Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật MV3-B Bài 1-50 Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết
----------------------------------
“Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Có người đã được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: “Tôi không phải là Ðấng Kitô”. Họ liền hỏi: “Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?” Gioan trả lời: “Tôi không phải là Elia”. – “Hay ông là một đấng tiên tri?” Gioan đáp: “Không phải”.
Họ liền bảo: “Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?” Gioan đáp: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”.
Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: “Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?” Gioan trả lời: “Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi Gioan làm phép rửa. - Ðó là lời Chúa.
----------------------------------
MV3-B1: SỨ MẠNG CỦA GIOAN.. 2
MV3-B2. P/9- CHỨNG NHÂN.. 4
MV3-B3. CHỨNG CHO CHÚA GIÊSU - Lm. Trọng Hương. 5
MV3-B4. ÁNH SÁNG TIN MỪNG - Lm. VIKINI 6
MV3-B5. Người Làm Chứng - Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT.. 8
MV3-B6. Lời Chứng Của Ông Gioan – JKN.. 10
MV3-B7. Yêu Thương là Phục Vụ - Lm Augustine, SJ. 13
MV3-B8. CSTM/11- HÃY VUI LÊN.. 17
MV3-B9. PV/35- NHỮNG LỜI CHỨNG.. 19
MV3-B10. PV/38- ƠN CỨU ĐỘ.. 21
MV3-B11. PV/41- ẨN MẶT.. 22
MV3-B12. Người Làm Chứng. 24
MV3-B13. HÂN HOAN VÌ CHÚA ĐÃ ĐẾN GẦN.. 25
MV3-B14. Thần Khí Chúa Sai Tôi đi - Giêrônimô Nguyễn Văn Nội 26
MV3-B15: NGHỀ CỦA TÔI QUAN TRỌNG. 29
MV3-B16: ĐẤNG MESSIA.. 31
MV3-B17: NHỮNG LỜI ĐƯỢC NHẮC NHIỀU NHẤT CỦA KINH THÁNH.. 34
MV3-B18: LỜI CHỨNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ.. 35
MV3-B19: Gặp Chúa ở đâu ? - Lm Bùi Mạnh Tín. 37
MV3-B20: Hãy Sửa Đường - Lm JB. Nguyễn Minh Hùng. 39
MV3-B21: Gioan Tiền Hô sửa đường đón Đấng Cứu Thế ra sao?. 40
MV3-B22: Gioan Tiền Hô, Chứng Nhân của Đức Kitô Cứu Thế - Lm Đan Vinh. 42
MV3-B23: Sự Bằng Lòng của Đức Maria - Huyền Đồng. 46
MV3-B24: SLC – Sứ giả tin mừng. 48
MV3-B25: CSTM/10 – Chứng nhân. 50
MV3-B26: SLCVHV/15 – Vui mừng. 52
MV3-B27: SLCVHV/15 – Vui mừng. 54
MV3-B28: Chứng nhân của ánh sáng – ĐTGM. Ngô quang Kiệt 56
MV3-B29: Tiếng kêu nơi sa mạc. 58
MV3-B30. ĐÓN RƯỚC THIÊN CHÚA VÀO TÂM HỒN & CUỘC SỐNG.. 61
MV3-B31. TRỜI MỚI ĐẤT MỚI 65
MV3-B32. CÓ TẬT GIẬT MÌNH ! 67
MV3-B33. Sự thật vẫn luôn là sự thật, dù cho anh chối bỏ nó, tẩy chay nó, 69
MV3-B34. Fair play với Chúa! 71
MV3-B35. Nghề của tôi 73
MV3-B36. Một nhân chứng dấn thân. 74
MV3-B37. Trích chú giải của William Barclay. 76
MV3-B38. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour 83
MV3-B39. Kitô hữu, bạn là ai?. 85
MV3-B40. Chú giải của Noel Quesson. 86
MV3-B41. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 91
MV3-B42. Chú giải và suy niệm của Fiches Dominicales. 94
MV3-B43. TIẾNG NÓI CỦA CHỨNG NHÂN! 97
MV3-B44. ÔNG GIOAN, NGƯỜI LÀM CHỨNG.. 101
MV3-B45. CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG - Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 106
MV3-B46. VUI MỪNG VÌ CHÚA SẮP ĐẾN- Lm. Carolô Hồ Bặc Xái 113
MV3-B47. CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI - Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 120
MV3-B48. ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?. 126
MV3-B49. CHỨNG NHÂN CHO ĐỨC KITÔ.. 129
MV3-B50. NIỀM VUI TRONG CHÚA - Lm. Anphong Trần Đức Phương. 131
-------------------
Như chúng ta đã biết Gioan mở mắt chào đời đã được Chúa trao cho một sứ mạng, đó là giới: MV3-B1
Như chúng ta đã biết Gioan mở mắt chào đời đã được Chúa trao cho một sứ mạng, đó là giới thiệu Chúa cho đồng bào của mình, và làm chứng Ngài chính là Con Chiên vô tội, đã gánh lấy những lầm lỗi của loài người.
Sứ mạng này, Gioan đã làm đầy đủ và hễ có dịp Gioan liền chỉ cho công chúng biết Đức Kitô. Khi thấy mọi người vây quanh mình và tưởng rằng mình là Đấng Cứu Thế, Gioan liền mạnh dạn cải chính, mặc dù đến sau nhưng Chúa Giêsu vẫn cao trọng hơn nhiều, mình chẳng xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Chúa.
Khi Chúa đến xin ông làm phép rửa, ông đã nhìn thấy trời mở ra và chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần đỗ xuống trên đầu và từ trời cao có tiếng phán :
- Này là Con Ta rất yêu dấu.
Đồng thời Gioan còn có nhiệm vụ bảo dân phải sửa đường cho Chúa đến, nơi cao phải bạt xuống, chỗ trũng phải lấp cho đầy, đường gập ghềnh quanh co phải uốn cho thẳng.
Với người quyền thế, Gioan vẫn mạnh dạn nói lên sự thực, chẳng hạn với Hêrôđê, Gioan đã can ngăn :
- Vua không được cướp vợ của em mình.
Bổn phận làm chứng cho Chúa cũng là bổn phận của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Nhìn vào giòng lịch sử chúng ta cũng thấy được như vậy.
Trước hết là các Tông đồ.
Tuân theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã đi khắp thế gian giảng dạy và làm chứng về Ngài. Mặc dầu biết trước sẽ gặp phải nhiều khó khăn và chống đối, nhưng các ông vẫn cứ ra đi, để rồi đã bị bắt bớ, cầm tù và sau cùng đã lấy mạng sống của mình để làm chứng tá cho Tin Mừng Phúc âm.
Thánh Giacôbê thì bị đưa lên nóc đền thờ và bị xô xuống cho chết. Thánh Bartôlômêô thì bị lột da sống, thánh Andrê và Phêrô thì bị đóng đinh ngược, duy chỉ có thánh Gioan là đã chết già tại Công đồng Ephêsô mà thôi.
Tiếp đến là Giáo hội.
Giáo hội nối tiếp các Tông đồ. Trong số 33 vị Giáo Hoàng đầu tiên, thì đã có tới 30 vị bị giết. Rồi trong 4 thế kỷ đầu, các tín hữu đã gặp phải những cơn bách hại khủng khiếp. Nhưng các ngài đã anh dũng tuyên xưng đức tin của mình để làm chứng cho Chúa.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy.
Chúng ta không phải chỉ làm chứng cho Chúa bằng lời nói mà còn phải làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Bởi vì chính gương sáng của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn và hấp dẫn những người khác trở về cùng Chúa, như người xưa đã nói :
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Ngày kia vua Tấn văn Công đi săn và bị lạc ở trong rừng, may thay gặp một người câu cá tên là Ích Ngư, vua nói :
- Ta đây là vua, chú đưa ta ra, ta sẽ ban thưởng.
Người câu cá hèn hạ nói :
- Nếu được phép thì tôi xin hỏi một đôi lời.
Nhà vua bằng lòng. Người câu cá bèn nói tiếp :
- Chim hồng sống ở bờ biển, chán biển đến sống ở chỗ ao tù sẽ sa vào bẫy. Ba ba sống ở đáy vực sâu, chán vực sâu lên sống ở bãi sẽ bị chài lưới. Nhà vua ở đền sao lại đi săn và lạc vào rừng sâu thế này.
Nhà vua khen :
- Chú nói hay quá.
Sau đó, nhà vua bảo người tùy tùng ghi địa chỉ để khi về sẽ gửi quà tặng. Người câu cá bèn trả lời :
- Đức vua ghi địa chỉ làm chi. Xin đức vua hãy tôn kính trời đất, bảo vệ bờ cõi, thương yêu dân chúng là tức khắc bầy tôi này đã được trọng thưởng. Bằng không thì dù nhà vua có ban phần thưởng thế nào, bày tôi cũng sẽ không thể an tâm mà hưởng dùng.
Cũng vậy, mỗi người chúng ta hãy lo sống đạo và chu toàn bổn phận của mình, thì dù không giảng giải, không nói năng, chúng ta cũng đã làm chứng cho Chúa.
Bởi vì, đời sống đạo đức của chúng ta chính là một thứ ánh sáng chiếu tỏa, để những người chung quanh sẽ nhận biết Chúa.
Đức Mẹ hiện ra nhiều lần với Bernadette ở Lộ-Đức, để thức tỉnh con người ăn năn sám hối tội: MV3-B2
Đức Mẹ hiện ra nhiều lần với Bernadette ở Lộ-Đức, để thức tỉnh con người ăn năn sám hối tội lỗi. Nhưng, thay vì đón nhận sứ điệp từ trời của Đức Mẹ, người ta nghi ngờ hoặc không tin. Họ nhờ Bernadette hỏi Đức Mẹ: “Bà bởi Thiên Chúa hay bởi quỉ thần sai đến ?”.
Khi Chúa Kitô đến, người ta cũng không nhận ra Ngài là ai ? Thánh Gioan Tẩy giả, ngôn sứ của Thiên Chúa đã phải lên tiếng: “Giữa anh em có một Đấng mà anh em không biết”. Gioan vị “tiền hô”, vị “Đại sứ lưu động” có nhiệm vụ đi trước dọn đường cho Chúa Kitô đến. Ông đã bị nhà cầm quyền đương thời bỏ tù vì dám nói lên sự thật mất lòng, ông dám làm “chứng nhân” cho Ánh Sáng ! Bị tống ngục, nhưng ông vẫn tiếp tục thi hành sứ mạng của một tiên tri.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại: Gioan đã sai các môn đệ của ông đến gặp riêng Chúa Kitô, và hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác ?”. thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi của các môn đệ Gioan Chúa Giêsu đã dùng lời tiên tri Isaia đã nói về mình: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và đã thấy: Người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và Tin Mừnng được loan báo cho người nghèo khó”.
Qua sự việc Gioan sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng: mặc dầu Chúa Giêsu đã nổi tiếng. Lời giảng dạy và phép lạ Người đã làm được đồn thổi khắp nơi. Nhưng vẫn còn nhiều người chưa tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, vẫn có nhiều người nghi ngờ và thậm chí cókẻ còn chống đối Ngài.
Sự kiện “khó tin” này vẫn còn tiếp diễn qua các thời đại. Sau 20 thế kỷ, Phúc Âm Chúa đã được ra giảng khắp thế giới, nhưng vẫn có nhiều người nghi ngờ, chưa tin, hoặc chống đối !
Câu hỏi “chúng tôi còn phải đợi chờ Đấng nào khác” vẫn luôn văng vẳng khắp đó đây, thậm chí ngay trong lòng mỗi người Kitô hữu. Là những người tin vào Chúa Kitô, tất cả chúng ta, có phải là những “đại sứ lưu động” những sứ giả Tin Mừng của Thánh Gioan, biết can đảm làm chứng cho Chúa Kitô giữa một thế giới đa dạng và cứng lòng tin hôm nay ? chúng ta có dám can đảm sống đức tin của mình để lảm vinh danh Chúa không?
Vua Tấn Văn Công ham săn bắn; một hôm lạc vào rừng bị đói rét và nguy hiểm. May gặp được Ích Ngư, một người câu cá dẫn đường ra tới bìa rừng. Vua vui mừng biết ơn và hứa sẽ tặng thưởng nhiều vàng bạc. Ích Ngư nói: “Đức Vua cứ làm thế này chứ khỏi đền ơn : Hãy tôn kính trời đất, hãy yêu thương thần dân, hãy bảo vệ giang sơn bờ cõi… làm được như vậy, nhà Vua tuy không ban thưởng, cũng đã ban thưởng rồi.
Kitô hữu cũng làm chứng cho Chúa Kitô qua đời sống tốt của mình, để qua Kitô hữu, người ta biết Chúa Kitô. Chúng ta hãy thực hành lời này với Chúa “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người sức dầu cho tôi, Người sai tôi đi đem Tin Mừng cho người nghèo khó”.
A. Hạt giống...
Ý chính : Gioan Tiền hô làm chứng cho Chúa Giêsu : “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (câu 8).
Người ta cứ tưởng Gioan là ánh sáng : Tưởng ông là Messia (câu 20), là Êlia, là một ngôn: MV3-B3
1. Người ta cứ tưởng Gioan là ánh sáng : Tưởng ông là Messia (câu 20), là Êlia, là một ngôn sứ (câu 21).
2. Gioan nói mình không phải là ánh sáng : mà chỉ là một tiếng hô dọn đường (câu 23), là người không đáng cởi quai dép cho Đấng Kitô sắp đến (câu 27).
3. Bằng cách nói úp úp mở mở, Gioan khơi lên trong lòng thính giả một sự tò mò để họ chờ mong Chúa Giêsu : Ngài đang đến cho nên Gioan đang dọn đường (câu 23), Ngài “đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (câu 26), Ngài đến sau Gioan nhưng cao trọng hơn Gioan (“tôi không đáng cởi quai dép Ngài” câu 27).
B. ... nẩy mầm.
1. Việc làm chứng của Gioan Tiền hô gồm 3 giai đoạn : a/ Do sống tốt, Gioan được người ta quý mến, thậm chí còn được người ta tưởng là Đấng Messia. b/ Khi đó Gioan khiêm tốn nói mình không phải là Messia, c/ rồi giới thiệu Đấng Messia thật cho người ta biết.
2. Nếu vì thích được khen ngợi mà Gioan nhận vào mình những đánh giá của người khác, thì ông đã bỏ mất dịp làm chứng cho Chúa Giêsu. Muốn cho Chúa Giêsu “lớn lên” thì Gioan phải “nhỏ đi”.
3. Trong một năm, có lẽ thời gian quanh lễ Giáng sinh là thời gian người ta chú ý tới Đạo nhiều nhất. Cho nên đây là thời gian thuận tiện nhất để ta làm chứng cho Chúa.
4. Một nhóm trẻ thuộc nhiều quốc tịch đang bàn nhau làm thế nào để phổ biến Tin Mừng cách rộng rãi nhất. Có người bảo dùng đài phát thanh và truyền hình, có người bảo dùng báo chí v.v. Một cô gái Châu Phi lên tiếng :
- Ờ xứ chúng tôi, khi chúng tôi muốn loan Tin Mừng tới một nơi nào thì chúng tôi gởi đến đấy một gia đình kitô hữu tốt để gia đình này sống giữa những người khác. (Barclay)
Cách nay hơn 25 thế kỷ, hiền triết Platon, nước Hy lạp, thấy một thứ ánh sáng lạ lóe chiếu vào: MV3-B4
Cách nay hơn 25 thế kỷ, hiền triết Platon, nước Hy lạp, thấy một thứ ánh sáng lạ lóe chiếu vào hầm tối. Mọi người trong hầm bừng tỉnh, niềm vui chan chứa. Họ đã thấy những tia sáng hy vọng tuyệt vời từ nơi cao thăm thẳm tới với họ. Họ tin chắc ánh sáng đó có ngày sẽ giải thoát họ khỏi hầm tối, cho họ tới nơi rực rỡ huy hoàng.
Gần đồng thời với Platon, sứ ngôn Isaia, nước Do thái, thấy một thứ ánh sáng kỳ diệu hơn nhiều : Ánh sáng thần trí Chúa phóng thích những tù nhân, ân xá cho kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân của Chúa. Họ vui mừng hớn hở được hưởng thời đại đầy ánh sáng cứu độ. Họ như được mặc áo choàng công chính trang điểm lộng lẫy như cô dâu chú rể. Họ được sống trong vườn hoa tươi mát đang đâm chồi nẩy lộc vinh quang, được sống trong thời đại tình thương Thiên Chúa toàn năng, chí thánh, chí tôn. Linh hồn họ hớn hở reo mừng ngợi khen Thiên Chúa đến muôn đời (Is. 61, 1-2. 10-11 và Đáp ca).
Gần sáu thế kỷ, Gioan đã dâng trót cuộc đời làm chứng về ánh sáng đó để mọi người tin.
Nhưng bóng tối của đế quốc Rôma, bóng tối của những đảng phái Do thái đang đe dọa Gioan. Gioan, một con người cô thân, cô thế, đang dấn thân vào bóng tối, để loan báo ánh sáng Tin mừng cho toàn dân chuẩn bị đón mừng ánh sáng. Trước con người kỳ lạ đang hoạt động trong hoang địa, đang làm nghi lễ ngoại lệ, đang loan báo một Đấng cứu tinh đến sau ông, quyền phép lạ lùng, chính ông không đáng cởi quai dép cho Người, bao nhiêu dân chúng đang tuốn đến nghe ông, họ đang lội xuống sông xin ông thanh tẩy, đến với Đấng họ hằng mong đợi. Cấp lãnh đạo Do thái đang hưởng một cuộc đời quyền quý, họ muốn yên thân, nhưng thấy Gioan hô hào dân chúng, họ lo cho địa vị của mình. Họ sai các tư tế và các Lêvi đến điều tra xem xét Gioan là ai. Họ sợ ông là Êlia sống lại, người đã thiêu sống hơn năm trăm tư tế của hoàng hậu Giêzabel thời vua Acab (A.Kap).
Họ sợ ông là một ngôn sứ, như bao nhiêu ngôn sứ của Thiên Chúa, đến đe dọa họ, đưa những tin làm đảo lộn thời thế, làm mất địa vị quyền lợi của họ. Họ phải đề phòng, kiểm soát, canh chừng mọi bất trắc xảy ra. Họ đã biết có nhiều người được dân coi là Đấng Cứu Thế, nổi lên chống ngoại bang, làm cho bao nhiêu người phải chết lây, nhất là tầng lớp lãnh đạo tôn giáo lại càng sợ đế quốc tiêu diệt. Lịch sử thời đó cho biết : Sau cái chết của Hêrôđê đại đế, ở Pêrê có ông Simon nổi dậy đốt lâu đài của vua ở Giêricô, tự xưng làm vua. Rồi ở Giuđa, một mục tử là Ath-Ron đứng dậy lập chính phủ. Sau đó, ở Galilê, một người tên là Giuđa khởi nghĩa, chiếm kho vũ khí ở Sêp-pho-ri (Vie de Jesus Christ – Ricciotti p. 35-45). Họ cũng sợ Gioan nổi lên như thế. Họ muốn tìm cách dẹp ông đi, khỏi bị vạ lây. Họ là bóng tối, tham quyền cố vị. Họ không thể thấy ánh sáng. Tác giả Tin mừng thứ bốn đã báo trước : “Ánh sáng đến trong tối tăm, mà tối tăm không tiếp nhận ánh sáng. Họ muốn triệt hạ ánh sáng, nhưng ánh sáng vẫn thấu triệt tối tăm” (Ga. 1, 5).
Ánh sáng, mà Gioan làm chứng, đã lan tỏa trên giáo đoàn Thessalonica. Tuy mới được giải phóng khỏi tối tăm lầm lạc, giáo đoàn đã bắt đầu đâm chồi nẩy lộc, một giáo đoàn trẻ đang nở rộ hoa công chính. Họ đã được sống hiệp thông với Đức Giêsu Kitô là nguồn ánh sáng. Thần khí ánh sáng đang bừng lên trong họ. Không thử thách gay go nào dập tắt được. Họ vui mừng luôn mãi, họ cầu nguyện không ngừng. Họ tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ. Thiên Chúa là nguồn bình an, thánh hóa toàn diện con người họ để thần khí, tâm hồn và thân xác họ được giữ gìn toàn vẹn (1Thes. 5,16-24).
Xin cho ánh sáng muôn thuở này chiếu tỏa trên khắp chúng ta. Chúng ta hãy vui mừng tiếp nhận ánh sáng, hãy thanh tẩy tâm hồn sạch mọi ham hố bất chính, sạch mọi bóng tối gian tà. “Hãy cân nhắc mọi sự. Điều gì tốt thì giữ lấy, còn tất cả những gì xấu thì tránh xa”. “Hãy không ngừng cầu nguyện. Hãy tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh để chúng ta được hiệp thông với Đức Giêsu Kitô” trong ánh sáng cứu độ. Linh hồn, thần trí và thân xác chúng ta sẽ được hớn hở reo mừng trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là ánh sáng muôn dân, xin làm cho chúng con trở nên ánh sáng thế gian, soi sáng cho mọi hầm tối, làm cho hầm tối chan chứa niềm vui của thời đại hồng ân Thiên Chúa. Amen.
VAI TRÒ CỦA GIOAN TẨY GIẢ: Người làm chứng
Trong xã hội con người, mỗi người đều được phân công làm một công việc nào đó. Có người: MV3-B5
Trong xã hội con người, mỗi người đều được phân công làm một công việc nào đó. Có người lãnh đạo, có người lao động trí óc, có người làm việc chân tay. Mỗi người mỗi việc, mỗi người mỗi phần vụ. Điều quan trọng là mỗi người có hoàn thành vai trò của mình hay không. Gioan Tẩy giả theo Tin Mừng của thánh Máccô là kẻ dọn đường cho Chúa, nhưng Gioan thánh sử lại nói Gioan Tẩy giả là người làm chứng cho ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô.
GIOAN LÀ AI ?
Gioan tẩy giả là một con người độc đáo, một con người nắm giữ một vai trò rất quan trọng, nhưng hoàn toàn nhỏ bé, âm thầm. Gioan Tẩy giả không phải là Đức Kitô, chẳng phải là Elia, Giêrêmia, hay là một ngôn sứ, chẳng là gì cả.
Gioan Tẩy là chỉ là tiếng kêu trong Sa mạc, một tiếng kêu xem ra đơn điệu và lẻ loi. Gioan Tẩy giả chỉ là một người được Thiên chúa sai đến: "...để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng Ông đến để làm chứng về ánh sáng " (Ga 1,6-8). Ông làm chứng bằng tiếng hô to: sám hối và việc làm của Gioan là thanh tẩy khi những người đến với Ông bên dòng sông Giođan đã xưng thú tội lỗi, cầu xin ơn thứ tha.
Ông thực hiện những việc ấy với tư thế của một con người khiêm hạ nhất là không đáng cởi giây dép cho Đấng thiên sai. Thánh Gioan tẩy giả đã làm hết mình, sống đúng ơn gọi và vai trò tiên tri của mình. Ông đã tin, nên ông làm chứng cho niềm tin của Ông, Ông là chứng nhân cho Đấng Cứu Thế sắp tới. Ông tin vào Đấng Cứu Tinh Giêsu Kitô, Ông rao giảng, loan báo về Ngài cho những người khác dù rằng lời loan báo đó xem ra rất lẻ loi, như tiếng hô trong sa mạc bao la, rộng lớn.
CON NGƯỜI CHỨNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ GỢI CHO MỖI NGƯỜI VAI TRÒ CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH
Câu chuyện của Gioan Tẩy giả luôn gợi lại vai trò chứng nhân của mỗi người Kitô hữu. Các tông đồ xưa đã lãnh nhận Chúa Thánh thần trong ngày lễ Ngũ tuần. Nhân loại có thể hình dung ra ngọn lửa đức tin của các tông đồ đang hừng hực cháy. Nó được đốt lên từ ngọn nến đức tin của các tông đồ và ngọn lửa đó đang được các tông đồ, cùng muôn vàn người khác chuyển lửa đó đến mọi thế hệ.
Chúa nói: "Anh em hãy tới với muôn dân,làm cho họ trở thành môn đệ của Ta..." (Mt 28,18 ). Lời của Chúa mời gọi mọi người có lòng tin làm chứng cho Chúa phục sinh. Vai trò của Gioan Tẩy giả vẫn tỏa sáng và đòi hỏi mọi người có đức tin hãy dọn đường cho Chúa, hãy làm chứng cho Chúa. Điều còn lại ở muôn thời, muôn thế hệ là mọi người Kitô hữu có dám sống cái nghịch lý của Tin Mừng hay không? Người Kitô hữu có dám sống, có dám làm chứng như Gioan Tẩy giả xưa không? Dám sống và làm chứng cho Chúa Cứu Thế nghĩa là dám chấp nhận để Chúa lớn lên trong ta và đẩy lùi, triệt tiêu tất cả những gì không tốt, những gì nghịch với Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám sống cái đảo lộn của Tin Mừng, biết đương đầu và chấp nhận lướt thắng những thách đố xem ra hết sức vô lý để làm chứng cho Sự Thật, Sự Sống và Đường là Chúa Giêsu Kitô.
GỢI Ý CHIA SẺ
1.Vai trò của Gioan Tẩy giả gợi cho ta điều gì ?
2. Bạn hiểu sao: "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại".
Câu hỏi gợi ý:
Thời nay, Thiên Chúa có cần người làm chứng cho Ngài không? Nếu Ngài cần và mời gọi bạn: MV3-B6
1. Thời nay, Thiên Chúa có cần người làm chứng cho Ngài không? Nếu Ngài cần và mời gọi bạn, bạn có sẵn sàng chấp nhận lời mời ấy không?
2. Rao giảng và làm chứng có khác nhau không? Cái nào cần thiết hơn?
3. Làm chứng có cần phải nói sự thật không? Có thể lấy cớ bảo vệ Giáo Hội, bảo vệ tôn giáo để làm chứng dối, để phản lại sự thật không? Tại sao?
CHIA SẺ
1. Thiên Chúa cần người làm chứng cho Ngài
Qua bài Tin Mừng, ta thấy khi Đức Giê-su đến trần gian, Thiên Chúa cần một người làm chứng cho Con của Ngài, và người ấy là Gio-an Tẩy giả. Ông này được kêu gọi để làm công việc ấy. Suốt lịch sử Giáo Hội, thời nào ta cũng thấy Thiên Chúa cần những người làm chứng cho Ngài, cho sự thật, cho công lý, và cho tình thương của Ngài. Có thể nói lịch sử của Giáo Hội là một lịch sử của «làm chứng» và «rao giảng». Rao giảng là để giúp người ta hiểu, nắm vững, còn làm chứng là để giúp người ta tin.
Hiểu và tin là hai chuyện rất khác nhau. Nhiều người hiểu rất rõ mà vẫn không tin, chẳng hạn: nhiều người tìm hiểu Ki-tô giáo không phải để tin theo, mà để bài bác một cách «nói có sách, mách có chứng». Ngay trong số những người rao giảng Tin Mừng, nhiều người có đời sống thực tế chứng tỏ rằng họ không tin, thậm chí không tin một chút nào điều họ vẫn rao giảng một cách thật hùng hồn, mạnh mẽ. Trường hợp đánh động nhất là trường hợp của Mahatma Gandhi, người giải phóng dân tộc Ấn Độ.
Gandhi rất hiểu, rất yêu mến, rất đồng cảm với Đức Giê-su, thậm chí ông còn sống tinh thần quên mình, từ bỏ và yêu thương của Đức Giê-su một cách gương mẫu (có thể hơn rất nhiều Ki-tô hữu), nhưng ông hoàn toàn không tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế. Ông đã lên tiếng có vẻ như thách thức người Kitô hữu, cụ thể là những người Anh đô hộ dân tộc ông : «Nếu những người Kitô hữu tại Ấn Độ thật sự sống đúng tinh thần của Đức Kitô, thì chẳng cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở thành Kitô hữu hết». Trước mắt ông, người Kitô hữu - cụ thể là người Anh - cũng tham lam, bất công và tàn bạo không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Chắc hẳn ông đã từng tự hỏi: sự siêu việt của Kitô giáo - như các Ki-tô hữu thường tự hào - nằm ở đâu? Sự siêu việt đó chẳng lẽ chỉ có thể tin chứ không thể chứng tỏ cụ thể bằng thực tế hay bằng hành động được sao?
2. Ngày nay, nhiều giáo hội rao giảng nhiều hơn làm chứng
Để được cứu rỗi, đức tin là một yếu tố tối cần thiết: «Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án» (Mc 16,16; x. Cv 16,31; Rm 10,9). Nhưng làm sao tin được một chuyện mình không biết, không thấy, nếu không có ai nói cho biết. Nhưng làm sao tin được người nói cho biết ấy, nếu người ấy không có bằng chứng hay không có đủ uy tín để bảo đảm? Làm sao tin được người nói hay rao giảng thật là hay, nhưng đời sống hay việc làm của họ thì lại hoàn toàn đi ngược lại điều họ rao giảng?
Ngày xưa, thời Giáo Hội sơ khai, Ki-tô giáo lan truyền rất nhanh, vì thời ấy, các tông đồ làm chứng nhiều hơn là rao giảng. Còn ngày nay, Ki-tô giáo lan truyền rất chậm, rất nhiều nơi bị giảm sút, tại sao? Vì những người làm tông đồ ngày nay quá chú trọng tới rao giảng, mà coi rất nhẹ việc làm chứng! Đó là một sự thật mà người Ki-tô hữu cần nhận chân một lần cho sâu sắc, để chỉnh trang lại cách truyền giáo hay làm tông đồ của mình, đặc biệt nhân dịp kỷ niệm lần thứ 2002 ngày Đức Giê-su đến trần gian.
3. Tại sao phải làm chứng? Để người ta tin
Ngày nay, để tìm hiểu Ki-tô giáo, người ta chỉ có cách là tìm hiểu trong sách vở, hoặc nghe một người Ki-tô hữu nào đó trình bày. Nhưng từ hiểu đến tin theo là cả một quá trình khó vượt qua nếu không có một động lực mạnh thúc đầy! Ngày nay, không còn có những nhân chứng đã tận mắt nhìn thấy Đức Giê-su sống, nói, hành xử, làm phép lạ, chết và sống lại như thời Giáo Hội sơ khai nữa. Những chuyện kể về Đức Giê-su phần nào cũng tương tự như bao chuyện kể khác, về Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Đức Phật, Đức Khổng, v.v… Làm sao người ta có thể tin vào Đức Giê-su nhiều hơn là tin vào các vị giáo chủ khác? Người thời nay chịu ảnh hưởng tinh thần khoa học thực nghiệm, lời nói suông không còn dễ dàng được nhận là đúng. Muốn họ tin hay chấp nhận phải có bằng chứng. Vì thế, làm tông đồ thời nay cần làm chứng hơn là rao giảng.
Rao giảng thì chỉ cần một mớ kiến thức, một chút suy luận; còn làm chứng đòi hỏi một sự dấn thân thật sự, nó huy động cả một cuộc đời, cuộc đời toàn diện. Rao giảng mà không làm chứng chỉ là nói lên những lời nói rẻ tiền, đương nhiên ít tác dụng. Còn làm chứng là nói lên những lời nói có giá trị sống động vì người nói dám lấy cả cuộc đời, cả mạng sống để bảo chứng cho lời nói ấy. Nhờ thế mà người nghe mới dám đặt niềm tin.
Những người ngoài Ki-tô giáo phải dựa vào đâu để biết Kitô giáo là chính đạo? để tin Đức Kitô là Đấng cứu độ, thậm chí là Đấng cứu độ duy nhất? Làm sao họ tin được, khi mà đời sống của người Ki-tô hữu chẳng khác gì và chẳng hơn gì của họ? khi mà người Ki-tô hữu chẳng chứng tỏ được một cách cụ thể mình đã được cứu độ ở chỗ nào? Nếu được cứu độ, ít ra người Ki-tô hữu chúng ta phải tự nhiên có một lối sống nào đó chứng tỏ mình được cứu độ, chẳng hạn người khác có thể thấy nơi chúng ta nét vui tươi, hạnh phúc và tình yêu thương nhau được biểu lộ hồn nhiên trong đời sống, bất chấp thuận cảnh hay nghịch cảnh. Sống như thế chính là làm chứng!
4. Hãy xem Gio-an Tẩy giả làm chứng thế nào
Chính vì nói thế nào sống như vậy, nên Gio-an Tẩy giả đã thu hút được quần chúng đến với ông và làm theo những gì ông yêu cầu: «Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan» (Mc 1,5). Gio-an là một khuôn mẫu điển hình cho hạng người làm chứng hơn rao giảng: «Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin» (Ga 1,7). Còn giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là điển hình cho hạng rao giảng hơn làm chứng: «Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm» (Mt 23,2-3). Điều đó được thể hiện qua một số chi tiết:.Gio-an ăn mặc đơn giản: «mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da» (Mc 1,6), khác hẳn với cách ăn mặc của các kinh sư: «đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài» (Mt 23,5); «ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng» (Mc 12,38). Gio-an sống khó nghèo, thanh đạm, «ăn châu chấu và mật ong rừng», còn các kinh sư thì giàu sang phần nào nhờ «nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ» (Mt 23,14). Gio-an thì khiêm nhường tự hạ: «Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người» (Ga 1,27), còn các kinh sư thì thích tự đưa mình lên: «Họ thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc» (Mc 12,38-39).
Ta thấy khi làm chứng, Gio-an không màng tiếng khen, không tìm vinh quang cho mình, đang khi nhiều người mang danh làm chứng cho Thiên Chúa, nhưng thực tế là đang tự làm chứng cho mình, để mình được khen ngợi, vinh danh, hầu có quyền lực, tiền bạc địa vị… Nhưng điều quan trọng nhất của người làm chứng là phải dám nói sự thật.
5. Người làm chứng phải dám nói sự thật
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gio-an đã dám nói sự thật, dù phải chết. Ông không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ông không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi, nhưng ông lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ông không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
Không thể lấy cớ bảo vệ tôn giáo để nói sai sự thật, để hùa theo những kẻ sai trái. Tôn giáo mà cần dối trá hay hùa theo quyền lực để tồn tại là thứ tôn giáo bỏ đi, không giá trị. Đức Giê-su không hề bảo vệ uy tín cho giới lãnh đạo tôn giáo khi họ vẫn ngoan cố với những điều sai trái (x. Mt 23). Gio-an Tẩy Giả cũng không bảo vệ uy tín của nhà vua khi nhà vua cố tình làm điều sai trái (x. Mt 14,3-12). Chính vì thế, Gio-an đã bị trảm quyết, còn Đức Giê-su đã bị coi là kẻ phá hoại tôn giáo! Ngài đã coi sự thật cao trọng hơn chính tôn giáo! Theo Ngài, bảo vệ sự thật mới chính là bảo vệ tôn giáo. Còn bảo vệ tôn giáo bằng cách nói sai sự thật, hay hùa theo quyền lực sai trái chính là phá hoại tôn giáo từ bản chất!
Khi ta làm chứng cho chân lý, chắc chắn sẽ có những người bạn khuyên ta: «Anh thật là dại dột, can gì phải làm cho người ta ghét mình như vậy?» Nói như thế, họ mặc nhiên cho rằng những người như Đức Giê-su hay Gio-an Tẩy giả chính là phường dại dột! Thế mà họ vẫn tuyên xưng Đức Giê-su là Thầy của họ. Thật mâu thuẫn!
CẦU NGUYỆN
Tôi nghe Chúa nói với tôi: «Thời nào cũng có vô số người sẵn sàng rao giảng sự thật, nhưng rất hiếm người sẵn sàng làm chứng cho sự thật. Nhưng sự thật chỉ có thể tin khi có người dám làm chứng. Làm chứng thì phải trả giá, đôi khi rất mắc. Con có sẵn sàng làm chứng không?»
Hai ông bà Đoàn Tư Hộ (Santi Rillô) có tám người con. Cả tám đều ngoan ngoãn dễ bảo khi còn: MV3-B7
Hai ông bà Đoàn Tư Hộ (Santi Rillô) có tám người con. Cả tám đều ngoan ngoãn dễ bảo khi còn nhỏ. Nhưng khi lớn lên, chúng chịu ảnh hưởng bạn bè, trở nên xa lạ với gia đình.
Hai lần ông bà khuyên bảo được các con đi dự cuộc họp thành phố của Đức Maria dành cho giới trẻ, nhưng sự việc đã chấm dứt ở đó. Mỗi đứa con là một thế giới riêng mà sinh hoạt tôn giáo xem ra chẳng mang lại một biến chuyển nào.
Ông Tư Hộ không muốn nêu tên người con nào, nhưng về một người con gái ông không ngại nêu chi tiết về những khó khăn ông gặp phải để biểu lộ tình yêu mà ông dành cho người con này. Ông chia sẻ như sau:
"Người con gái ấy của chúng tôi sau khi tốt nghiệp đại học đã xin đi làm bên Hoa Kỳ. Chỉ sau hai năm Xuyên (tạm gọi như vậy) trở về Phi Luật Tân, chỉ vì chán với công việc bên Mỹ. Thời gian tiếp theo, Xuyên đi học tạp nham, như cắt may, ngoại ngữ tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha. Thậm chí, có lần Xuyên ghi tên học làm thư ký nữa!
Chẳng bao lâu sau đó Xuyên đánh bạn với lớp người xì ke, đêm về nhà trễ. Chúng tôi có trách mắng, Xuyên cũng bỏ ngoài tai và còn tỏ ra giận dữ hơn trước.
Khi ấy Xuyên đã 25 tuổi. Tôi chẳng biết xử trí ra sao nên đem câu chuyện đau lòng này bàn với một người bạn thân ở Tổ Ấm. Lời khuyên mà tôi nhận được là: "Hãy cứ tiếp tục yêu thương Xuyên hơn nữa. Hãy yêu và phó thác mọi sự nơi Mẹ Maria."
Đó chính là điều vợ chồng chúng tôi rắp tâm thực hiện, tức là yêu thương Xuyên hơn nữa cách vô điều kiện. Khi ấy vợ tôi có việc phải đi Mỹ. Thế là tôi một mình ở nhà tìm đủ cách để tỏ tình thương đối với Xuyên. Tôi hiểu yêu thương là phục vụ nên cần phải quên mình đi. Ngày nào tôi cũng xuống bếp lo việc bếp núc thay cho nhà tôi. Tôi giặt đồ cho Xuyên. Ban sáng tôi dậy sớm nấu bữa sáng cho Xuyên. Khi nước nhà máy yếu không đủ sức vọt, tôi xách sô nước lên lầu cho Xuyên dùng. Cứ như vậy suốt sáu tháng, tôi tiếp tục biểu lộ tình yêu qua những việc thường ngày, mặc dầu nhiều lúc tôi cảm thấy mình không được khoẻ lắm.
Một hôm Xuyên đến nói với tôi: "Có khi tốt hơn con nên sang bên Canada thay vì ở Phi Luật Tân?" Thế là tôi đã chiều theo mà sắp xếp mọi sự để Xuyên sang ở bên Canada. Tôi cũng mua những đồ Xuyên cần cho chuyến đi này.
Chứng từ trở nên đáng tin
Sau khi Xuyên ra đi, tôi đã phải nằm bệnh viện một tuần vì kiệt sức do cố gắng chăm sóc Xuyên. Nhưng khi tôi xuất viện, vợ chồng tôi đã nhận được lá thư bất ngờ sau đây:
"Ba rất quí mến, con cám ơn ba về tất cả những gì ba đã dành cho con. Con được thôi thúc rất nhiều do việc ba hằng cố công giúp đỡ và dẫn dắt con. Tất cả những điều đó giờ đây trở nên tươi đẹp dưới cái nhìn của con và con cảm nhận được sự hiện diện của Chúa ngang qua ba. Con xin hiệp lòng hiệp ý với ba nguyện xin Chúa cho biết Người hiện muốn cha con ta phải làm gì tới đây. Ba đã cho con hơn điều mà người cha có thể cho con mình. Đó là điều con sẽ luôn giữ làm kho báu để luôn nhận Chúa là quan trọng hơn hết trong đời con. Con đã nhận ra tất cả những điều vừa nói và đã hình thành điều chọn lựa ấy nhờ ba dẫn dắt. Con cám ơn ba rất nhiều. Con yêu ba."
Từ ba năm nay Xuyên vẫn ở thành phố Đông Đô (Toronto), Canada, vừa đi học vừa đi làm. Xuyên năng viết thư về nhà để biểu lộ tình yêu và lòng hiếu thảo.
Xuyên cũng tham gia Tổ Ấm tại Đông Đô và giúp giới trẻ của Phong Trào.
Gioan Tẩy Giả và những người chứng
Lời chia sẻ vừa trích của ông Tư Hộ chẳng thể ăn khít với nội dung của bài Tin Mừng hôm nay, Chắc chắn ơn sám hối của cô Xuyên, con ông phải do Chúa tác động. Nhưng cách nào đó chính Chúa đã khơi dậy nơi ông một tình yêu bất khuất làm cho con ông được khắc phục mà nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi ông.
Còn bài Tin Mừng hôm nay chủ yếu cho thấy Phụng Vụ Chúa Nhật 3 Mùa Vọng, muốn chính ông Gioan Tẩy Giả lên tiếng tự giới thiệu ông là ai và Đức Giêsu là ai.
Ông là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sữa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. như ngôn sứ Isaia đã nói (Mc 1,23). Còn Đức Giêsu mới là nhân vật chính: "Đấng ấy là Đấng đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." (c.27)
Nhưng tác giả Tin Mừng thứ bốn luôn đưa ông Gioan Tẩy Giả ra sân khấu trong một khung trời sáng tạo. Ở lời tựa cũng như ở khởi đầu của Sách Tin Mừng thứ bốn, ông Gioan Tẩy Giả đều là người chứng.
Lời tựa gồm 18 câu mà bài Tin Mừng hôm nay đề cập hai câu 6-8 mà thôi. Lời tựa khởi sự với lời khởi đầu của sách Sáng Thế, tức Lúc khởi đầu (in the beginning). Ở đâu Ngôi Lời được nhìn nhận là Thiên Chúa (Ga 1,1). Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (cc. 3-4). Thế mà Gioan vẫn được giới thiệu là "người làm chứng về ánh sáng" (c.7). Tại sao? Vì trong kế hoạch cứu độ, Thiên Chúa đã muốn dùng người chứng thay vì thiên thần làm chứng để con cháu Ađam tin mà được sống.
Từ lời tựa ấy Gioan Tẩy Giả bước vào chương đầu sách Tin Mừng để làm chứng. Ở đây ông xuất hiện, giữa công trình tạo dựng như thấy ở đầu sách Sáng Thế. Bảy ngày tạo thành được trình bày như sau.
Ngày thứ nhất (cc.19-28):
Người chứng: Gioan Tẩy Giả ngỏ lời cùng một số thầy Tư tế và Lêvi từ Giêrusalem.
Chứng từ: bản thân ông không phải là Đức Kitô, cũng không phải là ngôn sứ Êlia (Mal 3,23) mà người Do thái từng mong đợi. Cũng không phải là vị ngôn sứ nói đến trong Đệ Nhị Luật 18,15-18, nhưng là "Tiếng người kêu trong hoang địa," chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng đến sau ông.
Ngày thứ hai (cc.29-34):
Người chứng: Gioan Tẩy Giả khi thấy Chúa Giêsu.
Chứng từ: cho biết Đức Giêsu Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian, Đấng có Thánh Thần ngự xuống và là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần; Người là Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn.
Ngày thứ ba (cc.35-39):
Người chứng: là Gioan Tẩy Giả ngỏ lời cùng hai môn đệ của ông với kết quả là họ đã trở nên môn đệ của Đức Giêsu.
Chứng từ: được nêu: "Đây Chiên của Thiên Chúa" có ý nói Đức Giêsu là Chiên của Lễ Vượt Qua; hoặc Người tôi tớ chịu đau khổ cách lặng lẽ như chiên bị xén lông trong Is 53,7.
Ngày thứ bốn (?) (cc.40-42):
Người chứng: là Anrê và Simon.
Chứng từ: "Chúng tôi đã tìm thấy Vị Cứu Tinh".
Ngày thứ năm (cc.43-51):
Chứng nhân: Philip ngỏ lời với Nathanaen.
Chứng từ: Đấng mà Môsê và các ngôn sứ đã loan báo, chúng tôi đã gặp.
Ngày thứ sáu
Chứng nhân: Nathanaen
Chứng từ: "Ngài là Con Thiên Chúa; Ngài là vua Ít-ra-en."
Ngày thứ bảy (Ga 2,1-11)
Chứng nhân: Phép lạ của Đức Giêsu tại tiệc cưới Cana.
Chứng từ: Đức Giêsu đã mạc khải vinh quang Người cho các môn đệ Người (2,11).
Rõ ràng ông Gioan Tầy Giả là người chứng nổi bật: ba lần làm chứng với ba chứng từ quan trọng khác nhau. Tin Mừng Matthêu đã giới thiệu Đức Giêsu là Đấng cứu dân mình khỏi tội (1,21). Gioan Tẩy Giả đi xa hơn khi làm chứng Người thực hiện việc xóa tội trần gian với tư cách là chiên của Thiên Chúa để ám chỉ về người tôi tớ của Thiên Chúa chịu đau khổ để đền tội cho dân (x. Is 53,6-10)
Riêng về bản thân, ông Gioan Tẩy Giả khẳng định ông chỉ là tiếng người kêu trong hoang địa (Gz 1,23.27). Oâng không chỉ khiêm nhường nói rằng mình chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng đến sau ông là Đức Giêsu, mà chính ông còn giới thiệu đề hai môn đệ của ông đi theo Đức Giêsu (c.37). Lời chứng cuối cùng của ông là Đức Giêsu phải nổi bật lên, còn ông phải lu mờ đi (x. 3,30).
Sau Người chứng Gioan Tẩy Giả, là cả một loạt những người chứng khác xuất hiện nhờ tiếp cận với Đức Giêsu. Điều được hiểu ngầm là họ cũng phải theo con đường của người chứng thứ nhất. Cả họ nữa cũng phải theo con đường từ bỏ mình là con đường mà Gioan Tẩy Giả đã đi, để điều họ làm chứng trở nên đáng tin.
Quả thật lời chia sẻ của ông Tư Hộ cho thấy lời chứng của ông đáng tin đối với người con gái của ông vì chính ông đã đi trên con đường phục vụ trong khiêm hạ là con đường mà Gioan Tẩy Giả đã đi.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Đọc lời chia sẻ của ông Tư Hộ, bạn tâm đắc được điều gì về điều ông nói: "Tôi hiểu yêu thương là phục vụ nên phải quên mình đi" và ông đã quên mình như thế nào?
2. Bạn tâm đắc được gì về thư cô Xuyên gởi ông Tư Hộ?
3. Bạn hãy kể ra những người chứng và những chứng từ của họ về Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Khi vui non nước cùng vui. Khi buồn sáo thổi kèn đôi cũng buồn”, “Người buồn cảnh có vui đâu: MV3-B8
“Khi vui non nước cùng vui. Khi buồn sáo thổi kèn đôi cũng buồn”, “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cuộc đời giống như một tấm gương : mỉm cười với nó, nó sẽ mỉm cười lại; gắt gỏng với nó, nó sẽ hung bạo. Hãy thử đứng trước một cái gương, sẽ thấy : mỉm cười đáp lại mỉm cười, nhăn nhó đáp lại nhăn nhó. Trước cuộc đời cũng thế : tôi sống làm sao cuộc đời sẽ như vậy. Nếu tôi đón nhận những điều bất ngờ với một nụ cười, nó sẽ đáp lại tôi bằng một nụ cười. Nếu tôi đến với nó với bộ mặt cầu nhàu, nó sẽ đến cùng tôi với sát khí đằng đằng.
Ngày nay, người ta thường đề cập đến hai tiếng “bi quan” và “lạc quan”. Người bi quan là người tỏ vẻ buồn rầu khi nhìn thấy ly rượu đã vơi mất một nửa. Trái lại, người lạc quan là người tỏ vẻ vui mừng hay bình thản khi nhìn thấy ly rượu vẫn còn một nửa. Vậy Kinh thánh của chúng ta bi quan hay lạc quan ? Xét về một phương diện. Kinh thánh rất bi quan, bởi vì Kinh thánh có chứa đựng những lời lẽ thật đau xót về những nỗi khổ tâm mà con người đã gây nên cho nhau. Kinh thánh đã nói rõ rằng : con người sống trong một thế giới đầy dẫy tội lỗi và đã gây nên biết bao điều ngang trái cho đồng loại. Nhưng nếu xét về một phương diện khác, thì Kinh thánh lại rất lạc quan. Kinh thánh đã từng đề cập đến một thời gian mà con người trông đợi, lúc mà mọi sự sẽ được điều chỉnh lại và được đổi mới hoàn toàn, lúc mà Thiên Chúa sẽ trở nên mọi sự cho mọi người.
Cụ thể như các đoạn Kinh thánh của Chúa nhật hôm nay : ngôn sứ Isaia đã loan báo về Đấng Cứu thế và những công việc tràn đầy an ủi, phấn khởi. Thánh Phaolô đã khích lệ mọi người : Hãy vui lên. Trong bài Tin mừng, thánh Gioan đã bảo đảm cho mọi người sẽ được hưởng niềm vui ấy. Vì thế, Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui và khích lệ chúng ta hãy vui lên. Niềm vui đó là Chúa đã gần đến, sắp đến rồi, chúng ta hãy vui lên. Ngài sẽ đem đến cho chúng ta một niềm vui vĩ đại : biết Ngài là Đấng Cứu thế, là Con Thiên Chúa – được sống trong cộng đồng Giáo Hội – được hưởng các ân sủng, và nhất là được Chúa ban phúc bình an vĩnh viễn trong Nước Trời. Đó là niềm vui chính yếu, niềm vui thâm trầm của những người thấu hiểu ý nghĩa cuộc đời.
Chúa Giêsu là niềm vui; và những lời Ngài giảng dạy là những tin vui. Vì thế, đạo của chúng ta là đạo Tin Mừng. Hai chữ “Tin Mừng “ ấy sẽ trở thành trống rỗng và vô nghĩa nếu cuộc sống của người tín hữu không sống trong niềm vui và thể hiện Tin mừng. Như thế, chúng ta không thể loan báo hay chia sẻ Tin mừng cho người khác.
Vào khoảng thập niên 60, một số người chuyên nghiên cứu về tâm lý quần chúng tại Hoa kỳ đã làm một cuộc thăm dò độc đáo. Đó là xem thử có bao nhiêu người nhặt được ví và đem trả lại. Nhóm nghiên cứu đã chọn một khu phố để làm việc. Họ cho rải những chiếc ví dọc theo các đường phố. Chỉ vài ngày sau, họ nhận thấy hơn nửa số ví được mang trả lại. Nhưng tỉ lệ này chỉ kéo dài tới ngày bào huynh của cố tổng thống Kenneđy là Rô-bóc Kenneđy bị ám sát. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng trong ngày hôm đó, không một cái ví nào được đem trả lại. Họ đi đến kết luận : những tin buồn có ảnh hưởng sâu đậm đến con người và đời sống xã hội của con người.
Chúng ta không hoàn toàn nhất trí với kết luận đó, nhưng chúng ta có thể suy luận thêm : khi nghe một tin mừng, con người cảm thấy phấn khởi và mau mắn để thi hành điều thiện. Trái lại, khi nghe tin buồn, thì con người dễ bị cám dỗ chán nản, và từ đó trách nhiệm trong lãnh vực luân lý cũng bị giảm sút.
Chúng ta đang đứng trước một thách đố lớn. Cuộc sống xã hội chung quanh chúng ta là cả một hãng thông tấn chỉ tung ra những tin buồn. Qua các phương tiện truyền thông xã hội ; báo chí, truyền thanh, truyền hình… đầy dẫy những tin buồn : tin buồn của dối trá lường gạt; tin buồn của phản bội xâu xé nhau; tin buồn của buông xuôi bỏ cuộc; tin buồn của không biết bao nhiêu đói khổ, chiến tranh, thiên tai, chết chóc…
Vì thế, chúng ta phải là những người loan báo Tin mừng và đem lại niềm vui. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của thất vọng, chúng ta sẽ loan báo tin mừng của hân hoan, phó thác. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của dối trá, lường gạt, chúng ta phải loan báo tin mừng của lòng chân thật, vị tha. Giữa một xã hội chỉ loan báo tin buồn của ích kỷ, nhỏ nhen, chúng ta loan báo tin mừng của quảng đại, yêu thương, tha thứ và cảm thông. Nếu chúng ta biết sống theo tinh thần trên đây, chúng ta sẽ thấy đời mình có ý nghĩa và gieo rắc những hạt giống của niềm vui ra chung quanh trên mọi nẻo đường đời. Và cho dù hầu hết các hạt giống đó có mục nát đi, tôi vẫn tin rằng thế nào cũng có ít nhất một hạt nẩy mầm lên cây, và nó sẽ đâm bông kết trái làm thơm tâm hồn chúng ta.
Chúng ta hãy nhớ một câu trong một bản nhạc rất hay của ông Bách, một nhạc sĩ nổi tiếng :”Lạy Chúa Giêsu, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác”.
Thánh Gioan Tẩy giả đóng một vai trò trung tâm trong việc Đấng Cứu Độ sẽ đến. Theo bài: MV3-B9
Thánh Gioan Tẩy giả đóng một vai trò trung tâm trong việc Đấng Cứu Độ sẽ đến. Theo bài Tin mừng hôm nay, vai trò của ngài là “chứng nhân để nói về ánh sáng”. Anh sáng đó chính là Đức Giêsu.
Thánh Gioan đã chứng tỏ mình là một chứng nhân can đảm và có hiệu quả. Ngài có nhân cách mạnh mẽ và là người sống theo nguyên tắc. Ngài không sống theo một lối sống thoải mái, không sống trong cung điện, nhưng sống nơi sa mạc. Lối sống của ngài, cũng như sự chính trực của cá nhân ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài. Ngài là một gương mẫu sống động cho điều mà ngài rao giảng. Và khi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, ngài bước sang một bên để nhường lối cho Đức Giêsu.
Đức Giêsu vẫn cần đến những lời chứng. May thay, vẫn còn những người trung thành làm chứng cho Người, và coi bản thân mình như không có giá trị gì.
Một vị linh mục nói với tôi về cuộc thăm viếng của ông tại Trung quốc cách đây vài năm. Trong thời gian ở đó, ông đã gặp hai vợ chồng già, cả hai đều là bác sĩ. Họ học chung tại trường y, yêu nhau và kết hôn với nhau, bà là người Công giáo, còn ông thì ngoại đạo. Bà mong muốn thuyết phục ông nên gia nhập Giáo Hội, nhưng ông không muốn chịu phép rửa tội. Một thời gian ngắn sau, họ có một đứa con.
Suốt thời gian diễn ra một trong những phong trào chính trị ở Trung quốc, cùng với một số nhà trí thức khác, người chồng bị bắt đi làm việc trong quân đội. Sự xa cách gây ra rất nhiều khó khăn cho người vợ, do bà vừa phải cả ngày làm việc nhiều giờ tại bệnh viện, vừa phải làm ban đêm chăm sóc đứa con trai. Ngoài nỗi cô đơn ra, người vợ còn phải chịu sức ép từ phía chính phủ, hối thúc bà li dị với chồng và bỏ đạo, để đạt được những lợi thế về mặt chính trị. Nhưng bà đã từ chối. Mỗi đêm, sau khi trở về nhà, bà và con trai đều quì gối cầu nguyện, xin Thiên Chúa ban sức mạnh để chịu đựng những khó khăn.
Vào cuối thập niên 1970, bà nghe nói rằng chồng bà và một số nhà trí thức khác được phép trở về nhà. Khi đến ngày đó, bà và con trai ra sân ga, họ là những thành viên trong gia đình duy nhất có mặt ở sân ga để đón tiếp những người đàn ông, bởi vì tất cả những người phụ nữ khác đều đã li dị và tái kết hôn, do không chịu đựng được cảnh chia ly lâu dài. Do cảm động sâu sắc, chồng bà đã chịu đi học đạo và lãnh nhận phép rửa tội.
Người phụ nữ đó đã thực sự mang lời chứng cho ánh sáng, giống như thánh Gioan Tẩy giả đã thực hiện. Bây giờ, đến lượt chúng ta. Đối với nhiều người trong thế giới ngày nay, Đức Kitô đã trở nên một khuôn mặt rất mờ nhạt và xa cách. Những lời trong bài Tin mừng hôm nay đúng từng chữ một “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đức Kitô vẫn còn cần đến những chứng nhân, đó là những người có thể làm cho Người hiện diện đối với người khác một cách có hiệu quả.
Chúng ta không thể làm chứng cho ánh sáng, nếu chúng ta sống trong tối tăm. Chúng ta phải sống trong ánh sáng. Một đời sống tốt đẹp là một lời chứng mạnh mẽ và có hiệu quả, và tự thân, đó là một lời loan báo Tin mừng. Khi người ta không còn thực hành đạo trong cuộc sống nữa, thì họ đã đánh mất đi một yếu tố quan trọng. Nhưng khi việc thực hành đạo đưa dẫn đến những hành động cụ thể, thì người ta đã thực hành được một lời chứng rất có hiệu quả. Không có một lời chứng nào đến được với những người cùng thời của chúng ta một cách đầy sức thuyết phục, cho bằng lời chứng của những người thực hiện những lời giảng dạy của Đức Giêsu.
Nếu không có lời chứng của các Kitô hữu, thì gương mặt của Đức Kitô, vốn đã bị mờ nhạt, sẽ tiếp tục lu mờ trong thế giới của chúng ta. Người sẽ tiếp tục ở giữa chúng ta, dù chúng ta không biết và không nhận ra, và tâm hồn con người vẫn sẽ bị tan nát, người ta sẽ còn bị cầm tù trong cảnh tối tăm, và Tin mừng sẽ không được rao giảng cho người nghèo.
Đây không phải là một trách nhiệm chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu nữa. Khi là thành viên của một cộng đồng nâng đỡ nhau, thì việc làm chứng cho Đức Kitô sẽ dễ dàng hơn.
Một trong những từ cơ bản của đạo chúng ta là từ “Cứu độ”. Chủ đề về ơn Cứu độ bao trùm lên: MV3-B10
Một trong những từ cơ bản của đạo chúng ta là từ “Cứu độ”. Chủ đề về ơn Cứu độ bao trùm lên các bài đọc hôm nay. Nhưng chúng ta hiểu gì về ý nghĩa của “Ơn Cứu Độ”.
Thế giới này đầy rẫy những điều đáng kinh ngạc, phong phú và đẹp đẻ. Tuy nhiên, nó cũng là một thế giới tan vỡ, đầy quyền lực và thương tích. Đây là một thế giới có nhu cầu và khát khao ơn cứu độ. Nhưng chúng ta đang nói về ơn cứu độ nào ?
Trong quá khứ, chúng ta có khuynh hướng nhìn vào ơn cứu độ thuần túy theo nghĩa thiêng liêng – đó là sự cứu độ linh hồn khỏi tội lỗi và án phạt đời đời. Hơn nữa, chúng ta còn có khuynh hướng hiểu về ơn cứu độ theo cách thức rất cá nhân và ích kỷ : Tôi cứu thoát linh hồn của riêng tôi, và ít nhiều quên lãng việc cứu thoát những người khác. Chúng ta cũng quá thường xuyên coi ơn cứu độ như là một việc gì đó chỉ thực sự xảy ra ở thế giới mai sau mà thôi.
Ngày nay, trong khi ý thức hơn về vận mệnh của mình, chúng ta lại có khuynh hướng đi sang thái cực khác. Chúng ta nhìn vào ơn cứu độ thuần túy theo nghĩa trần tục – đó là sự cứu độ khỏi ước muốn, nỗi đau khổ, áp bức. Và chúng ta còn coi ơn cứu độ chỉ có quan hệ với thế giới này mà thôi. Chúng ta còn nhìn vào ơn cứu độ theo những khía cạnh chính trị, kinh tế và xã hội. Nhưng có những quốc gia tiên tiến về kinh tế và xã hội lại tồn tại rất nhiều cảnh trụy lạc và vô độ.
Ý tưởng của Kinh thánh về ơn cứu độ sâu xa hơn và phong phú hơn rất nhiều. Kinh thánh mời gọi con người đến với điều đó hơn là đấu tranh cho những quyền lợi kinh tế và xã hội. Đó là cuộc đấu tranh chống lại tất cả những thế lực của sự chết tại bất cứ nơi nào nó biểu hiện – một cuộc đấu tranh để giành được sự sống theo nghĩa trọn vẹn nhất. “Đây không phải vấn đề cứu độ linh hồn vào giờ chết, nhưng là sự cứu độ con người trong lịch sử sống động” (Oscar Romero).
Trong Kinh thánh, ơn cứu độ bao trùm cả ý tưởng cứu độ con người khỏi những bệnh tật của thể xác và linh hồn. Không thể coi sự cứu độ cá nhân là tách rời khỏi sự cứu độ những người khác. Và tất nhiên, ý niệm này bao gồm cả sự cứu độ khỏi sự chết, do đó, sự cứu độ không chỉ giới hạn ở thế giới này mà thôi.
Chúng ta nhận thấy cách hiểu này về ơn cứu độ đã được thể hiện nơi Đức Giêsu “Thần khí Chúa ngự trên tôi… Người đã sai tôi đi công bố Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”. Những lời thật đẹp này được trích dẫn từ bài đọc 1 hôm nay, và Đức Giêsu đã sử dụng để loan báo chương trình sứ vụ của Người.
Trong khi quan tâm đến những nhu cầu của riêng mình, Đức Giêsu còn dành thì giờ rao giảng cho những anh chị em của Người, đặc biệt là cho những người nghèo khổ nhất và bị thương tật nhất trong số họ. Người không chỉ chăm sóc cho linh hồn, mà còn chăm sóc cả thể xác của họ nữa. Và Người còn loan báo cho họ Tin mừng về Nước Trời. Ơn cứu độ bắt đầu ngay tại thế gian này, nhưng được triển nở trọn vẹn ở đời sau.
Trong khi hoạt động để đạt được một thế giới tốt đẹp hơn cho chính mình và cho những người khác, chúng ta không được đặt tất cả niềm hy vọng của mình vào thế giới này, hoặc vào những nỗ lực của nhân loại. Niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta về ơn cứu độ trọn vẹn đặt nơi chính Đức Giêsu, Đấng đã được Chúa Cha sai đến thế gian này. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta không đánh mất niềm tin vào Người.
Thánh Gioan Tẩy giả nói với dân chúng “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết: MV3-B11
Thánh Gioan Tẩy giả nói với dân chúng “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Vị mà ngài đang nói đến chính là Đức Giêsu Thiên Chúa thường được ám chỉ như là một Thiên Chúa “ẩn mặt”. Về phương diện này, có thể so sánh Thiên Chúa như một người viết tiểu sử. Công việc của người viết tiểu sử là tránh mặt trong khi kể chuyện. Một người viết tiểu sử giỏi luôn sẵn sàng có mặt ở bất cứ chỗ nào, nhưng không ai nhìn thấy họ cả. Thiên Chúa hiện diện ở tất cả mọi nơi trong các tạo vật của Người, nhưng không ai nhìn thấy Người.
Có câu chuyện về một người đàn ông kia khi trở về nhà, anh phát hiện ra đứa con gái bé bỏng của anh đang khóc rống lên. Anh hỏi cháu bé về chuyện gì xảy ra. Cháu bé nói rằng cháu đang chơi trò chơi trốn tìm với các bạn của cháu. Nhưng khi đến phiên cháu đi trốn, cháu bé đã trốn quá kỹ, đến nỗi các bạn của cháu đã bỏ đi chơi trò khác, không chịu tìm kiếm cháu nữa. Cháu bé cứ chờ đợi các bạn tìm thấy mình, nhưng chúng không thể nào làm được như vậy. Cuối cùng, khi đi ra khỏi chỗ ẩn núp, thì cháu bé phát hiện ra rằng chỉ còn có một mình cháu thôi.
Đôi khi, có lẽ Thiên Chúa cảm thấy cô độc. Người đã tự trú ẩn trong các tạo vật của Người một cách quá tài tình, đến nỗi một số người không thể tìm thấy Người. Và cuối cùng, họ đã bỏ không tìm kiếm Người nữa, rồi rẽ sang các hướng khác.
Cuối cùng, khi Con của Người đến thế gian này, hầu hết cuộc đời của Người đều không được người ta nhận ra. Ngay cả khi Người xuất hiện ở nơi công cộng, không phải tất cả mọi người đều tin tưởng nơi Người. Và thánh Gioan tẩy giả đã nói “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết – một Đấng đến sau tôi”. Và trong phần mở đầu cuốn sách Tin mừng của mình, thánh sử Gioan đã nói một cách buồn rầu “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Ở đây, khi ngày Giáng sinh đến hỗ trợ chúng ta, trong ngày đó, chúng ta cảm thấy lòng đầy thắc mắc về sự gần gũi của Thiên Chúa. Trong biến cố Nhập Thể, Thiên Chúa ẩn náu một cách tài tình, và được mặc khải một cách hoàn hảo. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đến với chúng ta, mặc lấy thân phận nhân loại của chúng ta. Khi thấy Người là thấy Chúa Cha.
Trước khi Đức Giêsu đến, người ta coi như Thiên Chúa là Đấng xa cách và tách biệt của con người, không thể quan tâm gì đến chúng ta và những nỗi đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, người ta còn nhìn vào Người như một quan tòa hoặc một điệp viên, sẵn sàng vồ chụp và trừng phạt con người. Nhưng từ khi Đức Giêsu đến, chúng ta không còn nhìn vào Thiên Chúa như một người nào đó xa cách nữa, mà rất gần gũi với chúng ta, quan tâm đến mỗi người chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái của Người.
Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha như một người Cha đầy tình yêu, lòng thương xót và luôn sẵn sàng tha thứ. Đó là một Thiên Chúa không ở xa chúng ta, nhưng sống giữa chúng ta, và rất say mê quan tâm đến chúng ta. Mối quan tâm của Thiên Chúa không phải là phê phán và kết án, nhưng là chữa lành và cứu thoát. Đó là một Thiên Chúa đặc biệt gần gũi với những người yếu đuối, nghèo khổ và quá nặng gánh,
Thiên Chúa giống như một giòng suối ở bên chúng ta, mà chúng ta có thể say sưa uống lấy và làm cho bản thân mình được tươi mát. Nhận biết về Thiên Chúa theo cách thức này, là nguyên nhân đưa đến niềm vui lớn lao. Đây chính là niềm vui đã được loan báo cho các mục đồng trong ngày Chúa Giáng sinh, và bây giờ, cũng đang được loan báo cả cho chúng ta nữa.
Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ làm chứng được dùng đến bốn lần. Lẽ sống của Gioan: MV3-B12
Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ làm chứng được dùng đến bốn lần.
Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19). Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.
Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến tìm hiểu con người ông.
Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai ? Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: "Tôi không phải là Đức Kitô" - "Không phải" - "Không". Những tiếng không dứt khoát và trung thực. Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất.
Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai ? Gioan đã định nghĩa mình là một tiếng hô trong hoang địa, là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô. Ông biết rõ mình là người đến trước nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga 1,30). "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người."
Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông nhận mình không xứng. Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần. Gioan không ngại giới thiệu môn đệ mình theo Đức Giêsu, và ông bình an khi người ta đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).
Có ai siêu thoát như Gioan? Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên. Ông hạnh phúc vì mình đã hoàn thành sứ mạng.
"Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga 3,30).
Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan đáng tin hơn.
"Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết."
Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với nhiều người. Con người vẫn khắc khoải đi tìm những nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đã đến từ 2000 năm. Xin được làm người chứng như Gioan, giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể thao... Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho giới trẻ say mê? Đức Giêsu có phải là mẫu người lý tưởng của các bạn trẻ không?
Gioan là con người siêu thoát. Ông không tìm mình, ông vượt lên trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm chứng tuyệt như Gioan không?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
Lm Phêrô Trần Văn Trợ SJ.
Anh em hãy vui lên trong Chúa luôn, tôi nhắc lại, anh em hãy vui lên.” Lời của thánh Phaolô: MV3-B13
“Anh em hãy vui lên trong Chúa luôn, tôi nhắc lại, anh em hãy vui lên.” Lời của thánh Phaolô nhắn nhủ với tín hữu thành Philip được chọn làm chủ đề cho Chúa Nhật này.
Thiên Chúa sắp sữa đến để giải thoát chúng ta khỏi gông cùm và ách nô lệ của ma quỷ với tội lỗi. Hay như lời thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã đến gần.” Đấy chính là lý do chính đáng nhất làm chúng ta hớn hở vui mừng, vì ta sắp thoát khỏi kiếp sống nô lệ không có nhân phẩm. Kiếp sống không đáng sống mà đáng bị nguyền rủa, vì nó hạ thấp chúng ta xuống hạng cầm thú! Không có độc lập và tự do, trái lại luôn bị khống chế trong sợ hãi và tàn bạo. Thay vào đó Thiên Chúa của Tình Thương sẽ nâng chúng ta lên một cuộc sống mới của độc lập tự do, với trọn vẹn nhân phẩm và được chia sẽ sức sống sung mãn nhất của Tình Yêu bao la bất diệt trong Ngài.
Từ lâu Thiên Chúa chăm lo săn sóc cho loài người, tuy chúng ta không nhìn thấy được Ngài với bản tính thiêng liêng. Xong vào những ngày giờ sắp tới đây, Ngài sẽ xuất hiện giữa chúng ta như một con người có xương thịt thật gần gũi và thân thiết. Ngài sẽ chia sẻ cách triệt để những khao khát cháy bỏng của con người về hạnh phúc, và cảm thông sâu sắc những đau thương oằn oại của số kiếp con người trong thân xác nặng nề. Để Ngài sẽ dạy ta một phương thế hiệu nghiệm hầu chấn chỉnh nó một lần cho mãi mãi về sau. Niềm vui Thiên Chúa hiến tặng cho chúng ta không chỉ hời hợt bên ngoài trong các tặng vật, hay những họ hàng thân thích và bằng hữu ta thu tích được theo tuổi đời. Nhưng nó là một diệu kế quí báu vô cùng, Ngài giúp ta tự khám phá tiềm năng đang ngủ yên trong lòng mình, để ta tự nguyện nhờ Ngài giúp vươn lên tới cuộc sống phong phú mà Ngài vẫn mong đợi để trao ban cho ta, thoả mãn những khát vọng gay gắt nhất của mỗi tâm hồn.
Ta chỉ được hưởng niềm vui đích thực khi gặp gỡ một đáp ứng trọn vẹn cho những khao khát hay những thao thức vươn lên vẫn hằng ăn rễ sâu trong tâm hồn mỗi người. Những khao khát hoặc ray rức này là những nhu cầu sống động của tâm hồn bất tử, cho nên không có một đối tượng trần gian nào có khả năng lấp đầy. Chỉ khi nào đối tượng ta mong đợi mang đậm những nét tốt hảo mà ta vẫn thầm ngưỡng mộ hay săn lùng, bấy giờ những cảm xúc hân hoan bộc phát ngập tràn trong tâm hồn rồi ta bổng nhận ra cuộc đời thật tươi đẹp và đáng quí hơn bội phần. Và chỉ có Đấng Thánh của Thiên Chúa mới có khả năng mang lại cho ta niềm vui chan hòa ấy, vì Ngài Vua hiển trị trong mọi tâm hồn.
"Thần Khí Chúa Ngự Trên Tôi & Sai Tôi Đi Loan Báo Tin Mừng "
Đoạn sách Ngôn Sứ Isaia và đoạn Phúc Am của Chủ nhật III Mùa Vọng năm B phác thảo một: MV3-B14
Đoạn sách Ngôn Sứ Isaia và đoạn Phúc Am của Chủ nhật III Mùa Vọng năm B phác thảo một số nét về chân dung của Chúa Giêsu, Đấng sẽ đến để loan báo Tin Mừng giải thoát cho người nghèo. Còn thư của Thánh Phaolô dạy tín hữu Thêxalonica và chúng ta biết sống thế nào cho đẹp lòng Chúa. Chúng ta hãy đi tìm sứ điệp của Lời Chúa để đón nhận và đem ra thực hành.
1. Ơn gọi và trách nhiệm của các ngôn sứ
Ơn gọi và trách nhiệm của ngôn sứ Isaia:
Đoạn sách Isaia chương 61 thuộc Isaia đệ tam tức của giai đoạn 515-445 trước Công Nguyên. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo của giai đoạn sau lưu đầy này không hề khởi sắc như nhiều người mong đợi, nên vai trò của Isaia là nhắc nhở toàn dân hãy vững tin vào Thiên Chúa. Ơn gọi của Isaia là được Thiên Chúa giao cho một sứ mệnh rõ rệt là thay đổi cảnh sống của người nghèo. Đó là một bằng chứng hùng hồn chứng tỏ Thiên Chúa luôn yêu thương và thủy chung với dân.
Ơn gọi và trách nhiệm của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả:
Từ cách sinh sống, ăn mặc, tập họp môn đệ, giảng dạy và làm phép rửa bên giòng sông Giocđan, Gioan xuất hiện với dáng dấp của một vị ngôn sứ, nên đã nhanh chóng lôi cuốn sự chú ý của toàn dân Ítraen. Mặc dù không khẳng định mình là ngôn sứ với những người Pharisêu, nhưng Gioan quả thực là một ngôn sứ, một ngôn sứ vĩ đại và cuối cùng của Cựu Ước. Sứ mệnh của Gioan là làm chứng cho một Đấng sẽ đến sau ngài, nhưng cao trọng, vượt xa ngài. Đấng ấy chính là ánh sáng soi cho nhân loại. Đấng ấy sẽ loan báo Tin Mừng giải thoát cho người nghèo và làm phép rửa trong Thánh Thần để biến đổi lòng người cũng như mặt địa cầu này.
Ơn gọi và trách nhiệm VỊ NGÔN SỨ GIÊSU
Trong hội đường Nadarét, Đức Giêsu đã long trọng tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe.”"(Lc 4,21). Đó là câu 1 và 2, chương 61 của sách ngôn sứ Isaia. Thế có nghĩa là Đức Giêsu đã xác định ơn gọi và sứ mạng ngôn sứ của Người. Sứ mạng của Người là đến với người nghèo, người tù tội, người tật nguyền, người bị áp bức và bênh vực họ và loan báo Tin Mừng giải thoát cho họ để họ được hạnh phúc. Đức Giêsu đã sống hết mình và đã chết cực hình trên thập giá để thực hiện ơn gọi ngôn sứ và chu toàn trách nhiệm ngôn sứ của mình.
Ơn gọi và trách nhiệm của các ngôn sứ ngày nay:
Nhờ Phép Rửa, mọi Kitô hữu giáo dân cũng như giáo sĩ đều đã được tháp nhập vào Chúa Giêsu Kitô, trở nên chi thể của Người, tham gia vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và phục vụ của Người. Vậy chúng ta là các ngôn sứ ngày nay phải sống ơn gọi và thi hành trách nhiệm như thế nào?
2. Cách sống ơn gọi và thi hành trách nhiệm của các ngôn sứ ngày nay.
Câu trả lời vắn gọn và đầy đủ nhất là các ngôn sứ ngày nay phải sống như Gioan và như Đức Giêsu.
Sống như Gioan: Cả cuộc đời Gioan chỉ có một mục tiêu là làm cho dân Ítraen tin và đón nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa được Thiên Chúa sai đến. Đó là sứ mạng làm chứng cho Chúa hay sứ mạng dọn đường cho Chúa. Gioan đã sống một cuộc đời khắc khổ, chay tịnh, hy sinh, hãm mình, siêu thoát và kết hiệp với Thiên Chúa, để lời chứng của mình được dân chúng tin theo. Gioan đã chấp nhận phải "nhỏ" đi để Đức Giêsu nổi bật lên.
Người ngôn sứ ngày nay cũng phải có một nếp sống giống như Gioan -khắc khổ, chay tịnh và khiêm nhu- để chu toàn cùng một trọng trách: làm chứng cho Chúa và dọn đường cho Ngài đến.
Sống như Đức Giêsu: Ở trên chúng ta đã thấy Đức Giêsu đã sống ơn gọi và thi hành trách nhiệm ngôn sứ của Người như thế nào. Theo chân Người, chúng ta cũng phải nhận người nghèo khổ, người bị thiệt thòi -cách này cách khác - trong xã hội, làm đối tượng ưu tiên để chúng ta yêu thương và phục vụ. Khi chọn lựa như thế chúng ta sẽ lội ngược dòng, vì ngày nay, trong đạo cũng như ngoài đời, người ta chỉ trọng người giầu sang, quyền chức. Người nghèo, người bị gạt ra ngoài lề xã hội do bất kỳ lý do gì: sắc tộc, văn hóa, tôn giáo, chính trị hay nghề nghiệp, rất khó tin có Thiên Chúa là Đấng cầm cân nẩy mực Công lý và yêu thương săn sóc họ. Vì thế các ngôn sứ ngày nay là mọi Kitô hữu, có sứ mạng và trọng trách "cụ thể hóa" lòng yêu thương người nghèo và sự quí chuộng Công lý của Thiên Chúa, bằng những hành động thiết thực.
* SỐNG LỜI CHÚA
1. Con luôn tự nhủ rằng: Trong gia đình, giáo xứ và xã hội, con cũng là ngôn sứ của Thiên Chúa, với trách nhiệm làm chứng cho Tin Mừng và dọn đường cho Chúa đến.
2. Mỗi ngày con thực hiện một số việc hy sinh, bỏ mình, phục vụ, yêu thương, bác ái để làm chứng cho Tin Mừng và dọn đường cho Chúa đến.
* CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã cho con được Ơn làm Kitô hữu, nhờ đó con được tham gia vào ơn gọi và sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, Con Cha, Chúa của con.
Lạy Chúa Giêsu, là NGÔN SỨ VĨ ĐẠI của Cha! Xin Chúa giúp con biết yêu thương và phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo và những người bị thiệt thòi trong xã hội Việt Nam hôm nay.
Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, xin Chúa sai con như đã sai các ngôn sứ, vào trong các môi trường xã hội và Giáo hội, để con làm chứng cho Tin Mừng giải thoát và dọn đường cho Chúa Giêsu Kitô đến với mọi người, mọi nhà. Amen.
Ít năm trước đây, một phu hốt rác Dangllas thuộc tiểu bang Texas, được dân chúng trên con đường làm việc của ông tuyên dương. 17 dân cư đã viết thư cho vị giám đốc sở vệ sinh công cộng Jack David để ca ngợi nụ cười đầm ấm thân hữu và phục vụ lịch thiệp của Gheorge Cummings, phu hốt rác của họ. Họ viết: “Chúng tôi, trên con đường này, công nhận ông là một Kitô hữu trung kiên, một công dân yêu nước và một người bạn thật tình”.
Họ nhắc lại rằng Cummings đã giúp họ mua bông cho người láng giềng quá cố; rằng ông lượm được chiếc đồng hồ và đã đi hỏi mọi người trên đường để tìm cho được chủ của nó; rằng ông đã phối kiểm làm sao khi thấy một món đồ ông nghi rằng người ta bỏ đi vì lầm lẫn.
Ong giám đốc David đã gởi cho Cummings một bức thư có câu như: “Chúng tôi tin rằng: người ta có thể hoàn thành những công việc phi thường trong mọi cảnh sống, không kể địa vị hay trách nhiệm. Việc làm của ông đã cho thấy ý nghĩa thực sự của niền tin ấy”
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta nghe người ta hỏi thánh Gioan Tẩy giả: “Ông đúng là ai ?” Họ không cần biết tên hay tung tích của ông, họ chỉ muốn biết việc ông làm, chức vụ, nghề của ông. Gioan trả lời họ: “Tôi là tiếng kêu trong hoang điạ: dọn đường cho Chúa ngay”. Đó là nghề ông: loan báo đức Kitô, giới thiệu đức Kitô, nói cho thế giới rằng: Chúa Kitô là Đấng Chúa Cha đã hứa, Gioan dành tất cả cho nghề của ông. Ông đã làm mọi cố gắng, mọi hy sinh để loan báo đức Kitô.
Giờ đây, bạn và tôi phải làm gì ? Đơn giản là: Mỗi người trong chúng ta có một nghề trong nước trời. Nói cách khác, mỗi người chúng ta đều có một cái gì quan trọng phải làm trong gia đình nhân loại. Nghề của bạn, của tôi đều quan trọng dù công việc của chúng ta là khiêm nhường nhỏ bé.
Gheorge Cummings ở Dallas đã ý thức điều đó. Ong thực hiện hết mình cái nghề hốt rác của ông. Tất cả chúng ta cần ý thức rằng: Mỗi nghề trên trần gian này đều quan trọng, rằng cuộc sống sẽ nhàm chán nếu xã hội gồm toàn những người đứng đầu mà không có cấp dưới, toàn là giám đốc mà không có công nhân, toàn là những người trổi vượt tiếng tăm, mà không có những người làm việc âm thầm.
Chúng ta thường nghe nói: “Tôi chỉ là một người nội trợ..., tôi chỉ là một người quét nhà, lau cửa... Tôi chỉ là một người gác điện thoại,..., tôi chỉ là một nông dân,..., một bồi bàn...”. Bạn thử phác họa một nếp sống không người làm những công việc đó và hàng trăm người như họ.
Mỗi nghề đều quan trọng, không phải chỉ đối với nhân loại mà thôi, mà còn quan trọng trước mặt Chúa. Khi chúng ta chuẩn bị ngày sinh nhật của Con Chúa. Chúng ta nhớ rằng: Hài Nhi đã lớn lên và thành người thợ mộc. Bạn có nghĩ rằng đức Giêsu đã không thỏa mãn, đã nhàm chán công việc cái cưa, cái búa ? Không. Đức Giêsu đã hân hoan làm những công việc Chúa Cha giao phó: cưa khúc cây hay chết trên khúc cây để cứu chuộc mọi người.
Mỗi lần tới cùng dâng thánh lễ, chúng ta cử hành việc Chúa Giêsu thi hành chương trình của Thiên Chúa. Bạn và tôi có phần trong chương trình ấy ? Với ơn trợ giúp của Chúa chúng ta nhận nơi đây, trong nhà của Chúa, mỗi người chúng ta có thể ý thức rằng: nghề của anh, của chị là quan trọng. Như Gioan tẩy giả, như Gheorge Cumminga, như chính Chúa Giêsu, chúng ta hãy làm hết sức, hết khả năng.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Gioan 1,6-8 . 19-28.
Có một sự kiện lạ lùng trong Phúc âm Gioan là mỗi lần đề cập đến Gioan Tẩy Giả, là mỗi lần giá trị của ông bị giảm đi. Có môt cách giải quyết sự kiện ấy. Gioan Tẩy Giả là một tiếng nói tiên tri. Từ bốn trăm năm tiếng nói tiên tri dã im bặt, bấy giờ với Gioan, tiếng nói ấy lại vang lên. Qua đó một số người ngưỡng mộ Gioan Tẩy giả đến độ dành cho ông điạ vị cao hơn địa vi thích đáng. Nhiều dẫn chứng cho thấy có một hệ phái đã đặt Gioan lên địa vị cao nhất. Am vang ấy được đặt trong Tông đồ công vụ 19, 3-4. Tại Ê-phê-xô, Phao lô gặp số người chẳng biết gì khác hơn là phép rửa của Gioan. Không phải Phúc âm muốn phê phán hay làm giảm đi tầm quan trọng của Gioan Tẩy Giả, nhưng tông đồ Gioan biết một số người dã dàng cho Gioan tẩy giả một địa vị lấn át địa vị của Chúa Giêsu .
Cho nên qua suốt Phúc âm thứ tư, tác giả đã cẩn thận giải tỏa nhiều lần rằng,địa vị của Gioan Tẩy Giả trong kế hoạch chung là cao quý, dù vậy nó vẫn ở hàng thứ yếu so với Chúa Giêsu. Ở đây, ông thận trong bảo Gioan Tẩy Giả không phải là ánh sáng, mà chỉ là nhân chứng của ánh sáng ấy. Trong phân đoạn này, chúng ta thấy đ1o là một quan điểm mà chính Gioan Tẩy Giả đã dứt khoát bác bỏ.
Phái đoàn đến phỏng vấn gồm hai hạng người. Thứ nhất có các thầy tư tế và người Lê-vi, họ chú ý đến Gioan Tẩy Giả là điều tự nhiên, vì ông là con của Gia-ca-ri-a, mà Gia-ca-ri-a là thầy tư tế (Lc1,5). Trong đó Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để được chức vụ tư tế là cha truyền con nối. Người nào không phải là hậu duệ của A-a-ron, thì chẳng có gì khiến người ấy trở thành thầy tư tế, còn nếu người ấy là con cháu của A-a-ron thì không có gì ngăn cản người ấy trở thành thầy tư tế được. Do đó dưới mắt các nhà cầm quyền, Gioan tẩy Giả quả là một thầy tư tế, và tự nhiên các thầy tư tế phải tìm hiểu tại sao một thầy tư tế lại hành động bất thường như thế. Thứ hai có những người đại diện cho giới Biệt Phái (đạo sĩ). Rất có thể là sau lưng họ còn có Tào An Tối Cao. Một trong những nhiệm vụ của Tòa Án Tối Cao là đối phó với những ai bị nghi ngờ là tiên tri giả. Gioan Tẩy Giả là một nhà truyền đạo được dân chúng theo rất đông. Có lẽ Tòa An Tối cao thấy họ có trách nhiệm tra xét con người này xem ông có phải là tiên tri giả không.
Tất cả sự việc trên đây cho chúng ta thấy tôn giáo chính thống thường nghi ngờ những việc gì bất thường. Gioan Tẩy Giả đã không theo đúng quan niệm bình thường về một thầy tư tế, mà ông cũng không theo đúng quan niệm của một thầy giảng đạo. Vì vậy các chức quyền tôn giáo thời đó nhìn ông đầy nghi kỵ. Những đại diện được phái chính thống sai đến chắc dã nghĩ về ba điều Gioan Tẩy Giả có thể tự nhận.
1. Họ hỏi ông có phải là Đấng Messia không ?
Dân Do Thái đã trông chờ, cho đến ngày nay người ta vẫn đang trông đợi Đấng Messia. Bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng. Dân Do Thái tin rằng họ là tuyển dân của Chúa Giavê, họ không nghi ngờ gì về việc chẳng chóng thì chày Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dân Ngài. Không phải chỉ có quan niệm về Đấng Messia sẽ đem hòa bình đến cho cả thế giới. Có người trông chờ Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Đa số trông mong một vị tướng lãnh vô địch sẽ cầm đầu quân đội Do thái đi trinh phục cả thế giới. Có người trông đợi một siêu nhân đến từ Thiên Chúa . một số khác lại trông mong nhà vua sẽ dấy lên từ dòng dõi Đavít. Thường thường có những người nổi lên tự xưng là Đấng Messia và hay khởi loạn. Thời đại của Chúa Giêsu là mội thời đại căng thẳng. Hỏi Gioan Tẩy Giả có xứng là một Đấng Messia là một câu hỏi không tự nhiên.Ông hoàn toàn bác bỏ lời xưng đó, nhưng lại tiết lộ một phần khác. Trong tiếng Hy Lạp có vẻ như Gioan muốn nói: “Tôi không phải là Đấng Messia , nhưng Đấng Messia có mặt ở đây mà các ông không biết.”
2. Họ hỏi ông có phải là Ê-li-a không ?
Dân Do Thái tin rằng trước khi Đấng Messia giáng lâm, Ê-li-a sẽ trở lại để loan báo trước và chuẩn bị cho thế gian tiếp rước Ngài. Đặt biệt Ê-li-a sẽ đến để dàn xếp mọi bất hoà. Ông sẽ định những gì, những ai là thanh sạch hay không thanh sạch. Ông sẽ phân chia đâu là người Do Thái, đâu là người ngoại bang. Ong sẽ đem lại đoàn kết, hoà thuận cho các gia đình từng xa lạ với nhau. Họ tin tưởng điều đó đến nỗi luật xưa của người Do Thái ghi rằng số tiền bạc và của cải đang tranh chấp, hay bất cứ tài sản nào bị xem là vô chủ đều phải “chờ cho tới chừng Ê-li-a đến”. Niềm tin rằng Ê-li-a phải đến trước Đấng Messia bắt nguồn từ Ma-la-kai 4,5. Người ta còn tin rằng chính Ê-li-a xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như tất cả các vua đã được xức dầu. Nhưng Gioan Tẩy Giả đã phủ nhận tất cả những vinh dự đó.
3. Họ hỏi ông có phải là nhà tiên tri được hứa ban và mọi người trông đợi không ?
Lắm lúc người ta cũng tin Isaia và đặc biệt nhất là Giêrêmisa sẽ trở lại lúc Đấng Messia đến. Nhưng thật ra đó chỉ nhằm nhắc lại lời bảo đảm cuả lãnh tụ Môisê với dân chúng trong Thứ Luật 18,15 : “Từ giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh em hãy nghe vị ấy”. Đó là lời hứa dân Do Thái không khi nào quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là tiên tri vĩ đại nhất và trông mong nhân vật ấy như là “nhà tiên tri lý tưởng”. Nhưng một lần nữa Gioan Tẩy Giả không thừa nhận vinh quang là của mình.
Vậy họ gọi ông là ai ? Ông nói mình chỉ là tiếng nói khuyến giục mọi người dọn đường cho Nhà Vua. Câu trích dẫn trong Isaia 40,3 tất cả các Phúc âm đều trích dẫn câu này để ám chỉ Gioan Tẩy Giả. Y niệm ẩn tàng trong câu ấy là: đường đi bên Đông phương mặt đường gồ ghề và thường chỉ là những lối mòn. Khi một vị vua sắp đến thăm một tỉnh, hoặc khi nhà chinh phục sắp kéo quân đi qua lãnh thổ của mình thì đường sá phải được san bằng, dọn thẳng và xếp cho có trật tự. Điều Gioan Tẩy Giả ngụ ý là: “Ta chẳng là ai cả, ta chỉ là tiếng kêu gọi các ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng đợi nhà vua đến”. Ông muốn nhắc rằng: “Hãy tự sửa soạn đi,nhà vua đã lên đường rồi đó”.
Gioan Tẩy Giả là con người mà tất cả các nhà truyền đạo, các giáo sư đều phải nên như thế, ông chỉ là một tiếng nói, một ngón tay chỉ nhà vua. Ông muốn mọi người hãy quên ông, chỉ thấy Nhà Vua mà thôi.
Nhưng các đạo sỹ Do Thái lại thắc mắc một điều khác: “Gioan lấy quyền gì mà làm phép rưả? Nếu ông là Đấng Messia , là Êlia, hay là một tiên tri thì ông có quyền làm. Isaia có viết rằng: “người sẽ rửa nhiều người” (52,15); Edêkien cũng nói: “ta sẽ rưới nước trong trên các ngươi, và các ngươi sẽ trở nên trong sạch” (36,25) Giacaria cũng nói: “trong ngày đó, sẽ có một suối mở ra cho nhà Davít và dân cư Giêrusalem vì tôi lỗi và sự ô uế” (13,1). Thế nhưng, tại sao Gioan lại làm phép rửa ?
Điều ngạc nhiên hơn nữa là phép rửa do tay người làm thì không dành cho Israen mà chỉ dành cho những người ngọai nhập vào Do Thái giáo, tức là những người vốn có đạo khác, mới tin theo đạo Do Thái . một người Israen không bao giờ chị phép rửa, họ đã thuộc về Chúa Giavê, nên không cần rửa sạch nữa. Nhưng những người ngoại bang đến gia nhập Do Thái giáo thì phải chịu rửa sạch bằng lễ rửa. Gioan Tẩy Giả đã bắt dân Israen làm một việc mà chỉ có dân ngoại mới phải làm. Ông có ý nói tuyển dân phải được rửa sạch. Đó chính là điều Gioan tẩy Giả tin, nhưng ông đã không trả lời trực tiếp.
Ông nói: “về phần ta, ta làm phép rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, ta chẳng đáng cởi dây giày cho Ngài”. Gioan Tẩy Giả không nêu ra được một nghề nào hèn hạ hơn nữa, mở dây giày là công việc của một người nô lệ. Một ngạn ngữ của các ra-bi bảo rằng môn đệ có thể làm cho thầy mình bất cứ việc gì một đầy tớ phải làm ngoại trừ việc “cởi dây giày”. Việc đó quá hèn hạ ngay cả đối với một môn đệ. Dầu vậy, Gioan Tẩy Giả ngụ ý: “Với Đấng đang đến thì cả việc làm đầy tớ cho Ngài cũng không xứng đáng”.
Chúng ta phải hiểu là lúc đó Gioan đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu rồi, và ông đã nhận ra Chúa. Ở đây, ông nhắc lại ý đó một lần nữa, và ngụ ý: “Nhà Vua đang đến, để chuẩn bị đón Ngài , các ngươi phải được tẩy rửa y như bất cứ người ngoại bang nào. Hãy dọn mình sửa soạn để đi vào lịch sử của nhà vua”.
Chức vụ của Gioan Tẩy Giả là chức vụ dọn đường. Bất cứ sự cao trọng nào ông có được đều đến từ sự cao trọng của Đấng mà ông loan báo. Gioan tẩy Giả là tấm gương lớn về con người sẵn sàng xóa mình đi để người ta chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu . Ông nhận thấy mình là ngón tay chỉ cho thiên hạ thấy Chúa Cứu Thế. Nguyện Chúa ban cho chúng ta ơn biết quên mình, chỉ nhớ đến Chúa Giêsu thôi.
Lời chào của thiên thần trong Tin Mừng hôm nay, là phần đầu của Kinh Kính Mừng. Kinh Kính Mừng đến trên đất Mỹ khi nào ? Đây là một vấn đề thú vị trước nhãn quan mừng kỷ niệm 2000 năm của quê hương Leif-Ericson, một người trở lại đạo công giáo có lẽ đã tới bờ biển New England rất sớm khoảng năm 1000. Chắc chắn những người dũng cảm của gia đình Vikings, tất cả là công giáo đã đọc kinh Kính Mừng.
Đáng lưu ý hơn, 300 năm sau Norsrnen đã đặt chân lên vùngMinnesota. Chúng ta có bằng chứng đáng tin và sự kiện này là Bia đá Keusington tìm thấy tại một nơi ngày nay cũng gọi bằng tên đó. 8 người Thụy Điển, 22 người Nauy bằng đường bộ, đường sông đã tới bang Gopher. Họ dựng trại phía bắc Keusington.
Ngày kia, 20 người trong số đi đánh cá, khi trở về thấy 10 người ở nhà bị người da đỏ thảm sát rùng rợn. Họ chạy về phái nam tới một nơi mà 5 thế kỷ sau đã tìm thấy bia đá nói lên câu chuyện của họ. Bia đá dầy 15 cm, rộng 40 cm, dài 77 cm, nặng 100 kg. Bia đá tả lại câu chuyện rùng rợn của 10 người bị thảm sát. Kết thúc bằng ba chữ cái: A*. 8* . M* với câu: “Xin cứu khỏi sự dữ”. Cuối bia đá ghi năm 1362. Bia đá này hiện tàng trữ tại học viện Smirhsonian.
Chữ A* là Kính mừng, V: trinh nữ, M: Maria.
130 năm trước khi Colombo khám phá châu Mỹ, lời chào mừng của Thiên thần với Đức Maria đã được ghi khắc trên bia đá. Cũng từ đấy, lời chào đó được ghi tạc vào lòng mỗi người công giáo Mỹ.
Có khi nào bạn tự hỏi mỗi ngày Kinh Kính Mừng được đọc bao nhiêu lần trên đất Mỹ. Có gần 50 riệu người công giáo trên đất Mỹ. Giả sử rằng ít nhất một nửa trong số họ mỗi ngày đọc một lần Kinh Kính Mừng, chưa kể đến hàng triệu người lần chuỗi mỗi ngày. Họ lập lại lời chào mừng của Thiên Thần 50 lần.
Cha sở biết bổn đạo của mình, đặc biệt là những người già cả, họ lần chuỗi môi khôi nhiều lần mỗi ngày. Có người lần chuỗi mỗi khi thức dậy. Cộng thêm biết bao lần Kinh Kính mừng được hát lên hay hòa tấu.
Vậy có thể nói: “Chào mừng, đầy ơn phước”. Quả thực trọn nửa Kinh Kính Mừng là những lời Kinh thánh được nhắc tới nhiều nhất.
Người phi công lái máy bay, người cảnh sát đi tuần, bà ngoại trên xe đẩy, người phi công ghé qua nhà thờ để viếng Chúa Giêsu và mẹ Người. Một người mẹ gia đình mệt mỏi ngồi nghỉ một vài phút để lấy lại sức lực tinh thần và thề xác: tất cả cùng chung một tâm tình dâng lời chào mừng Đức Trinh Nữ.
Việc này thích hợp với mọi người, vì điều sứ thần loan báo là chân lý lớn lao trong lịch sử thế giới, là con Thiên Chúa mặc lấy xác thịt và trở nên một con người, trong và qua Đức Mẹ. Chúng ta hãy hợp cùng ca đoàn khắp mặt đất chào mừng Maria.
Đọc kinh Kính mừng trước ngày Sinh nhật Chúa rất thích hợp. Khi chúng ta mừng ngày sinh nhật của Đức Maria. Thánh lễ nhắc lại việc nhập thể của đức Kitô trên bàn thờ. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta quí chuộng mỗi thánh lễ và mỗi lễ Giáng sinh.
Xin Chúa chúc lành bạn.
Chúa nhật 3 Mùa Vọng-B 3rd Sunday of Advent
Lời Chúa cho hôm nay: LỜI CHỨNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ * Witness of John the Baptist *
* Bài đọc 1: Isaia 61, 1- 2; 10- 11= Ơn gọi của ngôn sứ. Đoạn văn này lấy từ phần thứ 3 của sách Tiên tri Isaia, được viết sau khi dân Israel trở về từ Babylon./ The vocation of Prophet. This readingis taken from third part of the Book of the Prophet Isaiah, it was written after Israel’s return from exile in Babylon.
* Bài đọc 2: 1 Thess. 5,16- 24= Niềm vui của Tín hữu. Đừng bao giờ ngưng cầu nguyện và tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, đừng dập tắt Thần Khí./ Christian Joy. Never cease praying, render constant thanks. Do not stifle the Spirit.
* Tin Mừng (Gospel): Gioan 1, 6- 8; 19- 28= Làm chứng cho Đức Kitô. Gioan Tẩy giả kêu gọi mọi người hối cải để dọn đường cho Đấng Cứu Tinh đến qua thời kêu gọi sám hối. / Witness to Christ. John the Baptist calls people to conversion in order to prepare for the coming of the Messiah by proclaiming a time of repentance.
A. Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections,live out and share )
Trong Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay viết: Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan: MV3-B18
1/ Trong Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay viết: Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan,ông đến để làm chứng và làm chứng về Ánh Sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Đức Kitô là Ánh Sáng thật. Những người làm chứng cho Chúa đang ở ngay bên cạnh. Tôi có nhận ra Ngài ngay từ trong gia đình không? He came as a witness to testify to the light, so that through him all men might believe. ( Gn. 1, 7 )
2/ Một số tư tế và các thầy Lê-vi muốn ông Gioan Tiền Hô nói về chính ông, ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường thẳng để Đức Chúa đi. Nhiều Tín hữu hôm nay đang được Chúa gọi rao giảng cho Ngài bằng mọi chức vụ khác nhau. Bạn đã chu toàn bổn phận của mình trong xã hội như thế nào? I am a voice in the desert, crying out: Make straight the way of the Lord ! (Gn. 1, 23 )
3/ Trong phần ơn gọi Ngôn sứ, chương 61, Tiên tri Isaia viết: Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Đức Maria thăm viếng bà Elisabet đã cất tiếng ca ngợi: Linh hồn tôi ngợi khen Chúa! Đây là sự mừng rỡ trong đức tin và chờ đợi. Tâm hồn tôi có niềm vui nào mong Chúa? I rejoice heartily in the Lord, in my God is the joy of my soul... (Isa. 61, 10 )
4/ Trong đời sống cộng đoàn, thánh Phaolô khuyên mọi nguời như sau: Anh em đừng dập tắt Thần Khí, Chớ khinh thường ơn nói tiên tri, hãy cân nhắc mọi sự... . Chúa Thánh Thần làm dậy lên sự sống và sinh hoạt của Hội thánh qua nhiều ơn sủng và hình thức khác nhau? Bạn đã làm gì để xứng đáng là chi thể của Đức Kitô? Do not stifle the Spirit. Do not despice prophecies, Test everything... (1 Thes.5,19- 21)
B. Câu Kinh Thánh kêu gọi tôi Sống làm chứng cho Chúa tuần này: ( The Best God's Word )
TÔI LÀ TIẾNG HÔ TRONG HOANG ĐỊA: HÃY SỬA ĐƯỜNG CHO THẲNG ĐỂ ĐỨC CHÚA ĐI. (Gn.1,23) I am the a voice in the desert, crying out: Make straight the way of the Lord
C. Thực hành Lời Chúa là phần quan trọng nhất sau khi tôi Cảm nghiệm: ( So what am I doing / For action) a/ Tôi chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành vào đời sống trong tuần này. b/ Bạn cần trợ giúp, cầu nguyện và lắng nghe các Phong trào, Đoàn thể... đang nhân danh Chúa hoạt động.
D. Tôi cầu nguyện như hơi thở và Sống làm chứng cho lời tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in action)
1/ Lạy Cha, thánh Gioan Tiền hô đã nói để làm chứng cho Chúa: tôi là tiếng người hô trong hoang địa, hãy sửa đường thẳng cho Đức Chúa đi. Xin cho con thẳng thắn và mạnh dạn rao giảng Chúa bằng đời sống hàng ngày.
2/ Thánh Phaolô đã tha thiết nhăc bảo con: anh em đừng dập tắt Thần Khí, chớ khinh thường ơn Tiên tri, hãy cân nhắc mọi sự. Xin dạy con đừng vội chê bai lên án anh em; nhưng biết cầu nguyện và lắng nghe Chúa qua tha nhân.
Lời hay ý đẹp: NẾU CA NGỢI CHÚA, BẠN KHÔNG PHẢI LO VÌ NHỮNG VẾT NHỎ TRONG ĐỜI SỐNG If we keep praising God, we don't be distracted by life's little spots
Huyền Đồng
Chúa Nhật 3 Mùa Vọng, B Gn 1,6-8.19-28
Chúa nhật hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Vui”. Đó là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng của: MV3-B19
Chúa nhật hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Vui”. Đó là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Niềm vui này được tiên tri Isai, Đức Maria và thánh Phaolô diễn tả trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Thật vậy,còn niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui được cứu độ. Do đó, thánh Phaolô nói với chúng ta: “Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên vì Chúa đã gần đến”. (Phi. 4.5-5- Ca nhập lễ).
Tuy nhiên, sự vui mừng và hy vọng này vẫn không trọn vẹn và có thể trở thành mây khói, nếu nhân loại không nhận ra Đấng Cứu Thế thực sự là ai và phải làm gì để gặp Ngài. Đó chính là lý do tại sao nhiều tổ chức đã cử người đến gặp Gioan để hiểu rõ và đúng về Đấng Cứu Thế. Qua cuộc đối thoại với họ, Gioan đã giúp họ tránh được những hiểu lầm, đồng thời giới thiệu cho họ Đấng Cứu Thế đích thực mà các tiên tri đã loan báo.
Gioan nói rằng: Ông không phải là Đấng Cứu Thế họ đang mong đợi; nhưng Đấng Cứu Thế sẽ đến sau ông dù Ngài vẫn hiện diện từ muôn thủa; Đấng ấy rất quyền năng và cao sang, đến nỗi Gioan dù làm một tiên tri cũng không đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Ngài. Nhưng có điều lạ là Đấng Cứu Thế cao cả đó lại đang ở giữa nhân loại mà nhân loại không nhận ra Ngài.
“Có Đấng ở giữa anh em mà anh em không biết”. Câu nói của Gioan cho thấy rằng, Đấng Cứu Thế đã thực sự giáng sinh làm người qua thân phận một bé thơ đơn sơ, yếu đuối, trong một gia đình nghèo nàn tại vùng quê Nagiarét. Chính Ngài đang chia sẻ kiếp phàm nhân qua các biến cố vui buồn của từng người. Do đó, nhân loại không thể phác vẽ Ngài như một vị tướng hùng mạnh bách chiến bách thắng, như một hoàng đế trên ngai báu với muôn ngàn kẻ hầu người hạ. Tạo ra một hình ảnh như thế về Đấng Cứu Thế, chúng ta sẽ thất vọng và chẳng bao giờ gặp được Ngài. Chính các nhà đạo sĩ đã cho chúng ta một bài học: các ông tưởng rằng Vị Vua của Do Thái đã hạ sinh tại hoàng cung, nên tìm đến vua Hêrôđê, nhưng các ông đã chỉ gặp được Ngài trong một căn nhà nhỏ bé nghèo nàn tại miền quê. Như vậy, theo sự loan báo của các tiên trei và sự hướng dẫn của Gioan, chúng ta chỉ gặp được Đấng Cứu Độ khi chúng ta biết trở về với cuộc sống đơn sơ nhỏ bé, khi biết gạt bỏ ra khỏi tâm hồn những ý nghĩ kiêu căng, những tư tưởng tự cao tự đại, đồng thời biết khám phá ra sự hiện diện của Ngài qua các biến cố hằng ngày và trong cuộc sống của tha nhân, nhất là cuộc sống của những anh em nghèo nàn khổ đau. Chính Đức Maria đã dạy chúng ta một bài học cụ thể trong kinh Ngợi Khen (Magnificat) qua phần đáp ca của thánh lễ hôm nay: Thiên Chúa chỉ nhìn đến những người nhỏ bé đơn sơ và cứu độ họ; còn người quyền quý kiêu căng, Chúa sẽ loại bỏ.
Như vậy, niềm vui cứu độ chỉ có ý nghĩa và mang lại kết quả khi chúng ta biết tìm kiếm Đức Kitô bằng đời sống đơn sơ nhỏ bé. Ngược lại, với tâm hồn kiêu căng tự đắc, hoặc hình dung ra một Đấng Cứu Thế theo quan niệm nhân loại, chúng ta sẽ không bao giờ gặp được Ngài, dù Ngài đang ở giữa chúng ta, trong gia đình và xã hội chúng ta.
NS Trái Tim Đức Mẹ Lm Bùi Mạnh Tín
Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi". Thánh Gioan Tẩy giả tự: MV3-B20
"Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi". Thánh Gioan Tẩy giả tự trả lời về mình như thế cho những người Do thái chất vấn ông. "Tiếng kêu trong hoang địa". Nói đến hoang địa là nói đến một môi trường chưa được sử dụng, chưa được khai phá. Môi trường đó còn âm u, đầy dẫy nguy hiểm. "Tiếng kêu trong hoang địa" là tiếng kêu giữa mênh mông, giữa những âm u nguy hiểm đó.
Nhưng dù nói là kêu trong hoang địa, và bản thân thánh Gioan đã từng sống trong hoang địa, nhưng ngài đã không hô to một lời nào trong suốt những năm tháng sống một mình ở nơi ấy. Ngược lại, bây giờ, để thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, thánh Gioan đã rời hoang địa, đi vào làng mạc và cất tiếng rao giảng kêu gọi lòng sám hối ăn năn. Hóa ra hoang địa nhưng không là hoang địa thiên nhiên, không là một môi trường nào đó mà thánh Gioan đã từng sống. Bởi thế, khi áp dụng hình ảnh tiếng kêu trong hoang địa của tiên tri Isia đã loan báo trong Cựu ước để nói về chính mình, điều mà thánh Gioan nhắm đến chính là tâm hồn con người. Nếu hoang địa là mênh mông , là âm u, nguy hiểm, thì hoang địa tâm hồn còn đáng sợ, và nguy hiểm hơn.
Cách đây vài năm, một lần kênh truyền hình HTV7 chiếu bộ phim "Hòn đá lăn tròn" do Mêhycô sản xuất. Có thể nói nhân vật chính trong phim, luật sư Prado, là đại diện của một thứ hoang địa tâm hồn. Đúng là hòn đá lăn tròn. Địa vị, tiền bạc đã làm cho luật sư lăn theo nó quay tít như một hòn đá tuột dốc. Ông là kẻ kiêu căng, ích kỷ, tính toán và đầy tham vọng. Tất cả những tính xấu đó lớn trong ông đến nỗi biến ông thành một kẻ thủ đoạn không thể tả. Ông bất chấp tất cả dù người đó là vợ ông, con ông, quảng gia của ông, hoặc những người cùng làm việc với ông, miễn sao đạt được quyền cao chức trọn, đem lại danh vọng cho ông. Có những lần ông nhắc tới Chúa. Nhưng Chúa không còn ở trong tâm hồn ông nữa. Có nhắc tới Chúa chẳng qua chỉ là để ông gây lòng tin cho ai đó, để rồi biến Chúa trở thành phương tiện phục vụ chính ông, phục vụ con người đầy thủ đoạn của ông... Cám dỗ của địa vị, tiền bạc đã làm cho mảnh đất tâm hồn trở thành hoang địa. Một thứ hoang địa mà ở phần cuối bộ phim, đã biến một luật sư như luật sư Prado uy quyền là thế, tiếng tăm là thế, đã từng được mọi người nể phục, vậy mà cuối cùng ông đã phải cô đơn đến mức tuyệt vọng. Ông đã muốn lấp đầy cho nỗi cô đơn, cho sự tuyệt vọng của mình bằng những tiếng hét, tiếng rú kinh hồn. Càng cố rú lên bao nhiêu, thì không chỉ tiếng rú, mà là cả con người ông, cả mạng sống của ông càng rơi vào mênh mông bao la bấy nhiêu.
Bạn có thấy, hoang địa tâm hồn thật nguy hiểm bởi nó chỉ toàn là hận thù, là thủ đoạn. Đã là hoang địa cho nên rất cần những "tiếng kêu trong hoang địa" giúp ta "sửa lại cho ngay đường Chúa đi", nghĩa là chỉnh đốn tâm hồn mình. Sửa lại tâm hồn mình để ta trở thành người ngay chính, đừng như nhân vật Prado trong phim Hòn đá lăn tròn, cứ mải miết chạy theo "cơm áo gạo tiền". Tệ hại hơn, mãi chạy theo thủ đoạn để tìm danh vọng, tìm của cải, để thăng quan tiến chức, để làm giàu... mà quyên đi hay cố tình quên đi các bổn phận đạo đức, bổn phận xưng tội, rước lễ, nghe Lời Chúa...
Trên tất cả, bạn và tôi hãy khắc ghi lời thánh Gioan Tẩy giả: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi".
Đó là lời kêu gọi của một thời đã xa.
Nhưng cũng là lời mà hôm nay thánh Gioan mời gọi "Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi", sửa cho ngay tâm hồn của bạn và cả tôi.
Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
- Lm Trần Bình Trọng, USA
Ga 1,6-8.19-28
Gioan Tiền Hô sửa đường đón Đấng Cứu Thế ra sao? Vào cái thời mà tại đất Do Thái, người ta đã: MV3-B21
Gioan Tiền Hô sửa đường đón Đấng Cứu Thế ra sao?
Vào cái thời mà tại đất Do Thái, người ta đã chán ngấy cái tình trạng xã hội suy đồi. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự đều xuống dốc. Còn trên bình diện chính trị thì đất nước của họ bị đế quốc La Mã cai trị, nên họ mong đợi Đấng Cứu Thế đến hơn bao giờ hết. Và theo quan niệm của dân chúng, thì đấng Cứu thế đến sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ người ngoại bang, khiến cho đất nước của họ trở nên giàu mạnh, và đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Vì thế cái sứ điệp rao giảng sám hối của Gio-an Tiền hô để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến đã làm khơi dậy niềm vui phấn khởi của dân Do Thái. Sở dĩ có như vậy là vì qua bao nhiêu thế hệ, họ đã bị quyền lực ngoại bang đô hộ: dưới ách thống trị của đế quốc Ba Tư, dưới ách nô lệ của dân Ai Cập, dân Syria và đế quốc La Mã.
Như vậy, nếu theo quan niệm của dân chúng về Đấng Cứu thế, thì ông Gioan Tiền hô cũng có thể mạo nhận cho mình là Đấng Cứu thế, nhất là cái sứ điệp rao giảng của ông có sức lôi cuốn mãnh liệt. Tuy nhiên khi dân chúng hỏi xem ông là ai, thì được Gio-an trả lời: Tôi không phải là Đấng Kitô (Ga 1,20).Vậy ông có phải là Elia không? Tôi không phải là Elia (Ga 1,21). Vậy ông có phải là một tiên tri nào không? Tôi cũng không phải (Ga 1,21). Và ông nói :Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, sửa đường cho Đấng Cứu thế đến như tiên tri Isaia đã loan báo (Ga 1,23).
Rồi mấy người Pharisêu trong nhóm lại hỏi tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô. Gioan trả lời: Tôi chỉ làm phép rửa trong nước... Nhưng còn có Đấng sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,26-27).
Giả sử Gioan Tiền hô qui công về cho mình, cũng khoe khoang, mạo nhận mình là Đấng Cứu thế, thì ông đã mất hết công phúc trước mặt Thiên Chúa. Theo Thánh kinh ghi lại thì Gioan Tiền hô đã nhận chân được cái vị thế của mình trước mặt Đấng Cứu thế. Ông chủ trương Đấng Kitô phải nổi bật lên, còn ông phải lu mờ đi (Ga 3,30), nghĩa là Đấng Kitô phải được vinh danh, còn ông phải lui vào bóng tối.
Cái bài học mà Gioan Tiền hô dạy ta sửa soạn đón mừng Đấng Cứu thế đến là biết chấp nhận : chấp nhận cái sự thật về mình, chấp nhận cái vị thế, cái thế đứng và cái giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về cho mình cái mà mình không có, điều mà mình không làm.
Là người công giáo, ta phải học với Gioan Tiền hô để biết mình, biết chấp nhận bản thân và hoàn cảnh, tránh thái độ tự cao tự đại. Nếu không, người ta có thể trở thành những người đòi hỏi và bất mãn. Và khi ta bằng lòng chấp nhận cái vị thế, cái chỗ đứng, cái giới hạn của mình, ta sẽ có được tâm hồn an vui đón mừng Chúa đến.
Hôm nay Giáo Hội dùng những Bài Thánh Kinh chứa đựng những lời lẽ khích lệ, bảo ta hãy vui lên, vì ngày giờ cứu rỗi đã gần. Còn Gioan Tiền hô hôm nay dạy ta làm sao để tạo cho mình niềm vui chấp nhận để dọn đường đón mừng Đấng Cứu thế.
Là người Công giáo, ta phải học hỏi với Gioan Tiền hô để nhận biết mình, chấp nhận bản thân và hoàn cảnh. Nếu không người ta có thể trở thành những người bất mãn. Cái thái độ bất mãn sẽ làm cản trở cho việc Chúa đến trong tâm hồn. Vậy chỉ khi ta bằng lòng chấp nhận cái vị thế, cái chỗ đứng, cái giới hạn của mình, ta sẽ có được tâm hồn an vui, không bận tâm về mình, để có thể mở rộng tâm hồn đón mừng Đấng Cứu Thế.
NS Dân Chúa Mỹ Châu Lm Trần Bình Trọng, USA
Ga 1,6-8,19-28
I.TÌM HIỂU LỜI CHÚA
Gioan được sai đi trước để dọn đường cho Đức Kitô Cứu Thế nên còn có tên là Gioan Tiền Hô: MV3-B22
Gioan được sai đi trước để dọn đường cho Đức Kitô Cứu Thế nên còn có tên là Gioan Tiền Hô. Ông đã thi hành sứ mệnh bằng việc làm chứng rằng : ông không phải là Đức Kitô Cứu Thế, cũng không phải là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào khác theo ước vọng của dân Do Thái mà chỉ là "Tiếng kêu trong sa mạc" như Isaia đã tuyên sấm. Ông làm phép Rửa bằng nước sông là để chuẩn bị cho Đấng đến sau đầy quyền năng, mà ông không đáng làm đầy tớ cởi quai dép cho Ngài.
CHÚ THÍCH :
* Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan (Ga 1,6):
Gioan là con trai ông bà Dacaria và Êlisabet. Bà Elisabet đã thụ thai con trai cách lạ lùng nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Lc 1,59-60). Tên Gioan có nghĩa là "Chúa ban ơn". Tên này do sứ thần Chúa lệnh cho ông Dacaria khi truyền tin trong đền thờ (x. Lc 1,13). Ngoài tên gọi Gioan, ông còn hai biệt danh liên quan đến sứ mệnh là Tiền Hô và Tẩy Giả. Tiền hô là người "đi trước dọn đường cho Đấng Kitô" (x. Lc 1,17); Tẩy Giả là người "làm phép Rửa cho những người đang mong chờ Ơn Cứu Chuộc Israel" (x. Lc 3,3).
* Ông để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng (Ga 1,7-8) :
+ "Anh sáng": Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Ngài là ánh sáng của thế gian (x. Ga 8,12; 9,5; 12,46). Ngài đến để chiếu soi ánh sáng vào bóng tối (x. Ga 1,5). Ngài là ánh sáng chiếu soi cho đoàn dân đang ngồi trong bóng tối sự chết (x. Mt 4,16).
+ Làm chứng về Ánh sáng : Làm chứng là lấy danh dự và cả mạng sống để đảm bảo điều mình nói là sự thật. Gioan Tiền Hô có sứ mệnh làm chứng Chúa Giêsu là Ánh Sáng của thế gian, để mọi người nhờ ông mà tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô (x. Ga 1,7).
Và đây là lời chứng của ông Gioan : Khi người Do Thái từ Giêrusalem cử một số Tư Tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông : "Ông là ai ?" (Ga 1,19) :
+ Đây là lời chứng của Gioan : Tác giả Tin Mừng thứ Tư bắt đầu thuật lại lời gioan Tẩy Giả làm chứng về Đấng Kitô.
+ Người Do Thái từ Giêrusalem : Có lẽ đây là các đầu mục Do Thái trong Hội Đồng Cộng Tọa ở Giêrusalem.
+ Cử một số Tư Tế và mấy thầy Lêvi đến : Có lẽ là những chuyên viên lo về nghi lễ tại Đền Thờ. Họ được sai đi điều tra về phép Rửa Gioan thực hiện (x. Ga 1,25).
* Ông tuyên bố thẳng thắn. Ông tuyên bố rằng : "Tôi không phải là Đấng Kitô". Họ lại hỏi ông : "Vậy thì thế nào ? Ông có phải là ông Elia không ?" Ông nói : "Không phải". "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng ? ". Ông đáp : "Không". Họ liền nói với ông : "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến ? Ông nói gì về chính ông ?". ông nói : " Tôi là tiếng người hô trong hoang địa : hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói" ( Ga 1,20-25).
+ Ông là ai ? : Phái đoàn không hỏi trực tiếp : "Ông có phải là Đức Kitô không ?". Nhưng Gioan hiểu ý của họ nên trả lời cho họ biết ông không phải là Đức Kitô Cứu Thế mà họ đang mong chờ.
+ Ông có phải là ông Elia không ? :Theo sách Malakia (3,1-2) và Giáo Sĩ (48,10-11) thì Elia sẽ trở lại trước khi Đức Kitô Cứu Thế xuất hiện . Người Do Thái quan niệm chính Elia sẽ trở lại (x. Mc 9,12 ; Mt 17,10). Gioan Tẩy Giả không nhận mình là Elia theo nghĩa đen này. Điều này không trái ngược với lời Chúa Giêsu nhận "Gioan chính là Elia, đấng phải đến trước" (x.Mt 11,14). Ở đây Chúa muốn nói rằng : Gioan xuất hiện trong tinh thần của Elia, chứ không phải là chính con người Elia.
+ Ông có phài là vị ngôn sứ chăng ? : Trong sách Đệ Nhị Luật Đức Chúa đã phán với Môi-sê rằng : Sẽ có một vị ngôn sứ giống như ngươi xuất hiện để giúp dân (x. Đnl 18,15). Thực ra, Gioan cũng là một ngôn sứ của Thiên Chúa, nhưng ông không phải là ngôn sứ giống như Môi-sê được nhắc đến trong Đệ Nhị Luật.
+ Thế ông là ai? : Gioan Tẩy Giả đã gián tiếp trả lời cho biết sứ mệnh của ông là tiền hô, đi trước dọn đường cho Đức Kitô Cứu Thế khi ông trả lời họ : "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa : Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi".
* Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. Họ hỏi ông : "Vậy tại sao ông làm phép Rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là Elia hay vị ngôn sứ ?" Ông Gioan trả lời : "Tôi đây làm phép Rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi, và tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Người." (Ga 1,24-27) :
+ Vậy tại sao ông làm phép Rửa...? : Để trả lời cho nhóm biệt phái về phép Rửa đang làm, Gioan đã cho họ biết : Ông chỉ làm phép Rửa để thanh tẩy bằng nước, chuẩn bị cho Đấng Kitô sắp đến . Ngài sẽ làm phép Rửa thanh tẩy trong Thánh Thần. Ngài đầy quyền năng và Gioan không đáng làm nô lệ hầu hạ Ngài .
+ Gioan cũng cho biết : Đấng Kitô đã đến rồi và Ngài đang ở giữa họ nhưng họ không nhận ra Ngài. Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gioan làm phép Rửa (Ga 1,28) :
+ Bêtania bên kia sông Gio-đan : Một địa danh nằm ở tả ngạn của sông Gio-đan, nơi Gioan Tẩy Giả rao giảng kêu gọi dân chúng sám hối và chịu phép Rửa để được ơn cứu độ.
+ Ngoài ra, Bêtania cũng là một làng nhỏ nằm trên sườn núi Ô-liu phía đông, cách Giêrusalem 5 cây số. Nơi đây Chúa Giêsu đã cho bạn thân Ngài là La-gia-rô chết 4 ngày được sống lại (x. Ga 11,43). Cũng tại đây, Chúa Giêsu thường ở trọ mỗi lần đi hành hương lên Giêrusalem vào các ngày Đại lễ của đạo Do- thái.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) NOI GƯƠNG TRUNG THỰC CỦA GIOAN TẨY GIẢ :
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Gioan đã tỏ ra trung thực khi thẳng thắn xác nhận mình không phải là Đấng Kitô, Ngày nay, trong một thế giới đầy sự dối trá lừa đảo, mỗi người chúng ta phải có thái độ thế nào để noi gương trung thực của Gioan trong các quan hệ giao dịch buôn bán, sản xuất và các loại dịch vụ khác...?
Nhân dịp chuẩn bị đại Năm Thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi mọi thành phần trong Giáo Hội thành tâm sám hối. Vào tháng 5 năm 1995, tại nước Cộng Hoà Tchèque, Ngài đã nêu gương trung thực bằng việc khiêm nhường nhận lỗi và can đảm ngỏ lời xin lỗi như sau : "Hôm nay tôi, Giáo Hoàng của Giáo Hội Rôma, nhân danh tất cả những người Công giáo, tôi xin lỗi về những lầm lỗi đã gây ra cho người không Công giáo trong lịch sử sóng gió của các dân tộc ấy". Thực vậy, trong lịch sử gần 2000 năm, qua các con cái của mình, Giáo Hội đã từng mắc phải một số lỗi lầm nghiêm trọng cần phải sám hối. Chẳng hạn : Giáo Hội cũng có phần trách nhiệm trong sự chia rẽ giữa Công Giáo với Chính Thống, Tin Lành, Anh Giáo ; Vào thời trung cổ, phát động các cuộc thánh chiến nhằm dành lại Đất Thánh từ tay người Hồi Giáo; Mở tòa án Qui Tà để xét xử và ra những bản án nhiều khi bất công dành cho các người phù thủy và dị giáo. Có những lần kết án sai lầm như trong vụ án xét xử Galilêô...
Đã bước sang thiên niên kỷ thứ ba, chúng ta phải làm gì để noi gương trung thực khiêm tốn và can đảm của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trước những lỗi lầm khuyết điểm mà chúng ta đã phạm đối với Thiên Chúa và tha nhân ?
2) TIỀN HÔ LÀ SỨ MỆNH LÀM CHỨNG CHO ÁNH SÁNG :
Gioan đã thi hành sứ mệnh Tiền Hô cho Đức Kitô như sau :
+ Gây thiện cảm : Bằng một lối sống đạo đức khổ hạnh, ông đã gây được thiện cảm của dân chúng và họ đã đến với ông rất đông.
+ Rao giảng : Ông giúp họ chuẩn bị tâm hồn đón Đức Kitô bằng việc khiêm nhường thú nhận tôi lỗi của mình và chịu phép Rửa sám hối.
+ Chỉ cho người ta biết và đi theo Chúa Giêsu : Từ đây, vai trò tiền hô của ông đã kết thúc để nhường chỗ cho Chúa Giêsu xuất hiện như ông đã nói với các môn đệ rằng : "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3,30).
Trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta phải làm gì để giúp người ta nhận biết Chúa Giêsu là Đức Kitô Cứu Thế và đi theo làm môn đệ Ngài. Ta sẽ làm gì để noi gương khiêm nhường và trung thực của Gioan Tẩy Giả khi ông nói về Chúa Giêsu như sau : "Ngài phải được nổi bật lên , còn tôi cần phải lu mờ đi ? '.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống trong những ngày Mùa Vọng, là thời gian mong chờ Chúa tái lâm để kiến tạo một "Trời Mới Đất Mới". Trong những ngày này, xin cho chúng con biết noi gương thánh Gioan để chuẩn bị đón rước Chúa bằng một đời sống hãm mình khắc khổ, biểu lộ tâm tình sám hối của chúng con, bằng những lời chia sẻ giúp đỡ những người thân của chúng con như con cái, bạn bè...ngày một
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. / Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
2) Lạy Thánh Mẫu Maria, xưa Mẹ đã từng sống một cuộc đời bác ái, xin vâng và phục vụ. Mẹ đã mở lòng đón nhận Ngôi Lời Nhập Thể bằng hai tiếng "Xin Vâng" khi sứ thần đến truyền tin và sau đó Mẹ đã đem Chúa đến thăm và ban niềm vui cứu độ cho gia đình Giacaria là đại diện của nhân loại chúng con. Vậy trong những ngày Mùa Vọng này, xin Mẹ thương giúp chúng con biết chuẩn bị tâm hồn để xứng đáng đón rước Chúa Hài Đồng ngự trong lòng chúng con. Xin Mẹ cũng giúp chúng con biết luôn chu toàn sứ mệnh làm chứng nhân của Chúa Giêsu, bằng đời sống tốt lành đạo đức, luôn vị tha bác ái và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhờ đó, người đời sẽ nhận biết Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế và đi theo Ngài để được cứu độ. Amen.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. / Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Lm Đan Vinh
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng-B 4th Sunday of Advent
Lời Chúa cho hôm nay: SỰ BẰNG LÒNG CỦA ĐỨC MARIA * Mary's Consent *
Bài đọc 1: 2 Sm. 7,1- 5; 8- 11; 16= Lập Giao ước với David. Có một giao ước với Noah, với Abraham, vói Mosê và một với Joshua. Covenant made with David .There is one with Noak, with Abraham, with Moses and one with Josuah.
Bài đọc 2: Rom. 16, 25- 27= Đức Tin và Vâng Lời. Sự mầu nhiệm đã dấu ẩn trong nhiều thế hệ, bây giờ đã được mạc khải cho dân ngoại biết. Faith and Obedience. The mystery hidden for many ages, is now revealed to all the Gentiles.
Tin Mừng (Gospel): Lc. 1, 26- 38= Đức Giesu đã nhập thể trong thể giới chúng tôi. Đó là điều Luca đã muốn nói với chúng tôi, về con trẻ này sắp được sinh ra, được gọi là Giêsu Jesus became incarnate in our world. That is Luke wants said to us about this child about to be born, to be called Jesus.
A - Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflection, live out and share )
Tin mừng hôm nay nói ca ngợi Đức Maria như sau: Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: Vui mừng: MV3-B23
1/ Tin mừng hôm nay nói ca ngợi Đức Maria như sau: Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: Vui mừng lên, hỡi Đấng đầy Ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.
Mỗi ngày tôi thường đọc câu này trên môi miệng, ca hát ngợi khen, làm việc sùng kính Mẹ... Tôi đã sống thế nào để đem niềm vui đến cho vợ, chồng con và cha mẹ ?
Upon arriving, the Angel said to her: Rejoice, O highly favored daughter! The Lord is with you. ( Lc. 1, 28 )
2/ Sau khi nghe Sứ Thần nói về quyền năng của Chúa Thánh Thần sẽ tràn ngập trên bà. Bấy giờ Đức Maria nói: " Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói."
Thần Khí Chúa vẫn hoạt động trong mọi tín hữu dưới nhiều đặc sủng khác nhau. Khi có ơn Chúa bạn sẽ mạnh mẽ can đảm làm những việc đẹp lòng Ngài, không sợ sệt nữa. Bạn có hành động nào khi nhận được ơn Thánh Thần?
Mary said: I am the maidservant of the Lord. Let it be done to me as you say. ( Lc.1. 38 )
3/ Trong bài Vinh tụng ca, phần đúc ket thư gởi tín hữu Roma, thánh Phaolô viết: "Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh, theo Tin Mừng tôi loan báo...."
Phúc âm của Chúa đang công bố khắp nơi trên thế giới qua nhiều hình thức khác nhau. Đứng trước những chiến tranh, khủng bố, lụt lội, đói khát đang xảy ra hiện nay làm nhiều người lo lắng. Tại sao tôi lại có tâm hồn bình an?
To Him who is able to strengthen you in the Gospel which I proclaim when I preach Jesus Christ. ( Rom. 16, 25 )
4/ Sách Tiên tri Samuel, lời sấm của ông Na-than,Chúa nói với Davit như sau: " Chính ta đã cất nhắc ngươi , từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân ta là Ít-ra-el. "
Thiên Chúa đã thực sự nhắc bạn lên khi bạn còn là người dưng nước lã. Hôm nay với chức vụ, bạn đang quyết định làm gì ?
I who took you from the pasture from the care of the flock to be commander of my poeple of Israel. ( 2 Sam. 7, 8 )
B - Câu Kinh Thánh Chúa Thánh Thần thúc đẩy tôi Sống tuần này: ( The Best God' Word )
"VÂNG, TÔI ĐÂY LÀ NỮ TỲ CỦA CHÚA, XIN CỨ LÀM CHO TÔI NHƯ LỜI SỨ THẦN NÓI"
"I am the maideservant of the Lord, let it be done to me as you say." (Lc. 1, 38)
C - Ngay bây giờ tôi phải làm gì để xứng đáng ơn Chúa ban: ( So What am I doing / For Action )
a/ Tôi noi gương tin tưởng vào Lời Chúa và đức khiêm tốn của Mẹ Maria trong mọi thử thách hàng ngày.
b/ Bạn có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
D-Tôi cầu nguyện và Sống thực hành lời tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action )
1/ Lạy Cha, Mẹ Maria người Tin hữu đầu tiên đã cảm nhận được tình yêu của Cha với nhân loại, tỏ lòng ưng thuận để Chúa Con xuống thế làm người. Xin Mẹ giúp con luôn lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
2/ Thánh Phaolô đã nhắc nhở con hãy trông cậy vào quyền năng của Chúa Thánh Thần trong mọi công việc hàng ngày. Xin dạy con luôn tin tưởng vào sức mạnh của Chúa để được sống bình an và hy vọng.
Hoa thơm cỏ lạ : LỜI DỊU DÀNG RƠI NHẸ NHƯNG CHỨA ĐỰNG SỨC NẶNG LỚN LAO Gentle words fall lightly but carry great weight
Huyền Đồng
Thuở nước Mỹ chưa có bưu điện và những phương tiện liên lạc tối tân, người ta tổ chức thành: MV3-B24
Thuở nước Mỹ chưa có bưu điện và những phương tiện liên lạc tối tân, người ta tổ chức thành những trạm. Mỗi trạm cách nhau chừng 25 Km. Tại mỗi trạm lúc nào cũng có sẵn những con ngựa khỏe.
Những kỵ sĩ sẽ chở thư từ trên lưng ngựa. Họ phóng nước đại, chạy hết tốc lực từ trạm này tới trạm kia và ở đó họ sẽ thay ngựa, rồi lại tiếp tục lên đường. Mỗi ngày một người phải chạy chừng 100 cây số.
Bình thường họ phải đem theo hai cây súng để đề phòng mọi da đỏ. Họ chạy ngày và đêm, bất kể mọi thời tiết, để hoàn thành cuộc hành trình dài tới ba ngàn cây số trong vòng một tuần lễ hay mười ngày là cùng.
Việc hoàn thành mạng lưới điện thoại nối liền hai bờ biển đông và tây đã chấm dứt vai trò của những con ngựa tốc hành. Tuy nhiên, câu chuyện về những chàng kỵ sĩ gan dạ này vẫn còn làm cho chúng ta khâm phục.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Thiên Chúa cũng đã sai phái vị sứ giả của Ngài đến với chúng ta và chuyển giao cho chúng ta một sứ điệp quan trọng, đó là hãy dọn đường Chúa đến.
Vị sứ giả đưa tin nàychính là Gioan Tiền hô. Ông đến để đem lại cho chúng ta tin vui về Đấng Cứu thế. Kể từ đó, hàng triệu người không phân biệt màu da và tiếng nói, thuộc đủ mọi dân tộc đã đi theo dấu chân của ông và đã trở nên những người đem tin mùng của Chúa. Họ loan báo và dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn mọi người.
Và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là có những nhà truyền giáo đã đem chân lý của Chúa xuyên qua các núi đồi, các ghềnh thác, đến với những bộ lạc, những sắc dân còn man di mọi rợ.
Kể từ các tông đồ, biết bao nhiêu người đã rảo bước trên khắp mọi nẻo đường và đã có mặt khắp mọi nơi, từ thành thị đến những hang cùng ngõ hẻm. Và hơn thế nữa, còn dám hy sinh cả mạng sống để loan truyền cái tin quan trọng, đó là
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng ta.
Tin mừng sự sống này cần phải được loan báo, cần phải được đem đến cho từng người sống trên mặt đất.
Các nhà truyền giáo không thể hành động đơn độc. Trái lại, chúng ta phải cộng tác với họ trong khả năng và phạm vi của mình.
Có nhiều cách để thi hành điều đó. Chúng ta cộng tác bằng lời cầu nguyện, xin Chúa luôn nâng đỡ để công cuộc rao giảng Tin mừng của những nhà truyền giáo gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Chúng ta cộng tác bằng cách giúp tiền bạc vật chất để tài trợ, nhờ đó những nhà truyền giáo sẽ có được những phương tiện để họat động.
Chúng ta cộng tác bằng chính cuộc sống thường ngày của chúng ta. Thực vậy, cuộc sống thường ngày của chúng ta phải là một tin mừng. Mỗi lời nói, mỗi việc làm của bản thân, của gia đình, của giáo xứ chúng ta cũng phải là một tin mừng, bởi vì qua đó chúng ta nói cho mọi người biết được rằng :
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng ta.
Hãy sống thế nào để mỗi người chúng ta cũng trở nên một Gioan Tiền hô, một tông đồ nhiệt thành, đem Chúa đến cho những người chung quanh.
Gioan Tẩy giả là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị: MV3-B25
Gioan Tẩy giả là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta tấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là làm chứng cho Chúa Kitô, Ngài đã sống và chết cho vai trò chứng nhân của mình. Ngay những trang đầu tiên sách Tin Mừng của thánh Gioan Tông đồ đã cho chúng ta biết mục đích cuộc đời trần thế của Gioan Tẩy giả là làm chứng cho Đấng Cứu Thế : “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng”. Sự sáng đây là Đấng Cứu Thế và Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất, bất vụ lợi nhất, kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng máu.
Gioan Tiền Hô đã làm chứng bằng lời nói : chúng ta biết vai trò hay sứ mạng của một ngôn sứ là phát loa, là thuyết giảng, là loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan Tiền Hô đã đóng vai trò đó, ngài đã nói những gì ? Ngài bảo cho mọi người biết : “Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đã có trước tôi, cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài”. Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng : “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian”, nghĩa là đây là Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ là nạn nhân hiến tế để cứu chuộc mọi người.
Bài Tin Mừng Gioan còn cho mọi người biết Chúa Giêsu là Đấng thánh hóa các linh hồn, Ngài sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa, đồng thời cũng là Đấng xét xử mọi người : thưởng phạt mỗi người tùy theo công nghiệp của họ. Tóm lại, như một người phát ngôn trung thành, Gioan loan báo cho mọi người biết : Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan còn làm chứng bằng hành động và gương sáng. Chúng ta biết Gioan là một người rao giảng đầy uy quyền, kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Lời giảng của ngài được mọi người đương thời chú ý, tại sao vậy ? Bởi vì ngài chỉ nói sau khi đã làm hay đã sống, đã kinh nghiệm rồi mới nói, bí quyết thành công của ngài là làm rồi mới nói, hoặc nói và làm đi đôi với nhau. Thực vậy, ngài đã lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê, ngài đã sống khó nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Thi hành chức vụ tiền hô ngài cũng có một số môn đệ, nhưng ngài rất vui mừng nhường số môn đệ ấy cho Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút luyến tiếc, bởi vì ngài biết Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới mà thôi. Nói rõ hơn, Gioan không thể kêu gọi người ta sám hối nếu ngài không sám hối trước, Gioan không thể kêu gọi người ta khiêm nhường nếu ngài không quên cái tôi của mình, Gioan không thể kêu gọi người ta thực hành bác ái nếu ngài không thực sự mến Chúa yêu người, Gioan không thể kêu gọi người ta hy sinh nếu ngài chưa sống khắc khổ và hy sinh vì người khác. Tóm lại, ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là vì ngài chỉ nói những gì ngài đã sống, đã làm, đã kinh nghiệm : “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, lời nói của Gioan đã làm chuyển biến lòng người, nhưng đời sống và gương sáng của ngài đã thuyết phục được mọi người.
Sau hết, bởi vì Gioan luôn sống với tư cách là chứng nhân của Đấng Cứu Thế, nên sau khi đã làm chứng cho Chúa bằng lời nói và hành động, ngài còn muốn làm chứng bằng chính máu của mình nữa. Ngài tố cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua, nên ngài đã bị tống giam vào ngục. Bà Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà, bà tìm cách giết cho được Gioan, chính vì thế mà trong bữa tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê, lợi dụng lúc ông đã ngà ngà say, bà xúi con gái là Salômê xin chiếc đầu của Gioan, vì Hêrôđê vui thú trước những điệu múa của Salômê và hứa cho cô bé bất cứ thứ gì dù là nửa nước. Thế là Gioan đã phải chết, ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lý bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của ngài.
Cuộc đời chứng nhân của Gioan Tiền Hô là một bài học sáng giá cho chúng ta. Đời sống của một Kitô hữu phải bắt chước đời sống của ngài, là làm chứng nhân cho Chúa trong mọi hoàn cảnh : thuận cảnh cũng như nghịch cảnh. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân, sống như Gioan trong đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy, như bông huệ giữa bụi gai, đặc biệt là sống anh hùng như ngài, ngài là một anh hùng của sự thật : suốt đời ngài chỉ sống theo sự thật và nói sự thật, điều gì có ngài chân nhận, điều gì không có ngài nói không. Chúng ta hãy kiểm điểm và suy nghĩ : chúng ta có bao giờ nói dối không ? Chúng ta phải nhìn nhận rằng không những chúng ta có nói dối mà còn nói dối nhiều hơn nữa, rồi nhiều khi chúng ta còn ém nhẹm, giấu diếm, chua ngoa, thề thốt, phân bua cho là mình thật thà, thẳng thắn, vô vị lợi… để lấp đầy đi cái thiếu thành thật của mình. Nếu chúng ta đã sống như thế, chúng ta phải sửa lại, phải sống thành thật, có nói có, không nói không, đừng thêm thắt, bịa đặt. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận, vì sự thật dễ mất lòng. Chúng ta phải sống thành thật, đó là điều tất nhiên, nhưng sống thật thà không có nghĩa là buộc chúng ta phải nói tất cả những gì mình nghĩ, mình biết, đức tính này buộc chúng ta suy nghĩ cẩn thận, chín chắn rồi hãy nói, mà đã nói thì không bao giờ nói sai, nói thừa nói thiếu, nói dối để khỏi gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin Chúa cho chúng ta quyết tâm sống được như thế luôn mãi.
Chuyện kể về một ông vua đang băn khoăn bằng cách nào để có hạnh phúc. Nhà vua bèn mời: MV3-B26
Chuyện kể về một ông vua đang băn khoăn bằng cách nào để có hạnh phúc. Nhà vua bèn mời một nhà khôn ngoan lại để bàn hỏi xem làm thế nào vứt bỏ được những lo âu buồn rầu đang đè nặng tâm trí ông đến nỗi phát bệnh. Làm thế nào để có hạnh phúc thực sự ? Nhà thông thái trả lời : “Chỉ có một cách duy nhất để chữa nhà vua. Đó là nhà vua phải nằm ngủ một đêm trong cái áo của một người có hạnh phúc thực sự”.
Các sứ giả được sai đi khắp quốc gia để tìm kiếm một người thực sự đang hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào khi hỏi đến cũng có lý do để đau khổ buồn rầu. Một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng họ tìm thấy một người, đúng hơn là một gã ăn xin. Hắn ngồi mỉm cười ở giữa chợ đời. Hắn tự xưng là người hạnh phúc thực sự, không có một mảy may gì buồn rầu lo âu. Người ta nói với hắn về điều nhà vua đang tìm kiếm. Nhà vua cần phải ngủ một đêm trong cái áo của người có hạnh phúc thực sự, và cho anh ta một số tiền rất lớn đền bù vào chiếc áo hạnh phúc đó.
Bạn nghĩ sao ? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo của anh đang mặc cho nhà vua không ? Các bạn có biết phản ứng của hắn ra sao không ? Không nín được cười ! Gã ăn xin bật cười lên hô hố mà rằng : “Thật đáng tiếc ! Tôi không thể nào làm hài lòng nhà vua được. Tôi chẳng có chiếc áo nào cả !” Người hạnh phúc nhất trên đời không có ngay cả một chiếc áo !
Trước Công Đồng Vaticanô II, Chúa nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay được gọi là “Gaudete Sundae”. “Gaudete” tiếng La tinh có nghĩa là “vui mừng”. Trong nhà thờ, đốt lên cây nến hồng ở Vòng Lá Mùa Vọng – Advent Wreath. Mầu hồng biểu tượng cho sự vui tươi, yêu đời và hy vọng, vì Thiên Chúa đã gần đến rồi !
Quả vậy, con người đã được Thiên Chúa tạo dựng nên là để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đời đời với Người. Vì thế, Pascal đã nói rằng : “Tất cả mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc hết, ngay cả những người treo cổ tự tử”. Niềm vui và hạnh phúc là mục đích của con người sống trên trần đời. Nó cần thiết cho chúng ta như dưỡng khí cần cho tim phổi, lương thực cần cho thân xác. Tuy nhiên, càng tìm kiếm nó, nó lại càng vuột khỏi tay ta, như nước trôi qua các kẽ ngón tay. Ta nghĩ về hạnh phúc theo quan niệm của ta. Ta long đong vất vả đi tìm nó ở nơi ta muốn tìm, ở nơi nó không có.
Đi tìm hạnh phúc không đúng chỗ :
Trong “Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello có truyện “Tìm Sai Chỗ” được kể như sau. Một người thấy ông bạn láng giềng cứ lom khom cúi tìm mãi một cái gì dưới ánh đèn đường nên hỏi : “Ông bạn đang tìm gì vậy ?” Người láng giềng trả lời : “Tôi tìm chìa khoá đánh rơi”. Thế rồi cả hai cùng chăm chú, lom khom tìm mãi. Một hồi lâu người này chợt nhận ra một điều gì nên hỏi người láng giềng : “Mà ông bạn đánh rơi nó ở đâu vậy ?” “Ở trong nhà thì phải !” người láng giềng trả lời. “Nhưng tại sao ông bạn lại tìm ở đây ?” “Vì ở đây có đèn đường sáng hơn !!!”
Chỗ ngã ba đèn đường chiếu sáng nhất mà người đời vẫn thường đến tìm kiếm hạnh phúc là “ngã ba chữ T” : tình, tiền, tài.
Có những bạn trẻ bước vào đời với lăng kính màu hồng, hăm hở tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng của tình dục mà họ nghĩ là tình yêu, họ đồng ý với Xuân Diệu rằng : “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt. Còn hơn le lói suốt trăm năm”.
Có người lao mình vào việc tìm kiếm tiền bạc bằng mọi cách. Họ bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh giành với người, để rồi cuối cùng như nhà thơ Quốc Nghệ đã diễn tả sự thật chua cay bằng những lời thơ châm biếm :
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền,
Mi làm nhân loại hoá ra điên.
Mi tô mặt nạ đen ra trắng,
Mi xé ân tình thẳng hoá xiên.
Mi gác luân thường vào một xó,
Mi đưa nhân nghĩa xếp hai bên.
Mi làm nhân loại đua tranh mãi,
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền ?
Có người dùng tài ba để tìm kiếm công danh sự nghiệp hầu mang lại hạnh phúc. Thế nhưng danh vọng cũng kèm theo cuồng phong bão tố, nước mắt và đoạ đày, như Nguyễn Công Trứ đã cảm nghiệm : “Ra trường danh lợi vinh tiền nhục, vào cuộc trần ai khóc lẫn cười”.
Điều lầm lẫn lớn nhất của chúng ta là đã đồng hóa niềm vui hạnh phúc với khoái lạc thế trần, rồi đi tìm thỏa mãn nơi thể xác, vật chất và cuộc sống ở bên ngoài. Chúng ta có thể đạt được khoái lạc bằng dục vọng, danh tiếng và tiền bạc, nhưng tất cả những thứ này không thể nào mang lại cho con người niềm vui và hạnh phúc thật sự.
Hạnh phúc ở đâu ? Bài Phúc âm hôm nay, nói đến một nhân vật rất quan trọng nhưng khiêm: MV3-B27
Hạnh phúc ở đâu ? Bài Phúc âm hôm nay, nói đến một nhân vật rất quan trọng nhưng khiêm tốn, dạy chúng ta cách đi tìm hạnh phúc đích thật. Đó là Gioan tẩy Giả : “Ông đến để làm chứng”, “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa : Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Gioan chối từ tất cả những tước hiệu được dân chúng gán cho mình. Đối với Gioan tẩy giả, hạnh phúc của ông là trở nên đầy tớ của Thiên Chúa, là con người giúp cho mọi người quy hướng về Thiên Chúa.
Trong bài đáp ca, Đức Maria cũng đóng vai trò này : “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa… vì Chúa đã đoái nhìn phận hèn tớ nữ của Chúa”. Hạnh phúc của Đức Maria là được làm nữ tì của Thiên Chúa.
Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng : “Sự ao ước Thiên Chúa đã được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con người đã được sáng tạo bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người lại với Ngài, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm thấy chân lý và hạnh phúc mà con người không ngừng tìm kiếm”.
Công Đồng Vatican II cũng dạy : “Khía cạnh cao siêu nhất của phẩm chức con người là ở chỗ con người được ơn gọi hãy hiệp thông với Thiên Chúa. Lời mời gọi con người đối thoại đã được Thiên Chúa gửi tới con người từ khi có loài người. Bởi vì nếu có con người, thì cũng tại Thiên Chúa đã tác tạo nên con người vì tình yêu, và vì tình yêu, Ngài không ngừng ban cho con người hiện hữu. Và con người chỉ sống đầy đủ theo chân lý nếu con người tự do công nhận tình yêu này và phú mình cho Đấng tác tạo nên mình.
Linh mục Dominicô Đỗ Minh Trí trong cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi”, trang 41-44 đã kể câu chuyện “Con Mèo Già và Con Mèo Trẻ” với hai đề nghị về hạnh phúc như sau :
Một con mèo già, đầy kinh nghiệm và khôn ngoan thấy một con mèo trẻ, đang đuổi theo cái đuôi của chính nó. Tò mò, nó hỏi con mèo trẻ : “Này con, con làm gì vậy ? Tại sao con lại đuổi theo cái đuôi của con như vậy ?”Mèo trẻ trả lời : “Con nghe nói rằng cái tốt nhất đối với một con mèo là hạnh phúc và hạnh phúc của con mèo ở trong cái đuôi của nó. Vì vậy mà con đuổi theo cái đuôi của con. Khi nào con bắt được, con sẽ có hạnh phúc !”
Mèo già trả lời : “Này con, ta đã suy gẫm rất nhiều về vấn đề hạnh phúc. Và ta cũng đã đi đến kết luận rằng hạnh phúc của ta là ở trong cái đuôi của ta. Nhưng ta cũng nhận rằng mỗi khi ta đuổi theo cái đuôi, thì không thể nào ta bắt được. Trong khi đó, nếu ta làm một việc khác nhất là khi ta lo lắng cho con mèo khác, thì cái đuôi của ta đi theo ta bất cứ nơi đâu !”
1. “Hạnh phúc ở trong cái đuôi của ta”, con mèo già nói : Cái đuôi ở đằng sau, con mèo không nhìn thấy được. Điều này diễn tả điều kiện đầu tiên của hạnh phúc : Không bao giờ nắm được. Hạnh phúc không phải là mục đích, mà là một kết quả ! Đó là một thực tại đi theo một thực tại khác. Hạnh phúc là kết quả của tình thương yêu đối với loài người. Cái cần phải nhắm tới là tình thương yêu đối với đồng loại, hạnh phúc sẽ đi theo một cách tất yếu.
2. Người ta tìm thấy hạnh phúc của chính mình khi làm việc vì hạnh phúc của người khác. Bằng cách tranh đấu cho sự an vui của đất nước mình hay giúp đỡ người đồng loại, giải quyết các vấn đề của họ. Lấy tình thương yêu đồng loại, tình thương yêu xã hội làm căn bản của cuộc sống của mình. Đặt cơ sở đời sống của mình trên tình thương yêu để nhìn các thiếu thốn của người khác như các thiếu thốn của chính mình, quyền lợi của người khác như quyền lợi của chính mình. Hãy thoát ra khỏi bản thân mình, thoát ra khỏi sự tìm kiếm hạnh phúc riêng tư của mình để làm việc vì hạnh phúc của người khác.
Hạnh phúc hay nguồn vui Kitô giáo đem lại khác xa với khoái lạc. Nó phong phú và sâu xa hơn cả nụ cười tươi nở trên một khuôn mặt vui vẻ. Nó đến từ bên trong, từ hành động phục vụ tha nhân và ý thức rằng Thiên Chúa hiện diện với chúng ta sẽ làm chúng ta hạnh phúc. Một sự bình an nội tại không có gì có thể lấy mất khỏi chúng ta. Phục vụ Thiên Chúa là cội nguồn của niềm vui Kitô giáo. Đó là tình trạng của ân sủng không vướng mắc tội lỗi. Chúa ở cùng ta, ta sống trong Chúa, như Đức Maria diễn đạt trong kinh Ngợi Khen ở bài đáp ca hôm nay : “Linh hồn tôi nhảy mừng trong Chúa”
“Lúc nào cũng lo tìm hạnh phúc, ta sẽ chẳng bao giờ thấy hạnh phúc.
Hạnh phúc phải được tạo thành thay vì tìm thấy”.
“Hạnh phúc không phải là cái bạn cầm trong tay, nhưng là cái bạn mang trong tim”.
“Muốn được hạnh phúc, đừng cộng thêm của cải, nhưng hãy trừ bớt ham muốn”.
(Định nghĩa Cuộc Đời của Trần văn Điền).
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng: MV3-B28
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta là chứng nhân của Đức Ki-tô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Ki-tô bằng chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Ê-li-a vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một "tiếng kêu trong sa mạc". Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.
Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta chờ đón chính là Đức Giê-su Ki-tô mà ngài loan báo.
Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giê-su Ki-tô.
Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giê-su, nên ngài nói: "Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người" (Ga 1, 27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giê-su. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giê-su, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: "Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3, 30).
Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.
Xin thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.
Trước đây ít năm, tại Dallas, Texas có một nhân viên trong công ty đổ rác thành phố, được: MV3-B29
Trước đây ít năm, tại Dallas, Texas có một nhân viên trong công ty đổ rác thành phố, được dân chúng ca tụng khắp các nẻo đường ông đi. Mười bảy người viết thư cho ông Giám Đốc vệ sinh công cộng Jach Davis, để ca ngợi người phu đổ rác George Cummings là một người hiền lành, niềm nở và lịch thiệp với hết mọi người. Họ còn viết quả quyết rằng: "Chúng tôi đều biết ông ta là một người Công Giáo đơn thành, một công dân ái quốc và là một người bạn thân tình". Họ cũng nhắc lại việc Cummings đã giúp họ mua hoa khi có người hàng xóm qua đời, việc ông nhặt được một chiếc đồng hồ, rồi cố tìm ra chủ nhân để trao trả lại, hoặc một món đồ mà ông cho là chủ của nó vì lầm mà vứt đi, ông cũng tìm hết cách để hoàn lại.
Ông Giám Đốc Davis đã gởi cho Cummings bức thư với những hàng chữ này: "Mọi người đều mến chuộng ông, vì cách làm việc của ông thật đặc biệt".
I. GIOAN LÀM CHỨNG CHO CHÚA
Bài Tin Mừng hôm nay, cũng thuật truyện một người thật mộc mạc, chất phác quê mùa nghèo nàn, chay tịnh khổ hạnh như một ẩn sĩ từ rừng thẳm đi ra, nhưng lại được nhiều người mến chuộng đến nỗi, từng đoàn lũ đông đảo, gồm đủ mọi thành phần xã hội, từ khắp nơi tuôn đến, say mê nghe lời ông giảng, đấm ngực sám hối cải thiện và cúi đầu chịu Phép Rửa Sám Hối do tay ông tại sông Jordan.
Danh tiếng ông đồn thổi đến tai những vị vọng trong dân; do đó, các ngài đã sai các vị Tư Tế và các thầy Levi đến hỏi xem ông có phải là Đấng Kitô, Thiên Chúa sai đến, Đấng mà muôn dân đang mong đợi không?
Khi họ hỏi: "Ông là ai?" Ông đã thẳng thắn tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". Họ lại nghi ông là đại tiên tri Elia, cũng được ông quả quyết: "Tôi không phải là Elia". Sau cùng, họ lại nghĩ ông là một vị tiên tri Thiên Chúa sai đến, cũng được ông dứt khoát trả lời: "Tôi đâu có đáng là một tiên tri".
Thế rồi họ năn nỉ ông: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời lại cho những người đã sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?"
Gioan khiêm tốn đáp lại: "Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay thẳng đường Chúa đi". Câu trả lời khiêm tốn này, tuy vắn tắt nhưng đã nói lên tất cả sứ mạng của Gioan, là làm chứng nhân cho Chúa Kitô.
II. LÀM CHỨNG CHO CHÚA CÁCH NÀO
Gioan là một vị tiên tri cao trọng và diễm phúc nhất trong các tiên tri từ trước đến nay, đã được Chúa tuyển chọn đặc biệt, được vui sướng nhảy mừng khi Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm, được thánh hóa ngay từ khi còn trong thai mẫu, để xứng đáng là vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Ngài được Thiên Chúa sai đến chuẩn bị cho Chúa Cứu Thế một dân tộc thánh thiện, bằng việc rao giảng Phép Rửa Sám Hối, kêu gọi mọi người cải thiện đời sống, để được xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế và Ơn Cứu Độ của Người.
Sứ mạng và địa vị của Gioan cao trọng đến nỗi, chính Chúa Kitô đã phải khen thưởng trước mặt mọi người: "Trong các nam nhân do phụ nữ sinh ra không một ai cao trọng hơn Gioan Tiền Hô" (Lc 7:28). Mặc dầu được vinh dự trước mọi người, được muôn người ngưỡng mộ, ngài không hề tự đắc kiêu căng; trái lại, ngài càng hạ mình xuống thẳm sâu trước nhan Thiên Chúa và trước mặt mọi người. Ngài đã công khai thú nhận địa vị thấp hèn của mình, khi đáp lại nhóm biệt phái được sai đến hỏi ngài: "Tôi đến làm Phép Rửa trong nước; nhưng ở giữa các ông có Đấng mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi, nhưng Ngài có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài".
Lời rao giảng chân thành, đi đôi với cuộc sống khổ hạnh và khiêm nhu, đã đáng cho mọi người khâm phục và tin theo; bởi lẽ ngài luôn tôn cao Đấng ngài rao giảng, còn riêng bản thân ngài, ngài chỉ tự nhận thân phận tôi tá của Chúa, chỉ là người được sai đến để dọn đường cho Chúa.
Đời sống khiêm nhu thánh thiện đó, được chứa đựng tất cả ý nghĩa trong lời châm ngôn, chính Thánh Nhân đã tuyên bố trước mặt mọi người về Chúa Cứu Thế: "Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ thấp xuống" (Ga 3:30).
III. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA LÀ GÌ
Cũng như Gioan, mỗi người chúng ta đều đã được Chúa tuyển chọn và ủy thác sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, ngày chúng ta được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Cũng ngày đó, chúng ta được Thánh Thần Chúa xức dầu hoan lạc, ban cho chúng ta được diễm phúc trở nên con cái Chúa, phong chúng ta làm tiên tri và sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó, an ủi những tâm hồn đau thương buồn tủi, thăm viếng những tù nhân trong ngục thất, giúp đỡ chia sẻ với những người cùng khổ, những người mang số phận hẩm hiu bị đời quên lãng.
Mỗi người trong chúng ta tùy theo địa vị, chức phận mình trong xã hội, đều phải làm chứng nhân cho Chúa, rao giảng Chúa Kitô bằng chính đời sống thánh thiện gương mẫu của mình.
Để chu toàn sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa, chúng ta cũng không thể dùng phương thế nào khác, ngoài phương thế Thánh Gioan Tiền Hô đã dùng, là luôn đề cao Đấng mình rao giảng: "Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ xuống". Chúng ta cần phải đi ngược lại tâm tính tự nhiên của con người là kiêu căng, luôn thích đưa mình lên trên mọi người, đã bị lưu truyền do nguyên tội, vì: "Chúa thường chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho kẻ khiêm hạ" (Giacobe 4:6), như chính lời Chúa Kitô đã dạy: "Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên" (Lc 14:11).
Lêlin, ông tổ đảng cộng sản quốc tế, chủ trương chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, với tham vọng sẽ bá chủ hoàn cần, tiêu diệt mọi thứ tôn giáo mà ông cho là "Một thứ á phiện nguy hiểm" do bọn tư bản tạo ra. Mộng ước ngông cuồng của ông đã chẳng bao giờ thực hiện được. Lòng kiêu căng phạm thượng của ông thấu đến trời cao, đã bị uy quyền Thiên Chúa hủy diệt. Ông đã chết trong cơn hấp hối kinh hoàng, đau đớn dằm vặt đến tột độ, như chính lời Trosky, một người bạn thân tín của ông đã chứng kiến cảnh hấp hối hãi hùng đó đã quả quyết: "Nếu bọn ác quỉ có thể chết, thì tôi thiết tưởng: Chúng cũng chỉ chết cách ghê sợ đến thế là cùng!"
Kết Luận
Để dọn lòng xứng đáng đón mừng ngày kỷ niệm Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy thực thi sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, bằng lời rao giảng sống động qua chính đời sống khiêm nhu thánh thiện của chúng ta, như Thánh Gioan Tiền Hô đã làm gương: "Chúa cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải được hạ xuống" (Ga 3:30).
Hoặc như người phu đổ rác George Cummings Dalas luôn làm vừa lòng mọi người, để mọi người phải thán phục quả quyết về ông: "Chúng tôi biết ông ta là một người Công Giáo đơn sơ, một công dân ái quốc, và là một người bạn thân tình". Lại được ông Giám Đốc công ty vệ sinh công cộng để lời khen tặng: "Mọi người đều mến chuộng ông vì cách làm việc của ông thật đặc biệt".
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong thời gian Giáo hội Việt Nam chuẩn bị đón mừng Đức Hồng Y Crescenzio Sepe, Bộ: MV3-B30
Trong thời gian Giáo hội Việt Nam chuẩn bị đón mừng Đức Hồng Y Crescenzio Sepe, Bộ Trưởng Bộ Phúc Âm hóa các dân tộc hay Truyền Giáo của Tòa Thánh Vatican đến thăm mục vụ Giáo hội Việt Nam, nhiều người - công giáo và không công giáo - muốn biết về nhân vật quan trọng này.
Từ sự kiện đó suy ra: nếu các bài Sách Thánh (Isaia, Gioan, Phaolô) của Chúa nhật III Mùa Vọng này cung cấp cho chúng ta một số thông tin về Vị Sứ Giả của Thiên Chúa và cũng là chính Thiên Chúa mà chúng ta đang dọn đường đón rước, thì chúng ta có thể làm gì hơn là đón nhận các thông tin quý báu ấy một cách vui vẻ, trân trọng và biết ơn, để rồi đón rước Người vào tâm hồn và cuộc sống của chúng ta, một cách long trọng và thân tình cho tương xứng với địa vị cao sang của Người?
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Is 61,1-2a.10-11: Ơn gọi của ngôn sứ.
(1) Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, (2a) công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta…
(10) Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn gói, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang (11) Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nổ hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân.
(2) Bài đọc 2: 1 Tx 5, 16-24: Cách sống đẹp lòng Chúa.
(16) Anh em hãy vui mừng luôn mãi (17) và cầu nguyện không ngừng (18) Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.. (19) Anh em đừng dập tắt Thần Khí. (20) Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. (21) Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; (22) còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa. (23) Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta quang lâm. (24) Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó.
(3) Bài Tin Mừng: Ga 1,6-8.19-28: Gioan Tẩy Giả làm chứng về ánh sáng là Đức Giêsu.
(6) Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan (7) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. (8) Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
(19) Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy Thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" (20) Ông tuyên bố thẳng thắn: "Tôi không phải là Đấng Kitô." (21) Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?" Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là một vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không." (22) Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" (23) Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói.” (24) Trong nhóm được cử đi có mấy người thuộc phái Pharisêu. (25) Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?" (26) Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết (27) Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." (28) Các việc đó đã xẩy ra tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia loan báo là Đấng được Đức Chúa hay Chúa Thượng sai đến. Người được xức dầu tấn phong, được Thiên Chúa ưu ái và điểm trang xinh đẹp. Người tràn đầy Thần Khí để thực thi sứ mạng được giao là loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân và năm hồng ân của Thiên Chúa. Đó chính là Đức Giêsu Nagiarét mà chúng ta xưng tụng là Đức Kitô! là Chúa Cứu Thế! Sau này chính Đức Giêsu đã xác định sứ vụ của Người khi long trọng tuyên bố trong hội đường Nagiarét: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe." (Lc 4,21). Lời Kinh Thánh ấy là câu 1 và 2 trong Chương 61 của Sách Ngôn sứ Isaia ở trên.
(2) Thiên Chúa mà Gioan Tiền Hô làm chứng là Đấng đang ở giữa dân mà người ta không nhận ra Người. Người làm Phép Rửa trong Thánh Thần trong khi Gioan chỉ làm phép rửa trong nước. Người cao trọng vượt xa Gioan đến độ Gioan không xứng được cởi quai dép cho Người. Chính Người mới là ánh sáng trong khi sứ mạng của Gioan chỉ là làm chứng về ánh sáng, chỉ là dọn đường cho Người mà thôi.
(3) Thiên Chúa mà Thánh Phaolô Tông đồ cảm nghiệm là Thiên Chúa rộng lòng rộng tay ban phát muôn hồng ân, nhất là Thần Khí cùng với ơn nói tiên tri, ơn khôn ngoan và ơn thẩm định (tốt/xấu) cho người tín hữu. Thiên Chúa còn là nguồn mạch bình an và là Đấng thánh hóa toàn diện con người. Vì thế Người đáng được chúng ta đón rước với tâm tình biết ơn và lời cảm tạ.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy ĐÓN RƯỚC VỊ SỨ GIẢ CỦA THIÊN CHÚA VÀ CŨNG LÀ THIÊN CHÚA! Chính Đức Giêsu Nagiarét là Vị sứ giả của Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa của chúng ta. Người đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm và Người vẫn ở lại giữa loài người. Đón rước Người đề biết cách sống đẹp lòng Thiên Chúa: hân hoan, cầu nguyện, biết ơn, không dập tắt Thần Khí và khinh thường ơn nói tiên tri, biết cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
3.1 Lý do chúng ta đón rước Chúa:
Chúng ta đã xác định có hai lý do khiến chúng ta phải dọn đường đón Chúa (sứ điệp của CN II Mùa Vọng tuần trước) là (a) nhân loại ngày nay và bản thân chúng ta rất cần đến Thiên Chúa và (b) Thiên Chúa muốn sống với/giữa loài người và sống với/trong chúng ta. Việc đón rước Chúa hôm nay cũng có hai lý do tương tự: (a) để chúng ta sống gẫn gũi, mật thiết, gắn bó với Chúa và (b) để chúng ta trở thành sứ giả làm chứng cho Người như Gioan Tiền Hô và các Tông đồ.
3. 2 Cách chúng ta đón rước Chúa:
Vì Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng Kitô Phục Sinh nên Người hiện diện khắp nơi và vì thế ở bất cứ đâu và vào bất cứ lúc nào, chúng ta cũng có thể đón rước Người vào tâm hồn và cuộc sống của chúng ta.
Vì Chúa Giêsu Kitô hiện diện thực sự trong Phép Thánh Thể, nên chúng ta có thể đón rước Chúa mỗi lần chúng ta rước Mình Máu Thánh Chúa vào lòng chúng ta.
Vì Thánh Kinh là Lời hằng sống của Thiên Chúa nên mỗi lần chúng ta nghe và rước Lời ấy vào tâm hồn và cuộc sống của chúng ta là mỗi lần chúng ta đón rước Chúa.
Vì Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những kẻ bé mọn, nghèo hèn trước con mắt người đời nên mỗi lần chúng ta đón rước và làm một việc tốt lành cho những người bé mọn, nghèo hèn ấy là chúng ta đón rước chính Chúa và làm những việc tốt lành ấy cho Người.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha vì Cha đã cho ban cho chúng con Chúa Giêsu Kitô là Sứ Giả của Cha. Người đến trần gian để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, giải thoát những người bị giam hãm trong cảnh ngục tù nô lệ và công bố lòng yêu thương tha thứ của Cha. Lạy Cha, chúng con xin cảm tạ Cha!
Lạy Chúa Giêsu, là SỨ GIẢ VĨ ĐẠI của Cha! Chúng con khát khao được đón rước Chúa. Xin Chúa hãy đến với chúng con và đưa chúng con vào đội ngũ những người được Chúa qui tụ và sai đi loan báo Tin Mừng và giải cứu anh em. Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin Chúa hãy đến với chúng con!
Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, là Đấng luôn ngự trên Chúa Giêsu Kitô và các Tông đồ, xin Chúa sai chúng con vào các môi trường xã hội và Giáo hội, để chúng con làm chứng cho Tin Mừng giải thoát và dọn đường cho Chúa Giêsu Kitô đến với mọi người, mọi nhà, mọi nước. Lạy Chúa Thánh Thần, xin Chúa sai chúng con đi! Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Sàigòn ngày 25.11.2005.
“Ta sẽ tạo dựng một Trời Mới Đất Mới; những gì đã qua sẽ không còn được nhớ đến nữa, sẽ không còn ở trong tâm trí ai nữa !... Trời Mới Đất Mới được tạo dựng sẽ tồn tại trước nhan Ta như thế nào, dòng dõi các con và tên các con cũng sẽ tồn tại như vậy !” ( I-sai-a 65,17; 66, 22 ).
Bây giờ tôi thấy một Trời Mới và Đất Mới; vì trời cũ và đất cũ đã qua đi... Sẽ không còn sự chết nữa; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa; vì những điều cũ đã qua đi” ( Khải Huyền 21, 1 – 4 ).
Ngày của Chúa đến như kẻ trộm. Ngày đó các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy: MV3-B31
“ Ngày của Chúa đến như kẻ trộm. Ngày đó các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị tiêu hủy... Nhưng theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta đang mong đợi một Trời Mới Đất Mới, nơi công lý ngự trị. Trong khi mong chờ ngày đó, anh em hãy cố gắng hết sức để sống làm sao cho tinh tuyền, không vết nhơ tội lỗi và an bình trước mặt Chúa ! ( 2 Pr 3, 8 – 14 ).
Chúng ta đã bắt đầu Năm Mới theo Lịch Phụng Vụ Giáo Hội từ Chúa Nhật 1 Mùa Vọng. Mùa Vọng, ngày xưa thường gọi là “Mùa Áp” ( theo tiếng La-tinh là Adventus, ra tiếng Anh là Advent; từ động từ Advenire, có nghĩa là “đến gần” ). Trong Lịch Phụng Vụ của Giáo Hội Việt Nam bây giờ gọi là “Mùa Vọng”, với ý nghĩa là Mùa “trông đợi”, “mong chờ”.
Vậy chúng ta trông đợi, mong chờ điều gì ?
Thực tế, Mùa Vọng là mùa để chúng ta chuẩn bị tâm hồn xứng đáng trong niềm mong chờ mừng Lễ Giáng Sinh sắp tới. Tuy nhiên, Phụng Vụ Mùa Vọng cũng nói với chúng ta, qua các Bài Đọc Sách Thánh trong các Thánh Lễ, hãy chuẩn bị tâm hồn trong sự chờ đợi Chúa đến viếng thăm mỗi người chúng ta vào lúc qua khỏi đời này ( qua đời ) và đó là lúc “chúng ta không ngờ”. Như trong bài Phúc Âm Chúa Nhật 1 Mùa Vọng, Chúa Giê-su nói với chúng ta: “Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì chúng con không biết lúc đó là lúc nào !” Và trong Bài Đọc 2 ( 1 Cr 1, 3 – 9 ), Thánh Phao-lô cũng nói với chúng ta: “Chúng ta mong chờ Chúa Ki-tô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra...” và mong rằng “chúng ta bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Chúa Ki-tô, Chúa chúng ta ngự đến...”
Xa hơn nữa, Phụng vụ Mùa Vọng cũng chuẩn bị tâm hồn chúng ta để đón chờ ngày “cuối cùng của thế giới này, ngày tận thế, ngày đó cũng là ngày “không ngờ”, ngày mà “các tầng trời rung chuyển”, ngày mà “Con Người sẽ ngự đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả !” ( Bài Phúc Âm, Chúa Nhật 1 Mùa Vọng, Năm C ). Tuy nhiên đối với những ai có lòng tin nơi Đấng Cứu Thế, và sống theo Phúc Âm của Ngài, thì ngày đó, không đáng kinh khiếp, nhưng lại là “Ngày Giải Thoát” để bước vào miền hạnh phúc viên mãn của cuộc sống “trường sinh, vinh hiển”, một “Trời Mới Đất Mới” ( Xin xem I-sai-a 65, 17; 66, 22 và sách Khải Huyền 21, 1 – 4 ).
Mùa Vọng cũng là Mùa để chúng ta sống lại lịch sử ơn cứu độ, đặc biệt qua các bài đọc Cựu Ước, thường trích ra từ sách Ngôn Sứ I-sai-a, một vị Ngôn Sứ lớn trong Cựu Ước, sống vào khoảng hậu bán thế kỷ VIII trước Chúa Giáng Sinh. Ngôn Sứ đã được linh ứng và tuyên sấm về ngày Đấng Cứu Thế đến, mặc thân xác loài người và sống giữa nhân loại như một con người để chia sẻ thân phận con người như chúng ta, rao giảng Tin Mừng tình thương và Ơn Cứu Độ, chịu bao khổ hình, và chết trên Thập Gíá để đền tội và cứu chuộc nhân loại tội lỗi; rồi Ngài đã sống lại và lên Trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho mọi người tin theo và sống theo tinh thần Tin Mừng mà Ngài đã rao giảng. Ngài được sinh ra từ lòng một Trinh Nữ và được gọi là Em-ma-nu-en, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ngôn Sứ I-sai-a đã loan báo trước: “Này một Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai...” ( Bài đọc 1, Chúa Nhật 4 Mùa Vọng, Năm A ).
Ngôn Sứ I-sai-a cũng nói đến Đấng Cứu thế như một “Hoàng Tử Hòa Bình” và triều đại của Ngài là một thời đại Thanh bình: “Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này sẽ không còn tuốt gươm để chống nước kia !” ( Bài đọc 1, Chúa Nhật 1 Mùa Vọng, Năm A ). Đó cũng là thời đại của tình yêu thương, hòa hợp: “Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ sống chung với nhau; các trẻ thơ sẽ chăn dắt đoàn thú vật; bò con và gấu ăn chung một nơi !...” ( Bài đọc 1, Chúa Nhật 2 Mùa Vọng, Năm A ).
Nhưng để có thể đi vào Thời đại của Đấng Cứu Thế trong một “Trời Mới Đất Mới”, mỗi người phải sửa đổi cuộc sống cho ngay thẳng, lương thiện, sống công chính và yêu thương. Ngôn Sứ I-sai-a đã hô hào: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng, hãy lấp các hố sâu và bạt mọi núi đồi. Con đường cong queo, hãy sửa cho ngay thẳng, con đường gồ ghề, hãy san cho bằng; rồi vinh hiển của Chúa sẽ xuất hiện; mọi người sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa...” ( Bài đọc 1, Chúa Nhật 2, Mùa Vọng ).
Thánh Gio-an Tiền Hô cũng nhắc lại lời này để kêu gọi mỗi người chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế: “Hãy ăn năn thống hối, vì nước Trời đã gần đến. Chính Người là Đấng Ngôn Sứ I-sai-a đã loan báo: Có tiếng kêu trong hoang địa: hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng...” ( Phúc Âm Chúa Nhật 2, Mùa Vọng, Năm A, B, C ). Đó cũng là tinh thần chúng ta đọc thấy trong Thư 2 Phê-rô 3 – 9: “Thiên Chúa kiên nhẫn đối với anh em; vì Ngài không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn mỗi người đi đến chỗ ăn năn hối cải...”
Vậy trong tinh thần “dọn đường Chúa đến...”, chúng ta hãy cầu nguyện chung cho nhau để mỗi người cùng biết nhìn nhận chính mình là con người yếu đuối, dể sa ngã phạm tội, sống khiêm tốn, hòa hợp yêu thương để Nước Bình An của Chúa cóthể đến trong tâm hồn mỗi người, mỗi gia đình và lan tõa ra trên tòan thế giới chúng ta.
“Vinh danh Thiên Chúa trên Trời,
Bình an dưới thế cho loài người được Chúa Yêu thương !”
Lm. An Phong TRẦN ĐỨC PHƯƠNG
Trong năm câu hỏi mà các phái viên do “trung ương” cử đến “phỏng vấn” Thánh Gio-an Tẩy: MV3-B32
Trong năm câu hỏi mà các phái viên do “trung ương” cử đến “phỏng vấn” Thánh Gio-an Tẩy Giả – Có phải là Đấng Thiên Sai hay Đức Ki-tô ? Có phải là Ngôn Sứ Ê-li-a ? Có phải là một Ngôn Sứ ? Vậy thì là ai ? Và tại sao làm phép rửa ? – thì đều có mục đích tìm hiểu về nhân thân của Ngài, nhưng đàng sau đó ta đọc được nỗi ám ảnh ghê gớm, đang gây nên không ít bối rối và tranh luận giữa các Nhóm, đặc biệt là Nhóm Biệt Phái, khi họ nghe và nhìn thấy uy tín và đạo đức của Gio-an Tẩy Giả ngày càng to lớn, trở thành mối đe dọa cho họ, cho đặc quyền đặc lợi và sự thao túng từ lâu nay của họ trong dân chúng. Ba câu đầu tiên, Gio-an đã không trả lời hay đúng ra, đã trả lời “không”. Ở câu hỏi thứ tư, ông đã xác nhận mình và đã giải thích ở câu hỏi cuối cùng.
Các phái viên cũng như những nhân vật chóp bu ở Giê-ru-sa-lem không lạ gì con người “huyền thoại” Gio-an, nhất là từ khi Gio-an xuất hiện và làm những điều khác thường. Qua vô số chuyện vẫn truyền tụng trong dân gian: từ sự lạ xảy đến với người cha khi dâng lễ vật, đến bà mẹ đã từ lâu hết khả năng sinh nở, cho tới những gì người thân, láng giềng và cả những kẻ tò mò được chứng kiến ngày đặt tên cho con trẻ Gio-an, tất cả vẫn chưa phai trong tâm trí nhiều người Do-thái, và tự chúng đã tạo cho Gio-an Tẩy Giả vầng hào quang sáng chói. Nay, cuộc sống nhiệm nhặt, sinh hoạt với những gì tối thiểu nhất như mặc áo da, ăn châu chấu mật ong, đủ để tồn tại và thực hiện sứ mệnh, khác với cuộc sống ngày càng sa hoa, rườm rà của các Nhóm cầm đầu trong dân, buộc dân chúng phải so sánh và đặt vấn đề về các thủ lãnh. Nhưng mối đe dọa lại không chỉ từ đó, mà còn – và nhất là – ở việc làm của Gio-an Tẩy Giả, khiến họ không thể không nghĩ về hình ảnh mà họ thích né tránh hơn là phải trực-diện: Ngôn Sứ Ê-li-a.
Quả thật, dáng bề ngoài, cuộc sống, công việc của Gio-an Tẩy Giả chẳng khác bao nhiêu với vị Ngôn Sứ lừng danh nhất trong các tiên tri và cũng mạnh mẽ nhất trong các Ngôn Sứ, khi Ngài dám đơn thương độc mã đứng lên chống đối với nữ hoàng và các thầy cúng Ba-an, điều đã khiến Ngài phải trả giá rất đắt, bị lùng sục truy nã gắt gao, phải chịu đói khát vất vả đi suốt 40 ngày để đến núi Chúa chỉ cho.
Tóm lại, Ngôn Sứ Ê-li-a là mẫu người nhắc nhủ và buộc Dân Riêng Chúa phải quay về với việc tôn thờ duy nhất một mình Thiên Chúa, đạp đổ mọi thứ thần dối trá và đàng sau chúng thực chất chỉ là âm mưu trục lợi, hưởng thụ và trụy lạc. Bằng cuộc sống khó nghèo và sự can đảm của mình, Ngôn Sứ Ê-li-a muốn không chỉ dân chúng, mà chính các thủ lãnh tinh thần của Dân Riêng, cũng phải có đời sống xứng đáng, đạo đức, và gương mẫu – điều mà hầu hết các phe nhóm đã đánh mất, để chỉ còn những tranh giành, đố kỵ, hám danh hám lợi và bóp méo các luật lệ và lời tiên tri, để đè đầu cưỡi cổ Dân và thỏa mãn lòng tham không đáy, dẫn đến sự giả hình ngày càng lộ liễu.
Cùng với nỗi ám ảnh của họ, dân chúng lại cho Gio-an Tẩy Giả chính là Ngôn Sứ Ê-li-a, càng khiến cho các nhóm thêm “giật mình”. Điều đáng sợ, điều khiến họ thêm ám ảnh và “có tịch giật mình” nữa, ấy là nhân vật mà Gio-an Tẩy Giả giới-thiệu, với Dân và đặc biệt là với họ. Không chỉ là câu giới thiệu như đối với một nhân vật quan trọng, mà Gio-an Tẩy Giả nói rất thẳng thắn, rất rõ ràng, không có chỗ cho ngộ nhận hoặc bóp méo được, bởi vì cả cuộc đời của ông: sinh ra, lớn lên, vào hoang địa chay tịnh và xuất hiện rao giảng, cũng chỉ có duy nhất một mục đích, là dọn đường cho nhân vật mà ông nhận nhiệm vụ đi trước và giới thiệu, chính là Chúa Giê-su, Chiên Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, Đấng Ki-tô.
Ê-li-a hay Ngôn Sứ hay gì gì đi nữa, chẳng quan trọng, vì nhiệm vụ của các Ngôn Sứ đã đến lúc kết thúc và Thánh Gio-an Tẩy Giả cũng biết nhiệm vụ của mình sắp kết thúc: Ông hoặc Ê-li-a hay là bất cứ một Ngôn Sứ nào khác cũng chẳng còn giá trị gì, trước Đấng Ki-tô đang đến. Điều nầy thì các phe nhóm không làm sao hiểu được, khi tâm hồn họ chỉ hướng về những sự sai trái, giả hình. Họ chỉ lờ mờ hiểu rằng: một Gio-an Tẩy Giả đã đủ khiến cho họ mất ăn mất ngủ; nay lại có thêm nhân vật mà Gio-an Tẩy Giả chỉ có thể nói lên sự cao trọng của “người ấy” bằng câu: ”Tôi không đáng cởi quai dép cho Người” ( Ga 1, 27b ), thì quả là chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành, yên ả hết !
Bởi vậy, khi Chúa Giê-su rao giảng công khai, dân chúng và các nhóm vẫn đồn đại Chúa Giê-su là Ngôn Sứ Ê-li-a. Thậm chí nỗi ám ảnh ấy vẫn tồn tại khi Chúa Giê-su hấp hối, khiến họ “nghe gà hóa quốc” và nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Ê-li-a” ( Mc 15, 35 ).
Chúa đến gần lắm rồi, cả theo nghĩa phụng-vụ và Kinh Thánh: ngày Lễ Noel đã cận kề, cùng với việc sống lại Mầu Nhiệm Nhập Thể và hướng tâm hồn về ngày Chúa Ki-tô vinh hiển quang lâm. Nếu sự chờ đợi trong Phụng Vụ chỉ kéo dài 365 ngày hoặc gói gọn trong bốn tuần Mùa Vọng, thì sự chờ đợi ngày Chúa Ki-tô quang lâm cũng không phải là bất tận – sine fine – mà đã cận kề lắm rồi.
Công việc và sứ mệnh của chúng ta nặng nề, cấp bách hơn cả của Gio-an Tẩy Giả: không chỉ giới thiệu, mà chúng ta phải đồng hành với cả Giáo Hội, để rao giảng và đem Chúa đến với mọi người, sau khi đã làm cho cuộc sống của chính mình giống như Gio-an Tẩy Giả, giống như các Ngôn Sứ, giống như Ê-li-a và nên môn đệ của Chúa Giê-su. Nemo dat quod non habet – không ai có thể cho điều mình không có. Có khi thấy “có tật” để biết “giật mình” cũng chẳng phải là điều dở !
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 130
nó vẫn là sự thật
Tin Mừng: Ga 1, 6-8; 19-28
Anh chị em thân mến,
Sự thật vẫn luôn là sự thật, dù cho anh chối bỏ nó, tẩy chay nó, nó vẫn là sự thật.
Thánh Gioan Tiền Hô đến để làm chứng cho sự thật, sự thật mà thánh Gioan Tiền Hô làm: MV3-B33
Thánh Gioan Tiền Hô đến để làm chứng cho sự thật, sự thật mà thánh Gioan Tiền Hô làm chứng, chứng của thánh Gioan Tiền Hô là sự thật, có nghĩa là, ông nói : "Tôi không phải là Đấng mà anh chị em trông đợi, tôi không phải là Đấng mà các tiên tri đã loan báo là sẽ đến, nhưng là người khác, người này đến sau tôi, nhưng có trước tôi, tôi, ngay cả cởi dây dép cho Ngài cũng không xứng". Đó là sự thật, sự thật đã được loan báo từ ngàn xưa, sự thật một trăm phần trăm, Đấng ấy là Messia, là Đấng Cứu Thế, là Thiên Chúa làm người, chính là Đức Giêsu Kitô.
Làm chứng, đó là trách nhiệm của người chứng kiến từ đầu đến cuối một sự việc, làm chứng là nói sự thật mình thấy, đã tin và đã sống. Trách nhiệm của thánh Gioan Tiền Hô là làm chứng cho Chúa Kitô, trách nhiệm của Ngài đã hoàn tất khi Chúa Giêsu xuất hiện công khai, và ngài đi vào bóng tối của ngục tù, và cuối cùng chết cho sự thật.
Làm chứng, đó cũng là trách nhiệm của chúng ta -người Kitô hữu- hay nói cách khác, trách nhiệm của thánh Gioan Tiền Hô, ngày hôm nay được trao lại cho chúng ta, những người đã tin và đã sống cho niềm tin của mình vào Đức Kitô, chúng ta làm chứng rằng : có một Thiên Chúa, vì yêu thương nhân loại mà giáng sinh làm người như chúng ta, đang ở giữa chúng ta, đã sống đã chết và đã sống lại hiển vinh, tất cả vì yêu thương chúng ta, đó là sự thật mà chúng ta đã, đang rao giảng và làm chứng. Lời chứng này, không những chúng ta vui mừng la vang cho mọi người biết, chia sẻ cho mọi người bằng miệng lưỡi của mình, nhưng tuyệt vời hơn, đó là làm chứng bằng chính cuộc sống của chúng ta : hi sinh, khiêm tốn và phục vụ trong yêu thương.
Không một lời chứng nào mạnh mẽ, hữu hiệu cho bằng lấy chính đời sống của mình để làm chứng.
Thánh Gioan Tiền Hô đã rơi đầu vì làm chứng cho sự thật; các thánh Tông đồ đã tan xương nát thịt vì làm chứng cho niềm tin của mình, các thánh tử đạo cũng như thế, thà chết để làm chứng cho niềm tin của mình vào Đức Kitô, Đấng mà thánh Gioan Tiền Hô đã không mắc cở khi tự hạ mình xuống trước công chúng và tuyên bố : “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”.
Ngày hôm nay, lời chứng cần phải được thể hiện mạnh mẽ hơn nữa, bởi vì nhân loại đang sống trong “u tối của văn minh” của hưởng thụ, họ không biết và không nhìn thấy một sự thật sẽ đến, đó là Đấng Messia sẽ đến lại. Người Kitô hữu hiểu điều đó hơn ai hết, cho nên chính chúng ta cần phải lấy chính đời sống của mình để làm chứng cho mọi người biết rằng : Đấng sẽ đến và đang đến không ai xa lạ chính Đức Giêsu trong hang lừa máng cỏ năm xưa ở Bêlem, và cũng là Đấng đã chết trên đồi Calvê thảm sầu ngày nọ. Nhưng hôm nay, Ngài không đến trong hang lừa máng cỏ ở Bêlem, Ngài cũng không còn chết ở đồi Calvê, nhưng Ngài đang đến nơi em bé không nhà cửa, Ngài đang đến nơi người già cô đơn tay chân run rẩy đang chờ chúng ta giúp đỡ, Ngài đang chết dần chết mòn trong những trại tập trung, trong những nơi u tối của xã hội, Ngài đang chết dần mòn trong những trại cai ma tuý cô đơn không đủ phương tiện chăm sóc...
Làm chứng, là mạnh dạn nói lên sự thật mà không mắc cở rằng : tôi vẫn còn những khuyết điểm cần phải sửa chữa, tôi cần phải học hỏi anh em chị em nhiều điều, tôi cần phải trở nên người tốt hơn, đó chính là làm chứng cho niềm tin của mình vậy.
Anh chị em thân mến,
Chúa Nhật III Mùa Vọng là Chúa Nhật của hi vọng, hi vọng vào Đấng sẽ đến sẽ mang lại hạnh phúc cho chúng ta, nhưng muốn được như vậy, chúng ta cần phải đem hi vọng của niềm tin cho người anh em của chúng ta trước, hi vọng và ước mơ của họ rất đơn sơ, chúng ta rất dễ đáp ứng : họ hi vọng đêm nay có miếng cơm ăn khỏi đói, họ hi vọng ngày mai có một cái áo mới cho con cái họ mừng lễ Giáng Sinh, họ hi vọng ai đó cho họ một nụ cười thông cảm sau những giây phút lỡ lầm.v.v... đó cũng là hi vọng của chính thánh Cả Giuse và Mẹ Maria ngày xưa, đi tìm nhà trọ để sinh hạ Chúa Giêsu nhưng không có một ai giúp đỡ cho các ngài trú tạm qua đêm...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Fair play với Chúa!
„Anh em đừng dập tắt Thần Khí!“ (1 Thess 5, 9)
Trong một bài giảng Giáng Sinh, Đức Hồng Y Ratzinger, nay là Đức Thánh Cha của chúng: MV3-B34 chuyện
Bạn thân mến, Trong một bài giảng Giáng Sinh, Đức Hồng Y Ratzinger, nay là Đức Thánh Cha của chúng ta, đã kể lại một câu chuyện của Elie Wiesel về một thầy Rabbi Do Thái giáo:
„Cậu bé Jeschiel chạy tất tưởi tới phòng ông của mình, là thầy Rabbi nổi tiếng Baruch. Cậu bé khóc sướt mướt và kêu gào:
„Bạn của con đã bỏ rơi con hoàn toàn rồi. Nó thật chẳng tốt chút nào và chơi xấu với con quá!“
„Ông hiểu, con có thể kể thêm một chút nữa không?“ Baruch đáp lại
„Dạ“ cậu Jeschiel trả lời và tiếp:
„Chúng con chơi chốn năm mười với nhau. Con đã chốn thật là kỹ, đến nỗi bạn con không tìm được con. Rồi tự nhiên Bạn con nghỉ chơi, không tìm con nữa, và nó đi mất tăm luôn. Chơi thật là xấu, phải không ông?“
Trò chơi chốn năm mười đã đánh mất đi vẻ đẹp của mình, vì người chơi chung đã tự động nghỉ chơi. Nghe xong ông ngoại Baruch liền an ủi cháu Jeschiel, vuốt má cháu, và nước mắt ông cũng rơi giống như cháu mình. Và Baruch nói với Jeschiel: „Thực là chẳng đẹp chút nào. Con ơi, với Thiên Chúa cũng vậy đó. Chúa đã chơi với chúng ta trò chơi chốn năm mười, Ngài đã chốn, còn chúng ta thì lại chẳng chịu đi tìm Ngài gì cả. Con cứ thử nghĩ xem, Thiên Chúa ẩn mình, còn chúng ta thì chẳng một lần chịu đi kiếm Ngài.“
Sau khi kể chuyện xong, Đức Thánh Cha tiếp lời: „Thiên Chúa không chỉ cho chúng ta thấy hào quang sáng chói của Ngài, Ngài không dùng quyền năng để ép buộc chúng ta. Ngài muốn rằng giữa Ngài với chúng ta một tình yêu cần được nảy sinh, và tình yêu này luôn đòi hòi sự tự do. Thiên Chúa chờ đợi con người chúng ta. Và Ngài ước ao chúng ta có được kinh nghiệm thiêng liêng về Thiên Chúa: Một kinh nghiệm của sự tự do, của tìm kiếm, của khám phá và của lời Xin Vâng với tình yêu.“ (Joseph Ratzinger , Weihnachtspredigten, Auer Verlag, Donauwörth 1998, S. 17)
Bạn thân mến,
Đọc câu chuyện và những lời thật tâm tình của Đức Thánh Cha, Bạn cảm thấy thế nào? Một Thiên Chúa đã có lần nói lời xin vâng với chúng ta, giờ đây Ngài đang chờ chúng ta nói lời xin vâng với Ngài. Ngài chơi trò chốn năm mười với chúng ta, lúc này Ngài đang núp ở đâu đó, chúng ta có đi kiếm Ngài không? Hay chúng ta chẳng có kiên nhẫn đi tìm, và rồi giữa chừng tự động nghỉ chơi? Như vậy có fair play không?
Nếu có lần chúng ta tự mình nghỉ chơi, không còn đi kiếm Chúa nữa, thì tại sao lại như vậy? Phải chăng chúng ta đã dập tắt Thần Khí?
„Anh em đừng dập tắt Thần Khí!“ Lời mời gọi tha thiết của thánh Phao-lô là một lời nhắc nhớ thật quan trọng trong mùa Vọng này. Trong ý nghĩa của cuộc chơi, thì ở đây chúng ta có thể coi thánh Phao-lô như là huấn luyện viên của chúng ta. Người huấn luyện viên này nhìn thấy rất rõ sự hấp dẫn của cuộc chơi, và niềm vui đến từ kết quả của cuộc chơi, cũng như ngài đã thấu hiểu được sự yếu đuối thiếu kiên nhẫn của đời người, và điều gì đang ngâm nghe dập tắt đi „sự thích thú hứng khởi chơi“ của chúng ta, nên Ngài đã mời gọi chúng ta như vậy.
Đọc lời của thánh Phao-lô, của Đức Thánh Cha chúng ta giờ đây có tâm tình gì? Chúng ta có muốn Fairplay với Thiên Chúa không?
Ý Chỉ cầu nguyện trong tuần: Xin cho kẻ năn năn trở lại
Cách đây ít năm, một người làm nghề hốt rác tại thành phố Dallas, thuộc bang Texas, đã được: MV3-B35
Cách đây ít năm, một người làm nghề hốt rác tại thành phố Dallas, thuộc bang Texas, đã được dân chúng tuyên dương. Mười bảy cư dân đã viết thư cho ông giám đốc sở vệ sinh công cộng để ca ngợi nụ cười đầm ấm, thân hữu và lịch thiệp của bác Cummings, người hốt rác của họ:
- Chúng tôi sống trên con đường này công nhận bác là một Kitô hữu trung kiên, một công dân yêu nước và một người bạn chân tình. Bác đã giúp họ mua hàng, trả lại cho họ những vật họ đánh rơi ngoài đường hay vì lầm lẫn mà vứt đi.
Và ông giám đốc đã gửi cho bác một bức thư với những lời lẽ như sau:
- Chúng tôi tin rằng người ta có thể hoàn thành những công việc phi thường trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, không kể gì đến địa vị hay trách nhiệm. Việc làm của bác đã cho thấy ý nghĩa thực sự của niềm tin ấy.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, người ta đã hỏi Gioan Tiền hô:
- Ông có phải là Đức Kitô hay không?
Họ không cần biết tên tuổi hay lý lịch của ông, họ chỉ muốn biết việc ông làm, chức vụ ông giữ và nghề nghiệp ông sống. Và rồi Gioan đã xác quyết với họ:
- Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa đến.
Nghề nghiệp của ông đó chính là loan báo, giới thiệu Đức Kitô. Chính ông đã nói cho thế giới biết rằng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại. Và Gioan đã dành tất cả cho nghề nghiệp của ông. Ông đã thực hiện mọi cố gắng, chấp nhận mọi hy sinh để loan báo Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì?
Thật đơn giản, đó là mỗi người trong chúng ta đều có một nghề trong nước trời. Nói cách khác, mỗi người chúng ta đều có một cái gì quan trọng cần phải làm cho gia đình nhân loại. Nghề nghiệp của chúng ta đều quan trọng, mặc dù công việc của chúng ta có nhỏ bé và khiêm tốn. Bác hốt rác đã ý thức điều đó. Bác đã thực hiện hết mình cái nghề hốt rác của bác.
Tất cả chúng ta cũng cần phải ý thức rằng: Mỗi nghề nghiệp trên trần gian đều đáng quý trọng. Cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán, nếu xã hội chỉ gồm toàn những người đứng đầu mà không có cấp dưới, toàn là giám đốc mà chẳng có nhân viên, toàn là cấp tướng mà chẳng có binh lính, toàn là những nhân vật nổi tiếng mà chẳng có kẻ âm thầm làm việc.
Tuy nhiên, đôi lúc húng ta đã than phiền:
- Tôi chỉ là một người nội trợ, suốt ngày làm những việc vặt vãnh như thổi cơm, quét nhà, giặt quần áo… Hay tôi chỉ là bác nông phu, suốt ngày đổ mồ hôi trên miếng ruộng thần nông…
Chúng ta thử phác họa xem một cuộc sống, mà không có những người làm những công việc tầm thường đó sẽ như thế nào. Mọi nghề đều đáng quí đáng trọng. Không có nghề nghiệp nào xấu mà chỉ có con người xấu mà thôi. Nghề nghiệp không phải chỉ quan trọng đối với nhân loại mà còn quan trọng cả trước mặt Thiên Chúa.
Khi chuẩn bị đón mừng Chúa đến, chúng ta hãy nhớ lại rằng: Hài nhi Giêsu đã lớn lên và trở thành một bác phó mộc. Ngài không bao giờ nhàm chán cái cưa, cái búa, cái đục. Ngài hân hoan làm công việc Chúa Cha đã trao phó: cưa một khúc cây hay chết trên một khúc cây khác để cứu chuộc mọi người…
Chúng ta cũng vậy, bằng cách chu toàn bổn phận nghề nghiệp của đấng bậc mình, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vinh quang cho cuộc sống hiện tại cũng như cho cuộc sống mai hậu sau này.
Để hiểu rõ đoạn mở đầu Phúc âm theo thánh Gioan, chúng ta cần nhớ lại bầu khí mong đợi bao: MV3-B36
Để hiểu rõ đoạn mở đầu Phúc âm theo thánh Gioan, chúng ta cần nhớ lại bầu khí mong đợi bao trùm sinh hoạt dân Do Thái khoảng thập niên 30. Một số những nhà lãnh đạo và nhất là khối dân chúng nóng nảy trông đợi Đấng Cứu thế, họ nghĩ rằng Người sẽ ngự đến và trục xuất quân La mã chiếm đóng đất nước họ, rồi tổ chức Israel thành vương quốc lý tưởng. Chính trong bầu khí đó, Gioan Tẩy giả xuất hiện. Sứ điệp của ông không phù hợp với ý niệm người Do Thái vốn có về Đấng Cứu Thế, tuy vậy ông vẫn là một trường hợp gây bối rối: ông lôi cuốn những đám đông, từ con người ông tỏa ra một sức mạnh tinh thần, ông thành vấn đề cho nhà đương cuộc, thuộc giới lãnh đạo dân tộc, những người biệt phái muốn biết rõ. Họ thắc mắc: không hiểu ông Gioan này, thường vẫn rửa tội cho dân chúng, ông là ai?
Họ cử phái đoàn chính thức gồm những tư tế và phó tế đến gặp ông với nhiệm vụ điều tra lý lịch và ý nghĩa hoạt động của ông. Họ đặt ba câu hỏi phù hợp với luồng tư tưởng đương thời. Gioan có phải là Đấng Cứu thế không? Phải chăng ông là Elia, người đi trước Đấng Cứu thế, như mọi người thường nghĩ? Ông có phải là Ngôn sứ không? –nghĩa là ông có phục hồi những thời kỳ sấm ngôn, khi mà từ lâu rồi chẳng còn thấy các ngôn sứ nữa? Gioan trả lời một cách hơi khó hiểu, tuy nhiên câu đáp của ông lại là minh bạch đối với những ai muốn hiểu biết “Tôi là tiền hô của Đấng Cứu thế”. Một chi tiết: tuy ông nhận là kẻ đi trước Đấng Cứu thế, nhưng không nhận là Elia, vì lẽ ông tách rời con người Elia và sứ mạng người ta gán cho Elia là loan báo Đấng Cứu thế xuất hiện, sứ mạng này được Gioan hoàn tất tuy khônbg phải vì thế mà ông là Elia. Cho nên ông có thể trả lời: ông không phải là Elia, mà vẫn khẳng định ông là kẻ tiền hô. Chúng ta ghi nhận tầm quan trọng thánh chép sử đặt cho lời chứng.
1) Ông đến như một nhân chứng, để làm chứng cho ánh sáng. Đức tin của chúng ta ngày nay đặt nền móng trên 1 chứng từ. Nếu nhặt riêng ra từng chứng từ một thì chứng từ không có cùng 1 sức mạnh nhưng tập họp lại thì trở nên một lớp đất mầu đặc biệt phì nhiêu, trên đó trổi lên và tăng trưởng cây đại thụ Giáo Hội. Chứng từ của Gioan Tẩy giả ở vào khoảnh khắc bản lề, 1 khoảnh khắc trọng đại trong lịch sử dân Chúa. Gioan là vị Ngôn sứ cuối cùng vì tuy sống thời Cựu Ước, nhưng loan báo về Đấng Cứu thế. Ông cũng là nhân chứng vì khi sứ mạng kết thúc, ông nhìn thấy Đấng Cứu thế và tuyên cáo Người đã ngự đến. Sức mạnh của lời chứng của ông là ở cung cách ông đáp ứng đích thật đối với nhiệm vụ Chúa trao cho ông.
Người ta hình dung dễ dàng quang cảnh một số người Do Thái khi họ thấy ông, nghe ông giảng dạy. Có thể họ đã nhận xét ông bằng thứ ngôn ngữ dân gian đậm chất thân mật: ông này đúng là 1 ngôn sứ “thứ thiệt” đây. Chúng ta giữ lại để suy niệm câu hỏi sau: phải chăng lời chứng của chúng ta về Đức Kitô căn cứ trên sự tiên quyết này, là chúng ta làm chứng về Người không phải vì đã tận mắt thấy Chúa, mà chỉ vì đã gặp Người trong thâm tâm chúng ta?
2) Gioan Tẩy giả được trình bay như một nhân chứng cho ánh sáng. Chủ đề ánh sáng bàng bạc khắp Phúc âm theo thánh chép sử Gioan. Ngay ở phần nhập, chủ đề đã đặt câu hỏi nghiêm trọng về sự đón tiếp con người dành cho sự thật. Óc thông minh con người được cấu tạo để hiểu biết chân lý, cho nên có khả năng hoặc tiếp nhận hoặc xua đuổi chân lý. Chúng ta nên nhớ, vấn đề này không chỉ là 1 vấn đề trí thức. Con người tiếp nhận sự thật bằng toàn bộ thể xác và tâm linh. Điều này dẫn đưa con người vào đường dấn thân. Tiếp nhận đức tin là dấn thân vì đức tin. Chừng nào đến lượt mình chúng ta cũng sẽ là những người làm chứng cho ánh sáng nếu chúng ta vì tin mà thừa nhận, gắn bó, chứ không phải chỉ vì hiểu biết, nếu chúng ta dùng cả cuộc đời để nghênh đón Chúa.
CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ (Ga 1,6-8)
Một sự kiện lạ lùng trong Phúc Âm Gioan là mỗi lần đề cập đến Gioan Tẩy Giả, là mỗi lần giá: MV3-B37
Một sự kiện lạ lùng trong Phúc Âm Gioan là mỗi lần đề cập đến Gioan Tẩy Giả, là mỗi lần giá trị của ông bị giảm đi. Có một cách giải thích sự kiện ấy: Gioan Tẩy Giả là một tiếng nói ngôn sứ. Từ bốn trăm năm, tiếng nói ngôn sứ đã im bặt, bấy giờ với Gioan, tiếng nói ấy lại vang lên. Qua đó, một số người ngưỡng mộ ông đến độ dành cho ông một địa vị cao hơn địa vị thích đáng. Nhiều dẫn chứng cho thấy có một hệ phái đã thật sự đặt ông lên địa vị cao nhất. Âm vang ấy được thấy trong Công Vụ 19,3.4. Tại Êphêsô, Phaolô gặp số người chẳng biết gì khác hơn là phép rửa của Gioan. Không phải Phúc Âm Gioan muốn phê phán hay làm giảm đi tầm quan trọng của Gioan Tẩy Giả, nhưng Gioan biết một số người đã giành cho Gioan Tẩy Giả một địa vị lấn át địa vị của Chúa Giêsu.
Cho nên qua suốt Phúc Âm, Gioan đã cẩn thận bày tỏ nhiều lần, địa vị của Gioan Tẩy Giả trong kế hoạch chung là cao quý, dù vậy nó vẫn ở hàng thứ yếu so với Chúa Giêsu Kitô. Ở đây ông thận trọng bảo Gioan Tẩy Giả không phải là ánh sáng mà chỉ là nhân chứng của ánh sáng ấy (1,8). Ông cho chúng ta thấy Gioan đã bác bỏ, không nhận mình là Đấng Cứu Thế, cũng không phải là ngôn sứ (1,20). Lúc người Do Thái đến với Gioan Tẩy Giả, kể cho ông nghe Chúa Giêsu đã bắt đầu hoạt động công khai, hẳn họ trông mong ông sẽ nổi giận về việc xâm phạm quyền đó. Nhưng Phúc Âm Gioan cho thấy Gioan Tẩy Giả đã từ chối không nhận địa vị hàng đầu đó thuộc về mình, và tuyên bố mình phải hạ xuống, còn Chúa Giêsu phải được tôn lên (3,25-30) Gioan Tẩy Giả đã cho thấy Chúa Giêsu còn thành công hơn Gioan Tẩy Giả trong việc kêu gọi mọi người (4,1). Ông cho biết cả đến dân chúng cũng nhận xét là Gioan Tẩy Giả không làm được những điều Chúa Giêsu đã làm (10,41)
Trong Hội Thánh, có một nhóm người muốn dành cho Gioan Tẩy Giả một địa vị quá cao. Chính ông không khuyến khích việc ấy, ông làm đủ mọi cách để bác bỏ. Gioan biết khuynh hướng đó vẫn còn, nên ông ngăn chặn. Việc này vẫn còn xảy ra ngày nay. Người ta có thể sùng bái một người hơn cả Chúa Cứu Thế, họ chú mục vào sứ giả thay vì vào vị vua đã sai phái sứ giả ấy. Gioan Tẩy Giả không đáng trách chút nào về việc xảy ra, nhưng tác giả Phúc Âm thứ tư quyết định không để ai lấn Chúa Giêsu ra khỏi địa vị hàng đầu.
Một từ quan trọng khác cần phải lưu ý trong Phúc Âm thứ tư là nhân chứng hay lời chứng. Phúc Âm Gioan đưa ra hết nhân chứng này đến nhân chứng khác về địa vị tối cao của Chúa Giêsu. Ít ra có 8 lời chứng:
Lời chứng của Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: “Cha, Đấng đã sai Ta làm chứng về Ta” (5,37; 8,17). Chúa Giêsu muốn xác định điều gì? Ngài muốn đưa ra hai điều:
a) Điều đang tác động trên chính Ngài. Có tiếng của Đức Chúa Cha nói trong lòng Ngài, tiếng nói đó xác quyết Ngài là ai, và được sai đến để làm gì. Chúa Giêsu biết Ngài không tự chọn việc đến thế gian, Ngài tin Chúa Cha đã sai Ngài đến thế gian để sống và chết cho nhân loại.
b) Điều tác động trên loài người. Khi một người trực diện với Chúa Giêsu, trong lòng họ có một xác tín đây chính là Con Thiên Chúa. Linh mục Terell bảo, thế giới không bao giờ trốn tránh được “nhân vật xa lạ treo trên thập giá”. Năng lực trong lòng đó luôn luôn hướng đôi mắt chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu ngay cả khi chúng ta quên Ngài. Tiếng nói trong lòng đó cho chúng ta biết Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Chuộc của nhân loại. Tiếng nói đó là lời chứng của Thiên Chúa Cha, ở trong linh hồn chúng ta.
Lời chứng của chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói: “Ta tự làm chứng cho Ta” (8,18); “Dẫu Ta tự làm chứng về mình, nhưng lời chứng Ta là đáng tin” (8,14). Điều này có nghĩa Chúa Giêsu là nhân chứng tốt nhất cho chính Ngài. Ngài tự xưng là ánh sáng, là sự sống, là chân lý, và là đường đi; Ngài tự xưng là Con Thiên Chúa, là một với Đức Chúa Cha; Ngài tự xưng là Đấng Cứu Thế, là Thầy, Chủ của mọi người. Nếu chính đời sống và bản chất Ngài không đúng như vậy thì những lời tự xưng đó của Chúa Giêsu chỉ là phạm thượng, chướng tai. Nhưng đời sống của Chúa Giêsu là lời chứng hùng hồn nhất, những gì Ngài tuyên bố là đúng thật.
Lời chứng của những việc Ngài làm. Chúa nói: “Các việc Cha đã giao cho Ta làm… làm chứng cho Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta” (5,36). “Những việc Ta nhân danh Cha Ta mà làm đều làm chứng cho Ta” (10,25). Chúa Giêsu nói với Philipphê, Ngài với Cha là một, rồi Ngài tiếp: “Hãy tin Ta qua những việc Ta làm” (14,11). Một trong những điều kết tội loài người là họ thấy công việc Chúa làm mà không chịu tin nhận Ngài (15,24). Chúng ta cần lưu ý khi nói đến những công việc của Chúa Giêsu làm, Gioan không chỉ nghĩ đến những phép lạ Chúa Giêsu làm, nhưng ông nghĩ đến cả cuộc sống Chúa trên trần gian; ông không chỉ nghĩ đến thời điểm quan trọng nổi bật, mà đến từng giây phút Ngài sống hằng ngày. Không ai có thể làm được những việc quyền năng Chúa Giêsu đã làm, vì Ngài đã sống gần gũi với Chúa Cha hơn ai hết.
Cũng vậy, không ai có thể sống đầy yêu thương, nhân từ, tha thứ, phục vụ, giúp đỡ trong cuộc sống hằng ngày nếu không ở trong Thiên Chúa và không có Thiên Chúa trong mình. Không phải bởi phép lạ chứng minh chúng ta thuộc về Chúa Giêsu, nhưng bởi đời sống hằng giống Chúa từng giây phút của chúng ta. Chính trong những điều bình thường hằng ngày chứng tỏ chúng ta thuộc về Chúa.
Có lời chứng của Kinh Thánh. Chúa Giêsu phán: “Các ông nghiên cứu Kinh Thánh vì nghĩ rằng trong đó các ông có được sự sống đời đời, chính Kinh Thánh lại làm chứng về Tôi” (5,39). “Nếu như các ông tin ông Môsê, hẳn các ông cũng sẽ tin Tôi, vì ông ấy cũng đã viết về Tôi” (5,46), và Philipphê tin rằng ông đã gặp Đấng mà Môsê, luật, và các ngôn sứ đã viết (1,45). Trong cuộc sống lịch sử, dân Israel mơ ngày Đấng Mêsia của Thiên Chúa giáng thế. Họ đã vẽ nên những hình ảnh và ý nghĩ của họ về Ngài. Bây giờ ngay trong Chúa Giêsu tất cả các ước mơ, các hình ảnh, các niềm hy vọng đó cuối cùng đều đã được thể hiện trọn vẹn, Chúa Giêsu là Đấng thế gian trông đợi đã đến.
Có lời chứng của ngôn sứ cuối cùng là Gioan Tẩy Giả: “Người đến để làm chứng, là làm chứng về sự sáng” (1,7.8). Gioan chứng nhận ông đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu. Vị ngôn sứ cao cả này là nhân chứng cho Chúa Giêsu, Đấng mà mọi lời ngôn sứ đều nói tới.
Có lời chứng của những người Chúa Giêsu từng tiếp xúc. Người đàn bà Samari đã làm chứng về cái nhìn thấu suốt và quyền năng của Chúa Giêsu (4,39); người mù từ thuở sinh ra làm chứng về quyền phép chữa bệnh của Chúa Giêsu (9,25.38). Khi dân chúng chứng kiến những phép lạ, họ ngạc nhiên trước những việc Chúa Giêsu làm (12,17). Có một truyền thuyết về việc Tòa Công Luận tìm nhân chứng xử án Chúa Giêsu. Đám đông đến và xác quyết: “Tôi là một kẻ phong cùi đã được Ngài chữa lành”; “Tôi bị mù và Ngài đã mở mắt tôi”; “Tôi điếc, Ngài đã làm cho tôi nghe được”. Đó là những lời chứng mà Tòa Công Luận không muốn. Qua mọi thời đại, mọi thế hệ, có đông quần chúng luôn luôn sẵn sàng làm chứng về những gì Đấng Cứu Thế đã làm cho họ.
Có lời chứng của các môn đệ và đặc biệt là của chính tác giả Phúc Âm này. Chúa Giêsu đã giao nhiệm vụ cho các môn đệ Ngài: “Còn các ngươi sẽ làm chứng về Ta, vì các ngươi đã ở cùng Ta từ ban đầu” (15,27). Chính tác giả Phúc Âm làm chứng và bảo đảm cho những điều ông ghi lại. Lúc Chúa Giêsu chịu đóng đinh, ông viết: “Kẻ đã thấy thì làm chứng về việc đó” (lời chứng của ngươi là thật) (19,35), ông tiếp: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra” (12,24). Câu chuyện ông kể không phải là câu chuyện được lưu truyền, cũng không phải được nghe người khác kể lại mà chính ông mục kích và kinh nghiệm. Người làm chứng tốt nhất là người có thể nói rằng: “Điều đó là thật vì tôi biết như thế từ kinh nghiệm của tôi”.
Có lời chứng của Thánh Thần: “Khi nào Đấng Yên Ủi đến, tức là Thần Chân Lý… chính Ngài sẽ làm chứng về Ta” (15,26). Gioan viết: “Chính Thần Khí là chứng nhân và Thần Khí là sự thật” (1Ga 5,7). Với người Do Thái, Chúa Thánh Thần có hai chức vụ: đem chân lý đến cho con người và giúp con người nhận biết chân lý ấy. Khi thấy Chúa Thánh Thần hành động trong chúng ta, giúp chúng ta nhận biết Chúa Giêsu là ai và tin cậy những gì Ngài làm.
Gioan viết Phúc Âm Thứ Tư để trình bày cho loài người lời chứng không ai chối cãi được. Chúa Giêsu Kitô là tâm trí của Thiên Chúa được mặc khải trọn vẹn cho loài người.
LỜI CHỨNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ (Ga 1,19-28)
Với đoạn này, Gioan bắt đầu phần tường thuật trong Phúc Âm của ông. Trong lời nói đầu, ông đã cho thấy việc ông định làm, ông viết Phúc Âm để chứng minh Chúa Giêsu là Trí, là Lý, là Lời của Thiên Chúa đã đến thế gian với hình thể một con người. Sau khi đã ổn định phần tư tưởng chính yếu đó, bây giờ ông bắt đầu kể chuyện về đời sống Chúa Giêsu.
Không ai cẩn thận chép các chi tiết về thời gian cho bằng Gioan. Bắt đầu ở đây và tiếp tục cho đến 2,11, ông từng bước kể lại tuần lễ đầu tiên rất bận rộn trong đời sống công khai của Chúa Giêsu. Các biến cố của ngày đầu trong 1,19-28, câu chuyện của ngày thứ hai trong 1,29-34, ngày thứ ba được gói ghém trong 1,35-39. Ba câu 1,40-42 kể lại câu chuyện trong ngày thứ tư. Các biến cố trong ngày thứ năm được kể trong 1,43-51 và 2,1-11. Ngày thứ sáu được bỏ trống. Trong các đoạn sách này, Gioan đã kể một loạt các biến cố quan trọng xảy ra từng ngày, đánh dấu tuần lễ đầu tiên trong sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Không có Phúc Âm nào khác ghi lại các mốc thời gian kế tục nhau cẩn thận như thế.
Trong cùng một phần sách từ 1,19-2,11, Phúc Âm Gioan đã đưa ra ba loại lời chứng khác nhau về tính duy nhất và vĩ đại của Chúa Giêsu. 1) Lời chứng của Gioan Tẩy Giả (1,19-34); 2) Lời chứng của những người nhận Chúa Giêsu làm Thầy và trở thành môn đệ Ngài (1,41); 3) Lời chứng từ các quyền năng diệu kỳ của Chúa Giêsu (2,1-11). Gioan đã đặt trước mặt chúng ta ba bối cảnh khác nhau, và trong mỗi bối cảnh ông đều chứng minh rõ sự kỳ diệu tối cao của Chúa.
Chúng ta thấy Phúc Âm Thứ Tư quan tâm đến sự kiện Gioan Tẩy Giả được dành cho một địa vị vượt quá xa điều chính ông xưng nhận. Khá lâu về sau, khoảng 250SC, sách Clementine Recognitions kể lại rằng: “Có một số môn đệ của Gioan Tẩy Giả giảng dạy về thầy họ như Đấng Mêsia vậy”. Trong đoạn Kinh Thánh này, chúng ta thấy đó là một quan điểm, mà chính Gioan Tẩy Giả đã dứt khoát bác bỏ.
Bây giờ chúng ta trở lại với chính đoạn Kinh Thánh này. Ngay từ đầu, chúng ta đã gặp một đặc điểm của Phúc Âm Gioan, đó là một số người được người Do Thái sai đến chất vấn Gioan Tẩy Giả. Từ người Do Thái (Ioudaioi) xuất hiện trong Phúc Âm Gioan không dưới 70 lần, họ luôn luôn là nhóm người Do Thái chống đối. Họ là những người đặt mình trong tư thế chống lại Chúa Giêsu. Việc người Do Thái chống Chúa đã được đề cập thật sớm ở đây. Phúc Âm IV làm hai việc: Thứ nhất là giãi bày Thiên Chúa trong Chúa Giêsu, thứ hai là kể chuyện về Thiên Chúa. Phúc Âm này là câu chuyện về tình yêu của Thiên Chúa và tội lỗi của loài người, câu chuyện về lời mời gọi của Chúa Giêsu và việc loài người khước từ lời mời gọi ấy. Phúc Âm Thứ Tư là sách trong đó tình yêu cùng với lời cảnh báo được kết hợp cách sống động, có một không hai.
Phái đoàn đến phỏng vấn Gioan Tẩy Giả gồm hai hạng người: Thứ nhất, có các tư tế và người Lêvi. Họ chú ý đến Gioan Tẩy Giả là điều tự nhiên, vì ông là con trai của Dacaria, mà Dacaria là tư tế (Lc 1,5). Trong Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để được chức vụ tư tế là cha truyền con nối. Người nào không phải là hậu duệ của Aharon thì chẳng có thể trở thành tư tế; còn nếu người ấy là con cháu Aharon thì không có gì cản ngăn người ấy trở thành tư tế được. Do đó, dưới mắt các nhà cầm quyền, Gioan Tẩy Giả quả thật là một tư tế, và tự nhiên các tư tế phải tìm hiểu tại sao một tư tế lại hành động bất thường như vậy. Thứ hai, có những người đại diện cho Pharisêu. Rất có thể sau lưng họ có Tòa Công Luận. Một trong các nhiệm vụ của Tòa Công Luận là đối phó với bất cứ ai bị nghi ngờ là ngôn sứ giả. Gioan Tẩy Giả là một nhà truyền giáo được dân chúng theo rất đông. Có lẽ Tòa Công Luận thấy họ có trách nhiệm tra xét con người này xem ông có phải là ngôn sứ giả không.
Tất cả sự việc trên đây cho chúng ta thấy tôn giáo chính thống thường nghi ngờ bất cứ việc gì khác thường. Gioan Tẩy Giả đã không theo đúng quan niệm bình thường về một tư tế mà ông cũng không theo đúng quan niệm bình thường về một thầy giảng đạo. Vì vậy, các chức quyền tôn giáo thời đó nhìn ông đầy nghi kỵ. Giáo Hội thường rơi vào chỗ nguy hiểm là hay kết án những cái mới chỉ vì nó mới. Về một phương diện, ít có tổ chức nào khác trên thế gian lại hay chống đối sự thay đổi như Giáo Hội. Giáo Hội thường phủ nhận một giáo sư lỗi lạc và cũng thường khước từ một số công tác tiên phong quan trọng, chỉ vì Giáo Hội muốn được yên thân và nghi ngờ tất cả những gì có vẻ mới.
Những đại diện được phái chính thống sai đến chắc đã nghĩ về ba điều Gioan Tẩy Giả có thể phủ nhận.
Họ hỏi ông có phải là Đấng Mêsia không? Dân Do Thái đã trông chờ, cho đến ngày nay vẫn đang trông chờ Đấng Mêsia. Bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng. Dân Do Thái tin rằng họ là tuyển dân của Chúa, họ không nghi ngờ gì về việc chẳng chóng thì chầy Thiên Chúa sẽ can thiệp để giải cứu dân Ngài. Không chỉ có một quan niệm về Đấng Mêsia. Có người trông mong Đấng Mêsia sẽ đem đến hòa bình cho cả thế giới; có người trông chờ Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Đa số trông mong một vị tướng lãnh vô địch, sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do Thái đi chinh phục cả thế giới. Có người trông chờ một nhân vật siêu nhiên đến từ Thiên Chúa. Một số khác lại trông mong một nhà vua sẽ dấy lên từ dòng dõi Đavít. Thường có những người nổi lên tự xưng là Đấng Mêsia và hay khởi loạn. Thời đại của Chúa Giêsu là một thời đại căng thẳng. Hỏi Gioan Tẩy Giả có xưng là Đấng Mêsia là một câu hỏi không tự nhiên. Ông hoàn toàn bác bỏ lời xưng đó, nhưng lại tiết lộ một phần khác. Trong tiếng Hy Lạp có vẻ như Gioan muốn nói: “Ta không phải là Đấng Mêsia, nhưng Đấng Mêsia đang có mặt ở đây mà các ông không biết”.
Họ hỏi ông có phải là Êlia không? Dân Do Thái tin rằng, trước khi Đấng Mêsia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước, và chuẩn bị cho thế gian tiếp đón Ngài. Đặc biệt Êlia đến để dàn xếp mọi bất hòa; ông sẽ định những gì, những ai là thanh sạch hay không thanh sạch. Ông sẽ phân chia đâu là người Do Thái, đâu là người ngoại; ông sẽ đem lại đoàn kết, hòa thuận cho các gia đình từng xa lạ với nhau. Họ tin tưởng điều đó đến nỗi luật xưa của dân Do Thái ghi rằng số tiền bạc và của cải đang tranh chấp, hoặc bất cứ tài sản nào bị xem là vô chủ đều phải “chờ cho đến chừng nào Êlia đến”. Niềm tin Êlia phải đến trước Đấng Mêsia bắt nguồn từ Malakia 4,5. Người ta còn tin rằng chính Êlia sẽ xức dầu cho Đấng Mêsia làm vua cũng như tất cả các vua đã được xức dầu, vậy ông sẽ gọi kẻ chết sống lại để cùng chung hưởng vương quốc mới. Nhưng Gioan Tẩy Giả đã phủ nhận hết những vinh dự đó.
Họ hỏi ông có phải là ngôn sứ được hứa ban và mọi người đang trông đợi không? Lắm lúc người ta cũng tin Isaia và đặc biệt nhất là Giêrêmia sẽ trở lại lúc Đấng Mêsia đến. Nhưng thật ra việc đó chỉ nhằm nhắc lại lời bảo đảm của Môsê với dân chúng trong Đnl 18,15: “Từ giữa anh em ngươi, Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi sẽ lập một đấng ngôn sứ như ta, các ngươi hãy nghe lời đấng ấy”. Đó là lời hứa dân Do Thái không khi nào quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là ngôn sứ vĩ đại nhất và trông mong nhân vật ấy đến như là “ngôn sứ lý tưởng”. Nhưng một lần nữa, Gioan Tẩy Giả không nhận vinh dự ấy là của mình.
Vậy họ hỏi ông là ai? Ông đáp mình chỉ là tiếng nói khuyến giục mọi người dọn đường cho Nhà Vua. Câu trích dẫn trong Is 40,3, tất cả các Phúc Âm đều trích dẫn câu này để ám chỉ Gioan Tẩy Giả (Mc 1,3; Mt 3,3; Lc 3,4). Ý niệm tìm ra trong câu ấy là: đường đi bên phương Đông mặt đường không bằng phẳng, không chắc chắn và thường chỉ là những lối mòn. Khi một vị vua sắp đến thăm một tỉnh, hoặc khi nhà chinh phục sắp kéo quân đi qua lãnh thổ của mình thì đường xá phải được san bằng, dọn thẳng và sắp xếp sao cho có trật tự. Điều Gioan ngụ ý là: “Ta chẳng là ai cả, ta chỉ là tiếng kêu gọi các ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng đợi nhà vua đến”. Ông muốn nhắc rằng: “Hãy tự sửa soạn đi, nhà vua đã lên đường rồi đó”.
Gioan Tẩy Giả là con người mà tất cả các nhà truyền giáo, các giáo sư đều phải bắt chước, ông chỉ là một tiếng nói, một ngón tay chỉ nhà vua. Điều cuối cùng ông mong muốn là mọi người hãy nhìn vào nhà vua. Ông muốn mọi người hãy quên ông, chỉ thấy nhà vua mà thôi.
Nhưng các Pharisêu lại thắc mắc một điều khác: Gioan lấy quyền gì để ban phép rửa? Nếu ông là Đấng Mêsia, là Êlia, hay là một ngôn sứ thì ông có thể ban phép rửa. Isaia có viết rằng: “Người này sẽ vảy rửa nhiều dân” (Is 52,15); Êdêkien cũng nói: “Ta sẽ rưới nước tinh khiết trên các ngươi, và các ngươi sẽ được sạch” (Ed 36,25). Dacaria nói: “Trong ngày đó, sẽ có một suối mở ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem vì tội lỗi và sự ô uế” (Dcr 13,1). Thế nhưng tại sao Gioan Tẩy Giả lại ban phép rửa?
Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là phép rửa do tay người làm thì không dành cho người Israel mà cho những người ngoại nhập và Do Thái giáo, tức là những người vốn có đạo khác, mới theo đạo Do Thái. Một người Israel chẳng bao giờ chịu phép rửa, họ đã thuộc về Chúa, nên không cần được rửa sạch nữa. Nhưng những người ngoại đến gia nhập Do Thái giáo thì phải chịu phép rửa. Gioan Tẩy Giả đã bắt dân Israel làm một việc mà chỉ có các dân ngoại mới phải làm. Ông có ý nói là tuyển dân phải được rửa sạch. Đó chính là điều Gioan Tẩy Giả tin, nhưng ông đã không trả lời trực tiếp.
Ông nói: “Về phần ta, ta làm phép rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không nhận biết, ta chẳng đáng cởi dây giày cho Ngài”. Gioan Tẩy Giả không nêu ra được một nghề nào hèn hạ hơn nữa, cởi dây giày là công việc của một nô lệ. Một ngạn ngữ của các rabbi bảo rằng môn đệ có thể làm cho thầy mình bất cứ việc gì một đầy tớ phải làm, ngoại trừ việc “cởi dây giày”. Việc đó quá nhàn hạ ngay cả đối với một môn đệ. Dù vậy, Gioan Tẩy Giả ngụ ý: “Với Đấng đang đến thì cả việc làm đầy tớ cho Ngài ta cũng không xứng đáng”. Chúng ta phải hiểu là lúc ấy Gioan Tẩy Giả đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu rồi, và ông đã nhận ra Chúa. Ở đây, ông nhắc lại ý đó một lần nữa và ngụ ý: “Nhà vua đang đến. Để chuẩn bị đón Ngài, các ngươi phải được tẩy rửa y như bất cứ người ngoại nào. Hãy dọn mình sẵn sàng để đi vào lịch sử của nhà vua”.
Chức vụ của Gioan Tẩy Giả là chức vụ của người dọn đường. Bất cứ sự cao trọng nào ông có được cũng đều đến từ sự cao trọng của Đấng mà ông loan báo. Ông là tấm gương lớn về con người sẵn sàng xóa mình đi để người ta chỉ nhìn thấy Chúa Cứu Thế. Ông nhận thấy mình là ngón tay chỉ cho thiên hạ thấy Chúa Cứu Thế. Nguyện Chúa ban cho chúng ta ơn biết quên mình, chỉ biết đến Chúa Cứu Thế thôi.
Việc xuất hiện của ông Gioan Tẩy Giả (1,6-8)
Điều ghi chú về ông Gioan Tẩy Giả khiến chúng ta rơi từ thế giới siêu nhiên và thần linh xuống: MV3-B38
Điều ghi chú về ông Gioan Tẩy Giả khiến chúng ta rơi từ thế giới siêu nhiên và thần linh xuống thế giới nhân trần: “Có một người”. Sự thay đổi giọng điệu khiến độc giả ngạc nhiên và rất có thể đoạn văn về ông Gioan Tẩy Giả này (cũng như câu 15) mới được tác giả đưa vào về sau để khuyên ngăn các môn đệ của mình không nên đặt vị ngôn sứ vĩ đại này ngang hàng với Chúa Giêsu. Giữa hai vị, có một sự khác biệt triệt để, phân cách “Đấng đã có từ lúc khởi đầu, vẫn hướng về Thiên Chúa” với con người này, được Thiên Chúa sai đến để làm chứng. Ông không phải là Ánh Sáng, nhưng làm chứng về Ánh Sáng. Ông Gioan là một nhân chứng làm chứng trước quyền lực Do Thái (1,19-28), trước dân Israel (1,31-34) và trước những môn đệ của mình (1,35-37). Khi được nhắc đến lần cuối cùng trong Tin Mừng, ông được ca tụng như là một nhân chứng trung thực: “Mọi điều ông ấy nói về Chúa Giêsu đều đúng” (Ga 10,41)
Ông Gioan: tiếng người hô của Ngôi Lời (1,19-28)
Người Do Thái (ở đây ý nói: quyền bính Do Thái) yêu cầu ông Gioan xác định mình so chiếu với niềm mong đợi Đấng Cứu Độ. Ông Gioan tuyên bố ba lần mình không phải là Đấng Kitô, không phải là Êlia, không phải là ngôn sứ. Ông chỉ là tiếng hô mở đường cho Đấng Mêsia.
Vào thời Chúa Giêsu, người Do Thái đợi mong Đấng Mêsia (Chúa Kitô theo tiếng Hy Lạp), nhưng mà sự đợi mong này mang nhiều hình thức khác nhau. Ta hiểu rằng người Do Thái đã có thể coi ông Gioan Tẩy Giả là Đấng Mêsia vì hoạt động làm phép rửa của ông có thể nhắc nhớ thời cánh chung gần đến. Chắc ông có liên hệ với nhóm Étxênô ở Cumran, và điều đó có thể giải thích ba tước hiệu trên, bởi vì nhóm Étxênô chờ mong ba nhân vật đó xoay quanh Đấng Mêsia. Ông Gioan Tẩy Giả không nhận mình là Đấng Mêsia được đợi mong. Ông cũng không nhận mình là Êlia, người được tiên đoán sẽ trở lại trước khi Đấng Mêsia đến. Êlia được lên trời trên chiếc xe của mình (1V 2,11) làm phát sinh những tục truyền về sự sống còn và sự trở lại của vị ngôn sứ vĩ đại này. Có người cho rằng ông vẫn còn sống như sách Sử Biên Niên quyển 2 trích dẫn bức thư của Êlia gửi cho vua Giôram sau khi được cất lên trời (2Sb 21,12). Sau thời lưu đầy, có tục truyền cho rằng Êlia sẽ trở lại vào thời cánh chung. Như ngôn sứ Malaki quả quyết: “Này, trước khi ngày cao cả kinh khiếp Chúa đến, Ta sẽ cử tiên tri Êlia đến cùng các ngươi” (Ml 3,23). Dáng vẻ bên ngoài của Gioan có thể làm tưởng nhớ đến Êlia “người mặc áo lông, thắt lưng da” (2V 1,8). Vị ngôn sứ được mong đợi này ám chỉ nhân vật mà Môsê loan báo sắp xuất hiện trong Đệ Nhị Luật 18,15-18: “Ngay trong dân tộc mình, giữa đồng bào ngươi, Chúa sẽ gây dựng cho ngươi một ngôn sứ như ta”.
Ông Gioan nhận cho mình hai vai trò đối với Đấng sắp đến: trước tiên ông là tiếng người hô mở đường cho “Đấng mà họ không biết”, đối chiếu với Isaia 40,3 loan báo sự xuất hiện của một sứ giả đến dọn đường cho những người bị phát lưu từ Babylon trở về. Tin Mừng Gioan, cũng như các Tin Mừng Nhất Lãm, đều trích dẫn Isaia, nhưng không theo bản dịch Hipri mà theo bản dịch Hy Lạp, gọi là Bản LXX. Việc người Do Thái không nhận biết Đấng Mêsia không phải là một lỗi phạm. Chính Gioan cũng thuộc vào nhóm những kẻ không biết Người (1,33), có lẽ ám chỉ đến một tục truyền dân gian theo đó Đấng Mêsia sẽ ẩn mình và thình lình xuất hiện trước dân chúng.
Sau nữa, ông là người làm phép rửa khai tâm chuẩn bị cho phép rửa trong Thánh Thần. Đối với Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu phải được đón nhận như một ân huệ mầu nhiệm của Thiên Chúa, mà không ai nhận biết cội nguồn của Người. Chính ông không đáng cởi quai dép cho Người, một công việc dành riêng cho nô lệ. Điều đó nói lên sự cách biệt giữa Chúa Giêsu với ông.
Lời chứng đầu tiên này là khởi điểm sứ mạng của Gioan: tác giả trần thuật dành cho lời chứng này một sự trang trọng khi xác định địa điểm: “Tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa” (1,28). Địa điểm này đã được đặt thành vấn đề và có vài người, tiếp sau ông Ôrgiên, đọc thành Bêtharaba, gần sông Giođan. Đúng hơn là Bêtania, cách đọc được hầu hết các bản chép tay minh định. Không nên nhầm lẫn thành Bêtania của ông Ladarô. Ở chương 10, thánh sử sẽ nhắc lại quang cảnh đầu tiên này để gây chú ý đến kết quả sứ mạng của Gioan Tẩy Giả: “Đức Giêsu sang bên kia sông Giođan, đến chỗ trước kia ông Gioan đã làm phép rửa (…). Nhiều người bảo nhau: “Ông Gioan đã không làm một dấu lạ nào đó, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng” (10,40-42). Đây là cách xác nhận sứ mạng của Gioan là để làm chứng.
(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)
Trên đường đi, cảnh sát giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh: MV3-B39
Trên đường đi, cảnh sát giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh nhân dân, trong đó có ghi sẵn họ và tên, địa chỉ, ngày và nơi sinh của tôi. Thế là cảnh sát hài lòng, vì đã biết được tôi là ai trong giấy tờ. Nhưng cảnh sát lại không biết tôi làm những việc gì, những mối quan hệ của tôi, những suy nghĩ của tôi, lý tưởng của tôi, niềm vui, nỗi buồn của tôi. Tất cả những điều đó ông không cần lưu tâm. Ông đã cầm được giấy chứng minh nhân dân chính thức của tôi và thế là đủ. Nếu có cần thì hỏi thêm giấy chủ quyền xe gắn máy và thuế lưu hành.
Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến với ông, khiến nhà cầm quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ cử phái đoàn đến điều tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan Tẩy Giả đã không xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, địa chỉ, lý lịch của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự dấn thân, ơn gọi và lẽ sống của ông: “Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc… Tôi đây làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan Tẩy Giả hướng toàn bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mặc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người Tin Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, là bình an và niềm vui cho nhân loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng hô dọn đường cho Chúa đến.
Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi cho chính mình: Kitô hữu, chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy Giả: “Ông là ai? Ông nói gì về chính mình?”
Chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi “Thiên Chúa giáo” hoặc giấy rửa tội của chúng ta ra. Vấn đề là, như Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta, về động cơ bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc đời chúng ta. Chắc chắn chúng ta còn nhớ câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở trong tù, ông đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không mất niềm tin vào tôi” (Lc 7,12-23). Chúng ta cũng hãy tự trả lời về chính mình bằng chính những việc làm của chúng ta, bằng chính cách sống của chúng ta. Cả cuộc đời chúng ta phải nói về Đức Giêsu, phải loan báo Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài.
Kitô hữu là ai?
Là những người đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi, những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như người yêu thích một đồ vật hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như người ta yêu thích một bài hát hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết. Người Kitô hữu yêu mến Đức Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì, đối với chúng ta, Đức Giêsu chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng Ngài hiện đang sống với chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công việc của Ngài: đó là yêu thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ bị áp bức, bóc lột, chữa lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ bị giam cầm, loan báo Tin Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại chúng ta, vẫn còn có Mẹ Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger Schutz của cộng đoàn Taizé, cha Pierre của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm gương âm thầm khác nối tiếp bước chân Gioan Tẩy Giả.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên những con người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng phải chỉ nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này, giáo xứ nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự chọn lựa của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay chúng ta cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Đức Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ nhận ra chúng ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.
Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta, những người khác có thể gặp được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làm việc, chỗ giải trí, chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta là phần nào đã gặp được Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn, một ngôi sao Giáng Sinh, một nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô, hãy sống hết lòng với Chúa và do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp Chúa Giêsu và đón nhận ơn cứu độ của Ngài.
Có một người được Thiên Chúa sai đến, đó là Gioan. Ông đến để làm chứng...
Cùng với Đức Maria, Gioan Tẩy Giả là khuôn mặt lớn xuất hiện trong Mùa Vọng. Mỗi năm: MV3-B40
Cùng với Đức Maria, Gioan Tẩy Giả là khuôn mặt lớn xuất hiện trong Mùa Vọng. Mỗi năm, Phụng vụ đều dành trọn Chúa nhật II và III Mùa Vọng nói về Gioan.
Một bài ca diễn Tin Mừng (bài hát được sáng tác từ nội dung Tin Mừng) đã ca tụng tuyệt vời vai trò duy nhất của Gioan: “Là vị Ngôn sứ cuối cùng, là chứng nhân đầu tiên của Đức Giêsu Kitô, là tiếng kêu trong hoang địa, thế mà ông đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: Lạy Ngài, đó là sự cao cả, niềm vui của Ngài giờ đây đã nên trọn vẹn. Hỡi vị chứng nhân của ánh sáng, xin hãy nói cho chúng tôi hay, Đấng Mêsia sẽ đến với chúng tôi bằng con đường nào!". Và những câu chuyện tiếp của bài ca đã lập lại một số lời của Gioan.
Thực sự, không ai tiêu biểu hơn Gioan trong Mùa Vọng. Ông là vị ngôn sứ cuối cùng và cao cả của Cựu ước (Lc 1,76; Mt 11,9): Do đó ông là con người nối kết giữa quá vãng và tương lai, giữa điều có trước và cái đến sau.
Lạy Chúa, xin giúp con biết trung thành với nguồn gốc của chúng con trong quá khứ, nhưng cũng luôn vươn tới mọi cái mới mẻ mà Chúa muốn chúng con thiết lập Hôm Nay.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng. Chứng nhân của ánh sáng! Tước hiệu đẹp biết bao! Gioan là người chứng tá!
Ba Tin Mừng kia đều giới thiệu cho ta, Gioan Tẩy Giả như "Người rao giảng lòng sám hối" chỉ có Tin Mừng thứ tư cho ta hay, ông được coi như “chứng nhân của ánh sáng”… “Người chứng thứ nhất của Đức Giêsu Kitô”. Ta đừng quên rằng, từ chứng nhân, được sử dụng trong tiếng Hy Lạp, ở thuộc ánh “Martyros”, và trên thực tế, Gioan đã là vị “chứng nhân đầu tiên" của Đức Giêsu. Tin Mừng Thánh Gioan luôn lặp lại tư tưởng này: Thế gian “lên án” Đức Giêsu. Người ta phủ nhận và tố cáo Người. Cuộc kết án này chỉ nhằm đến một vấn nạn: “Nhưng ông ta là ai?” Khi đó các chứng nhân mới xuất hiện và làm chứng cho kẻ bị tố cáo. Từ “chứng tá" được sử dụng 14 lần, và động từ "làm chứng" được dùng tới 33 lần. Người chứng đầu tiên đã xuất hiện, đó là Gioan Tẩy giả: "ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Liệu tôi có dám quyết định theo Đức Giêsu, khi người ta tố cáo Người không?
Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do Thái đến hỏi ông: "Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa?"
Những câu hỏi trên cũng mời gọi ta tự vấn về vai trò chứng nhân của mình. Mọi Kitô hữu đều phải trở nên nhân chứng cho Đức Kitô. Do đó ta hãy nhìn coi, chính cách sống của Gioan đã đặt vấn đề cho những người đồng thời với ông. Người ta thắc mắc về lai lịch của ông. Chúng ta có trở thành vấn đề cho những người nhìn ngắm chúng ta sống không? Trong cung cách đối xử của ta có điều gì kích thích người khác phải suy nghĩ không? Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống cách nào để những người sống chung quanh chúng con, các bạn đồng sự, những người quen biết đều tự hối về "bí quyết” chúng con đang sống. Vậy ông là ai?
Tôi không phải là Đấng Kitô... cũng không phải là vị Ngôn sứ... tôi là một “Tiếng kêu”.
Vậy là sau lời hạch hỏi về lai lịch của Gioan, người chứng, lại đến lý lịch của Đức Giêsu mà người ta muốn tìm biết. Vấn nạn thực sự đang gây nóng bỏng trên môi miệng những kẻ thăm dò, đó là: "ông có nhận mình là Đức Kitô không?". Rồi một câu hỏi khác lại được gợi lên: “Thôi được, vậy ông ấy là ai? ông có biết ông ta không?”
Câu trả lời của Gioan đáp ứng cả hai: ông khiêm tốn chậm rãi nói, ông không phải là Đấng Kitô. . . Rồi ông nói thêm, ông chỉ muốn là một "tiếng kêu, tiếng kêu về một người khác! Hôm Nay, Giáo Hội và mỗi Kitô hữu, cần phải lập lại chứng tá can trường của Gioan: “Hỡi Giáo Hội, Giáo Hội có thể nói gì về chính mình? Giáo Hội coi mình là ai? Hỡi Kitô hữu, bạn có thể nói gì về chính mình? Bạn coi mình là ai?". Không, tôi không phải là Đức Kitô. Tôi chỉ là tiếng vang vọng của Đức Kitô. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những tự phụ coi mình như chiếm hữu chân lý, như những “kẻ độc quyền thừa hưởng" Đức Giêsu Kitô.
Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.
Đấng Kitô không hiện diện ở một nơi duy nhất? Tôi tin rằng Đấng Kitô mà các ông đang kiếm tìm đó, đã ở giữa các ông, ở giữa những hy vọng, những cuộc giao chiến, những tình yêu nhân loại của các ông! Tính ưu việt duy nhất của Giáo Hội, của người Kitô hữu, là “nhận biết" và gọi tên "Đấng mà con người đang mong đợi và dò dẫm tìm kiếm, Đấng đang hiện diện trong cuộc đời họ”, chẳng hạn, vào ngày 10/12/1948, khi Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thì chúng ta nhận ngay ra rằng, đó là một sự hiện diện "của Đấng đang" ở giữa cho dù Người chưa được người ta nhận biết. "Ta đói các ngươi đã nhận ra quyền sống của ta... Ta ở tù, bị ngược đãi bị tra tấn, các ngươi đã nhận ra quyền được bảo vệ nhân phẩm của Ta...” Nỗi khát vọng lớn lao của nhân loại là được sống công bình hơn, thì đó là sự hiện diện của Đấng hoàn toàn công chính. Biết bao người thuộc mọi tôn giáo các vị lãnh đạo các quốc gia thuộc mọi ý thức hệ, đã có thể công bố một văn kiện như thế, thì đó không phải là một dấu chỉ thời đại sao? ở giữa các ông vẫn có một vị nào đó... cho dù các ông chưa gọi được tên Người. Dù là Kitô hữu nhưng có thể chúng ta đã miễn cưỡng phải chấp nhận phong trào đề cao nhân quyền trên đây, bởi vì ta cũng thuộc vào số người thường nhạo báng những quyền đó, mỗi lần ta khinh miệt một người anh em. Nhưng làm sao ta lại không vui mừng trước yêu cầu phải tôn trọng mọi người đang lớn dần trong nhân loại. Hôm Nay, khi ta biết rằng, Thiên Chúa đã làm người, và trong Đức Kitô mà bản tính con người đã được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt và điều đó không phải chỉ có giá trị cho các kẻ tin Đức Kitô, nhưng đúng ra cho mọi người thiện chí, được ơn Thánh hoạt động cách vô hình trong tâm hồn, như Công đồng Vatican II đã quả quyết rõ ràng (G.S 22).
Vị mà các ông không biết... Người sẽ đến...
Suốt cuộc đời Đức Giêsu đã không được người đời nhận biết. Thiên Chúa không đến trong tiếng kèn thổi, trong sấm sét bão giông. Thiên Chúa không phải là “kẻ chà đạp” hay "thống trị". Người như "tiếng gió thì thầm mà ta không biết đâu đến và sẽ thổi tới đâu". (Ga 3,8). Thiên Chúa là “Đấng tự để cho người ta chà đạp, đóng đinh, buộc tội”. Như thế có ngược đời không? Không đâu! Đó là sự thật về Thiên Chúa, Đấng chỉ có thể là "Thiên Chúa dấu ẩn”, ta không thể nắm bắt được “Bản thể" của Người. Và về căn tính của Đức Giêsu (“Vậy ông là ai”), tất cả mọi dò tìm của lý trí cũng đều bất lực. Người thực sư là "Thiên Chúa không thể biết được”, là "Thiên Chúa dấu ẩn"!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra Chúa, ngay tại nơi Chúa ẩn dấu, con đang kiếm tìm Chúa trong sức khỏe, trong thành công, trong tình thân hữu, trong hạnh phúc được sống (và Chúa vẫn ở đó!). Thế mà con chỉ thấy bệnh tật, thất bại trong cuộc sống vợ chồng, bà con hay nghề nghiệp, và nghèo đói. Lạy Chúa, xin giúp con đừng bỏ qua mà không nhận ra sự hiện diện đáng bị che dấu của Chúa.
Này bạn, nếu bạn khám phá ra Tôi đang dấu ẩn, nhưng luôn hiện diện, thì bạn đã tìm được một nguồn vui sướng mà không ai, không gì có thể làm say mê bạn hơn được, niềm vui Magnificat của những người nghèo, niềm vui của Gioan Tẩy Giả khi ông thấy mình nhỏ bé đi, còn niềm vui của Người "bây giờ đã trọn vẹn" (Ga 3,29-30).
Tôi không đáng cởi quai dép cho Người...
Gioan Tẩy Giả là con người “khiêm tốn xóa bỏ đời mình trước Đấng ông loan báo". Gioan Tẩy Giả, đó là chứng nhân đúng nghĩa nhất. Ông chỉ hiện diện nhằm quy chiếu về một Đấng khác. Ông từ chối tước hiệu Kitô (Ga 1,20). Ông mong ước được “biến đi" để Người “lớn lên" (Ga 3,30). Ông không phải là ánh Sáng, nhưng chỉ là một cây đèn nhỏ đốt sáng trong đêm tối (Ga 5,35). Ông là người “tôi tớ" không xứng đáng cởi quai dép cho chủ (Ga 1,27). Ông chỉ là bạn hữu của chàng rể, đứng xa xa, bị xóa mờ (Ga 3,29). Ông đã hết sức hoàn tất "tác vụ" của mình, bằng cách tự đình chỉ công việc của mình để làm lợi ích cho Đức Giêsu, bằng cách hy sinh mọi môn đệ của mình để gửi họ đến theo một Đấng khác” (Ga 1,35-39). Cuối cùng ông đã chết trước khi thấy vinh quang của Đấng Phục Sinh, trong cảnh hoàn toàn mù tối của nghi ngờ: “Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác" (Mt. 11,2). Như thế Gioan Tẩy Giả không những là một “chứng nhân" tuyệt hảo, mà cũng là "mẫu tín hữu" tiêu biểu: “Kẻ không thấy nhưng vẫn tin” (Ga 20,29).
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu cho chúng con.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con có khả năng tự xóa mờ và sống khiêm tốn như Ngài.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con "tình yêu điên cuồng" đó, biết hy sinh cho kẻ khác để niềm vui chúng con được trọn vẹn…
Tôi đây làm phép rửa bằng nước.
Đó là những chuyên viên “thanh tẩy", các tư tế và trợ tế chính thức, được giấy tờ công nhận hẳn hoi (Ga 1,19), đến kiểm chứng tư cách chính thức của kẻ ngoại cuộc này, mà hoạt động “tha tội" (Mc l,4) của ông ta đáng bị tôn giáo tinh tuyền, tôn giáo của Giêrusalem ngần ngại và cấm đoán (Ga 1, 19). Bởi vì những kẻ đến hạch hỏi Gioan, chính là nhóm người pharisêu, những kẻ “sạch”, những “Peruoushim", biết trọn vẹn lề luật, các quy định, những điều được phép hay cấm đoán... (Ga 1,24). Nhưng than ôi, những người Pharisêu trung hậu này, khi chăm chú đến những nghi thức đúng thực, lại bỏ qua Đấng duy nhất có quyền tha tội. Phần lớn số người trong nhóm họ sẽ từ chối Ngài. Bởi vì chính Gioan Tẩy giả biết rõ Đấng đó: Không phải ông, người thừa tác và tôi tớ hèn mọn tha tội... vì ông chỉ làm phép rửa bằng nước... nhưng sau ông, sau cử chỉ làm phép rửa có tính nghi thức của ông, thì "Chiên xóa bỏ tội trần gian" sẽ đến (Ga l,29).
Lạy Chúa, càng tới gần lễ Noel, xin giúp chúng con mau mau tới gần Chúa, vì chỉ mình Chúa mới xóa bỏ được tội lỗi.
Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan.
Họ đã từ Giêrusalem đến. Từ thành thánh, trung tâm thế giới để phổ biến và giám sát lời Chúa. Thế mà, Thiên Chúa lại tỏ mình ra trên một miền đất lạ, bên kia sông Giođan. Vị thánh sử rất tin vào tầm quan trọng của khung cảnh địa lý này, khiến ông nhấn mạnh tới hai lần (Ga 1,28 và 10,40). Lạy Chúa, xin gúp chúng con trở nên nhưng "thừa sai", không đóng khung mình trong ranh giới hạn hẹp của chúng con. Xin mở rộng lòng chúng con nhận ra sự hiện diện kỳ diệu của Chúa... trên bờ sông bên kia.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Người Do thái": Nơi Gioan, hạn từ này đôi khi ám chỉ các thành phần của dân Israel (3,25; 4,9.22): MV3-B41
“Người Do thái": Nơi Gioan, hạn từ này đôi khi ám chỉ các thành phần của dân Israel (3,25; 4,9.22); nhưng trong hầu hết mọi trường hợp nó nhắm đến họ như những người đại diện cho một thế giới đang đi dần đến chỗ ngộ nhận rồi đối nghịch với Đấng Thiên Chúa sai đến, nghĩa là nó đặc biệt ám chỉ các quyền bính hiện hữu (2,18; 5,10-18; 7,1.13; 9,22 v.v.)
"Họ đã được biệt phái sai đến": Người ta không biết phải dịch câu 24 này sao cho đúng. Có thể hiểu rằng phái đoàn gồm có cả Biệt phái, hay chỉ gồm Biệt phái, hoặc do Biệt phái sai đi (như cách dịch của BJ và Nguyễn thế Thuấn ở đây muốn hiểu). Nhưng cách dịch sau cùng này, nếu đúng, lại khác nữa nghi ngờ sự hiểu biết mà tác giả Tin Mừng thứ 4 có thể có về Do thái giáo trước năm 70. Các biệt phái bấy giờ thù nghịch với các tư tế và Lêvi (l,19) những người mà họ không có quyền sai phái được. Thành thử câu này là một trong các lý chứng để gán Tin Mừng Thứ Tư không phải cho Gioan sứ đồ, con của Dêbêđê, nhưng cho một Gioan khác (“Gioan Trưởng lão", mà papias đã nói đến?) môn đồ của vị sứ đồ.
"Vậy tại sao ông dám thanh tẩy?": Cái làm bận tâm quyền bính tôn giáo hơn cả chính là phép rửa giao ban. Vì đây không phải là các nghi thức thanh tẩy thường thấy giữa người Do thái mà trong đó mỗi người tự rửa cho mình, sông là một phép rửa được ban với uy quyền do một người vốn là thừa tác viên độc hữu. Đàng khác, đây chẳng phải là Gioan làm phép rửa cho lương dân, để họ gia nhập Do thái giáo, nhưng là cho những người Do thái tinh ròng. Sau cùng, ông đặt phép rửa này tương quan với Nước Thiên Chúa mà ông loan báo là gần đến; khiến cho người ta phải nghĩ rằng ông có những tư tưởng, hoài bão thiên sai. Tất cả những điều đó phải được làm sáng tỏ kỹ lưỡng.
"Bêthania, bên kia sông Giođanô": Khó xác định địa danh này. Thực vậy, một vài thủ bản sao ghi một tên rất là bác học: Bethabara, địa danh Hy Bá có nghĩa "chỗ lội qua được". Cách viết này không hẳn là không nguyên thủy, nhưng có thể ngày xưa, ngoài ngôi làng của Mátta và Maria, có một nơi gọi là Bêtania mà nay bị lãng quên. Nếu nhân cách đọc Bethabara, “chỗ lội qua được", thì đấy là một khúc cạn của sông Giođanô nằm phía bắc Biển Chết. Như thế, Tin Mừng được mặc khải tại chính địa điểm mà ngày xưa tuyển dân đã vượt qua sông Giođanô để đi vào Đất Hứa. Một lối điển hình luận nhưng chẳng phải xa lạ với thánh Gioan. Thành thử không cấm ta đề cập đến nó, mặc dầu hình như đây là tư tưởng của Origène hơn là của thánh sử.
KẾT LUẬN
Như vậy bản tổng kết của ngày thứ nhất này còn khá tiêu cực lời nói của vị Tẩy Giả như tạo nên một khoảng trống cần được lấp đầy. Gioan Tẩy giả không phải là Đức Messia. Cũng chẳng phải là Elia hay Đấng Ngôn sứ. Dĩ nhiên ông làm phép rửa, nhưng chỉ trong nước mà thôi. Ông tự nhận là không đáng cởi dây giầy cho Đấng đến sau mình. Như mọi người Do Thái tới chất vấn, ông cũng chờ đợi Đức Messia. Ông không biết gì về Người hơn họ. Ông chỉ hay một điều là ông xuất hiện trước Người. Để Chiên Thiên Chúa, tuyển nhân của Thiên Chúa được mặc khải, cần phải đợi "ngày” thứ hai.
Đem ra khỏi văn mạch chung, bản văn của chúng ta còn nhấn mạnh nhiều đến tính cách tương đối, tính cách phụ tùy hoàn toàn của công việc vị Tẩy giả. Nét này - nếu đem so sánh với Tin mừng Nhất Lãm - đúng là nét căn bản trong hình ảnh mà Tin mừng Thứ Tư phác họa ra cho ta về vị Tiền Hô. Theo Tin Mừng Thứ Tư, Gioan Tẩy Giả chỉ là nhân vật trong đó tập trung niềm chờ mong của cả Cưụ ước.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG.
1. Cuộc xuất hành thứ nhất là cuộc xuất hành từ chốn nô lệ Ai cập về miền Đất Hứa dưới sự hướng dẫn của Môisen, ngang qua Biển đỏ và sa mạc, với manna làm của ăn và mạch suối hốc đá làm thứ giải khát. Cuộc xuất hành mới là cuộc xuất hành đưa người Do thái từ cảnh lưu đày Babylon về lại Thánh địa, dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa, Mục tử của dân, ngang qua sa mạc Syria đầy chướng ngại đối với những kẻ thoát chỉnh lưu đày. Đó là cuộc phục hưng Israel để đợi chờ Đấng Messia đến. Vào thời của Đấng Messia, ta thấy cuộc xuất hành được làm lại. Gioan Tẩy giả, đứng ở sa mạc, bên bờ sông Giođanô, đưa đám người thống hối qua con sông thánh để tiến về Chúa Kitô (Mt 3, 1-11). Chúa Giêsu khai mạc cuộc đời công khai trong sa mạc của cám dỗ và của đói khát (Mt 4,1-11). Việc người đi trên nước (Ga 6, 16-21) mở đầu cho lời hứa ban manna đích thực (Ga 6,31-34) là Mình Người, bánh sự sống chân thật (Ga 6,35), của ăn nuôi hồn (Ga 6,51-58). Việc Người bị giương cao trên Thập giá thể hiện hình ảnh biểu tượng con rắn đồng thời Xuất hành (Ga 3,4). Rồi Chúa Giêsu bàn về cuộc xuất hành của cái chết Người với Môisen và Elia trong cuộc biến hình trên núi (Lc 9,31). Vào ngày Thăng Thiên, Người hoàn tất cuộc xuất hành về với Cha (Cv 1,9). Đến lượt chúng ta, trong Giáo Hội của Chúa Kitô, chúng ta đi qua nước rửa tội và, nhờ được Thánh Thể nuôi dưỡng, chúng ta trở nên đủ sức thắng vượt các cơn cám dỗ vốn làm cho ta xa Chúa (lCr 10). Việc biến cải tâm hồn và lòng thống hối làm nên cuộc xuất hành của tội nhân, là kẻ chạy trốn ách thống trị của tội ác và tìm lại được, nhờ ơn tha thứ, sự bình an của tâm hồn (Mt 3,1-3.). Cái chết là cuộc Xuất hành đưa linh hồn nào đã dựa vào Chúa, tìm gặp Chúa Kitô và Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh cửu (2Cr 5,6-10).
2. Sau bài tựa là phần nhập đề tổng quát và là tóm lược của cuốn sách, Gioan đặt ngay đầu Tin Mừng của ông khuôn mặt vị Tẩy Giả. Đối với thánh sử, ông này rõ ràng là khuôn mặt của mùa Vọng, là điển hình của con người đứng giữa quá khứ và thời Chúa giáng lâm. Thành thử chúng ta lạ gì khi, suốt mùa Vọng, Giáo Hội nhắc đến khuôn mặt của Gioan trong nhiều bài Tin Mừng Chúa Nhật, để nói cho chúng ta biết rằng mùa Vọng của chúng ta là gì: vì nếu Chúa đã đến, Người cũng còn phải đến thực sự. Người đã có đấy, nhưng vẫn còn là vị Thiên Chúa mai ẩn giữa chúng ta, và vì thế chúng ta vẫn luôn luôn là những kẻ không có nơi cư ngụ vững chắc đời này, vẫn còn là lữ khách xuất hành đứng giữa thời gian và vĩnh cửu, còn là những kẻ phải chờ đợi Chúa đến, những kẻ vẫn cử hành Mùa Vọng ngay cả trong mùa Giáng sinh, những kẻ phải hiểu rằng đây luôn là khởi điểm và thời gian của cuộc hành hương, đây luôn là cuộc hành trình đi qua thời gian trong nguy nan gian khổ, cuộc hành trình vững tâm đi đích ánh sáng vĩnh cửu mà chúng ta còn chờ đợi. Đối với chúng ta, điều đó có nghĩa là vĩnh cửu chưa có đấy, nhưng không có nghĩa là chúng ta được phép bất quan tâm đến ánh sáng đã thắp lên, bất lưu ý tới trần gian này. Chúng ta phải lấy vị Tiền hô làm kiểu mẫu.
3. Kinh Thánh nói Gioan Tẩy giả đã bị các sứ giả của người biệt phái chất vấn về lai lịch, trong thâm ý xin ông làm một cử chỉ, nói lên một lời để hợp pháp hóa cuộc sống, công việc của ông. Và ông đáp lại: ''Tôi không phải là Chúa Kitô". Đời chúng ta há chẳng có chuyện tương tự, một kinh nghiệm tương tự, khi chúng ta phải kiên quyết mà bảo: ‘Không! Tôi không phải thế. Tôi đâu có phải là một người mạnh, một kẻ chẳng cần Thiên Chúa và chẳng cần tìm hạnh phúc nơi Ngài’. Vấn đề luôn luôn là xem con người tôi có bám chặt vào kinh nghiệm ấy chăng, có nói tiếng không chăng, vì ý nghĩa đích thực của đời tôi hệ tại chỗ thừa nhận ra sự yếu đuối của mình, tội trạng của mình và nhường chỗ cho cái duy nhất có thể đi vào đời tôi và ban cho nó ý nghĩa. Khắp nơi và luôn mãi, chúng ta phải từ bỏ sự tự tôn lẫn thói kiêu ngạo bằng cách bảo: "Tôi không phải thế. Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, theo kiểu nói của vị Tiền Hô".
4. Ngày nay có nhiều kẻ đang bao quanh ta mà chất vấn: "Kitô hữu, bạn là ai?". Họ là người ngoài Kitô giáo, người quan sát vô tư hay người lưu ý đến lối sống của ta, cũng hỏi ta như thể lương tâm ta: "Mày nói sao về chính mày" hay những kẻ trong Hội thánh, đang coi sóc linh hồn ta và phải trả lẽ về ta trước mặt Chúa như: hàng giáo phẩm, cha giải tội, cha linh hướng.
5. Nếu thành tâm, ta sẽ không chấp nhận bị tưởng lầm, tưởng lầm là Chúa Kitô (như thể ta đại diện Người hoàn toàn, hay thử coi mình ngang hàng với Người), tưởng lầm là các ngôn sứ có trách nhiệm về vận mạng của kẻ đồng đạo) và đòi bất khả ngộ, tưởng lầm như là bậc thánh vì chúng ta là những tội nhân (1Ga 1,8).
6. Với lòng khiêm tốn của vị Tẩy giả, hãy chấp nhận trở thành một tiếng nói, một âm vang của Ngôi Lời, Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga1,1-2). Dù chúng ta là phản ảnh của vinh quang Chúa Kitô (2Cr 4,6), là hình ảnh sống động của Con Thiên Chúa (Rm 8,29), đấy vẫn là một ân huệ nhưng không của Ngài (Ep 2,8). Dù có thể làm gì cho Ngài, chúng ta bao giờ cũng chỉ là những tôi tớ (Lc 16,16).
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Ngài chỉ là chứng nhân của sự sáng.
Bài đọc cho Chúa nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay lấy trong Tin Mừng của thánh Gioan: MV3-B42
Bài đọc cho Chúa nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay lấy trong Tin Mừng của thánh Gioan. Trong lúc lời mở đầu được viết như một thánh thi: "Từ đầu đã có Ngôi Lời...”, thì bỗng nhiên cung giọng trên như bị ngắt ngang (6-8), tác giả làm xuất hiện "một người" tên là Gioan.
Khi khẳng định Gioan được "Thiên Chúa phái đến", thánh sử đã xếp ông vào hàng những ngôn sứ lớn. Ngài được sai đến như "một chứng nhân" để làm chứng cho “Anh Sáng”, bởi vì chính ngài không phải là ánh sáng.
2. Ngài chỉ là đấng mặc khải sự hiện diện huyền nhiệm.
Từ câu 19 đến câu 28, chúng ta thấy Gioan thực hiện điều mà đoạn mở đầu đã loan báo về ngài.
Bị thúc bách bởi người Do Thái (phải hiểu là giáo quyền của phái Giuđa) muốn biết rõ ngài có phải là Đấng Mêsia họ đang mong đợi hay không, thì ba lần Gioan Tẩy Giả đều trả lời bằng cách phủ nhận.
Không, ngài không phải Đấng Mêsia cho dù hành động làm phép rửa của ngài gợi lên thời kỳ đã mãn đang đến, và có thể làm cho người ta tin như thế.
Không, ngài không phải là "Êlia”, đấng sẽ đến trước Đấng Mêsia như người ta khẳng định từ khi ông được cất lên trời trong cỗ xe bằng lửa (xem Mal. 3,23: "Này đây Ta sẽ sai Êlia, vị ngôn sứ trước khi ngày của Yavê đến ") .
Không, ngài không phải là "vị tiên tri vĩ đại" nhân vật mà Môsê đã loan báo sẽ đến (trong Đệ Nhị Luật 18,15-18).
Trước sự gạn hỏi của đối phương: "Nếu ông không phải là Đấng Messia, là Êlia hay vị ngôn sứ vĩ đại, tại sao ông lại làm phép rửa?”. Gioan Tẩy Giả xác định vị trí của mình đối với Đấng ngài loan báo, ngài có hai vai trò:
Trước hết ngài là "tiếng kêu" mở đường cho Đấng mà họ không biết. Ngài thực hiện lời tiên tri trong Isaia 40 nơi bản thân và trong sứ mạng của ngài: "Tôi là tiếng kêu trong sa mạc: hãy san bằng đường của Chúa như ngôn sứ Isaia đã loan báo" (bài đọc thứ nhất Chúa nhật II Mùa Vọng).
X. Léon Dufour dẫn giải: "Tự giới thiệu mình là "tiếng kêu”, Gioan đảm nhận phẩm cách cao trọng của Kinh Thánh. Nếu tự ngài không có gì cả cho riêng mình, ngài nhận lấy Lời Hứa trong chính bản thân ngài. Nếu thánh sử không diễn tả những nét đặc biệt của Gioan Tẩy giả, là vì muốn mặc cho ngài khuôn mặt của Cựu ước để qua nhân chứng này, chính Thánh Kinh của Israel nhận ra và chỉ rõ Đức Kitô là Đấng Mêsia. Từ lúc mở đầu cuốn sách cái nhìn này là chủ yếu trong suốt cuốn Tin Mừng của Gioan" (Sđd., Tr. 1 61).
Sau đó, ngài là đấng làm phép rửa ‘trong nước’, phép rửa khai tâm để hướng về phép rửa "trong Thánh thần”. A. Marchadour viết: "Đối với Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu phải được tiếp nhận như một ân huệ nhiệm mầu của Thiên Chúa, Đấng mà không ai biết nguồn gốc. Chính ông cũng không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài, một việc chỉ do hàng tôi tớ làm mà thôi. Điều đó nói lên sự cách biệt giữa Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả” (Tin Mừng thánh Gioan, Centurion, tr. 43).
Sự hiện diện của Đấng Mêsia sẽ hoàn tất lời Chúa hứa với Israel. Điều cần thiết là biết được Đấng sẽ đến là ai. Ít lâu sau, Gioan Tẩy Giả sẽ chỉ cho thấy Đức Giêsu là "Chiên Thiên Chúa" (Tin Mừng Chúa nhật II, năm B).
BÀI ĐỌC THÊM
Đáp lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy sẵn sàng để đón rước con Thiên Chúa làm người.
(Sintas trong: "Lời Chúa để suy gẫm và dọn bài giảng năm B", Mediaspaul, tr. 14-15).
Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ trong cả cuộc sống của ngài. Lời dạy của ngài là một lời kêu mời sám hối và đền tội đến nỗi giáo quyền Giêrusalem lo lắng và sai người đến hỏi ông: "Ông là ai?". Đằng sau câu hỏi này, còn có một câu hỏi khác: ngài có phải là Đấng Mêsia mà tất cả truyền thống Do Thái chờ đợi không?
Gioan khẳng định ông không phải là Đấng "Mêsia", đồng thời ông loan báo một điều lạ lùng: Đấng Mêsia đã ở giữa họ mà họ không biết. Họ hãy mau chuẩn bị. Nếu muốn nhận ra Người thì hãy đọc lại lời tiên tri Isaia. Lời đó sẽ nói cho hay cứ dấu nào họ sẽ nhận biết Người.
Isaia đã hứa những gì? Chúng ta vừa nghe ông nói. Đấng Mêsia không tỏ mình ra trong sự huy hoàng mà loài người thường gán cho thần thánh. Ngài đến với người nghèo để loan báo Tin Mừng cho họ. Ngài đến với người tàn tật để loan báo họ sẽ được lành. Ngài đến với tù nhân để loan báo họ sẽ được tự do. Để gặp được Đấng Thiên Chúa sai đến, điều quan trọng là chúng ta nhận ra mình đứng về phía những người mà Người được sai đến. Nếu chúng ta không muốn sống nghèo giữa người nghèo, chúng ta sẽ không gặp được Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta không nhận ra mình là người bệnh hoạn, và trái tim tan nát hay bị tù đày, Giáng sinh đích thực sẽ không phải là của chúng ta.
Tự nhận và muốn mình là người nghèo của Thiên Chúa, đó là thống hối, đó là phép rửa mà chúng ta được Gioan mời gọi, nếu chúng ta muốn dọn mình để mừng Con Chúa làm người. Lẽ tất nhiên sự hoán cải này là bổn phận thiêng liêng và thuộc nội tâm. Nhưng nếu sự tiến triển bên trong không được diễn tả ra bên ngoài bằng việc làm và một đời sống cụ thể thì không có gì là thật. Bởi thế, Mùa Vọng mới gọi chúng ta đến gặp những anh em nghèo vật chất hay tinh thần, bệnh hoạn và tù nhân. Không phải với một thái độ trịch thượng, thương hại. Ta phải đến với họ như đến với người anh em, bởi lẽ những gì biểu hiện ra trong thân xác, trong cuộc sống của họ, là dấu chỉ những gì xảy ra trong thâm tâm ta. Chúng ta thuộc về họ và họ thuộc về chúng ta. Có lúc do nghề nghiệp mà chúng ta đến gặp họ. Nếu không, chúng ta cũng có thể tình nguyện đến gặp họ. Lẽ tất nhiên, trước vô vàn những khốn khổ, chúng ta cũng không làm được bao nhiêu. Nhưng ít ra nó cũng gợi lên trong ta niềm hy vọng đích thực mà đôi khi chúng ta cũng cần có. Niềm hy vọng ấy giúp ta quay trở về với Thiên Chúa để ước ao Ngài ban cho ta một Đấng Cứu Độ, Đấng có thể hoàn tất mỹ mãn những gì mà lòng quảng đại của chúng ta chỉ mới bắt đầu. Niềm hy vọng ấy cũng sẽ cho ta của những việc chúng ta định làm và đã bắt đầu dù cho là thật nhỏ bé.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG NĂM (14.12.2008)]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã có một nhận định: MV3-B43
Trong Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã có một nhận định rất chính xác, đáng chúng ta phải suy nghĩ:
“Con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là các thầy dạy; tin vào kinh nghiệm hơn là đạo lý; tin vào đời sống và các sự kiện hơn là các lý thuyết. Hình thức đầu tiên của việc truyền giáo là chứng tá đời sống Ki-tô hữu; hình thức này là điều không thể thay thế được. Ngày nay con người cần chứng nhân mà không cần thầy dậy.”
Nói thế là Đức Gio-an Phao-lô II có ý nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đời sống chứng tá của Ki-tô hữu là điều cần thiết cho mọi tôn giáo, ở mọi thời đại. Nhưng trong thời đại hiện nay người ta nói quá nhiều mà làm quá ít nên lại càng cần những Gio-an Tiền Hô là người đã dám nói và dám làm chứng cho Tin Mừng!
II. NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Bài đọc 1: Trích Sách I-sa-ia (Is 61,1-2a.10-11): Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa.
1 Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, 2a công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta;
10 Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. 11 Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân.
2.2 Bài đọc 2: Trích Thư 1 Thê-xa-lô-ni-ca (1 Tx 5,16-24): Thần trí, tâm hồn và thân xác anh em phải được gìn giữ vẹn toàn trong ngày Chúa quang lâm.
16 Anh em hãy vui mừng luôn mãi 17 và cầu nguyện không ngừng. 18 Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. 19 Anh em đừng dập tắt Thần Khí. 20 Chớ khinh thường ơn nói tiên tri.21 Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; 22 còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa.
23 Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm. 24 Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó.
2.3 Tin Mừng theo Thánh Gio-an (Ga 1,6-8.19-28): Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.
6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. 7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8 Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
19 Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: "Ông là ai?" 20 Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Ki-tô." 21 Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không? " Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không." 22 Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" 23 Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. 24 Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. 25 Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ? "26 Ông Gio-an trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. 27 Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." 28 Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.
III. KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ GIÁO HUẤN CỦA THIÊN CHÚA
3.1 Dung Mạo của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?):
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Thiên Chúa, Đấng đã xức dầu và giao sứ mạng cho vị sứ giả. Sứ mạng đó là báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta (bài đọc 1). Vị sứ giả của Thiên Chúa trước hết là Chúa Giê-su Na-da-rét, kế đến là các ngôn sứ và mỗi Ki-tô hữu chúng ta.
* Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng mà Gio-an làm chứng: "Tôi không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là tiên tri Ê-li-a hay một ngôn sứ. Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." (bài Phúc âm).
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng cùng hành động với Chúa Cha và Chúa Con để giúp các sứ giả của Thiên Chúa thực thi sứ mạng được giao vá giúp mọi người khám phá và đón nhận Ơn Cứu Độ cùng với Đấng Cứu Độ.
3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là:
“Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”
IV. ĐÁP LẠI THIÊN CHÚA
Để thực hiện giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta được gợi ý làm 3 việc sau đây:
4.1 Trước hết là chúng ta tìm cho ra vị đang ở giữa chúng ta mà chúng ta không biết. Khi Gio-an Tẩy Giả nói lời này là ám chỉ Đức Giê-su đang sống trong xã hội Do Thái và bắt đầu xuất hiện công khai để thực thi sứ vụ của mình mà ngôn sứ I-sai-a đã mô tả. Còn đối với các Ki-tô hữu chúng ta ngày nay thì vị ấy là Đấng Thiên Chúa siêu việt mà vô hình, là Con Một Thiên Chúa, Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh, luôn hiện diện và hành động trong thế giới loài người chúng ta.
4.2 Kế đến là chúng ta sống thân mật với Đấng mà chúng ta khám phá và tìm thấy. Sống thân mật không chỉ trong những giây phút cầu nguyện mà trong mọi khoảnh khắc, mọi hoạt động. Sống thân mật không phải bằng tình cảm ướt át, ủy mị mà bằng một lòng tin sâu sắc, lòng cậy vững vàng và lòng mến nồng cháy. Sống thân mật qua nhữngdấn thân cụ thể và thiết thực cho/vì Nước Trời, cho/vì Hội Thánh, cho/vì con người.
4.3 Sau cùng là chúng ta giúp đỡ những người chung quanh khám phá, tìm thấy và biết sống thân mật với Đấng Thiên Chúa của họ cũng là của chúng ta. Giúp đỡ bằng lời nói, nhưng nhất là bắng chứng tá đời sống của mình. Gio-an đã chẳng những đã thanh minh, giảng giải về thân phận và sứ mạng của mình để làm rõ và đề cao danh tánh và địa vị của Chúa Giê-su, mà ngài còn làm chứng bằng chính cái chết trong ngục tù để bênh vực đạo đức và công lý.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
5.1 Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân trong Thánh Lễ:
5.1 «Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta.» Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa vì Người đã sai sứ giả là Con Một Người xuống thực thi sứ mạng cứu nhân độ thế!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 « Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.» Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa vì Người đã sai Hội Thánh và mỗi người chúng ta đi vào thế giới để làm chứng cho ánh sáng là chính Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người. » Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta khám phá và gặp gỡ được vị Sứ Giả của Thiên Chúa giữ lòng đời!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần. » Chúng ta hãy cầu xin cho hết mọi người, nhất là cho những người chưa bao giờ nghe đến Danh Giê-su, để họ được ơn gặp gỡ khám phá ra Chúa giữa cuộc sống!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.5 «Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa.” Chúng ta hãy cầu xin cho các Ki-tô hữu nhất là cho những người lãnh đạo để những lời khuyên trên của Thánh Phaolô được mọi người áp dụng triệt để!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Gioan 1,6-8.19-28
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
I. NgỮ cẢnh
Tin Mừng IV có một Mở đầu trong đó có Lời Tựa là một bài suy niệm cao sâu về mầu nhiệm: MV3-B44
Tin Mừng IV có một Mở đầu trong đó có Lời Tựa là một bài suy niệm cao sâu về mầu nhiệm Ngôi Lời (1,1-18), và Các chứng từ về Đức Giêsu, do Gioan Tẩy Giả, Anrê và Natanaen nêu ra (1,19-51). Bản văn được đọc trong Phụng vụ hôm nay gồm một đoạn nhỏ trích từ Lời Tựa (1,6-8) và đoạn đầu trích từ Các chứng từ (1,19-28).
II. BỐ cỤc
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Gioan là người làm chứng (1,6-8);
2) Gioan làm chứng (1,19-28):
a) Làm chứng cho phái đoàn sứ giả (1,19-23),
b) Làm chứng cho người Pharisêu (1,24-28).
III. Vài điỂm chú giẢi
- lời chứng (19): Điểm đáng lưu ý nhất, đó là tác giả đã chọn ra từ trong ngôn ngữ thuộc ngành tư pháp từ ngữ “lời chứng/làm chứng” (martyria: 14 lần trong Ga; 4 lần trong TMNL: Mc 14,55.56.59 và Lc 22,71; cả 4 lần này đều thuộc về cuộc xử án Đức Giêsu), và đã dùng từ đó mà mở ra hoạt cảnh này, cùng với động từ tương ứng là “làm chứng” (martyreô: 33 lần trong Ga; 2 lần trong TMNL). Cũng ghi nhận rằng các từ ngữ martyria và martyrein xuất hiện trong đa số các chương của TM IV ngoại trừ các ch. 6, 9, 11, 14, 16, 17 và 20; tuy thế, các chương này cũng nói đến “làm chứng”. Các TMNL ưa dùng các từ như “công bố” (kêryssô) hoặc “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai). Rất có thể tác giả TM IV đã dùng ngôn ngữ tư pháp do hoàn cảnh trong đó ngài viết Tin Mừng (giữa hoặc cuối những năm 90 [?], lúc mà quan hệ giữa người Do-thái và các Kitô hữu khá căng thẳng: x. Ga 9,22; 12,42; 15,26–16,2).
- người Do-thái từ Giêrusalem (19): Bởi vì họ có thể cử các tư tế và các thầy Lêvi đi, hẳn “người Do-thái từ Giêrusalem” chính là giới lãnh đạo Do-thái giáo.
- ông tuyên bố thẳng thắn (20): dịch sát là “ông không chối”.
- vị ngôn sứ (21): Đây chính là dung mạo ngôn sứ được hứa trong Đnl 18,18.
- cởi quai dép (27): Đây là công việc của một nô lệ.
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Gioan là người làm chứng (6-8)
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan” (Ga 1,6). TM IV đã giới thiệu Gioan bằng một câu như thế ngay giữa Lời Tựa. Đối diện với Ngôi Lời, ngôi vị Thiên Chúa toàn năng luôn luôn “có” từ muôn thuở đến muôn đời muôn kiếp (1,1-5), đây là Gioan, một con người tầm thường xuất hiện, đi từ hư vô ra cuộc sống. Sau khi đã nêu bật sự cao vời vô biên của Đức Kitô, tác giả mau mắn xác định sự cao cả của Gioan: ông được Thiên Chúa sai phái và có sứ mạng làm chứng cho ánh sáng: “Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng” (1,7).
Sau Lời Tựa, tác giả bắt đầu bài tường thuật cách trang trọng, và cũng bằng một câu nói về Gioan: “Và đây là lời chứng của ông Gioan” (1,19). Chúng ta sẽ suy ngẫm về tư cách và công việc làm chứng của Gioan.
* Gioan làm chứng (19-28)
² Ga 1,19-23
Vừa nghe câu mở này, chúng ta có cảm tưởng là mình được gợi ý nhìn vào một cảnh trong phòng xử án. Ấn tượng này dường như có cơ sở. Ngay tức khắc, tác giả giới thiệu Gioan như người đang bị thẩm vấn. Bản văn nói, “người Do-thái”, hẳn đây là giới lãnh đạo Do-thái giáo, đã gửi một phái đoàn đến đặt các câu hỏi cho ông Gioan. Phái đoàn đó gồm có các tư tế và mấy thầy Lêvi, tức đây là giới chức trách có nhiệm vụ chăm sóc Đền thờ Giêrusalem. Câu hỏi thứ nhất họ đặt ra có vẻ nhẹ nhàng, không có gì thâm độc: “Ông là ai?”, câu hỏi bật ra như một lời hỏi về lý lịch. Tuy nhiên, câu trả lời của Gioan thì lại có gì đó trầm trọng. Thay vì khai ra lý lịch, ông lại trả lời trang trọng, hầu như là nói lên một lời thề, rằng ông không phải là người nào đó. Ông tuyên xưng rằng ông không phải là Đấng Kitô.
Thế là phái đoàn chính thức thúc ép ông tiếp, để có thể trả lời hết các câu hỏi nhằm điều tra lý lịch của ông. Các câu hỏi tuôn ra thật nhanh. “Ông có phải là ông Êlia không?” “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?”. Với cả hai câu hỏi này, vị chứng nhân vẫn cứ trả lời không. Đến đây dường như đã cảm thấy bực bội khó chịu, phái đoàn hỏi: “Thế ông là ai?”. Tuy bị thúc bách như thế, nhưng với giọng hẳn là nhẹ nhàng và vẫn trang trọng mà nghe ra thì có vẻ khôi hài nữa, vị chứng nhân đáp bằng những lời lẽ trích từ sách Isaia: “Tôi là tiếng người hô [= tiếng nói của người hô] trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (x. Is 40,3).
Trong các cuộc xử án, việc xác minh lý lịch của người chứng chỉ là một chuyện thủ tục được thực hiện nhanh chóng, nhưng ở đây, lại không phải là như thế với vị chứng nhân tên là Gioan. Ông cứ toàn lo trả lời là ông không phải là ai thôi – như một kiểu xác minh lý lịch tiêu cực – chứ không nói ông là ai. Cuối cùng khi ông xác minh về ông, bản lý lịch tự khai của ông lại cho biết ông là “tiếng người hô” (tiếng nói, phônê).
Hình ảnh vị chứng nhân cứ tránh né nêu lý lịch góp phần làm cho tấn bi kịch được triển khai. Óc tò mò của chúng ta bị kích thích. Các câu hỏi phát sinh: Đấng Kitô là ai mà Gioan nói ông không phải là Người. Và nếu Gioan chỉ là một tiếng nói, thì ông phải nói gì?
Hoạt cảnh cuộc thẩm vấn vừa rồi không có trong các TMNL. Tuy nhiên, những suy diễn về Đấng Mêsia thì đã quá quen thuộc tại Paléttina vào tk i. Lúc đó người ta đang chờ đợi một số gương mặt trở lại. Trong Lc, ta thấy dân chúng rất tín nhiệm Gioan (x. Lc 3,15); rồi có chuyện vua Hêrôđê băn khoăn về cái chết của Gioan (Lc 9,7-9). Những tin đồn và suy đoán như thế là bối cảnh cho câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ Gioan khi họ đến gặp Đức Giêsu theo ý ông (x. Mt 11,2-6; Lc 7,18-23) cũng như cho các câu trả lời các môn đệ đã nêu ra khi Đức Giêsu hỏi người ta bảo Người là ai (Mt 16,13-16; Mc 8,27-29; Lc 9,18-20). Dù sao, Đấng Kitô sẽ là vị vua lý tưởng như Đavít; Người sẽ khôi phục quyền tự chủ trên đất nước và qui tụ người Do-thái đang tản mác lại. Người cũng có thể là như ngôn sứ Êlia, mà truyền thống tin là sẽ trở lại vào Ngày của Đức Chúa (x. Ml 3,23). Người cũng có thể là chính Môsê trở lại. Gioan đã thề là ông không phải là bất cứ dung mạo trứ danh nào như thế, những dung mạo đang được mong chờ tha thiết. Ông chỉ là “tiếng nói”.
² Ga 1,24-28
Tuy nhiên, cuộc thẩm vấn vẫn tiếp tục. Người ta hỏi thế thì tại sao ông lại làm phép rửa. Tác giả ghi nhận là trong nhóm được cử đi, có những người thuộc phái Pharisêu, tức những người Do-thái giữ thật nghiêm nhặt Luật Môsê. Như thế, Gioan vừa mạnh mẽ từ chối đồng hóa mình với bất cứ dung mạo cánh chung nào đang được dân chúng chờ đợi, vừa làm chứng trước những đại biểu của toàn thể thế giới Do-thái.
Không có một chi tiết nào trong các nguồn văn chương Do-thái nói rằng Đấng Kitô, Êlia hoặc Môsê, hoặc vị ngôn sứ nào sẽ làm phép rửa. Như thế câu hỏi đăït ra cho Gioan là câu hỏi về quyền. Do quyền nào mà ông làm phép rửa? Một lần nữa, dường như Gioan lại né tránh câu hỏi. Ông chỉ trả lời theo cách bí ẩn. “Tiếng nói” chỉ nhìn nhận rằng ông làm phép rửa trong nước. Nhưng rồi ông nói rằng “có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,26-27).
Dường như ở đây Gioan quy chiếu về một truyền thống Do-thái nói rằng Đấng Mêsia sẽ cứ ở trong tình trạng tăm tối cho tới khi Người được Êlia giới thiệu cho Israel. Lời ông nói, “Tôi thì tôi không phải là Đấng Kitô” hàm ý là Đấng Kitô đã có mặt đâu đây, nhưng đang còn ẩn mình, và tuy ẩn mình, Người rất vĩ đại.
Tác giả TM IV không nhấn mạnh về vai trò của Gioan là làm phép rửa cho Đức Giêsu như các TMNL (Mt 3,1-17; Mc 1,2-11; Lc 3,1-20); do đó ngài không gọi Gioan là “Tẩy Giả” (Mt 3,1) hay “người làm phép rửa” (Mc 1,4). Nếu ngài có nói đến phép rửa ấy chỉ là để đưa đến cuộc tra hỏi thôi. Tác giả TM IV cũng không giới thiệu Gioan là như một dung mạo ngôn sứ kêu gọi người ta mau mau hoán cải vì Nước Thiên Chúa đã đến gần. Ngài chỉ quan tâm xác định chân tính của Gioan là “tiếng nói” thôi; ông phải nói điều gì đó. Thật ra cả bốn Tin Mừng đều vận dụng bản văn Is 40,3 (Mt 3,3; Mc 1,3; Lc 3,4), nhưng trong TM IV, chính Gioan lại gán cho mình vai trò làm tiếng nói: tác giả muốn nhân vật Gioan của mình “nói cho chính mình”. Trong khi các TMNL trích Is 40,3 như là một lời bình về ông Gioan, câu này lại được Ga 1,23 trích như là lời của chính Gioan.
Truyện về Gioan trong TM IV là truyện của riêng tác giả. Ngài có cách thức riêng cũng như ngôn ngữ và văn phong riêng mà miêu tả ông Gioan, mà chia sẻ cái nhìn của ngài về ông. Ở đây hoạt cảnh đúng là như một cuộc xử án gồm hai giai đoạn thẩm vấn Gioan. Ngôn ngữ của chương 1 (và của cả TM IV) phù hợp với bầu khí của phòng xử án: ngài viết về lời chứng (martyria, c. 19), lời tuyên xưng (homologeô, 2 lần trong c. 20), và việc chối (arneomai, c. 20); ngài cũng viết về việc hỏi (erôtaô, cc. 19.21.25) và trả lời (apokrinomai, cc. 21; apokrisis, c. 22) và về những người đã được cử đi (apostellô, cc. 19.22.24). Câu truyện được đặt trong một tác phẩm trong đó các từ ngữ rõ ràng mang màu sắc pháp lý, như kết án (katêgoreô, 5,45; 8,6), và thuyết phục (elegchô, 3,20; 8,46; 16,8), bảo vệ (paraklêtos, 14,16.26; 15,26; 16,7), án xử (krisis, 3,19; 5,22.24.27.29.30; 7,24; 8,16; 12,31; 16,8.11) và xét xử (krinô, 3,17.18 (2x); 5,22.30; 7,24 (2x).51; 8,15 (2x).16.26.50; 12,47 (2x).48 (2x); 16,11; 18,31).
+ Kết luận
Từ phân đoạn 1,6-8, ta thấy Gioan không phải là đại sứ đặc mệnh toàn quyền; ông được Thiên Chúa sai đến với một mục tiêu rõ rẹât: “làm chứng về ánh sáng” (cc. 7.8). Sứ mạng của ông phải được nhìn trong viễn tượng vũ trụ, siêu lịch sử, nhưng vai trò của ông là chứng nhân và chỉ là chứng nhân mà thôi. Nhiệm vụ của ông tập trung vào việc làm cho Ít-ra-en nhận biết Đức Giêsu. Tuy nhiên, tác giả cũng muốn nói một điều quan trọng hơn khi tinh tế đặt đối lập dung mạo Gioan, người được Thiên Chúa sai đến (1,6), với các tư tế và các thầy Lêvi được người Do-thái gửi đến từ Giêrusalem (1,19). Cuộc thẩm vấn có thật, nhưng đây chỉ là cuộc đụng chạm giữa hai đoàn tiền quân.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Sứ mạng của Gioan là làm chứng cho Đức Giêsu. sứ mạng này quan trọng đến nỗi trong Lời Tựa, ông được nhắc đến hai lần: một lần như là “chứng nhân” (1,6) và lần kia thì nhắc lại lời chứng của ông (1,15). Do đó, cứ theo TM IV, hẳn là ông phải được gọi là “Gioan người làm chứng”. Danh hiệu mà Họâi Thánh Đông phương gán cho ông, “Gioan vị Tiền Hô”, mở ra hai sứ mạng của ông, làm phép rửa và làm chứng.
2. Gioan là chứng nhân của ánh sáng (1,6-8). Điều nghịch lý là ánh sáng lại cần đến một chứng nhân. Ánh sáng thật đang rạng soi cho mọi người (x. 1,9), thế mà không phải là loài người đang tự nhiên sống dưới ánh huy hoàng của ánh sáng này. Như một kho báu được chôn giấu, trước tiên ánh sáng này cần được khám phá; chỉ sau đó ánh sáng mới tỏa rạng và mọi người có thể thực sự thấy được. Đặc điểm của Đức Giêsu là thực tại chân thật của Người không chỉ thấy được ở bề mặt, và không phải bất cứ ai cũng có thể tiếp cận Người. Người không tỏ mình ra với cung cách áp đảo, Người không ép buộc bất cứ ai; người ta luôn luôn có thể tránh Người và sống không cần Người. Đức Giêsu là ánh sáng đòi hỏi tự do quyết định của con người. chính vì Người ở trong tình trạng ẩn mình, Đức Giêsu cần có những chứng nhân. Gioan là chứng nhân đầu tiên của Người, giúp cho người ta có thể đến với Người để nhận được ánh sáng. Nhưng cả lời chứng của Gioan cũng không phải là một bằng cớ bó buộc: mọi người phải tin nhờ ông (1,7). Chỉ ai nhờ ông mà tin thì mới đến được với Đức Giêsu là ánh sáng.
3. Gioan nói như chứng nhân và khẳng định tính khả tín của chính ông. Ông nói thẳng ra ông không phải là ai (1,19-21) và ông là ai (1,22-23) và ai sẽ đến sau ông (1,25-27). Ngay trong Lời Tựa, tác giả Ga đã cho biết: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (1,8). Trước tiên ông nói ông không là ai, như để tránh che mất Đấng ông phải làm chứng cho, nếu như ông lo khẳng định về bản thân. Rồi khi phải nói ông là ai, thì ông cho biết ông chỉ là tiếng của người hô trong hoang địa: hoạt động của ông có tầm quan trọng đặc biệt vì được chính Kinh Thánh loan báo, được Thiên Chúa quy định, nhưng chỉ là một tiếng nói loan báo rằng Chúa đang đến và khuyến khích người ta dọn lòng đón tiếp Người.
4. Về nhân vật cao trọng mà ông làm chứng cho, Gioan chỉ khẳng định hai điều: Người đang ở giữa họ, nhưng họ không nhận biết Người; Người cao trọng đến mức chính Gioan cũng không xứng đáng phục vụ Người theo cách thức của một nô lệ. Ẩn mình và cao trọng vẫn là hai nét tiêu biểu của Đức Giêsu. Người là ánh sáng tỏa rạng trong tình trạng ẩn tàng đồng thời là ánh sáng chân thật duy nhất.
5. Bất cứ Kitô hữu nào hôm nay cũng cần thấy mình là một chứng nhân như Gioan. Họ biết mình không là gì cả khi sánh với Đấng họ phải làm chứng cho. Tuy nhiên, chính Đấng ấy lại muốn chọn họ để tỏ mình ra cho thế giới. Cao cả mà thật ra thấp hèn, thấp hèn nhưng cũng cao cả, đã là tư cách của Gioan, thì cũng là thân phận của mọi Kitô hữu.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng nầy, Phụng Vụ tham dự trước niềm hân hoan của ngày lễ Giáng: MV3-B45
Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng nầy, Phụng Vụ tham dự trước niềm hân hoan của ngày lễ Giáng Sinh. Tất cả các bài đọc đều vang lên sứ điệp nầy: “Hãy vui lên, Chúa sắp đến gần rồi”.
Bài đọc I liên kết niềm vui với lời loan báo Tin Mừng được gởi đến cho những người nghèo, những người bất hạnh, những người tù đày.
Is 61: 1-11
Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy luôn luôn vui lên và tạ ơn Chúa vì những thiên ân mà họ lãnh nhận được.
1Th 5: 16-24
Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tẩy giả, thánh nhân khẳng định rằng Đấng mà muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa anh em.
Ga 1: 6-8, 19-28
BÀI ĐỌC I Is 61: 1-2, 10-11
Bài đọc I của Chúa Nhật III Mùa Vọng nầy được hình thành bởi hai đoạn trích khác nhau từ chương 61 của sách I-sai-a. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2) là phần mở đầu của bài thi ca: chính vị ngôn sứ đích thân bày tỏ. Đoạn trích thứ hai (61: 10-11) là phần kết của bài thi ca. Đây là một bài thánh thi ca ngợi, được cộng đoàn xướng hát.
1. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2).
Trong đoạn trích thứ nhất, chúng ta nhận ra bản văn mà vào một ngày sa-bát, trong hội đường Na-da-rét, Đức Giê-su đã công bố trước cộng đoàn (Lc 4: 18-20). Sau khi đã công bố đoạn văn nầy, Ngài ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Như vậy Đức Giê-su áp dụng vào chính mình lời của ngôn sứ I-sai-a: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” Đức Giê-su cũng sẽ trích đoạn văn nầy để trả lời cho những sứ giả của Gioan Tẩy giả được phái đến để hỏi Ngài. Vì thế, vị ngôn sứ nầy là ai mà Đức Giê-su quy chiếu đến hai lần? Và sứ điệp của ông ngỏ lời với ai?
1.1- Tác giả.
Những sự kiện được định vị vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người hồi hương đầu tiên trở về Giê-ru-sa-lem từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon.
Tác giả của bản văn nầy là một vị ngôn sứ vô danh sống ở giữa những người hồi hương ở Giê-ru-sa-lem. Ông thường được các nhà chuyên môn gọi I-sai-a đệ tam, hay I-sai-a của thời hậu lưu đày (Is 56-66) để phân biệt với hai vị tiền nhiệm của ông là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày (Is 40-55) và ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, vị ngôn sứ của thời tiền lưu đày (Is 1-39).
Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta đã đọc lời khẩn nguyện của vị ngôn sứ hậu lưu đày nầy. Bản văn được trích hôm nay, xét về niên biểu, có trước lời khẩn nguyện. Trong bản văn nầy, vị ngôn sứ biện minh sứ mạng của mình: ông đã được Thần Khí Chúa xức dầu tấn phong, đây cốt là xức dầu thiêng liêng bởi vì không có nghi thức xức dầu tấn phong cho các ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đã chọn các ngôn sứ của Ngài. Sứ mạng của các ngài liên quan đến đời sống luân lý của dân Thiên Chúa, nhưng vị ngôn sứ nào đã được Thiên Chúa chọn, không thể nào thoái thác sứ mạng của mình.
1.2- Sứ điệp.
Sứ mạng của vị ngôn sứ là loan báo “Tin Mừng” (ông lấy lại diễn ngữ của vị tiền nhiệm của mình là I-sai-a đệ nhị được trích trong bài đọc I của Chúa Nhật II Mùa Vọng). Tin Mừng nầy có thể được tóm tắt như sau: “Phúc thay những người nghèo khổ!”, âm vang lời công bố những mối phúc thật của Đức Giê-su.
Những người hồi hương thất vọng và vỡ mộng trước thực trạng quê hương muôn vàn khó khăn. Họ là những người nghèo, trái tim tan nát. Vị ngôn sứ gọi họ là những “tù nhân”, những “người bị giam giữ” cho dù hiện nay họ không còn nữa, qua đó nhấn mạnh nỗi cùng cực của họ, bởi vì những thuật ngữ nầy giải thích rõ hơn hình ảnh sau đó: “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”, nghĩa là năm mà những người nô lệ được phóng thích, mọi nợ nần được tha bổng, đất đai được phân phối lại. “Năm hồng ân” được cử hành cứ năm mươi năm một lần. Đây là sự khai triển của “năm sa-bát”, được cử hành cứ bảy năm một lần. Năm hồng ân biểu tượng một lý tưởng công bình xã hội. Tuy nhiên, người ta không có đủ bằng chứng cho việc thực hành thực sự nầy.
Đây là diện mạo của những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Kinh Thánh gọi là “anawin”. Chữ “anawin” không thể dịch được, nó bao hàm sự nghèo khổ, đức khiêm hạ và niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Ngữ căn của từ mang một nét nghĩa căn bản là “còng lưng xuống”, còng lưng xuống dưới gánh nặng của sự nghèo khó, của sự nhục nhã; cũng “sấp mình” vì thái độ tôn giáo của họ, thái độ tin tưởng phó thác hoàn toàn vào lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đây là một khái niệm căn bản của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chính những kẻ bé mọn nầy mà Đức Giê-su sẽ ưu đãi.
Một trăm năm sau đó, một vị ngôn sứ khác, Xô-phô-ni-a, đã tiên báo việc tăng tiến những người nghèo nầy: “Ngày ấy, ngươi sẽ không còn phải hổ thẹn vì mọi hành vi ngang trái chống lại Ta. Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không nghêng ngang trên núi thánh của Ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân Ít-ra-en còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ nữa” (Xp 3: 11-13).
2. Đoạn trích thứ hai (61: 10-11).
Được an ủi như vậy, cộng đoàn xướng lên một bài thánh thi chúc tụng ngợi ca: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Thiên Chúa, vâng nhờ Người, tôi hớn hở biết bao”.
Bài hoan ca nầy được diễn tả bởi hai hình ảnh:
- Trang phục: Giê-ru-sa-lem được mặc hồng ân cứu độ, được khoắc áo choàng công chính như chàng rể chỉnh tề khăn đóng, tựa nàng dâu lộng lẫy điểm trang.
- Khu vườn: Giê-ru-sa-lem được sánh ví với khu vườn được chăm sóc tận tình: khu vườn của Đức Chúa ở đó đức công chính sẽ nẩy hạt sinh mầm, đâm chồi nẩy lộc.
3. Ý nghĩa của việc nối kết hai đoạn trích nầy:
Khi đặt hai đoạn trích đầu và cuối bài thơ nầy bên cạnh nhau, phụng vụ mời gọi chúng ta hãy suy niệm về mối liên hệ sâu xa của chúng, mối tương quan giữa “ơn cứu độ” được hứa bởi Đấng được xức dầu tấn phong (Đức Ki tô tự đồng hóa với Đấng ấy) và “vẽ đẹp lộng lẫy” của Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa nơi dân Thiên Chúa. Sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh Giê-ru-sa-lem thiên quốc được điểm trang lộng lẫy như Hiền Thê nhờ máu của Con Chiên.
Một viễn cảnh như thế không thể là viễn cảnh của vị ngôn sứ của thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Tuy nhiên, cách tiếp cận lịch sử nầy có thể hiểu được nhờ những đau khổ của nhóm nhỏ trung thành còn sót lại, những “người nghèo hèn” nầy mà nổi khốn khổ của họ lôi kéo lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Và chính qua họ mà lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trải dài cho đến tận cùng thế giới.
BÀI ĐỌC II (1Th 5: 16-24)
Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho giáo đoàn Thê-xa lô-ni-ca là bản văn xưa nhất của văn chương Ki tô giáo. Bức thư nầy được viết vào mùa đông năm 50-51.
Thánh Phao-lô đã thiết lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca ở Hy lạp vào mùa hè của năm 50, nhưng ngài đã phải vội vàng trốn chạy khỏi thành phố vì người Do thái tức giận tìm cách giết ngài do lời rao giảng khác thường nầy khiến nhiều người Ít-ra-en lẫn lương dân ăn năn sám hối.
Vì thế, thánh nhân thật sự bận lòng cộng đoàn nhỏ bé bị hăm dọa nầy. Sau nầy, người cộng tác của ngài, Ti-mô-thê, quay trở lại Thê-xa-lô-ni-ca và tường thuật những tin tốt lành: Giáo Đoàn non trẻ nầy vẫn kiên vững trước những đe dọa và quấy nhiễu của người Do thái.
Thế nên, thánh Phao-lô viết bức thư nầy cho Giáo Đoàn Thê-xa-lô-ni-ca với cung giọng nồng nàn hòa chung với niềm hân hoan và cảm tạ. Đoạn văn chúng ta đọc được định vị vào cuối thư bao gồm những lời khuyên bảo và khích lệ.
1. Vui mầng, cầu nguyện và tạ ơn:
Thánh nhân khuyên ba điều quan trọng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
Trước hết, “Anh em hãy vui mừng luôn”. Thánh Phao-lô thường nhấn mạnh niềm vui Ki tô giáo. Niềm vui là hoa quả của Thần Khí, Đấng hằng ở với người Ki tô hữu ngay cả trong gian nan thử thách. Thánh nhân “chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7: 4). Niềm vui phát xuất từ niềm xác tín là được dự phần vào vương quốc Thiên Chúa ngay từ cõi thế nầy.
Tiếp đó, “Hãy cầu nguyện không ngừng”. Thánh nhân hầu như luôn luôn khuyên cầu nguyện “không ngừng”, “mọi lúc”, “đêm cũng như ngày”. Chung chung, thánh nhân cầu nguyện với Chúa Cha, nhờ Chúa Ki tô; hiếm khi thánh nhân cầu nguyện trực tiếp với Chúa Ki tô. Thánh nhân nói, chính nhờ Thần Khí mà chúng ta mới có thể thân thương với Thiên Chúa là “Cha”.
Sau cùng, “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”. Tạ ơn là một cấu tố của lời cầu nguyện, xoay quanh lời chúc tụng. Truyền thống Do thái dành một chỗ đặc biệt cho tâm tình cảm tạ tri ân. Bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus) là bài ca cảm tạ tri ân: “Chúc tụng Thiên Chúa…” Thánh Phao-lô hầu như luôn luôn bắt đầu bức thư của mình với lời chúc tụng Thiên Chúa.
2. Đừng chối từ những ân ban Thần Khí:
Đây là lời khuyên thứ hai. Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca coi nhẹ những ân ban Thần Khí. Họ nghi ngại những người được ơn Thần Khải. Có lẽ họ là những người Hy lạp phương bắc, ít sôi nổi như những người Cô-rin-tô… Quả thật, thánh Phao-lô viết từ Cô-rin-tô ở đó những ân ban Thần Khí nhiều vô kể. Thánh nhân khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em chớ dập tắt Thần Khí”. Cứ để mỗi người nói lên theo những ân ban của mình, ngay cả ơn nói tiên tri. Điều quan trọng là phải biết “cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn tất cả những gì xấu thì lánh cho xa”.
3. Ơn thánh hóa:
Đây là đề tài rất tâm đắc với thánh Phao-lô và thánh nhân sẽ khai triển thêm nữa sau nầy: ơn thánh hóa của chúng ta dựa trên tác động của Thiên Chúa hơn trên nổ lực của cá nhân chúng ta.
Việc kể ra: thần trí, tâm hồn và thân xác, không gặp thấy bất cứ nơi nào khác trong các thư của thánh nhân. Đây không là cách diễn tả con người được phân chia thành ba phần. Người Hy lạp cũng như người Do thái đều không quan niệm con người như thế. Thánh Phao-lô chỉ muốn nói đến toàn thể con người: theo thói quen của mình, thánh nhân khai triển chữ “toàn diện” đi trước và tô đậm chữ “thần trí” theo sau với ý nghĩa Ki tô giáo: chính thần trí con người rộng mở trước tác động của Thần Khí.
TIN MỪNG Ga 1: 6-8, 19-28
Tin Mừng hôm nay được trích từ hai đoạn văn khác nhau, một từ Tựa Ngôn (1: 6-8) và một từ phần mở đầu của Tin Mừng Gioan (1: 19-28).
1. Gioan Tẩy giả, chứng nhân (1: 6-8).
Tựa Ngôn là một bài thánh thi về “Ngôi Lời” bị ngắt nhịp hai lần để kể đến vị Tiền Hô. Lần ngắt nhịp thứ nhất được dùng như lời mở đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Trong phần mở đầu nầy, tác giả Tin Mừng thứ tư không đề cập sứ điệp của Gioan Tẩy giả cũng như ý nghĩa phép rửa của thánh nhân, nhưng tô đậm chức năng “chứng nhân” của vị Tiền Hô. Đối với thánh ký, “chứng nhân” là quan trọng bậc nhất như ông nhấn mạnh trong thư thứ nhất của mình: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống…Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa…” (1Ga 1: 1-4).
2. Lời chứng của Gioan Tẩy giả (1: 19-28).
Vị Tiền Hô chối từ tất cả những gì người ta nghĩ tưởng về ông để chỉ tập trung lời chứng của mình trên sự hiện diện của Đấng đến sau ông và hiện có mặt ở đây rồi.
Ông không phải là Đấng Mê-si-a mà dân chúng đang chờ đợi. Ông cũng không phải là Ê-li-a mà truyền thống truyền tụng rằng vị ngôn sứ được rước lên trời nầy và sẽ trở lại trần thế để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a. Ông cũng không phải là ngôn sứ vĩ đại mà Đức Chúa hứa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng…” (Đnl 18: 18).
Sau khi đã phủ nhận tất cả những nhân vật nổi tiếng mà người ta nghĩ tưởng về mình, Gioan Tẩy giả công bố sứ điệp: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Có thể ở đây ám chỉ đến niềm tin dân gian vào một đấng mê-si-a ẩn mình. Thật vậy, sách Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh hơn các sách Tin Mừng khác lời loan báo về Đấng Mê-si-a không chỉ sắp đến nhưng hiện có mặt ở giữa họ rồi.
Tại sao những lời chứng vừa phủ nhận về mình vừa khẳng định về Đức Ki tô của Gioan Tẩy giả mặc lấy một tầm mức quan trọng đến như thế?
Để có thể lĩnh hội được Tin Mừng Gioan, cần phải giải mã những ẩn ý nầy. Tin Mừng Gioan vốn giàu có biểu tượng nên luôn luôn hàm chứa hai nghĩa: nghĩa trực tiếp và nghĩa ẩn dụ.
2.1- Nghĩa trực tiếp:
Theo nghĩa trực tiếp, chúng ta có thể gặp thấy chìa khóa ở nơi việc dàn dựng phần mở đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su thành một tuần lễ, được gọi “tuần lễ khai mạc” (song đối với bảy ngày cuối đời của Đức Giê-su).
Tuần lễ khai mạc được trình bày như sau:
- Ngày thứ nhất: chứng từ của Gioan Tẩy giả về chính mình và về Đức Ki tô trước những lời chất vấn của các tư tế và các thầy Lê-vi được phái đến từ Giê-ru-sa-lem.
- Ngày thứ hai: chứng từ của Gioan Tẩy giả về “Chiên Thiên Chúa” và Thần Khí ngự xuống vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa.
- Ngày thứ ba: An-rê và người môn đệ vô danh (có thể là chính thánh Gioan) đi theo Đức Giê-su, đoạn kéo theo Phê-rô.
- Ngày thứ tư: Phi-líp và Na-tha-na-en nhập đoàn với các môn đệ đầu tiên.
- Ngày thứ năm và thứ sau: hành trình về miền Ga-li-lê.
- Ngày thứ bảy: tiệc cưới Ca-na. Các môn đệ, chứng nhân của dấu lạ nầy, “tin” vào Ngài, vì họ đã “chứng kiến vinh quang của Ngài”.
Khi trình bày phần mở đầu cuộc sống công khai của Đức Giê-su như thế, thánh ký thiết lập sự song đối với bảy ngày của Công Trình Sáng Tạo, qua đó thánh ký muốn nói rằng việc Giáng Trần của Đức Ki tô là một cuộc tạo dựng mới, hay đúng hơn, một cuộc tái tạo.
2.2- Nghĩa ẩn dụ:
Chứng từ của Gioan Tẩy giả trong Tin Mừng hôm nay được định vị vào ngày thứ nhất trong tuần lễ khai mạc. Vào lúc sáng tạo thế giới, ngày thứ nhất được đánh dấu bởi việc phân tách Ánh Sáng ra khỏi bóng tối.
Do đó, tất cả ý nghĩa sâu xa của đoạn Tin Mừng nầy đó là Gioan Tẩy giả đến để làm chứng về ánh sáng. Trái lại, các tư tế và các thầy Lê-vi được cử đến và trở về Giê-ru-sa-lem mà không đón nhận phép rửa sám hối ăn năn, vì thế, không rộng mở lòng mình ra để đón nhận ánh sáng. Tuy nhiên, họ đã được loan báo cho biết: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (động từ “biết” của nền văn hóa Do thái không chỉ nói lên một sự hiểu biết thuần túy trên mặt trí tuệ nhưng đặc biệt còn cả trọn tấm lòng nữa).
Như vậy, giáo quyền Do thái, ngay từ đầu, vẫn đắm mình trong bóng tối. Sự việc nầy sẽ chi phối cách hành xử sau cùng của họ đối với Đức Ki tô.
Việc đối lập của cặp tương phản ánh sáng và bóng tối nầy hình thành nên một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng Gioan. Việc đối lập nầy đã được minh chứng rồi ngay từ trong Tựa Ngôn.
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
I. DẪn vào Thánh lỄ
Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp những niềm vui: vui khi thấy những nụ hoa hé nở trong: MV3-B46
Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp những niềm vui: vui khi thấy những nụ hoa hé nở trong vườn, vui khi nhìn những cặp vợ chồng trẻ hân hoan trong ngày cưới, vui với những tù nhân mãn hạn trở về. Ngày xưa, một ngôn sứ cũng đã dùng những hình ảnh tương tự để loan báo niềm vui khi Chúa đến. Thật vậy, khi Chúa đến, Ngài sẽ làm cho cuộc sống ta tràn ngập niềm vui. Vậy chúng ta hãy chuẩn bị đón tiếp Ngài.
II. GỢi ý sám hỐi
Chúng ta không nghĩ rằng sống đạo là một niềm vui, trái lại nhiều khi còn coi đó là gánh nặng khó chịu.
Chúng ta ít nghĩ đến việc làm cho những người chung quanh được vui tươi hạnh phúc.
Chúng ta không sẵn sàng để cho Chúa giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi và những đam mê bất chính.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I: Is 61, 1-2. 10-11
Ðoạn này thuộc phần thứ ba sách Isaia (các chương 56-66) do một (hoặc một số) tác giả không được biết tên nên người ta tạm gọi là Ðệ Tam Isaia.
Có hai giả thuyết về thời gian soạn tác phần này: a/ Ðó là thời sau lưu đày từ lúc xây xong Ðền thờ mới cho đến năm 445 trước công nguyên (Nhóm dịch CGKPV); b/ Một vài năm trước khi kết thúc cuộc lưu đày. Nội dung đoạn được trích hôm nay xem ra phù hợp với giả thuyết thứ hai hơn.
Tác giả nghĩ đến lúc được giải thoát khỏi ách lưu đày.
- Trong phần đầu (cc 1-2), tác giả tự đồng hóa mình với một nhân vật được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đặc biệt để loan tin vui ấy. "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
- Trong phần sau (cc 10-11), tác giả lại tự đồng hóa mình với dân được giải thoát: "Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, vì Ngài đã mặc cho tôi áo phần rỗi và choàng áo công chính cho tôi..."
Sau này, trong bài ca Magnificat, Ðức Maria đã lấy lại một số tâm tình của tác giả; và Ðức Giêsu, tại hội đường Nadarét, cũng đã áp dụng những lời này cho chính bản thân Ngài.
2. Ðáp ca: Trích bài Magnificat, Lc 1, 46-48. 49-50. 53-54.
Bài ca diễn tả tâm tình của Ðức Maria. Ðó cũng là tâm tình của Ðệ Tam Isaia ngày trước, mà cũng là tâm tình của Giáo Hội ngày nay: vui mừng vì được Chúa đến thăm và dùng mình làm sứ giả loan báo Tin Mừng của Chúa.
3. Bài đọc II: 1 Tx 5, 16-24
Thêxalônica là một giáo đoàn mà thánh Phaolô rất quan tâm, bởi vì ngài mới thành lập giáo đoàn này không bao lâu thì phải bị buộc rời họ đi xa. Nhưng dù non trẻ, giáo đoàn này đã sống đạo khá tốt. Bởi thế khi biên thư cho họ, Phaolô bảo họ một mặt hãy luôn vui mừng trong Chúa và mặt khác hãy cầu nguyện không ngừng và cảm tạ Chúa trong mọi việc.
4. Tin Mừng: Ga 1, 6-8. 19-28
Sứ giả loan Tin Mừng mà Ðệ Tam Isaia đã tiên báo chính là Gioan Tiền hô, và Tin Mừng mà Gioan công bố chính là Ðức Giêsu.
Ðoạn Tin Mừng Chúa nhật tuần trước đã cho biết Gioan là người dọn đường và ông đã dọn đường như thế nào. Ðoạn Tin Mừng hôm nay (của thánh Gioan Tông đồ) cho biết nhiều hơn:
- Ðấng Messia mà Gioan dọn đường chính là Ánh sáng. Ngài đến thế gian như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối.
- Phần Gioan tiền hô, ông rất khiêm tốn: nói rõ mình không phải là Messia và tuyên bố Ðấng Messia là Ðức Giêsu cao trọng hơn ông.
IV. GỢi ý giẢng
* 1. Vui mừng theo mệnh lệnh?
Lời kêu gọi rất rõ của Giáo Hội trong Thánh lễ hôm nay là "Anh em hãy vui lên".
Nhưng có thể vui mừng theo mệnh lệnh như thế chăng? Vả lại, trong cuộc sống cũng có nhiều nỗi buồn. Ðâu phải bất cứ lúc nào hễ Giáo Hội kêu chúng ta vui lên thì chúng ta vui lên ngay được?
Thiết tưởng ta nên phân biệt cho rõ. Cuộc đời gồm nhiều phương diện lắm khi không hoàn toàn phối hợp hài hòa với nhau. Bởi thế người ta vẫn có thể vui về phương diện này đang khi gặp điều không vừa ý thuộc phương diện khác. Chẳng hạn nghèo mà vui, bị sỉ nhục vẫn vui v. v. Phương diện lúc nào cũng có thể vui chính là phương diện siêu nhiên: vui vì Chúa, vui trong Chúa. Thứ niềm vui này ở tận trong lòng nên bất cứ thứ xáo trộn bên ngoài nào cũng không ảnh hưởng tới nó được.
Tác giả Sách Huấn ca đã viết: mọi việc đều có thời của nó. Có thời để khóc và có thời để cười, có thời để buồn và có thời để vui... Giáo Hội chỉ cho chúng ta biết rằng thời để vui chính là thời bây giờ đây, thời chuẩn bị đón Chúa Giáng sinh. Chúng ta vui vì Chúa đã "công bố năm hồng ân" (bài đọc I), vì "Chúa đã đoái nhìn phận hèn tôi tớ" của chúng ta (Bài đáp ca) và vì ý Thiên Chúa muốn rằng chúng ta luôn được hân hoan hạnh phúc (Bài Thánh Thư).
* 2. Vui và sướng
Trong bài đọc II, Thánh Phaolô bảo: "Anh em hãy vui luôn". Flor McCarthy có những suy nghĩ sau đây về vui và sướng (joy and pleasure).
Vui và sướng rất khác nhau:
- Ta có thể vạch kế hoạch để mình được sướng, nhưng không thể làm thế để được vui.
- Sung sướng đến ngay, còn niềm vui thường đến sau; và niềm vui ngọt ngào hơn cả là thứ niềm vui đến sau đau khổ.
- Sung sướng đến do mình trả lời "có" với mình; niềm vui đến do mình trả lời "không" với chính mình.
- Sung sướng giống như một ánh lửa loé lên trong đêm tối, chiếu sáng mọi sự trong giây lát rồi tắt lịm, sau đó ta cảm thấy tối tăm và trống rỗng hơn bao giờ hết; Niềm vui giống như một ngọn lửa trong tim, sau đó dù lửa đã tàn nhưng vẫn còn để lại hơi ấm trong ta.
* 3. Vui luôn
Thánh Phaolô kêu gọi "Anh em hãy vui mừng luôn mãi".
"Luôn mãi" là cả khi bị người ta đối xử xấu với mình nữa chăng?
"Luôn mãi" là cả khi làm việc thất bại nữa chăng?
"Luôn mãi" là cả khi người thân bị chết hay bị bệnh nặng nữa chăng?
"Luôn mãi" ngay cả khi đã phạm tội chăng? v. v.
Chắc chắn là thánh Phaolô đã nghĩ đến những tình huống đó, dù vậy Ngài vẫn kêu gọi "Hãy vui mừng luôn mãi". Tại sao?
Liền sau lời kêu gọi ấy, thánh Phaolô viết tiếp "Hãy cầu nguyện không ngừng". Ðúng rồi, nếu gặp phải những tình huống ấy mà biết cầu nguyện thì mọi buồn sầu lo lắng sẽ sớm tan biến và trở thành niềm vui.
4. Có Ðấng mà các ngươi không biết, Ngài sẽ đến sau tôi
Ðấng mà người ta không biết chính là Thiên Chúa. Thật vậy, rất nhiều người không biết Thiên Chúa, thậm chí còn không tin là có Thiên Chúa. Ðiều này cũng tự nhiên thôi, vì chính Thánh Kinh cũng nói rằng khả năng con người không thể biết được Thiên Chúa: Thánh Gioan tông đồ đã viết "Chưa ai trông thấy Thiên Chúa bao giờ" (Ga 1, 18); Thánh Phaolô cũng viết rằng Thiên Chúa là Ðấng "ngự trong ánh sáng siêu phàm, Ðấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy" (1 Tm 6, 16).
Thế nhưng, vì yêu thương loài người, Thiên Chúa đã khấng cho loài người biết Ngài, qua Ðức Giêsu con yêu dấu của Ngài nhập thế sống giữa loài người chúng ta. Gioan Tiền hô đã báo cho người ta biết tin vui đó: "Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết".
Chúng ta là những người được biết, vậy chúng ta hãy vui mừng; và cũng như Gioan, chúng ta hãy chỉ Ngài cho nhiều người khác được biết.
5. Ðiều kiện của người làm chứng
Ðiều kiện tiên quyết của người làm chứng là sống đúng như chứng từ của mình.
Gioan Tẩy giả là người làm chứng như thế. Ðoạn Tin Mừng hôm nay viết: "Ông đến để làm chứng về ánh sáng". Trung thực với chứng từ này, một mặt ông cố gắng chỉ cho người ta thấy Ánh Sáng là ai, mặt khác khi có người tưởng ông là Ánh sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Rồi khi Ánh sáng xuất hiện, ông âm thầm rút lui: "Ngài phải sáng lên, còn tôi phải mờ đi".
Câu chuyện sau đây được thuật lại trong quyển The Tablet (Tháng 5 năm 1998):
Một cặp vợ chồng trẻ kia đều là bác sĩ. Họ đã học chung với nhau ở Ðại học Y khoa, quen nhau, rồi cưới nhau. Người vợ là công giáo, người chồng thì không. Ðã nhiều lần người vợ cố gắng thuyết phục chồng Rửa Tội, nhưng anh không hề quan tâm, có lẽ vì chưa thấy đạo công giáo có cái gì hay.
Thế rồi trong một đợt thanh lý công nhân viên, người chồng bị bắt đi cải tạo cùng với một số nhà trí thức khác. Người vợ không vào tù nhưng bị làm áp lực bỏ đạo và ly dị chồng. Nhiều nữ bác sĩ khác cùng cảnh ngộ đã đành chìu theo những áp lực ấy. Nhưng bà này vẫn cương quyết sống theo niềm tin và tình yêu của mình, mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn.
Nhưng một ngày kia, người chồng được trả tự do cùng với nhiều bác sĩ khác. Xảy ra rất nhiều tình huống trớ trêu dở khóc dở cười: nhiều bà vợ vui mừng vì chồng trở về nhưng không dám đón chồng vì đã trót ly dị. Riêng cặp vợ chồng này thì niềm vui rất trọn vẹn.
Sau đó người chồng xin gia nhập đạo công giáo. Anh đã thấy được giá trị của đức tin và tình yêu hiện thân nơi vợ mình. Ðó là một chứng từ, không phải bằng lời nói suông mà bằng cả cuộc sống.
6. Làm chứng cho Ðức Kitô
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài bên bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì có một bà cụ xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, quần áo bẩn thỉu rách rưới. Bà vừa lẩm bẩm một mình, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát rồi cho vào giỏ.
Cha mẹ lũ nhỏ gọi chúng lại và bảo chúng hãy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà mỉm cười với họ, nhưng mọi người không hề tỏ dấu đáp lại.
Nhiều tuần sau, cả gia đình mới biết rằng đã lâu lắm rồi, người đàn đà ấy đã tự nguyện, làm công việc lượm các mảnh thủy tinh rơi rớt trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.
* "Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết" (Ga. 1, 26).
Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là làm chứng cho Sự Sáng đích thật chính là Ðức Kitô. Ðức Kitô đến để chiếu ánh sáng cho trần gian. Toàn bộ Tin mừng Gioan chỉ là để trả lời cho câu hỏi này: "Giêsu Nagiarét, Người là ai?" Gioan không dùng danh từ Phúc âm mà chỉ dùng từ ngữ "chứng nhân". Ðộng từ "làm chứng" được Gioan nhắc đến 33 lần. Tin mừng Gioan được khai mở bằng lời chứng của Gioan Tiền Hô và kết thúc với minh chứng của Gioan Tông đồ: "Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra. Chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thực" (Ga. 21, 24).
Qua lối sống khổ hạnh khác người, qua lời rao giảng sám hối, và qua lời chứng: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi" (Ga. 1, 23) đã minh chứng Gioan là vị Tiền Hô của Ðấng Cứu Thế, là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút lui vào bóng tối.
Có thể nói, Gioan là người tôi tớ, còn Ðức Giêsu là ông chủ, Gioan là đèn soi, còn Ðức Giêsu là ánh sáng, Gioan là tiếng kêu, và Ðức Giêsu là lời hằng sống.
Như Gioan, người tín hữu cũng sẽ là chứng nhân cho Ðức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, Teihard de Chardin đã ví von rất sống động: "Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta mọi người cũng đoán được có Ðức Kitô". Bà cụ trong câu chuyện của Cha Mello phản ánh một tấm gương sáng ngời về lòng thương người, luôn quan tâm tới kẻ khác. Cụ sống khó nghèo, âm thầm, hy sinh thời giờ sức lực của mình, để cho niềm vui của người khác được trọn vẹn.
Martin Luther King viết: "Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cuộc sống của mình". Có những tâm hồn dần dần cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ tới. J. Basquin nói: "Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta".
Ước gì khi nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đã nói về Thánh Gioan Vianey "Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người".
* Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lời rao giảng và bằng gương sáng đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm nhường: không hiếu danh cũng chẳng ganh tị, không cao ngạo cũng chẳng cậy uy. Nếu có khi nào thành công việc gì xin cho chúng con biết hướng vinh dự về cho Chúa, để qua đó, người ta nhận biết Chúa là Ðấng quyền năng và yêu thương con người. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta đã tiến đến Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng, niềm vui ngày Chúa đến dịp lễ Giáng Sinh đã gần kề. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui mừng cầu nguyện và tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta:
1. Thánh Gioan đã dọn đường về Ðức Giêsu là ánh sáng, là niềm vui cứu độ / Xin cho cộng đoàn Hội thánh trở thành chứng tá cho Chúa xuyên qua việc gieo rắc và bồi dưỡng niềm vui cho mọi người.
2. Ðức Giêsu được sai đi để đem Tin mừng cho người nghèo khổ bất hạnh / Xin cho các nhà cầm quyền trở thành những người bênh vực kẻ hèn yếu và đem an vui cho những người thiếu may mắn.
3. Ðức Giêsu đến trần gian để băng bó những tấm lòng tan nát / Xin cho những người nghèo đói thất nghiệp, tù đày, bị bỏ rơi / tìm được niềm an ủi và hy vọng nơi những người họ gặp gỡ.
4. Chúng ta đã được hiệp thông với Ðức Giêsu qua các Bí tích / Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / luôn thắp lên trong đời mình ánh sáng của Chúa / để sưởi ấm và soi sáng cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đang sửa soạn để đón nhận niềm vui ngày Ðức Giêsu Giáng Sinh, xin Chúa sai Thánh Thần Chúa đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con để chúng con trở thành niềm an vui cho mọi người chúng con gặp gỡ. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô.
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
I. GIOAN, ÔNG LÀ AI ?
Đã từ 400 năm, tiếng nói tiên tri đã im bặt, bây giờ với Gioan, tiếng nói ấy lại vang lên. Qua: MV3-B47
Đã từ 400 năm, tiếng nói tiên tri đã im bặt, bây giờ với Gioan, tiếng nói ấy lại vang lên. Qua đó một số người đã ngưỡng mộ ông Gioan Tẩy giả đến độ dành cho ông địa vị cao hơn địa vị thích đáng, còn cao hơn cả Đức Giêsu. Tiếng nói của Gioan đã vang dội và đánh động nơi nhiều người.
Cấp lãnh đạo Do thái sợ Gioan chiếm mất địa vị của mình, đã sai mấy tư tế và Lêvi đến điều tra xem Gioan là ai. Họ sợ ông là Êlia sống lại, người đã thiêu sống hơn 500 tư tế của hoàng hậu Giêzabel thời vua Achab. Họ sợ ông là một tiên tri, như bao tiên tri của Thiên Chúa, đến đe dọa họ, đưa những tin làm đảo lộn thời thế, làm mất quyền lợi địa vị của họ. Họ phải đề phòng, kiểm soát, canh chừng mọi bất trắc xẩy ra. Họ đã biết có nhiều người được dân coi là Đấng Cứu thế, nổi lên chống ngoại bang, làm cho bao nhiêu người phải chết lây, nhất là tầng lớp lãnh đạo tôn giáo lại càng sợ đế quốc tiêu diệt.
Vì vậy, cấp lãnh đạo tôn giáo sai tư tế và Lêvi đến đặt câu hỏi, yêu cầu Gioan phải trả lời cho ho biết : Ông là ai ?
1. Gioan là Đấng Messia ?
Tâm lý chung của các nước các dân bị trị đều mong có một vị cứu tinh nào đến giải phóng họ khỏi cảnh kìm kẹp của ngoại bang. Dân Do thái đang sống trong tâm trạng đó. Họ tin rằng họ là dân tuyển chọn của Giavê, họ không nghi ngờ gì về việc chẳng chóng thì chầy Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dân Ngài. Không phải chỉ có một quan niệm về Đấng Messia : có người tin rằng Đấng Messia sẽ đem lại hòa bình cho cả thế giới. Có người trông chờ Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Có người trông chờ có một siêu nhân đến từ Thiên Chúa. Nhưng đa số trông mong một vị tướng lãnh vô địch sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do thái đi chinh phục cả thế giới.
Trước câu hỏi đó, Gioan hoàn toàn bác bỏ danh xưng Messia, nhưng lại tiết lộ một phần khác. Trong tiếng Hy lạp có vẻ như Gioan muốn nói : “Tôi không phải là Đấng Messia, nhưng Đấng Messia đang có mặt ở đây mà các ông không biết”.
2. Gioan là tiên tri Êlia ?
Người Do thái tin rằng tiên tri Êlia và ông Hênốc đã được đưa về trời trên chiếc xe bằng lửa, và khi Đấng Messia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước, và chuẩn bị cho thế gian tiếp rước Ngài. Họ tin rằng Êlia sẽ đến sắp xếp lại mọi công việc cho người Do thái : dàn xếp những bất hòa, đem lại sự đoàn kết và nối lại các gia đình. Niềm tin rằng Êlia phải đến trước Đấng Messia bắt nguồn từ Malakia 4,5. Người ta còn tin rằng chính Êlia xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như cho tất cả các vị vua được xức dầu. Nhưng Gioan tẩy giả đã bác bỏ mọi vinh dự đó.
3. Gioan là một tiên tri nào đó ?
Nhiều người Do thái tin Isaia và đặc biệt là Giêrêmia hoặc một trong các vị anh hùng cứu nước như Samuel, Maisen... sẽ có ngày trở lại. Niềm tin đó dựa vào sách Đệ nhị luật (18,15) nói có vị tiên tri sẽ xuất hiện. Đó là lời hứa dân Do thái không khi nào quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là tiên tri vĩ đại nhất. Họ hỏi Gioan có phải là một trong các vị tiên tri được hứa trong sách Đệ nhị luật không ? Một lần nữa, Gioan Tẩy giả trả lời là “không”. Sự thực ngài cũng là tiên tri, nhưng không phải là tiên tri theo sách Đệ nhị luật nói.
4. Gioan là người làm chứng ?
Để trả lời cho họ, Gioan không trả lời trực tiếp : Tôi là Tiền sứ của Chúa Cưu thế vì ông khiêm tốn nhưng ông mượn lời tiên tri Isaia :”Tôi chỉ là tiếng hô trong hoang địa : hãy dọn đường cho Chúa.
Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại. Người “tiền hô” còn một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy giả cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới. Ông nói :”Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa”.
Tóm lại, chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau :”Tôi không phải là Đấng Cứu thế, nhưng tôi là người “tiền hô” cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến”. Gioan đã làm những gì mà mọi vị lãnh đạo tôn giáo đích thực phải làm. Ông không để cho người ta chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Giêsu.
Còn một điều khác làm cho phái đoàn Do thái thắc mắc : Gioan lấy quyền gì mà làm phép rửa ? Nếu ông là Đấng Messia, là Êlia hay là một tiên tri thì ông mới có quyền làm ! Nhưng bằng một giọng thản nhiên, Gioan nói rõ : ông là tiên tri dọn đường Chúa Cứu thế thì cố nhiên phép rửa của ông cũng chính là phép dọn đường mở lối cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu thế. Và ông nhấn mạnh thêm : Chúa Cứu thế đã đến rồi và hiện nay đang ở giữa họ, thế mà họ đã không nhận ra Ngài.
II. KITÔ HỮU, NGƯỜI LÀ AI ?
1 . Là chứng nhân của Chúa
Kitô hữu là người được mang danh Chúa Kitô, danh hiệu này đã được thánh Phaolô lần đầu tiên gọi các tín hữu ở Antiochia. Kitô hữu là người thuộc về Chúa Kitô, được đồng hoá với Chúa Kitô đang sống giữa chúng ta. Chúng ta không như người Do thái phải mất mấy thế kỷ mong đợi Đấng Cứu thế đến. Hơn nữa, cũng không phải sống lại những biến cố đã qua. Đức Kitô đã đến. Ngài đang có đó. Liên tục hiện diện giữa chúng ta để loan báo Tin mừng cho người nghèo, để chữa lành các tâm hồn bị tan vỡ và giải thoát những kẻ bị xiềng xích.
Tuy Chúa Cứu thế đã đến rồi và ở giữa chúng ta, nhưng trong thực tế , chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài không ? Phải chăng lời khiển trách của Gioan Tẩy giả lại không nhằm đến chúng ta, cũng như những người Do thái đời ông :”Giữa các ngươi có một Đấng , mà các ngươi không biết”. Do đó, lời mời gọi khẩn thiết được trao gửi cho ta, giúp chúng ta dễ chấp nhận những nỗ lực và hy sinh cần thiết, để từ bỏ mọi kiêu căng, thoát khỏi những lố lăng trần thế, hầu nhận biết Đức Kitô.
Truyện : Tình nghĩa vợ chồng.
Tại một trung tâm bài phong, đa số các bệnh nhân đều buồn chán, vì cảm thấy bị bỏ rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn còn biết cười và vẫn còn tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ. Vị nữ tu coi sóc trung tâm muốn tìm hiểu xem đâu là nguyên nhân của phép lạ này. Sau nhiều ngày theo dõi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên vách tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một người đàn bà đến nhìn vào và mỉm cười rất trìu mến. Đó là tất cả sức mạnh và niềm hy vọng của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày ông chờ đợi nụ cười ấy, khuôn mặt người đàn bà khi xuất hiện, mỉm cười và biến mất. Người đàn ông duy nhất còn biết cười nơi trung tâm bài phong đó đã giải thích cho vị nữ tu đó như sau :
“Người đàn bà ấy chính là vợ tôi ; trước khi tôi đến đây, nàng đã tìm đủ mọi cách để chữa chạy cho tôi. Mỗi ngày nàng lau chùi một khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt lên đó một cái hôn. Nhưng cuối cùng nàng không thể giữ tôi lâu hơn, người ta đã đến đưa tôi vào trung tâm này, nhưng vợ tôi đã không bỏ tôi, mỗi ngày nàng đến nhìn qua vách tường và mỉm cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn còn sống, nhờ nàng, tôi vẫn còn muốn sống”.
Người vợ đã làm sống lại niềm tin của chồng. Ông ta không còn thất vọng, không bi quan, không chán đời và còn muốn sống vì đã được tình thương của người vợ ấp ủ. Chính tình yêu của người vợ đối với chồng đã làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.
Người Kitô hữu cũng là chứng nhân của Đức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, nhaThần học Teilhard de Chardin đã ví von rất sống động :”Ánh sáng xuyên qua những đám mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán được có Đức Kitô”.
Người vợ trong câu chuyện kể trên phản ảnh một tấm gương sáng ngời về lòng thương người, luôn quan tâm tới người khác, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân vì tình yêu Đức Kitô như thánh Phaolô nói :”Caritas Christi urget me” : Tình yêu Đức Kitô thúc đẩy tôi.
Mục sư Martin Luther King nói :”Chúng ta không làm chứng chỉ bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cả cuộc sống của mình”, đúng như người ta nói :
Lời nói như gió lung lay,
Gương bày như tay lôi kéo.
Có những tâm hồn dần dần được cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ.
J. Basquin nói :”Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”.
Ước gì nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người có thể nói như đã nói về thánh Gioan Vianney :”Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một người”.
2. Chờ đợi ngày Chúa trở lại.
Người Kitô luôn nhớ lời Chúa hứa mà phấn khởi trong cuộc sống :”Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các conb cũng ở đó
(Ga 14,3).
Trong suốt Mùa Vọng, Giáo hội hướng lòng chúng ta về Chúa Kitô như một điểm qui chiếu. Giáo hội hành động giống như vị “tiền hô” của Ngài. Và cuối cùng Giáo hội giải thích cho chúng ta phải chuẩn bị đón Ngài như thế nào.
Mùa Vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong dòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm ngày lễ Giáng sinh, mà còn đến lần chót vào cuối dòng lịch sử nữa, để lúc ấy sẽ có trời mới đất mới.
Và việc Chúa sẽ trở lại lần thứ hai với loài người trong ngày chung thẩm, Tin mừng thánh Matthêu còn ghi rõ :”Khi con người đến với tư cách là vị Vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ đều qui tụ trước mặt Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra thành hai nhóm, y như người chăn tách chiên ra khỏi dê... Nhà Vua sẽ nói với những người ở bên phải : Hãy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc ! Hãy đến và lãnh lấy Nước Trời làm cơ nghiệp... Rồi Ngài nói với những người ở bên trái : Hãy đi khỏi mặt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25,34-41).
3. Chờ đợi trong niềm vui.
Đối với Kitô hữu, cuộc sống ở trần gian này là thời gian chờ đợi Chúa đến. Chúa đến trong ngày chung thẩm và Chúa đến với ta trong ngày sau hết của đời mình. Đời là một cuộc lữ hành đi về trời. Trong cuộc lữ hành đó có buồn vui sướng khổ xen lẫn nhau. Nhưng trong bài Thánh thư hôm nay, thánh Phaolô khuyên tín hữu Thessalonica :”Anh em hãy vui mừng luôn mãi”(Tx 5,16).
Tại sao Ngài khuyên chúng ta “hãy vui mừng luôn mãi” ? Ngài bảo chúng ta hãy vui mừng vì chúng ta đã được Thiên Chúa cứu độ :”Linh hồn tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”. Ngoài ra, chúng ta là con cái Chúa, con cái Chúa thì phải vui luôn, vui trong lúc buồn, vui trong lúc khổ, vui trong thất bại vì tất cả nằm trong thánh ý Thiên Chúa.
Làm sao chúng ta mang một nét mặt buồn rầu khi chúng ta đến gần Chúa là nguồn vui, như lời thánh vịnh nói :”Tôi sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, Đấng làm cho tuổi thanh xuân tôi được vui tươi”. Chúa là nguồn vui, tại sao gần nguồn vui mà lại buồn ? Ta hãy bắt chước thánh Têrêsa Hài đồng mà chấp nhận trong vui tươi :
Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi
Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng.
Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong
Gai càng dài, lời ca càng thánh thót.(Têrêsa Hài đồng)
Truyện : kịch sĩ hài lại buồn
Người ta cho biết tại một thành phố kia có một kịch sĩ nổi tiếng vì tài nhạo cười. Ai buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu nghe kịch sĩ này pha trò thì thế nào cũng phải bật cười.
Cũng trong thành phố ấy có một nhà tâm lý nổi tiếng chữa được hầu hết mọi tâm bệnh. Ngày nọ một người đàn ông đứng tuổi, mặt mày rầu rĩ đến xin gặp nhà tâm lý.
Được nhà tâm lý hỏi nguyên do, ông trả lời :
- Thưa bác sĩ, tôi là một người thiếu hạnh phúc, cuộc đời tôi quá buồn khổ. Bác sĩ có cách nào làm cho tôi vui được không ?
Nhà tâm lý hỏi :
- Ông có quá túng thiếu về tiền bạc không ?
Ông đáp :
- Thú thật với bác sĩ, tôi là người khá giầu.
Nhà tâm lý hỏi tiếp :
- Thế vợ con ông ra sao ?
Ông ta gật đầu nói :
- Tôi có một người vợ vừa hiền vừa đẹp và mấy đứa con rất dễ thương.
Sau khi hỏi thêm một vài điều khác, nhà tâm lý đề nghị :
- Tôi nghĩ ông nên đến nghe kịch sĩ nổi tiếng trong thành phố chúng ta. Thế nào ông cũng quên đi được nỗi buồn chán và tìm lại được niềm vui.
- Thưa bác sĩ, tôi xin cám ơn lời khuyên của bác sĩ. Nhưng... Tôi lại chính là kịch sĩ đó !
Nghe câu chuyện có vẻ mâu thuẫn, nhưng thực tế là vậy. Một con người có biệt tài làm cho người khác dù buồn chán đến đâu cũng phải vui lên được mà chính mình lại là nạn nhân của sự buồn rầu. Cái mâu thuẫn đó dễ hiểu vì kịch sĩ đó ngay trong tâm hồn không có nguồn vui thì làm sao mình cảm thấy vui được ? Niềm vui đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là chính niềm vui vĩnh cửu cho chính Ngài và từ nơi Ngài, niềm vui ấy được trao ban cho con người.
Chúa Giêsu chính là hiện thân niềm vui của Thiên Chúa. Từ cung lòng Chúa Cha, Ngài đến báo tin vui cho nhân loại và giải thoát con người khỏi mọi sầu khổ đau thương gây nên bởi tội lỗi và sự chết. Ngài đã đem niềm vui đó đến với nhân trần trong đêm Giáng sinh tại Belem : Vinh danh Thiên Chúa tên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương.
Trong Mùa Vọng này, chúng ta hãy đến với Chúa. Gặp gỡ Chúa là đến với nguồn vui bất tận, có niềm vui Thiên Chúa trong lòng mình, chúng ta sẽ làm cho người khác hưởng được niềm vui chân thật và bền vững.
Chúng ta hãy nhớ một câu trong bản nhạc rất hay của nhạc sĩ trứ danh Sebastian Bach :
“Lạy Chúa Giêsu su, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác”.
Lạy Chúa, xin hãy đến : Maranatha, xin viếng thăm và ban cho chúng con niềm vui Giáng sinh bất tận.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
- Lm. Mark Link, S.J.
Chủ đề: "Gioan là người tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Hãy sẵn sàng! Đấng Cứu Thế sắp đến!"
Jim Bishop có viết một tác phẩm nhan đề "Ngày Đức Kitô chết". Tác phẩm đó có một đoạn: MV3-B48
Jim Bishop có viết một tác phẩm nhan đề "Ngày Đức Kitô chết". Tác phẩm đó có một đoạn văn rất hay mô tả những gì người Do Thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến. Đoạn văn đó như sau:
"Việc Đấng Cứu Thế đến là một nỗi ám ảnh dịu ngọt của một quốc gia. Đó là một niềm vui ngoài sức tưởng tượng, một hạnh phúc vượt khỏi niềm tin. Đó là niềm an ủi cho những nông dân làm việc cực nhọc cả ngày đang cùng với gia đình nằm trên giường chờ giấc ngủ đến. Đó là giấc mơ của người tóc đã hoa râm. Đó là điều mà trẻ em mong được nhìn thấy từ trên ngọn núi phủ mây trắng hiện đến. Đó là niềm hy vọng của dân xứ Giuđêa đang bị xiềng xích tủi nhục. Đấng Cứu Thế luôn luôn là một sự hứa hẹn cho buổi sáng ngày mai."
Vì thế nên khi Gioan tẩy Giả xuất hiện bên giòng sông Giođan, dân chúng rất phấn khởi. Gioan bắt đầu sứ mạng của ông tại một địa điểm không xa Biển Chết. Đó là tụ điểm bình dân của những đoàn hành hương và các du khách từ khắp nơi trên thế giới đến. Đó là một nơi tuyệt hảo để mọi người gặp gỡ nhau và trao đổi những tin tức thế giới. Vì thế đó là một nơi lý tưởng để Gioan Tẩy Giã bắt đầu rao giảng và làm phép rửa. Sứ điệp Gioan rất đơn giản và rõ ràng: "Hãy từ bỏ tội lỗi mình… Hãy dọn đường cho Chúa đến, hãy làm một lối thật thẳng để Người đi" (Lc. 3, 3-4)
Chẳng mấy chốc, tin tức về hoạt động của Gioan Tẩy Giả đã đến tai những nhà lãnh tôn giáo ở Giêrusalem. Vì thế họ cử một phái đoàn gồm các tư tế và các thầy Lêvi đến nói chuyện với Gioan. Các tư tế đặc biệt lưu ý đến Gioan vì ông là con của Zacaria, cũng là một tư tế. Trong Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc dòng dõi tư tế. Nếu có ai là con cháu của Aaron, thì không ai có quyền cầm người ấy thực hiện chức năng tư tế của mình. Do đó các tư tế tại Giêrusalem đặc biệt lưu tâm tới Gioan, và chắc chắn không hiểu tại sao Gioan lại hành xử một cách dị thường như thế.
Khi phái đoàn các tư tế đến, họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan: "Ông là ai?". Gioan biết trong tâm trí họ nghĩ gì, nên ông nói: "Tôi không phải là Đấng Cứu Thế ". Các tư tế hỏi: "Nếu ông không phải là Đấng Cứu Thế, vậy ông là ai? Ông có phải là Êlia không?". Đối với chúng ta, câu hỏi sau cùng này có vẻ khó hiểu. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Êlia là một vị tiên tri đã được cất lên trời bằng một chiếc xe rực lửa vào cuối đời. Nhiều người Do Thái tin rằng Êlia sẽ trở lại vào thời Đấng Cứu Thế đến. Ngay cả thời nay cũng có một số người Do Thái dành cho tiên tri Êlia một ghế trống trong bữa ăn Vượt Qua của họ. Họ cầu mong năm nay là năm Êlia trở lại để loan báo Đấng Cứu Thế đến. Nhưng Gioan nói thẳng rằng ông không phải là vị tiên tri đã được cất lên trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ.
Họ hỏi: "Vậy ông có phải là một vị tiên tri không?" Gioan lại trả lời: "Không!Tôi không phải là một vị tiên tri giống như Giêrêmia hay Êzêkiel". Họ hỏi tiếp: "Vậy thì ông là ai?" Gioan trả lời bằng câu nói của Isaia: "Tôi là tiếng kêu gào trong sa mạc: 'Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến'". Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy Giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người "tiền hô" tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại. Người "tiền hô" còn có một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy Gỉa cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới. Ông nói: "Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa". (Mc. 4)
Tóm lại chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau: "Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi là người 'tiền hô' cho Ngài. Hãy chuẩn bị, vì Ngài sắp đến. Gioan đã làm những gì mà mọi vị lãnh đạo tôn giáo phải làm. Ông không để cho người ta chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Giêsu.
Đó chính là những gì Giáo Hội làm suốt Mùa vọng. Giáo Hội hướng mọi chú tâm của chúng ta vào Đức Giêsu. Giáo Hội hành động giống như vị "Tiền hô" của Ngài. Và cuối cùng Giáo Hội giải thích cho chúng ta biết chuẩn bị đón Ngài như thế nào.
Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong giòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm vào ngày Giáng Sinh, mà Ngài còn đến lần chót vào cuối dòng lịch sử nữa.
Tin Mừng Matthêu có nói về lần đến cuối cùng đó: "Khi Con Người đến với tư cách một vị vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ sẽ qui tụ trước mặt Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra làm hai nhóm, y như người chăn tách chiên ra khỏi dê… Nhà vua sẽ nói với những người ở bên phải: Hãy đến hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc! Hãy đến và hãy lãnh lấy nước trời làm cơ nghiệp… Rồi Ngài nói với những người ở bên trái: Hãy đi khỏi Ta và vào lửa đời đời" (Mt. 25, 34-41).
Những bài đọc trong Thánh lễ Chúa Nhật này muốn nói: Gioan không phải là Đấng Cứu Thế, ông chỉ là người "Tiền hô" của Ngài. Gioan dạy cho chúng ta cách chuẩn bị ngày Ngài đến vào cuối lịch sử để làm quan án xét xử chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ăn năn thống hối như khi lãnh nhận bí tích hoà giải. Xin các bạn hãy thinh lặng và cùng cầu nguyện với tôi:
"Lạy Cha chí nhân, con xin trở về với Cha và nói giống như người con hoang đàng: con đã lỗi phạm đến Cha, con không đáng gọi là con Cha nữa.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân loại, con cầu nguyện với Chúa như người trộm lành mà Chúa đã hứa nước thiên đàng ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy nhớ đến con trong nước của Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu, con thành tâm cầu khẩn Ngài, Xin hãy thanh tẩy tâm hồn con và giúp con bước đi như con cái của sự sáng".
Lm. Mark Link, S.J.
- Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR
Ga 1, 6-8.19-28
Chúa nhật 3 Mùa Vọng gợi lên cho chúng ta hai hình ảnh thật ấn tượng, hai tư tưởng thật quí hóa: MV3-B49
Chúa nhật 3 Mùa Vọng gợi lên cho chúng ta hai hình ảnh thật ấn tượng, hai tư tưởng thật quí hóa: một là tư tưởng vui mừng, hân hoan, phấn khởi vì thời cứu độ đầy khích lệ, đầy an ủi đã gần kề chúng ta; hai là hình ảnh kham khổ, khiêm tốn của Gioan Tẩy Giả, khiến nhiều người đồng thời thắc mắc, tự đặt vấn đề Gioan Tiền Hô là ai vậy ?
Cuộc đời của các Kitô hữu là cuộc hành trình tiến về Nước Trời, do đó, con người vẫn còn lo âu, vẫn còn thử thách, vẫn còn tội lỗi. Chúa không miễn trừ cho con người những điều khó khăn ấy, nhưng trong mọi hoàn cảnh, Chúa nói chúng ta hãy vui lên. Bởi vì Chúa đang ở giữa chúng ta để chia sẻ nỗi lo âu và hy vọng, làm cho những đau khổ, cũng như niềm vui của chúng ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự an bình chỉ có được nơi người mộn đệ có niềm tin, lòng khiêm tốn cậy dựa, tín thác vào Chúa. Gioan Tẩy Giả đã nêu gương cho chúng ta, cho mọi người về đức tin sống động, sự khiêm tốn tuyệt hảo, nên Ông đã trở nên Đấng Tiền Hô và trở nên cao trọng trong Nước Thiên Chúa.
THỜI GIAN GIÚP NHÂN LOẠI NHẬN RA LỜI HỨA CỦA THIÊN CHÚA ĐƯỢC THỰC HIỆN NƠI LỊCH SỬ CON NGƯỜI : Thời gian là một thực tại mà tất cả mọi người sống trong lịch sử đều kinh nghiệm. Dòng đời luôn trôi qua, thời gian, bốn mùa thời tiết cứ tiếp tục xoay vần, luân chuyển.Tuy nhiên, thời gian lại là một cái gì đó con người khó lòng định nghĩa, khó lòng xác định. Con người chỉ biết được mình được sinh ra tại một nơi chốn, trong một đất nước, trong một thời giờ và thời gian nhất định.
Chỉ có một mình Thiên Chúa là thoát ra ngoài những ràng buộc, những ấn định của thời gian, Ngài sống ngoài những giới hạn của thời gian, bởi vì Ngài sống trong cõi đời đời, không có quá khứ và tương lai. Ngài luôn ở trong cõi vĩnh cửu…Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, muôn loài muôn vật và con người. Chính trong khoảng khắc của thời gian hay ngày giờ mà Thiên Chúa dựng nên thế giới này, thời gian đã trở thành một thực tại không ai có thể chối cãi được. Do đó, chúng ta nhận ra rằng với lời mời gọi của Abraham đi tới vùng Đất Hứa vào một ngày đặc biệt trong thời gian, lịch sử cứu độ của con người, của thế giới bắt đầu. Thiên Chúa đã ban cho Abraham qua lời hứa của Ngài mà Đấng Cứu Thế đã sinh ra bởi dòng tộc Vua Đavít trong một nơi chốn và trong một thời gian nhất định:” Gioan Tẩy Giả là Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Độ và nhờ Gioan mà nhân loại nhận ra Ngài khi Ngài đến “.
GIOAN TIỀN HÔ LÀ CHỨNG NHÂN CỦA ĐỨC KITÔ:
Thánh Gioan trong chương 1,6-8 đã viết: ” Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng “. Sự Sáng là Đấng Cứu Độ mà Gioan chính là người được diễm phúc làm chứng cho Chúa, Gioan đã là chứng nhân trung thành nhất, kiên trì và hoàn hảo nhất cho Đấng Cứu Thế.Gioan Tiền Hô làm chứng cho Đấng Cứu Thế bằng lời nói, bằng gương sáng và bằng hành động của Người. Gioan đã sống đời sống hết sức khổ hạnh, Người đã rao giảng sự sám hối, ăn năn, và qua việc làm chứng của Người: ” Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi “ ( Ga 1, 23 ). Gioan Tẩy Giả chỉ là Đấng Tiền Hô và báo trước ngày, thời gian Chúa xuất hiện, sau đó Người rút lui vào bóng tối:” Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại “. Gioan chính là người nô bộc của Đấng Cứu Thế và Đức Kitô là chủ, là Chúa và là Thầy.
CHÚNG TA CŨNG PHẢI LÀ CHỨNG NHÂN CHO CHÚA:
Như thánh Gioan Tiền Hô, mỗi Kitô hữu cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống của mình. Bởi vì, Chúa Cứu Thế đã tới trần gian như thánh Gioan viết:” Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người “ ( Ga 1, 9 ). Con Thiên Chúa đã thực sự làm người và ở giữa thế gian:” Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người “( Ga 1, 10 ). Chính vì thế gian không nhận biết Người mà nhân loại và mỗi Kitô hữu chúng ta phải làm chứng cho sự hiện của Người. Chúng ta phải như Gioan Tiền Hô minh chứng chính Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa và Đức Kitô đang sống với, sống vì, sống cho chúng ta, sống cho nhân loại. Và cũng như các Tông Đồ xưa, chúng ta phải làm chứng: ” Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “( Ga 1, 14 ). Các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang của Đức Kitô ở một vài thời điểm trong cuộc đời trần thế của Người ( Ga 2, 11 và Lc 9, 32 ). Chính các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang trong cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Các Ngài đã làm chứng cho Đức Kitô Nagiarét chết và phục sinh, cũng như Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho chúa Giêsu khi Ngài đến và xuất hiện giữa trần gian, chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa Giêsu như các Ngài đã làm chứng.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Chúa đã đến trần gian, đã chết và sống lại vì yêu thương con người. Chúng ta đang trên con đường hành trình lữ thứ, chúng ta phải năng lắng nghe và thực thi lời Chúa qua đời sống cụ thể hằng ngày. Làm chứng cho Chúa bằng gương sáng và bằng những hành động bác ái cụ thể trong đời sống mỗi người chúng ta. Bí tích Thánh Thể là lương thực nuôi sống chúng ta và là bằng chứng chúng ta tôn kính, thờ lạy và làm chứng cho Ngài.
Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con sống thánh thiện để được rước Chúa và siêng năng, cần mẫn rước Chúa mỗi ngày. Xin làm cho tâm hồn chúng con trở nên đền thờ sống động, xứng đáng cho Chúa ngự trị. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
- Chúa nhật 3 Mùa Vọng day chúng ta những gì ?
- Tại sao Gioan Tẩy Giả lại là người chứng quan trọng?
- hánh Gioan Tiền Hô đã làm gì để cho nhiều người nhận ra Chúa Cứu Thế đến và xuất hiện ?
- Thái độ nào chúng ta phải có để làm chứng cho Đức Kitô.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR
Chúa Nhật III Mùa Vọng thường được gọi là “Chúa Nhật Hãy Vui lên” “Gaudete” (tiếng: MV3-B50
Chúa Nhật III Mùa Vọng thường được gọi là ‘Chúa Nhật Hãy Vui lên’ ‘Gaudete’ (tiếng Latinh), ‘Rejoice’ (tiếng Anh). Ngay trong câu đầu Ca Nhập Lễ là lời mời gọi của Thánh Phaolô: “Anh em hãy vui lên trong Chúa! Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên, vì Chúa đã gần đến!” (Phil. 4,4.5).
Bài Đọc I (Isaia 61, 1-2;10-11): Tiên tri Isaia nói đến “Niềm vui của Đấng được xức Dầu Thánh và được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau khổ… Và tôi hớn hở vui mừng trong Chúa vì Người đã mặc cho tôi niềm vui ơn cứu độ và sự công chính!”
Bài Đọc II (1 Thess. 5, 16-24): Thánh Phaolô mời gọi chúng ta, các tín hữu của Chúa “Hãy vui luôn trong Chúa với tâm hồn cầu nguyện và cảm tạ Thiên Chúa … Tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức, và sống vẹn toàn chờ đón Chúa đến…”
Bài Phúc Âm (Gioan 1, 6-8; 19-28) nói đến vai trò của Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài khiêm tốn xác nhận Ngài không phải là Elia, cũng không phải là Tiên Tri, cũng không phải là Đấng Kitô, nhưng Ngài được sai đến là để làm chứng cho Ánh Sáng, cho Đấng Kitô. Ngài ban Phép Rửa Thống Hối để dọn lòng dân chúng sám hối lỗi lầm trở về với Chúa là Đấng Cứu Độ.
Trước tình trạng của thế giới hôm nay: nào là khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ngay cả tại Hoa Kỳ; các cuộc khủng bố vẫn xảy ra tàn khốc, như ở Mumbai (Ấn Độ) từ ngày 26/11/08 kéo dài mãi đến ngày 29/11/08, gây kinh hoàng cho cả thế giới; những cuộc nổ bom tự sát ở Iraq, những biến động chính trị ở Thái Lan, cuộc chiến ở Congo, ở Nigeria; cảnh bão lụt khủng khiếp vừa qua ở Việt Nam cùng với bao lo lắng người dân Việt phải hứng chịu, nhất là ở Thái Hà (Hà Đông)…Vậy làm sao chúng ta có thể vui được?
Tuy nhiên, Thánh Phaolô vẫn kêu gọi tín hữu của Chúa: “Hãy vui lên trong Chúa!” và Ngài còn nhấn mạnh: “Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên trong Chúa!” (Phil. 4,4). Trong lá thư gởi tín hữu Thexalonica Ngài cũng kêu gọi: “Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng luôn…” (1 Th. 5,16). Khi Thánh Phaolô kêu gọi như vậy, không phải là lúc Ngài cũng như các tín hữu lúc đó đang gặp mọi sự tốt đẹp. Trái lại, khi viết như vậy thì chính Ngài đang phải sống trong ‘xiềng xích, tù tội’ trên đường bị giải nộp về Rôma, và trong lòng Ngài cũng đang mang nặng bao nỗi âu lo cho Cộng đoàn Dân Chúa (Phil. 1,12…). Trong một đoạn khác, Ngài còn cho ta thấy: “Nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ anh em lấy đức tin mà dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em. Anh em cũng vậy, anh em hãy vui lên và cùng chia sẻ niềm vui với tôi” (Phil. 2,18).
Thế giới chúng ta đang sống, mọi nơi mọi thời đều có chiến tranh, loạn lạc, những tai ương, những khốn khó. Nếu là những người vô thần, thì chúng ta thực đáng bi quan, chán nản. Nhưng chúng ta là những tín hữu của Chúa, thì dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng phó thác nơi Chúa. Đó là niềm vui trong Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta vẫn phải chia sẻ những khổ đau của anh chị em chúng ta, như Thánh Phaolô bảo chúng ta: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc!” Nhưng chúng ta không chán nản, thất vọng; trái lại luôn vui trong niềm vui phó thác của con cái Chúa. Đó là niềm vui siêu nhiên mà chỉ có những tâm hồn biết sống kết hợp với Chúa và biết sống yêu thương nhau mới có thể cảm nghiệm được. Niềm vui trong Chúa sẽ giúp chúng ta can đảm chịu đựng mọi thử thách, mọi khổ đau, bệnh tật, kể cả trong hoàn cảnh bị ‘xiềng xích, tù tội’ như Thánh Phaolô (đặc biệt chúng ta đang sống trong Năm Thánh kỷ niệm sinh nhật 2000 của Thánh Phaolô).
Với tinh thần đó, chúng ta mới có thể cảm nghiệm được những tâm tình của Mẹ Maria, khi chúng ta hát ‘Bài Ca Cảm Tạ’ trong phần Đáp Ca trong Thánh lễ Chúa Nhật này:
“ Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và lòng trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu độ tôi…” (Luca 1,46…).
Xin cho ‘Niềm Vui Trong Chúa’ của Mùa Vọng nâng đỡ chúng ta, nâng đỡ những người đang gặp bao khổ đau trên thế giới; đặc biệt những anh chị em chúng ta ở Việt Nam hiện nay.
Lm. Anphong Trần Đức Phương