Suy Nệm Tin Mừng Chúa Nhật MV4-B Bài 51-100 Này tôi là tôi tớ Chúa
---------------------------------- Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 1, 26-38).
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận". Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ. - Đó là lời Chúa
Hôm nay Chúa Nhật Thứ 4 Mùa Vọng, chuẩn bị tâm hồn chúng ta mừng Chúa Giáng Sinh: MV4-B51
Hôm nay Chúa Nhật Thứ 4 Mùa Vọng, chuẩn bị tâm hồn chúng ta mừng Chúa Giáng Sinh. Trong tinh thần sám hối, tỉnh thức và chuẩn bị chào đón sự kiện trọng đại nhất của nhân loại, cũng như của mỗi người, thánh sử Luca muốn gửi đến chúng ta môt thông điệp vô cùng quan trọng, qua biến cố Truyền Tin của sứ thần Gabriel với Đức Mẹ Maria.
Lời chào rất trang trọng của sứ thần Gabriel: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng bà.” chứng tỏ Đức Maria đã có đời sống thánh thiện, đã tận hiến dâng mình, sống kết hợp mật thiết với Chúa, nên được Chúa chọn ngự đến. Mẹ đã chuẩn bị chu đáo để lãnh nhận hồng ân cao cả.
Vừa nghe lời sứ thần Gabriel chào mừng và chúc tụng, Mẹ Maria rất bối rối, chứ không chỉ bối rối đơn thuần như ông Dacaria, cũng được thị kiến sứ thần trước đó trong đển thờ. Rồi Mẹ phân vân, tự hỏi lời chào như vậy có ý nghĩa gì. Trong khi ông Dacaria thì lại phản ứng tiêu cực hơn, bị nỗi sợ hãi ập xuống trên ông (Lc 1, 12). Sau khi nghe sứ thần báo tin vợ ông, là bà Elisabét, tuổi đã xế chiều, sẽ thụ thai, ông Dacaria đã tỏ ra không tin, hơn nữa lại ngờ vực Thánh Ý Chúa.( Lc 1, 20)
Còn Mẹ nghe sứ thần Gabriel loan báo sẽ được cưu mang Đấng Cứu Thế, Mẹ không hề nao núng, không nghi ngờ, chỉ đơn sơ thắc mắc: Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chổng! (Lc1, 34)
Sứ thần Gabriel giải thích mầu nhiệm Nhập Thể, và mạnh mẽ kết luận: Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Mẹ liền mau mắn đáp lại: “Xin vâng! Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói.” Thái độ tích cực của Mẹ biểu hiện tấm hồn vâng phục, khiêm nhường, cùng tuyên xưng niềm tin bất biến: Tôi đây là nữ tỳ của Chúa.
Mẹ đã chọn Chúa làm chủ cuộc đời, chứ không phải danh vọng, tiền tài, phù hoa của thế gian. Mẹ còn tiếp tục xác tín điều đó trong kinh Magnificat sau này: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới.”(Lc 1, 48). Vì thế Mẹ phó thác hoàn toàn vào Chúa tác động, hành xử: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói.”
Lạy Mẹ Maria kính mến, xin cải hóa tâm hồn chúng con, xin giúp chúng con biết sống theo gương Mẹ, luôn biết khiêm hạ như tôi tớ hèn mọn của Chúa, xin dạy chúng con biết nói hai chữ “Xin Vâng”theo Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, hầu xứng đáng tiếp đón Chúa Giáng Sinh. Amen.
Có một tầng không, xa rất xa từ đất lên trời, từ trời xuống đât. Có một khoảng mênh mông: MV4-B52
Có một tầng không, xa rất xa từ đất lên trời, từ trời xuống đât. Có một khoảng mênh mông tưởng như không bến bờ, không biết đâu là ranh giới giữa cõi vô hình với thực tại trần gian. Có những cách biệt dĩ nhiên giữa vua chúa quan quyền với bần dân lê thứ. Có những vách ngăn giữa phú quí giàu sang và đói rách nghèo nàn. Có những bức tường che chắn muôn năm không một khe hở ch o ánh sáng quang minh lọt vào trong bóng tối tội lỗi. Có khoảng cách xa quá xa giữa một Thiên Chúa thủy chung và một loài người ngoại tình, phản bội…
Bao lâu còn những khoảng cách, bấy lâu còn những ngày buồn, còn những đêm dài cô đơn bất tận.
Có thể, phía con người, không mấy ai cảm được nỗi buồn thảm cô đơn bất tận ấy. Nhưng phía Thiên Chúa, Đấng Giàu Lòng Xót Thương, vẫn khát khao từng giây phút để thu hẹp dần lại những khoảng cách và cuối cùng là xóa đi khoảng cách đau buồn không đáng có, mà Ngài phải chịu đựng nghìn nghìn năm !
Để thu hẹp, Ngài đã dùng các ngôn sứ mạc khải dần dần cho con người biết được lòng thương vô cùng của Ngài, mối bận tâm ưu tiên và duy nhất của Ngài.
“Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm ?” ( Tv 8, 4 – 5)
Đúng vậy, hôm nay – không vì lòng khát khao của con người lay động, nhưng vì Tình Thương của Ngài không đợi chờ được nữa, không chậm trễ được nữa – Ngài xóa đi khoảng cách nghìn nghìn năm giữa đất trời, Ngài xé toang các tầng không mênh mông mà ngự xuống trần gian tội lỗi.
Thiên Chúa đã chọn cung lòng của một nữ trinh thánh thiện để ngự xuống, nhưng trinh nữ không hề bị áp đặt. Vì, một Thiên Chúa quyền năng, thượng trí, thống trị cả đất trời, lại hết lòng khiêm cung cúi mình xuống hỏi ý kiến một thôn nữ về việc cho phép Ngài được làm con người, để đồng hành cùng con người và để cứu chuộc con người.
Tin Mừng hôm nay phải là Tin Mừng của lòng Khiêm Nhượng. Chỉ có lòng khiêm nhượng mới có cung cách ứng xử lịch thiệp, cung kính, hỏi thưa chân thành, và yêu thương giúp nhau chu toàn sứ vụ:
"Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà."
Đó là lời chào kính trân trọng của một đại diện cho phía Thiên Chúa đối với một phàm nhân là cô Maria. Chắc chắn phàm nhân ấy là địa chỉ mà Thiên Chúa đã chọn vì cô có lòng khiêm nhượng đẹp lòng Thiên Chúa. Đúng vậy, Thánh Luca tường thuật:
“Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”
Sứ thần càng trân trọng cung kính bao nhiêu, Đức Maria càng bối rối bấy nhiêu. Phải hân hoan, hãnh diện vì “đầy ân sủng” và “Đức Chúa ở cùng” chứ, tại sao bối rối ? Bối rối, bởi vì khiêm nhượng biết mình là thân phận phàm nhân chẳng đáng là gì để Thiên Chúa phải bận tâm, chẳng đáng cho Người để mắt tới.
"Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu.Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người.Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
Thiên Chúa quyền năng có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn chứ ? Nhưng không, Ngài đã khiêm nhượng thẳm sâu để bày tỏ ý định của mình cho một cô thôn nữ – như một cuộc họp giữa trời đất, một hội nghị bàn bạc trong sự tôn trọng nhau đến mức tuyệt đối. Chỉ có Thiên Chúa uy quyền nhưng đầy khiêm nhượng mới có thể làm được điều vĩ đại ấy.
"Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ! "
Lòng khiêm nhượng còn cho phép Đức Maria chân thành nói lên điều bí ẩn, một ước mơ kín nhiệm trong lòng đang ấp ủ, và tưởng như là khó nói: không có chồng làm sao có thể mang thai ?
"Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."
Giải đáp thắc mắc của Đức Maria, Sứ thần Thiên Chúa không chỉ đưa ra kế hoạch của Thiên Chúa là Mẹ sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần nhưng còn dẫn chứng sống động việc bà Elisabét mang tiếng hiếm hoi mà nay đã có thai được sáu tháng.
"Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."
Lời xin vâng đầy khiêm nhượng bắt nguồn từ lòng quí mến một Vị Thiên Chúa quá khiêm nhượng đến mức không chê chối thân phận nữ lưu hèn kém này. Như thế là, hai lòng khiêm nhượng đã gặp nhau và làm nên một công trình vĩ đại: công trình cứu chuộc.
Tin Mừng hôm nay gửi đến chúng ta thông điệp về lòng khiêm nhượng: chỉ có lòng khiêm nhượng mới có thể thu hẹp những khoảng cách, xóa đi những khoảng cách.
Có thể chúng ta còn đang thấy ngổn ngang những khoảng cách không đáng có trong trần gian này, trong Giáo Hội chúng ta. Những khoảng cách ấy có thể không do lòng kiêu ngạo, nhưng thực sự là do chưa đủ khiêm nhường để được xóa đi: khoảng cách giữa chúng ta với Thiên Chúa do tội lỗi của chúng ta, khoảng cách giữa các thành phần trong xã hội: chính quyền và nhân dân, khoảng cách giữa đô thị và thôn quê: giàu và nghèo, khoảng cách giữa có học và thất học, giữa Giáo Dân và lương dân, giữa Giáo Sĩ và Giáo Dân, khoảng cách giữa cha mẹ và con cái… Đâu đâu cũng đang còn những khoảng cách không đáng có !
Thiết tưởng, nhiệm vụ của mỗi Kitô hữu trong xã hội hôm nay là đi từ việc thu hẹp những khoảng cách đến việc xóa đi những khoảng cách để Hiệp Thông với Chúa, Hiệp Thông với nhau và Loan Báo Tin Mừng cho mọi người. Như vậy, khi chưa đủ khiêm nhượng để Hiệp Thông với Chúa và với nhau, thì cũng có thể nói: việc Loan Báo Tin Mừng đang bị cản trở vì lý do nội tại hơn là vì tình huống ngoại tại.
Thật vô lý, chúng ta vẫn vin vào tình huống ngoại tại mà trách cứ Thiên Chúa bằng những lời phạm thượng rằng Ngài đang vô tâm, mất tích trước những bất công, trước những khoảng cách chưa thu hẹp được, chưa xóa bỏ được, mà quên rằng chúng ta chưa đủ khiêm nhượng đón nhận Ngài, Hiệp Thông với Ngài và với nhau để có một nội lực cần thiết cho công cuộc loan báo Tin Mừng.
Tôi bỗng nhớ chuyến du lịch của một nhóm anh chị em cùng làm chung một công việc tông đồ ở Tổng Giáo Phận Sàigòn, và nhớ cách trân trọng giờ kinh tối ngay trên bãi biển Nha Trang. Ngày du lịch Vinpearl có vẻ thật vui, nhưng không vui bằng giờ kinh tối giữa trời này. Vì, đêm ấy, có những khoảng cách của cõi lòng được thu hẹp, được xóa đi, bởi những dòng tâm sự sẻ chia chân thành trong giờ kinh, bởi những lòng khiêm nhượng đã gặp nhau. Và được biết, sau đêm đáng nhớ ấy, nhóm người này bỗng có một sức mạnh diệu kỳ: sức mạnh của tình Huynh Đệ Trong Chúa Kitô, trong Mẹ Maria, những mẫu gương của Lòng Khiêm Nhượng Tuyệt Đối.
Ước gì lòng khiêm nhượng của Thiên Chúa và Mẹ Maria trong Tin Mừng hôm nay qua cung cách ứng xử lịch thiệp, cung kính, hỏi thưa chân thành, và yêu thương giúp nhau chu toàn sứ vụ, sẽ là bài học cho mỗi chúng ta trong khi dọn lòng đón Chúa đến và cũng là nhân cách của chúng ta trong suốt cuộc đời Kitô hữu làm chứng cho Tin Mừng.
Lạy Chúa, hai lòng khiêm nhượng của Thiên Chúa và Mẹ Maria đã gặp nhau làm nên điều kỳ diệu là trổ sinh ơn cứu rỗi cho chúng con. Xin cho chúng con cũng biết khiêm nhượng mà thu hẹp và xóa đi những khoảng cách với Chúa và với mọi người. Amen.
Thứ ba ngày 13/12/2011. Ông Sultan Abdul Halim đã tuyên thệ và trở thành nhà vua thứ 14: MV4-B53
Thứ ba ngày 13/12/2011. Ông Sultan Abdul Halim đã tuyên thệ và trở thành nhà vua thứ 14 của Malaysia, ở tuổi 84. Ông ta là vua cao tuổi nhất trong lịch sử các quốc gia Đông Nam Á. Trong ngày lễ đăng quang rất long trọng, nhà vua oai phong, mặc áo vàng ròng lộng lẫy, dân chúng hò reo, vui mừng, tung hô và bái lạy nhà vua. Những hình ảnh đó gợi lên cho tôi những suy tư về một vị Vua, mà cả thế giới đang náo nức đón mừng đại lễ sắp đến. Ngài tên là Giêsu, Con Thiên Chúa từ trời xuống thế làm Người và ở cùng chúng ta, và chúng ta gọi Ngài là Vua, và là Vua trên các vua. Thế nhưng, chúng ta đã và đang chuẩn bị gì để tiếp đón Vị Vua, mà chúng ta đang tôn thờ và yêu mến!.
Để hiểu hơn về ý nghĩa của tước vị này, chúng cần đi sâu vào cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua những bài đọc chủ nhật hôm nay được trình thuật theo hướng lịch sử cứu độ. Trong Cựu ước, khi Thiên Chúa giải thoát dân Itrael ra khỏi Ai Cập qua hành trình lưu đày trong Sa mạc, đến núi Sinai, Thiên Chúa đã ký kết với họ một giao ước. Những điều khoản khắc trên bia đá được gọi là 10 điều răn Đức Chúa Trời và đặt vào cái hòm, nên người ta gọi là Hòm bia giao ước. Hòm bia đến đâu là dấu chỉ hiện diện Thiên Chúa đến với dân Ngài. Cho nên, trong bài đọc 1, chúng ta thấy vua Đavít khi thống nhất được đất nước, thì ngài quyết định đem Hòm bia giao ước về Giêrusalem, để lập bàn thờ cho Thiên Chúa. Vua Đavít ao ước xây cho Chúa một ngôi nhà, nhưng Chúa nói với tiên tri Nathan rằng, không phải Đavít xây nhà cho Ta, mà là Ta xây nhà cho Đavít. Ngôi nhà không phải bằng gỗ, gạch cát hay xi măng nhưng là một triều đại, một dòng dõi sẽ bền vững muôn đời. Cho nên, biến cố truyền tin là tiếp nối công trình cứu độ của Thiên Chúa cho con người. Mầu nhiệm Nhập Thể được thực hiện khi sứ thần Gabrien đến báo cho trinh nữ Maria đã đính hôn với một người tên là Giuse thuộc dòng dõi Đavít. Sau đó, sứ thần nói tiếp với Mẹ Maria rằng, Thiên Chúa sẽ ban cho ngài ngai báu Đavít tổ phụ ngươi.
Khi nhìn qua lịch sử cứu độ, chúng ta thấy Thiên Chúa hứa ban Đấng cứu độ đã có từ lâu đời qua các tổ phụ. Nhưng nổi bậc nhất chính là nơi Mẹ Maria, mà Giáo hội muốn chúng ta thấu hiểu biến cố trọng đại này. Khi Mẹ Maria đáp lại lời xin vâng, Mẹ là người diễm phúc được đón nhận Con Thiên Chúa trong cung lòng. Mẹ xin vâng cho toàn thể nhân loại. Mẹ là Evà mới thay cho Evà xưa đã nghe theo lời của satan chống lại Thiên Chúa. Sự khiêm tốn của Mẹ Maria là bài học cho chúng ta nhận ra giá trị đích thực điều mà Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại, và nơi thẳm sâu cung lòng Mẹ Maria là luôn tín thác, vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay không chỉ giúp cho mọi người chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Mẹ Maria trong khung cảnh biến cố truyền tin mà còn hướng chúng ta đến mầu nhiệm Tình Yêu Thiên Chúa Nhập Thế, Ngài đã mang lấy kiếp con người và ở cùng với chúng ta. Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người đã được ký kết và thực hiện giao ước qua biến cố truyền tin. Đấng Cứu Thế được sinh ra trong chuồng bò, hôi tanh, giữa đêm đông lạnh giá. Ngài là Vua của tình thương, Vua của hòa bình và Vua của người nghèo. Amen.
Rev.John Nguyen
St.John's Church
240 Bleecker St
Utica, NY 13501
Tel: 817-247-1123
wedsite:www.congdoanutica.org
“Nghe trong cõi nhớ, niềm xa xót… Chợt thoáng hiện về, dấu yêu ơi.” ( dẫn từ thơ Miên Thuỵ )
Chợt thoáng hiện về”, là lời thơ cho thấy một “hiện về” cũng rất thoáng như sứ thần Gabriel đa: MV4-B54
“Chợt thoáng hiện về”, là lời thơ cho thấy một “hiện về” cũng rất thoáng như sứ thần Gabriel đã hiện về với Đức Maria để báo cho Mẹ biết tin vui ngày Chúa đến. Với mọi người. Tin vui ngày Chúa về đến, là tin rất sớm về ơn cứu độ đã mạc khải cho Maria, người nữ trẻ ở Trung Đông, để Mẹ sẵn sàng mà nhận lãnh. Là thiếu nữ Trung Đông còn rất trẻ, nên trông Mẹ không giống hình hài mà mọi người Công giáo có trong đầu, từ thơ ấu. Hình hài ấy, là hình rất tưởng tượng về một Maria có dáng dấp của thiếu nữ rất Châu Âu. Thành thử ra, phần đông giáo dân ở trời Tây lâu nay không mấy thích khi thấy Mẹ chẳng giống họ, về hình hài. Tuy là thế, Mẹ vẫn mang bản chất Trung Đông chân phương, hiền hoà, dễ mến.
Tính chân chất hài hoà của thiếu nữ Trung Đông trong đó có Maria rất thiếu nữ, là sự rất thật về tính khiêm nhu, độ lượng của dân làng Nadarét. Mẹ không thuộc hoàng phái hoặc giòng dõi quý tộc nhưng Mẹ vẫn nhu mì, hiền dịu quyết chấp nhận bất cứ điều gì Chúa bảo ban. Bằng vào tính ngoan hiền và kiên định, Mẹ có khả năng thực hiện điều mình chọn để sẽ sống hết mình, với lựa chọn ấy.
Mang thai Đức Giêsu, vào lúc có thể Mẹ chỉ mới 13 tuổi đời, tức ở tuổi còn rất trẻ, lại nhỏ bé nhưng Maria vẫn có dáng dấp dẻo dai, bước đi thoăn thoắt theo tư thái của người cao ráo biết học cách bưng vại nước hoặc các bó đồ ở trên đầu. Mẹ phục sức tựa các thiếu nữ khác, cũng áo thụng đen vào buổi đầu, sau đổi sang thành mầu xám nhẹ. Tên của Mẹ theo tiếng Aram, là Maryam. Nhưng lại chuyển sang thành Myriam theo tiếng Hipri Do Thái, là quốc ngữ mà Mẹ không hề sử dụng. Maryam còn là tên của một trong ba nữ phụ ở trong toàn làng, người người đều biết đến.
Tin Mừng, nay thánh sử vẽ lên bối cảnh của sứ vụ “truyền tin”. Ở đây, thấy rõ văn phong sáng tạo của Thánh Luca rất thi sĩ khi Thánh nhân viết đối thoại giữa Đức Maryam và thần sứ Gabriel qua đó khi Mẹ đáp trả sứ mệnh Chúa giao phó. Bối cảnh “truyền tin”, tuy không xác thực như sử học nhất là khi thần sứ dùng ngôn từ khá lạ kỳ đối với Mẹ. Thần sứ Gabriel cũng đâu có mang tính xác thực một bản thể, để có thể nói tiếng Aram như ai khác. Thế nên, ngôn từ ở trình thuật là ngôn và từ của thánh sử. Và, kinh nghiệm ở trình thuật, là kinh nghiệm từng trải của Maria, rất thiếu nữ.
Lời nói đầu của thần sứ chỉ mỗi chữ: “Mừng vui lên!” bên tiếng Hy Lạp, người ta chào hỏi nhau bằng chữ “chaire”. Trong khi đó, người Do Thái chào nhau lại dùng cụm từ “rani” hoặc “gili” rút từ lời ngôn sứ Sôphônia khi nói với dân con Israel: “Vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” ( Xp 3, 14 ). Cụm từ “Vui lên” không giống lời chào buổi sáng ở tiếng Anh, tiếng Pháp, nhưng tiếng Hipri mang ý nghĩa: “Hãy vui mừng trổi dậy mà nhẩy múa”. Đây là lời chúc bất thường. Bởi, đó là lời Chúa mời Maria hãy cùng Ngài múa nhảy vũ điệu trọng đại.
“Hỡi Đầy ơn phúc !” tiếng Hy Lạp là “checharitomene”, đại ý chỉ người nữ duyên dáng và đầy phúc lành vì được quà tặng biến đổi mà Chúa đặc biệt phú ban cho riêng Maria. Hiểu theo ý chữ thì điều này có nghĩa là: Maria được Chúa công nhận là người khiêu vũ có duyên, và rất diễm tuyệt. Duyên dáng và diễm tuyệt, là bởi Maria biết chuyển động nhanh vòng quanh với niềm vui cao độ của Chúa, Đấng từng nhẩy múa với Mẹ. Và, Mẹ biết thêm thắt vào với vẻ đẹp của vũ điệu mà Chúa nhảy múa bằng cung cách Mẹ đảm trách khi cùng nhảy điệu vũ của công cuộc cứu rỗi.
“Chúa ở cùng người”, là chỉ về bạn nhảy hiện diện nơi bản ngã rất xác thể mà ngôn sứ Sôphônia diễn tả qua cụm từ “nức lòng”. Lúc ấy, là lúc Đức Maria được đề nghị nên có động thái của ngôn sứ, như lời khuyên: “Maria đừng sợ! vì người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa.” Thật ra, Maria là Mẹ đâu có gì phải hãi sợ khi đón nhận thông điệp do thần sứ mang đến, bởi đó chính là niềm vui trọn vẹn. Và, Mẹ vui với niềm vui của thiếu nữ đoan trang, mạnh mẽ, tự do. Tự do, biết rằng mình sẽ có em bé, là Con Chúa.
Và tiếp đến, là câu hỏi mang dáng vẻ trần thế: “Điều ấy sẽ làm sao được ?” Tức: làm sao có thể ra như thế ? Bởi, tôi đây đâu tính chuyện xác thịt. Hoặc, nói như bản dịch kinh thánh nào khác: “Tôi nào biết đến nam nhân”, tức có nghĩa: “tôi, một thiếu nữ trinh trong”. Câu này không thấy ghi ở bản Kinh thánh gốc Aram, mà chỉ là thuật ngữ để nói lên rằng: Maria chưa từng nghĩ chuyện ăn nằm xác thịt, vì tuổi của Mẹ còn quá nhỏ để được phép. Kinh Thánh không ám chỉ việc Mẹ quyết ở độc thân, mà chỉ mô tả cảnh tình của Mẹ vào lúc đó, thôi.
Sử học Do Thái cũng không đưa ra nền tảng nào để ta có thể nghĩ rằng Đức Nữ Trinh Maria đã thành thân với Thánh Giuse với ý định sẽ lập “con đàn cháu đống”, tức: cũng sẽ ăn nằm xác thịt hầu có con, như mọi gia đình ở Do Thái. Độc thân, theo người Do Thái, là chuyện hãn hữu chẳng bao giờ được đề cao, ngoại trừ trường hợp rất hi hữu. Chí ít, là với thiếu nữ trẻ sống ở thôn làng thuộc đất miền rất Galilê.
“Thánh Thần sẽ đến trên người”, điều này cốt ý nói sự việc sẽ nên hiện thực. Thánh Thần nói ở đây, khi ấy không hẳn là Ngôi Thứ Ba trong Ba Ngôi Đức Chúa, mà chỉ là nhiệm tích thánh thiêng của “Thần Khí” ( Ruah ). “Và, Quyền năng ( dynamis ) Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên người. Và, trẻ sắp sinh sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa”. Lời đối đáp ở đây mang tính cách mật thiết với Chúa.
Đáp lại, là câu nói của Maria rất thiếu nữ: “Này đây !” Với Kinh Thánh, cụm từ “Này đây !” cho người đọc thấy: ta sắp được Chúa mạc khải một điều hệ trọng. Mạc khải, là công thức biểu lộ điều gì đó ta chưa hề biết đến. “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài.” ( Lc 1, 38 ). Câu nói của Maria thiếu nữ nghe vừa nhu mì, hiền dịu, lại rất ngoan. Vừa cung kính, dễ bảo, lại mang tính thụ động như ở phần đông các bản dịch ta nghe biết. Như từ lâu, truyền thống tu đức Giáo Hội vẫn hiểu theo nghĩa này. Để rồi sẽ cho rằng: điều Maria nói có nghĩa: Mẹ là thiếu nữ trinh trong, hiểu theo nghĩa thụ động, thuần thục. Không hề biết đến “dục vọng”.
Nhưng bản Kinh Hy Lạp lại khác. Bản này không bao hàm ý nghĩa như thế. “Xin hãy thành sự cho tôi”, là dịch từ tiếng Hy Lạp “genoito”, như chọn lựa sâu sắc. Thánh Luca là người rất giỏi tiếng Hy Lạp, nên khi Thánh nhân dùng cụm từ “genoito” là có ý bảo: “Vâng ! Xin vâng. Vì đây là ý tưởng tuyệt vời mà mọi người đợi mong”. Tuyệt vời, còn là ngôn từ chỉ sự mừng vui trên mức trọn hảo. Và như thế, thần sứ chúc mừng Maria thiếu nữ bằng cách mời Mẹ “hãy đứng lên mà múa nhảy và ăn mừng” với Chúa. Và, lời Mẹ đáp trả cho thấy là Mẹ đang làm điều đó.
Các nhà chú giải kinh thánh, chuyên gia Hy ngữ, như Ignace de la Potterie năm 1988 và Christopher Evans năm 1990 suy tư nhiều về sắc thái này nên cho rằng các nhà chú giải xưa như thánh Bernard thành Clairveaux cũng đã hiểu điều đó.
Quả thật cũng buồn, khi một số các dịch giả đã thay đổi ý nghĩa của điều mà Đức Maria từng nói đến. Các vị vẫn nghĩ rằng lời đáp trả của Mẹ đượm tính cách từ tốn và nguyện cầu nên đã chấp nhận sự việc xảy đến, như cụm từ “fiat” tiếng Latinh có nghĩa là: “Cứ để việc ấy xảy đến với tôi, nếu như thế”. Giả như người đọc Sách Thánh là Giáo Dân nữ có lòng đạo hạnh từng coi Đức Maria như thần tượng của mình, chắc chắn sẽ cảm nghiệm được niềm vui khi được biết là Thánh Luca viết ra trình thuật này là để diễn tả kinh nghiệm riêng của Đức Mẹ “xin vâng” trong tình huống xảy đến vào lúc ấy.
Hiểu đúng nghĩa câu Mẹ nói, hẳn rằng người người sẽ thấy bản năng mình cảm nhận về nỗi mừng vui cũng đúng và thực tiễn. Với Hội Thánh, có lẽ cũng nên tìm hiểu và liên tưởng đến các hành xử khác biệt. Hiểu theo nghĩa đích thực của lời Mẹ đáp thay cho Hội Thánh, thì Hội Thánh ắt sẽ tung tăng mừng vui mà nhảy múa với mọi người.
Trong tinh thần mừng vui cảm kích, cũng nên ngâm tiếp cũng một lời thơ, mà rằng:
“Con đường Phượng tím chiều nay đổ, Bóng là che nghiêng một góc đời. Nghe trong cõi nhớ niềm xa xót, Chợt thoáng hiện về, “dấu yêu ơi”. ( Miên Thuỵ – Con Đường Phượng Tím )
Phượng tím, có là con đường của đợi chờ cũng vẫn là “cõi nhớ”, nhiều yêu dấu. Nhưng dấu yêu chợt về chào mời mọi người hãy vui lên mà nhảy múa. Nhảy và múa, hầu chào đón Đấng Cứu Tinh nay lại về. Ngài về đến trong mừng vui hoan lạc, đầy nhung nhớ. Ở mọi thời. Rất con người.
Mầu nhiệm Giáng Sinh là một trong ba mầu nhiệm lớn của Giáo Hội. Mở đầu bằng sự kiện sứ : MV4-B55
Mầu nhiệm Giáng Sinh là một trong ba mầu nhiệm lớn của Giáo Hội. Mở đầu bằng sự kiện sứ thần Thiên Chúa đến truyền báo tin vui. Khi lời xin vâng được thốt lên từ môi miệng Đức Maria, là mở ra một thời đại mới – thời đại cứu độ.
Như bao thiếu nữ trinh trong khác, Đức Maria lớn lên trong niềm mơ ước sở hữu một tương lai hạnh phúc cho đời mình. Sự kiện Mẹ đính hôn với Cha Thánh Giuse đánh dấu hành trình tương lai của Mẹ. Vào ngày sứ thần truyền tin, Mẹ ngỡ ngàng vì ý muốn Thiên Chúa không theo đúng hoạch định bản thân. Khi nhận được lời chào của sứ thần: “Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” ( Lc 1, 28 ), Mẹ đã vô cùng ngạc nhiên, bối rối không hiểu điều gì sắp xảy đến.
Cũng vậy, mỗi người một cuộc đời, và không ai biết trước điều gì sẽ xảy đến trong tương lai. Mặc dầu, ai ai cũng tự vạch ra mục đích, lý tưởng riêng. Nhưng ý định Thiên Chúa trên từng cá vị lại hoàn toàn khác biệt. Nhân loại sống, lầm tưởng sống cho mình, với những tài năng sỡ hựu họ lầm tưởng hoàn toàn làm chủ cuộc đời mà không phải lệ thuộc vào bất kỳ thế lực nào khác. Thực tế, Đấng làm chủ toàn vẹn cuộc đời ta là Thiên Chúa. Tương lai không là của ta, quá khứ cũng không là của ta, chỉ có giây phút hiện tại chúng ta đang sống là của chính mình. Khi biết tận dụng thời gian, sức khỏe, trí khôn… để làm việc lành phúc đức, mưu ích cho đời sống tâm linh chính là lúc ta ý thức mình thuộc về Thiên Chúa.
Sứ thần đã báo cho Mẹ biết rõ ý định của Thiên Chúa: “Và này đây bà sẽ thụ thai, hạ sinh một co n trai và đặt tên là Giêsu, Người sẽ nên cao cả và được gọi là con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavít tổ tiên Người, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận” ( Lc 1, 31 – 33 ).
Như mọi người, theo lẽ thường, Đức Maria đã khẳng khái từ khước ý muốn Thiên Chúa, đơn giản vì điều ấy không ở trong ý định của Mẹ. Mẹ đã dự định cho mình con đường tương lai và ắt hẳn Mẹ không muốn hoài bão ấy bị phá vỡ: “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” ( Lc 1, 34 ).
Cuộc đối thoại giữa Đức Maria và sứ thần năm xưa cũng là cuộc đối thoại của từng người chúng ta ngày nay. Ai cũng có những giai đoạn đối diện với những biến cố, những sự kiện xảy ra trong đời với tâm trạng băn khoăn, ray rứt. Không dễ gì con người tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Đơn giản vì ý muốn nhân loại luôn đi ngược với đường lối cứu độ.
Con người thường chọn lựa cho mình sự sung sướng, nhẹ nhàng và hạnh phúc. Nhưng khổ thay, hạnh phúc mà nhân loại tìm kiếm lại không phải là hạnh phúc thật. Đó chỉ là thứ hạnh phúc ảo mà họ tự vạch ra và tự bằng lòng với bản thân. Hạnh phúc ấy không có thật. Chính sự lầm lẫn tai hại ấy đã dẫn đến tội, hậu quả tham vọng của con người.
Còn hạnh phúc nào lớn lao hơn hạnh phúc được Con Thiên Chúa bỏ trời xuống thế làm người để cùng sống, cùng chết, cùng chia sẻ hạnh phúc vui buồn với nhân loại. Đường trần gian, đường thập giá, đường đời… chính Ngài đã đi qua để nêu gương cho con người bắt chước học đời, để dạy cho nhân loại bài học vâng phục.
Cũng chính nhờ lời xin vâng của Đức Maria mà ý định của Thiên Chúa được thực hiện. Khi được sứ thần ủy lạo quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà. vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai, người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, nhưng nay đã thụ thai được 6 tháng. Vì đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được” ( Lc 1, 35 – 37 ), Đức Maria mới hiểu thấu ý định, quyền năng Thiên Chúa và khiêm tốn đáp lại. Mẹ đã thân thưa lên lời xin vâng rất khiêm hạ: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” ( Lc 1, 38 ), mặc dầu ý thức mình đang được giao phó một trọng trách cao cả.
Còn chúng ta thì sao, chúng ta sẽ trả lời thế nào mỗi khi thánh ý Thiên Chúa gửi đến trong mọi biến cố của cuộc đời. Gương sống của Đức Maria, gương vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha của Đức Giêsu có cho chúng ta thêm niềm tin, thêm nghị lực hay không ? Mặc dầu biết từ bỏ là mất mát và mất mát là chấp nhận để lại cái mình không chọn nhưng các Ngài đã không còn sống cho mình, không còn nghĩ đến bản thân, dành mọi ưu tiên cho ý Thiên Chúa muốn. Để làm được điều đó, chắc chắn phải có niềm tin vững mạnh và lòng mến yêu tha thiết.
Lạy Chúa, Đức Trinh Nữ Maria xưa đứng trước chọn lựa vâng phục Thiên Chúa hay tự do sống theo ý định bản thân, Mẹ đã chọn sống cho Thiên Chúa. Bản thân con, khi ý thức mình được thánh ý Thiên Chúa gửi đến trần gian, muốn con làm người và sống kiếp con người để nhận biết tình Thiên Chúa yêu thương cứu độ, con đã thật ngỡ ngàng, bối rối, băn khoăn… trước lời mời gọi đáp trả tình yêu thương vĩ đại ấy bằng việc vâng phục.
Nhận biết đâu là thánh ý Thiên Chúa, đâu là ý định của người phàm đã là một việc vô cùng khó khăn, thế nhưng thực hiện thánh ý ấy còn khó khăn đến chừng nào. Chỉ những ai đặt Thiên Chúa vào vị trí ưu việt người ấy mới có thể hy sinh quên mình để sống cho Thiên Chúa và tha nhân.
Xin Ngài tăng thêm niềm tin và lòng mến nơi con, xin Ngài giúp con can đảm bước đi trong đường lối thánh ý mà không sợ hãi, hoài nghi hay ngờ vực lẫn oán trách.
Chớ gì con biết noi gương Đức Maria, Mẹ thánh bổn mạng, dành trọn vẹn cuộc đời ngoan ngùy trước mọi biến cố, ý định Thiên Chúa gửi đến trong đời với niềm tin yêu, phó thác, vì ý thức mình chỉ là người tớ nữ thấp hèn mà thôi…
Nhân vật cuối cùng mà phụng vụ muốn trình bày với chúng ta trong mùa vọng đó là Đức Trinh: MV4-B56
Nhân vật cuối cùng mà phụng vụ muốn trình bày với chúng ta trong mùa vọng đó là Đức Trinh Nữ Maria.
Thực vậy, điểm nổi bật của Mẹ Maria không phải là việc Mẹ được lôi kéo vào những sự kiện lạ lùng, nhưng chính là thái độ của Mẹ trước công trình cứu độ của Thiên Chúa đang diễn ra một cách khác thường. Không giống với một Giacaria ngờ vực, Mẹ Maria đã trả lời: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền. Một lời xin vâng có tính cách phó thác, dấn thân vào một công trình đầy những điều mới lạ, vượt trên mọi dự đoán. Một lời xin vâng đầy tin tưởng bởi vì Mẹ Maria đã đón nhận Con Thiên Chúa làm người trong lòng tin trước khi đón nhận Ngài nơi thân xác của mình.
Sau này khi người ta báo cho Chúa Giêsu biết có mẹ Ngài đang chờ Ngài ở ngoài, thì Ngài đã khẳng định: Những người nghe và thực hiện lời Ngài chính là mẹ và anh em của Ngài. Không phải Chúa Giêsu muốn phủ nhận địa vị người mẹ của Đức Maria mà trái lại, Ngài muốn khẳng định rằng Đức Maria đã là một người mẹ trọn vẹn của Ngài. Mối quan hệ giữa Đức Mẹ và Ngài không chỉ là quan hệ máu mủ ruột thịt mà còn là quan hệ tinh thần.
Với chúng ta cũng thế. Dọn đường Chúa, tiếp đón Chúa có nghĩa là lắng nghe và thực hiện lời của Chúa. Đó là con đường chắc chắn nhất để đi vào mối quan hệ mật thiết với Ngài. Lời của Ngài thực sự đã đưa chúng ta đi vào một con đường mới, một cuộc sống mới. Lời của Ngài đã lôi kéo chúng ta ra khỏi đền thờ, ra khỏi thành thánh để đến với những con người đang phải vật lộn giữa cuộc sống. Lời của Ngài dẫn chúng ta đến với những người nghèo khổ lao động, nhưng kẻ đau ốm, bệnh tật. Không phải chỉ để nói lên sự an ủi mà còn là để đem lại cơm áo và sự chạy chữa. Việc tiếp nhận Chúa không phải chỉ diễn ra trong mùa vọng và mùa giáng sinh, mà còn phải diễn ra trong toàn bộ cuộc sống chúng ta. Và như thế, chuẩn bị tiếp đón Chúa chính là học hỏi lời Chúa và thực thi lời Ngài trong cuộc sống của chúng ta vậy.
Nhà, cũng như thức ăn và áo mặc, là một nhu cầu sơ đẳng của con người. Nó mang đủ mọi: MV4-B57
Nhà, cũng như thức ăn và áo mặc, là một nhu cầu sơ đẳng của con người. Nó mang đủ mọi hình thức: nhà ở, trường học, bệnh viện. Khi có xây cất, thì có sự sống. Ngay cả những làng ma, như là Val Tal Jalbert, cũng chứng tỏ là có sự sống trong quá khứ. Để bao đảm đời sống của mình, con người đưa ra những dự tính về nhà cửa.
Thiên Chúa, Đấng hằng sống, cũng vạch ra những dự án. Thánh Kinh thường trình bày Ngài như Đấng xây cất. Nhưng lối xây cất của Ngài khác với chúng ta, những dự án của Ngài cũng vậy. Những bài đọc hôm nay nêu cho chúng ta hai thí dụ.
Dự án của Đavít.
Khoảng 1000 trước Công nguyên, Đavít đang thống trị ở Israel. Ông đã thắng kẻ thù, thống nhất đất nước, biến Giêrusalem thành thủ đô và xây cất lâu đài của ông ở đó.
Là một vị vua đạo đức, ông cảm thấy áy náy lương tâm: “Tôi ở một ngôi nhà bằng gỗ bá hương còn hòm bia Thiên Chúa lại ở trong lều”. Ông quyết định xây một đền thờ cho Thiên Chúa. Ông muốn dâng cho Thiên Chúa một nơi ở ổn định. Đây là một dự án phát xuất từ một bản tính tốt nhưng lại quá giống cách người ngoại giáo cư xử với những thần minh của họ. Đavít muốn đặt Giavê vào trong thủ đô của mình, sở hữu Ngài, nắm Ngài trong tay mình. Nhưng Giavê khác hẳn. Ngài tự do và độc lập đối với con người. Ngài không chịu bị nhốt vào một chỗ vì Ngài di động và hoạt động. Chính Ngài đã đưa Israel từ xứ Ai Cập lên.
Ngôn sứ Nathan cho Đavít biết sự từ chối của Thiên Chúa. “Có phải ngươi sẽ xây cho Ta một nhà để Ta ở chăng?”… Thiên Chúa cho ông biết rằng chính Ngài sẽ tự làm nhà cho Ngài… “Dòng dõi ngươi và vương quốc của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta”.
Thiên Chúa từ chối dự tính của Đavít nhưng trái lại, Ngài hứa với ông một điều tuyệt vời: một dòng dõi, một hậu duệ vĩnh viễn. Thiên Chúa cam kết tương lai, tương lai của Ngài với dân Ngài. Ngài nắm sáng kiến vì Ngài là Thiên Chúa tự do. Ngài đặt dự tính của Ngài bên dự tính của con người.
Dự tính của Thiên Chúa.
Một ngàn năm sau, Thiên Chúa đã tự tay thực hiện lời hứa với Đavít. Con Một Ngài sẽ mặc lấy xác phàm và sẽ làm con của dòng họ Đavít, vì Maria, mẹ của Con Ngài, đã đính hôn “với một người thuộc dòng họ Đavít tên là Giuse”. Như vậy Thiên Chúa thể hiện cách tuyệt vời dự định của Ngài là ở với loài người. Thánh Luca kể lại cho chúng ta việc này đã được thực hiện như thế nào. Cũng như trong trường hợp với Đavít, Thiên Chúa nắm tất cả sáng kiến: Ngài điều khiển, nhưng trong sự tôn trọng tự do của Đức Maria.
Trong việc thực hiện dự tính của Ngài, Thiên Chúa gạt sang một bên các cơ cấu tôn giáo của Israel. Biến cố sẽ không xảy ra tại Giêrusalem, thành thánh và có danh tiếng, nhưng tại Nadaret, một ngôi làng không ai biết đến. Cũng không phải tại Đền Thờ nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa, nhưng trong một ngôi nhà tầm thường. Ngài không ngỏ lời với một vị tư tế như trong trường hợp Gioan Tẩy Giả, nhưng với một thiếu nữ đơn sơ không chức quyền.
Thiên Chúa hành động theo phong cách của một vị vua. Ngài sai thiên thần Gabriel đến loan báo cho Đức Maria bằng những lời lẽ chính xác: “Này bà sẽ thụ thai…”. Ngài đặt tên cho con trẻ: “Bà sẽ gọi tên Người là Giêsu”. Trước câu hỏi của Đức Maria Ngài đã có sẵn câu trả lời: “Thánh Thần sẽ rợp bóng trên bà”. Đức Maria không xin dấu chỉ nhưng cũng được ban cho một dấu chỉ: Isave mang thai. “Vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được”.
Thiên Chúa hành động cách tự do và mạnh mẽ. Tuy nhiên Ngài tôn trọng tự do của Đức Maria trong việc chấp nhận hay không dự tính của Ngài. Ngài không đòi điều gì hết ngoài sự ưng thuận. Một thứ giấy phép xây cất. Vì Thiên Chúa không xây cất một tòa nhà vật chất bằng đá hoặc bằng gỗ nhưng là con người sống động. Nhà của Thiên Chúa ở giữa loài người. Đền Thờ thật sự sẽ là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và con vua Đavít. Thiên Chúa làm điều mới mẻ nhờ sự công tác của Đức Maria.
Sứ điệp.
Thiên Chúa không ngừng thực hiện việc xây cất của ngài. Hôm nay nữa, Ngài vẫn đề ra những dự án để thực hiện mục tiêu của Ngài: Qui tụ toàn thể nhân loại dưới quyền Chúa Kitô. Nếu, như Đức Maria, chúng ta lắng nghe Thiên Chúa, nếu chúng ta đón nhận lời Ngài, Ngài sẽ làm cho chúng ta trở thành những cộng tác viên của Ngài. Tuy nhiên ta đừng chờ đợi Thiên Thần hiện ra! Ta hãy tìm hỏi nơi Tin Mừng và nơi những nhu cầu của Giáo Hội. Thiên Chúa có những dự tính của Ngài nơi mỗi người chúng ta. Ta phải tìm cho ra và dấn thân thực hiện.
Tình yêu" là hai tiếng nói luôn ở trên môi miệng và trong con tim của nhân loại, hai tiếng: MV4-B58
"Tình yêu" là hai tiếng nói luôn ở trên môi miệng và trong con tim của nhân loại, hai tiếng nói căn bản và thâm sâu nhất của cuộc sống.
Sinh ra, lớn lên và chết đi, lúc nào con người cũng mong đợi tình yêu.
Có tình yêu, con người hết là những viên đá nằm lạnh lùng bên cạnh nhau trên một con đường, những thân cây vô tri vô giác mọc lên trong một đám rừng hay những con vật đi ăn chung thỉnh thoảng cắn xé nhau để tranh miếng mồi ngon. Tình yêu khiên con người không những sống gần nhau, mà còn đi vào cuộc đời của nhau, chấp nhận chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho đến tâm tình ý tưởng của nhau, cùng vui, cùng khổ, cùng lao động, cùng phấn đấu và vươn lên thoát khỏi nô lệ và vong thân trong xã hội. Tình yêu là ánh sáng chiếu dọi, là sức nóng sưởi ấm giúp con người triển nở trong hạnh phúc.
Tình yêu là động lực thúc đẩy con người đến với nhau, gắn bó với nhau, để tất cả nên một: một lòng, một trí, một ý chí, một cuộc đời.
Thánh Kinh luôn khẳng định Thiên Chúa thương yêu con người cách đặc biệt. Tình yêu ấy khiến Thiên Chúa đến với con người, trước khi con người đến gặp Thiên Chúa.
Tình yêu được biểu lộ trong lịch sử, biến lịch sử thành môi trường cứu độ, nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa.
Những chương đầu của sách Sáng thế cho thấy Yavê sống thân mật với con người, ngay từ khi con người được tạo dựng. Ngài đi dạo mát với con người trong vườn Eđen, Ngài chăm sóc sức khỏa và đời sống của con người. Ngài cho con người hưởng các hoa quả, cho con người một bạn đường. Ngài đối thoại thân mật với con người.
Sách Sáng thế còn cho thấy Ngài đến với con người qua dấu hiệu của thời tiết. Nhưng đặc biệt Ngài đã đến viếng Abraham và ban cho ông lời hứa. Ngài đã ký kết với Abraham một giao ước tình yêu và nhất quyết thi hành Giao ước đó. Ngài để ý đến nỗi khổ của ông: tuổi đã già mà không có con nối dõi tông đường. Ngài đã cho ông một miêu duệ lớn gấp trăm ngàn lần mong muốn.
Khi con cháu Abraham chịu khổ cực và bị áp bức trong nước Aicập ngoại bang, Ngài đã đến để giải phóng họ và Ngài muốn chọn Maisen - một người có lòng yêu nước nồng nàn - Ngài đã gọi Maisen lúc ông bị đuổi bắt và chạy trốn vào sa mạc, vì đã giết chết một người ngoại bang để bênh vực cho kẻ đồng hương.
Với Maisen, Thiên Chúa cũng đã ký kết một giao ước và từ đó thiết lập một dân riêng làm chứng cho Ngài giữa muôn nước.
Trong sa mạc, Thiên Chúa luôn hiện diện. Hòm bia thánh là dấu hiệu sự gần gũi: ở giữa và ở gần kề. Qua đám mây và cột lửa, chính Ngài hướng dẫn họ suốt cuộc hành trình.
Sự hiện diện của Chúa là sự hiện diện giải phóng. Ngài cứu dân khỏi lầm than đau khổ và giúp họ chiến đấu với kẻ thù để sống còn và tiến dần vào Đất hứa.
Khi dân Chúa đã sống ổn định và thiết lập một vương quốc bình an thịnh vượng, Chúa vẫn hiện diện và bảo đảm cho sự trường tồn và hạnh phúc của họ. Đavít muốn xây cho Chúa một đền thờ, nhưng Ngài muốn hiện diện ở giữa lòng dân. Qua lời sấm Nathan, Ngài chưa bao giờ có ý nghĩ đòi dân xây cho mình một đền thờ bằng gạch đá như các thần minh của dân ngoại. Chính dân là đền thờ Ngài ngự. Và Đền thờ đó do Ngài xây dựng, chứ không phải do tay con người làm nên. Chính Chúa tạo ra một Đền thờ đích thực; đó là dòng dõi, là con cháu Đavít; và qua những con người sống thực thuộc dòng dõi ông, Ngài sẽ hiện diện trong lịch sử loài người.
Với Đavít và miêu duệ ông, Thiên Chúa càng ngày càng gần gũi với nhân loại. Ngài tác động trên lịch sử loài người và đặc biệt trong lịch sử dân riêng Ngài. Ngài hướng dẫn và thanh luyện dân Ngài qua những biến cố đau thương như thất trận, lưu đày... Ngài răn bảo và thúc giục... đôi khi Ngài phẫn nộ - nhưng Ngài cũng an ủi vỗ về và hứa hẹn một thời kỳ vui mừng tràn lan ơn cứu độ. Dụng cụ Chúa thường dùng chính là "lời nói" và "cuộc sống" các tiên tri.
Ngài thương dân như cha yêu thương con cái, như mẹ bế bồng nâng niu, như mục tử chăm sóc đoàn chiên.
Nhưng Thiên Chúa như chưa bằng lòng với những gì Ngài đã làm cho dân. Ngài muốn đến cư ngụ với dân, không chỉ như một thần linh vô hình, nhưng chấp nhận hoàn toàn thân phận con người và chia sẻ trọn vẹn kiếp sống của nó. Thiên Chúa trở thành Người như mọi người. Ngài bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Ngài sẵn sàng đón nhận những khắc khoải lo âu của cuộc sống. Ngài cũng ăn, uống, lao động, phấn đấu cho đời sống vật chất như mọi người. Ngài cũng vui, cười và than khóc như những ai khác. Ngài chấp nhận mọi giới hạn và ngay cả cái chết là giới hạn sau cùng và quan trọng nhất của con người.
Yêsu, con của Maria và Yuse thuộc dòng dõi Đavít là chính Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Nhưng Ngài cũng là con của trần thế, con của một dân tộc, con của người Trinh nữ nghèo nàn sống ở Nadarét.
Đó là khía cạnh huyền diệu nhất của mầu nhiệm Nhập thể! Chúa muốn làm con của trần thế, để ta nhận ra gương mặt đích thực của Ngài, một tình thương thực tế không viễn vông, không lý thuyết Ngài không là "kẻ thuộc thế giới xa lạ". Theo Ngài không phải để đi về thế giới ảo tưởng nào khác, nhưng để sống tình yêu chân thật.
Maria thụ thai Đức Yêsu là nhân loại thụ thai Đức Yêsu! Maria hạ sinh Đức Yêsu là nhân loại hạ sinh Ngài. Bài Phúc Âm Luca 1, 26-38 ví Maria như thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel dân Chúa. Thiên Thần kêu mời Maria hãy vui lên vì sắp sinh quý tử. Đó cũng là lời loan báo niềm vui cho nhân loại: chính từ nhân loại mà phát sinh một con người toàn thiện xứng đáng làm Trưởng tử giữa muôn loài.
Mầu nhiệm Nhập thể là tột đỉnh của sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa: Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người khiến từ lòng dân nảy sinh Đấng Cứu độ. Chồi cây Yêsê do Thiên Chúa vun trồng đã nở hoa.
Đức Yêsu là bí tích, là dấu hiệu, là điểm gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Đức Yêsu là nơi hội tụ của tình thương giữa Thiên Chúa và dân Người: Ngài vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa, vừa là tiếng đáp trả của nhân loại.
Phúc Âm cho thấy Đức Yêsu là một con người cụ thể, với những nét đặc thù và sống động. Nhưng Đức Yêsu còn là Con của Chúa Cha. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, mọi hoạt động của Ngài đều do Thánh Thần của Chúa Cha thúc đẩy. Lc 1,35 nhấn mạnh đến sự can thiệp của Thánh Linh: "Thánh Thần sẽ đến trên Cô và quyền năng Đấng Tối cao trên Cô rợp bóng".
Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động trong lịch sử trước ngày Đức Yêsu sinh ra. Nhưng Ngài đặc biệt hiện diện trong cuộc đời Yêsu. Và nhờ quyền năng Thiên Chúa, Yêsu tuy phải chết như mọi người, đã sống lại và chiến thắng sự chết, báo hiệu "phần số" tốt đẹp Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Đức Yêsu sống lại được Chúa Cha ban trọn vẹn Thánh Linh và chính nhờ Thánh Linh mà Đức Yêsu hiện diện giữa dân Ngài "mọi ngày cho đến tận thế".
Nhờ Thánh Linh Đức Yêsu vẫn ở giữa loài người, không phải chỉ cách đây hai ngàn năm, mà Ngài vẫn hiện diện, vẫn sống giữa nhân loại hôm nay. Giáo hội là nơi Ngài hiện diện bằng chính những hoạt động không ngừng của Thánh Linh Ngài ban. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện qua các sự kiện lịch sử và các biến cố. Ta có thể gặp Ngài và phải tìm Ngài trong đó. Ngài ra đi trở về cùng Cha, không phải để rời bỏ trần thế, nhưng để dễ dàng đồng hóa mình với mọi người sinh ra trong lịch sử, đặc biệt với những người bé mọn, những người đói khát, những kẻ tù đày... Matthêô cũng như Luca cho thấy sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh và lên trời trở thành hữu hình trong người anh em: "Ta đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi cho uốn, Ta là khách trọ các ngươi tiếp rước, Ta mình trần các ngươi cho mặc, Ta đau yếu các ngươi viếng thăm, Ta ở tù các ngươi đến với Ta" (Mt 25,35-36).
Đức Kitô vẫn luôn ở giữa chúng ta. Chúng ta sẽ nhận ra Ngài khi cử hành nghi lễ bẻ bánh, khi lắng nghe lời Ngài, khi thao thức tìm Ngài trong các dấu chỉ của thời đại. Chúng ta sẽ tìm được Ngài khi nhìn vào những người anh em sống gần kề ta. Ngài ở cạnh ta, cùng xây dựng xã hội và môi trường với ta. Với Ngài, ta sẽ góp công biến đổi trần thế thành Đất mới, Trời mới, thực hiện lời thánh Phaolô: "Tất cả thuộc về anh em, anh em thuộc về Đức Kitô, Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa".
BÀI GIẢNG
Càng gần lễ Giáng sinh, công việc chuẩn bị của chúng ta lại càng gấp rút. Tôi ca ngợi thiện chí và nỗ lực của mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của chúng ta, để lễ Giáng sinh năm nay được chan hòa ơn thánh.
Nhưng chính trong bầu khí nhiệt liệt chuẩn bị Đại lễ Giáng Sinh này, mà các bài sách Thánh hôm nay muốn nâng bổng tâm hồn chúng ta lên, để thay vì chỉ mải miết thu dọn những công việc bề ngoài, chúng ta biết tìm dịp chiêm ngưỡng những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho chúng ta.
Quả vậy, khi Đavít suy tính sắp sửa xây cất cho Chúa một đền thờ xứng đáng, Người đã sai tiên tri Nathan đến thưa nhà vua rằng: Chính Người sẽ xây cho nhà vua một nhà, một họ, một dòng tộc để tồn tại muôn đời. Hôm nay Chúa cũng muốn bảo chúng ta, những người đang làm hang đá, dọn máng cỏ cho Chúa rằng: chúng ta hãy chú ý đến những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho ta. Ngài sai sứ thần Gabriel đến báo tin cho Maria biết: Ngôi Lời muốn trở thành nhục thể, Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Đó là sứ điệp của Chúa nhật hôm nay. Sứ điệp ấy gửi đến để ta đón nhận, suy niệm rồi thực hành, để Chúa có thể đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong thời đại này, trên quê hương Việt Nam đang hình thành một nếp sống mới.
Trước hết chúng ta hãy đón nhận Tin Mừng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Dĩ nhiên Người không còn đầu thai nữa như xưa kia ở trong lòng Trinh nữ Maria. Nhưng Người vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua bí tích Thánh Thể ấy không cần phải quảng diễn thêm.
Nhưng còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong Thánh Kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt đẹp. Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến mọi biến cố xảy ra hàng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho Nước Người được lan rộng; và như vậy Thiên Chúa lại như nhập thể ở giữa chúng ta.
Do đó thật là chủ bại khi nghĩ rằng thế giới càng ngày xấu đi; đời sống chẳng còn nghĩa lý gì nữa; và nói đến tương lai mà làm gì! Nhưng người có đức tin không thể nghĩ như thế. Tinh thần mùa Vọng nhắc nhở: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn đời sống con người thật đáng sống. Và vì Thiên Chúa đã đầu thai trong lòng một Trinh nữ bình dân, nơi một điểm nhỏ bé trên bản đồ thế giới, đang buổi suy yếu của dân tộc Dothái, chúng ta càng có quyền hy vọng tràn trề khi hoàn cảnh chung quanh dường như không đáng lạc quan. Chính nơi Thập giá đã có ơn cứu độ chúng ta. Chính máu chảy ra ở trên đó đã rửa sạch ta để ta trở nên con cái Chúa. Như vậy, có gì phải bi quan? Tất cả, ngược lại, như đang có thể kéo ơn cứu độ xuống. Và ở bất cứ hoàn cảnh nào, ơn Chúa nhập thể vẫn có thể đến để phục hồi tất cả.
Chúng ta chỉ cần noi gương một Đavít và một Maria. Đavít đã biết quên mình để nghĩ đến Chúa. Maria cũng đã tự xưng là nữ tì để thi hành hết mọi ý định của Đấng mình tôn thờ. Chúng ta nhiều khi không sống như vậy. Chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều, nghĩ đến sự sống của bản thân, và không quan tâm đến Nước Chúa và đến tương lai của dân tộc dủ. Chúng ta tìm sự sống mình, như lời Phúc Âm nói. Nhưng cũng như Phúc Âm đã nói tiếp: chúng ta sẽ mất sự sống ấy. Còn ai tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính trước, sẽ được ban cho tất cả sau. Làm sao tương lai có thể đẹp được, khi ai ai cũng chỉ biết nghĩ đến cá nhân của mình? Ngược lại khi người ta nghĩ đến công ích, làm việc cho công bình bác ái ngự trị, thì những khó khăn hiện tại sẽ khắc phục được dễ dàng. Đavít đã không nghĩ đến mình, Đức Maria cũng thế. Nên Thiên Chúa đã tìm được người cộng tác để thực hiện công trình của Người, ở trần gian, là chính Người sẽ nhập thể để mang hạnh phúc đến cho loài người.
Thế thì hôm nay và những ngày sắp tới, đang khi hân hoan sửa soạn mừng lễ Giáng sinh, chúng ta cần nhất phải mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Chúa đang đến với chúng ta. Ngài dùng Lời Thánh Kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta nên con người muốn sống như Chúa; và như vậy Ngài đang muốn nhập thể tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xảy đến hằng ngày, kêu gọi ta đón nhận như Thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn. Điều cần hơn hết là chúng ta luôn phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Người muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thể với Ngài. Chúng ta có sẵn sàng đem tinh thần Phúc Âm vào thế giới để đáp lại Lời mời gọi đó không?
Nguyện chúc tất cả anh em được như vua Đavít và Đức Maria: sẵn sàng trở thành cộng sự viên của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương trần gian.
Đức Mẹ Mùa Vọng
Chúng ta còn lạ gì: mục đích của mùa Vọng không phải chỉ là để đi đến Mầu nhiệm Giáng sinh vì Chúa Cứu thế đã giáng sinh rồi không còn phải trông đợi theo kiểu dân Dothái ngày trước nữa. Nhưng mùa Vọng vẫn lấy lễ Giáng sinh làm một điểm tựa chắc chắn để lao mình về đàng xa, về ngày Chúa quang lâm tái giáng. Mùa Vọng nhìn vào mầu nhiệm Chúa Giáng sinh để chắc chắn về mầu nhiệm Chúa sẽ đến và mùa Vọng gợi lại thời gian trông đợi ngày trước để kiện toàn tinh thần trông đợi ngày nay. Nói vắn tắt, mùa Vọng muốn hiện đại hóa thời gian Cựu Ước để hoàn tất thời kỳ Tân Ước. Trong mùa này, chúng ta được mời gọi kết thúc lịch sử để đưa nó sang đời sau. Vinh dự cho chúng ta biết bao được cộng tác vào công cuộc vĩ đại và đẹp đẽ này.
Và cũng như Cựu Ước ngày trước đã được kết thúc một cách tuyệt diệu nơi con người Đức Maria, trong mùa Vọng phụng vụ này Giáo hội cũng mời gọi ta chiêm ngưỡng Người như là khuôn mẫu phải đi tới. Người thật là bông hoa của Cựu Ước. Những cái tinh túy nhất của Cựu Ước đã đúc nặn nên Người. Ở nơi Người, ta có thể gặp lại tất cả lòng tin sâu xa của Abraham, lòng cậy của tất cả Ngôn sứ, lòng mến của tác giả các thánh vịnh. Thiên Chúa đã phải khôn ngoan nhẫn nhục dẫn đưa lịch sử dân Người và lịch sử thế giới để tạo nên được một con người như thể để Ngôi Hai Thiên Chúa có thể giáng trần.
Nếu quả thật trong bao ngàn năm lịch sử, "vạn phương khát vọng từ vân vũ hóa nhi" thì phải đợi đến khi Maria xuất hiện, người ta mới thấy "nhất phiến cổ hoài tịnh thổ sản phúc quả", nghĩa là mới tìm ra được một mảnh đất thanh sạch đón nhận đám mây từ nhân mưa Đấng công chính xuống. Đức Maria vì thế trở thành lý tưởng mà Giáo Hội và chúng ta phải đạt tới để chuẩn bị ngày Chúa trở lại.
Nhưng một lý tưởng bao giờ cũng phong phú có rất nhiều khía cạnh thâm thúy và sâu xa, không ai có thể nói lên được tất cả, huống nữa là nói lên trong một lúc. Tuy nhiên, mỗi lần nói, người ta vẫn ước vọng có thể khơi lên ở nơi người nghe một cảm tình mộ mến dẫn sang một thích thú muốn tìm hiểu thêm. Và đó là tham vọng của phụng vụ trong mùa này khi gợi lên cho chúng ta thấy một vài nét trong cuộc đời của Đức Mẹ.
Chúng ta đừng thấy lễ Vô Nhiễm là lễ Đức Mẹlà lễ Đức Mẹ lớn nhất trong mùa này mà vội tưởng đó là hình ảnh Đức Mẹ phải tập trung mọi cái nhìn suy niệm của ta. Không, mùa Vọng không đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Lễ này cũng đã được đặt ra phải vì mùa Vọng. Giáo hội La Mã vẫn có óc lịch sử và pháp luật, thấy rằng đã tưởng niệm cuộc đời của Chúa trong các mầu nhiệm nào thì cũng phải nên tưởng niệm cuộc đời Đức Mẹ trong các mầu nhiệm ấy; đã mừng việc Chúa đản sinh và đầu thai, thì cũng nên mừng sinh nhật và đầu thai của Mẹ. Và hai sự kiện mầu nhiệm phải cách nhau 9 tháng. Lễ sinh nhật Mẹ đã được đặt vào ngày 8 tháng 9 rồi, thì lễ Người đầu thai vô nhiễm phải đưa lên 9 tháng trước tức là phải mừng vào ngày 8 tháng 12.
Các nhà làm lịch lễ dường như không để ý đến mùa Vọng khi đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, nhưng đặt rồi họ mới thấy đây là một sự trùng hợp có ý nghĩa. Có lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, mùa Vọng Kitô giáo trở thành hân hoan chắc chắn, khác với mùa Vọng của Dothái ngày xưa. Thuở trước, các linh hồn thánh thiện vẫn chờ mong ngày thực hiện lời của Thiên Chúa tình yêu trong vườn địa đàng: một người nữ sẽ sinh ra một dòng dõi đạp dập đầu con rắn. Người nữ ấy là ai? Bao giờ Người xuất hiện để cho chúng tôi được nhìn thấy ơn cứu độ? Các thế hệ Cựu Ước dường như lúc nào cũng hỏi nhau câu ấy. Có lần, đàn thiếu nữ Sion tưởng đã có thể nhảy múa hân hoan vì kìa bà Yuđích cắt đầu địch thủ đang trở về. Lần khác họ lại tưởng Esther trong vai trò cứu nguy dân tộc sẽ là người nữ cần trông đợi... Nhưng rồi họ vẫn phải chờ, chờ mãi... Mùa Vọng của họ dường như thiếu bảo chứng.
Nhưng nay, lễ Đức Mẹ hiện lên bầu trời mùa Vọng Kitô giáo, sự trông chờ của chúng ta đã có bảo đảm rõ rệt. Vì thế chúng ta có thể hân hoan chắc chắn. Người nữ vô tì ố đã xuất hiện thì ơn cứu độ cũng đã đến. Chúng ta chưa được nhìn thấy Chúa Cứu Thế, nhưng việc Người đến không còn hồ nghi được nữa. Maria thật là vì Sao Mai mọc trước Mặt Trời. Mùa Vọng Kitô giáo chắc chắn và hân hoan làm sao!
Nhưng ta vẫn phải nói, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm đã không được đặt ra vì mùa Vọng; mùa Vọng sung sướng đón nhận lễ này nhưng lễ này không phải là mục tiêu mà mùa Vọng muốn tập trung những cái nhìn suy niệm của toàn dân Chúa hướng vào. Phụng vụ Giáo hội muốn cho chúng ta có một cái nhìn rộng rãi hơn về địa vị của Đức Maria trong bầu khí mùa Vọng. Ngay từ đầu, phụng vụ mùa Vọng của Giáo hội đã muốn cho hình ảnh của Người chan hòa khắp trong nếp sống chờ mong của toàn dân Thiên Chúa. Giáo hội chỉ chờ mong với Người và bằng cách nhìn vào Người. Nói cách khác, hình ảnh Đức Maria không phải chỉ chiếm một ngày trong mùa Vọng, nhưng hằng ngày trong suốt mùa phụng vụ này, Giáo hội phải sống với Đức Maria, phải nhìn ngắm Người và trông đợi với Người.
Kể ra làm gì những bản kinh phụng vụ mùa Vọng gián tiếp hoặc trực tiếp nói về Đức Maria; các bản văn ấy bây giờ đổi theo hằng năm. Nhưng cứ bỏ các kinh ấy đi mà xem, mùa Vọng phụng vụ sẽ không còn nữa. Điều đó chứng tỏ hình ảnh Đức Mẹ thật đã được gắn liền với mùa Vọng. Chúng ta sẽ có lợi hơn nếu để giờ tìm hiểu vì sao Đức Trinh Nữ Mẹ chúng ta lại thiết yếu cho tinh thần mùa Vọng như thế, vì như vậy, chúng ta mới biết được thâm ý của phụng vụ, hầu mới biết sống được cái cốt yếu.
Tinh thần mùa Vọng như chúng ta biết nhắm thẳng về đàng trước, chờ đón mầu nhiệm Chúa trở lại. Tinh thần đó không thụ động, mặc cho ai muốn làm mưa làm gió ở trần gian này. Trái lại, đó là tinh thần của các ngôn sứ ngày xưa không thể ngồi yên khi thấy các bất công xã hội và thấy các liên minh chính trị bàn truyện thế giới như thể không còn có một sức mạnh vô hình nào bá chủ hoàn vũ. Giáo hội biết trong giai đoạn lịch sử này những người con Chúa phải tỉnh thức, phải giũ bỏ cuộc đời đen tối và bước đi trong ánh sáng để càng ngày càng đi tới thời đại huy hoàng của Đức Kitô. Thế mà Giáo hội biết không mẫu người nào đã chuẩn bị ngày Chúa đến viếng thăm một cách đắc lực như Trinh nữ Maria. Kể cả các ngôn sứ. Họ còn là những người trỏ tay vào Maria để chờ đón ngày Người xuất hiện.
Hơn nữa Giáo hội còn biết rõ Đức Maria không phải chỉ là gương mẫu chờ đợi và chuẩn bị trong quá khứ, Người đang còn chờ đợi và chuẩn bị với chúng ta với tư cách là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Chỉ có những thứ thần học nông cạn mới không biết đến điều đó; mới nghĩ rằng Đức Kitô đã chấm dứt mọi hoạt động của Người khi trút hơi trên Núi Sọ và mới quyết rằng Đức Mẹ đồng trinh của Người cũng chỉ đồng công cứu chuộc đến có khi ấy. Ngược lại, những thứ thần học chân chính đều thấy việc Đức Kitô tắt thở trên Núi Sọ chỉ là giai đoạn Ngài phải vượt qua để có thể hoạt động hữu hiệu hơn ở ngoài những ràng buộc của không gian và thời gian; Ngài phải từ bỏ xác thịt yếu đuối để hoạt động mạnh mẽ bằng Thánh Thần Ngài sẽ tuôn đổ xuống trên Giáo hội; vì Thánh Thần tuôn đổ này chính là Thần Linh của Ngài. Những thứ thần học sâu xa đó cũng nhận thấy ngay, lúc đứng ở chân Núi Sọ, Đức Maria không những chưa chấm dứt vai trò đồng công cứu chuộc của Người, nhưng ngược lại, chính khi đó, Người mới bắt đầu trở nên Mẹ của Yoan, tức là của Giáo hội. Chính vì vậy mà tác giả sách Công vụ các Tông đồ cho ta thấy Giáo hội ngay từ thuở sơ khai đã cầu nguyện và sinh hoạt với Đức Maria, Mẹ Chúa Yêsu.
Chúng ta muốn nhìn thấy các hoạt động cụ thể của Đức Mẹ ư? Sao chúng ta không muốn biết như thế về hoạt động của Đức Kitô hiện nay ở trong Giáo hội. Cả hai Ngài vẫn nội tại với đời sống hiện nay của thế giới, nhưng không hiện diện như thân thể chúng ta đang sống. Theo tục ngữ Việt Nam có thể bảo: người ta hiện nay sống thì khôn, còn các Ngài hiện nay đã thác thì thiêng. Khôn thì ở một bình diện, còn thiêng lại ở bình diện cao hơn và cao hẳn. Không phải những trí óc khôn ngoan đang dẫn đưa lịch sử của thế giới này, nhưng chính là những bậc thiêng liêng huyền bí. Không phải chúng ta đang xếp đặt thời gian sẽ đến nhưng chính Đức Kitô, chính vị đồng công cứu chuộc với Ngài đang âm thầm nhưng mạnh mẽ hành động qua chúng ta và muốn chúng ta cộng tác vào, vì cũng như ngày trước, đất có sẵn thì mây trời mới mưa Đấng công chính xuống.
Muốn biết chúng ta phải cộng tác chuẩn bị bằng cách nào sao? Phụng vụ mùa Vọng bảo chúng ta nhìn vào Đức Mẹ. Thánh Yoan trong sách Khải huyền cũng mơ thấy Giáo hội sau này trở thành người hôn thê kiều diễm, tức là người trinh nữ vẹn sạch mà dung nhan Đức Mẹ thể hiện ở trước mặt chúng ta. Trên khuôn mặt khả ái đó, Thiên Chúa đã để lại những nét luôn luôn hấp dẫn tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, mà Ngài muốn cho Giáo hội có trên nếp sống của mình. Một đôi mắt trong sạch không bao giờ dừng lại trên những gì dơ bẩn; một đôi môi dịu dàng chỉ có sẵn những lời êm ái; một dáng điệu tùng phục sâu xa tất cả những gì là của Chúa; một sự lanh lẹ không quản gian lao để đi cứu với Người... Mầu nhiệm dâng mình, mầu nhiệm đồng trinh, mầu nhiệm vâng theo ý Chúa, mầu nhiệm yên lặng trước nỗi nghi ngờ chính đáng của Yuse, mầu nhiệm đi thăm bà Elisabeth và nhất là mầu nhiệm kết hợp tận tụy và âm thầm làm tất cả những gì cần thiết để chờ đón Chúa: đó là những nét đã được ghi sâu trong cuộc đời, nên dung nhan của Đức Mẹ và mùa Vọng phụng vụ ước mong chúng ta chiêm ngưỡng và bắt chước.
Chúng ta cũng chỉ là những con người đang có một nếp sống âm thầm với những phận sự nhỏ nhặt, nhưng tất cả những sự âm thầm nhỏ nhặt ấy lại là những yếu tố mà Thần Linh hiện nay đang muốn dùng để xây dựng Nước Trời, để chuẩn bị việc Chúa Kitô tái giáng. Thật là tuyệt diệu nếu chúng ta cũng biết sống và làm những công việc ấy như Trinh nữ Maria, với cái nhìn trong sạch, với các nụ cười hiền dịu, với các lời lẽ từ tốn, với lòng nhiệt thành không sợ gian nan... như dung nhan của Người đang cho chúng ta thấy. Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của Người và khuôn mặt của Giáo hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Đức Mẹ mùa Vọng.
Những cây cầu rất đắc dụng trong giao thông, giúp những người bị ngăn cách bởi khe suối, bởi : MV4-B59
Những cây cầu rất đắc dụng trong giao thông, giúp những người bị ngăn cách bởi khe suối, bởi sông sâu, biển rộng dễ dàng vượt qua trở ngại để gặp gỡ tiếp xúc với nhau.
Đơn giản nhất là những cây cầu khỉ chênh vênh vắt qua những con suối nhỏ giúp cư dân đôi bờ cách biệt có thể qua lại với nhau. Kiên cố hơn thì có những cây cầu bê tông nối liền các tuyến giao thông quan trọng, giúp người lữ hành vượt qua những con sông rộng đi đến được những phương trời xa. Đáng kể hơn phải nói đến những chiếc cầu dây văng hùng vĩ, băng qua những con sông và vùng vịnh rộng lớn, như cây cầu Golden Gate nổi tiếng, giúp cư dân hai bên bờ vịnh San Francisco có thể đến được với nhau thật nhanh chóng, dễ dàng.
Nhưng làm cách nào để xây dựng được cây cầu đặc biệt nối trời với đất, đưa Thiên Chúa đến với loài người và đưa loài người lại gần Thiên Chúa?
* * *
Từ ngày nguyên tổ phạm tội, quan hệ nồng thắm giữa Thiên Chúa và loài người bị cắt đứt. Tội lỗi khiến con người bị tách lìa và xa cách Thiên Chúa bằng một khoảng cách gần như bất tận.
Vì tự cách ly với Thiên Chúa là nguồn mạch hạnh phúc và ân sủng, con người phải héo hon và tàn lụi dần như thân phận của những chiếc lá lìa cành.
Nhưng Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương không nỡ để cho loài người phải vĩnh viễn xa lìa Ngài là cội nguồn sự sống. Ngài lên kế hoạch xây dựng một nhịp cầu vĩ đại, nối liền trời với đất, giao hoà Thiên Chúa với con người.
Để thực hiện kế hoạch nầy, Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến gặp Đức Maria, mời Mẹ cộng tác vào công trình hệ trọng nầy.
Sau khi biết ý định Thiên Chúa, với tinh thần sẵn sàng vâng phục của người tôi tớ, Đức Maria thưa với thiên thần rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền."
Từ lúc đó, Đức Maria trở thành nhịp cầu nối liền trời với đất, nhịp cầu kỳ diệu nhất trong lịch sử nhân loại. Thế là qua Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống với loài người, mặc lấy xác phàm và sống giữa nhân loại, để tỏ bày cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha của mình và dẫn đưa họ về với Chúa Cha.
Một kỷ nguyên mới được khởi sự nhờ sự vâng phục và hợp tác của Mẹ Maria. Muôn người trên khắp thế giới ngót hai ngàn năm qua đã nhờ Mẹ mà được giao hoà với Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ do Đức Giê-su mang đến.
* * *
Tuy nhiên, cho tới hôm nay vẫn còn rất nhiều người chung quanh chúng ta chưa nhận biết Đấng Cứu Độ nên Thiên Chúa rất cần những nhịp cầu khác để đến với họ và đưa họ về với Ngài.
Thiên Chúa thiết tha mời gọi mỗi chúng ta hãy nối tiếp vai trò của Mẹ Maria, bắc thêm những nhịp cầu mới để đưa Chúa đến với những con người chưa biết Chúa đang sống chung quanh.
Mẹ Maria nhận thức phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn nên đã mau mắn đáp lời Chúa mời gọi. Còn chúng ta là ai mà cứ mãi nấn ná chần chừ, chẳng muốn thi hành ý Chúa, chẳng muốn tuân lệnh Ngài truyền để trở thành nhịp cầu đưa Chúa đến với tha nhân?
* * *
Nguyện xin Chúa giúp chúng con noi gương bắt chước Mẹ Maria, nhận ra mình chỉ là tôi tớ hèn mọn, mà phận làm tôi thì không được làm trái mệnh lệnh Chúa truyền. Nguyện xin Mẹ dạy chúng con mau mắn đáp lời Chúa mời gọi và thưa cùng Ngài: "Nầy tôi là tôi tớ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền."
Chủ đề: “Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta dưới hình thức mới nhất- nơi con người: MV4-B60
Chủ đề: “Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta dưới hình thức mới nhất- nơi con người Đức Giêsu - làm cho tất cả mọi sự đều trở nên có thể thực hiện được”.
Thánh Inhaxiô Loyola chào đời tại Tây Ban Nha một năm trước khi Kha Luân Bố tìm ra Mỹ Châu. Ngài chưa đực 16 tuổi thì cha mẹ Ngài đã mất hết. Vì thế, cho tới khi trưởng thành, Inhaxiô vẫn sống vô kỷ luật và ngông cuồng bướng bỉnh. Một ngày kia, Inhxiô cải thiện đời sống và từ bỏ tội lỗi mình. Ngài thành tâm thống hối sâu xa và trở lại với Chúa. Ngài viết nhật ký kể lại những kinh nghiệm của mình. Về sau Ngài xuất bản cuốn nhật ký đó như một cẩm nang chỉ dẫn cho người khác con đường tìm gặp Đức Giêsu của họ. Nhật ký đó gọi là tập “Linh Thao”.
Một trong những bài “linh thao” ấy dạy về cách suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay. Cách đó gồm ba bước:
Bước đầu tiên là tưởng tượng xem thế giới thời trước Đức Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan hờ hững đối với Thiên Chúa. Sự xấu tràn lan như một ung thư khổng lồ. Thế giới rơi vào một tình thế vô vọng.
Bước thứ hai là tưởng tượng Thiên sứ Gabriel từ trời xuống báo tin cho Maria rằng nàng được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đức Giêsu. Chúng ta hãy tưởng tượng rằng chính chúng ta cùng với Thiên sứ từ trời bay xuống. Chúng ta nhìn xuống trái đất xa thật xa. Nó chỉ là một chấm sáng bé tí trong vũ trụ đầy sao. Khi chúng ta bay tới gần hơn, chúng ta thấy một đốm trên mặt địa cầu gọi là Đất Thánh. Khi tới gần hơn nữa, chúng ta thấy làng Nazarét. Cuối cùng, chúng ta gặp Maria trong căn nhà. Nàng đang im lặng qùi gối cầu nguyện.
Bước thứ ba là lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới hai câu: câu thứ nhất là lời của Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên cô: vì thế Đấng Thánh con của cô sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc.1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu xh.40,34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.
Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” vốn ít được dùng tới trong Kinh Thánh ấy không phải là ngẫu nhiên. Nó có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt hòm giao ước của Thiên Chúa. Ông so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với hòm giao ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.
Chúng ta nên nhớ rằng Thiên Chúa có thể hiện diện nơi chúng ta bằng nhiều cách khác nhau, y như người ta có thể hiện diện với nhau bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn một đứa con đang trọ học ở trường vẫn có thể hiện diện đối vối mẹ nó qua bức ảnh chụp của nó trên bàn của bà, hay một cách thân mật hơn qua lá thư nó viết mà bà cầm trong tay. Khi đứa con về nhà, nó sẽ hiện diện một cách thân mật và hiện thực nhất có thể đối với mẹ nó, một sự hiện diện bằng xương bằng thịt.
Cũng tương tự như vậy, Thiên Chúa hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau. Trước hết Ngài hiện hiện với chúng ta qua vạn vật mà Ngài sáng tạo. Nơi vạn vật Thiên Chúa có đặt một cái gì đó thuộc về bản thân Ngài cũng giống như nhạc sĩ đặt một cái gì đó thuộc về bản thân ông trong dòng nhạc của bài ca ông sáng tác. Kế đó, Thiên Chúa hiện diện đối với chúng ta qua lời của Thánh Kinh. Tư tưởng của Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong Thánh Kinh, y hệt như tư tưởng của người nhạc sĩ hiện diện với chúng ta trong bài ca của ông. Sau cùng, Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong Đức Giêsu. Thiên Chúa đã trở nên hiện diện với chúng ta bằng xương bằng thịt, y như nhạc sĩ có thể hiện diện có thể hiện diện đối với chúng ta bằng xương bằng thịt của ông. Điều này khiến chúng ta trở về với câu đầu tiên mà chúng ta phải đặc biệt lưu ý trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là lời của Thiên sứ nói với Đức Maria rằng quyền năng của Thiên Chúa sẽ bao trùm nên nàng. Khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, thì Thiên Chúa trở thành hiện diện đối với chúng ta bằng cách thức thân thiện nhất có thể tưởng tượng được. Ngài đã trở thành hiện diện đối với chúng ta qua sự hiện diện bằng xương bằng thịt của Đức Giêsu.
Điều này dẫn chúng ta trở về với câu thứ hai mà chúng ta phải lưu tâm tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Câu này được nói tiếp theo câu trước nói về quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Maria. Trong câu này, Thiên sứ nói: “xin báo cho cô biết rằng bà Isave, chị họ của cô, đã thụ thai một cậu con trai trong tuổi gìa. Ai cũng nghĩ bà sẽ không con, thế mà bây giờ bà đã có thai được sáu tháng, vì không có gì là không thể làm được đối với Thiên Chúa”. Trong câu này, mệnh đề quan trọng là “đối với Thiên Chúa thì không có gì không thể làm được”. Tin Mừng hôm nay làm nổi bật môt cách tuyệt diệu biết bao ý tưởng “không có gì là không thể làm được đối với Thiên Chúa”.
Trước khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Maria, thì thế giới đang sống trong tình trạng vô vọng. Tội lỗi và bạo lực lan tràn khắp nơi. Trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, không có ai hy vọng nàng sẽ sinh con cả, vì nàng là một trinh nữ. Trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Isave, bà không còn có thể hy vọng sinh con được nữa, vì bà đã gìa không còn khả năng sinh sản. Và cuối cùng, trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, nhân loại không có hy vọng được cứu rỗi, vì nhân loại đang sống trong vòng nô lệ Satan.
Quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria đã thay đổi tất cả.
Điều đó ý nghĩa gì đối với chính chúng ta hôm nay? Điều đó có ý nghĩa là:
Thế giới chúng ta có thể đang hỗn độn. Gia đình chúng ta có thể đang xáo trộn. Cuộc sống chúng ta có thể đang hỗn loạn. Nhưng vẫn còn có hy vọng, vì quyền năng của Thiên Chúa đã nhập vào thế giới này qua con người Đức Giêsu.
Đó là những gì chúng ta đang chuẩn bị cử hành đón mừng trong những ngày cuối cùng trước Giáng Sinh. Đó là những gì đem lại cho chúng ta niềm vui ngoài sức tưởng tượng, niềm hy vọng không dám ước mơ.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện. Chúng ta hãy cầu nguyện bằng những lời mà Đức Maria đã dùng để cầu nguyện khi Ngài đến thăm chị họ Isave của Ngài. Xin anh chị em cùng cầu nguyện với tôi trong thinh lặng:
“Linh hồn tôi tán dương Thiên Chúa. Lòng trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa cứu chuộc tôi… Ngài đã giữ lời hứa với Tổ phụ chúng ta … Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abraham. Và với tất cả dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc.1, 46 -47. 54 -55)
Rất hợp lý Chúa Nhật 04 mùa vọng trình bày cảnh truyền tin cho Đức Maria, một biến cố cụ: MV4-B61
Rất hợp lý Chúa Nhật 04 mùa vọng trình bày cảnh truyền tin cho Đức Maria, một biến cố cụ thể và thiết thực nhất trong việc thể hiện mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Thế nhưng khi Giáo Hội mời gọi tôi chiêm ngắm biến cố đó, có phải chỉ vì muốn kể cho tôi biết về các sự kiện liên quan tới việc Hài Nhi sắp sinh ra để giúp tôi dọn mình mừng lễ Giáng Sinh? Nếu thế khi chiêm ngắm quang cảnh này, tôi vẫn chỉ là người ngoài cuộc bàng quang, có chăng là chờ đợi để được hưởng kết quả sau này của nó?
“Nhập thể là Thiên Chúa làm người,” Brisson đã nói như thế khi tóm lược linh đạo của Thánh Phanxicô Salê, “nhưng không phải chỉ một Chúa - người duy nhất có thể kết hiệp với Thiên Chúa. Trong kế hoạch của Chúa, không phải Thiên Chúa chỉ kết hợp với một người để làm thành Chúa - người, nhưng Ngài còn muốn Nhập Thể được ứng dụng cho mọi người. Chúa muốn đi vào tương quan với hết thảy nhân loại. Ngài muốn nhập thể trong mọi người, đương nhiên không phải dưới dạng hai bản tính nên một (hypostatic), nhưng không kém phần hữu hiệu trong tất cả những ai sẵn sàng và chuẩn bị… Nhập Thể trên thực tế lan rộng tới mọi phần tử của Nhiệm Thể [Hội Thánh].” (Louis Brisson, Cor ad Cor, trg. 143). Nếu thật sự là như thế thì biến cố truyền tin cũng phải là biến cố của tôi: chính tôi được truyền tin!
Sứ thần [đức tin] đến với tôi, một kẻ thấp hèn, và chào: “Mừng vui lên, hỡi [người] đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng [bạn]”. Tôi ‘đầy ân sủng’? Phải, vì ân sủng chính là lòng nhân ái xót thương Chúa đổ tràn trên tôi. Hội Thánh cho biết ân sủng được ban nhưng không (gratis), không do công nghiệp gì của tôi; và hình như Phaolô còn cho thấy nơi đâu càng tội lỗi thì ân sủng Chúa càng tràn đầy (Thư Rô-ma chương 5 đặc biệt câu 20). Gia-kêu, đứa con hoang đàng, Ma-đa-lê-na… là một số trường hợp điển hình. Chính khi tạo dịp cho Chúa thi hành được lòng thương xót Người nơi mình, thì Thánh Linh cũng nói với tôi: “Đừng sợ, vì [bạn] đẹp lòng Thiên Chúa… bạn đã làm cho Hài Nhi Giê-su được sinh hạ nơi mình, vì Hài Nhi giáng trần vốn chỉ với mục đích làm cho mọi người đón nhận tình thương cứu độ của Thiên Chúa”. Đối với Ma-ri-a trong tư cách một phụ nữ Do Thái, thì sứ thần báo: Hài Nhi “được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”, nhưng với một Kitô hữu như tôi (và chắc Maria cũng đồng ý điểu này) thì đức tin nói cho biết: Hài Nhi giáng trần chính là ‘Thiên Chúa, Đấng cứu độ…hằng đoái thương nhìn đến phận hèn… đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót… và lòng thương xót đó dành cho tổ phụ Ap-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời’ (Lc 1,46-55).
Có lẽ trong thâm tâm nhiều lúc tôi cũng đã thốt lên: “Việc ấy xảy ra cách nào… vì con thật không đáng được xót thương tha thứ?” Và tôi được trả lời: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bạn, và quyền năng Đấng tha thứ sẽ rợp bóng trên bạn, vì thế Đấng Thánh bạn mang nơi mình sẽ được gọi là Con Thiên Chúa cứu độ.” Phúc Âm cũng chỉ cho tôi thấy người phụ nữ ngoại tình, tên cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu, đã được tha thứ như thế nào, và cũng sẽ nói với tôi “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được… không có tội nào mà không tha thứ được.” Và tôi cũng chỉ có thể khiêm tốn cùng Maria đáp lại: “Vâng, con đây chỉ là người tội lỗi hèn kém, Xin Chúa cứ làm cho con như lời hứa của Tin Mừng cứu độ Người!”
Giáng sinh gần lắm rồi! Nếu không thật sự được truyền tin như đức Maria, có lẽ tôi sẽ lại, như mọi năm, lo mừng lễ thật to, thật long trọng, nhưng Giáng sinh vẫn ở xa tít tắp.
Lạy Mẹ Maria, trong bài ca ‘Magnificat’, chính Mẹ đã nội tâm hóa biến cố truyền tin theo suy nghĩ sâu lắng của cõi lòng. Mẹ đã hiểu cưu mang Đấng Cứu Thế chỉ là một phần của điều quan trọng hơn nhiều: nhận biết Chúa hằng thương xót. Xin giúp con hiểu được cuộc truyền tin của con, và cùng với Mẹ, ca ngợi lòng thương xót Chúa trong mùa Giáng Sinh này. Amen
Vào một buổi tối trong một kỳ nghỉ đông lạnh lẽo, một đứa bé trai khoảng sáu bảy tuổi đang: MV4-B62
Vào một buổi tối trong một kỳ nghỉ đông lạnh lẽo, một đứa bé trai khoảng sáu bảy tuổi đang đứng phía ngoài cửa sổ của một cửa hàng. Cậu bé không có giày để mang, quần áo của cậu thì rách rưới.
Một phụ nữ trẻ đi ngang qua, cô nhìn thấy cậu bé và cô đọc được nỗi khao khát trong đôi mắt xanh của cậu bé. Cô nắm lấy tay cậu bé và dẫn cậu vào trong cửa hàng rồi cô mua cho cậu một đôi giầy mới và một bộ quần áo ấm.
Sau đó cô dắt cậu trở ra và nói với cậu: “Bây giờ cháu có thể trở về nhà và có một kỳ nghỉ đông thật hạnh phúc”.
Cậu bé chăm chú nhìn cô rồi hỏi: “Cô có phải là Thượng đế không?”.
Người phụ nữ nhìn cậu bé, mỉm cười và trả lời: “Không cháu à, cô chỉ là một trong số đứa con của Thượng đế”.
Quả thực, “chúng ta đều là những người con của Thương Đế thôi”. Mỗi người chúng ta đều là thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài. Hình ảnh Ngài là tha nhân, là bạn bè, là những người thân quen hay xa lạ mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống. Hình ảnh Ngài đang hiện diện qua những người yếu đuối, bất hạnh và nghèo khó đang cần chúng ta chăm sóc chở che. Có thể nói: Thiên Chúa cũng đang viếng thăm chúng ta qua những phận người đói rách lầm than, hay những phận đời bơ vơ túng quẫn trăm chiều. Thế nên, là con của Thiên Chúa chúng ta phải sống yêu thương nhau. Tình yêu sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi trở ngại để có thể làm điều gì đó tốt đẹp nhất cho tha nhân. Tình yêu sẽ giúp chúng ta liên đới với nhau thay vì vô cảm thiếu trách nhiệm với nhau.
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm, một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh đón tiếp Thiên Chúa viêng thăm một cách rất âm thầm nhưng đầy thân tình. Người thiếu nữ ấy tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không để đánh mất cô hội ngàn năm có một là cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cô đã nhanh nhẹn đáp lời bằng hai tiếng xin vâng. Có thể nói : lời thưa xin vâng lúc này là lời đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa xin vâng không những đã làm nên trang sử mới trong cuộc đời cô mà còn đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của lịch sử. Triều đại mới đã bắt đầu. Thời đại hồng ân đã khởi sự. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đang đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đang đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đang đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy quảng đại để chấp nhận Chúa. Hãy dấn thân và phục vụ Chúa qua những anh em đang cần sự trợ giúp của chúng ta.
Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là “sinh vô gia cư, chết vô địa táng”. Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phường thu thuế và gái điếm.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giê-su là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen
Tin Mừng theo Phụng vụ đã dẫn dắt chúng ta ngày càng gần đến Mầu Nhiệm Nhập Thế của: MV4-B63
Tin Mừng theo Phụng vụ đã dẫn dắt chúng ta ngày càng gần đến Mầu Nhiệm Nhập Thế của Ngôi Lời Thiên Chúa. Mầu Nhiệm Nhập Thế luôn đi đôi với Mầu Nhiệm Nhập Thể như hai mặt của đồng xu Ân Sủng. Biến cố Truyền Tin từ 9 tháng trước nay được lập lại như một sự khẳng định. Giáo Hội muốn nhắc cho chúng ta nhớ đến tầm quan trọng của tiếng “Xin Vâng” mà Mẹ Maria đã thốt lên từ hai ngàn năm trước, tiếng “Xin Vâng” không phải ngẫu nhiên mà đã được hun đúc qua nhiều thế hệ. Cũng không có gì lạ khi Giáo Hội phong thánh cho ông bà Gioakim và Anna, song thân của Đức Maria. Và chúng ta có quyền tin rằng, vẫn còn nhiều thế hệ Thánh trước đó nữa. “Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho!” (Lc. 6, 43-44).
Ngày nay, khi Mẹ Maria đã hưởng triều thiên Thiên Quốc, chúng ta thường nghĩ về biến cố Truyền Tin như là một vinh dự dành cho Mẹ Maria mà ít nghĩ đến hoàn cảnh khắc nghiệt thời bấy giờ; khi mà tội gian dâm bị xử ném đá cho đến chết theo luật Mô-sê. Thật vậy, chúng ta hãy thử tưởng tượng những sự việc trên xảy ra cho một cô bé nhà quê chân chất mới 16 tuổi đầu thì mới cảm nghiệm được những điều kỳ diệu. Từ câu chào đầu tiên của sứ thần Gabriel, Mẹ đã hoang mang vì tự cho mình không xứng đáng với lời chào ấy. Đến khi sứ thần thông báo cho Mẹ sứ mạng cưu mang con Đấng Tối Cao, Mẹ lại càng hoang mang hơn đối với một trọng trách vĩ đại mà Mẹ lại không hề có điều kiện để thực hiện: “tôi không hề biết đến người nam”. Nhưng sau khi nghe sứ thần nói về cách Chúa thực hiện thì Mẹ đã sẵn sàng với một tấm lòng khiêm cung và phó thác: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”.
Tôi chợt liên tưởng đến một mẫu đối thoại thời hiện đại:
- Chào người mẫu M., kiêm ca sĩ kiêm diễn viên điện ảnh. Cô thật có phước, vừa đẹp, vừa đa tài, lại vừa may mắn. Đạt 2, 3 giải thưởng liên tiếp…
- Phước đức gì, may mắn gì đâu anh. Họ cũng vắt mình ra nước ấy chứ, có được ngày hôm nay là do khổ luyện đó anh. Một ngày M. chỉ được ngủ có 5 tiếng chớ mấy, suốt ngày phải lăn lộn ngoài phim trường, rảnh một vài buổi lại tranh thủ luyện thanh, tối về đọc kịch bản cho đến khuya. Vậy mà còn phải rán nhịn ăn để giữ “co” bước lên sàn catwalk nữa!
- Chà, thật đáng ngưỡng mộ! Một người trẻ như cô mà lịch làm việc dày đặc thế thì cô giải trí lúc nào? Ý tôi nói là những buổi liên hoan bạn bè, những chuyến dã ngoại…
- Mấy vụ này thì đã có manager của M. lo! Khi nào thích thư giãn ít hôm thì bảo họ sắp xếp. Mình là “sao” nên bên phim trường họ cũng sẵn sàng… chờ!
- À, là thế này. Tôi muốn mời M. tham gia một buổi diễn từ thiện ở tỉnh K. Nhân tiện, để M. có dịp xả hơi thư giãn miền sông nước ít hôm. Cũng là cơ hội để tích đức…
- Ấy, không được đâu anh. M. dư sức để diễn ở bất cứ tụ điểm danh giá nào ở thành phố này, nhưng về tỉnh lẻ nó hạ thấp giá trị của M. Rồi mai mốt làm sao M. deal giá hợp đồng với người ta. Vả lại, chuyện cát-sê không thành vấn đề nhưng M. ăn uống và sinh hoạt… khó lắm! Sợ dưới đó không đủ tiện nghi.
Đối chiếu lại, chúng ta thấy thật không dễ nói tiếng “xin vâng” phải không? Chúng ta vẫn thường nghĩ, nếu được sứ thần hiện ra báo tin như thế, tôi cũng sẵn sàng… xin vâng?!?
- Không đâu, tôi sẽ “bay bổng” ngay từ câu chào đầu tiên. Tôi sẽ tự thấy mình quan trọng khi được tung hô bằng những mỹ từ có cánh. Tôi sẽ nhìn… xuống “thằng cha” sứ thần và đề phòng “hắn” cầu cạnh việc gì mới phải chúc tụng mình như vậy.
- Rồi đến khi “hắn” giao “sứ mạng” cho tôi, tôi phải tìm hiểu xem mình được gì trong tuy-dô đó. Sao lại là tôi mà không phải người khác? Các điều kiện để thực hiện có thuận lợi hay không? Các điều khoản có công bằng và công minh không?
- “Hắn” hứa sẽ hỗ trợ tối đa à? Đừng đem những sức mạnh siêu nhiên ở mãi tận đâu đâu ra lòe bịp tôi. Còn xác suất rủi ro nữa chi?
Tôi cũng nhớ một mẫu đối thoại trên một phim hành động, khi một sỹ quan tham mưu tìm đến một anh lính bắn tỉa đã về hưu để yêu cầu một điệp vụ ám sát trong lòng địch. Viên sỹ quan hứa:
- Tôi sẽ chấp nhận mọi yêu cầu của anh sau khi điệp vụ này hoàn tất.
- Mọi yêu cầu à? – Anh lính bắn tỉa vặn lại – Vậy thì, các ông đã coi tôi như một kẻ chết rồi!
Vậy đó, sự khôn ngoan của thế gian đã khiến hai từ “xin vâng” trở thành xa lạ! Tôi đâu phải con cừu muốn dắt đâu thì dắt, tôi đâu phải chiếc đòn muốn kê đâu thì kê? Chỉ vì “cái tôi” vẫn… chà bá trước mặt! Có một câu ngạn ngữ mang tính hình tượng và ẩn dụ rất hay: “Nếu bạn quay lưng về phía mặt trời, chiếc bóng của bạn lúc nào cũng lởn vởn trước mặt bạn. Nhưng nếu bạn quay mặt về phía mặt trời, chiếc bóng sẽ lùi ra đàng sau lưng bạn”. Mẹ Maria đã luôn hướng mắt hướng lòng về Mặt Trời Công Chính, nên Mẹ không bị cái tôi án ngữ. Mẹ dễ dàng “Xin Vâng” vì tự nhận thân phận tôi đòi: “Này tôi là tôi tá Chúa”. Chính vì lòng khiêm nhường, tâm tình phó thác quên mình mà Mẹ đã cất cao lời kinh Magnificat để tán dương những sự việc Chúa đã làm cho Mẹ mà không cần biết hậu quả sẽ đi đến đâu? Thánh Giuse có chấp nhận Mẹ không? Lưỡi dao đâm thấu tim Mẹ sắc nhọn chừng nào?
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết quy hướng về Chúa, là Mặt Trời Công Chính của đời con trong mọi lúc và mọi sự. Để chúng con biết khiêm tốn nói tiếng “Xin Vâng” như Mẹ Maria trong mỗi biến cố mà Chúa dành cho chúng con. Amen.
Tiếp nối những dòng suy niệm của ba chúa nhật mùa vọng trước: “Đừng Vô Cảm”, “Tỉnh: MV4-B64
Tiếp nối những dòng suy niệm của ba chúa nhật mùa vọng trước: “Đừng Vô Cảm”, “Tỉnh Thức Con Tim”, “Con Tim Rung Nhịp Với Chân Lý”, chúa nhật IV mùa vọng xin được chia sẻ đề tài: nên giống trái tim Đức Mẹ. Khi nói đến trái tim thì mọi người không chỉ nghĩ đấy là một cơ phận của thể xác con người, nhưng còn nghĩ ngay đến chiều sâu bên trong là ý hướng, tình cảm, tâm trạng, nỗi niềm .... Triết Đông còn dùng chữ “tâm” (#S:trái tim)để chỉ thế giới tinh thần (tâm linh) của con người. Có thể nói “trái tim” là biểu tượng nói lên cái cốt yếu của con người đích thực. Chính vì thế mà Đại Thi hào Nguyễn Du từng bảo:
“Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Truyện Kiều).
Cũng vì ý nghĩa và tầm quan trọng của biểu tượng trái tim mà chúng ta có lễ trọng “Thánh Tâm Chúa Giêsu” và lễ “Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ” liền kề nhau.
Câu chuyện có thật về người đàn bà “hủi”, mẹ thằng Chiền (Tú Anh) trong phim “Chuyện Tử Tế” của đạo diễn Trần Văn Thủy cũng để lại cho ta nhiều suy nghĩ. Trong phim chỉ cho biết mẹ thằng Chiền bị hủi, bị xua đuổi khỏi làng, bị chồng bỏ, đi xin ăn, đêm đêm lén về nhào đất đúc được 18 vạn (180.000) với ước mơ con có một mái nhà …đã làm cho mọi khán giả xúc động. Nhưng Khi đọc những bài báo viết sau đó mười mấy hay hai chục năm, nhất là bài “Chuyện cổ tích về số phận kỳ lạ của một người đàn bà” của tác giả Phùng Nguyên (2005) cho ta biết thêm nhiều thông tin hơn về người đàn bà “hủi” có tên Trần Thị Hằng, mẹ thằng Chiền. Bài báo đã tạo một cơn sốt ngưỡng mộ nơi độc giả. Chị Hằng đã từng nung dao nóng đỏ để chặt lần lượt mười ngón tay bị cho là “hủi’ của mình, phải làm bè sống trên ao, ban ngày đi gánh nước hoặc cát thuê, đêm về gánh đất lấp ao để có một nền nhà …. Chị còn thảm thương hơn cả chị Dậu trong “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố, vì Chị Dậu còn có bầy chó để bán.
Chính trái tim thương con của người mẹ đã giúp chị Hằng vượt qua tất cả. Từ đôi bàn tay bị cho là “hủi” phải chặt cụt từng ngón cùng với trái tim người mẹ luôn yêu thương thao thức vì con, sau mười mấy năm lăn lộn với khổ đau cùng tận, chị Hằng đã thành công trong cuộc sống, đã trở thành triệu phú, có ngôi biệt thự lớn nhất xã Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình (năm 2005).
Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay đều mời gọi chúng ta có trái tim vâng phục Thiên Chúa như Đức Maria.
Bài đọc 1, sách 2Sm mời gọi mọi người sống tâm tình của người con luôn tùng phục Thiên Chúa: “Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao ? … Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con.”
Bài đọc 2, thánh Phao lô xác tín với giáo đoàn Rôma: “Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí”.
Bài Tin Mừng, bằng vài nét chấm phá, thánh sử Luca phác họa chân dung Đức Maria: là người thôn nữ bình thường như mọi thôn nữ khác (c 27), là người nữ “đầy ơn sủng” và được “Đức Chúa ở cùng” (c 28), là người được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (c 30-33)… Tuy nhiên câu kết của Tin Mừng đã làm bừng sáng cả bức chân dung Đức Mẹ là một con người bình thường nhưng thật vĩ đại vì trái tim đã vâng phục Thiên Chúa cách triệt để: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."
Chiêm ngắm cuộc đời Đức Mẹ, chúng ta không chỉ thấy Trái tim Đức Mẹ thốt lên hai tiếng “xin vâng” trong biến cố Truyền tin, khi chứng diện trước Sứ thần của Thiên Chúa; mà cả cuộc đời Đức Mẹ, trái tim vẫn luôn rung nhịp vâng theo thánh ý Thiên Chúa giữa bao nghịch cảnh. Mẹ vâng phục Thiên Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, mọi biến cố, mọi phút giây. Trong biến cố hạ sinh con nơi hang bò lừa giữa cánh đồng hoang vu đêm khuya gió rét, biến cố trốn sang Ai Cập, dâng con trong Đền thờ, ẩn cư tại Nazareth … ở mọi thời khắc Đức Mẹ đều thinh lặng, nhưng con tim ghi nhớ và suy niệm (x. Lc 2,19). Cả biến cố dưới chân thánh giá, Mẹ chứng diện trước cái chết của người con dấu yêu. Có nỗi đau nào sánh ví! Thế mà Mẹ vẫn thinh lặng, vâng phục và phó thác, trao phó con tim mình cho Thiên Chúa.
Ngay từ thời xa xưa, các Giáo phụ và những vị đại thánh đã ca ngợi Trái Tim Đức Mẹ:
# Thánh Giêrônimô: Không trí khôn thụ tạo nào, không trái tim thụ tạo nào, không sức lực nhân loại nào có thể biết được Trái Tim Mẹ Maria yêu mến Chúa chúng ta đến mức nào.
# Thánh Bênađô: Tình Chúa yêu thương chiếm trọn Trái Tim Mẹ Maria, đến nỗi Trái Tim Mẹ đầy tràn tình yêu, vì Thiên Chúa không làm bùng lên tình yêu trong trái tim nào khác như trong Trái Tim Rất Thánh Nữ Trinh. Và vì Mẹ thoát khỏi mọi dính bén thế tục để Mẹ lãnh nhận được ngọn lửa thánh này.
# Thánh Bênađinô: Đức Nữ Trinh hiển vinh không lặp lại những tác động yêu mến như các thánh, vì trọn cuộc đời Mẹ là một tác động yêu mến liên lỉ do một đặc ân Mẹ luôn luôn yêu mến Thiên Chúa.
# Thánh Phanxicô Salêsiô: Mẹ Maria trung thành yêu mến Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối nhất và tuyệt vọng nhất, đặc biệt trên đồi Canvê. Mẹ tới một mức độ yêu mến hoàn hảo nhất, cao cả nhất. Điểm căn bản là tâm hồn Mẹ tan hòa kết hợp với Chúa và chỉ yêu mến duy một Thiên Chúa trong mọi sự và mọi nơi.
# Thánh Gioan Maria Vianney: Chúa Con có đức công bình của Người, Mẹ không có gì, chỉ có tình yêu là Trái tim của Người. Không có ơn nào từ trời xuống mà không qua tay Mẹ.
# Thánh Eymard: Ai muốn hiểu biết những bí nhiệm thẳm sâu tình yêu Thiên Chúa, và những nhân đức kín nhiệm Thiên tính Chúa Giêsu, thì phải học trong tấm gương trong suốt Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.
Lời mời gọi của thánh Eymard, cũng là lời mời gọi của Lời Chúa hôm nay: Hãy nên giống trái tim Đức Mẹ.
Có lẽ chúng ta sẽ bảo rằng: thật khó để thanh luyện trái tim mình nên giống Trái tim Đức Mẹ. Quả là khó chứ không phải là điều không thể. Điều quan trọng là tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa có tinh tuyền và mãnh liệt như Đức Mẹ hay không. Nếu có tình yêu thì chúng ta sẽ làm được tất cả, vượt qua tất cả mọi gian nan hay đam mê lôi cuốn. Cha ông ta đã từng bảo: “yêu nhau mấy núi cũng trèo” mà!
Chính trái tim yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn và mãnh liệt đã làm nên một Maria vâng phục thánh ý Thiên Chúa suốt cả đời. Cũng thế, nếu trái tim chúng ta luôn thao thức qui hướng về Thiên Chúa, rung nhịp với Tin Mừng tình yêu vĩnh cửu của Ngài thì mỗi người chúng ta cũng có thể vượt qua tất cả mọi trở ngại để vâng phục Thiên Chúa cách hoàn toàn và suốt cả đời như Đức Mẹ. Các Vịnh gia từng thốt lên: “Tim thét gào thì miệng phải rống lên” (Tv 38,9) (xem bài diễn giải rất hay của thánh Augustinô về câu Thánh vịnh này ở Bài đọc 2 Kinh Sách, thứ 6 tuần 3 mùa vọng).
Nếu chúng ta không thanh luyện trái tim mình nên giống trái tim Đức Mẹ, tức để cho tim mình rung nhịp theo những xúc cảm tầm thường, nhất thời, thì trái tim chúng ta không chóng thì chày cũng dễ bị lạc nhịp theo những xu hướng của thế tục, của sự ích kỷ vụ lợi cá nhân.
Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn, mỗi người chúng ta thanh luyện chính mình để trái tim chúng ta máng cỏ yêu thương nơi Hài Nhi Giêsu ngự trị và để chúng ta có thể mang Chúa đến cho tha nhân.
Chúa nhật IV Mùa Vọng luôn được coi như Chúa nhật của Đức Mẹ. Quả thực, Mẹ Maria giữ : MV4-B65
Chúa nhật IV Mùa Vọng luôn được coi như Chúa nhật của Đức Mẹ. Quả thực, Mẹ Maria giữ một vai trò rất lớn lao, rất quan trọng trong lịch sử cứu rỗi, đến nỗi, nếu giả thiết không có Đức Mẹ, chắc chắn nhân loại đã khác. Do đó, Mẹ Maria được phụng vụ giới thiệu là nguồn ơn thiêng vô tận của Thiên Chúa. Mẹ là mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.
Mùa Vọng đặc biệt trong tuần cuối cùng trước khi mừng đại lễ Giáng Sinh. Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm Mẹ và học hỏi nơi Mẹ lời xin vâng tuyệt đối luôn làm theo ý Thiên Chúa. Mầu nhiệm Nhập Thể giúp nhân loại, giúp mỗi người chúng ta chìm sâu trong lòng yêu thương nhân từ của Thiên Chúa. Bởi vì, Thiên Chúa không muốn cho Con của Ngài đến trần gian này một cách khác lạ, một cách phi thường, nhưng Ngài đã chọn cho con của Ngài cách thế thông thường để sinh ra. Chúa Giêsu cũng có một người Mẹ như mọi người. Vâng, sau tiếng xin vâng, Ngôi Lời đã ngự trong cung lòng đức trinh nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần.Sự huyền nhiệm nhất đó là Ngôi Lời đã làm người. Đức Giêsu đã được sinh ra nơi hang đá Bêlem do cung lòng trinh khiết của Mẹ Maria. Ngài là người, mãi mãi là người, cư ngụ giữa loài người, Ngài đã sống kiếp sống loài người như mỗi người chúng ta chỉ trừ tội lỗi.
Con Thiên Chúa làm người để cho nhân loại hiểu được giá trị của vũ trụ, của trái đất chính Thiên Chúa đã tạo dựng nên, nhưng cũng vì trái đất mà Con của Ngài đã tới để cư ngụ. Đức Giêsu đã làm người để dạy con người biết yêu trái đất, biết yêu vũ trụ, biết quí trọng tất cả những gì Ngài đã dựng nên. Chúa làm người để dạy chúng ta, dạy con người, dạy mỗi người biết yêu cuộc sống, yêu cuộc đời của mình.Với lời xin vâng của Mẹ, Con Thiên Chúa đã làm người để Ngài dạy con người biết sống yêu thương, hiệp nhất với nhau, biết yêu như Chúa đã yêu chúng ta, yêu mỗi người chúng ta. Mẹ đã tin yêu sống trọn lời xin vâng cho đến khi đứng dưới chân thập giá. Đó là lời xin vâng tuyệt đối, lời xin trọn cả kiếp người.
Mùa Vọng khơi lên trong chúng ta niềm tin yêu, phó thác. Mùa Vọng đốt lên trong lòng chúng ta niềm hy vọng. Bởi vì qua cung lòng của Đức Mẹ, Thiên Chúa đã làm một việc kỳ diệu là cho Con Ngài sinh hạ bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Mẹ thật xứng đáng làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ toàn thể nhân loại.
Mùa Vọng chiêm ngưỡng Mẹ để nhận ra chúng ta còn khiếm khuyết nhiều lắm nếu không có ơn Chúa, con người sẽ không đứng vững, con người sẽ không bền chặt tin yêu. Mùa Vọng hướng chúng ta tới Mẹ và qua Mẹ chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã chọn Mẹ giữa muôn vàn người nữ để làm Mẹ Chúa Giêsu và làm Mẹ nhân
loại. Hướng về Mẹ, chúng ta cũng cảm tạ Thiên Chúa, bởi Ngài đã chọn thánh cả Giuse làm bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria, nhờ thánh Giuse, Mẹ Maria được bảo vệ trước mặt luật pháp và Chúa Giêsu được dưỡng nuôi, giữ gìn.
Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng là Chúa nhật đặc biệt của Đức Mẹ, chúng ta hãy chạy đến với Đức Mẹ, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta được sống an bình. Mẹ đang cưu mang Chúa và ngày đại lễ Giáng Sinh, chúng ta được cung chiêm, thờ lạy Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, được Mẹ sinh ra, đặt nơi máng cỏ…Sự an bình là Đức Kitô. Các thiên thần sẽ hát vang trong đêm Giáng Sinh :” Vinh danh Thiên Chúa trên trời.Bình an dưới thế cho người thiện tâm “.
Xin hãy cùng Mẹ Maria ca ngợi Thiên Chúa :” Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa,
Lòng trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa Đấng cứu chuộc tôi…Người đã giữ lời hứa với tổ phụ chúng ta…Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abraham và với tất cả dòng dõi của Ông tới muôn đời “ ( Lc 1, 46-47.54.55 ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng thường đề cập đến người nào ? 2.Maria là ai ? 3.Lời xin vâng của Đức Mẹ có nghĩa gì ? 4.Tại sao Thiên Chúa lại không chọn một con đường nào khác để sinh ra ? 5.Vai trò của thánh Giuse trong lịch sử cứu rỗi ?
Câu truyện thứ hai của Tin Mừng Luca trong bài tường thuật về thời thơ ấu song song với câu: MV4-B66
Câu truyện thứ hai của Tin Mừng Luca trong bài tường thuật về thời thơ ấu song song với câu truyện thứ nhất: cũng như cuộc chào đời lạ lùng của Gioan được loan báo cho cha là Dacaria (1,5-25), cuộc chào đời lạ lùng của Đức Giêsu sẽ được loan báo cho mẹ Người là Đức Maria (1,26-38). Cũng giống như trong lời loan báo cuộc chào đời của Gioan, ở đây cũng có một cái khung gồm năm yếu tố thuộc về thể văn loan báo các cuộc chào đời trong Cựu Ước (xem các cuộc chào đời của Ítmaên, Isaác, Samson, Samuên):
a) thiên thần đi vào (1,28), b) Đức Maria bối rối (1,29), c) sứ điệp của trời cao (1,30-33), d) vấn nạn của Đức Maria (1,34bc), e) thiên thần trấn an và cho dấu chỉ: bà Êlisabét có thai (1,35b-37).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Khung cảnh và các nhân vật (1,26-27); 2) Cuộc đối thoại giữa thiên thần Gabriel và Đức Maria (1,28-37): a) Chặng 1 (cc. 28-33), b) Câu hỏi trung tâm (c. 34), c) Chặng 2 (cc. 35-37); 3) Sự chấp thuận của Đức Maria (1,38).
3.- Vài điểm chú giải
- Gabriel (26): Tác giả Lc nhận ra rằng “sứ thần của Chúa” là thiên thần thuộc lời sấm của Đaniel 9 về bảy mươi tuần; ngài đã đến với Đanien “vào lúc dâng lễ vật ban chiều” (Đn 9,21; x. 8,16). Cùng với Micaen (Đn 10,13; 12,1) và Raphaen (Tb 3,17), Gabriel là một trong ba thiên thần được nêu tên rõ ràng trong Cựu Ước. Tên Gabrý-’êl có nghĩa là “Thiên Chúa là anh hùng / chiến sĩ của tôi”.
- Nadarét (26): Nadarét không được nhắc đến cả trong Cựu Ước lẫn trong các tác phẩm của Gioxép hoặc các tác phẩm chú giải của các kinh sư. Ta biết đến thôn làng này nhờ một mảnh bản văn khắc bằng tiếng Híp-ri tìm ra năm 1962 ở Xêdarê bờ biển, trong đó liệt kê hai mươi bốn nhóm tư tế (x. 1,5) và các làng hoặc thành phố nơi các nhóm ấy cư trú. Nhóm thứ mười tám là nhóm Happozzez được ghi là cư trú tại Nsrt, “Nazareth”. Bản văn khắc này thuộc về cuối thế kỷ iii hoặc đầu thế kỷ iv CN. Ở đây tên Hy Lạp được ghi là Nazareth, nhưng ở Lc 4,16, tên được ghi la Nazara (cũng như ở Mt 4,13).
- thành hôn (27): Thuật ngữ “thành hôn” hay “đính hôn” ở đây là dạng perfect participle passive emnêsteumenên của động từ mnêsteuô, “đính hôn”, “betroth”. Dạng ngữ pháp này có nghĩa là việc đính hôn đã xảy ra và vẫn còn tồn tại. Giáo sư Fitzmyer (chuyên về truyền thống Luca) đã dịch emnêsteumenên là “engaged to a man”; Bản dịch Đại kết (TOB) dịch là “accordée en mariage à un homme”; Bản dịch của École de Jérusalem (BJ) dịch là “fiancée à un homme”. Dường như toàn câu văn Luca lấy từ bản LXX của Đnl 22,23 (parthenos memnêsteumenê andri, “khi một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người đàn ông”; x. Mt 1,18). Ở bên Paléttina, việc kết hôn của người con gái diễn ra thành hai giai đoạn:
(1) Lễ “cam kết” (Híp-ri êrusin = La-tinh sponsalia), hay là việc trao đổi về hình thức sự ưng thuạn kết hôn trước mặt những người chứng (x. Ml 2,14) và trả khoản môhar, “giá cô dâu” (một khoản tiền trả cho cha mẹ cô gái; x. St 34,12; Xh 22,16; 1 Sm 18,25);
(2) Chính lễ “thành hôn” (Híp-ri nissuin) hoặc là lễ “mang (rước)” cô gái về nhà chàng trai (x. Mt 1,18; 25,1-13).
Lễ cam kết đã cho chàng rể có những quyền pháp lý trên cô gái, và cô này đã có thể được gọi là “vợ” (Hy Lạp gynê, x. Mt 1,20.24) của anh. Việc cam kết chỉ bị phá hủy khi anh ta ly dị cô. Do đó bất cứ hành vi nào của cô vi phạm các quyền làm chồng của anh đều bị coi là ngoại tình. Sau lễ nghi cam kết, người con gái thường vẫn ở tại gia đình mình khoảng một năm trước khi được mang về nhà chồng.
Như vậy, vào lúc được truyền tin tại Nadarét, Maria đã cam kết thành hôn với Giuse rồi, có nghĩa là đã kết hôn đúng pháp lý với Giuse, đã thật sự là “vợ” của ông; cô chỉ chưa được rước về nhà Giuse thôi. Với lại, nếu đọc Lc 2,5, chúng ta thấy: Dù lúc đó Maria đã về chung sống với Giuse rồi, tác giả Luca vẫn gọi Maria là emnêsteumenê: Ở đây, Fitzmyer cứ dịch sát là “his fiancée”; TOB dịch thẳng ra là “épouse”; còn BJ cũng dịch là “sa fiancée”. Dù sao, dựa vào bản Luca Hy Lạp, có thể hiểu hứa hôn cũng là thành hôn. Bản Nova Vulgata đã dịch là desponsatam, “hứa hôn”, nhưng đến Lc 2,5, bản văn đã dịch và thêm từ ngữ uxor để giải thích từ desponsata thành một câu như sau: “cum Maria desponsata sibi, uxore praegnante”, “cùng với Maria đã đính hôn với ông, vợ đang có thai”. Như thế Bản Nova Vulgata vừa giữ từ ngữ có nghĩa “đính hôn”, vừa giải thích theo nghĩa truyền thống Híp-ri: “đính hôn” đây có nghĩa là “vợ” về pháp lý.
- Giuse (27): Hầu chắc đây là dạng gọi tắt của tên Yôsýp-yah, “Ước gì Đức Chúa thêm cho” (các đứa con khác ngoài đứa con vừa chào đời) (x. Er 8,10; St 30,24).
- Maria (27): Đây là tên của chị Môsê (Híp-ri Miryam, Xh 15,20). Bản LXX thường viết là Mariam, cũng như Lc ở đây, nhưng cách đọc tốt hơn, là Maria, được chứng thực trong các bản văn ngoài Kinh Thánh (x. Lc 2,19). Miryam (và Mariam) là một tên Sê-mít, có nguồn gốc Canaan, có liên hệ với danh từ mrym (Ugarít và Híp-ri) nghĩa là “độ cao, đỉnh cao”.
- Mừng vui lên (28): Chaire là kiểu chào thông thường trong văn chương Hy Lạp và được cả người Sê-mít dùng trong Tân Ước (x. Mt 26,49; 28,9). Nhưng theo nhiều nhà chú giải, kiểu chào Sê-mít quen thuộc hơn, là eirênê (Lc 10,5; 24,36; Ga 20,19.21.26), dịch từ tiếng Híp-ri shalôm hay tiếng A-ram shelâm. Dạng mệnh lệnh chaire (do động từ chairein), “Mừng vui lên” xuất hiện bốn lần trong Bản LXX (Xp 3,14; Ge 2,21; Dcr 9,9; Ac 4,21). Ba ví dụ đầu là một lời sấm ngỏ với Israel hoặc Giêrusalem để nói về cuộc tái thiết Dân Thiên Chúa: “Thiếu nữ Sion”, tức Dân Chúa, được mời gọi vui lên, vì được Đức Chúa đến viếng thăm. Rất có thể Lc đang quy chiếu về Xp 3,14-17, và như thế ám chỉ Đức Maria là “thiếu nữ Sion”, cũng với cùng một lý do: “Đức Chúa ở cùng bà”.
- Hỡi đấng đầy ân sủng (28): Công thức này chính là một tên riêng thiên thần đặt cho Đức Maria (x. Tl 6,12), trong tiếng Hy Lạp là kecharitômenê (pf. pass. ptc). Từ ngữ này cho thấy Đức Maria giống như một bình chứa sự sủng ái của Thiên Chúa; do đó nên dịch là “đấng [đã và vẫn còn đang] được [Thiên Chúa] sủng ái” (vì “được sủng ái” nên cũng “đầy ân sủng” như là kết quả của sự sủng ái: Bản Vg dịch là gratia plena). Câu này sẽ được giải thích bởi câu 30, “vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa” (NTT: “người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa”). Xem thêm St 6,8; 18,3. Trong Tân Ước, từ charis trước tiên có nghĩa là lòng sủng ái của Thiên Chúa tỏ ra nơi hành vi thi ân giáng phúc nhưng-không.
- Đức Chúa ở cùng bà (28): Công thức này được dùng thường xuyên trong Cựu Ước, nhưng dưới dạng lời chào thì chỉ có hai lần (R 2,4; Tl 6,12). R 2,4 là một lời cầu chúc; Tl 6,12 là một tuyên bố. Do Lc 1,28 tương tự Tl 6,12, có thể hiểu đây là một tuyên bố.
- Người sẽ nên cao cả (32): x. St 16,12.
- Đấng Tối Cao (32): Có thể danh hiệu này liên hệ đến danh hiệu Híp-ri ‘Elyôn hoặc danh hiệu A-ram ‘Illây, “Đấng Cao cả, Đấng được tôn dương”.
- tôi không biết đến việc vợ chồng (34): dịch sát là “vì tôi không biết một người nam (hoặc: một người chồng, HL. andra)”. Động từ ginôskein, “biết”, thường được dùng như một uyển ngữ để chỉ quan hệ vợ chồng (St 19,8; Tl 11,39; x. Mt 1,25).
- Thánh Thần (35): Sự song đối giữa “Thánh Thần” và “quyền năng Đấng Tối Cao” khiến ta hiểu là hai công thức này giải thích lẫn nhau: Thần Khí được hiểu theo nghĩa Cựu Ước là quyền lực sáng tạo và năng động của Thiên Chúa hiện diện nơi các con người.
- ngự xuống (35): eperchesthai. Câu văn có nghia là con trẻ sẽ sinh ra sẽ là một “quà tặng” của Thiên Chúa theo nghĩa viên mãn.
- sẽ rợp bóng (35): Động từ episkiazein được dùng trong Xh 40,35 cho đám mây vinh quang Thiên Chúa tràn đầy Lều Tạm trong sa mạc. - không có gì là không thể làm được (37): Câu này nhắc đến St 18,14 (LXX) liên hệ đến Sara, vợ son sẻ của Abraham.
- xin Người thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói (38): Lc dùng thể opt. genoito, diễn tả một một nguyện ước có thể đạt được.
Các điểm gặp nhau giữa Lc 1 và 2 Sm 7 (bản văn NTT):
2 Sm 7
Lc 1
c. 9: “một danh lớn”
c. 32: “Ngài sẽ làm lớn”
c. 13: “ngai vương quyền nó”
c. 32: “ngai Đavít cha Ngài”
c. 14: “nó sẽ là con Ta”
c. 32: “Con Đấng Tối cao”
c. 16: “nhà ngươi, vương quyền của ngươi”
c. 33: “vua trên nhà Yacob cho đến đời đời”
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Khung cảnh và các nhân vật (26-27)
Tác giả Luca cho thấy vẫn là thiên thần Gabriel loan báo cuộc chào đời của Đức Giêsu. Khung cảnh thời gian là “tháng thứ sáu” rõ ràng phản ánh bút pháp của Lc, vì nhằm nối kết truyện này với phần kết của truyện Gioan Tẩy Giả (1,24b-25). Ông Dacaria đã được loan báo về cuộc chào đời và nhiệm vụ của con ông là Gioan. Nay đến lượt Đức Maria được loan báo về cuộc chào đời và định mệnh của con ngài là Đức Giêsu. Đức Maria được giới thiệu là “trinh nữ” hai lần, còn Giuse được gọi là vị hôn phu chứ không phải là chồng (như Mt 1,18-20) thuộc nhà Đavít. * Cuộc đối thoại giữa thiên thần Gabriel và Đức Maria (28-37)
a) Liên hệ đến Thánh Mẫu học
Đức Maria không những được biết là con của mình sẽ chào đời, mà còn được Thiên Chúa kêu gọi và được làm cho có khả năng trở thành mẹ của người con ấy. Bà được tháp vào trong chuỗi những người được gọi trứ danh, đã nhận được từ nơi Thiên Chúa một nhiệm vụ đặc biệt nhằm đưa lại sự thiện hảo của Dân Thiên Chúa. Trong lời chào của thiên thần “Mừng vui lên, hỡi Đấng được sủng ái, Thiên Chúa ở cùng bà” (1,28), khung cảnh của ơn gọi của Bà được xác định, đó là: niềm vui, ân sủng và sự trợ giúp của Thiên Chúa. Lời đầu tiên của thiên thần theo sự thường được dịch ra thành một lời chào chung chung: “Kính chào bà!”. Nhưng luôn luôn khi xuất hiện trong bối cảnh là những bước khởi đầu của Đức Giêsu, vị sứ thần của Chúa đưa lại niềm vui lớn lao: cho Dacaria (1,14) và các mục đồng (2,10). Tất cả có đó để cho thấy rằng nét tiêu biểu của sứ điệp trung tâm và quan trọng hơn của ngài là niềm vui; do đó lời đầu tiên của ngài có nghĩa chính xác là Chaire, “Hãy vui lên!”. Điều đầu tiên Đức Maria nhận được từ thiên sứ của Thiên Chúa là: “Bà có mọi lý do để vui lên. Điều tôi có nhiệm vụ đến nói cho bà thì liên hệ đến bản tính thâm sâu nhất của bà. Hãy vui lên!”. Công thức này sẽ được nhắc lại dưới dạng phủ định: “Xin đừng sợ”.
Đức Maria được mô tả là “Đấng đầy ân sủng/Đấng được sủng ái”, được chọn làm Mẹ của Đấng được chào là Đấng Cứu Độ, Đấng Kitô, Đức Chúa (2,11). Yếu tố này của mẫu tính của Đức Maria sẽ lại xuất hiện trong TM III (Lc 8,19-21; 11,27-28) và trong sách Cv (Cv 1,14). Đức Maria không trả lời ngay với niềm vui chan hòa. Bà bị đánh động, Bà suy nghĩ, xin một giải thích, rồi chấp nhận nhiệm vụ với niềm tin. Chỉ trong cuộc gặp gỡ với bà Êlisabét, niềm vui của Đức Maria mới bung mở ra, trong bài thánh ca ngợi khen (1,46-55).
Câu nói thứ hai của thiên thần là “bà được sủng ái”, cho hiểu lý do của niềm vui này: “Bà được sủng ái, nghĩa là Thiên Chúa đã ban cho bà cách vĩnh viễn ân sủng của Ngài, sự sủng ái của Ngài, sự bằng lòng của Ngài. Tình yêu đầy nhân ái của Ngài được ngỏ với bà”. Thiên thần nói tiếp: “Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (1,30); câu này diễn tả ý nghĩa của cụm từ “bà đầy ân sủng”. Đặc điểm này nơi Đức Maria nổi bật đến nỗi thiên thần đã chào Bà không bằng tên riêng “Maria”, mà bằng “Bà-được-sủng-ái” như một tên riêng mới. Quan hệ của Thiên Chúa với Bà được diễn tả ra như thế. Nền tảng ơn gọi của Đức Maria và của mọi niềm vui được xác định như thế. Hầu như có thể nói “Maria” là tên Bà đã nhận được từ cha mẹ; còn “Bà-đầy-ân-sủng/được-sủng-ái” là tên đã được Thiên Chúa ban cho Bà.
Thiên thần lại nói: “Đức Chúa ở cùng bà”, nhắm tới sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Đây không phải là một sự hiện diện tổng quát (và mơ hồ) của Thiên Chúa, nhưng là sự trợ giúp thực sự, hữu hiệu. Lời đảm bảo này chỉ được ban cho những vĩ nhân được kêu gọi trong lịch sử dân Thiên Chúa (Giacóp, Môsê, Giôsuê, Ghít-ôn, Đavít). Thiên Chúa không chỉ giới hạn vào việc kêu gọi, rồi bỏ mặc người ta, nhưng đồng hành với họ và làm cho họ có khả năng chu toàn nhiệm vụ. Ngài đảm bảo là Ngài hiện diện và trợ giúp họ thường xuyên. “Đức Chúa ở cùng bà” sẽ được chứng thực bằng cuộc chào đời của con trẻ.
Đức Maria đã phản ứng lại lời chào của thiên thần vừa trên bình diện cảm xúc vừa trên bình diện lý trí: bà ngạc nhiên (“rất bối rối”) và suy nghĩ (“tự hỏi”). Bà mở ra với sứ điệp này và cố gắng hiểu sâu xa hơn. Thiên thần liền trình bày nhiệm vụ của Đức Maria: “Này đây, bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Trên nền tảng là khả năng tự nhiên của Bà là phụ nữ, Đức Maria được gọi đưa lại sự sống cho Đức Giêsu, Bà phải đón nhận cuộc sống con người của Bà vào lòng. Đức Maria cũng phải cho Người một cái tên, rồi trước và hơn những người khác, Bà phải dành hết thì giờ và trọn bản thân mà chăm sóc Người cả về thân xác lẫn tinh thần trong nhiều năm.
Khi hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (c. 34), Đức Maria xin thêm một giải thích nữa. Bà đón nhận các lời của thiên thần trọn vẹn, không đòi bổ sung cũng không góp vào những suy tư riêng. Bà tuyên bố về tình trạng của Bà là không có khả năng chu toàn nhiệm vụ được ký thác (x. Gr 1,6tt). Câu hỏi với hàm ý là Đức Maria thiếu khả năng là một bản lề trong cuộc đối thoại của Bà với thiên thần, đã đưa đến một mạc khải rõ ràng hơn: thiên thần đã loan báo sự chào đời của Đấng Mêsia, bây giờ ngài phải loan báo về thể thức trinh khiết của cuộc chào đời ấy. Thiên thần cho biết sự trợ giúp quyền năng của Thiên Chúa: chính quyền lực tác sinh, sáng tạo của Thiên Chúa sẽ làm cho Đức Maria có khả năng phục vụ cuộc sống của Đức Giêsu.
b) Liên hệ đến Kitô học
Lời loan báo chính thức bắt đầu với lời chào của thiên thần Gabriel. Lời này gồm hai tuyên bố về đặc tính lạ thường của con trẻ ngài sẽ cho chào đời và về sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa trong cuộc đời con trẻ.
Cũng như nỗi bất hạnh của bà Êlisabét đã được cất đi do sự can thiệp của Thiên Chúa nơi một người con trai sẽ trở thành “nhân viên” của Đức Chúa (Yhwh), một ngôn sứ trước khi Ngài đến, thì tình trạng đồng trinh của Đức Maria sẽ được ảnh hưởng của Thiên Chúa tận dụng để Bà mang thai một người con trai, người này sẽ là thừa kế vua Đavít và là Con Thiên Chúa. Người sẽ là “Cao Cả” (một danh hiệu dành riêng cho Yhwh trong Bản LXX), sẽ được chào là Con Đấng Tối Cao, và sẽ ngự trên ngai vàng Đavít để trị vì tới muôn đời. Đây là tầng ý nghĩa thứ nhất (cc. 32-33). Ở tầng ý nghĩa thứ hai (c. 35), Người được xác định là Đấng Thánh, Con Thiên Chúa. Nếu sự thành thai của Gioan đòi hỏi một phép lạ, sự thành thai của Đức Giêsu, được trình bày song song, cần có một phép lạ lớn hơn, đó là sự thụ thai do một trinh nữ.
Sự thành thai Đức Giêsu xảy đến do Chúa Thánh Thần xuống trên Đức Maria và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Mẹ (1,35); kết quả là Đức Giêsu sẽ là Con Thiên Chúa. Các động từ eperchesthai và episkiazein đều có nghĩa bóng, diễn tả sự can thiệp huyền bí của Thánh Thần và quyền năng Thiên Chúa đưa tới kết quả là vai trò của Đức Giêsu trong dòng tộc Đavít và tư cách Con Thiên Chúa của Người.
Trong cả hai tuyên bố cho Đức Maria, Đức Giêsu được xác định là thuộc dòng dõi Đavít và vai trò của Người là Đấng Mêsia theo lời sấm của Nathan trong 2 Sm 7 (so sánh 2 Sm 7,9.13-14.16 với Lc 1,32-33). Tuy nhiên, bởi vì không có chỗ nào trong nền văn chương Do Thái tiền Kitô giáo ghi rằng Đấng Mêsia được mong đợi có tên “Con Thiên Chúa” cách minh nhiên, chúng ta hiểu rằng danh hiệu “Con Thiên Chúa” không được hiểu theo nghĩa thiên sai. Như vậy, nếu Đức Giêsu là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít (x. cc. 32-33), Người không chỉ là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa thiên sai; không chỉ là Đấng Mêsia nhà Đavít, Người còn là Con Thiên Chúa nữa.
Ở tầng thứ hai, một cấu trúc song song được vận dụng để nói rằng Bà sẽ thụ thai nhờ can thiệp của Thiên Chúa, và do đó, con của Bà sẽ là Con Thiên Chúa: “Thánh Thần” đến trên Bà và “quyền năng Đấng Tối Cao” rợp bóng trên Bà là những công thức song song để nói về can thiệp của Thiên Chúa.
* Sự chấp thuận của Đức Maria (38)
Đối với Lc, Đức Maria là kiểu mẫu cho người tín hữu, được loan báo là có phúc. Và bởi vì Bà đã được sủng ái, Bà sẽ được tuyên bố là có phúc bởi mọi thế hệ (1,48). Trong Cv 1,14, Bà ngồi giữa các tín hữu để chờ đợi Thánh Thần mà Đức Giêsu đã hứa. Một điểm quan trọng hơn nữa, đó là Đức Maria là “nữ tỳ của Chúa” (1,38). Ở đây Lc báo trước cách ngài sẽ mô tả Đức Maria trong Tin Mừng, đặc biệt ở 8,19-21: tại đây, Đức Maria sẽ là người “nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”. Còn ở 1,38, Đức Maria tỏ ra như là người cộng tác với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Khi cho thiên thần gọi Đức Maria là “đầy ân sủng”, Thiên Chúa đã cho Bà biết đâu là tương quan của Ngài với Bà. Nay tự nhận mình là “nữ tỳ của Chúa”, Đức Maria diễn tả đâu là tương quan của Bà với Thiên Chúa. Bà nhìn nhận mình được gọi phục vụ Thiên Chúa. Bà muốn lắng nghe Chúa và đi theo ý muốn của Ngài. Trong toàn bộ Kinh Thánh, không có một phụ nữ nào, ngoại trừ Đức Maria, được gọi là “nữ tỳ của Chúa”.
+ Kết luận
Đức Maria được ký thác một nhiệm vụ đặc biệt. Hẳn là chúng ta phải nhìn nhận ơn gọi của Bà là một ơn gọi đặc biệt và vui mừng với Bà. Nhưng xuyên qua nhiệm vụ của Bà, chúng ta có thể ghi nhận các đặc tính tổng quát của mọi ơn gọi phát xuất từ Thiên Chúa. Ơn gọi đến từ lòng nhân từ và sủng ái của Thiên Chúa và có kèm theo sự trợ giúp hữu hiệu của Ngài. Con người phải dấn thân trọn vẹn và tận dụng hết thì giờ để phục vụ Đức Giêsu. Khi đó, ơn gọi sẽ đưa lại niềm vui, niềm vui phát xuất từ việc phục vụ ấy.
Nhưng điểm còn quan trọng hơn nữa, đó là giáo huấn của tác giả Lc về Đức Giêsu: Người là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa. Danh hiệu này, không phải là Đức Giêsu sẽ chinh phục được, nhưng thuộc về Người theo quyền ngay khi Người đến trần gian.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Để có thể thực sự hiểu Đức Maria đầy ân sủng và Thiên Chúa bày tỏ lòng thương yêu Mẹ có nghĩa là gì, ta cần phải trước tiên hiểu Thiên Chúa là ai. Đọc Tv 8, chúng ta nhận ra sự ngỡ ngàng kinh ngạc của tác giả khi đứng trước công trình của Thiên Chúa và sự cao cả uy hùng của Ngài được bày tỏ ra trong đó: “Con người là ai mà Chúa cần nhớ đến, Phàm nhân là gì mà Chúa phải chăm lo?”. Mỗi ơn gọi có đặc điểm là người được gọi càng lúc càng để cho tiếng gọi nắm bắt lấy mình sâu xa hơn. Họ mở cả bản thân ra với tiếng gọi và tìm cách hiểu hết ý nghĩa của nó.
2. Sứ mạng của Đức Maria nối dài và kết thúc sứ mạng của Israel. Đức Maria là “thiếu nữ Sion” sẽ mang Đấng Mêsia trong lòng. Mẹ là “nữ tỳ của Chúa” để đảm nhận và làm trọn ơn gọi của dân Thiên Chúa, là tôi tớ của Thiên Chúa, cũng như ơn gọi của những tôi tớ trứ danh của Thiên Chúa trong Cựu Ước (Abraham, Giacóp, Môsê, Đavít, Salômôn, Isaia và Người Tôi Tớ của Đức Chúa ở Is 40–55).
3. Khi nghe loan báo Gioan Tẩy Giả sẽ chào đời, ông Dacaria đã yêu cầu một dấu chỉ chứng tỏ sứ điệp đáng tin. Còn Đức Maria thì tin ngay sứ điệp, không đòi hỏi dấu chỉ. Câu hỏi của Mẹ không phải là dấu chứng tỏ một sự hoài nghi, nhưng là một lời xin ánh sáng để soi sáng đức tin của Mẹ. Chính những giải thích sau đó của thiên thần Gabriel xác nhận điều này. Thánh Anselmô đã nói: Tin là lý trí đi tìm sự hiểu biết. Nhưng rồi thiên thần đã cho một dấu chỉ: Bà Êlisabét có thai được 6 tháng rồi.
4. Là nữ tỳ của Đức Chúa, Đức Maria gắn bó với chương trình của Thiên Chúa và diễn tả ao ước được thấy chương trình đó được thể hiện. Mẹ đón nhận ơn gọi của mình không mù quáng cũng không theo cách chẳng đặng đừng, nhưng với ý thức sáng suốt về nhiệm vụ của mình và tự do quyết định đi theo ý muốn của Thiên Chúa. “Trong các công trình của Ngài, Thiên Chúa luôn muốn sử dụng các dụng cụ … Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta có ý chí tự do, muốn rằng chúng ta phục vụ Ngài cách tự do trong tư cách là những dụng cụ, bằng việc ý chí của ta ưng thuận ý muốn của Ngài, giống như cách của Mẹ rất thánh khi Mẹ nói: «Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói»” (Thánh Maximilianô Kolbe)
5. Lời đầu tiên được ngỏ với Maria trong Tân Ước là một lời mời gọi vui tươi: “Mừng vui lên!”. Một lời chào như thế được liên kết với biến cố Đấng Cứu Thế ngự đến. Với Maria là người đầu tiên được loan báo một niềm vui sau đó sẽ được loan báo cho toàn dân; Mẹ tham dự vào đó theo một cách thức và trong một mức độ phi thường. Nơi Mẹ, niềm vui của Israel cũ được tập trung và được viên mãn; nơi Mẹ, niềm hạnh phúc thời đại thiên sai dứt khoát nổ tung ra. Niềm vui của Đức Trinh Nữ Maria đặc biệt là niềm vui của “phần dư tồn” Israel (Is 10,20t), là những người nghèo đang chờ đợi ơn cứu độ của Thiên Chúa và trải nghiệm lòng trung thành của Ngài (Đức Gioan-Phaolô II).
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 1:26-38)
Đức Mẹ là gương mẫu không thể thiếu cho chúng ta trong mùa Vọng. Không phải chỉ vì Mẹ ban: MV4-B67
Đức Mẹ là gương mẫu không thể thiếu cho chúng ta trong mùa Vọng. Không phải chỉ vì Mẹ ban cho chúng ta Con Thiên Chúa làm người, nhưng vì Mẹ còn cho chúng ta thấy phải có những tâm tình nào để đón tiếp Đấng Cứu Độ đến trong tâm hồn.
Câu chuyện Truyền Tin đã quá quen thuộc với chúng ta, tưởng chừng khi đọc lại chúng ta sẽ chẳng có được một tư tưởng mới. Không phải vậy đâu, vì như viên kim cương, biến cố Truyền Tin có thể được nhìn dưới những góc cạnh khác nhau và bao giờ cũng chiếu sáng. Từ lúc sứ thần Gáp-riên xuất hiện cho tới khi ngài từ biệt, Mẹ Ma-ri-a đã có những tâm tình rất thánh thiện trong tâm hồn qua ba thời điểm:
Thứ nhất, khi sứ thần chào Mẹ là “Đấng đầy ân sủng”, Mẹ đã rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Đây là tâm tình gì nếu không phải là đức khiêm nhượng thẳm sâu? Từng lời từng chữ của sứ thần đều làm cho Mẹ nhìn lại thân phận mình trước mặt Chúa. Đầy ân sủng có nghĩa là được Chúa thương và Người ban cho Mẹ những hồng ân của Người, cho nên việc Người tuyển chọn Mẹ không phải vì Mẹ xứng đáng do đức tin của Mẹ, mà là do tình yêu quảng đại của Chúa. Chính vì ý thức như thế, Mẹ đã nói lên tâm tình khiêm nhượng này trong bài ca Ngợi khen: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Thứ hai, lúc sứ thần nói đến việc Mẹ sẽ thụ thai, sinh ra Con Đấng Tối Cao và người con ấy sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, Mẹ đã thắc mắc lo lắng và thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Mẹ chưa nhìn ra được kế hoạch của Chúa. Mẹ muốn biết kế hoạch ấy sẽ được thực hiện như thế nào. Liệu kế hoạch ấy có cản trở lý tưởng Mẹ đã ôm ấp bấy lâu, là được sống trong sự đồng trinh để chỉ phụng thờ Chúa mà thôi không? Mẹ khẩn cầu một lời giải thích, vì Mẹ muốn tìm biết đâu là thánh ý Chúa. Mẹ muốn thấy rõ hơn đâu là sứ mệnh Chúa muốn Mẹ thực hiện.
Thứ ba, sau khi sứ thần đã giải thích việc Mẹ thụ thai là do quyền năng của Chúa Thánh Thần, rồi ngài còn đưa ra sự kiện bà chị họ của Mẹ là bà Ê-li-sa-bét đã lớn tuổi mà đang có thai được sáu tháng, thì Mẹ đã mau mắn trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”. Lời “xin vâng” của Mẹ là tuyệt đỉnh của sự vâng phục. Một khi Mẹ đã biết rõ ý Chúa, Mẹ sẽ hoàn toàn phó thác nơi Chúa, mặc dù Mẹ chưa hiểu hoàn toàn kế hoạch cứu độ của Người. Chính lời “xin vâng” này đã đưa Ngôi Hai Thiên Chúa đến với nhân loại và làm Đấng Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Biến cố Truyền Tin xảy ra tuy không có những tình tiết ly kỳ, mà chỉ là mấy lời đối thoại đơn sơ giữa sứ thần Chúa và Mẹ Ma-ri-a, nhưng cũng đã quá đủ để chúng ta có thể nhận ra những nhân đức tuyệt vời và cần thiết của Đức Mẹ để đón nhận Ngôi Hai vào lòng. Hành trình chuẩn bị của Đức Mẹ khởi đi từ lòng khiêm nhượng nhận biết thân phận mình trước mặt Chúa. Đón Chúa đến với mình cũng là nhận lãnh một sứ mệnh. Sứ mệnh ấy sẽ được khai mở dần dần nếu người ta biết hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào Chúa. Và cuối cùng Mẹ đã mạnh dạn chấp nhận thánh ý Chúa và “xin Người cứ thực hiện” cho Mẹ theo như lời sứ thần đã nói.
Quả thực đây là một cách chuẩn bị đón Chúa rất giản dị. Có khi nào chúng ta nghĩ mình cũng phải có những tâm tình này của Đức Mẹ không? Chúa đến với chúng ta, đó là một “ân sủng đầy tràn” (Gio-an 1:16). Chúa cũng đến với chúng ta để trao cho chúng ta một sứ mệnh. Chúa bảo chúng ta cứ phó thác, để cho Chúa tự do thực hiện điều gì Người muốn làm nơi chúng ta. Hiểu rõ những tâm tình ấy, chắc chắn năm nay khi cử hành biến cố Chúa giáng trần, chúng ta đã sẵn sàng với một lòng khiêm nhượng, chân thành tìm ý Chúa muốn chúng ta làm gì và nhất là để cho Chúa sử dụng chúng ta như khí cụ của Người.
Luca 1:26-38: “26Vào tháng thứ sáu, sứ thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến một thành miền Galilê, tên là Nadaret, 27gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Đavít. Tên trinh nữ ấy là Maria. 28 Và vào nhà trinh nữ, sứ thần nói: "Mừng vui lên, hỡi người được đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng cô." 29Nhưng Maria rất bối rối bởi lời ấy, và ngẫm nghĩ lời chào ấy có nghĩa gì. 30Và sứ thần nói: "Xin đừng sợ, Maria, vì cô đã tìm được ơn sủng nơi Thiên Chúa. 31Và này, cô sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. 32Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao, và Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai Đavít, tổ tiên Người. 33Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô tận." 34Nhưng Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến người nam." 35Và đáp lại, sứ thần nói với Maria: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô, vì thế, Đấng được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36Kìa Êlisabet, người họ hàng với cô, đã cưu mang một người con trai trong tuổi già, và nay đã được sáu tháng cho bà, người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi. 37Vì không có gì là không thể được đối với Thiên Chúa,." 38Bấy giờ Maria nói: "Đây là tớ nữ của Chúa, xin thành sự nơi tôi theo như lời người." Rồi sứ thần từ biệt Maria ra đi”.
Đọc Lc 1:26-38 trong văn mạch của 1:5-2:52: những biến cố thời thơ ấu của Chúa Giêsu và Gioan: MV4-B68
Đọc Lc 1:26-38 trong văn mạch của 1:5-2:52: những biến cố thời thơ ấu của Chúa Giêsu và Gioan. Thiên Chúa trung tín lại có kế hoạch cứu độ con người. Người muốn tìm kiếm một người làm mẹ, vì kế hoạch ấy bắt đầu từ một hài nhi. Để thực hiện, Thiên Chúa sai sứ thần đến cùng Maria (c.26-27), để kêu gọi Maria cộng tác (c.28), Thiên Chúa trình bày kế hoạch (30-33): phần Maria sẽ làm (c.30-31) và phần của Thiên Chúa (c.32-33), Thiên Chúa trình bày cách thực hiện (35-37). Những phản ứng của Maria: không hiểu (c.29), thắc mắc (c.34) và ưng thuận (38). Hai phần c.30-33 và 35-37 là những lời giải đáp cho thắc mắc của Maria (c.29 và 34).
Đây là kế hoạch cứu độ cuối cùng của Thiên Chúa (x. Lc 20:9-19). Vì Thiên Chúa nhớ lại lời hứa với Abram (1:55.73), nên Người sẽ gởi đến Đấng cứu độ, cũng là con của Người (c.32-33.35), để con cháu Abram được hưởng ơn cứu độ: trước tiên là Maria (1:47), rồi đến những người khác (13:16.28; 16:22; 19:9) và đến muôn đời cho những ai kính sợ Người (1:50). Nên đằng sau lời của thiên sứ, Thiên Chúa là chủ của tất cả mọi hành động trong kế hoạch đó. Ngoài những lần Thiên Chúa được gọi cách rõ ràng dưới nhiều tên khác nhau như: “Thiên Chúa” (c.26.30.32.36.37), “Chúa” (c.28.32.38), “Đấng Tối Cao” (c.32.35), Người cũng là chủ ngữ của những động từ ở thể thụ động (c.26.28.32.35. 38).
Vương quyền của người Con sắp được sinh ra và được đặt trên ngôi Đavít, sẽ trải rộng cách vô tận, trên cả không gian lẫn thời gian (c.31-33.35). Chính Thánh Thần sẽ khởi đầu cho vương quyền của người Con ấy (c.35), và sau nầy, cũng chính Người sẽ tiếp tục làm cho giáo hội của người Con ấy (Tđcv 1:8), bất chấp những điều không thể đối với con người (c.37).
Maria, người Nadaret miền Galilê, được chọn làm người sinh ra Con của Thiên Chúa (c.31). Cả con người lẫn xứ sở đều nhỏ bé và vô ý nghĩa trước mặt con người (c. 27-28). Tuy nhiên, khi Thiên Chúa đã chọn vào sứ mạng cao cả, thì Người cũng đổ đầy ơn. Bởi đó, thiên sứ đã chào Maria bằng tên: “Người được đấy ơn sủng” (c.28) và người “đã tìm được ân sủng nơi Thiên Chúa” (c.30). “Được đầy ân sủng” nói cách đơn giản là người được Thiên Chúa ban đầy ơn. Còn “đã tìm được ân sủng nơi Thiên Chúa” thì nhấn mạnh về phía Maria, là người đã tìm kiếm Thiên Chúa và đã tìm thấy (x. Lk 11:10). Nhưng cuối cùng, chính Thiên Chúa là đấng ban mọi ơn, và ơn cao trọng hơn hết là Con Thiên Chúa vào trong đời mình (1:31.43; x.19:5).
Phần Maria, tự nhận là “tớ nữ của Chúa” (1:38.48), là người kính sợ Thiên Chúa (1:50) và để cho Thiên Chúa toàn năng thực hiện điều Người muốn trong đời mình. Khi Maria lên tiếng chấp nhận, thì Thiên Chúa đã qua được một bước ở ngưỡng cửa của kế hoạch cứu độ tương lai.
Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng là Chúa nhật cuối cùng dọn mừng đón Chúa giáng sinh. Thực tế: MV4-B69
Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng là Chúa nhật cuối cùng dọn mừng đón Chúa giáng sinh. Thực tế mà nói, Chúa nhật này phải gọi là Chúa nhật của Đức Mẹ. Bởi vì, năm nào cũng vậy, Giáo Hội luôn dành riêng Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng để nói đến vai trò hết sức quan trọng của Đức Mẹ. Nếu không có Đức Mẹ, không có lời xin vâng của Mẹ theo ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Chắc chắn, lịch sử cứu độ đã bước vào một khúc ngoặt khác.Hôm nay, gần đến lễ Giáng Sinh, Giáo Hội khẩn khoản kêu mời nhân loại, con người hướng về mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa. Mầu nhiệm đã được các ngôn sứ loan báo từ bao ngàn năm và cuối cùng được thực hiện nơi chính cung lòng trinh khiết của Đức trinh nữ Maria, một người nữ tử Sion, một cô thiếu nữ hiền lành, đạo đức và hết mực thánh thiện :” Trinh nữ Maria đã cưu mang Con Thiên Chúa bởi phép Chúa Thánh Thần “ và Mầu nhiệm cứu độ đã đến trần gian nơi Hài Đồng Giêsu…
MARIA LÀ AI ? :Ở đây dựa theo Giáo lý Công Giáo chúng ta phác họa vài nét cơ bản về Mẹ Maria để qua đó chúng ta hiểu Mẹ là ai ? Đức Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế, người đã sinh ra Chúa Giêsu. Đức Mẹ Maria thuộc dòng dõi vua Đavít, thân sinh người là ông thánh Gioankim và thân mẫu người là bà thánh Anna. Theo như truyền thống kể lại thì hai ông bà đã già chỉ có Maria là người con duy nhất. Maria sinh ra và lớn lên tại làng Nagiarét, trong xứ Galilêa ở mạn Bắc nước Palestina. Khi Maria đến tuổi thành hôn thì kết hôn với một người tên là Giuse cũng thuộc chi họ vua Đavít, làm nghề thợ mộc ở Nagiarét. Chính trong thời kỳ Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, thì thiên thần Gabriel đã được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Maria cho cô biết là cô sẽ thụ thai và sinh ra Đấng Cứu Thế. Và tuy đã đính hôn nhưng Maria đã khấn giữ mình đồng trinh, nên thưa lại cùng vị Thiên sứ rằng : “ Việc đó làm sao thực hiện được vì tôi không biết đến người nam ?“. Nhưng Thiên sứ đã giải thích cho Maria biết là cô đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần chứ không theo thói thường nhân loại, nên sinh con mà cô vẫn còn đồng trinh. Lúc ấy Maria mới thưa lại cùng Thiên sứ :” Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin vâng như lời Thiên Thần truyền”.Chính lúc ấy Ngôi Hai đã xuống đầu thai trong lòng trinh nữ Maria.
MẸ MARIA ĐƯỢC ƠN CAO VỜI : Mẹ Maria hoàn toàn được đắc sủng với Thiên Chúa . Vì được tuyển chọn, Mẹ Maria đã được những ơn huệ cao quí mà bất cứ người nào trên trần gian này cũng không có được. Bởi vì là người được Thiên Chúa cất nhắc làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên ngay khi Mẹ Maria được cưu mang trong cung lòng bà Thánh Anna, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ khỏi mọi tì ố, bợn nhơ của tội lỗi. Đây là mầu nhiệm:”Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn vô nhiễm nguyên tội “. Chính vì thế, Thiên Chúa luôn gìn giữ sự thánh thiêng của Mẹ, gìn giữ Mẹ không vương bất cứ một chút bợn nhơ của tội lỗi trong suốt cuộc đời của Mẹ. Trong những tháng cưu mang Chúa Giêsu, Thiên Chúa luôn tuôn đổ hồng ân đặc biệt xuống trên Mẹ để Mẹ nhận ra rằng Chúa Giêsu đang sống trong Mẹ. Mầu nhiệm này thật lạ lùng đến nỗi thánh sử Luca đã nhận xét về Mẹ Maria sau cuộc phục sinh của Chúa Giêsu rằng :”Mẹ Maria đã ghi nhớ tất cả ,và suy đi nghĩ lại trong lòng “ ( Lc 2, 19).
Có thể nói đây là biến cố hết sức kỳ diệu Chúa đã làm cho Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, Chúa cũng làm cho nhân loại qua chương trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa đã ban cho Mẹ những đặc ân cao quí nhất, Mẹ đã đem Chúa Giêsu cho nhân loại và nhân loại đã lãnh nhận ơn cứu rỗi nơi Chúa Giêsu. Đó là mầu nhiệm tuyệt vời Thiên Chúa đã trao ban cho Mẹ Maria và trao ban cho con người, cho thế giới, cho loài người.
Sự cưu mang Chúa Giêsu và sinh ra Chúa Giêsu bởi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria là một ân sủng lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho nhân loại, cho thế giới, cho từng người chúng ta.
LỜI XIN VÂNG CỦA MẸ LÀ LỜI XIN VÂNG TRỌN CẢ CUỘC ĐỜI :
Mẹ Maria không chỉ nói lời xin vâng một lần với Thiên Chúa, nhưng lời xin vâng của Mẹ là lời xin vâng bao trùm trọn cả kiếp người của Mẹ. Mẹ đã nói lời xin vâng làm theo ý Thiên Chúa ngày truyền tin, nhưng lời xin vâng của Mẹ đã đi theo suốt đời của Mẹ và điều vô cùng ý nghĩa và là của lễ sống động nhất, đó là Mẹ đã chấp nhận đứng dưới chân Thập Giá để dâng Con của Mẹ cho Đức Chúa Cha.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ : Cuộc đời của người môn đệ Chúa, của tất cả chúng ta sẽ vô cùng ý nghĩa nếu biết sống trọn theo ý Chúa bằng việc giữ Đạo và sống Đạo. Chúng ta sống phải như thánh Phaolô : “ Tôi coi mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô “ hoặc “ Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết nói lời xin vâng như Mẹ trong suốt cuộc lữ hành trần thế của chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng là Chúa nhật gì ? 2.Tại sao Mẹ Maria lại nói lời xin vâng ? 3.Lời xin vâng của Mẹ có liên quan gì tới chúng ta ? 4.Chúng ta phải có tâm tình nào khi đón mừng đại lễ Giáng Sinh ?
Con người tưởng không gì có thể ngăn cản tiến bộ nhân loại. Nhưng giới hạn vẫn còn đó. Bao: MV4-B70
Con người tưởng không gì có thể ngăn cản tiến bộ nhân loại. Nhưng giới hạn vẫn còn đó. Bao kế hoạch, chương trình dở dang. Bao uớc mộng ngổn ngang. Có một Đấng không bị lệ thuộc vào bất cứ giới hạn nào. Người có thể làm tất cả để thực hiện chương trình cứu độ. Cộng tác vào chương trình đó, Đức Maria đã trở thành khuôn mặt phản ánh nguồn ân sủng và quyền năng Thiên Chúa. Mẹ đã làm tất cả những gì cần thiết để đem Con Chúa vào đời.
GIỜ ĐÃ ĐIỂM
Thiên Chúa đã có kế hoạch cứu độ con người, nhất là khi hứa với thánh vương Đavít : “Vương quyền ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7:16). Lời hứa đó làm sao thành hiện thực nếu Con Thiên Chúa không làm người để con người trở thành con Thiên Chúa ? Đã đến lúc thực hiện kế hoạch đó. Bởi vậy sứ thần Gabriel đã được Thiên Chúa sai đến với Trinh Nữ Maria tại Nazareth. Trong khung cảnh nhỏ bé và âm thầm hôm đó, tất cả bí mật trời đất được mạc khải. Trời đất đi vào một tương quan mới, tương quan tình yêu.
Tất cả đều diễn ra ngoài sức tưởng tượng. Khi được sứ thần đễ nghị: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu” (Lc 1:31), Trinh Nữ Maria ngạc nhiên : “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng !” (c.34). Đó là việc vượt quá sức tưởng tượng và ngoài khả năng của một trinh nữ. Nhưng Trinh Nữ được trấn an ngay : “ Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà.” (c.35). Tất cả đều dễ như trở bàn tay,“vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (c.37) Tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa, Đức Maria đã dấn thân: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (c.38)
Thế là kế hoạch cứu độ đã khởi đầu từ thái độ đầy khiêm cung của Đức Trinh Nữ. Chính vì thế, sứ thần mới ca ngợi : “Bà đẹp lòng Thiên Chúa.” (c.30) Lời “xin vâng” sẽ ảnh hưởng tới toàn thể cuộc đời và sứ mệnh của Đức Giêsu trong suốt hành trình về nhà Cha. Đức Giêsu đã thừa hưởng một nền giáo dục lý tưởng từ một “Đấng đầy ân sủng” (c.28) và chan chứa niềm vui vì Đức Chúa luôn hiện diện trong tâm hồn và cuộc sống. Suốt đời Mẹ không bao giờ sợ hãi như khi mới gặp sứ thần, vì Con Mẹ “sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (c.35), nhất là vì “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít.” (c. 33) Bởi vậy dù bị dồn tới chân tường, như khi vua Hêrôđê lùng bắt Con hay khi Con bị căng thây trên thập giá, Mẹ không hề khiếp sợ và tuyệt vọng. Trái lại Mẹ vẫn tin tưởng vào quyền năng# tuyệt đối của Thiên Chúa nơi Người Con độc nhất.
Như thế, Con Mẹ chính là Đấng Messia đã đến thỏa mãn mọi nguyện vọng của dân tộc Israel. Bao nhiêu năm mòn mỏi đợi chờ, nay họ mới được chiêm ngắm dung nhan của Đấng nhân danh Chúa mà đến. Nhiều ngôn sứ đã nhân danh Thiên Chúa đến với dân chúng. Nhưng khác với họ, Đức Giêsu đến với tư cách là “Con Thiên Chúa” (c.35). Không có tư cách này, Đức Giêsu cũng tầm thường như các ngôn sứ khác. Nhưng với tư cách “Con Thiên Chúa”, Đức Giêsu có thể cứu độ toàn thế giới. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa phải can thiệp đặc biệt vào việc truyền tin cho Trinh Nữ Maria, một “nữ tỳ của Chúa” (c.38).
Sau lời “xin vâng”, Đức Maria đã khiến Con Thiên Chúa nhập thể cứu đời. Mẹ thật là gương mẫu tuyệt vời cho tất cả Kitô hữu. Lời “xin vâng” của Mẹ không nặng tính thụ động. Trái lại, nhờ đó Mẹ đã tích cực cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ đã làm cho “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.”(Mt 6:10) Hằng ngày chúng ta cũng đọc một lời kinh như Mẹ. Ý Cha bao giờ cũng nặng tình yêu cứu độ. Dưới lăng kính này, Ý Cha thật tuyệt vời. Chấp nhận và thi hành Ý Cha sẽ biến chúng ta thành những người nhà của Thiên Chúa.
Chính vì luôn thực thi Ý Cha, Mẹ Maria đã trở thành “Đấng dầy ân sủng” (c.28) và luôn “đẹp lòng Thiên Chúa” (c.30). Tuy thế không phải đời Mẹ lúc nào cũng toàn hoa hồng. Trái lại, Mẹ đã phải phấn đấu rất nhiều, nhất là khi thấy Con Mẹ bị thiên hạ chối bỏ và giết chết. Không có lời “xin vâng” của Mẹ, không biết chương trình cứu độ sẽ ra sao ?! Bởi vậy, Mẹ đã góp phần rất lớn vào sự nghiệp Con Chúa trên trần gian. Lời “xin vâng” đã đưa Con Chúa vào đời. Trong khiêm cung, Đức Mẹ đã hủy mình ra không để Thiên Chúa trở thành tất cả trong mọi sự.
Ý CHA TRONG THIÊN NIÊN KỶ MỚI
Chính vì thế, Đức Mẹ đã trở thành tụ điểm hiệp nhất Kitô hữu. Giáo sư Stephan Tobler thuộc đại học Tubingen Đức, một nhà thần học Tin Lành Cải cách hàng đầu, đã nói : “Thiết tưởng các giáo hội Tin Lành có thể lại thấy Đức Maria như hình ảnh con người hoàn toàn mở lòng ra với Thiên Chúa khi thưa ‘xin vâng’, khi nói ‘hãy làm tất cả những gì Người nói với các anh’, khi đứng dưới chân cây thánh giá, khi hiện diện trầm lặng bên các môn đệ.” (Zenit 12/12/2002)
Thực vậy, “đi qua các cảnh tượng trong kinh Mân Côi với Mẹ Maria như đi vào trường học Mẹ Maria để học về Chúa Kitô, thấm nhuần các mầu nhiệm, thấu hiểu sứ điệp của Người. Chuỗi Mân côi còn đẩy mạnh cả tinh thần đại kết.” (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 12/12/2002) Giáo sư Stephan Tobler cùng chia sẻ quan điểm đó với Đức Thánh Cha khi nói : “Trong bức tông thư, ĐGH nói cần phải tái phát động kinh Mân côi trong kinh nguyện Kitô giáo. Người nhấn mạnh rằng còn hơn một lời nguyện, kinh Mân côi là một sự chiêm ngắm mầu nhiệm. Ngày nay chắc chắn tính nhậy cảm và sự tìm kiếm trước tiên đòi tái khám phá một nơi cho trái tim ngủ yên, linh hồn chiêm nghiệm những mầu nhiệm Thiên Chúa và cả những đường lối có thể thực hiện điều đó. Trong truyền thống riêng, chúng tôi phải tái khám phá những phương thức tương đương, tương tự.” (Zenit 12/12/2002) Sau bao năm đối thoại với Giáo hội Công giáo, anh em Tin Lành mới bắt đầu thấy được con đường đến với Chúa Giêsu ngang qua Đức Maria. Thực tế, nhiều người thành tâm cũng đã gặp Chúa Cứu thế, khi thấy bóng dáng Đức Maria nơi các tín hữu. Thực vậy, nếu tất cả Kitô hữu đều sống niềm tin Maria, chắc chắn ơn cứu độ sẽ đến với mọi người. Niềm tin ấy đã khiến Đức Maria hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa và luôn suy niệm để tìm ra thánh ý Thiên Chúa qua các sự kiện trong cuộc đời (x. Lc 2:15-20).
Còn một cuộc đối thoại khác, vô cùng cần thiết cho việc Phúc âm hoá và nền hoà bình thế giới. Thật vậy, trong khung cảnh văn hóa Á châu, không có gì tế nhị cho bằng việc đối thoại với các tôn giáo để tìm ra thánh ý Chúa. Thánh Linh đã và đang hoạt động trong tất cả các tôn giáo, chứ không riêng Kitô giáo. Không cộng tác với các tôn giáo khác, không thể khám phá ra đường nét tuyệt vời của Thánh Linh trong tâm hồn những nguời dân Á châu. Cụ thể hơn, trên quê hương chúng ta các tôn giáo như Cao đài, Hòa hảo cũng tôn kính Đức Giêsu như một vị tiên tri (?) Số tín đồ lớn lao trong các tôn giáo hứa hẹn một mùa gặt lớn lao cho Giáo hội. Thánh ý Chúa đang xoay chuyển về Á châu để cứu độ muôn dân.
Từ các tôn giáo lâu đời đó, một truyền thống cầu nguyện vô cùng quí báu sẽ giúp chúng ta khám phá một đường lối kết hợp với Thiên Chúa phù hợp với lòng tin dân tộc đặt nơi Oâng Trời. Sau bao thế kỷ chung nhịp với quê hương, Đạo Phật vẫn không xóa nổi hình ảnh Ông Trời trong niềm tin dân tộc. Từ lòng tin đó phát xuất một lối cầu nguyện đầy tình cảm. Hơn lúc nào, cầu nguyện là nối kết mọi lòng tin khác nhau cho nhu cầu hoà bình thế giới. Thật vậy, “cầu nguyện cho hoà bình là mở rộng trái tim con người cho quyền năng Thiên Chúa xâm nhập vào để canh tân mọi sự.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Thông Điệp Ngày Hoà Bình Thế giới 2002) Trong chiêm niệm và cầu nguyện, Đức Maria đã đón rước Thái tử Hoà bình vào cuộc sống nhân loại.
Paul Claudel (1868 – 1955) là một văn hào người Pháp rất nổi tiếng. Khi lớn lên, ông sống như: MV4-B71
Paul Claudel (1868 – 1955) là một văn hào người Pháp rất nổi tiếng. Khi lớn lên, ông sống như một người vô thần, mặc dù cha mẹ và gia đình là người Công Giáo. Trong khi đang theo học về ngành ngoại giao ở Paris, vào một buổi chiều ngày lễ Giáng Sinh năm 1886, lúc ông 18 tuổi, nhân đi qua Nhà thờ Notre Dame, Paris, ông có ý tò mò đi vào Nhà thờ để xem cảnh Giáng Sinh. Lúc đó vào giờ hát Kinh Chiều, và ca đoàn đang hát bài Chúc Tụng (Magnificat). Tiếng hát rất thánh thiện và thanh thóat đã làm cho chàng thanh niên Claudel cảm thấy một bầu khí thật thiêng liêng bao trùm anh và như có một sức mạnh siêu nhiên nào đó làm anh như bị chiếm hút trong ngây ngất. Sau này, ông ghi lại: “Ngay trong khoảng khắc đó, trái tim tôi bị xúc động và tôi tin!” Đó là cảm nghiệm siêu nhiên đầu đời của anh, và giây phút thiêng liêng đó cứ ám ảnh tâm trí anh, làm anh quyết định tìm hiểu về Chúa qua Kinh Thánh, và sau một quá trình khá lâu dài tìm hiểu, ông đã “nắm bắt được Thiên Chúa” và “trở lại” cuộc sống Đức Tin Công Giáo suốt đời một cách tích cực.
Từng là một sinh viên rất xuất sắc, khi ra trường, ông đã được bổ nhiệm vào nhiều chức vụ quan trọng của ngành ngoại giao Pháp ở nhiều nơi khác nhau, kể cả ở Trung Hoa, ở Nam Mỹ. Ông đã từng là Đại Sứ Pháp tại Nhật Bản (1922-1928), ở Hoa Kỳ (1928-1933), và ở Bỉ từ năm 1933 cho đến khi về hưu (năm 1936). Cuộc đời của Paul Claudel hầu hết đều ở hải ngọai. Nhưng dù đi đâu và ở chức vụ nào, ông vẫn giữ được một Đức Tin Công Giáo rất sống động, trong sáng và hạnh phúc. Chính Niềm Tin đó đã cho ông nguồn cảm hứng để sáng tác nhiều tác phẩm văn chương nổi tiếng phản ảnh đời sống đạo đức của ông. Trong số các tác phẩm lừng danh của ông (như Cinq Grandes Odes, Tête d’Or, Le Soulier de Satan,…) có bản “ Truyền Tin” (L’annonce faite à Marie,The Annunciation of Mary), ông viết trong hai năm 1910-1911 và ra mắt năm 1912. Vừa là một nhà ngoại giao xuất sắc, lại là một học giả, một thi sĩ và nhà văn danh tiếng, ông được mời vào Hàn Lâm Viện Pháp.
Giờ phút “Truyền Tin” là một giờ phút uy linh huyền nhiệm của việc Ngôi Lời Thiên Chúa xuống thai trong lòng Trinh nữ Maria. Giờ phút thiêng liêng “Trời Đất Giao Hòa.” Thiên Chúa mặc lấy thân xác con người và ở cùng con người. Đây là giờ phút vô cùng quan trọng của lịch sử Ơn Cứu Độ. Vì thế, để tưởng nhớ giờ phút linh thiêng đó, hàng ngày, các tín hữu luôn dành ba khoảng khắc quan trọng của một ngày là sáng, trưa và chiều để nguyện Kinh Truyền Tin. Ở những nơi có Thánh đường, vào những giờ phút đó, chúng ta thường nghe có những tiếng chuông gọi là chuông ‘Truyền Tin’, ‘Chuông Nguyện’ (cũng gọi là chuông ‘nhật một’, vì kéo từng tiếng ba lần, sau mới đổ hồi). Cũng có nhiều thi phẩm và nhạc phẩm diễn tả giây phút huyền nhiệm đó, giây phút Thiên Chúa đến với con người để nối kết và hòa giải.Thi Sĩ Hàn Mạc Tử cũng có Bài thơ cảm động về “Truyền tin”; nhạc sĩ Hoàng Diệp với bản Thánh Ca “Theo Tiếng Thiên Thần Xưa Kính Chào”…
Tất nhiên Lễ Giáng Sinh vẫn là Đại Lễ được long trọng mừng ở khắp nơi, để kỷ niệm Chúa Hài Nhi sinh ra đem niềm vui Ơn Cứu Độ đến cho mọi người có tâm hồn thành tâm, thiện chí. Tuy nhiên giờ phút Truyền Tin cũng thật sự rất quan trọng. Khi Thiên Thần Chúa đến báo tin việc Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn để cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế, sau khi đã hiểu rõ ý Chúa, và việc Chúa Cứu Thế xuống thai trong lòng Mẹ là do tác động của Chúa Thánh Thần,và Mẹ vẫn đồng trinh trọn đời, Đức Mẹ thưa ‘Xin Vâng’. Chính giây phút đó “Trời và Đất giao hòa: Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta.” Mầu Nhiệm đó đã tác động mạnh vào tâm hồn Paul Claudel để ông viết nên tác phẩm trứ danh “Truyền Tin.” Hàng năm, giáo Hội long trọng mừng Lễ này vào ngày 25 tháng 3.
Trong Chúa Nhật IV Mùa Vọng, năm B, chúng ta được nghe bài Phúc Âm rất cảm động diễn tả về giây phút thánh thiêng đó (Luca 1,26-38). Bài Phúc Âm này cùng với Bài Đọc I trích trong sách Tiên Tri Samuel (7,1-5; 8-12; 14-16) và Bài Đọc II trích trong thơ Rôma (16, 25-27) đều giúp chúng ta những tư tưởng thánh thiện, thiêng liêng để chúng ta chuẩn bị tâm hồn xứng đáng mừng kỷ niệm Thiên Chúa đã xuống thế làm người từ hơn hai ngàn năm trước.
Lịch sử Ơn Cứu Độ kéo dài cách nhiệm mầu trong Thánh Kinh Cựu Ước đã được thực hiện trong ngày “Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta!” Nhưng Ngài không sinh ra trong cảnh giầu sang, trong nhà lầu gác tía; trái lại, Ngài đã sinh ra trong cảnh hèn mọn cùng cực, trong hang đá bò lừa; Mẹ Maria và Thánh Giuse cũng chỉ là những người nghèo khó, bình dân, đơn sơ. Ngài đến không phải để “thống trị, để được người ta hầu hạ, nhưng Ngài đến để phục vụ và hầu hạ mọi người (Matthêu 20,28). Ngài đến để đem cả cuộc đời phục vụ những người nghèo khó, bệnh tật, những lớp người thấp hèn nhất. Ngài đến để chia sẻ thân phận đau khổ của mọi người và rao giảng Tin Mừng tình thương và ơn cứu độ. Ngài đến để kêu gọi mọi người, kể cả những người lỡ yếu đuối sa ngã, biết nhận ra: Thiên Chúa là Cha yêu thương của mọi người; Thiên Chúa không xa rời con người nhưng luôn gần gũi mọi người, kể cả những người tội lỗi ( Matthêu 18,12…), để giúp mọi người canh tân đời sống, sống xứng đáng những con người đã được Chúa dựng nên “theo hình ảnh của Chúa!”
Chỉ còn mấy ngày nữa, là chúng ta lại được cùng toàn thể Giáo Hội và thế giới mừng Đại Lễ Giáng Sinh. Chúng ta lại được nghe lời Thiên Thần hát mừng năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm!”
(Luca 2,14)
Xin Chúa đến với Thế Giới, đến với mọi người chúng ta, đến với gia đình chúng ta, giúp chúng ta xây dựng sự hòa hợp yêu thương ngay trong tâm hồn chúng ta, trong gia đình chúng ta, và chung tay xây dựng Hòa Bình và sự Công chính trên thế giới. Xin cho chúng ta được sống những cảm nghiệm thiêng liêng đã tác động Paul Claudel, cũng như bao tâm hồn thành tâm, thiện chí khác, để chúng ta biết nhìn vào máng cỏ nghèo hèn, học bài học sống khó nghèo, khiêm tốn, sống yêu thương hòa hợp và phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khó, già yếu, bệnh tật.
Xin cùng hiệp lời cầu nguyện chung để ơn sủng Giáng Sinh giúp đổi mới con người chúng ta, gia đình chúng ta, thế giới chúng ta; giúp chúng ta luôn sống đức tin một cách tích cực, sống động, vui tươi, hạnh phúc, và đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ hàng ngày trong mọi hoàn cảnh.
Tình yêu đích thực của Thiên Chúa luôn luôn đi trước con người một bước. Người yêu thương ta: MV4-B72
Tình yêu đích thực của Thiên Chúa luôn luôn đi trước con người một bước. Người yêu thương ta trước khi ta có mặt trên đời hoặc tìm đến với Người. Với câu truyện vua Đa-vít muốn xây đền thờ cho Chúa ngự và Mẹ Ma-ri-a được chuẩn bị làm Mẹ Đấng Cứu độ trần gian, ta thấy rõ mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương ta vô điều kiện nay được biểu lộ.
1. “Đức Chúa lập cho ngươi một nhà” (bài đọc Cựu Ước – 2 Sm 7:1-5.8b-12.14a.16)
Lòng yêu mến của vua Đa-vít đối với Thiên Chúa quả thực lớn lao. Ông thấy không yên tâm vì đang khi ông có “nhà” làm bằng gỗ bá hương thì Hòm Bia Thiên Chúa lại phải đặt trong một lều vải. Do đó ông hội ý với ngôn sứ Na-than, muốn xây một thánh điện cho Thiên Chúa ngự giữa dân Người. Thiên Chúa liền sai ngôn sứ mang đến nhà vua một sứ điệp: Người không cần một ngôi đền thờ bằng đá gỗ, nhưng Người sẽ thiết lập một ngôi nhà thiêng liêng, là vương quốc cứu độ của một người hậu duệ sinh ra từ dòng dõi Đa-vít.
Vậy ngôi nhà Thiên Chúa sẽ thiết lập để “ở lại” giữa con cái Người sẽ được tiến hành như thế nào? Trước hết Thiên Chúa chuẩn bị một nền nhà vững chắc khi Người “cất nhắc” Đa-vít, một cậu bé chăn chiên, lên làm vua Ít-ra-en. Có Thiên Chúa luôn ở cùng, Đa-vít trở nên một vĩ nhân lẫy lừng thế giới. Tuy nhiên điều làm cho Đa-vít nổi danh không phải là có thế lực đời này, mà là vì ông được Thiên Chúa đặt làm nền móng cho vương quyền tồn tại muôn đời của một người sinh ra trong dòng dõi của ông, đó là Chúa Giê-su Ki-tô. Ta có thể biết điều này qua câu truyện truyền tin của sứ thần Gáp-ri-en: “Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a” (Lc 1:26-27). Nói cho cụ thể, vua Đa-vít đã được Thiên Chúa dùng làm nền tảng xây dựng một “ngôi nhà” mới là chính Chúa Giê-su, để Thiên Chúa ngự trong Chúa Giê-su mà ở cùng nhân loại. “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi” (Mt 1:23).
Một khi “ngôi nhà” Giê-su được thiết lập, sẽ nảy sinh một quan hệ mới giữa Thiên Chúa và nhân loại, nhờ mối quan hệ giữa Chúa Giê-su và Thiên Chúa. Ta hãy nghe Thiên Chúa phán với ngôn sứ Na-than: “Đối với nó (miêu duệ của Đa-vít là Chúa Giê-su), Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con” (2 Sm 7:14a). Cũng thế, Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su thì cũng là cha của nhân loại, và Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa thì nhân loại cũng được làm con cái Thiên Chúa, vì ta được liên kết với Chúa Giê-su qua bản tính nhân loại của Người.
Vua Đa-vít muốn làm một đền thờ cho Chúa, đổi lại, Chúa thiết lập một ngôi nhà bằng xương bằng thịt là Ngôi Hai giáng trần để ở giữa nhân loại. Nhận biết lòng yêu thương vô bờ ấy, vua Đa-vít đã cất tiếng ngợi khen: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” (Tv 88:2).
2. Mẹ Ma-ri-a: một ngôi nhà bằng xương bằng thịt để Con Thiên Chúa ngự (bài Tin Mừng – Lc 1:26-38)
Lời Thiên Chúa hứa lập cho vua Đa-vít một nhà là lời hứa ban Đấng Cứu độ cho nhân loại. Nhưng để thực hiện việc sai Đấng Cứu độ đến trần gian, Thiên Chúa lại chuẩn bị một “ngôi nhà” để Con Một Người là Ngôi Lời được cưu mang, “trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Ngôi nhà ấy chính là Đức Trinh Nữ Ma-ri-a “đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít” (Lc 1:27).
Khác hẳn với vua Đa-vít, một quân vương lừng danh thế giới, thân phận của Mẹ Ma-ri-a quả thực khiêm nhường. Khi vua Đa-vít ngỏ ý muốn xây nhà cho Chúa, Chúa đã nhắc nhở ông chính Người mới là Đấng đã cất nhắc ông và làm cho ông thành vĩ nhân trên mặt đất. Trái lại, Mẹ Ma-ri-a khi được truyền tin sẽ làm mẹ Đấng Cứu độ thì Mẹ lại “rất bối rối”, rồi sau lời giải thích của sứ thần Gáp-ri-en, Mẹ đã khiêm tốn vâng phục. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38).
Sự vâng phục của Mẹ Ma-ri-a chính là nền tảng để Thiên Chúa xây nhà cho Con Một Người trú ngụ và ở giữa nhân loại. Điều này đưa ta về cội nguồn lịch sử cứu độ. Xưa kia trong vườn địa đàng, bà E-và đã nghe theo lời con rắn cám dỗ và ăn trái cấm. Sự kiêu căng là đầu mối của sa ngã. Ma quỷ xúi bà hãy ăn trái cấm để “mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3:5). Hôm nay, nơi Mẹ Ma-ri-a là E-và Mới, sự vâng phục là cốt lõi của quan hệ giữa Thiên Chúa và con người. Qua Mẹ, con người đã trở về chỗ đứng nguyên thủy của họ, nhìn nhận mình là “nữ tỳ của Chúa” chứ không phải muốn nên như những vị thần. Nguyên tổ loài người đã bất tuân và muốn phá bỏ nền tảng quan hệ với Thiên Chúa, còn Mẹ Ma-ri-a và Chúa Giê-su là Nguyên Tổ Mới đã tái tạo nền tảng quan hệ ấy bằng lòng khiêm nhường đích thực. Mẹ Ma-ri-a thì vâng phục như một nữ tỳ và Chúa Giê-su thì vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Ta cũng có thể nghĩ đến hậu quả của hai thái độ trái nghịch trên. Vì bất tuân, nguyên tổ loài người đã để lại hậu quả tai hại. Loài người biến thành “kẻ thù” của Thiên Chúa. “Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cầy cấy đất đai”. Người đàn bà phải cực nhọc khi thai nghén và sinh con. Người đàn ông phải đổ mồ hôi trán mới có miếng ăn (St 3:16-24). Dòng dõi nguyên tổ phải lãnh nhận những hậu quả ấy. Trái lại, Mẹ Ma-ri-a sẽ hiến cho nhân loại một người con được gọi là “Con Đấng Tối Cao”, để qua Người nhân loại được biến đổi từ kẻ thù thành con cái Thiên Chúa. Thay vì phải “trở về với bụi đất” vĩnh viễn (St 3:24), con người sẽ được sống trong “nhà Gia-cóp đến muôn đời” và trong “triều đại vô cùng vô tận” của Thiên Chúa (Lc 1:33).
Mẹ Ma-ri-a trở thành ngôi nhà mẫu cho mọi người mọi thời. Thiên Chúa cư ngụ trong ngôi nhà ấy và Người cũng muốn cư ngụ trong căn nhà tâm hồn của hết tất cả con cái Người. Nếu ta cũng noi gương Mẹ Ma-ri-a, lấy lòng khiêm nhường làm nền tảng cho ngôi nhà tâm hồn của ta, trở về vị trí đích thực của ta trước mặt Thiên Chúa, thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ giáng sinh ngay trong lòng ta và sẽ ở lại với ta mọi ngày cho đến khi ta trở về căn nhà đích thực là quê trời.
3. Mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa được loan báo để ta “tin mà vâng phục Thiên Chúa” (bài đọc Tân Ước – Rm 16:25-27)
Thiên Chúa yêu thương nhân loại và muốn xây nhà trên trần gian để ở lại với họ. Thánh Phao-lô coi đó là một “mầu nhiệm” phải được loan báo và rao giảng. Thực vậy, mầu nhiệm này đã được các vị ngôn sứ loan báo trong Cựu Ước như ta thường được nghe qua các bài đọc thứ nhất trong mùa Vọng. Khi Chúa Giê-su thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, mầu nhiệm này được tỏ lộ, không chỉ qua lời giảng mà còn qua toàn bộ đời sống của Người. Tiếp đến, các Tông đồ và Giáo Hội tiếp tục công việc loan báo và rao giảng ấy. Tất cả đều nhắm cùng một mục đích, là để toàn thể nhân loại “tin mà vâng phục Thiên Chúa” (Rm 16:26).
Tin và vâng phục là thái độ cốt yếu của việc lãnh nhận ơn cứu độ. Chúa Giê-su luôn mời gọi người ta “hãy tin vào Tin Mừng và hãy sám hối”. Nói khác đi, hãy tin vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa và hãy thay đổi cuộc sống bằng cách vâng phục Thiên Chúa thay vì chống đối Người.
Mùa Vọng là thời gian để ta suy nghĩ về mầu nhiệm tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, suy nghĩ ấy phải đưa ta tới việc đáp trả tình yêu của Người. Mà cách đáp trả tốt nhất, đó là phải xác tín tình yêu đó và trở về vị trí nguyên thủy của ta mà khiêm tốn và vâng phục Thiên Chúa. Mẹ Ma-ri-a chính là gương mẫu của con người được cứu độ. Lòng khiêm nhường của Mẹ không những đã đưa Thiên Chúa đến ngự trong Mẹ, mà còn đưa Chúa đến cho mọi người. Cũng vậy, nếu ta không có Chúa cư ngụ trong tâm hồn mình, thì làm sao ta có thể đưa Chúa đến với anh chị em. Lòng tin và sự vâng phục của Mẹ Ma-ri-a phải là cốt lõi cho việc chuẩn bị cần thiết nhất trong mùa Vọng này.
4. Sống Lời Chúa
Thiên Chúa giáng trần không phải chỉ ở Bê-lem, nhưng còn ở trong tâm hồn mỗi người. Lòng ta sẽ là nơi Người đến và cư ngụ vĩnh viễn. Nhưng làm sao chuẩn bị ngôi nhà cho Chúa? Nhìn lên Mẹ Ma-ri-a, ta học được nơi Mẹ tất cả những gì cần phải làm để đón nhận Chúa. Lời thưa “Vâng, tôi dđây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” phải là khuôn vàng thước ngọc cho ta, không những cách riêng cho mùa Vọng mà là cho cả cuộc đời ta là mùa Vọng đón chờ ngày ta được đến trước tòa phán xét của Chúa.
Suy nghĩ: Lời thưa “Xin vâng” của Mẹ Ma-ri-a có ý nghĩa gì đối với tôi? Trong cuộc sống quan hệ với Chúa, quan hệ với chính mình, quan hệ với anh chị em, tôi đã vâng phục Thiên Chúa như thế nào để làm cho những quan hệ trên được tốt đẹp và hiệu quả?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Đức Ki-tô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV mùa Vọng)
Chúa nhật IV mùa vọng dành riêng để nói về Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ Maria quả thực nắm: MV4-B73
Chúa nhật IV mùa vọng dành riêng để nói về Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ Maria quả thực nắm một vai trò rất quan trọng trong lịch sử cứu độ. Do đó, đoạn Tin mừng của thánh Luca muốn trình bầy một giáo lý, một niềm tin của tất cả những người Kitô hữu tiên khởi về con người của Đức Kitô mà họ đã được tiếp xúc, đã tin theo, đã được đụng chạm tới cái chết của Ngài, nhưng cuối cùng họ đã tin tưởng vào sự sống lại của Chúa. Quả thực, niềm tin ấy là niềm tin sâu sắc, giáo lý của thánh Luca mang một chiều kích sâu xa về lòng tin vào con người của Chúa Giêsu. Đối với cộng đoàn Giáo Hội tiên khởi, Chúa là người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa. Sự lạ lùng này đã được diễn tả qua hàng loạt những sự kiện lạ lùng. Mà sự lạ lùng có một không hai trong lịch sử cứu rỗi là việc Mẹ Maria cưu mang Chúa Giêsu trong cung lòng tinh tuyền của Mẹ…
MARIA NHẬN LÃNH CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ CỦA CHÚA VỚI LÒNG TIN SÂU XA:Nhân loại sẽ không có gì để nói, để diễn tả nếu Mẹ Maria cũng để mình cuốn hút vào những sự việc trần thế và lạ lùng theo kiểu trần gian. Không, Mẹ Maria đã có một thái độ rất siêu nhiên, bình thản, an bình trước công trình cứu rỗi của Thiên Chúa đang diễn ra một cáh hết sức lạ lùng trong lịch sử cứu rỗi. Maria đã có một cử chỉ, một thái độ hoàn toàn khác với tư tế Giacaria khi Ông biết vợ Ông sẽ thụ thai con trong lúc tuổi già. Giacaria đã ngờ vực, đã sửng sốt hầu như không muốn tin. Còn Maria, Mẹ đã thưa với sứ thần:” Này tôi là nữ từ của Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo như lời sứ thần loan báo”. Một lời ưng thuận, một lời xin vâng đã làm đảo lộn nhân loại vì Mẹ Maria đã sống niềm tin, phó thác tuyệt đối. Một lời xin vâng vượt lên tất cả mọi dự đoán của người trần. Maria đã tin tưởng tuyệt đối, nên Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa làm người trong niềm tin thâm sâu, trước khi đón nhận Chúa Giêsu trong thân xác của mình. Sau này, khi Chúa Giêsu lớn và đi rao giảng, có người báo với Chúa rằng Mẹ của Ngài và anh em của Ngài đang tìm Chúa ở ngoài. Chúa Giêsu đã khẳng định:” Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa là Mẹ và anh em của Ngài”. Nói lên điều đó, Chúa Giêsu không có ý phủ nhận vai trò làm Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria, Ngài xác định Maria đã là Mẹ của Ngài cách trọn vẹn và còn liên hệ trên bình diện tinh thần, trên bình diện siêu nhiên.
DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA ĐẾN: Mẹ Maria đã thực hiện lời Chúa cách trọn vẹn và suốt cuộc đời của Mẹ, Maria đã luôn làm theo ý Chúa. Do đó, dọn đường cho Chúa đến là lắng nghe và thực thi lời Chúa trong đời sống của mình. Đây là con đường đưa nhân loại, đưa từng người vào mối liên lạc mật thiết thâm sâu với Chúa Giêsu. Lời của Chúa dẫn nhân loại đi vào một cuộc sống mới, một thế giới mới, thế giới nhuộm đầy tình thương. Lời của Chúa dẫn nhân loại tới tận Hang Đá Bêlem, để chiêm ngắm một Hài Nhi nghèo hèn, mang tên Giêsu đang nằm trong máng cỏ lừa. Lời của Chúa dẫn mỗi người, dẫn nhân loại đi tới với những người nghèo, người đau khổ, người neo đơn, những người đang vật lộn với những khó khăn của cuộc sống. Dọn đường và đón nhận Chúa là sống trọn vẹn kiếp sống làm người với lòng tin thẩm sâu. Tiếp nhận Chúa là học hỏi lời Chúa, làm cho lời Chúa thấm nhập tận đáy sâu của tâm hồn con người đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống của mình. Mẹ Maria quả là mẫu gương chói lòa vì Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa một cách trọn hảo.
Lạy Mẹ Maria, xin ban cho chúng con một quả tim mới để chúng con biết lắng nghe và đem lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống.
· 2 Sm 7,1-5.8b-12.14a.16: (12) Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. (14) Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con.
· Rm 16,25-27: (25) Tin Mừng mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa (26) nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa.
· TIN MỪNG: Lc 1,26-38 Truyền tin cho Đức Maria (26) Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, (27) gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. (28) Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: «Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà». (29) Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. (30) Sứ thần liền nói: «Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. (31) Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. (32) Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. (33) Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận». (34) Bà Maria thưa với sứ thần: «Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!» (35) Sứ thần đáp: «Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. (36) Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. (37) Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được». (38) Bấy giờ bà Maria nói: «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói». Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
CHIA SẺ Câu hỏi gợi ý:
Tại sao Thiên Chúa lại muốn Con của Ngài thụ thai, sinh trưởng và sống suốt 30 năm ở Nadarét: MV4-B74
1. Tại sao Thiên Chúa lại muốn Con của Ngài thụ thai, sinh trưởng và sống suốt 30 năm ở Nadarét, một vùng của dân ngoại, mà không phải tại Giêrusalem, thủ đô của Do Thái giáo? 2. Tại sao Thiên Chúa không chọn cho Con của Ngài làm con một vị tư tế hay chức sắc của Do Thái giáo, mà lại chọn làm con một thiếu nữ đơn sơ nghèo hèn, chẳng có gì là «danh gia vọng tộc», trong tôn giáo cũng như ngoài xã hội? 3. Điều gì nổi bật nơi thiếu nữ Maria khiến Thiên Chúa chọn cô làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Con của Ngài? Quan niệm và cách suy nghĩ của Ngài khác với của ta thế nào? Ta có cần quan niệm và suy nghĩ theo cách của Ngài không?
Suy tư gợi ý:
1. Tại sao Thiên Chúa chọn Nadarét làm nơi sinh trưởng của Đức Giêsu?
Đức Giêsu thụ thai và sinh trưởng tương đối bình yên tại Nadarét, miền Bắc nước Do Thái, cách rất xa Giêrusalem, thủ đô tôn giáo của Do Thái ở miền Nam. Nadarét thuộc xứ Galilê, là vùng đất của dân ngoại. Tại sao Thiên Chúa lại chọn Nadarét chứ không phải Giêrusalem để Đức Giêsu thụ thai và trưởng thành? Tuy nhiên, vì thời thế lúc ấy, Đức Giêsu phải sinh ra tại Bêlem, rất gần Giêrusalem, nhưng nơi đây chẳng những không tiếp nhận Ngài, mà còn bách hại và tìm cách giết Ngài dù Ngài vừa mới sinh ra. Ngài cũng đã chết tại Giêrusalem, trung tâm tôn giáo của đất nước Ngài, và chết vì tay của những vị lãnh đạo tôn giáo của Ngài. Điều đó không phải là không có ý nghĩa. Và đó chính là điều chúng ta nên suy nghĩ.
Cũng chính vì Đức Giêsu sinh trưởng tại Nadarét mà người Do Thái có cớ để không tin Ngài là Đấng Cứu Thế. Vì theo cách suy nghĩ của loài người, họ cho rằng đã là Đấng Cứu Thế thì phải sinh trưởng tại vùng có truyền thống tôn giáo mạnh mẽ nhất. Họ nghĩ Thiên Chúa cũng phải suy tính giống như họ. Thật vậy, khi nghe Philípphê giới thiệu về Đức Giêsu, Natanaen đã thốt lên: «Từ Nadarét, làm sao có được điều gì hay?» (Ga 1,46). Thế nhưng con người tuyệt vời nhất trần gian, đặc biệt về mặt tôn giáo, lại xuất phát từ cái địa danh bị mang tiếng là «miền đất của dân ngoại» (Mt 4,15), và sinh ra bởi một người nữ mà dưới mắt người đời chẳng có gì đặc biệt!
Thiên Chúa nhìn vào tâm linh con người, vào cốt lõi của vấn đề, và đánh giá theo cái nhìn ấy, chứ không nhìn vào những thứ bên ngoài, cho dù là tính tôn giáo, địa vị hay giai cấp trong tôn giáo, v.v… Trong cuộc đời Đức Giêsu, ta không hề thấy Ngài tỏ ra nể trọng ai chỉ vì người ấy giàu có, có địa vị hay quyền bính trong tôn giáo cũng như ngoài xã hội vốn được mọi người nể trọng. Ngài không ngần ngại khiển trách những người này khi họ ham được ca tụng, đề cao, lợi dụng quyền bính để hà hiếp kẻ yếu thế, hay làm ra vẻ đạo đức, v.v… Ta cũng không thấy Ngài tỏ ra khinh thường ai chỉ vì người ấy nghèo hèn, khốn khó, có địa vị thấp hèn trong tôn giáo hay xã hội. Nói chung Ngài quý trọng và yêu thương mọi người, bất kỳ ai, kể cả những kẻ thù ghét Ngài, vì họ đều là con cái Thiên Chúa, là anh em với Ngài.
Vì thế, những người theo Chúa cũng cần phải tập nhìn và đánh giá như thế. Thế nhưng đôi khi chúng ta, những người tự hào là theo Chúa, vẫn thường nhìn và đánh giá, theo những gì bên ngoài chứ không phải theo bản chất bên trong, để rồi trọng vọng hay khinh thường. Ta vẫn có cái nhìn và đánh giá kiểu người đời, coi trọng những thực tại trần gian chẳng kém gì dân ngoại.
2. Tại sao Thiên Chúa chọn cô Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế?
Maria là một thiếu nữ thuộc thành phần nghèo nàn, gia thế không có gì đặc biệt, chắc hẳn sắc đẹp và tài năng cũng chẳng có gì trổi vượt. Thế mà Thiên Chúa lại chọn cô làm mẹ của Đấng Cứu Thế? Tại sao vậy? Điều gì khiến Thiên Chúa lại chọn cô chứ không phải chọn một cô gái nào đó con của một tư tế, một luật sĩ, hay một vị nào có thế giá trong tôn giáo Do Thái? Ta cần suy nghĩ để nhận ra cách quan niệm và hành động của Thiên Chúa.
Điều quan trọng đối với Thiên Chúa không phải là sắc đẹp, tài năng, kiến thức, gia thế, địa vị trong xã hội hay tôn giáo… Điều Ngài ưa thích là tính chân thật, khiêm cung, coi nhẹ «cái tôi» hay ý riêng của mình, nhưng coi Thiên Chúa và thánh ý của Ngài là trên hết, luôn yêu thương và sẵn sàng phục vụ tha nhân. Những đặc tính ấy ta có thể thấy được nơi thiếu nữ Maria.
Tâm lý của các phụ nữ Do Thái thời ấy là muốn lập gia đình, vì họ mong được vinh dự làm mẹ Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã loan báo trước đó mấy trăm năm. Tâm lý này phần nào tương tự như trong cộng đoàn Kitô hữu xưa nay vẫn có những bậc cha mẹ cho con đi tu, với mong ước con mình làm linh mục, tu sĩ, để mình được mọi người trọng vọng, gọi mình bằng «ông cố», «bà cố»… Còn Maria, cô chủ trương «không biết đến việc vợ chồng» (Lc 1,34), cô không màng vinh dự ấy. Ham muốn vinh dự ấy là điều rất tự nhiên, không có gì xấu, nhưng nó nói lên khuynh hướng mong «cái tôi» của mình được đề cao. Chiều theo khuynh hướng này là điều thuận lợi cho tính kiêu ngạo và các tham vọng phát sinh.
Chính vì tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn, không tơ vương chuyện này, mà tâm hồn cô nổi bật lên trước con mắt Thiên Chúa. Tính khiêm cung nơi con người vốn là một vẻ đẹp hấp dẫn Ngài hơn bất kỳ điều gì: «Đấng muôn trùng cao cả vẫn ở với tâm hồn khiêm cung» (Is 57,15). Một điểm khác khiến Maria rất đẹp, rất có giá trị trước mặt Thiên Chúa, đó là tính coi rất nhẹ ý riêng của mình, nhưng luôn nhạy cảm trước thánh ý Thiên Chúa và sẵn sàng làm theo ý Ngài. Maria không muốn «biết đến việc vợ chồng», không màng đến chuyện có con, nhưng khi Thiên Chúa muốn cô sinh con, cô sẵn sàng chấp nhận, bất chấp những khó khăn sẽ xảy đến: nào là Giuse bạn cô có thể hiểu lầm, người đời sẽ dị nghị chuyện chưa chồng đã có thai, cho cô là đồ mất nết, nào là luật pháp có thể trừng trị rất nghiêm khắc, ném đá cô đến chết… Nhưng cô phó thác cho Thiên Chúa mọi việc, để tùy Ngài sắp xếp tất cả.
Khiêm cung và coi nhẹ ý mình để sẵn sàng thuận phục ý Thiên Chúa chính là hai điều cốt yếu nhất của sự thánh thiện. Đó là hai hệ quả tất yếu của một tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và tha nhân.
3. Tại sao Maria lại được gọi là «Người đầy ân phúc»?
Maria được thiên sứ chào là «Người đầy ân phúc». Nhưng rõ ràng cuộc đời cô là một cuộc đời đầy nghịch cảnh, bị thử thách trăm chiều vì người con của mình. Do đó, điều gọi là «ân phúc» trước mặt Thiên Chúa có thể lại là điều mà thế nhân chẳng mong muốn chút nào nếu không cho là tai họa. Ngược lại, điều mà thế nhân coi là có phúc thì rất có thể Thiên Chúa chẳng coi là có phúc (x. Lc 6,24-26). Vì Thiên Chúa nhìn vào tâm hồn, nhìn vào những gì có tính lâu dài, vĩnh cửu, còn con người chỉ nhìn thấy những cái bên ngoài, nhất thời, ngay trước mắt. Người có phúc trước mặt Thiên Chúa là người có tâm hồn trong sáng, không bị hoen ố vì khuynh hướng vị kỷ, biết xả kỷ, yêu thương. Tinh thần «tám mối phúc thật» (Mt 5,1-12) nói lên điều ấy.
Tương tự như các bậc cha mẹ, khi thấy con cái mình lười biếng, ham chơi, vô trách nhiệm, thì tuy thấy chúng đang được vui thú hay đắc chí trong hiện tại, nhưng vẫn thấy chúng vô phúc và tội nghiệp cho chúng, vì thấy trước tương lai của chúng rất mờ mịt. Trái lại, khi thấy con cái chịu khó học hành, thì tuy thấy chúng mệt mỏi, vất vả trong hiện tại, nhưng lại mừng cho chúng, vì thấy tương lai của chúng rất tươi sáng. Cũng vậy, khi sứ thần đến truyền tin, lúc đó Maria chỉ là một thôn nữ nghèo, và cuộc đời trước mắt của Maria đầy dẫy những khổ đau vất vả, nhưng sứ thần thấy cả một tương lai vĩnh cửu sáng lạn đang chờ đợi cô. Vì thế, sứ thần đã chào Maria là «Đấng đầy ân phúc». Cách nhìn của sứ thần phản ánh cách nhìn của Thiên Chúa. Chúng ta phải tập cho mình có cách nhìn như thế.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, cách nhìn của con quả là quá thiển cận và rất trần tục, không vượt ra khỏi những gì thấy được bên ngoài hoặc trước mắt. Xin cho con có được cách nhìn của Cha, nhìn vào chiều sâu tâm hồn và xuyên suốt thời gian. Xin đừng để những vẻ hào nhoáng bên ngoài của trần gian, của tôn giáo cản trở cái nhìn tâm linh của con. Chỉ cái nhìn vào chiều sâu tâm hồn và xuyên suốt thời gian mới là cái nhìn trung thực và đúng nhất. Có được cái nhìn ấy, con mới dễ dàng sống đúng với thánh ý của Cha. (JK)
Hai khuôn mặt nổi bật trong mùa Vọng là Mẹ Ma-ri-a và thánh Gio-an Tẩy giả. Bài Tin Mừng: MV4-B75
Hai khuôn mặt nổi bật trong mùa Vọng là Mẹ Ma-ri-a và thánh Gio-an Tẩy giả. Bài Tin Mừng của hai Chúa Nhật trước đã giúp ta hiểu con người và sứ mệnh của Gio-an. Hôm nay, câu truyện Truyền Tin không những cho chúng ta một gương mẫu chuẩn bị đón Chúa Giê-su Cứu Thế đến trong nhân loại và trong tâm hồn ta, nhưng hơn thế nữa, Mẹ còn là gương mẫu đem Chúa đến cho người khác. Bài Tin Mừng Truyền Tin kể lại một sự kiện vô cùng quan trọng và khởi đầu cho việc thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời bài Tin Mừng cũng khéo léo nêu lên một nhân đức cao trọng của Mẹ Ma-ri-a là đức khiêm nhường. Cử chỉ bối rối khi nghe lời chào của sứ thần và câu trả lời tuân phục của Mẹ khi chấp nhận sứ mệnh Thiên Chúa trao là những điểm ta sẽ dùng để suy gẫm về đức khiêm nhượng của Người.
a) “Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”
Lời chào của sứ thần có lẽ khó hiểu đối với nhiều người, nhất là ta không quen với những kiểu nói chỉ gặp thấy trong Kinh Thánh Cựu Ước: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Là người hằng ngày suy niệm và thấm nhuần Lời Chúa, chắc chắn Đức Mẹ hiểu rõ ý nghĩa những lời này của sứ thần. Chính vì hiểu rõ ý nghĩa nên Đức Mẹ mới bối bối và không biết sứ mệnh Chúa muốn trao cho mình là sứ mệnh gì. Mẹ không bối rối sao được khi sứ thần cho biết Mẹ là “Đấng đầy ân sủng”, tức là người được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt. Đây quả thực là danh hiệu của Đức Mẹ, người con yêu quý nhất của Thiên Chúa trong toàn thể gia đình nhân loại. Cảm nghiệm bối rối của Mẹ đã nảy sinh từ lòng khiêm nhượng sâu xa. Mẹ thầm hỏi: Làm sao tôi có thể là một thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương nhất như vậy? Tôi chỉ là một thiếu nữ như tất cả các thiếu nữ khác thôi, làm sao xứng đáng với một danh hiệu như thế?
Những lời tiếp theo của sứ thần ám chỉ về một sứ mệnh. “Đức Chúa ở cùng” là kiểu nói trong những trình thuật Cựu Ước khi Thiên Chúa trao sứ mệnh cho một người. Thí dụ, Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ta sẽ ở với ngươi” khi Người trao cho ông sứ mệnh đưa dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập (Xh 3:12). Hoặc Người bảo ông Giê-rê-mi-a: “Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” khi Người trao cho ông sứ vụ làm ngôn sứ (Gr 1:8,19). Do đó, khi nghe sứ thần nói “Đức Chúa ở cùng bà”, Mẹ hiểu ngay đây là một sứ mệnh. Nhưng sứ mệnh ấy là gì? Đó chính là câu hỏi để Mẹ khởi đầu hành trình đi tìm và thực thi thánh ý Thiên Chúa, như ta thấy thánh sử Lu-ca đã ghi nhận: “Nhưng ông bà (cha mẹ Chúa Giê-su) không hiểu lời Người vừa nói... Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2:50,51b). Đường lối của Thiên Chúa khi Người trao ban một sứ mệnh luôn đòi hỏi ta phải liên tục đáp lại lời gọi của Người. Ông Áp-ra-ham, ông Mô-sê và các vị ngôn sứ, ai ai cũng phải cả một đời đáp lại lời gọi của Thiên Chúa để thi hành sứ mệnh. Người muốn ta phải quảng đại và hết lòng tin tưởng Người. Vì thế, sứ mệnh Người trao thường là chưa rõ ràng từ ban đầu. Nhưng càng tin tưởng, ta càng khám phá ra sứ mệnh ấy rõ hơn, càng biết tỏ Chúa muốn ta làm gì. Vì sứ mệnh là công việc của Chúa nên bao giờ Người cũng hiện diện, tức là sẽ “ở cùng” ta. Nếu Chúa không “ở cùng” ta, ta sẽ làm theo ý riêng mình và sẽ bỏ cuộc khi đụng phải khó khăn.
Vậy cảm nghiệm “bối rối” của Đức Mẹ là dấu chỉ cho ta nhận biết lòng khiêm nhượng sâu thẳm của Người và “tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” đánh dấu khởi đầu hành trình Đức Mẹ thực thi thánh ý Chúa và sứ mệnh Chúa trao ban.
b) “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”
Nếu lời chào của sứ thần đích thực nói lên con người và sứ mệnh của Mẹ Ma-ri-a, thì câu trả lời của Đức Mẹ là một khẳng định chân thành và khiêm tốn nhìn nhận thân phận mình và đáp lại lời gọi của Thiên Chúa. Ta nhận ra sự song đối tài tình giữa lời chào của sứ thần và lời thưa của Đức Mẹ. Nhưng tuyệt diệu hơn cả chính là tâm tình mến yêu và thái độ tôn kính của Mẹ.
Khiêm nhượng đích thực không bao giờ chối bỏ sự thật. Lời khẳng định “vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa” được phát biểu từ một tấm lòng khiêm nhượng giờ đây đượm nét tin yêu và tôn kính của một tạo vật đối với Đấng Tạo Dựng, giống như đất sét trong tay thợ gốm. Đức Mẹ đã nhìn nhận thân phận đích thực của mình trước mắt Chúa. Cho nên Mẹ mới sẵn sàng và quảng đại lãnh nhận bất cứ sứ mệnh nào Thiên Chúa trao ban.
Có lẽ ở đây ta học được bài học quý giá nhất từ nơi Đức Mẹ, đó là biết lãnh nhận sứ mệnh Chúa trao. Để biết sẵn sàng lãnh nhận một sứ mệnh, ta đừng tự ti cũng đừng tự tôn. Khiêm nhượng đích thực nghĩa là ta biết mình là ai và là gì trước mặt Chúa. Nếu ta tự ti là ta không tin “Chúa ở cùng ta”. Còn nếu ta tự tôn là ta không “ở cùng Chúa”. Mẹ Ma-ri-a biết mình “là nữ tỳ của Chúa”, tức là vinh dự được làm tôi tớ Chúa. Mẹ thâm tín Thiên Chúa “ở cùng” Mẹ nên Mẹ không sợ hãi và xin Chúa cứ trao ban sứ mệnh.
c) Khiêm nhượng và tin yêu trong hành động
Câu truyện Truyền Tin hé mở cho ta biết về con người và sứ mệnh của Mẹ Ma-ri-a. Theo dõi cuộc đời của Chúa Giê-su qua những trang sách Tin Mừng, ta cũng không biết nhiều lắm về cuộc đời của Đức Mẹ. Ta thắc mắc tại sao một “Đấng đầy ân sủng” hoặc “nữ tỳ của Chúa” mà lại ít được nhắc tới như vậy. Biết đâu chính Đức Mẹ đã trối lại cho con cái Người là các thánh sử không được viết gì thêm về cá nhân Mẹ! Hoặc có thể vì muốn tôn kính lòng khiêm nhượng của Đức Mẹ nên các ngài không muốn làm trái ý Người! Cũng như Gio-an Tẩy giả, Đức Mẹ theo cùng một đường lối: “Chúa Giê-su phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.
Lòng khiêm nhượng giúp ta luôn hướng về Chúa là cùng đích để ta biết mình là ai. Ta không thể đích thực là ta nếu ta loại Chúa ra khỏi đời mình. Bài ca “Ngợi khen” (Magnificat) là một khuôn mẫu Đức Mẹ để lại cho ta để ta học khiêm nhường. Bài học này Mẹ đã dạy cho Con của Mẹ là Chúa Giê-su, để rồi đến lượt Chúa Giê-su mời gọi ta: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29).
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Sứ mệnh của tôi là gì? Có khi nào tôi đặt câu hỏi đó không? Tại sao không? Sứ mệnh đó có cần thiết phải là những gì lớn lao không? Hay chỉ nằm trong những bổn phận thường ngày của tôi?
Mẹ Ma-ri-a dạy tôi bài học nào về đức khiêm nhường? Biết tôi là ai? Biết Chúa là Đấng nào? Biết tin kính Chúa hơn? Can đảm và quảng đại hơn?
Tôi đã sẵn sàng đón Chúa đến với tôi chưa? Cũng như Mẹ Ma-ri-a, tôi có sẵn sàng đem Chúa đến cho người khác không?
Cầu nguyện
Bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat” Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; Từ nay hết mọi đời Sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi Biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, Người giầu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người Như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham Và cho con cháu đến muôn đời. Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con, Cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa, Tự muôn đời và chính hiện nay Luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.
Thư gửi tín hữu Rô-ma khác hẳn với những thư khác của thánh Phao-lô.Các thư khác nhằm trả : MV4-B76
Thư gửi tín hữu Rô-ma khác hẳn với những thư khác của thánh Phao-lô.Các thư khác nhằm trả lời những vấn nạn hoặc giải quyết một số vấn đề của giáo đoàn địa phương mà thánh Phao-lô hoặc cộng sự viên của ngài đã đến rao giảng Tin Mừng, còn thư gửi tín hữu Rô-ma lại được viết trong khi thánh Phao-lô chưa hề đặt chân tới Rô-ma. Do đó, thư này có mục đích giới thiệu con người Phao-lô và gần như toàn bộ tư tưởng thần học của ngài với cộng đoàn tín hữu Rô-ma.
Bài đọc hôm nay trích từ Vinh tụng ca là phần kết thúc thư Rô-ma, tóm kết tất cả những đề tài chính yếu đã trình bày trong thư.Những lời của thánh Phao-lô trong Vinh tụng ca được Phụng vụ Lời Chúa sử dụng nhắc nhở chúng ta về những sự kiện linh thiêng cao cả chúng ta sẽ cử hành trong lễ Giáng Sinh.Có thể đây cũng là một nhắc nhở đúng lúc, vì chúng ta quá lo lắng về những chuẩn bị bên ngoài như chăng đèn, mua sắm quà tặng... mà quên đi phần chuẩn bị chính yếu là nội tâm.Do đó bài đọc hôm nay đưa chúng ta trở lại ý nghĩa đích thực của việc cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh.Hai sự kiện chính yếu sẽ soi sáng ý nghĩa việc cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh:
a)Mầu nhiệm Đức Giê-su Ki-tô được giữ kín tự ngàn xưa, nhưng nay được biểu lộ
Thiên Chúa đã có một kế hoạch cứu độ để tái tạo những gì đã bị tội lỗi phá hủy. Người bắt đầu mạc khải kế hoạch này từ từ qua lịch sử Ít-ra-en. Trong câu truyện Vườn địa đàng, Thiên Chúa khẳng định tin mừng nguyên thủy về ơn cứu độ: "Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó" (St 3:15).Ý định nhiệm mầu ấy không ai hiểu nổi, mặc dù các ngôn sứ đã nhiều lần loan báo.Thánh Phao-lô gọi ý định nhiệm mầu đó là "lẽ khôn ngoan" của Thiên Chúa, điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới (1 Cr 2:7,9).Bao lâu Đức Giê-su Ki-tô chưa đến để khai mở mầu nhiệm này thì loài người vẫn còn bước đi trong tối tăm, chưa biết được ý định của Thiên Chúa. Từ tin mừng nguyên thủy về "dòng giống đó" đến Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô là cả một thời gian chờ đợi dài đằng đẵng, nhưng đối với Thiên Chúa thời gian là một cơ hội chứ không phải là năm tháng. Nay Đức Ki-tô đã đến là thời điểm Thiên Chúa "cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu" (Eph 1:9).
Trong một tấm thiệp Giáng Sinh, người ta đọc được dòng chữ này:"Chúa Giê-su là nguyên do của mùa này (Giáng Sinh)." Đúng vậy, Chúa Giê-su đã mở ra cho chúng ta thấy ý định và kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha khi Người sinh xuống làm người.Người là "lời phán dạy" của Thiên Chúa "vào thời sau hết này" (Dt 1:2), để chúng ta nghe và hiểu được Thiên Chúa muốn gì. Giáo Hội muốn giúp chúng ta hiểu tầm quan trọng của "nguyên do Giê-su" bằng cách nêu lên những danh hiệu của Đấng Cứu Thế mỗi ngày trong một tuần lễ trước Giáng Sinh, từ ngày 17 đến 23 tháng 12, để qua mỗi danh hiệu ấy chúng ta khám phá ra con người và sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Câu xướng của phần Tung hô Tin Mừng (Alleluia) kêu cầu với Chúa Giê-su là: Sự Khôn ngoan của Đấng Tối cao, Thủ lãnh nhà Ít-ra-en, Mầm non từ gốc tổ Gie-sê, Chìa khóa nhà Đa-vít, Vừng đông xuất hiện, Vua muôn nước, Đức Em-ma-nu-en. Thực là vô lý khi chúng ta mừng sinh nhật của một người mà chúng ta không biết họ là ai và làm gì!
b)Theo lệnh của Thiên Chúa, mầu nhiệm Đức Giê-su Ki-tô phải được thông báo cho muôn dân biết
Thiên Chúa đã thực hiện việc cho chúng ta biết được ý định nhiệm mầu của Người. Nhưng bản chất cố hữu của con người vẫn là quay lưng lại với Thiên Chúa.Do đó, Thiên Chúa đã "ra lệnh" phải thông báo ý định của Người cho toàn thể nhân loại. Một người cha đôi khi phải ra lệnh cho con cái, vì yêu thương, có khi cũng vì tự ái nữa. Còn Thiên Chúa yêu thương chúng ta, chỉ nghĩ đến thân phận khốn nạn của chúng ta, đã ra lệnh hoàn toàn vì yêu thương và vì ích lợi của chúng ta mà thôi.
Vậy theo kế hoạch của Người, Thiên Chúa đã mạc khải mầu nhiệm này trước hết cho các Tông đồ để các ngài trở nên "người phục vụ Tin Mừng" (Ep 3:7; Cl 1:23). Các ngài có nhiệm vụ rao giảng Đức Giê-su Ki-tô, thông báo mầu nhiệm này cho muôn dân. Cũng theo kế hoạch này, Thiên Chúa muốn mọi người tin vào Đức Giê-su Ki-tô và vâng phục Người, tức là sống theo Tin Mừng ấy. Biết mầu nhiệm này thôi thì chưa đủ, nhưng phải sống mầu nhiệm này nữa.
c)Trước kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, chúng ta phải có tâm tình nào?
Thánh Phao-lô đã thay cho chúng ta nói lên tâm tình của nhân loại.Trước hết là chúc tụng sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa. Nhận biết sự khôn ngoan của Thiên Chúa cũng có nghĩa là nhìn lại thân phận mình để nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho mình.Tự sức riêng, chúng ta không biết được kế hoạch nhiệm mầu ấy, nhưng Thiên Chúa đã cho chúng ta biết qua Đức Ki-tô.Do đó, đi theo tâm tình chúc tụng phải là lòng biết ơn. "Tạ ơn Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô" là những lời Phao-lô thường sử dụng trong nhiều thư của ngài để chia sẻ tâm tình cảm tạ ấy với các tín hữu.
Nhưng điểm hết sức độc đáo của Phao-lô là tự bản chất con người, chúng ta không thể làm được công việc chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa. Vậy ai sẽ giúp chúng ta làm công việc phải làm ấy? Phao-lô luôn có cùng một câu trả lời: "Nhờ Đức Giê-su Ki-tô." Thật lạ lùng!Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa Cha đã cho loài người biết được ý định nhiệm mầu của Người, thì bây giờ cũng nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà con người mới có thể "kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời." Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, tư tưởng cốt lõi của thần học Phao-lô, chính là "nguyên do của mùa Giáng Sinh" vậy!
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Những tư tưởng của thánh Phao-lô giúp tôi hiểu thêm thế nào về Mầu nhiệm Chúa Ki-tô trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và trong việc Giáo Hội cử hành Mầu nhiệm Giáng Sinh?
Có bao giờ tôi suy niệm về những danh hiệu của Chúa Cứu Thế được nêu lên ở phần Tung hô Tin Mừng trong các Thánh lễ từ 17-23 tháng 12 không? Tôi có dự định sẽ suy niệm vào những mùa Vọng các năm tới không?
Tôi đã làm gì để "thông báo mầu nhiệm Đức Giê-su Ki-tô" cho muôn dân? Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài hát Giáng Sinh để chúc tụng Thiên Chúa và sự khôn ngoan thượng trí của Người.
Thật gần rồi, những ngày chuẩn bị để đón mừng Chúa giáng sinh. Con người như cảm thấy: MV4-B77
Thật gần rồi, những ngày chuẩn bị để đón mừng Chúa giáng sinh. Con người như cảm thấy một cái gì, cứ như nơm nớp đợi chờ, cứ như nôn nao, xao động, nói một cách dân dã:" đứng ngồi không yên ". Đâu đó, con người như vẫn nghe tiếng mời gọi của Gioan Tẩy giả, vị ngôn sứ dọn đường và đồng thời chỉ cho dân Chúa biết Đấng Cứu Thế. Có chăng là tiếng kêu của Người trong sa mạc: "Hãy sám hối, hãy lãnh nhận phép rửa xin ơn tha thứ. Hãy bạt lối đồi.. để dọn đường cho Chúa", thì giờ đây tiếng kêu hầu như im bặt để cho tiếng sứ thần Gabrien trổi cao, vang lên:" Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai..Người sẽ được gọi là Emmanuen, Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta". Tiếng xin vâng của Maria hầu như át cả tiếng thét gào của Gioan Tẩy giả để cho Chúa Cứu Thế được đi vào lịch sử con người.
TIẾNG XIN VÂNG TÌNH THƯƠNG
Chỉ một tiếng thưa xin vâng khi sứ thần Gabrien cắt nghĩa ý định của Thiên Chúa trên đời của Maria, Trinh nữ đã nhẹ nhàng gật đầu và nói:" Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy xẩy ra như lời sứ thần truyền". Đây là lời tình thương vì rằng qua lời thưa của cô con gái gia giáo, thánh thiện, đạo hạnh, Con Thiên Chúa đã đầu thai trong cung lòng của Maria. Kỳ diệu và lạ lùng thay lời xin vâng có tính cứu độ và lịch sử của mẹ Maria đồng trinh. Đoạn Tin Mừng của thánh Luca 1, 26- 38 quả thực quá thi vị và gợi cảm đưa con người, đưa nhân loại vào bầu khí thực thánh thiêng, thực đạo đức, bầu khí của nước Thiên Đàng. Lời xin vâng của Maria bùng lên giữa muôn muôn thử thách, giữa muôn vàn cay đắng vì Maria đã khấn hứa giữ mình trọn đời dành riêng cho Thiên Chúa. Nhưng chính cái trớ trêu đã rơi vào hoàn cảnh của Maria vì Thiên chúa dủ lòng thương xót nhân loại qua Maria. Thiên Chúa đã chọn Maria từ muôn thuở để Maria góp tay với Chúa trong công trình cứu chuộc nhân loại.
Cả Gioan Tẩy giả và cả Maria đã sống cái nghịch lý, cái đảo lộn của Tin Mừng. Gioan Tẩy giả là sứ ngôn đã dám sống hết mình với vai trò tiên tri của mình. Ông là tiếng kêu, là người dọn đường, là người làm chứng và là người dám nói lên sự thật để cuối cùng chấp nhận bị chặt đầu. Còn Maria đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa dẫu có cay đắng, dẫu có bị hiểu lầm. Cuối cùng, lời xin vâng của Maria đã trở nên tiếng gọi tình thương, lời hồng ân có sức cuốn hút, lôi kéo mọi người.
MỌI NGƯỜI PHẢI BIẾT SỐNG VAI TRÒ CỦA MẸ MARIA
Sống Tin Mừng hầu như là luôn bị thiệt. Nhưng, muốn theo Chúa, muốn làm đẹp lòng Chúa, muốn kết hợp với Chúa nhân loại phải biết sống Tin Mừng. Maria khi nói lời xin vâng đã chấp nhận tất cả: cay đắng, hy sinh, thiệt thòi và hiểu lầm. Mẹ Maria cũng mời gọi nhân loại hãy sống cái liều lĩnh của Tin Mừng. Con người đừng tự giam hãm trong vỏ ốc của mình để an thân trong một số việc mà mình tưởng như người Pharisiêu đã giữ và đã làm. Đón chờ Chúa liệu con người có dám đẩy xa tội lỗi, đẩy xa ma quỉ, đẩy xa những thói hư nết xấu của ta để cho Chúa lớn lên hay không ? Đón nhận mầu nhiệm giáng sinh là chấp nhận những phiền toái lúc nào cũng có trong cuộc đời con người. Liệu ta có dám sống như mẹ Maria là chấp nhận để Chúa làm chủ, làm gia nghiệp đời mình hay không? Mùa vọng mời gọi mọi người hãy sống vai trò làm chứng, ngôn sứ của Gioan Tẩy giả và sống sứ mạng loan báo tình thương, loan báo ơn cứu rỗi như mẹ Maria đã làm.
Lạy mẹ Maria, xin giúp mọi người chúng con biết sống sứ mạng chia sẻ và yêu thương của mẹ.
GỢI Ý CHIA SẺ
1.Mẹ Maria đã giữ vai trò gì trong lịch sử cứu độ ? 2.Bạn hiểu thế nào về vai trò làm chứng của Gioan Tẩy giả ?
Maria vẫn ngồi đấy, lặng chìm cầu nguyện, như thói quen mà ba mẹ đã tập cho. Bất chợt căn phòng: MV4-B78
Maria vẫn ngồi đấy, lặng chìm cầu nguyện, như thói quen mà ba mẹ đã tập cho. Bất chợt căn phòng bỗng sáng, luồng ánh sáng từ Sứ Thần tỏa ra. Ngỡ ngàng! Hoảng hốt! “Mừng vui lên, hỡi người đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Người”.
1- Mừng vui lên
Đó là ngôn từ đầu tiên Sứ Thần nói với Maria. Niềm vui to lớn nhất đời người, là được Thiên Chúa viếng thăm. Phải vui lên thôi, bởi vì thân phận con chỉ là bụi đất, thế mà từ ngàn xưa Cha đã yêu con. Con đã nằm trong trái tim nồng nàn của Cha. Ngay từ khi chưa có cõi sao trời. Giữa muôn muôn triệu người, Cha đã chọn được con. Cha chọn con để con cộng tác với Cha, trong công việc trọng đại nhất, đó là cứu rỗi nhân loại. Nghe Sứ Thần nói, mà Maria chẳng hiểu gì. Chỉ nghe trong lòng một nỗi xôn xao, bối rối. Đã biết gì đâu mà vui. Maria lặng lẽ đợi chờ Sứ Thần giải thích.
2- Này Bà sẽ thụ thai.
Vì được đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã chọn bà. Để cho Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng bà. Quá đỗi lớn lao, có tưởng tượng nghìn lần cũng chẳng nghĩ ra. Sao? Chọn con ư? Người tôi tớ nhỏ bé đến dại khờ, mà lại được chọn gánh một gánh nặng cao vời khôn ví thế sao? Hồn chao đi. Nghe hụt hẫng và hoảng loạn, mơ hay thức đây? Nhưng việc ấy xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam. Thánh Thần sẽ xuống trên bà. Ô! Thế là hiểu rồi! Mình sẽ thụ thai, là bởi quyền phép của Chúa Thánh Thần. Đối với Thiên Chúa có gì là khó đâu.
3- Và tôi xin vâng.
Nghe lời giải thích của Sứ Thần. Maria chợt khám phá ra rằng: Tất cả đều đã được Thiên Chúa sắp đặt trong chương trình của Ngài, Ngài chỉ muốn sự cộng tác của mình như một dụng cụ mà thôi. Hiểu được điều ấy, hiểu được hồng ân mà Chúa đang ban cho, nên Maria vội vã đáp: “Vì tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền”. Xin vâng nhỏ nhẹ thôi, nhưng nói lên một niềm tin yêu phó thác to lớn. Mình chẳng còn là mình, hoàn toàn trao đời mình cho thánh ý Chúa. Chính khi xin vâng, cứ tưởng Maria đánh mất mình, mà ngược lại, chính là lúc Maria làm cho mình cao cả khác thường, được trở nên Mẹ Thiên Chúa.
Gợi ý suy niệm:
1- Nhiều lần trong đời, Chúa đã mời gọi bạn cộng tác với Ngài, có lần nào bạn đã lắc đầu chưa? 2- Đã có lần nào bạn chọn ý Chúa, thay vì ý mình?
Người đời thường nói: Một người làm quan cả họ được nhờ. Nếu như chúng ta có một người anh : MV4-B79
Người đời thường nói: Một người làm quan cả họ được nhờ. Nếu như chúng ta có một người anh, một người chị hay một người chú làm lớn, hẳn các em sẽ lấy làm hãnh diện lắm lắm. Còn nếu như bản thân chúng ta, một mai khôn lớn và bước xuống cuộc đời, chúng ta gặt hái được những thành quả tốt đẹp, thì người vui mừng nhất, theo tôi nghĩ, đó chính là người mẹ của chúng ta. Bởi vì người mẹ đã tốn biết bao nhiêu công sức để nuôi dưỡng và giáo dục chúng ta. Cũng chính người mẹ thường mơ ước cho chúng ta một tương lai huy hoàng nhất.
Trong trường hợp của Mẹ Maria thì khác. Với lời xác quyết của sứ thần Gabriel: Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu, Người sẽ nên cao trọng và thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời. Hẳn Mẹ cũng đã biết rằng người con mình sinh ra là ai? Là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Mẹ không bao giờ vênh vang tự đắc về tước vị của mình, trái lại Mẹ luôn khiêm tốn nhận ra rằng: Mình chỉ là một dụng cụ trong lòng bàn tay của Thiên Chúa, vì thế Mẹ đã thưa lên cùng sứ thần Gabriel:
Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần Gabriel truyền.
Chính thái độ khiêm nhường của Mẹ đã làm cho Chúa được hài lòng và Ngài đã cắt đặt Mẹ lên một tước vị cao trọng, tước vị làm Mẹ Thiên Chúa, bởi vì Ngài hạ bệ những kẻ quyền thế và nâng cao những người phận nhỏ.
Lịch sử đã để lại cho chúng ta nhiều mẫu gương đáng suy nghĩ về vấn đề này. Một Lucifer kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa, nên đã bị kết án hoả ngục đời đời. Một Adong Eva cũng chỉ vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, nên đã bị kết án đau khổ và chết chóc.
Trong khi đó những người khiêm nhường luôn luôn được Chúa yêu thương và chúc phúc. Chẳng hạn Đavit, một cậu bé chăn chiên, đã được Chúa nâng đỡ phù trì, đánh thắng Goliah. Và khi Đavit khiêm nhường thú nhận tội lỗi của mình, thì đã được Chúa tha thứ, để rồi Đấng Cứu Thế sẽ xuất thân từ dòng dõi Đavit. Và Mẹ Maria ngày hôm nay là một mẫu gương đáng cho chúng ta suy nghĩ. Đang khi Mẹ hạ mình xuống làm người tôi tớ, thì Thiên Chúa đã nâng Mẹ lên làm Mẹ của Đấng Cứu Thế như lời Ngài đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
Cũng như Ngài đã truyền dạy chúng ta: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường để nhờ đó chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, một hài nhi nhỏ bé và yết ớt nơi máng cỏ Bêlem.
Chúng ta đang ở Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Phụng vụ công bố bài Tin Mừng thuật lại biến cố: MV4-B80
Chúng ta đang ở Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Phụng vụ công bố bài Tin Mừng thuật lại biến cố truyền tin cho Đức Maria (Lc 1,26-38) để nói với chúng ta về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp giáng sinh, đồng thời mời gọi chúng ta sống thái độ tâm linh thánh thiện đích thực như Đức Maria để đón Người.
“Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai thiên sứ Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (cc.26-27).
Thiên sứ Gabriel là sứ giả của biến cố cánh chung, mở ra thời kỳ của sự hoàn tất, thời viên mãn. Thiên sứ được Thiên Chúa sai đến (tác giả Tin Mừng không nói ngài “hiện ra”) với một trinh nữ. Tác giả Lc mô tả Đức Maria với ba chi tiết: trinh nữ, tên là Maria, và đã thành hôn (hay đính hôn, hay kết hôn, tùy cách dịch). Người ta tranh luận nhiều về việc nên dịch là đính hôn hay thành hôn hay kết hôn. Thực ra, cả ba cách dịch đều... chính xác hoàn toàn. Điều quan trọng nhất, vì thế, không phải là hạn từ tiếng Việt nào cần chọn, mà là điều tác giả sách Tin Mừng muốn trình bày.
Tiến trình lễ cưới của người Do Thái gồm hai bước. Bước thứ nhất là việc kết hôn về mặt pháp lý. Sau việc này, cô gái đã trở thành vợ về phương diện pháp luật, như vẫn còn ở nhà cha mẹ khoảng một năm nữa, và do đó, vẫn chưa có quan hệ tình dục với người chồng. Cuộc hôn nhân đã có giá trị về phương diện luật pháp. Ta tạm gọi là ‘đã kết hôn’. Bước thứ hai: việc đón cô dâu về gia đình người chồng, ở đó, lễ cưới được hoàn thành.
Khi thiên sứ đến, Đức Maria đang ở trong giai đoạn đã kết hôn với thánh Giuse về phương diện pháp luật, nhưng các ngài chưa về chung sống với nhau, và do đó, Đức Maria vẫn là một trinh nữ. Nơi sự già nua và son sẻ của bà Êlisabét, quyền năng của Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc sinh hạ lạ lùng, như từng xảy ra trong Cựu Ước nhiều lần. Với sự đồng trinh của Đức Maria, Thiên Chúa thực hiện một sự can thiệp mang bản chất sáng tạo. Cuộc chào đời lạ lùng của Gioan Tẩy Giả thuộc về chuỗi những trường hợp đặc biệt của Cựu Ước, và như thế, với Dacaria và Êlisabét, Thiên Chúa đã làm một “tổng hợp” những sự can thiệp trong Cựu Ước. Nhưng với Đức Maria đồng trinh thì hoàn toàn khác: có một khởi điểm mới, một sự can thiệp hoàn toàn chưa có tiền lệ.
Vậy “thiên sứ vào nhà trinh nữ và nói: ‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (c.28). Thiên sứ Gabriel đã không gọi Mẹ bằng tên riêng “Maria”, mà gọi là “Đầy ân sủng” (theo văn phạm tiếng Việt, chúng ta phải dịch là “Đấng đầy ân sủng”). “Đầy ân sủng” là lối nói mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa đã thực hiện điều gì nơi Đức Maria và do đó, Đức Maria đã trở nên điều gì đối với chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc; Người đã ban cho Mẹ tất cả vẻ duyên dáng nhờ những ân điển của Người; Người đã làm cho Mẹ trở thành vô cùng đáng yêu trong mắt Người; và vì vậy, ân huệ của Người và tình yêu của Người luôn hướng về Mẹ; Người bị hấp dẫn bởi vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng do chính Người tạo nên bằng các ân huệ thiêng liêng của Người. Đức Maria đã xứng đáng được Thiên Chúa lưu tâm và yêu mến. Thiên Chúa làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc, đến nỗi tình yêu và sự quan tâm của Người lại bị thu hút bởi chính vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng mà ân sủng của Người đã làm nên. Và đó thực sự là một mầu nhiệm của mối tương quan giữa Thiên Chúa với Đức Maria. Với tất cả sự ngạc nhiên, với tất cả sự thán phục, với tất cả lòng tri ân, chúng ta được mời gọi suy niệm: làm sao Thiên Chúa vĩ đại vô biên và toàn năng khôn lường, lại đã nghiêng mình một cách đặc biệt như thế trên cô thôn nữ Nadarét và đã làm cho cô thôn nữ ấy trở nên xứng đáng với tình yêu của Người như vậy? Đó vẫn thực là một mầu nhiệm vượt quá trí hiểu của con người.
“Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (c.29). Sự bối rối ở đây là một yếu tố trong cấu trúc của các trình thuật truyền tin trong Kinh Thánh. Ông Dacaria cũng bối rối (1,12). Nhưng ông Dacaria bối rối vì nhìn thấy thiên sứ (liên quan đến cái nhìn) và ông trải qua một cơn sợ hãi điển hình của những cuộc giáp mặt với một thực tại cõi trời. Trường hợp Đức Maria thì hoàn toàn khác: Đức Mẹ không hề sợ hãi, và sự bối rối xảy ra do nghe lời thiên sứ nói (liên qan đến sự nghe). Điều này cho thấy cần phải hiểu câu 29 không phải như một chi tiết tiểu sử, và do đó, không cần phải tìm cách giải thích sự bối rối này theo quan điểm tâm lý học.
Thật ra, với c.29b: “[Đức Maria] tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”, chúng ta có quyền và cần phải hiểu chi tiết Đức Maria bối rối chỉ là một chi tiết có chức năng chính yếu là văn chương, cho phép thiên sứ đào sâu diễn từ đang được trình bày. Nói cách khác, chi tiết này có vai trò chuyển tiếp từ lời tuyên bố thứ nhất sang lời tuyên bố thứ hai của thiên sứ Gabriel.
“Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu” (cc.30-31). Ơn sủng được nói ở c.28 bây giờ được diễn tả trong một cách nói khác: đẹp lòng Thiên Chúa. Và ơn sủng đó làm nên tứ cách làm mẹ của Đức Maria, hay nói cách khác, ơn sủng đó trước hết nằm ở người Con mà Mẹ sẽ sinh hạ từ cung lòng mình. “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (cc.32-33). Các câu này nhấn mạnh sự lớn lao của Đấng sẽ được sinh ra từ cung lòng Đức Maria.
“Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (c.34). Căn cứ vào phong cách văn chương được sử dụng để viết trình thuật truyền tin, và căn cứ vào câu trả lời của thiên sứ ở c.35 tiếp sau, có thể nói: câu 34 này là một kỹ thuật hành văn của thánh Luca, và đảm nhận một chức năng kép. Một đàng, nó có chức năng khẳng định sự thành thai đồng trinh của Đức Giêsu, và đàng khác, nó có chức năng chuẩn bị, về mặt văn chương, cho mạc khải tối hậu về Đức Giêsu ở câu 35.
“Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (c.35). Với câu này, tác giả sách Tin Mừng đặt trên miệng thiên sứ Gabriel lời trình bày một truyền thống Kitô giáo rất đậm đặc về nội dung. Ông sử dụng động từ “rợp bóng” để ám chỉ đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, dấu chỉ sự hiện diện của Đức YHWH giữa dân Người: “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức YHWH đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,35.38; Ds 9,18; 10,34...). Đàng khác, chúng ta gặp ở c.35 lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh tiên khởi, cho thấy sự chờ đợi Đấng Mêsia của dân Do Thánh đã bị vượt quá. Quyền năng Đấng Tối Cao và sự rợp bóng của Thánh Thần không xảy đến trên vị vua nhà Đavít, mà là trên thân mẫu Ngài. Và Đấng sẽ được sinh ra lại chính là Con Thiên Chúa.
“Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (cc.36-37). Những gì đang xảy ra cho bà Êlisabét chính là dấu chỉ của tính cách hữu hiệu của lời thiên sứ: quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện công trình kỳ diệu nơi Đức Maria. Thiên sứ kết thúc câu chuyện với Đức Maria bằng việc khẳng định tính cách hữu hiệu của lời Thiên Chúa nơi Đức Maria.
“Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (c.38). Đức Maria diễn tả sự vâng phục tuyệt vời của Mẹ với chương trình của Thiên Chúa. “Tôi tớ của Đức Chúa” là danh hiệu rất phong phú về ý nghĩa, thường được Kinh Thánh áp dụng cho các nhân vật như Abraham, Môsê, Đavít, các ngôn sứ, Vị Tôi Trung đau khổ... Đó là những con người được Thiên Chúa chọn vì dân Người.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta những khẳng định thần học quan trọng về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp được sinh ra, đồng thời khắc họa dung mạo của Đức Maria trong tư thế người tin và người tôi tớ tuân phục. Đó cũng là hai thái độ tâm linh căn bản mà chúng ta phải có khi chuẩn bị đón Lễ Giáng Sinh.
(Suy niệm của Peter Feldmeier – Lm. Văn Hào SDB chuyển ngữ)
“Quyền năng Đấng tối cao sẽ phủ bóng trên Bà” (Lc 1,35).
Hai Chúa Nhật vừa qua, các bài đọc Kinh Thánh trong phụng vụ giới thiệu cho chúng ta sứ mạng: MV4-B81
Hai Chúa Nhật vừa qua, các bài đọc Kinh Thánh trong phụng vụ giới thiệu cho chúng ta sứ mạng của Gioan Tiền hô. Lời Chúa hôm nay trình thuật biến cố truyền tin cho Đức Maria, khi Gioan còn trong bụng mẹ. Xét về trình tự thời gian, có vẻ như không hợp lý, nhưng các bài đọc Kinh Thánh lại ẩn chứa một ý nghĩa thần học rất sâu xa. Gioan Tiền hô tổng tóm những gì cựu ước nói tới. Ngài là hình tượng của Isaia, khi công bố kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa. Isaia từng loan báo, ngày của Chúa sẽ đến, một ngày đầy khiếp hãi. Gioan Tẩy giả vang vọng lại lời hứa ấy, trong khi Đức Giêsu đến trần gian để làm cho lời Thiên Chúa hứa được thực hiện cách tròn đầy.
Lời Chúa hứa được nhắc tới trong bài đọc thứ nhất. Vua Đavid đã đến cư ngụ tại Giêsusalem và lúc bấy giờ ông mong muốn xây một ngôi đền cho Đức Chúa Giavê. Ngôn sứ Nathan, dưới triều vua Đavid, coi đó như một ý định tốt lành, nhưng Thiên Chúa lại có một kế hoạch khác. Thay vì Đavid xây nhà cho Thiên Chúa, thì chính Chúa lại xây nhà cho ông. Từ ngữ bayit, là một cách chơi chữ, vì nó vừa có nghĩa là nhà ở, đồng thời cũng mang nghĩa là triều đại. Đavid có ý định xây một đền thờ, xây một ngôi nhà, một bayit cho Chúa, nhưng Thiên Chúa lại củng cố bayit của Đavid, cũng là xây nhà cho Đavid, hay xây dựng triều đại của ông. Thiên Chúa hứa một điều rất khác thường. “Nhà của Ngươi và triều đại Ngươi sẽ đứng vững mãi mãi trước nhan Ta. Ngôi báu của Ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời”.
Lời Chúa hứa dành cho Đavid được dân Israel khắc ghi trong tâm khảm. Dân Do Thái coi đó như một giao ước rất rõ ràng và minh nhiên (Hc 45,25). Có phải Thiên Chúa đã hủy bỏ giao ước, khi vương quốc Đavid sụp đổ, và dân Chúa phải đi lưu đày? Thiên Chúa đã hứa, thế thì phải chăng Ngài đã hủy bỏ điều mà Ngài đã ký kết? Hay vì tội lỗi của dân quá lớn và quá nhiều, khiến Thiên Chúa bỏ rơi dân Ngài? Sau này Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Nếu ta không trung tín, Thiên Chúa vẫn luôn tín trung, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2 Tm 2,13). Nhưng dường như ở đây, xem ra có vẻ như Thiên Chúa đã không tín trung, đã thất hứa với lời thề thốt của mình. Có đúng như thế không? Chắc chắn không phải vậy.
Trong bài Tin Mừng, qua biến cố truyền tin cho Đức Maria, thần sứ đã nêu ra câu trả lời trước vấn nạn trên. Chuyện thất tín không bao giờ xảy ra. Thiên Chúa không bao giờ quên giao ước Ngài đã hứa. Trong phần đầu tiên, Gabriel đã chuyển tải sứ điệp để trả lời cho khúc mắc đó. “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ trao cho Người ngai vàng vua Đavid tổ tiên Người, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô tận”(Lc 1, 32-33). Tiếp theo, thần sứ nói với Đức Maria một điều vượt quá sức tưởng tượng: “Chúa Thánh Thần sẽ phủ bóng trên Bà, và hài nhi được sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
Từ lời hứa trong cựu ước, đến việc thực hiện khi Đức Giêsu đến trần gian, đã được Tân ước diễn bày qua những cách nói biểu trưng. Các tác giả Tân ước, nhìn lại những biến cố của cựu ước như chìa khóa tiên báo và là những hình tượng tiên báo các thực tại sau này. Adam trong cựu ước là hình ảnh nói về Đức Giêsu (Rm 5,14). Elia là khuôn mẫu của Gioan Tẩy giả (Lc 1,17). Dân Israel là hình tượng biểu thị cho Giáo Hội (1 Ph 2,a). Chúng ta cũng có thể nói về Đức Maria với hình ảnh biểu trưng trong Cựu ước giống như thế. Đức Maria là hình mẫu tròn đầy nhất mà dân Israel đã phác vẽ. “Trinh nữ”, hoặc ý niệm về “Người Con Gái Trinh Nữ” là danh xưng ám thị Israel. Lời chào của Thần sứ “Chaire” trong tiếng Hy lạp có nghĩa là kính chào, hoặc “Hãy vui lên”, phác vẽ lại hai lời công bố trong cựu ước. Một, là loan báo quyền năng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện để mang lại sự cứu thoát, và hai, là lời hoan vui “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion”(Gio 9,9 ; Sop 3, 14-17).Qua một hình ảnh khác, Đức Maria được loan báo cho biết “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên Bà”. Đây là thuật ngữ mà bản Kinh Thánh 70 (septuagint) đã sử dụng để diễn tả sự kiện vinh quang của Thiên Chúa phủ ngập trên lều Chứng Ước. Trong căn lều đó, ánh sáng chói lọi và vinh quang của Thiên Chúa luôn luôn ngập tràn (Xh 40,35).
Maria là dung mạo hiển thị Israel trong Cựu ước. Sự trung tín của Đức Maria cũng tương hợp với sự trung thành của dân Chúa khi thực hiện giao ước. Đức Maria là đền thờ của Thiên Chúa. Tâm hồn Mẹ luôn tràn ngập vinh quang Ngài. Thiết tưởng, Đức Maria như một tấm gương, qua Ngài chúng ta có thể nhìn ngắm và phản chiếu niềm tin của chúng ta, từng cá nhân cũng như cả cộng đoàn. Tất cả mọi người chúng ta trong lòng tin, chúng ta sẽ là những giai nhân tuyệt mỹ, là con gái Israel không tỳ vết. Chúng ta là đền thờ của Đấng Tối Cao. Và như thế, chúng ta cũng như Đức Maria, là những người mang chở Thiên Chúa trong cung lòng mình. Có thể trong Giáo hội hiện nay, đa phần là những người nam nắm quyền lãnh đạo. Nhưng hình ảnh trên mang tính đặc thù để mời gọi chúng ta, nam cũng như nữ, chúng ta hãy mặc lấy căn tính cao quý này. Chúng ta có bao giờ nghĩ đến điều đó không? Đứng trước viễn cảnh mà thần sứ đã phác dẫn, Maria thực sự bối rối. Nhưng Ngài đã quy thuận Thánh ý Thiên Chúa và thể hiện căn tính cao trọng nơi mình, để trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể thực hiện giống như thế được không?
Thiên Chúa nhập thể đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu tại Bêlem hơn 2000 năm trước. Hôm: MV4-B82
Thiên Chúa nhập thể đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu tại Bêlem hơn 2000 năm trước. Hôm nay, Thiên Chúa muốn mỗi người trở thành nơi Thiên Chúa được cưu mang và sinh hạ. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy trở thành nơi Thiên Chúa ngự như cung lòng Đức Maria, trở thành nơi Thiên Chúa sinh hạ như máng cỏ ở Bêlem, trở thành đền thờ để Thiên Chúa ngự trị và hiển lộ.
1. Ngôi nhà Thiên Chúa ngự
Vua Đavít muốn xây dựng một ngôi đền thờ cho Chúa ngự, vì vua nghĩ rằng thật không phải khi vua sống trong ngôi nhà bằng gỗ bá hương, còn Chúa ngự nơi “lều tạm.” Vua Đavít đã đem ý định này nói cho tiên tri Nathan, và tiên tri với lý trí con người, nghĩ rằng vua cứ làm theo điều vua thấy đúng.
Lời Chúa đã nói với tiên tri Nathan, để nói với Đavít: “ngươi là con người, mà muốn xây nhà cho Thiên Chúa ở sao?” Chính Thiên Chúa mới là Đấng “xây nhà” cho Đavít. Chính Thiên Chúa là Đấng tuyển chọn Đavít khi vua còn là cậu bé chăn chiên, đã làm cho Đavít nổi tiếng, đã cho Đavít chăn dắt nhà Israel. Chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho Đavít, sẽ cho triều đại vua tồn tại qua một người con cháu. Đáp lại ý định quảng đại của Đavít, Thiên Chúa mặc khải cho vua biết ý định của Ngài: một người từ dòng dõi của vua sẽ được yêu thương đặc biệt, và triều đại của vị vua đó sẽ trường tồn vạn đại. Chương trình yêu thương của Thiên Chúa cho con người vượt xa vô cùng điều con người định làm cho Thiên Chúa.
Con người không thể xây nhà để Thiên Chúa ngự, nhà Thiên Chúa ngự luôn là “lều tạm” vì đó là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho con người. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, nơi nào cũng là nhà Ngài cũng thuộc về Ngài, Ngài không cần ai xây nhà cho Ngài. Ở đây Thiên Chúa nhắc nhở con người hãy nhớ “Ngài là ai.” Ngài không giống con người, Ngài vượt xa con người, Ngài siêu việt, Ngài ở “trên trời” nhưng cũng ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa.
2. Đền thờ sống động cho Thiên Chúa
Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng xây dựng ngôi đền thờ này qua cha mẹ mỗi người khi cho mỗi người được sinh ra qua cha mẹ mình; cũng chính Thiên Chúa tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn ngôi đền thờ này qua những lời giảng dạy của những thày cô dạy giáo lý, qua các người thuộc về Ngài như các tu sĩ, qua chính Giáo Hội qua các linh mục và toàn thể dân Chúa.
Chính Thiên Chúa đang xây dựng đền thờ sống động là mỗi người chúng ta cho Ngài. Không ai xây dựng ngôi đền thờ này ngoại trừ chính Ngài, những người khác chỉ là công cụ Thiên Chúa dùng. “Lều tạm” nơi dân Do Thái ngày xưa, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho dân Do Thái. Mỗi người là đền thờ Thiên Chúa, không chỉ như lều tạm nữa, mà là nơi Thiên Chúa vui thích ngự vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Không ai yêu thương mình bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng yêu thương tôi nhất.
Đền thờ Thiên Chúa là nơi con người có thể tới để gặp gỡ, nói chuyện, tâm sự với Ngài. Thiên Chúa mời gọi mỗi người trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác, trở thành biểu hiện Thiên Chúa yêu thương người khác, trở thành dụng cụ sống động để Thiên Chúa hiện diện và diễn tả tình yêu của Ngài cho tha nhân. Mùa vọng và mùa Giáng Sinh, là dịp rất tốt để mỗi người trở về với Thiên Chúa, để mình sẵn sàng cho Thiên Chúa ngự trị và làm những gì Ngài muốn qua chính con người của mình.
3. Đức Maria- Đền Thờ Sống Động Tuyệt Vời của Thiên Chúa
Đức Maria đã đính hôn với Giuse (Lc.1, 27). Như vậy phải chăng cô gái tên Maria này đã quen Giuse, đã yêu Giuse; và họ đã quyết định lập gia đình với nhau; hơn nữa họ đã đi một bước dài: đã đính hôn. Có lẽ chỉ chờ thời gian để thành vợ thành chồng, chờ khi Giuse đón Maria về nhà mình.
Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời của Maria và Giuse, và qua đó ảnh hưởng tất cả nhân loại. Thiên Chúa đề nghị Maria có thai và sinh một con người đặc biệt, không phải do Giuse: “việc đó xảy ra thế nào, vì cho tới bây giờ tôi chưa có liên hệ vợ chồng (với Giuse)” (Lc.1, 34). Sứ thần cho biết, đây là con người đặc biệt, Thiên Chúa là Cha của Người, Người này sẽ trị vì trên nhà Đavít, nước Người rộng vô biên. Để có thể thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, đức Maria đã phải đặt
· tình yêu Thiên Chúa trên tình yêu riêng (đối với thánh Giuse); · ý định Thiên Chúa trên danh dự gia đình; · niềm tin vào Thiên Chúa hơn là chính con người của mình.
Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, thì đức Maria mất người mình yêu thương. Khi thưa tiếng xin vâng, Maria sẵn sàng chấp nhận trường hợp này; vì ý Thiên Chúa được coi là trên hết đối với đức Maria. Nếu Giuse không chịu hiểu, và nếu chuyện tai tiếng xảy tới cho gia đình, làm sao thánh Gioan-Kim và thánh Anna có thể chịu đựng được điều như vậy? Đức Maria chấp nhận tất cả điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho gia đình cha mẹ và họ hàng, ý định của Thiên Chúa phải được coi là trên hết. Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, nếu Giuse tố cáo công khai thì sao, Maria có thể bị ném đá chết như một phụ nữ phạm tội ngoại tình! Nếu chuyện xảy ra như vậy, thì việc nhận lời thụ thai nào có ích lợi gì? Không, đức Maria vẫn hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Thiên Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả những gì, và Ngài có thể làm cho thành sự những gì Ngài đã khởi đầu. Chỉ khi phó thác như vậy, đức Maria mới có thể thưa tiếng xin vâng đối với Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, dù Mẹ chưa thấy rõ hoàn toàn tương lai của mình. Chưa thấy rõ, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng phó thác tất cả cho Thiên Chúa: “Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Lc.1,45). Lúc này, những gì Thiên Chúa nói với Mẹ chưa được thực hiện, nhưng Mẹ tin chúng sẽ được thực hiện. Những điều này Đức Maria chỉ thấy được thực hiện khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết. Đức tin của Mẹ thật tuyệt vời.
Với tiếng Xin Vâng của Đức Maria, Thiên Chúa có thể thực hiện chương trình cứu độ con người của Ngài. Thiên Chúa cần tiếng Xin Vâng của Đức Maria. Thiên Chúa cũng cần tiếng “xin vâng” của mỗi người chúng ta, để thực hiện công trình cứu độ mỗi người chúng ta. Tiếng xin vâng của Đức Maria làm biến đổi lịch sử hoàn vũ, làm Mẹ trở thành người tuyệt vời, người được chúc phúc giữa mọi người nữ. Nếu chúng ta thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, có thể Thiên Chúa đang dùng chúng ta để biến đổi môi trường sống của chúng ta: làm những người ở đó bình an hơn, vui hơn, hạnh phúc hơn. Lúc đó, chúng ta trở nên đền thờ sống động của Thiên Chúa, là nơi hiển lộ Thiên Chúa cho những người sống xung quanh chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, người mà Đức Maria cưu mang và sinh hạ là ai vậy? 2. Khi nào và làm sao người ta biết người con Đức Maria cưu mang là Thiên Chúa nhập thể? 3. Tại sao lại phải loan báo về Đức Giêsu? Ích lợi gì? 4. Bạn đã và đang làm gì để trở nên máng cỏ sống động cho Thiên Chúa được sinh ra?
Ai ai cũng mong đón nhận một tin mừng: một thanh niên thành đạt trong cuộc thi hay đám cưới: MV4-B83
Ai ai cũng mong đón nhận một tin mừng: một thanh niên thành đạt trong cuộc thi hay đám cưới của một người bạn thân... Một đứa trẻ sắp ra đời cũng là một tin mừng -có lẽ là tin mừng lớn lao nhất, đúng nghĩa nhất- bởi vì trước hết, đó là một sự sống mới phát sinh từ tình yêu. Tuy vậy, một tin mừng không có nghĩa là không có lo âu, không có nghĩa là không có những thắc mắc về tương lai.
Biến cố truyền tin cho Đức Maria đúng là một tin mừng, một Tin Mừng đích thực. Với biến cố này, Đức Maria sẽ sinh hạ một người con, nhưng cũng là sinh hạ Con Người, Con Thiên Chúa, đổng thời cũng là sinh hạ một thế giới mới. Nơi người con này, sự chết sẽ vĩnh viễn bị tiêu diệt. Trước lời loan báo như thế, thái độ đáp trả của Đức Maria diễn ra theo ba giai đoạn: trước tiên, khi nghe lời chào của sứ thần, Mẹ hoảng sợ; sau đó, rất cụ thể và với tất cả ý ngay lành, Mẹ lo lắng vì "làm sao có chuyện ấy được"; cuối cùng, sau khi nghe lời giải thích của sứ thần, Mẹ thanh thản nhường chỗ cho Lời của Thiên Chúa, sẵn sàng chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa. Trong khi chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa, Đức Maria cũng tràn đầy vui mừng bởi vì Mẹ nhận biết rằng Thiên Chúa yêu mến Mẹ. Mẹ rất hãnh diện khi biết rằng mình là con cái Thiên Chúa, được Người tuyển chọn để thi hành một việc rất cao cả.
Quả thế, Đức Maria được mời gọi cộng tác vào việc hạ sinh Đức Giêsu. Đó là việc phục vụ tuyệt vời nhất, nhưng đồng thời cũng là công việc đau thương nhất của tất cả mọi người phụ nữ. Còn gì cao quý và hạnh phúc cho người mẹ hơn là việc hạ sinh một người con, một sinh vật hình thành từ chính máu thịt của mình. Nhưng cũng có gì đau thương hơn đối với người mẹ trong việc sinh con, không phải chỉ là những đau đớn thể lý, nhưng là thái độ không chiếm hữu người con, để cho người con ấy hành động như một con người, và tự mình sống đời của mình. Không ít người phụ nữ cảm thấy khó có thể chấp nhận được tình trạng đau thương này.
Riêng với Đức Maria, khi chấp nhận cưu mang Đức Giêsu, Mẹ cũng đã chấp nhận việc Đức Giêsu thoát khỏi đôi tay của mình. Toàn bộ cuộc đời của Mẹ, từ sau biến cố này, luôn là một sự dấn thân, một cuộc phiêu lưu thực thụ trong việc từ bỏ mình, để cho chính người con mình đã sinh ra luôn hướng về việc thi hành thánh ý của Thiên Chúa (x. Lc 2,48-49). Bởi vì Mẹ biết rằng, người con Mẹ đã cưu mang trong cung lòng trinh khiết của mình là do Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, trong cuộc đời của Đức Maria, vai trò làm mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa, vẫn có tầm quan trọng thứ yếu. Điều quan trọng hơn hết, chính là lắng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa.
Ngôi nhà chính là một thái độ
Điều đáng lưu ý trong trình thuật truyền tin, đó là Đức Maria đã không bao giờ dám mơ tưởng mình sẽ nhận được một hồng ân lớn lao; nhưng khi được đề nghị, Mẹ đã ưng thuận.
Nơi Đức Maria, niềm hy vọng của quân vương Đa-vít được thành tựu. Ông từng ước mong xây dựng cho Thiên Chúa một ngôi nhà, nhưng ông đã không được diễm phúc ấy. Đức Maria quả là ngôi nhà mà vua Đa-vít hằng mơ ước, bởi vì Thiên Chúa đã đích thân đến xây dựng nơi ở của Người giữa nhân loại. Chính Thiên Chúa xây dựng cho mình chứ không phải ai khác. Ngôi nhà ấy là một con người sống động, thật khiêm tốn chứ không phải là căn nhà uy nghiêm được xây bằng gỗ đá.
Đức Giêsu chính là Đền Thờ của Thiên Chúa. Người đã đến trong cung lòng Đức Maria. Về phần mình, Đức Maria chưa bao giờ nghĩ đến một điều như thế, và cũng chẳng bao giờ tìm cách xây dựng bằng nỗ lực của mình.
Như thế, một bên, chương trình của vua Đa-vít vẫn còn nằm trong ý tưởng, trong ước mơ, (mơ hồ về cả mục đích: mong muốn tôn vinh Thiên Chúa, điều ấy có; nhưng đồng thời cũng là khát vọng muốn tôn phong vương quyền của mình, muốn chiếm hữu Thiên Chúa. Một bên, Đức Maria chỉ có một ước mơ duy nhất là dâng hiến cuộc sống của mình cho Thiên Chúa (lời khấn trinh khiết là một dấu chỉ), và không tìm cách chiếm hữu Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã thực hiện những điều kỳ diệu: Người đã đến xây dựng ngôi nhà cho mình.
Quả thế, tính cách cao cả nhất trong con người Đức Maria, tính cách làm cho Mẹ trở thành phần tử ưu việt của Ít-ra-en, tính cách làm cho Mẹ trở nên thánh thiện tuyệt vời, đó là Mẹ hoàn toàn thanh thản và sẵn sàng. Thái độ này đã được khởi đầu với lời khấn trinh khiết và ý muốn duy trì nếp sống này mãi mãi, cả khi nghe lời loan báo của sứ thần. Thế nhưng, cũng chính thái độ này làm bật lên tiếng kêu: "Này tôi là Nữ Tỳ của Thiên Chúa". Đức Maria đã từ bỏ một điều tốt đẹp để nhận lấy điều tốt đẹp hơn; đã từ bỏ ý định cao cả của mình để đón nhận điều cao cả nhất là chính Thiên Chúa, là hoàn toàn phục vụ Lời.
Tuy nhiên, Đức Maria chỉ là điểm để Thiên Chúa đi qua. Mẹ hạ sinh Đấng Cứu Thế; nhưng bởi vì là Mẹ Đức Giêsu, nên Mẹ phải để Người ra đi. Người Con của Mẹ không phải là của riêng Mẹ. Người là Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa. Toàn bộ phần kế tiếp của Tin Mừng Lu-ca sẽ nhấn mạnh chi tiết này. Đặc ân của Mẹ, chính là thái độ từ bỏ, để cho Người Con thực hiện chương trình của Thiên Chúa, và Mẹ đã đi theo Người Con ấy đến tận cái chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn đang tìm một ngôi nhà
Đọc đi đọc lại bản văn này, hẳn chúng ta sẽ cảm thấy bị thối thúc đặt mình vào vai trò của Đức Maria và suy tưởng những điều chúng ta phải làm.
Một em bé gái đã đặt câu hỏi với người nói cho em về Đức Maria: Tại sao lại là Mẹ mà không phải là tôi? Người kể chuyện đã đặt câu hỏi khác với em: Tại sao lại là tôi chứ không phải ai khác?
Mỗi chúng ta có thể nói như thế được không? Có thể được, bởi vì chúng ta biết rằng, mỗi lần Đức Ki-tô thâm nhập vào cuộc đời chúng ta, thì đó là một cuộc truyền tin mới, một lễ No-en mới. Và chúng ta hiểu rằng, đó là một hồng ân, một hồng ân đặc biệt Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta.
Bởi vì, như Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Maria, Người cũng muốn đến cư ngụ trong mỗi chúng ta, Người vẫn mong muốn bắt đầu lại nơi mỗi người cuộc phiêu lưu trong cái chết và phục sinh.
Theo nhãn giới này, câu trả lời của Đức Maria quả là một gương mẫu cho sự đáp ứng của con người trước Thiên Chúa, và qua đó, cũng cho thấy khoảng cách giữa chúng ta với gương mẫu này.
Trước lời chào của sứ thần, Đức Maria đã bối rối. Còn chúng ta, chúng ta lại thường điếc, không nghe thấy.
Khi nghe loan báo Tin Mừng, Đức Maria nói "Làm sao...". Còn chúng ta, chúng ta đặt câu hỏi "tại sao?"
Và khi Đức Maria thưa "Xin vâng", thì chúng ta lại tranh luận về những từ ngữ trong bản giao ước với Thiên Chúa.
Lời thưa "Xin vâng" của Đức Maria hoàn toàn chìm sâu trong tình yêu và tin tưởng. Tương lai sẽ ra sao, không cần biết! Thiên Chúa là Đấng tín trung, thế là đủ! Còn chúng ta, chúng ta lại chẳng mau mắn nắm lấy trong tay này điều chúng ta vừa cố gắng bỏ ở tay kia đó sao? Cuối cùng, truyền tin cho Đức Maria thì cũng là truyền tin cho cả nhân loại, cho con người trọn vẹn. Đức Maria đã đón nhận Tin Mừng, và Tin Mừng đã không tránh cho Mẹ những đớn đau, những vất vả. Còn chúng ta, chúng ta đón nhận như thế nào? Có phải Đức Giêsu luôn là Tin Mừng cho chúng ta không? Người vẫn đang đến và đang cần một ngôi nhà.
Trong ba Chúa nhật mùa vọng vừa qua chúng ta đã nghe Thánh Maccô và Gioan kêu gọi hãy tỉnh: MV4-B84
Trong ba Chúa nhật mùa vọng vừa qua chúng ta đã nghe Thánh Maccô và Gioan kêu gọi hãy tỉnh thức, sám hối, dọn tâm hồn và hãy vui lên để đón Chúa vào trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Hôm nay, Chúa Nhật cuối cùng trong bốn Chúa Nhật Giáo hội dành cho chúng ta để chuẩn bị đón mừng đại lễ kỷ niệm biến cố Chúa Giáng Sinh.
Bài Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, tả lại bối cảnh sứ thần Thiên Chúa truyền tin cho Đức Bà Maria. Đây là biến cố đặc biệt mà Đức Maria đã được đặt vào vị trí trung tâm, vị thế quyết định vận mệnh cho cả thế nhân: hoặc được giải thoát khỏi tội lỗi – hoặc vẫn sống đắm chìm trong đêm tối mà vẫn khắc khoải chờ mong một đấng cứu thế. Vì thế, biến cố truyền tin phải được xếp vào trong những biến cố quan trọng hàng đầu trong chương trình cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa. Bởi vì, nếu không có lời “Xin vâng” của Đức Maria thì Đấng Cứu Thế vẫn chưa đến, thế giới này đã không được trở nên trời mới đất mới và có thể loài người chúng ta chưa được hưởng ơn cứu độ.
Lời xin vâng ấy đã làm xoay chuyển cả cuộc đời còn lại của Đức Maria vì trước đó Mẹ đã nhận lời đính ước cùng Thánh Giuse, dòng dõi con vua Đa-vit. Vì thế, khi sứ thần Thiên Chúa Gabrien xuất hiện, chào kính cùng báo tin đã làm thiếu nữ Maria vô cùng sửng sốt và bối rối… nhưng Đức Maria đã không phụ lòng hết thảy nhân gian đang ngày ngày trông đợi, mong có một đấng đến giải thoát họ khỏi khổ cực lầm than.
Đức Maria đã đáp: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. (Lc 1,38).
Khi lời xin vâng trịnh trọng của Đức Maria cất lên không những làm cho cuộc đời Mẹ thay đổi mà cả thế giới cũng được chuyển mình. Vì thế, Đức Maria xứng đáng được làm Mẹ Con Thiên Chúa và trở nên một Eva mới của trời mới, đất mới. Khi chấp nhận để Chúa Con ngự vào lòng mình thì Mẹ đã sẵn sàng để Thiên Chúa Cha hướng dẫn cuộc đời Mẹ, dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu. Quả là một lời hứa bất chấp sự rủi ro, Mẹ đã từ bỏ quyền kiểm soát tương lai và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của mình, hành động đó của Mẹ cũng chỉ vì Tình Yêu cho nhân thế mà bất chấp mạng sống. Mẹ đã nói: Tôi không hiểu được tất cả ý nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng nhưng điều tốt đẹp sẽ xảy ra.
Do đó chúng ta có thể nói Đức Maria đã không chỉ thưa tiếng xin vâng một lần đơn giản trong ngày Sứ Thần Thiên Chúa truyền tin. Trái lại, Đức Maria đã tiếp tục thưa tiếng xin vâng mọi ngày trong suốt cuộc hành trình với Chúa Giêsu và suốt cả cuộc đời Mẹ sau này. Lời thưa: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” đã chứng tỏ Đức Maria đã thực sự là một người khiêm hạ, nhận mình nghèo hèn và đặt mình tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đấng sẽ nâng đỡ và giúp Mẹ sống trung tín suốt cả cuộc đời Mẹ.
Mẹ xin vâng để Chúa Con được làm người và thực thi sứ mệnh mà Chúa Cha giao phó.
Mẹ xin vâng trong suốt chặng đường của cuộc sống gia đình đầy khó khăn.
Cuối cùng Mẹ xin vâng khi chấp nhận để con mình ra đi thi hành sứ mệnh, kể cả khi thấy con đau đớn, kiệt sức và chết trên thập giá.
Thưa cộng đoàn, Lời Chúa trong ngày Chúa Nhật hôm nay mời gọi mỗi người trong chúng ta hãy sống theo gương Đức Maria với lòng khiêm tốn và xin vâng qua những công việc tầm thường xảy ra hằng ngày trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Mẹ Maria đã vui mừng nói lời xin vâng khi Thiên Chúa ngỏ lời hỏi ý, vậy còn chúng ta những Kitô hữu đã và đang lữ hành trên đường tìm kiếm hạnh phúc đích thật, chúng ta có giám mạnh dạn nói “Này con xin vâng” khi Thiên Chúa cần để thực thi Thánh ý của Ngài?
Trong tâm tình những ngày cuối của mùa vọng chúng ta thử một lần nhìn thẳng vào chính con người thật của mình và cùng xin Mẹ Maria phù trợ để biết nói lên lời xin vâng như Mẹ trong mọi hoàn cảnh.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ Maria đã xin vâng trong suốt cả cuộc đời. Amen.
Sau khi đã ngưng nghỉ nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui “Gaudete” vì những gì đã đạt được: MV4-B85
Sau khi đã ngưng nghỉ nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui “Gaudete” vì những gì đã đạt được, nay lễ Giáng sinh đã gần kề, tâm hồn chúng ta càng rạo rực hơn, nên chúng ta phải làm hết sức những gì có thể để hưởng trọn vẹn niềm vui ngày Chúa giáng sinh.
Khởi đầu Mùa Vọng, chúng ta đã nói lên đặc tính Mùa Vọng là mùa tỉnh thức, đợi chờ, mùa của cầu nguyện, hoán cải nội tâm, nhưng không thể không vui, vì niềm vui là đặc tính cơ bản của mùa thánh thiêng này. Lý do rất rõ ràng, vui vì : "Chúa đã gần đến" (Phil 4,5).
Lời đầu tiên Sứ Thần Gabriel cất lên chào Đức Trinh Nữ Maria chất chứa niềm vui lớn lao khi mời Mẹ vui lên: "Mừng vui lên, vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng! "(Lc 1, 28) Lời chào trên có liện hệ mật thiết tới sự giáng lâm của Đấng Cứu Thế. Trước khi toàn dân được nhận biết tin vui, thì Đức Maria là người đầu tiên được báo trước (x. Lc 2,10); Mẹ đã tham dự vào niềm vui ấy với cách thế lạ thường. Nơi Mẹ, niềm vui của Israel được viên mãn ; với Mẹ, hạnh phúc thời messia tròn đầy. Niềm vui của Đức Trinh Nữ Maria là niềm vui đặc biệt của dân Israel "còn sót lại" (Is 10,20s), những người nghèo, những người đang chờ đợi ơn cứu rỗi của Thiên Chúa và những người kinh nghiệm về lòng trung thành của Israel.
Chúng ta cũng thế, để tham dự vào lễ Giáng sinh với niềm vui ngập tràn, điều cần thiết là phải khiêm nhường, đón rước Đấng Cứu Thế với trọn niềm tin như lời Chân phước Phaolô VI Giáo hoàng nói : " Tất cả các tín hữu, khi sống tinh thần Mùa Vọng theo phụng vụ, bằng việc nghĩ về tình yêu khôn tả trong việc đón chờ Con của Người Mẹ Trinh Nguyên này, được mời gọi lấy Mẹ làm mô phạm để dọn mình gặp gỡ Chúa Cứu Thế là Đấng phải đến. Họ cần phải “tỉnh thức nguyện cầu và hân hoan … ngợi khen" (Tông Huấn Việc Sùng Kính Đức Trinh Nữ Maria của Chân phước Phaolô VI, số 4).
Hân hoan vì Thiên Chúa ở giữa loài người
Khi đặt mầu nhiệm Nhập Thể vào trong Mùa Vọng, Giáo hội nhấn mạnh đến thời điểm quan trọng của mầu nhiệm Nhập Thể và cứu chuộc.
Thiên Chúa đến "Cắm lều" trong dân Israel, chở chẻ Hòm Bia Giao ước Lời Thiên Chúa, trong suốt hành trình trong sa mạc (x. Ds 9, 17). Vào năm 598 trước Chúa Giêsu giáng sinh, Giêrusalem bị thất thủ, hòm bia mất tích, hòm bia chứng tỏ sự gần gũi Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Sự gần gũi ấy nay được tỏ hiện trong mầu nhiệm Nhập Thể nơi Đức Trinh Nữ Maria, một người nữ trong chúng ta, đã được Sứ Thần cho biết "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ" (Lc 1, 35). Thật là vui khi Thiên Chúa mặc lấy xác phàm ở giữa chúng ta.
Điều mà tưởng chừng như không thể, nay được biểu lộ như lời Sứ Thần nói :"Không có việc gì mà Chúa không làm được " (Lc 1, 37). Cả Đức Maria và Thiên Thần đều đồng ý với nhau về sự hiển nhiên này của đức tin. Lời trên đã được tuyên phán trong sách Sáng Thế khi nói về sự ra đời của Isaac " Thì nào có gì quá ư huyền diệu đối với Thiên Chúa ? " (St 18, 14). Nay nói về sự sinh hạ của Chúa Giêsu để mọi người nghe mà hiểu về ơn cứu độ con người là có thể (x. Lc 18, 27). Sự sinh hạ của Con Thiên Chúa giữa loài người và sự hạ sinh chúng ta, một nhân loại mới là công trình của Chúa Thánh Thần.
Đức Maria, Người Mẹ Trinh Nguyên
Trong giây phút đón nhận thánh ý Thiên Chúa, do quyền năng Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria đã cưu mang Chúa Giêsu bởi Chính Thiên Chúa. Con Thiên Chúa bắt đầu sự sống trong cung lòng Mẹ. Chúa Giêsu là người thật, nói theo ngôn ngữ biểu tượng của Kinh thánh là tạo nên từ đất; nhưng Người đến từ trời cao : "Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Đấng Tối Cao " (Lc 1, 35).
Bởi lẽ đó, đang khi "rất bối rối", Đức Maria đã hỏi: "Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người nam! (Lc 1,34). Trong sự đơn sơ của mình, Mẹ không hoài nghi quyền năng của Thiên Chúa nhưng muốn hiểu hơn ý định của Chúa hầu sống trọn ý Chúa. Thiên Chúa trông chờ tiếng "Xin vâng" từ Mẹ để thực hiện công trình của Người. Tiếng "Xin vâng" bao hàm cả tình mẫu tử lẫn sự đồng trinh. Mẹ vừa muốn vinh quang Thiên Chúa hiện thực nơi mình vừa muốn Người Con sẽ sinh ra hoàn toàn là quà tặng ân sủng.
Lúc Mẹ thưa "Xin vâng", lời thưa của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Thánh Bernarđô kêu lên : " Ôi lạy Mẹ, Mẹ là đấng cứu chuộc chúng con. Vì khi Mẹ thưa xin vâng, lập tức chúng con được giải thoát. Toàn thể địa cầu trông đợi lời xin vâng của Mẹ. Lời ấy sinh ra Ngôi Lời Hằng Hữu. Thiên Chúa muốn nghe Mẹ tự do trả lời, Mẹ "đầy ân sủng", khi Mẹ thưa : "Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền ! " (Lc 1, 38). Từ ấy Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ, hôm nay vai trò Trung Gian của Mẹ khởi đầu. Kể từ đó Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28).
Hôm nay chúng ta không thể quên khuôn mặt đặc biệt của thánh Giuse, vì cả Mẹ Maria và thánh Giuse đều đã sống một cách thật mãnh liệt duy nhất thời gian chờ đợi và chuẩn bị đón Chúa Giêsu giáng sinh với niềm vui thiêng thánh.
Thánh Giuse người công chính
Thánh sử Luca trình bày Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria như là vị hôn thê của "một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít " (Lc 1,27). Nhờ qua thánh nhân, Trẻ Giêsu được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là "Con của Vua Ðavít".
Thánh Giuse là mẫu gương của người "công chính" (Mt 1,19); trong sự hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, thánh Giuse tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa.
Vì thế, trong những ngày trước lễ Giáng Sinh, thật là thích hợp hơn bao giờ hết, để thiết lập một cuộc đối thoại thiêng liêng với Thánh Giuse, với Mẹ Maria, xin các ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm cao cả Ðức Tin này. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 1:26-38)
Thánh Gio-an Tẩy Giả có một đường lối giúp người ta sám hối để đón nhận Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ: MV4-B86
Thánh Gio-an Tẩy Giả có một đường lối giúp người ta sám hối để đón nhận Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ. Đó là dọn đường mở lối tâm hồn bằng cách quay lưng lại với tội lỗi và hướng về Chúa, như ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo sứ vụ của ngài. Còn đối với Mẹ Ma-ri-a, Mẹ cũng có một đường lối riêng để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa, tuy âm thầm nhưng lại vô cùng quan trọng: thưa “xin vâng” với Chúa trong tâm tình khiêm hạ như người nữ tỳ của Chúa. Những chuẩn bị khiêm nhường ấy được biểu lộ qua cung cách của Mẹ trong biến cố Truyền Tin. Vậy chúng ta hãy lắng nghe Mẹ dạy chúng ta phải làm gì để tiếp đón Con của Mẹ.
Trước hết, đáp lại lời chào của sứ thần, Mẹ “rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”. Những danh hiệu “Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” là để dành cho những người đặc biệt được Thiên Chúa tuyển chọn. Cho nên Mẹ bối rối là phải, vì lúc nào Mẹ cũng chỉ khiêm nhường coi mình là nữ tỳ của Chúa, không xứng đáng lãnh nhận những danh hiệu cao quý như vậy. Nhưng chính lòng khiêm nhường ấy lại làm cho Mẹ “được đẹp lòng Thiên Chúa”, vì Thiên Chúa luôn chống lại kẻ kiêu căng. Sứ thần nói với Mẹ rằng Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ sứ mệnh sinh ra cho nhân loại Chúa Giê-su là “Con Đấng Tối Cao”. Mẹ không phản đối hoặc từ chối thánh ý của Thiên Chúa, nhưng chỉ muốn bày tỏ cho sứ thần thấy rằng việc ấy ở ngoài khả năng của Mẹ. Tuy nhiên, Mẹ lại hoàn toàn tín thác vào quyền năng Thiên Chúa và lắng nghe lời giải thích của sứ thần. Đức khiêm nhường đã giúp Mẹ có được thái độ tín thác ấy. “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Mẹ tin vào chân lý này nên đã phó thác đời mình cho kế hoạch của Chúa.
Khiêm nhường là nền móng để chúng ta tin và để chúng ta mở lòng đón nhận thánh ý Chúa. Ý của Chúa là muốn đến với nhân loại và đến với tâm hồn chúng ta, cho nên muốn đón Chúa đến thì trước hết chúng ta phải sẵn sàng đón nhận ý Chúa! Vậy khiêm nhường là bước đầu tiên Mẹ dạy chúng ta phải làm để đón Chúa vào tâm hồn.
Có một điều rất thích thú và ý nghĩa, là cả ba lần Mẹ đáp lại sứ thần đều biểu lộ cùng một tấm lòng khiêm nhường. Thứ nhất chỉ vì khiêm nhường, Mẹ bối rối trước lời chào của sứ thần. Thứ hai chỉ vì khiêm nhường, Mẹ lo lắng khi được trao sứ mệnh cao cả. Cuối cùng cũng là vì khiêm nhường, trước lời giải thích của sứ thần về quyền năng Thiên Chúa, Mẹ đã đáp lại: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”.
Đó là những gì xảy ra trong biến cố Truyền tin cho Mẹ. Nhưng đức khiêm nhường để đón nhận Chúa nhập thể của Mẹ sẽ còn tiếp tục sau này, trong từng biến cố của cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Giê-su. Đặc biệt nhất, chúng ta phải tin rằng chính đức khiêm nhường của Mẹ khi đón nhận thánh ý Chúa cũng được truyền sang và thể hiện nơi người con yêu dấu của Mẹ. “Lạy Cha, xin đừng theo ý con, mà là theo ý Cha”. Cả hai Đấng đã để lại cho chúng ta một “truyền thống”: con đường để Chúa đến với chúng ta là con đường khiêm nhường.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trong khi các thiếu nữ Ít-ra-en náo nức mong đợi được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ Đấng Ki-tô, thì tại thành Na-da-rét không tên tuổi, thiếu nữ Ma-ri-a luôn khiêm tốn nhận biết mình chỉ là nữ tỳ của Chúa và không xứng đáng danh dự ấy. Thế giới hôm nay cũng giống như vậy. Người ta chuẩn bị những thứ bề ngoài, giăng thật nhiều đèn, sắm thật nhiều quà đắt tiền, mượn dịp Giáng Sinh để buôn bán, khoe khoang… Nhưng chuẩn bị tâm hồn, một tâm hồn thực sự khiêm cung theo gương Mẹ Ma-ri-a, thì người ta ít quan tâm. Biến cố Truyền Tin không chỉ là một Tin Mừng, mà cũng là lời mời gọi chúng ta hãy mở một lối đặc biệt cho Chúa đến, lối khiêm nhu mà Mẹ Ma-ri-a đã dạy chúng ta. Lời thưa “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa” sẽ là tín hiệu để Chúa đến với chúng ta qua nhiều cách: khi chúng ta rước Chúa vào lòng, khi Chúa hiện thân nơi những người chung quanh chúng ta, khi Chúa nhắc nhở chúng ta qua những lời khuyên bảo dạy dỗ. Chúng ta hãy bước theo Mẹ Ma-ri-a để đón Chúa!
Sau khi vua Đavít chiến thắng quân thù và được yên bề gia thất, ông muốn xây cho Đức Chúa: MV4-B87
Bài Đọc I: 2Sm 7, 1- 12.14- 16 Sau khi vua Đavít chiến thắng quân thù và được yên bề gia thất, ông muốn xây cho Đức Chúa một ngôi nhà; vua đem nỗi thao thức này thỉnh vấn với Nathan. Sau khi đã thỉnh ý Đức Chúa, Nathan nói với vua Đavít: Thiên Chúa không cần những ngôi nhà vật chất, nhưng rày đây mai đó với toàn thể con cái Israel. Hơn nữa, Đức Chúa muốn củng cố vương triều của ông bền vững đến muôn đời và làm cho tên tuổi được lừng lẫy, nhờ người con của vua sinh ra. Tình thương của Đức Chúa không rời khỏi con người này.
Bài Đọc II: Rm 16, 25- 27 Thánh Phaolô cho biết mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa dấu kín từ ngàn xưa, nhưng nay đã được biểu lộ cho muôn dân qua Đức Giêsu Kitô như lời các Ngôn sứ trong sách Thánh đã nói, để con người tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí.
Bài Đọc Tin Mừng: Lc 1, 26- 38 Thiên thần Gapriel báo tin cho Đức Maria rằng Mẹ sẽ cưu mang Đấng cứu thế, Người được gọi là Con Đấng Tối Cao. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời và triều đại của người sẽ vô cùng vô tận. Mẹ đã thưa “Xin Vâng” để Thiên Chúa thực hiện những gì Người đã cho Mẹ biết.
II SUY NIỆM Cuộc sống chúng ta hầu như được đan dệt bởi những sự chuẩn bị, kế hoách, dự kiến cho công việc, tương quan và tương lai. Người ta vẫn thường bảo chuẩn bị trước là đã thành công một nửa. Đúng thế, trước một dự án lớn nếu không có khâu chuẩn bị kỹ lưỡng, chúng ta dễ gặp nhiều vấn đề rắc rối và có nguy cơ thất bại. Nhờ tiến trình chuẩn bị, chúng ta sẽ sớm khắc phục những giới hạn, phát huy những lợi thế hầu công việc được xuôi thuận và đạt được thành công.
Cũng vậy, chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã được loan báo từ ngàn xưa, được chuẩn bị trong hành trình lịch sự của dân, và khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria khởi đầu cho một sự chuẩn bị gần Con Thiên Chúa làm người hầu mang lại cho nhân loại ơn cứu độ.
Vậy qua biến cố Truyền tin, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hai điểm sau:
1. Thiên Chúa Muốn Ở Với Con Người
Khi vua Đavít muốn xây cho Thiên Chúa một ngôi nhà, thì chính Ngài đã nói qua Nathan: Ngài không cần ở trong ngôi nhà vật chất, nhưng muốn ở nơi tâm hồn con người và đồng hành cùng con người luôn mãi trong hành trình dương thế. Bởi vì, “tình thương của Đức Chúa không rời khỏi con người” (2Sm 7, 16). Hơn nữa, Đức Chúa muốn củng cố vương quyền Đavít vững bền nhờ người con chí ái xuất thân từ dòng dõi vua.
Nơi biến cố truyền tin, mầu nhiệm Thiên Chúa dấu kín từ ngàn xưa nay đã được biểu lộ cho chúng, để con người tin và vâng phục Thiên Chúa (Rm5, 26). Như vậy, những gì Thiên Chúa nói với vua Đavít qua Nathan, thì Thiên thần đã báo tin cho Mẹ biết Đấng mẹ cưu mang và sinh ra là Con Đấng Tối cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận (Lc 1, 32- 33). Người con mà Mẹ cưu mang sẽ giải thoát con người khỏi gông cùm tội lỗi và sự chết.
Có lẽ, Thiên Chúa không chỉ cứu độ con người bằng quyền năng mà còn bằng sự gần gủi và chung chia kiếp sống con người. Qua Đức Kitô, tình thương của Thiên Chúa được biểu lộ cách trọn vẹn. Quả thực, “Thiên Chúa sai Con của Người đến, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 17). Nơi thư Thexalônica, thánh Phaolô cho ta biết về ý tưởng này: “Thiên Chúa không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1Tx 5, 9). Do đó, cho dầu chúng ta phản bội tình yêu Chúa bằng chính tội lỗi, Ngài vẫn đi bước trước và mời gọi con người ăn năn sám hối, quay về với lòng nhân hậu và bao dung của Ngài.
2. Sự Đáp Trả Của Con Người
Thánh Augustine đã nói: Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa không cần sự đồng ý của con người, nhưng khi cứu độ con người, Thiên Chúa cần có sự đồng ý của con người. Thiên Chúa không ép buộc một ai, nhưng mời gọi con người bước vào chương trình cứu độ của Ngài. Khi tạo dựng, Thiên Chúa đã ban cho con người tự do và Ngài luôn tôn trọng sự tự do ấy. Bởi chưng, tình yêu được thể hiện qua tự do; thiếu vắng nó, tình yêu sẽ mất đi ý nghĩa, nếu không muốn nói là tình yêu không còn lý do để tồn tại. Như vậy, sự đáp trả của con người trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa là điều vô cùng quan trọng. Nó không chỉ nói lên sự ưng thuận của con người trước ơn cứu độ của Thiên Chúa, mà còn cộng tác cùng Ngài trong việc loan báo Tin Mừng.
Tiếng “Xin Vâng” của Mẹ Maria đã nói lên sự trao hiến tất cả con người và cuộc đời của Mẹ cho Thiên Chúa. Mẹ luôn tin tưởng và phó thác cho tình thương và quyền năng Thiên Chúa, vì mẹ biết rằng:
Quyền năng Thiên Chúa sẽ làm nên những điều kỳ diệu nơi tâm hồn hèn mọn biết quy phục Ngài
Quyền năng Thiên Chúa có sức giải gỡ các mối giây xiết chặt con người trong tội lỗi và chiếu dãi ánh sáng cứu độ hầu mang lại cho con người ơn giải thoát và niềm hy vọng.
Quyền năng Thiên Chúa vượt lên trên những giới hạn bản thân, giúp con người tìm về Chân-Thiện-Mỹ, nhận ra giá trị và niềm vui cuộc sống.
Có thể nói, lời “Xin Vâng” của Mẹ không nói lên một lần thay cho tất cả, nhưng được lặp lại liên tục trong cuộc sống: từ lúc Sứ Thần truyền tin cho đến lúc đứng dưới cây thập giá. Cuộc đời Mẹ là tiếng “Xin Vâng”, cho dầu lắm khi phải bước đi trong đường hầm của thử thách. Qua tiếng “Xin Vâng”, Mẹ đã nói lên sự tuân phục, phó thác và niềm tin tuyệt đối.
III ÁP DỤNG
Có lẽ cuộc đời chúng ta có nhiều sự chuẩn bị với muôn vàn lý do khác nhau. Nhưng thử hỏi ai trong chúng có dành một thời gian nhất định chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa vào tâm hồn mình. Biết bao lần Thiên Chúa đến với chúng ta qua các biến cố hoặc nơi anh chị em, nhưng chúng ta lại đóng kín cửa lòng và dửng dưng trước những nỗi khốn cùng của người khác. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn gõ cữa tâm hồn và mời gọi chúng ta đi vào quỹ đạo tình yêu của Ngài. Ngài không thụ động chờ chúng ta, nhưng đi bước trước và muốn gỏ lời mời gọi chúng ta chung phần vinh phúc cùng Ngài.
Chắc hẳn, cuộc sống có nhiều thứ để lo, để chuẩn bị, song đừng để bất cứ thứ gì che lấp khả năng nhận ra bước chân của Chúa đến với chúng ta. Bởi vì:
Có Chúa trong cuộc đời, chúng ta sẽ có niềm vui và hạnh phúc.
Có Chúa trong cuộc đời, những bóng đêm tội lỗi sẽ tan biến, những yếu hèn sẽ được lấp đầy và những thói xấu sẽ được hoán đổi.
Có Chúa trong cuộc đời, con người sẽ nhận ra giá trị đích thực của cuộc sống và hành trình dương thế sẽ chất đầy niềm an vui, hạnh phúc.
Có Chúa trong cuộc đời, hành trình chứng nhân sẽ vững chãi và có khả năng mang lại cho người khác hơi ấm tình thương.
Có Chúa trong cuộc đời, chúng ta sẽ được biến đổi nên một con người mới, con người thấm đượm Tin Mừng và hăng say rao truyền tình thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra Chúa nơi những người nghèo khó, nơi những biến cố thường ngày để con có thể đón nhận tất cả với niềm tri ân và tín thác.
- (c 27)+ Trinh nữ: Từ này không xác định về đức trinh khiết của Đức Ma-ri-a, vì trinh nữ đơn giản chỉ là một cô gái chưa lấy chồng. Sự thanh khiết của Đức Ma-ri-a được khẳng định qua lời thưa với sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Sở dĩ trinh nữ Ma-ri-a được chọn cho thấy lời tuyên sấm của I-sai-a về một trinh nữ thụ thai và sinh con trai là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đã được ứng nghiệm nơi Đức Ma-ri-a (x. Is 7,14 ; Mt 1,23).
+ Đã đính hôn: Từ khi đính hôn, Giu-se và Ma-ri-a đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này được kể là con chính thức của hai người. Tuy nhiên, theo phong tục trong xã hội Do Thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi họ đàng trai tổ chức lễ cưới đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18).
+ Thuộc nhà Đa-vít: Chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế vì theo sấm ngôn của I-sai-a thì Đấng Cứu Thế phát xuất từ gốc là tổ phụ Giê-sê cha của Đa-vít (x. Is 11,1) và nơi sinh của Người là Bê-lem, quê hương của vua Đa-vít (x. Mk 5,1).
+ Ma-ri-a: hay Mi-ry-am, là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để phân biệt, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Ma-ri-a Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Ma-ri-a mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Ma-ri-a mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su (x. Cv 1,14).
- (c 28)+ “Mừng vui lên”: Đây không phải là cách chào giữa những người dân bình thường, nhưng là lời chào đặc biệt chỉ dành cho những người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9).+ “Đầy ân sủng”: Tước hiệu dành riêng cho Đức Ma-ri-a, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội và luôn có Chúa ở cùng.
- (c 32)+ Con Đấng Tối Cao: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các ông vua dòng tộc Đa-vít. Qua câu này, sứ thần ám chỉ Đức Giê-su là vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ cai trị Ít-ra-en, và triều đại của Người sẽ vững bền mãi mãi.
- (c 34)+ “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không ‘biết’ đến người nam!”: “Biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợpvợ chồng”. Câu thắc mắc của Ma-ri-a không chứng minh việc Ma-ri-a đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh như có người lầm tưởng. Qua câu này, Ma-ri-a chỉ thắc mắc làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay lúc này được, khi mà Ma-ri-a mới chỉ đính hôn để làm vợ thánh Giu-se về luật pháp, và chưa được Giu-se tổ chức rước dâu về nhà.
- (c 35)+ Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà...”: Sứ thần giải thích cho Ma-ri-a hiểu việc thụ thai của Ma-ri-a xảy ra do quyền năng Thánh Thần, để ứng nghiệm lời tuyên sấm của I-sai-a: Đấng Cứu Thế sẽ do một gái đồng trinh thụ thai và sinh ra (x. Is 7,14). + rợp bóng: Kiểu nói nhắc lại sự kiện đã từng xảy ra trong sa mạc, khi dân Do Thái vượt qua sa mạc để về Đất Hứa: Đức Chúa luôn hiện diện giữa dân Người bằng cách cho cột mây “rợp bóng” che phủ Nhà Tạm và Lều Hội Ngộ (x. Xh 40,34-38). Ngoài ra, “rợp bóng” cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa, giống như chim phượng hoàng sải cánh bao phủ và che chở con dân Ít-ra-en của Người (x. Tv 17,8). + “Đấng Thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa, được hiến “thánh” dành riêng cho Thiên Chúa để thi hành sứ mạng cứu thế. - (c 36) + Kìa bà Ê-li-sa-bét...: Sứ thần chứng minh quyền năng của Thiên Chúa qua việc bà chị họ Ê-li-sa-bét, tuy đã cao tuổi và bị hiếm hoi, nhưng đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân thụ thai con trai và tới nay đã được sáu tháng.
- (c 38)+“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: Khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Ma-ri-a biểu lộ đức khiêm nhường và lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa. + “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”: Ma-ri-a đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thực vậy, ngay sau lời thưa “Xin Vâng”, Thánh Thần đã tác động làm cho Ma-ri-a thụ thai, mà không cần tới việc tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy trở thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con”, “Ngôi Hai” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính: vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm.
HỎI: Thắc mắc của Đức Ma-ri-a và của ông Da-ca-ri-a (x. Lc 1,18) có giống nhau hay không?:
ĐÁP: Cả hai cùng đưa ra thắc mắc, nhưng trong hai tâm trạng khác nhau: Thắc mắc của Da-ca-ri-a biểu lộ tâm trạng hoài nghi về quyền năng của Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt cấm khẩu không thể nói được. Sự cấm khẩu này là dấu chỉ bà Ê-li-sa-bét chắc chắn sẽ có thai cách khác thường (x. Lc 1,20). Còn lời thắc mắc của Đức Ma-ri-a biểu lộ tâm trạng tin tưởng: Ma-ri-a muốn tìm biết thánh ý Chúa để xin vâng. Do đó, Mẹ đã được sứ thần ca tụng là Đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và được bà Ê-li-sa-bét khen ngợi là “diễm phúc, vì đã tin lời Chúa phán sẽ được thực hiện” (x. Lc 1,45).
4. CÂU HỎI: 1) Thánh Kinh cho biết có mấy Tổng lãnh thiên thần? Các Tổng lãnh thiên thần được nêu đích danh là những ai? Ý nghĩa của các tên gọi của các vị ấy là gì? 2) Tại sao Thiên Chúa lại chọn Ma-ri-a đang là một “Trinh nữ” để làm mẹ Đấng Cứu Thế? 3) Lúc thưa “Xin vâng” để thụ thai Đấng Cứu Thế do quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã kết hôn với thánh Giu-se chưa? 4) Câu thắc mắc của Đức Ma-ri-a khác với thắc mắc của ông Gia-ca-ri-a ra sao? 5) Sứ thần muốn nói gì qua câu: ”Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
2. CÂU CHUYỆN: ĐẾN VỚI CHÚA GIÊ-SU NHỜ MẸ MA-RI-A (AD JESUM PER MARIAM):
Vào một buổi chiều đông lạnh giá, PHUN-TƠN (FULTON OURSLER), một tín hữu bị mất đức tin bỏ nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp quá nhiều vấn đề khó khăn nan giải. Khi đi ngang qua đại lộ Nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình nào đó cuốn hút ông vào nhà thờ và đẩy đến quỳ trước tượng Đức Mẹ. Sau một lát im lặng, Phun-tơn tự nhiên đã thốt ra một lời cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Ma-ri-a, có thể chỉ một lát nữa thôi là con sẽ lại đổi ý để tiếp tục bài bác chế diễu các việc đạo đức con đang làm để trở lại con đường vô tín. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật sự bình an, dù con đang gặp nhiều khó khăn nan giải. Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giê-su ban thêm đức tin cho con”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều lạ lùng kỳ diệu xảy ra nơi bản thân, biến ông trở thành một con người mới: Ông đã có lại đức tin ! Từ đây, ông luôn sống kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để làm chứng cho Chúa Giê-su bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái. Chính nhờ Mẹ mà ông đã đến được với Chúa Giê-su.
3. SUY NIỆM: sống Xin Vâng trong cả cuộc đời:
Hôm nay là Chúa Nhật 4 Mùa Vọng, Hội Thánh chọn Tin Mừng Lu-ca (Lc 1,26-38) về sự kiện sứ thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a, qua đó trình bày cho chúng ta tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ loài người. Thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Ý Chúa và mau mắn “Xin Vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái độ mà các tín hữu cần có để chuẩn bị đón Chúa đến ban ơn cứu độ.
1) CẢM TẠ HỒNG ÂN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA:
- Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành dã thuật lại: “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,34). Nhà Tạm là nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước, trong đó có hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên Chúa đã được Thiên Chúa ban cho dân Ít-ra-en qua ông Mô-sê trên núi Xi-nai. Hòm bia Giao Ước là hình ảnh của Đức Ma-ri-a thời Tân Ước.
- Trong biến cố truyền tin, sứ thần Gáp-ri-en đã hiện đến chào kính Đức Ma-ri-a là đấng đầy ân sủng luôn được Thiên Chúa ở cùng. Rồi sứ thần báo tin vui Ma-ri-a đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của hài nhi Cứu Thế Giê-su. Bấy giờ Ma-ri-a đã thắc mắc làm sao có thai được “khi không biết đến việc vợ chồng”. Bấy giờ sứ thần đã mặc khải cho Ma-ri-a về mầu nhiệm trinh thai: cô sẽ được thụ thai do quyền năng Thánh Thần, hầu ứng nghiệm sấm ngôn của I-sai-a: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7,14).
- Câu chuyện sứ thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a cho thấy tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người. Trong những ngày này chúng ta hãy năng dâng những lời nguyện tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một Đấng “Em-ma-nu-en” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23), để chúng ta có thể gặp gỡ, tâm sự và đón nhận được hồng ân cứu độ do Người ban cho chúng ta.
2) SỐNG TINH THẦN MÙA VỌNG NOI GƯƠNG ĐỨC MA-RI-A:
Điểm nổi bật của Mẹ Ma-ri-a mà Hội Thánh muốn các tín hữu suy niệm và học tập noi gương trong mùa Vọng này là thái độ khiêm cung tin cậy phó thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, thể hiện qua lời thưa “xin vâng” của Đức Mẹ.
- “Xin vâng”: Trái với thái độ kiêu ngạo không vâng lời của E-và kết hợp với A-đam xưa trong vườn địa đàng, Đức Ma-ri-a là E-và Mới thời Tân Ước đã cộng tác với A-đam Mới là Chúa Giê-su để lắng nghe Lời Chúa, khiêm tốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa và cúi đầu thưa “Xin Vâng”. Ngay sau lời thưa này, Chúa Thánh Thần đã tác động làm cho Ma-ri-a thụ thai, như lời kinh truyền tin: “Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thê làm người, và ở cùng chúng tôi”. Từ đây, Đức Ma-ri-a hằng ghi nhớ các biến cố xảy ra và “suy đi nghĩ lại trong lòng” (x. Lc 2,19). Mẹ mang Thai Nhi đi thăm gia đình Gia-ca-ri-a và làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng bà I-sa-ve (Lc 1,41). Nhất là Mẹ đã “xin vâng” khi dâng Con Yêu cho Thiên Chúa trong biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su.
- Phó thác: Qua biến cố truyền tin, chúng ta cũng noi gương Mẹ để cậy trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng. Ngày nay việc giúp những người không tín nhận biết tin thờ Thiên Chúa, cũng như chừa cải các thói hư nơi bản thân và xóa bỏ các tệ nạn xã hội như xì-ke ma-túy, cờ bạc đĩ điếm, lừa đảo cướp giật... không dễ thực hiện. Nhưng lại không khó trước mặt Thiên Chúa, vì: “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt kết quả, chúng ta cần noi gương Mẹ Ma-ri-a năng thưa chuyện với Chúa Giê-su và thực hành lời Người dạy, như trong tiệc cưới Ca-na Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn: “Họ hết rượu rồi” và dạy các người giúp việc phải vâng lời Chúa Giê-su: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,3-5).
- Tất cả đều là hồng ân: Khi gặp sự may lành, ta cúi đầu cảm tạ hồng ân Chúa ban. Nhưng ngay cả những lúc gặp gian nan thử thách, chúng ta cũng vẫn cảm tạ và thưa “Xin Vâng”, vì biết rằng: mọi sự Chúa để xảy ra đều hữu ích cho phần rỗi chúng ta, vì Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành, Chúa không bao giờ triệt đường sống của chúng ta: “Chúa đóng cửa chính, nhưng vẫn mở cửa sổ” và lời thánh Phao-lô: “Tất cả đều là hồng ân”(x. 1 Cr 15,10).
4. THẢO LUẬN: 1) Noi gương Thánh Mẫu Ma-ri-a xưa, mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để có thể luôn thưa lời “Xin Vâng” theo Thánh ý Thiên Chúa, dù gặp tai nạn, rủi ro, thất bại hay những điều trái ý mình? 2) Bạn nên làm gì để động viên người khác xin vâng ý Chúa nếu họ gặp những điều rủi ro trái ý như: thi rớt đại học, có người thân mới qua đời, gặp tai nạn giao thông phải nằm điều trị trong bệnh viện...?
Có thể nói cuộc đời của những bậc thánh nhân đều gói trọn vào hai tiếng “xin vâng”. Phải, chỉ: MV4-B89
Có thể nói cuộc đời của những bậc thánh nhân đều gói trọn vào hai tiếng “xin vâng”. Phải, chỉ những ai biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa, người ấy mới có thể là thánh nhân. Vì chưng, không gì tuyệt hải hơn sự vâng phục. Nhu cầu lớn nhất của nhân loại chính là sự tự khẳng định mình. Khi vừa lọt lòng mẹ, đứa trẻ đã khẳng định chính nó bằng tiếng khóc chào đời. Mỗi người là một con người, mỗi người là một cá vị, không ai giống ai, không ai có thể là ai. Vậy mà khi vâng phục, người ta phải từ bỏ cái “tôi là ai” đấy để trở thành một người khác, sống cho người khác.
Niềm tin và tình yêu là hai nguyên lý nền tảng giúp ta thi hành thánh ý Thiên Chúa cách trọn hảo. Không có niềm tin và tình yêu thì làm sao có thể vâng phục được. Vâng phục trong những việc nhẹ nhàng đã khó, đàng này còn hy sinh cả cuộc đời, cả những ước mơ, những nhu cầu chính đáng của mình để sống vì người khác, điều đó thực sự không đơn giản một chút nào.
Đức Maria đã khấn giữ mình đồng trinh, đó là một ước mơ thầm kín của bất kỳ cô gái nào trên thế giới này. Mẹ đã định hướng cho cuộc đời mình bằng việc: “Không biết đến chuyện vợ chồng” ( Lc 1, 34 ), vậy mà Thiên Chúa lại muốn Mẹ “Thụ thai và sinh hạ một con trai, đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và được gọi là con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận” ( Lc 1, 33 ).
Sứ mệnh mà Sứ Thần Thiên Chúa đến trao cho Đức Maria quả thật chẳng dễ để có thể chấp nhận. Vì chỉ cần gật đầu đồng ý cũng đồng nghĩa với việc lý tưởng cuộc đời Mẹ sẽ hoàn toàn sang trang. Một trang sử hoàn toàn trái ngược với ước muốn và dự định thầm kín mà mẹ đã ấp ủ biết bao năm qua.
Thái độ lo lắng, bồn chồn, lo âu, hồi hộp của mẹ là hợp lý vì quá đột ngột, và ngoài sức tưởng tượng của mẹ. Nhưng chính vì tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa mà cuộc đời đã mở sang một bước ngoặc mới. Mẹ đã cúi đầu vâng phục thánh ý Thiên Chúa không phải vì lợi ích của mình nhưng chính vì vinh danh Thiên Chúa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, vàquyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” ( Lc 1, 35 ).
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” ( Lc 1, 38 ). Lời thưa xin vâng được thớt lên từ tận cùng trái tim Mẹ nghe chừng đơn giản nhưng cả là một lựa chọn và quyết định lớn lao. Không ai có thể dễ dàng thưa vâng trước những sự việc trái ngược với ý muốn của mình. Niềm tin và tình yêu của Mẹ vào Thiên Chúa mãnh liệt và cao cả quá. Mẹ sống nhưng không cho mình mà là vì Thiên Chúa. Chỉ có thế, Mẹ mới có thể hiến dâng trọn vẹn cả cuộc đời vinh danh quyền năng Thiên Chúa được.
Mỗi người chúng ta khi được xuất hiện trong cuộc đời, trước tiên là kết quả vâng phục của cha mẹ. Vâng phục ý muốn truyền sinh của Thiên Chúa mà cha mẹ đã sinh ra ta hiện diện trong cuộc đời này. Và ngày chúng ta chào đời cũng là ngày chúng ta khởi đầu sống vâng phục. Chắc chắn để vâng phục trọn hảo không dễ, luôn đòi hỏi ở ta sự hy sinh, cố gắng cùng với niềm tin và lòng mến tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng làm chủ sự sống và cái chết của chúng ta. Sống theo ý người khác đã khó, sống vâng phục Thiên Chúa lại càng khó hơn. Vì khi vâng phục Thiên Chúa cũng là lúc Ngài huấn luyện chúng ta nên tinh tuyền thánh thiện như Ngài vậy.
Lạy Mẹ Maria, con cảm ơn Mẹ. Chính nhờ sự vâng phục của Mẹ mà hôm nay con có được niềm vui cứu độ. Nhờ Mẹ đã hy sinh quên mình, bỏ đi ý muốn bản thân để sống cho thánh ý Thiên Chúa mà hôm nay con có được niềm vui giáng sinh – Thiên Chúa làm người để cứu độ con. Sự vâng phục của Mẹ được ươm mầm trong sự vâng phục của Con Một Thiên Chúa. Vì yêu thế gian Ngài đã thi hành thánh ý Chúa Cha đến làm người, cứu độ chúng con. Con muộn màng nhận ra cuộc đời mình không gì khác hơn chính là kết quả sự vâng phục của những bậc thánh nhân. Vậy thì há cớ gì con lại không thể vâng phục Thiên Chúa để có thể đem hạnh phúc đến cho mọi người xung quanh ?
Xin giúp con có được tâm hồn khiêm nhượng, bé nhỏ, đơn sơ, hiền lành và phó thác như Mẹ. Tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa, từ bỏ ý riêng, sở thích, thói quen, quan niệm… để biết sống chu toàn thánh ý Ngài như Mẹ đã vâng.
Bài đọc thứ nhất trích sách tiên tri Samuel và bài Tin Mừng trích Phúc âm theo thánh Luca cho MV4-B90
Bài đọc thứ nhất trích sách tiên tri Samuel và bài Tin Mừng trích Phúc âm theo thánh Luca cho chúng ta hai hình ảnh về việc chuẩn bị một nơi cho Chúa ngự trị.
Hình ảnh thứ nhất, đó là hình ảnh vua Đavít. Thực vậy, sau những cuộc chinh chiến đầy vất vả, hòa bình đã trở lại. Nhà cửa được xây dựng bằng các thứ gỗ quí, ông mới nghĩ đến việc xây dựng một đền thờ để Hòm Giao Ước. Thế nhưng, Chúa đã phán cùng ông: Ngươi mà tính xây nhà cho Ta ở sao? Ngươi đi đâu, Ta cũng đã luôn ở với Ngươi.
Hình ảnh thứ hai, đó là hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria. Thực vậy, Đức Trinh Nữ Maria chỉ là một thiếu nữ nghèo hèn, không vàng không bạc để có thể xây dựng một đền thờ nguy nga cho Thiên Chúa, nên chỉ biết dọn lòng mình cho tốt lành trước mặt Thiên Chúa, vậy mà Thiên Chúa đã chọn Mẹ để xuống thế làm người. Chính Chúa ở trong cung lòng Mẹ, nên Mẹ đi đâu, thì cũng đem đến sự tốt lành và mừng vui tới đó.
Từ những sự việc kể trên, chúng ta nhận ra rằng: Chưa hẳn Chúa đã cần đến những đến những đền thờ, những thánh đường nguy nga tráng lệ cho bằng một cõi lòng đầy yêu thương chân thành. Do đó, để được gắn bó mật thiết với Chúa, không gì hay cho bằng chúng ta hãy dọn lòng chúng ta, mời Chúa ngự trị và chiếm lĩnh toàn bộ con người chúng ta, lúc đó chúng ta không phải chỉ kết hiệp với Chúa ở trong nhà thờ, mà ngay cả trong đời sống thường ngày, chúng ta vẫn có Chúa đi theo, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô: Tôi sông, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Và lúc đó, chúng ta sẽ trở nên mọi sự cho mọi người.
Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta thường rất trang nghiêm sốt sắng ở trong nhà thờ, nhưng một khi đã ra về và cửa nhà thờ đóng lại, chúng ta bước xuống cuộc đời và để Chúa lại trong nhà tạm. Có những trường hợp vừa ra khỏi thánh đường, chúng ta đã vội vã cư xử thù hận với nhau, còn thua cả những anh em lương dân.
Nếu chúng thục sự có Chúa ở trong tâm hồn, thì cuộc đời chúng ta sẽ an vui, hạnh phúc và bản thân chúng ta mới dễ cư xử chân thành và yêu thương đối với hết mọi người.
Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành, có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc MV4-B91
Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành, có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong giáo xứ như sau:
Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc, đó là tiếng nước chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó.
Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích: Cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây một căn phòng ngay bên mạch nước, kể từ đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.
Mạch nước ngay trong nhà mình, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi suốt quãng đường về, và tôi đoán ra được đâu là bí quyết hạnh phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó.
Câu chuyện trên đây gợi lại trong tâm trí chúng ta lời sứ thần chào Đức Trinh nữ: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” (Lc 1,28). Vâng, Mẹ chính là mạch suối tràn đầy thánh ân, mạch suối trong lành tươi mát, mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.
Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã ưu đãi và ban ơn đặc biệt cho Mẹ qua lời sứ thần: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa” (Lc 1,30). Và để bảo đảm cho sự can thiệp đặc biệt này, sứ thần loan báo thêm: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh nữ, và uy quyền Đấng Tối cao sẽ bao trùm Trinh Nữ” (Lc 1,35). Như vậy việc sinh con này hoàn toàn do Thiên Chúa, xác thịt không tham dự vào.
Cuối cùng, thiên thần đã kết thúc sứ điệp Truyền Tin bằng một lời bhao đảm tuyệt diệu: “vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1,38).
Và Đức Maria, với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác liền thưa: “Xin Vâng” (Lc 1,38). Một câu tuy ngắn gọn nhưng đã thay đổi hoàn toàn bô mặt thế giới. Một câu đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi. Một câu đã đem lại cho muôn loài niềm hy vọng và bình an.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một thế giới tuyệt vọng trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một cung lòng trinh nữ không sinh con, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Satan, đã được tự do làm con cái Chúa.
Lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ không chỉ thốt lên một lần để thay cho tất cả, nhưng là tiếng “Xin vâng” liên lỉ trọn cả kiếp người. Từ tiếng “Xin vâng” đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời “Xin vâng” trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá.
* Lạy Mẹ Maria, việc Mẹ thụ thai cách lạ lùng là dấu hiệu báo trước sứ mạng cao cả của Hài Nhi. Xin cho chúng con biết vâng phục và phó thác cho chương trình nhiệm màu của Chúa. Nhất là, xin Mẹ cho chúng con biết cộng tác với Ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen.
Thiên Chúa đầy yêu thương. Ngài đã sáng tạo con người cách kỳ diệu và Ngài cứu chuộc còn diệu kỳ MV4-B92
Thiên Chúa đầy yêu thương. Ngài đã sáng tạo con người cách kỳ diệu và Ngài cứu chuộc còn diệu kỳ hơn nữa. Để thực hiện kế hoạch cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã chọn một người phụ nữ thánh thiện, tốt lành, đẹp nết, đẹp lòng mến Chúa không ai sánh bằng.
Thiên Chúa quyền năng và đầy lòng yêu thương, Ngài đã có kế hoạch thực hiện công trình cứu chuộc một cách kỳ diệu. Trước khi tạo dựng loài người, Thiên Chúa đã xây dựng và điểm tô một nơi được gọi là vườn địa đàng nhưng hai ông bà nguyên tổ đã đạp đổ chương trình tốt đẹp này và hạnh phúc loài người cũng tan vỡ theo. Chính trong lúc ấy, Thiên Chúa dự định một công trình tạo dựng thứ hai đó là cứu chuộc loài người. Để thực hiện chương trình mới này, Thiên Chúa cũng muốn tô điểm cho vườn địa đàng mới này. Trong vườn địa đàng này đó là cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, nơi con Thiên Chúa chọn làm con người. Vườn địa đàng này là công trình của Thiên Chúa nhập Thể, nơi này diễn ra một hôn ước quan trọng, hôn ước giữa Thiên Chúa với nhân loại. Và từ đó, tình yêu đã bắt lại nhịp cầu giữa Trời và Đất, khai mở một kỷ nguyên mới.
Từ vườn địa đàng này, xuất hiện một sự ưng thuận mới, một sự vâng phục hoàn toàn. Đức Maria đã trở thành một Eva mới. Nếu Eva xưa đã chối bỏ kế hoạch tình yêu của Chúa mà đã làm theo kế hoạch đen tối của ma quỷ và đem tội lỗi cùng cái chết vào trần gian cho con cái loài người thì nơi Đức Maria, một Eva mới đã coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ nên đã trở thành người diễm phúc xứng đáng làm Mẹ Thiên Chúa nhập thể làm người và làm mẹ của cả loài người.
Giống như Đức Maria, mỗi người Kitô hữu được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa. Lời xin vâng của Đức Maria cũng là mẫu gương của cúng ta, chúng ta hãy tin tưởng, cậy trông và phó thác cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, sống đức tin giữa cuộc đời. Sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy bắt chước Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, "vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được".
Thiên Chúa dựng nên chúng ta một cách tự do nhưng để cứu chuộc chúng ta thì Ngài hoàn toàn để chúng ta tự do, tự do đáp trả, thậm chí Ngài hoàn toàn lệ thuộc chúng ta. Như thế, con người được dựng nên có sự cao quý chính là được tự do đáp trả lời mời gọi đầy yêu thương và nhân lành của Thiên Chúa. Nếu như sứ thần đến báo tin và mời gọi Đức Maria cộng tác với Thiên Chúa thì trong cuộc sống hằng ngày, trước bao nhiêu biến cố Thiên Chúa cũng đang mời gọi chúng ta đáp trả, thuận phục, Yes, thưa "Xin vâng" đối với Thiên Chúa. Đức Maria đã tạo điều kiện cho Thiên Chúa làm người trong thân phận người Con của mẹ để thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng được mời gọi đáp trả lời mời gọi sống chứng nhân cho Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta hãy để Ngài có thể tháp nhập và thể hiện Mầu nhiệm Tình yêu của Ngài trong thân phận làm người của chúng ta.
Thiên Chúa đòi hỏi một đáp trả tự do. Ngài hoàn toàn để chúng ta tự do. Ngài không ép buộc ai làm điều gì. Như thế, sự đáp trả của chúng ta sẽ càng có giá trị hơn. Muốn đáp trả chúng ta cần phải có một tình yêu thuộc về Thiên Chúa, một tình yêu giống Thiên Chúa. Công trình cứu chuộc tự nó là công trình yêu thương tuyệt vời. Tiếng xin vâng của Đức Maria xuất phát từ trái tim đầy tình yêu và tín thác nơi Mẹ. Đó cũng là cách đáp trả mà mỗi người chúng ta cũng phải thưa lại với Thiên Chúa như Đức Maria xuyên suốt trong đời sống làm người của mình.
Từ lời xin vâng của Đức Maria đã hoàn toàn tận hiến mình để thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Chúa cũng đang chờ đợi lời xin vâng, đời xin vâng của chúng ta để Chúa có thể làm nên những điều kỳ diệu cho chúng ta, cho gia đình chúng ta, cho họ đạo chúng ta và còn cho cả thế giới nữa. Lời Xin vâng trọn vẹn, tuyệt đối, dứt khooát, vượt lên trên những lý luận khôn ngoan của loài người. Bắt chước Đức Maria, chúng ta đừng sợ hãi và hoàn toàn dấn thân vào cuộc "mạo hiểm tình yêu cao cả nhất" . Noi gương Đức Maria, chúng ta cũng có trách nhiệm đem Chúa đến với tha nhân, mở đường cho Thiên Chúa đi vào xã hội loài người.
Hôm nay Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng, chúng ta đang hướng về Mẹ Maria. Mẹ là tấm gương cho chúng ta về việc phải lắng nghe lời Chúa và chờ mong Chúa đến. Mỗi khi tâm trí Mẹ hồi tưởng lại lời chào của thiên sứ năm nào, chắc chắn là Mẹ lại dần dần hiểu thêm ý nghĩa sứ điệp và mầu nhiệm Giáng Sinh. Khi lắng nghe Lời Chúa, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy đây là một khía cạnh quan trọng nhất của đời sống Kitô hữu. Làm một Kitô hữu chính là trở nên một người ngày đêm hướng lòng mình lắng nghe tiếng Chúa và thực thi ý Ngài. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ giúp đỡ chúng ta có được cung cách thái độ lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa, ngõ hầu chúng ta luôn sẵn sàng và sẵn lòng mang Đức Kitô đến cho đời như Mẹ đã làm ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con mở rộng lòng đón nhận thánh ý Thiên Chúa và can đảm sống vâng phục, yêu thương như Thiên Chúa mời gọi. Amen.
Khi Chúa Giêsu đi trên mặt biển hồ, tất cả các ông đều nhìn thấy Ngài và đều hoảng hốt. Lập tức: MV4-B93
Khi Chúa Giêsu đi trên mặt biển hồ, tất cả các ông đều nhìn thấy Ngài và đều hoảng hốt. Lập tức, Ngài bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” ( Mt 14, 27; Mc 6, 50; Ga 6, 20 ).
Nhiều lần khác, Kinh Thánh cũng có những lời động viên chúng ta về sự can đảm: “Đừng sợ !” ( Xh 14, 13; Đnl 31, 6; Is 43, 1; Gr 46, 27-28; Gr 51, 46; Is 41, 13; Mt 10, 26; Mt 10, 28; Mt 10, 31; Mt 14, 27; Mt 17, 7; Mt 28, 5; Mt 28, 10; Mc 5, 36; Mc 6, 50; Ga 14, 27; Lc 1, 13; Lc 2, 10; Lc 5, 10; Lc 12, 4; Lc 12, 7; Lc 12, 32; Lc 21, 9; Ga 6, 20; Ga 14, 27; Kh 1, 17-18 ). Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã sống đúng theo “châm ngôn” này dù ngài đã bị những kẻ xấu ám sát vài lần.
Nỗi sợ hãi là một trong những điều có thể chi phối cuộc sống của chúng ta, vì thế rất cần có người động viên. Có nhiều dạng và nhiều mức độ sợ hãi, lời động viên cũng đa dạng. Bà Amelia Mary Earhart ( * ) nhận định: “Điều khó khăn nhất là quyết định hành động, phần còn lại là sự kiên trì. Nỗi sợ hãi là những con hổ giấy. Bạn có thể làm bất cứ điều gì mình quyết định làm, có thể hành động để thay đổi và chi phối cuộc đời mình, và quá trình của đó chính là phần thưởng”. Người không sợ hãi, không lùi bước trước bất công, đó là người can đảm. Khi đối diện thực tế, người ta phải thực sự can đảm mới không sợ hãi. Trong cuộc sống, có nhiều người nói mạnh miệng nhưng thực ra chỉ là những kẻ nhát đảm !
Giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 2014 được trao cho cô nữ sinh Malala Yousafzai ( sinh 1997, Pakistan ) và ông Kailash Satyarthi ( sinh 1954, Ấn Độ ). Cả hai đều là những nhân vật nổi tiếng thế giới chống lại sự áp bức bóc lột trẻ em lao động và quyền được hưởng sự giáo dục từ học đường. Cô Yousafzai bị phe Taliban bắn trọng thương ở đầu vào tháng 10 năm 2012 trên một chiếc xe bus vì tranh đấu đòi quyền cho các em gái được hưởng sự công bằng về giáo dục học đường. Ông Satyarthi đã rất can đảm khi dẫn đầu các đoàn biểu tình chống sự khai thác lao động trẻ em ở Ấn Độ. Ông cũng đã nhận được nhiều giải thưởng cho những nỗ lực tranh đấu của mình. Điển hình vào năm 1994 với giải thưởng Hòa Bình ở Aachen, năm 1999 với giải thưởng Nhân Quyền của Friedrich-Ebert-Stiftung. Một trẻ và một già, một nữ và một nam, nhưng họ có “điểm chung” là lòng can đảm:Bảo vệ chân lý, đấu tranh vì công lý và đòi nhân quyền.
Nhạc sĩ Anh Bằng cũng đã viết ca khúc “Đừng Sợ Hãi” để động viên người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ: “Đừng sợ hãi ! Hãy vươn lên, tranh đấu cho quê hương Việt Nam, niềm tin bác ái ! Đừng sợ hãi ! Xiết tay nhau, mang trái tim yêu thương Việt Nam vào đời !” Sự giằng co giữa can đảm và sợ hãi là cuộc chiến nội tâm. Tương tự, trong mỗi chúng ta cũng luôn có cuộc chiến tâm linh, có can đảm mới đủ sức chiến thắng. Chưa chết thật, nhưng một số người đã “chết yểu” – chết giấc hoặc chết khiếp, họ đã “chết” ngay khi đang sống ! Những người hung hãn, dữ tợn với người khác là những người yếu bóng vía, sợ mình thua người khác nên muốn chứng tỏ “sức mạnh ảo” để chứng tỏ mình, nhưng đó chỉ là tự tố cáo rằng “tôi sợ lắm !” Tục ngữ cũng nói “cáo mượn oai hổ” để chỉ loại người nhát đảm này.
Cuộc chiến nào cũng cần sự can đảm. Người can đảm là người dám nói thẳng nói thật vì công ích, không xu nịnh, không bè phái, không luồn cúi… Muốn can đảm thì không gì hơn là bám vào Thiên Chúa, vì Ngài là Sự Thật ( Ga 14, 6 ), tức là luôn biết tín thác vào Ngài, mà tín thác thì phải tuân phục – xin vâng Thánh Ý. Sách Samuel, chương 7, cho biết: Khi vua được yên cửa yên nhà và Đức Chúa đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, vua nói với ngôn sứ Nathan: “Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải”( 2 Sm 7, 2 ). Ông Nathan thưa với vua: “Tất cả những gì ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì Đức Chúa ở với ngài” ( 2 Sm 7, 3 ). Nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Nathan rằng: “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đavít: Đức Chúa phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao ?” ( 2 Sm 7, 5 ).
Thiên Chúa giao ước: “Bây giờ ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là Đavít như sau: Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ítraen. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ cho dân Ta là Ítraen một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ítraen. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, Đức Chúa báo cho ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền” ( 2 Sm 7, 8-12 ).
Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa giao ước tương tự, giao ước của Thiên Chúa là bất biến. Vấn đề là chúng ta có can đảm tuân giữ huấn lệnh của Ngài hay không. Chúa Giêsu khuyến cáo chúng ta về việc hoàn thiện ( Mt 5, 48 ), tức là bảo chúng ta cố gắng nên thánh. Thời Cựu Ước, Thiên Chúa nói rõ ràng và dứt khoát hơn: “Các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” ( Lv 11, 44; Lv 20, 7 ). Nên thánh cần có lòng can đảm, những người nhát gan không thể nên thánh được, vì Nước Trời không có loại công dân nhát đảm hoặc yếu bóng vía, không đủ sức chiến đấu !
Vâng, Thiên Chúa không chấp nhận những người thiếu can đảm. Và Ngài tiếp tục giao ước: “Đối với nó, Ta sẽ là cha; đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” ( 2 Sm 7, 14-16 ). Đó là giao ước của tình yêu, của lòng thương xót. Tình yêu thương bao la đó vĩnh hằng: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” ( 1 Sbn 16, 34; Tv 106, 1; Tv 107, 1; Tv 118, 1-4; Tv 118, 29; Tv 136, 1-3; Tv 136, 26 ).
Nhận biết lòng thương xót của Thiên Chúa, tác giả Thánh Vịnh đã tuyên xưng: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài. Vâng con nói: Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời” ( Tv 89, 2-3 ). Xưa Chúa phán: “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn, đã thề cùng Đavít, nghĩa bộc Ta, rằng: dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời, ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ. là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ !” ( Tv 89, 4-5 ).
Như Thánh vương Đavít, những ai tín thác vào Thiên Chúa thì sẽ có cách sống chứng tỏ Đức Tin mãnh liệt: “Ngài chính là Thân Phụ, là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ !” ( Tv 89, 27 ). Sống chứ không nói suông, không giả hình, không “mặc” chiếc áo “sặc sỡ” như người Pharisêu. Đó mới là người thực sự can đảm, và người này chắc chắn sẽ được Thiên Chúa hứa: “Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở và thành tín giữ giao ước với Người” ( Tv 89, 29 ).
Tuần thứ tư Mùa Vọng là lúc chúng ta thắp sáng ngọn nến thứ tư: Ngọn nến Hy Vọng – Đức Cậy. Nhờ ngọn nến này mà chúng ta khả dĩ thắp sáng lại ba ngọn nến khác: Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu. Nỗi mong chờ của nhân loại sẽ được khỏa lấp. Vâng, Đấng Emmanuel đang đến rất gần. Thánh Phaolô nói: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa” ( Rm 16, 25-26 ). Vô tri bất mộ. Biết mới tin, không biết thì không có gì để tin. Thánh Phaolô xác định: “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giêsu Kitô. Amen” ( Rm 16, 27 ).
Trình thuật Lc 1, 26-38 nói về cuộc truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria, người được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa. Chưa đầy 20 tuổi, và chỉ là một thôn nữ bình thường nơi miền quê nhỏ bé, nhưng Đức Maria đã biết sống thẳng thắn và can đảm, luôn tín thác vào Thiên Chúa, hiền thục nhưng rất cương nghị, ít nói nhưng hành động cụ thể.
Sau khi bà Êlisabét mang thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả được sáu tháng, Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một làng Nadarét, thuộc miền Galilê, gặp một trinh nữ đã đính hôn ( hoặc thành hôn ) với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và chúc: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị”. Nghe vậy, Trinh Nữ Maria rất bối rối, không hiểu ý nghĩa. Sự khiêm nhường không cho phép Đức Mẹ nhận mình là thánh nhân, mà chỉ dám coi mình là Nữ Tỳ của Thiên Chúa mà thôi. Nhưng sứ thần liền nói: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
Một người khấn đức khiết tịnh càng thấy lạ hơn khi nghe lời giải thích như vậy. Vì thế, Đức Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng !” Sự thường là thế, nhưng với Trinh Nữ Maria lại là điều khác thường, là mầu nhiệm, là đặc ân. Nhưng Trinh Nữ Maria khiêm nhu, đâu dám nghĩ tới “4 V” ( vội vàng vơ vào ). Sứ thần giải thích cặn kẽ và minh chứng cụ thể: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa Cô Êlisabét, người họ hàng với Chị, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Trinh Nữ Maria luôn tin vào quyền năng của Thiên Chúa, giờ lại nghe giải thích vậy thì chẳng có gì phải lo. OK ngay ! Bấy giờ Đức Maria liền vui mừng nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Một lời xin vâng tuyệt vời: “Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người”. Đó là “nhịp cầu” của Ơn Cứu Độ, và Trinh Nữ Maria trở nên Đấng Đồng Công Cứu Độ. Thật kỳ diệu, lồng trong lời xin vâng đó là nhiều nhân đức khác: Khiêm nhường, tín thác, trông cậy, yêu mến, can đảm, mau mắn
... Nói chung là chứa cả ba nhân đức đối thần và các nhân đức đối nhân. Ước gì mỗi chúng ta cũng luôn biết sẵn sàng và mau mắn xin vâng như Đức Mẹ !
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết sẵn sàng và vững lòng trông chờ Chúa đến bất cứ lúc nào. Xin giúp chúng con can đảm sống theo sự thật mà Ngài đã định hướng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
( * ) Bà Amelia Mary Earhart sinh 24.7.1897, mất tích 2.7.1937, được chính thức thông báo tử nạn 5.1.1939. Bà là nữ phi công và nhà văn người Mỹ, người phụ nữ đầu tiên bay một mình xuyên Đại Tây Dương và được nhận giải thưởng Distinguished Flying Cross của Hoa Kỳ.
Chiều mùa đông đã thắp sáng đèn các cửa hàng lộng lẫy. Dòng người tất bật trên đường phố: MV4-B94
Chiều mùa đông đã thắp sáng đèn các cửa hàng lộng lẫy. Dòng người tất bật trên đường phố lát đá chẻ, tiếng nhạc réo rắt bắt đầu trổi lên. Vang vọng giữa các tòa nhà, phố xá, dội vào người qua kẻ lại, khiến họ tự hỏi nhạc phát xuất từ đâu. Một số cặp mắt đổ dồn về người đàn ông tuổi 60, đầu hói và lún phún râu quai nón, đứng đơn độc, khoan thai giữa chốn thị tứ, với một chiếc mũ dưới đường trước mặt.
Rồi người đàn ông bắt đầu cất tiếng hát. Dần dần nhiều người dừng chân lắng nghe. Giọng opera cao vút của ông phản ánh tài năng đẳng cấp cao. Buồn thay, vẫn có những người vô cảm tiếp tục rảo bước bỏ qua, vội vã mua sắm. Nhưng đám thính giả dần tăng lên. Bị quyến rũ bởi những giai điệu mượt mà, êm ái và sang trọng, vài người bỏ tiền vào mũ. Hai cháu bé hồn nhiên dắt tay nhau cho một đồng xu. Dăm ba nụ cười tươi tắn, đồng cảm, vài kẻ kín đáo, vụng về lau những giọt nước mắt xúc động, thấm thía lời bài Thánh Ca "Ngài Nâng Đỡ Con" ( You Raise Me Up). Hình như khán giả đều ngây ngất, xuất thần theo giọng ca điêu luyện của Martin Hurkens, người chiến thắng của "Holland’s Got Talent 2010."
Từ lâu nay, Martin Hurkens, được dân chúng Hòa Lan thân thương gọi bằng biệt danh "Paparotti" ( phỏng theo tên danh ca opera người Ý Luciano Pavarotti ). Ông vốn là thợ làm bánh. Đã từng mơ ước làm ca sĩ, nhưng vì mưu sinh và trách nhiệm gánh vác gia đình, mà ông đành kiên nhẫn chờ đợi ngày hiện thực ước mơ của mình. Sau khi về hưu được hai năm, thì gia đình ông khuyến khích đi thi "Holland‘s Got Talent 2010". Martin Hurkens đã đoạt giải trong sự khiêm nhu. Ông xúc động, quỳ gối cảm tạ Thượng Đế. Và từ đó ông thường đi hát rong, ca ngợi Chúa ở ngoài đường phố. Thật là một cách rao giảng Tin Mừng tuyệt vời, một tông đồ âm thầm của Thầy Giêsu.
Nhìn hình ảnh lần đầu tiên Martin ra mắt khán giả với bộ quần áo nghèo nàn, với hàm răng ngả vàng, cái còn cái mất vì tuổi tác, vì vất vả mưu sinh. Rồi so sánh với hình ảnh ngày vinh quang ông đạt được, một Martin ăn mặc bảnh bao, hàm răng trắng tinh không mất cái nào. Tiếp đến, nhìn ngắm ông đứng ngoài đường phố, thành kính cất lên bài Thánh ca Ave Mariacủa Schubert, thì không ai không rung động, đồng cảm và mến phục. Và họ cảm tạ Chúa đã dùng người thợ về hưu này làm vườn nho cho Ngài vào giờ thứ 11. Xin Chúa tiếp tục chúc lành cho Martin ( Theo David A. Sargent & DT ).
Người thợ Giờ Thứ 11 Martin Hurkens đã noi gương Mẹ Maria khiêm nhường, vâng phục, yêu thương và phục vụ. Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hôm nay, Thánh Luca tường thuật Đức Mẹ Maria được Sứ thần Gabriel truyền tin.
Mẹ khiêm nhu
Cô Maria đang ngồi se chỉ luồn kim, miệng thầm hát Thánh Vịnh, thì Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel hiện đến bái lậy, cất lời chào: ”Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng cô", khiến cô giật mình, ngạc nhiên, đứng bật dậy, bẽn lẽn, dịu dàng cúi mình đáp lễ.
Sau khi nghe Sứ Thần Gabriel loan báo tin vui, cô bắt chéo tay trên ngực, cúi xuống rất sâu, kính cẩn thưa: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời Sứ Thần truyền.”
Một Eva mới khiêm nhu, đơn sơ, hạ mình, xóa tan đi hình ảnh Eva xưa kiêu căng, ngạo mạn, tham lam, đồng lõa với con rắn gian xảo, lừa gạt, nổi loạn. Eva cũ dìm nhân loại vào cõi chết. Eva mới đồng công cứu chuộc, giải thoát con người khỏi bóng tối tử thần, dẫn vào đời sống huy hoàng, vĩnh cửu.
”Đức Maria càng khiêm tốn, thì càng trong sáng, vì càng thấy rõ những sự kỳ diệu Chúa làm trong lòng Mẹ. Như ánh sáng qua một bóng đèn thủy tinh không vướng bụi” ( Đường Hy Vọng, số 512 ).
Mẹ vâng phục
Mẹ Maria nhận mình là nữ tỳ hèn mọn, trở nên hư không trước mặt Thiên Chúa. Tuyệt đối xả kỷ, bỏ mình, coi mình chỉ là công cụ của Chúa, ngoan ngoãn vâng theo Thánh Ý nhiệm mầu, sẵn sàng đón nhận sứ vụ cao cả, cưu mang Đấng Cứu Thế. Hai tiếng ”Xin Vâng” đủ nói lên tấm lòng tùng phục vô điều kiện, lòng trung thành, biết ơn và hoàn toàn kính trọng. Hai chữ đó, còn bộc lộ tình yêu dâng hiến tuyệt đối của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Eva cũ bất tuân, bất trung, bất nghĩa, thì Eva mới hoàn toàn trái ngược. Mẹ trung kiên cho đến khi lìa trần về trời, dù chịu bao gian nan, đau khổ, thách đố từ khi Mẹ thưa hai chữ ”Xin Vâng”.
”Xem một tâm hồn vui vẻ và nhanh chóng vâng phục chừng nào, con đoán được tâm hồn đó thánh thiện chừng nấy” ( Đường Hy Vọng, số 392 ).
Mẹ yêu thương
Tràn đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần, Mẹ không vị kỷ, giữ làm của riêng, nhưng yêu thương chia sẻ cho tha nhân. Mẹ mau mắn đi thăm bà chị họ Elisabeth già nua, cũng được đặc ân thụ thai được sáu tháng.
Trong tiệc cưới Cana, Mẹ yêu thương đôi tân hôn nghèo túng, khẩn cầu Con Mẹ ra tay cứu giúp, khỏi mất mặt, thất lễ với khách mời dự tiệc.
Được Chúa trao phó, Mẹ nhận lấy Gioan và các Tông Đồ làm con Mẹ. Rồi toàn thể tín hữu Kitô cũng được ưu ái, trở thành con Mẹ dấu yêu. Biết bao lần Mẹ thân thương hiện ra với những ai yêu mến Mẹ, tín thác vào Mẹ, khẩn nguyện, van xin Mẹ chở che, phù hộ.
”Mẹ có thể hiện ra nơi đô thị, trong các Vương Cung Thánh Đường, cho các nhân vật quan trọng, các nhà thần học. Nhưng Mẹ đã chọn nơi hoang vu, núi đồi, xa vắng, với những kẻ chất phác, vì Mẹ muốn đến với những người không ai thèm đến, đến những chỗ không ai muốn đến. Mẹ muốn con cùng đến với Mẹ” ( Đường Hy Vọng, số 930 ).
Mẹ phục vụ
Từ khi thưa hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ đã toàn tâm toàn ý hiến dâng trọn đời phục vụ Thiên Chúa. Âm thầm mang nặng đẻ đau, chăm sóc, dưỡng nuôi Hài Nhi Giêsu. Lo lắng bôn ba tỵ nạn xứ người. Thất thần lạc mất Con. Rồi cùng Con lận đận, rong ruổi trên đường rao giảng. Đau đớn theo Con lê bước trên đường chịu nạn. Thổn thức dưới chân thập giá với Con sinh thì. Mẹ lại tiếp tục cưu mang, đồng hành cùng những người con mới, ông Gioan, các Tông đồ và tín hữu Kitô. Mẹ xứng đáng nhận lời khen ẩn ý: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta" ( Mc 3, 35 ).
“Không gì quý bằng món quà lòng Mẹ Maria tặng cho chúng ta: Chúa Giêsu, món quà duy nhất. Chính lòng Đức Mẹ cũng quý nhất, vì “Giêsu Con lòng Bà” ( Đường Hy Vọng, số 923 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con noi gương Mẹ, sống khiêm nhường, vâng phục, yêu thương và phục vụ, để chúng con xứng đáng trở nên anh em của Người. Lạy Mẹ Maria, nữ tỳ trung thành của Thiên Chúa, xin Mẹ dẫn dắt chúng con tiến triển con đường nhân đức, bằng cách học theo Mẹ, tuân theo Lời Chúa, để được hội ngộ cùng Mẹ vĩnh viễn. Amen.
Maria biết rằng mình đang mang thai khi chưa về chung sống với chồng sẽ đem lại nhiều hậu quả MV4-B95 Lượng
Maria biết rằng mình đang mang thai khi chưa về chung sống với chồng sẽ đem lại nhiều hậu quả không hay: Cha mẹ sẽ buồn, người chồng sẽ nghi ngờ, thiên hạ sẽ dị nghị, bản thân sẽ bị chê cười, nhưng Maria luôn tin vào Chúa và mọi sự đều do sự an bài của Ngài, vì thế Maria luôn bình tĩnh, âm thầm để mặc cho Chúa tự do hành động.
Còn Giuse cũng vậy, thấy người bạn của mình như thế, Giuse không vội vã tức giận, hành động mù quáng và buộc tội gắt gao. Vì không được Maria giải thích, Giuse không hiểu ra làm sao, mặc dù thế Giuse vẫn trao phó mọi sự trong tay Chúa, còn mình thì sẽ trở lại cuộc sống độc thân cao đẹp thuở trước. Nhưng Chúa đã can thiệp, khiến cho Giuse và Maria đều hài lòng, trở lại đời sống vợ chồng và không còn thắc mắc chi nữa.
Nhìn vào lịch sử Giáo Hội chúng ta thấy, nhiều khi Giáo Hội cũng lâm vào những hoàn cảnh đen tối, những trường hợp khó khăn, nhưng rồi bàn tay Chúa cũng đã can thiệp, để Giáo Hội thoát khỏi những hiểm nguy mà phát triển, mà vươn lên. Tôi xin đưa ra những thí dụ điển hình.
Giáo Hội thuở ban đầu rất cần người lãnh đạo và Phêrô đã là người lãnh đạo, đã là vị Giáo hoàng đầu tiên, thế nhưng ngay từ khi bắt tay vào sứ mạng, Phêrô đã bị gông cùm, xiềng xích và tù đày. Ai cũng nghĩ rằng, làm sao Phêrô có thể thoát nổi. Nhưng rồi Chúa đã can thiệp, sai thiên thần xuống tháo rời xiềng xích, dẫn qua đám lính canh và Phêrô được giải thoát.
Tiếp đến là những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã phải trải qua những cơn bách hại khủng khiếp dưới thời những bạo vương Lamã. Ai cũng tưởng con thuyền Giáo Hội sẽ bị vùi dập dưới những trận cuồng phong dữ dội nhất của lịch sử. Nhưng rồi kết cuộc ra sao? Hoàng đế Constantinople đã hoán cải, bóng cờ thánh giá đã tung bay và Giáo Hội bước vào một thời đại hoàng kim. Còn những bạo vương Lamã đã phải rơi vào một số kiếp bẽ bàng: Valerio thì thua trận, bị bắt làm tù binh và bị nhục nhã cho đến chết. Diocletiano thì bị bắt giam và bị nhịn đói cho chết. Maxilino thì thắt cổ tự tử, còn Galerio thì bị chứng lở lói đau đớn, không một vị lang y nào chữa nổi.
Qua những chứng tích kể trên, chúng ta hãy thêm tin tưởng vào quyền năng của Chúa, như tục ngữ ca dao vốn diễn tả: Thiên bất dung gian, ác giả ác báo, Trời xanh con mắt là gương, người ghét ít ngó người thương ngó hoài.
Hãy tin tưởng và phó thác cho Chúa vì mọi sự đều do sự an bài đầy quyền năng và tình thương của Chúa.
Đối với người Do Thái, thì có con là một sự chúc lành của Thiên Chúa, còn son sẻ là dấu của kẻ MV4-B96
Đối với người Do Thái, thì có con là một sự chúc lành của Thiên Chúa, còn son sẻ là dấu của kẻ bị Thiên Chúa bỏ rơi. Hơn thế nữa, son sẻ còn là một tình trạng tương đương với sự chết chóc. Thực vậy, chết là hết sống. Son sẻ là hết dòng sự sống. Tên tuổi sẽ bị dứt khỏi trần gian.
Quan niệm về đời sau của người Do Thái lúc bấy giờ còn rất mù mờ. Mọi hy vọng của họ là cuộc sống trần gian. Phần thưởng chính là dòng dõi nối tiếp mãi trên mặt đất này. Bởi đó việc tiếp tục có dòng dõi sau tai ương khốn quẫn đã được diễn tả bằng sức sống lại.
Thế nhưng, như lời Kinh Thánh đã xác quyết về Thiên Chúa: Tư tưởng của Ta không giống với tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không giống với đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo các ngươi bấy nhiêu.
Chính vì thế, Thiên Chúa thường ghé mắt nhìn đến sự yếu hèn và bất lực, bởi đó mới nảy sinh những điều đáng ngạc nhiên trong hành động của Thiên Chúa. Ngài đã tỏ lộ quyền năng của Ngài trong sự bất lực. Đúng thế, sự đồng trinh của Đức Mẹ cũng là một cái chết, nhưng cái chết đó đã được Thánh Thần Chúa đem lại một sự sống mới. Đó cũng là điều diễn ra nơi thập giá với cái chết của Chúa Giêsu. Bởi vì sự phục sinh và sự sống mới, một sự sống dồi dào đã nẩy sinh từ cái chết đau thương của Ngài trên thập giá.
Đã từ lâu, Thánh Thần vẫn được giới thiệu như là nguyên nhân của sự sống. Khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, thì thần khí đã bay lượn trên nước và làm cho mọi sự được thành hình. Adong được nặn từ bùn đất, nhưng nhờ Thần Khí của Thiên Chúa mà có sự sống. Thần Khí cũng trở thành sự sống của Adong mới. Một trinh nữ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần đã nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa.
Phụng vụ ngày Chúa nhật hôm nay cho chúng ta cải cảm tưởng rằng Chúa Giêsu đang đi vào lịch sử nhân loại. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở giữa chúng ta để cứu chuộc, để giải phóng, để dẫn chúng ta ra khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Giáo Hội hôm nay chính là sự nối tiếp sự hiện diện hữu hình của Chúa giữa con người trong thế giới, một sự hiện diện cứu chuộc và giải thoát không phải chỉ về mặt thiêng liêng bằng cách trao ban các bí tích, mà hơn nữa một sự giải thoát toàn diện, khỏi tất cả những gì cản trở sự phát triển của con người và xã hội bằng sự dấn thân và liên đới với mọi nỗ lực xây dựng tình thương và công lý.
Tại Việt Nam và nhất là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng MV4-B97
Tại Việt Nam và nhất là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng cho con cái từ khi chúng còn nhỏ. Trong tác phẩm “Vượt khỏi Đông và Tây”, tác giả John Wu đã mô tả như sau: “Trước đám cưới, vợ tôi và tôi chả bao giờ thấy mặt nhau. Cả hai chúng tôi đều được giáo dục theo đường lối cổ xưa của người Trung Hoa. Bố mẹ đã đính hôn chúng tôi với nhau khi chúng tôi mới lên sáu. Đến năm mười mấy tuổi tôi mới biết được nhà nàng ở đâu. Tôi khao khát được thoáng nhìn nàng thử xem, nên thỉnh thoảng lúc tan học về, tôi cố tình đi ngang qua nhà nàng, thế nhưng chả bao giờ tôi được may mắn nhìn thấy nàng”.
Từ đoạn văn trên chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được mối liên hệ giữa thánh Giuse và Mẹ Maria trước lúc Chúa chào đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là đính hôn. Việc này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ thường chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này.
Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau... Khi đã hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng, nên chỉ có sự ly dị mới xoá bỏ được nó.
Giai đoạn thứ ba là kết hôn theo đúng nghĩa. Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai khi hai người ở trong giai đoạn thứ hai, tức là đã hứa hôn với nhau.
Tuy nhiên tôi muốn chia sẻ về một điểm khác quan trọng hơn, đó là việc Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thánh Matthêu đã khởi đầu Phúc Âm bằng việc trích dẫn lời tiên tri Isaia: Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên Con Trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đồng thời thánh Matthêu cũng đã kết thúc Phúc Âm bằng lời hứa của Chúa Giêsu: Này đây Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Vậy thì Thiên Chúa, Ngài đã ở cùng chúng ta như thế nào?
Trước hết, Ngài hiện diện giữa chúng ta qua việc sáng tạo, và đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của Ngài, bởi vì Ngài không phải chỉ tạo dựng mà còn gìn giữ nó được tồn tại trong một trật tự lạ lùng cho đến ngày hôm nay.
Tiếp đến, Ngài còn hiện diện giữa chúng ta qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh ví Kinh Thánh như là một bức thư của người cha gởi cho con cái mình. Người cha biểu lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong bức thư như thế nào thì Thiên Chúa cũng mạc khải ý nghĩ của Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy.
Cuối cùng Ngài hiện diện giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức Kitô, Con Một của Ngài. Cùng với việc giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để đến và cư ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng nghe chính Thiên Chúa. Hay nói một cách khác với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta qua một cách cụ thể và sống động qua một con người bằng máu thịt của Đức Kitô.
Đốt lên cây nến thứ tư của Vòng Hoa, chúng ta sắp kết thúc 4 tuần Mùa Vọng. Theo truyền thống MV4-B98
Đốt lên cây nến thứ tư của Vòng Hoa, chúng ta sắp kết thúc 4 tuần Mùa Vọng. Theo truyền thống lâu đời từ Bắc Âu, trong khí lạnh của mùa Đông, người ta đã đốt lên những cây nến trên những cành cây xanh uốn vòng. Khung vòng tròn và cành cây xanh là biểu tượng của sự sống tiếp diễn. Người ta đã đốt nến trong những đêm tối nhất trong năm, khi mọi người trông chờ những ngày dài hơn của mùa Xuân sẽ xuất hiện. Theo truyền thống, trên Vòng Hoa Mùa Vọng bao gồm có 4 cây nến. Ba cây nến mầu tím và một cây màu hồng. Bốn cây nến của Vòng Hoa biểu tượng ánh sáng dần dần được dọi chiếu vào thế gian. Ba cây nến mầu tím là biểu tượng của hy vọng, bình an và tình yêu. Ba cây nến tím này được đốt vào các Chúa Nhật thứ nhất, thứ nhì và thứ bốn của Mùa Vọng. Cây nến mầu hồng biểu trưng sự vui mừng được đốt vào Chúa Nhật thứ ba. Đôi khi có cây nến thứ năm mầu trắng được đặt ở giữa Vòng Hoa. Cây nến trắng này được đốt lên vào Lễ Giáng Sinh. Mầu trắng biểu trưng sự tinh trắng như các thiên thần và ngày sinh nhật của Chúa Giêsu. Giáo Hội Công Giáo thường dùng các mầu đặc biệt theo từng mùa, như Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Quanh Năm, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh để tôn vinh danh Chúa Giêsu.
Tiên tri Isaia đã xuất hiện rao giảng tại Giêrusalem khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên. Trong sự mong đời mịt mù giữa bao thử thách, Isaia đã loan báo một tin vui cho dòng dõi Dân Do-thái: Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Is 7, 14). Đọc lịch sử ơn Cứu Độ, chúng ta nhận biết Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu chuộc qua cả ngàn năm. Một diễn tiến rất chậm rãi qua biết bao nhiêu thế hệ và trải qua nhiều biến cố. Thiên Chúa đã sai tiên tri loan tin mừng cứu độ qua một nhóm nhỏ trung tín còn sót lại. Biết rằng xưa kia, người ta không có in ấn sách vở, truyền thanh, truyền hình hay một phương tiện kỹ thuật văn minh nào để phổ biến. Các sứ điệp chỉ được truyền miệng và ghi chép vào các cuốn sách (papyrus) lưu giữ qua nhiều đời.
Dấu chỉ: Một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai là một sứ điệp cao trọng. Sứ điệp này đã từ từ khai mở về ý nghĩa mầu nhiệm Con Chúa giáng trần. Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa với tổ tiên loài người sau khi đã phạm lỗi. Thiên Chúa phán với con rắn là ma quỉ: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi và mi sẽ cắn gót nó (Stk 3, 15). Chúng ta là hậu sinh được học biết nhiều về qúa trình lịch sử bốn, năm ngàn năm. Đã có biết bao dòng dõi và thế hệ con người liên đới trong công cuộc cứu rỗi này, đặc biệt là Dân Do-thái, dân được tuyển chọn. Dân sống giữa một thế giới đa dân tộc từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, từ khắp các vùng văn hóa. Đọc lịch sử tôn giáo, chúng ta nhận biết có rất nhiều các tôn giáo cổ đã xuất hiện từ rất sớm trong thời kỳ này như các đạo Hindu, Balamôn, Do-thái Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và vô số đạo thờ các Thần ngoại. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 4, 200 tôn giáo lớn nhỏ khác nhau.
Trong cuộc lữ hành của người Do-thái, họ đã va chạm với rất nhiều nhóm người với truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau. Sứ điệp loan báo về Đấng Cứu Thế cũng dễ bị lu mờ qua thời gian năm tháng. Chỉ có một dòng dõi rất nhỏ đã cưu mang sứ mệnh đón chờ con Chúa giáng trần. Thánh Matthêô đã ghi lại gia phả Đức Kitô, con cháu của Đavít và con cháu tổ phụ Abraham. Matthêo tóm gọn lich sử: từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là mười bốn đời; từ vua Đavít dến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời và từ thời lưu đầy ở Babylon đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời (Mt 1, 17). Chúng ta suy tư về sứ điệp tin mừng đã được thực hiện nơi dòng dõi Dân tộc đã được Thiên Chúa tuyển chọn.
Trong thơ gởi cho tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô đã viết: Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người (Rm 1, 2). Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa thực hiện ý định nhiệm mầu của Người để cứu độ trần gian. Đây là biến cố nhiệm mầu duy nhất xảy ra trong thời gian và không gian. Sự linh thiêng kết hợp giữa thần thánh và con người. Ngôi Lời Nhập Thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ: Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần (Mt 1, 18). Sự kiện cao siêu nhiệm mầu vượt trên mọi trí hiểu của loài người. Cho dù đã được các tiên tri loan báo, được các thế hệ truyền rao chuẩn bị cả ngàn năm nhưng cho tới ngày hôm nay, nhiều người vẫn chưa thể chấp nhận sự kiện lạ lùng này. Họ không thể tin và chấp nhận Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần làm người như chúng ta.
Nhiều người không tin vào Đấng Cứu Thế giáng trần nhưng họ vui mừng vì dịp Giáng Sinh sắp đến. Cứ mùa Giáng Sinh về, chúng ta thấy phố xá rộn rã, thiệp chúc mừng trao đổi, chuẩn bị qùa cáp, ánh sáng nhấp nháy mọi nơi và chăng hoa kết đèn mọi góc phố. Cho dù con người có niềm tin hay không, đều mừng vui và hớn hở. Ít ra đây cũng là một tin vui cho mọi người trần thế. Một cơ hội tốt để mọi người giao lưu trao đổi tâm tình. Chúa Giêsu vẫn âm thầm đi vào lòng người qua nhiều cách thế. Có biết bao nhiêu nhà hảo tâm chia sẻ món qùa nho nhỏ cho những người kém may mắn. Ánh sáng của niềm hy vọng chiếu tỏa cùng khắp khiến lòng người nao nức mừng vui. Một điều rất lạ là ai cũng muốn sự bình an, giải thoát và được hưởng nhờ ơn cứu độ nhưng lại không muốn chấp nhận Đấng ban ơn cứu độ.
Chúa Giáng Sinh mang lại niềm vui lớn cho nhân loại vì Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta. Thánh Matthêo diễn tả: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Mt 1, 22-23). Chúa sẽ đến với từng tâm hồn. Chúng ta có can đảm mở rộng tâm hồn đón Chúa hay không? Chúa có thể sẽ đến với chúng ta qua hình dáng của một trẻ thơ bọc trong khăn hay một trẻ mồ côi đầu đường xó chợ và không nơi nương tựa. Chúa sẽ đến như một người vô gia cư không có nơi gối đầu hoặc một người bị đánh dầm bập tả tơi ngoài phố chợ. Vì khi đón nhận một người cùng khổ là chúng ta đang đón nhận chính Chúa trong đời sống của chúng ta.
Suy tới đây, dừng lại đôi phút để suy nghĩ và cầu nguyện xem chúng ta đang chọn thái độ nào. Đôi khi chúng ta chỉ mong muốn có một lễ Giáng Sinh hoành tráng bên ngoài, một hang đá tuyệt đẹp và một món qùa đáng giá. Chúng ta tìm mua tượng Chúa Hài Nhi thật dễ thương đặt nằm trong máng cỏ với các mục đồng và súc vật bao quanh. Nếu chúng ta chỉ chú ý chuẩn bị những hình thức tổ chức trang trí bên ngoài mà không dọn tâm hồn thật sự để đón Chúa, thì chúng ta cũng đâu khác gì những người ngoại không tin vào Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mở rộng trái tim yêu thương để đón Chúa. Xin Chúa ở lại với chúng con và ban ơn cứu độ. Xin tẩy sạch tâm hồn chúng con khỏi những sự hoen ố, ích kỷ, tham lam và thơ ơ nguội lạnh. Xin Chúa sưởi ấm tâm hồn với ngọn lửa yêu thương để chúng con biết chia sẻ cuộc sống với tha nhân.
Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời MV4-B99
Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, c
Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quàn nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng củng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.
Đến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Động lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”
Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuận việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.
Xết về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: “Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầu giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước”. Hoặc ở một chỗ khác: “Chúa sẽ lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi”.
Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ David. Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngãi đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngái muốn để mặc cho nàng tự phận xử.
Đang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đả trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa thì khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết òng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người con đang cưu mang.
Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mổi người chúng ta do yêu thương hay dận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hứng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.
Gương "xin vâng" của Đức Maria được nêu lên làm mẫu trong phụng vụ tuần IV Vọng để kêu gọi MV4-B100
Gương "xin vâng" của Đức Maria được nêu lên làm mẫu trong phụng vụ tuần IV Vọng để kêu gọi mọi người hoàn tất việc chuẩn bị Mừng lễ Giáng Sinh. Tuỳ mức độ "xin vâng" mà đón được Chúa đến nhiều ít. Đức Maria đã xin vâng tuyệt vời, trọn vẹn, đã được Lời nhập thể ngự xuống trong lòng không những cách thiêng liêng mà xuống thai, bắt đầu đời làm người ở giửa loài nguời, làm Đấng Emmanuel, để có lễ Noel.
Vài điểm chú giải
- Mừng vui lên, hởi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà: được đấy ân sủng và có Chúa ở cùng là lý do thật sự để được mừng vui. Có Chúa thì đầy ân sủng nên được vui mừng. Đức Maria đựoc vậy là tại sao? Phần tiếp theo của đoạn Phúc Âm nầy là lời giải thích.
- Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa: Lý do thứ nhất nhưng phần tiếp theo mới nói rỏ.
- Bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu ..: Giêsu nghĩa là Cứu Chúa. Ngưòi Do thái hiểu là Đấng Messia mà họ mong đợi. Ân sủng quá lớn "vô song" ngoài sự mong đợi của Đức Maria "làm bà sợ".
- Mà làm sao được vì tôi không muốn việc vợ chồng: Maria chỉ muốn hiến thân phụng sự Chúa cách đơn sơ đồng trinh trọn đời .
- Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng của Đấng Tối cao sẽ bao phủ bà...: Cách Thiên Chúa thực hiện điều sứ thần loan báo (theo tự nhiên thì không hiểu đươc). Với Thiên Chúa toàn năng thì không gì là không thể. Thiên sứ giải thích cho Maria.
- Vâng, tôi là nữ tỳ của Chúa xin Chúa cứ làm cho tôi theo lời sứ thần bảo: Đức Maria đã cho Thiên Chúa điều kiện quyết định cuối cùng như chúng ta đọc trong kinh Truyền tin "Chốc ấy Ngôi Hai đã xuống thế làm ngưòi và ở cùng chúng ta". Thiên Chúa "xin" một tiếng "xin vâng" yếu ớt của một thụ tạo nhỏ bé. Trí tự nhiên không hiểu nổi việc lạ lùng của Thiên Chúa cả khi sự việc đã xảy ra. Đức tin làm cho chúng ta xin vâng theo gương Đức Maria.
Thiên Chúa toàn năng, không gì là không làm được. Trí khôn loài người hạn hẹp, nhỏ bé làm sao hiểu nổi những việc lạ lùng của Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa, Lời quyền năng nhờ đó mà Thiên đã tạo dựng và làm mọi sự, bây giờ được thiên sứ bảo là xuống thai trong lòng Đức Maria để rồi đủ ngày giờ sẽ sinh ra làm một bé thơ, làm Thiên Chúa ở với con nguời và thực hiện ơn cúư độ đã hứa từ xưa. Lý luận không hiểu được, lớn lao quá.
Chỉ Đức Maria, người đầy ân phúc, đẹp lòng Chúa, có Chúa ở cùng và nhất là đã thưa xin vâng bằng cả cuộc đời như một nữ tỳ mới nhận được. Ân huệ lớn lao của Maria, công trình kỳ diệu của Thiên Chúa được thực hiện với những điều kiện ấy, những điều kiện rỏ ràng và rỏ rang là không có những điều kiện ấy thì Thiên Chúa dù quyền năng đến đâu cũng chịu bó tay.
Cũng vậy dù Chúa có muốn đến, dù chúng ta có muốn Chúa đến, có xin Chúa đến mà không có ít là một phần nào những điều kiện ấy thì Chúa cũng bó tay. Tuỳ theo mức độ mà chúng ta xin vâng, mà chúng ta có Chúa ở cùng, mà Chúa có thể đến và ở lại với chúng ta. Người ta cứ nói Chúa ban ơn nhưng không để cứ làm xấu, không hối cải, không vâng lời Chúa dạy, mà cứ xin Chúa đến "tội nghiệp Chúa", Chúa không làm được.
Chúa đến ở với thì có Chúa, Chúa là nguồn ân sủng. Có Chúa là có ân sủng. Đầy Chúa là đầy ân sủng. Nhưng phải đẹp lòng Chúa. Cứ nói Chúa thương con Chúa cứ đến, cứ ban ơn, cứ ở với con dù con chèm nhèm, hôi hám, "tội nghiệp Chúa", dù Chúa sinh ra trong chuồng gia súc, trong cỏ rơm hèn mạt nhưng Chúa vẩn là Thiên Chúa cao trọng vô cùng. Chúa hạ mình làm một trẻ thơ hèn mọn trong đóng cỏ rơm là để ai cũng đến và rước Chúa về ở với mình được mà không phải sợ.
Muốn Chúa đến và đem hồng ân đến cho thì phải chuẩn bị cho mình có ít thì cũng một phần nào đời sống "xin vâng" của Đức Maria. Đẹp lòng Chúa mới có Chúa, mới có ân sủng và sự vui mừng của Chúa.