“Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!” - Ðó là lời Chúa.
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy trong bất kỳ lãnh vực nào, người ta cũng cần phải đề cao cảnh giác: MV 1-B1
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy trong bất kỳ lãnh vực nào, người ta cũng cần phải đề cao cảnh giác, có nghĩa là phải tỉnh thức và sẵn sàng.
Thực vậy, trong một quốc gia, để bảo đảm an ninh và trật tự, chính phủ phải luôn tỉnh thức bằng cách đặt các đồn canh ở các nơi trọng yếu, rồi lại còn phải thường xuyên huấn luyện các binh lính, công an và cảnh sát.
Trong một gia đình, muốn không bị trộm cắp, nhất là vào những đêm tối trời, thì chúng ta cũng phải tỉnh thức. Ngoài ra, lại còn phải nuôi thêm chó để canh giữ, làm cổng cho kiên cố, đặt ổ khóa cho chắc chắn.
Trong phạm vi cá nhân cũng thế, muốn được khỏe mạnh, thì phải sắm sẵn mũ áo, phòng lúc trời mưa cũng như lúc trời nắng. Rồi lại còn phải sắm sẵn những thứ thuốc thông thường, phòng khi cảm cúm bất ưng.
Chúng ta có biết khẩu hiệu của hướng đạo là gì hay không? Tôi xin thưa:
- Đó là khẩu hiệu: Sắp sẵn.
Powell, ông tổ của ngành hướng đạo, hồi còn là đại tá chỉ huy những cuộc chiến đấu tại Âu Châu, lần kia đoàn quân của ông có một ngàn mà phải đương đầu với địch quân những chín ngàn. Suốt trong 217 ngày đợi chờ được cứu viện, ông đã dùng chiến thuật nghi binh. Ở mặt trận, ban ngày thỉnh thoảng ông cho nổ chỗ này chỗ khác mấy trái lựu đạn. Còn ban đêm trong một vùng rộng lớn, ông cho thắp đèn sáng tại nhiều nơi, mục đích là để đánh lừa đối phương, khiến chúng tin rằng ông có nhiều lính và hiện diện ở khắp nơi, chớ có liều lĩnh mà tấn công. Khi viện binh tới, ông mới tấn công đối phương và đã dành được thắng lợi.
Giữa lúc chính phủ nước Anh định nâng ông lên cấp bậc thống tướng thì ông lại rút lui, để rồi lập nên phong trào hướng đạo, huấn luyện các em thiếu nhi trở thành những người hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Mục đích của hướng đạo là lúc nào cũng phải tỉnh thức và sẵn sàng để đương đầu với mọi hoàn cảnh.
Đối với việc linh hồn của chúng ta cũng vậy. Có nghĩa là chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách khử trừ tội lỗi, uốn nắn sửa đổi lại những tính hư tật xấu, đồng thời cố gắng thực hiện những hành động bác ái yêu thương, để bất kỳ lúc nào Chúa viếng thăm chúng ta cũng sẵn sàng thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Chúa, này con xin đến.
Nhờ đó, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào quê hương nước trời.
Để kết luận tôi xin kể lại một mẩu chuyện như sau:
Có một du khách, sau khi đã thăm viếng những danh lam thắng cảnh ở Thụy sĩ. Ông ta dừng chân trước một vườn hoa đẹp bao quanh một tòa lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ đón chào. Ông bèn lên tiếng hỏi:
- Cụ ở đây đã bao lâu rồi? - Thưa hai mươi bốn năm. - Có lẽ chủ của cụ ít khi tới đây. - Vâng, tôi chỉ mới gặp ông chủ có bốn lần mà thôi và lần cuối cách đây đã mười hai năm. - Thế thì ai thưởng thức cảnh đẹp mà cụ phải tốn công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy ? - Thưa ông, tôi làm như thể chủ tôi sẽ đến hôm nay, ngay bây giờ và ngoài ra, khi chăm sóc cho thửa vườn thì chính vợ chồng tôi được thưởng thức vẻ đẹp của muôn hoa trước hết.
Nếu như Chúa đến viếng thăm chúng ta ngay lúc này thì liệu chúng ta có tỉnh thức và sẵn sàng hay chưa ?
Hoàn cảnh soạn tác: Vào thời các thánh sử viết Tin Mừng thì các tín hữu đều nghĩ rằng Chúa: MV 1-B2
1. Hoàn cảnh soạn tác: Vào thời các thánh sử viết Tin Mừng thì các tín hữu đều nghĩ rằng Chúa sắp quang lâm. Người ta nôn nóng chờ Chúa đến để rước mình lên thiên đàng. Người ta còn nghĩ rằng ngày quang lâm sẽ đến trong vòng một thế hệ thôi, nghĩa là sẽ không có ai trong Hội Thánh phải chết trước ngày ấy. Nhưng rồi hôm nay người này chết, hôm khác người nọ chết, hết chết người này đến chết người khác mà vẫn chưa thấy Chúa quang lâm. Thế là nhiều người mệt mỏi không chờ nữa, họ sống buông trôi, lơ là việc đạo đức, chểnh mãng việc bổn phận, sống buông thả trụy lạc... Trước tình hình đó, thánh Marcô nhớ lại những lời Chúa Giêsu đã dạy và ghi lại để khuyên các tín hữu. Ý chính là tỉnh thức sẵn sàng.
2. Ý nghĩa các chi tiết trong dụ ngôn
- Ông chủ đi phương xa: Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời.
- Đầy tớ ở nhà được giao công việc: các tín hữu với bổn phận hằng ngày.
- Không biết ngày nào chủ trở về: không thể biết rõ ngày nào Chúa quang lâm trở lại. Nhưng chính vì không biết rõ lúc nào Chúa trở lại nên chúng ta lúc nào cũng phải tỉnh thức sẵn sàng.
- “Tỉnh thức sẵn sàng” nghĩa là luôn ở trong tư thế đang chu toàn bổn phận.
B. ... nẩy mầm.
1. Trong giai đoạn hiện tại xem ra như Chúa đang đi vắng, vì chúng ta không thấy Chúa làm gì hay nói gì cả, cũng giống như nhà đang vắng chủ. Trong hoàn cảnh như thế, người đầy tớ có thể có 4 thái độ:
a. “Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: những người sống buông thả phóng túng, bỏ bê hết mọi bổn phận.
b. Đi ngủ. Khi đoán chủ sắp về mới thức dậy làm việc: những người lười biếng sống đạo, chờ gần chết mới ăn năn trở lại.
c. Lo làm trọn việc bổn phận chủ giao, để nếu chủ về bất thần thì mình không bị phạt: những người lo sống đạo tốt vì sợ hoả ngục.
d. Luôn làm trọn bổn phận chủ giao, để đáp lại sự tín nhiệm của chủ, và vì lòng thương mến chủ: những người sống đạo vì lòng yêu mến Chúa.
Thực ra Chúa không vắng mặt. Ngài cho chúng ta cảm thấy Ngài vắng mặt thôi, vì tôn trọng tự do của ta, vì tín nhiệm ta, và cũng để thử xem ta thuộc hạng đầy tớ nào trong 4 hạng trên.
2. Một người mẹ thương con thì lúc nào cũng lo sẵn cơm nước trong bếp để hễ con đói là có ăn ngay. Một người vợ thương chồng thì lúc nào cũng lo nhà cửa ngăn nắp để gia đình là mái ấm cho chồng. Một đứa con thương cha mẹ thì lúc nào cũng hết sức làm tròn công việc cha mẹ giao.
3. Trong cơ thể con người, có lúc các cơ bắp, hệ thần kinh và bộ máy tiêu hóa nghỉ ngơi, nhưng con tim không bao giờ nghỉ, khi tim nghỉ là con người chết. Con tim là yêu thương.
4. Thánh Phêrô giải thích thế nào là tỉnh thức: “đừng chiều theo những đam mê... sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, đề nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em” (1 Pr 1,13-16).
5. Những nhà khảo cổ đã đào bới được thành phố Vesuve xưa kia bị núi lửa chôn vùi cách đột ngột. Người ta thấy nhiều cảnh tượng trái ngược nhau: có người chết đang khi nhậu nhẹt, có những người đang đánh nhau để tranh dành một số tiền. Nhưng đẹp nhất là hình một người lính gác vẫn đứng nghiêm, gươm giáo trong tay.
6. Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó Hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói: “Không biết hôm nay có phải là ngày tận thế hay không. Nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
Khi bị vây khốn ở đất Khuông, Khổng Tử nói: “Trời chưa muốn Đạo ta mất, thì người đất Khuông làm: MV 1-B3
Khi bị vây khốn ở đất Khuông, Khổng Tử nói: “Trời chưa muốn Đạo ta mất, thì người đất Khuông làm gì được ta ?” (LN. XIV,36 “Đạo tôi thi hành được là do mệnh Trời …”). Nguyễn Trãi đã tin vào lời cha là Nguyễn phi Khanh khuyên: “Nếu Trời muốn cho nước ta tiêu diệt thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh. Không bao giờ ! Trãi con ơi ! tương lai đầy ánh sáng, cha đứng đây trông suốt được ngàn thu …”. Cha bị quân Tầu bắt, Nguyễn Trãi đã không theo cha. Ông nghe lời cha, đã hy sinh trở về lập chí cứu quốc và đã chiến thắng quân Tầu.
Một đàng, Khổng Tử tin Trời vững chắc, ông hy vọng đạo thánh hiền sẽ tỏa sáng trong tương lai. Ông không sợ kẻ thù có thể hại ông. Ông đã quyết tâm truyền bá đạo lý và đã trở thành vạn thế sư biểu.
Một đàng, Nguyễn Trãi hy vọng vào tương lai đầy ánh sáng, ông quyết tâm tìm đường cứu quốc, và ông đã trở thành Đệ nhất khai quốc công thần.
Tin và hy vọng là lẽ sống của con người. Tin là nhận có một sự thật tồn tại. Hy vọng là mong ước đạt được sự thật đó. Tin và hy vọng đều hướng về một đối tượng chân thiện mỹ có thật, đáng khao khát, đáng ngưỡng vọng, vượt xa khỏi hiện tại. Hiện tại thường làm ta thất vọng vì nó đầy đau khổ, bất toàn. Ta cần vượt tới một tương lai tốt đẹp, hạnh phúc cao cả, mong thỏa mãn hy vọng. Nếu không có hy vọng, ta không còn muốn sống nữa, không ham hoạt động, không còn tiến bộ. Hiện tại không có gì vững chắc bền bỉ, luôn thay đổi, nay còn mai mất. Cuộc đời là cảnh phù vân, đến nỗi Cao bá Quát đã kêu lên:
“Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ. Mảnh hình hài không có có không”.
Cái không có luôn ám ảnh ta. Ta cần cái hằng có, hằng sống cho đời ta. Nếu không có cái hằng có, hằng sống, sẽ không còn đạo đức, không còn thiện hảo. Mục đích sống thiện hảo là để vươn tới sự tồn tại vĩnh cửu tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Chỉ có Thiên Chúa là hằng hữu, hằng sống. Chỉ có Thiên Chúa là thiện hảo, hạnh phúc. Chỉ có Ngài mới có thỏa mãn niềm tin và hy vọng của con người.
Mùa vọng giúp ta thực hiện niềm tin và hy vọng đó. Lời Chúa hôm nay trình bày những lý do đáng cho ta tin và đầy hy vọng.
Những lý do đáng tin: Thiên Chúa là Cha chúng con từ muôn thuở. Ngài là thợ gốm, chúng con là đất sét. Chính tay Ngài đã làm nên chúng con hết thảy (Is. 63, 16.19).
Những lý do đầy hy vọng: “Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, xin Ngài trở lại, xin Ngài xé trời mà ngự xuống” (Is. 63, 19).
“Chúng con đang mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô mặc khải vinh quang của Người, cho chúng con được hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (ICr. 1, 7-8).
Chúng ta tin và hy vọng vững chắc vào Thiên Chúa như thế, không phải hão huyền, ảo tưởng. Hy vọng và tin tưởng của chúng ta được bảo đảm hoàn toàn vì trong quá khứ “chính Ngài đã giải phóng dân Israel ra khỏi nô lệ Ai cập bằng cánh tay toàn năng, chính Ngài đã ngự xuống núi Sinai ban mười điều luật để giáo dục dân sống công chính, chính Ngài là Đấng trung tín đã giữ lời minh ước, ban Đấng Cứu Thế là Con một Ngài giáng sinh làm người, đã chịu chết, đã sống lại và lên trời để cho thấy Thiên Chúa là Cha đã yêu thương vô cùng và thấy sự sống lại vinh quang, bảo đảm cho chúng ta có cuộc sống hạnh phúc muôn đời”. Bài đọc hai, thánh Phaolô còn cho thấy giáo đoàn Côrintô được bao nhiêu ân huệ: ơn được kết hợp với Đức Giêsu Kitô, được nghe lời Chúa, được hiểu biết mầu nhiệm Thiên Chúa để trở nên phong phú đến nỗi không còn thiếu một ân huệ nào. Chỉ còn một ân huệ duy nhất là đón chờ ngày quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó là những bằng chứng bảo đảm chắc chắn cho niềm tin và hy vọng của chúng ta mà trong lịch sử thế giới không đâu có bằng. Israel đã thách đố “từ cổ chí kim, thiên hạ chưa hề được biết, tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được thấy một vị thần nào như Thiên Chúa đã làm cho kẻ trông cậy Ngài như vậy” (Is. 64, 3).
Hiện tại, trước mắt chúng ta, Thiên Chúa ẩn mình như một ông chủ đi xa vắng nhà. Chúng ta phải chăm lo làm tròn trách nhiệm Ngài trao phó, phải tỉnh thức đón nhận ơn Ngài, sống theo thánh ý Ngài, mãi mãi đi trong đường lối Ngài, đang khi trông chờ, hy vọng Ngài đến trong vinh quang, chúng ta được nhập đoàn những người con thảo theo Ngài về nước Cha hằng sống, hạnh phúc muôn đời.
Lạy Chúa, là Cha chúng con. Khả ái thay cung điện của Ngài, hồn con mong ước đến hao mòn. Thân con reo lên tới Thiên Chúa hằng sống. Lạy Chúa thiên binh, xin lắng nghe lời con khẩn nguyện. Xin cho con được ở trong nhà Ngài, còn hơn ấm cúng trong dinh thự lũ ác nhân. Lạy Chúa, phúc thay kẻ tin cậy ở Ngài (Tv. 84).
Một trong những căn bệnh của thời đại hiện nay là căn bệnh mất ngủ. Người ta phải dùng thuốc: MV 1-B4
Một trong những căn bệnh của thời đại hiện nay là căn bệnh mất ngủ. Người ta phải dùng thuốc an thần để tìm lấy một giấc ngủ không tự nhiên. Thuở thái bình vừa nằm con đã ngủ như thánh vịnh diễn tả, là một ước mơ của hằng triệu người sống trên mặt đất.
Thế nhưng qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại bảo chúng ta hãy tỉnh thức.
Thực vậy, trong cuộc sống có những người vì bổn phận, vì nghề nghiệp đã phải thức suốt đêm. Chẳng hạn những nhân viên phải trực ở phòng cấp cứu, ở trạm cứu hỏa, ở cơ quan an ninh. Những bác tài phải lái xe lửa hay xe ô tô. Những người thức để xem hết một cuốn chuyện hay một bộ phim nhiều tập…
Thế nhưng, đâu là thái độ tỉnh thức mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta.
Trước hết, tỉnh thức không phải là không ngủ. Năm cô trinh nữ khôn ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại. Điểm khác biệt là vào lúc nửa đêm, khi chằng rể đến, các cô khôn ngoan có thể ra nghênh đón với đèn sáng trong tay vì các cô đã mang theo dầu dự trữ.
Còn các cô khờ dại thì đèn bị tắt ngúm vì không còn dầu và cũng không đem dầu theo. Lúc chàng rể đến mới đi mua, nên đã không kịp.
Vậy tỉnh thức là ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất kỳ lúc nào, ngay cả trong khi ngủ.
Tiếp đến, tỉnh thức là chu toàn bổn phận. Người quản gia được trao phó trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân. Nếu chủ về mà gặp thấy anh ta đang làm công việc mà người chủ giao phó, thì đúng là anh ta đã có thái độ tỉnh thức.
Trái lại, nếu anh ra bỏ bê trách nhiệm, lạm dụng quyền hành để đánh đập tôi tớ và say sưa chè chén theo kiểu: vắng chủ nhà gà vộc niêu tôm, thì quả thực anh ta đang mê ngủ. Hơn nữa, tỉnh thức còn có nghĩa là làm lời cho những nén bạc mà Chúa đã trao phó. Số nén bạc này có thể nhiều hay ít tùy ý Chúa, nhưng mỗi người đều phải làm việc để sinh lời từ những nén bạc đã nhận được. Những nén bạc ấy chính là thời gian, ơn lành và những khả năng mà Ngài đã đặt để nơi mỗi người chúng ta. Kẻ mê ngủ là kẻ đào lỗ chôn dấu những nén bạc của mình, không dám đầu tư vì sợ mất vốn, nhưng cũng có thể vì lười biếng và thụ động.
Trong khi đó, người tỉnh thức là người được chủ khen là đã trung thành, dù chỉ là một việc nhỏ, nghĩa là trung thành với ơn Chúa ban trong giây phút hiện tại.
Ngoài ra, tỉnh thức còn có nghĩa là sáng suốt nhận định để biết được Chúa đã bất ngờ đến với mình và xin mình giúp đỡ. Ngài xuất hiện qua vóc dáng của một kẻ đói khát, rách rưới, nghèo túng, ốm đau, thậm chí ngay cả một phạm nhân trong nhà tù.
Kẻ mê ngủ là kẻ đã để cho Chúa ngửa tay đi qua đời mình mà không nhận được chút gì làm quà tặng.
Cuối cùng, tỉnh thức luôn đi đôi với cầu nguyện, như lời Ngài đã phán:
-‘’Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ’’.
Hay nói một cách mạnh mẽ hơn: tỉnh thức là để cầu nguyện như lời Chúa đã đánh thức các môn đệ:
-Sao các con ngủ, hãy tỉnh thức mà cầu nguyện.
Chúng ta đã làm nhiều việc cho Chúa, những có thể vẫn chưa phải là con người tỉnh thức, bởi vì lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ ngủ quên trong những thành công của việc tông đồ, trong những tiện nghi của một cuộc sống dễ dãi.
Tóm lại, mỗi người chúng ta nên tự hỏi xem mình đã thực sự tỉnh thức như ý Chúa muốn hay chưa ?
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, chúng con đã bước vào mùa vọng, mùa trông đợi Chúa đến. Thế nhưng Chúa luôn nhắc nhở chúng con rằng Chúa sẽ đến vào ngay chúng con không ngờ, vào giờ chúng con không biết. Xin cho chúng con biết chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết là một tâm hồn không bị hoen ố bởi tội lỗi và một đôi tay chất đầy công nghiệp là những hành động bác ái yêu thương để bất kỳ lúc nào Chúa đến, chúng con cũng luôn sẵn sàng ra đón Chúa và được Chúa cho vào hưởng hạnh phúc Nước trời.
Mùa vọng là thời gian chờ đợi, và chờ đợi một người. Người đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng: MV 1-B5
Mùa vọng là thời gian chờ đợi, và chờ đợi một người. Người đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế duy nhất có quyền giải thoát loài người khỏi chốn trầm luân.
Hằng năm, Giáo Hội nhắc nhở để chúng ta xác tín thêm về sự trở lại của Đức Giêsu Kitô. Giáo Hội dạy chúng ta sống trong sự mong chờ Ngài đến, như ông chủ đi phương xa trở về bất chợt.
Và Giáo Hội dạy chúng ta hãy sống Tin mừng cứu độ một cách cụ thể trong đời sống thường ngày của mỗi người.
Tác giả Thánh Vịnh 124 đã diễn tả sự mong đợi Thiên Chúa bằng một hình ảnh rất sống động: “Linh hồn tôi trong đợi Chúa tôi, hơn người lính gác mong đợi hừng đông”.
Chúng ta ai cũng biết cảnh Hòn Vọng Phu người vợ chờ chồng về. Cảnh người tù tội mong ngày được trả tự do. Cảnh người bị lưu đày mong ngày trở về cố hương, hay cảnh gia đình bị phân tán mong chờ ngày đoàn tụ… Tất cả hình ảnh trên có thể giúp chúng ta hiểu Giáo Hội mong đợi ngày Chúa Cứu Thế đến nơi mỗi tâm hồn, nơi mỗi gia đình và nơi mỗi quốc gia.
Vấn đề cần nói ở đây là tại sao Chúa Cứu Thế đã đến rồi, mà hàng năm người tín hữu chúng ta vẫn còn phải chờ đợi Ngài trở lại ? Đúng thế, tuy Ngài đã đến, nhưng Ngài vẫn chưa đến đối với những người không nhận biết, cũng như đối với những người khước từ và chối bỏ Ngài. Hơn thế nữa, Ngài sẽ còn lại đến vào ngày cuối cùng khi kết thúc vũ trụ vật chất này, đó là ngày tận thế.
Còn chúng ta, tuy là những kẻ đã tin và ‘’được tràn đầy ân sủng” nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng phải sống kiên trì trong niềm hy vọng có ngày được gặp Người trở lại trong vinh quang. Chính cuộc sống chứng thực niềm tin của chúng ta nơi ngày vinh thắng cuối cùng của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giúp cho nhân loại tin tưởng và mong đợi ngày giải thoát trọng đại ấy. Ngày ấy đúng là ngày vinh quang mà Chúa Kitô sẽ tái xuất hiện cùng loài người được cứu rỗi để “ăn mừng” lễ bế mạc công trình cứu độ của Ngài.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải sống “bền vững”, sống “vẹn toàn trong ơn nghĩa Chúa’’, thì mới được thông hiệp vào sự vinh quang của Chúa Giêsu Kitô khi Ngài trở lại.
Người Hướng đạo sinh luôn luôn đeo phù hiệu với hai chữ “sắp sẵn” trên áo. Hai chữ này nhắc nhở họ phải luôn sẵn sàng để làm việc thiện, việc tốt. Hai chữ đó còn nhắc nhở họ phải luôn sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, bất trắc xẩy ra trong cuộc sống. Mùa Vọng là thời gian đợi chờ, là gian đoạn thử thách cam go, là giai đoạn thanh lọc gắt gao. Vậy, chúng ta đã sẵn sàng làm việc thiện, và tránh đi những điều xấu hay chưa ?
Đêm ngày 14 tháng 4 năm 1912, chiếc tàu mang tên “Titanic” của hãng “White Star” của Anh quốc, dài 271: MV 1-B6
Đêm ngày 14 tháng 4 năm 1912, chiếc tàu mang tên “Titanic” của hãng “White Star” của Anh quốc, dài 271 mét với sức chứa 60 ngàn tấn, đã chẳng may đụng phải các tảng băng ngầm ở đảo “Terre Neuve”, nằm về phía nam nước Canada, khiến tàu bị chìm xuống đáy biển, mang theo 1513 hành khách. Đây là tai nạn lớn nhất trong lịch sử hàng hải Anh quốc nói riêng, và thế giới nói chung của những thập niên đầu thế kỷ XX. Trong số 1513 hành khách nói trên, phần đông thuộc giai cấp quí tộc và giàu sang của Tây Phương. Hẳn khi giữ chỗ trên chiếc tàu xa hoa tráng lệ này, họ không bao giờ ngờ rằng chính họ sẽ ra đi vĩnh viễn.
Mới đây, người ta loan báo trên đài phát thanh một chiếc máy bay chở trên 300 hành khách đã bị nổ và bốc cháy trên bầu trời New York. Những kẻ mua vé đi trên chuyến bay đó có ngờ đâu thân xác họ sẽ trở về cát bụi, nhưng số phận linh hồn họ sẽ ra sao ? Được cứu rỗi hay bị trầm luân đời đời ? Thật là khủng khiếp cho những ai chưa sẵn sàng ! Còn đối với những người đã chuẩn bị thì đây là giây phút chờ mong của con người muốn được chiêm ngưỡng dung nhan Chúa.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhắc nhở rằng: “Ngày của Ngài sẽ đến như kẻ trộm”, vào những lúc mà con người không ngờ. Phương thế duy nhất để cứu chữa mình là phải sẵn sàng. Người Việt Nam thường nói: “Cây nghiêng chiều nào, sẽ đổ chiều đó” hoặc: “sống sao chết vậy”, “sống lành chết lành”. Dưới khía cạnh tôn giáo, con người phải sống thánh thiện, đạo đức để chuẩn bị đón chờ ngày Chúa đến.
Tuy nhiên, Mùa Vọng không phải chỉ là thời gian chuẩn bị và đợi chờ, nhưng Mùa Vọng còn mang màu sắc vui tươi của một tin tưởng và hy vọng. Cõi lòng người tín hữu bừng lên niềm tin tưởng vào sức mạnh cứu thoát và hy vọng vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Chính niềm tin tưởng và hy vọng này giúp chúng ta luôn vượt thắng mọi khó khăn, mọi trở ngại để điều chỉnh cuộc sống riêng tư, cũng như để góp phẩn xây dựng một xã hội mới, trong đó con người biết nhìn nhận Thiên Chúa là Cha, là chủ tể của muôn loài. Và mọi người đều là anh em được cư xử và tôn trọng như nhau. Có thế, chúng ta mới được hưởng một thời thanh bình của: “Trời mới và đất mới”. Trong đó có công lý của Chúa sẽ ngự trị.
Để chờ đón Chúa trong dịp lễ Chúa Giáng Sinh, bây giờ chúng ta phải làm gì ? Tiên tri Isaia đã trả lời như sau: “Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và bạt mọi núi đồi, đường quanh co hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng”.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin Chúa hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con, để chúng con xứng đáng đón mừng Đức Kitô đang đến giữa chúng con.
Israel là một dân tộc bé nhỏ nhưng được Thiên Chúa tuyển chọn và trao cho sứ mạng duy trì niềm tin: MV 1-B7
Israel là một dân tộc bé nhỏ nhưng được Thiên Chúa tuyển chọn và trao cho sứ mạng duy trì niềm tin tuởng và hy vọng của thế giới. Nhưng hỏi có dân tộc nào bị lăng nhục, bị ê chề, bị phát lưu như Irael. Tuy nhiên, giữa bao gian truân, sóng gió, ngọn lửa mà Thiên Chúa đã thắp lên trên núi Sinai, vẫn còn sáng cháy. Khi mọi sự như không còn gì nữa, Thiên Chúa đã gửi đến những sứ giả đến để khêu lại ngọn lửa ấy. Và những nhà tiên tri xuất hiện, mắt nhìn trời, miệng kêu xin: “Trời cao hãy đổ sương xuống’’.
Với chúng ta ngày hôm nay, Ngài đã đến trong quá khứ một lần khi Ngài Giáng sinh trong hang lừa máng cỏ, nhưng nhờ sự phục sinh vinh hiển, Ngài đã đi vào Nước Trời, dọn chỗ cho chúng ta. Rồi Ngài lại đến đón chúng ta. Trong khi mừng kỷ niệm Chúa đi vào lịch sử, chúng ta mừng Chúa phục sinh vinh quang. Ngài đã đến, nhưng sẽ trở lại, trong Giáo Hội và với mỗi người trong chúng ta. Vì vậy,“Chúng ta cần phải tỉnh thức và đợi chờ”. Đây cũng chính là chủ đề đoạn Tin mừng hôm nay đề cập đến. Thực vậy, dụ ngôn vắn vỏi về người đầy tớ mong đợi chủ về làm sáng tỏ hai vấn đề: Giờ chủ về không thể biết trước, vì thế phải tỉnh thức và chờ đợi.
Thánh kinh cho biết thời gian viếng thăm của Chúa thuộc quyền Ngài quyết định. Và nếu những cuộc viếng thăm đó là một hồng ân thì chúng ta đừng để hồng ân ấy mất đi do lầm lỗi của mình. Đó là trách nhiệm thật nặng nề và ghê sợ nhất khi Chúa đến với chúng ta lần sau hết cũng như trong cuộc thẩm phán cuối cùng. Vì vậy, “chúng ta cần phải tỉnh thức và cầu nguyện”.
Nếu nhân loại nói chung có những giờ Chúa viếng thăm thì mỗi cá nhân chúng ta nói riêng, cũng có những giờ Chúa viếng thăm đặc biệt. Đó là khi chúng ta gặp những hoàn cảnh, những quyết định quan trọng phải làm có ảnh hưởng tới cả một đời. Chúng ta có thể thành công, nhưng cũng có thể thất bại. Đó là một ơn huệ Chúa gởi đến và chúng ta có thể đón nhận hay từ chối. Vậy, điều cần thiết là chúng ta hãy nói lên như chị thánh Têrêsa: “Tout est grâce” nghĩa là mọi sự đều là hồng ân của Chúa. Vui buồn hay đau khổ, thành công hay thất bại, tất cả đều là ơn huệ của Chúa. Muốn được như vậy, hãy “tỉnh thức và cầu nguyện”, và “hãy biết đón nhận thời giờ Ngài thăm viếng”.
Thánh nữ Têrêsa trong đêm Giáng sinh 1886 đã được gặp gỡ Chúa trong một cuộc thay đổi mà Chị gọi là “một ơn trở lại hoàn toàn”. Từ một cô gái hay khóc nay giòng suối nước mắt đã cạn, từ một cô bé đa cảm nay là một thiếu nữ anh hùng. “Chúa đã biến đổi tôi đến độ tôi không còn nhận ra tôi nữa”. Cùng trong đêm Giáng sinh ấy, tại nhà thờ Đức Bà ở Paris, một chàng thanh niên vô thần được ơn trở lại. Đó là văn hào Paul Claudel. Và đêm hôm ấy cũng là đêm đầu tiên mà Charles de Foucauld đi tìm kiếm, đã gặp gỡ Chúa.
“Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa và xin ngự tới để cứu độ chúng con”.
Năm mới theo dương lịch, bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 mỗi năm. Năm mới theo âm lịch, bắt đầu: MV 1-B8
Năm mới theo dương lịch, bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 mỗi năm. Năm mới theo âm lịch, bắt đầu ngày 1 tháng Giêng. Còn trong Phụng vụ, với Chúa nhật thứ nhất Mùa vọng chúng ta bước vào một năm Phụng vụ mới. Như vậy, Mùa vọng là mùa xuân của Năm Phụng vụ, từ đó phát sinh hy vọng. Trong mùa xuân, cây cối trổ sinh lộc non lá mới, bắt đầu kết nụ đơm hoa chuẩn bị cho một vụ thu hoạch mới. Và như thế mùa xuân cũng là Mùa vọng, đó là thời gian trông chờ, mong đợi. Chúng ta trông chờ, mong đợi gì ? Chúng ta có thể trả lời ngay: mong đợi Chúa đến. Ý nghĩa, “Chúa đến” thường được hiểu ba cách: Chúa đến trong lịch sử nhân loại, Chúa đến trong ngày thẩm phán chung hoặc riêng, Chúa đến trong tâm hồn mỗi người. Nhiều lúc chúng ta có khuynh hướng coi cả ba ý nghĩa này đều xa lạ với tư tưởng mong đợi. Thực vậy, trong lịch sử Chúa đã đến từ hai ngàn năm và hiện giờ chúng ta đã kỷ niệm ngày sinh của Chúa từng mấy chục lần trong đời sống rồi. Còn trong ngày chung thẩm, trong cái chết của mỗi người thì sao ? Dĩ nhiên Chúa đến đó, nhưng chẳng lẽ cứ ngồi lo sợ mà chờ chết ư ? Cũng phải tạm quên cái chết để vật lộn với cuộc sống chứ ? Còn Chúa đến trong cuộc sống mỗi người, thì ngày nào chúng ta chăng đón Chúa trong kinh lễ, trong giờ cầu nguyện sớm tối ? Thế thì chúng ta mong đợi gì nữa ? Giáo Hội dạy chúng ta phải mong đợi. Và hàng năm Giáo Hội tổ chức Mùa vọng, không phải chỉ cốt để chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, không phải để dạy chúng ta gây dựng tâm tình mong đợi trong mùa đó, nhưng Giáo Hội muốn nhân bầu khí Giáng sinh dạy chúng ta phải có tâm tình mong đợi thường xuyên, phải mong đợi Chúa hàng ngày. Chúng ta mong đợi Chúa trong ngày chúng ta từ giã cuộc sống để về với Chúa. Đó là một biến cố đích thực và có ý nghĩa. Kinh Thánh và giáo lý dạy cho chúng ta biết: mỗi người có hai kiếp được sống và phải sống. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần. Sự chết xảy ra tới với mỗi người được Kinh Thánh gọi là việc Chúa đến. Và việc Chúa đến này thường xảy ra bất ngờ, bí mật. Thiên Chúa muốn giữ bí mật như vậy để chúng ta luôn luôn sẵn sàng, và do đó luôn cố gắng sống tốt lành thánh thiện. Chẳng hạn như trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Márcô thuật lại dụ ngôn về đầy tớ phải tỉnh thức và đợi chủ về: “Hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết lúc nào chủ nhà trở về”. Còn Thánh Mátthêu thì nói rõ: “Hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào Chúa mình đến”. Trong cả hai trường hợp ý nghĩa đều rõ ràng là Chúa nói về chính mình Ngài. Tóm lại, Mùa vọng là mùa trông đợi. Trông đợi Chúa đến lần thứ hai trong ngày tân thế. Nhưng cũng là trông đợi giây phút cuối cùng của mỗi người khi ra đi gặp Chúa. Chúng ta đã chuẩn bị hành trang gì cho giây phút gặp gỡ ấy và có tỉnh thức sẵn sàng chu toàn bổn phận mà Chúa trao cho hay không ? Chúng ta tỉnh thức mong chờ Chúa thế nào thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên chúng ta phải luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Chúa: “Cửa trời hẹp lắm ai ơi. Muốn vô thì phải ép mình chớ quên”.
Vũ trụ vật chất này đã có một khởi đầu thì cũng sẽ có một kết thúc. Và lịch sử chắc chắn sẽ phải: MV 1-B9
Vũ trụ vật chất này đã có một khởi đầu thì cũng sẽ có một kết thúc. Và lịch sử chắc chắn sẽ phải đi về một đích điểm nào đó. Tư tưởng trên cho chúng ta biết trong mọi sự, thì việc làm điên dại hơn hết, đó chính là quên Thiên Chúa màđắm chìm trong thế gian. Người khôn ngoan không bao giờ quên mình phải sẵn sáng khi nghe tiếng Chúa gọi. Nếu chúng ta sống và luôn nhớ rõ như vậy thì kết cuộc sẽ không hề là nỗi lo lắng sợ hãi nhưng sẽ là niềm vui đời đời. Cho nên Chúa Giêsu đã rút ra một kết luận thực tiễn. Chúng ta cũng giống như người đầy tớ, biết chủ mình sẽ về nhưng không rõ lúc nào. Chúng ta đang sống trong bóng của cõi đời đời. Không có lý do gì để sợ hãi hoặc sốt ruột chờ trông. Điều có ý nhất là hàng ngày chúng ta phải làm cho trọn phần việc của mình. Chúng ta phải sống dường như việc Ngài trở lại lúc nào là việc rất bình thường. Ngài đã giao cho chúng ta nhiệm vụ quan trọng là mỗi ngày phải làm việc thích hợp để Ngài xem xét, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để gặp Ngài, mặt đối mặt. Cả cuộc sống chúng ta phải là việc chuẩn bị để gặp mặt Ngài.
Ngày kia có một du khách dừng chân trước một biệt thự rất sang trọng cạnh một hồ nước trong xanh ở Thụy sĩ, nhưng không phải trên con đường mà khách vãng cảnh thường qua lại. Khách du lịch gõ vào hàng rào sắt, tức thì một cụ già coi vườn ra mở cánh cổng nặng nề vốn đóng chặt. Sung sướng vì được thấy một người khách, cũ dẫn người khách đi tham quan cả một khu vườn rộng lớn. Người khách hỏi: Cụ ở đây bao lâu. Cụ trả lời: Thưa ông, tôi ở đây đã được hai mươi bốn năm. Chủ của cụ chắc ít khi nghỉ tại biệt thự này có phải vậy không ? Cụ đã trông thấy ông ấy mấy lần rồi. Tôi đã trông thấy bốn lần. Lần cuối cùng cách đây đã mười hai năm. Ông ấy có viết thư cho cụ không ? Chẳng bao giờ. Thế ai trả công cho cụ ? Người quản gia của ông ấy. Thế người quản gia này có hay đến đây không ? Tôi chưa hề thấy mặt ông ta. Ông ta liên lạc với tôi qua thư từ. Thế thì ai hưởng sự đẹp đẽ này ? Trừ tôi và vợ tôi thì không một ai hết. Tuy vậy, cụcoi sóc khu vườn này một cách cẩn thận và chu đáo, dường như ngày mai ông Chủ sẽ đến. Thưa ông, tôi phải làm như chủ tôi sẽ đến ngay ngày hôm nay. Phải, ngay ngày hôm nay.
Đó cũng chính là tinh thần chúng ta phải noi theo để được bước vào nước trời. Vậy hãy, tỉnh thức vì chúng ta không biết ngày nào Chúa sẽ đến viếng thăm.
Cách đây ít lâu, đài truyền hình có chiếu một bộ phim truyện thiếu nhi rất hay mang tựa đề là “Ở nhà: MV 1-B10
Cách đây ít lâu, đài truyền hình có chiếu một bộ phim truyện thiếu nhi rất hay mang tựa đề là “Ở nhà một mình”.
Một bé trai tám tuổi tình cờ bị cha mẹ bỏ quên tại nhà khi cả gia đình về quê nghỉ lễ Giáng sinh. Sáng hôm đó, do dậy trễ nên mọi người hối thúc nhau lên xe cho kịp chuyến tàu và quên đi em bé đang ngủ trên gác xép. Khi biết cả nhà đã ra đi, em bé không hề sợ hãi. Em quyết định sẽ ở lại để trông chừng nhà cửa và chờ đợi mọi người trở về. Hằng ngày em phải tự lo ăn uống trong hoàn cảnh thời tiết giá lạnh. Rồi một lần có dịp ra siêu thị mua thêm đồ ăn, thình cờ em phát hiện ra hai kẻ gian đang bàn định tối hôm đó sẽ đột nhập vào nhà em ăn trộm, vì chúng tưởng cả nhà đều đi vắng. Em suy nghĩ và sáp đặt một kế hoạch cụ thể để ngăn chặn bằng những cái bẫy và chốt chặn. Kết quả là hai tên trộm bị đánh tơi bời và còn bị cảnh sát kịp thời bắt được quả tang chúng đang ăn trộm. Sau đó, cả gia đình em về nhà vào lễ Giáng sinh. Nghe em thuật lại những việc đã làm khi ở nhà một mình: vừa tự lo liệu cho bản thân, lại vừa bảo vệ thành công tài sản cho gia đình,thì cha mẹ và mọi người đều vui mừng và khen ngợi trí thông minh và lòng dũng cảm của em.
Câu chuyện của em bé trên đây giúp chúng ta hiểu được thế nào là mùa vọng ? Và thái độ phải có trong mùa vọng ?
Vậy trước hết mùa vọng là gì ?
Tôi xin thưa mùa vọng là thời gian sống lại tâm tình của dân Do thái trông mong, đợi chờ Đấng Cứu thế đến theo lời tiên tri Isaia: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời. Nhưng Đấng cứu thế là Chúa Giêsu đã đến cách đây 2000 năm rồi. Do đó, đối với các tín hữu thì mùa vọng lại là thời gian sống niềm trông mong hy vọng Ngài đến lần thứ hai chung cho cả nhân loại vào ngày tận thế hay riêng cho mỗi người vào giờ chết. Vì thế, thái độ cần thiết của chúng ta đó là phải tỉnh thức.
Đúng thế, tỉnh thức là không mê ngủ. Dụ ngôn người canh cửa giúp chúng ta luôn cảnh giác để chống lại tình trạng mê ngủ thiêng liêng, nghĩa là nằm lì trong tội lỗi, vì nghĩ rằng còn lâu ông chủ mới vể, còn lâu mình mới phải chết. Thực ra giờ chết sẽ đến với chúng ta và đến một cách thật bất ngờ, giống như ông chủ sẽ trở về bất ngờ lúc đêm khuya và số phận đời đời của chúng ta sẽ lệ thuộc vào thái độ của chúng ta khi đó: tỉnh thức để ra mở cửa hay đang mê ngủ trong tội lỗi.
Tiếp đến là phải sẵn sàng như người quản lý trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân mình. Phúc cho người quản lý ấy khi chủ trở về mà gặp thấy anh ta đang chăm chỉ làm việc. Hoặc như năm cô trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể. Cây đèn của các cô luôn chứa sẵn đầy dầu, để khi chàng rể đến lúc bất ngờ thì các cô vẫn đủ điều kiện theo chàng rể vào tham dự tiệc cưới nước trời.
Hãy tỉnh thức và sẵn sàng, đó chính là sứ điệp Chúa gửi đến cho mỗi người chúng ta trong mùa vọng. Và để kết luận, tôi xin ghi lại nơi đây câu nói của Charles de Foucault như sau: Bạn hãy sống như thể bạn sẽ phải chết vào ngay buổi tối của ngày hôm nay. Nhờ đó, chắc chắn chúng ta sẽ làm mọi việc một cách nghiêm túc và đẹp lòng Chúa.
Có bao nhiêu thời gian sống ở đời được chúng ta dành cho việc chờ đợi? Có sự chờ đợi làm ta: MV 1-B11
Có bao nhiêu thời gian sống ở đời được chúng ta dành cho việc chờ đợi? Có sự chờ đợi làm ta căng thẳng, mệt mỏi; nhưng cũng có sự chờ đợi đem lại hương vị và ý nghĩa cho cuộc sống. Người mẹ tần tảo nuôi con, chờ ngày con thành tài. Người vợ chờ đợi ngày chồng trở về từ biên ải. Con người không chỉ sống bằng quá khứ nhưng còn bằng những ngóng đợi về tương lai. Cái tương lai tưởng như mơ hồ, xa xôi mà lại lôi kéo được cái hiện tại đi về một hướng. Biết sống là biết chờ đợi Chờ đợi làm nên cuộc sống.
Mùa vọng đưa ta đi vào thái độ chờ đợi. Chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang mai này. Chờ đợi Chúa vẫn đến trong niềm vui và nước mắt. Chờ như người giữ cửa thức trắng đêm, vì không biết giờ nào chủ trở về.
Nhưng chờ không phải là thụ động khoanh tay mà là vuông tròn sứ mạng được giao phó. Ông chủ đi xa đã để lại ngôi nhà, giao quyền cho các đầy tớ, mỗi người một việc (câu 34).
Có lẽ từ lâu ta đã thấy không cần chờ đợi Chúa, vì chúng ta có quá nhiều điều khác để đợi mong, những điều gần gũi hơn, thiết thực hơn, cấp bách hơn.
Hãy nói cho tôi biết, bạn đang chờ gì, tôi sẽ nói cho bạn biết, bạn đang đi về đâu.
Nếu không có Ai để chờ, thì cũng chẳng cần tỉnh thức.
Tỉnh thức trong đêm tối đâu phải là chuyện dễ dàng.
"Ngài trở lại và thấy các môn đệ đang ngủ... Rồi Ngài lại đến và thấy họ vẫn đang ngủ, đôi mắt họ li bì nặng giấc" (Mt 26, 40-45). Chiến đấu chống lại sự buồn ngủ của mắt còn dễ dàng hơn chống lại sự mê ngủ của tinh thần.
Cuộc sống vật chất ngày càng cao cung ứng cho con người biết bao thứ ru ngủ và đưa con người vào cơn mê mà họ không hay biết.
Ma túy là mối đe dọa giới trẻ hôm nay. Ma túy đi vào trường học, được bán ở cổng trường, để chích, để hút, để ngửi. Nó cho người ta sống lâng lâng trong một thế giới ảo, để rồi không còn khả năng sống đời thực của mình nữa.
Nhưng ma túy đâu phải chỉ là bạch phiến, cần sa. Ma túy là tất cả những gì gây nghiện, khiến con người thành nô lệ và đánh mất mình. Tiền bạc, tiếng tăm, tình dục, tiện nghi... vẫn là những thứ ma túy mê hoặc con người.
Mùa Vọng là mùa tỉnh thức, để thành thật tự hỏi:
"Tôi đang nghiện thứ ma túy gì?"
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống là có ước mơ và chờ đợi. Đâu là những ước mơ của bạn? Chúa có chỗ trong những ước mơ đó không?
Có bạn trẻ coi chuyện tình cảm là chuyện hết sức quan trọng, đến độ dám tự tử nếu cuộc tình đổ vỡ. Bạn nghĩ thế nào là thái độ quân bình nên có khi yêu nhau?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin đánh thức con. Xin đưa con ra khỏi cơn mê mà tự sức con không sao thoát ra được. Xin đừng ngại đánh thức con bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ, nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ đang cắt tỉa con vì yêu con.
Ước gì con được tỉnh táo để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê, những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.
Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện, xin cho con thức luôn và sáng luôn, trước nhan Chúa.
Bắt đầu từ Chúa Nhật 1 Mùa Vọng hôm nay, toàn thể giáo hội chính thức bước vào Năm Phụng: MV 1-B12
Bắt đầu từ Chúa Nhật 1 Mùa Vọng hôm nay, toàn thể giáo hội chính thức bước vào Năm Phụng Vụ mới 2002-2003, năm B, cùng với lời mời gọi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Mát-cô: "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ "(Mc 13, 33, 35-36).
Tại các nhà thờ Đức có một tục lệ rất ý nghĩa là mỗi nhà thờ đều trang điểm vòng hoa Mùa Vọng với những cành thông tươi xanh và bốn cây nến, tượng trưng cho 4 Chúa nhật Mùa Vọng. Khởi đầu thánh lễ mỗi Chúa nhật, đang khi cộng đoàn hát bài Mùa Vọng, cây nến được thắp sáng. Chúa nhật thứ nhất thắp sáng một cây. Chúa nhật thứ hai thắp sáng hai cây. Khi cả bốn cây được thắp sáng, thì đại lễ giáng sinh cũng đã gần kề. Tục lệ này cũng được lan rộng trong nhân gian, tới hầu hết các công sở, các gia đình. Nơi nào cũng bầy vòng thông Mùa Vọng với đủ loại nến mầu đỏ, tím...
Như vậy ý nghĩa thứ nhất trong Mùa Vọng là mùa canh thức chuẩn bị tâm hồn để đón mừng Chúa Giáng Sinh. Trọng tâm của lịch sử và Tin Mừng cứu độ chính là biến cố: Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu nhân độ thế.
Ngày giáng trần của Chúa Giêsu phải được đón mừng vì đây là Biến Cố có một không hai trong lịch sử cứu độ: nhờ Ngôi Lời nhập thể làm người thì vũ trụ vạn vật lại được đổi mới (TNKB, s. 3). Kể từ Biến Cố này, Trời giao hòa với Đất, nhân loại được Thiên Chúa yêu thương và toàn thể vũ trụ được đón nhận TIN Mừng cứu độ. Chính vì thế, Biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu đã trở nên Trung Tâm điểm của lịch sử nhân loại, mốc điểm thời gian.
Theo Kinh Thánh, canh thức là thái độ của một người «đang tỉnh thức chờ đợi», không ngủ mê, không thụ động, nhưng canh chừng, luôn phòng bị để kịp đối phó với kẻ địch tấn công bất ngờ (Tv 127, 1t), lòng nhiệt tâm chu toàn trách nhiệm hiện tại, biết nhận ra những dấu chỉ thời đại, khám phá ra thánh ý Thiên Chúa, kiên tâm phục vụ trong yêu thương, đang khi ngóng chờ một biến cố sắp xẩy đến... sẵn sàng đón tiếp Chúa, khi Ngày của Ngài điểm.
Đây là lời khuyên nhủ, dặn dò chính yếu của Chúa Giêsu dậy các môn đệ của Ngài. Vì Chúa đến bất chợt như kẻ trộm ban đêm (Mt 24,43t), như ông chủ trở về mà không báo cho các đầy tớ biết (Mt 13,35t), như chàng rể đến lúc canh khuya, và chỉ năm cô trinh nữ khôn ngoan đang canh thức với đèn đầy dầu, mới kịp ra đón rước chàng rể vào dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13).
Vậy canh thức là đặc tính căn bản, là thái độ sắp sẵn của người môn đệ Chúa, để chỗi dậy khỏi giấc ngủ đam mê, nghĩa là dứt khoát với tội lỗi, dứt bỏ trần thế và những đam mê dục vọng (Lc 21, 34tt). Canh thức là hoán cải và trở về với Chúa, không nằm lì trong tội ác, không cứng lòng và khinh thường tiếng mời gọi thống hối của Chúa. Canh thức trong cầu nguyện, tiết độ, không chè chén say sưa, không cờ bạc, không say đắm nhục dục... quyết không để «ba cái lăng nhăng» nó quấy ta!
Canh thức để nhận diện ra kẻ thù và chiến đấu với thần dữ. Trong giờ kinh tối, các linh mục và tu sĩ thường đọc: «Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé» (1P 5,8). Ma quỷ có thể ẩn hiện trong những phim ảnh xấu, những sách báo đồi trụy, ma túy... những dịp tội gần xa đưa chúng ta xa Chúa, lạc đường về Quê Trời.
Canh thức để phân biệt phải trái: đừng bị ru ngủ, bị đầu độc, bị tuyên truyền bởi óc hưởng thụ, bởi tinh thần vị kỷ cá nhân, bởi các học thuyết vật chất vô thần, bởi những ông đạo buôn thần bán thánh, bởi những mê tín dị đoan, bởi những quảng cáo quyến rũ, những truyền đơn loan tin thất thiệt ngày tận thế...
Canh thức để khỏi bị chán nản, ngã lòng nản chí, bỏ cuộc. Có những tín hữu gặp thử thách trong đời sống gia đình, gặp những khó khăn về vật chất, bị đau ốm lâu dài... đã nản lòng, kêu trách Chúa, và nhiều khi bỏ nhà thờ, bỏ cầu nguyện, bỏ Giáo hội! Canh thức trong cầu nguyện theo gương Chúa trong vườn cây dầu. Cầu nguyện ở đây được hiểu là cầu kinh sớm tối. Cầu nguyện là đọc và suy gẫm Lời Chúa trong Thánh Kinh. Cầu nguyện có thể là lần chuỗi Mân Côi, miệng đọc lòng suy. Cầu nguyện cao đẹp nhất là tham dự thánh lễ Chúa nhật... Tất cả những hình thức cầu nguyện trên đây, giúp người tín hữu luôn hiệp thông với Chúa, tâm hồn luôn lắng nghe những «thánh chỉ» của Chúa.
Canh thức để trung tín giữ luật Chúa: luật yêu thương, luật công bằng. Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, người tín hữu hằng để luật Chúa như đèn soi, như kim chỉ nam cho mọi ước muốn, mọi tư tưởng, mọi lời nói và việc làm của mình.
Canh thức để phục vụ anh em: người tín hữu luôn được Chúa mời gọi để sống đời phục vụ trong bác ái và trong yêu thương. Đời sống gia đình là môi trường phục vụ lý tưởng nhất. Vợ chồng kitô hữu hiến thân cho nhau, tha thứ cho nhau, biết tận tâm giáo dục con cái, biết dùng của cải Chúa ban để mưu sống gia đình, nhưng đồng thời cũng biết chia cơm sẻ bánh cho anh em nghèo đói kém nay mắn hơn trên khắp thế giới. Mỗi tín hữu còn được Chúa mời gọi để phục vụ cộng đồng, các giáo xứ, Hội Thánh, tùy theo khả năng và hoàn cảnh.
Canh thức để đón chờ Chúa đến. Tín hữu Chúa Kitô biết rõ ràng rằng: cuộc sống trần gian, tất cả của cải đều mau qua chóng hết, không ai sống mãi, nhưng đi về vĩnh cửu. Điều chắc chắn là mỗi người chúng ta sẽ có một ngày phải từ giã cõi đời tạm này. Nhưng chết vào ngày giờ nào, chết cách nào, chết ở đâu? Chẳng có ai biết được. Do đó, tín hữu Chúa phải tỉnh thức để đón chờ Chúa đến.
Từ ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy, người tín hữu là con cái của ánh sáng, nên phải luôn tỉnh thức để mình khỏi rơi vào đêm tối của sự chết, không mất mục tiêu, không quên ngày Chúa đến cuối đời của mình...
Mỗi năm mùa vọng lại trở về trong một chu kỳ phụng vụ thánh thiện và giúp mọi Kitô hữu đi vào: MV 1-B13
Mỗi năm mùa vọng lại trở về trong một chu kỳ phụng vụ thánh thiện và giúp mọi Kitô hữu đi vào từng mùa như một thao thức, một cố gắng, một vươn tiến để đạt cho bằng được quê trời, đạt được nước Thiên Chúa. Mùa vọng năm nay được ghi dấu bằng nhiều biến cố với những tông huấn, tông thư của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II về " Gia đình", về "Kinh rất Thánh Mân Côi". Những nhắc nhớ, khuyên răn, nhắc bảo của Đức Thánh cha như nhằm thúc giục nhân loại hãy tỉnh thức hơn nữa để chờ Chúa đến lại trong vinh quang và đọc ra những dấu chỉ của thời đại hầu nhận ra rằng Chúa đang hiện diện trong lịch sử con người.
MÙA VỌNG LÀ MÙA TỈNH THỨC ĐỂ CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN
Dân Do Thái xưa sau bao năm bị thử thách, bị lưu đầy, chịu nhiều cay đắng, đã chờ đợi Đấng cứu thế đến giải thoát họ. Điều nay quả thực rất thích hợp với họ, với một dân tộc bị mất gốc, một quê hương bị chà đạp, bị ngoại bang xâm lấn thì chờ đợi một vị cứu tinh tới giải phóng họ là một điều rất dễ lý giải. Xưa dân Do Thái mỏi mòn chờ đợi Đấng cứu thế khi họ nản chán và hết còn chịu đựng nổi nỗi ô nhục. Họ chờ đợi Đấng cứu tinh như lời Kinh Thánh hứa, nhưng họ chẳng biết phải làm sao để Đấng ấy mau tới hơn. Nếu không có lời Chúa an ủi như trong Thánh vịnh 130 viết: " Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa cứu độ, và tôi tin tưởng ở Lời Ngài.Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa, còn hơn người lính gác trông chờ hừng đông", chắc chắn họ đã buông xuôi, sẽ thất vọng dễ dàng và bỏ cuộc. Nhờ Lời Chúa, họ đã chờ đợi và cầu nguyện.
Mùa vọng không đưa chúng ta về thời quá khứ xa xưa để chúng ta cũng chỉ có cái nhìn, có ước vọng chờ đợi và sống lại việc người Do Thái trông chờ Đấng cứu thế là Chúa Giêsu Kitô. Hình ảnh ấy, Giáo Hội đã nhắc lại cho dân Chúa vào đầu mùa vọng như một thúc bách khẩn thiết giúp dân Chúa sống niềm tin đích thực qua từng biến cố của đời mình, qua từng dấu chỉ của thời đại để thấy mình đã được Chúa yêu thương chăm sóc, đã được Chúa cứu vớt và Ngài vẫn tiếp tục hiện diện trong từng biến cố của đời người hằng ngày.
Tỉnh thức mà đoạn Tin Mừng của thánh Máccô đưa ra hôm nay nhằm thúc giục người Kitô hữu hãy chú tâm đến sự đột xuất, bất ngờ của chủ trở về vì không biết lúc nào chủ có mặt. Nên, con người phải tỉnh thức đọc ra dấu chỉ của các biến cố, tỉnh thức với bổn phận của mình hằng ngày.
"Hãy coi chừng, hãy tỉnh thức... Đừng để khi (Đức Giêsu) bất ngờ đến mà Ngài lại thấy các bạn còn đang ngủ. Những gì tôi nói với các bạn, thì tôi cũng nói với tất cả mọi người: Hãy tỉnh thức" .
Tỉnh thức như vậy là tỉnh thức để đón chờ Chúa Giêsu Kitô sẽ trở lại vào ngày cánh chung,vào ngày cuối cùng của lịch sử nhân loại.
CHÚA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI THỰC THI BỔN PHẬN ĐƯỢC TRAO PHÓ
Tỉnh thức không có nghĩa là thụ động, an thân trong cái vỏ, trong ốc đảo của mỗi người như một sự an thân, không muốn ai đụng chạm đến mình vì quyền lợi, vì tính an nhàn, ích kỷ của mình.
Tỉnh thức cũng không có nghĩa cứ ngồi đó nhìn trời để chờ Chúa như người Galilê xưa:Chúa ra đi và Chúa tới lại.
Bổn phận, trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi người Kitô hữu là thực hiện sứ mệnh của mình như Chúa đã trao trước khi Ngài về trời:
"...Các con hãy tới với muôn dân và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha,nhân danh Chúa Con và nhân danh Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và Thầy sẽ luôn ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế" (Mt 28,18-20).
Chúa muốn chúng ta thực hiện điều Chúa truyền dậy, Ngài không nói chúng ta an thân,bình chân như vại trong tháp ngà của mình, nhưng Ngài muốn chúng ta sống đức tin và tỏa sáng đức tin ta đã lãnh nhận. Chúa đã chết,đã sống lại và sẽ trở lại trong vinh quang, Ngài sẽ xét hỏi ta theo việc và bổn phận ta làm:"Ta đã cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ rách rưới mặc, kẻ tù đầy được an ủi như thế nào ?".
Tất cả những điều đó là thước đo là ta yêu mến Chúa vì Chúa đồng hóa Ngài với những con người đó. Chúa sẽ trở lại cách bất ngờ vào giờ nào, ngày nào ta không hề hay biết trước: ta có chôn nén bạc dưới đất hay đem bạc sinh lợi ra nhiều, ta có như năm cô trinh nữ khờ dại mang đèn mà không mang dầu theo? Chúa hạch sách mọi người: có yêu thương nhau như Ngài đã yêu ta không?
GỢI Ý CHIA SẺ
1.Anh chị có thái độ nào khi chờ mong Chúa đến lại ? 2.Tỉnh thức theo anh chị phải hiểu làm sao ?
Nếu biết trong tuần tới kẻ trộm sẽ đến nhà bạn, không biết vào lúc nào, ngày hay đêm, bạn: MV 1-B14
1. Nếu biết trong tuần tới kẻ trộm sẽ đến nhà bạn, không biết vào lúc nào, ngày hay đêm, bạn có làm gì khác lạ hơn bình thường không? Tại sao? 2. Tỉnh thức nghĩa là là gì? Cho một vài thí dụ khác nhau về tỉnh thức. 3. Để tỉnh thức theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay, một cách cụ thể thì phải làm những gì?
Suy tư gợi ý:
1. Nếu tôi biết tuần này kẻ trộm sẽ đến nhà tôi, thì ...
Chúng ta thử xét một cách thật nghiêm túc xem: phản ứng, tư tưởng và thái độ của ta sẽ thế nào khi được báo tin chắc chắn một bọn trộm cướp đã dự định đến «thăm» nhà ta tuần này. Được tin ấy, thử hỏi ban đêm ta còn ngủ yên như mọi khi không? Nếu ta đoán kẻ trộm cũng có thể đến cả vào ban ngày nữa, thì ta có đề phòng cả ban ngày không? Ta có dám bỏ nhà đi đâu xa những ngày này, và giao phó nhà cửa cho đám con cái còn bé nhỏ chưa kinh nghiệm không? - Nếu đoán biết kẻ trộm sẽ đến, chắc chắn ta sẽ gia tăng đề phòng, không để cho chúng lấy đi của ta bất kỳ đồ vật gì. Muốn đề phòng hữu hiệu, ta phải canh thức liên tục, không ngừng nghỉ. Ngừng đề phòng lúc nào là kẻ trộm có thể đến lúc ấy, nhất là vào những lúc chúng biết ta mệt mỏi, lơ là. Nếu đề phòng liên tục, chắc chắn kẻ trộm sẽ thất bại.
Chỉ vì sợ mất của cải vật chất chóng qua mà ta lo canh phòng như vậy, lẽ nào mạng sống tâm linh của ta, của cải tâm linh của ta là cái quí hơn hàng trăm ngàn lần, ta lại không lo lắng canh giữ?
2. Cách sống hiện tại quyết định số phận vĩnh cửu
Số phận vĩnh cửu của ta tùy thuộc cách sống hiện tại của ta. Cuộc sống hiện tại trong thời gian là mầm cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Mầm tốt sẽ trở thành cây tốt, mầm xấu sẽ trở thành cây xấu. Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu ngay trong cuộc sống hiện tại, và định hình vĩnh viễn ngay khi ta chấm dứt cuộc sống này, nghĩa là ngay khi ta chết. Nhưng ta chết lúc nào? Không ai biết được! Những người chết trong hai tòa nhà cao tầng ở New York ngày 11-9-2001, hay trong tòa nhà 6 tầng các Trung Tâm Thương Mại tại Sàigòn ngày 29-10-2002 không ai ngờ được trước khi vào đó rằng hôm ấy là ngày tận số cuộc đời mình. Không ngờ được vì thấy rằng còn gì bảo đảm an toàn hơn khi ở trong những tòa nhà kiên cố ấy? Thế mới biết tai họa hay cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ nơi nào. Đối với cái chết, chẳng lúc nào, chẳng nơi nào, chẳng tình trạng sức khỏe nào là an toàn cả! Thật đúng như thánh Phao-lô nói: «Khi người ta nói: "Bình an biết bao, yên ổn biết bao!" thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống» (1Tx 5,3). Cái chết đến quả thật như kẻ trộm! không thể biết trước hay đoán trước được lúc nào, cách nào, và thế nào! Tuy nhiên, chết lúc nào, cách nào không phải là chuyện quan trọng. Vấn đề hết sức quan trọng chính là: số phận đời sau của mình thế nào?
Số phận của chúng ta đời sau chính là kết quả của cách sống đời này. Nếu đời này chúng ta sống vị tha, yêu thương mọi người đúng theo bản chất của mình là «hình ảnh của Thiên Chúa» cũng là «con cái Thiên Chúa», thì đời sau chúng ta sẽ được sống trong một môi trường đầy yêu thương, được gần gũi với chính Thiên Chúa của Tình Thương. Trái lại, nếu đời này ta sống ích kỷ, ít tình thương, không tình nghĩa, thường lãnh đạm, nhạt nhẽo, ganh ghét, hận thù… với tha nhân, thì đời sau chúng ta sẽ phải sống trong một môi trường không có tình thương, đầy hận thù và xa cách Thiên Chúa. Điều đó xảy ra không khác gì một quy luật, luật nhân quả: «Cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu» (Mt 7,17). Tương tự như một người luôn yêu thương và vui vẻ với mọi người, dễ dàng hy sinh, sẵn sàng chịu thiệt thòi cho người khác, thì tự nhiên người ấy tạo ra chung quanh mình một bầu khí vui tươi, thoải mái, yêu thương, và những ai ở gần người ấy đều tự nhiên cảm thấy hạnh phúc và quí mến người ấy. Trái lại, một người ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chẳng biết yêu thương hay hy sinh cho ai, chỉ mong người khác hy sinh, chịu thiệt cho mình, tự nhiên người ấy sẽ tạo ra chung quanh mình một bầu khí ảm đạm, căng thẳng, buồn tẻ, và chẳng mấy ai cảm thấy hứng thú gì khi ở với người ấy.
3. Ngày của Chúa
Đối với mỗi cá nhân, Ngày của Chúa - hay ngày Chúa đến - chính là ngày ta chấm dứt cuộc đời trần thế để đến trình diện trước mặt Chúa hầu được quyết định về số phận vĩnh cửu của mình. Đối với toàn thế giới, Ngày của Chúa chính là ngày tận thế, ngày mà tất cả mọi người đã từng sống trên trần gian đều phải trình diện trước mặt Chúa. Ngài sẽ phán xét Giáo Hội cũng như tất cả mọi thể chế trần gian, mọi tôn giáo, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi nền văn hóa, mọi chế độ, mọi quốc gia, mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi tập thể... Lúc đó mọi dân mọi nước, mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa sẽ biết rõ ràng và dứt khoát đâu là đúng đâu là sai. Lúc đó, tất cả mọi bí mật trên thế giới trong tất cả mọi lãnh vực đều được tỏ lộ, phanh phui cho tất cả mọi người thấy, không một che dấu nào mà không bị hiển lộ... Trước mọi sự được tỏ bày, ai nấy đều tự mình biết mình là công chính hay tội lỗi, và công chính hay tội lỗi ở mức độ nào. Mọi người sẽ tâm phục khẩu phục khi thấy số phận của mình, của mọi người và từng người được ấn định một cách hết sức công bằng, hợp lý và quang minh.
Ngày ấy sẽ là ngày vui mừng, vinh quang cho những người thật sự công chính, vì họ sẽ được giải oan, được mọi người nhìn nhận sự trong sạch, ngay thẳng, và tất cả những gì tốt đẹp của mình, đồng thời được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng ngày ấy sẽ là ngày u buồn, nhục nhã, xấu hổ cho những người giả công chính, giả đạo đức, những kẻ gian ác, vì mọi giả dối, xấu xa, gian ác của họ, dù được giấu diếm kỹ càng đến đâu cũng đều bị lột trần, phanh phui trước mọi người, và số phận của họ sẽ là đau khổ muôn đời.
4. Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng
Ngày của Chúa đến như kẻ trộm, không ai biết trước được, và là ngày qui định dứt khoát số phận đời đời của ta. Vì thế, thái độ khôn ngoan nhất của ta là luôn luôn tỉnh thức, lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng, để ngày ấy dù có bất ngờ tới đâu, cũng là ngày đem lại vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu cho ta. Như vậy, thái độ tỉnh thức là thái độ nào?
Tỉnh thức trái với ngủ quên, trái với tình trạng mê mải, bị thu hút bởi một sự việc gì, khiến ta quên mất điều ta phải nhớ, phải canh chừng. Một minh họa cụ thể: Nhiều khi người nhà tôi bận việc, yêu cầu tôi canh chừng ấm nước sôi. Tôi nhận lời với tất cả ý thức. Nhưng chờ lâu quá, để tiết kiệm thì giờ, tôi lại tiếp tục viết bài. Tới lúc chợt nhớ tới ấm nước thì đã quá muộn, ấm đã cạn sạch nước. Chậm một chút nữa là ấm sẽ bị cháy! Công việc đã thu hút tôi đến mức làm tôi quên canh chừng!
Tỉnh thức theo nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là luôn luôn ý thức được mục đích cuộc đời mình là sống xứng với phẩm giá cao cả của mình là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa, nhờ đó đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó đòi hỏi tôi phải sống phù hợp với tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương, cụ thể nhất là yêu thương những người gần mình nhất. Điều tôi cần quan tâm không chỉ là tránh gây nên những bất lợi cho tha nhân, mà còn là làm những gì họ cần tôi làm cho họ. Trong đoạn Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46), ta thấy Thiên Chúa đặc biệt phán xét về những thiếu sót, những điều mà ta không làm cho tha nhân khi họ cần ta làm. Ta thường tưởng rằng mình không làm điều gì bất lợi cho tha nhân thì có nghĩa là mình vô tội, mình công chính. Nhưng thực ra khi mình không làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân, thì mình đã trở thành kẻ có tội và đáng bị kết án rồi. Cụ thể như khi đứng trước một bất công, giả như tôi lên tiếng thì bất công ấy đã không xảy ra, hoặc sự công bằng đã được trả lại cho người bị bất công, nhưng tôi đã không lên tiếng chỉ vì một sợ hãi mơ hồ nào đó. Điều đó chứng tỏ rằng tôi không có đủ tình thương. Chính những tội về thiếu sót ấy làm tôi không xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta có thể trở nên «mê ngủ», mất tỉnh thức khi ta bị thu hút bởi danh, lợi, quyền, thú vui trần tục. Nhiều người mê mải tìm kiếm tiền bạc, quyền lực... đến nỗi chẳng những quên đi bổn phận mình phải làm cho tha nhân (đói cho ăn, khát cho uống, lên tiếng trước bất công...), mà còn sẵn sàng làm những điều bất lợi cho tha nhân nữa (vu khống, gây bất công, thù oán, giết người...) Bất kỳ điều gì có thể làm chúng ta say mê trong cuộc đời, thậm chí là những điều tốt (công việc, chuyện làm ăn, sở thích...), cũng có thể làm ta mất tỉnh thức. Ngay cả việc thờ phượng Chúa (dâng lễ, đọc kinh, cầu nguyện...) cũng có thể ru ngủ ta, làm ta quên cả bổn phận mình phải làm cho tha nhân. Thờ phượng Chúa kiểu này chắc chắn không phải là kiểu đẹp lòng Thiên Chúa, Ngài rất nhờm tởm kiểu thờ phượng này (x. Is 1,11-19). Đáng lẽ việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực phải giúp ta ý thức đến bổn phận của ta đối với tha nhân một cách hữu hiệu. Vậy, một cách cụ thể, tỉnh thức chính là luôn luôn ý thức, quan tâm làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân.
Cầu nguyện
Lạy Cha, thì ra có rất nhiều điều có thể làm con mê ngủ, không tỉnh thức. Điều làm con rất ngạc nhiên là ngay cả những đam mê tốt lành như đam mê đi lễ, đam mê cầu nguyện, đam mê làm tông đồ, đam mê làm ăn... có thể làm con quên đi bổn phận mà con phải làm đối với những người chung quanh con: cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, hàng xóm... Con có bổn phận rất quan trọng là phải làm cho họ nên tốt lành và được hạnh phúc. Xin Cha đừng để những đam mê tốt lành ấy làm con mất tỉnh thức.
Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói cho hết thảy mọi người là: phải canh thức: MV 1-B15
“Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói cho hết thảy mọi người là: phải canh thức!”
Đầu năm phụng vụ bắt đầu bằng mùa Vọng, thời gian của đợi trông mong chờ triều đại hồng ân của Thiên Chúa được tỏ lộ giữa con người.
Và thời gian mong chờ luôn là chuổi ngày đặc biệt đầy ắp những chuẩn bị với sắp đặt. Càng chuẩn bị được kỹ lưỡng cho giờ phút trọng đại, nghĩa là càng gắng công ra sức cho sự việc sắp đến, ta càng thu nhận được nhiều cảm nghiệm sâu sắc khi giây phút ấy thực sự đến. Ngược lại, nếu ta không dồn nổ lực vào tiến trình chuẩn bị đón nhận biến cố trọng đại ấy, thì khi điều đó đến chúng ta không hiểu và thu nhận được mấy ý nghĩa cao cả của sự việc. Tệ hơn nữa là chúng ta bị mất luôn cơ hội hiếm quí, vì biến cố trọng đại đã tới và đã ra đi mà mình vẫn không hề hay biết một tí gì!
Vậy nếu muốn không bị lỡ mất cơ hội và nhận được tối đa những lợi ích của việc Con Thiên Chúa giáng trần, chúng ta cần tích cực dấn thân vào tiến trình long trọng chuẩn bị, từ trong đến ngoài mọi thứ cần được thu dọn và sửa sang lại cho sạch sẻ ngăn nắp. Khi càng đóng góp tâm sức vào với tiến trình chờ đón, chúng ta càng nhận lãnh được những kết quả tương xứng khi Chúa thực sự đến. Việc quan trọng nhất và trước nhất là chính thái độ của tâm hồn mình cần đúng đắn và thích hợp, nghĩa là phài mở rộng cho đổi mới chứ không khư khư ôm chặt lấy quá khứ.
Người Do-thái đã suốt bốn ngàn năm trông chờ Vị Cứu Tinh của Thiên Chúa, nhưng cứ mãi chờ trong thái độ bảo thủ khép kín của chính họ, nên khi Ngài thực sự đến họ đã bị lỡ mất cơ hội duy nhất. Đời họ cứ mãi tiêu hao mòn mõi với nỗi hoài mong không bao giờ hiện thực! Họ là những bằng chứng sống động nhắc nhở mỗi tín hữu chúng ta cần phải học hỏi kinh nghiệm dắt giá ấy.
Canh thức hay tỉnh thức là tư thế sẳn sàng để đáp lời Chúa kêu mời, là sống và hoạt động hết mình trong giây phút hiện tại đang có; chứ không thể là ngồi im trông chờ trong thụ động!
Cách đây khoảng 15 năm, một tờ báo bên Nước Anh mở một cuộc thi tuyển có tên là “Người: MV 1-B16
Cách đây khoảng 15 năm, một tờ báo bên Nước Anh mở một cuộc thi tuyển có tên là “Người chồng gương mẫu nhất nước”. Kết quả là ông John Lavangham đã dành được cái tước hiệu này. Không ai phàn nàn về sự tuyển lựa này vì mỗi sáng ông đều mang cà phê vào tận giường cho vợ. Giúp vợ rửa chén bát, đi chợ dùm vợ và nếu có chuyện gì vợ lên tiếng mắng chửi thì ông không bao giờ hé môi nói lại nửa lời. Chỉ có thế thôi khiến ông hạ đo ván 569 đối thủ khác ngon lành. Ngoài tước hiệu “Người chồng gương mẫu nhất nước” ông còn được một giải thưởng bằng Anh kim tương đương 570,000 đô la Mỹ. Thế nhưng oái oăn thay, vừa lãnh tiền xong thì ông đã điện thoại cho một vị luật sư giỏi để làm một lá đơn ly dị vợ. Ông John đã chờ đợi 16 năm trời trong áp bức, khổ sở mà hôm nay ông mớk có hy vọng thoát ra khỏi đó.
Mùa Vọng là mùa chờ đợi Chúa đến. Chờ đợi là một sự kiện rất quen thuộc trong cuộc đời con người. Tôi chờ một cánh thư, một gói hàng, một cú phone, một chuyến bay. Các em thiếu niên chờ đến tuổi lái xe. Đôi bạn trẻ chờ ngày cưới nhau. Công nhân chờ ngày lãnh lãnh check. Đi tàu chờ ngày vào bến. Học sinh chờ ngày nghỉ học... Là con người chúng ta luôn luôn chờ đợi vì cuộc đời tự nó không bao giờ hoàn tất, luôn luôn có một cái gì sẽ tới, sẽ xảy ra. Mùa Vọng dậy chúng ta kiên nhẫn, hân hoan và hy vọng chờ đợi Thiên Chúa đến.
Có 4 giai đoạn Chúa đến với mỗi người chúng ta:
- Giai đoạn thứ nhất Chúa đã đến rồi, đến trong hình ảnh một hài nhi sinh trong máng cỏ. Chúa đến làm người và sống giữa con người. Đây là giai đoạn hồng ân, khởi đầu ơn cứu chuộc. - Giai đoạn thứ hai là giai đoạn hiện tại, Chúa đến rất bình thản, rất thông thường, qua việc chúng ta rước lễ, đọc Kinh thánh, qua việc chúng ta đi học, đi làm - qua việc chúng ta chịu bệnh tật khổ đau, qua những người chúng ta tiếp xúc, nhất là người nghèo khó, bất hạnh... - Giai đoạn thứ ba Chúa đến trong lặng lẽ, từ từ - có khi đột ngột, mau chóng. Đó là cái chết của mỗi người. Đây là giai đoạn quyết liệt vì định đoạt số phận đời đời của mình. - Giai đoạn thứ tư Chúa đến một cách vinh quang, đến trong ngày tận thế. Mọi kẻ thù phải thần phục Ngài, mọi vinh quang, uy quyền đều thuộc về Ngài. Chúa đến để tách chiên ra khỏi dê, lúa mì ra khỏi cỏ lùng. Chúa đến để thưởng nguời lành, phạt kẻ dữ. Đây là giai đoạn quang lâm.
Như vậy cuộc đời của chúng ta đúng lý ra là một mùa Vọng triền miên, vì luôn luôn chúng ta đón chờ Chúa đến. Nếu chúng ta đã đón Chúa đến trong giai đoạn bổn phận một cách tử tế: như làm lành lánh dữ - kính trọng, yêu thương mọi người - giúp đỡ người bất hạnh - năng chịu các bí tích - sống tinh thần Phúc âm... thì khi Chúa đến trong giai đoạn quyết liệt, tức qua cái chết, chúng ta vẫn sẵn sàng thưa: “ Lạy Chúa con đây “.
Đã có chờ đợi thì không thoát khỏi nhỡ nhàng. Nhỡ một chuyết tàu, nhỡ một cái hẹn, nhỡ một cái thư... Nhưng những cái nhỡ đó có thể bù đắp được. Tuy nhiên nếu “ nhỡ” số phận đời đời của mình thì mất tất cả, ân hận suốt đời. Cái “nhỡỮ này nguy hiểm vô cùng, không ai có thể chuộc lại. Chẳng ai sống mãi ở giai đoạn bổn phận vì sẽ có ngày chúng ta chạm tay vào giai đoạn quyết liệt. Nhưng chính giai đoạn bổn phận định đoạt cho ta số phận đời đời ở giai đoạn quyết liệt. Chúng ta biết mình phải sống thế nào để cuối cùng được nghe những lời sau đây: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung thành, hãy vào hưởng phần hoan lạc với chủ ngươi”.
Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hãy mưa vị cứu tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không: MV 1-B17
“Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hãy mưa vị cứu tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung biểu dương oai phong Chúa Trời” là nhưng tiếng ca hy vọng, nức nở và ai oán, diển đạt tâm trạng sa lầy của con người. Sa lầy trong cuộc đời khổ ải và gian truân. Sa lầy vì duyên nợ oan nghiệt và tình đời đắng cay. Sa lầy vì tâm cao hơn trời nhưng đam mê và dục vọng đóng khung và đầy đọa con người dưới đất. Sa lầy vì hạnh phúc vụt bay và tiền, tình, tài chỉ là tai họa. Sa lầy vì thân xác héo khô, mỏi mòn và tâm hồn sầu buồn, khắc khoải.
Con người hoàn toàn bất lực trong tiến trình tu thân tích đức. Con người không thể tự giải phóng bản thân khỏi những đam mê, dục vọng và yếu đuối. Con người không thể giải hóa nổi những đố kị, tranh chấp và tị hiềm. Con người vì thế ngước mắt lên trời cao, thét gào ơn cứu độ và xin mưa ơn công chính. Khát vọng nên công chính là nguyên nhân và ý nghĩa của mùa Vọng. Ơn công chính như nước tưới sa mạc khô cằn để cây cỏ xanh tươi và cuộc đời thêm ý nghĩa và đáng sống.
Ngày rước lễ vỡ lòng, bé Thanh xúng xính trong bộ đồng phục thiên thần. Bé vui nhận những món quả sau nghi thức thánh. Bé ôm chặt mẹ và ngây thơ tâm sự “ <I>Mẹ ơi, con muốn chết bây giờ để lên thiên đàng. Con sợ sau này con lớn sẽ có nhiều tội và mất phúc thiên đàng “. Tâm tình đơn thành của em là của mỗi chúng ta. Có lúc chúng ta tươi trẻ và xinh đẹp như thiên thần. Có lúc chúng ta ngã sa và đáng trách như tên quỉ sứ. Lại có những lúc chúng ta hối hả gõ cửa trời và vùng vẫy kêu cứu. Đáng khen! vì đây là dấu hiệu của cuộc chỗi dậy.
Lúc ấy Chúa thân hành đến nâng dậy, vỗ về, thanh tẩy và ban lại niềm vui đã mất. Chúa hành động liên lỉ và mãnh liệt lôi chúng ta ra khỏi vòng kiểm toả của tối tăm. Chúa không vui gì khi nhân loại sống trong sa đọa. Chúa dùng mọi hình thức: dậy dỗ, trách phạt, ngăm đe, những mong cảnh tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi bến mê. Có thể khẳng định là Chúa đã dùng mọi phương tiện để ơn cứu độ tuôn tràn vào mỗi cá nhân. Tình trạng sa lầy và dậm chân tại chỗ là do chính chúng ta tạo mãi. Chúng ta xua đuổi và chối từ Chúa. Chúng ta trốn chạy và bịt tai trước những lời kêu mời thân thương và từ ái. Chúng ta đã bỏ lở cơ hội và quay lại tố là Chúa không thương, không giúp.
Trời vẫn ban mưa. CứuTinh vẫn đang mời mọc. Đất tiếp tục sinh hoa kết trái. Chỉ có lòng người khô cằn. Tiên tri Isaia cảnh cáo “đời ngươi tội lỗi. Chiếc áo dơ bẩn là công quả đời ngươi. Ngươi không cầu cũng không bám vào Chúa. Vậy ơn cứu độ bởi đâu đến?”
Chúng ta phải moi đá lên, thay đất tốt vào và nhận hạt giống tinh tuyền. Mưa rơi, hạt giống chuyển mình và phát triển. Lời Chúa văng giải quá dư. Tiếng Chúa vang dội khắp chốn. Hôm nay Chúa lại đến gõ cửa nhân loại. “Hãy tỉnh thức vì chủ đến vào lúc người không ngờ”.
Mùa Vọng này chúng ta không mong trời đổ mưa, không cầu mây chuyển Đấng Cứu Độ, không trách đất chưa sinh hoa trái và không phủ nhận vinh quang Chúa nữa. Trái lại chúng ta cầu cho bản thân mình được đứng lên, rướn cao hơn nữa và can đảm bước tới. Vạn sự phải khởi đầu nơi con người yếu đuối và đang sa lầy này. Phản tỉnh là cơ hội và điều kiện để chúng ta kín múc ơn trời, và không lãng phí tình Chúa như những năm trước. Những năm chỉ biết kêu trách và nài xin Chúa bố thí phép lạ nhưng không tích cực cộng tác, thiếu thiện chí thay đổi, chưa can đảm bước tới và không mở lòng đón Chúa.
Chúa trên cao đang giang tay đón chờ. Cửa trời luôn rộng mở. Lời Chúa luôn vang dội. Ơn thánh đang tuôn trào. Bao giờ chúng ta mới tỉnh mộng và sống đúng ý nghĩa mùa Vọng?
Từ thuở tiểu học chúng ta đã thuộc lòng 2 câu thơ: ... Nàng Tô Thị ôm con chờ chồng, mỏi mòn: MV 1-B18
Từ thuở tiểu học chúng ta đã thuộc lòng 2 câu thơ:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Nàng Tô Thị ôm con chờ chồng, mỏi mòn đợi chờ, mịt mù xa thẳm để rồi hóa đá. Hòn vọng phu là một di tích văn hóa của Dân tộc.
Hòn Vọng Phu như là một biểu tượng lòng thủy chung của người vợ đợi chờ chồng.
Linh mục Thiện Cẩm đã ví von: đối với tôi, hòn vọng phu có một ý nghĩa biểu tượng khác. Nó như là biểu tượng Giáo hội đang ôm ấp cả nhân loại trong lòng và đứng thẳng trên cao, nhìn vào chân trời xa thẳm, đợi chờ Đức Giêsu - vị Hôn Phu của mình đang ngự đến, như lời sách Khải Huyền đã viết: Thần Khí và Tân nương nói "Xin Ngài ngự đến ...Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài ngự đến" ( Kh 22 ,17- 20).
Toàn bộ cuốn Thánh Kinh kết thúc như vậy. Hình ảnh Hôn Thê chờ Hôn Phu.
Kinh Thánh là một câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và nhân loại mà phần lớn được diễn tả bằng ngôn ngữ tình yêu nam nữ, vợ chồng .
Nhắc lại vài câu Thánh Kinh cũng đủ nói lên điều ấy:
Ngươi sẽ được Thiên Chúa đem lòng sủng ái Và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về Như cô dâu là niềm vui cho chú rễ Ngươi cũng là niềm vui cho thiên Chúa ngươi thờ ( Is 66 ,4- 5)
Thánh Phaolô trong 2 Cor 11,2 ; Ep 5,26-27 đã diễn tả Giáo hội là Hiền thê, là bạn trăm năm của Đức Kitô. Hình ảnh Hôn Thê chờ Hôn Phu là một hình ảnh đẹp biểu trưng lòng tín trung của Giáo hội đối với Chúa Kitô.
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là mùa vọng.
Mẹ Giáo hội đang ôm ấp tất cả con cái nhân loại đợi chờ Đức Kitô đến trong hai lần Người ngự đến.Ngự đến trong thời gian là Nhập Thể và kết thúc thời gian là Quang Lâm.
Từ Chúa Nhật I mùa vọng đến ngày 16.12 phụng vụ nói lên sự mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian ; tám ngày cuối cùng trực tiếp nói đến ngàysinh nhật của Người.
Theo tinh thần canh tân phụng vụ, mùa vọng không còn là mùa thống hối nữa mà là mùa hân hoan mong đợi. Các Chúa nhật trong mùa vọng không đọc kinh Vinh danh không phải vì đặc tính đền tội của mùa chay, nhưng là để bài ca của các Thiên thần được xem như là một tiếng hát mới mẻ trong đêm Giáng sinh.
Mùa vọng cũng là mùa của những lời loan báo. Loan báo việc Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc ngày Chúa nhật.
Bài đọc 1 trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng
Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc âm Chúa nhật I mùa vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức. Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa. Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho mùa vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Lời Chúa Chúa nhật I mùa vọng dặn dò mỗi người Kitô hữu là hãy tỉnh thức, tỉnh thức để để đón chờ ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người và đối với cả nhân loại.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức vì đó là ý muốn, là mệnh lệnh của Chúa. Tỉnh thức và đợi chờ là lời mời gọi của Chúa đối với mỗi ngày sống của mỗi người.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn. Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Niềm hy vọng cánh chung không cản trở công cuộc xây dựng trần thế và mưu tìm hạnh phúc hiện tại. Trái lại, đó là một động lực thúc đẩy mỗi người góp phần kiến tạo gia đình, làng xóm ,xã hội sống công bình, huynh đệ và hạnh phúc hơn.Ai thấy rõ đường đi thì càng vững tâm mà đi.
Chỉ có một Đức Kitô, chỉ có một Giáo hội là bạn trăm năm của Người. Giáo hội không chỉ là Trinh Nữ, là Hiền Thê mà còn phải là Mẹ. Do đó hình ảnh người Mẹ bồng con là hình ảnh thích hợp để biểu tượng cho Giáo hội.
Hình ảnh Hòn Vọng Phu tượng trưng cho Mẹ Giáo hội đứng trên đỉnh núi giữa trời mây sông nước, ẵm chặt vào lòng đứa con của sự sống là tương lai và hạnh phúc của mình hướng về trời cao với niềm hy vọng là Đức Kitô.
Mẹ Giáo hội cưu mang các thực tại của mọi dân tộc là sự sống, là tương lai, là hạnh phúc để nuôi dưỡng và ấp ủ cho đến ngày hoàn toàn viên mãn, ngày Đức Kitô ngự đến. Mùa vọng được khai mở với lời mời gọi của Đức Giêsu: Hãy tỉnh thức.
Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời,một chương trình kế tiếp như như sách Nho có câu: Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân ( Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).
Tỉnh thức là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến: MV 1-B19 FB
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.
Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Đời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân Chúa đi qua.
Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm mới gặp được Người.
Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.
Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.
Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Đức Kitô. Đừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Đừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Đừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Đức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.
Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hi sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.
Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Đức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.
Lạy Chúa, xin giữ hồn con tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
Hằng năm mỗi khi mùa Vọng đến thường cho ta cái cảm giác mong chờ. Bốn tuần lễ Mùa Vọng: MV 1-B20
Hằng năm mỗi khi mùa Vọng đến thường cho ta cái cảm giác mong chờ. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho bốn ngàn năm dân chúng trong Cựu Ước mong đợi Đấng Cứu Thế. Vì thế mà lịch sử Cựu ước được gọi là câu chuyện đợi chờ.
Bài trích Sách Tiên Tri Isaia hôm nay được viết vào cái thời mà thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Để hiểu rõ cái liên hệ của Giê-ru-sa-lem đối với người Do Thái, ta có thể suy ra cái liên hệ giữa Đền Thánh La Mã đối với người Công giáo. Vào cái thời Giê-ru-sa-lem bị phá hủy thì dân chúng nghèo nàn, khổ cực thế nào! Vì thế, cái cơ hội xây dựng lại đất nước của họ thật là mỏng manh. Do đó hầu như họ để cho thất vọng đè bẹp và bao phủ.
Hôm nay Tiên Tri Isaia đã nhắc nhở cho dân chúng ghi nhớ lời Chúa hứa sai Đấng Cứu Thế và rồi dân chúng cũng nuôi dưỡng cái đời sống thiêng liêng của họ bằng niềm hi vọng đó. Trong khi họ mong đợi Đấng Cứu Thế đến, Tiên Tri Isaia cũng nhắc nhở cho họ là Chúa cũng trông đợi họ trở về bởi vì họ đã quên lãng Chúa và đi lạc đường lối.
Qua những bức Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô cho ta thấy giáo dân Cô-rin-tô đang trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng. Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô thời đó bị phân tán bởi phe nhóm, và họ sống trong cảnh vô trật tự. Vì thế Thánh Phao-lô khuyên họ sống trung thành cho đến cùng và đặt niềm hi vọng vào ngày Chúa sẽ đến lần thứ hai. Còn giáo dân La Mã thời bấy giờ cũng đang trải qua cuộc bách đạo. Như vậy ta thấy dân Do Thái trong Cựu Ước mất niềm hi vọng trong việc xây dựng lại đền thờ. Giáo dân thành Cô-rin-tô thời Giáo Hội sơ khai bị chia thành năm bè bảy mối. Giáo dân La Mã thời khởi đầu Giáo Hội bị bách hại.
Còn giáo dân Việt nam hải ngoại sau 1975 đang gặp những khó khăn nào? Phải chăng người giáo dân Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn về vật chất, về tinh thần, cũng như đời sống thiêng liêng? Có những người cảm thấy nhớ nhung cái cảnh thân mật dưới mái gia đình, và cái cảnh quen thuộc của khu xóm, làng mạc, phố chợ. Có người cảm thấy luyến tiếc khi thấy con cháu quên lịch sử, quên nói tiếng mẹ. Có người cảm thấy thua thiệt khi thấy khả năng ngôn ngữ của mình bị giới hạn. Có người cảm thấy tủi hổ khi thấy mình già cả, bị con cháu cho qua mặt, không còn được coi là thích hợp và hữu dụng. Có người cảm thấy ưu tư khi thấy những giá trị luân thường đạo lý cổ truyền đã bị quên lãng. Có người cảm thấy mất mát khi thấy gia đình đổ vỡ, nhưng liên hệ giữa ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt đã trở nên lỏng lẻo, xa cách, nếu không là đã bị cắt đứt. Có người cảm thấy lo âu khi thấy việc thực hành đức tin đã trở nên bê trễ.
Đứng trước những hoàn cảnh kó khăn, trắc trở, Tiên Tri Isaia nhắc nhở cho dân Do Thái đặt niềm hi vọng vào Đấng Cứu Thế sẽ đến. Thánh Phao-lô khuyên giáo dân Cô-rin-tô phải trung thành cho đến cùng. Còn Thánh sử Marcô kêu gọi giáo dân La mã phải tỉnh thức chờ đợi. Như vậy, theo lời Tiên Tri Isaia, lời Thánh Phao-lô, lời Thánh sử Marcô, ta cũng phải cố gắng vươn lên để vượt thắng trở ngại, vượt lên trên hoàn cảnh thay vì để cho hoàn cảnh trở ngại đè bẹp. Mỗi người phải đặt cho mình một niềm hi vọng nào đó: hi vọng có bằng cắp, nghề nghiệp, hi vọng co việc làm tốt, hi vọng đời sống cá nhân sẽ thay đổi, hi vọng những liên hệ gia đình cũng như liên hệ với Chúa sẽ trở nên tốt đẹp hơn, hi vọng con cháu sẽ được thành đạt và hạnh phúc.
Mùa Vọng mà Giáo Hội bắt đầu hôm nay là mùa hi vọng. Giáo Hội dùng phụng vụ để khơi dậy trong ta cái ước muốn, để hun đúc tư tưởng của mỗi người cho việc sửa soạn tâm hồn đón mừng Chúa Cứu Thể đến bằng ơn thánh. Hi vọng là lẽ sống của mỗi người. Đối với người công giáo, thì Chúa Giáng Sinh phải là nguồn hi vọng và là lẽ sống của mỗi người.
1st Sunday of Advent: HÃY TỈNH THỨC, CANH PHÒNG * Stay Awake , On Guard *
Chúa Cứu Độ chúng ta. Mùa Vọng có 4 tuần lễ sửa soạn đón Chúa Giáng Sinh. Chúng cần Ngài: MV 1-B21
Bài đọc 1: Isaia 63,16- 17; 19. 64, 2- 7=Chúa Cứu Độ chúng ta. Mùa Vọng có 4 tuần lễ sửa soạn đón Chúa Giáng Sinh. Chúng ta cần Ngài đến để cứu ta khỏi những xấu xa mà ta đã làm trong đời sống quá nhiều./ God Our Redeemer. Advent, the four weeks of preparation for Christmas. All need God to come and save us from the mess we have made of life so often.
Bài đọc 2: 1 Cor.1,3- 9=Bước theo Đức Kitô. Thánh Phaolô thấy Cộng đoàn Cô-rin-tô như là họ đang trông đợi sự mạc khải của Đức Giêsu Kitô./ Fellowship with Christ. Paul sees the community of Corinth as waiting for the revelation of our Lord Jesus Christ.
Tin Mừng (Gospel): Mác-cô 13, 33- 37= Hãy canh thức! Anh không biết ngày nào sẽ đến. Chúa nói với Cộng đoàn Êphê-sô: " Ta trách ngươi điều này: Ềngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu."/ Be on guard, You do not know when the appointed time will come. God said to the Church of Ephesus: "I hold this against you: You have turned aside from your early love." ( Rev. 2, 4 )
A. Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Reflections, live out and share )
1/ Đức Giêsu nói về ngày Tận thế như sau: "Anh em phải coi chừng, phải canh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến." Tôi đã thấy những biến cố lớn đang xảy ra như vụ khủng bố ngày 11-09, nhiều vụ động đất, lut lội, đánh bom, hỏa hoạn... khắp nơi. Tôi đã coi chừng cho mình và gia đình bằng những việc nào? "Be constantly on the watch! You do not know when the appointed time will come." ( Mat. 13, 33 )
2/ Chúa còn nhấn mạnh thêm: "Điều này Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: Phải Canh Thức!" Bạn có nghĩ rằng mình còn trẻ, hay tôi đang kiếm tiền nhiều hoặc địa vị đang lớn, vợ đẹp con khôn, cứ hưởng thụ đã, đi đâu mà vội. Canh thức mà Chúa muốn hôm nay đây là bạn cần làm gì? Do not let Him come suddenly..."What I say to you, I say to all: Be on guard". ( Mat. 13, 37 )
3/ Trong bài suy niệm về lịch sử Israel, tiên tri Isaia viết: "Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ." Bấy lâu nay tôi đã làm việc phục vụ anh em vì phô trương, vì lợi lộc, đã lợi dụng danh Chúa để làm sai. Những tâm tình nào tôi cần có khi làm cho tha nhân? All of us have become like unclean men, all our good deeds are like polluted rags. (Isaia 64, 5 )
4/ Thánh Phaolô nói lên ngày vinh quang Chúa đến của Tín hữu Côrintô như sau: "khiến anh em không thiếu một ân huệ nào trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô..." Lòng trung tín của Chúa đã kêu gọi người Tín hữu thông phần sự Sống sẽ gìn giữ bạn đến cùng. Bạn đã có tinh thần hiệp thông trong Giáo xứ thế nào? You lack no spiritual gift as you wait for the revelation of our Lord Jesus Christ.Ể (1Cor. 1, 7)
B. Câu Kinh Thánh tôi chọn để Sống Canh thức tuần này: ( The Best God’s Word )
ANH EM PHẢI COI CHỪNG, PHẢI CANH THỨC, VÌ ANH EM KHÔNG BIẾT KHI NÀO THỜI ẤY ĐẾN. Be constantly on the watch! Stay awake! You do not know when the appointed time will come. (Mc.13,33
C- Ngay bây giờ tôi phải Canh chừng như thế nào: (So what am I doing / For Action )
a/ Tôi có thể chọn 1 trong 4 gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thi hành vào đời sống.
b/ Bạn làm ngay một việc đặc biệt mà bấy lâu nay đã không làm cho gia đình, giáo xứ và xã hội.
D. Tôi cầu nguyện không ngừng để sẵn sàng đón Chúa: ( I pray and practice / Pray in Action )
1/ Lạy Cha! Đức Kitô đã nói: Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: Phải canh thức! Xin dạy cho con biết luôn sẵn sàng bằng những việc làm phục vụ người nghèo trong xã hội.
2/ Tiên tri đã nói: Tất cả chúng con đã héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm tựa cơn gió cuốn chúng con đi. Xin cho con tỉnh ngộ ngay, đừng mải ngủ mê nữa, vì Chúa đến bất thần không biết lúc nào.
Lời hay ý đẹp: NHỮNG LỰA CHỌN HIỆN TẠI SẼ QUYẾT ĐỊNH PHẦN TƯƠNG LAI CỦA CHÚNG TA Our present choices determine our future reward
Hôm nay cùng với toàn thể Hội Thánh Công Giáo, chúng ta bước vào Mùa Vọng năm Thới Bình: MV 1-B22
Hôm nay cùng với toàn thể Hội Thánh Công Giáo, chúng ta bước vào Mùa Vọng năm B. Trọng tâm của Mùa Vọng là chờ đợi, là dọn đường đón mừng Thiên Chúa xuống thế làm người cứu độ và giải thoát con người. Các bài đọc Thánh Kinh Giáo Hội cho đọc hôm nay là những kinh nghiệm quí báu về Thiên Chúa của ngôn sứ I-sai-a và Thánh Phao-lô Tông Đồ và là lời mời gọi tỉnh thức của Chúa Giê-su. Chúng ta hãy đi tìm sứ điệp của Lời Chúa để đón nhận và sống cho đẹp lòng Chúa.
1. NHỮNG KINH NGHIỆM QUÍ BÁU VỀ THIÊN CHÚA CỦA NGƯỜI XƯA:
Kinh nghiệm về Thiên Chúa của ngôn sứ I-sai-a:
Ngôn sứ I-sai-a sống ở xứ Giu-đa vào thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên tức thời dân Chúa bị phân chia thành hai nước: Bắc Nam. Sứ mạng của I-sai-a cũng như của các ngôn sứ khác là vạch cho dân Ít-ra-en thấy lỗi lầm của họ, kêu gọi họ quay về với Thiên Chúa, sống trung thành với Người vì Người là Đức Chúa, là Cha, là Đấng Cứu Độ, là Đấng không bao giờ bỏ dân, cho dù dân có bất tín bất trung với Người.
Đoạn sách I-sai-a mà Giáo Hội đọc trong Phụng Vụ hôm nay là kinh nghiệm thiêng liêng của ngôn sứ, sống và giao tiếp thân mật gần gũi với Thiên Chúa. Có lúc I-sai-a như tỉ tê tâm sự với Thiên Chúa: “Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài mới là Cha, là Đấng Cứu chuộc chúng con”. Có lúc I-sai-a trách móc, giận hờn và qui trách cho Chúa: “Tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài ? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng biết kính sợ Ngài ?”. Nhưng tâm tình nổi bật nhất của I-sai-a là tâm tình hoàn toàn tin cậy, phó thác và ngóng đợi ngày Chúa hành động: ”Chưa hề thấy có vị thần nào, ngoài Chúa ra, đã hành động như thế đối với ai tin cậy nơi mình” – “Chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con”
Kinh nghiệm về Thiên Chúa của Phao-lô:
Thánh Phao-lô chia sẻ với tín hữu Cô-rin-tô và với chúng ta kinh nghiệm tâm linh của riêng ngài. Đó cũng là kinh nghiệm gặp gỡ, khám phá và sống với Thiên Chúa là Cha giầu lòng từ bi lân ái, là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Thánh Phao-lô đã cảm nghiệm được Thiên Chúa là như thế xuyên qua cuộc đời đầy gian nan thử thách, bị bắt bớ tra tấn và ngục tù của ngài. Hơn nữa Thánh Phao-lô còn giúp chúng ta hiểu tại sao Thiên Chúa lại nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách. Đó là để đến lượt chúng ta, chúng ta biết ủi an những kẻ lâm cảnh gian nan khốn khó, tức chúng ta “tiếp nối” công việc của Chúa và “kéo dài” hành vi nâng đỡ ủi an của Thiên Chúa.
2. KINH NGHIỆM VỀ THIÊN CHÚA CỦA CHÚNG TA NGÀY NAY ?
“Phải coi chừng, phải tỉnh thức !”
Tin Mừng theo Thánh Mác-cô nhắc lại lời mời gọi ân cần của Đức Giê-su: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến”. Thời ấy là thời Cánh Chung mà Đức Giê-su đã nói đến rất nhiều vào giai đoạn cuối đời Người. Thời ấy là thời Cứu độ mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Thời ấy còn có nghĩa là những lần gặp gỡ giữa Thiên Chúa và mỗi người hay đúng hơn là kinh nghiệm sống với Thiên Chúa của chúng ta. Và để sống với Chúa mỗi ngày, thậm chí mỗi giờ, mỗi khoảnh khắc thời gian cũng như để gặp được Chúa trong ngày Chúa Quang Lâm hoàn tất công trình Sáng Tạo và Cứu Độ thì điều kiện trước tiên là chúng ta phải tỉnh táo, phải cảnh giác, phải biết đầu tư cho kinh nghiệm sống với Chúa trong giây phút hiện tại.
Tại sao chúng ta phải tỉnh thức ?
Chúng ta phải tỉnh thức vì chúng ta đang bị cuốn hút và bao vây bởi nhiều mối bận tâm, tính toán và lo toan giả trá khiến chúng ta không còn tâm trí tự do, thong thả. Chúng con phải tỉnh thức còn vì chúng ta đang bị mê hoặc bởi những mưu chước thâm độc của Xa-tan. Hắn dụ dỗ chúng ta một cách ngon ngọt dưới những “chiêu bài” đẹp đẽ hấp dẫn ( tự do, tự quyết định, sáng tạo, trưởng thành ) khiến chúng ta không còn phân biệt được thật hư, xấu tốt. Chủ yếu là chúng ta đang bị Xa-tan cám dỗ như A-đam và E-và trong vườn địa đàng: gạt bỏ Thiên Chúa và sự chỉ bảo của Người ra khỏi tâm hồn và cuộc sống của chúng ta. Nếu chúng ta nghe theo hắn, chúng ta sẽ chỉ thấy toàn hỗn độn, bế tắc và vô vọng.
Vậy, sống Lời Chúa chính là:
Tập sống tình con thảo với Thiên Chúa là Cha, là Chúa Cứu. Tuyệt đối tin tưởng, phó thác và trông cậy nơi Người. Luôn thức tỉnh để nhận ra Cha và đón nhận sự chỉ bảo của Người.
Lạy Thiên Chúa, chỉ có Chúa mới là Cha, là Đấng Cứu độ chúng con. Cha đã yêu thương chúng con và muốn đem hạnh phúc cho chúng con. Chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Người là Quà Tặng lớn lao nhất mà Cha có thể ban và đã ban cho chúng con. Xin Cha giúp chúng con đón nhận Người, sống với Người và sống theo Người. Có Người trong tâm hồn và trong cuộc đời, chúng con sẽ vượt qua được mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống; chúng con sẽ tuân giữ và thực hành được các giới luật, nhất là luật yêu thương, của Cha.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin dạy chúng con biết sống với Cha như Người đã sống với Cha: khám phá ra Tình Thương và sự Thánh Thiện của Cha, sống trọn tình trọn nghĩa, phó thác cậy trông như người con thảo với Cha.
Gs. NGUYỄN VĂN NỘI
CÂU TRUYỆN:
ĐÔI MẮT CỦA TÂM HỒN
Trong một chuyến đến thăm ngôi trường khiếm thị duy nhất của thành phố, tôi chạnh lòng nhìn cảnh một số em quờ quạng với chiếc gậy trên tay, có em lại bám vào vai bạn và cả hai cùng lần bước... Còn đến khi vào lớp, các em lại cần mẫn dùng những ngón tay nhỏ bé gầy guộc để đọc từng giòng chữ Braille trên trang giấy nổi... Bất chợt, ánh mắt tôi dừng lại ở một em bé có đeo một mẫu ảnh Thánh Giá nho nhỏ trên ngực áo. Tiến lại gần, tôi làm quen với em và được biết... Em kể rằng: “Trước khi vào trường này, mẹ em đã đeo cây Thánh Giá này cho em và bảo: Đèn của thân thể người ta là đôi mắt, còn với con, thì Thánh Giá sẽ là cây đèn cho con đấy !”
Tôi ân cần hỏi em: Thế em có thấy vui không ?” Em bé ngước nhìn lên với đôi mắt đục mờ, trả lời ngay: “Có chứ anh, em đã mất đôi mắt của thân thể, nhưng thật sự thì đôi mắt của tâm hồn em vẫn sáng !” Nghe câu trả lời quả quyết ấy, tôi giật mình tự nhủ: Con mắt của tâm hồn mình có còn sáng hay đã tắt ngúm rồi nhỉ ? “Lạy Chúa, xin Chúa hãy là đèn sáng cho cuộc đời con, Chúa ơi !”
Trích Đặc San CON ĐỨC MẸ, Xuân 2000. NỐI LỬA CHO ĐỜI số 4
Tin Mừng thì các tín hữu đều nghĩ rằng Chúa sắp quang lâm. Người ta nôn nóng chờ Chúa: MV 1-B23
Tin Mừng thì các tín hữu đều nghĩ rằng Chúa sắp quang lâm. Người ta nôn nóng chờ Chúa đến để rước mình lên thiên đàng. Người ta còn nghĩ rằng ngày quang lâm sẽ đến trong vòng một thế hệ thôi, nghĩa là sẽ không có ai trong Hội thánh phải chết trước ngày ấy. Nhưng rồi hôm nay người này chết, hôm khác người nọ chết, hết chết người này đến chết người khác mà vẫn chưa thấy Chúa quang lâm. Thế là nhiều người mệt mỏi không chờ nữa, họ sống buông trôi, lơ là vệc đạo đức, chểnh mảng việc bổn phận, sống buông thả trụy lạc… Trước tình hình đó, Thánh Marcô nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã dạy và ghi lại để khuyên các tín hữu. Ý chính là tỉnh thức sẵn sàng.
1.Ý nghĩa các chi tiêt trong dụ ngôn
- Ông chủ đi phương xa: Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời.
- Đầy tớ ở nhà được giao công việc: các tín hữu với bổn phận hằng ngày.
- Không biết ngày nào chủ trở về: không thê biết rõ ngày nào Chúa quang lâm trở lại. Nhưng chính vì không biết rõ ngày nào Chúa quang lam trở lại nên chúng ta lúc nào cũng phải tỉng thức sẵn sàng.
- “Tỉnh thức sẵn sàng” nghĩa là luôn ở trong tư thế đang chu toàn bổn phận.
B...nẩy mầm.
1- Trong giai đoạn hiện tại xem ra như Chúa đang đi vắng, vì chúng ta không thấy Chúa làm gì hay nói gì cả, cũng giống như nhà đang vắng chủ. Trong hoàn cảnh như thế, người đầy tớ có thể có 4 thái độ:
a. “Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: những người sống buông thả phóng túng, bỏ bê hết mọi bổn phận.
b. Đi ngủ. Khi đoán chủ sắp về mới thức dậy làm việc:
những người lười biếng sống đạo, chờ gần chết mới ăn năn trở lại.
c. Làm trọn bổn phận chủ giao, để nếu chủ về bất thần thì mình không bị phạt: những người lo sống tốt vì sợ hỏa ngục.
d. Luôn làm trọn bổn phận chủ giao, để đáp lại sự tín nhiệm của chủ, và vì lòng thương mến chủ: những người sống đạo vì lòng yêu mến Chúa.
Thực ra Chúa không vắng mặt. Ngài cho chúng ta cảm thấy Ngài vắng mặt thôi, vì trọng tự do của ta, vì tín nhiệm ta, và cũng để thử xem ta thuộc hạng đầy tớ nào trong bốn hạng trên.
2- Một người mẹ thương con thì lúc nào cũng lo sẵn cơm nước trong bếp để hễ con đói là có ăn ngay. Một người vợ thương chồng thì lúc nào cũng lo nhà cửa ngăn nắp để gia đình là mái ấm cho chồng. Một đứa con thương cha mẹ thì lúc nào cũng hết sức làm tròn công việc cha mẹ giao.
3- Trong cơ thể con người, có lúc các cơ bắp, hệ thần kinh và bộ máy tiêu hóa nghỉ ngơi, nhưng con tim không bao giờ nghỉ, khi tim nghỉ là con người chết. Con tim là yêu thương.
4- Thánh Phêrô giải thích thế nào là tỉnh thức:”đừng chiều theo những đam mê…sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”(1 pr 1,13-16)
5- Những nhà khảo cổ đã đào bới được thành phố Veseve xưa kia bị núi lửa chôn vùi cách đột ngột. Người ta thấy nhiều cảnh tượng trái ngược nhau: có người chết đang khi nhậu nhẹt, có người đang đánh nhau để tranh dành một số tiền. Nhưng đẹp nhất là hình một người lính gác vẫn đứng nghiêm, gươm giáo trong tay.
6- Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó Hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói:”Không biết hôm nay có phải là ngày tận thế hay không. Nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên”(Drinkwater)
Chúa Giêsu đã bảo rằng Ngài không biết ngày giờ Ngài sẽ quang lâm. Có nhiều điều Ngài giao: MV 1-B24
Chúa Giêsu đã bảo rằng Ngài không biết ngày giờ Ngài sẽ quang lâm. Có nhiều điều Ngài giao trọn vào tay Thiên Chúa mà không hề thắc mắc. Không thể nói lời cảnh cáo và quở trách nàonghiêm trọng hơn cho những kẻ muốn tính ngày giờ cho việc Chuá quang lâm. Chắc chắn nếu chúng ta muốn truy tầm, ttra vấn cho ra điều mà chính Chuá bằng lònh không tìm biết, thì chẳng những làm điều vô íchmà còn là một tội phạm thượng.
Điều ta có thể chắc chắn là lịch sử phải đi về một điểm nào đó, phải có kết thúc xảy ra.
Nó cho ta biết trong mọi sự, việc làm điên dại hơn hết là quên Thiên Chúa mà đắm chìm trong thế gian. Người khôn ngoan không bao giờ quên mình phải sẵn sàng nghe tiếng kêu gọi. Nếu chúng ta sống và luôn luôn nhớ rõ như vậy thì kết cuộc sẽ không bao giờ kinh khủng, nhưng là niềm vui đời đời.
Cho nên Chúa Giêsu rút ra một kinh nghiệm thực tiễn. Chúng ta cũng giống như những người đầy tớ, biết chủ mình sẽ về nhưng không biết lúc nào. Chúng ta đang sống trong bóng của cõi đời đời. Không có lý do gì để sợ hãi và sốt ruột chờ đợi. Điều có nghĩa nhất là hằng ngày chúng ta phải làm cho trọn phần việc của mình. chúng ta phải sống dường như việc Ngài trở lại lúc nào là việc rất bình thường. Ngài đã giao cho chúng ta việc quan trọng là mỗi ngày phải làm việc thích hợp để Ngài xem xét, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để gặp mặt Ngài mặt đối mặt. Cả đời sống chúng ta phải là việc chuẩn bị để gặp mặt Vua.
Ngày kia có một khách du lịch dừng chân trước một biệt thự rất sang trọng cạnh một hồ nước trong xanh ở Thụy Sỹ, nhưng không phải trên con đường mà khách vãng cảnh thường qua lại. Khách du lịch gõ vào hàng rào sắt, tức thì một cụ già coi vườn ra mở cái cổng nặng nề vẫn đóng chặt. Sung sướng vì được thấy một người khách, cụ dẫn ông tham quan cả một khu vườn rộng lớn. Người khách hỏi: “cụ ở đây bao lâu rồi ?”
Thưa ông, tôi ở đây đã được hai mươi bốn năm.
Chủ cuả cụ ít khi ngủ lại biệt thự này, có phải không ? Cụ đã trông thấy ông ta mấy lần rồi ?
Tôi đã trông thấy ông bốn lần. Lần cuối cùng cách đây đã mười hai năm.
Ong có viết thư cho cụ chăng ? Chẳng bao giờ. Thế ai trả công cho cụ ? Người quản gia của ông. Thế người quản gia này có năng đến đây không ? Tôi chưa hề thấy mặt ông. Ong ấy luôn liên lạc với tôi qua thư từ. Thế thì ai hưởng sự đẹp đẽ này ? Trừ vợ tôi và tôi thì không ai hưởng hết.
Tuy vậy, cụ coi sóc vườn này, sân hoa này, bãi cỏ này cách chu đáo, dường như ngày mai chủ cụ sẽ đến.
Ồ ! Thưa ông, tôi phải làm như chủ tôi phải đến ngày hôm nay, vâng thưa ông, ngày hôm nay.
Đó là tinh thần ta phải noi theo để chuẩn bị tiếp rước chủ Thiên Đàng của chúng ta. Vậy, hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào Chúa mình sẽ đến.
Khoảng năm 430 Alexander chiêu mộ 300 người bạn, phân họ thành sáu nhóm gọi là những: MV 1-B25
Khoảng năm 430 Alexander chiêu mộ 300 người bạn, phân họ thành sáu nhóm gọi là những người không ngủ. Mỗi nhóm luôn phiên ca hát chúc tụng Chúa ngày đêm. 24 giờ một ngày, các tu sĩ này ca hát và tinh thức trông đợi Đức quân phu, vị thẩm phán tối cao. Đức Giêsu Kitô sẽ đến.
Họ thực hành lệnh truyền của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện”.
Nhiều lần Chúa nhắc nhở các người theo Chúa: “Hãy tỉnh thức và sẵn sàng chờ đón ơn Chúa, vị thẩm phán thế gian sẽ đến”.
Ngày nay áp dụng lệnh truyền của Chúa cho bạn và cho tôi thế nào ? Làm sao chúng ta có thể ca tụng Chúa 24 giờ một ngày, khi chúng ta có bao nhiêu việc phải làm; những việc mà chúng ta không thể vừa làm vừa ca hát chúc tụng Chúa. Đúng thế, nhưng chúng ta có thể cố gắng như nhiều người đã làm là nhớ Chúa trong tâm trí khi chúng ta thi hành những công việc hàng ngày: dâng lên Chúa mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta để tôn vinh Chúa. Còn việc đọc kinh từ sáng tới chiều là việc không thể làm được.
Chúng ta biết trong Giáo hội công giáo, có các nữ tu họ là những người không ngủ, với cái nghĩa họ ca tụng Chúa 24 giờ một ngày. Nhiều cộng đoàn nữ tu chầu Mình Thánh Chúa ngày đêm, từ năm này qua năm khác. Họ tỉnh tức và cầu nguyện thay cho chúng ta, trong khi chúng ta ngủ. Những người tận hiến này (già có, trẻ có) tỉnh thức trông chờ Chúa Kitô, nhân danh chúng ta.
Trong Giáo hội công giáo còn có sự kiện khác thường nữa: Thánh lễ Misa được hiến dâng liên tục ngày đêm. Nếu chỉ 2/3 trong số linh mục cử hành thánh lễ mỗi ngày thì mỗi giờ ít nhất có hai ngàn linh mục cử hành thánh lễ (Việt Nam có hàng trăm linh mục làm lễ mỗi giờ; tính trung bình). Như thế mỗi phút, ngày cũng như đêm, trên quê hương này đều có một số linh mục đọc lại lời Chúa Giêsu: “... Này là Mình Ta... Này là Máu Ta...” và dâng Chúa Kitô lên Đức Chúa Cha cho tất cả chúng ta, đồng thời cầu nguyện cho chúng ta bằng những lời trong kinh nguyện Thánh Thể 2: “Lạy Chúa xin nhớ đến Hội Thánh Chúa khắp hoàn cầu”. Hội Thánh có nghĩa là chúng ta.
Ngoài sự thật thiêng liêng, cao cả, đây còn là một sự kiện lạ cùng. Thánh lễ này đây mà đang thamdự, đang được hiến dâng lên trong mọi giây phút, hàng ngày và hàng năm, ở một nơi nào đó trên quê hương này. Những người ngoài công giáo nghe nói, họ không thể hiểu được điều này.
Bạn và tôi ý thức được ý nghĩa đó chăng ? Vâng, một số linh mục, một số giáo dân đang cầu nguyện thay cho chúng ta tỉnh thức thay chúng ta suốt ngày đêm.
Mùa vọng là mùa đặc biệt để tỉnh thức và cầu nguyện trông chờ đức Kitô đến. Thánh lễ là cao điểm của vịêc tỉnh thức cầu nguyện. Hợp nhất với những người không ngủ tham dự thánh lễ mỗi ngày. Ít nhất hãy hợp nhất với họ trong tinh thần. Biết rằng có người đang cầu nguyện cho bạn mọi giây phút trong ngày, an ủi bao nhiêu.
Có ba cậu cậu thiếu niên lên đường để leo núi. Khi lên được gần ba ngàn mét, thì một cơn bão: MV 1-B26
Có ba cậu cậu thiếu niên lên đường để leo núi. Khi lên được gần ba ngàn mét, thì một cơn bão tuyết bất ngờ thổi tới, khiến cho các ậu phải đào hầm chui vào đống tuyết để thóat khỏi những luồng gió lạnh buốt, cũng như để chờ đợi cho cơn bão qua đi.
Thế nhưng, mười một ngày rồi mà cơn bão vãn còn tiếp tục thổi một cách dữ dội. Những chiếc túi dùng để ngủ đã bị uớt sũng và đông cứng. Thức ăn dự trữ chỉ còn đủ cho mỗi người một ngày hai muỗng bột mà thôi.
Nguồn an ủi duy nhất của các cậu trong thời điểm kinh hoàng này chính là cuốn Kinh Thánh mà một cậu đã mang theo. Các cậu đọc Kinh Thánh mỗi ngày tám tiếng đồng hồ và tìm thấy trong đó một hoàn cảnh giống như hoàn cảnh các cậu đang gặp phải. Đó là hoàn cảnh của Đavit.
Thực vậy, Đavít cũng đã lâm vào tình trạng cô đơn, đói khát và không biết chuyện gì sẽ xảy đến. Cuối cùng, ông chỉ còn biết tin tưởng vào Thiên Chúa.
Các cậu cũng vậy. Không ai có thể giúp đỡ và cứu thoát các cậu được, ngoại trừ chính Thiên Chúa. Vì thế, ngoài việc nghe đọc Kinh Thánh, các cậu đã cầu nguyện với hy vọng cơn bão sẽ chấm dứt và người ta sẽ đến tiếp cứu.
Cuối cùng, vào ngày thứ mười sáu thì trời quang mây tạnh, các cậu bò ra khỏi hầm tuyết của mình. Tình trạng sức khỏe lúc bấy giờ thật bi đát. Các cậu đã yếu lả, không thể bước đi. Tuy nhiên cũng rất may mắn là toán cấp cứu đã tới kịp và tìm thấy các cậu.
Tôi nghĩ rằng câu chuyện trên chính là một hình ảnh sống động giúp chúng ta sống tinh thần mùa vọng.
Thực vậy, mùa vọng là thời gian chúng ta sống lại nỗi chờ mong của dân Do thái, bởi vì suốt dòng lịch sử họ đã mòn mỏi trông đợi Đấng Cứu Thế. Và nỗi trông mong này đã kết đọng lại thành những lời nguyện cầu tha thiết:
- Như người lính gác mong chờ hừng đông, Israen đang mong chờ Chúa.
- Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời.
Tuy nhiên không phải chỉ có thế. Mùa vọng còn là thời gian để chính chúng ta trông chờ việc Đức Kitô sẽ trở lại vào thời điểm cuối cùng của lịch sử, lúc chúng ta ít mong đợi nhất.
Vì thế, Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh giác:
- Hãy tỉnh thức.
Chúng ta đang sóng giữa hai cột mốc của thời gian. Cột mốc đầu tiên là lúc Đức Kitô đến lần thứ nhất trong cảnh khó nghèo của máng cỏ Bêlem. Còn cột mốc tiếp theo là lúc Ngài đến lần thứ hai trong vinh quang của ngày phán xét.
Và như vậy, theo một nghĩa nào đó thì cuộc đời chúng ta cũng chính là một mùa vông liên tục.
Vì thế, công việc của chúng ta không phải chỉ là ngồi yên và chăm chú nhìn theo những ánh sao trên bàu trời để tưởng nhớ việc Ngài đã đến lần thứ nhất, đồng thời trông đợi việc Ngài đến lần thứ hai.
Thế nhưng bổn phận cua chúng ta là phải hoàn tất công việc Ngài đã trao phó. Đó là rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Ngài giữa lòng cuộc đời.
Do đó, mùa vọng còn là thời gian để chúng ta kiểm điểm lại xem: chúng ta đã làm những công việc ấy như thế nào ? Chúng ta đã thực sự chu toàn sứ mạng Chúa trao phó hay chưa ?
Nếu như ngày hôm nay Chúa trở lại và xét xử, thì liệu chúng ta có được Ngài đón nhận vào quê hương Nước Trời hay không?
Những ai đã diễm phúc sống qua tuổi học trò thì không thể nào quên được những kỷ niệm muôn: MV 1-B27
Những ai đã diễm phúc sống qua tuổi học trò thì không thể nào quên được những kỷ niệm muôn đời ghi dấu đó. Tuổi học trò thật dễ thương. Trong những cái dễ thương có cái đẹp, cái chẳng đẹp. Cái không đẹp đó là sự nghịch ngợm của học trò mà người ta thường ví von: “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò !”.
Tôi còn nhớ khoảng thời gian học lớp đệ lục, đệ ngũ (tức lớp 7, 8 bây giờ). Cứ mỗi khi thầy giáo đang dạy học, phải tạm ngừng để ra khỏi lớp trong vòng 5 hay 10 phút, thầy giáo căn dặn học trò rất kỹ: “Các em lưu ý, thầy có việc phải lên văn phòng gặp ông hiệu trưởng trong giây lát. Trong khi vắng mặt thầy tin tưởng các em sẽ giữ trật tự, ngoan ngoãn. Mỗi em phải làm bài tập sau đây khi thầy trở lại sẽ nộp bài. Thầy nhờ anh trưởng lớp giữ trật tự. Nhớ rằng thầy đi trong vòng vài phút rồi sẽ trở lại ngay”.
Tôi dám chắc các bạn đoán được sự gì xảy ra ngay khi ông thầy rời khỏi lớp. “Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm !” Thầy giáo vắng mặt là một dịp may cho những tên học trò phá phách, là một cám dỗ thử thách cho những học trò thích nghịch nhưng còn nhát sợ. Chỉ có một số nhỏ hiền hoà, nghiêm chỉnh làm bài tập.
Lớp học đang im lặng, từ từ ồn ào lên, bắt đầu từ những tên nghịch ngợm đầu xỏ trước. Thầy giáo vừa ra khỏi lớp, nó liền phóng theo núp ở đằng sau cánh cửa, nhìn xem đã thực sự đi xa chưa. Khi nó ra hiệu, lớp học nhao nhao lên như ong vỡ tổ. Đứa phóng máy bay giấy đảo lượn khắp phòng. Đứa bỏ chỗ chạy đến tán dóc với bạn bè. Đứa phóng lên bảng, viết vẽ bậy bạ, làm trò hề và cả lớp cười ầm lên… Anh lớp trưởng phải lớn tiếng kêu gọi trật tự. Từ kêu gọi sang cảnh cáo. Từ cảnh cáo thành cãi vã, đe doạ. Kêu gọi không được thì đập bàn, gõ thước kẻ. Cả lớp ồn lên như cái chợ. Có những đứa biết sợ, cứ lấp ló nhìn qua khe cửa xem thầy giáo trở lại chưa !
Bây giờ là thời gian thầy giáo vắng mặt. Chúng ta đang sống giữa khoảng thời gian Chúa Giêsu đã đến lần thứ nhất rồi: như một bé thơ trong máng cỏ và chờ đợi Ngài trở lại lần thứ hai: như là Chúa tể đất trời và là thẩm phán. Bài Phúc âm hôm nay, và sách Giáo lý Công giáo số 672 đã dạy: “Thời gian hiện nay, theo lời Chúa, vẫn là thời gian của Chúa Thánh Thần và của việc làm chứng, nhưng cũng là thời gian của “sự khốn khổ”, và những thử thách điều ác sẽ không buông tha Giáo Hội và sẽ mở màn cho những chiến đấu của ngày sau cùng. Đó là thời gian của chờ đợi và cảnh giác.
Lịch sử của Cựu Ước là thời gian mong đợi Đấng Cứu Thế đến. Trong bài đọc thứ nhất tiên tri Isaia diễn tả sự mong đợi này: “Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống”. Và sự vắng mặt của Thiên Chúa làm con người “luôn luôn ở trong tình trạng tội lỗi… đầy vết nhơ… như chiếc áo bẩn”.
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã giáng trần để cứu chuộc con người theo như lời Thiên Chúa đã hứa. Và lịch sử của Tân Ước với các Kitô hữu tiên khởi là thời gian giải quyết các vấn đề liên quan đến sự vắng mặt của Chúa Giêsu, thời gian chờ đợi ngày Ngài lại đến. Như thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Côrintô: “Anh em tràn đầy mọi ơn, ơn ngôn ngữ, và ơn hiểu biết… trong khi mong chờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta tỏ mình ra”.
Tuy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha, nhưng sự hiện diện và ơn cứu rỗi của Ngài mãi mãi ở với chúng ta. Do đó, trong lúc chờ đợi ngày Ngài lại “tỏ mình ra”, hiện nay bằng nhiều cách Ngài vẫn luôn luôn hiện diện để giúp đỡ chúng ta trong cuộc sống đức tin. Nhân dịp mùa vọng đến, Giáo Hội dựa vào lời Chúa kêu gọi chúng ta “hãy tỉnh thức” để nhận ra Ngài, cùng với ơn cứu độ của Ngài.
Tỉnh thức và ý thức: Cả hai đều có cùng một nội dung diễn tả bản chất thiết yếu của con người: MV 1-B28
1- Tỉnh thức và ý thức: Cả hai đều có cùng một nội dung diễn tả bản chất thiết yếu của con người có lý trí. Khi ngủ ta mất hay ít ý thức. Ta chỉ hoàn toàn ý thức khi tỉnh thức. Việc Chúa Giêsu đã giáng trần để cứu chuộc nhân loại sẽ chẳng có ảnh hưởng gì tới đời sống con người nếu chúng ta không ý thức. Ngài vẫn còn vắng mặt trong tâm thức của nhiều người. Sự vắng mặt này gây nên các vấn đề rắc rối và tạo nên những bi kịch trong cuộc sống nhân sinh. Nó gây ra đau khổ, và chết chóc.
Trong một cuộc phỏng vấn qua ca khúc “Bông Hồng Cài Ao”, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chia sẻ rằng nhận thức sự có mặt của mẹ trong đời, đó là điều làm nên hạnh phúc của những người con. Theo cách suy nghĩ này, chúng ta có thể nói rằng nhận thức sự hiện diện của Đức Kitô và ơn cứu rỗi của Người là điều cần thiết tạo nên hạnh phúc của người Kitô hữu.
2. Tỉnh thức để cảm nhận được những dấu tích của Thiên Chúa xung quanh chúng ta nếu chúng ta biết cách đón nhận. Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen, nhà giảng thuyết thời danh của Hoa Kỳ vào những thập niên 60 và 70 thường ví vũ trụ giống như một cửa sổ được ghép bằng những ô kính. Qua cửa sổ ô kính của thế giới hữu hình chúng ta có thể đến để nhìn ra Đấng Vô Hình, sức mạnh và sự hiện diện của Thiên Chúa. Ký giả Kitô giáo Malcolm Muggeridge đã diễn tả điều này như sau: “Mọi điều lớn hay nhỏ xảy ra là một dụ ngôn qua đó Thiên Chúa nói với chúng ta, và nghệ thuật của đời sống chính là thu thập được cái thông điệp đó”. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy những làn sóng điện và âm thanh phát ra trong không gian. Chúng ta không biết nó và không nhận ra nó cho đến khi có một cái máy thu nhận làn sóng điện – receiver – như là radio, tivi, điện thoại di động, computer… Bật máy lên sử dụng, một thế giới thông tin với hình ảnh, âm thanh và tin tức mở ra cho chúng ta. Tất cả sự thông tin thú vị và phong phú này đến với chúng ta chỉ khi nào chúng ta biết đón nhận chúng. Tiếng nói của Thiên Chúa giống như những làn sóng radio hay làn sóng điện toán trong không gian, vây quanh và thấm nhập vào thế giới của chúng ta. Và mỗi người có một cái máy tiếp nhận làn sóng tinh thần ở bên trong giúp chúng ta cảm nhận được những dấu chỉ và cho phép lắng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy cái radio, computer tinh thần này ở bên trong mỗi người như một thứ giác quan thứ sáu. Giác quan thứ sáu này chính là lương tâm và đức tin. Khi chúng ta qui tụ nhau lại thờ phượng Thiên Chúa nơi nhà thờ, tham dự bàn tiệc Thánh Thể, rước lấy Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô qua hình bánh và rượu, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện ngọt ngào và thánh thiện của Ngài giữa chúng ta.
3. Tỉnh thức để xa tránh tội lỗi: Trong bài Phúc âm, thánh Marcô dùng hình ảnh của một người canh giữ cửa. Một người canh giữ cửa tỉnh thức và chờ đợi chủ trở về. Không ngủ mê trong yếu đuối xác thịt và tội lỗi. Cũng không canh giữ theo kiểu các chú học trò tinh nghịch nhìn qua khe cửa xem thầy giáo đã trở về hay chưa để phá phách ! Trước Giáng sinh năm 1980, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quy tụ hơn 2000 trẻ em của một giáo xứ ở Rôma. Bằng cuộc đối thoại, ngài dạy giáo lý cho các em và hỏi: “Làm thế nào các con sửa soạn mừng lễ Giáng sinh ?” “Bằng cầu nguyện” từ phía sau các em la to. “Rất tốt, bằng cầu nguyện, Đức Giáo Hoàng nói, nhưng cũng phải bằng việc đi xưng tội nữa. Các con phải đi xưng tội để có thể lên rước lễ sau đó nữa. Các con có làm như thế không ?” Hàng ngàn trẻ em trả lời trong cùng một tiếng lớn giọng hơn: “Chúng con sẽ làm !” Và Đức Giáo Hoàng nói với các em. “Phải, các con nên đi xưng tội”. Rồi ngài hạ thấp giọng xuống thì thầm, “Đức Giáo Hoàng cũng sẽ đi xưng tội để đón tiếp Chúa Giêsu Hài đồng một cách xứng đáng”.
4. Tỉnh thức vì Thiên Chúa đến rất bất ngờ: Thiên Chúa đến với chúng ta qua mọi hình thức, mọi biến cố trong cuộc sống, ngay cả sự chết, và sau cùng trong ngày phán xét chung, tận thế. Chúng ta phải luôn sẵn sàng đón tiếp Ngài, nhất là những lúc chúng ta không ngờ. “Ta đến như một tên ăn trộm, hạnh phúc cho những ai tỉnh thức”. Trên chiếc máy bay phản lực 747 vừa cất cánh rời phi trường ở Nữu Ước bay đi Rôma, có một bà cụ già tên là Maude, ngồi ở bên cửa sổ. Cụ để dành tiền trong nhiều năm trời mới đủ để làm một chuyến hành hương Rôma như cụ hằng mong ước. Đây là lần đầu tiên cụ đi máy bay, nên cụ lo sợ và kinh hoàng. Cụ cứ lầm bầm cầu xin: “Lạy Chúa, con phải làm gì ở trển đây ?” Mặc dù phía trước cụ có 4 vị giám mục cùng sang Rôma dự hội nghị, cụ vẫn cứ run sợ. Cụ sợ rớt máy bay mà chết ! Sau cùng đang lúc run sợ, cụ liếc trộm ra ngoài cửa sổ, chẳng may gặp đúng lúc một trong bốn động cơ của phản lực không còn hoạt động được nữa, và máy bay biến vào đám mây bên dưới. Cụ la hét lên kinh hoàng: “Chúng ta sắp chết ! Chúng ta sắp chết !” Cô trưởng đoàn chiêu đãi viên hàng không lập tức đến bàn hỏi ý kiến với phi hành đoàn, rồi thông báo cho tất cả hành khách biết rằng mọi sự sẽ êm đẹp: “Xin quý vị an tâm, viên trưởng phi công bảo đảm với quý vị rằng ông ta có thể điều khiển máy bay quay trở về New York và đáp xuống an toàn với 3 động cơ”. Nhưng bà cụ cứ la hoảng lên: “Chúng ta sắp chết ! Chúng ta sắp chết !” Cô chiêu đãi viên lại phải đến trấn an cụ lần nữa: “Cụ ơi, cụ đừng lo, Chúa đang ở với chúng ta. Máy bay của chúng ta chỉ có 3 động cơ thôi, nhưng xem kìa, chúng ta có tới 4 vị giám mục cơ mà !” Nhưng bà cụ trả lời: “Thôi, tôi muốn có 4 động cơ và chỉ cần 3 giám mục là đủ !” Hôm nay Chúa nói với chúng ta rằng: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết lúc nào chủ nhà trở về… kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp chúng con đang ngủ”. “Hãy tỉnh thức”. Bà cụ hoảng sợ vì không ngờ thời giờ lại đến ngay vào lúc cụ chưa sẵn sàng. Thánh Phanxicô de Sales nói rằng: “Sự chờ đợi đích thực có nghĩa là chờ đợi mà không lo lắng gì cả “.
Chúng ta bắt đầu một chu kỳ phụng vụ mới, một năm phụng vụ mới, mùa đầu tiên của năm: MV 1-B29
Chúng ta bắt đầu một chu kỳ phụng vụ mới, một năm phụng vụ mới, mùa đầu tiên của năm phụng vụ là Mùa Vọng. Mùa vọng là mùa của hy vọng nở hoa, nếu chúng ta hiểu được nỗi chờ đợi của một em bé mong mẹ đi chợ về, nỗi chờ mong gặp lại một người thân yêu xa vắng, nỗi khát vọng của một người mẹ “bồng con mẹ ải chờ mong, cho lòng chinh phụ hoá thành vọng phu”, nỗi mong chờ của một người cha già Tin Mừng chờ đón con về… thì chúng ta sẽ hiểu được thế nào là Mùa Vọng.
Xưa kia, Mùa Vọng được gọi là mùa At, “At” là âm đầu tiên gọi tắt của tiếng “Adventus”, một tiếng La Tinh, có nghĩa là đến hay sắp đến. Với phong trào Việt hoá, có một thời lại được gọi là Mùa Ap, “Ap” có nghĩa là gần kề hay kề bên, cả hai cách gọi trên tuy cũng nói lên phần nào ý nghĩa của mùa này nhưng chưa được rõ ràng. Ngày nay với hai tiếng “Mùa Vọng” bao hàm ý nghĩa rõ hơn: mùa hy vọng, mùa trông đợi, mùa chờ mong. Hy vọng, trông đợi, chờ mong cái gì ? Chờ mong Chúa Giêsu giáng sinh. Vì thế, Mùa Vọng đầu tiên có nghĩa là một thời gian chuẩn bị đạo đức để xứng đáng mừng lễ Giáng Sinh. Nhưng đến thế kỷ thứ VII, Mùa Vọng lại thêm một ý nghĩa nữa: trông đợi, chờ mong Chúa quang lâm, Chúa tái giáng để phán xét nhân loại.
Như vậy, Mùa Vọng là mùa nhắc lại thời gian nhân loại chờ đợi Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc, và cũng nói lên nỗi chờ đợi của Giáo Hội hôm nay: đợi Đức Kitô đến lần thứ hai khi lịch sử kết thúc để phán xét nhân loại. Ngoài ra, với mỗi người, Mùa Vọng cũng nhắc nhở chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa trong mỗi ngày của đời sống và đặc biệt trong ngày chết khi Chúa đến gọi chúng ta về với Ngài. Vì thế, lời Chúa của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta ba điều: thứ nhất về ngày Chúa quang lâm, thứ hai về ngày chúng ta ra khỏi trần gian, thứ ba chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Về ngày Chúa quang lâm, tức là ngày Chúa tái giáng Chúa trở lại trần gian, ngày phán xét chung. Ngày ấy không ai biết khi nào xảy ra, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi, một mình Ngài quyết định khi nào Ngài trở lại, và chỉ khi nào ngày ấy xảy ra thì người ta mới biết chứ không ai biết trước. Kinh thánh ví ngày đó như kẻ trộm ban đêm, có bao giờ kẻ trộm lại báo trước ngày nó đến ăn trộm đâu. Cũng vậy, ngày Chúa đến rất bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ. Có thể hôm nay người ta cho rằng ngày Chúa quang lâm là thứ “cọp giấy” tức là không có hay nếu có cũng còn lâu lắm. Xin những ai có ý nghĩ như vậy thì hãy nhớ: lời Kinh Thánh đúng từng dấu phẩy, Kinh thánh ứng nghiệm từng điều từng nét. Hơn nữa, ngày Chúa quang lâm là một chân lý chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính và mỗi khi dự thánh lễ: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.
Đàng khác, Tin Mừng hôm nay mặc dầu đề cập tới ngày tận thế nhưng cũng nhắc nhở chúng ta suy nghĩ về ngày tận số của mình, tức là về ngày chết của chính chúng ta. Chết là cái mốc cuối cùng mà bất cứ ai đã sinh ra ở đời này thì trước sau gì cũng sẽ tới ngày ấy, vì thế chúng ta phải nghĩ tới nó, chúng ta phải tính toán, phải nghĩ tới ngày chết của mình. Nói khác đi, chúng ta phải nghĩ tới cuộc sống vắn vỏi của mình nơi trần gian. Thật vậy, cuộc đời con người sánh với thời gian đã chẳng là gì, nhưng nếu sánh với sự sống vĩnh cửu lại càng mong manh hơn biết bao. Cuộc đời không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa, không ai biết được khi nào mình chết, ngày giờ chết là bất ngờ nên Chúa dạy chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
“Tỉnh thức”, theo nguyên nghĩa là không ngủ, và cũng có nghĩa là sẵn sàng. Người ta có thể tỉnh thức để tiếp tục làm cho xong một công việc, hoặc để tránh một điều tai hại có thể xảy đến, cho nên, tỉnh thức còn có ý nghĩa là canh phòng, túc trực giao tranh, phấn đấu chống sự lơ đãng cẩu thả để đạt một mục đích đã nhắm. Đó chính là ý nghĩa của tiếng “canh thức” Chúa Giêsu căn dặn chúng ta: hãy chờ đợi Chúa đến trong tinh thần sẵn sàng, là luôn sống trong ơn nghĩa Chúa.
Chúng ta hãy nghĩ tới trường hợp của hai người vợ cùng có chồng đi vắng xa lâu năm: một người, tuy xa chồng nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng nhớ tới chồng, vẫn coi như chồng đang có mặt ở nhà, bà săn sóc con cái chu đáo, gánh vác phần chồng, tiếp tục gây dựng gia đình như xưa. Còn bà kia, cũng nhớ tới chồng, nhưng chán nản, bỏ bê con cái, chểnh mảng việc nhà, lâu lâu lại tìm vui với những người đàn ông khác, khiến mọi người dị nghị đàm tiếu. Bây giờ, bỗng nghe tin cả hai người chồng đều trở về với gia đình, chắc hẳn hai người vợ trên sẽ đón tin này, mỗi người một cách khác nhau. Cũng thế, nếu chúng ta tỉnh thức mong chờ Chúa thế nào, thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên, chúng ta phải chuẩn bị đón Chúa luôn luôn, để bất cứ lúc nào Chúa đến chúng ta cũng sẵn sàng: “Cửa trời hẹp lắm ai ơi, muốn vô thì phải ép mình chớ quên”.
Mùa vọng (adventus, ad+venire): Mùa chuẩn bị và tiền cảm Thiên Chúa giáng thế làm người: MV 1-B30
Mùa vọng (adventus, ad+venire): Mùa chuẩn bị và tiền cảm Thiên Chúa giáng thế làm người. Các bài đọc đều công bố Ngài liên tục viếng thăm nhân loại. Chu kỳ 3 năm phụng vụ A, B, C có chung một dàn bài: Chúa Giêsu sẽ trở lại (CN I). Ngài đến hôm nay (CN 2,3). Ngài đã đến rồi (CN 4). Và như mùa Giáng Sinh có ca đoàn riêng của mình, thì mùa vọng cũng cò hội hát riêng. Đơn ca là Chúa Hài đồng, thánh Gioan tiền hô, song ca là Đức Mẹ, thánh Giuse, thiên thần Gabriel, bà Elizabeth, ông Zacaria. Ban phụ hoạ gồm tiên tri Isaia, Giêrêmia, Baruch, Sophonia, Mikha, Phaolô, 2 Phêrô, Do thái và Giacôbê. Ngoài ra, nếu mùa chay là mùa khổ chế, hãm dẹp xác thịt, yên lặng suy gẫm, thống hối, ăn năn, đền tội thì mùa vọng kêu gọi canh thức, đợi trông và hát ca. "Hãy ngóng chờ ngày trọng đại" Hãy chuẩn bị đường lối Chúa "Hãy vui lên, tôi nhắc lại, hãy vui lên.."
"Chúng ta được nghe những điệu ca hát của Isaia, Đức Maria và Zacharia. Như vậy mùa vọng đầy ắp cảm thán, ngạc nhiên và vui mừng: Chúa đã đến, Ngài đang hiện diện, Ngài sẽ đến trong vinh quang. Mùa vọng được rao giảng tương quan với Giáng Sinh. Chúng ta được mời gọi sẵn sàng tỉnh thức để nhận ra Thiên Chúa làm người giữa nhân loại. Mùa tràn đầy bức súc và nhậy cảm sự hiện diện của Thượng đế. Và nhất là nó lôi kéo trí lòng chúng ta về một biến cố cực kỳ quan trọng của năm nay 2002: Sinh Nhật Chúa Cứu Thế." James A. Wallace.
Bài đọc 1 đặt chúng ta vào hoàn cảnh lời cầu nguyện tha thiết của tiên tri Isaia trong thời buổi khốn cùng, tưởng chừng như sự tàn phá đền thờ Giêrusalem bởi tay vua ngoại giáo Na-bu-cô-đô-nô-sô chưa đủ, những sự cướp bóc khác đang rình chờ dân Chúa! Nhất định phải kêu xin cho được sự can thiệp thần linh của Thượng đế: "Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống".
Tương tự, mùa Vọng năm nay cũng đặt chúng ta và toàn thể thế giới trong hoàn cảnh bất an, đúng như năm ngoái ngay sau biến cố ngày 11-9: Chiến tranh, tin đồn về chiến tranh đang sôi sực khắp mọi miền đất nước, Người ta bàn tán, người ta sợ hãi. Tấn công quân sự và khủng bố trả đũa, người ta cảm thấy dễ bị tổn thương mặc dầu sức mạnh võ khí là vô địch! Nghèo khổ và vô gia cư nhanh chóng gia tăng trên khắp các đường phố, thành thị, thôn quê. Mặt khác, tệ nạn xã hội không hề sút giảm: Ma tuý, bạo hành ở trường học, gia đình, cưỡng bức phụ nữ, hài nhi, hoà bình tan vỡ, gian lận tiền bạc, aids... bảng liệt kê gần như vô tận.
Cho nên, mùa vọng năm nay chúng ta cũng phải ngước mắt trông lên Thiên Chúa với tâm hồn xao xuyến, bất an. Không phải để chúng ta chóng thoát khỏi đấu tranh hay loạn lạc hoặc để trông thấy một thế giới tốt đẹp hơn cho mọi người, nhưng để cảnh giác chống lại các thế hệ tối tăm. Nhiều khi nhân loại xem ra không hợp lý. Sau các cố gắng, lời nói, việc làm của chúng ta, thế giới có chi đổi khác? Cuộc chống đối giữa ông khổng lồ Goliat và chàng thanh niên Davit vẫn bất xứng. Sự dữ xem ra vẫn vượt xa thánh thiện. Ông khổng lồ xem ra vẫn thắng thế! Cho nên mùa vọng này đòi hỏi chúng ta trả lời dứt khoát vấn nạn căn bản. Liệu chúng ta có còn vững vàng cậy trông vào Thiên Chúa? Đấng luôn trung tín và cuối cùng lôi kéo chúng ta vào vòng tay yêu thương vĩnh hằng của Ngài không?
Thực tế, các bài đọc sách thánh và phụng vụ đều kêu gọi như vậy! Chúng luôn đốt cháy niềm hy vọng vào sự cứu thoát của Đức Chúa Trời, bất kể các đe doạ khủng khiếp từ tình hình chính trị, tôn giáo, kinh tế hay đổ vỡ gia đình. Mùa vọng không dìm chúng ta vào quá khứ để hối tiếc thời vàng son hoặc quá khứ êm ả. Nó thôi thúc nhìn về tương lai.
Isaia là một gương sáng tuyệt hảo. Ông mở lối vào mùa vọng cho toàn thể Hội thánh. Ông trà trộn vào đám đông tín hữu hôm nay để gióng lên lời than vãn với Đấng Tối Cao. Ông gọi tên, chỉ điểm cho Ngài những thiếu thốn và bất lực của nhân loại. Ông là hình ảnh xứng hợp nhất cho mùa vọng, xác lập âm thể để chúng ta ca cẩm canh thâu những ngày tháng này. Chúng ta quờ quạng và vấp ngã trong đêm tối. Ông nói lên những nhu cầu và bất mãn của loài người trước tôn nhan Thượng đế, với giọng điệu của một ngôn sứ chính danh ông ta thán: "Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho tâm hồn chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài?"
Vào thời tiên tri Isaia, người ta tin tưởng rằng bất cứ điều gì tốt, xấu, đều đến từ bàn tay Thiên Chúa. Vì vậy nếu Ngài ngoảnh mặt đi, hay rút tay lại, loài người sẽ rơi ngay vào vòng kiểm toả của lỗi lầm. Nói thay cho dân chúng, vị ngôn sứ kêu gào: " Xin Ngài mau trở lại, phải chi Ngài xé trời ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan mà ngự xuống..." Cùng với toàn dân ông cầu xin Thượng đế, Thiên Chúa của Tổ tiên, vất bỏ toàn bộ những cản trở chia rẽ họ với Ngài, nhất là đừng để họ lầm đường lạc lối "lang thang" trong thung lũng tội lỗi, tối tăm. Dù rằng quá khứ Ngài đã mang tai, giáng hoạ xuống tổ tiên, thì cũng xin dùng những hình phạt đó mà cảnh tỉnh toàn dân để họ quay trở về với Ngài mà được cứu rỗi: "Kìa Ngài phẫn nộ, vì tội lỗi chúng con, nhưng khi mãi đi theo các đường lối của Ngài, chúng con sẽ được cứu thoát." Những điều mà tự thân, họ không thể làm được, bây giờ họ cầu khẩn Thiên Chúa thự hiện cho họ. Đó là lập lại mối tương giao thắm thiết giữa người thợ gốm và đất sét: "Lạy Đức Chúa, Ngài là Cha chúng con, chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con."
Thế thì ngôn sứ Isaia đã cầu xin thế nào cho những người tân thời hôm nay? Xin hãy nhìn lại kiểu cách chúng ta sống và đối xử với nhau: quá ích kỷ, thu mình vào các lâu đài tiện nghi, nhung lụa, bỏ quên hàng xóm láng giềng, khai thác yếu kém của kẻ khác, nhất là của những người đói khổ, phá huỷ môi trường, tài nguyên thiên nhiên vì lợi ích cá nhân, hiệp hội, công ty... Chúng ta đã trở nên lòng chai dạ đá, chẳng còn biết kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của vũ trụ và nhận loại!
Với con mắt nhìn qua lịch sử, tiên tri Isaia đã kêu cầu Thượng đế bằng danh hiệu: "Đấng Cứu độ chúng con", hy vọng Ngài tiếp tục dơ tay lôi kéo chúng ta từ "không phải dân Ta" thành dòng tộc thánh thiện của Ngài. Từ khi ấy đến nay, thời gian và văn hoá đã đổi khác nhiều, nhưng tiếng nói của vị ngôn sứ vẫn còn nguyên giá trị. Ngài công nhận Thiên Chúa có đầy đủ chứng cớ để nổi cơn thịnh nộ. Bởi chúng ta là những kẻ đầy mình tội lỗi. Nhưng trong giọng điệu thành khẩn của vị ngôn sứ chúng ta nhận ra lòng cậy trông vững vàng, cậy trông khi nào đó, Thượng đế sẽ "xé trời ngự đến" tiêu huỷ mọi binh khí tự vệ chúng ta dựng nên chung quanh mình để chia rẽ bản thân với Đấng tối cao, quốc gia này với quốc gia khác, màu da này với màu da khác, đàn ông khỏi đàn bà, kẻ giàu khỏi người nghèo, tôn giáo này với tôn giáo khác, già khỏi trẻ, khoẻ mạnh khỏi yếu đau.
Xin hãy cùng hiệp lời với Isaia kêu cầu Chúa xé lòng trí chúng ta trong mùa vọng này, gạt bỏ những cản trở, để có thể lớn mạnh, trở thành những trái tim to lớn quảng đại, có khả năng yêu thương và thông cảm.
Trong bản văn hôm nay có một từ đầy an ủi. Sau khi đã liệt kê hậu quả ghê gớm sinh ra bởi tội lỗi, bất trung, những hình phạt đúng lý, đúng danh dân Israel phải gánh chịu, vị ngôn sứ viết: "Thế nhưng...", âm hưởng của nó còn vang vọng mãi cho tới nay, trong linh hồn các người đón chờ mùa Vọng. "Thế nhưng, Ngài là Cha chúng con, chúng con là đất sét, thợ gốm là Ngài. Chính tay Ngài đã nặn ra tất cả." Do đó, từ nay, mặc dầu có những giới hạn, thiếu xót, thiển cận, yếu đuối hoặc trăm nghìn tội lỗi khác chống lại chúng ta (cá nhân hay tập thể, quốc gia hay giáo hội...) và làm cho Thiên Chúa nổi giận, chúng ta vẫn có thể dâng lời cầu nguyện với hai từ phát sinh nhiều hy vọng: "Thế nhưng...", để nhắc nhở chúng ta vẫn là Dân Thiên Chúa. Ngài đã đầu tư vào dân này, biết bao của cải, ân huệ... Ngài đã hạ sinh làm người, chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa không bỏ rơi loài người, mặc dầu tội lội. Như vậy, Ngài là " Thiên Chúa thế nhưng" cứu giúp những ai đang vật lộn trong vòng xoáy hư vong.
Bài đọc Tin mừng là một dụ ngôn nhỏ, có thể tìm thấy phiên bản song song trong Matthêo và Luca. Tuần 33A vừa qua chúng ta đã có cơ hội khai triển dụ ngôn của thánh Matthêo. Nhưng bản văn của thánh Marcô có nhiều màu sắc rực rỡ hơn. Sự kiện trở lại của ông chủ vẫn là chắc chắn, giờ giấc còn nằm trong bí ẩn, nhưng thánh Marcô đã ghi thêm bốn khắc chờ đợi. Đó là: lúc chập tối, nửa đêm, khi gà gáy, và tảng sáng. Tức từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng hôm sau. Mỗi khắc ba giờ đồng hồ. Người gác cửa có nhiệm vụ đặc biệt hơn: phải mở cổng cho ông chủ bất cứ giờ giấc nào, dù là nửa đêm. Những người đầy tớ trung thành hay xấu nết ở Phúc âm khác, trong Tin mừng Marcô là tỉnh thức hay ngủ mê, lời lẽ nhẹ nhàng hơn. Dù sao, áp dụng vào đời sống thiêng liêng vẫn là một! Mùa vọng này chúng ta luôn phải cảnh gác, mong chờ Chúa đến để có thể nhận ra Ngài và mở cửa cõi lòng để Ngài ngự vào trái tim mỗi người, không để Ngài đứng ngoài gõ cửa lâu giờ, khiến Ngài nổi giận.
Tóm lại, nét nổi bật trong mùa này là "Tỉnh thức đợi chờ" bằng những công việc từ bi hỷ xả, công bình bác ái, cổ võ hiệp nhất, thương yêu, cảm thương những người nghèo đói, hoạn nạn. Chúng ta có đủ bằng chứng để Thiên Chúa trừng phạt. "Thế nhưng"... Ngài không hề quên những mối liên hệ mà Ngài đã ký kết giao ước với chúng ta. Chúng ta cảm nghiệm được điều này trong tình thương của Đức Giêsu, nhất là trong bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa đã mặc lấy xác thịt trong thân phận loài người, sống giữa chúng ta, rao giảng sự thật cứu rỗi, lôi kéo chúng ta khỏi lạc lõng trong những đường nẻo gian dối, học thuyết nọ, triết lý kia.
Cúi xin Mình Máu thánh Chúa trong bữa tiệc long trọng hôm nay xé rách mọi bức màn còn che phủ đôi mắt chúng ta, ngõ hầu có thể nhìn thấy Chúa tỏ tường trong những con người bé nhỏ nhất, khốn nạn nhất của xã hội. Amen.
Một ngày trong tháng 12, cậu Gary Schneider 16 tuổi và hai người bạn lên đường để leo núi: MV 1-B31
Một ngày trong tháng 12, cậu Gary Schneider 16 tuổi và hai người bạn lên đường để leo núi Mt.Hood dự tính trong vòng 4 ngày.
Lên được 9.000 bộ ( tức gần 3 km), ba cậu bé bị một cơn bão tuyết có lẫn đá thổi tới và vùi lấp. Chẳng bao lâu tuyết đã ngập khỏi đầu các cậu. Các cậu bèn đào hầm chui vào đống tuyết để thoát khỏi những luồng gió lạnh buốt thổi tới và để chờ đợi cho qua trận bão tuyết.
Mười một ngày sau, trận bão tuyết vẫn còn tiếp tục thổi dữ tợn. Các túi dùng để chui vào ngủ của các cậu đã bị ướt và đông cứng lại. Thức ăn dự trù chỉ còn đủ cho mỗi người mỗi ngày được hai muỗng bột làm bánh. Nguồn an ủi duy nhất của các cậu bây giờ là cuốn Thánh kinh gọn nhỏ mà một cậu đã mang theo trong túi hành trang.
Các cậu mở sách Thánh Kinh và đọc mỗi ngày tám tiếng. Đúng là một cảnh tượng ngộ nghĩnh: trong một cái hầm đào trong tuyết rộng 5 bộ vuông (chưa đầy 1m2 ), có ba cậu bé mới mười mấy tuổi đầu đang ngồi chồm hổm trên những cái túi ngủ đọc sách. Chỉ có một chút ánh sáng mờ ảo phản chiếu từ cái lỗ hầm nho nhỏ ở phía trên.
Tại đó, ba cậu tụm lại với nhau hết giờ này tới giờ khác, ngày này qua ngày khác, cùng nhau lắng nghe Lời Chúa bất chấp tiếng gió hú bên trên.
Cuốn Thánh Vịnh dường như là cuốn nói hay nhất về tình trạng hiện tại của các cậu. Đavid có viết một vài bài khi ông bị lâm vào những tình trạng không khác gì các cậu; đói, cô đơn, không biết chuyện gì sắp xẩy đến, chỉ còn biết tin tưởng ở Chúa.
Nếu có ai cứu giúp, thì người đó chỉ có thể là Thiên Chúa. Chờ đợi như thế không phải chuyện dễ. Các cậu chỉ còn biết cầu nguyện, hy vọng cơn bão tuyết sẽ chấm dứt và sẽ có người tới cứu giúp.
Cuối cùng, vào ngày thứ 16, bầu trời trong sáng trở lại, các cậu bò ra khỏi hầm bằng tuyết của mình. Qua cơn ngặt nghèo ấy các cậu trở thành yếu đuối, và ra khỏi hầm các cậu chỉ có thể bước đi được một ài bước. Ngày hôm sau có một nhóm người cứu trợ bắt gặp cáccậu trong tình trạng như thế. Cuối cùng cơn thử thách khiến các cậu phải chờ đợi lâu dài đó đã chấm dứt.
Câu chuyện của các cậu bé, phải tụm lại với nhau trong hầm bằng tuyết chờ đợi cơn bão chấm dứt, là một hình ảnh tuyệt hảo tượng trưng cho mùa vọng.
Mùa vọng nhắc lại thời gian chờ đợi lâu dài của dân Do Thái mong mỏi Đấng Cứu Thế đến. Họ không biết làm gì để cho Đấng Cứu Thế mau đến hơn họ chỉ biết chờ đợi và cầu nguyện y như các cậu bé kia đã làm trên ngọn núi Mt.Hood. Dân Do Thái chỉ còn biết tin tưởng và chờ đợi Thiên Chúa sẽ đến để giải cứu họ.
Một trong những bài Thánh vịnh mà ba cậu bé cứ đọc đi đọc lại để cầu nguyện trên ngọn núi Mt.Hood là thánh vịnh 130. Trong đó có một câu như sau: “Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa cứu độ, và tôi tin tưởng ở lời Ngài. Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa còn hơn ngừơi lính gác mong chờ hừng đông”. Nếu không có Lời Chúa nâng đỡ tinh thần, thì các cậu dễ dàng thất vọng lắm. Dân Do Thái cũng như vậy khi họ mong chờ Đấng Cứu Thế. Nếu không có Lời Chúa ủi an họ, thì họ cũng sẽ thất vọng dễ dàng.
Nhưng Mùa vọng không hẳn là thời gian để chúng ta nhớ lại và sống lại việc người Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Mùa vọng còn có ý nghĩa hơn như thế nhiều.
Mùa vọng cũng là thời gian để chúng ta tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại vào thời cuối cùng của lịch sử, lúc chúng ta ít mong đợi nhất. Chính vì thế mà Thánh sử Marcô nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay như sau:
“Hãy coi chừng, hãy tỉnh thức…Đừng để khi Đức Giêsu bất ngờ đến mà Ngài lại thấy các bạn còn đang ngủ. Những gì tôi nói với các bạn, thì tôi cũng nói với tất cả mọi người: Hãy tỉnh thức”.
Điều này dẫn chúng ta đến quan điểm thứ hai về Mùa vọng. Bạn và tôi, chúng ta đang sống trong khoảng thời gian quan trọng giữ hai thời điểm: lúc Đức Kitô đến lần thứ nhất và lúc Ngài đến lần thứ hai.
Công việc của chúng ta không phải là cứ ngồi chăm chú và thánh thiện nhìn lên bầu trời để tưởng nhớ việc Đức Kitô đến lần thứ nhất và trông chờ Ngài đến lần thứ hai. Bổn phận của chúng ta là hoàn tất công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm. Trước khi trở về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với kẻ theo Ngài:
“Các con hãy đi khắp nơi, đến với mọi dân tộc, rao giảng cho họ về nước trời, rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho các con. Và Thầy sẽ luôn luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt. 28, 19-20)
Mùa vọng là thời gian để chúng ta kiểm điểm lại xem chúng ta đã làm điều đó tốt đẹp thế nào. Mùa vọng là thời gian để chúng ta tự nhủ một cách đặc biệt rằng: khi Đức Giêsu trở lại, Ngài sẽ xér xử chúng ta xem chúng ta đã làm việc như thế nào để loan truyền nước Thiên Chúa ở trần gian này.
Đức Kitô đã chết. Đức Kitô đã phục sinh. Đức Kitô sẽ trở lại. Cho tới khi Ngài trở lại, chúng ta phải lưu tâm tới công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm.
Chúng ta phải cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, tiếp đón khách đến nhà, làm việc cho hoà bình, và yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Đây là sứ điệp mà những bài đọc hôm nay muốn nhắn nhủ chúng ta. Sứ điệp đó là: Chính Đức Giêsu, Đấng đã sống ở trần gian cách đây hơn hai ngàn năm, sẽ trở lại vào ngày tận thế đúng lúc chúng ta không ngờ tới. Khi Ngài trở lại, Ngài sẽ xét xử từng cá nhân mỗi người chúng ta về cách thức chúng ta hoàn thành công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm.
Chúng ta hãy hồi tâm lại để cầu nguyện, xin Đức Giêsu giúp chúng ta trung kiên trong công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta thực hiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con sức mạnh, vì đôi khi chúng con gặp phải những vấn đề khó khăn rắc rối khiến chúng con muốn bỏ cuộc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu của Ngài, vì đôi khi chúng con bị người khác hất hủi khiến chúng con bị cám dỗ ghét bỏ họ.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con đôi mắt của Ngài, vì đôi khi cuộc đời trở thành đen tối khiến chúng con không còn biết đâu là đường chúng con phải đi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban chính Ngài cho chúng con. Tâm hồn chúng con đã được dựng nên để yêu Ngài, nên tâm hồn chúng con sẽ không bao giờ an nghỉ cho đến khi nào được nghỉ an trong Ngài.
Chúa Giêsu cùng các Tông đồ đang ở tại khuôn viên Đền thờ Giêrusalem. Có người chỉ Đền: MV 1-B32
Chúa Giêsu cùng các Tông đồ đang ở tại khuôn viên Đền thờ Giêrusalem. Có người chỉ Đền thờ và trầm trồ khen ngợi về kiến trúc của ngôi Thánh Đường. Chúa Giêsu nhân đó đã tiên báo cảnh sụp đổ của Đền thờ - xảy ra vào năm 70, do tướng Titus phá hủy. Kế đó các Tông đồ hỏi Chúa về các sự việc ấy xảy đến và vào thời chung cuộc thì có những điềm báo gì? Đáp lại, Chúa Giêsu tiên báo hàng loạt những việc bách hại sẽ xảy đến cho các Tông đồ cũng như cho những ai tin vào Thiên Chúa. Đồng thời Ngài cũng nhận rằng ngày đó là ngày nào thì không ai biết được, chỉ có Chúa Cha biết được mà thôi (x. Mc 13, 1-32). Và để kết luận, Chúa đã dạy cho các Tông đồ biết phải sẵn sàng để chờ đợi ngày đó như được nói đến trong Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này.
Tin mừng hôm nay chỉ vắn gọn trong năm câu, nhưng có đến bốn lần Chúa Giêsu dùng từ “canh thức” và một lần dùng từ “tỉnh thức” cũng đủ nói lên tính khẩn trương của việc chuẩn bị chờ đón ngày Chúa đến. Các Tông đồ muốn biết ngày đó là ngày nào và sẽ xảy đến ra sao, bởi các ông cho rằng sẽ là hợp lý khi biết trước để tránh, biết trước để chuẩn bị vẫn tốt hơn ở thế bị động. Chúa Giêsu không thể khẳng quyết chính xác ngày đó là ngày nào bởi nó nằm trong sự quan phòng của Chúa Cha. Điều Người có thể khẳng quyết cách chắc chắn rằng ngày đó- không sớm thì muộn, nhất định sẽ xảy đến. Khi khẳng quyết như thế, Chúa Giêsu không làm gì khác hơn là khuyên nhủ các Tông đồ hãy thanh thản sống giây phút hiện tại một cách có ý nghĩa. Sống giây phút ấy trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, trong sự tỉnh thức thật nhậy bén cũng như dùng giây phút hiện tại để dấn thân cho Tin mừng Chúa Kytô cách trọn vẹn. Cũng giống dụ ngôn người kia trẩy đi phương xa, trao tất cả quyền hành cho đầy tớ, sắp đặt mỗi người một việc và dặn người gác cửa phải tỉnh thức. Khi sánh ví như thế, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày nào, giờ nào chủ sẽ về và việc chủ nhà đến bất thình lình cho thấy công việc và mục đích duy nhất của người đầy tớ là hãy sống giây phút hiện tại trong sự tỉnh thức.
Tính cách bất ngờ, không báo trước ngày ông chủ về đã được thánh sử Máccô ghi lại mang dụng ý thần học hơn là cách trình bày sự việc cách đơn thuần. Nếu người Phương đông chia đêm thành năm canh thì trái lại, người Rôma lại chia thành bốn canh. Chúa Giêsu cũng dùng cách chia này nhưng lồng vào đó một ý nghĩa có tính chất tiên báo về bốn giai đoạn của cuộc thương khó mà Người sẽ trải qua. Bốn giai đoạn đó tượng trưng cho sự phản bội (chập tối), dễ sa chước cám dỗ (nửa đêm), chối Chúa (lúc gà gáy) và trốn chạy (tảng sáng). Chúng ta nhận thấy là, trong bốn canh của đêm tối, không giờ nào lại không có sự sa ngã, không lúc nào lại không có sự hiện diện của thế lực thù địch với Thiên Chúa. Thế nên vũ khí để có thể thắng đựơc các thế lực thù địch ấy- theo Chúa Giêsu, chỉ có thể là tỉnh thức. Tỉnh thức ở đây không chỉ là việc chống lại với sự buồn ngủ của thể lý mà còn là việc sẵn sàng nghênh đón những biến cố xảy đến cách bất thình lình nữa. Tỉnh thức ở đây cũng không phải mang một tâm trạng nặng nề ủ dột hay thất vọng đến độ tiêu cực cho bằng một thái độ sống biết phó thác, tin tưởng và chờ đợi ngày Chúa sẽ trở lại trong vinh quang của Người. Như thế, tỉnh thức là biểu hiện của một trạng thái sẵn sàng, hiên ngang ngẩng cao đầu, sống một cách trọn vẹn cho giây phút hiện tại, và vì thế, việc ông chủ về bất cứ lúc nào dường như không còn quan trọng lắm đối với họ, bởi họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng, không thiếu sự gì để nghênh đón ông cách chu đáo.
Mùa Vọng nhắc nhớ chúng ta chuẩn bị tâm hồn, luôn luôn tỉnh thức để đón chờ ngày Chúa đến trong Vinh quang. Và bởi vì ngày Vinh quang của Chúa đến cách đột ngột, không báo trước, nên chúng ta cần phải ra sức chuẩn bị tâm hồn để khỏi hối hận về sự đã rồi. Ngày đó chắc chắn sẽ đến. Vấn đề ở chỗ chúng ta có tỉnh thức đủ để chuẩn bị tâm hồn, trở về với nẻo chính đường ngay, ngõ hầu lúc nào cũng sẵn sàng, sẵn sàng và sẵn sàng cho ngày đó hay không?.
Tại các giáo đường ở châu Âu trong Mùa vọng, bên cạnh bàn thờ người ta trang hoàng một vòng nguyệt: MV 1-B33
Tại các giáo đường ở châu Âu trong Mùa vọng, bên cạnh bàn thờ người ta trang hoàng một vòng nguyệt quế được kết từ những cành lá thông mà trung tâm là 4 cây nến: Chúa nhật thứ nhất họ thắp lên cây nến thứ nhất, và mỗi Chúa nhật tiếp theo người ta lại thắp thêm ngọn nến cho đến Chúa nhật thứ tư bốn cây nến được tỏa sáng.
Mỗi Chúa Nhật thắp lên một cây nến nhắc nhở người tín hữu tỉnh thức cầm đèn sáng trong tay cầu nguyện chờ đợi như Thánh Thi ca tụng:
Và giờ đây xin thương tình lạy Chúa, Lấy lửa thiêng đốt cháy cả tâm can Để chúng con luôn tỉnh thức sẵn sàng Cầm đèn sáng trong tay chờ Ngài đến.
Tư thế canh thức đó chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giêsu Giáng sinh và tỉnh thức cầu nguyện, sẵn sàng cho ngày cánh chung, ngày đó ngôn sứ Isaia đã nói: “Hỡi người canh thức, đêm còn mấy chốc nữa?” (Is 21,11), Thánh Phaolô đã nói đến Chúa ngự đến khi diễn tả ánh bình minh của ngày mới: “Đêm sắp tàn, ngày gấn đến” (Rm 13,12), ngày đó “Con Người” sẽ quay lại để phán xét mà Tin Mừng Mc 13,33-37, Chúa Giêsu nói đến hình ảnh: “chủ nhà trở về…” vì chúng ta không biết giờ nào… nên Đức Kitô kêu mời: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào”.
Trước hết tỉnh thức giữa đêm khuya cuộc đời, theo Kinh Thánh, đêm khuya là thời gian của bóng tối của “quyền lực tối tăm” (x.Lc 22,23; Mc 14,49; Ep 6,12). Do đó đêm tối cũng chính là thời gian của cám dỗ, thời gian của thử thách, do đó chúng ta phải mang tâm tình thức tỉnh.
"Nửa đêm" trong vườn Giếtsêmani, Chúa Giêsu bị thử thách, các Tông đồ bị cám dỗ ngủ mê và thiếu tỉnh thức. Trước sự mê ngủ của các môn đệ Chúa Giêsu đã mời gọi các ông tỉnh thức, ba lần "Người thấy họ ngủ”. Người nói: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (x. Mt 26, 36-46; Mc 14, 32-42; Lc 22, 39-46).
Đêm tối, Chúa bị bắt, Phêrô theo bước chân Thầy đến Dinh Thượng Tế, bị chất vấn, ông đã yếu đuối, mất cảnh giác và đã chối thầy. Ông thức tỉnh nhận ra tình trạng “chối thầy” của mình lúc bắt đầu bình minh vào "Lúc gà gáy”.
Tin Mừng còn nhắc đến một thái độ thức tỉnh là phải “coi chừng” để nghe lời Chúa (x. Mc 4,12), nếu không ta chỉ đứng bên lề mà để cho lời Chúa vượt qua. Cần phải có thái độ “coi chừng”, để chúng ta giữ mình khỏi “men Pharisêu”, men giả hình, kiêu căng để khỏi bị thấm nhiễm (x. Mt 8, 6; Mc 8,15). Cần phải chú ý “coi chừng”, để không tin những kẻ bắt mao danh Đức Kitô nói trước tương lai (Mt 24, 4 -13; Mc 13,5-13; Lc 21, 8-19) đó là các tiên tri giả hình.
Khi nói về thái độ tỉnh thức, Thánh Phaolô đòi hỏi phải có hành động “thức dậy ngay” (Rm 13,11). Ngài còn sử dụng đến hình ảnh về chiến tranh với những “vũ khí” trang bị cho thái độ tỉnh thức (x.Rm 13,12; Ep 6,10; 1 Tx 5,6-8). Có nghĩa là người thức tỉnh luôn chủ động:
- Tỉnh thức là luôn sẵn sằng, sẵn sàng ngay cả lúc ngủ: dụ ngôn Mười cô trinh nữ, năm cô trinh nữ khôn ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại (Mt 25,1-13). Sự khác biệt giữa họ là sẵn sàng đèn dầu. Nửa đêm, khi chàng rể đến, các cô khôn ngoan ra đón với đèn sáng trong tay, vì các cô có mang theo dầu dự trữ. Còn của các cô khờ dại đèn đã tắt do thiếu dầu. Lúc đó các cô mới chạy đi mua, nên không kịp hẹn hội Hoa đăng. Vậy tỉnh thức là ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong khi ngủ, ngủ trong an bình như các cô trinh nữ khôn ngoan, cho nên Thánh Phanxicô de Sales nói rằng: “Sự chờ đợi đích thực có nghĩa là chờ đợi mà không lo lắng gì cả”.
- Tỉnh thức là dấn thân chu toàn bổn phận như Người quản gia được giao trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân (x. Mt 24,45-51; Lc 12, 42-46). Nếu chủ về mà gặp thấy anh vẫn thức tỉnh đang siêng năng làm công việc được giao nên dược chủ cất nhắc. Ngược lại anh mê ngủ, hay anh lạm dụng quyền hành và chè chén say sưa (x. Mt 24,49), anh bỏ bê trách nhiệm sẽ bị luận phạt.
- Tỉnh thức là luôn chủ động làm cho những nén vàng, nén bạc Chúa trao được sinh lợi (x. Mt 25,31-46). Mỗi người được trao khác nhau, dù ít dù nhiều đều có bổn phận phải sinh lợi cho mình và Thiên Chúa. Người đào lỗ chôn giấu nén bạc được giao là thụ động không dám đầu tư vì sợ mất vốn. Người tỉnh thức hăng say làm việc để sinh lợi là người thức tỉnh với “số mệnh” được giao, anh được chủ khen là đã trung tín với ơn Chúa ban.
- Tỉnh thức để nhận ra Chúa nơi người anh em bé mọn, khốn khổ, bất ngờ đến với mình và nài xin mình trợ giúp. Thật thế, Đức Kitô đến với chúng ta qua hiện thân người đói khát, rách rưới, một người yếu đau, lỡ đường, thậm chí một phạm nhân trong nhà giam như chính Ngài đã khẳng định (x. Mt 25,31-46). Ai tỉnh thức đón nhận những người bé mọn này là đón nhận Ngài, được Ngài đưa vào dự tiệc dành sẵn đời đời. Vâng, Người thức tỉnh biết nhận ra Chúa nơi anh em, Ngày Chúa đến, họ hân hoan như Thánh Phaolô diễn tả: Một ngày kia chúng ta sẽ gặp gỡ Chúa, mặt đối mặt với Người, chúng ta sẽ thực sự nhận biết Chúa, như Chúa biết chúng ta (x. 1Cr 13,12).
Mang tâm tình Tỉnh thức, chúng ta luôn có thái độ sẵn sàng như Cha Charles de Foucault khuyên nhủ: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Nhưng thái độ chủ động trong thức tỉnh chưa đủ, tâm tình tỉnh thức còn dẫn đến cầu nguyện. Thật thế, tỉnh thức phải luôn đi đôi với cầu nguyện như Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cơn cám dỗ”(Mc 14,38). Cuộc sống thường ngày chúng ta thường bị cám dỗ ngủ quên trong những thành công, trong những tiện nghi dễ dãi làm ta say mê những thực tại trần thế mà quên đi ngày Chúa đến.
Bước vào mùa vọng, người Kitô hữu mang tâm tình thức tỉnh và cầu nguyện như Chúa Giêsu kêu gọi để chờ, để đợi. Chờ đợi ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang, ngày đó Ngài đến thật bất ngờ, không ai biết được ngày giờ. Cho nên anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra Ngài đến bất thần, bắt gặp anh em đang mê ngủ (x. Mc 13,33-37).
Trong thức tỉnh chúng ta cầm đèn sáng trong tay với lời cầu:
“Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy đến!” (Kh 22,20). “Xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con” (Tv 84, 8)
Chưa bao giờ con người thấy cuộc sống bấp bênh như hiện nay: những cơn thiên tai, động: MV 1-B34
Chưa bao giờ con người thấy cuộc sống bấp bênh như hiện nay: những cơn thiên tai, động đất, thảm họa khủng bố, bạo lực trong trường học và nơi đường phố, nguy cơ chiến tranh, tai nạn máy bay, xe lửa. Những thảm hoac này liên tục nối tiếp nhau.. Chưa kịp hoàn hồn với những thảm họa sóng thần, bão lụt, họ phải đối diện với cúm gà và biết bao nhiêu bệnh tật khác. Con người không thể tìm sự an toàn nơi trần thế này Và họ tìm đến với tôn giáo, với Thiên Chúa.
Họ đến với Chúa để đặt những câu hỏi tại sao ? đồng thời cũng để nhận ra Ngài là Đấng quyền năng và con người cần trở lại với Chúa vì tội lỗi và sự gian ác của họ là nguyên nhân của sự dữ. Hãy tỉnh thức, đó là sứ điệp được gửi đến với chúng ta đầu Mùa Vọng này
1-Tỉnh thức để nhận ra Chúa là ai trong cuộc đời của con người.
Tiên tri Isaia đã tuyên xưng điều đó: “Lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng Cứu chuộc chúng con. Đó là Danh Ngài từ muôn thuở” (Bài đọc I). Có những lúc chúng ta lãng quên Thiên Chúa hoặc khước từ lời mời gọi của Ngài để nghe theo tiếng gọi của lạc thú, của phù hoa. Mùa Vọng là lời mời gọi hãy tái khám phá sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình.
2-Tỉnh thức là nhận ra vị trí của mình trước mặt Thiên Chúa và Anh Em.
Đức Giêsu đã nói đến Ong Chủ đi vắng trao công việc cho gia nhân. Chúng ta cần xác định vị trí của mình trong chương trình của Thiên Chúa để thực hiện những gì Chúa muốn nơi chúng ta. Mùa Vọng là thời điểm để chúng ta xét mình về bổn phận, về trách nhiệm của mỗi người. Ong Chủ sẽ đến vào giờ các gia nhân không ngờ.
3-Tỉnh thức là nhận ra tha nhân chính là quà tặng của Thiên Chúa cho mỗi người.
Đạo của Đức Giêsu là Đạo của Tình yêu. Tình yêu ấy phải được cụ thể hóa qua hành động. Tha nhân là cơ hội để chúng ta thực hiện tình yêu bác ái. Tuyên xưng lòng mến Chúa mà không thể hiện lòng mến ấy nơi tha nhân thì lời tuyên xưng ấy trống rỗng, vô hồn. Mùa Vọng là thời điểm nhắc chúng ta hãy trở về với tha nhân trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu mặc khải vinh quang của Người. Hãy nhận ra nơi họ gương mặt của Đấng Cứu Thế, Đấng đã đến và làn cho cuộc đời chúng ta thêm “phong phú về mọi phương diện” (Bài đọc II).
Như thế, là những người tin nơi Chúa Quan phòng, những gì đang xảy ra không làm chúng ta lo sợ. Trái lại, chúng ta có thể nhận ra Chúa đi ngang qua những biến cố đó. Những biến cố vui buồn của cuộc đời đều đem đến cho chúng ta một sứ điệp, sứ điệp của tình yêu, của sám hối và hy vọng.
Tôi đươc nghe câu chuyện hồi tháng 03 năm 2005, một thanh niên Hoa kỳ tên là Brian Nichols: MV 1-B35
Tôi đươc nghe câu chuyện hồi tháng 03 năm 2005, một thanh niên Hoa kỳ tên là Brian Nichols, trong lúc ra toà về tội hiếp dâm, anh đã cướp súng của nữ cảnh sát và bắn chết ba người, rồi tẩu thoát.
1- Anh đã vào nhà một goá phụ trẻ, dùng súng uy hiếp bà Smith và được người phụ nữ này bình tĩnh thuyết phục, bà đã gọi cảnh sát tới bắt anh, Nichols đã đầu hàng không chống cự. Tại sao bà này đã chinh phục được anh ta? Vì trong lúc nguy hiểm nhất, người ta thường kêu Trời, một Đấng là Thiên Chúa có thể giải cứu và cho bà có đủ bình tĩnh, khôn ngoan đối phó trong lúc này.
2- Trong lúc hồi hộp nhất, bà đã TỈNH THỨC, bình tĩnh cầu nguyện và mở sách đọc trúng câu Kinh Thánh: “Hễ ai muốn làm lớn trong anh em thì phải làm người phục vụ anh em.” (Mc 10,43). Nhờ làm theo Lời Chúa mà bà có năng lực, có tinh thần phục vụ, khiêm tốn cùng sự khôn ngoan, can đảm nói ra những điều cần thiết với kẻ đang ức hiếp bà là Nichols.
3- Tôi chắc là bà Smith đã đọc Kinh Thánh thường xuyên, nên Thiên Chúa đã dẫn anh Nichols đến nhà để bà dùng Lời Chúa biến đổi anh ta đừng giết ai nữa! Đúng vậy, Thiên Chúa đã dắt một kẻ giết người đến gặp người phụ nữ yếu mềm; nhưng là chiến sĩ của Thập giá, không có vũ khí như một đội cảnh sát đến bắt, mà có một loại vũ khí Thần Linh, đó là Lời Chúa.
4- Kinh Thánh trong thư Phaolô gởi Tín hữu Do Thái có nói như sau: “Lời Thiên Chúa là Lời Sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; Lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.” (Do thái 4: 12). Thanh gươm này bà đã dùng để đánh trận tâm linh với kẻ giết người, khi bà hỏi Nichols là: tôi có thể đọc sách cho anh nghe được không? Và anh nói: “Được”.
5- Bà đã đọc sách đoạn sách như sau: “Giúp người khác là cách phục vụ Chúa. Thế giới này quan niệm, ai có quyền lực, tiền bạc, uy tín, địa vị trong xã hội là đáng nể sợ. Và nếu anh buộc người khác phục vụ cho anh là anh đã thành công...”Thấy hay qúa, tên sát nhân đã bảo bà ngưng, rồi đọc lại đoạn đó, cứ như thế tiếp tục, làm tên giết người và bà quên cả thời giờ.
6/ Tôi tin chắc rằng chính giờ phút đó, Chúa Thánh Linh đã hành động, gươm thiêng Lời Chúa đã thấu suốt tư tưởng, tâm hồn, xương cốt của Nichols, anh như người trôm lành trên Thập gía biết nhận ra Chúa, một dịp may ân phúc Chúa ban để anh nhận ra Chúa và mình, rồi sám hối ăn năn để sống lại ngay với Ngài: “Ông Giêsu ơi! Khi nào về Nước Ông, xin nhớ đến tôi cùng.” (Lc 23,42)
7/ Khi nhìn trên truyền hình, thấy cảnh anh đang uy hiếp người nữ cảnh sát, Nichols nói với bà Smith: “Tôi không thể nghĩ đó là tôi như vậy.” Đúng như Lời Kinh Thánh trong thư Phaolô: “Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa, là Đấng đã nhờ Đức Kitô cho chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng ta chức vụ hòa giải.” (2Cor5,17-18)
8/ Bạn và tôi ai cũng cần đến Chúa Thánh Linh, Thần của Lẽ Thật đụng chạm tới tâm hồn khi lắng nghe Lời Chúa, cũng như anh Nichols đã được sự ăn năn trở về. Tôi tin rằng Lời Chúa đã giúp bà Smith hành động được trong giấy phút nguy hiểm này: “Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn, khát hãy cho uống; làm như vậy, ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác.” (Rôma 12, 20-21)
Ước mong xã hội này, có nhiều người khôn ngoan, bình tĩnh và can đảm đọc và sống Lời Chúa trong hoàn cảnh thật là khắt khe như bà Smith. Không phải lúc đó bà mới đọc; nhưng bà đã đọc và sống mỗi ngày Lời Kinh Thánh, bà đã tin, chuẩn bị và tỉnh thửc, bà đã tìm kiếm Chúa trong Thần Khí và Sự Thật, (x. Gioan 4,23). Vì trong thời kỳ cuối cùng này, tội ác đang gia tăng, lòng người nhiều thay đổi, rất cần đến những tâm hồn như bà, để đưa nhiều người trở về với Thiên Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Cảm nghiệm CN1MV-B/Sưu tầm Ptế:Nguyễn văn Định Theo thư Sống Lời Chúa của Hội Đồng Giám mục VN ngày 9-9-05
Phó Tế GB. Nguyễn Văn Định
Chưa bao giờ con người thấy cuộc sống bấp bênh như hiện nay: những cơn thiên tai, động đất, thảm họa khủng bố, bạo lực trong trường học và nơi đường phố, nguy cơ chiến tranh, tai nạn máy bay, xe lửa. Những thảm hoac này liên tục nối tiếp nhau.. Chưa kịp hoàn hồn với những thảm họa sóng thần, bão lụt, họ phải đối diện với cúm gà và biết bao nhiêu bệnh tật khác. Con người không thể tìm sự an toàn nơi trần thế này Và họ tìm đến với tôn giáo, với Thiên Chúa.
Họ đến với Chúa để đặt những câu hỏi tại sao ? đồng thời cũng để nhận ra Ngài là Đấng quyền năng và con người cần trở lại với Chúa vì tội lỗi và sự gian ác của họ là nguyên nhân của sự dữ. Hãy tỉnh thức, đó là sứ điệp được gửi đến với chúng ta đầu Mùa Vọng này
1-Tỉnh thức để nhận ra Chúa là ai trong cuộc đời của con người.
Tiên tri Isaia đã tuyên xưng điều đó: “Lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng Cứu chuộc chúng con. Đó là Danh Ngài từ muôn thuở” (Bài đọc I). Có những lúc chúng ta lãng quên Thiên Chúa hoặc khước từ lời mời gọi của Ngài để nghe theo tiếng gọi của lạc thú, của phù hoa. Mùa Vọng là lời mời gọi hãy tái khám phá sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình.
2-Tỉnh thức là nhận ra vị trí của mình trước mặt Thiên Chúa và Anh Em.
Đức Giêsu đã nói đến Ong Chủ đi vắng trao công việc cho gia nhân. Chúng ta cần xác định vị trí của mình trong chương trình của Thiên Chúa để thực hiện những gì Chúa muốn nơi chúng ta. Mùa Vọng là thời điểm để chúng ta xét mình về bổn phận, về trách nhiệm của mỗi người. Ong Chủ sẽ đến vào giờ các gia nhân không ngờ.
3-Tỉnh thức là nhận ra tha nhân chính là quà tặng của Thiên Chúa cho mỗi người.
Đạo của Đức Giêsu là Đạo của Tình yêu. Tình yêu ấy phải được cụ thể hóa qua hành động. Tha nhân là cơ hội để chúng ta thực hiện tình yêu bác ái. Tuyên xưng lòng mến Chúa mà không thể hiện lòng mến ấy nơi tha nhân thì lời tuyên xưng ấy trống rỗng, vô hồn. Mùa Vọng là thời điểm nhắc chúng ta hãy trở về với tha nhân trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu mặc khải vinh quang của Người. Hãy nhận ra nơi họ gương mặt của Đấng Cứu Thế, Đấng đã đến và làn cho cuộc đời chúng ta thêm “phong phú về mọi phương diện” (Bài đọc II).
Như thế, là những người tin nơi Chúa Quan phòng, những gì đang xảy ra không làm chúng ta lo sợ. Trái lại, chúng ta có thể nhận ra Chúa đi ngang qua những biến cố đó. Những biến cố vui buồn của cuộc đời đều đem đến cho chúng ta một sứ điệp, sứ điệp của tình yêu, của sám hối và hy vọng.
Chúng ta đang bước vào một năm Phụng vụ mới. Thời gian phụng vụ chính là phương thế Chúa dùng: MV 1-B36
Chúng ta đang bước vào một năm Phụng vụ mới. Thời gian phụng vụ chính là phương thế Chúa dùng để ta tiến về với Ngài, tiến đến gặp gỡ Ngài hôm nay để dọn dường cho cuộc gặp gỡ trọn vẹn, vĩnh cửu trong Nước Trời mai hậu. Phụng vụ Chúa Nhật I MV hôm nay mời gọi chúng ta sống tâm tình hy vọng, đợi chờ “cuộc gặp gỡ đó” trong thái độ tỉnh thức. Đó chính là thái độ biết sống” cái vĩnh hằng trong giây phút hiện tại”, biết biến cuộc đời thành một cuộc “lên đường trong hy vọng và đầy tràn niềm vui”, biến các tương quan với Chúa và với anh em đồng loại trở thành mối giây bác ái yêu thương và phục vụ. Đó chính là ý nghĩa đích thực của Mùa Vọng Phụng vụ và Mùa Vọng của cuộc đời Kitô hữu.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành Thánh lễ.
Giảng Lời Chúa:
Hình ảnh người mẹ già sau bao tháng năm mong mỏi, lần bước ra ngỏ sau đón đợi con về gần như đã thể hiện phần nào hai ý nghĩa cốt yếu của Mùa Vọng: Đón Đợi và Trở Về.
“Mẹ lần mò ra ngõ sau đón bước người xưa ngỡ trong giấc mơ…nắng vàng hoe, đôi mắt đã nhòe vì quá đợi chờ..” (Ngày trở về của Phạm Duy).
Thưa ông bà và anh chị em.
Phụng vụ Chúa Nhật I Mùa Vọng hôm nay cũng muốn gợi lên cho chúng ta tâm tình “đợi chờ”, “trông ngóng”, một tâm tình vươn về phía trước, hướng đến đàng xa, để “đón đợi”, để “gặp gỡ chính Chúa Kitô đang trở về, đang đến”. Chúng ta hãy cùng nhau dừng lại để chia sẻ với nhau đôi điều mà sứ điệp Lời Chúa hôm nay gọi mời chúng ta đón nhận để sống trên cuộc hành trình Mùa Vọng nầy.
1. Chúa đến: bởi vì tôi đang cần Ngài:
Tôi cần Ngài như dân ít-ra-en xưa, giữa một hoàn cảnh éo le và đầy tăm tối thất vọng của kiếp sống nô lệ, hậu quả của tội lỗi, bất trung và lệch xa Giao ước, đã khát khao sự can thiệp của Gia-vê Thiên Chúa bằng những lời cầu xin tha thiết: “Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài mau trở lại. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan…Lạy Đức Chúa, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài” (BĐ 1)”.
Và nếu đặt ý nghĩa nầy trong bối cảnh của Phúc Âm. Thì tôi chợt thấy rằng: quả thật,
Tôi cần Ngài như Giakê sẵn sàng leo lên cây sung đón đợi để nhìn cho được gương mặt chí thánh của thầy Giêsu để xin Ngài may ra thương tình mà ngó ngàng đến thân phận tội lỗi xấu xa của một đời bon chen với bất công và tham lam dối trá. Và Ngài đã đến hoán cải cuộc đời Giakê.
Tôi cần Ngài như những người phung cùi bị xã hội ném ra ngoài hoang mạc chỉ còn kéo lê cuộc đời trong đau thương thất vọng, những người mù lê lết ăn xin bên vệ đường, những tên bị quỷ ám sống cù bơ cù bất nơi những nghĩa trang hoang lạnh, những người đàn bà mất con như bà góa thành Naim, những người chị mất em như Matta Bêtania, những bệnh nhân tiền mất tật mang như người phụ nữ loạn huyết Canan, hay như maria Mađalêna, cả một đời buông trôi trong kiếp “gái giang hồ’…. Và Ngài đã đến cho kẻ què được đi, người mù được thấy, kẻ phung cùi được sạch, người chết sống lại và ai mang thân phận tội lỗi hoang đàng được hồi tâm trở về làm lại cuộc đời trong tin yêu ân sủng.
Người ta sẽ không cần “Chúa đến”, không cần Chúa viếng thăm, Chúa thương xót khi tự hào mình đang có những “vỏ bọc an toàn”, những “tháp canh kiên cố”, những”kho lẫm” vững chắc đầy những công trạng, đạo đức, như kiểu người biệt phái lên đền thờ cầu nguyện, không phải để trông chờ Chúa đến mà là để “dâng công bộ” vì bao công đức của mình, hay như người thanh niên giàu có đã xụ mặt quay đi bởi vì “anh ta có nhiều của cải”.
Tôi cần Ngài như người thu thuế đang thiết tha mong chờ “Chúa đến” bằng thái độ khiêm hạ đấm ngực ăn năn với lời nguyện cầu tha thiết “Lạy Chúa xin thương xót con vì con là người tội lỗi”.
Tôi cần Ngài khi tôi chẳng khác nào như những anh chàng ngư phủ xứ Galilê suốt cuộc đời chỉ biết con thuyền tấm lưới và kéo lê cuộc sống trong sự tầm thường, ích kỷ, nhỏ nhen thì Ngài đã đến gọi tôi để dẫn tôi dấn thân trên những nẽo đường lý tưởng, phục vụ tha nhân, loan báo Tin mừng.
Và như thế, sống đức tin phải chăng là sống một Mùa Vọng triền miên, bởi vì có khi nào mà chúng ta lại không cần Chúa Đến !
Vã lại, xét cho cùng,
- đức tin không phải là một “chuyện đã qua”, một kỷ niệm của quá khứ để thỉnh thoảng ngồi ôn lại một cách bâng quơ hờ hững.
- Đức tin cũng không phải là một con đường mòn quen thuộc, một tập quán đơn điệu, máy móc để mỗi ngày bước đi, mỗi ngày thực hiện như cuộc vận hành của một chiếc máy mù lòa theo quán tính.
Không ! Đức tin Kitô giáo, Đạo của Chúa Giêsu, Thiên Chúa của người Kitô hữu luôn luôn là một hiện thực mới mẻ, tinh khôi, đang đến, đang trở về và đang hiện diện.
Ý nghĩa đầu tiên của Mùa Vọng, Mùa “Ad-ven-tồ”, phải chăng là giúp mỗi người tín hữu chúng ta sống và cảm nhận, thực hiện và bước tới gặp gỡ một Thiên Chúa, một Đức Kitô, một Tin Mừng trong chiều kích đầy hoan vui và hiện thực đó.
2. Chúa đến: bởi vì đó chính là Tin Vui
Tin Vui đó chắc chắn không phải là một thứ “Rừng Mơ của Tào Tháo” chỉ để giải quyết tạm thời, chỉ để mị dân và lừa phĩnh; 600 năm sau những lời cầu nguyện tha thiết của Ít-ra-en: “xin Chúa xé trời ngự xuống”, thì Đấng là Em-ma-nu-en, là Hoàng tử Bình An, là Đấng Cứu thế, là Thiên Chúa Làm Người đã xuất hiện, không phải để chiếm lại một giải đất Pa-les-tine khô cằn sỏi đá hay đắc chí ngồi trên ngai vàng để thống trị vài chục triệu dân; nhưng là để giải phóng toàn diện lịch sử con người, là qui tụ toàn nhân loại trong một Vương Quốc bao la vĩnh cửu; cũng không phải để tái dựng một đền thờ Giê-ru-sa-lem bằng đá gạch, nhưng là một Đền Thờ Mới vĩnh hằng vì “đã đến lúc người ta không còn thờ Cha trên núi nầy núi nọ, hay tại Giê-ru-sa-lem…. nhưng là thờ Cha trong thần khí và sự thật…” (Ga 4, 20-24).
Hôm nay, bước vào Mùa Vọng, khai mạc một Năm Phụng vụ mới, Lời Chúa cũng muốn nhắn gởi chúng ta chính lời tiên tri ấy. Vâng, hãy bắt đầu lại, hãy ngẩng cao đầu, hãy nhìn về phía trước, “hãy vươn tâm hồn lên” để đón nhận Tin Vui. Hãy vứt bỏ đi những nổi chán chường, thất vọng của một lối sống đức tin mang đầy dấu vết của nô lệ, của lưu đầy. Hãy vứt bỏ đi lối sống buông trôi, lờ lững, không biết tới ngày mai, không dám đối diện với tương lai. Hãy vứt bỏ đi cuộc sống chỉ có biết bon chen, cặm cụi với cái lãi cái lời vật chất, cặm cụi đầu tư bất kể cho những thứ chóng qua mà chẳng tính gì đến chuyện vĩnh hằng tối hậu. Và cũng vứt bỏ đi cái lối sống đạo và hành xử đức tin vụ hình thức, giả tạo, biệt phái và kiêu căng. Hãy nhìn rõ cái tôi tội lỗi yếu hèn để khát khao lòng khoan dung tha thứ như tâm tình của Ít-ra-en:
“Tát cả chúng con đã nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi…” (BĐ 1)
Một cuộc vứt bỏ như thế để làm lại cuộc đời trong thánh thiện yêu thương phải chăng là một cuộc “bừng mắt dậy sau đêm dài của giấc ngủ tội lỗi đen tối” theo cách nói của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Rôma: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những hành vi đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu…”. Điều đó sẽ dẫn đến cuộc sống phong phú trong Đức Kitô như lời xác quyết của Thánh Phaolô tông đồ trong BĐ 2 hôm nay: “Quả vậy trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người”.
3. Chúa đến nên tôi phải tỉnh thức
Tỉnh thức của Mùa Vọng trước hết, không chỉ là một “giải pháp tình thế”, một thái độ mang tính “đối phó” đột xuất chỉ cần phải có khi đối diện với hiểm nguy, khi cận kề sự chết.
Không. Tỉnh thức của Mùa vọng là chuyện của cả con người, của cả cuộc đời. Tỉnh thức không phải chỉ để “dọn mình chết lành”, mà phải là “để sống cho ra sống”.
Sống một cách “tỉnh thức’ đó là không ngừng trang bị cho mình một đôi tai thính để biết lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe lẽ phải, lắng nghe lương tâm, lắng nghe Hội Thánh…
Sống tỉnh thức đó chính là luôn có đôi mắt sáng để nhận ra Chúa nơi anh chị em và thấy Chúa hiện diện trong mọi biến cố của đời thường.
Sống tỉnh thức là luôn trang bị cho mình một trí khôn minh mẩn để nhận ra đâu là thánh ý Thiên Chúa, đâu là dấu chỉ của Ngài để thực thi các trung thành và can đảm.
Sống tỉnh thức là luôn có đôi tay mở rộng để phục vụ, đôi chân nhiệt thành loan báo tin Mừng, và trái tim nhạy cảm để yêu thương và biết nghiêng mình trên những thân phận khổ đau bất hạnh của đồng loại.
Trong trích đoạn Tin mừng hôm nay, Thánh Mát-cô đã thuật lại một bài giáo lý của Đức Kitô mà nội dung cốt lỏi cũng chính là thể hiện niềm tin bằng lối sống luôn là “sắp sẳn, tỉnh táo như người đầy tớ đang đón đợi chủ về”. Đây không phải là chuyện dễ ợt, mà là một cuộc phấn đấu nhọc mệt, là cả một cuộc hành trình cam go và mạo hiểm, một cuộc sống khôn ngoan biết tiên liệu và tỉnh táo sắp sẳn cho dù “chủ trở về lúc chặp tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”. (TM)
Trong sử thi “Cuộc chiến tthành Troa” có câu chuyện nàng Penelope chờ đợi chồng là tráng sĩ Ullisse chiến đấu phương xa không nản lòng, không mệt mõi và khước từ mọi cám dỗ bằng cách “dệt cho xong tấm khăn”. Ban ngày dệt, ban đêm tháo. Mãi 20 năm sau mới gặp lại chồng…
Vâng, sống Mùa Vọng là sống như thế đó. Mùa Vọng không chỉ là một khoảng “thời gian trái độn” để có thời giờ trang trí Giáng Sinh, hay là một chuổi dài ngày mặc áo tím hát “Trời cao xin đổ sương mai” ve vuốt một tâm tình ũy mị sướt mướt. Mùa Vọng của Phụng vụ cũng chính là Mùa Vọng của cuộc đời. Một cuộc đời biết “không ngừng đón đợi Chúa đang đến”, một cuộc đời biết tỉnh táo luôn luôn để chào đón và gặp gỡ Chúa trở về. Mà thật sự Chúa “đang trở về” hôm nay, ở đây trong thánh lễ nầy, ở giữa cộng đoàn nầy. Chính vì thế, không phải chúng ta hát mà là thực sự sống chính cái ý nghĩa của lời ca Nhập Lễ vừa vang lên lúc khởi đầu: “Con vươn linh hồn lên tới Chúa”. Amen
“Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về” (Mc 13,35)
Bắt đầu vào ngày thứ nhất của mùa Vọng năm B, Tin Mừng muốn nhắc lại mục đích của con người: MV 1-B37
Bắt đầu vào ngày thứ nhất của mùa Vọng năm B, Tin Mừng muốn nhắc lại mục đích của con người sống ở đời này là “tỉnh thức” để đón chờ chủ trở về. Chủ nhà sẽ về bất cứ giờ nào: “lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng” (c.35) nên chúng ta phải tỉnh thức. Vậy chúng ta phải sống tỉnh thức với thái độ nào? Tỉnh thức có thể là thân xác lẫn tâm hồn phải sẵn sàng luôn. Tâm hồn phải tỉnh thức trong trạng thái thật trong sạch, lành thánh. Chu toàn phận sự của chúng ta là tỉnh thức! Năng lãnh nhận các bí tích đó là chúng ta tỉnh thức. Năng cầu nguyện, kết hợp với Chúa đó là sẵn sàng trông chừng đón chờ chủ nhân về! Nếu lỡ yếu đuối chúng ta phải cố gắng làm hòa với Chúa sớm bao nhiêu có thể đó là tỉnh thức đấy!
“Hãy tỉnh thức” ở đây như một mệnh lệnh làm kim chỉ nam cho chúng ta suốt mùa Vọng này! Bởi vì chúng ta “không biết lúc nào chủ nhà trở về” nên phải “tỉnh thức” tận trong tâm hồn. Chúng ta hãy dọn cho cá nhân mình “tỉnh thức” và cũng phải loan truyền sứ mệnh “tỉnh thức” cho mọi thành viên trong gia đình, cho giáo xứ, cho cộng đoàn nữa. Không phải bắt đầu vào mùa Vọng chỉ “tỉnh thức” để lo sắm sửa qùa cáp, trang trí bên ngoài bóng điện đủ màu, mở nhiều party; Nhưng phải hiểu tỉnh thức một cách thật đứng đắn mới hưởng trọn ý nghĩa đêm Giáng Sinh: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Lời Nguyện:
Lạy Chúa Hài Nhi đang nằm gọn trong máng cỏ nhỏ hèn, xin hãy rộng tay ban phép lành cho tất cả chúng con. Chúng con muốn “tỉnh thức” qua việc năng cầu nguyện để đón chờ Chúa đến hàng ngày lúc rước lễ. Chúng con ước ao được kết hợp với Chúa qua tất cả những sửa soạn kỷ niệm mừng ngày Chúa Giáng sinh đến thế gian này cả hơn hai ngàn năm xưa! Xin Chúa thiên binh, xin thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình. (Tv 79,15-16).
"Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến".
Anh chị em thân mến,
Trong cuộc sống của con người, có nhiều cái để tỉnh thức: tỉnh thức để rình ăn trộm, tỉnh thức để: MV 1-B38
Trong cuộc sống của con người, có nhiều cái để tỉnh thức: tỉnh thức để rình ăn trộm, tỉnh thức để đánh bài đánh bạc, tỉnh thức để học bài thi, tỉnh thức để làm thơ tình, để đợi người yêu, để đợi nghe điện thoại của người thân từ nước ngoài gọi về...
Tỉnh thức để nghe điện thoại của người thân vì có hẹn trước, tỉnh thức để học bài thi là vì sợ trượt vỏ chuối, hoặc là để đợi người yêu thì cũng đều có giao hẹn trước…
Mùa vọng là mùa sống trong hi vọng, trong chờ đợi, do đó mà cần phải tỉnh thức, người Kitô hữu tỉnh thức là để chờ đón Chúa đến, Ngài đã báo trước cho chúng ta là Ngài sẽ đến lại, báo là sẽ đến chứ không báo ngày nào giờ nào Ngài đến, do đó, cần phải tỉnh thức để đợi Ngài.
Có nhiều người đợi hoài mà không thấy Chúa đến nên lơ là ngủ say trong tội lỗi; có người vẫn thức để đợi Chúa, thức mà không tỉnh, cho nên cuộc sống của họ dở dở ươn ươn, giữ đạo theo thói quen đi lễ chủ nhật, mà cuộc sống thì như là người ngoại giáo; lại có người tỉnh thức chờ Chúa đến bằng cách sống thật đúng Tin Mừng Chúa dạy: yêu thương người thân cận như chính mình. Đó là cách hay nhất để tỉnh thức chờ đón Chúa đến.
Nhân loại cần phải tỉnh thức và chờ đợi ngày Thiên Chúa đến, ngày mà chúng ta gọi là hồng phúc, là bình an.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa cũng vậy, tuy Ngài không tỉnh thức, nhưng Ngài chờ đợi, chờ đợi là thái độ của bao dung và của tình yêu. Ngài vì yêu thương chúng ta nên sẵn sàng chờ đợi chúng ta trở về với Ngài, Ngài chờ đợi nơi chúng ta sự sám hối để bày tỏ lòng bao dung của Ngài đối với chúng ta.
Mùa vọng, cũng là mùa tha thứ cho nhau những lỗi lầm, bởi vì không ai chờ đợi Chúa đến mà trong lòng lại còn chất chứa hận thù với người anh em, bởi vì không ai chờ đợi tình yêu của Chúa mà lại đem lòng ghen ghét người thân cận của mình.
Tha thứ cho nhau những lỗi lầm chính là món quà đẹp nhất mà chúng ta trao tặng cho Chúa khi Ngài đến với chúng ta. Mùa vọng của người Kitô hữu là như thế: yêu thương, chờ đợi và thứ tha.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 1 mùa vọng tại nhà thờ Thánh Tâm-Taiwan. Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
„Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức! " (Mc 13, 37)
Trong chiều sâu mỗi một tâm hồn sẽ gặp gỡ Thiên Chúa. Chính từ trong chiều sâu này Thiên Chúa: MV 1-B39
„Trong chiều sâu mỗi một tâm hồn sẽ gặp gỡ Thiên Chúa. Chính từ trong chiều sâu này Thiên Chúa muốn nói với từng người chúng ta rằng, Ngài rất gần gũi với từng người. Nhưng chúng ta thường quá bận bịu với công việc, với nhiều lo lắng, với vô vàn ước vọng đợi chờ. Chúng ta bị quá nhiều hình ảnh và lo toan của ngày sống chi phối, chúng ta đã chú ý quá sức tới những chuyện bên ngoài, đến nỗi chúng ta không còn có thể nhìn thấy chân lý, không còn nghe được tiếng nói nội tâm. Tâm hồn chúng ta chứa đầy những thứ cũ rích và vô bổ. Nhiều bức tường thành đã được dựng nên trước nhãn quan của Thiên Chúa, đến nỗi chính Thiên Chúa và tiếng nói nhẹ nhàng của Ngài không còn có thể xuyên thấu qua được.“ (Benedikt XVI, Josef Ratzinger, Berührt vom Unsichtbaren, Jahreslesebuch, Herder Verlag Freiburg 2005, S. 92)
Anh Chị Em thân mến, lời của Đức Thánh Cha như nhắc nhớ chúng ta hãy lắng nghe lại lời của Đức Kitô ngày hôm nay: „Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!“ Canh thức để chúng ta có thể lắng nghe được tiếng nói trìu mến của Thiên Chúa,
canh thức để chúng ta có thể bước vào tương quan tình yêu với Thiên Chúa.
Nhưng canh thức như thế nào?
Canh thức là dừng chân trong ngày sống, không còn chạy theo những tiếng ồn, những hào nhoáng.
Canh thức là can đảm dâng lên Chúa những lo toan và dự định cùng ước muốn.
Canh thức là chúng ta trở về lại chính đời sống của mình, và dưới Ánh Sáng của Chúa, chúng ta sắp xếp lại cuộc đời của mình: soạn lại bàn làm việc, dọn dẹp và quét đi những rác rưởi ở góc nhỏ của căn phòng, lau kính cửa sổ cho sáng sủa hơn, lập lại thời khóa biểu cho ngày sống, chăm chú hơn mỗi khi nấu nồi cơm, và với tất cả tâm hồn thưởng thức bữa ăn tối đơn sơ.....
Canh thức là mỗi ngày giành một thời gian nhất định, để đi vào trong thinh lặng, nơi đó chúng ta gặp gỡ Chúa, nơi đó chúng ta chiêm ngắm Ngài và lắng nghe Ngài nói, và khám phá ra sự gần gũi yêu thương của Ngài.
Như vậy, bắt đầu mùa Vọng, chúng ta hãy cùng nhau tập sống canh thức một cách thật cụ thể nhé!
Bạn hãy thử coi xem, Bạn sẽ tập sống canh thức trong giây phút nào, qua điều gì cụ thể.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần là Thầy dạy cầu nguyện, luôn hướng dẫn và chỉ bảo cho chúng con. Nguyện xin Mẹ Maria và các Thánh Tử Vì Đạo Việt-Nam, Thánh I-Nhã và chân phước Charles de Foucault, cùng đồng hành và cầu bầu cho chúng con. _____________________________________________________ Phương pháp cầu nguyện suy niệm: 1) Chọn một nơi chốn và thời gian thích hợp 2) Ngồi xuống, đốt lên một cậy nến trước ảnh Chúa, làm dấu thánh giá và phủ phục thờ lạy Chúa. 3) Nhắm mắt một chút và từ từ đi vào trong thinh lặng. 4) Chú tấm đọc bài suy niệm cách chậm rãi. 5) Đọc lại lần thứ hai và để ý xem câu nào hay tâm tình gì đánh động. 6) Nhẩm đi nhắc lại câu đó nhiều lần; Vd: „phải canh thức!“ 7) Thinh lặng và để lời đó thấm vào lòng mình. 8) Tâm sự với Chúa và kết thúc bằng một kinh Lạy Cha.
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là: MV 1-B40
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.
Hỏi: Chúa đã đến chưa? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng: Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa khi Ngài sinh bởi Đức Trinh Mữ Maria; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để "phán xét kẻ sống và người chết", như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do chữ "chờ đợi" được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết: «Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi», và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van: «Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống».
Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mang tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.
Mùa Vọng trong Kinh Thánh
Các bài đọc Thánh lễ trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: "Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở..." (Is 11, 1-10).
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng cũng nhắc lại việc Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế: thiên thần Gabriel hiện ra với Đức Maria và báo cho Mẹ biết rằng: "Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận (...) Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc 1, 26-38)
Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần" (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)
Như thế, Mùa Vọng kêu gọi người kitô hữu cải hóa nội tâm. Những việc cử hành thánh thường xuyên nhắc nhở chúng ta canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.
Mùa Vọng
Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi Chúa nhật với tên gọi truyền thống đặc thù của nó gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu:
- Chúa nhật I Mùa Vọng: Ad Te levavi... (= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa... ) - Chúa nhật II Mùa Vọng: Populus Sion ... (= Này hỡi Dân Sion...) - Chúa nhật III Mùa Vọng: Gaudete ... (= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa...) - Chủ nhật IV Mùa Vọng: Rorate ... (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng Công Chính...)
Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng
Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Con Chúa đến lần thứ nhất, và tỉnh thức sẵn sàng đón Người tái lâm là chiều kích thứ hai (Mc 13, 33-37).
Lời Chúa nói với các môn đệ: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào" (Mc 13, 33), cũng nói với chúng ta: "Điều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!" (Mc 13 37). Chúa mách bảo chúng ta phải luôn trong tư thế của người được chủ: "đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành ... và căn dặn ...lo tỉnh thức" (Mc 13, 34). Vì chủ về bất ngờ nên "coi chừng và tỉnh thức" là thượng sách.
Chẳng nói đâu xa, năm 2012, người ta đang dự kiến ngày tận thế là ngày 23 tháng 12 tính theo lịch của dân Maya, nhiều người trên thế giới đã lo lắng vì lời đồn đoán ấy, họ đi mua nến, mua dầu, mua mì tôm... Người ta sợ phải lìa bỏ cái thế giới thân yêu này, cho dù nó vẫn còn nhiều khổ não. Trong thời đại của chúng ta không thiếu các thiên tai, chiến tranh, bạo lực. Phải chăng đó là dấu hiệu của ngày tận thế?
Chúa Giêsu xác nhận sẽ có ngày tận thế, nhưng không phải để tan biến thành hư vô. Sẽ có những dấu hiệu làm nhiều người hoang mang sợ hãi, nhưng đối với các tín hữu, đó là dấu hiệu vui mừng vì mình sắp được cứu độ. Chúa mời gọi chúng ta: "Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ" (Mc 13, 35-36).
Năm Phúc Âm hóa gia đình kết thúc, năm Phúc Âm hóa giáo xứ được mở ra. Chuẩn bị lễ Giáng Sinh, mọi người trong giáo xứ tự hỏi: giáo xứ chúng ta đang chờ đợi điều gì? Trong lúc này của đời ta, con tim ta đang hướng về điều gì? Chúng ta có tỉnh thức không? Hãy thức tỉnh và cầu nguyện, để khi Đức Giêsu ngự đến lần thứ hai, Người thấy chúng ta đang tỉnh thức vì đã không uổng công trông đợi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ "đầy ân sủng", Mẹ đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong lòng, xin giúp chúng con sẵn sàng đón Chúa Giêsu Con Mẹ.
Lạy Chúa, "xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống" (Is 63, 19). Amen.
Ở nơi này nơi nọ, người ta đã nói với nhau: “Sắp lễ No-en rồi!” Quả vậy, Giáo hội sắp kết thúc: MV 1-B41
Ở nơi này nơi nọ, người ta đã nói với nhau: “Sắp lễ No-en rồi!” Quả vậy, Giáo hội sắp kết thúc Năm Phụng Vụ A để bước sang Năm Phụng Vụ B của chu kỳ 3 năm A-B-C. Mùa Vọng là Mùa Chờ Mong, là Mùa Trông Đợi, nên hàm chứa một Niềm Vui và một Niềm Hy Vọng!
Niềm vui và Niềm Hy Vọng của các tín đồ Do Thái là Thiên Chúa thực hiện lời hứa từ rất xa xưa trong lịch sử dân riêng Người là Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại một người đặc biệt. Người ấy chính là Con Thiên Chúa Đấng sẽ xé trời mà xuống trần gian! Niềm Vui và Niềm Hy Vọng của con người và các dân tộc trên thế giới hiện nay là một cuộc sống ấm no hạnh phúc, công bình và văn minh. Niềm Vui và Niềm Hy Vọng của các Ki-tô là khám phá ra Thiên Chúa, gặp gỡ được Người và được sống với Người! Điều kiện cơ bản nhất là canh thức và ngóng chờ như đứa trẻ ngóng mẹ về chợ!
II. NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Bài đọc 1 (Is 63,16b-17.19b; 64,2b-7) Phải chi Chúa xé trời mà ngự xuống
(63,16b) Lạy Đức Chúa Ngài mới là Cha, là Đấng Cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài từ muôn thuở. (17) Lạy Đức Chúa tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng biết kính sợ Ngài? Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài hãy mau trở lại. (19b) Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan.
(64,2) Ngài ngự xuống: và núi non rung chuyển trước Thánh Nhan! (3) Người ta chưa nghe nói đến bao giờ, tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy có vị thần nào ngoài Chúa ra, đã hành động như thế đối với ai tin cậy nơi mình. (4) Ngài đón gặp kẻ sống đời công chính mà lấy làm vui và nhớ đến Ngài khi theo đường lối Ngài chỉ dạy. Kìa Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con, nhưng khi mải đi theo các đường lối của Ngài, chúng con sẽ được cứu thoát. (5) Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi. (6) Không có ai cầu khẩn danh Chúa, cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấy Ngài, vì Ngài đã ngoảnh mặt không nhìn đến, và để cho tội ác chúng con phạm mặc sức hành hạ chúng con. (7) Thế nhưng, lạy Đức Chúa, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm nên tất cả chúng con.
2.2 Bài đọc 2 (1 Cr 1,3-9) Chúng ta mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người.
3 Thưa anh em, xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.
4 Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Ki-tô Giê-su. 5 Quả vậy, trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người. 6 Thật thế, lời chứng về Đức Ki-tô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, 7 khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người. 8 Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô. 9 Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
2.3 Bài Tin Mừng (Mc 13,33-37) Anh em phải canh thức: anh em không biết khi nào chủ nhà đến.
33 "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. 34 Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. 35 Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. 36 Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. 37 Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức! "
III. KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ GIÁO HUẤN CỦA THIÊN CHÚA
3.1 Dung Mạo của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?):
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Đức Chúa và là Cha của ngôn sứ I-sai-a và của mọi tín đồ Do Thái, là Đấng đã xé trời mà ngự xuống trần gian để gặp gỡ con người và làm cho con người tội lỗi được sạch trong và được Người cứu thoát. Người là thần linh duy nhất có cách hành xử như vậy vì Người là Đấng đã dựng nên con người nên không bỏ rơi tạo vật của mình (bài đọc 1).
* Là Chúa Giê-su Ki-tô, nơi Người các tín hữu Cô-rin-tô [và chúng ta] được Thiên Chúa ban tặng ân huệ và được mời gọi sống hiệp thông cùng Thiên Chúa là Cha của họ (bài đọc 2). Chúa Giê-su nhắc nhở các môn đệ và dân chúng Do Thái [và chúng ta] là phải canh thức để gặp được Thiên Chúa khi Người đến (bài Phúc âm).
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng cùng hành động với Chúa Cha và Chúa Con để giúp các tín hữu khát khao, tỉnh thức để đón mừng Thiên Chúa khi Người xé trời mà ngự xuống.
3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến.”
IV. ĐÁP LẠI THIÊN CHÚA
“Phải coi chừng, phải tỉnh thức” có nghĩa là:
* Luôn sẵn sàng và ngóng đợi để gặp được Thiên Chúa vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ nơi nào mà Người ngự đến/xuất hiện.
* Luôn tích cực tìm kiếm Chúa trong cuộc sống, bằng/nhờ các phương thế thích hợp: cầu nguyện, đọc, lắng nghe, suy niệm và thực thi Lời Chúa bằng cách làm những việc tốt lành thánh thiện và hữu ích cho bản thân mình và cho tha nhân.
* Từ bỏ những thứ làm cản trở cuộc “kỳ ngộ” tuyệt vời giữa Thiên Chúa và bản thân. Cũng có nghĩa là sắp sẵn cho mình một hành trang nhẹ nhàng, thanh thoát.
Mỗi người hãy tự hỏi: “Tôi đã có thái độ và hành động như kể trên chưa?”
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân trong Thánh Lễ]
5.1 « Lạy Đức Chúa! Ngài mới là Cha, là Đấng Cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài từ muôn thuở.» Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa và nhìn nhận Người là Cha và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Người ta chưa nghe nói đến bao giờ, tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy có vị thần nào ngoài Chúa ra, đã hành động như thế đối với ai tin cậy nơi mình.» Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa vì Người đã tha thứ mọi tội lỗi và bất trung của chúng ta! X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Quả vậy, trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người.» Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, vì nhờ Người mà chúng ta được giầu có về mọi phương diện và được hiểu biết mầu nhiệm của Thiên Chúa!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi Ki-tô hữu, trước hết là các vị lãnh đạo Giáo Hội, kế đến là tất cả giáo dân chúng ta, biết sống tỉnh thức ngóng chờ và tích cực chuẩn bị đón mừng Thiên Chúa là Đấng sẽ bất ngờ ngự đến!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.5 Chúng ta hãy cầu nguyện theo ý cầu nguyện chung của tháng 12.2008 là cầu cho Hội Thánh được ơn can đảm phát huy nền văn hóa sự sống qua mọi hoạt động tông đồ và truyền giáo!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.6 Chúng ta hãy cầu nguyện theo ý truyền giáo của tháng 12.2008 là cầu cho mọi người biểu lộ tình huynh đệ bằng những cử chỉ cụ thể và cho các Ki-tô hữu trong các xứ truyền giáo biết cách làm cho mọi người thấy rằng Con Trẻ sinh ra trong chuồng bò ở Bê-lem là nguồn hy vọng sáng ngời của thế giới!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Đoạn Tin Mừng ngắn ngủi chúng ta vừa nghe, lặp đi lặp lại tới bốn lần lời kêu gọi: - Hãy tỉnh: MV 1-B42
Đoạn Tin Mừng ngắn ngủi chúng ta vừa nghe, lặp đi lặp lại tới bốn lần lời kêu gọi:
- Hãy tỉnh thức.
Nằm giữa những lời kêu gọi ấy là một dụ ngôn ngắn kể lại rằng: Người kia sắp đi xa, để nhà cửa lại, giao trách nhiệm cho đầy tớ trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc và dạy phải tỉnh thức luôn vì không biết chừng nào ông ta về. Sẽ không may mắn cho người đầy tớ nào khi chủ bất thần trở về mà bắt gặp còn đang ngủ mê.
Ngôi nhà ông chủ trao cho tôi tớ, chính là thế giới mà Đức Kitô trao cho loài người chúng ta chịu trách nhiệm. Chúng ta có bổn phận phải quản lý nó. Cũng như Chúa dạy chúng ta phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình và phải quản lý cuộc đời mình sao cho phù hợp với ý muốn của Chúa, theo lề luật bác ái yêu thương.
Rồi ngày kia, Ngài sẽ xuất hiện tỏ tường với chúng ta và Ngài sẽ xét xử chúng ta theo cách thức chúng ta hoàn thành nhiệm vụ của mình như thế nào. Chúng ta phải sống cuộc đời hiện tại trong sự tỉnh thức, nghĩa là không quên ngày Chúa đến, đó là ngày tận thế cũng như ngày cuối cùng cuộc đời chúng ta. Vì qui hướng về Đức Kitô như thế, chúng ta sẽ tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu của mình.
Chúa Giêsu đã đến, rồi Ngài đã ẩn mình đi khỏi con mắt xác thịt của loài người. Đến ngày quang lâm, Ngài sẽ lại xuất hiện tỏ tường trước mắt muôn dân. Trong thời gian Ngài ẩn mình đi, chúng ta nhiều khi kêu trách Chúa sao như muốn bỏ mặc chúng ta. Nhưng Chúa ẩn khuất như thế chính là vì muốn tôn trọng chúng ta, muốn cho chúng ta nên người trưởng thành.
Thực vậy, làm sao con cái có thể lớn khôn khi cha mẹ cứ bám sát lấy nó, lo cho nó từng ly từng tí. Dĩ nhiên Chúa vẫn lo cho chúng ta ta nhưng có thể nói là một cách kín đáo, tế nhị, không bao giờ dành mất tự do và trách nhiệm của con người.
Có ba quan niệm dễ dàng tạo nên một thái độ tiêu cực trong cuộc đời:
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì nữa. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu rồi sẽ như nhau cả, thì người ta có lý để lập luận rằng: Hãy ăn uống, vui chơi, hưởng thụ giây phút hiện tại.
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là cho rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được định đoạt do các vị thần thánh. Nếu thế thì con người chẳng cần làm gì nữa, chẳng cần cố gắng hy sinh hoặc sáng tạo.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt hạnh phúc thì ta còn có thể chờ kiếp sau đầu thai lại và tiếp tục xây dựng hạnh phúc.
Quan niệm Kitô giáo về cuộc đời, về thời gian và về lịch sử rất khác với những quan niệm trên. Đó là một quan niệm có tính biện chứng. Người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại hết sức nghiêm chỉnh như thế là sẽ mãi mãi ở đây vì đó là thánh ý Chúa và vì số phận của mình được định đoạt ngay trên cõi đời này, đồng thời họ lại thanh thoát, tự do, sẵn sàng rời bỏ mọi sự bất cứ lúc nào Chúa gọi họ ra đi. Quan niệm Kitô giáo là một quan niệm cho những con người trưởng thành. Bởi vì, hãy tỉnh thức có nghĩa là hãy sống có trách nhiệm.
Khi màn đêm buông xuống, có những người vẫn thức. Thức vì không ngủ được. Thức để xem: MV 1-B43
Khi màn đêm buông xuống, có những người vẫn thức. Thức vì không ngủ được. Thức để xem nốt một cuốn truyện hay một bộ phim vidéo nhiều tập… Nhưng cũng có người thức để làm việc. Họ trực ở phòng cấp cứu, ở trạm cứu hoả, ở cơ quan an ninh, ở bưu điện. Họ là những công nhân làm ca ba, những tài xế tàu hoả chạy suốt đêm đến sáng, những chuyến bay ban đêm.
Và còn có những người khác cũng thức. Thức không phải vì mất ngủ, không phải để đọc truyện hay xem phim, mà thức để cầu nguyện. Trong các đan viện, các đan sĩ nam nữ là những người không ngủ, với cái nghĩa là họ ca tụng Chúa 24 giờ một ngày luân phiên nhau. Nhiều cộng đoàn tu sĩ nam nữ chầu Mình Thánh Chúa ngày đêm, từ năm này qua năm khác. Họ tỉnh thức và cầu nguyện thay cho chúng ta, trong khi chúng ta ngủ.
Trên trái đất này, không lúc nào mà không có người thức: Đang khi chúng ta lên giường ngủ thì ở bán cầu bên kia, một nửa nhân loại đang vươn vai thức dậy, ăn uống, làm việc, vui chơi, để rồi lại ngủ khi chúng ta ở đây thức dậy.
Như thế, trên thế giới, Thánh lễ được hiến dâng liên tục ngày đêm. Nếu chỉ 2/3 trong số linh mục trên thế giới cử hành Thánh lễ mỗi ngày, thì mỗi giờ ít nhất có hai ngàn linh mục cử hành Thánh lễ, và mỗi phút, ngày cũng như đêm, đều có một số linh mục đang dâng lễ cầu nguyện cho chúng ta.
Tuy nhiên, thức đêm không phải là điều tự nhiên và dễ dàng. Ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu đã từng có kinh nghiệm về điều đó: Trong Vườn Cây Dầu, mặc cho Chúa Giêsu hai lần gọi: Hãy tỉnh thức! Họ vẫn ngủ li bì. Có lẽ lúc đầu, Chúa Giêsu tưởng họ sẽ thức cả đêm với mình để chia sẻ nỗi khổ đau, nhưng cuối cùng, Ngài đau lòng khi thấy họ không thức nổi được một giờ với Ngài (Mc 14,34-37).
Một trong những căn bệnh của thời đại là căn bệnh mất ngủ. Người ta phải dùng thuốc an thần để tìm một giấc ngủ không tự nhiên. Hoặc chán đời, người ta dùng thuốc ngủ quá liều lượng để tìm giấc ngủ ngàn thu!
Thế nhưng, hôm nay, Chúa Giêsu lại kêu gọi: Anh em phải canh thức, kẻo bất thần ông chủ về bắt gặp anh em đang ngủ. Phải chăng Chúa Giêsu muốn các Kitô hữu phải thức suốt đêm để chờ Ngài? Chắc là không! Vậy thì thế nào là thái độ tỉnh thức mà Chúa đòi hỏi nơi chúng ta?
Tỉnh thức không phải là không ngủ: Năm cô trinh nữ khôn ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại (Mt 25,1-13). Điểm khác biệt là vào lúc nửa đêm, khi chàng rể đến, các cô khôn ngoan có thể ra đón với đèn sáng trong tay, vì các cô có mang theo dầu dự trữ. Còn đèn của các cô khờ dại thì đã tắt ngúm mà lại không đem dầu theo. Lúc đó mới chạy đi mua, nên không kịp. Vậy tỉnh thức là ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong khi ngủ.
Tỉnh thức là chu toàn bổn phận: Người quản gia được giao trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân (Mt 24,45-51). Nếu chủ về mà gặp thấy anh đang làm công việc được giao, thì đúng là anh đã có thái độ tỉnh thức. Mê ngủ là bỏ bê trách nhiệm, lạm dụng quyền hành và say sưa chè chén (Mt 24,49).
Tỉnh thức là làm cho những nén vàng, nén bạc Chúa trao được sinh lợi (Mt 25,31-46). Số nén vàng có thể nhiều hay ít tùy người, và mỗi người cũng chỉ phải sinh lợi tùy theo số vốn đã nhận. Mê ngủ là đào lỗ chôn giấu nén bạc của mình, không dám đầu tư vì sợ mất vốn, nhưng cũng có thể vì lười biếng, thụ động. Người tỉnh thức là người được chủ khen là đã trung tín trong việc nhỏ, nghĩa là trung tín với ơn Chúa ban trong hiện tại.
Tỉnh thức là tỉnh táo để nhận ra Chúa bất ngờ đến với mình và nài xin mình trợ giúp. Ngài xuất hiện dưới dáng dấp của một người đói khát, rách rưới, một người yếu đau, lỡ đường, thậm chí một phạm nhân trong nhà giam (Mt 25,31-46). Mê ngủ là để cho Chúa Giêsu ngửa tay đi qua đời mình mà không nhận được chút gì làm quà tặng.
Cuối cùng, tỉnh thức là để cầu nguyện. Tỉnh thức luôn đi đôi với cầu nguyện: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cơn cám dỗ (Mc 14,38). Chúng ta đã làm nhiều việc cho Chúa, nhưng có thể vẫn chưa phải là con người tỉnh thức và cầu nguyện. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ ngủ quên trong thành công tông đồ, trong tiện nghi dễ dãi.
Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta vào bầu khí Mùa Vọng, mùa tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta phải chờ đợi. Có sự chờ đợi làm ta sốt ruột, khó chịu, nhưng cũng có sự chờ đợi làm cho cuộc sống hiện tại trở nên đầy ý nghĩa. Dân Do Thái từ hơn 2000 năm trước đây cho đến nay vẫn sống nhờ vẫn còn chờ đợi Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Sự chờ đợi như tăng thêm sức mạnh để con người can đảm sống cái hiện tại hơn. Biết sống là biết chờ đợi. Chờ đợi làm nên cuộc sống. Sống mà không còn gì để chờ đợi, kể như đã chết! Mùa Vọng là thời gian chờ Chúa đến. Cả lịch sử của nhân loại được đánh dấu bằng những lần Chúa đến. Lần nào Ngài cũng đến bất ngờ. Ngài đã đến bất ngờ ở Bêlem, mang hình hài trẻ thơ yếu đuối. Cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Ngài cũng là bất ngờ, khiến cho các môn đệ phải ngỡ ngàng. Kitô hữu là người đang chờ, chờ ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang. Đây cũng là một bất ngờ, vì không ai biết được ngày giờ Ngài trở lại. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra Ngài đến bất thần, bắt gặp anh em đang mê ngủ(Mc 13,33-37).
Chúa đã đến, sẽ đến, nhưng Ngài vẫn đang đến trong thế giới, trong đời từng người, trong đời từng tập thể. Nếu chúng ta tập lắng nghe, chúng ta sẽ nhận ra được tiếng bước chân của Ngài. Chúa đến với ta qua mọi biến cố của cuộc sống, kể cả những biến cố đau buồn. Bước vào Mùa Vọng, cùng với Giáo hội sống một Mùa Vọng mới, chúng ta hãy mở tâm hồn ra tiếp đón Chúa: Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy đến! (Kh 22,20).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, đến bốn lần Đức Giêsu hối thúc các môn đệ “Hãy tỉnh thức”: MV 1-B44
Trong bài Tin Mừng hôm nay, đến bốn lần Đức Giêsu hối thúc các môn đệ “Hãy tỉnh thức”. Lời kêu gọi “Hãy tỉnh thức” này cũng có ý nghĩa cả đối với chúng ta. Đây là một lời kêu gọi rất phù hợp khi mở đầu năm phụng vụ mới.
Người ta nói rằng mỗi năm, những con chim sẻ đều quay trở lại tổ vào đúng thời điểm. Bằng mọi cách, chúng phải kết thúc chuyến bay tại cùng một địa điểm. Điều này nói gì với chúng ta về những con chim sẻ? Chúng là những tạo vật sống theo thói quen.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống của chúng ta. Ngoại trừ những đứa trẻ còn rất nhỏ, tất cả chúng ta đều là những tạo vật sống theo thói quen ở mức độ lớn. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa phần sau của cuộc đời mình tuỳ theo những thói quen đãđược hình thành từ nửa phần đầu cuộc đời. Điều đó sẽ đem lại dễ chịu cho người đã hình thành được những thói quen tốt. Nhưng sẽ gây rắc rối cho người nào đã nhiễm phải những thói quen xấu.
Thói quen có khía cạnh tích cực. Sự lập đi lập lại là điều cần thiết. Đây là một công việc cực nhọc đều đều và là một kỷ luật nghiêm khắc, nhưng có thể đem lại kết quả. Các vận động viên đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng sự lập đi lập lại có thể tạo ra những thành quả. Chỉ bằng cách đó, người ta mới làm chủ được một kỹ năng. Từ đó, chúng ta có thể đạt được những hành động hoàn hảo nhất, mà không cần phải cố gắng gì cả, bởi vì qua hàng loạt thói quen đã được khắc sâu, chúng trở thành một bản chất thứ hai đối với chúng ta.
Những thói quen có thể thông truyền và duy trì sức sống. Thói quen và công việc hằng ngày có thể giúp chúng ta tiếp tục tiến tới, và vượt qua được những thời điểm khó khăn, khi mà cả những thói quen hằng ngày nhỏ bé nhất đều trở nên có ý nghĩa.
Nelson Mandela cho chúng ta một ví dụ về điều này. Khi viết về thời gian ở tù, ông nói “Để tồn tại được ở trong tù, người ta phải triển khai những cách thức để đạt được sự thoả mãn trong cuộc sống hằng ngày. Người ta vẫn có thể cảm thấy dễ chịu bằng cách giặt giũ quần áo, quét hành lang…”
Nhưng thói quen cũng có khía cạnh tiêu cực. Cuộc sống có rất nhiều sự lập đi lập lại, đặc biệt trong công việc. Khi làm cùng những công việc đó hết ngày này sang ngày khác, chúng ta dễ đi vào lối mòn, để rồi cuối cùng, chúng ta thường chỉ làm việc theo thói quen mà thôi. Điều này đưa đến hậu quả là chúng ta có thể làm việc mà không ý thức, theo một cách thức vô tình, không cần suy nghĩ gì cả. Trong những công việc này, người ta không hề thực sự có tâm hồn hoặc cảm giác. Tình trạng này thật đáng buồn và huỷ hoại tâm hồn.
Thói quen có thể là một nhân tố gây u mê, làm lu mờ các giác quan, đặc biệt là đối với thị giác và thính giác. Thói quen có thể đưa chúng ta đi vào giấc ngủ mê, để rồi chúng ta không còn sống động nữa, mà chỉ biết hành động theo thói quen mà thôi.
Ngoài ra, thói quen có thể mang tính ích kỷ, rất khó bẻ gẫy, đặc biệt là đối với những thói quen xấu. Chúng ta vẫn có thể quen thuộc đối với bất cứ thứ gì, ngay cả đối với các bức tường của nhà tù. Ban đầu, bạn ghét chúng, thế rồi bạn quen thuộc với chúng, và sau đó, bạn lệ thuộc vào chúng.
Nếu bạn đặt một con ếch vào một nồi nước nóng, thì nó sẽ nhảy ngay ra ngoài. Nhưng nếu bạn đặt một con ếch vào một nồi nước lạnh, rồi từ từ đun sôi lên, thì nó sẽ chỉ ngồi yên ở đó. Hệ thần kinh của nó quá sơ đẳng, nên cần một cú xốc nẩy đột ngột, thì nó mới nhận ra rằng mình đang gặp nguy hiểm.
Có lẽ đó là mục đích của Mùa vọng, khi đưa ra một lời mời gọi tỉnh thức, cung cấp cho chúng ta một cơ hội bắt đầu lại. Chúng ta có thể dễ dàng trở thành những Kitô hữu chỉ theo thói quen. Chúng ta có thể chỉ sinh hoạt, tham gia vào các lễ nghi phụng vụ, nhưng đã bị mất đi tất cả nét tươi mát và ý nghĩa. Chúng ta không còn biết lắng nghe Tin mừng nữa.
Mùa vọng kêu gọi chúng ta tỉnh thức, để rũ bỏ lớp bụi của công việc hằng ngày và thói quen, và một lần nữa, để cho Đức Kitô sống động trong đời sống của chúng ta.
Ngày kia, một sinh viên Rôma tới gặp thánh Philipphê Nêri. Anh say sưa nói về kế hoạch xây: MV 1-B45
Ngày kia, một sinh viên Rôma tới gặp thánh Philipphê Nêri. Anh say sưa nói về kế hoạch xây dựng tương lai đời mình. Anh sẽ học luật, anh có đủ khả năng và kế hoạch đạt tiến sĩ luật.
Thánh nhân hỏi anh: - Sau đó thì sao?
Chàng trai hăng hái trả lời:
- Con sẽ tham gia bào chữa những vụ kiện lớn và con sẽ thành công. - Sau đó thì sao? Thánh nhân hỏi tiếp. - Rồi con nổi tiếng, con sống thoải mái hạnh phúc, giàu sang. - Rồi sao nữa? Nghe hỏi tiếp, người thanh niên hơi bối rối. - Dĩ nhiên rồi con cũng chết như mọi người.
Thánh nhân vẫn tiếp tục câu hỏi cũ:
- Sau đó thì sao? Con sẽ là gì khi xuất hiện trước phiên tòa cuối cùng? Con sẽ là bị cáo và Thiên Chúa sẽ là thẩm phán tối cao?
Chàng trai im lặng cúi đầu. Từ đó anh suy nghĩ nhiều về ý nghĩa cuộc đời.
Cuộc sống của mỗi người đều có một sứ mệnh do Chúa trao ban. Có thể đó là một nguồn vốn, một tài năng, một nhiệm vụ. Và sẽ có lúc Chúa đòi ta tính sổ lại với Người. Điều đó chắc chắn, và cũng chắc chắn là ta không biết thời gian phải tính sổ đó là lúc nào.
Để ứng phó với vấn đề này, Chúa dạy ra luôn luôn tỉnh thức. Trong Tin Mừng, Chúa nhắc nhở nhiều lần: Hãy cẩn thận, hãy luôn tỉnh thức. Ở đây, có thể hiểu về việc tính sổ cuối cùng của cuộc đời mỗi người. Ai cũng phải sẵn sàng, bất cứ lúc nào, vì không ai biết ngày giờ Chúa tới. Chúng ta cứ ước mơ, cứ xây dựng và dự tính tương lai, nhưng đừng khi nào quên mục đích cuối cùng của cuộc đời và phải luôn tâm niệm: tất cả đều do Chúa ban và sẽ có lúc Chúa đòi ta tính sổ. Chúa như một ông chủ đi xa, Ngài trao cho các tôi tớ Ngài mỗi người một phần vốn, và một nhiệm vụ cụ thể. Mỗi người phải tự mình xoay xở làm thế nào cho vốn Chúa ký thác được sinh lời.
Cha Charles de Foucault nói: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Đó là một lời khuyên khôn ngoan, một lời khuyên lặp lại lời nhắn nhủ của chính Chúa: “Hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào chủ sẽ về”.
Nhưng thái độ “tỉnh thức” không chỉ ứng dụng vào cái chết, chúng ta còn phải luôn luôn tỉnh thức trong cuộc sống hằng ngày, nhớ mình đang tham dự một cuộc chiến đấu gay go, trường kỳ. Phải cẩn thận đón nghe, suy niệm Lời Chúa, nếu không, ta sẽ là người nghe mà không hiểu gì (Mc 4,12); cẩn thận tránh men biệt phái và men Hêrôđê (Mc 8,15); cẩn thận đừng lầm lạc theo các ngôn sứ giả mạo có cả những kẻ mạo danh Đức Kitô mà đánh lừa chúng ta (Mc 13,5.23). Phải cầu xin Chúa trợ giúp để biết luôn tỉnh thức hầu sống một đời Kitô hữu trung tín, xứng đáng với các ân huệ Chúa trao ban.
Lạy Chúa, chúng con tin rằng Chúa đang đến và sẽ đến với chúng con bằng nhiều cách. Xin ban Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người trợ giúp, chúng con biết tỉnh thức, kiên trì cầu nguyện, suy niệm và thực hành Lời Chúa mỗi ngày; nhờ Người, chúng con biết đón nhận những vui buồn trong cuộc sống như hồng ân Chúa ban. Chúng con xin tạ ơn Chúa.
Người ta chờ đợi phụng vụ năm B sẽ mở đầu bằng những trang đầu của Tin Mừng theo thánh: MV 1-B46
Người ta chờ đợi phụng vụ năm B sẽ mở đầu bằng những trang đầu của Tin Mừng theo thánh Maccô là một điều hợp lý. Thế nhưng, không như người ta tưởng, phụng vụ hôm nay lại trích dẫn một đoạn trong phần gần cuối của Tin Mừng Maccô nói về "Ngày Tận Thế" để giúp soi sáng thêm ý nghĩa của Mùa Vọng ta đang bước vào.
Sở dĩ Đức Giêsu nói về ngày Tận Thế là vì các môn đệ đã lo lắng hỏi Người khi nghe Người loan báo đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá. Khi nhắc lại những lời Đức Giêsu nói với các môn đệ về ngày Tận Thế, thánh Maccô muốn các độc giả của Ngài hiểu rằng lời Chúa xưa nói với các môn đệ cũng là lời Người nói với họ hôm nay:
- Với những độc giả của Tin Mừng Maccô, là những người đã biết hay sẽ biết những năm tháng bi đát (năm 64 Nêrôn bắt bớ, năm 66 cuộc nổi dậy ở Palestin, năm 70 đạo binh của Titus chiếm đóng và phá hủy đền thờ), thì phải học biết rằng ngày Chúa trở lại mà họ tin là sắp đến còn lâu mới xảy ra.
- Còn với độc giả hôm nay và mọi thời cho đến ngày Đức Giêsu trở lại, lời Chúa loan báo soi sáng cho họ biết tầm quan trọng của thời họ đang sống: lịch sử đang tiến đến viên mãn và Đấng sẽ đến gặp gỡ chúng ta ở thời sau cùng này là Đức Giêsu cũng là "Con Người”.
2. Mạc khải những thách thức thời hiện đại.
Thật ra khi né tránh câu hỏi KHI NÀO - bí mật của Chúa Cha - và NHƯ THẾ NÀO, Đức Giêsu có ý khuyến khích các môn đệ mình sống giây phút hiện tại trong sự dấn thân khiêm tốn và tin tưởng cùng với sự tỉnh thức nhạy bén. Người nói với các ông: "Anh em phải coi chừng (tiếng Hy lạp: hãy mở mắt), phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến."
Những lời đó được minh hoạ tức khắc bằng dụ ngôn ngắn gọn cuối cùng: Dụ ngôn một người trẩy đi phương xa, chắc là xa lắm, và trao tất cả quyền hành cho các đầy tớ, sắp đặt mỗi người một việc, và dặn người gác cửa tỉnh thức. Chúa nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày giờ sẽ đến (người ta không biết khi nào thời ấy sẽ đến: c. 33, người ta phải chờ đợi việc Chúa trở lại cách thình lình, không báo trước: c. 33,35,36) có mục đích duy nhất như một lệnh truyền hãy tỉnh thức.
Cách chỉ giờ giấc nối tiếp nhau của trình thuật rất có ý nghĩa, chứ không chỉ có tính cách kể chuyện, vừa thể theo cách người Rôma chia đêm thành bốn canh, vừa gợi nhớ bốn giai đoạn của cuộc thương khó, vừa đề ra bốn giai đoạn mà các môn đệ phải tỉnh thức, nghĩa là không những phải chống trả với sự buồn ngủ về thể lý, nhưng còn phải sẵn sàng đối đầu với sự việc sắp đến cách bất ngờ.
- "Buổi chiều”: Giờ mà Đức Giêsu đoán trước sự phản bội của Giuđa và sự từ chối của chính Phêrô (14,13-31).
- "Nửa đêm": Giờ Chúa hấp hối trong vườn Giếtsêmani, mời gọi các môn đệ tỉnh thức, và ba lần "Người thấy họ ngủ”. Người nói: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (14, 32-42).
- "Lúc gà gáy”: Giờ Phêrô chối Thầy trong sân thượng tế (1 4,66-72).
- "Sáng sớm": Giờ các môn đệ bỏ trốn, Đức Giêsu bị Hội đồng trao nộp cho Philatô (1 5,1 ...).
Một lần nữa khi nhấn mạnh lệnh truyền của Thầy "Hãy tỉnh thức” trước cuộc tử nạn, thánh sử Maccô muốn khuyến khích anh chị em ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai đừng để cho lòng mình ra nặng nề, rối loạn, thất vọng. Nhưng luôn vững tâm tỉnh thức đón tiếp Đấng vẫn đến cho những ai luôn biết hiện diện với Người, và một ngày kia, Người sẽ đến trong vinh quang. Bởi lẽ chính ngay bây giờ, chính trong thực tại khiêm tốn diễn ra hằng ngày, mầu nhiệm cuộc gặp gỡ được thể hiện.
Sau hết, hình như điều quan trọng Đức Giêsu muốn nói với chúng ta không nằm trong chữ KHI NÀO hay BẰNG CÁCH NÀO vào thời sau hết mà nằm trong chữ AI: Phải gặp gỡ AI trong cuộc gặp gỡ sau cùng, cũng như nằm trong sự tỉnh thức tích cục giữa những lo toan của cuộc sống hằng ngày. Đó chính là điều Con người mời gọi mời gọi các tín hữu khi Người đến.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ơn gọi của các môn-đệ: trở nên người canh thức cho thế giới. (Mgr. L. Daloz, trong "Vậy Ngài là ai?, Desclée de Bouwer, tr. 83-84).
Chương này dựng cảnh trí cho Đức Giêsu nói đến bi kịch của thế giới sẽ diễn ra: viễn ảnh của ngày tận thế. Sự chết và sống lại của đức Giêsu làm cho lịch sử nhân loại có ý nghĩa. Tại núi Câu Dầu, đối diện với Đền thờ, Đức Giêsu tâm sự với bốn môn đệ mà Người kêu gọi trước hết là “Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê...". Qua các ông, Người mạc khải cho chúng ta ý nghĩa của thời kỳ ta đang sống: đó là thời kỳ chờ đợi, người môn đệ phải là người canh thức, ngóng chờ chủ trở về. Đó là thời kỳ đầy mơ hồ cần sự phân định, và chúng ta được mời gọi phải canh phòng cẩn mật, đừng để bị phỉnh gạt chạy theo những đấng Mêsia giả hiệu. Đó là thời kỳ phấn đấu và chịu bách hại, thời kỳ chuyển bụng của một thế giới đang đau đớn trước khi sinh con. Đó là thời kỳ được ban cho các nhân chứng để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân mọi nước. Đó là thời kỳ của Thần Khí, Đấng hướng dẫn miệng lưỡi các vị tử đạo.. Sự chết và sự sống lại của đức Giêsu phá vỡ cái vòng luẩn quẩn của những biến cố xoay vần bất tận. Xuyên qua ngay cả những bất an và những cùng khổ, từ nay lịch sử quy hướng về Con Người đang đến. Khi mọi chỗ nương tựa chắc chắn hữu hình và cả đến "trời và đất" đều sụp đổ, Người để lại cho các môn đệ Người một chỗ nương tựa vững chắc, đó là những lời Người không thể qua đi. Họ có bổn phận phải kiên trì quan sát những cành cây vả, để nhận ra và loan báo rằng, cây sắp đâm chồi nẩy lộc, và sau mùa đông rét buốt thì mùa hạ đang đến gần. Họ có bổn phận phải lắng tai để nghe hồi chuông báo hiệu giờ quyết định, mà không ai ngoài Chúa Cha được biết, và phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm ngày mới, tỏa ánh vinh quang của Con Người. Từ nay ơn gọi của người môn đệ cho đến ngày tận cùng thời gian là làm người canh thức cho thế giới... "Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!”
2. “Đợi chờ rạng đông”. (H.Vulliez, trong "Thiên Chúa rất gần năm B, Desciée de Brouwer, tr. 9-10).
Đức Giêsu luôn đến với ta cách đột ngột. Ngài loan báo những ngày thống khổ, mặt trời, mặt trăng và tinh tú sẽ không còn chiếu sáng, đồng thời Ngài gợi lên "sự trở lại của Con người” sự trở lại của chính Ngài, "trong uy quyền và vinh quang” viên mãn. Tất cả là để nói lên: "Hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức”.
“Hãy tỉnh thức”, đó là lời mời gọi khẩn cấp vang lên trong khung cảnh của ngày sau hết trong lúc xuất hiện một thế giờ mới. Trong bài đọc ngày hôm nay, lời mời gọi này được lặp lại bốn lần! Khi nói như thế, không phải Đức Giêsu muốn tung ra một lời đe doạ ghê gớm của ngày chung thẩm, hay muốn tạo cho người nghe cảm giác nổi gai ốc về tai hoạ sắp xảy đến. Nhưng ở đây qua dụ ngôn nén bạc chẳng hạn, không phải là chuyện tính sổ, mà trước hết là đừng ngủ mê, phải tỉnh thức sẵn sàng để đón tiếp, vì bất cứ lúc nào Thầy cũng có thể đến một cách bất ngờ. Làm sao các môn đệ hiểu được những lời này khi Đức Giêsu nói với các ông? Phải đợi đến sáng sớm Phục sinh, bóng lên trong ánh sáng mờ ảo của bình minh, dụ ngôn ngắn ngủi nay mới rõ nghĩa. Một chi tiết của bài đọc làm ta ngạc nhiên: Thầy sẽ đến ban đêm, vào bất cứ giờ nào: buốt tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay lúc rạng đông? Không ai biết cả. Từ muôn thuở, từ lúc Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, ngày và đêm chiến đấu với nhau và sẽ như thế mãi cho tới khi Chúa đến chiến thắng vĩnh viễn cho ánh sáng. Chiến thắng trên những quyền lực sự dữ của bóng tối. Thời gian ở đời này là thời gian chiến đấu. Đức Giêsu thúc giục bạn hữu mình và các môn đệ của Ngài hãy tỉnh thức, không như những người lính gác hay người lính tuần đêm, nhưng như người đợi chờ ánh bình minh, mong ngày tới để hưởng niềm vui và loan báo cho mọi người. Người cũng muốn các ông luôn phải sẵn sàng đón người, vì Chúa đến bất cứ lúc nào, chứ không chỉ vào "giờ chết” hay "ngày tận thế” mà thôi đâu. Trong mọi giây phút tăm tối của cuộc đời, ánh sáng soi dẫn của Chúa luôn bên ta. Nhiều người mời gọi người ta ăn năn trở lại bằng cách loan báo những tai hoạ khủng khiếp: "Hãy run sọ, hãy chuẩn bị”. Còn Đức Giêsu kêu mời một cách thanh thản, thực tế. Thanh thản như bầu trời lúc bình minh đầy ánh sáng. Thực tế như trái đất sống nhờ ánh sáng. Cái nhìn thanh thản và thực tế này tạo nơi chúng ta niềm cậy trông bởi vì nó đưa chúng ta vượt qua cái chết, vượt qua trần thế này. Cái nhìn ấy cũng hướng về ánh sáng luôn đến gần bên ta. Chúng ta có phải là những người đang mong chờ ánh bình minh không? Bước vào ngượng cửa Mùa Vọng này, chúng ta có sẵn sàng nhìn ngắm và đi theo ngôi sao dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người không?
Từ “Hãy tỉnh thức” được Chúa Giêsu nhắc lại bốn lần trong Tin Mừng Maccô. Đó là lệnh: MV 1-B47
Từ “Hãy tỉnh thức” được Chúa Giêsu nhắc lại bốn lần trong Tin Mừng Maccô.
Đó là lệnh truyền Đức Giêsu, ngay trươc lúc Người lên đường. Bởi vì, trong Tin Mừng Maccô, cuộc Thụ Khổ khởi sự liền sau trang này. Lạy Chúa, Chúa nhấn mạnh, Chúa yêu cầu chúng con luôn luôn sống tỉnh thức “Tỉnh thức”. Khi sắp tới vườn Ghétsêmani. Chúa thấu biết không một môn đệ nào của Chúa đứng vững. Thế nên, Chúa cố đề phòng cho họ: Anh em phải tỉnh thức, tỉnh thức, tỉnh thức!
Lạy Chúa, xin hãy lặp lại cho chúng con lời căn dặn như thế.
“Anh em phải coi chừng”. Đức Giêsu thường sử dụng từ này trong một bối cảnh cuộc “giao chiến”. Tình thức là để giao chiên. Tỉnh thức là chú ý đặc biệt, trong trường hợp nguy hiểm. Cần phải “coi chừng” để nghe lời Chúa (Mc 4,12), nếu không ta chỉ đứng bên lề mà để cho lời Chúa vuột qua. Cần phải “ coi chừng”, để ta giữ mình khỏi “men Pharisêu”, nếu không nó thấm nhiễn vào ta mà khong hay biết (Mc 8,15-12,38). Cần phải “coi chừng”, để không tin những kẻ báo trước tương lai, như thể họ nắm vững (Mc 13,5-13).
Thánh Phaolo sẽ sử dụng một thứ ngôn ngữ bi thiết để nói về thái độ tỉnh thức. Ngài đòi hỏi “thức dậy ngay” (Rm 13,11). Chính vì chúng ta đều dễ bị đờ đẫn nên cần phải nghĩ tình trạng mê mẩn sẽ xảy đến, khi ta lạm dụng nhiều thuốc ngủ. Đúng vậy, ta phải coi chừng trước tình trạng mê ngủ của lương tâm: Phản ứng tự vệ không còn hoạt động nữa... cũng như người lái xe vì uống quá nhiều, chỉ còn biết đâm đầu vào vật chắn cản. Như thế cần phải “dứt mình” ra khỏi tình trạng mê ngủ! Hơn nữa, để nói về thái độ “tỉnh thức”. Phaolô không ngần ngại sử dụng đến từ vựng về chiến tranh: Những “vũ khí” trang bị cho thái độ tỉnh thức (Rm 13,12; Ep 6,10; 1 Tx 5,6-8).
Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay, xin hãy lặp lại cho con “phải coi chừng”. Đời sống Kitô hữu luôn là cuộc giao chiến với những quyền lực, xem ra mãnh liệt hơn chúng con. Lạy Chúa xin giữ gìn chúng con biết tỉnh thức, cho giờ Chúa xuất hiện.
Vì anh em không biết khi nào ngày giờ ấy đến...
Môn đệ của Chúa Giêsu đặt cho Ngài câu hỏi: “Bao giờ các sự việc ấy xảy ra, và khi tất cả sắp đến tận cùng thì có điềm gì báo trước?” (Mc 13,4). Đức Giêsu không trả lời câu hỏi này. Các sấm ngôn đủ loại và thuộc mọi thời đại, đã báo trước ngày thế mạt cả rồi! Ở đây, Ngài trả lời một lần dứt khoát: “Anh không biết được bao giờ”. Đức Giêsu không muốn ta mất giờ mơ tưởng về quá khứ hay tương lai. Ngài đòi hỏi chúng ta phải tập trung vào “giây phút hiện tại”, vào chính ngày Hôm nay: Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết... Anh em hãy luôn sẵn sàng.
Cha Charles de Foucault đã coi lời sau đây như châm ngôn sống: “Cố sống mỗi ngày, như thể chiều tối nay bạn sẽ chết”.
Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại giao trách nhiệm cho đầy tớ trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc...
Thiên Chúa xem ra “vắng mặt”, như thể người kia trẩy phương xa! Đây là hình ảnh đẹp, diễn tả chọn vẹn cảm tình mà ta thường nghiện thấy: Lạy Chúa, sao Chúa ở xa quá! Chúa như là kẻ hoàn toàn khác lạ! Nhưng ta nên lưu ý, đối với Đức Giêsu, thời gian vắng mặt nêu trên, trước hết không phải là thời gian bất hạnh hay âu lo, nhưng là một thời mang đầy trách nhiệm: Mỗi người đều nhận một phận vụ, một công việc. Hầu như ta có cảm tưởng rằng ông “Chủ” này cố ý đi xa, để tạo cho các đầy tớ ông, một tầm quan trọng, để họ khỏi phải lúc nào cũng ám ảnh tới ông: Nào, hãy đảm nhận lấy trách nhiệm. Các bạn đâu còn là trẻ con nữa. Hãy quyết định, hãy suy nghĩ. Tôi tin tưởng các bạn … Tôi giao cho các bạn “mọi quyền hành”! Lạy Chúa xin giúp chúng con sống xứng đáng với trách nhiệm đã được Chúa giao phó: Trong gia đình, trong phạm vi nghề nghiệp, nơi khu phố, trong đoàn thể này hay hiệp hội kia trong Giáo Hội.
Ong ra lệnh cho người giữ cửa canh thức …
Ban đêm, người giữ của có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì bổn phận của ông là phải nghiêm chỉnh “canh thức”, đề phòng để ngôi nhà khỏi bị tấn công bất ngờ, không mở cửa cho bất cứ ai nhưng lại là người đầu tiên mở cửa đón tiếp ông chủ khi ông trở về. Thánh Maccô quen đề cao vai trò của Phêrô trong nhóm Mười Hai. Khi phân biệt được người giữ của với các đầy tớ khác, Đức Giêsu muốn lưu ý rằng, các vị chủ chăn trong Giáo Hội được mời gọi một cách hết sức đặc biệt phải “tỉnh thức”: Phêrô vị Giáo Hoàng, các Giám mục là những người đầu tiên có trách nhiệm tỉnh thức đối với toàn thể dân Chúa, cũng như người giữ cửa có bổn phận chăm sóc toàn thể ngôi nhà này. Lạy Chúa, con cầu xin Chúa cho những vị đang nắm giữ vai trò đó trong Giáo Hội hôm nay.
Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến.
Đức Giêsu đã nói đến thời gian vắng mặt … Ngài cũng loan báo thời gian trở lại … Chúng ta sẽ đi tới cuộc gặp gỡ này. Một ngày kia con sẽ gặp gỡ Chúa, mặt đối mặt và con sẽ thực sự nhận biết Chúa, như Chúa biết con (1Cr 13,12). Cuộc đời Kitô hữu là một hành trình tiến tới cuộc gặp gỡ đó.
Ông chủ sẽ trở về … vào lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng.
Thật là kỳ lạ khi ta nhận thấy Đức Giêsu chi gợi lên một cuộc trở về vào lúc đêm khuya! Thế mà tại Đông phương xưa kia, vì sợ nguy hiểm trên đường đi, người ta thường không du hành vào ban đêm. Chi tiết hơi kỳ di trên đây, mang một ý nghĩa biểu tượng, Kinh Thánh thường nhắc đi nhắc lại. Đêm khuya, đó là thời gian của bóng tối, thời gian của “quyền lực tối tăm” (Lc 22,23; Mc 14,49; Ep 6,12). Do đó đêm tối cũng chính là thời gian của cám dỗ, thời gian của thử thách. Vì thế phải đặc biệt tỉnh thức lúc đêm khuya. Cựu Ước mong đợi thời của Đấng Thiên sai như giai đoạn mà bóng tối sẽ chấm dứt, để nhừng lại chỗ cho ánh sáng. Để diễn tả nỗi lòng mong ước, ngôn sứ đã cất tiếng nói: “Hỡi người canh thức, đêm còn mấy chốc nữa?” (Is 21,11). Và để tăng cường niềm hy vọng, Thánh Phaolô đã nói: “Đêm sắp tàn, ngày gấn đến” (Rm 13,12). Để loan báo Noen, vào thánh lễ nửa đêm, Giáo Hội hát lên cho chúng ta bài thơ tuyệt diệu của I-sai-a (9,1). “Dân đi trong tăm tối đa thấy bừng lên một luồng sáng lớn”. Và trong mùa vọng, ta vẫn thường ca lên: các dân tộc bước đi trong đêm dài, những ngày sắp tới … Đây là lúc hãy ngẩng đầu lên!
Hãy tỉnh thức trong đêm tối. Hãy tỉnh thức trong những khó khăn … Hãy nắm giữ hy vọng, ngay cả khi ta ở trong đêm đêm đen … Hãy đứng vững, khi mọi sự như sụp đổ. Như một bình minh mới đang xuất hiện trong đêm tối đời ta. Thiên Chúa sắp đến để cứu độ dân Người. Chính nhờ đêm tối ta dễ tin vào ánh sáng. Đề tài này Gioan Thánh Giá rút ra được một xác quyết: Thiên Chúa vẫn có đó là nguồn tín nhiệm, hiện diện mãi mãi, nhưng vẫn còn là đêm tối.
Lúc gà gáy …
Maccô, thư ký riêng của Phêrô đã đưa ra một so sánh tực tiếp. Ngay trước khi chịu khổ hình, trước lúc vào vừơn Ghét-sê-ma-ni, nơi Phêrô sẽ ngủ thay vì phải tỉnh thức trước khi bước vào đêm bi thảm mà tiếng gà sẽ nhắc cho Phêrô biết mình thiếu tỉnh thức (Mc 14,72), thì Đức Giêsu nói cho “người giữ cửa” của Giáo Hội cần phải tỉnh thức. Nhưng ta biết, ông thiếu thái độ đó. Oi! lúc gà gáy, Phêrô mới nhận ra tôi lỗi và sự chối bỏ của mình! Điều đó cho ta nhận ra rằng, Giáo Hội cũng mang tính nhân loại biết bao! Và điều đó mời gọi ta không nên thất vọng trước những yêu đuối của Giáo Hội.
Ong chủ có thể đến bất thần …
Thiên Chúa luôn đến bất thần, không ngờ, đột ngột! Hầu như có thể nói được rằng, đó là dâu hiệu của Thiên Chúa đích thực: Đấng hoàn toàn khác lạ! Mỗi lần ta tưởng mình đã xác định phạm vi của Thiên Chúa, thấu hiểu và đặt nhãn hiệu cho Người, chắc chắn là ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, đã lấy ước muốn ta làm thực tại. Lạy Chúa, xin giúp con biết mở rộng tâm trí đón nhận sự mới mẻ trong cách Chúa hiện diện. Xin giữ gìn chúng con luôn sẵn sàng trước việc Chúa đến viếng thăm cách bất ngờ.
Bắt gặp anh em đang ngủ.
Trước Thiên Chúa, ta vẫn thường mê ngủ … nên dễ sửng sốt. Cần phải thoát ra tình trạng mê ngủ thiêng liêng, lờ đờ đó. Cần phải nỗ lực tự tạo một lối sống linh hoạt, cương nghị, thay vì buông xuôi tới ù lì, mê ngủ. Lạy Chúa, xin giữ chúng con trong tình trạng tỉnh táo, luôn tỉnh thức.
Thầy nói với hết thảy mọi người là: Phải canh thức.
Đối với Đức Giêsu, sự “hiện diện” của Chúa vẫn ở đó, giữa các biến cố ta đang sống. Lạy Chúa xin giúp chúng con tỉnh thức, chú ý nhận ra sự hiện diện của Chúa. Xin giài thoát chúng con khỏi tình trạng mê ngủ, khô nhạt, dễ làm chúng con không nhận ra Chúa vẫn thường xuyên đến viếng thăm. Mùa vọng bắt đầu! Đây là thời gian “canh thức”…
Trong bài Tin mừng hôm nay, có một dụ ngôn ngắn, nói về người chủ nhà có nhiều đầy tớ: MV 1-B48
Trong bài Tin mừng hôm nay, có một dụ ngôn ngắn, nói về người chủ nhà có nhiều đầy tớ. Một lần kia, trước khi trẩy đi phương xa, ông gọi họ lại và trao cho mỗi người một việc. Ông hối thúc họ phải giữ trách nhiệm bằng cách nói với họ “Khi tôi trở về, tôi muốn rằng anh em phải tỉnh thức”. Ông ta ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức đặc biệt.
Câu chuyện của Đức Kitô chấm dứt ở đó, với lời cảnh báo vang lên ở tai chúng ta. Chúng ta hãy xem xét đôi chút, bằng cách tập trung vào người giữ cửa. Có lẽ sự nguy hiểm lớn nhất trước mặt anh ta không quá nhiều, đến nỗi anh có thể ngủ ngay trong giờ làm việc, cho bằng vì anh ta có thể càng ngày càng quen thuộc đối với công việc đó.
Lúc đầu, anh ta hoàn toàn phấn khởi với công việc này. Anh cảm thấy hãnh diện vì được chủ tin tưởng nơi anh nhiều đến thế. Anh thích bộ đồng phục. Khi mặc bộ quần áo này, anh cảm thấy mình trở thành một con người khác hẳn. Anh ý thức rằng mình phải rất cẩn thận. Đối với anh, đó không phải là một việc quá nặng nề, cho bằng đó là một công việc của lòng quí mến.
Nhưng thời gian trôi qua, có thể công việc mở cửa và đóng cửa trở nên nhàm chán, cảm giác mới lạ bị hao mòn. Lớp bụi của thói quen tích lũy trên con người và trên thế giới của anh một cách từ từ nhưng chắc chắn, thay vào đó, là một công việc chán chết. Anh vẫn còn có tinh thần trách nhiệm, vẫn còn liên tục giữ vị trí của mình. Nhưng anh chỉ thuần túy coi đó là công việc mà thôi. Lòng quí mến và cảm hứng ban đầu đã bay đi hết. Anh không còn đặt cả tâm hồn mình vào công việc nữa. Khi ông chủ trở về, chắc chắn ông sẽ nhìn thấy anh ta đang làm việc. Anh ta sẽ tỉnh thức, nhưng anh không còn sống động nữa. Anh sẽ bị tê liệt, bởi vì anh đã đánh mất tâm hồn của mình rồi.
Thói quen bóp chết chúng ta một cách từ từ, và sau cùng tiêu diệt tất cả mọi sự sống. Chúng ta bị chìm ngập trong những lối mòn của truyền thống và sự tùng phục. Chúng ta quên đi rằng mình đã từng có những giấc mơ. Chúng ta cứ ngồi yên một chỗ, trong khi thực hành những thói quen cũ kỹ và không có hiệu quả, rồi phê phán tất cả mọi sự và tất cả mọi người.
Những gì xảy đến cho đời sống bình thường, thì cũng xảy đến cho đời sống kitô hữu của chúng ta. Chúng ta có thể đi vào một lối sống hằng ngày nhàm chán, hậu quả là chúng ta chỉ là những Kitô hữu theo thói quen. Chúng ta chỉ thuần túy coi đó là công việc mà thôi. Chúng ta đang tham gia vào những lễ nghi phụng vụ đã bị mất đi tất cả ý nghĩa và nét tươi mát. Chúng ta không còn biết lắng nghe Tin mừng nữa. Lời Chúa chỉ đi vào tai này rồi trôi qua tai kia. Dưới cái nhìn của chúng ta, gương mặt của Đức Kitô đã bị tiêu tan.
Vậy chúng ta phải có giải pháp nào? Đôi khi, chúng ta cần được xáo động lên. Đó là khi Mùa vọng đến. Mùa vọng đưa ra một lời mời gọi “Tỉnh thức” mạnh mẽ đối với chúng ta, cung cấp cho chúng ta một cơ hội để rũ bỏ lớp bụi của thói quen, và một lần nữa, để cho Đức Kitô sống động trong đời sống của chúng ta.
Chúa đang đến. Người sẽ đến với chúng ta vào giờ chết, và đến với thế giới vào thời sau hết. Chúng ta không biết Người đến vào ngày nào hoặc giờ nào. Bất cứ thời điểm nào đều cũng không phù hợp đối với người đầy tớ không trung tín. Nhưng bất cứ thời điểm nào đều cũng phù hợp với người đầy tớ tín trung. Người đầy tớ trung tín không e sợ Chúa đến: Họ sẵn sàng tiếp đón ngày đó.
Chúng ta phải luôn sẵn sàng. Bằng cách nào? Bằng cách trở thành những người đầy tớ sống động, cảnh giác và có tinh thần trách nhiệm của Chúa và của nhau.
Hãy tỉnh thức ! Hãy tỉnh thức ! …Hãy tỉnh thức nào…Hãy tỉnh thức ! ». Bốn lần,Chúa Giêsu đưa ra cũng: MV 1-B49
« Hãy tỉnh thức ! Hãy tỉnh thức ! …Hãy tỉnh thức nào…Hãy tỉnh thức ! ». Bốn lần,Chúa Giêsu đưa ra cũng một lời nhắc nhủ nầy cho các môn đệ mọi lứa tuổi và mọi quốc gia.
Chúng ta vừa kết thúc chu kỳ Thánh Mát-thêu về các dụ ngôn cảnh giác. Hôm nay, chúng ta mở ra chu kỳ Thánh Mac-cô cũng về chủ đề nầy. Những dụ ngôn thứ nhất gợi cho chúng ta về việc chờ đợi chú r6ẽ và thời gian vắng mặt lâu dài của Ông Chủ đang trẩi đi phương xa, sau khi đã giao cho các tôi tớ nhiều nén bạc, một tài sản được ươc lượng hàng triệu đô la. Trong Thánh Mác-cô, các tôi tớ còn nhận được vô cùng nhiều hơn: quyền binh của chính Chúa Giêsu và quyền năng Thiên Chúa của Người để lập lại Nước Chúa.
Với việc mở ra năm phụng vụ mới, chúng ta lấy lại diễn từ ở nơi mà chúng ta đã bỏ lại nó trong Thánh Mát-thêu, chính nagy trước bài tường thuật dài về Cuộc Khổ Nạn. Những Lời Chúa Giêsu nói với tất cả các môn đệ: Ông Chủ sẽ trở về, không ai biết vào giờ nào ngày nào. Phải lanh lẹ chủ động và cảnh giác: »Hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết được khi nào chủ nhà sẽ trở về buổi tối hoăc ban đêm, khi gà gáy hoặc ban sáng ». Hãy quan sát rằng Ông Chủ sẽ về giữa đêm,như Chúa Kitô vào buổi sáng Phục Sinh, để ghi dấu chiến thắng của Người trên bóng tối.
Vế phía mình,Israel mô tả một đêm mùa thu: « Chúng tôi hết thảy đều khô héo như những chiếc lá và tội ác chúng tôi phạm, như là gió, mang chúng tôi đi. Không người nào cầu khẩn Danh Người ; không ai thức dậy để đến với Người ».
Ngay Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, Thánh Phaolô đã nói trước thời hạn cuộc hành trình: « Các con không thiếu ơn thiêng liêng nào hết, với các con là những kẻ đang chờ đợi được thấy Chúa Giêsu Kitô tỏ hiện ». Những năm trôi qua nhắc cho chúng ta rằn cuộc sống hiên tại tạm bợ biết bao: đây là một thời kỳ chuẩn bị đầy hy vọng. Vì sự chết, giống như kết thúc một năm, không pảhi là một kết thúc, mà là một hơi thở mới, một cánh cửa mở ra cho đời sống vĩnh cửu của chúng ta, điểm sáng rực chiếu rọi chuỗi liên tiếp đêm dài của chúng ta, của các năm tháng và mùa vụ của chúng ta.
Nhưng còn hơn là nhấn mạnh tính chất mỏng dòn của hữu thể, Phúc Âm theo Thánh Mác-cô còn thu hút chúng ta vài xây dựng Vương Quốc của Chúa. Thẩm quyền và quyền lực được ban cho các tôi tớ là một dấu chỉ cho thấy Đức Chúa đã đến gần kề !
Có lẽ do Mùa Vọng khởi đầu vào những ngày cuối thu tàn, cho nên dễ làm liên tưởng tới bài thơ: MV 1-B50
Có lẽ do Mùa Vọng khởi đầu vào những ngày cuối thu tàn, cho nên dễ làm liên tưởng tới bài thơ “Ngày khai trường” bất hủ của Thanh Tịnh: “Hằng năm cứ vào cuối thu,là ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc,lòng tôi lại nao nức kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường”. Rồi lại nhớ đến bộ phim tài liệu nổi tiếng của điện ảnh Pháp “Đàn chim di trú” (Le Peuple Migrateur – Winged Migration), một bộ phim ngập tràn hình ảnh những cánh chim di trú từ phương Bắc lạnh lẽo về phương Nam ấm áp, với những cảnh đẹp đến nao lòng của mọi vùng mọi miền trên trái đất xinh đẹp này, được những tay máy lão luyện khắp thế giới ghi lại. Xem Đàn chim di trú, ta như muốn thành một cánh chim bé nhỏ trong đàn chim to lớn ấy để được bay - bay đi tìm tình yêu đầy ấm áp của thiên nhiên. Nhạc phim “To be by your side” (Được ở bên em) làm cho bộ phim không còn giống một phim tài liệu nữa, mà như một chuyện tình buồn. Bây giờ tháng mấy rồi? Mùa Vọng nhắc nhở mỗi Kitô-hữu “di trú”, rời khỏi miền tội lỗi lạnh lẽo, có nguy cơ gây chết chóc vì giá rét và vì thiếu lương thực. Đây không chỉ là tiếng gọi của bản năng như ở các loài chim, không phải cuộn mình ngủ đông như loài gấu bắc cực, mà di trú về miền nắng ấm Tình Yêu Thiên Chúa, cùng với Giáo Hội.
Rất nhiều nến sáng lãng mạn, ấm áp trong sách báo, trong phim ảnh,dùng để dàn những cảnh đẹp hoặc để tượng trưng những mối tình nồng nàn hay là giới thiệu những nhân vật, những nghệ sĩ tài năng như phim tài liệu “36 Chandelles” năm 1957 của Pháp hoặc bộ phim Việt-Nam dài 45 tập “Ngọn Nến Hoàng Cung”năm 2004. Nhiều nến sáng, đủ màu mè như thế, cũng chỉ là những trang trí, cũng chỉ là những hình ảnh, không dẫn con người tới mục đích cao cả nào khác hơn. Trong mấy tháng qua, ở Hà Nội, ở nhiều giáo xứ miền Bắc (Tổng giáo phận Hà Nội) và một vài giáo xứ miền Trung, miền Nam (Tổng giáo phận Huế và Tổng giáo phận Sàigòn), kẻ được thấy tận mắt (hoặc tham dự vào), người được nhìn qua hình chụp, những vùng rộng lớn rực sáng lung linh ánh nến, thắp lên như muốn xua đi, phá tan bóng đêm còn dầy đặc bao phủ “Công Lý và Hoà Bình”.
Vẫn là những ngọn nến, được thắp lên, nhưng không phải để tạo nên một cảnh đẹp, không phải để biểu dương lực lượng, mà để chia cho nhau, truyền cho nhau ngọn lửa chân lý mà mọi tấm lòng hướng về và ước ao cầu xin: công lý và hoà bình. Những ánh nến không còn “câm”nữa, mà nói lên sự “tỉnh thức và sẵn sàng”, với niềm tin được khẳng định, rằng công lý và hoà bình sẽ được thực thi. Ở trong một thế giới đầy dẫy hận thù,bạo lực từ đủ nguyên do, nhưng trên hết là lòng tham, sự vô đạo, chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa hưởng thụ ích kỷ, ở trong một đất nước khắp nơi chỉ thấy gian dối, sa đoạ, bất công và lạm dụng quyền bính thế lực trong hành xử, thì công lý và hoà bình như là những mơ ước thần thoại và ở một số người thì đó chỉ là câu chuyện và ước mơ hoang đường!
Công Lý và Hoà Bình là những món quà Thiên Chúa ban, nhưng con người với tội bất tuân đã phá vỡ thế quân bằng vốn rất mong manh. Mọi người đều có tự do như nhau, mọi người đều có quyền hưởng thụ như nhau, về vật chất, về tinh thần, về tình yêu, về hạnh phúc bây giờ và mãi mãi, nhưng do ích kỷ, kiêu căng, tham vọng thống trị, con người đã tìm mọi cách làm cho cán cân có lợi nghiêng về phía mình, bất kể lương tâm, không sá gì đến Lời Chúa. Nay con người phải xét mình, đấm ngực ăn năn (đấm ngục mình, không đấm ngực người khác) và dùng thời gian Chúa ban trong cuộc sống như một Mùa Vọng, mà “tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!" (Lc 21,36).
Đây là sự khác biệt giữa những ngọn nến chỉ có chức năng trang trí và những ngọn nến hiệp nhất trí lòng những con người khát khao Công Lý và Hoà Bình. Ngọn nến thắp sáng tham vọng, hận thù, ích kỷ có thể bùng cháy rực rỡ, nhưng là để tự thiêu đốt mình và chóng lụi tàn. Ngọn nến hiệp nhất trong một đức tin và một tình yêu phải khó nhọc gian nan mới nhen nhúm và bén cháy được, nhưng sẽ không có sức mạnh gì làm cho tắt được nữa. Ngọn nến đó xuất phát từ Chúa Kitô – Ánh Sáng – và đến lượt nó sẽ là ánh sáng để soi cho mọi người. Con người - những con người - Hội Thánh - phải luôn tỉnh thưc và sẵn sàng để giữ cho ngọn nến cháy sáng mãi.
Jacques Cluzaud, đồng đạo diễn bộ phim Le Peuple Migrateur (Đàn Chim Di Trú) diễn tả cảm nhận của ông về sự di trú nầy: “Đó là cả một quá trình khó khăn. Bay tìm nơi di trú không phải là một chuyến bay nhàn hạ từ nơi này sang nơi khác, mà là cả một vấn đề sinh tồn đối với chúng!". Cuộc sống của mỗi Kitô-hữu luôn cảnh giác, luôn xét mình. Luôn tỉnh thức và luôn sẵn sàng để không tự mãn và ngủ quên trong ấm áp tinh thần và vật chất, mà quên đi hiểm nguy những ngày tháng đông dài đe doạ đên sự sống. Nếu bản năng duy nhất đúng nghĩa ở con người là bú, nếu bản năng của loài chim hay muông thú là “đến hẹn lại lên”, đi tìm miền năng ấm hứa hẹn an bình và no đủ, dù phải trải qua những chặng được rất dài rất xa,gần như vô định, thì bản năng của người đã nhận bí tích Thánh Tẩy là tìm về với Thiên Chúa.
Để đạt tới đích, không chỉ phải hy sinh gian khổ - thậm chí có thể mất mạng sống - mà phải luôn “tỉnh thức và sẵn sàng”. Người Kitô-hữu không phải thỉnh thoảng sực nhớ và hỏi “bây giờ tháng mấy rồi”, máy móc chờ đến Mùa Vọng mới tìm lại “cảm giác” tỉnh thức, mà phải sống tinh thần “cảnh giác”, “sẵn sàng”, cả ở thế thủ lẫn thế công, để tiến vào hành trình tìm về bên Chúa, về miền nắng ấm Tình Yêu. Những ngày nầy ở miến Nam Châu Úc các đợt tuyết trái mùa rơi phủ chẳng khác mùa đông, nhưng ai cũng biết là mùa hè đang đến và sẽ là những ngày hạ oi ả ngột ngạt, trong khi khí hậu Bắc bán cầu đang hạ thấp mau chóng, hứa hẹn có những vùng miền sẽ đông lạnh ở hàng nhiều chục độ âm. Những đàn chim di trú bay về miền năng ấm bán cầu nam, để rồi sau một thời gian nữa, lại tiếp tục cuộc di cư, tìm ánh sáng, tìm sức nóng, tìm sự sống. Quy trình nầy tiếp diễn mãi suốt đời chúng. Quy trình “tỉnh thức và sẵn sàng” cũng không được khinh súât, ngơi nghỉ trong đời sống đức tin một Kitô-hữu. Hội Thánh luôn trong tư thế “di trú”. Kitô-hữu cũng phải luôn sẵn sàng để nhập đàn, không thể do dự, không được chậm trễ, không thể thoái thác, nếu vẫn muốn tồn tại. Vì thế, tỉnh thức thôi, chưa đủ, mà phải luôn sẵn sàng, để xuất phát ngay khi có hiệu lệnh.
Trong khi nghiên cứu chim di trú, người ta thấy chim luôn giữ đội hình chữ “V”: tuyệt nhiên không phải tình cờ, mà với cách bay như thế không chỉ sẽ bớt lực cản, mà còn tạo lực kéo cho những con bay ở giữa và ở cuối đội hình, thường là những con kém sức hơn do còn non hoặc do ốm yếu. Cả đội hình sẵn sàng sà xuống, đậu lại để nâng đỡ những con bị đuối. Đó là hình ảnh về Hội Thánh Công Giáo trong cuộc lữ hành về Nước Trời, với đầy đủ các Bí Tích bổi bổ,chữa lành, đỡ nâng, giúp mỗi con cái trên hành trình lâu dài và tới đích bình yên.. Đó cũng là lời hướng dẫn, nhắc nhở, cảnh cáo mỗi Kitô-hữu, để luôn hiệp nhất và đồng tâm nhất trí trên con đường tiên về quê hương trên trời. Ai cũng biết chữ “V” chỉ “chiến thắng”. Có chiến thằng nào dễ dàng đâu!