Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật MV2-B Bài 1-50 Hãy Dọn Đường Chúa cho ngay thẳng ---------------------------------- Phúc Âm: Mc 1, 1-8
“Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng”. Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khởi đầu Phúc Âm của Ðức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Như có lời Tiên tri Isaia chép rằng: Ðây Ta sai Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi. Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan. Lúc đó Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Người rao giảng rằng: “Ðấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần”. - Ðó là lời Chúa
So sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật kém cõi, kém cõi đến nỗi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy. Kém cỏi đến nỗi không xứng đáng xách dép cho Ngài.
Chúng ta tưởng rằng Gioan hạ mình và khiêm tốn, nhưng không phải là như thế. Gioan không hạ mình và cũng chẳng khiêm tốn, nhưng ông chỉ nói lên một sự thật, một sự thật 100%.
So sánh với chúng ta, Gioan trổi vượt hơn nhiều, bởi vì ông được toàn thể dân chúng trọng kính, kéo đến nghe giảng và chịu phép sám hối. Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, ông thật kém xa và kém rất xa vì dù sao ông cũng chỉ là loài người, ông cũng chỉ là một tạo vật.
Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong thửa rừng bát ngát, chỉ là một hạt cát chốn sa mạc bao la.
Từ mẫu gương của Gioan chúng ta hãy đi vào lãnh vực bản thân và hãy thú nhận mình hèn kém, hèn kém mọi đàng.
Thực vậy, tự bản chất chúng ta chẳng là gì cả. So sánh với người này người kia, có thể chúng ta giàu sang hơn, chúng ta tài giỏi hơn, chúng ta thế lực hơn, chúng ta nhan sắc hơn. Tuy nhiên chúng ta có nên dựa vào mấy cái hơn đó mà vênh vang tự đắc hay không ?
Về giàu sang ư ?
Hẳn rằng ai cũng đã rõ, tiền bạc và của cải không phải là i yếu tố chính yếu đem lại hạnh phúc. Hơn thế nữa, nó cũng không ở cùng chúng ta luôn mãi, có thể chỉ vì một biến động mà chúng ta sẽ trắng tay, như tục ngữ đã bảo :
- Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
Về tài giỏi ư ?
Cái chúng ta biết chỉ là một, còn cái chúng ta không biết thì từng ngàn từng vạn. Jules Simon đã nói :
- Chỉ có kẻ ngu mới tin rằng mình biết mọi sự.
Người ta hỏi một nhà bác học nọ :
- Chính phủ trả lươngcho ông, mà sao mỗi lần hỏi sự gì thì ông lại trả lời là không biết.
Nhà bác học nói :
- Chính phủ trả lươngcho tôi vì cái tôi biết. Song nếu phải trả lương cho tôi vì cái tôi không biết, thì cả kho bạc chính phủ cũng chẳng đủ để trả lương.
Về thế lực ư ?
Có những người một thời hét ra lửa, thế mà, sau cùng lại bị tù tội. Cảnh thăng trầm, lên voi xuống chó, chẳng phải là chuyện bình thường trong sinh hoạt của con người đó sao ?
Về nhan sắc ư ?
Chỉ một cơn sốt trên bốn mươi độ, thì con người còn gì là nhan sắc.
Tại Hollywood, kinh đô điện ảnh của thế giới, có một nhà hưu dưỡng dành cho những ngôi sao màn bạc, khi trẻ được ngưỡng mộ, nhưng bây giờ, họ vừa già lại vừa nghèo nên đã bị bỏ rơi và chìm vào quên lãng. Chính phủ cung cấp tiền nuôi dưỡng. Từ ngày mồng một tháng giêng đến hết ngày ba mươi tháng chạp, những bóng người lui tới thăm hỏi họ thật là ít ỏi.
Như trên đã xác quyết :
- Những cái chúng ta có thì chẳng là mấy.
Hơn thế nữa, chúng ta chỉ là những người quản lý chứ không phải là những ông chủ. Mặc dù so sánh, chúng ta có thể hơn thật, nhưng tự bản chất chúng ta chỉ là những người quản lý. Như vậy có chi đáng cho chúng ta khoe khoang, vênh vang và tự đắc.
Quản lý càng nhiều, thì càng bận rộn , càng phải mang lấy trách nhiệm, bởi vì không sớm thì muộn chủ sẽ hạch hỏi và đòi chúng ta tính sổ quản lý.
Copernic là một nhà thiên văn nổi tiếng. Sự nghiệp của ông trong lãnh vực này thật lớn lao. Thế nhưng, ông không bao giờ tự phụ, trái lại ông sống rất khiêm tốn. Càng thông minh, ông càng nhận thấy mình bé nhỏ. Khi gần qua đời, ông xin khắc trên mộ bia của ông những hàng chữ như sau :
- Lạy Chúa, con không dám xin ơn trở lại như thánh Phaolô, cũng chẳng dám yêu cầu được sự tha thứ như thánh Phêrô, con chỉ xin Chúa thương con như đã thương kẻ trộm lành mà thôi.
Để kết luận, tôi xin mượn lời cầu nguyện của thánh Augustinô:
- Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con.
Biết Chúa để con yêu mến Chúa nhiều hơn. Biết con để con ăn năn sám hối, sửa đổi những sai lỗi mà thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Ý tưởng chính của Lời Chúa hôm nay là “dọn đường” :
1. Ngôn sứ Isaia cho biết mục đích của việc dọn đường là “để cho Đức Chúa đến” (các câu 2-3)
2. Gioan Tiền hô kêu gọi thính giả mình dọn đường bằng cách sám hối (các câu 4-5).
3. Chính Gioan Tiền hô dọn đường bằng cách giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác (các câu 6-8).
B. ... nẩy mầm.
1. “Con người là con đường của Chúa” (Đức Gioan Phaolô 2). Nhưng có nhiều con đường rất khác nhau :
- Con đường giăng kẽm gai là con đường của những kẻ thù hận nhau, ngăn chận những tương giao qua lại.
- Con đường đầy ổ phục kích : con đường của những kẻ cạnh tranh nhau, chờ cơ hội để hại nhau.
- Con đường sa mạc nóng bỏng : con đường của những kẻ khô khan việc đạo.
- Con đường quanh co : con đường của những kẻ lọc lừa gian dối.
- Con đường hầm u tối : con đường của những kẻ sống trong tội lỗi.
- Con đường cỏ dại mọc đầy : con đường của những kẻ không vướng mắc tội nặng nhưng còn rất nhiều tội nhẹ.
- v.v. và v.v.
2. Nội dung chính trong lời kêu gọi của Gioan Tiền hô là “Hãy sám hối”. Sám hối bao gồm nhận biết tội mình, hối tiếc vì đã phạm tội, và trông cậy vào ơn Chúa giúp mình chừa bỏ nó. Thiếu một trong ba yếu tố đó thì không phải là sám hối thật. Giuđa biết tội, hối tiếc vì tội và... chỉ có thế thôi, nên đã đi treo cổ chết. Thánh Phêrô cũng biết tội, cũng hối tiếc tội, nhưng còn trông cậy vào ơn Chúa nên đã trở lại với tình thương của Ngài.
Theo lời Chúa hôm nay, chúng ta đang sống giữa hai thời đại của Chúa : thời đại Con Thiên Chúa giáng sinh và thời đại Con Thiên Chúa giáng lâm.
Thời đại Giáng sinh được tiên tri Isaia loan báo là thời đại an ủi và khuyên bảo ngọt ngào.
Con Thiên Chúa đến an ủi và khuyên bảo dân Người vì họ đang phải sống phục dịch cho thành dã man. Thành dã man này là thành Babylon, dân đang phải sống kiếp lưu đầy, là đế quốc La mã đang đặt ách nô lệ trên Giêrusalem, là vương quốc satan đang thống trị nhân loại. Dân đang phải phục dịch bọn chúng giữa chốn sa mạc, giữa cánh đồng hoang, giữa núi đồi lổm chổm, dưới thung lũng hố sâu.
Thiên Chúa đã an ủi dân, khuyên họ đừng sợ : “Thiên Chúa các ngươi đến đây rồi”. Người sẽ giải thoát khỏi nô lệ Babylon. Họ được trở về quê cha đất tổ của Abraham, của Isaac. “Chúa chăn dắt họ như mục tử, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Chiên con, Người ấp ủ vào lòng, chiên mẹ, Người tận tình săn sóc” (Is. 40, 1-5. 9-11).
Gioan cũng xuất hiện bên bờ sông Gióc-đan kêu gọi dân chịu phép rửa sám hối và chỉ cho họ biết “có Đấng quyền thế cao trọng hơn tôi, đang đến sau tôi, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần” (Mc. 1, 7-8). “Người sẵn sàng ban ơn cứu độ cho kẻ kính sợ Người. Người cho thành tín mọc lên từ đất thấp. Và cho công lý mưa từ trời cao. Chúa sẽ tặng ban nguồn ân huệ dồi dào, đất đai này trổ sinh nhiều hoa trái” (Tv. 84, 10.13.14).
Thời đại Giáng lâm cũng được Isaia và thánh tông đồ Phêrô loan báo. Đó là thời đại vinh quang của Chúa hiện đến. “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền” (Is. 40, 10). “Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành sẽ bốc cháy tiêu tan, mặt đất và công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy nhường chỗ cho trời mới đất mới, đúng như lời Chúa hứa” (2P. 3, 4.10.13). “Người sẽ muôn đời ngự trị, cho dân Người được hưởng thái bình, thịnh vượng. Ân nghĩa tín thành nay hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên” (Tv. 85, 9.11). “Thiên Chúa ban diễm lệ vinh quang hạnh phúc cho tất cả những ai bước đi trọn lành” (Tv. 84, 12).
Chúng ta đang sống giữa hai thời đại huy hoàng đó. Nhờ vậy, chúng ta được hưởng nguồn ân huệ Giáng sinh, để biết chuẩn bị đón chờ Chúa Giáng lâm. Thánh Phêrô đã ngọt ngào khuyên nhủ chúng ta : “Có điều này, xin anh em đừng quên : Đối với Chúa, một ngày như thể ngàn năm, ngàn năm tựa như một ngày”. Thời gian trước mặt Chúa đều là hiện tại, quá khứ hay tương lai ngàn năm đều ở trước mặt Chúa. Cho nên, một ngày hay ngàn năm cũng như nhau. Thiên Chúa hằng hữu đời đời, không có thời gian ngày tháng thay đổi, không có thơ ấu lớn lên, trưởng thành, già cỗi tiêu tan. Người hoàn hảo trọn vẹn vô cùng. Lâu hay chóng, nhỏ hay lớn, xấu hay tốt, lành hay dữ là tự ta. Vì thế “Người tỏ lòng kiên nhẫn thương chờ đợi hết thảy ăn năn trở lại. Người không muốn cho bất cứ ai phải diệt vong. Người sẽ đến bất ngờ như kẻ trộm không phải để đánh bẫy, nhưng để anh em luôn luôn phải ăn ở thế nào, phải sống thánh thiện biết bao, phải tôn kính Thiên Chúa chừng nào ! Khi ngày Thiên Chúa đến, anh em sẽ được hưởng trời mới đất mới” (2Pr. 3, 8-14).
Phúc cho chúng ta luôn biết chuẩn bị đón Chúa đến trong ngày quang lâm. Ai ra công ra sức dọn đường Chúa đến, biết làm cho sa mạc khô cằn thành xa lộ quang minh chính đại ; trong chân lý của Chúa, biết san phẳng đồi núi thành cánh đồng sinh nhiều hoa trái thánh thiện, biết làm cho những thung lũng tối tăm đầy ánh sáng huy hoàng của Tin Mừng.
Như vậy, có dọn mình một ngàn năm, vẫn thấy mình bất xứng, vẫn chưa đủ để ra trước Thiên Nhan vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, một ngàn năm thấy chóng như một ngày. Nhưng ta đang sống trong cảnh tù đầy trần gian, nóng lòng mong mỏi khao khát Chúa đến, như sa mạc mong trời mưa xuống, như tù nhân mong ngày tự do, vì thế chúng ta cảm thấy một ngày lâu như ngàn năm : “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”.
Lạy Chúa, xin tỏ lòng Ngài nhân ái. Ơn cứu độ Ngài, xin ban tặng cho chúng con.
Câu chuyện thực sau đây có thể gợi ý để ta nhận ra đó đây Chúa vẫn còn cho xuất hiện những Gioan Tẩy Giả mới. Giữa cảnh sa mạc vô vọng của những bệnh đáng sợ như bệnh AIDS, thử hỏi với sức mạnh nào con người vẫn còn có thể làm cho sa mạc nở hoa? Ta hãy nghe lời chia sẻ của một người mẹ tại Châu Mỹ La Tinh:
"MAI ĐỆ LIÊN là con đầu lòng của chúng tôi. Cháu sinh ra bé bỏng đến nỗi khi đưa cháu đến giếng Rửa Tội, vợ chồng chúng tôi thấy rõ chúng tôi phải có trách nhiệm đặc biệt đối với cháu. Chúng tôi muốn làm tất cả những gì có thể làm để chia sẻ với cháu kho báu lớn lao là niềm tin mà chúng tôi đặt nơi Chúa. Đó là điều chúng tôi đã làm không mấy khó khăn khi cháu còn nhỏ. Cháu đã từng tham gia đủ mọi sinh hoạt tôn giáo.
Nhưng khi lớn lên, cháu để lộ ra nhiều vấn đề. Cá tính bốc đồng và thất thường, MAI hành xử ngây ngô, chậm trưởng thành. Chúng tôi chỉ biết cầu nguyện và luôn tỏ ra cởi mở với MAI. Thế nhưng MAI đã không hiểu mà còn từ từ tạo nên khoảng cách đối với ba mẹ.
Giữa những khó khăn gặp phải, hai chúng tôi vẫn nhắc nhở nhau về cơ hội luôn có để yêu thương con. Điều quan trọng là phải duy trì và tìm dịp làm triển nở mối tương quan đối với MAI. Bản thân tôi từng cảm thấy mình bất lực tuy tôi vẫn tin tưởng nơi Chúa vì biết rằng chính Người yêu thương MAI hơn chúng tôi là cộng sự viên của Người. Mặc dầu MAI ngăn chặn hầu như mọi cố gắng của tôi, mối tương quan giữa hai mẹ con chưa bao giờ hoàn toàn bị phá vỡ.
Khi lên 20 tuổi, MAI mang thai do một mối tương quan qua đường. Dẫu vậy khi MAI bày tỏ chuyện đó với tôi, tôi đã cùng MAI đi đến chọn lựa không phá thai. Đó là chọn lựa chẳng dễ dàng vì không ai trong bà con xóm ngõ còn kính trọng MAI với đứa con ngoại hôn. Nhưng Hoàng Khánh đứa con MAI sinh ra, đã là nguồn vui lớn. Chính MAI hết lòng yêu thương và làm tất cả những gì có thể làm để vỗ về con, tuy MAI vẫn phải đối phó với những khó khăn và những giới hạn riêng của mình.
Sa mạc bệnh AIDS
Hôm ấy Mai cho tôi biết Mai sợ Mai bị nhiễm vi khuẩn liệt kháng tức AIDS là thứ bệnh ai nghe cũng phát sợ. Các bác sĩ khám và cho biết khả thi năm mươi phần trăm vi khuẩn liệt kháng sẽ hoành hành nơi Mai. Thế rồi xảy ra không lâu sau đó Mai bồng con đi đâu mất tiêu sau khi yêu một chàng trai mắc cùng thứ bệnh. Vợ chồng chúng tôi đau đớn vô cùng. Chúng tôi tìm đủ cách tìm kiếm Mai. Đã có lần Mai gọi về nhưng không cho biết địa chỉ. Tới khi tìm gặp được và đoan chắc với Mai về tình yêu, niềm tin tưởng và sự nâng đỡ đặc biệt ba mẹ dành cho Mai, Mai vẫn một mực không chịu về. Chúng tôi đã thất vọng trở về thiếu vắng Mai. Nhưng bất ngờ ít ngày sau, Mai ôm con về nhà.
Tiếp theo là ba năm chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm để săn sóc người con mà những dấu chứng bệnh Liệt Kháng (Acquired Immunity Deficiency Syndrome) tuần tự giáng xuống trên con người Mai. Mai được các bác sĩ đều đặn khám nghiệm, nàng được tham dự Thánh Lễ, kể cả Thánh Lễ theo phụng vụ đặc sủng của Lễ Hiện Xuống trong đó dự viên được tự do diễn tả những ơn mà mình nhận được. Một đàng Mai nhập một nhóm gồm những người cùng thứ bệnh để cố gắng giúp đỡ nhau. Đàng khác, chính tôi với tư cách là mẹ của Mai, tham gia nhóm thân thuộc, để được gần gũi theo dõi và thông cảm với Mai về những lo âu và đau đớn mà Mai phải chịu. Trong nhóm này cả tôi và Mai đều được an ủi nhiều nhờ nhận được nguồn trợ lực và nâng đỡ của một linh mục tốt lành. Một hôm, Mai nhận được một lá thư và giữ mãi trong cuốn nhật ký, thư đó có đoạn nói: "Mai quí mến, Đấng Thiên Chúa là nguồn hằng sống ở với Mai. Tình yêu của Người vượt ngoài giới hạn của sự chết để ban cho Mai sự sống." Thư đó Mai giữ mãi trong cuốn nhật ký, còn tôi giữ mãi điều vừa trích trong lòng.
Đối diện với những đớn đau thực sự xảy ra cho những bệnh nhân trong đó có Mai con tôi, tôi thấy tôi có thể mở lòng mình ra để yêu thương tất cả những con người đau khổ. Tôi tin vào tình yêu Thiên Chúa nên được cảm thấy hết sức gần gũi Mai. Có những lúc thâm tín về tình yêu Thiên Chúa là điều duy nhất duy trì tôi trong sự sống, giữa những người bạn cùng chia sẻ với tôi niềm thâm tín đó. Từ từ chỉ còn lại có niềm thâm tín đó giữa cảnh suy sụp nơi thân xác bệnh nhân. Nhưng cùng lúc tôi thấy nảy sinh một cái đẹp to lớn nơi tâm hồn Mai.
Vào tháng 11, 1995, Mai được đưa vào bệnh viện Minh Niên (Muniz) của thủ đô Achentina. Bạn bè và người thân thuộc đều xúm lại quanh bệnh nhân. Các bác sĩ, y tá và những nhân viên khác của bệnh viện, luôn cố gắng đặt mình liên đới với bệnh nhân đến nỗi tôi cảm thấy gia đình tôi như được nối dài ra nơi họ ở bên cạnh Mai. Họ luôn ra sức gia tăng phẩm chất sự sống nơi bệnh nhân theo khẩu hiệu "còn nước còn tát". Chúa thực đã an bài đễ tình yêu của Ngài tràn ngập nơi Mai và nơi tôi nữa. Có lúc Mai đã ôm hôn tôi để nói: "má ơi, con cám ơn má vì má đã không ngừng yêu thương con!".
Ngày nào Mai cũng được chịu lễ. Mai vẫn được nhìn thấy đứa con trai lên 4 và cảm thấy luôn có thể cậy dựa vào tình yêu ba mẹ, anh chị em, bà con, bạn bè. Mai đã dâng mạng sống Mai cho lý tưởng hiệp nhất. Rồi trước khi tắt thở, Mai đã nhìn sâu vào cặp mắt tôi để nói:
"Má ơi, Chúa Giêsu luôn tỏ ra vô cùng tốt lành đối với con!"
Nở hoa sự sống đời đời
Khi tôi phó dâng Mai, con tôi cho Chúa thì cảnh tăm tối mà tôi nghiệm thấy đã được biến đổi thành điều thâm tín là : tôi biết Mai hiện vẫn sống và được hạnh phúc và hạnh phúc của Mai là hạnh phúc của tôi. Tôi cảm thấy tương quan giữa hai mẹ con còn tiếp tục nơi Đấng Thiên Chúa của sự sống.
Lời chia sẻ ở trên tiếp theo bài Tin Mừng hôm nay, đặt ta trước sức mạnh của Đấng mà tác giả Máccô nhìn nhận là: Con Thiên Chúa (Mc 1,1). Hai sách Tin Mừng Mátthêu và Luca còn cho biết chi tiết về Đấng đó khi nói: Ngài được cưu mang nơi lòng trinh nữ Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần (Mt 1,18). Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ (c.21). Khi Ngài sinh ra Tin Mừng được ban từ trời cao là "Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em" (Lc2,11).
Nhờ những Gioan Tẩy Giả mới
Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Gioan Tẩy Giả được phái đến để dọn đường cho Con Thiên Chúa đến thi hành sứ mạng cứu độ (Mc 1,2). Gioan kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội (c.4), còn Đức Giêsu đến công bố triều đại Thiên Chúa đã đến nên Ngài kêu gọi dân chúng sám hối và tin vào Tin Mừng đó (c.14). Gioan chuẩn bị người ta lãnh ơn tha tội; còn Đức Giêsu tuyên bố chính Ngài có quyền tha tội (Mc 2,10) và ban quyền đó cho các tông đồ (Ga 20,23). Gioan làm phép rửa bằng nước, còn Đức Giêsu làm phép rửa trong Thánh Thần (xem Mt 1,8). Chính Đức Giêsu sau khi tự nguyện chịu chết để muôn người được tha tội (Mt 26,28) và trước khi về trời đã truyền cho các môn đệ đi đến với muôn dân, làm cho muôn dân trở thành môn đệ và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, "dậy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,20).
Đức Giêsu ở lại mãi với Giáo Hội. Điều đó có nghĩa là Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu Phục Sinh, sẽ làm cho Giáo Hội nhớ lại mọi điều Người đã dạy (xem Ga 14,26). Đáp lại, Giáo Hội luôn được sai đến với muôn dân, luôn kêu gọi người ta tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội (xem Mc 1,4), luôn giới thiệu họ đến với Đấng cứu họ khỏi tội, Đấng ban cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa (Ga 1,12), Đấng tha cho họ những tội mà họ vì yếu đuối đã tái phạm (xem Ga 20,23).
Phúc thay những người làm cha làm mẹ không những đưa con vào đời mà còn đóng vai Gioan Tẩy Giả để giới thiệu con mình với Đấng có thể ban sự sống đời đời.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn tâm đắc được gì về lời chia sẻ của người mẹ của Mai đệ Liên? Có thể so sánh người mẹ này với Gioan Tẩy Giả được không và theo phương diện nào? Nhờ chỉ dẫn nào mà Mai đệ Liên biết được Đức Giêsu là Đấng vô cùng tốt lành để nói: "Má ơi Chúa Giêsu luôn tỏ ra vô cùng tốt lành đối với con"?
2. Bạn hiểu thế nào về vai trò của Gioan Tẩy Giả: Là sứ giả đi trước Đức Giêsu (c.2)? Là Đấng dọn đường cho Đức Giêsu (c.2)? Là người hô trong hoang địa (c.3)? Là người kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội (c.4)? Là người loan báo Đức Giêsu đến để rửa người ta trong Thánh Thần (c.8)?
1. Tại sao Tin Mừng Mác-cô lại bắt đầu bằng câu chuyện của Gio-an Tẩy giả, mà không bắt đầu bằng chuyện Đức Giê-su giáng sinh? Việc dọn đường của Gio-an có ý nghĩa gì đặc biệt đối với người Rô-ma?
2. Dựa theo tinh thần bài Tin Mừng, để dọn đường đón Chúa đến, chúng ta cần làm gì một cách cụ thể? Những hình ảnh «dọn sẵn con đường của Đức Chúa», «sửa lối cho thẳng để Người đi» có ý nghĩa gì?
3. Việc dọn đường Chúa đến có liên hệ gì với những quan hệ của ta với tha nhân không?
Suy tư gợi ý:
1. Gio-an Tẩy Giả, người dọn đường để Đức Giê-su đến
Khởi đầu Tin Mừng Mác-cô là chuyện Gio-an Tẩy Giả loan báo và dọn đường cho Đức Giê-su đến, khác với Mát-thêu và Lu-ca khởi đầu bằng chuyện Đức Giê-su giáng sinh. Tại sao? Vì Tin Mừng Mác-cô được viết cho người Rô-ma. Theo quan niệm và thông tục của người Rô-ma, các nhân vật quan trọng đi đến đâu đều phải có người dùng loa thông báo cho dân chúng biết trước mấy ngày, vừa để làm nổi bật sự quan trọng của nhân vật đó, vừa để dân chúng sửa sang những con đường trong vùng cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch sẽ, vừa để dân chúng đón tiếp hai bên đường cho long trọng nếu vấn đề an ninh cho phép. Vì thế, để giới thiệu Đức Giê-su cho các Ki-tô hữu Rô-ma mà khởi đầu Tin Mừng bằng câu chuyện của Gio-an Tẩy Giả thì sẽ hiệu quả và lôi cuốn sự chú ý hơn. Ngoài ra, để nói lên tính cách đặc biệt thần thiêng của việc dọn đường ấy, thánh sử còn trích dẫn lời của 2 ngôn sứ I-sa-i-a và Ma-la-kia-a đã loan báo trước đó khoảng 450-550 năm (tương đương với thời của các vị giáo chủ các tôn giáo châu Á): «Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta» (Ml 3,1), «Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi» (x. Is 40,3).
Phần chúng ta, khởi đầu năm phụng vụ mới, chúng ta cũng cần chuẩn bị đón mừng kỷ niệm Đức Giê-su đến trong nhân loại, đồng thời đón mừng Ngài đến trong tâm hồn mỗi người. Vì thế, thiết tưởng bản thân mỗi người cũng như toàn Giáo Hội hãy dọn đường đón mừng Ngài. Dọn đường thế nào thì I-sa-i-a và Gio-an Tẩy Giả đã chỉ cho chúng ta.
2. Dọn đường đón mừng Chúa đến
Ngôn sứ I-sa-i-a viết: «Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu» (Is 40,3-4). Như vậy, theo ngôn sứ I-sa-i-a, để đón Chúa đến, việc đầu tiên là phải mở một con đường. Muốn thế, phải bạt núi, san đồi, lấp thung lũng, đổ đầy các hố rãnh. Đó là nói theo ngôn ngữ hình tượng. Còn trong thực tế thì phải làm gì?
a) Phải mở một con đường = muốn và quyết gặp gỡ Chúa
Chúa đến để gặp gỡ và đem lại cho chúng ta sự cứu độ, không chỉ ở đời sau mà còn ở ngay đời này: một sự bình an và hạnh phúc siêu nhiên, tuyệt vời, không phải thứ bình an hạnh phúc kiểu thế gian vốn bị lệ thuộc vào những điều kiện trần tục (x. Ga 14,27). Nhưng để việc gặp gỡ đó thành hiện thực, chính chúng ta cũng phải mong muốn và quyết tâm gặp gỡ Ngài. Ngài không thể đến với ta nếu chính ta không tích cực muốn điều đó. Do đó, trở ngại lớn nhất khiến chúng ta không thể gặp gỡ Ngài chính là chúng ta không thật sự muốn gặp gỡ Ngài. Vì khi gặp gỡ Ngài, Ngài sẽ đòi hỏi chúng ta phải đối diện với sự thật của chính bản thân chúng ta. Nhưng chúng ta thường muốn trốn tránh sự thật, tránh việc phải đối diện với lương tâm mình... Vì điều này đòi buộc ta phải chỉnh đốn lại cách sống của mình, phải từ bỏ những đam mê, những thói xấu, những bất công vốn đem lại cho ta vui thú, lợi lộc, quyền lực, danh vọng là những thứ ta rất ham thích. Như vậy muốn Chúa đến với ta, ta phải khai phá một con đường, con đường ấy chính là tâm trạng sẵn sàng đón Chúa đến, sẵn sàng đến với Ngài, gặp gỡ Ngài với bất cứ giá nào.
b) Con đường thẳng ngay, bằng phẳng = tâm hồn chính trực
Với những ai muốn đón Chúa đến, Gio-an Tẩy Giả yêu cầu: «Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi». Khi đón một nhân vật quan trọng đến một vùng nào, người vùng đó phải dọn dẹp đường cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp. Cũng vậy, để đón Chúa đến, ta cũng phải sửa lại những con đường trong tâm hồn ta cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp. Nghĩa là tâm hồn ta phải luôn ngay thẳng, chính trực, không quanh co, gian dối, giả tạo...
Ngay thẳng là một trong những yếu tố chính yếu của sự công chính, thánh thiện. Thiết tưởng người Ki-tô hữu cần phải tạo cho mình một tư cách ngay thẳng, chính trực, nói gì hay làm gì cũng phải «công minh chính đại», «đường đường chính chính», không lén lút, giấu giếm, không làm ai phải nghi ngờ điều gì. Tư cách của người Ki-tô hữu phải là tư cách của một người quân tử, tôn trọng sự thật, nghĩ thế nào nói thế nấy, và nói thế nào làm thế nấy: «Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không", thêm thắt điều gì là do ác quỷ» (Mt 5,37). Nghĩ một đằng nói một nẻo, hay nói một đằng làm một nẻo là tư cách của tiểu nhân, của phường gian ác, không thể là tư cách của người Ki-tô hữu: «Đường lối của kẻ gian ác thì quanh co, hành động của người trong sạch thì ngay thẳng» (Cn 21,28); «Thiên Chúa ưa điều chính trực, ghét điều gian ác» (Dt 1,9); «Ngài ghê tởm tâm địa quanh co» (Cn 11,20).
Nguyên nhân biến con người thành quanh co, giả hình, mưu mô... chính là tâm địa ích kỷ, lắm tham vọng, muốn phình to bản ngã. Tâm địa này khiến người ta cố gắng đạt được những điều mình ham muốn - danh vọng, quyền lực, tiền bạc - với bất cứ phương tiện nào, kể cả phương tiện xấu, và bằng bất cứ giá nào, kể cả tội ác. Từ đó con người bị tham vọng và đam mê của mình thu hút, mê hoặc, dẫn đưa mình vào con đường cong queo của tội ác. Do đó, «sửa lối cho thẳng để Người đi» một cách căn bản là dần dần diệt bỏ khuynh hướng ích kỷ, thích đặt nặng «cái tôi» của mình. Khuynh hướng này gây nên tất cả mọi lồi lõm, mọi cản trở khiến Chúa khó đến với ta, và ta khó đến với Chúa. Hãy noi gương Gio-an Tẩy giả, sống thanh đạm: «mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng»; không tham vọng, không ham đề cao «cái tôi» của mình, sẵn sàng nhìn nhận sự thật hèn kém của mình: «Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người».
c) Đường đến với Chúa cũng là con đường đến với tha nhân
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn luôn tự đồng hóa với tha nhân của ta. Do đó, người Ki-tô hữu không thể quan niệm Thiên Chúa độc lập với tha nhân của mình, không thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu tha nhân, không thể đến với Thiên Chúa bằng một con đường khác với con đường đến với tha nhân. Ngược lại, con người không thể yêu thương tha nhân mà không yêu mến Thiên Chúa, không thể đến với tha nhân bằng con đường khác với con đường đến với Thiên Chúa. Chủ trương chỉ yêu tha nhân không cần đếm xỉa gì đến Thiên Chúa, hay ngược lại, chỉ yêu Thiên Chúa mà không đếm xỉa gì đến tha nhân đều là những tình yêu giả tạo, không thực tế. Do đó, muốn đến và gặp gỡ với Thiên Chúa không gì tốt đẹp và chắc chắn bằng đến hay gặp gỡ Ngài nơi tha nhân của ta. Và muốn đến và gặp gỡ tha nhân không gì bảo đảm và tạo hạnh phúc cho họ bằng đến và gặp gỡ họ trong Thiên Chúa. Đối với người Ki-tô hữu, không thể tách rời Thiên Chúa khỏi tha nhân, và tách rời tha nhân khỏi Thiên Chúa.
Vậy, đón Chúa đến, không gì làm Chúa hài lòng bằng sửa sang lại mọi quan hệ của ta với tha nhân cho tốt đẹp hơn, tình nghĩa hơn: làm sao để cha mẹ ta cảm thấy ta thật sự là con hiếu thảo, con cái ta thấy ta thật sự là cha mẹ tốt, anh chị ta thấy ta là người em tốt, các em ta thấy ta là người anh tốt, bạn bè ta thấy ta là người bạn tốt, những nhà chung quanh ta thấy ta là hàng xóm tốt... Hãy sống làm sao để không mấy ai có thể chê trách ta được, ai cũng cảm nhận được tình thương của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha là một Thiên Chúa luôn luôn đồng hóa với tha nhân của con. Nhờ đó, con có thể gặp gỡ Cha trong những người sống chung quanh con, con có thể yêu thương và phục vụ Cha bằng việc yêu thương phục vụ họ. Vì thế, chuẩn bị đón Cha đến trần gian, không gì tốt đẹp hơn làm cho môi trường con đang sống biến thành một môi trường yêu thương. Xin giúp con thực hiện điều Cha mong muốn nhất ấy.
Trong một bài hát mang nhiều ấn tượng và có tính thuyết phục, Soeur Sourire với cây đàn guitare trên tay đã ca lên vang rền, say xưa: " Tất cả các nẻo đường của trần thế sẽ đưa ta về quê trời". Hình ảnh ấy Giáo Hội dùng để nói về một nhân vật nổi tiếng Gioan Tẩy giả như vị đi trước dọn đường cho Chúa cứu thế.
HAI HÌNH ẢNH
Thánh Máccô khởi đi từ việc Ngài dùng một đoạn của sách ngôn sứ Isaia để nói về việc Chúa đến và vai trò của Gioan Tẩy giả,con người rao giảng sự sám hối để dọn đường cho Chúa. Người ta có thể rơi vào hai trạng thái hoặc như Gioan Tẩy giả rao giảng về một Đấng uy quyền tuyệt đối mà chính Người không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài hoặc như dân Giêrusalem tuôn đến gặp Gioan Tẩy giả bên bờ sông Giođan xin Gioan làm phép rửa mà xưng thú tội lỗi.
Hai trạng thái, hai vị trí, nhưng tất cả với một mục tiêu duy nhất là hướng con người đến việc dọn đường cho Chúa đến với nhân loại, đến với con người. Đường trưng ra ở đây đưa người Kitô đến việc sám hối, hồi thục quay trở về và dọn đường cho Chúa đến với lịch sử, đến với mọi người. Việc sám hối, dọn đường đón nhận Chúa không dừng lại nơi một vị Chúa xa vời trên tít trời xanh hay xa muôn trùng vời vợi. Nhưng Gioan quả thực đã thét gào, đã mời gọi: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy bạt lối người Người đi". Hình ảnh con đường Gioan Tẩy giả đề nghị không giản đơn như ta lầm nghĩ, nhưng đường ấy thực tế có lắm sỏi đá, nhiều quanh co, khúc mắc, dị biệt, xa cách. Đã có biết bao lần ta chấp nhận và làm ngơ trước những bất công, khó chịu, buồn nản. Đã có bao lần ta sống trong yên thân, vô tội trước những gò đồi lỏng chỏng là lòng ham mê của cải, danh vọng, chức tước, tham lam, ích kỷ mà quên đi việc bạt núi đồi, gò nổng, hố sâu phải lấp cho đầy... Bạt lối Người đi là điều kiện thiết yếu nhất nếu muốn chọn lựa để dọn đường cho Chúa đến.
VẪN LÀ CÁI CHỌN LỰA LÀM TIẾNG KÊU
Muốn đi cho đúng, muốn làm đẹp lòng Chúa không có chọn lựa nào khác là làm theo lời của Gioan Tẩy giả đã đề nghị cho dân thời xa xưa của Gioan đang sống. Sám hối,xin Chúa tha thứ những lỗi lầm của mình đã làm,đã vướng mắc. Quay về để hướng tới một cuộc sống mới,cuộc sống tốt đẹp hơn. Mùa vọng kêu gọi mọi người hãy làm tất cả những gì Giáo Hội đề nghị để dọn mình xứng đáng đón nhận Chúa và đón nhận anh em. Đây là thời gian mọi người Kitô hữu phải kiểm tra lại lối sống, làm lại, thay đổi những gì cần thiết mình còn thiếu xót. Chúa vẫn mời gọi con người nên thánh, nên hoàn thiện để tấm lòng, trái tim trở nên nơi đẹp, nơi quí nhất cho Chúa ngự trị. Hãy trở nên tiếng kêu dù ở trong sa mạc hoang vu, nhưng tiếng kêu ấy phải trở thành tiếng gọi tình thương có sức thu hút, lôi kéo mọi người trở về với Chúa. Hãy giống như dân miền Giuđê và thành Giêrusalem xưa tuôn đến với Gioan Tẩy giả để xin Ông rửa tội và xưng thú tội lỗi để xin ơn tha thứ.
Lạy Chúa Giêsu xin ban cho mọi người chúng con tấm lòng quảng đại để chúng con trở nên giống Chúa khi chúng con biết tha thứ.
Trong Mùa vọng, các bài Tin mừng nhiều lần nói đến Gioan Tẩy giả, bởi vì đời sống và sứ mạng của ngài gắn liền với Đấng cứu thế. Ngài là vị ngôn sứ cuối cùng được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đi trước mở đường và dọn đường cho Chúa Kitô. Cho nên, danh hiệu “Tiền hô” và sự nghiệp của Gioan gắn liền với chương trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, thậm chí không thể nào nói đến Chúa Giêsu mà không nhắc tới vị tiền hô của Người. Chính vì thế phụng vụ Mùa vọng đã dành nhiều ngày nói đến Gioan. Cụ thể bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay và Chúa nhật tuần sau, đặc biệt đề cập đến ngài.
Ngài là con duy nhất của ông Giacaria và bà Elisabéth, sinh sống ở làng Ain Karim, gần thủ đô Giêrusalem. Có thể ngài đã đi tu từ nhỏ trong hoang địa với những người phái Qum ran, sống rất khổ hạnh : Y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, một kiểu áo hãm mình mà các ngôn sứ xưa thường dùng. Ngang lưng thắt một dây da cho gọn ghẽ. Còn của ăn là châu chấu độn với mật ong rừng. Ngài sống như vậy cho đến mùa thu năm 27, dưới thời hoàng đế Tibêriô thì xuất hiện công khai giảng dậy dân chúng ở miền nam Do thái, chung quanh lưu vực sông Giorđan.
Nội dung lời giảng dạy của ngài được thánh Matthêu diễn tả rõ ràng : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Các sách Tin mừng khác cũng cho thấy nội dung ấy một cách gián tiếp khi kể lại những lời kêu gọi và hoạt động “làm phép rửa sám hối” của ngài, chẳng hạn như Tin mừng Marcô của Chúa nhật hôm nay.
Sám hối, theo tiếng Hy lạp có nghĩa là thay đổi não trạng. Theo tiếng Do thái là quay trở về, trở lại, tức là trở về với Chúa, với giao ước của Chúa. Gioan rao giảng kêu gọi mọi người sám hối. Ai nghe lời ngài giảng mà sám hối thì được ngài làm phép rửa, nhưng phép rửa của ngài chỉ có tính cách giúp người ta thống hối, sửa soạn cho việc tha tội, chứ không phải là một bí tích như phép rửa Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này.
Như vậy, Gioan đã đối chiếu sứ mạng của ngài với sứ mạng của Đấng đến sau ngài, và ngài khiêm nhường tự nhận là không đáng cởi quai dép cho Đấng đó. Tóm lại Gioan làm phép rửa bằng nước để giục lòng người ta sám hối. Còn Đấng đến sau làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần để tha tội cho người ta. Cho nên, rõ ràng Gioan chỉ là một vị tiền hô, một người đi trước, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu thế.
Đối với chúng ta hôm nay, nhắc đến Gioan Tiền hô cũng có nghĩa là nhắc lại lời ngài đã giảng dạy, và cũng là nhắc nhở chúng ta : Hãy sám hối, hãy thay đổi đời sống. Chúng ta đều đã biết sám hối là nhận ra những giới hạn thiếu sót và lầm lỗi của mình; là nhận ra những thiệt hại mình đã gây ra cho người khác; là nhận ra và quyết tâm dứt bỏ tình trạng cũ để bắt đầu một cuộc canh tân. Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải hiểu sám hối là quay về với Chúa, tuyên xưng tình yêu thương và lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Đây là điều Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta.
Về điều này, chúng ta hãy nhớ câu chuyện thánh Giêrônimô : Vào một đêm lễ Giáng sinh kia. Giêrônimô đang cầu nguyện trong một hang đá ở rừng vắng, ngài suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Đột nhiên Chúa Giêsu hiện ra hỏi ngài : “Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày sinh nhật của Ta không?”. Ngài thưa : “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa trái tim của con”. Chúa nói : “Còn gì khác nữa không?”. Ngài thưa : “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể”. Chúa lại hỏi : “Còn điều gì khác nữa không?”. Ngài thưa : “Lạy Chúa, con mới dịch sách Thánh xong, con xin dâng Chúa bản dịch công lao vất vả của con”. Chúa nói : “Tốt lắm, con còn điều gì nữa không?”. Ngài thưa : “Lạy Chúa, con còn gì nữa đâu?”. Chúa bảo : “Còn sự yếu đuối và tội lỗi của con, con hãy dâng những thứ ấy cho Ta”. Giêrônimô hốt hoảng thưa : “Lạy Chúa, làm sao con dám dâng những cái ấy?”. Chúa nói : “Được chứ, Ta muốn con dâng những cái đó cho Ta để Ta tha thứ cho con. Đó là điều Ta mong đợi”.
Câu chuyện trên nhắc nhở : Chúng ta phải có tâm hồn sám hối để được Chúa tha thứ . Lòng nhân từ tha thứ của Thiên Chúa được biểu lộ tới tột đỉnh bằng việc ban tặng chính Con Một của Ngài. Chúa Giêsu chính là hiện thân của lòng tha thứ. Ngài đến trần gian để nhận lấy tất cả tội lỗi của loài người. Bởi vậy, chẳng có gì quá đáng khi nói : Món quà Thiên Chúa mong đợi nhất nơi con người là tội lỗi của họ. Vì Thiên Chúa chẳng muốn gì hơn là được thỏa mãn lòng nhân từ yêu thương của Ngài bằng việc tha thứ cho con người.
Một người đàn ông đi dạo trong một buổi sáng mùa đông tiết trời lạnh lẽo nhưng trong sáng. Mặt trời vừa mới ló rạng, và đã tỏa ánh sáng lên bốn phương trời. Trong khi đi dạo, ông nhận thấy mặt trăng cũng ở trên bầu trời. Nhưng nó quá nhợt nhạt so với mặt trời mà người ta có thể nhìn thấy rõ ràng. Một giờ trước đây, mặt trăng là một tạo vật xinh tươi và sáng vằng vặc, thống trị cả bầu trời. Bây giờ, trông nó giống như một kẻ ăn xin, và bị đẩy lui ra phía đằng sau. Nó tựa như một ngọn nến đã bị ánh sáng đèn điện chế ngự. Nhưng khi người đàn ông này nhìn vào mặt trăng, thì đột nhiên ông nhận ra rằng ánh sáng trung thành của tạo vật lởm chởm này đã nhìn xuống con người, thông qua bóng tối của đêm đen.
Mặt trăng nhắc nhở chúng ta về các vị ngôn sứ trong Cựu ước, và đặc biệt là Gioan Tẩy giả, các ngôn sứ đã giữ cho niềm hy vọng của dân chúng được sống động trong suốt đêm dài chờ đợi, khi dường như ánh bình minh không bao giờ ló rạng. Chính nhờ có các ngài, mà ngọn lửa không bao giờ bị tàn lụi.
Gioan Tẩy giả là người cuối cùng và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ đầy can đảm và quên mình, một người đã chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến. Ngài đã làm việc cực nhọc, để đem ánh sáng của Chúa đến cho dân chúng. Có lúc, ngài đã thống trị toàn cảnh, và là một người rất nổi tiếng. Nhưng ngài luôn luôn ý thức rằng có một ánh sáng vĩ đại hơn sắp đến, một ánh sáng mà chính ngài không đi vào được.
Khi ánh sáng xuất hiện nơi con người của Đức Giêsu, thánh Gioan Tẩy giả biết rằng công việc của ngài đã hoàn tất. Ngài không hề cản trở hoặc tìm cách trì hoãn sự mong đợi ánh sáng mới. Trái lại, ngài còn đón tiếp, tạo thuận lợi, khích lệ ánh sáng đó. Ngài đã chỉ cho dân chúng biết Đức Giêsu, và thừa nhận rằng Đức Giêsu còn vĩ đại hơn bản thân ngài rất nhiều. Ngài chỉ là mặt trăng, còn Đức Giêsu chính là mặt trời. Sau đó, thánh Gioan tẩy giả bước sang một bên, để Đức Giêsu tỏa sáng, trong khi tự nhận ra rằng bản thân ngài chỉ là bóng tối mà thôi. Điều đó đòi hỏi một nhân cách vĩ đại. Đức Giêsu thừa nhận sự vĩ đại. Đức Giêsu thừa nhận sự vĩ đại của thánh Gioan tẩy giả, và thừa nhận món nợ mà Người đã mắc đối với Gioan.
Để dọn đường, hoặc ngay cả chỉ để dọn một căn phòng cho người khác, đòi hỏi người ta phải khiêm tốn và rộng lượng. Thật vậy, điều này đòi hỏi một sự chết đi cho bản thân. Rút lui khỏi một chức vụ cao là chết đi một chút, ngay cả chỉ một chút thôi. Một số người, thậm chí những người thánh thiện, đã hủy hoại nhiều thứ, và gây thiệt hại cho mục đích của mình, bằng cách muốn giữ quyền lực trong một thời gian quá lâu dài.
Các bậc cha mẹ đã sử dụng những năm tháng tốt đẹp nhất của cuộc sống, để chuẩn bị cho con cái họ, theo ý nghĩa là mở lối cho chúng đi vào cuộc đời. Nhưng sẽ đến lúc họ phải rút lui, để con cái họ sống cuộc sống riêng của chúng. Khi trao cho con cái cuộc sống của chúng, các bậc cha mẹ phải cho phép chúng được quyền sống cuộc sống đó.
Tất cả chúng ta đều có khuynh hướng muốn khư khư giữ lấy sự nổi tiếng. Có lẽ chúng ta thường vô tình thống trị người khác, và đẩy lui họ vào trong bóng tối. Hậu quả là người ta cảm thấy bị đè nén, và có nhiều ánh sáng đã bị tàn lụi trong thế giới này. Chúng ta phải hết sức cố gắng bằng tất cả khả năng của mình, trong khi phải cẩn thận đừng cản trở đường đi của người khác. Và chúng ta phải ý thức đến món nợ mà chúng ta mắc phải đối với người khác, đó là những người đã chuẩn bị đường cho chúng ta.
Chúng ta có thể phạm cùng một lỗi đó đối với Thiên Chúa. Chúng ta hành động như thể chỉ có công việc của mình là quan trọng mà thôi. Chúng ta làm quá nhiều cho bản thân mình. Trong khi ngược lại, vấn đề là chúng ta phải rút lui, và để cho Thiên Chúa hành động.
Đức Kitô đã mở ra đường lối cứu độ cho tất cả chúng ta. Chúng ta phải phấn đấu đi trong ánh sáng của Người, và tránh trở nên một nguồn tối cho bất cứ ai. Cách thức duy nhất để tìm kiếm hòa bình và hạnh phúc chính là biết quên mình và yêu thương người khác.
Một trong những điều lớn lao nhất mà Mùa vọng thực hiện, đó là nhắc nhở chúng ta về tình yêu trung thành của Thiên Chúa đối với dân Người, và lời hứa của Người được nên trọn nơi Đức Giêsu như thế nào. Các bài đọc Kinh Thánh đầy rẫy những lời nhắc nhở về sự trung thành của Thiên Chúa “Cỏ sẽ khô đi, hoa sẽ tàn phai, nhưng lời của Thiên Chúa vẫn còn mãi mãi” (Thứ ba, Tuần 2). “Núi sẽ rời đi, đồi sẽ lay động, nhưng tình yêu thương của Ta đối với các ngươi sẽ không bao giờ rời bỏ các ngươi, và giao ước hòa bình của Ta đối với các ngươi sẽ không bao giờ thay đổi” (Thứ năm, Tuần 3).
Những thông điệp đem lại sự an tâm này được gửi tới cả chúng ta nữa, chúng ta cũng được sống bằng lời hứa của Thiên Chúa, kitô hữu là người đang đi trong cuộc hành trình bằng niềm tin hướng về đất hứa của vinh quang đời đời. Chính niềm tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn trung thành với lời của Người, và chân thật trong lời Người hứa, sẽ gìn giữ các kitô hữu.
Nhưng giống như dân Israel thuở xưa, chúng ta cũng có thể quên lãng lời hứa của Thiên Chúa. Có rất nhiều tiếng nói đang dụ dỗ chúng ta đi theo những phương hướng khác. Tiếng nói rõ rệt nhất là tiếng nói đến từ bên ngoài chúng ta. Có những tiếng nói the thé, đầy hận thù của những kẻ mị dân, mù quáng đang kêu gọi chúng ta đến với chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa phân biệt, mù quáng… Có những tiếng nói trên các báo chí, đài phát thanh, truyền hình giúp chúng ta giải trí, đem lại tin tức, làm cho chúng ta được khuây khỏa. Và tất nhiên còn có những tiếng nói đầy tính cách thuyết phục của những nhà quảng cáo, kêu gọi chúng ta chiều theo ý thích cá nhân của mình.
Nhưng có một số tiếng nói lại đến với chúng ta từ bên trong. Những tiếng nói nội tâm có thể không lớn lắm, nhưng chúng lại còn nguy hiểm hơn, bởi vì chúng rất âm ỉ và bền bỉ.
Nhưng Thiên Chúa cũng đề nghị kêu gọi chúng ta. Có lẽ tiếng nói của Thiên Chúa là tiếng nói nhỏ bé nhất và cô độc nhất hơn tất cả mọi tiếng nói. Tiếng nói đó quá dễ dàng bị nhận chìm trong giòng thác lũ của các thứ tiếng nói, và trong tiếng ồn ào om sòm của đời sống hằng ngày. Chúng ta không thể nghe được tiếng nói của Thiên Chúa giữa đám đông, nhưng nói đúng hơn, chính là ở những nơi yên tĩnh, cô tịch.
Thiên Chúa là đấng trung thành. Thiên Chúa chân thật trong lời của Người. Thiên Chúa luôn giữ các lời Người đã hứa. Đôi khi, chúng ta đặt điều kiện cho lòng trung thành của Thiên Chúa bằng chính thái độ sống của chúng ta. Dường như thể chúng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ không đến với chúng ta, trừ phi chúng ta tự chứng tỏ được rằng mình xứng đáng. Nhưng nếu chúng ta xứng đáng, thì Chúa sẽ không cần phải đến nữa. Người đến chỉ vì chúng ta là tội nhân, những tội nhân cần được cứu độ.
Để chuẩn bị cho Con của Ngài đến trần gian, Thiên Chúa cần nhiều người dọn đường trong dòng lịch sử.
Người nổi bật nhất là Gioan.
Gioan là nhịp cầu thân thương để Đức Kitô đến gặp dân Ngài, và để dân Ngài đón nhận Đức Kitô cứu thế. Ông đã quen biết cả đôi bên và ông hạnh phúc được làm người phù rể cho đám cưới giữa Đức Kitô và dân được chọn.
Thời nào Thiên Chúa cũng cần những sứ giả, những người dọn đường, những Gioan mới. Đó là sự khiêm tốn muôn thuở của Thiên Chúa, Ngài chẳng bao giờ đường đột đến với con người.
Hôm nay, Đức Kitô muốn đi vào thế giới của bạn: đất nước, gia đình, trường học, nơi làm việc, bạn bè... Ngài cần bạn làm người giới thiệu. Nhờ bạn, Tin Mừng được khởi đầu nơi một ai đó, như xưa Tin Mừng đã được khởi đầu nhờ Gioan.
Chúng ta cần ngắm nhìn lối sống của Gioan. Ông sống độc thân trong hoang địa, ăn châu chấu và mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da. Lối sống khắc khổ ấy đã trở nên một dấu hỏi. Gioan đã chọn lối sống phù hợp với lời ông giảng. Ông kêu gọi mọi người dọn tâm hồn để đón Đấng quyền thế hơn ông, thì chính ông đã sống như con đường thẳng. Ông mời gọi người ta sám hối, thì chính đời ông đã mang nét sám hối rồi. Bởi thế tiếng gọi của ông có sức thu hút mãnh liệt. Biết bao người từ khắp nơi kéo đến với ông, để khiêm tốn thú tội và chịu phép rửa, nhằm chuẩn bị đón Đấng Mêsia sắp đến. Chúng ta không thể vào hoang địa như Gioan, cũng không thể ăn mặc như ông. nhưng chắc chắn để làm chứng cho Đức Kitô hôm nay, chúng ta không thể sống y như mọi người. Lắm khi chúng ta phải từ khước một cuộc sống dễ dãi, tiện nghi, thoải mái, để tìm kiếm một cái gì sâu xa hơn, ý nghĩa hơn. Không phải chúng ta thích lập dị, nhưng ơn gọi Kitô hữu đòi chúng ta dám lội ngược dòng với thế gian, dám sống một cách khác thường trong chính cuộc sống bình thường của ta.
Làm sao chúng ta có sức thu hút như Gioan để đưa con người hôm nay đến gặp Chúa? Chúng ta phải thay đổi lối sống mình như thế nào, để người ta tin được lời chúng ta rao giảng? Đức Kitô hôm nay vẫn cần những người dọn đường tuyệt vời như Gioan.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều người đã không đón nhận Tin Mừng chỉ vì gương xấu của các Kitô hữu. Bạn có nhìn thấy, nghe thấy những gương xấu đó ở quanh bạn không? Làm sao để có một cuộc sám hối tập thể như Gioan đã khơi dậy?
Bạn sẽ làm gì để tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu và làm cho Ngài được mọi người yêu mến?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn và yếu đuối chúng con. Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
Có 4 tác gả được linh hướng ghi chép lại cho chúng ta về Chúa Giêsu và các sứ điệp của Ngài. Mỗi sách đều nhằm mục đích khác nhau và phác vẽ hình ảnh độc đáo của Chúa Giêsu :
Mát Thêu: Vua Do Thái đã được báo trước.
Mác Cô: Đấng phục vụ vương đế.
Lu Ca : Con Người lý tưởng từ trời.
Gioan: Thiên Chúa làm người. Thường chúng ta bắt đầu: “ Phú c âm theo Thánh Mác Cô hay Tin Mừng theo Thánh Mác Cô”. Thực ra chúng ta chỉ có một Tin Mừng, đó là Tin Mừng về ơn cứu độ do Chúa Giêsu thực hiện và Mác Cô bắt đầu ngay vào chức vụ công khai với câu khẳng định: “Phúc âm của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa”.
Giê su là tên đặt cho một người, rất thông thường trong dân Do thái, cũng như tên Gio suê có nghĩa sự cứu rỗi của Chúa Gia vê. Tên này được chính Thiên Chúa chỉ định, thích hợp cho Ngài là “Đấng sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Kitô là danh vị chính thức (tương đương với Messia trong tiếng Do Thái) có nghĩa “Đấng được xức dầu” đến để phục hưng Israel và đem ân phúc cho thế gian như lời sấm đã báo trước. Con Thiên Chúa nói lên bản chất thiên thượng. Ngài không phải chỉ là một người có tên là Giêsu, không chỉ là Đức Kitô được xức dầu thần khí để thi hành công tác cứu chuộc, mà còn là Con đồng bản tính với Đức Chúa Cha. Đấy chính là Đấng mà Gioan tuyên cáo là đang đến.
Lời tuyên cáo này được nói lên là ứng nghiệm lời tiên tri trước kia: “như lời chép trong Isaia rằng.” Mác Cô rất ít trích dẫn Cựu ước trừ những đoạn mà Chúa Giêsu dẫn chứng. Ông kết hợp hai lời tiên tri giống nhau (của Ma-la-Kivà của Isaia) nhưng chỉ nêu tên vị sau, vì có lẽ lời sau quan hệ hơn và có lẽ Mác Cô bị ám ảnh về hình ảnh của “người tôi tớ quyền năng của Gia vê” do Isaia phác hoạ.
Mỗi lời dẫn chứng đều nói về việc Chúa viếng thăm và việc sửa soạn lúc Chúa đến. Lời dẫn chứng thứ nhất nói về việc Chúa sẽ vào Đền thờ để xét đoán. Lời dẫn chứng thứ hai nói về việc Chúa sẽ giải cứu dân khỏi tù đầy tại Ba-Bi-Lon. Cả hai trường hợp đều có sứ giả đi trước dọn đường. Đường xá thời xưa rất xấu, phải sai một viên quan đi trước hô hào dân chúng sửa đường cho Vua ngự gía. Mác Cô dẫn chứng lời sấm xưa chỉ thực sự xuất hiện khi Chúa Giê Su xuất hiện với tư cách là quan tòa và là Đấng Cứu Tinh của dân Ngài. Để chuẩn bị cho ngày Chúa đến, Gioan được chỉ định là sứ giả dẫn đường. sứ mạng được chỉ rõ trong lời sấm : “Có tiếng kêu trong hoang địa” và trong lời tuyên bố: “Gioan đến làm phép rửa trong hoang địa” . Ông được sai đi “dọn đường Chúa, nắn thẳng lối Ngài đi” bằng cách “kêu gọi ăn năn để được tha tội”. Nơi chốn thi hành và tính cách của chức vụ đều chỉ rõ ông là sứ giả được tiên báo và sai đi để chuẩn bị lòng dân cho ngày Chúa đến. Phép rửa của ông diễn tả sự ăn năn của người lãnh nhận và để ý đến việc tha tội. Kêu gọi ăn năn để đón chờ Chúa đúng là công tác của một sứ giả dọn đường, vì người Do Thái ngoan đạo đều tin rằng Đấng Messia chỉ đến khi dân người từ bỏ tội lỗi. Ngày nay cũng thế, sự ăn năn thật tâm phải có trước rồi mới lĩnh nhận được những ơn phúc mà Chúa sẵn lòng ban cho kẻ tin nhận Ngài.
Sự thành công của Gioan được tả rõ: “cả miền Giu đê và dân thủ đô đến với ông để lãnh phép rửa”. Dĩ nhiên có nhiều người không đến, nhất là các vị có quyền chức đạo đời…Nhưng Mác Cô cho thấy hưởng ứng của dân chúng với phong trào phục hưng mà Gioan phát động, và rồi sau này tấp nập đến với Chúa Giêsu tại sao Gioan lại gây được ảnh hưởng lớn đến dân ông vậy ?
1.Gioan là người sống theo sứ điệp ông truyền giảng. Chẳng những ông chỉ phản đối bằng lời nói , mà còn cả bằng đời sống ông nữa. Có ba điều ông đã chứng thực cho lời phản đối của ông về đời sống tạm bợ này.
Nơi ông ở
Ong ở trong đồng hoang, giữa trung bộ xứ Giu đê và biển Chết, có một vùng xa mạc khủng khiếp nhất Thế giới. Đó là sa mạc đá vôi trông gồ ghề, vặn vẹo. Nó phản chiếu lấp lánh dưới sức nóng gay gắt, các khối đá vôi nóng bỏng làm phỏng da, người ta có cảm giác như chúng rỗng ruột, như đang đi trên một lò nung ở dưới mặt đất. Nó nghiêng về phía biển Chết rồi tạo thành những dốc thẳng đứng đáng sợ, dẫn xuống những hố sâu không thể nào leo lên được, về phía bờ biển. Gioan không phải là một thị dân. Ông là một người từ sa mạc, từ nơi hoang vu vắng vẻ đến. Ông là người đi tìm cơ hội để được nghe tiếng phán của Thiên Chúa .
Y phục ông mặc.
Ông mặc áo dệt bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da. Êlia cũng từng mặc như vậy. Nhìn một người như thế, người ta sẽ không thể liên tưởng tới một nhà hùng biện thời danh, ăn mặc đúng thời trang, nhưng nhớ tới các tiên tri thời xưa từng sinh sống hết sức giản dị, tránh mọi lối xa hoa yếu mềm, yểu điệu, thường giết chết tâm hồn.
Thực phẩm ông ăn.
Thức ăn của ông là châu chấu và mật ong rừng, cả hai từ ngữ này đều có thể có hai nghĩa. Châu chấu là giống vật được luật pháp cho phép ăn (Lv 11, 22) nhưng cũng có thể đó là loại đậu hay bột gọi là corob, vốn là lương thực của người nghèo nhất trong số người nghèo. Mật ong có thể là mật của loài ong rừng đóng trong tổ các bọng cây hay cũng có thể là một loại nhựa ngọt chảy ra từ lớp vỏ của một vài giống cây. Từ ngữ này có chính xác hay không vẫn là vấn đề không quan trọng. Dầu thế nào đi chăng nữa thức ăn của Gioan thật đạm bạc, Gioan đã xuất hiện trong tình trạng như vậy. Thiên hạ thường thích nghe những người như thế. Ông sống lời ông giảng. Ngược lại có nhiều người đã đem đến một thông điệp mà chính đời sống họ lại phủ nhận nó. Lắm người có nhiều tiền gửi ngân hàng, nhưng lại gảng rằng, đừng chứa của cải ở dưới đất. nhiều người ca tụng các phước hạnh của kẻ nghèo, nhưng lại sống trpng các biệt thự khang trang, trưởng giả. Nhưng trong trường hợp của Gioan , ông là người của sứ điệp, sống theo đúng sứ điệp mình truyền giảng và vì thế dân chúng đã nghe ông.
2. Thông điệp của ông sở dĩ được hiệu nghiệm vì ông nói với dân chúng điều mà thân tâm họ vẫn biết, ông đem đến cho họ điều mà họ vẫn mong đợi từ đáy tâm hồn
a. Người Do Thái có câu “nếu dân Israel giữ trọn luật pháp Đức Gia vê chỉ trong một ngày thì nước trời sẽ đến.
Khi Gioan kêu gọi họ ăn năn là ông đã đặt họ đối diện với sự lựa chọn, sự quyết định mà tự đáy lòng họ đã biết rất rõ đó là việc họ phải làm. Từ xưa, Platon đã nói rằng giáo dục không phải là nói với người ta những điều mới lạ nhưng là rút ra từ kí ức họ những gì họ đã biết rồi. Không có sứ điệp nào hiệu nghiệm bằng nói với chính lương tâm con người, và sứ điệp ấy hầu như trở thành điều họ không thể cưỡng lại được khi nó được một người đầy đủ thẩm quyền nói ra.
b. Dan Israen biết rõ ràng từ bốn trăm năm qua, tiếng nói tiên tri đã im bặt. Họ dang chờ một tiếng nói thật sự từ Thiên Chúa đến và họ đã nghe được nơi Gioan.
Trong mọi lĩnh vực của đời sống, người ta dễ nhận ra ai là nhà chuyên môn. Một nhạc sỹ vĩ cầm nổi tiếng kể rằng ngay khi Toscanini đứng lên chiếc bục nhạc trưởng, toàn ban cảm thấy uy quyền của con người ấy tràn qua họ. chúng ta nhận biết ngay qua một vị bác sỹ mát tay. Nghe một diễn giả thấu hiểu dẫn đề tài mình trình bày chúng ta nhận biết ngay. Gioan vốn từ Thiên Chúa đến, chỉ nghe ông nói là đủ nhận ra.
3. Thông điệp của ông hiệu nghiệm vì ông hoàn toàn khiêm hạ.
Chính ông tự đánh gía là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi thời xưa rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì là những con sông ngập bùn. Cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ điệu gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang rao giảng. Ong quên mình, sẵn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng theo ông.
4. Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng sự chú ý của dân vào một điều, một nhân vật cao cả, vượt trổi ông.
Ong bảo dân chúng rằng, qua phép rửa ông dìm họ xuống nước, nhưng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước thanh tẩy thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tấm lòng con người. Có thể dùng một hình ảnh dễ hiểu. Khi gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài, và nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: “Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông”. Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng dài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc được với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.
Người Mỹ can trường cũng ớn lạnh trước câu chuyện Con Ngựa tốc hành. Những kỵ sĩ gan dạ và dai sức chở thơ trên lưng ngựa trên đường giữa St. Joseph Misscari và Sacramento. California, Wming, Utah và Nevada. Những chành kỵ sĩ trẻ phóng nước đại, chạy hết tốc lực từ trạm này đến trạm kế cách nhau chừng 25 km (15 miles), nhảy lên lưng ngữa và sẵn sàng lên đường trong 2 phút. Thường mỗi người phải chạy chừng 100 km (65 miles) mỗi ngày. Có khoảng 190 trạm, 400 người giữ trạm, hơn 400 con ngựa và 80 kỵ sĩ. Họ kiếm được từ 100 đến 150 đôla mỗi tháng, đồng lương khá cao lúc bấy giờ. Thường họ mang theo 2 cây ru-lô và một thanh kiếm để phòng mọi da đỏ và kẻ cướp. Họ chạy ngày đêm bất kể mọi thời tiết để hoàn thành cuộc hành trình 2.000 dặm (chừng 3.000 km) trong một tuần lễ tới 10 ngày. Lúc đầu tiên tem là 5 đôla, sau này còn 1 đôla.
Việc hoàn thành mạng lưới điện thoại giữa hai bờ biển đông và tây đã chấm dứt con ngựa tốc hành khoảng tháng 10 năm 1861. Sau một năm rưỡi hoạt động. Tuy nhiên câu chuyện của những kỵ sĩ gan lì này còn làm chúng ta ớn lạnh.
Chúng ta chợt nghĩ tới những sứ giả đưa tin này khi nghe Chúa tuyên bố: “Ta sai sứ giả đưa tin đi rước con. Họ sẽ dọn đường của Chúa”. Sứ giả đưa tin này là Gioan Tẩy giả, người đưa tin về Đấng cứu thế. Chúa Giêsu Kitô, Gioan tẩy giả, người đưa tin gan dạ, theo cách thức Ngài đã loan báo cho thế giới: “Người đó, Đấng chúng ta đang ở đây”. Tin Mừng qua lớn lao và người đưa tin quá vĩ đại.
Từ đó đã có hàng triệu người đưa tin, nam, nữ, mọi lứa tuổi, dân tộc và lối sống. Họ đã loan báo và dọn đường cho Chúa Kitô đến trong tâm hồn nhân loại.
Đấng ngạc nhiên hơn con ngựa tốc hành, có nhiều nhà truyền giáo đã đem chân lý của Chúa xuyên qua các đồng cỏ, núi sông. Từ các Tông đồ, biết bao người đã rảo bước khắp nơi, hy sinh mạng sống để loan báo một tin quan trọng: “Đức Giêsu, Đấng cứu độ trần gian đã đến”.
Tin Mừng ban sự sống này phải được loan báo, phải được đem đến cho từng người trên trái đất. Các nhà truyền giáo không thể hành động đơn độc, bạn và tôi phải cộng tác với họ.
Khi Chúa phán: “Ta sai sứ giả”. Chúa muốn nói bạn và tôi cũng như Gioan tẩy giả. Bạn và tôi có nhiệm vụ quan trọng là nói với tha nhân về đức Kitô.
Có nhiều phương cách để thi hành điều đó. Cuộc sống thường ngày của chúng ta là Tin Mừng, lòng bác ái, cuộc sống lương thiện, trung thành với gia đình. Việc làm của chúng ta, cộng đoàn, thánh đường của chúng ta là Tin Mừng nói cho mọi người rằng Chúa Kitô ở ngay nơi đây với chúng ta.
Sự có mặt của bạn đây là một Tin Mừng: bạn tin Đấng cứu thế của trần gian hiện diện nơi đây, lúc này đây, trên bàn thờ này.
Chúng ta phải là những kỵ sĩ trên con ngựa tốc hành hiện đại. Hãy làm mọi cố gắng, mọi hy sinh để nói cho thế giới: đức Kitô ở nơi đây.
Ý chính: Gioan Tiền hô làm chứng cho Chúa Giêsu:”Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”(câu 8)
1. Người ta cứ tưởng Gioan là ánh sáng: Tưởng ông là Messia (câu 20), là Elia, là một ngôn sứ (câu 21).
2. Gioan nói mình không phải là ánh sáng: mà chỉ là một tiếng hô dọn đường (câu 23), là người không đáng cởi quai dép cho Đấng Kitô sắp đến (câu 27).
3. Bằng cách nói úp úp mở mở, Gioan khơi lên trong lòng thính giả một sự tò mò để họ chờ mong Chúa Giêsu: Ngài đang đến cho nên Gioan đang dọn đường (câu 23), Ngài “đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (câu 26), Ngài đến sau Gioan nhưng cao trọng hơn Gioan (“tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”câu 27).
B… nẩy mầm.
1.Việc làm chứng của Gioan Tiền hô gồm 3 giai đoạn:
a/ Do sống tốt, Gioan được người ta qúy mến, thậm chí còn được người ta tưởng là Đấng Messia.
b/ Khi đó Gioan khiêm tốn nói mình không phải là Messia,
c/ Rồi giới thiệu Đấng Messia thật cho người ta biết.
2. Nếu vì thích được khen ngợi mà Gioan nhận vào mình những đánh giá của người khác, thì ông đã bỏ ất dịp làm chứng cho Chúa Giêsu. Muốn cho Chúa Giêsu “lớn lên” thì Gioan phải “nhỏ đi”.
3. Trong một năm, có lẽ thời gian quanh lễ Giáng sinh là thời gian người ta chú ý tới đạo nhiều nhất. Cho nên đây là thời gian thuận tiện nhất để ta làm chứng cho Chúa.
4. Một nhóm trẻ thuộc nhiều quốc tịch đang bàn nhau làm thế nào để phổ biến Tin mừng cách rộng rãi nhất. Có người bảo dùng đài phát thanh và truyền hình, có người bảo dùng báo chí v.v. Một cô gái Châu Phi lên tiếng:
- Ở xứ chúng tôi, khi chúng tôi muốn loan Tin mừng tới một nơi nào thì chúng tôi gửi đến đấy một gia đình Kitô hữu tốt để gia đình này sống giữa những người khác.(Barclay)
Bài Thánh Kinh Cựu Ước và bài Phúc Am của Chủ nhật II Mùa Vọng năm B tập trung vào việc dọn đường cho Thiên Chúa đến. Còn thư của Thánh Phêrô dạy chúng ta biết phải dọn đường cho Chúa như thế nào. Chúng ta hãy đi tìm sứ điệp của Lời Chúa để đón nhận và đem ra thực hành cho đẹp lòng Chúa.
1. Tại sao phải dọn đường đón Chúa?
- Đối với dân Ítraen thời ngôn sứ Isaia (đệ nhị, tức chương 40-55): Sống trong cảnh lưu đầy, tâm trí dân Íraen luôn mong đợi ngày được giải thoát, trở lại quê hương bản quán thân yêu. Isaia luôn khơi dạy trong lòng họ niềm hy vọng về ngày giải thoát ấy. Và để cho ngày mong đợi ấy mau đến, Isaia thúc đẩy dân tích cực chuẩn bị đường cho Chúa đến. Nghĩa là đối với Ítraen thì dọn đường cho Chúa là để Chúa đến giải thoát dân khỏi cảnh lưu đầy khổ cực - Đối các tín hữu thuộc cộng đoàn Máccô: Các tín hữu thuộc cộng đoàn Máccô đều biết rằng Thiên Chúa đã đến trong Đức Giêsu Kitô. Thánh Máccô tường thuật lại lời kêu gọi dọn đường cho Chúa của Gioan Tẩy Gỉa để giúp người tín hữu hiểu rằng việc Đức Giêsu đến đã được ngôn sứ Isaia loan báo và chuẩn bị, và Gioan là ngôn sứ cuối cùng có sứ mạng loan báo và kêu gọi người Do Thái thay đổi cách sống bằng cách ăn năn sám hối và chịu phép rửa để đón mừng Đức Giêsu đến.
- Đối với các tín hữu thuộc cộng đoàn Phêrô và các cộng đoàn tiên khởi: Ai nấy đều biết rằng Thiên Chúa đã đến trong Đức Giêsu Kitô. Thánh Phêrô chỉ dạy cho họ biết phải sống như thế nào để dọn đường đón Chúa: ăn năn hối cải, tỉnh thức, sống đạo đức thánh thiện, có cuộc sống tinh tuyền, không có gì đáng trách.
- Đối với các Kitô hữu ngày nay: Chúng ta đều tin rằng Đức Giêsu Kitô đã được Thiên Chúa sai đến khi Người nhập thể làm người. Chúng ta cũng tin rằng Người sẽ đến trong ngày Quang Lâm. Chúng ta còn tin rằng Người thường đến trong cuộc sống đời thường của chúng ta. Vì chưng chúng ta rất cần đến Người như chính Người đã xác định "Không ai có thể đến cùng Chúa Cha mà không qua Thày" và "Không có Thày anh em không thể làm được gì". Đức Giêsu Kitô không chỉ là ánh sáng, là sức mạnh mà còn là đường giúp chúng ta đi tới Thiên Chúa. Hơn bao giờ hết ngày nay chúng ta cần có ánh sáng và sức mạnh của Đức Giêsu và cần đến chính Người để sống và làm chứng cho Tin Mừng. Nhìn vào chứng từ anh dũng, quả cảm của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta rút ra được bài học này: Có Chúa ở trong tâm hồn và cuộc đời là có sức mạnh phi thường, vượt khả năng tự nhiên của con người. Đàng khác, dù chúng ta có hoàn hảo đến mấy đi nữa, thì chúng ta cũng còn nhiều việc phải làm để dọn cho Chúa một con đường phẳng phiu, dễ đi. Dù chúng ta đã có Chúa trong tâm hồn và trong cuộc sống của mình rồi, thì chúng ta vẫn cần phải đón Chúa nhiều hơn nữa, để Chúa vào sâu hơn nữa trong lòng và trong cuộc đời của chúng ta. Chỉ đến khi nào chúng ta nói được như Thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi" thì lúc đó chúng ta mới có quyền dừng lại trong quá trình dọn đường và đón Chúa.
- Đối với xã hội Việt Nam và thế giới loài người hiện nay: Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, con người đang rất cần đến Thiên Chúa. Nhưng điều mâu thuẫn là Thiên Chúa lại đang bị con người loại trừ một cách quyết liệt. Bên cạnh những mảng "sáng" là các điều tốt lành phù hợp với Ý Chúa chúng ta thấy nhiều mảng "tối" đáng báo động. Nào là chiến tranh, hận thù, tranh giành quyền lực, nghèo đói, bệnh tật (nhất là HIV-AIDS), áp bức bóc lột, buôn bán: ma túy, phụ nữ trẻ em và vũ khí. Nào là các tệ nạn tham nhũng, hối lộ, biển thủ công quĩ, chuyên quyền, bao che, dối trá, đồng lõa với tội ác, thiên tai đủ loại. Con người đang khát khao cuộc sống an bình, hài hòa, trong lành, yêu thương và hạnh phúc mà chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng ban những ơn huệ ấy cho họ. Thế nhưng họ chối bỏ Người và không sống theo lương tâm là tiếng nói của Người.
2. Chúng ta dọn đường đón Chúa bằng cách nào?
Ít nhiều chúng ta cũng hiểu nghĩa bóng của các từ "thung lũng", "núi đồi", "khúc quanh co", "đường lồi lõm". Những từ này ám chỉ những tình trạng, những cách sống không phù hợp hoặc đối nghịch với tinh thần Phúc Am của Chúa. "Thung lũng" là những đam mê lạc thú, giầu sang, danh vọng và quyền lực; "Núi đồi" là những lối sống kiêu căng, ngạo mạn; "Khúc quanh co" là những tâm địa gian manh, không trung thực, giả hình; "Đường lồi lõm" là cuộc sống đầy thiếu sót, yếu hèn, lỗi phạm, thiếu tin- cậy-mến đối với Thiên Chúa, thiếu bác-ái-yêu-thương đối với tha nhân.
Có nhiều cách dọn đường đón Chúa: Trước hết là chúng ta nài van cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn khó nghèo, siêu thoát, trong sạch, khiêm hạ, chân thật và sốt mến. Thứ đến là chúng ta không ngừng nỗ lực rèn luyện để có được một tâm hồn như thế. Sau cùng là chúng ta luôn lấy Phúc Am làm chuẩn mực để kiểm điểm đời sống của mình mỗi ngày.
* SỐNG LỜI CHÚA
1. Mỗi ngày trong tuần, con cầu xin Thiên Chúa ban cho con một tâm hồn khó nghèo, siêu thoát, trong sạch, khiêm hạ, chân thật và sốt mến để Chúa đến ngự trong tâm hồn con.
2. Mỗi ngày trong tuần, con thực hiện một số việc hy sinh, bỏ mình, phục vụ, yêu thương bác ái để dọn đường đón Chúa.
* CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha luôn mời gọi con dọn đường đón Chúa, để Chúa ở bên và ở trong chúng con, để con sống thân mật gần gũi với Chúa!
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa hãy đến! Xin Chúa đến với con, đến với mọi người, nhất là những người còn chưa biết Chúa và những người không sống theo luật của Chúa là tiếng nói lương tâm và Tin Mừng.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới các tâm hồn và bộ mặt trái đất, xin Chúa đổi mới tâm hồn và cuộc sống con cho phù hợp với Thiên Chúa.
Các Thầy đang bước vào tuần tỉnh tâm. Cả giáo phận đều hiệp ý cầu nguyện cho các Thầy.
Xin gởi đến các Tân Chức một vài tâm tình .
Cha giáo Phêrô Nguyễn Khảm có kể lại : Trong ngày lễ phong chức có người tặng cho Ngài một bức tranh người phu quét lá. Hỏi tại sao lại tặng bức tranh này ? Người bạn trả lời : vì Linh mục được ví von như là người phu quét lá .
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết nên giai điệu rất dễ thương :
Người phu quét lá bên đường Quét cả nắng chiều quét cả mùa thu.
Thật là thơ mộng một hình tượng nghệ thuật. Người phu quét lá nhọc nhằn mưa nắng nhưng vẻ đẹp lại tỏa lan khi quét cả nắng chiều, quét cả mùa thu.
Trong thực tế lại chẳng thơ mộng chút nào. Hàng ngày những người phu quét lá bên đường, dù mưa dầm hay nắng hạn, họ luôn có mặt từ sớm tinh mơ trên mỏi nẻo đướng thành phố để dọn đường sạch sẽ cho ngàn ngàn con người sắp đi qua. Mỗi ngày họ làm việc thầm lặng nhẫn nại với niềm vui làm sạch đường phố. Tôi nghĩ đến cuộc đời Linh mục. Đó là những người dọn đường cho con người đến với Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người. Hình ảnh Linh mục xem ra cũng thơ mộng. Thơ mộng vì nhẹ nhàng thanh thoát và chẳng mấy lo toan. Nhưng thực tế trong cái thơ mộng ấy lại chất chứa gánh nặng của trách nhiệm.Trách nhiệm làm Kitô hữu với anh chị em, làm Linh mục cho anh chị em mình theo kiểu nói của Thánh Augustinô.
Mỗi buổi sáng khi vừa thức dậy, người Linh mục phải lo nói gì với anh chị em của mình, chuẩn bị của ăn Lời Chúa cho cộng đoàn. Qua Thánh lễ, qua các bí tích, Linh mục dọn tâm hồn các tín hữu gặp gỡ Chúa và Chúa đến gặp gỡ họ. Sứ vụ ấy cao đẹp lắm bởi nhận được từ Chúa Kitô, từ Giáo hội. Sứ vụ ấy nặng nề lắm bởi vừa phải chu toàn trách vụ riêng vừa phải chăm lo phục vụ Dân Chúa. Sứ vụ càng cao đẹp Linh mục càng thấy mình bất xứng. Sứ vụ càng phức tạp Linh mục càng thấy mình giới hạn.
Khi đọc lại trình thuật ơn gọi các Ngôn sứ lớn trong Cựu ước sẽ thấy rõ điều ấy.
- Ông Môisen, người chăn cừu cho nhạc phụ Yethrô. Có một lần ông lùa đàn cừu tận núi Khoreb, bỗng nhiên ông nhìn thấy một quang cảnh hùng vĩ. Bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi. Bị cuốn hút trong khung cảnh hùng vĩ ấy, ông chạy đến để nhìn xem. Khi ông tới gần, một tiếng nói uy nghiêm từ bụi gai tuyên phán : Chớ lại gần, cởi dép ra vì đất ngươi đang đứng là Đất Thánh.
- Isaia trong một thị kiến đã nhìn thấy Đức Chúa trong một khung cảnh huy hoàng của Đền thờ. Ông thốt lên với tất cả nổi kinh sợ : Khốn cho tôi vì môi tôi nhơ uế. Nhưng khi được Thiên Thần lấy than hồng từ Tế đàn và đặt vào môi miệng ông, nghe Chúa nói : "Ta sẽ sai ai "? Ông thưa : "Lạy Chúa , này con đây xin hãy sai con ".
- Giêrêmia khi được Chúa gọi ông tìm cớ thoái thác nhưng lại có một nỗi mê say như ngọn lửa cháy bùng chất chứa trong xương tủy, muốn nén lại mà không nén được.
Các Ngôn sứ luôn có tâm trạng đối kháng, một đàng là kinh hãi đến run sợ trước sứ vụ Thiên Chúa trao, đàng khác sứ vụ ấy lại cuốn hút đến mê say.
Tại sao phải kinh khiếp và run sợ ?
Nổi run sợ phát xuất từ cảm nhận cùng một lúc sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa và thân phận tội lỗi của mình. Cảm nhận khoảng cách tuyệt đối giữa Thiên Chúa Chí Thánh và con người yếu đuối; giữa sứ vụ trọng đại và thân phận hèn mọn bé bỏng của mình. Ý thức khoảng cách ấy là cho người ta run sợ. Nhưng nó lại là một cuốn hút đến mê say. Như Môisen bị cuốn hút bởi bụi gai bốc cháy mà không thiêu rụi. Như Isaia mê say sự thánh thiện của Thiên Chúa. Như Giêrêmia cảm nhận lòng mình nóng bỏng tựa thiêu đốt.
Các Ngôn sứ đã khám phá ra tiếng gọi và lời kêu mời của Thiên Chúa đã trở thành lẽ sống của các Ngài.
Các Tân Chức cũng cảm nhận được sự bé nhỏ, yếu đuối hèn mọn của mình. Lời Thiên Chúa như là động lức mạnh mẽ "Ta sẽ ở với con" ( Xh 3,12). Giữa những run sợ, âu lo trước sứ vụ Linh mục cao cả, Lời Chúa luôn xác quyết : đừng sợ, Cha luôn ở với con.
Lời Thiên Chúa nói với Môisen giúp ông chu toàn sứ vụ. Chúa cũng nói với các Tân Chức như thế.
Qua Bí Tích Truyền Chức các Tân Chức sẽ được thánh hiến thuộc trọn về Chúa.
Lời của bài ca Từ Ngàn Xưa của Linh mục nhạc sĩ Kim Long muốn nói về cuộc đời Linh mục luôn có ơn Chúa phù trợ đỡ nâng.
Từ bụi tro Chúa nâng con lên hàng khanh tướng,và gọi con là bạn hữu thân tình. Ban muôn ơn thiêng dẫn đưa con,trên dương gian vương ngàn nguy khó. Này hồn con nào biết lấy chi báo đền.
Lời đẹp, ý cao sang. Chúa nâng con lên từ bụi tro, cho làm bạn hữu thân tình vàban muôn ơn thiêng.
Người Linh mục có Chúa trong cuộc đời và trở nên người dọn đường, dọn tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa. Như thế Linh mục là trung gian giữa nhân loại và Đấng Tối Cao. "Vì vậy một bên Linh mục phải nắm bàn tay Thiên Chúa, còn bên kia Linh mục nắm chặt lấy bàn tay con người, để rồi đặt bàn tay con người vào bàn tay Thiên Chúa cho tình yêu được đơm bông kết trái. Chính cái thế tay trong tay này là điều người tín hữu mong đợi nơi Linh mục" (Trích trong Người tín hữu của Gã Siêu )
Cái thế tay- trong- tay ấy đòi hỏi Linh mục phải gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Nếu Linh mục rời bỏ một trong hai bàn tay. Không nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa hay không nắm chặt lấy bàn tay con người thì lúc bấy giờ Linh mục không chu toàn sứ vụ của mình.
- Gắn bó với Thiên Chúa là bổn phận hàng đầu của Linh mục. Linh mục không ngừng đem Chúa đến cho mọi người và để là người đem Chúa đến thì bản thân Linh mục phải là người có Chúa trước đã. Có Chúa trong tâm hồn, có Chúa trong cuộc đời vì Linh mục không thể cho người khác cái mà mình không có. Đức Kitô phải chiếm chỗ nhất trong trái tim linh mục.Đức Kitô là thần tượng, là lẽ sống của Linh mục. Đức Kitô là trọng tâm mọi hoạt động của đời linh mục.
- Gần gũi với con người, chia sẻ những lo lắng, cảm thông những khó khăn vất vả và tận tình giúp đỡ những cần thiết để rồi từ đó Linh mục chỉ cho con người nhận thấy bàn tay dịu hiền và trái tim nhân hậu của Thiên Chúa .
Các Tân Chức sẽ lãnh nhận sứ vụ Linh mục, sứ vụ dọn đường cho Chúa trong suốt hành trình dài làm người phu quét lá.Tương lai thật đẹp đang mở ra với những niềm vui và hạnh phúc. Chắc chắn những khó khăn những thử thách đang đón đợi. Bởi vậy lời cầu nguyện, sự đỡ nâng của cộng đoàn Dân Chúa rất cần thiết cho hạnh phúc của ơn gọi các Tân Chức.
Cầu chúc cho các Tân Chức mãi mãi thuộc về Đức Kitô. Đón nhận sự sống dồi dào nơi Đức Kitô để rồi cho đi sự sống ấy một cách phong phú qua mọi nẻo đường phục vụ đoàn chiên mà Chúa sẽ trao phó .
“Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng.”
Người chứng của Thiên Chúa thật kỳ dị không giống ai! Tại sao Thiên Chúa lại không dùng những người có thế giá để làm chứng cho Ngài có phải hiệu nghiệm hơn không?
Trong việc chọn ông Gioan ngay từ ban đầu và tách biệt ông khỏi những người chung quanh, để rồi trao cho ông một sứ mệnh rất khó khăn, Thiên Chúa muốn khẳng định với loài người rằng Ngài có đường lối hoạt động hoàn toàn độc lập với cách của người trần, nếu không muốn nói là trái ngược! Chỉ một mình ông Gioan phải đối đầu và thách thức với cả dân tộc cùng hàng ngũ lãnh đạo dân Do-thái. Tuy ông rao giảng với đầy uy quyền, xong ông chẳng cần mang đầy đủ những dấu hiệu hợp thời như xã hội mong đợi! Phải là một người thuộc dòng hoàng tộc ăn bận sang trọng đầy thế lực và giàu nứt đố đổ vách.
Thiên Chúa không muốn dùng cách mà người đời xem là khôn ngoan: “ride with the tide” hay a dua, hùa theo đám đông! Ngài có sức mạnh riêng của Ngài, sức mạnh của Chân Lý, chứ không phải sức mạnh của số đông dễ bị xách động “lấy thịt đè người” vẫn thường đổi trắng thay đen theo thị hiếu, “nay thế này, mai thế nọ!”
Khi nào loài người không còn muốn sống theo khuôn phép luật thánh của Thiên Chúa, nhưng ham mê buông tuồng theo thị hiếu riêng, là họ đang làm những điều sai quấy đáng quở phạt. Với tình thương yêu đại lượng, Ngài gửi ngôn sứ đến nhắc nhở và cảnh cáo, vì Ngài không muốn nhìn thấy con người tự đưa mình vào con đường chết, và Ngài phải có thái độ cứng rắn đề răn dạy họ. Nếu Ngài dùng phương thế của loài người, thời Ngài sẽ bị lệ thuộc vào sự thao túng của họ. Hơn nữa Thiên Chúa chẳng bao giờ có thể dùng cách thế khôn ngoan của loài ngườI chính vì Ngài không ở cùng trình độ với họ nhưng vượt trổi muôn trùng “như trời cao hơn đất!”
Chính vì thế Ngài đã dùng một người không ai ngờ để thực hiện công tác quan trọng của Ngài. Một người khác hơn mọi người để gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh: hãy ăn ăn hối cải, chuẩn bị tâm hồn chào đón Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Đời xưa Thiên Chúa đã hành xử như thế, ngày nay Ngài vẫn tiếp tục thực hiện tôn ý của Ngài như vậy. Ngài không dùng bạo lực hay cậy nhờ những kẻ quyền thế công bố chương trình của Ngài, nhưng Ngài muốn nhờ những tâm hồn đơn sơ bé mọn loan truyền sứ điệp yêu thương của Ngài cho mọi dân nước.
Những tâm hồn ấy là mỗi người tín hữu chúng ta, nếu ai biết quảng đại đáp lại tiếng mời gọi của Ngài. Và đừng bao giờ tìm thánh ý Chúa ở giữa đám đông của thời trang nóng bỏng ồn ào, nhưng hãy biết lắng nghe tiếng Ngài trong sa mạc tỉnh lặng của tâm hồn.
Có tiếng hô trong Sa mạc, Hãy mở một con Đường cho Chúa. Như Mục Tử, Ngài chăn giữ đoàn chiên.
God is near. A voice cries out: in the Desert prepare the way of the Lord. Like a Shepher He feeds His flock.
* Bài đọc 2: 2Phêrô 3, 8-14= Chúa không chậm trễ.
Kỳ thực Ngài kiên nhẫn với anh em, vì Ngài không muốn cho ai phải diệt vong.
The Lord do not delay. Rather, He shows you generous patience, since He wants none to perish.
* Tin Mừng (Gospel): Mác-cô 1, 1- 8= Ông Gioan Tẩy giả xuất hiện trong hoang địa.
Thánh Má-cô loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa; ông giới thiệu về thánh Gioan-Tẩy giả.
John the Baptizer appeared in the Desert. Mark announces his Gospel as the God News of Jesus Christ, the Son of God, he introduces John the Baptizer.
A. Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Reflections, live out and share )
1/ Chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ I-sai-a: " Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. " Ngày nay, Chúa cũng sai nhiều Gioan Tiền Hô nói năng, đi lại trước mặt tôi để chỉ bảo,làm gương ... qua Giáo hội và những người chung quanh. Tôi có nhìn thấy và lắng nghe để sửa sai không?
In Isaiah the prophet, it is written: I send My messenger before you to prepare your way. (Mc. 1, 2)
2/ Thánh Gioan Tiền Hô giảng rằng: " Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài. " Đức tính khiêm nhường rất cần thiết phải có của mọi Tín hữu Kitô trong việc phục vụ Chúa hôm nay ở mọi nơi, mọi lúc. Trong môi trường hoạt động, bạn thực hiện khiêm tốn thế nào?
"One more powerful than I is to come after me. I am not to stoop and untie His sandal straps." (Mc. 1, 7)
3/ Khi tuyên báo về Ngày Giải Thoát, tiên tri Isaia nói: " Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bat xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng ..." Biết bao công trình vật chất và âm mưu ngạo nghễ của con người đang bị đổ nát, diệt vong như mây khói. Tôi cần dẹp ngay những gì làm cản trở Chúa đến?
Every valley shall be filled in. every mountain and hill shall be made low. The rugged land...a plain. (Is. 40, 4) 4/ Thánh Phêrô loan báo như sau: " Nhưng ngày của Chúa đến như kể trôm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan... " Ngày ngày bạn vẫn thấy đài, ti-vi, báo chí thông báo nhiều vụ hỏa hoạn thiêu hủy, núi lửa, động đất khắp nơi... Tại sao bạn cần xem xét lại chính mình và hạnh phúc gia đình?
The day of the Lord will come like a thief, and on that day...the elememnts will be destoyed by fire... (2Ph.3, 10)
B- Câu Kinh Thánh kêu gọi tội chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God's word )
... HỌ THÚ TỘI VÀ ÔNG LÀM PHÉP RỬA CHO HỌ TRONG SÔNG GIO-ỊAN. ( Mc. 1, 5 ) ...They were being baptizer by him in the Jordan River as they confessed their sin.
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để tỏ lòng Sám hối: ( So what am I doing / For Action )
a/ Tôi cần dẹp ngay kiêu căng, hờn giận với một người trong gia đình và với người bạn ngoài xã hội.
b/ Bạn có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành.
D. Tôi cầu nguyện và Sống Sám hối lời tôi cầu nguyện: ( I pray and practice / Pray in Action )
1/ Lạy Cha, thánh Gioan Tiền Hô đã kêu gọi con tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Xin cho con thực tâm trở vể với Chúa bằng những hành động cụ thể, thú lỗi với nhau ngay trong gia đình và giáo xứ.
2/ Thánh Phêrô đã báo cho con biết ngày Chúa đến như kẻ trộm, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan. Xin cho con đừng ham mê vất chất, của cải chóng qua để luôn sẵn sàng đón Chúa.
Lời hay ý đẹp:
BẠN CÓ THỂ LÀM ĐIỀU MÌNH THÍCH NẾU BẠN LÀM VỪA LÒNG CHÚA You can do what you pleased if what you do pleases God
Sứ điệp phụng vụ Chúa Nhật II MV hôm nay mời gọi chúng ta tập chú vào những hành vi đức tin mà cả sứ ngôn Isaia lẫn Thánh Gioan Tẩy giả đều minh họa bằng những hình ảnh sống động : “Trong sa mạc hãy mở một con đường cho Thiên Chúa…thung lũng sẽ lấp đầy…núi đồi sẽ bạt xuống” (BĐ 1)…Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội…” (TM)
Sửa dọn những con đường ấy chính là quyết tâm đứng lên dẹp bỏ những tính hư tật xấu, mài dũa đi những góc cạnh, những mũi nhọn của ích kỷ, kiêu căng, là uốn nắn con tim và ý chí theo những kích thước của Tin Mừng, của bác ái yêu thương…
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta…
Giảng Lời Chúa :
Ở giữa khung trời Mùa Vọng, hình ảnh “con đường”, “dọn đường”… luôn thấp thoáng âm vang trong ca kinh lời nguyện của mọi tín hữu : “Có tiếng kêu từ nơi hoang vắng mau dọn đường cho Chúa…”, “dọn đường cho Chúa đi, dọn đường cho Chúa đi”…
Có một điều chắc chắn, “con đường của Mùa Vọng” không bao giờ là con đường nhằm gợi lên một nổi u uất buồn tênh hay dẫn lối vào vô vọng bế tắc như kiểu lời ca trong khúc nhạc “Đời gọi em biết bao lân” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn :
“Đi về đâu hỡi em, khi trong lòng không chút nắng, giấc mơ đời xa vắng, bước chân không chờ ai đón. Một đời em mãi lang thang, lòng lạnh băng giữa đau thương”.
Con đường của Mùa Vọng là con đường dẫn lối đến “mùa xuân hy vọng”, là con đường khơi dậy niềm tin yêu; là con đường gọi mời một thái độ đức tin, một tác động của sự sống : một mở ra để đón nhận, một đổi đời để gặp gỡ.
1. Đã có một Tin Mừng như thế :
Ở giữa bối cảnh một Giêrusalem hoang tàn đang bị ngoại bang Babylon giày xéo, giữa một đoàn dân cúi đầu trước kiếp khổ nhục lưu đày, lời của Sứ ngôn Isaia vang lên như một Tin Mừng vĩ đại : “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiêng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên đừng sợ, hãy bảo các thành Giuđa rằng : “Kìa Thiên Chúa các ngươi”…” (BĐ 1). Đó là câu chuyện của thế kỷ VI trước công nguyên. Trong khi đó, cũng tại vùng đất Palestina khô cằn sõi đá, vào những năm đầu Công Nguyên, Philatô, tên tổng trấn Rôma đang cai trị Ít-ra-en bằng độc tài khát máu, thì Gioan ẩy Giả, trong vóc dáng của một “đạo sĩ rừng xanh”, một tiên tri lập dị đã lặp lại lời rao giảng của I-sa-ia :”Có tiếng người hô trong hoang mạc : hãy dọn đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi…” (TM).
Sau những lời sấm ngôn đó, quả thật đã có gì hiện thực ?
Lịch sử của dân tộc Ít-ra-en đã ghi rằng : Khoảng năm 539 trước công nguyên, Vua Kyro của Ba-Tư chiếm Ba-by-lon và đã ra sắc chỉ cho phép đoàn dân Do Thái lưu đày được hồi hương, Giê-ru-sa-lem được tái thiết. Hồi đó, một nỗi vui tràn trào dâng ngập lòng dân Ít-ra-en, họ đã cảm nhận tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho họ quá thực, quá rõ như có thể mắt thấy tai nghe mà trích đoạn sách Isaia trong BĐ 1 hôm nay đã minh họa :
“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa,
Tập trung cả đoàn dưới cánh tay.
Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
Bầy chiên mẹ cũng tận tình dẫn dắt.”
Trong khi đó, vào những “năm thứ 15 dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô” sau những lời Gioan Tẩy giả loan báo bên bờ sông Gio-đan, đã có một “Giê-su người Na-gia-rét” xuất hiện với “quyền năng trong lời nói cũng như việc làm”; và rồi người ta đã kháo láo với nhau : “ở làng bên có kẻ mù thấy, kẻ què đi”, “bên thành phố nọ có mấy người phung cùi lành sạch, có kẻ bất toại đứng thẳng lên”, “và ở đâu đó, tại làng Bêtania thì phải, có chàng Lagiarô chết 4 ngày xác thịt đang thối rửa sống lại, cũng thế, ngay trên con đường thị trấn Naim, một thanh niên đang nằm trong quan tài để được an táng đã được phục sinh”; “và kìa, ngay giữa hoang mạc cả hàng ngàn người đói mệt được no nê chỉ với dăm chiếc bánh và vài con cá…
Rồi người ta lại nghe; ông trưởng tuy thuế vụ Giakê mang tiếng tham nhũng, xảo quyệt tham lam đã cải tà qui chánh, cô gái làng chơi Mai-đệ-Liên đã trở lại hoàn lương, anh chàng Lê-vi hay ngồi ở bàn thu thuế đã bỏ nghề đi làm sứ đồ, và người đàn bà nhà quê tội nghiệp lỡ phạm tôi ngoại tình được cứu thoát khỏi bị ném đá…
Và cứ như thế, toàn dân đâu đâu cũng đuợc nghe một “TIN MỪNG”, “Tin mừng Nước Thiên Chúa” đã đến, “Tin mừng Thiên Chúa là Cha yêu thương”, “Tin mừng về một Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta”, “Tin mừng về một cuộc tái sinh vào đời sống mới”, Tin mừng về một cuộc sống phục sinh sau cuộc đời dở dang tại thế nầy, Tin mừng về một thế giới được qui tụ thành một gia đình con cái Thiên Chúa…
2. Hãy mở lòng ra đón nhận Tin Mừng :
Hôm nay, sau 2000 năm, chúng ta lại được nghe lại những lời của ngôn sứ : “Hãy dọn đường cho Chúa đi, hãy mở đường cho Chúa đi !”. Và hy vọng điều gì sẽ xảy ra đây ? Những phép lạ, những cuộc đổi đời, những số phận bi đát tối tăm được nhìn thấy ánh sáng và hy vọng, những trái tim đổ nát hoang tàn được chữa lành băng bó ?
Vâng, thế giới hôm nay cũng mang trọn những dấu vết bất toàn của thế giới cách đây 2000 năm trước : một thế giới đang hằn sâu những dấu vết của nô lệ, của lưu đày, của què quặt, của đui mù, của cùi phung, của đói khát, một thế giới như một “Giê-ru-sa-lem hoang tàn vắng bóng Thiên Chúa”, vắng bóng những giá trị nhân bản và Tin Mừng đích thực để thay vào đó là hưởng thụ, dục lạc; một thế giới như một Ít-ra-en lưu đày nô lệ khi thay vì hòa bình an vui lại tràn lan bạo lực, khủng bố, chiến tranh, thay vì yêu thương, huynh đệ hiệp nhất, lại là ích kỷ, hận thù, cá nhân chủ nghĩa, thay vì được xây dựng trên nền tảng là các gia đình chung thủy, thánh thiêng, lại là các cuộc ly dị, ly thân, phá thai, suy đồi luân lý… Trong một thế giới như thế, quả thực chúng ta cần có “phép lạ xảy ra”, cần có “Tin Mừng chợt đến”.
Và trong thế giới đó có chúng ta. Những giám mục, linh mục, tu sĩ, nam nữ giáo dân. Có ai trong chúng ta lại không nhìn thấy mình trong hình ảnh Giuđa phản bội, Phêrô chối Chúa, Gakê thu thuế tham lam, biệt phái kiêu căng giả hình, tư tế độc đoán tham quyền cố vị…Nói cách khác, thế giới hôm nay, chúng ta hôm nay đang cần Chúa Giêsu và Tin Mừng cứu độ của Ngài. Và như thế, không còn con đường nào khác ngoài việc chúng ta phải mạnh dạn “đón mời Đức Kitô đến”, chúng ta phải mở rộng cõi lòng để cho những hạt giống Tin Mừng của Ngài được gieo vãi, hạt giống khó nghèo, yêu thương, xây dựng hòa bình, hiền lành, trong sạch…hạt giống khiêm hạ và phục vụ yêu thương, hạt giống khoan dung và tha thứ. Lời đầu tiên của Đức cố Giáo hoàng Gioan-Phaolô II khi Ngài lên ngôi Giáo Giáo hoàng, và cho đến mãi hôm nay Giáo Hội vẫn lặp lại đó là : “Anh chị em đừng sợ…Hãy mở toang mọi cánh cửa để đón nhận Đức Kitô”.
Phải chăng, Sứ điệp Mùa Vọng hôm nay cũng đang gọi mời ta mở lòng đón gặp Chúa Giêsu như thế.
3. Để đón nhận tin Mừng, phải có những con đường như thế :
Tuy nhiên, nếu cuộc hành trình từ viễn xứ lưu đầy về lại cố hương Giê-ru-sa-lem là cả một cuộc xuất hành nhiêu khê, đòi hỏi nhiều gian nan, từ bỏ, khó nhọc, phấn đấu…Cũng thế, để đón nhận Đức Kitô và sứ điệp của Ngài, luôn phải là một “cuộc xuất hành mới” cam go hơn, thử thách hơn, vất vả hơn. Thật vậy, trong cuộc lên đường để gặp gỡ Thiên Chúa không chỉ phải “bạt xuống nhưng đồi núi của kiêu căng, hợm hĩnh, của tham vọng ngông cuồng”, mà còn phải “lấp đi những hố sâu của hận thù chia rẽ, ghen ghét giận hờn, đố kỵ, cách ngăn”. Có nghĩa là để đón nhận Đức Kitô và sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa, chúng ta phải “vác thập giá”, phải “đổi đời” (metanoia), phải sửa dọn con đường thích hợp. Chúng ta cần sửa dọn “con đường tâm hồn” ta, “con đường cuộc sống” ta. Chúng ta cần sửa dọn những con đường đến với anh em, những con đường là các tương quan người với người trong gia đình, trong cộng đoàn, trong môi trường xã hội quanh ta…
Câu chuyện “con đường giữa hai cái hang” sau đây có thể là một minh họa rõ nét cho câu chuyện “dọn đường, sửa đường đón Chúa” mà chúng ta chia sẻ với nhau hôm nay :
Tại một vùng núi nọ, người ta truyền tụng cho nhau câu chuyện nầy : Ngày xưa, có hai thầy dòng quyết tâm nên thánh bằng cách chọn con đường ẩn tu. Để thực hiện việc nầy, cả hai thầy lên núi, tìm hai hang động cách xa nhau làm chỗ dung thân để qua hết cuôc đời trong thinh lặng và kết hợp với Chúa. Để cuôc sống ẩn tu đạt kết quả cao, và để khỏi bận tâm, chia trí về những "sự thế gian", cả hai quyết định, hang ai nấy ở, mỗi người môt không gian riêng, một thế giới riêng, không liên hệ, không giao tiếp với nhau và với mọi người… Rồi năm tháng qua đi. Cả hai chết lúc nào không ai biết. Hai hang động trở thành hoang phế, như nhai chiếc mồ hoang lạnh giữa rừng sâu. Thời gian sau đó, có hai tên cướp bị săn đuổi, đã thay tên, đổi họ, lần mò trốn lên núi nầy để ẩn danh tìm chút bình an cho cuộc sống thừa. Gặp được hai cái hang hoang lạnh của người xưa, cả hai nẩy sinh sáng kiến : chọn nơi đây làm chốn dừng chân để sám hối và làm lại cuộc đời. Thế là cả hai dọn sạch hang cũ và bắt đầu cuộc sống mới của những người "ẩn tu bất đắc dĩ." Chỉ khác với hai thầy dòng trước một điều là cả hai quyết định làm một con đường nối liền hai hang để thường xuyên qua lại, thăm viếng, giúp đỡ, ủi an …Dần dà, dọc theo con đường nối hai hang đã mọc đầy hoa, xung quanh hang động cảnh trí phô đầy sức sống và vẻ đẹp. Hai tên cướp năm nào giờ đây đã trở thành hai vị ẩn tu hiền lành, thánh thiện, đến nổi hương thơm thánh đức lan toả khắp vùng khiến nhiều người cất công lên núi để xin "Hai Thầy" cầu nguyện và hưóng dẫn đạo đức…Và rồi, hai "thầy tướng cướp ẩn tu" đó qua đời. Vì đời sống thánh thiện và vì có những phép lạ xảy ra cho một số người lên núi cầu xin, nên dân chúng vùng đó "tự động" phong thánh cho hai "thầy cướp ẩn tu" nầy…
Con đường đến với Thiên Chúa và đến với anh em của mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng nầy cũng phải được phát quang và trồng đầy hoa như thế. Và chỉ có những con đường “hiệp thông, chia sẻ, bác ái, khoan dung, quảng đại, tha thứ…như thế mới có thể biến những “hang đá tâm hồn” lạnh lẽo hiu quạnh của những tên cướp trở thành thánh nhân, mới biến chúng ta trở nên những Kitô hữu đích thực, mới biến thế giới quanh ta trở thành an vui hòa bình, và đặc biệt, biến Mùa Vọng, Mùa Giáng sinh năm nay trở thành một “Tin Vui đích thực” cho chính chúng ta và cho mọi người quanh ta. Amen.
Nghe đọc bài Tin mừng hôm nay, bất cứ thính giả nào cũng nhận ra một nghịch lý: Người rao giảng và sứ điệp của người đó lại được đặt trong bối cảnh hoang địa. Đã là hoang địa thì làm gì có người để nghe sứ điệp? Vậy thì tiếng kêu đó chắc chắn sẽ rơi vào thinh lặng của núi rừng thiên nhiên! Nhưng Phúc âm cũng cho chúng ta hay rất đông người từ khắp miền Giuđêa và thành Giêrusalem kéo đến để nghe Gioan Tẩy Giả rao giảng, thú nhận tội lỗi của mình và chịu phép rửa ở sông Giođan (Giođan có nghĩa là xét xử). Do đó từ "hoang địa" phải được hiểu theo một nghĩa rộng rãi hơn.
Mới đây, khi ra khỏi cửa nhà thờ tôi gặp một phụ nữ. Bà thành khẩn nói với tôi: "Thưa Cha, xin cầu nguyện nhiều cho con, con sắp phải trải qua thời gian hoang địa của đời con". Bà chẳng cần phải nói thêm: Giọng bà nói, nét mặt bà đã quá đủ để tôi đoán được vấn đề: Người đàn bà này đang phải bước qua những kinh nghiệm cực kỳ khó khăn trong cuộc sống. Kinh nghiệm đó mang nhiều hình thù khác nhau, không ai nói được là cái gì. Hay nói theo ngôn ngữ ví von: hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai (one-size-fits all = một cỡ quần áo vừa vặn cho tất cả mọi người). Đời có những chỗ quẹo bất ngờ. Nó đang xô đẩy bà này vào trong hoang địa, một hành trình gồ ghề, bà chẳng muốn và tôi cũng không ưa. Phải chăng đó là tuổi già và các bệnh tật giai dẳng? Phải chăng chồng bà vừa qua đời? Phải chăng con cái hỗn láo, bất hiếu? Phải chăng bà cảm thấy cầu nguyện khô khan và không được ủi an? Những nỗi niềm hoang địa này có khi ngắn ngủi, có lúc kéo dài, có lúc thoáng qua, có khi gay gắt. Một số là những đau khổ tinh thần khi đức tin rơi vào khủng hoảng, sa sút. Một số khác là những vật lộn về kinh tế: làm ăn thất bại, tính toán sai lầm, bạn bè xa lánh, phản bội. Dù thế nào đi nữa thì trước những hoang địa này Tin mừng hôm nay cho chúng ta hay nó là những nơi chốn mà chúng ta có thể gặp vị tiên tri của Chúa với sứ điệp chúng ta cần nghe.
Dân tộc Do thái đã quá quen thuộc với những loại hoang địa này. Bài đọc một kể lại tiên tri Isaia đã khơi dậy các kỷ niệm mà Israel đã phải trãi qua. Vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, tác giả Đệ nhị Isaia gióng tiếng an ủi những người bị đế quốc Babilon phát vãng lưu đầy. Mặc dầu đang ở thời kỳ đầu nhưng tiên tri đã nhân danh Thiên Chúa, đoan hứa sẽ có ngày trở lại quê cha đất tổ Palestin. Những hình ảnh hoang địa mà Ngôn sứ sử dụng đã gợi nhớ lại biến cố Dân tộc được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập thuở xưa. Thiên Chúa đã dẫn dắt cha ông qua sa mạc đến bến bờ tự do, thì Ngài cũng sẽ làm đúng như vậy cho những người lưu đày hiện nay. Do đó dù cuộc hành trình khó khăn, nhục nhã, đau khổ hiện thời sang Babilon thì vẫn còn hy vọng được giải thoát, và có lại tương giao mới mẻ với Thiên Chúa của Tổ tiên.
Trong hoàn cảnh hiện tại dân Israel đang bị hành hạ, tủi nhục, mất tinh thần, bị giết hại cho nên Đức Chúa đã truyền cho tiên tri phải phát ngôn dịu dàng: "Hãy an ủi, an ủi dân Ta, hãy ngọt ngào khuyên bảo Jerusalem". Chính Thiên Chúa sẽ làm cho đường lối họ đi được dễ dàng: "Trong sa mạc hãy mở một con lộ thẳng băng. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, mọi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu". Như vậy hoang địa, dù gập ghềnh, gồ ghề, khó khăn, chẳng hấp dẫn chút nào, sẽ lại trở nên phương tiện Thiên Chúa giải phóng dân Ngài. Ngài sẽ dùng "quyền lực và cánh tay dũng mãnh" thi hành điều đó, nhưng với lòng âu yếm và dịu dàng. Bởi dân Ngài đang ở trong tình thế ngặt nghèo, gian truân. Thiên Chúa sẽ như một vị mục tử nhân hiền chăn dắt bầy chiên bé nhỏ "tập trung cả đoàn dưới cánh tay, lũ chiên con, Ngài ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ cũng tận tình dẫn dắt".
Tôi lại liên tưởng đến người đàn bà bất hạnh ở trước cửa nhà thờ và tất cả những ai đang cần sự giúp đỡ. Thường thì họ gặp gỡ tôi sau kinh cầu nguyện chung, bằng một đôi lời ngắn ngủi họ đã tổng kết được những lo lắng, buồn nản của lòng mình: gia đình tan vỡ, sức khoẻ sa sút, tiền bạc thiếu thốn, thất nghiệp, con cái hư hỏng v.v...Nhưng như tiên tri Isaia tuyên bố Thiên Chúa sẽ dẫn đưa tất cả chúng ta qua sa mạc khó khăn một ngày nào đó và bằng cách nào đó, ngoài sự hiểu biết và dự kiến của mỗi người. Để rằng lúc ấy "vinh quang của Ngài sẽ được tỏ hiện." Đúng thế, theo lời thánh Phaolô: Quyền năng Thiên Chúa được cảm nghiệm rõ ràng nhất ở những hoàn cảnh yếu đuối nhất. Nhiều khi Ngài không cứu giúp tức thời, nhưng vị tiên tri tuyên bố: Thiên Chúa dịu hiền luôn luôn quan tâm đến những kẻ lưu đày, di dân đang khiếp sợ con đường "hoang địa" trước mắt.
Khi tôi viết những dòng này ở trong phòng đợi của một bệnh viện phục hồi chức năng cho các người tàn tật. Một cụ bạn lâu đời đang được khám nghiệm gẫy xương vì té ngã ở nhà. Có người nói với tôi: tuổi già chẳng phải là một cái hạn. Nhưng thực tế thì đúng là như vậy. Lúc già chúng ta sẽ thấy mình không còn như hồi còn thanh xuân, tự mình làm được hết mọi sự, lúc này già là một con người khác hẳn. Những sự việc quen thuộc bây giờ xem ra xa lạ. Chúng ta bị phát vãng sang thế giới hạn chế, lệ thuộc và mỏng manh. Hôm nay tôi có ý tưởng đó khi nhìn quanh gian phòng một lượt, toàn những cái bao bị bệnh tật. Thật rõ khổ, khi còn bé tôi thường được nghe bà nội nói bằng ngôn ngữ Italia, dịch sang tiếng Anh thì đại loại thế này: "Sau tuổi 40, mỗi ngày có một cơn đau mới". (Every day after forty a new pain). Trong vòng 40 năm trở lại đây, kỹ thuật thuốc men và nuôi dưỡng những người già cả đã tiến bộ nhiều. Nhưng trong buổi sáng nay tình trạng y tế cho những người trọng tuổi trong gian phòng này vẫn còn nói lên rằng: Họ phải đang trải qua những cuôc hành trình "hoang địa" của riêng mình. Hoàn cảnh có lẽ hết hy vọng nếu không nhờ lời bảo đảm của tiên tri Isaia: Thiên Chúa luôn ở bên họ (cũng là ở bên chúng ta) để hướng dẫn, nâng đỡ và ngay cả bồng bế qua những cơn thử thách gian nan, để tránh cho chúng ta khỏi rơi vào thất vọng hư vong.
Bài Tin mừng thánh lễ hôm nay là lời tựa hay nhập đề của toàn thể Phúc âm thánh Marcô. Trước khi tác giả giới thiệu nội dung Tin mừng và các nhân vật liên hệ, ngài cung cấp chút ít tin tức về ngoại cảnh và các lời tiên tri. Ngoại cảnh là hoang địa gần bờ sông Giođan và lời tiên báo là Isaia 40,3. Chỉ trong tám câu ngắn gọn tác giả đã cho rất nhiều về thân thế và sự nghiệp của Gioan Tẩy giả. Ngài cũng giới thiệu luôn mục tiêu của cuốn sách: Đức Giêsu Kitô là con Thiên Chúa (1,1), được Thánh thần ngự xuống và sẵn sàng ban Thần khí cho những ai vâng phục Phúc âm. Đức Giêsu không phải là cái bóng hoặc tiếng vọng của quá khứ mà là nhân tố khai mở một tương lai hoàn toàn mới cho nhân loại. Trong Ngài, Thượng đế, Đấng Tạo thành vũ trụ, tái tạo chúng ta nên những con người mới, tinh tuyền và thánh thiện. Chúng ta phải gạt bỏ con người cũ, lột xác để trở thành những tạo vật tinh khôi. Gioan Tẩy giả làm phép rửa bằng nước để bày tỏ lòng thống hối ăn năn, thì Chúa Kitô sẽ thanh tẩy nhân loại bằng máu, lửa và Thánh Thần. Do đó, tái sinh chúng ta nên những tạo vật đẹp lòng Đức Chúa Trời trong ơn thánh của Ngài.
Có điểu rất lạ, là sứ điệp quan trọng như vậy lại được rao giảng cho nhân loại trong hoang địa. Lúc ấy Dân đã có đền thờ Giêrusalem sang trọng, nơi người ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa và được đổi mới. Thay vì như thế địa chỉ để canh tân và diện kiến thực sự với Đấng Tối Cao lại là nơi hoang vắng. Có lẽ điều này nhắc nhớ về hoang địa sa mạc Biển Đỏ mà dân Israel đã thoát khỏi kiếp nô lệ Ai- Cập và được gặp gỡ Thiên Chúa lần đầu tiên! Vậy thì ngày nay, cũng chính ở hoang địa mà chúng ta được hạnh phúc xem thấy Thượng Đế. Tức là ở những nơi chúng ta trút bỏ hoàn toàn các mặt nạ của mình, trút bỏ kiêu ngạo, bận tâm, lo lắng, chia trí, phân tán để lắng nghe lời Thiên Chúa. Nếu còn những vướng mắc thì không thể có cơ hội nhìn xem Ngài. Đây là bài học lớn chi các tín hữu, nhất là những linh hồn ưa thích chiêm niệm: Hoàn toàn trút bỏ mọi thứ giả hình, gian dối để được tiến bộ trong đàng thiêng liêng.
Như vậy thánh Marcô đã có lý khi mô tả hoang địa là nơi lý tưởng để lắng nghe lời Thiên Chúa. Những lữ hành "hoang địa" cần được nghe Tin mừng để tâm hồn phấn khởi vững lòng cậy trông, bền vững trong đức tin giữa sóng gió ba đào. Thánh nhân đã liên kết chúng ta với lời lẽ của đệ nhị Isaia khi ông gợi lại thời kỳ sống trong sa mạc của nhân dân Do Thái. Khi ấy dân Israel luôn được kêu gọi tin tưởng vào lời Thiên Chúa hứa: Ngài sẽ dẫn đưa họ vào miền đất đầy sữa và mật ong, miền đất an toàn và thân thiết với Ngài.
Hôm nay, thánh Gioan Tẩy giả loan báo thời giờ đã đến, Thiên Chúa đã khởi sự làm tròn lời hứa thuở xưa cho dòng giống Israel. Những ai bằng lòng lắng nghe lời loan báo ấy thì phải ăn năn thống hối, quyết định vất bỏ đường lối tội lỗi cũ, quay về với cha ông, đổi mới tâm tư và đừng lừa dối mình bằng tư tưởng viển vông: tự cứu được mình do các công việc lề luật bên ngoài. Thánh nhân cũng cho hay Thiên Chúa đã thấu rõ nỗi thống khổ của dân và Đấng Thiên sai mạnh mẽ vô cùng ở những nơi đâu xem ra dễ bị thương tổn nhất. Đấng Thiên sai sẽ đổ Thần khí xuống linh hồn họ, lôi kéo họ ra khỏi những buồn nản, thất vọng hay mệt nhọc vì những gian truân của cuộc đời. Một con đường bằng phẳng sẽ được khai mở qua sa mạc và Chúa Giêsu sẽ bước đi trên con đường ấy cùng với chúng ta. Ngài sẽ giúp đỡ nhân loại đối phó với các núi đồi, thung lũng của hoang địa trần gian mà nếu không có sự trợ giúp của Ngài chẳng ai vượt qua nổi.
Đến đây tôi lại nhớ tới người phụ nữ ở cửa nhà thờ. Tôi cầu mong bà được cơ hội may mắn lắng nghe sứ điệp của các bài đọc hôm nay, Chúa Nhật thứ hai mùa vọng. Bà sẽ chấp nhận nó như Tin mừng cứu thoát bà khỏi những lo âu đè nặng tâm hồn.Thực ra, đây là sứ điệp dành cho hết mọi người đang cảm thấy mình trong hoang địa, kiểu này hay kiểu khác. Amen.
Trong thế giới văn minh, sự phát triển của các quốc gia có liên quan mật thiết đến sự phát triển của các phương tiện giao thông. Thực vậy, giao thông càng mau lẹ, thuận tiện và rẻ tiền bao nhiêu, thì sự phát triển càng nhanh chóng bấy nhiêu. Chính vì thế, mặc dù không thếiu những phương tiện đi lại bảo đảm và an toàn giữa hai nước Anh và Pháp, thế mà người ta vẫn tung ra không biết bao nhiêu tiền của và công sức để làm một con đường hầm xuyên qua eo biển Manche. Tại Việt Nam cũng vậy. Với ý muốn làm cho vùng duyên hải Saigon được phát triển, mặc dầu ngân sách không mấy dồi dào, nhưng người ta vẫn cố gắng đầu tư vào con đường Nhà Bè-Duyên Hải, một con đường mà các chuyên viên cho rằng rất khó xây dựng.
Tuy nhiên, qua báo chí cũng như qua các phương tiện truyền thông, chúng ta thấy có những người không ý thức về việc bảo vệ con đường, thậm chí họ còn có những hành vi gây hậu quả nghiêm trọng, chẳng hạn như chạy xe quá tải trọng làm hư nền đường, làm sụp cầu cống hay đào đương để lắp đặt hệ thống ống nước, cũng như dây cáp điện thoại, nhưng rồi không lấp lại theo đúng kỹ thuật, khiến cho con đường trở thành lồi lõm với những ổ gà ổ vịt, thậm chí còn có cả những ổ voi ổ trâu, rất khó đi lại, thậm chí còn gây nên những tai nạn và tình trạng tắc nghẽn giao thông.
Hình ảnh này làm cho chúng ta liên tưởng tới một con đường khác, mặc dù không nhìn thấy được, nhưng lại được Kinh Thánh nói tới rất nhiều, đó là con đường Thiên Chúa đến với con người và con người đến với Thiên Chúa. Thực vậy, chính Thiên Chúa đã mở ra con đường đến với con người bằng cách tạo dựng nên chúng ta, trao ban cho chúng ta sự sống. Và hơn thế nữa, Ngài lại còn muốn gắn bó mật thiết với chúng ta. Sách Sáng Thế Ký đã viết : Khi gió chiều nhẹ thổi, Thiên Chúa thường đi dạo trong vườn Địa đàng và nói chuyện với AdongEva.
Như thế, Thiên Chúa không xa cách con người, nhưng đã đến với con người ngay tại chính nơi mà họ đang sống. Cũng vậy, trong suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa đã đến với dân Do Thái. Ngài đã cắm lều, có nghĩa là Ngài đã cư ngụ giữa họ bằng nhiều cách. Và với cặp mắt đức tin, họ đã nhận ra sự hiện diện của Ngài. Ngài luôn đi trước họ, ban ngày bằng áng mây để chỉ lối cho họ, ban đêm bằng cột lửa để soi sáng cho họ. Cũng như họ đã nhìn thấy vinh quang của Ngài bao phủ nhà tạm, nơi đặt hòm bia giao ước. Nhất là trong đêm giáng sinh, Ngài đã đến với toàn thể nhân loại. Ngài đã trở thành một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Tuy nhiên, có một sự việc đáng buồn đã xảy ra, đó là con người đã đặt những rào cản, những chướng ngại vật để ngăn chặn bước đường Chúa đến. Hay nói một cách khác, con người đã từ khước sự viếng thăm đầy yêu thương của Ngài, như lời thánh Gioan đã cảnh báo : Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng những người thân thuộc đã không tiếp đón Ngài.
Thuở ban đầu, Adong Eva đã giơ tay ngắt trái cấm và lẩn tránh sự hiện diện của Ngài. Tiếp đến, dân Do Thái đã nhiều lần quay lưng chống lại Ngài bằng cách quì gối thờ lại những thần tượng nhảm nhí. Ngay chính chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, nhưng Ngài còn đến với chúng ta qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới luật, quan Tin Mừng, qua Giáo hội, qua những người nghèo khổ, qua những biến cố và qua những dấu chỉ của thời đại.
Thế nhưng, bản thân chúng ta đã tạo nên những rào cản, những chướng ngại vật dể ngăn cản không cho Ngài đến. Những rào cản ấy, những chướng ngại vật ấy chính là những tội lỗi, những thói hư tật xấu của mỗi người. Vì thế, trong suốt mùa vọng sứ điệp của Gioan tiền hô phải luôn vang vọng bên tai chúng ta : Hãy dọn đường Chúa đến. Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Ước vọng của Thiên Chúa là muốn được sống với con người. Chính vì ước vọng này, Ngài đã xuống thế và sinh ra trong cảnh khó nghèo của hang đá máng cỏ. Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta đã tiếp nhận Ngài hay là đã xua đuổi Ngài như dân thành Bêlem ngày xưa ?
Không ai thích đợi chờ. Đợi chờ là một đau khổ. Yêu nhau mà không được gần nhau hay cưới nhau nhưng phải chờ đợi vô hạn định thì lại đau khổ biết chừng nào : “Chờ anh em ráng sức chờ. Chờ hồi mười bẩy bây giờ ba mươi”.
Trong sách hướng dẫn du lịch “Non Nước Việt Nam” có ghi lại sự tích Núi Tô Thị như sau : “Chếch về phía tây bắc núi Tam Thanh là núi Tô Thị hay còn gọi là núi Vọng Phu đã đi vào truyền thuyết của dân tộc. Trên đỉnh núi có tảng đá tự nhiên trông xa giống người phụ nữ bồng con nhìn về phương xa. Từ xưa, tảng đá hình người này được gắn liền với truyện cổ tích nàng Tô Thị bồng con đứng đợi chồng đi đánh giặc từ phương Bắc trở về. Chờ mãi, hai mẹ con hóa thành đá. Vì thế dân gian mới đặt tên cho tảng đá là nàng Tô Thị”.
Do tác động của thiên nhiên và con người, di tích này đã bị phá hủy. Chính quyền tỉnh Lạng Sơn đã cho dựng lại nguyên bản để giữ gìn một di tích đã đi sâu vào tình cảm và văn chương bình dân của người Việt Nam. Mấy dòng thơ sau còn lưu truyền cho hậu thế :
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa, Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh. Ai lên xứ Lạng cùng anh, Bõ công cha mẹ sinh thành ra em”.
Câu chuyện thật bi đát ! Một bi kịch của sự chờ đợi. Chúng ta là Kitô hữu đang chờ đợi Chúa trở lại lần thứ hai. Chúng ta sẽ chờ cho đến khi nào ? Chúng ta cũng sẽ biến thành tượng đá hay sao ? Sự ra đi của Chúa Kitô có giống như sự ra đi vĩnh viễn của người chồng trong sự tích núi Tô Thị không ?
Những người Kitô hữu thời sơ khởi cũng đã đặt ra những vấn nạn này, một cách rất hăng say và nhiệt tình, họ tin rằng ngày Đức Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang đưa mọi người vào Vương quốc của Thiên Chúa sắp đến gần rồi ! Niềm tin này đã trở thành một nguồn an ủi lớn lao và hy vọng cho các tín hữu, bởi vì họ đang bị bắt bớ. Nhiều người đã bị chính quyền tra tấn, tù đày và bị giết chết vì đức tin của họ. Nhưng cũng có nhiều người thất vọng, nản lòng và bỏ cuộc !
“Sao Chúa mãi im” là tên của một cuốn tiểu thuyết do Nguyễn văn Thực dịch thuật từ nguyên tác Nhật ngữ của Endo Shusaku. Tác giả Endo Shusaku đã đoạt nhiều giải văn chương lớn của Nhật và được đề cử tranh giải Nobel năm 1994. Tác giả đã viết cuốn tiểu thuyết này dựa trên những dữ kiện lịch sử truyền giáo của Giáo Hội Công giáo vào thế kỷ 16 và 17 trên đất Nhật.
Truyện thuật lại hai sự quyết tâm : sự quyết tâm của các giáo sĩ truyền giáo xâm nhập đất Nhật và sự quyết tâm ngăn chặn của nhà cầm quyền Nhật. “Sao Chúa mãi im” là câu than thở của các giáo sĩ trong cơn bách hại với bao nỗi khốn khó cô đơn. Vào giữa thế kỷ 16, lúc đầu đạo Công giáo gặp rất nhiều thuận lợi vì chính quyền Nhật muốn o bế các thương thuyền Bồ Đào Nha, họ thân thiện với các vị thừa sai để có lợi. Theo sử liệu, vào đầu thế kỷ 17, con số giáo dân đã có lúc lên tới 250.000 người. Nhưng sau đó chính quyền đã cấm đạo vì nhiều lý do. Cuộc bách hại vô cùng tàn khốc và hiểm độc đã khiến một số các giáo sĩ thừa sai bỏ đạo, trong đó có linh mục giáo sư thần học Ferreira đã từng truyền giáo ở Nhật 20 năm với chức vụ Giám tỉnh dòng tên. Ông đã bỏ đạo, lấy vợ Nhật, có tên Nhật, chết tại Nhật. Một sự kiện mà Giáo Hội Lamã không tưởng tượng nổi, vì thế mới có câu chuyện này.
Vào năm 1638 hai linh mục dòng tên tìm cách rửa nhục cho cha Ferreira, giáo sư thần học của họ ngày xưa ở Rôma. Họ đã vạch ra kế hoạch truyền giáo tại Nhật giữa thời kỳ bị bách hại dữ dội nhất. Mặc dù cha bề trên giám tỉnh nghiêm khắc khuyến cáo họ không nên vào Nhật trong lúc này, nhưng cuối cùng theo như ý họ muốn, hai giáo sĩ đã cương quyết vào được đất Nhật, và đã được các bổn đạo che dấu để hoạt động. Tuy nhiên, với sự kiểm soát chặt chẽ, tất cả các giáo dân cùng linh mục đều đã bị bắt. Một vị phóng xuống biển chết theo giáo dân vì bị nhận nước. Vị còn lại, sau bao nhiêu ngày tù tội, phấn đấu với bản thân và các mưu mô của chính quyền dẫn dụ việc bỏ đạo, cuối cùng đã chịu thua, chấp nhận đạp lên ảnh Chúa. Và những điều đã xảy ra ngày xưa với vị thầy cũng đã được lập lại cho ông : lấy vợ Nhật, đổi tên Nhật, có pháp danh của đạo Phật, và khi chết lại được hỏa táng ở chùa.
Chính quyền Nhật đã nghĩ ra một cách thuyết phục rất tâm lý và tinh vi. Họ bắt các nhà truyền giáo phải chứng kiến giáo dân chịu cực hình và bị hành quyết với lý lẽ rất đơn giản : vì quí vị vào đất Nhật truyền đạo nên mới có giáo dân, và giáo dân phải bị trừng trị theo luật lệ. Vì bác ái mà quí vị đã truyền đạo, xin quí vị cũng hãy vì tình thương mà cứu họ. Chỉ cần quí vị bỏ đạo, các giáo dân sẽ được tự do !
Trong cuốn tiểu thuyết “Sao Chúa mãi im”, và trong lịch sử Giáo Hội khi bị cấm cách, bắt bớ và thử thách, có những vị tông đồ, giáo sĩ và giáo dân nghe được tiếng Chúa, trung thành với đức tin, chấp nhận tử đạo. Trái lại, đối với vị linh mục truyền giáo trong cuốn tiểu thuyết, và rất nhiều tín hữu khác thì “Sao Chúa mãi im” ! Thiên Chúa đến với chúng ta bằng cách nào ? Khi nào Ngài lại đến ? Làm thế nào để sống trong ánh sáng của niềm tin giữa những bắt bớ, thử thách và đau khổ ? Chúng ta nên làm gì trong khi chờ đợi Chúa Giêsu trở lại ? Tại sao Chúa trì hoãn” ? Những câu trả lời đã được các thánh Tông Đồ trả lời tóm tắt như sau :
1. Sự trì hoãn ngày Chúa Giêsu trở lại là do lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với con người. Ngài trì hoãn là để cho những người chưa ăn năn trở lại có thêm thời gian và cơ hội thay đổi đời sống và trở về với Chúa trước khi quá trễ, để Vương Quốc yêu thương của Thiên Chúa có cơ hội phát triển và lan tỏa rộng lớn hơn.
2. Vì trì hoãn nên ngày ấy sẽ đến rất bất ngờ, như “kẻ trộm đến ban đêm”. Phải luôn sẵn sàng, tỉnh thức và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
3. Lời hứa của Chúa Giêsu là chắc chắn. Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Ngày ấy đang trên đường đến. Chúng ta không nên ngã lòng vì nó sẽ xảy ra theo như thời biểu của Thiên Chúa đã định, không theo ý muốn của con người. 4. Trong khi chờ đợi, ta phải sống trong sự bình an và ngay chính. Kitô giáo không phải chỉ hướng về sự hy vọng ở tương lai mà quên hiện tại lúc này. Ngay trong hiện tại lúc này Chúa đang đến với tâm hồn ta bằng nhiều cách.
Trong truyền thống Zen của Đông phương có ghi lại một câu chuyện sau đây của một ông giáo sư đại học đến gặp vị thiền sư để xin lời chỉ dạy : Thưa thầy, xin dạy con phải làm gì để có một đời sống hạnh phúc. Con đã học thánh kinh, con đã học hỏi với những bậc đại sư, nhưng con chưa tìm thấy câu trả lời, xin thầy làm ơn chỉ dạy cho con biết cách nào đây ?
Nghe xong câu hỏi, vị thiền sư rót nước trà mời khách. Ngài rót trà đầy tách của khách, rồi tràn cả ra ngoài, nhưng ngài vẫn cứ rót thêm mãi, tới nỗi nước trà chảy xuống bàn, rồi từ bàn chảy xuống sàn nhà. Ông giáo sư nhìn thấy thế, không thể kềm hãm mình được nữa, bèn nói lớn : “Ngưng đi ! Ngưng đi ! Đầy quá rồi ! Không còn chỗ… tràn cả ra nhà”.
“Giống như cái tách trà này !”Vị thiền sư nói. Ông đã đổ đầy những suy nghĩ và ý kiến của ông vào rồi. Làm thế nào tôi có thể chỉ cho ông cách nào được nữa, trừ phi ông phải làm trống rỗng cái tách của ông trước đã.
Trong Thánh Kinh, sa mạc là nơi để gặp Thiên Chúa. Đi vào trong sa mạc là phải bỏ lại tất cả mọi thứ mà ta thường tùy thuộc trong đời : nghề nghiệp, liên hệ, tiện nghi, ý muốn và ngay cả những cơ chế tôn giáo. Thiên Chúa chẳng làm gì được cho ta nếu ta không hoàn toàn tùy thuộc và tin tưởng vào Ngài. Sa mạc biểu tượng cho sự từ bỏ bản thân, ý riêng, làm trống vắng con tim mình để Thiên Chúa hoàn toàn ngự trị. Đó là lý do tại sao khi xưa Gioan tẩy giả xuất hiện trong hoang địa và rao giảng phép rửa sám hối để chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến : “Hãy dọn đường Chúa đến, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
Phúc âm hôm nay nói về con người và những việc làm của Gioan tẩy giả chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Theo William Barclay, một trong những lý do làm cho công việc mục vụ của Gioan có hiệu quả mạnh mẽ, dân chúng lũ lượt kéo đến nghe giảng và xin ơn tha tội qua phép rửa, là vì Gioan rất khiêm tốn. Gioan đã sống hy sinh từ bỏ chính bản thân mình như một người nô lệ của Thiên Chúa qua đời sống trong hoang địa, trang phục đơn sơ, ăn uống kiêng cữ giản tiện : “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”.
“Sự phán quyết của Gioan cho chính mình là Gioan không xứng đáng làm bổn phận của một người nô lệ. Những chiếc dép da thuộc đơn sơ được cột vào bàn chân bằng những sợi dây. Mặt đường gồ ghề. Vào mùa khô bụi bặm, sang mùa mưa dính đầy bùn. Tháo những đôi dép ra khỏi chân là công việc và bổn phận của người đầy tớ. Gioan đã không đòi hỏi điều gì cho chính mình nhưng mọi sự dành cho Đức Kitô. Rõ ràng là sự tự quên mình, sự nhượng bộ, sự tự bôi xóa chính mình, sự thua thiệt hoàn toàn trong lời ngài rao giảng đã thúc đẩy dân chúng phải lắng nghe”.
Chúa Giêsu Kitô cũng đã chết trên thập giá theo ý Chúa Cha. Ngài hoàn toàn không làm sự gì theo ý riêng mình. Qua thập giá, Ngài tự hư vô hóa bản thân mình để thánh ý của Chúa Cha được thể hiện. Đó là con đường tu đức Ngài dạy chúng ta phải theo.
Chúng ta không có quyền bắt Chúa phải trở lại theo thời khắc như ý ta. Khi nào Chúa đến đó là quyền của Chúa. Ngay chính Chúa Giêsu cũng không biết ngày ấy : “Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không ; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi”. Nhưng điều kiện Chúa đòi chúng ta là phải chuẩn bị sẵn sàng. Một trái tim luôn sẵn sàng là trái tim thực thi thánh ý của Thiên Chúa.
Nếu ta không dọn chỗ trống cho Ngài, làm sao Ngài đến được ? Thánh Gioan tẩy giả đã đến để dọn đường cho Thiên Chúa, không phải bằng cách xây dựng một cơ chế tôn giáo, một lề lối làm việc hay một phương hướng hoạt động truyền giáo theo ý ngài, nhưng bằng việc sửa soạn trái tim và tâm hồn của tất cả những ai muốn đón nhận Thiên Chúa.
Gioan Tẩy giả là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế. Ngài đã sống và thi hành sứ mạng của ngài thế nào ? Ngài sống rất khổ hạnh từ buổi thiếu thời : y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, là một kiểu áo hãm mình mà các ngôn sứ xưa thường dùng, ngang lưng thắt một dây da cho gọn ghẽ, còn của ăn lại càng bấp bênh hơn nhờ vào “may rủi”, là ăn châu chấu độn với mật ong rừng. Gioan ăn mặc như thế mà đi rao giảng khắp vùng Giuđê, Galilê và quanh sông Giordan. Bấy giờ mùa màng vừa gặt hái xong, thời vụ mới cũng chưa tới, nên dân chúng rảnh rang kéo nhau đến rất đông để nghe ngài giảng, cả những người lãnh đạo cũng sai người tới hỏi ngài là ai ? Ngài chỉ mượn lời ngôn sứ Isaia để trả lời : tôi không là ai cả, chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Thực vậy, ngài làm phép rửa và rao giảng kêu gọi mọi người thay đổi đời sống để đón Đấng Cứu Thế đến. Phép rửa của Gioan, xét về hình thức thì giống như phép rửa của đạo Do Thái, là dìm mình ở nước sông Giordan, để từ bỏ ngoại giáo và dứt khoát trở về tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng phép rửa của Gioan có một hướng mới, khác hẳn đạo Do Thái, là hướng về luân lý, dùng công bằng, bác ái, chân thật để sửa soạn cho nước Đấng Cứu Thế. Vì vậy, phép rửa của Gioan chuẩn bị cho phép rửa của Chúa Giêsu, giúp người ta sám hối, sửa soạn cho việc tha tội. Cho nên, phép rửa của Gioan không phải là một bí tích, nghĩa là không tự động tức khắc tha tội.
Đàng khác, cùng với việc làm phép rửa, Gioan Tiền Hô còn giảng dạy, kêu gọi mọi người hãy thay đổi đời sống để đón nhận Đấng Cứu Thế : “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Điệp khúc rao giảng của ngài là hãy ăn năn sám hối, lời giảng của ngài làm chấn động mọi tầng lớp, mọi thứ người, từ lớp rắn lục trở xuống, nghĩa là những người có chức quyền, nhưng lươn lẹo, cố chấp, cả vua Hêrôđê cũng bằng lòng nghe ngài giảng. Sử gia Phơlaviô đã ghi nhận : “Gioan có ảnh hưởng sâu đậm trên quần chúng, đến nỗi họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì ông dạy bảo, hết mọi hạng người đến gặp ngài để xin ngài chỉ dạy cách phải sống”. Đối với chúng ta ngày nay, lời kêu gọi “hãy ăn năn sám hối” của Gioan phải chăng đã nhàm chán và lỗi thời? Hoặc trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, lời kêu gọi hãy thay đổi đời sống của Gioan phải chăng không còn cần thiết ? Nhàm chán thì có nhàm chán thật, vì lúc nào chúng ta cũng nghe lặp đi lặp lại những lời khuyên đó hoặc những lời tương tự như hãy tu thân tích đức, đừng kiêu ngạo, đừng gian tham, đừng bất công, đừng sống phản bác ái, lỗi tình thương… Nhưng còn lỗi thời thì sao ? Có lỗi thời không ? Có thể nói, ngày nào còn con người là còn luân lý, còn giáo dục, còn khuyên răn, và bao lâu còn tội lỗi, còn tranh chấp, còn tệ đoan, còn tiêu cực, thì còn phải sửa chữa, phải thay đổi để trở nên tốt hơn, và như vậy lời kêu gọi của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết, không bao giờ lỗi thời.
Tất cả chúng ta đều biết : bước đầu tiên để kiến tạo một xã hội, một thế giới tốt đẹp, là con người phải hiểu rõ “cái tôi” của mình, từ đó mới làm chủ được bản thân và cùng hoà nhịp vào cuộc sống với mọi người, đúng như quan niệm từ ngàn xưa của Khổng Tử : “Thành ý, chính tâm, tu thân” rồi mới “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Con người sống trong xã hội có ảnh hưởng hỗ tương và liên đới trách nhiệm với nhau rất mật thiết, một con én không làm nên mùa xuân, nhưng một phần tử xấu cũng đủ làm hư hỏng một gia đình và cả xã hội, “con sâu làm rầu nồi canh” là như thế.
Vì vậy, mỗi Mùa Vọng chúng ta lại có dịp xét mình, kiểm điểm đời sống, cách suy nghĩ qua lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn. Nói khác đi, chúng ta cần phải thay đổi cách sống và lối suy nghĩ không phù hợp với lời Chúa hay không đúng với lương tâm và lương tri của mình.
Trên đời này có cái gì không thay đổi chăng ? Có người nói chơi : chỉ có chữ “thay đổi” là không thay đổi mà thôi, nghĩa là cái gì trên đời này cũng thay đổi. Thế giới này có nhiều sự thay đổi, và có những cái thay đổi ảnh hưởng tới chúng ta, nhưng cái cần thiết nhất là lòng chúng ta phải thay đổi. Khi lòng mình được thay đổi thì mọi sự sẽ được đổi thay. Chúng ta đừng mong ngoại cảnh thay đổi lòng mình, chính lòng chúng ta phải được thay đổi trước đã thì ngoại cảnh mới thay đổi theo, như câu chuyện sau : có một cụ già kia sống giữa hai gia đình : một gia đình làm nghề thợ rèn và một gia đình làm nghề thợ mộc, cả hai gia đình này gây tiếng động ồn ào suốt ngày. Cụ già không chịu được, năn nỉ họ đổi đi nơi khác, nhưng họ cứ nhùng nhằng mãi, sau cùng họ đồng ý đổi đi, họ đổi đi đâu ? họ đổi nhà cho nhau, như vậy cụ già kia chẳng được gì. Muốn thay đổi, chính cụ phải thay đổi, chính cụ phải dọn nhà ra đi.
Đàng khác, có người không muốn thay đổi gì hay chỉ ưa thay đổi tạm bợ và bằng lòng với phương pháp gọi là tu sửa ít phần trăm, có người lại sợ đổi mất cả cái ít phần trăm đó, vì thế, dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào thì lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô vẫn là một lời khẩn thiết, xin mỗi người hãy lắng nghe và thực hiện để kinh nghiệm được những ơn phúc của Mùa Vọng. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều thay đổi, đều đổi mới từ tư tưởng tới hành động để trở thành những con người mới thực sự.
Trong trận lũ lụt vừa qua, nhiều du khách trên tuyến đường Bắc - Nam bị kẹt ở miền Trung. Lý do là đèo Hải Vân bị sạt lở, xe cộ không đi lại được. Nhiều đoạn đường sắt bị nước lũ cuốn đi, nên tàu Bắc - Nam cũng đành ủ rũ nằm chờ. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.
Những con đường, thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người. Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.
Con đường vật lý đã cần. Nhưng con đường tâm lý còn cần hơn. Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì dù có ở sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau.
Tương tự như thế, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
Tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm. Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Nên hôm nay, Thánh Gio-an Tẩy Giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giê-su đến.
Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh giả hình. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành nói xấu.
Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài những cố gắng bản thân, còn cần đến những phương thế. Đời sống của Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta đề nghị cho ta 3 phương thế rất tốt.
Phương thế thứ nhất là vào sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ chìm sâu xuống đáy lòng mình để gặp gỡ Chúa. Một mình ta diện đối diện với Chúa. Trong thân mật, Chúa sẽ dạy ta biết Thánh Ý để ta thi hành. Đức Giê-su, trước khi đi rao giảng cũng đã vào sa mạc 40 ngày để tìm Thánh Ý Chúa Cha. Sa mạc đây được hiểu là những giờ cầu nguyện riêng tư thân mật một mình ta với Chúa.
Phương thế thứ hai là mặc áo da thú. Mặc áo da thú có nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm để tiến lên trên con đường thánh đức.
Phương thế thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý nói về một đời sống khổ chế. Hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những đòi hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không cần thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.
Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta đã sống theo chương trình 3 điểm này, nên Ngài đã trở thành người mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta biết áp dụng 3 phương thế ấy trong Mùa Vọng này, ta sẽ biến tâm hồn ta thành một con đường thẳng tắp cho Chúa Giáng Sinh ngự đến.
Lạy Chúa, xin cứu con khỏi mọi tội lỗi để con xứng đáng đón rước Chúa. Amen.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1- Con đường tâm hồn tôi có những đồi núi, vực sâu, khúc quanh nào cần sửa chữa? 2- Tôi có cần đến những phương thế của Thánh Gioan Baotixita không ? 3- Tôi sẽ làm gì trong tuần này để thực hành Lời Chúa ? 4- Trong bài Tin Mừng Chủ nhật thứ II Mùa Vọng này, tôi tâm đắc nhất câu nào ?
Mỗi lần chuẩn bị cho xa giá của nhà vua đi qua một nơi nào đó, thường có một người lính cầm loa phóng thanh đi trước hô to để dọn đường. Khi nghe tiếng loa báo hiệu như thế, dân chúng sẽ thu dọn mọi thứ rác rến bừa bãi, thu dọn những gì bị coi là không đẹp mắt, làm cho con đường sạch đón vua đi qua.
Cũng thế, mỗi lần có một phái? đoàn quan trọng của chính phủ đi trên đường phố, thường có xe cảnh sát và đoàn xe mô tô đi trước, làm nhiệm vụ bảo vệ và dọn đường để chuẩn bị cho xe ca phái đoàn cấp cao đi qua.
Nhiệm vụ của thánh Gio-an Tẩy giả vừa giống như thế, nhưng cũng vừa không giống. Giống là vì thánh Gio-an cũng được gọi là người dọn đường. Không giống là vì nhiệm vụ của thánh Gio-an quan trọng hơn, cao cả hơn: Thánh Gio-an không dọn đường đi như những người dọn đường cho vua chúa, nhưng là Dọn Đường Tâm Hồn.
Dọn đường cho chính Thiên Chúa đi vào tâm hồn con người. Người dọn đường tâm hồn nhắn gởi đến mọi người lời kêu gọi thống thiết: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".
Cùng với lời kêu gọi dọn đường cho Chúa là rao giảng phép rửa sám hối để đem mọi người trở về với lòng ăn năn tội nhằm xin ơn tha thứ. Hóa ra dọn đường cho Chúa ngự vào tâm hồn, không có gì khác hơn, nhưng chính là hoán cải đời sống và thú nhận tội lỗi để được ơn tha thứ. Chỉ có tâm hồn trong sạch, một tâm hồn hoàn toàn không vướng mắc tội lỗi mới xứng đáng Chúa ngự vào.
Dù lời mời gọi của thánh Gio-an Tẩy giả: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" đã có từ rất lâu, nhưng vẫn rất phù hợp với mọi người hôm nay. Vì ở đâu có tội lỗi, ở đó rất cần ơn ăn năn sám hối. Bạn và tôi có tội. Cách duy nhất để dọn đường và sửa đường đón Chúa ngự vào tâm hồn là ăn năn sám hối.
Trong cuốn “Nội lực nơi bạn” (the power within you), Pat William ở tiểu bang Philadelphia có kể một câu chuyện đặc biệt sau đây: Năm 1980, vào một buổi trưa Chúa nhật nóng bức, một bệnh nhân trẻ bị chứng tê liệt não bộ tên là Cordell Brown đang đi bộ đến câu lạc bộ quán quân thế giới Philadelphia Phillies. Cordell bước đi hết sức khó khăn, nói năng cũng rất là khó. Ăn uống đối với anh là một bổn phận hết sức nặng nhọc. Khi thấy Cordell tới, nhiều người quay mặt đi đàng khác, hoặc cố tình không nhìn thấy anh. Đó là cách phản ứng của một số người trong hội Phillies khi thấy Cordell đi tới câu lạc bộ.
Cordell làm gì trong câu lạc bộ Phillies vậy ? Anh được mời tới đó để nói chuyện với những tay ăn chơi trong một buổi nói chuyện tại nhà nguyện câu lạc bộ.
Cordell có thể nói gì với những ngôi sao màn bạc như Steve Carleton và Mike Schmit, những người sống rất xa cách với thế giới đau khổ và dị tật của anh ?
Một vài người trong hội Phillies cũng tự hỏi như thế khi họ ngồi xuống để chuẩn bị nghe anh nói. Cordell bắt đầu bằng cách làm sao cho các tay ăn chơi đó cảm thấy thoải mái dễ chịu. Anh nói: "Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn". Rồi anh trưng đoạn thư Thánh Phaolô (1Cr. 15,10): nhưng nhờ ơn của Thiên Chúa mà tôi được như thế này.
Suốt 20 phút kế đó, Cordell đã nói về lòng nhân hậu của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc sống của anh. Anh kết luận bằng cách trả lời cho câu hỏi này: Anh có thể nói gì với những siêu minh tinh nổi tiếng như Steve Carleton và Mike Schmit, là những người sống hết sức xa cách với thế giới của những người đau khổ tật nguyền như anh ?
Cordell nói một cách rất duyên dáng: "Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp hòm quan tài của bạn lại, thì bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc mà mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng: các bạn cần một điều mà tôi đang có, đó là Đức Giêsu Kitô".
Tôi thích câu chuyện này vì hai lý do:
Trước hết, nó nói cho chúng ta về Mùa vọng . Nó mời gọi chúng ta trở về với những gì nền tảng. Nó mời chúng ta tự hỏi chính mình xem: Cái gì thực sự là quan trọng đối với chúng ta ? Nó mời chúng ta nhìn vào những cái chúng ta phải coi là ưu tiên trong cuộc đời mình. Nhất là nó hỏi chúng ta xem Đức Giêsu Kitô có phải là ưu tiên số một trong cuộc đời của chúng ta hay không ?
Và điều này dẫn chúng ta tới điểm thứ hai về câu chuyện của Cordell Brown. Nó nói với chúng ta về những bài học Thánh Kinh ngày hôm nay.
Cả ba bài đọc đều nói nói về sự cần thiết phải dọn đường cho Chúa đến. Cả ba bài đọc đều nói rằng: chúng ta không sống đúng như cái mình phải sống, thì chúng ta phải chịu trách nhiệm về điều đó.
Nói cách khác, nếu chúng ta đi sai không đúng theo căn bản, thì những bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về với những cái nền tảng ấy.
Nếu chúng ta đặt công việc của chúng ta lên hàng đầu trước cả gia đình chúng ta, thì những bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta sửa chữa lại tình trạng ấy.
Nếu chúng ta đặt sự thành công lên trước tương quan cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa, thì các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng ta thay đổi thái độ đó.
Tại Tu viện Westminster ở Luân Đôn, có một nhà nguyện nhỏ tên là "nhà nguyện thánh Grêgôriô". Nhà nguyện này được xây lên để tưởng niệm những người dân Luân Đôn bị mất mạng vì máy bay oanh tạc thời đệ nhị thế chiến. Trong nhà nguyện có bốn cuốn sách lớn, trong đó có ghi tên 6.000 tên các nạn nhân cuộc không kích đó. Một cuốn mở ra và trên trang sách lấp lánh ánh sáng có ghi một số tên nạn nhân. Mỗi ngày người ta giở ra một trang để phơi ra một số những tên mới. Khi bạn nhìn và đọc cột tên dài ấy, bạn không sao biết được người có tên mà bạn đọc thấy nghèo hay giầu, da đen, da trắng hay da nâu, là Kitô hữu, là Do Thái hay là vô thần, gìa hay trẻ, đẹp hay xấu.
Lúc đó không còn có một khác biệt nào nữa. Lúc đó tất cả những gì xẩy ra đều tùy thuộc vào bản chất con người mà mỗi người tạo ra cho mình còn sống trên dương thế.
Câu chuyện của Cordell Brown và câu chuyện nhà nguyện Thánh Grêgoriô của Tu viện Westmister khiến chúng ta tự hỏi: chúng ta phải làm gì nếu chúng ta thấy mình đã không sống đúng như cách chúng ta phải sống ? chúng ta phải làm gì nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta không chuẩn bị ngày giờ chết, hay chuẩn bị cho ngày Đức Giêsu tái lâm bất chấp ngày nào đến trước ?
Dĩ nhiên câu trả lời là: chúng ta phải làm đúng những gì Gioan Tẩy Gỉa đã đề nghị cho dân chúng thời ông làm. Chúng ta phải sám hối, phải xin Thiên Chúa tha thứ những lỗi lầm của chúng ta. Chúng ta phải cải tà qui chánh và phải bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là tất cả những gì Mùa vọng muốn nói đến. Đó là thời gian để chúng ta kiểm tra lại đời sống của mình và làm tất cả những thay đổi cần thiết trong đời sống. Điều này đem chúng ta trở lại với câu chuyện đáng ghi nhớ của Cordell Brown và câu hỏi được nêu ra trong câu chuyện. Anh có thể nói gì với các siêu minh tinh như Steve Carleton và Mike Schmit, là những người sống hết sức xa cách với thế giới đau khổ tật nguyền của anh ? và Cordell phải nói gì với bạn và tôi ?
Cordell đã trả lời câu hỏi đó một cách duyên dáng:
"Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi này giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, ngày đó bạn sẽ chẳng khác gì tôi chút nào. Đó là lúc mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng điều duy nhất tôi chắc chắn là: các bạn cần cái tôi đang có, và đó chính là Đức Giêsu Kitô".
Để kết thúc, chúng ta hãy thưởng thức một bài thơ cổ, nói về cuộc đời này chóng qua thế nào và điều gì quan trọng vào giây phút cuối cùng:
" Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười và khóc, thì lúc đó thấy thời gian bò tới. " Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn, thì thấy thời gian đi bộ. " Khi tôi trưởng thành, tôi là một người chững chặc, thì thấy thời gian chạy. " Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín mùi, thì thấy thời gian bay. " Chẳng bao lâu nữa là tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất. " Ôi lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa."
Người chứng của Thiên Chúa thật kỳ dị không giống ai! Tại sao Thiên Chúa lại không dùng những người có thế giá để làm chứng cho Ngài có phải hiệu nghiệm hơn không?
Trong việc chọn ông Gioan ngay từ ban đầu và tách biệt ông khỏi những người chung quanh, để rồi trao cho ông một sứ mệnh rất khó khăn, Thiên Chúa muốn khẳng định với loài người rằng Ngài có đường lối hoạt động hoàn toàn độc lập với cách của người trần, nếu không muốn nói là trái ngược! Chỉ một mình ông Gioan phải đối đầu và thách thức với cả dân tộc cùng hàng ngũ lãnh đạo dân Do-thái. Tuy ông rao giảng với đầy uy quyền, xong ông chẳng cần mang đầy đủ những dấu hiệu hợp thời như xã hội mong đợi! Phải là một người thuộc dòng hoàng tộc ăn bận sang trọng đầy thế lực và giàu nứt đố đổ vách.
Thiên Chúa không muốn dùng cách mà người đời xem là khôn ngoan: “ride with the tide” hay a dua, hùa theo đám đông! Ngài có sức mạnh riêng của Ngài, sức mạnh của Chân Lý, chứ không phải sức mạnh của số đông dễ bị xách động “lấy thịt đè người” vẫn thường đổi trắng thay đen theo thị hiếu, “nay thế này, mai thế nọ!”
Khi nào loài người không còn muốn sống theo khuôn phép luật thánh của Thiên Chúa, nhưng ham mê buông tuồng theo thị hiếu riêng, là họ đang làm những điều sai quấy đáng quở phạt. Với tình thương yêu đại lượng, Ngài gửi ngôn sứ đến nhắc nhở và cảnh cáo, vì Ngài không muốn nhìn thấy con người tự đưa mình vào con đường chết, và Ngài phải có thái độ cứng rắn đề răn dạy họ. Nếu Ngài dùng phương thế của loài người, thời Ngài sẽ bị lệ thuộc vào sự thao túng của họ. Hơn nữa Thiên Chúa chẳng bao giờ có thể dùng cách thế khôn ngoan của loài ngườI chính vì Ngài không ở cùng trình độ với họ nhưng vượt trổi muôn trùng “như trời cao hơn đất!”
Chính vì thế Ngài đã dùng một người không ai ngờ để thực hiện công tác quan trọng của Ngài. Một người khác hơn mọi người để gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh: hãy ăn ăn hối cải, chuẩn bị tâm hồn chào đón Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Đời xưa Thiên Chúa đã hành xử như thế, ngày nay Ngài vẫn tiếp tục thực hiện tôn ý của Ngài như vậy. Ngài không dùng bạo lực hay cậy nhờ những kẻ quyền thế công bố chương trình của Ngài, nhưng Ngài muốn nhờ những tâm hồn đơn sơ bé mọn loan truyền sứ điệp yêu thương của Ngài cho mọi dân nước.
Những tâm hồn ấy là mỗi người tín hữu chúng ta, nếu ai biết quảng đại đáp lại tiếng mời gọi của Ngài. Và đừng bao giờ tìm thánh ý Chúa ở giữa đám đông của thời trang nóng bỏng ồn ào, nhưng hãy biết lắng nghe tiếng Ngài trong sa mạc tĩnh lặng của tâm hồn.
Trong bài Phúc Âm hôm nay thánh Marcô mở đầu sách Phúc Âm của mình bằng cách nhắc lại lời tiên tri Isaia đã nói về vị Tiền hô của Đấng Cứu Thế “Đây Ta sai Sứ thần Ta đi trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi: Tiếng của người hô trong sa mạc: “Hãy dọn đường cho Giavê, trong chốn hoang giao hãy san bằng ngự lộ” (Is 40,3).
Isaia là một tiên tri lớn sinh khoảng năm 765 trước Chúa Cứu Thế. Năm 740 ông lãnh nhận sứ mạng làm tiên tri và thi hành sứ mạng đó trong 40 năm. Chữ Sứ thần ở đây chỉ Gioan Tiền hô sinh vào đầu Kỷ nguyên và lớn tuổi hơn Chúa Giêsu 6 tháng (Lc 1,36). Thân sinh của Gioan là ông Giacaria và bà Elizabeth (Lc 1,11-12). Không rõ từ lúc mấy tuổi, nhưng chắc chắn là rất sớm, Gioan đã lìa xa cha mẹ vào sống trong hoang địa để tĩnh tâm chuẩn bị sứ mạng Tiền hô của mình. Ông sống cuộc đời rất khắc khổ trong chay tịnh và cầu nguyện (Mt 3,4), suốt đời không uống một giọt rượu (Lc 1,15). Ông đã được chính Chúa Giêsu khen là người cao trọng nhất trong Cựu ước (Mt 11,11). Phép Thanh Tẩy của Gioan không như các phép tẩy uế khác của Do Thái: có hiệu lực nhưng tùy hẳn vào sự phán xét của Thiên Chúa trao phó cho Đức Kitô, Đấng thanh tẩy bằng Thánh Thần (Mt 3,11). Nhưng nó cũng chưa phải là Bí tích Rửa tội Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này.
Điều Gioan rao giảng mà Giáo Hội muốn chúng ta ghi nhớ trong mùa Vọng này là: Hãy dọn đường cho Chúa. Đường của tâm hồn, đường của đời sống. Đời sống chúng ta chỗ nào còn cong queo chưa được ngay thoẳng đoan chính, chưa ăn khớp với đường lối Phúc âm của Chúa thì phải nắn thẳng lại. Những hố sâu của sự thiếu sót chưa làm đầy đủ bổn phận của ta đối với Chúa và tha nhân bằng đức Mến Chúa và yêu người thì phải bồi đắp lên. Những chỗ gồ ghề và núi cao của kiêu ngạo tự ái và ích kỷ phải bạt xuống.
Để đón chờ Chúa, chúng ta phải là như vậy. Đồng thời mỗi người chúng ta còn phải là một Gioan Tiền hô kêu gọi và thúc đẩy những người khác chung quanh chúng ta cũng làm như vậy nữa. Chúng ta hãy làm tiền hô của Chúa từ ngay trong gia đình trong khu xóm chúng ta rồi lan xa ra ngoài Cộng đoàn xứ họ và xã hội chung quanh. Nếu chúng ta coi thường hoặc bỏ bê bổn phận này thì hãy coi chừng: “Chiếc rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị chặt và quăng vào lửa” (Mt 3,10).
Lạy Chúa, để dọn mình đón chờ Chúa đến, tuần này con xin hứa sẽ nghe lời Gioan Tiền hô kêu gọi hôm nay để cải thiện đời sống.
Trong cuốn tiểu thuyết Quo Vadis (Anh đi đâu?) kể chuyện tình yêu của một người ngoại đạo và một cô công gíao. Trong thời người Rôma bá chủ hoàn cầu, Kitô giáo bị bắt bớ. Các tông đồ phải ẩn trốn và Kitô hữu không được tụ họp để tham dự lễ Chúa Nhật cách công khai. Tuy vậy, người công gíáo vẫn biết tìm đến các vị chủ chăn và âm thầm báo cho nhau biết ngày giờ và địa điểm đến tham dự thánh lễ. Họ cũng tìm dịp học giáo lý để củng cố đức tin. Nhờ vậy mà trong tâm hồn, họ tràn đầy niềm vui, ngoài xã hội họ nhập cuộc cách tốt đẹp. Nhìn thấy trên khuôn mặt người công gíao có xuất hiện nét đẹp siêu nhiên và hạnh phúc, một chàng thanh niên ngoại đạo tên là Vinicius tìm yêu một cô gái công gíao. Khi tình yêu đã đậm, chàng cầu hôn để cưới cô. Cô gái khuyên rằng đời sống hôn nhân của người công gíao có hướng đi cao thượng. Hôn nhân không chỉ dừng lại ở chỗ sinh nhai, nhưng là hỗ trợ nhau sống đạo và giáo dục con cái trong đức tin. Nếu hai vợ chồng khác tôn giáo thì đời sống không ngay thẳng và sẽ gây nhiều hiểu lầm! Nếu cùng thờ phượng một Chúa, thì hai vợ chồng đều biết đường ngay, lối chính dễ giúp nhau sống hạnh phúc hơn. Để chiều chuộng người yêu, chàng cũng âm thầm đi tham dự các giờ giáo lý. May thay, sau khi được nghe thánh Phêrô giảng dạy thì chàng mới nhận ra sự thiếu sót trong đời sống của chàng! Trước đây chàng sống theo luân lý của một công dân Rôma, và chàng cho là đủ. Nhờ những giờ giáo lý, ánh sáng của ơn thiêng ban cho chàng biết được sự ngay thẳng và công chính cao thượng của nước trời. Có những cảm xúc và những hành động trước đây chàng cho là đúng, nhưng những điều đó không đủ, nếu thiếu sự hy sinh và ơn thánh. Chàng đã tìm được một con đường sáng mới cho cuộc đời. Con đường này dẫn chàng đi xa hơn vào cõi vĩnh cửu.
Thực Hành: "Chúng ta mong đợi trời mới đất mới." (2Pet 3:14) Tiếng kêu gọi "đổi mới" của Gioan Tẩy Gỉa được tiếp tục vang vọng qua lời giảng của các tông đồ, và sứ mạng của Giáo Hội. Xin cho con biết đón nhận Đức Kitô. Ngài đến trần gian để ban cho nhân loại sự bình an của trời và sự đổi mới lòng người.
Suốt mấy tháng trời nay, khu Tiểu Chủng Viện Thánh Giuse cũ (nay là Trung Tâm Văn Hóa Công Giáo) của Tổng Giáo Phận Sàigòn đã biến thành một đại công trường, với tiếng xe ầm ỳ, tiếng máy cắt đá, tiếng búa đập, ồn ào náo nhiệt cả ngày lẫn đêm! Tất cả mọi việc tu sửa hay xây dựng mới phải hoàn tất một tuần trước cuối tháng 11.2005 để đón Đức Hồng Y Crescenzio Sepe, Tổng Trưởng Thánh Bộ Truyền Giáo của Vatican, đến thăm Tổng Giáo Phận Sàigòn vào các ngày 2-4.12 này.
Từ việc chuẩn bị cơ sở vật chất để đón Đức Hồng Y Sepe kể trên, chúng ta có một hình ảnh sống động về việc DỌN ĐƯỜNG ĐÓN CHÚA mà các Bài Thánh Kinh Chúa nhật II Mùa Vọng năm B nói với chúng ta hôm nay.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Is 40,1-5.9-11: Dọn đường cho Đức Chúa
(3) Có tiếng hô: "Trong sa mạc hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. (4) Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. (5) Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán."
(2) Bài đọc 2: 2 Pr 3, 8-14: Chúng ta mong đợi trời mới đất mới
(9) Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa... Kỳ thực Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. (10) Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các từng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị tiêu huỷ. (11) Muôn vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao, (12) trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến. (13) Nhưng, theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới. (14) Vì thế, trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an. (17) Vậy biết trước như thế, anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc lôi cuốn, mà không còn đứng vững nữa chăng. (18) Nhưng anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 1,1-8: Ong Gioan Tẩy Giả rao giảng
(1) Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa: (2) Chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ Isaia: "Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. (3) Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi"
(4) Ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. (5) Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trong dòng sống Giođan. (6) Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ông rừng. (7) Ông rao giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. (8) Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; Còn Người, Người làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia loan báo là Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang. Người đến bởi vì Người luôn trung tín với Giao Ước: Chúa là Chúa của dân và dân là dân của Chúa! Người đến để đem hạnh phúc, bình an và thịnh vượng cho dân, vì thế, Người xứng đáng được dân Chúa ngóng chờ và chuẩn bị tiếp đón.
(2) Thiên Chúa mà Gioan Tiền Hô loan báo và dọn đường là Thiên Chúa sẽ đến cách bất ngờ không phải để chộp bắt những ai không chuẩn bị (vì Người đã gửi sứ giả đến trước để loan báo rồi) nhưng vì Người có kế hoạch chương trình riêng mà con người khó lòng thấu hiểu và cũng vì con người dễ sao lãng sự căn dặn của Chúa vì bị lôi cuốn bởi những sự thế gian.
Hơn nữa, Thiên Chúa mà Gioan loan báo và dọn đường là Đấng vô cùng cao trọng đến ngay cả một ngôn sứ lớn và quan trọng như Gioan cũng không đáng cởi quai dép cho Người!
(3) Thiên Chúa mà Tông đồ Trưởng Phêrô cảm nghiệm là Thiên Chúa trung tín với lời hứa là sẽ thực hiện cho những ai tin vào Người và cho cả nhân loại một công trình vĩ đại là TRỜI MỚI ĐẤT MỚI. Người không muốn ai phải chết, nhưng muốn mọi người sống đạo đức tinh tuyền và lớn lên trong ân sủng và sự hiểu biết về Chúa Giêsu Kitô, Con Một của Người.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là hãy DỌN ĐƯỜNG ĐÓN CHÚA! Cũng đồng nghĩa là hãy “trở nên tinh tuyền và không có gì đáng trách” và “hãy lớn lên trong ân sủng và sự hiểu biết về Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
3.1 Tại sao phải dọn đường đón Chúa? -
Có hai lý do: con người cần Chúa và Thiên Chúa muốn đến & ở với con người: (1) Nhìn vào thế giới loài người nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng, chúng ta thấy con người và xã hội đang rất cần đến Thiên Chúa. Bên cạnh những mảng "sáng" là các điều tốt lành phù hợp với Ý Chúa, còn hiện rõ nhiều mảng "tối" đáng báo động. Nào là chiến tranh, khủng bố, hận thù, tranh giành quyền lực, nghèo đói, bệnh tật (nhất là hiv-aids và cúm gia cầm), áp bức bóc lột, buôn bán (ma túy, phụ nữ trẻ em và vũ khí). Nào là các tệ nạn tham nhũng, hối lộ, biển thủ công quĩ, chuyên quyền, bao che, dối trá, đồng lõa với tội ác, thiên tai đủ loại (động và lở đất, sóng thần, mưa bão, lụt lội).
Con người đang khát khao cuộc sống an bình, hài hòa, trong lành, yêu thương và hạnh phúc mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho. Nhưng điều mâu thuẫn là Thiên Chúa lại đang bị con người loại trừ một cách quyết liệt bằng ý thức hệ chính trị, chủ nghĩa duy vật vô thần, trào lưu văn hóa đề cao tiền bạc, khoa học, kỹ thuật và thân xác con người. Tất cả những thứ ấy tựu trung đều đi phản lại các giá trị đích thực của con người cũng là các giá trị cơ bản của Kitô giáo: công bình, bác ái, sự sống, giá trị tâm linh và siêu nhiên.
Riêng với các Kitô hữu thì chúng ta càng cần đến Chúa Giêsu Kitô vì: "Không có Thầy anh em không thể làmđược gì" và "Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6).
(2) Cả mạc khải Kitô giáo là một biểu lộ ý định và ước muốn của Thiên Chúa là đến và ở với loài người. Danh xưng cao quí và được Thiên Chúa mến chuộng nhất là “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta! Thiên Chúa ở với con người!”
3. 2 Chúng ta dọn đường đón Chúa bằng cách nào?
Ít nhiều chúng ta hiểu nghĩa bóng của các từ thung lũng, núi đồi, khúc quanh co, đường lồi lõm. Những từ này ám chỉ những tình trạng, những cách sống không phù hợp hoặc đối nghịch với Phúc Âm:
* Thung lũng là những đam mê của cải, danh vọng, chức quyền lực và lạc thú;
* Núi đồi là những lối sống kiêu căng, ngạo mạn, tự mãn;
* Khúc quanh co là những tâm địa không trung thực, giả hình, gian manh, xảo quyệt…;
* Đường lồi lõm là cuộc sống đầy thiếu sót, yếu hèn, lỗi phạm, thiếu tin-cậy-mến đối với Thiên Chúa, thiếu bác-ái-yêu-thương đối với tha nhân.
Vậy để dọn đường đón Chúa, thì chúng ta
* trước hết phải nài xin Thiên Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn khó nghèo, siêu thoát, trong sạch, khiêm hạ, chân thật và sốt mến;
* kế đến là không ngừng rèn luyện bản thân để có được một tâm hồn như thế;
* và sau cùng là luôn lấy Phúc Am làm chuẩn mực để kiểm điểm và điều chỉnh đời sống của mình mỗi ngày.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha luôn mời gọi chúng con dọn đường đón Cha, để Cha đến ở với/trong chúng con, khiến chúng con có thể sống thân mật gần gũi với Cha! Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa hãy đến! Xin Chúa đến với chúng con, đến với mọi người, nhất là những người còn chưa biết Chúa và những người không sống theo Tin Mừng và giới răn của Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới các tâm hồn và bộ mặt trái đất, xin Chúa đổi mới tâm hồn, cuộc sống của chúng con và của xã hội loài người để Nước Chúa hiển trị các môi trường ấy. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 18.11.2005. --------------------- Xin trân trọng giới thiệu:
Ngoài Trang Sống Lời Chúa hôm nay được nhiều websites công giáo đăng tải hằng tuần:
Sách Tin Mừng thứ hai bắt đầu với lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả. Mac-cô giới thiệu Gioan với độc giả : Ong là Tiền Hô của Đức Giê-su, là sứ giả dọn đường cho Người (x. Mc 1,2-3). Gioan thực hiện sứ mệnh Tiền Hô dọn đường cho Chúa bằng lời rao giảng kêu gọi người ta sám hối, nhờ việc làm phép Rửa bằng nước sông Gio-đan và loan báo Đấng sắp đến. Cuối cùng Gioan Tẩy Giả rao giảng tập trung vào con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su (x. Mc 1,7-8).
2. CHÚ THÍCH :
* Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (Mc 1,1) :
+ Tin Mừng (Euaggelion) : Một từ ngữ Hy lạp có nghĩa là tin vui, tin mừng. Ta có thể hiểu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo hai nghĩa ; Một là chính Tin Mừng đã được Đức Giêsu rao giảng. Hai là Tin Mừng về Đức Giêsu được Giáo Hội công bố. Như vậy, Chúa Giêsu vừa là người rao giảng Tin Mừng, lại vừa là đối tượng của Tin Mừng được Giáo Hội rao giảng (x. Mc 8,35 ; 10,29).
+ Danh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ (x. Mt 1,21). Đây là một nhân vật lịch sử có thật, người làng Na-gia-rét miền Ga-li-lê (x. Mc 1,9) ; làm nghề thợ mộc, con bà Maria, là anh em họ hàng của các ông Gia-cô-bê, Giu-se, Giu-đa và Simon (x. Mc 6,3).
+ Tước hiệu Ki-tô hay Mê-si-a có nghĩa là Đấng Xức Dầu, được thánh hiến. Trong Cựu Ước 3 chức vị được xức dầu tấn phong là : vua, tư tế và tiên tri. Chẳng hạn : Tiên tri Samuel xức dầu phong vương cho Đa-vít (x. 1 Sm 16,13), Mô-sê xức dầu phong A-a-ron làm tư tế (x. lv 8,12) ; Ê-lia xức dầu phong đồ đệ Ê-li-sê làm tiên tri (x. 1 V 19,16). Qua câu này, Mác-cô quả quyết Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) mà loài người đang mong đợi (x. CvSđ 10,38), để trao sứ mệnh làm Đấng Thiên Sai (x. Lc 4,18-19).
+ Tước hiệu Con Thiên Chúa tương đương với tước hiệu Con Vua Đa-vít (x. Mc 14,61-62a). Với sự xuất hiện của Đức Giê-su, thời đại hoàng kim của nhân loại đã khởi đầu: Từ đây nhân loại sẽ được giải thoát khỏi đau khổ, bất hạnh và sự chết. Họ cũng sẽ được giải thoát khỏi ách nặng nề của lề luật, khỏi phải làm nô lệ cho ma quỷ, nhưng được làm con Thiên Chúa (x. Mt 5,9), được gọi Chúa là "Áp-ba, Cha ơi!" (x. Gl 4,6), được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa nhờ tin vào Đức Kitô (x. Gl 3,26-28).
* Chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ I-sai-a : "Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi" (Mc 1,2-3):
+ Lời đã chép trong sách ngôn sứ I-sai-a thực ra là một đoạn Kinh Thánh trích từ trong 3 cuốn trong Thánh Kinh Cựu Ước là : Xuất Hành (23,20), Malakia (3,1) và I-sai-a (40,3). Qua câu này, Mác-cô muốn ám chỉ Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Gài được Thiên Chúa trao cho sứ mệnh làm Mô-sê Mới trong thời Tân Ước để thực hiện một cuộc Xuất Hành Mới Ngài sẽ dẫn đưa dân Israen Mới là Giáo Hội vượt qua sa mạc trần gian để về miền Đất Hứa là Nước Trời đời sau.
+ Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con : Vị sứ giả ở đây chính là Gioan tẩy giả. Ông đã được trao sứ mệnh làm tiền hô, người đi trước dọn đường cho Đấng Thiên sai sắp ngự đến.
* Ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan (c. 4-5) :
Gioan Tẩy Giả thi hành sứ mệnh chuẩn bị cho người ta đón Chúa đến bằng một lối sống khổ hạnh, bằng việc rao giảng sự sám hối và làm phép rửa cho kẻ thành tâm thú tội trong sông Gio-đan.
* Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng (c.6) :
Gioan có một nếp sống giản dị khó nghèo của các tiên tri thời xưa. Nếp sống này biểu lộ một tâm hồn nghèo khó được Chúa Giêsu khen ngợi là vị tiên tri cao cả nhất (x. Lc 7, 24-28). Nếp sống ấy phù hợp với bản hiến chương Nước Trời do Chúa Giêsu rao giảng (x. Mt 5,3)
* Ông rao giảng rằng : "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép Rửa cho anh em nhờ nước; Còn Người, Người sẽ làm phép Rửa cho anh em trong Thánh Thần" (c.7-8) :
Qua lời rao giảng trên, Gioan giúp cho người nghe nhận ra thân thế và sứ mệnh của ông thật khác xa với thân thế và sứ mệnh của Chúa Giêsu mà ông giới thiệu.
CÂU HỎI : Lễ Thánh Tẩy của đạo Do Thái, Phép Rửa của Gioan và Bí Tích Rửa Tội của Chúa Giêsu khác nhau thế nào ?
TRẢ LỜI :
+ Lễ Thanh Tẩy của Do Thái Giáo : Luật pháp Mô-sê qui định một số bệnh và một số trường hợp cụ thể làm người ta bị nhơ uế... như bệnh cùi (x. Lv 14,8), bệnh tình dục (x. Lv 15,13), bệnh phụ khoa (x.Lv 15,22)... Ai mắc những chứng bệnh này hay đụng chạm vào những người này thì sẽ bị nhơ uế. Sau khi khỏi bệnh, người bị nhơ uế còn phải tắm rửa bằng nước trong Lễ Thanh Tẩy.
+ Phép Rửa của Gioan Tẩy Giả : Gioan làm phép Rửa để giúp người ta biểu lộ lòng sám hối tội lỗi và cầu xin Chúa tha tội, đồng thời cũng để chuẩn bị tâm hồn họ xứng đáng tiếp nhận ơn cứu độ do Đấng Thiên Sai đem đến. Phép Rửa của Gioan thực hiện gồm có việc xưng thú tội lỗi và dìm mình xuống nước sông Gio-đan.
+ Bí Tích Rửa Tội của Chúa Giêsu : Sau khi chịu phép Rửa của Gioan, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên Ngài và còn được Chúa Cha chính thức xác nhận là Người Con rất yêu dấu (x. Mc 1,9-11). Sau đó Ngài đã thiết lập Bí Tích Rửa Tội để tái sinh người ta trở nên Con Thiên Chúa nhờ Nước và Thánh Thần (x. Mt 28,19). Trong Bí Tích Rửa Tội, sau khi tuyên bố từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin, người chịu phép sẽ được dìm mình trong giếng nước (hay được dội nước trên đầu), và được xức dầu thánh là dấu chỉ được làm con Thiên Chúa.
CÂU HỎI : Lễ Thánh Tẩy của đạo Do Thái, Phép Rửa của Gioan và Bí Tích Rửa Tội của Chúa Giêsu khác nhau thế nào ?
TRẢ LỜI :
+ Lễ Thanh Tẩy của Do Thái Giáo : Luật pháp Mô-sê qui định một số bệnh và một số trường hợp cụ thể làm người ta bị nhơ uế... như bệnh cùi (x. Lv 14,8), bệnh tình dục (x. Lv 15,13), bệnh phụ khoa (x.Lv 15,22)... Ai mắc những chứng bệnh này hay đụng chạm vào những người này thì sẽ bị nhơ uế. Sau khi khỏi bệnh, người bị nhơ uế còn phải tắm rửa bằng nước trong Lễ Thanh Tẩy.
+ Phép Rửa của Gioan Tẩy Giả: Gioan làm phép Rửa để giúp người ta biểu lộ lòng sám hối tội lỗi và cầu xin Chúa tha tội, đồng thời cũng để chuẩn bị tâm hồn họ xứng đáng tiếp nhận ơn cứu độ do Đấng Thiên Sai đem đến. Phép Rửa của Gioan thực hiện gồm có việc xưng thú tội lỗi và dìm mình xuống nước sông Gio-đan.
+ Bí Tích Rửa Tội của Chúa Giêsu : Sau khi chịu phép Rửa của Gioan, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên Ngài và còn được Chúa Cha chính thức xác nhận là Người Con rất yêu dấu (x. Mc 1,9-11). Sau đó Ngài đã thiết lập Bí Tích Rửa Tội để tái sinh người ta trở nên Con Thiên Chúa nhờ Nước và Thánh Thần (x. Mt 28,19). Trong Bí Tích Rửa Tội, sau khi tuyên bố từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin, người chịu phép sẽ được dìm mình trong giếng nước (hay được dội nước trên đầu), và được xức dầu thánh là dấu chỉ được làm con Thiên Chúa.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1 ) TIẾNG KÊU TRONG HOANG ĐỊA (x. Mc 1,3) :
+ Vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên, tiên tri I-sai-a đã tuyên sấm lời Thiên Chúa với dân do Thái sau khi họ vừa thoát cảnh lưu đày ở Babylon và trở về quê nhà : Vì tội của họ mà Chúa đã trừng phạt thủ đô Giêrusalem. Nhưng đã đến thời kỳ họ không còn phải làm nô lệ nữa và tội lỗi của họ cũng đã được tha. Vậy họ phải dọn đường trong sa mạc để đón Đấng Thiên Sai đến ; Ngài đến để lãnh đạo dân người giống như một mục tử chăn dắt đoàn chiên của mình (x. Is 40,1-5. 9-11).
+ Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Gioan Tẩy Giả đã thực thi sứ mệnh tiền hô như lời tuyên sấm của I-sai-a. Ông đã đến miền sông Gio-đan hoang vắng rao giảng về Đấng Thiên Sai sắp đến và kêu gọi mọi người chuẩn bị tiếp đón Ngài. Ông thẳng thắn cáo trách dân chúng về những tội lỗi của họ và yêu cầu họ hồi tâm sám hối. Kết quả là rất đông dân chúng đã đến nghe ông giảng và chấp nhận đứng vào hàng ngũ những người muốn được cứu độ, bằng việc xưng thú tội lỗi và xin Gioan làm phép Rửa trong nước sông Gio-đan. Mỗi người đều quyết tâm thực thi công bằng bác ái theo lời Gioan chỉ dạy (x. Lc 3,7-14).
+ Ngày nay sứ điệp của I-sai-a và của Gioan Tiền Hô cũng chính là lời mời gọi các tín hữu chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai đến lần thứ hai vào ngày tận thế. Vậy trong những ngày Mùa Vọng này, chúng ta phải dọn tâm hồn thế nào để đón Chúa ? Như dân Do Thái xưa đã trải qua nhiều đau khổ và khó khăn trở ngại để đức tin của họ có dịp thử thách thanh luyện, thì hôm nay mỗi người tín hữu cũng phải đương đầu với bao cám dỗ thử thách của ma quỉ để minh chứng lòng trung thành với Chúa. Khi Đức Ki-tô tái lâm trong ngày tận thế, Ngài sẽ biến đổi trần gian này trở thành một Trời Mới Đất Mới. Vậy để góp phần kiến tạo Trời Mới Đất Mới, ngay từ bây giờ, mỗi người chúng ta phải làm gì để gia đình ta ngày một an vui hạnh phúc hơn , để khu xóm ta không còn các tệ nạn xã hội, và ngày một an toàn sạch đẹp hơn, và để đất nước ta ngày một văn minh giàu đẹp và tiến bộ hơn ?
2. DỌN LÒNG ĐÓN CHÚA NHƯ THẾ NÀO ?
Chúa Giêsu sẽ lại đến với mọi người chúng ta trong giờ chết và đến chung với toàn nhân loại trong ngày tận thế. Vậy mỗi người chúng ta phải làm gì để đón Chúa đến ?
+ Phải vào sa mạc để hồi tâm sám hối : Cần tạo một bầu khí thinh lặng nội tâm bằng việc dành ít phút hướng lòng về Chúa khi vừ thức dậy, xét mình buổi tối trước lúc nghỉ đêm. Siêng năng tham dự Thánh Lễ và tĩnh tâm chung với cộng đoàn...
+ Sống đơn giản đạm bạc để bày tỏ lòng sám hối : Không may thêm quần áo giày dép mới khi chưa cần ; bớt các buổi ăn nhậu lãng phí. Tránh đến những nơi ăn chơi sa đọa như các quán bia ôm hay cà phê đèn mờ...
+ Thực thi sự công bình bác ái : Có kế hoạch trả nợ đúng hẹn ; Tránh nói xấu những kẻ mình không ưa; Tổ chức quyên tiền để đi thăm người bất hạnh nghèo khổ...
+ Chia sẻ niềm vui và tình thương để mừng Chúa Giáng Sinh : Gửi thiệp Noel cho bạn bè và những người thân; cùng ông già Noel đi thăm viếng tặng quà các trẻ em bụi đời hay các trẻ em mồ côi...
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Cha,
Đấng giàu lòng từ bi nhân hậu, xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn tiếp đón Đức Kitô lại đến : đến trong giờ chết của chúng con, đến chung trong ngày tận thế. Xin thanh tẩy lương tâm chúng con sạch mọi điều gian ác. Xin loại ra khỏi chúng con thái độ ích kỷ, tự mãn, hận thù, ganh ghét và mọi đam mê bất chính khác, để chúng con xứng đáng nhận được Ơn Cứu Độ do Chúa Giêsu đã thiết lập và trao ban.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON..
2) Lạy Thánh Mẫu Maria,
chúng con đang chuẩn bị mừng đại lễ Giáng Sinh, xin Mẹ giúp chúng con dọn lòng đón Chúa đến, nhất là trong đêm Giáng Sinh. Xin biến đổi tâm hồn chúng con trở nên máng cỏ thơm tho sạch sẽ, xứng đáng đón rước Chúa ngự đến. Xin cho chúng con ý thức sứ mệnh giới thiệu Chúa với mọi người, nhất là những người bất hạnh. Xin cho chúng con biết quảng đại chia sẻ những món quà Giáng Sinh cho những trẻ em đường phố, những cụ già cô đơn không người chămsóc. Xin Mẹ giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón rước Con Chúa đến với chúng con trong Mùa Giáng Sinh hồng phúc này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Mùa vọng là thời gian chúng ta chờ đợi Chúa đến viếng thăm tâm hồn mình. Nhưng chờ đợi không phải là thụ động không làm gì, trái lại phải tích cực chuẩn bị cho cuộc viếng thăm đó. Hôm nay, Giáo Hội dùng lại lời của Thánh Gioan Tẩy giả để kêu gọi chúng ta "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng". Chúng ta hãy đáp ứng lời kêu gọi này.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Tâm hồn chúng ta từ bấy lâu nay như một ngôi nhà không quét dọn, đầy dẫy rác rến, bụi bậm, không xứng đáng được Chúa đến thăm.
- Cuộc đời chúng ta như một con đường chỗ lồi chỗ lõm chỗ quanh co khiến Chúa khó đến với chúng ta.
- Bấy lâu nay chúng ta chỉ lo đến bản thân mình, không nghĩ đến việc mời Chúa đến thăm.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc 1 : Is 40,1-5.9-11
Đoạn này nằm trong phần thứ hai sách Isaia (các chương 40-45), được soạn bởi một đệ tử của ngôn sứ Isaia mà người ta gọi là Đệ nhị Isaia. Phần này được soạn vào cuối thời lưu đày. Do nội dung, nó cũng được đặt tên là Sách An Ủi.
Trong đoạn này, có 3 ý tưởng đáng lưu ý :
a/ "Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá". Ngày xưa, vì dân do thái phạm tội nên Thiên Chúa đã cho họ bị lưu đày. Nhưng nay đã tới lúc Thiên Chúa ân xá tội lỗi cho họ và chấm dứt thời nô lệ của họ. Vì thế, tác giả bảo "Hãy an tâm, hãy an tâm".
b/ Tác giả còn kêu gọi "Hãy dọn đường. Hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa". Sau khi kết thúc thời lưu đày, dân sẽ trở về quê hương theo một hành trình qua sa mạc, giống như một cuộc xuất hành mới qua sa mạc để về Đất Hứa. Bởi thế, cũng như ngày xưa trong cuộc xuất hành thứ nhất, Thiên Chúa đã đi trước dẫn đường, thì trong cuộc xuất hành này, Thiên Chúa cũng sẽ dẫn đường cho họ. Vì thế mà phải dọn đường, phải sửa đường. Hành trình qua sa mạc không phải chỉ là thời gian thử thách, mà còn là thời gian thanh luyện.
c/ Tác giả mô tả Thiên Chúa như một mục tử. Thiên Chúa chẳng những là Đấng giải thoát, Đấng dẫn đường, mà còn là Đấng yêu thương : "Ngài ẵm chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng trong lòng và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ".
2. Đáp ca : Tv 84
Tv 84 là một ca khúc hân hoan hát lên niềm vui thoát cảnh lưu đày và trở về quê hương đất hứa. Tác giả nghĩ tới thời kỳ mà "Lòng từ bi và chân lý sẽ gặp nhau, công lý và hòa bình sẽ hôn nhau".
Phụng vụ Giáo Hội lặp lại những lời ca đầy tràn hy vọng ấy và cầu xin cho thời ấy mau đến : "Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng tôi và ban ơn cứu rỗi cho chúng tôi".
3. Tin Mừng : Mc 1,1-8
Tất cả những niềm hy vọng ấy của Cựu Ước được thực hiện nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Đấng Messia. Ngài sắp đến. Bởi thế, Thiên Chúa đã sai Gioan Tẩy giả làm tiên hô dọn đường cho Ngài, thực hiện lời kêu gọi của Isaia ngày xưa.
Việc Đức Giêsu là Đấng Messia và Ngài sắp đến là một tin rất quan trọng sẽ mang lại niềm vui cho dân do thái, bởi vì họ đã chờ đợi điều này từ rất lâu. Bởi thế, ngay từ câu đầu tiên của đoạn này và cũng là của cả quyển sách, thánh Mác cô đã dùng từ "Tin Mừng" : "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa".
Đấng Messia là một nhân vật quan trọng mà Cựu Ước chờ đợi bấy lâu nay. Vì thế phải có một sứ giả đi trước để dọn đường cho Ngài. Isaia chỉ nói tới việc dọn đường và người dọn đường. Đoạn Tin Mừng này cho biết rõ thêm : người dọn đường là Gioan Tẩy giả, và ngài kêu gọi dọn đường một cách cụ thể bằng việc sám hối và lãnh nhận phép thanh tẩy.
4. Bài đọc II : 2 Pr 3,9-14
Lá thư được gọi là thư thứ hai Phêrô thực ra không phải do Thánh Phêrô viết, mà do một người mượn danh ngài viết ra, vào khoảng cuối thế kỷ I.
Hoàn cảnh và lý do : Vào cuối thế kỷ I, các kitô hữu không mấy tin vào việc Chúa lại đến, từ đó họ cũng chẳng thiết tha gì đến việc dọn đường cho Ngài.
- Do thời gian chờ đợi hơi lâu nên nhiều người nản lòng. Nhưng tác giả giải thích rằng sở dĩ Chúa chậm đến là vì Ngài nhẫn nại, ban thêm thời gian cho những người tội lỗi có dịp sám hối.
- Tác giả khẳng định lại rằng chắc chắn Chúa sẽ lại đến. Và khi đó sẽ là "trời mới đất mới".
- "Vì vậy, anh em càng phải sống thánh thiện và đạo đức biết bao khi mong chờ ngày Chúa đến".
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Tấm gương của Gioan Tiền hô
Thời Cựu Ước, ngôn sứ Đệ nhị Isaia đã kêu gọi "Hãy don đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong sa mạc". Thánh Gioan Tiền hô là người thực hiện lời kêu gọi này. Ngài cũng là người làm gương cho chúng ta noi theo để thực hiện lời kêu gọi này.
a/ Gioan đã đi vào sa mạc : Trong lịch sử cứu độ, sa mạc luôn là khung cảnh thuận tiện cho ân sủng hoạt động. Ở đó, Thiên Chúa đã giáo dục dân Ngài qua 40 năm của cuộc xuất hành ; ở đó, Thiên Chúa đã thanh luyện dân Ngài trước khi cho họ trở lại quê hương sau khi thoát khỏi cảnh lưu đày…
Chính vì thế, Giáo Hội muốn chúng ta sống 4 tuần lễ Mùa Vọng này như sống trong sa mạc : bình tâm hơn, ăn uống đạm bạc hơn, cầu nguyện nhiều hơn và suy nghĩ nhiều hơn để biết rõ ý Chúa…
b/ Gioan đã đi trước Chúa để dọn đường cho Ngài : Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Gioan đã giúp người ta sám hối, thú tội và lãnh nhận phép thanh tẩy. Rồi khi Đức Giêsu xuất hiện, chính Gioan giới thiệu Ngài cho dân chúng biết.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn còn cần những người tiền hô, những kẻ dọn đường ; Tin Mừng của Ngài vẫn còn cần những người nhiệt tình mang đến giới thiệu cho người khác.
* 2. "Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng"
Bài Tin Mừng được chọn đọc trong Chúa nhật II mùa vọng này đề cập đến con đường. Thánh Gioan Tiền hô bảo "Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng".
- Con đường là một phương tiện giao thông liên lạc, nối kết hai người ở hai nơi xa cách nhau để hai người, hai nơi đó có thể đến được với nhau. Nếu không có con đường thì không đến được với nhau, hoặc nếu có con đường nhưng đường đó đã hư hỏng thì cũng không đến với nhau được.
- Dĩ nhiên khi nói đến con đường nối kết thì không phải chỉ là con đường vật chất bằng đất, nhựa hay xi măng, không phải chỉ là con đường trên mặt đất, trên sông biển, trên vòm trời… Mà còn là những con đường tinh thần, những con đường trong lòng người. Con đường tinh thần, con đường trong lòng mới là quan trọng. Ông Nguyễn Bá Học có nói "Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông". Con đường tình yêu cũng thế "Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua".
- Bây giờ ta hãy trở lại với Lời rao giảng của thánh Gioan tiền hô. "Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng". Lễ Giáng sinh là dịp Chúa muốn đến với mỗi người chúng ta. Mùa vọng là mùa mỗi người chúng ta chuẩn bị để có thể đến gặp Chúa. Như vậy là cần phải có một con đường. Chúa là Chúa, ta là người phàm, tự nhiên là xa cách nhau, cần phải có một con đường để Chúa có thể qua đó mà đến với ta và ta qua đó mà đến với Chúa. Lời của Gioan Tiền Hô đặt cho ta hai câu hỏi : 1/ Đã có con đường ấy chưa ? 2/ Con đường đó có thể đi lại được hay không ?
1/ Giữa Chúa và mỗi người chúng ta, đã có một con đường liên lạc nào hay chưa ?
Chắc chắn rằng đối với một số người thì chẳng có một con đường nào nối kết họ với Chúa cả. Đó là những người chỉ biết có làm ăn sinh sống, vui chơi, thỏa mãn mọi nhu cầu thế tục. Họ có nhiều con đường lắm, đường dẫn tới chỗ làm ăn, đường dẫn đến chỗ vui chơi, đường dẫn tới những chỗ hẹn hò yêu đương. Nhưng không có con đường nào dẫn họ đến với Chúa cả. Còn đối với chúng ta, chắc là nhiều người nghĩ rằng mình đã có sẵn con đường nối kết với Chúa rồi, đó là con đường đưa ta từ nhà mình đến nhà thờ này. Đến nhà thờ là đến với Chúa rồi chứ gì nữa, phải không ? Chưa chắc ! Đành rằng đã có con đường dẫn đến nhà thờ, nhưng con đường đó có khi trời mưa ta không đi, có khi vì bận rộn hay vì một thứ gì đó ta ham thích hơn nên ta cũng chẳng thèm đi, và có khi dù ta có đến nhà thờ ta vẫn không gặp được Chúa !
- Như vậy con đường phải có để Chúa và ta có thể gặp nhau là con đường gì ?
Thưa là con đường cầu nguyện : đến nhà thờ mà có cầu nguyện thật sự thì mới gặp được Chúa. Khi chưa phải là Chúa nhật hay khi trở ngại không đến nhà thờ được, nhưng nếu ta có cầu nguyện riêng, cầu nguyện ở nhà, cầu nguyện trong mọi biến cố cuộc sống, thì ta vẫn gặp được Chúa. Vì thế trong những tuần Mùa vọng này, ta hãy cầu nguyện nhiều hơn, cầu nguyện sốt sắng hơn. Cầu nguyện ở nhà thờ, cầu nguyện ở nhà riêng, cầu nguyện trước những biến cố của cuộc sống. Khi đã gặp được Chúa trong cầu nguyện, Chúa sẽ chỉ dẫn tiếp cho ta biết phải làm gì để cuộc sống mình ngày càng tốt hơn.
- Khi mình cầu nguyện sốt sắng thì Chúa sẽ chỉ dẫn mình. Nói như vậy nghĩa là còn một con đường thứ hai nữa : đó là thực hiện thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa rất nhiệm mầu, nhiều khi mình không hiểu và không muốn tuân theo. Nhưng luôn luôn thánh ý Chúa là con đường tốt nhất cho mỗi người chúng ta. Chỉ bằng cách đi theo con đường thánh ý Chúa, thì chúng ta mới bình an, hạnh phúc thật. Cưỡng lại thánh ý Chúa, đời mình luôn áy náy, khổ sở.
Chúng ta còn nhớ chuyện ông Giona không ? Ý Chúa muốn ông đi đến thành Ninivê để vạch tội của dân thành ấy và bảo họ phải ăn năn sám hối. Ông thì coi việc đó là khó khăn, không thích. Nên ông cũng xuống tàu, nhưng xuống tàu để đến một thành khác, Tarsis. Trời nổi cơn giông, biển động. Các thủy thủ đã làm đủ cách, các hành khách đã khẩn cầu với đủ thứ thần linh, thế mà nguy hiểm chìm tàu vẫn không chấm dứt. Lúc đó Giona hiểu rằng tất cả chỉ vì mình đã cố tình không chịu đi theo con đường thánh ý Chúa. Người ta quăng ông xuống biển, ông bị trôi dạt ba ngày, và cuối cùng tấp vào bờ của một thành phố, chính là thành phố Ninivê mà ý Chúa đã muốn ông đi đến !
- Trong Mùa Vong này, mỗi người chúng ta hãy cố gắng vạch một con đường để Chúa có thể đến với mình và mình có thể đến với Chúa. Con đường đó là cầu nguyện. Hãy cầu nguyện nhiều hơn, cầu nguyện sốt sắng hơn. Khi mình cầu nguyện thì Chúa sẽ chỉ cụ thể cho mình biết phải làm gì cụ thể hơn nữa trong Mùa vọng này. Đó chính là thánh ý Chúa, hãy cố gắng làm theo sự hướng dẫn của ý Chúa, vì chỉ có làm theo Thánh ý Chúa thì đời mình mới tốt hơn, tâm hồn mình mới bình an vui sướng thật sự.
2/ Còn vấn đề thứ hai nữa : Đã có con đường nối kết ta với Chúa rồi. Đó là cầu nguyện và theo ý Chúa. Nhưng con đường đó có trở ngại đến nỗi không đi lại được hay không ? Dĩ nhiên là có nhiều trở ngại lắm : Nói đến cầu nguyện là tự nhiên ta ngán, ta không quen. Nói đến thánh ý Chúa thì tự nhiên ta cũng ngại, ta muốn làm theo ý riêng mình hơn. Đó là những trở ngại. Nói theo từ ngữ của Gioan Tiền hô, đó là những chỗ lồi lõm, quanh co, gập ghềnh trên con đường nối kết ta với Chúa. Nhưng xét cho cùng chẳng có trở ngại nào mà ta không thể vượt qua, trừ trở ngại trong chính lòng ta. "Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông". Nếu cứ ngại như thế mãi thì ta sẽ không gặp được Chúa. Mùa vọng này sẽ qua đi. Lễ Giáng sinh năm nay sẽ trôi đi, cuộc đời của ta thì vẫn chẳng có gì thay đổi tốt hơn. Vì thế ta phải vượt qua mọi e ngại, chiến thắng khuynh hướng ươn lười để suốt mùa Vọng này siêng năng cầu nguyện sốt sắng và tìm hiểu để thực hành thánh ý Chúa. Có như vậy Mùa Vọng này mới hữu ích thực sự và lễ Giáng sinh năm nay mới là dịp Chúa ban tràn trề ơn sủng cho cuộc đời mỗi người chúng ta.
* 3. Chúa sắp đến. Nhưng có phải vậy không ?
Có lẽ tâm trạng chúng ta hôm nay cũng giống tâm trạng các tín hữu thế kỷ I mà bài Thánh thư hôm nay nói tới : Một mặt nghe dạy rằng Chúa sẽ lại đến nên cần phải dọn đường cho Chúa. Nhưng mặt khác chờ mãi mà không thấy Chúa đến, nên ngã lòng buông xuôi. Đức tin, đức cậy và đức mến nguội lạnh dần theo thời gian.
Ngược lại, ngày nay có một vài nhóm người tin chắc rằng Chúa sắp đến. Họ giải thích Sách Thánh theo một kiểu nào đó rồi đi đến kết luận rằng sắp tới ngày tận thế. Họ còn dám khẳng định chắc chắn tận thế sẽ là ngày mấy tháng mấy năm mấy nữa !
Ta nên xem lại các bài Thánh Thư hôm nay.
- Tác giả viết rằng sẽ có ngày mà trời và đất sẽ bị huỷ diệt : "Các tầng trời qua đi, ngũ hành bị thiêu rụi, trái đất cùng mọi công trình kiến tạo đều bị thiêu huỷ". Nhưng đồng thời tác giả cũng loan báo rằng sẽ có "trời mới đất mới". Như thế là có hai thứ "trời đất" : thứ trời đất xấu xa tội lỗi sẽ bị tận diệt (tận thế), còn thứ trời đất tốt lành sẽ lên ngôi (tạo dựng mới). Tác giả đã dùng loại văn thể khải huyền với nhiều hình ảnh nhằm gây xúc động. Chúng ta không nên hiểu những hình ảnh này theo nghĩa đen mà chỉ cần nắm ý tác giả là sẽ có một sự thay đổi lớn lao : sự dữ bị tận diệt và sự thiện lên ngôi. Có thể nói, đó là lúc Chúa đến.
- Nhưng không ai có thể xác định ngày tháng cho biến cố đó, vì "Chúa đến như kẻ trộm" (câu 10. Xem thêm Mt 24,43-44), nghĩa là rất bất ngờ. Hơn nữa, không phải Chúa chỉ đến trong ngày tận thế, mà Ngài còn đến rất nhiều lần, đến với từng người, đến để tạo dựng trời mới đất mới trong lòng người đó.
- Vì thế tác giả đưa lời khuyên về cách sống trong khi chờ ngày Chúa đến : Nếu Chúa chưa đến là do Ngài muốn ban thêm cho chúng ta thời gian để chúng ta lo ăn năn sám hối hầu tránh khỏi bị phạt khi Ngài đến thật ; Vậy trong thời gian hiện tại chúng ta hãy lo sám hối ăn năn và cố gắng sống thánh thiện đạo đức.
Đó cũng là điều mà Giáo Hội kêu gọi chúng ta trong Mùa Vọng này.
* 4. Chuẩn bị đón Chúa
Pat William có kể một câu chuyện rất đặc sắc trong cuốn The Power Within You như sau :
Cordell Brown, một bệnh nhân bị chứng liệt não, đến câu lạc bộ Quán Quân Thế Giới Philadelphia Phillies. Anh bước đi khó khăn, nói năng ấp úng, nên khi anh tới, các thành viên quay mặt đi như không nhìn thấy. Anh có thể nói gì với những siêu minh tinh màn bạc Steve Carleton, hoặc như Mike Schmit, những kẻ sống rất phong lưu ngàn lần cách xa anh ?
Tuy không được đón tiếp nhiệt tình, anh vẫn nói : "Tôi biết rằng tôi rất khác biệt với các bạn, "nhưng nhờ ơn Chúa mà tôi được như thế này" (1Cr.15,10). Và anh thao thao bất tuyệt nói về lòng nhân hậu của Thiên Chúa đã tuôn đổ phúc lộc xuống trên cuộc đời anh. Anh mạnh mẽ xác quyết : "Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của các bạn lại, thì các bạn cũng như tôi. Mọi người đều như nhau. Tôi không cần những gì các bạn đang có, nhưng tôi chắc chắn rằng các bạn cần một điều mà tôi luôn có, đó là Đức Giêsu Kitô".
*
Suốt chiều dài lịch sử Cựu Ước, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho con người đón tiếp Đức Kitô. Và khi đến thời gian đã định, Thiên Chúa dùng Gioan Tiền Hô, một tiên tri vĩ đại gạch nối giữa Cựu và Tân ước để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế : "Có tiếng kêu trong hoang địa : Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" (Mc.1,3).
Gioan không làm cách mạng, ngài không bắt người ta phải thay đổi cuộc sống, thay đổi địa vị xã hội, cho dù là thu thuế hay binh lính, hai hạng người mà thời bấy giờ bị coi khinh và xem thường. Nhưng Gioan chỉ nhắc nhở, thúc giục mọi người hãy cải thiện đời sống, đổi mới tâm hồn để sẵn sàng chờ đón Chúa đến.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể làm gì khác Gioan, sống khó nghèo và đơn sơ trong cách ăn mặc và lối sống.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể sống buông thả, theo tính khoe khoang và tự mãn.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể không học nơi Gioan lòng khiêm nhường, luôn qui hướng mọi vinh quang về cho Chúa.
Chính nhờ có Đức Kitô mà Cordell Brown trong câu chuyện trên đây cảm thấy hạnh phúc tràn đầy. Hạnh phúc ấy chỉ có được bằng giá của sự từ bỏ liên tục. Ludovic Giraud đã viết : "Sống không phải chấp nhận tất cả, mà là chọn lựa, là cắt bỏ, là hy sinh. Nhựa cây chỉ dẫn đến cành khi được cắt tỉa và nó chỉ sống được khi ngành cây tầm gởi không bóp nghẹt nó".
Mùa Vọng là thời gian của hy vọng. Con thuyền hy vọng của người tín hữu Kitô luôn chất đầy tin tưởng và phó thác :
- Tin tưởng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, nên chúng ta cũng đừng thất vọng về chính mình.
- Phó thác cho Thiên Chúa Tình yêu, nên dù tội lỗi có ngập tràn, khổ đau có chồng chất, chúng ta vẫn một niềm cậy trông.
Tin tưởng và phó thác là đôi mắt của người tín hữu nhìn thẳng vào Chúa mà hy sinh và từ bỏ.
*
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chuẩn bị đón Chúa với thái độ của người lữ hành trong sa mạc : dẹp đi những cồng kềnh vướng bận. Xin cho chúng con biết khổ chế nơi thân xác và chay tịnh trong cõi lòng, cho tâm hồn chúng con được thanh thoát, đón mừng Chúa đến ban nguồn vui Ơn Cứu độ. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Đừng tưởng
Những người thuộc phái Pharisêu và Sađóc là những thành phần đạo đức và sốt sắng nhất thời đó. Bởi thế họ nghĩ rằng cho dù ai đó có bị mất phần rỗi thì họ vẫn chắc chắn sẽ được cứu rỗi thôi. Nhưng Gioan bảo họ : "Đừng tưởng thế… Hãy sinh hoa kết quả"
Chúng ta tuy không đạo đức sốt sắng như những người pharisêu và sađóc, nhưng chúng ta không bỏ lễ Chúa nhựt nào, không bỏ kinh hôm kinh mai ngày nào, không phạm tội trọng nào cả. Thế thì chúng ta cũng có thể được hưởng ơn cứu độ chứ. Gioan cũng nhắc chúng ta "Đừng tưởng thế". Một cái cây sum xuê lá cành mà không sinh hoa kết quả thì cũng vô ích và phải bị chặt đi thôi !
* 6. Hãy an tâm, hãy an tâm !
Trong số biết bao lời trong Thánh Kinh, chắc hẳn đây là một trong những lời dễ nghe chịu nhất : "Hãy an tâm, hãy an tâm ! Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi".
Thực ra, lời ngọt ngào này Thiên Chúa không chỉ nói một lần duy nhất qua miệng ngôn sứ Đệ nhị Isaia. Ngài đã nói thế không biết là bao nhiêu lần bằng những lời lẽ khác. Hãy đọc lại những chương đầu của sách Sáng thế, ta sẽ thấy rằng sau mỗi lần con người phạm tội và bị phạt thì Thiên Chúa đều tỏ một cử chỉ yêu thương : mặc áo cho hai nguyên tổ đang xấu hỗ vì trần truồng, ghi dấu trên trán Cain để bảo vệ anh, tự tay đóng cửa chiếc tàu Noê trước khi cơn hồng thuỷ ập xuống… Hãy nhìn lại dòng lịch sử cứu độ, ta lại thấy lịch sử cứu độ là một lịch sử tha thứ : con người phạm tội không biết là bao nhiêu lần, và Thiên Chúa vẫn rộng lượng tha thứ không biết là bao nhiêu lần.
Đức Giêsu đến trần gian cũng chỉ để nói lên lời ngọt ngào đó. Hãy đọc lại Tân Ước và đếm xem bao nhiêu lần Đức Giêsu bảo người ta "Đừng sợ", bao nhiều lần Ngài âu yếm nói "Tội con đã được tha". Khi muốn mượn một hình ảnh để giúp người ta hiểu về mình, Đức Giêsu đã ví mình như một mục tử lặn lội đi tìm con chiên lạc và khi tìm được rồi thì trìu mến ẵm chiên trong lòng…
Bởi thế, thông tin về việc Ngài đến chính là một Tin Mừng.
Chúng ta hãy làm theo lời kêu gọi của Isaia trong bài đọc I hôm nay : "Hỡi những kẻ đưa Tin Mừng, hãy trèo lên núi cao, hãy mạnh dạn cất tiếng, hãy nói cho các dân rằng : Đây Chúa là Thiên Chúa sẽ đến !".
* 7. Tiếng kêu trong hoang địa
Tiếng của Gioan Tẩy giả là một tiếng kêu trong hoang địa, nhiều người không nghe thấy.
Ngày nay cũng có nhiều tiếng kêu trong hoang địa :
- Hiện giờ ở đâu đó một đứa trẻ đang kêu. Em cần tình thương, hay đơn giản hơn chỉ là một miếng bánh.
- Hiện giờ ở đâu đó một người trẻ đang kêu. Anh cần một đôi tai lắng nghe, hoặc một con tim thông cảm.
- Hiện giờ ở đâu đó một người già đang kêu. Ông cần ai đó đến thăm, hoặc con cái nói một lời.
Hàng ngàn hàng vạn tiếng kêu đang vang lên nhưng không ai nghe thấy trong thế giới bất công này.
Lạy Chúa, xin giúp con lắng nghe những tiếng kêu trong hoang địa.
Nhất là xin giúp con nghe được tiếng Chúa, đang thì thầm trong hoang địa của lòng chúng con. (Viết theo Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế :
Anh chị em thân mến, hôm nay Chúa nhật thứ 2 Mùa Vọng, Hội thánh mời gọi mọi người hãy dọn đường cho Chúa đến, sửa lối cho thẳng để Người đi. Chúa đến là một hồng ân cho mỗi người. Chúng ta hãy thành tâm khẩn nguyện :
1. Hội thánh được sai đi để dọn đường cho Chúa đến với mọi người / chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh biết noi gương thánh Gioan tẩy giả / để dọn đường sửa lối cho Chúa đến.
2. Thế giới còn đầy những bất công chia rẽ / nhiều nơi còn đang chiến tranh, đói khát / chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền biết cai trị theo công lý, hòa bình và tình huynh đệ / để dọn đường cho Chúa đến với mọi người.
3. Chung quanh chúng ta còn nhiều người nghèo đói, thất nghiệp, bệnh tật, không ai quan tâm giúp đỡ / chúng ta cầu xin Chúa cho họ biết kiên nhẫn và can đảm / để mong chờ và hy vọng Chúa đến giúp đỡ họ.
4. Trong hoàn cảnh khó khăn còn phải lo âu nhiều cho cuộc sống hằng ngày / chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / đừng vì thế mà dửng dưng với việc dọn đường sửa lối cho Chúa đến.
Chủ tế :
Lạy Đức Giêsu, Chúa đến để đem hạnh phúc thật cho mọi người chúng con. Xin Chúa giúp chúng con dẹp bỏ mọi cản trở trên đường Chúa đến, bằng lòng ăn năn sám hối mọi tội lỗi, để được Chúa viếng thăm. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước Kinh Lạy Cha : Chúng ta sắp cầu nguyện cho Nước Chúa trị đến. Nhưng cũng hãy nhớ dọn đường cho Nước Chúa đến.
- Sau Kinh Lạy Cha : "… Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, là dấu chỉ của việc Con Cha đến trong trần gian. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp, chúng con cố gắng hoán cải mỗi ngày, chúng con sẽ luôn thoát khỏi tội lỗi và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin giúp chúng con luôn tỉnh thức sẵn sàng đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc…"
- Trước khi rước lễ : "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng cứu độ trần gian, Đấng sắp đến viếng thăm chúng ta và ban ơn cứu độ cho chúng ta. Phúc cho ai được…"
VII. GIẢI TÁN
Anh chị em hãy ra đi dọn đường cho Chúa trong gia đình, khu xóm và môi trường làm việc của mình. Chúc anh chị em ra về trong bình an.
Hãy dọn đường Chúa đến, đây là một hình ảnh khá quen thuộc của thế giới đông phương thời xưa. Thực vậy, đường sá lúc bấy giờ đâu có trơn tru phẳng lì như những xa lộ hiện đại. Đường thì gập ghềnh, có chỗ trũng có chỗ cao. Mỗi lần viên chức cao cấp đi qua, dân trong vùng lân cận đều được huy động đi dọn đường, bạt chỗ cao lấp đầy chỗ trũng, làm cho thẳng những khúc quanh co.
Lời kêu gọi dọn đường đặt chúng ta vào trong một bầu khí rộn ràng, nhộn nhịp của việc chuẩn bị đón mừng Chúa đến. Thế nhưng Ngài đã không đến như một viên chức cao cấp. Ngài đã chẳng ngại đêm tối hay nhờm gớm mùi hôi hám của một chuồng bò. Ngài chấp nhận cái nóng bỏng chân của con đường ngang qua sa mạc. Ngài yêu thích những con đường gồ ghề dẫn tới biển để gặp các môn đệ, những con đường dẫn lên núi để ở giữa đám đông, rao giảng Tin mừng cho ho, những con đường ngang qua những cánh đồng để đi tìm những con chiên lạc.
Ngài đã đi con đường dẫn tới núi Sọ với cây thập giá trên vai với sức nặng của những lời chế diễu và chửi bới… Ngài đã chấp nhận một cuộc sống không có lấy một hòn đá gối đầu và một cái chết không mảnh vải che thân, bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Một con người như thế đâu cần ai dọn đường… Chúng ta có thể trang hoàng thánh đường một cách lộng lẫy, nhữn g hang đá đẹp đẽ, tập những bài hát du dương, nhưng tất cả là để cho chúng ta, những kẻ khó chấp nhận Tin mừng của sự nghèo túng, Tin mừng của những cái bình thường.
Riêng Chúa, Ngài vẫn muốn đi trên những con đường dẫn tới lòng người, dẫn tới trái tim. Và như thế, dọn đường Chúa đến có nghĩa là dọn lòng mình để đón nhận Chúa cùng với Tin mừng cứu độ của Ngài.
Chúng ta đừng vội nghĩ ngay đến việc xưng tội, mặc dù chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuốn đến cùng Gioan Tẩy giả thú nhận tội lỗi và chịu phép rửa trong sông Giócđan. Xưng tội thì có xưng, nhưng họ lại không đón nhận Ngài khi Ngài đến. Và không chỉ có vậy, hơn thế nữa, họ còn hò hét đòi thủ tiêu Ngài. Họ xưng tội nhưng lại khóa chặt cửa lòng đối với Tin mừng Phúc âm. Họ đã không nhận ra Ngài là gì đối với sự cứu thoát của họ và họ đã ngại đi vào con đường cứu thoát mà Ngài đã vạch ra. Con đường có quá nhiều chông gai, bấp bênh và nguy hiểm. Con đường đòi buộc chúng ta phải cởi bỏ tất cả những gì mình đang chiếm hữu như một bảo đảm cho sự sống để đón nhận cái mới, đó là sự hiện diện của Con Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta.
Dọn đường như thế có nghĩa là dọn lòng, là cởi bỏ những định kiến, những ích kỷ, những tính toán, lấy chính cái tôi làm tiêu chuẩn, những quyền lợi có thể là mang dáng dấp thiêng liêng, nhưng lại chẳng có chút dấu vết gì của Tin mừng, là cởi bỏ những ràng buộc để chúng ta có thể tự do đón nhận giáo huấn của Chúa. Bởi vì, giáo huấn của Chúa chính là con đường dẫn chúng ta tới sự giải thoát.
Thánh Gioan Tiền Hô, trong mắt của người cùng thời với ngài, thì ngài là một vị đại tiên tri sống khắc khổ, nhưng đối với con người thời nay, thì ngài là một vị thánh biểu trưng cho sự can đảm, trung trực và tiết chế.
Thánh Gioan Tiền Hô được gọi là người mở đường (dọn đường) cho Chúa, ngài không cầm dao cầm rựa để phát quang đường sá, ngài cũng không thuê xe ủi đất đề san bằng những chỗ gồ ghề, nhưng ngài dọn đường cho Chúa bằng câu khai mào rất ấn tượng làm cho mọi người nghe phải kinh ngạc : “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”. Ngài dọn đường cho Chúa không như chúng ta la người này hét kẻ nọ, chửi người kia để ai cũng biết là ta có quyền có thế; ngài dọn đường cho Chúa không như chúng ta phê bình người này có tật xấu này cần phải khai trừ khỏi cộng đoàn, người kia có khuyết điểm nọ cần phải đề phòng và không cho làm việc gì cả để khỏi gây ảnh hưởng xấu anh em (!?) Nhưng ngài dọn đường cho Chúa bằng sự khiêm tốn và đơn sơ của mình nơi hành động cũng như trong lời nói.
Thánh Gioan Tiền Hô ra mắt công chúng với thái độ và lời nói rất khiêm tốn : “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”, người đó là ai, dân chúng không biết mặt mà cũng chẳng nghe tiếng, người đó là ai, chẳng một ai biết cả ngoại trừ ngài. Mặc dù dân chúng không ai biết người đó là ai, nhưng thánh Gioan Tiền hô không vì thế mà tự nâng cao mình lên khi mọi người nhìn nhận ngài là một vị tiên tri mới xuất hiện; mặc dù họ biết người đang đến sau ngài là ai, nhưng ngài không vì thế mà ba hoa khoác lác với đám đông dân chúng đang ngưỡng mộ ngài... Thái độ của ngài khác hẳn với những người Pharisiêu và những thầy thông luật, họ dương dương tự đắc cho mình là thầy thiên hạ, họ nghênh ngang áo thụng tua dây rảo bước trước đám dông dân chúng, để được sự cung kính của mọi người...
Thái độ của ngài cũng khác hẳn với thái độ của chúng ta ngày hôm nay : ngài khiêm tốn và quả quyết nói là không xứng đáng cởi dây giày cho người đang đến sau mình, còn chúng ta thì luôn tìm dịp để nói xấu và hạ bệ người anh em của chúng ta khi họ có một chút tài năng hơn mình, và quả quyết với mọi người rằng : thằng cha đó không có chút tài cán gì, chỉ là chó ngáp nhằm ruồi mà thôi...
Anh chị em thân mến,
Mùa Vọng cũng là mùa dọn đường, là mùa phát quang cho thoáng những nơi u tối trong tâm hồn chúng ta để đón nhận ánh sáng của ân sủng, làm sáng lại cuộc sống thần thiêng đáng bị tục hoá trong chúng ta.
Mùa Vọng cũng là mùa mà mỗi người Kitô hữu chúng ta nhìn lại bản thân mình, quyết tâm tìm cho ra những khuyết điểm của bản thân, chứ không phải là nhìn đến những khuyết điểm của người khác.
Mùa Vọng cũng là mùa mà chúng ta dễ nhìn thấy Chúa Giêsu nhất nơi những người thân cận, bởi vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người như chúng ta.
Hôm nay cha nói với các con về một đề tài quen thuộc: Hãy dọn đường cho Chúa. Đây là một chủ đề dễ hiểu, nhưng cũng rất thực tế và quan trọng cho đời sống đạo của chúng ta.
Dọn đường cho Chúa là một kiểu nói của Kinh Thánh chỉ việc chuẩn bị đón tiếp Chúa. Sách Cựu Ước nhiều chỗ tường thuật việc Thiên Chúa đến viếng thăm Dân Người, thăm một cách đặc biệt một vài nhân vật như tổ phụ Abraham tại cây sồi Mamrê, thăm bà Sara, vợ của Abraham, ban cho bà ơn lạ là được mang thai ông Isaâc, dù bà đã già không còn độ tuổi sinh nở. Thiên Chúa đến thăm Dân Do Thái đang làm nô lệ ở Ai Cập và dùng ông Môsê mà giải cứu họ khỏi vùng đất nô lệ, đưa họ vào Đất Hứa. Nhưng chương trình quan trọng nhất của Thiên Chúa là Sai Người Con Một là Đức Giêsu Kitô đến trần gian để cứu độ nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, ác thần và sự chết, đưa họ vào Nước Trời, cho thông phần hạnh phúc vĩnh cữu của Thiên Chúa.
Sự viếng thăm của Thiên Chúa qua Người Con Một là Đức Giêsu Kitô là chuyến viếng thăm cuối cùng, trọn vẹn và dứt khoát, vì đó là sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, một sự gặp gỡ đầy tình thương và ân sủng, sự gặp gỡ mang lại ơn cứu độ đời đời. Sự gặp gỡ ấy rất quan trọng; tất cả Cựu Ước hướng về đó, hướng về Đấng Messia Cứu Thế, chuẩn bị cho Đấng Messia Cứu Thế.
Việc chuẩn bị được thực hiện trước hết trong tâm hồn. Chính Thiên Chúa hướng lòng Dân Chúa đến Đấng Messia. Người khơi dậy lòng khao khát, chờ đợi Đấng Messia Cứu Thế nơi Dân Chúa. Cựu Ước được coi như một Mùa Vọng kéo dài có tác dụng khơi dậy lòng khao khát của loài người hướng về Đấng Cứu Thế. Ngày nay Cựu ước vẫn còn giá trị, vì hoàn toàn hướng chúng ta về phía Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế. Kinh Thánh Cựu Ước nuôi dưỡng lòng khao khát gặp gỡ Chúa của chúng ta, nuôi dưỡng ngọn lửa yêu mến Chúa nơi chúng ta. Lòng của chúng ta giống như ngọn đèn của mười người trinh nữ cần phải luôn luôn có dầu.
Lòng khao khát hay niềm hy vọng đi kèm với lòng tin. Chúng ta tin tưởng Thiên Chúa yêu thương ta, và chắc chắn Người đến viếng thăm ta nơi Đức Giêsu Kitô, vì Chúa Kitô là Sứ Giả của Người, là Con Một của Người, là Lời Nói Cuối Cùng và đầy đũ nhất của Người. Chỉ có ai tin mới gặp được Chúa, mới đón nhận được Người, và Người cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa. Chính vì thế mà việc chuẩn bị quan trọng hơn hết là khơi dậy, nuôi dưỡng và củng cố lòng tin. Lòng tin mở đường cho chúng ta gặp Chúa; không có đức tin, không ai trong chúng ta có thể gặp Chúa, dù có đến nhà thờ, có tham gia mọi sinh hoạt của giáo xứ. Chúng ta hãy xin Chúa ban thêm đức tin cho ta để ta có thể gặp được Chúa.
Điều khác mà chúng ta cần làm để chuẩn bị đón tiếp Chúa là chủ động dọn đường cho Chúa. Công tác dọn dẹp thường rất phức tạp và vất vã. Con đường có đó, cuộc đời của ta có đó, nhiều khi ngổn ngang đũ thứ, và bỏ đi thứ gì ta cũng tiếc. Nếu Chúa biết chúng ta tiếc xót và tính toán với Người, Người chẳng buồn đến với ta nữa. Cuộc đời của chúng ta lắm lúc cũng quanh co, mà Chúa thì muốn đi con đường thẳng, vì tình yêu thì không thể quanh co; tiên tri Isaia dạy chúng ta hãy vạch môt con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta.
Đường đời của chúng ta nhiều chỗ ghồ ghề, lồi lõm, chẳng ai muốn đi qua. Nếu chúng ta kính trọng Chúa, muốn đón tiếp Chúa như một thượng khách, chúng ta phải sửa đường. Cuộc đời của con người giống như một con đường cứ phải sửa chữa hoài; sửa chỗ này lại hư chỗ khác. Nếu chúng ta có sửa chữa, chắc chắn Chúa thấy thiện chí của chúng ta và Chúa sẽ đến. Chính Chúa sẽ làm cho mọi sự trở nên bằng phẳng. Chúa sẽ làm phép rửa cho chúng ta bằng Thánh Thần là chính Tình Yêu của Chúa, là Sự Sống, là Sức Mạnh của Chúa, và Thánh Thần sẽ đổi mới mọi sự.
Tuỳ mức độ yêu mến của chúng ta dành cho Chúa mà ta trang hoàng đường đời của mình bằng những việc lành, những cố gắng hy sinh nho nhỏ giống như những bông hoa thiêng liêng dâng lên cho Chúa. Cao hơn nữa là một vài nhân đức mà chúng ta tập tành, giống những bức tranh nghệ thuật làm đẹp nơi đón tiếp Chúa. Nhưng cơ bản hơn cả là niềm vui trong đời sống đạo. Chúng ta có vui khi đón tiếp Chúa thì Chúa mới sung sướng khi gặp gỡ ta. Ước gì niềm vui sống đạo của chúng ta cứ mỗi ngày một lớn thêm, đạt tới tầm vóc viên mãn của niềm vui trong Thiên Chúa.
Đức Cha Phaolô BÙI VĂN ĐỌC + ĐGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
Dân Phương Đông thời xưa có tục lệ dọn đường khi có một vị quan khách nào sắp tới, sắp đi ngang qua. Bởi vì, đường sá lúc đó nào đâu có trơn tru, có thẳng tắp, có lát nhựa như nhiều đường thời nay, mà đường thời đó gập ghềnh, chỗ cao, chỗ thấp, chỗ trũng, chỗ sâu, chỗ lồi lõm, chỗ ngoặt ngoèo. Một viên quan chức sắp đi ngang qua, dân chúng trong toàn vùng được kêu mời dọn đường, bạt chỗ cao, lấp đầy chỗ trũng, làm cho những khúc quanh co thẳng hơn tốt hơn. Lời kêu gọi dọn đường như bài đọc 1 và bài Tin Mừng Mc 1, 1-8 cho nhân loại và mỗi người chúng ta thấy sự nhộn nhịp, chóng vánh, vui tươi của việc đón chờ Chúa đến. Ngài đang đến gần chúng ta…
CHÚA GIÊSU ĐẾN NHƯ MỘT NGƯỜI NGHÈO:
Chúa không đến trần gian như một ông vua, như một viên chức cao cấp cần đánh trống, dọn đường đi thật. Chúa đã đến trần gian như một người nghèo: Ngài sinh ra trong hang bò lừa tanh hôi, không kèn, không trống, không mũ, không lọng. Chúa đến một cách âm thầm nơi hang bò lừa Bêlem khi các quán trọ đều từ chối vì đã đông khách và sợ phiền toái, liên lụy. Ngài lớn lên trong sự khó nghèo của vùng quê với những con đường đất đỏ, bụi tung bay. Ngài không ngại lê bước chân tới mọi nơi, mọi chốn trên nhiều con đường với đôi chân đất đơn hèn để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngài yêu mến những con đường dẫn lên núi để gặp dân chúng. Ngài đi qua những sa mạc nóng bỏng để gặp mọi người. Ngài đã đi qua những con đường ngoằn ngòeo dẫn tới biển để gặp các môn đệ của Ngài. Ngài đã lê bước lên núi sọ, vai vác thập hình để thực hiện ý của Cha Ngài cứu độ nhân loại. Ngài chấp nhận một cuộc sống không nhà, không cửa, không hòn đá gối đầu.Chúa chấp nhận cái chết trần trụi trên thập giá, bị treo lơ lửng giữa mây trời…Chấp nhận như một con người nghèo hèn, Chúa đâu có muốn chúng ta dọn đường như dọn đường cho một vị vua, vị quan đi qua. Chúa vẫn ước mong đi trên những nẻo đường đơn sơ dẫn đến lòng người, dẫn đến con người, dẫn đến từng người…
DỌN LÒNG NHƯ TIN MỪNG HÔM NAY MỜI GỌI:
Dọn lòng như các bài đọc hôm nay mời gọi là dọn lòng để đón Chúa, đón nhận Tin Mừng cứu rỗi của Ngài. Tin Mừng cho thấy:” mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với Ông ( Gioan Tẩy giả ). Họ thú tội, và Ông làm phép rửa cho họ tại sông Giođan. Rõ ràng số dân chúng tới với Gioan Tẩy giả đã xưng thú tội lỗi, nhưng khi Chúa đến họ lại không đón tiếp, không chấp nhận Chúa. Trái lại họ lại la hò đòi thủ tiêu, đòi giết Chúa. Họ không nhận ra Chúa và ngại đi vào con đường của Chúa. Con đường do Chúa vạch ra có quá nhiều bấp bênh, chông gai, nguy hiểm: con đường đòi từ bỏ, hy sinh để nhận ra sự hiện diện của Con Thiên Chúa đang ở với họ. Dọn đường ở đây có nghĩa là dọn cõi lòng, làm cho tâm hồn con người nên đạo đức, thánh thiện. Con người phải cởi bỏ mọi cái ích kỷ, mọi cái vương vấn, bao quấn lấy con người khiến con người không thể nào rời bỏ được cái hạn hẹp của mình. Dọn đường cũng có nghĩa là trút bỏ mọi vướng mắc, mọi suy nghĩ xem ra cố định, xem ra ghì chặt con người làm cho họ không còn chỗ cho Thiên Chúa ngự trị. “ Núi đồi phải bạt xuống, hố sâu phải lấp cho đầy, chỗ quanh co hãy uốn cho ngay thẳng “, lời của Gioan Tẩy Giả hô vang như một lời thức tỉnh con người làm cho con người tỉnh thức và ý thức hơn về kiếp sống trần gian của mình. Dọn đường cũng có nghĩa cởi bỏ những gì là không cần thiết để Chúa lấp đầy khoảng trống của con người và để con người nhận ra tiếng gọi đầy yêu thương của Chúa Giêsu. Dọn đường là bỏ tất cả những gì không dính dáng tới Tin Mừng để chọn một con đường như Chúa đã đi, con đường khó nghèo,con đường giải thoát vv…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sẵn sàng dọn đường cho Chúa đến trong cuộc sống chúng con và trong thế giới này.
Phúc âm theo thánh Mác-cô được bắt đầu bằng câu chuyện Gioan tiền hô, một vị ngôn sứ cuối cùng trong thời Cựu ước. Sau một thời gian lâu dài vắng bóng ngôn sứ, thì dân Chúa lại có thể nghe tiếng Người qua miệng Gioan, một ngôn sứ vừa xuất hiện. Sứ vụ của Gioan tiền hô đã được ngôn sứ Isaia loan báo cả hơn bảy trăm năm trước cho dân chúng, đang sống trong cảnh lưu đầy là cuộc giải thoát khỏi cảnh nô lệ đã gần đến. Một ngôn sứ có liên hệ với Isaia báo trước là người ta sẽ nghe thấy tiếng kêu trong hoang địa: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Chúa; giữa đồng hoang, hãy làm một con đường cho ngay thẳng (Is 40:3). Thời đó giữa Ba-by-lon và Giêrusalem, chỉ có đường mòn cho lái buôn cưỡi lạc đà. Cho nên dân chúng được khuyến khích làm đường mòn rộng hơn, vì theo họ thì Ðấng cứu thế sẽ đến với họ qua sa mạc.
Gioan tiền hô đến thực hiện lời tiên tri về việc dọn đường cho Ðấng cứu thế. Gioan cắt nghĩa việc sửa đường cho Ðấng cứu thế đến theo nghĩa thiêng liêng. Gioan bảo họ phải sửa đường cho ngay thẳng nghĩa là thanh tẩy tâm hồn bằng việc: Chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội (Mc 1:4).
Ðiều làm ta thắc mắc sơ khởi ở đây là tại sao lại rao giảng trong sa mạc? Tài liệu tình cờ được tìm thấy ở hoang địa Wadi Qumran và khi khai quật lên, người ta tìm thấy dấu vết một tu viện Do thái thời Chúa Giêsu. Thành phần trong tu viện là tư tế hay người dân, ở độc thân hoặc lập gia đình, sống khắc khổ và cầu nguyện hằng ngày. Như vậy có thể ông Gioan tiền hô thuộc nhóm này, rồi xuất hiện trong hoang địa để rao giảng. Theo ý niệm Thánh kinh thì sa mạc có liên quan đến việc manh nha và bành trướng của đạo cũ, nghĩa là đạo Do thái. Chính trong sa mạc mà dân Do thái đã gặp được Chúa. Họ nghe tiếng Chúa gọi làm dân riêng và sửa soạn cho họ vai trò được chọn. Sa mạc là lối sống du mục của họ trong suốt bốn mươi năm trường trên đường tìm về đất hứa. Họ nhận thức được rằng họ được sinh tồn trong sa mạc là có bàn tay Giavê bảo vệ và nuôi dưỡng họ khi cần bằng manna, bằng chim cút, bằng nước do Giavê truyền cho Môsê dùng cây gậy đập vào đá cho nước trào ra. Trong sa mạc, họ được thử thách và sau cùng khi họ phản bội Chúa thì ngôn sứ Hôsê nhắc nhở cho họ là họ sẽ lại được đưa vào sa mạc để nghe Chúa nói với con tim họ. Như vậy thì đó là điều thích hợp để lời Chúa qua miệng Gioan tiền hô lại đến với họ trong sa mạc.
Trong Phúc hôm nay Gioan tiền hô sửa soạn cho Ðấng Cứu thế đến bằng việc rao giảng phép rửa thống hối. Sứ mệnh của Gioan tiền hô thật là gay go. Trước hết ông ta phải sửa soạn cho sứ mệnh làm ngôn sứ bằng việc đi vào sa mạc để luyện chưởng thiêng liêng, nghĩa để ăn chay cầu nguyện.
Ðiều thắc mắc thứ hai là ai sẽ vào sa mạc để nghe giảng, trừ khi giảng cho cào cào, châu chấu hay bọ cạp? Phúc âm hôm nay ghi lại là dân chúng từ các vùng làng mạc thôn xóm, cũng như từ Giêrusalem tuốn đến nghe Gioan giảng. Việc dân chúng tuốn đến, không những từ miền quê, mà còn từ đô thị để nghe Gioan trong sa mạc, chứng tỏ ông ta có sức lôi cuốn rất là mãnh liệt. Không phải chỉ vì tò mò mà đến coi một nhân vật có vẻ kì dị trong cách ăn bận - ăn châu chấu, bận da thú vật (Mc 1:6). Dân chúng tuốn đến nghe ông giảng bởi vì lời rao giảng của ông có sức tác động làm thay đổi đời sống họ. Họ đáp lại sứ điệp thống hối bởi vì họ cảm thấy được gần gũi với Chúa. Nghe giọng nói của nhân vật thủ vai ông trong phim ảnh về cuộc đời Ðấng Cứu thế, thì tiếng ông ta cảnh giác dân chúng rống lên như con sư tử cái, trong thế nhảy chồm lên, rượt bắt mồi.
Sa mạc là nơi khô chồi, hoạ hiếm mới tìm được nước uống và sinh vật sồng. Trong sa mạc, người ta cảm thấy mình bé nhỏ, yếu thế, không có chỗ cho việc thỏa hiệp. Người ta phải làm quyết định nhanh chóng có liên hệ đến vấn đề sinh tử. Người ta phải lựa chọn giữa Thiên Chúa và chính mình. Như vậy vào sa mạc để nghe Gioan giảng có nghĩa là đối diện với chính mình, để hoán cải tâm hồn và sửa soạn đón chờ Ðấng Cứu thế. Gioan nhận thức được sứ mệnh của ông là kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối và chịu phép rửa. Dân chúng tuốn đến nghe ông bởi vì họ tin rằng ông rao giảng lời Chúa, chứ không thỏa hiệp, không nhắm làm vừa lòng, làm khoái tai người nghe. Vì thế khi nhận phép rửa thống hối, dân chúng cũng bắt đầu đổi mới đời sống.
Thắc mắc thứ ba là làm sao ta có thể bắt chước dân chúng trong Phúc âm, đi vào sa mặc để nghe sứ điệp sám hối, dọn đường cho Ðấng cứu thế đến? Ðể gợi lên bầu khí sa mạc trong thánh kinh, các trại huấn luyện huynh trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể thường được tổ chức trong sa mạc hay trong rừng núi. Tên của mỗi khoá sa mạc được đặt theo ý niệm trong thánh kinh như Sa mạc Ánh lửa, Lửa thiêng, Giêrusalem, Bêlem, Na-da-rét. . để khoá sinh dễ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa khi học hỏi về thánh kinh giữa cảnh thiên nhiên. Vào rừng cũng như vào sa mạc người ta có cảm tưởng dễ gặp nguy hiểm như bị lạc, bị dã thú tấn công hay không tìm được thức ăn và nước uống. Do đó người ta dễ bám víu vào Ðấng cầm giữ sinh mạng.
Ðối với đa số giáo dân thì điều mà ta có thể làm là tạo nên bầu khí sa mạc trong tâm hồn là nơi chỉ có Chúa và mình hiện diện. Nói như vậy có nghĩa là ta phải tìm những giờ phút thanh vắng, đơn độc để ở một mình với Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa trong sa mạc của tâm hồn, để có thể tự giác và thức tỉnh tâm hồn. Trong sa mạc, người ta dễ dàng làm quyết định phải theo đường nào, vì không có cây cối che lấp nhãn quan. Cũng vậy, trong sa mạc của tâm hồn, không bị ngoại cảnh chi phối, không bị nội cảnh lấn át, ta sẽ dễ dàng làm quyết định cho đời sống nội tâm. Ðó là việc lựa chọn mà mỗi người phải làm trong Mùa vọng này.
Lòi cầu nguyện, xin cho được gặp gỡ Chúa trong sa mạc của tâm hồn:
Lạy Chúa, Chúa hiện diện khắp mọi nơi.
Sa mạc, núi rừng, biển cả đều có Chúa ở đó.
Chính trong sa mạc mà dân Do thái gặp được Chúa.
Xin ban cho con một tâm hồn thanh tịnh,
để khỏi bị ngoại cảnh chi phối và nội cảnh lấn át.
Xin dạy con biết tạo bầu khí sa mạc trong tâm hồn:
đơn côi và cô tịch,
để con mời Chúa vào,
ở với con. Amen.
“Chúng ta hãy cùng suy nghĩ về ý nghĩa của từ ngữ “mùa Vọng”.
Đây là từ ngữ có gốc La-tinh (adventus), được dịch là “hiện diện” hay “đến nơi” trong tiếng Đức. Trong ngôn ngữ của thế giới cổ, từ ngữ này được dùng chỉ sự đến nơi của một bị quan chức, và đặc biệt chỉ về sự giáng lâm và ngự triều của một vị Vua tại một nơi nào nhất định. Ngoài ra cũng diễn tả sự giáng lâm của thần thánh….
Từ ngữ này (adventus) đã được Kitô hữu dùng, để diễn tả tương quan đặc biệt của mình đối với Chúa Giêsu Kitô. Ngài chính là Vua của họ. Vị vua này đã giáng lâm vào trong một nơi bần cùng của trái đất, và mọi người được phép tổ chức lễ đón mừng Ngài. Thật đơn giản, người Kitô hữu muốn nói rằng: “Thiên Chúa đang hiện hiện nơi đây.” Ngài không ẩn mặt với thế giới này. Ngài không để chúng ta lẻ loi một mình. Ngay cả khi chúng ta không thể nhìn thấy Ngài, và không thể đụng chạm Ngài như những đồ vật, thì Ngài vẫn hiện diện ở đây, và đến với chúng ta qua nhiều phương cách.”
(Benedikt XVI. Joseph Ratzinger, Der Segen der Weihnacht, Meditation, Herder Verlag, Freiburg 2005, S. 13 und 15)
Bạn thân mến,
An ủi biết bao khi đọc lời của Đức Thánh Cha. Vâng, Thiên Chúa không ẩn mình trước thế giới chúng ta. Ngài không để chúng ta lẻ loi một mình. Đấng đã có lần nói lời xin vâng với chúng ta, không để chúng ta một mình lăn lộn với cuộc sống này. Ngài thấu hiểu được con người yếu đuối của chúng ta, Ngài đã nhìn thấy những khổ đau mà chúng ta đang chịu hằng ngày, Ngài không ngồi đó để chúng ta ngày ngày cứ chết dần chết mòn trong tội lỗi, trong hận thù, trong cô đơn, trong lạnh lẽo và đớn đau.
Tình yêu của Thiên Chúa ấp ủ chúng ta suốt cả cuộc đời.
Giờ đây trong thinh lặng chúng ta hãy chiêm ngắm, cảm nếm hành động yêu thương của Chúa qua sự giáng lâm của Ngài nhé!
Ngoài ra, thiết nghĩ rằng chúng ta cũng cần phải tự hỏi mình xem:
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta sẽ đón tiếp Ngài như thế nào, vị Vua của chúng ta đang đến?
Lời của tiên tri Isaia hôm nay mời gọi chúng ta: “Trong Sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa. Giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”
Lời mời gọi này có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
Bạn có muốn mở một con đường cho Chúa không? Con đường đó sẽ có dáng vẻ nào? Bạn sẽ chuẩn bị gì trên con đường đó?
Trong tuần thứ hai của mùa vọng này, mời Bạn cùng tôi lên đường và mở một con đường cho Chúa, chúng ta cùng suy nghĩ xem sẽ trang trí con đường này như thế nào?
Đồ trang trí có thể là một cây cảnh của thứ tha, một bông hoa của bác ái…
Khi con đường được mở ra, và được trang trí những bông hoa tốt lành đón mừng Thiên Chúa, thì chúng ta, những người Kitô hữu có thể nói với mọi người rằng: “Thiên Chúa đang hiện hiện nơi đây.”
Ý Chỉ cầu nguyện trong tuần:
Tuần này xin cầu nguyện cho Giáo Hội và quê hương Việt Nam
_____________________________________________________________
· Phương pháp cầu nguyện suy niệm:
1) Chọn một nơi chốn và thời gian thích hợp
2) Ngồi xuống, đốt lên một cậy nến trước ảnh Chúa, làm dấu thánh giá và phủ phục thờ lạy Chúa.
3) Nhắm mắt một chút và từ từ đi vào trong thinh lặng.
4) Chú tấm đọc bài suy niệm cách chậm rãi.
5) Đọc lại lần thứ hai và để ý xem câu nào hay tâm tình gì đánh động.
6) Nhẩm đi nhắc lại câu đó nhiều lần; Vd: „phải canh thức!“
7) Thinh lặng và để lời đó thấm vào lòng mình.
8) Tâm sự với Chúa và kết thúc bằng một kinh Lạy Cha.
Trong một trận lũ lụt kia, nhiều du khách trên tuyến đường Bắc - Nam bị kẹt ở miền Trung. Lý do là đèo Hải Vân bị sạt lở, xe cộ không đi lại được. Nhiều đoạn đường sắt bị nước lũ cuốn đi, nên tàu Bắc - Nam cũng đành ủ rũ nằm chờ. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.
Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người. Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.
Con đường vật lý đã cần. Nhưng con đường tâm lý còn cần hơn. Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì dù có ở sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau.
Tương tự như thế, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
Tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Nên hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến.
Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh giả hình. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành nói xấu.
Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài những cố gắng bản thân, còn cần đến những phương thế. Đời sống của Thánh Gioan Baotixita đề nghị cho ta 3 phương thế rất tốt.
Phương thế thứ nhất là vào sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ chìm sâu xuống đáy lòng mình để gặp gỡ Chúa. Một mình ta diện đối diện với Chúa. Trong thân mật, Chúa sẽ dạy ta biết Thánh Ý để ta thi hành. Đức Giêsu, trước khi đi rao giảng cũng đã vào sa mạc 40 ngày để tìm Thánh Ý Chúa Cha. Sa mạc đây được hiểu là những giờ cầu nguyện riêng tư thân mật một mình ta với Chúa.
Phương thế thứ hai là mặc áo da thú. Mặc áo da thú có nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm để tiến lên trên con đường thánh đức.
Phương thế thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý nói về một đời sống khổ chế. Hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những đòi hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không cần thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.
Thánh Gioan Baotixita đã sống theo chương trình 3 điểm này, nên Ngài đã trở thành người mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta biết áp dụng 3 phương thế ấy trong Mùa Vọng này, ta sẽ biến tâm hồn ta thành một con đường thẳng tắp cho Chúa Giáng Sinh ngự đến.
Lạy Chúa, xin cứu con khỏi mọi tội lỗi để con xứng đáng đón rước Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Con đường tâm hồn tôi có những đồi núi, vực sâu, khúc quanh nào cần sửa chữa? 2- Tôi có cần đến những phương thế của Thánh Gioan Baotixita không? 3- Tôi sẽ làm gì trong tuần này để thực hành Lời Chúa? 4- Trong bài Tin Mừng Chủ nhật thứ II Mùa Vọng này, tôi tâm đắc nhất câu nào?
Truyện cổ Đông Phương kể về một con cá con bơi dọc theo bờ sông. Cạnh bờ sông, ông giáo đang dạy khoa học cho các học trò đang quây quanh ông. Thày giáo giảng: "Nước tuyệt đối cần thiết cho sự sống. Không có nước trong một tuần lễ chúng ta sẽ chết." Một con cá con nghe vậy liền tự nghĩ: "Trời! Nếu nhà khoa học đó nói đúng, tôi phải đi tìm cái mà người ta gọi là nước đó, nếu không tìm được mấy ngày nữa tôi sẽ chết." Nó hỏi mọi con cá khác nó gặp có biết nước là gì không, nhưng không ai trả lời cho nó. Họ chỉ biết để ý đến tìm của ăn nuôi sống. Nhiều con cá còn cho nó là dại gì mà nghĩ những chuyện đâu đâu. Nó tiếp tục đợi chờ đi tìm cái gọi là nước. Rồi một hôm nó cố hỏi con cá lớn tuổi, có phần khôn ngoan: "Làm ơn chỉ cho tôi cái chất mà người ta gọi là nước là gì và tìm đâu ra nó?" Con cá lớn trả lời: "Nước hả! Mày đang ở trong đó, mày sinh ra và lớn lên trong đó. Nước bao quanh mày và mày cứ ngụp lặn, hút lấy nó thì mày sống được." Con cá đang sống trong nước mà nó không nhận ra. Cũng thế, chúng ta đang sống trong sự hiện diện của Chúa mà chúng ta không nhận ra Ngài.
Thời gian đã đến, Thiên Chúa thể hiện công trình cứu chuộc. Ngài đã không kiến tạo một thế giới khác, xứng đáng đón nhận sự viếng thăm của Ngài. Ngài đã đến trong thế giới con người, những người đang mong mỏi chờ đợi Ngài đến. Hầu hết những người Do Thái, không sống đúng với việc nghinh đón Đấng Thiên Sai, đã quên đi việc chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế. Nhiều lần trong Cựu Ước, con cái Israen đã bước theo những thần tượng khác.
Trong biến cố Giáng Sinh, Tình yêu Thiên Chúa đi vào sự hiện hữu của con người. Nơi Chúa Kitô, Thiên Chúa được khám phá ngay trong cuộc sống thường ngày của con người.
Đối với hầu hết chúng ta, không ai là tầm thường khi là một phần tử của gia đình. Thông thường, sự quen thuộc gây nên mãn nguyện, coi thường. Điều đó đúng khi không biết tìm mới lạ trong thường ngày. Đây chính là bí mật của Phúc Âm được khám phá do những người vợ, người chồng, người anh, người em, những người bạn. Thật đẹp biết bao có những gia đình, những tình bạn mà tình yêu luôn đầm thắm. Nhưng điều đó hiếm hoi quá.
Chúng ta giống như các trẻ em sáng thứ Bảy muốn có những cuộc giải trí hào hứng. Tuy nhiên, tiến trình làm phong phú sự liên hệ tình người không phải là cuộc giải trí nhưng là dấn thân. Chúng ta nghe có những gia đình mất đi những thích thú. Họ thấy nhạt chán. Từ trước đến giờ, họ trở đi trở lại cũng một trò cười, những thói quen, những phàn nàn. Họ nghĩ đến một liên hệ mới để có thể tìm vui hứng. Thật đáng buồn.
Nơi Chúa Kitô, Chúa tự ngụp sâu vào tình trạng con người. Thực tại của con người, của mỗi người thì vô tận. Mỗi người là một mầu nhiệm đối với những người khác: Mầu nhiệm vui và buồn, mầu nhiệm của nước mắt và hy vọng, mầu nhiệm của đau đớn và hoan lạc. Chúng ta là mầu nhiệm đối với chính chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Chỉ trong Nước Chúa, chúng ta sẽ thấy chúng ta như Chúa thấy chúng ta." Cho đến ngày đó, chúng ta vẫn còn thám hiểm.
Một trong những mầu nhiệm cao cả của Đức Tin là Ơn Thánh Chúa cống hiến chúng ta sự sống mới mà chúng ta đang mong đợi và Chúa đang đợi chúng ta đáp trả. Ngài không áp lực. Ngài không đánh tráo. Ngài chờ đợi! Còn chúng ta, chúng ta không hiểu được "Chúa ở đâu?" "Ngài ẩn trốn?" hay "Ngài bỏ rơi?" Thật ra, Chúa ở đó và chờ đợi. Chúng ta phải đáp trả mới nhận ra sự hiện diện của Ngài. Chúng ta phải có ý sử dụng sự sống mới Ngài tặng ban, nếu không, việc tặng ban sẽ vô ích. Chúng ta phải có ý bước theo con đường của Ngài.
Thánh Mátcô nói: "Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa thống hối." Nói cách khác, Đấng Thiên Sai quí vị đang mong chờ đang hiện diện. Đây là lúc cần thay đổi. Gioan không công bố, "Đức Kitô sắp đến." Ngài rao giảng phép rửa thống hối; ngài kêu gọi một sự đáp ứng.
Trong cuốn tiểu thuyết The Shoes of the Fisherman, có câu rất hay: "Cái giá phải trả để thành một con người hoàn toàn quá đắt đến nỗi ít người có hứng hay có can đảm để trả nó." Lúc này chúng ta có thể quyết sống một đời sống mới. Chúng ta quyết chí thành một người hoàn toàn. Chúng ta đón nhận ơn soi sáng nhận ra Chúa hiện diện trong ta và can đảm sống cuộc sống mới.
Chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, Ngài hỏi chúng ta có muốn một đời sống mới không? Giáng Sinh nói cho chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài tự hạ mình hiện diện trong cuộc sống nhân loại. Ngài chờ chúng ta khám phá ra Ngài. Chúng ta sẽ không thể nhận ra Ngài nếu chúng ta không nhận ra Ngài trong người chồng, người vợ, người cha, người mẹ, các con, bạn bè, người khách lạ, hay kẻ thù. Giáng Sinh không những để mừng vui, Giáng Sinh mời gọi khám phá, khám phá ra sự hiện diện của Chúa Giêsu.
Đoạn mở đầu Phúc âm theo thánh Maccô là một tuyên cáo. Đây là một bản loan Tin Mừng, bằng những lời mạnh không hoa mỹ, nó chứa đựng những yếu tố chủ yếu của sứ điệp, đó là: Thời đại Cứu chuộc đã khởi sự, những lời tiên tri đã được thực hiện –Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa- Người đã đến thanh tẩy loài người trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là đến cứu rỗi nhân loại. Đoạn Phúc âm mời gọi mọi người hãy sám hối, thanh tẩy bản thân cách xứng đáng để được tha thứ.
Tiền hô Gioan Tẩy giả được trình bày với dáng vẻ cường tráng, trung kiên và khiêm hạ. Thánh sử đặt ông ngay phần mở đầu, giống như các kiến trúc sư thời trung cổ thiết bị cửa chính nhà thờ như một lời mời hãy tiến vào thánh đường. Ta ghi nhận Gioan Tẩy giả đã sống trong sa mạc, nghĩa là trong cô tịch, thiếu thốn tiện nghi thể xác, quang đãng vật chất, và khoáng đạt tâm hồn. Được khai quang hết những gì không tối cần thiết, ông sẵn sàng để Thiên Chúa sử dụng. Điều này mời chúng ta suy niệm về ý nghĩa thiêng liêng của hoang địa.
1) Hoang địa là sự chuẩn bị bắt buộc phải có cho mỗi thực hiện đáng giá trên bình diện nhân phẩm hoặc trên bình diện hành động. Chúng ta hiểu “hoang địa” theo nghĩa: đó là những khoảnh khắc cầu nguyện trong vắng vẻ, những giây phút suy tư và suy niệm, yên lặng, cố gắng dọn dẹp loại bỏ cái thừa. Ân sủng chính của “hoang địa” là khám phá thấy con người tùy thuộc trước hết vào Thiên Chúa.
Người ta nhớ tới cuộc xuất hành khi Môisê dẫn dắt dân ông. Kinh nghiệm về hoang địa của Israel trốn chạy khỏi Ai cập để tiến về Đất hứa, chính là 1 nhận thức về hai điểm. Trước hết họ hoàn toàn tùy thuộc vào sự chăm nom của Thiên Chúa. Điểm hai: họ có thể trông nhờ vào sự chiếu cố ấy, một sự ân cần săn sóc không lúc nào vắng thiếu. Đời sống Kitô hữu cũng vậy. Trên đường tiến đến tận cùng số mệnh mình, người Kitô hữu phải biết sức mạnh đó miễn là phải loại bỏ tất cả những gì ngăn chặn Chúa đến. Để chuẩn bị đón tiếp Chúa trong dịp lễ Giáng sinh, chúng ta sẽ khai quang tâm hồn chúng ta như thế nào?
2) “Hoang địa” là một chuẩn bị ưu tiên cho hành động đặc biệt cho cho hoạt động Tông đồ. Cũng như Gioan Tẩy giả, người làm việc Tông đồ chuẩn bị cho người ta nghênh đón “Đấng đến để thanh tẩy trong Chúa Thánh Thần”. Hoạt động Tông đồ được bồi dưỡng cường lực và hiệu năng, nếu trước đó đã được thuần luyện bằng suy niệm và nguyện cầu, trong tâm trạng “hoang địa” nó khai phóng tâm trí, thanh luyện tâm hồn, củng cố ý chí, mở rộng linh hồn đón nhận cường lực của Thiên Chúa.
Giống Gioan Tẩy giả lúc từ sa mạc trở về, đã lôi cuốn những đám dân chúng đông đảo, chiến sĩ của Đức Kitô lôi cuốn người khác nếu họ cảm thấy trong con người chiến sĩ tính chất chân chính có được nhờ thời gian lâu dài sống vắng vẻ với Chúa. Một yếu tố đặc biết đáng lưu ý. Ta có thể tự hỏi: sống vắng vẻ với Chúa, phải chăng là sống ngoài trần thế? Vậy mà tín đồ của Chúa phải dấn thân vào thế gian, để trong thế gian trở nên một thứ men sinh động cho đời sống và tiến hóa của thế gian. Lời đáp nằm trong một nhận định sơ đẳng. Mọi cuộc đời đều có một nhịp độ hấp thụ và cống hiến. Người ta chỉ có thể cống hiến điều gì đã được hấp thụ. Không được nuôi dưỡng thì cơ thể không làm được những cố gắng thể lực. Cũng vậy, đời sống thiêng liêng không thể hoạt động thật sự, nếu không hấp thụ sức mạnh của Thiên Chúa. Chính trong sự gặp gỡ Thiên Chúa, thực hiện được bằng cầu nguyện và tĩnh tâm, trong vắng vẻ (dù chỉ vài ba phút) trong từ bỏ không luyến tiếc những cái ngổn ngang rườm ra, mà chiến sĩ Đức Kitô trở nên men tác động giữa thế gian, môi trường sinh hoạt của mình.
Hôm nay, chúng ta sẽ đọc trang đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô. Trong suốt năm phục vụ này, năm B, chúng ta sẽ đọc cách đặc biệt Tin Mừng Maccô.
Truyền thống thường giới thiệu Maccô như môn đệ của Phêrô. Vì thế trong trình thuật của ông, ta được nghe lại những kỷ niệm và giáo lý của vị tông đồ, đã từng mục kích Đức Giêsu. Người ta cho rằng: Tin Mừng này đã được soạn thảo tại Rôma, khoảng năm 70, và gửi cho một cộng đồng Latô gồm những người gốc ngoại giáo, chưa từng sống tại Palestine.
So sánh với ba Tin Mừng khác, Tin Mừng của thánh Maccô rất thực tế: đó là câu truyện của một người bình dân, có những nét gây thích thú. Nhưng ta đừng vội lầm, Maccô cũng là một nhà thần học, sẽ tỏ lộ cho ta cuộc khám phá dần dần của Phêrô. Suốt trong phần đầu, mọi người đều tự hỏi: “Đức Giêsu là ai!” Đức Giêsu thể hiện những hành động, nói những lời luôn đặt thành vấn đề. Nhưng thật lạ lùng. Người vẫn đặt “bí mật” trên con người mình. Mãi tới phần thứ hai của đời sống công khai, người mới từ từ thông tỏ về bản thân Người.
Khung cảnh địa lý Maccô sử dụng cũng mang tính thần học. Theo đó ông đề cao xứ Galilê, miền đất mở ngở và để đón nhận sứ điệp của Đức Giêsu, nghịch lại với Giêrusalem, thành phố luôn chối từ Đức Giêsu.. Hơn nữa đối với Maccô, biển hồ Galilê mang một ý nghĩa biểu tượng (Phêrô người thuyền chài, biết rõ từng vũng nhỏ trong hồ ông sinh sống!). Bờ hồ phía tây, là người Do Thái. Bờ hồ phía đông, là anh em dân ngoại. Maccô có ý nhấn mạnh cho ta thấy, Đức Giêsu đang đi vào "miền đất ngoại giáo", như thế khai mở "vùng truyền giáo" của Giáo Hội mà Tin Mừng ông muốn gửi tới.
Cuối cùng Tin Mừng của Maccô đượm vẻ "bi thảm”. Ba nhóm người được miêu tả trong đó. Trước hết đó là Đức Giêsu và các môn đệ của Người, luôn chung sống với nhau. Rồi tới đám dân chúng theo Đức Giêsu, nhưng không hiểu biết gì về Người. Sau hết, đó là các kẻ thù nghịch, ngay từ đầu chỉ xoi mói rình rập nhằm kết án Đức Giêsu.
Khởi đầu Tin Mừng.
Có lẽ không phải là ngẫu nhiên mà lời đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô cũng là lời đầu tiên trong Bộ Kinh thánh: 'Khởi đầu trời và đất" (St 1,1). Thánh Gioan cũng sử dụng cùng một từ đó, cũng bắt đầu Lời tựa trong Tin Mừng của ông: “Khởi đầu vẫn có Ngôi Lời" (Ga 1,1). Còn Matthêu và Luca, cũng gợi lên thực tại của một khởi đầu này: “Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô " (Mt 1,18; Lc 1,3). Như thế, cả bốn thánh sử đều gợi lên cho ta thấy, nhờ Đức Giêsu, chương trình của Thiên Chúa đã có một bước khởi đầu mới: Có thể nói, một cuộc tạo thành mới đang khởi sự. Và mỗi năm, Mùa Vọng bắt đầu, cũng là một dịp khởi đầu lại. Lạy Chúa, thế mà chúng con vẫn thích dừng chân tại chỗ để thốt lên: Đủ rồi, xin Chúa không ngừng ban lại cho chúng con tinh thần biết "khởi sự". Xin làm sống lại trong chúng con niềm hy vọng.
“Tin Mừng": Chúng ta quá quen thuộc với từ này. Nó dịch từ tiếng Hy Lạp “Evangélion”. Nhưng từ này không có ý diễn tả “một cuốn sách" hay một sự việc. Đó là Tin Mừng nước Thiên Chúa đã khơi sự trong con người của Đức Giêsu . "Tin Mừng”, đó là sự sống lại, là Phục sinh, là sự chiến thắng vĩnh viễn của sự sống? Tin Mừng phát xuất từ sấm ngôn của Isaia, khi ông loan báo cho những người bị lưu đày biết tình trạng khổ ái của họ sắp chấm dứt: “Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta... Dịch vụ của nó mãn rồi. Hãy nhủ lòng cùng Giêrusalem, hãy công bố tội của nó được tha. Hãy lên núi cao, hỡi Sion, người loan Tin Mừng. Hãy gióng tiếng lên cho mạnh và loan báo: Kìa Thiên Chúa của ngươi đang đến...” (Is 40,1-11). Tôi có tin tưởng như thế không? Đức tin của tôi có là một thứ gánh nặng, tôi phải vất vả đeo mang, hay là một Tin Mừng “Vui tươi”, “Tốt đẹp”, "Tuyệt diệu”.
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, con Thiên Chúa.
Ngay từ dòng đầu của Tin Mừng, Maccô đã nói ngay nếu ông muốn bàn. Những “tước hiệu" trên đây của Đức Giêsu là chìa khóa khai mở toàn bộ trình thuật của ông. Những tước hiệu đó sẽ được lặp lại vào giây phút cuối đời; khi một người "dân ngoại" nhận biết Đức Giêsu chết trên thập giá: “Quả thật người này là con Thiên Chúa " (Mc 15,39). Đó là điều ta thường gọi là một thứ “hệ luận” theo kiểu nói “Xêmít". Đó là kiểu cách văn chương nhằm biểu thị ý nghĩa sâu xa của một câu chuyện, mà toàn bộ "bao gồm " trong hai từ được lặp đi lặp lại từ đầu đến cuối.
Giêsu: trong ngôn ngữ Do Thái muốn nói lên "Thiên Chúa cứu độ" – “Yéshouah” . Đó là một từ quen thuộc, diễn tả tính cách nhân bản, lịch sử trần thế của con người Nagiarét. Kitô: trong ngôn ngữ Do Thái có ý nghĩa Đấng được “Đức Chúa xức dầu". “Meshiah": Tước hiệu này biểu lộ, Đức Giêsu chính là Đấng mà toàn dân Israel mong đợi, là con cháu nhà Đavít, là "Vua nước Thiên Chúa”.
Con Thiên Chúa: tước hiệu cuối cùng này, chỉ mang ý nghĩa trọn vẹn lúc Chúa sống lại: Vào thời Maccô viết Tin Mừng, các Kitô hữu đã dùng kiểu nói mạnh này để tuyên xưng đức tin vào thần tính của Đức Giêsu.
Trong sách Ngôn sứ Isaia có chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con đến. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi".
Một lần nữa không phải ngẫu nhiên, mà Tin Mừng Maccô bắt đầu bằng một câu trích dẫn trong Cựu Ước. Đức Giêsu không phải là một “sao băng" từ một hành tinh khác mà đến. Ngài được ghi tên trong lịch sử của một dân tộc Ngài được người ta "mong chờ', "loan báo”, "chuẩn bị"... Từ sau Công Đồng Vatican, bài đọc Cựu Ước mà ta đọc mỗi Chúa Nhật, không phải là một việc làm mới lạ của Giáo Hội hiện nay. Các Kitô hữu tiên khởi, các tín hữu của Maccô, cũng như của Matthêu, Luca và Gioan, đã từng đọc Kinh Thánh Cựu Ước và ứng dụng cho Đức Giêsu. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta thường phàn nàn vì không gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng ta có coi Kinh Thánh như phương thế tiếp gặp Chúa chưa?”
Ta làm gì để gặp gỡ Chúa? Ta có chuẩn bị con đường cho Chúa đến không? Mùa Vọng này có thể là một thời gian để ta suy niệm lại Kinh Thánh.
Ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi dân chúng chịu phép rửa, tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ tại sông Giođan.
Chúng ta đừng có mơ tưởng rằng, ta sẽ “gặp" được Thiên Chúa, chẳng hạn như dịp Noel này, mà không cần phải “chuẩn bị" cho Người đến, không cần phải thanh tẩy, không cần phải làm việc để hoán cải thay đổi đời sống.
Chính Gioan Tẩy Giả không chút nể nang thính giả của ông, ông bảo họ: "Các ngươi phải thay đổi hoàn toàn nếp sống... Hãy trở lại! Đó là ý nghĩa của từ “Metanoia" bản dịch là "hoán cải". Các ngươi đã làm điều này sao? Giờ đây, hãy làm ngược lại. Điều xấu, điều ác mà các ngươi đã thực hiện, hãy chấm dứt ngay. Điều tốt lành như vậy mà sao các ngươi không làm, hãy bắt tay thi hành ngay đi! Phải thay đổi, cần thay đổi gấp!
Sắp tới lễ Noel rồi, mọi Kitô hữu lại được mời gọi lãnh nhận “bí tích giao hòa" để được ơn tha tội. Ngay từ bây giờ, tôi muốn chuẩn bị lãnh nhận, để nhờ bí tích đó tôi có một bước tiến đáng kể, trưởng thành và có trách nhiệm hơn. Và cũng như dân chúng xưa kia tuôn đến sông Giođan, tôi cần phải bắt đầu “nhận biết” tội lỗi mình, cách sáng suốt. Lạy Chúa xin mở rộng đôi mắt con.
Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng".
Đó là y phục tiêu biểu của những "người vùng hoang địa”, những con người du mục.
Hoang địa: Để tới đó theo sự lôi cuốn của Gioan Tẩy Giả, dân chúng phải rời bỏ một thế giới nào đó họ đang sống, để bước vào một thế giới khác. Lui vào "hoang địa" nghĩa là từ chối dễ dãi, tiện nghi. “Hoang địa" đó là vùng đất mở tới rất xa, là nơi không thể nhận rõ dấu vết lộ trình, là tiếng mời gọi ta dấn thân mạo hiểm? “Hoang địa" đó cũng là nơi cô tịch và yên lặng: Mời gọi ta hướng đến cuộc gặp gỡ nội tâm? ở đây ta không thể vui chơi giải trí hay lánh ẩn để kiếm tìm những việc bề ngoài, những điều xem ra giả tạo mà là nơi con người gặp lại bản thân, đối mặt với chính mình, trong tình trạng bị bóc lột trần trụi. Trong tư thế lột xác và thinh lặng này, Thiên Chúa mới có thể làm cho ta nhận ra tiếng Người: Đó là lời mời gọi ta nhận ra thực tại của bản thân, khi các mặt nạ đã được trút bỏ, trong tiếng Nga, từ “hoang địa" được dịch là “poustinia”. Và luôn luôn có những người nam cũng như nữ lui vào trong “poustinia" của họ: Cuộc gặp gỡ giữa họ với Thiên Chúa sẽ mang tính chất nào, đều phụ thuộc vào giá trị này cả. Tôi có lợi dụng Mùa Vọng này, để tạo cho mình một thời gian chính thức sống cô tịch không?
Ông loan báo: "Có một Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi. Tôi không đáng cúi xuống cởi dép cho người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần".
Gioan Tẩy Giả chỉ hiện diện tại đó để tiến dẫn một kẻ khác, một người nào đó chưa được gọi tên: “Đấng đang đến", “Đấng quyền năng nhất", “Đấng xứng đáng nhất!”, “Đấng dìm trong Thánh Thần”... Nếu ta quyết định hoán cải Thiên Chúa sẽ không là người phong kiến ngoại cuộc: Người sẽ dìm chúng ta trong Thần Khí của Người.
Suy niệm: THÁI ĐỘ CẦN CÓ ĐỂ ĐÓN NHẬN CHÚA
Charles Lamb là một văn sĩ nổi tiếng của nước Anh vào thế kỷ thứ 18. Buổi tối nọ, năm sáu văn sĩ khác tụ họp ở nhà ông để thảo luận về các đề tài văn chương. Bỗng nhiên, có người đặt vấn đề: Chúng ta sẽ làm gì nếu được gặp gỡ các danh nhân thế giới trong các thời đại đã qua. Có người gợi ý:
- Nếu giờ đây Dante bước vào phòng này?
- Giả như đêm nay có Shakespeare cùng tham gia thảo luận với chúng ta?
Charles Lamb hô to: - Tôi sẽ hân hoan giơ tay đón tiếp các vị như các hoàng đế của tư tưởng.
Cuối cùng một người nói:
- Còn nếu bây giờ Đức Kitô bước vào phòng này?
Charles Lamb nghiêm nét mặt nói:
- Dĩ nhiên tất cả chúng ta đều quỳ xuống.
Đó là thái độ đúng đắn để tiếp đón Chúa Kitô. Người khác với mọi danh nhân trong lịch sử, vì Người là Thiên Chúa.
Chúng ta vừa nghe thánh sử Maccô mở đầu sách Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Đây là một câu chuyện, nhưng là một câu chuyện đem lại ơn cứu độ. Tuy nhiên để đạt hiệu quả mong muốn chúng ta phải chuẩn bị cho mình một thái độ đặc biệt để tiếp nhận câu chuyện về Đức Kitô cùng với những lời truyền dạy của Ngài.
Đầu tiên, Đức Kitô là Thiên Chúa. Người tới trần gian như một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại. Câu chuyện bắt đầu bằng những từ ngữ trang trọng giống như những lời khởi đầu toàn bộ Kinh Thánh: “Khởi đầu của Tin Mừng…”
Câu chuyện về cuộc đời Đức Kitô bắt đầu bằng lời ngôn sứ Isaia: “Có tiếng kêu nơi hoang mạc: Hãy dọn đường cho Chúa”. Đức Kitô xuất hiện muộn màng trong lịch sử, nhưng Người chính là trung tâm của lịch sử, toàn bộ Cựu Ước cốt chuẩn bị cho nhân loại đón tiếp Người. Trước khi tới trần gian, Người đã hiện diện với tư cách Thiên Chúa, nhưng chỉ khi nhân loại được dọn dẹp, được dạy dỗ, được huấn luyện bằng các biến cố lâu dài, bằng những lời mặc khải cặn kẽ, lúc ấy con người mới có đủ khả năng và tư cách tương đối xứng đáng đón nhận Chúa.
Sau khi được chuẩn bị bằng cả chiều dài lịch sử, Gioan Tiền Hô dạy chúng ta dọn dẹp chính tâm hồn mình bằng thái độ thống hối ăn năn. Nếu không cải thiện, không đổi mới hoàn toàn, ta sẽ chẳng bao giờ gặp được Đức Kitô. Để đón mừng Chúa trong lễ Giáng Sinh, chúng ta phải đổi mới ngay từ bây giờ. Những việc xấu đã từng làm phải ngưng lại. Những việc thiện còn chần chừ ngần ngại phải sẵn sàng bắt tay làm ngay.
Dọn lòng trí đón tiếp Chúa với thái độ của một người hành trình qua sa mạc. Bỏ hết xa hoa hào nhoáng, từ chối cao lương mỹ vị, sẵn sàng chay tịnh và ăn mặc đơn sơ nghèo khó.
Khi đó chúng ta mới có thể gặp được Chúa và con đường theo Chúa mới thực sự là một Tin Mừng chứ không phải một gánh nặng. Vì một khi chúng ta đã cố gắng hết sức, Chúa sẽ ban phép rửa bằng Thánh Linh, chúng ta sẽ được tràn đầy sức mạnh và hân hoan.
Xin Chúa ban Thánh Thần cho chúng con. Nhờ Người, tâm tư tình cảm chúng con được đổi mới, cũng nhờ Người, chúng con tích cực chuẩn bị đón Chúa bằng cách nghe, suy niệm và thực thi lời Chúa dạy bảo.
Một trong những câu chuyện kể về Kitô giáo có thể làm gì là câu chuyện lịch sử đã ghi lại một vụ nổi loạn trên tàu Bounty. Bọn cướp tàu ấy bị tống lên đảo Pitcaim. Có chín tên nổi loạn, sáu người đàn ông bản xứ, mười đàn bà bản xứ và một bé gái mười lăm tuổi. Một trong đám người đó có người biết nấu rượu. Kết quả là tình hình trở nên khủng khiếp. Tất cả đều chết, ngoại trừ Alexander Smith. Smith may mắn gặp một quyển Kinh Thánh. Ông ta đọc sách ấy và quyết tâm xây dựng một quốc gia với thổ dân trên đảo, lập nền trên Kinh Thánh. Mãi 20 năm sau mới có một chiếc thuyền buồm nhỏ đến thăm đảo, người ta gặp tại đó một cộng đồng hoàn toàn Kitô giáo. Ở đó không có nhà tù vì không có tội ác. Không có bệnh viện vì không ai đau ốm. Không có dưỡng trí viện vì không ai bị loạn trí. Không có ai mù chữ và không có nơi nào trên thế giới sinh mạng và tài sản được an toàn bằng tại đấy. Kitô giáo đã thanh lọc xã hội ấy. Nơi nào Chúa Cứu Thế được mời đến thì chất sát trùng của niềm tin Kitô đã tẩy sạch chất độc của xã hội, khiến nó trở nên trong sạch, thuần khiết.
Gioan đến, rao giảng một phép rửa tỏ lòng sám hối. Người Do Thái vốn quen thuộc với nghi lễ tẩy rửa. Lêvi 15 đã mô tả chi tiết các nghi lễ ấy. Tertulian nói “người Do Thái tắm rửa hằng ngày vì mỗi ngày họ đều bị nhiễm ô uế”. Các biểu tượng về tẩy rửa và thanh lọc được đưa vào chính cơ cấu và nghi lễ của dân Do Thái. Người ngoại nhất thiết bị kể là ô uế vì chẳng hề giữ luật Do Thái. Cho nên khi một người ngoại nhập đạo Do Thái, nghĩa là tin theo Do Thái Giáo, thì người ấy phải làm ba việc. Thứ nhất, phải chịu phép cắt bì, vì đó là dấu hiệu về một người của giao ước. Thứ hai, phải dâng một sinh tế, vì với tư cách là người ngoại, người ấy cần được chuộc tội, mà chỉ có máu mới chuộc được tội lỗi. Thứ ba, phải chịu phép rửa vì tượng trưng cho việc mọi ô uế trong quá khứ của mình đều đã được tẩy sạch. Cho nên, lẽ tự nhiên phép rửa không phải chỉ là việc rảy nước lên người nhưng là việc tắm toàn thân trong nước. Người Do Thái biết rõ phép rửa, nhưng chuyện lạ trong phép rửa của Gioan, là ở chỗ Gioan là người Do Thái mà lại dạy người Do Thái cần phải chịu một nghi lễ chỉ có người ngoại mới phải chịu. Gioan đã có một khám phá phi thường là một người Do Thái theo phương diện chủng tộc vẫn chưa phải là thành viên của tuyển dân của Chúa; một người Do Thái cũng ở địa vị như một người dân ngoại, không phải hễ là người Do Thái thì tự nhiên thuộc về Chúa, nhưng người có đời sống được thanh tẩy, đó là người của Chúa.
Phép rửa kèm theo việc xưng tội. Bất cứ hành động nào liên quan đến sự trở về cùng Chúa, việc xưng tội được đòi hỏi đối với ba đối tượng:
1) Người ta phải tự xưng tội với chính mình. Bản tính con người thường là muốn nhắm mắt làm ngơ trước những gì ta không muốn nhìn thấy, và trên hết là chúng ta vẫn nhắm mắt làm ngơ đối với tội lỗi của chính mình. Người ta kể câu chuyện về bước đầu tiên đến được với ân sủng của một người kia. Một hôm, lúc đang cạo râu, ông ta thấy mặt mình trong gương, thình lình ông ta thét lên “À ra mày, mày là một thằng khốn nạn, bẩn thỉu”. Và từ đó, ông ta trở nên một người khác hẳn. Chắc chắn sau khi bỏ nhà ra đi, người con trai hoang đàng nghĩ rằng mình là nhân vật tử tế, thích mạo hiểm. Nhưng trước khi quyết định trở về nhà, anh ta đã nhìn lại mình thật kỹ và tự nhủ “ta sẽ đứng dậy, trở về nhà và nhận rằng ta là một đứa con hoàn toàn hư hỏng” (Lc 15,17.18). Trên đời này, đối diện với chính mình thì khó hơn là phải đối diện với bất kỳ ai khác, và bước đầu của hoán cải, của việc làm hòa lại với Chúa là phải tự thú nhận tội lỗi của mình với chính mình.
2) Người ta phải xưng tội với kẻ mình đã đối xử sai quấy. Thưa với Chúa rằng ta ăn năn hối tiếc là vô ích nếu trước đó ta chưa ăn năn hối hận với những người đã bị ta xúc phạm và gây thương tổn, làm buồn phiền. Phải cắt bỏ các chướng ngại giữa người và người với nhau trước khi có thể gỡ bỏ các chướng ngại với Chúa. Thông thường xưng tội với Chúa vốn dễ hơn xưng tội với người, nhưng nếu không có sự khiêm nhường hạ mình, thì vẫn không có tha tội.
3) Người ta phải xưng tội với Chúa. Kết thúc kiêu ngạo là khởi điểm của tha tội. Chỉ khi nào một người nói “tôi có tội”, mới có hy vọng được Chúa phán “Ta tha tội cho con”. Không phải kẻ muốn đến gặp Chúa với tư cách tay đôi như hai người ngang hàng với nhau mà được tha tội, nhưng phải là người quỳ gối xuống với tấm lòng khiêm hạ, ăn năn, thống hối, xấu hổ thì thầm “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”.
II. GIOAN SỨ GIẢ (Mc 1,5-8)
Rõ ràng chức vụ của Gioan đã có kết quả lớn vì mọi người đổ xô đến nghe ông giảng và chịu để ông làm phép rửa cho họ. Tại sao Gioan lại gây được ảnh hưởng lớn trên dân tộc ông như vậy?
1) Gioan là người sống theo sứ điệp ông rao giảng. Chẳng những ông chỉ phản đối bằng lời nói, mà còn bằng cả đời sống của ông nữa. Có ba điều ở ông đã chứng thực cho lời phản đối của ông về đời sống tạm bợ này.
(a) Nơi ông ở. Ông ở trong hoang địa. Giữa trung bộ xứ Giuđê và Biển Chết, có một vùng hoang địa khủng khiếp nhất thế giới. Đó là một hoang địa đá vôi trông gồ ghề, vặn vẹo. Nó phản chiếu lấp lánh dưới sức nóng gay gắt, các khối đá vôi nóng bỏng làm phỏng da, người ta có cái cảm giác như chúng rỗng ruột, như đang đi trên một lò nung ở dưới mặt đất. Nó nghiêng về phía Biển Chết rồi tạo thành những dốc thẳng đứng đáng sợ, dẫn xuống những hố sâu không thể nào leo lên được về phía bờ biển. Trong Cựu Ước, thỉnh thoảng nó được gọi là Jeshimmon nghĩa là nơi hoang vu. Gioan không phải là một thị dân. Ông là người từ hoang địa, từ nơi hoang vu vắng vẻ mà đến. Ông là người từng đi tìm cơ hội để được nghe tiếng Chúa phán dạy.
(b) Y phục ông mặc, ông mặc áo dệt bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da. Êlia cũng từng ăn mặc như vậy (Lv 1,8). Nhìn một người như thế người ta sẽ không thể liên tưởng tới một nhà hùng biện thời danh, ăn mặc đúng thời trang, nhưng nhớ lại các ngôn sứ thời xưa từng sinh sống hết sức giản dị, tránh mọi lối xa hoa yếu mềm, yểu điệu, thường giết chết tâm hồn.
(c) Thực phẩm. Thực phẩm của ông là châu chấu và mật ong rừng. Cả hai từ này đều có thể có hai nghĩa. Châu chấu là giống vật được luật cho phép ăn (Lv 11,22.23), nhưng cũng có thể đó là một loại đậu hay hột gọi là carob, vốn là lương thực của kẻ nghèo. Mật ong có thể là mật của loài ong rừng đóng tổ trong các bọng cây hoặc cũng có thể là một loại nhựa ngọt chảy ra từ lớp vỏ của một vài loại cây. Từ này có nghĩa chính xác vẫn không là vấn đề quan trọng. Dầu thế nào đi nữa thức ăn của Gioan rất đạm bạc, ông đã xuất hiện trong tình trạng như vậy. Thiên hạ thường thích nghe những người như thế. Người ta kể về Carlyle rằng “Ông giảng hai mươi bộ sách Phúc Âm bằng sự im lặng”. Ngược lại có nhiều người đã đem đến một sứ điệp mà chính đời sống họ lại phủ nhận nó. Lắm người có nhiều tiền gửi ngân hàng, nhưng lại giảng rằng đừng tích trữ của cải ở dưới đất; nhiều người ca tụng các phúc lộc của kẻ nghèo, nhưng lại sống trong một biệt thự khang trang, trưởng giả. Nhưng trong trường hợp của Gioan, ông là con người của sứ điệp, sống theo chính sứ điệp rao giảng và vì thế dân chúng đã nghe ông.
2) Thông điệp của ông sở dĩ được hiệu nghiệm vì ông nói với dân chúng điều mà thâm tâm họ vẫn biết, ông đem đến cho họ điều mà họ vẫn mong đợi.
(a) Người Do Thái có câu “nếu dân Israel giữ trọn luật Chúa chỉ trong một ngày thì Nước Trời sẽ đến”. Khi Gioan kêu gọi họ hoán cải là ông đặt họ đối diện với sự chọn lựa, với quyết định mà tự đáy lòng họ đã biết rất rõ đó là việc họ phải làm. Từ xưa, Plato đã nói rằng giáo dục không phải là nói với người ta những điều mới lạ nhưng là rút ra từ ký ức họ những gì họ đã biết rồi. Không có sứ điệp nào hiệu nghiệm cho bằng nói với chính lương tâm con người, và sứ điệp ấy hầu như trở thành điều họ không thể cưỡng lại được khi nó được một người đầy đủ thẩm quyền nói ra.
(b) Dân Israel biết rõ rằng từ ba trăm năm qua, tiếng nói ngôn sứ đã im bặt. Họ đang chờ đợi một tiếng nói thật sự từ Thiên Chúa đến và họ đã nghe được nơi Gioan. Trong mọi lãnh vực của đời sống, người ta dễ nhận ra ai là nhà chuyên môn. Một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng kể rằng ngay khi Toscanini đứng lên chiếc ghế nhạc trưởng, toàn ban cảm thấy uy quyền của con người ấy tràn qua trên họ. Chúng ta nhận biết ngay một vị bác sĩ mát tay. Nghe một diễn giả thấu hiểu đề tài mình trình bày, chúng ta nhận biết ngay. Gioan vốn từ Thiên Chúa đến, chỉ nghe ông nói là đủ để nhận ra.
3) Thông điệp của ông sở dĩ hiệu nghiệm vì ông hoàn toàn khiêm hạ. Chính ông tự đánh giá là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép (bản Việt văn dịch là ‘giày’) chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì đó là những con sông ngập bùn. Cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ việc gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang loan báo. Ông quên mình, sẵn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng nghe ông.
4) Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng dân chúng chú ý đến một điều, một nhân vật cao cả vượt trội. Ông bảo dân chúng rằng qua phép rửa, ông dìm họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước tẩy sạch thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tấm lòng con người. Tiến sĩ G.J Jeffrey có dùng một ví dụ mà ông rất tâm đắc. Khi ông gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài mà nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: “Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông”. Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng đài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích duy nhất của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.
Tin Mừng thánh Maccô hôm nay bắt đầu bằng một câu không có động từ, gồm một ít tiếng được chọn lọc kỹ càng, mỗi chữ đều rất nặng nghĩa: tác giả đã cho thấy rõ trọng tâm sứ điệp của Đức Kitô và phác hoạ cho độc giả con đường đức tin.
Đó là sự "Khởi đầu”, J.Hervieux lưu ý: "Trong Kinh Thánh, sách Sáng Thế và nhiều sách khác đã bắt đầu như thế. Chắc hẳn Thánh sử muốn gợi lên rằng Đức Giêsu sẽ mở đầu một lịch sử thánh mới, một tạo dựng mới ("Tin Mừng thánh Maccô", Centurion, tr. 15).
Đó là sự khởi đầu của "Tin Mừng” (tiếng Hy Lạp: Evangile). Điều mà tiên tri Isaia đã loan báo (bài đọc 1 của Chúa nhật này) - tức "Tin Mừng” do sáng kiến của Thiên Chúa vì lợi ích cho dân Ngài - đã hoàn tất, mặc lấy xác phàm trong lịch sử loài người.
- Đó là khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Đấng đã giảng dạy Tin Mừng này trước khi trở thành đối tượng của Tin Mừng sau khi Ngài sống lại. Hơn là một cuốn sách, hơn là một sứ điệp mừng vui, Tin Mừng này chính là Đức Giêsu.
- Thánh sử Maccô đã mặc khải về Đức Giêsu bằng hai danh hiệu đầy ý nghĩa: "Kitô", "Con Thiên Chúa".
+ "Kitô": từ mà ngày nay chúng ta không còn hiểu hết ý nghĩa nguyên thủy của nó.
M.E. Boismard lưu ý: "Lẽ ra phải đặt một dấu phẩy giữa hai từ GIÊSU và KITÔ để nhấn mạnh từ thứ hai là một danh hiệu đặt cho Đức Giêsu, đó là một danh hiệu hoàng tộc.
Từ "Kitô”, chuyển âm từ "Christos" của tiếng Hy Lạp. "Christos" dùng để dịch động từ "Meshiah" của tiếng Do thái có nghiã là "xức dầu". Động từ Do thái này cũng biến thành "Messias" trong tiếng Hy lạp. Bởi vậy, "Kitô" có nghĩa tương tự như “ Mêsia” để chỉ người được Thiên Chúa xức dầu, bằng dầu đã được hiến thánh.
Do đó, trong số những người được thánh hiến bằng dầu thánh, các vì vua mà Thiên Chúa chọn dẫn dắt dân Người chiêm một vị trí chính yếu và sau này người được xức dầu thánh chỉ còn dùng để chỉ các vì vua mà thôi.
Như vậy, nghĩa đầu tiên của từ "Kitô" có ý nói Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa xức dầu để làm vua dân Người.
Đàng khác, chúng ta sẽ thấy cảnh Đức Giêsu chiu phép rửa (1,9-11), được Maccô trình bày như là một sự đăng quang làm vua vậy. ("Giêsu, người Nagiarét”, Cerf, 1996, tr. 14-16).
+ "Con Thiên Chúa”: vào thời Đức Giêsu, danh hiệu này được gán cho Đấng Mêsia. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa che chở cách riêng Đấng Người nhận làm con, và giữa họ có mối dây liên hệ đặc biệt. Nhưng đối với các môn đệ, họ cần thời gian để nhân ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong mối tương quan có một không hai; trong Người, chính Thiên Chúa đến với nhân loại. Các ông chỉ cỏ thể nhận ra điều này sau ngày Chúa phục sinh nhờ Thánh Linh ban ơn trong ngày lễ Ngũ Tuần.
KITÔ, CON THIÊN CHÚA: hai danh hiệu trả lời trước cho câu hỏi luôn vang lên trong suốt 8 chương đầu của Tin Mừng thứ hai: "Người này là ai?”. Hai danh hiệu đã phân chia hai phần lớn của Tin Mừng này:
Phần đầu dẫn chúng ta đến lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: Ngài là Đấng Kitô" (8, 29...).
- Phần thứ hai dẫn ta đến sự hiệp thông với niềm tin của viên sĩ quan Rôma được chứng kiến cái chết của Chúa, đã tuyên xưng: "người này thật là Con Thiên Chúa" (15,39).
- Benoit Standaert kết luận: "Phúc Âm hay Tin Mừng, chính là Đức Giêsu và với Ngài, thời đại mới bắt đầu, màn trời xé ra, Thánh Thần ngự xuống, và quyền năng Thiên Chúa thiên trung quyền lực sự dữ... Ngay những từ đầu tiên của Maccô đã là sự khai mở, từ đó xuất hiện một danh hiệu mới, một sự hiện diện mới: Đức Giêsu, Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Maccô đã nói quá đủ! Ngài chẳng còn gì để nói với chúng ta nữa. (“Tin Mừng theo thánh Maccô”, chú giải, Cerf, tr.41).
2. "Khúc dạo đầu” cho một màn kịch khác.
Ngay sau danh xưng đầy ý nghĩa trên về Đức Kitô, không một lời chuyển tiếp, thánh sử cho Gioan Tẩy Giả xuất hiện: "Và Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong hoang địa". Ở ngay phần đầu, đã có những trích dẫn Thánh Kinh (Xuất Hành 23,20; Mal 3,1 và 23; Is 40,3); điều đó hàm ý ghi tên Gioan Tẩy Giả vào truyền thống ngôn sứ và giới thiệu ông như "sứ giả" được Thiên Chúa sai đến "để dọn đường, như người sẽ mở đường cho Thiên Chúa đến, qua Đấng Mêsia của Ngài.
Nơi Gioan Tẩy giả thi hành sứ mệnh là "hoang địa", là nơi của Xuất Hành, là nơi vừa để chịu thử thách vừa để được mặc khối tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa, đồng thời là nơi tượng trưng cho mọi khởi đầu. Và chính vì thế, Gioan "Kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. Bên giòng nước sông "Giócđanô" nơi dân Chúa đã băng qua để vào đất hứa, lời ông vang dội "khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem". Một cách nói của thánh sử để cho ta hay là tiếng gọi của con người sa mạc nay gởi đến tất cả mọi người.
Y phục ông làm ta ngạc nhiên. Y phục ấy mang ý nghĩa tượng trưng vì đó cũng là y phục của ngôn sứ Êlia. Sách Các Vua viết: “Ngài mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da" (1V 17,1-6; 9,5-8). Đó là cách thánh sử trình bày Gioan Tẩy Giả như một ngôn sứ Êlia, Đấng mà thời Đức Giêsu người ta tin là phải đến trước Đấng Mêsia.
Cách sống của ông rất khắc khổ, trái hẳn với cách sống của Đức Giêsu. J.Hervieux nhận xét: ‘Người không ăn bận khác thường không ăn chay, Người uống rượu và ăn thịt. Thay vì ở trong hoang địa như Gioan, Người sống trong đời thường, giữa quần chúng’ (sách đã dẫn, tr.19).
Công việc của Gioan là mở đầu thời đại mới: "Khởi đầu Tin Mừng”, và chỉ cho thấy Đấng mà Ngài có bổn phận loan báo rằng: Người đến, rồi tức khắc Gioan rút lui. ‘Đấng đến sau tôi’ – ông tuyên bố cách ngược đời, - bởi lẽ đi đằng sau ai, điều đó có nghĩa làm môn đệ của người ấy – ‘Người quyền phép hơn tôi, tôi không xứng cúi xuống cởi dây giày cho Người’. Chẳng những Gioan tuyên bố không xứng làm môn đệ của Đấng đến sau ông, mà còn cho mình không xứng làm tôi tớ của Người. Ông khẳng định rõ ràng: Phép rửa của Đức Giêsu vượt trên phép rửa của ông: "Tôi đã làm phép rửa cho anh em trong nước, phần Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”.
J. Hervieux kết luận: Sứ điệp rất rõ ràng: Gioan tự giới thiệu như là kẻ đến trước Đức Giêsu. Ông đi trước “Đấng quyền năng" hơn ông. Ông ý thức về sự thấp kém của mình. Ông phải tự hạ trước Đức Giêsu như tôi tớ trước chủ, đến nỗi không xứng cởi dây giày cho Chúa! Sau cùng và nhất là sự khác biệt chính được công nhận giữa phép rửa của Gioan và phép rửa của Đức Giêsu. Gioan đã làm phép rửa trong nước. Đức Giêsu thì làm phép rửa trong Thánh Thần. Cái độc đáo của Đấng Mêsia khi so sánh với vị tiền hô của Người, là Người nắm giữ Thần Khí (xem 1,10). Với ơn Thánh Thần mà Người sẽ ban sau khi phục sinh, Đức Giêsu đem đến ơn tha tội một cách dứt khoát (Cv 2,38).
Vì thế ngay từ trang đầu của Tin Mừng, Maccô đã đặt Gioan Tẩy Giả, sứ mệnh và phép rửa của ông vào đúng chỗ của nó. Tất cả chỉ là để loan báo và để dọn đường cho Đấng Mêsia đến. Phần sau sẽ soi sáng mối liên hệ họ hàng mật thiết giữa Gioan và Đức Giêsu, cũng như sự khác biệt sâu xa giữa hai con người này (Sách đã dẫn, tr. 19)
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. Đáp lại lời mời gọi của Gioan, chúng ta hãy chuẩn bị đón nhận Đức Giêsu. (Mgr. L. Daloz trong: “Ngài là ai”, Declée de Brouwer, tr. 10)
"Lời công bố của Gioan Tẩy Giả như khúc dạo đầu mở màn cho Đức Giêsu, Đấng Mêsia xuất hiện. Đức Giêsu có mặt giữa những người đáp lại lời mời gọi của Gioan nơi hoang địa. Nhưng ý nghĩa của việc Chúa đến được giải thích bằng những lời của tiên tri Isaia: "Hãy dọn đường cho Chúa...". Trước khi Đức Giêsu xuất hiện, một sứ giả đã được phái đến để loan báo dọn đường cho Người. Người ta không thể đón nhận Đức Giêsu nết không có chuẩn bị trước. Người đến với những ai chấp nhận đi vào con đường hoán cải bằng cách xưng thú tội mình, chấp nhận sự đổi mới của phép rửa thống hối. Nhờ thế, chúng ta biết thêm sự cao trọng của Đấng sẽ đến. Ngài là "Đấng quyền năng hơn...", và sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Đây là một thái độ đón nhận, chú tâm, một thái độ hoán cải cần có để chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô. Ngài là người đơn sơ và nghèo khó, người anh em của chúng ta. Nhưng đằng sau dáng vẻ bề ngoài ấy, chúng ta được mời gọi tìm hiểu mầu nhiệm của Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa.
2. “Đức tin, sức mạnh đổi mới” (Mgr. Cl. Dagens trong: “Trình bày đức tin trong xã hội hôm nay”, Cerf, tr. 39-41).
Đánh giá những biến đổi đang diễn ra trong cách sống đạo của những cộng đoàn Kitô giáo không phải nhằm làm một bản tổng kết, nhưng là để nhìn nhận sức mạnh đổi mới do Chúa ban và được thể hiện nhờ việc chúng ta sống đức tin.
- Chúng ta có thể bắt đầu từ sự kiện mới mẻ sau đây: đó là sự đón tiếp và tháp tùng những tân tòng trưởng thành hay những trẻ em chưa được rửa tội học các lớp giáo lý do những bạn bè có đạo dẫn dắt. Con số những người theo học giáo lý như vậy gia tăng không ngừng. Tại sao đức tin nơi nhưng tín hữu đạo gốc lại được đổi mới nhờ những cuộc gặp gỡ này? Thưa bởi vì họ thường đồng hóa Tin Mừng với cách nhìn đời của họ, và vì họ thường có thói quen chỉ giữ lại những gì trong Tin Mừng củng cố lý tưởng nhân loại của mình. Chỉ khi va chạm với những người không thuộc nền "văn hóa công giáo", họ mới thẩm định lại sự mới mẻ nơi Mạc khải của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và sức đổi thay của Tin Mừng. Cũng nhờ đó, họ phát hiện lại sự phong phú của truyền thống phụng vụ và tâm linh trong Kitô giáo, cũng như niềm vui được thuộc về Giáo Hội như một gia đình mới. Gia đình này không tuân theo những luật lệ của xác thịt nhưng tuân theo lời mời gọi của Thánh Thần.
Đó là cách chúng ta phải suy gẫm về những gì đã xảy ra bởi vì Lời Chúa mà các tân tòng khám phá cũng chính là Lời mà chúng ta phải đón nhận và loan báo. Chúng ta không thể phủ nhận cú sốc về niềm tin do hiện tượng trở lại này. Vả lại, cần phải tìm hiểu sâu xa hơn để nhận ra rằng sự kiện tân tòng trở lại, một hiện tượng mới mẻ, biểu lộ sự tìm kiếm đời sống tâm linh của rất nhiều người đương thời. Trong bối cảnh này, trình bày đức tin Kitô giáo không thể là một việc duy ý chí, nhưng chúng ta phải dấn thân vào công cuộc tìm kiếm này, hiểu biết nó, phân định những lời mời gọi, những cám dỗ và cả những ảo tưởng của nó nữa. Bằng những phương tiện của mình, chúng ta cũng cần khắc ghi vào đấy Mạc Khải về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nói với mọi người: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Tương tự như vậy, chúng ta cũng nên nói đến mục vụ cho trẻ em và thanh thiếu niên. Cần phải có những thái độ sư phạm phù hợp và xác định đâu là vai trò và thẩm quyền của chứng nhân trong việc truyền giảng đức tin trong bối cảnh có sự “đứt đoạn với các truyền thống hiện nay.
Ngay cả ở đây nữa, điều chúng ta cần thực hiện không chỉ là so sánh những ý kiến khác nhau về mục vụ hay giáo dục, nhưng là hiểu biết sự phong phú của niềm tin vào Đức Kitô trong việc khai tâm đức tin cho thế hệ trẻ.
Chúng ta cũng có thể đề cập đến những phương tiện mục vụ đang được cải tiến trong Giáo Hội Pháp.
Sau cùng, chúng ta có thể chứng tỏ niềm tin vào Đức Kitô đã gợi lên và cổ xúy cuộc đấu tranh cho quyền con người thế nào, và nói rõ hơn, niềm tin ấy làm thế nào đã giúp hòa hợp được giữa đấu tranh và chiêm niệm, giữa đời sống tâm linh và dấn thân trong xã hội. Ở đây, những tương quan mâu thuẫn giữa những người bề ngoài như xa cách nhau có thể nói không còn tồn tại: Chiến sĩ công giáo tiến hành, linh mục thợ, thành viên của những công đoàn mới, hoặc đan sĩ nam nữ. Dĩ nhiên, nói vậy không có nghiã là xóa bỏ những khác biệt có thực trong những hình thức dấn thân. Nhưng xét đến động cơ sâu xa của sự dấn thân, chúng ta sẽ nhận ra những đòi hỏi như nhau: không thể sống với Đức Kitô trong thân phận tôi tớ của người mà không sống với những anh em bị xã hội loại trừ; cũng vậy, không thể sống dài lâu với những anh em bị xã hội loại trừ mà không tìm kiếm gặp gỡ Đức Kitô trong chiêm niệm. Nỗi đam mê phục vụ nhân loại hiện rõ đằng sau sự khác biệt về cách sống đức tin.
Do đó, chúng ta có thể trình bày đức tin Kitô giáo như một sức mạnh hoán cải và biến đổi thực sự cho cá nhân cũng như cho xã hội. Bởi vì, trong thực hành của Giáo hội, tin và sống đức tin giúp luôn có những sáng kiến và những đổi mới trong vô số lãnh vực.
Một người kia kể lại giấc mơ khủng khiếp như sau: Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào trong, tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ: Bên phải dành cho người Công giáo, bên trái dành cho kẻ ngoại đạo. Theo bảng chỉ dẫn, tôi đi theo hành lang bên phải dành cho người Công giáo.
Đi được một lúc, tôi thấy mình đứng trước một ngã rẽ khác. Lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau: Bên phải dành cho kẻ có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém. Và tôi lại đi bên phải.
Đến một ngã rẽ khác, tôi lại thấy một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những người có lòng bác ái, bên trái dành cho những người ích kỷ. Tôi lại chạy qua bên phải mà đi.
Cuối cùng tôi gặp một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những kẻ tội lỗi. Một lần nữa tôi cứ chọn bên phải mà đi. Nhưng tôi đang hân hoan rảo bước, thì bỗng một cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp hiện ra ở cuối hành lang ấy: cảnh hỏa ngục với muôn vàn hình khổ không lời nào tả xiết. Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức giấc.
Sau một phút tôi hoàn hồn và tự hỏi: “Phải chăng đời sống đạo của tôi cũng chỉ là một giấc mơ hãi hùng?”.
Câu hỏi trên đây có lẽ cũng có thể được nêu lên cho mỗi người chúng ta trước tiếng hô của Gioan Tẩy Giả: “Có tiếng hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Thường thì chúng ta cứ chọn bên phải mà đi, chứ mấy ai lại thích đi bên trái. Cái ảo tưởng về sự tốt lành của mình luôn luôn bám sát chúng ta như hình với bóng. Lòng tự cao tự đại thường mê hoặc chúng ta, làm cho chúng ta như chìm sâu mãi vào một giấc mơ hãi hùng.
“Anh em hãy tỉnh cơn mê, đêm đã tàn, ngày đang đến”. Lời ấy của thánh Phaolô muốn thôi thúc chúng ta thành khẩn nhìn lại giá trị đích thực của đời mình. Tôi có thực sự xứng đáng đứng bên phải trong ngày phán xét cuối cùng không? Hay đó chỉ là một giấc mơ hãi hùng?
Gioan Tẩy Giả kêu gọi chúng ta hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Dọn đường cho Ngài đến thực hiện một cuộc giải phóng mới, không phải giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập hay khỏi nơi lưu đầy Babylon, mà là khỏi tội lỗi, trở về với Thiên Chúa. Vì vậy, Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người hãy sám hối. Ông đã dùng phép rửa như một dấu hiệu của lòng sám hối, từ bỏ tội lỗi để đón nhận Chúa Kitô, đồng thời như một dấu hiệu tiên báo một phép rửa hoàn hảo hơn -Phép rửa của Chúa Giêsu: “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Ngài, Ngài sẽ làm Phép Rửa cho anh em bằng Thánh Thần”.
Gioan không chỉ rao giảng sám hối mà còn sống tinh thần sám hối, không chỉ thức tỉnh dân chúng trước biến cố đang xảy đến mà còn lay tỉnh chính mình trước công việc mầu nhiệm của Thiên Chúa: cách ăn mặc của Gioan nói lên tâm tư và phong cách sám hối. Thực vậy, lối sống đơn giản và khổ chế của Gioan – mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng – chứng tỏ ông đã thoát khỏi những ràng buộc phiền toái của xã hội Do Thái và những bận tâm quá đáng về vật chất để quy hướng cuộc sống vào việc chào đón và rao giảng về Đấng Cứu Thế. Ông đã làm chứng về Đấng Cứu Thế và chờ đợi Ngài đến bằng một đời sống khổ hạnh và tỉnh thức.
Đời người là một Mùa Vọng dài hướng về ngày Chúa đến lại. Mỗi tín hữu là một Gioan Tẩy Giả, và toàn thể Giáo Hội có sứ mạng tiền hô. Người tín hữu hôm nay, khi nhắc đến mầu nhiệm Chúa đến, phải có tâm tư và thái độ sống thế nào để dọn đường cho những anh chị em chung quanh biết đón chờ Chúa? Chúng ta đã gia tăng cầu nguyện, hoán cải đời sống để dọn đường Chúa đến, để chuẩn bị cho Chúa tỏ mình ra chưa?
Lòng sám hối đích thực không nằm ở nơi những tình cảm tốt đẹp, những sáo ngữ hấp dẫn, những nghi thức rầm rộ bên ngoài, nhưng nơi những công việc và hành vi cụ thể: sửa lại cho thẳng những lối đi quanh co tăm tối của con tim, bạt xuống cho bằng các đồi núi kiêu căng của tâm trí, lấp đầy hố thẳm nghèo đói Lời Chúa của tâm hồn.
Thánh Phêrô trong thư của ngài đã cho thấy lòng sám hối không phải là một thái độ nhất thời, mà là thái độ thường xuyên của người Kitô hữu trong suốt giai đoạn chờ Ngày của Chúa. Ngài nhắn nhủ: “Anh em thân mến, trong khi chờ đợi ngày đó, anh em phải cố gắng nên tinh tuyền, không chi đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa” (2Pr 3,14). Lời nhắn nhủ đó là những lời kêu gọi các tín hữu sám hối để tạo nên cho mình một thái độ tương xứng cần thiết.
Hiển nhiên là lời kêu gọi sám hối trong Phụng Vụ Chúa Nhật 2 Mùa Vọng này không thể chỉ được giới hạn trong việc xét mình ăn năn và xưng tội để có được một tâm hồn trong sạch xứng đáng cho Chúa ngự, vào thánh lễ đêm Giáng Sinh. Sám hối là một thái độ sống của người Kitô hữu. Sám hối là một sự đổi mới, một sự đổi mới toàn diện: trong tư tưởng, trong sự chọn lựa, trong hành động. Sự đổi mới này không chỉ diễn ra một lần là đủ, mà là một đổi mới liên tục. Người Kitô hữu được kêu gọi từ bỏ con người cũ, lối sống theo lòng ích kỷ, tham lam, tàn bạo, không đếm xỉa đến quyền lợi của người khác, để sống theo con người mới với lòng yêu thương, với tình liên đới với người chung quanh, ở trong gia đình, trong trường lớp, trong cơ quan, xí nghiệp… Người Kitô hữu vẫn tin rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện không chỉ nơi thâm sâu thầm kín của từng con người mà còn ngang qua lịch sử trong xã hội con người.
Tiếng hô của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa là một tiếng gọi mang đầy hy vọng và niềm vui: “Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế, vì Người sắp đến rồi!”. Hãy thay đổi bộ mặt trái đất này cho loài người được sống ấm no hạnh phúc, để cho Trời Mới Đất Mới xuất hiện, trong đó công lý và hòa bình sẽ ngự trị và mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Gioan chỉ là một sứ giả “đi trước mặt” Đức Chúa. Nhưng cũng chính ông có nhiệm vụ viết trang dẫn nhập vào Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Lm PX Vũ Phan Long, ofm
Có thể theo G. Gnilka mà coi Mc 1,1-15 là lời tựa hoặc mở đầu của Tin MừngMáccô: phần này đăt trọng tâm vào “Tin Mừng” (x. cấu trúc đóng khung với từ “Tin Mừng “ ở đầu và cuối đoạn). Như thế, đoạn văn 1,1-8 là đoạn mở đầu của Lời tựa này liên hệ đến hoạt động của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa.
II. BỐ cỤc
Bản văn có thể chia thành ba phần:
Danh hiệu của Tin Mừng (1,1);
Hoạt động của Gioan (1,2-6):
a) Câu trích Isaia xác định vai trò của Gioan (cc. 2-3), b) Giới thiệu tóm tắt bản thân và hoạt động của Gioan (cc. 4-6);
Lời loan báo của Gioan (1,7-8).
III. Vài điỂm chú giẢi
- Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (1): Câu này là tiêu đề của cc. 1-8 nói về công việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả, hay là tiêu đề của phần Mở (cc. 1-15), hoặc của toàn tác phẩm? Phải chăng sứ vụ, cuộc Khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu chỉ là khởi đầu của Tin Mừng, và Tin Mừng sẽ được tiếp tục loan truyền nhờ sứ vụ của Giáo Hội? Thật ra, không có gì cho thấy rằng Mc coi hoạt động của Giáo Hội như một phần của Tin Mừng cả, y như thể Giáo Hội phải tự rao giảng về chính mình. Cứ theo nội dung của tác phẩm, ta thấy Tin Mừng mà Giáo Hội phải công bố chính là biến cố cứu độ đã xảy ra trước khi có Giáo Hội và đã khai sinh ra Giáo Hội, đó là sứ vụ của Đức Giêsu và cuộc Vượt Qua của Người.
Có thể nói c. 1 này là tiêu đề của phần Mở của TM Mc: hoạt động của Gioan, vị Tiền Hô loan báo và ban phép rửa cho Đức Kitô, trong hoang địa, là phần mở cho biến cố cánh chung (sứ vụ, cuộc đời đau khổ và cuộc tôn vinh của Đức Giêsu).
Từ ngữ “Tin Mừng”, được vay mượn từ Cựu Ước (x. Is 40,9; 52,7; 61,1…), được hiểu tương đương với lời loan báo tiên khởi (kêrygma) được triển khai rộng ra (x. Công vụ). Thế mà kêrygma của các Tông đồ (x. Cv 1,21t; 10,37; 13,24) cũng như TMMc bắt đầu với sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Vậy chính mầu nhiệm này là “khởi đầu Tin Mừng” (x. cùng một kiểu diễn tả: Hôsê 1,2 ).
- Tin Mừng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa: Phần Mở từ c. 1 đến c. 15: hai từ ngữ “Tin Mừng” đóng khung bản văn này. Kiểu nói “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” có thể hiểu là “Tin Mừng về [= có đối tượng là] Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách chỉ đối tượng, objective genitive), hoặc “Tin Mừng của [= đến từ] Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách chỉ chủ từ, subjective genitive), hoặc “Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách giải thích, epexegetic genitive; xem sự song đối giữa “vì Đức Kitô” và “vì Tin Mừng”: 8,35; 10,29; 13,9).
Dưới ánh sáng của biến cố Phục Sinh, các Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, theo nghĩa là Người không còn phải là Đấng Mêsia trần thế và dân tộc mà người Do-thái từng mong đợi, nhưng là Đấng huyền nhiệm, đã tỏ mình ra là “Đức Chúa” (x. Cv 2,36) và “Đấng Kitô” (4,26t; 10,38), qua biến cố Phục Sinh, nay ở vào tư thế có thể giải thoát mọi người khỏi Satan, tội lỗi, đau khổ và cái chết. Bây giờ khi đọc lại câu truyện trước Phục Sinh Mc viết ra, họ hiểu rằng tại hoang địa và qua cuộc sống công khai (với những cuộc trừ quỷ), Đức Giêsu đã khai mào chiến thắng bằng sức giải phóng ấy. Họ cũng hiểu rằng Đức Giêsu truyền lệnh giữ thinh lặng (“bí mật thiên sai”) là vì không muốn người ta hiểu lầm về tư cách và sứ vụ của Người: Phêrô đã hiểu sai nội dung danh hiệu Mêsia (x. 8,29-33); Người chỉ nhận là Con Thiên Chúa (14,61t) và kẻ đại diện cho thế giới ngoại giáo chỉ tuyên xưng Người như thế (15,39) vào lúc Người bị kết án và xử tử. Người ta chỉ có thể hiểu tất cả các danh hiệu của Đức Giêsu xuyên qua mầu nhiệm đau khổ của Người. Và các Kitô hữu cũng phải hiểu rằng họ chỉ có thể tuyên xưng Đức Giêsu thật là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa, bằng cách bước theo Người trên con đường đau khổ (x. 8,34; 10,35-45).
- Câu 2-6:
So sánh cc. 2-3 trích Ml 3,1 và Is 40,3 với Mt (3,3; 11,10), Lc (3,4-6; 7,27) và Ga (1,23), ta hiểu các tác giả Tin Mừng có chung một nguồn, nhưng Mc đã vừa thêm vừa tổng hợp câu truyện Gioan rao giảng với bài tường thuật của ngài về nhóm sứ giả, để làm nên một mở đầu long trọng và để có thể nêu bật ý tưởng này là khởi đầu Tin Mừng Cứu Độ đã được chính các ngôn sứ xác định nơi cuộc xuất hiện của Gioan Tẩy Giả.
Mc đã trích Ml 3,1a (… “mặt Ta”) dưới ảnh hưởng của Xh 23,20 LXX (“mặt Con”) để biến vị sứ giả thành tiền hô không phải của Thiên Chúa mà là của “Đức Chúa” (x. Ml 3,1b), là Đức Giêsu. Ngoài ra, hẳn là Mc cũng nghĩ đến đoạn cuối của sách Ml (3,23t): ngôn sứ Êlia có vai trò tiền hô.
Tác giả cũng sử dụng bản văn Is 40,3 (LXX) cùng với các tác giả Tin Mừng khác: “Đức Chúa” đây là Đức Giêsu Kitô, và “vạch lối cho thẳng để Thiên Chúa đi” được sửa thành “để Người đi”.
- đi trước mặt Con= đi trước Con.
- Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện (4): Câu này với các câu trích ở trên chỉ là một câu duy nhất, được ngắt bằng dấu phết: “Chiếu theo lời đã chép …, ông Gioan Tẩy Giả…”. Những gì bây giờ được nói về Gioan thì làm ứng nghiệm các sấm ngôn, đặc biệt sấm ngôn Is 40,3: ông ở “trong hoang địa”, và tại đó ông “hô” để kêu gọi người ta hoán cải, mà “dọn sẵn con đường của Đức Chúa” (Đức Giêsu).
Gioan “rao giảng thanh tẩy hối cải, để được tha thứ tội khiên” (NTT). Đấy là hai hành vi tách biệt nhưng liên hệ với nhau, vì thế đã được diễn tả trong một công thức duy nhất.
- sám hối, metanoia: sự hoán cải, do động từ metanoeô, “suy tưởng sau”, “suy nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải”. Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác, tức là thay đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một phương diện tiêu cực (bỏ [apo, from] con đường tội lỗi: x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương diện tích cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa: Cv 20,21; 26,20).
Trong TMMc, danh từ metanoia được dùng 1 lần (1,4) và động từ metanoeô được dùng 2 lần (1,15; 6,12), như thế là ít hơn các TMNL khác (metanoia: Mt 2x, Lc 5x, Ga 0x, Cv 6x, Phaolô 4x, Dt 3x, 2 Pr 1x; metanoeô: Mt 5x, Lc 9x, Ga 0x, Cv 5x, Phaolô 1x, Kh 12x), nhưng lại có mộtcách áp dụng độc đáo. Tác giả áp dụng hai từ này cho hoạt động của Gioan Tẩy Giả (1,4), Đức Giêsu (1,15) và Nhóm Mười Hai (6,12), như vậy liên kết vị Tiền Hô, Đức Giêsu và các sứ giả của Người với nhau (xem mộtcách dùng tương tự cho hai động từ kêryssein [loan báo]: 1,4.7; 1,14.38t; 3,14 và 6,12; paradidonai [giao nộp]: 1,14; 9,31; 10,33; 13,9.11). Các từ đó lại luôn lệ thuộc động từ kêryssein, nghĩa là các từ đó chính là nội dung của sứ điệp các ông phải mang đi truyền bá.
- phép rửa tỏ lòng sám hối: Cụm từ Hy-lạp baptisma metanoias (thanh tẩy hối cải, x. Lc 3,3; Cv 13,24; 19,4): metanoias ở thuộc-cách (genitive) xác định đặc tính của phép rửa Gioan loan báo. Đây là một kiểu nói Sê-mít, có nghĩa là “một phép rửa tượng trưng hoặc diễn tả sự hoán cải”. Cho dù Gioan có thuộc về phong trào Êxêni ở Qumrân hay không, phép rửa của ông tương tự phép rửa của người Êxêni, nhất là ở điểm cả hai phép rửa đều diễn tả một sự hoán cải nội tâm, sự hoán cải này vừa là hành vi của con người vừa là ân huệ của Thiên Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn đón tiếp Thiên Chúa sắp đến can thiệp vào thời cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai điểm: không nghĩ rằng tội lỗi gây nên một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối nhân phải sống một năm thử thách; chỉ ban phép rửa một lần, vì đây là hành vi chuẩn bị cuối cùng để đón Đấng Mêsia ngự đến.
- Mọi người từ khắp miền Galilê và thành Giêrusalem (5): Mc nhắm cho thấy mục tiêu của sứ vụ Gioan Tẩy Giả là khai mạc giai đoạn cuối cùng của Chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người. Như thế, kiểu nói phóng đại (“toàn thể”, “khắp”) về miền Giuđê và Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của Do-thái giáo, không phải là không có chủ ý, nhất là lại có quy chiếu về việc thanh tẩy Giuđa và Giêrusalem thể theo Ml 3,4 hoặc quy chiếu về sứ điệp vui tươi được ngỏ với Giêrusalem và các thành Giuđa thể theo Is 40,9t. Nay đã khởi sự biến cố cánh chung: câu hỏi phải đặt ra là không biết Dân Thiên Chúa có nhận biết chăng “Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (c. 1) chính là “Đấng quyền thế hơn” (c. 7), Đấng mà Gioan đang dọn đường đón tiếp. - kéo đến: Thì vị hoàn (imperfect) exeporeueto diễn tả chuỗi người liên tục kéo đến để nghe Gioan giảng và nhận phép rửa. Giới từ ek (out, of) muốn nói là ra khỏi miền Giuđê và thành Giêrusalem.
- Gioan mặc áo lông lạc đà…(6): çn .. endedumenos: trợ động từ eimi ở thì vị hoàn (imperfect)cộng với phân từ quá khứ của động từ chính enduơ nói lên cách thức ăn mặc quen thuộc của Gioan. Ông được giới thiệu có cách sống như một con người của hoang địa, một nhà khổ hạnh, một na-dia (x. Lc 1,15), tương tự ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8; Dcr 13,4).
Trichas kamêlou,“lông lạc đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà. Đây là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà. Zônê, “girdle, waitsband; ceinture”, không phải là dây thắt lưng của người Tây phương, nhưng là một thứ như cái “ruột tượng” của ta (x. Mc 6,8).
- Ăn châu chấu: Châu chấu luộc trong nước muối rồi nướng trên than và mật ong rừng là hai thứ lương thực của dân cư sa mạc. Vì bản văn không kể ra thứ lương thực nào khác, ta hiểu ở đây tác giả muốn nêu bật nếp sống khắc khổ của vị Tẩy Giả.
- Ông rao giảng (7): ekêryssen, do động từ Hy-lạp kêryssein, “công bố; loan báo”, ở thì vị hoàn (imperfect), để diễn tả đây là một hoạt động thường xuyên của Gioan. Chúng ta đến đỉnh cao của đoạn văn này, bởi vì chỉ đến đây, Gioan mới lên tiếng mà chỉ cho thấy Đấng ông làm Tiền Hô cho.
- Đấng quyền thế hơn tôi: Có lẽ danh xưng này ám chỉ đến Is 40,10 (“Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng [= đến với sức mạnh], tay nắm trọn chủ quyền”). Sự tương phản giữa hai bên lớn đến nỗi Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người”, mà đây là công việc thấp hèn đến nỗi một nô lệ Do-thái cũng không buộc phải làm cho chủ (sách Mishna) (x. Mt 3,11; Lc 3,16; Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).
- trong Thánh Thần (8): Các bản văn Nhất Lãm song song (Mt 3,11; Lc 3,16) đọc là “trong Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc đầu, câu này có hình thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố Triều Đại cánh chung của Thiên Chúa ngự đến. Mc chỉ quan tâm đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan với việc thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ hoạt động của Đức Kitô, mà không nói đến phán xét. Nhờ đó, Người đưa lại cho “phép rửa trong Thánh Thần” ý nghĩa tích cực là một cuộc tái sinh bên trong.
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Danh hiệu của Tin Mừng (1)
Cả bốn quyển mở đầu bộ Tân Ước chỉ bắt đầu được gọi là “Tin Mừng” nhiều năm sau khi được viết ra. Vào thời tác giả Máccô, “Tin Mừng” không có nghĩa là một quyển sách, mà là “những tin vui” do một sứ giả mang đến. “Các tin mừng” là những tin về các chiến thắng, các biến cố may lành, các hiệp ước hòa bình và nhất là tin về các cuộc chào đời. “Các tin mừng” làm bừng lên những niềm hy vọng về một cuộc sống tiện nghi, sức khỏe, bình an, nên dân chúng vui sướng khi nghe được.
Mc1,1 dùng từ ngữ “tin mừng” để giới thiệu “lời rao giảng của Kitô giáo”, cho chúng ta biết việc cứu độ và hạnh phúc không còn là kết quả của những tin vui về hoàng đế hoặc về một ai đó giống như hoàng đế, nhưng là kết quả đến từ lời rao giảng của Đức Giêsu, cũng là lời giảng về Đức Giêsu, cho thấy đã đến lúc Thiên Chúa can thiệp chung kết vào lịch sử loài người.
* Hoạt động của Gioan (2-6)
Câu trích tổng hợp Is, Ml và Xh (cc. 2-3) có mục đích xác định vai trò của Gioan trong quan hệ với Đấng Mêsia mà ta biết là chính Đức Giêsu. Nhưng một nét được nêu bật là Gioan không phải là vị Tiền Hô của Con Người sẽ đến, mà là của Đức Giêsu trần thế.
Còn cc. 4-6 giới thiệu tóm tắt bản thân và hoạt động của Gioan: ông loan báo phép rửa bày tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Tác giả đặt đối lập phép rửa bằng nước của Gioan và phép rửa bằng Thánh Thần của Đấng Mêsia. Phép rửa bằng Thánh Thần liên hệ rõ ràng đến phép rửa tội Kitô giáo. Nói đến “để được ơn tha tội” là nêu mộtkhẳng định liên hệ đến Thiên Chúa: Ngài sẵn sàng tha thứ các tội lỗi; nói đến “sám hối” là nêu mộtkhẳng định về loài người: họ có tội và được dạy rằng Thiên Chúa tha tội cho họ. Sứ điệp của Gioan đưa đến cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui.
Dân chúng đã từ khắp nơi kéo đến (khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem); tác giả không nói đến Galilê, vì theo ngài, hoạt động của vị Tiền Hô tập trung vào miền nam. Họ thú nhận tội lỗi: ta có thể nghĩ đến mộthành vi tương tự mà các thành viên ở Qumrân làm vào lễ tái lập giao ước (1 QS 1,22–2,1) hoặc người Do-thái làm vào ngày Lễ Xá Tội.
* Lời loan báo của Gioan (7-8)
Tương hợp với câu trích Is nói về tiếng nói của người loan báo, hoạt động của Gioan được mô tả như là một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công bố”; “phổ biến” (kçryssein). Hành vi này đưa ông đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các môn đệ (3,14; 6,12), Tin Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả đức tin (1,45; 5,20; 7,36). Cùng với sự đối lập giữa phép rửa của ông với phép rửa của Đấng Mêsia, ông loan báo “Đấng quyền thế hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang đến.
+ Kết luận
Đến đây, chúng ta đã có thể hiểu vì sao sứ vụ của Gioan lại là “khởi đầu Tin Mừng”. Bởi vì Tin Mừng là biến cố trước khi là sứ điệp. Qua vị Tẩy Giả, Thiên Chúa thực hiện các Lời Ngài hứa (cc. 2-3); Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Giêsu, Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần (cc. 6-8). Như thế, sứ vụ của Gioan đã thuộc về biến cố cánh chung, biến cố này xảy ra khi Đức Giêsu bắt đầu rao giảng tại Galilê và các môn đệ rao giảng khắp tứ phương thiên hạ.
Gioan chỉ là một sứ giả “đi trước mặt” Đức Chúa (c. 2). Nhưng cũng chính ông có nhiệm vụ viết trang dẫn nhập vào Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Chính vì thế, “trong số phàm nhân lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11).
V. GỢi ý suy niỆm
1. Chúng ta được mời gọi tin vào sự trung tín của Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch cứu độ, thì khi đến thời Ngài đã định, Ngài sẽ ban gửi các vị loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến. Sứ điệp Gioan loan báo mang lại cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì ông nói cho họ biết rằng họ bị thất sủng, tương quan của họ với Thiên Chúa đã bị rối loạn, nhưng đồng thời ông khẳng định rằng Thiên Chúa đầy lòng thương xót đối với họ và Ngài muốn thắng vượt tình trạng thất sủng của họ. Đoạn văn này cũng cho thấy Ba Ngôi (Đấng xưng là “Ta”, “Đấng quyền thế hơn” và “Thánh Thần”) cùng làm việc để thực hiện công trình cứu độ.
2. Gioan không xác định tội ông nói đến là tội gì. Dĩ nhiên ông có thể hiểu ngầm rằng những người đang nghe ông biết các tội của họ. Từ sự hiểu biết này phát sinh ước muốn thú nhận các tội lỗi của mình (1,5). Tuy nhiên, tội căn bản là loài người không nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình và là Chúa tể của mình, không tự hỏi về ý muốn của Thiên Chúa, nhưng muốn làm chúa tể của chính mình, đi theo những ý muốn của mình. Đặc biệt tội hệ tại việc không tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa vì các điều răn cho biết ý muốn của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu cũng có mộtvai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
4. Vị Tẩy Giả nhìn người ta lên khỏi nước. Ông gạt đi các lời cám ơn và ca ngợi. Ông nói với họ về “Đấng quyền thế hơn”, Đấng sẽ ban cho họ Thần Khí của đời sống mới. Đời sống này sẽ khởi sự khi người ta nhận ra và đón tiếp Đức Kitô cùng với sự khôn ngoan của Người vào lòng. Họ đang ở tại bờ của mộtkhởi đầu; họ cần sẵn sàng, khao khát, mở lòng ra.
Không quá đáng nếu coi Lịch sử cứu độ là lịch sử tiếng kêu của Thiên Chúa. Hôm nay các Bài đọc cho thấy tiếng kêu phát xuất từ Thiên Chúa qua Gioan Tiền Hô loan báo cho chúng ta một sứ điệp: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con”. Sứ giả Gioan chính là tiếng kêu trong sa mạc, công bố nội dung: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa” (Mc 1,1-3).
Từ ngàn xưa cho đến hôm nay, Thiên Chúa vẫn tung ra những tiếng kêu: qua các ngôn sứ, qua Hội Thánh, qua tiếng lương tâm, và qua cả những trạng huống khác nhau của đời sống con người. Thiên Chúa kêu gọi ta để lay động thức tỉnh ta, bắt ta chú ý và chuẩn bị ta đón nhận một sứ điệp. Như thế, tiếng kêu của Thiên Chúa là một tiếng kêu đặc biệt hàm ý mời gọi.
Tiếng của Isaia đã vang lên cho đoàn dân lưu đày, đang mê man trong giấc ngủ u mê, của thất vọng. Tiếng kêu này lay tỉnh họ dậy đón nhận sứ điệp chan hòa hy vọng, để họ lại đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, chuẩn bị tích cực mà đón tiếp Người.
Tiếng kêu của Gioan Tầy Giả giữa sa mạc hoang vu cũng đánh thức, gây chú ý và quy tụ dân chúng lại để nghe sứ điệp. Người Do-thái đương thời đã phải ngỡ ngàng, băn khoăn, vì sứ điệp của Gioan, như bắt họ phải đối diện với một số vấn đề thuộc phạm vi lương tâm và công bình xã hội (Lc 3,7-14). Họ đã chịu phép rửa sám hối, xin ơn tha tội để dọn tâm hồn đón tiếp Chúa Kitô.
Còn chúng ta hôm nay thì sao? Lời kêu gọi của Thiên Chúa vẫn vang vọng tới chúng ta qua sứ điệp của sách đệ II Isaia và Gioan Tiền Hô, thúc bách chúng ta dọn đường cho Chúa đến.Vào mỗi Mùa Vọng, việc đón Chúa đến có hai ý nghĩa:
- mừng lễ Chúa giáng sinh, - chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai, trong vinh quang.
Lần Chúa đến thứ hai được gọi là “Ngày của Chúa”, ngày mà bộ mặt của trần gian này sẽ qua đi, ngày không phải là tai họa cho thế giới, không phải là biến cố rơi vào một vực thẳm đêm đen, trái lại, là niềm vui và ánh sáng chói lọi, là thứ ánh sáng, để tỏa rạng, phải xé rách vài cụm mây mù.
Chúng ta phải làm chứng về Ngày đó, Ngày đáng cho nhân loại trông mong.
Đức Kitô đã làm chứng về Ngày của Chúa bằng cả cuộc đời của Người, bằng cách làm việc thiện, bằng cách làm chứng về Chúa Cha, bằng cách hiến mình trọn vẹn.
Chúng ta, những chứng nhân chuẩn bị Ngày của Chúa, bằng cách dọn đường cho Người, trong chính chúng ta và chung quanh chúng ta, bằng cách một trật công bố ơn tha thứcủa Thiên Chúa và những thay đổi cần thiết, bằng cách làm cho thẳng các con đường mòn, lấp đầy các chỗ trũng, bằng cách chiến đấu cho công bình, bằng cách sống cho chân lý. Có lẽ đừng vội nghĩ tới công bình trong xã hội, nên nghĩ tới chỗ lề lối suy tư của ta chưa công bình, cách thức xử sự của ta đối với Chúa chưa ngay chính…
Và khi mỗi người cố gắng như vậy, biến cõi đời này thành nơi đáng sống, ở đó mỗi ngày mỗi bớt dần cảnh bất công tàn ác, nhân phẩm được kính trọng và các quyền lợi căn bản của con người được đảm bảo, và nhất là mọi người được giao hòa với Thiên Chúa và với anh chị em đồng loại, thì khi ấy “trời mới đất mới” xuất hiện.
Chúng ta làm chứng về Ngày của Chúa thật sự khi qua những khó khăn, những thất bại và cả những sa ngã, chúng ta biết nắm giữ và chuyển thông niềm vui của Thiên Chúa chỉ vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa ở giữa loài người và tình yêu của Người đã có từ muôn đời và cả trong ngày hôm nay.
Như vậy, muốn chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai cho chu đáo, nói thì có vẻ như chơi chữ, mà thật ra là thực tế, chúng ta cần biết sống mỗi ngày như một ngày của Mùa Vọng, đồng thời như là từng ngày Lễ Giáng Sinh.
Ngày nay, kinh tế phát triển mạnh, giao thông là yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế của một nước. Muốn cho giao thông tốt phải có đường tốt, muốn có đường tốt thì phải sửa chữa và bảo trì như : đường bộ, đường hàng hải hay đường hàng không. Sửa đường là một việc thường xuyên phải thực hiện để giao thông được dễ dàng.
1. Có nhiều con đường.
- Con đường vật lý là những con đường làm bằng vật chất mà ta phải xử dụng hằng ngày để sự giao thông vật chất được dễ dàng. Những con đường này rất nhiều, rất đa dạng, ở đâu cũng có. Chỗ nào không có đường thì giao thông bị bế tắc.
- Con đường tinh thần là con đường vô hình trong việc giao lưu giữa con người với con người . Đây chỉ là con đường vô hình, siêu vật chất nhưng cũng có lúc bị tắc nghẽn hay bị cắt đứt làm cho sự giao lưu giữa con người gặp khó khăn ví dụ : hai người ngồi gần kề nhau mà vẫn thấy nghìn trùng xa cách.
- Con đường thiêng liêng là con đương vô hình , siêu vật chất nối kết tâm hồn ta với thần linh, nối kết linh hồn ta với Thiên Chúa. Con đường này cũng có khi bị tắc nghẽn làm cho chúng ta khó liên hệ với Chúa, ví dụ người luôn ở trong tình trạng phạm tội nhẹ hay ở trong tình trạng ơ hờ lạnh nhạt đối với Chúa. Cũng có thể con đường này bị cắt đứt trong tình trạng con người phạm tội trọng. làm cho ta không đến được với Chúa và Chúa không đến với ta.
2. Sửa phẳng con đường thiêng liêng.
Con đường thiêng liêng của chúng ta cũng có thể bị tắc nghẽn hay gián đoạn bởi thung lũng, núi đồi, khúc quanh co, đường lồi lõm. Tình trạng con đường bị tắc nghẽn nhiều hay ít là do từng người, và mỗi người chúng ta phải sửa chữa để đến với Chúa.
Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu quén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, muốn gây bất hòa, luôn giận hờn, luôn ghen ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn Chúa đến với ta. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn.bạt đi thói kiêu hãnh ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh co dối trá. Hãy uốn lại những khúc quanh giả hình. Hãy uốn lại những khúc quanh mưu mô xảo quyệt. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những sóng gồ ghề nói hành nói xấu. Nên hôm nay, thánh Giaon Tẩy giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa đến.
Muốn có con đường thẳng ngay và bằng phẳng, cần có một tâm hồn chính trực. Với những ai muốn đón Chúa đến, Gioan Tẩy giả yêu cầu :”Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Khi đón một nhân vật quan trọng đến vùng nào, người vùng đó phải dọn dẹp đường cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp. Cũng vậy, để đón Chúa đến, ta cũng phải sửa lại những con đường trong tâm hồn ta cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp ; nghĩa là tâm hồn ta phải luôn ngay thẳng, chính trực, không quanh co, gian dối, giả hình...
Ngay thẳng là một trong những yếu tố chính yếu của sự công chính, thánh thiện. Thiết tưởng người Kitô hữu cần phải tạo cho mình một tư cách ngay thẳng, chính trực, nói gì hay làm gì cũng phải “công minh chính đại”, “đường đường chính chính”, không lén lút, giấu giếm, không làm ai phải nghi ngờ điều gì. Tư cách của người Kitô hữu phải là tư cách của một người quân tử, tôn trọng sự thật, nghĩ thế nào nói thể ấy và nói sao thì làm vậy...
II. DỌN ĐƯỜNG VÀ SÁM HỐI.
1. Dân Israel đã sám hối.
Bài đọc I cho chúng ta biết : những năm tháng lưu đầy đã giúp họ hồi tâm lại và nhận thức lý do đưa tới tù đầy đau khổ là chính tội lỗi của họ (Yr 7,25-28). Từ đó nhóm dậy trong lòng họ những tâm tình sám hối, dẫn đến quyết định dứt khoát với tội lỗi. Khi làm như thế là họ sửa sang đường lối trong tâm hồn cho ngay thẳng để đón tiếp vinh quang Chúa đến.
2. Thánh Gioan Tẩy giả cũng đòi sám hối.
Thánh Gioan rao giảng sự sám hối bằng cách chịu phép rửa để được ơn tha tội. Ngài đòi con người phải sửa đổi tâm hồn, nhưng ngài không làm cách mạng, ngài không bắt người ta phải thay đổi cuộc sống, thay đổi địa vị xã hội, cho dù là thu thuế hay binh lính, hai hạng người mà thời bấy giờ bị coi khinh và xem thường. Nhưng Gioan chỉ nhắc nhở, thúc giục mọi người hãy cải thiện đời sống, đổi mới tâm hồn để sẵn sàng chờ đón Chúa đến.
3. Chúng ta cũng phải sám hối.
Sám hối, theo tiếng Hy lạp có nghĩa là thay đổi não trạng. Theo tiếng Do thái là quay trở về, trở lại, tức là trở về với Chúa, với giao ước của Chúa. Gioan rao giảng kêu gọi mọi người sám hối. Ai nghe lời ngài giảng mà sám hối thì được ngài làm phép rửa. Nhưng phép rửa của ngài chỉ có tính cách giúp người ta thống hối, sửa soạn cho việc tha tội, chứ không phải là một bí tích như phép rửa Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này.
Sám hối là biết trở về, nghĩa là phải nhận biết tội lỗi của mình, biết nhìn nhận ra thực trạng của linh hồn mình, nhưng mấy người biết nhìn ra tội lỗi của mình. Biết thực trạng con người của mình là điều kiện cần thiết của sự sám hối.
Gần 20 thế kỷ nay, thánh Phaolô tông đồ đã nói :”Tôi xử sự như một thằng điên và sailầm của tôi thì nhiều vô kể”.
Hùm thiêng khi đã sa cơ như Napoléon lúc ngồi vò võ tại đảo Sainte Hélène cũng phải tự thú :”Sự sụp đổ này là tại chính tôi, tôi là tử thù của tôi, là nguyênnhân mạt kiếp của tôi”.
Tâm hồn thánh thiện như thánh Phaolô, một bộ óc vĩ đại như Napoléon mà còn buông ra những lời tự thú như vậy thì huống hồ là chúng ta...hay làm lỗi mà ít khi chịu nhận là mình lầm lỗi.
Triết gia Elbert Hubbart nói :”Người nào cũng sai lỗi ít là 5 phút mỗi ngày. Bậc thánhnhân là không để vượt qua thời gian kỷ lục ấy”.
Như vậy ai dám nói là mình hoàn hảo, không còn sai sót gì, không cần phải sửa đổi gì bởi vì như người ta thường nói :“Bàng quan giả tỉnh,đương cục giả mê” : việc người thì sáng, việc mình thì quáng.
Truyện : Biết nhận lỗi mình.
Công tước d’Ossone, một nhà chính trị trứ danh, vào năm 1624 lên chức phó vương ở Naples. Một hôm, ông đến thăm nhà ngục và hỏi từng phạm nhân là đã làm gì mà mình bị giam
Tất cả mọi tù nhân đều kêu là mình bị oan, duy chỉ có một anh cúi đầu nhận tội, và còn nói đáng lẽ ra mình phải chịu phạt hơn nữa mới xứng đáng. Thấy hắn khiêm nhường nhận lỗi , công tước bảo :”Như vậy thì anh ở đây không phải chỗ : anh có tội mà sao lại ở giữa những người vô tội này ? Hãy ra khỏi đây, Ta tha cho anh”.
Chúa cũng sẽ tha tội cho tất cả những ai thành thật thú nhận tội lỗi của mình, bởi vì bản tính của con người là hay sa ngã, còn bản tính của Thiên Chúa là hay tha thứ !
Đức Khổng Tử đưa ra môt chương trình giáo dục mà ngày nay vẫn còn có giá trị. Chương trình đó là :”Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”: muốn cai trị được thiên hạ, muốn đem lại được bình an thịnh vượng cho thế giới thì trước tiên phải “tu thân”, phải sửa mình cho nên tốt đã. Mình có tốt thì mới điều khiển được thiên hạ, mới có thể đưa xã hội vào con đường ngay chính, mới đưa đến trật tự an toàn, mới có hoà bình trật tự. Còn nếu muốn điều khiển thiên hạ mà mình chưa tốt thì sẽ rơi vào tình trạng “Thượng bất chính, hạ tắc loạn” :
Người trên ở chẳng chính ngôi Làm cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào.
Truyện : kinh nghiệm của một triết gia.
Một triết gia Ấn độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau :
- Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thiên Chúa là : lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để con thay đổi thế giới.
- Đến tổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời người của tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế : lạy Chúa, xin cho con được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.
- Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau : lạy Chúa, xin ban cho con được thay đổi chính con.
Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Dọn đường cho Chúa đến , chính là nỗ lực hoán cải bản thân và thực thi bác ái.
Một nhà cách mạng đã nói :”Chỉ cần 10 người như thánh Phanxicô Assisi thì cuộc diệnthế giới sẽ thay đổi”. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng bản thân.
Vào thế kỷ 12, tệ đoan lan tràn khắp nơi, các phe phái quá khích nổi lên, nhiều người phê bình chỉ trích các nhà lãnh đạo Giáo hội vì cuộc sống phản chứng của các ngài. Lúc đó thánh Phanxicô Assisi xuất hiện. Ngài không chỉ trích ai, nhưng ý thức rằng kẻ phải ăn năn sám hối trước tiên là chính ngài. Ngài không khoe khoang, không tham lam, không giả hình, nhưng cố gắng sống nghèo khó, bác ái, phục vụ, khoan dung. Lý tưởng của thánh Phanxicô chẳng mấy chốc đã được nhiều người chia sẻ. Giáo hội được hồi sinh, nhiều tâm hồn được đổi mới. Mùa xuân thiêng liêng được nở rộ nhiều thế kỷ kế tiếp.
Chắc chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé, thấp hèn, không làm gì được để góp phần vào trong việc cải tạo thế giới, nhưng chúng ta hãy theo gương thánh Phanxicô Assisi, cứ tự thay đổi con người của mình trước đi, rồi mọi việc sẽ trao phó cho Chúa. “Thà thắp lên một ngọn đènhơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”. Nếu mỗi người, ai cũng đốt lên ngọn đèn của mình, nếu mỗi người, ai cũng đóng góp phần ít ỏi, nhỏ mọn của mình, thì có lẽ thế giới này sẽ bớt lạnh lẽo hơn vì lòng ích kỷ... Không ai nghèo đến nỗi không có gì cho người khác. Hãy bắt đầu bằng món quà nhỏ mọn, có khi vô tình của chúng ta. Một giọt nước nhỏ là một điều không đáng kể trong đại dương bao la, nhưng nếu không có những giọt nước nhỏ kết tụ lại, thì đại dương kia cũng chỉ là sa mạc khô cằn.
Đức Giêsu đã đến lần thứ nhất để giải thoát loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi và ma qủi. Ngài sẽ đến lần thứ hai để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong vinh quang của Ngài. Ngài đang đến, đến từng giây phút, chúng ta đang đón chờ ngày Người quang lâm. Và Chúa sẽ đến riêng với chúng ta trong ngày lìa bỏ cõi đời này, ngày Ngài đến không còn xa. Thời gian còn rất ngắn, chúng ta hãy ráo riết chuẩn bị, luôn ở trong tư thế tỉnh thức và sẵn sàng. Để kết thúc, chúng ta hãy suy niệm và cầu nguyện bằng bài thơ cổ, nói về cuộc đời này chóng qua thế nào và điều gì quan trọng vào giây phút cuối cùng :
“Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười và khóc,
thì lúc đó thấy thời gian bỏ tôi. “Khi thôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn,
thì thấy thời gian đi bộ. “Khi tôi trưởng thành, tôi là một người chững chạc,
thì thấy thời gian chạy.
“Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín mùi, tuổi già,
thì thấy thời gian bay “Chẳng bao lâu nữa là tôi chết,
lúc đó thời gian đã đi mất.
“Ôi ! lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến,
thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa”. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Có nhiều con đường khác nhau: có những ‘con đường cái quan’, có những con đường làng, có những con đường thành phố, có những đường mòn, có những con đường tắt ..vv…Nhưng con đường nào cũng đưa ta tới một nơi nào đó. Con đường càng bằng phẳng, càng dễ đi.
Ngoài ra lại có ‘Đường Đời’ là con đường mọi người chúng ta bước đi trong cuộc sống từ khi chúng ta ‘mở mắt chào đời’ cho đến khi ‘nhắm mắt lìa đời.’
Rồi lại có con đường gọi là ‘Đường Thiêng Liêng’ là con đường ‘nội tâm’ mà mọi người sống âm thầm không ai nhìn thấy, chỉ ta và Thiên Chúa biết được. Đó cũng là con đường đưa ta đến Cuộc Sống Vĩnh Hằng.
Con đường thiêng liêng dẫn đến Cuộc Sống Vĩnh Hằng phải là con đường thẳng và bằng phẳng; không quanh co (như gian tham, dối trá, lừa đảo…), không gồ ghề (như kiêu căng, tự phụ, cố chấp…), không có những lũng sâu (như những đam mê tội lỗi, cờ bạc, rượu chè, dâm ô; hoặc lười biếng, ham chơi, thiếu sót bổn phận hàng ngày của mình).
Hôm nay trong Chúa Nhật II, Mùa Vọng (năm B), chúng ta thấy các bài đọc đều nói đến Con Đường. Đó là Con Đường
Thiêng Liêng.
Bài đọc I (Isaia 40,1-5;9-11) là lời tiên tri Isaia nói đến tình trạng Dân Chúa thời đó đã phản nghịch cùng Thiên Chúa, đắm chìm trong tội lỗi, không phương cứu thoát; nhưng Tiên tri Isaia nói: “Chúa là Đấng nhân hậu và hay thương xót. Ngài sẽ đến để cứu độ dân Ngài. Nhưng mỗi người phải sửalại con đường của mình cho ngay thẳng, cho bằng phẳng, và mỗi người sẽ nhìn thấy ơn Cứu độ cửa Thiên Chúa!” Bài Phúc Âm (Matcô 3,1-8) nói đến sứ mệnh của Thánh Gioan Tiền Hô: Thánh Gioan được sai đến để kêu gọi Dân Chúa sám hối tội lỗi, sửa lại con đường thiêng liêng củamình, đến xin lĩnh nhận phép rửa thống hối, dọn đường đón Chúa Cứu Thế đang đến gần.
Bài đọc II (2 Phêrô 3,8-14), nhắc lại tư tưởng của Chúa Giêsu trong Chúa Nhật tuần trước: Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi chúng ta sám hối để được ơn tha thứ; vì Chúa không muốn cho ai phải ‘hư mất’, nhưng cho mọi người được hưởng ơn cứu độ do Người mang đến. Miễn là chúng ta luôn phải sẵn sàng chờ đón Chúa đến lúc chúng ta không ngờ, qua cái chết của mỗi người. Ngày tận thế cũng đến vào lúc không ai ngờ được. Ngày đó sẽ thật khủng khiếp, mọi sự sẽ tan biến, “các tầng trời sẽ sụp đổ!” Nhưng với những tâm hồn luôn ăn năn sám hối, luôn sống sẵn sàng,thì ngày đó sẽ là ngày đưa đến “một Trời Mới Đất Mới, nơi Công lý ngựtrị!’
Chúng ta cùng nhau đi trên đường đời, và chúng ta cùng
cầu nguyện cho nhau, nâng đỡ nhau trong cuộc sống như những tín hữu của Chúa trong gia đình Giáo Hội, và trong gia đình riêng (giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái). Tuy nhiên mọi người đều phải đi con đường đời của mình, trách nhiệm con đường của mình. Không ai có thể đi thay con đường của chúng ta. Các vị chủ chăn Chúa sai đến giữa chúng ta đều có trách nhiệm, như Isaia, Gioan Baotixita… kêu gọi, thúc đẩy và giúp chúng ta “sửa đường Chúa cho ngay thẳng.” Tuy nhiên, các vị đó cũng không thể đi thay con đường mà mỗi người chúng ta phải đi!
Vậy trong tinh thần sám hối ăn năn tội lỗi và sửa đổi cuộc sống, hàng ngày vào mỗi buổi tối, trước khi đi vào giấc ngủ ban đêm, chúng ta hãy cầu nguyện và ‘xét mình’ để nhìn thấy con đường của mình trong một ngày qua như thế nào, để tạ ơn Chúa đã qua một ngày tốt đẹp, và xin Chúa tha thứ và giúp chúng ta sửa đổi lỗi lầm, để ngày hôm sau chúng ta sẽ khá hơn: “Tân Nhật Tân!” Ngày hôm nay ta sẽ cố gắng khá hơn ngày hôm qua và ngày mai sẽ khá hơn ngày hôm nay!
Con Đường Thiêng Liêng của mỗi người chúng ta có nhiều khó khăn, đòi hỏi những cố gắng hằng ngày, kể cả lòng kiên nhẫn mỗi khi trượt chân sa ngã. Chúng ta hãy luôn ‘đứng dậy mà đi’ với niềm tin tưởng rằng Chúa đã chết để cứu chuộc chúng ta; Chúa Thánh Thần luôn soi sáng, phù trợ chúng ta; ngoài ra, Mẹ Maria và các Thánh, Thiên thần bản mệnh luôn đi với chúng ta và nâng đỡ chúng ta; miễn là chúng ta biết dơ tay lên và cầu khẩn “Lạy Chúa, xin hãy tỏ lòng nhân từ của Chúa cho chúng con và ban ơn cứu rỗi cho chúng con!”.