“Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Có người đã được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: “Tôi không phải là Ðấng Kitô”. Họ liền hỏi: “Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?” Gioan trả lời: “Tôi không phải là Elia”. – “Hay ông là một đấng tiên tri?” Gioan đáp: “Không phải”. Họ liền bảo: “Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?” Gioan đáp: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: “Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?” Gioan trả lời: “Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi Gioan làm phép rửa. - Ðó là lời Chúa.
Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng là Chúa Nhật vui mừng. Đốt lên cây nến thứ ba màu hồng của Vòng Hoa Mùa Vọng. Mầu hồng là mầu của sự hy vọng vì ơn cúu độ đã gần kề. Phụng vụ lời Chúa hôm nay khơi dậy niềm hy vọng cứu độ trong dân thánh. Sau bao nhiêu năm lưu đầy xa xứ, dân Chúa chọn đã khổ sở vì làm tôi đòi, mất quyền tự do thờ phượng và bị ép buộc từ bỏ lề luật của Chúa. Nay Dân được giải thoát trở về Giêrusalem xây dựng lại đền thờ và thanh tẩy tâm hồn. Các tiên tri đã gióng lên lời an ủi là ơn cứu độ đã gần kề. Mọi người hãy ăn năn sám hối đón nhận lời hứa ban Đấng Cứu Độ.
Sách tiên tri Isaia từ chương 56-66, được đa số các nhà chuyên môn nghiên cứu Thánh Kinh xếp vào Sách Isaia Thứ Ba. Sách viết về hoạt động của dân Do-thái sau thời lưu đầy trở về khoảng năm 538 B.C. tại Giêrusalem. Căn bản thần học: Yahweh là Thiên Chúa, Ngài bênh đỡ người công chính và tiêu diệt kẻ hung ác. Người Do-thái không còn lưu đầy ở Babylon mà trở về Giêrusalem. Tiên tri diễn tả lời rao giảng qua một giọng điệu mới mẻ với dân Chúa. Tiên tri ghi nhận những nghi thức thờ phượng, ăn chay hãm mình, giữ ngày Sabát, dâng hy tế như là việc thờ phượng và mời gọi tập trung đời sống nơi Đền thờ Yahweh. Chúa sẽ phán xét những người tội lỗi đã chối bỏ tôn thờ Thiên Chúa.
Sách Isaia nhắc nhở mọi người rằng lời hứa của Thiên Chúa với các tổ phụ năm xưa vẫn còn có giá trị và mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối và quay trở về với Yahweh. Thiên Chúa luôn trung thành với lời đã hứa và chuẩn bị ban ơn cứu độ. Tiên tri Isaia loan báo về Đấng Cứu Thế: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đầy, phóng thích cho những người tù nhân; công bố năm hồng ân của Thiên Chúa (Is 61,1-2a). Chương trình cứu độ của Thiên Chúa được mạc khải một cách rất tiệm tiến. Hơn năm trăm năm trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, đã được các tiên tri, nhất là tiên tri Isaia loan báo một cách rất chi tiết. Đấng Cứu Thế là sứ giả bình an dẫn đưa nhân loại vào năm Hồng Ân.
Qua lịch sử ơn cứu độ, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri để loan tin vui phấn chấn lòng dân. Tất cả các tổ phụ, các tiên tri và dân Thánh đang mong chờ ơn cứu độ. Các tiên tri đã loan báo về vị thiên sứ đi trước để dọn đường cho Chúa. Vị thiên sứ đã đến trong hoang địa và mời gọi mọi người ăn năn sám hối. Vị tiền hô chính là thánh Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Chúa Giêsu Cứu Thế đã xuống trần gian cách đây cả 2000 năm. Ơn cứu độ được trao ban trước hết cho dân tộc đã được chọn. Đấng Cứu Độ đã đến, đang đến và sẽ đến. Chúa đã đến để giải thoát dân khỏi cảnh lầm than của sự dữ và sự chết là một biến cố vĩ đại đã xảy ra trong lịch sử loài người. Công cuộc cứu chuộc của Chúa có giá trị cho mọi thời, từ dòng dõi này tới dòng dõi kia. Đã có biết bao nhiêu thế hệ con người đã lãnh nhận hồng ân giải thoát. Ơn cứu độ được trao ban cho mọi người và ở mọi thời. Chúng ta không phải đợi đến ngày tận thế hay ngày phán xét để nhận biết ơn cứu độ. Ơn cứu độ phổ quát cho toàn dân.
Tuy nhiên, Đấng Cứu Thế đến cứu rỗi từng tâm hồn chứ không phải cứu rỗi một đám đông ồ ạt. Vì mỗi con người đều mang hình ảnh và là thụ tạo của Thiên Chúa. Mỗi một con người là một món qùa quí báu mà Thượng Đế đã an bài. Dù sống trong khoảng thời gian nào, mỗi người đều có thể hưởng nhờ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bởi thế niềm vui giải thoát được các tông đồ rao giảng khắp nơi. Mời gọi tất cả mọi người hãy ăn năn sám hối và hãy dọn tâm hồn cho ngay thẳng để đón nhận ơn cứu rỗi. Như thế, mọi tâm hồn công chính và tốt lành sống trong ơn nghĩa của Chúa đều có thể được đón nhận ơn cứu độ qua những cách thức khác nhau. Tiếng kêu trong sa mạc không bị giới hạn trong một khuôn khổ nào, nhưng mở rộng đến mọi nơi cho toàn thể nhân loại.
Thơ của thánh Phaolô tông đồ gởi cho giáo đoàn Thessalonica kêu gọi anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện và cảm tạ Thiên Chúa. Đừng dập tắt Thánh Thần nhưng nghiệm xét mọi sự và điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy vui mừng lên vì Chúa Giêsu đã ngự đến. Đấng Cứu Thế đến để giải thoát tâm hồn họ khỏi mọi ràng buộc của tội lỗi và sự dữ. Từ lời loan báo của các tiên tri tới việc Đấng Cứu Thế xuất hiện trên trần gian và ơn cứu rỗi trải dài qua mọi thời đại. Niềm vui của Dân Chúa vẫn trào dâng. Chúa Giêsu là Chúa của lịch sử ơn cứu độ.
Chúa Giêsu đã đến mang tin mừng cứu độ theo một ý nghĩa hoàn hảo hơn. Chúa giải thoát tâm hồn con người khỏi những ràng buộc của sự dữ. Chúa là ánh sáng thế gian. Ánh sáng soi dọi vào đêm tối của tội lỗi và lầm lạc. Chúa mở đường dẫn chúng ta vào con đường của sự thật và của sự sống. Chúa đến với trái tim yêu thương và chân thật. Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho sự sáng thật. Gioan là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi. Ông đã chu toàn sứ mệnh của người tiên hô. Gioan đã làm phép rửa sám hối và đã giới thiệu Đấng Cứu Thế cho mọi người.
Với tâm tình mòn mỏi đợi chờ, dân đi trong tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng. Họ đã nhìn thấy Đấng ban ơn cứu độ. Sau hai ngàn năm, giờ đây chúng ta hãy sống tâm tình tạ ơn, vì Chúa tiếp tục ban ơn cứu rỗi cho mọi tâm hồn. Niềm vui của sự mong chờ của những ngày Mùa Vọng sẽ qua mau và lễ Chúa Giáng Sinh đã gần kề. Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta hãy vui mừng luôn. Chúng ta không chỉ vui mừng khi tái lập những khung cảnh hang đá với đủ màu sắc lộng lẫy, các thứ trang trí đẹp mắt hay qùa cáp, tiệc tùng. Chúng ta vui vì Chúa đã ban ơn giao hòa và ơn tha tội cho nhân loại. Hãy chạy đến với Bí Tích Hòa Giải, chúng ta sẽ tìm được nguồn vui bình an đích thực cho tâm hồn. Niềm vui của sự thánh thiện và tinh tuyền. Niềm vui của hoan lạc và hạnh phúc. Chúng ta mừng vui vì Chúa tiếp tục ban ơn cứu độ cho tất cả những tâm hồn thiện tâm tìm kiếm Chúa,
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô chia sẻ rằng: Nếu Thiên Chúa không hiện hữu, đời sống sẽ trống rỗng, tương lai vô định. Và nếu Thiên Chúa hiện hữu, mọi sự thay đổi, đời sống chiếu sáng, tương lai rực rỡ và chúng ta sẽ có định hướng để sống.
Hãy dọn tâm hồn. Sám hối tội lỗi. Lãnh nhận hòa giải. Đổi mới cuộc sống. Hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô. Xin Chúa ban Ơn Cứu Độ!
Đoạn Tin Mừng mở đầu bằng một xác quyết phủ định: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Thế rồi tiếp theo đó trong chứng từ của Gioan, chúng ta còn gặp thấy nhiều phủ định khác nữa: “Tôi không phải là đấng Kitô!... Ông có phải là Êlia không – không phải!... Ông có phải là vị ngôn sứ chăng – không! “. Thì ra thế, lời chứng của Gioan về đấng Thiên Sai trước hết đã khởi đầu bằng những phủ định. Đối với một số người, đặc biệt những ai tưởng mình đã hiểu biết đủ, thì đôi khi để minh xác một đối tượng là ai họ cần trước hết nói rõ Ngài không phải là ai cái đã.
Chắc chắn rất nhiều người Do Thái cùng trông đợi đấng Messia hay Kitô - Người Được Sức Dầu, trong số đó phải kể các thầy tư tế và Lê-vi. Giới giáo sĩ này vẫn hướng dẫn dân chúng theo những gì họ đọc được trong Sách Thánh Cựu Ước: đấng Kitô - Messia sẽ đến phải là môt nhân vật đầy quyền lực thống trị, cao sang tột cùng và đầy Thần Khí, tức là đầy sức mạnh của Đức Chúa Gia-vê. Để đón tiếp một vị quyền uy như thế phải có nhân vật xứng tầm Êlia - người đã một mình ngăn cản vua A-háp, thách thức hoàng hậu Giê-dê-ben và tiêu diệt bọn sư sãi Ba-an trên đỉnh núi Cát Minh (I Vua 17), hoặc vị ngôn sứ tuyệt hảo tầm cỡ Mô-sê với sức mạnh giải phóng dân khỏi ách thống trị của Pha-ra-ô. Thế nhưng Gioan đã phủ nhận toàn bộ lối suy nghĩ này khi họ muốn gán cho ông những danh hiệu đó (cho dầu chính Đức Giêsu có ám chỉ ông là Êlia phải đến, có lẽ vì thái độ thẳng thắn ông lên tiếng tố cáo Hê-rô-đê loạn luân).
Gioan dứt khoát không muốn đặt mình thuận theo lối suy nghĩ đó. “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Ông không là đấng Kitô theo lối suy nghĩ của giới tư tế và Lê-vi đã đành, ông còn phủ nhận luôn vai trò tiền hô theo suy nghĩ họ có trong đầu. Ông nói rõ, quan niệm họ vốn có về đức Kitô - Messia sẽ không làm họ có thể nhận ra được Người, vì cụ thể Người đang ở ngay giữa họ, “Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” Nói lên điếu đó, hầu như Gioan yêu cầu chính các tư tế và Lê-vi phải bỏ hẳn lối suy nghĩ cũ về đấng Messia, điều kiện cần thiết để họ có thể nhận ra và đón rước Người.
Thế ra đôi lúc, nhất là đối với một hạng người nào đó, việc làm tiên quyết để đón đấng Messia không phải là từ bỏ đường tội lỗi để cải tà qui chính, mà lại là phải bỏ hẳn lối suy nghĩ cũ để khám phá ra dung mạo hay ánh sáng đích thực của Đấng phải đến. Phải chăng có một ứng dụng rất mới của sứ điệp dọn đường: “Thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3:5), cũng như lời kêu gọi “anh em hãy sám hối” (Mt 3:2); sứ điệp này chứa đựng một ý nghĩa vượt xa nội dung thuần luân lý mà nhiều người vẫn hiểu? Ánh sáng mà Hài Nhi Giêsu đem đến trần gian sẽ là một thứ ánh sáng rất khác lạ, có lẽ cho tới lúc đó rất hiếm người đã được nhìn thấy nó. Ánh sáng này chỉ dành cho các tâm hồn đơn sơ hèn mọn được thấy, các ‘A-na-wim’ (tôi tớ hèn mọn) của Gia-vê như Maria, các mục đồng, Si-mê-on và An-na…, vì đó là ánh sáng của một ‘Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian’ (Ga 1:29). Những ai vẫn bảo thủ quan niệm cố hữu về đấng Mét-si-a quyền uy cao cả và thống trị, như quân vương Hê-rô-đê, các thượng tế và thầy thông luật, sẽ chẳng bao giờ có thể nhận ra được Ngài đâu.
Như thế, ngoài sứ điệp thống hối tội lỗi để thanh tẩy tâm hồn vẫn thường nghe nhắc nhở, Mùa Vọng còn gởi tới một sứ điệp khác cấp bách không kém: hãy duyệt lại quan niệm tôi vốn có về đấng Kitô, về Thiên Chúa giáng trần. Nếu tâm trí tôi vẫn thường chỉ hướng tới Thiên Chúa như đấng quyền uy cao cả, thì Hài Nhi sinh ra khó nghèo trong hang bò lừa, hoặc sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi, hoặc tôi sẽ cố biến hang bò lừa ấy thành một nơi cao sang rực rỡ. Để nhận ra được ‘Chiên Thiên Chúa’ tâm hồn tôi không những phải sạch tội, mà còn phải đơn sơ và hèn mọn, nếu không Hội Thánh sẽ nói với tôi, giống như Gioan đã cảnh cáo các Tư Tế và Lê-vi: “có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” Có không rất nhiều tín hữu, trong số đó có cả linh mục và tu sĩ, dọn mừng lễ Giáng Sinh rất trọng thể linh đình, nhưng khi Người đến họ lại không thể nhận ra, vì trong thâm sâu cõi lòng họ vẫn chỉ muốn thấy một Thiên Chúa quyền uy thống trị và cao sang? Có thể lắm đấy, bản thân tôi cũng đã từng là một trong số đó, nếu không sớm được giác ngộ để thay đổi tận căn quan niệm tôi có về đấng Kitô Cứu Thế, Người Cha từ nhân và xót thương!
Lạy Hài Nhi Giêsu giáng sinh trong hang bò lừa nghèo hèn, xin hãy liệt con vào số các người hèn mọn của Gia-vê để con có thể nhận ra khi Người đến giữa và ở với chúng con. Xin gạt hẳn khỏi tâm trí con hình ảnh một Thiên Chúa công thẳng quyền uy, và thế vào đó là một Thiên Chúa từ nhân cứu độ; và cũng xin đừng bao giờ để hình ảnh này biến mất khỏi tâm trí lòng con, một hãy làm cho nó ngày càng đậm nét hơn. Lạy Mẹ Maria, kẻ hèn mọn tuyệt vời, xin giúp con như Mẹ nhận biết Chúa Hài Nhi. Amen.
Khi tìm hiểu về con người, người ta đưa ra rất nhiều định nghĩa. Một trong nhiều định nghĩa được ghi nhận: con người là một hữu thể tôn giáo, nghĩa là giữa con người với thần linh có mối tương quan. Tôn giáo, hay tín ngưỡng là kết quả tìm kiếm thiên chúa của con người. Dầu vậy, thần linh và con người không cùng một loài, nên người ta không thể hiểu biết được thần linh, nếu ngài không tự tỏ mình ra cho họ.
Đọc lại lịch sử cứu độ, tác giả thư gởi tín hữu Do Thái chỉ cách thức Thiên Chúa tỏ mình ra bằng nhiều con đường khác nhau “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các vị ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết đây, nghĩa là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta qua Người Con là Đức Giêsu Kitô” (Dt 1,1). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, nghĩa là thần tính Thiên Chúa kết hợp với nhân tính của Đức Giêsu, được sinh ra bởi một người đàn bà, sống dưới chế độ lề luật và bị chi phối bởi lề luật. Đón nhận thân phận của một con người bình thường đến độ người ta chẳng còn nhận ra Ngài nữa: Người đã bị liệt vào hàng tội nhân, bị kết án tử, bị nhổ khỏi đất kẻ sống. Nhưng nhờ những thương tích Người mà chúng ta hết thảy đều được chữa lành, được hưởng ơn tha tội và được sự sống đời đời.
Lời Chúa chủ nhật III Mùa Vọng phác họa chân dung Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta và mời gọi dọn đường đón Chúa trong tỉnh thức và sẵn sàng. Bài đọc I, trích sách Ngôn sứ Isaia, đề cập đến các sấm ngôn an ủi. Gọi là sấm ngôn an ủi, vì khi đó dân Chúa đang bị lưu đày bên Babylon: chẳng còn đền thờ, chẳng còn nơi dâng của đầu mùa lên Chúa, chẳng còn người lãnh đạo, bị quân thù áp bức mãi không thôi; Isaia được sai đến an ủi dân. Ông nói với họ: “Can đảm lên, đừng sợ. Thiên Chúa của anh em đây rồi, sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35, 4). Ngài đến trong quyền năng của Đấng được xức dầu để khai mở một kỷ nguyên mới cho Israel: kỷ nguyên của hòa bình thịnh vượng, của công lý được vãn hồi, nhân phẩm con người được nâng cao và mọi khát vọng của dân Chúa, nhất là của người nghèo được đáp ứng đầy đủ. Đấng ấy đến từ Thiên Chúa, được sức dầu và được sai đến với dân. Sứ vụ của Người là loan báo tin mừng cho người nghèo khổ, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho các tù nhân, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng của Thiên Chúa.
Người ta luôn tự hỏi: Đấng mà vị ngôn sứ mô tả ở đây là ai vậy? Thật, không có câu trả lời nào chính xác bằng câu trả lời của Chúa Giêsu khi Người vào hội đường ở Nazareth, người ta đưa cho người sách ngôn sứ Isaia, mở sách ra gặp ngay đoạn viết: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi...”, và Người xác nhận: hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe.
Bài Tin Mừng hôm nay chuyển tải cùng một nội dung: Chúa Giêsu là Đấng muôn dân mong đợi. Đọc lướt qua, độc giả có cảm tưởng đoạn Tin Mừng nói về Gioan Tẩy Giả vì cuộc phỏng vấn nhắm vào ông, nhưng tác giả rất thâm thúy đẩy lùi Gioan vào hậu cảnh khi đặt vào miệng ông lời tuyên bố: tôi không phải là Đấng Kitô, tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa và đơn giản chỉ là một kẻ dọn đường; nên những việc tôi làm chỉ mang tính tượng trưng: tôi rửa anh em bằng nước, còn Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần.
Thưa anh chị em, Đức Giêsu, Đấng Emmanuel, bởi sự chết và sống lại, đã thiết lập phép rửa trong Chúa Thánh Thần nhằm ban tặng tình yêu và sự sống cho cả thế gian: “Người đã tự hiến tế để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều bất chính, luyện lọc chúng ta thành dân riêng của Người, một dân nhiệt tâm làm việc thiện” (Tt 2, 14).
Con Thiên Chúa làm người ở cùng chúng ta là Tin Mừng vĩ đại nhất, tin vui tròn đầy nhất đáp ứng mọi khát vọng của kẻ kiếm tìm chân lý và sự sống. Bởi vậy, khi đón nhận Chúa Giêsu, Thánh Phaolô cảm nghiệm sâu sắc niềm vui ơn cứu độ. Trong thư gởi giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca, ngài không ngừng khuyến khích cộng đoàn: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi, hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” (1Th 5, 16, 18a). Phaolô tin rằng: Chúa Giêsu mới là người thánh hóa và gìn giữ anh chị em vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến.
Hiểu như thế, chúng ta mới thấy công cuộc dọn đường là do Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng linh hoạt và mời gọi chúng ta đối thoại với Ngài. Dọn đường hay đối thoại với Chúa Giêsu là nên giống Chúa nhiều hơn trong cử chỉ, lời nói việc làm. Đời sống luân lý, đạo đức cá nhân hoàn hảo phải đặt nền tảng trên Lời Chúa, bằng không nó chỉ có giá trị tạm thời. Chúng ta thâm tín điều này: nếu đời chúng ta có Chúa, chúng ta sẽ hoàn hảo hóa đời mình và hoàn hảo hóa môi trường xã hội, cộng đoàn nơi mình sinh sống.
Chuyện kể (trích góp nhặt): Chúa Giêsu đang hiện thân nơi một thầy trong tu viện.
Khi mới thành lập tu viện, các tu sỹ được mọi người hết lòng kính trọng, yêu mến vì sự thánh thiện của các thầy. Phần các tu sỹ cầu nguyện và chữa mọi bệnh tật cho dân. Tu viện được Chúa chúc lành nên phát triển rất nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhiều năm sau, tinh thần các thầy sa sút, chểnh mảng những bổn phận của tu viện. Hậu quả, người ta không còn đến hành hương để xin các thầy cầu nguyện và chữa bệnh nữa, vì các thầy khấn không được, chữa bệnh không khỏi.
Năm đó một cha được bầu làm tu viện trưởng, ngài quyết tâm phục hồi tinh thần của đấng sáng lập tu viện. Ngài tìm đến một đạo sỹ để hỏi nguyên nhân tại sao tu viện sa sút như vậy. Vị đạo sỹ không giải thích mà nhắc: trong tu viện của cha có một người là Chúa Giêsu đang hiện thân nơi một thầy. Cha về tìm xem ai để hỏi, Ngài sẽ dạy cho cách phục hưng tu viện.
Trên đường về, vị tu viện trưởng nghĩ: chắc không phải là mình vì xét bản thân thấy yếu đuối nhiều hơn nhân đức. Ngài quyết định loan báo tin đó cho các thầy. Ai cũng tự thấy mình không phải là Chúa Giêsu, mà nghĩ người anh em bên cạnh mình mới là Chúa. Vì không biết chắc là ai, nên tốt hơn hết cứ kính trọng, yêu mến, phục vụ... để khỏi bất kính với Chúa Giêsu. Cứ như thế một thời gian tu viện lại nổi tiếng về sự thánh thiện. Các thầy lại cầu nguyện và chữa bệnh có hiệu lực như trước. Lúc bấy giờ họ mới vỡ lẽ: nhìn nhận Thiên Chúa nơi tha nhân là cách tốt nhất để thánh hóa bản thân và môi trường nơi mình sinh sống.
Xin cầu chúc quý cố ông bà, anh chị em về nhà nhìn thấy Chúa Giêsu nơi những người thân thương của mình để sống hiệp nhất yêu thương. Chính nơi điều này chúng ta đang dọn lòng đón Chúa cách tích cực và hiệu quả nhất. Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật III Mùa Vọng hôm nay. Amen.
1. Có một người Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến làm nhân chứng để làm chứng cho ánh sáng. Ông không phải là ánh sáng, nhưng đã được gửi đến làm chứng về ánh sáng đó. Và đây là lời chứng của Gioan, khi người Do Thái gửi các “chuyên viên” từ Jerusalem đến hỏi ông: “Ông là ai?”. Gioan thú nhận, không phủ nhận, “Tôi không phải là Đức Kitô” – Tôi không là Đấng cứu thế, cũng không phải là nhà tiên tri. “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn con đường của Đức Chúa, như tiên tri Isaia đã nói”.
Trước mặt ông là sa mạc hoang vu, và nơi ấy Gioan đã lắng nghe Lời Chúa. Đến với ông là mọi người thuộc nhiều tầng lớp và là những ai muốn đổi mới cuộc đời. Gioan Tẩy giả loan báo và dọn đường bằng lời nói và bằng hành động nơi cuộc sống của chính mình.
Gioan Tẩy giả bị “hạch hỏi” vì những gì mình đang làm nhân đanh Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn dùng con người – các ngôn sứ - để nói về Ngài và nhờ họ dẫn đưa nhiều người về với Thiên Chúa. Cũng vì thế, lý chứng hay nhân chứng về Thiên Chúa không phải được con người đón nhận luôn luôn. Người ta có thể chất vấn, tra hỏi và xua đuổi các chứng nhân Tin mừng.
2. Tin mừng tuần này theo Thánh Gioan cũng nói đến ánh sáng và làm chứng cho ánh sáng. Cuộc tranh đấu giữa thiện và ác, tốt và xấu, ánh sáng và bóng tối vẫn luôn diễn ra trong và ngoài bản thân mỗi chúng ta. Bây giờ chúng ta đang bão hòa với “tin xấu” và sự dửng dưng, vô cảm. Chỉ cần nghe vài thông tin là người ta có thể rơi vào tình trạng “trầm cảm”. Đây là tin chiến tranh, này là tin cuộc sống “có vấn đề” của giới trẻ; nọ là tin bạo lực vô cớ đối với phụ nữ và trẻ em, kia là tin gia đình tan nát vì muôn vàn lý do ngô nghê.
Cần chăng những tin vui và bình an được loan đi! “Tin mừng của Thiên Chúa”, đây không phải là một kiểu chơi chữ. Lời mở đầu khi đọc Lời Chúa là “Tin mừng”. Con người luôn mong đợi được nghe một điều tốt lành ở giữa rất nhiều tin tức xấu. Sự xuất hiện của tình yêu Thiên Chúa nơi Đấng an ủi và hoà giải mọi người luôn là một tin tốt lành.
3. Theo gương Gioan, chúng ta có thể là một sự hiện diện chứng tá. Cũng giống như Gioan Tẩy Giả, mục đích rao giảng của ông không phải là để thu hút sự chú ý của mọi người về phía mình và để chiếm toàn bộ thế giới cho riêng mình, nhưng là để chuẩn bị một không gian rộng lớn hơn nơi tâm hồn mọi người, và toàn bộ không gian ấy thuộc về Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có Ngài mới là “ân sủng tràn đầy của Thiên Chúa”, và Ngài sẽ xuất hiện cho chúng ta trong tất cả vẻ huy hoàng rực rỡ, như ánh sáng rọi vào đêm tối.
Bạn và tôi có thể chuẩn bị và làm sạch sẽ không gian bụi bặm của tâm hồn mình để ánh sáng của Chúa có thể rọi chiếu vào. Bạn và tôi có thể làm chứng cho Ngài trong tuần lễ này bằng lối sống chân thực và khiêm nhường được chăng? Hãy thắp lên một ngọn nến nhỏ khi bạn cầu nguyện trong tuần này, một dấu hiệu cho thấy chúng ta đang tỉnh thức. Ngọn nến thắp sáng cũng là một dấu hiệu của ánh sáng đã rọi chiếu vào chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Trong Mùa Vọng này, bạn được mời gọi để xem lại rằng ánh sáng ấy đang trở nên mờ nhạt hay không. Hãy xin Chúa giúp bạn cảm nhận được vẻ đẹp và sự ấm áp của ánh sáng đã đốt cháy tâm hồn bạn, để bạn cũng có thể làm sinh động, chiếu sáng và sưởi ấm những người gần gũi với bạn. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến với chúng con. Vì Ngài là ánh sáng của thế giới, xin hãy chiếu sáng tâm hồn chúng con. Amen.
Vào thời Chúa Giêsu tại thế, người ta đã chán ngấy tình trạng xã hội suy đồi bên đất Pa-lét-tin. Đời sống những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự thì truỵ lạc. Còn trên bình diện chính trị thì đất nước của họ bị phân chia và bị đế quốc La mã cai trị, nên họ mong đợi Đấng Cứu thế đến hơn bao giờ hết.
Và theo quan niệm của dân chúng, thì Đấng Cứu thế đến sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ người ngoại bang, khiến cho đất nước của họ trở nên giàu mạnh, và dân tộc họ vượt lên hàng bá chủ hoàn cầu. Vì thế sứ điệp rao giảng sám hối của Gioan tiền hô để dọn đường cho Đấng Cứu thế đến đã làm khơi dậy một niềm vui phấn khởi của dân Do thái. Sở dĩ có như vậy là vì qua bao nhiêu thế hệ, họ đã bị quyền lực ngoại bang áp đảo: dưới ách thống trị của đế quốc Ba tư, dưới ách nô lệ của người Ai cập, dưới ách đô hộ của dân Xyria và dưới ách cai trị của đế quốc La mã.
Một nhóm người, chán nản cảnh suy sụp và vô luân trong xã hội, rút lui vào sa mạc Qumran xứ Giuđê gần Biển Chết, tuyên thệ để tài sản làm của chung, sống đời cầu nguyện, chiêm niệm và học hỏi Thánh kinh. Theo suy đoán có căn cứ thì ông Gioan tiền hô thuộc nhóm người sống trong cộng đồng tu này vì khi rao giảng phép rửa thống hối, ông ta xuất hiện từ sa mạc xứ Giuđê. Như vậy nếu theo quan niệm của quần chúng về đấng cứu thế, thì ông Gioan tiền hô cũng có thể mạo nhận cho mình là đấng Cứu Thế, nhất là sứ điệp rao giảng của ông có sức lôi cuốn mãnh liệt. Tuy nhiên khi dân chúng cử một số thượng tế và các thầy Lêvi đến hỏi xem ông là ai, thì được ông trả lời: Tôi không phải là Đấng Kitô (Ga 1:20). Hay ông là ông Êlia chăng? Tôi không phải là Elia (Ga 1:21). Vậy ông có phải là vị một ngôn sứ không? Tôi cũng không phải (Ga 1:21). Và ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường ngay thẳng cho Đấng cứu thế đến như ngôn sứ Isaia đã loan báo (Ga 1:23).
Những người tư tế được cử đến hỏi Gioan hẳn phải biết ông Gioan không phải là nhân vật tầm thường bởi vì cha ông là Dacaria cũng là một tư tế được thấy hiện tượng lạ trong Đền thờ về ông Gioan. Thế mà ông Gioan chỉ trả lời cách trung thực và khiêm tốn như vậy. Rồi mấy người Pharisêu trong nhóm lại hỏi tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô. Gioan trả lời: Tôi làm phép rửa trong nước... Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1:26-27).
Tại sao dân chúng lại hỏi xem Gioan tiền hô có phải là Êlia không? Thưa lí do là thế này. Theo ngôn sứ Malakhi, thì ngôn sứ Êlia sẽ trở lại trước khi Đấng cứu thế xuất hiện (Ml 3:23). Nhiều người đương thời Chúa Giêsu cũng tin như vậy, chẳng hạn như các kinh sư (Mt 17:10; Mc 9:11). Họ tưởng rằng Gioan là Êlia tái xuất hiện vì ông cũng bận giống như ông Êlia: Mặc áo lông lạc là, thắt lưng bằng giây da (Mc 1:6; 2V 1:8) và khi rao giảng, giọng nói của ông cũng như thét ra lửa. Khi Chúa Giêsu nói Gioan chính là Êlia (Mt 11:14; 17:12-13, Mc 9:13), Chúa muốn nói Gioan đến trong tinh thần của Êlia. Đó chính là điều mà sứ thần của Chúa nói về Gioan tiền hô là con của ông Dacaria như sau: Cháu sẽ đi trước mặt Người, đầy thần khí và uy quyền của ngôn sứ Êlia (Lc 1:17). Và tại sao họ còn hỏi xem Gioan có phải là vị ngôn sứ không và họ ám chỉ về ngôn sứ nào? Thưa sự thể là thế này. Sách Đệ Nhị luật có bàn đến một vị ngôn sứ sẽ xuất hiện giữa họ để giúp họ (Đnl 18:15). Căn cứ vào đó mà họ mong đợi vị ngôn sứ đến giúp họ tham dự vào kỉ nguyên của Đấng Thiên sai.
Theo tông đồ thánh sử Gioan, thì ông Gioan tiền hô được sai đến làm chứng về ánh sáng (Ga 1:7, 8). Đó là ánh sáng cứu độ trần gian, ánh sáng ban sự sống và ánh sáng chân lí. Đó là ánh sáng giải thoát đã được ngôn sứ Isaia loan báo hơn năm trăm năm về trước cho dân chúng đang bị lưu đầy bên Babylon. Bấy giờ ngôn sứ Isaia có thấy rõ được ý nghĩa trọn vẹn và thực sự của cuộc giải thoát hay không, thì không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là khi mở đọc bài sách Isaia hôm nay (Is 60:1-2) trong hội đường Nadarét, Đấng cứu độ trần gian công bố là Người đến để hoàn tất lời tiên tri này. Còn Gioan tiền hô chỉ đến để làm chứng cho ánh sáng giảỉ thoát và cứu độ mà thôi.
Giả sử Gioan tiền hô qui công về cho mình, cũng khoe khoang, mạo nhận mình là Đấng cứu thế, thì ông đã mất hết công nghiệp trước mặt Thiên Chúa. Theo Thánh kinh ghi lại thì Gioan tiền hô đã nhận chân được vị thế của mình trước mặt Đấng tối cao. Ông chủ trương Đấng Kitô phải rạng rỡ thêm, còn ông phải lu mờ dần đi (Ga 3: 30) nghĩa là Đấng Kitô phải được vinh danh, còn ông phải lui vào bóng tối.
Bài học mà Gioan tiền hô dạy ta sửa soạn đón mừng Đấng cứu thế đến là biết chấp nhận: chấp nhận sự thật về mình, chấp nhận vị thế, thế đứng và giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về cho mình cái mà mình không có, điều mà mình không làm. Hôm nay Giáo hội dùng những bài Thánh kinh chứa đựng những lời lẽ khích lệ, bảo ta hãy vui lên, vì ngày giờ cứu rỗi đã gần. Còn Gioan tiền hô thì dạy ta làm sao để tạo cho mình niềm vui chấp nhận để dọn đường đón mừng Đấng cứu thế. Là người tín hữu ta phải học hỏi với Gioan tiền hô để nhận biết mình, chấp nhận bản thân và hoàn cảnh. Nếu không, ta có thể trở thành những người bất mãn. Thái độ bất mãn sẽ làm cản trở cho việc Chúa đến trong tâm hồn.
Vậy chỉ khi nào ta bằng lòng chấp nhận vị thế, chỗ đứng, giới hạn của mình trong tâm tình biết ơn Đấng tạo dựng, ta sẽ có được tâm hồn ai vui, không bận tâm về mình, để có thể mở rộng tâm hồn đón mừng Đấng Cứu thế.
Lời cầu nguyện xin cho được biết vị thế của mình:
Lạy Chúa, Chúa là Đấng sáng tạo muôn loài muôn vật. Xin cho con nhận thức được rằng: Con chỉ là đất sét, còn Chúa mới là thợ gốm. Chúa muốn con thành dụng cụ gì, là do bàn tay tác tạo của Chúa. Như Gioan tiền hô, không mạo nhận, xin dạy con biết sống trung thực với lòng mình, để con cảm nghiệm được niềm vu i đón chờ Chúa đến. Amen. ------------------------------
Lúc màn đêm bắt đầu buông xuống, trên các nẻo đường biết bao công nhân vệ sinh đang lao động miệt mài. Từng nhát chổi của họ như là một sự cộng tác với thiên nhiên trả lại cho thành phố một bầu không khí trong lành. Dù công việc của họ âm thầm, nhỏ bé nhưng họ luôn ý thức rất rõ về công việc mình làm, mục đích họ đang vươn tới, và do đó họ đã tìm được niềm vui, một niềm vui thanh khiết và đáng quý. Bên cạnh đó, hằng đêm tại các vũ trường, quán bar biết bao nhiêu bạn trẻ đang tìm kiếm niềm vui quay cuồng trong những điệu nhạc, niềm vui miên man trong làn khói thuốc, niềm vui lâng lâng cùng với men rượu... Họ đang vui niềm vui của thế tục.
Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Sở dĩ Giáo hội chọn chủ đề cho Chúa nhật III này là Chúa nhật của niềm vui vì Chúa Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta sắp đến. Phẩm phục màu hồng của chủ tế trong cử hành Phụng vụ nói lên điều đó. Tuy nhiên niềm vui mà Giáo hội khuyến khích mời gọi chúng ta là niềm vui nào? Tìm kiếm ở đâu? Có phải là niềm vui của các bạn trẻ trong các vũ trường, quán bar hay không? Có phải là niềm vui của những tay anh chị khi gặp may mắn trong các trò đỏ đen hay không? Hay là niềm vui của những kẻ lừa gạt hoặc những kẻ làm ăn phi pháp khi thực hiện được những phi vụ trót lọt hay không? Chắc chắn không phải là những thứ niềm vui đó.
Vậy đâu là niềm vui mà Chúa và Giáo hội mong muốn con cái mình tìm kiếm trong Chúa nhật III Mùa Vọng?
Chúa Giêsu, ngay khi còn tại thế, Ngài luôn đặt cuộc đời mình trong bàn tay của Chúa Cha. Ngài đã luôn sống và hoạt động trong ân tình của Chúa Cha. Có thể nói cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc đời luôn tìm niềm vui trong Chúa Cha của Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm niềm vui đó như Ngài, tức là niềm vui trong Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có được niềm vui trong Chúa? Chúng ta chỉ có được niềm vui trong Chúa khi chúng ta biết sống trong ân tình của Chúa.
- Sống trong ân tình Chúa là ý thức sự hiện diện của mình là một hồng ân nhưng không phát xuất từ chính tình yêu Thiên Chúa. Một sự hiện diện ngoài sự mong đợi của một thụ tạo. Do đó, một khi ý thức về hồng ân hiện diện, chúng ta sẽ biết sống một đời tạ ơn. Và chính lúc sống đời tạ ơn đó, chúng ta sẽ tiếp tục được Thiên Chúa chăm sóc, nuôi dưỡng và đón nhận sự sống của Ngài, như một trẻ thơ luôn vui sống trong ánh mắt của cha mẹ mình, thì chắc chắn luôn được cha mẹ che chở, chăm sóc và nuôi dưỡng. Như thế, sự sống của chúng ta không chỉ được cắm rễ sâu trong sự sống của Thiên Chúa mà còn triển nở một cách tròn đầy trong Thiên Chúa nữa, và tâm hồn chúng ta chắc chắn sẽ có được niềm vui của Chúa, niềm vui của những người con thảo đối với Cha trên trời.
- Sống trong ân tình của Chúa còn là gì nữa, nếu không phải là nhận ra và sử dụng những nén bạc Chúa trao một cách hiệu quả nhất theo ý Ngài. Niềm vui của cha mẹ là nhìn thấy con cái mình khôn lớn và thành đạt bằng những phương tiện do mình trợ giúp. Hay nói một cách khác, chính khi người con biết tận dụng những phương tiện cha mẹ cung cấp để thành đạt trong cuộc sống, ấy là lời tri ân đẹp nhất dâng lên cha mẹ mình. Vậy khi chúng ta biết tận dụng và phát huy mọi ân huệ và tài năng Chúa ban lại không phải là bài ca chúc tụng và tạ ơn đẹp lòng Thiên Chúa sao? Tất nhiên niềm vui đến từ đây là rất lớn.
- Sống trong ân tình Chúa còn là chu toàn mọi công việc bổn phận theo ý Chúa muốn trong từng ngày sống. Điều này cũng cho thấy chúng ta không còn sống cho riêng mình, nhưng là sống cho Chúa và cho tha nhân nữa. Như là những đầy tớ trung tín, không chỉ chu toàn mọi công việc được trao, mà còn luôn khao khát đón chờ chủ về và luôn cảm thấy vui sướng, hạnh phúc khi được sống với chủ. Thông thường chúng ta vẫn thích làm theo ý mình hơn là ý Chúa, chúng ta vẫn thích chiều theo cái tôi của mình hơn là lề luật của Giáo hội, nên chúng ta vẫn sống ngoài ân tình của Chúa và dĩ nhiên là cũng không nhận được niềm vui thực sự trong tâm hồn.
Ước mong mỗi người chúng ta biết tận dụng thời gian Mùa Vọng này để luôn sống trong ân tình của Chúa, nhờ đó khi Chúa đến diện đối diện, thì tâm hồn chúng ta, cuộc đời của chúng ta luôn được chan chứa niềm vui và bình an, thứ niềm vui và bình an mà thế gian không ban được.
Niềm hy vọng sẽ không giá trị gì đối với những ai cứ khép chặt lòng mình không muốn đổi mới. Tiếng kêu cầu hay kêu cứu của con người sẽ chẳng ai nghe nếu cuộc đời vắng đi những tâm hồn biết sống cho người khác. Gioan Tẩy Giả thật khiêm nhường khi tự giới thiệu về mình "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa". Tiếng kêu giữa phố xá thị thành may ra còn người đáp cứu. Tiếng kêu giữa nơi hoang vu thì mấy ai trả lời. Ấy vậy mà Gioan vẫn kêu mời mọi người dọn đường đón Chúa đến. Tôi nhìn thấy cuộc đời luôn có những tiếng kêu vang. Kêu trong niềm hạnh phúc đến tột cùng. Kêu trong nỗi đau buồn đến tuyệt vọng. Kêu trong nỗi ưu phiền cho phận người còn quá long đong.
Tiếng kêu trong niềm vui sướng
Loan báo niềm vui lúc nào cũng làm cho người ta mạnh miệng. Tiên tri Isaia đã mạnh dạn khi nói về thời gian mà Thiên Chúa thi ân cho con người. Ngày mà tù nhân được phóng thích, lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, những tấm lòng tan nát được Chúa băng bó vết thương. Đó là thời thịnh vượng, sung túc vì Thiên Chúa đến với con người.
Thật là oan ức khi có người cho rằng tiếng kêu trong vui mừng chẳng qua là "nổ". Không, niềm vui khi được sẻ chia thì niềm vui nhân lên. "Nổ" là người nói quá sự thật, nhưng tiếng kêu trong vui mừng là nói sự thật để mọi người cùng vui. Đây lại là một niềm vui lớn: Thiên Chúa đã đến với con người.
Tiếng kêu trong sứ mệnh làm chứng
Nếu mình đóng vai trò là một bóng mờ để người khác vượt đúng là điều không dễ. Bởi nó đòi hỏi rất nhiều hy sinh. Sự hy sinh đến mức tự huỷ chính mình là điều không ai muốn. Aáy vậy mà Gioan xuất hiện để thực hiện sứ mệnh ấy. Ông chấp nhận lắng chìm để Chúa được nâng lên. Oâng tự nhận không xứng cởi day giày cho Người để tất cả mọi người hãy quên ông đi để tập trung hướng về Đấng Cứu Thế.
Ai cũng hiểu Gioan Tẩy Giả lúc bấy giờ thật có thế giá. Nhiều người tuôn đến chịu phép rửa của ông. Có lẽ có nhiều người rất thần tượng về ông. Thế nhưng ông không cố giữ những lời ca tụng của dân chúng nới bản thân. Tiếng "không" là một cách trả lời dứt khoát và đúng sự thật. Tôi không phải là Êlia, cũng không phải là Môisen, càng không phải là vị cứu tinh mà mọi người trông đợi.
Gioan xuất hiện như mẫu gương của sự khiêm nhường trong việc làm chứng cho sự thật. Sống giữa đời tôi cần phải biết mình, biết người và biết Chúa. Biết những giới hạn của mình để đón nhận và cố gắng vượt qua. Hiểu biết người để cùng đồng hành chia sẻ. Biết Chúa để phụng thờ và thiết lập một tương quan ngày càng xứng hợp. Khi nào ta dám xoá mình đi khi đó ta mới làm chứng cho người khác được.
Tiếng kêu để mời gọi đổi đời
Tiếng kêu trong hoang địa không phải là tiếng kêu cứu của kẻ cô đơn thất vọng nhưng là lời mời gọi mọi người đổi mới. Đổi mới cái nhìn bằng cách nhận ra Chúa đang hiện diện quanh đây. Đổi mới cánh sống bằng việc sám hối lỗi lầm. Đổi mới con người bằng việc thực thi công bằng bác ái. Gioan vào sa mạc tưởng đâu tách biệt nhưng thực ra ông đang sống rất gần. Bằng những lời kêu mời rất cụ thể, Gioan muốn giới thiệu về một Thiên Chúa cũng rất gần và đang đến.
Mỗi Kitô hữu giờ đây đến Chúa Giêsu không còn là một nhân vật trong quá khứ nhưng Ngài đang sống với ta, trong ta. Đừng để Ngaì đi qua cuộc đời mà chẳng một ai tiếp rước. Tiếng kêu của Gioan vẫn còn vang vọng để nhiều người nhận ra Ngài, đón nhận Ngài mà thay đổi đời sống.
Chúa nhật thứ ba mùa vọng được gọi là Chúa nhật hồng, Chúa nhật của sự vui mừng (Gaudete Sundae). Màu hồng của phẩm phục phụng vụ cho thấy sự vui mừng, yêu đời và hy vọng. Và quả thực tư tưởng lời Chúa hôm nay nói lên điều đó. Isaia loan báo: Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa và lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Người đã sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó. Thánh Phaolo cũng kêu gọi tín hữu Thêxalônica: anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô. Và bài Tin mừng cho chúng ta thấy niềm vui ấy khi Gioan Tiền Hô loan báo Chúa Kitô là nguồn an ủi của mọi tâm hồn: Có một vị đến sau tôi và đang ngự giữa các ông mà các ông không biết.
Niềm vui, hy vọng hay hạnh phúc của chúng ta bắt nguồn từ đâu? Chúng ta phải sống niềm vui ấy như thế nào?
Niềm vui hay hạnh phúc là mục đích của con người sống trên trần gian. Vì con người được Thiên Chúa dựng nên để chia sẻ niềm vui, hạnh phúc và sự sống đời đời với Thiên Chúa. Pascal đã nói: Tất cả mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc, ngay cả những người tự tử. Nhưng chúng ta không thể tìm kiếm niềm vui, hạnh phúc hay hy vọng ở ngoài Thiên Chúa.
Ngày nay có người đi tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng "thăng hoa" của tình yêu đôi lứa. Nhưng hạnh phúc ấy chợt vụt tắt khi họ không còn cần đến nhau nữa. Có người tìm kiếm hạnh phúc nơi tiền bạc hay của cải, nhưng tiền tài của cải cũng chóng qua như khi nó đến. Cũng có người tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc nơi sự nghiệp công danh. Nhưng công danh sự nghiệp thì kèm theo nước mắt và đoạ đày.
Niềm vui, hạnh phúc thật của con người không thấy được tìm thấy nơi khoái lạc trần gian, nơi vật chất mau qua chóng tan hay cuộc sống danh vọng nhiều ganh đua. Niềm vui và hạnh phúc thật chỉ có được khi con người sống trong vui tươi, tin tưởng, bất chấp mọi khổ đau vì con người tin rằng Chúa Giêsu đã đến và mang lại cho chúng ta niềm vui và sự sống: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một của Người xuống cho trần gian để nhờ Người Con một ấy chúng ta được sự sống của con Chúa, được trở nên con cái Thiên Chúa. Đó là niềm vui đích thực, đó là niềm phấn khởi bao la của chúng ta.
Nhưng để sống được trong niềm vui và hạnh phúc ấy chúng ta hãy tập sống như Gioan Tiền Hô trong bài Tin mừng hôm nay. Gioan xuất hiện trong khiêm tốn dù ông là một nhân vật rất quan trọng (Tiền Hô cho Chúa Cứu Thế). Ông từ chối hết tất cả những tước hiệu mà dân chúng gán cho ông (vì nó không phải là của ông). Hạnh phúc và niềm vui của Gioan là đến để làm chứng cho ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin và được cứu rỗi. Đối với Gioan, trở thành đầy tớ của Thiên Chúa và giúp mỗi người trở về với Thiên Chúa là niềm vui và hạnh phúc thật.
Trần Văn Điền định nghĩa hạnh phúc như sau: Hạnh phúc không phải là cái bạn cầm trong tay nhưng là cái bạn mang trong tim. Hạnh phúc là kêt quả của tình thương yêu đối với mọi người. Khi chúng ta mở một nụ cười với người đau buồn, khi chúng ta nói một lời an ủi, nâng đỡ đối với người tội lỗi; một hành vi giúp đỡ cho người thiếu thốn. Niềm vui và hạnh phúc là chia vui với người vui, là sớt chia nỗi buồn với người sầu khổ.
Niềm vui và hạnh phúc thật còn là bình an trong tâm hồn mình, là khiêm nhường chấp nhận thực tại của cuộc sống mặt dù cuộc sống này còn đó những khó khăn và thử thách.
Sự vui mừng hay hạnh phúc của chúng ta phải đến từ bên trong, từ hành động phục vụ tha nhân và ý thức rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện với chúng ta. Hạnh phúc và niềm vui là tin tưởng phó thác hoàn toàn cho Chúa vì chính Chúa là nguồn vui thật của chúng ta và sự sống của chúng ta ở nơi Đức Giêsu Kitô.
"Hãy vui lên, hỡi anh em, hãy vui lên! Hãy cảm tạ Thiên Chúa trong mọi sự, vì đó là thánh ý Người về tất cả anh em trong Đức Kitô. Anh em đứng dập tắt tác động của Thánh Thần" (1Thes 5,16-17). Lời thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Thessalônikê ngày xưa, hôm nay Giáo hội lại công bố với chúng ta trong ngày Chúa nhật thứ III mùa Vọng này.
Trong lúc chờ đợi Đức Kitô đến, chúng ta phải tỉnh thức, phải lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi. Chính tiếng Người đem lại niềm vui cho ta, như Gioan Tẩy giả đã làm chứng, khi ông nói về vai trò tiền hô của mình đối với Đấng Cứu thế.
"Niềm vui của tôi là được nghe tiếng Ngài. Niềm vui của tôi đã sung mãn. Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ dần đi" (Gioan 3,29-30)
***
1. Giáo Hội Kêu Gọi Chúng Ta Vui Lên. Nhưng Thế Nào Là Vui?
Theo kinh nghiệm thông thường, vui là khi một ước vọng của ta được toại nguyện; khi ta thành công trong một nỗ lực hoặc một dự tính; khi quyền lợi của ta bị tước đoạt mà nay được phục hồi; và vui nhất là khi ta được gặp lại những người thân yêu sau một thời gian xa vắng. Tắt một lời, ta vui khi lòng ta đang trống mà được lấp đầy.
2. Niềm Vui, Theo Nghĩa Thánh Kinh, Chính Trị Là Trạng Thái Của Con Người Được Thiên Chúa Đổ Đầy Thánh Thần
Bài sách Isaia hôm nay (Is 61,1-2a.10-11) phác họa cho ta hình ảnh Đấng Thiên Sai được Thánh Thần xức cho dầu hoan lạc: "Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi... Ngài sai tôi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
Năm hồng ân trong Cựu Ước - mà Năm Thánh là điệp ảnh - quả là một sáng kiến độc đáo Thiên Chúa đề ra cho Dân Ngài. Nó là khoảng thời gian đặc biệt nhắc cho mọi người nhớ rằng: tất cả những gì mình có đều là do Thiên Chúa ban, và mọi người phải nghĩ đến quyền lợi của kẻ khác: bởi vì mọi người đều có quyền sống tự do và hưởng dùng tài nguyên trên mặt đất. Năm hồng ân làm nổi bật, nguyên tắc công bằng và quyền bình đẳng của mọi người trước mặt Thiên Chúa (Lêvi 25,1-55).
Mở đầu cuộc đời công khai, Đức Giêsu đã đọc cho mọi người nghe đoạn sách Isaia trên đây trong hội đường Nadarét. Và Ngài kết luận: "Hôm nay, đoạn sách thánh ấy đã thực sự ứng nghiệm cho anh em" (Lc 4,16-21). Và như thế, Ngài nhận lấy sứ mạng "loan báo Tin Mừng cho những người nghèo khổ, băng bó vết thương cho những tấm lòng tan nát, công bố ân xá cho những kẻ bị tù đày, trả tự do cho những người bị áp bức" (Is 61,1-2; cf Lc 4,18-19).
Đó là những quyền căn bản của con người: quyền được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình và được tôn trọng, quyền được hưởng niềm vui làm người tự do và bình đẳng. Nhưng hơn thế nữa, sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu Kitô còn nhằm biến đổi mọi người trở thành con cái Thiên Chúa. Điều quan trọng hơn cả trong Tin Mừng Ngài mang đến cho chúng ta là Thiên Chúa muốn sống giữa loài người liên đới với nhau như một cộng đoàn hợp nhất, thánh thiện và hòa bình. Sứ điệp đó thúc đẩy chúng ta nỗ lực xây dựng Nước Trời trong một xã hội công bình và huynh đệ, ở đó mọi thành phần đều được Thần Khí thánh hóa và quy tụ quanh Đức Giêsu Kitô, để cùng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha (Gal 3,16; Rm 8,14-17). Bài sách Isaia loan báo Thiên Chúa sẽ khoác cho dân Ngài một áo choàng công chính và cứu độ (Is 61,10) mà thánh Phaolô họa lại bằng lời nguyện cầu "xin Thiên Chúa bình an thánh hóa anh em" (1Thes 5,23).
Niềm vui Đức Giêsu Kitô mang tới cho ta, chính là niềm vui của người tự do được làm con Thiên Chúa.
3. Sứ Điệp Tin Mừng Là Thế - Sứ Điệp Đấng Thiên Sai Là Thế
Nhưng người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để nhận được niềm vui đó? Thánh Phaolô trả lời: "Anh em đừng dập tắt tác động của Thánh Linh" (1Thes 5,19) vì chính Thánh Thần làm nảy sinh mọi sự tốt đẹp, mọi hoa quả nhân đức "bác ái, hoan lạc, bình an, cao thượng, tận tâm, nhân từ, tín thác, hiền lành, tự chủ" (Gal 5,22-23), và "đâu có Thánh Thần, đấy có tự do" (2Cr 3,7). Đặc điểm của thời đại Đấng Thiên Sai là Thiên Chúa phủ đầy Thần Khí trên nhân loại, làm cho mọi tâm hồn chan chứa niềm vui: niềm vui được Thiên Chúa viếng thăm, được Ngài chúc phúc và ban ơn cứu độ.
Nhưng hạng người được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm là những người nghèo (xem Lc 2,24). Họ được, Ngài chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3) và Tin Mừng cũng được loan báo trước tiên cho họ (Lc 4,18). Họ được Thiên Chúa ban đầy hồng ân, vì lòng họ sẵn sàng và khiêm tốn đón nhận. Những người tiếp xúc với Đức Giêsu thuở Ngài còn thơ ấu; cũng như khi Ngài hoạt động công khai đều là những con người nghèo hèn bé mọn của Giavê: Giacaria, Isave, Maria, Giuse, đám mục đồng, Simêon, Anna, Gioan Tiền hô, nhóm môn đệ và đoàn dân nghèo theo Ngài để đi giảng. Đó là một xã hội nghèo của Ngài và từ đó phải trở thành Giáo hội của người nghèo; một Giáo hội nhẹ lòng với của cải trần gian, ít bận tâm về những điều vật chất, để được thanh thoát và mở rộng tâm hồn đón nhận tác động của Thần Khí Thiên Chúa biến đổi họ thành những con người tự do.
Hai tâm hồn tiêu biểu nhất trong mùa Vọng là Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy giả. Họ đều nghèo nhưng cả hai đều tràn đầy Thánh Thần và vì thế, lòng các ngài chan chứa niềm vui. Riêng niềm vui của Đấng Tiền hô thật là sung mãn: bởi đã nghe tiếng Chúa Cứu Thế, được làm người dọn đường cho Ngài, để chỉ Ngài cho thiên hạ thấy, rồi vui vẻ rút lui vào bóng tối; chấp nhận nhỏ dần đi để Ngài được lớn lên (Ga 3,29-30).
Người Kitô hữu cũng phải mang đầy niềm vui như Gioan Tiền hô, một niềm vui thâm thúy của con người ý thức trách nhiệm, trung thành chu toàn sứ mạng, đúng như ơn gọi Thiên Chúa đã dành cho.
Mà ơn gọi và sứ mạng đều phát xuất từ Thiên Chúa. Nhưng để sống đến cùng những đòi hỏi của ơn gọi mình, người Kitô hữu cũng phải như Đức Trinh Nữ Maria kết hiệp mật thiết với Đấng Cứu Thế. Bởi vậy, khi kêu gọi ta vui lên, thánh Phaolô cũng nói thêm: "Anh em hãy cầu nguyện không ngừng" (1Thes 5,16).
Đó là điều kiện cần thiết mang lại niềm vui sâu xa cho tâm hồn con người tràn đầy Thánh Linh Thiên Chúa. Và ai có những lần đã thực sự cầu nguyện, thì cũng đã cảm nghiệm được niềm vui thiêng liêng, niềm vui của người Kitô hữu.
***
BÀI GIẢNG
Thấy Gioan xuất hiện, dân Dothái ngày xưa đã hân hoan rồi. Nhưng khi nghe Gioan tuyên bố: sắp có Đấng cao trọng hơn ông đến, họ còn vui mừng hơn nữa. Vì thế, Chúa nhật thứ ba mùa Vọng là Chúa nhật hân hoan vui mừng.
Chúng ta hãy vui mừng, không phải chỉ vì đang được nghe lại tiếng kêu của Gioan. Ngày xưa dân Dothái đã hân hoan khi thấy Gioan xuất hiện. Tên ông đã gợi lên niềm tin rồi, vì Gioan có nghĩa là "Thiên Chúa đoái thương". Ngài không còn ngoảnh mặt đi nữa, nhưng đã bắt đầu nhìn lại Dân Ngài, để ra tay cứu độ. Và quả thật, đang có nhiều hy vọng vươn lên. Người ta tuôn đến nghe Gioan giảng; người ta chen nhau lội xuống nước, thú nhận tội mình, để được ông rửa cho. Gioan này thật là vị tiên tri vĩ đại. Chúa gửi người đến cho dân, để sửa soạn gì đây. Dân Chúa cảm thấy phấn khởi vì sự hiện diện của Gioan Tẩy giả, với phong trào đạo đức mà ông đang khơi động.
Ngày nay chúng ta cũng có thể phần nào vui lên như thế. Ở trong Giáo hội toàn cầu cũng như ở nơi Giáo hội Việt Nam đang nổi lên biết bao phong trào đạo đức. Người ta đi lễ nhiều hơn trước, rước lễ đông hơn trước, say sưa học giáo lý và dường như thấy rõ niềm tin lúc này là nguồn an ủi sâu xa hơn khi nào khác. Ở nhiều nơi, người ta còn được chứng kiến nhiều buổi cầu nguyện Thánh Linh nữa. Các phong trào đạo đức đó như đang làm cho bộ mặt Giáo hội sáng ngời lên, khiến nhiều người có thể hân hoan nghĩ rằng: tất cả những gì đang xảy ra có thể là cơ hội thanh tẩy Giáo hội và giúp Giáo hội vươn lên trong sự công chính và thánh thiện thật.
Nhưng cũng như dân Dothái ngày xưa, chúng ta đừng chỉ vui với chừng ấy. Ngày xưa khi thấy Gioan xuất hiện, dân Chúa như đã muốn vui luôn trong ánh sáng của người. Nhưng Phúc Âm hôm nay cho ta thấy: Gioan bảo dân chúng phải nhìn xa hơn nữa. Ông chỉ rửa trong nước thôi; sắp có Đấng đến sau để rửa dân trong Thánh Thần. Chính Ngài mới là Đấng Kitô Cứu Thế và ông không đáng cởi dây giày cho Ngài... Chúng ta ngày nay cũng phải cẩn thận, đừng dừng lại ở những hiện tượng lạc quan như trên đã nói. Phải đi sâu hơn, xa hơn. Phải vượt qua mọi hình thức, cho dù rất đạo đức, để tìm gặp chính Chúa Kitô. Nhiều người trong ta có lẽ còn giống nhóm Biệt phái và Dothái. Các nhóm này, ngày xưa, chỉ muốn dừng lại ở Gioan, ngưỡng mộ ông và coi ông như Cứu Thế. Nhiều Kitô hữu ngày nay cũng thường chỉ muốn dừng lại ở những cái thấy được, ở các buổi phụng vụ sốt sắng và các buổi cầu nguyện sầm uất. Học giáo lý để thuộc chứa không để sống! Rước lễ để sốt sắng trong nhà thờ chứ không để thêm sức sống đạo ở giữa đời! Hôm nay, phụng vụ của Giáo hội thúc giục ta phải đi xa hơn, vượt qua những hành vi và tổ chức đạo đức, để gặp Chúa Kitô và sống với Ngài.
Chúa Kitô, theo bài đọc I hôm nay, là sứ giả của Thiên Chúa sai xuống trần gian. Ngài được xức dầu Thánh Thần, rồi được sai đem Tin Mừng cho người nghèo khó; và công bố khắp nơi năm hồng ân của Thiên Chúa... Ngày nay, Chúa cũng đang muốn tìm được những sứ giả như vậy ở giữa chúng ta. Ngài muốn cho cả Giáo hội của Ngài được xức dầu hoan lạc để luôn luôn công bố cho mọi người biết Tin Mừng Chúa đến cứu độ trần gian. Ngài muốn cứu mọi người từ tận căn, tận rễ, từ những người đang nghèo khổ, bất cứ về phương diện nào, để đời sống trở thành như năm hồng ân của Thiên Chúa.
Như vậy, tinh thần của ngày Chúa nhật hôm nay, đòi ta phải lột bỏ mọi vẻ mặt sầu bi, thiểu não. Phải đuổi xa mọi tâm tư hắc ám và buồn nản. Phải giải tỏa mọi nỗi lòng đau khổ và tội lỗi. Xưng tội từ hôm nay để tham dự vào mầu nhiệm Giáng sinh không phải là quá sớm đâu. Phải như mặc lấy áo phần rỗi và công chính để hoan hỷ đem tin vui đến cho mọi người.
Và tin vui của Đức Kitô là gì?
Như lời sách Isaia viết: Ngài muốn "đem hân hoan đến cho người nghèo, băng bó những tâm hồn đang đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ lưu đày". Ngài muốn nhờ ta bây giờ làm những công việc ấy, để khắp nơi nổi lên một bầu khí hân hoan như được hồng ân của Chúa viếng thăm.
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cũng vạch ra cho ta con đường thực tế để sống đạo theo tinh thần nói trên. Ngài bảo ta trước hết phải lạc quan: "Anh em hãy vui mừng luôn". Rồi hãy có tinh thần cầu nguyện để nhìn thấy thánh ý Chúa trong mọi việc. Đừng dập tắt Thánh Thần của Chúa, đừng làm ngơ trước tiếng gọi của Chúa hằng vang lên trong mọi sự xảy đến hằng ngày cho ta, hãy duyệt lại tất cả: bỏ cái xấu đi, và giữ lấy cùng phát triển mọi điều tốt gặp được.
Như vậy chúng ta sẽ đi vào đường lối của Đức Kitô, sẽ sống như Ngài trong cuộc đời trần gian: Ngài đã mặc lấy thân phận y hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhận mọi hoàn cảnh xảy ra, gạt bỏ điều xấu, xây dựng điều lành. Ngài cứ nhìn vào những người nghèo khó và khổ sở ở đời để tìm cách kéo gỡ họ ra khỏi thân phận đau thương. Chính vì vậy Ngài đã trở thành Cứu thế và ban ơn Cứu độ.
Giờ đây trên bàn thờ Ngài muốn cử hành mầu nhiệm cứu độ đó ở trước mắt chúng ta, để kêu gọi chúng ta đi vào, dâng mình kết hợp với Ngài, hầu Ngài có thể ngự vào lòng ta để tiếp tục làm những hành vi cứu độ trong đời sống và qua đời sống của ta. Ta hãy nhiệt tâm đi vào mầu nhiệm thánh lễ này.
Đức Giêsu Là Người Thực
Tôi dám nói rằng: Nếu tôi không nhận biết Chúa Kitô thì đối với tôi, "Thượng đế" sẽ là một danh từ vô nghĩa. Nếu không có ơn rất đặc biệt tôi sẽ không thể mường tượng một hữu thể vô hạn. Thiên Chúa của các triết gia và những nhà bác học sẽ không giữ vai trò nào trong đời sống luân lý của tôi. Thiên Chúa đã phải hạ mình xuống trong nhân loại, và trong một giờ khắc rõ rệt của lịch sử, tại một địa điểm xác định trên địa cầu, một người được tạo nên bằng huyết nhục, đã phải tuyên bố mấy lời và làm một vài cử chỉ thì tôi mới quỳ gối thờ lạy. Nếu Chúa Kitô đã không phán: "Lạy Cha chúng con..." thì không bao giờ tự mình tôi có ý niệm về tình nghĩa tử này. Lời kêu cầu ấy đã không khi nào tự đáy lòng tôi thốt ra trên môi. Tôi chỉ tin cái gì tôi đụng chạm và nom thấy, cái gì sát nhập vào bản thể tôi. Và chính vì thế, tôi đã tin Chúa Kitô. Tất cả những khuynh hướng muốn giảm bớt thân phận con người nơi Chúa Kitô sẽ đi ngược với một ý hướng sâu thẳm nhất của tôi. Có lẽ vì thế mà tôi vẫn không thích nhìn dung nhan Chúa Kitô Vua và Đấng Thiên Sai toàn thắng bằng hình ảnh khiêm tốn và tiều tụy của Con Người mà qua việc bẻ bánh trong quán trọ làng Emmau các lữ khách đã nhận ra. Người là người anh mang đầy thương tích và là Thiên Chúa của chúng ta. (Francois Mauriac Vie De Jésus)
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa - của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Con người, khi sinh ra, cần phải học nhiều điều để biết cách hành xử trong cuộc sống hằng ngày. Cần thiết nhất con người cần có không phải là bằng này bằng nọ, cấp này cấp kia nhưng điều quan trọng đó chính là nhân bản. Dù cho làm ông này bà nọ, dù học cao hiểu rộng và dù cho có bao nhiêu bằng tiến sĩ đi chăng nữa nhưng không có nhân bản thì vẫn bị người ta coi thường. Một trong những bài học căn bản, nhân bản của con người đó là lòng biết ơn, đó là lòng tri ân. Khi nhận ơn mà không biết ghi ơn, không biết tri ân phải nói là quá tệ. Trong dòng chảy của con người, với lòng biết ơn, ghi ơn và tri ân Thiên Chúa đó chúng ta nhớ lại thái độ, tâm tình của Đức Maria. Sau khi đón nhận niềm vui lớn trong cuộc đời đó là cưu mang Đấng Cứu Thế, Mẹ Maria đã biết ơn, đã tri ân Thiên Chúa và bằng cách cụ thể nhất là Mẹ đã lên đường đến nhà bà chị họ Elisabeth để mà chia sẻ ân huệ mà Thiên Chúa đã thương ban cho Mẹ và khi gặp bà chị họ, Mẹ Maria đã không ngần ngại vang lên lời tán tụng Thiên Chúa. Lời tán tụng ấy chúng ta quá quen thuộc:
"Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời." (Lc 1, 46-55).
Trở lại với những trang Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta cũng gặp đâu đó lời tán dương Thiên Chúa, lời tri ân Thiên Chúa vì biết bao nhiêu ân huệ mà Chúa thương ban cho mình. Hôm nay, qua sách ngôn sứ Isaia chúng ta nghe lời tán dương, lời tri ân ấy: "Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân". (Is 61, 10-11)
Vì sao Isaia thốt lên lời ca ngợi như vậy? Vì lẽ Isaia đã cảm nhận, đã nói với dân về quyền năng, về vinh quang của Đức Chúa - Thiên Chúa của dân chiếu sáng trên dân: "Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước". (Is 60, 1-3). Đức Trinh Nữ Maria cũng như Isaia, Mẹ đã cảm nhận cũng như xác tín rằng quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa đã đến và ở lại trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ đã cao rao tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời của Mẹ thôi.
Mẹ không như những người Do Thái đương thời, Mẹ khác họ, Mẹ nhìn, Mẹ đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian một cách khác họ. Những người Do Thái đương thời của Mẹ đón nhận, nhìn nhận Đấng Mêsia - Đấng Cứu Độ trần gian phải đến trong vinh quang hoành tráng, đến một cách uy lực và làm cho cuộc đời của họ vinh quang theo. Khi Đấng Mêsia đến sẽ giải thoát họ khỏi những khổ cực của vật chất, của tiền bạc theo kiểu trần gian. Vì họ quan niệm Đấng Mêsia đến cách thế như thế nên làm sao họ nhận ra được sự hiện diện của Đấng Cứu Độ đến được.
Như trang tin mừng ngắn ngủi mà chúng ta vừa nghe Thánh Gioan công bố đấy. Ông nói rõ rằng ông là người được Thiên Chúa sai đến để làm chứng, để minh chứng về ánh sáng đã đến trong trần gian này. Gioan đã làm chứng về ánh sáng, làm chứng về Đấng Mêsia. Và chúng ta thấy thái độ tranh cãi, nghi ngờ của những người thuộc nhóm Pharisêu. Chúng ta thấy thái độ chất vấn của những người Pharisêu và chúng ta thấy lộ bên dưới lời những chất vấn ấy là lòng cứng tin vào Đấng Cứu Độ trần gian. Không phải khi ấy người ta mới tranh cãi với Gioan nhưng mà ngay từ ngày Chúa Giêsu sinh ra nơi hang đá Belem họ đã ngờ vực, họ đã dò xét rồi.
Hôm nay, Gioan như là sứ giả của Thiên Chúa, dọn đường cho Chúa Giêsu đã công bố sự thật có Người sẽ đến sau ông và Người đến sau ông đấy ông không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài. Đáng tiếc thay từ ngày Chúa Giêsu cất tiếng khóc chào đời cho đến ngày Chúa Giêsu công khai sứ vụ của mình vẫn bị người Do Thái không tin và tìm đủ mọi cách để mà sát hại, để mà tố cáo.
Chúng ta cũng thế thôi, nhiều lần nhiều lúc chúng ta cũng đi tìm Đấng Mêsia, tìm Đấng cứu độ trần gian của chúng ta là một Đấng đến trong vinh quang, đến trong quyền lực theo kiểu người đời vậy. Tệ hơn thế nữa đó chính là Thiên Chúa là Chúa, là Chủ của cuộc đời chúng ta vậy mà chúng ta nỡ lòng nào đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Chuyện quan trọng, chuyện căn cốt của cuộc đời chúng ta đó là chúng ta không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta như thánh Gioan Tẩy Giả cảnh báo chúng ta: Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết!
Tưởng chừng câu đó là câu mà Gioan nhắc nhở những người Do Thái ngày xưa nhưng nào ngờ Gioan nhắc nhở chính mỗi người chúng ta đây. Chúa ở trong ta, Chúa yêu thương ta, Chúa quan phòng cuộc đời ta mà ta không hay biết đó thôi. Chúng ta không giống Đức Maria, Đức Maria đã nhìn thấy tình thương và sự quan phòng của Chúa trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ chẳng còn bận tâm chuyện gì khác là lắng nghe và thực thi những gì mà Chúa nói với Mẹ. Hình như giữa cuộc đời phát triển nhiều về tiền bạc, về vật chất để rồi chúng ta cứ loay hoay mãi trong tiền bạc, trong vật chất, trong danh vọng và trong dục vọng. Tất cả những thứ làm cho chúng ta không còn nhận ra sự hiện diện của Chúa nữa.
Chúng ta nên nhớ Chúa đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta là Chúa vẫn hiện diện nơi những con người nghèo khổ, tất bạt, bất hạnh, bỏ rơi ... Chúa vẫn dùng những biến cố mà đôi khi dưới con mắt người đời là khắc nghiệt để tỏ tình yêu thương, sự quan phòng của Chúa. Chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh của một Abraham phải đau lòng để mà sát tế đứa con yêu quý nhất của mình cho Thiên Chúa. Chúng ta còn nhớ hình ảnh của một ông Giob quá đớn đau với những chứng bệnh của thể xác, quá khắc nghiệt của cuộc đời chìm xuống bùn đen của sự chết chóc của con cái cũng như đàn gia súc mà ông đang có. Thế đấy! Thiên Chúa vẫn thử thách lòng tin của con người để xem con người còn tin Chúa hiện diện trên cuộc đời này hay không? Và qua cơn thử thách ấy, chúng ta thấy được ân huệ mà Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của Abraham, của Giob như thế nào? Lửa thử vàng, gian nan thử sức! Đó là câu nói mà chúng ta vẫn thường nghe và vẫn thường nói với nhau. Ấy vậy mà đôi khi Chúa mới thử chúng ta một chút thôi thì chúng ta lại ngã lòng và chúng ta hình như không còn tin vào Chúa nữa, chúng ta lại đi tìm đến các thần ngoại bang như dân Do Thái ngày xưa vậy.
Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi cho giáo đoàn Thessalônia thật là hay. Ngài bảo giáo đoàn cũng như ngài bảo mỗi người chúng ta là: "Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. (1 Thes 5, 18.19). Phải nói đây là tâm tình tuyệt vời của Thánh Phaolô: Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Đúng như tâm tình của Đức Maria, trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, dù vui dù buồn, dù sướng dù khổ Mẹ luôn luôn vui mừng, Mẹ luôn luôn tạ ơn Chúa và kết hiệp mật thiết với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Đây là tâm tình, đây là mẫu gương mà mỗi người chúng ta cần học và noi gương Mẹ vì thật ra chúng ta thấy đó. Nhìn lên với cuộc đời này thì chúng ta thấy chúng ta không bằng ai nhưng nhìn xuống chúng ta được Thiên Chúa ban cho quá nhiều ơn lành để rồi tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Ngài cũng không quên xin ơn Chúa để mà Chúa thánh hoá con người chúng ta "Nguyện xin chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó. (1 Thes 5, 23.24.).
Ngài dặn dò mỗi người chúng ta là cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa và rồi Ngài cũng mời gọi mỗi người chúng ta nhờ ơn Chúa xin Chúa giữ gìn chúng ta được vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Chúa đến.
Như Đức Trinh Nữ Maria, như ngôn sứ Isaia cảm nhận được Thiên Chúa Đấng Cứu Độ thương mình thì mình sẽ chỉ biết ca tụng Chúa và tin tưởng Chúa mà thôi.
Hôm nay, như là cơ hội để chúng ta dừng lại, nhìn lại cuộc đời của mình. Nếu không được, chúng ta xin Mẹ ban thêm ơn, giúp sức cho chúng ta để chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa đã quá yêu thương ta. Từ sự khám phá đó ta sẽ ca tụng Chúa và ta sẽ sống sao cho đẹp lòng Chúa.
Như Đức Trinh Nữ Maria, khi có ơn Chúa thì Mẹ đi chia sẻ, chúng ta có ơn rồi chúng ta có biết chia sẻ như Mẹ hay không?
Như ngôn sứ Isaia nói ở bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe: "Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA" (Is 61, 1-2a). Chúng ta được Thần Khí của Đức Chúa ngự trên chúng ta, được Ngài tấn phong chúng ta cũng phải lên đường để loan báo tin mừng Tình yêu cho anh chị em đồng loại như Đức Trinh Nữ Maria đi chia sẻ niềm vui cho bà chị họ trong lúc sinh nở khó khăn.
Nguyện xin Chúa Giêsu đến và ở lại với mỗi người chúng ta và ban ơn cho chúng ta để chúng ta nhận ra tình yêu Chúa trên cuộc đời chúng ta như Mẹ nhận ra tình yêu của Chúa vậy. Và cũng xin Chúa ban thêm ơn, ban thêm sức cho chúng ta để chúng ta công bố tin mừng Tình yêu của Chúa giữa cuộc đời đầy gian lao khốn khó này.
Hành trình Mùa Vọng, với đích điểm là lễ Giáng Sinh. Chúa nhật thứ I, Lời Chúa mời gọi chúng ta: "Hãy tỉnh thức" (Mt 24, 44). Chúa nhật thứ II, Gioan Tẩy Giả thôi thúc chúng ta: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" (Is 40, 3). Hai tuần trước như là tiền đường dẫn chúng ta tiếp bước với niềm vui của Chúa nhật thứ III Mùa Vọng.
"Gaudete - Hãy vui lên" là chủ đề của Chúa nhật này. Màu sắc Phụng vụ đang màu tím chuyển sang hồng, nhằm đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình "Gaudete - Hãy vui lên", như Isaia:“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi" (Is 61, 10). Niềm vui thánh thiêng ấy được biểu lộ qua lời nguyện: "Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề" (Lời nguyện nhập lễ Cn III Mùa Vọng).
Với những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa" (Is 61, 1-2). Và làm sao không thể không mừng "vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân" (Is 61, 10-11).
Nhưng đâu là lý do để con người vui mừng hân hoan? Thưa, Chúa chính là niềm vui của nhân loại. Tất cả chúng ta đều khao khát niềm vui, mỗi gia đình, mỗi dân tộc luôn cầu mong được hạnh phúc. Vui vì có Thiên Chúa ở cùng, vui vì ở gần bên Chúa, được sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi giáng trần, Chúa Giêsu đã mang đến cho con người mọi nơi, mọi thời niềm vui thiêng thánh. Nếu không có Chúa Giêsu, sẽ không có niềm vui, niệm vui ơn cứu độ.
Vào Chúa nhật trung tâm của Mùa Vọng, chúng ta được mời gọi vui lên và sống hy vọng, đồng thời trở nên sứ giả của niềm vui: "Anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc hãy cảm tạ Chúa" (1Th 5,16-17). Nếu điều này trở thành lối sống của chúng ta, thì Tin Mừng có thể thấm nhập vào mọi nhà và giúp đỡ con người cũng như gia đình tái khám phá rằng thực sự có ơn cứu độ nơi Ðức Kitô. Trong Ngài, người ta có thể tìm thấy sự bình an nội tâm và trợ lực để đương đầu mỗi ngày với những trạng huống khác nhau trong cuộc sống.
Niềm vui là một đặc tính thiết yếu của đức tin. Cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương, viếng thăm và cứu độ là động lực làm cho chúng ta vui mừng; chúng ta biết Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế, tự hiến thân mình vì chúng ta là lý do chính để người tín hữu vui mừng. Người Kitô hữu buồn, bởi họ không nhìn thấy những điều Thiên Chúa đã làm cho họ, và vì thế, sẽ không có sự hiệp thông. Niềm vui của người Kitô hữu phát xuất từ tâm tình tạ ơn tạ ơn, nhất là vì tình yêu thương của Chúa thể hiện nơi chúng ta; mỗi Chủ nhật chúng ta làm điều đó bằng việc cử hành Thánh Lễ.
Tin Mừng trình bày cho chúng nhân vật Gioan Baotixita, tiền hô Đấng Cứu Thế. Ông là người cao trọng sinh ra bởi người nữ; nhưng khi được hỏi: Ông là ai ? Ông khiêm tốn trả lời, "Tôi không phải là Đấng Kitô..." (Jn.121); "Tôi làm phép rửa bằng nước. Nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi" (Ga 1,26-27). Chúa Giêsu là Đấng mà muôn dân trông đợi; Người là Ánh Sáng chiếu soi trần thế.
Tin Mừng không phải là một sứ điệp xa lạ, càng không phải là một mớ học thuyết giữa thế gian, nhưng là Tin Mừng nhằm thỏa mãn những khát vọng sống của con người, vì Tin Mừng nối kết Thiên Chúa với chúng ta bằng việc nhập thể làm người của Con Chúa. Tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về đức tin đã lãnh nhận. Là môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta được kêu gọi mang hồng ân ánh sáng, ngoài lời nói, gương lành, còn trở nên gương mẫu về đời sống đức tin.
Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô với kinh nghiệm của ngài đã quả quyết: "Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình" (Le Confessioni, III, 6,11).
Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.
Con người thường thích tạo ra vẻ hào nhoáng cho mình. Đó là điều mà thế gian bảo là thích đánh bóng cho bản thân. Bệnh thích đánh bóng cho bản thân mù quáng đến độ tự tạo cho mình một cái vỏ bọc hào nhoáng nhằm tìm kiếm những fan hâm mộ cho mình.
Ngày nay với công nghệ thông tin hiện đại, con người lại càng dễ dàng đánh bóng bản thân. Họ tự do tô vẽ mình trên các diễn đàn online, blog cá nhân, nơi mà mọi thứ, kể cả cuộc sống, đều là ảo. Họ sống ảo và ảo tưởng về chính bản thân mình. Đôi khi sự ảo tưởng còn trở thành lố bịch cho thiên hạ.
Có một chàng trai từng sinh ra và lớn lên ở một thị trấn nhỏ. Anh lên thành phố học và trở thành một luật sư.
Ra trường thất nghiệp, anh ta quay trở về quê mở một văn phòng luật sư ở ngay trung tâm thị trấn và trang trí cực kỳ bắt mắt.
Tuy nhiên, thị trấn nơi anh ở vốn rất yên bình và chẳng mấy khi người ta cần luật sư cả. Chờ mãi mà không thấy khách hàng nào đến, anh chàng lấy làm rầu lòng lắm!
Một hôm, anh ta nhìn thấy một người đàn ông bước vào văn phòng của mình. Để ra oai, ngay khi người đàn ông bước vào, anh ta liền nhấc ngay điện thoại và nói một cách lưu loát, vừa nói vừa ra hiệu cho người đàn ông ngồi chờ:
- Không, tất nhiên là không thể được! Tên tội phạm đó nổi tiếng nguy hiểm ở thành phố này và tôi không thể chấp nhận vụ này với giá ít hơn 100 ngàn đôla... Thật sao? Tại sao Tòa án tối cao lại có thể đưa ra phán quyết như thế cơ chứ?... Được rồi, anh yên tâm, vài ngày nữa tôi sẽ đến gặp ông chủ của anh để bàn bạc chi tiết hơn về vấn đề này… Yên tâm nhé! Tôi quyết theo vụ này đến cùng… Rồi! Ok! Ok!…
Đoạn anh ta gác máy và bước đến bắt tay người đàn ông nãy giờ đang ngồi chờ:
- Tôi thật sự xin lỗi vì đã để ngài chờ lâu như thế. Nhưng mà ngài thấy đấy, tôi quả là rất bận rộn… À, mà ngài đến đây có việc gì vậy nhỉ?
Người đàn ông trả lời:
- Tôi là nhân viên bưu điện đến để nối dây điện thoại cho anh thôi. Điện thoại anh hư rồi mà sao anh vẫn nói chuyện được nhỉ?
Thật xấu khổ khi tự đánh bóng mình mà bị phát hiện. Thật không có sự xấu hổ nào đáng thương khi giả dối bị phơi bày ra ánh sáng. Điều đáng sợ là người đánh bóng chính mình sẽ tự giết mình trong cô độc và cô đơn.
Trong Thần thoại Hy Lạp có một chàng trai tên là Narcisse, con của thần sông và tiên nữ Liriopé. Chàng đẹp đến nỗi có quá nhiều nữ thần say mê van xin tình yêu nhưng chàng vẫn một mực lạnh lùng từ chối.
Trong số những kẻ thất tình có Echo. Đau khổ vì bị Narcisse từ chối, Echo cầu xin các vị thần và các nữ thần cùng yêu chàng tập hợp lại để trừng phạt chàng. Từ đó, Narcisse sẽ chỉ được phép yêu chính bản thân chàng.
Một lần, Narcisse nghỉ ngơi bên bờ suối, chợt nhìn thấy bóng mình dưới nước, chàng ngẩn ra ngắm mình và chợt hiểu vì sao biết bao con tim của các cô gái lại tan vỡ vì mình. Càng ngắm, chàng càng ngưỡng mộ và say đắm cái bóng của mình. Nhưng cứ đụng tay vào nước suối, cái bóng lại tan vỡ. Cuối cùng, chàng chết trong mòn mỏi, với một khối tương tư cái bóng của chính mình.
Yêu mình và đánh bóng chính mình là chúng ta đang tự cắt đứt liên hệ với tha nhân. Điều đó dẫn con người đến chết trong cô độc. Nhưng tiếc thay, con người qua mọi thời đại lại thích đáng bóng chính mình. Họ tự phô diễn mình, đề cao mình và điều đó khiến họ trở nên cô đơn giữa anh em, và đôi khi chết trong cô độc.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã không đánh bóng chính mình. Ông đã làm mọi việc chỉ để giới thiệu Chúa cho tha nhân. Ông không ảo tưởng về mình, dù cho nhiều người từng ngộ nhận ông là Đấng Messia, nhưng ông đã tự biện bạch cho mình và còn lợi dụng cơ hội tốt lành này để giới thiệu Chúa cho tha nhân. Ông không nhận mình là ánh sáng mà chỉ là người được phản chiếu từ ánh sáng Thiên Chúa. Ông chỉ nhận mình là chứng nhân cho Đấng phải đền trong thế gian.
Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ được một vài thành tích đã nghĩ mình là Thiên Chúa. Họ ảo tưởng về những gì mình có là do tài trí, khôn ngoan của mình. Họ cố tình gạt Thiên Chúa để nhận mình là trung tâm mọi sự. Họ còn thêu dệt quanh đời mình bằng những thành tích, những hư danh để đánh bóng chính mình. Điều không ai ngờ là càng đánh bóng chính mình thì lại càng thất vọng về mình. Càng đề cao mình thì càng làm cho mình không bao giờ thỏa mãn về những gì mình đang có. Đó là điều khiến con người không bao giờ hạnh phúc về mình, và càng không bao giờ hạnh phúc về những gì mình đang có. Chỉ khi nào nhìn nhận những gì mình có là ân ban của Trời thì lúc đó con người mới hạnh phúc vì ân lộc trời ban. Chỉ khi nào con người gỡ bỏ đi những bệnh thành tích, ảo tưởng, đánh bóng chính mình thì lúc đó con người mới cảm thấy hạnh phúc về những gì mình đang có, lúc đó con người mới vui với phận mình mà cám ơn Thiên Chúa.
Mùa vọng nhắc nhở chúng ta Thiên Chúa đã đến với chúng ta và ở cùng chúng ta. Ngài hiện diện trong những thăng trầm cuộc đời chúng ta. Chính Ngài sẽ dẫn dắt cuộc đời chúng ta đi trong tình yêu quan phòng của Ngài. Ngài sẽ bảo vệ, chở che nâng đỡ chúng ta. Thế nên, chúng ta hãy vui mừng vì Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta. Hãy vui mừng vì Ngài đang đồng hành với chúng ta. Hãy vui mừng vì Thiên Chúa đang can thiệp vào từng cuộc đời chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào Chúa dẫu cuộc đời còn đó những ngổn ngang lo lắng. Sự tín thác sẽ giúp chúng ta an vui trong cuộc sống và bước đi trong sự tin tưởng nơi Ngài. Amen.
Mẹ Têrêsa có dịp qua Việt Nam hai lần, năm 1994 và năm 1995, và hai lần đó, tôi được may mắn tiếp kiến mỗi lần gần một giờ. Lạ lùng thay, hình ảnh Mẹ để lại trong tôi không có gì là của một vĩ nhân cả, mà của một người khiêm nhường đến độ quên đi bản thân mình. Điểm đầu tiên gây ấn tượng là cảm thức về Thiên Chúa nơi Mẹ. Khi đến Việt Nam, Mẹ tạm trú trên lầu 3, tại 38 Tú Xương. Người ta dành một phòng cho Mẹ và một phòng cho ba nữ tu theo Mẹ (trong số đó có vị Bề Trên tổng quyền hiện nay là Sr Nirmala Joshi). Thế nhưng Mẹ đã biến phòng của mình thành nhà nguyện với sự hiện diện của Mình Thánh Chúa, rồi cùng chia sẻ với ba chị em phòng còn lại. Mẹ đã hẹn anh chị Soi và tôi đến gặp Mẹ lúc 11 giờ trưa.
Đúng hẹn, chúng tôi lên lầu 3. Vì không có chỗ tiếp khách, Sr. Nirmala mời chúng tôi ngồi ở hành lang và Mẹ ra tiếp chúng tôi tại đấy. Sau nụ cười chào đáp, Mẹ chỉ ngay vào nhà nguyện và bảo: “Chúa kìa,” với một thái độ tự nhiên, giống như một bà mẹ bảo con mình chào ông ngoại khi đi đâu về. Mẹ vào quì trước Thánh Thể với chúng tôi một vài phút, trước khi bắt đầu câu chuyện. Và cuối buổi nói chuyện, Mẹ cũng chỉ vào nhà nguyện bảo chúng tôi chào Chúa trước khi ra về. Thái độ Mẹ đơn sơ như thể Chúa luôn có mặt bằng xương bằng thịt ở bên Mẹ. Cái cảm thức về Chúa nơi Mẹ rõ rệt đến độ tôi có cảm giác rằng nó hùng biện hơn bất cứ bài giảng nào của bất cứ ai nói về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Điểm thứ hai gây ấn tượng là cách nói chuyện của Mẹ. Mẹ không nói chuyện với ba người, mà nói với từng người một. Mẹ cúi mình xuống và nhìn lên với cái nhìn thật trân trọng, cứ như là Mẹ muốn tiếp thu một bài học nào đó từ người đối thoại mà quên mất mình là ai. Nói chuyện với Mẹ mà trong đầu tôi cứ lờn vờn hình ảnh của Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho môn đệ mình. Qua thái độ lắng nghe và ánh mắt, Mẹ đã cho người đối thoại thấy rằng mình vô cùng giá trị… (Trần Duy Nhiên, Hình ảnh Mẹ Têrêsa đối với tôi)
Bước vào Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng, còn gọi là Chúa Nhật Vui (Gaudete Sundae), hay Chúa Nhật Hồng, vì Thánh Gioan Tiền Hô đem niềm vui cứu độ đến nhân loại. Ngài là chứng nhân của Ánh Sáng, cũng như Mẹ Têrêsa gần đây là chứng nhân hiện đại của Đức Giêsu.
Chứng nhân Gioan đã làm gì để thuyết phục dân chúng tuôn đến nghe rao giảng và ăn năn sám hối? Nếu không phải là ngài đã dám nói thật, sống thật và chết cho sự thật.
Nói thật
Thánh Gioan liên tiếp ba lần thưa “Không,” khi các tư tế và các thầy Lêvi xét hỏi, điều tra về nhân thân. Ngài quyết liệt phủ nhận những danh xưng ngộ nhận. Nói thẳng, nói thật, nói đúng lúc, nói chính xác, là đức tính cần thiết và tiên quyết của người chứng. Danh chính, ngôn thuận, sự tất thành.
Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải nói thật, huống chi chứng nhân: “Có” thì nói “có”, “không” thì nói “không.” Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5, 37) Thánh Giacôbê lập lại lời Chúa dạy và khuyên nhủ: “Nhưng hễ “có” thì phải nói “có’, “không” thì phải nói “không,” như thế anh em sẽ không bị xét xử.” (Gc 5, 12)
Chứng nhân Gioan không hề lợi khẩu, bẻo mép, xảo ngôn, ngụy biện hòng mê hoặc, hay mị dân như xưa nay người ta quen ứng xử. Ngài không bạc nhược, nể nang, sợ hãi, cũng chẳng ấm ớ hội tề, rằng, thì, là, mà, cũng như không hề giấu diếm nỗi bất bình, khi chỉ tận tay, day tận mặt nhiều người thuộc phái Pharisiêu và Sađốc đến với ngài, chịu phép rửa: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3, 7)
Sống thật
Ngôn hành hợp nhất, nói sao làm thế, chứng nhân Gioan sống hoàn toàn chay tịnh, đơn giản từ cái ăn đến cái mặc, vô gia cư, vô sản chuyên chính nghiêm minh, chẳng hề môi mép, vờ vịt, giả vờ nghèo khó.“Rượu lạt, rượu nồng em sẽ đều không uống.” (Lc 1, 17) Nếp sống thanh bần tận cùng đã lay động lòng người, cảm hóa, thuyết phục mọi người vội vã tìm đến nghe giảng dạy, ăn năn sám hối và chịu phép rửa.
Khổ tu với thái độ khiêm nhường, hãm mình, chuyên tâm cầu nguyện và thực hiện hoàn hảo Thánh Ý Chúa, Thánh Gioan chỉ dám đơn sơ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa, đánh động lòng người quay về đường ngay nẻo chính. Đức Giêsu ngợi khen thánh Gioan: “Tôi nói cho anh em biết: đây còn hơn cả ngôn sứ nữa….Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan.” (Lc 7, 26-28)
Chết cho Sự Thật
Không những sống theo lời chứng, thánh Gioan còn sẵn sàng chịu chết cho Sự Thật, khi công khai can ngăn vua Hêrôđê lấy chị dâu làm vợ. “Ngài không được phép lấy bà ấy.” (Mt 14, 4) Không hề run sợ trước bạo quyền, Ngài không hèn nhác tránh né nhiệm vụ ngôn sứ. Cũng chẳng làm ngơ, giả mù sa mưa trước gương mù, gương xấu của nhà lãnh đạo, sẵn sàng đánh cược mạng sống để bảo vệ luân lý, đạo đức và Sự Thật.
Thời nay càng khẩn thiết cần đến chứng nhân trung tín, nhiệt thành và dám hy sinh trọn vẹn, như Thánh Gioan Tiền Hô. ĐTC Phaolô VI đã thao thức trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi: “Ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy.” Bởi vì Giáo Hội quá dư thừa thầy dạy, thầy giảng, thầy lý thuyết, mà quá thiếu thốn chứng nhân hợp nhất ngôn hành.
“Thủy thủ lặn dưới đáy biển, phi hành gia bay trên phi thuyền đều dấn thân mạo hiểm vì khoa học. Ngày nào con bỏ tất cả và bất cứ giây phút nào cũng sẵn sàng liều mình vì Chúa, người ta mới tin đời nội tâm con.” (Đường Hy Vọng, số 84)
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi, cải hóa tâm hồn chúng con, loại bỏ tất cả những gì thuộc về cái tôi, bản ngã, tất cả những đam mê thế gian, trần tục, của cải, danh vọng, chức tước, quyền lực, ham muốn, để xứng đáng đón Chúa ngự vào.
Lạy Mẹ Maria, mẫu gương khiêm nhường và dấn thân xả kỷ, xin giúp chúng con thoát tục tòng thiên, biết ưu tiên chọn Chúa, theo Chúa và sống Lời Chúa luôn. Amen.
Ai đã từng vuợt biển và sống qua các trại tỵ nạn hầu như đều chung cảm nghĩ rằng đó là những kỷ niệm không thể phai mờ.
Nhìn đại dương bao la cuồng nộ sóng rồi nhìn chiếc thuyền chài mỏng mãnh mong manh, ước vọng đến bờ bến bình an đã gần như tuyệt vọng. Và vì đã có thể chạm sờ cái chết trong gang tấc, ước vọng của mỗi thuyền nhân là khi thuyền cập bến tự do, sẽ gióng lên tiếng chuông sự thật về một trại tập trung mang hai tiếng Việt Nam kinh khiếp gấp ngàn lần trại tù Auschwitz.
Nhưng ngoài đại đa số thuyền nhân đã can đảm trở thành chứng nhân cho sự thật -những chứng nhân đã có lần đuợc gọi là “tiếng nói của luơng tâm nhân loại,” một thiểu số rất nhỏ nhoi, oái ăm thay, đã rất ngại ngùng, Chẳng những không dám nói lên sự thật về một chế độ rất hà khắc rất phi nhân, họ một sớm một chiều là nô lệ cho những giả trá từ vui thưởng vui phạt đến rất đê hèn.
Man khai hộ tịch là chuyện vẫn thuờng xảy ra nơi văn phòng Cao Uy. Khai tuổi thêm, sụt tuổi xuống; gia đình đùm đề vẫn an nhiên gạch vào ô đề chữ ‘single’, ôi thôi, chuyện dài tỵ nạn… Nhưng có một kiểu man khai đến rợn người đó là man khai tôn giáo: giả sơ; giả thầy; giả đến cả cha!!!
Thay vì được xức dầu và sai đi đem “Tin Mừng cho người nghèo khó,” họ tự xức ‘Channel 5’ rồi bịp bợm làm giàu có cho chính bản thân mình. Thay vì “băng bó những tâm hồn đau thương,” họ đã gây bao đau thương đến nhiều những tâm hồn. Thay vì khiêm cung cởi giây dày cho Con Thiên Chúa, họ huyên hoang khoác lác đòi buộc Con Thiên Chúa hằn tấm lưng sâu cởi giây dày cho họ. Không làm chứng về sự sáng mà tự vỗ ngực xưng mình là sự sáng, những con gián ngày thời đại kia đã ít nhiều làm nhòe đi trang sử son của dòng giống Tiên Rồng.
Phải chi họ suy ngẫm về Gioan Tẩy Giả trước khi thuyền rời bến! Gioan đã có thể dễ dàng man khai mình là tiên tri Êlia. Gioan cũng đã có thể lừa bịp cả toàn dân
Do Thái tuyên bố mình chính là Đấng KiTô. Nhưng không! Gioan ví mình chỉ như “tiếng kêu trong hoang địa” đi trước dọn đuờng. Hơn ai hết, Gioan hiểu rằng con người chỉ là một tạo vật bé hèn và con người phải làm tất cả những gì mình có thể để ánh sáng của Đấng Tạo Thành đuợc muôn đời rạng chiếu.
Và nếu muốn tả trọn vẹn trung thực con người Gioan, thiết nghĩ chẳng có gì xác đáng hơn hai chữ ‘khiêm cung’. Hai ngàn năm truớc công nguyên, Gioan đã nhận thức đuợc rằng Đức Kitô chỉ có thể đến khi có người dám khiêm cung mở lối dẫn đường. Khi khiêm cung nhìn nhận con nguời chúng ta không phải là sự sáng nhưng chỉ có thể làm chứng thôi về sự sáng Con Nguời.
Một trong những vấn nạn mà giáo hội Công Giáo chúng ta đang phải điên đầu đối phó là tệ nạn lạm quyền. Lạm quyền lại rất dễ dàng dẫn đưa tới lạm dụng, cộng tác viên trở thành thuộc hạ tay sai. Rồi kết bè kết phái. Rồi phe đảng hội hè.
Con Nguời đã nhập thể vì Mẹ, như thánh Gioan, nhìn nhận mình là “tôi tớ Chúa”. Mẹ đã sống rất mực khiêm cung và Thiên Chúa đã khiêm cung ngự trong cung lòng Mẹ. Hãy tâp sống khiêm cung, mãi mãi khiêm cung, để Hài Nhi Giêsu có thể nhập thể trong mỗi một tâm hồn. Hãy luôn sống như thế và đừng bao giờ dập tắt lửa khiêm cung bừng cháy từ dầu Thần Linh Chúa.
Ngày nọ, Thánh Phanxicô Assisi nói với thầy trong dòng:
- Nào chúng ta cùng đi giảng đạo.
Thế là hai cha con ra đi, đi hết đường này, sang đường kia, rồi quẹo, sang ngã khác về nhà. Khi về đến nhà, thầy dòng thắc mắc hỏi:
- Thưa Cha, con nghe Cha nói mình đi phố giảng đạo cơ mà?!....
- Chúng ta đã giảng đạo rồi đó. Khi chúng ta đi đường, mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghe về đời sống của ta, rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống của linh hồn họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi đó sao?
---------
Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào kết quả cho bằng chính đời sống chứng tá của mình. (Theo “Minh họa Lời Chúa”).
2. Sống giữa người nghèo
Trong tác phẩm “Bản nhạc của Thiên Chúa”, tác giả kể câu chuyện sau đây.
Một ông vua nọ có đứa con trai duy nhất kế vị ông. Người con trai này có nhiều đức tính tốt., nên toàn dân vui mừng khi nghe vua cha sẽ nhường ngôi cho cậu. Nhưng trước khi lên ngôi kế vị, cậu xin phép du hành một chuyến để tìm hiểu đất nước và tình hình dân sự.
Sau khi người con ra đi, vua cha ngã bệnh nặng băng hà. Tình trạng trống ngôi vua khiến đất nước lâm cảnh rối ren, dân chúng lầm than khốn khổ. Người ta biết hoàng tử đang ở trong nước, nhưng không xác định được ông đang ở đâu. Triều thần đổ xô đi tìm khắp nơi nhưng không ai tìm thấy dấu vết nào. Có số người vào tìm trong thành thị giàu có sang trọng, nhóm người khác tìm nơi các nhà chính trị hoặc kinh doanh nhưng cũng chẳng ai tìm gặp hoàng tử.
Trong khi đó, tại một xóm nghèo người ta thấy có một thanh niên ngày ngày tận tâm phục vụ người nghèo. Tiếng tăm của người thanh niên đó ngày càng lan rộng khắp nơi. Nhờ đó mà người ta nhận ra đó là hoàng từ và đặt lên kế vị ngai vàng. Và toàn dân mến phục vi vua này…
----------
Chúa Cứu Thế đã đến ở giữa mọi người, nhứt là tận tâm tận lực phục vụ người nghèo khổ bất hạnh, đến nỗi chết treo trên khổ giá để cứu độ họ. Thế mà mấy ai nhìn nhận? mấy ai biết ơn? Mấy ai mến phục?... (Theo “Chờ đợi Chúa”)
3. Tại vì anh hút thuốc
Greg Louganis là nhà vô địch thế vận hội về môn bơi lội. Anh đang chuẩn bị rời hồ bơi. Bỗng anh nghe thấy một chú bé ngậm điếu thuốc chạy về phía anh. Anh gọi nó và bảo:
- Em không nên hút thuốc. Tại sao em hút thuốc?
Đứa bé trả lời một cách hết sức tự nhiên: - Tại vì anh hút thuốc, nên em bắt chước anh!...
Greg mới nhớ sực lại mình đang ngậm điếu thuốc trên môi.
Sự kiện đó tác động mạnh đến việc anh bỏ hút thuốc . Anh nói: - Tôi có bổn phận phải làm gương tốt cho các em nhỏ.
----------
Muốn làm sứ giả dọn đường cho Chúa đến cứu độ tôi và mọi người, tôi có bổn phận làm gương tốt như anh Greg trên đây không? Tôi có cần chửa bỏ tội lỗi và thói xấu để kẻ khác bắt chước không? Tôi có cần thực hiện điều lành việc tốt để làm gương không? (Theo “Vision 2000”).
4. Ánh sáng muôn dân
Trong truyện cổ Phi Châu có câu chuyện sau đây:
Cụ già kia có 3 con trai. Nhờ cần cù làm việc, ông có được gia tài khá nhiều. nay ông thấy gần đất xa trời rồi, muốn để gia tài cho đứa con nào khôn ngoan, để nó gìn giữ và phát triển được.
Hôm nọ, ông gọi 3 người con đến tro cho mỗi người 5 đồng, bảo đi mua cái gì có thể làm đầy phòng khách nhà ông. Mọi người lãnh tiền ra đi.
- Ngày hôm sau, ba an hem đến bên giường cha già, đem theo vật đã mua. Người anh cả đem bó rơm trải lên chỉ đầy sàn nhà.Người anh kế mở túi lông gà chỉ đủ rải qua loa. Người cha nhìn hai đứa con lớn tỏ vẻ buồn, rồi ông quay sang hỏi đứa con út: - Còn con, con mua gì đâu?
Cậu rút ra cây nến và bao diêm. Cậu bật diêm lên, đốt cây nến và ánh sáng tỏa khắp phòng. Người cha thấy thế hài lòng sung sướng, chia phần gia tài nhiều nhứt cho cậu.
--------
Chúa Giêsu đã đem ánh sáng đến cho muôn dân, và ở giữa mọi người, mà con người không nhìn thấy Ánh Sáng cứu rỗi của Người. Người là Ánh Sáng chân lý, Ánh Sáng hy vọng, Ánh Sáng ban sự sống…. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta đón nhận Ánh Sáng của người, và thắp lên tia sáng tình thương cho những người sống xung quanh chúng ta.
Con người thời đại nào cũng cần chứng nhân. Một đời sống chứng nhân đích thực không dừng lại ở lời nói hoa mỹ mà ở chính cung cách sống phù hợp với lời rao giảng của mình. Có ai đó nói rằng: người ta chỉ thán phục những người nói hay nhưng họ sẽ kính phục những ai thực thi điều mình nói.
Đây chính là lời chứng hùng hồn của thánh Gioan B. Ngài đã sống trọn cuộc đời thanh thoát với chốn bụi trần để tâm hồn chỉ còn một niềm vui là ra đi làm chứng cho Đấng Cứu Thế giữa dòng đời. Lời rao giảng và kèm theo cách sống thanh thoát của ngài đã khơi gợi lên cho dân chúng một niềm vui của thời đại Messia đã đến. Niềm vui đó đã khiến hàng ngàn người thay đổi đời sống bằng sám hối và canh tân.
Trên dòng sông Jourdan năm đó người ta tuôn đến rất đông không chỉ để mong được nghe Gioan rao giảng mà quan yếu được gột rửa mình trong sông Jourdan. Dòng nước sông Jourdan được gột rửa với lòng sám hối đã mang lại niềm vui hoan lạc cho tâm hồn con người.
Xem ra dòng đời hôm nay rất cần những chứng nhân của Đức Ky-tô. Một đời sống chứng nhân có thể thay đổi lòng người và mang lại niềm vui nội tại cho những người mà ta đang sống. Một đời sống chứng nhân bằng bác ái, bằng dấn thân phục vụ cho người nghèo, người bệnh tật, già nua chính là phương thức hữu hiệu để dọn đường cho Chúa đến với thế gian.
Cám ơn Chúa trong dòng đời hôm nay ta vẫn thấy thấp thoáng những chứng nhân của Đức Ky-tô đang dấn thân trong mọi môi trường. Họ chính là những con chim én đang tìm đàn để tạo nên mùa xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu đó ta vẫn thấy những người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác trên quốc lộ do người xấu rải ra. Đâu đó ta vẫn thấy những người đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân nằm thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó ta vẫn thấy những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó ta vẫn thấy những con người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các trại phong . . .
Tất cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Đây cũng chính là dấu chỉ về thời đại Messia mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài mang tình thương đến cho muôn người.
Ngày 19.11 vừa qua Đức Thánh Cha Phanxico phát động ngày vì người nghèo, với chủ đề “tình yêu không bằng môi miệng mà phải hành động cụ thể”. Và chính ngài cũng mời người nghèo vào trong quảng trường dùng cơm với ngài trong tinh thần hòa đồng yêu thương. Phải chăng Đức Thánh Cha đang mời gọi chúng ta hãy trở nên dấu chỉ cho tình yêu Chúa bằng những công việc cụ thể “chia cơm sẻ áo”? Tình thương và lòng bác ái vốn dĩ là dấu chỉ về người môn đệ Chúa Ky-tô. Vì khi ta sống tình yêu ấy là ta đang họa lại chân dung về Đấng Messia cho nhân loại hôm nay.
Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Lễ giáng sinh cũng chính là lễ của tình yêu. Đấng Messia đã đến để mang lại niềm vui cho con người khi Ngài băng bó, chữa lành mọi tật nguyền cho dân. Khi Ngài dám chết cho người mình yêu. Chính cuộc đời của Ngài trở thành Tin mừng cho nhân thế. Hôm nay Đấng Messia vẫn đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu muôn dân sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giê-su. Amen
Không ngừng sao? Điều đó nghe như không thể, đúng không? Hãy hy vọng! Phaolo thực sự không có ý nói với chúng ta theo nghĩa đen là cầu nguyện suốt cả ngày dài. Ngài đang nói về một thái độ. Ngài đang mời gọi chúng ta hãy cố gắng nhận biết Thiên Chúa qua những ngày sống của chúng ta, bất kể chúng ta đang làm gì.
Điều đó dường như vẫn có vẻ hơi quyết liệt, nhưng chúng ta hãy nghĩ đến Đức Trinh Nữ Maria. Hãy cố gắng chiêm ngắm Mẹ và hình dung những việc Mẹ phải suy nghĩ một vài ngày trước khi Chúa Giêsu sinh ra. Như mọi người mẹ đang mang thai khác, Mẹ có lẽ rất tỉnh táo với mọi giây phút của con trẻ Giêsu trong cung lòng Mẹ. Hãy tưởng tượng Mẹ đặt tay Mẹ trên bụng Mẹ và mỉm cười mỗi khi con trẻ Giêsu động đậy – ngay cả khi con trẻ đạp mạnh! Hãy tưởng tượng Mẹ luôn luôn phải điều chỉnh tư thế của Mẹ khi Mẹ ngồi, Mẹ phải cẩn thận khi đi lại, phải ngủ cho đủ giấc và Mẹ phải luôn về nhà kịp thời để sẵn sàng đón chào người con của Mẹ. Mọi thứ được tập trung vào việc chăm sóc cho sự sống đang lớn lên trong Mẹ.
Như khi Đức Maria tỉnh táo với các hoạt động của con trẻ trong Mẹ, chúng ta có thể tỉnh táo với các hoạt động của Thánh Thần trong chúng ta. Dĩ nhiên, điều này dễ hơn đối với Đức Maria. Toàn thân Mẹ đã biến đổi trong suốt lúc mang thai. Không có gì mà không tỉnh táo với Chúa Giêsu! Vì thế bạn đừng quá buồn phiền về chính bạn.
Ở đây có một cách mà bạn có thể cảm nhận được tốt hơn sự hiện diện của Thiên Chúa qua ngày sống của bạn. Bạn hãy cố gắng dành ra vài lần mỗi ngày khi đó bạn hãy dừng lại vài phút và hướng về Chúa. Có lẽ bạn có thể bắt đầu ngày sống của bạn bằng một ít phút cầu nguyện và rồi cố gắng dừng lại sau ba giờ và cầu nguyện, sau đó hãy phó thác chính bạn cho Chúa trước khi đi ngủ.
Lời cầu nguyện của bạn cũng không cần phải khó khăn cầu kỳ. Chỉ cần cất lên lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, tạ ơn Ngài vì một ơn lành và xin Ngài tha thứ nếu bạn phạm bất cứ tội gì trong tâm trí. Dần dần, bạn sẽ cảm thấy gần Chúa hơn. Ai biết? Bạn có thể còn cảm thấy Ngài đang lay động con tim bạn, như thể Đức Maria cảm thấy Ngài trong cung lòng của Mẹ!
“Lạy Chúa, xin giúp con ở gần Chúa”.
Theo the Word Among us Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
Người ta thường nói: Đời là bể khổ hoặc đời là thung lũng nước mắt. Đối với chúng ta đời không hẳn là như thế, mà ta có thể nói: cuộc đời có rất nhiều đau khổ, đầy gian nan thử thách, và chúng ta có thể biến tất cả thành niềm vui nếu chúng ta biết đặt niềm tin vào Chúa, Đấng là nguồn vui bất tận.
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi ta sống trong niềm vui chờ đợi Giáng sinh. Chúa sẽ đến cứu chúng ta, ngày giờ Chúa đến không được xác định. Trong thời gian chờ đợi có lẽ chúng ta lo âu, buồn phiền và nghĩ rằng hy vọng của mình có thể là ảo tưởng, niềm tin của mình xem ra hão huyền.
Không, chúng ta hãy vững tin, đừng thất vọng. Thánh Phaolô thúc giục chúng ta: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”(bài đọc 2). Tuy trên bước đường chờ đợi có gặp nhiều khó khăn, nhiều gian nan thử thách, nhưng chúng ta là Kitô hữu, hãy cứ mạnh tiến, với tâm hồn tin tưởng và phấn khởi. Đức Kitô đang ở đó, vẫn âm thầm hiện diện, chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ gặp gỡ Ngài ở cuối đường. Sống trong Mùa Vọng, chúng ta hãy sống với tư tưởng này: Chúa đã gần đến, nên ta hãy trút mọi phiền sầu và hãy vui lên.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 61,1-2a.10-11
Dân Israel bị bắt đi lưu đầy ở Babylon 70 năm trường. Vài năm trước khi kết thúc cuộc lưu đầy, tiên tri Isaia đã loan tin mừng cho dân, báo cho họ biết là sắp được giải thoát, họ sẽ không còn bị đè nén, ức hiếp bởi kẻ thù nữa.
Họ sẽ được trở về quê cha đất tổ của mình, tuy còn là những người nghèo khổ, đụng phải những khó khăn nghiêm trọng, hoàn toàn thiếu phương tiện vật chất, bị những người lân cận sách nhiễu và thù ghét, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ không còn là những người bị ruồng rẫy, trái lại, họ mới là chính đối tượng Thiên Chúa dành cho mối tình âu yếm.
Như vậy, tiên tri Isaia đã đem đến cho những người khốn khó này một sứ điệp hy vọng, nhằm an ủi họ và cũng khơi dậy niềm vui trong họ, là những kẻ được Thiên Chúa yêu hơn cả: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao” (Is 61,10) . Sau này, trong bài Magnificat, Đức Maria đã lấy lại tâm tình này, và Đức Giêsu, tại hội đường Nazareth, cũng áp dụng ý tưởng này cho bản thân mình.
+ Bài đọc 2: 1 Tx 5,16-24
Trong thư gửi cho tín hữu Thessalonica, thánh Phaolô nhắc nhở họ hãy vui tươi vì đã được Thiên Chúa cứu độ: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng”. Nhưng dù sao, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải quan tâm đến ngày Quang lâm hay ngày Chúa trở lại. Phải chuẩn bị cho ngày đó .
Phải chuẩn bị bằng cách nào ? Theo thánh Phaolô, phải chuẩn bị bằng cách sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần, trong bình an và vui tươi nhờ cầu nguyện, theo đuổi điều thiện hảo, tin tưởng nơi Thiên Chúa và tình yêu của Ngài. Nếu làm được như thế là chúng ta đã sẵn sàng đón tiếp Đức Kitô, cho dù không biết ngày nào Ngài trở lại.
+ Bài Tin mừng: Ga 1,66-8.19-28.
Trong bài Tin mừng tuần trước, thánh Gioan Tẩy giả đã hô hào dân chúng dọn đường cho Chúa đến, hôm nay, Ngài tự giới thiệu cho người Do thái Ngài chỉ là người làm chứng và sửa soạn cho Chúa đến. Gioan đi rao giảng phép rửa thống hối, từng đoàn người tấp nập kéo đến bờ sông Giorđan xin chịu phép rửa. Việc này chứng tỏ ảnh hưởng của Gioan đã lan rộng khắp vùng, làm cho các nhà chức trách phải thắc mắc: Ông này là ai ? Ông có ý đồ gì không ?
Vì thế, nhà chức trách gửi một số tư tế và mấy Lêvi đến điều tra xem Gioan là ai ? Câu hỏi chỉ xoay quanh tư tưởng chủ chốt: “Ông có phải là Đấng Messia không” ? Gioan đã trả lời thẳng thắn: Ông không phải là Đấng Messia, cũng không phải là Elia, thậm chí cũng không phải một trong các tiên tri thời xưa trở lại. Ông chỉ khẳng định: Ông là sứ giả có trách nhiệm dọn đường cho Chúa thôi. Còn phép rửa của ông làm chỉ là dọn đường mở lối cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu thế. Nhưng ông nhấn mạnh cho họ tư tưởng này: Đấng Cứu thế đang ở giữa họ, mà họ không biết.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Làm chứng cho Chúa
I. GIOAN, ÔNG LÀ AI ?
Đã từ 400 năm, tiếng nói tiên tri đã im bặt, bây giờ với Gioan, tiếng nói ấy lại vang lên. Qua đó một số người đã ngưỡng mộ ông Gioan Tẩy giả đến độ dành cho ông địa vị cao hơn địa vị thích đáng, còn cao hơn cả Đức Giêsu. Tiếng nói của Gioan đã vang dội và đánh động nơi nhiều người.
Cấp lãnh đạo Do thái sợ Gioan chiếm mất địa vị của mình, đã sai mấy tư tế và Lêvi đến điều tra xem Gioan là ai. Họ sợ ông là Êlia sống lại, người đã thiêu sống hơn 500 tư tế của hoàng hậu Giêzabel thời vua Achab. Họ sợ ông là một tiên tri, như bao tiên tri của Thiên Chúa, đến đe dọa họ, đưa những tin làm đảo lộn thời thế, làm mất quyền lợi địa vị của họ. Họ phải đề phòng, kiểm soát, canh chừng mọi bất trắc xẩy ra. Họ đã biết có nhiều người được dân coi là Đấng Cứu thế, nổi lên chống ngoại bang, làm cho bao nhiêu người phải chết lây, nhất là tầng lớp lãnh đạo tôn giáo lại càng sợ đế quốc tiêu diệt.
Vì vậy, cấp lãnh đạo tôn giáo sai tư tế và Lêvi đến đặt câu hỏi, yêu cầu Gioan phải trả lời cho ho biết: Ông là ai ?
1. Gioan là Đấng Messia ?
Tâm lý chung của các nước các dân bị trị đều mong có một vị cứu tinh nào đến giải phóng họ khỏi cảnh kìm kẹp của ngoại bang. Dân Do thái đang sống trong tâm trạng đó. Họ tin rằng họ là dân tuyển chọn của Giavê, họ không nghi ngờ gì về việc chẳng chóng thì chầy Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dân Ngài. Không phải chỉ có một quan niệm về Đấng Messia: có người tin rằng Đấng Messia sẽ đem lại hòa bình cho cả thế giới. Có người trông chờ Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Có người trông chờ có một siêu nhân đến từ Thiên Chúa. Nhưng đa số trông mong một vị tướng lãnh vô địch sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do thái đi chinh phục cả thế giới.
Trước câu hỏi đó, Gioan hoàn toàn bác bỏ danh xưng Messia, nhưng lại tiết lộ một phần khác. Trong tiếng Hy lạp có vẻ như Gioan muốn nói: “Tôi không phải là Đấng Messia, nhưng Đấng Messia đang có mặt ở đây mà các ông không biết”.
2. Gioan là tiên tri Êlia ?
Người Do thái tin rằng tiên tri Êlia và ông Hênốc đã được đưa về trời trên chiếc xe bằng lửa, và khi Đấng Messia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước, và chuẩn bị cho thế gian tiếp rước Ngài. Họ tin rằng Êlia sẽ đến sắp xếp lại mọi công việc cho người Do thái: dàn xếp những bất hòa, đem lại sự đoàn kết và nối lại các gia đình. Niềm tin rằng Êlia phải đến trước Đấng Messia bắt nguồn từ Malakia 4,5. Người ta còn tin rằng chính Êlia xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như cho tất cả các vị vua được xức dầu. Nhưng Gioan tẩy giả đã bác bỏ mọi vinh dự đó.
3. Gioan là một tiên tri nào đó ?
Nhiều người Do thái tin Isaia và đặc biệt là Giêrêmia hoặc một trong các vị anh hùng cứu nước như Samuel, Maisen… sẽ có ngày trở lại. Niềm tin đó dựa vào sách Đệ nhị luật (18,15) nói có vị tiên tri sẽ xuất hiện. Đó là lời hứa dân Do thái không khi nào quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là tiên tri vĩ đại nhất. Họ hỏi Gioan có phải là một trong các vị tiên tri được hứa trong sách Đệ nhị luật không ? Một lần nữa, Gioan Tẩy giả trả lời là “không”. Sự thực ngài cũng là tiên tri, nhưng không phải là tiên tri theo sách Đệ nhị luật nói.
4. Gioan là người làm chứng ?
Để trả lời cho họ, Gioan không trả lời trực tiếp: Tôi là Tiền sứ của Chúa Cưu thế vì ông khiêm tốn nhưng ông mượn lời tiên tri Isaia: “Tôi chỉ là tiếng hô trong hoang địa: hãy dọn đường cho Chúa.
Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại. Người “tiền hô” còn một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy giả cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới. Ông nói: “Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa”.
Tóm lại, chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau: “Tôi không phải là Đấng Cứu thế, nhưng tôi là người “tiền hô” cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến”. Gioan đã làm những gì mà mọi vị lãnh đạo tôn giáo đích thực phải làm. Ông không để cho người ta chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Giêsu.
Còn một điều khác làm cho phái đoàn Do thái thắc mắc: Gioan lấy quyền gì mà làm phép rửa ? Nếu ông là Đấng Messia, là Êlia hay là một tiên tri thì ông mới có quyền làm ! Nhưng bằng một giọng thản nhiên, Gioan nói rõ: ông là tiên tri dọn đường Chúa Cứu thế thì cố nhiên phép rửa của ông cũng chính là phép dọn đường mở lối cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu thế. Và ông nhấn mạnh thêm: Chúa Cứu thế đã đến rồi và hiện nay đang ở giữa họ, thế mà họ đã không nhận ra Ngài.
II. KITÔ HỮU, NGƯỜI LÀ AI ?
1. Là chứng nhân của Chúa
Kitô hữu là người được mang danh Chúa Kitô, danh hiệu này đã được thánh Phaolô lần đầu tiên gọi các tín hữu ở Antiochia. Kitô hữu là người thuộc về Chúa Kitô, được đồng hoá với Chúa Kitô đang sống giữa chúng ta. Chúng ta không như người Do thái phải mất mấy thế kỷ mong đợi Đấng Cứu thế đến. Hơn nữa, cũng không phải sống lại những biến cố đã qua. Đức Kitô đã đến. Ngài đang có đó. Liên tục hiện diện giữa chúng ta để loan báo Tin mừng cho người nghèo, để chữa lành các tâm hồn bị tan vỡ và giải thoát những kẻ bị xiềng xích.
Tuy Chúa Cứu thế đã đến rồi và ở giữa chúng ta, nhưng trong thực tế , chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài không ? Phải chăng lời khiển trách của Gioan Tẩy giả lại không nhằm đến chúng ta, cũng như những người Do thái đời ông: “Giữa các ngươi có một Đấng , mà các ngươi không biết”. Do đó, lời mời gọi khẩn thiết được trao gửi cho ta, giúp chúng ta dễ chấp nhận những nỗ lực và hy sinh cần thiết, để từ bỏ mọi kiêu căng, thoát khỏi những lố lăng trần thế, hầu nhận biết Đức Kitô.
Truyện: Tình nghĩa vợ chồng
Tại một trung tâm bài phong, đa số các bệnh nhân đều buồn chán, vì cảm thấy bị bỏ rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn còn biết cười và vẫn còn tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ. Vị nữ tu coi sóc trung tâm muốn tìm hiểu xem đâu là nguyên nhân của phép lạ này. Sau nhiều ngày theo dõi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên vách tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một người đàn bà đến nhìn vào và mỉm cười rất trìu mến. Đó là tất cả sức mạnh và niềm hy vọng của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày ông chờ đợi nụ cười ấy, khuôn mặt người đàn bà khi xuất hiện, mỉm cười và biến mất. Người đàn ông duy nhất còn biết cười nơi trung tâm bài phong đó đã giải thích cho vị nữ tu đó như sau:
“Người đàn bà ấy chính là vợ tôi ; trước khi tôi đến đây, nàng đã tìm đủ mọi cách để chữa chạy cho tôi. Mỗi ngày nàng lau chùi một khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt lên đó một cái hôn. Nhưng cuối cùng nàng không thể giữ tôi lâu hơn, người ta đã đến đưa tôi vào trung tâm này, nhưng vợ tôi đã không bỏ tôi, mỗi ngày nàng đến nhìn qua vách tường và mỉm cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn còn sống, nhờ nàng, tôi vẫn còn muốn sống”.
Người vợ đã làm sống lại niềm tin của chồng. Ông ta không còn thất vọng, không bi quan, không chán đời và còn muốn sống vì đã được tình thương của người vợ ấp ủ. Chính tình yêu của người vợ đối với chồng đã làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.
Người Kitô hữu cũng là chứng nhân của Đức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, nhà Thần học, linh mục Teilhard de Chardin đã ví von rất sống động: “Ánh sáng xuyên qua những đám mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán được có Đức Kitô”.
Người vợ trong câu chuyện kể trên phản ảnh một tấm gương sáng ngời về lòng thương người, luôn quan tâm tới người khác, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân vì tình yêu Đức Kitô như thánh Phaolô nói: “Caritas Christi urget me”: Tình yêu Đức Kitô thúc đẩy tôi.
Mục sư Martin Luther King nói: “Chúng ta không làm chứng chỉ bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cả cuộc sống của mình”, đúng như người ta nói:
Lời nói như gió lung lay, Gương bày như tay lôi kéo.
Có những tâm hồn dần dần được cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ.
J.Basquin nói: “Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”.
Ước gì nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người có thể nói như đã nói về thánh Gioan Vianney: “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một người”.
2. Chờ đợi ngày Chúa trở lại
Người Kitô hữu luôn nhớ lời Chúa hứa mà phấn khởi trong cuộc sống: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó” (Ga 14,3).
Trong suốt Mùa Vọng, Giáo hội hướng lòng chúng ta về Chúa Kitô như một điểm qui chiếu. Giáo hội hành động giống như vị “tiền hô” của Ngài. Và cuối cùng Giáo hội giải thích cho chúng ta phải chuẩn bị đón Ngài như thế nào.
Mùa Vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong dòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm ngày lễ Giáng sinh, mà còn đến lần chót vào cuối dòng lịch sử nữa, để lúc ấy sẽ có trời mới đất mới.
Và việc Chúa sẽ trở lại lần thứ hai với loài người trong ngày chung thẩm, Tin mừng thánh Matthêu còn ghi rõ: “Khi con người đến với tư cách là vị Vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ đều qui tụ trước mặt Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra thành hai nhóm, y như người chăn tách chiên ra khỏi dê… Nhà Vua sẽ nói với những người ở bên phải: Hãy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc ! Hãy đến và lãnh lấy Nước Trời làm cơ nghiệp… Rồi Ngài nói với những người ở bên trái: Hãy đi khỏi mặt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25,34-41).
3. Chờ đợi trong niềm vui
Đối với Kitô hữu, cuộc sống ở trần gian này là thời gian chờ đợi Chúa đến. Chúa đến trong ngày chung thẩm và Chúa đến với ta trong ngày sau hết của đời mình. Đời là một cuộc lữ hành đi về trời. Trong cuộc lữ hành đó có buồn vui sướng khổ xen lẫn nhau. Nhưng trong bài Thánh thư hôm nay, thánh Phaolô khuyên tín hữu Thessalonica: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”(Tx 5,16).
Tại sao Ngài khuyên chúng ta “hãy vui mừng luôn mãi” ? Ngài bảo chúng ta hãy vui mừng vì chúng ta đã được Thiên Chúa cứu độ: “Linh hồn tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”. Ngoài ra, chúng ta là con cái Chúa, con cái Chúa thì phải vui luôn, vui trong lúc buồn, vui trong lúc khổ, vui trong thất bại vì tất cả nằm trong thánh ý Thiên Chúa.
Làm sao chúng ta mang một nét mặt buồn rầu khi chúng ta đến gần Chúa là nguồn vui, như lời thánh vịnh nói: “Tôi sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, Đấng làm cho tuổi thanh xuân tôi được vui tươi”. Chúa là nguồn vui, tại sao gần nguồn vui mà lại buồn ? Ta hãy bắt chước thánh nữ Têrêsa Hài đồng mà chấp nhận trong vui tươi:
Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng. Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong Gai càng dài, lời ca càng thánh thót. (Têrêsa Hài đồng)
Truyện: Kịch sĩ hài lại buồn
Người ta cho biết tại một thành phố kia có một kịch sĩ nổi tiếng vì tài nhạo cười. Ai buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu nghe kịch sĩ này pha trò thì thế nào cũng phải bật cười.
Cũng trong thành phố ấy có một nhà tâm lý nổi tiếng chữa được hầu hết mọi tâm bệnh. Ngày nọ một người đàn ông đứng tuổi, mặt mày rầu rĩ đến xin gặp nhà tâm lý.
Được nhà tâm lý hỏi nguyên do, ông trả lời:
– Thưa bác sĩ, tôi là một người thiếu hạnh phúc, cuộc đời tôi quá buồn khổ. Bác sĩ có cách nào làm cho tôi vui được không ?
Nhà tâm lý hỏi:
– Ông có quá túng thiếu về tiền bạc không ?
Ông đáp:
– Thú thật với bác sĩ, tôi là người khá giầu.
Nhà tâm lý hỏi tiếp:
– Thế vợ con ông ra sao ?
Ông ta gật đầu nói:
– Tôi có một người vợ vừa hiền vừa đẹp và mấy đứa con rất dễ thương.
Sau khi hỏi thêm một vài điều khác, nhà tâm lý đề nghị:
– Tôi nghĩ ông nên đến nghe kịch sĩ nổi tiếng trong thành phố chúng ta. Thế nào ông cũng quên đi được nỗi buồn chán và tìm lại được niềm vui.
– Thưa bác sĩ, tôi xin cám ơn lời khuyên của bác sĩ. Nhưng… Tôi lại chính là kịch sĩ đó !
Nghe câu chuyện có vẻ mâu thuẫn, nhưng thực tế là vậy. Một con người có biệt tài làm cho người khác dù buồn chán đến đâu cũng phải vui lên được mà chính mình lại là nạn nhân của sự buồn rầu. Cái mâu thuẫn đó dễ hiểu vì kịch sĩ đó ngay trong tâm hồn không có nguồn vui thì làm sao mình cảm thấy vui được ? Niềm vui đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là chính niềm vui vĩnh cửu cho chính Ngài và từ nơi Ngài, niềm vui ấy được trao ban cho con người.
Chúa Giêsu chính là hiện thân niềm vui của Thiên Chúa. Từ cung lòng Chúa Cha, Ngài đến báo tin vui cho nhân loại và giải thoát con người khỏi mọi sầu khổ đau thương gây nên bởi tội lỗi và sự chết. Ngài đã đem niềm vui đó đến với nhân trần trong đêm Giáng sinh tại Belem: Vinh danh Thiên Chúa tên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương.
Trong Mùa Vọng này, chúng ta hãy đến với Chúa. Gặp gỡ Chúa là đến với nguồn vui bất tận, có niềm vui Thiên Chúa trong lòng mình, chúng ta sẽ làm cho người khác hưởng được niềm vui chân thật và bền vững.
Chúng ta hãy nhớ một câu trong bản nhạc rất hay của nhạc sĩ trứ danh Sebastian Bach:“Lạy Chúa Giêsu su, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác”.
Lạy Chúa, xin hãy đến: Maranatha, xin viếng thăm và ban cho chúng con niềm vui Giáng sinh bất tận.
Giới lãnh đạo Do-thái giáo đã phải vất vả mà không sao nhận ra Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân riêng Người là Đức Giêsu Nagiarét. Khi thấy Gioan xuất hiện với dáng dấp và ngôn ngữ của một ngôn sứ, họ cử người đến gặp và hạch hỏi Gioan xem ông có phải là vị Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa không. Gioan đã trả lời rành mạch rằng ông không phải là vị ấy mà chỉ là tiếng hô dọn đường cho vị ấy mà thôi. Gioan còn nói cho người Do-thái đương thời biết là Đấng Mêsia đang ở giữa họ mà họ không biết….
Còn chúng ta ngày nay, chúng ta có nhận ra Đức Giêsu Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến không? Mỗi người phải cố gắng trả lời được câu hỏi ấy.
Trong các bài Sách Thánh của Phụng Vụ Chúa nhật III Mùa Vọng hôm nay chúng ta được Ngôn sứ Isaia, Thánh Gioan Baotixita và Thánh Phaolô Tông đồ dân ngoại, chia sẻ kinh nghiệm của họ về cách họ nhận ra Thiên Chúa và nhận ra Chúa Giêsu Kitô.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 61,1-2a.10-11): "Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa" Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi, vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Tx 5, 16-24): "Thần trí, linh hồn và thể xác anh em được gìn giữ cho tới ngày Chúa đến" Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa. Vì đó là thánh ý Thiên Chúa về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Đừng dập tắt Thánh Thần; đừng khinh khi các lời tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức.
Xin chính Thiên Chúa bình an thánh hoá anh em toàn diện, để thần trí, linh hồn và thể xác anh em được gìn giữ toàn vẹn trong ngày Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến. Đấng đã kêu gọi anh em, chính Người là Đấng Trung Tín. Chính Người sẽ thực hiện.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 1,6-8.19-28): "Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết" Có người đã được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". Họ liền hỏi: "Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia". - "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp: "Không phải".
Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?" Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo".
Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Đức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?" Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong 3 Bài Sách hôm nay chúng ta biết Thiên Chúa nhờ/qua ba tôi tớ lỗi lạc của Người là ngôn sứ Isaia, Thánh Gioan Baotixita và Thánh Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại:
(1) Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia làm chứng là Đấng đã xức dầu tấn phong cho sứ giả của Người là Đức Giêsu Nagiarét. Thiên Chúa đổ tràn Thần Khí trên Người để Người thực thi sứ mạng được giao là loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân và năm hồng ân của Thiên Chúa. Sau này chính Chúa Giêsu đã xác định sứ vụ của Người khi long trọng tuyên bố trong hội đường Nagiarét: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe." (Lc 4,21). Lời Kinh Thánh ấy là câu 1 và 2 trong Chương 61 của Sách Ngôn sứ Isaia ở trên.
(2) Thiên Chúa mà Gioan Tiền Hô làm chứng là Đấng đang ở giữa dân mà người ta không nhận ra Người. Người làm Phép Rửa trong Thánh Thần trong khi Gioan Tẩy Giả chỉ làm phép rửa trong nước. Người cao trọng vượt xa Gioan đến độ Gioan không xứng được cởi quai dép cho Người. Chính Người mới là ánh sáng trong khi sứ mạng của Gioan chỉ là làm chứng về ánh sáng, chỉ là dọn đường cho Người mà thôi.
(3) Thiên Chúa mà Thánh Phaolô Tông đồ cảm nghiệm là Thiên Chúa rộng lòng rộng tay ban phát muôn hồng ân, nhất là Thần Khí cùng với ơn nói tiên tri, ơn khôn ngoan và ơn thẩm định (tốt/xấu) cho người tín hữu. Thiên Chúa còn là nguồn mạch bình an và là Đấng thánh hóa toàn diện con người. Vì thế Người đáng được chúng ta đón rước với tâm tình biết ơn và lời cảm tạ.
3.2 Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì? - Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy vui mừng và cất tiếng tạ ơn vì THIÊN CHÚA ĐÃ BAN CON CỦA NGƯỜI CHO CHÚNG TA! Đó chính là Chúa Giêsu Nagiarét, Vị Sứ Giả của Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa của chúng ta. Người đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm và Người vẫn ở lại giữa loài người, vẫn ở bên và ở trong chúng ta.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn sống với Đấng ban ơn, như tạo vật sống với Đấng Tạo Hóa, như ngôn sứ I-sai-a, như Thánh Gioan Baotixita và như Thánh Phaolô tông đồ dân ngoại đã và đang sống với Thiên Chúa.
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa
gồm 3 phần hay ba việc sau:
- Thứ nhất là chúng ta vui mừng cảm tạ Thiên Chúa giầu lòng thương đã ban cho chúng ta Con của Người là Chúa Giêsu Nagiarét,
- Thứ hai là chúng ta đón rước Chúa Giêsu Kitô vào trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
- Thứ ba là chúng ta cộng tác với Chúa Giêsu trong sứ vụ loan báo Tin Mừng cho người nghèo và cứu chữa những người đau yếu, bệnh tật, tù tội, bị gạt ra ngoài lề xã hội.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho các dân tộc và các nhóm người đang phải sống trong đau khổ, bất công, đàn áp để các dân tộc và nhóm người ấy sớm đón nhận Tin Mừng và nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương và giải thoát.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho các vị lãnh đạo trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ, để mọi Kitô hữu sống đúng như lời giáo huấn của Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Ông Gioan đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho các tín hữu và các gia đình thuộc giáo xứ chúng ta để mọi người, mọi nhà làm chứng cho ánh sáng là Chúa Kitô trong gia đình và khu xóm của mình.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho những người trẻ đang gặp khó khăn trong cuộc sống và nhiều lúc không biết phải làm gì, để các bạn ấy biết cân nhắc, phân định và chọn lựa cho đúng với lương tâm và phẩm giá làm người và làm con Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Hôm nay, chúng ta thấy Gioan đã giới thiệu mình như thế này: “Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi nhưng Đấng ấy đã có trước tôi, và tôi không đánh cởi dây giày cho Người.”...
***
Kính thưa Cộng đoàn,
Hôm nay, chúng ta đã đi quá nửa mùa vọng rồi!
Hôm nay, chúng ta thấy Gioan đã giới thiệu mình như thế này: “Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi nhưng Đấng ấy đã có trước tôi, và tôi không đánh cởi dây giày cho Người.”.
Thái độ của Gioan rất khẳng khái, về Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng hôm nay, Gioan giới thiệu Chúa Giêsu đã ở giữa anh em rồi. Nhưng mà anh em không biết! Và rồi Gioan đã làm chứng cho sự hiện diện của Chúa Giêsu: không bằng lời nói mà bằng chính cả cuộc đời của mình. Bằng chứng, chúng ta thấy Gioan, vì lẽ phải, vì sự thật, vì sự công chính, đã chấp nhận mất mạng sống mình. Và đây là điều mà chúng ta quan tâm.
Chúng ta quan tâm vì sao? Vì còn chưa đầy hai tuần nữa chúng ta bước vào đại lễ Chúa Giáng Sinh. Chúng ta mừng một biến cố, một kỷ niệm không phải là chỉ để mừng, nhưng chúng ta đặt lại vấn đề, chúng ta nhìn lại cuộc đời của chúng ta.
Chúa Giêsu đã giáng sinh năm nay là năm thứ mấy?
Năm thứ 2020 rồi, nhưng mà liệu rằng mỗi người chúng ta là người Kitô Hữu đó! Nhưng chúng ta có truyền cho mọi người biết sự hiện diện của Chúa, và Chúa đã đến trong trần gian này hay không?
Còn nhớ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi mở cửa Thánh bước vào Thiên niên kỷ thứ ba, ngài nói: “Đây là thiên niên Kỷ của truyền giáo” .
Đặc biệt tại Philippines, tại Đại Hàn, tại Việt Nam. Ở Philippines thì 80% là người Công giáo, rồi Đại Hàn thì có 8% và Việt Nam cũng có 8% mà thôi! Còn các nước khác thì con số và tỷ lệ còn thấp hơn nữa, có khi chỉ là 0,5 hoặc là 1 % thôi.
Và mỗi người Kitô hữu của chúng ta có trách nhiệm làm chứng cho người khác biết rằng: Chúa chính là Đấng phải đến trong trần gian, Chúa mang niềm vui và sự sống cho mọi người.
Và thử hỏi coi, đời của chúng ta, chúng ta đã làm chứng cho Chúa như thế nào?
Ngày hôm nay, phải nói rằng vẫn còn đó lấp lánh những khuôn mặt, những ánh sáng của những bước chân truyền giáo.
Có dịp đi qua thăm nước Lào. Phải nói rằng tổng số linh mục của nước bạn chỉ ở con số 29 thôi. Và một cái mảnh đất còn đó biết bao nhiêu là lúa cần thợ gặt.
Khi đi qua thăm, thấy những anh em trẻ thấy tội nghiệp quá! Có mấy cha bạn nhỏ hơn lớp, thấy mấy anh em hy sinh quá!
Chân ướt, chân ráo đi qua Lào với hai bàn tay trắng. Rồi từ từ gầy dựng lên cái nhà tiền chế, rồi quy tụ các em. Và phải nói rằng: đặc biệt nhất là cái ngôn ngữ và cái thức ăn. Cái ngôn ngữ Lào, cái chữ nó viết rằn ri. Cái thức ăn thật sự, như người dân tộc thiểu số mình. Phải nói rằng rất khó ăn! Và các cha trẻ đặc biệt các thầy trẻ đã hội nhập gần như một cách nhanh chóng, để mà sống ở giữa họ. Chẳng làm gì cả, như làm rẫy làm ruộng như họ và sống đồng thân, đồng phận với họ.
Có một lần, Cha chở đi vào trong các làng. Từ nhà thờ Tòa Giám mục Pakse mà đi tới cái làng đó thì mất khoảng chừng 80 cây số 60 cây số là đường nhựa còn 20 cây số là đường ổ voi. Đi từ nhà thờ chính tòa, đi tới cái ngã ba vào chỉ một tiếng đồng hồ, nhưng mà từ ngã ba đi vào với 20 cây số! Xe chạy hơn một tiếng đồng hồ!
Quá khó khăn và quá vất vả! nhưng các cha trẻ vẫn kiên trì đi vào đó!
Có một là điều lạ là: ở bên Lào không phân biệt được cái ngày nào Chúa Nhật Phục Sinh cả! Bởi vì có những làng không bao giờ có linh mục tới. Nên các cha nói rằng: Tụi em ở bên đây, Chúa Nhật Phục Sinh cũng là Chúa Nhật Phục Sinh! CHÚA nhật 2 Phục Sinh cũng là Chúa nhật Phục Sinh! Chúa nhật 3 Phục sinh cũng là Chúa nhật Phục Sinh! CHÚA nhật 4 Phục sinh cũng là Chúa nhật Phục Sinh!
Rảnh là cứ xách xe đi vào làng này làng kia, nơi mà các vị truyền giáo đã đặc bước chân đến. Và bây giờ những linh mục trẻ cũng bước chân đến.
Và đặc biệt có một ông thầy rất là hay! Thầy đang học ở Đại Chủng Viện ở Lào, nhưng mà rồi thầy lại đi truyền giáo.
Và người Lào đó! Thầy chỉ đi đến dạy học và chăm sóc sức khỏe cho họ thôi! Sống với người Lào và nghe đâu thầy bị bắt, mà một lần chuộc như vậy là tính ra tiền Việt Nam là 130 triệu - 140 triệu. Nhưng mà thầy khẳng định rằng là dù cho bị bắt thầy vẫn lên đường truyền giáo.
Phải nói rằng, đó là gương sáng của sự hy sinh chính mình, để mà giới thiệu Chúa cho người khác. Và như thế, cuộc đời của mỗi người chúng ta, làm sao cuộc đời của chúng ta, chúng ta phải giới thiệu CHÚA như những người truyền giáo đó!
Như Thánh Gioan nói: “Có Đấng ở giữa anh em, mà anh em không nhận biết Ngài. Và chúng ta sẽ cãi rằng: chúng con nhận biết mà! Bởi vì chúng ta là những người có đạo mà.
Nhưng mà xin thưa rằng: cái biết đó nó có hai loại! Là cái biết của tri thức và cái biết của cảm nghiệm. Cái biết của tình thương và cái biết của chia sẻ. Và cái biết của chỉ thấy trên giấy tờ.
Chúng ta biết Chúa đấy chứ! Qua sách vở, qua giáo lý, qua Thánh Kinh, qua các bài giảng. Và được học nhiều nghe nhiều lắm chứ!
Nhưng mà cái cảm nghiệm cái tình yêu thương Chúa trong cuộc đời. Và chúng ta có cái rung động của người nghèo hay không?
Chúng ta vẫn xem tivi thấy lũ này lụt kia! và bao nhiêu người chết đó! Nhưng liệu rằng: Trái tim chúng ta có rung động trước những cái đói khổ, những cái vất vả của những người nghèo khổ ở vùng sâu vùng xa hay không?
Có khi nào chúng tôi cảm thấy: giờ này trời mưa nhưng mình được may mắn, mình được ở trong một cái nhà bốn bức tường, mưa cũng không bao giờ hắt tới, bão cũng không bao giờ đụng tới.
Chúng ta có cảm nghiệm được chúng ta hạnh phúc hơn những người khác!
Khi đó là cái biết của cảm nghiệm và chính từ cái biết cảm đó, chúng ta chia sẻ người với người nghèo.
Cũng đâu đó, có những bạn sinh viên rất tuyệt vời! Tới mùa hè lại cứ khăn gói quả mướp, chạy đi lên vùng Tây Nguyên. Đi vào những cái làng dân tộc, để mà chỉ dạy học, chỉ ở với các em.
Người ta nói rằng: “vô tri thì bất mộ”. Cần để phải học để mà biết Chúa.” Nhưng cái biết đó chỉ là một cái bước đầu thôi!
Chúa Giêsu cần sinh ra trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Và chúng ta muốn giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác, thì chúng ta phải để Chúa Giêsu tái sinh lại trong tâm hồn và cuộc sống của chúng ta.
Nói biết CHÚA thì dễ lắm! Và nói về Chúa thì dễ lắm! Và nói với Chúa thì dễ lắm!
Nhưng vấn đề chính là trong cuộc sống, mình mang Chúa đến cho anh chị em đồng loại của mình như thế nào? Đó mới là chuyện quan trọng.
Để chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Để chúng ta xin Chúa thêm ơn cho chúng ta. Để chúng ta mở lòng ra, chúng ta đón Chúa đến thật sâu: trong lòng, trong trí, và trong cung cách sống của chúng ta. Để chúng ta mang lấy cái thao thức, mang lấy cái tâm thức Thương Xót, mang lấy cái cảm mến với người nghèo, những người tất bạt của Chúa Giêsu.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, để Chúa đong đầy chúng ta, bằng cả cuộc đời có Chúa. Và để rồi từ đó, chúng ta mới giới thiệu CHÚA cho người khác như Thánh Gioan Tẩy Giả.
Chắc có lẽ, Chúa không bắt buộc chúng ta, phải bỏ mình, phải tử đạo, chấp nhận chết như Gioan Tẩy Giả đâu!
Nhưng Chúa mời gọi mỗi người chúng ta, qua cung cách sống của mình: Chúng ta mang lấy hình ảnh, mang lấy tâm tư, mang lấy cảm nghĩ, mang lấy cung lòng, mang lấy đôi tay, mang lấy bàn chân của Chúa Giêsu, để chúng ta đến chia sẻ với những người nghèo với những người tất bạt.
Cách đây không lâu có một cô bé quen. Cô hỏi: cha ơi! ở dưới xứ cha, cha có tổ chức thiếu nhi không?
Thì con mới nói thật sự ra trong lòng thì, cũng chẳng nghĩ gì cả, nếu ai cho thì làm thôi! Và rồi cô bé hứa rằng cô bé sẽ chia sẻ một chút gì đó cho các em nghèo. Phải nói rằng với đồng bạc, lương nhân viên bình thường thôi, nhân viên văn phòng nhưng mà phải nói rằng cô đã tiết kiệm một cái phần nhỏ để chia sẻ cho người nghèo.
Phải chăng đó là những con người đã cảm nhận được một Chúa Giêsu trong đời mình, và mang Chúa Giêsu cho người khác, giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác.
Chắc có lẽ, mỗi người chúng ta đối diện trước mặt Chúa. Chúng ta nói: con nghèo lắm, Chúa ơi! Con không có gì cả. Nhưng xin thưa rằng: con có tấm lòng.
Việc quan trọng rằng, chúng ta có can đảm chia sẻ cho người khác hay không mà thôi!
Khi chúng ta khép lòng lại, thì Chúa Giêsu lại chết trong cuộc đời của chúng ta.
Khi chúng ta mở lòng ra, thì Chúa Giêsu một lần nữa lại tái sinh trong cuộc đời của ta.
Và khi ta sống như thế! Mọi người nhìn vào ta, thấy có một Chúa Giêsu hiện diện và sống trong cuộc đời của chúng ta.
Ước gì ngày hôm nay, ngày chuẩn bị bước vào những ngày cuối để đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh. Xin cho chúng ta thật sự mở lòng ra. Đặc biệt chúng ta làm chứng, một cách sâu lắng hơn như Gioan Tẩy giả. Amen.
Thánh Kinh cho biết ông Gio-an Tẩy Giả là vị ngôn sứ sau cùng của thời Cựu Ước tiên báo Đấng Cứu Thế đến. Ông cũng là người mở đầu cho một thời đại ngôn sứ mới trong Tân Ước, thời đại của những người biết Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người và được mời gọi làm chứng cho Chúa Giê-su qua những lời họ loan báo và nhất là chính cuộc sống của họ. Vì vậy, hôm nay Lời Chúa nêu hai đức tính của ngôn sứ Gio-an Tẩy giả đồng thời mời gọi chúng ta những ngôn sứ đương thời hãy luôn có hai nhân đức này: khiêm nhường và can đảm nói và sống cho sự thật.
Thứ nhất nhân đức khiêm nhường, Gioan Tẩy Giả không bao giờ tìm cách đề cao mình, rao giảng về mình nhưng mọi hành vi, mọi cử chỉ và mọi lời nói của ngài đều qui về Đức Giêsu. Cụ thể, Tin Mừng kể Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng Thánh nhân xác quyết: "Tôi đây làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Thánh Gioan tẩy giả được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài nhưng Ngài có lòng khiêm nhường tột độ, để cho mình nhỏ đi và để Chúa lớn lên.
Thứ hai nhân đức can đảm, Thánh Gioan tẩy giả đã can đảm nói và sống cho sự thật dù phải thiệt thân. Thánh Mác-cô kể rằng Vua Hêrôđê lấy vợ của anh mình, thần dân thiên hạ ai cũng biết điều đó sai, luật không cho phép nhưng không ông thần này hay dân thường nào dám nói với vua không được lấy, nhưng Gioan tẩy giả đã nói. Thế là Bà Hêrôđia vợ của anh vua nay đã lấy vua làm chồng căm tức muốn giết ông Gioan tẩy giả nhưng bà không có quyền. Vua Hêrôđê biết Gioan là người công chính thánh thiện nên sợ ông và che chở cho ông. Nhưng vì điệu nhảy của con gái bà Hêrôđia, nhà vua trót thề sẽ ban cho cô tất cả cái gì cô xin. Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tẩy giả tới (Mc 6,17-28).
Giáo lý Hội Thánh dạy rằng nhờ bí tích Rửa tội, mọi người được tham dự vào chức tư tế (linh mục cộng đồng), sứ vụ ngôn sứ và vương đế của Chúa Giêsu. Như vậy, Thiên Chúa kêu gọi tất cả mọi người làm ngôn sứ không phân biệt phái tính, tầng lớp, đẳng cấp xã hội, giàu hay nghèo, lành mạnh hay khuyết tật. Điều đáng chú ý rằng ngôn sứ phải là người cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa và được chiếm hữu bởi Thần Khí và Lời Chúa qua nhiều cách thế khác nhau. Vâng, chính Thánh Phaolô nói: “Chính Thiên Chúa đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4,11-13).
Cho nên, ngôn sứ là người được Thiên Chúa thánh hóa và sai đi nhiều hoàn cảnh, địa lý, xã hội, lịch sử, thời gian và thính giả khác nhau. Vì thế, khi đề cập đến hai đức tính này của Gio-an Tẩy Giả trong Mùa Vọng, Hội Thánh nhắc nhở rằng chúng ta là những ngôn sứ của thời đại mới, những người tiếp tục loan báo Chúa Giê-su đến với người chưa biết Chúa, thì chính cuộc sống, lời nói và hành động của chúng ta phải làm chứng cho Chúa Giê-su trong thế giới hôm nay. Vì vậy, chúng ta phải khiêm nhường trước hết. Bởi vì tình thương của Kitô giáo được xây dựng trên nền tảng sự khiêm nhường. Thánh Tôma Aquinô nói: “Kiêu ngạo là thích được đề cao hơn người khác, và kiêu ngạo là khoe khoang, là cay đắng, là tàn nhẫn, là chỉ nghĩ đến bản thân, cho nên kiêu ngạo khiến ta đố kỵ nhau. Bởi vậy, muốn yêu thương phải bắt đầu để cho tâm hồn mình thấm nhuần sự khiêm nhường và hiền lành”. Vì vậy, có khiêm nhường, chúng ta mới nhận được tình yêu của Chúa Kitô, tình yêu ấy thúc bách chúng ta phục vụ yêu thương, tha thứ cho nhau, đồng thời hăng hái nói về Chúa cho mọi người. Cụ thể, Thánh Nữ Têrêxa Calcutta, nhìn bề ngoài của Mẹ Têrêsa với hình dạng nhỏ bé, da mặt nhăn nheo, lưng hơi gù với vẻ già nua và có đôi bàn tay xương xẩu gầy guộc, thế nhưng khi mọi người khi gặp mặt tiếp xúc đều thấy con người Mẹ có đời sống bình dị, dễ thương với đôi mắt sáng ngời và nụ cười trên môi rạng rỡ niềm vui, lời nói đầy thuyết phục, kèm theo một sự khiêm tốn, hiền lành chân thật. Chính Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton sau khi tìm hiểu về cuộc đời Mẹ đã phải thốt lên: “Tôi không đáng xách dép cho nữ tu Têrêsa”. Bởi vậy chính đời sống Thánh nữ đã thu hút biết bao nhiều người biết Chúa và trở về với Chúa.
Cuối cùng, can đảm là đức tính luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm sống ngay chính thật thà giữa những bao điều dối trá trong đời. Nhờ can đảm, ta thắng được sợ hãi, đương đầu với thử thách và bách hại, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chính nghĩa cho “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi” (Tv 118,14). Vì vậy, trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nhắc bảo chúng ta rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1Tx 5,16-22). Vì vậy, trong tông thư gửi tất cả Các người Tận hiến nhân dịp Năm Đời sống thánh hiến, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng ngôn sứ được Chúa ban khả năng hiểu biết Thiên Chúa và hiểu biết những người anh chị em của mình. Cho nên, những ngôn sứ chứng tá cho Đức Giêsu sống ở thế giới này phải can đảm phân định và tố giác tội ác và những bất công trong xã hội đồng thời luôn đứng về phía những người nghèo và những người cô thân cô thế, bởi vì người ngôn sứ biết rằng chính Thiên Chúa đứng về phía họ (x.Số 4 phần II).
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết noi gương Thánh Gioan tẩy giả là phải trở nên những người đi trước, dọn đường Chúa đến trong cuộc đời mình, cũng như người khác nhờ sống khiêm và can đảm. Amen.
Vào cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, tức quãng năm 1959, ai cũng công nhận câu gán ghép của Đức Athenagoras, Thượng Phụ chính thống giáo Constantinople là chí lý, là rất đạt, là cực kỳ hay, khi vị thượng phụ này gán một câu Phúc Âm thời xưa để ghép cho một người thời nay, là vị giáo hoàng của Giáo Hội Công giáo Roma: “Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan”: Đây là câu Phúc âm chúng ta vừa nghe, được Đức Thượng Phụ Athenagoras Đông Phương ghép cho Đức Gioan 23, một Giáo Hoàng Roma Tây Phương.
Câu ghép này rất ý vị vì Đức Roncalli khi lên ngôi Giáo hoàng, lấy hiệu là Gioan (chứ nếu lấy Piô, Phaolô, Benedicto, thì sao gán ghép được); và câu ghép này thật chí lý vì quả Đức Gioan 23, nay đã được phong thánh, là người “được Chúa sai đến” thật, một vị đến làm đảo lộn, canh tân lại bộ mặt của Hội thánh, để Hội Thánh không tì ố, không vết nhăn, mặc dầu đức Gioan lúc đó đã ngót nghét 80 tuổi, khuôn mặt đã nhiều nếp gấp, khoé mắt nhiều dấu chân chim, nhưng đúng là người được Chúa sai đến, đến để làm chứng cho con người thế kỷ 20 và 21 này.
Hôm nay ta chỉ mở đề với thánh Gioan 23 để vào đề với thánh Gioan Tẩy giả. Đề tài bài suy niệm Tin Mừng hôm nay là: Gioan, Kẻ Làm Chứng. “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng.”
Vậy làm chứng là gì và làm chứng cái gì? Đó là 2 điểm ta sẽ trả lời.
1. Làm chứng là gì?
- Từ Điển tiếng Việt cho ta biết: Làm chứng là đứng ra xác nhận những gì mình đã thấy, đã nghe… Td: Làm chứng một tai nạn giao thông ; hai người làm chứng trong Hôn phối nghe và thấy rằng đôi bạn đã bày tỏ sự ưng thuận.
Người làm chứng thì không phải là đương sự. Như hai người làm chứng trong Hôn phối phải khác hai người ưng thuận lấy nhau. Ra toà, người làm chứng không thể là bị cáo hay nguyên đơn. Cũng vậy, Gioan được Chúa sai đến để làm chứng, thì cũng là để làm chứng về một điều gì, về một ai đó chứ không phải để làm chứng chính mình. Nếu có phải nói về mình là cũng chỉ nhằm làm chứng về người kia, như Gioan nói thẳng: tôi không phải là Êlia, không phải Kitô, không phải Ngôn sứ người ta trông đợi… “Tôi chỉ là tiếng kêu…” Gioan nói vậy để làm chứng cho những người đến dò hỏi Gioan, là hãy đi tìm Đấng Kitô nơi người khác đi.
- Nghĩa thứ hai của làm chứng mới đáng giá. Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng. Phải mở chính nguyên bản Sách Thánh Hilạp xem tác giả Tin Mừng dùng chữ gì để khi nói đến làm chứng? Thưa: từ Marturios, cũng “từ” này còn có nghĩa tử đạo. Làm chứng tương đương với tử vì đạo, chết vì nghĩa. Kinh các thánh tử đạo: Lạy các thánh tử đạo là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô. Tiếng Anh, người tử vì Đạo là Martyr. Do đó, làm chứng không chỉ có nghĩa trả lời “có,” “không.” Tôi thấy cái này, tôi nghe cái kia, đưa ra bằng chứng, thế là xong, mà còn là bảo đảm cho điều mình làm chứng đi đến kết cuộc, dẫu có phải chết. Từ ngữ Việt phần nào nói được điều đó: LÀM chứng (chứ không phải “nói chứng,” “giơ chứng”: có một tích cực chứ không thụ động. Từ Hi lạp thì nói rõ: làm chứng là chết vì nghĩa. Quả Gioan đã chết vì làm chứng.
2. Làm chứng cho cái gì?
Bài Tin Mừng trả lời rõ ràng cho chúng ta: “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng. Và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” Chỉ một câu ngắn mà đã có ba chữ “ánh sáng.”
Ánh sáng rất cần để thấy. Mắt không mù, nhưng không có ánh sáng thì cũng không thấy gì. Như trong đêm tối, đêm ba mươi, không có một tí ánh sáng gì, ta mở mắt mà đâu có thấy, phải vận dụng đôi tay sờ soạng dò đường.
Gioan đến là để làm chứng cho Ánh Sáng. Người Do Thái mở mắt mà nhìn không ra. “Ở giữa các ông có một vị mà các ông không biết”… “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dép cho Người.” Sau này chính Chúa Giêsu đã gọi Gioan Tẩy Gỉả là chiếc đèn (Ga 5,33-36). Đêm mà không có lửa thì không có ánh sáng, Ánh sáng dùng đèn như một phương thế để chiếu soi. ĐGH Gioan 23 khi trả lời cho câu hỏi của một phóng viên rằng ĐGH chờ đợi gì ở Công đồng Vatican này (ta nên nhớ ĐGH Gioan 23 là vị có sáng kiến triệu tập CĐ Vaticano 2). Bằng một hành động tượng trưng, đức Gioan đi về phía cửa sổ vừa mở ra vừa nói: “Chờ đợi gì ư? Một chút gió.” Mở cửa thì gió thổi vào được: Gió là Thần Khí. Mở cửa thì ánh sáng mới vào được. Ánh sáng là Đức Kitô.
Khi tiếp vị đại sứ, ĐGH Gioan (người được Chúa sai đến) nói: Phải rũ hết bụi đế quốc đã chồng chất lên toà thánh Phêrô kể từ thời vua Constantin! Bụi phủ nhiều làm sao ánh sáng lọt vào. Phải phủi bụi đi thì mới thấy rõ ràng được. ĐGH Gioan cũng nói về Giáo Hội, sau bao thế kỷ bị phủ lên mình một lớp bụi dày: bụi cơ cấu, bụi tuyệt thông, bụi tiên báo sự dữ và tai họa… Hãy phủi đi thì anh em ly khai sẽ về, thế giới người đời sẽ tới với Giáo Hội. Hãy phủi, hãy cất những màn che để Ánh sáng Chúa Kitô lọt vào.
Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan, ông tới để làm chứng và làm chứng cho ánh sáng.
Người có tên là Gioan: chính là Gioan Tẩy giả; và người có tên là Gioan là thánh Gioan 23 giáo hoàng. Cả hai đều muốn làm chứng cho ánh sáng.
Người có tên là Gioan còn là mỗi chúng ta. Khi lãnh nhận 2 bí tích Thánh tẩy và Thêm sức là chúng ta được Chúa sai đến. Trong bí tích Thánh tẩy, ta cầm nến trong tay. Trong bí tích Thêm sức, nến cũng ở trong tay ta. Điều đó muốn nói chúng ta hãy là ánh sáng, và chúng ta hãy để Ánh Sáng là Chúa Kitô đậu vào chiếu soi. Phải làm sao đích thực ta là bạn hữu của Kitô, bởi ta là Kitô hữu.
Ánh nến có 2 công dụng: sưởi ấm nhờ sức nóng và chiếu soi nhờ ánh sáng. Hãy an ủi sưởi ấm người cùng cực, đói khổ, rét mướt… Và hãy toả sáng đức tin bằng cách sống Đạo của mình trong niềm vui không ngơi (CN III Gaudete, hãy vui lên, màu hồng). ĐGH Phanxicô với tông huấn Niềm Vui Tin Mừng nhắc mãi điểm này. ĐGM giáo phận thì có sẵn mấy cái gương trong phòng, để soi gương và nở nụ cười với mình để đem vui cho người. Có lần đang mỉm cười trong gương, thì có cha muốn gặp. Mở cửa ra, linh mục đó nói ngay: hôm nay con xin điều này chắc thế nào cũng được, vì thấy đức cha đang mỉm cười.
Ánh nến có 2 công dụng: sưởi ấm nhờ sức nóng và chiếu soi nhờ ánh sáng. Cả 2 việc đó đều nhắm làm chứng cho Ánh Sáng. Chúng ta xin Đấng là Ánh sáng giúp chúng ta. Và chúng ta tuyên xưng Đấng là “Ánh sáng bởi Ánh sáng” trong kinh Tin Kính đây.
Trong Mùa Vọng, Giáo Hội nhắc đến một người đóng vai trò rất đặc biệt là Gioan Tẩy Giả, người được sai đến dọn đường cho Chúa. Ngài đến như một vị tiên tri, một vị tiên tri quan trọng nhất. Chính Chúa Giê-su đã xác nhận điều đó: “Còn hơn vị tiên tri nữa”, “hơn cả con cái loài người do người nữ sinh ra”. Ngài đến rao giảng bên bờ sông Gio-đan, kêu gọi người Do thái ăn năn sám hối để đón nhận hồng ân tuyệt diệu của Chúa: “Ngài đến sau tôi… nhưng có trước tôi… Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần”.
Dân Do thái, từ hai trăm năm trước, không còn nghe tiếng nói của một tiên tri nào. Chúa im lặng, vì họ đã giết những tiên tri Chúa sai đến với họ.
Hôm nay, một người đã đến, “mình mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và uống mật ong rừng” (một con người khắc khổ), rao giảng với giọng điệu tiên tri xưa.
Dân Do thái đổ xô đến nghe giảng và chịu phép rửa tỏ lòng thống hối.
Họ ngạc nhiên tự hỏi: “Ông này là ai? là Đấng cứu thế chăng?” Những lãnh đạo tôn giáo cũng ngạc nhiên. Họ sai một phái đoàn đến điều tra. Có cái gì đang xảy ra bên bờ sông thanh tẩy. Tại sao họ phải điều tra cẩn thận như thế? Có lẽ sự xuất hiện của Gioan làm cho dân chúng xôn xao khác thường. Những ý kiến đối chọi nhau về thân thế của Gioan. Nhiều người đã cho ông là Đấng Thiên Sai họ mong đợi.
Lý do thứ hai: Từ suốt thời gian Cựu Ước, dân Do-thái vẫn mong một Đấng Cứu Thế. Lúc Gioan xuất hiện, ách nô lệ của người Rô-ma đang đè nặng trên dân. Niềm mong đợi ấy lại càng mãnh liệt hơn lúc nào hết. Họ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế sẽ là một vị vua oai hùng, thuộc dòng dõi Đa-vít, như Kinh Thánh đã nói, sẽ cứu họ thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Rô-ma, như Mô-sê xưa đã cứu tổ tiên họ khỏi bàn tay Ai-cập. Niềm mong đợi này đã cày sâu vào tâm hồn người Do Thái một luống cày rất sâu, vì thế, khi Gioan xuất hiện, họ nghĩ ngay rằng ông này sẽ là Đấng Cứu Thế họ đang nóng lòng mong đợi.
Phái đoàn của Giê-ru-sa-lem đến chất vấn Gioan một cách hết sức cặn kẽ. Nhưng Gioan đã nói rõ: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô”. Họ lại hỏi: “Ông có phải là Ê-li-a không?” Câu hỏi này bắt nguồn từ Kinh Thánh. Sau khi Ê-li-a được đưa lên trời bằng một chiếc xe bằng lửa, người Do-thái tin rằng, một ngày kia ông sẽ trở lại với tất cả uy quyền để cứu dân Do thái.
Gioan cũng trả lời: “Không phải”. Và ông cũng nói rõ ông không phải là một tiên tri. Vì là một phái đoàn chính thức của Đền Thờ họ cần một câu trả lời rõ rệt. “Vậy ông là ai để chúng tôi trả lời cho những người đã sai chúng tôi?” Gioan trả lời: “Tôi chỉ là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho ngay thẳng để Chúa đi”.
Phái đoàn lại đề cập đến phép rửa của Gioan và ông đã thẳng thắn nói: “Tôi chỉ rửa trong nước. Nhưng có một vị ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan đã xác nhận: ông không phải là Đấng Ki-tô như nhiều người hiểu lầm, ông chỉ là người dọn đường cho Đấng đến sau… mà có trước.
Thánh Gioan thánh sử không nói đến phép rửa trong Thánh Thần mà chỉ nói đến ánh sáng. Tin Mừng Gioan đặt Gioan Tẩy Giả như chứng nhân cho Ánh sáng. Đề tài ánh sáng chiếm một chỗ quan trọng trong Tin Mừng của Gioan, vì Chúa Giê-su là “Ánh sáng thế gian” và là “ánh sáng ban sự sống”. Ngài đến để phá tan bóng tối đang che phủ trần gian: “Dân ngồi trong bóng tối đã thấy chiếu dọi một ánh sáng huy hoàng.” (I-sa-i-a).
Gioan đến như chứng nhân và ông xác nhận như thế: tôi chẳng là ai cả, tôi không quan trọng. Đấng đến sau tôi mới quan trọng. Ông chỉ nhận mình là tiếng hô trong hoang dịa, kêu gọi mọi người dọn đường đón nhận vị Thượng Khách thần linh mà thôi. Gioan khiêm tốn nhìn nhận “không đáng cởi quai dép” cho Đấng mình loan báo (cởi quai dép là việc của một nô lệ). Ông còn nói: “Tôi phải nhỏ đi và Ngài phải lớn lên”.
Tại sao phải dọn đường? Tại sao cần phải có một vị tiền hô?
Khi rước một tổng thống hay rước Đức Giáo Hoàng, người ta làm gì?
Rước Con Thiên Chúa đến mang sự sống bất diệt và hạnh phúc, chúng ta không dọn con đường cho Ngài đến sao? Rước một người phàm mà chúng ta còn phải dọn đủ mọi thứ, rước Con Thiên Chúa, chúng ta không dọn gì sao?
Phải chuẩn bị, phải dọn đường. Chúng ta đang hân hoan chuẩn bị cho Chúa đến. Giáo Hội đang hân hoan chờ đón Đấng Lang Quân của mình. Hãy “chỉnh tề khăn áo, hãy lộng lẫy điểm trang”.
Tiên tri I-sa-i-a đã nhìn thấy từ xa ngày hân hoan này.Thánh Phao-lô cũng bảo: “Hãy vui lên trong Chúa…Thiên Chúa là nguồn mạch bình an sẽ đến thánh hóa toàn diện con người anh em…”
Đó là niềm vui của những tâm hồn thiện chí. Chúa đến!
Chúng ta đừng sợ thử thách, đừng ngại khó khăn.
Chúa đến!
Ngài không để chúng ta một mình chống chọi với cuộc sống cam go đâu. Ngài sẽ là Em-ma-nu-en, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta mãi mãi. Ngài là ánh sáng ban sự sống, là bình an, là hồng ân trên hết mọi hồng ân, vì Ngài là Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta vẫn không thay đổi, buồn vui lẫn lộn, gánh nặng vẫn còn nhiều. Chúa không ban cho chúng ta tiện nghi, nhàn hạ, nhưng Ngài sẽ mang lại cho chúng ta can đảm và niềm vui. Ngài đến để biến mọi gánh nặng trần gian thành ân huệ và cả cuộc sống chúng ta thành nguồn vui.
Nguồn vui chính là một chứng tá hùng hồn cho Thiên Chúa. Như Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy là tiền hô của Ngài trong thế giới hôm nay. Hãy là những nhân chứng đáng tin. Người ta không thể nhìn thấy Chúa chúng ta trong nét mặt u sầu buồn thảm. Người ta không thể thấy Thiên Chúa, họ chỉ thấy Người trong nét mặt hớn hở vui mừng của chúng ta.
Gioan là nhân chứng, mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Hoàn toàn cho Chúa, hoàn toàn hướng về Đấng Ngài loan báo. Ngài mất hút trong Chúa, “nhỏ đi để Chúa lớn lên”. Ngài chìm sâu, thật sâu trong thân phận nhỏ hèn của mình: “tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”. Như thế, ngài để lộ ra khuôn mặt của Đấng đến sau tôi, Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết. Ngài không che khuất Đấng ngài loan báo. Ngài chỉ làm những gì ngài phải làm mà thôi “tôi rửa anh em trong nước mà thôi”, không tham vọng nào khác. Chúng ta hãy đi vào con đường khiêm tốn của ngài, chứng tá của chúng ta mới được đón nhận. Dọn đường cho Chúa trong ta là “bạt những gồ ghề kiêu căng, tự mãn, lấp đầy những hố sâu ích kỷ, ganh tị. Con đường bằng phẳng… sạch đẹp mới có thể đón nhận Người Con Một “đầy ân sủng và chân lý”.
Trong những tuần lễ cuối cùng này của Mùa Vọng, một khuôn mặt khả ái xuất hiện trong vùng trời đợi trông của chúng ta, đó là khuôn mặt đáng yêu của Mẹ Maria. Cùng với Mẹ, chúng ta đón Chúa. Với Mẹ, chúng ta “xin vâng”. Và cùng với Mẹ, chúng ta “xin dâng”.
Mẹ đã đón Chúa bằng tiếng “xin vâng” vô điều kiện. Chúng ta không thể đón Chúa với cách nào khác hơn.
Mùa Vọng là mùa “XIN VÂNG”, và sự vâng phục này phải kéo dài đến suốt đời như Mẹ. Xin vâng hôm nay để tiếp tục ngày mai, và như thế từng ngày cho đến suốt đời. Và suốt đời lại là “XIN DÂNG”.
Chúa Giê-su cũng thế, Ngài cũng là “xin vâng”: “Ta làm theo ý Cha Ta”, “lương thực của Ta là xin vâng”. Cuộc đời của Ngài cũng mãi mãi là xin dâng, trọn vẹn cho đến giờ phút yêu thương tuyệt vời nhất: “Con xin phó thác hồn Con trong tay Cha”.
Hôm nay, Ngài có mặt như mọi ngày. Một tấm bánh trọn tình cho Cha và cho mọi người. Tấm bánh hằng sống đã là một tấm bánh xin vâng và xin dâng.
Khi Gioan xuất hiện, người Do Thái cho là Đấng Messia đã đến, nhưng Gioan trả lời: Tôi không phải là Đấng Messia, tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc chuẩn bị cho Đấng Messia đến...
Dân Do Thái đã trông chờ, cho đến ngày hôm nay vẫn còn đang trông chờ Đấng Mêsia.
Họ trông mong Đấng Mêsia đến sẽ mang hòa bình cho cả thế giới, chính vì thế họ mong đợi một vị tướng lãnh vô địch, sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do Thái đi chinh phục cả thế giới để đem hòa bình cho mọi dân tộc. Chính vì thế khi Gioan xuất hiện, người Do Thái cho là Đấng Messia đã đến, nhưng Gioan trả lời: Tôi không phải là Đấng Messia, tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc chuẩn bị cho Đấng Messia đến.
Vậy ông lấy quyền gì mà làm Phép Rửa?
Ông trả lời: “Về phần tôi, tôi làm Phép Rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không nhận biết, tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài”.
Quả thật Gioan đã đến Sông Giođan làm Phép Rửa và kêu gọi sám hối. Đây là điều kiện để lãnh nhận ơn Cứu Độ. Nhưng tinh thần sám hối đích thực thì luôn phải được thể hiện thành hành động, nghĩa là nó phải dẫn đến sự cải thiện, sửa chữa, chừa cải...Việc sám hối và tu sửa phải được thực hiện không chỉ nơi cá nhân mà trong Giáo Hội và xã hội nữa.
- Nơi cá nhân: cá nhân nào cũng đều có những tật xấu, khuyết điểm, kiêu căng, tham lam, đố kỵ, ghen hgét, lười biếng, hèn nhát...
- Trong Giáo Hội và xã hội: Giáo Hội hay xã hội nào cũng đều có bất công, những cơ chế phát sinh bất công, những luật lệ phi lý, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ nạn... tất cả đều làm cho con người trong tập thể đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Hiện nay, trong đời sống tâm linh, rất nhiều Kitô hữu chỉ nghĩ tới việc nên thánh cá nhân, sự cứu rỗi cá nhân, mà quên đi chiều kích Giáo Hội và xã hội của ơn Cứu Rỗi và sự nên thánh. Họ quan niệm việc nên thánh hay cứu rỗi của họ có thể thực hiện một mình, độc lập với những người chung quanh...Nghĩa là họ có thể nên thánh, được cứu rỗi mà không cần nghĩ gì đến xã hội và Giáo Hội, bất chấp đến những bất công, trì trệ hay những thành quả tốt đẹp của Giáo Hội và xã hội. Họ cho rằng họ có thể nên thánh và được cứu rỗi mà không cần nghĩ đến những người chung quanh xem họ có nhu cầu gì, đau khổ hay hạnh phúc ra sao.
Thiết tưởng tinh thần cốt yếu của Kitô giáo là tình yêu, một tình yêu trải rộng đến mọi người không phân biệt bạn thù, giầu nghèo, giai cấp...Tiêu chuẩn cuối cùng để Thiên Chúa xét đoán sự công chính của mỗi người là tình yêu họ dành cho tha nhân (Mt 25,31-46). Nên sự sám hối cũng như sự tu sửa của người Kitô hữu để đón Chúa đến phải nhắm đến tình yêu, sự quan tâm của mình đối với tha nhân, đối với xã hội, quê hương, đất nước và toàn thể nhân loại.
Trong chiều hướng đó, Lời Chúa hôm nay "Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng" cần phải được hiểu không chỉ áp dụng cho bản thân mỗi cá nhân mà còn cho cả Giáo Hội và xã hội nữa.
Tuy nhiên, thực hiện việc Sám Hối không phải dễ, cũng như không phải làm một lần là xong như câu chuyện " một nữ giang hồ trở thành một vị thánh".
Angiêla là con gái của một gia đình quí phái ở thị trấn Phôlnhô nước Ý, lại sống giữa bầu không khí xa hoa và ảnh hưởng xấu xa nơi bạn bè, Angiêla (1248-1309) đã sớm trở nên một thiếu nữ trụy lạc. Sau khi lập gia đình, Angiêla vốn có tâm hòn nhạy cảm, ham khoái lạc, nên vẫn thích cuộc đời giang hồ nay đây mai đó.
Vào một ngày trong năm 1285, đang trên con đường gió bụi, Angiêla gặp cơn giông tố, chị hoảng sợ chạy vào một nhà thờ gần đó để kêu cầu Chúa ngự trong Thánh Thể giúp đỡ. Angiêla xin cha xứ ở đây giải tội cho chị, nhưng chị đã không xưng hết tội nặng, lại liều mình chịu Mình Thánh Chúa.
Hành động này đã làm tâm hồn chị xao xuyến, lương tâm cắn rứt đêm ngày không yên. Nhưng chị không ngã lòng nản chí, chị tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban cho mình được gặp một linh mục giải tội khôn ngoan, thánh thiện để hoàn toàn tuân theo lời chỉ dẫn của ngài.
Sống trong tâm trạng lo âu, băn khoăn xao xuyến, nhưng chị vẫn tin tưởng vào Chúa, Ngài sẽ giúp chị vượt qua con đường gian nan này.
Rồi một đêm kia dưới ánh trăng dịu dàng, Angiêla nâng hồn lên khẩn cầu thánh Phanxicô Assisi giúp đỡ. Thánh nhân đã hiện ra với chị và nói:
- Nếu con xin cha sớm, thì cha đã cứu con, nhưng cha sẽ nài xin Chúa nhận lời con.
Sáng hôm sau, khi cảnh vật còn chìm trong giấc ngủ, Angiêla đã thức dậy thật sớm để đi lễ ở nhà thờ thánh Phanxicô Assisi, và xin Chúa cho chị được gặp linh mục để xưng tội. Khi trở về, chị ghé vào nhà thờ thánh Fêlixianô để viếng Thánh Thể. Ở đây, Angiêla đã gặp một cha dòng Phanxicô và chị đã xưng hết các tội đã phạm. Sau bao ngày ưu tư lo lắng, lương tâm ray rứt, giờ đây chị đã tìm lại được sự bình an đích thực trong tâm hồn.
Sau khi xưng tội rước lễ, Angiêla quyết xâv dựng cuộc đời mới, cuộc đời suy niệm sự đau khổ của Chúa Giêsu, khấn giữ mình trong sạch và khó nghèo.
Chị đem quần áo tốt đẹp phân phát cho người nghèo. Và để được kết hợp mật thiết với Chúa hơn, chị còn muốn bán hết gia tài làm phúc cho người nghèo rồi đi ăn xin. Nhưng vâng lời cha linh hướng, chị không bán nhà cửa, mà chỉ sống đời trần thế, suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa, và làm phúc cho người nghèo khó.
Năm 1291, Angiêla vào dòng ba Phan Sinh, chị sung sướng tuân giữ luật dòng, chị thường xuyên đi thăm viếng các bệnh nhân, phân phát những của đã xin được cho người nghèo, rửa tay chân cho họ, và đặc biệt lau chùi tay chân những người mắc bệnh phong cùi. Chị đã làm như thế suốt cuộc đời của chị.
Năm 1693, Đức Giáo Hoàng Innôxentê phong chị Angiêla lên bậc Chân Phước. Từ một người tội lỗi, Chân Phước Angiêla đã biết lấy tình yêu nồng nhiệt để bù lại những lỗi lầm quá khứ. Hành động đó là bài học muôn đời cho những con người tội lỗi biết ăn năn sám hối.[1] Amen. ---------------------------- [1] Luy Gonzaga Maria, 101Giai Thoại Các Thánh, trg. 201-202
Ánh sáng mà Gioan làm chứng chính là Đức Giêsu Kitô. Bởi Gioan nhận ra rằng, sự xuất hiện của ông cũng chỉ là sự xuất hiện bắt nguồn tự con người, vì thế ông không thể là ánh sáng, bởi tự con người không thể kiến tạo nên nguồn sáng...
***
Trước thềm năm mới 2018 và chuẩn bị đón Giáng sinh 2017, Thành Phố Hồ Chí Minh đã đầu tư hơn một triệu Đô la Mỹ trên một thủa đát 5 mẫu tây làm thành công viên ánh sáng lộng lẫy muôn mầu. Quả thật, với sự tiến bộ khoa học người ta đã xử dụng đến ánh sáng để tạo ra muôn điều kỳ diệu, và có thể nói thời đại hôm nay là thời đại của ánh sáng, càng ngày môn khoa học nghiên cứu về về đặc điểm của ánh sáng càng dẫn đưa con người vào trong sự kỳ ảo huyền diệu của ánh sáng điều mà cách đây 300 năm nhà khoa học Newton khi khám phá về ánh sáng và ứng dụng của nó đã không ngờ tới, đến nỗi người thời hôm nay cảm thấy cuộc sống sẽ mất hết lý thú nếu không còn được thưởng những sự kỳ thú mà ánh sáng tạo ra.
Thế nhưng, cho dẫu ánh sáng mang nhiều niềm vui cho cuộc sống đương đại, con người vẫn còn ố đầy dẫy nỗi u buồn và nhận ra rằng đàng sau hào quang mà ánh sáng mang lại là một bóng đêm dày đặc đang nhốt kín cuộc sống. Vì thế, khi tận hưởng những ứng dụng công nghệ của ánh sáng, con người như cố thoát ra khỏi bóng tối đang kềm hãm niềm hạnh phúc, nhưng những cố gắng như vô vọng, càng tìm đến với những ánh sáng do khoa học kỹ thuật mang tới con người càng cảm thấy trống rỗng, và bóng đêm vẫn che kín cuộc đời.
Vậy đâu là ánh sáng thật để dẫn đưa con người tìm thấy niềm vui đích thật. Gioan Tẩy giả đã chỉ cho chúng ta thấy nguồn sáng mang lại cho chúng ta niềm vui: Đức Giêsu Kitô. Quả thật, Gioan có được người đương thời đón nhận như bậc tôn sư, ông cũng chỉ khiêm tốn công nhận mình không là ánh sáng mà chỉ là người làm chứng về ánh sáng.
Ánh sáng mà Gioan làm chứng chính là Đức Giêsu Kitô. Bởi Gioan nhận ra rằng, sự xuất hiện của ông cũng chỉ là sự xuất hiện bắt nguồn tự con người, vì thế ông không thể là ánh sáng, bởi tự con người không thể kiến tạo nên nguồn sáng. Chỉ có Đức Kitô, Đấng tự Thiên Chúa mà đến mới có thể là ánh sáng mang lại ơn giải thoát cho con người. Ánh sáng được kiến tạo nơi Chúa Giêsu chính là lượng từ bi và hay thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, vì yêu thương, Đức Kitô đã từ bỏ ngài trời để đến với con người hầu dẫn đưa con người trở về với nguồn sống đích thật. Cho nên, sự xuất hiện của Chúa Giêsu chính là để phá tan bóng đêm đang bóp chết niềm vui của cuộc sống, bóng đêm của ghen ghét hận thù, bóng đêm của ích kỷ tham lam…
Đức Kitô là hiện thân yêu thương, của sự bao dung và tha thứ, của sự cảm thông, và đó chính là ánh sáng mà nhân loại đang cần tới, vì chỉ có yêu thương mới đem lại bình an, chỉ có lòng bao dung mới kiến tạo được an vui. Quả thật, Satan đã gieo vào trong thế gian bóng tối hận thù, Đức Kitô đến xua đuổi bóng tối bằng trái tim yêu thương. Vâng, chỉ có tình yêu đến từ Đức Kitô mới có sức mạnh để tha thứ và nhờ đó con người được cứu độ.
Cho dẫu ơn cứu độ đã được trao ban, nhưng thế giới hôm nay vẫn còn ngập tràn bóng tối, bởi con người vẫn còn chất đầy sự đố kỵ ghét ghen. Bởi thế, là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi tiếp tục công việc của Gioan, làm chứng cho ánh sáng tình yêu của Chúa Giêsu để nhân loại bớt khổ đau, để không còn những tiếng khóc ai oán nhói lòng vì sự bất công, của lòng hận thù.
Lạy Chúa Giêsu, được dự phần vào sự sống của Chúa, xin cho chúng con phản chiếu ánh sáng tình yêu qua đời sống yêu thương, luôn rộng lòng tha thứ. Ước mong cho những ai đang sống trong bóng tối thất vọng gặp được ánh sáng của niềm hy vọng qua đời sống chứng tá của chúng con. Amen.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Vọng đều ngân vang cùng một sứ điệp mời gọi các tín hữu: “Hãy vui lên, Chúa sắp đến gần rồi”.
Is 61: 1-2a, 10-11 Bài Đọc I loan báo Tin Mừng cho những ai nghèo khổ, bất hạnh, bị giam cầm… biết rằng năm hồng ân của Chúa sắp đến rồi.
1Tx 5: 16-24 Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy vui luôn mãi và không ngừng tạ ơn Chúa vì những thiên ân mà họ đã lãnh nhận được.
Ga 1: 6-8, 19-28 Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tẩy giả, thánh nhân khẳng định rằng Đấng mà muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa anh em.
BÀI ĐỌC I (Is 61: 1-2a, 10-11)
Bài Đọc I được hình thành bởi hai đoạn trích khác nhau từ chương 61 của sách I-sai-a. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a) là phần mở và đoạn trích thứ hai (61: 10-11) là phần kết của một bài thánh thi. Đây là bài Thánh Thi Chúc Tụng được cộng đoàn xướng đáp.
1. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a):
Chúng ta nhận ra đoạn trích thứ nhất này mà vào một ngày sa-bát, trong hội đường Na-da-rét, Đức Giê-su công bố trước cộng đoàn (Lc 4: 18-20). Sau khi công bố xong, Ngài ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Ngài. Ngài bắt đầu ngỏ lời với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Như vậy Đức Giê-su áp dụng cho chính mình lời loan báo này: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…”. Đây cũng là đoạn trích mà Đức Giê-su cũng sẽ viện dẫn để trả lời cho những sứ giả mà Gioan Tẩy giả đang bị giam trong tù phái đến để hỏi Ngài: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?” (Lc 7: 19).
Vì thế, vị ngôn sứ nầy là ai mà Đức Giê-su quy chiếu đến hai lần? Và sứ điệp của ông ngỏ lời với ai?
A. Tác giả:
Những sự kiện được định vị vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người lưu đày ở Ba-by-lon lần đầu tiên được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Tác giả của bài thánh thi nầy là một vị ngôn sứ nặc danh sống ở giữa những người hồi hương tại Giê-ru-sa-lem. Ông thường được các nhà chuyên môn gọi biệt danh là I-sai-a đệ tam, hay I-sai-a thời hậu lưu đày (Is 56-66) để phân biệt với hai vị tiền nhiệm của ông là vị ngôn sứ nặc danh khác thời lưu đày được gọi biệt danh là I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, vị ngôn sứ thời tiền lưu đày (Is 1-39).
Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta đã đọc lời khẩn nguyện của vị ngôn sứ thời hậu lưu đày nầy. Bài thánh thi được trích dẫn hôm nay, xét về niên biểu, có trước lời khẩn nguyện. Trong bài thánh thi nầy, vị ngôn sứ biện minh sứ mạng của mình: ông đã được Thần Khí Chúa xức dầu tấn phong. Đây là cuộc xức dầu tấn phong thiêng liêng bởi vì không có nghi thức xức dầu tấn phong cho các ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đã chọn các ngôn sứ của Ngài và ủy quyền cho họ nói thay cho Ngài.
B. Sứ điệp:
Vị ngôn sứ có sứ mạng là loan báo “Tin Mừng” (ông lấy lại diễn ngữ của vị tiền nhiệm của mình là I-sai-a đệ nhị được trích trong Bài Đọc I của Chúa Nhật II Mùa Vọng). Tin Mừng nầy có thể được tóm lược như sau: “Phúc thay những người nghèo khổ!”, âm vang một trong những mối phúc thật của Đức Giê-su.
Những người hồi hương thật sự vỡ mộng trước thực trạng muôn vàn khó khăn trong công cuộc tái thiết quê hương. Họ là những người nghèo hèn với tấm lòng tan nát. Vị ngôn sứ gọi họ là những “người bị giam giữ” cho dù hiện nay họ đã được phóng thích. Qua những từ ngữ đó, ông muốn nhấn mạnh nỗi cùng cực khốn khổ của họ mà hình ảnh sau đó được giải thích rõ hơn: “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”, nghĩa là năm mà những người nô lệ được phóng thích, mọi nợ nần được tha bổng, đất đai được phân phối lại. “Năm hồng ân” được cử hành cứ năm mươi năm một lần. Năm Hồng Ân này thật ra khai triển “năm sa-bát”, năm được cử hành cứ bảy năm một lần (Năm Hồng Ân là năm thứ 50 của 7 x 7 = 49). Năm hồng ân biểu tượng một lý tưởng về sự công bình xã hội.
Đây là diện mạo của những “người nghèo Đức Chúa”, những người mà Kinh Thánh gọi là “anawin”. Chữ “anawin” không thể dịch được, nó bao hàm sự nghèo khổ vật chất, đức khiêm hạ và niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Đặc ngữ này mang một nét nghĩa căn bản là “còng lưng xuống”, còng lưng xuống dưới gánh nặng của sự nghèo khó, của sự nhục nhã, nhưng cũng “sấp mình xuống” vì thái độ tôn giáo của họ, niềm tin tưởng phó thác hoàn toàn vào lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đây là một khái niệm căn bản của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chính những kẻ bé mọn nầy mà Đức Giê-su dành trọn niềm ưu ái cho họ. Một trăm năm sau đó, một vị ngôn sứ khác, Xô-phô-ni-a, đã tiên báo cuộc thăng tiến của những người nghèo nầy:
“Ngày ấy, ngươi sẽ không còn phải hổ thẹn vì mọi hành vi ngang trái chống lại Ta. Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không nghêng ngang trên núi thánh của Ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân Ít-ra-en còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ nữa” (Xp 3: 11-13).
2. Đoạn trích thứ hai (61: 10-11).
Được Thiên Chúa an ủi như vậy, cộng đoàn xướng lên những lời chúc tụng: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Thiên Chúa, vâng nhờ Người, tôi hớn hở biết bao”. Những lời hoan ca nầy được diễn tả qua hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất là “trang phục”: Giê-ru-sa-lem được mặc hồng ân cứu độ, được khoắc áo choàng công chính như chàng rể chỉnh tề khăn đóng, tựa nàng dâu lộng lẫy điểm trang. Hình ảnh thứ hai là “khu vườn”: Giê-ru-sa-lem được sánh ví với khu vườn được Thiên Chúa chăm sóc tận tình để “trở hoa công chính và vinh quang trước mặt muôn dân”.
3. Ý nghĩa của việc nối kết hai đoạn trích nầy:
Khi đặt hai đoạn trích đầu và cuối bài thánh thi nầy bên cạnh nhau, Phụng Vụ mời gọi chúng ta gẫm suy về mối liên hệ sâu xa giữa “ơn cứu độ” mà Đấng Mê-si-a hứa ban và “vẻ đẹp lộng lẫy” của Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa nơi dân Thiên Chúa. Sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh Giê-ru-sa-lem thiên quốc như Tân Nương được điểm trang lộng lẫy nhờ máu Con Chiên.
Một viễn cảnh như thế không thể là viễn cảnh của vị ngôn sứ thuộc thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Tuy nhiên, cách thức tiếp cận lịch sử như vậy có thể hiểu được nhờ những đau khổ của nhóm nhỏ trung thành còn sót lại, những “người nghèo hèn” nầy mà nỗi khốn khổ của họ lôi kéo lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Và chính qua họ mà lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trải dài cho đến tận cùng thế giới.
BÀI ĐỌC II (1Tx 5: 16-24)
Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa lô-ni-ca là bản văn cổ xưa nhất của văn chương Ki-tô giáo. Bức thư nầy được viết vào mùa đông năm 50-51. Thánh Phao-lô đã thiết lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào mùa hè năm 50, nhưng ngài đã phải vội vả trốn chạy khỏi thành phố vì người Do thái phẩn nộ tìm cách giết ngài: lời rao giảng của thánh nhân khiến nhiều người Ít-ra-en lẫn lương dân ăn năn trở lại. Vì thế, thánh nhân thật sự bận lòng đến cộng đoàn non trẻ bị hăm dọa nầy. Sau nầy, cộng tác viên của ngài là ông Ti-mô-thê quay trở lại Thê-xa-lô-ni-ca và thuật lại cho thánh nhân những tin tốt lành: dù bị người Do thái đe dọa và quấy nhiễu, cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca non trẻ nầy vẫn kiên vững trong niềm tin của mình. Thế nên, thánh Phao-lô viết bức thư nầy gởi đến họ với cung giọng nồng nàn chan chứa niềm hân hoan và cảm tạ. Đoạn trích thư hôm nay được định vị vào cuối thư bao gồm những lời khuyên bảo và khích lệ.
1. Vui mừng, cầu nguyện và tạ ơn:
Thánh nhân khuyên ba điều quan trọng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
Trước hết, “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”. Thánh Phao-lô thường nhấn mạnh niềm vui Ki-tô giáo. Niềm vui là hoa quả của Thần Khí, Đấng hằng ở với người Ki-tô hữu ngay cả trong gian nan thử thách. Chính thánh nhân luôn “chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7: 4). Niềm vui này phát xuất từ niềm xác tín là được dự phần vào vương quốc Thiên Chúa ngay từ cõi thế nầy.
Tiếp đó, “Hãy cầu nguyện không ngừng”. Thánh nhân hầu như luôn luôn khuyên cầu nguyện “không ngừng”, “mọi lúc”, “đêm cũng như ngày”. Chung chung, thánh nhân cầu nguyện với Chúa Cha, qua Chúa Ki-tô, nhờ Chúa Thánh Thần. Hiếm khi thánh nhân cầu nguyện trực tiếp với Chúa Ki-tô. Thánh nhân nói, chính nhờ Thần Khí mà chúng ta mới có thể thân thương với Thiên Chúa là “Cha”.
Sau cùng, “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”. Tạ ơn là một cấu tố của lời cầu nguyện, xoay quanh lời chúc tụng. Truyền thống Do thái dành một chỗ đặc biệt cho tâm tình cảm tạ tri ân. Bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus) là bài ca cảm tạ tri ân: “Chúc tụng Thiên Chúa…”. Thánh Phao-lô hầu như luôn luôn bắt đầu bức thư của mình với lời chúc tụng Thiên Chúa.
2. Ân ban Thần Khí:
Đây là lời khuyên thứ hai. Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca coi nhẹ những ân ban Thần Khí. Họ nghi ngại những người được ơn ban Thần Khí. Có lẽ họ là những người Hy lạp phương bắc, ít sôi nổi như những người Cô-rin-tô… Quả thật, thánh Phao-lô viết từ Cô-rin-tô ở đó những ân ban Thần Khí nhiều vô kể. Thánh nhân khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em chớ dập tắt Thần Khí”. Cứ để mỗi người nói lên những ân ban mà mình nhận được, ngay cả ơn ngôn sứ. Điều quan trọng là phải biết “cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn tất cả những gì xấu thì lánh cho xa”.
3. Ơn thánh hóa:
Đây là đề tài rất tâm đắc với thánh Phao-lô. Sau này, thánh nhân sẽ khai triển sâu xa hơn: chúng ta được thánh hóa nhờ tác động của Thiên Chúa chứ không do nổ lực cá nhân của mình.
Việc kể con người được phân chia thành ba phần: thần trí, tâm hồn và thân xác, không gặp thấy bất cứ nơi nào khác trong các thư của thánh Phao-lô. Đây không là cách diễn tả con người được phân chia thành ba phần. Người Hy lạp cũng như người Do thái đều không quan niệm con người theo cách phân chia như thế. Ở đây, thánh Phao-lô chỉ muốn nói đến toàn diện con người. Theo thói quen của mình, thánh nhân khai triển chữ “toàn diện” đi trước và tô đậm chữ “thần trí” theo sau. Chữ “thần trí” này mang lấy ý nghĩa Ki-tô giáo: chính thần trí con người rộng mở trước tác động của Thần Khí.
TIN MỪNG (Ga 1: 6-8, 19-28)
Tin Mừng hôm nay được trích từ hai đoạn văn khác nhau, một được trích từ Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan (1: 1-18) giới thiệu “chức năng chứng nhân” của Gioan Tẩy giả (1: 6-8) và một khác được trích từ Phần Mở Đầu của Tin Mừng Gioan (1: 19-2: 12) trình bày “lời chứng” của Gioan Tẩy giả (1: 19-28).
1. Chức năng chứng nhân của Gioan Tẩy giả (1: 6-8).
Tựa Ngôn là một bài thánh thi về “Ngôi Lời” bị ngắt nhịp hai lần để giới thiệu Gioan Tẩy giả là chứng nhân của Đức Ki-tô (1: 6-8 và 15). Lần ngắt nhịp thứ nhất được trích dẫn ở đây như phần mở đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Trong phần mở đầu nầy, tác giả Tin Mừng thứ tư không đề cập đến sứ điệp của Gioan Tẩy giả cũng như ý nghĩa phép rửa của thánh nhân, nhưng tô đậm chức năng “chứng nhân” của thánh nhân. Đối với Tin Mừng Gioan, “chứng nhân” là chức năng quan trọng bậc nhất như tác giả nhấn mạnh trong thư thứ nhất của mình:
“Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống… Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa…” (1Ga 1: 1-4).
2. Lời chứng của Gioan Tẩy giả (1: 19-28):
Sau khi giới thiệu chức năng chứng nhân của Gioan Tẩy giả, tác giả Tin Mừng Gioan trình bày lời chứng của Gioan Tẩy giả.
Gioan Tẩy giả phủ nhận tất cả những gì người ta nghĩ tưởng về ông để chỉ tập trung lời chứng của mình vào sự hiện diện của Đấng đến sau ông và hiện có mặt ở đây rồi. Ông không phải là Đấng Mê-si-a mà dân chúng đang mong đợi. Ông cũng không phải là Ê-li-a mà truyền thống truyền tụng theo đó vị ngôn sứ này được rước lên trời và sẽ trở lại trần thế để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a. Ông cũng không phải là ngôn sứ vĩ đại mà Đức Chúa hứa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng…” (Đnl 18: 18).
Sau khi đã phủ nhận tất cả những nhân vật nổi tiếng mà người ta nghĩ tưởng về mình, Gioan Tẩy giả công bố sứ điệp: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Có thể ở đây ám chỉ đến niềm tin dân gian vào một đấng mê-si-a ẩn mình. Thật vậy, sách Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh hơn các sách Tin Mừng khác lời loan báo về Đấng Mê-si-a hiện ở giữa họ rồi mà họ không nhận ra.
Tại sao lời chứng của Gioan Tẩy giả vừa phủ nhận về mình vừa khẳng định về Đức Ki-tô mặc lấy một tầm mức quan trọng đến như thế? Để có thể lĩnh hội được Tin Mừng Gioan, chúng ta cần phải giải mã những ẩn ý nầy. Tin Mừng Gioan vốn giàu có biểu tượng nên luôn luôn hàm chứa hai nghĩa: nghĩa trực tiếp và nghĩa ẩn dụ.
A. Nghĩa trực tiếp:
Theo nghĩa trực tiếp, chúng ta có thể gặp thấy chìa khóa ở nơi việc dàn dựng Phần Mở Đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su thành một tuần lễ, được gọi “Tuần Lễ Khai Mạc” song đối với “Tuần Lễ Cuối Đời” của Đức Giê-su ở thành thánh Giê-ru-sa-lem. Tuần Lễ Khai Mạc được trình bày thành bảy ngày: ngày thứ hai, thứ ba và thứ tư được phân định với biểu thức thời gian “Hôm sau” (1: 29, 35, 43), riêng ba ngày sau cùng được bắt đầu với biểu thức“Ngày thứ ba” (2: 1).
- Ngày thứ nhất: Gioan Tẩy giả làm chứng về chính mình và về Đức Ki-tô trước những chất vấn của các tư tế và các thầy Lê-vi được phái đến từ Giê-ru-sa-lem (1: 19-28).
- Ngày thứ hai: Gioan Tẩy giả làm chứng Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” và là Đấng mà Thần Khí ngự xuống vào lúc Ngài chịu phép rửa (1: 29-34).
- Ngày thứ ba: ông An-rê và người môn đệ nặc danh đi theo Đức Giê-su; đoạn ông An-rê rũ em mình là Phê-rô cùng nhập bọn với mình (1: 35-42).
- Ngày thứ tư: Phi-líp-phê và Na-tha-na-en nhập đoàn với các môn đệ đầu tiên (1: 43-51).
- Ngày thứ năm và thứ sáu: hành trình về miền Ga-li-lê.
- Ngày thứ bảy: tiệc cưới Ca-na, ở đó các môn đệ đã “chứng kiến vinh quang của Ngài” và đã “tin vào Ngài”.
Khi trình bày Phần Mở Đầu cuộc sống công khai của Đức Giê-su như thế, thánh ký thiết lập sự đối xứng với bảy ngày của Công Trình Sáng Tạo, qua đó thánh ký muốn nói rằng Đức Ki-tô giáng trần để thực hiện một cuộc tạo dựng mới, hay đúng hơn, một cuộc tái tạo.
B. Nghĩa ẩn dụ:
Lời chứng của Gioan tẩy giả được trích dẫn trong Tin Mừng hôm nay được định vị vào ngày thứ nhất trong Tuần Lễ Khai Mạc. Trong công trình sáng tạo thế giới, ngày thứ nhất được đánh dấu bởi việc phân tách Ánh Sáng ra khỏi bóng tối.
Do đó, tất cả ý nghĩa sâu xa của đoạn Tin Mừng nầy chính là Gioan Tẩy giả đến để làm chứng về ánh sáng. Trái lại, các tư tế và các thầy Lê-vi được cử đến và trở về Giê-ru-sa-lem mà không đón nhận phép rửa tỏ bày sự sám hối, vì thế, không rộng mở lòng mình ra để đón nhận ánh sáng. Tuy nhiên, họ đã được loan báo cho biết: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (động từ “biết” theo văn hóa Do thái không chỉ nói lên một sự hiểu biết thuần túy trên mặt trí tuệ nhưng đặc biệt còn cả trọn tấm lòng nữa). Như vậy, giáo quyền Do thái, ngay từ đầu, vẫn đắm mình trong bóng tối. Sự kiện nầy sẽ chi phối cách hành xử sau cùng của họ đối với Đức Ki-tô.
Việc đối lập của cặp tương phản giữa ánh sáng và bóng tối nầy hình thành nên một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng Gioan. Việc đối lập nầy đã được minh chứng rồi ngay từ trong Tựa Ngôn.
Ánh sáng là gì? Một câu hỏi không dễ dàng trả lời. Ánh sáng ở đâu? Dường như người ta hơi khó khăn khi muốn trực tiếp chỉ cho kẻ khác thấy ánh sáng, mặc dù ai cũng công nhận là có ánh sáng. Vì trong thực tế người ta chỉ thấy vật này, người kia, cảnh nọ nhờ có ánh sáng. Trái lại, khi hỏi bóng tối ở đâu thì người ta dễ hình dung ngay là khi ta mở mắt mà không thấy gì cả, chỉ thấy một màu đen bao trùm không gian trước mặt.
Không kể các vật phát sáng như mặt trời, bóng đèn điện…, người ta biết có ánh sáng nhờ thấy các sự vật mà đúng hơn nhờ các sự vật phản chiếu ánh sáng. Như thế nhờ có ánh sáng mà các sự vật (cũng như con người) xuất hiện như chúng là. Và ngược lại khi các sự vật được thấy như chúng là thì người ta nhận biết có ánh sáng. Chúng ta có thể kết luận rằng ánh sáng là cái làm cho con người, sự vật được nhìn thấy, nghĩa là hiện hữu như chính mình.
Gioan được sai đến để làm chứng về ánh sáng. Chúng ta dễ dàng tin nhận ánh sáng ở đây chính là Đức Kitô. Chúa Kitô là ánh sáng, đến thế gian để soi sáng cho mọi vật mọi loài, nhất là cho con người thấy mình là ai trong các mối tương quan. Chúa Kitô cũng chính là sáng sáng soi dẫn con người bước đi trên chính lộ. Như thế Ánh sáng đến thế gian là để cho con người biết mình là ai và phải sống như thế nào cho đúng với ý Đấng Sáng Tạo đã dựng nên nó từ thuở ban đầu.
Gioan đã làm chứng cho ánh sáng là làm chứng cho Đức Kitô qua việc tự biết mình là ai và đã sống đúng phận vụ của mình. Dù được dân chúng tín nhiệm và tuôn đến đông đảo, dù được nhiều người, thuộc nhiều thành phần xã hội kính trọng và nghe lời khuyên bảo, Gioan đã thẳng thắn tuyên bố rằng ngài không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là Êlia hay một ngôn sứ nào đó mà chỉ là người dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Ngài ý thức phận vụ của Ngài là làm phép rửa bằng nước để kêu gọi sự sám hối còn Đấng Thiên Sai mới thanh tẩy dân bằng Thánh Thần, nghĩa là Đấng Thiên Sai mới là Người thông ban ân lành. Đấng Thiên Sai là Đấng được Thánh Thần “xức dầu, sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo khó, băng bó những tấm lòng tan nát, cong bố lệnh ân xá cho lẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân…” (Is 61,1).
Phận vụ của người dọn đường là làm cho con đường nên ngay thẳng và sạch đẹp. Khi đã hoàn tất công việc thì người dọn đường phải rút lui để cho Đấng phải đến, bước đi. Gioan nhìn nhận mình chỉ phù rể, hân hoan thấy ngày của tân lang bừng sáng (x. Ga 3,29), thậm chí không đáng cởi giây giày cho tân lang (x.Ga 1,27). Và Đức Kitô cần lớn lên còn Ngài, Gioan thì phải nhỏ lại (x.Ga 3,30). Hiện diện và sống như mình là, đồng thời vuông tròn sứ mệnh đã lãnh nhận là cách thế minh chứng về ánh sáng.
Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng thế gian lại không thích ánh sáng, không đón nhận ánh sáng (x. Ga 1,11). Quả thật, mỗi khi đã vương phải vòng tội luỵ thì con người thích ẩn mình đi (x. St 3,10). Ánh sáng làm con người thật của chúng ta bị phơi bày và chúng ta sẽ bị trách cứ, bị tố cáo, bị xét xử, nếu chúng ta lỗi lầm, phạm tội. Tuy nhiên đây chính là tiền đề của sự hối cải, ăn năn. Làm sao chúng ta có thể ăn năn, hối cải nếu tiên vàn chúng ta không nhận ra con người thật của mình, không nhận ra tội lỗi mà mình đã phạm?
Đối với những người khiêm nhu, muốn vươn lên, thoát khỏi ách nô lệ thần dữ, nô lệ tội lỗi thì việc ánh sáng đến là một hồng ân vô bờ, là một tin vui khôn xiết. Trái lại với những người cao ngạo, cố chấp, thì ánh sáng đến sẽ trở thành lời tuyên cáo dứt khoát và rõ ràng. Vì họ cố chấp, hay kiêu ngạo chối từ ánh sáng, nên họ mãi vẫn chìm ngập trong bóng tối tội lỗi. ” Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39).
Là Kitô hữu, chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô là ánh sáng thế gian. Cũng như Gioan Tẩy giả, chúng ta có bổn phận làm chứng về ánh sáng. Việc trang trí đèn hoa, máng cỏ, cây thông, việc tổ chức lễ lạc linh đình…vào dịp kỷ niệm mừng ngày Chúa Giáng Sinh quả là một việc nên làm và đáng làm. Tuy nhiên, để làm chứng về ánh sáng chỉ bằng những việc ấy mà thôi thì chưa đủ và hầu chắc sẽ ít hữu hiệu. Không gì hơn, noi gương vị Tiền Hô, hãy sống thật cái căn tính và ơn gọi của mình. Bà con lương dân, anh em khác đạo và cả anh em vô thần sẽ có cơ may nhận ra ánh sáng khi chúng ta hiện diện, sống như là những người Kitô hữu, nhũng người đang có Chúa Kitô trong mình. Đồng thời chúng ta cần vuông tròn giới lệnh căn bản và cũng là sứ vụ nền tảng mà Chúa Kitô đã trao ban đó là “yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta” (x.Ga 15,12).
Giáng Sinh sắp lại về, mỗi người chúng ta đã, đang và sẽ làm gì đây để cho người anh chị em xóm giềng, lân cận, nhận ra Chúa Kitô là ánh sáng trần gian, là ánh sáng chân lý, ánh sáng cứu độ? Không dám ước mơ có nhiều người, chỉ cần có một người, nhờ tôi mà tin Chúa Giêsu Kitô chính là ánh sáng chân lý, nhờ tôi mà đón nhận ánh sáng cứu độ, thì tôi đang sống Mùa Vọng đượm đầy ý nghĩa.
Khiêm nhường là nhân đức cần thiết đối với mọi người, lại càng quan trọng hơn đối với những người làm chứng về Thiên Chúa. Sống khiêm nhường không dễ, bởi vì “cái tôi” luôn muốn nổi loạn bất cứ lúc nào. “Không dễ” có nghĩa là “khó”, nhưng “khó” không có nghĩa là “không làm được” hoặc “bất lực”. Chúa Giêsu chỉ cho bí quyết sống khiêm nhường: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10). Đừng quan trọng hóa mình thì có thể sống khiêm nhường.
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng!” (Rm 10:14-15). Rất lô-gích!
BÀI SAI CỦA CHÚA
Ai cũng có trách nhiệm làm chứng về Đức Giêsu Kitô theo hoàn cảnh sống của mình. Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, được trở nên con cái của Thiên Chúa, đồng thời mỗi Kitô hữu cũng được Thiên Chúa sai đi vào giữa cuộc đời để làm nhân-chứng-sống cho Ngài. Thật vậy, điều đó được ngôn sứ Isaia khi nói thay tất cả chúng ta: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than” (Is 61:1-2).
Trọng trách đó không của riêng ai, bổn phận đó của bất cứ ai tin tưởng và mong đợi Đấng Cứu Thế. Nhưng vấn đề là Chúa không sai ai đến với người giàu sang, người quyền cao chức trọng, người ăn trên ngồi trước,… mà Ngài sai chúng ta đến với kẻ nghèo hèn, người đau khổ, tù nhân, người bị bỏ rơi, kẻ bị khinh miệt, kẻ cùng đinh,… Nhưng thực tế xã hội thường đi ngược lại, nghe “lời sai đi” kia cho xong lần, qua tai rồi thôi, sau đó có thể lại tự hành động theo ý mình. Có lẽ vậy mà người nghèo khổ và kẻ thấp cổ bé miệng vẫn không thể ngóc đầu lên được, nhân vị của họ vẫn bị chà đạp, nhân phẩm của họ vẫn bị bôi nhọ, và nhân quyền của họ vẫn bị tước đoạt! Chính ĐGH Leo XIII đã xác định trong tông thư Tân Sự (Rerum Novarum, 15-5-1891): “Sự nghèo khổ không là điều hổ thẹn” (a. 37).
Không phải đi làm theo ý mình, mà bước chân ra đi và dấn thân vào đời để hành động theo hướng dẫn của Thiên Chúa, có vậy thì chúng ta mới có thể “như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61:11).
Đức Mẹ là một nhân chứng sống động và khiêm nhường. Lời Kinh Magnificat (Lc 1:46-50, 53-54) của Đức Maria chứa đầy niềm hân hoan: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi”. Tuy là người cao trọng và có cuộc sống tuyệt vời, nhưng Đức Mẹ vẫn tự nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn”. Đó là sự khiêm nhường đúng Thánh Ý Chúa. Thiên Chúa là Đáng toàn năng, Ngài không chỉ làm cho Đức Mẹ biết bao điều cao cả, mà hàng ngày chúng ta cũng vẫn nhận “miễn phí” từ Thiên Chúa với bao điều kỳ diệu của cuộc sống! Đơn giản nhất mà cũng quan yếu nhất là không khí, nếu không có không khí trong vài giây thì không gì sống nổi. Một hồng ân kỳ diệu hiển nhiên vẫn xảy ra từng giây phút hàng ngày, nhưng đôi khi chúng ta “làm ngơ” và thậm chí còn đòi hỏi nhiều thứ hơn nữa.
Tất cả hồng ân đều bởi Lòng Thương Xót vô hạn của Thiên Chúa, bởi vì Ngài “hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50). Thiên Chúa là Đấng Thánh cao cả, luôn yêu chuộng sự công bình và đức khiêm nhường: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:53-54). Cựu Ước cũng đề cập tương tự: “Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên thay” (Hc 10:14). Ngôn sứ Isaia nói: “Đức Chúa các đạo binh đã quyết định điều ấy để làm nhục mọi đứa cao sang ngạo mạn và hạ bệ mọi kẻ hiển danh trên mặt đất” (Is 23:9). Và rồi chính vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cũng phải công nhận: “Giờ đây, ta, Na-bu-cô-đô-nô-xo, ta ca ngợi, tán dương và tôn vinh Vua Trời, vì mọi việc Người làm đều chân thật, đường lối của Người vốn công minh. Người có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách” (Đn 4:34).
Có điều quan trọng: Mặc dù hành động nhưng vẫn không được xao lãng việc cầu nguyện. Thánh Phaolô căn dặn: “Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (1 Tx 5:16-17). Không chỉ tạ ơn khi thuận ý mình mà “hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” (1 Tx 5:18), vì “đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu”. Thánh Phaolô căn dặn thêm: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5:21-22). Tỉnh thức, vừa hành động vừa cầu nguyện để “thần trí, tâm hồn và thân xác được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm” (1 Tx 5:23).
Với kinh nghiệm dày dạn, thánh Phaolô xác định chắc chắn với chúng ta như đinh đóng cột: “Đấng kêu gọi anh chị em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1 Tx 5:24). Ôi, thế thì trên cả tuyệt vời! Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17:24). Nhưng cũng cần có điều kiện, điều kiện đó không vì lợi ích cho Chúa mà vì lợi ích cho chính chúng ta. Lợi ích đó là gì?
TRỞ THÀNH NHÂN CHỨNG
Thiên Chúa đã sai ông Gioan làm người tiền phong đến dọn đường trước khi sai Con Một Giêsu đến thế gian. Ông được gọi là tiền hô, ông không là ánh sáng nhưng ông đến để “làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1:7). Và Thiên Chúa cũng trao “bài sai” cho những ai tin nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ.
Lúc đó, nhiều người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi xem ông Gioan là ai, nhưng ông nói thẳng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại hỏi ông có phải là ông Êlia hay là vị ngôn sứ chăng. Ông vẫn một mực từ chối: “Không”. Họ chưa thỏa mãn nên tiếp tục hỏi, ông Gioan đành nói thật: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói” (Ga 1:23). Nhân vật quan trọng Gioan thực sự khiêm nhường khi chỉ nhận mình là “tiếng hô trong hoang địa”.
Sao kỳ vậy nhỉ? Mấy người thuộc phái Pharisêu nghe nói vậy nên nhíu mày và tròn mắt ếch: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?”. Đúng là bọn người “ma mãnh” mà lại quá chậm tiêu! Ông Gioan trả lời rành rọt: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1:27). Lại một lần nữa ông Gioan thể hiện đức khiêm nhường khi nói mình “không đáng cởi quai dép” cho Đấng đến sau ông.
Đức khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức, nhưng cũng là nhân đức khó thực hiện, bởi vì “cái tôi” luôn “cản mũi kỳ đà”. Ai cũng muốn được khen, vì đó là bản tính bình thường của phàm nhân. Không ai muốn bị chê, nhất là những người có chức quyền, danh vọng, địa vị, “tai mắt” trong thiên hạ,… Tự ái là yêu mình, yêu mình là điều cần, nhưng đừng yêu mình quá. Đôi khi “chiếc ghế quyền lực” còn được người ta coi trọng hơn danh dự. Thực tế xã hội đã và đang cho chúng ta thấy rõ như vậy. Đó là một “hội chứng” đáng quan ngại, ngày nay người ta thường gọi các dạng đó là “chủ nghĩa” – chủ nghĩa quyền lực, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa 5V (vội vàng vơ vét về).
Người Việt có cách nói: “Văn mình, vợ người”. Quả thật, văn mình lúc nào cũng hay, và vợ người bao giờ cũng đẹp. Người ta luôn muốn chứng tỏ mình đúng và “bản lĩnh” của mình hơn hẳn người khác. Ai “chạm” vào quyền lợi của mình thì “có chuyện”, dù đó chỉ là “chuyện nhỏ”, không đáng chi cả. Thật vậy, chỉ nhìn thấy “ngứa mắt” mà người ta cũng sẵn sàng “xử” nhau theo “luật rừng”, và họ lý luận là “đánh cho bõ ghét” hoặc “giết cho biết tay”. Quả thật, “cái tôi” và “cục máu tự ái” luôn sẵn sàng dâng cao như sóng thần bất cứ lúc nào. Đúng là không dễ gì sống khiêm nhường đâu!
Có lẽ ít ai lại không nghe nói tới vĩ nhân Mohandas Karamchand Gandhi (2/10/1869 – 30/1/1948). Ông được dân Ấn Độ tôn là thánh nhân và gọi ông là Mahatma (Tâm hồn Vĩ đại). Ông đã từng nhận định: “NẾU các Kitô hữu SỐNG ĐÚNG như Chúa Giêsu, tôi THEO đạo ngay”. Quả thật, một câu nói khiến chúng ta cảm thấy “nhức nhối” và phải suy nghĩ thật nhiều. Thiên Chúa muốn chúng ta phải thực sự là những nhân chứng sống động và khiêm nhường mà chúng ta chưa đạt đến tiêu chuẩn mà Ngài đề ra!
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, con đường Mùa Vọng đã bước sang chặng thứ ba (tuần III), nghĩa là đã được nửa đường. Do đó, hôm nay Giáo hội không sử dụng màu Tím mà sử dụng màu Hồng – gọi là “Chúa Nhật Hồng”, thể hiện niềm vui mừng vì sắp đến ngày Ngôi Hai giáng trần. Trong khi chờ mong, không thể ngồi “chờ sung rụng” mà phải tích cực hành động, nghĩa là chúng ta phải lên đường và vào đời…
Làm nhân chứng là trách nhiệm và bổn phận, nhưng làm nhân chứng mà không khiêm nhường thì vô ích, Chúa không cần loại nhân chứng đó!
Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã dựng nên chúng con để làm sáng danh Ngài, rồi Ngài lại sai chúng con vào đời để làm chứng về Tình Yêu vô biên và Lòng Thương Xót bao la của Ngài, xin ban Thánh Thần để chúng con can đảm và nhiệt tâm làm nhân chứng về Ngài, sẵn sàng dấn thân và hành động với tinh thần khiêm nhường, và luôn biết nhận mình thiếu sót để khả dĩ sửa sai theo đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đấng Thiên Sai, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Trước đây không lâu, tại Dallas, Texas có một nhân viên trong công ty đổ rác thành phố, được dân chúng ca tụng khắp các nẻo đường ông đi. Mười bảy người viết thư cho ông Giám Đốc vệ sinh công cộng Jach Davis, để ca ngợi người phu đổ rác George Cummings là một người hiền lành, niềm nở và lịch thiệp với hết mọi người. Họ còn viết quả quyết rằng: "Chúng tôi đều biết ông ta là một người Công Giáo đơn thành, một công dân ái quốc và là một người bạn thân tình". Họ cũng nhắc lại việc Cummings đã giúp họ mua hoa khi có người hàng xóm qua đời, việc ông nhặt được một chiếc đồng hồ, rồi cố tìm ra chủ nhân để trao trả lại, hoặc một món đồ mà ông cho là chủ của nó vì lầm mà vứt đi, ông cũng tìm hết cách để hoàn lại.
Ông Giám Đốc Davis đã gởi cho Cummings bức thư với những hàng chữ này: "Mọi người đều mến chuộng ông, vì cách làm việc của ông thật đặc biệt".
I. GIOAN LÀM CHỨNG CHO CHÚA
Bài Tin Mừng hôm nay, cũng thuật truyện một người thật mộc mạc, chất phác quê mùa nghèo nàn, chay tịnh khổ hạnh như một ẩn sĩ từ rừng thẳm đi ra, nhưng lại được nhiều người mến chuộng đến nỗi, từng đoàn lũ đông đảo, gồm đủ mọi thành phần xã hội, từ khắp nơi tuôn đến, say mê nghe lời ông giảng, đấm ngực sám hối cải thiện và cúi đầu chịu Phép Rửa Sám Hối do tay ông tại sông Jordan.
Danh tiếng ông đồn thổi đến tai những vị vọng trong dân; do đó, các ngài đã sai các vị Tư Tế và các thầy Levi đến hỏi xem ông có phải là Đấng Kitô, Thiên Chúa sai đến, Đấng mà muôn dân đang mong đợi không?
Khi họ hỏi: "Ông là ai?" Ông đã thẳng thắn tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". Họ lại nghi ông là đại tiên tri Elia, cũng được ông quả quyết: "Tôi không phải là Elia". Sau cùng, họ lại nghĩ ông là một vị tiên tri Thiên Chúa sai đến, cũng được ông dứt khoát trả lời: "Tôi đâu có đáng là một tiên tri".
Thế rồi họ năn nỉ ông: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời lại cho những người đã sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?"
Gioan khiêm tốn đáp lại: "Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay thẳng đường Chúa đi". Câu trả lời khiêm tốn này, tuy vắn tắt nhưng đã nói lên tất cả sứ mạng của Gioan, là làm chứng nhân cho Chúa Kitô.
II. LÀM CHỨNG CHO CHÚA CÁCH NÀO
Gioan là một vị tiên tri cao trọng và diễm phúc nhất trong các tiên tri từ trước đến nay, đã được Chúa tuyển chọn đặc biệt, được vui sướng nhảy mừng khi Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm, được thánh hóa ngay từ khi còn trong thai mẫu, để xứng đáng là vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Ngài được Thiên Chúa sai đến chuẩn bị cho Chúa Cứu Thế một dân tộc thánh thiện, bằng việc rao giảng Phép Rửa Sám Hối, kêu gọi mọi người cải thiện đời sống, để được xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế và Ơn Cứu Độ của Người.
Sứ mạng và địa vị của Gioan cao trọng đến nỗi, chính Chúa Kitô đã phải khen thưởng trước mặt mọi người: "Trong các nam nhân do phụ nữ sinh ra không một ai cao trọng hơn Gioan Tiền Hô" (Lc 7:28). Mặc dầu được vinh dự trước mọi người, được muôn người ngưỡng mộ, ngài không hề tự đắc kiêu căng; trái lại, ngài càng hạ mình xuống thẳm sâu trước nhan Thiên Chúa và trước mặt mọi người. Ngài đã công khai thú nhận địa vị thấp hèn của mình, khi đáp lại nhóm biệt phái được sai đến hỏi ngài: "Tôi đến làm Phép Rửa trong nước; nhưng ở giữa các ông có Đấng mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi, nhưng Ngài có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài".
Lời rao giảng chân thành, đi đôi với cuộc sống khổ hạnh và khiêm nhu, đã đáng cho mọi người khâm phục và tin theo; bởi lẽ ngài luôn tôn cao Đấng ngài rao giảng, còn riêng bản thân ngài, ngài chỉ tự nhận thân phận tôi tá của Chúa, chỉ là người được sai đến để dọn đường cho Chúa.
Đời sống khiêm nhu thánh thiện đó, được chứa đựng tất cả ý nghĩa trong lời châm ngôn, chính Thánh Nhân đã tuyên bố trước mặt mọi người về Chúa Cứu Thế: "Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ thấp xuống" (Jn 3:30).
III. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA LÀ GÌ
Cũng như Gioan, mỗi người chúng ta đều đã được Chúa tuyển chọn và ủy thác sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, ngày chúng ta được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Cũng ngày đó, chúng ta được Thánh Thần Chúa xức dầu hoan lạc, ban cho chúng ta được diễm phúc trở nên con cái Chúa, phong chúng ta làm tiên tri và sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó, an ủi những tâm hồn đau thương buồn tủi, thăm viếng những tù nhân trong ngục thất, giúp đỡ chia sẻ với những người cùng khổ, những người mang số phận hẩm hiu bị đời quên lãng.
Mỗi người trong chúng ta tùy theo địa vị, chức phận mình trong xã hội, đều phải làm chứng nhân cho Chúa, rao giảng Chúa Kitô bằng chính đời sống thánh thiện gương mẫu của mình.
Để chu toàn sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa, chúng ta cũng không thể dùng phương thế nào khác, ngoài phương thế Thánh Gioan Tiền Hô đã dùng, là luôn đề cao Đấng mình rao giảng: "Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ xuống". Chúng ta cần phải đi ngược lại tâm tính tự nhiên của con người là kiêu căng, luôn thích đưa mình lên trên mọi người, đã bị lưu truyền do nguyên tội, vì: "Chúa thường chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho kẻ khiêm hạ" (Jac 4:6), như chính lời Chúa Kitô đã dạy: "Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên" (Lc 14:11).
Lêlin, ông tổ đảng cộng sản quốc tế, chủ trương chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, với tham vọng sẽ bá chủ hoàn cần, tiêu diệt mọi thứ tôn giáo mà ông cho là "Một thứ á phiện nguy hiểm" do bọn tư bản tạo ra. Mộng ước ngông cuồng của ông đã chẳng bao giờ thực hiện được. Lòng kiêu căng phạm thượng của ông thấu đến trời cao, đã bị uy quyền Thiên Chúa hủy diệt. Ông đã chết trong cơn hấp hối kinh hoàng, đau đớn dằm vặt đến tột độ, như chính lời Trosky, một người bạn thân tín của ông đã chứng kiến cảnh hấp hối hãi hùng đó đã quả quyết: "Nếu bọn ác quỉ có thể chết, thì tôi thiết tưởng: Chúng cũng chỉ chết cách ghê sợ đến thế là cùng!"
Kết Luận
Để dọn lòng xứng đáng đón mừng ngày kỷ niệm Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy thực thi sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, bằng lời rao giảng sống động qua chính đời sống khiêm nhu thánh thiện của chúng ta, như Thánh Gioan Tiền Hô đã làm gương: "Chúa cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải được hạ xuống" (Jn 3:30).
Hoặc như người phu đổ rác George Cummings Dalas luôn làm vừa lòng mọi người, để mọi người phải thán phục quả quyết về ông: "Chúng tôi biết ông ta là một người Công Giáo đơn sơ, một công dân ái quốc, và là một người bạn thân tình". Lại được ông Giám Đốc công ty vệ sinh công cộng để lời khen tặng: "Mọi người đều mến chuộng ông vì cách làm việc của ông thật đặc biệt".
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến...
***
Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens...đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy giả…
Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất.
Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine. Dưới đây là ảnh tác phẩm. Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.
Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan tẩy giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết".
Dưới đây là icon thể hiện chủ đề "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết" được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.
Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng". Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu. Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta. Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho sự sống.
Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).
1. Chứng nhân ánh sáng trung thực
Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.
Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “Đây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm về Gioan: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả” (Mt 11,11). Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.
Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Đấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.
Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.
Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.
2. Thánh Gioan sống rất đẹp
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông dân chúng, được dân chúng ngưỡng mộ, xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.(Ga 3,30)
3. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.
Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Người theo Đạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.
4. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?
Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc... Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).
Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là "Nói thẳng, nói thật". Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.
Thôi xài chữ giả Chữ nghĩa du di chả mấy hồi Đói không nói đói, "thiếu ăn" thôi! Học hành "hạn chế": y chang dốt Báo cáo "tuy nhiên": ắt hẳn... tồi. "Vượt mức chỉ tiêu"? Nên bớt nửa, "Có phần sơ sót"? Hãy nhân đôi... Mực đen gấy trắng đòi trung thực Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)
Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một "giả thuyết làm việc", như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.
Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
Sống ở đời, ai cũng muốn tôn mình lên, ai cũng muốn nổi bật, muốn đứng lên “bệ cao”, để cho người khác nhận thấy mình cao lớn hơn, vĩ đại hơn, vinh quang hơn con người thật sự của mình.
Cầu thủ thì muốn nổi bật bằng những đường banh điêu luyện; Ca sĩ thì muốn nổi bật bằng lời ca tiếng hát làm rung động tâm hồn người nghe; Một số thanh niên muốn nổi bật bằng cách sắm những siêu xe đắt giá…
Nói chung, người ta đua nhau tìm kiếm và cố đứng trên những “bệ cao” đủ loại để tỏ cho người khác thấy mình có giá trị và đáng được trọng nể. Đối với người nầy, “bệ cao” có thể là những món trang sức xa hoa đắt giá; đối với người kia, “bệ cao” có thể là những biệt thự xa hoa, sang trọng … Và để có được những thứ “bệ cao” nầy, nhiều người sẵn sàng bán rẻ lương tâm, phẩm giá, danh dự của mình hoặc làm thiệt hại nặng nề cho người khác.
Ông Gioan tẩy giả, một mẫu người rất trung thực
Trong khi đó, Gioan tẩy giả từ khước mọi thứ “bệ cao”. Thay vì vui sống chốn phồn hoa đô hội thì ông lại thu mình vào nơi hoang địa khô cằn; Thay vì ăn mặc lụa là gấm vóc như các người quyền quý thì ông lại khoác bộ da thú lên người làm áo che thân; Thay vì ngày ngày thưởng thức cao lương mỹ vị thì ông chấp nhận ăn uống đạm bạc qua ngày bằng những thứ cào cào, châu chấu...
Gioan tẩy giả luôn luôn trung thực, trung thực với chính mình và với mọi người, có sao nói vậy và không cần bất cứ một thứ “bệ cao” nào để tôn mình lên.
Thời bấy giờ, danh tiếng của Gioan đang lên. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Ki-tô; Có những người khác tưởng lầm ông là ngôn sứ Ê-li-a vĩ đại giáng thế; Có người nghĩ rằng với tầm cỡ của ông, ít ra ông phải là một vị ngôn sứ cao cả nào đó…
Thế mà khi những người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử các thầy tư tế và Lê-vi đến hỏi cho biết ông là ai, ông không nhận vơ cho mình những danh hiệu cao đẹp mà người đương thời gán cho ông như là đấng Ki-tô, là ngôn sứ Ê-li-a… Ông thẳng thắn xác nhận: “Tôi không phải là đấng Kitô, tôi không phải là ngôn sứ Ê-li-a, tôi cũng chẳng phải là một ngôn sứ nào cả” (Gioan 1, 19-20).
Vậy họ hỏi ông: “Vậy ông là ai? Ông hãy trả lời cho chúng tôi biết ông là ai để chúng tôi còn phải tâu trình lại cho người người đã sai chúng tôi đến đây.” Bị ép quá, Gioan mới trả lời rằng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa.” Đó là một phát biểu rất trung thực và cũng rất khiêm tốn về bản thân mình (Gioan 1, 22-23).
Bấy giờ, đang khi nhiều người nghĩ rằng phép rửa của Gioan thiêng lắm, quan trọng lắm nên đổ xô đến cùng ông và nhận phép rửa bởi tay ông, thì chính Gioan lại cho rằng phép rửa ông cử hành chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng cao cả sẽ đến cử hành. Ông nói: “Tôi đây chỉ làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Ngài sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” (Gioan 1, 26-27). Người ấy sẽ rửa các ông trong Thánh Thần.
Như thế, khiêm nhường và trung thực là hai đức tính nổi bật của Gioan đáng cho chúng ta học hỏi và noi theo.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho con biết học với thánh Gioan tẩy giả để sống trung thực với mình và nhất là đừng cố tìm cho mình những thứ “bệ cao” phù phiếm đến nỗi phải bán rẻ danh dự, lương tâm.
Xin cho con hiểu rằng muốn trở nên cao cả thực sự, thì không phải là tìm cách đứng lên những chiếc “bệ” thật cao nhưng là trau dồi các nhân đức và đào luyện cho mình có những phẩm chất cao đẹp.
Khi nhìn vào cuộc đời bể dâu, Nguyễn Du đã từng thốt lên lời thơ ai oán qua truyện Kiều:
“Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Cuộc đời buồn nhiều hơn vui. Dòng đời nước mắt nhiều hơn nụ cười. Kiếp nhân sinh vẫn đong đầy khổ đau của cái nghèo, cái bất công, cái áp bức, và bất hạnh. Cuộc sống vẫn đầy những lắng lo về cơm áo gạo tiền, về tương lai còn đầy đen tối.
Đó cũng chính là thảm cảnh của dân lưu lạc Israel. Họ phải sống kiếp nô lệ bên Babylon. Cuộc đời họ chìm đắm trong bể khổ trần ai. Chính trong thảm cảnh đầy nước mắt của kẻ lưu đầy, họ đã ngước về trời cao, trông mong Đấng Cứu Tinh giải thoát nhân trần. Biết bao lời ca ai oán: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây ơi, hãy mưa Đấng cứu tinh”, là bằng chứng cho thấy sự khát khao chờ mong sự giải thoát của Thiên Chúa dành cho họ.
Hôm nay, chúng ta nghe lời của tiên tri Isaia loan báo cho dân sứ điệp về niềm vui đã gần kề. Isaia mời gọi: Hãy vui lên vì ngày giải phóng đã đến. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Thiên Chúa sẽ lau khô giọt nước mắt. Thiên Chúa sẽ băng bó những vết thương. Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Người để ban bình an, hoà bình và thịnh vượng cho dân. Và niềm vui đó càng dâng cao khi Gioan rao giảng về triều đại Messia đã đến. Gioan đã chỉ cho dân thấy triều đại của Đấng Thiên Sai đã bắt đầu. Gioan còn mời gọi dân chúng đón nhận niềm vui bằng đời sống sám hối ăn năn. Gioan còn cảnh tỉnh dân chúng hãy tỉnh thức vì Chúa đã đến giữa dân Người. Gioan đã nhận mình là người làm chứng cho Đấng Messia. Ông chĩ là tiếng kêu trong hoang địa để dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Vâng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những bất công và hận thù, vẫn còn đó những giọt nước mắt lầm than, cơ cực. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người đau khổ triền miên, vẫn còn đó những mảnh đời đói khát cơ hàn. Họ đang cần chúng ta làm chứng cho sự hiện diện của Chúa giữa thế gian. Họ cần chúng ta làm chứng, không phải bằng lời nói mà bẳng hành động. Họ cần chúng ta dám dành cho họ những cái nhìn cảm thông, những lời ủi an khích lệ, thay cho thái độ bàng quan, dửng dưng trước nỗi khổ của đồng loại. Họ cần chúng ta dành cho họ những nghĩa cử bác ái, vị tha. Họ cần chúng ta sống yêu thương, để giới thiệu cho họ một Thiên Chúa đầy yêu thương đang hiện hữu giữa cuộc đời hôm nay. Chính đời sống chứng nhân của chúng ta sẽ đem lại niềm vui cho những ai khổ đau. Chính đời sống chứng nhân của chúng ta sẽ mang lại niềm vui cho những ai đang thất vọng, đang lần mò trong đêm tối của cô đơn, buồn chán.
Có ai đó đã nói thật chí lý rằng: “sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”. Lối sống của Gioan đã lôi kéo hàng ngàn người đến với ông, nhưng liệu rằng lối sống của chúng ta có thu phục người khác hay làm cho họ thất vọng về lối sống của chúng ta? Cuộc sống của chúng ta có thực sự là món quá mang lại niềm vui cho anh em hay là gánh nặng cho anh em?
Ước gì khi nhìn vào đời sống của chúng ta, mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, vì chúng ta dám sống yêu thương tha nhân như chính mình. Amen.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều chung một ý tưởng chính là diễn tả niềm vui của những ai MV 3-B133
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều chung một ý tưởng chính là diễn tả niềm vui của những ai tin vào Chúa. Niềm vui ấy lan tỏa trọn vẹn cuộc sống con người, đồng thời là động lực và sức mạnh giúp cho họ vươn lên giữa bao sóng gió của cuộc sống trần gian. Sắc màu lễ phục tím của Mùa Vọng không chỉ diễn tả sự sám hối, mà còn diễn tả niềm hy vọng. Khi chúng ta chờ đợi điều gì, chúng ta khấp khởi vui mừng vì thời gian càng trôi qua thì điều chúng ta chờ đợi càng đến gần. Chúa nhật thứ ba của Mùa Vọng là Chúa nhật của niềm vui, và chính chúng ta, các Kitô hữu được mời gọi để loan báo niềm vui tuyệt vời, đó là Chúa đang đến.
Bài đọc I diễn tả niềm vui và hứng khởi của vị Thiên Sai. Vị Thiên Sai là người được Chúa xức dầu và sai đi vào lòng thế giới. Ngài đến với muôn người, đi đến đâu là đem niềm vui và niềm hy vọng đến đó. Đấng Thiên Sai là người gieo mầm tin yêu: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân”. Dưới nhãn quan Kitô giáo, vị Thiên Sai mà ngôn sứ Isaia loan báo chính là Đức Giêsu Kitô. Trong cuộc viếng thăm quê nhà tại Nagiarét, Chúa Giêsu đã vào hội đường ngày Sabát và đọc đoạn sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta nghe hôm nay. Sau đó, trước sự ngỡ ngàng của những người đồng hương, Người tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (x. Lc 4,16-22). Trong suốt ba năm giảng dạy, Chúa Giêsu đã chứng minh và thực hiện những gì các ngôn sứ của Cựu ước đã loan báo. Người đến với muôn người, không loại trừ ai. Người đem cho họ niềm hy vọng vào tình thương diệu kỳ của Thiên Chúa.
Nhờ được xức dầu mà chúng ta được gọi là Kitô hữu. Nếu Chúa Giêsu đã tuyên bố tại Nagiarét: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe”, thì mỗi Kitô hữu hôm nay cũng có thể tuyên bố như vậy. Bởi lẽ, nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Nhờ được xức dầu, chúng ta được sai đi đến mọi chân trời để loan báo Tin Mừng. Mỗi Kitô hữu phải ý thức bổn phận loan báo Tin Mừng tuỳ khả năng và bậc sống của mình. Một cách cụ thể, tín hữu phải là người loan báo niềm vui. Thần Khí Chúa ngự trên chúng ta. Thần Khí là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng tác sinh và là Đấng ban cho con người niềm vui. Có sức mạnh của Thần Khí, con người không còn sợ hãi, không còn ủ dột lo buồn và bi quan thất vọng, nhưng chan chứa niềm vui vì có Chúa đồng hành với mình trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
Mùa Vọng và Mùa Giáng sinh mời gọi các Kitô hữu nhìn nhận phẩm giá và sứ mạng của mình trong đời sống Đức tin. Họ là những người được Chúa gửi gắm sứ mạng loan báo niềm vui. Một người Kitô hữu ủ dột, buồn bã không thể diễn tả Đức tin Kitô giáo cách trọn vẹn. Thánh Phaolô nhắc các tín hữu Thessalônia phải luôn vui trong Chúa, mặc dù cuộc sống hằng ngày còn nhiều truân chuyên. Ngài cũng lưu ý họ đừng dập tắt Thần Khí, chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Một khi thành tâm lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần tự nơi sâu thẳm của tâm hồn, chúng ta sẽ biết đối nhân xử thế và biết lựa chọn những gì tốt đẹp cho cuộc đời. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng đã nhận định: “Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ” (Số 2). Để thoát khỏi tình trạng cô đơn khô cằn này, vị Chủ chăn của Giáo Hội Công giáo hoàn vũ mời gọi: “Tôi kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ mới mẻ với Đức Giêsu Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình; tôi xin tất cả anh chị em không ngừng làm điều này mỗi ngày. Không ai được nghĩ rằng lời mời gọi này không phải dành cho mình, vì không một ai bị loại trừ khỏi niềm vui mà Chúa Giêsu đem đến” (Số 3). Gặp gỡ Đức Giêsu để được hưởng niềm vui Người ban tặng, đó chính là thông điệp quan trọng của lễ Giáng sinh và Mùa Giáng sinh. Không tìm gặp Chúa Giêsu, cuộc sống người tín hữu sẽ trở nên khô cằn và vô nghĩa.
Một lần nữa, Tin Mừng Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng lại nhắc đến nhân vật Gioan Tẩy giả với lời mời gọi khiêm nhường sám hối. Lời mời gọi của Gioan tẩy giả cũng đang được nhắn gửi đến với mỗi người chúng ta, nhờ đó chúng ta được hưởng niềm vui trọn vẹn. Nhân vật Gioan Tẩy giả cũng nhắc nhớ chúng ta, mỗi người hãy ra đi loan báo niềm vui mà mình đã cảm nhận khi thực hành chân lý đức tin. Biết bao người quanh ta chưa được một lần nghe nói về Chúa. Họ đang ao ước được gặp gỡ Ngài. Các tín hữu được sai lên đường đến với họ, mang cho họ tình thương, niềm vui, sự tha thứ, sự đỡ nâng và giải thoát. Niềm vui Giáng sinh phải được loan báo cho mọi người, vì đó là niềm vui cho cả toàn dân. Chân lý cứu độ phải được trình bày cho thế giới, vì Thiên Chúa muốn cứu vớt muôn loài. Chúng ta không chỉ giữ niềm vui Giáng sinh cho riêng mình, nhưng mỗi tín hữu phải là người tiếp nối sứ mạng đem tin vui ấy cho những người xung quanh. Người không cảm nhận được niềm vui thực sự của Đức tin trong tâm hồn và trong cuộc sống, không thể loan báo niềm vui cho người khác, và như thế, không thể trở thành chứng nhân của Chúa cho thời đại mình. Thánh Gioan Tẩy giả là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta: khiêm nhường, xác tín, can đảm và trung thành. Nhờ những đức tính này, chúng ta sẽ trở nên những sứ giả loan báo niềm vui.
Trong những ngày qua, bầu cử Mỹ đang kéo sự chú ý của cả thế giới muốn biết ai sẽ là chủ MV 3-B134
Trong những ngày qua, bầu cử Mỹ đang kéo sự chú ý của cả thế giới muốn biết ai sẽ là chủ nhân Nhà Trắng trong 4 năm tới.
Nhóm yêu thích ủng hộ, bỏ phiếu cho ứng cử viên này, người khác, dành lá phiếu cho ứng cử viên kia.
Dân chúng Mỹ thi nhau xuống đường tuần hành, hô khẩu hiệu, đôi khi còn đẩy tới xô xát, bạo lực... Tất cả chỉ vì một con người, một vị tổng thống được kỳ vọng sẽ dẫn dắt đất nước, tạo sự ổn định xã hội, xây dựng cuộc sống nhân sinh phát triển bền vững cả thể lý cũng như tinh thần.
Vị lãnh đạo lý tưởng như thế, ai cũng ngưỡng vọng, tìm kiếm, dẫu cho có phải đánh đổi vô số thời gian, vật lực và trí tuệ.
Tuy nhiên, vị được bầu chọn, hầu hết không đáp ứng được ý chí của dân. Họ, thay vì cống hiến, lại tìm cách bòn mót, thay vì phục vụ, lại trở thành bạo chúa, độc tài, thay vì hòa giải, hiệp thông, lại tạo ra kỳ thị, hận thù, chia rẽ...
Dân Chúa có quá nhiều kinh nghiệm (phải nói là đau xót) về những mục tử gây tai tiếng và nhiều tranh cãi này.
Bởi vậy, họ luôn khát khao, mong chờ và làm tất cả những gì tốt đẹp nhất, để tỏ ra xứng đáng hơn đón chào đấng “Messia”, vị cứu tinh của “Lời hứa”, vì chỉ mình Ngài mới cứu dân khỏi tội, mới hòa giải tội nhân với Chúa Cha. Giê-su Kitô, thật là Đấng muôn dân mong đợi!
Phụng vụ Lời Chúa hôm hướng dẫn chúng ta cách thức gặp Chúa trong chính việc lắng nghe và thực hành “Lời”, để đạt tới một cuộc sống đượm tình mến thương.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, loan báo Đấng cứu thế ngự đến. Ngôn sứ không mô tả dáng vẻ bề ngoài theo kiểu loài người, nhưng nhấn mạnh trên sứ vụ Ngài thực hiện: loan báo Tin Mừng cho người nghèo, chữa lành mọi thương tích, ân xá cho tù nhân, công bố năm hồng ân của Đức Chúa...
Đây là chủ đề xuyên suốt mạc khải. Hãy nghe những lời này từ chính miệng Giê-su: “Về thuật lại cho Gio-an điều mắt đã thấy, tai đã nghe: mù được sáng mắt, què được đi, phong hủi được sạch, điếc được nghe, chết sống lại và người nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11, 2 – 6).
Sứ vụ chứng nhận đấng thiên sai có sức thuyết phục hơn những lời mô tả, định nghĩa về một con người.
Bởi thế, bài đọc I, không bận tâm mô tả đấng cứu thế là ai, nhưng đặc biệt nhấn mạnh sứ vụ ngài thực hiện, nhằm đem lại lợi ích toàn vẹn cho con người trong chính hoàn cảnh đặc thù của họ.
Đức Chúa đã xức dầu tấn phong ngài làm ngôn sứ, tư tế và vương đế, trở thành người phục vụ có thẩm quyền cho Tin Mừng cứu độ: thay đổi tận căn thân phận con người vốn mỏng giòn, yếu đuối.
Lời ngôn sứ trong bài đọc I, ứng nghiệm trọn vẹn nơi Chúa Giê-su Kitô, Đấng muôn dân mong đợi. “Ma-ra natha!” (lạy Chúa Giê-su xin hãy đến) là lời khẩn nguyện siêu thời gian, diễn tả niềm khát khao, mong chờ của nhân loại đang ngồi trong u tối và trong bóng tối tử thần.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc ghi lại lời chứng của Gio-an, người được sai đến từ Thiên Chúa, đóng vai trò chứng nhân về ánh sáng và chân lý.
Ông làm phép rửa trong nước như dấu chỉ mời gọi hoán cải canh tân. Đối với Gio-an, hoán cải, canh tân là một khởi đầu tốt, nó tạo ra một chuyển biến: bỏ nơi tối tăm, tới nơi ánh sáng diệu huyền, bỏ miền thâm u sự chết bước vào vùng ánh sáng ban sự sống. Không có động thái này, con người cứ nằm lì trên nẻo đường bất hảo, chẳng biết đường, biết hướng về đâu, kết cục bi thảm là sa xuống vực thẳm diệt vong.
Gio-an chỉ có nhiệm vụ dọn đường, đưa con người tới gặp Đức Giê-su, để Chúa đổi mới, thánh hóa họ trong ánh sáng và chân lý, nghĩa là: trong Chúa Thánh Thần.
Phép rửa Gio-an dừng lại như một dấu chỉ tiền trưng, còn của Giê-su là phép rửa trong Thánh Thần, xóa bỏ mọi tội lỗi thế gian, tháp nhập kẻ tin vào thân mình mầu nhiệm Chúa, biến đổi họ thành con Thiên Chúa, được thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời. Ngày Chúa đến sẽ tạo niềm vui trong tâm hồn, trên mọi khuôn mặt và không ai có thể cất mất được.
Thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta hãy vui mừng liên lỉ, hân hoan, vì Chúa đã đến gần. Vui mừng hoan hỉ là dấu chỉ một tâm hồn bình an với Chúa và với nhau. Cuộc đời còn lắm truân chuyên, nhưng người có Chúa luôn biết cộng tác với Ngài để biến mọi sự nên lành. Họ hoan hỉ tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô.
Phao-lô cũng lưu ý cộng đoàn để tâm xây dựng tình hiệp thông trong sự dẫn dắt của Thánh Thần. Đừng bao giờ, vì ác ý, cạnh tranh, mà cả lòng dập tắt Thánh Thần đang khơi dậy trong tâm hồn anh chị em. Đó là những sáng kiến đạo đức, sáng kiến tông đồ...
Hãy nói và nếu cần, chỉ nói những lời xây dựng tình đoàn kết, hiệp thông tốt đẹp. Quyết tâm bản thân và giúp người khác tránh xa điều xấu dưới mọi hình thức. Được thế, chúng ta đang làm phải và đang tích cực chuẩn bị cho ngày Đức Kitô ngự đến. Chúng ta sẽ cùng muôn vàn nhân chứng trỗi dậy đi đón Chúa trên các tầng mây và như vậy, sẽ được ở cùng Chúa luôn mãi. Thật vui mừng, hạnh phúc biết bao. Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta. Amen!
Chắc chắn, một trong những điều làm cho chúng ta chú ý nhiều nhất trong Thánh Lễ hôm nay MV 3-B135
Chắc chắn, một trong những điều làm cho chúng ta chú ý nhiều nhất trong Thánh Lễ hôm nay, Chúa Nhật III mùa vọng, chính là màu hồng. Bởi vì trong năm Phụng Vụ, màu hồng chỉ được sử dụng hai lần, không kể Thánh Lễ Hôn Phối (Chúa Nhật III Mùa Vọng và Chúa Nhật IV Mùa Chay).
Luật Phụng Vụ không buộc dùng mầu hồng trong hai Thánh Lễ này, nhưng vì chỉ có hai lần một năm, nên chúng ta không thể bỏ qua! Vậy đâu là ý nghĩa của mầu hồng trong Phụng Vụ Thánh Lễ hôm nay?
Mầu hồng diễn tả niềm vui Chúa đã đến
Mầu hồng mà Giáo Hội cho phép chúng ta dùng trong Thánh Lễ hôm nay có một lí do rất thuyết phục, đó là để diễn tả niềm vui mà Chúa muốn gieo vào lòng chúng ta, nơi nhóm, gia đình và xứ đạo của chúng ta, qua Lời của Ngài:
Thật vậy, trong bài đọc một, ngôn sứ Isaia loan báo niềm vui của Đấng Cứu Thế sẽ đến: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao!
Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang!” (Is 61, 10) Trong những lời này, có hình ảnh cô dâu-chú rể, là hình ảnh tiêu biểu nhất của tình yêu, niềm vui và sự sống; và mầu hồng là biểu tượng của những điều này.
Câu đáp ca là lời nguyện của Đức Maria: “linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”.
Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Thưa anh em, anh em hãy vui mừng luôn mãi!”
Và trong bài Tin Mừng: tuy thánh sử Gioan không nói ra, chúng ta có thể cảm được niềm vui của ông Gioan Tẩy Giả, khi ông nói về mình một cách thẳng thắn, công khai và xác tín; và niềm vui khi ông nói về Đấng sẽ đến sau ông một cách khiêm tốn và chắc chắn với lòng kính mến.
Chính vì thế, Phụng vụ của Giáo Hội gọi Chúa Nhật III Mùa Vọng là “Chúa Nhật Gaudete”, tiếng Latinh có nghĩa là “Anh chị em hãy vui lên!”. Màu hồng của chúng ta hôm nay diễn tả chính xác niềm vui này. Và để diễn tả niềm vui Chúa ban cho chúng ta, cho dù màu hồng chỉ thích hợp với phụ nữ thôi, nhưng linh mục chủ tế cứ phải “hi sinh” mang vào người!
Lí do của niềm vui, chính là vì Đức Kitô đã đến. Điều mà ngôn sứ Isaia và thánh Gioan loan báo đã xẩy ra rồi và xẩy ra cho chúng ta hôm nay (x. Is 61, 10-11; Ga 1, 26-27), vì thế chúng ta được mời gọi vui lên. Mùa Vọng là thời gian của mong chờ: mong chờ trong canh thức (CN I), mong chờ trong hoán cải (CN II), nhưng cũng mong chờ trong niềm vui (CN III), vì Chúa đã đến rồi, vì Chúa vẫn đến mỗi ngày, và sẽ lại đến một cách dứt khoát để đáp lại khao khát trời mới đất mới của chúng ta, đáp lại ước ao sự sống và tình yêu viên mãn của chúng ta.
Biến cố Đức Kitô đã đến mà chúng ta sắp kỉ niệm, phải là niềm vui của chúng ta, không chỉ vào dịp Lễ Giáng Sinh, nhưng là niềm vui mỗi ngày. Bởi lẽ, nếu Ngài chưa đến, chúng ta sẽ không có Giáo Hội, không có Thánh Lễ hằng ngày, không có ơn gọi Ki-tô hữu, không có ơn gọi dâng hiến, không được sống bên nhau vì lòng Mến Đức Kitô, không có Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không được là chị em, là anh em, là anh chị em của nhau vì có cùng một Cha một Thầy, không biết Thiên Chúa yêu chúng ta như thế nào, không biết ý nghĩa của cuộc đời, của đau khổ, của bệnh tật, của tuổi già, của cái chết, không biết đường đi, không có niềm hi vọng… Chính vì thế mà, trong bài đọc hai, trích thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phaolô mời gọi chúng ta:
Thưa anh em, anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.
(1Tx 5, 16-18)
Mầu hồng diễn tả niềm vui Chúa sẽ lại đến
Mầu hồng của Thánh Lễ hôm nay còn diễn tả niềm vui Chúa sẽ lại đến. Khi chúng ta mong chờ ai đó, và người ta chắc chắc sẽ đến, chúng ta sẽ mong chờ trong háo hức và trong niềm vui; và niềm vui này rất lạ, như ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm.
Và Đức Kitô mà chúng ta trông chờ, chắc chắc sẽ đến, như chính Ngài đã nói cho chúng ta rằng, dù trời đất qua đi, Lời của Người sẽ không qua đi; Chúa chắc chắc sẽ lại đến, như mùa hè chắc chắc sẽ đến khi cây vả đâm chồi, hay khi cây phượng nở hoa; Chúa chắc chắc sẽ trở lại, như Người Chủ đi xa trở về.
Và bởi vì, Ngài là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta, Ngài là Đấng mà chúng ta bỏ hết tất cả, bỏ cả cuộc đời rất quí giá để đi theo Người trong đời sống hôn nhân hay trong đời sống dâng hiến, chúng ta được mời gọi mong chờ Ngài trong niềm vui. Và chắc chắn Đức Kitô sẽ đến để làm cho niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.
Mầu hồng diễn tả cuộc gặp gỡ của chúng ta với Đức Kitô trong tương lai, và cả cuộc gặp gỡ giữa chúng ta trong tương lai nữa. Vì thế, có thể nói tương lai của chúng ta có màu hồng!
Mầu hồng diễn tả TÌNH YÊU
Ngoài ra, mầu hồng của Thánh Lễ hôm nay còn diễn tả cho chúng ta “Tình Yêu”. Điều này quá hiển nhiên, vì ai trong chúng ta cũng biết rằng, màu hồng là mầu của tình yêu.
Mầu hồng diễn tả tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta một cách nhưng không trong Đức Kitô (x. Rm 8, 35-39); mầu hồng diễn tả tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô; và màu hồng diễn tả tình yêu chúng ta dành cho nhau. Tại sao lại là tình yêu, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4, 8). Và như thế, mầu hồng còn diễn tả chính Thiên Chúa.
* * *
Và sau cùng, mầu hồng trong thực tế, còn dính dáng đến hoa hồng, dù hoa hồng có những mầu khác nhau. Thực vậy, nguồn gốc của mầu hồng mà Giáo Hội cho chúng ta dùng trong Thánh Lễ Chúa Nhật III Mùa Vọng, đó là vì ngày này trong Truyền Thống, Đức Thánh Cha chúc lành cho những bó hoa hồng trước khi gởi đi tặng các bậc vị vọng và vua chúa để mừng lễ Giáng Sinh.
Mà hoa hồng thì luôn có gai, vì thế hoa hồng cũng được coi là biểu tượng của tình yêu, vì yêu là đau khổ: thánh Gioan tẩy giả đã chịu đau khổ và đau khổ đến hi sinh mạng sống khi yêu mến và loan báo Đức Kitô (bài Tin Mừng hôm qua); chúng ta cũng vậy, vì yêu mến Đức Kitô, chúng ta cũng chịu đau khổ:
đau khổ vì phải đảm nhận thử thách của thân phận và của số phận con người;
đau khổ vì những lựa chọn không theo những ngẫu tượng, hay những giá trị chóng qua, nhưng theo Đức Ki-tô và Tin Mừng của Người mỗi ngày và suốt đời;
đau khổ vì chúng ta được mời gọi mang vác đau khổ của nhau, như chính Đức Ki-tô đã mang lấy mọi bệnh hoạn tật nguyền của mỗi người chúng ta.
và chúng ta cũng đau khổ, vì cố gắng vượt qua những khó khăn, trở ngại, giới hạn, yếu đuối để yêu mến nhau.
“Yêu là đau khổ”; và không thể nào khác được, vì chính Thiên Chúa cũng đau khổ nơi Thập Giá Đức Kitô, vì yêu chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi yêu luôn cả đau khổ, vì đau khổ thuộc về Đấng chúng ta yêu mến, là cách Ngài yêu mến chúng ta đến cùng, là đường đi của Đấng chúng ta yêu mến, là con đường của hạt lúa mì, là mầu nhiệm mang lại niềm vui và sự sống viên mãn.
Khác với hai Chúa nhật trước, phụng vụ hôm nay mang màu sắc vui tươi trong sáng lạ thường. Mở MV 3-B136
Khác với hai Chúa nhật trước, phụng vụ hôm nay mang màu sắc vui tươi trong sáng lạ thường. Mở đầu với bài ca của tiên tri Isaia, loan báo cho dân Israel niềm vui sắp được giải thoát. Niềm vui nổ lên như pháo hoa đầy hứa hẹn: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh”.
Niềm vui này đến từ Đức Chúa chứ không từ một ai khác. Niềm vui của con người nghèo nàn và mong manh, không tồn tại, không mấy khi kéo dài.
Niềm vui này là “hồng ân cứu độ”. Hết rồi những ngày tháng nô lệ khổ đau nơi đất khách quê người. Hết rồi những ô nhục đọa đày. Thiên Chúa sẽ ra tay cứu thoát dân Người.
Niềm vui của Israel cũng chỉ là niềm vui vật chất, niềm vui của chúng ta hôm nay lớn lao hơn bội phần, vì Chúa sắp đến. Niềm vui của chúng ta bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa. Người thương chúng ta và ban cho chúng ta Người Con Một. Đó mới là nguồn gốc của niềm vui đích thực, bền vững, không phai tàn, không lệ thuộc vào những biến chuyển của cuộc sống. Tất cả phải bắt nguồn từ tình yêu. Tình yêu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
Giở lại Kinh Thánh, chúng ta thấy ngay từ đầu sáng thế, niềm vui đã đến trong việc sáng tạo. Niềm vui của Thiên Chúa khi tạo nên Ađam: “Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp”. Dù qua bao nhiêu thử thách, dân Do Thái vẫn chuyển tải niềm vui qua cuộc xuất hành trở về Đất Hứa. Niềm vui Giao Ước biến dân thành dân riêng của Chúa. Niềm vui được hát lên trong sách thánh vịnh, giữa những lời than vãn thống thiết, những lời ca vui vẫn vang lên: “Hãy đến đây, ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là núi đá độ trì ta…”
Sách tiên tri Isaia trào tràn niềm vui. Có thể nói, sách tiên tri Isaia là một tiếng ca reo vui vì Chúa là hy vọng của dân Chúa: “sa mạc sẽ reo vui, đất sẽ nhảy mừng, những kẻ lưu đày sẽ trở về trong hân hoan… vì Thiên Chúa sẽ tái tạo Giêrusalem…” Và chính Thiên Chúa là nguồn vui bất diệt cho dân Người.
Sách Tân Ước cũng tràn ngập niềm vui cứu độ. Thiên thần Gabrien được sai đến với Maria và lời chào đầu tiên là một lời mời gọi vào niềm vui: “Mừng vui lên, hỡi người đầy ơn phước…” Bà Êlisabet vui mừng vì “Mẹ Thiên Chúa đến thăm” và Gioan còn là thai nhi cũng hòa nhập vào niềm vui đã nhảy mừng trong dạ mẹ.
Chúa Giêsu sinh ra trong hang đá đã được các thiên thần loan báo như “một tin mừng vĩ đại”.
Khi ra rao giảng, Chúa Giêsu mang biết bao niềm vui cho những người nghèo khó, bệnh tật. Những bệnh nhân được chữa lành hân hoan loan truyền những việc lạ lùng họ nhận được. Và niềm vui cao cả nhất là chính việc Chúa sống lại. Đây chỉ là một vài ví dụ chứng tỏ rằng Chúa đến là niềm vui khôn tả cho mọi người thiện chí.
Niềm vui đó, hôm nay Giáo hội loan báo cho chúng ta. Hôm nay Chúa sẽ đến như hôm qua và niềm vui sẽ được trào tràn.
Con người vẫn bám ghì vào những niềm vui trần thế và chúng ta cũng thế. Niềm vui trần gian vẫn dễ dàng và mời đón, nhưng chúng ta chỉ giữ lại trong lòng bàn tay tro bụi hư vô. Những niềm vui trần thế sao mong manh và chúng ta luôn hối tiếc. Những người thân yêu nhất của chúng ta ra đi, lữ khách trên con đường dài, không đủ sáng để chúng ta dừng chân.
Con người mãi mãi là thất vọng vì không thể bám ghì vào ai. Chúng ta cần một niềm vui vững bền, không qua mau như ánh mặt trời hoàng hôn. Chúng ta muốn kéo dài những giây phút êm đềm của cuộc sống, nhưng mọi sự không theo ý muốn, và giờ tạ từ vẫn đến chấm dứt mọi sự.
Giáo hội mời chúng ta vào niềm vui của Chúa. Chỉ có Chúa mới thực sự là niềm vui bất biến, trong sáng không vẩn đục vì đam mê.
Này đây, Chúa sắp đến với tình yêu của Ngài. Chúa đến cứu thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, để cuộc đời chúng ta tìm thấy niềm hy vọng không tàn phai, vì mọi sự qua đi, Chúa vẫn tồn tại, và Chúa là ánh sáng, là hạnh phúc của những tâm hồn nghèo nàn khiêm tốn.
Chúa đến là một biến cố trọng đại. Cựu Ước đã chuẩn bị từ nhiều thế kỷ cho dân Do Thái đón nhận Đấng Cứu Thế, và họ cứ tưởng rằng Ngài sẽ đến không trì hoãn và họ nô nức đón chờ. Trong tâm trạng đó, Gioan Tẩy Giả xuất hiện. Dáng dấp ông lạ thường. Ông rao giảng kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối, thú tội và chịu phép rửa. Dân chúng từ nhiều miền đến với ông. Họ tưởng rằng ông là Đấng họ đang trông chờ, là Đấng cứu thế. Cả những vị lãnh đạo tại Giêrusalem cũng xôn xao tự hỏi: ông này có phải là Đấng Cứu Thế không? Họ cử một phái đoàn chính thức đến điều tra.
Gioan khẳng định: “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế… Tôi chỉ là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi… Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi dép cho Người”.
Gioan giới thiệu Đấng phải đến, cao cả đến nỗi ông không đáng làm nô lệ cho Ngài. Chúng ta đã biết Ngài, đã được cứu thoát, sao còn phải đón chờ nữa? Phải, chúng ta đã được cứu thoát rồi, nhưng chúng ta vẫn chưa trọn lành, chưa thánh thiện. Chúng ta còn yếu đuối, còn nô lệ những thói hư tật xấu, thậm chí còn lỗi phạm rất nhiều, chưa đáp lại tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta”. Hôm nay, Giáo hội vẫn tiếp tục kêu gọi chúng ta trở về với Chúa, đón nhận ánh sáng ân sủng.
Chúa đến vì trước mặt Chúa, chúng ta vẫn quí giá. Ngài không để chúng ta trong sự nhỏ hèn yếu đuối của chúng ta. Tình yêu của Ngài sẽ tha thứ tất cả, sẽ “mặc cho chúng ta áo choàng công chính”, thánh hóa tro bụi của chúng ta, cho chúng ta sống bằng sự sống thần linh của Ngài, chia sẻ hạnh phúc của Ngài. Làm sao chúng ta không rộn vui và nhảy mừng trong Chúa?
Để hưởng trọn niềm vui của Chúa, dù xác thịt nặng nề, chúng ta vẫn cố loại bỏ mọi hành vi ám muội, mặc lấy ánh sáng, “cởi bỏ con người cũ, đóng đinh tính xác thịt chúng ta vào thập giá”. Nhờ đó, ánh sáng ban sự sống sẽ tràn ngập và biến chúng ta thành “con người mới”. Lúc ấy niềm vui của chúng ta sẽ trọn vẹn.
Hôm nay Chúa vẫn có mặt nơi đây, dưới hình thức khiêm tốn là tấm bánh nhỏ, nhưng chính là Đấng mà Gioan Tẩy Giả loan báo, mà muôn dân đang trông chờ. Ngài có mặt để thành của ăn nuôi chúng ta trên con đường về quê thật. Tình thương của Ngài vẫn không hao hụt, chỉ cần chúng ta đáp lại nhiệt tình và thành thật. Hôm nay, Ngài là Thiên Chúa ẩn mình, ngày mai Ngài sẽ là Thiên Chúa toàn năng và vinh quang, là niềm vui bất tận của chúng ta. Ăn lấy Ngài hôm nay để mai sau nên một với Ngài trong vinh quang.
Tin mừng Ga 1: 6-8.19-28: Khi Gioan xuất hiện, người Do Thái cho là Đấng Messia đã đến, nhưng Gioan trả lời: Tôi không phải là Đấng Messia, tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc chuẩn bị cho Đấng Messia đến...
Dân Do Thái đã trông chờ, cho đến ngày hôm nay vẫn còn đang trông chờ Đấng Mêsia. Họ trông MV 3-B137
Dân Do Thái đã trông chờ, cho đến ngày hôm nay vẫn còn đang trông chờ Đấng Mêsia.
Họ trông mong Đấng Mêsia đến sẽ mang hòa bình cho cả thế giới, chính vì thế họ mong đợi một vị tướng lãnh vô địch, sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do Thái đi chinh phục cả thế giới để đem hòa bình cho mọi dân tộc. Chính vì thế khi Gioan xuất hiện, người Do Thái cho là Đấng Messia đã đến, nhưng Gioan trả lời: Tôi không phải là Đấng Messia, tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc chuẩn bị cho Đấng Messia đến.
Vậy ông lấy quyền gì mà làm Phép Rửa?
Ông trả lời: “Về phần tôi, tôi làm Phép Rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không nhận biết, tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài”.
Quả thật Gioan đã đến Sông Giođan làm Phép Rửa và kêu gọi sám hối. Đây là điều kiện để lãnh nhận ơn Cứu Độ. Nhưng tinh thần sám hối đích thực thì luôn phải được thể hiện thành hành động, nghĩa là nó phải dẫn đến sự cải thiện, sửa chữa, chừa cải...Việc sám hối và tu sửa phải được thực hiện không chỉ nơi cá nhân mà trong Giáo Hội và xã hội nữa.
- Nơi cá nhân: cá nhân nào cũng đều có những tật xấu, khuyết điểm, kiêu căng, tham lam, đố kỵ, ghen hgét, lười biếng, hèn nhát...
- Trong Giáo Hội và xã hội: Giáo Hội hay xã hội nào cũng đều có bất công, những cơ chế phát sinh bất công, những luật lệ phi lý, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ nạn... tất cả đều làm cho con người trong tập thể đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Hiện nay, trong đời sống tâm linh, rất nhiều Kitô hữu chỉ nghĩ tới việc nên thánh cá nhân, sự cứu rỗi cá nhân, mà quên đi chiều kích Giáo Hội và xã hội của ơn Cứu Rỗi và sự nên thánh. Họ quan niệm việc nên thánh hay cứu rỗi của họ có thể thực hiện một mình, độc lập với những người chung quanh...Nghĩa là họ có thể nên thánh, được cứu rỗi mà không cần nghĩ gì đến xã hội và Giáo Hội, bất chấp đến những bất công, trì trệ hay những thành quả tốt đẹp của Giáo Hội và xã hội. Họ cho rằng họ có thể nên thánh và được cứu rỗi mà không cần nghĩ đến những người chung quanh xem họ có nhu cầu gì, đau khổ hay hạnh phúc ra sao.
Thiết tưởng tinh thần cốt yếu của Kitô giáo là tình yêu, một tình yêu trải rộng đến mọi người không phân biệt bạn thù, giầu nghèo, giai cấp...Tiêu chuẩn cuối cùng để Thiên Chúa xét đoán sự công chính của mỗi người là tình yêu họ dành cho tha nhân (Mt 25,31-46). Nên sự sám hối cũng như sự tu sửa của người Kitô hữu để đón Chúa đến phải nhắm đến tình yêu, sự quan tâm của mình đối với tha nhân, đối với xã hội, quê hương, đất nước và toàn thể nhân loại.
Trong chiều hướng đó, Lời Chúa hôm nay "Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng" cần phải được hiểu không chỉ áp dụng cho bản thân mỗi cá nhân mà còn cho cả Giáo Hội và xã hội nữa.
Tuy nhiên, thực hiện việc Sám Hối không phải dễ, cũng như không phải làm một lần là xong như câu chuyện " một nữ giang hồ trở thành một vị thánh".
Angiêla là con gái của một gia đình quí phái ở thị trấn Phôlnhô nước Ý, lại sống giữa bầu không khí xa hoa và ảnh hưởng xấu xa nơi bạn bè, Angiêla (1248-1309) đã sớm trở nên một thiếu nữ trụy lạc. Sau khi lập gia đình, Angiêla vốn có tâm hòn nhạy cảm, ham khoái lạc, nên vẫn thích cuộc đời giang hồ nay đây mai đó.
Vào một ngày trong năm 1285, đang trên con đường gió bụi, Angiêla gặp cơn giông tố, chị hoảng sợ chạy vào một nhà thờ gần đó để kêu cầu Chúa ngự trong Thánh Thể giúp đỡ. Angiêla xin cha xứ ở đây giải tội cho chị, nhưng chị đã không xưng hết tội nặng, lại liều mình chịu Mình Thánh Chúa.
Hành động này đã làm tâm hồn chị xao xuyến, lương tâm cắn rứt đêm ngày không yên. Nhưng chị không ngã lòng nản chí, chị tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban cho mình được gặp một linh mục giải tội khôn ngoan, thánh thiện để hoàn toàn tuân theo lời chỉ dẫn của ngài.
Sống trong tâm trạng lo âu, băn khoăn xao xuyến, nhưng chị vẫn tin tưởng vào Chúa, Ngài sẽ giúp chị vượt qua con đường gian nan này.
Rồi một đêm kia dưới ánh trăng dịu dàng, Angiêla nâng hồn lên khẩn cầu thánh Phanxicô Assisi giúp đỡ. Thánh nhân đã hiện ra với chị và nói:
- Nếu con xin cha sớm, thì cha đã cứu con, nhưng cha sẽ nài xin Chúa nhận lời con.
Sáng hôm sau, khi cảnh vật còn chìm trong giấc ngủ, Angiêla đã thức dậy thật sớm để đi lễ ở nhà thờ thánh Phanxicô Assisi, và xin Chúa cho chị được gặp linh mục để xưng tội. Khi trở về, chị ghé vào nhà thờ thánh Fêlixianô để viếng Thánh Thể. Ở đây, Angiêla đã gặp một cha dòng Phanxicô và chị đã xưng hết các tội đã phạm. Sau bao ngày ưu tư lo lắng, lương tâm ray rứt, giờ đây chị đã tìm lại được sự bình an đích thực trong tâm hồn.
Sau khi xưng tội rước lễ, Angiêla quyết xâv dựng cuộc đời mới, cuộc đời suy niệm sự đau khổ của Chúa Giêsu, khấn giữ mình trong sạch và khó nghèo.
Chị đem quần áo tốt đẹp phân phát cho người nghèo. Và để được kết hợp mật thiết với Chúa hơn, chị còn muốn bán hết gia tài làm phúc cho người nghèo rồi đi ăn xin. Nhưng vâng lời cha linh hướng, chị không bán nhà cửa, mà chỉ sống đời trần thế, suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa, và làm phúc cho người nghèo khó.
Năm 1291, Angiêla vào dòng ba Phan Sinh, chị sung sướng tuân giữ luật dòng, chị thường xuyên đi thăm viếng các bệnh nhân, phân phát những của đã xin được cho người nghèo, rửa tay chân cho họ, và đặc biệt lau chùi tay chân những người mắc bệnh phong cùi. Chị đã làm như thế suốt cuộc đời của chị.
Năm 1693, Đức Giáo Hoàng Innôxentê phong chị Angiêla lên bậc Chân Phước. Từ một người tội lỗi, Chân Phước Angiêla đã biết lấy tình yêu nồng nhiệt để bù lại những lỗi lầm quá khứ. Hành động đó là bài học muôn đời cho những con người tội lỗi biết ăn năn sám hối.[1] Amen. ---------------------------- [1] Luy Gonzaga Maria, 101Giai Thoại Các Thánh, trg. 201-202
Tin mừng Ga 1: 6-8.19-28: Ánh sáng mà Gioan làm chứng chính là Đức Giêsu Kitô. Bởi Gioan nhận ra rằng, sự xuất hiện của ông cũng chỉ là sự xuất hiện bắt nguồn tự con người, vì thế ông không thể là ánh sáng, bởi tự con người không thể kiến tạo nên nguồn sáng...
Trước thềm năm mới 2018 và chuẩn bị đón Giáng sinh 2017, Thành Phố Hồ Chí Minh đã đầu MV 3-B138
Trước thềm năm mới 2018 và chuẩn bị đón Giáng sinh 2017, Thành Phố Hồ Chí Minh đã đầu tư hơn một triệu Đô la Mỹ trên một thủa đát 5 mẫu tây làm thành công viên ánh sáng lộng lẫy muôn mầu. Quả thật, với sự tiến bộ khoa học người ta đã xử dụng đến ánh sáng để tạo ra muôn điều kỳ diệu, và có thể nói thời đại hôm nay là thời đại của ánh sáng, càng ngày môn khoa học nghiên cứu về về đặc điểm của ánh sáng càng dẫn đưa con người vào trong sự kỳ ảo huyền diệu của ánh sáng điều mà cách đây 300 năm nhà khoa học Newton khi khám phá về ánh sáng và ứng dụng của nó đã không ngờ tới, đến nỗi người thời hôm nay cảm thấy cuộc sống sẽ mất hết lý thú nếu không còn được thưởng những sự kỳ thú mà ánh sáng tạo ra.
Thế nhưng, cho dẫu ánh sáng mang nhiều niềm vui cho cuộc sống đương đại, con người vẫn còn ố đầy dẫy nỗi u buồn và nhận ra rằng đàng sau hào quang mà ánh sáng mang lại là một bóng đêm dày đặc đang nhốt kín cuộc sống. Vì thế, khi tận hưởng những ứng dụng công nghệ của ánh sáng, con người như cố thoát ra khỏi bóng tối đang kềm hãm niềm hạnh phúc, nhưng những cố gắng như vô vọng, càng tìm đến với những ánh sáng do khoa học kỹ thuật mang tới con người càng cảm thấy trống rỗng, và bóng đêm vẫn che kín cuộc đời.
Vậy đâu là ánh sáng thật để dẫn đưa con người tìm thấy niềm vui đích thật. Gioan Tẩy giả đã chỉ cho chúng ta thấy nguồn sáng mang lại cho chúng ta niềm vui: Đức Giêsu Kitô. Quả thật, Gioan có được người đương thời đón nhận như bậc tôn sư, ông cũng chỉ khiêm tốn công nhận mình không là ánh sáng mà chỉ là người làm chứng về ánh sáng.
Ánh sáng mà Gioan làm chứng chính là Đức Giêsu Kitô. Bởi Gioan nhận ra rằng, sự xuất hiện của ông cũng chỉ là sự xuất hiện bắt nguồn tự con người, vì thế ông không thể là ánh sáng, bởi tự con người không thể kiến tạo nên nguồn sáng. Chỉ có Đức Kitô, Đấng tự Thiên Chúa mà đến mới có thể là ánh sáng mang lại ơn giải thoát cho con người. Ánh sáng được kiến tạo nơi Chúa Giêsu chính là lượng từ bi và hay thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, vì yêu thương, Đức Kitô đã từ bỏ ngài trời để đến với con người hầu dẫn đưa con người trở về với nguồn sống đích thật. Cho nên, sự xuất hiện của Chúa Giêsu chính là để phá tan bóng đêm đang bóp chết niềm vui của cuộc sống, bóng đêm của ghen ghét hận thù, bóng đêm của ích kỷ tham lam…
Đức Kitô là hiện thân yêu thương, của sự bao dung và tha thứ, của sự cảm thông, và đó chính là ánh sáng mà nhân loại đang cần tới, vì chỉ có yêu thương mới đem lại bình an, chỉ có lòng bao dung mới kiến tạo được an vui. Quả thật, Satan đã gieo vào trong thế gian bóng tối hận thù, Đức Kitô đến xua đuổi bóng tối bằng trái tim yêu thương. Vâng, chỉ có tình yêu đến từ Đức Kitô mới có sức mạnh để tha thứ và nhờ đó con người được cứu độ.
Cho dẫu ơn cứu độ đã được trao ban, nhưng thế giới hôm nay vẫn còn ngập tràn bóng tối, bởi con người vẫn còn chất đầy sự đố kỵ ghét ghen. Bởi thế, là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi tiếp tục công việc của Gioan, làm chứng cho ánh sáng tình yêu của Chúa Giêsu để nhân loại bớt khổ đau, để không còn những tiếng khóc ai oán nhói lòng vì sự bất công, của lòng hận thù.
Lạy Chúa Giêsu, được dự phần vào sự sống của Chúa, xin cho chúng con phản chiếu ánh sáng tình yêu qua đời sống yêu thương, luôn rộng lòng tha thứ. Ước mong cho những ai đang sống trong bóng tối thất vọng gặp được ánh sáng của niềm hy vọng qua đời sống chứng tá của chúng con. Amen.
Nhớ lại 10 năm về trước, con rất đỗi diễm phúc, hân hoan được Đức Giám Mục Lu-i An-tô-ni-ô G. MV 3-B139
Nhớ lại 10 năm về trước, con rất đỗi diễm phúc, hân hoan được Đức Giám Mục Lu-i An-tô-ni-ô G. Tag-lê (bây giờ là Hồng Y, Tổng trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng cho các Dân tộc) đặt tay truyền chức Linh Mục cùng với hai Thầy Phó Tế học chung khoá Thần học tại Học Viện Ngôi Lời (14/12/2010). Với tâm tình tạ ơn, khắc ghi, kỷ niệm và canh tân, con xin quý anh chị em cùng với con dâng lên Thiên Chúa lời tán tụng chân thành và tiếp tục cầu nguyện cho con trong sứ vụ phục vụ-mục vụ-truyền giáo.
Hôm nay, chúng ta bước vào Chúa Nhật III Mùa Vọng, cũng được gọi là Chúa Nhật Màu Hồng. Ngày được mang tên ‘Chúa Nhật Hân Hoan’ hay ‘Chúa Nhật Mừng Vui’ (Gaudete Sunday). Trong thánh lễ, ngọn nến màu hồng nhạt được thắp lên, tượng trưng cho niềm hân hoan, lòng trào dâng rộn ràng vì Chúa đã gần đến, mặc lấy xác phàm, thân phận yếu hèn, trở nên một với chúng ta và ở giữa cộng đoàn ta, gia đình ta, xã hội và trần gian hầu mọi người nhận ra, đón nhận và tin yêu nơi Người.
Vì vậy, các bài đọc Phụng vụ xoay quanh cụm từ ‘mừng vui’, ‘hân hoan’, ‘hoan hỉ’ như trong thư gửi của Thánh Phao-lô gửi cho Giáo đoàn Thes-sa-lô-ni-ca: “Hãy vui mừng trong Chúa luôn mãi” (Gaudete in Domino semper) [x. 1Tx 5,16]. Tương tự, lời tán tụng, cảm tạ, tri ân trong Sách Tiên Tri I-sa-i-ah: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (x. Is 61,10).
Thật dễ hiểu, khi chúng ta vui mừng, chúng ta biểu lộ niềm hân hoan ấy ra bên ngoài, qua cử chỉ, lời nói, hành động một cách tự nhiên. Giống như xem một cuốn phim hay, một vở kịch vui, ý nghĩa, hay buổi hoà nhạc hoành tráng, hay được tiếp kiến Đức Thánh Cha hoặc diện kiến ai đó mà lòng mình thích thú, rạo rực; thì chính lúc ấy, chẳng cần ai hỏi, chúng ta dễ dàng bộc lộ niềm vui, chia sẻ giây phút dường như ngây ngất ấy cho anh chị em mình một cách đơn sơ, chẳng hề che đậy hoặc giấu diếm. Tuy nhiên, đây còn hơn thế nữa, chúng ta được chiêm ngưỡng Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, sinh lại nơi cung lòng thế nhân giữa bao bề bộn, lo toan của cuộc sống trần thế, thì tâm hồn của chúng ta rạo rực, dâng trào, vui mừng khôn tả không ngơi!
Thế nhưng, niềm vui hồ hởi đón nhận Chúa Giê-su Hài Đồng vào cung lòng ta, vào gia đình, vào cộng đoàn giáo xứ, vào mọi trạng huống trong cuộc đời ta, phải được đi đôi với lòng thành tín, thái độ khiêm nhu và tâm hồn sẵn sàng được biến đổi, gạn lọc, thánh hoá như gương Thánh Gio-an Tiền Hô đã dám làm chứng, không từ chối (x. Ga 1,20) sứ mạng của chính mình, dẫu chỉ là ‘tiếng kêu trong hoang địa’ (Ga 1,23), là ‘chứng nhân làm chứng về sự sáng’ (Ga 1,7). Và thiết nghĩ, thật tội nghiệp cho Chúa Hài Nhi lắm thay nếu hang đá tâm hồn chúng ta bợn nhơ, nhem nhúa đầy tội lỗi; nếu hang đá gia đình chúng ta thiếu đi lòng quan tâm, chăm sóc cho nhau; nếu hang đá cộng đoàn chúng ta đầy sự đố kỵ, ganh đua, chia rẽ, v.v...thì thử hỏi Chúa Hài Đồng có vui vẻ gì khi giáng sinh, cư ngụ lại trong hang đá tâm hồn chúng ta hay chăng?
Vì thế, để mỗi chúng ta có thể chuẩn bị tâm hồn, tâm trí, tâm thức, tâm tư xứng đáng đón mừng Mầu Nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể, chúng ta cùng nhau nhìn lại bản thân, nhìn lại gia đình, cộng đoàn, giáo xứ của mình trong tâm tình cải hối, sẵn sàng biến đổi hầu trở nên hang đá ấm áp, toả đầy hương thơm nhân đức, với lòng khiêm cung, đơn sơ, chân thành như Chúa Giê-su Hài Nhi luôn giang rộng đôi tay mời gọi, tha thiết kêu mời mọi người chúng ta đến với Người:
Lạy Chúa, biết bao lần Người mời gọi con hãy vui mừng thật sự trong Chúa Nhưng tâm hồn chúng con đầy lo toan, nỗi buồn trĩu nặng, gánh nặng trần ai! Biết bao lần Chúa thúc giục tâm trí, con tim bé nhỏ, yếu đuối của con Nhưng con nào chú tâm lắng nghe tiếng Chúa Thánh Linh và bước theo Người! Biết bao lần Thánh Thần Chúa, niềm hoan lạc trải rộng hồn con Nhưng nào con đón nhận, lại ‘dập tắt’ nguồn linh hứng, soi sáng trí lòng con! Biết bao lần Chúa đánh động con qua lời hướng dẫn, huấn từ Nhưng con nào mở lòng gẫm suy, lại mặc lấy thái độ khinh khi, chỉ trích! Tâm hồn con giờ đây nhiều cho quanh co, khuất tất Xin Người đến sửa lại thẳng ngay trí lòng chúng con! Tâm hồn con lắm đổi nhiêu khê, bụi trần truân chuyên Xin Người đến cải hoá, thánh hoá con sạch trong! Tâm hồn con nhiều chỗ đoạn trường, chông gai Xin Người đến san bằng, đắp đổi không ngơi! Tâm hồn con vô vàn xa lộ ngút ngàn cách ngăn Xin Người đến thông đường, hàn gắn vết đổ cố căn! Tâm hồn con đầy dẫy đường ngầm tối tăm, mịt mùng Chúa là nguồn ánh sáng chiếu rọi, phá tan bóng đêm dặm trường mù khơi! Xin cho con biết xét nghiệm tất cả, biết giữ lại lòng thanh Tránh xa mọi nẻo, hố ngăn cách lòng con với Người! Cho cộng đoàn, giáo xứ nhỏ bé của chúng con Luôn sẵn sàng hớn hở chia san Niềm Vui Cứu Độ với hết mọi người! Nguyện xin Chúa Cả Cửu Trùng, lắng nghe đón nhận cả lòng con thơ. Amen!
Các bài đọc và ý nguyện cầu của Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay vang lên lời mời gọi cho MV 3-B140
Các bài đọc và ý nguyện cầu của Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay vang lên lời mời gọi cho tất cả chúng ta: hãy vui mừng và hướng về Thiên Chúa “Hãy vui lên, vì Chúa đã đến gần”. Thưa ACE, trong hoàn cảnh hiện nay, có điều gì làm cho chúng ta chưa cảm nhận được niềm vui hay không? Trong lúc các Giáo xứ, các gia đình công giáo đang nao nức chuẩn bị cho Đại lễ Giáng Sinh gần kề, thì biết bao nhiêu chuyện rất tế nhị và tình hình phức tạp của dịch bệnh, thiên tai lũ lụt vẫn đang ảnh hưởng rất nhiều đến chúng ta. Vậy, liệu những hoàn cảnh bên ngoài này đó có làm cho tâm hồn và cuộc sống chúng ta bất an, đau khổ và tuyệt vọng chăng? Con tim và tâm hồn của chúng ta có vui được không?
Nhớ lại trong khoảng từ tháng 4 đến tháng 5 năm 2020, trong khi cả nước phải thực hiện cách ly và giãn cách xã hội vì đại dịch, sau thời gian đó, khi nghe tin được bình thường trở lại, mọi người đều nhẹ nhỏm, an bình, vui tươi, phấn khởi. Nhưng rồi niềm vui đó cũng chẳng được bao lâu, cho đến tận bây giờ gần như đã một năm trôi qua, chúng ta vẫn còn phải đề phòng và hết sức cảnh giác với dịch bệnh. Vậy thưa ACE, các bài đọc Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy vui lên, vui lên vì lý do gì và niềm vui này được diễn tả như thế nào? Hãy để cho tâm hồn chúng ta lắng đọng, để cho Lời Chúa soi sáng, chính Lời Chúa và ơn thánh Ngài sẽ giúp cho chúng ta có được niềm vui thật sự trọn vẹn.
Niềm vui và sự bình an đích thực dường như khó có thể tìm thấy trong cuộc đời của con người trên trần gian nếu như chúng ta không tin nhận được ơn ban này đến từ Thiên Chúa. Khác với mỗi người chúng ta, Gioan Tẩy giả ngay từ khi còn trong lòng mẹ, đã nhảy lên vui sướng vì ơn cứu độ của Thiên Chúa đã ban tặng khi Mẹ Maria đến thăm bà Elizabeth. Niềm vui ân thánh này đã theo suốt cuộc đời của Gioan. Thật vậy, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào Gioan luôn vui sống đúng với căn tín của mình. Trong bài Tin mừng hôm nay ông đã khiêm tốn quả quyết cho dân chúng biết rằng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo.” Gioan đã không tự nhận hay tâng bốc mình lên để rồi làm cho người khác phải ngộ nhận về mình. Gioan chỉ là người giới thiệu Chúa cho người khác. Thế nhưng, điều đáng buồn là: “Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết”, vì dân chúng không biết Chúa Giêsu, không nhận ra và tin Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa, nên dân chúng đã lầm tưởng Gioan với Đức Kitô, Êlia hay một ai khác. Chính vì lẽ đó, mà họ vẫn cứ trông ngóng, đợi chờ Đấng Mêssia đến mà lòng thì bất an và không có niềm vui thực sự.
Thái độ lạc quan tích cực trong bài đọc một từ sách Tiên tri Isaia: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi”, Tiên tri Isaia đã được sai đến với đoàn người sau khi họ được hồi hương về lại quê cha đất tổ sau cuộc lưu đày tại Babilon. Họ đã dâng lời tôn vinh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa vì Chúa đã đoái thương và thi ân giáng phúc. Chúa đã không còn nhớ đến tội lỗi của con người, tội bất trung, thất tín, phản bội. Trái lại, Chúa chỉ nhớ đến giao ước cứu độ và tình thương mà Ngài đã hứa đối với dân Ngài. Chúa đã ban cho dân chúng những dấu chỉ của niềm vui khi họ được tháo gỡ khỏi những xiềng xích của tội lỗi, để rồi công bố cho họ thời gian của ân sủng cứu độ. Thật vậy, dân chúng sau thời lưu đày dẫu vì yếu đuối và tội lỗi, giờ đây họ lại tìm được niềm vui hân hoan trọn vẹn khi họ sống và tuyên xưng rằng chính Giave Thiên Chúa là chủ tể, là sản nghiệp của họ.
Đức Maria trong bài đáp ca đã hân hoan chúc tụng cảm tạ Chúa “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Người đã nhìn đến phận hèn tớ nữ Người.” Niềm vui của Maria đã trọn vẹn và không bao giờ vơi vì Mẹ đã khiêm tốn, tin nhận chính ơn thánh của Chúa trao ban và thực thi thánh ý Chúa. Đây chắc hẳn cũng là ước nguyện sâu thẳm của mỗi người chúng ta. Nhưng thưa ACE, làm sao để có được niềm vui và sự bình an đích thực, trong khi chúng ta luôn phải đối diện với những đau khổ, gian nan thử thách và ngay cả những yếu đuối tội lỗi. Thánh Phaolo trong bài đọc hai đã cho chúng ta một bí quyết để chinh phục đó là: “Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa…đừng dập tắt Thánh Thần; đừng khinh khi các lời tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức.”
Ước mong rằng, những ngày còn lại của Mùa Vọng, là thời gian và cơ hội tốt để mỗi người chúng ta luôn sống trong khiêm tốn, tỉnh thức và cầu nguyện. Luôn biết mở lòng đến với Chúa với lòng tin yêu. Nhờ đó, tâm hồn, lòng trí và cuộc sống chúng ta mới thực sự được vui tươi, bình an và hạnh phúc. Trong khi chúng ta đang chuẩn bị hang đá, trang trí đèn điện cho lễ Giáng Sinh và các thứ khác, hãy chú tâm và dành nhiều ưu tiên hơn để trang trí ngôi nhà tâm hồn của chúng ta cho thật đẹp, thật xứng đáng cho Chúa cư ngụ và Ngài sẽ ngự đến để thi ân giáng phúc cho chúng ta. Amen.
Tin mừng Ga 1: 6-8.19-28: Hôm nay, Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật Hồng, đánh dấu việc chúng ta đã đi được một nửa chặng đường của mùa Vọng. Đây là Chúa nhật của niềm vui vì giờ Con Chúa đến gần.
Suy niệm
Hôm nay, Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật Hồng, đánh dấu việc chúng ta đã MV 3-B141
Hôm nay, Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật Hồng, đánh dấu việc chúng ta đã đi được một nửa chặng đường của mùa Vọng. Đây là Chúa nhật của niềm vui vì giờ Con Chúa đến gần.
Niềm vui chờ đợi Chúa không phải là niềm vui của người dạo quanh đường phố để tìm cho mình bộ trang phục mới nơi các cửa hiệu thời trang, cũng không phải người khoái chí làm một vài tấm hình selfie bên cạnh các cây thông giăng mắc đèn màu chớp tắt, hay những người chờ đợi giờ vàng giảm giá để săn hàng deal, cũng không phải của tiếng nhạc sập sình nơi quán xá, của tiếng cụng ly lách cách kèm những giọng hát karaoke hay của những câu chuyện phím thời sự trong ngày… vì đó là niềm vui chóng qua. Chẳng thế mà người ta hay bảo “chẳng có buổi tiệc nào mà không tàn, chẳng có niềm vui nào mà không tan”, rồi thì lại có bài hát “hẹn lần sau, xin hẹn lần sau nhé…”
Song, niềm vui mà Lời Chúa ngày hôm nay cho chúng ta biết nơi Bài đọc I trong bối cảnh vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người lưu đày ở Babylon lần đầu tiên được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Và niềm vui của tiên tri Isaia hớn hở vui mừng trong Chúa là Đấng Cứu Chuộc. Niềm vui của người cảm nhận được Thiên Chúa yêu thương chọn gọi. “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi”. Isaia được Chúa sai đi với một sứ vụ quan trọng, đem Tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Vâng, cả chúng ta cũng thế. Mỗi người sinh ra rong cuộc đời này đều mang một sứ mạng chứ không chỉ có mặt khơi khơi.
Nhưng làm thế nào để có được niềm vui của Chúa mà trao ban cho người khác? Gioan Tẩy Giả, còn được gọi là Gioan Tiền Hô, người được sai đi mở lối cho Chúa, đã khiêm tốn ví mình chỉ là “tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi.” Mặc dầu được người dân tôn phong, Gioan “không mượn đầu heo nấu cháo”, không lợi dụng những danh hiệu của người nổi tiếng qui về cho mình, không nhận những gì không thuộc về ông. Trong cuộc sống ai cũng muốn mình là trung tâm của vũ trụ, tìm dịp để đánh bóng thương hiệu về mình, thậm chí không phải mặt trời mà lại thích chói chang, thì chúng ta lại học được nơi Gioan, một con người khiêm tốn tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa để mời gọi sửa đường ngay để Chúa đi. Kỳ thực, có nghĩa là ông mời gọi mọi người đổi mới lối sống, đó là phương thế để có thể đón chờ Chúa đến.
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây: Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài bên bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì có một bà cụ xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, quần áo bẩn thỉu rách rưới. Bà vừa lẩm bẩm một mình, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát rồi cho vào giỏ. Cha mẹ lũ nhỏ gọi chúng lại và bảo chúng hãy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà mỉm cười với họ, nhưng mọi người không hề tỏ dấu đáp lại. Nhiều tuần sau, cả gia đình mới biết rằng đã lâu lắm rồi, người đàn đà ấy đã tự nguyện, làm công việc lượm các mảnh thủy tinh rơi rớt trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.
Vâng chúng ta có thể tìm gặp Chúa nơi những người anh chị em chung quanh, và chúng ta cũng có thể là hình ảnh của Chúa đế tóa sáng cho anh chị em biết Chúa. Vậy chúng ta cũng hãy trở nên tiếng kêu như Gioan, hãy trở nên ánh sáng của mặt trăng được mặt trời tỏa chiếu. Muốn được vậy, chúng ta hãy can đảm dành giây phút lắng đọng tâm hồn để cầu nguyện cùng Chúa, cải hóa đời sống, thực thi lời mời gọi của thánh Phaolô tông đồ gởi tin hữu Thexalonica: “Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa… hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức.” Có như vậy chúng ta mới trở nên lời chứng sống động cho anh chị em.
Lạy Chúa, xin cho con có một quyết tâm nho nhỏ như là dấu chỉ cho anh chị em tìm gặp Chúa nơi con đều không thất vọng bao giờ. Amen.
AI LÀ NGƯỜI LÀM SÁNG TỎ LỜI CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI BẠN?
Bài Tin mừng theo thánh Gioan trong Chúa nhật III Mùa Vọng hôm nay có nhiều điểm tương đồng MV 3-B142
Bài Tin mừng theo thánh Gioan trong Chúa nhật III Mùa Vọng hôm nay có nhiều điểm tương đồng với Tin mừng theo thánh Máccô Chúa nhật tuần trước. Cả hai đều nêu bật thánh Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ cho Đấng Cứu Thế. Mùa vọng là thời gian tuyệt vời để suy ngẫm về những con người như Gioan Tẩy Giả, làm sáng tỏ điều quan trọng và giúp chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn.
Trong phần mở đầu Tin mừng, Gioan nhắc đến Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa sai đến như một chứng nhân để “mọi người có thể nhờ ngài mà tin”. Qua lời rao giảng và hành động, Gioan Tẩy Giả giúp dân chúng hiểu được tầm quan trọng của Chúa Giêsu - Đấng Cứu thế. Cũng như trong bài Tin mừng Máccô tuần trước, Gioan khẳng định rằng Gioan Tẩy Giả không phải là Đấng Cứu Thế; nhưng đúng hơn, ngài chuẩn bị con đường cho Đấng Cứu Thế. Việc nhấn mạnh này cho thấy có sự nghi ngờ và tranh luận thời xưa về việc nên xem Gioan Tẩy Giả như thế nào. Trong Mùa Vọng, chúng ta thường nghe nói về Gioan Tẩy Giả và vai trò của ngài như là vị ngôn sứ nhân danh Chúa Kitô. Chúng ta được thôi thúc để noi gương ngài, xem xét những cách thức mà chúng ta có thể loan báo chứng tá Kitô của mình.
Ngoài ra, Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng là Chúa nhật vui mừng (Gaudete),và bài đọc thứ nhất và thứ hai nhấn mạnh một cách khéo léo tầm quan trọng của niềm vui vào thời điểm này của Mùa Vọng. Trong bài đọc một trích sách ngôn sứ Isaia, chúng ta nghe lời tiên báo mang lại niềm hân hoan cho những người đang hồi phục sau cuộc lưu đày ở Babylon. Người phát ngôn này, có thể là một thành viên của cộng đoàn sau lưu đày hoặc là một ngôn sứ, vui mừng trước quyền năng cứu độ của Thiên Chúa và hành trình tìm kiếm công lý. Thiên Chúa được miêu tả là Đấng cứu tinh, Đấng an ủi và bênh vực, loan báo niềm vui cho những người yếu đuối và bị gạt ra bên lề xã hội: người nghèo, người đau khổ, người bị giam cầm. Bài đọc này nhắc nhở chúng ta vui mừng khi biết rằng quyền năng cứu độ của Thiên Chúa đang hoạt động trên thế giới và trong cuộc sống của chúng ta. Ngay cả lúc này và có lẽ đặc biệt trong những khoảnh khắc đầy thử thách hôm nay, chúng ta được nhắc nhở hãy “hớn hở vui mừng trong Chúa”, Đấng làm “phát sinh công chính và lời ca tụng”.
Bài đọc thứ hai trích thư thứ nhất của thánh Phalô Tông đồ gửi tín hữu Thêsalônica nhắc nhở các tín hữu thời sơ khai hãy vui mừng, cầu nguyện và tạ ơn, hành vi mà ngày nay mọi người nên noi gương. Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh những lời ngôn sứ là điều cần thiết cho cộng đoàn, vì những lời này thường lên án sự bất công trong xã hội. Thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Thêsalônica nghiệm xét các lời ngôn sứ, giữ lại những điều tốt và tránh điều ác. Rõ ràng, vấn đề không chỉ là lấy và chọn những gì hợp ý nhất. Thay vào đó, thánh Phaolô khẳng định tầm quan trọng của tư duy phê phán và sự phân định để xác định những hành động nào thúc đẩy cho công ích.
Khi bước đi trên hành trình Mùa Vọng, chúng ta nên suy niệm cẩn thận các bài đọc hôm nay và cách chúng chuẩn bị cho chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô vào lễ Giáng Sinh và suốt cả đời sống. Vào giữa chặng đường của Mùa Vọng, chúng ta được kêu gọi trở thành những chứng nhân Kitô hữu giống như Gioan Tẩy Giả, chú tâm đến các lời ngôn sứ cũng như vui mừng trong quyền năng và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
Tin mừng Ga 1: 6-8.19-28: Hôm nay, chúng ta thấy Gioan đã giới thiệu mình như thế này: “Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi nhưng Đấng ấy đã có trước tôi, và tôi không đánh cởi dây giày cho Người.”...
*** Kính thưa Cộng đoàn,
Hôm nay, chúng ta đã đi quá nửa mùa vọng rồi! Hôm nay, chúng ta thấy Gioan đã giới thiệu mình MV 3-B143
Hôm nay, chúng ta đã đi quá nửa mùa vọng rồi!
Hôm nay, chúng ta thấy Gioan đã giới thiệu mình như thế này: “Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi nhưng Đấng ấy đã có trước tôi, và tôi không đánh cởi dây giày cho Người.”.
Thái độ của Gioan rất khẳng khái, về Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng hôm nay, Gioan giới thiệu Chúa Giêsu đã ở giữa anh em rồi. Nhưng mà anh em không biết! Và rồi Gioan đã làm chứng cho sự hiện diện của Chúa Giêsu: không bằng lời nói mà bằng chính cả cuộc đời của mình. Bằng chứng, chúng ta thấy Gioan, vì lẽ phải, vì sự thật, vì sự công chính, đã chấp nhận mất mạng sống mình. Và đây là điều mà chúng ta quan tâm.
Chúng ta quan tâm vì sao? Vì còn chưa đầy hai tuần nữa chúng ta bước vào đại lễ Chúa Giáng Sinh. Chúng ta mừng một biến cố, một kỷ niệm không phải là chỉ để mừng, nhưng chúng ta đặt lại vấn đề, chúng ta nhìn lại cuộc đời của chúng ta.
Chúa Giêsu đã giáng sinh năm nay là năm thứ mấy?
Năm thứ 2020 rồi, nhưng mà liệu rằng mỗi người chúng ta là người Kitô Hữu đó! Nhưng chúng ta có truyền cho mọi người biết sự hiện diện của Chúa, và Chúa đã đến trong trần gian này hay không?
Còn nhớ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi mở cửa Thánh bước vào Thiên niên kỷ thứ ba, ngài nói: “Đây là thiên niên Kỷ của truyền giáo” .
Đặc biệt tại Philippines, tại Đại Hàn, tại Việt Nam. Ở Philippines thì 80% là người Công giáo, rồi Đại Hàn thì có 8% và Việt Nam cũng có 8% mà thôi! Còn các nước khác thì con số và tỷ lệ còn thấp hơn nữa, có khi chỉ là 0,5 hoặc là 1 % thôi. Và mỗi người Kitô hữu của chúng ta có trách nhiệm làm chứng cho người khác biết rằng: Chúa chính là Đấng phải đến trong trần gian, Chúa mang niềm vui và sự sống cho mọi người.
Và thử hỏi coi, đời của chúng ta, chúng ta đã làm chứng cho Chúa như thế nào?
Ngày hôm nay, phải nói rằng vẫn còn đó lấp lánh những khuôn mặt, những ánh sáng của những bước chân truyền giáo.
Có dịp đi qua thăm nước Lào. Phải nói rằng tổng số linh mục của nước bạn chỉ ở con số 29 thôi. Và một cái mảnh đất còn đó biết bao nhiêu là lúa cần thợ gặt.
Khi đi qua thăm, thấy những anh em trẻ thấy tội nghiệp quá! Có mấy cha bạn nhỏ hơn lớp, thấy mấy anh em hy sinh quá!
Chân ướt, chân ráo đi qua Lào với hai bàn tay trắng. Rồi từ từ gầy dựng lên cái nhà tiền chế, rồi quy tụ các em. Và phải nói rằng: đặc biệt nhất là cái ngôn ngữ và cái thức ăn. Cái ngôn ngữ Lào, cái chữ nó viết rằn ri. Cái thức ăn thật sự, như người dân tộc thiểu số mình. Phải nói rằng rất khó ăn! Và các cha trẻ đặc biệt các thầy trẻ đã hội nhập gần như một cách nhanh chóng, để mà sống ở giữa họ. Chẳng làm gì cả, như làm rẫy làm ruộng như họ và sống đồng thân, đồng phận với họ.
Có một lần, Cha chở đi vào trong các làng. Từ nhà thờ Tòa Giám mục Pakse mà đi tới cái làng đó thì mất khoảng chừng 80 cây số 60 cây số là đường nhựa còn 20 cây số là đường ổ voi. Đi từ nhà thờ chính tòa, đi tới cái ngã ba vào chỉ một tiếng đồng hồ, nhưng mà từ ngã ba đi vào với 20 cây số! Xe chạy hơn một tiếng đồng hồ!
Quá khó khăn và quá vất vả! nhưng các cha trẻ vẫn kiên trì đi vào đó!
Có một là điều lạ là: ở bên Lào không phân biệt được cái ngày nào Chúa Nhật Phục Sinh cả! Bởi vì có những làng không bao giờ có linh mục tới. Nên các cha nói rằng: Tụi em ở bên đây, Chúa Nhật Phục Sinh cũng là Chúa Nhật Phục Sinh! CHÚA nhật 2 Phục Sinh cũng là Chúa nhật Phục Sinh! Chúa nhật 3 Phục sinh cũng là Chúa nhật Phục Sinh! CHÚA nhật 4 Phục sinh cũng là Chúa nhật Phục Sinh!
Rảnh là cứ xách xe đi vào làng này làng kia, nơi mà các vị truyền giáo đã đặc bước chân đến. Và bây giờ những linh mục trẻ cũng bước chân đến. Và đặc biệt có một ông thầy rất là hay! Thầy đang học ở Đại Chủng Viện ở Lào, nhưng mà rồi thầy lại đi truyền giáo.
Và người Lào đó! Thầy chỉ đi đến dạy học và chăm sóc sức khỏe cho họ thôi! Sống với người Lào và nghe đâu thầy bị bắt, mà một lần chuộc như vậy là tính ra tiền Việt Nam là 130 triệu - 140 triệu. Nhưng mà thầy khẳng định rằng là dù cho bị bắt thầy vẫn lên đường truyền giáo.
Phải nói rằng, đó là gương sáng của sự hy sinh chính mình, để mà giới thiệu Chúa cho người khác. Và như thế, cuộc đời của mỗi người chúng ta, làm sao cuộc đời của chúng ta, chúng ta phải giới thiệu CHÚA như những người truyền giáo đó! Như Thánh Gioan nói: “Có Đấng ở giữa anh em, mà anh em không nhận biết Ngài. Và chúng ta sẽ cãi rằng: chúng con nhận biết mà! Bởi vì chúng ta là những người có đạo mà.
Nhưng mà xin thưa rằng: cái biết đó nó có hai loại!
Là cái biết của tri thức và cái biết của cảm nghiệm. Cái biết của tình thương và cái biết của chia sẻ. Và cái biết của chỉ thấy trên giấy tờ.
Chúng ta biết Chúa đấy chứ! Qua sách vở, qua giáo lý, qua Thánh Kinh, qua các bài giảng. Và được học nhiều nghe nhiều lắm chứ!
Nhưng mà cái cảm nghiệm cái tình yêu thương Chúa trong cuộc đời. Và chúng ta có cái rung động của người nghèo hay không?
Chúng ta vẫn xem tivi thấy lũ này lụt kia! và bao nhiêu người chết đó! Nhưng liệu rằng: Trái tim chúng ta có rung động trước những cái đói khổ, những cái vất vả của những người nghèo khổ ở vùng sâu vùng xa hay không?
Có khi nào chúng tôi cảm thấy: giờ này trời mưa nhưng mình được may mắn, mình được ở trong một cái nhà bốn bức tường, mưa cũng không bao giờ hắt tới, bão cũng không bao giờ đụng tới.
Chúng ta có cảm nghiệm được chúng ta hạnh phúc hơn những người khác!
Khi đó là cái biết của cảm nghiệm và chính từ cái biết cảm đó, chúng ta chia sẻ người với người nghèo.
Cũng đâu đó, có những bạn sinh viên rất tuyệt vời! Tới mùa hè lại cứ khăn gói quả mướp, chạy đi lên vùng Tây Nguyên. Đi vào những cái làng dân tộc, để mà chỉ dạy học, chỉ ở với các em.
Người ta nói rằng: “vô tri thì bất mộ”. Cần để phải học để mà biết Chúa.” Nhưng cái biết đó chỉ là một cái bước đầu thôi!
Chúa Giêsu cần sinh ra trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Và chúng ta muốn giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác, thì chúng ta phải để Chúa Giêsu tái sinh lại trong tâm hồn và cuộc sống của chúng ta.
Nói biết CHÚA thì dễ lắm! Và nói về Chúa thì dễ lắm! Và nói với Chúa thì dễ lắm!
Nhưng vấn đề chính là trong cuộc sống, mình mang Chúa đến cho anh chị em đồng loại của mình như thế nào? Đó mới là chuyện quan trọng.
Để chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Để chúng ta xin Chúa thêm ơn cho chúng ta. Để chúng ta mở lòng ra, chúng ta đón Chúa đến thật sâu: trong lòng, trong trí, và trong cung cách sống của chúng ta. Để chúng ta mang lấy cái thao thức, mang lấy cái tâm thức Thương Xót, mang lấy cái cảm mến với người nghèo, những người tất bạt của Chúa Giêsu.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, để Chúa đong đầy chúng ta, bằng cả cuộc đời có Chúa. Và để rồi từ đó, chúng ta mới giới thiệu CHÚA cho người khác như Thánh Gioan Tẩy Giả.
Chắc có lẽ, Chúa không bắt buộc chúng ta, phải bỏ mình, phải tử đạo, chấp nhận chết như Gioan Tẩy Giả đâu!
Nhưng Chúa mời gọi mỗi người chúng ta, qua cung cách sống của mình: Chúng ta mang lấy hình ảnh, mang lấy tâm tư, mang lấy cảm nghĩ, mang lấy cung lòng, mang lấy đôi tay, mang lấy bàn chân của Chúa Giêsu, để chúng ta đến chia sẻ với những người nghèo với những người tất bạt.
Cách đây không lâu có một cô bé quen. Cô hỏi: cha ơi! ở dưới xứ cha, cha có tổ chức thiếu nhi không?
Thì con mới nói thật sự ra trong lòng thì, cũng chẳng nghĩ gì cả, nếu ai cho thì làm thôi! Và rồi cô bé hứa rằng cô bé sẽ chia sẻ một chút gì đó cho các em nghèo. Phải nói rằng với đồng bạc, lương nhân viên bình thường thôi, nhân viên văn phòng nhưng mà phải nói rằng cô đã tiết kiệm một cái phần nhỏ để chia sẻ cho người nghèo.
Phải chăng đó là những con người đã cảm nhận được một Chúa Giêsu trong đời mình, và mang Chúa Giêsu cho người khác, giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác.
Chắc có lẽ, mỗi người chúng ta đối diện trước mặt Chúa. Chúng ta nói: con nghèo lắm, Chúa ơi! Con không có gì cả. Nhưng xin thưa rằng: con có tấm lòng.
Việc quan trọng rằng, chúng ta có can đảm chia sẻ cho người khác hay không mà thôi!
Khi chúng ta khép lòng lại, thì Chúa Giêsu lại chết trong cuộc đời của chúng ta.
Khi chúng ta mở lòng ra, thì Chúa Giêsu một lần nữa lại tái sinh trong cuộc đời của ta.
Và khi ta sống như thế! Mọi người nhìn vào ta, thấy có một Chúa Giêsu hiện diện và sống trong cuộc đời của chúng ta.
Ước gì ngày hôm nay, ngày chuẩn bị bước vào những ngày cuối để đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh. Xin cho chúng ta thật sự mở lòng ra. Đặc biệt chúng ta làm chứng, một cách sâu lắng hơn như Gioan Tẩy giả. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần III Mùa Vọng, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin MV 3-B144
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần III Mùa Vọng, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin cho mình: biết hướng niềm vui về chính nguồn hoan lạc của Mầu Nhiệm Giáng Sinh, để tâm hồn chúng ta được hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề.
Chúa Nhật Tuần III Mùa Vọng là Chúa Nhật Áo Hồng, Chúa Nhật Mừng Vui, với khung cảnh phụng vụ bừng sáng. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia đã cho thấy niềm vui của Ítraen, khi Chúa dùng vua Kyrô để giải thoát Dân của Người. Thánh Lêô Cả, trong bài đọc hai Kinh Sách cho chúng ta thấy một niềm vui cao cả khác, đó chính là niềm vui vì Đức Kitô sẽ ngự xuống, đem ơn cứu độ cho trần gian. Đấng Cứu Độ mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta, bởi vì, toàn thể nhân loại sẽ vẫn còn bị giam cầm dưới ách nô lệ ma quỷ và cũng chẳng được hưởng gì do chiến thắng của Đấng đã khải hoàn, nếu như chiến thắng ấy đã diễn ra bên ngoài bản tính nhân loại của chúng ta.
Chúa Nhật Tuần III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật Gaudete, bởi vì, “Gaudete” là từ đầu tiên của Ca Nhập Lễ, được trích từ Pl 4,4-5: Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên! Vì Chúa đã đến gần. Cũng vậy, trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Isaia đã bày tỏ niềm vui của mình: Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang.
Bài Đáp Ca là tâm tình vui mừng hớn hở của Đức Maria qua kinh Magnificat: Nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cũng kêu gọi các tín hữu Thêxalônica: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.
Câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay cho thấy: Tin Mừng cứu độ là một ân huệ nhưng không, Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, kể cả những con người bé mọn, cho nên, Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Đây quả là một tin vui, một niềm vui cao cả.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Niềm vui của ông Gioan Tẩy Giả không phải là niềm vui vì được mọi người ca tụng, nể trọng: coi ông là Đấng Kitô, ông Êlia, hay một ngôn sứ nào đó. Ông đều nhất loạt chối từ những gì người ta gán ghép cho mình, ông chỉ nhận mình là người dọn đường cho Đấng, mà ông không đáng cúi xuống: cởi quai dép cho Người. Niềm vui của Gioan là niềm vui của chàng phù rể đứng bên cạnh chú rể. Ông đã biết hướng niềm vui của mình về chính nguồn hoan lạc của Mầu Nhiệm Giáng Sinh: Có một Đấng đang ở giữa các ông, mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.
Chúng ta muốn có được một tâm hồn hoàn toàn đổi mới, để họp mừng ngày cứu độ gần kề, chúng ta cũng phải biết hướng niềm vui của chúng ta về chính nguồn hoan lạc của Mầu Nhiệm Nhập Thể: Thiên Chúa đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, mang lấy thân phận yếu hèn của chúng ta. Người đã trở nên nghèo khó, để lấy cái nghèo của mình, mà làm cho chúng ta trở nên giàu có. Thiên Chúa đã chọn con đường nhập thể, tự hủy, hóa mình ra không, để cứu độ chúng ta. Có đau khổ nào của chúng ta, mà Người đã không kinh qua; có nỗi nhục nhã nào của chúng ta, mà Người đã không hứng chịu. Do đó, chúng ta hãy can đảm lên, đừng sợ! Này Thiên Chúa chúng ta sẽ ngự đến cứu độ chúng ta, như lời Ca Hiệp Lễ mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay.
Sống nơi trần thế, có ai ước mơ mình sẽ làm thân trâu ngựa không ? Cũng chẳng ai muốn chọn cho MV 3-B145
Sống nơi trần thế, có ai ước mơ mình sẽ làm thân trâu ngựa không ? Cũng chẳng ai muốn chọn cho mình cái nghiệp làm người phu quét lá ! Có chăng, một số không ít vẫn đang mơ tưởng tôi sẽ là người nổi tiếng, hoặc là con cháu đại gia. Cha ông chúng ta có câu: thà rằng ăn bát cơm rau, còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời. Xuân Diệu thì nói: thà rằng được phút huy hoàng rồi vụt tắt, còn hơn phải lẻ loi buồn tủi suốt cả đời. Người trẻ hôm nay họ vẫn ca thán: lúc còn bé, cứ nghĩ đến thuốc là thấy đắng, lớn lên mới biết có những thứ còn đắng hơn thuốc. Vâng, mâu thuẫn ở đời, nghịch lý ở chính mình, có những lúc người ta nhẹ nhàng khiêm tốn nói rằng: hãy là người bình thường, nhưng không được tầm thường. Có những lúc lại mạnh mẽ cho rằng: phải phấn đấu để trở thành vĩ đại, nhưng đừng mơ ước là kẻ phi thường, bất thường.
“Có người được sai đến trần gian, ông không phải là sự sáng, nhưng ông ý thức ông có sứ mạng làm chứng về sự sáng”. Đúng, Gioan không màng danh lợi thú, ông nào thích thú ẩn mình nơi rừng sâu để tìm kiếm sự an toàn cho bản thân ? Tuy nhiên, ông ý thức ông chính là tiếng kêu nơi hoang địa, ông chắc chắn ơn gọi của ông là tiếng kêu sửa đường, dọn lòng, giúp đám đông gặp gỡ lòng thương xót của Đấng đến sau ông. Nếu sống cùng thời, liệu bạn có tìm đến sông Giođan không, tôi và bạn sẽ bịt tai, nhắm mắt, để khỏi phải nghe, và làm ngơ trước diễn biến của thời đại ? Nếu đức độ, tiếng tăm lừng lẫy, có khả năng hô vang khắp núi rừng, khắp thành thị như Gioan, bạn có đủ khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu nơi hoang địa, giúp mọi người chịu phép rửa thống hối ăn năn không ?
Nếu hỏi, bạn có ước muốn trở nên vĩ đại, trở nên người nổi tiếng, xem ra sẽ thu hút, và nhiều đối tượng quan tâm hơn. Hãy khiêm tốn, hãy đi sâu vào cõi lòng, hầu có thể nghe tiếng hô, tiếng gọi, cảm nhận tốt hơn và rõ ràng nhất, việc tẩy rửa tâm hồn đón chờ ngày Chúa đến. Gioan, có phải ông muốn được trở nên người bình thường không, trong khi bậc hiền tài họ tìm đến thành thị, họ hoạt động và thu hút đám đông, rồi trở nên nổi tiếng, còn ông lại tìm đến sa mạc ? Ông trả lời, ông chỉ là tiếng kêu nơi hoang địa, ông chỉ ước muốn trở nên người bình thường ư ? Ấy vậy mà đấng bậc khôn ngoan vẫn quả quyết: người có đức độ, có tâm có tầm, dù ở chốn rừng sâu vẫn được người tìm đến, kẻ vô tài, thất đức, dù ở ngay giữa phố chợ, mọi người vẫn dửng dưng !
Hãy trở nên bình thường, để không bị xem là bất thường, hãy sửa đường Chúa đi, dọn mối tơ lòng, để rồi không ai phải phân bua vì tai không nghe, mắt không thấy, tâm trí bị sự xấu lôi kéo ! Hãy trở nên bình thường, để không phải bận tâm kiếm tìm chức danh bổng lộc, nhưng là biết chuẩn bị tâm hồn đón Chúa, và sống thánh ý Chúa cách xứng hợp hơn. Nhiều người hôm nay vẫn đang nói: nổi tiếng hay tai tiếng đều đáng sợ, vì tại vạch xuất phát không có kẻ thắng thua, dù bạn có tài giỏi hoặc rất bình thường, cũng vậy thôi, điều quan trọng là điểm đến của bình an hạnh phúc nơi bạn thế nào.
Tại hoang địa hôm xưa, có phải người bình thường họ không “lăn tăn”, không thắc mắc, về đấng làm phép rửa bày tỏ lòng thống hối ; kẻ không bình thường mới đặt câu hỏi hết sức vô duyên, thế ông ai, tai sao làm phép rửa ? Hãy trở nên khiêm tốn, để bạn không cần phải lượng định yêu, ghét, không phải lý sự tại sao: nên yêu người bình thường, để bạn thấy mình được tôn trọng, còn hơn yêu một người quá nổi tiếng, để rồi nguy cơ bạn bị đánh giá là kẻ tầm thường. Hãy trở nên bình thường, bạn sẽ hiểu khiêm tốn là gì, và biết nói sự thật như Gioan: “tôi là tiếng kêu nơi hoang địa, hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Yêu thật, nói thật, sống thật, trở nên sự sáng thật, trở nên nhân chứng thật cho tình yêu, bạn sẽ cảm nhận được giá trị cuộc sống: càng trưởng thành, ta càng biết thực hành cả những thứ, những việc, mình không ưa thích.
Tiếng kêu nơi hoang địa, lời vang vọng sửa đường, sửa lối, để đón Chúa vẫn thiết thực: “tôi làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi có Đấng mà các ngươi không biết ; chính Đấng ấy có trước tôi, tôi không đáng cởi giây giầy cho Người”. Để trở nên nhỏ bé đơn sơ, trở nên một thành viên bình thường nơi gia đình giáo xứ, nơi gia đình hội thánh, mỗi người phải từ bỏ được cái tôi ích kỷ, và mặc được tinh thần của Gioan: cùng hô to, cùng sửa tâm tính, cùng làm chứng cho sự sáng. Thế gian có thể sẽ còn chê cười, nếu mỗi chứng nhân của Chúa chỉ hô to và dừng lại ở lý thuyết: có đỏ mà chẳng có thơm, như bông dâm bụt, nên cơm cháo gì ? Đám đông năm xưa rất vui vì có vị tiền hô dẫn đường chỉ lối, ông Giaon rất mừng, vì có nhiều người khao khát được cùng sám hối, được trở nên bình thường bé nhỏ trong tình yêu của Đấng đang đến, sẽ đến. Amen.
Vì trông đợi Đấng Cứu Độ, Đấng đến để giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ của Thần Dữ, khỏi MV 3-B146
Vì trông đợi Đấng Cứu Độ, Đấng đến để giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ của Thần Dữ, khỏi xiềng xích của tội lỗi, khỏi cảnh bị hành hạ, đàn áp bất công, khỏi tình trạng “mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé” nên Mùa Vọng là muà của niềm vui hy vọng được cứu thoát, được trả tự do, đuợc nhận lại quyền sống của con người, và quyền hưởng hạnh phúc Nước Trời của con Chúa ; vì trông mong Đấng là Nguồn Vui ơn cứu rỗi, là Nguồn mọi sự thánh thiện và ơn phúc, mà tâm hồn trông đợi trong Mùa Vọng được Thiên Chúa mặc cho áo “hồng ân cứu độ”, và choàng cho “đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang” (Is 61,10).
Như gương mẫu lý tưởng của những người đi theo Đức Giêsu, Đức Maria là người Kitô hữu đầu tiên đã sống niềm vui trông đợi Đấng Cứu Thế của Mùa Vọng, khi cất tiếng Ngợi Khen : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46-49).
Đức Mẹ đã sống Mùa Vọng tuyệt vời của người nữ tỳ nghèo hèn tuyệt đối tín thác vào ông chủ là Thiên Chúa, và luôn khiêm tốn, nhưng tinh tế nhận ra những điều cao cả Thiên Chúa thực hiện trên phận hèn nữ tớ của mình.
Niềm vui trông đợi Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ của Đức Maria, người Kitô hữu đầu tiên, vì Mẹ là người thứ nhất được mang Đức Kitô trong cung lòng và “sống Đức Kitô” suốt cuộc đời đã tuôn tràn xuống tâm hồn tất cả các Kitô hữu khác, đang khi họ trông đợi Đức Giêsu trở lại trong vinh quang, điều mà thánh Phaolô tông đồ không ngừng nhắn nhủ các giáo đoàn : “Anh em hãy vui mừng luôn mãi” (1 Tx 5,16).
Nhưng niềm vui của muà trông đợi Chúa Cứu Thế không là niềm vui của thế gian, niềm vui tìm kiếm từ bản năng, niềm vui bắt nguồn từ tội lỗi mà hậu qủa tất yếu của những niềm vui ấy là hủy hoại, tàn phá, tiêu diệt. Trái lại, niềm vui bắt nguồn từ Thiên Chúa, niềm vui đến từ Thánh Thần, nên hoa trái đem lại sẽ là chính Thiên Chúa, Nguồn Vui bất tận, Nguồn Mạch Bình An, Hạnh Phúc viên mãn, đời đời.
Và để niềm vui của Tin Mừng không bao giờ tàn phai, như Thánh Thần không bao giờ bị dập tắt, người Kitô hữu được Thiên Chúa mời gọi : “cầu nguyện không ngừng và tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”, bởi “đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5,17-18).
Cầu nguyện để Niềm Vui từ trái tim Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ giầu lòng thương xót chảy vào cuộc đời luôn cần lòng thương xót của chúng ta ; cầu nguyện để Niềm Vui của Thánh Thần Tình Yêu làm tràn đầy trái tim trống vắng, non nớt, yếu đuối, hay hoảng hốt, lo sợ, nghi nan, thất vọng của chúng ta trước thử thách ; cầu nguyện để Niềm Vui từ Lời Hứa của Thiên Chúa hướng dẫn và nâng đỡ hành trình trông đợi của chúng ta ; cầu nguyện để trong mọi hoàn cảnh, đời chúng ta mãi là tiếng hát Tạ Ơn, bài ca Tán Tụng, thi thơ Ngợi Khen “Đấng Tòan Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn. Lòng thương xót Người trải qua từ đời nọ đến đời kia với những ai kính sợ Người” (Lc 1,49-50), trong Niềm Vui của Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Xin Chúa ban cho mỗi người được từng ngày sống niềm vui của người môn đệ luôn tín thác trông đợi vào Lời Hứa được Thiên Chúa yêu thương, cứu độ.
Theo tâm lý chung, ai cũng có nhu cầu muốn khẳng định về chính mình để được người khác công MV 3-B147
Theo tâm lý chung, ai cũng có nhu cầu muốn khẳng định về chính mình để được người khác công nhận, được quí trọng, nhất là nhu cầu thể hiện bản thân (self – actualization). Đây là nhu cầu cao nhất trong năm nhu cầu cơ bản được hệ thống hóa do Abraham Maslow. Tuy nhiên, nhu cầu này có thể đi quá đà, tạo nên một sự lệch lạc nhân cách, có thể trở thành bệnh hoạn trong thế giới ảo, vì không nhận ra sự thật về chính mình cũng như những giá trị cốt lõi làm nên cuộc sống.
Cách riêng là tuổi trẻ, những người thích đánh bóng và tạo hào quang cho mình: hay thổi phồng bản thân mình, muốn nêu cao hơn những gì mình có, muốn biểu hiện hơn những gì mình là, để được mọi người nể nang và khâm phục. Tuổi trẻ sợ nhất và ghét nhất là thấy người khác coi thường mình, nên càng cương cố để thể hiện bản lãnh và đẳng cấp của mình bằng mọi giá. Nhưng càng làm thế lại càng không trung thực với lòng mình, càng trở nên giả tạo với người khác.
Nói chung, ai cũng dễ bị áp lực tâm lý do chính mình tạo nên, là sự thúc đẩy muốn thổi phồng bản thân để tìm sự công nhận của người khác. Đó là thái độ “ăn gian”, vì sợ mình không được yêu, không được đánh giá cao, nên cứ phải “trang điểm” cho mình bằng những cung cách hay những thứ bên ngoài như tài năng, bằng cấp, địa vị… thậm chí bằng cả đức độ. Dùng những thứ ngoại thân để thay thế bản thân là điều giả tạo. Sống như vậy là sống ảo. Triết học gọi đó là “vong thân”.
Hôm nay, Phúc Âm đưa ra một mẫu người dám sống trung thực với lòng mình, với Chúa và tha nhân. Đó là Gioan tẩy giả, một con người có uy thế lớn lao trước mặt mọi người. Đáng lẽ ông phải thừa cơ hội này để lãnh đạo dân Do thái, là những người đang suy tôn và ngưỡng mộ ông như một Đấng cứu thế. Ông đã không làm như thế, trái lại, còn khiêm tốn nói lên sự thật rất nhỏ bé về bản thân mình: không những không phải là Đức Kitô, không phải Êlia, cũng không phải ngôn sứ, mà chỉ là tiếng hô trong hoang địa để dọn đường cho Đấng cứu thế đến. Trước bao nhiêu tước hiệu cao quí và lòng kính trọng mà người ta dành cho ông, ông đều phủ nhận. Ông còn tự nhận mình là không đáng cởi quai dép cho Đức Giêsu.
Qua lối sống khổ hạnh, qua tính cách thẳng thắn, và qua lời chứng chân thật, Gioan cho người khác thấy được giá trị xác thực của mình chỉ là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế. Hành động như thế, ông mất đi vị thế của mình trong lòng người khác, xem ra là điều dại dột trước mặt người đời, nhưng ông biết đó chỉ là vị thế mà dân chúng gán cho. Là người sống chân thật nên Gioan mới có thể làm chứng cho sự thật. Sự thật đã giải thoát ông khỏi định kiến của dân chúng và đưa họ đến với sự thật là Đức Giêsu. Khi Ngài xuất hiện, Gioan liền rút lui vào hậu trường. Ông biết mình phải nhỏ xuống để Đức Giêsu lớn lên. Ông nhận mình là tôi tớ để Đức Giêsu là người chủ. Ông đặt mình vào vị trí của cây đèn, để Đức Giêsu là ánh sáng. Ông cho mình là tiếng kêu để Đức Giêsu là Lời hằng sống. Ông buông xả tất cả trong bình an, và hạnh phúc vì đã hoàn thành sứ mạng làm nhân chứng.
Như Gioan, ơn gọi của mỗi người chúng ta cũng chính là chứng nhân cho Đức Kitô. Cha Teilhard de Chardin đã ví von thật sống động về cuộc người Kitô hữu như sau:“Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán biết là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán biết được có Đức Kitô”.
Ước chi đời nhân chứng của chúng ta cũng giống như Goan Tẩy giả, dám sống hồn nhiên, đơn sơ, chân thật, nhất là dám nhỏ xuống để Đức Kitô được lớn lên trong lòng người. Ta đừng sợ phải nhỏ xuống, vì khi Đức Kitô lớn lên trong ta thì ta lại được lớn lên trong Ngài. Nhờ vậy, khuôn mặt Đức Kitô lại càng chiếu sáng trên cuộc đời của chúng ta, và qua chúng ta, niềm vui ơn cứu độ lại tràn đến mọi người.
Suy niệm
Lạy Chúa! Tuổi trẻ hay có ảo tưởng về thần tượng, nên muốn trở nên một nhân vật lý tưởng, cũng vì đó mà thường sống trên mây gió, rồi cũng mau tụ mau tan như gió mây.
Con cũng hay ảo tưởng về danh vọng, cứ tưởng mình là người thật cao trọng, thấy nhan sắc và tài năng mình hiếm có, nên con hay chảnh chẹ và chém gió, chụp hình lên mạng để “câu like”, tự phong mình là hot girl hay hot boy, rồi ngang nhiên bước vào showbiz, làm một cuộc thi để “hai lúa” đổi đời, để được ca ngợi và chói ngời danh tiếng, đến nỗi cũng chẳng sợ làm điều tai tiếng.
Con cũng có cảm tưởng mình không đủ, nên con rất ham mê quyền sở hữu, vì con nghĩ càng sở hữu càng phong phú, nhưng rồi lần hồi con mới thấy mình ngu, vì giá trị đời con ở chỗ chính mình là, chứ không phải ở những gì mà mình có.
Con cũng ảo tưởng mình luôn luôn đúng, đâu ngờ rằng đầy dẫy những cái sai, đem lại bao nhiêu điều tai hại, mà cứ tưởng là xây đắp tương lai.
Con cũng tưởng mình là trung tâm vũ trụ, nên thích làm cha chú và lên mặt dạy đời, không những thế còn lắm lời đạo đức, nhưng rồi ai cũng biết không trung thực.
Xin Chúa giúp con mau tỉnh thức, biết nhận ra sự thật của bản thân, để hoán cải và đổi mới tinh thần, đừng sống theo kiểu cách của thế nhân, nhưng sống chân thành theo thực chất, để tìm lại bình an và thống nhất đời mình. Amen.
Hôm nay gọi là Chúa Nhật Hồng. Giáo hội bảo chúng ta hãy vui lên vì Chúa đến rồi. Hãy ra MV 3-B148
Hôm nay gọi là Chúa Nhật Hồng. Giáo hội bảo chúng ta hãy vui lên vì Chúa đến rồi. Hãy ra nghênh đón Người. Nhưng Chúa đến bằng cách nào? Làm sao nhận ra Chúa ở giữa chúng ta?
Năm xưa bên dòng sông Giordan, Thánh Gioan đã từng nói: “Người đang ở giữa các ngươi” (Ga, 1,26), và ngược dòng lịch sử Tiên tri Isaia đã mô tả về hoạt động của Đấng Messia:
Người sẽ “đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. (Is 61,1)
Lời tiên báo của Isaia đã được ứng nghiệm. Và Đấng làm chủ lịch sử đã đến ở giữa dân Người, nhưng đáng tiếc : “Người đang ở giữa các ngươi, mà các ngươi không biết”.(Ga, 1,26)
Sở dĩ người Do Thái đã không nhận ra Người, vì họ tự phác họa cho mình về một Thiên Chúa theo ý họ. Một Thiên Chúa ở giữa họ có thể đánh Đông dẹp Tây! Một Thiên Chúa quyền uy đầy nghiêm khắc. Một Thiên Chúa thiết lập vương triều đầy dũng lực để đưa đất nước họ giầu sang và thịnh vượng.
Đấng Messia đã đến trong khiêm hạ nơi hang đá thành Belem. Ngài lớn lên nơi miền núi Nagiaret. Ngài sống ẩn dật trong nghề thợ mộc giữa dân nghèo. Dấu chỉ duy nhất mà Ngài đã tỏ bày về thân phận Đấng Messia chính là: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Cuộc đời chúng ta là một mùa vọng. Ngày nào Chúa cũng có thể đến với chúng ta. Lúc nào Chúa cũng có thể ngỏ lời cùng chúng ta. Vì vậy, hãy tỉnh thức. Vì Chúa sẽ không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một ánh mắt cảm thông. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Hãy tạ ơn Chúa qua những con người đang sống với chúng ta, đang hy sinh vì chúng ta. Hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta luôn được sống trong tình nghĩa thằm thiết của những người thân bên cạnh chúng ta. Họ chính là hiện thân của Chúa để mang lại tình yêu thương hạnh phúc cho chúng ta.
Bên cạnh đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Đó chính là lòng bác ái, là tình yêu thương. Đây là hiệu kỳ của người ky-tô hữu, là căn tính của người môn đệ Chúa Ky-tô, vì “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy. Đó là các con hãy thương yêu nhau”. Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Vâng, lễ giáng sinh chính là lễ của tình yêu. Thiên Chúa mang lấy thân phận một hài nhi yếu đuối đang cần chúng ta chăm sóc. Ngài đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu người ta sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giê-su. Amen.
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1, 6-8).
Ông Gioan được sai đi để dọn đường cho Chúa Giêsu ngự đến. Đang lúc ông làm sứ vụ thì MV 3-B149
Ông Gioan được sai đi để dọn đường cho Chúa Giêsu ngự đến. Đang lúc ông làm sứ vụ thì một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?”. Ông tuyên bố thẳng thắn rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?” Ông nói: “Không phải” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không”. Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói”. Đến lượt những người thuộc nhóm Pharisêu đến hỏi ông: “Vậy tại sao ông không làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Ông trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (x. Ga 1, 19-27).
Ông Gioan đã khiêm tốn nhận mình là người không đáng cởi quai dép cho Chúa. Ông tự do sống trong thân phận là người dọn đường cho Chúa, là người phục vụ Chúa. Ông đã sống theo lời mời gọi của Thiên Chúa là ra đi dọn đường cho Chúa và làm chứng về Ánh Sáng. Ông ra đi mà không nghĩ tới điều gì khác ngoài việc Thiên Chúa phải lớn lên và mình phải nhỏ lại. Ông cũng chẳng thần tượng một ai ngoài Thiên Chúa của mình. Nhìn lại chính mình, chúng ta là người được mời gọi dọn đường cho Chúa đến, bởi chúng ta đã lãnh Bí tích Rửa tội. Theo thời gian, chúng ta đã để cho mình rơi vào muôn nẻo đường thế gian: đường danh vọng, đường tiền tài, đường tình, đường đau khổ và còn nhiều con đường khác. Những con đường đó làm ta lạc xa đường Chúa. Chúng ta mang danh là người có đạo nhưng trong lòng lại thiếu vắng Chúa. Vì vậy, trong Mùa Vọng này, chúng ta hãy dọn chính con đường chúng ta đang đi để đón Chúa đến trong tâm hồn mình. Nếu không, chúng ta sẽ phải thốt lên rằng “giá mà !”. “Giá mà” tôi cho đi thì hay biết mấy, giá mà tôi tha thứ thì tôi không khốn khổ như vậy. Thiên Chúa luôn yêu thương tất cả mọi người. Ngài luôn luôn cho chúng ta có cơ hội để trở về (x. Lc 15, 11-32). Phần chúng ta, chúng ta có dám dọn đường, có dám trở về với Thiên Chúa và với chính mình không? Điều gì đang ngăn cản chúng ta trở về? Nếu bạn không trở về được hãy kêu lên cùng Thiên Chúa, Ngài sẽ giúp bạn trở về. Ngài sẵn sàng lắng nghe tiếng bạn kêu xin. Ngài đã hứa: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ mở cho” (Mt 7,7).
Lạy Thiên Chúa, chúng con là những người con đang lầm lạc. Xin giúp chúng con biết tránh xa những thế lực của ma qủy đang vây bủa và xiết chặt chúng con. Xin cho chúng con can đảm mở miệng kêu xin lên Chúa. Nhờ ơn Chúa giúp, chúng con mau mắn dọn tâm hồn đón Chúa ngự đến. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
Có bao giờ ta tự hỏi: “Tôi là ai?”? Có thể, một số người cho rằng câu hỏi này chẳng có gì khó MV 3-B150
Có bao giờ ta tự hỏi: “Tôi là ai?”? Có thể, một số người cho rằng câu hỏi này chẳng có gì khó khăn. Bởi nếu tôi không biết “tôi là ai” thì còn ai biết nữa. Nhưng thật sự, đó là một câu hỏi khó. Bởi, nó buộc ta phải đi vào lòng mình, phải có sự hiểu biết sâu xa về chính mình, thường xuyên nhìn lại mình. Làm sao có thể có được sự hiểu biết ấy nếu chúng ta không sống trong tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Đàng khác, chúng ta không thể là người đích thực nếu chúng ta không có tương quan.
Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa tuyển chọn làm người dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Ông có một sự hiểu biết sâu xa về chính mình nhờ sống trong Thánh Thần. Hiểu biết chính mình là hiểu biết về con người, sứ mạng của mình. Nhìn về Gioan Tẩy Giả, chúng ta được mời gọi ý thức về căn tính và sứ mạng của mình. Vậy, làm sao ta có được sự hiểu biết sâu xa về chính mình, làm sao để ta trả lời được câu hỏi: “Tôi là ai?” ?
Khi đến trong trần gian này, mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa trao cho một sứ mạng. Đối với những Kitô hữu, tất cả được mời gọi làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Tin Mừng kể lại, ông Gioan đến để làm chứng về ánh sáng, ông không phải là ánh sáng (x.Ga 1,7-8). Trong cuộc sống, có nhiều lúc chúng bị cám dỗ, coi mình là trung tâm, là cái dốn của vũ trụ. Sự ảo tưởng làm ta quên mất chỗ đứng của mình, quên mất mình là ai. Là người làm chứng, chúng ta chẳng có gì để huênh hoang, tự đắc. Thái độ cần có hơn cả là sự khiêm tốn. Chẳng hạn, khi công việc tông đồ thành công, chúng ta cần khiêm tốn để nhận ra chính Chúa mới là Đấng giúp ta hoàn thành, và ta chỉ là khí cụ Chúa dùng. Đừng để những lời tán dương, ca ngợi của người đời làm ta quên mất nhiệm vụ chính yếu là rao truyền tình thương, làm chứng cho Thiên Chúa, miễn sao cho “Danh Cha được cả sáng”. Khi được hỏi: “Ông là ai?, “ông nói gì về chính ông?”, Gioan Tẩy Giả đã trả lời dứt khoát: “Tôi không phải là Đấng Kitô”, “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói” (x. Ga1,20,23).
Khi sống trong Thánh Thần, chúng ta sẽ biết về chính mình rõ hơn. Đặc biệt là biết về sứ mạng Thiên Chúa dành cho ta. Ông Gioan được đầy tràn Thánh Thần ngay từ trong lòng mẹ. Chúng ta cũng được đầy tràn Thánh Thần trong ngày chịu phép Rửa tội, phép Thêm Sức. Bằng đời sống của mình, chúng ta hãy hô lên cho mọi người biết rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần, hãy dọn đường cho Chúa. Tiếng hô ấy sẽ cụ thể và rõ ràng hơn khi chính chúng ta là người tiên phong trong việc “dọn đường” cho Chúa đến. Ngay từ bây giờ, mỗi chúng ta cần tập cho mình thói quen duyệt xét lại ngày sống, nghĩa là thực hiện thường xuyên việc hồi tâm. Trong kiên trì của bản thân và nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ ngày càng hiểu rõ về mình, về sứ mạng ta đang thực hiện, nhất là sự hiểu biết về Thiên Chúa. Chính khi ấy, ta sẽ biết cách sống tương quan với tha nhân. Khi sống triển nở trong ơn gọi, trong việc làm chứng cho Chúa, chúng ta sẽ sống thật sự là người hơn. Câu hỏi: “Tôi là ai?” sẽ được giải đáp.