Suy Nệm Tin Mừng Chúa Nhật MV4-B Bài 1-50 Này tôi là tôi tớ Chúa
---------------------------------- Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 1, 26-38).
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận". Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ. - Đó là lời Chúa
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 1, 26-38).
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Đó là lời Chúa
Gần kề với lễ Giáng sinh, Giáo hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt Mẹ Maria. Mẹ đã thưa: MV4-B1
Gần kề với lễ Giáng sinh, Giáo hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt Mẹ Maria. Mẹ đã thưa lên lời xin vâng và đã trung thành với lời xin vâng ấy.
Chắc hẳn ngay từ những ngày tháng còn thơ ấu, bà thánh Anna và ông thánh Gioan Kim đã dạy cho Mẹ biết Thiên Chúa là một người cha nhân từ luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, cho nên hãy tin tưởng phó thác nơi Ngài, đồng thời hãy khao khát trông đợi Đấng Cứu Thế. Mẹ sẵn sàng để Chúa hướng dẫn, cho dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu.
Thực vậy, bấy giờ Mẹ đã đính hôn cùng thánh Giuse và có lẽ hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Nhưng rồi Thiên Chúa đã chọn Mẹ. Sứ thần Gabriel đã tới thăm viếng và tỏ lộ cho Mẹ biết vai trò Thiên Chúa đã dành cho Mẹ, đó là trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế. Sau những giây phút ngạc nhiên và lo lắng, Mẹ đã thưa lên :
- Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Một lời xin vâng quyết liệt đã xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau lời xin vâng này, Mẹ đã đau khổ rất nhiều trước thái độ nghi ngờ của thánh Giuse khi thấy Mẹ mang thai. Thế nhưng vì đã tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, nên Mẹ đã giữ sự im lặng, bởi vì chính Thiên Chúa sẽ làm sáng tỏ vấn đề và sẽ giúp cho thánh Giuse được hiểu.
Trong lúc Mẹ và thánh Giuse chuẩn bị ngày Chúa chào đời tại Nagiarét, thì Thiên Chúa lại nhìn sự việc một cách khác. Với lệnh truyền của hoàng đế, Mẹ phải xuống Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu và rồi Chúa Giêsu đã phải sinh ra trong cảnh nghèo túng của máng cỏ đêm đông.
Mỗi biến cố là một dấu chỉ nói lên thánh ý của Thiên Chúa. Trong từng giây từng phút và trong từng sự kiện suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ý định muôn thuở của Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ý định thánh thiện ấy. Và đỉnh cao của lời xin vâng phải là đau khổ thập giá.
Đúng thế, Mẹ luôn kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu. Cũng như các Tông đồ, hẳn Mẹ đã được Chúa báo trước về cuộc tử nạn. Mẹ đã lắng nghe và ghi nhớ trong lòng.
Rồi khi cuộc tử nạn bắt đầu. Chúa hấp hối trong vườn cây dầu và Ngài đã phải kêu lên :
- Lạy Cha xin cất chén đắng này xa con, nhưng không theo ý con, một vâng ý Cha mà thôi.
Chúa cảm thấy như gánh tội lỗi đè nặng trên mình. Còn Mẹ mặc dù lúc ấy không có mặt trong vườn cây dầu, nhưng chắc chắn Mẹ cũng đã chia sẻ gánh nặng và những khổ đau của Chúa.
Rồi đêm hôm đó Chúa đã phải chịu biết bao nhiêu cực hình, nào là bị đánh đòn, bị đội mạo gai. Mẹ luôn kết hiệp với Chúa. Thân xác Chúa rách nát thì thân xác Mẹ cũng đớn đau Chúa đã kêu lên :
- Một vâng theo ý Cha mà thôi.
Mẹ cũng thưa :
- Này tôi là tôi tá Chúa.
Mẹ luôn xin vâng, dù gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất.
Và sau cùng là cây thập giá trên đỉnh đồi Canvê. Mẹ đã theo Chúa trên đường lên núi Sọ. Mẹ đã chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa. Và rồi Mẹ đã đứng lặng dưới chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với Chúa. Và như vậy Mẹ đã đi cho tới tận cùng lời xin vâng của mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã có thái độ nào trong những giờ phút đau khổ và cay đắng, chúng ta đã phản ứng ra làm sao trước thánh ý của Thiên Chúa.
Vai chính trong tường thuật này là Đức Maria, được Thánh Luca mô tả với những nét như sau: MV4-B2
Vai chính trong tường thuật này là Đức Maria, được Thánh Luca mô tả với những nét như sau :
- một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi thiếu nữ khác (câu 27)
- nhưng đặc biệt hơn mọi thiếu nữ vì “đầy ơn sủng” và được “Đức Chúa ở cùng” (câu 28)
- được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (cc 30-33)
- dù không hiểu rõ (câu 34), Maria cũng sẵn sàng cho Chúa dùng mình để làm công việc của Chúa (câu 38 : Fiat = “Xin Chúa cứ làm nơi tôi...”).
B. ... nẩy mầm.
1. Đức Maria hỏi “Việc ấy xảy ra cách nào được, vì...”. Thiên sứ đáp “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được : Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.
2. Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình : “Xin cứ làm cho tôi...”.
3. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp :
- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến. (Góp nhặt)
4. “Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói : Mừng vui lên hỡi đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng Bà. Nghe lời chào ấy, Bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (Lc 1,28-29)
Đứng trước một biến cố trọng đại, bất ngờ, Mẹ đã bối rối. Sự bối rối ấy không đến từ sự hoang mang nghi ngờ như trường hợp ông Dacaria, nhưng đến từ sự băn khoăn muốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa.
Phần tôi, đứng trước những khó khăn xảy đến trong cuộc sống thì hầu như chỉ biết than vãn, kêu trách Chúa mà không thử tìm xem Chúa muốn nói gì với tôi qua những biến cố ấy. Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi nhưng tôi đã không gặp được Ngài. Chúa đứng ngoài và gõ cửa nhà tôi nhưng tôi đã không nghe được tiếng Ngài. Lòng tôi vẫn khép kín.
Lạy Chúa. Xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ. (Epphata)
Truyền tin là nhan đề của bài Phúc Âm hôm nay. Đây là một Tin mừng muôn thuở. Tin mừng này: MV4-B3
Truyền tin là nhan đề của bài Phúc Âm hôm nay. Đây là một Tin mừng muôn thuở. Tin mừng này đã được thực hiện qua một cuộc hòa đàm chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Cuộc hòa đàm diễn ra giữa hai nhân vật đại diện Thiên Chúa và loài người. Đại diện Thiên Chúa là sứ thần Gabriel, đại diện loài người là trinh nữ Maria.
Khung cảnh cuộc hòa đàm, không phải trong cung điện vua chúa, lầu các sang trọng, mà trong căn nhà thanh bạch nghèo nàn nơi vùng sâu thôn dã vô danh Nazareth. Khung cảnh thật giản dị, quê mùa, thô sơ, nhưng Thiên Chúa đã chọn làm khởi điểm lịch sử cứu độ vĩ đại.
“Đấng toàn năng đã làm cho nữ tỳ hèn mọn biết bao điều cao cả” (Lc. 1, 48-49).
Maria dù là nữ tỳ nhưng sứ thần đến mở đầu cuộc hòa đàm, không phải với thái độ ông chủ truyền lệnh. Ở đây, sứ thần hết sức khiêm cung, kính cẩn, lễ phép với lời chào : “Kính mừng Đấng đầy ân phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Khác xa lời cậu thanh niên chào cô thanh nữ. Tử tế lắm, cậu chỉ nói : Chào cô, chào em. Một kiểu chào cộc lốc, vô vị. Thường thì cậu kêu xách mé : Hoa ơi ! Huệ ơi ! Dung ơi ! eo ơi !
Sứ thần rất trân trọng thôn nữ Maria : Vừa chúc tụng kính phục con người thánh thiện khả ái, vừa tôn vinh chức vụ cao sang của Bà được Thiên Chúa ở cùng.
Thôn nữ Maria sợ sự tôn vinh bất thường ấy, và tự nhủ lời chào ấy có ý nghĩa gì ? Quả là sự tỉnh thức thận trọng của một thục nữ trinh trong, sáng ngời, đầy khiêm nhu, thùy mị.
Sứ thần đã nhận ra ý từ đó và giải thích thật rõ ràng cặn kẽ, trong suốt : “Thưa Bà Maria, xin đừng sợ, Bà rất đẹp lòng Thiên Chúa, Thiên Chúa ban cho Bà sinh con, đặt tên là Giêsu, Người là Con Đấng tối cao, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít …”.
Nhưng, đối với Maria, “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” hơn cả ngai vàng vua Đavít, vì Maria đã tận hiến suốt đời đồng trinh cho Thiên Chúa, nên Maria từ tốn đáp lễ : Làm sao có chuyện ấy được, thưa Ngài, vì tôi đã khấn trọn đời đồng trinh.
Sứ thần liền minh giải : “Việc đó rất chí thánh, do Chúa Thánh Thần với quyền phép Đấng tối cao, sẽ soi bóng trên Bà, nên Hài nhi khi Bà sinh ra là Đấng thánh, là Con Thiên Chúa ..”
Nhận ra đó là việc toàn năng của Thiên Chúa hằng gìn giữ Bà nguyên vẹn đồng trinh, Maria đã sấp mình tôn thờ Thiên Chúa :” Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hết lòng vâng theo thánh ý Chúa như lời sứ thần truyền dạy”.
Sứ thần đã thành công trong sứ mạng vô cùng trọng đại. Maria đã hoàn toàn làm đẹp lòng Thiên Chúa, trọn vẹn hiến dâng đồng trinh với chức vụ thiên mẫu lạ lùng.
Đây thật là một cuộc hòa đàm gương mẫu cho muôn đời. Gương mẫu vì cuộc hòa đàm đã diễn ra đúng tinh thần đối thoại và hòa giải.
Đối thoại cần thiết phải có ba tính chất đặc biệt :
Thứ nhất, hai bên rất khiêm tốn, tôn trọng lẫn nhau. Thứ hai, hai bên thưa đáp trình bày ý tứ của mình rất trong sáng, rất đơn sơ và chân thành, mình nghĩ thế nào, lập trường làm sao, cần những điều gì mới đưa đến thành công. Thứ ba, hai bên đã nhận ra những ân huệ rất ích chung, rất thánh thiện mà Thiên Chúa muốn thực hiện.
Đây cũng là một cuộc hòa giải hoàn hảo :
Thứ nhất, giải quyết được những nỗi khó khăn vô cùng phức tạp, loài người không thể gỡ mối tơ vò, chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới giải quyết được vấn đề : vừa đồng trinh, vừa sinh con, con Bà vừa là người, vừa là Thiên Chúa. Thứ hai, giải quyết được chương trình cứu độ nhân loại mà Thiên Chúa đã bao lần hòa giải thất bại với bao nhiêu nhân vật từ Ađam Evà cho đến nay. Nay Thiên Chúa mới thực hiện được chương trình thương yêu của Người nơi Đức Trinh nữ Maria.
Thiên Chúa đã giao ước với Ađam Evà, nhưng ông bà đã trở mặt theo con rắn satan. Thiên Chúa đã giao ước với Noe, nhưng con cháu đã xây tháp Babel ngăn chặn Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giao ước chọn lựa Abraham làm tổ phụ dân Người, nhưng con cái Giacob hằn thù chia rẽ, bán Giuse làm nô lệ cho con buôn Ai cập. Thiên Chúa đã giao ước với Môisen đưa dân về quê cha đất tổ để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng dân Israel đã chiều theo lối sống thờ thần Babylon. Giờ đây, Thiên Chúa chỉ còn cách duy nhất là ký kết với Đức Maria, một đầy tớ trung tín và khôn ngoan, luôn luôn làm theo ý chủ mình là Thiên Chúa, một tôi tớ dâng hiến trọn vẹn toàn diện đời mình từ trong bào thai cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã toàn quyền sử dụng Maria theo thánh ý Người. Và Con Thiên Chúa đã xuống cung lòng Maria để ở cùng loài người cho đến tận thế.
Lạy Chúa, Chúa đã thương ký kết với mỗi người chúng con trong bí tích Rửa tội. Chúng con đã tuyên thề làm con hiếu thảo của Chúa, xin cho chúng con biết sống theo gương Đức Trinh nữ Maria, luôn luôn biết xin vâng theo thánh ý Chúa, để Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con, đến ở và hoạt động trong chúng con cho muôn dân được sống vinh phúc trong đại gia đình của Chúa, dưới cánh tay dịu hiền của Đức Nữ Trinh Maria. Amen.
Trong những ngày cuối cùng của mùa vọng, Hội Thánh cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng quen: MV4-B4
Trong những ngày cuối cùng của mùa vọng, Hội Thánh cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng quen thuộc về việc sứ thần Gáp-ri-en đến truyền tin cho Đức Mẹ. Chúng ta thường nghĩ rằng chắc thánh Luca đã nghe Đức Mẹ kể lại nguyên văn cuộc đối thoại giữa Đức Mẹ với sứ thần Gáp-ri-en, rồi sau đó viết lại. Thật ra, có thể thánh Luca chỉ muốn trình bày một kinh nghiệm nội tâm của Đức Mẹ, kinh nghiệm này chỉ có một mình Đức Mẹ thấu biết.
Khi Thiên Chúa muốn Con của Ngài xuống thế làm người, để cứu độ nhân loại, Ngài đã muốn người Con ấy là người trăm phần trăm. Chính vì thế Thiên Chúa đã chuần bị cho Con của Ngài một người mẹ trần thế. Người mẹ ấy là Đức Maria, người làng Nadarét, vùng Galilê, nước Pa-lét-tin. Cô Maria là người được Thiên Chúa tuyển chọn giữa muôn vàn phụ nữ trên địa cầu. Ngài chọn Cô chẳng phải vì Cô thánh thiện hơn người khác. Ngài chọn Cô từ khi Cô còn trong bụng mẹ, và Ngài đổ trên Cô tràn trề ân sủng: "Hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Cô" (Lc 1,28). Được tràn trề ân sủng có nghĩa là được Thiên Chúa mến thương, được đẹp lòng Thiên Chúa (c.30).
Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho Cô Maria. Ngài đã tạo dựng Cô như một thụ tạo tuyệt vời, độc nhất vô nhị, chỉ vì Ngài muốn Cô xứng đáng trở nên người cưu mang chính Con Một của Ngài. Maria là một kiệt tác của Thiên Chúa, dù bề ngoài Cô chỉ là một thôn nữ của một ngôi làng nhỏ bé vô danh, cách đây 20 thế kỷ.
Nhưng Thiên Chúa không ép buộc Cô Maria làm mẹ của Con Một Ngài, dù Ngài đã chuẩn bị Cô một cách đặc biệt để đón nhận trọng trách cao cả đó. Ngài tôn trọng tự do của Cô, tự do mà chính Ngài đã ban cho Cô trong tư cách là người. Ngài không có quyền đặt Cô trước một sự-đã-rồi. Ngài muốn hỏi ý Cô, và chờ Cô ngỏ lời ưng thuận. Không có sự ưng thuận này, Thiên Chúa không thực hiện được công trình cứu độ nhân loại. Ai dám ngờ rằng Thiên Chúa vẫn cần đến con người? Ngài đã cần Đức Maria để làm người cộng tác với Ngài. Ngài vẫn cần đến tôi, đến từng người chúng ta, hôm nay. Mỗi người chúng ta đều được giao phó một trách nhiệm. Không phải là "không có mợ thì chợ vẫn đông". Sự khước từ của chúng ta kéo theo bao đổ vỡ mà chúng ta không lường được.
Bài Tin Mừng trên đây cho thấy chính Thiên Chúa hỏi ý Cô Maria qua trung gian một sứ thần do Ngài sai đến. Trong Cựu Ước, ta cũng thấy sứ thần của Đức Chúa (hay chính Đức Chúa) hiện ra để loan báo sự chào đời của một số nhân vật, như Ít-ma-en (Sáng thế 16,7-13), I-xa-ác (Sáng thế 17,1-21;18,1-15) và Sam-son (Thủ lãnh 13,3-20). Thánh Luca đã viết đoạn Tin Mừng hôm nay dựa trên cái khung của các đoạn văn Cựu Ước trên đây. Để loan báo sự chào đời của một trẻ thơ, thường thường có 5 yếu tố trong bài trình thuật: a- một sứ thần (hay Đức Chúa) xuất hiện cho người cha hay người mẹ; b- người được sứ thần hiện ra cảm thấy sợ hãi, bối rối; c- nội dung sứ điệp từ trời; d- lời vặn hỏi hay lời xin một dấu chỉ của người được sứ thần hiện ra; e- sứ thần trấn an và cho dấu chỉ. Trong bài Tin Mừng trên đây của Luca, ta cũng thấy có 5 yếu tố như vậy: a- sứ thần xuất hiện (1,28); b- sự bối rối của Cô Maria (1,29); c- sứ điệp của Chúa (1,30-33); d- lời vặn hỏi của Cô Maria (1,34); e- sứ thần trấn an và cho dấu chỉ: Bà Eâlisabét mang thai trong lúc tuổi già (1,35-37).
Một số nhà chú giải Kinh Thánh gần đây cho rằng không nên hiểu đoạn Tin Mừng trên đây theo nghĩa đen. Điều quan trọng không phải là có một sứ thần thực sự đã hiện ra trò chuyện với Đức Maria, và mẫu đối thoại trên đã được thánh Luca ghi lại nguyên văn. Điều quan trọng là chắc chắn Đức Maria đã được Thiên Chúa mời gọi, hỏi ý, và Mẹ đã đáp lời. Từ lúc ấy Con Thiên Chúa trở nên người phàm trong bụng Mẹ. Mẹ đã trở nên người cưu mang Con Thiên Chúa.
Khuôn mặt Đức Giêsu
Chúng ta thường gọi đoạn Tin Mừng trên đây dưới tựa đề là "Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ". Nhưng thiên thần và Đức Mẹ đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là Đức Giêsu. Đoạn Tin Mừng này nhằm giới thiệu cho chúng ta căn tính của Đức Giêsu. Đó là đích nhắm chủ yếu của thánh Luca. Qua lời của sứ thần mà chúng ta biết Giêsu là ai. Lời của sứ thần Gáp-ri-en gồm hai giai đoạn.
Giai đoạn 1 từ câu 30-33. Sứ thần loan báo Đức Maria sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Ở đây Đức Giêsu đã được sứ thần gọi là Con Đấng Tối Cao. Chúng ta không nên hiểu cụm từ này theo nghĩa như ta vẫn hiểu bây giờ. Trong Cựu Ước, các thiên thần (Tv 29,1), những người Do thái đạo đức (Kn 2,13) và nhất là Đấng Mêsia (Tv 2,7) cũng được gọi là Con Thiên Chúa hay Con Đấng Tối Cao. Chính trong Tin Mừng Luca, chúng ta cũng gặp câu: "Hãy yêu kẻ thù… và anh em sẽ là Con Đấng Tối Cao" (6,35). Vậy ở đây chúng ta chỉ nên hiểu Con Đấng Tối Cao theo nghĩa là Đấng Mêsia. Quả thật, cho đến hết câu 33, chúng ta thấy lộ ra khuôn mặt của Đấng Mêsia: "Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận." Đây chính là lời Đức Chúa phán với Đavít qua miệng ngôn sứ Na-than (2S 7, 12-13) về vị vua sẽ kế nghiệp Đavít. Như thế Đức Maria được mời gọi làm Mẹ Đấng Mêsia.
Giai đoạn 2 từ câu 34-37. Trong giai đoạn này, Đức Giêsu được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa. Đức Maria thụ thai Đấng Thánh bằng cách nào? "Thánh Thần sẽ ngự trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà." Như thế Đức Maria sẽ nhận được một sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa, Mẹ sẽ đón lấy quyền năng sáng tạo của Thánh Thần, vì thế Đấng Mẹ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Chúng ta phải hiểu cụm từ "Con Thiên Chúa" ở đây theo nghĩa hết sức đặc biệt, có một không hai, bởi lẽ Người Con này được sinh bởi quyền năng Thánh Thần, chứ không phải bởi một người cha nhân loại. "Tôi không biết đến việc vợ chồng" có nghĩa: "Tôi vẫn còn là một trinh nữ." Nếu việc thụ thai Gioan Tẩy Giả đòi hỏi một phép lạ, thì việc thụ thai Đức Giêsu đòi hỏi một phép lạ lớn hơn nhiều, đó là Ngài được thụ thai bởi một trinh nữ. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng Mêsia mà dân Do thái hằng mong đợi. Ngài còn là Đấng cao cả, thánh thiện hơn nhiều. Ngài là "Con Thiên Chúa" theo nghĩa viên mãn chưa từng có.
Xin vâng
Chúng ta không rõ đích xác giây phút Đức Maria được Thiên Chúa ngỏ lời. Lúc đó Mẹ chỉ là một thiếu nữ mới lớn, và đã đính hôn với Giuse. Có thể Mẹ đã mong ước một cuộc hôn nhân bình thường với người mình yêu. Nhưng qua cầu nguyện, dần dần Mẹ thấy Thiên Chúa mời mình đi vào một con đường rất lạ; dần dần Mẹ thấy mình được Ngài tuyển chọn để cộng tác với Ngài trong công cuộc cứu độ nhân loại. Nghe lời Thiên Chúa mời gọi, đã có lúc Mẹ cảm thấy hết sức bối rối (x. câu 29), và sợ hãi (c.30). Có lúc Mẹ không hiểu rõ cách thức Thiên Chúa thực hiện kế hoạch của Ngài nơi con người Mẹ, nên Mẹ đã hỏi để tìm thêm ánh sáng, để hiểu rõ hơn nhằm cộng tác hiệu quả hơn (c.34). Cũng có lúc Thiên Chúa đã cho Mẹ những dấu chỉ để làm Mẹ kiên vững hơn trong đức tin, và xác tín mạnh mẽ hơn rằng đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (cc. 36-37).
Trước khi nói lời Xin Vâng, Mẹ đã trải qua một hành trình đức tin. Xin Vâng không có nghĩa là thấy rõ con đường trước mặt Chúa muốn mình đi. Xin Vâng là mềm mại, buông mình cho Thiên Chúa dẫn đi, yên tâm không phải vì mình làm chủ được tương lai, nhưng vì tương lai của mình nằm trong tay Chúa. Xin Vâng không phải vì mọi sự đều sáng sủa và trơn tru, nhưng Xin Vâng ngay giữa đêm tối tăm gập gềnh. Xin Vâng là để cho Chúa sử dụng con người mình, là chấp nhận để cho những dự tính và ước mơ của mình bị tan vỡ. Nếu Đức Maria chấp nhận ý Thiên Chúa, chấp nhận cưu mang Con Thiên Chúa ngay khi chưa về chung sống với Giuse, thì Mẹ cũng phải chấp nhận những hậu quả xảy ra sau đó. Có thể đã có những hiểu lầm suýt gây tan vỡ, nhưng quan trọng hơn cả là từ sau lời Xin Vâng đầu tiên, Đức Maria hiểu rằng tình yêu giữa mình và thánh Giuse đã đổi khác. Mẹ được mời gọi để dâng hiến trọn vẹn con người mình - cả hồn lẫn xác - cho Thiên Chúa, cho kế hoạch cứu độ của Ngài, cho Đức Giêsu Con Mẹ.
Sau tiếng Xin Vâng đầu tiên, Ngôi Hai Thiên Chúa đã trở thành một bào thai nhỏ xíu trong lòng Mẹ. Mầu nhiệm nhập thể đã bắt đầu ngay từ giây phút này. Chúng ta cần nhìn ngắm Con Thiên Chúa lớn lên từ từ như bao thai nhi khác. Cần hơn 9 tháng để có thể mở mắt chào đời, cất tiếng khóc oe oe. Mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Đức Giêsu Con Thiên Chúa. Làm hại thai nhi là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Nhờ tiếng Xin Vâng của Đức Maria mà Con Thiên Chúa đi vào thế giới loài người. Bạn có nghĩ rằng nhờ tiếng Xin Vâng của bạn, Chúa Giêsu mới đi vào được mọi ngõ ngách của cuộc sống hôm nay không?
2. Trên thế giới, vẫn có những người tự tử vì không thấy được cuộc sống có ý nghĩa. Theo bạn, việc Con Thiên Chúa chấp nhận làm người nghèo khổ, khổ đau, thất bại, có giúp bạn vượt qua được những khủng hoảng trong cuộc sống không?
Ma-ri-a có gì đặc biệt mà được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế và theo niềm tin Công giáo: MV4-B5
1. Ma-ri-a có gì đặc biệt mà được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế và theo niềm tin Công giáo, còn là Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại? Dưới mắt người đời, Ma-ri-a đâu có tài năng gì đặc biệt, làm sao Ma-ri-a thành công trong công việc vĩ đại ấy?
2. Khi được Thiên Chúa chọn, ta cần có tinh thần nào để hoàn thành tốt đẹp sứ mạng mà Ngài giao cho ta? Có ai được Thiên Chúa chọn mà làm hỏng việc Ngài không? Tại sao vậy?
Suy tư gợi ý:
1. Ma-ri-a nhỏ bé yếu đuối nhưng được Chúa chọn...
Dưới nhãn quan Ki-tô giáo, chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, khởi đầu một công trình hết sức lớn lao của Thiên Chúa: cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công cuộc vĩ đại này bắt đầu một cách rất âm thầm, nhỏ bé tại một làng quê, với một thôn nữ yếu đuối chẳng mấy người biết. Điều này làm ta nhớ tới dụ ngôn hạt cải của Đức Giê-su: «Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng» (Mc 4,31-32). Qua kinh nghiệm tâm linh của nhiều vị thánh, ta thấy Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Có như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: «Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh» (1Cr 1,27).
Thật vậy, theo tiêu chuẩn thông thường của người đời, nghĩa là xét về tài năng, thông minh, học vấn, sức khỏe, sắc đẹp, v.v... chắc hẳn Ma-ri-a không có gì đặc biệt hơn những thiếu nữ khác cùng trang lứa với mình. Trên đời chắc chắn còn những thiếu nữ đặc biệt hơn Ma-ri-a rất nhiều. Nhưng Ma-ri-a đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình vĩ đại này. Ngài chọn Ma-ri-a vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng «vì bà đẹp lòng Thiên Chúa». Và Ngài đã thành công trong việc chọn Ma-ri-a, đang khi có những người khác được Ngài chọn đã làm «hỏng việc» của Ngài, hay đã làm Ngài không hài lòng, chẳng hạn trường hợp vua Sa-un (x. 1Sm 9,17; 13,13-14); tông đồ Giu-đa (Mt 26,47-50)...
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: nhiều người được Thiên Chúa chọn cho công việc của Ngài, tại sao có những người làm nên việc, khiến Ngài thành công và hài lòng như trường hợp của Ma-ri-a, và cũng có những người làm «hỏng việc», khiến Ngài «thất bại» (từ gượng dùng) hoặc không hài lòng? Ta có thể rút ra bài học nào cho ta khi ta được Thiên Chúa chọn làm công việc của Ngài?
2. Ma-ri-a xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để Thiên Chúa có thể thành công nơi ta, đó là ta biết xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa, xóa bỏ ý riêng mình trước thánh ý Ngài, xóa bỏ dự định hay kế hoạch của mình trước dự định hay kế hoạch của Ngài. Đó chính là tinh thần tự hủy mà Đức Giê-su là gương mẫu hoàn hảo nhất, và kế đó là Đức Ma-ri-a.
Theo tư tưởng lưu truyền trong giới Công giáo, khi được thiên sứ báo tin, Ma-ri-a đang dự định sống trọn đời đồng trinh để phụng sự Thiên Chúa. Việc đính hôn với Giu-se chỉ là để che mắt thị phi của thiên hạ, vì người đương thời quan niệm sai lầm rằng một phụ nữ sống độc thân là một hình thức bị chúc dữ. Nhưng khi biết thánh ý Thiên Chúa muốn chọn mình làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế, thì lập tức nàng từ bỏ tất cả mọi ý muốn hay dự định riêng của mình để vâng theo ý muốn của Thiên Chúa: «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói».
3. Được Ngài chọn, hãy toàn tâm toàn ý cho việc của Ngài Nếu Thiên Chúa chọn ta thì là để ta thực hiện công việc của Ngài chứ không phải việc của ta, để ta làm theo ý Ngài chứ không phải ý ta. Nên nếu ta được chọn, ta hãy để Ngài hoàn toàn làm chủ công việc của Ngài mà trong đó ta chỉ là một công cụ Ngài dùng mà thôi. Công cụ thì không hiện hữu cho mình mà cho công việc hay ý muốn của người sử dụng công cụ. Công cụ tốt là công cụ hoàn toàn làm đúng ý người sử dụng. Vậy, ta hãy toàn tâm toàn ý cho công việc và mục đích của Ngài, đừng nghĩ gì đến công việc hay mục đích của ta. Nếu công việc hay mục đích của Ngài thành tựu, thì công việc hay mục đích của ta cũng sẽ tự động thành tựu tốt đẹp, có thể gấp trăm lần ta tự lo cho công việc hay mục đích của ta. Đức Giê-su có nói: «Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho» (Mt 6,33). Vì thế, việc của ta, hãy hoàn toàn phó thác cho Ngài. Chắc chắn một Thiên Chúa quan phòng tài tình như Ngài sẽ không để việc của ta bị thất bại chỉ vì ta đã toàn tâm toàn ý lo cho việc của Ngài. Hãy tin tưởng chắc chắn như thế!
Những người được chọn mà làm «hỏng việc» Ngài - như vua Sa-un, Giu-đa - có thể là những người ban đầu rất nhiệt thành, quên mình, hoạt động vì Thiên Chúa và tha nhân chứ không vì mình. Nhưng tới một lúc nào đó người ấy bị tha hóa, đã đặt mục đích hay công việc của mình lên trên mục đích hay công việc của Ngài, đặt ý mình lên trên ý Ngài, hoặc muốn lèo lái công việc của Ngài theo ý mình, v.v... Những người này lúc ban đầu nhờ nhiệt thành và quên mình nên đạt được danh vọng, quyền lực, tiền bạc... nhưng về sau họ đã bị chính những thứ đạt được ấy làm biến chất, tha hóa, khiến họ bị mất ơn Chúa và trở thành những kẻ phá hoại hay cản trở việc Chúa. Do đó, mọi Ki-tô hữu đang có chức vị cao, đang nắm quyền lực hay có nhiều tiền bạc trong tay cần phải lưu ý lời của thánh Phao-lô: «Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã» (1Cr 10,12). Coi chừng kẻo mình trở thành như cây chổi cùn, sau khi đã tận tâm tận lực quét đi mọi thứ rác rưởi, thì cuối cùng mình lại trở thành một thứ rác lớn nhất, khó quét đi nhất. Vậy, tinh thần tỉnh thức, luôn luôn phản tỉnh, tự xét bản thân là điều rất cần thiết. Hãy coi chừng danh vọng, địa vị, quyền lực, tiền bạc là những yếu tố có khả năng tha hóa và làm biến chất rất mạnh! Vì thế, đời sống thanh đạm, tinh thần từ bỏ, siêu thoát vẫn luôn luôn cần thiết cho đến hết cuộc đời.
5. Người được chọn sẽ bị thử thách
Ai được Thiên Chúa chọn để làm những công việc lớn lao cho Thiên Chúa, thường gặp nhiều thử thách, đau khổ. Đó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hãy coi những thử thách mà Đức Giê-su và Đức Ma-ri-a - là những người được Thiên Chúa đặc biệt ưu đãi - phải chịu trong cuộc đời các Ngài thì rõ. Đây là kế hoạch của Ngài dành cho những người được Ngài chọn: «Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang» (Rm 8,30). Cách thức «làm cho nên công chính» của Ngài chính là thử thách, cho trải qua đau khổ: «Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn» (Dt 2,10); «Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ» (1Tm 3,10); «Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội» (1Pr 1,7). Bù lại, vinh quang của những người được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18).
Chính nhờ những đau khổ và thử thách ấy nên không ai có thể ganh tị được với vinh quang vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa ban cho những ai bền đỗ với những thử thách ấy. Họ rất xứng đáng với vinh quang và hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho họ. Vì thế, khi được Thiên Chúa tuyển chọn, ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ và thử thách Thiên Chúa gửi tới. Hãy tin tưởng: «Ai bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát» (Mt 10,22; 24,13).
Cầu nguyện
Lạy Cha, để yêu thương và cứu rỗi nhân loại, Cha cần rất nhiều người cộng tác. Cha chọn người cộng tác theo sự tự do của Cha. Con sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Cha, nếu Cha cần đến con. Một khi được kêu gọi, con quyết sẽ toàn tâm toàn ý sống và làm tất cả mọi sự theo sự hướng dẫn của Cha, bất chấp những đau khổ thử thách mà Cha dùng để rèn luyện con. Xin cho con trung thành với quyết tâm ấy.
Chúa nhật 4 mùa vọng như có một cái gì đó xôn xao, lắng đọng.Tiếng hô trong sa mạc: " Hãy dọn: MV4-B6
Chúa nhật 4 mùa vọng như có một cái gì đó xôn xao, lắng đọng.Tiếng hô trong sa mạc: " Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi " xem ra lẻ loi, đơn điệu. Tiếng hô vang của Gioan Tẩy giả vẫn là tiếng mời gọi con người hãy tin vào lời chứng của Gioan.Tiếng hô ấy, hôm nay như ngừng lại, để cho tiếng của sứ thần Gabrien vang lên: tiếng của Hồng ân, tiếng của ơn Cứu độ. Và xem ra như có một âm vang nào đó từ hơn hai ngàn năm vẫn còn hiện nguyên hình, vẫn còn rõ nét: Maria đã thưa Xin Vâng để cho Đấng Cứu Thế được đi vào lịch sử nhân loại.
MỘT LỜI HỒNG ÂN
Tin mừng của Luca trong trích đoạn 1,26-38 như một lời nhẹ nhàng, thi vị trong một khung cảnh và bầu khí vừa thanh thoát, vừa thinh lặng, thánh thiện và mang tính cách rất tiềm ẩn: ý định Thiên chúa sẽ bùng lên khi có sự chấp nhận của một người nữ. Nhân loại lúc đó và muôn thời vẫn đứng trước những thách đố, lời mời gọi hết sức khẩn thiết mà lại hoàn toàn tự do. Sự việc không đơn giản như nhân loại suy nghĩ, lầm tưởng. Cái trớ trêu lại rơi vào một người nữ, con nhà đạo đức, hết sức gia giáo, đã nguyện giữ mình trong sạch để hoàn toàn thuộc về Thiên chúa. Nhưng nghịch lý của Tin Mừng luôn đeo đuổi nhân loại.
Gioan Tẩy giả đã dám sống một cuộc đời khác người: ăn uống đơn giản, quần áo cũng giản đơn không giống ai, ông chỉ nhận là tiếng reo vang trong hoang địa để chuẩn bị con đường cho Chúa Cứu Thế đến. Gioan cũng đã dám nói lên sự thật của Chúa về một con người có quyền hành tuyệt đối ở đời nhưng lại sống loạn luân, không bằng con thú dữ, thế là Ông đành mất đầu vì Tin Mừng.
Còn cái nghịch cảnh rất gần lại là con Thiên chúa lại chấp nhận sinh ra nơi hang bò lừa,không bằng một con người đầu đường xó chợ. Maria đã chấp nhận cái đảo lộn nhất của Tin Mừng vì tin vào lời Chúa. Lời xin vâng của Maria: "Vâng, này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi như lời sứ thần nói" (Lc 1,38 ).Thưa xin vâng, Maria đã đón nhận chính lời hồng ân của Chúa và như thế hạnh phúc của Chúa đã đeo đuổi suốt cuộc đời Mẹ.
TIN MỪNG CỦA CHÚA LUÔN LÀ THÁCH ĐỐ
Chấp nhận để Chúa đến trong cung lòng thánh thiện,tinh ròng của mình, Mẹ Maria cũng mời gọi mọi người có lòng tin đừng yên thân trong tháp ngà, trong ích kỷ, trong vỏ ốc của đời mình mà giam hãm mình trong một số công thức, kinh kệ, lề luật như các người pharisiêu và biệt phái xưa. Dám sống Tin Mừng nghĩa là luôn phải tỉnh thức để đón chờ Chúa đến, dám bán tất cả mọi sự để theo Chúa Giêsu, dám bán gia tài để mua thủa ruộng mà tìm kiếm viên ngọc quí.
Tin Mừng là như thế và đón nhận mầu nhiệm giáng sinh là đón nhận sự phiền nhiễu của cuộc đời,của lịch sử con người. Cái phiền nhiễu ấy lúc nào cũng có và lúc nào cũng đòi hỏi con người phải phấn đấu lướt thắng để sống Tin Mừng Nhập Thể, Tin Mừng đau thương và Tin Mừng hạnh phúc vinh quang. Chúa đã đến trong lòng trinh nữ Maria,liệu ta có dám loại trừ mọi tội lỗi, sự xấu, ma quỉ và những quyến rũ nặng nề nhất để sống cái chân thật của đời ta hay không? Mẹ Maria đã dám sống cái nhiễu và vượt thắng cái nhiễu vô cùng bất lợi để đón nhận tin vui: cưu mang Con-Thiên-Chúa-Làm-Người.
Lạy Mẹ Maria, xin ban cho chúng con lòng quảng đại và luôn biết nói lời xin vâng như Mẹ.
Gợi ý chia sẻ:
1.Mẹ Maria đã nói lời xin vâng:bạn hiểu gì về lời ấy? 2.Tin Mừng của chúa có làm đảo lộn đời bạn không ?
Có một người kia đã nói : “Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người: MV4-B7
Có một người kia đã nói : “Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nỗi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông sửng sốt. Thánh đức đến nỗi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen”.
Loài người muốn chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng không bao giờ được. Chúng ta phải chịu nhận lấy người mẹ mình như một số mệnh bắt buộc, như một cái may cái rủi, tốt ai nấy được, xấu ai nấy chịu. Không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài đã sinh ra bởi một người được lựa chọn. Ngài đã chọn người mẹ sinh ra mình. Một người con chọn một người mẹ. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không chọn một cách độc đoán. Ngài không yêu cầu người phụ nữ được chọn phải làm theo ý Ngài vô điều kiện. Nhưng Ngài rất tôn trọng tự do của người phụ nữ ấy, và muốn người phụ nữ ấy hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Nói cách khác, Thiên Chúa đã nhất định chọn một người phụ nữ để làm mẹ mình. Nhưng Ngài cũng muốn để cho người phụ nữ ấy chọn mình làm con nữa. Vì thế, sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người phụ nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phúc, Ngài đã sai một sứ thần cao cấp đến báo tin và thỉnh ý người phụ nữ ấy. Đó chính là câu chuyện truyền tin trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ thần cao cấp đó là tổng thần Gabrien; và người phụ nữ được truyền tin đó là trinh nữ Maria. Qua cuộc đối thoại giữa tổng thần Gabrien và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng Đức Maria đã trả lời : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”.
Tiếng “Xin vâng” vừa thoát khỏi môi miệng Đức Maria, thì Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy xác phàm trong cung lòng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó. Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai trò quan trọng này. Đồng thời Đức Mẹ trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Chúng ta thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đã tự do đáp lại lời Chúa. Đức Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì sự ưng thuận của Đức Mẹ đã mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc chúng ta : Con Thiên Chúa đã xuống thế trong cung lòng Đức Mẹ. Ngôi Lời đã hóa thành con người. Con Thiên Chúa đã trở nên con Đức mẹ.
Nếu chúng ta muốn hiểu thêm về vai trò của Đức Mẹ trong công cuộc cứu chuộc, chúng ta có thể đặt song đôi hai mẫu đối thoại : từ một mẫu đối thoại thì phát xuất ra sự diệt vong của chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa con rắn và bà Eva trong cuộc cám dỗ đầu tiên ở vườn địa đàng; và từ mẫu đối thoại kia thì phát xuất ra ơn cứu chuộc cho chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa sứ thần Gabrien và Đức Maria trong cuộc truyền tin. So sánh cách thức con rắn tiếp xúc với bà Eva và cách thức sứ thần tiếp xúc với Đức Mẹ, chúng ta thấy một bên là sự ngạo mạn và bên kia là sự kính trọng. Con rắn đề nghị những gì ? Một nỗi ngờ vực, một sự dối trá, một cuộc nổi loạn. Còn sứ thần Gabrien đề nghị : một sự ưng thuận và ơn cứu chuộc. Bà Eva ưng thuận và thế là có các hậu quả tai hại; Đức Maria thưa “Xin vâng” và Ngôi Lời đã làm người. Nhờ Đức Maria, nhờ thái độ tin tưởng và vâng phục của Đức Mẹ, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Qua mầu nhiệm này, chúng ta thấy có nhiều bài học : mầu nhiệm nhập thể, con Đức mẹ chính là Con Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa, đức tin của Đức Mẹ, lòng khiêm nhường của Đức Mẹ, sự đồng trinh của Đức Mẹ, sự “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta ghi nhớ bài học sau cùng thôi. Đó là theo gương Đức Mẹ, vâng theo thánh ý Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể nói : nếu có một chân lý nào được gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu “Xin vâng thánh ý Chúa”. Cũng vậy, nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Đức Kitô, thì chân lý quan trọng ấy cũng là “Con đến để làm theo ý Cha”. Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là “Vâng theo thánh ý Chúa”, thì chân lý ấy cũng phải là chân lý quan trọng nhất của đời sống tất cả chúng ta.
Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ giúp chúng ta. Mẹ là người đã chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng cả chín tháng cưu mang trong tình yêu. Xin Mẹ cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh với tâm tình như Mẹ.
Hôm nay, nhiều người tìm kiếm hạnh phúc và sự sung túc thông qua cách “làm theo nhu cầu riêng của: MV4-B8
Hôm nay, nhiều người tìm kiếm hạnh phúc và sự sung túc thông qua cách “làm theo nhu cầu riêng của mình”. Họ tin tưởng rằng hạnh phúc hệ tại ở sự không phải cam kết gì, không phải trả lời với ai, không người nào có nhu cầu hoặc vấn đề gì ràng buộc với mình.
Tất nhiên, thật tốt đẹp và cần thiết trong việc tìm kiếm và thực hiện điều gì sâu xa mà chúng ta cảm thấy rằng mình được mời gọi thực hiện. Tuy nhiên, bất chấp bản chất con người là gì, chúng ta phải luôn bảo vệ bản thân mình. Trong phương pháp “làm theo nhu cầu riêng của mình”, có thể có nhiều sự ích kỷ. Điều này thường có nghĩa là đi con đường dễ dãi nhất, trong niềm tin tưởng rằng ở đó có tự do và hạnh phúc. Nhưng chắc hẳn phương pháp này càng dẫn đến tình trạng nô lệ và mất hạnh phúc.
Ở đây có một sự thật quan trọng : chắc chắn sẽ tìm thấy tự do, hạnh phúc, và sự sung túc trong việc chấp nhận trách nhiệm. Tuy nhiên, để được như vậy, một sự dứt khoát chấp nhận trách nhiệm mà thôi thì vẫn chưa đủ, mà còn phải là biết chấp nhận trách nhiệm trong lòng yêu mến nữa. Khi chúng ta hết lòng tận tụy gánh vác trách nhiệm càng khó khăn bao nhiêu, thì chúng ta càng được vui mừng bấy nhiêu.
Về việc này, Đức Maria đã nêu gương mẫu cho chúng ta. Mẹ đã không nói với sứ thần “Xin lỗi, nhưng tôi có kế hoạch của riêng tôi. Tôi muốn làm theo nhu cầu riêng của tôi”. Nhưng Mẹ đã nói “Không phải ý riêng của tôi, nhưng ý muốn của Thiên Chúa mới là quan trọng. Xin cứ làm cho tôi theo như lời sứ thần truyền”.
Đức Maria đã làm cho mình trở thành một món quà đối với Thiên Chúa, và chấp nhận trách nhiệm mà Người giao phó cho Mẹ. Mặc dù Mẹ không hiểu được tất cả những điều hàm ý trong công việc của Thiên Chúa, Mẹ vẫn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Mẹ tất cả ơn trợ giúp mà Mẹ cần đến.
Thật vậy, Mẹ nói “Tôi không hiểu được tất cả ý nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng những điều tốt đẹp sẽ xảy ra”. Mẹ quá tin tưởng một cách sâu xa vào Thiên Chúa, đến nỗi Mẹ đã mở tất cả mọi khả năng của mình ra. Mẹ đã từ bỏ quyền kiểm soát tương lai, và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của mình.
Những người nào biết chấp nhận trách nhiệm giống như cách thế mà Đức Maria đã thực hiện, thì có thể không tìm thấy hạnh phúc và sự sung túc dưới con mắt của thế gian, nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ tìm thấy và nhận biết điều đó một cách sâu xa.
Ân sủng lớn lao nhất trong cuộc đời là khi chúng ta mong muốn làm điều mà chúng ta phải làm.
Bối cảnh : Một tỉnh ở phía nam nước Mỹ. Một người cha sống với đứa con trai và con gái nhỏ. Vợ: MV4-B9
Bối cảnh : Một tỉnh ở phía nam nước Mỹ. Một người cha sống với đứa con trai và con gái nhỏ. Vợ của anh đã qua đời. Anh nghiêm khắc đối với các con, nhưng cư xử rất tốt và yêu thương chúng. Anh là một luật sư liêm khiết và xuất sắc. Tuy nhiên, anh đã tự làm cho mình trở nên rất xa cách đối với mọi người trong tỉnh, khi chọn một người đàn ông da đen đã từng bị tố cáo là một tên ám sát – tỉnh này đầy rẫy sự phân biệt đối xử đối với những người da đen.
Tại cuối con đường, có một người phụ nữ lớn tuổi sống ở đó, bà hay ngồi ở trước vườn của mình suốt các buổi chiều. Bà cứ gọi hai đứa con của vị luật sư, khi chúng đi ngang qua đó trên đường đi học và trở về nhà. Bọn trẻ cảm thấy rất bực mình, khi bà réo tên của cha chúng.
Vào một buổi tối, cậu con trai quyết định nhảy vào khu vườn của bà, và phá vài cây hoa, rồi chạy về nhà. Sau đó, người cha nói “Con không nên làm như vậy”.
Cậu con trai phản đối “Nhưng con làm điều đó là vì bố mà”.
Người cha bảo “Bà ấy là một người phụ nữ rất đau yếu. Bây giờ, con hãy đến xin lỗi bà ấy đi”.
Cậu bé miễn cưỡng ra đi. Người phụ nữ yêu cầu cậu bé mỗi tối đến đọc sách cho bà trong vòng một giờ. Cậu bé e sợ khi nghĩ đến công việc đó, nhưng cha cậu lại bảo rằng cậu nên đồng ý giúp bà cụ già đó trong công việc này. Thế là cứ mỗi tối, cùng với em gái mình, cậu bé đến đọc sách cho bà cụ. Khoảng một giờ sau, bà cụ bị run lên bần bật. Hai đứa trẻ ra về và một người y tá đến săn sóc bà cụ. Vài tuần sau, những cơn run đó trở nên bớt xảy ra thường xuyên hơn.
Thế rồi vào một buổi chiều, người cha nói với hai đứa trẻ là bà cụ vừa mới qua đời. Chúng nghĩ thầm “Cám ơn Chúa”, nhưng không nói ra điều đó. Sau đó, khi người cha nói với chúng rằng trước đây vài tuần, một bác sĩ ghi toa cho bà cụ uống mấy viên thuốc giảm đau, và bà cụ đã bị nghiện những thứ thuốc này. Nhưng khi bác sĩ nói rằng bà cụ không còn sống được lâu nữa, thì bà cụ quyết định là trước khi chết, bà sẽ thử bỏ thói quen uống thuốc. Những cơn run mà chúng nhìn thấy là triệu chứng do cai nghiện.
Bọn trẻ hỏi một cách sốt sắng “Thế bà cụ cai nghiện có thành công không ?”.
Người cha trả lời “Có. Ngay trước khi qua đời, bà cụ nói với bố rằng bà cụ sẽ không bao giờ có thể cai nghiện thành công được, nếu chúng con không đến đọc sách cho bà. Bà cụ muốn gửi lời cảm ơn chúng con”.
Người cha bảo “Điều đó không quan trọng. Điểm chính yếu là chúng con đã làm theo lời dạy bảo của Bố. Chúng con là những đứa trẻ ngoan. Bố tự hào về chúng con”.
Hai đứa trẻ chưa nhận ra được đầy đủ ý nghĩa của công việc mà người cha yêu cầu chúng làm. Tuy nhiên, chúng vẫn làm điều đó trong tinh thần yêu mến và vâng phục.
Trong cuộc sống, chúng ta thường không nhìn thấy toàn bộ ý nghĩa của những việc mình làm. Đôi khi, ý nghĩa này còn bị che khuất đối với chúng ta, giống như hai đứa trẻ trên. Trong trường hợp đó, công việc trở nên rất khó thực hiện, đặc biệt đối với công việc nào không thoải mái, hoặc đối với những người có thái độ vô ơn trước sự giúp đỡ của chúng ta.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được thấy cách thức Đức Maria bằng lòng trở thành mẹ của Đấng Cứu độ. Nhưng khi Mẹ thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, Mẹ chưa nhận ra được đầy đủ những điều liên quan đến sự đồng ý của mình. Mẹ cho biết rằng đến ngày sinh của Đức Giêsu, mọi cánh cửa đều khép lại trước mặt Mẹ; rồi một thời gian ngắn sau ngày sinh của Đức Giêsu, Mẹ sẽ trở thành một người đi tị nạn tại một quốc gia khác; và 33 năm sau, Mẹ sẽ chứng kiến cảnh Đức Giêsu bị kết án như một tên tội phạm.
Đức Maria đã không chỉ thưa lời xin vâng một lần duy nhất, nhưng Mẹ xác quyết lời xin vâng cơ bản đó rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của Mẹ. Nếu không có sự vâng phục của Đức Maria đối với Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ không có Đấng Cứu Độ.
Mỗi người chúng ta đều đã từng nói lời xin vâng, khi chúng ta đảm nhận những cam kết và trách nhiệm. Khi nói lời xin vâng cơ bản, là chúng ta thực hiện một cú nhảy vào bóng tối, bởi vì chúng ta không biết được đầy đủ những điều đó liên quan đến điều mà chúng ta đang đảm nhận. Điều này chỉ được mặc khải từ từ cho chúng ta trong khi chúng ta tiến hành. Do đó, chúng ta cũng phải xác quyết lời xin vâng cơ bản của chúng ta, không chỉ một lần, mà là nhiều lần, và cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta giữ được lòng trung thành.
Giống như những trẻ nhỏ thường thắt mắc, Đức Maria cũng hay đặt câu hỏi. Lòng tin không phải là sự mù quáng. Lòng tin vượt ra ngoài lý luận, nhưng không chống lại sự lý luận. Nhưng sau khi đặt câu hỏi, thì những câu trả lời có thể không bao giờ làm chúng ta được hoàn toàn thỏa mãn, chúng ta phải để cho Thiên Chúa được làm Thiên Chúa. Chúng ta phải qui phục mầu nhiệm thôi.
Sự xuất hiện của máng cỏ trong các nhà thờ là một dấu hiệu chắc chắn rằng lễ Giáng sinh gần đến: MV4-B10
Sự xuất hiện của máng cỏ trong các nhà thờ là một dấu hiệu chắc chắn rằng lễ Giáng sinh gần đến. Một xứ đạo kia có một máng cỏ thật xinh đẹp. Vốn là những người hồn nhiên và sống thoải mái, hầu hết những người dân trong xứ đạo đều rất tự hào về máng cỏ này. Người ta mô tả Đức Maria như là một thiếu nữ trẻ xinh đẹp, với đôi bàn tay trắng như tuyết. Thánh Giuse là một người đàn ông mạnh mẻ, với nét mặt thanh thản. Còn hài nhi thì có gương mặt của một thiên thần đang mỉm cười. Dĩ nhiên là tất cả các khuôn mặt đều trong trắng. Nền được trang trí bằng những ngọn tháp, với một lâu đài lộng lẫy ở trên đỉnh một trong những ngọn đồi. Bầu trời rải rác những ngôi sao hoàn tất bức tranh thôn dã.
Sau đó một vị linh mục mới được đổi đến điều hành xứ đạo này. Một trong những công việc đầu tiên mà ông thực hiện là thay đổi máng cỏ. Bấy giờ, người ta tô màu lên những bức tượng của Đức Maria, thánh Giuse, Hài nhi Giêsu và các mục đồng. Trên tấm phông phía sau, người ta vẽ một tỉnh nhỏ tồi tàn, với những hàng túp lều nghèo khổ. Toàn cảnh nói lên cảnh nghèo nàn của những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Những người dân sốt sắng trong xứ đạo không ưa thích phong cảnh mới này. Họ nài nỉ cha xứ lấy lại chiếc máng cỏ truyền thống của họ.
Khi nhìn vào máng cỏ, dường như mọi sự đều quá xinh đẹp, quá an bình, quá trật tự. Con trẻ không khóc một tiếng nào, không hề nghe thấy một tiếng kêu nào từ con lừa hoặc con bò, cũng không hề ngửi thấy bất cứ loại mùi nào cả. Lớp rơm thật sạch sẽ. Những ánh sáng đầy màu sắc nhưng êm dịu bổ sung thêm vẻ kỳ dị cho toàn bộ phong cảnh. Với đôi tai và đôi mắt hướng vào bên trong, chúng ta nghe được tiếng hát của các thiên thần, và nhìn thấy các ngôi sao dẫn đưa các đạo sĩ đến Bêlem.
Phong cảnh này thật đẹp. Và chúng ta muốn tin vào phong cảnh đó. Nhưng chúng ta biết rằng phong cảnh này không có thật, mà là một hình ảnh giả tạo. Mọi sự đều không gọn gàng, ngăn nắp và xinh đẹp như vậy. Ngày Chúa Giáng sinh lần đầu tiên, có đầy rẫy cảnh vội vàng, lo lắng, bất an, thất vọng và sợ hãi. Đối với Đức Maria và thánh Giuse, đây không phải là buổi cắm trại, mà là một sự thử thách, thậm chí có lẽ còn là một cơn ác mộng nữa.
Cả hai người vừa mới trải qua một cuộc hành trình dài. Họ đến Bêlem trong cảnh nghèo nàn, không một ai biết đến, và không hề có bất cứ loại ảnh hưởng nào. Họ không có khả năng tìm được bất cứ chỗ trọ nào. Khi Đức Maria đến lúc hạ sinh, không hề có bác sĩ hoặc y tá nào đứng đó.
Thật dễ dàng xa rời cảnh nghèo nàn của máng cỏ nguyên thủy.
Chúng ta có khuynh hướng tô điểm câu chuyện Giáng sinh cho đẹp đẽ lên. Nhưng khi làm như vậy, là chúng ta loại bỏ câu chuyện đó ra khỏi mình. Chúng ta tước đoạt nhiều ý nghĩa mà lễ Giáng sinh mang lại.
Trong năm 1223, chính thánh Phanxicô thành Assisi đã thu thập máng cỏ đầu tiên trong một cái hang nằm trên sườn đồi ở Ý. Mục đích của ngài là làm cho câu chuyện về lễ Giáng sinh trở nên sống động đối với người dân địa phương. Ngài có ý tưởng là chỉ ra cho họ thấy rằng máng cỏ đó gần gũi với họ và cuộc sống của họ như thế nào.
Và dường như ngài đã thành công. Trong đêm vọng lễ Giáng sinh, các thầy dòng và dân chúng tụ tập lại chung quanh máng cỏ, cùng với những cây nến và bó đuốc. Thánh Phanxicô nói với dân chúng, đa số đều là nông dân và mục đồng, về Con Thiên Chúa đã đến giữa chúng ta, để dạy cho chúng ta rằng chúng ta cũng là con cái của Thiên Chúa, và vì thế, chúng ta có một vận mệnh đời đời.
Các nông dân và mục đồng được đón nhận thông điệp : Thiên Chúa luôn dành thời gian cho những người dân quê chất phác giống như họ. Khi buổi lễ vọng kết thúc, tất cả họ đều trở về nhà, lòng tràn đầy an bình và niềm vui, họ cảm thấy mình rất gần gũi với Thiên Chúa và với nhau.
Khi suy niệm mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta thường nghĩ tới biến cố Chúa sinh ra ở Bêlem. Thật: MV4-B11
Khi suy niệm mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta thường nghĩ tới biến cố Chúa sinh ra ở Bêlem. Thật ra mầu nhiệm này đã bắt đầu từ sau tiếng Xin Vâng của Đức Maria ở Nadarét.
Sau tiếng Xin Vâng ấy, Ngôi Lời đã thành một thai nhi, lớn lên trong lòng mẹ như hàng tỉ con người khác, cần chín tháng mới có thể cất tiếng khóc chào đời.
Ngôi Lời không lẫm liệt từ trời bước xuống. Ngài muốn là người trăm phần trăm, nên Ngài cần một người mẹ. Ngài đi ra từ lòng mẹ: mong manh, yếu đuối. Ngôi Lời đã thành một người như chúng ta, chia sẻ trọn vẹn phận người như chúng ta, trừ phạm tội. Ngôi Lời đã là người, và mãi mãi là người. Ngài đã đi hết hành trình cuộc sống với tất cả nỗi buồn vui, âu lo và trăn trở. Chẳng ai hiểu chúng ta bằng Ngài. Ngài chẳng xa lạ với những gánh nặng của cuộc sống. Hôm nay Ngôi Lời vẫn là người, ngự bên Chúa Cha. Có một người được tôn vinh ở giữa lòng Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nhập Thể đâu phải chỉ ở Bêlem, vì Ngôi Lời mãi mãi là người, người Anh trưởng, dẫn đưa chúng ta vào cung lòng Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu trái đất. Trái đất chỉ là một trong số hàng tỉ tỉ vì sao, nhưng nó vẫn có thế đứng ưu việt vì là nơi Con Thiên Chúa đã đặt chân, đã sống. Bầu trời, rừng xanh, mạch nước, biển khơi... tất cả phải được gìn giữ cho thanh khiết. Trái đất là nhà của con người, nhưng cũng là ngôi nhà của Con Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu cuộc đời, yêu mảnh đời nhỏ bé của mình. Có lắm người dễ dàng tìm đến cái chết vì thấy bế tắc, tuyệt vọng, vì thấy đời vô nghĩa.
Mảnh đời của Đức Giêsu không phải chỉ màu hồng: long đong với phận nghèo, ê chề vì thất bại, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài đã sống mảnh đời ấy cho đến cùng, vững tin đến cùng vào tình Cha, ngay giữa vực sâu và tăm tối.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu mọi người. Từ khi Con Thiên Chúa mang khuôn mặt của con người thì mọi người đều mang khuôn mặt của Thiên Chúa. Tất cả nhân loại đều là anh em dù khác nhau về màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, quan điểm... Xúc phạm con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Noel đem lại cho ta sự bình an sâu thẳm. Bình an cho trái đất đang bị tàn phá. Bình an cho những người đang sống trong ngõ cụt. Bình an cho chúng ta, cho mọi người. Bình an của Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều bạn trẻ tự phá hủy đời mình bằng ma túy, thuốc lá, rượu bia, đua xe, ăn chơi trụy lạc... Theo ý bạn, đâu là lý do chính dẫn đến thái độ đó?
Ai trong chúng ta cũng có những người bạn đang mất bình an, đang cần được nâng đỡ hay tha thứ. Mùa Noel này, bạn định làm gì cho họ? Cầu Nguyện Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người. Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu, nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được. Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc. Xin đồng hành với con, để con không cô đơn. Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu. Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Hôm nay Chúa Nhật thứ 4 Mùa Vọng, chỉ còn vài ngày nữa là đến Lễ Chúa Giáng Sinh. Giáo: MV4-B12
Hôm nay Chúa Nhật thứ 4 Mùa Vọng, chỉ còn vài ngày nữa là đến Lễ Chúa Giáng Sinh. Giáo Hội muốn chúng ta dọn lòng bằng cách tìm hiểu Đấng sẽ sinh ra là ai ? Là vị thế nào ? Phải chăng Ngài cũng là người phàm như chúng ta ? Hay Ngài là Đấng Lạ Lùng khác thường xuất hiện ?
Ngày xưa thên người ta công nhận có 5 kỳ quan thế giới được gọi là công trình đáng kể, đó là : Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa. Kim Tự Tháp của Ai Cập. Điện Pathenon của Hy Lạp. Vườn Thượng Uyển trên không và Tường Thành Babilon.
Ngày nay đứng trước những công trình kiến trúc tối tân, đồ sộ của các tòa nhà cao chọc trời, của máy điện tử Computer tinh vi, của Phi Thuyền vượt không gian... ta không thấy ngạc nhiên về những kỳ quan ấy nữa, vì ta đã thấy tận mắt, hiểu tường tận về cách cấu tạo và kết quả tất nhiên do trí óc tìm tòi, tính toán, xếp đặt khéo léo các nguyên tắc đã có sẵn mà Chúa đã thiết lập và xếp đặt từ ngày tạo dựng vũ trụ. Vua Salomon viết :Không có gì là kỳ lạ ở dưới thế gian này (Prov1:9).
Nhưng lại có một sự lạ lùng hết sức, mà mắt phàm trần và trí óc con người không thể hiểu thấu mà bài Sách Thánh hôm nay nói tới, đó là :Việc Thiên Chúa làm người. Ngài sinh hạn như công lệ người đời, nhưng chất chứa một sự lạ lùng loài người không thể hiểu tỏ. Bài Phúc Âm kể : Thiên Sứ Gabriel được Thiên Chúa sai đến thành Nazareth, đến với một trinh nữ tên là Maria, đã đính hôn với một người tên là Giuse, để loan một tin mừng cả thể mà cha ông chúng ta đã 4000 năm trông đợi. Trinh Nữ sẽ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, sẽ sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu, nghĩa là Đấng Cứu Chuộc muôn dân. Ngài được gọi là Đấng Thánh Tối Cao và là Con Thiên Chúa.
Tiên Tri Isaia, trước Chúa Giáng Sinh 700 năm đã nói tiên tri rằng :Sẽ có một con trẻ sinh ra giữa chúng ta. Ngài là Đấng Thánh hết sức lạ lùng. (Is.9:5). Việc Thiên Chúa giáng trần là việc đặc biệt của Thiên Chúa thực hiện, mà trí óc loài thụ tạo chúng ta không sao hiểu thấu.
Nhà đạo sĩ trứ danh C.H.Spurgeon, thế kỷ 18 khi suy về việc Chúa Giáng Sinh, ông thốt lên :Tôi tin và tôi tin thật mọi sự lạ lùng Thiên Chúa làm vượt xa tầm trí hiểu biết của ta và chỉ khi nào về trời ta mới hiểu đủ. Thực lạ lùng thay : Đấng vô hình mà thành Con Trẻ, Đấng Hằng Có đời đời mà chịu sinh ra bởi người đà bà. Đấng Toàn Năng mà cầm bú sữa. Đấng nâng đỡ vũ trụ mà làm Con ông Giuse. Đấng nên mọi sự mà giam mình trong nhà chầu. Vua Trời Đất mà thành người trên vũ trụ. Việc Ngài sinh ra đã lạ lùng trước mắt chúng ta, rồi cả cuộc sống tại thế của Ngài cũng nào hết tiếp diễn bao sự lạ lùng khác nữa :
- Khi còn là con trẻ trên nôi đã khiến một ông vua hoảng sợ mất ngôi, mà ra lệnh tru diệt hết các con trẻ đồng lứa tuổi, hầu có thể giết được Ngài.
- Còn là con nít nằm trong máng cỏ, mà các vị vua khác đến bái thờ làm minh chủ.
- Là em nhỏ 12 tuổi, mà làm các vị thông thái phải ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài.
- Suốt đời Ngài chỉ viết có một lần trên cát rồi xóa đi, mà ngày nay các sách viết về Ngài lên như núi.
- Ngài không là Ca sĩ, Nhạc sỹ, Thi sỹ, nhưng lại nên nguồn cảm hứng chi thi sỹ, Nhạc sỹ, để rồi nơi trần thế la liệt các bản Thánh Ca, Thi Ca ca tụng Ngài.
- Ngài chỉ xuất ngoại bất đắc dĩ có một lần sang Ai Cập, thế mà ngày nay chẳng nơi nào trên thế giới không biết đến tên Ngài. Ai cũng nói với Ngài bằng chính ngôn ngữ của mình.
- Ngài không xuất thân từ trường sỹ quan, nhưng lại nên nguyên soái chinh phục các linh hồn bằng tình thương.
- Ngài là lang y thật tài, không chữa bệnh bằng dược thảo, nhưng bằng lời.
- Ngài giầu có hết sức, nhưng lại hóa nên nghèo đến nỗi cái khố cũng không đủ che khi tất tưởi phơi mình trên thánh giá. Mồ chôn thì đi mượn của người ta. Thiết đãi bạn bè bằng mấy con cá đi mượn của em bé bán rong.
- Loài người vố Vô nhân thập toàn, còn Ngài thanh sạch đến quan tòa Philatô cũng phải công nhận Người vô tội (Jn 19:6).
Mai mốt đây chúng ta long trọng mừng đón ngày Giáng Sinh của một vị Thiên Chúa Làm Người, toàn vẹn, toàn tài, toàn năng, toàn bích, phép tắc vô cùng... Ngài xứng đáng được tôn làm vua cõi lòng, vua tâm hồn, làm Chúa yêu thương, làm minh chủ dẫn đàng, làm bạn đường yêu ủi lúc vui buồn trong cuộc sống...
Ngài không muốn chúng ta chỉ ngắm nhìn Ngài như ngăm nhìn một em bé nõn nà xinh xắn trong máng cỏ với chuỗi điện mầu... Nhưng Ngài muốn chúng ta đón Ngài bằng cả tâm hồn thanh sạch, tâm hồn ấm áp tình mến, tâm hồn bình an, tâm hồn tràn niềm vui, tâm hồn đầy ơn nghĩa.... Nghĩa là một tâm hồn trong sạch, không tội lỗi, không hận thù. Một tâm hồn vị tha đầy tình huynh đệ, để khi Ngài đến, Ngài lấy cái kỳ diệu của Ngài mà đồng hóa, mà biến đổi cuộc sống chúng ta, làm chúng ta nên hiện thân, nên nghĩa tử muôn đời của Ngài.
Ước mong những ngày còn lại, chúng ta hãy dọn lòng một cách xứng đáng để đón rước Ngài, tiếp nhận Chúa, suy tông Chúa là Chúa bình an của cõi lòng, cho lời Thiên Sứ ca vang nên ý nghĩa cho lòng chúng ta :
Sáng danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm. (12-2002).
Mùa Vọng là mùa mong đợi, chuẩn bị chờ đón một tin vui hay một điều gì đó tốt đẹp. Cho dù người: MV4-B13
Mùa Vọng là mùa mong đợi, chuẩn bị chờ đón một tin vui hay một điều gì đó tốt đẹp. Cho dù người ta có quên đi ý nghĩa này cách nào thì trong những ngày trước lễ Giáng Sinh người già cũng như người trẻ trên thế giới cũng không quên chuẩn bị cho chính mình một cách nào đó để xứng đáng chào đón lễ Giáng Sinh, đón nhận tin vui. Ước ao được đón nhận một cái gì tốt đẹp từ người khác là tâm lý chung của mọi người. Mọi người đều ước ao được yêu. Người công nhân mong cuối tháng nhận những đồng lương. Nhiều đứa trẻ trên thế giới ước mơ đón nhận những gói quà trong ngày giáng sinh. Nhiều người đang chuẩn bị gởi đi những cánh thiệp Noen với những lời mong ước tốt đẹp nhất cho người thân yêu, và họ cũng chờ đợi đón nhận những cánh thiệp đáp trả lại. Tất cả chúng ta đang chuẩn bị để đón nhận.
Đón nhận cũng là một trong những chủ đề của bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay được nhắc đến trong Mùa Vọng này để chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh.
Thật thế, Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay làm nổi bật ý nghĩa việc đón nhận Ngôi Lời nhập thể, Con Thiên Chúa đầu thai trong cung lòng đồng trinh của Mẹ Maria trong ngày Truyền Tin và trong suốt cuộc đời của Mẹ Maria. Người đã khiêm tốn chấp nhận sứ mạng mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ: "Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền." Suy ngắm về cuộc đời của Mẹ Maria trong Thánh Kinh, chúng ta tìm thấy trọn vẹn ý nghĩa của việc đón nhận nơi Mẹ Maria; nghĩa là Mẹ tiếp nhận Con Thiên Chúa không giữ riêng cho Mẹ, nhưng Người đã trao ban Người Con dấu yêu này cho nhân loại và cùng đồng công, cộng tác với Chúa Giêsu, Con Mẹ trong việc cứu chuộc nhân loại. Mẹ đã đón nhận và đã trao ban.
Suy ngắm về ý nghĩa của việc đón nhận nơi Mẹ Maria, chúng ta cũng nên suy về việc đón nhận của mỗi người chúng ta trong cuộc sống thường ngày.
Tâm lý chung thì ai cũng muốn nhận điều tốt cho mình. Đó là điều rất tự nhiên và hợp lý. Tuy nhiên việc chúng ta đón nhận điều này, điều nọ có sinh kết quả không? Nhận thấy rằng có người thích đón nhận điều này, điều kia để chỉ sống riêng cho chính mình, dừng lại nơi con người của mình. Đón nhận theo chiều hướng này sẽ là một sự bế tắc, khô cằn, và cô đơn. Ống nước mà bị bế tắc thì nước không thể dẫn tới vườn cỏ được. Chỉ thích nhận email của người khác mà không muốn trả lời. Thích đón nhận chức linh mục nhưng không muốn sống đời linh mục. Thích nhận chức vụ này, chức vụ nọ trong giáo xứ để tìm vinh vang nhưng không muốn ra tay làm việc. Đó là những hình thức nhận nhưng không trao. Trả lời cho hình thức này, cha Gabriele Adani trong cuốn Một Phút Cho Bạn nói rằng: "Ai chỉ biết sống cho chính mình thì không sống cho ai hết, và cũng chẳng sống cho chính mình nữa."
Việc đón nhận của chúng ta mang ý nghĩa thực sự khi chúng ta biết trao ban. Thích chức linh mục chưa đủ, còn phải sống đời linh mục. Chức linh mục không chỉ để hãnh diện cho riêng người đó thôi mà còn phải trao ban, phục vụ tha nhân qua thiên chức linh mục. Nhận chức vụ này, chức vụ nọ trong giáo xứ không phải chỉ dừng lại nơi danh lợi, chức quyền nhưng mà phải phục vụ anh chị em trong tinh thần yêu thương, khiêm tốn. Nhận phép rửa tội không phải là cất kỹ nơi nào đó nhưng phải sống đời kitô hữu - mến Chúa và yêu người.
Để chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh có ý nghĩa hơn, mỗi người chúng ta nên hỏi chính mình rằng chúng ta đã thực sự sống và làm trọn vẹn ý nghĩa việc đón nhận và trao ban chưa?
Trong Mùa Vọng, Giáo Hội trưng lại các bài Sách Thánh liên quan trực tiếp đến chương trình Ơn Cứu: MV4-B14
Trong Mùa Vọng, Giáo Hội trưng lại các bài Sách Thánh liên quan trực tiếp đến chương trình Ơn Cứu Độ nói chung, và đến việc nhân loại đang trông đợi Chúa Cứu Thế xuống trần gian nói riêng. Các nhân vật quan trọng được tường thuật trong các bài Sách Thánh này là tiên tri Isaia, Thánh Gioan Tiền Hô và song thân của ngài là Joachim và Anna, Sứ Thần Gabriel, Thánh Cả Giuse, và đặc biệt Đức Trinh Nữ Maria.
I. MẸ MARIA TRONG ƠN CỨU ĐỘ
Chúa Nhật sau cùng của Mùa Vọng, trông đợi Chúa Cứu Thế, Giáo Hội đặc biệt lưu ý chúng ta đến vai trò quan trọng và khẩn thiết của Mẹ Maria trong Nhiệm Cuộc Cứu Chuộc đã được thực hiện.
Để thấy rõ địa vị và sứ mạng quan trọng của Mẹ trong Chương Trình Cứu Độ của Chúa, chúng ta hãy tìm hiểu Thánh Kinh. Các nữ nhân anh hùng trong Cựu Ước như bà Esther, Judich được coi như là hình bóng của Đức Maria, đã một phần nào nói lên sứ mạng của Mẹ trong Chương Trình Cứu Chuộc. Nhưng chính tiên tri Isaia từ ngàn xưa đã được Chúa hướng dẫn, trực tiếp nói với Dân Riêng Chúa: "Hỡi Nhà David, chính Chúa sẽ ban cho các ngươi một dấu lạ, này đây một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một Con Trai và tên Con Trẻ sẽ được gọi à Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Is 7:14).
Trinh Nữ được diễm phúc sinh hạ Chúa Cứu Thế mà nhà tiên tri nói tới đây, chính là Đức Thánh Trinh Nữ Maria, Ngài là Đấng đã được Thiên Chúa sủng ái và đặc tuyển từ đời đời, trong thánh ý nhiệm mầu của Người, để làm Mẹ sinh ra Con Chúa, Đấng Thiên Chúa sai đến cứu chuộc muôn dân. Như vậy, chúng ta thấy vai trò của Mẹ thực quan trọng trong Chương Trình Cứu Chuộc của Chúa; quan trọng đến nỗi nếu không có Mẹ, nếu Mẹ không thưa lời "Xin Vâng" với Thiên Sứ Gabriel, ưng nhận làm Mẹ Chúa Cứu Thế, Chương Trình Cứu Chuộc của Chúa đã không thực hiện. Đành rằng, Thiên Chúa toàn năng có dư phương thế để cứu chuộc chúng ta, mà không cần bất cứ một thụ tạo nào chung tay góp sức; nhưng theo sự an bài khôn ngoan và nhiệm mầu, Chúa đã đặc tuyển Mẹ làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế và cộng tác với Người để cứu chuộc chúng ta.
Thánh Gioan, vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế được thánh hóa và giải thoát khỏi nguyên tội, đã hân hoan nhảy mừng ngay lúc còn trong lòng thân mẫu, cũng là nhờ lời chào chúc và cuộc thăm viếng của Mẹ Maria, khi Mẹ đang cưu mang Chúa trong lòng, đến viếng thăm gia đình.
Vậy, để chúng ta được diễm phúc đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm Đấng Cứu Thế, để chúng ta được Ơn Cứu Rỗi, được trở nên con Chúa, được đạt tới đích thánh thiện theo thánh ý Chúa, chúng ta càng cần phải có Mẹ Maria, phải cậy nhờ Mẹ.
Mẹ đã trở nên Đấng Đồng Công với Chúa Giêsu Con Mẹ trong công trình Cứu Chuộc và Thánh Hóa chúng ta, không phải do bản tính đòi buộc, nhưng do ơn Thiên Chúa đặc tuyển.
II. ĂN QUẢ NHỚ KẺ TRỒNG CÂY
Chúng ta được Mẹ trao ban Chúa Giêsu, Quả Phúc bởi lòng Mẹ, Đấng là nguồn Ơn Cứu Độ và Ơn Thánh Hóa. Nếu Mẹ không tự do ưng nhận làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đã không có cơ hội nhập thể làm người, mang thân xác như chúng ta, để Ngài có thể sống kiếp sống con người, gánh lấy mọi tội lỗi tật nguyền, lãnh lấy mọi khổ nhục và chịu chết, đền tạ phép công bình Thiên Chúa, cứu chuộc và thánh hóa chúng ta, thì bây giờ toàn thể nhân loại còn đang ngụp lặn trong vùng thâm u tội lỗi, bị thống trị dưới ách nô lệ Satan và quyền lực hỏa ngục.
Nếu Mẹ không ưng thuận làm Mẹ Chúa Cứu Thế và đồng công cộng tác với Người để cứu chuộc chúng ta, thì bây giờ chúng ta cũng còn đang sống mò mẫm trong bóng đêm dầy đặc của sự tin vơ thờ quấy trong thời man rợ, mang danh kẻ phản bội, kẻ chống đối Thiên Chúa, để đáng lãnh nhận án trầm đọa hỏa ngục muôn đời.
Vậy, "Uống nước nhớ nguồn" và "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Chúng ta được diễm phúc lãnh nhận Chúa Cứu Thế, được hưởng nhờ Ơn Cứu Chuộc và Ơn Thánh Hóa, được trở nên con Thiên Chúa, được Chúa hứa ban hạnh phúc vĩnh cửu trên Quê Trời, cho những con cái trung thành phụng sự và yêu mến Người, đều do công ơn của Mẹ Maria. Chúng ta hãy dâng niềm tri ân lên Mẹ, đặt hết lòng tin tưởng phó thác nơi Mẹ, sống với Mẹ như một người con ngoan thảo, luôn tha thiết phụng sự yêu mến Mẹ.
III. YÊU MẾN LÀ NÊN GIỐNG MẸ
Để thể hiện niềm tri ân chúng ta dâng lên Mẹ, để tỏ lòng con ngoan thảo luôn tha thiết phụng sự yêu nến Mẹ, chúng ta hãy trở nên giống Mẹ, hãy sống như Mẹ đã sống, hãy làm điều Mẹ đã làm, hãy muốn điều Mẹ đã muốn. Vậy Mẹ đã sống thế nào? Mẹ đã làm gì? Mẹ đã muốn gì?
Suốt cuộc đời, Mẹ đã hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Mẹ đã thánh hiến toàn thân và trót cuộc sống của Mẹ, để cộng tác với Chúa Giêsu Con Mẹ trong công trình cứu chuộc, để làm vinh danh Thiên Chúa Cha và cứu chuộc nhân loại. Còn chúng ta, chúng ta đã lấy thánh ý Chúa làm lẽ sống cho cuộc đời chúng ta chưa?
Mẹ đã chu toàn sứ mạng đó với một khát nguyện duy nhất là làm hài lòng Thiên Chúa, làm trọn thánh ý Ngài, Mẹ chỉ muốn điều Chúa muốn, chỉ làm điều Chúa muốn. Lời Mẹ đã thưa với Sứ Thần trong Ngày Truyền Tin: "Này tôi là Nữ Tỳ Chúa, Tôi xin vâng như lời Ngài truyền". Lời đó đã trở nên lẽ sống, luôn chỉ huy chi phối và hướng dẫn Mẹ trong trót cuộc sống.
Vậy chúng ta hãy nên giống Mẹ, chỉ muốn điều Chúa muốn, làm điều Chúa muốn và chỉ khát khao làm hài lòng Chúa như Mẹ. Dù đời sống có gặp may mắn hay nghịch cảnh, dễ dàng hay khó khăn, xuôi thuận hay bất trắc, vui sướng hay sầu khổ, hạnh phúc hay bất hạnh, chúng ta cũng hãy đón nhận tất cả vì lòng yêu mến Chúa và chu toàn thánh ý Ngài, rồi thưa với Chúa như Mẹ: "Này con đây là con Chúa, con xin vâng như lệnh Chúa truyền". Đó là tất cả bí quyết làm hài lòng Chúa và sống hạnh phúc trên trần gian.
Kết Luận
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ cao cả, thánh thiện, đáng yêu, đáng mến, Người Mẹ rất quyền thế trước tôn nhan Chúa, là chính Mẹ Con Một Chúa nhập thể, Đấng Cứu Độ chúng ta. Mẹ là Đường dẫn chúng ta đến với Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được trở nên con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng tỏ cho chúng ta thánh ý Chúa và hướng dẫn chúng ta biết sống đẹp lòng Người.
Khi hồi tưởng lại những kỷ niệm thời thơ ấu, chúng ta thường thấy hình ảnh người mẹ thân yêu hiện ra: MV4-B15
Khi hồi tưởng lại những kỷ niệm thời thơ ấu, chúng ta thường thấy hình ảnh người mẹ thân yêu hiện ra. Cho dù còn trẻ hay đã già, dù nước da trắng hay sẫm, dù thế nào đi nữa, thì người ấy vẫn là người mẹ lo toan cho cuộc sống của chúng ta. Mối liên hệ giữa mẹ và con rất là đặc biệt và luôn dựa trên một mối dây yêu thương. Bởi thế không lạ gì mà Mẹ Maria xuất hiện giữa Tin Mừng hôm nay, gởi gắm cho chúng ta một sứ điệp rất đơn giản mà lại rất xúc động chưa từng thấy. Đơn giản là một thiếu nữ đang quỳ gối đón nhận sứ điệp huyền nhiệm từ thiên sứ Gabrien, với tâm tình rất thanh thản, và nàng đã trao về Thiên Chúa trọn vẹn cuộc đời mình khi nói: “Xin Chúa làm cho tôi như lời sứ thần truyền.”
Giây phút Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Đúng là Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi muốn trở thành một người giữa chúng ta. Và Thiên Chúa phải cần đến Mẹ Maria là để Ngài có thể sai Con Một Ngài đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Mẹ đã được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để làm mẹ của Đức Kitô. Thì lúc Mẹ nói: “Xin vâng” với thiên sứ chính là phút bình mình của ơn cứu độ của nhân loại. Và Mẹ sẽ sinh hạ ơn cứu độ ấy tại Bêlem vào Đêm Giáng Sinh. Mẹ Maria đã không thưa “Xin vâng” một lần với Thiên Chúa mà thôi, nhưng Mẹ luôn luôn xác nhận lại hai tiếng “Xin vâng” ấy nhiều lần trong đời. Mẹ đã không hề nghĩ tới chuyện mọi cánh cửa nhà trọ sẽ đóng lại, xua đuổi Mẹ đúng vào ngày sinh hạ Hài Nhi. Sau đó Mẹ lại phải lên đường bôn tẩu sang đất Ai cập, và 33 năm sau lại phải chứng kiến xác con treo trên khổ giá, một cái chết của kẻ tội đồ. Những lúc ấy Mẹ lại thưa với Thiên Chúa của Mẹ hai tiếng “Xin vâng”.
Hôm nay Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng, lễ Giáng Sinh sắp đến nơi rồi, tâm tự chúng ta đang hướng về Mẹ Maria. Mẹ là tấm gương cho chúng ta soi về việc phải lắng nghe lời Chúa và chờ mong Chúa đến. Mỗi khi tâm trí Mẹ hồi tưởng lại lời chào của thiên sứ năm nào, chắc chắn là Mẹ lại dần dần hiểu thêm ý nghĩa sứ điệp và mầu nhiệm Giáng Sinh. Thiên Chúa không chỉ muốn trở nên một người như chúng ta mà khi hành động như thế Ngài còn muốn chúng ta trở nên giống như Ngài.
Khi lắng nghe Lời Chúa, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy đây là một khía cạnh quan trọng nhất của đời sống Kitô hữu. Làm một Kitô hữu chính là trở nên một người ngày đêm hướng mở đôi tai tâm hồn lắng nghe tiếng Chúa gọi hầu có thể đáp lại ngay tiếng Ngài. Chúng ta có thể cầu xin Mẹ giúp đỡ mỗi một người có được cung cách thái độ lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa, ngõ hầu chúng ta luôn sẵn sàng và sẵn lòng mang Đức Kitô đến cho đời như Mẹ đã làm ngày xưa.
Mẹ Maria đã sinh hạ Đức Kitô trong máng cỏ và nay lại muốn sinh hạ Chúa trong tâm hồn chúng ta. Mẹ đã sửa sang cuộc sống của Mẹ thành một nơi xứng hợp cho Chúa đến thì nay chúng ta cũng phải làm như thế. Thiên Chúa đã không để Mẹ Maria đứng bên ngoài lễ Giáng Sinh, chúng ta cũng thế không thể để cho Mẹ đứng bên lề cuộc sống chúng ta.
Cả ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay đều tập trung vào việc Thiên Chúa thực hiện kế hoạch yêu: MV4-B16
Cả ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay đều tập trung vào việc Thiên Chúa thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Người. Chúng ta hãy lắng nghe, đón nhận và cộng tác với Thiên Chúa để kế hoạch của Người được thực hiện trọn hảo nơi chúng ta và nơi mọi người.
* TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Thiên Chúa thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ:
1.1 Nơi vua Đavít:
Vua Đavít là con người biết điều khi biết nghĩ tới cách thể hiện lòng biết ơn đối với Giavê Thiên Chúa, Đấng đã chọn và đặt ngài lên làm vua Ítraen và đã hỗ trợ ngài trong suốt quá trình xây dựng đất nước dân riêng của Thiên Chúa. Khi được sống trong ngôi nhà tráng lệ thì vua không khỏi chạnh lòng nghĩ đến việc Hòm Bia Thiên Chúa còn ở trong nhà lều. Vua lên kế hoạch xây dựng cho Hòm Bia Thiên Chúa một ngôi nhà xứng đáng hơn. Nhưng cũng chính lúc ấy, Thiên Chúa bộc lộ- qua ngôn sứ Nathan- cho vua biết kế hoạch của vua chẳng thấm vào đâu so với kế hoạch lớn lao kỳ diệu của Thiên Chúa. Thật thế, kế hoạch của Thiên Chúa vượt xa lòng mong đợi cũng như trí tưởng tượng của nhà vua: Thiên Chúa sẽ ban cho vua một dòng dõi tuyệt vời và vương quyền của dòng dõi ấy sẽ muôn đời tồn tại và vinh quang: đó là Giêsu Nadarét, sẽ sinh ra bởi trinh nữ Maria đã kết hôn với Giuse thuộc dòng dõi Đavít.
1.2 Nơi Đức Maria:
Kế hoạch của Thiên Chúa dành cho Đavít chỉ được thực hiện nơi trinh nữ Maria, một thiếu nữ Ítraen đơn sơ nhưng thánh thiện. Cũng như bao cô gái mới lớn khác, Maria đã có sẵn một chương trình: lấy chồng, sinh con, sống cuộc sống gia đình đạo hạnh. Nhưng Thiên Chúa lại muốn thực hiện kế hoạch của Người là ban Con Một cho nhân loại qua Maria. Kế hoạch của Thiên Chúa lớn lao cao cả gấp triệu triệu lần so với kế hoạch đơn sơ nhỏ bé của Maria. Đấng mà bao thế hệ chờ mong, Đấng mà các ngôn sứ không ngừng loan báo, nay trở thành người, con của loài người (vì thế sau này Người rất thích xưng mình là Con Người) khi Ngôi Lời thành thai trong lòng Maria.
1.3 Nơi chúng ta ngày hôm nay:
Kế hoạch mà Thiên Chúa đã thực hiện cho vua Đavít và cho Đức Maria cũng là kế hoạch mà Thiên Chúa đã thực hiện cho chúng ta, cho nhân loại. Thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Roma rằng Thiên Chúa bày tỏ mầu nhiệm sâu kín và cao cả không chỉ cho tín hữu Roma và chúng ta mà cho cả muôn dân thiên hạ. Mỗi khi có một người lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy là người ấy đón nhận và đi vào kế hoạch huyền nhiệm của Thiên Chúa. Mỗi khi có một người tuyên xưng -bằng lời nói hay bằng việc làm- Đức Giêsu là Cứu Chúa, là Con Một của Cha là người ấy để cho Thiên Chúa thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Người nơi mình.
2. Thiên Chúa mời gọi chúng ta cộng tác với Người.
Thiên Chúa không chỉ thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Người nơi chúng ta và cho chúng ta, mà còn mời gọi chúng ta cộng tác với Người, tham gia vào việc thực hiện kế hoạch yêu thương và cứu độ của Người, nơi chúng ta và nơi những người có liên hệ với chúng ta nữa. Đó chính là niềm vinh hạnh và cũng là trách nhiệm nặng nề của chúng ta. Vậy mỗi lần chúng ta làm bất cứ việc gì đó để cho kế hoạch yêu thương và cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn và cuộc sống của mình là chúng ta đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Cũng thế mỗi lần chúng ta làm một việc gì đó giúp người khác hiểu biết, yêu mến Thiên Chúa hoặc giúp người khác yêu thương phục vụ tha nhân là chúng ta cộng tác với Người trong việc thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Người. Công việc ấy thật bề bộn và cấp bách: vì một đàng chung quanh chúng ta còn có rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa đón nhận Tin Mừng, chưa lãnh nhận Bí tích Phép Rửa; đàng khác, nơi những người đã biết và đón nhận Chúa cũng còn rất nhiều người chưa hiểu biết Chúa sâu sắc, chưa sống gắn bó mật thiết với Chúa. Đó là cánh đồng truyền giáo mênh mông đang chờ chúng ta!
* SỐNG LỜI CHÚA
1. Con luôn nhắc nhở mình rằng: Con được Thiên Chúa mời gọi cộng tác với Người để làm cho kế hoạch yêu thương cứu độ của Người được thực hiện, chẳng những nơi bản thân mình mà cả nơi tất cả mọi người.
2. Mỗi ngày con nỗ lực làm một việc gì đó, giúp cho bản thân mình và người chung quanh hiểu biết, yêu mến Thiên Chúa hơn, đón nhận Người một cách sâu sắc hơn, sống làm chứng cho Tin Mừng một cách xác tín và cụ thể hơn.
* CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã mặc khải và thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Cha trong lịch sử loài người khi ban Con Một Yêu dấu của Cha là Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã được ban cho con người để mọi người được sống dồi dào, xin Chúa hãy đến trong tâm hồn và cuộc sống của chúng con cũng như của mọi người, nhất là của những người nghèo và những người kém may mắn, để kế hoạch yêu thương cứu độ của Thiên Chúa Cha được thực hiện một cách trọn vẹn.
Lạy Chúa Thánh Thần là sức mạnh thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Thiên Chúa, xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con trở thành cộng tác viên tích cực trong việc thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Thiên Chúa, nơi chúng con và nơi mọi người.
Vào thời trước Chúa Giáng Sinh, thì dân Do Thái mong đợi Đấng Cứu Thế đến hơn bao giờ hết, vì họ: MV4-B17
Vào thời trước Chúa Giáng Sinh, thì dân Do Thái mong đợi Đấng Cứu Thế đến hơn bao giờ hết, vì họ đã chán ngấy cái tình trạng suy đồi ở xã hội Do Thái. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự đều trên đường xuống dốc. Còn trên bình diện chính trị, thì đất nước của họ bị đế quốc La Mã cai trị. Vì thế mà dân chúng mong đợi Đấng Cứu Thế đến hơn bao giờ hết. Và theo quan niệm của dân chúng thời bấy giờ thì họ mong đợi vị cứu tính đến để giải thoát họ khỏi cảnh lầm than, đô hộ, chứ không hẳn là giải thoát họ khỏi tội lỗi. Còn phụ nữ Do Thái nói chung thì mong được làm mẹ Đấng Cứu thế. Riêng trinh nữ Maria thì lại không có cao vọng làm mẹ Đấng Cứu thế , mặc dầu có cơ hội vì đã đính hôn với ông Giuse. Cái luật đính hôn của Do Thái thời bấy giờ rất là nghiêm túc. Đã đính hôn có nghĩa là đã cưới hỏi theo pháp lý.
Tuy nhiên bà Maria qua một sự thỏa thuận nào đó với ông Giuse, như một lời khấn, đã giữ mình đồng trinh. Chẳng thế, mà khi sứ thần Gabriel đến thỉnh nguyện trinh nữ chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế, trinh nữ tỏ mối quan tâm về cái lời hứa đồng trinh của mình: Điều đó xẩy đến thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng (Lc 1:34). Điều đó chứng tỏ Trinh nữ yêu quí đức đồng trinh như thế nào! Chỉ khi Sứ thần bảo đảm với Trinh nữ là việc Trinh nữ thụ thai là do quyền phép Chúa Thánh linh thì Đức Maria mới chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng Cứu thế. Việc thánh Giuse từ bỏ Đức Maria ra đi cách kín đáo khi nhận ra Bà đang mang thai cũng chứng tỏ là Thánh Giuse ý thức được rằng hai Ông Bà không sống với nhau như vợ chồng.
Phúc âm hôm nay ghi lại Trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đáp trả lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa. Trinh nữ Maria chấp nhận lời Chúa truyền qua miệng Sứ thần Gabriel để được thụ thai, mặc dù không hiểu sự việc có thể xẩy ra như thế nào, vì trinh nữ đã khấn hứa giữ mình đồng trinh. Mặc dù không hiểu, nhưng Trinh nữ đã tin tưởng vào quyền phép của Thiên Chúa, để chấp nhận bằng hai tiếng Xin Vâng theo thánh ý Chúa. Bằng việc chấp nhận thánh chỉ của Thiên Chúa, nên Con Một Thiên Chúa, đã được thụ thai cách huyền diệu trong lòng Trinh Nữ. Thời bấy giờ, Trinh Nữ Maria cũng nóng lòng mong đợi Đấng Cứu Thế đến như dân Do Thái nói chung, như những phụ nữ Do Thái riêng. Đặc biệt, Trinh nữ mong đợi Đấng Cứu thế sinh ra từ lòng mình.
Vậy cái lòng mong đợi mà ta cần có là cái mong đợi của Trinh nữa Maria mang thai. Đàn ông và những người đàn bà không lập gia đình không có được cái kinh nghiệm mang thai đó. Mặc dù không có kinh nghiệm mang thai, ta cũng có thể tưởng tượng ra phần nào trinh nữa Maria nóng lòng chờ đợi Con mình sinh ra như thế nào. Cũng chín tháng cưu mang như những người đàn bà mang thai khác. Việc trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa, tin vào lời Chúa, vâng theo thánh ý Chúa, cộng tác với ơn Chúa phải giúp ta làm sao để sửa soạn đón mừng Chúa đến. Việc trinh nữ Maria thụ thai cách kỳ diệu, không có sự cộng tác của người nam phải kiến ta nảy sinh ra cái cảm giác lạ lùng và kính sợ. Không may sống trong thời đại kỹ thuật khoa học, con người đã đi cái cảm giác đó, mất đi cái cảm giác kính sợ, lạ lùng trước những quyền lực siêu nhiên. Đức tin của trinh nữ Maria vào lời Chúa phải có sức linh ứng, giúp ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và thực thi ý Chúa. Lời Chúa không phải là cái gì thuộc quá khứ không ăn nhập với nếp sống hiện tại. Lời Chúa nói với loài người cả ngàn năm trước đây, và Lời Chúa phải có sức sống động trong ta, vì Chúa là Đấng hằng sống.
Câu chuyện sứ thần Ga-bri-el được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho trinh nữ Maria giúp chúng ta: MV4-B18
Câu chuyện sứ thần Ga-bri-el được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho trinh nữ Maria giúp chúng ta nhận biết tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong việc thực hiện lời hứa cứu độ loài người. Thiên Chúa luôn đi bước trước bằng việc ban ơn và muốn được loài người cộng tác đón nhận. Qua câu chuyện truyền tin hôm nay, thái độ của Đức Maria lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Ý Chúa và mau mắn "Xin Vâng" chính là thái độ tích cực cộng tác mà Giáo Hội muốn các tín hữu chúng ta thực hiện để đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp đến.
2) CHÚ THÍCH :
- Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria. (Lc 1,26-27) :
+ Sáu tháng trước, Da-ca-ri-a đã được sứ thần Gáp-ri-en hiện đến truyền tin khi đang thi hành chức vụ tư tế trong đền thờ. Sứ thần hứa với ông rằng : dù tuổi cao, nhưng bà Ê-li-sa-bét sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông sẽ đặt tên cho nó là Gioan. Đứa trẻ này có sứ mệnh đi trước dọn dường cho Đấng Thiên Sai. Vì không tin lời sứ thần nói có thể xảy ra được, nên Da-ca-ri-a đã bị câm không nói được. Điều này không những là một hình phạt , mà còn là dấu chỉ chứng minh điều sứ thần nói chắc sẽ xảy ra. Quả vậy, sau khi Da-ca-ri-a về nhà được ít lâu, thì bà Ê-li-sa-bét vợ ông đã có thai. Bà đã ẩn mình trong nhà không tiếp xúc với bất cứ ai suốt 5 tháng trời (x. Lc 1,5-25). Đến tháng thứ sáu thì sứ thần lại được Chúa sai đến truyền tin cho Maria.
+ Gáp-ri-en : là một trong bảy Tổng Lãnh thiên thần (x. Tb 12,15; Gd 9; 1Tx 4,16), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong Cựu Ước là : Mi-ka-en, Ra-pha-en và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau : Mi-ka-en nghĩa là "Ai bằng Thiên Chúa" (Đn 10,13-21; 12,1), Ra-pha-en là "Thiên Chúa chữa lành" (Tb 3,17) và Gáp-ri-en là "Anh hùng của Thiên Chúa" (x.Đn 8,16; 9,21).
+ Trinh nữ hay thiếu nữ : Thông thường chỉ có nghĩa là một cô gái chưa có chồng. Riêng về đức trinh khiết của Đức Maria sẽ được gián tiếp đề cập đến qua câu ngài thưa với sứ thần : "Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam" (Lc 1,34). Theo lời tuyên sấm của tiên tri I-sai-a thì : Việc một hài nhi được một bà mẹ thụ thai cách trinh khiết là một dấu chỉ của Đấng Cứu Thế ( x.Is 7,14 ;Mt 1,23).
+ Đã đính hôn : Từ khi đính hôn, Giuse và Maria được luật pháp công nhận là vợ chồng , và con cái được sinh ra trong thời kỳ này cũng là con chính thức . Tuy nhiên theo phong tục của dân Do thái thì việc kết hôn chỉ thành sự khi đàng trai đứng ra tổ chức lễ cưới để đón rước cô dâu về nhà chồng (x, Mt 1,18).
+ Thuộc nhà Đa-vít : Chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước như: Ngài phát xuất từ gốc tổ Gie-se cha của Đa-vít (x. Is 11,1;1 Sm 16,3.12); Ngài sẽ sinh tại Bê-lem quê hương vua Đa-vít (x.Mk 5,1; 1 Sm 16,4).
+ Ma-ri-a hay Mi-ry-am : là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do Thái đương thời. Để phân biệt khi có sự trùng tên, người ta thường thêm một biệt danh vào sau tên gọi. Chẳng hạn : Maria Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3) ; Maria Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Maria mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Maria vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Maria mẹ Gio-an (x. Cv 12,12)… và Trinh nữ Maria thân mẫu Chúa Giêsu (x. Ga 19,25).
- Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : "Mừng vui lên, hởi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà". Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì (Lc 1,28-29) :
+ "Mừng vui lên" không phải là kiểu chào thường ngày của người Do thái, nhưng là lời chào trong những trường hợp đặc biệt, dành riêng cho những người được gặp Thiên Chúa và được ơn Ngài cứu độ : "Nào thiếu nữ Xion, hãy vui mừng hoan hỉ ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò !" (Dcr 9,9)
+ "Đầy ân sủng": là một tước hiệu dành riêng cho Maria, một người trong sạch và vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội và được Chúa luôn ở cùng.
+ "Bà bối rối và tự hỏi" : Khác với thái độ "bối rối và sợ hãi" của tư tế Da-ca-ri-a (x. Lc 1,12), ở đây Maria chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý nghĩ của lời Chúa vừa mặc khải cho mình (x. Lc 1,34 và 2,19)
- Sứ thần liền nói : "Thưa bà Maria xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận" (Lc 1,30-33):
+ Sứ thần giải thích cho Maria biết về sứ mệnh làm mẹ hài nhi Giêsu. Giêsu nghĩa là "Cứu Chúa" (x. Mt 1,21) hay là "Đấng Cứu Thế" (x. Lc 2,11)
+ "Con Đấng Tối Cao": đồng nghĩa với "Con Thiên Chúa". Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các vị vua thuộc dòng tộc Đa-vít. Sứ thần ám chỉ Chúa Giêsu là vua thuộc nhà Đa-vít. Ngài sẽ lên ngôi báu cai trị dân Israel, và triều đại của ngài sẽ vững bền mãi mãi.
- Bà Maria thưa với sứ thần : "Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" (Lc 1,34)
+ So sánh thắc mắc của Maria với thắc mắc của Da-ca-ri-a (x. Lc 1,18) : tuy cả hai cùng đưa ra câu hỏi, nhưng lại phát xuất từ hai tâm trạng khác nhau : Câu hỏi của Da-ca-ri-a biểu lộ sự hoài nghi về quyền năng Thiên Chúa. Ông đã bị phạt cấm khẩu không nói được. Sự cấm khẩu này là dấu chỉ cho thấy việc bà Elisabét vợ ông sinh con là điều chắc chắn sẽ xảy ra (x. Lc 1,20). Còn lời thắc mắc của Maria thì biểu lộ lòng tin : Maria muốn tìm biết rõ thánh ý Chúa để xin vâng. Do đó, Maria đã được sứ thần ca tụng là Đấng "đầy ơn phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa" (x. Lc 1,30) và bà Êlisabét cũng khen ngợi Maria là người "diễm phúc" vì đã tin lời Chúa phán sẽ được thực hiện (x. Lc 1,45).
+ "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến người nam !" : "Biết" theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là "sự giao hợp vợ chồng". Thắc mắc của Maria ở đây không chứng minh Maria đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh như các người lầm tưởng, vì động từ "Biết" ở đây ở thì hiện tại. Qua câu này, Maria chỉ thắc mắc là : làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay được, khi mà Maria mới chỉ đính hôn chứ chưa được Giuse tổ chức lễ cưới để đón rước về nhà chồng ?
- Sứ thần đáp : "Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà. Vì thế Đấng thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35) :
+ Sứ thần giải thích cho Maria hiểu rằng : Vì được Chúa tuyển chọn để thi hành sứ mệnh làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nên Maria phải được thụ thai một cách đặc biệt do quyền năng Thánh Thần, đúng như tiên tri I-sai-a đã tuyên sấm là : Đấng Cứu Thế sẽ được thụ thai và sinh ra bởi một Trinh Nữ (x. Is 7,14).
+ "Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà" : kiểu nói "rợp bóng" nhắc lại sự kiện xảy ra thời Xuất Hành khi dân Do thái đang đi trong hoang địa để về Miền Đất Hứa. Bấy giờ Thiên Chúa luôn ở giữa dân Ngài bằng một cột mây rợp bóng che phủ Nhà Tạm và Lều Hội Ngộ (x. Xh 40,34-38). Rợp bóng cũng ám chỉ sự bang trợ của Thiên Chúa tương tự như chim phượng hoàng giang rộng đôi cánh để bao phủ và che chở Is-ra-en là con dân của Ngài (x.Tv 17,8).
+ "Đấng Thánh "sắp sinh ra sẽ là "thánh" : "Thánh" nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Hài nhi sắp sinh sẽ được "hiến thánh", được dâng cho Chúa để chu toàn sứ mệnh cứu thế.
- Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. (Lc 1,36-37):
+ Ngoài ra, để chứng minh cho Maria thấy quyền năng cao cả của Thiên Chúa, sứ thần đã cho Maria biết về trường hợp bà chị họ Elisabét tuy cao tuổi và hiếm hoi, thế mà cũng được Chúa ban cho có thai được 6 tháng rồi.
- Bấy giờ bà Maria nói : "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Rồi sứ thần từ biệt ra đi ( Lc 1,38) :
+ Khi tự nhận mình là "Nữ tỳ của Chúa", Maria đã biểu lộ sự tin kính và yêu mến sâu xa đối với Thiên Chúa.
+ "Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói" hay : "Tôi xin vâng như lời sứ thần truyền" : Nói câu này, Maria đại diện cho nhân loại để đón nhận ơn cứu độ do Thiên Chúa ban cho. Thực vậy, ngay sau lời thưa "xin vâng", mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể đã được thực hiện : Thánh Thần tác động làm cho Trinh Nữ Maria thụ thai, mà không cần đến việc tri giao vợ chồng (x Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời đã "xuống thế làm người", nhập vào bào thai ấy trở thành Đấng Emma-nu-en nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (x Mt 1,23). Như vậy Chúa Giêsu chỉ có một Ngôi Vị là "Ngôi Con" hay "Ngôi Lời" Thiên Chúa, nhưng lại có hai Bản Tính vừa là Thiên Chúa vừa là loài người.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1. KHAO KHÁT TÌM THÁNH Ý CHÚA:
+ Sứ thần vào nhà Trinh Nữ và chào : "Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng Bà. Nghe lời chào ấy, Bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì" (Lc 1,28-29). Đứng trước một biến cố lớn lao bất ngờ, Maria đã bối rối. Nhưng sự bối rối ấy không do hoang mang nghi ngờ như Da-ca-ri-a, mà do tâm hồn luôn khao khát đi tìm Thánh Ý Chúa.
+ Về phần chúng ta thì thế nào? Đối diện với những biến cố xảy ra trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta chỉ biết than van kêu trách Chúa đã không thương mình, mà không thử tìm xem Chúa múôn nói gì với chúng ta qua những biến cố ấy. Chúa Giêsu vẫn thường đi qua cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta đã không gặp được Ngài vì không muốn gặp. Nhiều lần Chúa đã đứng ngoài cửa tâm hồn của chúng ta và gõ, nhưng chúng ta đã không nghe thấy nên không mở ra đón rước Ngài.
2. XIN VÂNG Ý CHÚA :
+ Mẹ Maria luôn sống Xin Vâng trong cả cuộc đời. Khi sứ thần truyền tin, dù chưa hiểu rõ mọi điều, nhưng Mẹ đã xin vâng. Rồi trong các biến cố sau đó trong cuộc đời Chúa Giêsu, Mẹ luôn ghi nhớ mọi điều xảy ra và suy đi nghĩ lại trong lòng (x. Lc 2,19). Mẹ quyết tâm làm trọn sứ mệnh được Chúa trao cho. Lời thưa Xin Vâng quan trọng nhất là khi đứng kề bên cây thập giá trong cuộc khổ nạn của Con, Mẹ chứng kiến cảnh Chúa Giêsu bị quân lính cầm lưỡi đòng đâm thấu cạnh sườn (x. Ga 19,25-34), ứng nghiệm lời ông già Si-mê-on đã tiên báo : "Này đây một lưỡi gươm sắt sẽ đâm thâu tâm hồn Bà" (x Lc 2,35)
+ Lời thưa "Xin Vâng" cũng phải là lời của các tín hữu chúng ta trong mọi lúc mọi nơi : Khi gặp may lành ta xin vâng và cảm tạ hồng ân Chúa ban. Nhưng ngay cả những lúc gặp gian nan thử thách, chúng ta cũng vẫn phải cảm tạ Ngài và "Xin Vâng" như Mẹ Maria, vì biết rằng : mọi sự Chúa để xảy ra cho chúng ta đều tốt đẹp và hữu ích cho phần rỗi chúng ta : "Tất cả đều là hồng ân" (x. 1 C 15,10). Mỗi khi gặp điều gì trái ý, chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu để cầu nguyện như sau : "Cha ơi, nếu được, thì xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha" (Mt 26,39)
3. TIN VÀO THIÊN CHÚA QUYỀN NĂNG :
+ ĐỨC TIN CỦA FULTON OURSLER : Vào một buổi chiều đông tiết trời lạnh giá, FULTON, một người đã mất Đức Tin và không đến nhà thờ nhiều năm, giờ đây đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. Khi đi qua đại lộ có Nhà Thờ Chánh Tòa của Thành phố Nữu Ước. Tự nhiên ông thấy như có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông đi vào trong Nhà Thờ và đến quì trước tương Đức mẹ Maria đặt tại gian nhà nguyện bên hông Nhà Thờ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Fulton mở miệng ra cầu nguyện như sau : " Lạy Mẹ Maria, có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ bây giờ để tiếp tục bài bác chế diễu các việc con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng lúc này con cảm thấy tâm hồn con thật bình an, dù đang gặp nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm Đức Tin". Ngay lúc đó, Fulton cảm thấy có một điều gì đó thật kỳ diệu xảy ra nơi ông và biến đổi ông trở thành một người mới. Ông đã có lại Đức Tin và trở thành một chiến sĩ nhiệt thành truyền bá Đức Tin. Cũng từ ngày đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Maria để làm chứng cho Chúa Giêsu bằng một cuộc sống khiêm nhường cậy trông phó thác và đầy tinh thần vị tha bác ái.
+ Thực ra, việc biến đổi những người vô tín để họ nhận biết tôn thờ Thiên Chúa , cũng như việc đẩy lùi và xóa bỏ các tệ nạn xã hội như : Sì-ke ma-túy, cờ bạc đĩ điếm , lừa đảo cướp giựt... qủa thật là điều khó lòng thực hiện được chỉ với khả năng giới hạn của chúng ta, nhưng không phải là điều khó làm đối với Thiên Chúa, vì : "Không có gì mà Chúa không làm được" (Lc 1,37). Để việc tông đồ truyền giáo, là một việc vượt quá khả năng tự nhiên của chúng ta đạt kết quả, thì chúng ta cần phải liên kết với Chúa Giêsu và nhờ quyền năng của Ngài trợ giúp như Ngài đã nói : "Thầy là cây nho, các con là ngành. Ngành nào kết hiệp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái... Vì không có Thầy, các con chẳng làm được gì" (Ga 15,5).
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa,
chỉ còn ít ngày nữa là tới đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh. Chung quanh chúng con , người người đang tấp nập mua sắm và trang hoàng nhà cửa để chuẩn bị mừng lễ. Nhưng có lẽ điều Chúa muốn chúng con phải làm lúc này là chuẩn bị tâm hồn bên trong, làm cho lòng trí chúng con trở thành một cái hang đá trong sạch và đầy tràn ánh sáng của Chúa , xứng đáng đón rước Chúa đến ngự trong Đêm Giáng Sinh .
Xin Chúa giúp chúng con thật lòng sám hối tội lỗi , quyết tâm làm những việc tốt là khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhất là cho chúng con biết lưu tâm chia sẻ tình thương cho những người nghèo khổ đáng thương như : các cụ già cô đơn không nơi nuơng tựa, các trẻ khiếm thị khuyết tật, các trẻ mồ côi phải lang thang kiếm sống nơi đầu đường xó chợ, và hết những bệnh nhân yếu đau liệt giường mà không có tiền để chữa trị ... nhờ đó chúng con xứng đáng được đón rước Chúa đến và ban dồi dào hồng ân cho chúng con trong Mùa Giáng Sinh này.
* X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
2) Lạy Mẹ Maria, mỗi lần gặp phải sự khó khăn hoạn nạn, chúng con thường chỉ biết kêu trời trách đất, hoặc tệ hơn như người ta thường nói : "Hữu sự vái tứ phương", chúng con lại đi tìm sự trợ giúp nơi những con người hành nghề mê tín dị đoan như : thầy bói, cầu cơ, đồng cốt... đang khi lẽ ra chúng con phải một lòng cây trông vào quyền năng của Chúa, chạy đến ẩn mình dưới sự phù trì che chở của Chúa và xin ơn Chúa soi sáng để biết mình phải làm gì theo Thánh Ý Chúa ? Đồng thời , phải biết nhờ Mẹ Maria và các thánh cầu bầu , noi gương Mẹ đã làm để giúp đôi tân hôn tại tiệc cưới Ca-na xưa.
Vậy xin Mẹ giúp chúng con biết lắng nghe lời Chúa phán, tìm biết Thánh Ý Chúa qua mỗi biến cố cuộc sống, và sẵn sàng mở lòng để thưa "xin vâng" như Mẹ đã làm xưa.
* X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. -
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Maria đã được hứa gả cho Giuse. Thời kì đính hôn thường là một năm, và sự ràng buộc cũng giống: V4-B19
Maria đã được hứa gả cho Giuse. Thời kì đính hôn thường là một năm, và sự ràng buộc cũng giống như trong hôn nhân, chỉ có thể tháo gỡ bằng li dị. Nếu trong thời gian ấy, vị hôn phu chết, thì trước mặt pháp luật cô gái đã trở thành goá phụ. Trong luật pháp Do Thái có câu nghe lạ tai “…một trinh nữ là góa phụ”. Khi hai người đính hôn với nhau, chỉ có sự chết mới phá đổ được sợi dây liên kết.
Xuất thân từ ngoại bang, Lu Ca hiểu hơn ai hết lối suy luận của dân ngoại, nên ông đã tìm cách giới thiệu Chúa Cứu Thế dưới con mắt chuyên môn của nhà viết sử như đã xác định từ đầu (1,1-3). Bức tranh tuyệt diệu về Chúa Cứu Thế phải được trình bày đúng thời điểm của nó và hoàn toàn khác với ba Phúc âm kia. Câu 26 nhằm nối kết với phần trước, cho biết Elisabét mang thai Gioan Tẩy Giả đến tháng thứ sáu, thì một thời điểm vô cùng quan trọng của lịch sử nhân loại đã tới. Thiên sứ Gáprien báo tin cho Maria về sự ra đời của Chúa Giêsu . Lu Ca ghi lại cho chúng ta những mặc khải và bài học quan trọng của Thiên Chúa cho nhân loại.
1.Thiên Chúa chọn trinh nữ Maria để đưa Con Ngài vào trần gian.
Maria là người vô cùng đặc biệt, được Chúa trọn để nhận hồng ân lớn lao nhất. Chính điều này làm Maria bối rối, cô không thể nào hiểu được trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, khi cô đã hứa hôn với Giuse. Hơn thế nữa, thiên sứ còn cho biết cô sẽ mang thai, sinh một con trai, và được đặt tên là Giêsu. Mát Thêu thì ghi rõ: “Giuse làm như sứ thần dạy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên con trẻ là Giêsu”. (1,25)
Sinh đẻ mà đồng trinh là giáo lý độc nhất chỉ có trong Kitô giáo, và Maria được đặc ân vĩ đại này.
2. Sự thụ thai kỳ diệu.
Trong khi Maria đang trải qua từ bối rối này tời ngạc nhiên nọ thì thiên sứ cho biết chương trình lớn lao của Thiên Chúa. Cô vẫn đồng trinh, nhưng nhận được ân sủng và sự thụ thai siên nhiên bởi Chúa Thánh thần, và hài nhi sinh ra rất cao trọng, được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa. Thông báo này là một mặc khải đặc biệt cho nhân loại, Thiên Chúa vào đời, mang hình hài loài người có cả thần tính lẫn nhân tính. Với mục đích giới thiệu Chúa Cứu Thế cho người ngoại bang nên Lu Ca hoàn toàn không trích dẫn những lời tiên tri trong cựu ước về sự ra đởi của Chúa Cứu Thế.
3. Chương trình chắc chắn thành tựu.
Những điều Gáprien trình bày vượt qua trí tưởng tượng và khả năng hiểu biết của trinh nữ Maria , nàng tưởng như nằm trong mơ. Thiên sứ đã nhanh chóng dẫn chứng biến cố hi hữu xảy ra cho Elisabét, người bà con gần gũi của Maria, người đàn bà son sẻ và già nua cũng đã có thai được sáu tháng rồi, “nên chẳng có gì mà Chúa không làm được”.
4. Sự vâng phục trọn vẹn .
Sự vâng phục của Maria là thái độ hết sức đẹp đẽ: “bất cứ điều gì Thiên Chúa nói, tôi xin vâng theo cả”. Maria biết quên, lời cầu nguyện phổ thông nhất của thế gian: xin trời đổi ý, xin vạn sự như ý (tôi)…; nàng học biết cầu nguyện lời cầu nguyện lớn nhất trần gian: “xin ý Cha được thực hện”.
Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Chuẩn bị là mở tâm hồn ra một cách kính: MV4-B20
Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Chuẩn bị là mở tâm hồn ra một cách kính cẩn, để đón ơn giáng sinh. Chuẩn bị là dọn dẹp tâm hồn một cách chu đáo, để đón tiếp chính Chúa giáng sinh.
Nếu muốn chuẩn bị với ai, thì ít là có ba nhân vật quan trọng được nhắc tới. Đó là thánh Gioan Tiền Hô, thánh Giuse và Đức Mẹ Maria.
Hôm nay, xin được chuẩn bị lễ giáng sinh với Đức Mẹ. Tôi đến bên Đức Mẹ, cậy nhờ Đức Mẹ, xin Đức Mẹ giúp tôi dọn dẹp tâm hồn tôi.
Đức Mẹ rất vui lòng. Nhưng Đức Mẹ muốn có sự cộng tác của tôi. Cộng tác bằng thinh lặng hồi tâm, sốt sắng cầu nguyện, tỉnh thức lắng nghe, khiêm nhường đón nhận. Tất cả mọi công việc như thế sẽ được thực hiện trong tâm tình đơn sơ của người con bé nhỏ.
Với sự dịu dàng của người mẹ, Mẹ chỉ cho tôi con đường, mà Thiên Chúa đã chọn, để Ngôi Hai đi vào nhân loại. Con đường đó là chính tâm hồn Mẹ. Tâm hồn Mẹ là thế nào? Ước muốn biết sự thực về tâm hồn Mẹ là một ước muốn tốt. Ước muốn này sẽ không thể đạt được do lý luận, do nghiên cứu, nhưng sẽ do ơn thánh Chúa ban cho những ai thiện chí đi tìm.
Phải tìm trong chính nguồn là Phúc Âm.
Từ Phúc Âm, Mẹ hé mở tâm hồn Mẹ qua ba lời quan trọng Mẹ nói trong biến cố Thiên Chúa giáng trần.
Lời thứ nhất là: “Con là tôi tớ Chúa” (Lc 1,38).
Mẹ tự xưng mình là người đầy tớ của Chúa. Người đầy tớ ngoan là người luôn để mắt hướng về chủ. Hướng về một cách chăm chú và khiêm nhường. Để nắm bắt mau lẹ bất cứ sự gì chủ muốn sai bảo.
Khi xưng mình là tôi tớ Chúa, có thể Mẹ đã muốn nhắc lại tâm tình người đầy tớ chờ mong lòng thương xót, như được tả trong thánh vịnh 122: “Quả thực, như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, và như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt chúng ta cũng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tới khi Người xót thương chút phận” (Tv 122,21)
Mẹ đã nhìn lên Chúa. Và có một lúc, cái nhìn của Mẹ đã bắt gặp cái nhìn khác thường của Chúa dành cho Mẹ. Cái nhìn của Chúa toả tình thương đầy ánh sáng. Trong ánh sáng đó Mẹ linh cảm được Mẹ được Chúa yêu thương một cách đặc biệt.
Biết mình là người đầy tớ được yêu thương, Mẹ nhận thức rõ mình nghèo khó hèn mọn. Tất cả bản thân mình với những gì mình có đều do Chúa ban. Ngài ban tặng nhưng không. Đặc biệt là tình thương. Được Chúa yêu thương, và được Chúa ở cùng, đó là hạnh phúc không gì sánh được.
Biết mình là người đầy tớ được yêu thương, Mẹ chắc chắn Chúa là nơi mình nương tựa, là Đấng sẽ cứu mình khỏi cái tôi cũ đầy bất xứng, là Đấng sẽ gỡ mình ra khỏi lưới ma quỉ, thế gian, xác thịt.
Biết mình là người đầy tớ được yêu thương, Mẹ như cảm được thái độ mình phải có trên đường thánh thiện. Đó là vui nhận để tình Chúa dẫn đưa theo con đường Chúa muốn, hơn là tìm cách yêu mến Chúa theo con đường mình tự chọn. Điều này đòi phải có một đức tin mạnh mẽ và rất mực phó thác.
Biết mình là người đầy tớ được yêu thương, Mẹ cố gắng phục vụ Chúa trong mọi việc lớn nhỏ. Phục vụ dưới sự soi sáng của Thần Linh trong tâm hồn. Phục vụ với sự bén nhạy trước những dấu chỉ của thời đại, hợp với nhu cầu từng nơi, từng lúc, từng người, từng sứ mạng sai đi.
Với mấy chia sẻ trên đây, Mẹ đã cho thấy tâm hồn Mẹ đầy khiêm tốn khó nghèo. Tâm hồn khiêm tốn khó nghèo chính là con đường Chúa chọn, để đến với nhân loại. Tâm hồn khiêm tốn khó nghèo cũng chính là con đường tôi phải xây đắp trong tâm hồn tôi, để đón Chúa. “Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Điều này sẽ càng được rõ hơn ở lời quan trọng thứ hai Mẹ đã nói.
Lời thứ hai là: “Con xin vâng theo lời Chúa truyền” (Lc 1,38).
Lời Mẹ Xin vâng gói ghém một số chi tiết về khiêm nhường.
Xin vâng là khiêm tốn hân hoan chấp nhận kế hoạch của Lời Chúa. Xin vâng, chủ yếu không phải là sẽ vâng làm việc này việc nọ, mà là xin vâng đi vào chương trình của Chúa. Mặc dầu Mẹ chưa hiểu hết chương trình đó. Nhưng vì Chúa truyền, nên Mẹ xin vâng.
Xin vâng là khiêm tốn vui mừng tiếp đón chính Đấng là hồn của chương trình cứu độ. Đấng đó sẽ không ngại giới thiệu mình là kẻ hiền lành khiêm nhường. Ngài sẽ dùng máng cỏ Bêlem và thánh giá trên núi Calvariô là những phương tiện khó nghèo khiêm tốn để mạc khải tình yêu cứu độ và quyền năng vô biên của Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng.
Xin vâng là khiêm tốn can đảm từ bỏ mình, xin đi ra khỏi cái tôi cũ của mình, để mặc lấy cái tôi có Thần Linh hướng dẫn. Để từ đó biết bỏ ý riêng mình, đón nhận ý Chúa, với xác tín Lời Chúa đã dạy trong tiên tri Isaia: “Tư tưởng của các ngươi không phải tư tưởng của Ta, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi như vậy” (Is 55,8-9).
Xin vâng là khiêm tốn chấp nhận cuộc chiến đấu hằng ngày trong nội tâm và trong cuộc đời. Bởi vì sẽ không thiếu những cản trở, dưới nhiều hình thức khác nhau, kể cả dưới hình thức đạo đức, trên đường vâng phục thánh ý Chúa.
Qua một chút đi sâu vào lời xin vâng, Mẹ cho thấy tâm hồn Chúa chọn để như con đường Chúa đi vào thế gian vẫn là tâm hồn khiêm tốn. Con đường khiêm tốn cũng chính là con đường tôi phải xây đắp, để đón Chúa vào đời tôi và vào cộng đoàn của tôi.
Nội dung về khiêm tốn sẽ được nhìn rõ thêm nữa trong lời quan trọng thứ ba của Mẹ.
Lời thứ ba là: “Linh hồn con chúc tụng Chúa” (Lc 1,46).
Lời chúc tụng của Mẹ không chỉ là lời cảm ơn, nhưng là sự đem đặt tất cả bản thân mình và cuộc đời mình trước thánh nhan, để tôn thờ Chúa.
Tôn thờ Chúa bằng sự dâng mình làm của lễ. Sau này thánh Phaolô cũng đã nói: “ Thưa anh em, vì Thiên Chúa xót thương chúng ta, tôi khuyên anh em hãy hiến dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp, để anh em thờ phượng Thiên Chúa” (Rm 12,1).
Của lễ Mẹ dâng để thờ phượng Chúa là chính bản thân mình. Trong đó Mẹ không ngừng chăm sóc tinh thần khiêm nhường và bác ái. Chăm sóc bằng cầu nguyện, bằng suy gẫm, bằng hy sinh. Để rồi ra đi vào đời.
Vào đời như một hiện diện âm thầm khiêm tốn của tình yêu cứu độ.
Vào đời như một thiện chí chia sẻ hy vọng của Đấng cứu thế làm người, gần gũi con người, chịu mọi thử thách như mọi người.
Vào đời như một mời gợi thân thương của Đấng cứu độ, Đấng sẽ nói: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Lc 5,33).
Vào đời như một sứ mạng canh thức, bảo vệ chân dung đặc biệt của Đấng cứu thế, một chân dung khiêm nhường sẽ được thánh Phaolô mô tả như sau: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thánh giá: Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người” (Pl 2,6-9).
Như vậy, với tâm tình cảm tạ, một lần nữa Mẹ cho thấy con đường Chúa chọn để vào nhân loại, vẫn là tâm hồn khiêm tốn. Ai muốn đón Chúa cũng phải khiêm tốn, rất khiêm tốn.
Khiêm tốn trong cảm tạ, Khiêm tốn trong vâng phục, Khiêm tốn trong mến yêu. Riêng đối với tôi, còn phải khiêm tốn trong sám hối, ăn năn, trở về.
Tới đây, Mẹ muốn chúng ta phải có một quyết định chắc chắn và rõ ràng về sự dọn mình đón Chúa. Một khi biết con đường Chúa muốn đi vào là con đường khiêm tốn, chúng ta không nên trốn tránh con đường đó. Lucifer đã bị đuổi xuống hoả ngục vì tội kiêu ngạo. Hai ông bà nguyên tổ bị đuổi ra khỏi địa đàng, cũng vì tội kiêu ngạo. Bao người cũng đã bị loại ra khỏi Nước Trời, vì tội kiêu ngạo.
Đang khi đó, khiêm nhường là bước đầu của sự trở về. Khiêm nhường là con đường để đón ơn Chúa và đón Chúa. Xung quanh ta, nhiều người đang là những con đường khiêm tốn, xinh đẹp. Ơn Chúa đang được chuyển tải qua những con đường âm thầm đó. Chính Chúa cũng đang đi vào các tâm hồn qua những con đường bé mọn đó.
Còn chúng ta thì sao?
Xin Mẹ thương giúp chúng ta biết nghe lời Mẹ, để theo gương Mẹ, chúng ta cũng trở thành những con đường khiêm tốn, đầy ánh sáng tâm linh của khiêm nhường và tình thương. Những con đường đó sẽ âm thầm chuyên chở ơn thánh. Những con đường đó sẽ đón Chúa hiền lành và khiêm nhường đến với nhân loại hôm nay. Những con đường đó sẽ được Mẹ dùng để Mẹ dẫn đưa những người thiện chí về với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Tại sa mạc Phi Châu, ngày kia tu sĩ Caréttô nghe biết một cô gái mới 14 tuổi đời mà đã được gả: MV4-B21
TạisamạcPhiChâu, ngày kia tu sĩ Caréttô nghe biết một cô gái mới 14 tuổi đời mà đã được gả bán cho một chàng trai. Trong khi chờ đợi ngày cưới, cô gái ấy vẫn tiếp tục đi kín nước và làm những công việc nội trợ bình thường. Thời gian trôi qua, hai năm sau vị tu sĩ kia sực nhớ bèn hỏi xem đám cưới đã được tổ chức như thế nào ? Và ông bố đã tỏ ra bối rối không muốn trả lời.
Cuối cùng, một người đầy tớ đã cho vị tu sĩ hay :
- Cô gái ấy đã bị bóp cổ chết chỉ vì đã có thai trước khi về nhà chồng. Danh dự gia đình đòi cô phải chết như vậy.
Thân phận của cô gái trong câu chuyện vừa nghe, là thân phận của phụ nữ ngày xưa, cũng như của mỗi người chúng ta sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Bởi vì với tội lỗi, chúng ta sẽ phải chết. Không phải chỉ cái chết phần xác, mà còn cả cái chết phần hồn, mãi mãi xa lìa Chúa.
Thế nhưng Mẹ Maria đã khởi đầu cho một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này, người phụ nữ được phục hồi nhân phẩm và mỗi người chúng ta được trả lại địa vị làm con cái Chúa, bởi vì chúng ta có được chính sự sống của Ngài trong tâm hồn, như lời thánh Phaolô đã xác quyết :
- Xưa kia bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống.
Sở dĩ như thế là vì Mẹ Maria đã sống khiêm nhường và luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại : Thuở xưa tại vườn địa đàng, Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay ngắt trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu hậu quả thảm khốc của tội nguyên tổ.
Trong khi đó Mẹ Maria là Eva mới, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong hoạt cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy như vậy. Sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên :
- Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.
Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác : nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ và cầu nguyện thêm cái đã…
Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã được xứng đáng đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, cũng như làm Mẹ của Thiên Chúa.
Sống trong Mùa Vọng, chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria : luôn khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, để nhờ đó, chúng ta sẽ có Chúa trong tâm hồn, cũng như sẽ đem Chúa đến cho những người chung quanh như Mẹ Maria ngày xưa.
Đức Maria là người diễm phúc, bởi vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho Con của Ngài nhập: MV4-B22
Đức Maria là người diễm phúc, bởi vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho Con của Ngài nhập thể giáng trần. Điều đó đã được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là trình thuật truyền tin. Đây là một đoạn văn cho chúng ta biết Thiên Chúa đã đưa Đức Trinh nữ Maria, một phụ nữ khiêm tốn trở thành một người diễm phúc như thế nào.
Nhân vật được Thiên Chúa sai đi là sứ thần Gabrien, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria, con ông Gioa-kim và bà Anna, thuộc dòng họ vua Đavid. Sứ thần báo cho Maria một tin rất trọng đại : Thiên Chúa muốn trinh nữ làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nhưng vì đã khấn hứa sống trinh khiết trọn đời, nên Maria không hiểu điều đó có ý nghĩa thế nào : làm sao vừa có thể sống trinh khiết lại vừa có thể sinh con và làm mẹ được ? Vì thế, Maria hỏi sứ thần : “Việc ấy sẽ cảy ra cách nào ?”. Sứ thần cho biết đây không phải là trường hợp bình thường bởi loài người nhưng bởi Chúa Thánh Thần làm phép lạ vĩ đại cho cô chịu thai mà vẫn còn đồng trinh và cô sẽ sinh một Thánh Tử là Con Thiên Chúa. Có thể nói giây phút ấy, tất cả tương lai nhân loại nằm trên đôi môi Đức Mẹ, giây phút ấy mầu nhiệm nhập thể vẫn còn lơ lửng, và Thiên Chúa hồi hộp chờ đợi câu trả lời của Đức Mẹ. Cuối cùng, Đức Mẹ đã hoàn toàn ưng thuận. Thế là mầu nhiệm truyền tin đã hoàn tất.
Qua mầu nhiệm này chúng ta thấy Đức Mẹ sau khi biết việc thụ thai con trẻ Giêsu là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ đã can đảm thưa “xin vâng”. Để hiểu được sự can đảm phi thường của Đức Mẹ, chúng ta thử đặt mình vào vai trò của Đức Mẹ cách đây 20 thế kỷ, sống dưới một luật lệ khắt khe của Do thái giáo. Thời đó phụ nữ rất bị khinh miệt hơn cả ở Việt Nam chúng ta, nếu đối với chúng ta : “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: thì phụ nữ Do thái còn “nhẹ giá” hơn nữa. Thực vậy, lúc ấy Đức Mẹ là một trinh nữ mới lớn, khoảng 15, 16 tuổi, lại mới chỉ đính hôn với Giuse, luật lệ lúc ấy rất khắt khe với những người đính hôn, nếu có thai không do người bạn đính hôn của mình là bị kết tội giao du bất chính, ngoại tình và bị ném đá cho chết. Đàng khác, Đức Mẹ sống trong làng Nagiarét, một làng nhỏ bé, nên việc mang thai không thể giấu diếm được. Có lẽ nhiều câu hỏi đã nảy sinh trong đầu Đức Mẹ : làm thế nào để giải thích cho họ hàng đôi bên và nhất là với người chồng sắp cưới ? Làm thế nào để giải thích cho những vị lãnh đạo tôn giáo khắt khe trong làng ? Nhưng tình yêu Thiên Chúa của Đức Mẹ đã thắng, Đức Mẹ đã chấp nhận mọi nguy hiểm. Thực vậy, vì yêu Chúa, Đức Mẹ bằng lòng chấp nhận mọi sự hiểu lầm của mọi giới người, chấp nhận những lời xuyên tạc, đàm tiếu có thể xảy ra, và chấp nhận ngay cả cái chết nữa. Cũng thế, vì yêu Chúa, Đức Mẹ dám hy sinh hạnh phúc gia đình, bởi vì lúc sứ thần đến truyền tin thì Đức Mẹ đang trong thời gian đính hôn với Giuse, bây giờ câu chuyện xảy ra thế này thì việc cưới xin làm sao thành được nữa, nhưng Đức Mẹ đã bằng lòng chấp nhận tất cả, chấp nhận không điều kiện, phó thác mọi sự cho Chúa. Chính vì thế Thiên Chúa đã lo liệu trọn vẹn cho Đức Mẹ, đây cũng là bài học cho chúng ta.
Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin và yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Tóm lại, mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca “xin vâng’ để Mẹ trợ giúp : “Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng : hôm nay, tương lai và suốt đời. Xin Chúa cho chúng ta, dù làm gì, chúng ta luôn biết làm theo thánh ý Chúa, tức là luôn sống đúng và làm đúng với Tin Mừng của Chúa.
Năm 1876, khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại, có một vấn đề được đặt ra là: MV4-B23
Năm 1876, khi Alexander Graham Bell phát minh ra điệnthoại, có một vấn đề được đặt ra là phải nói lời gì khi bốc máy trả lời điện thoại. Ông Bell đề nghị người trả lời nên chào là “Ahoy !” Tiếng này nghe hơi lạ tai ! Có lẽ cũng từ tiếng “Ahoy” và Hello” phát sinh ra tiếng “Alô”?
Tiếng “Hello” sau này mới xuất hiện do Thomas Edison, người khám phá ra điện và là một người bạn thân đang giúp ông Bell cải tiến kỹ thuật điện thoại. Tiếng “Hello” đầu tiên xuất hiện trong văn chương vào năm 1880. Nhà văn Mark Twain đã gọi những thiếu nữ làm ở tổng đài điện thoại là những “hello girls”. Sau cùng, vào năm 1883, tiếng “Hello” được đưa vào tự điển. Và bây giờ, trên 100 năm sau, nó là một trong những tiếng được sử dụng phổ thông nhất trên thế giới.
Phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria. Chắc chắn lúc sứ thần mới gặp Maria, cô khoảng 14 tuổi, tuổi choai choai, ngài không chào là “Hi” hay “Hello”, mà Thánh Kinh kể rằng : “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước…” Lời chào thật trang trọng và tôn vinh vì cô bé choai choai 14 tuổi đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.
Theo bài Phúc âm diễn tả, Maria một cô con gái trẻ, nhà quê, lại đón nhận một ơn gọi vĩ đại chưa từng có. Cô được sứ thần cho biết rằng sẽ đóng một vai trò duy nhất trong lịch sử loài người. “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc… Nầy Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao… Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”. Nghe những lời như vậy, Maria khiếp sợ và bối rối, liền hỏi : “Việc đó xảy đến thế nào được ?” Nhưng khi nghe sứ thần khẳng định rằng người nói thay cho Thiên Chúa, Maria hoàn toàn chấp nhận ý của Thiên Chúa với lòng vô cùng khiêm tốn : “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tức thì Đấng Cứu Thế bắt đầu thực hiện chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.
Trong Hiến Chế về Giáo Hội, Lumen Gentium đoạn 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria như sau :
Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng : Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói : “Do sự tuân phục của mình, Mẹ đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và sau cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng : “Cái gút do sự bất tuân phục của bà Evà đã được tháo cởi do sự vâng phục của Đức Maria ; cái mà trinh nữ Evà đã thắt gút do sự cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo cởi do niềm tin của mình”. So sánh Đức Maria với bà Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường tuyên bố rằng : “Do Evà có sự chết, do Maria có sự sống”.
Theo sự giảng dạy của các Giáo Phụ, Công Đồng coi câu chuyện Truyền Tin rất quan trọng, vì nhận thấy ở thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội tiên khởi đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp nhận tự do trong ân sủng của Đức Maria. Sự chấp nhận tự do này là tiếng nói then chốt trong câu chuyện, nhưng đồng thời còn là bài học tóm lược tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu : ưng thuận khi Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong chúng ta. Theo gương Đức Maria, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế, chúng ta vừa tích cực cộng tác mà không tự mãn”.
Trong “Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18” năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan: MV4-B24
Trong “Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18” năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưói chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình : “Hỡi bà, này là con bà”. “Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ”.
Với thái độ khiêm tốn, vâng lời và tin tưởng, Đức Maria đã đáp lại ơn gọi Thiên Chúa kêu mời, trái ngược với sự bất tuân, thiếu niềm tin và kiêu ngạo của bà Evà. Thánh Kinh đã lên án sự kiêu căng, tự cao tự đại, vì nó phát xuất ra những dối trá, lừa đảo để dành lấy cho mình cái mà tự sức mình không có hay không thể có được. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ người tín hữu thành Galat : “Ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, là lừa gạt chính mình”. Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa ! Người được chấp nhận không phải là kẻ tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao”. Và Chúa Giêsu cũng khuyên : “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Cách đây ít lâu, tờ St. Peterburg Times có thuậtlạimộtcâuchuyện được chia sẻ bởi Don Shula, ông bầu của đội football Miami Dolphins. Ông là một người rất danh tiếng. Trong giới thể thao nói riêng, trong nước Hoa Kỳ nói chung, ai cũng biết đến tên Don Shula. Ông giữ chức ông bầu đội Miami Dolphins từ năm 1970 và đã từng thắng ít nhất hai trận cầu ở giải Rose Bowl, Pasadena.
Hôm đó ông cùng với vợ và năm người con đang nghỉ xả hơi nơi một thành phố nhỏ tại tiểu bang Maine. Buổi sáng trời mưa buồn, ông đem cả gia đình đi xem chiếu bóng tại rạp hát duy nhất trong thành phố. Lúc ấy, trong rạp hát đã có sáu người đến trước ông. Ông Shula vừa bước chân vào thì tất cả đều đứng lên vỗ tay reo hò chào mừng. Ông Shula vẫy tay chào và mỉm cười cùng họ cách khoái trá. Ngồi xuống, ông nói với bà vợ : “Mình ở xa đây cả ngàn cây số, mà ai cũng biết đến và kính trọng, đến nỗi vừa thấy mình bước chân vào rạp hát là họ đứng dậy chào và vỗ tay hoan hô mình. Hẳn là họ đã thưởng thức những trận cầu hiển hách của đội Dolphins trên màn ảnh tivi”.
Sau đó, một người tiến đến bắt tay chào ông Shuha. Mặt mày hớn hở, ông Shuha nói : “Làm sao ông bạn có thể nhận diện được tôi ?” Người kia trả lời : “Tôi đâu có biết ông là ai. Nhưng khi thấy ông và gia đình bẩy người bước váo rạp hát, chúng tôi đứng lên vỗ tay reo mừng, vì vài phút trước khi ông tới, người quản lý rạp hát nói với chúng tôi rằng sáng nay sẽ không có xuất movie nào, trừ ra có thêm bốn khán giả nữa”.
Bấy giờ, ông Shula mới tỉnh ngộ. Ông nói : “Tôi lấy làm xấu hổ vô cùng. Thì ra họ vừa đứng lên vỗ tay reo mừng, không phải reo mừng tôi, nhưng là reo mừng chính họ, vì họ đã có đủ điều kiện để được xem chiếu bóng”. Thật là chua chát thay ! Ông Shula bây giờ mới cười nhạo mình. Ông đã hạ mình xuống, đầy lòng khiêm nhường, viết ra bài chia sẻ với chúng ta về sự thật buồn cười đã xảy ra cho ông.
Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy : “Kiêu ngạo biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Khiêm nhường làm cho con người thành thiên thần”. Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường trong đường tu đức như sau : “Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường”.
Chúa Giêsu “ đang khi đến trong thế giới này” Ngài đã thưa với Chúa Cha rằng : “Lạy Cha, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”. Ngài hoàn toàn hy sinh mạng sống để thi hành thánh ý của Đức Chúa Cha. Ngài đã mang lấy sứ mạng của Người Tôi Tớ hiền lành và khiêm nhường để cứu chuộc nhân loại. Đây là con đường linh đạo cho tất cả mọi người Kitô hữu.
Trong sứ điệp nhân ngày cầu nguyện cho ơn Thiên triệu lần thứ 40, 11/5/2003. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã hướng về Đức Maria, Tôi Tớ Thiên Chúa, như một gương mẫu của các bạn nam nữ sẵn sàng đáp lời mời gọi của Chúa để phục vụ cho Tin Mừng với lời kinh nguyện :
“Lạy Mẹ Maria, nữ tì khiêm hạ của Thiên Chúa Tối Cao, Người Con mà Mẹ hạ sinh đã biến Mẹ thành người tôi tớ của nhân loại. Cuộc đời Mẹ là một sự phục vụ khiêm tốn và quảng đại. Mẹ là người tôi tớ của Lời khi thiên thần loan báo cho Mẹ biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ là người tôi tớ của Chúa Con, khi ban cho Người sự sống và luôn hướng về mầu nhiệm của Người. Mẹ là người tôi tớ của Đấng Cứu Chuộc, khi dũng cảm đứng dưới chân thánh giá, kề bên Người Tôi Tớ Đau Khổ và Con Chiên, Đấng hy sinh chính mình vì yêu thương chúng con. Mẹ là người tôi tớ của Hội Thánh vào ngày lễ Hiện Xuống và với lời chuyển cầu Mẹ tiếp tục sinh ra Người trong mọi tín hữu, cả trong thời đại khó khăn và nhiễu nhương này của chúng con.
Ước gì những người trẻ của thiên niên kỷ thứ ba hướng nhìn lên Mẹ, người thiếu nữ của Irael, Đấng biết đến sự xao động của một tâm hồn trẻ khi đối diện với kế hoạch của Thiên Chúa hằng sống. Xin làm cho họ biết chấp nhận lời mời gọi của con Mẹ là trao ban trọn vẹn đời sống mình vì vinh quang của Thiên Chúa. Xin làm cho họ hiểu rằng phục vụ Thiên Chúa làm thoả mãn tâm hồn, và chỉ trong việc phục vụ Thiên Chúa và Vương Quốc của Người mà chúng con hoàn thành cuộc đời chúng con theo kế hoạch của Thiên Chúa, và đời sống nên một bài ca tụng vinh quang dâng lên Người”. (Bản dịch của lm John Du Sinh).
Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu: MV4-B25
Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương : Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen : Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp đựoc thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.
Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.
Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn ? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn ? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân ? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên chúa.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1. Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không ? 2. Từ bỏ ý riêng có dễ không ? 3. Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa ?
4. Khi đã hiểu rõ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?
Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh: MV4-B26
Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Đức Giê-su. Đang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.
Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn ?
Vậy mà Giáo Hội Ki-tô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Đức Giê-su vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1, 14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Ma-ri-a và đã làm người"
Đức Giê-su, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Đức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Đấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Đối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Ki-tô Giáo lại khẳng định: Điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ ( 1 Cr 1, 23 ) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hướng về Lễ Giáng Sinh. Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26 - 38: Truyền tin cho Đức Ma-ri-a để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Ki-tô Giáo. Đoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Đức Ma-ri-a, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong Chúa Nhật này muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.
Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gáp-ri-en và Đức Ma-ri-a, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xi-nai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Lu-ca dùng từ "bao trùm lên" không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Đức Ma-ri-a với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Đức Ma-ri-a, nơi Đức Giê-su cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Ma-ri-a thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Đức Ma-ri-a thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Đức Giê-su bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Đức Ma-ri-a tạo nên hình hài Đức Giê-su. Đức Giê-su mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Đức Ma-ri-a và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.
Bài đọc 1 trong sách 2 Sm 7, 1 - 16: Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đa-vít muốn xây cho Ngài; nhưng traí lại, Thiên Chúa hứa cho Đa-vít một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đa-vít. Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Ma-ri-a, Đấng trở nên Hòm Bia Thiên Chúa, nơi đây Con Thiên Chúa đến với loài người. Đó cũng là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phao-lô đề cập đến trong bài đọc 2, Thư Rm 16, 25 - 27.
Qua lời "Xin Vâng" của Đức Ma-ri-a, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Đau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Đức Giê-su đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phao-lô trong Thư Gl 4, 4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Đó là niềm tin vững chắc của người Ki-tô hữu hơn 20 thế kỷ qua.
Đức Giê-su đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Đức Giê-su, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết" ( Ga 15, 15 ).
Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Đức Giê-su không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.
Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Đức Giê-su mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Đức Giê-su. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Đức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người. Chính Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.
Xin Đấng Em-ma-nu-en giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.
Chủ đề: “Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta dưới hình thức mới nhất- nơi con người Đức Giêsu - làm cho tất cả mọi sự đều trở nên có thể thực hiện được”.
Thánh Inhaxiô Loyola chào đời tại Tây Ban Nha một năm trước khi Kha Luân Bố tìm ra Mỹ: MV4-B27
Thánh Inhaxiô Loyola chào đời tại Tây Ban Nha một năm trước khi Kha Luân Bố tìm ra Mỹ Châu. Ngài chưa đực 16 tuổi thì cha mẹ Ngài đã mất hết. Vì thế, cho tới khi trưởng thành, Inhaxiô vẫn sống vô kỷ luật và ngông cuồng bướng bỉnh. Một ngày kia, Inhxiô cải thiện đời sống và từ bỏ tội lỗi mình. Ngài thành tâm thống hối sâu xa và trở lại với Chúa. Ngài viết nhật ký kể lại những kinh nghiệm của mình. Về sau Ngài xuất bản cuốn nhật ký đó như một cẩm nang chỉ dẫn cho người khác con đường tìm gặp Đức Giêsu của họ. Nhật ký đó gọi là tập “Linh Thao”.
Một trong những bài “linh thao” ấy dạy về cách suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay. Cách đó gồm ba bước:
Bước đầu tiên là tưởng tượng xem thế giới thời trước Đức Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan hờ hững đối với Thiên Chúa. Sự xấu tràn lan như một ung thư khổng lồ. Thế giới rơi vào một tình thế vô vọng.
Bước thứ hai là tưởng tượng Thiên sứ Gabriel từ trời xuống báo tin cho Maria rằng nàng được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đức Giêsu. Chúng ta hãy tưởng tượng rằng chính chúng ta cùng với Thiên sứ từ trời bay xuống. Chúng ta nhìn xuống trái đất xa thật xa. Nó chỉ là một chấm sáng bé tí trong vũ trụ đầy sao. Khi chúng ta bay tới gần hơn, chúng ta thấy một đốm trên mặt địa cầu gọi là Đất Thánh. Khi tới gần hơn nữa, chúng ta thấy làng Nazarét. Cuối cùng, chúng ta gặp Maria trong căn nhà. Nàng đang im lặng qùi gối cầu nguyện.
Bước thứ ba là lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới hai câu: câu thứ nhất là lời của Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên cô: vì thế Đấng Thánh con của cô sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc.1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu xh.40,34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.
Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” vốn ít được dùng tới trong Kinh Thánh ấy không phải là ngẫu nhiên. Nó có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt hòm giao ước của Thiên Chúa. Ông so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với hòm giao ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria , thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.
Chúng ta nên nhớ rằng Thiên Chúa có thể hiện diện nơi chúng ta bằng nhiều cách khác nhau, y như người ta có thể hiện diện với nhau bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn một đứa con đang trọ học ở trường vẫn có thể hiện diện đối vối mẹ nó qua bức ảnh chụp của nó trên bàn của bà, hay một cách thân mật hơn qua lá thư nó viết mà bà cầm trong tay. Khi đứa con về nhà, nó sẽ hiện diện một cách thân mật và hiện thực nhất có thể đối với mẹ nó, một sự hiện diện bằng xương bằng thịt.
Cũng tương tự như vậy, Thiên Chúa hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau. Trước hết Ngài hiện hiện với chúng ta qua vạn vật mà Ngài sáng tạo. Nơi vạn vật Thiên Chúa có đặt một cái gì đó thuộc về bản thân Ngài cũng giống như nhạc sĩ đặt một cái gì đó thuộc về bản thân ông trong dòng nhạc của bài ca ông sáng tác. Kế đó, Thiên Chúa hiện diện đối với chúng ta qua lời của Thánh Kinh. Tư tưởng của Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong Thánh Kinh, y hệt như tư tưởng của người nhạc sĩ hiện diện với chúng ta trong bài ca của ông. Sau cùng, Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong Đức Giêsu. Thiên Chúa đã trở nên hiện diện với chúng ta bằng xương bằng thịt, y như nhạc sĩ có thể hiện diện có thể hiện diện đối với chúng ta bằng xương bằng thịt của ông. Điều này khiến chúng ta trở về với câu đầu tiên mà chúng ta phải đặc biệt lưu ý trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là lời của Thiên sứ nói với Đức Maria rằng quyền năng của Thiên Chúa sẽ bao trùm nên nàng. Khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, thì Thiên Chúa trở thành hiện diện đối với chúng ta bằng cách thức thân thiện nhất có thể tưởng tượng được. Ngài đã trở thành hiện diện đối với chúng ta qua sự hiện diện bằng xương bằng thịt của Đức Giêsu.
Điều này dẫn chúng ta trở về với câu thứ hai mà chúng ta phải lưu tâm tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Câu này được nói tiếp theo câu trước nói về quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Maria. Trong câu này, Thiên sứ nói: “xin báo cho cô biết rằng bà Isave, chị họ của cô, đã thụ thai một cậu con trai trong tuổi gìa. Ai cũng nghĩ bà sẽ không con, thế mà bây giờ bà đã có thai được sáu tháng, vì không có gì là không thể làm được đối với Thiên Chúa”. Trong câu này, mệnh đề quan trọng là “đối với Thiên Chúa thì không có gì không thể làm được”. Tin Mừng hôm nay làm nổi bật môt cách tuyệt diệu biết bao ý tưởng “không có gì là không thể làm được đối với Thiên Chúa”.
Trước khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Maria, thì thế giới đang sống trong tình trạng vô vọng. Tội lỗi và bạo lực lan tràn khắp nơi. Trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, không có ai hy vọng nàng sẽ sinh con cả, vì nàng là một trinh nữ. Trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Isave, bà không còn có thể hy vọng sinh con được nữa, vì bà đã gìa không còn khả năng sinh sản. Và cuối cùng, trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, nhân loại không có hy vọng được cứu rỗi, vì nhân loại đang sống trong vòng nô lệ Satan.
Quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria đã thay đổi tất cả.
Điều đó ý nghĩa gì đối với chính chúng ta hôm nay ? Điều đó có ý nghĩa là:
Thế giới chúng ta có thể đang hỗn độn. Gia đình chúng ta có thể đang xáo trộn. Cuộc sống chúng ta có thể đang hỗn loạn. Nhưng vẫn còn có hy vọng, vì quyền năng của Thiên Chúa đã nhập vào thế giới này qua con người Đức Giêsu.
Đó là những gì chúng ta đang chuẩn bị cử hành đón mừng trong những ngày cuối cùng trước Giáng Sinh. Đó là những gì đem lại cho chúng ta niềm vui ngoài sức tưởng tượng, niềm hy vọng không dám ước mơ.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện. Chúng ta hãy cầu nguyện bằng những lời mà Đức Maria đã dùng để cầu nguyện khi Ngài đến thăm chị họ Isave của Ngài. Xin anh chị em cùng cầu nguyện với tôi trong thinh lặng:
“Linh hồn tôi tán dương Thiên Chúa. Lòng trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa cứu chuộc tôi… Ngài đã giữ lời hứa với Tổ phụ chúng ta … Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abraham. Và với tất cả dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc.1, 46 -47. 54 -55)
Khi đi thuyết giảng trong các giáo xứ, tôi thường được dịp ngắm nhìn các ngôi thánh đường cực: MV4-B28
Khi đi thuyết giảng trong các giáo xứ, tôi thường được dịp ngắm nhìn các ngôi thánh đường cực kỳ đẹp đẽ. Một số được xây cất mới, mới đến độ tôi còn ngửi thấy mùi vôi, mùi sơn, mùi rèm cửa hoặc các hàng ghế bóng lộn vừa được chở về từ các xưởng mộc. Các giáo dân địa phương hãnh diện giải thích cho tôi các công trình họ vừa thực hiện và công dụng của chúng. Họ có cơ sở để tự hào. Họ còn kể cho tôi nghe về quá khứ của giáo xứ, về ngôi nhà thờ cũ mái dột, tường xiêu. Nhưng các cụ già hoài cổ thì lại nuối tiếc những buổi lễ Chúa Nhật được cử hành tại tư gia, sân vận động hay đi nhờ một nhà nguyện tin lành nào đó. Họ nói rằng quả thì có chật chội, bất tiện thật nhưng sốt sắng, nghiêm trang, và đầy cảm động. Dĩ nhiên, họ vui mừng vì nhà thờ mới nhưng hoài nghi về sự tiếp tục tồn tại tinh thần nhiệt thành mà các vị sáng lập giáo xứ đã có. Một vài vị còn thẳng thắn bộc lộ rằng họ đã làm mất tính thân mật cộng đồng mà giáo xứ cũ có lúc ban đầu.
Xin lưu ý đến những hoài niệm về thời dĩ vãng đó. Quá khứ bao giờ cũng vàng son. Hay ít ra chúng cho là như vậy. Sách Samuel II hôm nay có cùng quan điểm. Sách chỉ ra những nguy hiểm khi tôn giáo trở nên một định chế cố định cứng nhắc, những nhà thờ đồ sộ bằng gạch hay bằng bê tông cốt thép với những cửa sổ kính màu, giàn âm thanh điện tử, hoa lá, trang trí đắt tiền v.v.. Khi nhân dân Israel làm cuộc hành trình qua sa mạc, Thiên Chúa cùng đi với họ, ngự trong "lều hội họp" ở giữa họ. Ngài chẳng hề bị giới hạn vào một nơi chốn nào, lại càng chẳng thích bị nhốt trong các dinh thự do tay người phàm làm ra. Ngài luôn luôn linh động trong đức tin và trái tim con người. Dân Do thái đã hiểu điều đó, và trong thời gian dài họ đã có tương giao với Thượng đế ở tình trạng như vậy.
Nhưng lúc này hoàn cảnh đã khác. Họ đang được hưởng thái bình, thịnh vượng. Kẻ thù hoàn toàn bị đập tan. Vua David ngự trong một cung điện nguy nga, sang trọng. Ông đã lãnh đạo dân tộc Do thái từ tình thế tan tác, các bộ lạc liên kết lỏng lẻo, thành một quốc gia thống nhất, chính trị vững bền. Nhà vua muốn đem hòm bia "Giao ước" ra khỏi nơi ngự trị tạm thời tức lều hội ngộ đến một ngôi đền xứng đáng. Có lẽ ông còn muốn minh chứng cho thế giới chung quanh biết rằng quốc gia Do thái đã vững mạnh, dân tộc Israel thực sự đáng kính ne, bằng cách xây cho Thiên Chúa một ngôi đền vĩ đại và tân thời. Chương trình đó nghe hợp lý qúa đi chứ! Chẳng ai dám phản đối. Nghĩ ngược lại, hoá ra mình điên khùng, không thức thời. Nhưng Thiên Chúa đã nhắc nhớ nhà vua: Chính Ngài chịu trách nhiệm trên dân tộc Do thái và đất nước của họ chứ không phải David. Ngài đã kéo ông ra khỏi số phận thấp hèn: Một trẻ chăn chiên và tác tạo ông thành hoàng đế Israel. Thiên Chúa chứ không phải David là nguyên nhân làm nên sự thành công của đất nước Do thái. Chính Ngài đã ban cho nhân dân bình an, thịnh vượng và các sự bảo vệ khỏi quân thù. Và bởi lẽ trong quá khứ Ngài đã là nguyên nhân thành công của quốc gia dân tộc, thì chính Ngài chứ không phải vua David sẽ bảo đảm tương lai cho họ.
Nếu như mạc khải này là vĩnh viễn và phổ thông chứ không cá biệt cho David và dân tộc Do thái, thì chúng ta phải nhận ra mối tương quan của mình với Thượng đế cũng sống động, phát triển và linh hoạt. Nó thách thức chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa hoạt động trong cuộc sống mỗi người và ban cho chúng ta cơ hội để lớn lên trong đức tin. Đa phần tín hữu dù đã trưởng thành, vẫn thờ phượng Chúa trong não trạng con nít. Chúng ta nhận thức Thượng đế bằng những kiến thức học được thời thơ ấu: Một Thiên Chúa khổng lồ, đóng băng, dễ sợ, luôn luôn làm ngáo ộp hoặc những hình ảnh lãng mạn, lả lướt, ướt át : cầu nguyện nhỏ nhẹ, ca hát êm dịu, hy sinh chút ít, chứ không phản ánh đúng thực tế đời thường. David muốn xây dựng cho Thiên Chúa một nơi ở vững chắc, cố định. Ngài tuyên bố không được. Ngôi nhà của Ngài do chính Ngài thiết lập: "Hãy đi nói với David tôi tớ Ta là: ngươi mà xây nhà cho Ta ở ư ? Chính ta đã cất nhắc ngươi, từ một trẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Israel."
Do đó, nhà của Đức Chúa Trời là tâm hồn mỗi người. Ngài hoạt động trong chúng ta, di chuyển với chúng ta trong suốt cuộc đời, tới con cháu, chút chít tức các miêu duệ của loài người trong tương lai, giúp đỡ chúng ta chống đỡ các khó khăn, bảo vệ khỏi mọi gian nan, nguy hiểm. Tư tưởng của Thiên Chúa vượt xa trí tưởng của David, và của mọi người chúng ta. Salomon con của David đã tốn nhiều công sức xây cho Thiên Chúa một ngôi đền thờ lộng lẫy nguy nga theo ý muốn vua cha. Nhưng ngôi đền đó chẳng đứng vững được lâu. Nó đã bị phá huỷ và dân chúng bị phát vãng đi đày. Khi sang Babilon, xa quê hương, không còn đền thờ, họ không thể thờ phượng Ngài ở một nơi cố định nữa. Họ lại lang thang và Thượng đế lại đồng hành với họ. Đó là điều họ cần, và Ngài lại có mặt với họ trong các công việc khổ sai, mất tự do, nô lệ trong đất lạ. Một lần nữa, Thượng đế giải phóng và họ tìm lại được tự do. Tự do như thế để thờ phượng Thiên Chúa chứ không phải để làm theo dục vọng của mình. Làm theo thánh ý và chương trình của Ngài chứ không phải chúng ta. Người Do thái xưa đã lầm và chúng ta còn lầm tệ hại hơn trong cuộc đời mình.
Cứ như bản năng suy nghĩ thì ước muốn xây dựng đền đài kính Thiên Chúa là chuyện tự nhiên. Một cộng đồng nhất thiết phải có nơi thờ phượng. Chúng ta không phải là người Do thái cổ, lang thang qua sa mạc khô cằn với chiếc lều tạm sách tay, có thể tháo rời, di chuyển chỗ này, chỗ khác theo như cầu của cộng đồng. Nhưng bài đọc 1 hôm nay đặt trước những người đam mê xây dựng đền thờ một lời nhắc nhớ: Khi chúng ta xây dựng nơi thờ phượng tự dưng chúng ta xác định các chiều kích, các hạn chế cho nó. Chúng ta đặt hình tượng Thiên Chúa vào đấy. Có thể rằng hình tượng đó lại là hoạ ảnh của mình. Đen thì Chúa cũng đen, phái nam thì Chúa cũng phái nam. Da trắng thì Chúa cũng phải trắng da. Vô hình chung cộng đồng đã bóp méo sự thật, không còn khách quan, vô tư nữa. Và như thế, chúng ta đã tạo ra nhiều nguy hiểm cho đức tin của mình, đúng như những phe phái trong các giáo đoàn tiên khởi đã gặp phải. Một cộng đoàn giàu có cũng muốn sở hữu hình ảnh Thiên Chúa sang trọng trong nhà thờ của mình. Do đó chúng ta xây tường bao quanh, ngăn cản, loại trừ kẻ khác, chúng ta đặt những luật lệ, lối vào để chỉ thâu nhận những ai giàu có như mình, người khác có lọt vào thì cũng cảm thấy bất rất, lạc lõng. Đó là thực trạng của Giáo hội "xây dựng" ngày nay. Thiên Chúa đã nhắc nhớ David rằng chính Ngài đã triệt hạ các thù địch của ông. Còn vài ngày nữa là tới lễ Giáng Sinh những thù địch của chúng ta trong mùa này là ai? Thưa nhiều lắm: Satan, thế gian, xác thịt...chúng ta cũng xin Thiên Chúa triệt hạ những thứ đó để có thể đón Chúa Hài đồng sinh ra trong linh hồn mình.
Điều làm cho chúng ta lưu ý trong bài đọc Tin mừng hôm nay là lời Thiên Chúa tuyên bố về hậu duệ của vua David, Đức Giêsu Kitô, là triều đại Ngài sẽ "vô cùng vô tận". Phúc âm đã chứng thực đúng như vậy. Thượng đế luôn thực hiện những gì Ngài muốn làm: xây dựng một ngôi đền vĩnh viễn bằng xương thịt giữa nhân loại. Theo kiểu nói của thánh Gioan thì : "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và đã cắm lều giữa chúng ta." (Ga 1, 14). Ngôi đền thờ đích thực và vinh hiển này sẽ tồn tại mãi mãi, linh động và là địa chỉ chắc chắn để nhân loại gặp gỡ Thiên Chúa. Khi Ngài đã quyết định ngự giữa chúng ta, như hậu duệ của vua David thì Ngài đã sai thiên thần Gabriel đến hội ý với một thiếu nữ thành Nazareth tên là Maria, để nhờ cô giúp đỡ thực hiện chương trình ấy, tức tiết lập triều đại David đến muôn đời muôn thuở. Maria hỏi lại: "Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam." Thiên thần trả lời: "Chúa Thánh linh sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Đấng Tối cao sẽ toả bóng trên cô." Ở đây, chúng ta lại gặp ngôn ngữ của Xuất hành. Ngôn ngữ giải phóng. Đám mây của Đức Chúa Trời che phủ và hướng dẫn dân tộc Israel trong hoang địa và đậu lại trên mái lều "hội ngộ" (Xh 40, 35). Hình bóng ngày xưa nay đã được thực hiện. Cũng chính Thiên Chúa này mà hôm nay chúng ta thờ phượng trong thánh lễ. Ngài đồng hành với chúng ta và ngự trên cộng đoàn khi chúng ta cầu nguyện, rồi dẫn đưa chúng ta trong suốt cả tuần lễ vượt qua sa mạc của cuộc đời khó khăn. Đã rất gần ngày lễ Giáng Sinh. Lịch thời gian không mang nhiều ý nghĩa. Chúng ta đã được nghe đọc về biến cố trọng đại trong các bài đọc hôm nay: Lời Thiên Chúa hứa ngàn năm thuở xưa, đã trở thành hiện thực. Nhưng làm thế nào và ở đâu chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa? Ở những nơi thi hành quyền lực, ảnh hưởng tới vận mệnh thế giới, vận mệnh quốc gia chăng? Thưa không! Ơ những nơi giàu sang phú quý chăng? Thưa không! Ở những đền đài tôn giáo sang trọng? Thưa không. Câu trả lời là ở dòng giống David, những linh hồn đã từng biết đến quyền năng Thượng đế trên cuộc đời mình. Đúng như Thiên Chúa đã chỉ thị cho vua David nhìn lại quá khứ để nhận ra bàn tay Ngài dẫn dắt ông, chúng ta cũng phải nhìn lại bàn tay đã kiên cường những yếu đuối của mình, đã dẫn đưa chúng ta qua khó khăn của cuộc đời, đã ủi an khi chúng ta khóc, đã nâng dậy khi chúng ta ngã, đã vỗ về khi chúng ta nhát đảm mà nhận ra sự hiện diện của Ngài.
Như thế, nhân danh ai mà chúng ta họp nhau nơi đây để thờ phượng Thiên Chúa trong thánh lễ này? Chỉ có thể là dòng giống David trong Đức Kitô. Đấy là Thiên Chúa đã phán với David: "Ngươi đi đâu ta cũng ở với ngươi". Chúng ta là đền thờ mà David đã muốn xây cất. Cuộc sống của mỗi người là tác phẩm nghệ thuật duy nhất làm đẹp đẽ tường thành Thiên Chúa, trang hoàng ngôi nhà vĩnh cửu của Ngài. Cùng nhau chúng ta lập thành nơi Thiên Chúa cư ngụ, tức túp lều "hội ngộ" mà bất cứ tâm hồn nào cũng có cơ hội tìm thấy sự hiện diện của Đấng Tối Cao. Amen.
Tâm tình của người Ki-tô hữu trong những ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh phải là tâm tình: MV4-B29
Tâm tình của người Ki-tô hữu trong những ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh phải là tâm tình mừng vui, như thánh Phao-lô khuyên nhủ trong thư gửi tín hữu Phi-líp : “Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại : vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã sắp đến rồi. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giải bầy trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giê-su Ki-tô.” (Pl 4,1-7)
Ai chẳng muốn vui như thế. Nhưng xem ra khó, vì niềm vui bình thường phát xuất từ con người và sự vật bên ngoài, như vui vì được gặp lại người thân, được người ta hiểu biết thông cảm, được thành công may mắn, không phải lo ăn lo mặc, có công việc làm bảo đảm chắc chắn, có một địa vị nào đó trong xã hội v.v... Thành ra niềm vui phải dựa vào ngoại cảnh. Ngoại cảnh có thuận lợi thì lòng người mới dễ vui. Nếu vui chỉ hiểu theo nghĩa này thôi thì phạm vi khá nhỏ hẹp và cũng chẳng mấy khi chúng ta hoàn toàn được vui, vì có bao giờ chúng ta hội đủ được những điều kiện bên ngoài để vui đâu; mà dù cho có đi nữa thì niềm vui cũng không kéo dài được. Bởi vậy người ta mới phải mua vui, tìm vui. Nhưng rồi những niềm vui này cũng lại mau qua khiến người ta phải tìm những niềm vui khác. Và cứ thế, cái vui này tiếp nối cái vui kia cho đến khi chẳng cái vui nào thỏa mãn hoàn toàn được lòng người.
Nhưng tâm tình mừng vui của người tín hữu trong những ngày này vượt ra ngoài phạm vi của những niềm vui thông thường. Đó là niềm vui trong Chúa. Niềm vui trong Chúa phải chăng là quá lý tưởng không thực tế? Nghe nói thì cũng biết vậy thôi, chứ lý thú gì cho bằng những niềm vui thông thường ở đời! Quả thật, thoạt mới nghe vui trong Chúa có vẻ lý thuyết lắm, nhưng nghĩ kỹ mới thấy thấm thía và chỉ có niềm vui này mới thỏa mãn được khát vọng sâu xa của lòng người.
Vui trong Chúa là thế nào ?
Vui trong Chúa là đặt niềm vui nơi Chúa, lấy Chúa làm niềm vui cho mình hay được Chúa đổ đầy Thánh Thần của Người trong chúng ta. Vui trong Chúa, bởi vì chính Chúa là nguồn hoan lạc của ta. Niềm vui này căn cứ trên ơn được Chúa ở cùng. Chúa ở trong linh hồn ta, khi ta sạch tội. Người ban cho ta được bình an trong tâm hồn, được thanh thoát nhẹ nhàng, được nếm tất cả sự ngọt ngào khi kết hợp với Người, qua những lần tiếp xúc với Người trong kinh nguyện ở nhà thờ hay ở những nơi thanh vắng yên lặng, lúc chúng ta cầu nguyện riêng một mình. Chúng ta còn vui khi được Chúa ban cho sức mạnh để đẩy lui các cơn cám dỗ, hoặc chịu đựng và thắng vượt các nghịch cảnh.
Hiệu quả của niềm vui này là chúng ta ăn ở hiền hòa, rộng rãi, tin tưởng phó thác mọi nỗi lo âu của chúng ta trong tay Chúa và thành thật giải bày với Người những điều chúng ta ước ao thỉnh nguyện.
Làm thế nào để có được niềm vui này ?
Đây là niềm vui Chúa ban vào thời Đấng Mê-si-a ngự đến, nghĩa là thời Cứu thế, đặc biệt hằng năm vào dịp chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, Người ban cho ai nấy được chan chứa niềm vui, vì được Người đến viếng thăm và ban ơn cứu độ.
Điều kiện để được hưởng niềm vui này, trước hết là chúng ta phải có một tâm hồn đơn sơ nghèo khó, nghĩa là tùy thuộc và trông đợi ở Chúa. Sự nghèo khó ở đây hiểu về một trạng thái tinh thần hơn là một cảnh nghèo thực sự, vì ai cũng có thể tạo cho mình một tâm hồn đơn sơ nghèo khó qui hướng và tùy thuộc vào Chúa như những người con tùy thuộc cha mẹ.
Ngoài ra là khiêm nhường. Người nghèo bên trong cũng như bên ngoài thì dễ khiêm nhường, không tự phụ vì biết mình chẳng có gì đáng tự phụ. Mà Chúa lại đặc biệt ưa thích và ban ơn cho hạng người nghèo vì họ được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm (xem Lc 2,24), chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3).
Cuối cùng là cầu nguyện. Nhưng không phải là cầu nguyện để xin những ơn vật chất mà thôi, nhưng cầu nguyện để kết hợp với Chúa, để tìm ra ý của Người và nhất là để khám phá ra tất cả ý nghĩa của cuộc đời người Ki-tô hữu.
2. LẮNG NGHE TỈNH THỨC
Tỉnh thức và lắng nghe là hai thái độ cần thiết của những người sống trong tình trạng chờ đợi và canh chừng. Hiện nay, trong những ngày gần kề chuẩn bị lễ Giáng sinh, chúng ta là những người đang đợi chờ và canh chừng Chúa đến.
Lý do khiến chúng ta phải tỉnh thức, canh chừng, ngoài ý nghĩa tôn giáo sâu xa, là một lý do thuộc phạm vi giao tế do phép lịch sự xui khiến.
Quả vậy, theo phép lịch sự thông thường, khi đã hẹn đón ai thì lúc người ấy đến, ta phải tỏ ra sẳn sàng đón tiếp người ấy. Ta càng quý người mình đón tiếp bao nhiêu thì lại càng tỏ ra mình bằng lòng mất thời giờ vì người ấy, và nếu có bị xáo trộn một chút trong nếp sống hàng ngày thì cũng lấy làm vui.
Đối với Chúa Cứu thế cũng vậy. Sắp đến ngày trọng đại kỷ niệm lễ Giáng sinh của Người rồi; lẽ đương nhiên là chúng ta phải tỉnh thức chờ Người đến. Chúng ta đã biết ngày và giờ Người đến, nhưng ngày và giờ ấy mới chỉ có tính cách kỷ niệm, và nếu chỉ mừng ngày Chúa Giáng sinh như mừng một ngày kỷ niệm thì mọi sự cũng sẽ mau qua lắm. Cho nên hàng năm, chúng ta mừng lễ Giáng sinh như một kỷ niệm đã đành, vì đó là một ngày rất đáng kỷ niệm, một biến cố phân chia lịch sử loài người ra làm hai giai đoạn, mà hơn nữa còn phải mừng ngày ấy như một dịp nhắc nhở và hướng lòng chúng ta về thời viễn lai như chúng ta vẫn thường xưng tụng mỗi ngày trong Thánh lễ: “Lạy Chúa Ki-tô phục sinh, mỗi lần ăn bánh và uống chén này chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và đợi chờ ngày Chúa quang lâm”.
Bây giờ chúng ta chuẩn bị mừng ngày Giáng sinh nhưng chính ra là đợi chờ ngày Chúa quang lâm, nghĩa là ngày Chúa đến lần thứ hai, khi lịch sử loài người kết thúc. Lần thứ nhất, Chúa đến trong hang đá máng cỏ, trong cuộc đời hàng ngày của chúng ta và lần thứ hai Người đến với đầy vẻ oai phong rực rỡ để phán xét người sống cũng như kẻ chết, rồi đưa chúng ta vào vương quốc của Người.
Ban đầu Giáo hội không mừng lễ Giáng sinh mà chỉ mừng lễ Phục sinh. Mãi đến năm 353, ĐGH Li-bê-ri-ô mới ấn định ngày 25 tháng 12 làm ngày mừng Chúa giáng sinh, để thay cho ngày đông chí của người Rô-ma mừng Thần Mặt trời cũng vào những ngày đó. Còn hình thức mừng lễ Giáng sinh như ngày nay với cây thông đèn sao hang đá, máng cỏ mới có từ thế kỷ XIII (1223) vào thời thánh Phan-xi-cô khó khăn, hai năm trước khi thánh nhân qua đời. Sau đó, thánh Clara mới đem phổ biến trong Dòng Anh em hèn mọn, rồi cuối cùng lan rộng khắp thế giới.
Phải tỉnh thức thế nào ?
Phải tỉnh thức như những người hoạt động chứ không phải như những kẻ ngồi chờ mà không làm gì cả. Trước hết là tỉnh thức để chỉnh đốn lại linh hồn. Thứ hai là tỉnh thức để nghĩ và hướng về ngày Chúa đến rực rỡ trong vinh quang, bằng những việc làm biểu lộ đức tin của mình. Thứ ba là tỉnh thức để tránh rơi vào cạm bẫy của những hành vi đam mê, dục vọng bất chính.
Có như thế thì việc chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh hằng năm mới có ý nghĩa sâu xa và nhắm tới ngày Chúa lại đến là ngày quyết định cho cuộc đời Ki-tô hữu chúng ta.
3. LẮNG NGHE
Trong những ngày này, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta và quả thực Người đã nói nhiều qua những bài sách Thánh chúng ta đã nghe từ đầu Mùa Vọng cho đến bây giờ và đặc biệt từ đầu tuần cho đến nay. Những lời đó là những lời loan báo Chúa Cứu thế đã gần đến và chúng ta phải sửa soạn ra nghênh đón Người.
Thiên Chúa đã nói.
Người đã nói bằng nhiều kiểu nhiều cách với các bậc tổ tiên chúng ta như Áp-ra-ham, Gia-cóp, I-xa-ác và các ngôn sứ như Ê-li, Ê-li-sêu, I-sa-i-a và đến thời cuối cùng này qua chính con Một của Người là Đức Giê-su Ki-tô. Đức Giê-su Ki-tô là chính lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói một cách đặc biệt qua chính Con Người, và cuộc đời của Đức Giê-su Ki-tô mà chúng ta đang chuẩn bị mừng kỷ niệm Giáng sinh.
Ngày nay Thiên Chúa vẫn còn nói :
Trong sách Thánh chúng ta đọc hay nghe hằng ngày, hoặc qua các biến cố xảy đến cho quê hương xứ sở, cho cá nhân, gia đình cũng như cho xã hội. Có thể coi đó là những thời điểm Thiên Chúa muốn dùng để nói với ta một cái gì. Bổn phận của chúng ta là phải tỉnh mắt, thính tai để nhìn thấy sự việc Thiên Chúa muốn chỉ bảo và lắng nghe điều Người muốn nói.
Thiên Chúa nói đặc biệt trong những Mùa Phụng vụ và những dịp lễ lớn.
Trong những Mùa và Lễ này có nhiều cái bên ngoài dễ đánh động chúng ta hơn, như những bài sách Thánh đặc biệt nói riêng về mầu nhiệm chúng ta sắp cử hành, những ngày tĩnh tâm dọn mừng lễ và chính những sự chuẩn bị ở bên ngoài để mừng lễ nữa. Tất cả những thứ đó đều có thể được coi như những cơ hội Thiên Chúa dùng để nói với chúng ta.
Vậy, thái độ chúng ta phải như thế nào?
Trước hết, phải như ngôn sứ Sa-mu-en, nghĩa là xin Chúa nói, vì chúng ta đang sẵn sàng đón nghe. Nghe rồi nhưng không bỏ ngoài tai, mà trái lại cố gắng noi gương Đức Mẹ giữ kỹ và suy đi nghĩ lại, để làm mẫu mực sống cho mình.
Ngoài ra là phải để cho lòng mình lắng xuống trong sự im lặng suy nghĩ, tạm bỏ qua một bên những bận tâm lo lắng của đời sống hàng ngày, vào những thời khắc thuận tiện mình dành cho Chúa, mỗi khi đọc kinh cầu nguyện hay đi lễ đi nhà thờ. Những thời khắc yên lặng đó dù chóng vánh cũng rất cần thiết, để cho Lời Chúa thấm vào lòng ta. Sau khi giảng, hay rước lễ, nếu có ngưng một vài phút cũng là vì vậy.
Bởi thế, lắng nghe là thái độ cần thiết và hợp lý để ý nghĩa của Mầu nhiệm Giáng sinh tràn ngập tâm hồn ta, hầu đem lại cho ta niềm vui và bình an thật sự như lời thần sứ loan báo : “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
“Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng… Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến: muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2 Sm 7,9, 16).
Khoảng 700 năm trước Thiên Chúa giáng trần, sau khi Đavit được xức dầu làm vua các chi: MV4-B30
Khoảng 700 năm trước Thiên Chúa giáng trần, sau khi Đavit được xức dầu làm vua các chi họ Do Thái và Giuđa, thì việc đầu tiên ông nhắm tới là phải đánh chiếm thành Giêrusalem từ tay người Giơ-vút để thiết lập một thành trì chính trị chung cho cả nước. Để bảo đảm được lòng trung tín của mọi chi họ, Vua Đavít cũng quyết định sẽ biến Giêrusalem thành một trung tâm tôn giáo chính. Với quyết định như vậy, Vua Đavít đã đưa Hòm Bia Thiên Chúa vào trong thành để tiến hành công việc xây dựng một đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự. Đây là một việc làm rất đáng ca ngợi, nhưng Thiên Chúa cho Đavít biết, Ngài sẽ thực hiện một công việc vĩ đại hơn, đó là làm cho dòng dõi của ông thành một triều đại vững mạnh và miêu duệ của ông sẽ trị vì ngôi báu đến muôn đời. Chúng ta thấy lời hứa này đã được Thiên Chúa hứa với Abraham, Isaac và Giacób là các tổ phụ của Đavít, và Ngài đã thực hiện lời hứa đó qua biến cố nhập thể của Đức Giêsu như lời Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria: “Này bà sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacób và triều đại Người sẽ vô tận” (Lc 1,31-33).
Qua câu chuyện Thánh Kinh này, chúng ta thấy đường lối của Thiên Chúa không như những gì con người suy nghĩ. Trong sự hiểu biết giới hạn, nhiều lúc chúng ta thấy những dự tính của mình rất là tốt lành và cao cả, nhưng đối với Thiên Chúa, với quyền năng thấu suốt mọi sự, Ngài không cho đó là một việc đáng làm. Bằng chứng cho thấy là việc Vua Đavít xây dựng đền thờ là một việc làm thánh thiện để bày tỏ lòng biết ơn và kính yêu của ông đến Thiên Chúa, ngay cả tiên tri Nathan cũng cho đó là hợp tình hợp lý, nhưng Thiên Chúa lại muốn thực hiện một chương trình vĩ đại hơn, đó là thiết lập một triều đại vững bền để cho Ngôi Lời nhập thể và trị vì ngôi báu đến muôn đời.
Vương quốc mà Thiên Chúa đã thiết lập không thuộc về thế gian này, nhưng bao gồm tất cả những ai tin vào Đức Giêsu Con Một của Ngài. Khi áp dụng chi tiết này vào trong đời sống đức tin, chúng ta thấy, rất thường xuyên có những dự tính chúng ta cho rằng tốt lành và cao cả đã không thành công như lòng mình mong muốn, mà đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận đó là thánh ý của Thiên Chúa. Chẳng hạn như có nhiều những bậc cha mẹ mong muốn cho con mình lớn lên trở thành những linh mục, nữ tu, hay những bậc vị vọng trong xã hội. Rồi từ những ước vọng đó, họ đã làm tất cả để được thành công. Nhưng đâu phải có ước vọng rồi đem ra thực hiện là thành công. Chúng ta cần phải để cho Thiên Chúa quan phòng cho chúng ta theo như ý định của Ngài. Đó chính là lý do tại sao, có nhiều lần chúng ta thấy lời cầu xin của mình rất là chính đáng mà không thấy Thiên Chúa ban cho. Không phải Ngài không nhận lời chúng ta, nhưng vì thấu hiểu mọi sự nên Ngài ban hay không ban đều nhằm mục đích mang lại lợi ích thiêng liêng cho chúng ta và cho chung tất cả mọi người. Nhận thức rằng sự hiểu biết của mình có giới hạn và với niềm tin nơi Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương, chúng ta hãy sẵn sàng đón nhận mọi ý định của Thiên Chúa và chu toàn ơn gọi Ngài đã thương ban để danh Ngài cả sáng và triều đại Ngài vững bền muôn thuở.
Chỉ còn đúng một tuần nữa là Lễ Chúa Giáng Sinh. Bầu khí Noel rộn rịp khắp thành thị lẫn: MV4-B31
Chỉ còn đúng một tuần nữa là Lễ Chúa Giáng Sinh. Bầu khí Noel rộn rịp khắp thành thị lẫn nông thôn. Cả ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay đều tập trung vào việc Thiên Chúa thực hiện kế hoạch cứu độ nhân loại vì yêu thương. Chúng ta hãy mở lòng mở trí đón nhận kế hoạch ấy với lòng biết ơn sâu sắc và hãy tích cực cộng tác với Thiên Chúa để mọi người - trong đó có chúng ta - được hưởng yêu thương, bình an và hạnh phúc thật.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH 2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: 2 Sm 7,1-5.8b-12.14a.16: Lời sấm của ông Nathan.
(1) Khi vua được yên cửa yên nhà và Đức Chúa đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, (2) vua nói với ngôn sứ Nathan: "ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải." (3) Ông Nathan thưa với vua: "Tất cả những gì ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì Đức Chúa ở với Ngài." (4) Nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Nathan rằng: (5) "Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đavít: Đức Chúa phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao? (8a) Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Israel. (9) Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. (10) Ta sẽ cho dân Ta là Israel một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, (11) kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Israel. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, Đức Chúa báo cho ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà. (12) Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi - một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. (14a) Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. (16) Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ vững bền mãi mãi."
(2) Bài đọc 2: Rm 16, 25-27: Vinh tụng ca.
(25) Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa. (26) nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết. (27) Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giêsu Kitô. Amen.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 1,26-38: Truyền tin cho Đức Maria.
(26) Bà Êlisabet có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, (27) gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. (28) Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." (29) Nghe lời ấy Bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có ý nghĩa gì? (30) Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. (31) Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. (32) Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. (33) Người sẽ trị vị nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." (34) Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xẩy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" (35) Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. (36) Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. (37) Vì đối với ThiênChúa, không có gì là không thể làm được."(38) Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
2.2 Qua ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào? Qua ba bài Thánh Kinh trên chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng, vì yêu thương nhân loại, đã có kế hoạch cứu độ nhân loại và thực hiện kế hoạch ấy một cách hoàn hảo qua từng giai đoạn lịch sử.
Ngay sau khi Ađam Eva phạm tội, Thiên Chúa đã hé mở cho Tổ Tông loài người một tia hy vọng trong lời Người nói với con rắn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (St 3,16).
Đến thời Vua Đavít là vị vua đã xây dựng đền thờ Giêrusalem và vương quốc Israel hùng mạnh, Thiên Chúa nhắc lại sự chăm lo và lời hứa của Người: “Đức Chúa báo cho ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi - một người do chính ngươi sinh ra -, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Đối vớinó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ vững bền mãi mãi." (2 Sm 7, 11-16).
Và sau cùng, khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa đã sai sứ thần đến truyền tin và đề nghị với Đức Maria, một thôn nữ Nagiarét đón nhận và cộng tác vào kế hoạch cứu độ ấy: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vị nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." (Lc 1,31-33). Và Đức Maria đã ưng thuận thánh ý của Thiên Chúa: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." (Lc 1,38).
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta? Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm 2 phần: (*) đón nhận kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa với tâm tình biết ơn sâu sắc và (**) tích cực cộng tác vào việc thực hiện kế hoạch ấy trong điều kiện và hoàn cảnh sống riêng của chúng ta ngày hôm nay. Mẹ Maria là gương mẫu cho chúng ta trong việc đón nhận và cộng tác vào việc thực hiện kế hoạch diệu kỳ của Thiên Chúa.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
3.1 Tại sao Thiên Chúa muốn chúng ta đón nhận và cộng tác vào việc thực hiện kế hoạch cứu độ chúng sinh của Người? Có ba lý do:
(1) Lợi ích của chính bản thân chúng ta: Thánh Augustinô đã nói: “Thiên Chúa không cần đến chúng ta khi dựng nên chúng ta; nhưng Thiên Chúa cần đến chúng ta khi cứu độ chúng ta”. Nói cách đơn giản là nếu chúng ta không muốn được Thiên Chúa cứu độ thì Người cũng đành chịu vì Thiên Chúa không thể ép buộc chúng ta nhận điều chúng ta không muốn. Muốn được cứu độ, chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa.
(2) Lợi ích của tha nhân: Thiên Chúa có thể cứu vớt con người mà không cần sự hợp tác của con người nhưng Thiên Chúa đã không làm như thế. Người luôn muốn nhờ con người để cứu vớt con người.
(3) Vinh danh Thiên Chúa: Thiên Chúa là Tình Yêu nên không gì làm Chúa hài lòng cho bằng việc Tình Yêu của Thiên Chúa được bộc lộ và đón nhận một cách trân trọng và biết ơn.
3. 2 Chúng ta cộng tác với kế hoạch cứu độ chúng sinh của Thiên Chúa bằng cách nào?
Bằng ba cách:
(1) Cầu nguyện, hy sinh cho nhiều người được nghe giảng, đón nhận và sống theo Tin Mừng như chúng ta,
(2) Đóng góp trí tuệ, của cải, phương tiện vào Công Cuộc Truyền Giáo của Giáo hội,
(3) Sống Sứ Mạng “Tiền Hô” và “Chứng Nhân” của Chúa Giêsu Kitô – như Gioan Tẩy Giả - trong môi trường sống của mình (1).
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã mặc khải và thực hiện kế hoạch cứu độ chúng sinh của Cha trong lịch sử loài người khi ban Con Một Yêu dấu của Cha là Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã được ban cho con người để mọi người được sống dồi dào, xin Chúa hãy đến trong tâm hồn và cuộc sống của chúng con cũng như của mọi người, nhất là của những người nghèo và những người kém may mắn, để kế hoạch yêu thương cứu độ của Thiên Chúa Cha được thực hiện một cách trọn vẹn.
Lạy Chúa Thánh Thần là sức mạnh thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, xin Chúa giúp chúng con trở thành những “Tiền Hô” và “Chứng Nhân” đích thực và sống động của Chúa Giêsu Kitô trong môi trường gia đình và xã hội. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Sàigòn ngày 04.12.2005.
Chú thích:
(1) Trong bài giảng tối hôm nay tại Trung Tâm Văn Hóa Công giáo Sàigòn, Đức Hồng Y Crescenzio Sepe, Tổng Trưởng Bộ Phúc Âm hóa các dân tộc đã nói đến Sứ Mạng làm “Tiền Hô” và “Chứng Nhân” cho Chúa Kitô của mọi Kitô hữu như sau:
(a) Làm Tiền Hô: “Chúng ta có bổn phận chỉ cho người khác biết Chúa Giêsu, chuẩn bị người khác để họ đi theo Chúa. Đó là cốt yếu của việc tông đồ mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống đời thường: biểu lộ Chúa Giêsu cho bạn bè, cho người láng giềng. Điều quan trọng là Chúa Giêsu được nhận ra và đón rước là "Đường, Sự Thật và Sự Sống". Đức Rất Thánh Trinh Nữ Maria, Nữ Tỳ của Thiên Chúa, chỉ cho chúng ta Con của Mẹ: "Người bảo gì các anh cứ việc làm theo" (Ga 2,5), có nghĩa là anh chị em hãy đón rước Chúa Giêsu, hãy vâng lời Chúa Giêsu, hãy tuân giữ các giới răn của Người, hãy tin tưởng nơi Người. Người là phương án duy nhất của một cuộc sống thật sự thành công và hạnh phúc. Người cũng là nguồn mạch duy nhất về ý nghĩa cuộc đời của chúng ta (x. Đức Gioan Phaolô II, Đại hội Giới Trẻ thế giới lần III, Cử hành giáo phận, ngày 27.3.1988)”.
(b) Làm Chứng Nhân: “Là chứng nhân của Chúa Kitô trước hết đòi chúng ta phải có một tác phong tương xứng với giáo lý của Người, tiếp đến đòi chúng ta phải chiến đấu để cách ăn nết ở của chúng ta làm cho người ta nhớ đến Chúa Giêsu và gợi lên hình ảnh rất dễ thương của Người. Cách sống của chúng ta phải làm sao để những người khác có thể nói: người đó đúng là một Kitô hữu, bởi vì ông/anh ta, bà/chị ta không ghen ghét, biết cảm thông, không bị lôi kéo bởi lòng nhiệt thành quá khích, làm chủ các bản năng của mình; vì ông/anh ta, bà/chị ta hy sinh chính bản thân và thể hiện lòng yêu chuộng hòa bình và yêu thương người khác" (J. Escriva, E' Gesù che passa, 122)”.
Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B, Giáo Hội mời gọi chúng ta nghe Thánh Lu-ca thuật lại câu: MV4-B32
Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B, Giáo Hội mời gọi chúng ta nghe Thánh Lu-ca thuật lại câu chuyện sứ thần Gáp-ri-en được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho trinh nữ Ma-ri-a. Biến cố này giúp chúng ta nhận biết tình thương của Thiên Chúa và sự trung tín của Người trong việc thực hiện lời hứa cứu độ nhân loại. Thiên Chúa đã đi bước trước bằng việc ban ơn và mong muốn loài người cộng tác đón nhận. Ngoài ra, câu chuyện truyền tin còn giúp chúng ta biết được thái độ của Đức Ma-ri-a: Lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn “Xin Vâng”. Đây chính là thái độ tích cực cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa mà Giáo Hội muốn những người tin vào Đức Ki-tô thực hiện để đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh sắp đến.
Kính mời cộng đoàn suy niệm qua ba ý tưởng sau đây vốn được đề cập đến trong biến cố truyền tin:
Ý tưởng thứ nhất: TÌNH YÊU THIÊN CHÚA
Tin Mừng Thánh Gio-an, chương 3, câu 16 & 17 có ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô. Qua đó, Chúa Giê-su đã quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” ( Ga 3, 16.17 ).
Qua những lời mặc khải trên đây, chúng ta thấy tình yêu Thiên Chúa chính là đầu nguồn của biến cố truyền tin. Đó là một chân lý tuyệt đối nền tảng. Tất cả đều khởi đi từ chân lý đó.
Việc Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người, được sai đi, nhập thể và bước vào hành trình dài từ cung lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đến Bê-lem, Ai Cập, Na-da-rét, rồi đến đồi Can-va-ri-ô và lên Trời đều hoàn toàn phát xuất từ tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Chúa Giê-su quả quyết: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” ( Ga 3, 16.17 ). Tình yêu thương xót của Thiên Chúa thực sự là món quà được ban tặng cách nhưng không, không do bởi một sự ép buộc nào từ bên ngoài, nhưng do Thiên Chúa muốn chia sẻ sự sống của Người cho nhân loại. Thiên Chúa ban tặng sự sống đó cho nhân loại qua Người Con Chí Ai của Người. Người ban tặng mà không đòi điều kiện gắt gao nào, chỉ mong loài người đón nhận, đón nhận một cách tự do, tự nguyện. Sự đón nhận tự do, tự nguyện này được gọi là Tin.
Ý tưởng thứ hai: Tin vào tình yêu Thiên Chúa một cách rất khiêm nhường
Lời sau cùng Đức Ma-ri-a thưa ngày truyền tin thật ngắn gọn, đơn sơ nhưng hàm chứa một niềm tin sâu rộng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” ( Lc 1, 38 ).
Đó là niềm tin đón nhận. Đón nhận tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại và cho bản thân Mẹ. Đón nhận chính Thiên Chúa Tình Yêu. Đón nhận một sự sống là tình yêu, là ánh sáng. Đón nhận một thực tại siêu việt vượt hẳn con người bụi đất của mình. Đón nhận một sự tái sinh đổi mới con người, vừa êm dịu, vừa mạnh mẽ và quyết liệt. Nhất là đón nhận hoàn toàn thánh ý Chúa ngay chính lúc truyền tin, cả sau này và mãi mãi cho dù Đức Ma-ri-a chưa hiểu hết những gì Thiên Chúa đã và sẽ làm nơi Mẹ. Tất cả mọi đón nhận này đều rất khiêm nhường, đưa Đức Ma-ri-a xuống thật sâu tinh thần thờ phượng trước Thiên Chúa vô cùng thánh thiện. Sau này, Mẹ Ma-ri-a đã nói lên niềm xúc cảm đó như sau: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”. ( Lc 1, 49 – 50 ).
Ý tưởng thứ ba: Vâng theo tác động của Chúa Thánh Thần
Trong ngày truyền tin, sứ thần nói với Đức Ma-ri-a: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” ( Lc 1, 35 ). Với Thánh Thần, Đức Ma-ri-a sẽ được chia sẻ sự sống Thiên Chúa. Thánh Thần ví như hơi thở của sự sống Thiên Chúa. Hít vào, thở ra hơi thở từ Chúa ban, Mẹ sẽ dần dần được đổi mới, đổi mới một cách thường xuyên và nhẹ nhàng. Chúa Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.” ( Ga 3, 8 ). Sự đổi mới của Thánh Thần đến từ đâu, đến với ai, đến cách nào và đến lúc nào là tùy ở sự tự do của Thánh Thần. Điều quan trọng không phải là chúng ta muốn Thánh Thần đến theo ý của chúng ta, mà chúng ta phải tỉnh thức và đón nhận tất cả những gì Thánh Thần làm, mặc dù không ít những trường hợp gây nên những bất ngờ hoàn toàn khác với những gì chúng ta suy nghĩ, đợi mong.
Tóm lại, chúng ta có lý do để hân hoan, phấn khởi chuẩn bị tâm hồn mừng Đại Lễ Giáng Sinh sắp đến, vì:
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một thế giới tuyệt vọng trong vòng xiềng xích của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát. Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một cung lòng trinh nữ không sinh con theo lẽ tự nhiên, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế. Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Xa-tan – Thần chết, đã được tự do làm con cái Chúa.
Thế giới chúng ta đang sống quả thật có nhiều bất ổn do chiến tranh, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh, tệ nạn xã hội. Gia đình chúng ta đang sống quả thực có nhiều xáo trộn, bất an do bởi ảnh hưởng của thời đại mà khuynh hướng ly hôn, ly dị, sống thử, phá thai, đồng tính luyến ái và biết bao điều xấu xa khác ngày càng phổ biến. Và chúng ta đang sống một cuộc sống thời hiện đại có thể cũng lắm điều hổn loạn do bởi nhiều lý do khác nhau mà người trong cuộc mới thực sự hiểu rõ.
Nhưng vẫn còn đó niềm hy vọng, vì quyền năng của Thiên Chúa đã nhập vào thế giới này qua Đức Giê-su Ki-tô. Chúng ta tin vào Người, đặt niềm hy vọng nơi Người, đặt Người làm chủ, luôn ở vào vị trí trung tâm cuộc đời chúng ta, đặt Người vào vị trí quan trọng trong gia đình chúng ta. Rồi chúng ta sẽ thấy được những điều kỳ diệu do tay Chúa làm.
Mùa Vọng là mùa mong chờ Chúa đến. Để được đón rước Chúa vào tâm hồn, để được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa, chúng ta cùng nhau noi gương Đức Ma-ri-a, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vận mệnh của chúng ta trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định nhiệm mầu của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành máu thịt của chúng ta, chúng ta mới được Chúa thương ban ân sủng dồi dào vào trong tâm hồn mình.
Lạy Chúa Giê-su, ngày xưa Chúa đã sai sứ thần của Ngài đến truyền tin cho Mẹ Ma-ri-a để ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Ngày nay, những biến cố đang xẩy ra trên thế giới, trên đất nước chúng con như chiến tranh, sóng thần, động đất, những căn bệnh thời đại, những đại dịch có thể xảy ra và biết bao tai ương khác, phải chăng Chúa muốn gửi đến chúng con những thông điệp của thời sau hết, thời mà Chúa sẽ đến lại trong vinh quang để phán xét kẻ lành người dữ, để đổi mới mặt địa cầu này như lòng Ngài mong ước.
Có một dạo người ta muốn trút bực tức lên những bộ phim làm qua loa cẩu thả, nhưng nhất là sự: MV4-B33
Có một dạo người ta muốn trút bực tức lên những bộ phim làm qua loa cẩu thả, nhưng nhất là sự coi thường khán giả của những hãng phim quốc doanh. Và có lẽ cụm từ “mì ăn liền” diễn tả đạt nhất sự khinh thị đối với những sản phẩm được coi là món ăn tinh thần phản thẩm mỹ,nhưng lại được “chế biến” và dọn ra một cách vội vã, vô trách nhiệm. “Mì ăn liền” cũng có thể dùng cho những người đưa ra một quyết định nóng vội, thiếu căn bản vững chắc, có khi chỉ xuất phát từ ngẫu hứng. Tiếng “FIAT” ( xin vâng ) của Đức Ma-ri-a mà Phụng Vụ Giáo Hội trình bày trong bài Tin Mừng hôm nay, có vẽ như một câu trả lời không kém phần... “mì ăn liền”, khi nó được quyết định chỉ sau mươi phút gặp gỡ trao đổi. Trước một sự việc như thế, cha ông Việt Nam sẵn sàng phê ngay: nhẹ dạ !
Suy nghĩ và phản ứng của cô thiếu nữ Ma-ri-a sẽ như thế nào, nếu như thay vì một loạt những câu êm tai, đẹp đẽ, quyến rũ như “Bà đẹp lòng Thiên Chúa; Con Bà sinh sẽ nên cao cả; Con bà sinh được gọi là Con Đấng Tối Cao”; và một loạt những tước vị, quyền năng của Người Con – tất nhiên cũng dành cho người mẹ, thì sứ thần lại chìa ra vòng gai, Thánh Giá, nước mắt và tủi hờn, không có lấy được một ngày vui cười trong “thung lũng nước mắt” – in hac lacrimarum valle – ( kinh Salve Regina ), và một cô Thiếu Nữ nhỏ bé như Ma-ri-a phải nhận lấy hết, – điều mà khi dâng Hài Nhi Giê-su vào Đền Thờ, ông cụ Si-mê-ôn mới nói hết cho Đức Ma-ri-a nghe – thì liệu còn có tiếng “xin vâng” nữa chăng ?
Xin thưa ngay mà không sợ mang tiếng là nịnh hót hoặc “mẹ hát con khen”: vẫn là tiếng “xin vâng” ! Người ta làm những chuyện “mì ăn liền” là có chủ định, không hề vô tình ! Người ta quyết định và trả lời theo cảm tính và cảm hứng, không phải do thiếu suy nghĩ ( ngược lại là khác ), mà vì chỉ nghĩ đến mình và danh lợi cho riêng mình: khởi sự và kết thúc bằng hời hợt và ích kỷ. Ngược lại, với tiếng “xin vâng” của Mẹ Ma-ri-a, chúng ta hiểu được hai điều:
Trước hết, với Đức Ma-ri-a, những ẩn-số của cuộc đời dù có nhiều đến đâu, dù xuất hiện dưới hình thức nào, cũng không làm cho Mẹ sợ hãi, bởi vì tâm hồn Mẹ đã được chuẩn-bị ngày ngày đón nhận mọi biến cố, khi Mẹ tin tưởng rằng không có gì có thể nằm ngoài ý Chúa. Mẹ là một trong những “Người Nghèo của Gia-vê”, với cuộc sống khó nghèo cả tinh thần lẫn vật chất, chuyên tâm suy gẫm và cầu nguyện.
Nếu có điều gì khiến Mẹ bối rối khi nghe lời sứ thần, thì đó là Mẹ bị choáng ngợp vì sự lựa chọn và ân sủng quá đỗi lớn lao Chúa dành cho Mẹ, vì cho dù tâm hồn sẵn sàng lắng nghe và thực hiện Ý Chúa đến đâu, thì Mẹ vẫn là con người, vẫn là một Thiếu Nữ Si-on, mà hình ảnh Thiên Chúa độc nhất đáng tôn thờ cũng chính là Đấng vô cùng đáng úy kính, vô cùng cao xa so với loài phàm hèn nhân thế. Bởi vậy, chỉ một vài lời giải thích của sứ thần Gáp-ri-en cũng đủ để Mẹ nhận ra đó là Thánh Ý Chúa. Và một khi đã là Ý Chúa, thì Mẹ mau mắn cúi đầu “xin vâng”, bất kể hậu quả sẽ như thế nào.
Kế đến, tất cả mọi biến cố – kể cả những biến cố đau thương nhất – xảy đến với dân Ít-ra-en, cũng cho thấy tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với Dân Riêng của Người và những thử thách đa dạng cũng để cho thấy vinh quang, ân sủng và hạnh phúc luôn chờ đón Dân Người. Song để giáo dục Đức Tin của Dân Người, Thiên Chúa không ngần ngại dùng những bài học cay đắng, xót xa nhất, để cho tâm hồn và cuộc sống của họ ngày thêm tinh tuyền, không vương vấn những thói tục, những mê đắm vật chất, dục tình, để từ Dân Riêng được tinh luyện, Người có thể thực hiện lời hứa ban Đấng Cứu Độ.
Trong cuộc tuyển lựa và tinh luyện gắt gao này, cuối cùng Thiên Chúa đã chọn được Người Nữ hoàn toàn xứng hợp mọi mặt để Người trao phó cho sứ mệnh vô tiền khoáng hậu: trong muôn đời, giữa muôn người, chỉ có Mẹ là đẹp lòng Chúa nhất và Con Chúa sẽ do Người Nữ này sinh ra ! Chắc chắn đây không phải là do ngẫu nhiên. Cũng vì thế, quay trở lại với câu hỏi đặt ra: thái độ và phản ứng của Đức Ma-ri-a sẽ thế nào, khi lời chào mời đầy đau khổ và nước mắt ? Xin thưa: với một tâm hồn như của Mẹ, tiếng “xin vâng” sẽ còn mau mắn và nhiệt thành hơn nữa, chỉ vì Mẹ muốn làm đẹp lòng Chúa !
“Xin vâng”, vì đó là Ý Chúa và vì khi thực hiện theo Ý Chúa, là làm đẹp lòng Chúa, như thế là đủ: đó là ý nghĩa cuộc đời Đức Ma-ri-a. Việc sứ thần nói về người chị họ Ê-li-sa-bét được ơn lạ Chúa ban, chỉ là nhắc cho Ma-ri-a nhớ, chứ không phải là yếu tố giúp Mẹ đi đến quyết-định ( như nhiều người vẫn nghĩ ), vì sự kiện xảy ra cho nhà Da-ca-ri-a đang nổi đình nổi đám, râm ran khắp nơi, thì một người gắn bó với họ hàng như Mẹ, làm sao lại chẳng biết tới. Ta chỉ có thể hợp lời với bà chị họ cao tuổi Ê-li-sa-bét ngưỡng mộ cô em họ Ma-ri-a: ”Phúc cho em, vì em đã tin rằng: lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện”.
Qua người chồng bị câm vì đã chậm tin, bà Ê-li-sa-bét thấm thía thế nào việc cô em họ TIN và mau mắn nhiệt thành ĐÁP TRẢ lời mời gọi của Thiên Chúa: phải là một người có lòng tin mạnh mẽ và luôn sẵn sàng vâng theo Ý Chúa !
Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, tiếng Chúa mời gọi rõ ràng, chắc chắn là rõ ràng và cụ thể hơn khi sứ thần truyền tin cho Mẹ Ma-ri-a. Chúng ta không ngạc nhiên, không phân vân, mà chỉ âm thầm tính toán, cân đong đo đếm, để nếu không lái được ý Chúa theo ý của chúng ta, thì cũng đưa ra được – dĩ nhiên là tự lừa dối mình – vô vàn lý do để thắc mắc: việc ấy xảy ra thế nào được! Ngòai ý riêng “Mì An Liền” của chúng ta, thì tất cả mọi lời mời gọi đều là quá khó! Và ta sẽ thầm thưa với cả Chúa và Mẹ: “vì con cũng là con người !” ( một câu trong bài hát “Ngựa Chứng Tu Viện” ). Và thế là... !
Thiên Sứ Gáp-ri-en truyền tin cho Đức Ma-ri-a là một cuộc đối thoại. Các nhà chú giải đa: MV4-B34
Thiên Sứ Gáp-ri-en truyền tin cho Đức Ma-ri-a là một cuộc đối thoại. Các nhà chú giải đã chia ra ba sườn chính về thể văn mà Thánh Lu-ca sử dụng trong cuộc đối thoại của khung cảnh Truyền Tin.
Thể văn báo tin việc sinh hạ:
Thiên Sứ hiện ra – Phản ứng của người được thị kiến là sợ hãi – Lời loan báo về việc thụ thai và sinh hạ, đặt tên cho con trẻ, tương lai của con trẻ – Chất vấn: làm thế nào được ? – Thiên Sứ khẳng định điều loan báo với một dấu hiệu. Ví dụ như: báo tin về sự sinh ra của I-xa-ac ( St 17 ), Sam-son ( Tl 13, 1 – 23 ), Sa-mu-en ( 1 Sm 1 ), Gio-an Tẩy Giả ( Lc 1, 5 – 25 ). Nội dung sứ điệp là là loan báo về việc Thiên Chúa can thiệp lạ thường nơi một phụ nữ sinh sinh ra một người con làm vị cứu tinh dân tộc.
Thể văn kêu gọi vào một sứ mạng:
Thiên Sứ hiện ra – Ơn gọi sứ mạng – Giải thích và dấu hiệu – Kết luận. Ví dụ: Mô-sê ( Xh 3, 1 – 12 ), Guê-đê-on ( Tl 6, 11 – 23 ) Thiên Sứ hiện ra trực tiếp cho người được Chúa gọi.
Thể văn giao ước, hay lập lại giao ước:
Một người trung gian như Ngôn Sứ, Vua, Tư Tế trình bày ý định của Thiên Chúa và toàn dân đáp lại “Chúng tôi sẽ thực hành điều Ngài dạy” ( Xh 19, 7; 24, 3 – 7; Er 10, 12; Nkm 5, 12 ).
Cả ba thể văn vừa nêu trên bổ túc cho nhau diễn tả sắc thái độc đáo có một không hai trong lịch sử qua biến cố Truyền Tin.
Để thấy được sự trang trọng, độc đáo của cuộc đối thoại Truyền Tin, cần so sánh khung cảnh truyền tin của Thiên Sứ Gáp-ri-en cho Da-ca-ri-a và cho Ma-ri-a.
Về địa điểm: Thiên Sứ hiện ra với Da-ca-ri-a ở đền thờ Giê-ru-sa-lem, trung tâm tôn giáo của Ít-ra-en, giữa làn khói hương nghi ngút. Với Đức Ma-ri-a, Thiên Sứ đến gặp Mẹ tại Na-da-rét, một thôn làng chẳng mấy ai biết đến ( Ga 1, 46; 7, 41 ). Na-da-rét thuộc miền đất Ga-li-lê, gần vùng dân ngoại ( Is 8, 23; Mt 4, 14 ).
Về nhân vật: Da-ca-ri-a là tư tế thuộc giòng A-bi-a, Ê-li-sa-bét thuộc giòng A-ha-ron. Cả hai ông bà thuộc thành phần có địa vị xã hội. Hai ông bà tuân giữ lề luật chu đáo ( Lc 1, 6 ). Họ tượng trưng cho người công chính theo Cựu Ước. Còn Ma-ri-a chỉ là một thôn nữ tầm thường, một người nghèo của Gia-vê. Đi vào nội dung đối thoại thì hoàn toàn đảo ngược.
Thái độ của Thiên Sứ:
Với Da-ca-ri-a: Thiên Sứ coi mình như chủ nhà. Giọng nói Thiên Sứ như ra lệnh, thị oai. Thiên Sứ phạt Da-ca-ri-a khi ông tỏ dấu nghi ngờ.
Với Ma-ri-a: Thiên Sứ là khách, đi đến nhà của Ma-ri-a, một làng quê hẻo lánh. Thiên Sứ tỏ vẻ kính cẩn vì nhìn thấy nới thôn nữ mộc mạc dáng vẻ oai nghi của “Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng”
- Công trạng và ân huệ
Với Da-ca-ri-a: Thiên Sứ bảo rằng: Lời cầu nguyện của ông đã được Chúa chấp nhận, vợ ông sẽ thụ thai ( Lc 1, 13 ). Như vậy tất cả đều dựa trên công trạng phúc đức của con người, đúng theo hình ảnh Cựu Ước.
Với Đức Ma-ri-a: tất cả đều là ân huệ của Chúa. Thiên Sứ chào Ma-ri-a là “người được Thiên Chúa yêu thương chiếu cố” ( Lc 1, 28 ), tất cả đều là ân huệ và tình thương của Chúa.
Kết quả: Da-ca-ri-a bị quở trách vì “không chịu tin vào Lời Chúa” ( Lc 1, 20 ). Ma-ri-a được ca ngợi vì “đã tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện” ( Lc 1, 45 . 38 ). Ê-li-sa-bét được cưu mang Gio-an “sẽ làm lớn trước mặt Chúa” ( Lc 1, 15 ). Ma-ri-a cưu mang “Con Đấng Tối Cao” ( Lc 1, 32 ); “Con Thiên Chúa” ( Lc 1, 35 ).
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Ma-ri-a, ta thầy rằng: công cuộc vĩ đại của Thiên Chúa là cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời được bắt đầu một cách rất âm thầm. Một cuộc đối thoại Truyền Tin tại một làng quê, giữa Thiên Sứ với một thôn nữ chẳng mấy người biết. Chúa Giê-su đã diễn tả sự khởi đầu bé nhỏ nhưng thành quả lại lớn lao qua dụ ngôn hạt cải: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” ( Mc 4, 31 – 32 ). Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” ( 1 Cr 1, 27 ).
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Ma-ri-a, ta thấy Thiên Chúa chọn những ai sống đẹp lòng Ngài. Ma-ri-a đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Ma-ri-a vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài ( x. Rm 9, 12 . 16 ), và cũng vì Ma-ri-a đẹp lòng Thiên Chúa. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Thiên Sứ nói với Đức Ma-ri-a: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” ( Lc.1, 35 ). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu Xh 40, 34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.
Việc Lu-ca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thế Đức Ma-ri-a với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Lu-ca so sánh cung lòng Đức Ma-ri-a nơi Đức Giê-su sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Ma-ri-a, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Ma-ri-a thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Ma-ri-a chính là sự hiện của Đức Giê-su bằng xương bằng thịt.
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Ma-ri-a, ta thấy Đức Ma-ri-a đã tự do đáp tiếng “Xin vâng”. Trong Hiến Chế Lumen Gentium số 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Ma-ri-a: “Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Ma-ri-a một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh I-rê-nê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”.
Và cùng với Thánh I-rê-nê còn có rất nhiều Thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân phục của bà E-và, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Ma-ri-a; điều mà trinh nữ E-và đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Ma-ri-a đã tháo ra nhờ lòng tin”. Và so sánh với E-và, các Giáo Phụ gọi Đức Ma-ri-a là “Mẹ các sinh linh” và thường quả quyết rằng: “Bởi E-và đã có sự chết, thì nhờ Ma-ri-a lại được sống”.
Trong sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ 18 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã nói với giới trẻ rằng: Trong biến cố Truyền Tin, Đức Ma-ri-a trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưói chân Thánh Giá, nơi Thánh Gio-an, Đức Ma-ri-a đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà”. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giê-su, Con Mẹ.
Cuộc đối thoại Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Ma-ri-a là để Ngài sai Con Một Ngài đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Giây phút Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình Ơn Cứu Độ cho thế nhân.
Mẹ Ma-ri-a đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ Ma-ri-a mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” ( Mc 9, 23 ).
Vào một buổi chiều ngày Lễ Giáng Sinh, một người đàn ông ngồi suy nghĩ tại sao Thiên Chúa: MV4-B35
Vào một buổi chiều ngày Lễ Giáng Sinh, một người đàn ông ngồi suy nghĩ tại sao Thiên Chúa lại chọn xuống thế làm người trong một hài nhi bé nhỏ yếu đuối.
Đang khi suy nghĩ như vậy thì ông nghe thấy có tiếng động bên ngoài nên đưa mắt nhìn qua cửa sổ. Ông đã nhìn thấy mấy con ngỗng trời mầu xanh bay đáp xuống khu vườn phía sau nhà ông. Chúng đáp xuống vào lúc trời đang có tuyết rơi. Trên tuyến đường bay từ Bắc Cực về miền Vịnh Mexico, một con trong đàn đã bị thương. Và theo thói quen của loài ngỗng trời này, khi chúng đang bay trong đàn mà không may có một con bị thương, thì một vài con trong đàn phải đáp xuống theo để giúp đỡ.
Người đàn ông ngồi trong nhà nhìn thấy như thế, động lòng thương cảm. Ông đã chạy ra để giúp đỡ. Vừa khi ông xuất hiện thì những con ngỗng đó đã sợ hãi chạy tán loạn, ngã dập dùi vào những bãi tuyết lạnh để lại bị thương thêm. Ông mở cửa ga-ra và cố gắng để đưa chúng vào tá túc, rồi ông hy vọng sẽ kịp gọi nhân viên bảo vệ súc vật đến cứu giúp. Nhưng ông càng làm như thế thì lại càng làm cho những con ngỗng trời đó khiếp sợ và bị thương. Ông cảm thấy bối rối điên đầu và thầm ước muốn giá ông nói được ngôn ngữ của những con ngỗng đó để bảo chúng đừng hoảng sợ, vì ông thương chúng và muốn giúp chúng.
Và cũng lúc đó ông chợt nhận ra lý do tại sao Chúa Giê-su đã nhập thể làm người xuống thế ở với nhân loại, loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho nhân loại bằng chính ngôn ngữ của nhân loại...
JACK MCARDLE, đăng lại từ NGƯỜI TÍN HỮU ( Gospelnet 090 )
Với Mẹ, chúng ta cùng mở đường cho Con Thiên Chúa...
“Bấy giờ bà Maria nói : “Vâng tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Mẹ Maria không nói : “Tôi xin vâng, vì tôi sẽ làm mẹ của Thiên Chúa”; Mẹ Maria cũng không: MV4-B36
Mẹ Maria không nói : “Tôi xin vâng, vì tôi sẽ làm mẹ của Thiên Chúa”; Mẹ Maria cũng không nói : “Vì tôi đã khấn giữ mình đồng trinh, cho nên việc sứ thần nói sẽ không bao giờ có, tôi không đời nào tử bỏ ý định của tôi”. Nhưng Mẹ Maria đã nói : “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Một lời nói bày tỏ tất cả tâm tình mến yêu, tôn kính và khiêm tốn, một lời nói có sức đem lại cho nhân loại một niềm hi vọng và vui mừng, không hi vọng và vui mừng sao được khi mà cả nhân loại đang chìm đắm trong đau thương do tội lỗi thống trị, không hi vọng và vui mừng sao được, khi mà, chỉ một lời xin vâng rất ngắn gọn mà khiêm tốn, đã làm cho cửa trời đóng bít từ thuở tạo thiên lập địa lập tức mở ra, tuôn tràn ân sủng bởi trời cho nhân loại, ân sủng đó, không gì khác hơn chính là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Mẹ Maria, Đấng đồng công cứu chuộc loài người, Đấng đã mở đường cho Thiên Chúa có lối đi qua trần gian, Mẹ mở đường không phải như thánh Gioan Tiền Hô trở thành tiếng loa vang trong hoang địa kêu gọi mọi tấm lòng thống hối chờ đón Đấng Messia, nhưng Mẹ mở đường bằng chính tâm hồn mình mở rộng trước đón nhận lời đề nghị quá ư ngặt nghèo với lời hứa giữ mình đồng trinh của mình, Mẹ đã mở đường cho Chúa bằng hai tiếng “Xin Vâng” đầy khiêm tốn, đơn sơ và đầy phó thác, Mẹ đã mở đường cho Chúa bằng thái độ chấp nhận quyền năng của Thiên Chúa mà không một chút phàn nàn kêu ca... Tiếng “Xin Vâng” của Mẹ Maria là tiếng hoan ca âm thầm trong cung lòng Mẹ và trong mọi tâm hồn người công chính mong mỏi chờ Chúa đến, là ánh sao mở đường cho nhân loại bước đi, là tiếng hét kinh hoàng của tội lỗi, là niềm vui và hi vọng cho chúng nhân.
Như vậy, Mẹ Maria đã hoàn toàn hi sinh cái tôi của mình để mở đường cho Con Thiên Chúa làm người.
Ngày hôm nay, hầu như tất cả mọi người Kitô hữu trên thế giới đều hiểu rất rõ giá trị hai tiếng “Xin Vâng” của Mẹ Maria, hiểu rất rõ là việc làm của lí trí, nhưng đối với quả tim thì hình như rất ít người hiểu rõ giá trị của hai tiếng “Xin Vâng” ấy. Có rất nhiều người Kitô hữu cứ mỗi lúc đến ngày lễ kĩ niệm gì đó của Mẹ, liền hát thật to thật vang lên bài hát “Xin Vâng”, nhất là trong ngày lễ Giáng Sinh, nhưng trong cuộc sống của họ thì tiếng “xin vâng” của họ rất tương phản với tiếng “Xin Vâng” mà họ ca tụng Mẹ Maria. Họ xin vâng theo kiểu : tôi là mẹ của Chúa nên tôi xin vâng, có nghĩa là, nếu công việc ấy hợp với tôi, có lợi cho tôi nên tôi xin vâng, còn nếu không thì xin miễn bàn... Với những thái độ ấy, họ chưa xứng đáng noi gương Mẹ để mở đường cho Con Thiên Chúa làm người trong mỗi một tâm hồn, hơn thế nữa, họ đã làm một bức tường thành ngăn chận giữa Thiên Chúa và những con người thiện tâm.
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta mở đường cho Con Thiên Chúa làm người bằng chính sự khiêm tốn của chính mình : khiêm tốn trong phục vụ, khiêm tốn trong lời nói, khiêm tốn trong cuộc sống đời thường. Cùng với Mẹ, chúng ta mở đường cho Con Thiên Chúa giáng trần bằng sự hi sinh của mỗi người : hi sinh trong cách sống, hi sinh trong phục vụ, hi sinh trong cuộc sống đời thường. Cùng với Mẹ Maria, chúng ta mở đường cho Con Thiên Chúa đến bằng đời sống vui tươi của mình : vui tươi trong lo âu, vui tươi khi bị hiểu lầm, vui tươi khi bị khinh chê, vui tươi khi bị mắng...vốn. Bởi vì chính Mẹ Maria đã dùng tất cả những điều ấy để mở đường cho Thiên Chúa làm người trong hai tiếng “Xin Vâng” của Mẹ.
Chúa nhật IV Mùa Vọng mời gọi mỗi một người Kitô sống noi gương Mẹ Maria trong chính bổn phận của mình, bổn phận của tôi là linh mục, tiếng “Xin Vâng” của tôi chắc chắn sẽ khác hẳn với tiếng xin vâng của giáo hữu, bởi vì hơn ai hết, tôi phải chính là Mẹ Maria thứ hai đã làm cho có Chúa Giêsu trên bàn thờ, nên tôi cần phải khiêm tốn thẳm sâu để đền đáp ơn trọng mà Thiên Chúa đã ban cho tôi : thiên chức linh mục. Do đó, mà không những trong khi tế lễ trên bàn thờ, mà ngay cả trong cuộc sống đời thường, tôi cần phải khiêm tốn trong cung cách ăn ở của tôi, để tiếng xin vâng của tôi trở thành công cụ phát quang, mở đường cho Chúa đến với mọi tâm hồn tín hữu.
Tôi là một nữ tu của Chúa, tôi hiểu rất rõ tiếng xin vâng của Mẹ Maria cho nên tôi đã trở thành nữ tu để noi gương Mẹ, đi phục vụ người anh em chị em của tôi, do đó mà tiếng xin vâng của tôi phải cùng cung điệu với tiếng xin vâng của Mẹ Maria : Khiêm tốn. Bởi nếu tôi không khiêm tốn, thì tôi sẽ trở thành một tảng đá lớn cản đường không cho mọi người đến cùng Chúa, và tất cả những gì tôi làm gọi là phục vụ ấy, sẽ trở nên giả hình trước mặt nhân loại.
Chúa nhật IV mùa vọng, là tiếng đáp “xin vâng” của mỗi người tín hữu, hối thúc Thiên Chúa mau đến để giải thoát chúng ta khỏi sự thống trị của tội lỗi.
Với Mẹ Maria, chúng ta cùng mở đường cho Chúa bằng hai tiếng “xin vâng” trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Mẹ Maria đẹp vì Mẹ được Thiên Chúa yêu thương, Mẹ Maria tuyệt đẹp vì tâm hồn Mẹ thật khiêm: MV4-B37
Mẹ Maria đẹp vì Mẹ được Thiên Chúa yêu thương,
Mẹ Maria tuyệt đẹp vì tâm hồn Mẹ thật khiêm nhường thẳm sâu.
Mẹ Maria đẹp,, đẹp tuyệt vời khi Mẹ nhận ra vai trò “tôi tớ” trước thánh ý Chúa
Mẹ Maria lại càng đẹp vì Mẹ chính là người trinh nữ duy nhất, độc nhất,
không lập lại của con người, được Thiên Chúa tuyển lựa làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Mẹ Maria lại còn đẹp bởi ngay chính tâm hồn Mẹ không hề vấn vương tội lỗi,“không hề biết đến người nam”
Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng là Chúa nhật Gíáo Hội dành riêng để mời gọi chúng ta cùng nhau chiêm ngưỡng và ca tụng Mẹ Maria, “môt người nữ” được chúc phúc, đầy tràn ân huệ Chúa. Bởi vì Mẹ là: Người trinh nữ đã tin, tin mà không bao giờ nghi ngờ.Mẹ đã tin vào Giavê Thiên Chúa như tổ tiên.Mẹ đã tin vào tình thương của Thiên Chúa sẽ tra tay cứu chuộc muôn dân.
Mẹ tin vào quyền năng của Thiên Chúa sẽ làm được những việc hết sức lạ lùng nơi chính bản thân hèn yếu của Mẹ. Người trinh nữ luôn sống đời cầu nguyện: Cầu nguyện chính là sự kết hiệp với Chúa, là trò chuyện thân mật, là sự kết nối tuyệt hảo đầy tình cảm và khắng khít với chính Đấng Toàn Năng là Thiên Chúa của Mẹ.
Chính trong đời sống cầu nguyện, Mẹ đã lắng nghe được Lời của Thiên Chúa mặc khải và sẵn sàng đáp lại bằng tất cả lòng mến của mình. Người trinh nữ biết lắng nghe: chấp nhận đối thoại, sẵn sàng nghe tiếng nói, lập trường của người khác với sự tôn trọng, với tâm hồn khiêm nhường, Mẹ đã nhận ra vai trò thụ tạo và tôi tớ của mình, để sẵn sàng đón nhận thánh ý của Chúa một cách tốt nhất.
Người trinh nữ luôn biết vâng lời: nhận lời Thiên Chúa trong việc cộng tác vào công trình cứu chuộc con người, Mẹ Maria cũng hiểu một cách chắc chắn mình sẽ phải đau khổ,trái tim sẽ bị lưỡi đòng đâm thấu,sẽ phải dâng hiến chính Người Con yêu dấu của Mẹ làm lễ tế hy sinh trên thập tự. Mẹ chấp nhận bước vào cuộc chiến với chính bản thân của mình, để “mãi mãi tôi là tớ nữ của Thiên Chúa và luôn sẵn sàng vâng như lời Thiên Sứ truyền tin”
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã trối lại cho chúng con người Mẹ yêu dấu của Chúa.Xin giúp chúng con luôn biết sống gắn bó với Mẹ Maria bằng việc tuân hành những mệnh lệnh Mẹ dạy bảo, để luôn làm đẹp lòng Chúa. Xin giúp chúng con học được những bài học như chính đời sống của Mẹ, để cuộc đời chúng con cũng mãi là bài ca tôn vinh danh Chúa như chính Mẹ đã sống.Amen.
„Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng,
biển gầm vang cùng muôn hải vật,
ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ.
Hỡi cây cối rừng xanh,
hãy reo mừng trước tôn nhan CHÚA,
vì Người đang ngự đến.“ (Tv 96, 11-13A) Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay Chúa Nhật thứ IV mùa Vọng, nghĩa là chỉ còn một tuần nữa thì nhân loại sẽ đón mừng ngày: MV4-B38
Hôm nay Chúa Nhật thứ IV mùa Vọng, nghĩa là chỉ còn một tuần nữa thì nhân loại sẽ đón mừng ngày Chúa đến. Trong bầu khí này, chúng ta lại lắng nghe lời ca của tiên tri Isaia: „Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai, hỡi ngàn mây, hãy mưa Đấng Công Chính; đất hãy mở ra và trổ sinh Đấng Cứu Độ“ (Ca Nhập lễ ngày Chúa Nhật thứ IV mùa Vọng – Is 45)
Một lời ca và cũng là lời cầu nguyện rất tuyệt vời. Tuyệt vời, vì trời và đất đã kết thân với nhau, để sương mai, để mưa Đấng Công Chính sẽ tưới ướt mặt đất khô cằn này, và rồi từ chính mặt đất cằn cỗi trước đây, một Đấng Cứu Độ sẽ trổ sinh.
Thực đây là một niềm vui lớn lao vô cùng.
Với Đức Thánh Cha, „thì trong một ý nghĩa đặc biệt, mùa Vọng là thời gian của niềm vui, một niềm vui nội tâm sâu sa, mà những khổ đau cũng không thể lấy mất được. Điều này người ta có thể hiểu rõ nhất, khi lắng nghe những bài đọc của mùa Vọng. Ở đây thánh Vịnh 96 là một ví dụ:
„Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng,
biển gầm vang cùng muôn hải vật,
ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ.
Hỡi cây cối rừng xanh,
hãy reo mừng trước tôn nhan CHÚA,
vì Người đang ngự đến.“
Ngoài ra, vào mùa Giáng Sinh người ta thường trang trí những cây Noel, những cây thông với ánh đèn lung linh chiếu sáng, tất cả những điều đó như muốn diễn tả một điều: „Thiên Chúa đang hiện diện“. Điều này tâm tư chúng ta tin tưởng và cảm nhận. Vì thế, cây cối rừng xanh cần đón mừng Chúa, cần bái quỳ tôn vinh Đấng Tối Cao và cao rao lời reo mừng Ngài.“ (Benedikt XVI. Joseph Ratzinger, Der Segen der Weihnacht, Meditationen, Herder Verlag, Freiburg 2005, S. 25-26)
Hôm nay, cùng hiệp lời với rừng xanh, với biển rộng, với trời cao, chúng ta cùng reo mừng, cùng vui lên, vì Đấng Cứu Độ chúng ta đã gần đến.
Cụ thể, chúng ta hãy diễn tả niềm vui này qua một hành động cụ thể.
Có lẽ thật đẹp, khi chúng ta trang trí cây thông Giáng Sinh cho gia đình, cho cộng đoàn mình, nhưng với một tâm tình thật sốt mến và một con tim chan chứa niềm vui.
Hoặc chúng ta cùng nhau làm một hang đá thật đơn sơ, mà nơi đó niềm vui sẽ được hát lên, được cao rao khắp mặt đất này.
Trong cuốn linh thao, thánh Ignatio đã gợi ý cho chúng ta suy gẫm về đoạn Tin mừng hôm: MV4-B39
Trong cuốn linh thao, thánh Ignatio đã gợi ý cho chúng ta suy gẫm về đoạn Tin mừng hôm nay gồm ba bước.
Bước thứ nhất là hãy tưởng tượng xem thế giới thời trước Chúa Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan, hờ hững với Thiên Chúa. Sự xấu thì tràn lan như một ung bướu khổng lồ. Con người thì rơi vào một tình trạng tuyệt vọng.
Bước thứ hai là hãy tưởng tượng ra cách sứ thần Gabriel đến báo tin cho Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng cứu thế. Từ trời cao nhìn xuống, chúng ta thấy trái đất này chỉ là một đốm sáng nhỏ bé giữa muôn ngàn vì sao. Xuống gần hơn, chúng ta thấy một điểm trên địa cầu được gọi là Đất thánh. Và xuống gần hơn nữa, chúng ta thấy một ngôi làng mang tên là Nagiarét. Và sau cùng, chúng ta gặp được Mẹ Maria trong căn nhà ấy. Mẹ đang quì cầu nguyện.
Bước thứ ba là hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Mẹ Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới câu:
- Quyền năng của Đấng Tối cao sẽ bao trùm lên Mẹ.
Ba chữ “bao trùm lên” ít được Kinh thánh xử dụng, ngoại trừ trong sách Xuất Hành:
- “Bấy giờ có một đám mây bao trùm lên lều tạm, nơi dân Do Thái đặt hòm bia giao ước”.
Bao lâu đám mây ấy còn bao trùm lên lều tạm, thì lều tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Luca dùng ba chữ bao trùm lên không phải là không có dụng ý, vì nó gồm tóm một ý nghĩa sâu xa. Thánh Luca so sánh thân thể Đức Maria với lều tạm, nơi đặt hòm bia giao ước của Thiên Chúa, cũng như so sánh cung lòng Đức Maria, nơi Chúa Giêsu sẽ tới cư ngụ với hòm giao ước, nơi đặt hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên Chúa.
Như thế, nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì chính Thiên Chúa thực sự hiện diện nơi Mẹ. Thế nhưng, sự hiện diện ấy lại vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài nơi lều tạm, bởi vì đó là sự hiện diện của một Thiên Chúa bằng xương bằng thịt.
Thực vậy, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta bằng nhiều cách, chẳng hạn như qua các tạo vật, bởi vì Ngài đặt để một cái gì đó thuộc bản thân Ngài nơi tạo vật, giống như một nhạc sĩ đã đặt để một cái gì đó thuộc bản thân ông trong dòng nhạc mà ông đã sáng tác.
Tiếp đến Ngài có thể hiện diện qua lời Ngài trong Kinh thánh giống như người nhạc sĩ hiện diện trong tiếng nhạc của ông.
Sau cùng, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta trong Đức Kitô, như người nhạc sĩ hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta trong một buổi trình diễn.
Và như thế, qua Đức Maria, chúng ta có quyền thắp lên một ánh lửa hy vọng, cho dù thế giới có hỗn độn, gia đình có xáo trộn, nhưng chúng ta vẫn vui mừng và hy vọng, bởi vì quyền năng của Thiên Chúa đã xâm nhập thế giới này qua con người Đức Kitô.
Còn chúng ta thì sao? Bước vào Chúa nhật thứ tư mùa vọng, chúng ta hãy tự hỏi xem, chúng ta đã làm được những gì để Ngài thực sự ngự vào tâm hồn chúng ta, như xưa Ngài đã ngự xuống nơi cung lòng Đức Trinh nữ Maria?
Thiên ký sự tuyệt diệu về Truyền tin chắc chắn là dư âm của một trong những kỷ niệm –theo: MV4-B40
Thiên ký sự tuyệt diệu về Truyền tin chắc chắn là dư âm của một trong những kỷ niệm –theo thánh chép sử Luca- được Maria ấp ủ trong lòng. Có lẽ thánh Luca được nghe lời tâm sự từ miệng Đức Maria nói ra khi ông ngụ tại Giêrusalem trong thời gian thánh Phaolô bị giam ở Rôma. Biến cố mầu nhiệm và thần kỳ được Đức Maria kể lại cho ông bằng những lời đơn sơ, nhưng chắc chắn là phong phú hơn một bản tự thuật ngắn, và được diễn tả trong một ký sự bóng bảy, đầy hình ảnh, như người đồng thời ưa chuộng. Sự kiện Truyền tin là một sự kiện chắc chắn, có thật, nhưng chính thánh chép sử không kể lại như một thiên phóng sự tuyệt đối chính xác. Vẻ đẹp, vẻ uyển chuyển của câu chuyện có giá trị ở chỗ nó mở rộng tâm trí ta để suy niệm không biết mệt mỏi về sự phong phú của sự kiện Truyền tin. Chúng ta tiến vào bối cảnh của sự thật khi chúng ta suy gẫm về thiên ký sự, từng câu một. Tuy nhiên chúng ta dễ hình dung rằng thực tại được Đức Maria trao gửi thánh Luca còn sâu sắc, phong phú và huy hoàng hơn thế nhiều. Tới đây chúng ta dừng lại để suy niệm về 3 câu:
1) Nghe những lời đó, nàng bối rối qua sức, và tự hỏi về ý nghĩa lời chào mừng của Thiên thần. Maria bối rối. Chỉ nguyên việc Thiên thần hiện ra cũng đủ làm cho nàng xúc động mãnh liệt, những lời của thiên sứ khiến cho tâm thần nàng rối loạn vì nhận thấy, xuyên qua những lời đó, một sứ điệp phi thường. Thật vậy lời chào: Kính mừng bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà, gồm những từ ngữ được các ngôn sứ chuyên dùng khi nói đến Giêrusalem. Não trạng Do Thái thời đó được nuôi dưỡng bởi một niềm hãnh diện và hy vọng: Giêrusalem được Thiên Chúa tuyển chọn, được tràn đầy ơn sủng của Người, được ban cho thiên chức vượt cao trên khắp mọi thành thị thế gian. Vậy mà Thiên thần kính chào Maria bằng những từ ngữ người ta quen dùng cho Giêrusalem. Nàng bối rối vì thế và thắc mắc. Đoạn tiếp của sứ điệp sẽ giải thích cho nàng rõ. Vào những dịp Thiên Chúa can thiệp vào đời ta –dù cho Người không đòi hỏi ta làm những việc phi thường- có thể những vụ đó có hiệu quả đầu tiên là nêu lên những câu hỏi cho chúng ta. Lúc đó ta phải tiếp tục cầu nguyện và lắng nghe –giống như Maria đã làm.
2) Maria thưa với Thiên thần: Làm sao việc đó có thể xảy đến được. Maria thắc mắc. Khi nhận ra điểm trọng yếu là vật cản tuyệt đối, Maria biết làm gì để đáp ứng yêu cầu của Chúa? Đối với nàng –trở thành mẹ một đứa con là điều không thể có được, vì ở khởi điểm có 1 sự kiện là nàng chưa kết hôn, chỉ mới đính ước với Giuse, đơn giản thế thôi. Nàng muốn gìn giữ đức đồng trinh của mình, không hiểu sao Thiên Chúa lại có thể đòi hỏi nàng hy sinh nó đi. Nàng muốn hiểu rõ. Nàng trả lời không úp mở rằng, theo thường tình nhân loại, mình không thể trở nên 1 người mẹ. Tuy nhiên nàng không chấm dứt cuộc tiếp xúc với Thiên thần, nàng tiếp tục lắng nghe thiên sứ. Cũng vậy, có thể có những vụ Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta những điều không thể hiểu được và có vẻ đầy mâu thuẫn. Chúng ta, trong lúc cầu nguyện, có thể hỏi Chúa, đặt vấn đề với Chúa, vì Chúa muốn chúng ta cân nhắc để có thể tự do ưng thuận.
3) Này tôi là tôi tớ Thiên Chúa, nguyện xin như lời Thiên thần truyền. Maria ưng thuận. Do sự ưng thuận, nàng đón lấy số mệnh thần kỳ là cho nàng trở nên một con người đích thật. Nàng ưng thuận khi hiểu rõ Thiên Chúa chờ đợi gì ở tiếng vâng của nàng. Thiên Chúa không tự mâu thuẫn trong khi ban phát ơn phúc cho loài người. Ở đây, ở trường hợp có một không hai này, đấng bậc làm mẹ không tiêu diệt đức trinh khiết. Chúa đã muốn tôn trọng tự do của Maria. Tiếng vâng do trinh nữ thốt ra là khoảnh khắc đầu trong công cuộc Thiên Chúa xuống thế làm người mà vẫn là Thiên Chúa, - con người trở nên Thiên Chúa mà không bị cưỡng bách.
Maria đã đính hôn với Giuse. Thời kỳ đính hôn thường là một năm, và sự ràng buộc cũng giống: MV4-B41
Maria đã đính hôn với Giuse. Thời kỳ đính hôn thường là một năm, và sự ràng buộc cũng giống như trong hôn nhân, chỉ có thể tháo gỡ bằng ly dị. Nếu trong thời gian ấy, vị hôn phu chết thì trước mặt pháp luật cô gái đã trở thành góa phụ. Trong luật pháp có từ nghe lạ tai “… một trinh nữ góa”. Khi hai người đã đính hôn với nhau, chỉ có thể chết mới phá bỏ được sợi dây liên kết.
Xuất thân từ người ngoại, Luca hiểu hơn ai hết lối suy luận của dân ngoại, nên ông đã tìm cách giới thiệu Chúa Giêsu dưới con mắt chuyên môn của nhà viết sử như đã xác định từ đầu (1,1-3). Bức tranh tuyệt diệu về Chúa Giêsu phải được trình bày đúng thời điểm của nó và hoàn toàn khác với ba sách Phúc Âm kia. Chữ “đến tháng thứ sáu” (c.26) nhằm nối kết với phần trước, cho biết khi Êlisabét mang thai Gioan đến tháng thứ sáu, thì một thời điểm vô cùng quan trọng của lịch sử nhân loại đã tới: Thiên sứ Gabriel báo tin cho Maria về sự ra đời của Chúa Giêsu. Luca ghi lại cho chúng ta những mặc khải và bài học quan trọng của Thiên Chúa cho nhân loại.
Thứ nhất, Thiên Chúa chọn trinh nữ Maria để đưa Con Ngài vào trần gian. Cô là người vô cùng đặc biệt, được Chúa chọn để nhận hồng ân lớn lao nhất (c.28). Chính điều này làm Maria bối rối, cô không thể nào hiểu được trong bối cảnh xã hội bấy giờ, khi cô đã hứa hôn với Giuse (c.27). Hơn thế nữa, thiên sứ còn cho biết cô sẽ mang thai, sinh một con trai, và được đặt tên là Giêsu (c.31). Matthêu ghi rõ “Giuse làm theo lời thiên thần Chúa dặn bảo”, đem vợ về ở với mình, nhưng không hề ăn ở với nhau cho đến khi người sinh một con trai, thì đặt tên là Giêsu” (1,25). Sinh đồng trinh là giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Kitô giáo và Maria được đặc ân vĩ đại này.
Thứ hai, sự thụ thai kỳ diệu. Trong khi Maria đang trải qua từ bối rối này đến ngạc nhiên nọ (c.34) thì thiên sứ cho cô biết chương trình lớn lao của Thiên Chúa. Cô vẫn đồng trinh, nhưng nhận được ân sủng và thụ thai siêu nhiên bởi Chúa Thánh Thần, nên hài nhi sinh ra rất cao trọng, được gọi là con thánh, con Thiên Chúa (c.35). Thông báo này là một mặc khải đặc biệt cho nhân loại. Thiên Chúa vào đời, mang hình hài loài người có cả thần tính lẫn nhân tính. Với mục đích giới thiệu Chúa Kitô cho người ngoại nên Luca hoàn toàn không trích dẫn những lời tiên tri trong Cựu Ước về sự ra đời của Chúa Kitô.
Thứ ba, chương trình chắc chắn thành tựu. Những điều Gabriel trình bày vượt quá trí tưởng tượng và khả năng hiểu biết của trinh nữ Maria, nàng tưởng như nằm mơ. Thiên sứ đã nhanh chóng dẫn chứng biến cố hy hữu xảy ra cho Êlisabét (c.36), người bà con gần gũi của Maria, người đàn bà son sẻ, già nua đã có thai sáu tháng rồi, “nên chẳng có gì Thiên Chúa không làm được” (c.37).
Thứ tư, sự vâng phục trọn vẹn. Sự vâng phục của Maria là một thái độ hết sức đẹp đẽ: “Bất cứ điều gì Chúa nói, tôi xin vâng theo cả”. Maria biết quên lời cầu nguyện phổ thông nhất của thế gian “Xin ý Cha được đổi lại”, nàng học biết để cầu nguyện lời cầu nguyện lớn nhất trần gian “Xin ý Cha được thực hiện”.
Đây cũng là một cuộc loan tin, cũng nói tới chuyện báo trước về việc thụ thai hoàn toàn bất: MV4-B42
Đây cũng là một cuộc loan tin, cũng nói tới chuyện báo trước về việc thụ thai hoàn toàn bất ngờ, mà cũng chính do thiên thần Gabriel chuyển lời; hơn thế cũng là chương trình Thiên Chúa đưa ra, sẽ được thực hiện từng điểm một. Tuy vậy tất cả đều khác hẳn. Cả khung cảnh bên ngoài, lẫn thái độ bên trong. Đây ta hãy xem:
Trên kia, Lời Thiên Chúa được loan báo trong miền Giuđa, giữa thủ đô Giêrusalem. Ở đây sứ thần nói trong một tỉnh biên giới của miền Galilê, một miền có lẫn dân ngoại. Và không được trong tỉnh lỵ Sepphoris hay ít là trong một thành nhỏ, hoặc một thị trấn bên bờ hồ, nhưng trong một làng miền sơn cước hoàn toàn vô danh.
Ở kia, sự loan tin xảy ra nơi đền thờ trong giờ lễ long trọng; ở đây, trong một căn lều quê mùa vào lúc mà chẳng ai định nổi thời gian. Ở kia, người đón nhận là một trong hàng tư tế Israel; đang khi dân chúng hội họp nhau đợi chờ, cầu nguyện; ở đây lời của thiên thần đến với một thiếu nữ bình dị mang tên là Maria, một cái tên thông thường có quá nhiều người đặt; không một ai hiện diện. Một bên với vẻ bên ngoài thật là hùng vĩ, long trọng, đầy xúc động; một bên thì bé nhỏ, bình thường và vô nghĩa.
Tuy nhiên, dù cả bên ngoài đi nữa, ở đây xét về chính yếu vẫn có những điểm lớn lao cao đẹp. Vì đang khi thiên thần chờ sẵn thì Giacaria mới bước vào. Thiên thần là kẻ chờ đón, còn Giacaria là người tiến đến gặp. Thiên thần nhập truyện luôn mà không chào hỏi gì cả. Đang khi đó, Đức Maria ở nơi phòng của ngài, ngài là người tiếp đón, trái lại thiên thần đi đến, đi vào. Như được yết kiến một nhân vật quan trọng với lời chào đầy vẻ kính trọng: “Xin kính chào bà”.
Tìm lại văn bản ba yếu tố: chào thăm, vui vẻ, và ơn phúc; tiếng cuối cùng đã đặc biệt được nhấn mạnh: “Bà đầy ơn phúc”. Maria luôn đầy ơn và giờ này lại càng đặc biệt hơn nữa “Chúa ở cùng Bà”. Thiên Chúa luôn ở với Maria, bây giờ thì sự hiện diện đó lại càng đặc biệt và vững bền hơn.
Giacaria phản ứng lại bằng sợ sệt và rối loạn. Nơi Maria –theo nguồn gốc của trình thuật Kinh Thánh- sự rung động còn hơn nữa, nghĩa là nó ăn sâu vào tận thâm tâm và cả hiện hữu của ngài. Việc chào thăm cùng sự việc lời Thiên Chúa đến với ngài hoàn toàn là bất ngờ. Mẹ vẫn chỉ thầm mong được sống một cuộc sống bình thường với một tâm tình đạo đức bình dị, nên Mẹ đã đính hôn với một người tên là Giuse. Như bất cứ một phụ nữ nào khác, Mẹ không nghĩ gì ngoài con đường của những người xung quanh trong dân Israel. Vậy thì Thiên Chúa muốn Mẹ làm gì đây? Lời mời gọi đã đến, đột ngột quá. Đó hẳn không phải là một hậu quả của một tình trạng tâm lý dễ giải thích, mà cũng chẳng phải là một dự phóng của một niềm hy vọng thầm kín hay một đáp ứng cho một niềm ao ước thiêng liêng. Trái lại đều do Thiên Chúa và chỉ vì một mình Ngài thôi.
Đối với Giacaria và Êlisabét, sự liên kết son sẻ biểu hiện sự đau khổ, mối buồn lặng lẽ; có thể luôn mang một tia hy vọng ghê gớm; chẳng thế mà Giacaria sợ khó xảy ra nên mới xin một dấu. Còn Maria, chẳng đợi chờ gì hết, lời của Thiên Chúa làm Mẹ hoảng hốt, sửng sốt. Như vậy hai cảnh tượng diễn ra song song với nhau, nhưng lại hoàn toàn khác biệt nhau. Điều đó còn rõ ràng hơn trong cuộc đàm thoại.
2. Đàm thoại.
Hai sứ điệp của Thiên thần mang theo hai câu trả lời của Đức Maria.
Sứ điệp thứ nhất: Lời nói dịu dàng: ‘Maria xin đừng sợ’ dựa trên sự kiện: ‘vì chị đã đắc sủng nơi Thiên Chúa’. Người ta không thể chiếm hữu ơn huệ hay tự cung cấp được cho mình. Người ta chỉ có thể tìm kiếm và nhận lãnh. Và bản chất của ơn này được mặc khải ở đây: ‘Này đây, chị sẽ thụ thai và sinh một con trai’. Để nhận hồng ân, ở đây phải có sự thụ thai Ngôi Lời Thiên Chúa, một thực tại thể xác chứ không phải chỉ là thiêng liêng. Maria khi chấp nhận lời Thiên thần thì đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa, và như thế Ngôi Lời mang xác phàm trong lòng Mẹ. Đứa trẻ mà Mẹ sinh ra cho thế trần là Thiên Chúa, như vậy mới đúng với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa: ‘Chị sẽ thụ thai và sẽ hạ sinh một con trai’. Con Thiên Chúa trở nên con loài người vì đó người ‘mẹ phàm trần sẽ trở nên Mẹ Thiên Chúa.
‘Và chị sẽ gọi tên Ngài là Giêsu’. Nếu tên của vị tiền hô đã giầu ý nghĩa, thì danh hiệu này còn hơn biết bao. Vì ‘Thiên Chúa là Ơn Cứu Độ’. Chúa Giêsu hẳn là Đấng mang lại ơn cứu độ. Do đó, sứ điệp của Thiên thần là sứ điệp của ơn cứu độ. Và chính ơn cứu độ đã xảy ra ở đây, đó là biến cố quyết định cho tất cả thời gian cứu độ.
Lời Thiên thần diễn tả một sự quả quyết, nhưng cũng là một lệnh truyền: ‘chị sẽ sinh con’. Người đang nghe nói, hẳn sẽ cộng tác bằng sự nhất trí của mình.
Như đối với vị tiền hô, thiên thần cũng tuyên bố về cá nhân và nhiệm vụ liên hệ.
Cá nhân: ‘Ngài sẽ làm lớn’, Ngài là Đấng vĩ đại tuyệt đối. ‘Chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao’. Và Ngài sẽ được gọi là ‘Con Đấng Tối Cao’. Không phải chỉ nhân loại mới gọi Ngài là Con, mà cả Cha trên trời, cũng gọi như thế.
Với tư cách là Lơì nội tại của Thiên Chúa, Ngôi Lời đúng thực là ‘Đấng được phán’. Chính bởi sự hiện hữu của việc ‘được phán’ mà Ngài là Con, và bởi sự hiện hữu của việc làm Con, mà Ngài ‘được đặt tên’ với ý nghĩa đầy đủ và dồi dào nhất.
Nhiệm vụ: ‘và Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngôi báu của Đavít, tổ tiên Ngài’. Làm con Đức Maria, và làm Con Cha trên trời kèm thêm quan hệ phụ tử với Đavít. Triều đại của Đavít tìm lại được vẻ huy hoàng đầy mới mẻ nhưng không phải vẻ hào nhoáng bên ngoài của một quyền hành thế trần. Đó là vẻ rực rỡ bên trong của vinh quang Thiên Chúa.
‘Ngài sẽ làm Vua nhà Giacóp cho đến đời đời: sự quả quyết này mạnh mẽ hơn và có trường độ lớn hơn vì thêm hai chữ ‘ đời đời’. Đó là vì nói tới hình thức của một vương quốc và một triều đại khác. Cái vòng khép kín của thời gian với sự trở lại chắc chắn của những biến cố cũ đã bị phá rồi: vì Thiên Chúa, Đấng điều khiển thời gian, đã can thiệp vào thời gian và kéo dài cho tới đời đời. Vương quốc được thiết lập, triều đại được tu chỉnh, sẽ là vương quốc và triều đại vĩnh cửu.
Một vương quốc thế trần bị thời gian giới hạn xem ra không sao có được ý tưởng gì để so sánh. Vua dân Do thái đấy, không cần ngai vàng vật chất, mà cũng chẳng cần triều thiên óng ánh, nếu Ngài vác trên vai cây thập tự, mang trên đầu mão gai, thì đó đâu phải là ngày tàn của vương quốc và triều đại Ngài, mà trái lại, đó là dấu hiệu ngày khai mạc đã đến, nền tảng đã vững.
‘Vương quyền của Ngài sẽ vô cùng tận’: vương quyền đó không hoàn tất trong không gian và thời gian. Hãy cố có một hình ảnh về Vĩnh cửu, ta biết ngay nó vượt ngoài tầm tay con người và vật thụ tạo. Như vậy, những lời nói của Thiên thần biểu hiện một lời quả quyết mạnh mẽ và long trọng, ý nghĩ mỗi lúc mỗi tiến hơn theo từng tiếng một, sâu như biển gầm, hùng vĩ như những rặng núi cao và những tiếng sấm vang.
Mới chợt nhìn, trong vẻ đơn sơ, câu trả lời của Đức Maria thật lạ lùng, hầu như là ngã lòng, của một chủ thuyết duy thực, nhưng laị bộc lộ một tâm hồn đáng thán phục ‘việc ấy xảy ra làm sao được, vì tôi không nghĩ tơí người nam’. Thái độ tinh thần này không còn là một sự sẵn sàng vui vẻ biểu lộ hẳn ra bên ngoài, và chấp nhận với tất cả hân hoan, mà chỉ là một sự chối từ vì quá kinh hãi hay một sự rút lui vì khiêm nhường không đúng chỗ.
Nó cũng giống thái độ của Giacaria. Đối với Maria, đương nhiên là mong muốn xảy ra chuyện mà Thiên Chúa đã loan báo và yêu cầu qua Thiên thần, chỉ có vấn đề là ‘cách thế’. Mẹ muốn và phải biết Mẹ phải làm gì, con đường Thiên Chúa chọn là con đường nào, khi thêm vào câu “không biết tới người nam’, đó chẳng qua là Mẹ muốn biết xem, theo Thánh ý Thiên Chúa, thì Mẹ phải lập gia đình thực sự với Giuse sao? Phải chăng Thiên Chúa đòi sự thụ thai và sinh con trong hôn nhân? Đức Maria thực sự đã đính hôn, Thiên Chúa muốn hôn nhân cử hành ngay và thụ thai Đức Giêsu bởi Mẹ liền sao? Hay Ngài muốn xảy ra cách khác? Đức Maria không đặt những điêù kiện, Ngài chỉ hỏi thôi, Ngài muốn nhận rõ Thánh Ý Thiên Chúa. Việc hoàn tất đối với Mẹ hẳn sẽ xảy ra theo sau.
Lần truyền tin thứ hai này của Thiên thần đã đi quá xa lần loan báo cho Giacaria: ‘Thánh Thần sẽ đến trên Người và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ chị’. Như vậy có sự tham dự của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: quyền năng Đấng Tối Cao, Ngôi Con và Thánh Thần, Thánh Thần đã bay xà trên mặt đất trong buổi đầu của thế giới, như nguyên lý tạo dựng. Cũng thế, Ngài sẽ bao phủ trinh nữ, để tạo dựng và sinh Đấng Cứu Thế. Con của Đức Maria là Con Thiên Chúa. Việc quyền năng Đấng Tối Cao bao phủ trong viễn tượng Kinh thánh nói tới việc Thiên Chúa hiện diện lạ lùng nhưng rất đặc biệt.
‘Bởi đó, trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’: Ngài không được gọi là ĐẤNG THÁNH, mà là Thánh.
Vì bản tính sinh ra cách trực tiếp Ngôi vị mà bản tính này thuộc về là chính Thiên Chúa. Trẻ này được gọi là Thánh, vì Ngài là Thánh trong tất cả ý nghĩa đầy đủ của hạn từ: ‘Chỉ có Chúa là Thánh’. Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng mà tất cả dân được chọn sẽ tái sinh trong Ngài, Đấng đã nhận nơi Giavê danh hiệu thân ái của Người Con. Ngài là Con Thiên Chúa vì Người Con từ nội tâm là Thiên Chúa sẽ có bản tính này của loài người như bản tính riêng của mình.
Maria không đòi một dấu chứng như Giacaria. Nhưng chính Thiên thần đã cho Ngài một dấu chứng: bà Êlisabét son sẻ đã sinh con trong tuổi già. Một việc thụ thai kỳ lạ sẽ là dấu chứng lạ lùng cho sự thụ thai ở đây, nhưng hoàn toàn khác nhau. Ở trên, tự bản chất là son sẻ, còn ở đây, son sẻ bên ngoài là do sự giữ đồng trinh: ‘tôi không biết đến người nam’. Làm bằng chứng cho lời của Thiên thần là một động lực sâu xa: ‘vì không có gì là không thể đối với Thiên Chúa’. Lời này dựa theo sách Sáng Thế (18,14): tiên báo cho Abraham rằng người vợ già cả Sara của ông sẽ thụ thai và sinh con. Đó là một điềm báo, một sự sửa soạn vho phép lạ đang thực hiện, ở đây, của việc thụ thai và sinh ra của Con thực Thiên Chúa đến để dẫn dắt dân Thiên Chúa. Gốc của bản văn cứ từng chữ phải nói là: ‘Vì Thiên Chúa có thể làm được tất cả những gì Ngài nói’. Tiếng ‘Thiên Chúa’ được Thiên thần thốt lên ở đây là một hạn từ diễn tả quyền năng, truyền khiến, động lực của ý chí Thiên Chúa. Không chỉ là lời mời gọi, nhưng còn là sự đòi hỏi và hơn nữa còn là hành động tác tạo của Thiên Chúa.
Vì thế, câu trả lời thứ hai và cũng là cuối cùng của Đức Maria mặc một vẻ vĩ đại hoà lộn với sự đơn sơ: ‘Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo như lời Ngài’.
Một sự tương phản cứng cỏi và thô sơ đã làm cho gần gũi giữa đầy tớ và chủ nhân, Thiên Chúa là người chủ không hơn không kém, và Người trở nên cao cả vào giờ phút này, đã chỉ nhận cho mình là đầy tớ. Đó chính là sự nhận thức khiêm hạ về một thực tại, một khoảng cách giữa Đấng Tạo hoá và tạo vật, giữa ý chí quyết định, tuyệt đối tự do, có quyền đòi hỏi và tạo dựng với ý chí được thỉnh nguyện, mà sự tự do hệ tại ở việc đặt mình vào ý muốn của Thiên Chúa để được chìm vào giòng nước bao la của Ngài.
‘Xin hãy thành sự cho tôi như lời Ngài’. Sự thực hiện có tính cách quyết định nhất của lịch sử này đã mở màn… ‘Xin hãy thành sự cho tôi’ vừa diễn tả sự sẵn sàng thụ động và sự chấp thuận chủ động. Thiên Chúa, khi ban cách thế thực hiện và hình thức tạo lịch sử, đã đặt vào đây yếu tố nhân loại. Cùng với câu hỏi: ‘điều ấy sẽ làm sao được?’. Là câu trả lời của Đức Maria: ‘Xin hãy thành sự cho tôi!’. Đây hẳn không phải do một sự vui mừng quá đỗi mà cũng chẳng do một lời cầu khiêm hạ, nhưng hoàn toàn là do bởi sự chấp thuận tự nhiên Thánh Ý Thiên Chúa, một khi đã nhận thức rõ ràng. Nhưng chính trong sự tự nhiên này, người ta thấy được vẻ lớn lao vĩ đại. Đối với Maria chẳng phải là ý riêng, cũng không phải vì ý chí cá nhân hay do tài lợi khẩu nào đưa đến mà chỉ do ý muốn và lời của Chúa.
‘Và Thiên thần cáo biệt’. Trong câu chuyện trên về Giacaria, chính ông rời đền thờ, còn ở đây Thiên thần biến đi. Từ đây phòng ở Nagiarét đã trở nên đền thờ. Sự ẩn dật im lặng của Êlisabét chỉ là một dấu chứng của sự im lặng sâu xa mà ở nơi đó trong cung lòng Đức Nữ Trinh, mầu nhiệm của Thiên Chúa được hoàn thành. Một sự tinh tế lạ kỳ, một vẻ cao sang trang trọng liên kết với vẻ đơn sơ trinh khiết làm chứng một vẻ đơn sơ tinh khiết làm chứng một vẻ vĩ đại thực sự của tạo vật cởi mở hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Lời loan báo này song song với lời loan báo trước. Tuy nhiên, không phải từ Kinh Thánh mà: MV4-B43
Lời loan báo này song song với lời loan báo trước. Tuy nhiên, không phải từ Kinh Thánh mà Luca vay mượn một trình tự như thế, nhưng từ văn chương Hy Lạp. Khi ấy, tư tưởng Hy Lạp Platarque đã xuất bản “Những cuộc đời sóng đôi” gồm hai mươi ba cặp tiểu sử; trong mỗi cặp, ông so sánh giữa một người Hy Lạp với một người Rôma để chứng minh rằng: dù người Rôma có cao cả bao nhiêu thì người Hy Lạp vẫn có cái gì vượt cao hơn. Thể loại văn chương mà Luca chọn ở đây là để cho ta tìm không phải những điều giống mà những điểm khác nhau, có mục đích để bày tỏ trong hai cậu bé ai vượt hơn ai. Sơ đồ những bài loan tin (xem phần sau) cho thấy khoảng cách giữa Chúa Giêsu và Gioan.
Hẳn nhiên là câu chuyện không diễn ra trong khung cảnh huy hoàng của đền thờ, nhưng khiêm tốn trong một thành xứ Galilê tại một tư gia. Tuy nhiên, lần này thì chính vị sứ giả từ trời phải ra đi, vào nhà Maria (c.28) và từ đó mà đi ra (c.38). Sự kiện mặc khải được trao cho bà mẹ tương lai chứ không cho người cha nữa, đánh dấu một khác biệt, tự nó không mang nhiều ý nghĩa lắm. Những mô hình của Cựu Ước thực ra cũng để cho phụ nữ xuất hiện. Có cái ý nghĩa hơn nhiều chính là sự đồng trinh của Đức Maria. Nhờ ơn Chúa, bà Êlisabét vừa thụ thai một con trai do bởi chồng bà; còn Maria mới chỉ đính hôn, cô chưa thể sống chung với Giuse và sắp thụ thai mà không có kết hợp phái tính. Việc Gioan sinh ra đã là kỳ diệu và đối với Chúa Giêsu điều đó còn kỳ diệu hơn.
Sự đồng trinh của Maria cũng lưu ý về một sự khác biệt lớn trong sơ đồ báo tin. Người thiếu nữ trẻ nêu vấn nạn trước sứ điệp từ trời cao, khi đặt một câu hỏi tương tự với câu hỏi của vị tư tế. “Việc ấy sẽ xảy ra như thế nào bởi vì tôi không có liên hệ tính dục”. Thế mà lần này, sứ thần lại không hề xem đó như một dấu hiệu thiếu niềm tin; Ngài đáp lại câu hỏi mà không phê bình, và cho Đức Maria một dấu chỉ, ngược hẳn với điều mà Giacaria đã nhận được, dấu chỉ ấy không phải là một hình phạt: người bà con của cô đã có thai. Chính là vì Đức Maria đang đứng trước một tình huống hoàn toàn mới mẻ từ căn tính trong Kinh Thánh, trong đó, không thấy nói đến chuyện thụ thai mà không có kết hợp phái tính, vị hôn phu của bà Êlisabét biết rõ lịch sử của Abraham giống trường hợp của ông. Như thế, hai việc loan báo song song khác biệt nhau ở đây, và cái thinh lặng bắt buộc của vị tư tế trái ngược với sự chấp nhận thanh thản của nữ tì Chúa, người đã suy phục Lời; và chỉ sau đó Lời đã được thực hiện. Đức Maria sẽ lại được nói tới bằng danh xưng nữ tì ở Lc 1,48, một từ ngữ mà Luca sẽ dùng ở chỗ khác để chỉ những thành viên của Hội Thánh (Cv 2,18; 4,29; 15,17)
Lời sứ thần chào Đức Maria (c.28) là một cái gì “hơn nữa” không có lời nào tương ứng khi báo tin cho ông Giacaria. “Kính chào cô! Người được ưu ái [của Thiên Chúa]. Chúa ở cùng cô!”. Thiên Chúa ưu ái cô thiếu nữ khi chọn cô làm mẹ Đấng Cứu Thế – nhưng cô chưa biết điều đó. Công thức “Thiên Chúa ở cùng cô”, đã được sứ thần của Chúa nói khi hiện ra với Ghêđêon (Tl 6,12); Thiên Chúa bảo đảm Ngài sẽ bảo vệ người mà Ngài giao một nhiệm vụ. Từ đó, ở câu sau, Đức Maria thắc mắc về ý nghĩa của lời chào. Và chỉ lúc sứ giả nói về việc Con Thiên Chúa (c.35) sẽ sinh ra, Đức Maria mới biết mình là Mẹ của Chúa (xem 1,43); như vậy công thức chào lại càng có giá trị phản hồi đặc biệt đối với độc giả.
Tên của sứ thần đã cho độc giả biết ngay từ lúc đầu: Gabriel như trong cảnh trước. Việc sai sứ thần đến nhà vị hôn thê của một người thuộc dòng tộc nhà Đavít nhắc ta nhớ tới việc hoàn tất lời hứa về Đấng Mêsia; nhưng Đức Maria không biết gì về gốc gác của sứ giả – điều này lại càng nhấn mạnh đến đức tin của Ngài vào lời sứ giả.
Sứ điệp từ trời liên quan tới em bé sắp sinh ra bị chia ra làm hai phần bởi câu hỏi của Đức Maria. Phần thứ nhất (c. 30-33) diễn tả chức vụ tương lai của Chúa Giêsu (Ngài sẽ nên cao cả và sẽ trị vì) bằng cách sử dụng những gì mà Cựu Ước nói về Đấng Mêsia thuộc dòng dõi Đavít. Cuộc đản sinh hoàn tất hai lời tiên tri quan trọng đối với Giáo Hội của Luca cũng như của Matthêu. Lời thứ nhất là của Is 7,14 (c.31) như trong bản Do Thái của câu này, chính người mẹ sẽ đặt tên cho con: Giêsu “Thiên Chúa cứu”, Luca không phiên dịch tên ấy cho độc giả biết nhưng lại gán cho tên ấy tước hiệu Đấng Cứu Thế ở 2,11. Lời hứa thứ hai là sấm ngôn của Nathan trong đó Thiên Chúa tuyên bố với Đavít: “Người sẽ con của Ta… ngai vàng của Người sẽ vững bền mãi mãi (2Sm 7,14.16): vì vậy con trẻ sắp sinh ra sẽ vừa là con vua Đavít vừa là con của Đấng Tối Cao (c.32)”. Tuy nhiên, việc thụ thai đồng trinh mang đến một sự điều chỉnh: không phải bởi Giuse, chính ông thuộc nhà Đavít (c.27), mà Chúa Giêsu là con của Đavít và vì thế được nắm vương quyền, nhưng hoàn toàn do ơn ban của Thiên Chúa.
Lúc ấy, Đức Maria thắc mắc về tình trạng hiện tại của mình, khi được báo tin và đặt câu hỏi về cách thức mà lời loan báo sẽ được thực hiện. Phần thứ hai của sứ điệp (c. 35-37) soi sáng trước tiên cho việc thụ thai đồng trinh, và cung cấp một lời đáp có tính cách Kitô học sâu xa hơn (c.35). Chúa Giêsu sẽ không chỉ là con của Đấng Tối Cao, Đấng ban cho Ngài vương quyền của Đavít, mà Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, bởi vì được sinh ra do quyền năng của Thiên Chúa qua tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài là Con Thiên Chúa bởi vì như Chúa Thánh Thần Ngài sẽ là Thánh, được dành riêng cho Chúa. Phần Kitô học này thiết lập một khác biệt chính yếu giữa hai cậu bé được thụ thai một cách kỳ diệu: Gioan sẽ là vị tiền hô và Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh thuộc dòng dõi Đavít. Còn hơn nữa: trong khi Chúa Thánh Thần tác động trên Gioan ngay từ trong lòng mẹ, làm cho ông trở thành vị ngôn sứ duy nhất vô tiền khoáng hậu (x. 7,26), thì cũng chính Thánh Thần ấy làm cho Đức Giêsu trở thành một Đấng hoàn toàn mới lạ do mối dây liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa.
Sau đó, sứ điệp từ trời nêu ra (cc. 36-37) một dấu chỉ về quyền năng Thiên Chúa: bà Êlisabét thụ thai Gioan giống như điều Kinh Thánh nói về bà Sara thụ thai Isaac (St 8,14). Và việc sứ thần nhắc đến tháng thứ sáu (cc. 26.36) cho phép nối liến chu kỳ của Gioan và của Đức Giêsu: Êlisabét là một người bà con với Đức Maria. Thông tin này là một mặc khải từ trời cho Đức Maria bởi vì Êlisabét vẫn còn ẩn mình (1,24)
Bà đã đắc sủng nơi Thiên Chúa": Kiểu nói này là một đặc ngữ sêmita; x. St 6,8: "Nhưng: MV4-B44
“Bà đã đắc sủng nơi Thiên Chúa": Kiểu nói này là một đặc ngữ sêmita; x. St 6,8: "Nhưng Noê đã được nghĩa trước mắt Giavê".
"Này bà sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai ...": Câu này song song với St 16,11: thiên thần của Giavê phán (với Agar): Này, ngươi có thai và ngươi sẽ sinh con ngươi sẽ gọi lên nó là Ismael, vì Giavê đã nghe thấu nỗi khốn cùng của ngươi". x. Tl 13,3-5
"Bởi thế hài nhi sẽ là thánh và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”: Trong Hy ngữ, cấu trúc của câu này khá tối tăm; B.J đã cố gắng làm sáng tỏ bằng cách thêm vào chữ "hài nhi" không có trong nguyên bản. Theo mặt chữ thì bản văn như thế này: "bởi thế thụ thai thánh" (I’engendré saint) sẽ được gọi là Con Thiên Chúa". Tuy vậy. tĩnh từ "thánh" khó có thể làm hình dung từ (épithète) cho tiếng "thụ sinh" vì nó không có quán từ (article), như văn phạm Hy lạp đòi hỏi (le saint engendré viết theo văn phạm Hy lạp thì phải là I’engendré le saint: hai quán từ). Nên có lẽ phải coi "thánh" như một thuộc từ (attribut) và bấy giờ câu nói trở thành: "thụ sinh sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa". Nhưng vẫn còn khó khăn là “Con Thiên Chúa" chẳng phải là sự nới rộng của ý tưởng thánh"! thật là lưỡng nan!
"Với Thiên Chúa, nào có gì lại là không có thể": Trong St 18,14, câu này giải thích việc cưu mang lạ lùng Isaac. "Tôi là tôi tá Chúa": x. R 3,9; làm 25,41. Ở đây nói đến đức tin (c.45) và tình yêu mến hơn là lòng khiêm nhượng, vì theo Thánh Kinh, được làm tôi tớ Chúa là một vinh dự lớn lao vô cùng.
KẾT LUẬN
Trong khi sự tiền hữu đời đời của Chúa Giêsu được Phaolô và Gioan long trọng giảng dạy, thì tử hệ thần linh từ lúc mới sinh của Người lại là giáo huấn đặc biệt của Luca, rõ ràng là trong bản văn hôm nay. Khi tập trung ngay từ đầu đời Chúa Kitô những đề tài liên quan tới các cuộc thần hiện sẽ đánh dấu từng chặng cuộc sống công khai và việc khải hoàn sau cùng của Người (so sánh c.35 với phép rửa Chúa Giêsu. Cuộc biến hình và việc phục sinh), ông muốn dạy ta rằng tước hiệu Con Thiên Chúa không phải Chúa Giêsu chiếm được sau này, nhưng đã đương phiên thuộc về Người ngay từ khi người
đến trong thế gian. Cùng với việc thụ thai đồng trinh là hệ luận, đó có lẽ là giáo huấn chính yếu của trình thuật truyền tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Sứ mạng của Maria nối dài và hoàn tất sứ mạng Israel. Maria là "thiếu nữ Sion" mà từ cung lòng, Đấng Thiên sai sẽ xuất hiện. Bà là nữ tỳ của Chúa", kẻ gồm tóm và làm cho đẹp hơn ơn gọi của dân Israel, tôi tớ Thiên Chúa, lẫn ơn gọi của các đại tôi tớ Ngài trong Cựu tước như Abraham. Giacóp, Môisen, Đavít, Salomon, Isaia và người Tôi tớ bí ẩn của Gioan trong Is 40-45.
2) Thiên Chúa đã có thể đặt Maria trước một sự việc đã rồi và sai thiên sứ báo tin rằng bà đã thụ thai bởi Thánh Thần. Nhưng Ngài đã muốn cần đến sự tự do đồng ý của Maria trong công trình cứu chuộc: không những vì lòng tôn trọng nhân vị của Maria, mà còn để làm cho bà trở nên kẻ hợp tác với Ngài hầu cứu lỗi nhân loại qua sự chấp thuận ý thức và tình nguyện.
3) Dacaria, khi được loan báo Gioan Tẩy giả sẽ sinh ra, đã xin một dấu chỉ để có thể tin vào tính cách xác thực của sứ điệp. Còn Maria tin ngay sứ điệp, chẳng xin dấu chỉ gì. Vấn nạn của bà không phải là một nghi ngờ nhưng là một lời xin soi sáng để tin hơn. Ta cũng thế, đức tin của ta phải hoàn toàn và tức khắc, nhưng cũng phải tìm cách soi tỏ ngần nào có thể bằng sự khiêm tốn cầu xin ánh sáng, bằng việc học hỏi hay ít nhất bằng đối thoại với linh mục. Ở dưới đất này, đức tin luôn có một phần tăm tối, đức tin của Maria cũng như đức tin của ta, nhưng càng vùng chãi và càng có tính cách nhân loại chừng nào thì nó càng sáng tỏ chứng ấy.
4) Thiên sứ cho Maria một lời giải thích. Nhưng rồi mầu nhiệm vẫn còn, "vì đường lối của thiên Chúa không phải là đường lối của ta". Tuy nhiên lời giải thích của thiên sứ sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của Maria, vì bà "ghi nhớ những điều ấy trong lòng để suy niệm" (2,19). Ta cũng vậy, những giáo huấn của Hội thánh qua bài giảng Chúa nhật và các lớp giáo lý không miễn cho ta hành vi đức tin. Song chúng sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của ta.
5) Vì lòng thương, Thiên Chúa vẫn cho Maria một dấu chỉ (việc bà Êlidabét son sẻ mà thụ thai) để xác nhận lời của thiên sứ và giúp lòng tin của bà dễ dàng hơn. Maria không cần dấu chỉ này vì bà đã tin lời thiên sứ, nhưng đây là một ân huệ thêm vào. Ta cũng vậy đôi khi Thiên Chúa gởi cho ta một dấu chỉ rất rõ về sự hiện diện hoặc ý muốn của Ngài (thí dụ ơn được an ủi thiêng liêng, hoàn cảnh quan phòng biến đổi cả hướng đi cuộc đời ...). Những dấu chỉ đó chẳng phải là tối cần cho đức tin, ta không nên chờ đợi chúng trước khi tín thác vào Chúa hoàn toàn. Nếu Ngài cho dấu chỉ chỉ vì lòng thương, ta hãy cảm tạ và khiêm tốn như Maria.
6) Khi lần hạt, ta lặp lại những lời thiên sứ đã ngỏ với Maria.
7) Maria hoàn toàn sẵn sàng thi hành ý muốn của Chúa, như một nữ tỳ đúng nghĩa. Bà không biết ý muốn ấy sẽ dẫn đưa bà đến đâu. Nhưng bà đã thưa vâng trong tin tưởng, yêu mến. Ta cũng vậy, phải sẵn sàng mền mỏng, phó thác cho đường lối Chúa Quan phòng. Ta không rõ ý muốn ấy sẽ mượn ngõ quanh co nào, nhưng ta biết chắc rằng đích điểm sẽ là sự thân mật với Thiên Chúa ngan bây giờ và chiếm hữu Ngài hoàn toàn trong vĩnh cứu. Ta phải phó thác cho ý muốn của Thiên Chúa với thái độ sẵn sàng, tin tưởng của Maria! Chừng đó ta sẽ có niềm vui thấy Thiên Chúa làm "những điều lớn lao" qua các tôi tớ hèn hạ của Ngài.
8) Thiên Chúa có thể làm cho cung lòng một trinh nữ sinh con, cũng như có sức hoán cải một tội nhân nên thánh: chẳng có gì mà Ngài không làm được.
Và nhờ lời xin vâng của Mẹ, lời hứa với David xưa kia nay đã mặc lấy xác phàm, một biến: MV4-B45
Và nhờ lời xin vâng của Mẹ, lời hứa với David xưa kia nay đã mặc lấy xác phàm, một biến cố vượt xa mọi trông đợi thường tình (Lc 1,26-38).
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Trong gian nhà khiêm tốn ở Nagiarét.
So sánh giữa việc truyền tin cho Dacaria và cho Đức Maria, ta thấy rõ địa vị của Đức Giêsu cao trọng hơn Gioan Tẩy giả rất nhiều.
Phải, sự việc không diễn ra trong sự huy hoàng của Đền thờ Giêrusalem, nơi sứ thần Gabriel hiện ra với Dacaria, nhưng một cách khiêm tốn "trong một thành xứ Galilê”, trong một gian nhà khiêm tốn ở Nagiarét, “khung cảnh tuyệt vời, trong đó mầu nhiệm cao siêu nhất lại sát cánh với sự nghèo khó trần trụi nhất" (J.Potin: "Đức Giêsu, chuyện có thật", Centurion, tr. 92). Sứ thần Thiên Chúa Gabriel dời gót đến gặp Đức Maria và "vào trong nhà Mẹ”.
Trái với tôn ti thứ bậc thời đó, Đức Maria được nêu tên đầu tiên như người nhận sứ điệp của Thiên Chúa. Thánh sử đã hai lần nhấn mạnh người thiếu nữ này là một trinh nữ? Còn Giuse, người đã đính hôn với Maria, được nói đến tên vì Đức Maria và được đề cập đến vì là "một người thuộc dòng tộc Đavid”. Chính nhờ ngài, Đức Giêsu mới thuộc dòng tộc Đavid một cách hợp pháp.
Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Maria bắt đầu với lời mời gọi hãy vui lên, một tên mới và một lời chào.
Lời mời gọi hãy vui lên: "Hãy vui lên, chứ không phải “ Kính chào bà" theo cách dịch trước đây. Ngày xưa, các ngôn sứ đã hô vang lời kêu gọi đó ở Giêrusalem (Soph.3,14; Joel 2,21; Zach. 9,9), mời gọi hãy vui lên vì Thiên Chúa đến hay vì Người hiện diện: "Hãy vui lên, hỡi con gái Sion vì Chúa ở vòi ngươi!”.
Tương lai loan báo cho Giêrusalem trở nên hiện tại cho Maria: Chúa ở "cùng bà" để ở cùng dân bà.
- Một tên mới: trong Kinh Thánh, những người lãnh nhận một sứ vụ thường được Chúa ban cho một tên mới. Danh hiệu này là: “Đấng đầy ơn sủng", "Đấng đẹp lòng Thiên Chúa”, tất cả có nghĩa là Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu đối với Đức Maria.
- Một lời chào: “Chúa ở cùng bà” Trong Kinh Thánh, lời chào này không chỉ được thốt lên ở đây, nhưng sứ điệp đi liền theo sẽ đem đến cho lời chào của sứ thần một ý nghĩa độc đáo. Đức Maria rất “bối rối" trước lời chào này, và Mẹ tự hỏi lời đó có nghĩa gì. Vì thế sứ thần tiếp tục nói rõ hơn điều ẩn ý trong câu đầu tiên.
2) Đấng "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" hoàn tất lời đã hứa.
Tiếp sau đó là sứ điệp về con trẻ sắp sinh gồm hai phần tách biệt nhau bởi câu hỏi của Đức Maria.
Phần một lấy trong Cựu ước nói về Đấng Mêsia nhà Đavid, phần này mặc khải chức năng của Đấng Mêsia: "Ngài sẽ nên cao trọng... Ngài sẽ cai trị...”. Việc Ngài sinh ra làm trọn hai lời tiên tri quan trọng:
Lời thứ nhất của Isaia 7,14 "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và ngài sẽ đặt tên cho con trẻ là Emmanuel”. H . Cousin lưu ý: “ Câu này trong văn bản bằng tiếng Do thái hàm ý chính người mẹ đã đặt tên cho con trẻ là: "Giêsu " (" Tin Mừng Luca", Centurion tr. 28).
Lời thứ hai là sấm ngôn của Nathan (bài đọc I), Thiên Chúa tuyên bố cùng Đavid: "Đối với Ta, nó sẽ là Con... ngai vàng nó sẽ bền vững mãi mãi". Sứ thần báo cho Đức Maria biết con trẻ sắp sinh ra vừa là con vua Đavid ("Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu David tổ phụ ngài), vừa là con Đấng Tối cao”.
Câu hỏi của Đức Maria: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”: Câu hỏi này sẽ đưa đến câu trả lời tâm điểm của sứ điệp.
- Phần hai làm rõ việc thụ thai mà vẫn còn đồng trinh, chứng tỏ một nền Kitô học sâu xa hơn là nhũng gì đã diễn giải cho đến bây giờ. Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà ": một cách nói thường được dùng trong Cựu ước, để chỉ ý nghĩa sự khởi xướng của Thiên Chúa, và Luca lập lại trong Công Vụ Tông đồ để loan báo lễ "Ngũ Tuần" (Cv 1,8: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi người ngự xuống trên anh em") .
"Quyền năng Đấng Tối cao sẽ bao trùm bà": Lời này chỉ về Thánh Thần, Đấng sáng tạo bay là trên mặt nước để ban sự sống lúc khởi đầu của vũ trụ (Gn 1,2).
Những gì Thánh Linh, Hơi Thở sáng tạo làm từ lúc khởi đầu vũ trụ, Ngài sẽ lại làm trong lòng Đức Maria: đó là sự thụ thai mà vẫn còn đồng trinh.
“Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. H.Cousin diễn giải: Đức Giêsu không chỉ là Con Đấng Tối Cao, Đấng ban cho Người vương triều Đavid, người được tuyên bố là Con Thiên Chúa, vì Người được tạo dựng bởi quyền năng vô cùng của Thiên Chúa trong hành động của Thánh Thần. Ngài là thánh, được Thiên Chúa chọn riêng. Nền Kitô học này thiên lập một sự khác biệt căn bản giữa hai người con được thụ thai lạ lùng: Gioan, vị tiền hô và Đức Giêsu. Đấng Messia thuộc dòng Đavid. Hơn nữa, khi Thánh Thần ngự xuống trên Gioan biến ông thành ngôn sứ ngay từ lòng mẹ, một ngôn sứ đặc biệt nhất trong các ngôn sứ, cũng chính Thánh Thần ấy đã làm cho Đức Giêsu trở thành một hữu thể hoàn toàn mới nhờ dây liên kết giữa người và Thiên Chúa" (Sđd).
Cuộc đối thoại kết thúc bằng lời "xin vâng" của Đức Maria, Đấng luôn sẵn sàng vâng lời sứ thần dạy. Cha Benoit kết luận: Chính Đức Maria là người đầu tiên đã hiểu lời tiên tri xưa, nay được thể hiện cách cụ thể và lạ lùng trong lòng ngài. Từ Đức Mẹ mà cộng đoàn trên khởi, tức Hội Thánh đã nhận được mầu nhiệm này, rồi Hội Thánh đã truyền lại cho các tín hữu... ".
Bài đọc thứ nhất của Chúa nhật này (2 Sam 7,1-16) cho thấy Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavid đã muốn xây dựng cho ngài, nhưng trái lại đã hứa cho ông một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavid. Lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên "hòm bia Thiên Chúa”, "đền vàng”, tại đây Con Thiên Chúa đến ở với loài người. Phải chăng đó là mặc khải của mầu nhiệm "được giữ kín từ muôn thuở nhưng nay được bày tỏ ra" mà bài đọc 2 hôm nay đã đề cập đến (Rm 16, 25-27)? (Xem "Assemblée du Seigneur", số 8, trang 49-50).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Đức Giêsu là ân huệ nhưng không đặc biệt của Thiên Chúa".
(L.Monloubou trong: Tin Mừng Luca, Salvator trang 57-58).
Người ta không được nhìn bài Tin Mừng này như một bài mẫu Đức Giêsu tuy cao sang, nhưng là phụ thuộc. Thực ra trang Tin Mừng này nói về chuyện khác. Nó dẫn ta đến chiêm ngường Mầu nhiệm Thiên Chúa: Thiên Chúa hiện diện như là người bạn đồng hành: Người “ở với" Maria như một người đối thoại thân tình. Người sai sứ giả người... Người nói". Đức Maria ngạc nhiên: "Làm sao chuyện ấy... Sứ giả trả lời... khi ấy Đức Maria nói... Lời Người … ". Người là Thiên Chúa bình an: "đừng sợ". Thiên Chúa của ân huệ nhưng không: "Ngài đẹp lòng... ơn cứu rỗi... đầy ơn sủng”.
Đây là một mặc khải cao trọng về mầu nhiệm Thiên Chúa mà sứ thần có sứ mạng loan báo. Bởi vậy, trang Tin Mừng này quảng diễn những suy tư của thánh sử về Thiên Chúa qua việc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Chính thánh sử nói lên đức tin của ngài qua việc tuyên xưng này: tin vào Thiên Chúa là Chúa, Chúa Trời, Đấng quyền năng...; tin vào Người Con là Đức Giêsu, Đấng vĩ đại, Con Đấng Tối Cao, Con vua Đavid, Con Thiên Chúa...; tin vào Thánh Linh: Chúa Thánh Linh, Quyền năng của Đấng Tối cao...
Trọng tâm chính là Đấng đóng vai trò then chốt trong tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại. Bởi vì Người là "Con vua David, do mẹ Người "đã đính hôn với một người thuộc nhà David" nên “Người được Đức Maria đặt tên là Giêsu, nhưng cũng chính Người còn được gọi là "Con Đấng Tối cao", thậm chí là "Con Thiên Chúa”. Hai cách xưng hô sau làm mọi người kinh ngạc, nhất là khi so sánh với những cách xưng hô trước. Những xưng hô ấy có ý nghĩa gì?
Chúng nói lên sự hiện diện: Thiên Chúa đang ở đây, Thần Khí Ngài "đến”, phù hợp "bóng" trên Maria, "bóng" nhắc lại bóng mây trong Cựu ước chỉ sự hiện diện đầy uy quyền của Thiên Chúa giữa dân Người (Xh 40,34-38, 1 R 8,10).
Chúng cũng nói lên một hồng ân cao cả vượt hơn hẳn những hồng ân xưa nay Thiên Chúa vẫn ban (...). Đức Giêsu là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại cách nhưng không. Hồng ân mà họ không hề mơ tới, đừng nói chi là ao ước.
2. "Ngày nay trình bày đức tin là đón nhận Đấng "Thiên Chúa ở cùng chúng ta"
(Mgr. Cl. Dagens trong: "Trình bày đức tin trong xã hội hiện tại", Kỳ họp HĐGM Pháp tại Lộ Đức 1994, Cerf, tr. 45-46).
Trước hết, tin vào Đức Giêsu Kitô không phải là sự hiểu biết cao siêu dành riêng cho tầng lớp ưu tú những người đã được khai tâm. Niềm tin này được trình bày cho tất cả mọi người, cách riêng những người nghèo hèn, nhỏ bé thực sự, những người nghèo hèn, nhỏ bé, những người đau ốm hoặc những người bị loại trừ là những người có thể sống như Đức Kitô một cách sâu xa bằng lời cầu nguyện và bằng của lễ là chính bản thân họ.
Đàng khác, kinh nghiệm đức tin này không nhằm vươn tới Thiên Chúa để chiếm hữu hay điều khiển Ngài. Hành vi đầu tiên của đức tin là đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa và Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mặc xác phàm và ở giữa chúng ta.
Thái độ cởi mở chính yếu này đối với Mặc khải và ân sủng Chúa đánh dấu hành trình thiêng liêng thâm sâu của Kitô hữu.
Là giáo dân hay tu sĩ cũng vậy, các tín hữu đều muốn nói lên điều này, đó là làm thế nào đức tin đã giúp họ có thái độ cởi mở với Thiên Chúa nhờ cầu nguyện hay lắng nghe Lời Chúa. Và ngày nay, những anh chị em nào đã trải qua thử thách về sự cô độc và cuộc sống bất định cũng thích nói đến tự do của con cái Thiên Chúa, tự do chúng ta luôn có thể đạt được một khi đã vượt qua sa mạc.
Hình ảnh của kinh nghiệm thiêng liêng trong đức tin Kitô giáo là: tiến vào giao ước, vào cuộc đối thoại, và vào mọi tương quan mà chính Thiên Chúa là người khởi xướng.
Một trong những cách chuẩn bị tốt nhất để mừng lễ Noel, đó là suy niệm trình thuật về biến: MV4-B46
Một trong những cách chuẩn bị tốt nhất để mừng lễ Noel, đó là suy niệm trình thuật về biến cố Truyền tin. Hiển nhiên là Thánh Luca đã ti.ếp xúc các môi trường Do Thái Palestin, nơi mà truyền thống và dòng họ Đức Giêsu vẫn được bảo tồn. Cũng có thể ông đã gặp riêng Đức Maria, Đấng hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19). Luca cho mình là sử gia, nên ông đã lo lắng tập tục là người đã được chứng kiến ngay từ đầu để tra cứu vấn đề đầu đuôi mọi sự trước khi viết ra" (Lc 1,2-3). Vả lại Luca là một nghệ sĩ tế nhị là người tường thuật tinh tế nhất trong bốn Thánh sử. Hơn chúng ta ngày nay, gần cận với những biến cố mầu nhiệm đã xảy ra, hẳn là Luca đã cảm thấy vấn đề khi sử dụng ngôn ngữ: phải dùng từ nào để diễn ta kinh nghiệm huyền bí đang sống động nơi một thiếu nữ đã thực sự thụ thai mang xác thịt Ngôi Lời Thiên Chúa, được Chúa Cha dự kiến từ thuở đời đời. Rất may Luca sử dụng truyền thống văn chương và thần học lâu đời của Kinh thánh. Vì vậy, ông viết "báo cáo" của mình rất trôi chảy theo khuôn khổ ngôn ngữ đã được Thánh Thần chuẩn bị rất tinh vi trong dân Israel. Bức vải vẽ cảnh Truyền tin được dệt bằng những “sợi chỉ" Kinh thánh. Khi nhận ra những sơi chỉ đó ta sẽ càng nhận thức được rằng, mạc khởi là một về huyền diệu của những kiểu nói, những hình ảnh, những dụ ngôn, nhằm diễn ta mầu nhiệm về Thiên Chúa khó hiểu thấu bằng ngôn ngữ loài người.
Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nagiarét, đế gặp một thiếu nữ…
Luca chủ ý đặt một đối nghịch giữa việc loan báo sự sinh ra đời của Gioan Tẩy Giả với cảnh Truyền tin sinh hạ của Đức Giêsu.
Trường hợp trên: Đó là Giêrusalem... trong đền thờ…với một tư tế ... ông này - không tin điều đó .
Trường hợp sau: Đó là Nagiarét... trong một ngôi nhà riêng... với một thiếu nữ... cô này hoàn toàn ưng thuận. Đúng vậy, Nagiarét là một làng nhỏ tầm thường. Theo các nhà khảo cổ, nó chỉ bao gồm khoảng 20 căn nhà, với 150 dân. cự.. Galilê cũng là một xứ bị người ta coi thường. Từ Nagiarét, thì có cái gì hay được?" (Ga l,46). Vẻ đơn sơ của căn nhà Maria ở, tương phản với vẻ trang trọng trong cuộc báo tin cho Giacaria, giữa khung cảnh hùng vĩ và thánh thiện của Đền Thờ, tại Giêrusalem, thủ đô (Lc l.,5-25).
Tôi dùng tưởng tượng chiêm ngắm Đức Maria trong căn nhà bé nhỏ nghèo nàn không ai biết đến, để suy niẹm sự khiêm hạ của Thiên Chúa nhập thể. Một ngày kia, thánh Phaolô sẽ nói: "Ngài đã làm cho mình hóa ra không, mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2,7).
Một thiếu nữ đã kết hôn với một người tên là Giuse, con cháu nhà Đavít. Thiếu nữ ấy tên là Maria.
Trong một đoạn văn không có gì là song đối với bản văn trên, Mát-thêu quả quyết cả hai chân lý lịch sử một trật: Quan hệ dòng dõi nhà ‘Đavít của bé thơ và tình trạng tinh khiết của mẹ em (Mt 1,18-25). Tên Yosephel có nghĩa là: "Xin Chúa thêm cho". Còn tên "Miryam" có nghĩa là: "Bà sang trọng". Tôi hình dung ra cảnh, những cô bạn, những thiếu nữ hàng xóm đang gọi tên "Miryam" tại giếng làng mà họ tới kín nước. Đó là một thiếu nữ hoàn toàn giản đơn, không có gì đặc sắc phân biệt cô với các bạn hữu khác. Tôi cũng hình dung ra cảnh hai người đã đính hôn đang âu yếm gọi tên nhau: "Miryam" ... "Yosephel"?
Sứ thần vào nhà cô và nói: "Kính chào bà, bà đầy ân sủng!".
Có lẽ chúng ta đã chờ đợi một lời chào như: "Kính mừng Maria!". Thế mà, thay vì Maria, sứ thần lại dùng "Đầy ân sủng" như một tên gọi. Cũng như trong nhiều trình thuật về ơn gọi, Thiên Chúa thường đổi tên cho con người. Maria trở thành "Đầy ân sủng" mà ta còn có thể là “Được Thiên Chúa sủng ái". Từ nay, trong tiếng Do Thái, gợi đến "kẻ yêu dấu”, "người được sủng ái" trong cuốn Diễm ca.
Kiểu nói Hy Lạp được sử dụng để chào nhau là "Kairé", thực sự mang ý nghĩa "Hãy vui lên" . Đó là một sự ghi nhớ lại Cựu ước (Xp 3,14; Dcr 2,14 - 9,9; Is 54,1). Các ngôn sứ yêu cầu "thiếu nữ Sion" hãy reo vui lên khi ngắm nhìn Đấng cứu độ mình đang tiến đến gần: "Reo vui lên! Nữ tử Sion, hãy vui lên". Và chúng ta biết, niềm vui đã là đề tài luôn được bàn đến trong Tin Mừng Luca. Vì thế, đây là lời đầu tiên Thiên Chúa gửi cho trần gian: "Hãy vui lên!" .
Thiên Chúa ở cùng bà.
Đó là kiểu nói Thiên Chúa quen dùng khi Người muốn trấn an nhưng kẻ Người mới gọi đảm nhận những trách nhiệm nặng nề (St 15,1; Xh 4,12; Tl 6,12-17). "Đừng sợ? Ta sẽ ở cùng ngươi! " . Trong phục vụ, vị chủ tế cũng thường lặp lại với ta lời cầu chúc này: "Chúa ở cùng anh chị em! " . Chúng ta có tin tưởng vào lời chào chúc đó không? Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Nghe những lời ấy, cô hoảng sợ, và tự hỏi không biết lời chào như vậy có nghĩa gì.
Ở đây nếu chỉ nhận thấy một phản ứng tâm lý, thì ta mới dừng lại ở khung dạng bên ngoài. Trong Cựu ước, bất cứ cuộc đưa tin nào cũng đều gây “sợ hãi" cả. Một lần nữa, đây là kiểu nói Kinh thánh, có nghĩa là: Hãy chú ý ở đây đang bàn đến mầu nhiệm? Những lời này chứa một ý nghĩa kín ẩn, cần phải khám phá? Thiên Chúa vẫn có đó! Đây là điều quan trọng! Thiên Chúa luôn là Đấng gây bối rối, xuất hiện bất ngờ và ở trong tình trạng kín mật... Thế nên, được mời gọi đến gần Chúa, con người dễ phát sinh cảm tình muốn lùi lại, run sợ trước vẻ thiêng thánh...
Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai... và đặt tên là Giêsu.
Luca sử dụng một kiểu nói có sẵn, rất nhiều lần được dùng trong Kinh thánh (St 16,11-17-19; Tl 13,5-7; Is 7,14). Này đây trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ đặt tên con trẻ là Emmamuel" . Lời sấm của Isaia từ lâu vẫn được hiểu theo nghĩa, việc hạ sinh Đấng cứu thế mà vẫn còn trinh khiết, như bản dịch Hy Lạp của 70 học giả xác nhận. Trong đó, ta thấy từ Hy Lạp "parthénos" (trinh nữ) chính xác hơn từ Do Thái "almah" (người nữ không lấy chồng).
Người sẽ nên cao cả, và thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Vua Đavít, tổ tiên của Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời,và vương quyền của Người sẽ vô cùng tận.
Maria thuộc lòng "lời tiên báo của Na than" (2 Sm 7,12-17) mà sứ thần gởi lại cho cô. Đối với chúng ta, đó là một thứ ngôn ngữ hơi bí hiểm. Những mọi người Do Thái đều hiểu lời đó theo ý nghĩa: Con trẻ này sẽ là Đấng cứu thế mà thiên hạ được loan báo và chờ mong.
Làm sao có chuyện ấy được; vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng.
Ý đĩnh của Luca thật là rõ ràng: ông không muốn để người ta phải nghi ngờ gì về sự trinh khiết của Maria. Thời đó, theo tập tục Do Thái, lễ đính hôn cho phép các người nam kết ước được hưởng mọi quyền lợi của kẻ làm chồng, kể cả những tương quan giao hợp... Luca loại bỏ giả thiết này. Maria đã cân nhắc suy nghĩ và chọn sống đồng trinh. Vấn đề đố khiến ta cần đi sâu vào trong tư tưởng và tâm hồn Maria. Cô đã tận hiến đời mình cho Thiên Chúa, trong một tình yêu huyền bí, tuyệt đối, chuyên nhất... như biết bao người khác vẫn làm từ lâu rồi? Điều đó không làm giảm giá trị bậc sống hôn nhân gì hết! Nhưng nó làm nổi bật một lý tưởng khác, là một số người có thể chọn lựa một cách hợp thức, như' sau này Đức Giêsu có đề cập đến (Mt. 19,12). Đàng khác, qua cuộc khám tìm nếp sống của nhóm người Essenien tại Qumraxl, giờ đây ta biết rằng, đó không phải là một lý tưởng xa lạ gì với Israel: vào lúc xảy ra các biến cố trên, lý tưởng sống độc thân tự nguyện tận hiến đã bắt đầu phổ biến rộng rãi.
Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và uy quyền Đấng tối cao sẽ che chở cho bà.
Chúng ta đừng tưởng rằng, Maria đã thấu suốt mầu nhiệm Ngôi vị của người con mình qua những định nghĩa tín lý trừu tượng. Không! Nhờ ý nghĩa của các hình ảnh và dụ ngôn Kinh thánh diễn tả, mà cô hiểu sự việc cách cơ bản thôi. Ở đây, Maria đứng trước một đề tài huyền diệu về "shekinah", hay "mây"; "bóng mát", dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thần khí bay lượn trên nước lúc khởi đầu để ban sự sống (St 1,2). Và đây là một cuộc tạo thành mới nới Đức Mària "mây" phủ kín trướng tao phùng trong bóng mát (Xh 40,35). Và giờ đây Maria trở nên nơi cư ngụ của sự hiện diện Tháp Chính dưới bóng của: mây trời" mà Thiên Chúa đã phán dạy Môsê (Xh 16,10). Khi Salômon khánh thành Đền thờ, năm 986, thì "mây xuống đầy nhà Chúa" (1 V 8,10). Đối với một nữ Do Thái, những lời của sứ thần đã gợi lên tất cả những điều đó.
Vì thế, hài nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng thánh, là con Thiên Chúa.
"Thần khí ... ", " Quyền năng... ", "Đấng thánh... ", "Đấng tối cao...".' Luca muốn diễn tả cho ta hiểu, ngay từ giây phút đầu tiên, nhân tính của Đức Giêsu đã được thần khí
Thiên Chúa thấm nhập. Ngôn ngữ đượm màu sắc Kinh Thánh. Ai không chấp nhận bắt đầu từ giới mức đó – giới mức của Đức tin - thì mới chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài trình thuật. Lạy Chúa, xin giúp con,biết dừng lại, sửng sốt mà thờ lạy, trước mầu nhiệm được diễn tả qua ngôn ngữ gợi ý trên đây. Trứng thụ thai trong dạ một người nữ, đó là một mầu nhiệm tuyệt vời,: vượt qua mọi định luật tự nhiên. Thánh Gioan sẽ nói: "Ngôi lời đã nhập thể" (Ga l,14). Ngày đó, ngang qua những gì đã biết nhờ vốn liếng Kinh thánh tại sao Maria lại không có thể hiểu, những gì sẽ xảy ra? Dẫu sao, chắc chắn đó chưa phải là điều rõ ràng trong những định nghĩa tín lý.
Này tôi là nữ tỳ của Chúa.
Thiên Chúa không thể đưa dẫn Maria tới chức năng làm mẹ mà lại không thông tin và hỏi ý kiến trước. Thiên Chúa không đặt chúng ta đứng trước một sự kiện đã rồi. Ngài tôn trọng lãnh vực tự do và trách nhiệm của mỗi người. Qua ngôn ngữ Kinh thánh trên, Maria đã hiểu rõ điều cốt yếu để dấn thân với ý thức đầy đủ về sự việc.
Nhưng ta cũng đoán được đó là "trong đức tin". Lạy Chúa, xin cũng giúp chúng con biết tin tưởng.
Đối với người Phương Đông chúng ta thì tấm lòng (hay trái tim) quan trọng và giá trị hơn trí óc: MV4-B47
Đối với người Phương Đông chúng ta thì tấm lòng (hay trái tim) quan trọng và giá trị hơn trí óc của một con người. Trí óc làm cho người khác nể trọng, còn tấm lòng làm cho người khác bị lôi cuốn và chinh phục.
Các bài Sách Thánh hôm nay đều cho ta thấy tấm lòng của Thiên Chúa. Bài đọc Sách 2 Sa-mu-en bộc lộ tấm lòng của Thiên Chúa đối với vua Đa-vít. Bài Tin Mừng -với câu truyện Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a- giúp ta hiểu hơn quyền năng và nhất là tấm lòng của Thiên Chúa đối với loài người nói chung và với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a nói riêng.
Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn mà đón nhận tấm lòng của Thiên Chúa! Đó là cách tốt nhất chúng ta mừng Lễ Chúa Giáng Sinh!
II. NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Bài đọc 1: Trích Sách 2 Sa-mu-en (2 Sm 7,1-5.8b.11-16): Đức Chúa.
1 Khi vua được yên cửa yên nhà và Đức Chúa đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, 2 thì vua nói với ngôn sứ Na-than: "Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải." 3 Ông Na-than thưa với vua: "Tất cả những gì ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì Đức Chúa ở với ngài."
4 Nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Na-than rằng: "Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít: Đức Chúa phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao?
8b Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. 9 Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. 10 Ta sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, 11 kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, Đức Chúa báo cho ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà.
16 Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi."
25 Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa 26 nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. 27 Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. A-men.
2.3 Tin Mừng theo Thánh Lu-ca (Lc 1,26-36): biết.
26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
30 Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"
35 Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. 37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."
38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
III. KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ GIÁO HUẤN CỦA THIÊN CHÚA
3.1 Dung Mạo của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?):
Ba bài Sách Thánh hôm nay đều giúp chúng ta khám phá ra tấm lòng cao cả của Thiên Chúa:
* Trong bài đọc 1: Thiên Chúa đã thể hiện tấm lòng cao cả của Người với vua Đa-vít là người biết nghĩ trước nghĩ sau: "Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải." Thật ra những gì vua Đa-vít đã làm cho Thiên Chúa có thấm vào đâu so với những gì Thiên Chúa đã làm cho ông: Từ việc Thiên Chúa đã cất nhắc ông, một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ít-ra-en cho đến việc Người đồng hành với ông, dẹp tan mọi thù địch, làm cho tên tuổi ông lẫy lừng và cho dân Ít-ra-en một nơi định cư yên ổn và sau cùng là Thiên Chúa ban cho ông một vương quốc (nhà) bền vững và dài lâu.
* Trong bài đọc 2: Thiên Chúa đã thể hiện tấm lòng cao cả đối với các Ki-tô hữu khi Người mạc khải mầu nhiệm khôn lường cho chúng ta.
* Trong bài Phúc âm: Thiên Chúa đã thể hiện tấm lòng cao cả đối với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và nhân loại khi sai sứ thần đến báo tin về kế hoạch Ngôi Lời nhập thể và cứu dộ.
3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là:
“Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
IV. ĐÁP LẠI THIÊN CHÚA
Để thực hiện giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta được gợi ý đáp lại tấm lòng của Thiên Chúa qua/bằng 3 việc làm cụ thể như sau:
4.1 Trước hết là tin và đón nhận mầu nhiệm cao cả mà Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta trong biến cố truyền tin, tức đón nhận chính Đức Giê-su là Đấng Thiên Chúa nhập thể làm người và sinh sống giữa trần gian.
4.2 Kế đến là sống với mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh của Con Một Thiên Chúa hay cụ thể hơn là sống với chính Chúa Giê-su là Đấng đã sinh ra trong máng cỏ Bê-lem.
4.3 Sau cùng là giúp đỡ những người chung quanh gặp được Đấng Thiên Chúa đã xuống trần để đem bình an và giải thoát cho mọi người.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
5.1 Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân trong Thánh Lễ:
5.1 «Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa» Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa vì Người đã mạc khải mầu nhiệm khôn lường cho nhân loại là Đức Giê-su, Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.» Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa vì Người đã tỏ quyền năng và tình thương cho nhân thế để mọi người chạy đến với Người mà tin tưởng phó thác trọn vẹn vào quyền năng và tình thương của Người!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.» Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Thiên Chúa cho mọi Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, các Hồng y, Giám mục, Linh mục và Tu sĩ nam nữ để mọi người sống vâng phục Thánh Ý của Thiên Chúa như Đức Trinh Nữ Ma-ri-a!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền” (Lc.1:38)
Bạn thân mến !
Trên đây là lời nói “Xin Vâng” mà Đức Maria đã thân thưa lên cùng Thiên Chúa trong ngày xứ thần: MV4-B48
Trên đây là lời nói “Xin Vâng” mà Đức Maria đã thân thưa lên cùng Thiên Chúa trong ngày xứ thần Gabrien truyền tin cho Đức Maria cách đây hơn hai ngàn năm về trước, ngày mà mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng trinh nữ Maria đã thực sự bắt đầu.
Khi suy gẫm về Mầu Nhiệm Nhập Thể, ta thường nghĩ ngay tới biến cố Chúa sinh ra ở Bêlem. Thật ra mầu nhiệm Nhập Thể đã bắt đầu ngay từ giây phút Truyền Tin, giây phút mà Đức Maria nói lên hai tiếng xin vâng trước Thánh Ý Thiên Chúa.
Với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác. Hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Maria đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới, đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi, đã đem lại cho muôn dân muôn nước niềm hy vọng và bình an.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tự hủy thân phận mình là Thiên Chúa, là đấng “tạo hoá” đầy quyền năng để trở thành một “tạo vật” với một hai tế bào nhỏ bé trong cung lòng Trinh Nữ Maria. Với hai tiếng “Xin Vâng”, Ngôi Lời đã trở thành một thai nhi, lớn lên trong lòng Đức Mẹ như bao nhiêu con người bình thường khác.
Mẹ Maria đã nói lời xin vâng để làm theo Thánh Ý Thiên Chúa trong ngày truyền tin. Mẹ Maria không chỉ nói lời xin vâng một lần với Thiên Chúa, không chỉ thốt lên một lần để thay cho tất cả, nhưng lời xin vâng đã đi theo suốt cuộc đời của Mẹ, đã liên lỉ gắn bó trong trọn một kiếp người.
Với hai tiếng xin vâng, Mẹ Maria đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, đã cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc. Từ tiếng “Xin vâng” đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời “Xin vâng” trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá Đức Giêsu. Mẹ đã chấp nhận đứng dưới chân Thập Giá để dâng hiến Người Con Duy Nhất của Mẹ lên cho Thiên Chúa Cha.
Không phải chỉ có Đức Maria được mời gọi, mà mỗi người chúng ta cũng đều được mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta hôm nay cũng đều được Thiên Chúa viếng thăm và truyền tin trong từng ngày, từng biến cố của cuộc sống. Ước chi ta có trái tim rộng mở của Đức Maria, có tâm hồn vâng phục trong khiêm nhường của người trinh nữ nơi thôn làng Nadarét để luôn biết “Xin Vâng” trước những lời mời gọi của Thiên Chúa.
Mùa vọng với biến cố Truyền Tin được nhắc đến trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, phải chăng đó lại là một “cơ hội thuận tiện” để tất cả chúng ta hăng hái lên đường đáp trả lời mời gọi của Tin Mừng : ăn năn sám hối, chay tịnh và chia sẻ.
Sống mầu nhiệm “Truyền Tin” phải chăng đó là biết can đảm để “xin vâng” trước lời mời gọi của Tin Mừng, “xin vâng” trước mọi nghịch cảnh của cuộc đời, “xin vâng” trước bệnh tật đói nghèo mà vẫn bình an thanh thản, “xin vâng” trước những đòi hỏi phải hy sinh, chối từ để giữ tâm hồn trong sạch, lương tâm công chính, “xin vâng” trước những bổn phận và trách nhiệm đòi hỏi phải đầu tắt mặt tối, tất bật vất vả với nước mắt mồ hôi, “xin vâng” khi phải cúi xuống để rửa chân cho anh em, hay phải đứng lên để can đảm bênh vực cho công bằng và chân lý, cho hòa bình và bác ái, cho dù phải mất mát thiệt thòi hay ngục tù tử đạo.
***
Lạy Mẹ Maria! xin Mẹ giúp chúng con luôn biết noi gương bắt chước Mẹ nói lời “xin vâng” trong suốt cuộc lữ hành trần thế này. Xin Mẹ cho con biết mở lòng và cộng tác với Ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen
DÙ TÔI LÀ TÔI TÁ ĐỨC CHÚA TRỜI , TÔI KHÔNG THỂ VÂNG NHƯ LỜI THÁNH THIÊN THẦN TRUYỀN
Ngươi dân Pháp hay nhớ về « một thời vang bóng » và vì thế thường sử dụng « điều kiện cách: MV4-B49
Ngươi dân Pháp hay nhớ về « một thời vang bóng » và vì thế thường sử dụng « điều kiện cách hoàn thành » (conditionnel parfait) giúp họ xây dựng những giấc mơ hảo huyền nhất với chữ « nếu ». Rồi người ta đặt tên cho kiểu mộng mơ nầy là « lâu đài ở Tây Ban Nha » (chateaux en Espagne) vừa để chế nhạo người, vừa để tự cười mình và hài hước với nhau : « Với một chữ ‘nếu’ thôi, thì người ta đã bỏ được cả Paris vào một cái chai »( avec un ‘si’ et l’on aurait mis Paris dans une bouteille). Tinh thần đó thể hiện cả nơi những người nghiêm túc nhất như nhà văn, nhà khoa học và nhà tư tưởng ở thế kỷ 17, Blaise Pascal, khi ông viết trong cuốn Tư Tưởng (Pensées) : «Nếu cái mũi của [nữ hoàng Ai Cập] Cléopâtre ngắn hơn, thì bộ mặt thế giới đã bị đổi thay » (si le nez de Cléopâtre a été plus court, la face du monde aurait été changée). Bộ mặt địa cầu và lịch sử cứu độ nhân loại sẽ đã như thế nào, có bị đổi thay đảo lộn chăng và Thiên Chúa có ‘phương án dự phòng ‘ khác chăng, nếu như thay vì lời thưa mà ta quen đọc thấy trong Tin Mừng, ngày truyền tin, Đức Maria đã nhã nhặn từ chối : « Dù tôi là tôi tá Đức Chúa Trời, tôi không thể vâng như lời thánh thiên thần truyền ». Điều gì sẽ xảy ra tiếp sau đó, không ai đoán ra được, nhưng cảnh tượng đọc thấy trong bài thơ ‘Ave Maria’ bất hủ của thi sĩ người Việt Hàn Mặc Tử có lẽ cũng xảy ra như thế : «Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabirel : khi Người xuống truyền tin cho Trinh Nữ, Người có nghe xôn xao muôn tinh tú?». Nếu quả có lời khước từ nầy, thì quả bom nó tạo ra cũng không thua kém - nếu không muốn nói là mãnh liệt hơn - lời « Fiat » của Mẹ.
Trong văn học cũng như trong nghệ thuật thứ bảy, vô số những câu truyện khoa học giả tưởng và viễn tưởng cùng với các chi tiết ly kỳ, hấp dẫn, được các tiểu thuyết và phim ảnh đưa ra. Những sự kiện và chi tiết ấy, ở vào thời điểm chúng được trình bày trên tiểu thuyết hoặc trên màn ảnh, nếu không bị coi là phản khoa học, thì cũng bị liệt vào những giấc mơ hảo huyền của con người. Các nhà phân tâm học sẵn sàng giải thích nguồn gốc ‘vô thức’, ‘tiềm thức’ của ‘ý chí bá chủ’ ( volonté de puissance) bị ‘dồn nén’ (frustration)nơi con người, ví dụ những ‘đồ án’ và phát minh của Leonardo Da Vinci, chuyện “ Hai mươi ngàn dặm dưới đáy biển” của Jules Verne, chuyện hoạt hình “Thám hiểm mặt trăng’ của Hergé với nhân vật Tintin. Khoa học đã làm nhiều hơn và xa hơn thế nữa. “Phong - Lao - Cổ - Lại “, không lâu trước đây là “tứ chứng nan y”, nhưng nay khoa học đã và sẽ chế ngự được chúng. Ngoài ra hằng ngày,hàng giờ trên khắp thế giới, có những sự kiện mà khoa học không thể nào giải thích được, đã xảy ra nhờ lời chuyển câu của Đức Maria hoặc của các vị thánh. Người ta gọi đó là ‘phép lạ’. Tất cả những điều nầy ít nhiều đều ở ‘điều kiện cách’ và tất cả đều đã thành hiện thực.
Tại sao lại cho rằng không thể xảy ra việc Cô Maria từ chối? Cô trinh nữ Maria hoàn toàn có thể khước từ lời mời gọi của Thiên Chúa vì nhiều lý do chính đáng, trong đó việc Cô đã quyết định từ thuở ấu thơ, là tận hiến thân xác linh hốn để tôn thờ Thiên Chúa, với sự tán thành của người hôn phu thánh thiện đáng kính Giuse. “Tu hội tại gia” đầu tiên nầy chắc chắn cũng rất đẹp lòng Thiên Chúa. Những “điều kiện cách hoàn thành” không thiếu trong Tin Mừng, tốt cũng như xấu, như khi Chúa Giêsu xót xa nói về Giu-dà : “thà nó đừng sinh ra thì hơn”(Mc 14,21); hay như khi Mac-ta thưa với Chúa Giêsu :” Nếu có Thầy ở đây, thì em con đã không chết’(Ga 11, 21). Giu-dà đã sinh ra và đã làm công việc bị muôn đời phỉ nhổ. Nhưng cậu em Lazarô của Mác-ta đã sống lại để muôn đời ngời khen tôn vinh Chúa. Sự khước từ của Cô Maria có thể không ai biết đến, vì không được ghi lại, nhưng cũng chắc chắn được Thiên Chúa tôn trọng, vì Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. ‘Nếu’ - lại thêm một ‘điều kiện cách hoàn thành’ - Cô Trinh Nữ Maria đã thưa “Fiat” trong đe doạ, bức bách (ví dụ như sứ thần có thể hé cho Cô Maria biết chuyện ông Zacharia bị câm do không tin lời sứ thần Chúa), thì dù Chúa Ngôi Hai đã ra đời, cũng đã không có giá trị cứu chuộc: không có tự do, không có sự cộng tác của con người, thì mọi ý định của Thiên Chúa cho con người không thể thực hiện được. Đơn giản là vì Thiên Chúa thực hiện mọi điều vì tình yêu vô biên, mà điều kiện sine qua non của tình yêu là luôn phải hai chiều và hoàn toàn tự do. Tất nhiên tự do có giá rất đắt khi con người sử dụng sai lệch tự do hoặc khi dùng tự do để làm điều sai trái, xấu xa. Khi ấy, con người phản bội chính Thiên Chúa. Đức Maria, vì vậy, chẳng những đã sử dụng tự do để luôn tìm Thánh Ý Chúa, mà luôn sẵn sàng thưa “xin vâng” với bất kỳ khi nào và trong bất cứ điều gì Chúa muốn Mẹ làm. Đơn giản vì với Mẹ Maria, đó là cách biểu lộ tình yêu và đáp lại tình yêu của Thiên Chúa.
“Tự do” là chọn lựa sống nghĩa tình mật thiết với Đấng Tạo Hoá ( x. St 2, 4b – 8;3,8), tuân giữ những gì là “cội phúc” nhưng cũng có thể là “dây oan’ cho loài người và cho bản thân (x. St 3, 2 - 7). ‘Tự do”, vì thế, là cái làm nên phẩm giá con người, phân biệt con người với những loài khác Chúa dựng nên. Hành động theo bản năng, nghiêng chiều về sự dữ, tức là con người tự hạ thấp mình ngang với thú vật, đồ vật, ngược với địa vị, số phận và mục đích mà Thiên Chúa đã muốn cho con người, khi dựng nên con người “theo hình ảnh Người” ( St 1, 26 - 31). Cũng có nghĩa là phản bội Thiên Chúa. Hình ảnh chiếc xe lửa với các toa vận hành trên hai thanh ‘ray’: Tự do không có nghĩa là bỏ đường ‘ray’ để vận hành trên con đường hoặc theo loại hình khác. Người ta cũng gọi những người có suy nghĩ và hành động sai lệch như thế, là “trật đường ray”! Đức Maria đã không thể từ chối, đã không thể nói khác với “Fiat”, bởi vì Mẹ đã tự do chọn đi theo Chúa, chọn dâng hiến trọn đời phục vụ Nhà Chúa, luôn tâm niệm thi hành Thánh Ý Chúa, bất kể lạ lùng, khó khăn đến đâu, bất kể nghịch lại tâm ý riêng của Mẹ thế nào. Mẹ đi trên ‘đường ray” thánh ý Chúa, phó thác cả đời sống của Mẹ cho Người Lái Tàu Toàn Năng, vì thế “Nhà Ga - Truyền Tin” chỉ là một chặng dừng như bao chặng dừng trước đó và sau nầy của Mẹ, trên con đường thực thi thánh ý Chúa, không phải để ngừng lại, mà là để tiếp tục cuộc hành trình xa hơn, về Bến Thiên Đàng. Tiếng thưa ”Fiat – Xin Vâng” là chuyện không thể khác được và hoàn toàn được thực hiện trong tự do.
Trong cuộc sống, với cách làm việc quan liêu nhũng nhiễu, người ta chẳng xa lạ với câu nói “dân cần, quan chẳng vội”. Nhưng trong cuộc sống đạo đức, thì biết bao lần thực tế ngược lại hoàn toàn : “quan cần,nhưng dân chẳng vội”.; “Cần” ở đây là Thiên Chúa muốn con người cộng tác để được cứu độ; “Cần” ở đây còn là Thiên Chúa muốn mỗi Kitô-hữu sống đức tin và làm chứng cho Chúa Kitô: nhưng con người - kể cả và nhất là Kitô-hữu - vẫn ơ hờ với lời mời gọi của Chúa, vẫn sống theo ý riêng mình, vẫn thấy mình “đủ” lý do và lý lẽ để lầm lủi tiếp bước đường mình đi.
Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống : khi con sống theo Chân Lý, đi theo Con Đường Chúa đã đi và chỉ dẫn cho con, thì trước mỗi sự kiện lớn nhỏ, trong mọi hoàn cảnh và biến cố xảy ra trong đời, con sẽ luôn có câu trả lời đúng đắn và hợp với Thánh Ý Chúa và mau mắn nhận ra để chối từ những gì không phải là Ý Chúa. Con sẽ có được Sự Sống đời đời. Đừng bao giờ để con mê muội, tiếc nuối và trì hoãn trong những ước muốn và hành động tội lỗi, ích kỷ, kiêu căng,. Con sẽ như bầy dê bên tay trái ngày Phát Xét Chung: ‘Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Ta..” (Mt 25,41). Đây chính là cuộc sống ở “điều kiện cách hoàn thành”!
Không phải đương không mà “Mẹ đã từng đáp ‘Xin Vâng’”: Được như thế, là vì – và chỉ vì - ”Mẹ đã từng sống ‘Xin Vâng’”. “Mẹ hãy cầu Chúa cho con sống cuộc đời ‘xin vâng’”.
Chúa nhật 4 mùa vọng (BĐ1. 2 Sam 7,1-5.8b-11.16; BĐ2. Rm 16,25-27; Lc 1,26-38).
Mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nay được tỏ bày cho nhân loại. Trong lịch sử Do-thái cũng: MV4-B50
Mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nay được tỏ bày cho nhân loại. Trong lịch sử Do-thái cũng như lịch sử ơn cứu độ, Vua Đavít và vua Solomon trị vì dân Do-thái ở Giêrusalem khoảng năm 1020-930 B.C. Khi đã dẹp yên loạn lạc vây quanh, dân chúng sống trong cảnh thái bình và an cư lạc nghiệp. Vua Đavít ngự trong cung điện sang trọng bằng gỗ bá hương nhưng Hòm Bia Chúa vẫn lưu giữ trong Lều Tạm bằng da. Chúng ta biết rằng Hòm Bia chứa đựng Manna và bia đá khắc ghi Mười Giới Răn. An cư trong miền Đất Hứa, vua Đavít đã gợi ý với tiên tri Nathan, xây một Đền Thờ để Hòm Bia Chúa và nơi Chúa hiện diện với Dân Ngài.
Sinh thời, Đavít chỉ là đứa trẻ chăn chiên ngoài đồng. Thiên Chúa đã chọn và gọi Đavít lên làm thủ lãnh Israel dân Chúa. Chúa đã đồng hành với ông trong mọi nẻo đường. Chúa ban cho ông muôn vàn ân sủng. Vua đã chiến đấu bảo vệ và chăn dắt đoàn dân của Chúa. Đavít đã quy tụ họ về một mối. Về cá nhân, đã có nhiều lần vua lỗi phạm đến Chúa nhưng nhờ lòng khiêm hạ thống hối, Chúa đã tha tội cho vua. Chúa còn hứa với Đavít rằng: Nhà của ngươi và triều đại của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Chúa. Qua lịch sử của Dân Do-thái, trăm năm về sau, các vị vua nối nghiệp dần dần sống sa đọa và từ bỏ Chúa.
Chúa luôn giữ lời đã hứa với Đavít là cho ngôi báu vững bền mãi mãi. Ngôi báu uy quyền này không phải là thế quyền cai trị mà là ngôi báu vĩnh cửu sẽ trao ban cho dòng dõi của vua. Qua dòng dõi Đavít, Thiên Chúa sẽ ban Đấng Cứu Thế để giải thoát dân khỏi vòng nô lệ tội lỗi. Chính Chúa Giêsu đã được xưng tụng là con vua Đavít theo nghĩa này: Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Đa-vít, Người đã cho xuất hiện. Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta (Lc 1,68-69).
Đi vào lịch sử của Dân Chúa chọn, Thiên Chúa đã từng bước vén bức màn mầu nhiệm để hướng dẫn lịch sử cứu độ. Ơn cứu độ rất cần thiết cho con người trong mọi thời đại. Thiên Chúa kiên nhẫn đợi chờ trong thời gian. Từ thời vua Đavít cho tới khi dòng dõi của ngài xuất hiện cách nhau cả một ngàn năm. Đã có biết bao nhiêu thế hệ đã qua đi trong thời gian của thiên niên kỷ. Chúng ta biết rằng không mấy ai sống qúa một trăm năm, vậy mà những lời hứa và chương trình cứu độ của Thiên Chúa đều có liên hệ với các thế hệ tiếp theo. Sự liên đới lịch sử ơn cứu độ là một công cuộc cứu chuộc liên tục từ dòng dõi này tới dòng dõi kia. Mọi biến cố của thời đại xảy ra đều liên quan đến chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã quan phòng.
Những sự tiên báo của các tiên tri dần dần được thực hiện một cách cụ thể trong thời gian và không gian. Thánh Luca đã ghi nhận sư kiện vĩ đại rằng Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít. Thánh Giuse thuộc chi họ Đavít sẽ là cha nuôi của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Vai trò của thánh Giuse rất quan trọng về mặt gia đình hợp pháp theo họ tộc. Trinh nữ Maria thụ thai Con Một Thiên Chúa là bởi phép Chúa Thánh Thần. Như thế, thánh Giuse đích thực là người cha nuôi dưỡng Chúa Giêsu. Thánh Giuse là đấng công chính được sống cận kề bên Chúa Con và Đức Maria là một đặc ân cao cả. Ngài đã yêu thương, bảo vệ và xây dựng gia đình thánh trong hạnh phúc. Còn ơn cao trọng nào quý báu hơn, thánh Giuse đã được phần tốt nhất. Mỗi người chúng ta cũng mong được đến gần bên Chúa, làm môn đệ của Chúa, làm chứng nhân cho Chúa và được sống trong ân tình với Chúa và mẹ Maria.
Trong cuộc truyền tin, mầu nhiệm được giữ kín, nay đã được tỏ bày. Đó là Mầu Nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa hạ thân làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Đức Maria đã cúi đầu xin thưa: Nầy tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền. Qua lời truyền bởi quyền năng Chúa Thánh Thần Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa đã đi vào lịch sử của con người. Lời xin vâng của Đức Maria đã mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại. Con Thiên Chúa đã đích thân hạ thế ban ơn cứu độ và giải thoát chúng sinh.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Rôma đã xác tín về mầu nhiệm nhập thể. Nhờ qua các tiên tri loan báo và các chứng nhân thông tri về ơn cứu độ cho các Dân Ngoại. Mầu nhiệm được tỏ bày và được rao truyền cho mọi người. Chính thánh Phaolô đã được mời gọi để loan truyền lời giảng dạy và cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô cho dân ngoại. Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta có sứ mệnh truyền rao chân lý phúc âm của Chúa. Sống chứng nhân niềm tin trong cuộc sống hằng ngày để giới thiệu Chúa tới mọi người, tới gia đình, xóm giềng, nơi làm việc và mọi nơi trong cuộc sống.
Ngày xưa Vua Đavít đã muốn xây đền thờ để lưu giữ Hòm Bia và là nơi Thiên Chúa gặp gỡ và hiện diện với dân Người. Ước mơ của Đavít không được hoàn thành, vì tay vua đã nhuốm máu của biết bao sinh mạng. Nhưng vua Đavít đã chuẩn bị mọi vật liệu quý giá cần thiết để người con là vua Solomon hoàn tất việc xây dựng đền thờ Chúa.
Khi đến thời, đến buổi, Thiên Chúa đã chọn riêng cho Con Một của Ngài một cung lòng không vết nhơ, không tì ố và không nhăn nheo, để xuống thế làm người. Sau lời ‘xin vâng’ của trinh nữ Maria, Thiên Chúa đã cư ngụ giữa loài người. Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Với sự khiêm tốn và hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa, Đức Maria đã được Thiên Chúa ban tràn đầy ân sủng. Đức Maria đã dâng lời ngợi khen: Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn (Lc 1,48-49). Đức Maria hoàn toàn phó thác vào sự quan phòng của Chúa. Maria dâng lời ca ngợi và cảm tạ vì Đấng Toàn Năng đã làm biết bao điều cao cả. Đức Maria nhận biết tất cả mọi hồng ân tuyệt vời đều do bởi Thiên Chúa.
Cùng như Đức Maria, trong những ngày Mùa Vọng, chúng ta hãy dừng lại đôi chút để suy nghĩ và nhận biết những hồng ân diệu vời mà Chúa đã ban cho chúng ta. Tất cả là hồng ân từ sự sống con người, niềm tin và cuộc sống. Chúng ta được biết Chúa, yêu mến Chúa và phụng thờ Chúa đã là một hồng ân. Chúng ta hãy sống từng giây, từng phút trong ân tình của Chúa. Tạ ơn Chúa vì muôn ơn lành Chúa đã đổ xuống trên chúng ta trong đời sống.
Lạy Chúa, những ngày Mùa Vọng sắp qua, niềm vui mong chờ Ơn Cứu Độ đã xuất hiện như vầng đông. Con Thiên Chúa đã giáng thế làm người. Một ngàn năm đối với Chúa như một ngày, Giáng Sinh năm xưa cũng là Giáng Sinh hôm nay. Chúng con cần chuẩn bị tâm hồn thật chu đáo để đón rước Chúa. Chúng con cũng thưa ‘xin vâng’ để Chúa ở lại với chúng con. Xin Chúa ban bình an cho chúng con.