Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật MV2-B Bài 101-150 Hãy Dọn Đường Chúa cho ngay thẳng
---------------------------------- Phúc Âm: Mc 1, 1-8
“Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng”. Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khởi đầu Phúc Âm của Ðức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Như có lời Tiên tri Isaia chép rằng: Ðây Ta sai Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi. Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan. Lúc đó Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Người rao giảng rằng: “Ðấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần”. - Ðó là lời Chúa
Mùa vọng luôn mời gọi: hãy dọn đường cho Chúa – hãy sửa lối cho thẳng để Chúa ngự đến. Hành vi dọn đường và sửa lối cho thẳng được thánh Gioan tiền hô mời gọi là hãy “Sám Hối”. Sám hối bao gồm nhận biết tội mình, hối tiếc vì đã phạm tội, và trông cậy vào ơn Chúa giúp mình chừa bỏ nó. Thiếu một trong ba yếu tố đó thì việc sám hối xem ra chưa trọn vẹn. Giuđa biết tội, hối tiếc vì tội đã làm nhưng ông thiếu niềm tin tưởng cậy trông vào sự tha thứ của Chúa, nên ông đã treo cổ tự vẫn. Thánh Phêrô cũng biết tội, cũng hối tiếc tội, nhưng thánh nhân còn trông cậy vào ơn Chúa nên đã trở lại với tình thương của Ngài.
Chúng ta thử nhìn lại lối đường của chúng ta là thẳng ngay hay quanh co để sám hối những lối đường lầm lỗi của mình. Chúng ta có khúc quanh co, lồi lõm nào cần uốn nắn, sửa đổi. Lối mòn của chúng ta đang đi là nhân đức hay tội lỗi thành thói quen không thể sửa? Nhìn lại con đường chúng ta đang đi để uốn nắn sửa đổi cho phù hợp với tin mừng của Chúa.
Trước tiên chúng ta cùng nhìn vào thế giới hôm nay, một thế giới có quá nhiều những lối mòn sai lầm nhưng người ta cố tình không nhìn nhận và không chịu sửa đổi như gian dối trong mọi lãnh vực: thông tin, giáo dục, thương trường. Tình trạng đó dẫn đến sự phá sản khắp nơi và trong mọi lãnh vực từ vật chất đến tinh thần.
Thực vậy, trong những năm gần đây, người ta thường hay xôn xao về những vụ phá sản, bể nợ, thua lỗ và mất khả năng chi trả của rất nhiều công ty xí nghiệp. Song song với những phá sản về tài chính, chúng ta cũng chứng kiến những phá sản về đạo đức và tinh thần. Khủng bố, chiến tranh, bắt cóc, giết người, các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng: xì ke, ma tuý, mại dâm. Mỗi ngày xem tivi chúng ta lại đau buồn khi thấy biết bao người đã chết do chiến tranh, khủng bố, cướp bóc, đói nghèo, bệnh tật. Ở Việt Nam còn có một vụ phá sản về tình người, ngay giữa gia đình vẫn không có tình yêu chân thành. Cụ thể: mỗi ngày hơn 1 người tự tử vì thiếu tình yêu từ gia đình. Vợ chồng thiếu chung thuỷ vơi nhau. Con cái thiếu tin tưởng nơi cha mẹ. Anh em lừa dối nhau.
Trước sự phá sản về đạo đức, về giá trị làm người, Đức Piô X đã nói một cách xót xa: “Con người hôm nay đã đánh mất ý thức về tội”. Nghĩa là họ không còn sống theo lẽ phải, họ cố tình làm ngơ trước tiếng cảnh tỉnh của lương tâm, họ quá quen với khuynh hướng tuyệt đối về tự do nên họ không còn thấy những điều gì là cấm. Họ muốn, họ thích và họ làm mà không cần suy xét có hợp với luân thường đạo lý hay không?
Có lẽ đây là lúc phải trực diện với một trong những chủ đề then chốt nhất của mầu nhiệm cứu độ: vấn đề sự dữ, tức là tội. Tại sao sự dữ vẫn hoành hành, tỗi lỗi vẫn tràn lan? Đâu là nguyên nhân đưa đến sự xấu hiện diện trong thế giới hôm nay?
Trước tiên cũng nên nhớ lại: tội là toàn bộ những hành vi ác hại, sai quấy, mất trật tự của con người; đó là hành động ác hại làm đổ máu hoặc xúc phạm đến danh dự, là trộm cướp, vu khống, phẫn nộ, lười biếng, là kiêu căng chà đạp người khác, là đam mê nhục dục, v.v.. . mà truyền thống gọi là bảy mối tội đầu. Như vậy nguồn gốc sự dữ hệ tại ở chính lòng người. Chính lòng dạ con người là nguyên nhân dẫn đến những sự dữ ở trần gian.
Căn nguyên của tội chính là con người đã dùng sai sự tự do. Sự tự do đích thực là tự do hướng về sự thiện, là điều khiển hành vi nhân linh của con người theo lề luật tự nhiên, theo những quy tắc của luân thường đạo lý, hay nói cách khác chính là biết sử dụng tự do để điều khiển hành vi của mình theo lẽ phải. Nhiều người lầm tưởng rằng, tự do là muốn làm gì thì làm, nhưng thực ra họ đã đánh mất tự do khi buông mình theo những đam mê thấp hèn, những thói hư tật xấu. Họ bị lệ thuộc vào đam mê nghĩa là họ mất tự do đích thực. Họ trở thành nô lệ của những thói hư tật xấu mà các nhà luân lý gọi là nô lệ tội lội. Adam tưởng đã sử dụng tự do theo ý mình nhưng thực ra ông đã đánh mất tự do khi không chế ngự được bản tính kiêu căng của mình. Cain đã đánh mất tự do khi để sự ghen tương làm chủ dẫn đến án mạng mà hậu quả là cả đời trốn chạy, bất an và lo sợ. Con người ngày hôm nay tưởng rằng mình có khả năng làm ra vật chất và tận hưởng theo ý mình, nhưng thực ra họ đã để mình lệ thuộc vào những tiện nghi vật chất, trở thành nô lệ cho vật chất một cách mù quáng đến độ, số tiền làm ra chỉ đủ để trang trải cho những tiện nghi, những trò vui chơi giải trí. Rốt cuộc vẫn cảm thấy thiếu thốn vì chẳng bao giờ con người thỏa mãn những nhu cầu vật chất tầm thường.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần xét lại con đường chúng ta đang đi có phải là con đường quanh co, thiếu chân thành với nhau, thế nên, vẫn còn đó sự gian dối, thiếu cởi mở, với nhau không? Con đường chúng ta vẫn còn đó khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm nên hành động hồ đồ và làn thương tổn đến tha nhân. Con đường chúng ta đang đi là con đường gồ ghề bởi những lời nói thiếu suy nghĩ, thiếu bác ái, thiếu xây dựng, luôn chỉ trích nặng lời với nhau, dẫn đến một đời sống thiếu hoà nhã với mọi người, thiếu khiêm tốn nên luôn bẳn gắt, luôn khó chịu về người khác một cách vô cớ, đôi khi nóng giận một cách hồ đồ mà không có nguyên do. Con đường chúng ta vẫn còn những thung lũng của những tư tưởng lỗi đức trong sạch, những ước muốn lầm lạc, luôn làm chúng ta quyến luyến các tạo vật mà xa lìa Chúa, vẫn còn đó những hố sâu của chia rẽ, hận thù, luôn gây ra bất hoà, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ với nhau. Con đường chúng ta đang đi, vẫn còn đó những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn đề cao mình quá đáng đến coi khinh anh em, không bao giờ chịu thua kém người khác.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Vì thế mùa vọng, là thời gian mời gọi chúng ta hãy sửa chữa lại con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa đến. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những sự trống vắng Thiên Chúa nơi tâm hồn bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá và giả hình. Hãy san bằng những nghi kỵ, ganh ghét, bất hoà. Hãy san bằng những lượn sóng gồ ghề nói hành, nói xấu nhau nhưng hãy luôn nói tốt, nghĩ tốt về nhau.
Đó là cách duy nhất để dọn lòng Chúa đến, để Chúa giáng sinh mang lại niềm vui cho tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, xin hãy cất khỏi chúng con tất cả những gì làm cho chúng con xa lìa Chúa, và xin ban cho tâm tình thống hối ăn năn để sửa đổi con người theo tinh thần phúc âm của Chúa. Amen
Việc chuẩn bị đón chờ Chúa đến đã được ghi khắc trong lịch sử nhân loại. Lịch sử của tình thương và đầy lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita kêu gọi chúng ta: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng". Thiên Chúa vĩ đại và quyền năng đã hạ mình xuống với con người, đến với chúng ta dưới hình hài một trẻ thơ nghèo, kêu mời chúng ta khiêm tốn đến gặp Người. Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề : Populus Sion ... (Này hỡi Dân Sion…) Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy... " (Ca nhập lễ). " Lạy Mục Tử nhà Israel, xin hãy đến cứu độ đoàn chiên Ngài… ... như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe ! ... " (Tv 79, 2)
Trong bài đọc I, tiên tri Isaia vang lên lời Chúa phán với Dân Ngài như một sự trấn an trước cảnh nô lệ và tội lỗi : "Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm! …Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi" (Is 40, 2). Và hơn thế nữa, Chúa truyền cho Isaia : "Hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Đây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực; cánh tay Người sẽ thống trị. Người mang theo những phần thưởng chiến thắng và đưa đi trước những chiến lợi phẩm. Người chăn dắt đoàn chiên Người như mục tử. Người ẵm chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ" (Is 40, 9-11).
Để được như vậy Dân Chúa phải thực hành không trì hoãn khi nghe thấy tiếng kêu trong hoang địa : "Hãy dọn đường Chúa ... Hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi " (Is 40, 3).
Hố sâu và đồi núi gồ ghề sẽ gây cản trở người đi lại, khiến người ta khó đến với nhau. Lấp hố sâu và bạt núi đồi là dẹp bỏ lòng tự mãn kiêu căng của chính mình, là cản trở lớn nhất trên đường Chúa đến với chúng ta. Khi chúng ta thực hành nét đẹp của khiêm nhường và hạ mình xuống, chúng ta sẽ khám phá ra sự kiêu ngạo ẩn sâu trong lòng ta. " Hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng" (Is 40, 3). Như Gioan nói : "Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng " (Mc 1).
Gioan Tẩy Giả được Marcô (1, 2-8) trình bầy như vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, ví ông như " Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi " (Mc 1,2; Ml 3,1) từ trong hoang địa, cất lời rao giảng "phép rửa sám hối cầu ơn tha tội" (Mc 1, 4). Lời giảng tuy nghiêm nghị nhưng thu hút "cả miền Giuđêa và Giêrusalem" (Mc 1, 5). Gioan đã xuất hiện với những người đương thời như là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Rất ít người nhận ra sứ vụ đích thực của ông là để " dọn đường cho Chúa đến".
Gioan xuất hiện như Tiếng kêu trong hoang địa, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú. Ông không kêu gọi người ta trở nên nhà khổ tu giống như ông. Ông rao giảng rằng : "Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi … Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần" (Mc 1, 7.8). Lời của Gioan vẫn vang dội qua các thời đại và như một sứ điệp cấp bách gửi đến với chúng ta ngày hôm nay. Kêu mời thay đổi nội tâm, bắt đầu từ việc thừa nhận và xưng thú tội lỗi của mình. Kết quả là : "Cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan" (Mc 1, 5).
Mùa Vọng năm nay, chúng ta đang sống như thế nào, nếu không phải là chuẩn bị tâm hồn, giục lòng tin, cử hành Phụng vụ cho sốt sáng để lãnh nhận ân sủng mà Chúa Kitô đã mang đến trong thế gian cho mọi người hưởng nhờ. Năm nay là năm Tân Phúc Âm hoá đời sống gia đình. Năm 2015 sắp tới là năm Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mời gọi chúng ta Phúc Âm hoá đời sống cộng đoàn giáo xứ và cộng đoàn thánh hiến. Vậy giờ đây, có thể nói là bốn tuần của Mùa Vọng là như "tiền đường" để bước tiếp vào những ngày thánh. Chúng ta hãy chuẩn bị tinh thần bằng lời cầu nguyện, sẳn sàng tiếp đón Ðấng Cứu Thế ngự đến!
Hãy thay đổi cung cách suy nghĩ hành xử và sống thanh đạm "Vì nước trời gần đến". Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng : Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát ; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.
Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Trích "Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng", § 39, 1-3.
Đừng sợ sống hy vọng. Trong thế giới đầy bất ổn và bạo lực này, ước gì Mùa Vọng và việc chờ đón "Hoàng Tử Bình An" đến, cho chúng ta dịp suy gẫm Lời Chúa. Hãy tránh ngủ quên, và cương quyết dọn đường cho Chúa, là nguồn mạch bình an, niềm vui, tình yêu và hy vọng, là Ðấng không ngừng đến để an ủi dân Người. Chúng ta hãy đặt tay ta vào tay Mẹ Maria, Trinh Nữ của sự chờ đợi, để Mẹ dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa Giêsu Con Mẹ. Amen.
Để chuẩn bị cho Con của Thiên Chúa đến trần gian, Thiên Chúa đã dùng nhiều sứ giả đi trước dọn đường cho Chúa Giêsu. Nổi bật nhất trong các sứ giả Tin Mừng là Ông Gioan Tẩy Giả. Thánh Gioan là cầu nối để Chúa Giêsu đến gặp dân Ngài và dân Ngài gặp được Ngài qua lời giới thiệu của Gioan.
Đọc lại Tin Mừng, chúng ta nhận ra con người của Gioan Tẩy Giả. Ông là vị tiền hô của Chúa Cứu Thế. Cuộc đời của Gioan Tẩy Giả là một cuộc đời rất kham khổ, đầy hy sinh. Quần áo của Người chỉ là áo lông lạc đà khoác trên mình để che thân. Người mặc loại áo mà các ngôn sứ xưa vì hãm mình, khổ hạnh đã khoác lên mình để tránh gió, tránh nắng, tránh lạnh, ngang lưng Người thắt một giây da thú cho gọn ghẽ. Thức ăn chỉ là châu chấu và mật ong rừng. Người ta có cảm tưởng thánh Gioan như một người rừng. Thánh nhân ăn mặc như thế và đi khắp các vùng Giuđê, Galilê và quanh sông Gio-đan để giảng đạo. Và bởi vì mùa màng của dân chúng các vùng đó vừa mới thu hoạch xong, vụ mùa mới chưa bắt đầu. Chính vì thế, dân chúng kéo đến để nghe Gioan rao giảng rất đông ngoài sức tưởng tượng của con người. Người ta cho biết, khi nghe tin Gioan giảng đạo, nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như đời đã sai đệ tử, thuộc hạ của họ đến hỏi xem Gioan là ai ? Thánh Gioan không trả lời trực tiếp những câu hỏi của họ nhưng Người chỉ mượn lời ngôn sứ Isaia để đáp lại những vấn nạn của họ:” Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, có sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế “. Thánh Gioan làm phép rửa và kêu gọi người ta ăn năn sám hối, thay đổi đời sống để đón chờ Đấng Cứu Thế :” Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng “.Thánh Gioan Tẩy Giả có một uy tín rất lớn khiến mọi người sẵn sàng nghe theo lời của thánh nhân giảng dạy và hết mọi hạng người đến gặp Ngài để xin Ngài chỉ dạy cách sống .Tiếp theo lời giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ Isaia trong bài đọc I hôm nay cũng loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ tội lỗi, đồng thời Ngài ban ơn bình an và đối xử với dân như người mục tử tốt lành đến cho chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ). Còn thánh Phêrô khuyên nhủ con người hãy tỉnh thức vì ngày Chúa đến bất thình lình như kẻ trộm, nên để đón ngáy Chúa đến kẻ có tội phải ăn năn sám hối, thay đổi đời sống, kẻ lành phải tiếp tục ăn ở thánh thiện và đạo đức.
Lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả :” Hãy ăn năn sám hối “ phải chăng đã lỗi thời, đã trở nên nhàm chán ? Phải chăng lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả :” Hãy dọn đường cho ngay thẳng “ không còn hợp thời nữa ? Con người, loài người vì là loài thụ tạo vốn yếu đuối, con người vẫn còn ham mê danh vọng, ham mê xác thịt, ham của ham tiền, con người vẫn còn tính kiêu căng, ngạo mạn, vẫn còn tính ích kỷ, lười biếng, cầu toàn, bất công, tham lam. Cho nên, bao lâu con người còn mang trong người tham, sân, si thì vẫn cần những lời rao giảng, những lời khuyên để sửa đổi, để tu thân tích đức . Bao lâu con người còn tội lỗi, còn yếu đuối, bấy lâu con người cần được đổi mới, cần được thay đổi và như thế lời kêu mời của Gioan Tẩy Giả vẫn mãi mãi cần thiết, không bao giờ nhàm chán, không bao giờ lỗi thời vv…
Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta xét mình, giúp chúng ta suy nghĩ lại lối sống, cách ăn nết ở của chúng ta. Mùa vọng đặt chúng ta trước lời mời gọi khẩn thiết của Gioan Tẩy Giả :” Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta cải thiện đời sống, giúp chúng ta suy nghĩ, sống theo ý Chúa và tránh những gì trái lương tâm và con đường đạo đức của chúng ta. Vâng, đời sống con người chỉ là tạm bợ. Thế gian rồi cũng mau qua. Con người một lúc nào đó rồi cũng ra đi nhưng các Kitô hữu, đời sống chỉ thay đổi chứ không mất đi (Kinh tiền tụng I lễ cầu cho các linh hồn ). Chính vì thế, để chờ Chúa đến, người môn đệ của Chúa luôn phải sẵn sàng tỉnh thức, sám hối và quay trở về với Chúa, với anh em và một khi người môn đệ Chúa sống trong tình thương, hiệp nhất, hòa hợp, sống trong ân sủng là họ đã gặp được Chúa. Do đó, lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả :” Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa lối cho thẳng để Người đi “ luôn vẫn còn khẩn thiết và mãi mãi quan trọng cho mỗi người.
Xin mượn lời của Đức Cha Raymond Bouchex để kết luận bài chia sẻ này :” …Trong Mùa Vọng, thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta trở nên đoàn “ dân đang trông đợi “.Nơi chúng ta, có rất nhiều nỡi trông chờ: trông được hạnh phúc, được viếng thăm, được khỏe mạnh, có việc làm, những điều kiện sống khá hơn, hòa hợp và yêu thương trong gia đình, được an toàn, bình an, trọng vọng, và những gì nữa tôi không biết. Xã hội đốc thúc chúng ta cứ phải đi nhanh hơn mãi, phải có liền những gì mình muốn.Đồng thời, chúng lại buộc phải đợi chờ luôn: chờ đến phiên mình ở những quầy tính tiền trong các siêu thị lớn, nơi bưu điện, ở trạm xe buýt, trong phòng chờ bác sĩ khám bệnh hay phòng cấp cứu, trên đường giao thông…Chúng ta không còn biết chờ nữa.Chờ đợi đã mất ý nghĩa của nó.Bởi vì, chờ đợi tức là trông cậy, ước mong cái làm cho mình được thỏa lòng và cái chúng ta cần có. Là vươn tới một điều gì đó hay là một ai đó “.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.Amen.
"Hãy dọn đường ngay thẳng để đón Chúa." (Mark 1:3) Trong cuốn tiểu thuyết Quo Vadis (Anh đi đâu?) kể chuyện tình yêu của một người ngoại đạo và một cô công gíao. Trong thời người Rôma bá chủ hoàn cầu, Kitô giáo bị bắt bớ. Các tông đồ phải ẩn trốn và Kitô hữu không được tụ họp để tham dự lễ Chúa Nhật cách công khai. Tuy vậy, người công gíáo vẫn biết tìm đến các vị chủ chăn và âm thầm báo cho nhau biết ngày giờ và địa điểm đến tham dự thánh lễ. Họ cũng tìm dịp học giáo lý để củng cố đức tin. Nhờ vậy mà trong tâm hồn, họ tràn đầy niềm vui, ngoài xã hội họ nhập cuộc cách tốt đẹp. Nhìn thấy trên khuôn mặt người công gíao có xuất hiện nét đẹp siêu nhiên và hạnh phúc, một chàng thanh niên ngoại đạo tên là Vinicius tìm yêu một cô gái công gíao. Khi tình yêu đã đậm, chàng cầu hôn để cưới cô.
Cô gái khuyên rằng đời sống hôn nhân của người công gíao có hướng đi cao thượng. Hôn nhân không chỉ dừng lại ở chỗ sinh nhai, nhưng là hỗ trợ nhau sống đạo và giáo dục con cái trong đức tin. Nếu hai vợ chồng khác tôn giáo thì đời sống không ngay thẳng và sẽ gây nhiều hiểu lầm! Nếu cùng thờ phượng một Chúa, thì hai vợ chồng đều biết đường ngay, lối chính dễ giúp nhau sống hạnh phúc hơn. Để chiều chuộng người yêu, chàng cũng âm thầm đi tham dự các giờ giáo lý. May thay, sau khi được nghe thánh Phêrô giảng dạy thì chàng mới nhận ra sự thiếu sót trong đời sống của chàng! Trước đây chàng sống theo luân lý của một công dân Rôma, và chàng cho là đủ. Nhờ những giờ giáo lý, ánh sáng của ơn thiêng ban cho chàng biết được sự ngay thẳng và công chính cao thượng của nước trời. Có những cảm xúc và những hành động trước đây chàng cho là đúng, nhưng những điều đó không đủ, nếu thiếu sự hy sinh và ơn thánh. Chàng đã tìm được một con đường sáng mới cho cuộc đời. Con đường này dẫn chàng đi xa hơn vào cõi vĩnh cửu.
Thực Hành: "Chúng ta mong đợi trời mới đất mới." (2Pet 3:14) Tiếng kêu gọi "đổi mới" của Gioan Tẩy Gỉa được tiếp tục vang vọng qua lời giảng của các tông đồ, và sứ mạng của Giáo Hội. Xin cho con biết đón nhận Đức Kitô. Ngài đến trần gian để ban cho nhân loại sự bình an của trời và sự đổi mới lòng người.
Khởi đầu Tin Mừng Mác-cô là chuyện Gio-an Tẩy Giả loan báo và dọn đường cho Đức Giê-su đến, khác với Mát-thêu và Lu-ca khởi đầu bằng chuyện Đức Giê-su giáng sinh. Tại sao? Vì Tin Mừng Mác-cô được viết cho người Rô-ma. Theo quan niệm và thông tục của người Rô-ma, các nhân vật quan trọng đi đến đâu đều phải có người dùng loa thông báo cho dân chúng biết trước mấy ngày, vừa để làm nổi bật sự quan trọng của nhân vật đó, vừa để dân chúng sửa sang những con đường trong vùng cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch sẽ, vừa để dân chúng đón tiếp hai bên đường cho long trọng nếu vấn đề an ninh cho phép. Vì thế, để giới thiệu Đức Giê-su cho các Ki-tô hữu Rô-ma mà khởi đầu Tin Mừng bằng câu chuyện của Gio-an Tẩy Giả thì sẽ hiệu quả và lôi cuốn sự chú ý hơn. Ngoài ra, để nói lên tính cách đặc biệt thần thiêng của việc dọn đường ấy, thánh sử còn trích dẫn lời của 2 ngôn sứ I-sa-i-a và Ma-la-kia-a đã loan báo trước đó khoảng 450-550 năm (tương đương với thời của các vị giáo chủ các tôn giáo châu Á): «Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta» (Ml 3,1), «Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi» (x. Is 40,3).
Phần chúng ta, khởi đầu năm phụng vụ mới, chúng ta cũng cần chuẩn bị đón mừng kỷ niệm Đức Giê-su đến trong nhân loại, đồng thời đón mừng Ngài đến trong tâm hồn mỗi người. Vì thế, thiết tưởng bản thân mỗi người cũng như toàn Giáo Hội hãy dọn đường đón mừng Ngài. Dọn đường thế nào thì I-sa-i-a và Gio-an Tẩy Giả đã chỉ cho chúng ta.
2. Dọn đường đón mừng Chúa đến
Ngôn sứ I-sa-i-a viết: «Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu» (Is 40,3-4). Như vậy, theo ngôn sứ I-sa-i-a, để đón Chúa đến, việc đầu tiên là phải mở một con đường. Muốn thế, phải bạt núi, san đồi, lấp thung lũng, đổ đầy các hố rãnh. Đó là nói theo ngôn ngữ hình tượng. Còn trong thực tế thì phải làm gì?
a) Phải mở một con đường = muốn và quyết gặp gỡ Chúa
Chúa đến để gặp gỡ và đem lại cho chúng ta sự cứu độ, không chỉ ở đời sau mà còn ở ngay đời này: một sự bình an và hạnh phúc siêu nhiên, tuyệt vời, không phải thứ bình an hạnh phúc kiểu thế gian vốn bị lệ thuộc vào những điều kiện trần tục (x. Ga 14,27). Nhưng để việc gặp gỡ đó thành hiện thực, chính chúng ta cũng phải mong muốn và quyết tâm gặp gỡ Ngài. Ngài không thể đến với ta nếu chính ta không tích cực muốn điều đó. Do đó, trở ngại lớn nhất khiến chúng ta không thể gặp gỡ Ngài chính là chúng ta không thật sự muốn gặp gỡ Ngài. Vì khi gặp gỡ Ngài, Ngài sẽ đòi hỏi chúng ta phải đối diện với sự thật của chính bản thân chúng ta. Nhưng chúng ta thường muốn trốn tránh sự thật, tránh việc phải đối diện với lương tâm mình... Vì điều này đòi buộc ta phải chỉnh đốn lại cách sống của mình, phải từ bỏ những đam mê, những thói xấu, những bất công vốn đem lại cho ta vui thú, lợi lộc, quyền lực, danh vọng là những thứ ta rất ham thích. Như vậy muốn Chúa đến với ta, ta phải khai phá một con đường, con đường ấy chính là tâm trạng sẵn sàng đón Chúa đến, sẵn sàng đến với Ngài, gặp gỡ Ngài với bất cứ giá nào.
b) Con đường thẳng ngay, bằng phẳng = tâm hồn chính trực
Với những ai muốn đón Chúa đến, Gio-an Tẩy Giả yêu cầu: «Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi». Khi đón một nhân vật quan trọng đến một vùng nào, người vùng đó phải dọn dẹp đường cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp. Cũng vậy, để đón Chúa đến, ta cũng phải sửa lại những con đường trong tâm hồn ta cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp. Nghĩa là tâm hồn ta phải luôn ngay thẳng, chính trực, không quanh co, gian dối, giả tạo...
Ngay thẳng là một trong những yếu tố chính yếu của sự công chính, thánh thiện. Thiết tưởng người Ki-tô hữu cần phải tạo cho mình một tư cách ngay thẳng, chính trực, nói gì hay làm gì cũng phải «công minh chính đại», «đường đường chính chính», không lén lút, giấu giếm, không làm ai phải nghi ngờ điều gì. Tư cách của người Ki-tô hữu phải là tư cách của một người quân tử, tôn trọng sự thật, nghĩ thế nào nói thế nấy, và nói thế nào làm thế nấy: «Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không", thêm thắt điều gì là do ác quỷ» (Mt 5,37). Nghĩ một đằng nói một nẻo, hay nói một đằng làm một nẻo là tư cách của tiểu nhân, của phường gian ác, không thể là tư cách của người Ki-tô hữu: «Đường lối của kẻ gian ác thì quanh co, hành động của người trong sạch thì ngay thẳng» (Cn 21,28); «Thiên Chúa ưa điều chính trực, ghét điều gian ác» (Dt 1,9); «Ngài ghê tởm tâm địa quanh co» (Cn 11,20).
Nguyên nhân biến con người thành quanh co, giả hình, mưu mô... chính là tâm địa ích kỷ, lắm tham vọng, muốn phình to bản ngã. Tâm địa này khiến người ta cố gắng đạt được những điều mình ham muốn - danh vọng, quyền lực, tiền bạc - với bất cứ phương tiện nào, kể cả phương tiện xấu, và bằng bất cứ giá nào, kể cả tội ác. Từ đó con người bị tham vọng và đam mê của mình thu hút, mê hoặc, dẫn đưa mình vào con đường cong queo của tội ác. Do đó, «sửa lối cho thẳng để Người đi» một cách căn bản là dần dần diệt bỏ khuynh hướng ích kỷ, thích đặt nặng «cái tôi» của mình. Khuynh hướng này gây nên tất cả mọi lồi lõm, mọi cản trở khiến Chúa khó đến với ta, và ta khó đến với Chúa. Hãy noi gương Gio-an Tẩy giả, sống thanh đạm: «mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng»; không tham vọng, không ham đề cao «cái tôi» của mình, sẵn sàng nhìn nhận sự thật hèn kém của mình: «Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người».
c) Đường đến với Chúa cũng là con đường đến với tha nhân
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn luôn tự đồng hóa với tha nhân của ta. Do đó, người Ki-tô hữu không thể quan niệm Thiên Chúa độc lập với tha nhân của mình, không thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu tha nhân, không thể đến với Thiên Chúa bằng một con đường khác với con đường đến với tha nhân. Ngược lại, con người không thể yêu thương tha nhân mà không yêu mến Thiên Chúa, không thể đến với tha nhân bằng con đường khác với con đường đến với Thiên Chúa. Chủ trương chỉ yêu tha nhân không cần đếm xỉa gì đến Thiên Chúa, hay ngược lại, chỉ yêu Thiên Chúa mà không đếm xỉa gì đến tha nhân đều là những tình yêu giả tạo, không thực tế. Do đó, muốn đến và gặp gỡ với Thiên Chúa không gì tốt đẹp và chắc chắn bằng đến hay gặp gỡ Ngài nơi tha nhân của ta. Và muốn đến và gặp gỡ tha nhân không gì bảo đảm và tạo hạnh phúc cho họ bằng đến và gặp gỡ họ trong Thiên Chúa. Đối với người Ki-tô hữu, không thể tách rời Thiên Chúa khỏi tha nhân, và tách rời tha nhân khỏi Thiên Chúa.
Vậy, đón Chúa đến, không gì làm Chúa hài lòng bằng sửa sang lại mọi quan hệ của ta với tha nhân cho tốt đẹp hơn, tình nghĩa hơn: làm sao để cha mẹ ta cảm thấy ta thật sự là con hiếu thảo, con cái ta thấy ta thật sự là cha mẹ tốt, anh chị ta thấy ta là người em tốt, các em ta thấy ta là người anh tốt, bạn bè ta thấy ta là người bạn tốt, những nhà chung quanh ta thấy ta là hàng xóm tốt... Hãy sống làm sao để không mấy ai có thể chê trách ta được, ai cũng cảm nhận được tình thương của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha là một Thiên Chúa luôn luôn đồng hóa với tha nhân của con. Nhờ đó, con có thể gặp gỡ Cha trong những người sống chung quanh con, con có thể yêu thương và phục vụ Cha bằng việc yêu thương phục vụ họ. Vì thế, chuẩn bị đón Cha đến trần gian, không gì tốt đẹp hơn làm cho môi trường con đang sống biến thành một môi trường yêu thương. Xin giúp con thực hiện điều Cha mong muốn nhất ấy.
+ Vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên, tiên tri I-sai-a đã tuyên sấm lời Thiên Chúa với dân do Thái sau khi họ vừa thoát cảnh lưu đày ở Babylon và trở về quê nhà : Vì tội của họ mà Chúa đã trừng phạt thủ đô Giêrusalem. Nhưng đã đến thời kỳ họ không còn phải làm nô lệ nữa và tội lỗi của họ cũng đã được tha. Vậy họ phải dọn đường trong sa mạc để đón Đấng Thiên Sai đến; Ngài đến để lãnh đạo dân người giống như một mục tử chăn dắt đoàn chiên của mình (x. Is 40,1-5. 9-11).
+ Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Gioan Tẩy Giả đã thực thi sứ mệnh tiền hô như lời tuyên sấm của I-sai-a. Ông đã đến miền sông Gio-đan hoang vắng rao giảng về Đấng Thiên Sai sắp đến và kêu gọi mọi người chuẩn bị tiếp đón Ngài. Ông thẳng thắn cáo trách dân chúng về những tội lỗi của họ và yêu cầu họ hồi tâm sám hối. Kết quả là rất đông dân chúng đã đến nghe ông giảng và chấp nhận đứng vào hàng ngũ những người muốn được cứu độ, bằng việc xưng thú tội lỗi và xin Gioan làm phép Rửa trong nước sông Gio-đan. Mỗi người đều quyết tâm thực thi công bằng bác ái theo lời Gioan chỉ dạy (x. Lc 3,7-14).
+ Ngày nay sứ điệp của I-sai-a và của Gioan Tiền Hô cũng chính là lời mời gọi các tín hữu chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai đến lần thứ hai vào ngày tận thế. Vậy trong những ngày Mùa Vọng này, chúng ta phải dọn tâm hồn thế nào để đón Chúa ? Như dân Do Thái xưa đã trải qua nhiều đau khổ và khó khăn trở ngại để đức tin của họ có dịp thử thách thanh luyện, thì hôm nay mỗi người tín hữu cũng phải đương đầu với bao cám dỗ thử thách của ma quỉ để minh chứng lòng trung thành với Chúa. Khi Đức Ki-tô tái lâm trong ngày tận thế, Ngài sẽ biến đổi trần gian này trở thành một Trời Mới Đất Mới. Vậy để góp phần kiến tạo Trời Mới Đất Mới, ngay từ bây giờ, mỗi người chúng ta phải làm gì để gia đình ta ngày một an vui hạnh phúc hơn, để khu xóm ta không còn các tệ nạn xã hội, và ngày một an toàn sạch đẹp hơn, và để đất nước ta ngày một văn minh giàu đẹp và tiến bộ hơn ?
2. DỌN LÒNG ĐÓN CHÚA NHƯ THẾ NÀO ?
Chúa Giêsu sẽ lại đến với mọi người chúng ta trong giờ chết và đến chung với toàn nhân loại trong ngày tận thế. Vậy mỗi người chúng ta phải làm gì để đón Chúa đến ?
+ Phải vào sa mạc để hồi tâm sám hối : Cần tạo một bầu khí thinh lặng nội tâm bằng việc dành ít phút hướng lòng về Chúa khi vừ thức dậy, xét mình buổi tối trước lúc nghỉ đêm. Siêng năng tham dự Thánh Lễ và tĩnh tâm chung với cộng đoàn...
+ Sống đơn giản đạm bạc để bày tỏ lòng sám hối : Không may thêm quần áo giày dép mới khi chưa cần; bớt các buổi ăn nhậu lãng phí. Tránh đến những nơi ăn chơi sa đọa như các quán bia ôm hay cà phê đèn mờ...
+ Thực thi sự công bình bác ái : Có kế hoạch trả nợ đúng hẹn; Tránh nói xấu những kẻ mình không ưa; Tổ chức quyên tiền để đi thăm người bất hạnh nghèo khổ...
+ Chia sẻ niềm vui và tình thương để mừng Chúa Giáng Sinh : Gửi thiệp Noel cho bạn bè và những người thân; cùng ông già Noel đi thăm viếng tặng quà các trẻ em bụi đời hay các trẻ em mồ côi...
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Cha,
Đấng giàu lòng từ bi nhân hậu, xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn tiếp đón Đức Kitô lại đến : đến trong giờ chết của chúng con, đến chung trong ngày tận thế. Xin thanh tẩy lương tâm chúng con sạch mọi điều gian ác. Xin loại ra khỏi chúng con thái độ ích kỷ, tự mãn, hận thù, ganh ghét và mọi đam mê bất chính khác, để chúng con xứng đáng nhận được Ơn Cứu Độ do Chúa Giêsu đã thiết lập và trao ban.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON..
2) Lạy Thánh Mẫu Maria,
chúng con đang chuẩn bị mừng đại lễ Giáng Sinh, xin Mẹ giúp chúng con dọn lòng đón Chúa đến, nhất là trong đêm Giáng Sinh. Xin biến đổi tâm hồn chúng con trở nên máng cỏ thơm tho sạch sẽ, xứng đáng đón rước Chúa ngự đến. Xin cho chúng con ý thức sứ mệnh giới thiệu Chúa với mọi người, nhất là những người bất hạnh. Xin cho chúng con biết quảng đại chia sẻ những món quà Giáng Sinh cho những trẻ em đường phố, những cụ già cô đơn không người chămsóc. Xin Mẹ giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón rước Con Chúa đến với chúng con trong Mùa Giáng Sinh hồng phúc này.
X)HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Trong Chúa Nhật I Mùa Vọng, mỗi người chúng ta được mời gọi hãy tỉnh thức để đón chờ Chúa đến. Sang Chúa Nhật II hôm nay, phụng vụ Lời Chúa nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn cho xứng hợp để đón chờ Đấng Cứu Thế đến. Một trong những công việc cụ thể nhất đó là sám hối. Sám hối là thay đổi não trạng cũ để thay vào đó một lối sống mới cho phù hợp với Tin Mừng. Sám hối còn là trở về với Chúa, biết nhận ra lỗi lầm cũng như thực trạng linh hồn của mình.
Tuy nhiên, sám hối như thế nào? Và phải chuẩn bị tâm hồn ra sao là điều mà phụng vụ hôm nay muốn nhắm tới?
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Trước tiên, bài đọc I cho chúng ta thấy sứ vụ của tiên tri Isaia là an ủi dân chúng và loan báo cho họ về thời cứu rỗi do lòng thương xót của Thiên Chúa đã đến gần. Ngài sẵn sàng tha thứ cho dân, mặc dù trong quá khứ dân đã cứng đầu cứng cổ và phản bội Thiên Chúa bằng việc bất trung với Giao Ước.
Nay dân hối hận và đã đáp lại lời mời gọi của Isaia để sám hối, thanh luyện tâm hồn và quay trở về với Thiên Chúa. Họ đã biết lỗi của mình, và như thế, tin mừng cho họ chính là họ được hồi hương để về với tiền nhân và quê cha đất tổ. Thiên Chúa tiếp tục dẫn dắt dân như mục tử chăm sóc đoàn chiên, như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh... Đây chính là cuộc xuất hành lần thứ hai của dân Israel.
Sang bài đọc II, thánh Phêrô đã an ủi để dân trung thành đón chờ Chúa đến. Tại sao vậy? Thưa vì họ nghĩ rằng Chúa sắp đến, nên họ chờ mong. Tuy nhiên, khi chờ đợi lâu, họ đâm ra chán trường, mệt mỏi, và điều đó làm cho họ thờ ơ với việc chuẩn bị đón Chúa. Tuy nhiên, thánh Phêrô mặc khải cho họ biết rằng: sự chậm trễ của Thiên Chúa là có lý do. Lý do chính yếu chính là việc Ngài kiên nhẫn chờ đợi để cho dân có thời gian sám hối, thay đổi đời sống hầu được cứu độ. Tuy nhiên, Chúa đến là điều chắc chắn, nhưng lại không biết ngày nào, giờ nào, nên phải tỉnh thức: “Trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Ngài thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an” (2 Pr 3,14).
Sang bài Tin Mừng, thánh Máccô cho thấy, Đấng mà các tiên tri loan báo chính là Đức Giêsu, Ngài chính là Mêsia, sẽ đến để cứu thoát dân Ngài, tuy nhiên, cần phải chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng để được ơn cứu độ do Ngài mang lại.
Lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả cũng chính là lời mời gọi của Isaia trong thời Cựu Ước. Tuy nhiên, Isaia thì loan báo dân sẽ được hồi hương để được sống trong cảnh hòa bình, cũng như được hiện diện trên đất của cha ông. Còn Gioan Tẩy Giả thì loan báo về một trời mới đất mới là chính ơn cứu độ. Tuy nhiên, muốn được vào đó, cần phải thay đổi lối sống cũ, mặc lấy đời sống mới trong tư cách là con cái Ánh Sáng.
Sửa cho tốt con đường tâm linh
Lời mời gọi của thánh Gioan: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng". Con đường mà ngài nói đến đây chính là con đường tâm linh, con đường thiêng liêng. Con đường đó nó có tác dụng chính là việc nối liền đôi đầu. Một bên là ta và bên kia là Chúa. Muốn đến được với Chúa phải qua con đường này. Tuy nhiên, trên con đường ấy, nhiều khi có những lồi lõm, loằn ngoằn, làm cho chúng ta có nguy cơ bị đi lạc... Những con đường như vậy, nó trở thành những rào cản tâm linh, khiến chúng ta khó khăn trong việc gặp được Thiên Chúa là cùng đích của con đường là cuộc đời chúng ta.
Bổn phận của chúng ta chính là hãy làm cho con đường ấy trở nên dễ dàng bằng việc lấp cho đầy những hố sâu do những tham sân si của con người, gây nên như : tự ái, ghen ghét, tự ty, hách dịch, trưởng giả... hay những ham mê bất chính như: danh, lợi, thú... tất cả những thứ đó phải được khước từ, vứt bỏ hết, để con đường tâm linh được nhẵn nhụi, phẳng phưu....
Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải uốn nắn con đường tâm linh sao cho thẳng để khỏi bị lầm đường lạc lối. Những cong queo đó chính là sự sự gian dối, xảo quyệt..., không thành thực, trốn tránh trách nhiệm, sống hình thức, không hồi tâm để biết mình và biết Chúa...
Cuối cùng, con đường gồ ghề chính là hình ảnh của những tâm hồn kiêu ngạo, huênh hoang, tự đắc. Lòng đầy dẫy những sự tàn ác độc địa, bất nhân, gây chia rẽ...
Cần thay vào đó bằng con đường chính trực, công minh. Con đường khiêm nhường, liên đới, hiệp nhất và yêu thương. Con đường của sự thật, công lý và bình an...
Hiểu và sống sứ điệp Lời Chúa
Có một bạn trẻ nọ, lúc còn sinh viên, anh ta sa đà vào con đường tội lỗi khi sống buông mình trong những thú vui thác loạn, tiêm trích, xì ke ma túy, lêu lổng việc học hành. Điểm đến của anh là các quán bar, những tụ điểm hành lạc. Tuy nhiên, một biến cố đến với anh là mẹ anh bị ung thư, và anh ta cũng chứng kiến cảnh nhiều bạn bè chết vì bệnh tật, sốc thuốc và đâm chém nhau. Lúc đó, anh ta hồi tỉnh và nghĩ về cuộc sống mỏng dòn nơi những người thân thiết nhất của anh. Được ơn Chúa giúp, anh ta can đảm từ bỏ con đường tội lỗi cũ để trở về với Chúa. Anh ta quyết định đi xưng tội, tập trung việc học hành và dành nhiều thời gian cho việc đạo đức. Cuối cùng Chúa đã nhận lời, ban cho anh được cải tà quy chính. Giờ đây anh đã trở thành người chồng trách nhiệm, người cha gương mẫu và là Kitô Hữu sốt sắng, đạo đức.
Thật vậy, cuộc vui nào rồi cũng có lúc tàn. Cuộc đời nào rồi cũng chấm dứt với cái chết. Điều quan trọng là biết điểm dừng và ý thức rằng: bên cạnh những hữu hạn này, chúng ta còn có một cuộc sống vĩnh cửu mai hậu. Tuy nhiên, muốn đạt được điều đó, hẳn chúng ta phải từ bỏ những thứ lỉnh kỉnh không tốt cho hành trình lữ thứ của mình. Cần có một cuộc sống lương thiện, thật thà, chân chính, khiêm nhường, bao dung...
Phụng Vụ Lời Chúa và câu chuyện trên đáng đáng để cho chúng ta suy nghĩ và noi gương trong việc sám hối, trở về với Chúa trong Mùa Vọng này.
Giờ đây, ngay trong giây phút này, mỗi người chúng ta hãy thành thật xin lỗi Chúa vì những thiếu xót của mình với Ngài và tha nhân, để tâm hồn chúng ta trở nên trong sáng, xứng đáng đón Chúa Giáng Sinh trong linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể mà lát nữa đây chúng ta sẽ lãnh nhận.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sám hối để được ơn cứu độ. Amen.
Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã cùng với ngôn sứ I-sai-a và dân Ít-ra-en cầu xin Thiên Chúa “xé trời mà xuống” (I-sai-a 63:19b). Qua Ngôi Lời nhập thể, Chúa đã thực sự đến trần gian. Tuy nhiên, từ trần gian tới linh hồn mỗi tâm hồn vẫn còn là một khoảng cách không nhỏ. Cần mở một con đường để Chúa Cứu Thế đến ngự trong chúng ta. Vậy ai sẽ giúp chúng ta mở ra con đường ấy? Người lãnh sứ mệnh mở đường chính là ông Gio-an Tẩy Giả, vì Chúa đã phán: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con” (Mác-cô 1:2).
Tại một nước tân tiến như Hoa-kỳ, việc mở hay sửa đường xem ra quá dễ dàng. Họ có đầy đủ dụng cụ máy móc và tiền bạc. Hôm trước, cả một khúc đường mấy chục cây số còn trong tình trạng tồi tệ, nhưng chỉ vài ngày sau dân chúng đã có một con đường thật đẹp, lằn vạch kẻ rõ ràng, xe chạy êm ru. Đó là chuyện đường xá. Nhưng mở một con đường để đi vào tâm hồn thì khác lắm. Thật khó tìm được một kỹ thuật. Thế mà Thiên Chúa lại có kỹ thuật riêng và Người sai ông Gio-an Tẩy Giả đến áp dụng kỹ thuật ấy để mở đường cho Người. Chúa truyền cho ông chỉ cần hô to lên trong hoang địa sứ điệp của Người: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Lời hô của Gio-an ai cũng có thể nghe được, vì mỗi tâm hồn chúng ta là một hoang địa ở mức độ nào đó. Với những người chưa có con đường để Chúa đến với họ, thì họ phải “dọn sẵn con đường của Đức Chúa”. Còn những người mặc dù đã có sẵn con đường, nhưng lại đầy chướng ngại và hư hỏng, thì họ cần “sửa lối cho thẳng để Người đi”.
Hãy dọn sẵn con đường và sửa lối cho thẳng là nội dung sứ điệp của Chúa. Nhưng ông Gio-an còn muốn giúp người ta hiểu sứ điệp ấy sâu xa hơn và biết phải làm gì để dọn đường sửa lối, nên ông đã rao giảng kêu gọi họ sám hối và chịu phép rửa như một cử chỉ biểu lộ lòng sám hối. Tất cả sứ vụ của ông Gio-an chỉ nhắm mục đích là giúp người ta sám hối “để được ơn tha tội”. Tuy dân chúng đến với ông rất đông, “họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ”, nhưng ông không tha được tội, mà là Chúa Giê-su, Đấng quyền thế sẽ đến sau ông, mới chính là Đấng có quyền tha tội. Vì thế, khi so sánh mình với Chúa Giê-su, ông Gio-an chẳng chút ngần ngại phát biểu rằng mình “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”. Lúc thi hành sứ vụ làm tiếng hô trong sa mạc, ông Gio-an đã được ngưỡng mộ và danh tiếng của ông nổi như cồn. “Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông”. Cho nên khi ông Gio-an đề cao phẩm giá của Chúa Giê-su và nhìn nhận thân phận của mình, ông đã đem tất cả những ngưỡng mộ ông nhận được từ nơi dân chúng để đặt dưới chân Người rồi vậy. Quả thực đúng như phương châm của ông, là “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Gio-an 3:30)! Ông Gio-an chỉ là người mở đường, còn Chúa Giê-su mới là chính con đường (Gio-an 14:6)!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Bạn có khi nào về Việt Nam thăm gia đình không? Ở đó, di chuyển luôn là một vấn đề và việc mở đường hay sửa đường tưởng như không bao giờ kết thúc cả! Có khúc đường chỉ hai cây số, cần sửa để mấy ngàn học sinh của bốn trường học ở hai bên đường đi lại mỗi ngày. Vậy mà gần 5 năm trời rồi vẫn chưa xây xong, mặc dù ngân sách thì dư thừa để… cất! Tôi thiết nghĩ giả như ông Gio-an Tẩy Giả mà có mặt ở đấy, chắc ông sẽ chỉ thẳng mặt những kẻ gian lận của công mà mắng: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh… Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta!” (Lu-ca 3:13,14).
Việc mở đường dọn lối tâm hồn thì không thể lem nhem và trì hoãn như vậy được đâu! Vì chúng ta đã có sứ điệp của Chúa về sám hối và kỹ thuật dọn đường mở lối của thánh Gio-an Tẩy Giả. Thánh Gio-an chỉ cho chúng ta nhận biết Chúa Giê-su là Đấng ban ơn tha tội và “làm phép rửa cho chúng ta bằng Thánh Thần”. Sống tinh thần sám hối để được ơn cứu độ cũng có nghĩa là hằng ngày chúng ta hãy để cho Chúa Giê-su thanh tẩy chúng ta bằng Thánh Thần của Người. Cứ để Thánh Thần hướng dẫn chúng ta bước theo đường lối của người Con Một là Chúa Giê-su, là “con đường, sự thật và sự sống”.
Bước sang Chúa nhật thứ hai Mùa Vọng, sự chờ đợi hầu như không còn ở trong một tương lai mù mịt, nhưng đã được cảm nghiệm như đang ở trước mắt.
Thực vậy, bài đọc 1 là lời loan báo Chúa đến đầy phấn khởi hân hoan. Dân Chúa được kêu gọi bước vào giai đoạn mở đường cho Chúa, như người dân trong vùng được huy động dọn đường, mỗi khi có một nhân vật quan trọng đi qua. Thiên Chúa các ngươi đây rồi. Một lời hô như thế chỉ có thể làm cho các tâm hồn khao khát Đấng Cứu Thế hân hoan mừng rỡ. Đoạn Kinh Thánh còn đi xa hơn nữa, khi nhấn mạnh vào hậu quả của việc Chúa đến: Chấm dứt thời kỳ phục dịch, bắt đầu thời kỳ ân xá tội lỗi và dân Chúa sẽ được chính Chúa chăn dắt.
Dân Chúa đã từng phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Một phần lớn phải trải qua cuộc sống lưu đày nơi đất khách quê người. Những tâm hồn đào đức vẫn đưa ra mối quan hệ mật thiết giữa các tai ương và tội lỗi của dân. Thực vậy, dân Chúa gặp phải những khốn khồ là vì Chúa không còn dẫn dắt dân của Ngài, bởi những bất trung của họ. Do đó, thời cứu chuộc được mong đợi cũng là thời chấm dứt các tai ương hoạn nạn, vì Thiên Chúa đã chấp nhận trở lại hướng dẫn dân của Ngài.
Bài đọc 2 trích thư của thánh Phêrô Tông đồ, đặt trọng tâm vào việc giải quyết vấn nạn tại sao lại có sự chậm trễ trong việc Chúa lại đến? Theo thánh Phêrô, thì chúng ta không phải là người tính toán về ngày giờ Chúa lại đến, để rồi khi Ngài không đến vào ngày giờ chúng ta đã tính toán, thì chúng ta đâm nghi ngờ về lời hứa của Ngài.
Vấn đề trước tiên và căn bản đó là nhận ra ý nghĩa của thời gian chờ đợi hiện tại để có được một thái độ, một lối sống thích hợp. Theo thánh Phêrô, thời gian chờ đợi hiện tại là sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Ngài muốn để mọi người có thời gian ăn năn đền tội và có thể sống trong sự thánh thiện. Như vậy, để trả lời cho vấn nạn về ngày Đức Kitô lại đến trong vinh quang, thánh Phêrô nhắc lại chiều kích quan trọng của đời sống đức tin: hướng về sự hoàn tất và hoạt động cho sự hoàn chỉnh, nghĩa là xây dựng trời mới và đất mới, nơi công lý ngự trị.
Đoạn Tin Mừng được đọc trong Chúa nhật thứ 2 Mùa Vọng đã tiếp nối những tư tưởng trên và cho thấy: Điều tiên tri loan báo đã thực sự xảy ra với sự xuất hiện của Đức Kitô. Đoạn Tin Mừng cũng đã lặp lại lời tiên báo củ Isaia về tiếng kêu trong hoang địa, về sự dọn đường cho Chúa. Nhưng Gioan, người trực tiếp dọn đường cho Chúa đã có đó và đang chỉ cho mọi người nhận biết Đấng Cứu Thế đã ở giữa họ rồi. Gioan tuy là người đến trước, nhưng thực ra lại trở thành người đi sau, vì chúng ta đang ở trong thời buổi của phép rửa bằng Thánh Thần, trong khi phép rửa của Gioan mới chỉ là phép rửa bằng nước.
Phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy Thiên Chúa đang thực hiện những gi Ngài đã hứa và mỗi người chúng ta đều được lôi cuốn vào công trình của Ngài. Nếu sự chờ đợi của dân Chúa thuở trước đã không uổng công, thì điều người kitô hữu đang chờ đợi trong hiện tại cũng sẽ đến. Đó là nền tảng cho một niềm tin, thế nhưng niềm tin đích thực phải có sức biến đổi cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Pat William có kể một câu chuyện rất đặc sắc trong cuốn The Power Within You như sau:
Cordell Brown, một bệnh nhân vị bhứng liệt nào, đến câu lạc bộ Quán Quân Thế Giới Philadelphia Phillies. Anh bước đi khó khăn, nói năng ấp úng, nên khi anh tới, các thành viên quay mặt đi như không nhìn thấy. Anh có thể nói gì với những siêu minh tinh màn bạc Steve Carleton, hoặc như Mike Schmit, những kẻ sống rất phong lưu ngàn lần xa anh.
Tuy không được đón tiếp nhiệt tình, anh vẫn nói: Tôi biết rằng tôi rất khác biệt với các bạn, “nhưng nhờ ơn Chúa mà tôi được như thế này”. (1 Cr 15,10). Và anh thao thao bất tuyệt nói về long nhân hậu của Thiên Chúa đã tuôn đổ phúc lộc xuống trên cuộc đời anh. Anh mạnh mẽ xác quyết: “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, lãnh cả triệu đô la mỗi n ăm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của các bạn lại, thì các bạn cũngnhư tôi. Mọi n gười đều như nhau. Tôi không cần những gì các bạn đang có, nhưng tôi chắc chắn rằng các bạn cần một điều mà tôi luôn có, đó là Đức Giêsu Kitô”.
Suốt chiều dài lịch sử Cựu Ước, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho con người đón tiếp Đức Kitô. Và khi đến thời gian đã định Thiên Chúa dùng Gioan Tiền Hô, một tiên tri vĩ đại gạch nối giữa Cựu và Tân ước để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế: “Có tiếng kêu trong hoang địa; hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Mc 1,3).
Gioan không làm cách mạng, ngài không bắt người ta phải thay đổi cuộc sống, thay đổi địa vị xã hội, cỏ dù là thu thuế hay binh lính, hai hạng người mà thời bất giờ bị coi khinh và xem thường. Nhưng Gioan chỉ nhắc nhở, thúc dụ mọi người hãy cải thiện đời sống, đổi mới tâm hồn để sẵn sang chờ đón Chúa đến.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể làm gì khác Gioan, sống khó nghèo và đớn sơ trong cách ăn mặc và lối sống.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể sống buông thả theo tính khoe khoang và tự mãn.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể không học nơi Gioan long khiêm nhường, luôn qui hướng mọi vinh quang về cho Chúa.
Chính nhờ có Đức Kitô mà Cordell Brown trong câu chuyện trên đây cảm thấy hạnh phúc tràn đầy. Hạnh phúc ấy chỉ có được bằng giá của sẹ từ bỏ liên tục. Ludovic Giraud đã viết: “Sống không phải là chấp nhận tất cả, mà là chọn lựa, là cắt bỏ, là hy sinh. Nhựa cây chỉ dẫn đến cành khi được cắt tỉa, và nó chỉ sống được khi ngàn cây tầm gởi không bóp nghẹt nó”.
Mùa vọng là thời gian của hy vọng. Con thuyền hy vọng của người tín hữu Kitô luôn chất đầy tin tưởng và phó thác:
- Tin tưởng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, nên chúng ta cũng đừng thất vọng về chính mình.
- Phó thác cho Thiên Chúa tình yêu, nên dù tội lỗi có ngập tràn, khổ đau có chồng chất, chúng ta vẫn một niềm cậy trông.
Tin tưởng và phó thác là đôi mắt của người tín hữu nhìn thẳng vào Chúa mà hy sinh và từ bỏ.
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chuẩn bị đón Chúa với thái độ của người lữ hành trong sa mạc: dẹp đi những cồng kềnh vướng bận. Xin cho chúng con biết khổ chế nơi thân xác và chay tịnh trong cõi lòng, cho tâm hồn chúng con được thanh thoát, đón mừng Chúa đến ban nguồn vui Ơn Cứu độ. Amen.
Trong Tác phẩm “Người phu quét lá”, Đức Giám Mục Nguyễn Khảm đã ví von, đời Linh mục như người phu quét lá: “Người phu quét lá bên đường. Quét cả nắng chiều quét cả mùa thu” (Ns. Trịnh Công Sơn).
Người phu quét lá, hàng ngày dù mưa dầm hay nắng hạn, vẫn luôn có mặt từ sáng sớm tinh sương trên mọi nẻo đường thành phố để dọn đường sạch sẽ cho ngàn ngàn con người sắp đi qua. Linh mục, mỗi ngày cũng dọn đường tâm hồn cho con người đi đến với Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người.
Trong ý nghĩa đó, có thể nói Gioan Tiền Hô cũng là “Người phu quét lá” dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với nhân loại.
Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi trước dọn đường và dọn lòng người để đón Đấng Cứu Thế. Thực thi sứ vụ dọn đường, Ngôn Sứ Gioan luôn gắn bó với Thiên Chúa và sống gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Các chương từ 40-55 trong sách Tiên tri Isaia, được gọi là Sách An Ủi dân Israel. Sau khi Giêrusalem bị thất thủ, dân phải đi đầy sang Babylon, Thiên Chúa dùng Tiên tri Isaia loan báo cho dân ngày giải thoát. Vì vậy tiếng hô: "hãy mở một con đường cho Đức Chúa" (Is 40,3) là câu hoàn tất lệnh truyền của Thiên Chúa trước đó: "Hãy an ủi, an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong" (Is 40,2). Lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả hoàn tất các lời hứa của Thiên Chúa: "Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con." (Mc 1,2). Và mở đường cho ơn cứu độ phổ quát. Trước khi là một sứ điệp loan báo, Tin Mừng là một biến cố, một con người cụ thể, Đức Giêsu Kitô: Con Thiên Chúa hằng sống (Mc 15,39).
Thánh Máccô đã thấy rõ nơi Gioan Tẩy Giả là người thực hiện các điều mà Is 40,3 loan báo, là người giúp chuẩn bị lòng dân đón chờ Đấng Cứu Thế. Sứ điệp mà ông kêu gọi mọi người dọn lòng chuẩn bị đón Chúa đến chính là: sám hối và canh tân cuộc sống.Lòng ăn năn thống hối đích thực không hệ tại nơi những tình cảm chóng qua, hay những nghi thức bên ngoài nhưng phải phát xuất từ chính nội tâm bên trong, từ chính niềm tin mong đợi Chúa đến.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền Hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Phụng vụ Chúa nhật II Mùa Vọng mời gọi chúng ta chuẩn bị con đường cho Chúa Cứu Thế ngự đến. Chúa đến là niềm vui cho toàn thể nhân loại. Nhưng để được hưởng niềm vui này, mỗi người cũng như toàn thể nhân loại phải biết dọn đường cho Người.Dọn đường là nỗ lực hoán cải bản thân, tẩy trừ tội lỗi trong đời sống; đồng thời trong xã hội, cũng cần sự hoán cải tập thể, để tình yêu và chân lý, công lý và hòa bình được ngự trị.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu sứ mạng mới bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà Cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo hãy san cho thẳng. Những gì cao cao, cần bạt xuống thấp. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế.
Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Tâm hồn Mẹ bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng, tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường, thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Cả cuộc đời Gioan chỉ một tâm nguyện là làm “ Người phu quét lá” dọn lòng người khác cho Chúa đến. Mỗi người chúng ta cũng theo mẫu gương của Gioan trở thành “Người phu quét lá” cho chính tâm hồn mình, cho gia đình mình và rồi cho người khác nữa. Dọn đường cũng chính là lên đường theo Chúa Cứu Thế, cho nên dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.
Thư HĐGMVN 2006 đã khẳng định: “Đời sống đạo vừa cần găn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em”.
Chúa nhật II Mùa vọng, Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt Gioan Tiền hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa, rất gần gũi với con người. Lời Chúa Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Gioan nghe đã trở thành lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chinh là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Có những con đường dẫn con người vào vũng lầy của hưởng thụ và hư vong. Có những con đường đưa tới bất công, chia rẽ, tranh chấp và hận thù. Có những con đường dẫn con người vào lầm lạc, tội lỗi và sự chết. Nhưng cũng có những con đường dẫn người khác tới tình yêu, tự do và hạnh phúc. Và còn đó những con đường dẫn đến nguồn mạch cứu độ: con đường của sám hối và tin vào Đấng được sai đến.
Gioan Tẩy Giả đã đến để dọn sẵn một con đường cho Đấng cứu độ; ông không phải là đường mà chỉ là người dọn đường. Bài ca Chúc Tụng (Benedictus) đã nói lên điều này: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên” (Lc 1, 76- 77). Ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta hãy san phẳng những gồ ghề của kiêu căng, những thung lũng của ích kỷ, tội lỗi và lãnh nhận phép rửa để được ơn tha tội. Dĩ nhiên, phép rửa của Gioan chỉ nói lên lòng sám hối; còn phép rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần diễn tả toàn bộ công trình cứu độ do Đức Giêsu khai mạc: Công trình cứu độ đó được coi như một sự tái sinh mới nhờ Chúa Thánh Thần.
Ông Gioan Tẩy Giả biết rõ vị trí và vai trò của mình: Đang lúc người ta tưởng ông là Đấng Messia, thì ông lại tuyên bố: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người” (Mc 1, 7). Ông Gioan không phải là “Lời”, mà chỉ là “tiếng”; khi “Lời” xuất hiện, thì “tiếng” phải lui vào bóng tối. Thánh Augustine củng cố cho chúng ta về ý tưởng này: “Ông Gioan là tiếng trong thời gian, còn Đức Kitô, ngay từ khởi đầu, đã là Lời vĩnh cửu”. Do đó, lời rao giảng của Gioan tập trung vào Đức Giêsu: Đấng quyền thế hơn và làm phép rửa trong Thánh Thần (Mc 1, 7- 8). Ông không những rao giảng bằng lời nói, mà chính cuộc đời của ông đã là một lời chứng hùng hồn về Đức Giêsu. Để chuẩn bị sứ vụ dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến, ông Gioan đã lui vào sống ẩn dật trong hoang địa, mặc áo long lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và uống mật ông rừng (x. Mc 1, 6). Hơn ai hết, chính ông đã là một con đường cho Thiên Chúa đến với thế trần.
Chắc hẳn, qua hình ảnh của Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa muốn mời gọi mỗi người chúng ta trở nên những sứ giả dọn đường cho ơn cứu độ của Chúa đến với thế trần hôm nay; bởi chưng, “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2, 4). Ngài không chỉ đến qua biến cố Giáng Sinh và ngày Chung Thẩm, mà còn đến với mỗi người trong từng giây phút của cuộc sống: Ngài đến để chữa lành, an ủy và mang lại ơn cứu độ, hầu giúp con người đủ sức đứng dậy sau mỗi lần sa ngã vì tội lỗi và yếu đuối (x. Evangelii Gaudium, số 44). Trong thánh lễ tại nhà trọ Mattha, đức thánh cha Phanxicô đã nói: “Chúa đến gần chúng ta để chữa lành các vết thương, ban cho con người đầy tràn ân sủng và tình yêu… Chúa là Thiên Chúa luôn luôn chiến thắng bằng cách ban cho những ân sủng đầy tràn, với lòng nhân hậu trìu mến và lòng xót thương vô bờ”.
Để dọn đường cho Chúa đến với con người thời nay, mỗi người tín hữu trước hết phải là con đường đích thực cho Chúa đến trong tâm hồn mình. Nói cách khác, chúng ta không thể dọn đường cho Chúa đến với người khác, trong khi mình lại trở nên vật cản lối bằng chính tội lỗi và lối sống trái nghịch với Tin Mừng.
Hai yếu tố căn bản giúp chúng ta trở nên ngôn sứ, vị tiền hô của thời đại hầu có thể chuyển đạt Tin Mừng và xây dựng cuộc sống an hòa, hạnh phúc:
* Khiêm Tốn
Yếu tố này giúp chúng ta nhận ra chỗ đứng, vai trò, khả năng và những giới hạn của mình. Chúng ta biết rằng mình vẫn còn đó những lỗ hỏng cần được tình yêu Chúa lấp đầy, những khúc mắc cần được giải gỡ và những tội lỗi mong Chúa thứ tha. Đàng khác, khiêm tốn làm cho chúng ta có thái độ bao dung, cảm thông và tha thứ những nỗi yếu hèn của người khác. Chúng ta xác tín rằng mình chưa phải là người hoàn thiện, mà là những người trên đường bước tới hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện (x. Mt 5, 48).
* Cầu Nguyện
Cầu nguyện là chiếc cầu nối thân tình giữa chúng ta với Thiên Chúa. Qua cầu nguyện, chúng ta trao trút cho Ngài các gánh nặng cõi lòng, phó thác cho Ngài những dự tính và cả những lỗi lầm. Hơn nữa, cầu nguyện giúp chúng ta không ngừng thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng trở thành nơi Chúa ngự, nhận ra sứ điệp Chúa muốn gửi trao trong ngày hôm nay và hun đúc khát vọng mang Tin Mừng đến với những ai chưa nhận biết Chúa.
Lạy Chúa, cuộc đời chúng con nhiều khi chỉ biết co cụm trên chính mình, lo vun đắp cái tôi ích kỷ mà quyên đi sứ mệnh của một người kitô hữu là trở nên con đường cho Chúa đến với con người và dẫn con người đến với nhau. Xin Chúa thanh luyện và đổi mới mỗi ngày để cuộc sống chúng con luôn là những con đường tin yêu và hy vọng cho thế trần hôm nay.
Hàng năm chính phủ địa phương thông báo dọn đường một vài lần. Gọi là dọn đường vì trước đó mấy tuần có thông báo gia đình nào muốn bỏ đồ phế thải cần mang ra bờ đường và sẽ có xe dọn đồ phế thải. Dọc hai bên đường có đủ vật dụng từ trong nhà ra đến ngõ. Thứ nào cho là vô dụng được khuân ra đường chờ xe đến lấy.
Gọi là dọn đường mà thực sự không phải là dọn đường; đúng ra là dọn rác ngoài đường. Có những đồ vật người này cho là rác, đồ phế thải, vô dụng; người khác lại cho là hữu dụng, còn tốt, nhặt lấy mang về nhà dùng. Phế thải hay hữu dụng do hoàn cảnh người xử dụng nó. Người biết dùng, cần dùng cho là tốt, cần giữ lại; người không biết dùng, cho là vô dụng, để chật chỗ, quẳng ra đường cho người nhặt rác dùm. Kẻ quăng ra, người nhặt vào. Rác rưởi đồ dùng trong nhà là thế. Xã hội nào cũng có rác. Người ta gọi rác xã hội là tệ đoan xã hội. Tương tự như rác ngoài đường. Có những tệ đoan xã hội người này cố gắng vứt bỏ, quyết tâm chừa, đến trung tâm cai nghiện nhờ giúp; kẻ khác lại tìm tòi, kiếm cho được những tệ đoan đó.
Tội lỗi làm cho con người ra xấu xa, gây đau khổ tang thương cho người khác được gọi là rác tâm linh. Tương tự như đồ dùng phế thải ngoài xã hội. Có những tội người lành thánh cố tránh, chiến đấu sinh tử để khỏi làm nô lệ chúng; lại có những Kitô hữu buông thả, chiều theo chúng, đi tìm tòi, tìm được dâng mình làm nô lệ cho tội. Tiên Tri Isaiah có thời cất tiếng vừa cảnh báo, vừa kêu gọi, đồng thời loan báo thời kì nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi được ân xá. Đừng phạm tội nữa hãy mau chạy đến cùng Thiên Chúa toàn năng xin xá tội để hưởng ân xá. Thời đó có nhiều người thống hối ăn năn. Tiếng kêu của tiên tri ngàn năm trước đây, hiện tại vẫn vang vọng và vẫn có người từ chối lắng nghe. Thời nô lệ đã qua tại sao vẫn còn có người cố bám víu, níu kéo cuộc sống nô lệ. Họ không muốn được tự do sao. Họ không muốn được ân xá sao.
Các bài đọc hôm nay đều dùng hình ảnh dọn đường để được ân xá, đón mừng Chúa Cứu Thế. Dọn con đường tâm linh cho ngay thẳng để thoát cảnh nô lệ tội lỗi, thói hư tật xấu, tính tình man dại, ham đam mê phù phiếm biến con người thành nô lệ cho chính mình và xã hội mình đang sống.
Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng Is 40, 3-4
Thư thứ hai của thánh Phêrô tông đồ dậy cách thức thoát mình khỏi tình trạng nô lệ tội lỗi. Tự mình không thể vùng vẫy thoát khỏi vòng cương toả, ràng buộc của tội và mọi thứ đam mê. Muốn thoát ra được cần trông cậy vào ơn Chúa. Thánh nhân dùng hình ảnh dọn đường đón Chúa bằng đời sống thánh thiện. Muốn người đổ rác dùm cần phải chọn lựa vất nó ra đường. Muốn dọn đường tâm linh cũng cần xin ơn Chúa soi sáng để biết loại tật xấu, liệt kê lỗi hư. Cần sống thánh thiện mới có thể và xứng đáng đón trời mới, đất mới khi Chúa xuất hiện. Để sống trong trời mới, đất mới, con người cũ không thích hợp, cần con người mới. Để trở thành con người mới cần phải lối sống mới bắt đầu từ tâm linh. Thay vì chạy theo ý riêng; thay vì làm nô lệ cho tội lỗi, thay vì làm nô lệ cho của cải, vật chất. Hãy thay đổi, chọn sống theo ánh sáng chân lí của Chúa, công lí và thánh thiện. Thánh Gioan không nói rõ bằng lời nhưng bằng hành động của ông.
Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần Mc1,7
Thánh nhân kêu gọi sống khiêm nhường. Không phải khiêm nhường bằng lời nói nhưng bằng hành động. Hành động khiêm nhường Gioan tự nhận là ông không xứng đáng cởi dây giầy cho Người đến sau ông. Đấng đó thì lớn lên, còn ông thì nhỏ đi, biến ra sau hậu trường cho Đấng đó lớn lên. Cởi dây giầy cho ai đó hẳn phải là hành động khiêm hạ tột bực. Gioan không ngại tuyên bố điều đó, rõ ràng, mạch lạc, vang dội nơi công cộng, giữa chốn đông người. Hành động khiêm nhường đó Gioan kêu gọi Kitô hữu học đòi, bắt chước. Chỉ những tâm hồn khiêm hạ như thế mới có thể thay đổi trở thành con người mới. Chỉ có con đường thống hối nhận ơn tha tội mới thay đổi biến ta thành con người mới, xứng đáng vào sống trong trời mới, đất mới.
Thời điểm bị khủng hoảng cũng là dịp để giúp chúng ta thay đổi, canh tân và bắt đầu lại. Khi mọi sự đang diễn ra suông sẻ, chúng ta thường ít nghĩ đến việc phải đổi thay. Giữa lúc thế giới có những xáo trộn, chúng ta có thể dễ dàng nghe được tiếng nói của những người đang cần đến chúng ta, để giúp họ vươn lên và sống đúng với phẩm giá đầy tròn của mình. Đây cũng là điều mà ngôn sứ Isaia đã làm đối với dân Chúa trong cuộc lưu đày bên Babylon, mà chúng ta sẽ nghe trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Vị ngôn sứ ngọt ngào nói với Israel, hay diễn tả theo kiểu cách văn hoa là Isaia đã “ngỏ lời bằng con tim của mình” về niềm hy vọng khi bình minh mới ló rạng. Đây là ngôn ngữ của những người đang chìm đắm trong yêu thương nồng nàn. Bình minh ló rạng sẽ khai mở một tin tức tốt lành lúc ban mai: Dân sẽ thoát cảnh lưu vong và được trở về cố hương. Một con đường dẫn ngang sa mạc sẽ đưa họ trở về Giêrusalem, về với quê cha đất tổ.
Nhiều người đi lưu đày, coi đó như một hình phạt do chính tội lỗi họ đã gây ra. Tuy nhiên vị ngôn sứ nói về “cánh tay mạnh mẽ của Đấng Thánh” không phải là đôi tay để giáng phạt. Trái lại, Thiên Chúa giang rộng vòng tay để thu gom đoàn chiên bị tản mát, để ôm ấp dân Ngài vào lòng cách trìu mến, và dịu dàng đưa dẫn họ trên con đường về lại quê hương. Đây chính là tin vui được công bố. Một Thiên Chúa uy quyền và mạnh mẽ lại là một Thiên Chúa nhân hậu, như một mục tử hiền lành, chăm sóc những con chiên bị thương tích và tật nguyền, dẫn chúng thoát khỏi nơi hoang vu, và đưa chúng đi vào đường lối của Ngài. Đó là một khởi đầu mới quá tốt lành.
Tuy nhiên, Gioan tiền hô cũng đã công bố một khởi đầu mới, nhưng xem ra có vẻ hơi nhức nhối và khó chịu. Gioan nói rằng, quà tặng thứ tha đến từ Thiên Chúa, chỉ được trao ban cho những ai nhận thức được tội lỗi mình và biết trải lòng ra để Thiên Chúa lau rửa sạch sẽ. Sự khởi đầu mới này đã được đón nhận bởi đám đông khi họ đến nghe Gioan rao giảng, và được thanh tẩy bằng Thần khí. Câu văn đầu tiên, mà Marcô đã viết trong trình thuật “ Khởi đầu Tin Mừng”, vọng lại âm hưởng những dòng đầu tiên trong sách Khởi nguyên. Marcô muốn gợi lên nơi chúng ta niềm hy vọng vào Thiên Chúa, đấng đang thực hiện một khởi nguyên mới khi Đức Giêsu đến. Đó là một cuộc tạo dựng mới, được bắt đầu ngay hôm nay, ngay bây giờ, mỗi khi chúng ta trở về với Chúa và biết biến cải tâm hồn chúng ta đi theo đường lối chính trực và ngay lành.
Bài đọc thứ hai cũng nói về sự mới mẻ mà chúng ta đang đợi chờ. Thánh Phêrô dùng hình ảnh “trời mới, đất mới” để khải thị điều này. Nhiều bản văn Kinh thánh cũng nói về một cuộc tạo dựng mới tương tự, ( như trong Is 65,17; 66,22; Kh 21,1; 2 Cor 5,17; Gal 6,15). Tuy nhiên chỉ trong lá thư thứ hai của Thánh Phêrô, vị tông đồ đã phác vẽ một viễn cảnh cánh chung bao gồm cả sự hủy diệt và khóa sổ vũ trụ, trước khi khai mở một tạo dựng mới. “Các tầng trời sẽ bị thiêu hủy và ngũ hành chảy tan ra trong lửa hồng” (2P 3,12). Quan niệm này bắt đầu xuất hiện ở Ba-tư, dần trải rộng sang vùng theo văn hóa Hy - La. Nhiều lần, chính chúng ta cũng mong muốn Thiên Chúa thực hiện một điều gì đó xem ra có vẻ bi thiết giống như vậy, để khởi đầu lại, và xóa sạch mọi vết tích cũ. Tin Mừng được công bố, chính là việc Thiên Chúa, cho dù đã thực hiện những việc bi ai, nhưng Ngài biến đổi vũ trụ, thiết định một tạo dựng mới xuyên qua những dạng thức bi ai này. Tuy nhiên, Thiên Chúa thực thi những công trình của Ngài, không phải với phương cách hủy diệt đầy phẫn nộ và tàn bạo. Ngài chỉ mong muốn mạnh mẽ lôi kéo mọi con tim sắt đá và chai cứng đến sát bên Ngài, để những tâm hồn tội lỗi đó được tẩy luyện trong máu Đức Giêsu. Đây là cách thái thông thường, tuy cũng khá đặc biệt, mà Thiên Chúa thường hay sử dụng. Ngài dùng sự Khôn Ngoan linh thánh nhập thể nơi vũ trụ, để biến đổi hoàn vũ cũng như biến đổi tâm hồn chúng ta.
Đối với một số người, cần phải có một thời gian dài để mở toang cánh cửa tâm hồn cho tình yêu Thiên Chúa chiếm ngự và biến đổi. Một số khác, lại rất nhạy bén và nhanh chóng quy thuận để bước theo chỉ dẫn của Ngài. Thiên Chúa hứa thực hiện một khởi đầu mới nơi ta, nhưng nhiều khi ta vẫn nghĩ tưởng là Ngài chậm trễ hay trì hoãn. Không phải Ngài chậm trễ, mà là chính chúng ta, chúng ta không thiết tha hay cứ mãi chần chờ. Bài đọc thứ hai hôm nay bảo đảm rằng, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn và không theo những gì chúng ta hoạch định cho hôm nay hay cho ngày mai. Đối với Chúa, một ngày cũng như ngàn năm và ngàn năm cũng như một ngày. Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng nhiều người vẫn nghĩ Thiên Chúa quá chậm chạp, song thực chất Ngài luôn kiên nhẫn đợi chờ, chỉ vì muốn lôi kéo chúng ta đến với tình yêu Ngài, để tình yêu đó biến đổi và tái tạo cuộc sống mới nơi chúng ta.
Các bài đọc hôm nay trình bày cả hai chiều kích năng động, một từ phía Thiên Chúa, và một từ phía con người. Thiên Chúa mong muốn thực hiện nơi ta những khởi đầu mới nhưng Ngài sẽ bất lực không làm được, nếu chúng ta không đáp trả và cộng tác. Chúng ta phải nhận ra rằng Chúa đang đến, và chúng ta cần phải biết trải lòng mình ra đón chờ Chúa đến. Bài đọc thứ nhất và cả bài đọc thứ hai hôm nay đều mời gọi chúng ta đi vào sa mạc để thực thi điều ấy. Sa mạc biểu thị cả hai trạng huống tương phản. Đó vừa là nơi hoang vắng đầy khiếp hãi, đồng thời sa mạc cũng là nơi Thiên Chúa thân tình đến gặp gỡ và trao ban ân sủng cho con người. Từ trong sa mạc nội tâm nơi mỗi người chúng ta, vẫn luôn vang vọng điệp khúc của hy vọng, đem đến cho chúng ta những tin tức tốt lành. Đó là tin tức về tình yêu của Thiên Chúa không bao giờ vơi cạn, và cả khi chúng ta cảm thấy tâm hồn mình cằn cỗi, thiếu vắng tình yêu, ơn Chúa vẫn luôn đủ để giúp chúng ta “bắt đầu lại”.
Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài luôn sáng tạo và tìm đủ mọi cách thế thể hiện tình yêu thương đối với nhân loại chúng ta. Chúa nhật hôm nay, Phúc âm trình bày cho chúng ta việc Thiên Chúa sai Gioan Tiền Hô đến giúp con người nhận ra, sửa đổi thái độ sống và chỉ dẫn người ta can đảm bước đi trên con đường của Ngài để đón nhận tình thương Thiên Chúa.
Dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến. Dọn đường nghĩa là sửa lối đi, là dẹp bỏ những gì không thích hợp, là gia tăng hy sinh, là phá đỗ những thứ vướng bận, những vướng mắt, những điều không thích hợp cho cuộc sống mình...Những vướng bận này cản trở ta đến với Chúa. Mang tâm tình đón Đấng Cứu Thế chúng ta hãy dọn lòng của mình cho bớt bất xứng.
Người Do thái hưởng ứng lời kêu gọi "dọn đường" của Gioan Tiên Hô bằng việc chịu phép rửa trong dòng sông Giorđan. Họ từ bỏ thói xấu, từ bỏ nếp sống cũ để sống cho lời mời gọi mới, sống bác ái yêu thương. Hơn nữa, Gioan Tiền hô còn mời gọi mọi người dọn đường bằng thái độ tin yêu và đón nhận Chúa Giêsu: "tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, con Ngài, Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần".
Dọn đường còn là hối cải, là trở về với Thiên Chúa tình thương. Ý thức Ngài đang yêu thương và chờ chúng ta hối cải, trở về để sống tâm tình con ngoan, đón nhận tình thương của Thiên Chúa. Dọn đường hay đúng hơn là dọn lòng mình thoát khỏi ách thống trị tội lỗi để xứng đáng cho Chúa đi vào tâm hồn chúng ta, Chúa đi qua cuộc đời chúng ta. Chúng ta hưởng nhờ tình thương tha thứ và sự cứu độ của Thiên Chúa.
Dọn đường còn thể hiện ở việc lời nói đi đôi với hành động. Gioan rao giảng không chỉ bằng lời mà còn mà chính đời sống dọn đường của mình. Lối sống của ông nên một dấu hiệu, một gương mẫu để thức tỉnh dân chúng trước các biến cố đang xảy đến và còn thể hiện tâm tình đối với Thiên Chúa yêu thương nhiệm mầu. Cách ăn mặc nói lên thái độ sám hối. Ông đã thoát khỏi bản thân, thoát ra khỏi vòng ràng buộc đầy phiền toái của xã hội Do thái và những bận tâm quá đáng của họ về đời sống vật chất. Gioan muốn người ta quy hướng về Chúa Kitô, sống và làm chứng cho Chúa Kitô. Đời sống của ông là một bằng chứng xác thực về tình yêu, lòng trung thành và chờ đợi Chúa kitô.
Cuộc sống người Kitô cũng là một mùa vọng chờ đợi Chúa trở lại. Trong đó, mỗi người là một Gioan Tiền Hô, và mọi người cũng có sứ mạng tiền hô. Lòng thống hối thực sự phải phát xuất từ tâm tình bên trong của con người, tinh thần và thái độ cụ thể như sửa lại cho thẳng những lối đi quanh co tăm tối của con tim, bạt xuống cho bằng các đồi núi kiêu căng, lấp đầy lòng bác ái yêu thương. Thống hối còn là một sự đổi mới, đổi mới toàn diện, đổi mới liên tục. Mùa vọng này, Người kitô hữu được kêu gọi đáp lại việc canh tân đời sống bằng chính việc từ bỏ con người cũ, lối sống cũ,...để sống con người mới. Hãy quan tâm đến người khác, sống bác ái, giúp đỡ tha nhân, chia sẽ tình thương và của cải vật chất cho mọi người....
Gioan Tiền hô đã loan báo: "Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế". Chúng ta hãy hưởng ứng thực hiện để làm cho nhân loại đi trong tình yêu Chúa Kitô, cho xã hội hưởng tình yêu cứu độ và chính bản thân chúng ta tìm được nguồn bình an, chân lý và ơn cứu độ của Thiên Chúa được phát triển dồi dào.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết lắng nghe Lời Chúa dạy qua Gioan Tiền hô, can đảm dọn lòng mình và can đảm sống cho Chúa vì tình yêu thương. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Marcô thuật lại việc Chúa Kitô đến loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa rằng: đã đến giờ Thiên Chúa thực hiện công trình cứu độ là giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi, và kéo nhân loại về với Chúa Cha. Tin Mừng mà các Tiên tri loan báo, dân Israen đang mong chờ ngày được thực hiện. Dân Israen biết rằng Đấng Thiên Chúa sai đến thực hiện là Đức Kitô.
Thánh Marcô còn cho chúng ta biết Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã đến và cũng cho biết Thiên Chúa đang sử dụng những tháng ngày sau cùng của chương trình Cựu Ước là sai Tiên tri loan báo để dọn đường cho Chúa Kitô xuất hiện.
Vị Tiên tri sau cùng của Cựu Ước là thánh Gioan Tẩy Giả được thánh sử mô tả, giới thiệu cho chúng ta biết chân dung khổ hạnh của người: mặc áo lông lạc đà, thắt đai lưng bằng da thú, thức ăn là châu chấu và uống mật ong rừng. Sống tu trì, khổ hạnh nhiều năm trong sa mạc, bây giờ người xuất hiện trên dòng sông Gióc-đan miền Giê-ri-cô, nơi chỗ nước cạn gọi là Bêthabara, giảng dạy cho dân về sự– sự ăn năn và kêu gọi dân chúng quay trở về với Chúa. Nhiều người đã chịu phép rửa của ngài.
Thánh Marcô nhấn mạnh đến việc rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, là Đức Kitô sắp đến, uy quyền hơn thánh nhân; có giá trị cao vời đến nỗi thánh nhân không xứng đáng làm người đầy tớ, làm nô lệ, không đáng cởi dây giày cho Người. Đức Kitô sẽ đến thanh tẩy dân trong Thánh Thần.
Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân chúng chuẩn bị đón Chúa Kitô đến, và Chúa Kitô đã đến thực sự làm ứng nghiệm lời Tiên tri Isaia đã loan báo. Này Ta sai thần sứ Ta đi trước mặt Người, dọn đường cho Người. Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi. Nếu Chúa Kitô không đến, thì lời rao giảng của thánh Gioan trở nên mơ hồ. Vì thế, công việc chính của thánh Gioan, mục đích chính của cả cuộc đời thánh nhân là chuẩn bị và giới thiệu Chúa Kitô, cho dân biết phải thanh tẩy, phải từ bỏ đường tà và quay về với nẻo chính đường ngay, phải từ bỏ mọi chướng ngại là tội lỗi. Chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến.
Ngày nay, tiếng nói của thánh nhân vẫn có giá trị, vẫn vang vọng lên mãi mọi nơi và được Hội Thánh nhắc lại trong Mùa Vọng - Mùa Chúa đến. Việc làm trước tiên của chúng ta là phải thống hối. Chúa sẽ đến với ta khi ta biết thống hối. Vì thế, chúng ta cần phải noi gương thánh Gioan trang bị cho mình những đức tính cần thiết như: từ bỏ xa hoa xét ra không cần thiết, khiêm nhường trước mặt Chúa và mọi người, sống yêu thương và phục vụ. Người nào sống xa hoa, phung phí tiền bạc, không đọc và suy gẫm Kinh Thánh, không có lòng khiêm nhường, chưa nói về Chúa cho người khác biết và chưa sống cuộc đời của thánh Gioan, thì cần phải xem lại bản thân. Hãy bạt cho bằng những gồ ghề nơi tâm hồn, hãy sửa cho thẳng những quanh co, gian dối, xảo trá, những bất công, bất hòa trong cuộc sống, hãy lấp cho đầy những hố sâu ngăn cách. Hội Thánh còn mong muốn chúng ta chẳng những nghe lời thánh Gioan, mà còn truyền lời thánh nhân lại cho mọi người. Vai trò của thánh nhân nay trao lại cho mỗi người chúng ta là:
“Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa lối cho thẳng để Người đi”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, cuộc đời mỗi người chúng con đều có một con đường riêng biệt. Mỗi người theo con đường của mình để nhắm về cùng đích là Thiên Chúa. Nếu chúng con nhắm đúng đích, dấu chỉ con đường chúng con đi là ngay thẳng. Chỉ có con đường thẳng, nhắm đúng đích mới dẫn chúng con đến bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu là Nước Trời. Lạy Chúa, bản tính chúng con được dựng nên thuở ban đầu tự nhiên hướng về con đường thẳng là: Chân-Thiện-Mỹ. Thế nhưng, nhiều khi chúng con bị lầm tưởng, chúng con bị mê hoặc bởi những cái đẹp giả tạo, cái thiện ảo tưởng nên chúng con nhắm không đúng đích, vì thế con đường chúng con đi trở thành quanh co và không đón nhận được ơn cứu độ.
Xin Chúa ban Thánh Thần của Người đến sửa lại con đường quanh co nơi tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con gặp được Đức Kitô là Đấng đem lại nguồn ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
Khi đón một khách vị vọng, chúng ta chuẩn bị mọi sự cho tươm tất, cho đẹp mắt. Điều chúng ta nghĩ đến trước hết là đường xá. Đường xá phải sạch sẽ, phải bằng phẳng để cuộc đón tiếp được diễn ra cách dễ dàng và thuận tiện. Ngày lễ Giáng Sinh là ngày đến của vua trên hết các vua nên hôm nay Gioan Tẩy Giả nói với mỗi người chúng ta: “ Hãy sửa đường lối cho Chúa.”Thánh Gioan cũng cho chúng ta biết phải sửa đường Chúa đến như thế nào? Và phải sống trong tư thế nào để có thể đón nhận ơn Cứu Độ. Trong mùa vọng Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Gioan là luôn sống trong tư thế sẵn sàng để chờ đón Con Thiên Chúa đến.
Giáo Hội dùng bài Tin Mừng này để nhắc nhở chúng ta: Chúa đã đến rồi và chúng ta chờ đợi Ngài đến lần thứ hai. Qua lời rao giảng của Gioan, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta phải sửa lại đời sống bằng cách chỉnh đốn lại tâm tình, cách ăn ở của chúng ta sao cho phù hợp với ý Chúa. Phải sống khiêm tốn tự hạ là bạt những núi đồi kiêu căng, tự mãn,tham vọng trần tục. Nó là những chướng ngại vật ngăn chặn chúng ta đến với Chúa, Đấng khiêm hạ và triệt hạ kẻ kiêu căng. Phải uốn lại những con đường quanh qoeo bằng cách chết cho những đăm mê và những sự xấu xa là lối sống gian dối, ích kỷ để sống bác ái yêu thương. Hãy lấp đầy những hố sâu của những bê trễ, lười biếng, khô khan, hững hờ, nhút nhát, thiếu sót đối với Chúa và với anh em. Nếu những thung lũng không được lấp đầy nó sẽ đưa con người đến chỗ thất vọng.
Trước khi trở thành tiếng hô của Chúa, trở thành người dọn đường thì Gioan đã lui vào trong sa mạc để gột rửa mình. Sa mạc là nơi thường diễn ra những trận chiến khốc liệt. Ở đó con người phải vật lộn với thú dữ, phải đối đầu với những thử thách của sinh tồn, phải chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết, phải chịu đói chịu khát…Nhưng trong thử thách đó con người được thanh luyện để sống thân tình với Chúa. Ở đây Gioan đã sống cuộc sống với tất cả ý nghĩa đó: Ông mặc áo lông lạc đà, thắt giây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Ông đã sống tinh thần khổ chế này để tỏ lòng thống hối và sống phó thác cho tình yêu của Thiên Chúa. Từ lối sống nhiệm nhặt để thanh luyện mình, ông đã nghe được tiếng hô của mình trong sa mạc. Từ kinh nghiệm cuộc sống, ông sẽ biết phải hô thế nào để dân chúng nghe được tiếng hô của mình. Bình thường trong sa mạc hoang vắng ít người lui tới nên Gioan đã hô cho chính mình trước để từ mình tiếng hô vang xa.
Muốn nghe được tiếng Chúa người ta phải vào sa mạc để tránh những tiếng động làm nhiễu nhương tiếng gọi từ bên trong: truyền hình, truyền thanh, điên thoại, Fax, internet, tạp chí và những tiếng ồn ào bên trong…Trong đó có những lời mời gọi đầy quyến rũ của thế tục làm chúng ta xao lãng. Có những tiếng nói của đăm mê phát xuất từ bên trong rất to, rất mạnh mẽ, rất kiên trì để lừa lọc chúng ta. Trái lại, trong những ồn ào mãnh liệt đó tiếng Chúa rất nhỏ, rất đơn điệu, rất dễ bị cuốn trôi trong thác lũ của thế gian và chìm trong tiếng hỗn độn của đời sống hằng ngày. Chúng ta sẽ không nghe được tiếng Chúa giữa những tiếng sóng ầm vang dội đó. Vì tiếng âm thầm nhẹ nhàng của Ngài chỉ được lắng nghe trong cô tịch, trong thinh lặng, trong nơi thanh vắng. Và chỉ những người mong mỏi sống với Chúa, kiếm tìm Ngài mới có thể nghe tiếng Ngài. Ngài có thể đến gặp gỡ con người cách rất bất ngờ để hoàn tất dự phóng của Ngài, nhưng biến cố này vẫn diễn ra cách rất âm thầm và lắng đọng với những con người luôn trong tư thế sẵn sàng thực hiện thánh ý Ngài.
Tiếng kêu của Gioan trong sa mạc là tiếng vọng lại lời loan báo của các ngôn sứ là khiêm tốn xưng thú tội mình, bằng cách lãnh nhận phép rửa, dìm mình xuống dòng sông, dấu chỉ nhấn chìm mọi tội lỗi, mọi nhơ nhớp, để khi bước ra khỏi nước, bắt đầu một cuộc sống mới, cuộc sống được Chúa thứ tha mọi lỗi lầm va được giao hòa với Thiên Chúa.
Thái độ sám hối mà thánh Gioan mời gọi chúng ta là can đảm đi ngược giòng đời, khước từ tội lỗi và từ bỏ tất cả những gì lôi kéo chúng ta vào đường tội lỗi. Người Ki-Tô Hữu phải can đảm không chạy theo tâm thức tôn thờ vật chất, khoái lạc, dễ dãi, để không bị sa lày.
Ở đây Gioan chỉ cho chúng ta cách dọn đường bằng một kỹ năng sống: “ Hãy sám hối để được ơn tha tội.” Sám hối mà Gioan đề cập ở đây là giã từ một quá khứ hay một lối sống lầm lạc, để mở ra một lối sống mới. Hoán cải là cảm nhận được lòng yêu thương vô cùng của Chúa đã tha thứ cho chúng ta vô điều kiện. Từ đó nẩy sinh tình yêu và biết ơn vô cùng đối với Đấng thương xót, tha thứ và cứu độ. Đây là một cuộc gặp gỡ đích thực với Thiên Chúa, vì khi sám hối thực, chúng ta muốn giã từ những điều sai trái, muốn đền bù, muốn chia sẻ và muốn đề đáp tình yêu bị xúc phạm bao nhiêu có thể. Chúng ta sẽ hi sinh đến độ anh hùng để chuộc lại lầm lỗi. Nên thống hối là quyết định cần thiết dẫu phải mất mát, phải đổi đời, phải lột xác. Không một cuộc lột xác nào mà không phải đau đớn. Một thanh sắt bị bẻ cong muốn thẳng lại phải chịu đi qua lửa. Một con sâu ghê gớm muốn trở thành con bướm bay lược trên không khí trong lành cũng phải trải qua thời kỳ lột xác. Con người muốn được đổi mới cũng phải trải qua thời gian thanh luyện.
Do đó mà hoán cải theo ngôn sứ Ezekiel là biến đổi tận gốc, là sự tái sinh, là đổi mới trái tim (x. Ed 36, 25-29).Khi tâm hồn không trong sạch, trái tim chưa được biến đổi, thì những việc tốt đẹp bên ngoài chỉ là giả hình, chỉ là mặt nổi để khoe khoang, để tự đắc vì được thực hiện bởi động lực xấu.
Như thế thời gian mùa vọng này không phải là thời gian buồn nhưng là thời gian vui mừng, dẫn đến một ngày lễ đầy hồng phúc, ngày Chúa Ki-tô trở lại trong ánh sáng hạnh phúc viên mãn của tình yêu. Niềm vui này phải sống động, vì hoán cải và niềm vui luôn song hành với nhau. Lời mời gọi sám hối là lời mời gọi trả lời cho hồng ân cứu độ mà Thiên Chúa. Vì nếu tất cả được Thiên Chúa cho chúng ta cách kỳ diệu thì Ngài cũng xin chúng ta dấn thân vào màu nhiệm của Ngài.
Trong mùa vọng này, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về ngày Chúa đến trong tâm tình sám hối. Ngày Chúa đến với mỗi người đã gần kề. Với sự khẩn cấp như thế thì tất cả mọi chi tiết trong cuộc sống phải mang một giá trị mới. Mỗi chi tiết phải có ý nghĩa. Phải tỉnh thức như Gioan ở trong sa mạc, nơi lưu đày, nơi nô lệ.
Để thức tỉnh lòng dân Gioan đã làm phép rửa trong sông Giodan, nơi biểu tượng cuộc chiến chống lại sự chết. Và chỉ có Chúa Giê-su mới giải thoát chúng ta khỏi sự chết. Chúng ta thấy Gioan ăn mặc như nhà khổ hạnh dấu chỉ của sự sám hối. Thức ăn của Ngài là châu chấu để nhớ lại những đau khổ thời lưu đày( Xh 10,1-20), và mật ong để nhớ lại thời hạnh phúc khi vào đất hứa( Xh 3,8). Ngài là gạch nối giữa quá khứ và tương lai của dân thánh. Chính Ngài chỉ Đấng sẽ đến như mặt trời làm lu mờ mọi ánh sáng, như chủ thật sự. Đấng ấy không đề nghị một phép rửa thuần túy nhưng là một sự tái sinh mới( Ga 3,5). Vì với Ngài nước trở thành lửa( Ga 7, 37-38). Tất cả chi tiết đời sống chúng ta phải đi theo sứ điệp này để dọn đường cho Chúa đến.
Thánh Phanxico de Sale dạy chúng ta:Chúa chúng ta đã đến gần nên phải sửa sang đường lối cho Ngài.
Sống mùa vọng là hướng về việc Chúa trở lại bằng tinh thần sám hối ăn năn của người đã có kinh nghiệm về lòng nhân hậu của Thiên Chúa và kế hoạch yêu thương của Ngài trên cuộc đời mình, qua những hoàn cảnh và biến cố của cuộc đời, để có thể nhìn thẳng vào những thiếu sót, những khuyết điểm và những nết xấu của mình, để khẩn khoản van nài Chúa đến giải thoát. Ý thức thân phận yếu đuối dòn mỏng của mình chúng ta khát khao mong chờ Chúa đến. Chúa sẽ giúp chúng ta sống khiêm nhu, nghèo khó để có thể trở thành tiếng kêu cho chính mình và cho anh em của chúng ta trong mùa hồng phúc này.
Alfred Nobel được biết tới như người cổ súy mạnh mẽ cho hòa bình, chống lại chiến tranh. Nghiệt ngã thay, các sản phẩm sáng tạo nổi tiếng nhất của Nobel lại là thuốc nổ, những công trình nghiên cứu chấn động với chất nitroglycerine và các loại thuốc nổ khác.
Khi tạo ra thuốc nổ, Nobel chưa từng nghĩ rằng các phát minh của ông rồi sẽ được dùng để phục vụ chiến tranh. Tuy nhiên khả năng tàn phá của thuốc nổ nhanh chóng được biết tới và người ta đã đưa chúng vào sử dụng trong chiến tranh.
Vô tình năm 1888, tờ báo Pháp đăng tin nhà khoa học phát minh ra chất nổ Alfred Nobel qua đời với dòng tin:
“Tiến sĩ Alfred Nobel, người trở nên giàu có nhờ tìm cách giết người nhanh hơn bao giờ hết, đã qua đời hôm qua”. Tờ báo dành cả trang để đăng bài cáo phó với ngôn từ mỉa mai Nobel, “tưởng nhớ” ông như một “kẻ buôn bán tử thần”. Nhưng người chết khi đó là anh trai ông, Alfred Ludvig.
Bàng hoàng trước nhận định ấy, Nobel quyết định sử dụng tài sản tặng thưởng cho những thành tựu đem lại lợi ích cho nhân loại. Theo di chúc của Nobel, giải này sẽ chỉ được trao cho những con người có công lao gây dựng tình anh em giữa các quốc gia, giúp xóa bỏ hoặc giảm bớt quy mô quân đội thường trực và cổ súy cho các hội nghị hòa bình.
Người ta nói rằng Alfred Nobel là một con người đã biết thức tỉnh và trở về trong sám hối. Dù rằng phát minh của ông không mục đích giết người nhưng gián tiếp để phục vụ chiến tranh gây nên những cái chết tang thương, thế nên, ông đã sám hối và dùng toàn bộ tài sản ấy để cổ súy cho hòa bình yêu thương.
Cuộc đời vẫn có những sai lầm, điều quan trọng là biết nhận sai và sửa sai. Dẫu có muộn màng vẫn hơn. Dẫu có tái phạm vẫn can đảm sửa chữa và không cố tình ở lỳ trong tội.
Thánh Gioan Baotixita là sứ giả của Thiên Chúa. Ông đến để sửa lại lỗi lầm cho con người. Ông đi trước Chúa để uốn lại lòng dân. Ông dọn lại những gồ ghề trong tâm hồn con người bởi những tham sân si. Ông sửa lại con đường để Chúa đến bằng việc sám hối ăn năn. Có bao nhiêu con người là có bấy nhiêu lối đi. Lối đi nào cũng có thể có sai lầm. Lối đi nào cũng có cạm bẫy giăng đầy.
– Có con đường giăng kẽm gai là con đường của những kẻ thù hận nhau, ngăn chận những tương giao qua lại.
– Có con đường đầy ổ phục kích: con đường của những kẻ cạnh tranh nhau, chờ cơ hội để hại nhau. – Có con đường sa mạc nóng bỏng: con đường của những kẻ khô khan việc đạo. – Có con đường quanh co: con đường của những kẻ lọc lừa dối gian. – Có con đường hầm u tối: con đường của những kẻ sống trong tội lỗi. – Có con đường cỏ dại mọc đầy: con đường của những kẻ không vướng mắc tội nặng nhưng còn rất nhiều tội nhẹ …vv…và….vv…
Gioan đã mời gọi con người dọn đường Chúa đến bằng sám hối. Sám Hối là thú nhận lỗi lầm, và hứa không tái phạm. Sám hối là hành động của bản thân biết nhìn ra tội lỗi của mình mà sửa đổi, mà canh tân. Không có sám hối sẽ không có những cuộc canh tân làm thay đổi đời sống và môi trường sống. Chính nhờ sám hối và bản thân được thăng tiến, môi trường cũng được đổi thay thêm xinh đẹp hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta biết nhìn lại những yếu đuối của bản thân mà sám hối ăn năn. Xin Chúa nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta và giúp chúng ta can đảm sửa lại lối sống theo tin mừng để xứng đáng đón mừng Đại lễ giáng sinh sắp đến. Amen Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Thánh Thần – Đấng làm tất cả những sự khác biệt. Gioan đã rao giảng một phép rửa sám hối tội lỗi, nhưng ông hứa rằng có ai đó “cao trọng hơn” đang đến – người ấy là Đấng sẽ đổ đầy Thánh Thần trên chúng ta (Mc 1,7). Như thế, sự khác biệt đó là gì vậy?
Phép rửa của Gioan tập trung vào quá khứ, vào sự tha thứ tội lỗi đã phạm. Ngài muốn người ta đặt quá khứ qua một bên. Có Thánh Thần, Người hướng đến tương lai. Người sẽ đến để uốn nắn chúng ta và định hình chúng ta, để dẫn chúng ta vào trong vương quốc thiên đàng.
Phép rửa của Gioan nhắm một mục đích: vì sự tha thứ của chúng ta. Nhưng Thánh Thần có nhiều mục đích. Người mạc khải tình yêu của Thiên Chúa cho chúng ta. Người giúp chúng ta hiểu Thánh Kinh. Người dạy chúng ta phải sống thế nào như anh chị em với nhau. Người liên kết Giáo Hội và lay động chúng ta làm việc cho vương quốc của Thiên Chúa. Và như thế còn nhiều mục đích hơn nữa.
Khi chúng ta chịu phép rửa trong Chúa Kitô, chúng ta nhận được các phúc lành. Tội lỗi của chúng ta được tẩy sạch và chúng ta nhận lãnh Thánh Thần. Đức Giêsu không muốn chúng ta để lỡ mất bất cứ điều gì! Tất cả được bao bọc trong một món quà, cái mà chúng ta gọi là “hạt giống đức tin”. Nếu chúng ta muốn nhìn thấy những phúc lành này tỏ lộ trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta cần phải luôn chăm sóc và nuôi dưỡng hạt giống này.
Một sự so sánh tương tự đơn giản có lẽ dễ hiểu ở đây. Lý do chính yếu mà hầu hết chúng ta thực hiện một chế độ ăn kiêng lành mạnh là để giảm cân, nhưng có quá nhiều điều xảy ra khi chúng ta thay đổi các thói quen ăn uống. Đúng vậy, cân nặng giảm sút. Nhưng các mức độ cholesterol cũng được cải thiện. Hệ thống miễn dịch của chúng ta mạnh mẽ hơn. Chúng ta cảm thấy có nhiều năng lực hơn và chúng ta ngủ ngon hơn. Chúng ta chỉ muốn giảm cân, nhưng toàn bộ cuộc sống của chúng ta đã được thay đổi.
Đây là những gì xảy ra khi chúng ta chăm sóc cho hạt giống đức tin của chúng ta. Không chỉ chúng ta cảm nghiệm về sự tha thứ của Thiên Chúa nhưng chúng ta còn mời Thánh Thần đến làm việc trong mọi ngõ ngách của cuộc sống của chúng ta. Chúng ta cảm thấy tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta trở nên đáng yêu hơn.
“Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã ban cho con quà tặng là Thánh Thần! Lạy Chúa xin giúp gia tăng niềm tin hơn nữa”.
Theo the Word Among us
Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
Chủ đề Chúa nhật thứ I mùa Vọng là “Hãy tỉnh thức chờ đợi Chúa đến”. Chúa sẽ đến là một điều chắc chắn, nhưng trước khi Chúa đến, mọi sự phải được chuẩn bị sẵn sàng. Ngay từ thế kỷ thứ 6, tiên tri Isaia đã hô hào cho dân chúng hãy sửa đường cho Chúa đến (bài đọc I). Sau này, Gioan Tẩy giả xuất hiện, cũng tiếp nối sứ vụ tiền hô ấy, ông cũng khuyên mọi người như Isaia xưa : “Có tiếng hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi”.
Chuẩn bị đường cho Chúa đến là phải sửa đường cho thẳng, cho tốt đẹp, sạch sẽ. Theo thánh Gioan Tẩy giả, sửa đường chính là sám hối, là canh tân cuộc sống của mình để xứng đáng đón nhận Chúa đến trong ngày Ngài quang lâm và nhất là trong ngày sau hết của đời mình.
II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Is 40,1-5.9-11.
Đoạn trích phần thứ hai của sách Isaia, được gọi là Sách An ủi, cho biết : Thời nô lệ của Israel đã chấm dứt, Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho dân. Ngày xưa vì đã phản bội Giao ước, đã phản bội Chúa nên Thiên Chúa đã cho họ bị lưu đầy. Nay dân Chúa đã biết hối lỗi, Thiên Chúa ân xá cho họ và sẽ đưa họ về quê cha đất tổ. Việc loan báo này được coi như là loan báo Tin mừng cứu độ.
Ngày xưa, Thiên Chúa đã dẫn cha ông họ trong sa mạc đề về đất hứa, ngày nay Thiên Chúa cũng dẫn họ qua sa mạc để về lại quê cha đất tổ. Cuộc xuất hành lần thứ hai này không những chỉ là thời gian thử thách mà còn là thời gian tinh luyện , vì thế, mới có tiếng người hô trong sa mạc : hãy dọn đường cho Chúa đến.
Không những Thiên Chúa đã giải thoát dân mà Ngài còn yêu thương họ như mục tử nhân lành chăn dắt đàn chiên mình : “Ngài ẵm chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng trong lòng và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ”.
+ Bài đọc 2 : 2 Pr 3,3,9-14.
Các Kitô hữu đầu tiên cứ tưởng rằng ngày Chúa trở lại trần gian sắp đến. Thức lâu chầu mỏi, họ đâm ra chán nản, không tha thiết gì đến việc dọn đường cho Chúa. Nhưng thánh Phêrô cho biết sở dĩ Chúa chậm đến là vì Ngài nhẫn nại, ban thêm thời gian cho kẻ tội lỗi ăn năn sám hối.
Chúa đã hứa thì Ngài sẽ thực hiện. Chắc chắn Ngài sẽ đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, còn ngày giờ nào thì chưa ai biết. Ngài sẽ đến để đem đến trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị. Còn việc phải làm ngay trong lúc này là mọi người phải sống thánh thiện để đón chờ Chúa đến : “Trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Ngài thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an” (2 Pr 3,14).
+ Bài Tin mừng : Mc 1,1-8.
Đấng Messia mà Cựu ước loan báo chính là Đức Giêsu, Ngài sẽ đến. Nhưng trước khi Ngài đến cần có người đến trước chuẩn bị. Đó là Gioan Tẩy giả, ông đến dọn đường cho Ngài. Ông đã chọn nơi cô tịch nơi hoang địa để thi hành sứ vụ, nhằm tránh xa chốn ồn ào của thành phố, giúp cho lời nói của ông được người đời nghe rõ hơn và dễ thấm nhập nơi nội tâm con người.
Ông cũng lặp lại lời tiên tri Isaia hô hào cho dân chúng thực hiện : “Có tiếng người hô trong hoang địa, hãy dọn đường cho Chúa đến”. Ông thực sự là tiền hô rao giảng sự thống hối chờ đợi Chúa đến. Qua nếp sống gương mẫu của ông, từng đoàn người kéo đến bờ sông Giordan chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Theo thánh Gioan, việc dọn đường cho Chúa là lòng sám hối và lãnh nhận phép thánh tẩy. Ông khuyên tất cả mọi người hãy từ bỏ con đường tội lỗi mà trở về đường lành, và lúc đó mọi người sẽ xứng đáng hưởng ơn cứu độ,
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Dọn đường là sám hối
I. CÔNG VIỆC DỌN ĐƯỜNG
Ngày nay, kinh tế phát triển mạnh, giao thông là yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế của một nước. Muốn cho giao thông tốt phải có đường tốt, muốn có đường tốt thì phải sửa chữa và bảo trì như : đường bộ, đường hàng hải hay đường hàng không. Sửa đường là một việc thường xuyên phải thực hiện để giao thông được dễ dàng.
Có nhiều con đường
– Con đường vật lý là những con đường làm bằng vật chất mà ta phải xử dụng hằng ngày để sự giao thông vật chất được dễ dàng. Những con đường này rất nhiều, rất đa dạng, ở đâu cũng có. Chỗ nào không có đường thì giao thông bị bế tắc.
– Con đường tinh thần là con đường vô hình trong việc giao lưu giữa con người với con người . Đây chỉ là con đường vô hình, siêu vật chất nhưng cũng có lúc bị tắc nghẽn hay bị cắt đứt làm cho sự giao lưu giữa con người gặp khó khăn ví dụ : hai người ngồi gần kề nhau mà vẫn thấy nghìn trùng xa cách.
– Con đường thiêng liêng là con đương vô hình , siêu vật chất nối kết tâm hồn ta với thần linh, nối kết linh hồn ta với Thiên Chúa. Con đường này cũng có khi bị tắc nghẽn làm cho chúng ta khó liên hệ với Chúa, ví dụ người luôn ở trong tình trạng phạm tội nhẹ hay ở trong tình trạng ơ hờ lạnh nhạt đối với Chúa. Cũng có thể con đường này bị cắt đứt trong tình trạng con người phạm tội trọng, làm cho ta không đến được với Chúa và Chúa không đến với ta.
Sửa phẳng con đường thiêng liêng
Con đường thiêng liêng của chúng ta cũng có thể bị tắc nghẽn hay gián đoạn bởi thung lũng, núi đồi, khúc quanh co, đường lồi lõm. Tình trạng con đường bị tắc nghẽn nhiều hay ít là do từng người, và mỗi người chúng ta phải sửa chữa để đến với Chúa. Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu quén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, muốn gây bất hòa, luôn giận hờn, luôn ghen ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm. Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn Chúa đến với ta. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn, bạt đi thói kiêu hãnh ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh co dối trá. Hãy uốn lại những khúc quanh giả hình. Hãy uốn lại những khúc quanh mưu mô xảo quyệt. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những sóng gồ ghề nói hành nói xấu. Nên hôm nay, thánh Gioan Tẩy giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa đến.
Muốn có con đường thẳng ngay và bằng phẳng, cần có một tâm hồn chính trực. Với những ai muốn đón Chúa đến, Gioan Tẩy giả yêu cầu : “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Khi đón một nhân vật quan trọng đến vùng nào, người vùng đó phải dọn dẹp đường cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp. Cũng vậy, để đón Chúa đến, ta cũng phải sửa lại những con đường trong tâm hồn ta cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp ; nghĩa là tâm hồn ta phải luôn ngay thẳng, chính trực, không quanh co, gian dối, giả hình…
Ngay thẳng là một trong những yếu tố chính yếu của sự công chính, thánh thiện. Thiết tưởng người Kitô hữu cần phải tạo cho mình một tư cách ngay thẳng, chính trực, nói gì hay làm gì cũng phải “công minh chính đại”, “đường đường chính chính”, không lén lút, giấu giếm, không làm ai phải nghi ngờ điều gì. Tư cách của người Kitô hữu phải là tư cách của một người quân tử, tôn trọng sự thật, nghĩ thế nào nói thể ấy và nói sao thì làm vậy…
II. DỌN ĐƯỜNG VÀ SÁM HỐI
Dân Israel đã sám hối
Bài đọc I cho chúng ta biết : những năm tháng lưu đầy đã giúp họ hồi tâm lại và nhận thức lý do đưa tới tù đầy đau khổ là chính tội lỗi của họ (Yr 7,25-28). Từ đó nhóm dậy trong lòng họ những tâm tình sám hối, dẫn đến quyết định dứt khoát với tội lỗi. Khi làm như thế là họ sửa sang đường lối trong tâm hồn cho ngay thẳng để đón tiếp vinh quang Chúa đến.
Thánh Gioan Tẩy giả cũng đòi sám hối
Thánh Gioan rao giảng sự sám hối bằng cách chịu phép rửa để được ơn tha tội. Ngài đòi con người phải sửa đổi tâm hồn, nhưng ngài không làm cách mạng, ngài không bắt người ta phải thay đổi cuộc sống, thay đổi địa vị xã hội, cho dù là thu thuế hay binh lính, hai hạng người mà thời bấy giờ bị coi khinh và xem thường. Nhưng Gioan chỉ nhắc nhở, thúc giục mọi người hãy cải thiện đời sống, đổi mới tâm hồn để sẵn sàng chờ đón Chúa đến.
Chúng ta cũng phải sám hối
Sám hối, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là thay đổi não trạng. Theo tiếng Do Thái là quay trở về, trở lại, tức là trở về với Chúa, với giao ước của Chúa. Gioan rao giảng kêu gọi mọi người sám hối. Ai nghe lời ngài giảng mà sám hối thì được ngài làm phép rửa. Nhưng phép rửa của ngài chỉ có tính cách giúp người ta thống hối, sửa soạn cho việc tha tội, chứ không phải là một bí tích như phép rửa Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này.
Sám hối là biết trở về, nghĩa là phải nhận biết tội lỗi của mình, biết nhìn nhận ra thực trạng của linh hồn mình, nhưng mấy người biết nhìn ra tội lỗi của mình. Biết thực trạng con người của mình là điều kiện cần thiết của sự sám hối.
Gần 20 thế kỷ nay, thánh Phaolô tông đồ đã nói : “Tôi xử sự như một thằng điên và sai lầm của tôi thì nhiều vô kể”.
Hùm thiêng khi đã sa cơ như Napoléon lúc ngồi vò võ tại đảo Sainte Hélène cũng phải tự thú : “Sự sụp đổ này là tại chính tôi, tôi là tử thù của tôi, là nguyên nhân mạt kiếp của tôi”.
Tâm hồn thánh thiện như thánh Phaolô, một bộ óc vĩ đại như Napoléon mà còn buông ra những lời tự thú như vậy thì huống hồ là chúng ta…hay làm lỗi mà ít khi chịu nhận là mình lầm lỗi.
Triết gia Elbert Hubbard nói : “Người nào cũng sai lỗi ít là 5 phút mỗi ngày. Bậc thánh nhân là không để vượt qua thời gian kỷ lục ấy”.
Như vậy ai dám nói là mình hoàn hảo, không còn sai sót gì, không cần phải sửa đổi gì bởi vì như người ta thường nói :“Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê” : việc người thì sáng, việc mình thì quáng.
Truyện : Biết nhận lỗi mình
Công tước d’Ossone, một nhà chính trị trứ danh, vào năm 1624 lên chức phó vương ở Naples. Một hôm, ông đến thăm nhà ngục và hỏi từng phạm nhân là đã làm gì mà mình bị giam
Tất cả mọi tù nhân đều kêu là mình bị oan, duy chỉ có một anh cúi đầu nhận tội, và còn nói đáng lẽ ra mình phải chịu phạt hơn nữa mới xứng đáng. Thấy hắn khiêm nhường nhận lỗi , công tước bảo : “Như vậy thì anh ở đây không phải chỗ : anh có tội mà sao lại ở giữa những người vô tội này ? Hãy ra khỏi đây, Ta tha cho anh”.
Chúa cũng sẽ tha tội cho tất cả những ai thành thật thú nhận tội lỗi của mình, bởi vì bản tính của con người là hay sa ngã, còn bản tính của Thiên Chúa là hay tha thứ !
Đức Khổng Tử đưa ra một chương trình giáo dục mà ngày nay vẫn còn có giá trị. Chương trình đó là : “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”: muốn cai trị được thiên hạ, muốn đem lại được bình an thịnh vượng cho thế giới thì trước tiên phải “tu thân”, phải sửa mình cho nên tốt đã. Mình có tốt thì mới điều khiển được thiên hạ, mới có thể đưa xã hội vào con đường ngay chính, mới đưa đến trật tự an toàn, mới có hoà bình trật tự. Còn nếu muốn điều khiển thiên hạ mà mình chưa tốt thì sẽ rơi vào tình trạng “Thượng bất chính, hạ tắc loạn” :
Người trên ở chẳng chính ngôi Làm cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào.
Truyện : Kinh nghiệm của một triết gia
Một triết gia Ấn độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau :
– Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thiên Chúa là : Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để con thay đổi thế giới.
– Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời người của tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế : Lạy Chúa, xin cho con được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.
– Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau : Lạy Chúa, xin ban cho con được thay đổi chính con.
Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Dọn đường cho Chúa đến , chính là nỗ lực hoán cải bản thân và thực thi bác ái.
Một nhà cách mạng đã nói : “Chỉ cần 10 người như thánh Phanxicô Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi”. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng bản thân.
Vào thế kỷ 12, tệ đoan lan tràn khắp nơi, các phe phái quá khích nổi lên, nhiều người phê bình chỉ trích các nhà lãnh đạo Giáo hội vì cuộc sống phản chứng của các ngài. Lúc đó thánh Phanxicô Assisi xuất hiện. Ngài không chỉ trích ai, nhưng ý thức rằng kẻ phải ăn năn sám hối trước tiên là chính ngài. Ngài không khoe khoang, không tham lam, không giả hình, nhưng cố gắng sống nghèo khó, bác ái, phục vụ, khoan dung. Lý tưởng của thánh Phanxicô chẳng mấy chốc đã được nhiều người chia sẻ. Giáo hội được hồi sinh, nhiều tâm hồn được đổi mới. Mùa xuân thiêng liêng được nở rộ nhiều thế kỷ kế tiếp.
Chắc chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé, thấp hèn, không làm gì được để góp phần vào trong việc cải tạo thế giới, nhưng chúng ta hãy theo gương thánh Phanxicô Assisi, cứ tự thay đổi con người của mình trước đi, rồi mọi việc sẽ trao phó cho Chúa. “Thà thắp lên một ngọn đèn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
Nếu mỗi người, ai cũng đốt lên ngọn đèn của mình, nếu mỗi người, ai cũng đóng góp phần ít ỏi, nhỏ mọn của mình, thì có lẽ thế giới này sẽ bớt lạnh lẽo hơn vì lòng ích kỷ… Không ai nghèo đến nỗi không có gì cho người khác. Hãy bắt đầu bằng món quà nhỏ mọn, có khi vô tình của chúng ta. Một giọt nước nhỏ là một điều không đáng kể trong đại dương bao la, nhưng nếu không có những giọt nước nhỏ kết tụ lại, thì đại dương kia cũng chỉ là sa mạc khô cằn.
Đức Giêsu đã đến lần thứ nhất để giải thoát loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi và ma qủi. Ngài sẽ đến lần thứ hai để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong vinh quang của Ngài. Ngài đang đến, đến từng giây phút, chúng ta đang đón chờ ngày Người quang lâm. Và Chúa sẽ đến riêng với chúng ta trong ngày lìa bỏ cõi đời này, ngày Ngài đến không còn xa. Thời gian còn rất ngắn, chúng ta hãy ráo riết chuẩn bị, luôn ở trong tư thế tỉnh thức và sẵn sàng.
Để kết thúc, chúng ta hãy suy niệm và cầu nguyện bằng bài thơ cổ, nói về cuộc đời này chóng qua thế nào và điều gì quan trọng vào giây phút cuối cùng :
“Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười và khóc, thì lúc đó thấy thời gian bỏ tôi.
“Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn, thì thấy thời gian đi bộ.
“Khi tôi trưởng thành, tôi là một người chững chạc, thì thấy thời gian chạy.
“Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín mùi, tuổi già, thì thấy thời gian bay.
“Chẳng bao lâu nữa là tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất.
“Ôi ! lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa”.
Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt Gioan Tiền hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa, rất gần gũi với con người. Lời Chúa Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Gioan nghe đã trở thành lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3-12; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế : ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng”. Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đày và mất quê hương trong một thời gian dài.
Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Đường ấy có nhiều ghồ ghề và lũng sâu do hận thù, ghen tị, hiểu lầm. Nó tạo là ngăn cách, làm cho hai người láng giềng cách nhau một bức vách không thể đến với nhau được, khiến cho hai người bạn cùng chung nơi làm không nhìn mặt nhau, thậm chí hai anh em ruột thịt, hai vợ chồng chung sống dưới một mái nhà, ngồi quanh một mâm cơm, nhưng tâm hồn xa xôi cách trở.
Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo, hãy san cho thẳng. Những gì gò cao cần phải bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường Gioan mời gọi là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thần dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua; như căn nhà cho Chúa ngự tới; Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nỗi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi. Chính vì thế, Giáo hội muốn chúng ta sống 4 tuần lễ Mùa Vọng này như sống trong sa mạc: bình tâm hơn, ăn uống đạm bạc hơn, cầu nguyện nhiều hơn để biết rõ ý Chúa. Gioan đã giúp người ta sám hối, thú tội và lãnh nhận phép rửa, sữa đường nội tâm. Khi Chúa Giêsu xuất hiện, Gioan giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29).
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân. Lm Giuse Nguyễn Hữu An
“Có Đấng đến sau tôi, nhưng có trước tôi và quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người…” Đó là lời khẳng định và giới thiệu của thánh Gioan Tẩy Giả về Đức Giê-su đã được Tin mừng của thánh Marcô ghi lại khi ông thi hành sứ vụ dọn đường mở lối cho nhân loại đón chờ Đấng Mê-sia ngự đến như lời tiên báo của ngôn sứ Isaia trong bài đọc 1.
Thiên Chúa hiện hữu từ thuở đời đời, Ngài là Đấng tự hữu, có trước loài người và quyền phép hơn con người... Tuy nhiên, khi bước vào trần gian trong thân phận con người hữu hình, lệ thuộc không gian và thời gian, Ngài có thể xuất hiện sau một ai đó.
Đức Giêsu, Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa Cha khi nhập thể làm người, để cứu độ trần gian, Người đã xuất hiện sau Gioan Tẩy Giả.
Gioan Tẩy Giả là người đến trước và đi trước Đức Giêsu. Ông đến để dọn đường cho Đức Giêsu, nhưng bé nhỏ hơn Đức Giêsu và không quyền phép bằng Đức Giêsu.
Gioan là sứ giả, còn Đức Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Ông làm phép rửa bằng nước, còn Đức Giêsu làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Ông là tiếng kêu trong hoang địa, còn Đức Giêsu là Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ông chính là vị sứ giả được Isaia loan báo từ xa xưa: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”.
Gioan khởi đầu sứ vụ nơi hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối, để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ khiêm nhường thú tội và xin ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan.
Dân chúng tuốn đến với Gioan Tẩy Giả rất đông. Nghe theo lời ông dạy, dân chúng thực hành những việc làm cụ thể: khiêm nhường thú tội và chịu phép rửa… để dọn lòng đón nhận Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu Kitô. Còn chúng ta ngày nay thì sao? Chúng ta có như thánh Gioan Tẩy Giả và như đám đông dân chúng miền Giuđêa và thành Giêrusalem xưa không?
Hôm nay, Chúa nhật thứ 2 Mùa Vọng cũng như dân miền Giuđêa và thành Giêrusalem xưa, chúng ta cũng quy tụ về đây rất đông: già trẻ, trai gái, lớn bé, đầy đủ mọi thành phần.
Thiên Chúa đến sau con người: Gioan Tẩy Giả đi trước mở đường sửa lối, Đức Giêsu Kitô đến sau ban ơn cứu độ. Nhưng không biết trong cộng đoàn chúng ta hôm nay có sửa soạn tâm hồn trước cho thật chu đáo, để sau đó Chúa đến ngự vào tâm hồn một cách dễ dàng như Gioan Tẩy Giả đã làm cho Chúa Giêsu không? Chúng ta có mang những tâm tình và làm những việc cụ thể như đám đông Dothái ngày xưa, để bày tỏ lòng khát mong Chúa đến hay không?
Nếu có, thì thật là phúc cho chúng ta. Nếu không, thì thật là bất hạnh cho chúng ta. Vì xưa Chúa đã phán: “Ta thích lòng nhân từ, chứ không muốn của lễ”. “Máu chiên bò, Ta chẳng ưng cũng chẳng nhận. Của lễ Ta ưng nhận, đó là tấm lòng tan nát khiêm cung”.
Thánh Phê-rô trong bài đọc 2 hôm nay cũng dạy rằng: “Trong khi mong đợi Chúa đến, anh em phải sống sao cho thật đạo đức, thánh thiện, tinh tuyền không chi đáng trách và sống bình an” (2Pr 3,8-14)
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ, xin cho chúng con biết thực hành những việc cần thiết phải làm trong Mùa Vọng này, để chúng con xứng đáng lãnh nhận những ơn lành Chúa ban. Amen.
Cả ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng đều được định vị trong viễn cảnh của việc Thiên Chúa can thiệp vào trong Lịch Sử loài người.
Is 40: 1-5, 9-11 Thiên Chúa truyền cho ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hãy an ủi dân Ngài trong cảnh cùng khốn và loan báo cuộc giải thoát gần kề.
2Pr 3: 8-14 Thánh Phê-rô nhắc nhở rằng không phải Thiên Chúa lỗi hẹn, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài trì hoãn để chúng ta có đủ thời giờ lập công tích đức trong khi chờ đợi trời mới và đất mới mà Chúa đã hứa cho chúng ta.
Mc 1: 1-8 Gioan Tẩy Giả, vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để dọn đường cho Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Is 40: 1-5, 9-11)
Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã đọc bản văn của ngôn sứ I-sai-a thời hậu lưu đày, được gọi là I-sai-a đệ tam: dân Do thái đã được cứu thoát khỏi cảnh lưu đày, trở về quê cha đất tổ và đang nổ lực tái thiết đất nước. Trong Chúa Nhật này, Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của vị ngôn sứ thời lưu đày. Bản văn này đưa chúng ta đi ngược về quá khứ: thời kỳ dân Do thái vẫn còn bị lưu đày ở Ba-by-lon vào những năm 550-539, cuộc giải thoát chưa xảy đến.
Vị ngôn sứ thời lưu đày này không ngừng đem đến những lời an ủi lớn lao cho đồng bào của mình. Thế nên, tác phẩm của ông được gọi “sách An Ủi” (Is 40-55). Chúng ta không biết gì về vị ngôn sứ thời lưu đày này. Ông thường hằng ẩn mình sau sứ điệp của mình, như bản văn hôm nay cho thấy. Ngay từ đầu, vị ngôn sứ ẩn mình trong “lời Thiên Chúa phán”; đoạn, trong “một tiếng kêu” mà không xác định; và sau cùng, trong “một sứ giả báo tin mừng”. Vị ngôn sứ này thường được gọi I-sai-a đệ nhị, vì ông thuộc vào hàng những môn đệ đầu tiên của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, và tác phẩm của ông đã được tập hợp chung với tác phẩm của thầy mình.
1. “Hãy an ủi dân Ta”
“Hãy an ủi, an ủi dân Ta!”, đó là lệnh truyền mà Thiên Chúa gởi đến cho vị ngôn sứ của Ngài trong khi dân Do thái đang sống kiếp lưu đày vô vọng. “Dân Ta”, lời khẳng định này chắc chắn đã làm ấm lòng những người lưu đày, vì họ đã nghĩ rằng Thiên Chúa đã quên họ, không còn đoái hoài đến số phận bi thương của họ. Không, họ luôn luôn là “dân của Ngài”, dân Chúa chọn mà xưa kia được Thiên Chúa nâng niu chiều chuộng. Cung giọng đầy trìu mến được cất lên ở cuối bài thơ trong hình ảnh người mục tử tận tình săn sóc đàn chiên của mình, nhất là những con chiên bé bỏng.
“Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem”. Dân thành đã bị trừng phạt vì tội bất trung lâu dài của mình, đây là lần đầu tiên được Thiên Chúa loan báo là Ngài thứ tha tội vạ của dân và cho họ được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Sứ điệp tràn đầy hy vọng.
2. Thời kỳ Thiên Chúa tha thứ
“Thời phục dịch của thành đã mãn”. Chúng ta gặp lại hình ảnh này trong các đoạn văn Cựu Ước khác như G 7: 1: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?” . Hình ảnh này được dùng ở đây để diễn tả thời kỳ gian khổ cùng cực.
“Thành đã bị tay Chúa giáng phạt gấp hai so với tội phạm”. Chúng ta có thể hiểu diễn ngữ “gấp hai”nếu chúng ta khảo sát hai thử thách lớn lao mà dân phải gánh chịu: một mặt, cuộc lưu đày ở Ba-by-lon và mặt khác, cuộc tàn phá Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng diễn ngữ này đơn giản muốn nói đến muôn vàn khổ đau mà dân phải chịu.
Ghi nhận quan trọng này sẽ xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị và gợi lên nguồn cảm hứng cho các bài thơ về “Người Tôi Tớ đau khổ”. Dân Chúa chọn, người tôi tớ Thiên Chúa, đã kinh qua một sự thử thách thanh tẩy. Quả thật, ơn tha thứ của Thiên Chúa thì nhưng không. Tuy nhiên, qua những đau khổ dài lâu mà dân phải chịu, cũng như qua việc Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài bằng việc cứu thoát dân, những người lưu đày sẽ bày tỏ cho muôn dân thấy “Thiên Chúa phán như thế nào, Ngài sẽ thực hiện đúng như vậy”.
Đó là ơn gọi của dân Ít-ra-en, với tư cách là người tôi tớ Đức Chúa: chuẩn bị những nẻo đường cứu độ cho muôn dân. Chúng ta thoáng thấy ươm mầm ý tưởng về giá trị của những đau khổ mà những người công chính, nhóm kiên trung còn sót lại, phải chịu để công chính hóa mọi người. Nhóm còn sót lại này, một ngày kia sẽ là “Người Tôi Tớ hoàn hảo”, chính là Đức Ki tô.
3. “Hãy mở một con đường cho Chúa”
Để trở về quê cha đất tổ, đoàn người lưu đày sẽ phải băng qua hoang địa. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng sẽ ở bên cạnh dân Ngài và đích thân dẫn dắt dân Ngài. Sứ giả hô lớn:“Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Chúa; giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Chúa chúng ta”.
Cuộc hành trình băng qua hoang địa dưới sự che chỡ và hướng dẫn của Thiên Chúa, viễn cảnh này gợi lên rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho những tù nhân Ba-by-lon, như xưa kia Ngài đã thực hiện cho cha ông họ: giải thoát họ ra khỏi cảnh đời nô dịch ở bên Ai-cập và dẫn đưa họ về miền Đất Hứa. Cuộc Tân Xuất Hành này sẽ bày tỏ vinh quang Thiên Chúa, qua đó muôn dân sẽ hiểu rằng “chính miệng Thiên Chúa đã phán như vậy”, nghĩa là Thiên Chúa trung thành với những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ thực hiện những dự định của Ngài. Dân Ít-ra-en sẽ là chứng nhân về ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa: “Mọi người phàm sẽ cùng được thấy”.
4. “Loan tin mừng”
“Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao…”. Chính ở nơi bản văn này mà những Ki-tô hữu tiên khởi đã mượn thuật ngữ “Tin Mừng” để chỉ Mặc Khải Đức Giê-su Ki-tô mang đến. Vì thế, chúng ta ở tận nguồn của thần học về “Tin Mừng” .
Ấy vậy, “Tin Mừng” này phải được lớn tiếng công bố từ trên đỉnh non cao để khắp các thành xứ Giu-đa có thể nghe được là gì? Đó là Thiên Chúa đích thân đến cứu dân Ngài, giải thoát những kẻ bị giam cầm, dẫn đưa họ về quê hương đích thật của mình. Ngài không còn dung thứ những điều gian ác mà dân Ngài phải chịu.
Vị ngôn sứ tưởng tượng cuộc hồi hương về Giê-ru-sa-lem như một đám rước khải hoàn. Nhưng ông tô đậm chân dung vị lãnh đạo toàn thắng qua hình ảnh người mục tử ân cần trìu mến đối với đàn chiên của mình. Thiên Chúa tha thứ và dẫn đưa dân Ngài trở về miền Đất Hứa trước hết là vị Thiên Chúa Tình Yêu.
Đó là hình thức đầu tiên của Tin Mừng, tiên báo một cuộc giải thoát khác, một sự tha thứ có tính quyết định hơn và phổ quát hơn, và cũng tiên báo một đám rước khải hoàn khác: đám rước của những người được tuyển chọn về thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
BÀI ĐỌC II (2Pr 3: 8-14)
Ngay đầu thư, thánh Phê-rô tự giới thiệu mình: “Tôi là Si-mê-ôn Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô…”. Bức thư chắc chắn chứa đựng những lời căn dặn sau cùng của thánh nhân (ngài gợi lên cái chết gần kề của mình). Tuy nhiên, xem ra đây là một di cảo, được một trong số các môn đệ của thánh nhân biên soạn lại và bổ sung để đương đầu với những hoàn cảnh mới.
Quả thật, những đề tài được đề cập đến trong đoạn trích hôm nay sẽ được hiểu tốt hơn, nếu như chúng được đặt vào trong bối cảnh muộn thời hơn. Thế hệ của các Tông Đồ và của những môn đệ truyền chân đã qua. Ấy vậy, Đức Ki-tô đã hứa là Ngài sẽ trở lại, nhưng thế hệ Ki-tô hữu hậu Tông Đồ chờ mãi vẫn không thấy ngày Chúa trở lại. Vì thế, họ ngạc nhiên, phản kháng và ngờ vực. Để trả lời cho vấn nạn này, một cộng tác viên của thánh Phê-rô đưa ra ba luận chứng:
1.Khái niệm thời gian
Thời gian là của Chúa chứ không của chúng ta. Tác giả trích dẫn thích đáng ý của Tv 90:
“Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi!” (Tv 90: 4).
2. Thiên Chúa trì hoãn vì lòng xót thương
Đức Ki-tô đến chậm vì để cho mọi người có thời gian ăn năn hối cải. Chúng ta cũng gặp lại suy tư này của thánh Phao-lô trong thư gởi các tín hữu Rô-ma: “Thưa anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự cho mình là khôn, đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đông đủ” (11: 25).
3. Thiên Chúa trung tín với những lời Ngài đã hứa
Việc Ngài trở lại là điều chắc chắn. Nhưng lúc đó là ngày cùng tận của thế giới (vậy tại sao phải hối thúc chứ?). Tác giả bức thư gợi lên ngày ấy bằng những hình ảnh quen thuộc của truyền thống khải huyền.
Đoạn ông khéo léo kết luận: bởi vì Thiên Chúa sẽ canh tân mọi sự cho những ai được Ngài tuyển chọn, thế nên, “trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải nên tinh tuyền, không gì đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa”.
TIN MỪNG (Mc 1: 1-8)
Đoạn Tin Mừng hôm nay là phần mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Mác-cô được cấu trúc như sau:
Nhan đề (1: 1)
Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả (1: 2-8)
Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2-3)
Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 4-6)
Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8).
1. Nhan đề (1: 1)
Sách Tin Mừng Mác-cô không mở đầu với Tựa Ngôn như sách Tin Mừng Gioan, cũng không cuộc đời Thơ Ấu của Đức Giê-su như sách Tin Mừng Mát-thêu và sách Tin Mừng Lu-ca, nhưng với một nhan đề: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su, Đấng Ki tô, Con Thiên Chúa”. Với nhan đề này, ngay từ đầu, thánh Mác-cô loan báo sách được chia thành hai phần:
- Phần thứ nhất (1: 2-8: 30): Đức Giê-su dần dần vén mở sứ mạng của mình: Ngài là “Đấng Ki-tô”.“Đấng Ki-tô” được phiên âm từ từ Hy lạp “Christos”, xuất xứ từ nguyên ngữ Do thái “Đấng Mê-si-a”, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và đặc phái đến để thiết lập Vương Quốc của Ngài vào thời cánh chung. Như vậy, trong phần thứ nhất, thánh Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình cùng với thánh Phê-rô và các môn đệ đến chỗ nhận biết và tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô” (8: 29). Nhưng vào thời Đức Giê-su, tước hiệu “Đấng Ki-tô” rất dể ngộ nhận. Dân Do thái sau một thời gian dài bị đế quốc này đến đế quốc khác thống trị và áp bức, nên mong chờ một vị vua trần thế được Thiên Chúa ban quyền năng để đánh đông dẹp tây, mở rộng vương quyền và đem lại cảnh thái bình thịnh trị cho dân tộc mình.
- Phần hai (8: 31-16: 20): Đấng Ki-tô bày tỏ cho các môn đệ chân tính của Ngài là “Con Thiên Chúa”. Danh xưng này cũng là một trong những tước hiệu của Đấng Ki-tô. Các vua Phương Đông thời xưa cũng thường tự xưng mình là “thiên tử”. Nhưng Đức Giê-su dần dần bộc lộ cho thấy mối quan hệ đặc biệt mật thiết và độc nhất của Ngài với Thiên Chúa, mà Ngài gọi là Cha của mình. Chính Ngài công bố long trọng tước hiệu này trước vị thượng tế (14: 61-62). Các môn đệ phải qua một thời gian dài mới khám phá ra nơi bản thân Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa đến sống giữa con người, và nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của mình, Ngài giải thoát loài người khỏi quyền lực Sự Dữ và Cái Chết. Trong phần thứ hai này, thánh Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình tới lời tuyên xưng đức tin sâu sắc hơn, được thốt ra từ miệng viên sĩ quan Rô-ma, dưới chân thập giá: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15: 39).
Như vậy, với nhan đề này cho toàn bộ sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô xác định rất rõ rằng sách không kể cho chúng ta “tiểu sử cuộc đời” của Đức Giê-su, nhưng là một “Tin Mừng” về ơn cứu độ loài người được thể hiện cách độc đáo nơi bản thân Đức Giê-su quê Na-da-rét, Ngài là “Đấng Ki-tô” và là “Con Thiên Chúa” qua cái mâu thuẫn của thập giá. Chính Đức Giê-su là “Chúa” đến viếng thăm dân Ngài, không phải trong quyền uy xét xử, nhưng trong cái yếu hèn của một tình yêu trao tặng.
2. Sứ vụ của Gioan Tẩy giả (1: 2-8)
Câu 1 không chỉ là nhan đề của toàn bộ Tin Mừng Mác-cô nhưng cũng là nhan đề của của phần dẫn nhập (1: 1-15), phần dẫn nhập này được phân định bởi kiểu hành văn đóng khung rất quen thuộc của người Do thái, bắt đầu với chữ “Tin Mừng” ở câu 1 và kết thúc với chữ “Tin Mừng” ở câu 15. Thuật ngữ “Tin Mừng” xuất xứ từ sách I-sai-a (Is 40: 9; 52: 7; 61: 1..) được dùng ở đây để loan báo một biến cố vui mừng có một tầm mức quan trọng bậc nhất, đó là Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.
Phần dẫn nhập này bắt đầu với sứ vụ của Gioan Tẩy giả, người đi trước dọn đường cho Đức Giê-su. Theo cách thức này, Tin Mừng Mác-cô trung thành với lược đồ rao giảng của các Tông Đồ như được gặp thấy trong sách Công Vụ (1: 21t; 10: 37; 13: 24). Trong bộ Kinh Thánh, sách Sáng Thế cũng mở đầu với diễn ngữ: “Khởi đầu”. Gioan Tẩy Giả loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su, là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa, Ngài đến để đánh dấu một khởi đầu tận căn, một khởi nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ.
3. Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2)
Ngay từ những hàng đầu tiên, thánh Mác-cô nêu bật hai điểm khác biệt với các thánh ký khác. Trước tiên, các thánh ký này cũng đều trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a: “Có một tiếng kêu trong hoang địa…”nhưng sau khi đã nêu lên sứ vụ của Gioan Tẩy giả (x. Mt 3: 3; Lc 3: 4; Ga 1: 23). Thứ đến, trước khi trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a, thánh Mác-cô trích dẫn một sấm ngôn khác: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con đến”, sấm ngôn này được đúc kết bởi hai bản văn Cựu Ước khác nhau: Xh 23: 20 và Ml 3: 1.
Trong Xh 23: 20, Thiên Chúa nói với ông Mô-sê: “Này Ta sai sứ thần đi trước con, để gìn giữ con khi đi đường…”. Ngôn sứ Ma-la-khi lập lại lời này nhưng với một ý nghĩa mới: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (3: 1). Trong sấm ngôn của Ma-la-khi, Thiên Chúa sai “sứ giả” của Ngài đến trước dọn đường để “Ngài đích thân đến với dân Ngài”. Thật ra, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca cũng trích dẫn sấm ngôn này, nhưng trong một bối cảnh khác và được đặt trên môi miệng của Đức Giê-su (Mt 11: 10; Lc 7: 27).
Vị sứ giả trong sấm ngôn này là ai? Chúng ta gặp thấy căn tính của vị sứ giả này ở Ml 3: 23: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và huy hoàng”. Trong 2V 2: 11, ngôn sứ Ê-li-a không chết nhưng được rước về trời trong một cỗ xe đỏ như lửa với những con ngựa kéo cũng đỏ như lửa. Vì thế, theo truyền thống Do thái mãi cho đến thời Chúa Giê-su, vị sứ giả Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa đến..
Sấm ngôn thứ hai được trích dẫn từ Is 40: 3 (bài đọc I): “Có một tiếng hô: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”. Vị ngôn sứ loan báo cho những những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải thoát họ khỏi kiếp sống tù đày. Các tác giả Tin Mừng cũng đã thấy ở nơi “tiếng hô này” tiên báo Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đức Giê-su, ông có sứ mạng đến trước để dọn đường cho Đức Giê-su đến. Ở nơi lệnh truyền này: thung lũng sẽ được lấp đầy, núi đồi sẽ phải bạt xuống, chúng ta gặp thấy cũng một lời dạy như Gioan Tẩy Giả: phải thay lòng đổi dạ, biến đổi sa mạc tâm hồn thành miền đất thấm đẩm thiên ân, hủy bỏ những quanh co uốn khúc của sự gian tà.
Theo phương cách trích dẫn phổ biến vào thời đó, thánh Mác-cô gán toàn bộ lời trích dẫn này cho ngôn sứ I-sai-a, bởi vì chúng có chung một đề tài: “dọn đường để đón tiếp Thiên Chúa”. Như vậy, khi khai mạc sứ vụ của Gioan Tẩy giả bằng lời trích dẫn này, thánh Mác-cô muốn cho thấy rằng việc Đức Giê-su đến đã được Cha Ngài chuẩn bị trước đó rồi và ơn gọi của Gioan Tẩy giả, vị Tiền Hô của Con Ngài, được dự kiến lâu lắm rồi trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chính Gioan Tẩy giả là ngôn sứ Ê-li-a, mà truyền thống Do thái mong đợi, trở lại để dọn đường cho Chúa và việc ông xuất hiện cho thấy Thiên Chúa vẫn trung thành với những lời Ngài đã hứa. Thời gian đã đến hồi viên mãn.
4. Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 3-6).
Chúng ta lưu ý rằng khi trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, thánh Mác-cô đã tự ý ngắt câu cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của Gioan Tẩy Giả. Thay vì “Có tiếng hô: Trong sa mạc…”, thánh ký đổi thành “Có tiếng người hô trong hoang địa…”. Quả thật, Gioan Tẩy giả đã ẩn cư trong hoang địa ngay từ thuở thanh xuân để chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng và chiêm niệm cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en (Lc 1: 80), như Đức Giê-su sẽ rút vào trong sa mạc trước khi khởi đầu sứ mạng của mình.
Đây là sa mạc Giu-đa có dòng sông Gio-đan chảy băng qua và đổ vào Biển Chết. Phải chăng thánh Gioan thuộc vào cộng đoàn Kum-ran, có mặt ở trong miền này và sống trong sự chờ đợi Đấng Mê-si-a? Hay đơn giản ông có giao tiếp với cộng đoàn này? Phải nói rằng có rất nhiều điểm giống nhau giữa linh đạo của các nhà khổ hạnh Qum-ran và linh đạo của thánh nhân, nhưng cũng có rất nhiều điểm dị biệt.
Dù thế nào, sa mạc là nơi ẩn cư quen thuộc của những nhà thần bí vĩ đại thời Cựu Ước và là nơi ưu tiên cho những cuộc gặp gở với Thiên Chúa, như Mô-sê, Ê-li-a vân vân. Cũng như chính trong sa mạc mà dân Ít-ra-en đã trải qua những kinh nghiệm tôn giáo hình thành nên những mốc điểm lịch sử của dân tộc mình.
Lời kêu gọi sám hối là đề tài thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Gioan Tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng tiếp tục truyền thống này, nhưng ông thêm vào đây phép rửa. Không phải trong sa mạc mà nước mặc lấy tất cả giá trị và ý nghĩa tròn đầy của nó sao? Nước đem lại sự sống và biểu tượng ơn cứu độ.
Gioan Tẩy giả sống theo lối sống khổ hạnh: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt đai lưng bằng da, ăn châu chấu và mật ong rừng”. Qua việc mô tả cách ăn mặc của Gioan giống như ngôn sứ Ê-li-a (1V 1: 8), thánh Mác-cô muốn thông báo rằng Gioan Tẩy giả chính là ngôn sứ Ê-li-a tái xuất hiện mà mọi người đang mong đợi. Ngoài ra, qua việc mô tả tỉ mĩ cách sống khổ hạnh của Gioan tẩy giả trong hoang địa cô tịch, thánh Mác-cô ngầm trình bày hình ảnh tương phản với Đức Giê-su: Ngài giao tiếp gần gũi với đủ hạng người ở ngoài xã hội, cùng ăn cùng uống, cùng chia sẻ cuộc sống vui, buồn, sướng khổ với họ. Quả thật, Tin Mừng Mác-cô cống hiến cho chúng ta hình ảnh rất là người của Đức Giê-su: Ngài ngủ say giữa cơn giông tố (4: 38), Ngài ngạc nhiên về việc các người đồng hương của Ngài thiếu niềm tin (6: 6), Ngài không có thì giờ ăn uống (6: 31), Ngài không biết khi nào ngày Thế Mạc sẽ đến (13: 32), nhất là Ngài chết như một kẻ tuyệt vọng (15: 34). Nhưng chính ở nơi tính chất rất là người này, thánh Mác-cô có ý định dẫn đưa người đọc vào mầu nhiệm của Đức Giê-su, Đấng Ki-tô và Con Thiên Chúa.
5. Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8).
Chứng từ của Gioan Tẩy giả về Đức Giê-su là cao điểm của đoạn Tin Mừng hôm nay. Sứ điệp của ông làm xáo động lòng người. Uy tín của ông quá lớn đến độ dân chúng khắp nơi tuôn đến với ông. Tuy nhiên, ông ý thức sâu xa về sự cao vời khôn ví của Thiên Chúa. Ông công bố quyền năng vượt bậc của Đấng mà ông có sứ mạng chuẩn bị cho việc Ngài đến khi sử dụng hình ảnh rất tương phản để diễn tả sự bất xứng của mình như tên nô lệ trước mặt chủ, cả đến việc cúi xuống cởi dép cho Ngài ông cũng chẳng xứng đáng nữa: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cỏi dép cho Người”.
Nhất là ông nhận biết sự khác biệt căn bản giữa phép rửa của ông và phép rửa của Đức Giê-su: ông chỉ rửa trong nước, còn Đức Giê-su thì rửa trong Thánh Thần. Điều làm cho Đức Giê-su trổi vượt hẳn vị Tiền Hô của Ngài, đó là Ngài là Đấng sở hữu Thánh Thần (x. 1: 10).
Danh tiếng của Gioan Tẩy giả vào thời đó không thể nào chối cải. Sách Công Vụ nói với chúng ta rằng ngay cả sau khi ông đã qua đời rất lâu sau đó, các cộng đoàn môn đệ của ông vẫn tồn tại (Cv 18: 24-25; 19: 1-7). Họ đề cao ông là “Đấng Mê-si-a” (Ga 1: 19-34). Như thế ngay từ trang đầu tiên Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô đã đặt Gioan Tẩy giả vào đúng vị thế của ông: sứ mạng của ông chỉ là loan báo và chuẩn bị cho việc Đức Giê-su, Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su mới là Tin Mừng mà Gioan có sứ mạng loan báo cho hết mọi người.
Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion ... (Này hỡi Dân Sion…) Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy... " (Ca nhập lễ) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên. Khơi dậy trong ta một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta: "Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng", nghĩa là: hãy hoán cải tâm hồn đón chờ Chúa đến.
Lời Chúa qua miệng tiên tri Isaia phán như một sự trấn an Dân Chúa trước cảnh nô lệ và tội lỗi: "Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm! …Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi" (Is 40, 2). Và hơn thế nữa, Chúa truyền cho Isaia: "Hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Đây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực; cánh tay Người sẽ thống trị. Người mang theo những phần thưởng chiến thắng và đưa đi trước những chiến lợi phẩm. Người chăn dắt đoàn chiên Người như mục tử. Người ẵm chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ" (Is 40, 9-11).
Để được như vậy, Dân Chúa phải thực hành không trì hoãn khi nghe thấy tiếng kêu trong hoang địa: "Hãy dọn đường Chúa ... Hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi " (Is 40, 3).
Hố sâu và đồi núi gồ ghề sẽ gây cản trở người đi lại, khiến người ta khó đến với nhau. Lấp hố sâu và bạt núi đồi là dẹp bỏ lòng tự mãn kiêu căng của chính mình, là cản trở lớn nhất trên đường Chúa đến với chúng ta. Khi chúng ta thực hành nét đẹp của khiêm nhường và hạ mình xuống, chúng ta sẽ khám phá ra sự kiêu ngạo ẩn sâu trong lòng ta. "Hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng. Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng " ((Is 40, 3).
Gioan Tẩy Giả được Marcô (1, 2-8) trình bày như vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, ví ông như "Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi " (Mc 1,2; Ml 3,1) từ trong hoang địa, cất lời rao giảng "phép rửa sám hối cầu ơn tha tội" (Mc 1, 4). Lời giảng tuy nghiêm nghị nhưng thu hút "cả miền Giuđêa và Giêrusalem" (Mc 1, 5). Gioan đã xuất hiện với những người đương thời như là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Rất ít người nhận ra sứ vụ đích thực của ông là để "dọn đường cho Chúa".
Gioan Tẩy Giả đi trước dọn dường cho Chúa Giêsu đến. Ông xuất hiện như Tiếng kêu trong hoang địa, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, và chúng ta đã có thể nghe được tiếng người hô lớn: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" (Mc 1,3).
Có một số người tin rằng Gioan chính là Đấng Mêssia. Gioan đã nói như các vị tiên tri xưa, kêu gọi con người bước ra khỏi vũng lầy của tội lỗi, trở về với Chúa hầu thoát cảnh trừng phạt và được Chúa thương xót. Đây là sứ điệp cho con người ở mọi nơi mọi thời, Gioan tuyên bố rất khẩn trương. Thế là cả dân miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan để nghe ông rao giảng (x.Mc 1, 5).
Tại sao ông Gioan lại thu hút người ta đến như thế? Chắc chắn ông đã lên án Hêrêđê và các nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái, hành động can đảm này đã thu hút người dân. Ông cũng không ngần ngài nói với dân chúng cách mạnh mẽ rằng: Ai có tội cần phải thống hối ăn năn và xưng thú tội lỗi, ông làm phép rửa cho họ tại sông Giorđan. Đó là lý do tại sao Gioan Baotixita thu hút họ, họ hiểu sứ điệp sám hối đích thực mà ông rao truyền. Một nghĩa cử sám hối ăn năn thật lòng, cái có giá trị hơn một lời xưng thú nhận tội lỗi! Sự sám hối ăn năn dựa trên niềm tin rằng chỉ Thiên Chúa mới tha thứ và tẩy xóa tội khiên, tha bỏ những nợ nần, làm cho đời sống luân lý của ta nên công chính.
Lời của Gioan vẫn vang dội qua các thời đại và như một sứ điệp cấp bách gửi đến với chúng ta ngày hôm nay. Kêu mời thay đổi nội tâm, bắt đầu từ việc thừa nhận và xưng thú tội lỗi của mình.
Mùa Vọng năm nay, chúng ta đang sống như thế nào, nếu không phải là chuẩn bị tâm hồn, giục lòng tin, cử hành Phụng vụ cho sốt sáng để lãnh nhận ân sủng mà Chúa Kitô đã mang đến trong thế gian cho mọi người hưởng nhờ. Bốn tuần của Mùa Vọng là như "tiền đường" để bước tiếp vào những ngày thánh. Chúng ta hãy chuẩn bị tinh thần bằng lời cầu nguyện, sẳn sàng tiếp đón Ðấng Cứu Thế ngự đến!
Ước gì Mùa Vọng và việc chờ đón "Hoàng Tử Bình An" đến, giúp chúng ta suy gẫm Lời Chúa. Hãy tránh ngủ quên, và cương quyết dọn đường cho Chúa, là nguồn mạch bình an, niềm vui, tình yêu và hy vọng, là Ðấng không ngừng đến để an ủi dân Người. Chúng ta hãy đặt tay ta vào tay Mẹ Maria, Trinh Nữ của sự chờ đợi, để Mẹ dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa Giêsu Con Mẹ. Amen.
Trong suốt Mùa Vọng, chúng ta không ngừng được nhắc đến một con người, con người đó chính là Gioan Tẩy Giả. Sự xuất hiện của Gioan mang một âm hưởng rất đặc biệt. Sự khác thường này được nhận thấy rất rõ bởi cách sống và lời rao giảng.
Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy sự đặc biệt này nơi thánh Gioan. 1. Lựa chọn ưu tiên cho sứ vụ Chân dung của Gioan được Máccô trình bày rất ly kỳ, tác giả viết: hồi ấy, trong hoang địa Giuđê, xuất hiện một người, người đó có tên là Gioan: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” (Mc 1, 6), đồng thời rao giảng rằng: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mc 1,3).
Ông lựa chọn lối sống hết sức đạm bạc giống như những người nghèo. Cuộc sống của Gioan giản dị qua cách sống, ăn mặc cũng như nơi chốn. Gioan đã khước từ một cuộc sống sung túc mà đáng lẽ một người con của gia đình tư tế được thừa hưởng.
Khi lựa chọn mặc áo lông da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng trong sa mạc, Gioan muốn nêu gương về lối sống siêu thoát hầu thi hành sứ mạng tiền hô của Đấng Cứu Thế cho được tốt nhất. Mặt khác, khi lựa chọn cuộc sống đạm bạc, Gioan được trở thành người tự do để rao giảng Tin Mừng.
Từ cuộc sống khổ hạnh như vậy, danh tiếng của ông được loan xa. Vì thế, nhiều người thuộc mọi giai tầng trong xã hội thời bấy giờ đã đến để xin ông chỉ giáo và tỏ lòng sám hối khi muốn ông làm phép rửa cho mình.
Qua lối sống và lời rao giảng, Gioan xứng đáng được hưởng những lời tán dương mà dân chúng tung hô. Tuy nhiên, ngài đã không nhận và quy hướng về Đức Giêsu. Vì thế, ông nói: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi,
tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,7-8). 2. Sứ điệp Gioan rao giảng
Quả thật, Gioan đã đến và ông đã thực hiện đúng những gì đã tiên báo về mình trước đó: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (Ml 3,1) và “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Is 40,3).
Như vậy, vai trò của Gioan chính là chuẩn bị, dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Đường ở đây rất quan trọng. Nếu không có đường, chúng ta không thể đến được với nhau. Không có đường, mọi sự giao thương trực tiếp bị gián đoạn. Tuy nhiên, nếu có đường mà đường không tốt, có thể gây nguy hiểm hay cản trở công việc, hoặc đôi khi không có tác dụng. Chẳng hạn như đường mà bị ngập lụt thì kể như không có. Đường mà bị đất hay đá lở phủ lên thì mọi phương tiên cũng chẳng qua lại được. Đường lồi lõm, ổ trâu, ổ voi, quanh co…, nếu tham gia giao thông sẽ rất nguy hiểm, bởi không chừng có thể gây nên những tai hại huy hiểm có thể chết người…!
Chính vì vậy, người ta muốn phát triển kinh tế hay văn minh…, một trong những điều cần thiết, đó là phải khai thông những con đường.
Con đường vật lý cần như thế đó! Nhưng có một con đường khác còn cần hơn gấp bội, con đường đó chính là con đường tâm linh, thiêng liêng, con đường của lòng người với người, của con người với Thiên Chúa.
Hôm nay, Gioan đã chỉ ra cho người đương thời với ngài và ngay cả chúng ta những việc cần làm ngay để đón Chúa đến, đó là:
Hãy san bằng những đỉnh đồi kiêu ngạo; bặt cho bằng lòng tự ái ghen tương; lấp cho đầy những tham sân si cũng như những hố sâu của sự chia rẽ, tiền bạc, danh vọng, nhục dục; uốn cho ngay những quanh co, dối trá, vu khống, nói hành, nói xấu….
Đây chính là những đề nghị mang tính trọng tâm của sứ điệp mà Gioan đã chỉ cho dân chúng để họ thi hành mà được cứu rỗi. 3. Thi hành lời dạy của Gioan
Cùng một sứ điệp, vì thế, trong Mùa Vọng này, lời của Gioan vẫn vang vọng và không hề giảm nhẹ tính cần thiết khi mời gọi mỗi chúng ta cũng hãy làm như những gì mà ngài đã đề nghị cho dân chúng khi xưa.
Nhìn vào cuộc sống tâm linh, nhiều người trong chúng ta sẽ giật mình, bởi vì con đường thiêng liêng của mỗi người sao nhuốc nhơ, dơ bẩn, và lồi lõm, quanh co đến thế! Nào là gồ ghề, lởm chởm của sự kiêu ngạo. Nào là ổ gà, ổ trâu, hố voi của những tham sân si, ích kỷ ghen tương. Nào là quanh co của sự dối trá….
Là người Kitô hữu thực thụ, chúng ta cần phải có một tư cách đứng đắn của người công chính, thánh thiện, đạo đức. Tư cách đó chính là phong cách trưởng thành của người quân tử. Không hai mặt, hai lòng; không tiểu nhân; không vu vạ cáo gian; không thêm điều bịa đặt: “Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm thắt điều gì là do ác quỷ” ( Mt 5, 37 ). Bởi vì: “Đường lối của kẻ gian ác thì quanh co, hành động của người trong sạch thì ngay thẳng” (x. Cn 21, 29 ), và “Thiên Chúa ưa điều chính trực, ghét điều gian ác” (Dt 1, 9 ); “Ngài ghê tởm tâm địa quanh co” (x. Cn 11, 20).
Muốn uốn cho thẳng con đường thì cần thiết lắm một sự khiêm nhường. Điều này đòi hỏi chúng ta phải lột xác, bởi vì ai cũng muốn phình to bản ngã, đề cao cái tôi và ham muốn danh vọng, quyền lực, tiền bạc….
Nếu không có sự khiêm nhường thực sự, mỗi người sẽ phá hoại chương trình của Thiên Chúa trên cuộc đời ta, đồng thời sẽ làm cho sứ vụ của mình bị phản tác dụng khi ngôn hành bất nhất.
Điều nguy hiểm nhất, đó là: nếu không khiêm nhường, chúng ta sẽ là đồ đệ của qua quỷ, bởi vì chúng ta đang làm cho mục đích của chúng hiện hữu trong lời nói và hành động của mình.
Muốn trở nên một con đường tốt để ta đến với Chúa và Chúa đến với ta cũng như ta đến với tha nhân và ngược lại, thì:
Trước hết, noi gương Gioan, hãy vào sa mạc để gặp gỡ Thiên Chúa. Sa mạc ở đây chính là canh tân đời sống nội tâm, suy gẫm Lời Chúa, cầu nguyện sâu xa.
Chỉ có như thế, chúng ta mới nhận ra sự yếu hèn của mình và mới dám đối diện với sự lồi lõm, gồ ghề cũng như thùng vũng của con đường tâm linh nơi mình.
Thứ đến, noi gương Gioan, tập sống một cuộc sống giản dị, đơn sơ…, để được thanh thoát, bình an và nhẹ nhàng.
Nếu lối sống đạo quá cầu kỳ những chuyện bên ngoài, chúng ta sẽ đánh mất hay giảm nhẹ giá trị tâm linh cũng như vẻ đẹp đơn sơ của tâm hồn.
Tiếp theo, noi gương Gioan về đời sống khổ chế, nhằm chế ngự thân xác, hãm dẹp những bản năng xác thịt, ngõ hầu tinh thần được thanh cao và thanh thoát, để hướng về Chúa cách trọn vẹn và nhạy bén với người nghèo cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết chuẩn bị cho Chúa những con đường thật đẹp, thẳng và rộng rãi để Chúa đến với chúng con và cũng để chúng con đến với tha nhân được thuận lợi.
Xin cho chúng con biết sống đơn sơ, giản dị và thanh khiết, nhất là biết khiêm nhường để Chúa được vinh danh hơn. Amen. Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
Hằng năm cứ mỗi lần Mùa Vọng trở về là chúng ta có dịp gặp lại một trong những khuôn mặt rất đặc biệt của Tin Mừng. Tôi muốn nói đến Gioan Tẩy Giả.
I. Hồi ấy Gioan xuất hiện trong hoang địa miền Giuđêa. Ông xuất hiện với một cung cách hơi đặc biệt. Tin Mừng nói về ông như sau: "Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, cũng chẳng muốn khác người, nhưng ông làm thế là vì ông ý thức về sứ mệnh cao cả của mình. Ông đã từ bỏ hầu như hết mọi thứ mà người đời thường tìm kiếm.
a/ Ăn mặc: Ông ăn mặc rất đơn sơ dân dã.
Làm người ai mà chẳng muốn ăn ngon mặc đẹp? Gioan có đủ và còn có dư điều kiện để làm việc đó. Chúng ta nhớ ông là người con duy nhất của một gia đình giầu có. Cha mẹ ông là người có địa vị, có thế giá trong xã hội. Vì cha của Gioan thuộc giai cấp tư tế. Thế nhưng Gioan đã hy sinh.
Của ăn thức uống của ông không phải là những thứ cao lương mỹ vị. Tin Mừng cho chúng ta biết ông ăn châu chấu và thêm vào đó có một chút mật ong trong rừng. Áo mặc của ông cũng không phải là thứ đắt tiền. Chúng được làm bằng lông da thú, một thứ áo mặc thường dùng của những người mục tử nghèo khó. Đôi dép ông mang ở dưới chân cũng thế. Tất cả đầu bằng da thú vừa sẵn có vừa rẻ tiền.
b/ Về cuộc sống thường ngày của ông thì Thánh Luca bảo: ngay từ thuở còn niên thiếu ông đã chọn chốn hoang vu làm nơi cư ngụ cho mình. Ông tự nguyện sống một cuộc sống khắc khổ khó khăn như thế để tự rèn luyện mình nên một con người sắt đá hầu có thể đối mặt, đương đầu với những thách đố do sứ mệnh của ông đòi buộc.
Claude Tassin nói về ông như thế này: "Ông không lập dị nhưng ông coi thường những tiện nghi vật chất. Ông muốn sống hoàn toàn tự do không để cho mình bị ràng buộc vào bất cứ một thứ gì mà người trần thế coi trọng". Ta có thể tóm lại trong hai tiếng: Ông muốn sống siêu thoát để ông được tự do hành động theo sứ mạng của mình.
II. Bây giờ chúng ta hãy nghe lại nội dung những lời ông tuyên bố trong bài Tin Mừng hôm nay: Hãy dọn đường cho Chúa.
Vâng "Hãy dọn đường". Đường đi có một giá trị rất quan trọng trong cuộc sống.
Trong trận lũ lụt vừa qua, nhiều du khách trên tuyến đường Bắc – Nam bị kẹt ở miền Trung. Lý do là đèo Hải Vân bị sạt lở, xe cộ không đi lại được. Nhiều đoạn đường sắt bị nước lũ cuốn đi, nên tàu Bắc – Nam cũng đành ủ rũ nằm chờ. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.
Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người. Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.
Con đường vật lý đã cần. Nhưng con đường tâm lý thiêng liên còn cần hơn. Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì dù có ở sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau.
Tương tự như thế, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, từ hơn hai mươi thế kỷ nay nhưng nhiều người vẫn chưa gặp được Chúa. Tại sao thế?
Thưa vì tâm hồn ta còn có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác.
Tâm hồn ta còn có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Tâm hồn ta còn có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng.
Tâm hồn ta còn có những hố sâu chia rẽ, thích gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ.
Tâm hồn ta còn có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta còn có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
Tâm hồn ta còn có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với cả chính mình.
Tâm hồn ta còn có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Tâm hồn ta còn có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn.
Tâm hồn ta còn gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân, ưa phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Vâng! Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy đang ngăn chặn Chúa đến với ta. Chính vì thế mà hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến.
Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh giả hình. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành nói xấu.
Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài những cố gắng bản thân, còn cần đến những phương thế. Đời sống của Thánh Gioan Baotixita đề nghị cho ta 3 phương thế rất tốt.
* Phương thế thứ nhất là vào sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ chìm sâu xuống đáy lòng mình để gặp gỡ Chúa. Một mình ta diện đối diện với Chúa. Trong thân mật, Chúa sẽ dạy ta biết Thánh Ý để ta thi hành. Sa mạc đây được hiểu là những giờ cầu nguyện riêng tư thân mật một mình ta với Chúa.
* Phương thế thứ hai là mặc áo da thú. Mặc áo da thú có nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm để tiến lên trên con đường thánh đức.
Phương thế thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý nói về một đời sống khổ chế. Hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những đòi hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không cần thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.
Một buổi chiều, bề trên của một dòng kia hỏi một tu sĩ:
- Hôm nay con đã làm gì?
- Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời: “Con rất bận bịu và nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, kìm hãm hai con diều hâu để rèn ý chí, thắng một con sấu, trị một con gấu và săn sóc một bệnh nhân”.
- Con nói gì thế? Bề trên cười hỏi lại, những việc như thế làm gì có trong nhà dòng?
- Thưa bề trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai con mắt của con mà con phải giữ gìn luôn để khỏi nhìn những vật cấm. Hai con nai tức là hai chân mà con phải trông coi từng bước đi để con khỏi đi vào con đường xấu. Hai con diều hâu tức là hai bàn tay con, con phải luôn luôn bắt nó phải làm nhiều điều phải. Con sấu là cái lưỡi, con phải kìm hãm hằng ngày để khỏi nói những điều vô ích và thô bỉ. Con gấu là trái tim con, con phải trừng trị, để khỏi ích kỷ và khoe khoang. Còn bệnh nhân là chính thân thể con, con phải canh phòng ráo riết để cho nhục dục khỏi xâm phạm vào.
Thánh Gioan Baotixita đã sống tương tự như thế nên Ngài đã trở thành người mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta biết cũng biết sống như vậy trong Mùa Vọng này, ta sẽ biến tâm hồn ta thành một con đường thẳng tắp và Chúa Giáng Sinh sẽ ngự đến với vô vàn hồng ân của Người.
Tin mừng Chúa nhật hôm nay giới thiệu một khuôn mặt nổi bật của mùa Vọng, đó là Gioan Baotixita, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Gioan Baotixita là tiếng kêu trong hoang địa, dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến, dọn lòng người đón nhận Đấng Messia. Gioan Baotixita không tự xưng tên tuổi, không nói rõ chức vụ của mình, nhưng ông đã mượn lời ngôn sứ Isaia để tự xưng mình là tiếng kêu trong rừng vắng, có bổn phận sửa lối cho Chúa đến:
“Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
Gioan Tẩy Giả đã hoàn thành tốt sứ mạng tiền hô: Ông đi khắp miền Giuđêa để rao giảng Tin mừng sám hối, đổi mới cuộc sống, cải tà quy chánh để chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế đến. Ông đã thành công khi mọi người đến với ông bên bờ sông Gioađan để lãnh nhận phép rửa sám hối. Có đủ mọi thành phần: người Do Thái, các luật sĩ, biệt phái, những người thu thuế và cả các anh bộ đội. Tất cả đều nghe lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả: “Dân miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với Người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan”.
Dân chúng tỏ ra mến phục cuộc đời Gioan Tẩy Giả và những lời giảng dạy của ông. Họ tưởng Gioan Baotixita là Đấng Messia phải đến để cứu dân. Gioan đã phân biệt thân thế và sứ mạng của ông và sự nghiệp của Chúa Giêsu.
– Về thân thế, Gioan khẳng định ông không phải là Đấng Messia. Ông khiêm tốn nhìn nhận ông thua kém Đức Giêsu: Ngài đến sau nhưng có trước tôi “Tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài”. Ngài quyền năng hơn tôi! Gioan đã quy hướng tất cả về Chúa Giêsu, giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”.
– Về sứ mạng loan báo Tin mừng: Gioan loan báo Tin mừng kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để được tha tội. Còn Đức Giêsu loan báo Tin mừng Nước Trời để con người được ơn cứu độ. Phép rửa của Gioan là dấu chỉ biểu lộ sự sám hối, còn phép rửa của Chúa Giêsu thiết lập là bí tích Rửa tội trỗi vượt hơn, vì qua bí tích Rửa tội, chúng ta được làm con Chúa do tác động của Chúa Thánh Thần.
Chính Gioan Baotixita đã xác nhận Đức Giêsu là Đấng Messia mà muôn dân mong đợi. Để đón Đấng Messia, cần phải dọn đường để Ngài đến với mọi người. Con đường bằng phẳng để Ngài đến với mọi người cách dễ dàng. Những chỗ cao gồ ghề hãy san cho bằng, những hố sâu phải lấp cho đầy, nơi quanh co phải uốn cho thẳng để Chúa đến với mọi người, mọi người đến với Chúa, đến với anh em cách thoải mái, dễ dàng để tạo tương quan tốt với mọi người.
Đường bộ là huyết mạch của quốc gia. Hệ thống giao thông đương bộ, đương thủy, hàng không càng phát triển, càng tốt đẹp, đất nước mới giàu sang, hùng cường. Ngày hôm nay, người ta trên thế giới gần gũi, thân thiện, hợp tác với nhau về kinh tế, chính trị, xã hội… là nhờ hệ thống giao thông, liên hệ thông tin thất hiện đại. Thế giới hôm nay như là một gia đình. Người ta có thể nắm bắt mọi thông tin, mọi biến cố xảy ra trên thế giới một cách mau lẹ, chính xác: thực tế con đường giao thông nối liền ấp với ấp, xã với xã, huyện với huyện, tỉnh với tỉnh, nước này với nước khác; quả là rất cần thiết và hữu ích.
Ngoài con đường bằng đá trải nhựa, đường thủy, đường hàng không… còn có đường tinh thần, con đường thiêng liêng, đường tâm linh nối kết tâm hồn con người với nhau và với Thiên Chúa trong tình thương huynh đệ.
Muốn Chúa đến với chúng ta và đến với anh em để tất cả được cứu độ, thì bắt buộc chúng ta phải sửa sang lại con đường tâm hồn của minh cho tốt đẹp. Sửa con đường bằng đất đá, bê tông, bằng nhựa đường thì dễ; sửa con đương tâm hồn quả là khó khăn gấp bội so với việc sửa đương đi. Đường tâm hồn thì vô hình nhưng lại có thật, thiết thân với cuộc sống đạo, cũng như đời. Vậy sửa đường tâm hồn bằng cách nào? Thánh Gioan Tẩy Giả đã đề xuất cho chúng ta những cách cụ thể:
“Hãy chịu phép Rửa, tỏ lòng sàm hối để được ơn tha tội”.
– Ăn năn sám hối là đổi mới cuộc đời, từ bỏ những việc làm bất chính, tội lỗi để sống một cuộc sống mới tốt hơn, muốn sám hối thì cần phải khiêm tốn nhìn nhận những sai phạm của mình để rồi sửa sai. Mỗi ngày phải bắt đầu lại. Tội lỗi, những hành vi bất chánh, tự kiêu, tự mãn, bất công… là những mô ụ, hố sâu, quanh co, gồ ghề trên con đường tâm hồn. Mỗi người cần phải sửa lại để Chúa đến với mình và để anh em cũng đến với ta một cách thoải mái, dễ dàng. Nguyên nhân của sự đổ vỡ trong tương quan với Chúa và anh em là tội lỗi.
– Chịu phép Rửa để biểu lộ tâm tình sám hối chân thành bằng hành động đến dìm mình trong dòng nước Giođan để chấp nhận chết đi cho tội lỗi và sống với Thiên Chúa, chấp nhận vác thánh giá, vui nhận mọi gian nan khó khăn trong đời noi gương Đức Giêsu Kitô.
– Noi gương thánh Gioan Baotixita sống khiêm tốn, sống đời hy sinh, khổ hạnh. “Gioan Baotixita ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo da thú”, “Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”, “Ngài phải lớn lên, tôi phải nhỏ đi”.
Vậy khiêm tốn là biết quy hướng mọi vinh quang và thành công về Chúa, không ham quyền cao chức trọng trong xã hội.
Sau cùng, chúng ta phải dọn con đường tâm hồn cho tốt bằng tâm tình sám hối chân thành, hy sinh hãm mình, cầu nguyện, yêu thương, bác ái để Chúa đến với chúng ta và anh em đến với mình.
Thời Cựu Ước, ngôn sứ Đệ nhị Isaia đã kêu gọi "Hãy don đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong sa mạc". Thánh Gioan Tiền hô là người thực hiện lời kêu gọi này. Ngài cũng là người làm gương cho chúng ta noi theo để thực hiện lời kêu gọi này.
a/ Gioan đã đi vào sa mạc : Trong lịch sử cứu độ, sa mạc luôn là khung cảnh thuận tiện cho ân sủng hoạt động. Ở đó, Thiên Chúa đã giáo dục dân Ngài qua 40 năm của cuộc xuất hành ; ở đó, Thiên Chúa đã thanh luyện dân Ngài trước khi cho họ trở lại quê hương sau khi thoát khỏi cảnh lưu đày…
Chính vì thế, Giáo Hội muốn chúng ta sống 4 tuần lễ Mùa Vọng này như sống trong sa mạc : bình tâm hơn, ăn uống đạm bạc hơn, cầu nguyện nhiều hơn và suy nghĩ nhiều hơn để biết rõ ý Chúa…
b/ Gioan đã đi trước Chúa để dọn đường cho Ngài : Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Gioan đã giúp người ta sám hối, thú tội và lãnh nhận phép thanh tẩy. Rồi khi Đức Giêsu xuất hiện, chính Gioan giới thiệu Ngài cho dân chúng biết.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn còn cần những người tiền hô, những kẻ dọn đường ; Tin Mừng của Ngài vẫn còn cần những người nhiệt tình mang đến giới thiệu cho người khác. * 2. "Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng"
Bài Tin Mừng được chọn đọc trong Chúa nhật II mùa vọng này đề cập đến con đường. Thánh Gioan Tiền hô bảo "Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng".
- Con đường là một phương tiện giao thông liên lạc, nối kết hai người ở hai nơi xa cách nhau để hai người, hai nơi đó có thể đến được với nhau. Nếu không có con đường thì không đến được với nhau, hoặc nếu có con đường nhưng đường đó đã hư hỏng thì cũng không đến với nhau được.
- Dĩ nhiên khi nói đến con đường nối kết thì không phải chỉ là con đường vật chất bằng đất, nhựa hay xi măng, không phải chỉ là con đường trên mặt đất, trên sông biển, trên vòm trời… Mà còn là những con đường tinh thần, những con đường trong lòng người. Con đường tinh thần, con đường trong lòng mới là quan trọng. Ông Nguyễn Bá Học có nói "Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông". Con đường tình yêu cũng thế "Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua".
- Bây giờ ta hãy trở lại với Lời rao giảng của thánh Gioan tiền hô. "Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng". Lễ Giáng sinh là dịp Chúa muốn đến với mỗi người chúng ta. Mùa vọng là mùa mỗi người chúng ta chuẩn bị để có thể đến gặp Chúa. Như vậy là cần phải có một con đường. Chúa là Chúa, ta là người phàm, tự nhiên là xa cách nhau, cần phải có một con đường để Chúa có thể qua đó mà đến với ta và ta qua đó mà đến với Chúa. Lời của Gioan Tiền Hô đặt cho ta hai câu hỏi : 1/ Đã có con đường ấy chưa ? 2/ Con đường đó có thể đi lại được hay không ? 1/ Giữa Chúa và mỗi người chúng ta, đã có một con đường liên lạc nào hay chưa ?
Chắc chắn rằng đối với một số người thì chẳng có một con đường nào nối kết họ với Chúa cả. Đó là những người chỉ biết có làm ăn sinh sống, vui chơi, thỏa mãn mọi nhu cầu thế tục. Họ có nhiều con đường lắm, đường dẫn tới chỗ làm ăn, đường dẫn đến chỗ vui chơi, đường dẫn tới những chỗ hẹn hò yêu đương. Nhưng không có con đường nào dẫn họ đến với Chúa cả. Còn đối với chúng ta, chắc là nhiều người nghĩ rằng mình đã có sẵn con đường nối kết với Chúa rồi, đó là con đường đưa ta từ nhà mình đến nhà thờ này. Đến nhà thờ là đến với Chúa rồi chứ gì nữa, phải không ? Chưa chắc ! Đành rằng đã có con đường dẫn đến nhà thờ, nhưng con đường đó có khi trời mưa ta không đi, có khi vì bận rộn hay vì một thứ gì đó ta ham thích hơn nên ta cũng chẳng thèm đi, và có khi dù ta có đến nhà thờ ta vẫn không gặp được Chúa !
- Như vậy con đường phải có để Chúa và ta có thể gặp nhau là con đường gì ?
Thưa là con đường cầu nguyện : đến nhà thờ mà có cầu nguyện thật sự thì mới gặp được Chúa. Khi chưa phải là Chúa nhật hay khi trở ngại không đến nhà thờ được, nhưng nếu ta có cầu nguyện riêng, cầu nguyện ở nhà, cầu nguyện trong mọi biến cố cuộc sống, thì ta vẫn gặp được Chúa. Vì thế trong những tuần Mùa vọng này, ta hãy cầu nguyện nhiều hơn, cầu nguyện sốt sắng hơn. Cầu nguyện ở nhà thờ, cầu nguyện ở nhà riêng, cầu nguyện trước những biến cố của cuộc sống. Khi đã gặp được Chúa trong cầu nguyện, Chúa sẽ chỉ dẫn tiếp cho ta biết phải làm gì để cuộc sống mình ngày càng tốt hơn.
- Khi mình cầu nguyện sốt sắng thì Chúa sẽ chỉ dẫn mình. Nói như vậy nghĩa là còn một con đường thứ hai nữa : đó là thực hiện thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa rất nhiệm mầu, nhiều khi mình không hiểu và không muốn tuân theo. Nhưng luôn luôn thánh ý Chúa là con đường tốt nhất cho mỗi người chúng ta. Chỉ bằng cách đi theo con đường thánh ý Chúa, thì chúng ta mới bình an, hạnh phúc thật. Cưỡng lại thánh ý Chúa, đời mình luôn áy náy, khổ sở.
Chúng ta còn nhớ chuyện ông Giona không ? Ý Chúa muốn ông đi đến thành Ninivê để vạch tội của dân thành ấy và bảo họ phải ăn năn sám hối. Ông thì coi việc đó là khó khăn, không thích. Nên ông cũng xuống tàu, nhưng xuống tàu để đến một thành khác, Tarsis. Trời nổi cơn giông, biển động. Các thủy thủ đã làm đủ cách, các hành khách đã khẩn cầu với đủ thứ thần linh, thế mà nguy hiểm chìm tàu vẫn không chấm dứt. Lúc đó Giona hiểu rằng tất cả chỉ vì mình đã cố tình không chịu đi theo con đường thánh ý Chúa. Người ta quăng ông xuống biển, ông bị trôi dạt ba ngày, và cuối cùng tấp vào bờ của một thành phố, chính là thành phố Ninivê mà ý Chúa đã muốn ông đi đến !
- Trong Mùa Vong này, mỗi người chúng ta hãy cố gắng vạch một con đường để Chúa có thể đến với mình và mình có thể đến với Chúa. Con đường đó là cầu nguyện. Hãy cầu nguyện nhiều hơn, cầu nguyện sốt sắng hơn. Khi mình cầu nguyện thì Chúa sẽ chỉ cụ thể cho mình biết phải làm gì cụ thể hơn nữa trong Mùa vọng này. Đó chính là thánh ý Chúa, hãy cố gắng làm theo sự hướng dẫn của ý Chúa, vì chỉ có làm theo Thánh ý Chúa thì đời mình mới tốt hơn, tâm hồn mình mới bình an vui sướng thật sự. 2/ Còn vấn đề thứ hai nữa : Đã có con đường nối kết ta với Chúa rồi. Đó là cầu nguyện và theo ý Chúa. Nhưng con đường đó có trở ngại đến nỗi không đi lại được hay không ?
Dĩ nhiên là có nhiều trở ngại lắm : Nói đến cầu nguyện là tự nhiên ta ngán, ta không quen. Nói đến thánh ý Chúa thì tự nhiên ta cũng ngại, ta muốn làm theo ý riêng mình hơn. Đó là những trở ngại. Nói theo từ ngữ của Gioan Tiền hô, đó là những chỗ lồi lõm, quanh co, gập ghềnh trên con đường nối kết ta với Chúa. Nhưng xét cho cùng chẳng có trở ngại nào mà ta không thể vượt qua, trừ trở ngại trong chính lòng ta. "Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông". Nếu cứ ngại như thế mãi thì ta sẽ không gặp được Chúa. Mùa vọng này sẽ qua đi. Lễ Giáng sinh năm nay sẽ trôi đi, cuộc đời của ta thì vẫn chẳng có gì thay đổi tốt hơn. Vì thế ta phải vượt qua mọi e ngại, chiến thắng khuynh hướng ươn lười để suốt mùa Vọng này siêng năng cầu nguyện sốt sắng và tìm hiểu để thực hành thánh ý Chúa. Có như vậy Mùa Vọng này mới hữu ích thực sự và lễ Giáng sinh năm nay mới là dịp Chúa ban tràn trề ơn sủng cho cuộc đời mỗi người chúng ta. * 3. Chúa sắp đến. Nhưng có phải vậy không ?
Có lẽ tâm trạng chúng ta hôm nay cũng giống tâm trạng các tín hữu thế kỷ I mà bài Thánh thư hôm nay nói tới : Một mặt nghe dạy rằng Chúa sẽ lại đến nên cần phải dọn đường cho Chúa. Nhưng mặt khác chờ mãi mà không thấy Chúa đến, nên ngã lòng buông xuôi. Đức tin, đức cậy và đức mến nguội lạnh dần theo thời gian.
Ngược lại, ngày nay có một vài nhóm người tin chắc rằng Chúa sắp đến. Họ giải thích Sách Thánh theo một kiểu nào đó rồi đi đến kết luận rằng sắp tới ngày tận thế. Họ còn dám khẳng định chắc chắn tận thế sẽ là ngày mấy tháng mấy năm mấy nữa!
Ta nên xem lại các bài Thánh Thư hôm nay.
- Tác giả viết rằng sẽ có ngày mà trời và đất sẽ bị huỷ diệt : "Các tầng trời qua đi, ngũ hành bị thiêu rụi, trái đất cùng mọi công trình kiến tạo đều bị thiêu huỷ". Nhưng đồng thời tác giả cũng loan báo rằng sẽ có "trời mới đất mới". Như thế là có hai thứ "trời đất" : thứ trời đất xấu xa tội lỗi sẽ bị tận diệt (tận thế), còn thứ trời đất tốt lành sẽ lên ngôi (tạo dựng mới). Tác giả đã dùng loại văn thể khải huyền với nhiều hình ảnh nhằm gây xúc động. Chúng ta không nên hiểu những hình ảnh này theo nghĩa đen mà chỉ cần nắm ý tác giả là sẽ có một sự thay đổi lớn lao : sự dữ bị tận diệt và sự thiện lên ngôi. Có thể nói, đó là lúc Chúa đến.
- Nhưng không ai có thể xác định ngày tháng cho biến cố đó, vì "Chúa đến như kẻ trộm" (câu 10. Xem thêm Mt 24,43-44), nghĩa là rất bất ngờ. Hơn nữa, không phải Chúa chỉ đến trong ngày tận thế, mà Ngài còn đến rất nhiều lần, đến với từng người, đến để tạo dựng trời mới đất mới trong lòng người đó.
- Vì thế tác giả đưa lời khuyên về cách sống trong khi chờ ngày Chúa đến : Nếu Chúa chưa đến là do Ngài muốn ban thêm cho chúng ta thời gian để chúng ta lo ăn năn sám hối hầu tránh khỏi bị phạt khi Ngài đến thật ; Vậy trong thời gian hiện tại chúng ta hãy lo sám hối ăn năn và cố gắng sống thánh thiện đạo đức.
Đó cũng là điều mà Giáo Hội kêu gọi chúng ta trong Mùa Vọng này. * 4. Chuẩn bị đón Chúa
Pat William có kể một câu chuyện rất đặc sắc trong cuốn The Power Within You như sau :
Cordell Brown, một bệnh nhân bị chứng liệt não, đến câu lạc bộ Quán Quân Thế Giới Philadelphia Phillies. Anh bước đi khó khăn, nói năng ấp úng, nên khi anh tới, các thành viên quay mặt đi như không nhìn thấy. Anh có thể nói gì với những siêu minh tinh màn bạc Steve Carleton, hoặc như Mike Schmit, những kẻ sống rất phong lưu ngàn lần cách xa anh ?
Tuy không được đón tiếp nhiệt tình, anh vẫn nói : "Tôi biết rằng tôi rất khác biệt với các bạn, "nhưng nhờ ơn Chúa mà tôi được như thế này" (1Cr.15,10). Và anh thao thao bất tuyệt nói về lòng nhân hậu của Thiên Chúa đã tuôn đổ phúc lộc xuống trên cuộc đời anh. Anh mạnh mẽ xác quyết : "Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của các bạn lại, thì các bạn cũng như tôi. Mọi người đều như nhau. Tôi không cần những gì các bạn đang có, nhưng tôi chắc chắn rằng các bạn cần một điều mà tôi luôn có, đó là Đức Giêsu Kitô".
*
Suốt chiều dài lịch sử Cựu Ước, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho con người đón tiếp Đức Kitô. Và khi đến thời gian đã định, Thiên Chúa dùng Gioan Tiền Hô, một tiên tri vĩ đại gạch nối giữa Cựu và Tân ước để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế : "Có tiếng kêu trong hoang địa : Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" (Mc.1,3).
Gioan không làm cách mạng, ngài không bắt người ta phải thay đổi cuộc sống, thay đổi địa vị xã hội, cho dù là thu thuế hay binh lính, hai hạng người mà thời bấy giờ bị coi khinh và xem thường. Nhưng Gioan chỉ nhắc nhở, thúc giục mọi người hãy cải thiện đời sống, đổi mới tâm hồn để sẵn sàng chờ đón Chúa đến.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể làm gì khác Gioan, sống khó nghèo và đơn sơ trong cách ăn mặc và lối sống.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể sống buông thả, theo tính khoe khoang và tự mãn.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể không học nơi Gioan lòng khiêm nhường, luôn qui hướng mọi vinh quang về cho Chúa.
Chính nhờ có Đức Kitô mà Cordell Brown trong câu chuyện trên đây cảm thấy hạnh phúc tràn đầy. Hạnh phúc ấy chỉ có được bằng giá của sự từ bỏ liên tục. Ludovic Giraud đã viết : "Sống không phải chấp nhận tất cả, mà là chọn lựa, là cắt bỏ, là hy sinh. Nhựa cây chỉ dẫn đến cành khi được cắt tỉa và nó chỉ sống được khi ngành cây tầm gởi không bóp nghẹt nó".
Mùa Vọng là thời gian của hy vọng. Con thuyền hy vọng của người tín hữu Kitô luôn chất đầy tin tưởng và phó thác : - Tin tưởng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, nên chúng ta cũng đừng thất vọng về chính mình.
- Phó thác cho Thiên Chúa Tình yêu, nên dù tội lỗi có ngập tràn, khổ đau có chồng chất, chúng ta vẫn một niềm cậy trông.
Tin tưởng và phó thác là đôi mắt của người tín hữu nhìn thẳng vào Chúa mà hy sinh và từ bỏ.
*
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chuẩn bị đón Chúa với thái độ của người lữ hành trong sa mạc : dẹp đi những cồng kềnh vướng bận. Xin cho chúng con biết khổ chế nơi thân xác và chay tịnh trong cõi lòng, cho tâm hồn chúng con được thanh thoát, đón mừng Chúa đến ban nguồn vui Ơn Cứu độ. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu") * 5. Đừng tưởng
Những người thuộc phái Pharisêu và Sađóc là những thành phần đạo đức và sốt sắng nhất thời đó. Bởi thế họ nghĩ rằng cho dù ai đó có bị mất phần rỗi thì họ vẫn chắc chắn sẽ được cứu rỗi thôi. Nhưng Gioan bảo họ : "Đừng tưởng thế… Hãy sinh hoa kết quả"
Chúng ta tuy không đạo đức sốt sắng như những người pharisêu và sađóc, nhưng chúng ta không bỏ lễ Chúa nhựt nào, không bỏ kinh hôm kinh mai ngày nào, không phạm tội trọng nào cả. Thế thì chúng ta cũng có thể được hưởng ơn cứu độ chứ. Gioan cũng nhắc chúng ta "Đừng tưởng thế". Một cái cây sum xuê lá cành mà không sinh hoa kết quả thì cũng vô ích và phải bị chặt đi thôi ! 6. Hãy an tâm, hãy an tâm !
Trong số biết bao lời trong Thánh Kinh, chắc hẳn đây là một trong những lời dễ nghe chịu nhất : "Hãy an tâm, hãy an tâm ! Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi".
Thực ra, lời ngọt ngào này Thiên Chúa không chỉ nói một lần duy nhất qua miệng ngôn sứ Đệ nhị Isaia. Ngài đã nói thế không biết là bao nhiêu lần bằng những lời lẽ khác. Hãy đọc lại những chương đầu của sách Sáng thế, ta sẽ thấy rằng sau mỗi lần con người phạm tội và bị phạt thì Thiên Chúa đều tỏ một cử chỉ yêu thương : mặc áo cho hai nguyên tổ đang xấu hỗ vì trần truồng, ghi dấu trên trán Cain để bảo vệ anh, tự tay đóng cửa chiếc tàu Noê trước khi cơn hồng thuỷ ập xuống… Hãy nhìn lại dòng lịch sử cứu độ, ta lại thấy lịch sử cứu độ là một lịch sử tha thứ : con người phạm tội không biết là bao nhiêu lần, và Thiên Chúa vẫn rộng lượng tha thứ không biết là bao nhiêu lần.
Đức Giêsu đến trần gian cũng chỉ để nói lên lời ngọt ngào đó. Hãy đọc lại Tân Ước và đếm xem bao nhiêu lần Đức Giêsu bảo người ta "Đừng sợ", bao nhiều lần Ngài âu yếm nói "Tội con đã được tha". Khi muốn mượn một hình ảnh để giúp người ta hiểu về mình, Đức Giêsu đã ví mình như một mục tử lặn lội đi tìm con chiên lạc và khi tìm được rồi thì trìu mến ẵm chiên trong lòng…
Bởi thế, thông tin về việc Ngài đến chính là một Tin Mừng.
Chúng ta hãy làm theo lời kêu gọi của Isaia trong bài đọc I hôm nay : "Hỡi những kẻ đưa Tin Mừng, hãy trèo lên núi cao, hãy mạnh dạn cất tiếng, hãy nói cho các dân rằng : Đây Chúa là Thiên Chúa sẽ đến !". 7. Tiếng kêu trong hoang địa
Tiếng của Gioan Tẩy giả là một tiếng kêu trong hoang địa, nhiều người không nghe thấy.
Ngày nay cũng có nhiều tiếng kêu trong hoang địa :
- Hiện giờ ở đâu đó một đứa trẻ đang kêu. Em cần tình thương, hay đơn giản hơn chỉ là một miếng bánh.
- Hiện giờ ở đâu đó một người trẻ đang kêu. Anh cần một đôi tai lắng nghe, hoặc một con tim thông cảm.
- Hiện giờ ở đâu đó một người già đang kêu. Ông cần ai đó đến thăm, hoặc con cái nói một lời.
Hàng ngàn hàng vạn tiếng kêu đang vang lên nhưng không ai nghe thấy trong thế giới bất công này.
Lạy Chúa, xin giúp con lắng nghe những tiếng kêu trong hoang địa. Nhất là xin giúp con nghe được tiếng Chúa, đang thì thầm trong hoang địa của lòng chúng con. (Viết theo Flor McCarthy) V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, hôm nay Chúa nhật thứ 2 Mùa Vọng, Hội thánh mời gọi mọi người hãy dọn đường cho Chúa đến, sửa lối cho thẳng để Người đi. Chúa đến là một hồng ân cho mỗi người. Chúng ta hãy thành tâm khẩn nguyện :
1. Hội thánh được sai đi để dọn đường cho Chúa đến với mọi người / chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh biết noi gương thánh Gioan tẩy giả / để dọn đường sửa lối cho Chúa đến.
2. Thế giới còn đầy những bất công chia rẽ / nhiều nơi còn đang chiến tranh, đói khát / chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền biết cai trị theo công lý, hòa bình và tình huynh đệ / để dọn đường cho Chúa đến với mọi người.
3. Chung quanh chúng ta còn nhiều người nghèo đói, thất nghiệp, bệnh tật, không ai quan tâm giúp đỡ / chúng ta cầu xin Chúa cho họ biết kiên nhẫn và can đảm / để mong chờ và hy vọng Chúa đến giúp đỡ họ.
4. Trong hoàn cảnh khó khăn còn phải lo âu nhiều cho cuộc sống hằng ngày / chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / đừng vì thế mà dửng dưng với việc dọn đường sửa lối cho Chúa đến.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đến để đem hạnh phúc thật cho mọi người chúng con. Xin Chúa giúp chúng con dẹp bỏ mọi cản trở trên đường Chúa đến, bằng lòng ăn năn sám hối mọi tội lỗi, để được Chúa viếng thăm. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước Kinh Lạy Cha : Chúng ta sắp cầu nguyện cho Nước Chúa trị đến. Nhưng cũng hãy nhớ dọn đường cho Nước Chúa đến.
- Sau Kinh Lạy Cha : "… Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, là dấu chỉ của việc Con Cha đến trong trần gian. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp, chúng con cố gắng hoán cải mỗi ngày, chúng con sẽ luôn thoát khỏi tội lỗi và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin giúp chúng con luôn tỉnh thức sẵn sàng đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc…"
- Trước khi rước lễ : "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng cứu độ trần gian, Đấng sắp đến viếng thăm chúng ta và ban ơn cứu độ cho chúng ta. Phúc cho ai được…"
VII. GIẢI TÁN
Anh chị em hãy ra đi dọn đường cho Chúa trong gia đình, khu xóm và môi trường làm việc của mình. Chúc anh chị em ra về trong bình an.
Thiên Chúa đã chuẩn bị con đường cho con người đón tiếp Đức Kitô.Do đó, suốt chiều dài lịch sử Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ để loan báo cho nhân loại, cho mọi người biết Đấng Cứu Thế sẽ đến trần gian để thực hiện kế hoạch yêu thương của Cha Ngài. Rồi đến thời kỳ đã định, Gioan Tẩy Giả một vị ngôn sứ vĩ đại gạch nối giữa Cựu Ước và Tân Ước xuất hiện, chuẩn bị cho Đấng cứu độ :” Có tiếng kêu trong sa mạc : Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng “ ( Mc 1, 3 ).
Gioan tiền hô đã ăn chay, cầu nguyện, đã trong sa mạc một thời gian dài để chuẩn bị cho sứ mạng lớn lao của mình là dọn đường cho Chúa đến. Tin Mừng thuật lại Ông ăn châu chấu và mật ong rừng, mình mặc áo lông da thú.Đời sống hoang dã trong sa mạc đã thanh luyện cuộc đời của Ông và rồi Thiên Chúa kêu mời Ông, vị ngôn sứ đã ra khỏi sa mạc, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Ông kêu mời mọi người sám hối, thay đổi đời sống, đổi mới tâm hồn, thay đổi cách nhìn và cách tư duy. Như thế, vị ngôn sứ Gioan tiền hô kêu gọi dân chúng, mời gọi mọi người dọn đường cho Chúa đến : đồi núi phải san cho phẳng, hố sâu phải lấp cho đầy, đường quanh co phải uốn lại cho ngay, nghĩa là con người, nhân loại và chúng ta phải lấp hết những hố sâu của tham lam, ích kỷ, nhỏ nhen, ghen ghét, tỵ hờn; phải uốn lại ngay thẳng những ý nghĩ lệch lạc, không tốt, những suy nghĩ sai lầm, trệnh đường; phải san cho bằng phẳng những tự kiêu, tự mãn, và sống khiêm nhượng, bác ái, thương yêu vv…
Thời Gioan Tẩy giả sống, hai hạng người bị xã hội ghét kết án là thu thuế và binh lính. Tuy nhiên, Gioan tiền hô không bảo họ phải thay đổi địa vị xã hội, việc đang làm, nhưng ông khuyên nhủ, thúc giục họ cải thiện đời sống, đổi mới tâm hồn để sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Con đường mà Gioan nói là con đường của tâm hồn con người. Đường dẫn vào cõi lòng phải là con đường ngay chính, đạo đức, thánh thiện. Thay đổi cõi lòng, làm cho cõi lòng trong trắng, tinh sạch, không ô uế là con người sẵn sàng chờ đón Chúa đến.
Vâng, dọn đường là canh tân đời sống, là tỉnh thức và cầu nguyện như người khôn xây nhà trên đá, như gia chủ tỉnh thức để không để kẻ trộm đào ngách, khoét vách, như các đầy tớ biết làm lợi cho chủ, như năm cô trinh nữ khôn ngoan, mang đèn mà lại đem theo cả dầu dự trữ vv…Dọn đường chủ yếu là làm đẹp cuộc sống, biết lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa bằng cách sống đức ái trọn hảo, sống yêu thương, sống chia sẻ với tha nhân và giúp đỡ người nghèo, người đói, người khát, kẻ tù đày, người gặp khốn khó gian nan vì khi giúp đỡ những người ấy là làm cho chính Chúa. Dọn đường là làm mới cõi lòng, làm đẹp nội tâm, để con người trở nên thánh thiện:” tay sạch lòng thanh “.
Giáo Hội trong Mùa vọng bao giờ cũng cho chúng ta thấy mẫu gương của Gioan Tẩy giả để noi gương bắt chước bởi vì cả cuộc đời của người môn đệ Chúa là phải cố gắng, phấn đấu và vượt thắng nhờ ơn Chúa, và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Gioan Tẩy giả thực sự đã sống hoàn toàn cho Chúa, đã gắn bó mật thiết với Chúa, đã làm cho lòng mình đẹp, tinh tuyền đến nỗi Chúa hài lòng ngự trị. Gioan tiền hô đã hết mình vì Chúa và tha nhân. Ông đã can đảm mạnh mẽ chống lại tội lỗi, chống lại những con người làm điều xấu, đi ngược lại với Giáo lý của Chúa ngay cả vua Hêrôđê…Gioan Tẩy giả đã bị chém đầu vì chống lại bạo quyền, chống lại những kẻ làm ngược ý Chúa.
Mùa vọng kêu mời mọi người, kêu mời chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng cải thiên đời sống, thay đổi cái nhìn, lối tư duy, suy nghĩ để sống ngay chính, đạo đức, thánh thiện để đón chờ Chúa đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức để sẵn sàng đón Chúa đến như năm cô trinh nữ khôn ngoan.Xin cho chúng con được biết sống khiêm nhượng luôn biết nói lời xin vâng làm theo ý Chúa.Xin cho chúng con biết đẩy xa tâm hồn những đam mê trần tục, những ham mê vật chất, thú vui không lành mạnh, biết dẹp bỏ những thói xấu để cải thiện đời sống, đổi mới nội tâm, làm sạch cõi lòng hầu xứng đáng cho Chúa ngự trị.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ 1.Gioan Tẩy giả là ai ? 2.Gioan Tẩy giả kêu gọi những gì ? 3.Đường ở đây có nghĩa là gì ? 4.Gioan Tẩy giả đã sống thế nào ? 5.Chúng ta phải làm gì để đón Chúa đến ?
Có lẽ nhiều người chúng ta đã kinh nghiệm thế nào là mong chờ được cứu thoát. Thuyền nhân trên đường vượt biên bằng con tàu nhỏ bé giữa đại dương đang chờ được tàu lớn cứu vớt. Một người hỏng xe giữa đường vắng chờ đợi người nhà đến đưa về… Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta nỗi mong chờ của dân Chúa đợi ngày Đấng Cứu Độ đến trần gian. Tuy nhiên mong chờ Chúa đến không nên là thái độ thụ động, mà phải được chuẩn bị bằng cách dọn con đường thiêng liêng để Người ngự tới trong tâm hồn. Ta có thể hiểu những cách diễn tả sự mong chờ ấy qua lời ngôn sứ I-sai-a, thánh Phê-rô và thánh Gio-an Tiền Hô.
Trước hết là sự mong chờ theo cách nhìn của ngôn sứ I-sai-a. Vậy theo ngài, dân Chúa mong chờ điều gì? Họ mong chờ tin vui do ngôn sứ loan báo: đó là đã đến lúc thời nô lệ của Giê-ru-sa-lem mãn hạn và tội của Thành đã đền xong”. Nói khác đi, họ chờ thời cứu độ bắt đầu và Thiên Chúa sẽ đích thân ngự đến. Để đón nhận tin vui Đấng Cứu Độ đến, Thiên Chúa muốn ta phải chuẩn bị. Không phải là chuẩn bị bằng đèn đuốc, trang hoàng thái quá và phí phạm, nhưng là “mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”. Đây chính là điều cốt yếu của mùa Vọng, đòi ta phải nghiêm túc xét lại việc chuẩn bị lễ Giáng Sinh! Chúng ta đang theo đà trần tục hóa lễ Giáng Sinh. Những việc chuẩn bị như sắm quà Giáng Sinh, trang hoàng một cách phí phạm và phô trương không những tại nhà, mà thậm chí trong các nhà thờ nữa. Chúng ta tiêu quá nhiều tiền mà quên việc hy sinh giúp đỡ những người nghèo đói. Tóm lại, chúng ta quá để ý đến chuẩn bị bề ngoài mà quên lãng việc chuẩn bị tâm hồn. Chúa đâu cần đi trên con đường giăng đầy đèn màu để đến với chúng ta, nhưng Người chỉ đến qua con đường tâm hồn được sửa đổi cùng thanh tẩy nết xấu và tội lỗi. Chúa không đến dưới hình thức bộ tượng ảnh Giáng Sinh, hang đá, ông già Noel, nhưng Người đến như Mục Tử “tập trung cả đoàn chiên dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt”. Đó mới thực sự là ý nghĩa của việc Chúa giáng trần.
Tiếp đến là lời thánh Phê-rô Tông Đồ đề cập đến thời gian mong chờ Chúa Cứu Thế. Đối với chúng ta, thời gian được đo lường bằng ngày tháng năm. Còn đối với Chúa, thời gian là các cơ hội, “một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày”. Nhìn lại lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy rõ điều này. Kinh Thánh chỉ ghi lại phần nào thời gian của lich sử cứu độ từ tạo thiên lập địa tới lịch sử Ít-ra-en và cho đến thời gian Con Thiên Chúa giáng trần. Thánh Phê-rô đã nêu lên lý do khiến chúng ta cho rằng Thiên Chúa đã “chậm trễ” đến cứu độ chúng ta. Không, Chúa không chậm trễ đâu, nhưng “kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải”! Tạ ơn lòng Chúa thương xót vì Chúa đã không đến sớm! Có lẽ đó là lời mỗi người phải thốt lên với Chúa. Chúa thương ta, nên mới để cho ta có thời giờ cải thiện đời sống và dọn đường chờ ngày Chúa đến đón ta về với Người. Chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phê-rô khuyên dạy: “Anh em thân mến, trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an”.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Trong mùa Vọng, chúng ta không thể bịt tai bỏ qua lời kêu gọi của thánh Gio-an Tiền Hô khi ngài lập lại lời ngôn sứ I-sai-a “hãy dọn đường cho Chúa đến”. Ngài là tiếng người hô trong hoang địa. Mà đã là tiếng hô trong hoang địa thì chúng ta sẽ không còn nghe tiếng nào khác nữa ngoài tiếng của ngài. Vậy chúng ta hãy đi vào hoang địa của chính mình, tức là trong sự thinh lặng của tâm hồn, để nghe cho rõ lời mời gọi sám hối. Chúng ta nhìn lại đời sống thiêng liêng và đức tin của mình để biết làm sao dọn đường sửa lối cho Chúa đi. Điều thánh Gio-an nhấn mạnh hơn cả, đó là vai trò của Chúa Thánh Thần. Như Giáo Hội hằng cầu xin Chúa Thánh Thần đến để thay đổi bộ mặt địa cầu thế nào, chúng ta cũng khấn xin Người đến trong tâm hồn chúng ta để thực hiện một cuộc thay đổi đáng kể trong mùa Vọng này. Chúng ta mong chờ Chúa đến, nhưng trước hết ta hãy mong chờ cuộc thay đổi tâm hồn mình đã!
Đó là lời kêu gọi trong Is 40, 3-4. Chấn chỉnh là việc phải làm cả đời chứ không thể theo kiểu “phong trào”, hô thì mạnh mà làm chẳng bao nhiêu. Chấn chỉnh để có thể sẵn sàng đón Chúa đến, chờ đợi với mức độ như tác giả Thánh Vịnh: “Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông” (Tv 130, 6).
Cuộc sống đời thường có nhiều thứ phải dọn dẹp, sắp xép gọn gàng và làm vệ sinh. Có những việc phải làm hàng ngày, dọn dẹp liên tục, dù phạm vi chỉ là khoảng gia đình.
Thân thể chúng ta phải tắm hàng ngày, mặt mũi và tay chân phải rửa nhiều lần trong ngày. Xác đã vậy, hồn cũng thế, rất nhiều thứ bừa bộn, bẩn thỉu, đầy bụi tội lỗi, chắc chắn “dọn đời” là việc cần làm mọi lúc, cần được dọn dẹp và chấn chỉnh một cách nghiêm túc để duy trì tình trạng sạch sẽ, tươm tất. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy dọn đường cho Đấng ngự giá đằng vân” (Tv 68, 5a).
Dọn đời cũng là dạng xét mình mỗi tối trước khi đi ngủ, xét mình trước khi xưng tội, và cũng là dạng đặc biệt như thể “dọn mình chết” vậy. Thật đúng là như thế, bởi vì “hôm nay còn gặp nhau đây, ngày mai biết có thế này hay không”. Thời giờ và tương lai thuộc quyền của Thiên Chúa.
HẸN GIỜ
Có nhiều dạng hẹn giờ. Ngày nay người ta có các thiết bị giúp hẹn giờ báo thức, cụ thể là chiếc điện thoại di động, có lẽ không mấy người lại không có loại thiết bị này. Nhưng nguy hiểm nhất là hẹn giờ nổ cho bom, mìn. Tuy nhiên, đó là chúng ta hẹn giờ chứ giờ không hẹn chúng ta, và chẳng ai biết điều gì sẽ xảy ra.
Với ý tưởng đó, nhạc sĩ Jay Livingston và Ray Evans đã viết ca khúc “What will be will be – Que Sera Sera – Điều Gì Đến Sẽ Đến cho bộ phim “The Man Who Knew Too Much” (Người Biết Quá Nhiều, năm 1956), thủ vai chính là Doris Day và James Stewart. Gọi là “biết quá nhiều” nhưng lại chẳng biết được gì. Thời gian là của Chúa, chúng ta được Ngài cho quản lý.
Có khởi đầu ắt có kết thúc, sau thời gian mong chờ là lúc mãn nguyện (hoặc thất vọng). Đó là lẽ thường. Nhưng về tâm linh, chắc chắn chúng ta sẽ không thất vọng, vì Thiên Chúa đã xác định: “Hãy an ủi dân Ta: Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (Is 40, 1-2). Làm gì Chúa cũng báo trước, Chúa bảo chúng ta mong chờ nghĩa là Ngài đã “hẹn giờ”, nhưng không ai biết chính xác là lúc nào, thế nên mới cần “dọn đời” sẵn sàng.
Chuỗi ngày tháng mong chờ đó được Chúa đến gắn kết chúng ta qua sự sám hối và đền tội. Ngôi Hai đến để thực hiện Lòng Thương Xót. Chính Lòng Thương Xót đó được thể hiện trọn vẹn đối với những người biết ăn năn và chấn chỉnh theo lời mời gọi: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (Is 40, 3-4). Sa mạc ở đây không phải là sa mạc Sahara hay bất kỳ một sa mạc nào, mà đó là Sa-Mạc-Tâm-Hồn, sa mạc này ở ngay giữa những sinh hoạt đời thường ồn ào náo nhiệt. Tâm hồn cần tĩnh lặng như sa mạc để có thể lắng nghe Tiếng Chúa.
Chỉ có thể gặp Thiên Chúa nơi tĩnh mịch. Khi đã “gặp” được Ngài, người ta sẽ không thể im lặng mà sẽ thông báo cho người khác biết: “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền” (Is 40, 9-10), đồng thời lòng họ tràn ngập hạnh phúc vì nhận thấy “lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40, 11). Đó là một thế giới đại đồng mà ai cũng hằng mơ ước.
Sự thật đó vừa minh nhiên vừa mặc nhiên vì Thiên Chúa “chúc bình an cho dân Ngài, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Ngài” (Tv 85, 9). Thiên Chúa luôn trung tín trong mọi Lời Ngài đã tuyên bố, không bao giờ nuốt lời hoặc chậm trễ: “Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải” (2Pr 3, 9). Sự mong chờ Chúa đến sẽ được bù đắp: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao” (Tv 85, 11-12).
Trong xã hội, mỗi khi đón tiếp một vị chức sắc, dù đời và đạo, chúng ta luôn chuẩn bị chu đáo: Làm vệ sinh, dọn dẹp cho gọn gàng, sơn phết cho đẹp mắt, trang trí lộng lẫy, … huống chi đối với Thiên Chúa, Vua của các vua và Chúa của các chúa. Chúng ta cũng phải dọn tâm hồn cho sạch sẽ và ngay thẳng để đón tiếp Ngài, nhưng Ngài không muốn chúng ta dọn đường cho Ngài theo kiểu phàm tục mà theo Ý Ngài: “Công lý đi tiền phong trước mặt Ngài, mở lối cho Ngài đặt bước chân” (Tv 85, 14). Ngài đến để cứu những gì đã mất (Lc 19, 9) và phục hồi nhân phẩm cho chúng ta.
Mỗi dịp Giáng Sinh, người ta lo làm hang đá, trang trí Nhà Thờ, trình diễn Thánh Ca và hoạt cảnh Giáng Sinh, … Tất cả các hoạt động đó cũng cần thiết, nhưng vẫn chỉ là thứ phụ, cái cần thiết nhất là chuẩn bị “máng cỏ tâm hồn” của chính mỗi chúng ta để Vương Nhi Giêsu ngự xuống. Thiên Chúa hẹn giờ với chúng ta rồi, vậy chúng ta cũng phải hẹn giờ với Ngài.
ĐIỂM GIỜ
Giờ đã được hẹn thì giờ sẽ điểm. Chắc chắn như vậy. Chú ý “nhìn’ vào các dấu chỉ của thời đại, các sự việc hoặc sự kiện vẫn xảy ra hàng ngày, chúng ta đủ thấy rõ: GIỜ ĐÃ BẮT ĐẦU ĐIỂM. Do đó mà không thể nấn ná, chần chừ, hoặc lần lữa, mà phải CẤP TỐC THAY ĐỔI CÁCH SỐNG cho kịp, càng sớm càng tốt!
Theo cách thức trần gian, con người chỉ có thể tính tháng, tính ngày, thời gian dài hay ngắn tùy mức độ sự việc. Có khi vài ngày cũng là dài, và có khi vài năm vẫn là ngắn. Nhưng Thánh Phêrô cho biết cách tính của Thiên Chúa: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày” (2Pr 3, 8). Ngày của Chúa sẽ vô cùng bất ngờ, có thể ngay sau khi chúng ta vừa chợt nghĩ đến, Ngài đến như kẻ trộm và như chủ về bất ngờ: “Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ” (2Pr 3, 10).
Chúa đến theo lời Ngài hứa, Ngài đến để ĐÒI CÔNG LÝ CHO CHÚNG TA. Thật là diễm phúc, vì nỗi mong chờ của chúng ta là “mong đợi Trời Mới và Đất Mới, nơi công lý ngự trị” (2Pr 3, 13). Tuy nhiên, chúng ta không thể giả bộ mong chờ, làm ra vẻ chờ đợi, nhưng phải sống như thánh Phêrô nói: “Trong khi mong đợi ngày đó, anh em PHẢI CỐ GẮNG sao cho Người thấy anh chị em TINH TUYỀN, không chi đáng trách và sống bình an” (2Pr 3, 14). Rất đáng quan ngại nên rất cần chú ý lời cảnh báo của Chúa Giêsu: “Liệu còn lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Một câu hỏi thật đáng quan ngại!
Ngày xưa, chính Chúa Cha đã sai sứ giả đi trước Chúa Con, sứ giả này sẽ dọn đường cho Chúa Con (x. Is 40, 3). Sứ giả đó tên là Gioan và có “biệt danh” là Tẩy Giả – nghĩa là “người làm Phép Rửa”. Ông đã kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mc 1, 3; x. Is 40, 3). Đó là “tiếng kêu trong sa mạc” nhưng không phải ông nói cho đất cát và không khí nghe, mà ông kêu gọi chính chúng ta. Theo lời của chính ông Gioan Tẩy Giả thuật lại, ông đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa để CHỨNG TỎ LÒNG SÁM HỐI và để ĐƯỢC ƠN THA TỘI. Thời đó, mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông, họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan (Mc 1, 5).
Có lẽ chẳng ai “bụi đời” bằng ông Gioan, bởi vì ông sống quá giản dị: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng (x. Mc 1, 6). Theo lẽ thường, người giản dị là người sâu sắc, còn người coi trọng bề ngoài là người nông cạn (lấy bề ngoài che giấu cái trống rỗng bên trong). Hơn nữa, ông Gioan còn là người sống rất khiêm nhường. Ông xác định: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi KHÔNG ĐÁNG cúi xuống cởi quai dép cho Người” (Mc 1, 7). Đức khiêm nhường rất quan trọng, bởi vì ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG là NỀN TẢNG của “tòa nhà nhân đức”. Người sống khiêm nhường không hề quản ngại chi cả.
Trong khi tích cực “dọn dẹp” cuộc sống cho tươm tất, người ta không thể không sám hối và đền tội. Nhưng để có thể sám hối và đền tội, người ta phải sống khiêm nhường. Người khiêm nhường thì luôn giản dị, không cầu kỳ. Đúng là một chuỗi hệ lụy tuyệt vời: Người sống giản dị sẽ biết sống khiêm nhường, người khiêm nhường sẽ biết sám hối, người sám hối sẽ chịu đền tội, và hệ lụy tất yếu tiếp theo là ĐƯỢC CỨU ĐỘ. Ai chân thành “dọn đời” như vậy thì Vương Nhi Giêsu rất vui mừng ngự vào “máng cỏ” lòng họ.
Là người diễm phúc được đi tiền phong và được coi trọng, nhưng Thánh Gioan khiêm nhường minh định: “Tôi làm phép rửa cho anh chị em trong nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh chị em trong Thánh Thần” (Mc 1, 8). Thật vậy, Chúa Thánh Thần là Đấng rất quan trọng trong cuộc đời chúng ta, đặc biệt là về đời sống tâm linh, thế nhưng Chúa Thánh Thần thường xuyên bị chúng ta lãng quên! Nhân dịp tốt là Mùa Vọng này, chúng ta cùng nhau cố gắng canh tân và chấn chỉnh, bởi vì Thiên Chúa đã ĐIỂM GIỜ thật rồi. Cầu xin Ngài thương cứu chúng ta!
Lạy Thiên Chúa tình thương, Ngài thực sự muốn tấm lòng nhân ái chứ đâu cần bất cứ loại lễ tế nào, bởi vì Ngài nhập thế không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi tội nhân (x. Mt 9, 13). Vâng, lạy Chúa, mặc dù con khốn nạn và hoàn toàn bất xứng, nhưng con may mắn được nhận biết Ngài và chân thành tín thác nơi Ngài. Lạy Đấng Thiên Sai, xin Ngài đến canh tân và cứu độ nhân loại để mọi người được sống dồi dào (x. Ga 10, 10). Con cầu xin nhân Danh Đấng Thiên Sai, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Ngày hôm nay, chúng ta cũng nhìn lại Sứ Mạng truyền giáo của chúng ta. Chúng ta có trách nhiệm MV2-B133
Ngày hôm nay, chúng ta cũng nhìn lại Sứ Mạng truyền giáo của chúng ta. Chúng ta có trách nhiệm truyền giáo, và chúng ta phải truyền giáo! Mà nếu như không làm gì chúng ta có thể truyền giáo, được dọn đường được nếu như chính tâm hồn chúng ta chưa đến gần Chúa, đến gần anh chị em đồng loại được...
Kính thưa Cộng đoàn,
Khi mà con dọn bài Suy niệm hôm nay! Chợt nhớ đến cái phim “Sám Hối”. Khi thấy người ta làm đường, bà cụ già mới hỏi: Làm đường này có dẫn đến nhà thờ hay không? Làm đường mà không dẫn đến nhà thờ thì làm cái gì?
Một câu hỏi để lại cho chúng ta nhiều suy nghĩ.
Phải nói rằng với cái tốc độ phát triển kinh tế và xã hội của toàn thế giới và trong đó có Việt Nam. Chúng ta thấy phát triển kinh khủng. Phát triển về đường bộ, đường biển và đường hàng không.
Có một thời thì có một ông thầy còn sống ở bên Nhật bao nhiêu năm rồi. Rồi ai đi qua bên đó cũng phải lệ thuộc vào thầy, bởi vì thầy ở bên Nhật nhiều năm. Và muốn đi đâu phải có thầy dẫn đường, bởi vì ở bên Nhật có đường chồng chéo nhau 5, 7 tầng và có nơi 9 tầng. Ngay cả người bản xứ, nếu mà không khéo cũng không đi được, vì rất dễ bị lạc.
Ngay cả ở Việt Nam chúng ta, chúng ta cũng thấy rằng ngày hôm nay cũng phát triển! Cũng không thể chối từ rằng: cũng có những cái con đường cao tốc.
Đơn giản nhất là cái con đường cao tốc Sài Gòn Trung Lương. Hay rồi đi ra Đà Lạt, thì có con đường cao tốc Đà Lạt, từ Đơn Dương lên Đà Lạt, rồi cái con đường cao tốc ở ngoài Lào Cai đi Sapa gì đó! đại khái. Và chúng ta không phủ nhận được rằng là quá nhiều con đường phát triển dĩ nhiên là nhờ con đường phát triển người ta đến với nhau nhanh hơn, nhiều hơn, và gần hơn!
Ngày xưa mà đi ra sân bay thì chính bản thân con, tiễn người thân thấy tiếc nuối và Hai hàng nước mắt nó chảy. Bởi vì không biết bao giờ mới gặp lại nhau. Bởi vì cách nhau một nửa vòng trái đất mà cái phương tiện rồi cái khả năng: Đi về, đi lại, đi lui, đi tới khó quá!
Nhưng mà bây giờ nhờ con đường, nhiều đường bay, nhiều hãng bay để cho người ta có thể đến với nhau gần hơn và dễ hơn. Chỉ sợ có điều có tiền không? Bay tới bay lui rất là dễ.
Và ngày hôm nay cũng vậy! Nhờ internet mà thế giới trong vòng tay của chúng ta. Ngày xưa mà nhớ thời bao cấp, mỗi lần mà đánh một cái bản tin đi qua bên Mỹ thì cũng phải hai tuần mới có. Gửi một lá thư, đôi khi phải 3 tháng mới tới. Bây giờ, thì ta có thể đối diện với nhau, nói chuyện với nhau, không chậm trễ bất cứ một giây nào!
Và rồi nhìn nhận vào thực tế, thì: chúng ta thấy tích cực thì cũng có, nhưng mà tiêu cực thì cũng nhiều! Bởi vì, cũng chính nhờ internet, người ta đến với nhau gần hơn, nhưng rồi có rất nhiều hình ảnh: ảnh bạo lực mại dâm, rồi chơi game.
Có những đứa trẻ vùi đầu vào game, rồi phim bạo lực. Xem phim bạo lực rồi thực hành theo cái phim bạo lực đó!
Để rồi chúng ta thấy, tệ nạn xã hội rất nhiều!
Rồi phương tiện vận chuyển đi lại, thì người ta lại vận chuyển ma túy, rồi người ta vận chuyển cả cái hận thù bom đạn.
Bởi vì, chỉ vì cái đố kỵ với nhau, có khi cái phương tiện đó làm cho người ta gần nhau, đôi khi làm cho người ta xa nhau hơn.
Chúng ta thấy mắc cười, có những lần đi máy bay về, máy bay chạy vòng vòng ở trên không trung 20 phút, 25 phút, tại vì sao? kẹt kẹt máy bay. Máy bay mà không có chỗ đáp. Thậm chí, nhiều khi đường cao tốc mà chúng ta đi mà phải chen chúc nhau.
Thật sự nó là như thế! Nhưng nếu lòng người không ích kỷ, lòng người mở ra với nhau, thì chúng ta đi không bao giờ kẹt xe cả! Nếu như chúng ta đi đúng làn đường của nhau, đừng giành giật nhau. Nhưng khi con người ta ích kỷ, thì dù đường có lớn đi chăng nữa! có nhiều đi chăng nữa! nhưng mà người ta giành nhau, thì người ta cũng phải đón nhận cái kẹt xe.
Khi suy nghĩ như vậy, chúng ta khám phá ra cái điểm căn bản, chủ thể của những con đường internet, đường sông, đường biển, đường bộ là do con người, con người làm ra!
Mà lẽ ra, con đường là những phương tiện để mà truyền tải cái tình thân, cái tình người với nhau. Nhưng mà rồi, vấn đề khi sử dụng nó.
Chúng ta thấy, ngày xưa đường nó hẹp, thì dĩ nhiên ai cũng công nhận là ít xe, nhưng mà cái tai nạn nó không thảm khốc như bây giờ. Bây giờ thì, đường thì rộng, xe thì nhiều. Xe đời mới, nhưng mà tai nạn thì rất là nhiều. Bởi vì, người ta sử dụng con đường đó như thế nào?
Đó là chính cái nội tâm của người ta. Đường rộng đó ! nhưng mà nó chật là nó chật. Đường rộng đó! nhưng mà nó hẹp là nó hẹp. Vì nội tâm của con người khép lại.
Và trải dài trong Hành trình lịch sử cứu độ, chúng ta đọc qua những trang Kinh Thánh. Chúng ta thấy, dân Do Thái ngày xưa bị lưu đày, Ngôn sứ Isaia kêu gọi làm một con đường.
Thật sự ra, là làm nô lệ thì dọn đường cho ai?
Dọn con đường cho mình còn chưa xong nữa thì dọn cái gì?
Nhưng mà hiểu rằng, dọn đường mà Isaia nói đó là: thay đổi cái thái độ nội tâm của mình, mình giành con đường thênh thang đó, để cho mình đến với Chúa và con người đến với nhau một cách dễ dàng hơn.
Và rồi, để thay đổi cái con đường, để thay đổi lòng dạ con người, thì Đấng Messia đã đến và có mặt ở giữa họ.
Và đồng thời, đó là tâm tình Sám hối, diễn tả để cho con người ta biết thay đổi con người, thay đổi cuộc đời của mình.
Cái động từ sám hối đó diễn tả rất là dễ nhớ, mà cho chúng ta thấy: « đường quanh co uốn cho ngay, đồi cao sang cho bằng, hố sâu lấp cho đầy»
Nếu mà tâm hồn chúng ta tràn ngập những tính toán lừa đảo thì con đường đó làm cho chúng ta xa Chúa hơn.
Chúng ta còn nhớ, hai vợ chồng Khanania ở trong sách Công vụ Tông Đồ:
Khi mà hai vợ chồng cũng hô hào bán đất bán đai để mà dâng cúng cho các Thánh Tông đồ. Thì hai vợ chồng cũng bán đấy! thay vì cúng cho các tông đồ 10 cây vàng thì lại dấu cúng có 4 cây thôi.
Thánh Phêrô đã nói thẳng với hai vợ chồng: «Ai bắt buộc anh chị phải gian dối. Nếu anh chị làm như vậy, không những lừa đảo con người mà còn lừa đảo THIÊN CHÚA nữa! » Khi Phêrô vừa nói xong, thì hai vợ chồng đó đã lăn ra chết!
Và một khi tâm hồn con người ta chắc đầy sự gian dối, lừa đảo, thì phương tiện hiện đại khiến người ta xa CHÚA và xa nhau hơn thôi.
Đồi cao sang cho bằng
Tâm hồn tính toán ích kỷ thì xa nhau hơn. Chúng ta nhớ đến ông bà Adam, Êva đó ! Ích kỷ, đã đánh mất đi cái sự hiệp thông với Thiên Chúa. Và ngay cả như gia đình con cái của hai ông bà cũng chém giết nhau, gia đình tan vỡ. Gia đình tan vỡ bởi người ta ích kỷ, người ta không còn thương nữa!
Hố sâu lấp cho đầy.
Tâm hồn người ta khi mà chất đầy dục vọng đam mê xác thịt thì dứt khoát không thể nào mà gần với CHÚA được.
Và chúng ta nhìn rõ cuộc đời của vua Đavít và Herođê, chúng ta thấy rõ điều đó. Vua Đavít đã làm gì? Herođê đã làm gì?
Herođê đã can đảm giết Gioan Tẩy giả khi Gioan Tẩy Giả nói lên sự thật rằng ông đã lấy vợ của Anh của ông đã vì dục vọng vì đam mê, khước từ tiếng nói lương tâm, khước từ tiếng nói của Gioan Tẩy Giả.
Và lời dọn đường của Gioan Tẩy Giả, ngày hôm nay: chúng ta không hiểu theo nghĩa con đường của vật chất, con đường của đất đá, mà là chúng ta hiểu theo con đường của nghĩa nội tâm của sám hối.
Chúng ta thay đổi cách nhìn, suy nghĩ của mình và thay đổi ngay trong cái lối sống thường ngày, thay đổi tương quan giữa chúng ta với Chúa, với nhau. Nếu như, vẫn còn đó những tính toán hơn thua, hận thù thì chúng ta phải sửa lại để cho chúng ta gần Chúa và gần anh em hơn.
Ngày hôm nay, chúng ta cũng nhìn lại Sứ Mạng truyền giáo của chúng ta. Chúng ta có trách nhiệm truyền giáo, và chúng ta phải truyền giáo! Mà nếu như không làm gì chúng ta có thể truyền giáo, được dọn đường được nếu như chính tâm hồn chúng ta chưa đến gần Chúa, đến gần anh chị em đồng loại được.
Cuộc đời của chúng ta, nếu như chúng ta ý thức được thân phận của chúng ta, chúng ta cùng cộng tác với Chúa và ý thức trách nhiệm của mình thì chúng ta sẽ dễ dàng dọn đường và sám hối. Khi và chỉ khi tâm hồn chúng ta ngay thẳng, lòng chúng ta thẳng, lòng chúng ta thật, lương tâm chúng ta thật, thì lúc đó chúng ta mới có thể đến với Chúa, có thể đến với anh chị em đồng loại được.
Xin Chúa cho chúng ta bước vào trong những ngày tháng của Mùa Vọng này:
Chúng ta nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Nhìn lại con đường của chúng ta. Nhìn lại cái tấm lòng của chúng ta, để chúng ta cân chỉnh.
Bởi vì, chúng ta chính là chủ thể của cuộc đời chúng ta. Chúng ta chính là chủ thể của nội tâm chúng ta. Không ai thay đổi được cái nội tâm xấu xa, tính toán, hơn thua, tranh giành của chúng ta, cho bằng chính mỗi người chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta can đảm: cắt đi, lấp đi những cái hố sâu, uốn đi những con đường cong, bạt đi những cái lòng tham lam, ích kỷ đó! Để CHÚA có thể đến với chúng ta, và anh em có thể đến với chúng ta. Amen.
Trong năm 2014, từ Nghệ An, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Phú Yên…và một số tỉnh miền Tây đã MV2-B134
Trong năm 2014, từ Nghệ An, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Phú Yên…và một số tỉnh miền Tây đã xuất hiện ồ ạt các con rắn lục đuôi đỏ, ngày nào cũng có người nhập viện cấp cứu do rắn cắn. Trước tình hình rắn lục xuất hiện ngày càng nhiều, người dân sống trong cảnh bất an, người ta đổ xô ra phát bờ bụi, lấp các hang hốc khiến rắn không còn nơi ẩn nấp đế tấn công. Rắn lục đuôi đỏ là loài cực độc trong số các loại rắn lục. Nọc độc của loại rắn này có thể gây ra các hiện tượng tan máu, phù nề, nhiễm độc thần kinh, liệt hô hấp, suy tim mạch nếu xử lý không kịp sẽ dẫn đến tử vong.
Nọc độc của rắn lục đuôi đỏ gây chết người, đáng sợ thay! Nọc độc của rắn quỷ dữ mạnh gấp mấy ngàn lần so với nọc độc rắn lục đuôi đỏ. Nọc độc của chúng không chỉ gây chết phần xác mà chết cả phần hồn. Cho nên, Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người phát bờ bụi, lấp hang hố tội lỗi trong tâm hồn đừng để rắn quỷ dữ ẩn nấp hạ sát chúng ta. Bên cạnh đó, hãy dọn rửa sạch tâm hồn đón Chúa đến làm cho chúng ta sống dồi dào và bình an.
Sách Sáng Thế chương 3 thuật lại quỉ ẩn dưới hình dạng con rắn cám dỗ, xúi dục bà Evà và Adam phạm tội. Tâm hồn ông bà nguyên tổ ngay từ đầu trong sạch và đầy ân sủng Chúa nhưng sau khi bị rắn quỉ dữ cám dỗ đã sa ngã phạm tôi trở thành những tâm hồn đầy tội lỗi, độc ác và gian tà và từ đó rắn quỉ dữ ẩn nấp xuất hiện để phung ra những nọc độc chết tâm hồn. Chúng ta cũng vậy, ngay sau khi Rửa Tội, ân sủng Chúa Giêsu gội rửa sạch bụi bậm lỗi lầm và sang bằng những hố sâu tội lỗi để trở nên tinh tuyền thánh thiện không ai chê trách được nhưng với thời gian, rắn quỉ dữ cám dỗ chúng ta làm cho chúng ta sa ngã và rồi biến tâm hồn chúng ta trở những thành hố sâu, thủng lũng, bụi rậm um tùm của tội lỗi. Chẳng hạn, những bụi rậm um tùm trong tâm hồn ta đó là: tội kiêu ngạo và tự ái, rắn quỉ dữ ẩn núp và chích nọc độc khoe khoang, không chịu thua kém người khác vào tâm trí khiến ta chà đạp, dèm pha và tàn sát người khác nếu họ hơn mình. Rồi từ bụi rậm tự ái, rắn quỉ dữ phun độc vào ta làm cho ta không bao giờ chịu nhận lỗi dù mình sai, không bao giờ chịu tha thứ cho ai.
Rồi cũng từ bụi râm tham lam, rắn quỉ dữ chích nọc độc vào ý muốn của ta khiến ta mải mê thu vén mà không biết cho đi, giúp đỡ hay sẻ chia tinh thần cũng như vật chất cho tha nhân. Rồi lùm cây um tùm là chia rẽ, rắn quỉ dữ phóng nọc độc giận hờn, ganh ghét, và đố kỵ nhau khiến ta có những hành động chửi bới, la lối thóa mạ, thậm chí chiếm giết lẫn nhau dã man. Rồi từ hố hang dơ bẩn, rắn quỉ dữ phun nọc độc dối trá, gian lận và gian manh khiến chúng ta không bao giờ thành thật với Chúa, với người khác và với chính mình. Cho nên không lạ gì chúng ta thấy người có vợ, có chồng rồi vẫn đi ngoại tình, người Công Giáo mà vẫn đi coi thầy, coi bói hay thấm chí người Công Giáo mà miệng nói tục tiểu nhiều hơn đọc kinh... Đặc biệt từ hang hố dơ bẩn, rắn quỉ dữ chích nọc độc vào lời nói và hành động độc ác, tàn nhẫn làm hại hạnh phúc, và sự bình an trong gia đình, hàng xóm, cộng đoàn và giáo xứ, chẳng hạn nói hành nói xấu, chửi lộn, đánh “trúng” nhau. Tóm lại, tất cả những bụi rậm, lùm cây, hang hố sâu dơ bẩn ấy mà rắn quỉ dữ phun độc khiến chúng ta cảm thấy sống hưởng thụ thỏa mái phần xác đến nỗi không cần phần hồn, không cần giữ Lời Chúa dạy hay điều luật Giáo hội. Nhưng, con người đâu phải xác không, có tâm hồn nữa chứ! Cho nên, ông bà nói: “Con người là linh ư vạn vật” mà! Còn Thi hào Nguyễn Du nói: “Thiện căn ở tại lòng ta. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Còn Chúa Giêsu nói: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì” (Mt 16,26). Vì vậy, Lời Chúa hôm nay qua miệng của Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hãy phát hoang bụi rậm tội lỗi và dọn rửa tâm hồn đen tối hay giá băng để đón Chúa Giêsu đến cư ngụ trong chúng ta để chúng ta sống kết hiệp mật thiết với Ngài, sống triệt để với Lời Ngài và Ngài sẽ xua tan và diệt sạch mọi mưu mô độc hại của rắn quỉ dữ.
Thánh Gioan Tẩy Giả đề nghị cho chúng ta 3 phương thế để phát hoang dọn đường và tẩy rửa tâm hồn. Thứ nhất là vào sa mạc, có nghĩa là chúng ta phải siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ để gặp gỡ Chúa luôn. Nhờ đó, Chúa yêu thương dạy dỗ ta con đường nên thánh và thiện hơn, như Bài đọc 1 chúng ta vừa nghe: “Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11). Thứ hai là mặc áo da thú, có nghĩa là mặc lấy sự đơn sơ, hiền lành, lương thiện và khiêm nhường. Thái độ đơn sơ khiêm nhường giúp chúng ta không bao giờ tạo ra những bụi rậm gian tàn, độc ác trái lại luôn hành động tha thứ, bao dung, bác ái, từ tâm, hiền hòa và nhân hậu cuộc sống gia đình, hàng xóm hay Giáo xứ. Vì vậy, Thánh Phêrô trong bài đọc hai mời gọi chúng ta phải cố gắng sống theo Lời Chúa dạy để rồi khi Chúa đến, Chúa sẽ thấy chúng ta tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an (2Pr 3,14). Cuối cùng là ăn châu chấu và uống mật ong rừng, có nghĩa rằng phải hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những nhu cầu phần xác dành tiền của và thời gian để cầu nguyện với Chúa qua việc tham dự và lãnh các bí tích đồng thời biết đến viếng thăm giúp đỡ, sẻ chia vật chất cho những người nghèo, bệnh tật và cô nhi quả phụ trong môi trường chúng ta đang sống.
Ước gì chúng ta biết áp dụng 3 phương thế ấy trong Mùa Vọng này, nhờ ơn Chúa, tâm hồn của chúng ta chắc chắn thành ngôi đền thờ thật sang - sạch và sáng để Chúa Giáng Sinh. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dọn rửa tâm hồn để chúng con xứng đáng đón rước Chúa đến. Amen.
Tin mừng Mc 1, 1-8: Lời kêu gọi sám hối như là cách thế dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến không MV2-B135
Tin mừng Mc 1, 1-8: Lời kêu gọi sám hối như là cách thế dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến không chỉ là lời dành riêng cho Dân Do Thái, đó còn là lời được gởi đến cho chúng ta, người thời đại hôm nay. Bởi trong một thế giới tục hoá này, người ta cũng đang dần lãng quên Thiên Chúa...
Anh chị em thân mến,
Trong mấy ngày qua, xã hội Việt Nam đang nóng lên vì mấy con đường, những con đường được làm nên để cho việc thông thương được thuận lợi, để con người xích lại gần nhau hầu có thể trao đổi với nhau những thành tựu của cuộc sống trong các lãnh vực chẳng hạn khoa học, kỹ thuật... để phát triển kinh tế nhờ đó cuộc sống được nâng cao, con người thoát khỏi cảnh nghèo khó… nay những con đường đang trở thành mối đe doạ cho sự bình an của cuộc sống, tạo ra hận thù rẽ chia, gây ra những bất bình giữa nhiều người, những con đường đang tạo ra sự nghi ngờ rằng có chăng một nhóm lợi ích đã lợi dụng hình thức BOT để kiếm lợi riêng cho mình? Tại sao có những nghi ngờ gây ra sự bất bình lớn trong dân chúng? Thưa bởi vì sự hình thành những con đường như có một cái gì đó thiếu minh bạch, thiếu công khai khiến người ta đang nghĩ đó là những con đường gian lận! Những con đường như thế tạo ra sự tắc nghẽn trong cuộc sống, tắc nghẽn niềm tin, từ đó nẩy sinh ra bao nhiêu là muộn phiền, đánh mất đi bao nhiêu là nhiềm vui mà đáng lẽ cuộc đời đáng được hưởng. Thật đáng tiếc!
Phải chăng cuộc đời chỉ có những tiếng thở dài tiếc nuối, những muộn phiền không nguôi? Thưa không, Tin Mừng hôm nay thắp sáng cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao, niềm hy vọng về một con đường mang lại niềm vui, kiến tạo lại an bình, xoá bỏ mọi nghi ngờ ganh ghét, nối lại nhịp đập yêu thương. Con đường mà Gioan loan báo: con đường Chúa đến
Con đường mang lại niềm hy vọng này được kiến tạo không do bởi những đồng tiền, bởi tiền bạc nói như nhà thơ Arne Garborg người Na Uy: khi có tiền “bạn có thể mua thực phẩm nhưng không mua được sự ngon miệng; mua thuốc nhưng không mua được sức khỏe; mua chiếc giường êm ái nhưng không mua được giấc ngủ; mua sự hiểu biết nhưng không mua được sự khôn ngoan; mua hào quang nhưng không mua được sắc đẹp; mua sự huy hoàng nhưng không mua được sự ấm áp; mua thú vui nhưng không mua được niềm vui; mua người quen nhưng không mua được bạn bè; mua tôi tớ nhưng không mua được lòng trung thành”, vâng con đường trước tiên được xây dựng bằng hành vi sám hối.
Tại sao lại sám hối? Và việc này có liên quan gì đến con đường hy vọng mà tôi đang mong chờ? Chắc chắn Gioan không tự nhiên kêu gọi sám hối như là khởi đầu cho việc dọn một con đường để Chúa đến. Quả thật, Gioan đang ở trong một xã hội có quá nhiều nỗi khổ đau mà nguyên nhân chính là do Dân Chúa chọn đang xa rời sự tín thác vào Thiên Chúa, đang đánh mất dần lòng ham mê vào huấn lệnh của Chúa, và lòng qui hướng vào sự ham mê khác: sự giàu sang của cải. Lòng ham mê đó đã đẩy đưa con người đến bên bờ vực thẳm của hư vong, làm khô héo nhịp đập của con tim, đánh mất tình người, bởi giữa con người chỉ còn là thái độ hững hờ vô cảm không còn sự xót thương. Thánh Phaolô đã minh định: “Lòng ham tiền là gốc rễ của mọi loại tai hại, vì nuôi dưỡng ham muốn đó mà một số người đã... tự gây cho mình nhiều nỗi đau” (1 Tm 6, 10). Bởi vậy, lời kêu gọi sám hối của Gioan, chính là lời mời gọi dân chúng quay trở về với Thiên Chúa, với những huấn lệnh của Ngài.
Lời kêu gọi sám hối như là cách thế dọn đường cho Đấng Cứu thế đến không chỉ là lời dành riêng cho Dân Do Thái, đó còn là lời được gởi đến cho chúng ta, người thời đại hôm nay. Bởi trong một thế giới tục hoá này, người ta cũng đang dần lãng quên Thiên Chúa. Điều mà con người hôm nay quan tâm chính là sự giàu có của cải vật chất, là sự hưởng thụ nhằm thoả mãn những đòi hỏi của nhu cầu thân xác, và rồi một cách nào đó họ đồng hoá Thiên Chúa không gì hơn là chính họ. Việc này đã đưa tới một một thái độ loại trừ lẫn nhau, không đón nhận nhau và kết quả là giết chóc, là hận thù là bạo lực…. Vì thế, tâm tình sám hối của mùa vọng chính là nỗ lực tìm lại mối tương giao với Thiên Chúa.
Trong một thế giới đang bị chi phối quá nhiều tiếng náo động ồn ào, con người như lạc lạc lối giữa sự ồn ào ấy, và không biết làm thế nào để có thể tìm thấy một chỉ dẫn chắc chắn hầu có thể đạt tới niềm vui đích thật. Chúng ta, những Kitô hữu, phải là những tiếng hô cất lên niềm hy vọng như Gioan. Có nghĩa là chính chúng ta phải chỉ cho người thời đại hôm nay biết được đâu là đích đến của cuộc đời. Tiếng hô của chúng ta cất lên không chỉ là một âm vang, nhưng còn phải là một dấu chỉ sống động được biểu tỏ qua con người của chúng ta. Vâng, để tiếng hô của chúng ta được người khác nghe và tin tưởng vào Chúa, chúng ta phải làm cho người thời đại tìm thấy nơi chúng ta hình ảnh xác thực của Thiên Chúa hiện diện. Nói như Đức Phanxicô đã chia sẻ với tín hữu Myanmar vào ngày 30-11-2017 tại Thánh Lễ từ giã lên đường đi Bangladest.
Vâng thưa anh chị em, làm sao chúng ta trở thành được dấu chỉ cho cuộc gỡ được Thiên Chúa nếu trước tiên trong chúng ta không đầy ắp hình ảnh của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, và làm sao chúng ta có thể nói cho người ta biết về Thiên Chúa nếu nơi chúng ta thiếiu cảm nghiệm về Thiên Chúa, chỉ có Chúa mới có thể giúp chúng ta trở nên chân chính? Do đó, đức Phanxicô đã khuyên chúng ta: “hãy cầu nguyện với Ngài. Học nghe tiếng Chúa đang âm thầm nhắn nhủ trong sâu thẳm của cõi lòng chúng ta!"
Anh chị em,
Trong một thế giới đang đang chất ngất khổ đau và thất vọng, chúng ta hãy trở thành dấu chỉ của niềm hy vọng, hãy cất tiếng loan báo: Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm! đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực; cánh tay Người sẽ thống trị... Người chăn dắt đoàn chiên Người như mục tử. Người ẵm chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ. Lời loan báo được hiện thực trong tín thác và hân hoan nơi đời sống Kitô hữu của chúng ta. Amen.
Chúng ta đã lãnh nhận một hồng ân quí báu đó là Tin Mừng Con Thiên Chúa “đến viếng thăm Dân MV2-B136
Chúng ta đã lãnh nhận một hồng ân quí báu đó là Tin Mừng Con Thiên Chúa “đến viếng thăm Dân Người”.
“Chúa Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một cho thế gian”. Đó không phải là một Tin Mừng lớn lao sao?
Chúa Giê-su là quà tặng vô giá cho chúng ta. Ngài chính là Tin Mừng, vì Ngài là Con Thiên Chúa thật đã được ban cho chúng ta.
Thánh Mac-cô đã khởi đầu Tin Mừng của Ngài đã xác định rõ ràng: Tin Mừng Con Thiên Chúa.
Phải, đây là một Tin Mừng cho chúng ta đang vật lộn với cuộc sống hằng ngày, đang mong chờ một ngày hạnh phúc đang vắng bóng. Chúng ta đang khát khao một cái gì đó, tốt hơn, an lành hơn.
Cuộc đời chúng ta vắng bóng tin vui. Lũ lụt, mưa dầm, động đất đè nặng trên chúng ta. Thêm vào đó, xã hội thối nát, bất công, bạo lực, gian dối, tội ác tràn đầy. Đa số chúng ta đang nghẹt thở vì bầu không khí ô nhiễm bởi tội ác. Ngày nào chúng ta cũng nghe những tin “không vui”, nhìn thấy những cảnh tượng đau lòng và chết chóc. Ai có thể đem lại cho chúng ta bầu không khí trong lành dịu mát? Ai?
Chỉ có một người thôi, đó là Giê-su Na-da-ret, Thiên Chúa Nhập Thể.
“Không có danh hiệu nào khác đã được ban cho nhân loại để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (diễn từ của Thánh Phê-rô trước Hội Đồng Do thái). Ngài đã đến rồi, Ngài vẫn đang đến và sẽ đến. Ngài đến để mang lại nguồn sống thật, nguồn sống mới mà chúng ta đang khao khát.
Con người của thế kỷ này đang loại trừ Ngài, từ chối Ngài, muốn tiêu diệt Ngài, nhưng trong thâm tâm họ vẫn khao khát Ngài, vì Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống”. Ngài là Đấng muôn dân đang trông đợi. Chúng ta càng trông đợi Ngài nôn nóng hơn.
Tất cả Cựu Ước đều hướng về Ngài, kêu cầu Ngài: “Trời, hãy đổ sương mai…”
Ngài đến rồi, nơi miền đất Na-da-ret. Ngài có mặt tại Bê-lem. Ngài rảo khắp các làng mạc Pa-lét-tin. Ngài đã chết thê thảm trên thập giá. Ngài đã sống lại rồi… Ngài hứa “ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết…
Chúng ta đang chờ Ngài vì chúng ta đang cần một vị cứu tinh, cứu chúng ta khỏi tội lỗi, đem lại cho chúng ta bình an, giải thoát chúng ta khỏi ngục tù của nết xấu, của tội lỗi.
Xưa kia, Chúa sai Gioan Tẩy Giả đến rao giảng, kêu gọi dân Do-thái ăn năn sám hối, dọn đường cho Chúa đến.
Gioan đã đến. Tiếng gọi của ông đã đánh thức nhiều tâm hồn. Họ đã đến với ông, xưng thú tội lỗi và nhận lấy phép rửa.
Hôm nay, tiếng gọi ấy vẫn còn vang dội qua Giáo Hội: “Hãy dọn đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi”.
Chúng ta có nghe thấy tiếng gọi của Giáo Hội trong Mùa Vọng này không?
Toàn thể Giáo Hội hôm nay đang đi vào một biến chuyển lớn là ăn năn sám hối, dọn đường cho Chúa đến, như xưa kia dân Do-thái tuôn đến với Gioan, thú tội và chịu phép rửa. Chúng ta hãy hòa nhịp với anh em trong Giáo Hội đón chờ Chúa.
Chúa đến với chúng ta trong mầu nhiệm Giáng sinh, mang cho chúng ta Tin Mừng bình an. Chúng ta có thấy đó là một Tin Vui đáng chú ý không?
Giữa một thế giới hỗn loạn và bất an, chúng ta có cảm thấy cần đón Vua Bình An nhỏ bé và khiêm nhường của chúng ta không?
Hay chúng ta chỉ chờ những tin “giật gân”, chỉ thỏa mãn tính tò mò thôi sao? Vua Giê-su đang đến trong mầu nhiệm, và mầu nhiệm này là có thật, đó là Thiên Chúa làm người. Điều này không đáng cho chúng ta lưu tâm sao? Hay chúng ta đã trở nên “duy vật” đến mức độ không còn nhìn thấy những “kỳ công Chúa đang thực hiện giữa chúng ta?”
Chúng ta không chỉ chờ đón Chúa qua em bé Bê-lem mà thôi, chúng ta đang chờ Ngài đến trong vinh quang để cho chúng ta vào vinh quang của Ngài, vì Ngài đã hứa “Thầy ở đâu, chúng con cũng ở đó với Thầy”. Như thế cuộc đời chúng ta mới mang đầy ý nghĩa của nó. Chúng ta đang chờ đón biến cố trọng đại đó.
Mùa Vọng hướng chúng ta về cùng đích của cuộc sống. Đức Thánh Cha Gioan- Phao-lô II luôn nói đến “mùa vọng của thế giới hôm nay”, đang mong chờ Chúa đến hoàn tất mọi sự (thông điệp Đấng Cứu Chuộc con người). Chúng ta chờ đợi hai biến cố trọng đại, nhưng chỉ là một biến cố duy nhất vì Đấng đang đến và sẽ đến là một: Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng là Lời của Chúa Cha vô hình, là hiện thân của tình yêu vô biên của Chúa Cha, là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Vì ngoài Ngài ra, chúng con không tìm đâu được hạnh phúc.
Chờ đón Chúa đến chính là chờ đón nguồn hạnh phúc bất diệt của chúng ta.
Đừng ngủ mê trong giấc ngủ vật chất chúng ta nữa. Hãy đứng lên, chào đón Bình Minh đang ló dạng, Bình Minh vẫn mãi là Bình Minh.
Nhưng chúng ta đã sẵn sàng chưa?
“Hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy…” Lời mời gọi của vị tiên tri xưa vẫn còn vang vọng. Sẵn sàng là “cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền không gì đáng trách và sống bình an”. (Thánh Phê-rô)
Sẵn sàng là vẫn luôn hướng về Chúa, mặc dù “Ngài tỏ ra chậm trễ. Ngài chậm trễ vì Ngài kiên nhẫn với anh em, vì Ngài không muốn cho ai phải diệt vong” (Thánh Phê-rô).
Chúa không chậm trễ như chúng ta tưởng, vì Ngài luôn có mặt trong cuộc sống chúng ta, nhất là hôm nay, nơi bàn thờ này. Ngài có mặt một cách rõ ràng, tuy dưới hình thức bí tích, là một tấm bánh, nhưng chính Ngài đấy. Tình thương của Ngài không hao hụt. Trong tấm bánh nhỏ bé này, chúng ta đọc thấy một tình yêu tuyệt đỉnh, tràn đầy. Đợi chờ gì nữa khi chúng ta có Ngài ở trong chúng ta? Đợi chờ vì mọi sự đang còn ẩn giấu. Chúng ta đợi chờ ngày chúng ta nhìn thấy mặt Ngài và không có gì ngăn cách nữa.
Sau khi Nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế. Nhưng để chuẩn bị cho MV2-B137
Sau khi Nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế. Nhưng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến, Thiên Chúa đã thiết lập một dân riêng, đó là dân Do thái. Qua các thời kỳ lịch sử, Thiên Chúa đã sai các vị lãnh đạo đến để chăn dắt dân riêng Ngài đã tuyển chọn.
Đặc biệt, Ngài sai các vị tiên tri đến để nhắc nhở cho dân thực hiện các điều họ đã cam kết với Thiên Chúa trong giao ước và loan báo ơn cứu độ Thiên Chúa sẽ thực hiện qua Đấng Cứu Thế. Và để lãnh nhận ơn cứu độ qua Đấng Cứu Thế, dân Chúa luôn luôn phải sống trong tư thế sẵn sàng. Trong tinh thần đó, khoảng gần 700 trước khi Đấng Cứu Thế đến, tiên tri Isaia đã mời gọi dân riêng chuẩn bị đón Chúa đến bằng cách: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng.”(Is 40, 3-4).
Lời mời gọi đó được Thánh Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước, lặp lại trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng.”(Mc 1,3).Gioan Tẩy Giả còn được gọi là Gioan Tiên Hô. Ngài có sứ mạng trực tiếp dọn đường cho Đấng Cứu Thế ngự đến. Ngài đã chu toàn sứ mạng đó bằng lời nói, việc làm và cả cái chết.
Sống trong tâm tình của Mùa vọng, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi tiếp tục sứ mạng của các tiên tri, của Thánh Gioan Tẩy Giả. Chúng ta có thể thực hiện sứ mạng đó bằng cách dọn đường để Chúa đến với chúng ta. Từ đó, chúng ta có thể thực hiện sứ mạng dọn đường để Chúa đến với tha nhân.
Thứ nhất, dọn đường để Chúa đến với bản thân: Chúa đã đến với chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúa lại đến với chúng ta khi chúng ta cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích hay qua Lời Chúa. Nhưng Chúa lại rời khỏi chúng ta khi chúng ta phạm tội mất lòng Chúa. Bởi vì, khi chúng ta phạm tội thì con đường thiêng liêng giữa chúng ta với Chúa và giữa ta với tha nhân sẽ bị ngăn cách: Ngăn cách do lồi lõm bởi tính tham lam ích kỷ, sự giận hờn, chia rẽ, bất hòa, ghen ghét, đố kỵ và danh lợi thú; ngăn cách do quanh co bởi sự giả hình, dối trá; ngăn cách do gồ ghề bởi những lời nói hay thái độ độc ác, tàn nhẫn với tha nhân...Vì thế, để Chúa tiếp tục trở lại, cần phải khai thông những ngăn cách đó bằng việc nhận ra tội lỗi của mình và thành tâm sám hối. Hãy làm như kẻ trộm lành trên thánh giá nhận ra tội lỗi của mình và xin Đức Giêsu tha thứ: “Lạy Ngài, khi nào về Nước trời, xin nhớ đến tôi” (x. Lc 23, 40-43). Hãy làm như Da-kêu, sám hối bằng cách đền bù những sai phạm của mình trong quá khứ: “đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 18,9). Thực hành được như thế, Chúa sẽ tiếp tục trở lại với tâm hồn chúng ta. Khi được Chúa trở lại với tâm hồn, chúng ta hãy quyết tâm sống gắn bó với Chúa. Khi chúng ta sống gắn bó với Chúa, Chúa sẽ thúc đẩy chúng ta đến với tha nhân.
Thứ đến, dọn đường để Chúa đến với tha nhân: Sau khi dọn đường để Chúa đến với bản thân, chúng ta còn phải có sứ mạng dọn đường để Chúa đến với tha nhân. Chồng có trách nhiệm dọn đường để Chúa đến với vợ và ngượi lại. Cha mẹ có trách nhiệm dọn đường để Chúa đến với con cái. Cha xứ có trách nhiệm dọn đường để Chúa đến với giáo dân. Người Kitô hữu có trách nhiệm dọn đường để Chúa đến với người lương dân. Dọn đường bằng cách nào? Dọn đường bằng lời nói, bằng chứng tá đời sống.
Dọn đường để Chúa đến với tha nhân bằng lời nói: Về vấn đề này, chúng ta hãy bắt chước Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài đã dọn đường cho Chúa đến với tha nhân bằng cách dùng lời nói để giảng dạy và khuyên bảo mọi tầng lớp trong xã hội thời bấy giờ. Ngài kêu mời họ chịu phép rửa tỏ lòng thống hối để lãnh nhận ơn tha tội (x. Lc 3,3). Ngài mời gọi đám đông: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” (lc 3,11). Ngài mời gọi những người thu thuế: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” (Lc 3,13). Ngài mời gọi các binh lính: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.”(Lc 3,14). Để giúp các Biệt phái nhận ra sự giả hình, gian dối của họ, Ngài không ngần ngại gọi họ là “loài rắn độc” và mời gọi họ “hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối.” (x. Ga 3,7-9). Cuối cùng, Ngài đã thà chấp nhận ngồi tù và kể cả cái chết chứ không thể im lặng trước tội loạn luân của vua Hêrôđê (x. Ga 3,19-20). Khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, Ngài giới thiệu cho các môn đệ rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian.” (Ga 1,29). Ngài còn giới thiệu và để cho các môn đệ của mình đi theo Đức Giêsu (x. Ga 1,35-37). Ngài còn khiêm tốn nói về Đức Giêsu rằng: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (Ga 1,30).
Chúng ta hãy bắt chước thánh Gioan Tẩy Giả biết dùng lời nói để dọn đường cho Chúa đến với tha nhân. Vì hiện nay vẫn có nhiều người chưa nhận biết Chúa vì họ chưa bao giờ nghe nói về Chúa. Thánh Phaolô đã nói trong thư Rôma rằng: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14). Vì thế, mỗi người chúng ta có trách nhiệm rao giảng về Chúa cho mọi người và trong mọi nơi mọi lúc: “Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.” (2 Tm 4,2).
Dọn đường để Chúa đến với tha nhân bằng chứng tá đời sống: Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã khẳng định: “Con người thời đại này thích nghe những chứng nhân hơn là những nhà giảng thuyết, và nếu họ có nghe những nhà giảng thuyết là chỉ vì những nhà giảng thuyết là những chứng nhân”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã trở thành thầy dạy và chứng nhân. Trước khi công khai rao giảng về sự sám hối, Ngài đã vào sa mạc để tĩnh tâm, sống thân mật với Thiên Chúa bằng cuộc sống khắc khổ: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ngài nói những gì Ngài đã sống. Ngài khiêm tốn khi nói về Đức Giêsu rằng: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1, 27). Ngài nói về sự thật, bênh vực cho sự thật và chết cho sự thật (x. Mc 6,17-29).
Chúng ta hãy bắt chước Thánh Gioan Tẩy Giả để giới thiệu Chúa cho tha nhân bằng đời sống đạo của chúng ta. Hãy sống công bằng, thành thật trong một xã hội đầy dẫy bất công và sự dối trá lừa lọc. Hãy sống chung thủy vợ chồng trong một xã hội chủ trương ly dị, phóng khoáng. Hãy sống bác ái, yêu thương trong một xã hội vô cảm, thiếu vắng tình người. Thực hành được như vậy, chúng ta sẽ dọn đường cho Chúa đến với tha nhân. Mẹ Têrêxa kể rằng: “Có một người đàn ông sau khi đã quan sát rất kỹ lượng chị nữ tu băng bó cho người hấp hối một cách trìu mến và vui vẻ đã nói với tôi: ‘ngày hôm nay khi đến đây, tôi không có chút lòng tin vào Thiên Chúa, trái lại tâm hồn tôi đầy căm ghét Người. Nhưng bây giờ sắp rời khỏi nơi đây, tôi đã là người tin Chúa. Tôi đã thấy tình thương của Chúa được biểu lộ bằng những hành động như thế nào. Qua đôi bàn tay của chị nữ tu kia, qua bộ điệu của chị, qua sự trìu mến của chị với người hấp hối cùng cực, tôi đã thấy tình yêu của Thiên Chúa bao phủ người khốn cực này như thế nào, và bây giờ tôi tin.’”
Ước gì, tâm hồn của chúng ta luôn có Chúa ở cùng để từ đó lời nói và việc làm của chúng ta dọn đường để Chúa đến với tha nhân. Amen.
Dọn đường là chủ điểm của Tin Mừng hôm nay. Dọn đường nào? Đường 2/4 hay đường Lang Liêu? MV2-B138
Dọn đường là chủ điểm của Tin Mừng hôm nay. Dọn đường nào? Đường 2/4 hay đường Lang Liêu? Đường Nguyễn Đình Chiểu hay đường nội bộ trải nhựa, dính nhựa đây? Chắc phải là những con đường dính … Kinh Thánh! Gioan đã kể một số đường: quanh co, gập ghềnh, lồi lõm… mà Mùa Vọng nào ta cũng nghe. Hôm nay ta lại nương theo Kinh Thánh để tìm ra một số con đường khác cần phải dọn, dọn sạch; cần phải chữa, chữa cho ngay để đón Chúa đến.
1. Đường vòng vo: Đó là con đường Kinh Thánh kể dân Do Thái đã đi qua trong sa mạc: một con đường quanh co đi hoài đi mãi suốt 40 năm mới về tới Đất Hứa. Thật ra quãng đường từ Ai Cập về Đất Hứa Ca-na-an, đi chừng hơn một tháng là tới. Không quá xa. Nhưng chuyện gì đã xảy ra để đi mãi 40 mùa thu mới tới. Là vì họ ca thán Chúa. Số là thám thính viên thuật rằng đất chảy sữa và mật thật, mùa màng cây trái tốt tươi thật, nhưng cũng nhờ đó mà dân chúng Đất Hứa mập mạp lực lưỡng. Làm sao người Do Thái chúng ta lang thang trong sa mạc ăn toàn manna chán ngấy lại có thể địch lại họ. Thế là dân lo, dân phản đối: thà chết bên Ai Cập còn hơn chết dưới cánh tay lực lưỡng của người Ca-na-an. Kết quả là Chúa phạt. Một ngày đi thám thính biến thành một năm—nhất nhật thám thính thành nhất niên lưu lạc—40 ngày thám thính thành 40 năm đi lang thang trong hoang địa, mục đích là thế hệ cứng đầu chết hết đi. Chỉ con cháu họ mới được vào đất Hứa.
Đường vòng vo của dân Do Thái xưa nay vẫn còn diễn lại nơi cuộc sống hiện tại của người Kitô hữu. Sống vòng vo là sống giả hình. Sống vòng vo là sống lươn lẹo. Sống vòng vo là cứ ở mãi trong đam mê thú vui tiền tình, làm ăn bất chính. Cứ lén lút lấp ló sống trong tội lỗi. Cứ thích ở trong đó, không muốn thoát ra. Thánh Augustino có một lời kinh thật dễ thương diễn tả tâm tình này, thánh nhân ghi trong cuốn Tự Thú của ngài, khi ngài đã trở lại với Chúa như sau, ngài xin: Lạy Chúa xin ban cho đức khiết tịnh (trong sạch), nhưng từ từ hẵng ban, đừng ban ngay bây giờ. Đó là ví dụ về đường vòng vo quanh co. Kẻ dọn đường đón Chúa phải sửa lại cho ngay, thì Thầy Giêsu mới tới.
2. Đường chặn lại. Chúa Giêsu và các môn đồ muốn đi từ Galilê xuống Giê-ru-sa-lem thì phải qua Samaria. Dân Samari chận lại không cho đi, khiến hai anh em con của sấm sét là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?" (Lc 9:54).
Con đường bị chặn lại đó, hay con đường kẽm gai ngày nay vẫn còn giăng đầy trên lối bước. Những thù hận, oán ghét chính là kẽm gai rào kín lối vào. Hai người thù oán nhau thì hết tiếp xúc, hết giáp mặt. Nếu có giáp mặt là sẽ giáp mặt để xin lửa bởi trời xuống tiêu huỷ hắn thôi.
Tôi nghe có nhiều chị nói với tôi thế này: Con tha nhưng nhất định con không quên.
Có anh chồng kia xúc phạm đến chị khi đi lăng nhăng gì đó. Chị biết được, nên chàng xin lỗi chị, chị tha cho. Nhưng thỉnh thoảng chị vẫn nhắc lại chuyện xưa. Hơi bị chạm, nên chàng nói.
- “Chuyện đó em đã tha thứ cho anh rồi mà.” - “Thì em nhắc lại cho anh biết là em đã tha thứ.”
Tha nhưng không quên thì cũng gần như chưa tha. Đài truyền hình Mỹ kia tuần nào cũng có một chương trình mang tựa đề: Forgive and Forget. Tha thứ và Quên luôn. Bấy giờ cuộn gai mới được dẹp lại cất đi, chứ nếu dẹp lại rồi để đó thì con đường vẫn có thể bị chặn lại, vì sơ ý là kẽm gai bung ra liền. Hãy dọn đường bằng cách cuộn kẽm gai lại cất đi thì mới không chặn bước Chúa đến với bạn.
3. Đường hiểm trở. Đó là con đường từ Giêrusalem xuống thành Giêricô: một con đường hiểm trở đầy những ổ phục kích của bọn cướp. Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về một người lữ hành đi qua con đường đó bị bọn cướp đánh dở sống dở chết. Một thầy Lê-vi đi qua, gặp thấy, bỏ mặc. Một linh mục đi qua, nhận ra, phớt lờ. Và một người Samaritanô chợt trông, liền xuống ngựa đưa vào nhà thương Hoàn Mỹ.
Đường hiểm trở ngày nay dẫy đầy. Có những người mang danh Kitô hữu đó nhưng cạnh tranh nhau, rình rập phục kích chờ những sơ hở của bạn bè, đồng nghiệp mà nhảy ra khai thác, ăn có, làm hại. Một lời nói sai, một cơ hội lỡ, một hành vi lầm là họ chụp ngay, ra tay làm hại. Đường hiểm trở như vậy, nếu ta không dọn dẹp, chắc chắc “chăm phần chăm” Chúa chẳng chịu chen chân vào đâu mà chớ!
4. Đường mù sương. Có lẽ phải qua Đảo Anh Quốc khi mùa đông tới, xe hơi chiếu đèn sáng, chạy san sát nhau, mà chẳng nhận ra nhau. Hay lên miền Sapa mây mù, Đalat mờ sương, đi bên nhau mà không nhận được mặt, thì ta mới hiểu được thế nào là con đường mù sương. Con đường mù sương trong Kinh Thánh chính là con đường về làng Emmau mà có lần sau phục sinh, hai môn đệ của Chúa Giêsu đã cùng Ngài sánh bước: đi chung đường, mà bị sương mù che khuất, không nhận ra Thầy.
Con đường mù sương không thời nào không có, không nước nào vắng bóng, không chỗ nào nó không hiện diện. Mù sương khiến ta không nhận ra Chúa là ai—đúng hơn, không nhận ra ai là Chúa, và không nhận ra đồng loại là anh em. Ta chỉ dừng lại nơi con đường mù sương khiến ta không nhận ra đồng loại là anh em trên con đường đón Chúa.
Con người nhiều khi cư xử với nhau như thú dữ, điều mà ngạn ngữ Latinh nói: Con người là chó sói của nhau (Homo lupus homini).
Chỉ cần dán cho họ một nhãn hiệu, một cái mác, là ta không còn coi họ là anh em, là tứ hải giai huynh đệ, mà nhiều khi, tệ hơn không muốn thấy mặt họ nữa, muốn họ biến mất trên đời. Cái nhãn, cái mác đó có thể là da màu. Đảng 3K Ku Klux Klan thề không cho da màu sống trên đất Mỹ. Cái mác đó có thể là khủng bố, trục ác quỉ: ai khủng bố và ai chứa chấp khủng bố đều bị xử sự như nhau, tức là bom dội trên đầu họ, như TT Bush đã nói như thế sau biến cố 11-9, như Thủ Tướng Sharone của Israel dán cho Arafat cái nhãn là kẻ dung dưỡng khủng bo để tự cho mình làm những hành vi còn mạnh hơn khủng bố tức là tự do bắn phá giết hại từ trên không… Trước đây ít lâu, cái mác đó có thể là xét lại, là phản động, địa chủ, là thế này là thế nọ… Rồi cho bọn họ lên máy chém hết.
Ta cũng đừng quên ngay trong giòng lịch sử giáo hội, cũng có những bóng đen lớn như thế, cũng có những sương mù dày như vậy, khi vào thời mà muốn kết án ai, giáo hội dán cho họ nhãn “phù thuỷ”, phù thuỷ là đi với quỷ, với ma, thế là cho lên dàn thiêu, cho lên máy chém. Phát minh một cái gì mới: coi chừng trò phù thuỷ. Những cái mác, cái nhãn đó như lớp mây mù dày đặc làm cho ta không nhận ra họ là người, là đồng loại, và là con Chúa, có một Cha chung.
Ta mải nói chuyện thế sự, lịch sử, nói chuyện đâu đâu, có thể làm ta quên con đường sương mù không cho người nhận ra người là anh chị em vẫn còn nằm ngay trên mi cửa của gia đình, nằm ngay trong chính cảnh đẹp thay êm ái thay của cộng đoàn đời tu, nói chi đến nơi chợ đời, nơi công ăn sở làm, nó càng nằm chình ình ngay giữa.
Đường vòng vo, đường chặn lại, đường hiểm trở, đường mờ sương… đó là những con đường Kinh Thánh gợi ý để chúng ta tìm cách dọn dẹp trong chính lối sống chúng ta. Ước mong được vậy để Chúa boon boon đến với con người. Amen.
Tin mừng Mc 1, 1-8: Để thực sự hoán cải, điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra tội lỗi của MV2-B139
Tin mừng Mc 1, 1-8: Để thực sự hoán cải, điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra tội lỗi của mình, nghĩa là phải thực sự thấy mình có tội, nhưng con người ngày nay càng mất dần ý thức về tội lỗi, bởi vì họ mất dần ý thức về Thiên Chúa...
Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho ngay thẳng để Người đi" (Mc 1,3)
Khi Gioan tẩy Giả xuất hiện bên giòng sông Giođan, dân chúng rất phấn khởi. Gioan bắt đầu sứ mạng của ông tại một địa điểm không xa Biển Chết.
Đó là tụ điểm của những đoàn hành hương và các du khách từ khắp nơi trên thế giới đến.
Đó là một nơi tuyệt hảo để mọi người gặp gỡ nhau và trao đổi những tin tức thế giới.
Vì thế đó là một nơi lý tưởng để Gioan Tẩy Giã bắt đầu rao giảng và làm phép rửa. Sứ điệp Gioan rất đơn giản và rõ ràng:
"Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho ngay thẳng để Người đi" 1. "Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho ngay thẳng để Người đi" Để đón Chúa, chúng ta phải sửa lại những con đường trong tâm hồn cho ngay thẳng, sạch đẹp.
Nghĩa là tâm hồn ta phải luôn ngay thẳng, chính trực, không quanh co, gian dối, giả tạo…
Ngay thẳng là một trong những yếu tố chính yếu của sự công chính, thánh thiện. Thiết tưởng người Kitô hữu cần phải tạo cho mình một tư cách ngay thẳng chính trực, nói hay làm gì cũng phải ‘công minh chính đại’, “đường đường chính chính”, không lén út, không quanh co.
Tư cách của người Kitô hữu phải là tư cách của một người quân tử, tôn trọng sự thật, nghĩ thế nào, nói thế ấy; “Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ” (Mt 5,37).
Nghĩ một đàng nói một nẻo là thói của bọn tiểu nhân, của phường gian ác.
“Thiên Chúa ưa điều chính trực, ghét điều gian ác” (Dt 1,9). “Ngài ghê tởm tâm địa quanh co”.
Nguyên nhân biến con người thành quanh co, giả hình, mưu mô…chính là tâm địa ích kỷ, nhiều tham vọng, muốn phình to bản ngã.
Tâm địa này khiến người ta cố gắng đạt được những điều mình ham muốn: danh vọng, quyền lực, tiền bạc – với bất cứ phương tiện nào, kể cả những phuơng tiện xấu, và bằng bất cứ giá nào, kể cả tội ác.
Từ đó, con người bị tham vọng mê hoặc dẫn đưa chúng ta vào con đường quanh queo của tội ác.[1]
2. "Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho ngay thẳng để Người đi"
Đây chính là con đường sám hối, con đường quyết tâm từ bỏ tội lỗi
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời của mình và đã tâm sự như sau:
- Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất của tôi là dâng lên Thiên Chúa là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để con thay đổi thế giới.
- Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận ra rằng một nửa đời người của tôi đã đi qua mà tôi chưa thấy thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin cho con được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày. Và như vậy là con mãn nguyện rồi.
- Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ đây, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được thay đổi chính mình con.
3. "Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho ngay thẳng để Người đi"
Đây chính là sự hoán cải. Để thực sự hoán cải, điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra tội lỗi của mình, nghĩa là phải thực sự thấy mình có tội, nhưng con người ngày nay càng mất dần ý thức về tội lỗi, bởi vì họ mất dần ý thức về Thiên Chúa.
Tội lỗi chỉ có ý nghĩa trong mối liên hệ với Thiên Chúa.
Tội lỗi trước hết là hành động xúc phạm tới Thiên Chúa, vi phạm luật Chúa, và nhất là từ chối tình thương của Ngài. Cho nên Sám Hối là nhận ra tội lỗi của mình rồi ăn năn sám hối, quyết tâm trở về với Chúa.
Chính vì thế, Sám Hối là một chủ đề nổi bật trong Thánh Kinh.
Giavê không ngừng đòi hỏi Dân Chúa phải luôn canh tân đổi mới cuộc sống và Giavê đã dùng đủ mọi cách đổi mới con tim Dân Người.
Trong cuốn “Ơn Trở Về”, Đức Cha JB. Bùi Tuần có nói đến những người tội lỗi cứng lòng, mà những người ngay chính cũng cứng lòng nữa.
Tôi tự nghĩ, Người con thứ trong dụ ngôn “người con hoang đàng” là hình ảnh của người tội lỗi, còn người anh cả có thể là hình bóng của những người ngay cứng lòng.
Người tự coi mình là công chính, đạo đức mà cứng lòng và tự mãn thì thật khó trở về.
Và Đức cha JB. Bùi Tuần đã kể lại câu chuyện như sau:
Trong một phòng khách của Đức Giáo Hoàng, tôi thấy có một bức tượng thánh Phêrô bằng đồng đen, đặt trên bệ cao.
Có lần tôi tò mò lại gần xem, thì thấy tay ông thánh Phêrô cầm một chùm hai chìa khóa.
Tôi tự hỏi: mở cửa thiên đàng thì một chìa là đủ, sao lại phải hai chìa?
và đột nhiên một ý tưởng thoáng qua trả lời rằng:
Chùm này là để mở lòng người. Kẻ tội lỗi cứng lòng thì một chìa là đủ. Còn người công chính cứng lòng, thì hai chìa chưa chắc đã mở được. [2]
4. "Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho ngay thẳng để Người đi"
Mùa Vọng là mùa mọi người đang chờ đón Chúa đến.
Chúa muốn chúng ta hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa. Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em.
Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, chúng ta lại chỉ lo mở đường cho chính những tham vọng của chúng ta.
Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, chúng ta lại lo làm chứng cho một cái gì đó.
Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, chúng ta lại chỉ giới thiệu “cái tôi” của chính bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến. Amen.
Dọn dẹp là công có vẻ rất ư bình thường, đôi khi người ta vẫn gọi là “những việc không tên”, thế MV2-B140
Dọn dẹp là công có vẻ rất ư bình thường, đôi khi người ta vẫn gọi là “những việc không tên”, thế nhưng công-việc-nhỏ-mọn đó lại không hề đơn giản, khó thực hiện lắm. Việc NHỎ thì KHÓ, việc LỚN thì ỚN. Và chỉ muốn “an nhàn”!
Dọn nhà cửa đã khó rồi, dọn đường càng khó hơn. Khi sắp có “ông lớn” nào đến “kinh lý” một nơi nào đó, người ta chuẩn bị đủ thứ tươm tất, giăng cờ xí rợp trời, biểu ngữ “kêu” lắm, chi phí tốn kém lắm. Xe hơi bóng lộn đậu tại chỗ “ưu tiên”. Sau đó, “ông lớn” đi quan sát khu vựcc chính, phát biểu “đôi lời”, rồi tiệc tùng “hoành tráng” (đời hoặc đạo cũng thế thôi). Chỉ tội đám dân đen! Còn có “lối nhỏ” nào dành cho Thiên Chúa ngự đến nữa không? Nói cho cùng, quan trọng nhất vẫn là Con Đường Tâm Linh, Con Đường Chân Lý và Công Lý.
Để dọn đường cho Chúa đến, Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy; mọi núi đồi, phải bạt cho thấp; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:4-6). Thánh Luca ghi lại rất chi tiết. Vâng, đó chính là con-đường-tâm-hồn của chúng ta. Con đường này dơ bẩn nhất mà cũng khó dọn nhất! Con đường ngắn nhất mà dài nhất là Con Đường Yêu Thương, vì nói dễ mà làm khó. Chỉ có từ miệng tới tay mà mãi không tới đích!
Ngày xưa, Thiên Chúa dạy: “Hãy an ủi dân Ta: Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (Is 40:1-2). Cha mẹ thấy con cái sai thì sửa dạy, thậm chí là phạt, nhưng đau lòng lắm, nghiêm khắc ngoài mặt nhưng quay đi mà khóc, hoặc nuốt nước mắt vào trong. Thiên Chúa là Đấng nhân lành, Ngài phạt “gấp hai lần tội phạm” là để chúng ta tỉnh ngộ. Sau đó Ngài lại vỗ về, ủi an. Đó là lòng thương xót sâu thẳm khôn dò của Ngài.
Để chúng ta có thời gian kịp ăn năn, Thiên Chúa đã sai người tiên phong Gioan Tẩy Giả để “mở đường máu” cho chúng ta. Trước đó, ngôn sứ Isaia đã cảnh báo: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa; giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” (Is 40:3-5). Đường làng có một số cỏ dại nhưng ít quanh co, có những con đường làng vẫn thẳng tắp và phẳng phiu. Nhưng “đường lòng” của chúng ta có đủ thứ cỏ dại, khúc khuỷu và gồ ghề lắm: Kiêu ngạo, ích kỷ, gian dối, lọc lừa, tự ái,...
Bổn phận của chúng ta là dọn sạch và làm đẹp “đường lòng” của chính mình, nhưng chúng ta cũng có trách nhiệm “thông báo” cho người khác biết để họ cũng dọn “đường lòng” của họ: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy TRÈO lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật MẠNH. Cất tiếng lên, ĐỪNG SỢ, hãy bảo các thành miền Giuđa rằng: ‘Kìa Thiên Chúa các ngươi!’. Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40:9-11). Thiên Chúa xử tội bất cứ ai, không thiên tư tây vị, nhưng Ngài cũng yêu thương mọi người. Để có thể mạnh mẽ lên tiếng bênh vực công lý nhưng bất bạo động, người ta phải thực sự can đảm.
Trên hành trình tâm linh cũng vậy, khi đi theo Con Đường Chân Lý và Công Lý, phải can đảm mới “không sợ” mà dám “ăn nói”, thành thật và thẳng thắn. Rất nhiều lần Kinh Thánh đã động viên: “Đừng sợ!” (Xh 14:13; Đnl 31:6; Is 43:1; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Is 41:13; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Ga 14:27; Lc 1:13; Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Kh 1:17-18).
Dám nói thẳng nói thật thì sẽ bị người ta ghét, thậm chí có thể bị hại. Ông Gioan Tẩy Giả bị cắt thủ cấp chỉ vì “tội” thẳng thắn và thành thật. Chúa Giêsu bị giết chết thê thảm cũng chỉ vì “tội” dạy người ta sống thành thật và thẳng thắn, bị nhà nước La Mã cho là “xúi giục và xách động dân chúng nổi loạn”. Nhưng Ngài vẫn thẳng thắn xác nhận với Tổng trấn Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37).
Khi can đảm sống chân thật và thẳng thắn bảo vệ chân lý và công lý, có thể chúng ta bị người khác xa lánh, và chúng ta cảm thấy buồn, nhưng tâm hồn sẽ an bình, tức là được hưởng “niềm vui ơn cứu độ” của Thiên Chúa. Dĩ nhiên niềm vui này không giống như niềm vui trần tục.
Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta” (Tv 85:9-10). Thiên Chúa chỉ yêu quý những ai chân thật, có “đường lòng” không quanh co, và Ngài cũng chỉ đi trên Con Đường Công Lý để bảo vệ Chân Lý tới cùng: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân” (Tv 85:11-14).
Ai cũng muốn sống trong Hòa Bình, muốn vậy thì phải thực hiện Công Lý. Hòa Bình và Công Lý luôn nối kết chặt chẽ với nhau. Thật là thương đám dân đen, họ khổ vô cùng, bị chèn ép đủ kiểu, đủ dạng, ngóc đầu không nổi, đôi khi họ cảm thấy thất vọng lắm, vì thế họ luôn sống trong “mùa vọng” triền miên. Khoảng mong chờ của người đau khổ luôn dài lê thê. Họ như đất hạn chờ mưa, họ khao khát Mưa Giêsu gội mát cuộc đời họ trong Biển Cứu Độ, và được sống trong Vương Quốc Bình An.
Cảm giác lâu hay mau là do ý tưởng phàm nhân, chứ Thiên Chúa không như vậy. Thánh Phêrô nhắc nhở: “Xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải” (2 Pr 3:8-9). Ôi, lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi diệu kỳ! Chúng ta nghe nói về ngày tận thế quá nhiều lần, chúng ta cảm thấy lâu, thậm chí có thể cho là “chuyện đùa dai” hoặc “chuyện hù dọa”, nhưng thực ra đó là sự kiên trì của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Mùa Vọng “nhắc nhở” chúng ta về Ngày Ấy, chắc chắn nhất và “gần” nhất là chính Ngày Chết của mỗi chúng ta. Vâng, phải dọn “đường lòng” hằng ngày, kẻo mà… không kịp!
Vì thế, đừng quên điều này: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ” (2 Pr 3:10). Tại sao? Thánh Phêrô giải thích: “Muôn vật phải tiêu tan như thế thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao, trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng” (2 Pr 3:11-12). Cuối cùng, theo lời Thiên Chúa hứa, “chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị”, và trong khi mong đợi ngày đó, chúng ta phải cố gắng sao cho Ngài thấy chúng ta “tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an” (2 Pr 3:14).
Lời Chúa hôm nay là đoạn khởi đầu Tin Mừng theo Thánh sử Mác-cô (Mc 1:1-8), đề cập lời nói tới “chiến sĩ mở đường” Gioan Tẩy Giả trong sách ngôn sứ Isaia: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Và đúng theo lời đó, ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Ngày đó, mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan. Kinh Thánh cho biết phong cách rất “bụi” của ngôn sứ Gioan: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông Gioan sống “bụi đời” nhưng nghiêm túc trong cách sống với Thiên Chúa và tha nhân. Điều này nhắc nhở chúng ta đừng xét người theo dáng vẻ bề ngoài, vì “chiếc áo KHÔNG làm nên giáo sĩ và tu sĩ”. Tương tự, “bằng cấp KHÔNG là thẻ căn cước của người giỏi”.
Ông Gioan có bề ngoài bình thường nhưng lại là người vô thường, ông như “siêu nhân” nhưng lại khiêm nhường. Ông xác định: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới là Number One, là số Dzách. Chúng ta đều là số Zero!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết khiêm nhường với mọi người, biết bảo vệ Chân Lý và Công Lý, biết mau mắn dọn “đường lòng” để Đức Giêsu Kitô ngự đến. Người là Đấng hằng sinh và hiển trị với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Mùa Vọng -mùa của những ngóng trông. Mùa của những đợi chờ. Trông ngóng đợi chờ mưa Đấng MV2-B141
Mùa Vọng -mùa của những ngóng trông. Mùa của những đợi chờ. Trông ngóng đợi chờ mưa Đấng Cứu Tinh như cộng đoàn của Phêrô đã mỏi mòn ngày đêm trông ngóng đợi chờ.
Đợi chờ trông ngóng đã lâu, họ cảm thấy nôn nao xao xuyến. Và Phêrô chỉ còn biết ủi an họ so sánh ý niệm về thời gian khác nhau một trời một vực giữa Thiên Chúa và con người. Như có người kia hỏi Chúa: "Một triệu đồng với Chúa đáng giá bao nhiêu?" "Chỉ một xu thôi!" Chúa đáp. "Thế một triệu năm thì sao?" "Một giây!" "Thế Chúa hãy cho con một xu," người kia khẩn khoản. "Hãy đợi Ta một giây," Chúa mỉm cười...
Nhưng ngay cả Phêrô cũng không thể nào tính toán xác định ngày giờ Đấng Cứu Tinh đến. Điều quan trọng trong tâm trí Phêrô không phải chờ đợi ngóng trông nhưng là thực lòng sống sự chờ đợi ngóng trông kia -một đời sống chân chính thánh thiện không tỳ ố. Sống một đời sống chân chính thánh thiện không tỳ ố chẳng phải giản đơn sống để rồi khi chết đi đuợc đến thiên đàng nhưng là sống cùng một "trời mới và đất mới". Và Phêrô cả quyết là có sự khác biệt giữa hai đời sống này như sự khác biệt ý niệm về thời gian giữa Thiên Chúa và con người.
Sống để rồi khi chết đi đuợc đến thiên đàng là không làm điều xấu nhưng cũng rất ngại ngần không làm điều tốt. Nếu tội đuợc hiểu theo nghĩa không hẳn chỉ làm điều xấu mà không dám làm điều tốt thì đây quả thật là một đời sống rất cứng nhắc và máy móc. Một đời sống an phận thủ thừa. Một đời sống không kết trái đơm hoa.
Nhưng khi sống cùng "trời mới và đất mới", chúng ta sống tay áo luôn xắn cao. Đó không bao giờ là một đời sống hưởng thụ cầu an nhưng hằng hằng chấp nhận và đối diện với những thực tế rất phũ phàng của cuộc đời để rồi từ đó tìm một hướng đi lên, một đuờng lối mới.
Sống cùng "trời mới và đất mới" là thực thi công lý hoà bình. Là gieo rắc tin yêu hy vọng. Là luôn gióng tiếng chuông cao mạnh dạn cảnh tỉnh những thái độ sống bất chính bất lương. Là xung phong nơi đầu tên ngọn gió đối đầu với những chế độ phi nhân xem thuờng mạng sống con người.
Vì thế, câu hỏi mà mỗi chúng ta cần tự vấn mùa Vọng năm nay chẳng phải là đã sẵn sàng chưa cho ngày sau hết nhưng là đã chuẩn bị chưa để sống cùng "trời mới và đất mới!" Và Gioan Tẩy Giả gọi đó là một đời sống luôn biết thống hối ăn năn.
Một đời sống thống hối ăn năn không hẳn chỉ hoài niệm về quá khứ để rồi ân hận, tiếc nuối, xót thương nhưng là luôn hướng về tương lai để khiêm cung nhận thức rằng qua những thiếu sót lỗi lầm con nguời, tình yêu và lòng thứ tha vô bờ bến của Thiên Chúa lại luôn chan chứa đầy tràn.
Chiến tranh, thù hận là khi con nguời u mê chôn chặt tâm trí vào quá khứ để rồi không dám mở rộng vòng tay ôm lấy "trời mới và đất mới." Sống trọn vẹn tinh thần mùa Vọng -mùa của những đợi chờ- là biết nhìn nhau và nhìn về tuơng lai với đôi mắt rất tha thứ bao dung và tay nắm tay xây dựng thế giới mỗi ngày mỗi tuơi đẹp hơn. Cho chính chúng ta. Cho đàn con đàn cháu. Như câu mở đầu cuốn phim đầy cảm xúc "The Schindler's List": "Cứu đuợc một người là cứu đuợc toàn thế giới."
Người Hồi Giáo có câu truyện sau đây: Ngày kia, Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian MV2-B142
Người Hồi Giáo có câu truyện sau đây:
Ngày kia, Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường, nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành xuống thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc, vừa xông hương, để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm đem về trời. Lần này Đức Ala mĩm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng ta nghĩ cần có một cái gì đó tốt đẹp hơn.
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mĩm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ”.
Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu, và đánh động lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, khiến Người ban Con Một xuống thế làm Người cứu rỗi thiên hạ.
(Trích “Món quà Giáng Sinh”)
2. Sứ giả dọn đường
Anh Weaver làm công nhân hầm mỏ. Có lần anh vô tình làm cho một công nhân khác giận. Anh này gầm thét lên: chắc tao phải cho mày mấy bạt tai quá. Weaver đáp: Nếu anh thấy cần.
Thế là người đó tát Weaver một cái. Anh đưa má kia, lại một tát nữa… Đến lần thứ 6, người đó hậm hực bỏ đi. Weaver nói theo: Chúa tha cho anh. Tôi cũng thế. Và xin Chúa cứu anh.
Sáng hôm sau khi xuống mỏ, người đầu tiên mà Weaver gặp là kẻ đã tát anh. Anh mĩm cười bắt tay. Người ấy bật khóc lên nói trong tiếng nức nở: Ôi anh Weaver, anh thực sự tha cho tôi?!...
Phải chăng việc làm của anh Weaver, công nhân hầm mỏ này đã dọn đường cho Chúa đến với bạn mình như lời Thánh Gioan Tầy Giả kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”.
3. Cái gì thuyết phục?
Một vị khách đến ủy lạo thương binh trong bệnh viện. Ông hỏi:
- Anh thuộc giáo hội nào? - Tôi thuộc Giáo Hội của Chúa Ki tô. - Cái gì thuyết phúc anh vào Giáo Hội đó? - Thuyết phục ư? Rồi nhìn lên tượng chịu nạn, anh tiếp: Phải, tôi bị Ngài thuyết phục đến dộ ngay cả sự sống sự chết, thần quyền thế quyền… Khôn có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng mến Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (Trích “Minh họa Lời Chúa”).
----------
Chính tình yêu Thiên Chúa đã thuyết phục anh thương binh tin Chúa mãnh liệt. Nếu tôi tận tình hy sinh thương yêu giúp đỡ anh chị em tôi, tôi có thể thuyết phục họ tin theo Chúa không?... Tôi có thể làm sứ giả dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với anh chị em tôi không?
4. Bán tất cả
Một đệ tử thắc mắc hỏi Thầy Rapbi:
- Thưa thầy, trong Phúc Âm Chúa Giêsu bảo người thanh niên giàu có bán hết gia tài bố thí cho kẻ nghèo rồi đến theo Người. Như thế là phải từ bỏ hết mọi sự trên đời này phải không?
Thầy Rapbi trả lời bằng câu chuyện sau đây: Có một người rất ham đọc Phúc Âm. Một hôm ông mở Kinh Thánh ra thấy ngay đoạn con nói đó. Ông vui mừng vì ông là người muốn tìm đường cứu rồi. Lập tức ông bán hết tài sản bố thí cho người nghèo.
Thực hiện Lời Chúa dạy xong, ông mở Kinh Thánh ra, cũng thấy ngay đoạn đó nữa. Ông nghĩ là mình đã vâng Lời Chúa, bán hết gia tài sản nghiệp bố thí rồi, còn gì nữa đâu. Bỗng ông sực nhớ còn quyển Kinh Thánh, thế là ông đem bán nốt…
--------- “Mùa vọng là thời điểm thuận tiện nhìn sâu vào đáy tâm hồn mình, để khám phá ra những gì còn ghì chặt chúng ta trong nộ lệ tội lỗi, không cho chúng ta rộng mở tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến với chúng ta và mọi người”. Chính của cải, danh vọng, giàu sang, vui sướng thế gian là những sợi dây thừng to cột cổ chúng ta, bắt chúng ta làm nô lệ cho chúng!...”
5. Khách dọn đường
Một khách du lịch nhân lúc mệt mỏi trưa vắng đã ghé vào túp lều tranh của vị thừa sai trong một làng xa xôi hẻo lánh tại Ấn Độ. Bước vào lều, người khách chỉ thấy có vài cái chỏng tre trải chiếu sơ sài, cái bàn cái ghế cũng bằng tre với đống sách trong góc nhà.
Anh không hiểu sao một linh mục thừa sai mà sống đơn sơ nghèo khó đến thế, có thể nói được khắc khổ nữa là khác. Anh ngạc nhiên hỏi linh mục:
-Thưa Cha, đồ đạc của Cha chỉ có bấy nhiêu đó thôi sao?
Vị thừ sai mỉm cười đáp:
-Vậy chớ đồ đạc của anh bao nhiêu? Chỉ có chiếc ba lô nhỏ đó chớ gì.
Anh thành thật đáp:
Nhưng con chỉ là khách du lịch. Con đi đường vài ngày, đâu cần mang theo đồ đạc nhiều. Còn cha ở luôn đây.
Vị thừa sai hóm hỉnh nói:
-Anh là khách đi đường. Tôi cũng thế. Tôi chỉ là khách dọn đường…
--------
Đúng thật vị thừa sai là khách dọn đường. Ngài được Chúa sai đến đây dọn đường cho dân làng biết Chúa, đến với Chúa, lãnh nhận ơn cứu rồi của Chúa. Và để dọn đường đắc lực cho Chúa đến, Ngài đã noi gương Thánh Gioan Tiền Hô sống khó nghèo hy sinh.
Phải chăng vị thừa sai và Thánh Gioan Tiền Hô dạy chúng ta: muốn dọn sẵn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đến cứu chúng ta, chúng ta phải hy sinh từ bỏ tất cả những gì là chướng ngại vật.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập 1).
ĐÓN NHẬN ĐỨC KITÔ TRONG NIỀM VUI
Một linh mục trẻ mới chịu chức được gởi đến giúp phụ tá cho một vị cha xứ già tại một giáo xứ nọ. Khi đến nơi, vị linh mục trẻ đến chào vị linh mục già và xin ngài những lời khuyên cho công việc mục vụ của mình tại đây: “Thưa cha, con nên giảng về những vấn đề gì?” Vị linh mục trả lời: “Chỉ giảng khoảng 10 phút thôi.” Vài năm trước đây, tôi đến một giáo xứ tại Pháp để giúp mùa hè, và lời khuyên duy nhất của vị cha xứ tại đó cho tôi cũng là nên giảng và cử hành Thánh lễ ngắn bao nhiêu có thể vì dân chúng tại đây chẳng có nhiều thời gian. Tôi đã làm theo lời khuyên này. Thế nhưng điều làm tôi thực sự ngạc nhiên là khi được nghe một ban hợp xướng từ Anh quốc đến và trình diễn bài Messia của Handel. Buổi trình diễn được tổ chức ngay tại nhà thờ của giáo xứ, và sau 3 tiếng đồng hồ trình diễn, nhiều người vẫn xin yêu cầu trình diễn thêm. Thú thật, tôi chưa bao giờ nhìn thấy sự vui tươi hơn thế trên khuôn mặt của những người tham dự trong nhà thờ hôm đó, cũng như chưa bao giờ nhìn thấy sự nhiệt tình hơn thế nơi họ. Sau đó, tôi đã hỏi cha xứ: “Làm sao bà con tín hữu lại có thể ngồi yên một chỗ trong hơn 3 tiếng đồng hồ để chăm chú lắng nghe ban hợp xướng với niềm vui như thế, trong khi họ lại chẳng có thái độ tương tự khi lắng nghe Lời Chúa trong thánh lễ? Vị cha xứ chẳng trả lời được. Vài năm sau, tôi đã có được câu trả lời từ một người bạn hiện đang dạy tại trường giáo lý, và những gì anh nói đã giúp soi sáng cho tôi. Anh nói người ta cần có kinh nghiệm về Thiên Chúa trong cuộc sống của họ trước khi họ có thể lắng nghe Lời Chúa trong niềm vui. Anh cho rằng việc loan truyền Lời Chúa cho những người chưa biết Chúa phải lưu ý tới mối tương giao cá nhân của họ với Chúa, vì người mà chẳng có mối tương giao cá nhân với Thiên Chúa thì cũng tựa như đọc thơ cho một người mà chẳng biết gì về thơ văn cả. Khi ấy, họ sẽ dễ dàng chán và chỉ muốn bỏ đi ngay. Vậy thì, làm thế nào để giúp người ta đi từ tâm trạng chán ngán khi nghe Lời Chúa đến tâm trạng vui tươi và hứng khởi khi nghe Lời Chúa? Với Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay, thánh Gio-an Tẩy Giả đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương. Khi chúng ta đọc Tin Mừng hôm nay: “Có Lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3, 2-3). Trong đoạn văn ngắn này, chúng ta thấy có 3 bước cần thiết để giúp một người đi từ tình trạng lãnh đạm đến tình trạng nhiệt tình trong niềm tin. Ba bước đó là (1) Gio-an đi vào hoang địa, (2) Lời của Chúa đến với ông, và (3) Gio-an bỏ rời hoang địa và đi rao giảng niềm tin. Mỗi người chúng ta cũng phải đi qua ba bước này để đạt đến tình trạng khởi sự sống niềm tin của mình trong niềm vui.
Bước 1: Đi vào Hoang địa. Hoang địa là nơi mỗi người sống một mình với Thiên Chúa. Vào hoang địa nghĩa là bỏ đi những công việc, những bận tâm lo toan thường ngày để gặp gỡ Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong việc đọc và suy niệm Lời Chúa. Hoang địa là nơi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa. Chính bản thân mỗi người chúng ta phải làm bước đầu tiên này: đi vào hoang địa, tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa.
Bước 2: Để Lời Chúa đến với chúng ta. Một khi chúng ta mở lòng ra với Thiên Chúa trong hoang địa, thì chính Thiên Chúa đến và chiếm ngự tâm hồn chúng ta. Có một vị thánh nói rằng khi chúng ta bước 1 bước để đến với Thiên Chúa, thì chính Người lại bước 2 bước để đến với chúng ta. Với bước thứ 2 này, Thiên Chúa đã có sáng kiến đến với chúng ta, chiếm ngự tâm hồn chúng ta, canh tân đổi mới chúng ta, tô điểm lại hình ảnh của Người nơi chúng ta mà chúng ta vốn được tạo dựng nên giống thế. Một số người gọi đây là việc được “tái sinh.” Khi những việc này xảy ra, chúng ta có thể ở lại một mình với Thiên Chúa cả ngày trong nhà thờ để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa qua Lời của Người trong Kinh Thánh. Thế nhưng giống như Gio-an Tẩy Giả, chúng ta còn phải tiếp tục sống và thực thi những bổn phận của chúng ta trong gia đình và xã hội nữa.
Bước 3: Rao truyền Niềm tin của mình. Khi đã trải nghiệm những điều tốt lành từ Thiên Chúa trong cuộc sống, chúng ta lại muốn chia sẻ những trải nghiệm này với người khác. Lúc ấy, chúng ta giống như người mặc một chiếc áo thun có ghi dòng chữ lớn trên lưng “Wow, Thiên Chúa thật vĩ đại!” để mọi người có thể nhìn vào và cảm nhận được niềm vui, sự an bình tỏa ra từ chúng ta, và rồi họ cũng muốn được nên giống chúng ta, được trở thành bạn hữu của chúng ta. Tiếp đến, chúng ta có thể chỉ cho họ thấy con đường đến với hoang địa để ở nơi đó, họ cũng được gặp gỡ chính Thiên Chúa. Trải nghiệm về Thiên Chúa cũng tựa như trải nghiệm về tình yêu. Bạn có thể nói cho người khác nghe về tình yêu, nhưng họ không thể hiểu được nó cho tới khi chính bản thân họ trải nghiệm.
Trong lời Tổng nguyện của lễ Chúa nhật, chúng ta thưa lên với Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa toàn năng ái tuất, xin mở rộng tâm hồn chúng con để đón mừng Con Chúa. Xin hãy loại bỏ những gì cản trở chúng con đón nhận Đức Ki-tô trong niềm vui.” Để được như thế, trong Mùa Vọng này, chúng ta cần thực hiện bước thứ 1 để dành cho Thiên Chúa một chỗ trong tâm hồn chúng ta, dành thời gian để cầu nguyện, tham dự Thánh lễ và lắng nghe Lời Chúa.
Phúc âm theo thánh Máccô bắt đầu bằng câu chuyện Gioan tiền hô, ngôn sứ cuối cùng trong thời MV2-B143
Phúc âm theo thánh Máccô bắt đầu bằng câu chuyện Gioan tiền hô, ngôn sứ cuối cùng trong thời Cựu ước. Sau một thời gian lâu dài vắng bóng ngôn sứ, thì dân Chúa lại có thể nghe tiếng Người qua miệng Gioan, một đại ngôn sứ vừa xuất hiện.
Sứ vụ của Gioan tiền hô đã được ngôn sứ Isaia loan báo cả hơn nửa thế kỉ về trước cho dân chúng, đang sống trong cảnh lưu đầy là cuộc giải thoát khỏi cảnh nô lệ đã gần đến. Ngôn sứ Isaia báo trước là người ta sẽ nghe thấy tiếng kêu trong hoang địa: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Chúa; giữa đồng hoang, hãy làm một con đường cho ngay thẳng (Is 40:3). Thời đó giữa Ba-by-lon và Giêrusalem, chỉ có đường mòn cho lái buôn cưỡi lạc đà. Cho nên dân chúng được khuyến khích làm đường mòn rộng hơn, vì theo họ thì Đấng cứu thế sẽ đến với họ qua sa mạc.
Gioan tiền hô đến thực hiện lời ngôn sứ Isaia về việc dọn đường cho Đấng cứu thế. Gioan cắt nghĩa việc sửa đường cho Đấng cứu thế theo nghĩa thiêng liêng. Gioan bảo họ phải sửa đường cho ngay thẳng nghĩa là thanh tẩy tâm hồn bằng việc: Chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội (Mc 1:4).
Điều làm ta thắc mắc sơ khởi ở đây là tại sao lại rao giảng trong sa mạc? Tài liệu tình cờ được tìm thấy ở hoang địa Qumran và người ta tìm thấy dấu vết một tu viện Do thái thời Chúa Giêsu. Hội viên trong tu viện là tư tế, hay dân thường, không lập gia đình, sống khắc khổ, cầu nguyện và suy niệm hằng ngày và gom tài sản làm của chung theo lời tuyên thệ. Như vậy có thể ông Gioan tiền hô cũng thuộc nhóm này, rồi xuất hiện trong hoang địa để rao giảng.
Theo ý niệm Thánh kinh thì sa mạc có liên quan đến việc manh nha và bành trướng của đạo cũ, nghĩa là đạo Do thái. Chính trong sa mạc mà dân Do thái đã gặp được Chúa. Họ nghe tiếng Chúa gọi làm dân riêng và sửa soạn cho họ vai trò được chọn. Sa mạc là lối sống du mục của họ trong suốt bốn mươi năm trường trên đường tìm về đất hứa. Họ nhận thức được rằng họ được sinh tồn trong sa mạc là có bàn tay Giavê bảo vệ và nuôi dưỡng họ khi cần bằng manna, bằng chim cút, bằng nước do Giavê truyền cho Môsê dùng cây gậy đập vào đá cho nước trào ra. Trong sa mạc, họ được thử thách và sau cùng khi họ phản bội Chúa thì ngôn sứ Hôsê nhắc nhở cho họ là họ sẽ lại được đưa vào sa mạc để nghe Chúa nói với con tim họ (Hs 2:16). Như vậy thì đó là điều thích hợp để lời Chúa qua miệng Gioan tiền hô lại đến với họ trong sa mạc.
Trong Phúc hôm nay Gioan tiền hô sửa soạn cho Đấng Cứu thế đến bằng việc rao giảng phép rửa thống hối. Sứ mệnh của Gioan tiền hô thật là gay go. Trước hết ông ta phải sửa soạn cho sứ mệnh làm ngôn sứ bằng việc đi vào sa mạc để luyện chưởng linh thiêng bằng việc ăn chay cầu nguyện.
Điều thắc mắc thứ hai là ai sẽ vào sa mạc để nghe giảng, trừ khi giảng cho cào cào, châu chấu hay bọ cạp? Phúc âm hôm nay ghi lại là dân chúng từ các vùng làng mạc thôn xóm, cũng như từ Giêrusalem tuốn đến nghe Gioan giảng. Việc dân chúng tuốn đến, không những từ miền quê, mà còn từ đô thị để nghe Gioan trong sa mạc, chứng tỏ ông ta có sức lôi cuốn rất mãnh liệt. Không phải chỉ vì tò mò mà đến coi một nhân vật có vẻ kì dị trong cách ăn bận: ăn châu chấu, bận da thú vật (Mc 1:6). Dân chúng tuốn đến nghe ông giảng bởi vì lời rao giảng của ông có sức tác động làm thay đổi đời sống họ. Họ đáp lại sứ điệp thống hối bởi vì họ cảm thấy được lôi kéo vào thế giới thiêng liêng. Nghe giọng nói của nhân vật thủ vai Gioan tiền hô trong phim ảnh về cuộc đời Đấng Cứu thế, thấy tiếng ông ta cảnh giác dân chúng rống lên như con sư tử cái, trong thế nhảy chồm lên, rượt bắt mồi.
Sa mạc là nơi khô chồi, hoạ hiếm mới tìm được nước uống và sinh vật sồng. Trong sa mạc, người ta cảm thấy mình bé nhỏ, yếu thế, không có chỗ cho việc thỏa hiệp. Người ta phải làm quyết định nhanh chóng có liên hệ đến vấn đề sinh tử. Người ta phải lựa chọn giữa Thiên Chúa và chính mình. Như vậy vào sa mạc để nghe Gioan giảng có nghĩa là đối diện với chính mình, để hoán cải tâm hồn và sửa soạn đón chờ Đấng Cứu thế. Gioan nhận thức được sứ mệnh của ông là kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối và chịu phép rửa. Dân chúng tuốn đến nghe ông bởi vì họ tin rằng ông rao giảng lời Chúa, chứ không thỏa hiệp, không nhắm làm vừa lòng, làm khoái tai người nghe. Vì thế khi nhận phép rửa thống hối, dân chúng cũng bắt đầu đổi mới đời sống.
Thắc mắc thứ ba là làm sao ta có thể bắt chước dân chúng trong Phúc âm, đi vào sa mặc để nghe sứ điệp sám hối, dọn đường cho Đấng cứu thế đến? Để gợi lên bầu khí sa mạc trong Thánh kinh, những trại huấn luyện huynh trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể thường được tổ chức trong sa mạc hay trong rừng núi. Tên của mỗi khoá sa mạc được đặt theo ý niệm trong Thánh kinh như Sa mạc Ánh lửa, Lửa thiêng, Giêrusalem, Bêlem, Na-da-rét.. để khoá sinh dễ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa khi học hỏi về Thánh kinh giữa cảnh thiên nhiên. Vào rừng cũng như vào sa mạc người ta có cảm tưởng dễ gặp nguy hiểm như bị lạc, bị dã thú tấn công hay không tìm được thức ăn và nước uống. Do đó người ta dễ bám víu vào Đấng cầm giữ sinh mạng.
Đối với đa số giáo dân thì điều mà ta có thể làm là tạo nên bầu khí sa mạc trong tâm hồn là nơi chỉ có Chúa và mình hiện diện. Nói như vậy có nghĩa là ta cần tìm những giờ phút thanh vắng, đơn độc để ở một mình với Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa trong sa mạc của tâm hồn, để có thể tự giác và thức tỉnh tâm hồn. Trong sa mạc, người ta dễ dàng làm quyết định phải theo đường nào, vì không có cây cối che lấp nhãn quan. Cũng vậy, trong sa mạc của tâm hồn, không bị ngoại cảnh chi phối, không bị nội cảnh lấn át, ta sẽ dễ dàng làm quyết định cho đời sống nội tâm. Đó là việc lựa chọn mà mỗi người phải làm trong Mùa vọng này.
Lòi cầu nguyện, xin ơn được gặp gỡ Chúa trong sa mạc của tâm hồn:
Lạy Chúa, Chúa hiện diện khắp mọi nơi. Sa mạc, núi rừng, biển cả đều có Chúa ở đó. Chính trong sa mạc mà dân Do thái gặp được Chúa. Xin ban cho con một tâm hồn thanh tịnh, để khỏi bị ngoại cảnh chi phối và nội cảnh lấn át. Xin dạy con biết tạo bầu khí sa mạc trong tâm hồn: đơn côi và cô tịch, để con mời Chúa vào, ở với con. Amen.
Chúng con đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón Chúa đến. Thường thì trong MV2-B144
Chúng con đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón Chúa đến. Thường thì trong cuộc sống mỗi khi có một nhân vật nào quan trọng xuất hiện thì chúng con thấy người ta luôn phải có sự chuẩn bị. Nhân vật càng lớn, càng quan trọng thì người ta lại càng phải chuẩn bị kỹ hơn.
Tin mừng hôm nay nói về Gioan Tẩy giả. Gioan Tẩy Giả là người đến trước để dọn đường cho Chúa.
Ông Gioan đã chuẩn bị đón Chúa như thế nào chúng con ? Chúng con thấy Gioan rất hay. Trước khi ông xuất hiện để chuẩn bị cho mọi người đón Chúa thì chính ông, ông cũng đã tự dọn đường để Chúa đến với mình trước.
1. Gioan dọn đường để Chúa đến với mình.
Đọc Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy ông Gioan xuất hiện trong hoang địa. Nhìn vào cuộc sống của Ông, chúng ta biết ông đã chuẩn bị đời sống của ông như thế nào. Ông sống trong khung cảnh cô tịch nơi sa mạc. Ông sống rất khắc khổ: Áo ông mặc là một tấm da lạc đà khoác trên mình, cột thêm một dây da thắt lưng cho khỏi lòa xòa, loại da thuộc sơ sài còn thô nhám thời đó. Thức ăn của ông là châu chấu và mật rừng, loại thức ăn của người du mục nghèo khổ lúc đó thường dùng khi họ dẫn đoàn vật đi ăn cỏ nay đây mai đó trong rừng. Châu chấu thì thường nướng hay luộc, ướp muối. Còn mật thì đôi khi mới có khi tìm được tổ ong trong hốc đá, nhưng rất hiếm. Còn đa số là nhựa của cây tây hà liễu (Tamaris) ăn hơi ngọt ngọt.
Với thức ăn và áo mặc như thế, ông Gioan đã nói lên tinh thần sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì là dễ dãi, là thoải mái, là tiện nghi mà mọi người thường ưa chuộng. Ông sống thánh thiện, khắc khổ để đón Chúa và cũng để nêu gương cho người khác nữa.
Điều đáng cảm phục hơn nữa là tinh thần khiêm tốn của ông. Lúc đó uy tín của ông đã lên rất cao và tiếng tăm của ông đã lan rộng khắp nơi. Có người coi ông là ngôn sứ, thậm chí có người còn coi ông là Đấng Cứu Thế nữa. Thế nhưng, khi người ta hỏi ông là ai, thì ông Gioan đã trả lời: “Có Đấng quyền thế hơn tôi, đang đến sau tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dép cho Ngài” (Mc 1,7). Chúng ta đừng quên ở Do Thái chỉ có nô lệ, đầy tớ mới cởi dép cho chủ mình mà thôi. Ông Gioan đã từ bỏ tất cả, sống khiêm tốn để chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng để đón Chúa.
Một du khách nhân lúc mệt mỏi đã ghé vào túp lều tranh của vị thừa sai trong một làng xa xôi hẻo lánh tại Ấn Độ. Bước vào lều, người du khách chỉ thấy có cái chõng tre trải chiếu sơ sài, cái bàn cái ghế cũng bằng tre với đống sách ở trong góc nhà. Anh ta không hiểu sao một linh mục thừa sai Tây phương mà lại sống đơn sơ nghèo khó đến thế, có thể nói được khắc khổ nữa là khác. Anh ngạc nhiên hỏi vị thừa sai:
Thưa cha, đồ đạc của cha chỉ có bấy nhiêu đó thôi sao ? Vị Thừa sai mỉm cười đáp.
Vậy chớ đồ đạc của anh có bao nhiêu ? Chỉ có chiếc ba lô đó chớ gì ? Anh thành thật đáp:
Nhưng con chỉ là khách du lịch. Con đi đường vài ngày đâu cần mang theo nhiều đồ đạc làm chi ? Còn cha ở đây luôn mà! Vị thừa sai hóm hỉnh nói:
Anh là khách đi đường. Tôi cũng thế! Tôi chỉ là khách dọn đường thôi. Đúng vậy, vị thừa sai chỉ đến để dọn cho dân làng biết Chúa, lãnh nhận ơn cứu độ. Ngài cũng như thánh Gioan Tẩy Giả dạy chúng ta muốn dọn đường, sửa lối cho Chúa đến, chúng ta phải hy sinh từ bỏ tất cả những gì là chướng ngại vật cản trở. 2. Gioan Tẩy Giả đã dọn đường cho Chúa đến với mọi người như thế nào ?
Với sứ mạng tiền hô (đi trước loan báo) và tẩy giả (làm phép rửa nói lên lòng sám hối), ông Gioan còn giúp mọi người chuẩn bị Chúa đến bằng cách kêu mời mọi người dọn cho Chúa một con đường để Chúa đến.. Ông chuẩn bị thế nào chúng con. Ông dùng những hình ảnh rất cụ thể để giúp người ta hiểu phải làm gì.
Ông kêu gọi hãy lấp mọi hố sâu: Nghĩa là hãy thanh tẩy khỏi lòng mình những giận hờn, ghen ghét, hận thù là những vực thẳm khôn dò làm chúng ta không thể đón Chúa. Ông bảo mọi người hãy san phẳng những núi đồi, tức là tính tự kiêu tự phụ, tự ái, luôn coi mình hơn người khác để sống một cuộc sống khiêm nhường và đồng lòng nhân hậu. Sống như thế thì Chúa mới đến với mình. Thêm nữa ông còn muốn mỗi người uốn cho ngay thẳng những chỗ cong queo tức sự dối trá, gian ngoa, lừa đảo người khác. Sóng như thế mới xứng đáng với Chúa. Lần kia một người đàn ông lịch sự tìm đến gặp cha Gioan Maria Vianney, cha sở xứ Ars có ý muốn tranh luận vài vấn đề thuộc tôn giáo. Thánh nhân nhìn thẳng vào mặt vị khách và nói:
Ông hãy xưng tội đã rồi muốn tranh luận gì cũng được. Bị chạm tự ái, ông muốn nổi nóng, nhưng nghĩ lại cũng khá lâu chưa xưng tội. Ông nén lòng ngồi yên lặng. Trong yên lặng, ông thấy mình đã lỗi bao điều luật Chúa và Hội Thánh. Ông hối hận ăn năn rồi xưng tội sốt sắng. Sau khi xưng tội xong, ông thấy tâm hồn bình an thư thái. Bấy giờ cha Vianney nói: Xin ông cho biết ông thắc mắc điều gì ? Ông trả lời:
Lúc mới vào đây con thắc mắc nhiều chuyện, nhưng giờ đây, con không còn thắc mắc điều gì nữa. Có kiểm điểm đời sống nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ thấy mình còn nhiều hố sâu ghen ghét hận thù, nhiều núi đồi kiêu căng tự phụ, nhiều chỗ cong queo gian tham, lừa đảo... Còn nhiều đam mê xấu như say sưa, nóng nảy, lười biếng, hay xem phim ảnh xấu và nhiều khuyết điểm, lầm lỗi khác. Ước mong ngay từ hôm nay chúng con hãy kiểm điểm đời sống và sốt sắng lãnh Bí tích Hòa giải để dọn đường đón mừng Chúa đến.
Hãy tích cực chuẩn bị sửa lại đời sống cho thật tốt đẹp thánh thiện để Chúa có thế đến với mình. Cụ thể trong Mùa Vọng này, chúng con hãy cố gắng sống tốt hơn, thánh thiện hơn. Cha tin là Chúa sẽ hài lòng và Chúa sẽ đến mang lại cho chúng con nhiều hồng ân của Chúa.
Cha muốn kết thúc bằng câu chuyện có thật này:
Bé Josiah Duncan, năm tuổi, đi ăn với mẹ. Bước vào tiệm, bé thấy người đàn ông nọ ăn mặc rách rưới, nghèo khổ, ngồi trước cửa tiệm với tấm bảng ghi hàng chữ: ''Tôi vô gia cư, chẳng có gia đình, tôi bị bệnh, xin làm ơn giúp tôi.''
Bé Josiah hỏi người ấy: ''Ông có đói bụng không ?''
Ông ta gật đầu. Josiah bèn đến nói với mẹ: ''Mẹ ơi, mẹ mua cho ông ấy một bữa ăn, mẹ nhé!''
Mẹ bé đồng ý và người đàn ông theo bé vào tiệm ăn.
Thấy ông ấy nghèo nàn, dơ bẩn nên, khi ông ta vào ngồi bàn, nhân viên phục vụ làm lơ. Bé bèn đi lấy thực đơn cho ông xem. Ông đọc qua nó, rồi chọn món rẻ nhất.
Bé liền nói: ''Không sao, ông cứ kêu thêm đi, kêu nhiều một chút để ăn cho no.''
Và, khi dĩa đồ ăn được bưng ra, bé Josiah nói với người đàn ông: ''Cháu hát cho ông nghe, nhé. Mẹ cháu hay hát cho cháu nghe khi cháu buồn.''
Và, giữa tiệm ăn, bé hát: ''Lạy Thiên Chúa trên Trời, Thiên Chúa của con, con cám ơn Ngài về những ơn lành Ngài ban cho con, con cám ơn, con cám ơn Ngài. Amen.. Amen...''
Người đàn ông khóc!
Mẹ cậu bé rơi lệ!
Tất cả khách hàng trong tiệm ăn chứng kiến cảnh ấy, đều chảy nước mắt…! Lm Giuse Đinh Tất Quý
Khi thành phố bắt đầu về đêm, dòng người và xe cộ trở nên thưa thớt, người ta thấy xuất hiện những MV2-B145
Khi thành phố bắt đầu về đêm, dòng người và xe cộ trở nên thưa thớt, người ta thấy xuất hiện những công nhân cặm cụi đi ra quét dọn các con đường. Niềm vui của họ là nhìn những con đường sạch bóng cho ngàn người đi qua. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong một bài hát cũng mượn những vần thơ diễn tả hình ảnh người phu quét rác: “Người phu quét lá bên đường, quét cả nắng vàng quét cả chiều thu”. Có một vị chính khách nọ khi ra tranh cử tổng thống cũng nói với mọi người :“ Nếu tôi được bầu chọn làm nguyên thủ quốc gia, công việc đầu tiên tôi sẽ làm là cho xây dựng những con đường”.
Cũng vậy, Giáo hội ngày hôm nay mời gọi chúng ta đóng vai người phu quét đường để dọn con đường trong tâm hồn đón Chúa đến. Giáo hội trích mượn lời hiệu triệu của Thánh Gioan tiền hô để nhắn gửi chúng ta :“ Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi (Mc 1,3).
Nhưng dọn đường như thế nào?
Đạo là đường. Đạo Công giáo không phải là một pháo đài gồm chứa những luật lệ cứng ngắc để chúng ta rút lui vào đó cố thủ. Đạo mà Chúa Giêsu khai sáng là một con đường rộng mở thênh thang để chúng ta bước tới, đi đến gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14,6). Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng chính là con đường đưa dẫn chúng ta tiến về ánh sáng và sự sống vĩnh cửu. Nhưng con đường đó nhiều khi ngập đầy bụi bặm và rác rưởi của tội lỗi mà chúng ta cần phải quét dọn hằng ngày.
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã viết “ Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy anh em hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương” (Rm 13, 12.13). Bóng tối của màn đêm là hình tượng biểu trưng tội lỗi và sự chết. Vũ khí của sự sáng mà Thánh Phaolô nhắc bảo chính là sức mạnh Thiên Chúa ban cho những ai được Thần khí hướng dẫn để không sống theo xác thịt. Điều mà Thánh Phaolô nói tới cũng tương hợp với lời hiệu triệu của thánh Gioan mà chúng ta nghe trong bài Tin mừng hôm nay. Con đường cong queo của những luồn lẹo gian dối phải uốn cho ngay. Lũng sâu chất chứa những thù hận và cách ngăn phải lấp cho đầy. Núi cao của tham vọng và ích kỷ phải bạt cho bằng. Muốn sửa lại những con đường đó, chúng ta phải đi vào hành trình hoán cải nội tâm một cách sâu xa.
Hoán cải và trở về
Có một người đàn ông nọ vô tình đọc thấy một bản cáo phó trên một trang báo. Người ta nhầm lẫn đưa tin ông vừa mới chết. Ông xúc động, nhưng bàng hoàng hơn cả vì bản cáo phó xem ông như một kẻ giết người hàng loạt, vì ông đã chế tạo nhiều vũ khí để sử dụng trong chiến tranh. Bản cáo phó đã đánh động tâm hồn ông, và ông quyết định chuyển hướng. Thay vì phục vụ chiến tranh như trước đây, ông bắt đầu dấn thân phục vụ cho hòa bình. Ông đã hiến dâng toàn bộ tài sản ông sở hữu để cổ vũ cho công lý và hòa bình trên khắp thế giới. Người đàn ông ấy chính là Alfred Nobel, người đã khai lập giải Nobel hòa bình để phục vụ cho mục đích này. Đó là một con người đã biết thức tỉnh và trở về trong sám hối.
Hoán cải (metanoia) theo nguyên ngữ Hy lạp chính là trở về, trở về với Chúa và trở về với anh em. Trong mùa vọng cũng như trong mùa chay, chúng ta được nhắc nhở thực hành việc sám hối. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì trong suốt cuộc lữ hành trần thế, chúng ta vẫn luôn cần phải trở về liên tục, bởi vì đây là thái độ nội tâm căn bản thể hiện đức tin của mọi tín hữu quy hướng về Thiên Chúa. Sám hối không phải chỉ là nhớ lại một vài lỗi phạm và đến tòa cáo giải xưng thú để lương tâm được thanh thản. Sám hối trước hết và trên hết chính là một tư thế nội tâm để quay trở về. Cuộc lữ hành đức tin chúng ta giống như một con thuyền nhỏ trên dòng sông chảy ngược. Con thuyền không thể đứng yên một chỗ mà phải tiến tới, nếu không, con thuyền sẽ bị dòng nước cuốn ngược lại. Vì thế cuộc hành trình trở về được Giáo hội nhắc nhở trong mùa vọng như một động thái cần thiết để đón chờ Chúa đến. Chúng ta không thể trở về với Chúa mà lại không biết cách trở về làm hòa với nhau. Cũng thế, sự hoán cải mà thánh Gioan Tiền hô nói đến, đòi hỏi chúng ta phải phá đổ bức tường cách ngăn của những thù hận, phải uốn lại cho ngay những luồn lẹo gian dối trong cách hành xử thường ngày làm phương hại đến cận nhân chung quanh.
Có lẽ chúng ta đều biết bức tranh nổi tiếng vẽ bữa tiệc ly của danh họa Leonardo da Vinci. Ông tập trung cao độ để phác họa dung mạo Chúa Giêsu ngồi giữa các học trò trong giờ phút ly biệt đầy thân thương và quyến luyến. Nhưng cầm cọ lên, ông lại buông xuống vì không thể vẽ nổi. Nguyên nhân vì chiều hôm trước, ông mới cự cãi kịch liệt với anh hàng xóm bên cạnh và tâm hồn trở nên bất an. Cuối cùng ông quyết định gác bút, đi làm hòa với người bạn ấy rồi mới trở về xưởng vẽ. Chúng ta thấy dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh rất sống động và toát lên một tình yêu vô hạn. Không có bình an trong tâm hồn, Leonardo da Vinci không tài nào thể hiện được chân dung Đức Giêsu trong bức họa nổi tiếng ấy. Cũng vậy, chúng ta không thể nào đến với Chúa mà tâm hồn vẫn còn những rào chắn khổng lồ cách ngăn chúng ta với anh chị em chung quanh mình.
Hình mẫu nơi Gioan tiền hô
Gioan tiền hô là người gác cổng dẫn vào Tin mừng. Ngài là nhịp cầu giao nối giữa cựu ước và tân ước. Gioan mời gọi dân chúng sám hối để trở về, nhưng ông tự thú ông không phải là đấng Messia, mà chỉ là người phu quét đường, còn Đức Giêsu mới chính là con đường để chúng ta bước tới. Ông chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc vọng lại lời, còn Đức Giêsu mới chính là ‘Lời’, là ‘Ngôi Lời đã trở thành xác phàm’. Vì thế Gioan tóm kết sứ mạng của mình trong câu châm ngôn ‘Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại. Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài’. Sự khiêm tốn mà Gioan nêu gương chính là chìa khóa căn bản để chúng ta bày tỏ tâm thức sám hối, trở về với Chúa và với nhau. Khiêm tốn nhận ra những giới hạn và bất toàn nơi mình, chúng ta mới có thể quét sạch rác rưởi trong tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến. Thánh Gioan đã nêu gương mẫu cho chúng ta về thái độ khiêm tốn căn bản này.
Kết luận
Trong một cuộc triển lãm, họa sĩ Vangog có trưng bày một bức tranh tuyệt đẹp với tựa đề ‘Chúa đến’. Ông vẽ Chúa Giêsu đang đứng gõ cửa trước một căn phòng. Một người bạn đến xem tranh, tấm tắc khen ngợi tài nghệ của ông, nhưng anh bạn góp ý: “Này Vangog, bức tranh của anh khá hoàn hảo nhưng còn thiếu xót một chi tiết, có lẽ anh quên không để ý tới. Căn phòng Chúa đứng gõ cửa còn thiếu một nắm đấm để mở ra”. Vangog trả lời: “ Không phải thế đâu. Chúa đang đứng gõ cửa căn phòng tâm hồn mỗi người chúng ta. Còn bạn hay tôi, chúng ta có mở hay không là do chúng ta quyết định. Nắm đấm để mở cửa phòng nằm ở bên trong, chứ không nằm phía bên ngoài”.
Trong mùa vọng, chúng ta đợi chờ Chúa đến. Ngài đang đến gõ cửa tâm hồn từng người. Cửa phòng có được mở ra hay không, và Chúa có đi vào được căn phòng tâm hồn chúng ta hay không, còn tùy nơi cá nhân từng người.
(c 1) Khởi đầu Tin mừng Đức Giêsu Ki-tô, Con Thiên Chúa. (c 2-3) Chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. (c 4-5) Ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép Rửa cho họ trong sông Gio-đan. (c 6) Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. (c 7-8) Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau. Tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép Rửa cho anh em nhờ nước. Còn Người, Người sẽ làm phép Rửa cho anh em trong Thánh Thần.
2. Ý CHÍNH:
Sách Tin Mừng thứ hai bắt đầu với lời rao giảng của ông Gio-an Tẩy Giả. Mác-cô ... là vị tiền sứ MV2-B146
Sách Tin Mừng thứ hai bắt đầu với lời rao giảng của ông Gio-an Tẩy Giả. Mác-cô giới thiệu Gio-an là vị tiền sứ của Đức Giê-su, có sứ mạng đi trước để dọn đường cho Người (c 2-3). Gio-an thực hiện sứ mạng bằng việcrao giảng để kêu gọi mọi người phải ăn năn sám hối và sẽ được thanh tẩy nhờ phép rửa dìm mình trong nước sông Gio-đan. Cuối cùng chính Gio-an đã giới thiệu về con người và sứ mạng của Đấng Thiên Sai sắp đến (x. Mc 1,7-8).
3. CHÚ THÍCH:
- (c 1) Tin Mừng: Một từ ngữ Hy Lạp (Euaggelion) có nghĩa là Tin vui, Tin mừng. Ta có thể hiểu Tin mừng Đức Giê-su Ki-tô theo hai nghĩa: Một là chính Tin mừng đã được Đức Giê-su rao giảng. Hai là Tin mừng về Đức Giê-su được Hội Thánh công bố. Như vậy, Đức Giê-su vừa là người rao giảng Tin mừng, lại vừa là đối tượng của Tin mừng được rao giảng (x. Mc 8,38;10,29). + Giê-su: có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ (x. Mt 1,21). Đức Giê-su là một nhân vật lịch sử có thật, quê tại làng Na-gia-rét miền Ga-li-lê (x. Mc 1,9), làm nghề thợ mộc, là con của bà Ma-ri-a, là anh em bà con với các ông Gia-cô-bê, Giu-se, Giu-đa và Si-mon (x. Mc 6,3). + Ki-tô: Ki-tô hay Mê-si-a có nghĩa là Đấng được xức dầu hay được thánh hiến. Trong Cựu Ước có ba chức vị được xức dầu tấn phong là: vua, tư tế và ngôn sứ. Chẳng hạn: Đa-vít được ngôn sứ Sa-mu-en xức dầu phong làm vua (x. 1 Sm 16,13), A-a-ron được Mô-sê xức dầu phong làm tư tế (x. Lv 8,12), Ê-li-sê được Ê-li-a xức dầu phong làm ngôn sứ (x. 1 V 19,16). Qua câu này, Mác-cô quả quyết Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai hay Đấng Mê-si-a cũng gọi là Ki-tô mà người Do-thái đang mong đợi (x. Cv 10,38; Lc 4,18-19). + Con Thiên Chúa: Tước hiệu Con Thiên Chúa tương đương với tước hiệu Con Vua Đa-vít (x. Mc 14,61-62a). Với sự xuất hiện của Đức Giê-su, thời đại hoàng kim của nhân loại đã khởi đầu: Từ đây nhân loại sẽ được giải thoát khỏi ách nặng nề của lề luật, khỏi làm nô lệ cho ma quỉ, nhưng được trở nên con cái của Thiên Chúa (x. Mt 5,9), được gọi Chúa là “Áp-ba, Ba ơi ! ” (x. Gl 4,6), được nên nghĩ̃a tử của Thiên Chúa nhờ tin yêu kết hiệp với Đấng Ki-tô (x. Gl 3,26-28).
- (c 2-3) Lời đã chép trong sách ngôn sứ I-sai-a: Đây là một đoạn Lời Chúa trích ra từ sách ngôn sứ I-sai-a (40,3). Qua câu này, Mác-cô muốn ám chỉ Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Người được Thiên Chúa trao cho sứ mạng làm Mô-sê Mới của thời Tân Ước để thực hiện một cuộc Xuất Hành Mới. Người sẽ dẫn đưa dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh vượt qua sa mạc trần gian để về miền Đất Hứa là Nước Trời đời sau. + Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con: Vị sứ giả đây chính là Gio-an Tẩy giả. Ông đã được trao sứ mạng tiền hô, nghĩa là công việc của người đi trước hô to lên cho mọi người biết và dẹp đường để đón Đấng Thiên Sai sắp đến.
- (c 4-5) Phép rửa của Gio-an Tẩy giả: Gio-an làm phép rửa để giúp người ta tỏ lòng sám hối tội lỗi và cầu xin Chúa tha tội. Đồng thời, cũng để chuẩn bị giúp họ đón nhận ơn cứu độ của Đấng Thiên Sai. Nghi thức phép rửa của Gio-an gồm việc khiêm nhường xưng tội trước khi được Gio-an dìm mình dưới nước sông Gio-đan.
- (c 7-8) Bí tích Rửa tội của Đức Giê-su: Sau khi được Gio-an dìm mình dưới nước sông Gio-đan, Đức Giê-su đã được Chúa Thánh Thần lấy hình chim câu ngự xuống trên mình. Qua cuộc thần hiện này, Người đã thiết lập bí tích rửa tội để ban cho những ai có lòng sám hối và có đức tin sẽ được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa (x. Mt 28,19). Trong nghi lễ rửa tội, sau khi tuyên bố từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin, người chịu phép sẽ được vụ chủ sự dìm mình trong giếng nước hay được dội nước trên đầu, và còn được xức dầu thánh để nên dưỡng tử của Thiên Chúa.
4. CÂU HỎI:
1) Tin mừng Đức Giê-su Ki-tô có ý nghĩa thế nào?
2) Ý nghĩa của hai từ Giê-su và Ki-tô khác nhau ra sao?
3) Vị ngôn sứ nói tiên tri về vai trò sứ giả hay tiền sứ của Gio-an Tẩy giả về Đấng Thiên Sai sắp đến là ai?
4) Phân biệt giữa phép rửa do Gio-an thực hiện với phép rửa tội do Đức Giê-su thiết lập giống và khác nhau như thế nào?
5) Người giáo dân có được quyền ban phép rửa tội cho một người lương lớn tuổi muốn theo đạo, hay cho một trẻ mới sinh sắp chết hay không và cách thức rửa tội như thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c 3).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SÁM HỐI – ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỜC THA TỘI:
Một hôm, vị Phó Vương xứ Naples là công tước d’ Osone khi mới lên nhậm chức, ông quyết định sẽ ân xá cho các tù nhân có biểu hiện sám hối thực sự. Ông đã đích thân đến thăm nhà ngục và xét hỏi từng người để sẽ ban lệnh ân xá cho họ. Khi được hỏi, hầu hết tù nhân đều kêu mình bị oan. Riêng chỉ có một người là sẵn sàng nhận tội, và còn nói lẽ ra mình phải chịu mức án nặng hơn mới đáng với tội của mình. Thấy phạm nhân thành tâm nhận lỗi, vị công tước liền nói với anh như sau: ”Anh đã nhận mình là tội nhân đang khi nhiều người khác lại chối tội. Như vậy nhà tù này không hợp với anh, nên anh được ân xá và sẽ lập tức được trở về nhà”.
Một người phàm như công tước xứ Naples mà còn có lòng thương xót và sẵn sàng tha thứ cho một tù nhân có lòng khiêm hạ sám hối, phương chi Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi thương xót lại không tha thứ lỗi lầm cho những hối nhân sám hối và quyết tâm cải tà quy chính hay sao ? Bởi vì nếu bản tính của loài người là kẻ yếu hèn và dễ phạm tội, thì Thiên Chúa lại là “Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Ngài không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (TV 103,8-10).
2) KHỜ DẠI VÌ ĐÃ CHỌN MỤC ĐÍCH KHÔNG PHÙ HỢP
Một vị thiền sư Ấn giáo vào tuổi cao niên đã phát biểu cảm nghĩ về cuộc đời của ông từ nhỏ tới lớn đã từng trải qua như sau :
- Lúc còn trẻ, tôi là một thiếu niên có những suy nghĩ táo bạo và đầy quyết tâm. Khi nhìn thấy thế giới chung quanh đầy tội lỗi gian ác, tôi đã mạnh dạn cầu nguyện với Thượng Đế như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con có đủ khôn ngoan để biến đổi thế giới tội lỗi xấu xa này nên thánh thiện tốt đẹp hơn”.
- Rồi khi đến tuổi trưởng thành, tôi đã nghiệm ra rằng: Tôi đã trải qua nửa đời người rồi mà vẫn chưa biến đổi được ai nên tốt hơn. Lúc đó, tôi đã thay đổi lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin cho con đủ sức biến đổi mọi người trong gia đình và bè bạn của con nên tốt hơn. Và như vậy đã đủ làm cho con thỏa mãn”.
- Nhưng giờ đây đến tuổi xế chiều, “răng nong tóc bạc”, khi ngày tháng đời tôi sắp đến lúc chấm hết, tôi mới nhận ra rằng: tôi đã thật khờ dại biết bao! Tôi đã chẳng làm được điều tốt nào cho ai cả. Bây giờ tôi chỉ còn biết khiêm tốn cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin giúp con đủ nghị lực để biến đổi chính bản thân con… Giả như tôi đã sớm hiểu biết và cầu nguyện quyết tâm như vậy ngay từ lúc còn trẻ, thì tôi đã không phí thời gian cách vô ích rồi”.
3) GƯƠNG SÁNG HIỆU QUẢ HƠN LỜI GIẢNG:
Vào thế kỷ 12, nhiều tệ đoan đã xảy ra trong nội bộ Hội thánh, nhiều bè phái đã nổi lên ở khắp nơi phê phán chỉ trích nếp sống xa hoa của nhiều chủ chăn trong Hội thánh. Lúc đó hai thánh Phan-xi-cô thành Át-si-si và thánh Đa-minh đã được Thiên Chúa sai đến với sứ mạng thức tỉnh và canh tân Hội thánh. Các ngài đã không lớn tiếng phê phán bất cứ ai, nhưng luôn ý thức người phải ăn năn sám hối trước hết là chính bản thân các ngài. Các ngài không khoe khoang thành tích đã làm được, không tham lam của cải vật chất và địa vị quyền hành, không sống giả hình đạo đức… Tuy cả hai vị đều thuộc dòng dõi quý tộc, nhưng các ngài đã từ bỏ tất cả địa vị danh vọng tiền của vật chất để chọn lối sống khó nghèo, hiền hòa và khiêm tốn phục vụ người nghèo của Chúa Giê-su trong Tin Mừng.... Thánh Đa-minh đã lập dòng “Anh em thuyết giáo” (OP), còn thánh Phan-xi-cô lập dòng “Anh em hèn mọn” (OFM). Các tu sĩ của hai dòng khổ tu này có nếp sống đơn giản: ăn mặc quần áo vải thô, ngày ngày đi chân đất qua các xóm làng khất thực và đến tối lo dạy giáo lý cho người lớn và trẻ em tại các nhà thờ lâu ngày bỏ hoang, tổ chức những tuần tĩnh tâm cho các tín hữu. Chẳng mấy chốc tiếng lành đồn xa, cuộc sống nghèo khó và đạo đức của các ngài đã được nhiều vị chủ chăn và các tín hữu nhận biết nể phục. Nhiều tội nhân và người theo lạc giáo đã được ơn Chúa hồi tâm sám hối trở về với Hội thánh Công giáo. Nhờ sự quyết tâm canh tân vừa bằng lời giảng kèm theo gương sáng của các vị chủ chăn, các tu sĩ nam nữ và các tín hữu mà con thuyền Hội Thánh đã vượt qua nhiều cơn phong ba bão táp có nguy cơ chìm đắm.
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng Chúa Nhật 2 Mùa Vọng hôm nay thuật lại việc Gioan Tầy Giả đã thi hành sứ mạng tiền hô đi trước dọn đường cho mọi người đón nhận Đấng Thiên Sai. Noi gương ngôn sứ I-sai-a xưa, Gio-an đã đến sông Gióc-đan rao giảng rằng: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mc 1,5). Ông cũng làm phép rửa cho những ai thành tâm sám hối để chuẩn bị đón Đấng Thiên Sai.
1) SỨ MẠNG DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA:
Thiên Chúa đã gọi Gio-an là con tư tế Gia-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét làm ngôn sứ và trao cho sứ mạng đi trước dọn đường cho người ta đón Ðấng Thiên Sai sắp đến. Gio-an đã thi hành sứ mạng bằng một cuộc sống khổ hạnh: mặc áo lông lạc đả, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông đã từ bỏ mọi tiện nghi vật chất để nêu gương sống siêu thoát hầu thi hành sứ mạng tiền hô của Đấng Cứu Thế. Gio-an rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau. Tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước. Còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,7-8). Qua đó, Gio-an xác nhận rõ vai trò sứ giả của ông. Ông chỉ là người đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Ông đã nói với mọi người rằng: Tôi không là Đấng Thiên Sai, nhưng chỉ là tiếng kêu trong hoang địa để mọi người dọn đường đón Người. Người cao trọng hơn tôi và là Đấng dân chúng đang trông đợi. Người đi trước dọn đường chắc chắn không quan trọng bằng người đến sau như Gio-an đã xác nhận: “Đấng đến sau tôi thì cao trọng hơn tôi!” Ông đã thực hiện đúng như lời tuyên sấm của Ma-la-ki-a và I-sai-a như sau: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (Ml 3,1) và “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Is 40,3).
2) DỌN ĐƯỜNG BẰNG LỜI NÓI VÀ VIỆC LÀM:
a) Sống sám hối – Để sửa đường cho thẳng đón Chúa đến (Lc 3,4):
Gioan Tẩy Giả đã thực hiện lời ngôn sứ I-sai-a : “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,4-6).
b) Sống đơn giản – Để có giờ lo công việc nhà Chúa và phục vụ anh em:
Nếp sống đơn giản làm cho chúng ta tự do và thoải mái, vì nếu sống cầu kỳ phức tạp sẽ làm chúng ta bận bịu và mất giờ về quần áo mặc hay về nơi ăn chốn ở hay về những tiện nghi vật dụng mình xài như xe cộ, tivi, tủ lạnh...
b) Sống khiêm tốn – Để Đức Ki-tô được lớn lên trong anh em:
Cuộc sống của người tín hữu chúng ta dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân đều có chung mục đích là “Làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn” như lời Chúa Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện trong kinh Lạy Cha: “Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Muốn thực hiện được điều này đòi chúng ta phải sống theo gương Gio-an là khiêm tốn qui mọi vinh quang về cho Đức Giê-su như Gioan đã trả lời cho các môn đệ của ông: “Chính anh em làm chứng cho Thầy là thầy đã nói: Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,28.30).
3) CỤ THỂ CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ ?
Sau khi chứng kiến gương sáng và nghe lời Gio-an giảng, đám đông đã hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây ?”. Gio-an đã trả lời các việc cụ thể mỗi người phải làm, tóm lại là phải hồi tâm và ăn ở công bình, quảng đại chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói bất hạnh như sau:
a) Hãy vào nơi thanh vắng: Cần tạo một bầu khí thinh lặng nội tâm bằng việc mỗi ngày dành ra ít phút khi vừa thức dậy để dâng ngày mới cho Chúa, xét mình trước lúc nghỉ đêm, siêng năng dự lễ và tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Vọng được tổ chức tại nhà thờ...
b) Hãy làm cho Chúa được lớn lên: Trước khi làm một công việc gì, mỗi người hãy tự hỏi: Tôi làm việc này để làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn hay để được nhiều người biết tiếng khen ngợi ?
c) Hãy chọn sống cách đơn giản: Tránh may thêm quần áo giày dép mới khi không thực sự cần; Bớt tổ chức các bữa liên hoan không cần thiết; Tránh đến các quán bia ôm hay cà-phê đèn mờ: Tránh lên mạng chơi game online…để tập sống đơn giản như ông Gio-an và Đức Giê-su như người đã nói: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Một người có địa vị cao chắc sẽ gây được nhiều thiện cảm nếu có lối sống đơn giản trong y phục, xe cộ, trang hoàng nhà cửa… kèm theo phong cách ứng xử khiêm tốn vui vẻ chân thành với hết những ai có dịp tiếp xúc với mình.
4) Sống công minh chính trực: Những ai đang hành nghề buôn bán cần biết buôn ngay bán thật. Mỗi người chúng ta cần nói năng lễ độ trung thực và khôn ngoan tế nhị. Tránh lối thích ‘nổ” để cho mình trổi vượt người khác.
5) Quảng đại chia sẻ niềm vui và tình thương: Gửi thiệp Noel cho bạn bè và người thân thể hiện sự quan tâm và đi bước trước đến với tha nhân; Cùng ông già Noel đi thăm viếng phát quà các trẻ em bụi đời đường phố hay các trẻ mồ côi, các người mù lòa khuyết tật, các cụ già liệt giường neo đơn tại tư gia hay nhà nuôi người già...
4. THẢO LUẬN:
1) Đến ngày tận thế, Chúa Giê-su sẽ tái lâm để biến đổi trần gian nên “Trời Mới Đất Mới”. Vậy ngay từ bây giờ, chúng ta phải cộng tác với Chúa để biến gia đình mình ngày một an vui hạnh phúc hơn, khu xóm mình ngày một an toàn sạch đẹp hơn, đất nước mình ngày một văn minh, an bình và thịnh vượng hơn? 2) Ta cần dọn lòng đón chúa đến với mình thế nào trong những ngày này?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Cha, Đấng giàu lòng từ bi nhân hậu. Xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn tiếp đón Đấng Ki-tô sẽ đến: Đến riêng trong giờ chết của mỗi người chúng con và đến chung trong ngày tận thế của toàn thể nhân loại. Xin thanh tẩy lương tâm chúng con sạch mọi điều xấu xa gian ác. Xin loại ra khỏi con người chúng con thái độ ích kỷ tự mãn, hận thù ganh ghét và mọi thứ đam mê bất chính khác, để chúng con xứng đáng nhận được ơn cứu độ của Chúa Giê-su.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong những ngày Mùa Vọng này, xin cho chúng con biết siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ, để qua đó, chúng con sẽ “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến”. Chúa sẽ lại đến trong đêm Giáng Sinh, trong giờ chết của mỗi người chúng con và trong ngày tận thế chung của toàn nhân loại. Xin cho chúng con biết dọn lòng đón Chúa đến bằng việc thành tâm sám hối các thói hư, mỗi ngày làm ít nhất một việc bác ái kèm theo một lời nguyện tắt. Nhờ đó chúng con mới chu toàn được sứ mạng đem Chúa là niềm vui, bình an. tình thương và hạnh phúc đến cho mọi người.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Bài đọc 1 trích “Sách An Ủi” là phần thứ hai của Sách Isaia, mở đầu với câu: “Hãy an ủi, hãy MV2-B147
Bài đọc 1 trích “Sách An Ủi” là phần thứ hai của Sách Isaia, mở đầu với câu: “Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta” (Is 40,1), loan báo việc Chúa sắp đưa dân Người từ nơi lưu đày Babilon trở về, câu thứ ba vang lên như một lời công bố tin mừng “Có tiếng người hô: trong hoang địa hãy dọn sẵn con đường”, ám chỉ tới hoang địa ngăn cách Babilon với đất Giuđa, để Chúa đưa dân lưu đày trở về. Cả bốn sách Tin Mừng đều áp dụng vào với việc ông Gioan khởi đầu sứ vụ rao giảng trong hoang địa xứ Giuđa.
Với Chúa Nhật II, chúng ta bước vào lịch sử: những loan báo trong Cựu Ước bắt đầu thực hiện và giấc mơ của nhân loại trở thành hiện thực. Người loan báo Tin Vui này là Gioan Tẩy Giả, một ngôn sứ đầy tràn ơn Thánh Linh. Gioan mời gọi: “Hãy hối cải vì nước trời đã cận kề”.
Gioan là sứ giả đi trước, làm tiếng hô trong hoang địa, kêu gọi người ta dọn đường cho Chúa bằng “Phép Rửa thống hối”, để lãnh ơn của Thiên Chúa đang đến ban ơn cứu độ, tức là ơn tha tội. Còn “Đấng quyền thế hơn”, đến sau ông, chính là Thiên Chúa đến ban ơn tha tội nhờ “Phép Rửa trong Thành Thần”.
Sứ giả đi trước
Sự xuất hiện của Gioan không phải là chuyện ngẫu nhiên, đột xuất, bất ngờ nhưng là kế hoạch của Thiên Chúa đã được loan báo trong Cựu ước.
Trong sách Xuất hành, Thiên Chúa tuyên bố với dân của Giao ước: “Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để gìn giữ ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn” (Xh 23,20).
Trong sách ngôn sứ Malakhi: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh điện của Người” (Ml 3,1).
Trong sách ngôn sứ Isaia: “Có tiếng hô, trong hoang địa, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (Is 40,3-4).
Trong sách Xuất hành, Thiên Chúa sai thiên sứ đi trước để gìn giữ và đưa dân vào Đất Hứa. Trong sách Isaia, Thiên Chúa gởi tiếng hô dọn đưởng để Thiên Chúa đưa dân lưu đày trở về. Trong sách Malakhi, Thiên Chúa sai sứ giả dọn đường trước mặt Thiên Chúa, để Ngài đến cứu độ. Ba lời này gom lại để diễn tả hai nhân vật: “Đúng theo lời đó, ông Gioan đã xuất hiện trong hoang địa…” Trước hết, sự xuất hện của ông Gioan Tẩy Giả trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Isaia nói về dọn một con đường trong hoang địa để Thiên Chúa đưa dân lưu đày trở về; Maccô di chuyển dấu phết để nói về ông Gioan xuất hiện trong hoang địa. Con đường ông dọn không phải là con đường trong hoang địa, nhưng là con đường trong lòng người, được uốn thẳng san bằng nhờ lòng sám hối, để được ơn cứu độ tức là ơn tha tội. Sách Malakhi nói về dọn đường trước mặt Ta, tức là Thiên Chúa. Maccô ghép với lời sách Xuất hành để nói sứ giả dọn đường trước mặt Con, tức là Đức Giêsu, như tiếng từ trời xác nhận sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa. (x.Tĩnh tâm với sách Tin Mừng Maccô, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ).
Gioan là cầu nối giữa hai giai đoạn của lịch sử cứu độ.Ông vừa thuộc nhóm những ngôn sứ của giai đoạn trước,vừa là người đã chạm đến Nước Trời ở giai đoạn sau. Giai đoạn trước của những lời Thiên Chúa hứa,và giai đoạn sau khi Thiên Chúa thực hiện những lời hứa này. Đức Giêsu là Đấng khai mở giai đoạn sau.Nhưng Ngài cần Gioan để làm người tiền hô, dọn đường.
Dọn đường tâm hồn
Hình dáng và y phục của Gioan gợi nhớ ông Êlia (x.2V1,8), vị ngôn sứ đã một mình chống lại tất cả để bênh vực Thiên Chúa. Thức ăn của ông gợi nhớ thức ăn của “Emmanuel” (Is 7,15). Những nét phảng phất ấy gợi cho ta nhìn ở ông Gioan hình bóng một vị ngôn sứ giống như Êlia, đơn thân đứng lên kêu gọi mọi người quay về với Thiên Chúa, vào thời Đấng Emanuel xuất hiện. Lời rao giảng của ông cho biết con đường ông hô hào người ta dọn sẵn không phải là con đường cho cuộc hồi hương mà là con đường trong lòng mỗi người.Những chỗ ghập ghềnh quanh co phải san phẳng uốn ngay chính là tội lỗi trong lòng người.
Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo, hãy san cho thẳng. Những gì gò cao cần phải bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường Gioan mời gọi là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thần dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua; như căn nhà cho Chúa ngự tới; Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nỗi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Hiệu quả lời rao giảng của Gioan
“Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội và ông làm Phép Rửa cho họ trong sông Giođan”. Theo truyền thuyết thì nơi ông Gioan khởi sự rao giảng và làm Phép Rửa ở khúc sông Giođan gần thành Giêrikhô. Sách Tin mừng Gioan nói là “Bêtania bên kia sông Giođan” (Ga 1,28). Khoảng cách từ đây lên Giêrusalem là hai ngày đường, phù hợp với câu chuyện Chúa đi từ đây lên một làng cùng tên là Bêtania ở gần Giêrusalem để gọi Ladarô ra khỏi mồ (Ga 11,1-44). Khúc sông này mang nặng ý nghĩa, vì cũng là khúc sông Thiên Chúa rẽ nước cho dân Cựu Ước qua sông để vào Đất Hứa (x.Gs 2-2), và ông Êlia rẽ nước đi qua bên kia để được cất lên trời (x.2V 2,1-18). Vị trí này giúp hiểu tại sao dân từ khắp miền Giuđê và từ Giêrusalem dễ dàng nghe biết. Nhưng chuyện “Họ kéo đến với ông Gioan, họ thú tội và ông làm Phép Rửa cho họ trong sông Giođan”, lại không phải là chuyện đương nhiên. Họ đón nhận lời rao giảng của ông và đáp lại, đó ơn của Thiên Chúa. (sđd trang 25).
Gioan loan báo Đấng đến sau ông.
Người ta kéo đến với ông, thú tội và chịu Phép Rửa. Nhưng Gioan trung thành với sứ mạng của mình là sứ giả đi trước để dọn đường. “Ông rao giảng rằng: có Đấng quyền hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”. Sự khác biệt giữa ông và Đấng đến sau ông hiện rõ nơi Phép Rửa mà mỗi bên làm: “Tôi thì làm Phép Rửa cho anh em trong nước, con Người sẽ làm Phép Rửa cho anh em trong Thánh Thần”.
Phép rửa mà Gioan Tẩy Giả đề xướng không nhằm mục đích nào khác ngoài việc tỏ lòng sám hối. Thanh tẩy của thánh nhân là dấu hiệu thanh tẩy nội tâm, chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nhưng tự nó chưa có quyền ban ơn tha thứ này. Phép rửa của Gioan không phải là phép rửa Kitô giáo có khả năng xóa tội (Cv 2,38; 22,16): “Đấng mạnh thế hơn … sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”. Vai trò chính yếu của Gioan là “bảo cho dân Chúa biết rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội khiên”.
Lối sống đi đôi với lời loan báo
Thánh Gioan đã giúp người ta sám hối, thú tội và lãnh nhận phép rửa, sửa đường nội tâm. Nếp sống giản dị của Gioan mang tâm tình sám hối, sửa đường. Gioan kêu gọi mọi người dọn tâm hồn để đón Đấng Cứu Thế, và chính Gioan đã sống như con đường thẳng. Gioan mời gọi người ta sám hối, và chính đời ngài đã mang nét sửa chữa bằng tâm tình sám hối chân thành.
Thánh Gioan đã sống tất cả những khó khăn thử thách của người dọn đường cho Chúa. Ông sống đời chay tịnh, cô độc trong hoang địa đất đá nắng nóng khô khan khắc nghiệt. Ông sống khó nghèo, áo bằng da lạc đà, thức ăn đạm bạc là châu chấu và mật ong rừng. Kêu gọi người khác dọn đường, chính Gioan đã là con đường đưa con người đến với Đức Giêsu. Mời gọi người khác sám hối, Gioan đã sống tâm tình sám hối ấy trước.
Mùa Vọng là mùa đợi chờ Đức Giêsu đến lần thứ hai. Gioan chính là người giúp chúng ta sống tâm tình chờ đợi tuyệt vời hơn cả, vì nơi ông, lối sống đi đôi với lời loan báo, hành động sánh vai với ý hướng. Đặc biệt hơn, ông không hướng người ta về với mình, nhưng chỉ dẫn họ đến với Chúa. Để là người giới thiệu Chúa cho người lân cận, chúng được mời gọi hãy sống như Gioan.
Gioan Tẩy Giả, vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để dọn đường cho Đức Giê-su, Ngài là Đấng MV2-B148
Gioan Tẩy Giả, vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để dọn đường cho Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG
Cả ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng đều được định vị trong viễn cảnh của việc Thiên Chúa can thiệp vào trong Lịch Sử loài người.
Is 40: 1-5, 9-11
Thiên Chúa truyền cho ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hãy an ủi dân Ngài trong cảnh cùng khốn và loan báo cuộc giải thoát gần kề.
2Pr 3: 8-14
Thánh Phê-rô nhắc nhở rằng không phải Thiên Chúa lỗi hẹn, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài trì hoản để chúng ta có đủ thời giờ lập công tích đức trong khi chờ đợi trời mới và đất mới mà Chúa đã hứa cho chúng ta.
Mc 1: 1-8
Gioan Tẩy Giả, vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để dọn đường cho Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Is 40: 1-5, 9-11)
Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã đọc bản văn của ngôn sứ I-sai-a thời hậu lưu đày, được gọi là I-sai-a đệ tam: dân Do thái đã được cứu thoát khỏi cảnh lưu đày, đã trở về quê cha đất tổ và đang nổ lực tái thiết đất nước. Trong Chúa Nhật nầy, Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của ngôn sứ thời lưu đày. Bản văn này đưa chúng ta đi ngược về quá khứ: thời kỳ dân Do thái vẫn còn bị lưu đày ở Ba-by-lon vào những năm 550-539, cuộc giải thoát chưa xảy đến.
Vị ngôn sứ thời lưu đày nầy không ngừng đem đến những lời an ủi lớn lao cho đồng bào của mình. Thế nên, tác phẩm của ông được gọi “sách An Ủi” (Is 40-55). Chúng ta không biết gì về vị ngôn sứ thời lưu đày nầy. Ông thường hằng ẩn mình sau sứ điệp của mình, như bản văn hôm nay cho thấy. Ngay từ đầu, vị ngôn sứ ẩn mình trong “lời Thiên Chúa phán”; đoạn, trong “một tiếng kêu” mà không xác định; và sau cùng, trong“một sứ giả báo tin mừng”. Vị ngôn sứ nầy thường được gọi I-sai-a đệ nhị, vì ông thuộc vào hàng những môn đệ đầu tiên của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, và tác phẩm của ông đã được tập hợp chung với tác phẩm của thầy mình.
“Hãy an ủi dân Ta”: “Hãy an ủi, an ủi dân Ta!”, đó là lệnh truyền mà Thiên Chúa gởi đến cho vị ngôn sứ của Ngài trong khi dân Do thái đang sống kiếp lưu đày vô vọng.
“Dân Ta”, lời khẳng định nầy chắc chắn đã làm ấm lòng những người lưu đày, họ nghĩ rằng Thiên Chúa đã quên họ, không còn đoái hoài đến số phận bi thương của họ. Không, họ luôn luôn là “dân của Ngài”, dân Chúa chọn mà xưa kia được Thiên Chúa nâng niu chiều chuộng. Cung giọng đầy trìu mến được cất lên ở cuối bài thơ trong hình ảnh người mục tử tận tình săn sóc đàn chiên của mình, nhất là những con chiên bé bỏng.
“Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem”. Dân thành đã bị trừng phạt vì tội bất trung lâu dài của mình, đây là lần đầu tiên được Thiên Chúa loan báo là Ngài thứ tha tội vạ của dân và cho họ được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Sứ điệp tràn đầy hy vọng.
Thời kỳ Thiên Chúa tha thứ:
“Thời phục dịch của thành đã mãn”. Chúng ta gặp lại hình ảnh nầy trong các đoạn văn Cựu Ước khác như G 7: 1: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?” . Hình ảnh này được dùng ở đây để diễn tả thời kỳ gian khổ cùng cực.
“Thành đã bị tay Chúa giáng phạt gấp hai so với tội phạm”. Chúng ta có thể hiểu diễn ngữ “gấp hai” nếu chúng ta khảo sát hai thử thách lớn lao mà dân phải gánh chịu: một mặt, cuộc lưu đày ở Ba-by-lon và mặt khác, cuộc tàn phá Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng diễn ngữ nầy đơn giản muốn nói đến muôn vàn khổ đau mà dân phải chịu.
Ghi nhận quan trọng nầy sẽ xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị và gợi lên nguồn cảm hứng cho các bài thơ về “Người Tôi Tớ đau khổ”. Dân Chúa chọn, người tôi tớ Thiên Chúa, đã kinh qua một sự thử thách thanh tẩy. Quả thật, sự tha thứ của Thiên Chúa thì nhưng không. Tuy nhiên, qua những đau khổ dài lâu mà dân phải chịu, cũng như qua việc Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài bằng việc cứu thoát dân, những người lưu đày sẽ bày tỏ cho muôn dân thấy “Thiên Chúa phán như thế nào, Ngài sẽ thực hiện đúng như vậy”.
Đó là ơn gọi của dân Ít-ra-en, với tư cách là người tôi tớ Đức Chúa: chuẩn bị những nẻo đường cứu độ cho muôn dân. Chúng ta thoáng thấy ươm mầm ý tưởng về giá trị của những đau khổ mà những người công chính, nhóm kiên trung còn sót lại, phải chịu để công chính hóa mọi người. Nhóm còn sót lại này, một ngày kia sẽ là “Người Tôi Tớ hoàn hảo”, chính là Đức Ki tô.
“Hãy mở một con đường cho Chúa”:
Để trở về quê cha đất tổ, đoàn người lưu đày sẽ phải băng qua hoang địa. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng sẽ ở bên cạnh dân Ngài và đích thân dẫn dắt dân Ngài. Sứ giả hô lớn: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Chúa; giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Chúa chúng ta”.
Cuộc hành trình băng qua hoang địa dưới sự che chỡ và hướng dẫn của Thiên Chúa, viễn cảnh nầy gợi lên rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho những tù nhân Ba-by-lon, như xưa kia Ngài đã thực hiện cho cha ông họ: giải thoát họ ra khỏi cảnh đời nô dịch ở bên Ai-cập và dẫn đưa họ về miền Đất Hứa. Cuộc Tân Xuất Hành này sẽ bày tỏ vinh quang Thiên Chúa, qua đó muôn dân sẽ hiểu rằng “chính miệng Thiên Chúa đã phán như vậy”, nghĩa là Thiên Chúa trung thành với những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ thực hiện những dự định của Ngài. Dân Ít-ra-en sẽ là chứng nhân về ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa:“Mọi người phàm sẽ cùng được thấy”.
“Loan tin mừng”:
“Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao…”. Chính ở nơi bản văn nầy mà những Ki-tô hữu tiên khởi đã mượn thuật ngữ “Tin Mừng” để chỉ Mặc Khải Đức Giê-su Ki-tô mang đến. Vì thế, chúng ta ở tận nguồn của thần học về “Tin Mừng” .
Ấy vậy, “Tin Mừng” nầy phải được lớn tiếng công bố từ trên đỉnh non cao để khắp các thành xứ Giu-đa có thể nghe được là gì? Đó là Thiên Chúa đích thân đến cứu dân Ngài, giải thoát những kẻ bị giam cầm, dẫn đưa họ về quê hương đích thật của mình. Ngài không còn dung thứ những điều gian ác mà dân Ngài phải chịu.
Vị ngôn sứ tưởng tượng cuộc hồi hương về Giê-ru-sa-lem như một đám rước khải hoàn. Nhưng ông tô đậm chân dung vị lãnh đạo toàn thắng qua hình ảnh người mục tử ân cần trìu mến đối với đàn chiên của mình. Thiên Chúa tha thứ và dẫn đưa dân Ngài trở về miền Đất Hứa trước hết là vị Thiên Chúa Tình Yêu.
Đó là hình thức đầu tiên của Tin Mừng, tiên báo một cuộc giải thoát khác, một sự tha thứ có tính quyết định hơn và phổ quát hơn, và cũng tiên báo một đám rước khải hoàn khác: đám rước của những người được tuyển chọn về thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
BÀI ĐỌC II (2Pr 3: 8-14)
Ngay đầu thư, thánh Phê-rô tự giới thiệu mình: “Tôi là Si-mê-ôn Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô…”. Bức thư chắc chắn chứa đựng những lời căn dặn sau cùng của thánh nhân (ngài gợi lên cái chết gần kề của mình). Tuy nhiên, xem ra đây là một di cảo, được một trong số các môn đệ của thánh nhân biên soạn lại và bổ sung để đương đầu với những hoàn cảnh mới.
Quả thật, những đề tài được đề cập đến trong đoạn trích hôm nay sẽ được hiểu tốt hơn, nếu như chúng được đặt vào trong bối cảnh muộn thời hơn. Thế hệ của các Tông Đồ và của những môn đệ truyền chân đã qua. Ấy vậy, Đức Ki tô đã hứa là Ngài sẽ trở lại, nhưng thế hệ Ki-tô hữu hậu Tông Đồ chờ mãi vẫn không thấy ngày Chúa trở lại. Vì thế, họ ngạc nhiên, phản kháng và ngờ vực.
Để trả lời cho vấn nạn nầy, một cộng tác viên của thánh Phê-rô đưa ra ba luận chứng:
Khái niệm thời gian:
Thời gian là của Chúa chứ không của chúng ta. Tác giả trích dẫn thích đáng Tv 90: “Đối với Chúa, một ngày như thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày”.
Thiên Chúa trì hoãn vì lòng xót thương:
Đức Ki-tô đến chậm vì để cho mọi người có thời gian ăn năn hối cải. Chúng ta cũng gặp lại suy tư nầy của thánh Phao-lô trong thư gởi các tín hữu Rô-ma (11: 25)
Thiên Chúa trung tín với những gì Ngài đã hứa:
Việc Ngài trở lại là điều chắc chắn. Nhưng lúc đó là ngày tận cùng của thế giới (tại sao phải hối thúc chứ?). Tác giả bức thư gợi lên ngày ấy bằng những hình ảnh quen thuộc của truyền thống khải huyền.
Đoạn ông khéo léo kết luận: bởi vì Thiên Chúa sẽ canh tân mọi sự cho những ai được Ngài tuyển chọn, thế nên, “trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải nên tinh tuyền, không gì đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa”.
TIN MỪNG (Mc 1: 1-8)
Đoạn Tin Mừng hôm nay là phần mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Mác-cô được cấu trúc như sau:
1.Nhan đề (1: 1)
2.Sứ mạng Gioan Tẩy Giả (1: 2-8)
Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2-3) Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 4-6) Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8). Nhan đề (1: 1).
Sách Tin Mừng Mác-cô không mở đầu với Tựa Ngôn như sách Tin Mừng Gioan, cũng không cuộc đời Thơ Ấu của Đức Giê-su như sách Tin Mừng Mát-thêu và sách Tin Mừng Lu-ca, nhưng với một nhan đề: “Khởi đầu Tin Mừng về Đức Giê-su, Đấng Ki tô, Con Thiên Chúa”. Với nhan đề nầy, ngay từ đầu, thánh Mác-cô loan báo sách được chia thành hai phần:
– Phần thứ nhất (1: 2-8: 30): Đức Giê-su dần dần vén mở sứ mạng của mình: Ngài là “Đấng Ki-tô”. “Đấng Ki-tô” được phiên âm từ từ Hy lạp “Christos”, xuất xứ từ nguyên ngữ Do thái “Đấng Mê-si-a”, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và đặc phái đến để thiết lập Vương Quốc của Ngài vào thời cánh chung. Như vậy, trong phần thứ nhất, thánh Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình cùng với thánh Phê-rô và các môn đệ đến chỗ nhận biết và tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô” (8: 29). Nhưng vào thời Đức Giê-su, tước hiệu “Đấng Ki-tô” rất dể ngộ nhận. Dân Do thái sau một thời gian dài bị đế quốc nầy đến đế quốc khác thống trị và áp bức, nên mong chờ một vị vua trần thế được Thiên Chúa ban quyền năng để đánh đông dẹp tây, mở rộng vương quyền và đem lại cảnh thái bình thịnh trị cho dân tộc mình.
– Phần hai (8: 31-16: 20): Đấng Ki-tô bày tỏ cho các môn đệ chân tính của Ngài là “Con Thiên Chúa”. Danh xưng nầy cũng là một trong những tước hiệu của Đấng Mê-si-a. Các vua Phương Đông thời xưa cũng thường tự xưng mình là “thiên tử”. Nhưng Đức Giê-su dần dần bộc lộ cho thấy mối tương quan thân tình đặc biệt và độc nhất vô nhị với Thiên Chúa, mà Ngài gọi là Cha của mình. Chính Ngài công bố long trọng tước hiệu này trước vị thượng tế (14: 61-62). Các môn đệ phải qua một thời gian dài mới khám phá ra nơi bản thân Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa đến sống giữa con người, và nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của mình, Ngài giải thoát loài người khỏi quyền lực Sự Dữ và Cái Chết. Trong phần thứ hai nầy, Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình tới lời tuyên xưng đức tin sâu sắc hơn, được thốt ra từ miệng viên sĩ quan Rô-ma, dưới chân thập giá: “Quả thật, người nầy là Con Thiên Chúa” (15: 39).
Như vậy, với nhan đề nầy cho toàn bộ sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô xác định rất rõ rằng sách không kể cho chúng ta “tiểu sử cuộc đời” của Đức Giê-su, nhưng là một “Tin Mừng” về ơn cứu độ loài người được thể hiện cách độc đáo nơi bản thân Đức Giê-su quê Na-da-rét, Ngài là “Đấng Ki-tô” và là “Con Thiên Chúa” qua cái mâu thuẫn của thập giá. Chính Đức Giê-su là “Chúa” đến viếng thăm dân Ngài, không phải trong quyền uy xét xử, nhưng trong cái yếu hèn của một tình yêu được trao tặng.
Sứ vụ của Gioan Tẩy giả (1: 2-8):
Câu 1 không chỉ là nhan đề của toàn bộ Tin Mừng Mác-cô nhưng cũng là nhan đề của của phần dẫn nhập (1: 1-15), phần dẫn nhập này được phân định bởi kiểu hành văn đóng khung rất quen thuộc của người Do thái, bắt đầu với chữ “Tin Mừng” ở câu 1 và kết thúc với chữ “Tin Mừng” ở câu 15. Thuật ngữ “Tin Mừng” xuất xứ từ sách I-sai-a (Is 40: 9; 52: 7; 61: 1..) được dùng ở đây để loan báo một biến cố vui mừng có một tầm mức quan trọng bậc nhất, đó là Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.
Phần dẫn nhập nầy bắt đầu với sứ vụ của Gioan Tẩy giả, người đi trước dọn đường cho Đức Giê-su. Theo cách thức nầy, Tin Mừng Mác-cô trung thành với sơ đồ của lời rao giảng tông đồ như được gặp thấy trong sách Công Vụ (1: 21t; 10: 37; 13: 24). Trong bộ Kinh Thánh, sách Sáng Thế cũng mở đầu với diễn ngữ: “Khởi đầu”. Gioan Tẩy Giả loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su, là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa, Ngài đến để đánh dấu một khởi đầu tận căn, một khởi nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ.
Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2):
Ngay từ những hàng đầu tiên, thánh Mác-cô nêu bật hai điểm khác biệt với các thánh ký khác. Trước tiên, các thánh ký nầy cũng đều trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a: “Có một tiếng kêu trong hoang địa…” nhưng sau khi đã nêu lên sứ vụ của Gioan Tẩy giả (x. Mt 3: 3; Lc 3: 4; Ga 1: 23). Thứ đến, trước khi trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a, thánh Mác-cô trích dẫn một sấm ngôn khác: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con đến”, sấm ngôn này được đúc kết bởi hai bản văn Cựu Ước khác nhau: Xh 23: 20 và Ml 3: 1.
Trong Xh 23: 20, Thiên Chúa nói với ông Mô-sê: “Nầy Ta sai sứ thần đi trước con, để gìn giữ con khi đi đường…”. Ngôn sứ Ma-la-khi lập lại lời nầy nhưng với một ý nghĩa mới: “Nầy Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta”. Trong sấm ngôn của Ml 3: 1, Thiên Chúa sai “sứ giả” của Ngài đến trước dọn đường để “Ngài đích thân đến với dân Ngài”. Thật ra, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca cũng trích dẫn sấm ngôn nầy, nhưng trong một bối cảnh khác và được đặt trên môi miệng của Đức Giê-su (Mt 11: 10; Lc 7: 27).
Vị sứ giả trong sấm ngôn nầy là ai? Chúng ta gặp thấy căn tính của vị sứ giả nầy ở Ml 3: 23 sau đó: “Nầy Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và huy hoàng”. Trong 2V 2: 11, ngôn sứ Ê-li-a không chết nhưng được rước về trời trong một cỗ xe đỏ như lửa với những con ngựa kéo cũng đỏ như lửa. Vì thế, theo truyền thống Do thái mãi cho đến thời Chúa Giê-su, vị sứ giả Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa đến..
Sấm ngôn thứ hai được trích dẫn từ Is 40: 3 (bài đọc I): “Có một tiếng hô: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”. Vị ngôn sứ loan báo cho những những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải thoát họ khỏi kiếp sống tù đày. Các tác giả Tin Mừng cũng đã thấy ở nơi “tiếng hô nầy” tiên báo Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đức Giê-su, ông có sứ mạng đến trước để dọn đường cho Đức Giê-su đến. Ở nơi lệnh truyền nầy: thung lũng sẽ được lấp đầy, núi đồi sẽ phải bạt xuống, chúng ta gặp thấy cũng một lời dạy như Gioan Tẩy Giả: phải thay lòng đổi dạ, biến đổi sa mạc tâm hồn thành miền đất thấm đẩm thiên ân, hủy bỏ những quanh co uốn khúc của sự gian tà.
Theo phương cách trích dẫn phổ biến vào thời đó, thánh Mác-cô gán toàn bộ lời trích dẫn nầy cho ngôn sứ I-sai-a, bởi vì chúng có chung một đề tài: “dọn đường để đón tiếp Thiên Chúa”. Như vậy, khi khai mạc sứ vụ của Gioan Tẩy giả bằng lời trích dẫn nầy, thánh Mác-cô muốn cho thấy rằng việc Đức Giê-su đến đã được Cha Ngài chuẩn bị trước đó rồi và ơn gọi của Gioan Tẩy giả, vị Tiền Hô của Con Ngài, được dự kiến lâu lắm rồi trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chính Gioan Tẩy giả là ngôn sứ Ê-li-a, mà truyền thống Do thái mong đợi, trở lại để dọn đường cho Chúa và việc ông xuất hiện cho thấy Thiên Chúa vẫn trung thành với những gì Ngài đã hứa. Thời gian đã đến hồi viên mãn.
Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 3-6).
Chúng ta lưu ý rằng khi trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, thánh Mác-cô đã tự ý ngắt câu cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của Gioan Tẩy Giả. Thay vì “Có tiếng hô: Trong sa mạc…”, thánh ký đổi thành “Có tiếng người hô trong hoang địa…”. Quả thật, Gioan Tẩy giả đã ẩn cư trong hoang địa ngay từ thuở thanh xuân để chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng và chiêm niệm cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en (Lc 1: 80), như Đức Giê-su sẽ rút vào trong sa mạc trước khi khởi đầu sứ mạng của mình.
Đây là sa mạc Giu-đa có dòng sông Gio-đan chảy băng qua và đổ vào Biển Chết. Phải chăng thánh Gioan thuộc vào cộng đoàn Kum-ran, có mặt ở trong miền nầy và sống trong sự chờ đợi Đấng Mê-si-a? Hay đơn giản ông có giao tiếp với cộng đoàn nầy? Phải nói rằng có rất nhiều điểm giống nhau giữa linh đạo của các nhà khổ hạnh Kum-ran và linh đạo của thánh nhân, nhưng cũng có rất nhiều điểm dị biệt.
Dù thế nào, sa mạc là nơi ẩn cư quen thuộc của những nhà thần bí vĩ đại thời Cựu Ước và là nơi ưu tiên cho những cuộc gặp gở với Thiên Chúa, như Mô-sê, Ê-li-a vân vân. Cũng như chính trong sa mạc mà dân Ít-ra-en đã trải qua những kinh nghiệm tôn giáo hình thành nên những mốc điểm lịch sử của dân tộc mình.
Lời kêu gọi sám hối là đề tài thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Gioan Tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng tiếp tục truyền thống nầy, nhưng ông thêm vào đây phép rửa. Không phải trong sa mạc mà nước mặc lấy tất cả giá trị và ý nghĩa tròn đầy của nó sao? Nước đem lại sự sống và biểu tượng ơn cứu độ.
Gioan Tẩy giả sống theo lối sống khổ hạnh: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt đai lưng bằng da, ăn châu chấu và mật ong rừng”. Qua việc mô tả cách ăn mặc của Gioan giống như ngôn sứ Ê-li-a (1V 1: 8), thánh Mác-cô muốn thông báo rằng Gioan Tẩy giả chính là ngôn sứ Ê-li-a tái xuất hiện mà mọi người đang mong đợi. Ngoài ra, qua việc mô tả tỉ mĩ cách sống khổ hạnh của Gioan tẩy giả trong hoang địa cô tịch, thánh Mác-cô ngầm trình bày hình ảnh tương phản với Đức Giê-su: Ngài giao tiếp gần gũi với đủ hạng người ở ngoài xã hội, cùng ăn cùng uống, cùng chia sẻ cuộc sống vui, buồn, sướng khổ với họ. Quả thật, Tin Mừng Mác-cô cống hiến cho chúng ta hình ảnh rất là người của Đức Giê-su: Ngài ngủ say giữa cơn giông tố (4: 38), Ngài ngạc nhiên về việc các người đồng hương của Ngài thiếu niềm tin (6: 6), Ngài không có thì giờ ăn uống (6: 31), Ngài không biết khi nào ngày Thế Mạc sẽ đến (13: 32), nhất là Ngài chết như một kẻ tuyệt vọng (15: 34). Nhưng chính ở nơi tính chất rất là người nầy, thánh Mác-cô có ý định dẫn đưa người đọc vào mầu nhiệm của Đức Giê-su, Đấng Ki-tô và Con Thiên Chúa.
Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8).
Chứng từ của Gioan Tẩy giả về Đức Giê-su là cao điểm của đoạn Tin Mừng hôm nay. Sứ điệp của ông làm xáo động lòng người. Uy tín của ông quá lớn đến độ dân chúng khắp nơi tuôn đến với ông. Tuy nhiên, ông ý thức sâu xa về sự cao vời khôn ví của Thiên Chúa. Ông công bố quyền năng vượt bậc của Đấng mà ông có sứ mạng chuẩn bị cho việc Ngài đến khi sử dụng hình ảnh rất tương phản để diễn tả sự bất xứng của mình như tên nô lệ trước mặt chủ, cả đến việc cúi xuống cởi dép cho Ngài ông cũng chẳng xứng đáng nữa: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cỏi dép cho Người”.
Nhất là ông nhận biết sự khác biệt căn bản giữa phép rửa của ông và phép rửa của Đức Giê-su: ông chỉ rửa trong nước, còn Đức Giê-su thì rửa trong Thánh Thần. Điều làm cho Đức Giê-su trổi vượt hẳn vị Tiền Hô của Ngài, đó là Ngài là Đấng sở hữu Thánh Thần (x. 1: 10).
Danh tiếng của Gioan Tẩy giả vào thời đó không thể nào chối cải. Sách Công Vụ nói với chúng ta rằng ngay cả sau khi ông đã qua đời rất lâu sau đó, các cộng đoàn môn đệ của ông vẫn tồn tại (Cv 18: 24-25; 19: 1-7). Họ đề cao ông là “Đấng Mê-si-a” (Ga 1: 19-34). Như thế ngay từ trang đầu tiên Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô đã đặt Gioan Tẩy giả vào đúng vị thế của ông: sứ mạng của ông chỉ là loan báo và chuẩn bị cho việc Đức Giê-su, Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su mới là Tin Mừng mà Gioan có sứ mạng loan báo cho hết mọi người.
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về việc chuẩn bị đón tiếp một ai đó hay một sự kiện quan MV2-B149
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về việc chuẩn bị đón tiếp một ai đó hay một sự kiện quan trọng nào đó. Thường thì việc chuẩn bị chiếm nhiều công sức và thời gian của chúng ta hơn chính việc đón tiếp. Việc chuẩn bị quan trọng chẳng những đối với người hay những người được đón tiếp mà còn quan trọng đối với cả người hay những người đón tiếp nữa.
Chúng ta có đem áp dụng điều nói trên vào lãnh vực tôn giáo và đời sống tâm linh như Mùa Vọng vừa bắt đầu. Việc chuẩn bị đón mừng Thiên Chúa đến trần gian là một hành động thánh thiêng và có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi Kitô hữu. Chúng ta hãy lắng nghe Gio-an Tẩy Giả lớn tiếng hô hào “hãy đọn đường cho Thiên Chúa”. Dọn đường cho Thiên Chúa bằng cách thay đổi đời sống cho phù hợp với kế hoạch và thánh ý của Thiên Chúa. Đời sống của dân Ít-ra-en thời Gio-an Bao-ti-xi-ta và đời sống giáo hội và xã hội Việt Nam hiện nay đầy dẫy những “núi đồi, thung lũng, hố sâu, lồi lõm, quanh co” cần được san phẳng và sửa sang cho thẳng để Thiên Chúa đến.
LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 40,1-5.9-11): Hãy mở một con đường cho Đức Chúa 2.2 Trong bài đọc 2 (2 Pr 3, 8-14): Chúng ta mong đợi trời mới đất mới 2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 1,1-8): Hãy sửa lối cho thẳng để Chúa đi
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong 3 Bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá ra Thiên Chúa qua/nhờ ngôn sứ I-sai-a, Thánh Phê-rô Tông Đồ Trưởng và Thánh Gio-an Tiền Hô:
3.1.1 Thiên Chúa mà ngôn sứ I-sai-a loan báo là Đấng Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang. Người đến bởi vì Người luôn trung tín với Giao Ước: Chúa là Chúa của dân và dân là dân của Chúa! Người đến để đem hạnh phúc, bình an và thịnh vượng cho dân, vì thế, Người xứng đáng được dân ngóng chờ và chuẩn bị tiếp đón.
3.1.2 Thiên Chúa mà Tông đồ Trưởng Phêrô cảm nghiệm là Thiên Chúa trung tín với lời hứa là sẽ thực hiện cho những ai tin vào Người và cho cả nhân loại một công trình vĩ đại là TRỜI MỚI ĐẤT MỚI. Người không muốn ai phải chết, nhưng muốn mọi người sống đạo đức tinh tuyền và lớn lên trong ân sủng và sự hiểu biết về Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một của Người.
3.1.3 Thiên Chúa mà Gio-an Tiền Hô loan báo và dọn đường là Thiên Chúa sẽ (thực sự là Người đã) đến nơi Con Một là Đức Giê-su Na-da-rét. Gio-an có sứ mạng loan báo và dọn đường cho Người là Đấng vô cùng cao trọng đến ngay cả một ngôn sứ lớn và quan trọng như Gio-an cũng không đáng cởi quai dép cho Người! Đấng ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần trong khi Gio-an chỉ làm phép rửa bằng nước.
3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là “hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”
Cũng có nghĩa là hãy “trở nên tinh tuyền và không có gì đáng trách”
và “lớn lên trong ân sủng và sự hiểu biết về Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.”
SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn sống với Đấng ban ơn, như tạo vật sống với Đấng Tạo Hóa, như những người công chính trong dân Do-thái ngóng đợi Chúa Cứu Thế, như môn đệ sống với Thầy.
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa
4.2.1 Tại sao phải dọn đường đón Chúa?
Có hai lý do: con người cần Chúa và Thiên Chúa muốn đến & ở với con người:
(1o) Nhìn vào thế giới loài người nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng, chúng ta thấy con người và xã hội đang rất cần đến Thiên Chúa. Bên cạnh những mảng “sáng” là các điều tốt lành phù hợp với Ý Chúa, còn hiện rõ nhiều mảng “tối” đáng báo động. Nào là chiến tranh, khủng bố, hận thù, tranh giành quyền lực, nghèo đói, bệnh tật (nhất là hiv-aids và cúm gia cầm), áp bức bóc lột, buôn bán (ma túy, phụ nữ trẻ em và vũ khí). Nào là các tệ nạn tham nhũng, hối lộ, biển thủ công quĩ, chuyên quyền, bao che, dối trá, đồng lõa với tội ác, thiên tai đủ loại (động và lở đất, sóng thần, mưa bão, lụt lội).
Con người đang khát khao cuộc sống an bình, hài hòa, trong lành, yêu thương và hạnh phúc mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho. Nhưng điều mâu thuẫn là Thiên Chúa lại đang bị con người loại trừ một cách quyết liệt bằng ý thức hệ chính trị, chủ nghĩa duy vật vô thần, trào lưu văn hóa sự chết đề cao tiền bạc, khoa học, kỹ thuật và thân xác con người. Tất cả những thứ ấy tựu trung đều phản lại các giá trị đích thực của con người cũng là các giá trị cơ bản của Ki-tô giáo: công bình, bác ái, sự sống, giá trị tâm linh và siêu nhiên.
Riêng với các Ki-tô hữu thì chúng ta càng cần đến Chúa Giê-su Ki-tô vì: “Không có Thầy anh em không thể làm được gì” và “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
(2o) Cả mạc khải Ki-tô giáo là một biểu lộ ý định và ước muốn của Thiên Chúa là đến và ở với loài người. Danh xưng cao quí và được Thiên Chúa mến chuộng nhất là “Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta! Thiên Chúa ở với con người!”
4.2.2 Chúng ta dọn đường đón Chúa bằng cách nào?
Ít nhiều chúng ta hiểu nghĩa bóng của các từ thung lũng, núi đồi, khúc quanh co, đường lồi lõm. Những từ này ám chỉ những tình trạng, những cách sống không phù hợp hoặc đối nghịch với Phúc Âm:
Thung lũng là những đam mê của cải, danh vọng, chức quyền và lạc thú,
Núi đồi là những lối sống kiêu căng, ngạo mạn, tự mãn,
Khúc quanh co là những tâm địa không trung thực, giả hình, gian manh, xảo quyệt…,
Đường lồi lõm là cuộc sống đầy thiếu sót, yếu hèn, lỗi phạm, thiếu tin-cậy-mến đối với Thiên Chúa, thiếu bác-ái-yêu-thương đối với tha nhân.
Vậy để dọn đường đón Chúa, thì chúng ta
– trước hết phải nài xin Thiên Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn khó nghèo, siêu thoát, trong sạch, khiêm hạ, chân thật và sốt mến,
– kế đến là không ngừng rèn luyện bản thân để có được một tâm hồn như thế,
– và sau cùng là luôn lấy Phúc Am làm chuẩn mực để kiểm điểm và điều chỉnh đời sống của mình mỗi ngày.
CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Trong sa mạc hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho các quốc gia và các dân tộc đang phải sống thờ ơ với Thiên Chúa để các quốc gia và các dân tộc ấy sớm nhận thức được việc Thiên Chúa muốn đến với mọi người để họ được hưởng hạnh phúc thật.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho các vị lãnh đạo trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ, để mọi Ki-tô hữu cố gắng thể hiện một đời sống tinh tuyền, trọn hảo trước mặt Chúa cũng như trước mặt mọi người.
5.3 «Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho các tín hữu và gia đình thuộc giáo xứ chúng ta để mọi người, mọi nhà trở thành những người dọn đường cho Chúa đi.
5.4 «Kỳ thực Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho những người sống thờ ơ với Thiên Chúa và say mê của cải, danh vọng, chức quyền và lạc thú trần gian để những người ấy sớm ăn năn hối cải mà khỏi bị diệt vong.
Phần mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN II/MV-B), thánh sử Mac-cô viết: “Trong sách ngôn sứ MV2-B150
Phần mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN II/MV-B), thánh sử Mac-cô viết: “Trong sách ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Đúng theo lời đó, ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.” – Mc 1, 2-4). Căn cứ theo lời trình thuật trên, sẽ cho rằng thánh Gio-an Tiền Hô rao giảng trong hoang địa, mà hoang địa là nơi hoang vắng, vậy thì thánh nhân nói với ai và để ai nghe?
Cứ kể suy nghĩ như vậy cũng không có gì sai. Tuy nhiên, để vấn đề sáng tỏ, cần phải đọc phối hợp thêm Tin Mừng theo thánh Lu-ca. Thánh sử Lu-ca trinh thuật rất tỉ mỉ từ khi bà Ê-li-da-bet thụ thai tới ngày hạ sinh thánh Gio-an Tẩy Giả (xc Lc 1, 5-25.57-70), kể cả thời thơ ấu thánh nhân còn sống ẩn dật trong hoang địa (“Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.” – Lc 1, 80). Mãi tới tuổi 30, mới “có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3, 2-4). Như vậy là đã rõ, thánh Gio-an Tẩy Giả chỉ “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.” (Mt 3, 4), “sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.” (Lc 1, 80).
Nhưng tại sao thánh nhân lại được gọi là “Tiếng hô trong hoang địa”? Đó là lời ngôn sứ I-sai-a – vì được Thiên Chúa mặc khải – tiên báo từ Cựu Ước (Is 40, 1-5.9-11): “Có tiếng hô: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.” (Is 40, 3-4). Thiên Chúa dựng nên cả vũ trụ và con người thì sá gì sa mạc hay đồng hoang cản bước Người, khiến Người không thể đi đến với nhân loại. Điều đó là tất yếu, tuy nhiên “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài.” (Thánh Au-gus-ti-nô), và vì thế nên Người rất cần những cộng tác viên “vạch một con lộ giữa đồng hoang tâm địa, mở một con đường trong sa mạc cuộc đời” cho Người đi.
Khi thấy trong lòng trống vắng, buồn tênh, chẳng biết nghĩ gì và làm gì, cũng chẳng biết tâm sự cùng ai, chúng ta vẫn thường nói: Mình đang lúc sống trong ‘hoang mạc cuộc đời’, có nói cũng chẳng ai nghe bởi tiếng nói của mình chỉ là ‘tiếng hò trong sa mạc’ mà thôi. Như vậy, tiếng “hoang địa” mà ngôn sứ I-sai-a dùng là muốn nói đến vùng đất hoang vắng của tâm hồn con người, nó khô khan, lạnh lẽo như sa mạc, xơ cứng, nứt nẻ như cánh đồng hoang vu vậy. Có như thế mới cần “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”. Vâng, hoang địa ở đây chắc chắn là hoang địa tâm linh (tâm địa) rồi, và để mở một con đường, vạch một con lộ, thì phải biết “Mọi thung lũng tị hiềm phải lấp cho đầy, mọi núi đồi kiêu căng phải bạt cho thấp, mọi khúc quanh co gian hiểm phải uốn cho ngay, mọi đường lồi lõm ghét ghen phải san cho phẳng”. Chỉ có như thế mới thực lòng dọn đường cho Chúa đi.
Rõ ràng là hãy sám hối để thanh tẩy tâm hồn, dọn đường cho Chúa đi, đón chờ ngày quang lâm của Đấng Cứu Độ, mà sám hối tức thị là ăn năn hối cải với quyết tâm “sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối” (Lc 3, 8). Cụ thể hơn nữa, hãy theo đám đông mà chất vấn chính Tiếng-hô-trong-hoang-địa Gio-an như trình thuật Tin Mừng theo thánh Lu-ca: “Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình” (Lc 3, 10-14).
Quả thật cái hoang mạc đời nó chỉ là một cánh đồng hoang lơ thơ vài cây lúa èo uột, nhưng lại đầy rẫy cỏ lùng. Nói cách khác, cánh đồng tâm linh thiếu vắng niềm tin, nhưng lại chứa đầy hận thù ghen ghét, tội lỗi ngập tràn. Những câu trả lời của Thánh Gio-an Tẩy Giả tưởng chừng như rất dễ thực hiện; nhưng vì “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.” (Rm 7, 19-20), nên lại trở thành thiên nan vạn nan. Để giải quyết vấn đề, chỉ còn cách cậy nhờ Thần Khí Chúa soi sáng cho biết đâu là điều đáng làm, đâu là điều nên tránh; đồng thời liên lỉ cầu nguyện xin Người ban thêm dũng khí sẵn sàng đối diện với thử thách, quyết tâm thanh tẩy tâm hồn “nhằm tinh luyện đức tin là thứ quý hơn vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1Pr 1, 6-7).
Người Ki-tô hữu vì Tin – Cậy – Mến mà TRÔNG ĐỢI, đã hết lòng trông đợi thì hãy DỌN ĐƯỜNG cho sạch sẽ chông gai, và khi giờ đã điểm thì hãy vui mừng đứng thẳng, ngẩng cao đầu mà ĐÓN TIẾP ĐẤNG CỨU TINH, chính Người sẽ ban Thần Khí thanh tẩy hoang mạc cuộc đời người Ki-tô hữu, “Người sẽ cứu độ là tha cho hết mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” (Bài ca Chúc tụng – “Benedictus” – Lc 1, 77-79). Có như thế mới hy vọng được vào “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị. Vì thế, anh em thân mến, trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an. Và anh em hãy biết rằng Chúa chúng ta tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ.” (2Pr 3, 13-15). Ước được như vậy. Amen./.