“Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Có người đã được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: “Tôi không phải là Ðấng Kitô”. Họ liền hỏi: “Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?” Gioan trả lời: “Tôi không phải là Elia”. – “Hay ông là một đấng tiên tri?” Gioan đáp: “Không phải”. Họ liền bảo: “Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?” Gioan đáp: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: “Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?” Gioan trả lời: “Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi Gioan làm phép rửa. - Ðó là lời Chúa.
Trong mùa Vọng, ba nhân vật vẫn được nói đến luôn, đó là : Đức Maria, ngôn sứ Isaia và Gioan: MV3-B51
Trong mùa Vọng, ba nhân vật vẫn được nói đến luôn, đó là : Ðức Maria, ngôn sứ Isaia và Gioan - người làm phép Rửa. Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến nhân vật thứ ba vừa nói ở trên, với một chứng từ rõ ràng về con người sa mạc ấy. Gioan loan báo Ðấng đang đến, Gioan chỉ cho thấy Ðấng ấy chính là Ðức Giêsu; và một hệ luận tất nhiên : Gioan nhận ra mình không xứng đáng cởi xăng-đan cho Người.
Cùng với Gioan, mùa Vọng hẳn là mùa loan báo và là mùa chỉ cho thấy; đồng thời mùa Vọng là mùa nhận ra mình không xứng đáng.
Thiên Chúa vốn là một vị Thiên Chúa ẩn giấu. Người ta đã hao tổn biết bao giấy mực để cố khám phá vị Thiên Chúa ẩn giấu này. Gần 2000 năm lịch sử trước Chúa Giáng sinh, người ta mặc sức hình dung Ngài với những dung mạo khác nhau. Với Abraham, Ngài không có tên; Ngài là "sự sợ hãi của Isaác" (St 31,42), là "Ðấng Tối Cao của Giacóp" (St 49,24)... Với Isaia, Ngài là "Người Tôi Tớ đau khổ"...
Như thế, Ngài luôn luôn và vẫn là một vị Thiên Chúa cần được loan báo và cần được chỉ cho thấy. Ðôi lúc người ta phác họa chân dung một Thiên Chúa sai lạc, hoặc chỉ dò ý tưởng riêng của mình. Hẳn lúc đó, nguời ta sẽ nhận được một câu trả lời "tôi không phải như là các bạn nghĩ đâu"; hoặc "có một người ở giữa anh em mà anh em không nhận ra".
Như thế, cùng với Gioan, chúng ta hẳn phải loan báo và chỉ cho người khác thấy một vị Thiên Chúa tình yêu; Loan báo và chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đến. Ngài đang ẩn giấu nơi người nghèo, người đau khổ, những phụ nữ "đứng đường"... bởi Ngài là tình yêu, là niềm cảm thông sâu xa thân phận con người.
Như Gioan, nhận ra mình không xứng đáng, đó là một sự không xứng đáng trước vị Thiên Chúa tình yêu bao la; ta đấm ngực "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng", nghĩa là dám nhận ra mình còn "những điều thiếu sót", chưa làm những điều phải làm để gia tăng tình yêu. Victor Hugo đã có lần lên tiếng cảnh tỉnh : Ngày nào chúng ta không thắp lên ngọn lửa sưởi ấm, ngọn lửa tình yêu, chắc chắn sẽ có người chết rét".
Như thế, cùng với Gioan, chúng ta cất tiếng cao rao tình yêu Thiên Chúa bao la và cố gắng sống bác ái với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, Hẳn cũng có lần con đấm ngực, dằn vặt tâm hồn
và tha thiết mong Chúa giải thoát nỗi khốn cùng của con.
Hẳn cũng bao lần con đứng trước hang đá, cầu xin Chúa mau đến;
Nhưng hình như con chưa dám "đóng vai Chúa" để đến với những người nghèo khó, khổ đau chung quanh con. Và hình như con chưa nhận ra Chúa là tình yêu, Chúa đang mời gọi tình yêu nơi chính tâm hồn của con. Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài trở nên tình yêu trong con và đốt nóng tâm hồn của con bằng tình yêu của Chúa.
TIN MỪNG đem lại niềm vui cho toàn thể vũ trụ. Nghe lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ hiểu: MV3-B52
TIN MỪNG đem lại niềm vui cho toàn thể vũ trụ. Nghe lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ hiểu tại sao Kitô giáo là một đạo Tin Mừng, đem niềm vui đến cho toàn thể nhân loại. Ðức Giêsu đã xuống trần gian để mạc khải tình Cha yêu thương hết mọi người, không trừ ai. Ðúng hơn, "Ngôi Lời hằng hữu đời đời đã nhập thể làm người Á châu," (ÐGH Gioan Phaolô II :VietCatholic:8/12/1999) để đem TIN MỪNG giải phóng đến cho miền đầy cơ chế bất công nhất thế giới.
DỌN ÐƯỜNG CHO CHÚA ÐI
Cho đến hôm nay, Ðức Giêsu vẫn còn là một bóng mờ trên miền đất bao la đó. Hơn khi nào, cần phải nhìn Ðức Phật, Khổng Tử, Lão tử v.v. như những sứ giả dọn đường cho Chúa đến với dân Người. Nhưng hơn ai hết, Gioan Tẩy giả là vị tiền hô lớn nhất. Hôm nay "ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin" (Ga 1:7). Lời chứng Gioan Tẩy giả thật là hùng hồn và ảnh hưởng. Ông ý thức rất rõ sứ mệnh và vai trò của mình. Ông chỉ là trung gian giới thiệu Ðức Giêsu cho muôn dân, chứ không phải là người muôn dân trông đợi. Bởi vậy khi bị những người thuộc phái Pharisêu bắt bí, ông đã khẳng định: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn đường cho thẳng để Ðức Chúa đi" (Ga 1:23; Is 40:3). Những người Pharisêu "cứ gặng hỏi xem Gioan Tẩy giả là ai, nhưng Gioan lại muốn cho họ biết Ðức Giêsu là ai" (Life Application Study Bible:1991).
Dọn đường cho Chúa đi vào lòng người. Chúa là nguồn bình an và hoan lạc sẽ đem đến cho nhân loại một mùa xuân rực rỡ. Mấy ai phát hiện được mùa hồng ân đang đến ? Bởi vậy Gioan mới nhắc nhở mọi người : "Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết" (Ga 1:26). Chính vì thế, vai trò Gioan cực kỳ quan trọng. Ngoài Gioan, không ai có thể thấy được Ðức Giêsu là "Con Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian." (Ga 1:29) Ông đã đến như một chứng nhân TIN MỪNG. Chính ông đã chỉ cho các môn đệ thấy TIN MỪNG đích thực là Ðức Giêsu.
"Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng" (Ga 1:8). Chính khi làm chứng như thế, ông mới giữ trọn được niềm vui cho mình và các môn đệ. Ðức Giêsu đã không hề "dập tắt thần khí" (1Tx 5:19) nơi chứng từ Gioan Tẩy giả, ngay cả khi ông hoài nghi về sứ vụ của Người (Mt 11:2-6; Lc 7:18-23). Trái lại, nhiều lần Người còn ca ngợi ông cao trọng "hơn cả ngôn sứ" (Mt 11:9) và bất cứ "phàm nhân" nào (x. c.11). Dầu vậy, ông chỉ tự nhận như một tên nô lệ bất xứng : "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người" (Ga 1:27).
Ðúng thế. Ðức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa."Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành" (Ga 1:3), trong đó có Gioan Tẩy giả. Một tạo vật làm sao có thể so sánh với Ðấng Tạo hóa ?! Nhưng "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (c.14). Nghĩa là "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (c. 11). Chính vì thế mới cần đến lời chứng Gioan Tẩy giả. Ông đã tìm được niềm vui trong sứ vụ làm chứng. Ông đã thành công rực rỡ tới mức đổ máu vì sự công chính, một nhân tố làm nên Nước Trời.
NHẬN DIỆN
TIN MỪNG đã bắt đầu vang lên với chứng từ Gioan Tẩy giả. Nhưng TIN MỪNG chỉ thực sự có hiệu lực từ lúc Ðức Giêsu xuất hiện trong quyền năng Thánh Linh, một sức mạnh giải thoát. Thực vậy chính Chúa đã công khai xác nhận "hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh" (Lc 4:21) : "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, Ðể tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố Cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, Cho người mù biết họ được sáng mắt, Trả lại tự do cho người bị áp bức, Công bố một năm hồng ân của Chúa." (c.18-19; Is 61:1-2).
Từ nay TIN MỪNG đã trả lại cho tất cả những người cùng khổ nhất tất cả niềm vui ơn cứu độ. Như thế xã hội đã được Phúc Âm hóa. Không hiểu tại sao có người không đồng ý với việc "Phúc Âm hóa Á châu" trong thông điệp "Giáo hội tại Á châu" của Ðức Giáo Hoàng ? Nếu Phúc Âm hóa chỉ là đổ mấy giọt nước rửa tội trên đầu, quả thực Giáo hội đang đi ngược dòng. Nhưng nếu chỉ nhằm đem lại cho xã hội đời sống "công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14:17), Giáo hội đáp ứng những gì các dân tộc Á châu đang mong đợi nhất. "Giáo hội xác tín rằng trong lòng dân chúng, văn hóa và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát "Nước Hằng sống" (x.Ga 4:10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo ra và chỉ có mình Chúa Giêsu Cứu thế mới có thể thỏa mãn đầy đủ" (Giáo hội tại Á châu:1999). Cơn khát vọng này lớn hơn nỗi mong chờ Ðấng Messia của dân Do thái. Cơn khát vọng đó kéo dài cả mấy ngàn năm rồi. Giáo hội đã nêu lên được lý tưởng cao cả nhất của công cuộc Phúc Âm hóa. Giáo hội chỉ muốn phục vụ, chứ không muốn khống chế con người. Thế nhưng, cho tới nay vẫn có những "chuyên viên" Phúc Âm hóa "lẫn lộn sứ vụ rao giảng Tin Mừng với khát vọng truyền bá các giá trị văn hóa và lối ứng xử kiểu Âu châu" (Cuộc tọa đàm về truyền giáo đại kết tại Hồng Kông, VietCatholic 8/12/1999). Lối khống chế đó đã làm cho công cuộc Phúc Âm hóa Á châu trì trệ và thất bại.
Tuy thế, vẫn chưa đến nỗi thất vọng. Thực tế "Chúa Thánh Thần, Ðấng hoạt động trên Á châu trong thời các Tổ Phụ và ngôn sứ, và hoạt động còn mãnh liệt hơn nữa trong thời Chúa Giêsu và Giáo hội lúc đầu, bây giờ vẫn hoạt động ở giữa các người Kitô hữu Á Châu, tăng cường bằng chứng đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo của lục địa" (Giáo hội tại Á châu:1999). Chỉ có Thánh Linh mới thấu hiểu và đáp ứng nổi tất cả những khát vọng lớn lao của các dân tộc.
Vậy các dân tộc Á châu đang mơ ước những gì ? Chắc chắn sống dưới nhiều cơ chế bất công khác nhau, họ muốn thấy công lý ngự trị. Ðây là một cơ hội lớn xây dựng Nước Chúa tại Á châu. Hơn lúc nào hết, chúng ta cố gắng "thiết lập lại công bằng và làm cho công bằng được triển nở ở mọi cấp bực xã hội" (ÐGH Gioan Phaolo II:
Nhưng muốn thực hiện được công cuộc đó, xin khắc tâm khắc cốt lý tưởng Kitô hữu sau đây : TÌNH YÊU phục vụ tha nhân, Sống là TIẾN BỘ, dấn thân suốt đời. TÍN THÀNH sống đạo làm người, Hồng ân thắp sáng bầu trời TỰ DO. Hai vai TRÁCH NHIỆM 'tiền hô' : TIN MỪNG cứu độ, điểm tô Nước Trời.
Lý tưởng đó đã được Thần Khí khơi dậy nơi Kitô hữu. Nhưng bao lần lý tưởng tuổi trẻ đã bị vùi dập. Bởi vậy, thánh Phaolô cảnh cáo : "Anh em đừng dặp tắt Thần Khí." (1 Tx 5:19) Ðặc biệt, nơi giáo xứ Thần Khí đang hoạt động như "trung tâm đời sống phụng vụ" (ÐGH Gioan Phaolô II : CWNews 25/11/2002) và trung tâm đào luyện giáo lý và luân lý cho giới trẻ Kitô hữu. ÐGH cho thấy giáo xứ là tụ điểm quan trọng để giáo dân "uống tận nguồn suối Lời Chúa và truyền thống. Người cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong việc nuôi dưỡng đức tin, "bảo vệ chúng ta khỏi tội lỗi, kiện cường chúng ta trong tình thân ái, và duy trì nỗ lực chúng ta trên cuộc hành trình dương thế." (CWNews 25/11/2002) Không có sức mạnh đó, tuổi trẻ không thể chống lại những ảnh hưởng văn hoá trần tục. Muốn tìm được hứng thú cho cuộc sống, giới trẻ "cần phải tiếp tục cuộc hành trình, khởi sự từ Ðức Kitô, nghĩa là từ bí tích Thánh Thể." (ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) Hôm nay, Giáo hội cần giáo dân "ý thức về ơn gọi rao giảng Tin Mừng" và sẵn sàng đem sứ điệp Tin Mừng vào trần gian. Muốn "làm chứng về ánh sáng"(Ga 1:7.8) là Ðức Kitô giữa thế giới chìm đắm trong bóng tối hôm nay, họ cần giáo xứ hỗ trợ mạnh mẽ (ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) và trang bị đầy đủ sức mạnh Tin Mừng.
Câu chuyện xảy ra tại một địa điểm ở phía Bắc Biển Chết, có lẽ cũng là nơi xưa kia dân Do: MV3-B53
Câu chuyện xảy ra tại một địa điểm ở phía Bắc Biển Chết, có lẽ cũng là nơi xưa kia dân Do-thái đã vượt qua sông Gio-đan để tiến vào Ðất Hứa. Ông Gioan Tẩy Giả đang có mặt tại đó và làm phép rửa bằng nước. Chỉ một nghi thức sám hối này cũng đủ để phân biệt phép rửa của ông với những cách thức thanh tẩy khác nhau vốn đang thịnh hành trong các nhóm thời bấy giờ. Con người này là ai vậy mà biết bao người đang ùn ùn kéo đến với ông để lãnh nhận phép rửa ? Con người này có sứ mạng gì mà lời rao giảng của ông có âm giọng như tiếng kêu của các vị ngôn sứ, tính cho đến lúc này, đã im vắng được ba thế kỷ ?
Người Do-thái, hay chính xác hơn, một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đã muốn xác định xem ông là ai. Họ đặt câu hỏi và muốn xếp ông vào một trong số những hiểu biết của mình. Họ muốn kiểm chứng, họ muốn tin chắc vào hiểu biết của mình.
Trước hết, họ muốn biết có phải là Ðấng Mê-si-a không. Trong giai đoạn căng thẳng lúc bấy giờ, có rất nhiều người mong chờ vị sứ giả của Thiên Chúa đến. Họ đã mường tượng ra dung mạo của vị sứ giả, nhưng là một thứ hình ảnh cứng ngắc. Trong thực tế, họ đã có nhiều hình ảnh mẫu, tuỳ theo thái độ chờ đợi, tuỳ theo khát vọng của mỗi người. Trong khi đó, các vị lãnh đạo dân đang cố gắng kiểm chứng danh tính của những người đang có ảnh hưởng trên dân chúng. Chính họ cũng có quan niệm về dung mạo của con người phải đến. Do đó, họ đã nêu vấn đề với ông Gioan khi thấy đám đông kéo đến với ông để nghe giảng và đón nhận phép rửa.
Ông có phải là ngôn sứ Ê-li-a không ? Một nhân vật khác được nêu lên sau khi ông Gioan đã tuyên bố ông không phải là Ðấng Mê-si-a. Từ trước đến nay, người Do-thái vẫn công nhận ngôn sứ Ê-li-a là một chứng nhân vĩ đại về lòng tin. Ông đã được cất lên trời cách lạ lùng (2 V 2), và ông sẽ trở lại để dọn đường cho Ðấng Mê-si-a đích thực. Lúc sinh thời, ngôn sứ Ê-li-a đã bị mọi người loại bỏ. Nhưng giờ đây, người ta đã biết ông là ai. Con người xưa kia bị bách hại, nhưng giờ đây lại được tôn phong.
Người ta vẫn dựa trên những hình ảnh quá khứ để nhận định về hiện tại. Nhưng mỗi người có vai trò riêng của mình, và ông Gioan Tẩy Giả là một trường hợp rất đặc biệt.
Ðơn giản là một chứng nhân
Câu trả lời của ông Gioan cho thấy một thái độ khiêm tốn cần ngạc nhiên.
Ông tuyên bố ông không phải là Ðấng Mê-si-a, không phải là Ánh Sáng. Ông không phải là ngôn sứ Ê-li-a trở lại, cũng không phải là vị Ngôn Sứ vĩ đại như người ta vẫn chờ đợi.
Ông chỉ là vị tiền hô, đơn giản là một chứng nhân, có vai trò hoàn toàn tuỳ thuộc vào Ðấng ông loan báo. Ông là ngọn đèn do Thiên Chúa thắp lên để soi đường cho Ðức Ki-tô đến, là tiếng nói của Thiên Chúa. Ðơn giản chỉ có thế. Tất cả chỉ có thế. Ngọn đèn để soi sáng, tiếng nói để cung cấp lời.
Cách trả lời của ông Gioan Tẩy Giả cho thấy ông không để cho người ta xác định về mình. Ông không lặp lại quá khứ, nhưng mở ra tương lai. Vì vậy, ông là người của bất ngờ. Người ta không thể đóng khung vào một loại nào. Ông khước từ quan niệm coi ông là điểm dừng, ông chỉ muốn mình là điểm cần đi qua. Ông làm chứng về ánh sáng, một loại ánh sáng luôn vuột khỏi tầm với con người, nhưng lại soi chiếu cho họ trên con đường của mình. Ông Gioan chỉ muốn mình là người chỉ đường và không muốn người ta chăm chú vào mình. Một thái độ tuyệt vời và chính điều này làm ông trở nên cao cả. Ðây cũng là đặc tính của mọi ngôn sứ Ít-ra-en.
Ðàng khác, câu trả lời của Gioan là một thứ tuyên bố về lý lịch cá nhân, nhưng hoàn toàn tiêu cực, làm cho những người chất vấn chưng hửng, thêm thắc mắc. Người ta không thể xác định về ông, nhưng ông vẫn rất cần thiết và quý giá để chỉ cho mọi người thấy rằng : có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết".
Tuy vậy, phải nói rằng chính ông Gioan Tẩy Giả cũng không biết rõ về Ðức Giêsu. Ðang khi ông dìm người khác trong nước để thức tỉnh và thanh tẩy họ, thì chính ông lại sống trong nghi nan. Ông biết rằng ông có sứ mạng dọn đường cho Ðấng Mê-si-a đến. Ông cũng biết rằng Ðấng Mê-si-a cao cả hơn ông nhiều : "Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người" ; "có người đến sau tôi nhưng trỗi hơn tôi, vì có trước tôi" ; ông cũng cảm thấy một sự đứt đoạn, nhưng ông chưa thấy Người đến. Ông cũng không biết rằng Vị Sứ giả của Thiên Chúa, mà ông là người dọn đường, lại chẳng là ai khác hơn là người bà con của ông tại làng Na-da-rét, là ông Giêsu người thợ mộc.
Ông chỉ biết rằng chính ông không phải là Ðấng Mê-si-a, và chỉ là kẻ dọn đường. Ông biết điều này rất rõ và ông sống đến tận cùng. Ông dấn thân trọn vẹn để thi hành sứ mạng ngôn sứ, giới thiệu Ðức Ki-tô khi tới thời gian đã được ấn định. Ông biết rằng ông không phải là ánh sáng, nhưng ông có mặt để làm chứng về Ánh Sáng. Rồi đây, ông sẽ đưa tay ra để chỉ vào Ðấng phải đến. Người là Ðức Giêsu, Người đến và đem lại cho Thiên Chúa vô hình, Thiên Chúa không thể đụng chạm tới được một dung mạo, một thân thể.
Về một Thiên Chúa đã biết và chưa biết
Không ai thấy Thiên Chúa, không ai nghe được Thiên Chúa, và cũng không ai đụng chạm được Thiên Chúa.
Làm thế nào bây giờ trước một Thiên Chúa được gọi là Ánh Sáng nhưng không ai nhìn thấy được ? Ðấng tự nhận mình là Chân Lý tinh tuyền nhưng lại xuất hiện dưới khuôn mặt không thực, Người là ai ? Ðấng hiện diện ở khắp nơi nhưng dường như lại vắng mặt, Người là ai ?
Các nhà thần học luôn tìm ra những lý luận rất hay, nào là Thiên Chúa ẩn mình để tôn trọng sự tự do của chúng ta, hay để tạo cho chúng ta nỗi ngạc nhiên khi chúng ta chết, v.v... Tuy vậy, chúng ta cảm thấy không thoả mãn với những giải thích như thế, và chúng ta có cảm tưởng rằng những giải thích này cũng chẳng làm cho những người đã đề ra chúng được thoả mãn.
Thiên Chúa là Ðấng không thể hiểu thấu : chúng ta phải chấp nhận sự kiện đó, một sự kiện không thể khác được. Chấp nhận không phải để buông xuôi, nhưng là để nhìn rõ chỗ đứng của chúng ta và nhất là để đặt Thiên Chúa vào đúng chỗ của Người, tức là Người có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ nơi nào chúng ta đang chờ đợi Người.
Như vậy, nếu Thiên Chúa không để cho cảm giác và lý luận của chúng ta đụng chạm tới Người, nếu Thiên Chúa không để cho chính lòng tin của chúng ta nắm bắt được Người, thế thì phải chăng chúng ta bị kết án phải tìm đến Người trong bóng đêm mịt mù ? Phải chăng chúng ta đang có nguy cơ đi lạc đường hay là chỉ chạy theo một ảo ảnh ?
Những câu hỏi như thế vẫn được đặt ra cho chúng ta và có lẽ không bao giờ chúng ta có được câu trả lời đầy đủ. Thiên Chúa vẫn luôn ở phía trước và mở ra những chân trời rộng lớn hơn. Người mời gọi chúng ta bước vào và trở thành nhân chứng cho Người.
Như ông Gioan Tẩy Giả, mỗi chúng ta cũng được mời gọi trở thành người loan báo về một Thiên Chúa đang ẩn mình nhưng vẫn đang đến. Mỗi chúng ta đang được mời gọi đóng vai trò rất khiêm tốn nhưng không thể thiếu : giới thiệu về Thiên Chúa đang đến. Nói một cách khác, chúng ta được trao phó trách nhiệm lôi kéo thêm nhiều người cùng gia nhập vào cộng đoàn những người tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm Chân Lý và Ánh Sáng, đang khi chính chúng ta phải trở thành ngọn đèn, thành tiếng nói. Ðơn giản là như thế. Tất cả chỉ có thế.
* * *
Thiên Chúa của tôi vượt hẳn mọi thứ suy luận và mọi thứ đo lường. Thiên Chúa của tôi là thế này : kỳ diệu, độc đáo và gây sững sờ.
Người là hữu thể, nhưng lại là chuyển biến,
Người là những gì đã có, hiện có và sẽ có, Người là tất cả, nhưng không có gì là Người,
Chúa tôi gây sững sờ
là Ðấng người ta tin nhưng không thấy,
người ta yêu mến nhưng không sờ được,
người ta trông chờ nhưng không nghe theo,
người ta chiếm hữu, nhưng không đáng được như thế. (Juan Arias - Thiên Chúa mà tôi không tin, trang 32)
Trong thời buổi kinh tế thị trường của thời đại, nghệ thuật quảng cáo chiếm một vị trí hết sức: MV3-B54
Trong thời buổi kinh tế thị trường của thời đại, nghệ thuật quảng cáo chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Trên đường phố, những nơi nào có thể được là có những hình ảnh giới thiệu những gì mà người ta cần đến. Trên TV cũng thế, bất cứ giờ phút nào cũng có những thông tin cần thiết về những sản phẩm, có khi làm cho người nghe phải khó chịu. Nhưng lại rất hiệu quả, vì khi qua những giây phút khó chịu đó, nó dường như có một chút gì còn lại nơi người nghe. Không chỉ có thế, còn có những con người mang sản phẩtm đến tận nơi người tiêu dùng, với những kiểu nói hết sức duyên dáng và thu hút, làm cho người đối diện không thể nào làm ngơ được. Những người quảng cáo nầy còn được goi là nhân viên tiếp thị, họ chịu trách nhiệm về mặt hàng, họ giải thích hiệu quả và chỉ cách cho khách hàng xử dụng như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Ngoài ra còn có những giải thưởng hết sức hấp dẫn cho người tiêu dùng, khiến cho mọi người đều lắng nghe và hưởng ứng tận tình.
Chúng ta vừa lắng nghe một nhân viên tiếp thị, nhưng không phải tiếp thị cho mặt hằng nào, mà là thông báo và quảng cáo phần thưởng cho những ai biết chuẩn bị chu đáo để đón mừng Đấng có uy quyền đến với họ. Nhân viên tiếp thị không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng hành động và cả cuộc sống. Một đời sống khiêm nhường chân thật để làm chứng cho sự thật. Một đời sống thanh thoát để hướng mọi người về trời cao. Một đời sống khắc khổ để kêu gọi mọi người hy sinh, chịu khó để dâng cuộc đời cho Chúa. Oâng biết chấp nhận sự thật, quên mình đi, để hướng mọi người về Đấng Cứu Thê mà ông giới thiệu. Oâng kêu mời mọi người thay đỗi đời sống cho tốt hơn để xứng đáng chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Oâng cũng làm gương cho mọi người biết chấp nhận cuộc sống hiện tại, chấp nhận những gì là của mình, để biết sống trọn vẹn và chu toàn trách nhiệm thật chu đáo.
Những người của ngày xưa không thể nào ngồi yến bất động, khi nghe thấy những lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả, họ chạy đến với Gioan, nhận phép rửa thống hối. Họ cũng đến với Gioan để tìm cho mình một con đường sống theo Thánh ý Chúa.
Chúng ta, những con người của ngày hôm nay, cũng nghe những lời của ngày xưa, cũng gợi lại trong tâm trí chúng ta hình ảnh sống động của một chứng nhân. Nhưng nhân viên tiếp thị hết sức thuyết phục của ngày xưa, cũng đang dùng hết khả năng của mình cho những người của ngày nay, không biết có mang lại chút kết quả nào không?
Mỗi người trong chúng ta nghe nhiều, biết nhiều, nhưng chúng ta sống như thế nào? Giờ đây lời kêu mời lại vang lên một cách sống động và tha thiết. Nếu chúng ta thấy được mình thiếu thốn về đạo đức, thiếu về lòng nhân ái, thiếu thốn về nhân cách làm người mà biết chạy đến với Chúa khi nghe lời kêu mời của Gioan, để xin Chúa đong đầy những gì còn thiếu nơi chúng ta.
Nhìn vào gương làm chứng của Gioan Tẩy Giả, chứng ta cũng quyết là những chứng nhân sống động như Ngài; khi chúng ta biết làm cho Chúa Kitô hiện điện trong đời sống của mình thật sự. Đó là những lúc chúng ta biết quên mình mà đến với người khác để giúp cho họ sống tốt hơn qua những lời nói chân thành, qua sự giúp đở nhẹ nhàng đối với những gì mà người ta cần. Cũng là những lúc chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm, những gì phải làm mà không ngần ngại, cho dù nhìn thấy những khó khăn trước mắt. Trong những lúc chúng ta nhìn thấy những lợi lộc của trần gian, những niềm vui không phải của mình, chúng ta không cần đến cũng không tìm cách chiếm hữu nó; những lúc đó chúng ta đã trở nên một chuyên viên tiếp thị xuất sắc cho chúa Kitô như vị Tiền Hô của ngày xưa. Khi đó mọi người nhìn vào chúng ta và họ cũng nhìn thấy, cũng lắng nghe được sứ điệp loan báo về Chúa sắp ngự đến. Khi đó chúng ta không chỉ loan báo bằng lời nói, nhưng bằng chính cuộc sống và cả con người của chúng ta. Khi đó Chúa đã đến thật sự.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, đễ biết nhận ra Chúa và sống xứng đáng là Chứng nhân trung thành của Chúa trong cuộc sống đời thường.
Cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng của năm Phụng vụ 2009: MV3-B55
Cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng của năm Phụng vụ 2009. Với Chúa nhật này chúng ta đã đi được nửa đoạn đường của mùa vọng năm nay. Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Vui mừng vì ngày Đại lễ Giáng sinh sắp tới. Ngày đại lễ Giáng sinh nhắc nhớ chúng ta về một niềm vui trọng đại. Niềm vui con người chúng ta được đón nhận Đấng Cứu Thế Giêsu. Niềm vui này không thể giữ cho riêng ai mà cần phải được loan báo cho nhiều người được biết.
Đoạn Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta một chứng nhân loan báo niềm vui ấy. Chứng nhân ấy là Thánh Gioan Tẩy Giả. Mở đầu đoạn Tin mừng Thánh sử Gioan giới thiệu: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1, 6- 7). Kế đến, người Do thái muốn biết Gioan là ai thì ông đã trả lời: “ Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga 1, 23) và “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1, 26b – 27).
Chính trong niềm vui mà Thánh Gioan Tẩy giả đã ý thức được vai trò làm chứng của mình. Vai trò giới thiệu làm chứng cho Đấng Cứu Thế Giêsu. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 cũng đã kêu mời chúng ta hãy vui mừng luôn mãi (1Tx 5, 16 ). Thánh nhân cũng là một trong những người cảm nhận được niềm vui trong Chúa. Do đó, cả đời thánh nhân từ một con người căm ghét những ai tin vào danh Đức Kitô trở thành một chứng nhân hăng say rao giảng Đức Kitô.
Đấng Cứu Thế Giêsu đến trần gian này đem lại cho nhân loại một niềm vui mới. Người ta nói niềm vui đem chia sẻ thì niềm vui sẽ nhân đôi. Mỗi người chúng ta chắc chắn ít nhiều cũng cảm nhận được niềm vui mà Chúa mang đến cho mình. Chúng ta hãy đem chia sẻ niềm vui ấy cho những anh chị em xung quanh bằng cách sống theo những gì Chúa dạy. Đó là chúng ta đang làm chứng cho Người trong niềm vui.
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng, nghĩa là chúng ta đã trải qua hơn nữa: MV3-B56
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng, nghĩa là chúng ta đã trải qua hơn nữa chặng đường của Mùa Vọng. Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy vui lên. Tại sao vậy? Điều gì khiến chúng ta cần phải sống tâm tình hân hoan như thế? Vâng, chúng ta có rất nhiều lý do để vui mừng:
Trước hết, chúng ta vui mừng vì Chúa đã nhập thể làm người và đã mang lại cho chúng ta ơn cứu độ. Chúa đã đến và đã hiện diện trong lịch sử nhân loại, mang lại cho con người hồng ân lớn lao là cứu con người khỏi quyền lực sự chết và phục hồi cho con người địa vị làm con cái Thiên Chúa. Nhưng có lẽ nhiều người chúng ta không cảm thấy đây là một vinh dự lớn lao mà lại xem thường vì thấy làm con cái Thiên Chúa đâu có hơn gì người khác đâu. Quả thật, nếu nhìn theo phương diện phàm trần thì được làm con Chúa không hơn và không khác gì với những người khác, thậm chí còn phải mang lấy nhiều trách nhiệm hơn những người khác. Nhưng về phương diện đời sống thiêng liêng, chúng ta đang nắm giữ một vinh dự quá lớn lao, đang sở hữu một gia nghiệp sung mãn và vững chắc mà không ai trên trần gian này có thể có hay dám nghĩ tới. Chúng ta có quyền hy vọng như thế vì Chúa đã ban cho chúng ta Người Con Một yêu dấu của Ngài rồi thì không còn có gì mà Ngài lại từ chối không ban cho chúng ta. Tuy nhiên, hạnh phúc Nước trời chỉ nằm ở cuối chặêng đường trong hành trình đức tin của chúng ta. Phần thưởng ấy dành cho những ai hết lòng tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa qua nỗ lực sống thánh thiện trong từng ngày sống của mình. Sống tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa chính là chu toàn sứ mạng của mình, chu toàn những phận vụ mà mình đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa như những nén bạc được Thiên Chúa trao ban.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy một mẫu gương sống niềm vui và sống tín thác vào Thiên Chúa, đó là Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh Gioan là người sống niềm vui tràn đầy vì ngài được kêu gọi làm Ngôn sứ của Chúa và làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan đã sống hết mình và hết tình với nhiệm vụ của mình trong sự khiêm tốn lạ lùng để làm cho mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng Kitô và là Đấng Cứu Độ muôn dân hằng mong đợi. Thánh Gioan đã hạ mình xuống để cho làm cho Đức Giêsu được sáng lên. Ngài đã nói “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại”. Thánh Gioan làm được điều đó vì ngài đang mang trong mình niềm tin yêu và hy vọng vào Thiên Chúa của ngài. Chúng ta cũng cần mang lấy tâm tình đó để sống vui trong từng ngày sống làm Kitô hữu và làm chứng nhân cho Thiên Chúa.
Chúng ta còn phải vui mừng vì biết bao những ơn lành người đã ban cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng đây là điều ít ai trong chúng ta nghĩ tới. Chúng ta thường có quan niệm coi Thiên Chúa như một vị khách hoà hiệp nào đó, lâu lâu ghé thăm chúng ta một lần rồi tặng cho chúng ta một món quà nào đó, thấy cũng vui vui vậy thôi. Vì nhìn Thiên Chúa như thế, cho nên chúng ta không thấy cần Thiên Chúa trong cuộc đời của mình bao nhiêu: có Ngài cũng được, không có Ngài cũng chẳng sao. Thậm chí nhiều lúc, chúng ta còn nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời này khi chúng ta thấy thiên tai, bệnh tật, bất công, đói nghèo xảy ra nhan nhản trước mắt; khi chúng ta thấy kẻ ác lại sống sung túc và dư dật, còn kẻ lương thiện, hiền lành thì lại sống chật vật và bị chèn ép tứ bề. Nhìn thấy nhân tình thế thái như vậy thì làm sao chúng ta vui được? Làm sao chúng ta có thể hân hoan tiến bước trong đời sống đức tin của chúng ta được? . . .
Tất cả những điều ấy chỉ có thể giải đáp trong đời sống đức tin mà thôi. Nhưng tắt một lời là nếu vắng bóng Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta một giây phút thôi, nếu Thiên Chúa ngưng gìn giữ vù trụ này một giây phút thôi thì tất cả sẽ ra tro bụi hết, sẽ về cõi hư vô hết. Chúng ta cũng cần hiểu biết rằng: nếu không có cuộc sống đời sau và sự sống vĩnh cửu thì cuộc đời này sẽ vô lý, vô nghĩa và nói như Jean Paul Sarte: “Cuộc đời này buồn nôn” vô cùng. Nhưng chúng ta tin có sự sống đời sau, có thưởng phạt trong cuộc sống mai sau. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng nhưng Ngài cũng công bằng vô cùng: Số phận của con người chúng ta sẽ khác biệt nhau trong cuộc sống mai sau tuỳ vào lối sống hiện tại của chúng ta. Kẻ dữ, người lành sẽ được Thiên Chúa tách biệt ra như “mục tử tách chiên ra khỏi dê” vậy. Vì thế, mọi việc làm của chúng ta ở cuộc đời này cần phải được đặt nền móng trong Thiên Chúa, trong cuộc sống mai sau.
Có như thế thì chúng ta mới thấy phấn khởi và hân hoan tiến bước. Chúa Giêsu đã khuyên nhủ chúng ta rằng: “anh em hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, " (Ga 6,27). Nếu chúng ta giữ đạo chỉ vì muốn được hạnh phúc ở đời này thôi thì quả thật đức tin của chúng ta còn non yếu lắm và coi chừng chúng ta là những kẻ khờ dại trước mặt Thiên Chúa. Chúa không hứa hạnh phúc ở đời này cho bất cứ ai theo Ngài, có hứa chăng là Ngài hứa cho chúng ta được nên giống Ngài trên con đường Thập giá để mai sau chúng ta được Phục sinh vinh quang với Ngài trên trời. Chúa nói: “phúc cho anh em khi vì Thầy mà bi người ta bắt bớ và vu khống mọi điều xấu xa”. Chúng ta có dám đón nhận phúc lành của Chúa không? Chúa Giêsu cũng nói với thánh Phêrô rằng: “Con ráng làm Giáo hoàng cho ngon lành và tốt đẹp nhé, Thầy sẽ cho con được chết giống như Thầy”. Như vậy, cuộc đời theo Chúa của từng người chúng ta không nhằm vinh quang ở đời này, không nhằm hạnh phúc chóng qua ở đời này, nhưng là hạnh phúc lớn lao mai sau. Đó là động lực, là niềm vui mà Giáo hội mời gọi chúng ta hân hoan đón nhận và tích cực sống đời sống Kitô hữu của mình.
Chúng ta còn một lý do nữa để vui mừng là chúng ta đang mang trong lòng một niềm hy vọng về một tương lai huy hoàng và chắc chắn. Trong sứ điệp Mùa vọng năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô mời gọi người Kitô hữu chúng ta sống niềm hy vọng. Như vậy, sống Mùa vọng là sống niềm hy vọng. Quả thật, đời sống của người Kitô hữu của chúng ta được đông đầy bởi niềm hy vọng: hy vọng vào vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, hy vọng vào một tương lai huy hoàng mai sau. Nói cách khác, niềm tin Kitô giáo của chúng ta được xây trên niềm hy vọng vững chắc cho cuộc sống mai sau.
Ước gì chúng ta luôn sống vui mừng và hy vọng trong từng ngày sống của chúng ta trong niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu qua thái độ sống tích cực, vui tươi với mọi người, hăng hái làm việc thiện, khát khao tìm gặp Chúa và tìm mọi phương thế cũng như tận dụng mọi khả năng để làm cho Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng ta và trong vũ trụ này. Amen.
Chị Rơ Châm H'Jưng, là người J’rai, đất Ialy, Kontum, giáo viên cấp I. Chị đang học Giáo lý: MV3-B57
Chị Rơ Châm H'Jưng, là người J’rai, đất Ialy, Kontum, giáo viên cấp I. Chị đang học Giáo lý tân tòng thì bị chính quyền xã gọi đến cấm đoán. Sau nhiều lần như thế, chị bị buộc phải chọn lựa: hoặc làm giáo viên, hoặc theo Chúa. Chị khẳng khái trả lời: “Tôi chọn theo đạo Chúa.” Thế là bị nghỉ việc. Chị kể lại: khi nhận tờ giấy thôi dạy, chị thấy tương lai của gia đình, con cái đều sụp đổ… Chị lại trở về bản làng làm lụng kiếm ăn. Bà con biết chị theo đạo đã đến xin chị dạy đạo cho họ. Lúc đầu chị từ chối, nghĩ rằng ngoài khả năng mình; nhưng sau vì thấy cần, chị chịu khó đọc Kinh thánh, cầu nguyện suy niệm Lời Chúa. Chị mạnh dạn nói về Chúa cho mọi người. Càng ngày bà con càng đến với chị đông hơn, có khi phải lội bộ 20, 30 cs, hay bị cấm đoán, phạt vạ, vì họ đến học đạo nơi chị. Từ đó, chị lại càng thấy rõ cái được, cái mất hơn nữa: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” ( Mt 16, 24 ). Cũng từ nay, chị nhận ra mình là sứ giả của Tin mừng cho người nghèo mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chị, không chỉ rao giảng Lời Chúa, mà còn để xoa dịu những tâm hồn tan nát, chữa lành người tật bệnh. (Vietcatholic news, 18.01.2003). Đây chính là hình ảnh của thánh Gioan nói trong TM hôm nay; ngài là chứng nhân sống cho Chúa Kitô. Kính mời cùng suy niệm…
a/. Gioan Tẩy giả, trước mắt người phàm:
Thánh Gioan Tẩy giả được kinh thánh tuyên xưng là vị đại Tiên tri, Đấng Tiền hô đi trước dọn đường cho Đấng Cứu thế, vậy mà cuộc đời của ngài vinh quang đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn là long đong, vất vả. Lớn lên nhận được ơn gọi làm chứng nhân, người tiền phong cho Chúa Cứu thế, thánh nhân đã vào sa mạc sống khắc khổ, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo bằng da lông thú. Chính Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “các ông vào sa mạc tìm gì? Có phải tìm cây sậy phất phơ trước gió không? – Không. Hay có phải tìm một người ăn mặc lụa là gấm vốc? Nhưng hạng người đó lại chỉ ở trong cung điện nhà vua. Vậy có phải các ông đi tìm một vị tiên tri không? Đúng và còn hơn một tiên tri nữa…”(Gn 11, 7-9)
Thánh Gioan là một tiên tri, một chứng nhân như thế, vì lời thẳng thắn đã không làm hài lòng nhóm tư tế, kinh sư do thái. Thánh Gioan còn làm phật ý cả vua Hêrôđê, đến nổi bị bà Hêrôđiađê dùng mưu mà chém đầu. Trước mặt thế gian, ai cũng cho là thất bại, là điên rồ. Cuộc đời của các thánh hiển tu, các vị tử đạo cũng thế. Các ngài bị chê là những kẻ khờ dại, mê lầm, những người không hiểu biết nên mới chối bỏ vinh hoa phú quí trần gian… Những con người bị chê; thả mồi bắt bóng… Có đúng như thế không?
b/. Gioan Tẩy giả, trước mặt TC, là một chứng nhân tận tụy và trung kiên:
“Có người hỏi: Ông là ai? Có phải là Đấng Cứu thế không? Gioan trả lời: Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc…”(Gn 1, 20-29)
“Tôi chỉ làm phép rửa cho anh em trong nước; Đấng đến sau tôi, sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lữa…”(Mt 3, 11)
“Khi Đức Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa, Gioan nói: chính tôi mói cần được ngài làm phép rửa.” (Mt 3, 14).
“Đấng đến sau tôi, cao trọng hơn tôi; tôi không đáng cởi quai dép cho Người…”(Gn 1, 27)
Thánh Gioan Tiền hô quả là một chứng nhân tận tụy và trung kiên. Dù là một đại Tiên tri đi trước mở đường cho Đấng Cứu thế, nhưng rõ ràng ngài khiêm tốn biết bao khi nói lên chính sự thật này: “tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.Tôi chỉ rửa anh em trong nước mà thôi…” Một con người sống sau thánh Gioan không bao lâu, nhỏ hơn ngài cũng không nhiều, cũng đã sống như một chứng nhân tận tụy và trung kiên như Gioan Tẩy giả, đó là Thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại.Thánh nhân cũng đã từng nói những lời không khác thánh Gioan là mấy:
“Tôi sống nhưng không còn phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gal 2, 20). “Tôi biết tôi đang tin vào ai…” (II Tim 1, 12) “Ước gì tôi chẳng hảnh diện điều gì, ngoài thập giá Đức Kitô.”(Gal 6, 14) “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng phúc âm.”(I Cor 9, 16) “Ai tự hào, hãy tự hào trong Chúa.” (I Cor 1, 31)
“Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng cho tôi được mạnh mẻ.” (Phil 4, 13)
Thánh Gioan TG, thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, họ là những chứng nhân tận tụy kiên cường như thế, làm sao chúng ta có thể nghỉ họ là người ngây dại mê muội, không khôn ngoan?
Câu chuyện: Mang thai đứa con thứ tư, bác sĩ Gianna Beretta Molla mới biết mình mang căn bệnh đe dọa mạng sống cả hai mẹ con, bà không hề do dự. Luôn tin tưởng vào sự Quan Phòng và Tình thương của Thiên Chúa, bà sẵn sàng dâng hiến mạng sống để cứu bào thai. Bà nghiêm trang nói với bác sĩ: Nếu quí vị phải đắn đo chọn lựa giữa tôi và đứa bé, xin đừng do dự, hãy cứu sống đứa bé, vì tôi mong muốn như vậy! Ngày 21-4-1962, bác sĩ Gianna Molla sinh một bé gái, đặt tên: Gianna Emanuela. Chỉ một tuần sau, bà trút hơi thở cuối cùng, miệng vẫn thiết tha lập đi lập lại: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, con yêu mến Chúa”. Bà hưởng thọ 40 tuổi. Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã tôn phong bà là Mẹ các gia đình, lên hàng chân phước ngày 24-4-1994. Ngày 16-5-2004, bà lại được tôn lên hàng hiển thánh. Lễ kính ngày vào ngày 28-4 hàng năm. Con của bà là Gianna Emanuela, hiện nay 46 tuổi, hành nghề bác sĩ nối nghiệp hiền mẫu đáng kính của mình.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thánh Gioan đã là vị đại tiên tri, vậy mà Gioan chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc, chứng nhân can trường đi trước dọn đường cho Chúa Cứu thế. Ta có tin nơi lời Gioan nói, tin vào việc ngài làm không? Nhất là ta có sẵn sàng sống như là chứng nhân cho Chúa Kitô ở giữa lòng thế giới hôm nay không?
Gioan Tẩy Giả có một vai trò rất đặc biệt trong kế hoạch của Thiên Chúa. Có lẽ vì thế mà Thánh sử: MV3-B58
Gioan Tẩy Giả có một vai trò rất đặc biệt trong kế hoạch của Thiên Chúa. Có lẽ vì thế mà Thánh sử Luca đã nói về Gioan ngay sau câu giới thiệu tóm tắt quyển Tin Mừng: “ Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa: chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ Isaia: ‘Này ta sai sứ giả của ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa, hãy dọn đường …” (x. Mc 1, 1-4). Gioan Tẩy Giả đến để làm chứng cho sự thật về vai trò của mình, về tình thương của Thiên Chúa và về Đấng Cứu Độ đến trong trần gian.
1. Làm chứng cho sự thật về mình :
Gioan rao giảng và làm phép rửa sám hối cho mọi người. Khi ông đã nổi danh, người ta thắc mắc về vai trò của ông. Ông có phải là một vị tiên tri như bao vị tiên tri đã qua đi hay là Đấng Cứu Độ phải đến trong trần gian. Những người đại diện tôn giáo muốn có tin chính xác về ông nên đã cử người đến gặp ông. Họ hỏi: “ông là ai?” Ông nói rõ : tôi không phải là Đấng Cứu Thế, cũng không phải là Êlia nhưng là “tiếng hô trong hoang địa”. Phái đoàn này gồm những luật sĩ và biệt phái chắc hẳn hiểu ngay là Gioan ám chỉ mình là Tiền hô cho Đấng Cứu Thế và phép rửa của ông chỉ là hình bóng cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu Thế.
2. Làm chứng cho tình thương của Chúa:
Tên Gioan nghĩa là Chúa thương. Gioan sinh ra do tình thương của Chúa đối với gia đình : sinh ra trong hoàn cảnh cha mẹ già. Kể cả Giacaria cũng không tin nổi là mình còn có thể sinh con dù ông tha thiết muốn có con! Chính ông làm mọi người phải để tâm suy nghĩ về hồng ân Chúa ban cho gia đình, và xa hơn nữa là tình thương của Chúa đối với dân Israel. Mỗi lần kêu đến tên Gioan là mọi người nghĩ ngay đến tình thương Chúa.
3. Làm chứng về Đấng Cứu Độ đã đến trong trần gian:
Gioan khẳng định mình là tiếng hô trong hoang địa, cũng là cách khẳng định về ơn cứu độ đang dành sẵn cho dân Israel. Thời kỳ cứu độ đã đến gần. Gioan nói rõ: Đấng đó đã đến, đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết. Đấng đó cao trọng hơn tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Đấng đó là Ngôi lời Thiên Chúa, là Sự Sáng, còn Gioan chỉ là người phàm được Chúa sai đến làm chứng cho Sự Sáng, giúp cho thiên hạ nhận biết Ngôi Lời và tin phục Người.
Gioan dọn đường cho Chúa bằng việc làm chứng cho sự thật về mình, về Đấng cứu thế. Đời sống khổ hạnh của Ngài là lời mời gọi chúng ta hôm nay hãy hoán cải tận đáy lòng, thể hiện đức tin của mình bằng những việc làm cụ thể như sống hòa thuận trong gia đình, hàng xóm láng giềng, bác ái với mọi người, biết tha thứ cho những người làm phiền lòng mình… lời rao giảng và bằng đời sống khổ hạnh. Chúng ta cũng hãy nối tiếp vai trò của Gioan nhắc nhở những người xung quanh bằng cuộc sống gương mẫu và lời khuyên để họ biết chuẩn bị đón Chúa đến luôn luôn.
Là con cái Chúa, chúng ta trả lời mạnh dạn cho mọi người về vai trò và niềm tin của chúng ta hiện nay trong thế giới, ý thức về bổn phận của mình đối với việc truyền giáo và sống đạo, để xứng đáng với tình thương của Chúa trên mỗi người chúng ta. Ngay khi làm được nhiều việc Chúa trao, chúng ta cũng hãy biết vai trò của mình chỉ là người dọn đường và biết nói như thánh Gioan Tiền Hô: để Chúa lớn lên còn tôi nhỏ đi.
Chúa Nhật hôm nay được gọi là : “Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật Vui”. Đây là một niềm vui rất to lớn và: MV3-B59
Chúa Nhật hôm nay được gọi là : “Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật Vui”. Đây là một niềm vui rất to lớn và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Niềm vui này chúng ta được nghe trong Lời Chúa hôm nay : “Anh chị em hãy vui lên trong Chúa.! Tôi nhắc lại một lần nữa : Anh chị em hãy vui lên vì Chúa đã đến gần!...”. Niềm vui này là một niềm vui được ơn Chúa cứu độ, niềm vui được an bình, niềm vui được hạnh phúc! Vậy thì chúng ta phải sống như thế nào trong Mùa Vọng này, để hưởng được trọn vẹn hạnh phúc Chúa ban.?
Chuyện kể rằng Có một Ông Vua kia lúc nào cũng lo âu, mặc dù sống trong quyền lực và nhung lụa sung sướng nhưng ông không có hạnh phúc, không biết cách nào để có được hạnh phúc. Nhà Vua gọi các nhà khôn ngoan lại bàn hỏi xem làm thế nào trút bỏ những âu lo đang đè nặng tâm trí Vua đến nỗi Vua không thể nào có được một cuộc sống hạnh phúc? Nhà thông thái trả lời: “ Chỉ có một cách duy nhất để giúp nhà Vua . Đó là Vua phải mặc chiếc áo của người có hạnh phúc thật sự!”. Thế là các sứ giả được sai đi khắp nơi để tìm kiếm một người đang mặc chiếc áo hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào được hỏi đến cũng có lý do để đau khổ, buồn sầu,.. một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng thì họ cũng tìm một người, đúng hơn là một người ăn xin. Người ăn xin này ngồi mĩm cười ở giữa chợ và tự xưng mình là người hạnh phúc nhất, không có một điều gì buồn rầu, lo âu. Sứ giả của Nhà Vua nói với người ăn xin về điều Nhà Vua cần mặc chiếc áo hạnh phúc ấy, và hứa trả cho người ăn xin một món tiền thật lớn để mua chiếc áo hạnh phúc ấy. Chúng ta nghĩ sao? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo hạnh phúc của mình không? Chúng ta có biết phản ứng của người ăn xin ra sao không ? Không nín được cười , người ăn xin bật cười to lên và nói rằng: “ Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài lòng Nhà Vua được. Vì tôi chẳng có chiếc áo nào cả!!!”. Vâng người hạnh phúc nhật trên đời lại là người không có một chiếc áo nào cả!!!
Bài Tin mừng hôm nay Ga 1, 6 – 8 , 19 – 28 cho chúng ta thấy nhiều người kéo đến với Gioan Tiền Hô để tìm kiếm hạnh phúc. Và ông cũng đã vạch ra cho họ những con đường trong chính cách sống của ông để họ thực sự hạnh phúc khi họ biết tin vào Đấng Cứu Thế đang đến gần. Đó là những con đường như:
Con đường sống khổ hạnh : Gioan sống ần dật trong samạc. Sống trong samạc đồng nhĩa với sống khổ hạnh: sống trong sự khắc nghiệt của thời tiết, trong sự hoang vu cô tịch, sự đe dọa của thú dữ. Sống khó nghèo , đơn sơ đạm bạc: mặc áo bằng da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng.
Con đường sống khiêm nhường : Gioan từ chối vinh quang mà người ta ban tặng cho mình. Ông thành thật nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế. Ông chỉ là “tiếng kêu trong sa mạc”, không đáng cởi giây giày cho Đấng Cứu Thế.
Con đường sống trung thực : Gioan đến để làm chứng về ánh sáng. Trung thực với sứ mạng của mình, một mặc ông chỉ cho chúng ta thấy ánh sáng thật là ai, mặc khác khi có người lầm tưởng ông là ánh sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Trung thực về những lời nói về mình nên ông không nhận vinh quang mà người ta lầm tưởng ban tặng. Trung thực với lòng mình nên Ông sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối,... Trung thực trong phán đoán nên ông thẳng thắn khuyên Vua Hêrôđê không được lấy chị dâu
Con đường sống quên mình : nhìn nhận là người đưa tin nên ông quên mình để cho Đức Giêsu nổi bật lên. Ông tự hủy mình để Đấng Cứu Thế được nhận biết.
Tóm lại Gioan Tiền Hô là một chứng nhân tuyệt hảo, Ông là chứng nhân của ánh sáng, chứng nhân của hy vọng, của hạnh phúc. Ông là làm chứng cho sự sáng thật là Đức Kitô.
Mùa vọng này, mọi ngươì đang chờ Chúa đến, Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa cho người khác, Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa. Thế nhưng rất nhiều khi thay vì mở đường cho Chúa, chúng ta chỉ lo mở đường cho chúng ta. Hay thay vì làm chứng cho Chúa thì chúng ta làm chứng cho ta....
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của Gioan Tiền Hô để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến bằng đời sống chứng tá là “ để Chúa lớn lên” và để cho chúng ta biết đường tìm đến hạnh phúc đích thực.
Xin Thánh Gioan giúp chúng ta sống trong ánh sáng Của Chúa Cứu Thế để chúng ta được hưởng trọn vẹn hạnh phúc Chúa ban.
Người ta thường ví Gioan Tẩy Giả như một ngọn đèn biết tỏa sáng và biết mờ đi một cách đúng : MV3-B60
Người ta thường ví Gioan Tẩy Giả như một ngọn đèn biết tỏa sáng và biết mờ đi một cách đúng lúc. Có những lúc ông tỏa sáng đến nỗi người ta hiểu lầm ông là Đấng Kitô màDân Do Thái đang trông chờ, cho đến ngày nay người ta vẫn đang trông đợi Đấng Kitô. Vì bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng. Có người còn hy vọng Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Khi ông phủ nhận mình không phải là Đấng Kitô thì họ lại lầm tưởng là Eâlia. Đối với họ Ê-li-a phải đến trước Đấng Messia Người ta còn tin rằng chính Ê-li-a xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như tất cả các vua đã được xức dầu. Nhưng Gioan Tẩy Giả đã phủ nhận tất cả những vinh dự đó.
Vậy, Gioan Tẩy giả là ai? Ông chỉ là tiếng kêu trong hoang địa hay nói đúng hơn ông chỉ là người cởi giày cho Đấng đến sau ông mà thôi. Một mẫu người cho đi, một mẫu người lãnh đạo, một mẫu người với tinh thần phục vụ biết làm đúng công việc của mình. Có thể nói, Gioan Tẩy Giả là con người mà tất cả các nhà truyền đạo, các giáo sư đều phải nên như thế, ông chỉ là một tiếng nói, một ngón tay chỉ nhà vua. Ông muốn mọi người hãy quên ông, chỉ thấy Nhà Vua mà thôi.
Điều ngạc nhiên hơn nữa là phép rửa do tay người làm thì không dành cho Israen mà chỉ dành cho những người ngọai nhập vào Do Thái giáo, tức là những người vốn có đạo khác, mới tin theo đạo Do Thái . Một người Israen không bao giờ chịu phép rửa, họ đã thuộc về Chúa Giavê, nên không cần rửa sạch nữa. Nhưng những người ngoại bang đến gia nhập Do Thái giáo thì phải chịu rửa sạch bằng phép rửa. Gioan Tẩy Giả đã bắt dân Israen làm một việc mà chỉ có dân ngoại mới phải làm. Ông có ý nói tuyển dân phải được rửa sạch. Đó chính là điều Gioan tẩy Giả tin, nhưng ông đã không trả lời trực tiếp.
Ông nói: “về phần ta, ta làm phép rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, ta chẳng đáng cởi dây giày cho Ngài”. Gioan Tẩy Giả không nêu ra được một nghề nào hèn hạ hơn nữa, mở dây giày là công việc của một người nô lệ. Một ngạn ngữ của các ra-bi bảo rằng môn đệ có thể làm cho thầy mình bất cứ việc gì một đầy tớ phải làm ngoại trừ việc “cởi dây giày”. Việc đó quá hèn hạ ngay cả đối với một môn đệ. Dầu vậy, Gioan Tẩy Giả ngụ ý: “Với Đấng đang đến thì cả việc làm đầy tớ cho Ngài cũng không xứng đáng”.
Chúng ta phải hiểu là lúc đó Gioan đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu rồi, và ông đã nhận ra Chúa. Ở đây, ông nhắc lại ý đó một lần nữa, và ngụ ý: “Nhà Vua đang đến, để chuẩn bị đón Ngài , các ngươi phải được tẩy rửa y như bất cứ người ngoại bang nào. Hãy dọn mình sửa soạn để đi vào lịch sử của nhà vua”. Chức vụ của Gioan Tẩy Giả là chức vụ dọn đường. Bất cứ sự cao trọng nào ông có được đều đến từ sự cao trọng của Đấng mà ông loan báo. Gioan tẩy Giả là tấm gương lớn về con người sẵn sàng xóa mình đi để người ta chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu . Ông nhận thấy mình là ngón tay chỉ cho thiên hạ thấy Chúa Cứu Thế.
Lạy Chúa, Nguyện Chúa ban cho chúng con ơn biết quên mình, chỉ nhớ đến Chúa Giêsu thôi. Và nhất là trong mùa vọng này chúng con luôn biết hướng về Ngài. Amen.
"Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết".
Có người đã được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô". Họ liền hỏi: "Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia". - "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp: "Không phải".
Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?" Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo". Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?" Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
II. Suy NiỆm Niềm Vui
"Hãy vui lên, hỡi anh em, hãy vui lên! Hãy cảm tạ Thiên Chúa trong mọi sự, vì đó là thánh ý Người về tất cả anh em trong Ðức Kitô. Anh em đứng dập tắt tác động của Thánh Thần" (1Thes 5,16-17).
Lời thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Thessalônikê ngày xưa, hôm nay Giáo hội lại công bố với : MV3-B61
Lời thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Thessalônikê ngày xưa, hôm nay Giáo hội lại công bố với chúng ta trong ngày Chúa nhật thứ III mùa Vọng này.
Trong lúc chờ đợi Ðức Kitô đến, chúng ta phải tỉnh thức, phải lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi. Chính tiếng Người đem lại niềm vui cho ta, như Yoan Tẩy giả đã làm chứng, khi ông nói về vai trò tiền hô của mình đối với Ðấng Cứu thế.
"Niềm vui của tôi là được nghe tiếng Ngài. Niềm vui của tôi đã sung mãn. Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ dần đi"(Gioan 3,29-30)
1. Giáo Hội Kêu Gọi Chúng Ta Vui Lên. Nhưng Thế Nào Là Vui?
Theo kinh nghiệm thông thường, vui là khi một ước vọng của ta được toại nguyện; khi ta thành công trong một nỗ lực hoặc một dự tính; khi quyền lợi của ta bị tước đoạt mà nay được phục hồi; và vui nhất là khi ta được gặp lại những người thân yêu sau một thời gian xa vắng. Tắt một lời, ta vui khi lòng ta đang trống mà được lấp đầy.
2. Niềm Vui, Theo Nghĩa Thánh Kinh, Chính Trị Là Trạng Thái Của Con Người Ðược Thiên Chúa Ðổ Ðầy Thánh Thần. Bài sách Isaia hôm nay (Is 61,1-2a.10-11) phác họa cho ta hình ảnh Ðấng Thiên Sai được Thánh Thần xức cho dầu hoan lạc: "Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi... Ngài sai tôi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
Năm hồng ân trong Cựu Ước - mà Năm Thánh là điệp ảnh - quả là một sáng kiến độc đáo Thiên Chúa đề ra cho Dân Ngài. Nó là khoảng thời gian đặc biệt nhắc cho mọi người nhớ rằng: tất cả những gì mình có đều là do Thiên Chúa ban, và mọi người phải nghĩ đến quyền lợi của kẻ khác: bởi vì mọi người đều có quyền sống tự do và hưởng dùng tài nguyên trên mặt đất. Năm hồng ân làm nổi bật, nguyên tắc công bằng và quyền bình đẳng của mọi người trước mặt Thiên Chúa (Lêvi 25,1-55).
Mở đầu cuộc đời công khai, Ðức Yêsu đã đọc cho mọi người nghe đoạn sách Isaia trên đây trong hội đường Nadarét. Và Ngài kết luận: "Hôm nay, đoạn sách thánh ấy đã thực sự ứng nghiệm cho anh em" (Lc 4,16-21). Và như thế, Ngài nhận lấy sứ mạng "loan báo Tin Mừng cho những người nghèo khổ, băng bó vết thương cho những tấm lòng tan nát, công bố ân xá cho những kẻ bị tù đày, trả tự do cho những người bị áp bức" (Is 61,1-2; cf Lc 4,18-19).
Ðó là những quyền căn bản của con người: quyền được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình và được tôn trọng, quyền được hưởng niềm vui làm người tự do và bình đẳng. Nhưng hơn thế nữa, sứ mạng cứu thế của Ðức Yêsu Kitô còn nhằm biến đổi mọi người trở thành con cái Thiên Chúa. Ðiều quan trọng hơn cả trong Tin Mừng Ngài mang đến cho chúng ta là Thiên Chúa muốn sống giữa loài người liên đới với nhau như một cộng đoàn hợp nhất, thánh thiện và hòa bình. Sứ điệp đó thúc đẩy chúng ta nỗ lực xây dựng Nước Trời trong một xã hội công bình và huynh đệ, ở đó mọi thành phần đều được Thần Khí thánh hóa và quy tụ quanh Ðức Yêsu Kitô, để cùng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha (Gal 3,16; Rm 8,14-17). Bài sách Isaia loan báo Thiên Chúa sẽ khoác cho dân Ngài một áo choàng công chính và cứu độ (Is 61,10) mà thánh Phaolô họa lại bằng lời nguyện cầu "xin Thiên Chúa bình an thánh hóa anh em" (1Thes 5,23). Niềm vui Ðức Yêsu Kitô mang tới cho ta, chính là niềm vui của người tự do được làm con Thiên Chúa.
3. Sứ Ðiệp Tin Mừng Là Thế - Sứ Ðiệp Ðấng Thiên Sai Là Thế Nhưng người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để nhận được niềm vui đó? Thánh Phaolô trả lời: "Anh em đừng dập tắt tác động của Thánh Linh" (1Thes 5,19) vì chính Thánh Thần làm nảy sinh mọi sự tốt đẹp, mọi hoa quả nhân đức "bác ái, hoan lạc, bình an, cao thượng, tận tâm, nhân từ, tín thác, hiền lành, tự chủ" (Gal 5,22-23), và "đâu có Thánh Thần, đấy có tự do" (2Co 3,7). Ðặc điểm của thời đại Ðấng Thiên Sai là Thiên Chúa phủ đầy Thần Khí trên nhân loại, làm cho mọi tâm hồn chan chứa niềm vui: niềm vui được Thiên Chúa viếng thăm, được Ngài chúc phúc và ban ơn cứu độ.
Nhưng hạng người được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm là những người nghèo (xem Lc 2,24). Họ được, Ngài chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3) và Tin Mừng cũng được loan báo trước tiên cho họ (Lc 4,18). Họ được Thiên Chúa ban đầy hồng ân, vì lòng họ sẵn sàng và khiêm tốn đón nhận. Những người tiếp xúc với Ðức Yêsu thuở Ngài còn thơ ấu; cũng như khi Ngài hoạt động công khai đều là những con người nghèo hèn bé mọn của Yavê: Yacaria, Isave, Maria, Giuse, đám mục đồng, Simêon, Anna, Gioan Tiền hô, nhóm môn đệ và đoàn dân nghèo theo Ngài để đi giảng. Ðó là một xã hội nghèo của Ngài và từ đó phải trở thành Giáo hội của người nghèo; một Giáo hội nhẹ lòng với của cải trần gian, ít bận tâm về những điều vật chất, để được thanh thoát và mở rộng tâm hồn đón nhận tác động của Thần Khí Thiên Chúa biến đổi họ thành những con người tự do.
Hai tâm hồn tiêu biểu nhất trong mùa Vọng là Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy giả. Họ đều nghèo nhưng cả hai đều tràn đầy Thánh Thần và vì thế, lòng các ngài chan chứa niềm vui. Riêng niềm vui của Ðấng Tiền hô thật là sung mãn: bởi đã nghe tiếng Chúa Cứu Thế, được làm người dọn đường cho Ngài, để chỉ Ngài cho thiên hạ thấy, rồi vui vẻ rút lui vào bóng tối; chấp nhận nhỏ dần đi để Ngài được lớn lên (Gioan 3,29-30).
Người Kitô hữu cũng phải mang đầy niềm vui như Gioan Tiền hô, một niềm vui thâm thúy của con người ý thức trách nhiệm, trung thành chu toàn sứ mạng, đúng như ơn gọi Thiên Chúa đã dành cho.
Mà ơn gọi và sứ mạng đều phát xuất từ Thiên Chúa. Nhưng để sống đến cùng những đòi hỏi của ơn gọi mình, người Kitô hữu cũng phải như Ðức Trinh Nữ Maria kết hiệp mật thiết với Ðấng Cứu Thế. Bởi vậy, khi kêu gọi ta vui lên, thánh Phaolô cũng nói thêm: "Anh em hãy cầu nguyện không ngừng" (1Thes 5,16).
Ðó là điều kiện cần thiết mang lại niềm vui sâu xa cho tâm hồn con người tràn đầy Thánh Linh Thiên Chúa. Và ai có những lần đã thực sự cầu nguyện, thì cũng đã cảm nghiệm được niềm vui thiêng liêng, niềm vui của người Kitô hữu.
III. Bài GiẢng
Thấy Gioan xuất hiện, dân Dothái ngày xưa đã hân hoan rồi. Nhưng khi nghe Gioan tuyên bố: sắp có Ðấng cao trọng hơn ông đến, họ còn vui mừng hơn nữa. Vì thế, Chúa nhật thứ ba mùa Vọng là Chúa nhật hân hoan vui mừng.
Chúng ta hãy vui mừng, không phải chỉ vì đang được nghe lại tiếng kêu của Yoan. Ngày xưa dân Dothái đã hân hoan khi thấy Gioan xuất hiện. Tên ông đã gợi lên niềm tin rồi, vì Gioan có nghĩa là "Thiên Chúa đoái thương". Ngài không còn ngoảnh mặt đi nữa, nhưng đã bắt đầu nhìn lại Dân Ngài, để ra tay cứu độ. Và quả thật, đang có nhiều hy vọng vươn lên. Người ta tuôn đến nghe Gioan giảng; người ta chen nhau lội xuống nước, thú nhận tội mình, để được ông rửa cho. Gioan này thật là vị tiên tri vĩ đại. Chúa gửi người đến cho dân, để sửa soạn gì đây. Dân Chúa cảm thấy phấn khởi vì sự hiện diện của Gioan Tẩy giả, với phong trào đạo đức mà ông đang khơi động.
Ngày nay chúng ta cũng có thể phần nào vui lên như thế. Ở trong Giáo hội toàn cầu cũng như ở nơi Giáo hội Việt Nam đang nổi lên biết bao phong trào đạo đức. Người ta đi lễ nhiều hơn trước, rước lễ đông hơn trước, say sưa học giáo lý và dường như thấy rõ niềm tin lúc này là nguồn an ủi sâu xa hơn khi nào khác. Ở nhiều nơi, người ta còn được chứng kiến nhiều buổi cầu nguyện Thánh Linh nữa. Các phong trào đạo đức đó như đang làm cho bộ mặt Giáo hội sáng ngời lên, khiến nhiều người có thể hân hoan nghĩ rằng: tất cả những gì đang xảy ra có thể là cơ hội thanh tẩy Giáo hội và giúp Giáo hội vươn lên trong sự công chính và thánh thiện thật.
Nhưng cũng như dân Dothái ngày xưa, chúng ta đừng chỉ vui với chừng ấy. Ngày xưa khi thấy Yoan xuất hiện, dân Chúa như đã muốn vui luôn trong ánh sáng của người. Nhưng Phúc Âm hôm nay cho ta thấy: Yoan bảo dân chúng phải nhìn xa hơn nữa. Ông chỉ rửa trong nước thôi; sắp có Ðấng đến sau để rửa dân trong Thánh Thần. Chính Ngài mới là Ðấng Kitô Cứu Thế và ông không đáng cởi dây giày cho Ngài... Chúng ta ngày nay cũng phải cẩn thận, đừng dừng lại ở những hiện tượng lạc quan như trên đã nói. Phải đi sâu hơn, xa hơn. Phải vượt qua mọi hình thức, cho dù rất đạo đức, để tìm gặp chính Chúa Kitô. Nhiều người trong ta có lẽ còn giống nhóm Biệt phái và Dothái. Các nhóm này, ngày xưa, chỉ muốn dừng lại ở Yoan, ngưỡng mộ ông và coi ông như Cứu Thế. Nhiều Kitô hữu ngày nay cũng thường chỉ muốn dừng lại ở những cái thấy được, ở các buổi phụng vụ sốt sắng và các buổi cầu nguyện sầm uất. Học giáo lý để thuộc chứa không để sống! Rước lễ để sốt sắng trong nhà thờ chứ không để thêm sức sống đạo ở giữa đời! Hôm nay, phụng vụ của Giáo hội thúc giục ta phải đi xa hơn, vượt qua những hành vi và tổ chức đạo đức, để gặp Chúa Kitô và sống với Ngài.
Chúa Kitô, theo bài đọc I hôm nay, là sứ giả của Thiên Chúa sai xuống trần gian. Ngài được xức dầu Thánh Thần, rồi được sai đem Tin Mừng cho người nghèo khó; và công bố khắp nơi năm hồng ân của Thiên Chúa... Ngày nay, Chúa cũng đang muốn tìm được những sứ giả như vậy ở giữa chúng ta. Ngài muốn cho cả Giáo hội của Ngài được xức dầu hoan lạc để luôn luôn công bố cho mọi người biết Tin Mừng Chúa đến cứu độ trần gian. Ngài muốn cứu mọi người từ tận căn, tận rễ, từ những người đang nghèo khổ, bất cứ về phương diện nào, để đời sống trở thành như năm hồng ân của Thiên Chúa.
Như vậy, tinh thần của ngày Chúa nhật hôm nay, đòi ta phải lột bỏ mọi vẻ mặt sầu bi, thiểu não. Phải đuổi xa mọi tâm tư hắc ám và buồn nản. Phải giải tỏa mọi nỗi lòng đau khổ và tội lỗi. Xưng tội từ hôm nay để tham dự vào mầu nhiệm Giáng sinh không phải là quá sớm đâu. Phải như mặc lấy áo phần rỗi và công chính để hoan hỷ đem tin vui đến cho mọi người.
Và tin vui của Ðức Kitô là gì?
Như lời sách Isaia viết: Ngài muốn "đem hân hoan đến cho người nghèo, băng bó những tâm hồn đang đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ lưu đày". Ngài muốn nhờ ta bây giờ làm những công việc ấy, để khắp nơi nổi lên một bầu khí hân hoan như được hồng ân của Chúa viếng thăm.
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cũng vạch ra cho ta con đường thực tế để sống đạo theo tinh thần nói trên. Ngài bảo ta trước hết phải lạc quan: "Anh em hãy vui mừng luôn". Rồi hãy có tinh thần cầu nguyện để nhìn thấy thánh ý Chúa trong mọi việc. Ðừng dập tắt Thánh Thần của Chúa, đừng làm ngơ trước tiếng gọi của Chúa hằng vang lên trong mọi sự xảy đến hằng ngày cho ta, hãy duyệt lại tất cả: bỏ cái xấu đi, và giữ lấy cùng phát triển mọi điều tốt gặp được.
Như vậy chúng ta sẽ đi vào đường lối của Ðức Kitô, sẽ sống như Ngài trong cuộc đời trần gian: Ngài đã mặc lấy thân phận y hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhận mọi hoàn cảnh xảy ra, gạt bỏ điều xấu, xây dựng điều lành. Ngài cứ nhìn vào những người nghèo khó và khổ sở ở đời để tìm cách kéo gỡ họ ra khỏi thân phận đau thương. Chính vì vậy Ngài đã trở thành Cứu thế và ban ơn Cứu độ.
Giờ đây trên bàn thờ Ngài muốn cử hành mầu nhiệm cứu độ đó ở trước mắt chúng ta, để kêu gọi chúng ta đi vào, dâng mình kết hợp với Ngài, hầu Ngài có thể ngự vào lòng ta để tiếp tục làm những hành vi cứu độ trong đời sống và qua đời sống của ta. Ta hãy nhiệt tâm đi vào mầu nhiệm thánh lễ này.
Ðức Yêsu Là Người Thực
Tôi dám nói rằng: Nếu tôi không nhận biết Chúa Kitô thì đối với tôi, "Thượng đế" sẽ là một danh từ vô nghĩa. Nếu không có ơn rất đặc biệt tôi sẽ không thể mường tượng một hữu thể vô hạn. Thiên Chúa của các triết gia và những nhà bác học sẽ không giữ vai trò nào trong đời sống luân lý của tôi. Thiên Chúa đã phải hạ mình xuống trong nhân loại, và trong một giờ khắc rõ rệt của lịch sử, tại một địa điểm xác định trên địa cầu, một người được tạo nên bằng huyết nhục, đã phải tuyên bố mấy lời và làm một vài cử chỉ thì tôi mới quỳ gối thờ lạy. Nếu Chúa Kitô đã không phán: "Lạy Cha chúng con..." thì không bao giờ tự mình tôi có ý niệm về tình nghĩa tử này. Lời kêu cầu ấy đã không khi nào tự đáy lòng tôi thốt ra trên môi. Tôi chỉ tin cái gì tôi đụng chạm và nom thấy, cái gì sát nhập vào bản thể tôi. Và chính vì thế, tôi đã tin Chúa Kitô. Tất cả những khuynh hướng muốn giảm bớt thân phận con người nơi Chúa Kitô sẽ đi ngược với một ý hướng sâu thẳm nhất của tôi. Có lẽ vì thế mà tôi vẫn không thích nhìn dung nhan Chúa Kitô Vua và Ðấng Thiên Sai toàn thắng bằng hình ảnh khiêm tốn và tiều tụy của Con Người mà qua việc bẻ bánh trong quán trọ làng Emmau các lữ khách đã nhận ra. Người là người anh mang đầy thương tích và là Thiên Chúa của chúng ta.
Francois Mauriac Vie De Jésus Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
"Hồn chúng con như chim non thoát khỏi lưới càn của người thợ săn"(Tv 123,7)
“Con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là các thầy dạy; tin vào kinh nghiệm hơn là đạo lý; tin vào đời sống và các sự kiện hơn là các lý thuyết. Hình thức đầu tiên của việc truyền giáo là chứng tá đời sống Ki-tô hữu; hình thức này là điều không thể thay thế được.” (Sứ Vụ Đấng Cứu Thế, ĐGH Gioan-Phaolô II)
Vụ nhân viên sứ quán Việt-Nam buôn bán sừng tê giác, vụ nhận hối lộ dự án Đông Tây của quan: MV3-B62
Vụ nhân viên sứ quán Việt-Nam buôn bán sừng tê giác, vụ nhận hối lộ dự án Đông Tây của quan chức chính phủ, đã làm cho cả đất nước VN ê mặt và bị dân Nhật bắt ngưng khoản viện trợ ODA. Bôi tro trát trấu. Những người vốn không có tư cách đạo đức, chỉ biết lợi dụng chức quyền để bòn rút,lợi dụng cho đầy túi với mong ước là “hạ cánh” an toàn để ngày tháng hưu dưỡng tha hồ hưởng thụ, thì chẳng bao giờ có tư cách đại diện cho ai, chứ đừng nói là đại diện cho một quốc gia. Quýt làm cam chịu : người dân Việt đi đến đâu cũng bị hạch sách, coi khinh. Rồi những kẻ chỉ bước ra khỏi cánh cửa phòng xử án, đã vội bẻ cong ngòi bút, bóp méo sự thật như trong vụ tám giáo dân cách đây mới mấy hôm, có thể dám vênh váo trơ trẻn cho mình là tiếng nói của dân,ư? Những hạng người nầy, dù một chút liêm sĩ cũng không có, thì nói gì đến tư cách đại diện!
Dù kết quả không đúng như nhiều cử tri Mỹ mong muốn, hoặc sự việc hơi quá đà với vụ biểu tình kéo dài cả nửa năm ở Thái Lan, thì việc lần đầu trong lịch sử Hoa Kỳ một người da màu đắc cử tổng thống và có đến hai vị thủ tướng Thái Lan phải từ chức, cũng cho thấy quyền tự do chọn lựa của người dân được tôn trọng và những nhà lãnh đạo phải vượt qua được thử thách, thẩm tra năng lực, lý lịch của người dân, thì mới được chọn hoặc chấp nhận. Khác hoặc ngược ý dân, sẽ bị loại bỏ. Đây không phải là trò chơi chính trị theo kiểu nước Nga, và nhất là các nước dưới chế độ độc tài, chỉ có quyền được tán thành những gì đã sắp sẵn do mưu mánh hoặc chuyên quyền. Trong tuần vừa qua, chúng ta đã thấy hình ảnh một Gioan Tẩy Giả làm tổng chỉ huy cho “cuộc diễn tập mang tên Tiền Hô”, bảo đảm với mọi người về căn tính thiên giới và cứu tinh của Chúa Giêsu. Người ta vẫn chưa biết nhiều về tư cách “Tiền Hô” của Ông. Hôm nay, nhân dân thẩm tra tư cách ấy của Ông. Vì thế, dù là vì tò mò, dù xuất phát từ ác ý hoặc thực sự muốn biết rõ chân tướng của người vốn nỗi danh từ thuở chưa lọt lòng mẹ nầy, thì “thực vàng không sợ lửa” : Gioan không dấu diếm thân phận hoặc đề cao vai trò của mình. Hơn nữa, Ngài lợi dụng dịp tốt nầy để giới thiệu danh tính và lý lịch của Chiên Thiên Chúa, Đấng Kitô, Vị Thiên Sai. Hãy xem qua những nội dung của cuộc trắc nghiệm tư cách “Tiền Hô” nầy:
Gioan không phải là ánh sáng ,mà chỉ làm chứng cho ánh sáng : người ta nhớ lại nhà điêu khắc Michel Ange khi ông tạc tượng Môsê ôm trong lòng hai tấm bia ghi 10 Điều Răn cho Thiên Chúa ban. Trên đầu [tượng] Môsê là hai cái “sừng ánh sáng” . Bức tượng điêu khắc thành công đến nỗi chính Michel Ange sững sờ và hô to lên như thể đang nói với một Môsê còn sống : “Hãy nói đi,Ông Môsê” (Parle, Moise). Kinh Thánh ghi rõ chi tiết nầy : khi Môsê từ trên núi xuống dân chúng phải lấy tay áo che mắt, vì Môsê sáng rực. Chỉ mới được ở gần ánh sáng thiên nhan, mà Môsê đã rực sáng như thế! Không lạ gì những người làm nhiệm vụ “tiền hô”, rao giảng về Chúa, cũng được hưởng ánh hào quang biết chừng nào. Nói khác đi, dấu hiệu để nhận ra những người dấn thân làm việc “tiền hô”, là “có ánh sáng toả ra”, khiến chỉ nhìn bề ngoài ấy, người ta có thể nhầm lẫn với Nguồn Ánh Sáng thật. Gioan “môn đệ” đã xác định rõ : Gioan “Thầy” chỉ là người làm chứng cho Ánh Sáng.
Nhóm Tư tế và Lê-vi hiểu rõ và không nghi ngờ về xuất thân và đạo đức của Gioan Tẩy Gỉa, nhưng họ muốn biết thẩm quyền của Gioan ở mức độ nào. Họ không đem các tiên tri “nhỏ” hay “vừa” ra đối chiếu, mà đặt luôn “tượng đài” Êlia ra với Gioan Tẩy Giả. Theo cách nói của các phim cổ trang, những người như Êlia được gọi là “ dưới một người, trên muôn người”, vì trong tâm trí người Do Thái, trong hàng ngũ tiên tri, Êlia chỉ “dưới” Thiên Chúa, nhưng “lớn” hơn mọi tiên tri. Gioan trả lời chẳng chút do dự: Ngài không phải là Êlia, không có nhiệm vụ như của Êlia. Trong suốt Cựu Ước, không có tiên tri nào giống nhau cả, vì Thiên Chúa giao cho mỗi người một sứ mệnh theo mỗi thời, như ý Thiên Chúa muốn nói với dân. Nếu ai hỏi tiên tri Ôsê, tiên tri Giêrêmia,… cũng sẽ nhận được câu trả lời tương tự. Điều đó cũng đúng cho mỗi Kitô hữu : Chúa không giao cho ai sứ mệnh hoàn toàn giống nhau. Chúng ta chỉ có thể học nơi nhau phương pháp, tinh thần truyền giáo, chứ không thể rập khuôn, vì như thế không thể đáp ứng đòi hỏi của sứ mệnh Chúa giao cho. Thánh Gioan Tẩy Giả không thể là “sosie” của Êlia và ngược lại. Chúng ta cũng không bao giờ là “sosie”(nhân vật giống hệt) của những vị tông đồ nỗi danh như Thánh Phaolô, như Thánh Phanxicô Xaviê, như Thánh Nữ Tiến Sĩ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, v...v…Chúa cũng không bao giờ muốn ta chỉ là “cái bóng” của bất cứ vị thánh nào.
Đến lượt người Biệt phái “hạch sách” về tính chất của phép rửa Thánh Gioan làm, cũng có nghĩa là muốn truy nguyên quyền lực cho phép Ngài thực hiện việc rửa tội nầy; cách mà ít lâu nữa họ sẽ làm đối với Chúa Giêsu, vừa theo kiểu “ghen ăn,tức ở”, vừa để vớt vát phần nào uy tín ngày càng bị sứt mẻ của họ. Lý lẽ trần tục xưa nay từng giúp họ “chiến thắng”, đè nén, đe doạ, áp chế người dân, làm cho họ trở thành một giai cấp ăn trên ngồi trốc, nay với Gioan Tẩy Giả (và ít nữa với Chúa Giêsu) bị sụp đổ tan tành. Chắc chắn những người Biệt-Phái không thoả mãn với câu trả lời của Thánh Gioan Tẩy Giả và họ sẽ bám dai dẳng để bắt bí và hành hạ Ngài mãi, nếu như đã không xuất hiện “cái đinh”,- hiểu cả theo nghĩa nhân vật nỗi trội và cả cái vật nhọn làm họ nhức nhối khi đã dẫm lên - Chúa Giêsu, người mà Gioan giới thiệu với thái độ vô cùng tôn kính, sùng bái!
“Một thành xây trên núi không thể dấu được” (Mt 5, 14 ). Vì thế dù muốn hay không, Giáo Hội trở thành cái bia để người ta nhắm vào công kích, bắn phá, cả với ý đồ tiêu diệt phá đổ nữa. Trong những khuôn mặt chứa chất hận thù, chống phá Giáo Hội ấy , không ít những gương mặt “quen thân”, luôn miệng tự xưng là con cái Chúa, là Kitô hữu, những chức sắn “có hạng” trong phẩm trật Hội Thánh, những nhà trí thức lớn, ưỡn ngực và mở to mắt kiêu căng, muốn vượt cả Xatan trong ý định bắt Gíao Hội phải qùy gối quy phục họ, tuân theo một mớ hiểu biết và lập luận được họ cho là duy nhất đúng với Kinh Thánh. Nhưng Giáo Hội vẫn vững vàng trước mọi phong ba. Tư cách “tiền hô” Nước Trời của Giáo Hội đã được khẳng định mãi đến tận thế.
“ Người ta không thắp đèn rồi đặt dưới đáy thùng” (Mt 5,15). Vì thế trắc nghiệm tư cách Kitô hữu không cứ ở địa vị, khả năng, thậm chí những việc đạo đức cá nhân, mà là ở hiệu quả “toả sáng” của người đó. Khác hoàn toàn với một cá nhân hoặc một bộ máy tuyên truyền ở đời, một Kitô hữu không thể có được bất cứ kết quả truyền giáo nào nếu không kết hiệp với Chúa Kitô qua các bí tich, nếu không hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh và tuân phục Đấng Đại Diện của người nơi trần gian. Và nên ánh sáng cho thế gian - giữ mãi ánh sáng của ngọn nến ngày rửa tội - để ai ai nhìn vào cũng nhận biết và ngợi khen Cha Trên Trời – Cha nào con nấy, - chính là tư cách một Kitô hữu được “kiểm định”.
Hãy ghi nhớ điều nầy : Chúa dùng “thế gian” - với cả những mưu toan xấu xa độc ác nhất - để trắc nghiệm tư cách Kitô hữu và “tiền hô” của mỗi môn đệ, của mỗi cộng đoàn. Mọi lúc mọi nơi! Không có ngoại lệ! Người đời - bằng đủ hình thức - sẽ đặt chúng ta dưới kính hiển vi, mổ xẻ từng phần nhỏ cuộc đời Kitô hữu, sẽ làm cho chúng ta bầm dập, trầy vi tróc vảy - không loại trừ có thể khiến ta mất mạng. Khi họ ngừng tay mà không đạp đổ hủy diệt được đức tin chúng ta, thì chúng ta đã lọt qua được trắc nghiệm tư cách “tiền hô”.
Chúa Nhật Thứ 3 Mùa Vọng hôm nay khoác lên chủ tế tấm áo lễ màu hồng dễ thương, vui: MV3-B63
Chúa Nhật Thứ 3 Mùa Vọng hôm nay khoác lên chủ tế tấm áo lễ màu hồng dễ thương, vui tươi, không còn màu tím buồn bã như hai Chúa Nhật trước đây. Mỗi khi báo tin hỷ, người ta cũng hay dùng cánh thiệp hồng gửi đến thân bằng quyến thuộc. Vậy hôm nay, thánh Gioan Tiền Hô cũng loan báo tin vui: Chúa Kitô sắp xuất hiện.
Phúc Âm theo thánh Gioan, đã long trọng giới thiệu thánh GioanTiền Hô đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. (Ga, 1, 6-8) Chúng ta thấy chỉ vỏn vẹn trong 2 câu Phúc Âm ngắn ngủi, mà hai chữ “làm chứng” đã lập lại đến ba lần. Phải chăng thánh sử Gioan muốn nhấn mạnh đến vai trò chính yếu của thánh Gioan Tiền Hô, là làm chứng cho ánh sáng, nghĩa là làm chứng cho Chúa Giêsu?
Phần kế tiếp, Phúc Âm càng làm rõ thêm vai trò của thánh Gioan Tiền Hô, khi người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lê vi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Thay vì đáp lại bằng những câu khẳng định, thánh Giaon Tiền Hô lại trả lời bằng ba lần phủ định. Ngài không nhận mình là Đức Ki tô, không phải là tiên tri Êlia, cũng không phải là ngôn sứ nào khác. Cuối cùng, để không phụ lòng những người quan tâm đến tìm hiểu, ông chỉ đơn giản mượn lời tiên tri Isaia đã loan báo từ lâu (Is 40. 3), để tự giới thiệu:
Tôi là tiếng người hô trong hoang địa:
Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi!
Như thế, Thánh Gioan Tiền Hô làm rõ vai trò chứng nhân của ánh sáng, của Đức Kitô. Ngài không nhận danh hiệu cao quý nào khác, ngoài khiêm tốn, tự nhận mình chỉ là tiếng người hô trong hoang địa. Ngài không huênh hoang khoe khoang, tự phụ sứ mạng quan trọng được giao, cũng như ngài biết tự giới hạn và xác định nhiệm vụ chính yếu, là kêu gọ
i mọi người ăn năn, hối cải: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi!
Cuối cùng, để tránh thiên hạ hiểu lầm về mình, thánh Gioan Tiền Hô còn xác quyết mạnh mẽ, vừa về vai trò khiêm tốn của mình, vừa loan báo nhân vật quan trọng sắp xuất hiện: Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông, mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.
Chỉ qua mấy lời nói vắn tắt, Thánh Gioan Tiền Hô đã tóm tắt và chuyển tải đầy đủ thông tin về mình, về sứ vụ và hoạt động, cũng như vai trò chứng nhân của Chúa Giê su.
Trong niềm hân hoan chào đón Chúa đến, chúng ta có thể nhận thức được thêm những tính cách đặc biệt của một chứng nhân về ánh sáng, về Đức Kitô, qua nét tự họa của thánh Gioan Tiền Hô: Khiêm tốn, lánh xa danh lợi, cùng chân chính, trung thực với lời nói và việc làm. Nếu thánh nhân súng sính cân đai áo mũ, sống ung dung, phè phỡn trong đền đài dinh thự, thì phỏng những tiếng người hô trong hoang địa, liệu có thấu đến tai ai được chăng?
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết sống đơn sơ, khiêm nhường và chân thật, để có thể làm chứng cho Chúa với mọi người. Amen.
Mỗi sáng thức dậy, khi thấy ánh sáng mặt trời, chúng ta vui mừng đón chào một ngày mới, bắt: MV3-B64
Mỗi sáng thức dậy, khi thấy ánh sáng mặt trời, chúng ta vui mừng đón chào một ngày mới, bắt đầu với công việc mới, sức sống mới và niềm vui mới. Ánh sáng mặt trời mang lại hơi ấm cho con người khi mùa đông lạnh giá, và xua tan bóng đêm tối tăm, để mở ra không gian tốt lành cho muôn vật. Ánh sáng làm nên những điều kỳ diệu trong vũ trụ này, và con người không thể sống thiếu ánh sáng. Có nhiều loại ánh sáng trong thế giới này, nhưng ánh sáng tâm linh là điều rất cần thiết cho chúng ta đi vào suy niệm trong bài Tin mừng hôm nay qua lời của thánh Gioan Tiền Hô nói với chúng ta hãy “làm chứng về ánh sáng”.
Khi nói về ánh sáng, thì tôi nghĩ ngay đến những người mù. Họ đáng thương vô cùng, họ không phân biệt được ngày hay đêm, không biết đẹp hay xấu, và không thưởng thức được cảnh đẹp của thiên nhiên, họ phải sống trong bóng tối của kiếp mù lòa. Nhạc sỹ Từ Duyên viết: “Khi tôi mù lòa, tôi mới hiểu bóng đêm bao sợ hãi”. Đó là mù về thể lý. Nhưng có những người mù về tâm linh thì càng đáng thương hơn, họ nghĩ, mình sáng mắt, nhưng hóa ra bị mù. Họ nghĩ mình biết hóa ra là dốt. Thánh Gioan đã phải thốt ra lời: “ có Người đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Chúa Giêsu đến với họ, nhưng họ vẫn không nhận ra Ngài là ai?. Cho nên, việc làm chứng về ánh sáng là lời mời cẩn thiết cấp bách trong thế giới tràn ngập ánh đèn màu dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì chúng ta khó có thể nhận ra đâu là ánh sáng thật và đâu là ánh sáng giả, khi ta bị lạc bước vào bóng đêm của đam mê và tội lỗi.
Khi con người mất định hướng sống, thì dễ bị rơi vào cạm bẫy của bóng tối sự ác, sự dữ và tội lỗi…, nhưng tự đáy lòng con người muốn vươn lên, muốn vượt ra khỏi chính mình, nhưng chưa tìm được ánh sáng chân lý cuộc đời, nên họ mãi chạy theo những trào lưu của xã hội. Ngày nay, các bạn trẻ thường đi tìm các ngôi sao làm thần tượng cho mình. Họ muốn được trở nên giống người mình yêu thích.Tôi được xem một em bé 9 tuổi, đã bắt chước từ cách ăn mặc, tóc tai, đến điệu nhảy làm sao phải giống như Michael Jackson, vì cậu ta yêu thích thần tường của mình. Chính sự tỏa sáng của các ngôi sao làm cuốn hút giới trẻ.
Cho nên, lời kêu gọi của Gioan làm chứng về ánh sáng là không phải chỉ cho người Do Thái ngày xưa trong hoàn cảnh đau khổ, lưu đày trong sa mạc, họ đang khao khát trông chờ Đấng Cứu Thế để mang lại cho họ bình an, thịnh vượng và hạnh phúc, bằng cách là dọn đường cho Chúa đến, hay nói đúng hơn là dọn lại cõi lòng tối tăm và tội lỗi, để trở về với Thiên Chúa, thì hôm này ngài cũng tha thiết mời gọi chúng ta hãy làm chứng về ánh sáng bằng chính đời sống của mình. Cụ thể, nơi Thánh Gioan, ngài sống bỏ đi cuộc sống vinh hoa, phú quý, của cải trần gian để đi vào sa mạc. Thức ăn thì đạm bạc, mặc đồ thì đơn giản, cách sống thì giản dị, đơn sơ, khiêm tốn…Khi các kinh sư, tư tế đến hỏi ngài là ai? Thì ngài trả lời: “ tôi chỉ là tiếng hô trong hoang đia”. Chứ không tự xưng mình là ông này, bà nọ chức tước, muốn tỏ mình ra cho người khác biết vị thế của mình. Tôi thiết nghĩ ngài là mẫu gương tuyệt vời, là chứng nhân và ánh sáng thiết thực nhất cho chúng ta trong thời đại này. Trong khi đó, con người thường đánh giá nhau bằng những hình thức bên ngoài: địa vị, chức tước, của cải, vật chất v.v. Sở dĩ, chúng ta không thể làm chứng cho ánh sáng Chúa Kitô,vì cuộc sống của chúng ta còn ngập lặn trong tội lỗi, trong sự hận thù, ghen ghét, tính toán hơn thua, nên khi nghe Lời Chúa chúng ta không được đánh động và biến đổi nội tâm, thì làm sao ta có thể làm chứng cho người khác. Hạt giống Lời Chúa chỉ bị mục nát, thối đi, nhưng không sinh hoa quả.
Để làm chứng nhân cho Tin mừng, cho Chúa Nước Chúa hiển trị, thì cần có chứng nhân sống động, những con người dám hy sinh quên mình cho Nước Trời. Sáng thứ Tư, ngày 6-12-2011 vừa qua, tờ báo tin tức hàng ngày của thành phố Utica, New York đã đưa tin. Tòa thánh Vatican đang xét duyệt hồ sơ phong thánh cho chị nữ tu Maria Cope, Nữ tu này sinh sống tại Utica và dâng cả cuộc đời phục vụ cho người phong cùi, và chết tại Hawaii cùng với cha Damien, ngài đã được phong thánh năm 2009.
Trong bóng đêm cần có ánh sáng, thì ánh sáng Lời Chúa hôm nay giúp cho ta biết chọn lựa, biết nhìn lại con đường chúng ta đi. Chính Chúa Giêsu, Ngài là Đường, là sự Thật và là sự Sáng để dẫn lối cho chúng ta đi. Chúng ta hãy vui lên trong niềm vui vì được Con Thiên Chúa đến để cứu chuộc chúng ta, đó cũng là ý nghĩa của chủ nhật thứ ba Mùa vọng, qua lời loan báo của Gioan Tẩy Giả hãy đi dọn đường cho Chúa đến và làm chứng về tình yêu Thiên Chúa giáng sinh. Amen.
Rev.John Nguyen
St.John's Church
240 Bleecker St
Utica, NY 13501
Tel: 817-247-1123
wedsite:www.congdoanutica.org
(Xin đọc Is 61:1-2a,10-11; 1Tx 5:16-24; Ga 1:6-8,19-28)
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Mùa Vọng là mùa của các ngôn sứ. Đọc và suy gẫm Kinh Thánh trong những tuần này trước Lễ Giáng: MV3-B65
Mùa Vọng là mùa của các ngôn sứ. Đọc và suy gẫm Kinh Thánh trong những tuần này trước Lễ Giáng Sinh có thể giúp chúng ta điều chỉnh viễn kiến của chúng ta, đồng thời đào sâu sự tồn đọng về đấng Thiên Sai trong tâm trí chúng ta.
GIOAN TẨY GIẢ, ĐẤNG TIỀN HÔ
Phúc Âm Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng hôm nay đưa ra một hình ảnh về đấng thiên sai. Hình bóng thánh Gioan Tẩy Giả lại một lần nữa xuất hiện trên sân khấu của lịch sử ơn cứu độ. Sứ mạng của thánh Gioan là chuẩn bị cho sự xuất hiện của đấng Thiên Sai. Khi giờ đã đến, thánh Gioan dẫn các đệ tử của mình đến gặp chúa Giêsu và chỉ cho họ biết đấng Thiên Sai, là Sự Sáng Thực và là Chiên Thiên Chúa đấng chuộc tội trần gian. Còn chính thánh Gioan thì không phải là ánh sáng. Thánh nhân đến là để làm chứng cho Ánh Sáng (Ga 1: 6-8). Ngài không dành thời giờ để suy nghĩ về bóng tối mình, nhưng mong để được Ánh Sáng chiếu rọi đến.
Thánh Gioan tự coi mình không xứng đáng là đầy tớ, nô lệ của chúa Giêsu. “Có mộtvị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi. Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người” (Ga 1: 26-27). Khi các đệ tử của thánh Gioan cảm thấy bối rối về việc người mà thầy mình đã làm phép rửa cho ở sông Jordan thì bây giờ lại làm phép rửa cho nhiều người khác cũng ở giòng sông đó, thì bèn đến với thầy mình và nêu thắc mắc thì thánh Gioan đã trả lời họ một cách cương quyết là: “Không, chẳng ai có thể nhậnđược bất cứ điều gì mà phông phải là do Trời ban cho”. Thánh nhân nói tiếp: “thầy chỉ là bạncủa vị hôn phu, thầy phải lu mờ đi trong khi Người phải nổi bật dần lên”(Ga 3: 27-30). Thánh Gioan xác định thánh nhân chỉ là người phàm với tất cả giới hạn của mình.
Một trong những tình cảnh cay đắng nhất trong Tin Mừng thánh Luca là thánh Gioan Tẩy Giả bị tiểu vương Herod cầm tù chỉ vì đã dám công khai chỉ trích nhà vua về tôi thông dâm và loạn luân, cưới người em dâu của mình là bà Herodias làm vợ (Mat. 4: 12; Mac 1: 14; Luc. 3: 19). Cô đơn, chán nản và cũng gần kề cuối đời, thánh Gioan Tẩy Giả đã la lên như một ngôn sứ vĩ đại nhất, và đặt câu hỏi với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có thực sự là đấng phải đếnkhông, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Lc 7: 19). Có lẽ thánh Gioan đã chờ mong một nhà cải cách xã hội rất hăng say nhiệt tình xuất hiện để mang lại một vương quyền thích hợp; và chắc chắn không phải là người có liên hệ với những kẻ nghèo khó, què quặt, mù lòa, bơ vơ cô thế hay những kẻ tội lỗi. Tuy nhiên Chúa Giêsu đến bằng những phương cách bất ngờ nhất và với con người rất khác thường
CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG THIÊN SAI
Chúa Giêsu mời gọi ông Gioan quan sát quang cảnh xung quanh, nhìn xem những việc đã được hoàn thành trong dân gian. Người mù được nhìn thấy ánh sáng, kẻ què đứng dậy đi được. Người bệnh tật, cùi hủi, ốm yếu được lành khỏi và tất cả những ai điếc giờ này đã nghe được, kẻ chết sống lại. Tin Mừng bây giờ được rao truyền cho người nghèo khó (Lc.7: 22). Đó là một kỳ công vĩ đại nhất! Đây quả là một an ủi rất lớn cho chúng ta. Có lẽ chẳng bao giờ chúng ta lại ngạc nhiên, thắc mắc tự đặt cho mình một nghi vấn là: “Người Kitô hữu đã thực sự sống xứngđáng với hai tiếng Kito hữu chưa?” “Chúa Giêsu có thực sự là đáp số cho mọi điều xấu xa buồn phiền của toàn thể nhân loại và của chính cuộc đời của mỗi chúng ta không?”
Đám đông đến với ông Gioan và hỏi “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Gioan Tẩy Giả đã chẳng khuyên ai rời bỏ cái thế giới mà họ đang sống. Tuy nhiên, cách nói như vậy quả là mơ hồ khó hiểu. Đúng ra là ông đã nói “ai có hai chiếc áo thì hãy chia một cái cho người không có”. Tương tự như vậy, “những ai có dư giả đồ ăn thức uống thì hãy san sẻ bớt cho những kẻ nghèo đói khát”. “Những người thu thuế thì đừng có thu quá số chỉ định”. “Lính tráng, công an thì đừng có dùng võ lực hoặc vu cáo mà cướp bóc cưỡng đoạt của cải của dân. Hãy vui vẻ chấp nhận đồng lương của mình”.
Vậy thì chúng ta phải làm gì để sửa soạn, đón nhận đấng Thiên Sai sắp đến?
Hãy quảng đại, lương thiện, công bằng, công chính, biết ơn và từ bi hỷ xả với lòng trắc ẩn cảm thông đối với tha nhân (cf.Lc 3: 10-14).
LỜI KẾT
Cuộc sống và sứ mệnh của thánh Gioan Tẩy Giả thường nhắc nhở chúng ta, báo cho chúng ta biết là chúng ta thực sự cần có một đấng Cứu Thế để cứu rỗi chúng ta. Để được như vậy, chúng ta phải thể hiện ra tất cả những gì mà Chúa đã trao ban cho chúng ta và làm tất cả những gì mà chúng ta phải làm để được sống trong Ánh Sáng. Chúng ta sẽ can đảm ra làm sao, sống tinh thần ngôn sứ như thế nào để chứng tỏ mình là Kito hữu, là chứng nhân cho Ánh Sáng, đấng đã đến trong thế giới loài người của chúng ta? Nhưng buồn thay, rất thường xuyên và nhiều lần, chúng ta đã không nhận ra được đấng ở giữa chúng ta là Ánh Sáng Thực Sự của chúng ta.
Chớ gì thánh Gioan Tẩy Giả ban cho chúng ta sức mạnh và lòng quả cảm để chúng ta có thể đem ánh sáng đến cho mọi người, cả sự quảng đại lẫn khả năng làm cho mọi người mừng vui như chúng ta đang chờ mong. “ Hãy luôn luôn mừng vui và cầu nguyện khôngngừng nghỉ” (1Tx. 5:16-17), như thánh Phaolo viết trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Thessalonians. Chúng ta cũng có thể đảo ngược hai câu trên như sau: “Hãy cầu nguyện không ngừngnghỉ để chúng ta có thể luôn luôn vui mừng”.
Trong lúc cầu nguyện, chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy Chúa ôm ấp, thu thập tất cả những lo âu phiền muộn và hy vọng của chúng ta vào trong tình yêu thương vô bờ bến và sự khôn ngoan của người; Chúa đỡ chúng ta đứng dậy và cho chúng ta một cuộc sống đầy đủ và trọn vẹn với Ánh Sáng Chúa soi chiếu chan hòa.
Sống dưới ách thống trị của đế quốc La-mã dân Do Thái luôn trông chờ một Đấng cứu thế: MV3-B66
Sống dưới ách thống trị của đế quốc La-mã dân Do Thái luôn trông chờ một Đấng cứu thế do Thiên Chúa sai đến. Họ đã mượn nỗi khắc khoải của cha ông thuở trước để cầu xin: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời. Chính vì thế, khi Gioan xuất hiện bên bờ sông Giođan, họ đã phấn khởi vui mừng. Và rồi họ đã cử một phái đoàn đến để tìm hiểu cho cặn kẽ và thấu đáo. Những người này đã hỏi Gioan: Ông là ai, ông có phải là Đức Kitô hay không. Gioan đã xác quyết với họ: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi chỉ là người tiền hô, đi trước để dọn đường cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần. Ông không để cho người ta chú ý tới ông mà trái lại, ông hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Kitô: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Qua sứ điệp của Gioan Tiền Hô, chúng ta rút ra hai điểm thực hành.
Điểm thứ nhất đó là hãy sám hối, cải thiện đời sống. Thực vậy, Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, mà hơn thế nữa Ngài còn đến với chúng ta vào ngày tận cùng của vũ trụ, cũng như vào ngày sau hết của cuộc đời chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn đến với chúng ta mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể. Như thế cuộc đời chúng ta phải là một mùa vọng nối dài. Và trong mùa vọng cuộc đời này chúng ta phải thực hiện ngay sứ điệp của Gioan Tiền Hô, đó là hãy sám hối, dọn đường Chúa đến. Sám hối ở đây không phải chỉ là hối tiếc về những tội đã phạm mà hơn thế nữa còn phải cố gắng uốn nắn sửa đổi để nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Điểm thứ hai, đó là hãy trở nên những tiền hô cho Chúa. Thực vậy, là người Kitô hữu, chúng ta không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà hơn thế nữa, còn phải đem Chúa đến cho người khác. Dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn của mình mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải dọn đường để Chúa cũng đến được trong tâm hồn người khác. Muốn được như thế, chúng ta cần phải có một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó mà dần dần chúng ta có thể cảm hoá được những người chung quanh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa.
Dọn đường Chúa đến trong tâm hồn mình và giúp người khác dọn đường Chúa đến trong tâm hồn họ đó là việc chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng này.
Môi trường chúng ta đang sống hầu như hoàn toàn thiếu vắng những dấu chỉ về sự hiện diện: MV3-B67
Môi trường chúng ta đang sống hầu như hoàn toàn thiếu vắng những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người ta loại khỏi các cơ sở những gì nhắc đến niềm tin Kitô. Không còn ảnh thánh giá trong các bệnh viện và trường học nữa; Lời chứng long trọng thay thế cho lời tuyên thệ; Hôn nhân dân sự đẩy lùi hôn nhân tôn giáo. Người ta không còn khả năng đưa ra những dấu chỉ này nữa: Nhiều trẻ em không biết làm dấu Thánh giá và việc dậy giáo lý làm cho nhiều nhà giáo phải lúng túng.
Dĩ nhiên các thành phố của chúng ta đầy dẫy nhà thờ và chuông còn reo vang. Ở thôn quê, đó đây người ta nhìn thấy những thập giá trên nóc thánh đường và những hang Đức Mẹ. Tuy nhiên xã hội chúng ta sống và được xây dựng như thể Thiên Chúa đã không hề lên tiếng nói với con người, như thể Ngài câm lặng và vắng mặt.
Chúng ta tin rằng Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử loài người chúng ta, nhưng bằng một sự hiện diện kín đáo và vô hình. Sự kín đáo của Thiên Chúa đòi hỏi phải có những chứng nhân. Thiên Chúa cần những chứng nhân trong thế giới này, nơi mà xem ra Ngài vắng bóng và sự hiện diện của Ngài thật kín đáo.
Gioan Tẩy Giả, vị chứng nhân gương mẫu.
Chính kinh nghiệm bản thân làm nên chứng nhân. Gioan Tẩy Giả kể lại cho chúng ta kinh nghiệm của ông: “Tôi không biết Ngài, nhưng Đấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước, chính Đấng ấy đã nói với tôi: Ngươi thấy Thánh Thần đậu xuống trên ai thì chính đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Và tôi đã thấy và làm chứng rằng Ngài là Con Thiên Chúa”. Chứng tá của Gioan dựa trên mặc khải của Thiên Chúa sau này được chứng thực trong một sự kiện mà ông đã thấy. Thánh Thần xuống trên Chúa Giêsu.
Từ kinh nghiệm bản thân này Gioan sẽ làm chứng về Chúa Giêsu bằng lời nói và việc làm. Việc rao giảng của ông gây xôn xao tại Israel: Người ta luôn đến nghe ông giảng và ông ban phép rửa thống hối. Vì ông là con vị thượng tế, tức là một nhân vật quan trọng, nên các chức trách tôn giáo đã được báo động và họ làm một cuộc điều tra: Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa? Ông tuyên bố: “Ở giữa các ông có một Đấng mà các ông không biết”.
Chứng nhân hoàn toàn hướng về một Đấng khác mà mình chỉ là tôi tớ khiêm tốn mà thôi. Gioan tuyên bố mình không đáng cởi dép cho Ngài, tức là làm công việc của một nô lệ.
Kinh nghiệm bản thân, dũng cảm trong lời nói và trong hành động, xóa mình đi, ba đức tính này của chứng nhân, Gioan Tẩy Giả đều có ở mức độ cao.
Người ta đòi hỏi những chứng nhân.
Các giám mục của chúng ta viết: “Kitô hữu có khuynh hướng khép kín về lãnh vực tôn giáo riêng tư nơi gia đình, ở học đường và trong phụng vụ. Họ thoải mái khi ở phòng thánh hơn là ngoài đường phố”.
Đây là một cách nói: Người ta đòi hỏi phải có những người làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô! Chúng ta phải làm gì đây? Mang kèn trống và biểu ngữ diễu hành ngoài đường chăng? Treo vào xe hơi của chúng ta một tấm bảng để tên Giêsu ư? Làm áp lực để tại học đường người ta treo ảnh thánh giá và cho đọc kinh ư? Hoặc là cho Giáo Hội nhiều ảnh hưởng hơn?
Những hành động này không xấu nhưng vẫn còn hời hợt và có nguy cơ áp đặt niềm tin của chúng ta trên kẻ khác.
Ngày nay chúng ta được mời gọi đào sâu kinh nghiệm của mình về Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô trong Tin Mừng. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên vừa cởi mở đối với những kẻ cảm thấy mình xa Giáo Hội vừa phê phán đối với những bất công và những điều vô nhân đạo của xã hội chúng ta.
Xin thánh Gioan Tẩy Giả cảm hứng cho chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa Giêsu và những kẻ phản chiếu ánh sáng của Ngài.
Vào thời Minh Trị thiên hoàng tại Nhật Bản (1860-1912), Nan-in, một thiền sư Nhật, tiếp: MV3-B69
Vào thời Minh Trị thiên hoàng tại Nhật Bản (1860-1912), Nan-in, một thiền sư Nhật, tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về thiền.
Nan-in mời trà. Ông châm trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm như một người đãng trí.
Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cả mặt bàn nên không kìm mình được nữa, liền thưa: "Thưa Thầy, đầy tràn cả rồi. Xin đừng rót nữa".
Thiền sư Nan-in thản nhiên đáp: "Giống như tách trà nầy, đầu óc ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng. Làm sao tôi có thể giải bày thiền cho ông được, trừ khi ông cạn cái tách của ông trước." (Trích: Góp nhặt cát đá của thiền sư Muju, Đỗ Đình Đồng dịch, Lá Bối xuất bản).
Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể rót gì thêm được. Một cái thùng đầy cát thì không thể đổ thêm gạo, bắp hay bất cứ thứ gì. Cũng thế, một tâm hồn đầy kiêu căng, tự mãn, tham lam... thì đâu còn chỗ trống cho Thiên Chúa rót thêm ân sủng vào.
Trang Tin Mừng hôm nay mời chúng ta hãy hướng về một nhân vật quan trọng của mùa vọng là Gioan Tẩy Giả, một con người sẵn sàng trút bỏ mọi tham vọng và hư danh, trở thành tách trà rỗng không; nhờ đó, ông đã được Thiên Chúa rót đầy.
* * *
Người đời bị cuốn hút bởi lợi danh và cố làm gia tăng giá trị mình bằng những lớp vỏ bên ngoài.
Tiêu biểu cho hạng người nầy là những biệt phái thời Chúa Giêsu. "Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong các hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi". (Mt 23, 5-6).
Còn người thời nay thì tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng những đồ trang sức đắt giá, bằng xe hơi sang trọng, bằng dinh thự nguy nga.
Trong khi đó, Gioan chê bỏ những "lớp vỏ" hào nhoáng của người đời. Người chỉ cần cào cào châu chấu trong hoang mạc làm thức ăn; chỉ cần tấm da thú thô sơ làm áo mặc. (Mt 3,4).
Người đời khát khao danh vọng, muốn khoác cho mình nhiều danh hiệu cao sang; còn Gioan thì trái lại, ông tước bỏ hết mọi danh hiệu cao quý mà người đời khoác cho ngài.
Thời bấy giờ Gioan là người tiếng tăm lỗi lạc. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Ki-tô, một tước hiệu cao cả đầy vinh dự. Gioan trả lời với các tư tế và các thầy Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem rằng ông chẳng phải là Đấng Kitô. Ông đã không nhận vơ cho mình một danh hiệu rất cao quý.
Thế rồi có dư luận cho rằng ông là ngôn sứ Ê-li-a vĩ đại giáng lâm, vì theo kinh thánh thì vị ngôn sứ nầy phải đến trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế; Gioan cũng từ chối tước hiệu nầy. Thế là ông lại trút bỏ thêm một vinh dự thứ hai.
Có một số khác nghĩ rằng nếu ông không là Đấng Kitô, không là ngôn sứ Ê-li-a, ít nữa thì ông cũng là một vị ngôn sứ cao cả nào đó. (Ga 1, 21b). Gioan cũng từ khước luôn cả danh hiệu nầy.
Và đang khi nhiều người coi trọng phép rửa của Gioan, đã tuôn đến với ông đông đảo, xin ông làm phép rửa cho mình, thì Gioan khiêm tốn nói rằng phép rửa của ông chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng rất cao cả cử hành mà ông chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng ấy: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." (Ga 1, 26-27).
Và đang khi danh tiếng của Gioan vang dội, còn Chúa Giêsu chưa được nhiều người biết đến, thì Gioan đã tự xoá mình đi, để cho Chúa Giêsu được tỏa sáng. Gioan nói: "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi." (Ga 3,30).
Thế là Gioan đã trút bỏ hết mọi vinh dự người ta gán cho mình, chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu. (Ga 1, 23).
Gioan đã hạ mình xuống, nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Gioan đã trút bỏ mọi thứ vinh quang và của cải, trở thành trần trụi rỗng không, nên Thiên Chúa đã đổ đầy ân sủng cho người. Nhờ đó, Gioan trở nên vị ngôn sứ rất cao cả. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận sự cao cả của ông. "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả" (Mt 11, 11)
* * *
Gioan đã tự xoá mình đi nhưng người đã sáng bừng lên như một ngôi sao trên bầu trời Hội Thánh. Gioan luôn hạ mình xuống nhưng Giáo Hội vẫn hằng ngưỡng mộ người suốt dòng thời gian. Cuộc đời khiêm hạ của thánh nhân mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ nối tiếp.
Lạy Chúa Giêsu, Chiếc ly đời con chất chứa đầy tự mãn, kiêu căng, tham lam, ích kỷ và chúng con vẫn quyến luyến gắn bó với chúng cho đến mãn đời.
Xin thương giúp chúng con có đủ nghị lực và quyết tâm trút bỏ những thứ cặn bã đáng ghét đó đi cho tâm hồn được rỗng không.
Có làm được như thế, chúng con mới trở thành ống sáo rỗng để Chúa tấu lên những khúc hoan ca.
Chỉ khi đó, chúng con mới trở nên một chiếc ly, chiếc bình trống không để cho Chúa rót đầy tình yêu và ân sủng.
Chặng đường Mùa Vọng bước sang tuần III, nghĩa là được nửa đường. Thế nên hôm nay Giáo: MV3-B70
Chặng đường Mùa Vọng bước sang tuần III, nghĩa là được nửa đường. Thế nên hôm nay Giáo Hội không sử dụng màu tím mà sử dụng Hồng, thể hiện niềm vui mừng vì sắp đến ngày Ngôi Hai giáng trần. Khi chờ mong, không thể ngời “chờ sung rụng” mà phải hành động, nghĩa là chúng ta phải “lên đường”…
ĐƯỢCSAI ĐI…
Mỗi Kitô hữu đều được Thiên Chúa sai đi vào giữa cuộc đời để làm nhân-chứng-sống cho Ngài, điều đó thể hiện qua Ngôn Sứ Isaia khi ông nói thay mọi người: “ThầnKhí của ĐứcChúalà ChúaThượngngựtrêntôi, vì ĐứcChúa đã xứcdầutấnphongtôi, sai đibáotinmừngchokẻnghèohèn, băngbó nhữngtấmlòngtannát, côngbốlệnh ânxá chokẻbịgiamcầm, ngàyphóngthíchchonhữngtù nhân, côngbốmộtnămhồng âncủa ĐứcChúa, mộtngàybáophụccủaThiênChúachúngta; Ngườisaitôi điyênủimọikẻkhócthan” ( Is 61, 1 – 2 ).
Đó là trọng trách của mọi người tin tưởng và mong đợi Ngài. Nhưng vấn đề là Chúa không sai ai đến với người giàu sang, người quyền cao chức trọng, người ăn trên ngồi trước… mà Ngài sai chúng ta đến với kẻ nghèo hèn, người đau khổ, tù nhân, người bị bỏ rơi, kẻ bị khinh miệt, kẻ cùng đinh… Nhưng thực tế xã hội thường đi ngược lại, nghe “lời sai đi” kia cho xong lần, qua tai rồi thôi, sau đó có thể lại tự hành động theo ý mình. Có lẽ vậy mà người nghèo khổ và kẻ thấp cổ bé miệng vẫn không thể ngóc đầu lên được, nhân vị của họ vẫn bị chà đạp, nhân phẩm của họ vẫn bị bôi nhọ, và nhân quyền của họ vẫn bị tước đoạt ! Chính Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã xác định trong tông thư Tân Sự ( Rerum Novarum, 15.5.1891 ): “Sự nghèo khổ không là điều hổ thẹn” ( a. 37 ).
Có ra đi, vào đời và hành động theo hướng dẫn của Thiên Chúa thì chúng ta mới có thể “như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” ( Is 61, 11 ).
Kinhnghiệm đầymìnhnênThánhPhaolô đoanchắcvớichúngtanhư đinh đóngcột: “Đấngkêugọianhchịemlà Đấngtrungthành: Ngườisẽthựchiện điều đó” ( 1Tx 5, 24 ). Thếthì trêncảtuyệtvời ! Vì chínhChúaGiêsu đã cầuxinChúaCha: “LạyCha, conmuốnrằngconở đâuthì nhữngngườiCha đã banchoconcũngở đó vớicon, đểhọchiêmngưỡngvinhquangcủacon, vinhquangmà Cha đã banchocon, vì Cha đã yêuthươngcontrướckhithếgian đượctạothành” ( Ga 17, 24 ). Nhưngcũngcần điềukiện, điềukiện đó khôngvì lợi íchchoChúamà vì lợi íchchochínhchúngta. Đó là…
…LÀMNHÂNCHỨNG
Trước khi sai Con Một Giêsu đến thế gian, Thiên Chúa đã sai ông Gioan đến chuẩn bị trước. Ông được gọi là tiền hô, ông không là ánh sáng nhưng ông đến để “làmchứngvề ánhsáng đểmọingườinhờ ôngmà tin” ( Ga 1, 7 ).
NhiềungườiDoTháitừGiêrusalemcửmộtsốtư tếvà mấythầyLêvi đếnhỏi ôngGioan: “Ônglà ai ?” Ôngtuyênbốthẳngthắn: “Tôikhôngphảilà ĐấngKitô”. Họlạihỏi ông: “Vậy ôngcó phảilà ông Êliahaylà vịngônsứchăng ?” ThánhGioanvẫnnói “không”. Họhỏidainhư đỉa đóinênThánhGioan đànhnóithật: “Tôilà tiếngngườihô tronghoang địa: Hãysửa đườngchothẳng để ĐứcChúa đi, như NgônSứIsaia đã nói” ( Ga 1, 23 ). ThánhGioanthậtkhiêmnhukhitựnhậnlà “tiếnghô tronghoang địa”.
Nghe vậy, mấy người thuộc phái Pharisêu nhíu mày và tròn mắt ếch: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ ?” Đúng là bọn người “ma mãnh” mà lại quá chậm tiêu ! Ông Gioan trả lời rành rọt: “Tôi đâylàmphéprửatrongnước. Nhưngcó mộtvị đangởgiữacác ôngmà các ôngkhôngbiết. Ngườisẽ đếnsautôivà tôikhông đángcởiquaidépchoNgười” ( Ga 1, 27 ). Thánh Gioan lại một lần nữa khiêm nhu khi nói mình “không đáng cởi quai dép” cho Đấng đến sau ông.
Khiêm nhu là nền tảng mọi nhân đức, nhưng cũng là nhân đức khó thực hiện. Ai cũng muốn được khen. Đó là bản tính bình thường của nhân loại. Không ai muốn bị chê, nhất là những người có chức quyền, danh vọng, địa vị, “tai mắt” trong thiên hạ… Tự ái là yêu mình, yêu mình là điều cần, nhưng đừng yêu mình quá. Đôi khi “chiếc ghế quyền lực” còn được người ta coi trọng hơn danh dự. Thực tế xã hội đã và đang cho chúng ta thấy rõ như vậy. Đó là một “hội chứng” đáng quan ngại, ngày nay người ta thường gọi là chủ nghĩa: Chủ nghĩa quyền lực và chủ nghĩa hưởng thụ.
Người Việt thường nói “Văn mình, vợ người”. Quả thật, văn mình lúc nào cũng hay, và vợ người bao giờ cũng đẹp. Người ta luôn muốn chứng tỏ mình đúng và “bản lĩnh” của mình hơn hẳn người khác. Ai “chạm” vào quyền lợi của mình thì “có chuyện”, dù chỉ là chuyện không đáng gì. Thật vậy, chỉ nhìn thấy “ngứa mắt” mà người ta cũng sẵn sàng “xử” nhau theo “luật rừng”: Đánh cho bõ ghét hoặc giết cho biết tay. “Cái tôi” và “máu tự ái” luôn sẵn sàng dâng cao như sóng thần. Sống khiêm nhu khó thật !
Vĩ nhân Mohandas Karamchand Gandhi ( 2.10.1869 – 30.1.1948 ) được dân Ấn Độ tôn là thánh nhân và gọi ông là Mahatma ( Tâm Hồn Vĩ Đại ). Ông nói: “Nếu người Kitô giáo sống đúng như Chúa Giêsu, tôi theo đạo ngay”. Một câu nói khiến chúng ta phải suy nghĩ nhiều, vì Chúa muốn chúng ta phải là những nhân chứng sống thực sự.
Hãy cho tôi biết những việc bạn làm, những điều bạn nghĩ… tôi sẽ nói cho bạn biết bạn là ai: MV3-B71
Hãy cho tôi biết những việc bạn làm, những điều bạn nghĩ… tôi sẽ nói cho bạn biết bạn là ai ? Câu trả lời bạn là ai rất quan trọng, vì chưng nó sẽ cho biết bạn có thuộc về Thiên Chúa hay không ?
Thực tế, có rất nhiều người mang danh Kitô hữu nhưng chẳng thấy Chúa Giêsu ở đâu trong họ cả, lấy đâu việc làm chứng cho sự hiện diện của Ngài. Thời đại này là thời đại của Thánh Thần, là thời đại chứng nhân. Đức Giêsu đã đến, đã sống và làm chứng. Thánh Thần Tình Yêu kiện toàn những gì Ngài đã rao giảng. Bổn phận của những kẻ tin, bước theo Đức Giêsu chính là làm chứng cho tình yêu và ơn cứu độ của Ngài.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã khẳng định vai trò của mình, đó là vai trò của người được Thiên Chúa sai đến, vai trò của người được Thiên Chúa tuyển chọn, vai trò của người làm chứng. Ông đã thẳng thắn biểu lộ sự thật về mình cũng như khẳng định vị thế của Thiên Chúa. Ông không tự cho mình là ánh sáng, nhưng được sai đến để làm chứng về Ánh Sáng ( x. Ga 1, 6 – 8 ). Chính Thiên Chúa là Ánh Sáng Chân Lý đến trần gian để phá tan, để đẩy lùi bóng đêm tội lỗi và sự chết.
Căn bệnh nguyên thủy của thời đại đó chính là căn bệnh tham mê danh vọng. Sở dĩ đã bao nhiêu thời đại qua đi mà Thiên Chúa vẫn không mấy được nhận biết một phần là do sự tự mãn của nhân loại. Thay vì chứng nhân quyền uy, sức mạnh và tình thương của Thiên Chúa, con người lại tự vỗ ngực xưng tên, mua danh bằng công việc của Ngài.
Phép rửa mà Thánh Gioan làm trong nước không phải do bản thân ông có khả năng tha tội hoặc được quyền tha tội, nhưng đều do Thiên Chúa ủy thác. Chỉ có Đấng vô tội mới có quyền tha tội. Phép Rửa của Ngài là phép rửa trong Chân Lý và Sự Thật, trong Thánh Thần và Tình Yêu.
Con người lạm dụng hoặc hiểu sai về Thiên Chúa cho nên đã đi chệch đường lối Ngài. Hơn bao giờ hết, ngày nay Giáo Hội rất cần những chứng nhân, Giáo Hội rất cần những con người can đảm làm chứng cho Ánh sáng cứu độ. Giữa một thời đại nhiễu nhương sự ác, bóng tối và ánh sáng chen lẫn, trà trộn, xô bồ, một cảm thức vô thần đang dần dần xâm chiếm tâm trí nhân loại. Người ta không cần biết đến Thiên Chúa là ai, cũng chẳng quan tâm đến đạo đức nhân phẩm con người. Một thế giới mà ở đó con người mải miết xâu xé, sát hại lẫn nhau chỉ vì tiền tài, danh vọng, tình yêu và nhục dục. Thiên Chúa bị bóp nghẹt, Ngài không được nhân loại biết đến, Ngài cũng chẳng được đón nhận. Thế giới chối bỏ Thiên Chúa, nhân loại từ khước tình yêu và uy quyền của Ngài. Chưa kể đến số đông những con người mang danh Kitô hữu mà lại giết chết sự hiện diện của Đức Kitô qua thái độ sống của mình.
LạyChúa, ThánhGioanTiềnHô đã can đảmnóilênsựthậtvềmìnhcũngnhư sựthậtvềThiênChúa. Khôngnhữngthế, Ngàicòndùngcảcuộcsống đểchứngnhânchonhững điềumìnhraogiảng. Xingiúpcon ý thứcbảnthânchínhlà muối, là men, là ánhsángThiênChúamuốn đặtconvàotrầngian.
Tiếng của Gioan Tẩy Giả vang vọng từ sa mạc hoang vu đến tận thế giới, đến với những con người MV3-B72
TiếngcủaGioanTẩyGiảvangvọngtừsamạchoangvu đếntậnthếgiới, đếnvớinhữngconngườithànhtâmthiệnchí. Tiếngcủa Ôngnóilênniềmhyvọngbởivì thốnghốimà Ôngraogiảnglà trởvề, là cảithiện, là làmmớicõilòng để đónchờChúa đến. Tiếnghô của Ônglàmchomọingườiphảisuynghĩ, thay đổi:” đồinúiphảibạtxuốngchobằng, hốsâuphảilấpcho đầy, quanhcophảiuốnchongaythẳng “. ĐiềuGioanTẩyGiảmuốnnóilà làm đẹpnộitâm, làm đẹpcõilòng đểChúangự đến.
Vâng, GioanTẩyGiảchỉlà tiếnghô trongsamạc, dọn đườngcho ĐấngThiênSai. TiếngcủaNgàimang đếnniềmhyvọngchoconngười. Tuynhiên, tiếnghô của Ông, niềmhyvọng Ôngmanglạikhôngphảilà sựhyvọng đầutiên.Bởitrước Ông, tiêntriIsaia đã loantruyền, côngbốniềmhyvọng.Ôngloanbáosựhyvọngchoconngườikhi đượcThiênChúaxứcdầusai Ông đi.Ôngcôngbốsựanủi, niềmcậytrông, băngbó nhữngtâmhồnbịtannátdàyvò, phóngthíchkẻtù tộivà giảioanchonhữngngườibị ápbức. Ôngloantruyềnmột ĐứcChúasẽgiảiphóngmọingườikhỏi áchnô lệtộilỗi, đemlại ơncứu độchoconngườivv…TrướcGioanTẩyGiả, MẹMaria, NữtỳcủaThiênChúa, được đắcsủngnơiThiênChúa.Mẹ đã nóilờixinvâng đemlạitràn đầyhyvọngvà hạnhphúccholoàingười, chomuônngười.
1.Gioan là ai ? 2.Tại sao lại gọi Gioan là chứng nhân ? 3.Mỗi người chúng ta phải trở nên chứng nhân như thế nào ? 4.Gioan Tẩy Giả có phải là chứng nhân đầu tiên loan báo Đức Giêsu Kitô hay không ?
MV3-B73. NHẬN BIẾT ĐẤNG CỨU THẾ
Chúa Nhật Hồng, có tin vui: Đấng Cứu Thế sắp đến. Nhưng Đấng Cứu Thế là ai để mọi : MV3-B73
Chúa Nhật Hồng, có tin vui: Đấng Cứu Thế sắp đến. Nhưng Đấng Cứu Thế là ai để mọi người nghênh đón ? Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo về Người:
Thần Khí của Đức Chúa ngự trên Người, vì Đức Chúa đã xức dầu cho Người, sai Người “đemtinmừngchongườinghèokhó, băngbó nhữngtâmhồn đauthương, báotin ânxá chonhữngkẻbịlưu đày, phóngthíchchonhữngtù nhân, côngbốnămhồng âncủaThiênChúa” ( Is 61, 1 ).
Vâng, nay lời tiên báo ứng nghiệm. Nhưng tiếc thay, có người không nhận ra, không biết Người, như Thánh Gioan nói: “Người đangởgiữacácngươi, mà cácngươikhôngbiết” ( Ga 1, 26 ).
Các tư tế và Lêvi không biết và không nhận ra Đấng Cứu Thế vì họ tự phụ với vốn học, vốn hiểu biết của họ. Họ muốn nhìn thấy một Đấng Cứu Thế làm theo ý họ là khôi phục lực lượng Israel để chiến đấu, chiến thắng và thống lĩnh, cai trị… hơn là họ phải làm theo ý của Đấng Cứu Thế phục vụ yêu thương những người cùng khổ.
Họ không tin lời chứng của ông Gioan, người được sai đến để dọn đường cho Thiên Chúa, vì ông Gioan quá tầm thường chăng ? Ông Gioan chẳng là gì trong mắt họ. Có thể là như vậy. Một vị tiền hô trang phục không giống ai, ăn uống không giống ai, và cả việc làm cũng chẳng giống ai. Họ không tha thiết đến việc ăn năn sám hối và nhận phép rửa của ông Gioan để tỏ lòng sám hối đón Chúa đến.
Và khi không tin lời chứng của Thánh Gioan, và chuẩn bị đón Chúa đến bằng sự khiêm nhường sám hối thì việc nhận ra Đấng cứu thế ở giữa họ càng trở nên khó khăn hơn, nếu không nói là không thể biết, không thể nhận ra.
Thiên Chúa muốn chúng ta nhận ra Người, không nhờ vào vốn học thức, vốn hiểu biết, nhưng nhờ vào sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần trong Đức Tin, như lời Thánh Phaolô dẫn giải: “Anhemthânmến, anhemhãyvuimừngluôn. Hãycầunguyệnkhôngngừng. Trongmọiviệc, hãycảmtạChúa. Vì đó là thánh ý ThiênChúavềtấtcảanhemtrongChúaGiêsuKitô. ĐừngdậptắtThánhThần; đừngkhinhkhicáclờitiêntri, nhưnghãynghiệmxétmọisự, điềugì tốthãygiữlại. Hãytránhxasựdữdướimọihìnhthức” ( 1 Tx 5, 16 – 22 ).
Thời nào, con người cũng cần có vốn học thức. Học để hiểu biết. Học để sống. Học để nên người. Cha Mẹ nào cũng lo cho con cái có chút vốn học thức. ( Tội nghiệp cho các cha mẹ có ước muốn tốt lành ấy, nhưng lực bất tòng tâm ). Giáo Hội cũng tha thiết mời gọi con cái mình có vốn học thức, nhưng không chỉ để cho nên người mà còn là cho nên người nhận biết Thiên Chúa và nhận biết mình là con cái Thiên Chúa.
Tôi bống nhớ đến một minh họa cụ thể nhất là nỗ lực của các Giáo Sĩ Tây Phương đã sáng lập chữ Quốc Ngữ, để con dân Việt Nam được học về Chúa và học sống với Chúa. Như thế mục đích ban đầu của chữ Quốc Ngữ đã rõ ràng, không ai có thể chối cãi được. Thiết tưởng chữ Quốc Ngữ Việt Nam đối với người Việt Nam là một hồng ân hơn là phát minh của khoa ngôn ngữ học.
Từ ấy, một người đã nhận được chữ Quốc Ngữ, thông thạo chữ Quốc Ngữ thiết nghĩ phải biết tạ ơn Chúa, ca tụng Chúa và làm cho sáng danh Chúa, và đừng như “conchimhaynói, nó nóitàolao, khôngcó đứanào, dạychotaonói”.
Từ chữ Quốc ngữ đến vốn học. Vốn học con người được bao nhiêu ? Tại sao con người còn phải học nữa, học mãi, học cho đến mãn đời ? Có người phải học nữa học mãi vì kiêu ngạo, vì muốn thống lĩnh kẻ khác. Nhưng cũng có người học nữa học mãi vì khát khao Thượng Trí và họ đã ngộ ra, Thượng Trí ấy chỉ có nơi Thiên Chúa. Như vậy, vốn học chân chính là vốn học dẫn đến Thiên Chúa, trí thức chân chính là trí thức phát xuất từ Thiên Chúa, sự hiểu biết chân chính là sự hiểu biết vinh quang của Thiên Chúa.
Có uổng công cha mẹ không, uổng công Giáo Hội không, nếu chúng ta dùng chính chữ Quốc Ngữ để rắc gieo tin buồn thay cho Tin Mừng, rắc gieo chia rẽ hận thù thay cho hiệp nhất yêu thương, rắc gieo sự dữ của Satan thay cho sự lành của Thiên Chúa ? Bởi đâu dẫn đến sự bi đát này ? Thiết tưởng bởi “Người đangởgiữacácngươi, mà cácngươikhôngbiết”.
Mỗi chúng ta, những Kitô hữu đã được xức dầu tái sinh và thánh hiến qua Bí Tích Rửa Tội, đã nhận lấy Thánh Thần qua Bí Tích Thêm Sức, hẳn cũng nhận lấy một phần sứ mạng của Hội Thánh: đem Tin Mừng cho người nghèo khó… Nhưng trước tiên, là phải nhận biết Chúa đang ở giữa chúng ta, một Thiên Chúa thực hiện chương trình của Ngài, không phải thực hiện kế hoạch của chúng ta.
Chúa Nhật Hồng, có tin vui Đấng Cứu Thế đến. Lời Chúa mời gọi mỗi chúng ta khiêm tốn mà nhận biết Chúa đang hoạt động khắp nơi trong Giáo Hội, dưới tác động của Chúa Thánh Thần; đồng thời cộng tác với Chúa đem Tin Mừng cho anh em. Sứ điệp ấy còn yêu cầu chúng ta hy sinh lý trí nhỏ nhoi, sự khôn ngoan thấp bé, vốn học hữu hạn của mình, để nhường chỗ cho khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa tác động trong mọi tình huống cuộc đời.
Nói ra sợ mất lòng em, Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa.” ( dẫn từ thơ Nguyễn Bính : MV3-B74
“Nóirasợmấtlòngem, Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa.” ( dẫn từ thơ Nguyễn Bính )
Nhà thơ vì sợ mất lòng nên không nói. Vì có nói ra thì lòng mình nay cũng mất. Nhà Đạo tuy có lòng nhưng không sợ mất. Có sợ chăng, chỉ sợ mất tính chân phương, lành thánh rất đích thật,
Tin Mừng theo Thánh Gioan nay nói về tính chân phuơng chốn quê mùa của Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả rất thánh, ngoài tính đơn sơ chân thật của đấng bậc ở quê làng, đồng nội, còn là nhân chứng cho công trình Nhập Thể của Chúa Giêsu nữa.
Tin Mừng theo Thánh Gioan viết, ngoài tính chất thấy rất rõ ở lời tựa, còn là bài chia sẻ, giảng dạy ở đền thờ để người người dựa vào đó mà suy tư các bài đọc ở Cựu Ước. Thoạt khi mới đọc, người người tưởng như nghe lại truyện kể rất xưa cũ nay áp dụng vào với thời đại mình sống, với dụng đích để người đọc kinh ngạc rồi thức tỉnh và hiểu biết việc Chúa làm. Tin Mừng còn kể về trình tự sáng tạo trời đất để dẫn giải ý nghĩa rất căn nguyên của bản văn súc tích, chất đầy nhựa sống.
Dẫn giải Kinh Sách Cựu Ước về công trình sáng tạo trời đất, Thánh Gioan Tông Đồ ghi lại đoạn sách Châm Ngôn coi Đức Khôn Ngoan như người thành thân và thành nhân. Văn phong đoạn sách về Đức Khôn Ngoan ra như có trước Đạo của người Do Thái. Bởi, sách này xuất tự thế giới Do Thái, có những điều được xác định: “Đức Chúa dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Ngài, trước mọi công trình của Ngài từ ngàn xưa” ( Cn 8, 22 ). Thêm vào đó, sách Châm Ngôn nói Đức Khôn Ngoan hiện diện với con người bằng khẳng định: “Đức Khôn Ngoan xuất hiện trên trái đất và lưu lại ở với con người” .
Cũng nên hiểu, Đức Khôn Ngoan đến với thế giới gian trần trước thời Chúa tới. Nhưng vẫn không được đón nhận dù Đức Khôn Ngoan là Ánh sáng cho muôn dân. Thế nên, Ngôi Lời Nhập Thể là cách Chúa dùng vào việc chỉnh sửa vấn đề này. Đây là tính độc đáo của Tin Mứng theo Thánh Gioan.
Thật ra, Thánh Gioan mượn ý và lời về Đức Khôn Ngoan là từ các học giả Do Thái để nói rằng thánh nhân không tạo ra Đức Khôn Ngoan hoặc Ngôi Lời Nhập Thể, mà Gioan chỉ tạo nên tính độc đáo cho Tin Mừng mình đã viết, qua khẳng định: “Lời đã thành xác phàm và lưu lại nơi chúng tôi” ( Ga 1, 14 )
Giáo huấn của Đạo khởi sự ngay từ đây. Thánh Gioan lại quả quyết: Đức-Khôn-Ngoan-Ngôi-Lời đã từ trời nhập thể với Đức Giêsu. Từ đó, trở thành ánh sáng rất huy hoàng, làm Bậc Thầy Dạy Nhân Hiền về thời ấu thơ của Chúa đến với nhân trần. Với Gioan, đây là lý do khiến Chúa thành phàm nhân, rất Khôn Ngoan.
Khi xưa, Môsê là bậc thầy cao cả của Do Thái. Ông giảng dạy cho chúng nhân bằng Luật Torah. Còn, Đức Giêsu hoàn thành sứ vụ của Môsê bằng xương thịt Ngài qua mầu nhiệm nhập thể và nhập thế. Luật Torah chỉ cần đến bậc giảng dạy tốt lành, thôi. Còn Ngôi Lời Nhập Thể là Bậc Thày Đích thật chuyên giảng và dạy về công trình Cứu Độ của Chúa bằng xương thịt cùng máu mủ của Người Con Chúa. Qua Môsê, Chúa dùng bản Luật Torah, để người người hiểu được Ngài. Và qua Đức Giêsu, Ngài gửi đến dân gian chất giọng Ngài nhập thể nơi xác phàm và miệng của Chúa.
Ngôi Lời Nhập Thể là Vị Thầy Dạy rất tốt lành, là Đấng Giảng Dạy thành tựu hơn cả lời lẽ với chữ viết. Ngài là sự Khôn Ngoan có kiến thức rất sách vở nhờ công trình Nhập Thể nay thành hiện thực. Chính Đức-Khôn-Ngoan-bằng-xương-bằng-thịt nay tạo nên sự khôn ngoan cho chúng nhân có thịt cùng xương máu ngõ hầu tỏ bày ý nghĩa để người người hiểu, bằng vào phạm trù của chính mình.
Nhờ thế, dân con Đạo Chúa mới xác tín được điều này và rồi sẽ cùng thân mình Chúa đề ra nhiều điều mới mẻ để người người ở xã hội có thể trở thành người thật. Tất cả tin rằng tính chất rất “người” của con người nay trở thành nôi ấm tình nồng để Chúa Nhập Thể và nhập thế. Và nhờ đó, họ sẽ tin: sự sống mới đến với nhân gian loài người, nhờ Đức Giêsu tái lập và định hình những gì liên quan đến bản thể người của con người.
Đức Giêsu Nhập Thể là Khởi Đầu rất khác biệt của nhân loại nay nhân rộng, ngõ hầu họ làm được những gì mà trước đó người trần không thể làm. Sự Sống của Ngài là Khởi đầu, là Quà Tặng, là sự Thành Tựu cho mọi thành tựu. Tổng trấn Philatô khi dẫn Đức Giêsu trình diện dân Do Thái ông đã có câu nói để đời: “Này là Người !” ( Ecce Homo ! ) Câu này phải hiểu: điều ông nói mang ý nghĩa một khẳng định: “Này là nhân loại đổi mới. Là nhân sinh rất mới của con người !”
Nhờ Nhập Thể, ta có được sự thân mật cần thiết chưa từng có giữa Thiên Chúa và loài người. Nhờ Nhập Thể, người người đã mở rộng đất cho sự sống mới để dân con nhờ đó mà sống sinh động. Nhờ Nhập Thể, Thiên Chúa đối xử với con người như Người Cha Nhân Hiền. Và nhờ đó, tất cả chúng ta được sáng tạo theo cung cách “sống ở nhà”, nghĩa là: cung cách của con trẻ “ở với cha mẹ” theo nghĩa Chúa Giêsu vẫn từng làm với Cha Ngài. Và theo nghĩa Thiên Chúa “ở tại nhà” với Đức Giêsu.
Kết quả là, nhân loại nay có được sự tự do để sống với Chúa. Thứ tự do chưa ai tưởng tượng nổi, hoặc nghĩ ra. Tự do vì mình sẽ không còn hãi sợ điều gì. Tự do vì mình có thể tin vào ai đó cũng tự do. Và kết quả là: ta có sự tự do sờ chạm, chữa lành và tha thứ cho nhau như Đức Giêsu đã hiện thực cho Cha bằng cách ra khỏi bản chất rất Thiên Chúa của Ngài, để đến với con người hầu Ngài sẽ sờ chạm, chữa lành và tha thứ cho mọi người, ở trần thế.
Sống và làm thế, cũng rất nguy. Nguy là bởi ta tin vào nhiệm tích Chúa Nhập Thể và nhập thể giống như Chúa. Tức sống cuộc sống mà hệ thống chính trị và tôn giáo ở đời không thể hiểu được tại sao ta lại sống như thế. Và hệ thống ở đời đã và đang tìm cách trừ khử những ai quyết sống nhập thể và nhập thế, giống như ta. Sống nhập thể và nhập thế, là tạo sự kinh ngạc lớn. Kinh ngạc là: nó không giúp ta thích nghi với qui ước do người đời thiết lập. Sống hiện thực theo cung cách nhập thể, buộc ta phải xét lại xem mình là ai. Mình đã làm gì để Chúa có thể Nhập thể và nhập thế vào nơi ta mà sờ chạm chính con người của ta. Có như thế, ta mới có thể sờ chạm Ngài, bởi Ngài đã nhập thể và nhập thế làm người như ta và với ta bằng xương bằng thịt.
Không ai có thể tạo sự thật vĩnh cửu được như thế. Cũng chẳng ai tạo được công thức toán học mới mẻ như thế, để mà sống. Nhưng ta là cộng đoàn có Chúa-ở-cùng-và-ở-với bằng công việc Ngài từng làm và sẽ làm sau cái chết và sống lại hiển vinh, là khoảnh khắc quyết định mọi sự nay khác trước. Khác, như một tạo thành rất mới mẻ. Khác vì ta được tạo dựng bằng xương bằng thịt nơi Ngài và qua Ngài. Khác, để ta có thể sống cho nhau, vì nhau mà sống với Chúa. Và, cho Chúa.
Hội Thánh không là hệ thống tư tưởng đơn điệu, có sẵn, dễ tiêu hoá. Ngay cả ý tưởng về Đức Giêsu Nhập Thể cũng như thế. Như thế, do bởi Hội Thánh chính là thực thể qua đó người người có thể bám víu vào mà nhìn sự việc theo chiều hướng khác hẳn về Thiên Chúa. Và về nhân loại. Tuy nhiên, vấn đề còn tuỳ thuộc cung cách ta mong muốn và dự tính sẽ sống ra sao. Tuỳ cung cách mà người người vẫn sống và cứ sống. Sống không cần biết là thế giới ta chung đụng sẽ lớn rộng như thế nào. Và tất cả sẽ tuỳ thuộc tính nghiêm túc mà con dân trần thế được Chúa chấp nhận, ngang qua việc Ngài nhập thể và nhập thế.
Phụng Vụ Hội Thánh chọn Tin Mừng hôm nay tập trung vào chuyện Thánh Gioan Tẩy Giả như chứng nhân từng sống đời nhập thể và nhập thế với mọi người. Chính vì thấy được tính dịu hiền và ân huệ đích thực nơi bản thể “người” của Đức Giêsu mà thánh Gioan Tẩy Giả đã thành nhân chứng cho Chúa, Đấng chấp nhận thân phận làm người, để sống với con người. Thánh Gioan Tẩy Giả từng sống như Ông Già Tuyết trên mức tuyệt vời, hơn cả Ông Già Tóc Trắng rất Noel, từng chứng tỏ cho mọi người thấy ai là Đấng đến để ở với ta, vào lễ hội rất “Emmanuel” này.
Trong tâm tình cùng Chúa và với Chúa sống đời nhập thể và nhập thế, ta hân hoan tưởng nhớ lời thơ chân quê, để vui hát:
“Hoa chanh nở giữa vườn chanh, Thầy u mình với chúng mình chân quê. Hôm qua em đi tỉnh về, Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.” ( Nguyễn Bính – Chân Quê )
Nhập thể và nhập thế rất hôm nay, là nhập vào tính chân quê với thầy u thương mến rất Nước Trời. Ở nơi đó, có Chúa-ở-cùng-con-người. Có người anh, người chị ở Hội Thánh Nước Trời, đã cùng mình sống tính chân quê hiền hoà, rất thánh hoá. Hôm nay và tương lai mai ngày.
Gio 1:6-8. 19-28: 6Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. 7Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
19Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai?” 20Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô.” 21Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không? " Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không.” 22Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” 23Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. 24Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. 25Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?” 26Ông Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. 27Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” 28Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.
Tin mừng chúa nhật nầy gồm hai đoạn 1:6-8 và 1:19-28 thuộc 2 văn mạch khác nhau, tuy: MV3-B75
Tin mừng chúa nhật nầy gồm hai đoạn 1:6-8 và 1:19-28 thuộc 2 văn mạch khác nhau, tuy nhiên đều nói về Gioan, là chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô. Đoạn 1:6-8 nằm trong văn mạch của 1:1-13, nói về Ngôi Lời là ánh sáng (1:1-5) và Ngôi Lời đã đi vào lịch sử (1:6-13). Đoạn 1:19-28 nói về Gioan và công việc của ông.
Trong tin mừng Gioan, làm chứng là sứ mạng chính của Gioan, không phải là làm phép rửa (1:7[2].8.15.19.32). Để làm chứng, Gioan phải là một con người và được Thiên Chúa sai đến (c.6). Là con người, để Gioan có thể nói cho con người điều ông đã thấy và đã tin. “Được Thiên Chúa sai đến”, vì sứ mạng của ông là làm chứng cho Con Thiên Chúa (3:27). Bởi đó, Gioan không làm chứng cho một điều, mà cho một người. Mục đích của Gioan là làm cho mọi người tin vào Chúa Giêsu (c.7), để họ được làm con Thiên Chúa (1:12) và không còn thuộc về bóng tối nữa (1:5; 11:10; 12:35).
Chúa Giêsu là ánh sáng của trần gian (1:4; 9:5; 11:9; 12:35.36.46). Ánh sáng ấy là sự sống (1:4;8:12[2x]) và cũng là sự thật (1:9; 3:21). Gioan làm chứng cho ánh sáng, có nghĩa là làm chứng cho một sự sống Chúa Giêsu đang mang đến (1:15-16; 6:41.48.51) và một sự thật: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (1:32.35; 5:33). Đón nhận chứng từ của Gioan, nghĩa là tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là sự thật và sự sống (14:6) để được trở nên con cái Thiên Chúa (1:12). Khước từ chứng từ của Gioan là khước từ Chúa Giêsu và tiếp tục sống trong bóng tối (1:5; 8:12).
Gioan là chứng nhân, không phải là ánh sáng (1:8). Bởi đó, Gioan từ chối nhận mình là Đấng Kitô hay là Êlia. Ông nhận mình không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng đang đến. Thành ngữ egô ouk eimi “Tôi không là” mà Gioan dùng cho mình (c.20.21.27; 3:28) đối nghịch với egô eimi “Tôi là”, được dùng độc nhất cho Chúa Giêsu: “Tôi là tôi” (4:26; 6:20; 13:19; 18:5.6.8), “Tôi là bánh ban sự sống” (6:41.48.51), “Tôi là ánh sáng trần gian” (8:12; 9:5), “Tôi là…” (10:9.11.14; 11:25; 14:6; 15:1.5; 18:37). Chính cách nói nầy cho thấy Chúa Giêsu, là ánh sáng, ngày mỗi tỏa sáng lên, còn Gioan, như là chứng nhân của ánh sáng, ngày mỗi tan biến dần (3:30). Gioan giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của mình, và họ đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu (1:35-42), dân chúng đến với Chúa Giêsu thay vì đến với Gioan (3:26) và cuối cùng chết âm thầm trong ngục tối (3:24). Gioan, một chứng nhân chân thật và khiêm tốn vô hạn (10:41).
Gioan không là chứng nhân duy nhất của Chúa Giêsu. Chúa Cha (5:32.37; 8:18), Kinh Thánh (5:39), công việc của Chúa Giêsu (5:36; 10:25), chính Chúa Giêsu (8:14.18), Thánh Linh (15:26) và các môn đệ (15:27) tất cả đều làm chứng một điều: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Đến trần gian, Chúa Giêsu cần chứng nhân, vì không dễ tin Người là Con Thiên Chúa. Nếu tin, sẽ được làm con cái của Thiên Chúa. Nếu được làm con cái của Thiên Chúa, tất phải sống như con cái của Người.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 1:6-8,19-28)
Chúa Nhật trước chúng ta đã nghe Tin Mừng Mác-cô nói với chúng ta về con người và hoạt: MV3-B76
Chúa Nhật trước chúng ta đã nghe Tin Mừng Mác-cô nói với chúng ta về con người và hoạt động của thánh Gio-an Tẩy Giả. Hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa lập lại đề tài này dựa trên tường thuật của Tin Mừng Gio-an và nhấn mạnh đến sứ vụ của ngài: “Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin”. Khẳng định ngắn gọn này quả thực đã đầy đủ: Gio-an Tẩy Giả đến để làm chứng về ánh sáng tức là làm chứng về Chúa Giê-su và mục đích của việc làm chứng này là để mọi người nhờ ông mà tin vào Chúa Giê-su. Chúng ta cũng có thể áp dụng điều này cho chính chúng ta. Là Ki-tô hữu, chúng ta xác tín rằng chúng ta có cùng một sứ mệnh phải làm chứng nhân cho Chúa, để nhờ chứng từ của chúng ta người khác sẽ tin vào Chúa hơn.
Thánh sử Gio-an đã trình bày việc làm chứng của ông Gio-an Tẩy Giả qua những mẩu đối thoại giữa ông với những người đến hỏi ông cùng một câu hỏi “Ông là ai?” Nhận xét về con người và nhất là lời rao giảng khác thường cũng như phép rửa ông Gio-an làm cho dân chúng, những người đến chất vấn ông đều dành cho ông những danh hiệu đáng kính. Các tư tế và những thầy Lê-vi đã cho rằng ông Gio-an là “Đấng Ki-tô”, rồi kết luận ông là “ông Ê-li-a” và sau hết họ cho ông là một “vị ngôn sứ”. Cả ba lần, ông Gio-an đều trả lời “Không phải”. Cuối cùng, họ gặng hỏi cho bằng được thì ông Gio-an nói thẳng nói thật: “Tôi là tiếng người hô trong trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói”. Trả lời rõ ràng như thế, ông muốn nói với họ: Tiếng hô mới quan trọng, chứ người hô đâu có là gì, hay nói khác đi, sứ điệp mới là chủ yếu, còn người đem sứ điệp đến chẳng có gì đáng để ý. Điều ấy cho thấy ông Gio-an Tẩy Giả quả thực là khiêm tốn, mặc cho dân chúng khâm phục ông cỡ nào, ông cũng thành thực chỉ chấp nhận vai trò rất tầm thường, giống như “không đáng cởi quai dép” cho Chúa Giê-su. Chúa Giê-su là “ánh sáng”, còn ông Gio-an chỉ là cái bóng. Đúng vậy, Chúa Giê-su mới thực sự là “sứ điệp” của Thiên Chúa, và hơn thế nữa, Người là “Lời” của Thiên Chúa. Còn ông Gio-an Tẩy Giả chỉ là người đi trước Chúa Giê-su, hô to lên cho mọi người biết Chúa Giê-su, “đấng đang ở giữa họ mà họ không biết” là ai. Ông mời gọi mọi người hãy lãnh nhận “ánh sáng”, hãy lắng nghe “Lời” của Thiên Chúa dạy dỗ họ. Thế thôi.
Ông Gio-an là một chứng nhân kỳ lạ, không chỉ vì lối sống của ông ở bên kia sông Gio-đan, nhưng là cách làm chứng của ông. Ông không dài dòng kể lể về Chúa Giê-su, nhưng ông chỉ giới thiệu Chúa Giê-su cho người ta biết rồi để cho người ta tự mình đến và tin vào Chúa. Cách làm chứng của ông thật là khiêm tốn. Đó cũng chính là cách Thiên Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa Giê-su. Chúng ta, Ki-tô hữu, chỉ cần giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa được biết về Người, giới thiệu bằng lối sống chính Chúa Giê-su đã dạy chúng ta qua Tin Mừng và gương mẫu của Người. Chúng ta đâu cần phải đem những sách vở thần học hay giáo lý ra để giảng cho người khác đâu, nhưng phải làm sao cho người ta thấy chúng ta là người Công giáo đích thực, thi hành những gì Chúa Giê-su đã dạy chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an”. Chúng ta cũng có thể nói câu Kinh Thánh này viết về chúng ta: Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Nguyễn văn A, Trần thị B… Phải, một người được Chúa sai đi làm chứng cho Người chính là mỗi người chúng ta. Sứ mệnh được sai đi của chúng ta chỉ là làm “tiếng người hô trong hoang địa”. Chung quanh chúng ta vẫn còn là hoang địa với biết bao người đang chờ đợi nghe “tiếng hô” của chúng ta.
Vậy chúng ta sẽ hô to lên điều gì và hô lên cách nào? Cho người khác thấy được thế nào là bác ái, yêu thương qua sự giúp đỡ ân cần của chúng ta. Cho người khác thấy đâu là ý nghĩa đích thực của sự tha thứ khi chúng ta khoan dung với những người xúc phạm đến chúng ta. Còn trăm nghìn điều khác để hô và làm chứng cho Chúa chúng ta! Hôm qua là ông Gio-an. Hôm nay là chúng ta! Vậy chúng ta hãy lên đường thi hành sứ mệnh!
Chúa nhật thứ III Mùa Vọng gợi lên cho chúng ta hai hình ảnh thật ấn tượng, hai tư tưởng: MV3-B77
Chúa nhật thứ III Mùa Vọng gợi lên cho chúng ta hai hình ảnh thật ấn tượng, hai tư tưởng thật quí hóa : một là tư tưởng vui mừng, hân hoan, phấn khởi vì thời cứu độ đầy khích lệ, đầy an ủi đã gần kề chúng ta; hai là hình ảnh kham khổ, khiêm tốn của Gioan Tẩy Giả, khiến nhiều người đồng thời thắc mắc, tự đặt vấn đề Gioan Tiền Hô là ai vậy ?
Cuộc đời của các Kitô hữu là cuộc hành trình tiến về Nước Trời, do đó, con người vẫn còn lo âu, vẫn còn thử thách, vẫn còn tội lỗi. Chúa không miễn trừ cho con người những điều khó khăn ấy, nhưng trong mọi hoàn cảnh, Chúa nói chúng ta hãy vui lên. Bởi vì Chúa đang ở giữa chúng ta để chia sẻ nỗi lo âu và hy vọng, làm cho những đau khổ, cũng như niềm vui của chúng ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự an bình chỉ có được nơi người mộn đệ có niềm tin, lòng khiêm tốn cậy dựa, tín thác vào Chúa. Gioan Tẩy Giả đã nêu gương cho chúng ta, cho mọi người về đức tin sống động, sự khiêm tốn tuyệt hảo, nên Ông đã trở nên Đấng Tiền Hô và trở nên cao trọng trong Nước Thiên Chúa.
THỜI GIAN GIÚP NHÂN LOẠI NHẬN RA LỜI HỨA CỦA THIÊN CHÚA ĐƯỢC THỰC HIỆN NƠI LỊCH SỬ CON NGƯỜI : Thời gian là một thực tại mà tất cả mọi người sống trong lịch sử đều kinh nghiệm. Dòng đời luôn trôi qua, thời gian, bốn mùa thời tiết cứ tiếp tục xoay vần, luân chuyển.Tuy nhiên, thời gian lại là một cái gì đó con người khó lòng định nghĩa, khó lòng xác định. Con người chỉ biết được mình được sinh ra tại một nơi chốn, trong một đất nước, trong một thời giờ và thời gian nhất định. Chỉ có một mình Thiên Chúa là thoát ra ngoài những ràng buộc, những ấn định của thời gian, Ngài sống ngoài những giới hạn của thời gian, bởi vì Ngài sống trong cõi đời đời, không có quá khứ và tương lai. Ngài luôn ở trong cõi vĩnh cửu…Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, muôn loài muôn vật và con người. Chính trong khoảng khắc của thời gian hay ngày giờ mà Thiên Chúa dựng nên thế giới này, thời gian đã trở thành một thực tại không ai có thể chối cãi được. Do đó, chúng ta nhận ra rằng với lời mời gọi của Abraham đi tới vùng Đất Hứa vào một ngày đặc biệt trong thời gian, lịch sử cứu độ của con người, của thế giới bắt đầu. Thiên Chúa đã ban cho Abraham qua lời hứa của Ngài mà Đấng Cứu Thế đã sinh ra bởi dòng tộc Vua Đavít trong một nơi chốn và trong một thời gian nhất định:” Gioan Tẩy Giả là Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Độ và nhờ Gioan mà nhân loại nhận ra Ngài khi Ngài đến “.
GIOAN TIỀN HÔ LÀ CHỨNG NHÂN CỦA ĐỨC KITÔ : Thánh Gioan trong chương 1,6-8 đã viết :” Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng “. Sự Sáng là Đấng Cứu Độ mà Gioan chính là người được diễm phúc làm chứng cho Chúa, Gioan đã là chứng nhân trung thành nhất, kiên trì và hoàn hảo nhất cho Đấng Cứu Thế.Gioan Tiền Hô làm chứng cho Đấng Cứu Thế bằng lời nói, bằng gương sáng và bằng hành động của Người. Gioan đã sống đời sống hết sức khổ hạnh, Người đã rao giảng sự sám hối, ăn năn, và qua việc làm chứng của Người :” Tôi là tiếng kêu trong hoang địa : Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi “ ( Ga 1, 23 ). Gioan Tẩy Giả chỉ là Đấng Tiền Hô và báo trước ngày, thời gian Chúa xuất hiện, sau đó Người rút lui vào bóng tối:” Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại “. Gioan chính là người nô bộc của Đấng Cứu Thế và Đức Kitô là chủ, là Chúa và là Thầy.
CHÚNG TA CŨNG PHẢI LÀ CHỨNG NHÂN CHO CHÚA : Như thánh Gioan Tiền Hô, mỗi Kitô hữu cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống của mình. Bởi vì, Chúa Cứu Thế đã tới trần gian như thánh Gioan viết:” Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người “ ( Ga 1, 9 ).
Con Thiên Chúa đã thực sự làm người và ở giữa thế gian:” Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người “( Ga 1, 10 ). Chính vì thế gian không nhận biết Người mà nhân loại và mỗi Kitô hữu chúng ta phải làm chứng cho sự hiện của Người. Chúng ta phải như Gioan Tiền Hô minh chứng chính Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa và Đức Kitô đang sống với, sống vì, sống cho chúng ta, sống cho nhân loại. Và cũng như các Tông Đồ xưa, chúng ta phải làm chứng :” Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “( Ga 1, 14 ). Các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang của Đức Kitô ở một vài thời điểm trong cuộc đời trần thế của Người ( Ga 2, 11 và Lc 9, 32 ). Chính các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang trong cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Các Ngài đã làm chứng cho Đức Kitô Nagiarét chết và phục sinh, cũng như Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho chúa Giêsu khi Ngài đến và xuất hiện giữa trần gian, chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa Giêsu như các Ngài đã làm chứng.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ : Chúa đã đến trần gian, đã chết và sống lại vì yêu thương con người. Chúng ta đang trên con đường hành trình lữ thứ, chúng ta phải năng lắng nghe và thực thi lời Chúa qua đời sống cụ thể hằng ngày. Làm chứng cho Chúa bằng gương sáng và bằng những hành động bác ái cụ thể trong đời sống mỗi người chúng ta. Bí tích Thánh Thể là lương thực nuôi sống chúng ta và là bằng chứng chúng ta tôn kính, thờ lạy và làm chứng cho Ngài.
Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con sống thánh thiện để được rước Chúa và siêng năng, cần mẫn rước Chúa mỗi ngày. Xin làm cho tâm hồn chúng con trở nên đền thờ sống động, xứng đáng cho Chúa ngự trị. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa nhật III Mùa Vọng day chúng ta những gì ? 2.Tại sao Gioan Tẩy Giả lại là người chứng quan trọng ? 3.Thánh Gioan Tiền Hô đã làm gì để cho nhiều người nhận ra Chúa Cứu Thế đến và xuất hiện ? 4.Thái độ nào chúng ta phải có để làm chứng cho Đức Kitô.
Chuẩn bị tâm hồn đón nhận Đấng Cứu độ đến mà lại không biết Đấng ấy là ai thì quả thực: MV3-B78
Chuẩn bị tâm hồn đón nhận Đấng Cứu độ đến mà lại không biết Đấng ấy là ai thì quả thực là vô lý. Mặc dù thánh Gio-an Tẩy giả đã giới thiệu Chúa Giê-su như là “Đấng quyền năng đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”, nhưng đó mới chỉ là lời giới thiệu khái quát. Ngài muốn dành cho ta phần tìm hiểu căn tính của Đấng ngài giới thiệu, bởi vì gặp gỡ không chỉ căn cứ vào lời giới thiệu của ngài, nhưng bằng chính nỗ lực và tâm huyết của ta mà tiến dần tới một liên hệ mật thiết với Đấng ta tìm kiếm.
1. “Đấng Ki-tô”, Ngài là ai? (bài Tin Mừng – Ga 1:6-8.19-28)
Sự xuất hiện và việc làm của thánh Gio-an Tẩy giả trong hoang địa là một biến cố vĩ đại làm rung động toàn cõi Giu-đê, khiến cho các nhà lãnh đạo cả tôn giáo lẫn chính quyền đều thắc mắc với cùng một câu hỏi: Vị này có phải là Đấng Ki-tô hay không? Người ta muốn tìm hiểu căn tính của Gio-an Tẩy giả. Các nhà lãnh đạo tôn giáo đều cho ngài là Đấng Ki-tô mà dân Do-thái đang trông đợi. Họ mong chính miệng ngài xác nhận điều ấy. Trước tất cả các câu hỏi về căn tính của ngài, từ Đấng Ki-tô cho đến ông Ê-li-a rồi tới một vị ngôn sứ, ông Gio-an Tẩy giả đều trả lời không. Ông khẳng định: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa”. Trả lời như thế, ông Gio-an Tẩy giả ngầm bảo những người đến hỏi ông: các bạn đừng để ý tới người hô trong hoang địa, nhưng hãy lắng nghe sứ điệp người ấy hô lên. Sứ điệp mới quan trọng, còn người rao sứ điệp chẳng là gì cả. Ông Gio-an mời gọi họ đừng chú ý tới ông, nhưng tới Đấng đến sau ông. Đấng ấy cao trọng đến nỗi ông không xứng đáng cởi dép cho Ngài. Sứ vụ của ông chỉ là hô cho mọi người biết phải chuẩn bị đón tiếp một nhân vật vô cùng quan trọng. Vị ấy quan trọng đến độ không thể lấy lời lẽ nào diễn tả được, nhưng mỗi người phải đích thân gặp gỡ Ngài và thiết lập mối quan hệ tình yêu với Ngài.
Tuy nhiên ta có thể thắc mắc: vậy thánh Gio-an Tẩy giả có thực sự biết Chúa Giê-su là Đấng nào không? Biết chứ! Ngài có biết thì ngài mới nói lên được sứ điệp này, là “Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói” (Ga 1:23). Đối với Gio-an, Chúa Giê-su chính là Đức Chúa đến cứu độ trần gian. Vậy mà đối với nhiều người khác, Chúa Giê-su lại là “một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Thật đáng buồn. Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, làm “Thiên Chúa ở giữa chúng ta” (Emmanuel), nhưng chúng ta lại không biết hoặc không muốn biết. Bổn phận giới thiệu Chúa Giê-su thì ông Gio-an đã chu toàn, nhưng phải tìm biết và chuẩn bị tiếp đón Đấng ông giới thiệu là bổn phận của ta và chu toàn bổn phận này là việc không ai có thể làm thay cho ta được. Trước khi trở thành Tông đồ dân ngoại, thánh Phao-lô đã được gặp Chúa Giê-su trên đường đi Đa-mát. Ngài hỏi Chúa: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Chúa Giê-su đã trả lời ngắn gọn: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9:5). Với câu trả lời ấy, Phao-lô bắt đầu một hành trình tìm hiểu và quan hệ với Chúa Giê-su Ki-tô và giáo lý của Người. Thế rồi ngài vừa rao giảng vừa tìm hiểu về Chúa Ki-tô chịu đóng đinh cho đến độ “đành mất hết, coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người” (Pl 3:8). Để giúp ta khám phá một vài nét chính về Đấng ta mong đợi và chuẩn bị đón tiếp, Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a mô tả sứ vụ của Người.
2. Chúa Giê-su là Đấng Cứu độ theo diễn tả của ngôn sứ I-sai-a (bài đọc Cựu Ước – Is 61:1-2a.10-11)
Bài đọc trích sách ngôn sứ I-sai-a hôm nay cũng là những lời được Chúa Giê-su lấy lại và áp dụng cho chính Người khi Người đến rao giảng Tin Mừng tại hội đường Na-da-rét, quê hương của Người (Lc 4:16-30). Ngôn sứ cho ta thấy một ít đường nét dung mạo và sứ mệnh của Đấng Cứu độ mà nhân loại đợi chờ. Trước hết, Đấng Cứu độ được đầy tràn Thần Khí của Thiên Chúa và được xức dầu tấn phong – Đấng Ki-tô có nghĩa là Đấng được xức dầu – để thi hành sứ mệnh do Thiên Chúa trao phó. Tiếp đến ngôn sứ mô tả sứ mệnh của Đấng Cứu độ là công bố kế hoạch tái tạo một thế giới đã bị tội lỗi làm cho đổ nát điêu tàn. Thế giới ấy đầy dẫy “những kẻ nghèo hèn, tan nát tâm hồn, bị giam cầm, tù nhân, nô lệ…” Tất cả đều là hậu quả của tội nguyên tổ và tội lỗi xã hội cũng như cá nhân. Cho nên sứ mệnh của Đấng Cứu độ là công bố “năm hồng ân của Đức Chúa” hay Triều Đại Thiên Chúa đã bắt đầu và “ngày báo phục của Đức Chúa” hay ngày chiến thắng sức mạnh của tội lỗi đã đến gần. Đấng Ki-tô được sai đi để thực hiện một cuộc tạo dựng mới, phục hồi cho nhân loại tất cả những gì họ đã bị tội lỗi tước đoạt. Cuộc tạo dựng mới này còn đem lại cho nhân loại vẻ đẹp và cao quý hơn cả tình trạng nguyên thủy trước khi A-đam và E-và phạm tội bất tuân lệnh Chúa. Đó là sứ mệnh giải phóng mà Chúa Giê-su sẽ thực hiện khi Người sinh xuống làm người giữa nhân loại.
Sau khi mô tả sứ mệnh của Đấng Cứu độ, ngôn sứ I-sai-a còn nói lên tâm tình tạ ơn của Chúa Giê-su, Đấng Cứu độ, khi Người được Thiên Chúa trao ban sứ mệnh (Is 61:10-11). Chúa Giê-su muốn biểu lộ niềm vui đích thực nhờ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Không vui sao được khi Thiên Chúa đặt Chúa Giê-su làm Hồng Ân Cứu Độ và Hồng Ân này được chia sẻ cho toàn thể nhân loại mà Người là Trưởng Tử! Không vui sao được khi Thiên Chúa tìm thấy sự công chính trọn vẹn nơi Chúa Giê-su, để sự công chính ấy giúp cho mọi người từ tình trạng thù nghịch được trở thành con cái Thiên Chúa! Người tạ ơn Thiên Chúa vì sứ mệnh mà Người thi hành sẽ đem lại hoa trái tốt đẹp. “Hoa công chính” sẽ nở rộ và “lời ca ngợi” Thiên Chúa sẽ vang lên khắp nơi. Tóm lại, Đấng Cứu độ sẽ biến trái đất khô cằn vì hậu quả tội lỗi trở thành vườn địa đàng mới cho nhân loại.
3. Ta hãy vui mừng và cảm tạ Chúa vì được Người cứu độ (bài đọc Tân Ước – 1 Tx 5:16-24)
Nếu Chúa Giê-su đã cảm thấy vui mừng và tạ ơn Thiên Chúa vì được trao ban sứ mệnh cứu độ nhân loại, thì làm sao ta lại không thể theo gương Người mà vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa đã thương cứu độ ta? Đó chính là điều thánh Phao-lô hô hào anh chị em tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy sống cùng những tâm tình ấy của Chúa Giê-su. Ngài còn nhấn mạnh: phải vui mừng và cảm tạ luôn luôn, trong mọi tình huống cuộc sống. Hơn thế nữa, ngài bảo đó là điều Thiên Chúa muốn ta làm, theo gương Đức Ki-tô Giê-su (1 Tx 5:16-18). Có lẽ ít khi ta đọc được những câu văn ngắn gọn, rõ ràng, đầy sức mạnh và thúc giục như trong đoạn thư hôm nay. Toàn là những lời khuyên đậm tình, lạc quan, nhưng cũng không kém phần nghiêm khắc của người cha chỉ dạy con cái. Ta có thể đọc đi đọc lại những dòng thư này để cảm nghiệm được lòng nhiệt thành chăm sóc của vị Tông đồ dân ngoại và để thấy ta được an ủi khích lệ như thế nào. Cảm nghiệm được cứu độ không chỉ là một tư tưởng hay lý thuyết thần học khô khan, nhưng còn là một tình cảm sống động trong ta.
Nhưng muốn vui mừng và cảm tạ Chúa cho đúng, ta phải làm gì? Câu trả lời là: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí” (1 Tx 5:19). Thần Khí đã chi phối Chúa Ki-tô suốt cả cuộc đời, từ khi Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thụ thai Người cho tới lúc Người tắt thở trên thập giá. Mỗi khi Chúa Giê-su bị cám dỗ, trong hoang địa, trong thành công khi rao giảng Tin Mừng, trong Vườn Dầu, trên thập giá, là những lúc Người bị cám dỗ hãy dập tắt Thần Khí trong Người. Cho nên câu trả lời tuy đơn giản, nhưng lại là cốt lõi của cuộc sống. Có khi nào ta thực sự hiểu rằng mọi cám dỗ của ta đều là cám dỗ hãy dập tắt lửa Chúa Thánh Thần trong ta, hãy sống và làm theo tinh thần thế gian ma quỷ chứ đừng sống và làm theo tinh thần của Thiên Chúa? Nhờ quyền năng và ân sủng của Chúa Thánh Thần, ta sẽ biết phân định điều tốt điều xấu. Từ ngữ tu đức gọi việc phân biệt này là phân định thần loại. Đúng thế, cuộc đời ta luôn luôn là phân định điều tốt điều xấu, để rồi ta tự do chọn lựa, tốt làm xấu tránh. Nhưng rất nhiều khi ta biết là điều tốt mà vẫn không làm và điều xấu mà cứ làm. Do đó, ta cần thêm sức mạnh của Chúa Thánh Thần giúp ta sống theo sự phân định đúng đắn. Nếu ta cứ tiếp tục để cho Thần Khí bừng sáng trong ta, thánh hóa ta và nếu ta cứ sống theo dẫn dắt của Người, ta sẽ “được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm” (1 Tx 5:23).
4. Sống Lời Chúa
Càng gần ngày lễ Giáng Sinh, Lời Chúa càng giúp ta hiểu rõ hơn sứ mệnh của Đấng Cứu độ ta đang chuẩn bị đón mừng. Ông Gio-an Tẩy giả giới thiệu Đức Chúa đang đến chính là Chúa Giê-su, Đấng sẽ đến sau ngài. Ngôn sứ I-sai-a trong thời Cựu Ước đã thấy rõ con người và sứ mệnh của Đấng Cứu độ và ngài cho ta biết. Còn thánh Phao-lô thì mời gọi ta hãy vui lên và cảm tạ Thiên Chúa, vì Người đã ban cho ta Đấng Cứu độ. Ngài cũng không quên đề ra cách thực tế đón nhận ơn cứu độ, đó là theo gương Chúa Giê-su sống theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Suy nghĩ: “Đừng dập tắt Thánh Thần” có lẽ là một lời khuyên thật mới mẻ cho cuộc sống Ki-tô hữu của tôi. Vậy từ nay tôi sẽ sống theo lời khuyên này của thánh Phao-lô như thế nào? Đặc biệt trong việc phân định thần loại, cân nhắc điều tốt điều xấu, tôi sẽ thực hành ra sao? Tôi có bàn hỏi với những người khôn ngoan đạo đức? Trước khi quyết định điều gì, dù lớn hay nhỏ, tôi có cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần không?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả, để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật III mùa Vọng).
· Is 61, 1-2a. 10-11: (1) Thần khí Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, (2) công bố năm hồng ân của Chúa.
· 1Tx 5, 16-24: (16) Anh em hãy vui mừng luôn mãi (17) và cầu nguyện không ngừng. (18) Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu. (19) Anh em đừng dập tắt Thần Khí. (20) Chớ khinh thường ơn nói tiên tri.
· TIN MỪNG: Ga 1, 6-8. 19-28
Lời chứng của Gioan Tẩy Giả
(6) Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. (7) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. (8) Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. (19) Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Dothái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: «Ông là ai?»(20) Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: «Tôi không phải là Đấng Kitô». (21) Họ lại hỏi ông: «Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?» Ông nói: «Không phải». «Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?» Ông đáp: «Không». (22) Họ liền nói với ông: «Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?»(23) Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói. (24) Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. (25) Họ hỏi ông: «Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?»(26) Ông Gioan trả lời: «Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. (27) Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người». (28) Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Gioan đến để làm chứng. Bình thường, muốn làm chứng điều gì, thì điều quan trọng là gì? Một: MV3-B79
1. Gioan đến để làm chứng. Bình thường, muốn làm chứng điều gì, thì điều quan trọng là gì? Một người chỉ nghe ai kể lại một sự kiện, thì có thế làm chứng cho sự kiện ấy không? Muốn làm chứng cho Thiên Chúa thì sao? Chỉ học hỏi hay nghiên cứu về Ngài thì có thể làm chứng về Ngài không?
2. Gioan làm chứng cho ai? Ông có tìm cách dựa vào thế của Đấng mình làm chứng để tìm vinh quang cho mình không? Ông tự xưng mình là gì?
3. Thiên Chúa hay Đức Giêsu mà ta làm chứng, là người mà ta chỉ nghe nói tới, học hỏi và nghiên cứu, hay là một con người sống động, có quan hệ mật thiết và cụ thể với ta, đồng thời ảnh hưởng mãnh liệt trên đời sống ta?
Suy tư gợi ý:
Chủ đề của đoạn Tin Mừng trên là «làm chứng cho Thiên Chúa». Gioan Tẩy Giả là một mẫu gương và là thầy dạy chúng ta về làm chứng. Ta thử tìm hiểu cách làm chứng của Gioan để áp dụng trong cuộc đời Kitô hữu và chứng nhân của ta. 1. «Ông đến để làm chứng và làm chứng cho ánh sáng»
Gioan Tẩy Giả sinh ra và sống trong thế gian là để làm chứng. Trong các tòa án, người làm chứng phải là người chứng kiến tận mắt sự việc xảy ra, và phải chịu trách nhiệm về lời chứng của mình. Nếu lời chứng bị phát hiện là gian dối, họ phải chịu một hình phạt của tòa án. Để lời chứng có giá trị, đôi khi người làm chứng phải thề để mọi người tin rằng điều mình nói là sự thật. Có những người sẵn sàng chấp nhận chịu những đau khổ khủng khiếp và cả cái chết để chứng tỏ lời chứng của mình là sự thật. Một lời chứng như thế thật đáng tin.
Người làm chứng phải là người có kinh nghiệm thật sự về điều mình làm chứng: hoặc thấy tận mắt sự việc, hoặc cảm nghiệm được sự việc. Nếu mình làm chứng về một điều mình chỉ nghe nói, nghe thuật lại, thì lời chứng của mình kém hẳn giá trị. Vì thế, để là một người làm chứng cho Thiên Chúa, thì chính người ấy phải có kinh nghiệm đích thực về Thiên Chúa, phải cảm nhận được tình yêu và quyền năng của Ngài trong đời sống mình. Nếu mình chỉ học được một mớ lý thuyết thần học, chỉ nghiên cứu Kinh Thánh hay Lời Chúa như một nhà khoa học nghiên cứu một bản văn, thì mình chưa đủ tư cách làm chứng. Nếu mình chỉ tin Thiên Chúa cách lý thuyết, chính mình chưa xác tín điều mình làm chứng, thì mình chẳng thể sống chết cho niềm tin ấy, lời chứng của mình sẽ chẳng mấy giá trị. Do đó, chỉ những ai có kinh nghiệm thật sự về Thiên Chúa mới có thể làm chứng cho Ngài một cách hợp tình hợp lý mà thôi. Mình chưa có kinh nghiệm mà đã làm chứng, nhất là làm chứng một cách quả quyết, thì lời chứng ấy đã vượt quá khả năng của mình. Chẳng khác gì một người chỉ nghe nói một sự việc mà đã quả quyết 100% là sự việc ấy có thật như thể mình chứng kiến sự việc ấy.
Gioan đến để «làm chứng cho ánh sáng». Ánh sáng tượng trưng những gì tích cực, như chân lý, công lý, tình thương… Ngược với ánh sáng là tối tăm. Tối tăm tượng trưng những gì tiêu cực như gian dối, bất công, hận thù… Người của ánh sáng không thể làm chứng cho tối tăm, cũng không thể đồng lõa với tối tăm bằng sự bất động, không phản ứng gì trước những gian dối, bất công, hận thù… Im lặng bất động trong những trường hợp này không phải là tư cách của một người làm chứng đích thực. Để làm chứng, đôi khi phải chấp nhận trả giá. Không chấp nhận trả giá thì lời chứng của mình không đáng tin. Chấp nhận trả giá càng cao, lời chứng càng giá trị, càng đáng tin. Đức Giêsu, Gioan Tẩy Giả, các tông đồ đã chấp nhận trả giá cho lời chứng của mình bằng cái chết. Chính vì thế, lời chứng của các ngài mới được thế giới tin theo.
2. Tinh thần xóa mình khi làm chứng
Bài Tin Mừng nói: «Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng» (Ga 1,8). Khi làm chứng cho ánh sáng, ông không tự đồng hóa mình với ánh sáng, không tự nhận mình là đại diện hay biểu trưng của ánh sáng, và cũng không lợi dụng ánh sáng để tìm vinh danh hay lợi lộc cho mình. Ông chỉ biết sứ mạng của mình là làm chứng cho ánh sáng thôi. Khi làm chứng, người ta tưởng ông là Đấng Kitô. Ông thành thật nói mình không phải. Người ta nghĩ ông là một ngôn sứ, nhưng ông không tự nghĩ mình là ngôn sứ, mặc dù đời sau coi ông là ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu ước. Như vậy, tuy ông thực hành vai trò ngôn sứ, nhưng ông không hề tự phong cho mình vinh dự ấy. Danh hiệu ngôn sứ là do người đời sau ban tặng cho ông. Ông hoàn toàn xóa mình, không tự coi mình là quan trọng, là một nhân vật cao cả. Ông chỉ tự xưng «là tiếng người hô trong hoang địa» (Ga 1,23), một người xem ra chẳng là gì cả, chẳng mấy ai quan tâm chú ý tới. Đối với Đức Giêsu, người mà ông làm chứng cho, ông luôn chủ trương: «Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga 3,30). Người làm chứng có chịu để cho mình nhỏ đi, thì người mình làm chứng mới lớn lên được!
Còn chúng ta, khi làm việc cho Chúa, làm tông đồ, ta muốn được mọi người tôn vinh, ta thích tự đề cao mình, tự phong cho mình một chức vụ quan trọng, tự xưng là đại diện cho một nhân vật cao cả để mọi người trọng vọng ta. Ta muốn mọi người phải gọi ta bằng danh này hiệu nọ, nếu không được thì ta buồn bực, khó chịu… Đang khi đó, có thể ta chẳng làm chứng cho Thiên Chúa, cho ánh sáng, cho chân lý hay công lý được bao nhiêu, là vì ta muốn mình lớn lên nên Ngài phải nhỏ đi. Trước mặt Thiên Chúa, có khi ta chẳng hơn ai, nhưng ta muốn mọi người phải kính nể ta và dành nhiều ưu đãi cho ta, vì ta đang làm việc cho Thiên Chúa…
3. «Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết»
Gioan muốn làm chứng về «một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết» (Ga 1,26). Rất có thể chính Đức Giêsu đang ở giữa chúng ta, trong chúng ta, bên cạnh chúng ta… mà chúng ta không mấy khi ý thức được. Thật vậy, ít khi ta ý thức Ngài đang hiện diện trong chính bản thân ta. Do đó, sự hiện diện của Ngài trong ta trở nên thụ động tương tự như khi Ngài ngủ trên thuyền của các tông đồ giữa cơn phong ba bão tố (x. Mt 8,23-27). Vì thế, giữa cuộc đời bão tố, ta vẫn cảm thấy cô đơn, lo lắng, sợ hãi, tưởng như chẳng ai sẵn sàng cứu giúp ta, chẳng ai tiếp sức mạnh cho ta, khiến ta vẫn yếu đuối, khiếp nhược. Ta vẫn muốn chạy đến cầu khẩn, van xin một Thiên Chúa, một Đức Giêsu ở bên ngoài ta, ở xa ta, qua trung gian một ai đó. Vì thế, ta không nhận được sức mạnh từ một Thiên Chúa ở trong ta.
Ngoài ra, Thiên Chúa còn hiện diện rất sống động bên cạnh ta, nơi những người đang sống quanh ta, nhưng ta không hề nghĩ đến sự hiện diện ấy. Ta vẫn không hề cảm nhận được Thiên Chúa đang ở nơi họ, để đối xử với họ như những hiện thân cụ thể của Ngài.
Do đó, Thiên Chúa đối với ta dường như vẫn rất trừu tượng, vô hình, im lặng, vắng mặt, không sao cảm nhận được! Và lời chứng của ta về Thiên Chúa vẫn là lời chứng của một người chỉ biết Ngài cách lý thuyết, vì chỉ nghe người khác nói về Ngài. Nên lời chứng ấy không phải là lời chứng sống động, mạnh dạn và đầy thuyết phục về một Thiên Chúa mà đúng ra chính ta cảm nhận được cách rất cụ thể.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, nhiều khi con tự hào là chứng nhân của Cha, của Đức Giêsu. Nhưng thật ra, con chưa có kinh nghiệm nhiều về Cha, về Đức Giêsu. Con chỉ biết và tin cách lý thuyết, sau khi đã học hỏi về Cha, về Đức Giêsu một vài năm. Thế là con đã cảm thấy mình có thể làm chứng về Cha, về Đức Giêsu cho mọi người, như một nhà chuyên môn làm chứng, hay một người làm chứng chuyên nghiệp. Nghĩ lại, nhiều khi con cảm thấy mình hợm hĩnh quá. Xin Cha giúp con cảm nghiệm đích thực về Cha, về Đức Giêsu sống động trong đời sống của con, để lởi chứng của con trở nên giá trị hơn, đáng tin hơn.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mượn đoạn Tin Mừng thánh Gio-an để khai triển đề tài về ông : MV3-B80
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mượn đoạn Tin Mừng thánh Gio-an để khai triển đề tài về ông Gio-an Tẩy giả. Ông Gio-an ý thức sứ mệnh của ông là gióng lên lời kêu gọi người ta hãy mau mắn chuẩn bị tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế. Làm như vậy, ông trở thành một dấu chỉ của ơn cứu độ, lôi kéo người ta đến với chính Đấng Cứu Độ là Chúa Giê-su Ki-tô. Tuy nhiên, sứ mệnh của ông không chỉ đơn thuần như vậy, mà còn đưa ông đi xa hơn thế nữa, tức là làm chứng nhân cho Chúa Giê-su. Thánh sử Gio-an đã giới thiệu về ông trong phần Lời tựa sách Tin Mừng và giải thích thêm về sứ vụ làm chứng của ông trước khi ngài thuật lại sứ vụ của Chúa Giê-su. Làm chứng cho Chúa Giê-su có ý nghĩa gì, đó là cốt tủy sứ vụ của mỗi Ki-tô hữu trong cuộc sống trên trần gian này.
a) Nhiệm vụ của người làm chứng
Ta có thể nhận ra hai đề tài chính của Tin Mừng Gio-an: trình bày Chúa Giê-su là Thiên Chúa làm người và nhấn mạnh đến sứ mệnh của người môn đệ là phải làm chứng cho Chúa Giê-su. Điều này đã được Gio-an nói lên trong Lời tựa (Ga 1:1-18). Riêng điểm làm chứng cho Chúa Giê-su, thánh sử muốn giới thiệu ông Gio-an Tẩy giả như một gương mẫu cho tất cả những ai tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Ngài viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin”.
Người làm chứng trước hết phải có căn cước và đủ tư cách để thi hành nhiệm vụ. Vậy người làm chứng ở đây đích thực có tên là Gio-an chứ không phải một nhân vật tưởng tượng hay bịa đặt. Xuất xứ của ông rõ ràng: ông là người “được Thiên Chúa sai đến”, chứ không phải do áp lực của một phe nhóm đưa lên hoặc do tham vọng của chính người làm chứng. Những đặc tính này làm cho ta nghĩ về thân phận của ta. Nhiều khi ta muốn chối bỏ chính căn cước của ta, không muốn nhìn nhận mình là con cái Thiên Chúa, nói chi đến sứ vụ làm chứng mà Người trao cho ta! Làm chứng là phát biểu lên một điều gì có thực chính mắt ta đã nhìn thấy, tai ta đã nghe thấy, hoặc ta đã tiếp xúc.
Vậy Chúa Giê-su là “Ngôi Lời, là ánh sáng thật đã đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1:9). Cho nên nhiệm vụ làm chứng của ông Gio-an Tẩy giả là nói lên cho mọi người biết chân lý về Chúa Giê-su: Người đã đến và ai đón nhận Người thì được quyền trở nên con Thiên Chúa (Ga 1:12).
Làm chứng ở trước tòa án đời chỉ đòi hỏi ta nói lên sự thật. Sự thật ấy không nhất thiết phải có quan hệ với ta. Ta nhìn thấy một người làm điều gì đó và ta phát biểu rằng ta nhìn thấy họ làm như vậy, mặc dù ta chẳng biết người ấy là ai. Nhưng làm chứng cho Chúa Giê-su đòi hỏi ta phải làm hơn thế, không chỉ nói lên điều mắt thấy tai nghe, mà còn nói lên mối quan hệ cá nhân giữa ta với Người và những tâm tình của trái tim ta đối với Người. Thánh sử Gio-an cùng với các tông đồ khác không những đã được cùng ăn uống với Chúa Giê-su và sống bên cạnh Người, mà các ngài còn được “nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Các ngài đã vượt lên trên kinh nghiệm tri giác để tiến đến kinh nghiệm đức tin, nói lên lòng tin vào Chúa Giê-su, tin rằng Người là “Con Một đầy ân sủng và sự thật”, tức là Thiên Chúa đầy lòng nhân lành và trung tín.
b) Ông Gio-an Tẩy giả làm chứng cho Chúa Giê-su như thế nào?
Người làm chứng thường dễ bị lôi cuốn vượt quá giới hạn của họ để biến họ thành quan trọng hơn cả sự kiện hoặc người mà họ làm chứng cho. Đó chính là cám dỗ ông Gio-an Tẩy giả phải đối phó. Sứ mệnh của Gio-an là làm chứng cho Đấng Cứu Thế trước mặt dân chúng. Vậy mà những nhà lãnh đạo Ít-ra-en lại cho rằng chính ông Gio-an là Đấng Cứu Thế hay ít ra là vị ngôn sứ lớn và họ hết lòng kính trọng ông. Tuy nhiên, ông Gio-an luôn trung thành với sứ mệnh của ông, không lạm dụng lòng kính trọng của người khác để mưu lợi riêng. Ông một mực nhìn nhận vai trò đích thực của ông: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi”. Tiếng hô trong thành phố hay làng mạc vẫn còn tính cách quan trọng. Còn tiếng hô trong hoang địa thì quả thực là khiêm tốn, ít ai biết tới. Tuy nhiên khung cảnh hoang địa được sử dụng ở đây là để nói lên đặc tính của tiếng hô. Trong khung cảnh tĩnh lặng của hoang địa, chỉ một tiếng động nhỏ cũng đủ cho ta nghe thấy rõ, huống chi là một tiếng hô. Do đó, tiếng hô của Gio-an, hay nói khác đi, lời kêu gọi sám hối của ông Gio-an là một sứ điệp rõ ràng ai ai cũng nghe rõ được.
Sau khi xác định rõ ràng vai trò của ông, ông Gio-an nói về Đấng ông làm chứng: “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” Ông biết mọi người kính trọng ông, nên ông dùng chính sự kính trọng ấy để diễn tả tầm quan trọng và cao cả của Đấng Cứu Thế. Ông muốn diễn tả như sau: Các người kính trọng tôi, coi tôi như Đấng Ki-tô hay ngôn sứ Ê-li-a. Nhưng tôi không phải là những vị đó và không xứng đang làm đầy tớ cho Đấng đến sau tôi. Xác tín địa vị quan trọng của Đấng Cứu Thế, ông Gio-an thi hành sứ vụ làm tiếng hô báo tin Đấng Cứu Thế đến, với một nguyên tắc căn bản: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3:30).
Việc làm chứng của ông Gio-an là một tiến trình, đi từ khởi điểm là “tôi đã không biết Người”, rồi tới “tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, và sau cùng là “vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói” của chính Chúa Ki-tô, vị Tân lang Thiên Chúa ban cho nhân loại (Ga 3:29). Cao điểm tiến trình làm chứng của ông Gio-an là chính cái chết của ông khi ông phải nói lên tiếng nói lương tâm của một người công chính đứng trước sự dữ và bất công xã hội.
Đó là một tiến trình gương mẫu cho mỗi Ki-tô hữu trong bổn phận làm chứng nhân cho Chúa Ki-tô. Ta nghe lời Người mời gọi: “Đến mà xem” (Ga 1:39), ở lại với Người, học với Người và làm môn đệ Người. Rồi ta sẽ được sai đi để rao giảng Tin Mừng cứu độ của Người, chia sẻ với những người chung quanh cảm nghiệm ân sủng “vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của Người”.
c) Chuẩn bị sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Giê-su
Tất cả những gì ông Gio-an đã chuẩn bị để thi hành sứ vụ cũng là những điều ta sẽ học hỏi và tập luyện. Làm chứng cho Chúa Giê-su trước hết là một sứ mệnh. Ý thức việc làm chứng như một sứ mệnh là điều quan trọng. Ta thường hiểu lầm sứ mệnh như một bổn phận, một gánh nặng. Nhưng đối với Thiên Chúa, sứ mệnh là một ân sủng. Chính nhờ hiểu được như vậy, Mẹ Ma-ri-a đã sẵn sàng lãnh nhận sứ mệnh Thiên Chúa ban cho Mẹ. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38).
Ngoài ra, ta cũng ý thức mình làm chứng cho ai. Làm chứng cho Chúa Ki-tô không chỉ là đọc lời tuyên xưng ta thường đọc trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính một Chúa duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa..., nhưng là sống lối sống của Chúa Ki-tô, để cho mình được biến đổi do quan hệ với Người, đến độ “coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su... được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người” (Pl 3:8-9).
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi có ý thức nhiệm vụ làm chứng cho Chúa Ki-tô là một vinh dự như thánh Phao-lô đã hiểu không? Khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, tôi nhận lấy chức năng làm “người lính của Chúa Ki-tô”, vậy tôi đã làm gì cho Người?
Nhìn lại tiến trình làm chứng nhân cho Chúa Ki-tô, tôi sẽ nhận định nó như thế nào? Từ không biết đến biết Chúa Ki-tô? Rồi từ biết đến yêu mến và kết hiệp với Chúa Ki-tô? Có sự tiến triển trong tiến trình đó không?
Thánh Gio-an Tẩy giả “vui mừng hớn hở” vì được nghe tiếng nói của Chúa Giê-su. Còn tôi, tiếng nói của Chúa Giê-su cho tôi những tâm tình nào? Tại sao tôi chưa cảm nghiệm được tâm tình vui mừng hớn hở ấy?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ. Xin cho con thấy Chúa thật bao la, để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống. Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu, để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất. Lạy Chúa Giê-su, xin làm cho con thật mạnh mẽ, để không nỗi thất vọng nào còn chạm được tới con. Xin làm cho con thật lặng lẽ, để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi. Xin Chúa ngự trong con thật sống động, để không phải là con, mà là chính Ngài đang sống”. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 2)
Mặc dù chỉ lưu lại Thê-xa-lô-ni-ca ít tuần lễ để rao giảng Tin Mừng, nhưng thánh Phao-lô đã: MV3-B81
Mặc dù chỉ lưu lại Thê-xa-lô-ni-ca ít tuần lễ để rao giảng Tin Mừng, nhưng thánh Phao-lô đã đặt nền tảng đức tin vững chắc cho anh chị em tân tòng.Không những họ trung thành với Tin Mừng Chúa Ki-tô, mà còn giúp cho sứ điệp của Người được lan tới những miền khác thuộc Ma-kê-đô-ni-a và A-kai-a (1 Tx 4:10). Vào năm 50, từ Cô-rin-tô, thánh Phao-lô viết thư này cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Trong phần nói về ngày Cánh chung, ngài nhắc nhở họ hãy có những chuẩn bị thích đáng chờ đợi Chúa Ki-tô tái lâm, chuẩn bị cá nhân cũng như chuẩn bị trong bối cảnh đời sống cộng đoàn. Bài đọc hôm nay trích từ phần khuyên nhủ này, được Phụng vụ Lời Chúa sử dụng để nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy để cho Chúa "thánh hóa toàn diện con người" chúng ta, để chúng ta được hòa nhập với đời sống của một cộng đoàn đang chờ đợi Chúa trở lại. a)Đang khi chờ đợi Chúa Ki-tô đến, cá nhân chúng ta hãy để Thiên Chúa thánh hóa toàn diện con người chúng ta.
Trong viễn tượng chờ đợi Chúa Ki-tô lại đến, thánh Phao-lô cầu nguyện cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, mong đợi mỗi người sẽ được gìn giữ "vẹn toàn, không gì đáng trách." Đó cũng chính là kế hoạch của Thiên Chúa. Để thực hiện kế hoạch này, Thiên Chúa dùng ân sủng của Người mà thánh hóa toàn diện con người chúng ta. Vậy ân sủng của Người là gì nếu không phải là quà tặng lớn lao nhất, tức Con Một Người là Đức Giê-su Ki-tô mà Người đã ban cho chúng ta vì quá yêu thương (Ga 3:16)? Trong tinh thần chờ đợi của mùa Vọng, Phụng vụ Lời Chúa luôn luôn mời gọi chúng ta suy gẫm về vai trò của Quà tặng Giê-su, Đấng chúng ta đang chờ đợi. Ở đây chúng ta nhận ra tiến trình hợp lý của kế hoạch cứu rỗi: Chúa Ki-tô đến lần thứ nhất để "thánh hóa toàn diện con người" chúng ta, rồi Người lại đến trong ngày Phán xét chung để thấy chúng ta được "vẹn toàn, không gì đáng trách." Vậy giữa hai thời điểm ấy, bổn phận của chúng ta là phải cộng tác với ơn thánh hóa của Thiên Chúa.
Khi nói tới sự thánh hóa toàn diện con người, thánh Phao-lô kể ra ba phần khác nhau:thần trí, tâm hồn và thân xác.Đây là lần duy nhất ngài diễn tả rõ ràng tính cách toàn diện của con người chúng ta. Thánh hóa toàn diện đã trở thành đề tài được khai triển nhiều nhất, nhờ những soi sáng hàm chứa trong tài liệu và tinh thần của Công đồng Vatican II. Chiều hướng tu đức này cổ võ cho việc đem đạo vào đời, sống đức tin giữa môi trường sống của chúng ta.
Chúa Ki-tô là Ngôi Lời mặc lấy thân phận con người, làm một "con người vẹn toàn, không chi đáng trách" để trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta. Chúng ta cần phải khám phá ra sự thánh thiện nơi thần trí, tâm hồn và thân xác của Chúa Ki-tô, để cho mình được biến đổi dần dần theo gương mẫu ấy. b)Đang khi chờ đợi Chúa quang lâm, cộng đoàn "hãy vui mừng luôn mãi."
Trong Chúa Nhật thứ ba mùa Vọng, chủ đề luôn hướng về niềm vui đang khi chờ đợi. Có những chờ đợi khác nhau. Người tử tù chờ đợi cái chết thì khác. Tâm trạng của họ phức tạp, lo lắng, hối hận, buồn bã... Còn chúng ta chờ đợi một Đấng chúng ta đã quen biết, đã thân thương, đã để cho chính Người biến đổi chúng ta, hoặc nói theo tâm tình của Phao-lô, đã nhận Người làm "Chúa của tôi." Do đó, niềm vui sẽ phản ảnh thái độ nền tảng của những ai chờ đợi Chúa trở lại.
Nhưng niềm vui của một cộng đoàn còn tùy thuộc những yếu tố khác. Vậy theo Phao-lô, đâu là những yếu tố đem lại niềm vui cho cộng đoàn chờ đợi Chúa quang lâm, hoặc nói cho thực tế, làm sao giúp cho cộng đoàn Ki-tô hữu hôm nay, một giáo xứ, một nhóm cầu nguyện, một đoàn thể Công giáo... trở thành một cộng đoàn vui mừng, không xào xáo, không ganh tị nhau, không chia rẽ...? Ngoài việc thánh hóa bản thân mỗi người, thánh Phao-lô còn kể ra một số yếu tố thực tế sau đây:
Cầu nguyện không ngừng: vì cầu nguyện đưa chúng ta tới gần Chúa, nhưng cũng đưa
chúng ta đến gần nhau, cảm thông với nhau, nhận biết những nhu cầu của nhau.
Tạ ơn trong mọi hoàn cảnh: tạ ơn là một cách nhìn nhận những gì Chúa ban cho mình, cho cộng đoàn, để chúng ta biết sử dụng và đáp lại lòng quảng đại của Chúa.
Đừng dập tắt Thần Khí: Thánh Thần làm dậy lên sự sống và sinh hoạt của Giáo Hội, toàn cầu cũng như địa phương. Không ngăn chặn ảnh hưởng của Người, nhưng cần nhận định những gì là bởi Thánh Thần và cộng tác vào những hoạt động của Người. Có lẽ đây là đòi hỏi quan trọng nhất đối với đời sống cộng đoàn. Do đó, thánh Phao-lô mới căn dặn: Hãy cân nhắc mọi sự, điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì tránh cho xa!
Những đòi hỏi trên nếu được thực thi do mỗi phần tử trong cộng đoàn, thì sẽ trổ sinh hoa trái, những hoa trái đã được thánh Phao-lô nói đến trong thư gửi tín hữu Ga-lát: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa và tiết độ (5:23-23). Như thế, chờ đợi Chúa lại đến trong bối cảnh đời sống cộng đoàn, chính anh chị em thuộc cộng đoàn cũng góp phần vào việc giúp chúng ta trở nên "vẹn toàn, không gì đáng trách."Nói khác đi, chúng ta không chờ đợi Chúa một mình, nhưng cùng với anh chị em trong Giáo Hội, không phải trong thái độ cô đơn bi quan, nhưng giữa một cộng đoàn yêu thương và vui mừng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Nhận định lại sự thánh hóa toàn diện nơi con người tôi, tôi thấy như thế nào? Phương diện nào chưa được chú ý tới? Có những cách hiểu nào còn quá tiêu cực về tính cách toàn diện?Thí dụ khinh thường thể xác? Thần trí còn quá thế tục, chứ chưa phải là thần trí của Đức Ki-tô?
Thánh Phao-lô nói lên sự cần thiết của đời sống cộng đoàn giúp chúng ta trở nên thánh thiện hơn. Trước đây tôi nghĩ gì về vai trò của đời sống cộng đoàn? Tôi đã tránh dây mình vào những sinh hoạt cộng đoàn vì sợ phiền phức? Tôi đã vô trách nhiệm làm tổn thương đến hòa khí của cộng đoàn?... Tôi có những phán đoán rất tiêu cực về những người trong cộng đoàn: cha xứ, hội đoàn, cá nhân...?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát "Kinh hòa bình" của thánh Phan-xi-cô.
Càng gần tới lễ Giáng Sinh, lòng con người càng rộn lên một niềm vui. Vui vì sẽ được sống: MV3-B82
Càng gần tới lễ Giáng Sinh, lòng con người càng rộn lên một niềm vui. Vui vì sẽ được sống tâm tình của những mục đồng và của toàn dân Do Thái xưa. Vui vì sẽ được chiêm ngắm Chúa Giêsu hài đồng nằm trong máng cỏ. Vui vì tiếng hát Noen cao vút, bổng trầm với muôn vàn tinh tú con người tạo, nhưng vẫn là cái cảm giác của những con người đang sống tình cảm dạt dào của mầu nhiệm con Thiên Chúa làm người. Bài Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay như cho con người thấy Đức Kitô xem ra đang ẩn tàng đâu đây với những câu vấn nạn đi tìm tông tích, lý lịch của Ngài. Vâng, những câu hỏi đặt ra cho Gioan Tẩy giả chỉ là cái lý để con người hiểu lý lịch của Vị Cứu Tinh, Đấng Mêsia. Gioan Tẩy giả quả đã phải vất vả để thoát ra khỏi những ràng buộc, những gán ghép nhiều người đang đặt trên Ông và kéo mọi người qui hướng về Đấng con người đang tìm kiếm: Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đang có mặt giữa con người, nhưng con người chưa nhận ra Ngài. Gioan Tẩy giả là người chứng đích thực cho Đức Kitô vì Ông đã không ngăn cản ánh sáng chiếu tới con người, chiếu tỏa nơi từng con người.
VAI TRÒ CỦA GIOAN TẨY GIẢ
Tại Giuđê trải suốt thời đại của Hêrôđê và César ở Roma, những con người bị đàn áp bóc lột, những con người bị chà đạp, bị dồn nén, những con người thấp cổ bé họng luôn có một niềm hy vọng. Những người này chờ đợi một Vị Cứu Tinh đến giải thoát họ, giúp họ bảo toàn sự nghiệp của họ. Những người dân bị đàn áp ở Roma hy vọng rằng César Auguste là Vị Cứu Tinh của họ, nhưng khi César qua đời, niềm hy vọng của họ cũng tiêu tan theo con người đã khuất. Còn tại Giuđê, niềm hy vọng về một Đấng Cứu Tinh, một Đấng Mêsia càng lúc càng trở nên mạnh mẽ. Chính Chúa Giêsu đã giới thiệu rằng Gioan Tẩy giả được Thiên Chúa sai đến, đi trước để dọn đường cho Đấng Mêsia. Gioan Tẩy giả xuất hiện, kêu gọi mọi người hoán cải, ăn năn sám hối. lãnh nhận phép rửa xưng thú tội lỗi, xin ơn tha thứ. Nhiều người thấy Gioan Tẩy giả nổi tiếng quá đã lầm tưởng Ông là Đấng Mêsia. Nhiều vấn nạn đã được đặt ra trong một khuôn mẫu có sẵn:" Là Êlia, là ngôn sứ ?".
Con người vẫn chưa nhận ra được Chúa Kitô. Tuy rằng, Gioan Tẩy giả đã thẳng thừng xác nhận:" Ông không phải là Đức Kitô " và cũng chẳng phải là Êlia hay một tiên tri nào khác. Gioan Tẩy giả đã minh chứng Ngài rửa bằng nước, Đấng đến sau Ngài sẽ rửa trong Thánh Thần, Ngài không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài.
Gioan Tẩy giả cũng tự hủy mình bằng cách làm cho Chúa Giêsu nổi bật lên:" Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại "và Gioan Tẩy giả còn tự nhận:" Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc: Hãy san phẳng đường lối để Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói"( Ga 1, 23 ).
ĐỂ CÓ THỂ NHẬN RA ĐỨC KITÔ
Dọn mừng lễ Giáng Sinh không có nghĩa chỉ chăm chú những việc bên ngoài. Hang đá máng cỏ, đèn sao vẫn cần để ta nhớ lại kỷ niệm xưa, nhưng đồng thời giúp ta sống mầu nhiệm con Thiên Chúa làm người đang hiện diện nơi ta, nơi trần gian. Vì lễ Giáng Sinh là một con người, một con người đang có mặt giữa mọi người, giữa nhân loại. Chúa hiện diện không do những lời giới thiệu, những bài học, những bài giảng, những bài giáo lý, nhưng Đấng ấy là một con người bằng xương bằng thịt đang làm những việc như bài đọc I trích sách ngôn sứ Isaia đã viết:" Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi loan báo cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo việc ân xá cho người bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Chúa ". Chúa Giêsu đã xác định Ngài là Đấng được Chúa Cha xức dầu để làm những công việc ấy, thấy những việc Ngài làm như vậy là nhận ra Ngài. Điều kiện tiên quyết để nhận ra Chúa đang hiện diện là có tâm tình hoán cải, thống hối , tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa Kitô đang có đó, đang làm những việc mà sách tiên tri Isaia đoạn 61,1-2a.10-11 đã đề cập tới.
Lạy Chúa Giêsu xin mở lòng mở trí� để chúng con cảm nghiệm:" Lòng nhân từ của Thiên Chúa bao la như biển cả "( Frédéric William Faber ).
GỢI Ý CHIA SẺ
1.Bạn nghĩ gì về vai trò làm chứng của Gioan Tẩy giả ? 2.Làm sao để có thể nhận ra Đấng Cứu Thế đang hiện diện ? 3.Tâm tình của bạn đang sống Mùa Vọng ra sao ?
Cả nước Mỹ bấy giờ xôn xao, người ta đồn rằng: Edison là một tay phù thủy. Bởi ông ta vừa chế: MV3-B83
Cả nước Mỹ bấy giờ xôn xao, người ta đồn rằng: Edison là một tay phù thủy. Bởi ông ta vừa chế ra một loại ánh sáng, mà không cần nhiên liệu như nến, như dầu để đốt. Lời đồn ấy đã đến tai Giáo Hội. Edison là một con chiên ngoan đạo. Cho nên Giáo Hội phải vào cuộc. Hồng Y nổi tiếng Fulton Sheen được đề cử tới tận nơi để xem xét. Đúng thực, cả công ty của Elison được thắp sáng một cách kỳ diệu bởi những bóng đèn tròn. Hồng Y Sheen đứng lặng người chứng kiến. Lên xe trở về, Ngài tuyên bố: Elison không phải là phù thủy, nhưng đã làm được lạ kỳ của phù thủy, ông ta đã chế ra điện.
Đuốc hay đèn dầu cũng tạo ra ánh sáng, nhưng hai loại ánh sáng khác nhau. Tuy nhiên, dù có khác nhau, nhưng hai loại ánh sáng ấy, cũng chỉ là ánh sáng soi chiếu được vào vật chất. Hôm nay, lên cao hơn một bước nữa. Thánh Gioan được cử đến và đi khắp nơi, để báo cho mọi người, có một nguồn sáng mới, kỳ diệu hơn nhiều và lạ lùng hơn nhiều. Ánh sáng này không có nơi trái đất, mà chỉ sắp sửa được đem đến nơi trần gian. Ánh sáng này diệu kỳ ở chỗ, là có thể soi sáng được đáy sâu của lòng người, có thể khai quang được tâm trí của con người. Ánh sáng ấy, là Đức Kitô, Đấng Cứu Thế.
Thánh Gioan không phải là ánh sáng, mà Ngài chỉ là bác thợ điện. Ngài chỉ hăng hái nhiệt tình làm các công việc chôn cột, sửa đường, kéo dây, kêu gọi mọi người, hãy gấp rút chuẩn bị để nối vào nguồn sáng sắp sửa bước đến. Nguồn ánh sáng diệu kỳ ấy đến trần gian, để phơi trần cái thật, cái giả, cái sáng, cái tối, trong cõi lòng của cả nhân loại. Nguồn ánh sáng ấy dọi chiếu, để mỗi người có thể nhìn thấy rõ ràng bộ mặt đích thực của chính mình, những khoảng sáng và mảnh tối. Nguồn sáng kỳ diệu ấy đến, để bước chân đi của mỗi người không còn e dè, băn khoăn, bởi đã nhìn thấy rõ lối đi nào sẽ dẫn về đâu.
Thánh Gioan vừa đi vừa hô ầm lên để thức tỉnh mọi người: Tốc hành lên, đừng để lỡ cơ hội. Bác thợ điện Gioan, đã được thấy nguồn ánh sáng trên cả diệu kỳ ấy, cho nên không cầm lòng được, Ngài bôn ba khắp nơi, loan báo cho mọi người chân lý hạnh phúc ấy. Và như Ngài bảo, Ngài chỉ là một tiếng kêu, một tiếng kêu thật thanh, thật to, để mọi người tỉnh thức, đừng để vụt mất cơ may hạnh phúc, ngay trong tầm tay mình.
Gợi ý suy niệm:
1- Tâm hồn bạn bây giờ đang sáng hay tối. 2- Bạn đã chuẩn bị đầy đủ chưa, để nguồn sáng của Đấng Cứu Thế, có thể bừng lên trong lòng bạn?
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã đưa ra những câu hỏi để truy tìm tông tích, lý lịch, dung mạo và vai trò của : MV3-B84
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã đưa ra những câu hỏi để truy tìm tông tích, lý lịch, dung mạo và vai trò của Gioan tiền hô, nhưng thực ra là truy tìm chính Đức Kitô, Đấng Cứu Thế.
Bấy giờ, mọi người ở Giêrusalem đã bị khuấy động bởi những chuyện khác thường. Thế nhưng, những câu hỏi nêu lên lại không đi ra ngoài những khuôn mẫu sẵn có: là Elia, là tiên tri? Và Gioan đã chỉ có thể trả lời không. Bao lâu người ta còn loanh quanh trong những cái có sẵn, người ta không thể nhận ra Ngài. Sự hiện diện của Ngài đã là một sự độc đáo. Gioan đã phải vất vả để dứt cái nhìn của đám đông ra khỏi con người của ông để hướng về chính Đấng họ đang tìm kiếm. Và Đấng ấy đang ở giữa họ, nhưng họ chưa nhận ra. Gioan quả đã là người chứng đích thực vì ông đã không ngăn cản ánh sáng chiếu tới họ.
Muôn ngàn những bận rộn trong ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh của chúng ta cũng có thể được coi là những câu hỏi về dung mạo của Đấng chúng ta đang chờ đợi và tìm kiếm. Những cuộc vui chơi với bè bạn. Những chiếc hang đá xinh xinh và gợi cảm. Những món quà đắt giá, những chiếc bánh truyền thống, những bài hát thơ mộng, những ánh đèn muôn màu và rồi những buổi lễ long trọng. Lễ Giáng sinh có thể được làm nên bởi những thứ đó, nhưng tất cả những thứ đó được lặp lại hàng năm, có phải là giáng sinh? Có phải đó là lễ giáng sinh của ngày hôm nay? Chúng ta chỉ có thể trả lời: Không phải và không thể.
Bởi lẽ giáng sinh là một con người, con người ở giữa chúng ta trước khi là một ngày lễ. Con người ấy được nhận diện không phải bằng những lời giới thiệu, những bài giảng hay bằng các nghi lễ, mà trước tiên bằng chính việc làm. Không phải những việc làm thuộc loại gây chấn động trong thiên hạ, gây kin ngạc và thán phục, những việc làm ngoạn mục xuất chúng.
Bài đọc hai đã kê khai những việc làm của Đấng được xức dầu, tức là Đức Kitô: Loan báo Tin Mừng cho kẻ khó nghèo, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên bố việc ân xá cho những bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Và Đức Kitô đã khẳng định: Chính Ngài là người đã thực hiện những việc làm này, và chính Ngài cũng đã từng trả lời với những ai đang thắc mắc về Ngài: Hãy nhìn những việc làm để nhận ra Ngài là ai. Ngài quả là Đức Kitô, vì Ngài đã làm những việc của người đã được Thiên Chúa xức dầu. Đức Kitô đã chết và đã được tôn vinh, nhưng Ngài vẫn hiện diện giữa con người. Theo ánh sáng của lòng tin, chúng ta biết được Ngài hiện diện ở đâu có những nỗ lực và hành động giải phóng, đưa con người bị vùi dập bạc đãi, bị kỳ thị, bị tước mất quyền làm người. Mỗi người chúng ta có bổn phận phải làm chứng. Làm chứng không phải chỉ bằng lời nói mà chủ yếu bằng việc làm. Những việc làm của chính Đức Kitô, Đấng được xức dầu.
Thế nhưng nhiều khi chúng ta chuẩn bị mừng lễ giáng sinh bằng sự phô trương chính mình thay vì là một chứng tá sống động về sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng mà mọi người đang mong đợi và tìm kiếm.
Hôm nay bước vào tuần thứ ba mùa vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui mừng và hy vọng: MV3-B85
Hôm nay bước vào tuần thứ ba mùa vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui mừng và hy vọng, lời mời gọi này có thừa không khi, nhìn từ bên ngoài xã hội chúng ta đang sống đã có qua nhiều các hình thức và tụ điểm vui chơi, phương tiện giải trí? Mọi người mọi tầng lớp đều có những điểm gọi là “điểm vui chơi”. Người có nhiều tiền thì vui chơi theo kiểu cao cấp quý tộc, người bình dân vui chơi theo kiểu bình dân, người lớn vui chơi theo kiểu của người lớn, trẻ em và thanh niên vui chơi theo kiểu thanh thiếu niên, ví dụ quán bar, quán bia, caraoke, caphe… là nơi người ta đến để giải sầu, tìm vui, nghèo hơn nữa thì vài lít rượu với mấy quả ổi, con mực cũng được gọi là lai rai cho vui. Vui cũng uống, buồn cũng uống và không buồn không vui cũng uống. Bên cạnh đó, người ta còn tạo ra đủ mọi thứ lể hội để đem niềm vui cho mọi người
Thưa quý OBACE, như vậy, cuộc sống và xã hội này có thực sự đem đến cho chúng ta niềm vui hay không, nếu thực sự có, thì tại sao khi trở về nhà, họ lại cảm thấy buồn bã và trống rỗng, và họ vẫn cứ phải tìm kiếm một nơi nào đó để vui, để giải sầu mà càng “uống chén tiêu sầu càng sầu thêm”!
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới vô thần, là một thế giới người ta đang muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi xã hội và khỏi tâm hồn con người, mà một thế giới, một tâm hồn không có Thiên Chúa là một thế giới bất an, một thế giới lo âu khắc khoải không niềm vui. Nơi nào, tâm hồn nào không có Thiên Chúa thì nơi ây, tâm hồn ấy chỉ còn là hỏa ngục, buồn bã và thất vọng, và không có gì ở thế gian này có thể đem lại niềm vui cho những tâm hồn ấy được.
Lời Chúa hôm nay đem đến và mời gọi chúng ta hãy tận hưởng một niềm vui và hy vọng hoàn toàn khác với các niềm vui trống rỗng của thế gian, đây là niềm vui thực sự phát xuất từ trong tâm hồn được thể hiện ra bên ngoài qua nét mặt qua cuộc sống, đó là niềm vui có Chúa và niềm vui của Chúa.
Niềm vui ấy trước hết là niềm vui được giải thoát, được đổi mới. Tiên tri Isaia đã mở ra cho chúng ta một tương lai hy vọng, như ánh sáng bừng lên trong bóng tối, vì thời của Đấng Cứu thế đến, Ngài không chỉ chữa lành những đau đớn bệnh tật thể xác, mà Ngài còn chữa lành những bênh tật trong tâm hồn và lấp đầy những khát vọng buồn chán trong tâm hồn con người, Ngài giải thoát con người khỏi nô lệ của tội lỗi, sự tù đày của dục vọng: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương dập nát, giải phóng cho kẻ bị giam cầm, tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Niềm vui Đấng cứu thế còn là niềm vui của hy vọng và hân hoan, như niềm vui của cô dâu và chú rể, và như niềm vui của đất đai đâm chồi nảy lộc, niềm vui vì được đổi mới. Niềm vui này con người thế gian không thể mang lại, chỉ có Thiên chúa mới có thể đem đến cho chúng ta.
Kế đến đó là niềm vui trong cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa. Sự trống rỗng hời hợt của nhiều người và kể cả của nhiều Kitô hữu hôm nay đó là vì họ không có Chúa trong tâm hồn, bởi vì họ để mình bị cuốn trôi theo dòng chảy của xã hội của cơm áo gạo tiền, bởi những thú vui bên ngòai, họ sống một cách hời hợt không chiều sâu, không mục đích. Trong khi đó Thánh Phaolô khuyên tín hữu Thesalônica: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh… đừng dập tắt Thần khí, chớ khinh thường ơn nói tiên tri, hãy cân nhắc mọi sự điều gì tốt thì giữ và điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì tránh cho xa. Khi sống như thế, Thánh Phaolô khẳng định thiên Chúa là nguồn mạch niềm vui và bình an sẽ gìn giữ anh em.
Bài Tin mừng giới thệu cho chúng ta một niềm vui khác, đó là niềm vui vì nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Gioan Tiên Hô là người đã có kinh nghiệm này. Lúc bắt đầu sứ mạng rao giảng, Gioan đã rất thành công vì ông đã thu hút được rất nhiều người, mọi người kính trọng và đến với ông, thậm chí ông còn trở thành một dấu hỏi lớn đối với họ. Vì thế Những người Do Thái đã cử một số thày Tư tế và Lêvi đến hỏi Gioan: Ông là ai? Ông có phải là đấng Cứu thế không? Gioan mặc dù đang rất thành công, nhưng ông không nhận điều không có về cho mình, mà ông đã rõ ràng dứt khoát từ chối: Tôi không phải là Đấng Kitô, Tôi không là Elia mà ông chỉ nhận mình: Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hảy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Tức là Gioan vui với sứ mạng của mình là người dọn đương cho Đấng cứu thế, Đấng ây ông biết rất rõ Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, còn Gioan đã biết và đã nhận ra Ngài và còn nhận ra uy quyền tối cao của Ngài, mà ông khiêm tốn cho rằng mình không đáng cúi xuống cởi dây dép cho Ngài.
Gioan không buồn vì mình phải lui bước, cũng không sợ mất ảnh hưởng, không níu kéo vinh quang uy tín về cho mình, trái lại ông vui vì ông đã chu tòan sứ mạng, ông ý thức rằng ông phải nhỏ đi để Người được lớn lên; ông đến để làm chứng về ánh sánh để mọi người nhờ ông mà tin, chứ ông không phải là ánh sáng, và mọi người, để đón nhận được niềm vui từ Đấng Cứu Thế cần có một thái độ tiên quyết đó là có lòng sám hối, thay đổi đời sống, được biểu lộ ra bên ngoài bằng việc lãnh phép rửa mà ông đang thực hiện, phép rửa của ông chì là một dấu hiệu bày tỏ lòng sám hối, vì ông biết việc ông làm không có sức tha tội, chỉ có Đấng đến sau ông sẽ tẩy rửa tôi lỗi nhân loại bằng Thánh Thần, và ai chấp nhận để cho Thiên Chúa tẩy rửa và uốn nắn, người ấy sẽ có được niềm vui, hoặc đúng hơn chính Đấng ấy sẽ ban tặng cho họ niềm vui vì được làm con cái Chúa.
Thưa quý OBACE, chúng ta đang vui hay chúng ta đang buồn? Chúng ta có thực sự cảm nhận được niềm vui Chúa đem đến cho chúng ta hay không? Ngoài đường phố đã rộn ràng những bài thánh ca, những trang trí giáng sinh, ở trong siêu thị và các nhà hàng cũng tưng bừng với các chương trình cho mùa Giáng sinh mà họ gọi là mùa Noel. Vâng! Có thể người kitô hữu chúng ta cũng sẽ chỉ vui một cách hời hợt ở bên ngoài, nếu chúng ta chỉ chú ý đến những trang trí bên ngoài mà không chuẩn bị để có được niềm vui đón Chúa đến trong tâm hồn. Nhiều người nhiều gia đình lo chuẩn bị những chương trình, đi chơi hay ăn uống trong đêm Giáng sinh sắp tới mà không chuẩn bị cho Chúa có một chổ nhỏ ấm áp trong tâm hồn trong gia đình mình.
Khi chúng ta đã để cho bao thứ lo toan ràng buộc trong cuộc sống chiếm hết thời gian và tâm hồn khiến cà ngày sống chúng ta cứ cảm thấy mình trống rỗng và lao vào tìm kiếm mà không biết mình tìm kiếm điều gì. Chúng ta sẽ không thể nào vui khi chúng ta không dám để cho Chúa gỡ bỏ những gánh năng của cuộc đời, không dám để cho Chúa chia sẻ với nhữ lo toan nhọc nhằn của chúng ta như Chúa hằng mong muốn: Hãy đến với ta hỡi những ai vất vả nặng nề- ta sẽ nâng đỡ bổ sứ cho.
Chúng ta sẽ không vui và sẽ cảm thấy trống rỗng khi chúng ta không dám dừng lại, khi không dám sống trong sự thinh lặng, vì chúng ta sợ phải đối diện với chính mình và đối diện với Thiên Chúa; Chúng ta sẽ không thể vui khi trong lòng còn những bận vướng với anh em. Chúng ta sẽ không thể cảm nhận được niềm vui và hy vọng khi chúng chúng ta không có giờ cho việc cầu nguyện gặp gỡ Thiên chúa, cầu nguyên riêng tư một mình với Chúa, hoặc cầu nguyện chung trong gia đình, hay khi chúng ta cùng họp nhau nơi đây để cử hành thánh lễ, chính là lúc chúng ta được gặp Chúa, được lấp đầy những khoảng trống trong tâm hồn và tìm được niềm vui sâu xa.
Sau cùng, chúng ta chỉ thực sư vui khi chúng ta sống và làm việc trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, ở bên chúng ta, trong Bí tich Thánh Thể, nơi những người anh em, có điều là chúng ta có nhận ra sự hiện diện yêu thương nâng đỡ của Ngài hay không? Chỉ khi nhận ra và làm việc trong sự hiện diện của Ngài chúng ta sẽ tìm được niềm vui và bình an. Điều cũng cần lưu ý, là Thiên Chúa chỉ hiện diện trong một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn khiêm nhường hối cải, một tâm hồn không chất chứa sư thù oán ghen tị giận hờn… khi thực lòng thanh tẩy và sửa chữa những sai lầm nhờ Bí tích giải tội, ơn tha thứ sẽ được ban cho chúng ta và chắc chắn mỗi người sẽ cảm nhận được niềm vui và sự bình an vì biết mình được yêu thương tha thứ.
Xin cho mỗi người không chỉ chuẩn bị bên ngoài cho ngày lễ Giáng sinh, mà còn biết chuẩn bị tâm hồn để niềm vui và ân phúc của mủa Giáng sinh được trọn vẹn nơi mỗi người. Amen.
Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho người nghèo, cho: MV3-B86
Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho người nghèo, cho người bị tù đầy. Năm đó, có nợ ai bao nhiêu, cũng được xóa; có đang bị ở tù, cũng được trả tự do. Đức Yêsu là Đấng đến để công bố năm toàn xá cho toàn thể nhân loại. Vì thế, hãy vui lên, hỡi nhân trần.
1. Tin Mừng Cho Người Nghèo
Con người sống trên trần gian này cảm nghiệm bao nhiêu nỗi khổ: nỗi khổ vật chất và tinh thần. Ai càng coi trọng tiền bạc và vật chất, càng cảm thấy khổ nhiều. Tuy nhiên, đôi khi người nghèo không cảm thấy khổ, mà những người đặt nặng giá trị vật chất lại cho rằng họ khổ.
Người nghèo cũng có niềm vui riêng của họ, trời xanh, khí mát trong lành, đất trời đẹp tuyệt vời và vô tận. Tuy vậy, nếu người nghèo không thanh thoát vượt lên được cái bình thường, thì cái nghèo, và đặc biệt là tình trạng bần cùng, ảnh hưởng thê thảm trên con người. Nàng Kiều bán mình chuộc cha cung là một thí dụ. Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ khác; đến độ người ta thấy “đời là bể khổ.” Nghèo, tù, tội, là những điều gây cho bao người đau khổ dằn vặt.
Hôm nay, tin mừng đã được công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn tan vỡ, loan báo ơn giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do cho kẻ tù đày, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.” Chính Thiên Chúa giải phóng con người, cho con người tìm được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh phúc.
2. Đấng Đến Sau Tôi
Cái nghèo vẫn còn tiếp tục. Cái nghèo như gắn chặt với cuộc đời của một số người như hình với bóng. Con người vẫn khổ, vẫn miệt mài đi tìm miếng cơm manh áo. Những người đã có miếng cơm áo thì lại muốn có nhiều hơn nữa. Con người vẫn không thoát khỏi cảnh khổ. Nỗi khổ do nghèo vật chất dường như giúp con người thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần. Dường như khổ vật chất không làm con người khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.
Yoan Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh nghèo. Ngài như một lời chứng cho nỗi khổ vì nghèo tinh thần, vì không thấy được ánh sáng sự thật, chứ không phải vì nghèo vật chất. Hơn nữa, Yoan Tẩy Giả còn làm chứng cho một Đấng khác nữa: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa cho anh em với Thánh Thần và lửa.” Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ, cho dù lúc đó người ta và cả Yoan Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.
Đức Yêsu như tất cả mọi người đã sống cái nghèo đến tận cùng: sinh trong hang chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo, làm nghề của những người nghèo, ngay cả khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi tìm trái vả ăn cho đỡ đói cũng không có (Mt.21, 18-19). Tuy vậy, Đức Yêsu là người làm trọn lời tiên tri trong sách Isaya, Ngài công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Ngài tới để làm cho người mù được thấy, người tù được trả tự do, băng bó những tâm hồn tan vỡ. Đức Yêsu mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật, và sự thật sẽ giải phóng con người khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh thần. Ngài giúp con người vươn lên, vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an hạnh phúc. Hãy vui lên vì với Đức Yêsu, chúng ta biết con đường giải thoát và hạnh phúc đích thực.
3. Hãy Vui Mọi Lúc
Như một người đã được giải phóng, thánh Phaolô viết cho dân thành Thessalônica: “hãy vui hạnh phúc mọi lúc.” Một người rao giảng tin mừng Đức Yêsu phục sinh, luôn bị phản đối, rượt đuổi và bắt bớ, mà khuyên người ta hãy sống vui và hạnh phúc được sao? Nếu đúng, người đó phải sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
Tại sao Phaolô lại được như vậy? Vì Ngài đã đạt đạo, đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã chấp nhận Đức Yêsu như lý tưởng và Chúa của mình. Ngài đã thấy được trần gian chóng qua, chỉ có thực tại bền vững là chính Thiên Chúa, và cũng là bình an và hạnh phúc của Ngài. Với quan niệm sống và chọn lựa như vậy, Ngài sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
Chỉ khi nào con người chọn Thiên Chúa trên hết, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thì con người mới sống chấp nhận thực tại và thanh thản trước mọi biến cố và nghịch cảnh. Thiên Chúa đang thực hiện việc giải phóng con người qua Đức Yêsu, qua việc cho con người thấy cách sống giúp con người bình an hạnh phúc. Cách sống đó chính là cách sống của Đức Yêsu. Đức Yêsu cũng không được miễn trừ khỏi bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và vẫn trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả khi không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy. Biến cố Đức Yêsu kêu trời “lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” là một bằng chứng. Ngay cả như vậy, chúng ta tin rằng, Ngài vẫn bình an và phó thác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. “Hãy bình an hạnh phúc mọi lúc.” Liệu điều này có thể xảy ra không? 2. Làm sao để có thể bình an hạnh phúc trong mọi nơi mọi lúc? 3. Bạn có thể gặp được Đức Yêsu không? Xin đưa lý lẽ cho câu trả lời của bạn?
Trong đoạn mở đầu Phúc Âm, Thánh Gioan Thánh sử đã nói về Đức Kitô, Người là Thiên Chúa: MV3-B87
Trong đoạn mở đầu Phúc Âm, Thánh Gioan Thánh sử đã nói về Đức Kitô, Người là Thiên Chúa, là Nguồn Sáng, là Ánh Sáng đến trần gian.
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.”(Ga.1,9). Khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy Thầy Lê-vi đến hỏi Gioan Tẩy giả: "Ông là ai?" Ông tuyên bố thẳng thắn: "Tôi không phải là Đấng Kitô." Đúng như lời thánh Gioan Thánh sử đã viết về Gioan Tẩy Giả: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga.1,6-7).
Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong bối cảnh người Do Thái đang trông chờ một Vị Cứu Tinh cho dân tộc, người sẽ khôi phục Israel và đem về cho Israel một thuở huy hoàng nay đã mất dưới gót giầy đè bẹp của đế quốc La Mã.
Giấc mơ ấy hạn hẹp trong ý tưởng con người, vì Vị Cứu Tinh sẽ đến không phải để phục hồi lại những gì đã tổn thương trong Israel, mà tái tạo lại một “trời mới đất mới” cho cả vũ hoàn.
Vị Cứu Tinh ấy là Chúa Kitô, ánh sáng cho trần gian.
“Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối sẽ không diệt được ánh sáng”. (Ga.1,5).
Gioan Tẩy Giả xuất hiện để “làm chứng” cho Chúa Kitô, làm chứng về ánh sáng.
Gioan: Làm chứng về ánh sáng
Ánh sáng ở đây là chính Thiên Chúa – “Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta”.
“Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”. ( Ga 1,10).
Và Gioan Tẩy Giả mang sứ mạng làm cho mọi người nhận biết Người - nhận biết Đức Kitô - nhận biết Ánh Sáng.
“Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga.1,17).
Gioan Tẩy giả dành trọn cuộc đời mình chỉ với một mục đích trung thành với lời tuyên bố: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.” (Ga.1,29-34).
Ý nghĩa cuộc đời: Ánh Sáng Chúa Kitô
Đức Giêsu lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga.8,12).
Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, hoàn thành sứ mạng của mình trong ánh sáng chân lý.
Không ai thuộc về bóng tối lại có thể làm chứng về ánh sáng!
Chỉ trong ánh sáng Chúa Kitô, con người mới nhận ra giá trị đích thực của chính mình, vị trí của chính mình. Trong ánh sáng Chúa Kitô, Gioan nhận ra mình bé nhỏ.
Trong bóng tối, con người ngủ mê trong ảo ảnh. Con người hiểu biết được bao nhiêu và làm được điều gì lớn lao đến thế nào để có thể kiêu căng đến mức muốn thay thế Thiên Chúa?
Một cách nào đó, nhiều người tự xem mình như Đấng Cứu Thế. Nhiều kẻ muốn thay thế Lời Chúa bằng những “giáo điều” triết học và ý thức hệ chính trị nghe rất hấp dẫn và thu hút được nhiều người. Thực tế, những dòng tư tưởng đó đã đem thế giới đến chỗ tan nát vì chia rẻ và thù hận.
“Sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính ta đây’, và: ‘Thời kỳ đã đến gần’” (Lc 21: 8).
Với Niềm tin Kitô hữu, đời ta chỉ có một mục đích duy nhất là “làm chứng về ánh sáng”.
Gioan Tẩy Giả là tấm gương để tiến bước. Hoặc là sống trong ánh sáng, hoặc là sống trong tăm tối, phải chọn một, và chỉ chọn một, không có sự chọn lựa nào khác.
Quê tôi là một xóm làng dân cư đông đúc, khi cúp điện, cả ngàn hộ dân chìm trong tăm tối, thôn xóm đông người mà vắng lặng đến đáng sợ. Khi có điện trở lại, nghe vang lên những tiếng reo hò vui sướng: “Có điện rồi! Có điện rồi!”. Tiếng em bé reo vui, tiếng người cười cười nói nói, tiếng nhạc, tiếng TV… vang lên đó đây, xóm làng vui tươi, nhộn nhịp hẳn lên…
Không ai có tìm thấy hạnh phúc trong vùng tăm tối. Người từ chối ánh sáng là người đã hoàn toàn mất đi niềm hy vọng và sống một cuộc sống buông xuôi vô nghĩa.
Hạnh phúc là được tìm về ánh sáng. Mang hạnh phúc đến cho người khác là thắp lên cho họ ánh sáng hy vọng.
Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.
Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: "Cứ để yên mọi thứ cho tôi". Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:
- Sao lâu nay ông không thắp đèn lên? - Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai. - Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không? - Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên. Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy: - Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.
Thế giới chỉ có thể tồn tại trong ánh sáng tình yêu – “Ánh sáng đem lại sự sống”. Có thể nào Thế giới tìm thấy bình an và hạnh phúc trong thế giới tối tăm sao?
Lạy Chúa, Xin thắp lên trong con, ánh sáng Tình Yêu Chúa, để từ tận thẳm sâu lòng con, biết nói lên và thực hiện, Những điều Chân Thiện. Đó là lúc con biết làm chứng về ánh sáng, Ý nghĩa của đời con. Amen.
Tiếp nối hai bài suy niệm “Đừng Vô Cảm” và “Tỉnh Thức Con Tim” của hai chúa nhật I & II mùa: MV3-B88
Tiếp nối hai bài suy niệm “Đừng Vô Cảm” và “Tỉnh Thức Con Tim” của hai chúa nhật I & II mùa vọng, hôm nay chúa nhật III mùa vọng, xin được chia sẻ đề tài: con tim rung nhịp với chân lý.
Mấy ngày gần đây, video clip về sự thờ ơ của người qua đường đối với cô gái bị đâm 28 nhát dao đang tạo sự quan tâm của dân cư mạng và gây xôn xao dư luận Trung Quốc. Đoạn video có tên “Ngang nhiên giết người trên phố” đã được phát tán với tốc độ chóng mặt trên các mạng xã hội Trung Quốc. Video này cho thấy, vào lúc 9h sáng ngày 30/11, một người đàn ông chừng 25 tuổi đã xông vào tấn công một cô gái qua đường. Hắn ta giật, lôi và giằng lấy giỏ xách của cô gái. Cô gái đã gắng sức giữ chặt giỏ của mình. Sau gần 10 giây giằng co, người đàn ông hung hãn đã rút dao trong người đâm tới tấp cô gái 4 nhát liền, khiến cô ngã lăn ra đất. Ngay khi đó có hai người qua đường (có lẽ là 2 người đàn ông) đứng yên gần bên quan sát sự việc; ở len đường bên cạnh có ít nhất 1 chiếc taxi và 2 chiếc môtô tấp vào lề (chắc là vì tò mò); cách đó không xa là một nhóm người rất đông (có lẽ đi ra từ khách sạn). Chẳng ai có một phản ứng gì! Người đàn ông say máu cuồng lên, hắn tiếp tục dùng dao đâm cô gái thêm mấy nhát nữa. Nạn nhân dồn chút sức tàn gượng dậy kêu cứu, nhưng hai người đàn ông qua đường vẫn thản nhiên không hề can thiệp hay báo cảnh sát mà lẳng lặng rời khỏi hiện trường. Kẻ côn đồ tiếp tục đâm cô gái mười mấy nhát nữa cho đến khi cô nằm im trên vũng máu. Sau cùng, hắn dùng chân đạp hơn 10 cái trên thi thể nạn nhân bê bết máu rồi lạnh lùng bỏ đi.
Vụ án mạng được xác định xảy ra ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Vụ giết người dã man đã khiến cư dân mạng đã vô cùng kinh ngạc về hành động gian ác mất tính người của hung thủ và thương xót cho cô gái xấu số. Được biết nạn nhân đã tử vong sau khi đưa tới bệnh viện do mất quá nhiều máu. Họ cũng bày tỏ sự phẫn nộ với thái độ dửng dưng và bàng quan của những người qua đường không ai chịu ra tay can ngăn hay báo cảnh sát. Cho dù địa điểm xảy ra án mạng cách đồn cảnh sát không xa, nhưng hơn 10 phút sau vẫn không thấy cảnh sát đâu cả. Nhiều người cho rằng hành động của người đàn ông khiến người ta ghê tởm. Nhưng sự thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm của những người qua đường thấy chết mà không cứu giúp còn tàn nhẫn hơn!
Xem đoạn video clip xong, người viết bỗng nhớ đến bộ phim tài liệu “Chuyện Tử Tế” vang tiếng một thời của đạo diễn – NSND Trần Văn Thủy. Bộ phim được bấm máy năm 1985, bị cấm chiếu trong nước, nhưng lại gây tiếng vang ở nước ngoài. Bộ phim đoạt giải Bồ câu bạc Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được báo chí nước ngoài ví như “Quả bom đến từ Việt Nam nổ tung ở thành phố Leipzig” (Đức), được nhiều đài truyền hình nổi tiếng mua bản quyền phát sóng, được lọt trong top 10 bộ phim tài liệu hay nhất được thế giới bình chọn năm 1992.
Có lẽ vì biết trước số phận “long đong” của “Chuyện Tử Tế” trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam 1985 mà Trần Văn Thủy đã dán tấm bùa hộ mệnh ở đầu và kết cho bộ phim là câu nói của Karl Marx: “… Tất nhiên, chỉ có loài súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của con người, và chăm lo riêng cho bộ da của mình …”.
“Chuyện Tử Tế” được liền mạch bởi những câu hỏi mang tính nhân sinh: thế nào là Nhân dân? Là Vĩ đại? là Hạnh phúc? Là Tử tế? … Nhưng tất cả được gói gém trong lời mời gọi: “Hãy sống tử tế với nhau”. Nhưng đâu là nền tảng, là cội nguồn để con người sống tử tế? Dường như chính đời sống tận hiến phục vụ vô vị lợi của các Soeurs tại trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn) là đáp án cho vấn nạn. Xin được lược ghi lại lời thoại và lời bình trong phim:
Khởi đi từ lời của cô gái: “Ăn ở với nhau tử tế là lẽ thường, là niềm an ủi của người đời. Chỉ có đồ hủi mới ăn ở với nhau chẳng ra gì!”.
Lời cô gái như là cái cớ để đoàn làm phim đi đến Trại phong ở Quy Hòa. Tại đây, họ gặp mặt đông đảo các thầy thuốc và đặt câu hỏi:
- Thưa các thầy thuốc, ở đây ai là người tận tâm chạy chữa, chia sẻ với người hủi?
- Các bà soeurs! Chuyện đó phải kể đến các bà soeurs.
Các thầy thuốc, trong đó có các thầy thuốc từ khi rời ghế trường Y, cho đến bây giờ đã hai thứ tóc, làm việc ở các trại hủi, đều trả lời như vậy …
Những người làm phim hỏi: -Thưa, đâu là nơi bắt đầu để các soeurs yên tâm, tận tụy phục vụ người mắc bệnh hủi?
- Dạ, chỗ bắt đầu của chúng tôi và đồng nghiệp là lòng Tin.
Vâng! Nếu không có lòng tin thì con người không thể sống với con người được. Con người đã từ lòng tin thần thánh, lòng tin tôn giáo mà đến với lòng tin có chứng cứ, tin vào những cái đích thật.
Người biên tập bộ phim này cho biết: "Từ rất xa xưa, cha bác có dạy rằng tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có nổ lực tột bậc và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người - người tử tế - trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành người có quyền hành, giỏi giang hoặc siêu phàm".
Đọc đến đây có lẽ mọi người sẽ cho rằng người viết quá sa đà nơi phần dẫn nhập. Nhưng có xem đi xem lại hai đoạn phim kể trên nhiều lần và nghiền ngẫm nó thì ta mới thấy bừng sáng lời mời gọi của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin mừng hôm nay (Ga 1,6-8.19-28) giới thiệu sứ mạng của Gioan Tẩy Giả. Ông là người làm chứng. Người làm chứng về Đức Giêsu là Ánh sáng, là Ân sủng, là Sự thật. Người làm chứng có “Con tim rung nhịp với chân lý” là Đức Giêsu, cho dẫu người đương thời khướt từ Ngài. Vì có “con tim rung nhịp với chân lý” nên mạnh mẽ tuyên bố trong khiêm hạ: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi … Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”
Người làm chứng trong đoạn video clip có tên “Ngang nhiên giết người trên phố” là hai người đi đường, là những người trên 2 chiếc môtô và taxi, là đám đông trước khách sạn … đã vô cảm với chân lý, với lòng trắc ẩn yêu thương mà Thiên đã đặt để trong trái tim mỗi người. Họ vô cảm, dửng dưng, bàng quang, lạnh lùng, vô trách nhiệm trước cái ác, trước chân lý bị chà đạm miễn sao không phiền lụy đến bản thân. Đó là hệ quả của một xã hội đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng là nguồn cội muôn loài; một xã hội chỉ chạy theo vật chất tạm bợ trần gian.
Người làm chứng trong phim tài liệu “Chuyện Tử Tế” cũng rất nhiều và cũng rất đáng sợ. Đáng sợ đến nỗi mà khi công chiếu những người lãnh đạo đương thời phải thẹn với sự thật đau lòng mà cấm chiếu bộ phim. Tuy nhiên trong muôn vàn người thích làm chứng giả hay tránh né sự thật ấy vẫn còn có những con người có “con tim rung nhịp với chân lý”. Họ sống, hành xử theo niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn cội của Tình yêu và Sự thật để đến với tha nhân bằng sự đồng cảm, yêu thương, chia sẻ … Những con người ấy được điển hình hóa qua các nhân vật trong phim là các nữ tu tại trại phong Quy Hòa.
Người làm chứng trong bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay cũng có nhiều: là phần đông dân chúng, là một số Tư tế và thầy Lêvi, là Gioan Tẩy Giả. Dân chúng thời Chúa Giêsu thì im lặng không đón nhận: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11). Một số Tư tế và thầy Lêvi thì nghi ngờ và dửng dưng đi kiểm chứng. Chỉ có Gioan Tẩy Giả thì xác tín, con tim luôn rung nhịp với Chân lý là Con Thiên Chúa làm người nên khiêm tốn, sẵn sằng làm tất cả mọi sự vì Chúa Giêsu, vì chương trình cứu độ của Ngài. “Con tim rung nhịp với chân lý” của Gioan Tẩy Giả vẫn bền bĩ kiên trung rung nhịp theo Tin Mừng của Chúa Giêsu đến hơi thở cuối cùng dưới lưỡi gươm gian trá và thâm độc của Hêrôđê.
Bộ phim “Chuyện Tử Tế” được kết bằng ba biểu tượng: Thiên thần Gabriel thắng quỷ dữ, hai ngọn đèn cầy leo lét trước gió và cuối cùng là ngọn sóng bạc đầu dâng cao gào thét như thét gọi mọi người đừng vô cảm, hãy tỉnh thức con tim, để rung nhịp với chân lý, với sự thật, với nỗi đau của tha nhân.
Lời dạy của Tin Mừng hôm nay được thể hiện qua đời sống chứng tá cho Chân lý của Gioan Tẩy giả là lời mời gọi tất cả chúng ta phải có “con tim rung nhịp với chân lý” để làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu, để sống “tử tế” với nhau, khướt từ mọi đam mê quyến rũ, mọi tham lam ích kỷ vụ lợi cá nhân.
Hình tượng Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng càng thôi thúc mỗi người kitô hữu chúng ta hơn nữa: Hãy khiêm tốn sửa đổi chính mình để đón mừng Hài Nhi Giêsu ngự đến.
Phụng vụ Chúa nhật thứ ba mùa Vọng ghi đậm nét vui tươi. Tiên tri Isaia sống trước Chúa Cứu Thế sáu: MV3-B89
Phụng vụ Chúa nhật thứ ba mùa Vọng ghi đậm nét vui tươi. Tiên tri Isaia sống trước Chúa Cứu Thế sáu trăm năm, loan báo tin mừng hồi hương cho dân đang bị lưu đày ở Babylon: “Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa … Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ cứu độ” (x. Bài Đọc 1. Is 61, 1-2a.10-11). Đây là niềm vui giải phóng, niềm vui hồi hương.
Tin vui cứu độ được Đức Maria cảm nghiệm cụ thể khi lời sấm của ngôn sứ Isaia trở thành hiện thực nơi cung lòng Mẹ, khi Mẹ thưa với sứ thần truyền tin “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”(Lc 1,38) và Mẹ diễn tả niềm vui sung mãn đó trong Kinh Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Chúa (Kinh Magnificat). Mẹ lên tiếng ca tụng Thiên Chúa đã đoái thương thân phận mọn hèn của Mẹ, niềm vui cá nhân của riêng Mẹ được tuyển chọn làm mẹ Thiên Chúa; và niềm vui của cộng đồng Do thái được cứu độ theo như Lời Chúa đã hứa từ ngàn xưa. Niềm vui hoàn vũ nầy này vọng lại trong thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Thêxalônica đang chờ mong Chúa Cứu Thế trở lại: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (x. Bài Đọc 2. 1Tx 5, 16-24). “Vì đã có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng” (x. Bài Tin Mừng. Ga 1, 6-8.19-28), làm chứng cho niềm vui cứu độ đã xuất hiện trên trần gian, đó là Chúa Giêsu. Đây là khởi đầu niềm vui Chúa Cứu Thế thực hiện bằng con đường nhập thể và nhập thế đi vào giữa nhân loại. Niềm vui Thiên Chúa làm người, định cư giữa nhân loại, để nhân loại biết đường về trời.
Niềm vui cảm nghiệm mình được Thiên Chúa cứu chuộc được tiên báo qua nụ cười của bà Sara, vợ ông Ápraham, khi được báo tin con đầu lòng Ixáac sẽ ra đời, cho đến sự nhảy mừng của thánh Gioan khi còn trong lòng bà Isave. Tất cả cho thấy niềm vui của buổi phụng vụ hôm nay như tô đậm nét sự hân hoan mà bà Isave cảm nghiệm khi đứa con thân yêu nhảy lên trong dạ mẹ, niềm sung sướng tràn trề của vị tiên tri cuối cùng Cựu Ước gặp được Chúa Cứu Thế thời Tân Ước. Niềm vui vỡ bờ hoành tráng hoàn vũ.
Niềm vui vĩ đại đòi cung cách diễn tả hòanh tráng. Tiền hô hậu ủng là phong cách nhân lọai của bất cứ đại vương nào khi hạ cố thăm thần dân của mình. Sự long trọng của người tiền hô càng làm sáng tỏ uy quyền cao cả của nhân vật chính yếu đến sau. Đây là cung cách của vị tiền hô: Lối sống tu rừng khắc khổ và đơn sơ, cách ăn mặc kỳ dị và mộc mạc, lời rao giảng nghiêm khắc và cứng rắn của vị tiền hô Gioan gây thắc mắc cho những người thời bấy giờ đến phỏng vấn ông. Tuy nhiên đứng trước niềm vui to lớn này vị tiền hô xóa mình đi. Ông khiêm hạ thẳng thắn khẳng định mình không phải là Đấng Kitô, không phải là Êlia, không phải là ngôn sứ mà truyền thống Do thái mong đợi. Ông khẳng định mình là tiếng kêu trong sa mạc, có sứ mạng dọn đường tâm linh, chỉnh đốn tâm đạo cho ngay thẳng để đón tiếp một nhân vật cao trọng âm thầm đang đến một cách bí bí ẩn: “ Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho người” (x. Bài Tin Mừng).
Con người bí ẩn đó là Chúa Giêsu, mà cho đến hôm nay, đối với các Kitô hữu, Người vẫn còn y nguyên là một mầu nhiệm cực lớn, đòi liên tục khám phá trong đời sống. Tất cả những gì diễn tả về Người đều là mầu nhiệm đòi khám phá, sự hiện hữu của Người, quyền năng vô biên của Người, tình yêu cứu chuộc của Người đối với nhân loại, sự đồng hóa của Người nơi anh em hèn mọn, cả đến sự chết và sự phục sinh vinh hiển của Người đều là bí ẩn đòi khám phá không ngừng trong cuộc sống.
Thật vậy mỗi ngày người Kitô phải liên tục khám phá niềm vui trong gặp gỡ tha nhân để phát hiện con người bí ẩn đó, vì “Ngài ở giữa các ông mà các ông không biết”. Không những khám phá niềm vui mà thôi, người Kitô hữu còn phải là tiền hô cho Chúa Cứu Thế nữa, sống vui tươi xây dựng xã hội trần thế, bởi vì Kitô hữu là người mang tin vui đến cho mọi người. Tuy nhiên Người mang tin vui mà chính mình không vui là phi lý, là phản tác dụng, là phản bội sứ điệp loan báo Tin mừng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết khám phá con người bí ẩn mà thánh Gioan nói đến: “Ngài ở giữa anh em mà anh em không biết”, con người đó có thể là láng giềng khó tánh, là người đồng nghiệp gặp họan nạn, là bệnh nhân cần giúp đỡ, là người xa Chúa lâu ngày cần trở lại. Amen.
Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề: MV3-B90
Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens...đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy giả…
Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất.
Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine. Dưới đây là ảnh tác phẩm. Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.
Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan tẩy giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết".
Dưới đây là icon thể hiện chủ đề "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết" được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.
Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng". Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu. Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta. Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho sự sống.
Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).
1. Chứng nhân ánh sáng trung thực
Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.
Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “Đây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm về Gioan: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả” (Mt 11,11). Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.
Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Đấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.
Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.
Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.
2. Thánh Gioan sống rất đẹp
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông dân chúng, được dân chúng ngưỡng mộ, xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.(Ga 3,30)
3. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.
Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Người theo Đạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.
4. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?
Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc... Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).
Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là "Nói thẳng, nói thật". Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.
Thôi xài chữ giả Chữ nghĩa du di chả mấy hồi Đói không nói đói, "thiếu ăn" thôi! Học hành "hạn chế": y chang dốt Báo cáo "tuy nhiên": ắt hẳn... tồi. "Vượt mức chỉ tiêu"? Nên bớt nửa, "Có phần sơ sót"? Hãy nhân đôi... Mực đen gấy trắng đòi trung thực Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)
Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một "giả thuyết làm việc", như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.
Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
Gioan Tẩy Giả đã thu hút được đông đảo quần chúng Do Thái khi Ông rao giảng việc ăn năn sám hối: MV3-B91
Gioan Tẩy Giả đã thu hút được đông đảo quần chúng Do Thái khi Ông rao giảng việc ăn năn sám hối ở bờ sông Giođan. Các tư tế, các thượng tế, Lêvi, Biệt phái đều tỏ ra thắc mắc về Gioan là ai ? Họ muốn biết Ông giữ vai trò gì trong lịch sử cứu rỗi của Thiên Chúa ? Ông có phải là Đức Kitô, Đấng được xức dầu và sẽ đến vào thời cứu rỗi? Là Eâlia ? là ngôn sứ hay là một nhân vật nào đó mà họ tin rằng sẽ trở lại nơi trần gian để rao giảng sự thống hối vào ngày sau hết của việc phán xét cuối cùng ? Lời rao giảng và những việc làm của Gioan Tẩy Giả quả làm chấn động xã hội thời Ông.
GIOAN TẨY GIẢ KHÔNG PHẢI LÀ NHÂN VẬT CHÍNH:
Bên giòng sông Giođan, Gioan Tẩy Giả đã rao giảng, đã làm phép rửa bằng nước, Ông đã gây chú ý cho biết bao nhiêu người đồng thời. Ông rao giảng:” Hãy từ bỏ tội lỗi mình…Hãy dọn đường cho Chúa đến: hãy làm một lối thật thẳng để Ngài đi “. Tin tức về những hoạt động của Ông chẳng mấy chốc lọt đến tai những vị lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem. Do đó, họ sai một phái đoàn gồm Lêvi và Tư tế đến với Gioan Tẩy Giả để tìm hiểu sự thật.
Các Tư tế lưu tâm đến Gioan vì Cha của Gioan là Giacaria cũng là một Tư tế như họ. Điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc dòng dõi Tư tế hoặc dòng Aaron. Nên, các tư tế ở Giêrusalem hết sức bỡ ngỡ về thái độ và cung cách kỳ dị của Gioan Tẩy Giả. Khi phái đoàn đến họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan ngay:” Ông là ai ?”.
Gioan biết họ đang nghĩ gì về Ông, nên Ông trả lời tức khắc:” Tôi không phải là Đấng cứu thế “. Các Tư tế hỏi:” Nếu Ông không phải là Đấng cứu thế, vậy Ông là ai?
Ông có phải là Eâlia không ?”. Gioan nói thẳng Ông không phải là Eâlia mà các người Do Thái tin sẽ trở lại dương thế vì Eâlia đã được đưa về trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ. Họ hỏi:” Vậy Ông có phải là một vị ngôn sứ không ? “. Gioan lại trả lời:”
Không, tôi không phải là một ngôn sứ như Giêrêmia hay Êdêkiên “. Họ hỏi tiếp:” Vậy Ông là ai ?” Gioan trả lời bằng câu nói của ngôn sứ Isaia:” Tôi là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến”. Để hiểu được tiếng tiền hô, ta phải trở về thời Gioan Tẩy Giả để hiểu: đường sá lúc đó hầu hết là đường đất, trũng, lầy lội khi mưa gió. Do đó, khi có vị quan hoặc vua tới thì vị tiền hô đi trước để mời gọi dân chúng lo đường cho tốt hầu vua hoặc quan đi qua cho tốt đẹp. Tiền hô cũng còn một nhiệm vụ nữa là dậy dân chúng nghi thức tiếp tân cho tốt đẹp để đón tiếp các Cấp trên. Gioan Tẩy Giả cũng lưu tâm dân chúng thái độ tiếp tân dân cần phải có để đón Chúa tới:” Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa”(Mc 1, 4 ).
CHÚA GIÊSU LÀ NHÂN VẬT CHÍNH:
Gioan không phải là chính, sứ điệp của Ông ta có thể hiểu như sau:” Tôi không phải là Đấng cứu thế, nhưng tôi là người tiền hô cho Ngài”. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Gioan đã chu toàn sứ mạng tôn giáo của mình. Ông không để nhân loại và đám đông chỉ chú ý tới Ông:” Ngài phải lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại”. Gioan hướng con người chú ý tới Chúa. Đây cũng là sứ điệp Mùa vọng mà Giáo Hội đang hướng chúng ta. Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Kitô đến. Ngài đến trong lịch sử nhân loại và Ngài lại đến với thế giới vào ngày sau hết. Phụng vụ các bài đọc Chúa nhật hôm nay cho nhân loại hay:” Gioan không phải là Đấng Cứu Thế. Ông chỉ là tiếng hô trong sa mạc để dọn đường cho Chúa đến”. Ôâng dậy chúng ta phải đón Chúa như thế nào và chúng ta chuẩn bị Chúa đến không như các người Do Thái xưa mà chờ đón Chúa đến để phán xét con người, phán xét chúng ta vào ngày tận thế. Nào chúng ta cùng ăn năn sám hối và cầu nguyện:
Nhân loại qua mọi thời đại luôn ngưỡng mộ những con người sống phục vụ, sống dấn thân vì lợi: MV3-B92
Nhân loại qua mọi thời đại luôn ngưỡng mộ những con người sống phục vụ, sống dấn thân vì lợi ích đồng loại, nhưng đáng tiếc lại rất ít người dám cúi mình phục vụ tha nhân. Bản tính con người thường ham sướng sợ khổ. Con người luôn thích lánh nặng tìm nhẹ. Người ta sợ hy sinh. Người ta tìm hưởng thụ và sự an nhàn cho bản thân nên có mấy ai dám hiến dâng cuộc đời cho hạnh phúc tha nhân.
Dầu vậy, thế giới ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay vẫn còn đó những con chim én đang tìm đàn để tạo nên muà xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu đó vẫn còn đó những người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác trên đường do bọn đinh tặc mất tính người rải ra. Đâu đó vẫn còn đó những người đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân đang nằm thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó vẫn còn đó những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó vẫn còn đó những con người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các trại phong...
Tất cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Người ta kể rằng: có một cha già cố cả đời sống thanh bần để lo cho giáo dân. Ngài chẳng giữ lại cho mình cái gì. Ngài luôn cho đi tất cả. Ngài luôn chia sẻ cho người nghèo trong xứ cái ăn, cái mặc mà quên đi cả bản thân. Cho tới ngày ngài nhắm mắt xuôi tay, người ta muốn tìm một bộ đồ đẹp để thay cho ngài nhưng không tìm thấy. Lúc đó, người giúp việc bên ngài mới kể lại: Cha già đã cho đi tất cả, chỉ còn một bộ mặc trên mình và một số đồ cũ kỹ mà thôi. Đây chính là một mẫu gương sống đơn sơ và nghèo khó. Đây là một dấu chỉ của cuộc sống người môn đệ của Chúa. Một cuộc sống yêu thương, hiến dâng. Một cuộc sống không cần lo cho bản thân. Vì "cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu".
Đức Giêsu khi tỏ dấu hiệu cho muôn dân nhận thấy Ngài là Đấng Messia, Ngài đã tỏ mình ra trong thân phận một người tôi tớ phục vụ. Ngài đến trần gian trong thân phận một hài nhi yếu đuối. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo nàn trong thân phận bác thợ mộc làng quê Nagiaret. Dấu chỉ duy nhất mà Ngài đã tỏ bày về thân phận Đấng Messia chính là: "Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng".
Cuộc đời chúng ta là một mùa vọng. Ngày nào Chúa cũng có thể đến với chúng ta. Lúc nào Chúa cũng có thể ngỏ lời cùng chúng ta. Vì vậy, hãy tỉnh thức. Vì Chúa sẽ không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một ánh mắt cảm thông. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Hãy tạ ơn Chúa qua những con người đang sống với chúng ta, đang hy sinh vì chúng ta. Hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta luôn được sống trong tình nghĩa thằm thiết của những người thân bên cạnh chúng ta. Họ chính là hiện thân của Chúa để yêu thương và phục vụ chúng ta.
Bên cạnh đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta cũng trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Đó chính là lòng bác ái, là tình yêu thương. Đây là hiệu kỳ của người ky-tô hữu, là căn tính của người môn đệ Chúa Kitô, vì "người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy. Đó là các con hãy thương yêu nhau". Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Vâng, lễ giáng sinh chính là lễ của tình yêu. Thiên Chúa mang lấy thân phận một hài nhi yếu đuối đang cần chúng ta chăm sóc. Ngài đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu người ta sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giêsu. Amen.
Bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta : “Hãy tỉnh thức” (Mt 24, 44): MV3-B93
Bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta : “Hãy tỉnh thức” (Mt 24, 44). Sang Chúa nhật thứ II, tiếng hô lớn của Gioan Tẩy Giả vọng vang : “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Is 40, 3). Chúa nhật thứ III hôm nay, Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng như Chúa nhật IV Mùa Chay, nhằm đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete - Hãy vui lên”.
Vui lên “Gaudete” là chủ đề của Chúa nhật này. Vui lên như Isaia:“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10).Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ Cn III Mùa Vọng).
Với những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Is 61, 1-2).Và làm sao không thể không mừng “vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân” (Is 61, 10-11).
Đọc Trang Tin Mừng (Ga 1, 6-8. 19-28), chúng ta bắt gặp một nhân vật có vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị mừng Chúa Giêsu giáng sinh đến với nhân loại là Gioan Tẩy Giả. Ngài xuất hiện trong tư cách là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Chúng ta đang vui sẵn, sự xuất hiện của ngài làm cho chúng ta vui thêm, vì lời hứa được thành hiện thực.
Gioan rút lui vào hoang địa để sống một cuộc sống rất khổ hạnh, và qua cuộc sống của mình, ông mời gọi dân chúng hoán cải; ông làm phép rửa trong nước, một nghi thức thống hối đặc biệt, khác với nhiều nghi thức thanh tẩy bên ngoài của các giáo phái thời đó, khiến những người Do thái từ Giêrusalem phải sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi xem : "Ông là ai?" Chúng ta phải cám ơn họ, vì nhờ họ mà chúng ta biết được Gioan là ai?
Câu trả lời của thánh nhân thật là khiêm tốn lạ thường, ông không phải là Ðức Messia, không phải là ánh sáng. Không phải là Elia trở lại trái đất, cũng không phải là một vị đại ngôn sứ đang được chờ đợi. Ông là vị tiền hô, một chứng nhân, hoàn toàn tùng phục Ðấng mà ông rao giảng, ông là một tiếng kêu trong hoang địa. Thế giới cần tiếng kêu của chúng ta :Chúng ta đang sống trong một thế giới, thu hẹp hơn là một đất nước với chủ nghĩa vô thần, phủ nhận Thiên Chúa, sống như thể không có Thiên Chúa, và chúng ta cũng cảm thấy vắng bóng Thiên Chúa. Người kitô hữu có bổn phận phải cất lên những tiếng kêu vang vọng khắp bốn phương trời rằng : "Có Thiên Chúa hiện hữu, Chúa luôn ở gần kề, cả khi Thiên Chúa có vẻ vắng bóng".
Gioan là một tiếng kêu trong hoang địa, là một chứng nhân của ánh sáng. Ðó chính là sứ mạng của Mùa Vọng: tức là trở thành những chứng nhân của Ánh Sáng và chúng ta chỉ có thể là chứng nhân như vậy nếu chúng ta mang ánh sáng trong mình, nếu chúng ta không những xác tín là có ánh sáng, nhưng cả chúng ta cũng thấy một chút ánh sáng. Và trong Giáo Hội, trong Lời Chúa, chúng ta cử hành các bí tích, trong bí tích giải tội, với sự tha thứ mà chúng ta nhận lãnh, trong việc cử hành Thánh Lễ qua đó Chúa hiến mình trong tay và trong tâm hồn chúng ta, chúng ta chạm đến ánh sáng và nhận lãnh sứ mạng này là trở thành những chứng nhân, chứng tỏ có ánh sáng và mang ánh sáng vào trong thời đại chúng ta".
Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô cũng đã quả quyết, do kinh nghiệm của ngài: “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).
Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.
1. Bài Đọc I: Ơn Gọi Của Ngôn Sứ Isaia (Is 61, 1-2b. 10- 11)
Thần Khí Chúa ngự trên ngôn sứ và sai đi loan báo Tin Mừng cho những kẻ nghèo hèn, công bố: MV3-B94
Thần Khí Chúa ngự trên ngôn sứ và sai đi loan báo Tin Mừng cho những kẻ nghèo hèn, công bố thời kỳ hồng ân của Đức Chúa. Vị ngôn sứ đã hớn hở mừng vui vì được Đức Chúa mặc cho hồng ân cứu độ, đức chính trực công minh, làm trổ hoa công chính và làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân.
2. Bài Đọc II: Ơn Gọi Của Kitô Hữu (1Tx 5, 15- 24)
Thánh Phaolô mời gọi: anh em hãy vui luôn, hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh và cầu nguyện không ngừng, đừng dập tắt Thần khí và chớ coi thường ơn nói tiên tri. Hãy để Thiên Chúa thánh hóa toàn diện con người hầu được giữ gìn vẹn toàn, không có gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô quang lâm.
3. Bài Đọc Tin Mừng: Ơn Gọi Của Ông Gioan Tẩy Giả (Ga 1, 6- 8. 19- 28).
Gioan được Thiên Chúa sai đến để làm chứng về ánh sáng; ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. Ông chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Ông đã làm phép rửa trong nước để tỏ lòng sám hối.
II- SUY NIỆM
Ngày 15/5 vừa qua tòa án Sudan đã đưa ra phán quyết tàn bạo là treo cổ một người phụ nữ đang mang thai, vì tội bỏ Hồi giáo để gia nhập Kitô giáo. Đó là cô Mariam- 27 tuổi đã kết hôn với một Kitô hữu. Luật Hồi giáo không cho phép phụ nữ kết hôn với người kitô hữu, nên đã truyền đánh cô 100 roi và buộc phải trở lại Hồi giáo sau ba ngày, nếu không sẽ bị kết án tử hình. Khi bị đưa ra trước tòa, Mariam đã nói: “Tôi là một người kitô hữu. Tôi chưa bao giờ phạm tội bội giáo”. Với xác tín này, Mariam bị kết án treo cổ và cô đã mỉm cười đón nhận bản tuyên án này.
Tuy nhiên, sau đó bị thế giới lên án gắt gao, cô đã được giải phóng. Trước khi sang Mỹ, gia đình cô đã đến gặp riêng ĐTC Phanxicô. Trong cuộc nói chuyện ĐTC đã cám ơn về sự can đảm làm chứng đức tin của cô, và ngài nói đó là tấm gương cho mỗi người chúng ta. Có thể nói, cô đã sống điều thánh Phaolô mời gọi: “Anh em đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Tin Mừng” (2Tm 1, 8).
Gương sáng tuyệt vời về sự làm chứng cho Tin Mừng của Mariam gợi lên cho chúng ta nhìn lại ơn gọi và cách thức sống đức tin của mình. Chúng ta là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, thánh hóa và yêu thương hầu trở nên dấu chỉ tình yêu của Ngài cho nhân thế.Ngài muốn mỗi người đi vào lòng nhân thế với hành trang tin yêu và cuộc sống đượm chất Tin Mừng. Nhờ đó, chúng ta mới có thể trở nên trung gian hòa giải và có khả năng chữa lành vết thương tâm hồn nơi người khác.
Dựa vào ba bài đọc hôm nay, chúng ta dừng lại ở hai điểm chính: Đời sống chứng nhân được khởi đi từ Thiên Chúa và làm chứng về niềm vui cứu độ.
1. Ơn Gọi Được Khởi Đi Từ Thiên Chúa.
Ơn gọi kitô hữu được khởi đi từ Thiên Chúa và cho mục đích của Ngài.Niềm xác tín này phải được đặt lên hành đầu, vượt trên những giá trị trần thế và dự tính cá nhân. Chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi và sai đi cho sứ vụ của Ngài, đúng với khả năng, bậc sống và ơn gọi của mình. Ở bài đọc I, chúng ta thấy Thiên Chúa ngự xuống trên Isaia, đã xức dầu tấn phong ông, sai ông đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá và giải phóng những ai bị giam cầm (Is 61, 1). Thiên Chúa dùng ông như hiện thân của Ngài để mang lại cho con người niềm vui và sự giải thoát.
Trong bài đọc Tin Mừng, Thiên Chúa chọn ông Gioan cho một chức năng khác: Dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến và làm chứng về Người. Tin Mừng viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1, 6- 7). Chính ông đã tự làm chứng về mình: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga 1, 23). Như vậy, nhiệm vụ của ông Gioan là chuẩn bị những tâm hồn đơn thành cho Thiên Chúa đến, Đấng mang lại cho con người ơn giải thoát và tháo cởi gông cùm sự chết.
Thánh Phaolô xác nhận ơn gọi loan báo Tin Mừng của mình được khởi đi từ Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ… Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng” (Gl 1, 16- 16). Nơi sách Công vụ Tông đồ, ngài cũng nói lên điều này: “Ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân ngoại được nghe Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo” (Cv 15, 7).
Điểm chung cho các ơn gọi là được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi thực hiện chương trình tình thương của Người giữa lòng nhân thế, giúp con người hoán cải và đón nhận Tin Mừng cứu độ.
2. Chứng Nhân Niềm Vui Cứu Độ
Đời chúng ta là hiện thân của niềm vui cứu độ khởi đi từ Thiên Chúa. Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn và gây nên sự buồn chán nơi người khác. Cho dầu, ơn gọi chứng nhân lắm lúc gặp khốn cùng, nước mắt và đau thương, nhưng không để cho niềm vui trôi vào dĩ vãng. Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, đức thánh cha Phanxicô đã nói: “Nhà truyền giáo không thể lúc nào cũng giống như người đi đưa đám về. Chúng ta phải phục hồi và gia tăng lòng nhiệt thành, niềm vui ngọt ngào và an ủi của việc rao giảng Tin Mừng, ngay cả khi chúng ta phải gieo trong nước mắt” (EG số 10).
Cảm nhận được những ân ban của Thiên Chúa, Isaia đã thốt lên: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hỡ biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh” (Is 61, 10). Thánh Phaolô cũng mời gọi các tín hữu: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (1Tx 5, 16- 17). Ở đây, thánh nhân đặt hai yếu tố song hành: Vui mừng và cầu nguyện. Như vậy, niềm vui thiếu vắng cầu nguyện là niềm vui chưa trọn vẹn và có nguy cơ mang “chất đời”. Trong cầu nguyện, mỗi người sẽ cảm nhận được hồng ân Thiên Chúa qua từng giây phút và biến cố cuộc đời. Họ biết rằng Thiên Chúa vẫn đồng hành trong bước đường dương thế cho dầu còn nhiều cạm bẫy và lắm nguy nan.
Có thể nói, người kitô hữu là chứng nhân sống động về niềm vui cứu độ mà Thiên Chúa muốn tặng ban. Chính niềm vui này sẽ mang lại cho thế giới ý nghĩa, sự an hòa và hạnh phúc.
III- ÁP DỤNG
Qua các bài đọc hôm nay, Thiên Chúa mời gọi chúng ta nhìn lại ơn gọi và cách thức làm chứng của mình. Chúng ta thử hỏi trong cuộc sống có cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa và nhận ra giá trị ơn gọi của mình không? Chúng ta có thực sự trở thành môn đệ Đức Kitô trong khi cuộc sống đầy ắp những chán nản, ganh tị và hận thù? Niềm vui Tin Mừng ở đâu khi cuộc sống chỉ thấy khổ đau? Là môn đệ Đức Kitô, chúng ta chuyển đạt cho thế giới hôm nay sứ điệp nào?
Chắc hẳn trong cuộc sống, chúng ta không thiếu những phiền muộn, cám dỗ và giới hạn của kiếp người. Đôi khi, nó như gánh nặng chất lên vai mà ta không có sức cáng đáng. Chúng ta luôn khát mong vươn lên một chân trời tươi sáng, nhưng những bóng mây chán nản vẫn đeo bám thường ngày. Mặc dầu được Thiên Chúa yêu thương giữ gìn, chúng ta vẫn không xóa hết vết tích của con người yêu đuối và tội lỗi.
Tuy nhiên, điều Thiên Chúa muốn nơi mỗi người là sẵn sàng đứng lên và bắt đầu lại sau mỗi lần té ngã vì phạm tội. Chính tình yêu Thiên Chúa cứu độ con người, chứ không đơn thuần dừng lại ở cố gắng bản thân hay những thành quả đạt được. Ơn Thiên Chúa đủ cho ta và sức mạnh của Ngài được biểu lộ trong sự yếu đuối. Do đó, trong cuộc chiến đấu với những cám dỗ, khắc phục giới hạn, chúng ta không “đơn phương độc mã”, nhưng có Thiên Chúa luôn đồng hành và giúp ta chiến thắng.
Như vậy, tin tưởng vào quyền năng và tình yêu Thiên Chúa là khí giới hữu hiệu giúp ta vượt qua những khó nguy và cạm bẫy. Đồng thời là động lực giúp ta can đảm làm chứng cho thế giới về một Thiên Chúa luôn gần gủi, yêu thương và muốn cứu độ con người.
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con nhận ra giá trị ơn gọi của mình để cuộc đời chúng con thấm nhuần niềm vui, an bình và cảm nhận được tình yêu Chúa trong từng giây phút cuộc sống.
Ts. Montfort Nguyễn Xuân Pháp Ct
MV3-B95: NÊN CHỨNG NHÂN ÁNH SÁNG BẰNG VIỆC CHIA SẺ
NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ
Is 61,1-2a.10-11 ; 1 Tx 5,16-24 ; Ga 1,6-8.19-28
I.HỌC LỜI CHÚA 1. TIN MỪNG: Ga 1,6-8.19-28: (c 6) Có một người được Chúa sai đến, tên là Gio-an. (c 7-8) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. (c 19) Và đây là lời chứng của ông Gio-an: Khi người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai?”. (c 20) Ông tuyên bố thẳng thắn. Ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô”. (c 21) Họ lại bảo ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói: “Không phải”. -“Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không”. (c 22) Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?”. (c 23) Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. (c 24) Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. (c 25) Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép Rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?”. (c 26) Ông Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép Rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. (c 27) Người sẽ đến sau tôi, và tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Người”. (c 28) Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép Rửa.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an Tẩy Giả có sứ mạng đến trước dọn đường cho Đấng Ki-tô Cứu Thế, nên còn được gọi là Gio-an: MV3-B95
Gio-an Tẩy Giả có sứ mạng đến trước dọn đường cho Đấng Ki-tô Cứu Thế, nên còn được gọi là Gio-an Tiền Hô hay gio-an Tẩy Giả. Ông đã thi hành sứ mạng bằng việc làm chứng cho Chúa như sau: ông xác nhận mình không phải Đấng Thiên Sai mà chỉ là “Tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường đón Đức Chúa sắp đến” như sấm ngôn của I-sai-a. Gio-an đã nêu gương dọn đường bằng một nếp sống đơn giản can đảm trung thực . Gio-an cũng kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để dọn lòng đón Đấng Thiên Sai. Sám hối bằng việc ăn năn thú tội và chịu phép rửa dìm mình trong nước sông Gio-đan. Gio-an khẳng định mình không phải Đấng Thiên Sai và xác nhận Đấng ấy đã đến và đang hiện diện giữa mọi người mà ông không đáng cởi quai dép cho Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 6: + Gio-an: Là con trai của hai ông bà Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét đã thụ thai cách lạ lùng nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Lc 1,59-60). Tên Gio-an có nghĩa là “Chúa ban ơn”. Tên này do sứ thần Chúa lệnh cho ông Da-ca-ri-a trong đền thờ (x. Lc 1,13). Ngoài tên gọi Gio-an, ông còn có hai biệt danh là Tiền Hô và Tẩy Giả. Tiền hô là người “đi trước dọn đường cho Đấng Ki-tô” (x. Lc 1,17); Tẩy Giả là người “làm phép Rửa cho những người đang mong chờ ơn cứu chuộc Ít-ra-en” (x. Lc 3,3).
- C20-23): +Ê-li-a: Theo sách Ma-la-ki-a (3,1-2) và Gíao Sĩ (48,10-11) thì Ê-li-a sẽ trở lại trước khi Đấng Thiên Sai xuất hiện. Gio-an Tẩy Giả không nhận mình là Ê-li-a theo nghĩa đen này. Điều này không trái ngược với lời Đức Giê-su khẳng định: “Gio-an chính là Ê-li-a, đấng phải đến trước” (x. Mt 11,14). Gio-an xuất hiện trong tinh thần của Ê-li-a, chứ không phải là chính con người Ê-li-a bằng xương bằng thịt. + Ngôn sứ: Thực ra, Gio-an cũng là một ngôn sứ của Thiên Chúa (x. Đnl 18,15). Nhưng ông không phải là ngôn sứ như Mô-sê mà sách Đệ Nhị Luật đã nhắc đến. + “Thế ông là ai...?”: Gio-an Tẩy Giả đã trả lời ông chỉ là người Tiền Hô, đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai.
- C 24-27: + “Vậy tại sao ông làm phép rửa...?”: Gio-an cho biết: Ông chỉ làm phép rửa để thanh tẩy bằng nước, chuẩn bị cho Đấng Ki-tô sắp đến. Còn Đức Ki-tô mới làm phép rửa thanh tẩy trong Thánh Thần. Người là Đấng quyền năng mà Gio-an không xứng đáng làm tôi tớ hầu hạ Người.
4. CÂU HỎI: 1) Gio-an trong Tin mừng hôm nay là ai ? Tên Gio-an nghĩa là gì và do ai đã đặt cho ông ? 2.- Chúa Giê-su đã khẳng định “Gio-an chính là Ê-li-a, đấng phải đến trước” (x Mt 11,14). Vậy tại sao chính Gio-an lại nói mình không phải là Ê-li-a hay ngôn sứ? 3.- Gio-an tự xưng là gì và tại sao lại làm phép rửa cho dân chúng ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin”(Ga 1,6).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GƯƠNG CAN ĐẢM TRUNG THỰC CỦA THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN PHAO-LÔ II:
-Trong thời gian chuẩn bị mở Đại Năm Thánh 2000, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi mọi thành phần trong Hội thánh thành tâm sám hối. Vào tháng 05 năm 1995, tại nước cộng hòa Xéc (Tchèque), Đức thánh cha đã nêu gương can đảm và trung thực khi công khai thay mặt Hội thánh Công Giáo nhận lỗi như sau: “Hôm nay tôi, Giáo Hoàng của Giáo Hội Rôma, nhân danh tất cả những người Công giáo, tôi xin lỗi về những lầm lỗi đã gây ra cho người không Công giáo trong lịch sử sóng gió của các dân tộc ấy”.
- Thực vậy, trong lịch sử gần 2000 năm, do lỗi của một số các chủ chăn, Hội thánh ít nhiều đã phạm phải một số lỗi lầm cần phải được trung thực nhìn nhận và quyết tâm sám hối như sau:
+ Hội thánh cũng có một phần trách nhiệm trong sự phân rẽ nội bộ thành bốn tôn giáo Ki-tô như: Công giáo, Chính thống, Tin lành và Anh giáo.
+ Thời kỳ trung cổ Hội thánh đã có lần buộc phải phát động thánh chiến để giải phóng Đất Thánh đã bị người Hồi giáo xâm chiếm trước đó. Do cuộc thánh chiến này mà đã có rất nhiều người của dôi bên thương vong.
+ Thời kỳ Trung cổ, Hội thánh có toà án “Qui Tà” để xét xử và ra những bản án nặng nề như kết án hỏa thiêu một số người hành nghề phù thủy và những người dị giáo chống lại Hội thánh.
+ Về phạm vi khoa học, Hội thánh có lần đã lập tòa án tôn giáo kết án oan sai cho một nhà khoa học vô tội là Ga-li-lê-ô...
Qua việc công khai thừa nhận những sai sót của Hội Thánh trong quá khứ, Đức Thánh Cha muốn cho thấy quyết tâm canh tân Hội thánh công giáo để giúp Hội Thánh bước vào thiên niên kỷ thứ ba với một tinh thần mới theo sát Tin Mừng của Chúa Giê-su hơn và phù hợp với giai đoạn mới của lịch sử nhân loại hơn.
- Trong những ngày Mùa Vọng này, noi gương Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì cụ thể để chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh, chờ đón Chúa Cứu Thế đến trong giờ chết mỗi người cũng như đến chung trong ngày cùng tận của thế giới ?
2) CON NGƯỜI CHỈ VUI THỰC SỰ KHI CÓ THIÊN CHÚA TÌNH YÊU TRONG TÂM HỒN:
Tại một thành phố kia có một nghệ sĩ hài nổi tiếng. Người nào dù đang buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu được xem nghệ sĩ biểu diễn thì thế nào cũng phải bật cười.
Cũng trong thành phố ấy có một bác sĩ tâm lý nổi tiếng chữa được mọi thứ tâm bệnh. Ngày nọ có một người đàn ông lớn tuổi, vẻ mặt buồn rầu đến xin bác sĩ tâm lý tư vấn. Ông ta nói: - Thưa bác sĩ, tôi là một con người bất hạnh. Cuộc đời tôi đầy những sự chán chường. Bác sĩ có cách nào làm cho tôi vui lên được không ?
Bác sĩ tâm lý liền hỏi: Thế ông có bị túng thiếu về tiền bạc không ?
Ông ta đáp: Thú thật, tôi là người thành đạt và khá giầu có.
Nhà tâm lý lại hỏi tiếp: Thế còn gia đình vợ con thì sao ?
Ông ta gật đầu thừa nhận: Tôi có một người vợ đẹp người đẹp nết và mấy đứa con ngoan ngoãn dễ thương.
Sau khi hỏi để biết thêm một số điều khác, viên bác sĩ tâm lý đã đề nghị cho ông kia một giải pháp: Tôi nghĩ ông nên đến xem các buổi biểu diễn của một nghệ sĩ hài danh tiếng ngay trong thành phố. Chắc chắn ông sẽ cảm thấy cười vui thỏa thích và sẽ không còn buồn nữa.
Nhưng viên bác sĩ rất ngạc nhiên khi nghe thân chủ của mình nói :
- Thưa bác sĩ, xin cám ơn bác sĩ. Nhưng... tôi chính là nghệ sĩ hài nổi tiếng trong thành phố mà bác sĩ vừa nói đó !
Câu chuyện nghe có vẻ nghịch lý, nhưng thực tế đúng như vậy. Một người có biệt tài chọc cười người khác lại là nạn nhân của sự buồn chán. Mặc dù ông ta sở hữu mọi thứ ưu điểm mà mọi người đều mong ước, nhưng do trong lòng không có nguồn vui thì làm sao có thể cảm thấy vui thực sự được ? Niềm vui đích thực chỉ đến từ nơi « Thiên Chúa là Tình yêu. Ai yêu thương thực sự thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy ». Chỉ những ai trong lòng chứa đầy tình yêu vị tha nhân ái mới cảm thấy bình an và vui tươi thực sự.
3) HÃY THẮP LÊN ÁNH SÁNG TIN YÊU CHO THA NHÂN:
Hạnh phúc là được tìm về ánh sáng. Mang hạnh phúc đến cho người khác là thắp lên cho họ ánh sáng hy vọng.
Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.
Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: "Cứ để yên mọi thứ cho tôi". Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:
- Sao lâu nay ông không thắp đèn lên? - Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai. - Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không? - Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy:
- Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.
1) MÙA VỌNG LÀ THỜI GIAN CHUẨN BỊ TÂM HỒN ĐÓN MỪNG CHÚA ĐẾN:
Trong phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mủa Vọng, Tin mừng Mat-thêu đã ghi lại Lời Chúa mời gọi mọi người tỉnh thức: “Anh em hãy canh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24, 42). Sang đến Chúa nhật thứ II, tiếng hô của ngôn sứ I-sai-a trong hoang địa ngày xưa đã được Gio-an Tiền Hô thực hiện qua lời rao giảng: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa. Sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3,3). Hôm nay trong phụng vụ Chúa Nhật thứ III, thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu chúng ta “Hãy vui lên, vì Chúa đã gần đến” (1 Tx 5,16). Tin Mừng Gio-an cũng giới thiệu cho chúng ta một mẫu gương chứng nhân của ánh sáng chân lý là Gio-an Tẩy Giả (Ga 1,6-8.19-28).
Gio-an là anh em bà con của Đức Giê-su. Ngay từ nhỏ, Gio-an đã từ giã cha mẹ để vào trong hoang địa, sống một cuộc đời đơn sơ khổ hạnh nêu gương sám hối từ bỏ tiện nghi vật chất cho mọi người. Trước khi Đức Giê-su xuất hiện, Gio--an đã đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2). Kèm theo lời giảng, Gio-an cũng làm phép rửa dìm các hối nhân dưới nước sông Gio-đan để tiếp nhận họ vào hàng ngũ nhừng người đón ơn cứu độ của Đấng Thiên Sai sắp đên. Giới lãnh đạo tôn giáo ở Giê-ru-sa-lem nghe biết công việc của Gio-an, liền sai một số người đến điều tra xem ông có phải là Đấng Thiên Sai không. Họ hỏi: "Ông là ai ?". Gio-an trả lời ông không phải là Ðấng Thiên Sai, cũng không phải ông Ê-li-a hay là ngôn sứ. Ông chỉ thừa nhận: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói” (Ga 1,23).
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn để đón mừng Đấng Thiên Sai đến. Chúa đã đến cách đây hơn hai ngàn năm để mở ra con đường cứu độ cho nhân loại. Người thiết lập Nước Trời và mời gọi mọi người gia nhập để được ơn cứu độ. Người đã trải qua cuộc khổ nạn và phục sinh để ban ơn cứu độ loài người. Người đã về trời và hứa sẽ đến lần thứ hai trong vinh quang vào ngày tận thế. Mùa Vọng hằng năm giúp các tín hữu chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đên ban ơn cứu độ cho chúng ta. Chúa Giê-su sẽ đến trong lề Giáng Sinh để mời gọi chúng ta đón rước Người vào nhà linh hồn mình. Chúa cũng sẽ đến trong giờ chết của mỗi người và trong ngày tận thế chung toàn nhân loại để phán xét thưởng kẻ lành vả phạt kẻ dữ. Vậy trong Mùa Vọng này, chúng ta phải làm gì để đón Chúa đến ban ơn cứu độ cho chúng ta ?
2) PHẢI CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA CỨU THẾ ĐẾN THẾ NÀO ?
- Phải đon chờ Chúa đến trong niêm vui:Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu Thes-sa-lo-ni-ca như sau: ”Anh em hãy vui mừng luôn mãi” (1 Tx 5,16). Khi Đấng Cứu thế đến, Người không chỉ chữa lành những đau đớn bệnh tật thể xác, mà còn chữa lành những bênh tật tâm hồn và lấp đầy những khát vọng buồn chán trong lòng chúng ta như lời tuyên sấm của I-sai-a: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Đức Ma-ri-a cũng thể hiện niềm vui khi đi thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét. Khi được ca tụng là diễm phúc vì đã tin nhừng lời Chúa phán sẽ được thực hiện, Mẹ đã dâng lời kinh ngợi khen Thiên Chúa như sau: ”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).
Trong những ngày này, mỗi người chúng ta cũng thể hiện niềm vui chờ đón Chúa đến bằng việc năng đến nhà thờ dự lễ và tham dự các sinh hoạt đạo đức tĩnh tâm để hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
- Phải vui luôn trong Chúa: Thánh Phao-lô cũng khuyên các tín hữu như sau: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến” (Pl 4,4-5).
Trong những ngày này, mỗi người chúng ta cũng phải năng dâng lời ca tụng tình thương cứu độ của Chúa khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại… vì “Tất cả đều là hồng ân”. Chúng ta hãy luôn tin rằng: “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng” và “qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai”, vì Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành. Do đó chúng ta đừng bao giờ thất vọng cho dù có gặp bất cứ hoàn cảnh nào, vì luôn tin có Chúa cùng đồng hành với chúng ta.
- Phải gặp gỡ Chúa là niềm vui: Thai nhi Gio-an sáu tháng tuổi trong dạ mẹ đã nhảy mừng hân hoan khi gặp được thai nhi cứu thế Giê-su như lời bà Ê-li-sa-bét dã nói với Đức Ma-ri-a: Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng » (Lc 1,44). Đức Giê-su chính là niềm vui của Thiên Chúa. Từ cung lòng Chúa Cha, Người đến đem tin vui cho nhân loại, giải thoát họ khỏi mọi nỗi đau khổ do tội lỗi và sự chết gây ra. Khi Chúa giáng sinh tại hang đá Bê-lem, các thiên thần đã hân hoan ca hát rằng : « Vinh danh Thiên Chúa tên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương » (Lc 2,14).
Nếu chúng ta có gặp thất bại cũng đừng chán nản nhưng hãy tìm đến với Chúa là niềm vui. Hãy cầu nguyện để chia sẻ mọi nỗi lo toan cho Chúa. Người sẽ lắng nghe và ban ơn giúp chúng ta tìm thấy niềm vui trong tâm hồn. Người sẽ biến đổi cuộc đời của chúng ta nên tốt và nhờ đó chúng ta sẽ tìm thấy sự bình an.
- Phải chia sẻ niềm vui của Chúa cho tha nhân cáh cụ thể : Trong những ngày Mùa Vọng này, chúng ta hãy đón nhận Chúa Giê-su là nguồn vui bất tận, và đem chia sẻ niềm vui của Chúa đến cho tha nhân như lời một bài hát của nhạc sĩ Sebastian Bach : “Lạy Chúa Giê-su. Xin cho niềm vui trong con luôn tồn tại, để con có thể đem niềm vui ấy cho tha nhân”. Câu chuyện sau đây cho thấy chúng ta phải làm gì cụ thể để chia sẻ niềm vui cho tha nhân:
Một ngày kia mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã đến thành phố Men-bơn (Melbourne) nước Úc. Một hôm, mẹ đã đi thăm một ông lão nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng tồi tệ, đồ đạc ngổn ngang bụi bặm. Căn phòng không cửa sổ và tối tăm vì không một bóng đèn. Mẹ Tê-rê-sa liền bắt tay vào việc thu dọn đồ đạc. Ông lão kia nói to: "Xin cứ để yên cho tôi". Nhưng mẹ vẫn tiếp tục làm công việc quét dọn. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp sạch sẽ, mẹ Tê-rê-sa đã tìm thấy một chiếc đèn dầu nằm trong một góc phòng. Chiếc đèn bám đầy bụi bặm, chứng tỏ đã lâu ngày không có ai đụng đến. Mẹ liền lau chùi chiếc đen sạch sẽ rồi hỏi: “Lâu nay ông đã không thắp đèn phải không ?”. Ông ta đáp: “Thắp đèn làm chi ? Nào có ai thèm đến thăm tôi đâu ? và tôi cũng chswngr cần phải tiếp xúc nói chuyện với ai”. Mẹ lại hỏi: “Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên nếu có các nữ tu của tôi đến thăm ông không?”. Ông đáp: “Vâng, nếu tôi nghe có tiếng người đến thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của mẹ Tê-rê-sa được cử đến thăm ông lão và thu dọn giúp đỡ cho ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy như sau: “Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng của tôi rồi. Nhưng xin chị làm ơn về nói với bà bề trên rằng: Ngọn đèn mà bà đã thắp lên trong ngày đầu thăm tôi, đến nay vẫn không ngừng được thắp sáng”.
4. THẢO LUẬN: Noi gương mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta, mỗi tín hữu sẽ làm gì cụ thể để chia sẻ niêm vui Giáng Sinh cho người nghèo khổ cô đơn gần nhà, để thắp lên ánh sáng Tình Yêu của Thiên Chúa cho những ai đang bất hạnh có được niềm vui trong Mùa Giáng Sinh sắp tới ?
5. LỜI CẦU:
- Lạy Chúa Giê-su. Chúng con đang sống trong những ngày Mùa Vọng, là thời gian chờ đón Chúa tái lâm kiến tạo một “Trời Mới Đất Mới”. Trong những ngày này, xin cho chúng con biết noi gương Gio-an Tẩy Giả: chuẩn bị đón Chúa đến bằng các việc hy sinh hãm mình biểu lộ tâm tình sám hối của chúng con, bằng những lời động viên giúp vợ chồng, con cái, bạn bè... sống tốt lành đạo đức hơn. Nhất là xin cho chúng con trở thành ánh sáng chiếu soi, khí cụ bình an của Chúa, luôn sống tin yêu phó thác vào Chúa quan phòng và sẵn sàng khiêm nhường phục vụ tha nhân, để nên dấu chỉ giúp người đời nhận biết tin theo Chúa.
- LạY CHÚA. Khi xưa Mẹ Ma-ri-a đã sống bác ái, xin vâng và phục vụ. Mẹ đã mở cửa lòng đón nhận Ngôi Lời Nhập Thể qua lời thưa “Xin Vâng” với sứ thần. Mẹ đã đem Chúa đến thăm viếng gia đình Gia-ca-ri-a để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho các thành viên trong gia đình này. Trong những ngày Mùa Vọng sắp tới, xin Chúa giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón rước Chúa đến với chúng con vào Đêm Giáng Sinh. Xin giúp chúng con chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa bằng một lối sống đạo đức thực sự thể hiện qua thái độ vị tha và chia sẻ phục vụ tha nhân. Nhờ đó, người đời sẽ nhận biết tin theo Chúa để cũng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng(Gio-an 1:6-8,19-28)
Chúng ta tham dự một buổi ca nhạc hoặc một cuộc nói chuyện và thường được nghe người hướng: MV3-B96
Chúng ta tham dự một buổi ca nhạc hoặc một cuộc nói chuyện và thường được nghe người hướng dẫn chương trình giới thiệu ca sĩ hoặc diễn giả. Có những lời giới thiệu thật nghiêm túc, ngắn gọn nhưng đầy đủ. Nhưng cũng có những lời giới thiệu lòng vòng, văn chương tâng bốc quá đáng khiến người ta phải nhăn mặt. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một lời giới thiệu tuyệt vời về ông Gio-an Tẩy Giả như sau:
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng.”
Dựa vào lời giới thiệu trên, chúng ta hãy xem nhân vật được giới thiệu là ai và sứ mệnh của ngài là gì.
Trước hết, khi nói đến xuất thân của Gio-an Tẩy Giả, sách Tin Mừng chỉ nêu lên điểm quan trọng nhất: ông Gio-an là người được Thiên Chúa sai đến. Đối với sách Tin Mừng thứ bốn, mục đích chính là trình bày sứ mệnh của Chúa Giê-su Ki-tô. Xuyên qua lời giảng, những phép lạ và cả cuộc Thương khó của Chúa Giê-su, tác giả Tin Mừng chỉ muốn gửi tới mọi người một sứ điệp, là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gio-an 3:16). Chúa Giê-su được Thiên Chúa sai đến thế gian để làm chứng rằng Thiên Chúa là người Cha đầy yêu thương và muốn cứu độ mọi người. Sứ mệnh của Chúa Giê-su là làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Ai tin vào Ngôi Lời Nhập Thể là tin vào tình yêu của Thiên Chúa, và kết quả là họ sẽ được Thiên Chúa cứu độ. Cũng chính trong kế hoạch “ban Con Một” ấy, Thiên Chúa đã cho ông Gio-an Tẩy Giả được tham dự vào sứ mệnh của Chúa Giê-su. Do đó, thánh Gio-an Tẩy Giả được Thiên Chúa sai đến để làm chứng rằng Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian (Gio-an 9:5).
Công tác của ông Gio-an Tẩy Giả được Thiên Chúa sai đến là “làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin”. Như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay, sau phần giới thiệu ngắn gọn, thánh sử kể lại việc làm chứng của ông Gio-an Tẩy Giả. Mỗi khi sách Tin Mừng thứ tư sử dụng từ “người Do-thái” thì chúng ta hiểu từ này ám chỉ những kẻ thù của Chúa Giê-su. Vậy kẻ thù của Chúa Giê-su cử một số người từ Giê-ru-sa-lem xuống chất vấn Gio-an Tẩy Giả để biết ông là ai. Họ đưa ra một danh sách những người dân chúng Ít-ra-en ngưỡng mộ: đứng đầu là Đấng Ki-tô, rồi tới ông Ê-li-a, sau là vị ngôn sứ. Thế là ông Gio-an Tẩy Giả có cơ hội để làm chứng cho Chúa Giê-su ngay trước mặt những kẻ thù của Người! Ông tuyệt đối từ chối tất cả những danh hiệu họ đưa ra và chỉ dám nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa”, để dọn đường cho Chúa Giê-su là “Đức Chúa” sẽ đến sau ông. Ông còn đề cao địa vị của Chúa Giê-su khi ông tự nhận mình “không đáng cởi quai dép cho Người”! Hết hỏi “ông là ai?” rồi đến hỏi “ông làm gì?” Phải, ông Gio-an Tẩy Giả chỉ làm phép rửa, một nghi thức kêu gọi dân chúng sám hối, một công tác “dọn đường thiêng liêng” cho họ đón nhận Chúa Giê-su.
Trong cả hai phần chất vấn này, ông Gio-an Tẩy Giả đều lợi dụng để làm chứng cho Chúa Giê-su. Người ta cho ông chính là Đấng Ki-tô, ông trả lời mình không đáng làm đầy tớ cho Đấng Ki-tô. Người ta bảo khi ông làm phép rửa là ông làm công việc của Đấng Ki-tô, ông trả lời ông chỉ rửa bằng nước. Nước rửa sạch bên ngoài thôi, còn muốn thanh tẩy linh hồn thì phải nhờ đến Đấng cao trọng sẽ đến sau là Chúa Giê-su, vì Người sẽ rửa trong Thánh Thần.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Như chúng ta đã thấy, ông Gio-an Tẩy Giả làm chứng cho Chúa Giê-su với tất cả lòng thành thực và khiêm nhường. Đọc lại lời giới thiệu ông Gio-an Tẩy Giả, mỗi người chúng ta đều có thể điền tên của mình vào chỗ tên của ngài. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là… Phải, tôi được Chúa sai đến để làm chứng cho Chúa Ki-tô, Đấng muốn tôi làm ánh sáng chiếu soi cho đời và làm muối mặn ướp trần gian!
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy được khuôn mặt của Gioan Tiền Hô. Thực vậy, công MV3- B97 Luong
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy được khuôn mặt của Gioan Tiền Hô.
Thực vậy, công việc của ông đã thu hút được sự chú ý của đông đảo người Do Thái, nhất là hàng lãnh đạo trong dân về mặt tôn giáo. Chính vì thế, họ đã thắc mắc, muốn biết rõ lý lích của ông cũng như vai trò của ông trong lịch sử cứu độ. Họ đã sai người đến đặt câu hỏi: Ông là ai? Là Đức Kitô? Là Elia? Hay là một tiên tri? Đó là những nhân vật mà họ tin rằng sẽ trở lại nơi trần gian, để rao giảng sự thống hối vào những ngày cuối cùng.
Lời giảng và việc làm của Gioan đã lay động xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, ông đã xác quyết rằng mình chỉ là một nhân chứng, một người giới thiệu cho một Đấng đang ở giữa họ mà họ không biết. Đấng ấy là người đến sau ông, nhưng lại lớn hơn ông. Hiểu theo nghĩa là nắm giữ vai trò chủ chốt. Và như thế, Gioan đã đặt chúng ta trước ngưỡng cửa một thời đại mới. Thời đại cứu chuộc, thời đại Emmanuel, Con Thiên Chúa xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Trong thời đại ấy, những người nghèo khổ được đón nhận Tin Mừng, những tâm hồn đau thương được băng bó, những kẻ lưu đày được ân xá, Và đó chính là thời đại hồng ân của Thiên Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Ngày hôm nay chúng ta cũng đang sống trong thời đại hồng ân của Thiên Chúa. Thế nhưng, cuộc sống của chúng ta có phản ảnh được cái tinh thần của thời đại mới ấy hay không? Bởi vì cuộc sống chung quanh chúng ta vẫn còn quá nhiều những nghèo khổ, túng thiếu, bất công, bóc lột và thù hận. Chúng ta đã làm được gì cho những người chung quanh, để họ nhận cũng nhận biết tình thương và ơn sủng của Thiên Chúa.
Ước chi việc làm và đời sống của mỗi người chúng ta cũng sẽ trở nên một thứ tiếng kêu, thức tỉnh những người chung quanh biết hướng nhìn về Chúa và nhất là biết đón nhận Chúa trong mùa Giáng Sinh này.
Sống cho tình yêu. Đó là là mời gọi mà con người cần đáp trả. Bởi lẽ, con người được sinh ra MV3-B98
Sống cho tình yêu. Đó là là mời gọi mà con người cần đáp trả. Bởi lẽ, con người được sinh ra vì tình yêu và vì thế nên được mời gọi sống cho tình yêu. Gioan Tiền hô đã hoàn thành thiên chức này và ngài mời gọi mỗi người chúng ta cũng hãy sống và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.
Thật thế, Gioan Tiền Hô là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi người ta dọn lòng đón mừng Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là làm chứng cho Chúa Cứu Thế.
Gioan rao giảng và làm chứng cho Đấng Cứu Thế: "Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng". Sự sáng ở đây là Đấng Cứu Thế. Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất, bất vụ lợi nhất, kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cái chết.
Gioan Tiền Hô đã làm tròn bổn phận của mình là một ngôn sứ là phát loa, là loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan xuất hiện bên bờ sông Giorđan, rao giảng, kêu gọi người ta sám hối. Dân chúng tuôn đến với ông, nghe ông và làm theo điều ông rao giảng...Họ tuôn đến đông đảo khiến cả nhà cầm quyền lẫn các người lãnh đạo trong tôn giáo lúc bấy giờ rất đỗi kinh ngạc. Họ đề cử các phái đoàn đến để tra vấn Gioan để biết xem ông là ai? Gioan không xuất trình cho họ về chứng minh thư của mình, hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, lý lịch, địa chỉ, bằng cấp...Ông chỉ nói rõ sứ mạng và nhiệm vụ của mình: "Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đã có trước tôi, cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài". Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian". Như một người phát ngôn trung thành, Gioan loan báo cho mọi người biết: Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Như thế, Gioan Tiền hô hướng toàn bộ cuộc đời ông về Chúa Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mạc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người mối phúc: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, niềm vui và bình an cho nhân loại.
Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan còn làm chứng bằng hành động và gương sáng. Gioan kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Lời giảng của Gioan đi đôi với hành động của Ngài. Thực vậy, Gioan đã lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê, ngài đã sống khó nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Gioan rất vui mừng nhường môn đệ cho Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút nuối tiếc. Ông làm chứng Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới mà thôi. Gioan kêu gọi người ta thực hành bác ái và ngài đã thực sự mến Chúa yêu người. Gioan kêu gọi người ta hy sinh và ngài đã sống khắc khổ và hy sinh vì người khác. Như thế, ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là vì ngài chỉ nói những gì ngài đã sống, đã làm, đã kinh nghiệm. Lời nói và gương sống của Gioan đã làm chuyển biến lòng người. Đời sống và gương sáng của ngài đã thuyết phục được mọi người.
Sau hết, Gioan luôn trung thành với nhiệm vụ của mình cho đến chết. Ngài làm chứng cho Sự Thật bằng chính cái chết của mình. Ngài tố cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua, nên ngài đã bị tống giam vào ngục. Cuối cùng, Ngài phải chết. Ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lý bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của mình. Cuộc đời chứng nhân của Gioan Tiền Hô là một bài học đáng giá cho chúng ta.
Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm ra khỏi con người ích kỷ, nhỏ bé, tầm thường của mình để Lời Chúa và tình yêu tự lòng mình thúc đẩy để chúng ta có thể sống đời sống mới, đời sống chứng nhân cho Chúa, cho tình yêu.
Ngày nay, nếu ai đó hỏi chúng ta là ai, chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Chắc hẳn, chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi tên tuổi, hay đưa cho họ xem quyển sổ gia đình công giáo của mình đã ghi tên vào đạo Công Giáo, đã được rửa tội, hoặc không chỉ nói bằng lời mà phải thể hiện chính bằng đời sống chứng nhân của mình cho dù bị thiệt thòi vì Chúa Kitô.
Thật thế, trọn cả cuộc đời chúng ta phải nói về Chúa Kitô, phải loan báo Chúa kitô và sứ mạng của Người. Đồng thời, chúng ta phải sống chứng nhân bằng những việc làm cụ thể trong cuộc sống mình, sống làm chứng cho tình yêu đối với Chúa Kitô và đối với con người. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân, sống như Gioan trong đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy. Chúng ta làm chứng cho Chúa chính cách sống của mình, sự chọn lựa như chính Chúa Kitô đã sống. Tôi phải sống cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Chúa Kitô, đem niềm vui đến cho mọi người. Làm chứng tá như thế, người ta sẽ nhận ra chúng ta chính là Kitô hữu, người có Chúa Kitô, người sống niềm tin Kitô. Vì thế, mỗi người phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống và là chứng tá cho Chúa kitô nơi gia đình, nhà trường, nơi chốn làm việc và ngoài xã hội. Mỗi người chúng ta hãy sống và yêu mến việc làm chứng cho Chúa kitô để mọi người nhận ra và đón nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô.
Hơn nữa, để can đảm dám sống và dám chết đi mỗi ngày cho Chúa Kitô, là những người Kitô hữu, những người yêu mến Chúa Kitô, yêu mến Chúa Kitô như người bạn như ân nhân, như là lẽ sống, như là người quan trọng nhất của chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta sống vì ngài, sống cho ngài và trở nên thuộc về ngài. Chúng ta bước đi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu sẽ giúp chúng ta chiến thắng nghịch cảnh, bản thân.
Chúa Nhật hôm nay được gọi là "Chúa Nhật Vui". Đó là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Chúng ta hãy thể hiện niềm vui có Chúa Kitô, niềm vui đợi chờ Chúa Kitô đến bằng đời sống chứng tá, bằng đời sống yêu thương chân thành của mình.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin củng cố lòng mến cho chúng con và thêm đức tin để chúng con sống vui, sống thêm tin yêu vào Thiên Chúa. Đó còn là cách thế chúng con là chứng cho Chúa giữa đời. Amen.
“Có một người ở giữa các anh mà các anh không nhận ra” (Ga 1,26).
Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Gaudete, hạn từ Latinh mang ý nghĩa "Hãy vui lên”. MV3-B99
Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Gaudete, hạn từ Latinh mang ý nghĩa "Hãy vui lên”. Sứ điệp “Hãy vui lên” được dàn trải trong cả 3 bài đọc. Niềm vui của dân Israel được trở về cố hương sau cuộc lưu đày, cùng với niềm vui của Đức Maria được diễn tả qua kinh Magnificat chúng ta đọc lên trong Thánh vịnh đáp ca, và niềm vui mọi nơi mọi lúc mà Thánh Phaolô nói tới trong thư gửi giáo đoàn Thessalonica, là tư tưởng chính của chủ đề phụng vụ hôm nay. Diễn bày sự vui mừng trong mọi trạng huấn mà cả ba bài đọc nhắc đến, không phải là những tình cảm hời hợt nhất thời, hay chỉ là một ý niệm trừu tượng mông lung. Đây chính là niềm vui sâu tận trong tâm hồn, khi chúng ta nhận ra những dấu chỉ rõ rệt diễn bày tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
Isaia vạch dẫn những lý do rất quen thuộc để kiến tạo niềm vui: Những tâm hồn tan nát được chữa lành, người bị giam cầm được phóng thích, sự giải cứu cho những ai bị bắt bớ. Đây là những điều tương hợp, giống nội dung khi Đức Giêsu nói về sứ mạng cứu thế của Ngài (Lc 4, 18-19). Những động thái giải phóng này được nói tới trong sách Lêvi chương 25 khi đề cập đến năm hồng ân. Cứ 50 năm một lần, người Do Thái cử hành năm hồng phúc này. Mọi nợ nần được xóa bỏ, đất đai bị cầm cố được trả về cho chủ nhân, những ai bị giam giữ được tha bổng. Chúng ta không biết ngày xưa năm hồng phúc, như sách Levi nhắc tới, được tổ chức như thế nào, nhưng ý nghĩa của nó vẫn được lập lại ngày hôm nay, nhất là trong mùa vọng này.
Khi con người bị nợ nần về kinh tế, hoặc bị giam giữ và tự do bị tước đoạt, thì quà tặng năm hồng ân quả là quý giá đối với họ. Họ chẳng tốn kém gì nhưng chỉ cần rộng mở tâm hồn và đón nhận hồng ân được ban trao. Ví dụ, khi tôi biểu tỏ sự tha thứ cho một ai đó đã xúc phạm hay nợ nần đối với tôi, tôi có cảm giác như đang khoác cho họ “chiếc áo choàng cứu độ”, hoặc giống như một chiếc “áo công chính” được mặc vào cho cả hai chúng tôi, tựa như chúng tôi đón nhận chính tình yêu hòa giải và ơn cứu độ từ nơi Thiên Chúa. Đây qủa là một quà tặng được trao ban rất hào phóng, còn quý hơn cả những “bảo ngọc trân châu của chú rể” hay những “đồ trang sức quý báu của cô dâu”. Đó là quà tặng làm khởi phát một mùa xuân mới, giữa những tháng ngày mùa đông rét buốt.
Trong lời kinh Magnificat, Đức Maria diễn tả niềm vui, không chỉ vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nhưng còn là vì tình yêu thương của Chúa luôn trải rộng từ đời nọ sang đời kia. Đức Maria đã cất lên lời ca khen “Kẻ đói nghèo Chúa ban cho đầy ơn, kẻ tham lam chỉ biết làm giàu cho chính mình, sẽ bị đuổi về tay trắng”. Trong cái nhìn của Đức Maria, sự công chính của Thiên Chúa không phải là thay đổi vận may của kiếp người, giàu trở thành nghèo, đói khát trở nên no đủ. Nhưng còn hơn thế nữa, theo nhãn quan Kinh Thánh, những ai sống trong tương quan thân tình với Thiên Chúa, sẽ không bao giờ phải đói, phải khát. Để thực hiện điều này, những người giàu có và sống hưởng thụ cho chính mình, phải loại bỏ sự ích kỷ nơi họ, để những ai bị bóc lột do sự tham lam vô độ của kẻ khác, có quyền được ăn, được sống và được thỏa mãn mọi nhu cầu chính đáng.
Làm cách nào chúng ta có thể vun trồng nơi chính mình một con tim quảng đại và rộng mở để có thể phân phát quà tặng như thế. Trong thơ gửi tín hữu Thessalonica, Thánh Phaolô khuyên mời chúng ta thực hành ba phương thức: “Hãy vui lên, hãy cầu nguyện và hãy dâng lời tạ ơn Chúa”. Cả ba cách thế này giúp chúng ta biết quên mình để tìm lại chính bản thân. Nếu chúng ta quy hướng cuộc đời về nơi Thiên Chúa, Thần Khí sẽ lưu lại và đốt nóng tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta biết phân định chân lý và thực hành lời Chúa truyền dạy. Khi chúng ta biết tạ ơn Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc, chúng ta sẽ loại bỏ được mọi cuồng vọng ích kỷ hay sự khoe trương trống rỗng bên ngoài. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta nhận ra rằng, khi chúng ta biết thực hành như thế, thì đó chính là quà tặng Chúa ban. Thiên Chúa đấng luôn tin tưởng, sẽ lấp đầy nơi chúng ta những thiếu sót.
Trong Tin Mừng, chúng ta lắng nghe lời giải trình của Gioan tiền hô, khi ông mượn lời của ngôn sứ Isaia để giới thiệu về chính Ngài. “Ngài chỉ là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy san phẳng đường lối Chúa”. Khi trả lời cho các lãnh đạo tôn giáo đến hỏi xem ông là ai, trước tiên Gioan khẳng quyết rằng, ông không phải là nhân vật như họ nghĩ tưởng. Gioan nói rõ, ông không phải là Đức Kitô, người “được xức dầu”, không phải là Messia theo cái nhìn của người Do thái. Hạn từ christos tiếng Hy lạp, hoặc messia tiếng do thái, ám chỉ về người được Thiên Chúa xức dầu, để đặc cách thực thi những phần vụ chuyên biệt mà Thiên Chúa giao phó, ví dụ các vua (Tv 2,2), các tư tế (Lv 3-5), hoặc các ngôn sứ ( 1V 19,16). Thời Đức Giêsu, người Do thái đang mong mỏi Đấng Cứu Độ, Đấng “được xức dầu” sẽ đến. Nhiều người vẫn kỳ vọng và nghĩ tưởng rằng Êlia sẽ trở lại để thanh tẩy hàng ngũ tư tế (Mal 3,2-4), đồng thời khôi phục các chi tộc Israel (Hc 48,10). Một số khác lại đợi chờ một vị ngôn sứ như Moisen (Đệ nhị luật 15,18).
Gioan đã khẳng quyết ông không phải là một trong các vị đó như họ suy nghĩ hay mơ tưởng. Ngài chỉ là một con người bình thường, nhưng sẽ vạch dẫn cho họ biết Đấng sẽ đến là ai. Ngài không phải là “ánh sáng”. Ngài đến để làm chứng cho ánh sáng và dẫn đưa mọi người đến với niềm tin, để họ tin vào những gì ông làm chứng. Dầu sao, ở một nghĩa nào đó, Gioan cũng chính là ánh sáng soi dẫn người khác, để họ nhận ra Đức Kitô. Cũng như trong căn phòng tối tăm, một nguồn ánh sáng được thắp lên để người khác nhờ ánh sáng đó, có thể nhìn ra cảnh vật. Ánh sáng chỉ là phương tiện. Cũng vây, Gioan không phải là người để chúng ta quy chiếu về, nhưng Ngài chỉ dẫn, để chúng ta nhận ra và đến với Đức Kitô, là chính Ánh Sáng thật. Đấng đó đang ở giữa các ông, đang ở giữa chúng ta. Thế, chúng ta có nhận ra Ngài hay không?
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian MV3-B100
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài bên bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì có một bà cụ xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, áo quần bẩn thỉu rác rưới. Bà vừa lẩm bẩm một mình, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát rồi cho vào giỏ.
Cha mẹ lũ nhỏ gọi chúng lại và bảo chúng hãy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà mỉm cười với họ, nhưng mọi người không hề tỏ dấu đáp lại. Nhiều tuần sau, cả gia đình mới biết rằng đã lâu lắm rồi, người đàn bà ấy đã tự nguyện, làm công việc lượm các mảnh thủy tinh rơi rớt trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.
“Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết” (Ga 1,26).
Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là làm chứng cho Sự Sáng đích thật chính là Đức Kitô. Đức Kitô đến để chiếu ánh ssng cho trần gian. Toàn bộ Tin Mừng chỉ là để trả lời cho câu hỏi này: “Giêsu Nagiaret, Người là ai?”. Gioan không dùng danh từ Phúc Âm mà chỉ dùng từ ngữ “chúng nhân”. Động từ “làm chứng” được gioan nhắc đến 33 lần. Tin Mừng Gioan được khai mở bằng lời chứng của Gioan Tiền Hô và kết thúc với minh chứng của Gioan tong đồ: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra. Chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thực” (Ga 21,24).
Qua lối sống khỏ hạnh khác ngời, qua lời rao giảng sám hối, và qua lời chứng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa chon gay đường Chúa đi” (Ga 1,23), đã minh chứng Gioan là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế,là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút lui vào bóng tối.
Có thể nói, Gioan là người tôi tớ, còn đức Giêsu là ông chủ. Gioan là đèn soi, còn Đức Giêsu là ánh sáng, Gioan là tiếng kêu, và Đức Giêsu là lời hằng sống.
Như Gioan, người tín hữu cũng sẽ là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, Teilhard de Chardin đã ví von rất sống động: “Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán được có Đức Kitô”. Bà cụ trong câu chuyện của Cha Mello phản ánh một tấm gương sáng ngưòi về long thương người, luôn quan tâm tới kẻ khác. Cụ sống khó nghèo, âm thầm, hy sinh thời giờ sức lực của mình, để cho niềm vui của người khác được trọn vẹn.
Martin Luther King viết: “Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cuộc sống của mình”. Có những tâm hồn dần dần cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ tới. J. Basquin nói: “Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”.
Ước gì khi nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đã nói về Thánh Gioan Vianey “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.
* Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lời rao giảng và bằng gương sáng đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm nhường : không hiếu danh cũng chẳng ganh tị, không cao ngạo cũng chẳng cậy uy. Nếu có khi nào thành công việc gì, xin cho chúng con biết hướng vinh dự về cho Chúa, để qua đó, ngươì ta nhận biết Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương con người. Amen.