“Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!” - Ðó là lời Chúa.
Chọn bài Phúc Âm này để làm đề tài suy gẫm trong ngày đầu năm phụng vụ, Giáo Hội muốn: MV 1-B51
Chọn bài Phúc Âm này để làm đề tài suy gẫm trong ngày đầu năm phụng vụ, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta một bài học rất hữu ích và cần thiết đó là hãy tỉnh thức và sẵn sàng để đón nhận Chúa vào ngày giáng sinh cũng như ngày Chúa gọi chúng ta đến tính sổ cuộc đời với Ngài.
Nhìn vào đời sống, chúng ta thấy tỉnh thức và sẵn sàng là điều kiện cốt yếu để được sống còn. Ngay như trong thế giới loài vật chúng ta cũng thấy như vậy. Một nông dân Mỹ bị đàn quạ khoang phá hoại ruộng ngô. Ông mang súng ra bắn, nhưng không sao lại gần được vì trên cây thông cao, có một con đậu để canh chừng khi các con khác đang ăn. Len lỏi lâu dưới hố sâu ông mới lại gần được mà con gác không hay biết. Một tràng đạn nổ vang, những con sống sót bay vù lên, nhưng chúng không bay đi xa, chúng xà xuống con canh gác với những tiếng kêu giận dữ. Con chim khốn nạn này bị đồng bọn xử một cách tàn nhẫn và nhanh chóng, không thể ở lại trong bầy, phải rời hàng ngũ mà đi nơi khác.
Câu chuyện trên đây cho thấy việc tỉnh thức và sẵn sàng là điều rất cần thiết, loài vật còn cảm thấy phương chi là con người. Nơi giống vật không chu toàn bổn phận tỉnh thức còn bị trừng phạt nặng nề, phương chi là con người.
Trong cuộc sống, chúng ta thường nói: Mấy ai học được chữ ngờ. Nghĩa là có nhiều biến cố xảy đến ngoài dự kiến của chúng ta. Nhưng có một cái bất ngờ, tuy không do chúng ta dự liệu, nhưng lại tuỳ thuộc chúng ta định đoạt số phận, đó là cái chết.
Đọc báo chí, nghe truyền thanh và xem truyền hình, chúng ta thấy cái chết phảng phất ở mọi nơi, và trong mọi lúc. Nào là thiên tai bão lụt giết chết hàng trăm người. Nào là núi lửa, động đất giết chết hàng ngàn người. Nào là chiến tranh, đói khổ giết chết hàng vạn người. Dẫu vậy có ai nghĩ rằng mình cũng sẽ phải chết, mà mấy ai đã tỉnh thức và sẵn sàng cho cái bất ngờ cuối cùng ấy.
Sống sao thì chết vậy. Muốn được chết tốt lành, muốn cho giờ chết không phải là giờ cay đắng bẽ bàng thì ngay từ lúc này, chúng ta phải lo sống tốt lành. Đối với những người còn hồ nghi về đời sau, họ nên khôn ngoan lý luận như nhà tư tưởng Pascal: Có đời sau hay không, điều ấy thật khó mà chứng minh rõ rệt, tuy nhiên tôi vẫn tin có là hơn, vì dù không có, thì tin như vậy cũng không thiệt hại gì. Còn như trong trường hợp mà có, thì không tin quả là điều nguy hiểm. Cho nên tin vào sống niềm tin ấy, thì khôn ngoan hơn.
Tỉnh thức và sẵn sàng ở đây có nghĩa là hãy khử trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống và tích trữ cho một kho tàng quý giá là những hành động bác ái, là những công nghiệp chúng ta lập được khi còn sống ở đời này, để bất kỳ lúc nào Chúa lên tiếng kêu gọi, chúng ta cũng có thể sẵn sàng thưa lên: Lạy Chúa, này con xin đến.
(Trích dẫn từ tập sách ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Mở đầu niên lịch Phụng vụ, ba bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng năm: MV 1-B52
Mở đầu niên lịch Phụng vụ, ba bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng năm nay phác họa lại cho chúng ta một vài thái độ trong khung cảnh sống của Dân Chúa: ngay giữa đêm tối của thử thách, nghi ngờ, phấn đấu, tội lỗi, Dân Chúa đã cùng nhau tự thú những lỗi phạm của mình, cương quyết sống trung kiên mong chờ ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu Kitô trong niềm tin tưởng và thái độ tỉnh thức.
Quả vậy, bài đọc Isaia 63,16-64,7 trình bày lại bối cảnh của đoàn dân Thiên Chúa sau thời Lưu đày. Kinh nghiệm ê chề của những năm tháng sống kiếp nô dịch trên phần đất ngoại bang đã đem lại cho họ một ý thức tập thể về những lỗi phạm của mình. Họ ngước mắt nhìn về Thiên Chúa là Cha để thốt lên lời khẩn nguyện: "Ôi phải chi Người xé trời ngự xuống, thì núi non cũng sẽ tiêu tan trước Nhan Ngài". Tâm trạng hối lỗi và tha thiết khẩn nài ơn cứu độ đã giúp Dân Chúa nhận định lại ơn gọi của mình để sống trọn vai trò chứng nhân trung thành giữa muôn dân qua thân phận mỏng dòn và hèn yếu của cuộc sống con người.
Bảy thế kỷ sau, khoảng 25 năm sau ngày Đức Kitô về trời, thánh Phaolô cũng đã nhắc nhở lại ơn gọi thực sự của người Kitô hữu: không những chỉ ý thức những sai lỗi của mình, nhưng còn phải sống vươn lên mong chờ ngày Đức Kitô trở lại. Các cộng đoàn tín hữu tiên khởi đã sống trong hoàn cảnh hồi hộp, nao nức mong chờ ngày trọng đại đó. Những lời nguyện: "Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy trở lại" (1Cr 16,22) càng đặt họ vào tâm trạng xao xuyến và đầy xúc động. Ngài ở đây! Ngài ở kia! (2Th 2,2). Và có khi vì mỏi mệt đợi chờ, họ đã không ngần ngại thốt lên: "Có lẽ Ngài đến chậm".
Tâm trạng khắc khoải đó cần bắt gặp được một cái gì vững chắc củng cố lòng tin tưởng: nếu không, thái độ tỉnh thức mong chờ của họ sẽ hão huyền, ảo vọng.
Quả vậy, mỗi lần cử hành nghi lễ bẻ bánh, cộng đoàn dân Chúa vẫn long trọng tuyên xưng lại niềm tin của mình:
"Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến".
Nỗi lòng mong chờ khắc khoải đó như được xoa dịu và soi sáng bởi lời Đức Kitô trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô 13,33-37. Ngài như một chủ nhà phải ra đi, vắng xa và vắng lâu. Sau khi trao phận sự quản lý cơ nghiệp cho gia nhân, mỗi người theo chức vụ của mình, Ngài đặc biệt tín cẩn và căn dặn người canh cửa: "Hãy tỉnh thức". Phải, hãy tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ. Cuộc tái ngộ có thể xảy ra một cách rất bất ưng vào một lúc nào đó trong ban đêm. Gia nhân và nhất là người canh cửa phải tỉnh thức, luôn sống trong ánh sáng ban ngày để không ngái ngủ, không thất hứa với chủ nhà trước lúc ra đi.
Đặt đoạn văn trên vào khung cảnh lịch sử cứu độ, giữa ngày về trời và ngày trở lại của Đức Kitô, chúng ta có thể nói, thái độ tỉnh thức đó chính là thái độ của Giáo hội, của toàn dân Chúa và nhất là của những người hữu trách các cộng đoàn.
Nhưng tại sao phải tỉnh thức?
Vì trước tiên, đó là ý muốn, là mệnh lệnh của chủ nhà. Để cho cửa nhà êm ấm, an toàn và trường tồn, phận sự của người canh cửa, không phải chỉ lo bảo vệ ngôi nhà, mà còn phải lưu tâm đến những người sống trong đó.
Ngoài ra, tỉnh thức còn là thái độ của một gia nhân trung thành đối với người đã tín nhiệm, ủy thác trách vụ cho mình. Và chắc chắn niềm vui của ngày tái ngộ sẽ trọn vẹn nếu chủ nhà gặp được gia nhân trong tư thế đợi chờ và sẵn sàng.
Hơn thế nữa, tỉnh thức cũng là để khỏi rơi vào giấc ngủ! Mà thường người ta chỉ ngủ lúc ban đêm, trong bóng tối! Theo nghĩa Thánh Kinh, ban đêm, bóng tối, gợi lên cho chúng ta hình ảnh một môi trường đầy nguy hiểm, đầy thử thách. Bóng đêm đối nghịch lại ánh sáng ban ngày. Đó là chiều kích thử thách của cuộc sống. Nó đưa đến tội lỗi, đau khổ, sự dữ... Nó đưa đến sa ngã, nản chí, nghi ngờ. Người canh cửa có thể bội phản người thân xa vắng, để chạy theo những quyến rũ của kẻ khác, của ngẫu tượng đồng lõa với bóng đêm.
Và tỉnh thức như thế nào?
Phải chăng là thắp đèn ngồi chờ? Là sống trong tâm trạng viễn vông! Không! Đọc lại Thánh Kinh và lịch sử dân Chúa, chúng ta thấy việc tỉnh thức đợi chờ không phải là một thái độ thụ động. Nhưng là một hành vi ý thức của người hiểu biết lý do.
Vì thế, thái độ tỉnh thức của Giáo hội và đặc biệt của những người hữu trách dân Chúa phải sống động và đầy tính chất sáng tạo. Đó là thức tỉnh hiệp thông với người bạn của mình. Đó là thái độ của một người bạn trung thành, cởi mở để luôn lắng nghe lời nói của bạn mình. Như thế, tỉnh thức đối với Giáo hội, có nghĩa là không ngừng chiến đấu để sinh tồn, để trung thành với Lời Chúa. Dầu xa vắng, nhưng hầu như tiếng nói, lời hứa và sự hiện diện của Ngài luôn xoáy động trong lòng Giáo hội và chi phối mọi sinh hoạt của dân Chúa. Với ánh đèn soi sáng và sưởi ấm đó, Giáo hội như có một nghị lực để cảm thông và tìm ra được ý muốn của Ngài qua mọi biến cố trong cuộc sống, qua mọi dấu chỉ thời đại.
Sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên trong tâm hồn mỗi người và trong đời sống Giáo hội một sự giằng co căng thẳng, mà chúng ta phải dùng như một đà tiến để vươn lên, Giáo hội có phận sự rút kinh nghiệm từ các sự kiện xảy ra trong lịch sử quá khứ và hiện tại để sửa chữa lỗi lầm, tự thanh luyện mình để tiến tới sự hoàn thiện như Chúa Kitô mong muốn. Đặc biệt Giáo hội phải sẵn sàng từ bỏ địa vị ưu thế trong xã hội để chấp nhận thân phận đầy tớ phục vụ chủ nhà mình và anh em.
Để tỉnh thức chờ Chúa đến, Giáo hội phải nhẹ lòng đối với của cải trần thế và dứt khoát với những quyến rũ của các ngẫu tượng. Khi làm như thế, Giáo hội thực sự đang cầm đèn trong tay sẵn sàng đợi Đức Kitô, vì ngày trở lại của Ngài sẽ xảy tới bất chợt.
Đồng thời, nếp sống của Giáo hội sẽ là ánh sáng thức tỉnh mọi người để họ nhận ra Đức Kitô là Đấng Cứu Thế đích thực. Giáo hội đang mang trong lòng sức sống và động lực thúc đẩy chính mình và cả thế giới tiến lên gặp Đức Kitô. Thế nên, tỉnh thức là phận sự cần thiết của những con người chứng nhân cho ánh sáng. Và Giáo hội phải là kho dự trữ sức sống phong phú và sung mãn chuẩn bị cho mọi người đón nhận thời viễn lai. Vì thế, khi hướng về ngày Chúa Kitô trở lại, Giáo hội quả là niềm hy vọng cho toàn thể thế giới và vũ trụ.
BÀI GIẢNG
1. Đời sống con người, có thể nói, bao giờ cũng bao hàm một khía cạnh đau thương khổ sở. Không phải chỉ thời nay mới khổ; thời trước cũng đã khổ rồi và bao lâu còn sống ở trần gian thì con người vẫn phải chịu đựng hy sinh và đau khổ. Bài sách Isaia chúng ta đọc hôm nay, đã được viết ra sau thời dân Dothái bị lưu đày bên Babylon. Bài sách ấy cho ta thấy rằng: tuy hết bị lưu đày, nhưng dân Dothái vẫn tiếp tục gánh chịu đau khổ. Điều làm cho họ đau khổ nhất, chính là họ nhận thức ra rằng họ đã "đi lạc xa đường Chúa", đã "phạm tội" và "đã bị phó mặc cho quyền lực tội lỗi".
Tội lỗi của con người, đó chính là nguyên nhân sâu xa gây nên mọi đau khổ. Bài sách Isaia hôm nay thôi thúc ta nhìn vào khổ sở hiện tại như là tiếng gọi cảnh tỉnh ta nhận thức tội lỗi của mỗi người và của cả nhân loại để mau hoán cải trở về với Thiên Chúa. Ngài là Cha yêu thương, là Đấng cứu độ nhân từ và luôn luôn trung thành với lời Ngài đã hứa.
Những khó khăn kinh tế hiện nay cũng gây nên cho ta những khổ sở, nhưng ta nên biết rằng đó là hậu quả không thể tránh được của một nước vừa bị 30 năm chiến tranh tàn phá như nước ta. Và chúng ta, người công giáo còn phải nhìn nhận như dân Chúa thời xưa "Này Chúa thịnh nộ vì chúng tôi đã phạm tội". Với ý chí đổi đời và cải tạo, với quyết tâm từ bỏ mọi ích kỷ cá nhân, mọi tham lam và hận thù, Chúa sẽ ban cho ta nguồn nghị lực mới để xây dựng một xã hội tốt đẹp và huynh đệ hơn.
2. Trong công cuộc này, chúng ta hãy lắng nghe những lời đầy an ủi trong thư thánh Phaolô: "Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em, vì anh em được đầy tràn mọi ơn, trong khi mong chờ Đức Kitô lại đến". Thánh Phaolô ảo tưởng, không nhìn thấy thực tế sao? Ngài không ảo tưởng. Ngài biết rõ các giáo đoàn của ngài. Họ là dân không giàu có, không thế lực. Nhưng hết thảy họ là những người được kêu mời hiệp nhất với Con Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Phải, chúng ta là những con người như thế. Chúng ta đừng chỉ nhìn vào đời sống vật chất của mình để thấy xót xa vì thiếu thốn, nhưng còn phải biết nhìn vào tâm hồn, vào tinh thần, vào thiên chức được làm con cái Thiên Chúa, được vinh dự phát huy tình yêu của Ngài đối với trần gian.
Chúng ta cũng hãy hãnh diện, tin vào ý kiên trì của dân tộc Việt Nam trong quá khứ, đã khắc phục được bao khó khăn để vươn lên trong tư thế độc lập tự do, thì trong tương lai cũng sẽ thành công trong việc xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, ấm no và có tình yêu thương giữa mọi người đồng bào cùng máu mủ.
3. Mùa Vọng nhắc lại cho ta cả hai chân lý ấy, một đàng dân Chúa như đang lầm than khổ sở, nhưng đàng khác cũng chính dân ấy đã được bảo đảm một tương lai tốt đẹp, trước hết theo ý nghĩa tinh thần, nhưng sau đó cũng kèm theo tất cả mọi khía cạnh được Chúa thánh hóa để làm nên hạnh phúc toàn diện cho con người. Thế nên, Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay dạy ta hãy tỉnh thức đừng mê ngủ. Những than vãn, thở dài, chỉ làm cho thân xác rũ xương và đời sống trở nên đen tối. Trái lại, nếu tỉnh táo, nhìn về tương lai với niềm tin vững mạnh, thì một chân trời mới đang dần dần mở ra trước mắt ta.
Người tín hữu cũng sống trong trần gian và phải hy sinh gian khổ như mọi người. Nhưng nhờ niềm tin như đèn sáng trong tay, chúng ta là những người đang tỉnh thức chờ Đức Kitô trở lại: Ngài là Chúa đem lại hòa bình, là Đấng cứu độ trần gian. Thế nên, lòng ta tràn đầy hy vọng và ta có phận sự chiếu tỏa niềm hy vọng phấn khởi ấy chung quanh ta.
4. Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của Giáo hội chúng ta, trước khi đem cuộc đời lam lũ đặt vào đĩa thánh, hiến dâng sự sống và con người của ta cho vinh quang Nước Trời mà Chúa đang dành cho các con cái của Người.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ của Lm. Trần Ngà)
Tai nạn giao thông ngày càng gia tăng khốc liệt, gây ra chết chóc, thương tật, tai hoạ cho: MV 1-B53
Tai nạn giao thông ngày càng gia tăng khốc liệt, gây ra chết chóc, thương tật, tai hoạ cho hàng chục ngàn người mỗi năm tại Việt Nam. Chưa từng có trận chiến nào trong lịch sử chiến tranh Việt Nam cận đại ngốn nhiều nhân mạng và gây nhiều thương vong cho bằng tai nạn giao thông trên các tuyến đường dọc theo chiều dài đất nước trong những năm qua.
Nguyên nhân chính gây ra tai nạn giao thông là người lái xe không tỉnh táo. Phải lái xe suốt đêm trường trên những con đường dài thăm thẳm khiến người lái thiếp đi lúc nào không hay. Một số khác mất tỉnh táo vì men rượu, nên không thể chủ động và phản ứng kịp thời khi tình huống xấu xảy ra. Thế là tai hoạ và chết chóc chụp xuống trên đầu nhiều người thật khủng khiếp.
Khi tài xế ngủ gật, say rượu bia thì nguy cơ gây nên cái chết cho mình và cho người liên hệ hầu như chắc chắn. Người lái xe không tỉnh thức, vì ngủ gật hay vì ma men, là kẻ sát nhân và là người tự sát, gây nên những hậu quả nghiêm trọng khôn lường cho nhiều nạn nhân vô tội.
Chính vì thiếu tỉnh thức dễ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng khôn lường nên Chúa Giêsu đã nhiều lần kêu gọi mọi người đừng mê ngủ nhưng hãy tỉnh thức dưới nhiều hình thức:
Tỉnh thức như người tôi tớ chong đèn đợi chủ đi ăn cưới mãi đến hai hoặc ba giờ sáng mới về (Luca 12, 35-48); tỉnh thức như người chủ nhà canh phòng kẻ trộm thâm nhập giữa đêm khuya (Mt 24, 42-44); tỉnh thức như người quản lý được người chủ đi xa giao trọng trách quán xuyến việc nhà mà không biết giờ nào chủ trở lại kiểm tra công việc đã được giao phó (Mc 13, 33-37. Lc 12, 42-46); tỉnh thức như những cô phù dâu mang dầu đèn đi đón chàng rể có thể vào giữa đêm khuya mới đến. (Mt 25,1-13)
Trong các trường hợp được nêu trên đây, việc tỉnh thức sẽ mang lại phần thưởng lớn lao và sự ngủ mê sẽ gây hậu quả tai hại.
* * *
Mỗi người chúng ta là những người tài xế điều khiển chiếc xe cuộc đời của mình, có trách nhiệm với vận mệnh đời đời của mình cũng như những người liên hệ.
Những nhà lãnh đạo cao cấp của đất nước là những người lèo lái chiếc tàu quốc gia. Nếu những vị nầy "mê ngủ", chắc chắn sẽ gây ra hậu quả đau thương cho đất nước, cho dân tộc và cho thế giới. Đại biểu cho những "tài xế" kiểu nầy gồm những nhân vật như Hitler, Stalin, Sadam Hussein và rất nhiều tên tuổi khét tiếng khác.
Những nhà lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo là những người cầm lái cỗ xe tôn giáo, có trách nhiệm uốn nắn lương tâm của số đông tín đồ, nếu không tỉnh táo thì cũng sẽ dẫn đưa hàng vạn tín đồ của mình lao xuống vực thẳm bạo lực, chiến tranh tôn giáo hoặc những hình thức khủng bố dã man như đã xảy ra lâu nay.
Những Thầy Cô giáo nắm tay lái cỗ xe học đường, có sứ mạng đào tạo những mầm non hôm nay thành những rường cột cho nước nhà mai sau, nếu không tỉnh táo thì sẽ đưa bao thế hệ học sinh xuống vực.
Vị chủ chăn trong giáo xứ hay bậc phụ huynh trong các gia đình cũng đều là những "tài xế" điều khiển những chiếc xe Chúa trao cho mình quản lý, nếu không tỉnh táo, không sáng suốt thì gây phương hại cho mình cũng như cho vô vàn người khác.
Người lái xe đường dài ban đêm không bao giờ dùng bia, rượu, những chất gây ngủ hoặc bất kỳ loại thức ăn nước uống nào làm cho đầu óc mất tỉnh táo.
Là tài xế cầm lái chiếc xe đời mình, chúng ta quyết không để cho men say của lạc thú, bóng tối của dục vọng, những cơn lốc của đam mê... làm mờ tối lương tri, làm thui chột con mắt linh hồn, làm mê muội tâm trí, khiến chúng ta không còn tỉnh táo để lèo lái đời mình theo đường lối Chúa Giêsu.
Người chạy xe đêm đường dài cần đến cà phê, thuốc lá, nước tăng lực, khăn lạnh... để làm cho đầu óc luôn tỉnh táo hầu tránh được tai nạn giao thông, khỏi làm thiệt hại mạng sống mình cũng như những người liên hệ; thì chúng ta, những người đang lèo lái đời mình qua nhiều khúc quanh của cuộc sống, xuyên qua bóng đêm cuộc đời, cũng luôn cần Lời Chúa lay tỉnh, để khỏi gây gương mù làm hại linh hồn người khác và có thể tỉnh táo, sáng suốt đưa đời mình, linh hồn mình về đến bờ bến bình an.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Dụ ngôn nhỏ này khuyên nhủ cảnh giác tâm hồn, chủ yếu nói về sự trở lại của Đức Giêsu: MV 1-B54
Dụ ngôn nhỏ này khuyên nhủ cảnh giác tâm hồn, chủ yếu nói về sự trở lại của Đức Giêsu ngày tận thế. Ông chủ vắng nhà là Đức Kitô sau khi Người lên trời. Người đã thiết lập Giáo Hội và giao cho các môn đệ nhiệm vụ hoạt động cho việc cứu rỗi thế gian. Là thành phần Giáo Hội, chúng ta phải canh thức tích cực để chuẩn bị ngày Chúa trở lại. Dụ ngôn cũng áp dụng cho mỗi chúng ta. Chúng ta phải được báo trước phải tỉnh thức để nghênh tiếp những chuyến thăm viếng bất chợt của Chúa. Người đến trong ân sủng ban phát hàng ngày, hoặc bằng những lời mời gọi chúng ta nhận lấy công việc Người định giao, hoặc ở giây phút cuối cùng đời chúng ta.
Chung cục, điều quan trọng là chúng ta phải lưu ý đến nhiều cách Chúa Giêsu hiện diện trong con người và trong cuộc đời chúng ta. Liệu chúng ta có nhận ra Đức Kitô trong những cuộc vi hành của Người? Chúa đến với chúng ta hằng ngày. Chính vì sự kiện đó, để chuẩn bị Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội dạy đọc đoạn Phúc Âm này nói về ngày Chúa trở lại. Nếu chúng ta mong ước, chúng ta sẽ nhận được ân sủng Chúa Giêsu mỗi ngày. Chỉ cần làm thế nào để ơn Chúa gặp chúng ta sẵn sàng đón tiếp. Làm thế nào để cảnh giác, để biết nhận ra Chúa những lúc Ngài đến bất ngờ?
1.- Khởi điểm là một niềm ước nguyện nào đó, ao ước Chúa đến với ta. Ta có thể hình dung khi đọc dụ ngôn, cảnh những đầy tớ bất lương đang khoái trá vì chủ đi vắng, chúng không mong ông về – trong khi đó nhóm đầy tớ tốt thì nóng nảy ước mong chủ chóng về. Ông chủ là Đức Kitô, chúng ta là đầy tớ và cũng là bạn hữu Người. Tất nhiên chúng ta mong ước Người đến, hiện diện và can thiệp vào cuộc đời chúng ta. Tình bạn thiết với Đức Giêsu giữ cho tâm hồn tỉnh thức để đón nhận sự hiện diện tác động của Chúa. Tách rời một điều khỏi bối cảnh đức tin, điều đó có vẻ không quan trọng, nhưng môn đệ Chúa có thể xem đó như là một lời phán của Đức Kitô, một sứ điệp, một lời mời, một phương thế để gặp gỡ và hiệp thông. Vui buồn, thành tựu, đau khổ, lo nghĩ, biến sự cá thể hoặc tập thể, điều gian ác ta phải chịu hoặc cư xử, nhã ý ta nhận được, thành công hoặc thất bại trong hoạt động tông đồ, v.v… - bất kỳ biến sự nào trong cuộc đời cũng có thể, trong môi trường đức tin, trở nên phương thế nghênh đón Đức Giêsu Kitô – nhưng muốn được thế, chúng ta phải mong ước.
2.- Người có tâm hồn cảnh giác thì cũng muốn làm sáng tỏ việc Chúa thăm viếng kẻ khác. Một trong những công việc hòa hợp nhất với sự tôn trọng kẻ khác là giúp đỡ tha nhân nhận biết Chúa khi Người đến trong cuộc đời họ. Chúng ta có thể tự đặt những câu hỏi về ảnh hưởng chúng ta muốn có đối với tha nhân, một ảnh hưởng ít nhiều chính đáng, trong sạch, khéo léo. Nếu ước nguyện sâu rộng của chúng ta là hướng tha nhân chú ý đến Thiên Chúa ngự trong họ, chúng ta sẽ xử sự giống như thánh Gioan Tẩy giả từng chuẩn bị các tâm hồn cho cuộc gặp gỡ Đức Kitô, và trong khi làm công việc đó, ông cố ý khiêm hạ khuất mình đi.
(Trích trong ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’ của Yvane Fournier-Guérard)
Dù chúng ta đã nhận được mọi sự từ Chúa Cha nơi Con Một Ngài, chúng ta cũng phải chu toàn: MV 1-B55
Dù chúng ta đã nhận được mọi sự từ Chúa Cha nơi Con Một Ngài, chúng ta cũng phải chu toàn sứ vụ, tỉnh thức và thiết tha ước muốn ơn cứu độ nhờ việc Chúa Kitô đến.
Chẳng bao lâu nữa … có quà.
Mọi sự đều sẵn sàng khi chúng ta mở những gói quà tượng trưng cho Tình yêu mà Chúa Kitô đến đổ tràn trên trần thế.
Hàng nghìn trẻ con sẽ nhận được quà đến nỗi sau khi được đầy dẫy như vậy tâm tình duy nhất còn lại sẽ đôi khi là tâm tình thiếu vắng vô cùng. Vì nhận được quá nhiều nên thường ta có cảm tưởng đã không nhận được gì cả, vậy nên thất vọng chua xót và chờ đợi.
Trái lại, đứa trẻ chỉ mong muốn và xin một điều thôi và được điều này thì sẽ mãn nguyện. Tất cả thời gian chờ đợi, hy vọng có được điều mình ham muốn, mang đến cho điều này một giá trị hầu như vô song.
Bà nội, bà ngoại chúng ta còn nhắc chúng ta nhớ một cách cảm động quả cam và vài cục kẹo đặt trong vớ của họ treo lên trước ngày đầu năm. Quả thật, tầm quan trọng của việc chuẩn bị đón nhận làm cho niềm vui (hoặc nỗi thất vọng) tăng lên khi biến cố xẩy đến. Người ta sẽ nói về đứa trẻ không hài lòng với những món quà của mình rằng nó khổ sở nếu cha mẹ không cho nó những gì nó xin; hoặc nó là con cưng nếu nó nhận được mọi sự mà không gì làm nó hài lòng cả.
Chúng ta có phải là những đứa con hư không?
Chúng ta bắt đầu vào mùa Vọng. Chúng ta chờ đợi gì nơi việc Chúa Kitô đến? Có thể là những đòi hỏi của chúng ta nhiều đến nỗi lời đáp của Chúa có vẻ không làm chúng ta hài lòng? Hoặc hơn nữa chúng ta đã ngưng cầu xin, vì tưởng rằng mọi sự sẽ được ban dư dật không cần cố gắng nào cả?
Tốt nhất là chỉ chờ một điều thôi, điều quan trọng nhất, chờ đợi Chúa Kitô đến trong cuộc đời chúng ta. Ta hãy xem có cách nào để cải tiến cuộc đời mình không.
Một thái độ tỉnh thức.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về việc Ngài đến. Ngài nhắc cho họ nhớ rằng thế giới cần ơn cứu độ hơn mọi sự khác. Ngài cố gắng làm cho họ hiểu rằng điều chính yếu là Ngài, nhưng phải khát khao, chuẩn vị đón tiếp Ngài.
Như người đầy tớ được chủ giao nhà cho, phải chờ đợi chủ về bất cứ giờ nào, ban ngày và ban đêm, cũng vậy chúng ta phải tỉnh thức, hy vọng, ước mong Chúa đến trong cuộc đời chúng ta.
Ngôi nhà được cho chúng ta mượn chứ không phải cho đứt đâu. Lời Chúa được giao cho chúng ta, nhưng để làm cho chúng ta sống. Lẽ ra việc hiểu biết Chúa phải soi sáng những lựa chọn của chúng ta về cuộc sống. Những ơn thiêng liêng dùng để tôn vinh Ngài và sự kết hợp với Chúa Con giúp chúng ta đứng vững cho đến cùng.
Hiện diện và vắng mặt.
Cuộc nhập thể đã xảy ra. Ngài đã đến trong thế giới chúng ta. Ngài đã bước đi trên những nẻo đường của chúng ta, đã sống cuộc đời làm người hằng ngày của Ngài, đã yêu thương và cầu nguyện. Khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ về niềm mong đợi Ngài đến, thì hôm nay chúng ta đã hiểu Ngài muốn nói gì vì chúng ta đang sống vào thời cuối của lịch sử. Ngài sẽ chết, sẽ sống lại, sẽ sai Chúa Thánh Thần đến và sẽ hứa rằng một ngày kia mọi sự sẽ được qui tụ lại trong một Trời mới Đất mới. Đây là cái nhìn về ơn cứu độ theo đường thẳng.
Có một cái nhìn khác, có lẽ đúng theo hình ảnh Thiên Chúa hơn, một cái nhìn của chốn vĩnh hằng nơi mà mọi sự đã có rồi và mọi sự luôn luôn đang thể hiện. Theo cái nhìn này ta có thể chờ mong Ngài đến mọi ngày trong lúc vẫn cám ơn Ngài đang có mặt và đã có mặt ở giữa chúng ta. Món quà của Ngài, ta phải chờ mong, nhưng đồng thời đã được nhìn thấy tất cả những món quà được ban cho ta hằng ngày, biểu lộ tình âu yếm và lòng tốt của Thiên Chúa qua những người xung quanh chúng ta.
Vấn đề của con tim.
Nơi Con Một Ngài. Thiên Chúa trao hiến chính mình để cứu độ nhân loại. Nơi chúng ta, Ngài đã đặt Thần Khí của Ngài và những ân huệ thiêng liêng mà chúng ta phải khám phá ra mỗi ngày để đi vào sự hiệp thông với Ngài. Cuối cùng, việc Con Chúa đến trong lòng chúng ta chỉ được thể hiện tốt đẹp khi chúng ta biết nhận ra Ngài và đồng thời khát khao Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin “Ngài đến và tỏ Thánh Nhan Ngài cho chúng ta”, để phép lạ của Tình yêu muôn thuở của Ngài được thể hiện, hôm qua, hôm nay và ngày mai.
"Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Điều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!"
Đi Vào Niên Lịch Phụng Vụ:
Với Chúa nhật I Mùa Vọng, một năm Phụng vụ mới sẽ đến với chúng ta, mới không phải chỉ vì: MV 1-B56
Với Chúa nhật I Mùa Vọng, một năm Phụng vụ mới sẽ đến với chúng ta, mới không phải chỉ vì chúng ta lại sắp bắt đầu lại chu kỳ một năm những ngày lễ tái hiện lịch sử ơn cứu chuộc, mà còn mới vì kể từ năm 1969, niên lịch Phụng vụ của Giáo Hội La Mã đã được tổ chức lại.
Không kể nhiều ngày lễ kính thánh nọ thánh kia đã bị bãi bỏ hoặc được xếp lại cho đúng với thời gian các ngài đã qua đời, ngay đến các ngày Chúa nhật kính nhớ mầu nhiệm cứu chuộc cũng được nghiên cứu lại để tất cả được đơn giản hóa hơn hầu giúp ta dễ nhận ra ý lực của Phụng vụ. Dĩ nhiên bộ luật mới này vẫn chưa được hoàn toàn đơn giản vì lễ Phục sinh vẫn chưa được ấn định vào một ngày nào nhất định cho mọi năm. Trong khi chờ đợi, Giáo Hội La Mã đã tạm đưa ra một cải tổ trong niên lịch Phụng vụ của mình.
Đặt các ngày lễ kính thánh ra một bên, lịch mới phân phối các ngày Chúa nhật xoay quanh hai ngày lễ lớn là lễ Giáng sinh và lễ Phục sinh. Trước lễ Giáng sinh có 4 Chúa nhật gọi là 4 Chúa nhật mùa Vọng; rồi đến lễ Giáng sinh 25 tháng Chạp và các lễ phụ đới kéo dài cho tới lễ Hiển linh sẽ có một số chừng 5-9 Chúa nhật gọi là các Chúa nhật thường niên, kéo dài cho tới thứ Tư lễ Tro (như vậy không còn các Chúa nhật gọi là Chúa nhật sau lễ Hiển linh và các Chúa nhật 70, 60, 50 như trước nữa). Từ thứ Tư lễ Tro trở đi cho tới Chúa nhật lễ Lá là mùa Chay gồm 5 Chúa nhật. Danh từ mùa Thương khó cũng đã bị bôi trong lịch mới. Chúa nhật lễ Lá khai mạc Tuần Thánh mà 3 ngày cuối cùng, vì tính cách long trọng đặc biệt, đã được gọi là Tam nhật Phục sinh. Từ Chúa nhật Phục sinh tới Chúa nhật Hiện xuống gồm 8 Chúa nhật là mùa Phục sinh. Rồi sau đó lại là các Chúa nhật Thường niên cho tới mùa Vọng năm sau; khiến danh từ mùa Hiện xuống từ nay cũng không còn được dùng nữa.
Nhìn qua một lần như thế, ta thấy niên lịch Phụng vụ mới dường như chỉ còn muốn quy tụ mọi cái nhìn của ta vào hai mầu nhiệm lớn là Nhập thể và Cứu chuộc. Những mầu nhiệm khác đã bị bỏ ư? Không phải, vì người ta dễ nhận ra mọi mầu nhiệm khác đã được bao trùm đầy đủ trong hai mầu nhiệm lớn này. Hơn nữa, đây thật là dịp họa hiếm để chúng ta ý thức về tính cách duy nhất của các mầu nhiệm trong đạo và do đó dể hiểu rõ ý nghĩa của niên lịch Phụng vụ hơn.
Chúng ta thường nói đến các mầu nhiệm nhưng thật sự chỉ có một mầu nhiệm, mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Không mầu nhiệm sao việc Chúa yêu thương loài người? Ngay đến mối tình giữa loài người với nhau đã là một mầu nhiệm rồi, huống nữa là tình yêu của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng ta! Ai có thể giải thích hết được tình mẹ thương con? Ai có thể nói hết được vì sao chàng thanh niên này bỗng điên đầu vì tà áo hồng và khuôn mặt nhỏ bé kia? Và giả như người ta có tìm được vài lý do tạm gọi là có thể giải thích tại sao hai người này lại thương nhau, các nhà tâm lý và phân tâm cũng phải đầu hàng khi phải trả lời về nhịp điệu, sáng kiến, hành vi, ngôn ngữ giữa hai người thương nhau. Chính bản thân hai người cũng chịu không thể hiểu được vì sao họ lại thương nhau mãnh liệt như vậy và vì sao đang khi thương nhau mãnh liệt họ lại có thể làm cho nhau đau khổ hao mòn, mất ăn, mất ngủ v.v... Những cử chỉ nồng nàn, cũng như hành vi hờn dỗi trong lúc yêu đương thật bất ngờ, thật bộc phát, thật mầu nhiệm...
Chữ mầu nhiệm này đem áp dụng vào tình yêu của Thiên Chúa muốn dành cho ta lại phải thêm nhiều hệ số nữa, nghĩa là còn phải hiểu theo một ý nghĩa tuyệt đối mới được. Thiên Chúa yêu ta không những thật là khó hiểu và nhất là thật là vô cùng lạ lùng. Tình yêu của loài người đã không bao giờ nghỉ yên một luôn luôn sống động và sáng kiến, huống nữa là tình yêu của Thiên Chúa toàn năng toàn thiện.
Chính tình yêu đã biến Ngài nên một Thiên Chúa tạo hóa, làm ra không biết bao nhiêu là kỳ công cho người yêu của mình, đến nỗi bằng lòng thí mạng vì người mình yêu.
Dịp đó đã đến cho Thiên Chúa khi hai ông bà nguyên tổ loài người phạm tội. Chúng ta cần phải đọc lại trang sách Thánh đó để xem tình yêu của Thiên Chúa thật là mầu nhiệm khác hẳn các mối tình của loài người. Loài người khi hơi bị xúc phạm đã làm ra bộ mặt lạnh lùng hờn dỗi, nếu không phải là nổi xung lên, nguyền rủa. Còn Thiên Chúa thấy loài người sa ngã vẫn tìm đến, vẫn gọi tên, vẫn âu yếm như không biết có gì đã xảy ra. Và khi thấy không thể làm ngơ bỏ quên được nữa, Thiên Chúa đã sáng kiến một kế hoạch mầu nhiệm, phong phú khôn lường trong câu nói bất hủ: Ta sẽ đặt hiềm thù giữa mày và tông giống người đàn bà, và người ấy sẽ đạp đầu mày. Chưa nói gì đến tội của nguyên tổ, Ngài đã quyết tâm tiêu diệt mầm mống gây chia rẽ và đổ vỡ giữa tình yêu của Ngài và loài người chúng ta. Ngài đã mạc khải một chương trình nhập thể cứu chuộc trong câu nói mầu nhiệm mà chúng ta vừa đọc lại ở trên... Ngài cho chúng ta thấy cũng một mầu nhiệm đã sáng tạo nay lại cứu chuộc chúng ta và mầu nhiệm ấy vẫn là mầu nhiệm tình yêu.
Thế thì khi thấy Phụng vụ sẽ lần lượt trải ra trước mắt ta hết biến cố này đến biến cố khác trong lịch sử ơn cứu độ, chúng ta đừng bao giờ quên mất cái nhìn duy nhất ấy: đừng tưởng mình đang kỷ niệm một biến cố dĩ vãng nhưng thực sự đang được đứng trước một biểu lộ của tình yêu sâu đậm của Thiên Chúa. Những Chúa nhật mùa Vọng chẳng hạn, bề ngoài có vẻ như nhắc lại những thời buổi xa xưa trước khi có việc Ngôi Hai nhập thể, nhưng kỳ thực bên trong chính là tình yêu thâm sâu của Thiên Chúa muốn gợi lại thời gian chờ đợi Đấng Cứu chuộc ngày trước, để thúc giục hướng dẫn tâm hồn chúng ta hướng về ngày Thiên Chúa lại đến để kết hợp với loài người trong vinh quang Nước Trời và gần hơn trong thánh lễ như là bảo chứng về tương lai rực rỡ. Rồi 40 ngày mùa Chay cũng thế: bề ngoài có vẻ như diễn lại con đường đau thương mà Chúa Cứu thế đã đi qua trước khi Ngài được vinh hiển trong Phục sinh - lễ Lên Trời và Hiện Xuống..., nhưng bên trong thật sự muốn đặt chúng ta đứng trước tình yêu của Đấng đã yêu ta đến nỗi hiến mạng mình vì ta hầu ta mềm lòng ra cho ơn Chúa Thánh Thần đổ tràn lòng nghĩa tử xuống, biến nhân loại nên một cộng đồng chuẩn bị cho cộng đồng gia đình thiên quốc mai sau. Và mục tiêu đó cũng đã được thể hiện một cách thật sự có giá trị bảo chứng trong mầu nhiệm Thánh lễ.
Như vậy, bất cứ thánh lễ nào cũng thể hiện mầu nhiệm tình yêu, không phải dưới khía cạnh này hay khía cạnh khác như ta có khuynh hướng nói lên như vậy, vì tình yêu chỉ là một khối bất khả phân ly. Thánh lễ diễn tả tất cả mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta... Ở trong thánh lễ nào Thiên Chúa cũng hiện diện đầy đủ; và đầy đủ tình yêu của Ngài cũng ở đó khiến ở đời này ta không có cách nào đáp lại tình yêu của Thiên Chúa đầy đủ như trong thánh lễ, nhờ việc hiệp lễ.
Chính vì vậy mà ta thấy trong suốt năm, mặc dù phụng vụ chia thành mùa nọ mùa kia, đọc ca nhập lễ này, đọc kinh tiền tụng khác, phụng vụ cốt yếu của Giáo Hội vẫn là thánh lễ và thánh lễ vẫn không thay đổi trong các nghi thức quan trọng. Chính sự kiện này nhắc nhở cho ta ý thức hơn về tính cách duy nhất của mầu nhiệm phụng vụ; Thiên Chúa yêu ta hằng ngày, hằng ngày Người muốn đặt ta trước mầu nhiệm tình yêu của Ngài, Ngài không muốn cho một ngày nào qua đi mà không muốn bộc lộ tất cả tình Ngài yêu ta để hỏi ta có muốn đáp lại hay không. Về phía Ngài bao giờ cũng duy nhất như thế; nhưng để nói với ta là người ở trong thời gian và không gian, không có khả năng nhìn thấy và lãnh hội tất cả trong một cái nhìn duy nhất. Ngài đã phải trải tình yêu duy nhất của Ngài ra trong một lịch sử dài, khởi đầu từ khi sáng tạo cho tới ngày vinh quang Nước Trời. Chính cái lịch sử đó, Phụng vụ mỗi ngày trong năm lần lượt tái hiện lại trong thánh lễ để giúp chúng ta tựa vào một hành vi lịch sử làm khởi điểm và bảo chứng để đi vào mầu nhiệm tình yêu thâm sâu của Thiên Chúa đã sáng kiến ra lịch sử cứu độ kia để chứng tỏ tình yêu của Ngài.
Mùa Vọng:
Tất cả lý do tổ chức năm phụng vụ nằm ở chỗ đó. Mặc dầu mầu nhiệm cử hành là mầu nhiệm tình yêu duy nhất, nhưng để những con người sống ở thời gian và không gian hiểu được mầu nhiệm duy nhất ấy, phụng vụ phải nại đến lịch sử mà Thiên Chúa đã dùng, để khai triển trước mắt ta tình yêu bao la của Thiên Chúa đã được mạc khải dần dần ra cho ta. Mạc khải do đó chỉ mạc khải có một mầu nhiệm duy nhất là tình yêu bao la của Thiên Chúa thể hiện trong lịch sử ơn cứu chuộc. Mùa Vọng, mùa Giáng sinh, mùa Chay, mùa Phục sinh sẽ lần lượt đến với chúng ta khác nào như khí trời của bốn mùa thiên nhiên. Cảnh sắc bên ngoài có thay đổi, lễ phục, giọng ca có khác đi, thì cũng chỉ thay, chỉ khác để giúp khí thiêng duy dưỡng sức sống ở trong ta. Ta đừng câu nệ tách biệt các mùa phụng vụ; hãy để cho mầu nhiệm tình yêu duy nhất của Thiên Chúa thể hiện toàn khối trong mọi thánh lễ, trong mọi ngày của năm Phụng vụ.
Trời đã đổi mùa. Phụng vụ của Giáo hội cũng đổi sang mùa Vọng. Chúng ta cần canh tân tâm hồn và đời sống cho hợp với nhịp tiến của lịch sử Giáo hội và dân tộc.
Là vì mỗi lần mùa Vọng tới, lịch sử Dân Chúa nói riêng và lịch sử các dân tộc nói chung lại tiến thêm một bước nữa, đi về ngày Chúa quang lâm, ban cho tất cả con cái Người một trời mới và đất mới. Mùa Vọng vì thế hướng dẫn chúng ta nhìn về tương lai, chớ không trở lui nuối tiếc dĩ vãng. Mùa Vọng chuẩn bị đại lễ Giáng sinh sắp tới, nhưng chỉ coi lễ này như động lực dẫn tới ngày Đức Kitô trở lại để tất cả trời đất rực lên trong ánh vinh quang của Người. Những nhắc nhở lịch sử thời gian trước ngày Đức Kitô đản sinh, không được khiến chúng ta nhìn về quá khứ như thời đại vàng son, nhưng chỉ cống hiến cho ta một kinh nghiệm và một hướng đi để chuẩn bị ngày Đức Kitô lại đến, ngày mà Thiên Chúa sẽ ở trong tất cả, khiến mầu nhiệm nhập thể khi ấy mới hoàn tất.
Chúng ta hãy đặt mình vào thân phận của Dân Chúa thời Cựu Ước. Đó là một dân nhỏ bé, kém mở mang, bị coi khinh và mất chủ quyền. Nhưng lòng Dân ấy ôm ấp một niềm tin vĩ đại.
Bêlem, ngươi sẽ không còn mà một thị trấn bé nhỏ, vì Vua Hòa Bình sẽ xuất hiện từ lòng ngươi. Ngươi sẽ trải công bình chính trực trên khắp mặt địa cầu khiến muôn nước nhờ ngươi mà được phúc...
Đó cũng là hình ảnh Dân Chúa ở mọi thời. Nhìn vào giáo đoàn Người đã thiết lập, chính thánh Phaolô đã có lần tuyên bố: xét về mặt thế gian anh em chẳng có gì đáng kể; người ta còn dể khinh anh em là khác... nhưng chúng ta vẫn là dân được Chúa chọn để mang ơn cứu độ đến khắp cùng địa giới. Và chính Chúa Yêsu đã nói trước với Giáo Hội: này hỡi đoàn chiên nhỏ, chúng con đừng sợ, vì Chúa Cha đã ban Nước Trời cho chúng con.
Trong mùa Vọng này, chúng ta phải suy niệm mầu nhiệm trên, mầu nhiệm Giáo hội là một hạt cải nhỏ, sẽ trở thành cây cho chim trời khắp nơi tìm được chỗ đậu. Và như vậy, ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn ôm ấp một niềm tin lớn lao, khác nào như Đức Maria mùa Vọng đang cứu mang Quả có phúc cho mọi dân tộc.
Maria là mẫu người đã hiểu lời tiên tri. Người ôm ấp một niềm tin thật vĩ đại về tương lai của dân tộc. Người sống hiền lành và đạo đức tin rằng Thiên Chúa mới chính là Đức Khôn Ngoan đang hướng dẫn lịch sử khi cương khi nhu... Người tin chắc, để cộng tác vào việc xây dựng tương lai tốt đẹp, mỗi người hãy đạo đức chu toàn mọi phận sự của một phần tử tốt ở trong xã hội.
Thế nên, mùa Vọng còn đề cao vai trò của Yoan Tẩy Giả, và bảo ta chú ý đến sứ điệp của ông. Để chuẩn bị cho ngày Chúa đến, để có được một triều đại thiên sai, mọi người phải hoán cải tâm hồn và đời sống. Chỗ gồ ghề phải san cho phẳng, các hố sâu phải lấp cho đầy, làm sao để các quan hệ giữa người với người không còn là những chênh lệch bất công, nhưng phải bình đẳng giao hòa tốt đẹp. Yoan đã có những lời lẽ nghiêm thẳng với cả những người "tự tin là công chính" thời xưa, để tất cả chúng ta ngày nay ai nấy cũng cố gắng cải tạo và đổi đời. Không phải những oán than, hay ước vọng hão huyền đem lại được đời sống an vui và tiến bộ nhưng chỉ những cố gắng cải thiện, làm trong tinh thần cầu nguyện và đạo đức, sửa soạn được ngày Quang Lâm của Đấng Cứu Thế của chúng ta.
Do đó, công tác trước mắt của chúng ta trong mùa Vọng là:
- Khơi lại niềm vui vào tương lai rực rỡ mà Chúa chúng ta hằng hứa ban cho các dân tộc. Đó là đối tượng mùa Vọng của mọi thời.
- Tích cực góp phần xây dựng tương lai tốt đẹp ấy theo tinh thần canh tân và hòa giải.
- Cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa theo gương Đức Maria mùa Vọng: Người đã ôm ấp Lời Chúa trong lòng trước khi được phúc cưu mang và sinh ra Ngôi Lời Nhập Thể.
Những công tác ấy đem đến cho chúng ta một mùa Giáng Sinh tươi đẹp và một cuộc sống sáng trong.
Bài này rút từ Diễn từ cánh chung (ch. 13) của Tin Mừng Mccơ là chương nói về những vấn: MV 1-B57
Bài này rút từ Diễn từ cánh chung (ch. 13) của Tin Mừng Mccơ là chương nói về những vấn đề của thời buổi cuối cùng. Diễn từ này kết thúc bằng một lời kêu gọi khẩn thiết hãy tỉnh thức. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những người đang được Đức Giêsu ngỏ lời với (13,3), nhưng nhắm đến tất cả mọi người (13,37). Lời kêu gọi này được tác giả Mc nêu bật bằng hình ảnh người giữ cửa.
Vậy “tỉnh thức” trong Mc 13 có nghĩa là gì? Là không “ngủ” (c. 36). Nhưng hẳn không phải chỉ có nghĩa đen ấy.
2.- Bố cục
Đoạn văn này được bố cục theo kiểu cấu trúc đồng tâm (chuyển hoán), với đỉnh cao là c. 35:
a: Lời kêu gọi “tỉnh thức” gửi đến các môn đệ (c. 33); b: Dụ ngôn người chủ đi xa (c. 34); c: Lặp lại lời kêu gọi mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (c. 35); b’: Tiếp nối dụ ngôn người chủ đi xa trở về (c. 36); a’: Lặp lại lời kêu gọi “tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (c. 37).
Chúng ta cũng có thể thấy đây là một kết cấu song song, nhằm làm nổi bật ý tưởng ta không biết thời gian quang lâm; do đó, có hệ luận: phải tỉnh thức.
Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức (33a) Vậy anh em phải canh thức (35a) vì anh em không biết khi nào thời ấy đến (34c) vì anh em không biết khi nào (35b) phải canh thức (34c) không được ngủ (36b) 3.- Vài điểm chú giải
- hãy tỉnh thức (33): Tác giả dùng động từ lạ agrypnete, đồng nghĩa với động từ quen thuộc grçgoreite; đây là một từ của nền văn chương khôn ngoan (G 21,32 LXX; Cn 8,34; Dc 5,2; Kn 6,15; Hc 36,16. Các bản Tân Ước khác cũng có dùng: Lc 21,36; Ep 6,18; Dt 13,17).
- cũng như người kia trẩy phương xa..., và ra lệnh cho người giữ cửa (34): Có một điểm gây thắc mắc: Nếu ông chủ đi phương xa, thì “để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ” là hợp lý rồi. Còn “chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” là cách bố trí của người đi vắng trong một thời gian ngắn. Tại sao lại chỉ lưu ý đến việc “canh thức” ban đêm? Ở đây tác giả Mc nối kết nhiều truyền thống: những lời Đức Giêsu kêu gọi tỉnh thức, dụ ngôn những nén bạc (Mt 24,42; 25,13-15; Lc 12,36-38; 19,12-13), với dụ ngôn người giữ cửa của riêng ông cộng với truyền thống kinh sư về ý nghĩa của “đêm”. Trong TM Mc, không có dụ ngôn “những nén bạc” như trong Mt và Lc.
- lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng (35): Người Rôma chia một đêm thành 4 canh, mỗi canh kéo dài 3 giờ. Còn người Do Thái quen chia đêm thành 3 canh (x. Tl 7,19; Lc 12,38). Nhưng tại sao bài Tin Mừng lại chỉ chú trọng đến “đêm”?
Trong nền văn chương Do Thái giáo, thời gian hiện tại thường được coi như một “đêm”, còn tương lai được ví với một “ngày” hoặc một “buổi sáng”. Những câu Cựu Ước nói về “đêm” theo nghĩa đen thường được áp dụng cho “đêm” của thế gian này. Chẳng hạn lời ông Bôa nói với bà Rút: “Hãy qua đêm ở đây” (R 3,13) được Rabbi Meir (150 sau CN) trích quy chiếu về “thế gian hoàn toàn là đêm tối ấy” (Rút R. 6,4). Các kinh sư thường áp dụng từ ngữ “canh khuya” trong Tv 92 (“Thú vị thay... được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya”) cho thời gian hiện tại (Midr. Tv 92,7). Sách Talmud chú giải câu Tv 104, 20a như sau: “Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối” là câu nhắm đến thế giới hiện nay, được so sánh với đêm tối.
Giống như các kinh sư, thánh Phaolô đã dùng những ý tưởng về “đêm” để mô tả thời kỳ hiện tại cho đến ngày Quang Lâm (Rm 13,12). Vì thế, ông đã kêu gọi người Rôma: “Đã đến lúc anh em phải thức dậy” (13,11), vì ơn cứu độ đã gần họ hơn khi họ mới tin, vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12; x. 1 Tx 5,5tt). Ông còn nói: “Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). Hình ảnh “kẻ trộm đến ban đêm” không có trong nền văn chương Do Thái, mà chỉ có trong Tân Ước thôi (Mt 24,42-44; Lc 12,39t; 2 Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15). Đây là một yếu tố thuộc truyền thống Ki-tô giáo bắt nguồn từ Đức Giêsu. Từ đó ông khuyên người Thêxalônica hãy tỉnh thức (1 Tx 5,6).
Vậy lời kêu gọi hãy tỉnh thức chờ đợi ông chủ trở về vào một lúc nào đó trong đêm khuya phải được hiểu theo chiều hướng này.
Nhưng làm thế nào dung hòa được hai chi tiết “trẩy phương xa” (đi lâu) và “về lúc chập tối” (đi ngắn hạn)? Trong văn chương Do Thái giáo, có một dụ ngôn na ná với dụ ngôn Mc 13,34tt: Một bà chủ nhà có một nữ tỳ Êtióp. Chồng bà vượt biển đi xa. Suốt đêm, người nữ tỳ nói với bà: “Tôi đẹp hơn bà, đức vua yêu tôi hơn bà”. Bà chủ đáp: “Đến sáng rồi chúng ta sẽ biết ai là người đẹp hơn, ai là người được đức vua yêu thương”. Bài tường thuật tiếp: Các dân nước nói với Israel: “Các hành vi của chúng tôi thật đáng khen, và Đấng Thánh – xin chúc tụng Ngài – hài lòng về chúng tôi”. Rồi bài quy chiếu về Is 21,12 mà giải thích rằng “buổi sáng” đang đến là thời gian tương lai (Dân số R. 16,23 [70b]).
Bài dụ ngôn này cũng có những chỗ không ăn khớp với nhau, và có những chi tiết giúp hiểu bài Mc: đêm tối chính là thời gian hiện tại với những phiền muộn mà dân Chúa phải gánh chịu.
- phải canh thức (36): Trong nền văn chương Do Thái giáo, chủ đề “canh thức” được đề cập đến trong một viễn tượng quốc gia. Israel lúc đó đang bị các vương quốc của thế gian áp bức, chà đạp. Nhưng trong tương lai cánh chung, hoàn cảnh sẽ đảo ngược, Israel sẽ chiến thắng, sẽ nhận được danh dự và vinh quang. Đó là “ngày”.
Trong Tân Ước, giọng điệu ái quốc này không còn nữa. Nay người tín hữu phải chiến đấu “với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này” (Ep 6,12). Thế gian đang nằm dưới quyền của thần dữ (1 Ga 5,19). Thế gian đã quay lưng lại với Ngài, là nguồn ánh sáng. Vì thế, thời gian hiện tại chính là thời kỳ của bóng tối và đêm khuya.
Tuy nhiên, khi Đức Giêsu đến, sấm ngôn Is 9,1 nói về ánh sáng đã ứng nghiệm (x. Mt 4,16). Đức Giêsu là ánh sáng soi chiếu trần gian (x. Lc 2,32; Ga 1,5; 8,12; 12,46). Ai tin vào Đức Giêsu, Đấng Mêsia, thì không phải ở trong bóng tối (Ga 12,46; x. 3,19; Cv 26,18; Cl 1,13; 1 Pr 2,9; Ep 5,8). Nhưng dù đã được giựt ra khỏi vương quyền của bóng tối (Cl 1,13), dù đã trở thành con cái ánh sáng và ban ngày (1 Tx 5,5), người ấy vẫn còn sống trong thời gian của “đêm tối”, vẫn còn ở trong một hoàn cảnh có thể bị cám dỗ, có thể sa ngã, bị tà thần của thế gian hiện tại nắm bắt lại. Để mình bị những sức mạnh thế gian chiến thắng, buông mình theo những chuyện thế gian, đó chính là “mê ngủ”. Trong dụ ngôn, “giấc ngủ” tương ứng với “đêm”: “giấc ngủ” thuộc về “đêm”, bởi vì người ta ngủ ban đêm. 4.- Ý nghĩa của bản văn * Lời kêu gọi “tỉnh thức” gửi đến các môn đệ (33) Lời kêu gọi mở đầu này xác định chủ đề của đoạn văn: Phải tỉnh thức. Các môn đệ của Đức Kitô cần phải canh thức, bởi vì họ không biết ngày giờ (“thời ấy”) của cuộc Quang Lâm.
* Dụ ngôn người chủ đi xa (34)
Điểm chính của dụ ngôn là: ngày trở về của ông chủ là biến cố người ta không thể tiên liệu. Ông có thể về bất cứ lúc nào: chính khía cạnh này buộc người giữ cửa phải canh thức liên tục. Nhưng ông cũng có thể đi lâu: chính vì thế các gia nhân cứ phải sinh hoạt để điều hành các công việc của nhà và sinh lợi cho chủ. Các môn đệ của Đức Giêsu vừa là “các gia nhân” vừa là “người giữ cửa”; họ phải vừa làm việc vừa canh thức. Có thể hiểu đây là các vị lãnh đạo cộng đoàn Kitô hữu.
* Lặp lại lời kêu gọi mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (35)
Lời kêu gọi được lặp lại như một điệp khúc, nhưng ở đây, công thức “khi nào thời ấy đến” đã được giải thích bởi công thức song song “khi nào chủ nhà đến”. “Thời ấy” chính là lúc chủ nhà trở về, tức ngày Quang Lâm của Đức Giêsu. Tác giả diễn tả sự bấp bênh cách biểu tượng theo cái khung một ngày: “lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”.
* Tiếp nối dụ ngôn người chủ đi xa trở về (36)
Các môn đệ của Đức Giêsu đang ở trong “đêm”, nhưng họ không được “ngủ”; họ vẫn sinh hoạt bởi vì ông chủ có thể về ngay trong đêm nay. Họ phải canh thức. Bởi vì biến cố ông chủ trở về thay đổi mọi sự, ta hiểu “làm việc” là “cùng làm việc”. Đức Giêsu đang hành động trong thế giới để đưa đến một nhân loại mới. Người lôi kéo con người vào làm việc với Người, làm cho họ thành những đầy tớ phục vụ hoạt động của Người. Nhưng để có thể cộng tác với Đức Giêsu, họ phải tỉnh thức để nhận ra những gì Người đang làm.
* Lặp lại lời kêu gọi “tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (37)
Lời kêu gọi ở đây chính là lời kêu gọi ở c. 33 được lặp lại. Cùng với lời kêu gọi ở c. 33, lời kêu gọi ở c. 37 này “đóng khung” toàn bài, đã xác nhận toàn bản văn bên trong được triển khai theo chủ đề “Sự tỉnh thức”. Nhưng đến đây, lời kêu gọi được gửi rộng rãi đến tất cả mọi người, nghĩa là không chỉ dành cho các vị lãnh đạo cộng đoàn, nhưng cũng được gửi đến toàn thể cộng đoàn Kitô hữu.
+ Kết luận
Vậy, “phải canh thức”! Đang khi tiến đi trong thế giới của đêm đen, người tín hữu được mời gọi thực hiện ơn gọi của mình và ân huệ đã nhận, đó là được làm con cái ánh sáng, mắt đăm đăm hướng về ngày chủ trở lại và về “ngày” đang đến. Sự canh thức ở đây mang tính cánh chung: hoàn toàn quay hướng về phía trước, về biến cố Đức Kitô sắp ngự đến trong tương lai. Theo nghĩa này, người tín hữu không thể canh thức nếu không chấp nhận chiến đấu (Rm 13,11tt; các vũ khí: 1 Tx 5,6-8; 1 Cr 16,13; Ep 6,10-20; 1 Pr 5,8t). Canh thức như thế là ngay từ bây giờ, sống trước đời sống tương lai (x. Rm 13,13). Thái độ cánh chung không khiến người ta phủ nhận thế giới, nhưng giúp người ta có một thái độ tự do lành mạnh, thanh thoát đối với tất cả những gì thuộc về thế giới, không sợ hãi loài người, không tìm danh vọng, không khắc khoải trước gian khó, đau khổ và cái chết (x. 1 Cr 4,3t).
5.- Gợi ý suy niệm
1. “Canh thức” trong đêm tối của thời gian hiện tại trong khi chờ đợi Đức Giêsu trở lại, chính là đang sống trong tư cách những người đã được giải thoát, bởi vì bất cứ khi nào đến, Đức Giêsu sẽ bằng lòng nếu thấy các môn đệ của Người đang sẵn sàng với Người. “Canh thức” chính là một cách thức thường hằng người Kitô hữu theo mà sống trong thế giới.
2. Canh thức như thế cũng là sống trong niềm vui. Niềm vui này không hề lệ thuộc những chuyện thay đổi của thế gian, vì nó trào vọt ra từ một nguồn mạch vĩnh hằng là chính Đức Giêsu Phục Sinh. Canh thức như thế còn là sống trong bình an, cho dù có gặp phong ba bão táp, bởi vì chính Đấng Phục Sinh đã cam đoan: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27). Cuối cùng, canh thức như thế cũng là sống niềm hy vọng, bởi vì cái nhìn của chúng ta luôn nhắm về phía trước, về thế giới đang đến, về “ngày” đang lại gần.
3. Tác giả Lohmeyer mô tả canh thức bằng câu nói: “Đời sống của người đạo đức không diễn tiến trong những trạng thái thiu thiu ngủ, những giấc mơ và những đam mê, nhưng trong nỗ lực dấn thân luôn luôn chăm chú và điều độ của con tim nhân loại”. Còn Schweizer định nghĩa canh thức là như “thái độ trong đó con người luôn luôn chờ đợi với tinh thần trách nhiệm Đức Chúa đến và không để mình bị sao nhãng trong thái độ sẵn sàng thường hằng này đối với Ngài bởi bất cứ điều gì”. Đấy là cách tốt để sống giáo huấn của Đức Giêsu.
Cuộc đời của mỗi người đã có biết bao lần chờ đợi. Mong đợi nào cũng làm cho con người tiêu: MV 1-B58
Cuộc đời của mỗi người đã có biết bao lần chờ đợi. Mong đợi nào cũng làm cho con người tiêu hao, mòn mỏi. Tuy nhiên, càng mong mỏi, đợi chờ thì cuộc gặp gỡ lại càng trở nên thắm thiết và sâu xa hơn. Về phía tôn giáo, Chúa nhắc nhở con người luôn phải có thái độ:” Tỉnh thức và cầu nguyện “ để nhận biết thời gian Chúa đến viếng thăm.
Cái bất ngờ và kỳ diệu là con người không biết giờ nào, ngày nào Con Người sẽ đến. Do đó, Mùa vọng đưa chúng ta đi vào thái độ chờ đợi, trông mong. Chúng ta chờ đợi Chúa đến trong vinh quang. Chờ đợi Chúa đến như năm cô trinh nữ khôn ngoan vì không biết lúc nào tân lang sẽ đến. Chờ như người giữ cửa thức trắng đêm vì sơ kẻ trộm đào ngạch khoát vách. Chúng ta chờ đợi trong tư thế sẵn sàng: hoàn thành sứ mạng Ông Chủ trao phó là làm lợi ra mười nén hay năm nén bạc khác. Thái độ chờ đợi này là thái độ tỉnh thức, vuông tròn công việc Ông Chủ trao phó. Chúng ta không chịu thụ động để ngồi bó gối, khoanh tay, nhưng thái độ của người môn đệ Chúa là chóng vánh, mau mắn , nhanh nhẹn đón chờ Chúa đến.
Điều cốt yếu Bài Tin Mừng của Thánh Marcô 13, 33-37 nhắc nhở mọi người chúng ta dọn mình: đón nhận ơn Chúa trong mỗi khoảng khắc cuộc đời con người, chờ đón Chúa đến trong giờ chúng ta lìa khỏi cõi đời này, và trong ngày cùng tận của thế giới.
Vì thế, mỗi người Kitô đều hiểu rằng Chúa dựng nên chúng ta và ban cho chúng ta niềm tin, hạnh phúc được sống ở cõi thế này, đây là ơn cao cả, Chúa ban cho con người bởi vì ơn Chúa đến bất cứ lúc nào, bất cứ trạng huống nào của cuộc đời. Giờ chết không ai biết được vì nó đến cách bất ngờ, đến như kẻ trộm, con người luôn phải cầu nguyện, tin tưởng và tỉnh thức. Ngày Quang lâm còn ở tương lai, không ai biết được. Tuy nhiên, tất cả là hồng ân, tất cả là ơn huệ cao siêu của Chúa miễn là chúng ta nhận ra được giờ Chúa đến viếng thăm.
Chúng ta đang sống ở thế kỷ thứ 21 với sự vươn cao của khoa học kỹ thuật, với sự nổ bùng của phương tiện kỹ thuật điện tử, vi tính, internet…Những phương tiện kỹ thuật cao này dễ ru ngủ con người, làm cho con người mê mệt, ngủ say trong những khám phá mới lạ của khoa học. Con người rất dễ ngủ mê vì những ngày làm việc mệt nhọc. Nhưng cái ngủ nguy hiểm vẫn là những tiện nghi, những phương tiện vật chất dư đầy ru ngủ con người làm cho con người chìm sâu trong tối tăm u mê…
Sống ở gian trần có nhiều thứ mê hoặc, ru ngủ con người kinh khiếp như chất kích thích, ma túy, tiền tài, danh vọng, tính dục…
Cha Charles de Foucauld đã viêt1 một câu thật chí lý:” Bạn sẽ sống như bạn sẽ chết vào tối nay “.
Mùa vọng thúc giục chúng ta tỉnh thức, sẵn sàng đón chờ Chúa đến bất ngờ. Chúng ta đang làm gì, chúng ta đang sống thái độ cụ thể thế nào để đón chờ Chúa đến. Mỗi người chúng ta hãy thành thực trả lời trước Chúa và trước lương tâm:” Chúng ta đã tỉnh thức chưa hay chúng ta đang sống cuộc sống ơ hờ, bất chấp lời nhắc nhở của Chúa ? “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con và giúp chúng con luôn biết thức tỉnh, sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Mùa vọng là mùa gì ? 2.Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng có cần thiết không ? 3.Ước mơ của Ông, Bà, Anh chị em là ước mơ nào trong cuộc sống ? 4.Ngày Quang Lâm là ngày nào ?
Mc 13:33-37:“33Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.34Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức.35Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng.36 Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ.37 Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!”
Văn mạch của 13:33-37 là những loan báo ngày Thiên Chúa sẽ đến (13: 24-37). Ngày của Thiên: MV 1-B59
Văn mạch của 13:33-37 là những loan báo ngày Thiên Chúa sẽ đến (13: 24-37). Ngày của Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến, nhưng không ai biết ngày giờ nào. Chỉ một mình Chúa Cha biết (13:32). Bởi đó, Chúa Giêsu nhắc lại điều nầy (13:33) và kêu gọi các môn đệ cách trực tiếp là hãy tỉnh thức (13:34-37). Canh thức đối nghĩa với ngủ. Canh thức để canh giữ nhà cho Thiên Chúa. Và canh thức vì Chúa sẽ trở lại, nhưng không biết lúc nào.
Để nhấn mạnh điều nầy là không ai biết ngày giờ nào Thiên Chúa sẽ đến, Marcô dùng chữ “hãy tỉnh thức”, agrupneite, nghĩa là đặt trong tình trạng báo động trước một nguy hiểm có thể xảy ra. Việc Thiên Chúa đến, hiểu theo một cách nào đó, “rất nguy hiểm” cho số phận đời đời. Nếu không đặt trong tình trạng sẳn sàng, có thể chịu chung số phận với những người tôi tớ không trung tín.
Có bốn lần lời kêu gọi các đầy tớ hãy “canh thức”, grçgoreite, “thức ngủ và trong tình trạng sẳn sàng” (câu 34.35.36 và 37). Lệnh hãy canh thức đầu tiên đưa ra khi chủ vừa ra khỏi nhà (c.34), lần thứ hai giả thiết chủ đang đi xa và có thể về bất cứ giờ nào (c.35), lần thứ ba giả thiết chủ đã về tới nhà (c.36), và lần cuối cùng nói cho mọi người: tất cả hãy tỉnh thức (c.37). Vậy hãy canh thức luôn luôn, nhất là trong thời gian của bóng tối.
Điều tai hoạ nhất là khi chủ về mà “anh em đang ngủ” (c.36). Tại sao? Ngủ là ngược lại với canh thức. Trong vườn Cây Dầu, tìm thấy cả hai tình trạng nầy: Chúa Giêsu canh thức để cầu nguyện, ba môn đệ đang ngủ (14:37). Vì thế khi nguy hiểm đến, Chúa Giêsu đã sẳn sàng chịu nộp theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ thì trốn chạy (14:41.50). Ngủ là nằm trong tình trạng không tự vệ. Kẻ thù có thể gieo vào ruộng cỏ lùng (4:27) và bão tố có thể nổi lên khi để Chúa Giêsu ngủ trong thuyền đời mình (4:38).
Vậy phải canh thức luôn. Canh thức không phải là không đi ngủ. Các trinh nữ khôn ngoan vẫn đi ngủ trong khi chờ đợi chàng rể đến (Mt 25:5). Canh thức và cầu nguyện đi với nhau như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Chính Người cũng phải canh thức và cầu nguyện để khỏi rơi vào cám dỗ không làm theo ý Chúa Cha. Người đã thức và cầu nguyện cho đến lúc ý Chúa Cha được thực hiện là để mình bị bắt, khởi đầu hành trình khổ nạn và chấm dứt trên thánh giá. Thức để cầu nguyện và cầu nguyện để có thể thức mà làm tròn bổn phận Thiên Chúa giao phó, và để khỏi rơi vào cám dỗ nghĩ là chủ sẽ về muộn, nên sẽ ăn uống say sưa và không còn trung tín với chủ nữa (Mt 24:48-49).
Ngày của Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến. Sự vắng mặt của Người chỉ là tạm thời. Người đang đến, như người chủ ra đi và sẽ về, như mùa hạ đang đến khi cây vả đâm chồi non (13:28). Bởi đó hãy canh thức mà đón Người, không chỉ các môn đệ mà tất cả mọi người (13:37).
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 13:33-37)
Chắc chắn đề tài của bài Tin Mừng hôm nay là “phải coi chừng, phải tỉnh thức”, vì trong ví dụ: MV 1-B60
Chắc chắn đề tài của bài Tin Mừng hôm nay là “phải coi chừng, phải tỉnh thức”, vì trong ví dụ các đầy tớ đợi ông chủ trở về, sứ điệp “phải canh thức” được lập đi lập lại. Tuy nhiên chìa khóa để hiểu lý do và ý nghĩa của việc canh thức nằm ngay trong ví dụ Chúa Giê-su sử dụng. Người nói: “Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức”. Vì thế, muốn hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng, chúng ta không thể bỏ qua ý nghĩa của ví dụ.
Trong ví dụ, “người trẩy đi phương xa” là ông chủ. Chúng ta dễ dàng hiểu ông chính là hình ảnh Chúa Ki-tô. Thứ đến là “các đầy tớ” được ông chủ “chỉ định cho mỗi người một việc”, tức là tất cả chúng ta với chức phận và nhiệm vụ của mình. Sau khi sống lại, Chúa Giê-su đã trẩy đi phương xa, về ngự bên hữu Thiên Chúa Cha và sẽ trở lại trong ngày Quang lâm để xét xử muôn loài. Trong thời gian chờ đợi Chúa Giê-su trở lại, chúng ta mỗi người một việc, phải cố gắng chu toàn bổn phận của mình trong những ngày sống trên trần gian. Mục đích của việc phải canh thức là để chúng ta luôn sẵn sàng đón Chúa đến vào bất cứ lúc nào.
Chúng ta hãy suy nghĩ về việc làm của ông chủ trước khi đi xa, ông đã “trao quyền cho các đầy tớ” và “chỉ định cho mỗi người một việc”. Thực vậy, Chúa Giê-su đã “trao quyền” cho mỗi người chúng ta. Quyền ấy là chức phận của mỗi người, từ người giáo dân cho tới Giáo hoàng, từ một công dân tầm thường cho tới tổng thống, cha mẹ, con cái, học sinh, thầy cô…, tất cả đều có trách nhiệm, kèm theo trách nhiệm là những khả năng, ơn sủng, sự hướng dẫn của Thánh Thần để chúng ta có thể sống đúng chức phận của mình trong việc xây dựng gia đình, cộng đoàn, Giáo Hội và xã hội. Chúa không đòi chúng ta phải thực hiện những gì vượt quá chức phận của chúng ta.
Nhưng Chúa Giê-su lại nhấn mạnh đến một thái độ cần thiết khi chúng ta sống chức phận của mình, đó là phải canh thức. Chúa nêu lên hai lý do thực tế của việc canh thức. 1) Vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến. Nghĩa là chúng ta không biết ngày tận thế sẽ xảy ra khi nào. Hoặc áp dụng vào từng cá nhân, chúng ta không biết lúc nào Chúa đến xét xử chúng ta vào giờ chết của chúng ta. 2) Vì lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. Nghĩa là có thể xảy ra trường hợp đang khi chúng ta không chu toàn bổn phận thì giờ chết của chúng ta đã đến. Ngủ quên là khuynh hướng thường tình của con người. Có thể xảy ra là chúng ta “đang ngủ” trong thú vui, tham vọng, cuộc sống không đạo đức, thì phải có mặt trước tòa Chúa phán xét.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trước hết chúng ta lấy làm lạ và đặt câu hỏi: Tại sao chúng ta chuẩn bị tâm hồn mừng Giáng Sinh mà Phụng vụ Lời Chúa lại nhấn mạnh đến ngày tận thế, ngày Chúa Giê-su trở lại phán xét mọi người? Ý nghĩa của việc Chúa đến là để cứu độ chúng ta. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (Gio-an 3:16). Ý nghĩa của Giáng Sinh là ý nghĩa cứu độ, chứ không phải ý nghĩa đơn thuần lịch sử. Vì thế, để nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa này, qua Lời Chúa, Giáo Hội muốn chúng ta phải hướng về cuộc Quang lâm của Chúa trong ngày tận thế để chuẩn bị đón tiếp Người.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô dạy chúng ta cách để canh thức và sẵn sàng, đó là hãy làm cho mình được “phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người” (1:5). Lời Chúa làm cho chúng ta được “sống và sống dồi dào”. Hiểu biết mầu nhiệm của Người không chỉ là bằng trí óc, nhưng là sống bằng trái tim mối tương quan với Chúa, để mối tương quan ấy giúp chúng ta mỗi ngày một hoàn thiện hơn, “nhờ thế không ai có thể trách cứ được chúng ta trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô”. Vậy trong chức phận và hoàn cảnh sống của chúng ta, chúng ta có quyết định gì trong mùa Vọng này để được phong phú nhờ Lời Chúa và mầu nhiệm tình yêu của Người?
Cuộc đời con người là một sự đợi chờ liên lỉ. Ai mà chẳng đợi chờ. Có những việc đợi chờ làm: MV 1-B61
Cuộc đời con người là một sự đợi chờ liên lỉ. Ai mà chẳng đợi chờ. Có những việc đợi chờ làm con người sốt ruột, nôn nao, căng thẳng. Có những sự đợi chờ làm con người vui tươi, hạnh phúc như chờ đợi kết quả cuộc thi mà ta nắm chắc đậu một trăm phần trăm hay chờ đợi mẹ đi chợ về mua quà, mua đồ chơi cho ta. Tất cả đời người đều là một cuộc đợi chờ: đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong niềm tin và đợi chờ trong thất vọng ê chề. Mùa vọng là mùa đợi chờ. Các Kitô hữu hướng về niềm vui gần mong đợi ngày giáng sinh, ngày Chúa đã đến để khai mở Nước Thiên Chúa và hướng về ngày cùng tận, ngày cánh chung, Chúa sẽ đến để phán xét kẻ lành kẻ dữ.
HÃY TỈNH THỨC VÌ KHÔNG BIẾT GIỜ NÀO, KHI NÀO CHỦ NHÀ ĐẾN:
Tin Mừng thánh Marcô căn dặn:” Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến “. Chúa lay tỉnh con người, Chúa nói với con người phải tỉnh thức. Ở đây, tỉnh thức có nghĩa là mau mắn, sẵn sàng, không được thụ động ngủ vùi. Thái độ tỉnh thức phải là thái độ của năm cô trinh nữ khôn ngoan, đem dầu nhưng còn cẩn thận mang cả dầu nữa…Tỉnh thức như người đầy tớ thức trắng đêm vì ông chủ trở về bất ngờ. Tỉnh thức làm lợi như người được chủ giao 5 nén, 2 nén và 01 nén. Tỉnh thức như cụ già trong một câu chuyện: “ Hằng ngày ông cụ cứ ngồi trên xích đu mà chờ Chúa đến “. Chúa đến đột xuất, bí mật, bất ngờ nên Kitô hữu luôn phải có thái độ sẵn sàng để đón chờ Chúa đến. Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaia cầu khẩn, van nài cùng Thiên Chúa:” Vì tình thương…xin Ngài mau trở lại. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống “. Đây là ước mong, là khát vọng của mọi người. Con người, loài người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nên con người mong chờ ơn cứu chuộc của Chúa. Bài đọc II, thánh Phaolô đã cảm tạ Chúa vì Chúa thương ban cho cộng đoàn Corintô dồi dào ơn Chúa trong khi mong chờ Chúa Kitô tái giáng lâm, và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ họ tiếp tục sống tốt, tuân theo lời Chúa để khỏi bị Chúa khiển trách khi Chúa Kitô lại đến. Do đó, Tin Mừng hôm nay kêu mời con người phải có thái độ tích cực tỉnh thức, nghĩa là phải trở về với lòng mình, phải trở về với Chúa để gặp Ngài và luôn phải bám chặt lấy Ngài.
PHẢI CHỜ CHỦ NHƯ THẾ NÀO ?:
Chờ đợi Chúa không có nghĩa là cứ đọc dăm câu kinh hay đi nhà thờ cho có lệ là đủ rồi, là nắm chắc phần thắng Nước Trời thuộc về mình. Ngôn sứ Isaia kêu mời những con người tội lỗi hãy mạnh dạn quay về với Thiên Chúa bởi vì chính vị ngôn sứ đã níu chặt lấy Chúa, van nài Chúa tha thứ lỗi lầm cho dân. Tỉnh thức ở đây không có nghĩa là khi chủ về thì họ đã mệt mỏi, nên li bì ngủ tiếp. Tỉnh thức ở đây là người tín hữu phải dọn mình xứng đáng để chờ gặp Chúa. Quả thực, Chúa đã đến và Chúa đang ở giữa nhân loại, ở giữa chúng con, hằng giây hằng phút Chúa hằng mong muốn đến với chúng con và ở với chúng con kia mà. Vấn đề của chúng con, của người môn đệ Chúa có chuẩn bị đón tiếp Chúa, có sẵn sàng để Chúa ở với mình hay không? Chỉ có một cách chờ đợi tốt nhất là tỉnh thức và cầu nguyện. Điều làm người môn đệ xa Chúa là không ý thức, không chuẩn bị, ngủ mê trong những ích kỷ, ươn hèn, lười biếng của mình bởi vì người môn đệ, loài người quá yêu mình đến nỗi đã quên Chúa, đã mất ý thức về Chúa.
THÁI ĐỘ PHẢI CÓ:
Để chờ đợi Chúa đến, các Kitô hữu phải có tâm tình thống hối thật sự, phải biết biến đổi nội tâm, tái Phúc Âm tâm hồn và biết làm những việc tốt đẹp theo con đường của Chúa. Người mộn đệ Chúa phải biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại, phải biết nhận diện Chúa trong từng phút giây của cuộc sống, nhận rõ Chúa vì chỉ có Chúa mới là nguồn sống, là thuẫn đỡ chở che, là gia nghiệp đời đời của con người. Nhận rõ Chúa cũng có nghĩa là từ bỏ con người xấu xa tội lỗi để mặc lấy Chúa Kitô và như thánh Phaolô:” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Nhận ra Chúa là biết từ bỏ những dục vọng, những ham mê, những ham muốn bất chính, những tham lam mù quáng lôi kéo con người xa Chúa.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Nhiều Kitô hữu được rửa tội nhưng lại không hiểu biết giáo lý sâu xa, không hiểu thế nào là Đạo, thế nào là Chúa. Chính vì thế, họ thiếu tỉnh thức và cầu nguyện. Họ luôn chạy theo những trào lưu mới của thời đại, đặc biệt thế giới đang đi tới chỗ toàn cầu hóa, con người dễ chạy theo lợi nhuận, chạy theo tiền bạc, vật chất mà quên mất Chúa. Con người chỉ có thể gặp Chúa khi họ sẵn sàng tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan và như nguời khôn xây nhà trên đá.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết từ bỏ những gì là không đẹp lòng Chúa để chúng con càng ngày càng trở nên xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự vào đền thờ tâm hồn chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Muốn đón Chúa phải làm gì ? Mùa vọng dạy chúng ta gì ? Tại sao Chúa đã đến rồi mà lại phải đón Chúa đến nữa ? Ngày Cánh Chung là ngày nào ?
Với Chúa nhật I Mùa Vọng, chúng ta bước vào một Mùa Xuân Mới của năm Phụng vụ Giáo: MV 1-B62
Với Chúa nhật I Mùa Vọng, chúng ta bước vào một Mùa Xuân Mới của năm Phụng vụ Giáo Hội và năm nay khởi đầu là ngày 30-11-2008, chu kỳ năm B.
Mùa Vọng là mùa để chúng ta sống lại Lịch Sử Ơn Cứu Độ, sống lại niềm hy vọng ơn Cứu độ trong suốt thời gian Cựu Ước. Tất cả những biến cố quan trọng trong cuộc đời của Đức Giêsu nơi trần gian đều đã được nói đến trước qua các lời tiên tri trong Thánh Kinh Cựu Ước: như việc ‘Người được sinh ra do một Trinh Nữ…’ ( Isaia 7,14), ‘giáng sinh tại Belem…’ (Mikha 5,10); kể cả việc ‘Người bị bán với gía 30 đồng bạc…’ (Dacaria 11,12&13), ‘bị đâm thâu qua cạnh sườn khi Người chịu treo trên Thánh Gía…” (Dacaria 12,10)…vv…
Trong suốt Mùa Vọng, ngoài vai trò của Đức Mẹ Maria, chúng ta thường gặp hai nhân vật khác nổi bật, đó là Tiên tri Isaia (khoảng từ 740-687 trước Chúa Giáng sinh) và Thánh Gioan Baotixita (+28). Tiên tri Isaia là vị Tiên tri của niềm Hy vọng; vì lời tiên tri của Isaia đặc biệt hướng đến Đấng Thiên Sai sẽ đến khi ‘thời giờ đã viên mãn’ và sinh bởi “một Trinh nữ”. Bài đọc I trong các Chúa Nhật Mùa Vọng (đặc biệt năm B) thường trích trong sách Tiên tri Isaia. Nhiều bản Thánh Ca trong Mùa Vọng cũng được lấy từ Sách Tiên tri Isaia, như “Trời Cao Hãy Đổ Sương Xuống…” , “Này Dân Sion…”, “Có Tiếng Kêu Từ Nơi Hoang Vắng…”, “Trời Gieo Sương Xuống.” Thánh Gioan Baotixita là vị tiên tri nối liền Cựu Ước và Tân Ước, người dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến (Tiền Hô), là người ban Phép Rửa Thống Hối (Tẩy Giả).
Trong Chúa Nhật I Mùa Vọng năm nay, Bài đọc I (Isaia 63,16b-17,19b;64,2-7) là lời cầu xin khấn nguyện xin Đấng Cứu Độ đến để giải thoát Dân Chúa khỏi vòng nô lệ tội lỗi. Bài đọc II (1 Cor. 1,3-9) là lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta “hãy sống xứng đáng, không gì đáng trách, trong khi mong chờ ngày Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến trong vinh quang”. Bài Tin Mừng (Matcô 13,33-37), Chúa Giêsu nói với chúng ta “Hãy luôn luôn sống xứng đáng để sẵn sàng chờ ngày Chúa đến với mọi người chúng ta vào bất cứ lúc nào mà chúng ta không ngờ!”
Vậy hợp với toàn thể Giáo hội chúng ta hãy cùng cầu nguyện chung cho nhau và giúp nhau sám hối lỗi lầm, thanh tẩy tâm hồn, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, sống một Mùa Vọng thánh thiện trong tinh thần hòa hợp yêu thương với mọi người, để chuẩn bị mừng Đại Lễ Giáng sinh; đồng thời đón chờ Chúa đến với mỗi người chúng ta bất cứ lúc nào khi chúng ta từ giã cuộc đời đầy gian nan thử thách này và bước vào một Mùa Xuân Vĩnh Cửu trong vinh quang nước Chúa.
Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta.
Mùa vọng chắc chắn là mùa hi vọng. Hi vọng Chúa đến không phải với những đe loi kinh hồn: MV 1-B63
Mùa vọng chắc chắn là mùa hi vọng. Hi vọng Chúa đến không phải với những đe loi kinh hồn, nhưng với lời hứa và phần thưởng lớn lao. Dân Do thái đã mong chờ ngày thực hiện lời hứa ấy hằng bao thế kỷ. Ngày giờ đã tới thật gần. Niềm hi vọng ngày càng lộ diện. Hôm nay Chúa muốn chúng ta nhận định rõ và kịp thời niềm hi vọng lớn lao đó ngay trong cuộc sống hiện tại và tương lai của chúng ta.
HI VỌNG ĐÃ VƯƠN LÊN
Từ bao đời, dân Do thái đã chìm sâu trong tăm tối, nhục nhằn và thất vọng. Không phải cảnh đói khát, nô lệ đã đầy đọa con người. Nhưng chính trong cảnh sung túc, ngôn sứ Isaia đã phải thốt lên: “Lạy ĐỨC CHÚA, tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài ? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài” ? (Is 63:17) Tình trạng càng bi thảm chỉ “vì Ngài đã ngoảnh mặt không nhìn đến, và để cho tội ác chúng con phạm mặc sức hành hạ chúng con” (Is 64:6).
Nhưng niềm hi vọng vẫn chưa tiêu tan. Mối liên hệ vẫn còn đó. Thật vậy, “Ngài là Cha chúng con ; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con” (c.7). Bởi đó Ngài là ông chủ có toàn quyền trên mạng sống và cuộc đời chúng con. Nhưng Ngài cũng là Từ Phụ đối với dân Chúa. Chính vì thế niềm hi vọng càng lớn lao khi họ thưa với Chúa: “Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài mau trở lại” (Is 63:17). Tiếng kêu ngày càng thống thiết: “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan” (c.19).
Ngài đã xé trời ngự xuống thật sự nơi con người Đức Giêsu. Ngài đã đến, mang theo ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Người đến không phải chỉ cứu rỗi các linh hồn, nhưng cứu toàn thể con người. Người đến rồi Người đi. Đó là một cơ hội bằng vàng, ngàn năm một thuở. Bởi thế “phải tỉnh thức” (Mc 13:33), “phải canh thức !” (c.37) để khỏi bị vuột mất cơ hội đó.
Nếu biết lúc nào chủ về, chắc chắn chúng ta sẽ chuẩn bị chu đáo. Nhưng Chúa là “ông chủ đến bất thần” (c.37). Bởi vậy sẽ có nhiều người “đang ngủ” (c.36), nghĩa là còn mê man với bao mộng đẹp trần gian. Hình ảnh tươi sáng của Người sẽ làm lu mờ và tiêu tan tất cả mộng đẹp đó. Nếu chỉ quen với bóng đêm hay bóng đèn mờ, mắt có thể bị mù khi ánh sáng mặt trời xuất hiện. Làm sao có thể thích ứng kịp với thứ ánh sáng đó nếu chúng ta còn li bì hay cuộn tròn trong cái tôi kệch cỡm của mình. Từ cái tôi đã phát sinh mọi bất công và bất hòa. Chỉ Người mới là niềm hi vọng cho muôn dân vì đã chiếu toả khắp trái đất ánh sáng công lý và hòa bình.
Nếu thế, việc gì phải run sợ khi Người trở lại lần thứ hai. Lần thứ nhất Người đã mang đến muôn ân sủng nhờ cái chết và sự phục sinh của Người. Nếu đón nhận ân sủng đó, chúng ta sẽ hưởng nền hòa bình đích thực (x.NIV:1991). Tin vào Đức Giêsu Kitô mới có thể sống bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Từ đó mới vãn hồi được trật tự xã hội và nối lại tương quan giữa con người với con người. Quả thực, “một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5:1). Đức tin là một ân sủng, một mầu nhiệm vượt trên mọi hiểu biết trần gian. Hòa bình chỉ nằm trong tầm tay những ai tin nơi Chúa. Chỉ đức tin mới đọc được mầu nhiêm đó và mới thực hiện được hòa bình thực sự.
Chính trong đức tin đó, tín hữu Côrintô đã “không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người” (1 Cr 1:7). Ngày Chúa đến không phải là ngày kinh hoàng như nhiều người lầm tưởng. Đức tin và ân sủng sẽ giúp ta chuẩn bị đầy đủ tất cả những gì cần thiết cho “ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” đến nỗi “không ai có thể trách cứ được” (1 Cr 1:8). Chúng ta sẽ hoàn toàn bình an và vui mừng khi được chiêm ngưỡng Thánh Nhan.
Làm thế nào để có thể tỉnh thức như Chúa muốn ? Trước hết, phải tìm mọi cách để “lắng nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người.” (1 Cr 1:5) Thực vậy, chỉ có Đức Kitô mới là Đấng Cứu thế duy nhất của toàn thể nhân loại, vì Người là “con đường, là sự thật và là nguồn sống.” (Ga 14:6) Chỉ Người mới mạc khải hết tất cả sự thật về Thiên Chúa và con người. Nhờ đó, chúng ta mới được giải thoát khỏi mọi đam mê và tỉnh thức mong chờ Chúa đến.
Hơn nữa, muốn tỉnh thức và “vững chắc đến cùng,” (1 Cr 1:8) chúng ta cần biết rằng “Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu, Chúa chúng ta” (1 Cr 1:9) trong cái chết và sự phục sinh của Chúa. Đó là cách phục vụ tuyệt vời nhất cho ơn cứu độ nhân loại. ĐGH Gioan Phaolô II đã nói: “Bất cứ ơn gọi nào từ Thiên chúa cũng là lời mời gọi phục vụ tha nhân.” (Zenit 24/11/2002) Trong việc phục vụ, Đức Giêsu đã mạc khải cho mọi người biết cách tỉnh thức và cứu độ muôn dân. “Trong văn hoá ngày nay, người phục vụ bị coi là thấp kém, nhưng trong lịch sử dân thánh, người tôi tớ được Thiên Chúa mời gọi để thực hiện một hành vi cứu độ và cứu chuộc đặc biệt” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/11/2002)
Đứng trước những đòi hỏi phục vụ, ai cũng ngại ngùng và tránh né. Nhiều người không sẵn sàng ra khỏi cái tôi để phục vụ tha nhân. Thế nhưng, khi phục vụ, con người mới khám phá thấy niềm vui trong việc phục vụ. Đây là kinh nghiệm của những người đang xả thân hi sinh cho gia đình, họ đạo, bệnh viện, các miền truyền giáo v.v. Chính nhờ phục vụ, “anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mạc khải vinh quang của Người.” (1 Cr 1:7) “Chỉ trong phục vụ con người mới khám phá thấy địa vị mình và tha nhân. Khi những tương quan giữa con người đã trở thành nguồn hứng cho việc phục vụ lẫn nhau, một thế giới mới sẻ thành hình va một nền giáo dục ơn gọi đích thực sẽ tăng triển.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/11/2002) Đức Giêsu được nêu cao cho các bạn trẻ như “một lý tưởng phục vụ giúp họ vượt qua những cám dỗ cá nhân chủ nghĩa và ảo tưởng chiếm đoạt hạnh phúc bằng con đường đó. trong tâm hồn nhiều bạn trẻ có sẵn một khuynh hướng tự nhiên mở ra cho tha nhân, nhất là cho những người cùng khổ. Khuynh hướng đó khiến họ có thể cảm thông, sẵn sàng quên mình để đặt người khác trên quyền lợi mình. Phục vụ là một ơn gọi hoàn toàn tự nhiên, vì con người tự bản chất là tôi tớ để phục vụ tha nhân, chứ không phải là chủ nhân ông của cuộc sống và sự hiện hữu. Việc bác ái là một hình thức diễn tả tất cả nét tinh thần và tông đồ phong phú nhất.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/11/2002)
NGÀY CHÚA ĐẾN TRÊN QUÊ HƯƠNG
Thời gian chờ đợi Chúa đến, còn bao nhiêu công việc bề bộn và dở dang. Thực sự chúng ta không thể nào ngủ yên, khi thấy phần lớn quê hương yêu dấu chưa đón nhận ánh sáng Tin Mừng, mặc dầu bao mồ hôi, nước mắt và máu đã đổ ra trên ba thế kỷ. Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II cũng ngạc nhiên: “Thật là một mầu nhiệm không hiểu tại sao Đấng Cứu thế đã sinh ra tại Á Châu, mà cho tới bây giờ phần lớn dân cư trên lục địa này vẫn chưa biết tới Người” (Giáo hội tại Á Châu:1999). Mầu nhiệm làm nhức nhối con tim chúng ta. Sứ mệnh vẫn còn đó. Trách nhiệm vẫn đè nặng đôi vai. Tại sao chúng ta vẫn không đáp ứng được những khát vọng dân tộc và niềm hi vọng thời đại ? Có lẽ chúng ta còn nhốt Đức Kitô quá kỹ trong bốn bức tường nhà thờ chăng ? Chúng ta còn co cụm lại để bảo vệ một thứ truyền thống hay quyền lợi nào đó, khiến nhiều người chưa nhìn được dung nhan đích thực của Đức Kitô chăng ? Hay chúng ta còn quá hãnh diện vì đủ thứ hào quang vây quanh ? Một cộng đồng sẽ mất hết sức sống nếu chỉ quanh quẩn với quá khứ, dù vàng son mấy chăng nữa.
Mùa vọng là mùa chúng ta hướng tới tương lai với một niềm tin tưởng. Chúa sẽ đến với dân tộc chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta cùng với vị Chủ Chăn tối cao của Hội Thánh nhìn sâu vào quá khứ và hướng thẳng về đằng trước. Trong một diễn văn tại Hội Nghị các Giám mục Á châu tại Manila, Đức Giáo Hoàng nói: “Ngay từ thiên niên kỷ thứ nhất, Thánh Giá đã được trồng trên miền đất Aâu châu, và thiên niên kỷ hai tại Mỹ và Phi châu, chúng ta có thể cầu nguyện để đức tin trổ sinh một mùa màng bát ngát trên lục địa bao la và đầy sức sống này vào thiên niên kỷ thứ ba” (Insegnamenti XVIII, 1:1995:159).
Chắc chắn cái nhìn đó phải bao trùm cả quê hương chúng ta. Đức Giáo Hoàng luôn ưu ái dân tộc Việt Nam. Tình thương đó đã được biểu lộ nhiều lần, nhất là trong dịp Kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra tại La vang và trong việc cứu trợ đồng bào miền Trung. Tại sao quê hương nhỏ bé của chúng ta lại chiếm được cảm tình đặc biệt của Đức Thánh Cha ? Chẳng phải vì Người kỳ vọng gặt hái được một mùa màng tươi tốt trên cánh đồng truyền giáo Việt Nam hay sao ? Nước Chúa sẽ đến, nghĩa là sự công chính, bình an và hoan lạc sẽ tràn ngập trên quê hương dân tộc chúng ta. Chừng nào chúng ta mới cùng bắt tay hành động cho niềm hi vọng lớn lao đó ?
Trách nhiệm đó trước tiên thuộc về Kitô hữu. Để chuẩn bị cho Nước Chúa ngự đến, họ cần ý thức rằng “loại trừ những nguyên nhân sâu xa sinh ra nghèo đói và thất vọng, làm cho mỗi người có phẩm giá cơ bản, là bổn phận thiêng liêng của mọi dân tộc, đặc biệt của những người đang nắm quyền cai trị.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 22/11/2002) Để chu toàn bổn phận đó, Kitô hữu không thể hành động đơn độc. Trái lại, họ phải đối thoại để tìm thế liên kết và hợp nhất với những người thiện chí, dù họ khác chính kiến hay tôn giáo với mình. Không có tinh thần đối thoại, dù là Kitô hữu, họ cũng không phải là những người có thiện chí. Thật vậy, “nguồn gốc sinh ra mọi xung đột thường nằm trong những người không cởi mở cõi lòng với Thiên chúa.” (TGM Michael Fitzgerald: Zenit 22/11/2002) Trước những cuộc bạo động hôm nay, TGM Michael Fitzgerald nói: “Ai cũng biết đâu là nguyên nhân cuối cùng sinh ra các cuộc chiến tranh. Bởi vậy, trên hết chúng ta cần cùng nhau khám phá ra những nẻo đường dẫn tới hoà bình. Như những người tin tưởng vào một Thiên chúa duy nhất, chúng ta thấy mình phải cố gắng tạo lập hoà bình. Các Kitô hữu và các người Hồi giáo đều tin rằng hoà bình trên hết là một hồng ân Thiên Chúa. Bởi thế, cả hai cộng đoàn chúng ta đều cầu nguyện cho hoà bình. Đó là điều chúng ta luôn được kêu gọi thực hiện. Trong việc kiến tạo và duy trì hoà bình, các tôn giáo đóng một vai trò quan trọng.
Hơn bao giờ, ngày nay các xã hội dân sự và chính quyền đều nhìn nhận điều đó. Phải nhìn nhận những nẻo đường hoà bình bao gồm cả việc giáo dục, vì qua việc giáo dục con người có thể học cách nhìn nhận bản thân và tha nhân. Giáo dục hoà bình cũng bao gồm việc nhìn nhận và chấp nhận sự khác biệt. Hiện nay sự cộng tác giữa những người Hồi giáo và Kitô hữu, nhất là tái duyệt cách vô tư các sách giáo khoa cho học đường.” (Zenit 22/11/2002) Nếu công cuộc này được thực hiện khắp nơi, chắc chắn tương lai thế giới sẽ thay đổi sâu xa. Đó là dấu chỉ hoà bình, là cách nhân loại đang dọn đường cho Chúa đến.
Sau trận bão Katrina, nhiều gia đình di tản dã trở về và không cầm được nước mắt nhìn cảnh: MV 1-B64
Sau trận bão Katrina, nhiều gia đình di tản dã trở về và không cầm được nước mắt nhìn cảnh hoang tàn do nước lụt tàn phá. Nhà cửa hư hại nặng nề, đồ đạc bị hủy hoại… Người ta không biết bao giờ mới có thể sửa chữa lại được như trước. Cũng thế, nhân loại đã bị tội lỗi làm băng hoại, mất đi vẻ đẹp và thánh thiện lúc ban đầu. Người ta hướng về Thiên Chúa và trông đợi Người đến cứu độ và tái tạo con người. Các bài đọc hôm nay trình bày khát vọng của con người và giới thiệu sứ mệnh của Chúa Ki-tô, Đấng cứu độ, đồng thời nhấn mạnh thái độ sẵn sàng tỉnh thức của những ai muốn đón nhận Người.
1. Lời cầu xin ơn cứu độ của nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is 63:16b-17.19b; 64:2b-7)
Trước hết ta cảm nhận được tâm tình thống thiết và khiêm tốn của con người nhận biết tình trạng khốn khổ của họ. Có bao lần con người biết khiêm hạ nhìn vào bản thân mình để nhận thức mình là ai? Giờ đây, ngôn sứ I-sai-a đã nói lên điều ấy. “Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi” (Is 64:5).
Ngôn sứ I-sai-a cho ta một cái nhìn rất sống động về thân phận con người sống trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi, nhận biết mình sống xa lạc đường lối của Thiên Chúa, nhưng lại thấy bất lực tuy muốn trở lại với Người. Vì thế, họ chỉ còn biết hoàn toàn phó thác số phận trong tay Chúa, như đất sét trong tay thợ gốm. Để diễn tả khát vọng cứu độ này, ngôn sứ đã sử dụng hoàn cảnh lịch sử dân Chúa thời lưu đày. Cũng như lòng mong ước được cứu thoát khỏi ách nô lệ ngoại bang, khát vọng được cứu độ không thể đặt nền tảng vào bất cứ quyền lực nào ngoài Thiên Chúa. Lời cầu xin của dân Chúa xin Người mau đến giải phóng họ phản ảnh lời khẩn cầu của toàn thể nhân loại xin Chúa đến cứu họ khỏi quyền lực tội lỗi. Chỉ có “Đức Chúa là Cha, là Đấng cứu chuộc” (Is 63:16b) mới có thể xóa bỏ “tội ác chúng con đã phạm mặc sức hành hạ chúng con” (Is 64:6).
Lời kêu xin Thiên Chúa đến cứu độ của con người đã khẩn trương tới mức độ họ mong ước “phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan” (Is 63:19b). Hình ảnh “xé trời ngự xuống” đưa ta trở về với khung cảnh long trọng Chúa Giê-su chịu phép rửa được mô tả trong Tin Mừng Mác-cô: “Vừa lên khỏi nước, Đức Giê-su liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình” (Mc 1:10). Đúng như lời cầu khẩn trong sách ngôn sứ I-sai-a, việc “xé trời ngự xuống” giờ đây được thể hiện. Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần đã “xé trời” đến với nhân loại. Thiên Chúa Cha đã thực hiện kế hoạch cứu độ, sai Con Một đến chịu chết để chuộc tội nhân loại và sai Thánh Thần xuống đem sự sống mới cho nhân loại. Quả thực Thiên Chúa đã ngự xuống, điều làm cho dân Chúa vô cùng sửng sốt đến nỗi họ phải kêu lên: “Người ta chưa nghe nói đến bao giờ, tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy có vị thần nào, ngoài Chúa ra, đã hành động như thế đối với ai tin cậy nơi mình” (Is 64:3). Cảm nghiệm này cũng được thánh Gio-an tóm kết trong sách Tin Mừng của ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
2. Để giúp ta được cứu độ, Thiên Chúa kêu gọi ta đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô (bài đọc Tân Ước – 1 Cr 1:3-9)
Theo kế hoạch cứu độ, Thiên Chúa đã “xé trời mà đến” với nhân loại. Tuy nhiên cứu độ không phải là công việc độc diễn của Thiên Chúa, mà Người muốn chính ta phải tích cực đáp trả và đón nhận. Với thánh Phao-lô, đây là đề tài phong phú và bất tận để ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa ban cho ta nơi Đức Ki-tô. Vậy hồng ân ấy là gì? Trước tiên, hồng ân đó là Chúa làm cho ta được “trở nên phong phú về mọi phương diện”, nhưng cao cả hơn hết vẫn là “được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người” (1 Cr 1:5). Thực vậy, trước khi Chúa Ki-tô đến, con người quá nghèo nàn. Họ đã bị tước đoạt hết tất cả sau khi phạm tội không vâng phục Thiên Chúa. Cả đến nơi ở là “vườn địa đàng” cũng không còn là chỗ dung thân. Tuy nhiên cái nghèo to lớn nhất, đó là họ không có Thiên Chúa là phần gia nghiệp nữa. Họ không còn được “nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày” và “giáp mặt Đức Chúa là Thiên Chúa” nữa (St 3:8), nhưng đã bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen (St 3:23). Sự phong phú nguyên thủy đã bị tội lỗi tước đoạt của con người, tức là được nghe lời Thiên Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người, nay lại được hoàn phục nơi Chúa Ki-tô. Sự thật toàn vẹn của Thiên Chúa thể hiện nơi con người Chúa Ki-tô. Người nói với ta tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói và cho ta biết tất cả những gì Thiên Chúa muốn cho ta biết về Thiên Chúa. Chỉ nơi Chúa Ki-tô, ta mới tìm thấy “sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13) và “ân sủng tràn đầy” (Ga 1:14) của Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa mới kêu gọi ta đến hiệp thông với Con của Người. Hiệp thông để ta cũng được tham dự vào sự phong phú về mọi phương diện, nhất là phong phú vì được nghe và biết Thiên Chúa.
Sự hiệp thông với Chúa Ki-tô mang tính chất tích cực và năng động, có khả năng biến đổi con người của ta và cuối cùng là biến đổi hoàn toàn thân phận của ta. Hiệp thông với Chúa Ki-tô là để lắng nghe và hiểu biết: lắng nghe Thiên Chúa nói với ta qua Chúa Ki-tô và hiểu biết mầu nhiệm Thiên Chúa là mầu nhiệm tình yêu; lắng nghe lời Chúa để đem ra thực hành và hiểu biết mầu nhiệm lòng Chúa yêu ta để ta đáp trả. Sự hiệp thông này còn giúp ta “nên vững chắc đến cùng”. Đúng vậy, nếu không hiệp thông với Chúa Ki-tô, ta sẽ thấy tương lai mù mờ bất định và không biết phải đi về đâu. Sức tấn công của ma quỷ tội lỗi làm cho ta chao đảo và thường bỏ cuộc làm môn đệ Chúa Ki-tô. Trái lại, nếu kết hiệp với Chúa Ki-tô, ta sẽ “nên vững chắc đến cùng”, nghĩa là tiếp tục được biến đổi theo khuôn mẫu Chúa Ki-tô cho đến khi Người lại đến với ta, nói khác đi, cho đến lúc ta hoàn tất cuộc lữ hành đức tin trên trần gian này. Tóm lại, Chúa Ki-tô đã “xé trời” mà đến với ta là để giúp ta cùng với Người làm một cuộc hành trình lấy lại sự phong phú nguyên thủy của ta và được cùng Người tiến vào quê hương vĩnh cửu.
3. Ki-tô hữu phải canh thức, vì không biết khi nào Chúa đến với họ (bài Tin Mừng – Mc 13:33-37)
Kết luận bài giảng về ngày Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và về ngày tận thế, tức là về cuộc quang lâm của Người, Chúa Giê-su nói: Anh em phải canh thức. Như người chủ nhà trẩy phương xa và sẽ trở về không biết vào ngày giờ nào, Chúa cũng sẽ đến bất chợt để phán xét ta khi ta chết và để phán xét mọi người trong ngày tận thế. Do đó, thái độ canh thức chờ đợi là thái độ phải có. Để nói lên việc canh thức này, Chúa Giê-su dùng hình ảnh cụ thể người đầy tớ có bổn phận giữ cửa nhà trong khi chủ đi vắng cho đến lúc ông trở về. Dĩ nhiên canh thức không thể hiểu theo nghĩa đen, nhưng là thái độ chờ đợi Chúa đến của Ki-tô hữu. Làm sao ta giữ được tư thái tỉnh thức và không sống trong tình trạng ngủ mê, đó là sứ điệp của đoạn Tin Mừng hôm nay. Nỗi nguy hiểm đối với Ki-tô hữu, những người đang chờ đợi Chúa đến, là ngủ mê, là quên bổn phận của họ, là để cho những quyến rũ thế gian đưa họ vào con đường dẫn tới hư mất.
Chúa Giê-su dường như nhấn mạnh đến nhân tố đưa ta đến tình trạng ngủ mê của người đầy tớ giữ cửa. Mặc dù chủ nhà trước khi đi đã “ra lệnh” cho người giữ của phải canh thức, nhưng lý do khiến anh ta lơ là việc canh thức là tính ỷ lại. Vì không biết lúc nào chủ nhà đến nên anh ta lý luận theo lợi ích của riêng mình: lúc ban tối thì anh ta cho rằng đến nửa đêm chủ mới về, tới nửa đêm anh ta lại nghĩ là ba bốn giờ sáng, rồi tới ba bốn giờ sáng thì anh ta lại tin là tảng sáng. Đáng lẽ việc không biết lúc nào chủ về phải là động lực giúp anh đầy tớ thức tỉnh thì lại trở thành cớ để anh sao lãng bổn phận và lao mình vào những gì lợi ích riêng cho mình. Chủ nhà chẳng những ra lệnh cho anh tỉnh thức, mà còn cố ý không cho anh biết lúc nào ông về, cốt là để anh chu toàn bổn phận canh thức.
Người đầy tớ canh thức chỉ là một thí dụ nói chung. Canh thức đón Chúa đến không phải là việc của một số người, nhưng là mọi người không trừ ai và trong mọi thời. “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức” (Mc 13:37). Canh thức chờ Chúa đến là việc mọi Ki-tô hữu phải thi hành, từ Giáo hoàng cho tới giáo dân, vì ai cũng cần được cứu độ và phải chịu phán xét khi Chúa đến. Canh thức bằng cách chu toàn bổn phận giống như các đầy tớ được chủ nhà “chỉ định cho mỗi người một việc”. Giáo dân có việc của giáo dân, linh mục tu sĩ có việc của linh mục tu sĩ. Chúa không bắt giáo dân phải làm công việc của linh mục, và ngược lại. Điều quan trọng là Chúa đến vào lúc nào cũng có thể thấy ta canh thức hoặc bắt gặp ta đang ngủ trong những quyến rũ của thế gian.
4. Sống Lời Chúa
Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị đón Chúa giáng sinh trong niên lịch phụng vụ, nhưng cũng là cả cuộc đời còn lại của ta để đón chờ Chúa đến phán xét cho tương lai vĩnh cửu của ta. Nếu ta thực tâm cầu xin Chúa đến cứu độ ta và phó thác trong bàn tay Chúa thì ta hãy đón nhận Đấng cứu độ là Chúa Giê-su Ki-tô. Ta được kêu gọi hãy hiệp thông với Người, để Người đồng hành với ta, dẫn dắt ta đi theo đường lối Thiên Chúa và kiên trì sống sự phong phú Người chia sẻ với ta về Đấng mà Người dạy ta gọi bằng Cha.
Suy nghĩ:
Thánh Phao-lô nói đến sự phong phú ân huệ Chúa ban cho anh chị em tín hữu Cô-rin-tô, là được nghe lời Chúa và được hiểu biết mầu nhiệm của Người. Sự phong phú ấy có ở nơi tôi không? Tôi có coi việc nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Chúa là ân huệ tôi phải luôn cảm tạ Chúa không? Quan trọng hơn hết, tôi có lãnh nhận ân huệ ấy cho xứng đáng không?
Cầu nguyện:
Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en, Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá, xin khơi dậy uy dũng của Ngài, đến cùng chúng con và thương xứu độ.
Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh. (Đáp ca CN I mùa Vọng – Thánh Vịnh 79:2ac.3b.15-16)
Năm phụng vụ lại bắt đầu bằng một lời cảnh cáo: hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện: MV 1-B65
Năm phụng vụ lại bắt đầu bằng một lời cảnh cáo: hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Mùa vọng lại tới, nhân loại không còn chờ đợi lễ Giáng Sinh như dân Do Thái xưa. Nhân loại và mỗi người đang chờ đợi Đức Kitô lại đến để hoàn tất công trình cứu độ nơi con người, nơi toàn thể thế giới, nơi mọi dân tộc, mọi nước, mọi người. Lời cảnh cáo của Chúa Giêsu trong Tin Mừng chúa nhật hôm nay không chỉ dành riêng cho các môn đệ nhưng là chung cho mọi người chúng ta ngày hôm nay.
LỜI CẢNH CÁO CỦA CHÚA GIÊSU:
Chúa Giêsu kêu mời nhân loại, gọi mời mỗi người hãy coi chừng, tỉnh thức. Lời kêu mời này không có ý làm cho con người phải chìm đắm trong sầu đau, thử thách, nhận chìm trong bóng tối, tội lỗi. Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu mang một tầm vóc hết sức lạc quan. Chúa đã có mặt trong lịch sử nhân loại, Chúa đã hiện diện nơi mỗi người. Chúa đã giang tay ra để gánh lấy tội lỗi cho nhân loại. Tội lỗi đã bị đánh tan nhờ cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúa đã mang sự sống mới cho nhân loại. Hãy tỉnh thức để nhận ra tất cả những cái mới mẻ đó để nhập cuộc, để vui sống, để chia sẻ…Tuy nhiên, đọc Tin mừng, ta vẫn bắt gặp vô số những người đang mê ngủ, họ không biết tỉnh thức để nhận ra những cái tiến bộ, những cái mới mẻ của lịch sử, họ luôn suy nghĩ theo lề lối cũ, theo định kiến hẹp hòi.
Các người Biệt phái, các Thượng tế, Luật sĩ và Kỳ mục luôn mê ngủ trong sự tự mãn về sự thông hiểu của họ về Thánh Kinh. Dân thành Giêrusalem cũng tự ru ngủ trong thói quen, sợ dấn thân nhập cuộc, nên họ đã sống ngoài biến cố Con Thiên Chúa làm người. Chúa Giêsu như vị cứu tinh họ mong đợi nhưng họ lại không nhận ra Ngài, họ không muốn chấp nhận Ngài. Họ đã không nhận ra Chúa Giêsu, nhưng lại tìm cách giết Ngài. Họ không chấp nhận nghe tiếng Ngài, không chấp nhận lối sống, cách cư xử xem ra đi ngược với họ. Họ thực là những con người đang mê ngủ. Trong khi đó những con nngười nhỏ bé, những người thu thuế, những cô gái điếm lại có khả năng nhận ra tiếng hát các thiên thần, của ánh sao, của dấu lạ để cuối cùng họ nhận ra Đấng Cứu Thế nơi một Hài Nhi Giêsu đặt trong máng cỏ hay nơi một Chúa Giêsu bị treo trên thập giá. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân, đi vào lịch sử để nhận ra những cái mới, những biến chuyển lạ lùng nơi những con người đã được cứu chuộc, nơi những người là Con Thiên Chúa, là anh em với nhau.
MÙA VỌNG CỦA NHÂN LOẠI:
Mùa vọng không chỉ có nghĩa là nhớ lại việc Chúa sinh ra như những người Do Thái đã sống. Mùa vọng là thời gian để chúng ta tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại ngày cuối cùng để phán xét, thời gian chúng ta ít mong đợi nhất. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta kiểm điểm xem cuộc sống của chúng ta làm sao. Mùa vọng là thời gian chúng ta hồi tưởng lại xem chúng ta đã sẵn sàng
đón tiếp Chúa đến phán xét chúng ta lúc chúng ta còn ở trần gian, chúng ta đã sống dấn thân và mở mang Nước Chúa như thế nào. Đây là sứ điệp các bài đọc Chúa nhật hôm nay muốn nhắc nhở: Chúa Giêsu Đấng đã tới trần gian các đây hơn 2000 năm, sẽ trở lại vào ngày cùng tận lúc chúng ta không ngờ. Khi Ngài trở lại, Ngài sẽ xét xử mỗi người tùy theo khả năng và tùy theo nén bạc Chúa đã trao phó cho sinh lợi.
Mỗi người chúng ta hãytỉnh thức, cầu nguyện, xin Chúa giúp mỗi người chúng ta trung tín và kiên vững trong công việc Chúa trao phó:
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh, xin ban cho chúng con tình yêu , xin ban cho chúng con đôi mắt tinh anh, xin ban cho chúng con chính mình Ngài để chúng con luôn sẵn sàng dấn thân nhập cuộc mà không hề thất vọng chán nản và không bao giờ an nghỉ cho tới khi được Chúa an nghỉ trong chúng con. Amen.
Chuẩn bị ngày Chúa đến bằng bản tính yêu thương của ta
ĐỌC LỜI CHÚA
Is 63,16b-17; 64,1.3b-8: (4) Ngài đón gặp kẻ công chính vì họ sống theo đường lối Ngài chỉ dạy. Và Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con. (5) Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi.
1Cr 1,3-9: (6) Lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, (7) khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người.
Phải tỉnh thức và sẵn sàng
(33) «Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. (34) Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. (35) Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. (36) Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. (37) Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!»
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Mua bảo hiểm để đề phòng rủi ro bất ngờ có phải là khôn ngoan không? Ta có bảo hiểm cho sự sống: MV 1-B66
1. Mua bảo hiểm để đề phòng rủi ro bất ngờ có phải là khôn ngoan không? Ta có bảo hiểm cho sự sống vĩnh cửu đời sau không? Bảo hiểm tránh rủi ro đời này có quan trọng bằng bảo hiểm tránh rủi ro đời sau không?
2. Ngày Chúa đến cần được hiểu thế nào? Ngày ấy có bất ngờ không? Nếu biết ngày ấy sẽ đến bất ngờ thì ta phải chuẩn bị thế nào cho khôn ngoan?
3. Cách chuẩn bị ngày Chúa đến cách khôn ngoan nhất là gì? Có cách chuẩn bị nào vừa thường hằng suốt cuộc đời ta,vừa lại không làm ta bị căng thẳng, hồi hộp, vì Chúa đến bất kỳ lúc nào và cách nào thì ta vẫn luôn sẵn sàng không?
Suy tư gợi ý:
1. Sự khôn ngoan đòi hỏi phải đề phòng rủi ro đến bất ngờ
Hiện nay, các công ty bảo hiểm làm ăn rất phát đạt, vì càng ngày người ta càng cảm thấy cần thiết phải đề phòng những rủi ro bất ngờ xảy đến: bệnh tật, tai nạn, chết chóc… Có bảo hiểm, khi những rủi ro xảy đến, họ không đến nỗi bị thiệt hại vì được đền bù. Điều khiến người ta lưu tâm và phải quyết định bảo hiểm đó là tính bất ngờ của sự rủi ro. Vì nếu người ta biết trước hay dự đoán trước được chính xác ngày giờ xảy đến và xảy đến thế nào, thì gần đến ngày giờ ấy, người ta mới phải chuẩn bị đề phòng. Nhưng nếu nó xảy ra bất ngờ, và có thể xảy đến bất kỳ lúc nào, thì người ta phải luôn luôn đề phòng, và đề phòng không ngừng. Và lỡ có lúc nào không thể chuẩn bị hay đề phòng, thì lúc đó người ta không an tâm. Chính vì thế, người ý thức được tính bất ngờ của những rủi ro thì tìm cách mua bảo hiểm càng sớm càng tốt, để tâm hồn họ luôn luôn được bình an.
Những rủi ro, và thiệt hại từ rủi ro, có tính nhất thời và có ảnh hưởng nhất thời thì con người biết lo xa, đề phòng. Nhưng thật buồn cười và phi lý thay, những rủi ro và thiệt hại to lớn hơn vô cùng, có ảnh hưởng vĩnh viễn, đời đời, thì rất nhiều người lại chẳng thèm quan tâm, chẳng đề phòng hay chuẩn bị gì cả. Lý do rất đơn giản là vì họ không nghĩ đến, hay chưa đủ tin rằng có một cuộc sống vĩnh cửu sau cái chết, và cuộc sống đó hạnh phúc hay đau khổ tùy thuộc vào đời sống ngắn ngủi hiện tại. Họ có thể tin rằng nếu công cuộc làm ăn mà họ đang tiến hành bị thất bại, thì họ sẽ lâm vào thế kẹt khoảng 10 năm, vì thế họ phải cố gắng hết sức để thành công trong cuộc làm ăn này. Nhưng họ không quan tâm bao nhiêu đến sự thành bại của cả cuộc đời họ, đến cái hậu quả hết sức bi thảm và kéo dài vô tận nếu đời sống tâm linh của họ ở đời này bị thất bại.
2. Tính bất ngờ của ngày Chúa đến
Điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm đó là tính bất ngờ của ngày Chúa đến. «Ngày Chúa đến» ở đây có thể hiểu cách thực tế và cụ thể nhất là ngày Chúa gọi ta về với Ngài, tức ngày tận cùng của đời ta. Nếu ngày đó được ta chuẩn bị chu đáo, thì nó không có gì đáng sợ hay khủng khiếp đối với ta, vì đó là ngày mà ta bước vào một cuộc sống mới vĩnh cửu đầy hạnh phúc. Nhưng nếu ngày đó không được chuẩn bị tốt đẹp nên chúng ta phải ra trước tòa Chúa với một tình trạng tội lỗi, nghĩa là tâm hồn thiếu vắng tình yêu, đầy tính vị kỷ, thì ngày ấy đến với ta có thể sẽ rất khủng khiếp. Vì ta hoàn toàn chưa sẵn sàng để đối diện với sự phán xét công thẳng của Ngài. Ngày Chúa đến cũng có thể hiểu theo nghĩa lớn rộng hơn, là ngày tận cùng của toàn nhân loại, ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét toàn nhân loại.
Dù hiểu theo nghĩa nào, ngày Chúa đến vẫn là ngày bất ngờ: bất ngờ chẳng những về thời gian mà còn về cách thức nữa. Người ta chẳng những không ai biết được mình sẽ chết ngày nào giờ nào, mà ngay cả chết cách nào cũng không ai chắc chắn được. Người chết trên giường bệnh, kẻ chết ngoài đường vì tai nạn xe cộ, người chết khi đang làm việc, kẻ chết khi đang nghỉ ngơi, người chết trong tình trạng sẵn sàng ra đi, kẻ chết không nhắm mắt vì còn tiếc nuối một điều gì, người chết trong hy vọng một số phận vĩnh cửu tốt đẹp, kẻ chết trong lo sợ vì không biết số phận đời sau mình ra sao… Và cũng chẳng ai biết được ngày Chúa đến phán xét toàn nhân loại sẽ xảy ra thế nào, rất có thể khác hẳn với những gì người ta dự kiến.
Kinh nghiệm khi Đức Giêsu đến lần thứ nhất cho thấy: mặc dù đã được các ngôn sứ tiên báo từ mấy trăm năm trước, nhưng khi Ngài đến thì chẳng mấy ai biết, vì họ không ngờ được Ngài lại đến theo cách ấy, hoàn toàn ngoài dự kiến của họ. Giới lãnh đạo tôn giáo thời ấy có ngờ trước được rằng chính họ lại là chủ mưu trong việc xúc phạm và giết chết Ngài bao giờ đâu? Họ luôn nghĩ rằng họ là người công chính nên ai phản đối họ, lên án họ thì đều là kẻ phá hoại tôn giáo và đáng giết chết! Thế mà Đức Giêsu lại là người phản đối và lên án họ nặng nề nhất! Vì cố chấp vào thành kiến của mình, nên con người thường không học được những bài học từ kinh nghiệm lịch sử!
Chính vì tính bất ngờ của cái chết mà người khôn ngoan luôn luôn phải chuẩn bị sẵn sàng để có thể ra trước tòa Chúa bất kỳ lúc nào, dẫu Ngài đến dưới bất kỳ hình thức nào thường là không ngờ trước được! Phải chuẩn bị cách nào để bất kỳ lúc nào Chúa gọi, ta cũng ở trong tình trạng đẹp lòng Thiên Chúa, nghĩa là tâm hồn ta luôn tràn ngập tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Chuẩn bị như thế chính là sống thái độ «tỉnh thức» mà Đức Giêsu đề nghị trong bài Tin Mừng này.
3.Tỉnh thức nhưng lại phải hoàn toàn an tâm
Nếu chúng ta sống trong tâm trạng hồi hộp, lo âu đón chờ Chúa đến, thì đó không phải là cách tỉnh thức mà Đức Giêsu muốn chúng ta có. Tâm trạng hồi hộp, âu lo, sợ sệt là điều bất lợi cho tâm lý và thần kinh của ta. Ngài muốn ta tỉnh thức nhưng đồng thời lại hoàn toàn an tâm, không phải lo âu hồi hộp chút nào. Ngài muốn ta chuẩn bị trong tâm trạng bình an, vui tươi, thoải mái và hạnh phúc. Muốn chuẩn bị thế, ta cần củng cố tình yêu trong lòng chúng ta.
Một người sống trong tâm trạng yêu thương – yêu Thiên Chúa và thương mọi người – chắc chắn là một người đẹp lòng Thiên Chúa. Nếu yêu thương đã trở thành bản tính của ta, thì ta không thể sống mà không yêu thương. Dù yêu thương là tình trạng tâm hồn hay được thể hiện thành hành động, nếu yêu thương đã trở thành bản tính của ta, thì ta không thể làm bất kỳ việc gì mà không phải do yêu thương. Biến yêu thương trở thành bản tính của ta, đó là chuẩn bị ngày Chúa đến cách tốt nhất, hoàn hảo nhất. Lúc ấy yêu thương không còn là một hành động nhất thời khi thì có lúc thì không, mà là bản tính hay tâm trạng thường hằng của ta. Tất cả mọi hơi thở, mọi cử động, mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta, dù là vô tình hay hữu ý, đều thấm nhuần tình thương. Tình thương phải là phản xạ tự nhiên trong tất cả mọi sinh hoạt của đời sống ta. Người có bản tính yêu thương thì nói lời yêu thương hay hành động yêu thương còn dễ dàng hơn là nói lời khó nghe hay hành động vị kỷ.
Muốn có được bản tính yêu thương như thế, trước tiên ta phải giác ngộ thâm sâu rằng tha nhân chính là bản thân nối dài của ta, hay nói cách khác, tha nhân chính là «cái tôi khác» của ta. Bất cứ điều gì ta làm cho tha nhân cũng là làm cho chính ta, và cũng là làm cho chính Thiên Chúa. Bất kỳ điều tốt đẹp nào ta làm cho tha nhân thì sự tốt đẹp ấy cũng trở về với chính ta. Và bất kỳ điều xấu ác nào ta làm cho tha nhân thì sự xấu ác ấy sớm muộn gì cũng trở về với chính ta. Vì toàn thể nhân loại chỉ là một «cái tôi» hay một thân thể duy nhất, trong đó Đức Giêsu là đầu, còn tất cả mọi người đều là chi thể (x. 1Cr 12,12-26). Cái tay mà làm cho con mắt bị mù, thì rồi cái tay sẽ bị mất hẳn năng lực của mình, chẳng còn làm được nhiều việc như xưa nữa.
Giác ngộ được như thế rồi, ta còn phải luyện tập để sống phù hợp với sự giác ngộ ấy. Lâu dần, sự luyện tập trở thành thói quen, và thói quen được duy trì sẽ trở thành bản tính. Bản tính sẽ chi phối toàn bộ con người ta, từ quan niệm, tư tưởng, đến lời nói và hành động. Một người có bản tính là yêu thương như thế thì trở nên giống Thiên Chúa. Đó chính là thánh thiện, là đạo đức đúng nghĩa nhất. Và một khi ta đã đạt được bản tính yêu thương đó, thì cả cuộc đời ta sẽ chẳng còn cần phải chuẩn bị chút nào cho ngày Chúa đến nữa, chính bản tính yêu thương của ta là sự chuẩn bị tốt đẹp nhất, chu đáo nhất cho cái ngày trọng đại ấy. Chuẩn bị như thế, chẳng bao giờ ta phải sống trong hồi hộp lo âu cả. Tâm hồn ta sẽ luôn luôn bình an và hạnh phúc.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu yêu cầu con phải tỉnh thức để khi Ngài đến thì con đã sẵn sàng trong tình trạng tốt đẹp. Nhưng lúc nào cũng tỉnh thức thì sẽ làm con dễ mệt mỏi và căng thẳng. Con nghĩ ra một cách tỉnh thức mà không bị mệt mỏi, đó là làm sao để bản tính của con giống như bản tính của Cha, đó là bản tính yêu thương. Nghĩa là yêu thương không chỉ còn là những hành động nhất thời lúc có lúc không, mà là một tâm trạng, một thái độ thường hằng in sâu trong bản chất của con. Chuẩn bị một lần thay cho tất cả, thì con sẽ chẳng phải sống trong tình trạng căng thẳng của sự tỉnh thức chuẩn bị. Và đó chính là cách tỉnh thức tốt nhất. Xin Cha giúp con chuẩn bị ngày Ngài đến theo cách ấy.
Thời thánh Phao-lô, Cô-rin-tô là thuộc địa của Rô-ma, một hải cảng phồn thịnh và cũng là một: MV 1-B67
Thời thánh Phao-lô, Cô-rin-tô là thuộc địa của Rô-ma, một hải cảng phồn thịnh và cũng là một trung tâm đồi bại luân lý. Thánh Tông đồ rao giảng Tin Mừng tại đó khoảng hơn mười tám tháng.Sau khi ngài rời Cô-rin-tô để tiếp tục lên đường truyền giáo, một số tranh luận và khó khăn xảy ra cho những anh chị em tân tòng. Từ Ê-phê-xô, năm 57, Phao-lô viết thư này cho tín hữu Cô-rin-tô và bàn luận về những vấn đề ấy. Bài đọc Tân Ước hôm nay trích từ phần mở đầu, lời chào thăm tín hữu và cảm tạ Thiên Chúa. Câu cuối cùng của lời chào thăm được Phụng vụ Lời Chúa trích dẫn tuy ngắn ngủi, nhưng lại chứa đựng một chân lý sâu xa, được giải thích thêm qua lời cảm tạ Thiên Chúa và được coi là chủ đề chính cho tất cả bốn Chúa Nhật mùa Vọng. Thánh Phao-lô viết: "Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an." Thiên Chúa Cha, Chúa Giê-su Ki-tô, ân sủng và bình an, tất cả đều là những đề tài suy niệm cho mùa Vọng. Nói khác đi, Phụng vụ Lời Chúa mùa Vọng muốn mời gọi chúng ta nhận biết vai trò của Thiên Chúa Cha và Chúa Giê-su Ki-tô trong kế hoạch cứu rỗi như thế nào và ý nghĩa của ân sủng và bình an là gì trong kế hoạch ấy.
a)Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một (Ga 3:16)
Thiên Chúa đã có một kế hoạch cho loài người sau khi nguyên tổ A-đam và E-và không tuân lệnh Chúa. Tội lỗi đã tước đoạt khỏi con người ân sủng và bình an. Con người không những đã trở nên xa lạ với Thiên Chúa, mà còn là thù nghịch với Thiên Chúa nữa. Con người cần tìm lại được ân nghĩa trước mặt Chúa, cần được phục hồi căn tính đích thực của mình đã bị mất đi do tội lỗi. Con người cũng cần sự bình an, tức là được hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Lời chào thăm của thánh Phao-lô không phải chỉ dành riêng cho tín hữu Cô-rin-tô, mà là cho tất cả nhân loại.
Nhưng ý nghĩa thâm sâu của lời chào thăm là Phao-lô cầu xin cả Thiên Chúa Cha lẫn Chúa Giê-su Ki-tô ban cho chúng ta ân sủng và bình an. Tại sao không chỉ xin Chúa Cha thôi mà còn xin cả Chúa Giê-su nữa? Có lẽ thánh Phao-lô không nói rõ, nhưng ngài muốn ngầm hiểu rằng Thiên Chúa Cha là Đấng ban quà tặng cho chúng ta, còn Chúa Giê-su Ki-tô là chính quà tặng của Thiên Chúa. Được trao ban cho nhân loại, Chúa Giê-su Ki-tô sẽ phục hồi cho nhân loại ân sủng đã bị tước đoạt do tội lỗi và Người sẽ thiết lập bình an cho nhân loại khi Người giao hòa họ với Thiên Chúa nhờ máu Người sẽ đổ ra. Hiểu như thế, lời cầu xin của thánh Phao-lô không chỉ có ý nghĩa chào thăm, nhưng là một nhắc nhở và mời gọi chúng ta chú tâm đến động lực thúc đẩy Thiên Chúa muốn cứu rỗi chúng ta: vì Người đã yêu thương chúng ta. Đây là một chủ đề cốt yếu của mùa Vọng mà Phụng vụ Lời Chúa muốn nêu lên ngay trong ngày đầu tiên của thời gian chuẩn bị mừng đón Chúa Cứu Thế đến với nhân loại.
b)Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về ân huệ Người ban
Sau khi nêu lên ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta, thánh Phao-lô phát biểu ngay tâm tình của ngài là hết lòng cảm tạ Thiên Chúa. Khi diễn tả tâm tình cảm tạ này, thánh tông đồ đề cao vai trò của Đức Ki-tô.Chỉ qua Đức Ki-tô chúng ta mới có thể nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta, tức là ân sủng và bình an. Hơn thế nữa, trong Đức Ki-tô, chúng ta còn có thể hiểu được mức độ phong phú của ân huệ ấy khi chúng ta "được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người" (1:5). Nhận biết ân huệ của Thiên Chúa và hiểu được sự phong phú của ân huệ ấy mới chỉ là bước đầu.Quan trọng hơn nữa, là phải để cho "lời chứng về Đức Ki-tô ăn sâu vững chắc vào lòng trí" chúng ta.Nói khác đi, chúng ta phải để cho ân huệ của Thiên Chúa là chính Đức Giê-su Ki-tô chiếm ngự toàn thể con người chúng ta, để chúng ta luôn được phong phú trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô tái lâm. Vai trò của Chúa Giê-su Ki-tô là làm cho chúng ta "nên vững chắc đến cùng."
Nêu lên vai trò chủ yếu của Chúa Giê-su Ki-tô đối với thân phận của con người, thánh Phao-lô đi tới kết luận: "Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta."Chúng ta muốn cảm tạ Thiên Chúa về ân huệ Người ban, nhưng bằng cách nào? Bằng cách đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa mà "hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô."
c)Tâm tình phải có trong mùa Vọng
Vậy chuẩn bị tâm hồn trong mùa Vọng, chúng ta hiểu Phụng vụ Lời Chúa muốn chúng ta trước hết phải xác tín về kế hoạch cứu rỗi yêu thương của Thiên Chúa.Quà tặng Người ban là chính Đức Giê-su Ki-tô. Tiếp nhận quà tặng của Thiên Chúa có nghĩa là chúng ta hãy kết hiệp với Đức Giê-su Ki-tô, để trong Người chúng ta có thể tiếp tục nhận và đáp trả ân huệ vô cùng phong phú và vô giá của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Người chúng ta tìm lại được ân sủng và bình an trước mặt Thiên Chúa, Cha chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tôi đã nhiều lần cảm tạ Chúa về ơn này ơn nọ, thí dụ được tai qua nạn khỏi, được bình an tâm hồn... Nhưng có khi nào tôi cảm tạ Thiên Chúa đã "ban Con Một"cho tôi không? Tại sao tôi ít nhận ra Chúa Ki-tô chính là quà tặng của Thiên Chúa?
Với những gợi ý của thánh Phao-lô về ân huệ của Thiên Chúa, tôi sẽ chuẩn bị tâm hồn cho mùa Vọng này với những hiểu biết và tâm tình nào về Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế?
Chúa Cha mời gọi tôi "đến hiệp thông với Con của Người."Tôi đáp lại lời kêu gọi thế nào? Làm những gì để hiệp thông với Chúa Ki-tô? Trong mùa Vọng này, tôi có sinh hoạt nào giúp mình kết hiệp với Chúa Ki-tô không? Thí dụ học hỏi sách Tin Mừng? Đọc một cuốn sách thiêng liêng? Cầu nguyện, suy gẫm mỗi ngày mười lăm phút?...
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài thánh ca về mùa Vọng.
Mỗi năm, Giáo Hội lại dành để 4 tuần lễ cho các Kitô hữu suy nghĩ về một biến cố vĩ đại. Biến: MV 1-B68
Mỗi năm, Giáo Hội lại dành để 4 tuần lễ cho các Kitô hữu suy nghĩ về một biến cố vĩ đại. Biến cố dân Do Thái xưa đã mòn mỏi đợi trông. Nghe như có một cái gì cứ nơm nớp trông chờ, một cái gì nao nao, xôn xao,mong đợi, cho dẫu sự kiện Con Thiên Chúa làm người đã xẩy ra từ hơn hai ngàn năm. Chúa nhật I mùa vọng vẫn kêu mời mọi người hãy tỉnh thức để đợi chờ Chúa đến.
VẪN LÀ SỰ ĐỢI CHỜ TRONG TỈNH THỨC, CHOÁNG VÁNH TRÔNG ĐỢI
Dân Do Thái sau bao năm chờ đợi Đấng Cứu Thế, có lúc tưởng chừng như ngã lòng. Thiên Chúa luôn gửi tới nhiều ngôn sứ đi trước dọn đường cho Đấng cứu tinh.Các tiên tri đã không ngớt loan báo cho dân về một Đấng cứu thế sẽ tới để giải thoát dân khỏi ách nô lệ, đồng thời mang lại niềm hạnh phúc, ơn giải thoát cho mọi người. Đấng cứu độ là Chúa Giêsu, Con một Thiên Chúa sẽ tới trong lịch sử nhân loại. Đấng ấy quả thực đã tới cách đây hơn hai ngàn năm trong đất nước Do Thái. Hình ảnh ấy, Hội Thánh dùng đi dùng lại mỗi năm để nhắc nhớ mọi người hãy tin tưởng đợi chờ, hãy tỉnh thức để đọc ra Chúa đang hiện diện trong các dấu chỉ của thời đại, nhận ra Chúa nơi cuộc sống và gặp được Chúa nơi chính mình, nơi người anh em của mình. Tỉnh thức,Tin Mừng nhắc tới hôm nay còn là sự thức tỉnh của mọi người đối với bổn phận của mình mỗi ngày. Tỉnh thức để có thể nhận ra kẻ trộm đang đào ngạch khóet vách. Tỉnh thức để đón chủ trở về khi chủ trẩy đi xa,trao cho mỗi người một số bạc để làm lợi ra. Chúa luôn nhắc nhở cho mọi người hãy tỉnh thức để sống xứng đáng với đời sống Kitô hữu của mình. Vì đạo của Chúa là đạo tình thương, đạo cởi mở, chứ không phải đạo được đóng khung trong bốn bức tường, đạo an phận trong một số kinh kệ nào đó mà thực tế không sống theo đòi hỏi của Tin Mừng. Cái thức tỉnh mà Tin Mừng Maccô gợi lại trong mùa vọng này còn dẫn nhân loại đi xa hơn nữa: đức tin mà mỗi người đã lãnh nhận cần phải tỏa sáng, vượt qua những giới hạn cá nhân để tới với những người khác.
TỈNH THỨC VÌ CHÚA ĐANG CÓ ĐÓ, CHÚA LÀ HÌNH HÀI CỦA NHỮNG CON NGƯỜI NGHÈO
Mùa vọng nhắc nhở mỗi người xem lệnh truyền của Chúa cho mỗi người:" Các con hãy tới với muôn dân,làm cho họ trở nên môn đệ của Thầy."( Mt 28,19 ),mỗi người đã thực hiện ra sao ? Mùa vọng là mùa để mỗi người tự vấn lương tâm xem đã thực hiện thế nào lời Chúa khi Chúa trở lại trong vinh quang ngày sau hết:"Chúng ta đã cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ tù đầy chúng ta đã thăm viếng làm sao ? Mùa vọng giúp ta tự kiểm lại thái độ, cử chỉ của đời ta. Đức Giêsu Kitô đã đồng hóa với những con người nghèo hét nhất. Khi ta cho người đói ăn, người khát uống, kẻ rách rưới ăn mặc là ta làm cho chính Chúa. Chúa Giêsu, Đấng đã tới thế giới hơn 2.000 năm, Ngài sẽ tới với chúng ta vào ngày cùng tận, Ngài sẽ xứt xử mỗi người dựa theo đoạn Tin Mừng Mt 25,1tt.Mỗi người chúng ta hãy lắng đọng cầu nguyện để tâm hồn chúng ta thuộc trọn về Chúa và xin Chúa giúp ta biết thực hiện những điều Chúa đã trao phó cho ta thực hiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tỉnh thức để đón Ngài vào lúc chúng con không ngờ như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn, lại mang cả dầu theo.
GỢI Ý CHIA SẺ
1.Bạn suy nghĩ gì về Mùa Vọng ? 2.Thế nào là tỉnh thức ?
Mấy năm trước đây,trên hệ thống truyên hình CNN của Hoa Kỳ có nói về một người tài xế xe: MV 1-B69
Mấy năm trước đây,trên hệ thống truyên hình CNN của Hoa Kỳ có nói về một người tài xế xe buýt đã đạt kỷ lục xuất sắc: “Trong 23 năm làm tài xế, anh lái trên 1.500.000 cây số mà không gây ra một tai nạn nào”. Khi được hỏi, làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời rất đơn giản: “Phải tỉnh thức”.
***
Bạn thân mến!
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng mang đến cho ta một lời khuyên: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” (Mc.13:33). Tỉnh thức là nhận ra những điềm báo trước để ta có thái độ thích hợp với tình thế mới. Cầu nguyện giúp ta liên kết mật thiết với Đấng Tối Cao, để Ngài ban ơn giúp sức cho ta, để ta tiếp tục bước đi trên đường lữ hành trần gian này
Phụng vụ trong Mùa Vọng luôn luôn là một nhắc nhở ta về “Tỉnh thức và Cầu nguyện”. Mùa vọng nhắc ta lần đầu tiên Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến trong trần gian cách đây hơn hai ngàn năm về trước. Mùa vọng cũng là một nhắc nhở cho ta để chuẩn bị cho lần đến cuối cùng của Ngài để xét xử ta và xét xử muôn dân. Ta phải chuẩn bị cho ngày đó ra sao?
Ngày Chúa đến gặp riêng mỗi một người chúng ta, ngày ấy thật bất ngờ, không ai biết trước được. Đó là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi, nhưng đó cũng là ngày cứu độ cho những ai luôn tỉnh thức và cầu nguyện để được chuẩn bị sẵn sàng.
Tỉnh thức là không quá mê mẩn trong những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức là tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu ở đời sau.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới cảm nếm được nỗi niềm khao khát mong chờ ngày Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện, ta mới gặp được Chúa trong ngày hôm nay, và nhất là trong ngày cuối cùng của đời ta.
***
Lạy Chúa! Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần một chút cố gắng trong tình yêu là con có thể vào sa mạc với Chúa, có thể trò truyện tâm tình với Ngài.
Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh đèn đỏ ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói; Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ..v..v… Thay vì bực bội hay nóng ruột, xin cho con được an bình vì có Chúa hiện diện ngay bên.
Lạy Chúa! Những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm hơn với Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa “mỗi ngày mỗi hơn” để tim con cùng rung một nhịp đập với Chúa trong sa mạc hằng ngày của đời con. Amen.
Titanic là con tầu được kiến trúc cách rất kỹ lưỡng và an toàn tối đa, khiến công ty đóng tầu: MV 1-B70
Titanic là con tầu được kiến trúc cách rất kỹ lưỡng và an toàn tối đa, khiến công ty đóng tầu đã bảo đảm rằng con tầu này không thể đắm được. Con tầu dài 882.5 feet và nặng 46 ngàn tấn, được bọc bằng hai lớp vỏ kiên cố, bên trong chia thành 16 ngăn có cửa chặn nước. Giả như nước có vào hết 4 ngăn thì tầu vẫn nổi trên mặt nước cách an toàn.
Thật không ngờ, ngày 14 tháng 10 năm 1912 chuyến khởi hành từ Luân Đôn đến Hoa Kỳ, với tốc độ 22 hải lý một giờ, con tầu vĩ đại đã đụng phải tảng băng sơn vĩ đại, nước tràn vào hết 5 ngăn. Thế là con tầu từ từ chìm xuống lòng biển lạnh với 1.513 người thiệt mạng. Không ai ngờ con tầu kiên cố ấy lại biến thành một một chiếc quan tài khổng lồ táng xác họ trong lòng biển cả.
Với sự tân tiến của khoa học, con người có thể dự đoán và tiên liệu cách khá chính xác những gì có thể xảy ra trong tương lai, để tránh những bất trắc ngoài ý muốn. Thực thế, không mấy ai trên đời ưa hai chữ BẤT NGỜ, cho dù chúng ta biết và chấp nhận sự bất ngờ sẽ đến như sự chết. Nhưng Chúa không tiết lộ cho chúng ta biết trước giờ chết của mình. Do đó chúng ta phải luôn sẵn sàng. Chúa dạy: "Các con hãy cầu nguyện, tỉnh thức và sẵn sàng luôn, vì các con sẽ không biết biến cố sẽ xẩy ra lúc nào" (Mc.13:33).
Khi nói đến danh từ "MÙA VỌNG" phải chăng chúng ta chỉ liên tưởng đến đêm Noel linh thiêng, tưng bừng nhộn nhịp với hình ảnh Chúa Cứu Thế giáng trần? Không, nó không những là chuẩn bị chờ đón một kỷ niệm lịch sử xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm, mà còn là một chuẩn bị cho cuộc tái thế của Chúa Giêsu với mỗi người chúng ta nữa.
Chuyến bay hôm nay của tôi có thể là chuyến bay cuối cùng? Bữa cơm thân mật của tôi hôm nay có thể là bữa tiệc ly... Vì vậy, trong tư thế tỉnh thức và chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng chúng ta hãy ý thức cách mình sống đạo - sống với Chúa và sống cho tha nhân trong tâm tình khoáng đạt, bình tâm, đại độ, chân thành, yêu mến.
Ước gì mỗi người chúng ta biết cách sửa soạn đón chờ Chúa Giáng Sinh, thì cũng biết cách đón chờ Chúa đến gọi chúng ta về trong khi thi hành nhiệm vụ mỗi ngày.
Giáo Hội đang bước vào Chúa Nhật đầu tiên của chu kỳ phụng niên mới, với Chúa Nhật I Mùa: MV 1-B71
Giáo Hội đang bước vào Chúa Nhật đầu tiên của chu kỳ phụng niên mới, với Chúa Nhật I Mùa Vọng. Mùa mong đợi. Mùa hy vọng. Mùa mà theo ý nghĩa của phụng vụ được chú trọng vào việc chuẩn bị đón mừng biến cố Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần.
Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Chúa Giêsu là trung tâm điểm của lịch sử nhân loại, và lịch sử của cuộc đời mỗi người chúng ta”. Do đó, việc chuẩn bị đón mừng ngày kỷ niệm Ngài giáng trần cũng chính là một cuộc chuẩn bị và đón mừng một biến cố lịch sử. Một biến cố đã xuất hiện cho riêng lịch sử con người và lịch sử của mỗi đời người chúng ta. Biến cố Giáng Trần có thể được nhắc đi, nhắc lại, và được tái diễn trong thời gian, nhưng ý nghĩa lịch sử của nó, và cái yếu tính lịch sử ấy chỉ là một: Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần để cứu độ nhân loại, và để cứu độ mỗi người chúng ta.
Hình ảnh biến cố lịch sử ấy đã được mô tả trong cuộc Phán Xét Chung Thẩm của Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, Chúa Nhật kết thúc một năm phụng vụ. Trong ngày chung thẩm ấy, ai có vé về “Đất Hứa” sẽ lên xe về Đất Hứa. Ai mua vé về “Đất Hỏa” sẽ về Đất Hỏa, và con tầu định mệnh sẽ khởi hành đúng giờ để đi về miền đất mà mỗi người đã tự chọn, đã mua vé sẵn cho mình.
Do cái định mệnh quan trọng và quyết liệt của lịch sử nhân loại, và cũng do cái tính cách đời đời của chuyến tầu định mệnh như thế, mà việc con người và từng người chuẩn bị đón tiếp Đấng sẽ đến giúp chúng ta và giải thoát chúng ta để đem chúng ta về miền “Đất Hứa”, là một hành động không những vui mừng, hy vọng mà còn rất cần thiết nữa. Trong những ngày sống trong các trại tỵ nạn ở Phi, Mã Lai, Nam Dương hay Thái. Chuyến tầu đưa chúng ta khỏi trại để đi vào những miền đất đệ tam quốc gia – miền đất hứa – là những chuyến tầu hết sức vui mừng. Những người ra bến hôm đó không những vui vì được thoát khỏi những ngày lầm than và rất vất vả nơi các trại định cư tạm dung này, mà còn hân hoan nghĩ đến một tương lai sáng lạn. Và đó là lý do khi gần đến ngày, hay khi có tin mình sẽ được rời trại, ai cũng hớn hở vui mừng.
Chúa đến để giải thoát chúng ta khỏi phải sống trong trại tập trung, trại tỵ nạn của Satan. Vì trước khi Ngài xuất hiện, trước khi con tầu lịch sử khởi động và chuyển bánh, loài người và từng người chúng ta vẫn sống trong cảnh u minh của miền đất kẻ chết. Tiên Tri Isaia đã diễn tả về hoàn cảnh con người thiếu vắng Chúa và sự mong mỏi được nhìn thấy Đấng giải thoát mình: “Chúng tôi luôn luôn ở trong tình trạng tội lỗi, thì làm sao sẽ được cứu rỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ và công nghiệp chúng tôi đều như chiếc áo dơ bẩn. Và không ai còn kêu cầu thánh danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa. Chúa đã ẩn nấp không cho chúng tôi nhìn thấy nữa, và Chúa đã phó mặc chúng tôi cho quyền lực tội lỗi” (Is 64:5-6). Nhưng khi Chúa Cứu Thế giáng trần, mọi sự đều ra khác. Thánh Phaolô viết: “Vì chưng, trong Ngài, anh em được tràn đầy mọi ơn: Ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như Chúa Kitô đã minh chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta tỏ mình ra” (I Cor 1: 6-7).
Ngài đã tỏ mình ra qua hình hài một trẻ thơ. Ngài được sinh ra trong hang bò lừa tại miền đồng quê Belem vào một đêm đông lạnh giá. Lịch sử đã nói về biến cố này hơn 2000 năm trước. Rất tiếc, mặc nhân loại và cả dân tộc được Ngài tuyển chọn là dân Do Thái, sau những năm dài chờ đợi, kêu khấn nhưng đến lúc Ngài xuất hiện thì đã không ai để ý tới, ngoại trừ một vài mục đồng nghèo khó.
Điều xem như nghịch lý đó là thái độ đón tiếp và lòng ao ước được đón tiếp của con người hoàn toàn khác nhau. Người ta khóc lóc, kêu van, và khẩn nài Ngài đến, nhưng đến khi Ngài đến, mọi người đều như không ai thèm để ý. Con người ngày nay cũng có cùng một tâm thức và lối hành động như vậy. 4 tuần lễ chuẩn bị mừng biến cố giáng trần của Chúa Cứu Thế là 4 tuần của may sắm, mua bán, quà cáp. Chọn những tấm thiệp Giáng Sinh thật đẹp, thật ý nghĩa. Mua những món quà Giáng Sinh qúiù giá và đắt tiền. Chuẩn bị mời họ hàng, bạn bè mở tiệc Giáng Sinh, để rồi chính Đấng là tâm điểm của Giáng Sinh, là trung tâm lịch sử Giáng Trần và lịch sử đời mình thì không mấy để ý tới. Và chính vì thế, Ngài cũng chả còn chỗ nào hơn để hạ sinh, ngoài cái chuồng bò và hang đá lạnh tăm.
Chúa đến. Chuẩn bị mừng ngày Chúa đến. Tôi đã nghe câu nói này. Tôi đã nói câu nói này. Và tôi đã đọc câu nói này nhiều lần. Thế mà xem như Chúa vẫn chưa phải là trung tâm lịch sử của cuộc đời tôi. Ngài vẫn chưa phải là đối tượng của những mơ ước mà tôi hằng mong đợi. Vì thế nên nếu Thánh Giuse và Mẹ Maria có đến mà gõ cửa nhà tôi hôm nay, chưa chắc tôi đã có một góc nhỏ trong căn nhà tâm hồn tôi để đón tiếp các Ngài. Tôi đang ở đâu? Tôi làm gì? Tôi nói gì? Tôi nghĩ gì? Tôi liệu có muốn thưa với Ngài lời mà mọi người đã thưa khi đứng trước ngai của Ngài trong ngày chung thẩm: “Lậy Chúa có khi nào chúng tôi thấy Chúa...đâu?” hay không. Tóm lại, quà cáp, thiệp mừng. Chuẩn bị này khác. Tất cả những cái đó phải nói lên một ý nghĩa sau cùng là Chúa Giêsu phải là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ nhân loại, và lịch sử cứu độ của đời tôi. Đây mới là điều tôi cần phải ý thức, để làm một điều gì cho việc chuẩn bị đón mừng biến cố Giáng Trần của Ngài. Một việc chuẩn bị đón tiếp bằng việc thực thi bác ái, bằng lòng quảng đại giúp đỡ tha nhân, những người cùng khổ. Và bằng tấm lòng khiêm cung, sẵn sàng chừa bỏ hoặc đoạn tuyệt với những gì mà tôi cho rằng đang làm ngãng trở mối giây hiệp thông ân tình của tôi với Ngài, vì Ngài phải là trung tâm điểm và trung tâm lịch sử của đời tôi. Là Emmanuel ở giữa tôi và trong cuộc đời của tôi.
Một đệ tử vào sa mạc đã lâu để tìm đạo mà vẫn chỉ thấy lờ mờ, một hôm hỏi sư phụ: Thầy: MV 1-B72
Một đệ tử vào sa mạc đã lâu để tìm đạo mà vẫn chỉ thấy lờ mờ, một hôm hỏi sư phụ: Thầy ơi, con thấy trong cuộc sống có những người mắt thật sáng đầy hứng khởi, mà cũng nhiều người thì mắt mờ tối mỏi mệt thiếu sinh khí. Điều gì làm khác biệt vậy Thầy?
Thầy đang trù trừ tìm cách nào giải nghĩa cho đệ tử có thể hiểu dễ hơn, thì bỗng ngay phía trước nhà một con thỏ rừng chạy phóng qua. Con chó của Thầy trông thấy thỏ liền sủa mấy tiếng rồi lao mình đuổi theo. Nghe tiếng con chó của Thầy sủa và chạy đuổi bắt một vật gì, các con chó của hàng xóm cũng ra sủa vang cả lên và hồ hởi chạy theo lối. Thấy thế, Thầy liền bảo các trò để ý theo dõi xem sao. Chỉ sau mấy phút, các con chó hàng xóm đã mò về cả, đứa nào đứa nấy mệt bở hơi tai, lưỡi thè dài thở dốc ra, và mắt mờ đi vì quá mệt. Chỉ trừ con chó của Thầy thì chưa thấy về. Nó nhất quyết đuổi con thỏ cho bằng được. Con thỏ nhẩy qua đồi qua lạch nó cũng nhảy qua. Con thỏ phóng chui qua bụi gai nó cũng phóng theo, không còn biết ngán một sự gì nữa.
Thầy liền hỏi đệ tử: Con có thấy sự khác biệt giữa con chó của Thầy và các con chó hàng xóm chưa? Điều gì làm khác biệt vậy?
Người đệ tử bỗng nhận ra và gật đầu: Thưa Thầy, con đã hiểu. Chỉ một mình con chó của Thầy trông thấy thỏ. Còn những con chó khác không trông thấy thỏ nhưng chỉ nghe tiếng chó của Thầy sủa mà chạy theo thôi, nên chỉ một thời gian ngắn là mất hứng bỏ cuộc, mà còn mờ cả mắt đi vì mệt nhọc nữa.
MỘT NGÀY BỖNG THẤY
Câu truyện trên cũng nói lên phần nào hiện trạng của nhiều người: mắt đang sáng lên long lanh hay đang tối mù mệt mỏi. Sự khác biệt căn bản là thấy hoặc là không thấy điều gì có sức thu hút cả tâm trí mình chạy theo làm mình hứng khởi.
Cao và Kim đã lấy nhau được 10 năm và được hai đứa con kháu khỉnh dễ thương. Nhưng ít lâu nay Cao rất bận ở sở, thường phải nán lại làm thêm mới hết việc. Về đến nhà thì thân xác và tâm hồn đều mệt mỏi chả còn hơi sức đâu mà để ý đến vợ con. Mà cũng có gì phải để ý lắm đâu, lấy nhau cả mười năm rồi, cần gì phải bày vẽ làm gì nữa, mọi sự cứ như thế đều đều mà đi thôi.
Tháng trước Kim thấy người đau ê ẩm hoài liền bảo chồng chở đi bác sĩ. Thử máu đo tim xong, bác sĩ bảo Kim không có chi phải lo cả, chỉ cần cho tâm trí thảnh thơi hơn.
Trên đường chở vợ về nhà thì Cao tự nhiên nói thầm trong bụng: “Nghĩ dại chứ, giả như hôm nay bác sĩ bảo vợ mình bị ung thư chỉ sống được sáu tháng nữa thì sao!” Và Cao bỗng nhớ lại những ngày đầu đời yêu nhau, nhất là cả 4 năm yêu thương quấn quít thời còn ở đại học trước khi lấy nhau. Đúng là ơn Chúa ban cho mình mà mình không biết giữ gìn. Rồi đứa con đầu lòng chào đời trong ánh mắt rạng rỡ của hai vợ chồng. Mỗi cử chỉ, mỗi nhăn mặt, mỗi lo lắng của Kim đều được Cao chú tâm săn sóc từng li từng tí. Vậy mà sao bây giờ mình lại mù đến nỗi chỉ thấy công việc ở sở là quan trọng.
Thế là Cao xếp lấy ngay 10 ngày nghỉ sau đó để đưa vợ con đi nghỉ hè. Trên đường đi, Cao hứa thầm rằng trong 10 ngày này mình sẽ sống lại những ngày đẹp nhất đời của thuở ban đầu yêu nhau. Từng cử chỉ, từng lời nói, từng chiều chuộng, mọi sự Cao đều xử sự y như lúc mới lấy nhau, làm Kim sung sướng quá chừng.
Nhưng sau một tuần lễ, một hôm Kim ngồi một mình tư lự không nói năng gì, rồi bỗng nấc lên khóc. Cao hỏi mãi thì Kim mới nói: “Anh giấu em một chuyện quan trọng. Anh nói thật cho em đi”.
Cao còn đang vò đầu chưa hiểu, thì Kim nói vội như vừa đủ nghe: “Em biết rồi, từ hôm đi bác sĩ về tự nhiên anh chiều chuộng em khác thường. Nói thật cho em đi, bác sĩ nói gì với anh. Có phải em bị ung thư không? Có phải em chỉ còn sống được mấy tháng nữa không?”
Cao phải ra sức giải thích mãi mới làm cho vợ cười lên được, rằng: “Bác sĩ không bảo em bị ung thư sắp chết đâu, mà bảo anh bị mù mắt. Em đẹp, em quí như vậy mà ít lâu nay anh bận rộn nhiều thứ nên lơ là gia đình, anh cứ coi như của trời ơi vậy, khiến em bị cô đơn mà sinh bệnh. Anh nhận ra lỗi này và anh xin lỗi em, tha cho anh nhé. Anh sẽ cố gắng bù lại.”
TIN VUI GỬI THỜI ĐẠI MỚI
Khi một đứa con không để ý để tứ một chuyện gì thì người mẹ bình dân hay la rầy là “mắt lợn luộc”, nghĩa là có mắt mở nhìn thao láo như con heo đã luộc chín nhưng không còn biết thấy gì.
Cũng chính vì thế mà mở đầu cho Mùa Vọng Chờ, sửa soạn cho Lễ Giáng Sinh, Lời Kinh Thánh nói: Hãy thức tỉnh. Hãy mở mắt để nhìn và nhận ra điều mà mọi khi vẫn nhìn mà chẳng thấy. Cũng có nghĩa là bỗng nhận ra mình đang bị mù một cách nào đó. Bao nhiêu điều lạ lùng trong cuộc sống mà mình nhìn nhưng không thấy. Vì thế mà đời sống chẳng mấy hứng khởi.
Hội Thánh Công Giáo bắt đầu từ tuần này mở ra ba năm để chuẩn bị cho thời điểm năm 2000 bước vào thiên kỷ mới, kỷ niệm 2000 năm Thiên Chúa yêu nhân loại đến nỗi đã giáng trần làm người và sống thân phận con người như bất cứ ai, để cảm thông được mọi sự của đời người. Ngài đã trải qua đau khổ cùng độ, đã bị giết chết thay cho con người tội lỗi, và đã sống lại. Và bây giờ vẫn tiếp tục hiện diện trong cuộc sống, qua mọi sự. Người theo đạo Chúa vẫn tin Chúa ở khắp mọi nơi. Chỉ cần thức tỉnh, mở mắt nhìn kỹ là bỗng nhận ra Người.
Hai môn đệ trên đường Emmaus sau những biến cố đau buồn đã mệt mỏi lết lê trên đường, mắt mờ tối không còn thấy hướng đi hay kẽ sáng nào mở tới. Đó là hình ảnh của nhiều người đang đi trên đường đời mình. Vậy mà mắt môn đệ bỗng dưng mở sáng khi nhận ra Chúa Kitô vẫn đang có mặt, đang sống ngay trước mắt mình, qua những chuyện xem ra bình thường nhàm chán hằng ngày.
Con mắt mở sáng đó là tất cả hứng khởi khiến các môn đệ của Chúa Giêsu đã tung chân chạy đi không còn biết sợ hãi bất cứ gì, không một thế lực nào áp chế nổi, để loan Tin Vui Lớn cho mọi người từ 2000 năm nay, rằng Đức Giêsu đã trải qua đau khổ, đã bị giết chết, nhưng Ngài đã sống lại, vẫn sống mãi và đang hiện diện trong cuộc sống chúng ta hôm nay, qua mọi sự, mọi biến cố. Người chồng bỗng nhận ra vợ quí giá chừng nào khi thấy Chúa hiện diện qua vợ, trong gia đình mình. Đúng là ơn Chúa ban, còn ân huệ nào cao quí hơn?! Con chó của thầy dòng đầy hứng khởi vì thấy được thỏ và chạy đuổi theo cho bằng được. Trong bất cứ trạng huống nào, thấy được Chúa Giêsu làm đích điểm đời sống, là điều then chốt thay đổi tất cả, từ mỏi mệt mờ tối đến hứng khởi rực sáng, từ tịt đường mất hướng đến mở lối thênh thang. Đó là Tin Vui Gửi Thời Đại Mới. Chính vì thế mà Hội Thánh Công Giáo để ra cả 3 năm để luyện cho được con mắt này: con mắt của niềm tin, biết mở mắt nhìn và thấy được.
PHÚT CẢM NHẬN
Lạy Chúa, con biết Chúa đang hiện diện nơi đây, lúc này, trong cuộc sống của con, nhưng mắt con bị che mờ vì quá nhiều chuyện. Xin mở mắt con để biết nhìn và tin nhận ra Chúa. Lời Chúa qua Thánh Vịnh 46 đang nói với con:
Dừng tĩnh lại, thì biết Ta đây là Thiên Chúa*. Chính Chúa tể càn khôn Ở cùng ta luôn mãi, Thiên Chúa nhà Gia-cóp Là thành bảo vệ ta.
Rất ít người biết câu truyện lý thú về một nhóm Thầy Dòng có biệt hiệu là những người không: MV 1-B73
Rất ít người biết câu truyện lý thú về một nhóm Thầy Dòng có biệt hiệu là những người không ngủ. Năm 430, Alexander thành lập một Nhà Dòng gồm chừng 300 người, chia thành 6 nhóm. Mỗi nhóm chia nhau hát Thánh Vịnh ca tụng Chúa suốt ngày đêm 24 giờ mỗi ngày, các Thầy Dòng này hát kinh và chờ đợi Chúa Kitô, Vị Thẩm Phán tối cao, Vị Chủ Nhà đi xa trở về. Đó là lý do tại sao các Thầy Dòng này được gọi là những người không ngủ.
Họ thực hiện điều Chúa truyền dạy trong bài Tin Mừng hôm nay: "Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện" (Mc 13:33). Chúa truyền cho các môn đệ và mỗi người chúng ta nhiều lần, là phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến phán xét trần gian.
I. CHÚA ĐẾN TRẦN GIAN LẦN THỨ HAI
Các Tín Hữu hồi Giáo Hội sơ khai thường đinh ninh rằng, ngày Chúa Kitô sẽ xuống trần gian lần thứ hai để phán xét nhân loại đã tới gần. Do đó, họ rất lo sợ, kinh hãi chờ đợi những gì sẽ xảy tới.
Nhưng thực ra, như lời Chúa quả quyết với các môn đệ: "Ngày giờ đó không ai biết được, dầu các Thiên Thần cũng chẳng rõ, trừ một mình Chúa Cha biết mà thôi" (Mc 13:32). Những ngày đó Chúa tuyệt đối giữ bí mật, để chúng ta phải luôn sẵn sàng chờ đợi như lời Chúa nhắn nhủ: "Vậy các con hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, vì không biết giờ nào ngày nào Chúa các con sẽ đến" (Mc 13:35).
Để nhấn mạnh tới lời nhắn nhủ: "Hãy Tỉnh Thức! Hãy Sẵn Sàng!" Chúa còn dùng nhiều dụ ngôn: Người tôi tớ luôn chu toàn các bổn phận chủ trao phó. Mười trinh nữ chong đèn chờ đợi chàng rể đến. Người bày tôi được trao phó những nén bạc để sinh lời cho chủ. Chúa muốn chúng ta, luôn phải quan tâm tới một nhiệm vụ quan trọng là: "Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng!". Vì vào lúc bất ngờ, Chúa sẽ đến. Chúa đến để ân thưởng hay luận phạt.
II. CHÚA ĐẾN DƯỚI NHIỀU HÌNH THỨC
Chúa đến với chúng ta dưới nhiều hình thức, bằng nhiều cách thế khác nhau, nếu chúng ta biết tỉnh thức và sẵn sàng tiếp đón Người.
Có khi như một Vua Cao Cả, một thẩm phán chí công, oai nghiêm ngự trên ngai vinh hiển, có muôn Thiên Binh chầu chực, để phán xét trần gian trọng thưởng kẻ lành, nghiêm phạt kẻ dữ trong ngày chung thẩm hãi hùng.
Có khi như một người Cha Nhân Từ, mời gọi con theo Cha vào tận hưởng hạnh phúc Cha dành cho con, sau những ngày tháng con đã trung thành phụng sự Cha, hằng ngoan thảo làm hài lòng Cha.
Có khi như một người Bạn Tình đến kết hợp với mỗi người trong Bí Tích Thánh Thể, khi chúng ta sốt sắng tiếp rước Người vào linh hồn chúng ta.
Có khi như một Thầy Chí Thánh đến dạy dỗ chúng ta qua Thánh Kinh, bằng những Lời Hằng Sống, những giáo lý cao siêu, hướng dẫn chúng ta đi theo đường chân lý hợp thánh ý Chúa, giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban.
Có khi Chúa đến với chúng ta qua tha nhân nơi những người đói khát, nơi những lữ khách xa lạ, nơi những người nghèo nàn cùng khổ, nơi những tù nhân nơi ngục thất, nơi những người trần trụi không áo che thân... Nếu chúng ta biết nhận ra Chúa ẩn thân nơi họ, chúng ta sẽ ân cần giúp đỡ họ, bởi vì khi chúng ta làm những điều ấy cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa, như chính lời Chúa đã quả quyết: "Bao nhiêu lần các con làm những việc đó, cho một trong những anh chị em bé mọn nhất của Cha, là các con đã làm cho chính Cha vậy" (Mt 25:40).
III. PHƯƠNG THẾ ĐỂ NHẬN RA CHÚA
Để giúp chúng ta dễ nhận ra Chúa và sung sướng tiếp đón Người, Chúa dạy chúng ta 2 phương thế cần thiết là: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn".
1. Tỉnh Thức: Nếu chúng ta biết tỉnh thức và sẵn sàng: Luôn giữ tâm hồn trong sạch, có ơn nghĩa Chúa và làm hài lòng Người, chúng ta sẽ được bình an tâm hồn và luôn cảm nghiệm được nguồn an vui hạnh phúc của con cái Chúa. Khi đó chúng ta sẽ như các Thánh, bằng con mắt Đức Tin luôn nhận ra Chúa, gặp được Người qua tha nhân, qua thụ tạo; trong mọi hoàn cảnh, ở mọi nơi và mọi lúc của cuộc sống.
2. Cầu Nguyện: Lệnh Chúa truyền chúng ta phải cầu nguyện luôn, không có nghĩa là chúng ta phải luôn đến Nhà Thờ quì gối chắp tay, hát xướng liên miên, để ca ngợi, tung hô, thờ phượng Chúa. Nhưng lệnh Chúa truyền rất dễ dàng thực hiện, thích hợp và vừa sức mọi người, chúng ta có thể làm được ở mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Đó là chúng ta liên kết với công nghiệp của Chúa Kitô, tất cả các việc to nhỏ chúng ta làm hằng ngày, với chủ ý vì lòng yêu mến Người. Nhất là mỗi việc bổn phận chúng ta thực hiện dù là những công việc rất nhỏ mọn, rất tầm thường chúng ta biết dâng lên Chúa, hợp với các Thánh Lễ hằng dâng lên thượng tiến Thiên Chúa trên các Bàn Thờ trong khắp thế giới từng phút từng giây. Mọi việc chúng ta làm sẽ có giá trị đền tội, lập công và thánh hóa, cho chính chúng ta và cho các linh hồn; vì tất cả các việc dù rất nhỏ mọn đó, hợp với giá Ơn Cứu Chuộc của Chúa Kitô, đều trở nên hiến lễ đẹp lòng Thiên Chúa.
Kết Luận
Chúa Kitô đến với toàn thể nhân loại và riêng mỗi người chúng ta, như một Quà Tặng, như một Ơn Ban của Thiên Chúa Cha. Nhưng Quà Tặng và Ơn Ban đó, Chúa Cha ban cho trần gian và cho riêng mỗi người chúng ta, qua tay Đức Trinh Nữ Maria, Đấng Chúa Cha đã tuyển chọn làm Mẹ Con Một Chúa và Mẹ riêng mỗi người chúng ta.
Nếu chúng ta muốn lãnh nhận được Chúa Kitô, chúng ta phải đến với Mẹ và chỉ qua Mẹ chúng ta mới có thể lãnh nhận được Người, Đấng là Tình Yêu, là Hạnh Phúc, là Gia Nghiệp đời đời của chúng ta.
Duyên Anh có thuật lại một trong tác phẩm của ông một mẩu chuyện: Một chuyến phi cơ DC: MV 1-B74
Duyên Anh có thuật lại một trong tác phẩm của ông một mẩu chuyện: Một chuyến phi cơ DC 10 chứa đựng trên 500 chỗ ngồi cho hành khách, Phi cơ do hãng France cung cấp, di chuyển từ Luân đôn đi New York Hoa Kỳ. Đi được 4 giờ đồng hồ thì động cơ bị báo động trục trặc. Các chiêu đãi viên trấn an và cấp báo trang bị an toàn cho hành khách. Cánh cửa được mở ra để mọi người nhảy dù an toàn ra khòi máy bay. Một số người may phúc được mở dù và an toàn đáp xuống đất, còn cả máy bay bị đụng vào núi đá và chết không ai sống sót. Những người được cứu thoát thì bàng hoàng như người bị mất trí khi nghe tin chiếc máy bay bi đụng vào núi và tiêu mạng cả chuyến. Tác giả đặt câu hỏi: "Nếu bạn đang ở trên chiếc máy bay này, thì bạn làm cách nào để cứu chính mình?".
Hơn 2000 năm trước, nhân loại cũng đã rơi vào một hoàn cảnh bi đát tương tự: tội lỗi tràn ngập thế gian như chiếc máy bay bị trục trặc đứng máy, lảo đảo như chiếc diều bay trước cơn gió lốc, hòng nhào xuống đất. Hành khách không kịp tìm ra lối thoát.
Thiên Chúa đã nhìn thấy cảnh bi đát đó, Ngài không muốn câu chuyện kết thúc một cách buồn thảm, Ngài quá yêu nhân loại, nên không nỡ để chuyện buồn xẩy ra, Ngài nghĩ đến phương thế cuối cùng để cứu nhân loại. Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa bằng lòng trở nên một cứu nhân bằng cách giáng trần làm người như họ để bay mưu giải thoát họ khỏi cảnh lầm than tội lôĩ và đưa họ về nơi hằng sống muôn đời.
Mùa Vọng là mùa nhắc chúng ta nhớ lại tình thương vô cùng của Chúa đã hy sinh xuống thế làm người để cứu thoát nhân loại. Chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ được ơn cứu thế cao trọng này, chúng ta mới có thể vui mừng về cuộc giáng sinh của Người. Mùa này còn nhắc nhở chúng ta rằng Ngài sẽ trở lại để xét xử chúng ta về việc có hợp tác với Ngài trong việc cứu thế không? Có gia ân cho nhân loại, đói ăn, rách mặc, có yêu thương đồng loại như Ngài yêu không?
Mùa Vọng không những chỉ chờ đón Chúa giáng sinh, mà còn là thời gian chuẩn bị đón Ngài đến lần thứ hai nữa. Chúng ta hãy nghe lời thánh Phaolô dạy: "Đêm sắp tàn, ngày sắp tới, anh chị em hãy bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy ánh sáng".
Lạy Chúa, Chúa đã hạ sinh để cứu thoát chúng con, xin cho chúng con cũng biết hy sinh cho người khác, để sự hòa bình, yêu thương của Chúa chiếu dãi trên chúng con. (27.11.2005).
Trong những này, một số giáo phận đang ráo riết chuẩn bị việc nghênh đón Vị Đại Diện Tòa: MV 1-B75
Trong những này, một số giáo phận đang ráo riết chuẩn bị việc nghênh đón Vị Đại Diện Tòa Thánh là Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli đến thăm. Liệu chuyến thăm được nhiều người háo hức chờ đợi này có đem lại một luồng gió mới cho đời sống các giáo phận? Muốn thế, theo thiển ý của tôi, giáo quyền địa phương không chỉ nên quan tâm đến các buổi đón tiếp long trọng theo nghi thức và các buổi cử hành phụng vụ kéo dài mà nên dành nhiều thời gian cho các cuộc gặp gỡ, trao đổi, thảo luận giữa vị đại diện và các thành phần Dân Chúa và với chính quyền địa phương.
Tôi xin mạn phép lấy quang cảnh chuẩn bị tiếp đón vị đại diện Vatican làm gợi ý cho việc chuẩn bị đón mừng Thiên Chúa của Mùa Vọng nói chung và của Chúa Nhật II Mùa Vọng nói riêng. Gio-an Tẩy Giả lớn tiếng hô hào dân chúng hãy đọn đường cho Thiên Chúa bằng cách thay đổi đời sống cho phù hợp với kế hoạch và thánh ý Thiên Chúa. Đời sống của dân Ít-ra-en thời Gio-an Bao-ti-xi-ta xuất hiện và đời sống giáo hội và xã hội Việt Nam hiện nay đầy dẫy những núi đồi, thung lũng, hố sâu, lồi lõm, quanh co cần được san phẳng và sửa sang cho thẳng để Thiên Chúa đến. II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 40,1-5.9-11): Hãy mở một con đường cho Đức Chúa
(1) Thiên Chúa phán: “Hãy an ủi, an ủi dân Ta:
(2) Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm.”
(3) Có tiếng hô: "Trong sa mạc hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta.
(4) Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.
(5) Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán."
(9) Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giê-ru-sa-lem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giu-đa rằng: "Kìa Thiên Chúa các ngươi!"
(10) Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên.
(11) Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.
2.2 Trong bài đọc 2 (2 Pr 3, 8-14): Chúng ta mong đợi trời mới đất mới
(8) Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. (9) Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. (10) Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các từng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị tiêu huỷ.
(11) Muôn vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao,(12) trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu hủy và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng. (13) Nhưng, theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị.
(14) Vì thế, anh em thân mến, trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 1,1-8): Hãy sửa lối cho thẳng để Chúa đi
(1) Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa:
(2) Chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ Isaia: "Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con.
(3) Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi"
(4) Đúng theo lời đó, Ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. (5) Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trong dòng sống Gio-đan.
(6) Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ông rừng. (7) Ông rao giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. (8) Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; Còn Người, Người làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong 3 Bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá ra Thiên Chúa qua/nhờ ngôn sứ I-sai-a, Thánh Phê-rô Tông Đồ Trưởng và Thánh Gio-an Tiền Hô:
3.1.1 Thiên Chúa mà ngôn sứ I-sai-a loan báo là Đấng Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang. Người đến bởi vì Người luôn trung tín với Giao Ước: Chúa là Chúa của dân và dân là dân của Chúa! Người đến để đem hạnh phúc, bình an và thịnh vượng cho dân, vì thế, Người xứng đáng được dân ngóng chờ và chuẩn bị tiếp đón.
3.1.2 Thiên Chúa mà Tông đồ Trưởng Phêrô cảm nghiệm là Thiên Chúa trung tín với lời hứa là sẽ thực hiện cho những ai tin vào Người và cho cả nhân loại một công trình vĩ đại là TRỜI MỚI ĐẤT MỚI. Người không muốn ai phải chết, nhưng muốn mọi người sống đạo đức tinh tuyền và lớn lên trong ân sủng và sự hiểu biết về Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một của Người.
3.1.3 Thiên Chúa mà Gio-an Tiền Hô loan báo và dọn đường là Thiên Chúa sẽ (thực sự là Người đã) đến nơi Con Một là Đức Giê-su Na-da-rét. Gio-an có sứ mạng loan báo và dọn đường cho Người là Đấng vô cùng cao trọng đến ngay cả một ngôn sứ lớn và quan trọng như Gio-an cũng không đáng cởi quai dép cho Người! Đấng ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần trong khi Gio-an chỉ làm phép rửa bằng nước.
3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là “hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi" Cũng có nghĩa là hãy “trở nên tinh tuyền và không có gì đáng trách” và “lớn lên trong ân sủng và sự hiểu biết về Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.”
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn sống với Đấng ban ơn, như tạo vật sống với Đấng Tạo Hóa, như những người công chính trong dân Do-thái ngóng đợi Chúa Cứu Thế, như môn đệ sống với Thầy.
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa
4.2.1 Tại sao phải dọn đường đón Chúa?
Có hai lý do: con người cần Chúa và Thiên Chúa muốn đến & ở với con người:
(1o) Nhìn vào thế giới loài người nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng, chúng ta thấy con người và xã hội đang rất cần đến Thiên Chúa. Bên cạnh những mảng "sáng" là các điều tốt lành phù hợp với Ý Chúa, còn hiện rõ nhiều mảng "tối" đáng báo động. Nào là chiến tranh, khủng bố, hận thù, tranh giành quyền lực, nghèo đói, bệnh tật (nhất là hiv-aids và cúm gia cầm), áp bức bóc lột, buôn bán (ma túy, phụ nữ trẻ em và vũ khí). Nào là các tệ nạn tham nhũng, hối lộ, biển thủ công quĩ, chuyên quyền, bao che, dối trá, đồng lõa với tội ác, thiên tai đủ loại (động và lở đất, sóng thần, mưa bão, lụt lội).
Con người đang khát khao cuộc sống an bình, hài hòa, trong lành, yêu thương và hạnh phúc mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho. Nhưng điều mâu thuẫn là Thiên Chúa lại đang bị con người loại trừ một cách quyết liệt bằng ý thức hệ chính trị, chủ nghĩa duy vật vô thần, trào lưu văn hóa sự chết đề cao tiền bạc, khoa học, kỹ thuật và thân xác con người. Tất cả những thứ ấy tựu trung đều phản lại các giá trị đích thực của con người cũng là các giá trị cơ bản của Ki-tô giáo: công bình, bác ái, sự sống, giá trị tâm linh và siêu nhiên.
Riêng với các Ki-tô hữu thì chúng ta càng cần đến Chúa Giê-su Ki-tô vì: "Không có Thầy anh em không thể làm được gì" và "Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6).
(2o) Cả mạc khải Ki-tô giáo là một biểu lộ ý định và ước muốn của Thiên Chúa là đến và ở với loài người. Danh xưng cao quí và được Thiên Chúa mến chuộng nhất là “Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta! Thiên Chúa ở với con người!”
4.2.2 Chúng ta dọn đường đón Chúa bằng cách nào?
Ít nhiều chúng ta hiểu nghĩa bóng của các từ thung lũng, núi đồi, khúc quanh co, đường lồi lõm. Những từ này ám chỉ những tình trạng, những cách sống không phù hợp hoặc đối nghịch với Phúc Âm:
Thung lũng là những đam mê của cải, danh vọng, chức quyền và lạc thú,
Núi đồi là những lối sống kiêu căng, ngạo mạn, tự mãn,
Khúc quanh co là những tâm địa không trung thực, giả hình, gian manh, xảo quyệt…,
Đường lồi lõm là cuộc sống đầy thiếu sót, yếu hèn, lỗi phạm, thiếu tin-cậy-mến đối với Thiên Chúa, thiếu bác-ái-yêu-thương đối với tha nhân.
Vậy để dọn đường đón Chúa, thì chúng ta
- trước hết phải nài xin Thiên Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn khó nghèo, siêu thoát, trong sạch, khiêm hạ, chân thật và sốt mến,
- kế đến là không ngừng rèn luyện bản thân để có được một tâm hồn như thế,
- và sau cùng là luôn lấy Phúc Am làm chuẩn mực để kiểm điểm và điều chỉnh đời sống của mình mỗi ngày.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Trong sa mạc hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho các quốc gia và các dân tộc đang phải sống thờ ơ với Thiên Chúa để các quốc gia và các dân tộc ấy sớm nhận thức được việc Thiên Chúa muốn đến với mọi người để họ được hưởng hạnh phúc thật.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho các vị lãnh đạo trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ, để mọi Ki-tô hữu cố gắng thể hiện một đời sống tinh tuyền, trọn hảo trước mặt Chúa cũng như trước mặt mọi người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho các tín hữu và gia đình thuộc giáo xứ chúng ta để mọi người, mọi nhà trở thành những người dọn đường cho Chúa đi.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Kỳ thực Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho những người sống thờ ơ với Thiên Chúa và say mê của cải, danh vọng, chức quyền và lạc thú trần gian để những người ấy sớm ăn năn hối cải mà khỏi bị diệt vong.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Sang Năm Phụng Vụ Mới này (Năm B), các Bài “Sống Lời Chúa Hôm Nay” sẽ không chỉ tập: MV 1-B76
Sang Năm Phụng Vụ Mới này (Năm B), các Bài “Sống Lời Chúa Hôm Nay” sẽ không chỉ tập trung vào bài Phúc âm để khám phá Chúa Giêsu là Ai và Người dạy điều gì như các bài trong Năm A vừa qua, mà sẽ lấy ý của cả 3 bài Thánh Kinh để phác họa Chân Dung của Thiên Chúa và khám phá ra Sứ Điệp của Lời Người.
Mong mọi người đồng tình với quan điểm trên và đón nhận sự chia sẻ của con trong Trang Sống Lời Chúa Hôm Nay năm 2005-2006 này.
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Hôm nay, chúng ta bước vào Mùa Vọng Năm B. Ý nghĩa và mục đích của Mùa Vọng là chuẩn bị tâm hồn dọn đường đón mừng Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Thật ra Thiên Chúa đã đến với nhân loại từ rất lâu rồi. Và Người luôn ở rất gần chúng ta, nên công việc của chúng ta là tỉnh thức tìm gặp Người và sống thân mật với Người. Các bài Thánh Kinh hôm nay sẽ giúp chúng ta trong công việc hệ trọng ấy.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH 2.1 Lắng nghe Lời Chúa:
(1) Bài đọc 1: Is 63,16b-17.19b; 64,2b-7
(63,16b) Lạy ĐỨC CHÚA Ngài mới là Cha, là Đấng Cứu chuộc chúng con. (17) Lạy ĐỨC CHÚA tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng biết kính sợ Ngài? Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài hãy mau trở lại. (19b) Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan.
(64,3) Người ta chưa nghe nói đến bao giờ, tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy có vị thần nào ngoài Chúa ra, đã hành động như thế đối với ai tin cậy nơi mình. (4) Ngài đón gặp kẻ sống đời công chính mà lấy làm vui và nhớ đến Ngài khi theo đường lối Ngài chỉ dạy. Kìa Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con, nhưng khi mải đi theo các đường lối của Ngài, chúng con sẽ được cứu thoát. (5) Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi. (6) Không có ai cầu khẩn danh Chúa, cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấy Ngài, vì Ngài đã ngoảnh mặt không nhìn đến, và để cho tội ác chúng con phạm mặc sức hành hạ chúng con. (7) Thế nhưng, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm nên tất cả chúng con.
(2) Bài đọc 2: 2 Cr 1,3-9: (3) Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giầu lòng từ bi lân ái và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. (4) Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết ủi an những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 13,33-37:
(33) Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. (34) Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. (33) Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. (36) Anh em hãy canh thức kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ (37) Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết mọi người là: phải canh thức.
2.2 Trong ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Thiên Chúa trong kinh nghiệm tâm linh của ngôn sứ Isaia (1) là Vị Thiên Chúa thân thương, gần gũi, là Cha và là Đấng dựng nên con người. Vì thế mà có lúc Isaia tỉ tê tâm sự với Thiên Chúa: "Lạy ĐỨC CHÚA! Ngài mới là Cha, là Đấng Cứu chuộc chúng con". Có lúc Isaia giận hờn và trách móc Chúa đã để cho dân Israel đi sai đường lạc lối và có “lòng chai dạ đá” không biết kính sợ Thiên Chúa: "Tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng biết kính sợ Ngài?". Nhưng Isaia cũng cảm nghiệm được rằng mình có thể hoàn toàn tin cậy, phó thác và ngóng đợi hành động của Chúa: "Chưa hề thấy có vị thần nào, ngoài Chúa ra, đã hành động như thế đối với ai tin cậy nơi mình"- "Chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con"
(2) Thiên Chúa trong kinh nghiệm thiêng liêng của Tông đồ Phaolô là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an vì Người là Cha giầu lòng từ bi lân ái. Thánh Phaolô đã khám phá Thiên Chúa là Đấng như vậy, xuyên qua cuộc đời đầy gian nan thử thách, bị bắt bớ tra tấn và ngục tù. Hơn nữa Thánh Phaolô còn rút ra được bài học quý giá từ khám phá trên: ”Thiên Chúa luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết ủi an những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.”
(3) Thiên Chúa do Chúa Giêsu mạc khải trong bài Tin Mừng Máccô hôm nay là như một Ông Chủ có kế hoạch, chương trình và đường lối riêng. Ông tín nhiệm đầy tớ, gia nhân mà giao nhà cửa, ruộng vườn, công việc cho mỗi người. Ông có việc phải đi xa nhưng một ngày nào đó Ông sẽ trở lại. Không ai biết được đó là ngày nào, vì Ông sẽ trở lại bất thình lình. Cho nên tốt nhất là ai nấy hãy chăm chỉ và chu toàn công việc được giao và luôn luôn tỉnh thức: "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến"
2.3 Qua ba bài Sách Thánh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sống tin cậy, phó thác, ngóng đợi và tỉnh thức để không bị lỡ mất cơ hội gặp gỡ Thiên Chúa. Người là Đấng đã dựng nên chúng ta và hết sức gần gũi, thân thương với chúng ta. Người là Cha giầu lòng từ bi lân ái và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an chúng ta trong những lúc gian truân khốn khó.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
1. Nếu chúng ta thường sống thờ ơ với Thiên Chúa thì nay là lúc phải biết sống đặm đà tình con thảo với Người vì Người là Cha và là Chúa của chúng ta.
2. Nếu chúng ta vẫn sống trong âu lo, buồn phiền, đau khổ thì nay là lúc chúng ta củng cố lòng tin cậy, phó thác nơi Thiên Chúa vì Người là Cha giầu lòng từ bi lân ái và là Thiên Chúa sẵn sàng nâng đỡ úi an.
3. Nếu chúng ta vẫn sống “bất cần” trong lãnh vực tâm linh và tham sân si trong đời sống trần thế thì nay là lúc chúng ta phải coi chừng và tỉnh thức vì Thiên Chúa xuất hiện lúc chúng ta chẳng ngờ!
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa, chúng con xưng tụng Chúa là Cha. Nhưng chúng con sống âu lo, sợ hãi và toan tính theo cách riêng của mình chứ chưa tin tưởng, phó thác hoàn toàn cuộc sống hiện tại và tương lai của chúng con trong tay Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Đấng từ bi lân ái, hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Thế nhưng chúng con vẫn sống âu lo, sợ hãi trước tương lai mà chúng con không nhìn thấy, trước những khó khăn vất vả chồng chất của cuộc đời.
Lạy Thiên Chúa là Đấng thường xuất hiện bất ngờ. Thế mà chúng con vẫn sống trong u mê, khờ dại mà chạy theo của cải, chức quyền, danh vọng và lạc thú hão huyền của trần gian. Chúng con chẳng tỉnh thức và chuẩn bị để gặp gỡ đón mừng Chúa.
Quả chúng con chưa xứng đáng là con, là môn đệ, là tín hữu của Chúa. Xin Chúa đoái thương ban ơn hoán cải và đổi mới cho chúng con trong Mùa Vọng này. Chúng con xin vì công nghiệp Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 13.11.2005. (Ghi nhớ ngày Cha Charles de Foucauld được Giáo hội phong Chân Phước) ------------------- Chú thích (1) Ngôn sứ Isaia sống ở xứ Giuđa vào thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên tức thời dân Chúa bị phân chia thành hai nước: Bắc Nam. Sứ mạng của Isaia cũng như của các ngôn sứ khác là vạch cho dân Israel thấy lỗi lầm của họ, kêu gọi họ quay về với Thiên Chúa, sống trung thành với Người vì Người là Đức Chúa, là Cha, là Đấng Cứu độ, là Đấng luôn trung tín không bao giờ bỏ dân, cho dù dân có bất tín, bất trung và phản bội lời cam kết với Người.
Đang khi tiến đi trong thế giới của đêm đen, người tín hữu được mời gọi thực hiện ơn gọi của: MV 1-B77
Đang khi tiến đi trong thế giới của đêm đen, người tín hữu được mời gọi thực hiện ơn gọi của mình và ân huệ đã nhận, đó là được làm con cái ánh sáng, mắt đăm đăm hướng về ngày chủ trở lại và về “ngày” đang đến. Lm. Px. Vũ Phan long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Bài này rút từ Diễn từ cánh chung (ch. 13) của Tin Mừng Máccô là chương nói về những vấn đề của thời buổi cuối cùng. Diễn từ này kết thúc bằng một lời kêu gọi khẩn thiết hãy tỉnh thức. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những người đang được Đức Giêsu ngỏ lời với (13,3), nhưng nhắm đến tất cả mọi người (13,37). Lời kêu gọi này được tác giả Mc nêu bật bằng hình ảnh người giữ cửa.
Vậy “tỉnh thức” trong Mc 13 có nghĩa là gì? Là không “ngủ” (c. 36). Nhưng hẳn không phải chỉ có nghĩa đen ấy.
II. BỐ CỤC
Đoạn văn này được bố cục theo kiểu cấu trúc đồng tâm (chuyển hoán), với đỉnh cao là c. 35: a: Lời kêu gọi “tỉnh thức” gửi đến các môn đệ (c. 33); b: Dụ ngôn người chủ đi xa (c. 34); c: Lặp lại lời kêu gọi mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (c. 35); b’: Tiếp nối dụ ngôn người chủ đi xa trở về (c. 36); a’: Lặp lại lời kêu gọi “tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (c. 37).
Chúng ta cũng có thể thấy đây là một kết cấu song song, nhằm làm nổi bật ý tưởng ta không biết thời gian quang lâm; do đó, có hệ luận: phải tỉnh thức.
Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức (33a) Vậy anh em phải canh thức (35a) vì anh em không biết khi nào thời ấy đến (34c) vì anh em không biết khi nào (35b) phải canh thức (34c) không được ngủ (36b)
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- hãy tỉnh thức (33): Tác giả dùng động từ lạ agrypnete, đồng nghĩa với động từ quen thuộc grçgoreite; đây là một từ của nền văn chương khôn ngoan (G 21,32 LXX; Cn 8,34; Dc 5,2; Kn 6,15; Hc 36,16. Các bản Tân Ước khác cũng có dùng: Lc 21,36; Ep 6,18; Dt 13,17).
- cũng như người kia trẩy phương xa..., và ra lệnh cho người giữ cửa (34): Có một điểm gây thắc mắc: Nếu ông chủ đi phương xa, thì “để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ” là hợp lý rồi. Còn “chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” là cách bố trí của người đi vắng trong một thời gian ngắn. Tại sao lại chỉ lưu ý đến việc “canh thức” ban đêm? Ở đây tác giả Mc nối kết nhiều truyền thống: những lời Đức Giêsu kêu gọi tỉnh thức, dụ ngôn những nén bạc (Mt 24,42; 25,13-15; Lc 12,36-38; 19,12-13), với dụ ngôn người giữ cửa của riêng ông cộng với truyền thống kinh sư về ý nghĩa của “đêm”. Trong TM Mc, không có dụ ngôn “những nén bạc” như trong Mt và Lc.
- lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng (35): Người Rôma chia một đêm thành 4 canh, mỗi canh kéo dài 3 giờ. Còn người Do Thái quen chia đêm thành 3 canh (x. Tl 7,19; Lc 12,38). Nhưng tại sao bài Tin Mừng lại chỉ chú trọng đến “đêm”?
Trong nền văn chương Do Thái giáo, thời gian hiện tại thường được coi như một “đêm”, còn tương lai được ví với một “ngày” hoặc một “buổi sáng”. Những câu Cựu Ước nói về “đêm” theo nghĩa đen thường được áp dụng cho “đêm” của thế gian này. Chẳng hạn lời ông Bôa nói với bà Rút: “Hãy qua đêm ở đây” (R 3,13) được Rabbi Meir (150 sau CN) trích quy chiếu về “thế gian hoàn toàn là đêm tối ấy” (Rút R. 6,4). Các kinh sư thường áp dụng từ ngữ “canh khuya” trong Tv 92 (“Thú vị thay... được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya”) cho thời gian hiện tại (Midr. Tv 92,7). Sách Talmud chú giải câu Tv 104, 20a như sau: “Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối” là câu nhắm đến thế giới hiện nay, được so sánh với đêm tối.
Giống như các kinh sư, thánh Phaolô đã dùng những ý tưởng về “đêm” để mô tả thời kỳ hiện tại cho đến ngày Quang Lâm (Rm 13,12). Vì thế, ông đã kêu gọi người Rôma: “Đã đến lúc anh em phải thức dậy” (13,11), vì ơn cứu độ đã gần họ hơn khi họ mới tin, vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12; x. 1 Tx 5,5tt). Ông còn nói: “Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). Hình ảnh “kẻ trộm đến ban đêm” không có trong nền văn chương Do Thái, mà chỉ có trong Tân Ước thôi (Mt 24,42-44; Lc 12,39t; 2 Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15). Đây là một yếu tố thuộc truyền thống Ki-tô giáo bắt nguồn từ Đức Giêsu. Từ đó ông khuyên người Thêxalônica hãy tỉnh thức (1 Tx 5,6).
Vậy lời kêu gọi hãy tỉnh thức chờ đợi ông chủ trở về vào một lúc nào đó trong đêm khuya phải được hiểu theo chiều hướng này.
Nhưng làm thế nào dung hòa được hai chi tiết “trẩy phương xa” (đi lâu) và “về lúc chập tối” (đi ngắn hạn)? Trong văn chương Do Thái giáo, có một dụ ngôn na ná với dụ ngôn Mc 13,34tt: Một bà chủ nhà có một nữ tỳ Êtióp. Chồng bà vượt biển đi xa. Suốt đêm, người nữ tỳ nói với bà: “Tôi đẹp hơn bà, đức vua yêu tôi hơn bà”. Bà chủ đáp: “Đến sáng rồi chúng ta sẽ biết ai là người đẹp hơn, ai là người được đức vua yêu thương”. Bài tường thuật tiếp: Các dân nước nói với Israel: “Các hành vi của chúng tôi thật đáng khen, và Đấng Thánh – xin chúc tụng Ngài – hài lòng về chúng tôi”. Rồi bài quy chiếu về Is 21,12 mà giải thích rằng “buổi sáng” đang đến là thời gian tương lai (Dân số R. 16,23 [70b]).
Bài dụ ngôn này cũng có những chỗ không ăn khớp với nhau, và có những chi tiết giúp hiểu bài Mc: đêm tối chính là thời gian hiện tại với những phiền muộn mà dân Chúa phải gánh chịu.
- phải canh thức (36): Trong nền văn chương Do Thái giáo, chủ đề “canh thức” được đề cập đến trong một viễn tượng quốc gia. Israel lúc đó đang bị các vương quốc của thế gian áp bức, chà đạp. Nhưng trong tương lai cánh chung, hoàn cảnh sẽ đảo ngược, Israel sẽ chiến thắng, sẽ nhận được danh dự và vinh quang. Đó là “ngày”.
Trong Tân Ước, giọng điệu ái quốc này không còn nữa. Nay người tín hữu phải chiến đấu “với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này” (Ep 6,12). Thế gian đang nằm dưới quyền của thần dữ (1 Ga 5,19). Thế gian đã quay lưng lại với Ngài, là nguồn ánh sáng. Vì thế, thời gian hiện tại chính là thời kỳ của bóng tối và đêm khuya.
Tuy nhiên, khi Đức Giêsu đến, sấm ngôn Is 9,1 nói về ánh sáng đã ứng nghiệm (x. Mt 4,16). Đức Giêsu là ánh sáng soi chiếu trần gian (x. Lc 2,32; Ga 1,5; 8,12; 12,46). Ai tin vào Đức Giêsu, Đấng Mêsia, thì không phải ở trong bóng tối (Ga 12,46; x. 3,19; Cv 26,18; Cl 1,13; 1 Pr 2,9; Ep 5,8). Nhưng dù đã được giựt ra khỏi vương quyền của bóng tối (Cl 1,13), dù đã trở thành con cái ánh sáng và ban ngày (1 Tx 5,5), người ấy vẫn còn sống trong thời gian của “đêm tối”, vẫn còn ở trong một hoàn cảnh có thể bị cám dỗ, có thể sa ngã, bị tà thần của thế gian hiện tại nắm bắt lại. Để mình bị những sức mạnh thế gian chiến thắng, buông mình theo những chuyện thế gian, đó chính là “mê ngủ”. Trong dụ ngôn, “giấc ngủ” tương ứng với “đêm”: “giấc ngủ” thuộc về “đêm”, bởi vì người ta ngủ ban đêm.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Lời kêu gọi “tỉnh thức” gửi đến các môn đệ (33)
Lời kêu gọi mở đầu này xác định chủ đề của đoạn văn: Phải tỉnh thức. Các môn đệ của Đức Kitô cần phải canh thức, bởi vì họ không biết ngày giờ (“thời ấy”) của cuộc Quang Lâm.
* Dụ ngôn người chủ đi xa (34)
Điểm chính của dụ ngôn là: ngày trở về của ông chủ là biến cố người ta không thể tiên liệu. Ông có thể về bất cứ lúc nào: chính khía cạnh này buộc người giữ cửa phải canh thức liên tục. Nhưng ông cũng có thể đi lâu: chính vì thế các gia nhân cứ phải sinh hoạt để điều hành các công việc của nhà và sinh lợi cho chủ. Các môn đệ của Đức Giêsu vừa là “các gia nhân” vừa là “người giữ cửa”; họ phải vừa
làm việc vừa canh thức. Có thể hiểu đây là các vị lãnh đạo cộng đoàn Kitô hữu.
* Lặp lại lời kêu gọi mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (35)
Lời kêu gọi được lặp lại như một điệp khúc, nhưng ở đây, công thức “khi nào thời ấy đến” đã được giải thích bởi công thức song song “khi nào chủ nhà đến”. “Thời ấy” chính là lúc chủ nhà trở về, tức ngày Quang Lâm của Đức Giêsu. Tác giả diễn tả sự bấp bênh cách biểu tượng theo cái khung một ngày: “lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”.
* Tiếp nối dụ ngôn người chủ đi xa trở về (36)
Các môn đệ của Đức Giêsu đang ở trong “đêm”, nhưng họ không được “ngủ”; họ vẫn sinh hoạt bởi vì ông chủ có thể về ngay trong đêm nay. Họ phải canh thức. Bởi vì biến cố ông chủ trở về thay đổi mọi sự, ta hiểu “làm việc” là “cùng làm việc”. Đức Giêsu đang hành động trong thế giới để đưa đến một nhân loại mới. Người lôi kéo con người vào làm việc với Người, làm cho họ thành những đầy tớ phục vụ hoạt động của Người. Nhưng để có thể cộng tác với Đức Giêsu, họ phải tỉnh thức để nhận ra những gì Người đang làm.
* Lặp lại lời kêu gọi “tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (37)
Lời kêu gọi ở đây chính là lời kêu gọi ở c. 33 được lặp lại. Cùng với lời kêu gọi ở c. 33, lời kêu gọi ở c. 37 này “đóng khung” toàn bài, đã xác nhận toàn bản văn bên trong được triển khai theo chủ đề “Sự tỉnh thức”. Nhưng đến đây, lời kêu gọi được gửi rộng rãi đến tất cả mọi người, nghĩa là không chỉ dành cho các vị lãnh đạo cộng đoàn, nhưng cũng được gửi đến toàn thể cộng đoàn Kitô hữu.
+ Kết luận
Vậy, “phải canh thức”! Đang khi tiến đi trong thế giới của đêm đen, người tín hữu được mời gọi thực hiện ơn gọi của mình và ân huệ đã nhận, đó là được làm con cái ánh sáng, mắt đăm đăm hướng về ngày chủ trở lại và về “ngày” đang đến. Sự canh thức ở đây mang tính cánh chung: hoàn toàn quay hướng về phía trước, về biến cố Đức Kitô sắp ngự đến trong tương lai. Theo nghĩa này, người tín hữu không thể canh thức nếu không chấp nhận chiến đấu (Rm 13,11tt; các vũ khí: 1 Tx 5,6-8; 1 Cr 16,13; Ep 6,10-20; 1 Pr 5,8t). Canh thức như thế là ngay từ bây giờ, sống trước đời sống tương lai (x. Rm 13,13). Thái độ cánh chung không khiến người ta phủ nhận thế giới, nhưng giúp người ta có một thái độ tự do lành mạnh, thanh thoát đối với tất cả những gì thuộc về thế giới, không sợ hãi loài người, không tìm danh vọng, không khắc khoải trước gian khó, đau khổ và cái chết (x. 1 Cr 4,3t).
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. “Canh thức” trong đêm tối của thời gian hiện tại trong khi chờ đợi Đức Giêsu trở lại, chính là đang sống trong tư cách những người đã được giải thoát, bởi vì bất cứ khi nào đến, Đức Giêsu sẽ bằng lòng nếu thấy các môn đệ của Người đang sẵn sàng với Người. “Canh thức” chính là một cách thức thường hằng người Kitô hữu theo mà sống trong thế giới.
2. Canh thức như thế cũng là sống trong niềm vui. Niềm vui này không hề lệ thuộc những chuyện thay đổi của thế gian, vì nó trào vọt ra từ một nguồn mạch vĩnh hằng là chính Đức Giêsu Phục Sinh. Canh thức như thế còn là sống trong bình an, cho dù có gặp phong ba bão táp, bởi vì chính Đấng Phục Sinh đã cam đoan: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27). Cuối cùng, canh thức như thế cũng là sống niềm hy vọng, bởi vì cái nhìn của chúng ta luôn nhắm về phía trước, về thế giới đang đến, về “ngày” đang lại gần.
3. Tác giả Lohmeyer mô tả canh thức bằng câu nói: “Đời sống của người đạo đức không diễn tiến trong những trạng thái thiu thiu ngủ, những giấc mơ và những đam mê, nhưng trong nỗ lực dấn thân luôn luôn chăm chú và điều độ của con tim nhân loại”. Còn Schweizer định nghĩa canh thức là như “thái độ trong đó con người luôn luôn chờ đợi với tinh thần trách nhiệm Đức Chúa đến và không để mình bị sao nhãng trong thái độ sẵn sàng thường hằng này đối với Ngài bởi bất cứ điều gì”. Đấy là cách tốt để sống giáo huấn của Đức Giêsu.
Khi thương ai thì người ta thích đến thăm người đó. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên rất: MV 1-B78
Khi thương ai thì người ta thích đến thăm người đó. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên rất thích đến thăm loài người.
Ngày xưa dân Do Thái đã chuẩn bị đón Chúa đến viếng thăm họ trong một mùa vọng dài hàng bao thế kỷ. Đáp lại, Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu, Con Một của Ngài đến ở với họ và cứu chuộc họ. Ngày nay, Chúa lại muốn đến viếng thăm chúng ta, để ban cho chúng ta vô vàn ơn thánh của Ngài. Chúng ta hãy tận dụng
Mùa Vọng này để chuẩn bị tâm hồn cho Ngài đến thăm chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
• Chúng ta không xứng đáng với Chúa vì đức tin của chúng ta càng ngày càng yếu đi theo dòng thời gian.
• Chúng ta cũng không xứng đáng với Chúa vì lòng mến của chúng ta ngày càng lạnh nhạt.
• Nếu bất ngờ Chúa đến kiểm tra, chắc Ngài sẽ thất vọng vì chúng ta không chu toàn những bổn phận Ngài giao.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 63. 16b-17. 19
Đoạn này nằm trong phần thứ ba của sách Isaia (các chương 56-66). Các chuyên viên Thánh Kinh chưa nhất trí về thời gian soạn thảo của phần thứ ba này. Một số chuyên viên cho rằng phần này được soạn vào cuối thời kỳ dân Do Thái bị lưu đày bên Babylon.
Tình trạng bị lưu đày nơi đất khách quê người rất là khốn khổ. Nhưng vào cuối thời lưu đày, dân Do Thái đã ý thức rằng họ khốn khổ là do họ tội lỗi. Trong đoạn trích này, Isaia đã thay mặt dân bày tỏ 2 điều:
- Một mặt, thú nhận tình trạng tội lỗi của dân: "Chúng tôi đã luôn ở trong tình trạng tội lỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ"
- Mặt khác, nài xin Chúa đến để tha thứ và cứu thoát họ: "Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống".
2. Đáp ca: Tv 79
Cũng là một lời van xin Chúa đến. Mặc dù ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình, nhưng dân Do Thái vẫn dám van xin Chúa đến. Cơ sở của lời kêu xin tin tưởng này là: bởi vì Israel chính là vườn nho mà Chúa đã trồng và là đoàn chiên do Ngài chăn dắt.
3. Bài đọc II: 1 Cr 1, 3-9
Sang tới thời Hội Thánh sơ khai. Đối tượng của đoạn thư này là Giáo đoàn Côrintô, một cộng đoàn sinh động nhưng cũng gặp nhiều khó khăn nội bộ: chia rẻ, kiện tụng, luân lý suy đồi v. v.
Trước hết Thánh Phaolô nhắc họ nhớ biết bao ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Ngài muốn họ tự hiểu ngầm là trong hiện tại, họ đã không đáp lại xứng đáng những ân sủng đó. Và cũng một cách gián tiếp rất tế nhị, Ngài muốn họ tỏ ra xứng đáng hơn với những ân sủng đó, kiên trì trong những ân sủng ấy, để khi Chúa lại đến thì họ không có gì phải bị khiển trách.
4. Tin Mừng: Mc 13, 33-37
Bài đọc Cựu Ước và bài Đáp ca nhắm tới việc Chúa đến lần thứ nhất (Đấng Messia đến). Còn bài Tin Mừng nhắm đến việc Chúa đến lần thứ hai (Đức Giêsu trở lại). Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu chỉ rõ thái độ cần phải có để chờ Chúa trở lại là tỉnh thức sẵn sàng (như người đầy tớ thức chờ chủ về đột ngột giữa đêm khuya). Đức Giêsu cũng cho biết lý do tại sao phải tỉnh thức sẵn sàng: vì Ngài sẽ trở lại cách bất ngờ.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Chờ đợi
Những giây phút chờ đợi là thời gian căng thẳng nhất nhưng cũng có ý nghĩa nhất. Những người yêu nhau chờ tới ngày cưới, cha mẹ chờ đứa con ra đời, gia đình chờ một người thân trở về, người lao động chờ công việc mình sinh kết quả... Trong cuộc sống hàng ngày, người ta luôn chờ đợi một cái gì đó. Khi không còn chờ gì nữa, không còn mong gì nữa thì đời kể như sắp chết.
Lịch sử Israel cũng là một cuộc chờ đợi. Chờ Đấng Messia đến thiết lập nền công chính trên trái đất này. Sự chờ đợi của Israel lên đến cao điểm khi họ bị lưu đày bên Babylon (Bài đọc 1).
Rồi Đấng Messia đã đến. Phải chăng không còn phải chờ đợi nữa? Không, mỗi người vẫn còn phải chờ đợi, chờ cho sự công chính được hoàn thành nơi bản thân mình. Bởi đó, Đức Giêsu nói "Phúc cho ai đói khát điều công chính". Đói khát điều công chính và chờ đợi công chính thực hiện chính là một mối phúc.
Mùa Vọng là thời gian chờ đợi: chờ Đức Giêsu đến thăm chúng ta vào dịp lễ Giáng sinh, và chờ Ngài đến với chúng ta mỗi ngày trong Bí tích Thánh Thể.
Chờ đợi như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay dạy: chờ đợi bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.
* 2. Đất sét trong tay người thợ gốm
Bài đọc I dạy chúng ta một cách tỉnh thức chờ đợi rất hay: như miếng đất sét trong tay người thợ gốm.
Trong bài đọc I hôm nay, ngôn sứ Isaia đã nói lên một sự thật: "Chúng tôi là đất sét, Còn Chúa là người thợ gốm". Sự thật này đã được sách Sáng thế nói lên ngay từ đầu (St 2, 7). Kiểu diễn tả cụ thể của tác giả sách Sáng thế và của ngôn sứ Isaia có ý rằng: con người lệ thuộc Thiên Chúa.
Sự lệ thuộc chỉ toàn có lợi. Miếng đất sét chịu lệ thuộc bàn tay uốn nắn của người thợ gốm thì sẽ trở thành những vật dụng rất hữu ích, thậm chí thành những tác phẩm mỹ thuật rất đẹp.
Vậy, tỉnh thức và chờ đợi Chúa trong Mùa Vọng là làm như miếng đất sét trong tay người thợ gốm: ngoan ngoãn vâng theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để cho Chúa uốn nắn mình thành những tác phẩm tuyệt vời đúng ý Chúa.
* 3. Mong đợi Chúa đến
Vào một ngày đẹp trời, ông già ngồi trên ghế xích đu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ, một em bé gái đang chơi banh để lọt vào sân nhà ông, cô gái chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen:
- Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc xích đu này, ông đang chờ ai vậy? - Cháu còn nhỏ quá làm sao hiểu được điều ông mong đợi. - Có lẽ cháu nhỏ thật, nhưng mẹ cháu nói: có điều gì trong lòng thì hãy nói ra, có nói ra mới hiểu rõ hơn.
Nghe cô bé nói có lý, ông liền thố lộ:
- Ông đang chờ đợi Chúa đến.
Cô bé tròn xoe đôi mắt kinh ngạc. Ông già mới giải thích:
- Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa, ông cần một dấu hiệu cháu à!
Bấy giờ cô bé mới lên tiếng:
- Ông chờ một dấu hiệu ư? Thưa ông, Chúa đã cho ông một dấu hiệu: mỗi khi ông hít thở không khí, mỗi khi ông nghe tiếng chim hót, mỗi khi ông nhìn hạt mưa rơi. Chúa đã cho ông một dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ, trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu, không cần phải tìm kiếm, vì Người luôn ở đó.
*****
"Tất cả là hồng ân". Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Điều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc "Chúa đến viếng thăm".
Bài Tin mừng đầu năm Phụng vụ hôm nay, nhắc nhở chúng ta dọn mình: đón nhận ơn Chúa trong mỗi giây phút hiện tại, chờ đón Chúa đến trong giờ chết, và trong ngày cánh chung của nhân loại. Mùa Vọng là mùa của mong đợi. Mong đợi nào cũng làm cho con người mỏi mòn. Nhưng chính sự mòn mỏi đó càng làm cho cuộc gặp gỡ thêm nồng thắm hơn.
Thái độ cần phải có là hãy "tỉnh thức và cầu nguyện" để "nhận biết thời gian Chúa đến viếng thăm" (c. 19, 44). Nếu Chúa đã nhắn nhủ: "Hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào chủ sẽ về" thì không có lời khuyên nào khôn ngoan hơn lời Cha Charles de Foucauld: "Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay".
Nếu những cuộc viếng thăm là những hồng ân của Chúa, thì chúng ta đừng để mất những hồng ân ấy chỉ vì sự thờ ơ, thiếu chuẩn bị, không sẵn sàng. Chúng ta có quyền ước mơ, dự tính xây dựng tương lai, nhưng đừng bao giờ quên mục đích cuối cùng là phải "gặp được Chúa".
Nhưng có một sự thực này, nó rất thực, và đó là sự thực nhất trên đời là nếu chúng ta không thường gặp Chúa trong cuộc sống, thì chúng ta cũng sẽ không thể gặp Người vào giây phút cuối cuộc đời.
*****
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết "tìm gặp Chúa" trong mọi ơn lành Chúa ban, trong các bí tích, trong các việc lành và trong người anh em, để chúng con sẽ gặp được Chúa trong ngày Chúa đến viếng thăm. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
4. Hãy thức dậy đi
Người ta nói rằng tôn giáo là một thứ thuốc phiện ru ngủ tín đồ. Tuy nói thế là không đúng, nhưng sở dĩ có người nói thế một phần cũng là do chúng ta: nhiều người trong chúng ta chỉ coi tôn giáo là một nơi an ủi (chỉ đến với Chúa khi gặp chuyện buồn phiền) và một chỗ bảo hiểm an toàn (đọc kinh cầu nguyện để được Chúa che chở, cứu nguy). Họ đến nhà thờ để tìm kiếm những chuyện siêu nhiên (phép lạ, ơn đặc biệt) trong khi quá lơ là với những trách nhiệm trần thế. Đạo như thế đúng là thuốc phiện và người giữ đạo như thế đúng là người đang ngủ.
Hãy đọc kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu đâu có bảo chúng ta ngủ, đâu có bảo chúng ta đừng làm việc. Trái lại Ngài bảo chúng ta luôn tỉnh thức làm việc. Kitô hữu giống như những đầy tớ mà Chúa là chủ đã giao cho mỗi người một việc và Ngài sẽ trở về bất cứ lúc nào để xem họ có đang làm việc đàng hoàng hay không.
Thế nhưng con người hay buồn ngủ và thường ngủ gật. Trong việc sống đạo cũng thế. Sau đây là một số lý do:
Quen lờn về tội: "Điều gì thường xảy ra thì được coi là bình thường". Thường phạm tội hay thường thấy người khác phạm tội nên quen lờn không còn thấy bị cắn rứt nữa. Bài đọc I nói đó là "lương tâm đã trở nên chai đá". Lương tâm con người thời nay đã chai đá (đã "ngủ gật") trước những tội phạm đến công bình, đến tính dục, "không còn biết kính sợ Chúa nữa".
Lười biếng cầu nguyện. Bài đọc I nói "không còn ai kêu cầu danh thánh Chúa nữa". Cảm thấy như Chúa đi đâu xa. Bài đọc I nói "Chúa đã ẩn nấp không cho chúng tôi thấy Chúa nữa". Bài Tin Mừng thì nói Chúa như "ông chủ đi xa, để nhà cửa lại".
Dù bởi lý do nào đi nữa, điều cần thiết là mỗi người hãy biết rằng mình đang mê ngủ, hoặc ít ra là đang ngủ gà ngủ gật. Vì thế, mỗi người hãy đáp lại tiếng Chúa gọi "Hãy thức dậy đi".
5. Ngủ mê trong thói quen
Tất cả chúng ta, chỉ trừ những đứa trẻ, đều không nhiều thì ít sống theo thói quen. Người ta nói rằng chúng ta sống một nửa cuộc đời phần sau dựa vào những thói quen đã có từ nửa cuộc đời phần trước. Như thế thật có lợi cho những ai đã tập được những thói quen tốt, tuy nhiên cũng thật tai hại cho những ai đã nhiễm phải những thói quen xấu.
Một việc được lập đi lập lại nhiều lần sẽ thành thói quen, khi đó người ta sẽ làm việc đó một cách rất dễ dàng và còn khéo léo nữa. Có thể nói thói quen là bản năng thứ hai của con người.
Tuy nhiên cứ làm theo thói quen riết rồi người ta sẽ trở thành một chiếc máy vô hồn, không ý thức mình đang làm gì nữa, không suy nghĩ, không tâm tình.
Nếu bạn để một con nhái vào một bình nước nóng, nó sẽ lập tức phóng ra ngay. Nhưng nếu bạn để nó trong một bình nước lạnh, rồi đun nóng lên từ từ. Con nhái không cảm thấy gì lạ cả nên cứ ở yên trong đó. Vì nó đã quen dần nên không thấy nguy hiểm gì cả. Muốn nó nhảy ra thì cần phải lấy một cái gì đó chọc vào nó.
Với thời gian, cuộc sống đạo của chúng ta dần dần trở thành thói quen. Nhiều việc đã không còn ý thức, huống chi nhiều thói xấu đã bám rễ dần dần. Ước gì Mùa vọng là một cú chọc mạnh khiến chúng ta giật mình ý thức lại và sửa đổi cho tốt hơn.
6. Hy vọng và cuộc sống
Người ta nói rằng bao lâu còn sống thì còn hy vọng Tuy nhiên, đúng hơn phải nói: bao lâu còn hy vọng thì còn sống.
- Hy vọng là sức mạnh - Nó chiếu sáng những trái tim chán chường - Nó kích thích ý muốn sinh tồn - Nó là trợ tá đắc lực cho các bác sĩ - Nó là khiên thuẫn che chở những thất bại - Nó hồi sinh những lý tưởng và làm mới những ước mơ
Bao lâu còn hy vọng thì bấy lâu không tình huống nào là bất khả. Mùa Vọng là thời gian cho chúng ta hy vọng Và Đức Kitô chính là hy vọng của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy).
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay vào Mùa Vọng, Hội thánh muốn nhắc cho ta nhớ rằng Chúa sắp đến, chúng ta phải tỉnh thức. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Chúng ta cầu xin cho Hội thánh thực sự là cộng đoàn luôn tỉnh thức / để chu toàn trách nhiệm Đức Giêsu đã trao phó là làm chứng về tình yêu của Chúa / và hết lòng phục vụ con người.
2. Chúng ta cầu xin cho các nhà cầm quyền trên thế giới luôn tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm của mình / là cộng tác với nhau để xây dựng một thế giới trong công lý hòa bình, và chia sẻ giúp đỡ nhau.
3. Chúng ta cầu xin cho những người ngủ mê trong tội lỗi / giả điếc làm ngơ với trách nhiệm của mình trong gia đình và trong đất nước / biết tỉnh thức để trở về với bổn phận của mình.
4. Chúng ta cầu xin cho cộng đồng xứ đạo chúng ta luôn tỉnh thức / để giúp nhau từ bỏ thói xấu, say sưa trễ nải / và sẵn sàng đón tiếp Chúa đến.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã trao cho mỗi người chúng con một trách nhiệm trong gia đình, trong họ đạo, trong đất nước, và dạy chúng con phải tỉnh thức. . . Xin Chúa giúp chúng con luôn tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm Chúa đã trao và sẵn sàng chờ ngày Chúa đến. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Hôm ấy 28/04/96 với bài Tin Mừng Chúa Nhật về Chúa Chiên Lành, Hạt Thủ Đức A có tổ chức: MV 1-B79
Hôm ấy 28/04/96 với bài Tin Mừng Chúa Nhật về Chúa Chiên Lành, Hạt Thủ Đức A có tổ chức một Thánh lễ đặc biệt cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ tại nhà thờ Thánh Khang. Chừng 500 người trẻ tham dự, nhiều người là đệ tử của những Dòng Tu nam nữ tại Thủ Đức, nhưng phần đông chỉ là người trẻ muốn tìm hiểu và được mời cầu nguyện cho ơn gọi nói chung trong Giáo Hội. Đặc biệt trước thánh lễ có phần trình bày và giải đáp thắc mắc về ơn gọi dựa theo sứ điệp của Đức Gioan Phaolô II. Chính ở phần này một người giơ tay nêu thắc mắc về tình trạng thiếu vắng ơn gọi tu sĩ từ thành phố; phải chăng đó là dấu chỉ của mức giảm sút về ơn gọi gắn liền với trào lưu công nghiệp hoá mới bắt đầu ở Việt Nam? Đó là lúc một người trẻ từ thành phố cảm thấy có bổn phận phải chia sẻ về hoàn cảnh ơn gọi riêng của mình như sau:
Tôi tên là BẤT. Tôi tự đặt cho mình tên này để tự thú về sự bất toàn của tôi. Hôm nay tôi chia sẻ với các bạn về ơn gọi của tôi.
Đời tu đối với tôi không phải là hình ảnh hấp dẫn ngay từ ban đầu. Bằng chứng là mới xong lớp 12 tôi đã có bạn gái. Chúng tôi yêu nhau, rất thơ mộng. Vì tôi là anh hai trong nhà nên cũng phải lo phụ thêm cho gia đình, ít ra về chi phí Đại Học. Vừa đi học vừa đi làm rất là mệt. Bạn nào cùng cảnh ngộ sẽ hiểu tôi hơn, nhất là khi thấy mình học cũng không được giỏi mà làm lương cũng chẳng cao.
Hạt giống ơn gọi phải có đất nảy nở, đúng không các bạn? Riêng tôi có được hai điều may mắn này là:
1. Gia đình tôi ở trong một giáo xứ có các cha và thầy Dòng Tên, nên tôi cũng biết thế nào là tĩnh tâm bằng phương pháp Linh Thao của Thánh Inhaxiô. Quả thật, đó là thế giới của những người im hơi lặng tiếng để nghe tiếng Chúa nói.
2. Thêm nữa, tôi còn được đi đây đó với các Sư Huynh Lasan và các chị Nữ Tử Bác Ái, sống gần gũi với người nghèo. Thời điểm quan trọng xảy ra trong đời tôi khi tôi tốt nghiệp Đại Học Tổng Hợp. Đó là lúc tôi được dành một cơ hội đi Mỹ theo diện hôn nhân, do một người bạn giúp. Chắc hẳn các bạn đã biết diện này đi tương đối nhanh.
Cũng như nhiều người khác, tôi rất háo hức. Thế là tâm trí tôi bắt đầu tập trung vào hoạt động cho dự án nhắm tới tương lai rộng mở đang được hình thành, nó cuốn hút tôi vào đó. Khi ấy, tâm trí tôi chỉ toàn chạy bằng những chương trình "Đi nước ngoài". Xem ra những hình ảnh về người nghèo trước đây tôi từng gặp, cũng như những kinh nghiệm về Chúa trong Linh Thao, mờ dần đi.
Giấy tờ đang làm, hình thẻ gởi đi theo thủ tục. Một hôm, trên đường đi làm giấy tờ, bỗng nhiên tôi nghe có tiếng nói bên tai "BẤT! MÀY ĐANG LÀM GÌ ĐÓ BẤT?" Tiếng gọi cứ đều đều, rồi bỗng dồn dập hẳn lên "BẤT! MÀY ĐANG LÀM GÌ ĐÓ BẤT?" Một bên là sức hút mãnh liệt của Ý TÔI với tương lai huy hoàng bao gồm học thức, hiểu biết thế giới, được danh dự với "Mác" Việt Kiều sau này; thêm nữa là cơ hội để gặp lại người yêu cũ. Bên còn lại không phải là Ý TÔI, mà chỉ là TIẾNG GỌI "MÀY ĐANG LÀM GÌ ĐÓ BẤT?".
Đứng trước ngã ba lòng, TIẾNG GỌI mỗi lúc một to hơn lạ thường và kết quả là tôi đình lại việc làm giấy tờ và quyết định ở lại Việt Nam. Tuy tôi biết sức tôi yếu, không chắc có bước theo tiếng gọi được không, nhưng tôi tin ở Đấng gọi tôi và muốn tôi được lớn lên trong tình bạn với Ngài, để mang tình bạn đó đến với người nghèo, kể cả cha mẹ và anh em tôi là những người nghèo. Tiếng gọi đó giờ đây đối với tôi trở nên dễ thương hơn "BẤT! CON ĐANG LÀM GÌ ĐÓ?" Ước gì đời tôi luôn là tiếng đáp lại "VÂNG ! CON ĐANG THỰC THI Ý NGÀI"
Tiếng gọi cho tôi biết tôi đang làm gì và làm cho ai.
Tỉnh thức hướng tới Đấng Phục Sinh sai Thánh Linh đến.
Thử hỏi lời chia sẻ vừa trích có liên quan gì với đề tài của bài Tin Mừng hôm nay? Tác giả là người thanh niên thành phố. Anh đang háo hức làm giấy tờ để đi Mỹ theo diện hôn nhân, thì nghe tiếng gọi nội tâm chất vấn anh, đòi anh phải xét lại ý muốn của Chúa về đời anh.
Còn bài Tin Mừng hôm nay là lời kêu gọi của Chúa Giêsu liên quan tới ngày mà thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến (Mc 13,26). Đó xem ra là ngày tận thế. Khởi sự Đức Giêsu nói với các môn đệ về ngày Giêrusalem bị tàn phá (c.2). Nhưng sau đó Người lần lượt cho các môn đệ thấy những gian nan và thử thách các ông phải chịu (cc.5-13); những gian nan khác nữa sẽ đến như chưa bao giờ đã xảy ra từ tạo thành vạn vật, và sẽ không khi nào xảy ra như vậy nữa (cc.14-23).
Tất cả những biến cố nói trên đều là dấu chỉ cho biết "Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi" (c.29).
Nhưng Đức Giêsu còn lưu ý các môn đệ để các ông đừng nóng vội vì "những sự việc ấy mới là khởi đầu các cơn đau đớn" mà thôi (c.8); vì "Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc trước đã" (c.10). Nhất là, Người khẳng định để các môn đệ biết "ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi" (c.32).
Sau này trong bầu khí ấm cúng hơn, tức tại bữa tiệc ly, Đức Giêsu còn nói về việc Người sẽ trở lại (Ga 14,3) nhưng mục đích rất dễ thương là "để đem anh em về với
Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó (c.3). Đức Giêsu đoan chắc với các môn đệ rằng "Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em" (cc.18-20)
Khi Đức Giêsu nói "Anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy," Người có ý nói Người "lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha" như kinh Tin Kính ta vẫn đọc. Đức Kitô ngự bên hữu Chúa Cha theo thánh Gioan Đamaxênô, nghĩa là "Chúa được vinh quang và vinh dự. Ở đây Chúa hiện hữu như Con Thiên Chúa từ muôn thuở trước, với tư cách là Thiên Chúa đồng bản tính với Cha. Chúa ngự bằng thân xác, sau khi Ngài nhập thể và sau khi xác phàm của Ngài được tôn vinh."
Trong Giáo Hội
Đức Kitô ngự bên hữu Cha chỉ nghĩa, như Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo số 664 nói "Đức Kitô khai mở vương quyền cứu thế và hoàn tất thị kiến tiên tri Đaniên liên hệ tới Con Người: Ngài đã nhận được quyền lực, vinh dự, vương quốc, mọi dân nước tiếng nói, phục vụ Ngài. Quyền lực của Ngài kéo dài đến muôn thuở, không bao giờ qua đi và vương quốc Ngài không bao giờ bị phá hủy (Đn 7,14). Từ lúc này các tông đồ trở thành những chứng nhân của Vương quyền Ngài tới vô tận (Kinh Tin Kính Nicea-Constantinople).
Vậy thời hiện tại, theo lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay, là thời của Thánh Linh, thời chứng tá, nhưng cũng còn là thời gian được đánh dấu bằng những "truân chuyên"
(1Co 7,26), thử thách của điều xấu. Giáo Hội cũng không được miễn trừ những truân chuyên và thử thách. Thử thách đó mở đầu cho chiến đấu của ngày sau cùng, đó là thời đợi chờ và tỉnh thức theo sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay (xem GLGHCG số 672).
Thử thách trước tiên là ở nội tâm người Kitô hữu như ta thấy trong lời chia sẻ của người thanh niên bị cuốn hút vào dự án đi Mỹ theo diện hôn nhân. Một bên, như anh thú thật, là ý riêng anh bị lôi kéo do tương lai sáng láng về học thức, về hiểu biết thế giới, về sự hào nhoáng nơi hình ảnh một Việt Kiều thành công về thăm quê hương, nhất là cơ hội gặp lại người yêu cũ đang ở Mỹ. Bên kia là ý Chúa hiện thân nơi Chúa Phục Sinh, Đấng sai Thánh Linh đến để đưa từng Kitô hữu vào sự thật toàn vẹn là được kết hợp với Đấng Phục Sinh, Đấng đến giải thoát anh khỏi mọi cặm bẫy của những đam mê. Anh đã chọn ý Chúa, tức là chọn đáp lại tiếng gọi của Vua Hằng Sống trong Linh Thao, Đấng đã nói với anh: "Ý của Trẫm là muốn chinh phục cả thế gian và mọi kẻ thù địch, và nhờ thế vào trong vinh quang của CHA Trẫm: bởi vậy, ai muốn theo Trẫm, phải khó nhọc cùng Trẫm để khi đã theo Trẫm trong đau khổ, cũng được bước theo Trẫm vào vinh quang" (Linh Thao, s.95).
Tiến bước
Từ khắp nẻo đường trên thế giới, nơi mọi bậc sống, trong mọi hoàn cảnh sống, cũng một tiếng gọi đó của Chúa Giêsu đang vang dội qua suốt những năm qua. Lời chia sẻ của bạn trẻ là Bất, nên được đặt trong bối cảnh của sứ điệp của Đức Gioan Phaolô II mời gọi mọi thành phần của Giáo Hội cần phải tỉnh thức trước tiếng Chúa gọi để làm nhiều hơn nữa cho vinh danh Ngài.
Chớ gì mọi người Công Giáo và tất cả những ai mang danh Kitô hữu, biết tỉnh thức lắng nghe tiếng Chúa Thánh Linh gọi. Chúa Thánh Linh mời gọi ta đón nhận Chúa Giêsu đến cứu ta ngay giữa những ước mơ ta đang đeo đuổi. Ngài muốn ta được tự do chọn lựa những giá trị vĩnh viễn cho mình và cho đồng loại.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về lời chia sẻ của bạn Bất: Lời đó đụng chạm tới những ước mơ của bạn Bất nhưng cũng đụng chạm tới những ước mơ của chính bạn nữa chăng? Lời chia sẻ đó rõ ở điểm nào và chưa rõ ở những điểm nào? Bạn có ý kiến khác?
2. Bạn hiểu thế nào về lời khuyên tỉnh thức trong bài Tin Mừng hôm nay: Tỉnh thức để bước theo Chúa Giêsu ngay trong hoàn cảnh bạn hiện đang sống? Tỉnh thức theo lời nhắc nhở của Giáo Hội nhằm giúp bạn kết hợp với Chúa Giêsu? Tỉnh thức trước ngày tận thế sẽ đến bất ngờ? Bạn có ý kiến khác?
Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng năm B nầy, Phụng Vụ Lời Chúa hướng lòng chúng ta về việc: MV 1-B80
Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng năm B nầy, Phụng Vụ Lời Chúa hướng lòng chúng ta về việc trông đợi Thiên Chúa đến:
Is 63: 16b-17, 19b; 64: 2b-7 Bài đọc I là lời khẩn nguyện. Sau cuộc lưu đày ở Ba-by-lon, dân Do thái hân hoan trở về quê cha đất tổ. Nhưng họ sớm ngã lòng trước thức tế muôn vàn khó khăn, vì thế, họ khẩn khoản nài xin Thiên Chúa xé trời mà ngự xuống can thiệp vào lịch sử của dân Ngài. Trong suốt Mùa Vọng Giáo Hội hiểu rằng Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki tô, đã thực sự ngự đến, xé tan mây trời để mưa hồng ân xuống. Giáo Hội tin tưởng vững vàng Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử nhân loại.
1Cr 1: 3-9 Bài đọc II là lời kinh tạ ơn. Thánh Phao-lô vui mừng tạ ơn Thiên Chúa vì qua Đức Giê-su Ki-tô Thiên Chúa đã ban cho các Ki tô hữu Cô-rin-tô muôn vàn ơn phúc trong lúc chờ đợi Chúa lại đến.
Mc 13: 33-37 Trong Tin Mừng, Đức Giê-su loan báo Ngài sẽ trở lại vào lúc bất ngờ không ai biết trước được và mời gọi hãy luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón tiếp Ngài.
BÀI ĐỌC I Is 63: 16b-17, 19b; 64: 2b-7
Bản văn nầy bao gồm hai đoạn trích dẫn từ một lời khẩn nguyện mà vị ngôn sứ nhân danh toàn thể cộng đồng ngỏ lời với Thiên Chúa. Tách ra khỏi bối cảnh thực tế của nó, lời khẩn nguyện nầy nói lên nỗi xao xuyến muôn thuở của nhân loại trong cảnh khốn cùng trước sự im lặng của Thiên Chúa như thử Ngài chẳng hề quan tâm đến cuộc sống con người: “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh nhan!”.
Cộng đồng đang phải chịu cơn thử thách này là cộng đồng Giê-ru-sa-lem được trở về quê cha đất tổ sau thời kỳ lưu đày dài lâu ở Ba-by-lon. Vua Ba tư, Ky-rô, sau khi chiếm kinh thành Ba-by-lon vào năm 539 trước Công Nguyên, năm sau đó đã cho phép những người lưu đày được hồi hương. Sau khi trở về, những người nầy phải đối mặt với
biết bao khó khăn trong cuộc sống, nhất là đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan, cảnh tượng Đền Thờ hoang tàn đổ nát trơ gan cùng tế nguyệt gần một nữa thế kỷ qua. Họ toan tính bắt tay vào việc tái thiết Đền Thờ, nhưng lực bất tòng tâm. Thêm nữa, gặp phải sự chống đối của những người địa phương và nhất là sự ngăn cản có hệ thống của dân Sa-ma-ri buộc họ phải bỏ dỡ dự án.
Ấy vậy, Đền Thờ chính là dấu chỉ việc Đức Chúa hiện diện ở giữa dân Ngài. Phải chăng Thiên Chúa đã thực sự bỏ rơi dân Ngài? Lòng nhiệt thành của những ngày đầu tiên nhường chỗ cho nỗi thất vọng đắng cay.
Ở giữa họ, một vị ngôn sứ vô danh, được gọi I-sai-a đệ tam, củng cố niềm tin của họ và hướng dẫn lời cầu nguyện của họ. Chính lúc đó, bằng ngòi bút của mình, ông đã viết nên lời khẩn nguyện nầy như phương thế cuối cùng:“Lạy Chúa, Ngài là Cha chúng con!”.
1. “Lạy Chúa, Ngài là Cha chúng con”.
Lời khẩn nguyện cùng “Thiên Chúa là Cha chúng con” ở đây là độc nhất vô nhị trong toàn bộ Cựu Ước. Chúng ta không gặp thấy như vậy trong các Thánh vịnh, Thánh thi hay trong những lời nguyện của Cựu Ước. Việc kêu cầu “Thiên Chúa là Cha chúng con” được lập đi lập lại đến ba lần trong lời khẩn nguyện nầy (hai lần trong đoạn trích hôm nay).
Thật ra, tình phụ tử của Thiên Chúa là một khái niệm thông thường và thường được nhắc đi nhắc lại: Thiên Chúa là Cha vì Ngài là Đấng Tạo Hóa; Thiên Chúa là Cha vì Ngài đã chọn dân Ít-ra-en làm “con của mình” (Đnl 32: 6). Nhưng danh xưng nầy chưa bao giờ được gặp thấy trong các lời cầu nguyện. Thật đáng lưu ý khi sự kiện nầy đột nhiên xảy đến sau cuộc lưu đày được xem như một thử thách thanh tẩy lớn lao. Vì thiếu nơi phụng tự và hy lễ, những người lưu đày đã nội tâm hóa tâm tình tôn giáo của mình. Mối quan hệ của họ với Thiên Chúa không còn hời hợt bên ngoài ở nơi các nghi thức phụng tự nhưng đã đạt đến chỗ tâm giao mật thiết hơn.
2. “Đấng cứu chuộc chúng con”.
Danh xưng “Đấng cứu chuộc” được dịch từ nguyên ngữ Do thái: go’el, từ ngữ nầy có một ý nghĩa chính xác, nhưng khó lĩnh hội, vì không có từ ngữ tương đương trong các định chế của chúng ta. Từ Go’el chỉ một người bà con thân thuộc có phận sự bênh vực thân nhân của mình bị xúc phạm hay bị áp bức, chuộc lại người thân bị sa vào cảnh đời nô lệ (nhất là trong trường hợp nô lệ vì nợ nần), đồng thời đảm nhận trọng trách báo thù (đây là vai trò hàng đầu vào thời du mục). Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (vị ngôn sứ của thời lưu đày) đã thường nhắc nhở rằng Đức Chúa là go’el của dân Ngài, Ngài sẽ chuộc lại dân khỏi cảnh đời nô lệ Ba-by-lon. Sau khi trở về, danh xưng nầy được lập đi lập lại thông thường trên môi miệng của những người hồi hương.
3. “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống…”
“Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan!”. Lời nguyện xin này ám chỉ rất rõ nét đến việc Thiên Chúa tỏ mình ra trên núi Xi-nai trong cảnh tượng hùng vĩ: núi non rung chuyển dữ dội và khói tỏa mây mù bao phủ đỉnh núi. Dân Ít-ra-en đã thường hoài niệm những giây phút đặc ân nầy. Phải chi Thiên Chúa lại ngự xuống để tái thiết Đền Thờ và Thành Thánh!
4. “Ngài đã ngự xuống…”
“Ngài đã ngự xuống, núi non đã rung chuyển trước Thánh Nhan. Từ cổ chí kim, thiên hạ chưa hề được ai nói cho biết, tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được thấy có vị thần nào, ngoài Chúa ra, đã hành động như vậy cho kẻ trông cậy ở nơi mình. Ngài đã đón gặp kẻ hoan hỹ ăn ngay ở lành và nhớ đến Ngài, khi theo các đường lối Ngài chỉ dạy”. Bất ngờ, các động từ của đoạn văn nầy đều ở thì quá khứ. Ở đây, bản văn được dịch theo bản dịch La-tin của thánh Giê-rôm, được gọi “Bản Phổ Thông” (Vulgata). Theo thánh nhân, nguyên bản Do thái ở thể cầu chúc hay nguyện ước phải được hiểu như chuyện đã xảy ra, bởi vì ước nguyện của vị ngôn sứ đã xảy ra rồi. Trời đã bị xé ra. Thiên Chúa đã đáp ứng nỗi mong chờ của con người vượt quá mọi niềm hy vọng. Ngài đã trở thành một người ở giữa họ. Đối với chúng ta, như đối thánh Giê-rôm, lời nguyện ước của vị ngôn sứ đã được ứng nghiệm ở nơi biến cố nhập thể của Đức Giê-su Ki tô.
Sau khi đã sửa đổi bản văn cho thích hợp với niềm tin của mình, bản dịch lại được tiếp tục theo nguyên bản. Lời khẩn nguyện lại tiếp tục bình thường: lời ca ngợi Thiên Chúa xen lẫn với lời trách cứ vì Thiên Chúa “bỏ rơi” dân Ngài, nhưng cũng khiêm tốn thú nhận lỗi lầm và bày tỏ niềm tin tưởng. Một lần nữa Thiên Chúa được ngỏ lời là “Cha chúng con”.
Bài đọc I chấm dứt với hình ảnh Thiên Chúa-người thợ gốm, ám chỉ đến chuyện tích sáng tạo xưa ở chương 2 của sách Sáng Thế. Hình ảnh Thiên Chúa như người thợ gốm nhào đất sét nắn nên con người trên chiếc bàn xoay thuộc về gia sản thần thoại của những nền văn hóa xưa. Hình ảnh nầy diễn tả việc Thiên Chúa gắn bó với công trình của Ngài. Có một sự đối nghịch giữa “quyền lực của Ac thần” nhằm tiêu diệt con người và quyền lực của Đấng Tạo Hóa, Đấng làm cho con người, vốn đất sét mõng dòn yếu đuối, trở thành kiên trung bền vững khi Ngài tha thứ tội lỗi cho họ.
BÀI ĐỌC II 1Cr 1: 3-6
Bài đọc II được trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô. Đoạn thư này được trích đọc vào Chúa Nhật I Mùa Vọng vì đề cập đến việc các Ki tô hữu mong chờ “ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”.
1. Ngày của Đức Ki-tô:
Chúng ta lưu ý rằng thánh Phao-lô biến đổi diễn ngữ quen thuộc của các ngôn sứ: “Ngày Đức Chúa” thành “Ngày Đức Giê-su Ki-tô”. Dưới ngòi bút của thánh nhân, Đức Chúa chính là Đức Giê-su Ki-tô, và ngày Đức Chúa chính là ngày Đức Giê-su Ki-tô trở lại trong vinh quang. Trong vài dòng cuối cùng của đoạn trích ngắn nầy, thánh nhân lập lại đến ba lần: “Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”. Những Ki tô hữu tiên khởi, như sách Công Vụ Tông Đồ làm chứng, đã ban tước hiệu nầy cho Đức Ki tô, chính Ngài đã công bố rằng “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28: 18).
2. Ngày chứa chan hy vọng:
Theo cùng viễn cảnh của các ngôn sứ, “Ngày Đức Chúa” rõ ràng là ngày Chung Thẩm, thánh Phao-lô nhắc nhở cho các tín hữu Cô-rin-tô phải “nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô”. Nhưng việc người Ki tô hữu mong đợi Chúa đến khác với dân Cựu Ước, bởi vì ngay từ bây giờ, họ sống trong sự hiệp thông với Đức Ki-tô rồi; họ sống trong Ngài. Sự mong đợi của họ chứa chan hy vọng, bởi vì trong niềm mong chờ của họ Ngài hiện diện ở giữa họ rồi.
TIN MỪNG Mt 13: 33-37
Đoạn Tin Mừng nầy được định vị ở cuối bài diễn từ dài về cánh chung của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài vài ngày trước cuộc Tử Nạn của Ngài (13: 1-37). Các môn đệ theo Ngài lên núi Ô-liu và ở đó, họ chiêm ngưỡng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đức Giê-su loan báo cho họ Đền Thờ sẽ bị phá hủy thành bình địa, và từ gợi ý nầy đến gợi ý khác, Ngài nói với các ông những tai ương hoạn nạn sẽ đánh dấu thời tận thế, trước khi Ngài ngự đến.
1. Bố cục.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, “Đức Giê-su nói với các môn đệ của Ngài về ngày quang lâm của Người”. Vì thế, Ngài bắt đầu khi khuyên các môn đệ Ngài: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến”, và kết thúc khi lập lại lời khuyên nầy nhưng mở rộng ra với hết thảy mọi người: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người: hãy canh thức!”. Ở giữa là một dụ ngôn minh họa cho lời khuyên chủ đạo nầy.
Trong lời khuyên mở đầu, cách nói “Hãy coi chừng” theo tỉếng Hy lạp mang một ý nghĩa cụ thể: “Hãy mở mắt” (13: 5, 9, 23). Vì thế, rất phù hợp với dụ ngôn về người giữ cửa phải luôn luôn mở mắt lắng tai trong tư thế sẵn sàng để nhận ra bước chân chủ trở về vào một lúc nào đó trong đêm khuya thanh vắng.
2. Dụ ngôn:
Đức Giê-su tự ví mình với chủ nhà trẩy đi phương xa và sẽ trở về bất ngờ mà không báo trước. Vì thế, các môn đệ của Ngài được ví như người giữ cửa phải canh thức đợi chủ trở về. Người giữ cửa là hình ảnh người gác đêm với sứ mạng rõ ràng là luôn luôn ở trong tư thế tỉnh thức trông chờ.
Chủ nhà sẽ trở về vào lúc chập tối hay nữa đêm hoặc lúc gà gáy hay tảng sáng. Chúng ta nhận ra ở đây đêm được chia thành bốn canh theo tập quán của người Rô-ma chứ không là ba canh như tại người Do thái (Lc 12: 38), còn người Việt Nam chúng ta lại phân chia “đêm năm canh, ngày sáu khắc”. Chi tiết nầy là chữ ký của thánh Mác-cô, thánh ký hiện ở Rô-ma bên cạnh thánh Phê-rô mà ông là thư ký. Thánh ký viết Tin Mừng cho cộng đoàn Ki-tô hữu Rô-ma, và rộng lớn hơn, cho thế giới chịu ảnh hưởng văn hóa Rô-ma.
3. Biểu tượng của “Đêm”.
Thánh Lu-ca kết thúc đoạn Tin Mừng nầy với lời căn dặn của Đức Giê-su:“Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!”. Bối cảnh của toàn bộ bài diễn từ về cánh chung nầy là câu chuyện riêng tư của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài (13: 3-4), nhưng ở đây lời kêu gọi khẩn cấp phải tỉnh thức được gởi đến cho “hết thảy mọi người”, bởi vì sứ điệp nầy liên quan đến nhiều thế hệ theo sau nữa. Phải canh thức; phải ở trong tư thế sẵn sàng đợi chủ trở về. Rõ ràng chính trong đêm mà người ta phải canh thức. Chắc chắn hình ảnh “đêm” được nhấn rất mạnh ở đây: đêm là thời gian của bóng tối, nghĩa là môi trường của sự Ác. Người Ki tô hữu phải cảnh giác đừng để mình sa vào những việc làm ám muội gian ác.
Chủ nhà có thể đến vào lúc nữa đêm và gặp thấy những tôi tớ của mình đang ngủ…Các nhà chú giải nghĩ đến khoa thần bí Do thái về “Bốn Đêm” nhấn mạnh Lịch Sử thế giới. Bốn đêm được đánh dấu bởi bốn lần Thiên Chúa can thiệp dứt khoát:
- Đêm của công trình Sáng Tạo. - Đêm Thiên Chúa ký kết giao ước với ông Áp-ra-ham và hứa với ông việc sinh hạ I-xa-ác.
- Đêm của cuộc Xuất Hành: dân Do thái vội vã rời đất Ai-cập và được cứu thoát.
- Đêm của ơn cứu độ trong tương lai, vương quyền của Thiên Chúa ngự đến một cách mầu nhiệm.
Thêm nữa, đêm Đức Giê-su cầu nguyện cũng trên chính núi Ô-liu nầy trước giờ khổ nạn của Ngài. Chính trong đêm ấy, sau khi cầu nguyện một mình, Ngài trở lại và gặp thấy các ông đang ngủ, Ngài nói với các ông: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (14: 38).
Tai nạn giao thông ngày càng gia tăng khốc liệt, cướp đi sinh mạng của trên chục ngàn người và: MV 1-B81
Tai nạn giao thông ngày càng gia tăng khốc liệt, cướp đi sinh mạng của trên chục ngàn người và gây ra thương tật, tai hoạ cho hàng chục ngàn người khác mỗi năm tại Việt Nam.
Nguyên nhân chính gây ra tai nạn giao thông là người lái xe không tỉnh táo. Phải lái xe suốt đêm trường trên những con đường dài thăm thẳm khiến người lái thiếp đi lúc nào không hay. Một số khác mất tỉnh táo vì men rượu, nên không thể chủ động và phản ứng kịp thời khi tình huống xấu bất chợt xảy ra. Thế là tai hoạ và chết chóc chụp xuống trên đầu nhiều người thật khủng khiếp.
Khi tài xế ngủ gật, say rượu bia mà lái xe thì nguy cơ gây nên cái chết cho mình và cho người liên hệ hầu như chắc chắn. Chính vì sự thiếu tỉnh thức dễ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng khôn lường nên Chúa Giê-su đã nhiều lần kêu gọi mọi người đừng mê muội đắm đuối, nhưng hãy luôn luôn tỉnh thức.
Hãy tỉnh thức như người tôi tớ chong đèn đợi chủ đi ăn cưới mãi đến hai hoặc ba giờ sáng mới về (Luca 12, 35-48); hãy tỉnh thức như người chủ nhà canh phòng kẻ trộm đột nhập giữa đêm khuya (Mt 24, 42-44); hãy tỉnh thức như người quản lý được người chủ đi xa giao trọng trách quán xuyến việc nhà mà không biết giờ nào chủ trở lại kiểm tra công việc đã được giao phó (Mc 13, 33-37. Lc 12, 42-46) …
Trong các trường hợp được nêu trên đây, ai tỉnh thức sẽ nhận được phần thưởng lớn lao và ai mê ngủ sẽ phải gánh lấy hậu quả tai hại.
*****
Không tỉnh thức sẽ gây ra nhiều tai họa
Mỗi người chúng ta là những người tài xế điều khiển chiếc xe cuộc đời của mình, có trách nhiệm với vận mệnh đời đời của mình cũng như những người liên hệ.
Nếu những nhà lãnh đạo cao cấp của đất nước không tỉnh thức, chắc chắn sẽ gây ra hậu quả khôn lường cho đất nước, cho dân tộc và cho thế giới.
Nếu những nhà lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo không tỉnh thức thì cũng sẽ dẫn đưa hàng triệu tín đồ của mình lao vào con đường lầm lạc.
Vị chủ chăn trong giáo xứ hay bậc phụ huynh trong các gia đình cũng đều là những "tài xế" điều khiển những chiếc xe Chúa trao cho mình quản lý, nếu không tỉnh táo, không sáng suốt thì sẽ gây phương hại cho mình cũng như cho nhiều người khác.
Không để cho mình mất tỉnh táo
Người lái xe đường dài ban đêm không bao giờ dùng bia, rượu, những chất gây ngủ hoặc bất kỳ loại thức ăn nước uống nào làm cho đầu óc mất tỉnh táo.
Là tài xế cầm lái chiếc xe đời mình, chúng ta quyết không để cho men say của lạc thú, bóng tối của dục vọng, những cơn lốc của đam mê… làm mờ tối lương tri, làm thui chột con mắt linh hồn, làm mê muội tâm trí, khiến chúng ta không còn tỉnh táo để lèo lái đời mình theo đường lối Chúa Giê-su.
Cần Lời Chúa thức tỉnh
Người chạy xe đêm đường dài cần đến cà phê, thuốc lá, nước tăng lực, khăn lạnh… để làm cho đầu óc luôn tỉnh táo hầu tránh được tai nạn giao thông, khỏi làm thiệt hại mạng sống mình cũng như những người liên hệ; thì chúng ta, những người đang lèo lái đời mình qua nhiều khúc quanh của cuộc sống, xuyên qua bóng đêm cuộc đời, cũng luôn cần Lời Chúa để lay tỉnh chúng ta khỏi ngủ mê.
- Khi chúng ta chìm đắm trong lạc thú trần gian, Lời Chúa sẽ kéo chúng ta ra khỏi vũng lầy mê đắm.
- Khi chúng ta ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, Lời Chúa như tấm phao kỳ diệu cứu ta khỏi đắm chìm.
- Khi chúng ta bị lôi kéo, đẩy xô bởi nhiều lớp sóng tham lam, ích kỷ, hận thù… Lời Chúa sẽ giải cứu chúng ta thoát nạn.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần đem Lời quyền năng của Chúa Giê-su soi sáng và lay tỉnh chúng con khỏi mê muội, sai lầm. Amen.
Hôm nay chúng ta bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Năm phụng vụ bắt đầu từ ngày Chúa nhật I: MV 1-B82
Hôm nay chúng ta bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Năm phụng vụ bắt đầu từ ngày Chúa nhật I Mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa trông đợi. Trước mắt chúng ta trông đợi Chúa đến trong ngày lễ Giáng sinh với tâm hôn vui tươi và đạo đức sau bốn tuẫn lễ đã chuẩn bị kỹ càng.
Như thế cũng chưa đủ, nhân bầu khí của Mùa Vọng này, Giáo hội hướng lòng ta về ngày quang lâm của Chúa, Ngài sẽ đến trần gian lần thứ hai để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Ngoài ra, chúng ta cũng còn phải trông đợi Chúa đến với chúng ta trong ngày sau hết của đời mình. Vì thế, Giáo hội muốn dựa vào bài Tin mừng hôm nay để nhắc nhở chúng ta là Chúa sẽ đến với ta cách bất ngờ, thái độ của chúng ta là phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến.
I. MÙA VỌNG TRONG ĐỢI CHỜ.
1. Dân Israel đợi chờ.
Lịch sử Israel là một cuộc chờ đợi. Trong suốt thời gian 70 năm lưu đầy bên Babylon, dân Chúa đã thấm mệt: bị kẻ thù áp bức, hành hạ, khinh bỉ... Họ chờ Đấng Messia đến thiết lập nền công chính trên trái đất này. Sự đợi chờ đã đến cao điểm và tiên tri Isaia đã thay lời cho dân chúng kêu lên lời xin thảm thiết:”Trời cao hãy đổ sương xuống”.
Trong cảnh khốn cùng, dân Israel mới hồi tỉnh lại và nhận ra mình đã đi sai đường lối, đã lỗi phạm đến Chúa nên đã kêu xin:
“Lạy Chúa, chúng con đã phạm tội. Chúng con như chiếc áo dơ bẩn... Chúa đã ẩn nấp không cho chúng con nhìn thấy và Chúa đã phó mặc chúng con cho quyền lực tội lỗi. Nhưng Chúa là Cha, chúng con là đất sét trong tay Chúa là người thợ gốm, tất cả chúng con đều do bàn tay Chúa làm nên... Xin Chúa hãy băng qua các tầng trời mà ngự xuống”.
Giáo hội dùng những lời đó để làm lời kinh trong Mùa Vọng này. Chúa Kitô thành Nazareth đến, đáp lại mối kỳ vọng ngàn đời của thế giới. Chúng ta, Giáo hội lữ hành đang mong đợi Chúa đến để đánh tan sự thất vọng và khơi dậy niềm tin và hy vọng. Đó là Mùa Vọng khởi đầu hôm nay.
2. Chúng ta chờ đợi.
VỌNG tức là chờ đợi trông mong. Đã chờ đợi thì luôn có hy vọng. Đã hy vọng thì luôn có tin yêu, ví dụ hai người yêu chờ đợi nhau, hoặc chờ đợi người đi xa về. Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ “Chúa đến” thường được hiểu bằng 4 cách:
- Chúa đến trong lịch sử nhân loại. - Chúa đến trong ngày phán xét chung. - Chúa đến trong giờ chết của mỗi người. - Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.
Như vậy, Chúa đến với loài người: lần thứ nhất và thứ hai công khai, còn các lần khác thì có tính cách âm thầm và riêng tư.
a. Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã đến trong hang đá Belem để thực hiện việc cứu chuộc nhân loại. Ngày nay ta chỉ còn kỷ niệm ngày Ngài giáng sinh tức là đến lần thứ nhất. Vậy mùa Vọng gồm có 4 tuần dọn lòng để mừng Chúa Giáng sinh ngày 25 tháng 12 mỗi năm.
b. Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu lại xuống thế một lần nữa với tư thế là một vị Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày nào việc đó sẽ xẩy ra, chỉ việc chờ đợi trong hy vọng. Vì thế, chúng ta phải sống trong mùa vọng triền miên vì không biết ngày nào giờ nào Ngài sẽ đến.
c. Chúa đến giữa hai lần: Ngoài ra, Chúa sẽ đến với chúng ta giữa lần thứ nhất và lần thứ hai. Chúa sẽ đến với riêng từng người. Đó là giờ chết. Ngày tận thế thì còn xa vời và mù mờ lắm, còn việc Chúa đến gọi ta trong giờ sau hết thì gần. Nhưng nó cũng giống như Chúa đến lần thứ hai, không ai biết được ngày nào giờ nào Ngài sẽ đến vì “giờ chết đến như kẻ trộm”.
d. Chúa đến trong ơn thánh: Giáo hội dạy chúng ta vẫn phải mong đợi, và hàng năm Giáo hội tổ chức Mùa Vọng, không phải chỉ cốt để chuẩn bị lễ Giáng sinh, không phải chỉ dạy chúng ta gây dựng tâm tình mong đợi trong mùa đó, nhưng Giáo hội muốn nhân không khí lễ Giáng sinh dạy chúng ta phải có tâm tình mong đợi thường xuyên, phải mong đợi Chúa hằng ngày: Chúa đến với ta trong ơn thánh của Ngài, nhất là trong Bí tích Thánh Thể. Ngoài ra, chúng ta mong đợi Chúa trong ngày ta từ giã cuộc đời để về với Chúa.
II. ĐỢI CHỜ TRONG TỈNH THỨC.
1. Giáo huấn của Giáo hội.
Giáo hội ý thức về cuộc sống ở trần gian này: mọi sự sẽ qua đi và mọi người đều phải chết. Đây là một định luật khắt khe buộc mọi người phải tuân thủ. Nhưng Giáo hội cũng dạy chúng ta phải dọn lòng chờ Chúa đến, phải tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa vì Chúa đến bất ngờ. Công đồng Vatican 2 đã diễn tả tư tưởng ấy trong hiến chế Lumen gentium:
“Đàng khác, vì không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trên trần gian chấm dứt (Dt 9,27), chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Người và được liệt vào số những người được chúc phúc (Mt 25,31-46) chứ không như những tôi tớ khốn nạn và lười biếng (Mt 25,26) sẽ bị đẩy vào lửa đời đời (Mt 25,41), vào chốn tối tăm, nơi khóc lóc và nghiến răng (Mt 22,13 và 25,30” (L.G. số 48).
2. Phải tỉnh thức chờ đợi Chúa đến.
a) Có hai kiếp sống.
Bất cứ ai sinh ra ở trên trần gian này đều có hai kiếp sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu; một đời sống hiện tại và đời sống tương lai; một đời sống hành hương và một đời sống quê thật; một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, đó là lần bái yết Chúa đầu tiên và duy nhất.
b) Một cuộc chuyển tiếp.
Không ai có thể sống mãi trên trần gian này vì số phận của con người thường phải qua 4 giai đoạn: sinh, lão, bệnh, tử. Chết là giai đoạn cuối cùng và kết thúc. Chết không phải là hết, không phải là đi vào hư vô mà chết chỉ là một sự chuyển đổi:”Sự sống thay đổi chớ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian này bị hủy diệt tiêu tan thì là được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời”(Kinh tiền tụng lễ An táng). Hiểu được ý nghĩa ấy, thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói:”Tôi không chết, tôi đi vào cõi sống”
c) Cuộc chuyển tiếp bất ngờ.
Chết là một công lệ, không ai thoát được công lệ đó, nhưng có một điều làm cho day dứt là không biết lúc nào mình sẽ chết vì giờ chết như “người thợ gặt không ngủ trưa” (Cervantes). Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng loan báo cho chúng ta biết là Ngài sẽ đến gọi chúng ta bất cứ lúc nào, nên phải luôn sẵng sàng tỉnh thức. Để nói về điểm bất ngờ này, Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người canh cửa đợi ông chủ về. Trước khi trẩy đi xa, Ông chủ gọi các đầy tớ giao công tác cho mỗi người. Riêng tên giữ cửa, Ông dặn phải tỉnh thức mà coi chừng lúc Ông trở về. Ông căn dặn tên giữ cửa vì là phận sự riêng của hắn, nhưng Ông cũng có ý nhắn nhủ cho tất cả. Phải tỉnh thức vì không biết chắc vào giờ nào chủ về: chập tối, nửa đêm, gà gáy, hay ban mai. Dụ ngôn cốt nhấn mạnh tư tưởng: mọi người cần phải tỉnh thức vì Ông chủ (là Con Người, cũng là Chúa Giêsu) không báo trước giờ Ngài sẽ đến.
Những điều Chúa nói ở đây là đang nói cho 3 tông đồ Phêrô, Giacôbê và Anrê (Mc 13,3), nhưng Chúa nhấn mạnh là Chúa có ý nói với tất cả mọi người:”Điều Ta bảo cho chúng con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là hãy tỉnh thức”.
Việc Ông chủ trở về ban đêm có ý nhấn mạnh rằng: ban đêm thường ít ai để trí vì ai nấy cũng dễ mê ngủ, vì thế cần phải đề cao cảnh giác, tỉnh thức và sẵn sàng luôn. Ban đêm còn diễn tả ý nghĩa thời gian hiện tại ở trần gian, để phân biệt với thời gian ở Nước Trời đời sau là ban ngày. Trong khi sống ở trần gian này, cần phải tỉnh thức và sẵn sàng, có nghĩa là phải sống trong ơn nghĩa Chúa, có đủ điều kiện để được vào Nước Trời ở đời sau.
Truyện: con quạ thiếu cảnh giác.
Một người dân Mỹ bị đám quạ hoang phá hoại ruộng ngô. Mang súng ra bắn nhưng không sao lại gần vì trên cái cọc thông cao có một con đậu canh chừng khi các con khác ăn. Len lỏi lâu dưới hố sâu ông lại gần được mà con gác không hay biết. Một tràng đạn nổ, những con sống sót bay vù lên, nhưng không bay đi xa, chúng sà xuống con canh gác với những tiếng kêu giận dữ. Con chim khốn nạn này bị đồng bọn xử một cách tàn nhẫn và nhanh chóng, không thể ở lại trong bầy, phải rời hàng ngũ đi nơi khác
Đoạn Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Chúa sẽ đến, nhưng chúng ta không biết ngày giờ nào. Vậy phải canh thức để sẵn sàng đón Ngài khi Ngài đến. Canh thức sẵn sàng như người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể, như người được trao vốn đem kinh doanh sinh lời lãi, và cuối cùng bằng đời sống yêu thương phục vụ. Đó là cách thức chờ đợi Chúa đến.
Phải tỉnh thức chờ đợi Chúa đến. Tỉnh thức ở đây là phải sẵn sàng chờ đợi. Từ ngữ “SẴN SÀNG” nói lên một thái độ sinh động chứ không phải ù lỳ, ngồi một chỗ mà chờ đợi. Sẵn sàng ở đây là phải nỗ lực làm việc với ý thức rằng mình đang phải làm việc để đợi chờ Chúa đến. Làm việc ở đây là làm sinh sôi nảy nở ra các ơn Chúa đã ban cho ta, phải sinh hoa kết quả tốt là các việc lành. Khi Chúa đến tính sổ linh hồn, ta sẽ như một tên đầy tớ tỉnh thức đi đón Chúa, trình với Ngài các việc làm của ta để được lĩnh phần thưởng.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta có thể nói như thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu:”Tất cả là hồng ân”. Hồng ân của Chúa có thể đến từ bất cứ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay khi đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Điều quan trọng là chúng ta biết nhìn ra đó là ân ban của Chúa, và mỗi ân ban là một “Chúa đến viếng thăm”.
Phụng vụ thánh lễ hôm nay nhắc nhở cho chúng ta dọn mình: đón nhận ơn Chúa trong mỗi giây phút hiện tại, chờ đợi Chúa đến trong giờ chết và trong ngày chung thẩm của nhân loại. Thái độ chúng ta phải có là hãy sẵn sàng theo như lời khuyên rất khôn ngoan của chân phước Charles de Foucauld:”Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Nếu những cuộc thăm viếng là những hồng ân của Chúa, thì chúng ta đừng để mất những hồng ân ấy chỉ vì sự thờ ơ, thiếu chuẩn bị, không sẵn sàng.
Sẵn sàng còn có nghĩa là đã và đang bắt tay vào việc. Việc chờ đợi Chúa đến đây là phải có tinh thần sám hối, sửa đổi lại con người của mình cho phù hợp với ý Chúa. Bài đọc I hôm nay dạy chúng ta một cách tỉnh thức chờ đợi rất hay: như miếng đất sét trong tay người thợ gốm. Tiên tri Isaia đã nói lên một sự thật:”Chúng tôi là đất sét, còn Chúa là người thợ gốm”. Sự thật này đã được sách Sáng thế nói lên ngay từ đầu (St 2,7). Kiểu diễn tả cụ thể của tác giả sách Sáng thế và của tiên tri Isaia có ý rằng: con người lệ thuộc vào ThiênChúa.
Sự lệ thuộc chỉ toàn có lợi. Miếng đất sét chịu lệ thuộc bàn tay uốn nắn của người thợ gốm thì sẽ trở thành những vật dụng rất hữu ích, thậm chí trở thành những tác phẩm mỹ thuật rất đẹp.
Vậy, tỉnh thức và chờ đợi Chúa trong Mùa Vọng là làm như miếng đất sét trong tay người thợ gốm: ngoan ngoãn vâng theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để cho Chúa uốn nắn mình thành những tác phẩm tuyệt vời đúng ý Chúa (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ B, tr 12).
Chúng ta là những người đầy tớ đợi chủ về nhưng không biết vào lúc nào. Chúng ta chỉ biết sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Trong lúc chờ đợi, chúng ta phải làm tròn phận vụ của mình. Chúng ta phải sống dường như việc Ngài trở lại lúc nào cũng là việc bình thường. Ngài đã giao cho chúng ta nhiệm vụ quan trọng là mỗi ngày phải làm việc thích hợp để Ngài xem xét, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để gặp mặt Ngài mặt đối mặt. Cả đời sống chúng ta là việc chuẩn bị để gặp mặt Vua.
Truyện: ngày mai ông chủ sẽ đến.
Ngày kia có một khách du lịch dừng chân trước một biệt thự rất sang trọng cạnh một hồ nước trong xanh ở Thụy sĩ, nhưng không phải trên con đường mà khách vãng cảnh thường qua lại. Khách du lịch gõ vào hàng rào sắt, tức thì một cụ già coi vườn ra mở cổng nặng nề vẫn đóng chặt. Sung sướng vì được thấy một người khách, cụ dẫn ông tham quan cả một khu vườn rộng lớn. Người khách hỏi:
- Cụ ở đây bao lâu rồi? - Thưa ông, tôi ở đây đã 24 năm. - Chủ của cụ ít khi nghỉ tại biệt thự này, có phải không? - Cụ đã trông thấy ông mấy lần rồi? - Tôi đã trông thấy ông bốn lần. Lần cuối cùng cách đây đã 12 năm. - Ông có viết thư cho cụ chăng? - Chẳng bao giờ. - Thế ai trả công cho cụ? - Người quản gia của ông. - Thế người quản gia này có năng đến đây không? - Tôi chưa hề thấy mặt ông. Ông ấy liên lạc với tôi qua thư từ. - Thế thì ai hưởng sự đẹp đẽ này? - Trừ vợ tôi và tôi thì không ai hưởng hết. - Tuy vậy, cụ coi sóc vườn này, sân hoa này, bãi cỏ này cách chu đáo, dường như ngày mai chủ của cụ sẽ đến. - Ồ, Thưa ông, tôi làm như chủ tôi phải đến ngày hôm nay, vâng thưa ông, ngày hôm nay.
Mùa Vọng đã bắt đầu. Mùa Vọng là mùa trông đợi trong tin yêu, đợi ngày Chúa đến trong ngày tận thế. Nhưng cũng là trông đợi giây phút cuối cùng của mỗi người khi đi ra gặp Chúa. Chúng ta phải chuẩn bị hành trang cho lần gặp Chúa ấy và hy vọng rằng cuộc gặp gỡ này sẽ đem đến cho ta sự vui mừng khi được nghe Chúa nói lời êm ái:”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Nước Trời dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa, Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngưoi đã đến thăm”.
Tỉnh thức khác với tỉnh ngủ. Tỉnh ngủ là người lúc ngủ, ngủ rất tỉnh, một tiếng động nhỏ đủ làm: MV 1-B83
Tỉnh thức khác với tỉnh ngủ. Tỉnh ngủ là người lúc ngủ, ngủ rất tỉnh, một tiếng động nhỏ đủ làm cho người đó thức giấc. Người tỉnh ngủ dường như khó ngủ. Dỗ được giấc ngủ rất khó nhưng khi ngủ lại rất tỉnh. Trong khi người dễ ngủ lại ngủ say, ngủ mệt. Động đâu mặc động tôi cứ ngủ ngon. Người tỉnh ngủ hiếm có giấc ngủ ngon. Những gì hiếm thường quí vì thế người ngủ tỉnh rất quí giấc ngủ ngon. Thiếu tỉnh thức xảy đến cho cả người tỉnh ngủ lẫn ngủ ngon. Ngủ tỉnh sát cánh với khó ngủ nên hại cho sức khoẻ nhưng không hại phần tâm linh. Trong khi thiếu tỉnh thức nguy hiểm vô cùng vì hại phần tâm linh. Ma quỉ đưa ra nhiều chước cám dỗ với hy vọng khi thiếu tỉnh thức con người sa vào cạm bẫy của chúng.
Tỉnh ngủ, ngủ không được nên có đêm đọc kinh dỗ giấc ngủ. Đây không phải là hình thức cầu nguyện tốt nhất nhưng không hại vì đó là việc làm đạo đức. Ngủ không được nên đọc kinh cầu nguyện. Cầu nguyện tốt nhất là cầu xin vì lòng yêu mến, ước ao được gặp Chúa. Vì ước ao như thế nên tâm hồn thường tỉnh thức để cầu nguyện. Cầu ơn tỉnh thức để tránh cơn cám dỗ. Tránh được cám dỗ là trung thành với Chúa. Như thế có thể hiểu thiếu tỉnh thức rất dễ sa chước cám dỗ. Nói ngược lại, sa chước cám dỗ xảy ra vào lúc người đó thiếu tỉnh thức.
Không biết có phải là lí luận luẩn quẩn không nhưng rõ ràng thiếu tỉnh thức gây nên bởi thiếu cầu nguyện. Thiếu cầu nguyện nên thiếu ơn Chúa. Thiếu ơn Chúa tâm hồn trở nên chai đá. Tâm hồn chai đá là tâm hồn đi lạc đường lối Chúa. Vì chai đá nên tâm hồn không còn biết kính sợ Chúa nữa.
Không tôn thờ Chúa sẽ theo tà thần, một loại chúa nào khác. Loại Chúa do chính họ tạo ra. Có thể là ý riêng hay một tạo vật nào do Chúa dựng nên. Từ bỏ Thiên Chúa sáng tạo, yêu thương để tôn thờ một thần tượng khác chính là thờ ngẫu tượng, chúa hạng hai. Tâm hồn chai đá đó đòi bằng chứng của Thiên Chúa yêu thương, sáng tạo để tin. Tiên tri Isaiah dùng hình ảnh người thợ gốm và đồ gốm để giải thích đòi hỏi trên. Cục đất sét sẽ chẳng thể nào nhận biết người thợ nặn ra nó. Tay người thợ nặn nên có, tạo cho nó hình ảnh, nâng niu nó, nhưng nó không thể nào nhận diện ra người tạo dựng nên nó. Cùng cách hiểu đó, Thiên Chúa chúng ta tôn thờ chỉ có thể nhận diện Ngài qua những hồng ân Ngài ban trong đời. Nhận biết ta có mặt trên đời không phải do ngẫu nhiên mà do Chúa tạo thành. Dù ta có nhận Ngài, thờ phượng Ngài hay không thì Ngài cũng đã dựng nên ta.
Không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa. Is 64,4
Thiếu ơn Chúa sẽ khó chống lại cơn cám dỗ. Cơn cám dỗ đòi chứng minh Thiên Chúa hiện hữu. Sự hiện diện của ta trên đời chưa đủ sao. Trời đất biển khơi, sông ngòi cùng toàn thể vũ trụ đều theo luật tuần hoàn riêng của chúng. Ngoài ra còn bao ân huệ Chúa ban cho, như tài năng, trí nhớ, sức khoẻ, sắc đẹp. Tất cả đều có chung giải thích: do ngẫu nhiên mà có. Dựa vào ngẫu nhiên để giải thích quả là một luận cứ học đòi. Vì sao? Vì ngay từ ban đầu Thiên Chúa giáo đã giải thích Thiên Chúa tự nhiên mà có. Đây là giải thích thuyết tự nhiên nguyên thuỷ. Ngày nay với khoa học tiến bộ người ta cũng không đi xa gì hơn những gì Kinh Thánh cho biết nhiều ngàn năm trước. Người ta đồng chấp nhận vũ trụ do tự nhiên mà có nhưng khi nói đến Thiên Chúa tự nhiên mà có người ta lại đòi có bằng chứng cụ thể. Giải thích sao cho hợp lí khi người ta chối bỏ điều tự nhiên nguyên thuỷ (Thiên Chúa tự nhiên mà có) để rồi cùng chấp nhận tự nhiên thứ hai, thứ ba, (vũ trụ tự nhiên mà có).
Sa vào chước cám dỗ vì thiếu tỉnh thức. Cầu nguyện không phải chỉ đơn thuần giúp Kitô hữu liên kết với Chúa và còn là cách diễn tả tình yêu lòng mến dành cho Chúa. Cầu nguyện giúp Kitô hữu tỉnh thức, nhận thêm ơn Chúa để chống trả lại cơn cám dỗ. Chống được cơn cám dỗ giúp Kitô hữu đi đúng đường lối Chúa. Đi đúng đường lối Chúa là tâm hồn biết tôn thờ, kính sợ Chúa. Ai tôn kính Chúa sẽ được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Hưởng gia nghiệp Chúa vì người đó thực thi công lí, bác ái và yêu thương. Không tôn thờ Chúa là sống vô ơn vì không biết cảm tạ những ơn lành Người ban cho.
Ngày hôm nay Phúc âm kêu gọi Kitô hữu hãy tỉnh thức để bất cứ khi nào chủ về thì đã sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào chủ trở lại. Người sống tâm tình tạ ơn là người đã sẵn sàng vì lúc nào trong lòng họ cũng mang lòng biết ơn, cảm mến chân thành.
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của niên lịch Phụng Vụ 2012. Lời đầu tiên Chúa Giêsu: MV 1-B84
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của niên lịch Phụng Vụ 2012. Lời đầu tiên Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ: Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì chúng con không biết lúc đó là lúc nào (Mc 13,33). Lời của Chúa luôn là lời hướng dẫn và cảnh tỉnh đời sống chúng ta. Đôi khi chúng ta cảm thấy chán ngấy vì sự nhắc nhở phải tỉnh thức luôn. Biết rồi, nói mãi! Giáo Hội như người mẹ luôn luôn yêu thương và quan tâm đến con cái mình. Giáo Hội đã trung thành dùng lời Chúa trong Kinh Thánh để mời gọi chúng ta hãy đi trong đường lối của Chúa.
Cách đây khoảng 2700 năm, những lời nguyện cầu khẩn thiết của tiên tri Isaia vẫn còn vang vọng hôm nay: Lạy Chúa, tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài?(Is 63,17). Tiên tri Isaia rao giảng cho dân Do-thái khoảng giữa những năm 742-701 B.C. tại Giêrusalem. Hướng dẫn theo quan niệm thần học căn bản nói về Thiên Chúa thánh thiện và công chính đòi hỏi con phải người đáp trả tình yêu. Trong cơn thử thách, tiên tri Isaia biết rằng con người yêu đuối, đầy vết nhơ tội lỗi và sống lơ là với lề luật nhưng tiên tri Isaia vẫn van xin Chúa thương xót. Và đôi khi Isaia còn trách cứ tại sao Chúa để cho con người lạc xa đường lối của Chúa. Mặc dầu con người bị đoán xét nhưng Isaia tin rằng số người còn lại trong dân Chúa đã chọn vẫn được duy trì để đón nhận Vua Vũ Trụ từ dòng dõi Vua Đavid.
Con người trong mọi thời luôn có khuynh hướng tự lập và xuôi theo bản tính tự nhiên. Tìm thỏa mãn những khát vọng và ước muốn về cả tinh thần lẫn vật chất. Thiên Chúa rất kiên nhẫn đợi chờ trong sự hướng dẫn và huấn luyện dân riêng của Ngài. Người ta thường nói: Ngựa theo đường cũ hay tính nào tật ấy. Hướng thượng luôn là một mời gọi cố gắng không ngừng. Buông mái chèo, thuyền lại chảy xuôi theo dòng. Bước lên đường trọn lành thì chúng ta cần phải miệt mài, phấn đấu và ngước nhìn lên đích nhắm. Sống theo luật của Chúa, dân Chúa chọn cần phải hy sinh tránh xa những cách sống phàm tục và thoái hóa của cách sống tự nhiên. Qua lịch sử Cúu Độ, chúng ta biết Dân Do-thái ngày xưa cũng bị mê hoặc bởi biết bao cám dỗ của cuộc sống tục hóa, tự do, thờ thần ngoại bang và tìm thỏa mãn nhu cầu bản năng tự nhiên.
Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu nhắc nhở: Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì chúng con không biết lúc đó là lúc nào (Mc 13,33). Những lời dặn dò chỉ dậy của Chúa Giêsu đã cách xa chúng ta cả 2000 năm rồi. Hôm nay đây lời này còn có ý nghĩa gì? Đã biết bao nhiêu thời đại và thế hệ con người đã đi qua. Thế hệ này tiếp nối thê hệ kia đã đến và đã đi qua. Không có thế hệ nào hiện diện kéo dài mãi. Dù có các vua chúa quyền uy, những chế độ độc tài, những con người khát máu cũng lần lượt xuất hiện và rồi trở về cát bụi. Vinh quang đạt tới tột đỉnh trong xã hội, rồi cũng một ngày ra đi với cái xác không hồn và bàn tay trắng.
Qua nhiều thời đại, con người thời nào cũng bị nhiễm các thứ văn hóa hưởng thụ, vô thần, vật chất, tương đối và văn hóa của sự chết. Con người dần xa lối bước của Chúa. Nhất là trong thời buổi văn minh và tục hóa ngày nay, con người bị kéo lôi vào cuộc sống hưởng thụ vật chất liền tay. Có nhiều người không còn nhận ra những giá trị về tinh thần và luân lý đạo đức. Nhiều người chủ trương sống hiện thực. Tìm đáp ứng thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi cả tinh thần lẫn vật chất. Chỉ muốn cúi xuống tìm kiếm những nhu cầu hiện sinh mà quên đi nhu cầu khẩn khiết của tâm linh. Nhiều người không còn muốn nghĩ đến niềm tin vào Thượng Đế, cứu cánh của cuộc đời, không còn đến nhà thờ, không học hỏi Kinh Thánh và không cầu nguyện. Họ không còn quan tâm đến đời sống tâm linh. Sống theo cá nhân chủ nghĩa, nghĩ rằng mình là tất cả và tự mình đủ cho chính mình.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Côrintô, đã cầu chúc anh chị em đầy ân sủng và bình an trong Chúa. Trong khi mong chờ Chúa Kitô tỏ hiện, thánh Phaolô khuyên dạy các tín hữu hãy tin tưởng nơi Chúa Kitô. Hãy sống trung tín và hiệp nhất với Ngài. Chúa đã ban cho chúng ta đầy đủ các ơn cần thiết để bền vững trong ơn Chúa. Ngày Chúa tỏ hiện không phải với đám đông hay tất cả mọi người cùng một lúc mà là mỗi người hãy tỉnh thức. Vì mỗi cá nhân có một ơn gọi, sứ vụ và số mệnh riêng. Mỗi người phải chu toàn bổn phận của mình.
Theo lời dạy của Phúc âm, đã có rất nhiều người sống trong tư thế tỉnh thức và cầu nguyện. Vì không ai biết được ngày giờ Chúa sẽ viếng thăm. Giáo Hội không ngừng nhắc nhở con cái mình qua mọi hoàn cảnh đều nhớ tỉnh thức. Như dân Do-thái xưa, chúng ta cũng sẽ dễ dàng lơ là với lề luật và đường lối của Chúa. Chúng ta viện cớ là qúa bận bịu và không có đủ thời giờ. Chúng ta để mình rơi vào những bon chen vô bổ. Nhất là cuộc sống xã hội lôi kéo vào nhiều những nhu cầu đòi hỏi cần phải thỏa mãn ngay. Ngày nay có nhiều người thích sống theo kiểu thuyết tương đối. Sống đạo trung bình. Tránh không làm điều gì quá sai. Chủ trương rằng người ta sống sao, tôi sống thế. Chạy theo thói đời. Đôi khi còn ganh đua với những người ngoại để tỏ ra mình cũng rành rõi sự đời.
Bước vào Mùa Vọng là mùa mong chờ. Mong chờ Chúa ngự đến thăm viếng tâm hồn chúng ta. Không phải Chúa chỉ xuất hiện như thần chết đến mang lại sự sợ hãi nhưng Chúa đến mang sự bình an. Chúa sẽ đến gặp gỡ chúng ta qua nhiều cách thế. Chúa gặp gỡ chúng ta nơi các Bí Tích, qua Lời Chúa, qua việc cử hành Phụng Vụ và chuyên tâm cầu nguyện lắng nghe tiếng Chúa. Nhất là Chúa đến với chúng ta qua sự gặp gỡ các người anh chị em xung quanh. Chúng ta cần mở rộng cửa tâm hồn để đón Chúa. Biết rộng mở tâm hồn, chúng ta sẽ đón nhận được nhiều thứ ân sủng. Như xưa Đức Trinh Nữ Maria đã rộng mở tâm hồn nói lời Xin Vâng, Chúa đã đến cư ngụ trong cung lòng Mẹ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tỉnh thức đón nhận ân sủng của Chúa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng con sẽ không bị lỡ chuyến tầu. Ý thức rằng, con người có hướng để theo và có đích để nhắm. Cuộc lữ hành trần thế này sẽ có ngày chấm dứt và mọi người sẽ bước vào đời sống mới. Đời sống viên mãn hạnh phúc bên Chúa đời đời. Amen
Tâm trạng mong đợi, chờ mong, trông chờ nó diễn tả nỗi lòng của con người hồi hộp, nao nức: MV 1-B85
Tâm trạng mong đợi, chờ mong, trông chờ nó diễn tả nỗi lòng của con người hồi hộp, nao nức mong điều gì đó quý báu, điều gì đó mang đến cho con người niềm vui, bình an, hạnh phúc. Chắc có lẽ ai ai trong chúng ta cũng mang trong mình ít nhiều sự mong đợi, lòng ngóng chờ niềm vui, niềm hạnh phúc đến với mình. Nhìn những đứa con, đứa cháu trông đợi cha mẹ chúng đi làm về hay nhất là đợi mẹ cháu đi chợ về chúng ta thấy hay làm sao đó!
Chúng biết rằng mẹ của chúng thương chúng nên hễ đi chợ về là không ít thì nhiều chúng cũng sẽ được bọc xôi, gói chè ! Vì thế, hễ mẹ chúng đi chợ là y như rằng chúng cứ chờ, cứ đợi. Nhiều khi chúng ra tận ngoài ngõ để chờ niềm vui từ những gói chè tự tay mẹ chúng mang về cho chúng.
Tương tự thế, nhìn những đứa trẻ đi học mẫu giáo, dù là vui với các cô, các bạn. Ở với các cô, chơi chung với các bạn đồng lứa vui lắm chứ ! Nào là được ăn chung, chơi chung, đùa chung nhưng hình như chúng vẫn chưa thoả mãn với tất cả những gì mà cô mà bạn mang lại. Vì sao ? Vì tất cả những thứ ấy vẫn không mang lại cho chúng niềm vui, niềm bình an đích thực. Chúng biết rằng thời gian ở với cô, với bạn hay là chơi với cô với bạn chẳng hạnh phúc bằng được ở với cha với mẹ nên rằng cha mẹ chúng là nhất trên đời.
Ở nhà có các cháu nhỏ chúng ta sẽ thấy hình ảnh của chúng buồn cười lắm. Sáng thức dậy là ráng nằm nướng trên giường chưa muốn dậy. Phần lười biếng, phần buồn ngủ nhưng phần lớn chính là không muốn xa ba xa mẹ là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng. Chúng phải làm mình làm mẩy để được ở nhà với cha và với mẹ.
Rồi thử một buổi chiều nào đó, chúng ta đến các trường mầm non chúng ta nhìn hình ảnh những đứa trẻ đang đứng ngóng đợi cha mẹ chúng dễ thương làm sao đó. Dẫu chưa biết lúc nào ba mẹ đến nhưng mà cứ đến khi cô bảo mẫu bảo các con hãy thay đồ, rửa mặt là chúng không ai bảo ai đi thay đồ và làm vệ sinh thật là nhanh. Chẳng hiểu sao thật là thiêng liêng, thật là bí nhiệm khi nghe cô bảo mẫu nói như thế chúng làm nhanh thoăn thoắt. Thay đồ xong là chạy vụt ra sân để mà đợi mà chờ. Trong giờ học, các cô có thể bảo các cháu làm gì theo ý cô, theo bài học cô dạy nhưng đến giờ đó cô không thể nào điều khiển cháu được vì lẽ giờ đấy chỉ có một điều cần thôi là chờ ba mong mẹ.
Ngược lại với hình ảnh buổi sáng. Giờ làm sao cho nhanh để được nhìn thấy ba mẹ, để được ba mẹ đón về nên chúng không còn thiết tha với búp bê, với đồ hàng, với đồ chơi, với xe, với cộ nữa nhưng chỉ còn thiết tha sao cho mau gặp ba với mẹ mà thôi.
Nhìn lại lịch sử dân Israel ngày xưa chúng ta thấy rõ tâm trạng chờ đợi như những đứa trẻ vậy.
Do sự phản bội bất trung, họ đã bị bắt đưa đi làm nô lệ bên Babilon. Cuộc sống lưu đày không chỉ ràng buộc họ với những cảnh cùng cực, đói rét, gò bó, mà còn có cả những khe khắt trong cuộc sống tinh thần tôn giáo. Cuộc sống ấy sói mòn tinh thần và thể xác, khiến cho niềm tin vào Thiên Chúa không còn đứng vững, có khác nào như những cánh tay rời rã, bàn chân mỏi mòn.
Chờ Chúa đến nhưng thấy lâu quá để rồ họ đi tìm cho họ đủ thứ các loại thần để mà thờ để mà kính. Lịch sử viết lại cho chúng ta những dòng sử của dân Israel như là bài học lớn cho mỗi người chúng ta. Vì đi theo thần này, thần kia để rồi dân Israel cứ lầm lũi đi trong đêm tối.
Chính trong bối cảnh bi thảm đen tối, Giavê Thiên Chúa đã gửi tiên tri Giêrêmia đến loan báo về ngày giờ Thiên Chúa sẽ ra tay tế độ. Ngài còn mặc khải rõ hơn khi cho biết tin mừng ấy sẽ được khởi sự ngay qua một dòng tộc: Đó là dòng dõi vua Đavit: “ Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Đavit một chồi Công Chính”. Thế là một triều đại mới, một vận hội mới sẽ đem lại đổi thay cho kiếp đoạ đày đen tối của dân Israel. Từ đây, trật tự được tái lập, hạnh phúc sẽ nở ra và mọi người mọi nhà sống trong cảnh hoà bình thịnh vượng vì Đức Vua hiển trị sẽ xét xử chư dân trong sự khôn ngoan và công chính”.
Lời hứa trên đã làm nao nức bao tâm hồn. Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với giao ước đã chẳng thể nuốt lời. Ngài đã cho Con Một Nhập thể làm người để thực hiện những gì đã hứa, nhưng không chỉ cho Israel mà còn cho các dân tộc. Ngài đã làm sống lại và khơi lên niềm tin tưởng khi loan báo cho họ biết rằng: Giờ cứu rỗi, ngày giải thoát đã gần đến rồi. Vì thế, Ngài kêu gọi mọi người hãy biết đọc qua những biến đổi của vũ trụ, qua những thay đổi của tâm hồn, dấu chỉ của ngày cứu độ. Những biến cố như động đất, mất màu, tai ương, ôn dịch, hạn hán cùng với những vật đổi sao dời làm cho lòng người khiếp run kinh hãi. Và còn có biết bao cái ta không mong đợi mà xảy đến: tai nạn, bệnh tật, chết chóc, hiểm hoạ … Tất cả đều có giá trị như là một dấu hiệu, một lời nhắc nhở để ta hướng về ngày giờ của Con Thiên Chúa đang đến.
Chúng ta, nhìn lại chúng ta ngày nay chúng ta thấy hình như chúng ta cũng chẳng khác Israel ngày xưa là mấy. Chúa yêu thương, nâng đỡ, bao bọc, chở che cuộc đời chúng ta như Israel ngày xưa vậy. Thế nhưng mà chúng ta vẫn chưa cảm thấy thoả mãn với tất cả những gì Chúa thương ban cho chúng ta để rồi chúng ta cũng loay hoay mãi trong bóng đêm như dân Israel vậy.
Tiếng kêu ai oán mong đợi Đấng Cứu Thế đến cứu muôn dân được ngôn sứ Isaia thốt lên trong bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe đấy: “Lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài muôn thuở. Lạy Đức Chúa, tạ sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài ? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài ? Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp Ngài, xin Ngài mau trở lại. Phải cho Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan”. (Is 63, 16b-17.19b).
Vì lòng con người chai đá nên Isaia đã kêu lên với Đức Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta cũng gào lên với Chúa là vì tình thương của Chúa, xin Chúa mau trở lại để cứu chúng ta.
Lòng chờ mong, lòng mong đợi ấy chúng ta cũng được nghe Thánh Phaolô nói đến trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô của Ngài: “Chúng ta mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mạc khải vinh quang của Người”.
Và Trong khi chờ đợi, Ngài mời gọi chúng ta hãy sống trong sự tỉnh thức và cầu nguyện như Thánh Maccô thuật lại cho chúng ta trong Tin mừng của Ngài mà chúng ta vừa nghe. Chúa Giêsu, hơn lúc nào hết, Ngài cảnh báo với các môn đệ là phải tỉnh thức luôn luôn. Như những người lính tuần canh, chỉ được gọi là tỉnh thức khi biết luôn đứng với đôi mắt sáng rực nhìn về phía trước. Nói cách khác, như thánh Phaolô khuyên trong thư gửi cho giáo dân thành Thesalonica: Đó là không được để cho lòng trí ra nặng nề và tối tăm, bởi những tiệc chè chén, say sưa, bởi đam mê dục vọng, bởi ảo vọng vật chất. Thay vào đó là phải ra sức thực thi bác ái, yêu thương, mặc lấy một cuộc sống khiêm nhường vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và làm cho người ta nên thánh thiện.
Chúng ta biết rằng cuộc đời của chúng ta nó mong manh, nó mỏng dòn, nó yếu đuối lắm nên cuộc đời muốn được đứng vững để đón nhận ân huệ của Chúa, tình thương và ơn cứu độ của Chúa không còn cách nào khác hơn là phải tỉnh thức, vẫn chờ mong Chúa đến như lính canh mong đợi hừng đông như suối mong đợi nước nguồn vậy.
Nhớ lại những đứa trẻ, những thú vui do các cô, các bạn mang lại vẫn không là niềm vui, niềm hạnh phúc đích thực của chúng được. Chúng ta cũng vậy, những lạc thú trần gian: tiền – tình – danh, những thứ ấy vẫn không thể nào bù đắp, không thể nào lấp đầy nỗi khát khao, niềm hạnh phúc đích thực của chúng ta được.
Mùa Vọng, mùa trông đợi lại về. Mùa Vọng như là thời gian, như là cơ hội thuận tiện để nhắc nhớ mỗi người chúng ta đâu là cùng đích, đâu là niềm vui đích thực của chúng ta. Nếu cùng đích của cuộc đời chúng ta là tiền – là danh – là dục thì chúng ta cứ tiếp tục cắm cúi đi tìm chúng. Còn nếu cùng đích, lẽ sống của cuộc đời chúng ta là Chúa thì còn thời gian, còn cơ hội, chúng ta hãy dùng thời gian, dùng cơ hội thuận tiện để biến đổi cuộc đời, để mà luôn tỉnh thức để đón chờ ánh sáng, đón chờ tình yêu vĩnh cửu đến với chúng ta.
Nguyện xin Emmanuel – Đấng Cứu Độ Duy Nhất đến và ở lại trong cuộc đời mỗi người chúng ta để tâm hồn, để cõi lòng cuộc đời chúng ta luôn bình an giữa biết bao nhiêu biến động, bao nhiêu xáo trộn của cuộc đời.
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng. Mẹ Giáo hội đang ôm ấp tất: MV 1-B86
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng.
Mẹ Giáo hội đang ôm ấp tất cả con cái nhân loại đợi chờ Đức Kitô đến trong hai lần Người ngự đến. Ngự đến trong thời gian là Nhập Thể và kết thúc thời gian là Quang Lâm.
Từ Chúa Nhật I Mùa Vọng đến ngày 16.12 phụng vụ nói lên niềm mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian. Tám ngày cuối cùng trực tiếp nói đến ngày sinh nhật của Người.
Theo tinh thần canh tân phụng vụ, Mùa Vọng không còn là mùa thống hối nữa mà là mùa hân hoan mong đợi. Các Chúa nhật trong Mùa Vọng không đọc kinh Vinh Danh không phải vì đặc tính đền tội của Mùa Chay, nhưng là để bài ca của các Thiên Thần được xem như là một tiếng hát mới mẻ trong đêm Giáng Sinh.
Mùa Vọng cũng là mùa của những lời loan báo. Loan báo việc Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc ngày Chúa nhật.
Bài đọc 1 trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc âm Chúa nhật I Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức. Chúa nhật II, III dành cho Gioan Tiền Hô với lời mời gọi: Hãy dọn đường cho Chúa. Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Vọng dặn dò mỗi người Kitô hữu là “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người và đối với cả nhân loại nên phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện.
1. Tỉnh thức
Thánh Kinh kể chuyện: Samson là vị thủ lãnh của dân Do thái. Anh có sức mạnh phi thường, quân Philitinh khiếp sợ.
Ngày kia, một con sư tử gấm bất thần tấn công, Samson xé xác nó với hai bàn tay dũng mãnh. Có lần bị quân Philitinh vây chặt tư bề, Samson chộp lấy một chiếc xương hàm của con lừa gần đó và quật chết rất nhiều đối thủ. Sức mạnh vô song của Samson làm cho quân Philitinh phải khiếp đảm.
Không thắng được Samson bằng sức mạnh, người Philitinh tìm cách tiêu diệt anh bằng mỹ nhân kế. Nàng Đaliđa, một thiếu nữ Philitinh có nhan sắc tuyệt đẹp. Nàng đến với Samson và đã chiếm lấy trái tim vị anh hùng. Đaliđa gạn hỏi: do đâu anh có được sức mạnh phi thường? Samson tiết lộ bí mật, sức mạnh liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt, sức lực sẽ không còn. Samson ngủ, Đaliđa lén cắt tóc rồi báo tin. Quân Philitinh xông đến tóm lấy anh, xiềng lại bằng những sợi xích đồng. Chúng tàn nhẫn khoét đôi mắt và bắt anh ngày ngày kéo cối xay như một con trâu ngoan.
Một Samson vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn bạt vía, tay không quật ngã và xé xác con sư tử gấm to lớn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quân Philitinh phải kinh khiếp. Giờ đây, anh chỉ là một tù nhân mù loà, tay chân mang xiềng xích, một tên nô lệ, ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục thay trâu bò kéo cối xay! Than ôi! Một thời oanh liệt nay còn đâu!
Chỉ vì không tỉnh táo trước kế mỹ nhân. Samson đã sa cạm bẫy và chịu hậu quả đau thương.
Thảm kịch Samson luôn mang tính thời sự. Nó vẫn tiếp diễn trong cuộc đời con người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hằng ngày báo chí và truyền hình kể lại vô số cảnh đời gục ngã dưới nhiều hình thức: suy sụp vì ma tuý, sa đoạ vì gian dâm, sa ngã vì tham lam và vô vàn hình thức sa bẫy khác.
Mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ngay cả một số những cây cao bóng cả trong xã hội cũng như trong các tôn giáo vì thiếu tỉnh thức nên cũng bị gục ngã, bị lún sâu xuống bùn lầy.
Dân gian nói: "khôn ba năm, dại một giờ". Nhưng có khi khôn đến năm mươi năm, bảy mươi năm rồi cũng hoá dại trong một giờ!
Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ: "Anh em hãy tỉnh thức và hãy cầu nguyện luôn!. .. hãy đề phòng, đừng để cho lòng trí mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em".
Thánh Phaolô khuyên: "những ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã" (1 Cor 10,12).
Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, là không quá mê say danh, lợi, thú vui xác thịt.
Luôn tỉnh thức như khi đang lái xe, luôn nhìn trước ngó sau, tay ga vững vàng, chân thắng sẵn sàng, đi đường an toàn. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
2. Cầu nguyện
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh.
Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
3. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Có tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời. Cầu nguyện trong tỉnh thức để luôn sẵn sàng vì không biết ngày giờ Chúa viếng thăm.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.
Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện, chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Mùa vọng được khai mở với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như như sách Nho có câu: Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân ( Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).
Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen
Về với thuở yêu (dấu thời ban) đầu, là về với thánh hội vào mọi buổi, như thánh sử Máccô: MV 1-B87
Về với thuở yêu (dấu thời ban) đầu, là về với thánh hội vào mọi buổi, như thánh sử Máccô vẫn ghi lại ở trình thuật.
Trình thuật, nay thánh Máccô ghi, là ghi về việc Đức Kitô sẽ đến lại, hôm nay và mai ngày với lễ hội rất Giáng Sinh. Chờ Chúa đến, vẫn là động thái của dân con người Do thái và của thánh hội thời ban sơ. Dù, việc ngóng và chờ có kéo theo sau nhiều diễn biến sầu buồn xảy đến với dân gian.
Dân gian, nay chứng kiến nhiều diễn biến khá buồn sầu/tiêu cực, khiến người người cứ cho rằng: đó là dấu chỉ cho thấy Đức Mêsia Đấng Cứu Độ đang hỗ trợ cho con người được vững mạnh trước những khó khăn, sầu buồn của thời đại.
Về sầu buồn/tiêu cực ở đời người, hôm trước có tác giả viết nguyên cuốn sách mang tựa đề “Xã hội của ta định đoạt ra sao việc biến chất, rất tồn tại?” Thật ra, nội dung sách này đề cập nhiều đến chuyện gãy đổ về kinh tế, môi sinh. Về thay đổi khí hậu, giảm suy năng lượng và dân số thế giới hoặc về văn hoá đổi thay. Thêm vào đó, còn có khó khăn về giá xăng dầu, và phản ứng của người tiêu dùng chung quanh khó khăn đó. Tóm lại, bằng cách này hay cách khác, người người hôm nay đang tạo ra trạng huống tự mình kết liễu cuộc đời mình và đang đi vào với văn hoá của sự chết, nhiều chứng cớ.
Từ đó, có người lại sẽ hỏi: phải chăng thế giới nay đi vào một kết cuộc? Điều đó còn tuỳ. Tuỳ người hỏi đang đứng ở vị trí nào. Tuỳ người trả lời đang ở đâu? Xã hội nào? Và, các xã hội giàu có, nhiều chúc phúc nay cũng chẳng mong chờ gì, vì có đủ. Nhiều vị đã biết san sẻ với người khác, rất độ lượng. Nhưng, cả người sẻ san lẫn kẻ nhận lãnh đều không hiểu hết ý nghĩa của hai chữ “hy vọng”. Và, chẳng có “hơi” đâu mà đợi chờ. Chí ít, là chờ và đợi ngày Chúa đến.
Lễ Giáng Sinh với nhiều người, chỉ là cơ hội thuận lợi để tự đánh bóng chính mình, trước công chúng. Nhiều nơi, nhiều nước chưa được hân hạnh nhận nhiều chúc phúc nên những muốn phá bỏ điều buồn chán không ngày vui. Họ là những người không tin vào quà cáp Giáng Sinh, bởi quà gì đi nữa cũng chẳng bao giờ đến được tới lượt họ. Tuy nhiên, họ vẫn mong đợi quà, tựa hồ như đợi và mong mùa mưa tới trong mùa khô cạn. Nói chung, tận phần sâu thẳm của chính mình, người người cũng đều chờ mong Đấng Mêsia tới để còn vui hưởng ơn cứu độ, như cụm từ “cánh chung” hằng diễn tả.
Cánh chung hay khải huyền, là tâm tình của chúng dân luôn mong chờ chỉ xuất hiện chừng một, hai trăm năm trước ngày Chúa Giáng hạ, mà thôi. Cụm từ này xuất xứ từ tiếng Hy Lạp “apokalypsis” nhằm chỉ về những gì sắp xảy đến, như: ngày thế tận ngõ hầu trông đợi một thế giới mới, rất trật tự. Cụm từ này liên quan đến môn học về cánh-chung, tức học hỏi về sự kết tận của thế giiới, rất ưu tiên. Khải huyền, là sách diễn tả điều mọi người trông chờ xem khi nào và làm sao sự việc ấy sẽ xảy đến.
Khải huyền, là sách chứa đựng mặc khải về Đấng Thiên Sai Ngài sẽ đến mang theo sứ điệp diễn bày bằng biểu tuợng cao siêu, nhiều mật mã, rất kỳ lạ. Khải huyền, cũng là sách kể về các loài thú. Những quái vật. Về đất nước có vấn đề văn hoá đa dạng, ở tầng dưới. Sứ điệp của Khải huyền thường xảy đến theo sau thị kiến hoặc giấc mơ, có đấng thần thiêng, thiên sứ với thần. Sứ điệp của sách Khải huyền, thường có khuynh hướng trình bày sự việc từng xảy đến trong quá khứ, cả thời hiện tại lẫn các sự kiễn xảy đến trong mai ngày. Sứ điệp của Khải Huyền, còn đem đến nhiều tiên đoán về các tai ương chia cắt người phàm làm hai nhóm, bên thiện/bên ác rất rõ rệt.
Trình bày hình ảnh của sách Khải Huyền, Cha già Hồng Y Carlo Maria Martini từng quảng diễn: “Khải huyền, là cảnh thế giới rơi vào tình trạng không thoải mái, rất bất mãn về hiện trạng mình đang gặp nhưng vẫn hy vọng rằng sự thể sẽ đổi thay theo cách khá hơn nhờ biến cố nào đó có sự can thiệp từ một sức mạnh ở trên cao. Tác giả Khải Huyền là người thấy suy tư về sự thể rất mới sẽ đến với lịch sử con người, dù mọi người chẳng ai biết chắc khi nào thực sự có đổi thay. Và, thay đổi ra sao. Khải huyền, là mặc khải về tương lai mai ngày được các ngôn sứ cho biết trước, bằng thứ ngôn ngữ cũng rất tối mà chỉ một số ít mới có thể hiểu. Chủ thuyết cánh chung được mặc khải phải đi đôi với hãi sợ và hy vọng. Hy vọng cho tương lại. Hãi sợ cho ngày tàn của lịch sử. Mặc khải về cánh chung bao giờ cũng đính kết với hy vọng một kỷ nguyên mới.” (x. Carlo Mario Martini, Cộng đồng Kitô giáo: Tiến Vào Thiên Niên Kỷ Thứ 3, America ngày 2/5/1998)
Sách Khải Huyền chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng của những người ở xứ Ba Tư từng kết nạp những ảnh hình huyền thoại như cuộc tử chiến giữa Thiên Chúa và tình trạng hỗn độn thời khởi nguyên, tức các nền văn hoá khác biệt. Mặc khải cánh chung, tin vào phán xét cá nhân mỗi người vào lúc chết. Mặc khải cánh chung cho biết mỗi người và mọi người sẽ an hưởng cuộc sống yên hàn hoặc bị trừng phạt suốt thiên thu. Các văn bản khải huyền được viết vào cùng một thời, nhưng không phải tất cả đều được đưa vào Kinh thánh. Bởi, kinh thánh chỉ gồm đôi ba mảnh suy tư rải rác bên lề sách Đanien, thôi.
Khải Huyền, là sách gây nhiều ảnh hưởng trên Qumran, vốn đặt nặng lên chủ đề liên quan đến trường sinh bất tử và sống lại từ cõi chết. Cũng từ đó, lập trường của Khải Huyền luôn coi thế giới gian trần như là nơi không thể có được bình an và công lý. Xem thế thì, Khải Huyền là loại hình văn chương của hy vọng và tuyệt vọng. Của niềm xác tín cho rằng ngày nào đó, Chúa sẽ đến can thiệp cho con nguời. Sách Khải Huyền, chuyên dùng ví dụ như người ngồi đọc truyện trên chiếc ghế bành vào lúc có khó khăn, chuyển biến.
Một số tác giả viết sách Khải Huyền tin vào tương lại mai ngày rất sáng lạn, sẽ đưa người người ra khỏi mọi rối loạn thời hiện tại. Sách này sử dụng lối tính toán hơi lạ đối với người thời đại. Lạ, là các tác giả đếm năm tháng ngày giờ xảy đến chuyện đền thờ bị phá huỷ vào năm 587 trước công nguyên. Và còn tiên đoán rằng việc tái dựng đền thờ sẽ được thực hiện vào thời gian không lâu, sau đó. Sách tiên tri Giêrêmia chương 25 có nói đến số 70 năm. Trong khi ở sách Đanien, chương 8 và 9, thiên sứ lại cho ngôn sứ Đanien biết trước thời gian tái dựng đền thờ sẽ xảy đến chừng 490 năm sau đó.
Theo Tin Mừng thánh Luca viết, thì: giả như ta đếm ngày tháng từ lúc thần sứ Gabriel báo tin vui cho ông Zacariah biết ngày Chúa Giáng Hạ, đến ngày Chúa trình diện ở đền thờ, cũng phải mất những 490 ngày. Các tác giả trên đều rất thích số “7” và các diễn biến xuất phát từ số “7” ấy. Tất cả chỉ để nói lên một điều, là: ta đang phải đương đầu với thời cùng tận và ngày giờ tận cùng ấy là tháng ngày chót hết của lịch sử. Ngày ấy, thời ấy sẽ không xa hôm nay. Lúc này. Và, khi Chúa đến, ta sẽ thấy được lịch sử từng ra sao, làm gì; và đâu là tâm điểm của sự thể, như thế. Vì có Chúa, nên sẽ không còn gì để lo âu, hãi sợ. Đó là thời để ta thêm lòng can đảm, có được hy vọng và mừng vui. Hễ tin vào Chúa, thì mọi sự cũng sẽ chuyển thành ngày cánh chung theo cách tích cực, rất tốt đẹp.
Nhìn vào Tân Ước, người người sẽ thấy các tác giả gồm tóm trong đó lối suy tư theo cung cách Khải huyền, rất cánh chung. Tin Mừng thánh Máccô đoạn 13 câu 8 nói nhiều hơn chỉ ‘một khởi đầu của khủng hoảng’, hoặc ‘xao xuyến, hỗn độn rày xảy đến’. Nói như thế, tức bảo rằng ngôn từ mà các thánh sử dụng là để vẽ lên hình ảnh về khổ đau/khốn khó trước khi sinh. Trước khi trẻ bé chào đời. Nói như thế, tức bảo rằng: thế giới này không chết đi, mà chỉ là đang sinh hạ trẻ bé. Nói như thế, là như nói ở thời đại hiện tại mà bảo rằng: Hãy đợi đấy. Một thế giới đang được sinh hạ, và đổi mới.
Thánh Mátthêu cũng sao chép hình ảnh đau quặn của người mẹ trước khi sinh. Trong khi đó, thì thánh Luca lại nói: “Thiên Chúa đã gỡ Đức Giêsu khỏi nỗi khổ đau của sự chết mà cho Ngài sống lại” (Cv 2: 24) Thánh Gioan lại nói: “Đàn bà sanh con thì ưu phiền vì giờ của bà đã đến, nhưng sinh rồi thì không còn nhớ cơn khốn quẫn, vì niềm vui đã có một người sinh ra trên thế gian.” (Ga 16: 21)
Thánh Phaolô nói rõ hơn khi ngài bảo: “Những kẻ quặn đau mà sinh ra mãi cho đến khi nào Đức Kitô được thành hình trong anh em.” (Ga 4: 19). Ở đoạn khác trong thư gửi giáo đoàn Thessalônikê, thánh nhân lại viết: “Tai hoạ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được…” (1 Th 5: 3)
Nói tóm lại, hình ảnh cánh chung của Khải Huyền mà phụng vụ mùa Vọng sử dụng là để nói cho ta biết đừng quá lo âu, sầu buồn. Bởi, những lo âu/sầu buồn ấy, chỉ như cơn đau quặn của người mẹ đang sanh hạ Lễ Giáng Sinh đích thực cho thế gian. Ngày ấy sẽ đến rất mau. Đến, để người người nhờ có Đức Giêsu mà trở thành người mới. Thế giới mới. Thế giới sinh ra cho con người. Phải chăng, đó mới là ý nghĩa đích thực của ngày Chúa Giáng hạ, làm người, rất Emmanuel?
Cảm nhận sự thể sẽ tốt đẹp, tưởng cũng nên hướng về lời thơ đầy ý nghĩa, mà ngâm nga:
“Lại về với những vần thơ
Nối dang dở để bây giờ trọn câu.”(Bùi Kim Anh–Tìm Trong Phố Cũ)
Về với vần thơ, không để tìm trong phố cũ nhiều sương phủ. Mà là, về với tương lai đã mặc khải nhiều điều tốt đẹp, rất như thơ. Bởi, cánh chung Khải Huyền cũng rất thơ. Không chỉ là cho bây giờ. Mà, mãi mãi trong tương lai. Rất mai ngày. Nhiều sáng giá.
Người Việt Nam có câu “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Câu này phải là lời cảnh: MV 1-B88
Người Việt Nam có câu “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Câu này phải là lời cảnh tỉnh cho thái đô sống của chúng ta. “Hãy biết mình, biết người thì mới mong được sống yên ổn, bình an”. Thực vậy, giữa cuộc đời hôm nay đang cạn kiệt chân lý và sự thật thì làm sao dám tin người, tin đời? Thử hỏi, có gì đáng để chúng ta tin ở xã hội hôm nay? Niềm tin đã bị đánh mất bởi biết bao trò gian dối trong nhiều hoạt động từ truyền thông cho tới giáo dục đều đầy dãy trò lừa bịp, gian lận? Thử hỏi có gì đáng tin khi mà người ta đề cao đồng tiền đến mức độ đang tâm lại hại người khác như hàng loạt các đồ dùng giả và kém chất lượng đang bầy bán trên thị trường? Điển hình trong các vụ nổi cộm như: chuyện kem đánh răng giả, đồ chơi trẻ em có chất độc làm hại sức khoẻ trẻ em, chuyện bánh bao nhân làm bằng giấy cạc tông, gạo bằng nhựa . . . Rồi đến chuyện kẹo trộn bột đá bán ra hàng tấn. Đáng ghê sợ là vụ sữa sữa Tam Lộc của Trung Quốc làm chết 3 trẻ em và bịnh 6.200 em khác ở Trung Quốc. Đó là một xì căn đan, một cú sốc toàn xã hội mà chúng ta đang phải gánh chịu. Theo dõi tình tiết nội vụ, người dễ tính nhất cũng phải buộc miệng kêu lên: “Mấy người sản xuất và buôn bán sao mà ác quá vậy, trẻ em có làm chi nên tội, sao nỡ vì tiền mà giết hại trẻ em!”
Đó là những chuyện gián tiếp hại người, còn trực tiếp vẫn đầy dãy sự tráo trở, gian manh, mất tính người đang diễn ra hằng ngày trong cuộc sống chúng ta. Trớ trêu thay niềm tin đã bị đánh mất giữa người với người ngay tại gia đình, ngay giữa những người ruột thịt vẫn còn đó sự rạn nứt của lòng tin.
Theo dõi tin tức hằng ngày chúng ta có thể thấy: “Hàng loạt vụ vợ giết chồng, con giết cha, anh em trong gia đình gây án mạng với nhau... đã xảy ra trong thời gian gần đây và gây bức xúc trong dư luận xã hội.” Báo Pháp Luật Việt Nam ngày 8 tháng 7 nói như vậy và đặt câu hỏi “Chuyện gì đã xảy ra với ‘tế bào xã hội’ của chúng ta?”
Báo này nêu một số vụ án tiêu biểu như người phụ nữ 38 tuổi ở Pleiku, Nguyễn Hồng Linh, can tội giết chồng. Không phải người chồng không lo làm ăn, không chăm sóc gia đình mà chính người vợ ngoại tình, đẻ 2 con “ngoài luồng” lại còn nhẫn tâm đầu độc cho chồng chết.
Một trường hợp khác, Bùi Văn Hình, 38 tuổi, đã giết cha ruột ở tỉnh Hòa Bình.
Theo http://www.nguoiduatin.vn, bé Vũ Quốc Linh, 3 tuổi, bị chính cha ruột tẩm xăng đốt khiến bé bị bỏng toàn thân và thương tật đến 86%. Một chuyện thật mà cứ ngỡ chỉ có trong phim ảnh hoặc chuyện viễn tưởng.
“Hổ dữ không ăn thịt con”, vậy mà một người cha lại có thể nhẫn tâm thiêu sống con mình và bỏ mặc con nhỏ kêu gào thảm thiết trong ngọn lửa nóng bừng. Người cha đó không còn nhân tính, không xứng đáng mang danh “người cha”. Người dưng nước lã cũng không nỡ hành xử với đồng loại như vậy!
Đó là một quang cảnh xã hội xem ra đang mất dần tính người để cho thú tính lộng hành! Làm sao chúng ta có thể có niềm tin nơi nhau khi mà xã hội đầy dãy sự lừa đảo, lưu manh, gian ác đang len lỏi vào từng gia đình, từng đoàn thể, và xã hội? Sống giữa xã hội hôm nay kẻ khôn ngoan phải tỉnh thức đề phòng kẻo thiệt thân mình, mà ân hận cả đời nếu quá tin người. Sống trong xã hội hôm nay chúng ta chớ có quá tin người kẻo thiệt vào thân. Hãy tỉnh thức để chúng ta không bị người khác lợi dụng, hãm hại. Hãy tỉnh thức để chính chúng ta đừng để cho thú tính nổi loạn khiến chúng ta không tự chủ bản thân, dẫn dến hành động đánh mất tính người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức trước thái độ sống của mình. Chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa về hành vi của chúng ta, về sự liên đới trách nhiệm của chúng ta với tha nhân. Thiên Chúa như một ông chủ đi phương xa trao cho chúng ta quản lý cuộc đời nhưng không phải theo ý mình mà là theo ý Thiên Chúa. Thiên Chúa còn trao ban cho chúng ta quản lý ngôi nhà vũ trụ để làm sao cho mọi người trong ngôi nhà này đều có quyền hưởng an bình thịnh vượng. Vì thế, chúng ta không có quyền vì sự tư lợi và quyền lợi của mình mà dùng quyền để chiếm đoạt tài sản của người khác. Chúng ta không có quyền vì hạnh phúc bản thân mình mà hành động thiếu công bằng bác ái với tha nhân. Chúng ta càng không có quyền sống lỗi công bình, bác ái chỉ vỉ thói tham lam giả hình của mình. Chúa sẽ đòi lại công bình. Chúa sẽ đến để lập lại trật tự đã bị đảo lộn bởi tội lỗi, để hàn gắn lại những đổ vỡ do tội lỗi gây ra. Chúa bảo chúng ta đừng mê ngủ trong đam mê lầm lạc, trong ảo ảnh của trần gian. Cuộc sống này rồi cũng qua đi. Những của cải chúng ta chiếm được bằng sự phi nhân thất đức rồi cũng “của thiên trả địa”, khi mà chúng ta nhắm mắt xuôi tay. Hãy tỉnh thức để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiện”, đừng sống gian ác, đừng buông mình theo thói đời tội lỗi, đừng thả trôi theo đam mê xác. Hãy tỉnh thức để sống theo luân thường đạo lý, theo đường ngay chính của chân, thiện, mỹ. Hãy tỉnh thức để chúng ta luôn hành động như con cái sự sáng để nhờ đó, giờ Chúa đến chúng ta tràn ngập hân hoan vì luôn trung thành sống cho Chúa.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để chúng ta sống nghiêm túc trong lời nói, việc làm của mình luôn đi theo lề luật của Chúa, hầu xứng đáng là người quản lý trung thành và tận tuỵ của Chúa. Amen
Với Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta lại bắt đầu một năm phụng vụ mới. Mùa Vọng (tiếng Việt: MV 1-B89
Với Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta lại bắt đầu một năm phụng vụ mới. Mùa Vọng (tiếng Việt nghĩa là “sự trông chờ”, “hy vọng”; tiếng Latinh: adventus nghĩa là “đến”) là mùa đầu tiên của năm phụng vụ bao gồm khoảng thời gian 4 Chúa Nhật trước Lễ Giáng Sinh (hơn 1 tháng) và kết thúc vào Đêm Giáng Sinh. Chủ đề chính của Mùa Vọng là sự chuẩn bị mừng ngày giáng sinh của Chúa Giêsu năm xưa, tuy nhiên theo học thuyết Thánh Kinh hiện đại cho rằng đây còn là sự chuẩn bị tâm linh nhằm hướng đến cuộc trở lại để phán xét thế gian của Chúa Giêsu trong tương lai. Trong tâm tình đó, Giáo hội mời gọi chúng ta suy gẫm cách nghiêm túc lời kêu gọi “Hãy tỉnh thức!” của Chúa Giêsu.
Chủ đề chung của các bản văn Tin Mừng được chọn đọc trong Chúa Nhật I Mùa Vọng cả 3 năm A, B, C là lời mời gọi tỉnh thức được trích từ các lời giảng về ngày cánh chung của Chúa Giêsu. Chủ đề này nói lên rõ ràng ý nghĩa của Mùa Vọng quả thực là thời gian chờ đợi Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang, thông qua việc chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, kỷ niệm ngày Chúa đến lần thứ nhất. trong nhãn giới này, chúng ta sẽ hiểu rõ và đầy đủ hơn ý nghĩa của việc tỉnh thức mà Chúa Giêsu mời gọi.
Người ta vẫn tin nhận Tin Mừng của Thánh Marcô là gần như viết lại các bài giảng của Thánh Phêrô, vì ngài đã đi theo, là thư ký của Thánh Tông Đồ Cả, do đó toàn bộ Tin Mừng Marcô đều ảnh hưởng cái nhìn của vị Thủ lĩnh Tông đồ đoàn và mang tính nguyên thuỷ. Marcô dành chương 13 để ghi lại diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu. - Riêng với bài Tin Mừng của Chúa Nhật I Mùa Vọng này, chúng ta thấy ẩn hiện việc “tỉnh thức” trong tương quan với trách nhiệm “trông coi” của Thánh Phêrô. - Diễn từ này được kết thúc bằng lời kêu gọi tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa Giêsu đang nói với các môn đệ về việc thành Giêrusalem sẽ bị phá huỷ cùng với các tai biến ghê sợ xảy ra ở đây, và Ngài bảo họ là không thể biết trước khi nào sẽ xảy ra. Ví như người kia đi phương xa, để nhà cửa lại… và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn kêu gọi tỉnh thức bằng cách chăm chỉ làm công việc đã được trao cho. Nếu những câu chuyện cảnh giác luôn thiết thực với người thời nay, thì việc Chúa Giêsu kêu gọi tỉnh thức cũng cần thiết hơn thế. Vì trông chờ Chúa đến không phải là ơ hờ với trách nhiệm, công việc hằng ngày mà còn là động lực để chu toàn tốt các công việc đó trong mọi lĩnh vực… đặc biệt là với những người có trọng trách, từ nơi gia đình tới xã hội, từ trong xứ đạo tới toàn Giáo Hội. Nếu Thánh Phêrô nhờ những kinh nghiệm đau xót để làm cho lời giảng của ngài được Thánh Marcô ghi lại đầy tính thuyết phục, thì Lời Chúa hôm nay cũng phù hợp với những gì đã có để nhắc cho chúng ta, những người đang sống ở thời buổi có quá nhiều chất “ru ngủ”, hãy “tỉnh thức” để bảo vệ niềm tin cho mình, cho gia đình, giáo xứ mình, cũng như bảo vệ và phát huy những gì tốt đẹp mà xã hội mang lại, đồng thời loại trừ những tiêu cực mê hoặc con người sống trong oán thù, ghen ghét, đố kỵ lẫn nhau… để có một xã hội mà ai cũng chu toàn trách nhiệm của mình trong công bình, bác ái hầu đón Chúa đến với niềm hân hoan thực sự.
Lạy Chúa, lại một lần nữa Chúa nhắc con tỉnh thức để chờ Chúa đến trong niềm tin vui của Mùa Vọng. Giữa một xã hội đầy cạm bẫy và mê hoặc như ngày nay, nhiều khi con cũng hay ngủ quên không nhận ra Chúa đến trong các biến cố của cuộc sống. Xin cho con biết cảnh giác trước cái xấu và sống tốt hơn, biết nghĩ, biết lo cho người khác, để cả Giáo Hội, mỗi người mỗi việc, chu toàn trách nhiệm cách trọn vẹn ngõ hầu đón chờ Chúa đến trong niềm hân hoan và tin tưởng.
Bài Tin mừng hôm nay rút từ phần cuối của diễn từ chung cuộc. Như người giữ cửa phải tỉnh thức: MV 1-B90
Bài Tin mừng hôm nay rút từ phần cuối của diễn từ chung cuộc. Như người giữ cửa phải tỉnh thức vì không biết giờ nào trong đêm ông chủ sẽ trở về, người kitô hữu cũng phải tỉnh thức vì không biết khi nào Đức Giêsu đến.
Chúa nhật đầu của năm phụng vụ mới - mùa xuân mới - đến với lời cảnh cáo: "Hãy tỉnh thức". Đó là lời nhắn nhủ cần thiết để làm tươi mới, "xuân hóa" đức tin.
Thông thường, khi ngủ mê, người ta mất liên lạc với thế giới chung quanh, các giác quan ra như đóng lại: tai không còn nghe thấy âm thanh, mắt không còn nhận ra màu sắc; không ngửi, khưng sờ, không nếm... Trong đời sống tâm linh cũng thế, khi linh hồn mê ngủ, người tín hữu sẽ không nhận ra tiếng nói của Chúa, sẽ đóng cửa lòng mình trước những đau khổ bất hạnh của cuộc đời; họ không nhận ra đâu là hạnh phúc đích thực và đâu là điều giả tạo cho chính mình. Đôi khi, phán đoán trở nên "thui chột, điếc lác"; và không còn có thể cảm nếm sự ngọt ngào của tình yêu, sự bình an của Thiên Chúa ban.
Làm thế nào để tỉnh thức đây ?
Như một tách cà phê, một câu chuyện hấp dẫn, một cuộc đi dạo, một cuốn sách hay… có thể xua tan cơn buồn ngủ thể xác, thì việc cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, chia sẻ đức tin với các kitô hữu khác, giúp đỡ người bất hạnh… cũng có khả năng xua tan cơn ngủ mê tâm linh.
Nói khác, một đời sống tâm linh năng động hơn, có những mối tương giao tốt hơn… là thứ thuốc chống lại "cơn buồn ngủ tâm linh".
Như thế, có thể nói, tỉnh thức là khả năng cảm nhận Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày; nhận ra những tín hiệu thân ái nơi anh chị em; và nghe thấy lời kêu gọi phải nỗ lực xây dựng một cuộc sống tốt hơn.
Chúng ta có thực sự đang tỉnh thức không?
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là chủ của đời con; Ngày hôm nay Chúa đã đến trong tâm hồn con qua bí tích Thánh Thể này; tí nữa đây, Chúa vẫn đến với con trong các anh chị em của con; và ngày mai, ngày mốt, có thể Chúa lại đến với con trong những người đau khổ bên hàng xóm;
Xin cho con luôn tỉnh thức để đón Chúa đến mỗi ngày.
Xin cho con biết mở tâm hồn, để nhận ra Lời Cứu Độ Chúa nói với con.
Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà thành ngữ anh em hãy tỉnh thức được nhắc đi nhắc lại 4 lần.: MV 1-B91
Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà thành ngữ anh em hãy tỉnh thức được nhắc đi nhắc lại 4 lần.
Phải tỉnh thức: đây không phải là một lời khuyên đơn giản, được đề nghị cho qua để rồi rơi vào quên lãng. Trái lại, đây là một nhắn nhủ đặc biệt, như một điều cốt yếu. Lời nhắn nhủ cốt yếu này không chỉ gửi đến các ông Phê-rô, Gia-cô-bê, Gio-an và An-rê, là những người đang nghe Đức Giê-su giảng dạy, nhưng còn cho tất cả mọi người, như lời Đức Giê-su nói: "Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người ..."
Phải tỉnh thức: một đề tài quan trọng, một chủ đề được nhắc đi nhắc lại, không phải chỉ trong Tin Mừng Mác-cô, nhưng người ta cũng gặp thấy cùng một thành ngữ trong Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca. Như vậy, không chỉ một mình Mác-cô cảm thấy tính cách khẩn thiết trong lời nhắn nhủ của Đức Ki-tô, các tác giả khác cũng cảm thấy như vậy.
Quả thế, đề tài tỉnh thức quan trọng đến nỗi Đức Giê-su thường xuyên khai triển trong các bài giảng tại Hội đường xứ Ga-li-lê. Tại đây, Người đã kể các dụ ngôn về người chủ nhà tỉnh thức và người quản lý trung thành. Người còn nhắc lại đề tài này qua dụ ngôn về 10 cô trinh nữ, trong đó 5 cô dại đã không có đủ dầu để tiếp đón chàng rể.
"Phải tỉnh thức". Đức Giê-su không ngừng lặp lại điều này.
Sau này, người ta còn nghe thấy lời mời gọi này, thiết tha hơn, khi Đức Giê-su cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-ni.
Trước khi rút ra một nơi riêng biệt để cầu nguyện, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ thân tín: "Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy." Ba lần Người trở lại đều thấy các ông đang ngủ, Người nói: "Thì ra anh em không thức nỗi một giờ với Thầy sao ? Anh em phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ".
Như thế, tất cả đều sáng tỏ. Vì sao phải tỉnh thức ? Thưa để luôn sẵn sàng đáp trả lời mời của Thiên Chúa. Lời mời này không chỉ được đưa ra vào ngày phán xét, vào ngày chết của mỗi người, nhưng đã được đưa ra ngay từ bây giờ và trong từng giây phút.
Thật vậy, trong từng giây phút, Thiên Chúa vẫn đưa ra cho con người những dấu chỉ xuyên qua các biến cố: những người bị hành hạ, bị lưu đày, người hàng xóm đau yếu hay đang khỗ sở, một người già đang cô đơn, một công việc phải làm, cảnh mặt trời lặn, một bông hoa đang nở, một em bé đang mỉm cười. Trước những dấu chỉ như thế, người ta làm gì, hay lại ngáp dài và thiếp ngủ.
Hãy tưởng tượng xem, Đức Giê-su sẽ buồn biết bao nhiêu khi đến ngày Người trở lại, vẫn thấy các tín hữu đang ngủ. Người tín hữu phải là những người biết chờ đợi và biết tỉnh thức, bởi vì họ tin rằng Thiên Chúa vẫn đang có mặt. Chính điều này giúp họ tránh được một cám dỗ lớn: ngủ quên trong lúc cần tỉnh thức.
Chờ đợi đến bao giờ ?
Trong bối cảnh của Giu-đa giáo muộn thời và của Ki-tô giáo vừa mới khai sinh, các tín hữu vẫn mơ đến ngày thế giới hiện tại sẽ sụp đỗ và Thiên Chúa sẽ ngự đến tiêu diệt những người gian ác. Còn khoa học hiện đại lại cho biết mặt trời sẽ không còn chiếu sáng ... trong 5 tỷ năm nữa. Tuy vậy, khoa học cũng báo trước một cuộc huỷ diệt trong tức khắc nếu xảy ra chiến tranh hạt nhân. Khi nào thế giới sẽ .................?
Ngày nay, những suy tư của Ki-tô giáo không còn đặt vấn đề thời gian ; khi nào ; nhưng luôn nhắc lại sứ điệp Tin Mừng: Thiên Chúa vẫn ở phía trước. Đức Giê-su đã trả lời cho các môn đệ hiểu là ngày giờ ấy, không ai biết được, kể cả Con Người. Người không muốn các ông rơi vào trạng thái mơ mộng, hoặc quá chú tâm vào quá khứ, hoặc chỉ nghĩ đến tương lai. Người mong muốn các ông tập trung sức chú ý vào hiện tại, vào cái hôm nay của Nước Thiên Chúa.
Dù vậy, dân Thiên Chúa không phải là một dân tộc ở một chỗ cố định. Họ là một dân tộc lữ hành, đang tiến bước. Họ không mưu tìm một chỗ cư ngụ vĩnh viễn, nhưng luôn chấp nhận lên đường, ra đi. Họ không phải là những người mê ngủ, nhưng là những người tỉnh thức. Họ là những người luôn ở trong trạng thái chờ đợi.
Thế nhưng một cám dỗ lớn vẫn thường xảy ra là người ta thích ngủ yên, bằng lòng với những điều đã có, và chỉ nhìn lại đằng sau. Đây chính là chủ trương của những người muốn sống an toàn, của tất cả những người muốn bảo thủ về tinh thần, về thiêng liêng. Những người này phải nhớ rằng thế giới luôn xô đẩy để tiến về phía trước. Trong một bối cảnh như thế, con người có cảm tưởng như mình đã bị lạc đường, họ cảm thấy mình bị mất hút, vì họ không tìm thấy trong thế giới đó quá khứ của chính mình. Vì thế, họ coi thế giới này là một thế giới xa lạ, ngoại đạo. Nhưng, chính trong thế giới xô bồ này, Thiên Chúa vẫn đang chờ đợi con người. Người vẫn đang âm thầm làm việc, kêu mời con người đến gặp gỡ, và làm cho thế giới nhận ra mầu nhiệm Thiên Chúa. Đó chính là ơn gọi và sứ mạng của người tôi tớ.
Như vậy, việc đón nhận Thiên Chúa trong ngày tận cùng của lịch sử, trong giây phút cuối cùng của cuộc đời sẽ không phải là điều gì lạ lùng, bởi vì, ngay từ bây giờ, con người đã hướng tầm nhìn của mình về Thiên Chúa, và đã biết nhận ra tiếng Thiên Chúa mời gọi trong từng giây phút của cuộc sống. Lời mời gọi này làm cho tương lai trở thành hiện tại, đồng thời làm cho hiện tại có giá trị và ý nghĩa của vĩnh cửu, bởi vì đó là lời mời gọi làm cho con người được sống, ngay tại đời này và trong cuộc sống mai sau.
Mãi mãi là chờ đợi
"Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống ..." Một lần nữa, khởi đầu mùa Vọng, chúng ta lại thưa lên với Chúa tiếng kêu này, trong niềm tin chắc chắn vào ơn cứu độ đã được ban tặng, nhưng chưa được thực hiện hoàn toàn. Bởi vì Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa đang đến, và Đức Giê-su Ki-tô đã hoàn toàn dấn mình trong cuộc xuất hiện này: "Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng đã có, hiện có và đang tới" (Kh 4,8).
Và một lần nữa, chúng ta lại đứng trước mầu nhiệm đang đến. Thật là uỗng công vô ích nếu đặt câu hỏi khi nào Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cách dứt khoát. Điều chúng ta quan tâm, không phải là ngày giờ diễn ra cuộc Quang Lâm, nhưng chính là tính cách quyết định, là cuộc xét xử về toàn bộ cuộc sống của mỗi cá nhân. Trước cuộc xuất hiện của Con Người, một cuộc xuất hiện mà không ai biết trước, và không ai có thể ngăn cản, trước cuộc đợi chờ trong bóng đêm mà chẳng biết bao giờ mới kết thúc, thì điều tốt hơn hết là chúng ta phải luôn ở trong tình trạng sẵn sàng, luôn ý thức về trách nhiệm của mình với hiện tại, và đem lại cho mỗi khoảnh khắc một sức nặng vĩnh cửu.
Đặc biệt, như lời thánh Phao-lô, chúng ta phải luôn sống trong tâm tình tạ ơn. Thật thế, chúng ta mới chỉ hưởng dùng một phần nhỏ trong toàn bộ ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô. Tuy vậy, tạ ơn không có nghĩa là thoả mãn để rồi không làm gì thêm nữa. Trái lại, với ý thức về điều chúng ta chưa đạt tới và chưa thực hiện được, chúng ta phải luôn hướng nhìn về Đức Ki-tô, Đấng là khởi đầu và là kết thúc của mọi sự, đồng thời phải gạt đi những gì làm ngăn trở cuộc xuất hiện của Người. Khi đó, như một cái gai đâm vào thớ thịt của cuộc đời, người Ki-tô hữu trở thành dấu chỉ tỉnh thức của trần gian, những người luôn vượt thắng giấc ngủ và công bố niềm hy vọng: "Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến" (Kh 22,20).
Phải tỉnh thức, nhưng làm sao đây ? Đức Giê-su dạy chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện, như Người đã làm tại vườn Ghết-sê-ma-ni. Nói thế, vì cầu nguyện chính là chú tâm vào lời mời gọi của Chúa, là sống trong sự hiện diện của Người. Tất cả chúng ta đều là những người tỉnh thức và đợi chờ bình minh đến, vì Thiên Chúa vẫn đang đến và sẽ đến.
*****
Hoàn cảnh của con người, trong mối tương giao của họ với Thiên Chúa, đó là thân phận của một người chưa có, chưa thấy, chưa biết và chưa nắm giữ... Thật là khó khăn khi phải sống trong tình trạng không chiếm giữ Thiên Chúa, nhưng phải chờ đợi Người... Thiên Chúa không phải là một sự vật như muôn ngàn sự vật để người ta có thể nắm giữ, Người là một ngôi vị và người ta phải chờ đợi. Ngay cả trong tương giao của con người, người ta vẫn không được quyền chiếm giữ. Còn Thiên Chúa thì luôn bất ngờ và kỳ diệu,..và người ta phải đợi chờ, đợi chờ thiết tha. Theo P.Tillich
Hằng ngày, chúng ta vẫn thường nghe thông tin về những trận động đất, những vụ tông xe,: MV 1-B92
Hằng ngày, chúng ta vẫn thường nghe thông tin về những trận động đất, những vụ tông xe, những tai nạn bất ngờ cướp đi sinh mạng của nhiều người. Chúng ta cảm thấy thương tâm cho những phận người xấu số phải đột ngột từ giã cõi đời.
Làm người ai cũng phải chết, đó là một lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, cái chết đến lúc nào thì không một ai trong chúng ta có thể biết được. Vì thế, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã gửi đến chúng ta một thông điệp: “Phải canh thức”.
Chúng ta tin rằng Chúa sẽ ngự đến trong ngày tận thế để phán xét kẻ sống và kẻ chết, và hơn nữa, Người sẽ đến với mỗi người chúng ta khi chúng ta nhắm mắt lìa đời. Chúng ta có thể ra đi hôm nay, ngày mai hay một thời gian nữa. Vì vậy, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để gặp Chúa. Cả cuộc đời chúng ta phải là một sự chuẩn bị không ngừng cho giờ phút quan trọng đó. Lời Chúa nhắn nhủ các môn đệ năm xưa cũng là lời nhắn nhủ chúng ta hôm nay: anh em phải tỉnh thức, vì chúng ta không biết khi nào thời ấy đến.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chỉ rõ thái độ cần phải có để chờ Chúa đến, đó là tỉnh thức sẵn sàng, vì Người sẽ đến rất bất ngờ. Tỉnh thức và sẵn sàng quả thực là một giáo huấn quan trọng của Chúa. Tất cả các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đã ghi lại giáo huấn này. Hôm nay, một lần nữa, Chúa nhắc nhở chúng ta phải canh thức, sẵn sàng mở của cho ông chủ bất cứ giờ nào ông về, dù lúc đó là lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng.
Tỉnh thức là luôn ở trong tư thế đang hoàn trọn bổn phận của người tôi tớ vì lòng yêu mến chủ. Tuy nhiên, sống giữa cuộc đời phù hoa, chúng ta thường mải mê với những gì thuộc về thế gian mà quên đi bổn phận của mình. Hơn nữa, vì kiêu ngạo, chúng ta thường cậy vào tài năng, sức khỏe, tiền bạc… để vui sống và thỏa mãn với những hạnh phúc chóng qua ở đời này, mà quên rằng một ngày kia chúng ta sẽ phải gặp Chúa và sẽ phải trả lẽ trước mặt Người. Hãy thức tỉnh để nhận ra sự mỏng manh của phận người mà trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Chúa là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. (Tt 2, 13).
Nói về thức tỉnh, thánh Phêrô cũng dạy chúng ta: “Anh em hãy chuẩn bị lòng trí, hãy tỉnh thức, hãy hoàn toàn đặt niềm trông cậy vào ân sủng sẽ được mang đến cho anh em trong ngày Đức Giêsu Kitô tỏ hiện. Như những người con biết vâng phục, anh em đừng chiều theo những đam mê trước kia, lúc anh em còn mê muội. Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.(1Pr 1, 13-16).
Chúa không muốn chúng ta đợi chờ cách thụ động, nhưng thức tỉnh phải là động lực để chúng ta luôn sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Càng thức tỉnh, chúng ta càng phải nỗ lực chu toàn bổn phận là dấn thân xây dựng bản thân nên hoàn thiện, xây dựng gia đình thêm hạnh phúc, và xã hội thăng tiến trong tình yêu Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay, một lần nữa giúp chúng ta tự vấn bản thân xem chúng ta đã thức tỉnh chưa? Chúng ta đang bước đi trong ánh sáng lời Chúa với lương tâm trong sạch hay đang ù lì trong bóng đêm tội lỗi? Nếu Chúa đến với chúng ta lúc này, liệu chúng con có sẵn sàng ra đón Chúa để được vào hưởng vinh quang Thiên đàng không?
Mùa Vọng là mùa đặc biệt để tỉnh thức và cầu nguyện trông chờ đức Kitô đến; Mùa Vọng là thời gian cho chúng ta hy vọng; Và Đức Kitô chính là hy vọng của chúng ta.
Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con phải thức tỉnh, nhưng hầu như chúng con chưa đáp lại lời Chúa mời gọi, khi đang mải mê với sự đời mà quên đi rằng Chúa sẽ gọi chúng con bất cứ lúc nào và chúng con phải trả lẽ trước mặt Chúa. Xin cho trong từng giây phút cuộc đời, chúng con luôn biết sẵn sàng đón Chúa ngự đến.
Gợi ý chia sẻ
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta đã thực hành lời Chúa dạy: “Phải tỉnh thức” như thế nào? Chúng ta có quyết tâm gì cho Mùa Vọng năm nay?
Mùa Vọng là mùa Đợi Trông và Hy Vọng ngày Chúa đến để cứu chuộc nhân loại. Chúa đã: MV 1-B93
Mùa Vọng là mùa Đợi Trông và Hy Vọng ngày Chúa đến để cứu chuộc nhân loại.
Chúa đã đến, đã cứu chuộc chúng ta. Chúng ta đã làm gì để xứng đáng với ơn cứu chuộc ấy? Chúng ta sẽ nói gì và nói làm sao với Chúa ngày Chúa quang lâm trở lại lần thứ hai?
Ngày nào chúng ta còn ở trần gian, chúng ta còn phải chờ đợi và cầu xin: “Trời cao hãy đổ sương xuống” và hy vọng “Tầng mây sẽ mưa đấng cứu chuộc” Thánh Gioan Tẩy giả mấy ngàn năm trước đã kêu gọi mọi người chúng ta sửa soạn và dọn đường cho Chúa đến: “Đường quanh co hãy sửa cho ngay, nơi gồ ghề hãy san cho phẳng, hố sâu hãy lấp cho đầy và nơi cao hãy mau bạt xuống” (Mac.1:2-3; Mat. 3: 1-3). Ngày nay, Đức Thánh Cha Benedicto XVI nhắc nhở chúng ta qua thông điệp Spe Salvi của ngài, Chúa là Hy Vọng của trần gian.
“Con người sống nhờ có Hy Vọng. Chúng ta cần có Chúa. Thế giới cần Chúa. Nhưng con người lại luôn luôn ở trong tình trạng thất vọng. Mùa Vọng chính là thời gian thuận tiện nhất để chúng ta cảnh thức tâm hồn mình chờ mong đấng đang đến, đã đến và sẽ đến.” Phải chăng đây là trọng tâm của thông điệp mà Đức Thánh Cha Benedicto XVI muốn nói tới Spe Salvi / Hy Vọng Cứu Chuộc?
“Hy Vọng trong Tin Mừng Tân Ước luôn luôn đi sát với Niềm Tin. Hy vọng là tặng vật Chúa ban, khả dĩ có thể biến cải cuộc sống của những ai chấp nhận nó, như các thánh đã từng biểu hiện qua cuộc sống của các ngài.”
Thế nào là Hy Vọng? Nó được cấu tạo thế nào để trở thành tuyệt vời và đáng tin cậy khiến chúng ta có thể nói được rằng “Chúng tôi đã được cứu rỗi nhờ có Hy Vọng?
Đức Biển Đức XVI trả lời trong thông điệp Spe Salvi:
-“ Nó phải được cấu tạo một cách cụ thể qua sự nhân biết Thiên Chúa là CHA toàn thiện và toàn hảo”.
-“Qua cái chết trên thập giá và sự phục sinh khải hoàn, Chúa Kitô đã cho chúng ta thấy Người thương yêu, yểm trợ, giúp đỡ chúng ta hết mình. Lòng yêu thưong trợ lực của Chúa rất vĩ đại qua sự hiệp thông của Người với chúng ta bằng niềm Hy Vọng rất vững bền, sự chết cũng không thể phá vỡ được, bởi lẽ tất cả những ai tin cậy vào Người, là CHA muôn vàn kính yêu thì chắc chắn sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau”.
ƠN CỨU ĐỘ
-“Ngày nay sự phát triển của khoa học -Đức Thánh Cha nói tiếp- hiển nhiên đã giam cầm Niếm Tin và Hy Vọng trong một nhãn quan cá nhân riêng rẽ thảm hại đến độ thế giới cảm thấy cần phải có Chúa, một Thiên Chúa thực sự. Nói một cách khác, thế giới không còn hy vọng nữa”.
-“Khoa học đã giúp rất nhiều cho cuộc sống vật chất của con người nơi trần thế, nhưng lại không thể cứu rỗi được nhân loại”. Con người đã được Tình yêu Chúa cứu rỗi. Tình yêu Hy Vọng đã biến cải cuộc sống con người trở nên tốt lành và hạnh phúc tươi đẹp”.
-“ Đây là loại Tình yêu Hy Vọng và Vẹn Toàn, chắc chắn đã được Chúa bảo đảm, bởi vì Thiên Chúa chính là Tình yêu. Người đã đến với chúng ta qua Chúa kitô, hiến dâng mạng sống cho chúng ta để rồi trong Chúa Kitô Người sẽ trở lại quang lâm lần thứ hai vào ngày tận cùng. Trong Chúa Kitô, chúng ta có Hy Vọng và nhờ Chúa kitô, chúng ta được thức tỉnh chờ ngày Chúa đến”.
Do đó Mùa Vọng phải được thể hiện bắng Bác Ái, bởi vì Hy Vọng và Niềm tin phải được chứng tỏ bằng Tình Yêu.
NGÀI CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CHÚNG TÔI MONG ĐỢI KHÔNG?(Mat.11: 2-4)
Nhưng Chúa đến với nhân loại như thế nào? Chúa không đến trong cảnh ồn ào tráng lệ nguy nga bên ngoài. Chúa Giêsu còn ẩn mình che dấu sứ điệp của Người khi thánh Gioan bị cầm tù vì đã nói lên sự thật về uy quyền của Chúa. Các môn đệ của Gioan cũng được tràn đầy ơn thánh khi đến thăm viếng thánh Gioan trong tù. Họ không hiểu biết được rõ ràng các biến cố sẽ xẩy ra, nhưng họ rất nôn nao và rúng động vì số phận đang bị cầm tù của thày Gioan mình nên họ đã đến với Chúa Giêsu để nêu thắc mắc với Người về số phận của thánh nhân và của chính họ: “Ngài có phải là đấng chúng tôi mong đợi không?” (Mat.11: 2-4).
Họ đã đặt vấn đề và hỏi đúng căn tính của Chúa nên Chúa đã biểu lộ cho họ biết những dấu hiệu về ơn cứu độ của Thiên Chúa. Lời Người nói chính là dư âm vang vong những lời tiên tri Isaiah mà sau này đã được nhắc lại trong Tin Mừng thánh Matthew:
“ Hãy hân hoan, hỡi sa mạc khô cằn; “ Đất hoang vu hãy nhảy múa vui mừng. “ Đâm chồi nảy lộc nở hoa, “ Và reo hò vang hát hoan ca… “ Vì vinh quang Lebalon, Carmel, Sharon huy hoàng, ….đang đổ tràn trên ngươi. “ Ngươi sẽ nhận biết Thiên Chúa tráng lệ rực rỡ. “ Hãy tăng sức cho những bàn tay yếu đuối, ….cho những đầu gối ngã quị. “ Hỡi những tâm hồn đang hoảng sợ …Đừng lo lắng, hăng hái lên! “ Đây là Thiên Chúa ngươi, “ Người sẽ đến bênh vực, cứu độ ngươi.. “ Người mù được trông thấy “ Kẻ điếc được nghe, “ Người què quặt bước đi, “ Kẻ câm được nói.. ……Vang âm lời ca tụng Chúa. “ Những ai được Chúa cứu chuộc …..sẽ trở về Zion ca tụng vinh danh Chúa, ...… vui hưởng hạnh phúc tràn đầy vô biên. “ Vĩnh biệt sầu muộn khóc than”. (Isaiah 35: 1-6a, 10 (7A)
Chúa đã không nói gì là trừu tượng hoặc cao siêu cả. Người không nói về Thiên Chúa đang ngự trên trời cao thẳm. Người nói về Thiên Chúa đang hành động nơi chúng ta và cho chúng ta. Và các môn đệ của thánh Gioan đã bắt thấy vấn đề là quyền uy Thiên Chúa đang hành động qua tình yêu và nỗi trắc ẩn của Người. Chúng ta được Chúa mời gọi đến để nhận biết khí cụ của lòng yêu thương nỗi trắc ẩn của Thiên Chúa được biểu hiện như là chính Chúa Giêsu Kito vậy.
SỰ NGHIỆP CỨU CHUỘC CỦA THIÊN CHÚA
Chúa Giêsu đã từ từ nói lời ca tụng thánh Gioan: “ Đây là con người không thể đổi thay như gió mây được, trên đời này không có ai vĩ đại hơn Gioan Tẩy giả. Ông là người được đặc quyền thông báo Chúa cứu thế đến. Nhưng to tát hơn nữa –Chúa thêm- thánh nhân còn được thông phần nước Thiên Chúa” (Mat.11:7-10).
Đối với chúng ta, nhiệm vụ không phải là thông báo Chúa đến, nhưng là đón nhận Chúa mà thánh Gioan đã thông báo. Nếu đất trời nảy sinh ra đấng Cứu Thế trong thời đại chúng ta, thì sứ mệnh hàn gắn cứu chuộc cũng phải thông qua sự nghiệp của Thiên Chúa. Đối với thánh Gioan, sự nghiệp này quả là đắt giá vô cùng, ông đã hy sinh mạng sống. Gioan bị chặt đầu. Chúng ta cũng được mời gọi, đặc biệt trong mùa Vọng này, để khấn hứa trở lại vui mừng hân hoan cam kết làm lành vết thương, hòa giải và đem bằng an cho những người anh em và tha nhân. Chúng ta hãy ca tung Thiên Chúa và mừng vui với mọi người vì chúng ta đã nhìn được và cảm thấy Thiên Chúa Giáng Trần.
Mùa Vọng chính là mùa hân hoan háo hức vì chúng ta ý thức được việc chúng ta phải làm để trở nên những thành viên hoạt động đắc lực và hữu hiệu của nước Trời. Mùa Vọng là mùa thể hiện Bác Ái, bởi vì Hy Vọng và Niềm Tin phải được chứng tỏ bằng Tình Yêu với nỗi niềm trắc ẩn cảm thông tự đáy lòng…..
Vòng chu kỳ của thời gian với bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông rồi tiếp tục trở lại Xuân Hạ …: MV 1-B94
Vòng chu kỳ của thời gian với bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông rồi tiếp tục trở lại Xuân Hạ … nhân gian gọi đó là chu kỳ một năm. Đối với Phụng Vụ Công Giáo cũng thế cứ khoảng tuần cuối tháng mười một lại một năm Phụng Vụ mới được khai mở khởi sự từ Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng. Sống theo tinh thần và ý nghĩa trong Mùa Vọng đó là mùa chuẩn bị tâm hồn để đón mừng ngày Đại lễ mừng ngày Giáng Sinh của Chúa Giêsu; và cũng để nhắc nhở người tín hữu tỉnh để canh thức chuẩn bị tâm hồn, canh tân lại đời sống, để đón chờ ngày Chúa đến gọi mỗi người kẻ trước người sau về trình diện với Chúa.
Giáo lý Công Giáo hỏi: Người ta sống ở đời này để làm gì? Thưa: Người ta sống ở đời này để tìm hạnh phúc, và hạnh phúc đích thực chỉ có ở trong Thiên Chúa là cùng đích của mọi loài. Câu trả lời đã khẳng định mục đích chính của con người khi sống trên trái đất này để làm gì? Hạnh phúc đích thực đó ông bà nguyên tổ Ađam và Evà đã được tận hưởng từ chính tình yêu Thiên Chúa chúc phúc và ban cho ông bà, trước khi ông bà sa vào bẫy cám dỗ của ma quỷ. Sau khi ông bà nghe theo lời ngon ngọt của ma quỷ, từ ngày đó Thiên Chúa đã thu hồi lại niềm hạnh phúc ấy nơi con người. Nhưng không vì thế Thiên Chúa bỏ rơi ông bà, Người đã hứa ban Đấng Cứu Thế đến để chuộc lại lỗi lầm do hai ông bà đã trót lỗi phạm, để con người tìm lại được nguồn hạnh phúc đích thực của thuở ban đầu.
Vậy vì sao nguyên tổ lại đánh mất niềm hạnh phúc đó? Vì con người tự bản chất là thân phận mọn hèn, yếu đuối và mỏng dòn, nên đã sa ngã vào con đường mà chính Satan là nguồn gốc muốn lôi kéo con người đi vào con đường tội lỗi giống như chúng. Thế nhưng Satan thực sự đã không hạ gục được con người, bởi vì con người vẫn còn nhận được lòng bao dung từ tình thương của Thiên Chúa. Thế nên, Thiên Chúa vẫn để cho con người sống để duy trì nòi giống, sống để chống trả lại mưu mô quyền lực của ma quỷ, và Thiên Chúa đã ban cho nhân loại Ơn Cứu Độ của Con Thiên Chúa là Đức Giêsu. Thiên Chúa vẫn để con người tiếp tục được hưởng quyền tự do, Người không tước đoạt và cũng không ràng buộc con người trong khuôn khổ. Chính vì vậy quyền tự do của con người chính là sự thử thách của Thiên Chúa muốn tôi luyện con người vững vàng hơn để về được bến bờ của niềm hạnh phúc đích thực, như ngày trước ông bà nguyên tổ toàn quyền tự do quyết định chọn lựa.
Con người ngày nay tuy đã được biết và được hưởng ơn Cứu Độ của Thiên Chúa, nhưng vẫn không làm chủ được cuộc sống mình, và tiếp tục rơi vào tình trạng như ông bà nguyên tổ ngày trước, vẫn tiếp tục đi vào con đường quanh co, lồi lõm, gồ ghề và khúc khuỷu. Con người vẫn thỏa thuê tự mãn trong hưởng thụ thú vui trần thế; vẫn cố tình sa đọa rơi vào những hố sâu, cạm bẫy.
Tin Mừng khởi sự Chúa nhật I Mùa Vọng (B) câu đầu tiên (c. 33) Chúa nhắc nhở và khuyên nhủ phải biết tỉnh thức, và các câu còn lại (c. 34-37) là để canh thức
Bài học ngày trước Chúa đã dạy các môn đệ. Tỉnh để canh thức là bài học Chúa đã căn dặn rất ký càng, nhưng rồi trước giờ Người chịu khổ hình, Người đã đưa các Tông đồ vào trong vườn Giệtximani để cầu nguyện, nhưng các ông đã quên đi bài học Thầy mình đã dạy, mê mải trong giấc ngủ, đến nỗi Người đã phải trở lại ba lần để đánh thức các ông dậy, nhưng đôi mắt các ông lim dim nặng nề, Người vẫn kiên trì nhắc nhở lại bài học đã dạy khi trước: “anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (x. Mc 14,33-41). Lời Chúa dạy các môn đệ ngày trước đó, cũng chính như hôm nay Chúa đang dạy tôi.
Trong tâm tình của ngày khởi sự năm Phụng Vụ mới, việc làm thiết thực là hồi tâm kiểm điểm lại cách sống trong năm vừa qua, đồng thời phác thảo cho bản thân hướng sống trong năm Phụng Vụ mới.
- Nhìn lại bổn phận mỗi ngày của chính bản thân đối với Thiên Chúa. Một ngày 24 tiếng, tôi nhớ đến Đấng tôi tôn thờ được bao nhiêu giờ? Bao nhiêu phút hoặc bao nhiêu giây? Hay tôi chỉ dành tất cả thời gian đó cho công việc, cho cơm, áo, gạo, tiền … ?
- Bổn phận đã được Chúa trao phó qua các Đấng Bề Trên, tôi có chú tâm vào công việc đó cách thực sự không? Hay chỉ làm chiếu lệ cho xong… ?
- Chung quanh tôi biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh cần sự quan tâm giúp đỡ, tôi có tận tình an ủi giúp đỡ họ, hay cũng giống như thầy tư tế hay thầy Lêvi trong dụ ngôn người Samaritanô? (Lc 10:25-37)
- Mỗi khi gặp thử thách tôi thường trách cứ, đổ lỗi cho ông bà nguyên tổ đã làm cho con cháu phải đau khổ, mà chưa bao giờ nhìn ra cách sống của chính bản thân; đôi khi lỗi lầm của mình còn lớn hơn lỗi lầm của nguyên tổ gấp bội?
- Mỗi ngày tôi làm được bao nhiêu điều tốt lành để làm gương sáng cho con cái, cho cộng đoàn, cho những người sống quanh ta?
Lạy Chúa, đã biết bao mùa Vọng đi qua cuộc đời con, nhưng con đã làm được gì để canh tân với chính cách sống của con. Xin Chúa giúp con biết mạnh dạn đổi mới lại, sửa sai những thói quen xấu thành những thói quen tốt trong cuộc sống. Cho con luôn biết tỉnh táo để canh thức, vì nếu bản thân không tỉnh táo thì chẳng bao giờ canh thức được. Xin đừng để con mê mải với cuộc sống trần gian mà quên đi Chúa là Đấng con đã nhận để tôn thờ; cho con biết nhìn ra Chúa đang hiện thân trong tha nhân, trong những người khốn khổ, để con biết hành động trong yêu thương. Đó chính là nguồn hạnh phúc đích thực mà con đang kiếm tìm. Amen!
Mở đầu cho năm phụng vụ mới, mở đầu cho mùa vọng năm B, là một nhắc nhở vô cùng bất ngờ: MV 1-B95
Mở đầu cho năm phụng vụ mới, mở đầu cho mùa vọng năm B, là một nhắc nhở vô cùng bất ngờ, gởi cho tất cả mọi người: bất kì ai cũng là kẻ gác dang. Dù có làm tới chức vụ nào, ở xã hội hay trong Giáo Hội, là một trách nhiệm vô cùng nặng nề, mà người nào cũng phải hoàn tất: Đó là nhiệm vụ của người gác dang. Đó là nhiệm vụ quan trọng, nhưng người ta lại thường hay quên. Nhưng canh gì? Và ở đâu? Gác dang cho ai? “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến”.
1- Gác dang cho sự sống của mình.
Sự sống là một hồng ân cao quý, nhưng lại rất mong manh. Hôm nay có thể còn, ngày mai có thể mất. Sự sống còn mất ấy lại có một bí mật: ít khi được báo trước. Mà khi sự sống mất thì sự hiện hữu của cốt lõi con người là linh hồn nơi trần thế, cũng không còn. Thế nên chính vì sự phập phồng ấy, mà ta phải để ý mà canh giữ. Không có thứ gì trong những thứ hiện hữu, mà tất cả đều do Chúa dựng nên, quý hơn linh hồn, mà có kẻ rình chờ bắt cóc. Kẻ thù có thật, nhưng luôn giấu mặt. Đó là ma quỷ.
2- Gác dang cho linh hồn mình.
Dĩ nhiên, sự hiện hữu của linh hồn nơi con người, lâu hay mau, dài hay vắn, thuộc về quyền năng của Thiên Chúa, chứ không phải nằm trong vòng tay của ma quỷ, nhưng ma quỷ có thể, và có quyền được lèo lái, và lừa đảo, để cho suốt thời gian nơi trần thế, linh hồn có thể thuộc về nó. Và cứ từng bước, từng phút bước sâu vào vòng của ma quỷ, thì đến khi mãn hạn sống, linh hồn đã thấm đẫm mầm mống của sự chết, và hương vị của hỏa ngục, cho nên khó có thể nhẹ nhàng và trinh trong, hầu có thể bay về cùng với Thiên Chúa. Người gác dang, vì thế phải rất cẩn thận và tỉnh táo, về những mưu đồ rất hấp dẫn, rất ngọt ngào nhưng vô cùng thâm độc mà ma quỷ dùng để chiếm đoạt linh hồn con người.
3- Gác dang phải biết báo thức.
Đứng trước những mưu đồ thâm độc ấy, có khi biết mà con người không làm sao ra được. Nhưng kia kìa! Vùng lên đi! Đừng ngủ nữa, có nghe thấy không từ trong sa mạc, đang có tiếng báo động gọi hồn. Gioan Tẩy Giả đang to tiếng gọi. Hãy đứng thẳng lên! Hãy cởi bỏ xiềng xích; Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ sắp tới. Cẩn thận và cảnh giác; giữ linh hồn cho thận trọng và an toàn; vì mất linh hồn là mất tất cả.
Gợi ý suy niệm:
1- Linh hồn bạn, hiện thuộc về Chúa hay thần bóng tối? 2- Bạn có nhìn thấy những mưu đồ ma quỷ đang dùng để bắt cóc linh hồn bạn không?
Năm phụng vụ mới bắt đầu bằng một lời cảnh báo: Hãy tỉnh thức. Chúng ta không còn ở trong thời: MV 1-B96
Năm phụng vụ mới bắt đầu bằng một lời cảnh báo: Hãy tỉnh thức. Chúng ta không còn ở trong thời kỳ chờ đợi Chúa giáng sinh làm người, dù rằng năm phụng vụ mở đầu với mùa vọng, mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Trái lại chúng ta đang ở trong thời kỳ chờ đợi Chúa đến hoàn tất công trình cứu độ nơi mỗi người, cũng như nơi toàn thể nhân loại.
Hãy tỉnh thức, đúng thế, người Kitô hữu phải chăng là người luôn sống cái mặc cảm coi thế gian và cuộc sống chỉ là một chuỗi những cạm bẫy sẵn sàng nhận chìm chúng ta trong hư đốn? Không phải là như vậy. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu và của Giáo Hội ngày hôm nay bao gồm một cái nhìn lạc quan về lịch sử nhân loại. Chúa Giêsu đã có đó. Tội lỗi đã bị án diệt vong. Sự chết đã bị đánh bại, còn mầm mống sự sống mới cứ mỗi ngày một lớn mạnh.
Hãy tỉnh thức để nhận ra tất cả những cái mới mẻ ấy để có thể nhập cuộc. Bà con trong thôn ấp được kêu gọi tu sửa đường xá cho việc đi lại được dễ dàng. Các em học sinh tham gia phong trào tiết kiệm để có tiền giúp đỡ các bạn cùng lớp, cùng trường gặp tai ương hoạn nạn. Người đi buôn, không nói thách, không bán đồ giả, không dùng cân thiếu và thước hụt. Phải tỉnh thức và thấm nhuần tinh thần Phúc Âm để có thể nhận ra sự lớn mạnh của trật tự xã hội mới.
Trong Phúc Âm cũng như trọn cuộc sống, chúng ta có thể bắt gặp vô số những con người mê ngủ, nghĩa là tiếp tục suy nghĩ và lý luận về hành động của Thiên Chúa theo lối cũ, theo những định kiến, theo những hệ thống thần học họ tự đặt ra. Các thượng tế, luật sĩ và biệt phái đã ru ngủ mình trong sự tự mãn và sự thông hiểu Kinh Thánh. Cả thành Giêrusalem cũng đã tự ru ngủ mình trong thói quen, trong cái nếp cũ, nên đã sống bên ngoài biến cố Con Thiên Chúa làm người.
Chúa Giêsu có đó như vị cứu tinh họ mong đợi, nhưng họ đã không nhận ra Ngài. Không những không nhận ra Ngài mà còn tìm cách giết hại Ngài. Bởi vì họ không chấp nhận nghe và thấy những lời nói, những việc làm đi ra ngoài những gì họ đã nghe và đã thấy. Họ đã có những phản ứng hoàn toàn không thích hợp với những đòi hỏi của thời đại mới. Họ đích thực là những kẻ mê ngủ. Chính những mục đồng và những kẻ bị liệt vào hàng tội lỗi công khai như người thu thuế và gái điếm, những kẻ bệnh tật và nghèo khổ lại là những người có khả năng nhận ra cái mới mẻ của tiếng hát các thiên thần, của ánh sao, của những dấu lạ để rồi cuối cùng đã nhận ra Đấng Cứu Thế nơi một hình nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, hay nơi một Đức Kitô bị chết treo trên thập giá.
Liệu chúng ta đã thực sự tỉnh thức để nhận ra Chúa nơi những người anh em, và thánh ý Ngài qua các biến cố xảy đến hay không?
Dụ ngôn nói về người chủ đi xa, giao quyền hành lại cho đầy tớ, mỗi người một việc. Tuy nhiều: MV 1-B97
Dụ ngôn nói về người chủ đi xa, giao quyền hành lại cho đầy tớ, mỗi người một việc. Tuy nhiều người nhiều việc, nhưng ông chỉ có căn dặn người canh cửa phải lo tỉnh thức để mở cửa cho ông lúc trở về. Rồi trong phần kết của bài phúc âm, lời nhắn bảo “hãy tỉnh thức” lại được gởi đến cho “hết mọi người.” Phải chăng Đức Giêsu ám chỉ tất cả các Kitô hữu đều là những người canh cửa, và họ hãy mở tung cánh cửa đời mình để đón Ngài.
Hôm nay, Dân Chúa trên khắp thế giới bắt đầu bước vào mùa Vọng với ý nghĩa chấn chỉnh lại thái độ trông ngóng, mong chờ, chuẩn bị đón mừng ngày Chúa lại đến.
Mùa Vọng luôn được nối kết với mùa Giáng Sinh, kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Nhưng nếu biến cố đó không gợi lên trong tôi một dư âm nào, việc Chúa sinh ra hay hồng ân cứu độ không mang một tầm quan trọng nào trong đời tôi, thì thử hỏi mùa Vọng có nghĩa lý gì, chẳng qua là một mùa lạnh hay mùa đông.
Cho nên thiết tưởng để sống trọn vẹn hơn mùa Vọng năm nay, chúng ta hãy nhìn lại chính mình và tự hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Hạnh phúc của tôi đang ở nơi nào? Những gì tôi đang tìm kiếm, khao khát, mong ước có làm cho tôi thoả mãn thật sự không? Hay là cứ tìm được điều này xong, tôi lại chạy theo điều khác, và rồi cuộc đời cứ mãi kiếm tìm không nguôi?
Thử hỏi Đức Giêsu có phải là đối tượng chính trong sự tìm kiếm của tôi không, hay chỉ là một thứ phụ thuộc, là nơi tôi đến tìm yên ủi, cố vấn những lúc bị thất bại trên đường chạy theo các đối tượng khác.
Nếu không cảm nhận Chúa là lẽ sống, niềm vui, hay nguồn hy vọng của đời mình thì làm sao có thể nhớ thương và mong chờ cho đúng nghĩa được. Có ai trông đợi hay nôn nao được gặp lại một bóng hình mà họ không yêu thương cũng chẳng qúi mến chăng?
Thế cho nên sống mùa Vọng là tái xác định đối tượng chính trong cuộc đời. Khi mà tôi nhận thức Chúa chính là áng mây cho sa mạc tâm hồn, là dòng suối mát cho cánh đồng chờ nước bao năm, thì lúc ấy lời ca “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội” sẽ thấm đến tận nơi sâu thẳm của cõi lòng.
Vậy lời kêu gọi “tỉnh thức” của ngày đầu năm phụng vụ không chỉ nhắc tôi về thái độ chờ đợi và sẵn sàng, nhưng còn ngầm bảo tôi hãy “thức tỉnh”: thức tỉnh lại từ những đam mê, trăn trở, gian nan để xem Chúa có ở trong đó không; thức tỉnh từ những kiếm tìm: tìm job, tìm của, tìm tình, tìm danh dự, tìm địa vị… để xem Chúa ở trong và ở trên tất cả những sự đó không. Vì nơi đâu không có Chúa, nơi đó chỉ là những quảng cáo của thế gian, ma qủi. Tìm mọi sự mà không tìm Chúa thì rồi vẫn cứ mãi thiếu vắng và khát khao. Phải chăng là vì “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Thánh Augustinô).
Người ta kể rằng dưới chân lâu đài Mamara của Hoàng đế Maximilian là dòng nước trong vắt của vùng biển Adriatique. Ở chiều sâu mấy chục thước nước phía dưới có một hang động từng làm say mê nhiều thợ lặn. Điều thú vị nhất là thỉnh thoảng mấy người thợ lặn đó đã tìm được những viên ngọc đẹp nhất trong hang động này lại thuộc quyền sở hữu của Quận chúa Reiner. Thế nhưng sau một thời gian dài, người ta khám phá các viên ngọc ấy bị nhạt màu. Nhiều chuyên gia về ngọc được triệu đến. Sau nhiều lần nghiên cứu, thử nghiệm, họ đã nhận định rằng để có được vẻ tươi đẹp nguyên thủy, các viên ngọc ấy phải được ngâm lại dưới đáy biển sâu. Và đúng vậy, sau một thời gian trầm mình dưới giòng nước trong của vùng biển này, dần dần các viên ngọc đã phục hồi được vẻ đẹp long lanh của thuở ban đầu.
Đời sống con người cũng thế! Để tìm lại niềm vui và bình an chân thật, để gột rửa những phấn bụi của dòng đời, chúng ta cũng hãy ngâm mình vào biển tình bao la của Thiên Chúa, ướp đượm hồn ta bằng hồng ân tươi mát của Ngài.
Giáng sinh là thời điểm của ân sủng và mến thương vời vợi. Thức tỉnh để được sống trọn vẹn niềm vui tìm gặp Chúa sẽ là thái độ khôn ngoan nhất của người Kitô hữu trên hành trình bước sang năm phụng vụ mới.
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 13,33-37) là phần cuối cùng trong diễn từ cánh chung của sách Tin Mừng theo: MV 1-B98
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 13,33-37) là phần cuối cùng trong diễn từ cánh chung của sách Tin Mừng theo Thánh Marcô, diễn từ nói về những vấn đề của thời buổi cuối cùng. Điểm nhấn chính yếu là lời mời gọi khẩn thiết phải tỉnh thức và sẵn sàng.
“Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức” (c.33a). Đây là lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng trong Mc 13, Chúa Giêsu kêu gọi bốn đồ đệ Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê phải coi chừng (cc.5.9.23.33). Lời mời gọi hãy biết nhận định rõ ràng và chính xác, là lời mời gọi xuyên suốt diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu. Các môn đệ cần phải có cái nhìn sáng suốt về những gì xảy đến, để giải thích đúng đắn các thực tại và không bị lừa phỉnh (cc.5-23). Bây giờ, sau khi đã nói tất cả những điều đó và để kết thúc diễn từ cánh chung, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Phải tính thức”. Chỉ trong một đoạn văn ngắn, có đến bốn lần Chúa nói: “Phải tỉnh thức” (cc.33.34.35.37), điều này cho thấy tính cách quan trọng của lời mời gọi.
Lý do đầu tiên được đưa ra để làm nền cho lời mời gọi quan trọng đó, chính là: “Vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” (c.33b). Ngay trước câu này, Chúa đã khẳng định: “Còn về ngày hay giờ đó [cuộc quang lâm] thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (c.32). Áp dụng điều đó vào trường hợp các đồ đệ, Chúa Giêsu cho họ biết rằng họ không biết được khi nào xảy đến cuộc quang lâm (c.33), tức là khi nào Chủ của họ trở về (c.35), và Ngài nối kết sự không biết này vào với lời mời gọi tỉnh thức.
Sau khi nêu lý do, Chúa Giêsu kể cho các đồ đệ nghe một dụ ngôn: câu chuyện ông chủ đi xa. “Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” (c.34). Người giữ cửa được nhấn mạnh cách đặc biệt vì hơn tất cả những người khác, nhiệm vụ canh thức của anh là rất rõ ràng.
Tình cảnh của các đồ đệ cũng tương tự như tình cảnh của những người đầy tớ của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn. Ông chủ đi xa và trao phó công việc cho họ; mỗi người có nhiệm vụ riêng của mình. Và bởi vì họ không biết khi nào ông quay về, nên họ phải luôn hiện hiện trong tư thế sẵn sàng. Cũng tương tự như thế, Chúa Giêsu chính là vị Chủ Nhà. Rời khỏi thế gian, Chúa Giêsu trao phó cơ nghiệp cứu độ của Người cho các đồ đệ. Trong Nhà của Chúa Giêsu, các đồ đệ, nhất là các vị lãnh đạo cộng đoàn Hội Thánh, vừa là gia nhân vừa là người giữ cửa. Mọi người đều phải tỉnh thức và sẵn sàng đón Người trở lại trong cuộc quang lâm của Người.
Sau khi kể câu chuyện dụ ngôn, Chúa Giêsu lặp lại lời kêu gọi tỉnh thức và nêu phần áp dụng của dụ ngôn đó và hoàn cảnh các đồ đệ: “Vậy anh em phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ” (cc.35-36).
Tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ, vì đó là điều bất khả về phương diện thể lý. Để hiểu đúng ý mà Chúa Giêsu muốn nói, chúng ta có thể nghĩ đến một lời mời gọi tỉnh thức đặc biệt mà chính Chúa đưa ra cho các môn đệ thân tín của Người trong một hoàn cảnh khác. Trong vườn Ghếtsêmani, vào đêm Chúa Giêsu bị bắt, Người nói với ba đồ đệ thân tín: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (14,38). Trong vườn Ghếtsêmani, lời mời gọi này phải được hiểu trước hết theo nghĩa đen của các từ ngữ. Nhưng điều đó không ngăn cản chúng ta giải thích rằng sự tỉnh thức, sâu xa ra, chính là một thái độ sống hoàn toàn quy hướng một cách rõ ràng về Thiên Chúa, tức là một thái độ cầu nguyện ở mức độ thâm sâu và thực chất. Áp dụng cách hiểu đó vào lời mời gọi ở 13,35 chúng ta có thể hiểu: sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu nói đến ở đây chính yếu là một cách sống hoàn toàn trong ý thức liên tục quy hướng về ông chủ và nhiệm vụ mà ông trao phó.
Người đầy tớ tỉnh thức là người luôn luôn đặt mình trong ý thức về tư cách của mình là người phục vụ ông chủ và thi hành một cách tốt nhất nhiệm vụ mà ông trao phó cho mình. Khi ông chủ đi xa, người đầy tớ dễ bị cám dỗ quên ông và quên nhiệm vụ ông trao phó, từ đó hành xử như thể mình là ông chủ, theo hứng riêng của mình từng lúc. Người đầy tớ tỉnh thực sẽ luôn luôn gắn kết cuộc sống mình với ông củ và luôn luôn sẵn sàng trả lời ông về việc thực hiện nhiệm vụ mà ông đã trao phó cho mình. Khi Chúa Giêsu nói các môn đệ của Người phải tỉnh thức như các đầy tớ trong dụ ngôn phải tỉnh thức, là Người muốn nhấn mạnh đến thái độ sống đó, chứ không phải là một sự canh thức về phương diện thể lý đơn giản.
Điều thứ hai đáng chú ý trong câu 35 là việc Chúa Giêsu gắn sự kiện ông chủ (có thể) trở về vào khung cảnh ban đêm. Người nói: “Vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”. Sự tối tăm vốn là một hình ảnh có thể tượng trưng cho vương quốc của bóng tối, của sự ác, của sự dữ, của sự hư luống, của sự tội lỗi… Ban đêm cũng là hình ảnh thường được sử dụng theo nghĩa là biểu tượng cho tình trạng say sưa, ngoại tình, gian dối, trác táng… Nói cách khác, đem tối là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc sống hiện tại theo nghĩa là cuộc sống đầy những thực tại tiêu cực. Và thực tế, người tín hữu phải luôn chiến đấu “với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này” như cách diễn tả của Thánh Phaolô trong Ep 6,12. Đó là thế gian chống lại Thiên Chúa. Chính khi đang hiện hữu trong cái thế giới của bóng tối đó, người tín hữu đón nhận sự kiện Chúa trở lại.
Kết thúc diễn từ cánh chung, Chúa Giêsu khẳng định: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải tỉnh thức!” (c.37). Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc đến tư cách và vị trí đặc biệt của bốn đồ đệ thân tín đang nghe Người tâm sự đây. Họ là những đồ đệ đầu tiên mà Người đã kêu gọi để biến đổi thành những kẻ lưới người (x. 1,16-20). Nhưng lời kêu gọi tỉnh thức và sẵn sàng không chỉ dành riêng cho họ mà thôi. Chúa nói rõ ý của Người là kêu gọi tất cả mọi người đều phải tỉnh thức như vậy, không trừ một ai. Nói cách khác, ở bên dưới lời khẳng định này là một lệnh truyền được ngỏ với các môn đệ thân tín, sai họ đi thông truyền cho tất cả mọi người điều mà Chúa Giêsu đang nói với họ đây, để mọi người đều tỉnh thức đón chờ Ngài đến hoàn thành công trình cứu độ của Ngài.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ:
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, có đến bốn lần Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta tỉnh thức. Lời kêu gọi này càng tha thiết hơn nữa khi nó được ngỏ với chúng ta trong khung cảnh của ngày Chúa Nhật bắt đầu Mùa Vọng và Năm Phụng Vụ mới. Tỉnh thức, sâu xa ra, chính là một thái độ sống hoàn toàn quy hướng một cách rõ ràng về Thiên Chúa, một thái độ cầu nguyện ở mức độ thâm sâu và thực chất. Người tôi tớ tỉnh thức sẽ không bao giờ hành xử như thể mình là ông chủ có quyền hành động tuyệt đối theo ý riêng mình.
2. “Anh em không biết khi nào chủ nhà đến”. Đó là một sự thật. Và chúng ta được mời gọi ý thức luôn luôn, một cách khiêm hạ, về sự thật đó. Chính từ sự thật đó mà xảy đến lời mời gọi tỉnh thức.
3. «Anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng». Chúng ta đang sống giữa thế giới của bóng tối, trong đó đầy dẫy những bất công, những thử thách, những ngang trái, những cám dỗ, những hư hỏng… Nhưng tiếng nói tối hậu và có tính quyết định sẽ không phải là tiếng nói của bóng tối và sự ác. Tiếng nói tối hậu sẽ là tiếng nói của Ông Chủ. Chúa sẽ quang lâm và trở về với chúng ta trong chính hoàn cảnh của thế giới tối tăm và độc ác này. Nếu chúng ta, bất chấp đêm tối của tội lỗi và sự dữ, vẫn đang hiện hữu trong tư thế đồ đệ luôn quy hướng về Ngài, chúng ta sẽ được chia sẻ vinh quang với Ngài.
4. Mọi môn đệ của Chúa Kitô đều có nhiệm vụ nói cho thế giới biết rằng Chúa chắc chắn sẽ trở lại, nhưng là vào lúc chúng ta không ngờ. Vì vậy, mọi người đều được mời gọi tỉnh thức, luôn luôn hiện hữu trong tư thế của người tôi tớ tốt lành đang tỉnh thức đợi chủ về. Lời của Chúa Giêsu: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải tỉnh thức!” (c.37).
Mở đầu Mùa Vọng, Chúa Giêsu tha thiết kêu gọi chúng ta hãy “tỉnh thức và cầu nguyện”. "Các con hãy: MV 1-B99
Mở đầu Mùa Vọng, Chúa Giêsu tha thiết kêu gọi chúng ta hãy “tỉnh thức và cầu nguyện”. "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc nào chủ về” (x.Mc 13, 33-37)
Mỗi người đang có một ước mơ, một khát vọng trong lòng. Có thể, không ai hiểu ai. Nhưng không ai sống mà không khát vọng. Đời người là một Mùa Vọng. Chỉ tiếc là, có những khát vọng làm cho con người ra ra hư đốn.
Chẳng hạn:
Có ai ngờ được người đang có quyền có tiền lại đang khát chia nhau một phần lợi lộc béo bở nếu cùng nhau toa rập bán được một lô đất ăn cắp. Họ bất chấp công lý, đạo đức, luật pháp, miễn là thỏa cơn khát quyền lực, cơn khát tài sản!
Có ai ngờ được người đang có nhà cao cửa rộng, xe hơi bóng loáng lại khát đổi nhà đổi xe cho sang trọng hơn giữa những người vô gia cư, bất hạnh, què quặt… đang lê la cuộc đời trước mắt mình, dưới chân mình.
Hôm nay, được mời đi chơi với các đại gia, nhìn thấy người ta quá giàu có, sang trọng, tiêu xài thoải mái, vui chơi thỏa thích, em tôi nhắn về cho tôi tin nầy: “Khi người ta quá đầy đủ, còn nhớ đến Thiên Chúa nữa không?” Lặng đi mấy phút, tôi tạ ơn Chúa vì em đang nhớ đến Chúa giữa cuộc du lịch, giữa khu du lịch ĐN ồn ào, sôi động. Tôi trả lời: “Em lầm rồi, họ chưa đầy đủ đâu. Còn khát lắm. Ai biết?”.
Có ai ngờ được người đang có một cuộc sống thiêng thánh lại khát những điều mê muội thấp hèn. Trong đó, có tôi, có bạn, có tất cả những Kitô hữu, không kể thành phần nào, vẫn không tránh khỏi nghiêng chiều về những thực tại thấp hèn, phù du, chóng vánh.
Tin mừng khai mạc Mùa Vọng nhắc nhớ cho chúng ta về khát vọng chính đáng nhất trong cuộc đời: Khát Chúa ngự trị trong căn nhà tâm hồn bé nhỏ, vì chỉ có Chúa mới làm cho chúng ta thỏa cơn khát vô biên.
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi. Hồn tôi mới được nghỉ ngơi an bình” (Tv 61)
Thánh Augustin: “Chúa là khát vọng của lòng tôi, tôi sẽ khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”.
Có thể nói đoạn sách của Isaia và Thánh Vịnh 79, đáp ca hôm nay đã để cho chúng ta mẫu gương Khát Chúa rất quí giá:
Dân Chúa tha thiết kêu xin: “Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống” (Is. 63) để phục hồi những gì đã tàn hoang, “xin Chúa thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình” (x. TV 79).
Khát vọng của Dân Chúa là một khát vọng chính đáng, một khát vọng thánh thiện: khát vọng Chúa nhìn xem, bảo vệ, củng cố công trình Ngài đã thiết lập: “vườn nho” Giáo Hội mà Chúa đã ươm trồng, “nhà cửa” linh hồn, thân xác, đức tin mà Chúa đã để lại cho chúng ta quản lý trông nom.
Như vậy,
Khát vọng chính đáng của chúng ta là khát vọng Chúa phục hồi con người chúng ta để sống đúng với danh nghĩa, với tư cách là con cái của Ngài mà chúng ta đã vì những khát vọng bất chính mà đánh mất.
Khát vọng chính đáng ấy là khát vọng Chúa đến ngự giữa tâm hồn, giữa gia đình chúng ta, cộng đoàn chúng ta, để Ngài can thiệp vào đời sống chúng ta: nhìn xem, bảo vệ, củng cố Giáo Hội cơ bản của Ngài.
Khát vọng chính đáng ấy, thiết tưởng, không phải là khát vọng đối đầu thành công với thế lực gian tà của ma quỷ, nhưng là khát vọng làm chứng cho công lý cho sự thật, thức tỉnh những con người mê muội, cải tạo những con người bị ma quỷ giáo dục sớm nhận ra uy quyền của Thiên Chúa.
Khát vọng chính đáng ấy không phải là khát vọng Chúa sẽ ra tay đàn áp những người đàn áp, Chúa sẽ phỉ nhổ nhục mạ những người phỉ nhổ nhục mạ, Chúa sẽ xử luật rừng với người chơi luật rừng… nhưng là để Chúa phục hồi lại nhân phẩm tồi tệ của những con người kia cũng là con cái của Chúa, kẻo uổng công trình Chúa cứu chuộc.
Khát vọng chính đáng ấy là khát vọng nên công chính cho mình và cho mọi người, cho xã hội, cho đất nước, cho cả những người đang chìm ngập trong bất công, gian tà, bạo lực.
Khát vọng chính đáng ấy là khát vọng tỉnh thức trước những nguy cơ làm cho chúng ta xa cách Chúa, tỉnh thức trước nguy cơ Satan hóa bản thân, gia đình, đất nước chúng ta.
Để thực hiện được khát vọng chính đáng, “Khát Vọng Chúa”, khát vọng nên công chính, Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta: dừng chân ngay những hành vi ám muội, bất chính; xóa bất công xây bình an trong lòng; mặc lấy khí giới ban sự sống; và sống công minh như giữa ban ngày. (x.Rm 13,1-14). Bởi vì, chúng ta đã và đang có những khát vọng bất chính rồi ra dững dưng ơ hờ trước lời kêu gào thống thiết với khát vọng chính đáng của dân Chúa khắp nơi nơi.
Biết không phải dễ dàng mà chúng ta buông bỏ những khát vọng bất chính, biết đôi khi khát vọng bất chính lại len lấn ẩn tàng ngay trong những hành vi tưởng như là công chính, cho nên, Thánh Phaolô lại khuyên chúng ta hãy dùng nguồn trợ lực quí giá là ân sủng của Thiên Chúa và yên tâm, kiên vững kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô: “Vì chưng, trong Ngài, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như Chúa Kitô đã minh chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra. Cũng chính Ngài sẽ ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến”. (1 Cr 1, 3-8)
Thiết nghĩ, khao khát Chúa, mỏi mòn khao khát Chúa, tuyệt đối khao khát Chúa, khát vọng nên công chính, khát khao hết hiệp với Chúa Giêsu, là biết tỉnh thức và cầu nguyện vậy.
Cụ Chu, người xướng kinh trong nhà thờ ở Gx tôi đã yếu liệt bỏ ăn bỏ thuốc cả tuần nay. Anh em đến thăm cụ và đọc kinh xin ơn chết lành. Sau giờ kinh, chuyện trò với cụ. Cụ vui vẻ nói “Xin Chúa đến rồi, mà mấy hôm nay Chúa bận quá. Để từ từ Chúa sắp xếp. Chờ thôi. Chắc thứ sáu”. Thiết nghĩ, cụ đã làm gương cho chúng tôi về việc tỉnh thức, cầu nguyện và sẵn sàng đón Chúa đến.
Lạy Chúa, xin cho chúng con tỉnh thức trước những nguy cơ xa cách Chúa và luôn biết khát khao kết hiệp với Chúa từng phút giây trong cuộc đời, để Chúa làm chủ mọi ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng con.
Nguyện xin Vị Tôi Tớ Chúa Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, Người đã luôn tỉnh thức cầu nguyện trong tù, phù hộ cho chúng con. Amen.
Chúng ta bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Đầu mỗi năm mới, khi chúng ta mừng Tết Nguyên Đán: MV 1-B100
Chúng ta bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Đầu mỗi năm mới, khi chúng ta mừng Tết Nguyên Đán, chúng ta lại hướng nhìn về phía trước, nhìn về tương lai với niềm hy vọng là năm mới sẽ đem lại cho chúng ta những điều tốt lành hơn. Thì đầu năm Phụng vụ mới cũng vậy, Giáo Hội mời chúng ta hãy hướng nhìn về ngày Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang để vĩnh viễn thiết lập Trời Mới Đất Mới cho loài người chúng ta.
Có điều đặc biệt là: thường thường trong những ngày đầu năm, chúng ta cố gắng quên đi cuộc sống hiện tại với bao nhiêu khó khăn thử thách và trách nhiêm nặng nề, thì hôm nay trong ngày đầu năm Phụng vụ, trong lúc gợi lại trước mắt chúng ta quang cảnh tươi sáng về ngày Chúa quang lâm, Giáo Hội lại không muốn để cho chúng ta cứ tha hồ mà sống trong mơ ước xa xôi, nhưng trái lại Giáo Hội đưa chúng ta về với cuộc sống và trách nhiệm hiện tại của mình và nhắc lại lời căn dặên của Chúa Giêsu: Hãy Tỉnh Thức!
Bài Phúc Âm khai mạc năm Phụng vụ mới này (Mc13, 33-37) chỉ vỏn vẹn có 5 câu mà đã có tới 4 lần dùng mấy tiếng "phải tỉnh thức". Mở đầu là lời kêu gọi "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức!" Kết thúc cũng là lời kêu gọi tương tự: "Thầy nói với anh em đây và với mọi người là phải tỉnh thức!" Giữa hai lời kêu gọi đó, là một dụ ngôn ngắn kể rằng: Người kia sắp đi xa, ông để nhà lại cho đầy tớ trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc và dạy phải tỉnh thức, vì không biết chủ về lúc nào. Sẽ không may mắn cho người đầy tớ nào, khi chủ bất thần trở về, bắt gặp còn đang ngủ mê.
Ngôi nhà mà ông chủ giao cho tôi tớ, chính là thế giới mà Đức Kitô giao cho loài người chúng ta chịu trách nhiệm. Chúng ta có bổn phận phải quản lý nó, cũng như chúng ta chịu trách nhiệm về chính cuộc đời mình và phải quản lý nó hợp với ý muốn của Thiên Chúa, theo lề luật bác ái yêu thương. Rồi ngày kia Chúa sẽ xuất hiện tỏ tường với chúng ta và Người sẽ xét xử chúng ta theo cách thức chúng ta hoàn thành trách nhiệm của mình như thế nào?
Chúng ta phải sống cuộc sống hiện tại trong sự tỉnh thức, nghĩa là không quên ngày Chúa đến (đến trong ngày tận cùng của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta), và# vì hướng về Đức Kitô như thế mà tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cữu của mình. Trong bài dụ ngôn này--cũng như trong dụ ngôn những nén bạc mà ông chủ giao cho các tôi tớ trước khi đi xa--chúng ta đều thấy nhấn mạnh tới trách nhiệm và tính chủ động của con người trong việc xây dựng Nước Trời và xây dựng hạnh phúc của mình.
Chúa Giêsu đã đến. Rồi Người đã ẩn mình đi khỏi con mắt xác thịt của loài người. Đến ngày Quang Lâm, Người sẽ lại xuất hiện tỏ tường trước mặt muôn dân. Trong thời gian Người giấu mình đi, chúng ta nhiều khi kêu trách Người sao như muốn bỏ mặc chúng ta. Nhưng sở dĩ Chúa ẩn mình đi như thế là Người tôn trọng chúng ta, vì muốn cho chúng ta nên người trưởng thành, biết sử dụng tự do, tính sáng tạo và thi thố tinh thần trách nhiệm. Làm sao con cái có thể lớn khôn khi cha mẹ cứ bám sát vào nó, lo lắng cho nó từng ly, từng tí? Dĩ nhiên là Chúa vẫn hiện diện và lo lắng cho chúng ta, nhưng có thể nói cách kín đáo, tế nhị, không bao giờ dành mất tự do và trách nhiệm của ta.
Nếu chúng ta theo Chúa chỉ cốt để tìm an ủi hoặc tìm sự an toàn trước cuộc đời đầy đau khổ, thì chúng ta không làm đẹp lòng Chúa và làm cớ cho người ta phê bình tôn giáo là ru ngủ. Cũng vậy, nếu chúng ta theo Chúa, để rồi lẫn trốn các trách nhiệm đối với xã hội, đối với anh chị em đồng loại, tức là chúng ta làm cớ cho người ta phê bình tôn giáo kìm hãm con người trong vòng ấu trĩ.
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời. Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại: nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết nếu số phận người tốt, người xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích. Ba là tin vào thuyết luân hồi (cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác), nếu kiếp này ta chưa đạt tới hạnh phúc thì ta sẽ chờ kiếp sau, khi ta được đầu thai lại. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của chúng ta. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc chúng ta gieo mầm mống cho đời sống vĩnh cữu. Mỗi người thỉnh thoảng nên tự hỏi mình sử dụng thời giờ như thế nào?
Người kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Đồng thời người kitô hữu luôn luôn hướng về Đức Kitô sẽ đến kiện toàn công cuộc cứu độ, họ biết rằng thế gian này, tuy là rất tốt đẹp, nhưng không phải là quê hương vĩnh cữu của mình. Họ sống cuộc đời trần gian cách hết sức nghiêm chỉnh như thể là sẽ mãi mãi ở đây (vì đó là Thánh ý của Chúa); đồng thời họ sẵn sàng rời bỏ mọi sự bất cứ lúc nào Chúa đến gọi họ ra đi.
Người kitô hữu giống như người học trò tốt ở trong ký túc xá. Suốt tuần anh ta học hành rất chăm chỉ, anh ta không làm biếng, không ngồi đó mà mơ mộng viễn vông, nhưng cuối tuần khi cha mẹ đến đón về nhà, thì anh ta càng vui sướng# Việc trông chờ ngày nghỉ cuối tuần trong gia đình không làm cho anh ta sao nhãng việc học hành, trái lại tăng thêm nghị lực cho anh ta.
Thời gian Mùa Vọng là thời gian Giáo Hội đặt chúng ta lại trong thái độ hy vọng, mong chờ và tỉnh thức. Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và hăng say, họ thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng, với tất cả nhiệt huyết, nổ lực cần cù và không trì hoãn. Đây là thời gian Giáo Hội muốn chúng ta sống hướng về ngày giờ Đức Kitô đến một cách ý thức hơn.
Khi chúng ta làm việc mà biết hướng về Đức Kitô thì chắc chắn có một cái gì đó thay đổi trong thái độ và cách thức làm việc của ta. Khi chúng ta đau khổ màbiết hướng về Đức Kitô thì sẽ có cái gì đó thay đổi. Khi chúng ta chiến đấu mà biết hướng về Đức Kitô thì cũng sẽ có cái gì đó thay đổi . Ngay cả khi ta vui chơi, giải trí cũng thế. Và trong mọi sự, mọi hoàn cảnh chúng ta đều có sự bình an.
Người ta kể chuyện rằng ngày kia Thánh Lu-y Gonzaga còn chơi với bạn bè, thình lình cha bề trên đến tập họp tất cả lại và hỏi thử: "Giả sử như chúng con đang chơi mà Chúa đến báo cho chúng con biết chúng con chỉ còn sống 5-10 phút nữa thôi, thì chúng con sẽ làm gì?". Bấy giờ mọi người bổng trở nên căng thẳng. Người thứ nhất trả lời: " Con sẽ đi gặp cha linh hướng" Người thứ hai nói:"Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện trước Nhà Tạm". Riêng Lu-y vẫn bình thản trả lời:" Thưa cha, con sẽ tiếp tục chơi".
Đó là câu trả lời của một đấng thánh và đáng lý mỗi người kitô hữu đều phải có thể trả lời như thế. Chơi đùa, giải trí cũng làm đẹp lòng Chúa nếu đó là việc phải làm theo nhu cầu đúng đắn hoặc theo bổn phận. Vậy không phải chỉ bằng đọc kinh, cầu nguyện, mà bằng cả yêu thương, đau khổ, lao động, nghỉ ngơi, giải trí, nghĩa là bằng cả cuộc đời mà chúng ta đón chờ Chúa và chuẩn bị cho hạnh phúc đời đời của chúng ta.