mọi người những gì mà trong Thánh lễ này Chúa đã cho anh chị em được nghe và được thấy.
Báo trước về sự phục hồi Israel, ngôn sứ Isaia đưa ra lời hứa: *phục hồi đất đai từ hoang cằn trở MV 3-A130
Báo trước về sự phục hồi Israel, ngôn sứ Isaia đưa ra lời hứa:
*phục hồi đất đai từ hoang cằn trở nên mầu mỡ, *chấm dứt mọi đau khổ và bệnh tật của con người, *khôi phục lại niềm hy vọng và công lý, *cuộc trở về vui mừng của dân lưu đày.
Trong Chương 34, vị ngôn sứ tiên đoán sự hủy diệt các quốc gia và sự tàn phá đất đai của họ, đặc biệt là Êđôm. (Êđôm được cho là đã giúp người Babylon đánh chiếm Giêrusalem). Các vùng đất đai của nó sẽ bị bỏ hoang, không còn có tác dụng sinh sản và trở thành nơi ở cho những con thú hoang dã (Chương 34). Bây giờ một cảnh ngược lại dành cho Israel: dân lưu đày sẽ được trở về. Sa mạc sẽ vui mừng nở hoa (c. 1); vùng núi Libăng trở nên trù phú tươi tốt; núi Carmen và đồng bằng Sarôn từng bị chiếm cứ, đã trở nên héo tàn nhục nhã (c. 33,9) thì nay được trả lại cho Israel, như dấu chứng của lòng ưu ái dành cho Israel, để nó phản ánh vẻ huy hoàng rực rỡ của Đức Chúa. (Đồng bằng Sarôn trải dài từ bờ biển Địa Trung Hải lan rộng đến dãy núi Carmen, được bao phủ đậm đặc bởi rừng cây sồi, giống như toàn vùng đất Libăng). Vùng đất này vốn hoang vu, là nơi ở của chó rừng (c. 7), và sư tử (c. 9) thì nay được canh tác trở lại, đất khô cằn sẽ nở hoa.
Không chỉ đất đai sẽ được phục hồi mà cuộc sống của con người cũng được biến đổi, mọi bệnh tật sẽ chấm dứt: những bàn tay rã rời trở nên mạnh mẽ (c. 3); rồi mắt người mù mở ra, tai người điếc được nghe, người què sẽ nhảy nhót như nai (cc. 4-6). Đó cũng là ngày khôi phục công lí: Thiên Chúa sẽ thưởng công phạt tội (c. 4), Ngài khơi lên niềm hi vọng cho mọi người. Mạch nước và khe suối (c.6) vọt ra từ đất hoang cằn biến nó thành trù phú tươi tốt trở lại. Cuối cùng, dân lưu đày, những người bị bắt đưa sang Babylon, được trở về và đi trên “Thánh lộ” (c. 8), một đại lộ an toàn để tiến đến núi Sion, là một tên gọi khác của Giêrusalem, nơi có Đền Thờ Thiên Chúa, nơi sẽ là ngôi nhà thiêng liêng vĩnh cửu của dân giao ước, để rồi họ lại được thờ phượng Chúa trong Đền Thánh.
Dân Kitô giáo áp dụng đoạn văn này cho Chúa Giêsu, Đấng Messia. Người đến để giải thoát chúng ta khỏi cảnh lưu đày của tội lỗi, Người tuyên bố Nước Trời đã được khai sinh trên núi Sion mới, là Hội Thánh Người thiết lập.
Đáp ca: Tv 146,5-10
Thánh vịnh này lặp lại chủ đề khôi phục của ngôn sứ Isaia, tập trung đặc biệt vào nền công lý Chúa thiết lập. Cùng với các Thánh vịnh 147-150, đây là những thánh ca Halleluia, bởi vì bắt đầu bằng lời tung hô Halleluia. Với lời tung hô này, các Thánh vịnh kết thúc tập Thánh vịnh. Mỗi Thánh vịnh này bao gồm một lời mời gọi thờ phượng, một câu nêu lên mục đích của việc ca ngợi Chúa, và kết thúc bằng lời tán tụng ngợi khen Halleluia.
Khác với những người cai trị phàm nhân, họ thường gây ra bao thất vọng (c. 3-4): triều đại của Chúa đặt trên đức công chính. Những người tin vào Thiên Chúa, Đấng tạo thành (c. 6) thì luôn sống hạnh phúc và hi vọng. Bởi vì Ngài trung thành với muôn muôn thế hệ. Cc 7-9 kể lại đức công minh của Chúa trong việc bảo vệ người bị áp bức, những người đói khổ nghèo hèn, những người tù tội, những kẻ mù lòa, những người yếu thế, bị nhục mạ, những khách ngoại kiều, những cô nhi quả phụ…Những ơn phúc này nhắc nhớ đến lòng Chúa yêu thương mà Israel đã cảm nghiệm trong những hoàn cảnh đen tối khác nhau. Nó cũng phản ánh những mảng tối khác nhau của xã hội Israel. Tất cả những điều này nói về triều đại Chúa sẽ khai mở, và Ngài đáng được chúc tụng. Halleluia!
Chúa Giêsu đã hoàn tất lời Thánh vịnh này. Trong sứ vụ của Người nơi dương thế, Người đã thực hiện những việc:
*Làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi sống hằng ngàn người (Mt 14,14-21; 15,32-38; Mc 6,34-44; 8,1-9; Ga 6,9-14). *Công bố ơn giải thoát cho những người bị nô lệ tội lỗi (x. Lc 4,18-21, Chúa trích dẫn Is 61,1-2; xem thêm 1 Pr 3,19-20; 4,6). *Mở mắt người mù (Mt 9,27-30). *Nâng đỡ những người nghèo hèn, bách hại vì bất công (x. Lc 6,20-23). *Chúa Giêsu Kitô hiển trị muôn đời trên núi thánh Sion mới, là Hội Thánh Người lập cho mọi thế hệ.
Bài đọc 2: Gc 5,7-10
Thánh Giacôbê là bà con với Chúa Giêsu và là giám mục đầu tiên của cộng đoàn Kitô hữu tại Giêrusalem. Ngài là một trong số ít người được Chúa phục sinh hiện ra riêng biệt, trong số có ông Phêrô và bà Maria Mađalêna (1 Cr 15,7; Ga 20,11-28). Trong những câu trước (5,1-6) ngài hết sức nặng lời với những kẻ giàu có, những người áp bức dân nghèo túng. Rồi bây giờ ngài dùng những lời thật đầm ấm, “Thưa anh em”, để nói với cộng đoàn về một vấn đề sôi động đang tồn tại.
Các Kitô hữu tiên khởi mong đợi sự trở lại của Chúa Giêsu lần thứ hai, cho là gần như sắp xảy ra. Điều này liên quan tới những kì vọng về Nước Thiên Chúa. Sự chậm trễ này gây ra một số khó khăn và thậm chí một số tranh chấp giữa các tín hữu. Thánh Giacôbê cảnh báo độc giả đừng vội vàng nóng nảy (c.8-9), kẻo sự thiếu kiên nhẫn này sẽ dẫn đến sự phiền trách lẫn nhau và chia rẽ trong Hội Thánh (c.9), và như vậy sẽ bị Chúa xét xử. Bởi vì cuộc trở lại lần thứ hai của Chúa Kitô cũng là ngày Thiên Chúa phán xét.
Thay vào đó, thánh nhân khuyến giục các độc giả của mình rằng họ phải kiên nhẫn chịu đựng đau khổ, như các ngôn sứ (c. 10). Họ phải chờ đợi thời gian của mình giống như người nông dân trồng tỉa hoa mầu. Họ biết rõ thời tiết sẽ đem đến những cơn mưa vào đúng thời điểm của nó (c. 7). (Ở Palestine, có hai mùa mưa trong năm: Khoảng tháng Mười-tháng Mười Một, là thời gian mưa đến sớm; còn tháng Tư-tháng Năm, là thời gian mưa đến muộn). Nước Trời thì cũng vậy. Nước ấy đang đến, nó đến gần rồi (c. 8) nhưng sẽ đến vào thời điểm của nó. Sự nóng vội của chúng ta không vì thế mà làm cho Nước Trời đến mau hơn. Vậy chúng ta phải chờ đợi trong niềm tin kiên vững.
Tin mừng: Mt 11,2-11
Ông Gioan Tẩy Giả bị bắt và bỏ tù. Theo Josephus, ông Gioan bị vua Hêrôđê bắt và giam trong ngục Machaerus, nằm ở phía đông sông Giorđan. Tường thuật về cái chết của Gioan xuất hiện trong Mt 14,1-12; còn nói về việc bị bắt thì đã được ghi trong Mt 4,12. Và Chúa Giêsu cũng bắt đầu sứ vụ vào thời điểm này (4,17). Từ lúc đó cho đến bây giờ thời gian là bao lâu thì không được xác định. Tuy nhiên đó là một thời gian đủ để vị tiền hô bị cầm tù gợn lên nhiều nỗi nghi vấn trăn trở. Bản văn cũng cho thấy ông Gioan được tiếp xúc với các môn đệ đến thăm, và qua họ ông thông đạt những suy nghĩ của mình với thế giới bên ngoài.
Chán nản và nghi ngờ, ông sai các môn đệ của mình đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không…?” (c. 3) Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đơn giản trả lời “có”. Thay vào đó, Người còn cho Gioan (và cả đám đông) thấy các dấu chỉ của Nước Trời (c. 5). Nhắc lại lời của ngôn sứ Isaia, Chúa nói rằng người mù, người điếc, người què và người phong cùi đã được chữa lành, và tin mừng được loan báo cho người nghèo. Quả thật, bất cứ ai cũng có thể dựa vào một số khả năng tự cho mình là sứ giả của Nước Trời, tuy nhiên những lời tuyên bố chỉ được chứng minh khi Đấng Thiên Sai thực sự hiện diện. Đó không còn là lời tuyên bố, mà là bằng chứng bất khả tranh luận. Tuy nhiên, với thái độ của Chúa Giêsu, rõ ràng có một số người đã bị vấp phạm (c. 6). Có lẽ ngay cả chính Gioan cũng thất vọng vì những kỳ vọng của ông về Đấng Messia dường như không được Chúa Giêsu hoàn thành.
Có hai cách giải thích về hành động của ông Gioan sai môn đệ của mình đến hỏi Chúa Giêsu.
Khi chịu cảnh đọa đày trong tù, Gioan bắt đầu nghi ngờ không biết Chúa Giêsu có phải thực sự là Đấng Messia không. Ông vẫn hi vọng Đấng Messia phải là một người thể hiện sự trừng phạt Thiên Chúa dành cho Israel, đúng như lời ngôn sứ Isaia đã báo trước. Điều này đã được tỏ rõ trong những lời ông giảng, xem Mt 3,7-8 và 10-12. Đối chiếu việc “rê lúa” ông dùng với Is 41, 16 và Gr 15,7 thì chúng ta sẽ thấy rõ.
Khi thấy mình sắp chết, ông Gioan muốn cho các môn đệ của mình tận mắt thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Messia để họ đi theo Chúa Giêsu.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đi theo lối giải thích thứ nhất. Ngài viết trong cuốn sách Jesus, Son and Savior: A Catechesis on the Creed (Boston: Pauline Books and Media, 1996, 2.127) rằng: vấn đề ông Gioan sai môn đệ của mình đến tra hỏi Chúa Giêsu chứng tỏ ông đã có một ý tưởng khác về Đấng Messia. Đức Giáo hoàng cho thấy rằng thánh Gioan tỏ rõ sự thâm hiểu của mình về sứ mạng của Đấng Thiên Sai trong cuộc đối đầu với những người Pharisêu và Sađusê đến để chịu phép rửa sám hối: Mt 3,7-12 (x. Lc 3,7-9). Đây là những nhà lãnh đạo tôn giáo mà ngôn sứ Êdêkien đã nói tới như là “những mục tử hư hỏng” (Ed 34). Trong cuộc đối đầu với “những mục tử” của Giao ước cũ này, một Gioan giận dữ và cứng rắn đã cảnh báo họ và đám đông Do Thái rằng, sứ vụ của Đấng Messia là xét xử và làm mới lại một nhóm nhỏ trung thành với giao ước của Thiên Chúa. Ông nói tới những đoạn về xét xử trong các sách ngôn sứ và cảnh báo rằng Đấng Thiên Sai sẽ loại bỏ những kẻ độc ác (như họ) để chịu những án phạt nhất định.
Thánh Gioan Kim Khẩu (344/354-407) và thánh Giêrônimô 347-402 theo lối giải thích thứ hai.
Các môn đệ của Gioan cũng như phần đông những người ở Giuđê thế kỉ thứ nhất, đều chờ mong một Đấng Cứu Thế như Môsê hay một vị Vua là mục tử như Đavít, để giải phóng dân khỏi ách đô hộ của người Rôma.
11: Câu này có một chút khó giải thích. Trước tiên Chúa nói: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”. Gioan vừa là một ngôn sứ cuối cùng, vừa là một ngôn sứ cao trọng nhất. Không một ai- mọi người và kể cả ngôn sứ- sống trước ông có thể trổi vượt hơn, bởi vì ông giữ vai trò tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Lời nói này đích thực là một lời khen phát xuất từ môi miệng Chúa Giêsu. Còn câu sau thì hơi tối nghĩa: “Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”. Câu này dường như coi Gioan như là một người bắc ngang qua ngưỡng cửa của Cựu Ước và Tân Ước. Khi Gioan mới đặt chân vào thời kì chuẩn bị, ông chưa phải là một vị thánh của thời thiên sai. Ông chưa chứng nhận mặc khải trọn vẹn về tình yêu cứu độ của Chúa. Ông kêu gọi và thực hành lòng thống hối, nhưng hoàn toàn không biết về ơn tha thứ được ban tặng trong máu thánh Chúa Kitô. Ông chết trước khi Chúa Giêsu hoàn tất công trình cứu chuộc trên thập giá, do đó ông chưa hưởng nhờ những ơn phúc Chúa khai mở (1 Cr 11,25; 2 Cr 3,6; Hr 8,6-13). Tuy nhiên câu sau lại cho chúng ta thấy Gioan đã bước vào thời đại của Nước Trời, bởi vì ông đã chịu một bản án khủng khiếp để làm chứng cho Chúa (14,8-11). Ông là người kiên cường chống lại “sức mạnh”, và vì thế ông đã tiến thẳng vào Nước Trời (c. 12).
MỘT SỐ CHỦ ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN GIÁO LÍ:
+ GLHTCG 59-64: Thiên Chúa chọn ông Abraham và huấn luyện dân Israel. + GLHTCG 541-550: Nước Thiên Chúa đã đến gần. Các dấu chỉ Nước Thiên Chúa. + GLHTCG 717-720: Gioan: vị Tiền hô, Ngôn sứ và Tẩy giả.
Nhịp cầu của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ trở thành niềm vui cho chàng làng bên ấy và nàng ở thôn bên này. Hay người lính trẻ mong nối “nhịp cầu tri âm” với người em gái thành đô của nhạc sĩ Hoài Linh, để nhịp cầu trở thành niềm vui cho đôi lứa. Cầu còn là một phương tiện nối liền 2 hay nhiều điểm khác nhau, giúp việc di chuyển giữa các vị trí ấy được dễ dàng hơn. Cầu là một công trình giao thông được bắc qua các chướng ngại như: rãnh nước, dòng suối, dòng sông, hồ, biển, thung lũng, hay các chướng ngại khác như: đường bộ, đường sắt… đảm bảo cho giao thông được liên tục.
Chúng ta còn thấy nhịp cầu của Đức Maria được bắt bằng tấm lòng mở rộng qua tiếng “xin vâng” để Thiên Chúa đến với con người trên cây cầu thênh thang của Mẹ và để con người được gặp Thiên Chúa bằng sự sẵn sàng cho đi tất cả những gì là của mình, như Mẹ.
Người dân Việt Nam vẫn còn ngất ngây men chiến thắng với thành tích xếp thứ hai của đoàn thể thao Việt Nam tham dự Sea Games 30, nhất là 2 tấm huy chương vàng của bóng đá cả nam lẫn nữ. Ít ai biết rằng trong số những vận động viên đó có những bạn trẻ đã bắc nhịp cầu để người khác đến với Chúa. Lần đầu tiên thủ môn Văn Toản được biết đến với tên gọi đầy đủ là Phaolô Nguyễn Văn Toản, một bạn trẻ của Giáo phận Hải Phòng, là một con chiên ngoan đạo. Thủ môn này đã bắt nhịp cầu giữa Thiên Chúa và con người bằng chính khả năng của mình.
Một vận động viên khác là kình ngư Nguyễn Huy Hoàng đạt thành tích 2 huy chương vàng và 2 huy chương bạc. Bạn trẻ Công Giáo quê ở Quảng Bình này đang tập luyện cùng với Ánh Viên tại Cần Thơ đã dùng một phần tiền thưởng và kêu gọi nhiều người ủng hộ cho mái ấm Hướng Phương- Quảng Bình, nơi các Sơ đang nuôi dạy những người khuyết tật. Một nhịp cầu nữa đã được bắc để nhiều người được đến với Thiên Chúa bằng lợi thế của một vận động viên bơi lội người Công giáo. Còn nhiều, nhiều lắm những vận động viên Công giáo trong đoàn thể thao Việt Nam tham dự Sea Games 30, họ đã bắc cầu để Thiên Chúa đến với con người bằng chính tên gọi của mình.
Như vậy chúng ta đều có thể trở thành nhịp cầu cho Thiên Chúa và con người gặp gỡ. Nhịp cầu này chính là đức tin để giúp ta ý rằng Chúa Kitô đang sống “Người ở trong con, Người ở với con và không bao giờ bỏ rơi con. Dù con có rời xa Người, Đấng Phục Sinh vẫn ở bên con. Người kêu gọi và chờ đợi con bắt đầu lại. Khi con cảm thấy mình già đi vì buồn sầu, thù hận, vì lo sợ, nghi ngờ hay thất bại, Người vẫn luôn ở đó để ban lại cho con sức mạnh và hy vọng” (Ib Số 2).
Với ý thức Chúa Kitô đang sống, chúng ta sẽ cùng với Ngài bắc cầu “trong sự thánh thiện và sự dấn thân trong ơn gọi riêng của mình” (Ib Số 3). Sống được như vậy ta sẽ có niềm vui sâu thẳm trong đời sống đức tin.
Sự thánh thiện khởi sự bằng việc ý thức Chúa Kitô đang sống nên ta sẽ cùng sống với Ngài. Vì vậy ta sẽ thân thưa với Ngài trong cầu nguyện; ta sẽ gặp gỡ Ngài trong Lời Chúa và các Bí tích, nhất là qua Thánh lễ; khi ta sai lỗi, ta sẽ xin lỗi Ngài nơi tòa giải tội; ta sẽ ứng xử với người khác bằng cung cách của Chúa, vì Chúa đang ở bên và muốn tôi làm vậy.
Dấn thân trong ơn gọi riêng của mình nghĩa là dù làm gì, ở đâu cũng làm sáng danh Chúa. Biết sử dụng khả năng Chúa ban để giới thiệu Chúa cho nhiều người.
Thế nhưng: “Cầu thân ái đêm nay gẫy một nhịp rồi. Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài. Vì sao không thương mến nhau còn gây khổ đau làm lỡ nhịp cầu. Ước thề chờ sang ngày nào nối lại nhịp cầu đẹp đời mai sau.” (Chuyện chiếc cầu đã gẫy, Trầm Tử Thiêng)
Đừng để nhịp cầu bị gẫy vì thiếu yêu thương, nhiệt huyết, hoặc sức nặng của thử thách gian nan trong cuộc đời, hay đơn giản chỉ vì sự chia rẽ, nói hành, nói xấu nhau.
Bản văn có thể chia thành ba phần: 1) Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (11,2-3); 2) Câu trả lời MV 3-A132
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (11,2-3); 2) Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (11,4-6); 3) Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (11,7-11; ở trong TM, thì đọc tới c. 15).
3- Vài điểm chú giải
– Đấng phải đến (3): dịch sát ho erchomenos là “Đấng đang đến”. Chúng ta nhớ đến lời rao giảng trước đây của Gioan: “Đấng đến sau tôi thì mạnh hơn tôi (ho opisô mou erchomenos)” (3,11). Lời này đưa chúng ta trở lại với sấm ngôn Isaia 40: “Kìa Đức Chúa đến với sứ mạnh [quang lâm hùng dũng], tay nắm trọn chủ quyền” (Is 40,10). Do đó, Đấng Mêsia cũng được gọi là “Đấng được chờ đợi”, “Đấng sẽ đến”, “Đấng Thẩm phán” (x. Dcr 9,9; Tv 118,26; St 49,10). Gioan đã so sánh sức mạnh của Đấng Mêsia với việc người tiều phu dùng rìu hạ cây (x. 3,10), rồi với người nông dân sàng sảy sân lúa (3,12). Ông mời gọi người tội lỗi hoán cải và ban một phép rửa giúp bày tỏ lòng sám hối, trước khi Đấng ấy đến, là Đấng ban phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa để tiêu diệt (3,11). Đây chính là vị Thẩm phán đáng sợ sẽ dùng lửa không hề tắt mà tiêu diệt tất cả những kẻ tội lỗi không chịu hoán cải (x. Ml 3,2-3).
– phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (6): “Cớ vấp phạm”, skandalon, là “cái bẫy đặt trên đường; chướng ngại vật làm cho người ta té ngã”; và nghĩa bóng là tất cả những gì làm cho người ta rơi xuống về mặt luân lý hay tôn giáo. Đức Giêsu tiên liệu rằng câu trả lời của Người có thể làm cho Gioan thất vọng, bởi vì quan niệm của ông về Đấng Mêsia quá khác với cách Đức Giêsu đang thực hiện hình ảnh Đấng Mêsia của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến phản ứng của Phêrô khi nghe loan báo Thương Khó (Mt 16,22-23) hoặc Giôna sau khi thấy Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).
4- Ý nghĩa của bản văn
Gioan Tẩy Giả đã loan báo là đến sau ông, sẽ có một người mạnh hơn ông và vượt xa ông về phẩm cách. Người ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và sẽ tách lúa với vỏ trấu ra (3,11t; x. Is 40,10).
Bây giờ Vị Tẩy Giả đang ở trong tù. Do bởi thái độ cứng rắn và những lời nói đanh thép của ông, vua Hêrôđê Antipa đã phải ra lệnh bắt giam ông. Nhưng vì ông nổi tiếng là đạo đức, ông được đối xử đặc biệt; các bạn bè có thể đến thăm ông, cho ông biết những tin tức ở bên ngoài. Ông đặc biệt quan tâm đến Đức Giêsu Nadarét.
* Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (2-3)
Gioan nghe nói đến những hành động của Đức Giêsu. Phải nghĩ về Đức Giêsu như thế nào? Người có thật là Đấng mà ông đã loan báo là đang đến chăng? Quyền bính và năng lực của Người đang đang được biểu lộ ra ở đâu? Chẳng lẽ trong thân phận tù tội, ông không đáng được Đức Giêsu dùng quyền lực Người mà giải thoát sao? Người có thật đang tách hạt lúa khỏi vỏ trấu chăng? Ở đâu? Đức Giêsu là ai? Hẳn là Người phải nói năng và hành động cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn chứ?
Khởi đi từ hoàn cảnh cá nhân ông và sự hiểu biết của ông về các hoạt động của Đức Giêsu, Gioan nêu ra câu hỏi quyết liệt: Phải chăng đã đến lúc hoàn tất mọi sự? Chúng tôi có thể tín nhiệm vào Người chăng? Người là ai? Các môn đệ của Vị Tiền Hô đã đến gặp Đức Giêsu và nêu câu hỏi đúng như thầy họ đã dặn.
* Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (4-6)
Đức Giêsu không cung cấp một câu trả lời rõ ràng và trực tiếp. Qua các môn đệ Gioan, Đức Giêsu đưa Vị Tiền Hô trở lại điểm xuất phát của câu hỏi của ông. Gioan phải diễn dịch ra được câu trả lời từ các việc Đức Giêsu làm, là chính những việc đã thúc đẩy Gioan đặt câu hỏi (11,2). Các môn đệ ông lại phải về làm chứng cho thầy về những việc Đức Giêsu đã làm (“Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe”) và Đức Giêsu mô tả các việc ấy ra bằng cách nhắc đến các lời hứa Cựu Ước (Is 35,5t; x. Is 35,4; 29,18-19; 61,1).
Đức Giêsu khẳng định rằng lời hứa ấy đang được hoàn tất nơi các hành vi của Người; qua các hành vi này, quả thực Thiên Chúa đang can thiệp để ban ơn cứu độ. Qua các hành động của Đức Giêsu, Nước Trời hay là quyền chúa tể của Thiên Chúa với quyền lực và ân sủng, đang thật sự trở nên gần gũi (4,17). Quyền chúa tể này trước tiên không được tỏ ra như là khả năng thắng vượt các quyền lực đối lập của loài người: Gioan sẽ bị chém đầu trong ngục (14,10); Đức Giêsu sẽ chết trên thập giá; các môn đệ Người sẽ bị bách hại (10,16-25). Triều đại Thiên Chúa cũng chưa tỏ hiện rõ ràng như việc tức khắc tách biệt lúa và vỏ trấu. Việc phán xét chung kết được dành cho ngày Con Người đến: khi đó kẻ dữ sẽ bị tách ra khỏi những người công chính (13,36-43.47-50). Nước Trời sẽ được biểu lộ nơi sự kiện những người sống trong cảnh cùng quẫn sẽ được Thiên Chúa trợ giúp (8,2–9,35) và nơi sự kiện Tin Mừng được loan báo với tất cả uy quyền (5,1–7,29). Đức Giêsu bắt đầu công việc rao giảng bằng cách loan báo mối phúc cho người nghèo (5,3); ở tại trung tâm của lời rao giảng này, có sứ điệp về vị Thiên Chúa quyền năng và nhân ái, sứ điệp về Cha Người và Cha của tất cả mọi người, Đấng muốn cho tất cả mọi người được hiệp thông mãi mãi trong vinh phúc với Ngài. Đức Giêsu tự giới thiệu mình như là Đấng cứu chuộc những người cùng khổ và như sứ giả làm chứng về niềm vinh phúc ấy. Trước tiên Người không đến như một người đấu tranh chống lại bạo lực và như thẩm phán nghiêm khắc.
Mỗi người phải tự nhận định và lấy lập trường đối với Người (x. 11,20-24). Đức Giêsu cũng giúp chúng ta ý thức về điểm này: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (11,6). Người không áp đặt cách hành động của Người nhờ sức thuyết phục của những sự kiện hoàn toàn hiển nhiên; Người dành không gian cho người ta đón nhận hoặc từ khước, cho người ta tin hoặc không tin.
* Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (7-11)
Sau khi đã trả lời câu hỏi về thân thế Người, bây giờ Đức Giêsu đề cập đến công việc và bản thân của Vị Tẩy Giả (11,7-15). Người ca ngợi lối xử sự cương nghị và lối sống không ngạo mạn tự phụ của đấng không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý như một cây sạy cong người trước gió (x. 14,3-12) và không ăn mặc lụa là mềm mỏng. Chính sự trung tín và sự dơn giản của ông làm cho ông trở nên đúng là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa (x. 21,26.32) và đáng tin. Nhưng ông còn hơn là một ngôn sứ. Tất cả những vị đến trước ông đều thuộc về thời đại lời hứa, các vị ấy chỉ loan báo từ xa biến cố Đấng Mêsia đến trong quyền lực và mang theo ân sủng (11,13). Gioan là vị ngôn sứ của thời kỳ hoàn tất, nên cao trọng hơn tất cả các vị đi trước. Ông là sứ giả đi ngay trước Đức Chúa và chuẩn bị trực tiếp cho Người đến (11,10). Ông là Êlia đi trước Đức Chúa và chuẩn bị cho dân chúng đón tiếp Người (11,14; x. Ml 3,23; H c 48,10).
Với cách đánh giá Vị Tẩy Giả như thế, Đức Giêsu một lần nữa trả lời gián tiếp cho câu hỏi của ông. Nếu Gioan ở rất sát thời kỳ hoàn tất, thì với Đức Giêsu, thời này đã đến. Nếu Gioan là vị sứ giả dọn đường, thì với Đức Giêsu, người ta đã đón được Đức Chúa đến: không chính xác theo kiểu ông hình dung và chờ đợi (x. 3,12), mà là theo cách Thiên Chúa đã định. Sánh với những người đã đến trước, ông là người cao trọng nhất. Sánh với những người đang thuộc về Đức Giêsu và có thể trải nghiệm sự gần kề của Nước Trời trong sự hiệp thông với Người, ông là người nhỏ. Sự vĩ đại và nhỏ bé ấy không liên hệ đến ơn cứu độ hoặc giá trị luân lý của con người, nhưng liên hệ đến thời gian và biến cố trong đó người ấy được tham dự vào. Chính vì thế Đức Giêsu bảo rằng các môn đệ có phúc so với nhiều ngôn sứ và người công chính (13,16t). Như thế, thời đại và công trình của Đức Giêsu có một ý nghĩa duy nhất.
+ Kết luận
Qua các môn đệ của Vị Tẩy Giả, Đức Giêsu cũng trả lời cho chúng ta: Người chính là Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Chúa từ ngàn xưa. Thiên Chúa vẫn trung thành với lời Ngài hứa; chỉ có con người qua dòng thời gian, đã giải thích sai lạc lời Thiên Chúa hứa để đưa nhau đến những niềm chờ mong hão huyền, theo lòng dạ hẹp hòi của mình. Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta điều chỉnh lại cách chúng ta nhìn lịch sử cứu độ: không theo khuôn khổ các giấc mơ của chúng ta, nhưng đúng theo chương trình của Thiên Chúa. Và nếu qua Lời Chúa hôm nay, người môn đệ nhận ra rằng mình cũng được mời gọi làm Tiền Hô của Đức Kitô đối với con người hôm nay, thì chúng ta cũng cần nhớ rằng, chúng ta chỉ có thể chu toàn được sứ mạng nếu dựa vào phẩm cách cao quý của Đức Giêsu, Đấng chúng ta loan báo.
5- Gợi ý suy niệm
Hôm nay, nhiều Kitô hữu vẫn đang mơ một ơn cứu độ không phù hợp với cách Thiên Chúa quan niệm. Việc Đức Giêsu chữa bệnh và nhất là việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo cho thấy rằng Người không phải là một thẩm phán nghiêm khắc nhưng là một vị Mêsia ân cần và từ bi. Thay vì trừng phạt những kẻ tội lỗi, loại trừ những kẻ gian ác, Người lại ban ơn chữa lành cả tâm hồn và thân xác, Người an ủi, Người soi chiếu, Người trợ giúp những ai đang đau khổ, Người đi qua giữa loài người để chỉ làm điều thiện (ch. 8–9), tha thứ tội lỗi (9,2). Hẳn là có những người khó chịu? Ngay chúng ta đây, chúng ta có chấp nhận được việc Thiên Chúa mạc khải tình yêu của Ngài ra trong sự khiêm nhường và yếu đuối chăng? Do đó Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Đây cũng chính là “cớ vấp phạm” do các Mối Phúc gây ra.
Con đường tất cả các môn đệ phải theo là nhìn thấy các dấu chỉ mà biết giải thích đúng đắn, biết nhận ra đó là các công trình của Thiên Chúa. Đây là nẻo đường đức tin, khởi đi từ những điều thấy được và đưa tới chỗ khám phá ra Đức Giêsu là ai. Đây là con đường đưa từ bóng tối đến ánh sáng, đi từ những dấu chỉ đến với thực tại được ám chỉ. Nhìn Hài Nhi bé bỏng yếu ớt nằm trong máng cỏ, mà nhận ra đó là Cứu Chúa và Đức Chúa; nhìn Con người bị đóng đinh đau đớn và nhục nhã nhất mà nhận ra đó là Đức Vua Cứu thế, đấy là qua dấu chỉ mà khám ra được thực tại.
Đức Giêsu tôn trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người. Trái lại, chúng ta phải thấy thực sự Người là ai và Người đang làm gì, để rồi đón tiếp Người với niềm vui và tri ân, cho dù chúng ta phải sửa chữa và bỏ đi một vài ý tưởng hoặc sự chờ đợi sai lạc nào đó.
Là những con người sống ở thời đại “cuối cùng”, chúng ta “có phúc” hơn là chính Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, chúng ta có biết trân trọng những ân huệ đang nhận và dùng những ân huệ đó mà xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho người khác chăng?
Hôm nay ngôn su Iasia tã những người đang đi trên “thánh lộ”. Họ đi đâu vậy? Họ không đi chơi MV 3-A133
Hôm nay ngôn su Iasia tã những người đang đi trên “thánh lộ”. Họ đi đâu vậy? Họ không đi chơi vào ngày lễ, họ cũng không đi thăm bạn bè hay gia đình vào dịp cuối tuần. Sự thật họ là những người đi về nha.(Rất tiếc là đoạn bài đọc không thêm đến câu 8 và 9, vì 2 câu ấy nói họ đi trên “quan lộ”, và quan lộ ấy còn được gọi là “thánh lộ”, những người được cứu rổi sẽ đi trên con đường đó).
Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi trên địa cầu. Bài đọc hôm nay không chỉ nói đến những người bị đi đày ở Babylon, mà còn nói đến tất cả chúng ta. Thiên Chúa đang gọi họ về nhà, và vũ trụ cũng chia sẽ niềm vui với họ ” Sa mạc cùng đất khô cằn sẽ hân hoan với họ..” Chính thế, cảnh vật chung quanh đều thay đổi, đất sa mạc, và đất khô cằn sẽ tưng bừng nở hoa để người đi đường được mừng vui hớn hở trong cuộc hành trình.
Tuần trước trong bài đọc thứ nhất (Is11:8), chúng ta thấy cảnh vật thay đổi. Con người và thú rừng sống với nhau một cách hoà bình (“trẻ em vừa bú vừa chơi với rắn hổ mang”). Nhưng bài đọc hôm nay lại nói đến đất trời đầy hân hoan mừng đón dân Chúa trở về Sion. Đất trời trước kia là sa mạc hoang vu nay trở thành đồng xanh cỏ mướt để dân Chúa đi qua một cách dễ dàng không mệt mõi. Tại sao thế? Vi họ là những người đã mệt mỏi, di không vững, đã bị mất hết tinh thần, tâm tính chán chường. Vì họ đã sống chung đụng với những dân tộc không cùng một đức tin với họ, và lại còn chống đối Thiên Chúa của ho.
Chúng ta phải reo hò lên “Vinh quang thay Thiên Chúa ” cho mọi người đều biết, vì Thiên Chúa đã đến Ngài dọn một “thánh lộ” cho chúng ta đi qua. Thiên Chúa khai quang mọi sự cho đường về của họ được thảnh thơi, không mệt mỏi. Câu cuối cho chúng ta thấy một hình ảnh rất tốt đẹp “buồn rầu than van không còn nữa”. Dân Chúa sẽ mừng reo bước qua lẽ công chính, và những đau khổ sẽ lọt ra cửa sau.
Đức tin trình bày trong cựu ước dựa vào đất đai, vì Thiên Chúa đã hứa với dân Ngài là họ sẽ được sống trên mảnh đất phì nhiêu. Họ sẽ được sống yên lành. Ngôn sứ Iasia nhắc chúng ta nhớ là Thiên Chúa dựng nên trời đất vũ trụ để giúp chúng ta sống với tinh thần cộng đoàn đùm bọc, cùng dắt nhau về nhà cha của chúng ta trên trời. Bởi thế thường những hình ảnh về đất đai, vũ trụ được dùng để giúp chúng ta hiểu những ơn thánh của Thiên Chúa ban cho chúng ta. Đạo Công Giáo là đạo dựa vào thiên nhiên vũ trụ, vì các bí tích là những dấu chỉ hành động của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta. Chúng ta dùng nước, muối, bánh, rượu v.v… trong nghi lễ thánh. Hiện nay những người bảo vệ thiên nhiên giúp chúng ta ý thức là người thời nay đang tàn phá thiên nhiên mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Hãy tưởng tượng nếu một ngày nào đó chúng ta không tìm ra nước để làm phép rữa tội thì chúng ta nghỉ sao? Và nếu chỉ có nước dơ bẩn thôi thì chúng ta nghĩ gì về phép rữa để làm sạch tâm hồn chúng ta? Chẳng lẻ chúng ta phải đi mua nước chai về để làm phép rữa tội chăng?
Hiện nay không phải ai trong chúng ta cũng đang gặp khó khăn đi trên đường đời. Trong số những người tiến về quê trời có người mạnh, có người yếu, Người mạnh được khuyên nên “đưa tay giúp người yếu”. Chúng ta là thành phần của một cộng đoàn đang cùng nhau hành hương về quê thật. Hãy nhìn chung quanh chúng ta, xem có ai cần sự giúp đỡ, cần một lời khuyên, cần thuốc để thêm nghị lực, cần một ít thực phẩm cho gia đình, hay cho một nhóm người được gia nhập vào sống trong cộng đoàn để cùng đi với chúng ta.
Những đoạn sách của ngôn sứ Isaia nhắc tôi nghĩ đến những bậc cha me có con bi sợ hãi sau khi té bị trấy xướt. Cha mẹ thường ẵm con vào lòng, cho ngồi trên bắp đùi để nói nhỏ rằng: “Đây, mẹ đây sẽ không sao đâu con”. Nhưng đứa bé bị thương vẫn còn sợ sệt và vẫn nghĩ là mọi sự chưa được tốt đâu. Nhưng lời nói nhỏ nhẹ va và triều mến của cha mẹ đã an ủi em bé và thêm hy vọng cho em. Rồi em cũng tin là cha me nói thật. Và em sẽ cam thay được an ủi mặc dù đầu gối vẫn còn đau và máu còn chảy. Như chúng ta, chúng ta vẫn thường đọc lời kinh sau: “chúng con ở nơi khóc lóc than thở nài…”. Chúng ta không biết và không trông thấy được tương lai sẽ như thế nào. Nhưng chúng ta nghe lời an ủi nhẹ nhàn của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia, và chúng ta giữ niềm hy vong.
Trên trái đất này không có mấy nơi được đầy hoa lá xanh tươi đâu.”Đất sa mạc và đất cằn khô” không có gì để hân hoan cả. Và thế gới này còn biết bao nhiêu người đang sống trong cảnh “ sa mạc” màn trời chiếu đất, đau khổ về tình cảm cũng như về vật chất và tinh thần. Nhiều người đang đau buồn và than khóc. Những lời kêu than của nhiều người chung quanh chúng ta gây nên những hình ảnh đau buồn, và sự thật là như thế. Nhưng lời của ngôn sứ Isaia vẫn mạnh dạn nói lên tuong lai mờ mịt của chúng ta. Còn có nhiều chuyện sẽ đến mà chúng ta chưa biết được. Kinh thánh hôm nay, cho chúng ta những hiện tượng khác hẳn những hiện tượng của địa cầu nơi chúng ta đang sống với đầy u ám tối tăm. Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta rằng “các con ơi, đây, Chúa đây, rồi mọi sự sẽ không sao đâu”. Nhưng những bài đó cũng cho chúng ta một khái niệm về tương lai và cũng an ủi chúng ta là Thiên Chúa quyết định hoàn thành công việc tạo dựng của Ngài lien tục đến lúc cuối bởi lòng thương yêu vô bờ bến của Ngài. Thiên Chúa sẽ thưởng công cho những việc làm tốt lành và nhờ đó sẽ thắng mọi sự dữ đã xảy ra.
Vậy thử hỏi chúng ta có nên buông tay ngồi đợi đến lúc Thiên Chúa giải quyết mọi đau khổ cho chúng ta hay không? Không đâu, vì theo Kinh thánh mà chúng ta được nghe mỗi tuần; chính những gì chúng ta phải làm trong thời gian hiện tại sẽ nói lên tương lai của chúng ta. Chúng ta phải cố gắng sống đổi mới để sau này Thiên Chúa sẽ đem đến an vui cho chúng ta. Trong lúc chờ đợi, chúng ta phải làm những gì như lời các ngôn sứ và lời Chúa Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Thiên Chúa chúng ta muốn. Nhờ đó, chúng ta hãy thực hiện cuộc sống đầy thương yêu đối với xa hoi, và chăm sóc vũ trụ và môi trường thiên nhiên mà Thiên Chúa đã dựng nên, vì cả xã hội loài người cùng môi trường thiên nhiên và vũ trụ là những tạo vật sẽ đón Thiên Chúa ngày sau hết.
Chúng ta biết tương lai là của Chúa, nhưng trong đời sống hiện tại chúng ta có thể nếm đựơc chút ít mùi vị của tương lai của Chúa như thế nào. Chính Chúa Giêsu nói rõ cho các môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả biết sứ vụ của Ngài là: “mù được sáng, què được đi, phung cùi được sạch, điếc được nghe, kẻ chết sống lại, và người nghèo khó được nghe báo tin mừng”. Đó là những việc Chúa Giêsu đã bắt đầu, và chúng ta phải tiếp tục làm như Ngài cho đến ngày Ngài trở lại. Chúng ta phải tìm cách rao giảng, đem sự sáng đến cho người mù, giúp kẻ khổ đau được ra khỏi cảnh đau thương để có thể thăng tiến, đón nhận những kẻ sống bên lề xã hội, và đem tin mừng đến cho những ai chưa được biết và không có hy vọng về tương lai.
Tuần trước thánh Matthêu nói về thánh Gioan Tẩy Giả là người dọn đường cho đấng Messia mà dân Do Thái trông đợi. Thánh Gioan nói nước trời đã gần đến. Gioan là một tiền hô mạnh dạn cho Ngôi Lới của Thiên Chúa. Như chúng ta đã nghe tuần trước: Thánh Gioan chỉ kêu gọi dân chúng nên hối cải nhưng ông không thể đem đến cho họ điều họ cần nhất là được ơn tha tội. Và phúc âm hôm nay tiếp tục câu chuyện thánh Gioan trong tuần trước.Thanh Gioan báo tin là khi đấng Messia đến, Ngài sẽ “đem cái sàn để rê lúa, Ngài sẽ sàng sảy sạch lúa của Ngài…còn thóc lép thì Ngài sẽ thiêu trong lửa không hề tắt.”(3:12). Đáng sợ thật! Thánh Gioan có thất vọng về Chúa Giêsu không? Đâu là những thóc lép, và lửa thiêu mà thánh Gioan đã tiên đoán?
Chúa Giêsu cũng kêu gọi dân chúng hãy hối cải như thánh Gioan đã kêu họ. Nhưng với lời kêu gọi hối cải, Chúa Giêsu hứa đem lại cho họ ơn tha thứ và ơn chữa lành. Lúc đó thánh Gioan đang ở trong tù. Ông ta không thể hỏi thẳng Chúa Giêsu được, vì thế nên ông ta mới gởi môn đệ đến hỏi Chúa về điều mà ông thắc mắc nhất là: “Có phải Ngài là Đấng sẽ đến, hay chúng tôi phải đợi người nào khác”(11:3)
Có thể Chúa Giêsu không phải là một quan tòa khắc khe nhu thánh Gioan đã tưởng tượng. Nhưng Chúa Giêsu đã gởi lại một câu trả lời đầy hy vong: Ngài là Đấng đã đến theo lời ngôn sứ Isaia(Is 29:18-19) nói trong bài đọc hôm nay, để cứu dân Ngài nhờ sự tha thứ của Thiên Chúa. Đây Thiên Chúa xét xử chúng ta qua Chúa Giesu với lòng từ bi nhân hậu. Lối xét xử với lòng từ bi là quyết đinh của vị thẫm phán của chúng ta.
Chúng ta sống trong hy vọng của mùa vọng và tin tưởng vào lời Thiên Chúa đã hứa. Chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, nên chúng ta vẫn tiếp tục thực hiện đời sống của Chúa Giêsu trên trần gian. Những gi Chúa Giêsu nói về Ngài và sứ vụ của Ngài là chữa người mù, người què và người phung cùi v.v… thì chúng ta phải tiếp tục sứ vụ ấy. Mùa Vọng khuyên nhủ chúng ta sống mầu nhiệm Chúa Kitô trong thoi đại chúng ta. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thánh Gioan rất rõ là Ngài không lánh khỏi trần gian, Ngài không đến để gọi một số người theo Ngài để sống một đời vương giả theo lề luật riêng của mình, và cũng không lập một đạo binh để chống đối ai. Sứ vụ của Chúa Giêsu là đối phó với sự dữ bằng cách tha thứ và chữa lành. Lời ngôn sứ Isaia đã được chứng minh khi dan chúng gặp Chúa Kitô, “Đây là Thiên Chúa các ngươi…Ngài đến để cứu các ngươi”. Bây giờ, chúng ta là giáo hội của Chúa Kitô, chúng ta phải “ra đi rao giảng” những điều chúng ta đã thấy và đã nghe về Chúa Kitô. Chúng ta thi hành sứ vụ này bằng cách: cho những người mù trong tân hồn được thấy. cho những người bi bại liệt trong tâm linh và thể xác được bước đi, ân cần tìm hiểu và nói chuyện với những người tách khỏi giáo hội, xa hoi. Tìm cách đặt giá trị con người vào đời sống của họ. Làm như vậy chúng ta sẽ như Chúa Giêsu trở nên người đem tin mừng đến cho người nghèo khó và người bị áp bức.
Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm. Trong diễn biến của Tin MV 3-A134
Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm.
Trong diễn biến của Tin Mừng của ông, Matthêu bốn lần nói về Gioan Tẩy Giả... và luôn có liên quan với Đức Giêsu.
Mt 3,1-7 Gioan Tẩy Giả rao giảng "Nước Thiên Chúa" và làm phép rửa cho Đức Giêsu …
Mt 4,12 Việc bắt giữ Gioan Tẩy Giả, người định đoạt cho Đức Giêsu “khởi đầu”…
Mt 11,2-18 Gioan từ trong ngục, đặt những câu hỏi về Đức Giêsu và Đức Giêsu đặt những câu hỏi về Gioan cho đám đông. Đó là đoạn chúng ta đọc hôm nay:
Mt 14,1-13 Cái chết của Gioan, loan báo phần thứ hai của sứ vụ của Đức Kitô.
Ông liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?"
Chính với lòng nhiệt thành mà Gioan trông đợi Đấng Mêsia. Chúa nhật trước chúng ta đã thấy sự sôi sục của quần chúng đã được khơi dậy do tiếng "kêu' của ông, do “Tin Mừng” của ông: "Nước Trời đã gần kề!".
Thế mà này đây là Gioan, bây giờ do dự, nao núng. Có lẽ ông ta sẽ không lầm lẫn chăng? Cái "hoài nghi” này có gây xúc động như thế ư? Và chúng ta cố đặt vào địa vị của Gioan. ông đang ở trong ngục, trong cái chiến lũy Macheronte, một cái pháo đài, khiếp đảm và kiên cố của Hêrôđê xây dựng chắc chắn vào một mỏm núi đá của hoang mạc Mô-áp, phía đông Biển Chết. ông ta có giờ để suy nghĩ. Đó là một tù nhân bị giam trong bốn bức tường. Đây là cái thử thách khủng khiếp nhất: "đức tin" bị nao núng... Một thứ tiếng kêu phá hoại khơi gợi ông ta: "tất cả chuyện gì anh tin cho tôi giờ, đều sai lầm cả... Giêsu của anh đâu phải Đấng Mêsia, ông ta không có khả năng giải thoát mi ra khỏi ngục.
Vâng, Gioan Tẩy Giả, vừa nghĩ đến những dòng dõi cứu thế thời mình, vữa chờ một Mêsia chiến chúng: một Đức Ki tô của dòng Đa-vít, Đấng được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng có lẽ giải phóng Do Thái khỏi tay quân thù... một Đức Kitô siêu việt, Con người mà Đanien loan báo, đến từ đám mây trời để phán xét tất cả những kẻ dữ của hơi thở từ miệng người". Và dó chính lâ Mêsia mà Gioa đã loan báo những đám người ở hoang mạc: viên quan xét đã có sẵn chiếc rìu trong tay để chặt hết tất cả cây nào không sinh trái, người xay lúa cầm sẵn cái nia để rê trấu khỏi lúa mì.
Sự thất vọng? Đức Giêsu đang làm thất vọng. Thiên Chúa đang làm thất vọng.
Thiên Chúa cũng hay làm thất vọng chúng ta. Người không phải như chúng ta tưởng tượng. Thiên Chúa làm cho Người ta chưng bứng. Và như Gioan Tẩy Giả, chúng ta cứ tiếp tục mong ước rằng Thiên Chúa làm theo "ý muốn của chúng ta" và giống như hình ảnh mà chúng ta tạo ra về Người. Bạn hãy nói cho tôi biết tại sao Thiên Chúa lại để cho vị tiên báo của Người vào tù? Tại sao Thiên Chúa không bênh vực các bạn hữu của Người? Tại sao Thiên Chúa lại, không giải thoát cho không người bị tù tội vì Người? Tại sao dường như Thiên Chúa luôn luôn bị những kẻ thù của mình chiến thắng? Tại sao, Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Thiên Chúa lại bị Hêrôđê khóa miệng lại? Tại sao Lời Chúa lại "quá lặng lẽ thế?
Tại sao Chúa ơi, Chúa yên lặng, khi có biết bao người đang cáo giác người? Tại sao có biết bao điều xấu, biết bao đau khổ, biết bao chết chóc trong vạn vật thụ tạo? Lạy Chúa, hôm nay, xin Chúa trả lời cho chúng con hay Chúa có phải là Đấng đem đến cho chúng coi mềm vui, sự sống và hạnh phúc không hay chúng con lại phải đợi một người khác?
Chúng con có phải tiếp tục tin vào Chúa không, hay chúng con phải khước từ Chúa để chúng con hiến mình cho những người khác? Khủng hoảng đức tin. Những nhà lao tối tăm ở Macheronte. Đêm tăm tối của Gioan Tây Giả.
Đức Giêsu trả lời: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi đặt ra. Người không nói "Tôi là Người phải đến". Người không cho một giải pháp có sẵn. Người gợi cho người chất vấn phải tự mình tìm câu trả lời cho vấn đề mình đặt ra.
Đức Giêsu, Đấng Mêsia làm cho người ta chưng hửng, dẫn lại những đoạn Kinh Thánh, lấy trong ngôn sứ Isaia (Is 26,19; 29,18; 35,5; 61,1). Khi đắn đo kể những đoạn này, hơn là các đoạn khác, Đức Giêsu cho thấy Người đã chọn là "loại Mêsia nào": Thiên Chúa Đấng đã sai Người đến không tỏ mình ra qua những cử chỉ của quan xét và của người hiếu thắng, nhưng bằng những cử chỉ tốt lành đối với những người thất thế và người đau khổ: mù lòa, què quặt, phong cùi, điếc lác... Và ý nghĩa sâu xa của hành động chữa lành này được thấy rõ trong hai việc lành sau cùng được nói lên: ‘cái chết’ bị đánh bại... người nghèo được rao giảng Tin Mừng... Đấy chính là niềm vui mới!
Những câu hỏi mà chúng ta đặt ra về Gioan Tẩy Giả, những hoài nghi mà chúng ta có về Chúa, thì bây giờ chính chúng tại đem ta trở lại với "chính ta": bạn đã cáo giác Chúa, bạn làm gì trên thế gian này để giúp đỡ những người đau khổ, để giải phóng những người bị đè nén, để làm cho số phận của các anh chị em ta trở nên tốt hơn?
Dấu hiệu đích thực là Thiên Chúa ở đó, và Nước Người đã bắt đầu, chính khi có tình yêu! Chúng ta ‘không phải đợi một ai khác nữa’.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho Gioan Tẩy Giả phải trở nên một câu hỏi khẩn thiết đối với mỗi Ki tô hữu, và đối với Giáo Hội nói chung: Giáo Hội hôm nay, Người có là cộng đoàn tình yêu của Đức Giêsu và của "Tin Mừng của Người cho người nghèo không hay chúng tôi phải chờ đợi một Giáo Hội khác nữa? Và bạn, bạn có tự hiến thân cho những người thấy bạn sống những dấu chỉ của Đức Giêsu không? Đón tiếp, ủi an, cứu vớt, yêu thương.
Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi
Bản văn Hy Lạp nói ở đây: "Phúc cho ai không bị làm gương mù vì tôi”. Tiếng "skandalon" là hình ảnh gợi ra viên đá trên đường mà người nào cũng dẵm lên. Đức Giêsu, nhờ những dấu chỉ bất ngờ Người đưa ra, có thể trở nên một cơ hội "vấp ngã" đối với chính Gioan Tẩy Giả. Điều nghịch lý. Người rao giảng, hôm Chúa nhật trước, đã mời các đám đông người sám hối ở trên bờ sông Giođan, bây giờ được mời để tự Sám hối. Vâng, Gioan Tẩy Gỉa được mời đi tới một đức tin sâu xa hơn. Vị tiền hô được mời để tin vào Thiên Chúa, ngay trong cảnh tù đầy, bằng cách chấp nhận như một lối thoát khỏi cảnh tù đày này mà không phải là sự cứu thoát bởi một Thiên Chúa toàn năng... những cái chết của mình, hiệp thông với cái chết, chẳng bao lâu nữa, của Đấng Mêsia trên thập giá. Lòng tin của chúng ta cũng thế, không phải là một "sự vật" chiếm hữu lấy một lần thay cho tất cả. Thật là tốt cho chúng ta biết mấy khi thấy một người khổ tu, một vị thánh, "ngôn sứ vĩ đại nhất"... được mời để làm cho đức tin lớn lên, được mời để không bị "vấp phạm" vì Đức Giêsu.
Họ đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: "Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.
Đức Giêsu bây giờ khen ngợi Gioan Tẩy Giả.
“Giêsu, ông là ai? Đức Giêsu hỏi đám đông. Đám đông không trả lời chi cả. Yên lặng. Dẫu vậy câu hỏi của Đức Giêsu trở nên sống động, tiến lên từng nấc, nhắc lại ba lần: một cây sậy? một ông hoàng? một ngôn sứ? A không! Người không phải là cây sậy bị cơn gió nào cũng làm lung lay, người đàn ông chốn hoang địa này đáng phải vào tù vì thái độ cương nghị của ông: đó là một người can đảm (Gr 1,10-17). A, không, ông không phải là người tinh tế, có khả năng sống trong sự dễ dãi, người đàn ông này mặc áo da súc vật như Êlia (2 V 1,8). Đức Giêsu nói: Đó là một ngôn sứ, và còn hơn là một ngôn sứ.
Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến
Như trong phần thứ nhất, để xác định căn tính của Đấng Mêsia ở đây Đức Giêsu dẫn một lời Kinh Thánh để xác định căn tính của Gioan. Và đó là đoạn sách Malakhi (3,1). Nhưng Đức Giêsu đã sửa nguyên văn của Cựu ước, và điều này rất có ý nghĩa Malakhi đã viết: "Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta". Trong đoạn này chỉ có hai nhân vật: Thiên Chúa và sứ giả của Người.
Đức Giêsu -khi giải thích đoạn trích dẫn, đặt vấn đề ba nhân vật: Thiên Chúa, sứ giả đi dọn đường, và Đấng sẽ đến”; tức là Đấng mà Thiên Chúa xưng là cha con: “trước mặt Con!". Khi Đức Giêsu dẫn Kinh Thánh, người cho mình như Đấng Mêsia đã được loan báo. Và vì thế, Người đi dọn chỗ dùng kỹ xảo với nguyên bản: Malakhi tập trung vào người sứ giả Đức Kitô chú trọng đến "Đấng chuẩn bị sứ giả". Như thế bằng cách bày tỏ cho đám đông hiểu căn tính sâu xa của Gioan Tẩy Giả, thì Đức Giêsu còn tỏ cả căn tính của mình.
Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
Chúng ta lặn ngụp, một lần nữa, vào trong ý thứ mà Đức Giêsu có về bản thể sâu xa, và vai trò của Người trong lịch sử Đức Giêsu có ý thức khơi động một thay đổi lịch sử thật sự. Có "trước" người và "sau' người. Lịch sử thế giới đang ở một bước ngoặt. Nếu Đức Giêsu Nagiarét này chỉ là một anh dân làng nhỏ bé kiêu kỳ, thì cuộc phiêu lưu của Người sẽ không kéo dài. Điều đó có lẽ không đúng, nhưng cuộc phiêu lưu lại kéo dài liên miên. Đức Giêsu đã dứt khoát và thực sự chia cắt lịch sử làm hai. Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu với Người. Và Đức Giêsu có thể nói thực sự rằng con người thánh thiện nhất, vĩ đại nhất của Cựu ước, còn là người bé nhỏ hơn người Kitô hữu hèn mọn nhất của kỷ nguyên mới bắt đầu... Một cách nghịch lý chúng ta đi vào thời đại của "những người bé mọn": tự khi Thiên Chúa nhập thể làm "đầy tớ", thì sự vĩ đại quyền lực, chính là trở nên "bé mọn". Trong khi chịu thử thách, Gioan đã học được điều đó.
Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng, mùa chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh. Cha hỏi chúng con. Hôm MV 3-A135
1. Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng, mùa chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh.
Cha hỏi chúng con. Hôm nay chúng con có thấy cái gì khác thường đặc biệt không ? - Có..
+ Có cái gì nào ? - Chúng con thấy cha mặc áo mầu hồng.
+ Rất đúng. Nhưng còn có điều gì khác thường nữa không ? - Chúng con thấy các bài sách thánh hôm nay nói nhiều đến niềm vui.
+ Rất chính xác. Cha khen chúng con. Đúng Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Các bài đọc Kinh thánh đều nói về vấn đề này.
Nói đây cha chợt nhớ đến một câu chuyện. Câu chuyện có tựa đề là Niềm Vui Cho Mọi Người. Chuyện kể rằng:
Mỗi ngày, cứ vào buổi trưa, cụ già Thomas lại vào ngôi nhà nguyện nhỏ bé, ở lại đó nhiều nhất là 2 phút, vâng, chỉ 2 phút thôi, rồi trở ra. Người giữ phòng thánh lấy làm thắc mắc, và một ngày kia đã chặn cụ Thomas lại để hỏi cho ra lẽ:- Này ông Thomas, tại sao ông lại đến đây mỗi ngày ?
Cụ Thomas điềm đạm trả lời:- Tôi đến để cầu nguyện.
Người bạn già nhăn mặt:- Không thể tin được! Thế ông đọc kinh gì mà lại chỉ trong có mấy phút đã xong ?
Cụ Thomas vẫn từ tốn giải thích:
- Tôi chỉ là một lão già dốt nát, tôi cầu nguyện với Chúa theo một cách thức riêng của tôi, tôi nói: ”Lạy Chúa Giêsu, này con đây, chính con là Thomas đây!” Thế thôi, rồi tôi đi ra..
Nhiều năm trôi qua, cụ Thomas ngày một trở nên quá già yếu và bệnh tật, phải vào bệnh viện, ở khu dành cho người nghèo. Khi cụ sắp qua đời, một linh mục và một chị nữ tu y tá đến bên giường cụ, nhỏ nhẹ hỏi han:
- Cụ ơi, cụ hãy nói cho chúng tôi biết, vì sao kể từ khi cụ nhập viện tế bần này, mọi sự bỗng trở nên tốt đẹp hơn, mọi người đều như cảm thấy hài lòng, hạnh phúc và thân thiện với nhau hơn ?.
Cụ Thomas nhoẻn miệng cười móm mém, thố lộ:
- Tôi cũng không biết nữa. Khi còn đi lại được, tôi cứ đi chỗ này chỗ kia để thăm mọi người, chào hỏi trò chuyện đôi chút. Đến khi liệt giường, tôi mời mấy mọi người lại, kể chuyện tếu, chọc cho họ cười vui. Với Thomas thì mọi người phải luôn được hạnh phúc!
Vị linh mục vẫn chưa thôi thắc mắc:
- Nhưng còn phần cụ, nhờ đâu cụ có được hạnh phúc ?
Cụ Thomas hỏi ngược lại:- Thế thưa cha và thưa xơ, quý vị không cảm thấy hạnh phúc khi được người khác thăm viếng mỗi ngày sao ?.
Vị linh mục ngẫm nghĩ rồi gật gù đồng ý:
- Cụ nói phải! Thế nhưng ai đã đến thăm cụ mỗi ngày ?
Cụ Thomas tươi hẳn nét mặt trả lời:- Thưa cha, khi tôi bắt đầu vào bệnh viện này, tôi đã xin hai cái ghế, một cái dành cho cha hoặc cho xơ, còn cái kia dành cho Đức Giêsu. Trước đây, tôi đến viếng Ngài ở nhà thờ, nhưng nay tôi đã phải nằm liệt giường thì chính Đức Giêsu đã đến thăm tôi mỗi buổi trưa.
Vị linh mục tròn xoe mắt kinh ngạc:- Thế Đức Giêsu nói gì với cụ ?
Cụ Thomas hãnh diện trả lời:- Này Thomas, chính Thầy đây, Giêsu của con đây!.
Và, những ngày cuối cùng của cuộc đời qua đi, trước khi cụ Thomas qua đời, ai cũng nhìn thấy cụ luôn mỉm cười hạnh phúc...
Đó chúng con thấy: Được Chúa viếng thăm là một niềm vui thật lớn. Ước gì chúng ta nhận được niềm vui thất lớn mỗi khi chúng ta được Chúa đến với chúng ta.
2. Nhưng làm thế nào để có thể có được niềm tin như vậy ?
Đọc bài Tin Mừng hôm nay cha có cảm tưởng là ông Gioan chưa có được niềm tin như thế. Bởi vì chưa có được niềm tin như ý Chúa muốn nên ông cảm thấy bức xúc, ông cảm thấy hình như Chúa Giêsu mà ông đã loan báo không biết có đúng hay không. Chính vì thế mà ông đã sai môn đệ của ông đích thân đến gặp và hỏi Chúa: "Thưa Thầy, Thầy có thật là Ðấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?"(Mt 3, 3)
Tại sao ông Gioan lại hỏi như thế ?Ông hỏi như thế vì ông thấy Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai không giống với hình ảnh mà ông đã rao giảng cho mọi người. Cha thấy trong đầu của ông vẫn còn mang nặng cái ý nghĩ về Đấng Cứu thế, Đấng Thiên Sai của những người Do thái. Đấng Cứu thế, Đấng Thiên Sai đối với người Do thái phải là Đấng oai hùng, phải là Đấng thống trị muôn dân muôn nước, phải là Vua các Vua, chúa các chúa chứ không phải là một con người xem ra có vẻ chẳng có quyền uy gì như Chúa đang sống.
Chúa đã trả lời cho ông Gioan. Chúa bảo ông hãy nhìn vào các dấu chỉ mà các ngôn sứ đã loan báo về thời đại Đấng Thiên sai mà biết Chúa là ai và có đúng với những điều đã được loan báo hay không.
Cha chắc các môn đệ của Gioan đã làm như Chúa nói và cha tin chắc ông Gioan cũng thấy điều đó. Cha tin chắc như vậy. Cha tin Chúa cũng biết điều đó cho nên sau khi các môn đệ của ông Gioan ra đi, Chúa đã công khai khen ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt mọi người. Chúa khen ngợi bằng những lời lẽ tốt đẹp chưa từng thấy. Đây cha xin nhắc lại cho chúng con: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. (Mt 3, 11).
Tại sao thế ? Thưa vì ông xứng đáng được ca tụng như vậy. Ông cao trọng bởi vì ông dám lãnh nhận một sứ mệnh cao cả – Sứ mệnh dọn đường cho Chúa Cứu thế và ông đã dám can đảm sống hết mình để chu toàn sứ mệnh ấy dù khi sống như vậy ông đã phải trả một cái giá thật đắt.
Chúng con hãy nghe Chúa nói tiếp:
“Các người vào sa mạc đi xem gì ?” Xem cây sậy bị lung lay trong gió ư ? Không! Gioan không là cây sậy, mà là cây lim cây sến. Nói như Đức Cha Timer Toth người ta có thể bẻ cong được cây sậy nhưng người ta không có thể bẻ cong được cây lim cây sến, người ta chỉ có thể chặt chúng đi. Gioan là như thế. Ông không phải là con người dễ uốn cong. Để khỏi thấy mặt con người gây nhiều phiền toái cho mình, Hêrôđê chỉ còn cách chặt đầu ông mà thôi”. Các ngươi đi để xem gì ?” “Một người ăn mặc mịn màng ư! Ta bảo thật những kẻ ăn mặc xa hoa và sống vui thú...họ ở trong cung điện các vua chúa. Gioan không phải như thế. Ông không phải là hạng người mà cuộc đời chỉ có ăn với mặc! Ông đả tự nguyện sống siêu thoát để tự rèn luyện mình và cũng là để ông được hoàn toàn tự do khi thi hành sứ mệnh.
Vậy các ngươi xem gì ? Một tiên tri ư ?
Và Chúa tự trả lời ngay: Phải! Ta bảo cho các ngươi hay: Ông là một tiên tri và còn hơn một tiên tri nữa vì ông mà có lời Kinh Thánh chép rằng: “Ta sai Thần Khí của Ta đi trước để dọn đường cho con”.
Thánh Hêrômimô thuật lại:
Hôm đó vào một buổi tối tháng 3 năm 29 tại Machironte người ta tưng bừng náo nhiệt tổ chức mừng vạn thọ cho vua Hêrôđê. Vào lúc bữa tiệc đã gần kết thúc, trong cơn đảo điên vì hơi men, lại bị kích động thêm bởi những vũ điệu cuồng loạn, xác thịt, khiêu gợi, tình tứ, quyến rũ của Salômê, đứa con của Hêrôđiađê vợ của người anh là vua Philippê mà Hêrôđê đã cướp đem về làm vợ mình... Hêrôđê đã buông ra những lời rất ngọt ngào: “Này Salômê con, con muốn xin gì chăng ?...Cô bé dừng lại, vân vê tà áo, mỉm cười duyên dáng khiến nhà vua khoái chí...và dù sự việc chẳng đến nỗi quá quan trọng nhưng nhà vua đã thề hễ cô xin gì dù là cả nửa nước, ông cũng sẽ ban cho...
Cô bé chưa dám quyết định ngay, cô vào hỏi mẹ- và Hêrôđiađê là con người quỷ quyệt. Cơ hội ngàn năm một thuở đã tới. Bà quyết phải tận dụng để trả thù cho kẻ đã dám công khai sỉ nhục bà. Bà nói với con xin ngay cái đầu của Gioan - lập tức cô ra nói với vua:“ Xin cha ban cho con ngay tại đây, trên cái mâm này, đầu của Gioan Tẩy Giả”
Tin mừng Mt 14, 9-12 ghi: “Nhà vua lấy làm buồn nhưng vì đã lỡ thề, lại thề trước khách dự tiệc nên truyền lệnh cho lính vào ngục lấy đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm đen trao cho cô và cô đem đến cho mẹ. Thánh Hêrôminô còn cho biết thêm khi nhận được đầu của Gioan Tẩy Giả, Hêrôđiađê đã lấy dao cạy miệng Ngài ra rồi dùng dao đâm thấu lưỡi của vị Thánh- Và các môn đệ đến lấy thi hài của Ngài đem đi chôn- rồi đi báo cho Đức Giêsu.
Và thế là kết thúc cuộc đời của một vị tiên triVâng Gioan đã trở nên cao cả không phải vì ông nhiều tiền nhiều bạc, cũng không phải ông có những địa vị thật cao trong xã hội, nhưng là vì ông đã chu toàn được sứ mệnh Chúa trao cho mình.
Mỗi người chúng ta cũng hãy chu toàn mọi bổn phận Chúa trao cho chúng ta để chúng ta cũng được gặp Chúa và được hưởng niềm vui của Người. Amen.
Mỗi ngày Giáo hội đọc Thánh ca tin mừng ‘Chúc Tụng Đức Chúa’: “Như Người đã dùng miệng các MV 3-A136
Mỗi ngày Giáo hội đọc Thánh ca tin mừng ‘Chúc Tụng Đức Chúa’: “Như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: sẽ cứu ta khỏi tay địch thù”, tư tưởng rất phù hợp với tâm tình Mùa Vọng. Sự cắm rể sâu tư tưởng chờ đợi Đấng Mêsia trong lòng dân Do thái xuyên suốt lịch sử của họ, cũng là sự cắm rể sâu nơi lòng tin của chúng ta và đó cũng là niềm hy vọng bất khuất xuyên suốt lịch sử ơn cứu độ.
Tiên tri Isaia loan báo cách khải huyền về thời đại hoàng kim đó: “Thiên Chúa của anh em đây rồi; chính Người sẽ đến cứu anh em … Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai .. đau khổ và khóc than sẽ biến mất” (Bài đọc 1. Is 35,1-6a.10). Những điều nầy cho chúng ta thấy đức tin của chúng ta không phải là mơ hồ, ảo tưởng hay một ý thức hệ do con người vạch ra, nhưng đức tin khởi đi từ Thiên Chúa, được mặc khải qua các biến cố thăng trầm xảy đến nơi dân Do thái, và được ghi lại trong Sách thánh.
Lời sấm của tiên tri Isaia được chính Đức Giêsu nhắc lại cho những môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến phỏng vấn Người. Đức Giêsu khẳng định lời sấm đã được thực hiện nơi chính bản thân của Người. Tin mừng Matthêu là tin mừng của mùa Vọng, ông viết cho đọc giả người Do thái, và để người Do thái xác tín điều ông nói, ông thường trích dẫn Kinh thánh để minh chứng lời Kinh thánh đã được hoàn tất. Có đến 44 lần thánh Mátthêu trích dẫn Cựu ước để minh chứng Đức Giêsu thành Nadarét chính là Đấng Cứu Tinh muôn dân hằng mong đợi.
Những kiểu nói thường gặp: “Như đã viết … để hoàn tất lời Kinh thánh … vì có lời Kinh thánh…”. Nghĩa là có sự nhất quán trong tư tưởng giữa Kinh thánh Cựu ước và Tân ước: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (x. Tin Mừng Mt 11, 2-11). Lời sấm của Isaia 800 năm về trước được Đức Giêsu thực hiện vào thời hoàng kim tỏ ra cho mọi người biết Người là Đấng mà các tiên tri loan báo, Người tự khẳng định mình bằng các phép lạ và những dấu chỉ kỳ diệu minh chứng Đấng cứu thế vi hành đến viếng thăm và ở lại trần gian.
Bất chấp mọi biến động nơi trần gian, Đức Giêsu chọn trái đất để cư ngụ, đó là niềm vui sâu xa nhất của nhân loại. Niềm vui nầy là lời chào mở đầu thánh lễ và nhiều lần được lặp lại sau đó: “Chúa ở cùng anh chị em”.
Khi các môn đệ Emmau chán nản bỏ đi vì thất vọng về cái chết của Thầy, thì chính Thầy Giêsu đã xuất hiện và đồng hành với các ông và Người đã dùng lời tiên tri để làm cho các ông nhận ra sự thật về Đấng cứu thế. Và họ đã thú nhận rằng lòng họ đã bừng cháy lên niềm vui khi lắng nghe Đức Giêsu giải thích Kinh thánh. Cũng thế ngày hôm nay, Giáo Hội ưu tư sưởi ấm tâm hồn và đào sâu đức tin người Kitô hữu bằng lời Kinh thánh.
Phụng vụ Chúa nhật đều có những bài đọc Cựu ước chuẩn bị và soi sáng giúp hiểu thâm sâu bài Tin mừng, chính nơi Tân ước lời ngôn sứ được hoàn tất, cô đọng lại nơi Đức Giêsu, Người là lời hứa của Thiên Chúa thành sự thật. Cần phải nhận ra mối liên hệ nầy khi cử hành phụng vụ lời Chúa trong thánh lễ để nuôi sống đức tin Kitô hữu. Nuôi sống tâm hồn chính là đem lại niềm vui cho con tim, làm trào lên niềm hy vọng được cứu độ: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng cỏ khô cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông” (Bài đọc Isaia).
Lạy Chúa Giêsu xin cho con đón nhận niềm vui như bà Xara già nua sinh Ixáac trong tuổi già, như Gioan nhảy mừng trong dạ mẹ, đến niềm vui Chúa Giáng Sinh. Niềm vui được Chúa cứu độ là chủ đề bất hủ trong Kinh thánh. Chính Chúa là niềm hoan lạc của trần gian. Amen
Louis Nguyễn Quang Vinh Lm Kontum, Đức An WGPKT(15/12/2019) KONTUM
Hãy mô tả lại cuộc đời của Gioan Tẩy giả trong Tin Mừng Mát-thêu. Đọc Mt 3,1-17; 4,12.17 MV 3-A137
1. Hãy mô tả lại cuộc đời của Gioan Tẩy giả trong Tin Mừng Mát-thêu. Đọc Mt 3,1-17; 4,12.17; 11,2-15; 14,1-13. Cuộc đời của Gioan có liên quan gì với cuộc đời Đức Giêsu không ?
2. Đọc Mt 11,2-3. Tại sao Gioan lại sai môn đệ của ông đến hỏi Đức Giêsu câu hỏi ấy ?
3. So sánh Mt 3,10-12 với Mt 11,3-5. Khuôn mặt Đấng Mêsia của Gioan có khác với Đức Giêsu không ?
4. Đọc Isaia 29,18; 35,6; 26,19; 61,1 và Mt 11,5. Đức Giêsu có làm ứng nghiệm các lời ngôn sứ Isaia về thời Đấng Mêsia không ?
5. Đọc Mt 11,5. Những điều Đức Giêsu nói ở Mt 11,5 có được thực hiện trong Mt 8-9 không ?
6. Đọc Mt 11,6. Câu này có nghĩa gì ? Gioan Tẩy giả có nguy cơ vấp ngã vì Đức Giêsu không ? Điều gì nơi Đức Giêsu khiến niềm tin của ông bị lung lay ?
7. Đọc Mt 11,7-10. Đức Giêsu đã hỏi ba câu giống nhau nào ? Đối với Đức Giêsu, Gioan Tẩy giả là ai ? Ông làm nhiệm vụ gì cho Đức Giêsu ?8. Đọc Mt 11,11. Bạn hiểu câu này như thế nào ?
CÂU HỎI SUY NIỆM: Đức Giêsu ca ngợi sự cao trọng của Gioan Tẩy giả, dù ông chỉ là người dọn đường (Mt 11,10). Theo bạn, điều gì làm nên sự cao trọng của ông ?Có khi nào đức tin của bạn vào Chúa bị lung lay không ? Đâu là lý do ?
PHẦN TRẢ LỜI
Tin Mừng Mát-thêu cho ta thấy khuôn mặt của ông Gioan Tẩy giả. Ông đã rao giảng trong hoang địa, mời gọi dân chúng hối cải và đến chịu phép rửa của ông nơi sông Gio-đan. Chính Đức Giêsu cũng đến với Gioan để xin chịu phép rửa. Ông đã từ chối vì thấy mình bất xứng, nhưng cuối cùng ông cũng vâng lời và ban phép rửa cho Đức Giêsu (x. Mt 3,1-17). Khi nghe tin ông Gioan bị bắt, Đức Giêsu rút lui qua miền Galilê, đến Ca-phác-na-um và bắt đầu sứ vụ rao giảng (x. Mt 4,12.17). Khi Gioan bị cầm tù, ông đã sai các môn đệ của mình đến gặp Đức Giêsu để hỏi xem Ngài có thật là Đấng Mêsia (= Kitô) không và đã nhận được câu trả lời. Đức Giêsu còn nhìn nhận vai trò cao trọng của Gioan, đó là vai trò của người dọn đường cho Đấng Mêsia ngự đến (x. Mt 11,2-15). Cuối cùng, ông Gioan đã bị giết bởi vua Hê-rô-đê vì ông đã can ngăn vua không được lấy vợ của anh mình (x. Mt 14,1-13). Như vậy cuộc đời của ông Gioan Tẩy giả khá gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu. Cả ông và Đức Giêsu đều loan báo cùng một sứ điệp và chịu chết vì sứ mạng của mình.
Ông Gioan khi đang ngồi tù, đã sai các môn đệ của mình đến với Đức Giêsu để hỏi xem Ngài có phải là “Đấng phải đến” không ? (Mt 11,3). “Đấng phải đến” (ho erchómenos) ở đây là Đấng Mêsia (= Kitô) mà dân Do-thái mong đợi. Như vậy ông Gioan có vẻ không tin Đức Giêsu, Đấng mà ông đã ban phép rửa, là Đấng Mêsia. Các giáo phụ đưa ra nhiều giải thích cho sự không tin này. Thí dụ: Gioan sai các môn đệ đi để họ có dịp tiếp xúc với Đức Giêsu và tin vào Ngài, hay Gioan muốn ép Đức Giêsu phải nói một cách công khai về căn tính của Ngài, hay vì ở trong tù, đức tin của Gioan bị chao đảo nên ông cần những lời nâng đỡ của Đức Giêsu.Khi so sánh hai đoạn văn trên, ta thấy có sự tương phản giữa hai khuôn mặt của Đấng Mêsia. Dưới cái nhìn của Gioan Tẩy giả, Mêsia là Đấng sẽ đến như một vị thẩm phán kinh khủng, xét xử và trừng phạt thẳng tay những ai không chịu hối cải và sinh trái (Mt 3,10-12). Còn dưới cái nhìn của Đức Giêsu, Mêsia là Đấng đến để chữa lành người mù, người què, người phong, người điếc và hoàn sinh kẻ chết nữa (Mt 11,3-5). Ngài đến để loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Như vậy Đấng Mêsia này đến để đem niềm vui hơn là sự phán xét.
Hình ảnh về Đấng Mêsia của Đức Giêsu phù hợp với hình ảnh về thời thiên sai trong sách ngôn sứ Isaia. “Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời trong sách, mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm…” (Is 29,18). “Bấy giờ, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35,6). “Các vong nhân của Ngài sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên…” (Is 26,19). Cả việc kẻ nghèo được nghe loan báo Tin Mừng cũng được ngôn sứ Isaia nói đến: “ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn” (Is 61,1). Vậy Đức Giêsu đã làm ứng nghiệm những lời ngôn sứ Isaia nói về thời của Đấng Mêsia.Những điều Đức Giêsu nói ở Mt 11,5 gần như là những gì Ngài đã làm ở Mt 8-9. Đức Giêsu đã chữa người mù (Mt 9,27-31), người què (Mt 9,1-8), người phong (Mt 8,1-4); người câm (Mt 9,32-34), người chết (Mt 9,18-19.23-26).
Còn chuyện người nghèo được loan báo Tin Mừng ở Mt 11,5 thì đã được nói đến ở Mt 5,3 hay Mt 9,35-36.Câu nói của Đức Giêsu ở Mt 11,6 là một mối phúc: “Phúc cho người không vấp ngã vì tôi”. “Vấp ngã vì tôi” có nghĩa là vì thấy lối sống của Đức Giêsu mà đi đến chỗ không tin vào Ngài. Đó có thể là trường hợp của ông Gioan. Ông này đã nhận ra Đức Giêsu là ai khi Ngài đến gặp ông để lãnh nhận phép rửa. Gioan có một hình ảnh cố định về Đấng Mêsia: Đấng này phải là Đấng đến để phán xét và trừng phạt thẳng tay những kẻ có tội không chịu hối cải. Bởi đó, sau một thời gian, khi Gioan không thấy Đức Giêsu làm gì để biểu lộ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, mà lại tỏ ra hiền lành và đầy lòng thương xót đối với tội nhân, thì ông bắt đầu có chút nghi ngờ, vì đây không phải là khuôn mặt Đấng Mêsia như ông nghĩ. Ông có thể không tin Đức Giêsu vì Ngài không khớp với hình ảnh có trong suy nghĩ của ông.Khi các môn đệ của ông Gioan ra đi, Đức Giêsu đã hỏi dân chúng ba câu hỏi giống nhau về Gioan: “Các người đi xem gì ?” (Mt 11,7.8.9). Ngài hỏi, rồi Ngài tự trả lời. Hẳn nhiên Gioan không phải là một cây sậy yếu ớt và nghiêng ngả theo chiều gió, ông là một ngôn sứ mạnh mẽ cứng rắn. Gioan cũng không phải là người ăn mặc sang trọng sống trong cung điện, ông chỉ là một ngôn sứ ăn mặc khổ hạnh sống nơi hoang địa. Câu hỏi thứ ba cho thấy đúng ông là một ngôn sứ, mà còn hơn cả ngôn sứ bình thường nữa, vì ông là người dọn đường cho Đấng Mêsia đến với dân của ông (Mt 11,10). Ông đóng vai trò của ngôn sứ Êlia (Mt11,14).
Theo Mt 11,11, ông Gioan Tẩy giả thì cao trọng hơn mọi người. Ông ở đỉnh cao nhất của Cựu Ước, vì chỉ mình ông là ngôn sứ giới thiệu Đấng Mêsia, và ông cũng là người loan báo Nước Trời đã đến gần. Tuy nhiên, ông lại không thuộc về Nước Trời một cách trọn vẹn, vì Nước này vẫn còn đang được hình thành bởi Đức Giêsu. Bởi đó kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời vẫn cao trọng hơn ông.
CN MÙA VỌNG AIII. Đấng Cứu Thế không như loài người nghĩ tưởng - JB. Lê Ngọc Dũng
Ông Gioan ngồi trong tù, nghe biết những việc Đức Giêsu làm, liền sai hai môn đệ đến hỏi Người MV 3-A138
Ông Gioan ngồi trong tù, nghe biết những việc Đức Giêsu làm, liền sai hai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi phải đợi ai khác?”(Mt 11,2-3).
Thánh Gioan là vị tiền hô, báo trước, dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Chắc chúng ta cảm thấy lạ lùng và thắc mắc, tại sao Gioan lại phải hỏi Đức Giêsu có phải là Đấng Cứu Thế hay không.
Quả là có nhiều sai lệch với những lời mà Gioan đã công bố trước dân chúng, rằng: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và đã làm chứng cho Ngài: “ Tôi đã thấy Thánh Linh như thể bồ câu bởi trời mà xuống và đậu trên Người.”(Ga 1,33). Gioan cũng đã giới thiệu Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” cho hai môn đệ.
Vậy thì lý do gì mà Gioan nay đang ở trong tù lại hỏi Đức Giêsu có phải là Đấng phải đến hay không?
Tôi đọc một số chú giải thần học Kinh Thánh, thì một số tác giả nói là: Gioan chỉ giả vờ hỏi mà thôi, chứ ngài biết rõ Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Ngài chỉ giả vờ và sai các môn đệ đi hỏi để cho các môn đệ được gặp gỡ trực tiếp, tai nghe mắt thấy việc Chúa Giêsu làm mà tin vào Ngài; đồng thời Gioan cũng làm cho các môn đệ của mình không còn đem lòng ghen tỵ với các môn đệ của Chúa Giêsu. Giải đáp thứ nhất này cho rằng Gioan Tẩy giả chỉ giả vờ cho đi hỏi chứ Gioan biết rõ Đức Giêsu là Đấng cứu thế. Giải thích này không làm cho những lời chứng của Gioan về Chúa Giêsu không bị trái ngược.
Tuy nhiên, với sự khảo sát Kinh Thánh chặc chẻ sâu xa hơn, các nhà thần học thấy rằng giải thích trên không thực tế, có vẻ khôn ngoan hay thần thánh hóa một vị tiên tri như Gioan. Trở về với bối cảnh lịch sử thời đó thì thấy câu hỏi của Gioan là một câu hỏi thành thật, chứ không giả vờ. Câu hỏi của Gioan phản ảnh đúng tâm trạng băn khoăn lo lắng của một sứ giả của Thiên Chúa.
Trong tù khi “nghe biết những chuyện Đức Giêsu làm” thì Gioan bỡ ngỡ. “Bỡ ngỡ” vì những chuyện Đức Giêsu làm không đúng như điều Gioan đã biết, đã nghĩ tưởng. Hình ảnh một Đấng cứu thế trong tâm trí của Gioan thật khác hẳn. Theo những lời tiên tri mà Gioan căn cứ vào thì Đấng Cứu Thế sẽ chiến thắng vinh quang, sẽ trừng phạt, tiêu diệt kẻ hung ác, tiêu diệt sự bất công, mở ra một Nước Thiên Chúa, nước thái bình thịnh vượng và công bằng trên quả đất này.
Chính Gioan đã mạnh mẽ rao giảng rằng Nước Thiên Chúa đã gần bên, phải ăn năn sám hối ngay tức khắc mới được ở trong Nước Chúa, còn nếu không sẽ bị tiêu diệt. “Cái rìu đã đặt sát gốc cây; thóc tốt sẽ thu vào lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lữa không hề tắt” (x. Mt3,10-12). Lời cảnh báo của Gioan rất mạnh mẽ và dân đã tin vào Gioan. Dân Do Thái tuôn đến nghe Gioan rao giảng và xin chịu phép rửa ở sông Gio-đan, kể cả các quân lính và các luật sĩ, biệt phái.
Hình ảnh Đấng Cứu Thế nơi Gioan cũng giống như ở những người Do Thái khác. Đó là một Đấng đến trong mạnh mẽ oai hùng đầy quyền lực. Vì thế Gioan đâm ra nghi ngờ thắc mắc khi nghe biết về những việc Chúa Giêsu đang làm. Ngài đã không làm những điều mà Gioan nghĩ đến và mong đợi. Cụ thể như Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế thì hẳn Ngài đã giải thoát Gioan ra khỏi ngục tù và giết vua Hêrôđê, đầy tội ác kia đi chứ. Cái rìu đã đặt sát gốc cây, sao Đấng cứu thế không chặt, nếu Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Sao Đấng Cứu thế không trừ gian diệt bạo, không trừng phạt ai. Ngược lại, Ngài còn ngồi cùng bàn ăn uống với kẻ tội lỗi. Gioan rất băn khoăn thắc mắc, và tự hỏi: Phải chăng mình đã sai lầm lớn, và đã gây một sai lầm lớn cho dân. Gioan không chịu đựng được sự dày vò trong tâm trí mình nữa nên sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu “Ngài có phải là Đấng phải đến không, hay còn chờ một Đấng nào khác”.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của Gioan là “phải”hay là “không phải”. Ngài nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe” Câu trả lời của Chúa Giêsu gợi ý cho Gioan thấy Ngài chính là Đấng dân Do Thái mong đợi nhưng đồng thời cũng cho thấy Ngài là “một Đấng khác”, rất khác với hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ mong chờ.
Câu trả lời của Chúa Giêsu mời gọi Gioan suy nghĩ đến lời ngôn sứ Isaia tiên báo về Đấng Cứu Thế: “Kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”. Nếu như Gioan đã căn cứ vào một số lời tiên tri mong đợi một Đấng Cứu Thế trừng phạt, quyền năng vinh quang, thì Chúa Giêsu cũng chỉ cho Gioan thấy, căn cứ trên những lời tiên tri Isaia, thì Đấng Cứu Thế cũng là Đấng Đầy tình thương và tha thứ. Cuối cùng Chúa Giêsu cũng gợi ý cho Gioan thấy rằng một Đấng Cứu Thế khiêm tốn như thế có thể gây vấp phạm: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Chúa Giêsu quả là một Đấng Cứu Thế kỳ lạ. Ngài không giống như là một Đấng Cứu Thế mà người ta mong đợi: Đấng Cứu Thế trừng phạt kẻ gian ác, lật đổ áp bức bất công, đem lại những giải pháp kinh tế tuyệt hảo để mau giàu có; Đấng Cứu Thế có chiến lược an ninh tốt nhất để bảo đảm hòa bình hạnh phúc. . . Câu hỏi của Gioan và các môn đệ cũng là câu hỏi của nhiều thế hệ trong lịch sử nhân loại mong đợi Đấng Cứu Thế, dù đó có thể là Đấng Cứu thế của triết học, của chính trị hay xã hội. Câu hỏi của Gioan cũng là câu hỏi của những người đang yếu đức tin, hay của những người mong đợi một câu trả lời cho những băn khoăn thắc mắc của mình về sự cứu độ trong những tôn giáo khác. Câu trả lời duy nhất về Đấng Cứu Thế chỉ có thể có trong chương trình tình thương của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Đấng đã đến gặp gỡ tiếp xúc và liên đới với những người nghèo đói, người đau khổ, kẻ tội lỗi... để mang lại cho họ niềm vui của Tin Mừng Cứu Độ.
(Suy niệm Tin mừng Mat-thêu (Mt 11, 2 -11) trích đọc vào Chúa nhật 3 mùa vọng năm A)
Bấy giờ, ông Gioan tẩy giả “đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Chúa Giê-su rằng: “Thầy có thật là Đấng cứu thế được Thiên Chúa sai đến không? Hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
Trước câu hỏi của Gioan, Chúa Giê-su không dùng lời nói để trả lời, nhưng dùng chính việc Ngài MV 3-A139
Trước câu hỏi của Gioan, Chúa Giê-su không dùng lời nói để trả lời, nhưng dùng chính việc Ngài làm để minh chứng Ngài là Đấng cứu thế. Ngài liền chỉ cho các môn đệ của Gio-an thấy những việc Ngài đang làm và bảo: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy, tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người phong hủi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng.”
Việc Chúa Giê-su cho người mù xem thấy, kẻ điếc được nghe, người què được đi, người phong hủi được sạch, người chết sống lại… là những dấu chỉ biểu trưng cho sứ mạng cứu độ của Ngài.
Sứ mạng làm cho muôn người được thấy
Khi cho người mù được thấy, Chúa Giê-su tỏ cho biết Ngài sẽ mở mắt cho nhân loại được “thấy” những sự thật lớn lao.
Sự thật lớn lao nhất mà Chúa Giê-su tỏ bày cho loài người là Thiên Chúa đã sinh ra mỗi một người trên mặt đất và là Cha thật của mọi người.
Chúng ta hãy dành ít phút để tìm hiểu sự thật hết sức quan trọng này.
Để sản xuất bánh mì, trước hết người thợ bánh phải tạo ra chiếc lò nướng rồi dùng chiếc lò này mà tạo ra những chiếc bánh…
Tương tự như thế, để cho mỗi người chúng ta được sinh ra đời, Thiên Chúa cũng đã tạo ra ông bà cha mẹ chúng ta và cậy nhờ cha mẹ chúng ta cộng tác với Ngài để sinh ra mỗi chúng ta.
Nếu những chiếc bánh mì có sự sống và trí khôn, ắt chúng có thể biết chiếc lò nướng là lòng mẹ đã tạo ra chúng, vì sự thật sờ sờ trước mắt là chúng từ trong lò nướng mà ra; lò nướng đã cưu mang chúng một thời gian và cho chúng ra đời. Còn sự thật cao xa hơn là người thợ bánh chủ động làm ra chúng thì chúng không thể biết được. Cần phải có ai đó giảng giải cho, thì chúng mới có thể biết được người thợ bánh là nguyên nhân đệ nhất tạo ra chúng, chứ không phải lò nướng.
Cũng thế, như những chiếc “bánh mì có trí khôn” trên đây, người ta dễ dàng nhận ra cha mẹ dưới đất - tạm ví các ngài như chiếc lò nướng bánh - là người sinh ra mình. Đây là sự thật sờ sờ trước mắt nên ai cũng thấy, tuy nhiên người ta rất khó nhận ra sự thật cao xa hơn, là Thiên Chúa đã sinh ra không những chúng ta mà cả ông bà cha mẹ chúng ta nữa.
Chúa Giê-su là Thiên Chúa ngôi hai từ trời xuống thế, chỉ mình Ngài mới biết được quy trình tạo dựng con người, đã khai mở đôi mắt tâm hồn, giúp chúng ta thấy được sự thật là Thiên Chúa đã sáng tạo nên tổ tiên, ông bà, cha mẹ chúng ta và kêu mời cha mẹ chúng ta cộng tác với Ngài để sinh ra mỗi người chúng ta. Tự khả năng riêng, cha mẹ không thể sinh được một con mắt, một ngón tay… thì làm sao có thể sinh ra nguyên cả một con người?
Như thế, Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất tạo dựng nên con người, là Cha thật của mọi người.
Và khi bày tỏ cho con người biết Thiên Chúa đã sinh ra mọi người, Chúa Giê-su cũng “mở mắt” cho ta thấy mọi người trên mặt đất đều là anh chị em con cùng một Cha. Sự thật này là nền tảng để xây dựng thế giới thành một đại gia đình đầm ấm yêu thương.
Sứ mạng làm cho muôn người được nghe
Qua việc làm cho người điếc được nghe, Chúa Giê-su cho thấy sứ mạng của Ngài là “mở tai” cho muôn dân nghe biết những điều khôn ngoan Ngài mang từ trời xuống ban cho nhân loại. Kho tàng khôn ngoan này là nền tảng vững chắc để xây dựng một thế giới hòa bình, huynh đệ và hạnh phúc, là ánh sáng soi đường cho nhân loại tìm về chân, thiện, mỹ.
Ngoài ra,
-Khi cứu chữa người phong hủi được lành sạch, Chúa Giê-su tiên báo Ngài sẽ gột rửa con người khỏi tội lỗi làm ô uế linh hồn;
-Khi cho người chết sống lại, Chúa Giê-su tiên báo Ngài sẽ mang lại sự sống vĩnh hằng cho muôn dân…
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã “mở mắt” cho chúng con nhìn thấy những sự thật cao quý, đã “mở tai” cho chúng con nghe được vô vàn điều khôn ngoan bởi trời.
Xin cho chúng con đừng bao giờ nhắm mắt trước những sự thật cứu độ, đừng bao giờ bưng tai trước những giáo huấn mang lại sự sống đời đời… trái lại, luôn biết mở mắt để chiêm ngưỡng sự thật tuyệt vời và mở tai để đón nhận kho tàng khôn ngoan mang lại niềm vui, sự sống và hạnh phúc đời đời cho chúng con.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Tâm trạng Gioan trong tù thế nào?
Nhiều người chúng ta có lần đã ngồi trong ngục thì mong gì? Ngồi trong ngục ai cũng mong tin MV 3-A140
Nhiều người chúng ta có lần đã ngồi trong ngục thì mong gì? Ngồi trong ngục ai cũng mong tin được ra, mong tin ở nhà, mong gặp người thân, mong biết những gì xẩy ra bên ngoài. Chắc chắn Gioan không mong tin tức ở nhà vì ông đã bỏ nhà vào rừng ẩn tu. Ông cũng không mong bao giờ được ra, vì ông biết “Tôi phải thấp xuống để Ngài lớn lên”, ông biết ông phải lui vào bóng tối cho Ngài xuất hiện. Điều duy nhất Gioan mong mỏi là ông đã dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến, Ngài đã đến chưa? Ngồi trong tù Gioan thấm thía nỗi đau khổ của kẻ tù đầy, ông thấm thía vô cùng hơn nữa thân phận những kẻ ngồi trong bóng tối sự chết. Ông mong mỏi Ngài đến mở ra một thời đại mới, thời đại mà nơi hoang địa cằn cỗi nở hoa xinh đẹp và sa mạc được hân hoan đâm chồi nẩy lộc, thời đại những kẻ mù què câm điếc sầu khổ được vui mừng nhảy múa như nai, thời đại những bàn tay rã rời, những đầu gối mỏi mòn, những kẻ nhát sợ sẽ được tăng sức mạnh mẽ, thời đại dân chúng được nhìn thấy ánh sáng vinh quang Thiên Chúa như tiên tri Isaia đã loan báo. Gioan đã mong thời đại thiên đường ấy chóng thực hiện cho nhân loại. Ông không chịu ngồi chờ tin.
Ông phải biết chắc chắn để chỉ cho môn đệ mình theo Ngài, nên ông đã sai hai đệ tử ruột đến trực tiếp hỏi Ngài: Có phải Ngài là Đấng phải đến không? Chúa Giêsu biết Gioan mong mỏi những điều tiên tri Isaia đã loan báo về Đấng Cứu thế nên Ngài đã bảo họ về tường thuật cho Gioan những việc họ đã thấy, những kẻ mù què điếc câm cùi chết được thấy, được đi, được nghe, được nói, được khỏi và sống lại. Những việc lạ lùng đó chứng minh chắc chắn quyền phép của Đấng Cứu thế. Khi Gioan được biết tin này chắc ông sẽ vô cùng vui mừng và an tâm chờ chết trong tù. Cho nên Chúa Giêsu đã ca ngợi ông một cách đặc biệt, ca ngợi ông sống khắc khổ trong sa mạc, một đức tin trung kiên không bão tố trần gian nào lay chuyển nổi, không cảnh sa hoa phú quý cung điện nào làm ông xiêu lòng. Ông thực là một gương mẫu sáng chói dọn đường đón rước Đấng Cứu thế đến với mình và đến với muôn dân.
Phần chúng ta, sống trong bể khổ trần gian cũng chẳng khác gì như Gioan trong tù, chúng ta có cảm thấy khát mong mãnh liệt Đấng Cứu thế đến giải phóng ta không?
Lạy Chúa Cứu Thế, xin cho chúng con biết tha thiết cầu mong chúa đến cứu chúng con thoát khỏi cảnh tù đầy tội lỗi, khỏi sợ bóng tối sự chết. Xin cho chúng con biết thực thi những lời hô hào của thánh Gioan để sốt sắng rước Chúa Giáng Sinh trong tâm hồn chúng con.
Trong Mùa Vọng, lễ phục của chủ tế màu tím. Nhưng hôm nay chủ tế mặc lễ phục màu hồng, màu MV 3-A141
Trong Mùa Vọng, lễ phục của chủ tế màu tím. Nhưng hôm nay chủ tế mặc lễ phục màu hồng, màu vui mừng! Bởi vì hôm nay Lời Chúa loan báo cho chúng ta một tin hết sức vui mừng: Chúa sắp đến viếng thăm chúng ta!
Nhưng không phải là Chúa đã đến ở Bêlem cách nay khoảng 2000 năm hay sao? Tại sao lại nói là Chúa sắp đến? Thưa quả thực ở Bêlem Chúa đã đến với trần gian, nhưng chưa đến với tâm hồn mọi người. Mà điều Chúa thiết tha mong muốn không phải là đến một nơi nhưng là đến với con người.
Chỉ còn hơn một tuần lễ nữa thôi là chúng ta lại mừng lễ Giáng sinh, kỷ niệm lần đầu tiên Ngôi Hai Thiên Chúa đến trần gian. Nhưng phải chăng một lần nữa Chúa chỉ đến trong hang đá lạnh lẽo, mà không đến được với tâm hồn mỗi người chúng ta?
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy chúng ta phải làm gì để Chúa có thể đến tận tâm hồn chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Ðã bao nhiêu lần Chúa muốn đến thăm viếng tâm hồn chúng ta, nhưng bấy nhiêu lần Ngài đều không đến được vì cánh cửa tâm hồn chúng ta đã khóa chặt. Chúng ta mong chờ biết bao người đến thăm chúng ta, như những người thân, những người mang lại lợi lộc vật chất. Nhưng rất ít khi chúng ta mong chờ Chúa đến.
Thậm chí nhiều lần chúng ta còn xua đuổi Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 35,1-6a):
Nhìn chung quanh mình, ngôn sứ Isaia thấy những cảnh bất hạnh: nhiều người mệt mỏi chán chường với "những bàn tay rời rã, những đầu gối mỏi mòn"; nhiều người khác bi quan sợ hãi trước những áp bức, bất công; nhiều người khác nữa đau buồn rên siết trong biển khổ cuộc đời...
Ngôn sứ Isaia an ủi và khích lệ họ: mọi bất hạnh sẽ biến mất khi Thiên Chúa đến: "Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi"
2. Ðáp ca (Tv 145):
Lời cầu nguyện của Tv 145 này biểu lộ niềm tin tưởng vào lời Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia. Tác giả tin rằng khi Thiên Chúa đến, Ngài sẽ minh oan cho người bị áp bức, nâng đỡ những người yếu đuối, chở che những người cô thế cô thân... Bởi thế, tác giả cất tiếng nài van "Lạy Chúa, xin đến cứu thoát chúng tôi".
3. Tin Mừng (Mt 11,2-11):
Cũng như mọi người khác đương thời, Gioan Tẩy Giả nôn nóng chờ Ðấng Messia của Thiên Chúa đến. Gioan cũng đoán rằng Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia ấy. Chỉ có điều Gioan lại quan niệm rằng Ðấng Messia là một vị Thẩm phán nghiêm minh. Ngài đến để trừng trị những người gian ác. Vì thế khi thấy Ðức Giêsu chưa làm gì để trừng trị kẻ ác, thậm chí bản thân Gioan đang bị kẻ ác giam giữ trong ngục mà Ngài cũng chưa ra tay. Gioan đâm ra hoang mang, ông sai môn đệ đến thưa Người rằng: "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng?"
Ðức Giêsu không trả lời trực tiếp. Ngài bảo các môn đệ của Gioan về thuật lại cho thầy họ tất cả những điều họ thấy Ngài làm: những kẻ bệnh hoạn tật nguyền được cứu chữa và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo. Ðó là những chi tiết mà ngôn sứ Isaia dùng để mô tả Ðấng Messia, nhưng không phải là một Ðấng Messia thẩm phán, mà là một Ðấng Messia Tôi Tớ.
Như thế, một cách gián tiếp, Ðức Giêsu đã trả lời cho Gioan biết rằng Ngài chính là Ðấng Messia; đồng thời Ngài cũng điều chỉnh lại quan niệm Messia của Gioan: Ðấng Messia đến không phải để trừng trị mà để cứu vớt.
Quan niệm này quả là quá xa lạ với suy nghĩ của Gioan. Vì thế, Ðức Giêsu nhắn với ông "Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".
4. Bài đọc II (Gcb 5,7-10):
Thời Hội Thánh sơ khai, các tín hữu mong chờ Chúa lại đến lần thứ hai. Càng khổ sở vì cuộc sống vất vả, càng cảm thấy yếu thế trước những áp bức bất công, họ càng mong Chúa mau đến. Thế nhưng mong chờ đã lâu mà sao vẫn chưa thấy Chúa đến? Họ bắt đầu nản lòng.
Thánh Giacôbê khuyến khích họ hãy làm như bác nông phu: đã gieo giống rồi thì thế nào cũng tới mùa gặt hái, chỉ cần kiên nhẫn chờ đợi thôi: "Anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến".
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Người ta đang cần Chúa
Nhìn bề ngoài thì xem ra con người thời nay rất đầy đủ. Nhưng nếu đi sâu đến tận đáy lòng, ta mới thấy nhiều khoảng trống mênh mông rất cần được lấp đầy:
- Khoảng trống "siêu vật chất": Mặc dù tiền bạc, của cải, tiện nghi... - nói chung là vật chất - có rất nhiều, nhưng lòng người vẫn luôn thấy thiếu. Chỗ thiếu vắng này không thế lấy tiền mà mua được, không thể lấy vật chất mà lấp đầy được.
- Khoảng trống "tình yêu": người ta sống với nhau vì quyền lợi. Ai có lợi cho tôi thì tôi đến; ai không có lợi thì tôi thờ ơ, ai không còn có lợi thì tôi bỏ, ai có hại thì tôi tìm cách diệt trừ... Hình như tình yêu không có chỗ trong lòng người.
- Khoảng trống "vĩnh hằng": mọi thứ mà người thời nay có đều chỉ là tạm bợ, kéo dài lắm cũng chỉ là "trăm năm trong cõi người ta". Con người cần cái gì đó dài hơn, lâu hơn, mãi mãi...
Những khoảng trống ấy thật là mênh mông, và không ai ngoài Chúa có thể lấp đầy. Con người thời nay đang rất cần Chúa.
2. Ðừng nóng vội
Trước một vấn đề quan trọng cần giải quyết, người ta chia thành hai hạng khác nhau:
Những người nóng vội: muốn giải quyết ngay tức khắc, bằng cách nào cũng được, kết quả thế nào cũng được.
Những người kiên nhẫn: tìm hiểu kỹ vấn đề, suy nghĩ cách giải quyết thỏa đáng nhất, chờ có đủ điều kiện thuận lợi nhất.
Phần Thiên Chúa, Ngài không nóng vội nhưng rất kiên nhẫn, bởi vì Ngài muốn cứu chữa tận căn, muốn cải tạo con người, muốn canh tân thế giới.
Phần mỗi người chúng ta, cũng chớ tìm những giải pháp nhanh chóng mà hời hợt, nhưng hãy kiên nhẫn: kiên nhẫn điều trị tận gốc căn bệnh của mình, kiên nhẫn cải tạo từng mặt cuộc sống của mình, và kiên nhẫn góp phần canh tân thế giới.
3. "Hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?"
Tuy Gioan là một ngôn sứ và còn là vị Tiền hô, nhưng câu hỏi này của ông lại rất "phàm trần": Ông nghĩ rằng Ðức Giêsu là Ðấng Messia Thẩm phán. Nhưng khi thấy Ngài chẳng xét xử và trừng trị ai thì ông nghĩ tới "một Ðấng nào khác".
Nhưng chúng ta còn "phàm trần" hơn Gioan nhiều: Dù đã biết Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia, nhưng chúng ta không đủ tin nơi Ngài, chúng ta hướng về nhiều "messia khác": messia-tiền-bạc, messia-thế-lực, messia-lạc-thú...
Tuyên ngôn Dominus Jesus khẳng định rằng Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Ðộ duy nhất, ngoài Ngài ra chẳng có đấng messia nào cả. Không hết lòng tin tưởng vào Ðức Giêsu là "vấp ngã", chạy theo những đấng messia khác cũng là "vấp ngã". Vì thế Ðức Giêsu đã khuyến cáo: "Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".
4. Một cây sậy phất phơ trước gió
Gioan Tẩy giả không phải là một cây sậy phất phơ trước gió, vì Gioan không phải là người yếu đuối nhu nhược dễ uốn mình trước áp lực và dư luận.
Nhưng hình ảnh cậy sậy phất phơ trước gió có thể dạy ta nhiều điều: Nó vừa mềm vừa nhẹ nên gió thổi nó nghiêng về hướng nào cũng được. Nhưng nó lại rất mạnh: giông to gió lớn có thể xô ngã những cây cổ thụ to lớn, nhưng không thể bứng gốc cây sậy nhỏ bé này.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con hiểu rằng sức mạnh ở trong sự yếu đuối và dịu dàng xin dạy chúng con khôn ngoan biết khi nào phải cong xuống và khi nào phải trụ vững vàng.
5. Chuyện minh họa
a/ Ông có phải là Chúa Giêsu không?
Một nhóm thương gia dự một cuộc họp. Người nào cũng báo trước với vợ con là sẽ về nhà đúng giờ ăn bữa tối. Nhưng cuộc họp kéo dài hơn dự định. Tan buổi họp, ai nấy hối hả chạy ra xe buýt. Một người xô phải quầy bán táo của một cậu bé, táo rơi tứ tung. Nhưng không ai dừng lại để lượm giúp cậu. Rồi mọi người đều lên được xe buýt, thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng ít giây sau, một người trong nhóm cảm thấy bứt rứt về chuyện cậu bé bán táo. Ông xuống xe trở lại chỗ cũ. Ông thấy cậu bé đang vất vả mò tìm từng trái táo để lượm lại. Thì ra cậu bị mù! Tội nghiệp quá, ông giúp cậu lượm lại từng quả cho đến hết. Một số quả đã bị giập. Ông móc túi dúi vào tay cậu bé một món tiền, rồi ra đi. Cậu bé bán táo hỏi với theo "Ông có phải là Giêsu không?"
Theo một nghĩa nào đó, ông ta là Chúa Giêsu. Thời nay đang cần có nhiều Chúa Giêsu như thế.
b/ Ðối phó với Ðấng Messia
Ngày kia đang lúc trời mưa như trút nước, một người chủ nông trại giàu có từ đồng trở về nhà và than phiền với giọng đầy lo lắng:
- Rebecca, nghe đâu trong thành người ta đang kể một câu chuyện kinh khủng lắm: Ðấng Messia đã đến giữa chúng ta!
Người vợ hỏi:
- Có gì mà kinh khủng hả? Tôi tưởng đó là chuyện tuyệt vời chứ. Sao mà ông hoảng hốt vậy?
Người chồng lớn tiếng than:
- Tôi hoảng hốt ư? Sao biết bao năm trời vất vả lao nhọc, chúng ta mới được giàu có với bầy súc vật hàng ngàn con, với những kho lẫm đầy ắp và cây cối nặng trĩu quả. Thế mà, bà biết không, chúng ta sắp phải bỏ hết để đi theo Ngài.
Bà vợ ôn tồn như muốn an ủi ông:
- Thôi, bình tĩnh đi ông. Chúa là Thiên Chúa nhân lành. Ngài biết rõ người Do Thái chúng ta đã luôn luôn phải chịu đau khổ, chúng ta phải đương đầu với Pharaon, Haman, Hitler... nghĩa là luôn luôn với một kẻ nào đó. Nhưng Thiên Chúa chúng ta đã có cách đối phó với họ mà, phải không? Thế thì Ngài cũng có cách đối phó với Ðấng Messia chứ! (Anthony de Mello, Lời kinh của Con Ếch)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Ðức Giêsu Kitô, Ngôi hai Thiên Chúa, sắp ngự xuống trần gian. Người sẽ mang đến cho nhân loại đang đau khổ vì chiến tranh ơn hòa bình, đang oằn oại trong tội lỗi ơn giải thoát, đang sống trong bất hạnh được hạnh phúc tràn đầy. Chúng ta cùng chung lời cảm tạ Chúa và tha thiết khẩn cầu:
1. Sứ mạng cao cả của Hội Thánh / là rao giảng Tin Mừng cứu độ cho các dân tộc. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho việc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh / luôn đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
2. Trên thế giới ngày nay / việc phân bố tài nguyên các quốc gia không đồng đều / vì có những nước quá giàu / trong khi đó có những nước quá nghèo. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những nước giàu / biết quan tâm giúp đỡ một cách vô vị lợi / những nước chậm phát triển / cách riêng những nước mà một phần lớn dân chúng sống dưới mức tối thiểu.
3. Trong cuộc sống thường ngày / có một số người tôn thờ cá nhân chủ nghĩa / chỉ lo sống hưởng thụ ích kỷ. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người kitô hữu hiểu rằng / không ai sống cho mình / mà là sống cho Chúa và sống vì người khác / vì không ai là một hòn đảo trong đại dương bao la của cuộc đời này.
4. Ngày xưa / Ðức Giêsu đã chinh phục người khác bằng tình thương hy sinh / bằng việc phục vụ hết lòng. / Ngày nay / Người đòi hỏi các kitô hữu cũng phải sống như Người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho mọi người trong giáo xứ chúng ta / biết yêu thương / tôn trọng / và giúp đỡ những người chung quanh mình / nhất là những ai đói nghèo / túng thiếu và đang gặp đau khổ.
CT: Lạy Chúa là Cha từ bi nhân hậu, xin cho chúng con biết kiên trì tỉnh thức mà chờ đợi Ngôi Hai Con Chúa giáng trần, và biết cầm đèn cháy sáng trong tay mà hăm hở đón Người đang ngự đến. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Kinh Tiền Tụng: nên dùng Kinh Tiền Tụng Mùa Vọng II vì nó nhấn mạnh đến vai trò của Gioan Tẩy Giả và diễn tả niềm vui của tín hữu đang khi chờ đợi lễ Giáng sinh.
- Kinh Nguyện Thánh Thể: nên dùng KNTT 4, nhấn mạnh một số nơi:
. (Cuối đoạn 3): "... Người đã loan Tin Mừng cứu độ cho người nghèo khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ tù đày, đem lại niềm vui cho những ai sầu khổ."
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy tha thiết dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha, xin cho Nước Ngài mau trị đến, để lấp đầy những khát vọng của những kẻ nghèo hèn là con cái đích thực của Ngài.
VII. GIẢI TÁN
Ðức Giêsu đã nói với các môn đệ của Thánh Gioan Tẩy giả: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các anh nghe và thấy". Giờ đây, anh chị em sắp trở về với cuộc sống xã hội, Ðức Giêsu cũng nói với anh chị em: Hãy đi thuật lại cho mọi người những gì mà trong Thánh lễ này Chúa đã cho anh chị em được nghe và được thấy.
Vào những ngày trước lễ Giáng sinh, tại các cửa hàng, chúng ta thấy người ta thường trang hoàng MV 3-A142
Vào những ngày trước lễ Giáng sinh, tại các cửa hàng, chúng ta thấy người ta thường trang hoàng bằng những ánh điện màu với hàng chữ: A marry Christmas and a happy new year, cầu chúc một lễ Giáng sinh vui vẻ và một năm mới hạnh phúc… Trước cửa ra vào là một ông già râu tóc bạc phơ với đôi ủng to và bộ quần áo đỏ. Người ta gọi đó là ông già Noel hay thánh Nicolas. Các em nhỏ đi phố thì dán mắt vào những gian hàng bán đồ chơi và kẹo bánh. Thánh Nicolas hay ông già Noel vui tính này không phải chỉ xuất hiện ở những cửa tiệm buôn bán, mà còn xuất hiện tại những nhà hàng, những quán ăn, những phòng trà, những nơi chơi bời du hí, bàn tay mở ra như mời mọc.
Phải chăng đó là một câu chuyện huyền thoại hoang đường? Phải chăng đó là một cách tục hóa Kitô giáo? Khuôn mặt đích thực của thánh Nicolas chắc chắn không phải là như thế. Và ông già Noel theo kiểu con buôn trình bày hẳn không có điểm chung nào với bàu khí mùa vọng, cũng như lễ Giáng sinh. Đó chỉ là một sáng kiến chiều theo thị hiếu đáng nghi ngờ. Khuôn mặt sống mãi với mùa vọng khiến chúng ta suy nghĩ phải là khuôn mặt của Gioan tiền hô.
Với ông, người ta không còn mua bán đổi chác. Ông không phải là thứ đồ chơi của trẻ nít. Ông có một chỗ đứng đặc biệt trong những ngày chuẩn bị Chúa đến. Và mùa vọng sẽ không còn ý nghĩa nếu không có ông.
Đúng thế, chúng ta hãy thử tưởng tượng ra một buổi trình diễn tuồng cải lương. Giơ khai mạc đã đến, các diễn viên đã được hóa trang cẩn thận. Nhưng rồi ông bàu bước vào hậu trường, đưa mắt nhìn một vòng rồi kêu lên:
- Chết rồi, chết thật rồi, vở tuồng hôm nay là một vở tuồng khác, chứ không phải là vở tuồng màcác anh các chị đã hóa trang.
Nếu như vậy chúng ta sẽ nghĩ sao? Với Gioan tiền hô cũng thế. Chỉ trong một thời gian ngắn nữa, một biến cố trọng đại nhất sẽ xảy ra, khả dĩ làm đảo lộn lịch sử của nhân loại: Đấng cứu thế muôn dân mong đợi sẽ đến.
Trước đó, Gioan xuất hiện như một vị tiền hô, một nhà tiên tri. Với niềm hăng say, ông loan báo cho mọi người biết tất cả niềm hy vọng và mong đợi của các ngươi đã sai lầm, hãy thay đổi ngay đi vì thời gian còn lại rất ít. Sứ điệp ấy cũng được gửi đến cho chúng ta hôm nay.
Thực vậy, nếu ông nhìn thấy những ánh điện màu, những cánh thiệp trang nhã, những hang đá rực rỡ, những cảnh trí lộng lẫy, những ông già Noel mời mọc, hẳn ông cũng sẽ nói với chúng ta:
- Hãy thay đổi vì đó không phải là cách thức đón mừng Chúa đến.
Gioan tiền hô quả là mẫu người của mùa vọng vàcuộc sống của ông đã minh chứng điều đó. Ông ăn uống kham khổ, đầu óc chỉ quay cuồng một sự thật: Đấng Cứu thế đã gần đến, Ngài đang đứng ngoài cửa. Ông thật khiêm nhường khi nói: Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây già cho Ngài. Và khi Chúa Giêsu xuất hiện ben bờ sông Giocđan, ông đã không ngần ngại giới thiệu: Đây chiên Thiên Chúa, đây đấng xóa tội trần gian…. Rồi ông sã kết luận: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Hãy nhìn ngắm khuôn mặt của Gioan tiền hô và hãy sống những điều ông truyền dạy, để chúng ta đi đúng con đường Chúa muốn chúng ta đi trong mùa vọng này. Con đường dẫn chúng ta tìm về gặp gỡ với Chúa.
Cầu nguyện.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thực thi sứ điệp Gioan truyền dạy, đó là dọn đương Chúa đến, bằng cách uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi khuyết điểm, để tâm hôn chúng con thực sự là một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự trị.
Khi nhìn vào cuộc đời bể dâu, Nguyễn Du đã từng thốt lên lời thơ ai oán trong truyện Kiều: “Trăm MV 3-A143
Khi nhìn vào cuộc đời bể dâu, Nguyễn Du đã từng thốt lên lời thơ ai oán trong truyện Kiều:
“Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Cuộc đời buồn nhiều hơn vui. Dòng đời nước mắt nhiều hơn nụ cười. Kiếp nhân sinh vẫn đong đầy khổ đau của cái nghèo, cái bất công, cái áp bức, và bất hạnh. Cuộc sống vẫn đầy những lắng lo về cơm áo gạo tiền, về tương lai còn đầy đen tối.
Đó cũng chính là thảm cảnh của dân lưu lạc Israel. Họ phải sống kiếp nô lệ bên Babylon. Cuộc đời họ chìm đắm trong bể khổ trần ai. Chính trong thảm cảnh đầy nước mắt của kẻ lưu đầy, họ đã ngước về trời cao, trông mong Đấng Cứu Tinh giải thoát cuộc đời bể dâu nơi họ. Biết bao lời ca ai oán: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây ơi, hãy mưa Đấng cứu tinh”, là bằng chứng cho thấy lòng khát khao chờ mong sự giải thoát của Thiên Chúa dành cho họ.
Hôm nay, chúng ta nghe lại lời của tiên tri Isaia loan báo cho dân sứ điệp về niềm vui đã gần kề. Isaia mời gọi: Hãy vui lên vì ngày giải phóng đã đến. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Thiên Chúa sẽ lau khô giọt nước mắt. Thiên Chúa sẽ băng bó những vết thương. Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Người để ban bình an, hoà bình và thịnh vượng cho dân. Và niềm vui đó càng dâng cao khi Gioan rao giảng về triều đại Messia đã đến. Gioan đã chỉ cho dân thấy triều đại của Đấng Thiên Sai đã bắt đầu. Gioan còn mời gọi dân chúng đón nhận niềm vui bằng đời sống sám hối ăn năn. Gioan còn cảnh tỉnh dân chúng hãy tỉnh thức vì Chúa đã đến giữa dân Người. Gioan đã nhận mình là người làm chứng cho Đấng Messia. Ông chĩ là tiếng kêu trong hoang địa để dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Vâng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những bất công và hận thù, vẫn còn đó những giọt nước mắt lầm than, cơ cực. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người đau khổ triền miên, vẫn còn đó những mảnh đời đói khát cơ hàn. Họ đang cần chúng ta làm chứng cho sự hiện diện của Chúa giữa thế gian. Họ cần chúng ta làm chứng, không phải bằng lời nói mà bẳng hành động. Họ cần chúng ta dám dành cho họ những cái nhìn cảm thông, những lời ủi an khích lệ, thay cho thái độ bàng quan, dửng dưng trước nỗi khổ của đồng loại. Họ cần chúng ta dành cho họ những nghĩa cử bác ái, vị tha. Họ cần chúng ta sống yêu thương, để giới thiệu cho họ một Thiên Chúa đầy yêu thương đang hiện hữu giữa cuộc đời hôm nay. Chính đời sống chứng nhân của chúng ta sẽ đem lại niềm vui cho những ai khổ đau. Chính đời sống chứng nhân của chúng ta sẽ mang lại niềm vui cho những ai đang thất vọng, đang lần mò trong đêm tối của cô đơn, buồn chán.
Có ai đó đã nói thật chí lý rằng: “sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”. Lối sống của Gioan đã lôi kéo hàng ngàn người đến với ông, nhưng liệu rằng lối sống của chúng ta có thu phục người khác hay làm cho họ thất vọng về lối sống của chúng ta? Cuộc sống của chúng ta có thực sự là món quá mang lại niềm vui cho anh em hay là gánh nặng cho anh em? Những người trong gia đình chúng ta, họ có vui vì chúng ta hay đang thất vọng vì lối sống cộc cằn, thô lỗ và lười biếng của chúng ta?
Ước gì khi nhìn vào đời sống của chúng ta, mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, vì chúng ta dám sống yêu thương tha nhân như chính mình. Và xin đừng vì lối sống thiếu đạo đức của chúng ta mà gây nên đau khổ cho tha nhân. Amen.
Cuộc đời là một chuỗi những ngày đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc luôn được tìm kiếm qua từng MV 3-A144
Cuộc đời là một chuỗi những ngày đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc luôn được tìm kiếm qua từng lứa tuổi. Từng ngày trôi qua ta vẫn mong chờ hạnh phúc đến. Con người sống dường như không thể thiếu hạnh phúc. Họ luôn khao khát. Họ luôn mong chờ. Họ luôn tìm kiếm. Nhưng dường như hạnh phúc vẫn không trọn vẹn. Hạnh phúc cũng chợt đến, chợt đi khiến con người vẫn lao đao tìm kiếm.
Có một chàng trai luôn đặt câu hỏi này với những người mà chàng cho rằng quan điểm của họ có thể giúp chàng đi đúng hướng trên con đường gian nan đi tìm hạnh phúc.
- Hạnh phúc là gì? - Hạnh phúc là tiền bạc - người thương gia giàu có đáp. - Hạnh phúc là sự nổi tiếng - một ca sĩ trả lời. - Hạnh phúc là một gia đình hòa thuận, trên dưới một lòng - một người cha đáng kính đáp. - Hạnh phúc là một công việc làm tốt, thân thể khỏe mạnh không bệnh tật - một anh công nhân nói.
...
Và còn vô số những định nghĩa mà thoạt đầu chàng đều cho là có lý và chàng cố gắng làm theo.
Năm tháng trôi qua, chàng đã có một công việc ổn định, một người vợ đảm đang cùng 2 đứa con xinh xắn, khôn ngoan. Chàng không bệnh tật gì, trái lại còn có một sức khỏe rất tốt. Chàng đã bắt đầu có tiếng trên thương trường và tiền bạc không còn là một nỗi băn khoăn gì cả.
Thế nhưng chàng vẫn chưa thỏa mãn, chàng vẫn chưa cảm thấy hạnh phúc hoàn toàn. Và chàng tiếp tục săn tìm lời giải cho câu hỏi:
- Hạnh phúc là gì?
Và một hôm tình cờ chàng thấy một ông lão ăn xin áo quần tả tơi đi trong mưa gió. Chàng dừng lại trao cho ông chiếc áo khoát của chàng. Chàng che dù cho ông. Vừa đi vừa nói chuyện. Tâm hồn chàng tự dưng cũng vui lên. Chàng chợt nhận ra hạnh phúc chính là biết giúp đỡ tha nhân. Biết cho đi mới là hạnh phúc.
Chúa Giêsu đã đến trần gian để hát khúc hát yêu thương. Ngài đã tìm niềm vui trong đời sống phục vụ. Cuộc đời Ngài cũng trở thành niềm vui cho nhân thế. Có biết bao mảnh đời bất hạnh nay tìm thấy ủi an, nâng đỡ nơi Đấng Messia. Đây chính là dấu chỉ của triều đại Nước Thiên Chúa đang đến. Một dấu chỉ tràn đầy tình thương khi những mảnh đời bất hạnh được yêu thương. Người mù được nhìn thấy. Người điếc được nghe tin mừng. Người câm nói được. Người què nhảy nhót như nai.
Như vậy triều đại của Đấng Messsia sẽ tràn ngập niềm vui cho những mảnh đời bất hạnh lầm than. Nước Chúa hiển trị cũng đồng nghĩa với việc con người sống hạnh phúc hơn khi được quan tâm chia sẻ với nhau. Trong Nước của Thiên Chúa sẽ không còn tiếng khóc của khổ đau, nghèo đói. Không còn cảnh chiến tranh loạn lạc mà tiên tri Isaia từng loan báo: người ta sẽ lấy gươm mà rèn thành lưỡi cày và mọi người sẽ hát khúc hoan ca thanh bình.
Cuộc sống sẽ đẹp hơn khi con người đùm bọc chia sẻ với nhau. Biết sống yêu thương để không ai nghèo đói trong cộng đoàn của mình. Biết sống nâng đỡ nhau để không ai ngã quỵ mà không có bàn tay cảm thông nâng đỡ. Một xã hội biết sống đùm bọc nâng đỡ nhau sẽ mang lại niềm vui hạnh phúc cho mọi phận người.
Hôm nay gọi là Chúa nhật hồng. Phụng vụ cho chúng ta thấy khuôn mặt của Đấng Messia tràn đầy tình thương của Lòng Thương Xót. Lòng Thương Xót Chúa sẽ dành cho mọi phận người. Chính Ngài khi cư ngụ giữa chúng ta sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Qua đây, Giáo hội cũng muốn chúng ta hãy rao giảng về lòng thương xót của Chúa cho anh em. Rao giảng bằng đời sống yêu thương và phục vụ. Rao giảng bằng lời nói đi đôi với việc làm. Rao giảng không phải là truyền cho họ một mớ lý thuyết mà là diễn tả lòng thương xót của Chúa qua chính đời sống của mình.
Xin cho chúng ta đủ niềm tin để phó thác vào lòng Thương Xót Chúa , đồng thời cũng trở thành nhân chứng cho Lòng Thương Xót của Chúa giữa thế gian mà lòng quảng đại, sự dấn thân vô vị lợi đang thiếu dần, ngõ hầu làm cho triều đại Chúa luôn rạng rỡ trên thế gian. Amen.
Bấy giờ, ông Gioan tẩy giả “đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ MV 3-A145
Bấy giờ, ông Gioan tẩy giả “đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Thầy có thật là Đấng cứu thế được Thiên Chúa sai đến không? Hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
Trước câu hỏi của Gioan, Chúa Giêsu không dùng lời nói để trả lời, nhưng dùng chính việc Ngài làm để minh chứng Ngài là Đấng cứu thế. Ngài liền chỉ cho các môn đệ của Gio-an thấy những việc Ngài đang làm và bảo: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy, tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người phong hủi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng.”
Việc Chúa Giêsu cho người mù xem thấy, kẻ điếc được nghe, người què được đi, người phong hủi được sạch, người chết sống lại… là những dấu chỉ biểu trưng cho sứ mạng cứu độ của Ngài.
Sứ mạng làm cho muôn người được thấy
Khi cho người mù được thấy, Chúa Giêsu tỏ cho biết Ngài sẽ mở mắt cho nhân loại được “thấy” những sự thật lớn lao.
Sự thật lớn lao nhất mà Chúa Giêsu tỏ bày cho loài người là Thiên Chúa đã sinh ra mỗi một người trên mặt đất và là Cha thật của mọi người.
Chúng ta hãy dành ít phút để tìm hiểu sự thật hết sức quan trọng này.
Để sản xuất bánh mì, trước hết người thợ bánh phải tạo ra chiếc lò nướng rồi dùng chiếc lò này mà tạo ra những chiếc bánh…
Tương tự như thế, để cho mỗi người chúng ta được sinh ra đời, Thiên Chúa cũng đã tạo ra ông bà cha mẹ chúng ta và cậy nhờ cha mẹ chúng ta cộng tác với Ngài để sinh ra mỗi chúng ta.
Nếu những chiếc bánh mì có sự sống và trí khôn, ắt chúng có thể biết chiếc lò nướng là lòng mẹ đã tạo ra chúng, vì sự thật sờ sờ trước mắt là chúng từ trong lò nướng mà ra; lò nướng đã cưu mang chúng một thời gian và cho chúng ra đời. Còn sự thật cao xa hơn là người thợ bánh chủ động làm ra chúng thì chúng không thể biết được. Cần phải có ai đó giảng giải cho, thì chúng mới có thể biết được người thợ bánh là nguyên nhân đệ nhất tạo ra chúng, chứ không phải lò nướng.
Cũng thế, như những chiếc “bánh mì có trí khôn” trên đây, người ta dễ dàng nhận ra cha mẹ dưới đất - tạm ví các ngài như chiếc lò nướng bánh - là người sinh ra mình. Đây là sự thật sờ sờ trước mắt nên ai cũng thấy, tuy nhiên người ta rất khó nhận ra sự thật cao xa hơn, là Thiên Chúa đã sinh ra không những chúng ta mà cả ông bà cha mẹ chúng ta nữa.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa ngôi hai từ trời xuống thế, chỉ mình Ngài mới biết được quy trình tạo dựng con người, đã khai mở đôi mắt tâm hồn, giúp chúng ta thấy được sự thật là Thiên Chúa đã sáng tạo nên tổ tiên, ông bà, cha mẹ chúng ta và kêu mời cha mẹ chúng ta cộng tác với Ngài để sinh ra mỗi người chúng ta. Tự khả năng riêng, cha mẹ không thể sinh được một con mắt, một ngón tay… thì làm sao có thể sinh ra nguyên cả một con người?
Như thế, Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất tạo dựng nên con người, là Cha thật của mọi người.
Và khi bày tỏ cho con người biết Thiên Chúa đã sinh ra mọi người, Chúa Giêsu cũng “mở mắt” cho ta thấy mọi người trên mặt đất đều là anh chị em con cùng một Cha. Sự thật này là nền tảng để xây dựng thế giới thành một đại gia đình đầm ấm yêu thương.
Sứ mạng làm cho muôn người được nghe
Qua việc làm cho người điếc được nghe, Chúa Giêsu cho thấy sứ mạng của Ngài là “mở tai” cho muôn dân nghe biết những điều khôn ngoan Ngài mang từ trời xuống ban cho nhân loại. Kho tàng khôn ngoan này là nền tảng vững chắc để xây dựng một thế giới hòa bình, huynh đệ và hạnh phúc, là ánh sáng soi đường cho nhân loại tìm về chân, thiện, mỹ.
Ngoài ra,
- Khi cứu chữa người phong hủi được lành sạch, Chúa Giêsu tiên báo Ngài sẽ gột rửa con người khỏi tội lỗi làm ô uế linh hồn;
- Khi cho người chết sống lại, Chúa Giêsu tiên báo Ngài sẽ mang lại sự sống vĩnh hằng cho muôn dân…
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã “mở mắt” cho chúng con nhìn thấy những sự thật cao quý, đã “mở tai” cho chúng con nghe được vô vàn điều khôn ngoan bởi trời.
Xin cho chúng con đừng bao giờ nhắm mắt trước những sự thật cứu độ, đừng bao giờ bưng tai trước những giáo huấn mang lại sự sống đời đời… trái lại, luôn biết mở mắt để chiêm ngưỡng sự thật tuyệt vời và mở tai để đón nhận kho tàng khôn ngoan mang lại niềm vui, sự sống và hạnh phúc đời đời cho chúng con.
Tiếng La-tinh “Adventus” có nghĩa là “Đến”, ban Phụng tự Giáo hội Việt Nam dịch là Mùa Vọng MV 3-A146
Tiếng La-tinh “Adventus” có nghĩa là “Đến”, ban Phụng tự Giáo hội Việt Nam dịch là Mùa Vọng theo nghĩa “sự trông chờ, mong đợi”. Mùa Vọng là mùa dân It-ra-en trông đợi Chúa đến lần thứ nhất và vì thế nên toàn dân Do-thái hãy “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi.” (Xp 3, 14). Như vậy, Mùa Vọng là thời gian trông chờ mong đợi điều tốt lành sắp đến, rất hợp với chủ đề chính của Mùa Vọng là sự chuẩn bị mừng ngày Đấng Cứu Độ Giêsu giáng sinh cách đây trên 20 thế kỷ.
Tuy nhiên, học thuyết Thánh Kinh hiện đại cho rằng đây là sự chuẩn bị tâm linh nhằm hướng đến cuộc trở lại để phán xét thế gian của Chúa Giêsu trong tương lai. Bài đọc 2 hôm nay là một minh hoa: “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới.” (Gc 5, 7-8). Đó cũng là lý do giải thích vì sao Giáo hội luôn kêu gọi người tín hữu hãy tỉnh thức và sẵn sàng đón chờ “Ngày Chúa quang lâm”; vì ngày đó sẽ đến một cách bất ngờ không ai lường trước được, như Lời cảnh tỉnh của chính Con Người (“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” – Mt 24, 42-44).
Người ta thường ví thời Cựu Ước như một đêm trường của nhân loại. Tuy rằng loài người sống trong đêm đen, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương và gặp gỡ con người (như trên núi Si-nai, như gặp gỡ tổ phụ Áp-ra-ham, các tiên tri, ngôn sứ…, để thông qua các vị này mà gặp gỡ mọi người. Ngoài ra, còn biết bao nhiêu cuộc gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa nữa, nhưng chưa được ghi lại bằng sấm ký, sách vở...), chính điều này đã thắp lên một ngọn đèn hy vọng cho nhân loại. Và cũng vì hy vọng là trông đợi điều tốt lành, nên mới nói thời Cựu Ước là mùa trông đợi (Vọng) Chúa đến lần thứ nhất.
Con người sống trên đời, đối với điều dữ, điều xấu thì thường sợ hãi, lo lắng, tìm mọi cách để tránh né, chớ chẳng ai dại gì mong nó tới. Người ta chỉ mong đợi (hy vọng) những điều phúc đức, tốt lành. Khi người ta tìm cách tránh né điều xấu vì lo âu, sợ hãi, thì thường buồn rầu, lo sợ (bi quan); nhưng khi trông đợi điều tốt lành thì thường phấn khởi vui mừng (lạc quan). Đó là lý do Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa nhật “Hãy vui lên”. Vâng, “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò.” (Is 35, 1-2). Mừng vui lên vì này Đấng Cứu Tinh đã tới, mà khi Người tới thì: “những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ,… những đầu gối bủn rủn được vững vàng, mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò… nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.” (Is 35, 3-6).
Lời tiên báo từ 5 thế kỷ trước công nguyên của ngôn sứ I-sai-a đã trở thành hiện thực, mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên Tân Ước Cứu Độ – do chính Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, thực hiện. Người là “Đấng phải đến” và đã đến để làm cho “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” (Mt 11, 5). Người đã đến, đã nói, đã dạy và đã làm nhiều đến độ không bút mục nào có thể kể hoặc ghi lại cho hết được; thật đúng như lời Gio-an Thánh sử: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25).
Thông thường, con người nếu phải sống một cuộc đời khổ nhọc, bất hạnh, tất sẽ sinh bi quan, yếm thế. Cuộc đời như vậy được ví như sống trong đêm đen, tối tăm, lạnh lẽo. Tuy nhiên, ý chí sinh tồn luôn tồn tại trong mọi động vật, cho dù là con sâu cái kiến cũng tham sinh uý tử, huống chi con người có tri giác. Đó chính là lý do giải thích tại sao con người tuy vẫn ngồi “nguyền rủa bóng tối”, nhưng vẫn không quên tìm mọi cách “thắp lên một ngọn đèn”. Nói khác hơn, cho dù là bi quan yếm thế đến bậc nào chăng nữa, thì cũng vẫn nuôi những hy vọng ngọn đèn đổi đời sẽ được thắp lên. Niềm hy vọng ấy thúc đẩy con người kiên trì vươn tới, vượt thắng chông gai, hoàn thành chí nguyện. Xét về lý thì đó là lẽ đương nhiên, còn xét về tình thì cũng không thiếu những trường hợp chỉ biết ngồi nguyền rủa bóng tối cho đến khi tự huỷ hoại cuộc đời của mình vì bi quan, bi lụy. “Thất bại là mẹ thành công” biến thành “thất bại là cha thất vọng” cũng là vì thế.
Sống là hy vọng, hy vọng giúp con người – bất kể là già, trẻ, lớn, bé – lạc quan tiến tới tương lai. Đã gần tới Tết Nguyên Đán, gặp một em nhỏ thử đặt một câu hỏi “Cháu có mong Tết tới không? Mong tới Tết để làm gì?” và sẽ được em trả lời ngay với vẻ phấn khởi: “Cháu rất mong cho mau tới Tết, vì tới Tết cháu sẽ được mặc quần áo mới và có nhiều tiền lì xì”. Với những người nghèo thì hy vọng một cuộc đổi đời, nhưng còn với những người giàu có, quan quyền, thì họ cũng vẫn hy vọng ngày một giàu hơn, được thăng quan tiến chức cao hơn. Ngay đến cả những người tưởng chừng đã đạt đến đỉnh vinh quang rồi, cũng vẫn hy vọng được hơn thế nữa hoặc ít ra thì cũng hy vọng cuộc sống vương giả sẽ kéo dài miên viễn. Cho tới khi đã gần đất xa trời, biết chắc là mình sẽ gặp thần chết, nhưng vẫn hy vọng đời sau sẽ được đầu thai vào nơi giàu sang, quyền quý, hoặc nếu có niềm tin tôn giáo thì lại hy vọng mình sẽ được lên thiên đàng, lên niết bàn, thậm chí đến kẻ vô thần cỡ bự cũng vẫn nói rằng mình sắp được sang thế giới người hiền gặp cụ nọ, cụ kia (!).
Hãy dừng lại một chút với những người tự tử, ai cũng chung một nhận xét là những người tìm đến cái chết là những người đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút tin tưởng nào nơi cuộc sống, cho dù là tự tử vì tình, vì tiền, vì bị ngược đãi hoặc bất cứ lý do gì khác. Ở một tình huống thất vọng đến cùng cực như vậy, họ tìm đến cái chết để hy vọng được giải thoát. Chính điều này lại một lần nữa khẳng định hy vọng sẽ giúp con người có được một quyết tâm hành động. Như thế để thấy rằng, trong chán chường tuyệt vọng vẫn có hy vọng giải thoát khỏi cảnh bĩ cực tột cùng, vẫn hy vọng "hết cơn bĩ cực tới hồi thái lai" (tục ngữ VN), trong nỗi bi quan yếm thế vẫn manh nha niềm lạc quan đổi đời. Đó mới chỉ là những hy vọng về một tương lai theo truyền thuyết, theo quan niệm chung của loài người, chưa thật sự có cơ sở vững chắc.
Với Ki-tô hữu thì khác hẳn, chúng ta đã có những nhân chứng hiện thực và rất sống động "đã nghe, đã thấy, đã chiêm ngưỡng, đã chạm đến" sự kiện lịch sử Ngôi Lời nhập thể bằng xương bằng thịt ("Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống." – Ga 1, 1). Vậy thì tại sao lại không cùng vui lên mừng đón ngày Chúa quang lâm, bởi "Chính Người sẽ đến cứu anh em" (Is 35, 4)? Tại sao lại cứ "phàn nàn kêu trách lẫn nhau", mà không biết "kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới" (Gc 5, 8-9)? Đã đành "cái khó bó cái khôn", nhưng vẫn có thể "trong cái khó sẽ ló cái khôn" (tục ngữ VN), nếu biết học theo Thánh Gia-cô-bê tông đồ, đừng "phàn nàn kêu trách lẫn nhau", mà bền tâm vững chí, kiên trì cầu nguyện, tìm kiếm, cố gắng "thắp lên một ngọn đèn" hy vọng. Đừng tuỵêt vọng trước cái khó để đi tới tự huỷ hoại, mà hãy vui lên vì Đấng Khôn Ngoan đã tới, đang tới và sẽ tới.
Trong bài giảng Chúa nhật 3 Mùa Vọng tại Vương Cung Thánh Đường La-tê-ra-nô ngày 13/12/2015, ĐTC Phan-xi-cô nói: “Lời mời gọi của vị Ngôn sứ dành cho người Giê-ru-sa-lem thời xưa cũng hướng về toàn thể Giáo hội trong thời đại hôm nay, và hướng về mỗi chúng ta: “Vui lên, mừng vui lên!“ (Is 35, 1). Lý do của việc vui mừng được diễn tả thông qua những lời mang đến niềm hy vọng cũng như cho phép người ta nhìn về tương lai một cách bình thản. Thiên Chúa đã xóa bỏ tất cả mọi lời kết án cũng như đã quyết định đến sống giữa chúng ta. Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng này hướng cái nhìn chúng ta về Đại Lễ Giáng Sinh đang càng ngày càng đến gần. Chúng ta không được phép để cho mình bị khống chế bởi sự mệt mỏi; và chúng ta cũng không được phép buồn rầu ngay cả khi chúng ta có nhiều những lý do để buồn, chẳng hạn như vì có nhiều sự lắng lo cũng như có rất nhiều hình thức bạo lực mà chúng đang gây tổn thương cho nhân loại chúng ta. Nhưng cuộc quang lâm của Chúa sẽ lấp đầy con tim chúng ta với niềm vui.” (nguồn: Vatican.net).
Ước mong bản thân cũng như tất cả mọi Ki-tô hữu ý thức được vấn đề như lời dạy của ĐTC, ngõ hầu “cuộc quang lâm của Chúa sẽ lấp đầy con tim chúng ta với niềm vui“. Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Ðấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.”
Không phải ngẫu nhiên, các bài đọc phụng vụ trong chúa nhật thứ ba mùa vọng lại kêu gọi: “Hãy MV 3-A147
TMĐP- Không phải ngẫu nhiên, các bài đọc phụng vụ trong chúa nhật thứ ba mùa vọng lại kêu gọi: “Hãy vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông; hãy tưng bừng nở hoa như hóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò” (Is 35,1-2).
Sở dĩ hôm nay niềm vui muà vọng được lung linh thắp sáng trong tâm hồn mỗi người và như đêm vọng phục sinh, ánh sáng Chúa Kitô từ cây nến phục sinh tỏa sáng niềm vui sống lại qua ngọn nến cháy trên tay mọi người trong nhà thờ, chính là chúng ta sắp được nghênh đón Đấng Thiên Chúa sai đến để thương xót, cứu độ toàn thể nhân loại.
Chúng ta không vui sao được khi được thấy, được nghe những việc kỳ diệu Đức Giêsu đã làm cho những người đau khổ, bất hạnh, đáng thương như chính Ngài đã trả lời cho các môn đệ của Gioan Tẩy Giả: “Các anh cứ về thuật lại cho Gioan, những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11, 4-5).
Không vui sao được vì dưới mắt Đức Giêsu, “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả”, mặc dù chính Ngài đã tuyên dương ông: “Trong số phàm nhân lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan” (Mt 11,11).
Như thế, niềm vui trông đợi Chúa đến của người tội lỗi, yếu hèn, bé nhỏ, vô danh tiểu tốt chính là niềm vui biết mình được thương xót, mà không bị chối bỏ; biết mình được khoan hồng mà không bị lên án, luận phat; biết mình được thứ tha mà không phải đền nợ xương nợ máu; biết mình được trắng án, xoá tội, và được nhận lại quyền làm con, mà không bị nguyền rủa, cắt đứt tình nghĩa; nhất là biết mình tuy bé nhỏ, nhưng không bị Thiên Chúa hắt hủi, lãng quên như thói đời thường làm, trái lại, càng nhỏ bé, càng được Thiên Chúa yêu thương, cưng chiều.
Niềm vui ấy còn dâng cao vời vợi khi “thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta” khi Người “làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng” (Is 35,2-3).
Và niềm vui cứ mãi lan toả, lớn lên khi lời Thiên Chúa phán với “ những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi… Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35,4).
Thực vậy, lý do cho chúng ta vui mừng, can đảm mà không sợ hãi, sầu buồn, thất vọng giữa những trái ý nghịch lòng, cũng như nghịch cảnh, vì Thiên Chúa đến với chúng ta với sức mạnh toàn năng của tình yêu thương xót, và lòng thương xót ấy không chỉ xóa sạch tội lỗi và giải thoát chúng ta, nhưng còn làm tươi trẻ tuổi thanh xuân, cho nét mặt chúng ta “rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu”, và “được hớn hở tươi cười”, khi đau khổ, khóc than không còn (x. Is 35, 10).
Tuy thế, niềm vui mùa vọng sẽ chỉ xum xuê hoa trái thiêng liêng, nếu chúng ta biết kiên nhẫn đợi chờ ngày Chúa đến, như thánh Giacôbê tông đồ đã căn dặn: “Xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu qúy giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí” (Gc 5, 7-8). Nhưng để có thể kiên trì chờ đợi mà không nóng lòng kêu than, trách móc, thánh nhân khuyên chúng ta giữ trong tâm trí chân lý: “Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu” (Gc 5,11).
Vâng chính “lòng từ bi, nhân hậu, chậm bất bình và rất đỗi khoan dung của Thiên Chúa” mới đích thực là nguồn vui vô tận, vô cùng cho tất cả chúng ta, những con người tội lỗi, yếu đuối, nhiều giới hạn trên hành trình hy vọng được gặp Chúa là Đấng yêu thương, cứu độ.
Nếu ai đó mang lại hạnh phúc hoặc những gì mà người ta ước ao, thì khi người đó đến, người ta MV 3-A148
Nếu ai đó mang lại hạnh phúc hoặc những gì mà người ta ước ao, thì khi người đó đến, người ta vui đến độ nào!
1. Ngài có phải là Đấng phải đến?
Người Do Thái tin rằng, Thiên Chúa sẽ sai người đến (Đấng Thiên Sai) giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ ngoại bang, như xưa Thiên Chúa đã sai Môsê và các thẩm phán tới giải phóng dân Ngài. Vì thế những người Do Thái sống thời bị người Roma đô hộ, mong chờ Đấng Thiên Sai đến giải phóng họ. Yoan Tẩy Giả, tiên tri của thời đó, cũng ao ước muốn biết Đức Yêsu có phải là Đấng Thiên Sai không. Vì đang trong tù không thể tự mình đi tìm biết câu trả lời nên tiên tri đã sai môn đệ đến hỏi Đức Yêsu: Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải chờ một Đấng khác?
Đấng phải đến sẽ đến, Đấng nhân danh Thiên Chúa sẽ đến, và con người sẽ được giải phóng, không phải là cảnh nô lệ chính trị, nhưng là nô lệ hận thù ghen ghét, nô lệ những tiêu chuẩn giá trị phù vân, nô lệ những kiến thức hão huyền. Ngài yêu thương và dạy người ta yêu thương, Ngài cho thấy giá trị đích thực của con người không nằm ở bạc tiền danh vọng địa vị, nhưng hệ tại con người sống theo lời mời gọi của Thiên Chúa vang vọng trong tâm hồn mỗi người, hệ tại con người biết yêu thương tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, hệ tại mỗi người có biết tìm cách giúp đỡ tha nhân và làm cho người khác triển nở.
Tuy dù háo hức mong chờ Đấng Thiên Chúa sai đến giải phóng mình ra khỏi cảnh bị áp bức lầm than, người Do Thái vẫn không nhận ra Đức Yêsu là Đấng Thiên Sai, vì Ngài đã không giải phóng họ khỏi ách đô hộ của người Roma. Đấng Thiên Sai mà người Do Thái mong chờ, là Đấng Thiên Sai uy quyền mà mọi người phải kính phục, trong khi Đức Yêsu âm thầm khiêm tốn, dạy bảo phải yêu thương con người, phải biết thứ tha…! Hình ảnh Đấng Thiên Sai mà người Do Thái đã có, không tương hợp với điều người ta thấy nơi Đức Yêsu.
Người Do Thái mong chờ được giải phóng chính trị, Đức Yêsu mang lại giải phóng thiêng liêng và cả thể xác nữa. Thiên Chúa làm quá điều người ta mong ước, và người ta không ngờ được. Thiên Chúa là Đấng người ta không hiểu hoàn toàn, Ngài tốt lành vượt khả năng suy nghĩ của con người. Ngài ban cho con người hơn điều con người mơ ước và có thể tưởng tượng nổi.
2. Hãy để Ngài giải phóng và làm chủ trái tim ta
Ngày Đấng mang lại niềm vui và hạnh phúc cho toàn dân đến, là ngày vui của tất cả, ngay cả hoang địa và đất khô cằn cũng nhẩy mừng, thảo nguyên sẽ nở hoa. Ngày đó, trời vui đất vui, khắp thiên hạ vui.
Làm sao không vui khi mình được giải phóng khỏi nô lệ, nô lệ cho lòng tham tiền bạc, tham danh vọng chức quyền. Vui vì mình có điều mình quý nhất, vui vì không ai cướp được điều vô cùng quý mà mình đang có, vui vì mình được yêu vô cùng, vui vì mình là niềm vui và hạnh phúc cho người khác.
Đấng giải phóng chúng ta đã và đang đến. Ngài vẫn để chúng ta tự do, để chúng ta có thể đón tiếp Ngài hay không. Vi nếu Ngài là vua là Chúa của lòng ta, nếu ta sống theo lời Ngài chỉ dạy, ta sẽ được tự do thanh thản trước tất cả. Tự do, là thái độ nền tảng của tương quan với Thiên Chúa. Ngài không cưỡng ép ai, Ngài không bó buộc ai phải theo Ngài “một cách mất tự do”, Ngài dùng tình yêu để “chinh phục” con người. Ngài chấp nhận hậu quả của tự do: con người có thể từ chối Ngài lúc này, nhưng Ngài cũng “hy vọng” sẽ chinh phục được trái tim khô cứng của con người, sẽ làm trái tim “chai như đá” của con người thành “trái tim bằng thịt”, nghĩa là, biết rung động trước tình yêu chân thật của Thiên Chúa. Hãy để Ngài làm chủ trái tim ta.
3. Kiên nhẫn sống trong niềm vui và hy vọng từng ngày
Yoan Tẩy Giả thực hiện sứ mạng của mình một cách hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Tuy dù đã làm phép rửa cho Đức Yêsu ở sông Yordan, nhưng Yoan cũng vẫn không biết rõ nguồn gốc của Đức Yêsu. Là người, có những lúc ta xác tín, nhưng lại có lúc ta hoài nghi. Yoan Tẩy Giả hoài nghi, hay Yoan Tẩy Giả muốn tạo dịp để các môn đệ của ông biết Đức Yêsu? Dầu sao, Yoan Tẩy Giả muốn có một câu trả lời từ chính Đức Yêsu cho những người Yoan Tẩy Giả gởi đi. Đức Yêsu trả lời môn đệ của Yoan Tẩy Giả: “hãy về nói với Yoan điều mắt đã thấy và tai đã nghe: kẻ mù được thấy, kẻ què đi được, người phong được sạch, và người nghèo được nghe rao giảng Tin Mừng.”
Dường như tất cả chúng ta, kể cả các tiên tri, cũng đều ở trong tình trạng “sống trong đêm tối đức tin”. Các tiên tri cũng “phải” tin để thi hành sứ vụ, và các tiên tri cũng “phải” tin để đón nhận mặc khải. Yoan Tẩy Giả truy tầm Đấng Thiên Sai, hàm chứa thái độ lắng nghe và đón nhận, phản ánh tinh thần khiêm tốn và sẵn sàng chấp nhận thánh ý Thiên Chúa trong đời mình.
Thư thánh Yacôbê viết: “hãy kiên nhẫn”, “đừng càm ràm lẫn nhau”. Yoan Tẩy Giả phải sống thực tại đời của Ngài từng ngày, phải chấp nhận cảnh tù tội và cuối cùng là cái chết “không nổi đình nổi đám”. Đức Yêsu cũng sống từng ngày thân phận làm người với cái đói, lời khen tiếng chê. Và cả chúng ta cũng tương tự vậy, vẫn sống từng ngày với thân phận làm người: tiền bạc, danh vọng chức quyền, lời khen tiếng chê, sự hiểu lầm cùng khích bác. Thiên Chúa đang đến qua tất cả những thực tại đời mình. Hãy vui lên trong mọi hoàn cảnh.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Mấy ngày nay, mấy tuần nay, tôi bận tâm về điều gì nhất? Điều đó làm tôi bình an và hạnh phúc hơn hay ngược lại? Tại sao? 2. Theo bạn, làm sao để mình vui mỗi ngày? 3. Theo bạn, học biết về điều gì hoặc nghề gì làm mình hạnh phúc bây giờ và suốt đời? Tại sao?
Một ý tưởng nổi bật dễ nhận thấy khi nghe các Bài đọc Lời Chúa trong Phụng vụ Chúa nhật thứ MV 3-A149
Một ý tưởng nổi bật dễ nhận thấy khi nghe các Bài đọc Lời Chúa trong Phụng vụ Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng, đó là niềm vui. Cùng với ngôn sứ Isaia, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vui lên. Đây là niềm vui của ngày chiến thắng, niềm vui của người nông dân trong ngày gặt lúa, niềm vui của người được trở về quê cha đất tổ sau bao năm xa cách, niềm vui của cô dâu chú rể và khách dự tiệc cưới. Quan trọng hơn cả, đó là niềm vui vì có Chúa hiện diện giữa dân Người.
Thiên Chúa hiện diện. Còn niềm vui nào lớn lao hơn. Chúa từ trên cao, Đấng ngự trên chín tầng trời, nay hạ cố xuống trần gian để gặp gỡ con người, tâm sự với họ bằng tình thương yêu trìu mến. Những lời ngôn sứ Isaia được tuyên bố vào lúc người Do Thái còn đang bị lưu đày ở Babylone. Niềm hy vọng được giải phóng đã thôi thúc họ. Phải đặt mình vào bối cảnh cụ thể của thời lưu đày mới thấy được niềm vui của họ lớn lao như thế nào. Thiên Chúa sẽ giải phóng dân Người. Không chỉ là niềm vui của người lưu đày được trở về cố hương, mà đó còn là niềm vui của thời Thiên Sai: mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc nghe được, người què sẽ nhảy nhót, người câm sẽ reo hò. Từng câu chữ trong lời ngôn sứ đều diễn tả niềm vui tròn đầy.
Phụng vụ Chúa nhật thứ ba của Mùa Vọng mượn lời ngôn sứ Isaia để kêu mời chúng ta hãy vui mừng, vì Đấng Thiên Sai đã đến trong lịch sử và Người đang hiện diện giữa chúng ta. Ngày 25-3-2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ký và cho công bố Tông huấn gửi người trẻ với tựa đề “Chúa Kitô đang sống – Christus vivit”. Ngài mở đầu Tông huấn như sau: “Chúa Kitô đang sống! Người là niềm hy vọng của chúng ta, và là tuổi trẻ đẹp nhất của thế giới này. Tất cả những gì Người chạm đến đều trở nên tươi trẻ, mới mẻ, tràn đầy sức sống” (số 1). Sự hiện diện của Đức Giêsu đem lại cho chúng ta niềm vui. Người không giống như các vĩ nhân khác của lịch sử, bởi họ là những nhân vật đã đi vào dĩ vãng, dù giáo huấn và tư tưởng của họ có giá trị cho mọi thời đại. Đức Kitô không phải là một nhân vật của quá khứ, nhưng Người đang sống giữa chúng ta. Mùa Vọng và lễ Giáng Sinh nhắc cho chúng ta chân lý quan trọng này.
Giáo Hội Kitô khẳng định Đức Kitô đang sống. Tuy vậy, dường như những dấu hiệu của thời Thiên Sai vẫn chưa đến. Nhân loại hôm nay bị xâu xé bởi bạo lực và xung đột. Cuộc sống còn đầy những gian dối mưu mô hòng huỷ diệt và loại trừ lẫn nhau. Đâu là cuộc sống hài hoà phong phú đến mức “chảy sữa và mật” như Giáo Hội vẫn loan báo? Không ít người hoang mang và lạc hướng khi chứng kiến sự dữ tồn tại trên thế gian này. Lời Chúa hôm nay khích lệ chúng ta: hãy kiên nhẫn. Thánh Phaolô dùng hình ảnh của một người nông phu để diễn tả sự kiên nhẫn này. Người nông phu gieo hạt, kiên nhẫn chờ đợi. Ông kiên nhẫn vì ông biết chắc hạt giống sẽ nảy mầm. Ông cũng tin rằng không thể “đốt cháy giai đoạn” được, nhưng phải dần dần từng bước. Qua hình ảnh này, vị Tông đồ dân ngoại mời gọi các tín hữu: “đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa vị Thẩm phán đang đứng ngoài cửa”. Nếu thời điểm phán xét chung trong ngày tận thế còn xa vời, thì giờ phút phán xét riêng mỗi người lại rất gần kề. Quả thật, cái chết không chờ đợi người ta đến tuổi già, mà nó đến bất thình lình. Xung quanh chúng ta, có những người còn ít tuổi, mà đã kết thúc cuộc đời một cách rất đột ngột. Bất kể xã hội lạc hậu hay văn minh, cuộc sống vẫn mong manh và vô thường.
“Hãy kiên nhẫn và giữ mình để khỏi vấp phạm”. Đó là thông điệp Chúa Giêsu muốn gửi cho ông Gioan Tẩy giả và gửi đến chúng ta hôm nay. Đọc bài Phúc âm hôm nay, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng: Gioan Tẩy giả là người mạnh mẽ và xác tín đến thế, mà cũng có lúc bị dao động. Nếu Đức Giêsu đích thực là Đấng Thiên sai, sao ông phải giam tù đau khổ như thế? Ông can đảm phê phán lối sống vô đạo đức của vua Hêrôđê, sao bây giờ phải cô đơn và dường như bị quên lãng trong ngục tối? Đức Giêsu nhắn gửi Gioan Tẩy giả: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Không phải vì tâm trạng dao động mà Gioan Tẩy giả trở nên tầm thường. Chúa Giêsu đã công khai khen ngợi ông, và gọi ông là người cao trọng nhất trong số những phàm nhân đã lọt lòng mẹ. Ông cao cả vì ông là người khiêm tốn dọn đường cho Chúa đến. Ông cũng cao cả vì ông chấp nhận những khó khăn về mình, miễn là Đấng Thiên Sai được biết và được yêu mến.
Lời kêu gọi vui mừng của Mùa Vọng không phải là một ảo tưởng. Đó cũng không phải là lời ru ngủ chúng ta để quên đi những bất công khó nhọc của cuộc sống. Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta, như lời khẳng định của Người: “Này đây, Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Đó là câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ. Đó cũng là cốt lõi Đức tin Kitô giáo, tồn tại vững bền từ hai mươi thế kỷ.
Hãy vui mừng vì có Chúa hiện diện giữa chúng ta. Hãy kiên nhẫn dẫu cuộc đời còn nhiều thử thách gian nan. Giữa những chông gai thử thách này, ai trung thành, sẽ được Chúa ban thưởng. “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Đó cũng là lời Chúa Giêsu đang nhắn gửi chúng ta hôm nay.
Sau khi kêu gọi toàn dân ăn năn thống hối và cảnh báo nhóm Pharisêu, Gioan Tẩy Giả đi thẳng MV 3-A150
Sau khi kêu gọi toàn dân ăn năn thống hối và cảnh báo nhóm Pharisêu, Gioan Tẩy Giả đi thẳng vào dinh vua Hêrôđê, giảng cho “tên cáo già dâm loạn Hêrôđê”. Hậu quả là ông phải ngồi tù chờ ngày rơi đầu. Những môn đệ của Gioan đến thăm và kể cho Gioan nghe những gì ông Giêsu thành Nadaret đã giảng, đã làm… Gioan tư lự: Ai vậy? Ông phái một số người đến với Chúa Giêsu để xác định rõ ông ấy là ai? Họ hỏi Chúa: “Ông có phải là người chúng tôi mong đợi không?”
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp, Ngài chỉ bảo họ và về kể lại cho Gioan nghe những gì họ chứng kiến tận mắt, nghe tận tai: Kẻ què đi được, kẻ mù được thấy, kẻ câm nói được… Đó là những điều tiên tri Isaia đã loan báo:
“Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, Tai người điếc được mở ra Người què trệt sẽ nhảy như nai Và những người được cứu chuộc sẽ trở về Xion, miệng đầy lời ca…”
Ưu tư của Gioan trở nên một dịp tốt để Chúa Giêsu minh chứng cho mọi người và cho cả chúng ta, sứ mệnh thiên sai của Ngài. Ngài là Đấng làm trọn lời tiên báo của tiên tri Isaia về Đấng Thiên Sai.
Tại sao Gioan lại ưu tư và hoài nghi?
Thánh Matthêu đã tường thuật những gì Gioan đã giảng. Gioan đã trình bày cho dân ngày Thiên Chúa đến như một cuộc thanh trừng kẻ có tội, và cuộc cứu thoát người công chính. Ngày ấy là ngày đáng sợ, kinh hoàng vì quyền phép công thẳng của Chúa sẽ tỏ ra những việc lạ lùng, kinh khiếp. Thiên Chúa oai phong sẽ thịnh nộ, sẽ tiêu diệt những người gian ác như người ta đốn những cây khô, như sàn sân lúa…
Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài đến trong sự vô danh, bàn tay quyền năng của Ngài chỉ biết phục vụ và thương xót. Ngài đã trở nên hình ảnh của lòng nhân hậu.
Phải, Gioan có lý để hoài nghi. Ông tiên báo một Đấng Thiên Sai đầy oai phong và thịnh nộ, ông nghe nói đến một vị tiên tri nhân hậu và hòa bình: “Ngài sẽ lấy công minh mà xét xử người nghèo khó và lấy lòng chính trực bênh đỡ kẻ hiền lành”. Ngài sẽ thống trị một thế giới hòa bình và yêu thương. Không còn hận thù chiến tranh. Gươm đao, người ta sẽ rèn nên lưỡi cày. Không còn cảnh tương tàn ghê sợ. Ngay cả loài vật cũng hòa bình chung sống:
Sói sống chung với chiên con, Beo nằm chung với dê, Bò con và gấu sẽ ăn chung, Trẻ con sẽ thọc tay vào hang rắn độc”.
Ngài đến chinh phục thế giới, không bằng cơn thịnh nộ mà tình thương, Ngài sẽ không tiêu diệt kẻ tội lỗi mà cứu vớt tất cả sinh linh…
“Hãy về trả lời cho Gioan như các ngươi đã thấy đã nghe, người mù được thấy, kẻ què được đi…”
Và Ngài thêm: “Phúc cho những ai không vấp phạm vì Ta”.
Gioan nghe và đã hiểu thế nào là ơn cứu độ, thế nào là Đấng Thiên Sai. Ông ngồi chờ lưỡi gươm kết liễu đời ông trong bình an và thanh thản. Ông đã tin.
Chúng ta có ưu tư khi đứng trước những vấn đề của tâm hồn không? Chúng ta có dám nhìn sự thật của lòng mình không, có cần ơn cứu thoát không? Bao nhiêu lần trong đời, chúng ta có thấy mình là tù nhân của chính mình và mong được giải thoát không?
Nhiều người trong chúng ta mê ngủ.
Chúng ta vô lo một cách đắc tội. Chúng ta chỉ lo cơm áo, tiền bạc. Chúng ta chỉ lo giành giựt ganh đua. Chúng ta quên đi những điều thiết yếu, quên cả linh hồn. Chúng ta chỉ sống cho cái xác hay chết này. Như vậy có đáng sống không?
Chúa Giêsu không thể đứng về phía những người vô lo. Chúa đã đến mang cho chúng ta sự sống, sự sống mới, sự sống thật, sự sống yêu thương. Tình yêu của Ngài không ủy mỵ, mềm yếu như nhiều người lầm tưởng. Tình yêu của Ngài là một tình yêu anh hùng, tình yêu hy sinh. Vì thế, thế gian luôn chống đối Ngài, loại trừ Ngài. Thế giới ích kỷ và hưởng thụ của loài người không thể chấp nhận tình yêu hy sinh và anh hùng của Ngài được. Vì thế, Chúa Giêsu luôn là kẻ thù của thế giới dâm dật, phóng đảng tàn bạo này. Ngài luôn là một vấn đề cho con người hôm nay. Con người nào dám ngồi lại đặt vấn đề của đời mình sẽ gặp Chúa trong ngày phán xét.
Chúng ta dám đặt lại vấn đề cuộc sống chúng ta không? Chúng ta dám đối diện với Chúa không?
Chúng ta ngại ngùng vì chúng ta chỉ là những cây lau, cây sậy phất phơ theo chiều gió của dục tình, của đam mê vật chất. Lo ăn, lo mặc, lo vui chơi, làm sao chúng ta dám đặt lại vấn đề? Nhưng chúng ta sẽ né tránh tới bao giờ?
Chúng ta quên rằng, chúng ta được gọi vào một cuộc sống cao cả, vì trong Nước Trời “một người nhỏ nhất cũng cao trọng hơn Gioan” Chúa nói thế. Muốn cao cả, phải anh hùng, phải dám dấn thân cho tha nhân, dám từ chối sự gian ác.
Chúa Giêsu đến để thiết lập Nước Trời trong trần gian, trong từng tâm hồn. Ngài kêu gọi chúng ta làm nhân chứng cho Ngài, những “sứ thần đi trước mặt Ngài, để dọn đường cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta dám làm nhân chứng không?
Ngài là nhân chứng đầu tiên. Chúng ta sẽ là “ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người” như Gioan. Hãy lắng nghe tiếng gọi và bước tới. Chúng ta phải “lội ngược dòng” như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói. Chúng ta không thể là những cây lau cây sậy, phất phơ trước gió.
Hôm nay, trong thánh lễ này, Chúa Giêsu vẫn hiện diện như xưa Ngài đến giữa dân Ngài, nhưng dưới một hình thức nhỏ bé hơn. Ngài mong chúng ta ăn lấy Ngài để nuôi dưỡng Ngài trong chúng ta, mang Ngài vào cuộc đời. Ngài muốn thấm nhập vào thế giới vì Ngài muốn là tình yêu muôn thuở. Cha Peyriguère nói: “Ôi, Chúa Giêsu khao khát biết bao những tông đồ không chỉ nói Ngài mà sống Ngài”.