Ai có hai áo hãy chia cho người không có và ai dư của ăn, cũng hãy lạm như vậy. Vấn đề lớn: MV 3-C1
Ai có hai áo hãy chia cho người không có và ai dư của ăn, cũng hãy lạm như vậy.
Vấn đề lớn nhất của nhân loại hiện nay là vấn đề giàu nghèo. Thực vậy, trên thế giới, có những nước quá giàu, lại có những nước quá nghèo. Có những người quá dư thừa tiền của, lại có những người quá thiếu thốn. Người giàu thì ít mà kẻ nghèo thì nhiều. Người giàu chỉ là thiều số, nhưng lại chiếm giữ đa số của cải. Ba mươi phần trăm người giàu ngồi hưởng tụ tới tám chín, mươi phần trăm lợi tức của toàn thế giới. Còn bảy mươi phần trăn kẻ nghèo thì lại cứ nghèo thêm. Cái nghèo lại khoét sâu vào cái nghèo.
Nghèo khó chính là mặt trái của cuộc đời, từ đó nảy sinh biết bao nhiêu điều xấu xa:
- Bần cùng sinh đạo tặc. - Đói ăn vụng, túng làm liều.
Nghèo túng không phải là một tội, nhưng là một nỗi lo âu triền miên, nó làm cho con người không còn nhân phẩm, không còn là người nữa. Mà còn gì nữa đâu, vì nó đã cướp đi những đặc tính cao đẹp của con người. Nó làm cho con người trở thành ghen tương và đố kỵ, chia rẽ và bạo động, phản bội và lừa đảo, bệnh tật và chết chóc. Từ chỗ thù hận, con người đối xử với nhau như một loài lang sói cũng chỉ vì miếng ăn.
Hơn thế nữa, nghèo túng còn làm cho người ta coi nhẹ phần linh hồn, để rồi quì gối thờ lạy con bò vàng, hầu kiếm lấy cho mình chút lợi lộc. Vì đồng tiền, người ta sẵn sàng bán rẻ lương tâm và phẩm giá của mình. Người ta sẵn sàng cưỡi lạc đà chui qua lỗ kim và nuốt trửng gia tài của những bà góa. Nghèo túng thì chẳng ai ưa, còn giàu sang thì ai cũng muốn. Nhưng với Chúa Giêsu thì khác. Ngài đã từ giã cõi trời cao sang để đến với chúng ta nơi máng cỏ Bêlem nghèo túng. Ba mươi năm tại Nagiarét là ba mươi năm lao động cực nhọc, ba mươi năm lam lũ đổ mồ hôi nước mắt với nghề thợ mộc. Trong hoang địa, ma quỉ đã cám dỗ Chúa về mộng ước giàu sang, nhưng Ngài đã xua đuổi. Quãng đời loan báo Tin mừng là cả một quãng đời vất vưởng lầm than, không có lấy một chỗ để tựa đầu. Sau cùng, Ngài đã chết một cái chết tủi nực và trơ trụi trên thập giá. Và ngay cả mấm mồ, nơi an nghỉ cuối cùng, cũng chỉ là một nấm mồ đi mượn của người khác mà thôi.
Giáo lý của Ngài cũng là giáo lý dành cho những kẻ khó nghèo và thực tế, kẻ nghèo đã đón nhận bản thân và những lời giảng dạy của Ngài. Thực vậy, Ngài đã phán:
- Không thể làm tôi hai chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được…Kho tàng ở đâu thì lòng các ngươi cũng ở đó…Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi…Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời…
Vì thế, chúng ta hiểu được tại sao Ngài lại chúc phúc cho những kẻ nghèo túng. Họ là những người có tấm lòng từ bỏ để tuân theo ý Chúa vì mọi sự trần gian sẽ qua đi, của cải đã từng nhiều phen làm mồi cho rỉ sét, cho mối mọt, chứ chưa cần tới đời sau. Tục Ngữ m đã bảo:
- Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.
Vậy tại sao không cố gắng sắm cho mình của cải vĩnh cửu ? Không ai trong chúng ta chịu bỏ tiền ra đều mua đồ dổm hay đồ giả, thì tạo sao trong lãnh vực thiêng liêng, chúng ta không sắm cho mình đồ tốt, đồ thật, tức là niềm hạnh phúc Nước trời và cuộc sống vĩnh cửu. Vàng bạc và của cải trần gian so với hạnh phúc Nước trời chỉ là sự phù vân giả trá mà thôi. Vậy để chiếm hữu Nước trời, chúng ta phải làm gì ? Tôi xin thưa:
- Phải nhường cơm sẻ áo cho nhau, lá lành đùm lá rách, như lời Gioan Tiền hô khuyên nhủ.
Chúng ta hãy nhớ rằng: được giúp đỡ người khác là một đặc ân Chúa ban cho chúng ta, vì cho đi thì hạnh phúc hơn là nhận lãnh. Bàn tay tặng đóa hồng bao giờ cũng còn phải phất hương thơm và người làm phúc bố thí sẽ không bao giờ nghèo. Hơn thế nữa, khi giúp đỡ người khác là chúng ta giúp đỡ cho Chúa cũng như giúp đỡ cho chính bản thân mình.
Giáo Hội vào ngày Chúa nhật 3 Mùa vọng mời gọi tất cả con cái mình cử hành Bí tích Thánh: MV 3-C2
Giáo Hội vào ngày Chúa nhật 3 Mùa vọng mời gọi tất cả con cái mình cử hành Bí tích Thánh Thể trong tinh thần vui mừng hân hoan: “Hãy vui lên, vì Thiên Chúa ngự đến. Hãy vui lên, vì ngày cứu rỗi chúng ta đã đến, ơn cứu rỗi chúng ta đã được thực hiện”.
Niềm vui mà Giáo Hội mời gọi chúng ta sống trong những ngày này không phải là niềm vui vật chất như treo đèn ngôi sao, dọn hang đá, chuẩn bị quà cáp, mua sắm thức ăn chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh theo tinh thần trần tục. Niềm vui mà Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta sống trong những ngày này là một niềm vui khác, niềm vui thánh thiêng, niềm vui Thiên Chúa ban cho con người biết cộng tác với ơn thánh của Ngài.
Bài đọc 1 của Chúa nhật 3 mùa vọng hôm nay được trích từ sách tiên tri Sôphônia, gợi lên cho chúng ta ba lý do căn bản của niềm vui thánh thiêng này.
Lý do thứ nhất: Hãy vui lên, vì Thiên Chúa đã thương tha thứ tội lỗi cho con người. Ngài tha thứ tội lỗi không phải là vì chúng ta đã lập công nên đáng được như vậy, nhưng vì sáng kiến tình thương của Ngài: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi sai Con Một của mình xuống để cứu rỗi thế gian, để ai tin vào Ngài thì sẽ được ơn cứu rỗi”. Đó là niềm vui đầu tiên của niềm vui Kitô, Thiên Chúa đã thương tha thứ tội lỗi của chúng ta.
Lý do thứ hai: Hãy vui lên, vì Thiên Chúa đến ngự giữa con người, Ngài đến hiện diện với con người, sống với con người: “Thiên Chúa đã làm người và sống giữa chúng ta”. Trong Kinh Thánh, quan niệm Thiên Chúa sống giữa con người, trước hết biểu lộ tình thương đặc biệt của Thiên Chúa, Ngài muốn đối thoại với con người liên lỉ để hướng dẫn con người sống theo chương trình của Ngài, chu toàn sứ mạng của mình. Niềm vui đó Chúa Kitô Phục sinh đã trao ban cho các tông đồ khi Chúa phán: “Các con đừng sợ, hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian. Này đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Niềm vui được loan báo trong Cựu ước nơi tiên tri Sôphônia đã được thực hiện nơi Chúa Giêsu Kitô và đã được trao ban cho con người.
Lý do thứ ba của niềm vui Kitô gồm tóm hai lý do trên: Hãy vui lên, vì Thiên Chúa yêu thương con người. Con người tội lỗi, có những tật xấu, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương con người và mời gọi con người canh tân đời sống: “Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng”.
Chúng ta lắng nghe lời mời gọi của thánh Gioan tiền hô được nhắc đến trong Phúc âm hôm nay để trở về với Thiên Chúa, để sống trong niềm vui. Người Kitô là kẻ sống trong niềm vui, sống với tin vui mừng, đó là Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa yêu thương mỗi người chúng ta.
Victofrans là một nhà phân tâm học người Do thái, khi thế chiến thứ hai bùng nổ, ông bị Đức Quốc Xã đưa vào trại tập trung, được thoát chết, ông đã viết lại tập sách có tựa đề là: “Con Người Đi Tìm Ý Nghĩa Sống” để kể lại tất cả những nỗi khổ mà những người Do thái phải chịu trong trại tập trung. Một trong những đau khổ nặng nề nhất là phải sống trong đợi chờ ; đợi chờ để biết số phận của những người thân yêu bị lạc mất, đợi chờ để biết số phận của chính mình sẽ ra sao, đợi chờ để được cứu thoát.
Những người Do thái thời Chúa Giêsu và có thể chúng ta ngày hôm nay có lẽ cũng rơi vào đau khổ đợi chờ này. Những người Do thái đợi chờ Đấng được giải phóng đến giải thoát họ khỏi sự thống trị của đế quốc Rôma, và một khi phải đợi chờ mãi nhiều người mất đi hy vọng, niềm tin và niềm an vui. Họ đợi chờ và không làm gì cả, đợi chờ trong thụ động, đợi chờ trong sự trốn chạy trách nhiệm phải dấn thân.
Giáo Hội vào ngày Chúa nhật 3 mùa vọng mời gọi chúng ta hãy đợi chờ trong niềm vui, trong niềm tin, trong niềm hy vọng, chắc chắn được Chúa đến giải thoát tội lỗi. Sự thật thì Chúa đã đến rồi trong lịch sử, trong tâm hồn của biết bao anh chị em chúng ta đã sẵn sàng đón nhận Ngài. Nhưng có thể đối với chúng ta thì Chúa chưa đến, vì tâm hồn chúng ta không còn chỗ trống dành cho Người, vì chúng ta chưa sẵn sàng thay đổi đời sống nên cứ sống trong lo âu khắc khoải không biết mình chờ đợi gì ? Chờ đợi tương lai sẽ về đâu ?
Chúng ta đừng sợ Thiên Chúa, đừng sợ và hãy vui lên, đó là mệnh lệnh của Thiên Chúa cho con người trong suốt lịch sử. Đừng sợ và hãy vui lên, đó là lời kêu gọi của Thiên Chúa gởi đến cho con người, trong đó được tóm gọn trọn cả tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, tóm gọn cả lịch sử cứu rỗi Cựu và Tân ước. Đừng sợ và hãy vui lên, đây là hai khía cạnh của cùng một thực tại ơn cứu rỗi. Đừng sợ và hãy vui lên, vì Thiên Chúa ngự đến sống với và sống trong con người. Đừng sợ và hãy vui lên, vì Thiên Chúa đang chờ chúng ta đến với Ngài. Tương lai của đời người và lịch sử chắc chắn sẽ qui về Ngài, vì Ngài là khởi đầu và cùng đích của mọi sự.
Lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: Tôi phải làm gì bây giờ ? Gioan tẩy giả đã trả lời mà nội dung chính có thể được tóm gọn lại trong công thức chính Chúa Giêsu đã nói lên: Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô”.
Những kẻ chán ngán bởi quảng cáo rầm rộ có thể nghĩ rằng sứ điệp của thánh Phaolô chỉ hỗ: MV 3-C3
Những kẻ chán ngán bởi quảng cáo rầm rộ có thể nghĩ rằng sứ điệp của thánh Phaolô chỉ hỗ trợ thêm cho sự lạm phát lời nói của những phương tiện truyền thông xã hội mà thôi.
Chúng ta được tạo dựng nên để tham dự vào niềm vui muôn thuở của Thiên Chúa, và theo lời Chúa Giêsu, niềm vui này đã được ban cho chúng ta rồi. Chúng ta phải khám phá ra nó, đón nhận nó và trung thành với nó. Phụng vụ Chúa nhật mùa vọng hôm nay là một bài học về niềm vui thực sự, niềm vui sâu xa và chân chính vốn là hồng ân của Chúa.
Người ta có thể vui mừng vì những gì mình đã tránh được: một tai nạn xe hơi, một cuộc gặp gỡ khó chịu, một cuộc đình công, chi phí thêm vào việc sửa nhà ; người ta cũng có thể vui mừng vì những gì xảy đến: một người bạn mới, một chuyến du lịch tốt đẹp, kết quả khám sức khỏe đầy khích lệ, một đứa con đã chờ đợi từ lâu. Mọi sự xảy ra như thể niềm vui tùy thuộc vào phẩm chất của cách thức hiện diện mà ta thiết lập với những con người và sự vật. Có những hình thức hiện diện áp bức, phá hại niềm vui, và những hình thức khác làm nảy sinh một niềm vui luôn luôn mới mẻ.
Niềm vui của các Kitô hữu nảy sinh từ một sự hiện diện như thế: Sự hiện diện của Thiên Chúa ! “Thiên Chúa, Chúa ngươi ở nơi ngươi… nơi ngươi Ngài tìm được niềm vui và sự hân hoan (Bài đọc ngôn sứ Sôphônia). Và thánh Phaolô phụ họa theo: “Chúa đến gần rồi !” Ngài như là một ai đang đến, nhưng Ngài là Đấng hiện diện cách thực tại đến nỗi người ta phải nói rằng Ngài “gần bên ta”, như vợ chồng ở bên nhau, như con cái gần gũi cha mẹ, như bạn bè quây quần sum họp.
Chúa hiện diện. Ngài là Đấng biết ta, chăm sóc ta, can thiệp để tha thứ và cứu độ ta. Ngài là Đấng mời gọi, chờ đợi, an ủi và làm cho ta sống động. Kinh nghiệm về niềm vui của những kẻ tin là như thế.
Nếu niềm vui nảy sinh nơi chúng ta do sự hiện diện của Chúa, thì ta phải để nó xâm chiếm mình, sống nơi mình, và biểu lộ trước mặt mọi người. Như thế không có nghĩa là ta được kẻ khác chú ý bởi một niềm phấn khởi tràn trề và không thể thắng được, bởi một sự lạc quan quá đáng hoặc bởi những câu hát tiếng cười vang lên từ đầu đường đến cuối phố.
Thánh Phaolô nói về sự thanh thản. Các Kitô hữu biểu lộ niềm vui sâu xa của mình bằng thanh thản, tính cao thượng của tâm hồn và sự bình an.
Khi nhìn xung quanh chúng ta hoặc xa hơn một chút, khi đọc lại tờ báo cuối tuần, ta khó mà nhận ra được những cách sống thanh thản. Những người tưởng mình thanh thản lại giống như kẻ lãnh đạm, vô cảm hoặc không dám dấn thân vào cuộc sống. Nhưng môn đệ của Chúa Giêsu phải được định nghĩa như một người dấn thân đến cùng trong thế giới này và trong lịch sử của nó, bởi vì với Chúa Kitô mọi sự đều trở nên mới mẻ, mọi sự đang thay đổi nhờ sự hiện diện của Ngài, và trong Ngài mọi sự vươn lên hướng tới chỗ hoàn tất.
Thanh thản là nghệ thuật sống đặc sắc của môn đệ Chúa Giêsu. Họ không sợ đời, vì họ biết rằng Chúa của họ đang hiện diện và đang hoạt động. Họ biết rằng bên dưới những biến cố rất huyền nhiệm của cuộc sống đời này, sự gặp gỡ tuyệt vời giữa Chúa và dân Ngài đang được chuẩn bị. Họ chắc chắn rằng mọi sự sẽ được hoàn tất bởi vì, trong Chúa Kitô, mọi sự đã được ban cho chúng ta rồi.
Cũng như chúng ta, các Kitô hữu được thánh Phaolô viết bức thư mà chúng ta vừa nghe đọc lại một đoạn, có nhiều lý do để lo lắng. Thánh Phaolô mời gọi họ hãy can đảm lên và hãy sống vui vẻ. Không phải là nuôi những giấc mộng hão huyền đâu. Nhưng là sống. Sống mỗi ngày trong sự thanh thản biểu lộ niềm vui mà sự hiện diện của Chúa làm nảy sinh nơi chúng ta.
Chủ đề chính của Phụng vụ Chúa nhật hôm nay là Vui mừng và Hy vọng. Đất Israel thời tiên tri: MV 3-C4
Chủ đề chính của Phụng vụ Chúa nhật hôm nay là Vui mừng và Hy vọng. Đất Israel thời tiên tri Sophonia luôn bị đe dọa bởi sự xâm lược của ngoại bang. Vì thế có nhiều bất ổn, chinh chiến loạn lạc, thành thánh Giêrusalem bị dày xéo và dân bị bắt đi lưu đày. Đó chính là hậu quả của việc bất trung với Thiên Chúa. Nhưng dầu sống trong cảnh đau thương, tiên tri Sophonia vẫn tin tưởng mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Một Thiên Chúa mà theo ông là Thiên Chúa đầy tình yêu thương và tha thứ. Người không ruồng bỏ, nhưng sẽ giải thoát, sẽ đẩy xa mọi nỗi sợ hãi, mọi tai ương khỏi dân Người. Chính trong niềm tin tưởng ấy, mà tiên tri đã kêu gọi: “Hãy vui lên, hỡi thiếu nữ Sion. Hỡi Israel, hãy vui mừng lên, vì Thiên Chúa đang ở giữa ngươi. Người là Đấng cứu tinh oai hùng, sẽ lấy tình thương mà đổi mới các ngươi”.
Rồi bằng chính kinh nghiệm bản thân, thánh Phao lô cũng đã cảm nghiệm rất rõ ràng Thiên Chúa là Đấng Cứu độ. Người sẽ giải thoát, sẽ ban bình an và hạnh phúc cho dân Người. Vì thế, người cũng đã kêu gọi các tín hữu Philipphê: “Hãy vui lên anh em. Tôi nhắc lại: Hãy vui lên trong Chúa”. Và bài Tin Mừng diễn tả: chính trong niềm hy vọng ơn cứu độ mà những người Do thái thiện chí đã phấn khởi đến với ông Gioan tiền hô xin ông cho biết phải làm gì để đón nhận Đấng Cứu Thế sắp đến.
Như vậy, qua các bản văn Thánh Kinh, chúng ta thấy: Thiên Chúa chính là Niềm vui và Hy vọng của con người. Bởi chỉ mình Người mới có thể giải thoát nhân loại khỏi mọi nỗi cơ cùng, khỏi kiếp sống nô lệ. Chỉ mình Người mới có thể ban cho nhân loại niềm vui, bình an và hạnh phúc. Do đó, lời kêu gọi: Hãy vui lên, Hãy vui lên trong Chúa là điều rất hợp lý.
Ngày hôm nay chúng ta không còn phải đón chờ Chúa đến như dân Do thái ngày xưa, bởi Chúa đã đến rồi. Người đang hiện diện bên ta như lời Người đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Người vẫn tiếp tục thi ân cho chúng ta như Người đã thi ân cho dân Do thái ngày xưa.
Nhưng có thật là chúng ta vui mừng vì sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời mình ? Có thật là chúng ta vui mừng là được Chúa viếng thăm ? Có thật là chúng ta vui mừng vì được làm con Chúa, được làm người có đạo ? Phải chăng đã chẳng có những lúc chúng ta nghĩ rằng: làm con Chúa vui đâu chẳng thấy, mà chỉ thấy những phiền lụy cho cuộc đời ? Những người không tin có Thiên Chúa, họ có thể an tâm ăn chơi xả láng, có thể mánh mung, lường gạt để kiếm cho được lắm bạc nhiều tiền với hy vọng một cuộc sống thoải mái ung dung. Còn làm con Chúa ư ? Có cả một mạng lưới lề luật vây bọc quanh ta, đến nỗi ta cảm thấy mình như bị ngộp thở bởi những trói buộc và cấm đoán. Nếu không phải là người có đạo thì giờ này ta đã được rong chơi thoải mái chứ đâu có bị bó buộc để ngồi trong nhà thờ này. Nếu không phải là con Chúa thì tuổi thanh xuân của ta sẽ đẹp đẽ biết bao, bởi ta có thể làm tất cả những gì mình muốn, sẽ được thỏa mãn mọi khát vọng luôn nung nấu ta ngày đêm. Nếu không phải là con Chúa thì đời sống hôn nhân sẽ dễ chịu hơn nhiều. Vui thì ở, buồn thì chia tay chứ đâu có phải gắn bó mãi với một con người mà mình đã chán ngấy.
Nếu Thiên Chúa của chúng ta là một hung thần luôn đàn áp con người, nếu lề luật của Thiên Chúa như là những thứ giết chết tự do của chúng ta thì quả thật, chúng ta chẳng nên vui mừng vì được làm con của một Thiên Chúa như vậy. Nhưng Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa của tình yêu thương. Một Thiên Chúa luôn nhẫn nhục trước sự bất tín, bất trung của dân Chúa. Một Thiên Chúa luôn biết nhỏ lệ trước những nỗi đớn đau của kiếp người. Một Thiên Chúa cảm thông và tha thứ cho những yếu đuối của con cái mình. Chính trong tình yêu thương vô biên ấy mà nếu Thiên Chúa có đặt ra những lề luật, thì đó chỉ là những lời diễn tả tình yêu, là hàng rào gìn giữ chúng ta trong tình yêu và là con đường dẫn chúng ta tới sự sống. Chúng ta phải vui mừng vì được tôn thờ một Thiên Chúa như vậy trong đời mình.
Nếu ngày hôm nay chúng ta hỏi thánh Gioan tiền hô: Chúng tôi phải làm gì ? Có thể người sẽ bảo chúng ta rằng: Hãy thay đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Hãy nhìn người như một người Cha, như một người bạn thân hay như một người tình để thấy được tình yêu vô bờ của Người. Thấy được tình yêu vô bờ của Người, chúng ta cũng sẽ thấy được điều mình phải làm để đáp lại tình yêu tuyệt đối ấy.
Chúa nhật thứ ba mùa vọng được mệnh danh là Chúa nhật Gaudete, Chúa nhật Vui mừng giữa: MV 3-C5
Chúa nhật thứ ba mùa vọng được mệnh danh là Chúa nhật Gaudete, Chúa nhật Vui mừng giữa mùa vọng. Hôm nay Giáo hội dùng những bài thánh kinh chứa đựng những lời lẽ khích lệ, bảo ta vui lên, vì ngày giờ cứu rỗi đã gần. Mầu sắc phụng vụ hôm nay là mày hồng tượng trưng cho sự vui mừng chờ đón Chúa cứu thế. Hôm nay các linh mục có áo lễ màu hồng có thể bận khi dâng lễ. Nếu giáo xứ nào có bộ nến mùa vọng, thì cây nến màu hồng cũng được thắp lên hôm nay. Có nhiều cơ hội và biến cố trong đời sống có thể đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Sức khoẻ, thành công trong việc làm, tiến thân trong sự nghiệp, gặp lại người thân yêu hay bạn bè là những dịp đem lại niềm vui cho loài người. Niềm vui cũng có thể được tìm thấy trong lãnh vực thiêng liêng và siêu nhiên. Và đạo giáo phải mang lại cho ta niềm vui đó. Lý do khiến người Ki-tô giáo vui là việc Chúa cứu thế đến cứu chuộc nhân loại đang gần đến, giao hoà loài người với Thiên Chúa. Có những người cho rằng đạo Ki-tô giáo là đạo ưu sầu, nhấn mạnh đến hy sinh, hãm mình và cấm đoán. Nhận xét như vậy là nhận xét một chiều, chỉ đúng về một phương diện nào đó. Chính trong gia đình cũng có những ràng buộc cấm đoán, phương chi là tôn giáo. Dù sao đi nữa từ ngữ vui hay vui mừng được nhắc đến 360 lần trong thánk kinh. Trong khi từ ngữ ưu sầu chỉ được ghi lại có 33 lần mà thôi.
Như vậy đạo Ki-tô giáo là đạo vui mừng. Cái vui đây không nhất thiết phải là vui cười khoái lạc, nhưng là niềm vui nội tại. Niềm vui Ki-tô giáo không có nghĩa là không còn buồn khổ. Bao lâu còn sống tại the, ta không thể nào tránh khỏi đau khổ. Đời sống con người tại thế là những chuỗi ngày vui buồn lẫn lộn. Tiên tri Xô-phô-ni-a hôm nay nhắc nhở dân chúng đang sống trong cảnh lưu đầy cần reo vui lên vì Chúa sắp đến mang ơn cứu độ: Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dạy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi (Xp 3:14). Trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô mặc dù đang sống trong tù đày, có ít lý do để vui, cũng khuyên nhủ họ: Hãy vui luôn trong tình yêu của Chúa. Tôi nhắc lại: hãy vui lên anh em (Pl 4:4). Sở dĩ thánh Phao-lô bảo họ vui lên trong Chúa vì Chúa là nguồn mạch và là động lực của sự vui mừng.
Cái niềm vui của Thánh Gio-an tiền hô trong phúc âm hôm nay là việc nhận chân được cái căn tính của mình trước Đấng cứu độ. Khi dân chúng hỏi xem ông có phải là Đấng Ki-tô không, thì Gio-an xác nhận cái căn tính của ông chỉ là người dọn đường cho Đấng cứu thế. Ông chỉ làm phép rửa trong nước, còn Đấng cứu thế đến sẽ làm phép rửa trong nước và Thánh thần. Khi những người thu thuế, những người binh lính đến hỏi Gio-an xem họ phải làm gì để sửa sọan đón mừng Đấng cứu thế, Gio-an bảo người thu thuế đừng đòi hỏi quá mức được ấn định, và bảo binh lính đừng ức hiếp ai, đừng chiếm đoạt, nhưng hãy bằng lòng với đồng lương (Lc 3:12-14). Là người công giáo, ta phải học với Gio-an để biết mình, biết chấp nhận bản thân và hoàn cảnh. Nếu không người ta có thể trở thành những người bất mãn kinh niên. Khi bằng lòng chấp nhận cái vị thế, cái chỗ đứng, cái giới hạn của mình, ta sẽ có được tâm hồn an vui đón nhận Chúa đến.
Cái sứ điệp rao giảng phép rửa thống hối của Gio-an để dọn đường cho Đấng cứu thế đến đã làm khơi dại cái niềm vui phấn khởi của người Do thái. Sở dĩ có như vậy là vì qua bao nhiêu thế kỷ họ đã bị quân lực ngoại bang đô hộ: dưới ách thống trị của đế quốc Ba tư, dưới ách nô lệ của dân Ai cập, dân Si-ri-a và đế quốc La mã. Việc Chúa đến bằng ơn thánh trong ngày Sinh nhật và mùa Giáng sinh cũng phải đem lại niềm vui cho tâm hồn người tín hữu. Điều làm ta vui vì ta đặt tin tưởng vào lời Chúa và cậy trông phó thác vào quyền năng Chúa.
Mùa vọng đã trải dài được quá nửa. Lễ giáng sinh đâu đây như đã gần kề và người ta bắt đầu: MV 3-C6
Mùa vọng đã trải dài được quá nửa. Lễ giáng sinh đâu đây như đã gần kề và người ta bắt đầu nô nức nghĩ tới hang đá, máng cỏ, vạch ra dự phóng cho ngày đại lễ. Phụng vụ hôm nay cho ta cái cảm giác Đấng nhân loại đang chờ đợi, đã ở đâu đây và con người có thể đặt vấn đề về Ngài, nêu lên những thắc mắc về Đấng muôn dân hằng mong đợi, chờ trông. Bài Tin Mừng Lc 3, 10-18 là bằng chứng hùng hồn về những vấn nạn, thắc mắc về Đấng nhân loại, thế giới bao năm mong đợi: những câu hỏi về lai lịch, tông tích, dung mạo, vai trò của Gioan Tẩy Giả, nhưng thực tế là những vấn nạn những thắc mắc về chính Đức Kitô, Đấng cứu độ, Đấng các ngôn sứ loan báo, Đấng Thiên Sai.
Dân chúng ở Giêrusalem như bị rộn lên, bị hút cuốn trong những câu chuyện lạ thường, thần tiên, kỳ diệu. Những vấn nạn đặt ra vẫn luẩn quẩn trong những khuôn mẫu từ trước:là Êlia ? là ngôn sứ ?...Gioan chỉ có thể trả lời với quần chúng nhân dân vỏn vẹn bằng một ngôn từ:” Không “. Cái không như cụt ngủn nhưng xác quyết rõ ràng chân tướng của Đấng Thiên Sai không nằm trong những khuôn mẫu có sẵn. Bao lâu dân chúng còn sống trong cái luẩn quẩn của những định kiến, những mẫu có sẵn, họ vẫn chưa nhận ra Đấng cứu thế.Sự có mặt của Chúa đã là một sự độc đáo trong lịch sử. Gioan đã phải khó nhọc, vất vả lắm mới đưa dân chúng hướng về Đấng cứu độ đang ở giữa họ mà họ chưa nhận ra, qui chiếu họ về Đấng họ đang tìm kiếm và mong ước gặp Ngài. Gioan quả thực là người chứng đích thực:” Tôi không phải là Đấng Kitô”( Ga 1, 20 ) vì chính Gioan đã không ngăn cản ánh sáng chiếu tới họ ( Ga 1, 7-8 ).
Dân chúng ở Giêrusalem sau khi nghe Gioan rao giảng về sự hoán cải, ăn năn, sám hối và sự nổi giận của Thiên Chúa, đã nhao nhao, chao đảo hỏi Gioan họ phải làm gì để tránh cơn lôi đình của Thiên Chúa ? Gioan đã đưa ra những đề nghị cụ thể cho từng hạng người: Đối với dân chúng nói chung, Gioan đề nghị sự chia sẻ. Chia sẻ của ăn, của mặc, lưu tâm đến những người thiếu thốn khó nghèo.Với hạng thu thuế, Gioan đề nghị và răn bảo họ đừng lấy quá mức ấn định( Lc 3, 13 ). Thu thuế hồi đó được liệt vào hạng tội lỗi, cấu kết với ngoại lai, đè đầu bóp cổ người khác. Đối với binh lính, một loại người không được thiện cảm với dân, Gioan dặn họ:”chớ hà hiếp ai,cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”( Lc 3, 14 ). Như thế, theo Gioan:”hối cải” là điều kiện tiên quyết để đi vào thời cứu độ...Thiếu tình huynh đệ anh em, thiếu công bình, bác ái, lòng yêu mến lưu tâm tới người nghèo con người chưa có điều kiện để đi vào nước Chúa.
Luca trong đoạn Tin Mừng 3, 10-18 trong phần hai của đọan này cũng ghi lại chứng của Gioan về Đức Kitô, Đấng cứu tinh sẽ đến. Ông đã đánh tan ngay những suy nghĩ của chính các môn đệ ông, những người sống gần gũi ông nhưng vẫn lầm tưởng Gioan là Đấng cứu thế, Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Gioan đã gián tiếp trả lời những thắc mắc của họ. Ông đã so sánh công việc của ông làm với công việc của “ Đấng quyền năng hơn ông sẽ đến”. Đấng đến làm phép rửa trong lửa và Thánh Thần, Đấng phán xét( Lc 3, 16 ). Gioan chỉ là con người mở đường, dẫn lối: việc của ông làm là bước dọn đường, là hình bóng. Đấng sẽ đến là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người mà các ngôn sứ loan báo, dân chúng trông đợi mới là Sự Thật: thời mới đang đến mới là thời muôn dân mong đợi đích thực, mới là thời cứu chuộc. Gioan là thời Cựu ước, Chúa Giêsu mới là nhân vật của thời mới, thời cứu chuộc.Hối cải để có thể tiếp tục cuộc hành trình đức tin tìm gặp Chúa Giêsu.
Hối cải có nền tảng là lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa như bài đọc 1, ngôn sứ Sophonia đã nói: ”Đấng cứu thoát và ở giữa dân của Người” chính là Đức Giêsu. Chúa Giêsu, Ngôi Lời được Thiên Chúa sai tới để yêu thương nhân loại và dậy con người yêu thương nhau. Ngài đã làm gương bằng cả cuộc đời của Ngài về sự yêu thương và yêu thương đến cùng tận” Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13).
Mùa vọng như thế là mùa hối cải. Hối cải không có nghĩa chỉ làm hòa với Chúa trong tòa giải tội, nhưng hối cải là dấn thân vào cuộc sống, làm hòa với Chúa và với anh em, là thực thi bác ái, công bình và chia sẻ. Mùa vọng trong ý nghĩa đó là tích cực xây đắp tình liên đới huynh đệ, mau mắn chia sẻ của ăn, của mặc với những người nghèo và những người cô thân cô thế.Mùa vọng sẽ là cơ hội giúp con người, nhân loại làm chứng cho Đấng đang hiện diện giữa loài người mà nhiều người tìm mà chưa gặp được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con được trở nên chứng nhân đích thực cho Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn nghĩ sao về vai trò của Gioan Tẩy Giả ?
2. Hối cải là gì ? Bạn có cần hối cải không ?
3. Thời cứu chuộc là gì ?
Để giúp mọi người sám hối, Gioan Tẩy giả khuyên mỗi loại người một lời khuyên khác nhau: MV 3-C7
1. Để giúp mọi người sám hối, Gioan Tẩy giả khuyên mỗi loại người một lời khuyên khác nhau. Tại sao vậy? Ta có thể rút ra kết luận gì về điều ấy?
2. Công lý và tình thương có liên hệ gì với nhau? Tình thương không được xây dựng trên công lý có phải là đức ái kitô giáo không? Tại sao?
3. Sám hối để đón Chúa đến đòi hỏi phải có sự thay đổi: giữa thay đổi quan niệm và thay đổi thái độ hay hành động, cái nào quan trọng và nền tảng hơn? Cần phải thay đổi quan niệm nào và thay đổi thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Công lý và tình thương
Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối để dọn đường cho Chúa đến. Khi có người muốn đi vào cụ thể của việc sám hối, Gioan đã tùy theo đối tượng hỏi mà đề ra hai loại việc làm cụ thể. Đối với những người trình độ tâm linh còn thấp, ông đề nghị những việc làm liên quan đến việc thực hiện công bằng hay công lý: «Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh», «Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình». Đối với những người đã thực hiện được sự công bằng hay công lý trong đời sống, ông đưa họ lên một mức độ trọn lành cao hơn, đó là tình thương hay bác ái: «Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy».
Công lý và tình thương hay công bằng và bác ái là hai tinh thần căn bản của Kitô giáo. Hai đức này phải đi đôi với nhau thì mới thật sự là tinh thần Kitô giáo. Nghĩa là công lý Kitô giáo phải là thứ công lý có tình thương, và tình thương Kitô giáo phải là tình thương được xây dựng trên nền tảng công lý. Nói theo ngôn ngữ thông thường là tình và lý phải luôn đi đôi với nhau: lý phải có tình, mà tình phải có lý.
2. Tình thương phải có nền tảng là công lý, công lý phải được xây dựng trên sự thật Tuy nhiên, còn một điều hết sức căn bản nữa của tinh thần kitô giáo, đó là tinh thần tôn trọng chân lý hay sự thật. Trong Tin Mừng Matthêu, Đức Giêsu cho biết: «Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự thành thật» (Mt 23,23). Sự thành thật ở đây chính là tinh thần tôn trọng chân lý, sự thật, nghĩa là: «Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ» (Mt 5,37). Do đó, đạo đức hay thánh thiện mà thiếu tôn trọng một trong ba điều này, là «công lý, tình thương và sự thành thật», thì chỉ là thánh thiện hay đạo đức một cách què quặt.
Tuy nhiên, trong ba điều này thì sự thành thật hay tinh thần tôn trọng sự thật là nền tảng cho cả hai điều kia. Thiếu tinh thần tôn trọng sự thật thì không thể có công lý và tình thương đích thực. Trong ba điều quan trọng ấy, tình thương là cao cả nhất - vì là bản chất của Thiên Chúa (x.1Ga 4,8.16) - nhưng tình thương chỉ là tình thương đích thực khi nó được xây dựng trên nền tảng công bình hay công lý. Tình thương có nền tảng như thế mới có thể là đức ái kitô giáo. Chính vì thế, đối với những người tội lỗi, ông Gioan chỉ đòi hỏi họ giữ được sự công bằng mà thôi. Với người bình thường - giả thiết là đã thực hiện sự công bình - ông mới khuyên họ thể hiện tình yêu thương tích cực với đồng loại, đặc biệt với người nghèo khổ.
3. Sự phán xét của Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng, Gioan cho biết Đấng Mêsia đến sau ông có nhiệm vụ giáo dục, thánh hóa mọi người: «Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa». Ngoài ra, Ngài còn có nhiệm vụ sàng sẩy, thanh lọc, tức phán xét và thưởng phạt mọi người nữa: «Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi».
Mục đích của công việc giáo dục, thánh hóa của Ngài chắc chắn là biến con người trở thành những con người hoàn hảo: «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48). Và con người hoàn thiện theo quan niệm của Ngài ắt phải là người thực hiện được «những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự thành thật» (Mt 23,23).
Nếu mục đích của việc giáo dục, thánh hóa của Ngài là như thế, ắt tiêu chuẩn để xét đoán, thưởng phạt của Ngài cũng phải dựa trên ba điều căn bản ấy. Thật vậy, Tin Mừng Matthêu cho ta biết tiêu chuẩn ấy là chúng ta có đối xử với tha nhân của mình bằng tình yêu hay không (x. Mt 25,31-46). Tình yêu mà Đức Giêsu đòi hỏi là phải là thứ tình yêu được xây dựng trên nền tảng sự thật và công lý.
4. Sám hối một cách nền tảng là thay đổi quan niệm
Các bài Tin Mừng trong mùa Vọng đều ít nhiều nhấn mạnh đến tinh thần sám hối: Gioan «kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội» (Lc 3,3). Sám hối đòi hỏi một sự thay đổi cụ thể: «Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng» (Lc 3,5). Điều quan trọng nhất mà chúng ta phải thay đổi chính là quan niệm về sự thánh thiện hay lòng đạo đức của chúng ta. Rất nhiều kitô hữu quan niệm chưa đúng về điều này, nên dù rất khao khát và quyết tâm nên thánh, nhưng trong thực tế chỉ là thánh trước con mắt sai lầm của một số người, chứ không phải là thánh trước con mắt của Thiên Chúa.
Hồi nhỏ, tôi có quen biết một bà sống độc thân. Bà rất siêng năng đọc kinh, đi lễ, xưng tội, coi đó như là điều quan trọng nhất trong đời. Vì thế, nhiều người coi bà là một người rất đạo đức. Có điều là bà rất khó tính, con cháu dù lớn hay nhỏ đều cảm thấy không thích ở gần bà. Mặc dù con cháu ruột thịt của bà rất đông và nhiều đứa rất nghèo khổ, nhưng trước khi bà mất, bà dùng hết tiền của và tài sản bà có để xin lễ, không để lại cho đứa cháu nào lấy một đồng. Bà lo sợ sau khi chết, con cháu sẽ không có đứa nào xin lễ cho bà, nên bà phải tự lo lắng lấy chuyện ấy. Thấy vậy, tôi tự hỏi: không biết cả tài sản của bà mà đem xin lễ như thế có thật sự lợi ích cho phần rỗi linh hồn của bà không? Xét cho cùng thì bà chỉ là một người ích kỷ: bà chỉ nghĩ tới phần rỗi linh hồn. hạnh phúc đời sau của bà, chứ không hề yêu thương gì con cháu. Con cháu ruột thịt của bà mà bà không yêu thương thì bà còn yêu thương được ai? làm sao bà yêu thương được Đấng vô hình như Thiên Chúa? Bà hành động như thế chính vì bà có một quan niệm sai lầm về đạo đức và thánh thiện, mà đáng buồn thay không ai có đủ thẩm quyền giúp bà thay đổi quan niệm ấy!
5. Đạo đức hay thánh thiện phải được xây dựng trên chân lý, công lý và tình thương
Hiện nay, chắc hẳn vẫn có những kitô hữu quan niệm đạo đức theo kiểu của bà cụ trong câu chuyện trên. Thiết tưởng chúng ta cần phải quan niệm cho đúng về sự đạo đức, thánh thiện thì mới trở nên đạo đức, thánh thiện đúng nghĩa được. Đạo đức hay thánh thiện phải được xây dựng trên nền tảng vững chắc là chân lý, công lý và tình thương, chứ không phải trên những lễ nghi hay những hình thức của tôn giáo. Làm sao ta có thể nên giống Đức Giêsu, Đấng «muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ» (Hs 6,6; Mt 9,13), đang khi ta lại chủ trương coi hy lễ quan trọng hơn cả lòng nhân?
Thánh Gioan Kim Khẩu viết: «Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ thứ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng đã nói "Các ngươi thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn tiệc Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!» (Tông huấn GHTCA trích dẫn, số 41§2).
Để đón Chúa đến, thiết tưởng điều quan trọng nhất là chúng ta cần quan niệm cho đúng về sự thánh thiện. Đạo đức hay thánh thiện kitô giáo phải được xây dựng trên «những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự thành thật» (Mt 23,23), tức «chân lý, công lý và tình thương».
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu luôn coi trọng tình thương và cách xử sự giữa con người với nhau hơn cả những nghi thức tôn giáo (x. Mt 6,23-24; 9,13). Xin giúp con thay đổi quan niệm giống như Đức Giêsu để đón Ngài đến trong tâm hồn con như một vị Thầy, một gương mẫu thánh thiện cho cuộc đời của con. Thật là trớ trêu khi con muốn nhận Ngài là Thầy mà lại không muốn quan niệm mọi sự giống như Ngài.
Khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện, ông loan báo "một phép rửa để tỏ lòng sám hối" (3:3). Khi ông: MV 3-C8
Khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện, ông loan báo "một phép rửa để tỏ lòng sám hối" (3:3). Khi ông rao giảng, ông kêu gọi mọi người "sinh hoa quả xứng với lòng sám hối" (3:8). Ở đây ta thấy nhiều nhóm khác nhau đến xin Gioan cắt nghiã rõ hơn họ phải đem lại những "hoa trái" nào.
Theo quan niệm Do Thái thời đó nếu một người nào có của cải gì nhiều thì tự đông người khác sẽ có ít đi. Và nếu ai có nhiều hơn nhu cầu của mình thì bị coi là tham lam, một điều đáng xấu hổ.
Dưới thời Đế quốc La Mã, những người thu thuế là dân bản xứ. Họ phải trả cho La Mã một món tiền để thầu được chức vụ này. Khi thu thuế của dân họ sẽ lấy lại số tiền vốn đó và nếu thu được hơn, họ sẽ được hưởng như tiền lời.
Những người lính này được hiểu là người Do Thái phục vụ cho ông vua bù nhìn Hêrôđê. Họ thường bị dân chúng khinh bỉ vì làm tay sai cho ngoại bang.
Cởi quai dép là nhiệm vụ của người đầy tớ. Con cái trong nhà không phải làm công việc này. Các đệ tử của các rabbi cũng không phải làm công việc này. Vì thế khi Gioan Tẩy Giả nhận mình không xứng đáng cởi quai dép cho Đức Kitô, ông tự xác nhận không phải là môn đệ của Đức Kitô, mà chỉ là đầy tớ hoặc thấp hơn nữa.
Một Điểm Chính
Những người sẵn sàng muốn hoán cải không phải là những lãnh đạo tôn giáo nhưng là những người đang bị khinh bỉ trong xã hội Do Thái thời đó.
Suy Niệm
Tham lam, ích kỵ và lạm quyền có ít nhiều vẫn là vấn đề đối với tôi chăng?
Ai đang là Gioan Tẩy Giả cho tôi trong lúc nàỵ Tôi có được mời gọi đóng vai trò này chăng?
Hôm nay Chúa Nhật III Mùa Vọng. Chúng ta đã đi được nửa đường của Mùa Vọng và lễ Giáng: MV 3-C9
Hôm nay Chúa Nhật III Mùa Vọng. Chúng ta đã đi được nửa đường của Mùa Vọng và lễ Giáng Sinh sắp đến. Chúa Nhật này được gọi là Chúa nhật màu hồng hay Chúa nhật của niềm vui. Theo lời giáo huấn của Thánh Phaolô trong đoạn trích thư gởi giáo đoàn Philipphê: “Anh em hãy luôn luôn trong niềm vui của Chúa… sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa, Chúa đã gần đến, anh em đừng lo lắng gì cả”. Người Kitô hữu sống vui và gạt bỏ mọi lo toan là bởi vì Chúa đã gần đến. Quả thật không niềm vui nào lớn hơn niềm vui của những người được Chúa yêu thương cứu chuộc. Chúng ta sống vui tươi nhưng không quên bổn phận phải yêu thương chia sẻ cơm áo cho tha nhân, sống công bằng và chính trực. Đó là điều cụ thể mà trong Tin Mừng hôm nay đề nghị với chúng ta. Vì cuộc đời Kitô hữu cũng là một Mùa Vọng kéo dài trong đợi chờ Chúa đến lần thứ hai vào ngày cánh chung.
1. Chúng tôi phải làm gì ?
Đây là câu hỏi được nhắc đến ba lần trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Dân chúng, rồi đến những người thu thuế và kế tiếp là những anh lính đã đến hỏi Gioan Tẩy giả: “Chúng tôi phải làm gì ?”. Thật lòng họ đang khiêm tốn nhìn nhận những lầm lỗi của mình và muốn làm một việc gì đó cụ thể để tỏ lòng sám hối trước khi Chúa đến.
Qua những lời loan báo của các ngôn sứ, dân Dothái tin sẽ có một Đấng Cứu Thế đến để giải phóng họ. Thế nhưng chờ đợi đến hàng ngàn năm họ vẫn không thấy. Đến khi Gioan Tẩy giả xuất hiện với việc rao giảng và làm phép rửa, dân chúng hưởng ứng rất nhiệt tình. Họ nghĩ rằng” biết đâu ông Gioan là Đấng Mêssia”. Họ kéo đến sông Giodan lãnh nhận phép rửa để tỏ lòng sám hối. Chỉ với những câu hỏi giống nhau mà Gioan lại đưa ra đến ba việc cụ thể khác nhau. Mỗi loại người ông đều có một lời khuyên để họ thực thi. Với dân chúng Gioan kêu gọi họ phải nhường cơm sẻ áo cho người nghèo. Với những người thu thuế ông khuyên họ nên sống công bình, từ bỏ những thu nhập bất chính. Còn với những anh lính ông đề nghị họ đừng hà hiếp người ta.
Như vậy ông Gioan Tẩy giả không bảo họ là từ bỏ nghề nghiệp đang nuôi sống bản thân họ, cũng không bắt họ phải rập khuôn theo đời sống khắc khổ của ông, mà chỉ hướng dẫn họ thi hành công việc thuộc trách nhiệm của mình với một tinh thần mới, tinh thần của Tin Mừng.
Lời khuyên đó của Gioan vẫn còn phù hợp với chúng ta hôm nay. Không phải nghề nghiệp chúng ta đang làm khiến chúng ta xa Chúa, mà chính là thái độ sống thiếu tình yêu thương của chính chúng ta. Tất cả tùy thuộc vào cung cách đối xử, mối tương quan tốt của chúng ta với tha nhân. Chúa không đòi hỏi tất cả chúng ta phải sống một cuộc đời tận hiến trong một dòng tu mới là môn đệ đích thực của Ngài. Trái lại mỗi người có một ơn gọi riêng, một chức vụ riêng, và Chúa muốn mỗi người phải thực thi nhiệm vụ của mình được giao theo lời Chúa dạy.
2. Gioan Tẩy giả chỉ là vị tiền hô của Đấng Cứu Thế.
Gioan Tẩy giả chỉ xem mình là người tôi tớ dưới quyền của Chúa Giêsu. Để người nghe dễ hiểu, ông dùng hình ảnh người tôi tớ làm việc cởi dây giầy cho chủ: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi dây giày cho Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa”. Nên biết rằng người đầy tớ đi theo chủ đến dự tiệc, khi vào phòng tiệc chủ cởi giày, thì người đầy tớ cúi xuống chân chủ để cởi sợi dây buộc giày và trong suốt bữa tiệc, người đầy tớ cằm giày của chủ trên tay.
Khi hạ mình như thế trước mặt Chúa, Gioan Tẩy giả không tìm cách hủy diệt mình bằng một thứ tình cảm thù ghét bản thân, hoặc chối bỏ ưu điểm có thật, cùng với những năng khiếu tự nhiên của mình. Ông cũng không khinh chê ơn gọi ngôn sứ. Hơn nữa ông biết mình là ai và có sứ mạng gì. Gioan biết mình chỉ là vị Tiền hô dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Đó cũng chính là lòng khiêm nhường đích thực chúng ta phải có trong Mùa Vọng.
Trước hết chúng ta cần biết mình chỉ là thụ tạo nhỏ bé trong tay Thiên Chúa, chúng ta rất yếu đuối và hay sa ngã nên lúc nào cũng cần ơn trợ giúp của Chúa. Lòng khiêm tốn đích thực quy hướng mọi công việc chúng ta làm về Chúa, để hình ảnh Chúa được tỏ hiện rõ nét trong cuộc đời này.
3. Từ phép rửa của Gioan đến Bí tích Rửa tội của người tín hữu.
Gioan Tẩy giả làm phép rửa sám hối. Ở điểm này, sứ điệp của Gioan luôn hiện thực cho chúng ta. Vì con người cần phải sám hối thường xuyên để cho Đấng quyền thế đến. Chúng ta phải thanh tẩy tấm lòng của mình khỏi những khát vọng bất chính, khỏi lòng tham lam, sự hẹp hòi và chai đá. Đặc biệt trong mùa Mùa vọng này là dịp tốt cho chúng ta canh tân tâm hồn mình để xứng đáng đón mừng Mầu nhiệm Giáng Sinh. Ngày mà Đức Giêsu tự trao ban Ngài cho chúng ta, để chúng ta được nên một mật thiết với Ngài.
Từ phép rửa sám hối của Gioan chúng ta nhớ đến Bí tích Rửa tội của mỗi người Kitô hữu đã được lãnh nhận khi mới chào đời. Đó là phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Chúa Thánh Thần luôn hoạt động tích cực trong đời sống người tín hữu, Ngài cũng giúp chúng ta sám hối và dọn sạch tâm hồn chúng ta trở thành Đền thờ cho Ngài thường xuyên cư ngụ. Ngài là lửa thiêu đốt những bó rơm của những điều xấu xa cho chúng ta được trung thành yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ chúng con. Chỉ còn hơn một tuần nữa chúng con lại hân hoan mừng Mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh. Xin cho Mùa Vọng này đừng trở nên vô ích với mỗi người Kitô hữu, mà là dịp thuận tiện cho chúng con sám hối về những lầm lỗi khuyết điểm của mình. Xin cho chúng con biết quẳng gánh lo đi mà vui sống vì không niềm vui nào lớn hơn niềm vui có Chúa ở cùng, nhất là trong mỗi thánh lể chúng con tham dự, chúng con lại cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa hơn bất cứ lúc nào. Amen.
Tôi vẫn suy nghĩ, nhưng vẫn chưa hiểu tại sao lúc sinh ra, khi cất tiếng chào đời, chẳng có em: MV 3-C10
Tôi vẫn suy nghĩ, nhưng vẫn chưa hiểu tại sao lúc sinh ra, khi cất tiếng chào đời, chẳng có em bé nào cười mà chỉ có khóc. Ngay những giờ phút đầu tiên trong cuộc sống con người đã khóc, phải chăng đó là dấu chỉ cho thấy cuộc đời này có quá nhiều đau khổ? Mới sinh ra đã khổ, rồi bệnh cũng khổ, già cũng khổ, mà chết cũng khổ; không được điều mình ước muốn cũng là khổ. Như thế, phải chăng đời chỉ là bể khổ. Và nếu đời chỉ là bể khổ thì cuộc sống của con người trong thế giới này có ý nghĩa gì?
Nhưng cho dù cuộc sống có nhiều đau khổ, người kitô hữu vẫn không tuyệt vọng. Chúng ta vẫn luôn tin tưởng và hy vọng, vì chúng ta biết rằng: có một Thiên Chúa quyền năng và yêu thương đang ở bên cạnh để nâng đỡ chúng ta. Xác tín điều đó, thánh Phaolô khẳng định với các tín hữu Roma: “Nếu Thiên Chúa phò ta, ai sẽ chống lại ta?” (Rm 8, 31). Như thế, đối với thánh Phaolô: có Thiên Chúa là có bình an và niềm vui. Chính Thiên Chúa sẽ nâng đỡ giúp chúng ta vượt qua tất cả những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Tiếp tục niềm tin đó, trong thư gởi tín hữu Philipphê hôm nay, thánh Phaolô kêu gọi chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên”.
Để có thể luôn sống trong niềm vui của Chúa, chúng ta cùng nhìn lại các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay.
1. Vui trong đức tin:
Trước hết, chúng ta cùng trở lại với bài đọc một được trích từ sách ngôn sứ Sophonia. Ngôn sứ Sophonia hoạt động vào khoảng thế kỷ VII tcn, tại miền Nam - Giuđa. Mảnh đất nhỏ bé, quê hương ông nay thì sợ quân đội của Assirie từ phía Bắc tấn công, mai lại sợ quân Ai Cập phía Tây Nam tiến đánh. Cả đất nước chao đảo, phập phồng lo sợ chẳng biết còn mất lúc nào. Thế nhưng, giữa cảnh hỗn loạn ấy, ngôn sứ Sophonia vẫn hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát và đưa dân của Ngài từ Ai Cập trở về. Đây không chỉ là một niềm tin bình thường, nhưng là một xác tín vững chắc, đến nỗi nó giúp vị ngôn sứ vượt qua được tâm trạng lo lắng, bất an một người đang sống trong thời buổi loạn lạc và thốt lên lời reo vui: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn!”.
Chính trong niềm hân hoan, vui mừng đó, vị ngôn sứ đã loan báo cho dân một tin vui: “Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa… Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi”. Như thế, niềm vui mà vị ngôn sứ loan báo, chính là niềm vui của người được tha thứ. Thiên Chúa không còn kết án dân Người nữa. Với tình yêu, Người đã tha thứ hết mọi tội vạ cho dân. Hơn thế nữa, Người còn đến hiện diện ở giữa dân, gìn giữ họ khỏi mọi thế lực của quân thù. Đây quả là niềm vui tuyệt diệu. Vâng, còn gì vui hơn khi chúng ta lỗi lầm mà được tha thứ. Và không chỉ được tha thứ, chúng ta còn được Thiên Chúa đến để cùng chúng ta.
Cùng chung niềm vui đó, tác giả Thánh vịnh cũng cất tiếng ngợi khen Giavê Thiên Chúa: “Đây Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc tôi. Tôi sẽ tin tưởng mà hành động, tôi không run sợ: vì Thiên Chúa là sức mạnh của tôi và là Đấng tôi ca ngợi. Nguời trở nên phần rỗi của tôi”. Tin tưởng vào sức mạnh của Thiên Chúa, chúng ta không còn phải sợ hãi khi phải đối diện với những khó khăn, vất vả trong cuộc sống. Chúng ta không cũng không còn cô đơn khi phải chiến đấu với những cơn cám dỗ, thử thách vì đã có Thiên Chúa ở cùng. Ngài chính là sức mạnh và là phần rỗi của chúng ta.
Niềm vui có Chúa ở giữa dân Người quả thật đã được thực hiện khi Đức Giêsu Nhập Thể làm người. Đức Giêsu chính là Đấng Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 23) như lời các ngôn sứ đã báo trước. Tuy nhiên, trong lần đến thứ nhất, Đức Giêsu vẫn còn mang thân phận yếu hèn của con người. Do đó, cử hành Mùa Vọng còn tiếp tục mời gọi chúng ta hướng đến ngày Ngài trở lại lần thứ hai trong vinh quang. Lúc đó, tất cả những ai còn vững tin và trung thành với Ngài sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn.
2. Vui vì Chúa gần đến:
Chính vì luôn vững tin vào ngày Đức Giêsu trở lại, nên cho dù hiện tại đời sống của các tín hữu Philipphê đang gặp nhiều khó khăn. Họ đang bị chính quyền La mã bắt bớ, giết hại, thánh Phaolô vẫn mời gọi họ: “Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên…, vì Chúa đã gần đến”. Lời mời gọi vui lên của thánh Phaolô, tôi thiết nghĩ cũng đang được gởi đến chúng ta hôm nay.
Thật vậy, cuộc sống hiện tại của chúng ta, cho dù không còn những cuộc bách hại dữ dội như các tín hữu thuở ban đầu, nhưng chúng ta cũng đang phải đối mặt với biết bao những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Hàng ngày, chúng ta đang phải đầu tắt, mặt tối để kiếm từng miếng cơm, manh áo cho gia đình. Đó là chưa nói đến những băn khoăn, lo lắng về tương lai của con cái và chính bản thân mình. Khó khăn này chưa giải quyết xong, khó khăn khác đã ập tới. Nhưng cho dù hiện tại không có gì để chúng ta vui, thì thánh Phaolô vẫn mời gọi chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên…, vì Chúa đã gần đến”. Chúng ta chỉ có thể vui, nếu chúng ta luôn ở trong Chúa. Tâm hồn chúng ta vui và bình an vì có Chúa đang ở với chúng ta. Ngài sẽ đến để giúp chúng ta vượt thắng tất cả những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống và ban thưởng cho tất cả những ai trung thành. Cũng như dân Do Thái xưa, Đức Giêsu chính là niềm hy vọng của tất cả chúng ta hôm nay. Chúng ta hy vọng vì chắc chắn rằng Ngài sẽ đến để giải thoát tất cả chúng ta khỏi gánh nặng của tội lỗi như lời loan báo của Gioan: “Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, …Chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa”. Trong tâm tình tin tưởng và hy vọng đó, thánh Phaolô nhắc bảo chúng ta: “Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng lời kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm ta”.
Nhận được niềm vui có Chúa ở cùng, chúng ta không thể chỉ giữ cho riêng mình. Niềm vui đó cần được chia sẻ và loan báo cho mọi người. Xác tín điều đó, tác giả Thánh vịnh đã cất tiếng ngợi ca: “Hãy tung hô Chúa, hãy kêu cầu Thánh Danh Người, hãy công bố cho các dân tộc biết các kỳ công của Người…Hãy hát mừng Chúa vì Người đã làm những việc cả thể, hãy công bố việc này trên khắp địa cầu”. Theo gương Gioan, chúng ta loan báo niềm vui trước hết, bằng chính đời sống khiêm tốn của chúng ta: “Tôi thì lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Kế đó, là sống tinh thần bác ái, sẵn sàng chia sẻ với tha nhân với cả tấm lòng thành của mình như lời mời gọi của Gioan: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng làm như vậy”.
Ước gì cũng như ngôn sứ Sophonia khi xưa, cho dù hiện tại cuộc sống vẫn còn nhiều vất vả, khó khăn, nhưng từng người chúng ta vẫn luôn có bình an và tràn đầy niềm vui, vì xác tín rằng: chúng ta đang có Chúa ở cùng. Nhờ đó, vào ngày Chúa đến, tất cả chúng ta sẽ cùng hân hoan ra đón Người. Amen.
1) LỜI CHÚA: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,11):
- CÂU CHUYỆN: Cảm thông và chia sẻ
Một hôm có một thương gia vào trong quán ăn dùng bữa trưa. Khi ngồi xuống chiếc bàn còn: MV 3-C11 chuyện
Một hôm có một thương gia vào trong quán ăn dùng bữa trưa. Khi ngồi xuống chiếc bàn còn trống thì ông phát hiện ra một bé gái độ 12 tuổi, áo quần cũ rách đang đứng ngoài cửa sổ nhìn cách thèm thuồng vào bàn ăn trong quán và em ngửa tay ra xin ông giúp đỡ. Thấy mặt cô bé tái xanh và tay chân đang run rẩy như sắp quỵ xuống vì đói, ông thương gia động lòng thương cảm. Ông lại gần bên và cầm lấy tay em, rồi kêu em cùng ngồi bàn ăn với mình. Nhưng thật bất ngờ: cô bé lại cương quyết từ chối. Gặng hỏi mãi em mới cho biết lý do như sau: “Thưa ông, cháu cám ơn ông đã cho cháu được ăn chung bàn với ông. Nhưng làm sao cháu có thể ngồi ăn được đang khi thằng em của cháu cũng đang đói khát và đang đứng phía ngoài kia !” Nhìn theo tay em chỉ, ông thương gia thấy một bé trai, thân hình ốm yếu, quần áo lôi thôi dơ bẩn, đang đứng bên cửa sổ đối diện và nhìn vào bàn đầy thức ăn trong quán. Ngồi quanh bàn là bốn năm cô cậu đang ăn uống thoải mái và nói cười vui vẻ. Không ai thèm để ý đến đứa bé đói khát đang đứng gần bên.
- Suy niệm:
+ Trong những ngày Mùa Vọng này, câu nói thành thật của cô bé trong câu chuyện phải trở thành một dịp để chúng ta xét lại con người của mình và thành tâm sám hối: “Làm sao cháu có thể vào ngồi ăn chung với ông được, đang khi còn đứa em khác cũng đang đói khát đứng phía ngoài kia !”
+ Lời kêu gọi của Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay chính là lời Chúa dạy các tín hữu chúng ta phải biết thực thi bác ái cách tích cực để chuẩn bị đón Chúa đến ban ơn cứu độ cho chúng ta: “Ai có hai áo thì chia cho người không có. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”.- “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”.-“Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”.
- Thảo luận: Ba lời khuyên dạy của Gioan đã được tóm gọn như sau: “Hãy sống công công bình và bác ái qua việc chia sẻ cơm áo và tôn trọng tha nhân”. Vậy bạn có đồng ý câu nói trên hay muốn thay đổi câu nào khác cho đầy đủ ý nghĩa hơn ? Tại sao thay đổi như vậy ? Trong Mùa Vọng này chúng ta sẽ làm gì cụ thể để thực hành lời dạy của Chúa qua miệng Gioan ?
Một bà cụ kia đi thăm con gái từ Bớp-phơ-lô (Buffalo) đến Kờ-le-vơ-len (Cleveland) Hoa Kỳ, trên một chuyến tàu chở khách. Khi tàu đang rẽ sóng ở ngoài khơi thì một cơn bão mạnh đột nhiên thổi tới làm cho con tàu chao đảo liên hồi. Ai nấy đều lo sợ tàu có thể va phải đá ngầm và có thể bị chìm. Người ta sợ hãi hét to lên mỗi khi con tàu chao đảo mạnh ! Riêng người đàn bà nói trên luôn có thái độ bình tĩnh ngồi vào một góc và đọc kinh lần hạt. Sau khi cơn bão qua đi, một số người đến gần bà cụ và hỏi lý do tại sao bà có thể giữ được thái độ bình tĩnh trong cơn nguy biến như vậy ? Bà đáp như sau: “ Tôi có hai đứa con gái, một đứa đã về với Chúa, còn một đứa đang ở Kơ-le-vơ-len. Trong cơn bão tố, tôi không biết sẽ gặp đứa con nào. Nếu tôi chết thì tôi sẽ gặp Chúa và gặp đứa con của tôi ở trên thiên đàng. Còn nếu tôi bình an đến được Kơ-le-vơ-len, thì tôi sẽ gặp con gái đang ở đó. Trong cơn nguy biến tôi chỉ biết cầu nguyện phó thác trong tay Chúa quan phòng và chờ đợi trong niềm vui mừng và hy vọng Chúa sẽ làm điều tốt nhất cho mình. Do đó tôi không cảm thấy lo sợ chút nào”.
- CÂU CHUYỆN 2: Nụ cười đáng giá 40 ngàn Đô-la
Han Béc-gen (Hans Bergen), một chành thanh niên sống trong một ngôi làng nhỏ bên Hòa Lan. Anh ta có một bộ mặt dị dạng xấu trai, nên bị mọi người khinh dể và không ai muốn nói chuyện tiếp xúc. Anh ta cảm thấy rất buồn phiền khi bị người ta đối xử cách thiếu thân thiện như vậy và chỉ thầm mong cho mình được chết sớm !.
Rồi một hôm, anh chàng cô độc buồn khổ ấy bị chết thực sự. Dân làng cũng chẳng thèm quan tâm. Thế nhưng sau đó mọi người đều ngạc nhiên khi đọc chúc thư của Han Béc-gen: Anh ta để lại gia tài 40 ngàn mỹ kim cho một cô bé chẳng có họ hàng gì với anh, là cô bé An-nơ Mác-tin (Anne Martine). Trong chúc thư anh cho biết lý do như sau: “Tất cả mọi người dân làng đã cau mày hoặc nhìn đi nơi khác khi gặp mặt tôi. Nhưng một ngày kia, tôi đã gặp cô bé An-nơ và em đã trao cho tôi một nụ cười khả ái. Đó chính là nụ cười chân thành duy nhất mà tôi nhận được trong cuộc đời tôi”.
- Suy niệm:
+ Phụng vụ Chúa Nhật tuần 3 Mùa Vọng hôm nay nói lên niềm vui hân hoan, thể hiện qua phẩm phục màu hồng. Bài đọc Một, tiên tri Xo-pho-ni-a tuyên sấm như sau: “reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hoan hô đi nào, Ítraen hỡi ! Mừng vui lên, vui với cả tâm hồn, hỡi thiếu nữ Giêrusalem ! An lệnh phạt ngươi, Chúa đã tiêu hủy. Thù địch ngươi, Chúa đã đẩy lui rồi. Vua của Ítraen chính là Chúa, đang ngự giữa ngươi. Ngươi sẽ không còn phải sợ tai ương nữa” (Xp 3,14-15). - Trong bài đọc Hai, thánh Phaolô Tông đồ đã khuyên bảo các tín hữu Philipphê như sau: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4,4-6).
+ Sự đạo đức thánh thiện không đồng nghĩa với nét mặt cau có, nhăn nhó đau thương ! Thánh thiện chính là niềm vui liên lỉ vì có Chúa làm gia nghiệp của cuộc đời. Mỗi tín hữu chúng ta nên noi gương bà cụ trong câu chuyện trên: luôn giữ thái độ bình tĩnh và lạc quan, dù đang ở trong cơn phong ba bão táp cuộc đời. Người tín hữu cần luôn lạc quan trong mọi hoàn cảnh khi vui lúc buồn, khi thành công hay lúc thất bại. Như hai tông đồ Gioan và Phêrô đã chịu bắt bớ, đánh đòn và bị cấm rao giảng về danh Đức Giêsu. Sách Công vụ thuật lại thái độ của các ngài như sau: “Các Tông Đồ ra khỏi Thương Hội Đồng lònh hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,40-41). Tông đồ Phaolô cũng luôn vui tươi khi chịu thử thách như ngài đã tâm sự: “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2 Cr 7,4).
- Thảo luận: Bạn có đồng ý với câu: “Một vị thánh buồn sầu là một vị thánh đáng buồn !” Tại sao ? Làm thế nào để hết buồn phiền khi bị thi rớt, bị người yêu bỏ, bị mất xe hay bị lừa một số tiền lớn ? …
- Thực hành: “Vui với người vui !”, vui với người mến thương ta, mà vui cả với người ganh ghét nói xấu ta. Vui khi ta được vừa lòng, nhưng vui cả những lúc ta gặp sự đau khổ thất bại. Vui lúc mọi người chạy đến với ta, mà vui cả những khi ta bị người khác hiểu lầm, và xa lánh. Luôn vui tươi với lòng tin cậy phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng, rồi làm cho người khác cũng có được niềm vui hạnh phúc, thì đó chính là dấu hiệu của một lòng đạo đức thực sự, và điều này có giá trị hơn cả những việc cầu nguyện, ăn chay và bố thí nhưng làm trong sự lo âu buồn sầu !
CẦU NGUYỆN
1) Lạy Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan đã khuyên dân chúng phải chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai sắp đến. Lời khuyên dạy của Gioan cũng chính là lời Giáo Hội khuyên các tín hữu chúng con cách thức chuẩn bị tâm hồn để mừng lễ Giáng Sinh sắp đến. Xin Chúa giúp chúng con biết vâng nghe lời Chúa dạy là thực thi công bình bác ái. Xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa đang ở trong những người nghèo khó để chúng con sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho họ như lời Gioan đã khuyên dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có. Ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”. Xin cho chúng con giữ được đức công bình trong quan hệ làm ăn buôn bán, như lời Gioan khuyên những người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”. Xin cho chúng con biết thực thi bác ái trong cách cư xử với mọi người như lời Gioan đã khuyên bảo quân lính: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai và hãy bằng lòng với số lương của mình”.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, Ngày lễ mừng Chúa Giáng Sinh đã đến gần. Chúa đến đem bình an và niềm vui ơn cứu độ cho loài người chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con “Vui luôn trong Chúa” như lời thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca trong bài đọc hôm nay. Niềm vui ấy chỉ có được khi chúng con gặp được chúa Giêsu trong bầu khí cầu nguyện kết hiệp với người, trong việc quyết tâm làm điều tốt lành và tránh xa các điều gian ác, và trong thái độ khiêm tốn; luôn nhận mình là tôi tớ hèn mọn của Chúa và cần lệ thuộc vào Người, nhận mình là tội nhân và hồi tâm sám hối để ngày một nên hoàn thiện giống như Chúa Cha trên trời; không ham mê danh vọng tranh dành chức quyền với người khác. Làm sao để Đức Giêsu ngày một lớn lên, được nhiều người biết và tin theo để được ơn cứu độ, còn con thì ngày một lu mờ đi.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Chúng ta cùng với thánh Gioan Tẩy giả đang ở ven sông Giođan trong sứ vụ Tiền hô của Ngài: MV 3-C12
Chúng ta cùng với thánh Gioan Tẩy giả đang ở ven sông Giođan trong sứ vụ Tiền hô của Ngài. Và cũng chính tại đây, chúng ta chứng kiến cảnh người người tuôn đến với Gioan để chịu phép đồng thời nghe ông khuyên dạy.
Trước những lời “thép” của Gioan khi nói với dân chúng khi họ đến xin ông làm phép rửa(x. 3, 7-9), vậy mà dân chúng vẫn kéo đến với ông đủ cho thấy lòng dân ý thức về niềm tin của mình trước Vị Thẩm phán sắp ngự đến mà ông loan báo. Đám đông tuôn đến với Gioan ngoài việc xin lãnh nhận phép rửa- được xem như là bước quyết định để có thể nhận phép rửa trong Thánh Thần vào thời đại của Đấng Mêsia đến, họ còn đến để xin ông dạy học phải làm gì để có thể đón nhận ơn cứu độ.
“Chúng tôi phải làm gì đây?”. Đó là câu hỏi được vang lên từ trong đám đông thuộc đủ mọi lứa tuổi, địa vị trong xã hội. Câu hỏi của họ liên quan đến nền đạo lý, cách đối nhân xử thế trong xã hội. Gioan Tẩy giả đã đưa ra những câu giải đáp rất cụ thể và thích hợp tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi người và tuỳ theo từng địa vị của họ.
Với đám đông - những người mà chẳng còn bao lâu nữa, họ cũng sẽ nô nức đến với Chúa Giêsu như hai môn đệ của Gioan Tẩy giả khi được thầy mình giới thiệu: “Đây Chiên Thiên Chúa” đã vội vàng bước theo Chúa" (x. Ga, 1,35-39)- Gioan mời gọi họ thực thi việc bác ái cách cụ thể. “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”.
Với những người thu thuế- vốn bị liệt vào hàng tội lỗi, bị thường dân căm ghét vì cộng tác với đế quốc và sách nhiễu dân lành- Gioan không hề yêu cầu họ phải từ bỏ nghề nghiệp mà khuyên nhủ họ hãy hành nghề theo cách thức mới, bác ái hơn, ngay lành hơn. “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”.
Với những anh nhà binh - đây có thể là những anh lính thuộc thành viên quân đội của đế quốc Rôma hoặc thuộc lính đánh thuê cho vua Hêrôđê Antipa lúc bấy giờ. Họ cũng là một trong những thành phần bị dân chúng căm ghét- Gioan cũng không hề bắt buộc họ phải từ bỏ quân ngũ, trở về làm thường dân, thay đổi nghề nghiệp; trái lại ông khuyên răn họ dù sống trong bất cứ địa vị nào, điều quan trọng là hãy bằng lòng với những gì mình có. “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiến người ta, hãy an phận với số lương của mình”.
Như thế, công bình bác ái đối với tha nhân -theo Gioan - là điều trọng yếu nhất cho hành vi sám hối, cho việc hoán cải tâm hồn chứ không phải là việc ăn chay, cầu nguyện lâu giờ hay dâng lễ đền tội.
Đồng thời với việc thực thi công bình bác ái, dân chúng luôn ngóng trông Đấng mà hàng bao thế kỷ nay muôn dân đang mong đợi. Niềm tin mong chờ đó đôi khi được “gán” cho người này, nhân vật nọ mà dân chúng thấy có nhiều điều khác lạ. Gioan Tẩy giả là một điển hình. Nhận định của dân chúng quả không sai. Gioan Tẩy giả đúng là người con của phép lạ mà Thiên Chúa gửi đến cho dân Người ngay từ trong gia đình Dacaria (sự kiện bà Elisabet đã cao niên mà thụ thai, ông Dacaria bổng dưng bị câm, tên Gioan, Dacaria hết câm,…). Dân chúng luôn tự hỏi có phải Gioan là “Đấng phải đến” chăng? Gioan Tẩy giả đã vội vàng xoá tan ý nghĩ của dân chúng. Đứng trước Đấng Tối Cao và trước mặt dân chúng, ông chỉ dám nhận mình chỉ là người “không đáng cởi quai dép” và vai trò của ông cũng chỉ là người đi trước để dọn đường sửa lối cho Người đi mà thôi. Đấng đang đến là Đấng quyền thế, chính Người sẽ thực thi công cuộc xét xử muôn dân tuỳ theo công trạng của họ.
“Chúng tôi phải làm gì đây” phải chăng đó cũng là câu hỏi liên quan đến tất cả chúng ta trong thế giới hôm nay? Chúng ta sẽ làm gì để thể hiện sự trở về với Thiên Chúa, để tỏ lòng sám hối ăn năn không chỉ cho chính chúng ta mà thôi, nhưng còn cho chính gia đình, giáo hội và xã hội? Hãy trở về với Thiên Chúa trong công bình và bác ái để có thể lãnh nhận hồng ân cứu rỗi của người trong ngày sau hết.
Một người đàn ông già sống tại New Guinea. Ông sống bằng nghề đốn củi cho một nhà thương: MV 3-C13
Một người đàn ông già sống tại New Guinea. Ông sống bằng nghề đốn củi cho một nhà thương truyền giáo. Mọi người đều gọi ông là ông Một Răng bởi ông chỉ còn có một cái răng ở hàm trên.
Ngoài việc đốn củi, ông già Một Răng còn dùng một phần thời gian trong ngày của mình để đọc Phúc Âm cho các bệnh nhân đang ngồi ở phòng chờ. Ngày ngày, ông chia sẻ đức tin của ông với những người đang gặp những đau khổ.
Bất chợt ngày nọ, ông Một Răng bắt đầu cảm thấy rất khó để nhìn. Ông đã đi khám bác sĩ và bác sĩ nói: "Ông sẽ bị mù, và chúng tôi không thể làm gì để giúp được."
Ngày hôm sau và những ngày kế tiếp, không ai thấy ông già Một Răng đến nhà thương nữa. Ông đã biến mất.
Một bé trai thường tiếp tế đồ ăn cho ông đã cho vị bác sĩ biết địa điểm của ông. Ông đang sống một mình tại một vùng sa mạc.
Thế rồi, vị bác sĩ đã đến thăm ông. "Ông làm gì ở đây vậy?" bác sĩ hỏi.
Ông già Một Răng trả lời, "Từ lúc bác sĩ cho tôi biết tôi sẽ bị mù, tôi đã cố đọc và nhớ những đoạn quan trọng nhất trong Phúc Âm. Tôi đã nhớ được cuộc Giáng Sinh của Chúa Giêsu, một vài phép lạ và dụ ngôn, cộng thêm cả cuộc thương khó và phục sinh của Chúa Giêsu."
Ông già nói tiếp: "Tôi sẽ trở lại nhà thương để rao giảng cho các bệnh nhân về Chúa Giêsu."
Câu truyện đó thật thích hợp với các bài đọc hôm nay. Nó thích hợp với bài đọc thứ nhất khi tiên tri Isaiah nói: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, bởi vì Thiên Chúa đã xức dầu cho tôi; Ngài sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khổ."
Cũng cùng một Thánh Thần của Thiên Chúa đã xuống trên ông già Một Răng sau khi ông chịu Phép Rửa tội và Thêm sức. Ông cũng cảm thấy cùng một tiếng kêu gọi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó.
Câu truyện cũng rất thích hợp với bài đọc Phúc Âm khi nói về Gioan Tẩy Giả. Thánh Gioan đã đi vào sa mạc lúc thời còn niên thiếu để suy ngẫm Lời Chúa. Sau đó, ông đã ra khỏi sa mạc và rao giảng Lời Chúa cho con người: "Tôi là 'tiếng kêu trong hoang địa. Hãy sửa đường cho Chúa!"
Ông già Một Răng cũng đã vào trong sa mạc để học nhớ Lời Chúa. Ông cũng như Gioan đã ra khỏi sa mạc để chia sẻ Lời Chúa với người khác.
Câu truyện về Gioan Tẩy Giả và câu truyện của ông già Một Răng là những câu truyện của Mùa Vọng.
Đó là những câu truyện của những cá nhân đã tìm gặp được Chúa Kitô qua suy ngẫm lời Chúa. Đó là những câu truyện của những người biết chia sẻ những điều họ bắt gặp với người khác để chính họ cũng tìm được Chúa Kitô.
Qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta đón nhận cũng cùng một ơn gọi như Thánh Gioan và ông già Một Răng. Chúng ta cũng phải ra khỏi hoang địa và rao giảng Lời Chúa cho người khác.
Thứ nhất, chúng ta có thể rao giảng về Chúa Kitô trong gia đình chúng ta, và với các gia đình khác. Một cách chúng ta có thể làm là cầu nguyện trong các giờ cơm, sau giờ cơm, hoặc khi gia đình tụ họp trước bàn thờ.
Thứ hai, chúng ta có thể rao giảng về Chúa Kitô với những người thân nhân và bạn bè. Một lần nữa, một cách đơn giản mà chúng ta có thể làm là gởi những cánh thiệp chúc mừng Giáng Sinh, những cánh thiệp không phải về ông già Noel, nhưng về Chúa Giáng Sinh.
Sau hết, chúng ta có thể rao giảng Chúa Kitô cho các bạn bè, thân hữu, bà con lối xóm, những người mà đức tin đã ra khô khan. Cách đơn giản chúng ta có thể làm là mời họ đi tham dự lễ với chúng ta trong Mùa Vọng hoặc Lễ Giáng Sinh.
Những bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta trở nên ánh sáng trong bóng tối trong thế giới như Thánh Gioan và ông già Một Răng. Những bài đọc đó mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta, để chúng ta có thể giúp cho người khác cũng tìm được Chúa trong cuộc sống của họ.
Một hôm, vị linh mục chuyên chăm sóc những người nghiện xì ke ma tuý được đặt trước hoàn: MV 3-C14
Một hôm, vị linh mục chuyên chăm sóc những người nghiện xì ke ma tuý được đặt trước hoàn cảnh một cô gái nghiện ngập vô phương cứu chữa. Người bố nghẹn ngào nói: "Đã ba tháng nay, con không gặp nó. Con không biết hiện giờ nó ở đâu. Con rất sợ một ngày nào đó người ta loan tin cho biết nó nằm chết nơi đường phố hoặc nơi xó xỉnh nào đó!"
- Nhưng cho đến nay ông đã tìm cách chạy chữa cho nó chưa?
- Thưa cha, chúng con đã thử mọi cách. Trước hết, chúng con đưa nó vào nhà thương tư, bất kể đến những tốn phí phải chịu. Kế đến là vụ nó bị đưa ra toà vì người ta tìm thấy ba gói nhỏ đựng bạch phiến trong túi áo nó. Người ta đòi lên án nó về tội buôn bán ma tuý. Con phải bán đồ vật trong nhà để đi trang trải các chi phí mà vẫn còn mắc nợ: nào là tiền bác sĩ, tiền luật sư, tiền án phí! Tệ hơn nữa, chúng con bị mất mặt với hàng xóm láng giềng tới mức chúng con lấy làm ngại ngùng khi bước ra khỏi nhà. Chúng con quá mệt mỏi. Giờ đây con đến xin cha một lời khuyên.
Nói đến đây, người bố đáng thương ấy rơi hai hàng lệ và được vị linh mục hứa làm tất cả những gì có thể làm để giúp đỡ ông. Nhưng người bố bất ngờ nêu câu hỏi:
CÂU HỎI BẤT NGỜ
- Thưa cha, con nghe nói bên Thụy Sĩ có những nhà thương chữa mắt sẵn sàng trả những số tiền lớn cho những ai chịu bán mắt. Người ta sẽ ghép mắt mua được cho những bệnh nhân giàu có. Ở Italia, luật pháp cấm bán mắt, nhưng bên Thụy Sĩ, con có thể bán một con mắt hoặc bán một trái thận để lấy tiền cứu đứa con gái của con. Con không thể để nó chết nơi đầu đường xó chợ được.
Vị linh mục bị xúc động nên cố an ủi người bố đau khổ:
- Ông thực đã cố gắng hết sức mình để cứu đứa con gái hư hỏng. Nó đã đến tuổi trưởng thành. Ông phải để nó hoàn toàn chịu trách nhiệm về những hành động của nó.
MA TUÝ ĐÃ TÀN PHÁ NÓ
Người bố liền nói với vị linh mục:
- Vâng thưa cha, nó trưởng thành về mặt pháp luật, nhưng ma tuý đã tàn phá nó, khiến nó không còn chịu trách nhiệm luân lý về những việc nó làm. Đối với con, nó vẫn còn là đứa con nhỏ tuổi chưa đủ khả năng làm chủ được mình.
- Nhưng tôi thấy nó không xứng đáng đối với sự hy sinh mà ông định dành cho nó.
Người cha đau khổ liền nói:
- Con không biết nó có xứng đáng hay không. Con chỉ biết nó là con gái của con và con không thể bỏ rơi nó được! Chính con đã sinh nó ra và con sẵn sàng hy sinh mạng sống con để cứu nó!
THIÊN TÌNH SỬ
Người bố trong câu chuyện cảm động vừa kể phần nào nói lên tình thương của chính Thiên Chúa đối với loài người là đối tượng của lịch sử cứu độ. Điều đó nổi bật nơi các ngôn sứ. Trong sách ngôn sứ Hô-sê, Gia-vê Thiên Chúa nói về dân Người rằng: "Thuở Ít -ra-en còn là trẻ bé, Ta đã mến thương. Và từ Ai Cập, Ta đã gọi con Ta. Chính Ta, Ta đã tập đi cho Eph-ra-im, Ta bồng chúng trên cánh tay Ta. Nhưng chúng nào có biết là chúng được Ta chăm sóc. Ta lôi kéo chúng với dây tình người, với thừng chão yêu thương. Với chúng, Ta ở như những người nhấc con đỏ lên tới tận má mình. Và cúi xuống trên nó, Ta mớm cho nó ăn. Làm sao Ta nỡ bỏ ngươi, hỡi Eph-ra-im. Hay thí hẳn ngươi đi, hỡi Ít-ra-en? Lòng Ta đảo lộn trong Ta, và mối chạnh thương sôi réo cả lên." (Hs 11,1-3;4-8).
Thiên Chúa không bao giờ bỏ dân Người, ngược lại dân đã thất tín với Người. Họ đã bỏ Gia-vê Thiên Chúa để thờ cúng các thần ngoại bang. Dẫu vậy, Thiên Chúa vẫn trước sau như một trong lòng thành tín của Người. Dọc theo lịch sử, Người đã sai các ngôn sứ tới kêu gọi dân ăn năn thống hối để trở về cùng Thiên Chúa. Người quảng đại đến nỗi sai chính Con Một Người đến cứu dân. Gioan Tẩy Giả chính là vị ngôn sứ cuối cùng được Thiên Chúa sai đến. Ông có sứ mạng trực tiếp giới thiệu Con Thiên Chúa (Lc 3,22; Ga 1,36).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ba loại nội dung khác nhau mà ông Gioan muốn trình bày qua những câu 7-9; 10-14 và 15-18.
NGÀY SAU HẾT
Phần 1 (cc. 7-9) là tiêu biểu cho đề tài Cánh Chung mà ông Gioan rao giảng. Ông không kêu gọi người ta rút lui vào sa mạc để sống đời nhiệm nhặt như ông. Ông chỉ mời gọi người ta sửa đổi lại cách ăn nết ở như "cơn thịnh nộ của ngày sau hết" đòi hỏi. Lời của Gioan có ý cắt nghĩa nhu cầu sám hối vì lý do cánh chung. Việc ông Gioan dọn đường cho Đức Chúa (c.4) liên quan tới điều mà các ngôn sứ Cựu Ước gọi là "Ngày của Chúa". Ông chưa nói đến Đấng Mêsia mà chỉ dựa vào Cựu Ước để chuẩn bị người ta nghênh đón Đấng ấy.
HÀNH XỬ TRONG XÃ HỘI
Phần 2 (cc. 10-14) tiêu biểu đề tài luân lý mà ông Gioan Tẩy Giả rao giảng, đặc biệt liên quan tới lối hành xử trong xã hội. Ở đây nữa, ông không kêu mời người ta nhận lấy lối sống của ông làm lối sống của họ. Ông cũng không nêu lý do cho cách hành xử xã hội mà ông kêu mời là vì Đấng Mêsia sắp đến hoặc vì ngày sau hết gần kề. Lời khuyên của Gioan Tầy Giả hoàn toàn hiểu được theo não trạng của dân Pha-lệ-tinh hoặc theo bối cảnh của Cựu Ước, như: hãy sẵn sàng giúp đỡ tha nhân, hãy ăn ngay ở lành, hoặc hãy sống theo lẽ công bằng. Một đàng ông Gioan biểu lộ mối quan tâm thực sự đối với người lân cận; đàng khác, ông cũng không muốn đảo lộn trật tự xã hội hiện hành nhân danh "cơn thịnh nộ đang đến". Ông biện hộ cho việc chia sẻ những gì là cơ bản về đời sống (c.11) đồng thời chống lại việc hà hiếp, tống tiền và hăm dọa (cc.13-14). Nhưng ông không bảo những nhân viên thu thuế phải cắt đứt liên lạc với chính quyền ngoại quốc. Ông cũng không khuyến cáo lính tráng phải giải ngũ dù họ phục vụ cho triều đình Hê-rô-đê hay họ là lính đánh thuê; thực ra khi ông khuyên họ nên an phận với số lương của mình (c.14) thì ông hiểu đó không phải là đồng lương bất hảo.
Những lời ông Gioan Tẩy Giả khuyên người Do Thái cũng được hiểu là những lời khuyên dành cho độc giả sách Tin Mừng theo Luca là các Kitô hữu. Đó là những ví dụ điển hình về "những hoa trái của lòng sám hối" (c.8). Luca cho thấy mối liên lạc mật thiết giữa lời rao giảng về ngày sau hết đối với đời sống thường ngày của người tín hữu.
ĐẤNG PHẢI ĐẾN
Phần 3 (cc.15-18) là phần quan trọng nhất của đề tài rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả liên quan tới Đấng Mêsia. Sự quan trọng được thấy trong cách ông xác định vai trò của ông đối vớI Đấng Mêsia là Đấng phải đến và là Đấng uy quyền hơn ông. Đấng ấy có vai trò nhất định liên quan tới ngày sau hết của loài người (c17).
Đức Giêsu, Đấng phải đến, chính Người sẽ chịu phép rửa khi toàn dân đã chịu phép rửa (c.21). Đấng ấy trổi vượt trên ông Gioan Tẩy Giả theo bốn cách sau đây:
(1) dầu Đức Giêsu đến sau ông Gioan theo thứ tự thời gian (c.16), Người không bước sau ông với tư cách là trò phải theo sau thầy;
(2) ông Gioan không xứng đáng làm việc thấp hèn là cởi quai dép cho Người;
(3) phép rửa của Đức Giêsu là phép rửa trong Thánh Thần (c.16), còn phép rửa của ông Gioan là phép rửa bằng nước mà thôi (c.16);
(4) Đức Giêsu được ông Gioan mô tả là "Người cầm nê rê sạch lúa trong sân" (c.17), tức là Đấng Phán Xét trong ngày sau hết.
KHAI TRƯƠNG THỜI ĐẠI CUỐI CÙNG
Vậy ông Gioan Tẩy Giả không phải là nhân vật thuộc thời sau hết nhưng là một vị ngôn sứ loan báo "Đấng uy quyền hơn ông", Đấng ấy chính là vị Thiên Sai của thời đại mới sắp ló dạng. Chính Đấng ấy là người khai trương thời đại mới, tức thời đại cuối cùng. Như vậy bài Tin Mừng hôm nay chỉ là một màn nhỏ của Thiên Tình Sử mà Thiên Chúa đóng vai chủ động. Chính Thiên Chúa đã yêu dân Người bằng một tình yêu trước sau như một. Để tận hưởng mối tình bền vững ấy, dân Chúa cần phải thay đổi đời sống để đón nhận Đấng Mêsia quyền uy. Chính Người sẽ dẫn đưa dân Người vào thời đại mới, cũng là thời đại cuối cùng, khi mà ai khát cũng được mời đến với Người. Ai cũng muốn được ban cho đặc ân để lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền (Kh 22,17). Đó quả là tột đỉnh của Thiên Tình Sử mà ông Gioan Tẩy Giả chỉ mới là người giới thiệu xa xa. Nhưng lời kêu gọi phải sám hối của ông luôn có giá trị như điều kiện tiên quyết để bước vào thời đại mới, là thời đại cuối cùng đối với cả loài người.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ trong các đề tài mà ông Gioan Tẩy Giả rao giảng có đề tài nào thích hợp và giúp ích cho bạn trong xã hội hiện bạn đang sống? Hay bạn nghĩ tới một số đề tài khác thích hợp hơn?
2. Bạn nghĩ chính bạn có thể giúp đỡ người bố khổ đau trong câu chuyện nói trên chăng? Phải chăng người bố đó quá quan tâm về nhu cầu vật chất của đứa con mà bỏ qua nhu cầu tinh thần? Bạn có sáng kiến nào để bù lại thiếu sót nơi người bố đó? Có thể ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa trong Lc 15,1-32 thích hợp để giúp cả người bố lẫn người con trong câu chuyện, tìm lại được niềm hy vọng? Hay có thể đề tài cánh chung (cc.7-9) của ông Gioan Tẩy Giả cũng có thể giúp hai bố con đó xác định lại giá trị vĩnh cửu của đời mình?
Suy Niệm: "Sau khi nghe Gioan giảng, dân chúng hỏi ông rằng: Vậy chúng tôi phải làm gì? Ông trả lời: Ai có hai áo hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậỵ"(Lk 33:10-11)
Chuyện kể rằng thánh Martin of Tours xưa là một viên sĩ quan thuộc quân đội Pháp. Một hôm: MV 3-C15
Chuyện kể rằng thánh Martin of Tours xưa là một viên sĩ quan thuộc quân đội Pháp. Một hôm, sau chuyến công tác mệt mỏi trở về, ông gặp một người ăn mày ngồi xin ở cổng thành. Hôm đó trời lạnh làm cho vạn vật co ro, nhìn người ăn mày run rẩy xin bố thí, lòng người tê tái, ông động lòng thương. Vì không có tiền trong túi, ông liền nhảy xuống khỏi lưng ngựa, lấy dao cắt áo choàng của ông làm hai phần và trao cho người ăn mày một nửa. Đêm hôm đó, trong giấc ngủ ngon ông thấy Chúa Giêsu mặc miếng áo choàng mà ông cho người ăn mày nghèo khổ hôm qua. Chúa Giêsu rất vui vẻ giữa các thiên thần đang ca hát. Có một thiên thần hỏi Chúa Giêsu là tại sao Ngài mặc miếng áo bẩn như vậy. Chúa Giêsu khoe là đêm qua tôi tớ của Ngài là Martin, sau khi đi công tác mệt mỏi trở về, quần áo lẫm bụi đường, mà vẫn không làm ngơ trước những đau khổ của những người bất hạnh, nghèo đói. Để thử lòng Martin, thì chính Chúa Giêsu đã cải dạng người ăn mày xin ở vệ đường. Chúa Giêsu khen ngợi Martin là tôi tớ trung thành của Ngài đã sống đúng tinh thần bác ái Kitô hữu.
Có nhiều quan niệm thật sai lầm trong cuộc sống! Người thì nghĩ rằng chỉ có quyền hành, danh vọng, của cải trần thế đem lại hạnh phúc. Kẻ khác cho rằng phải làm những việc to lớn mới xứng đáng là làm việc thiện. Nhưng tâm tình của Kitô hữu thì khác. Vì có Chúa sống trong họ nên họ rất hạnh phúc. Bất cứ việc gì, dù nhỏ, dù to đều đem cho họ niềm vui vì họ làm với Chúa. Điều này được tiên tri Isaiah loan báo từ xưa: "Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi, có Đấng Thánh của Israel thật cao cả."(Is 12:6) Là Kitô hữu, chúng ta sống trong hạnh phúc, vì Chúa hiểu lòng ta. Mọi cử chỉ, lời nói to nhỏ đều có gía trị trước tôn nhan Chúa.
Thực Hành: "Anh Chị Em thân mến, hãy vui lên trong Chúa."(Phil 4:4) Lạy Chúa xin dạy con biết an vui và biết sống trước tôn nhan Chúa. Xin soi sáng cho con biết rằng khi cho đi là lúc con nhận được hạnh phúc trong tâm hồn. Chúa là nguồn hạnh phúc thật của đời con.
Trong Phúc Âm hôm nay có 3 hạng người tới hỏi Thánh Gioan Tẩy Giả cùng một câu hỏi: MV 3-C16
Trong Phúc Âm hôm nay có 3 hạng người tới hỏi Thánh Gioan Tẩy Giả cùng một câu hỏi: "Vậy chúng tôi phải làm gì?" Họ là hạng dân chúng, họ là người thu thuế, và họ là những quân nhân.
Thánh Gioan Tẩy Giả là người từng sống trong rừng rất thực tế và nói thẳng, ngài không bảo họ bỏ nghề nghiệp của họ, nhưng cứ ở trong nghề nghiệp đó mà làm đúng với lương tâm mình. Đối với hạng dân chúng, ngài trả lời: "Ai có áo, có của ăn hãy chia sẻ cho người không có" (đó là đức Bác Ái). Đối với người thu thuế, ngài trả lời: "Đừng ức hiếp, đừng cáo gian ai (thuộc về đức Công Bằng) và hãy bằng lòng với số lương của mình" (tức hãy sống an phận).
Nói chung cả ba hạng người trên thánh Gioan Tẩy Giả chỉ cho họ cách sống để đẹp lòng Chúa. Đó là đối với tha nhân, chúng ta hãy cư xử công bằng và bác ái. Còn đối với chính mình thì hãy bằng lòng với số phận của mình, tức không tham vọng, không mơ ước gì qúa tầm tay.
Thứ nhất, đối với tha nhân, chúng ta phải công bằng trước đã rồi mới nói tới bác ái. Công bằng là căn bản, thuộc về hợp pháp, tức là trả cho người ta những gì thuộc về người ta. Còn bác ái thì cao hơn, thuộc về tình nghĩa, tức là thương yêu, giúp đỡ, phục vụ người khác.
Nếu chúng ta ăn trộm, ăn quịt, lường gạt, đổ vạ, cáo gian, đó là thuộc về đức công bằng. Có nghĩa là những tài sản, tiếng tốt đó thuộc về người ta, bây giờ mình lấy đi. Lỗi công bằng về danh tiếng thì nặng hơn về của cải vì "hổ chết để da, người chết để tiếng". Của cải mất đi, người ta còn làm lấy lại được, danh tiếng mất đi, người ta phải ô nhục xấu hổ mãi mãi. Vì thế rất ý tứ khi nói đến người thứ ba. Cái đau mất của không thấm thía bằng cái đau mất tiếng tốt.
Cao hơn công bằng là đức Bái Ái, nghĩa là mình đã không lấy gì của tha nhân mà mình còn ban tặng thêm cho tha nhân. Bác Ái rất rộng rãi, có thể giúp tiền của, thời giờ, săn sóc, yêu thương, che chở người bất hạnh. Trong Đạo Công Giáo chúng ta, đức Bác Ái gồm tóm trong kinh "Thương người có 14 mối."
Thứ nhì, đối với chính mình phải an phận, đừng ngó sang người khác để ghen tương, phân bì, đừng ao ước viễn vông, "giá tôi thế này, thế nọ" Câu chuyện ngu ngôn về con cóc dạy chúng ta bài học: Có con cóc khi nhìn thấy con bò to lớn thì ước ao mình cũng phải to lớn như vậy, thế rồi nó cố dồn hơi và bụng cho phình ra to, to thêm, to nữa. Đến khi bụng căng qúa chịu hết nổi thì nổ tung và chết tiệt. Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta một số nén bạc tạo nên sự khác biệt về chức vị, tài năng, sức khỏe, trí khôn... điều đó thuộc về ý định quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy an phận với cuộc sống của mình để được hạnh phúc. Vì Hạnh Phúc đích thực và trường cửu của con người là chính Thiên Chúa, là hưởng Nước Trời. Còn mọi thứ Chúa ban cho chúng ta trên đời này chỉ là phương tiện và có tính cách tạm thời để đạt được mục đích trên.
Theo truyền thống tại một nước kia thời còn sống đạo nghiêm chỉnh, sau Canh thức Vượt qua: MV 3-C17
Theo truyền thống tại một nước kia thời còn sống đạo nghiêm chỉnh, sau Canh thức Vượt qua, nhà vua thường lấy lửa từ nến Phục sinh châm vào một cây nến khác mang tên "Nến ơn phục sinh". Gọi như thế vì bao lâu cây nến này còn cháy, tất cả những tội nhân nào công khai xưng thú tội lỗi trước nó sẽ được thứ tha trọn vẹn · Truyền thống này phát xuất từ đoạn Tin Mừng đọc nhân lễ Phục sinh, trong đó Chúa Giêsu tuyên bố: "Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha" (Ga 20,23) · Mỗi năm vào dịp đại xá này, các tội nhân nặng chưa sa lưới pháp luật đều nối đuôi nhau để được tha thứ tội lỗi. Họ phải đặt tay trên ngọn nến và lớn tiếng xưng thú tội mình đã phạm. Sau đó, họ lãnh một thơ xá giải khuyên họ cải tà quy chánh và chuộc lại lỗi lầm · Năm kia, có một phụ nữ đứng nối đuôi với các tội nhân này. Chồng chị cũng có mặt trong đám đông, tay cầm tờ cáo trạng. Ông định bụng chờ đến khi vợ tới trước nến ơn phục sinh, sẽ đọc tờ cáo trạng, để minh chứng rằng bà không đáng hưởng ơn tha thứ, vì sau khi được ông xá lỗi nhiều lần, bà vẫn "ngựa quen đường cũ" ·
Khi đến phiên người phụ nữ thú tội, mọi con mắt đều đổ dồn về chị ta. Đặt tay phải lên cây nến, chị thều thào tự thú: "Tôi đã phạm tội ngoại tình". Nói đến đây, chị kề miệng thổi tắt ngọn nến; rồi nhắm chặt đôi mắt, nấc lên nghẹn ngào, chị tự thú tiếp tục: "Tôi đã ngoại tình và tái phạm nhiều lần. Tội tôi quá nặng, tôi không đáng được ơn tha thứ!". Nhưng khi mở mắt ra, chị thấy cây nến ơn phục sinh đã cháy lại do chồng chị đã đến bên cạnh và lấy tờ cáo trạng châm lại ngọn nến · Nhà vua nghiêm tiếng hỏi: "Ngươi là ai mà dám tự tay châm lại ngọn nến ơn phục sinh?" Anh ta kính cẩn trả lời: "Thưa tôi là chồng bà này, và tôi đã đốt tờ buộc tội để châm lại ngọn nến". Suy nghĩ giây lát, nhà vua phán quyết: "Ngươi đã hành động đúng, vì ngươi đã làm theo gương Chúa Giêsu".
Xưng thú tội đã phạm, chuộc lại các lỗi lầm, thiêu đốt trong ngọn lửa của Chúa phục sinh... ấy cũng là bấy nhiêu chủ đề ta sắp tìm hiểu qua tiếng nói của vị Tẩy giả trong bài Tin Mừng này. Tiếng nói của ông hôm nay rõ ràng đi theo hai hướng. Trước hết là về cuộc sống luân lý của loài người, tiếp đến là về Đấng mà Gioan muốn dẫn chúng ta tới gặp gỡ.
1. Hành vi tỏ lòng hoán cải của tội nhân
Trong các câu đi trước bản văn chúng ta sắp suy niệm, mà chỉ mình Luca có, Gioan Tẩy giả đã tung ra một lời kêu gọi hoán cải nghiêm khắc, đáng sợ, đúng là nằm trong kiểu cách ngôn sứ Cựu Ước: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các ngươi cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?" (Lc 3,7). Thiên hạ phản ứng ngay và hỏi: "Chúng tôi phải làm gì?" Bài học quý giá của đoạn này là thế: chớ khi nao để một nhiệt tình hoán cải rơi vào chỗ mơ hồ. Không có sự hoán cải, chỉ có những hành vi chứng tỏ ta muốn hoán cải và cụ thể hóa lập tức việc đảo ngược tâm lòng: "Chúng tôi phải làm gì đây?"
Nhớ lại bao cuộc "hoán cải" trước đây của mình, ta không khỏi thất vọng. Cảm thức về một biến đổi kỳ diệu đã có phen làm ta hết sức phấn chấn: "Nay xong rồi, đời mình sắp thay đổi". Ta tưởng đó là cuộc khởi hành vĩ đại hướng đến lý tưởng, hướng đến thánh thiện. Nhưng hầu như ta luôn mắc bẫy, vì chỉ ở vỏn vẹn vài hôm trong nhiệt tình, không khai thác cho nhanh ơn hoán cải; và rồi hứng khởi xẹp dần, cuộc sống chúng ta lại tiếp tục như trước. Ấy là vì có một biên giới khó vượt: đi từ tình cảm sang hành động. Chẳng phải thiên hạ thường nói: "Khoảng cách xa nhất là từ đầu tới bàn tay" đó sao? Để lập tức đặt chúng ta lên đường, bao bài suy niệm về hoán cải đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đức tin và lời cầu nguyện. Chớ dựa sức riêng mình, hãy xin Chúa giúp đỡ.
Hôm nay, lòng can đảm của chúng ta được nêu bật: cũng phải tin vào mình! Và thành thử phải nhanh chóng động viên mình "làm một cái gì đó" cách khiêm tốn nhưng quyết liệt, bằng cách hướng về cuộc sống thường nhật của chúng ta. Các lời khuyên của Gioan Tẩy giả có thể xem ra xa các vấn đề của chúng ta, nhưng hãy ghi nhận nơi đó lời kêu gọi sống bác ái, công bình và bất bạo động.
Một vài nhiệt tình hoán cải có thể thúc đẩy chúng ta đến chỗ cố gắng cầu nguyện hay thờ phượng sốt sắng hơn, thay đổi tính tình cho tế nhị lịch sự hơn. Tốt, nhưng hãy nhìn kỹ hơn một chút quanh mình. Làm sao chúng ta đi đến chỗ chia sẻ? "Ai có hai áo, thì chia bớt đi một". Khiêm tốn đấy... nhưng hữu hiệu hơn giấc mơ anh hùng muốn chia mười áo vốn vẫn mãi là giấc mơ, và chỉ cọng thêm vào bao cuộc hoán cải thất bại. "Đừng đòi hỏi gì quá mức", Gioan Tẩy giả đã nói với những người thu thuế như vậy. Một cơ hội xét mình cụ thể biết bao về các thái độ của chúng ta trong việc làm, buôn bán, giao dịch. Cũng là một cơ hội để lên tiếng tố cáo những bất công đang gây ra cho anh em mình, do từ chế độ độc quyền về tư tưởng, chính trị, giáo dục, truyền thông v.v...
"Chớ hà hiếp ai". Dẫu không là binh lính, ta có lẽ vẫn tạo áp lực quá đáng trên con cái, nhân viên, phần tử của cộng đoàn mà ta có trách nhiệm. Có nhiều cách để hà hiếp, để làm tay anh chị, thậm chí để làm mục tử lạm quyền, chỉ biết độc tài. Độc tài vì đã mất hết uy tín nơi người dưới hay vì đã quá quỵ lụy thế gian, nay muốn tự lừa dối là mình vẫn còn quyền lực. Chúng ta càng nỗ lực để nên sáng suốt trong lãnh vực tế nhị này, sự hoán cải của chúng ta sẽ càng đi từ mơ mộng sang thực tế.
2. Ngọn lửa thiêu đốt của Đấng quyền thế
Chân trời thứ hai Gioan muốn dẫn chúng ta tới là chân trời trên đó nổi rõ khuôn mặt của "Đấng quyền thế hơn tôi" (một kiểu nói mượn từ Cựu Ước, x. Is 9,5; 11,2). Cùng với Người, xuất hiện phép rửa trong Thánh Thần và lửa, tiếp nối phép rửa trong nước của Gioan. Sự đối chọi giữa hai phép rửa này thật đáng lưu ý. Việc dìm trong nước là nằm trong đường hướng các nghi thức thanh tẩy của mọi dân tộc; việc dìm trong lửa, ngược lại, có vẻ phi lý vì đưa tới sự thiêu hủy chính vật thể, con người. Thật ra, tư tưởng của vị Tẩy giả có lẽ bắt nguồn từ lời ngôn sứ Malakhi, kẻ đã trình bày việc đột nhập của sứ giả tiên báo Giao ước mới như thế: "Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc... sẽ tinh luyện chúng như bạc, như vàng" (3,2-3).
Lửa mạnh hơn nước trong việc làm rơi rụng những rỉ sét và khiến kim loại quý sáng ngời; cuối cùng nó động tới cội rễ của tất cả những gì đi vào lòng của nó. Nhưng vị Tẩy giả còn nại đến một hình ảnh Kinh Thánh khác, cái nia rê lúa cho sạch. Người nông dân bỏ từng nắm hạt vào nia, đứng thẳng người nghiêng nia cho hạt rơi xuống. Hạt chắc rơi ngay tại chỗ, hạt xép bị gió cuốn xa hơn và sẽ phải đem vào lửa. Đây cũng là lặp lại biểu tượng lò luyện nói trên, lấy lại một kiểu thức cổ điển của Kinh Thánh. Thật thế, chính tác giả Thánh vịnh đã định nghĩa số phận của kẻ dữ như vậy: "Chúng khác nào vỏ trấu gió thổi bay" (Tv 1,4). Thành thử đây là nét duy nhất mà vị Tẩy giả muốn nêu bật về "Đấng quyền thế hơn" sắp nhảy lên sân khấu của lịch sử.
Nét này của Đức Giêsu thoạt tiên xem ra tiêu cực, vì như mang dáng xét xử. Thật ra nó có một giá trị triệt để, căn bản hơn nhiều: qua cụm từ "phép rửa bằng lửa", Gioan muốn nói lên sự mới mẻ tuyệt đối mà Đức Kitô mang lại. Người đánh dấu một khúc quanh trong việc cứu rỗi, giải thoát trọn vẹn con người khỏi sự dữ, bằng cách tấn công vào chính cội rễ sức mạnh hủy diệt. Người làm bừng sáng tạo vật mới trong tất cả vẻ huy hoàng của nó. Hành động của Thiên Chúa nổ tung nhưng không phá hủy, hữu hiệu nhưng không tiêu diệt, giải phóng chứ chẳng loại trừ. Chính vì thế phụng vụ hôm nay không rung lên nét sợ hãi nhưng rung lên nỗi hân hoan và niềm hy vọng, xuất phát từ bài ca vui tươi được ngôn sứ Xôphônia hát ("Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hoan hô đi nào, Israen hỡi!...") và từ lời thánh Phaolô kêu gọi tín hữu thành Philípphê: "Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!". Chúng ta có cảm nhận điều này chăng?
Các bài Thánh Kinh trong Thánh lễ Chúa nhật III Mùa vọng hôm nay, mời gọi chúng ta hãy: MV 3-C18
Các bài Thánh Kinh trong Thánh lễ Chúa nhật III Mùa vọng hôm nay, mời gọi chúng ta hãy vui mừng vì Chúa đã gần đến. Chúa đến để thực hiện niềm hy vọng của chúng ta. Chúa đến để giải thoát chúng ta khỏi buồn phiền, sợ hãi, khỏi tội lỗi và sự chết. Chúa đến để mang lại cho con người niềm vui thật sự trong tâm hồn.
Chính vì thế mà Sôphônia trong Bài đọc I đãvang lên lời kêu gọi đầy hân hoan: "reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion…đừng sợ vì vua của Israel, chính là Chúa đang ngự giữa ngươi".
Sôphônia nhắc nhở mọi người đừng bao giờ để cho những nỗi lo sợđau thương đè bẹp niềm vui cứu độ vì Thiên Chúa mới thật sự là niềm vui của chúng ta. Ngài dư sức cứu chúng ta thoát khỏi mọi cơn nguy hiểm nếu chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa.Hơn nữa hôm nay chúng ta còn vui hơn cả Sôphônia ngày xưa vì biết rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho chúng ta. Nhắc lại mầu nhiệm Thiên Chúa làm người là mời gọi mọi người trở lại với niềm vui thật sự của người Kitô hữu mà họ đang đánh mất dần trong cuộc sống. Lý do là vì không đặt hy vọng vào Chúa mà chỉ hy vọng vào vật chất, vào con người .
Niềm vui ngày Chúa đến không chỉ ấp ủ trong lòng mà tuôn trào ra bên ngoài bằng cuộc sống đan dệt bởi những hành vi thánh thiện. Niềm vui bộc phát để thúc đẩy dân chúng đến thưa với Gioan tẩy giả:"chúng tôi phải làm gì?". Mỗi người một hoàn cảnh, đều nhận được câu trả lời tương xứng: "hãy chia sẻ, hãy cư xử công bằng, đừng dùng vũ lực…" vấn đề không phải là thay đổi cảnh sống mà là thay đổi cách sống: yêu thương, công bằng, chia sẻ…
Gioan còn giới thiệu cho mọi người một người đến sau ông, nhưng Người đó: Đức Giêsu Kitô mới là niềm vui đích thật của tất cả mọi người. Và Gioan đã biết tập trung niềm vui của mình vào Ngài, mặc dù đời ông có vẻ như thất bại vì phải chết bởi sự độc ác và ích kỷ của một người đàn bà (x. Mc 6,14-29). Và đây cũng lại bài học thực tế giúp chúng ta hiểu rằng: ngay trong thất bại và đau khổ của cuộc sống, chúng ta vẫn giữ được niềm vui nếu noi gương như Gioan Tẩy giả, biết qui hướng đời mình về Đức Kitô.
Tóm lại, để có niềm vui thật sự trong tâm hồn, mỗi chúng ta cần phải nương tựa vào Chúa, vì chỉ có Người mới bền vững và đủ quyền năng để giải thoát chúng ta. Vì thế mà Thánh Phaolô đã nhắc nhở trong Bài đọc II hôm nay:"anh em đừng lo lắng gì cả. Trong mọi hoàn cảnh anh em hãy giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện". Thiên Chúa có thể làm được mọi sự, Người sẽ ban cho chúng ta theo chương trình cứu độ của Người, chứ không theo tầm nhìn nông cạn và vị lợi của ta. Khi tin như vậy, chúng ta sẽ giữ được niềm vui và mỉm cười ngày cả những lúc gặp giông bão trong cuộc đời.
Cuối tháng 11 năm 1996, một chuyện xảy ra làm nhiều người sửng sốt nhìn điềm thời đại: MV 3-C19
Cuối tháng 11 năm 1996, một chuyện xảy ra làm nhiều người sửng sốt nhìn điềm thời đại. Ở một phố nhỏ gần Orlando bang Florida con bé choai choai mới 15 tuổi tên là Heather Wendorf đã về giết ba má lấy máu uống để làm lễ Đen (black mass) tế quỉ. Cảnh sát điều tra thì bắt được cả băng khoảng 30 đứa từ bang Kentucky. Tất cả đều thuộc tuổi từ 15 đến 19. Người ta cho biết rằng Heather Wendorf trước đây ít lâu là một đứa bé hiền lành, nhưng bỗng dưng nó được móc nối bỏ nhà đi theo nhập bọn thờ quỉ Satan. Nó bắt đầu thay hình đổi dạng: nhuộm tóc màu tím, đeo dây xích ở cổ, đi vớ lưới đen; thằng bồ của nó thì chuyên môn mặc áo choàng đen, cầm gậy. Bọn thờ quỉ này tự nhận mình là quỉ hiện hình. Chúng uống máu người trong những lễ tế Đen vì tin rằng sẽ sống trường sinh bất tử và đầy quyền phép, con gái được trở thành vợ của quỉ vương...
Đạo thờ quỉ khá thịnh hành ở Mỹ hiện nay. Gốc gác từ Anthony Lavey lập ra. Nhập đạo thì được hưởng nhiều quyền lợi về tình dục, tiền bạc và nhiều thế lộng hành, nhưng phải bán linh hồn cho quỉ và làm công tác như giết người, phá thai, làm hại người khác... để lập công với quỉ vương. Biểu hiệu của Đạo Thờ Quỉ là ngôi sao năm cánh, ba số sáu, hoặc chữ thập ngoặc như biểu hiệu của Đức Quốc Xã thờ quỉ chiến tranh Wotan thời Hitler.
TRẬT TỰ MỚI
Thực ra thì Đạo Thờ Quỉ chỉ là một hình thức lộ diện thôi. Thế kỷ 20 này người ta thấy xuất hiện nhiều hình thức bí mật và tinh vi hơn do những Hội Kín chủ trương để phá đổ mọi niềm tin tôn giáo. Họ thao túng quyền lực thế giới bằng "Trật Tự Mới" do họ xếp đặt theo hai cái thước thợ nề của Tam Điểm tính toán.
Danh từ "trật tự mới" đã trở nên phổ thông. Ai cũng có cảm tưởng có một bàn tay lông lá nào điều khiển xếp đặt nhiều biến động trên thế giới từ nhiều năm qua, từ chiến tranh nóng đến chiến tranh lạnh. Bàn tay nào làm phù thủy đàng sau những cuộc đánh đấm về ý hệ vốn được tô vẽ mang đầy chính nghĩa bên đông cũng như bên tây?
Từ những chính nghĩa bảo vệ tiền đồn tự do tại Đông Nam Á đến những chính nghĩa bảo vệ hũ dầu Kuwait ra khỏi bàn tay anh chàng khùng Hussein của xứ I-Rắc, cũng vẫn là do một "bàn tay lông lá" làm đạo diễn. Trong trật tự mới này, từ Ai Cập cho đến Saudi Arabia đều răm rắp phục lệnh đi vào khuôn phép.
Ở hội nghị thượng đỉnh kinh tế của bẩy anh nhà giầu trên thế giới cũng thấy dấu hiệu một trật tự mới. Mà ở ngay hội nghị ở Nam Dương của cái gọi là APEC, gồm thủ lãnh các nước Á Châu và vòng đai Thái Bình Dương bàn về kinh tế, cũng thấy dáng dấp cái trật tự mới này.
TUYÊN NGÔN CỦA TRẬT TỰ MỚI
Joseph Campbell, một nhà huyền thoại học nổi tiếng vào bậc nhất đã cho biết ý nghĩa những biểu tượng được ghi trên tờ một đồng tiền Mỹ trong cuốn "Sức Mạnh của huyền thoại" (The Power of Myth, Doubleday xuất bản).
Ở mặt sau tờ một đồng tiền Mỹ phía bên trái là hình kim thự tháp là gốc của Tam Điểm, chóp đỉnh tam giác là con mắt tỏa sáng. Ngay bên dưới kim tự tháp là hàng chữ bằng tiếng La-Tinh như một tuyên ngôn: novus ordo seclorum, có nghĩa là trật tự mới của thế giới. Phía trên là vòng chữ khác cũng bằng tiếng La-Tinh: annuit coeptis, nghĩa là Người mỉm cười thấy mọi sự tiến hành tốt đẹp. Và bên dưới nữa còn ghi cho chắc ăn: The Great Seal, đây là ấn tín của "triều đại" chúng tôi.
Ở ngay giữa có hàng chữ xem ra rất đạo đức: in God we trust, trong chúa chúng tôi tin tưởng. Đừng tưởng bở. Vị chúa ở đây không phải là Thiên Chúa trong đạo Thiên Chúa đâu, mà Joseph Campbell nói rõ đó là tôn thờ trí khôn con người làm chúa. Trí khôn con người là đèn soi chân lý có thể tạo một trật tự, làm ra tiền, sống sang giầu, mà không do ơn trên nào ban cả.
Phía bên phải đồng tiền là hình con chim ó, một chân cầm cành ô-liu 13 lá, một chân cầm bó 13 mũi tên, và trên đầu là hình 13 ngôi sao được xếp theo hình hai tam giác chồng lên và ngược chiều nhau thành hình ngôi sao.
Thế rồi sửa soạn vào thiên niên mới, Trật Tự Mới thao túng ngành giáo dục và truyền thông, tạo ra một áp lực mới khiến mọi người cứ thế mà theo không sao cưỡng lại được. Những từ ngữ như sức ép xã hội (society pressure), sức ép bạn bè (peer pressure) đều do quyền lực này lèo lái tạo ra, bằng luận điệu ám ảnh bơm vào máu trên TV và báo chí. Riết rồi ai cũng có cảm tưởng mọi người đều thế cả, mình không theo là không giống ai. Vì thế mà con em bị dẫn vào những nẻo chúng không hề biết trước, và với đà luân lý rối loạn, nhiều gia đình đang đương đầu với một xung đột và tan vỡ thê thảm nếu không kịp cảnh giác đề phòng.
Một trong những hình thức tinh vi là Hội Kín tạo ra phong trào Thời Mới (New Age) với cả một cơ quan ngôn luận nhằm phá đổ ý niệm về Thiên Chúa là một ngôi vị, mà khuynh hướng tịnh niệm như TM (transcendental meditation)... và một số nhóm khác được móc nối, được hỗ trợ và thổi phồng, để chủ trương một lực vô vi điều khiển trật tự trời đất. Một khi đã hất Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống rồi thì không còn tội ác nào mà không dám làm, không còn một hình khổ nào mà không dám hành hạ người khác.
TIN VUI GỬI THỜI ĐẠI MỚI
Phạm Duy trong Rong Khúc Hát Cho Năm 2000 khi sắp sửa kết thúc thế kỷ 20, một trăm năm vật vã, một trăm năm hận thù đã diễn ta cuộc đời Việt Nam như một người tình mà những người phụ tình đang vọng chờ tìm về:
Hẹn em nhé, năm hai ngàn sẽ Hai bên cửa hé, cho anh trở về Từ ngày đi theo cuộc tỉnh mê Trăm năm nhỏ bé, trăm năm bộn bề... Ngày xưa đó chia tay vội vã, Trăm năm rộn rã say sưa một mùa Nào ngờ đâu trong cuộc được thua Trăm năm vật vã, trăm năm hận thù...
Người Việt mình đã thấy dấu chỉ thời đại nào để sửa soạn bước vào thiên niên thứ ba chưa, hay vẫn chỉ bằng lòng nằm chết bẹp trong vòng luẩn quẩn của nền văn minh thờ quỉ duy vật với một trật tự đã định sẵn? Để rồi cũng chỉ dám ước mơ trở thành một con rồng nhỏ trong trật tự này!
Không hiểu từ hồi nào biểu tượng vuông tròn của bánh chưng bánh dầy bị cắt đi một nửa. Ngày tết chỉ còn thấy bánh chưng mà ít thấy bánh dầy. Bánh chưng vuông chỉ đất, thờ vật chất. Không còn bánh dầy tròn chỉ trời, thờ Thiên Chúa. Chắc vì vậy mà cứ nói đến chuyện phục hưng đất nước thì một số người chỉ nghĩ tới việc rước mấy ông râu xồm từ Âu từ Mỹ về mà yêu kính thờ lạy để rồi xâu xé nhau vật vã hận thù. Vì trong vô thức mình đã phụ tình, đã chấp nhận thờ người tình duy vật duy lợi rồi còn gì!
Giữa những rối loạn và u ám của môi trường sống, Hội thánh Công Giáo mở ra Viễn Kiến năm 2000: con mắt rực sáng khám phá ra Chúa Kitô cách đây 2000 năm, thì cũng một con mắt rực sáng đó sẽ dẫn con người vào thiên niên mới. Mùa Vọng là mùa Vọng Chờ, không phải chỉ chờ đón một lễ Giáng Sinh như một thủ tục bề ngoài như mọi khi, mà là chờ đón Chúa Kitô giáng sinh thực sự bước vào cuộc sống của mình. Đây mới là Đấng có đủ quyền lực đối đầu và thắng vượt Satan quỉ dữ. Đây mới là Vị Cứu Tinh Giải Thoát mọi bóng tối khống chế kềm hãm và hành hạ con người từ bao nhiêu năm. Chính Đấng này mà Thánh Gioan đã loan báo trong sa mạc: "Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người". Chính là Đấng mà tiên tri Isaia đã báo trước là được xức dầu với đầy quyền lực Thánh Thần, sẽ đến để cứu thoát "đem tin vui cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thướng; báo tin ân xá cho kẻ bị lưu đầy, phóng thích cho những tù nhân và tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
Vâng, con chân nhận chỉ mình Chúa mới là Đấng Cứu Thoát đời con và làm cho mọi con tim bừng lên sức sống mới như lời tiên tri Isaia trong Kinh Thánh: "Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi, vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi và choàng áo công chính cho tôi".
Suy Niệm của Bài tin mừng hôm nay nói về sứ điệp của Gioan: sứ điệp tình thương. Thương: MV 3-C20
Suy Niệm của Bài tin mừng hôm nay nói về sứ điệp của Gioan: sứ điệp tình thương. Thương là chia xẻ những gì mình có, vật chất hay tinh thần. Có hai áo thì cho một áo. Thỏa mãn với đồng lương của mình. Đừng ức hiếp ai. Nói tóm lại muốn đón Chúa phải thực tập yêu thương.
Càng có kinh nghiệm sống chúng ta càng cảm nhận lời kinh thánh: Omnis homo mendax: mọi người đều giả dối. Tội lỗi làm cho con người thành pháo đài của nhau. Hay như hiền triết la mã: homo homini lupus: người là chó sói của con người . Gần đây Jean Paul Sartre: l'enfer c'est les autres. Không yêu thương là tội lỗi và tội lỗi làm cho con người xa cách nhau. Gioan kêu gọi sự chia xẻ và sự lương thiện. Chúng ta đang sống ở trần gian có nghĩa là không có gì thiệt trong cõi ta bà thế giới này. Thi sĩ gọi trần gian chỉ là ảo ảnh là hư không. Vi thực ra cái trò huyễn hóa của trần gian này như giấc mộng vàng. Vàtình yêu chúng ta dành cho nhau nhiều khi cũng không thực như là dọi chiếu tình yêu qui hướng về mình màthôi. Chúng ta yêu kẻ khác có thật sự vì họ hay là vì chúng ta ? Cái phân biệt tình yêu đích thực chính là sự qui chiếu này. Người Mỹ rất sợ hurt feelings nên ngôn ngữ hành động của họ nhiều khi hời hợt giả dối không thật. Mới buổi sáng nói: you are wonderful buổi chiều đã có thể lay off không thương tiếc. Hai ông cha Việt nam thấy thằng nhỏ cỡi xe đạp ném báo bị xỉu vì lạnh. Mang nó vào nhà. Mẹ nó kêu cảnh sát vì nghi cho hai chàng đông phương này làm con bà xỉu. Cũng may thằng bé tỉnh dậy cho hay: không có hai ông nó đã chết. Bà mẹ cám ơn rối rít. Về nhà cha sở còn quở: các cha bác ái không phải lối. Vậy thì bác ái đúng là như thế nào ? Bác ái đúng là: cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm (thánh Âutinh) hay đối với những kẻ Chúa yêu mọi sự đều tốt đẹp.
Sứ điệp thứ hai là lòng khiêm nhượng của Gioan . Ngài khiêm nhường đến mức không coi mình là nô lệ của Chúa. Nô lệ cởi dây giày mà ngài nói mình không đáng cởi dây giày. Tận cùng bằng số trong cuộc đời . Ai nhất thì tôi thứ nhì, ai còn muốn nữa tôi thì thứ ba. Tội đầu tiên của con người là kiêu ngạo nên Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên thiệp giá. Ngài nâng kẻ hèn mọn lên (kinh Magnificat). Gioan còn nói: Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi. Đa số chúng ta muốn lớn hơn người khác. Chúng ta còn muốn lớn hơn cả Chúa nữa. Sau tội kiêu ngạo là tội ghen ghét: Cain Abel, Esau Jacob, 11 anh em và Giuse, vì thấy người khác hơn mình. Trong cổ học tinh hoa có kể câu chuyện: loài hồ sợ loài vật nào nhất: loài hồ sợ loài hồ nhất. Hai ca sĩ hai bác sĩ hai người cùng làm một nghề thường ghen ghét nhau. Chẳng qua vì thiếu sự khiêm nhường. Thánh Têrêxa nói: khiêm nhường là nhận sự thực. Ta không dám nhận sự thực của chính ta vì sợ mất lòng . Nếu ai cũng thấy ta như Chúa thấy chắc là chúng ta xấu hổ lắm. May thay ngày tận thế mọi người sẽ thấy. Nhưng nếu chúng ta thành thực và nhận sự thực của chính chúng ta chúng ta sẽ thêm xác tín sự yếu đuối để dựa cậy vào Chúa hơn. Hãy tâm niệm thánh vịnh 131: Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi, đường cao vọng chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu, hồn con con vẫn trước sau, giữ cho thinh lặng giữ sao thanh bình, như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui, cậy vào Chúa Ich diên ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
Khi “dọn đường” tâm hồn cho các thính giả nghe Gioan giảng, ông đã nói“Hãy sám hối”: MV 3-C21
Khi “dọn đường” tâm hồn cho các thính giả nghe Gioan giảng , ông đã nói “Hãy sám hối”. Người ta hỏi lại “Vậy chúng tôi phải làm gì ?”. Và Gioan đã chỉ cho họ những việc cụ thể phù hợp với tình trạng cuộc sống của họ:
- Người có thì hãy chia sớt cho kẻ không có.
- Người đang sống bằng những thu nhập bất công thì hãy cố gắng sống công bình.
- Kẻ đang áp bức người khác thì chấm dứt những việc làm hà hiếp của mình.
Gioan còn khiêm tốn phủ nhận những dư luận coi ông là chính Đấng Messia, và giới thiệu Đấng Messia thật cho họ biết.
B.... nẩy mầm.
1. “Chúng tôi phải làm gì đây ?”, đó là câu hỏi của các thính giả của Gioan ngày xưa. Câu hỏi của mỗi người chúng ta ngày này cũng phải là “Tôi phải làm gì đây ?”. Sống Mùa Vọng không phải chỉ là thụ động chờ đợi, mà phải tích cực làm một điều gì đó cụ thể. Điều cụ thể đó cũng phải có liên hệ tới cách sống hiện tại: nó thiếu sót chỗ nào thì phải sửa đổi chỗ đó.
2. Những thiếu sót của các thính giả Gioan cũng là những thiếu sót của tôi: ích kỷ không chia xẻ, lỗi đức công bình, hà hiếp người khác…
3. Gương khiêm tốn của Gioan: nhìn nhận đúng như mình là. Người ta tưởng mình là gì đi nữa, cho dù những tưởng tượng ấy làm cho mình có một hình ảnh tốt đẹp và khiến mình hãnh diện sung sướng thì mình cũng không nhận.
4. Lần kia, khi nói chuyện với một nhóm nhỏ, Alexander White đã làm cho họ ngạc nhiên khi nói: “Ở trong thành phố Edinburgh này, tôi biết có một người xấu xa nhất. Tôi còn biết cả tên người đó.” Rồi cúi mình thật sâu, ông nói nhỏ: “Người đó tên là A. White.” Ông nói câu đó với tất cả lòng thành thực, không chút giả tạo, màu mè. Nên lời nói của ông ngày đó có tác động sâu xa. (Góp nhặt)
1. Từ những "Đám đông" hỏi Gioan cho biết phải làm gì...
Chúa nhật tuần rồi, Luca đã tán tụng gốc gác thần linh - "Lời Thiên Chúa " - sứ mệnh của Gioan: MV 3-C22
Chúa nhật tuần rồi, Luca đã tán tụng gốc gác thần linh - "Lời Thiên Chúa " - sứ mệnh của Gioan Tẩy Gia trước cả khi liệt ông vào phẩm trật các ngôn sứ của Cựu ước mà ông đang thực hiện những lời loan báo về ông.
Hôm nay Luca trình bày cho ta công việc rao giảng của Gioan trong hai khung: khung luân lý đạo đức (10-14) và khung mang tính thiên sai (15-18). .
Trước hết là khung luân lý, gồm các câu được ngắt đều đặn như một điệp khúc bởi 'cùng một câu hỏi "đặt ra từ phía những người hưởng ứng lời ông kêu gỏi "chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội ": " chúng tôi phải làm gì ? ". Có nghĩa là: sẽ có thể và sẽ phải thay đổi cụ thể đời sống như thế nào để gọi là tỏ lòng sám hối? Câu hỏi này chúng ta sẽ còn gặp thấy trên môi miệng của những người được nghe bài giảng đầu tiên của thánh Phêrô trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống: "Chúng tôi phải làm gì " (Cv 2,37). Ta sẽ còn lại được nghe câu hỏi ấy từ miệng viên cai ngục khi mục kích Phaolô và Sila được giải thoát cách lạ lùng: "Thưa các ngài, tôi phải làm gì đế được cứu độ?" (Cv 6,30).
Với mỗi người, Gioan đều đưa ra câu trả lời cụ thể và thích hợp, mỗi lần câu trả lời đều nhắm tới cách đối nhân xử thế trong xã hội, mà không nhất thiết bắt người ta phải dứt lìa với môi trường sống và nghề nghiệp của họ, lại côn vượt xa khuôn khổ của Luật Mô sê vốn áp đặt cho mọi người nữa.
"Chúng tôi phải làm gì?", "đám đông" hỏi Gioan, đám đông vô danh ấy chẳng bao lâu nữa sẽ nô nức đến với Đức Giêsu để nghe lời Người (Lc 5.I; 5,15; 6,19). Gioan mời gọi họ hãy sống thiết thực giữa đời thường, coi nhau như anh em và chãy cơm sẻ áo cho nhau: "Ai có hai áo thì hãy cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy ".
" Thưa Thầy chúng tôi phải làm gì ? ", tới lượt những người "Publicanô " hỏi; họ là những người thu thuế cho ngân sách của quân Rôma chiếm đóng; hạng người này đâu đâu cũng nổi tiếng là bất lương và bị mọi người Do Thái khinh bỉ, liệt họ vào hạng người tội lỗi công khai, khó mà sám hối được, trừ phi họ từ bỏ cái nghề bị thiên hạ coi là ô uế kia.
Gioan không yêu cầu họ phải dứt bỏ nghề nghiệp, nhưng hãy hành nghề một cách khác, một cách lương thiện: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình ".
"Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì? ", đó là câu ỏi của' "những binh lính ", những tên lính đánh thuê cho Hêrôđê An-ti-pa, hoặc là thành viên của đội quân chiếm đóng Rôma; họ cũng là hạng người bị dân chúng khinh miệt.
Gioan cũng không yêu cầu họ phải rời bỏ hàng ngũ, phải thay đổi nghề nghiệp, nhưng hãy thay đổi cách hành nghề. Ông bảo họ: "Chớ ức hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình "
Roland Meynet nhận xét, "Mọi người đến với Gioan để xin chịu phép rửa. Bất cứ ai trong đám dân chúng, cũng như trong số những kẻ hành quyền, dù ở cấp bậc bé nhỏ nhất, thảy đều nhận được cùng chỉ thị: chẳng phải ăn chay, cầu nguyện hay dâng lễ vật đền tội, mà chỉ phải thực thi công bình mà thôi.
Với những ai muốn ỷ vào quyền thế, Gioan đòi hỏi họ đừng làm quá những gì luật đã ấn định. Những người thu thuê không được tăng thuế trên mọi qui định; những binh lính thì không được sách nhiễu đàn áp dân chúng để kiếm thêm tiền cho đồng lương của mình. Công bình trước tiên có nghĩa là: thỏa thuận thế nào thì làm đúng như vậy, và chỉ làm như đã ấn định. Công binh đối với tất cả mọi người, đối với quần chúng có nghĩa là mỗi người phải dược hướng cái họ phải có. Công bình cũng chính là lập lại thế quân bình đã bị phá vỡ: người này thiếu ăn, trong khi người khác lại quá dư thừa"(tin Mừng theo thánh Luca: Phân tích tu từ". Cerf, trg 47).
2. ... đến "Dân đang trông ngóng"việc Chúa sắp làm:
Bây giờ tới khung mang tính Mêsia. Bên kia "đám đông " ấy, Luca đã nhận ra được một thực tại mới đang hình thành: Một "dân " gồm những người hiệp nhất trong cùng một niềm "trông ngóng ".. ở đây không còn vấn đề là hỏi cho biết phải "làm " gì, nhưng là tìm cho biết việc Chúa đang làm và sắp làm, giống như những nhân vật trong Tin Mừng và Công vụ đồ khi tán tụng việc Chúa làm: "Đấng toàn năng đã làm biết bao điều cao cả.... Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh...Chúa tỏ lòng thương xót với dân Người... Người sẽ cứu khỏi địch thù, thoát lay mọi kẻ hằng ghen ghét" (Lc 51,68,71)."Đang trông ngóng", nên"dâ " đó tự hỏi không biết Gioan Tẩy Giả có phải là Đấng cuối cùng được Chúa sai đến,"Đấng Mêsia " chăng? Gioan vội xóa mình đi và xác định vai trò của mình đối với Đấng "đang đến ", "quyền thế hơn " ông. Câu này được Luca đặt trên môi miệng của Gioan và sẽ được lặp lại ba lần trong sách Công vụ Tông đồ, diễn tả tính liên tục giữa Gioan và Đức Giêsu, nhưng hơn nữa nó còn đánh dấu bước vượt qua của giai đoạn quyết định: lịch sử của Giao ước đã bước vào một kỷ nguyên mới rồi. . .
II BÀI ĐỌC THÊM:
1. "Làm một dân mới"
(Pierre-Marie Beaude, trong "Le monde de la Bible" số 89, trg 2).
Gioan nói: Không có những con đường đặc biệt để đến với Chúa đâu. Trước vấn đề cấp bách phải làm phát sinh hoa trái của đức công bình, thì mọi người đều như nhau cả. Thế đã là một phép lạ rồi, khi lời của vị ngôn sứ ấy đã tập hợp lại được bên bờ sông, những con người ít khi lo sống thánh thiện như các binh lính, các cô gái điếm, các người thu thuế... Tất cả đều là những hạng người vốn xem thường những nghi thức thanh tẩy, coi nhẹ việc thực hành luật, lại rất nhạy bén trong vấn đề khuếch trương những mục đích họ theo đuổi trong tháng.
Những con người cặn bã với tư cách đáng ngờ như thế liệu có thể làm phát sinh được cái gì tốt? Đơn giản là chỉ có một dân có lòng tin, có tâm hồn mới, thực thi đức công bình mới làm được điều đó mà thôi. Những lời khuyên Gioan đưa ra thật rõ ràng: "Ai có hai áo thì hãy cho người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy ". Mà có cần phải vào hoang địa mới nghe được những điều vốn đã được ghi trong sách Luật từ bao đời nay chăng? Tất nhiên là ở trong hoang địa, tai ta sẽ dễ đón nhận, dễ lắng nghe hơn: nơi đây Thiên Chúa đã thử thách dân Do Thái để làm cho họ thành dân của Người, nơi đây Thiên Chúa đã ban tặng họ Giao ước và dùng những phép lạ củng cố lòng tin của họ, nơi đây chính là một mái trường rèn luyện mà cũng là nơi con tim Thiên Chúa và lòng tin con người được bộc lộ.
Một phép lạ được thực hiện bên bờ sông Giođan: Gioan đã quy tụ được những con người vốn thường xa cách nhau. Ngài đã làm nên một cộng đồng có những tâm hồn hối cải. Và cộng đồng này là phản bác sống động đối với tôn giáo của nhóm Xa-đốc, Pharisêu, Etxênô là những nhóm chủ trương một lối sống thánh thiện tách biệt. Ở Qumran, người ta không lẫn lộn một thầy kỳ cựu với một tập sinh. Những người Pharisêu thì họp thành những cộng đoàn nhỏ, khép kín, rất tỉ mỉ về luật thanh tẩy. Gặp một người kém thanh sạch, họ cho là mình bị mất giá. Phục hồi độ thanh sạch, đòi hỏi phải tẩy rửa theo nghi thức. Hệ thống ấy, Gioan chỉ cứ việc làm theo thôi. Vậy mà với tư cách là con trai của vị tư tế, Gioan lại không mấy quan tâm đến nước sạch hay dơ, theo nghi thức hay không theo, khi bảo người ta lội xuống dòng sông Giođan để dìm mình xuống. Sử gia Flavius Josèphe kể lại "Lúc ấy tất cả người ta cùng lội xuống ". Người thanh sạch nhất cũng như người dơ bẩn nhất, hết thảy đều cùng thú nhận tội lỗi của mình. Thế là một cuộc khởi hành mới diễn ra, một dân mới đã có thể chỗi dậy để không sống theo câu nệ và hình thức của lối sống thánh thiện tách biệt kia, nhưng nhắm thay đổi con tim và thực thi công bình là điều trước nhất. . .
1. "Sám hối: một sự trở về từ cả hai phía"
(Henri Denis, trong " 100 mots pour dire la foi ", Desclée de Brouwer, trg 147-148)
Sám hối. Đó là một từ rất gần gũi với thánh tẩy, một từ có ý nghĩa phục sinh, khơi gợi sự trở về. Nhưng thật lạ, đó lại là vấn đề trở về từ cả hai phía: hai người cùng quay lại phía của nhau...
Bạn biết chuyện xảy ra khi có người nào đó gặp mặt bạn trên đường đi hoặc ở ngoài phố (dĩ nhiên là đi bộ), và người ấy chợt nhớ lại khuôn mặt bạn, tiếng nói bạn, cuộc đời bạn. Trong giây lát hồi tâm người bạn ấy liền kêu tên bạn: "Ồ Phêrô... Ồ chị Briditta ". Và rồi đến lượt chính bạn hồi tâm để nhớ lại người đó.
Sám hối đúng là như vậy, cho dù ta có dùng những từ ngữ nào để nhân cách hóa Thiên Chúa, những từ ngữ phàm trần, quá ư phàm trần thì cũng vậy thôi. Chính Thiên Chúa khởi sự, và chính Thiên Chúa đã luôn luôn đi bước trước. Vô phúc cho ta, nếu ta nghĩ rằng việc sám hối của ta, là phận vụ của ta!
Bởi vì Chúa ra hiệu trước, nên chính ta phải nhìn vào Người, phải nhận ra Người và đi theo Người trong Đức Giêsu Kitô. Sám hối luôn luôn là một ân sủng, một ân sủng thúc bách ta phải lên đường.
1. "Không phải chỉ thực hành luân lý; hãy đón nhận tin Mừng một Thiên Chúa đang đến"
(Noel Quesson, trong "Les entretiens du Dimanche. Năm C",Droguet et Ardant, trg 20-22).
Không! Không thể để cho thế giới hư nát này cứ tiếp tục mãi được, một thế giới có những con người phè phỡn ê hề, đang khi những người khác chết đói là chuyện không thể được. Vậy thì "ai có gì ăn, thì chia cho người không có". Những kẻ nắm giữ địa vị quyền thế về phương diện nghiệp vụ, mà lại dành cho thuộc hạ của mình những đặc quyền đặc lợi nào đó, là không thể chấp nhận được. Vậy thì, các bạn là những viên chức thu thuế, là những binh lính... tất cả các bạn, nhờ địa vị mà có được những phương thế để khống chế người khác, các bạn "chớ hà hiếp ai, chớ gây thiệt hại cho ai ".
Chúng ta có nghe những lời nói quyết liệt kia của thánh Gioan Tẩy Giả chăng? Nhất nữa, chúng ta có dám đặt ra cho mình câu hỏi được lặp lại ba lần trong tin Mừng hôm nay: "Còn anh em chúng tôi, thì phải làm gì ? ", để rồi cái gì đó làm thay đổi cuộc đời ta và để có thể xây dựng thế giới mới, thế giới chan hòa "niềm vui của Thiên Chúa là của chúng ta" chăng?
Người ta thường hay quên mất phần thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay. Người ta chỉ dừng lại ở phạm vi thực hành luân lý: "Chúng tôi phải làm gì?". Thế nhưng, sứ điệp của Gioan Tẩy Giả còn hàm chứa lời loan báo rằng những nỗ lực sám hối của ta sẽ không bao giờ đủ. Ông nói, Thiên Chúa đang đến, Người "quyền thế' hơn tôi ". Người đến để "phát giác " anh em, để "thanh luyện " anh em. Người đến như " lửa"để "đốt cháy" ta, để thanh luyện ta, giống như người ta dùng lửa thanh tẩy những trang thiết bị dùng trong phẫu thuật vậy! Người là "Hơi thở", là "Thần Khí" tiếng Do Thái là "Ruah" cũng có nghĩa là gió - gió thổi để tách hạt lúa ra khỏi rơm. LàThần Khí, Người ban cho ta sự sống.
Chúng ta có chấp nhận để dìm mình vào lửa, vào khí, vào gió đó chăng" Đó là ý nghĩa của từ Phép Rửa hay Thánh tẩy vậy.
Để có thể nhảy lên vui sướng với Chúa, để có thể khám phá niềm vui của thế giới mới, bạn đừng lỡ bỏ qua mất phép rửa trong Thánh Thần này đấy".
Cách đây ít năm, bác sĩ Karl Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ làm nhiều: MV 3-C23
Cách đây ít năm, bác sĩ Karl Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ làm nhiều người kinh ngạc khi đọc cuốn 'Whatever became of sin' (Điều gì đang xảy đến cho tôi ?) Ông bắt đầu cuốn sách với câu chuyện khiến mọi người phải suy nghĩ. Vào một ngày Chủ nhật tháng 9 năm 1972, trên góc phố đông người qua lại, xuất hiện một nhà giảng thuyết. Vào lúc các nhân viên văn phòng vội vã lo đi ăn trưa, ông thình lình giơ cánh tay gầy guộc dùng ngón tay xương xẩu chỉ vào một nhân viên nào đó la lên: "Anh là kẻ có tội", đoạn ông đứng im, nghỉ vài giây, rồi lại chỉ vào một người khác và la lên: "anh là kẻ có tội".
Bác sĩ Menninger nói: "Tác động mà nhà giảng thuyết gây ra nơi những người bộ hành đi qua đó thật là kỳ lạ." Họ lấm lét nhìn ông rồi quay mặt đi chỗ khác, rồi lại lén nhìn nữa, và cuối cùng vội vàng đi tiếp …
Chắc hẳn Gio-an Tẩy giả cũng gây được tác động tương tự trên đám dân khi ngài xuất hiện ở bờ sông Gio-đan. Hẳn nhiên, một số chế nhạo ngài, một số tức giận khó chịu, một số khác giật mình như bị chích vào vùng nhạy cảm, tự tận thâm sâu của lòng họ nhận ra sự sai quấy đã làm. Chúng ta đọc thấy phản ứng đó qua câu hỏi: "Chúng tôi phải làm gì ?" Trong cuốn sách nói trên, bác sĩ Menninger cho thấy người thời nay làm nhiều điều sai quấy, nhưng điều đó không làm cho ông ưu tư, điều ông ái ngại là có rất nhiều người không chịu chấp nhận rằng mình làm điều sai quấy, chính vì thế mà nhà giảng thuyết trên chỉ nói: anh là kẻ có tội đã tạo ra một tác động kỳ lạ nơi những nhân viên làm việc tại Chicago.
Dầu con người chấp nhận hay không chấp nhận, sự thật vẫn là con người là một tội nhân:
"Mọi người đều phạm tội, Thánh Kinh chép: "Chẳng một người nào công chính dù chỉ một người thôi. Mọi người đều trở mặt, đi vào đường lầm lạc. Chẳng một ai làm lành, dù chỉ một người cũng không. Vì mọi người đều phạm tội không còn phản chiếu vinh quang Thiên Chúa ." (Rm 3, 10. 12. 23).
Nếu vua tiên tri Đa-vít có thú nhận: "Lúc chào đời, con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai" thì cũng chỉ nói lên thân phận của kiếp người trước cái nhìn của Thiên Chúa.
"Nếu chúng ta chối tội là chúng ta tự lừa dối, và không chịu nhìn nhận sự thật. Nếu chúng ta bảo mình vô tội là cho Chúa nói dối." (1 Ga 1, 8. 10)
Chúa Giê-su khẳng định với Ni-cô-đê-mô: "Thể xác chỉ sinh ra thể xác. Thánh linh mới sinh ra tâm linh." Như vậy cần phải tái sinh.
Nhưng việc tái sinh này, Gio-an Tẩy giả không làm được, ông có thể cho con người biết mình tội lỗi, như các người thu thuế nhận ra mình có lỗi trong việc thu thuế quá mức, đám lính tráng nhận ra mình hay bắt nạt dân chúng, còn tất cả dân chúng đều nhận ra tội ích kỷ không chia sẻ của cải cho những ai túng thiếu. Ông đòi buộc dân chúng xét lại tâm hồn mình và nhận biết lỗi lầm. Ông còn đòi họ phải từ bỏ tội lỗi để quay về với Thiên Chúa … Nhưng còn việc tha tội thì ông không làm được. Ông không làm được nhưng có thể chỉ cho người ta đấng có thể làm điều ấy: "Tôi thì lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng cởi giây dày cho Người. Chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa." Rửa trong Thánh Thần là cách nói khác của tái sinh, là lãnh nhận ơn tha thứ tội lỗi do công ơn cứu chuộc của Đức Ki-tô trên thập giá. Đó chính là lý do vui mừng mà thánh Phao-lô đã kêu gọi và là cao điểm của thánh lễ Chúa nhật III Mùa Vọng hôm nay.
Chúng ta phải hết sức ngạc nhiên khi xét đến bối cảnh mà vị tông đồ đã đưa ra lời kêu mời vui mừng này. Đây không phải là như một người đang vui say lạc thú trần gian đưa tay cầm ly rượu kêu mời bạn hữu, nhưng là một con người đang sống trong ngục tù, Phao-lô đã được đưa về giam tại Rô-ma, đang chờ đợi bản án chung kết, có thể là tử hình (và sau này tử hình thật). Chỉ trong một bức thư gửi giáo đoàn Phi-lip-phê, ngài đưa ra lời kêu gọi vui mừng này tới hai lần, và lần nào cũng "tôi nhắc lại" với một tâm tình tha thiết đặc biệt. Người cha tinh thần ấy đang động viên tinh thần đoàn con của mình trong hoàn cảnh khó khăn mà họ đang phải đương đầu. Ông không thuyết giảng một cách mơ hồ, nhưng khích lệ họ với chính kinh nghiệm của bản thân mình, tại sao ông có thể vui và vui luôn, dầu trong bất cứ hoàn cảnh nào ?
Ông có thể vui vì ông đã được tha thứ. Không ai có thể vui vì mình là tội nhân, nhưng vì tội nhân đã được tha thứ: "Đây là lời trung thực, đáng được mọi người tin nhận: Chúa Cứu Thế Giê-su đã đến trần gian để cứu vớt những người tội lỗi. Trong những người được cứu, ta nặng tội nhất." (1 Tm 1,15). Ông nặng tội , bởi vì "trước kia, ta là người phạm thượng, tàn bạo, khủng bố người theo Chúa, nhưng Chúa còn thương xót vì ta không hiểu điều mình làm khi chưa tin nhận Ngài." (1 Tm 1,13). Chỉ những ai nếm trải được sự tha thứ này mới cảm nhận được điều mà thánh tông đồ chia sẻ. Mỗi lần chúng ta phạm tội, lòng chúng ta luôn áy náy, tâm hồn chúng ta nặng chĩu như bị một khối nặng đè lên, nhưng khi vừa được ơn tha thứ, biết rõ tội mình được tha, lòng chúng ta được thanh thoát, khối nặng đã bị cất đi …
Phao-lô vui mừng vì tội đã được tha, vì ngài biết rõ Đấng ngài đặt niềm tin vào: "Vì ta biết rõ Đấng ta tin cây, chắc chắn Ngài có quyền bảo vệ mọi điều ta ủy thác cho đến ngày cuối cùng." (2 Tm 1,12). Ông đã ký thác linh hồn mình cho Chúa Giê-su, và ông biết chắc chắn cuộc đời ông sẽ kết thúc như thế nào, sẽ dẫn ông đến bến bờ nào. Được như thế là nhờ: "Ta cứ chăm chú nuìn vào Chúa Giê-su là căn nguyên và cứu cánh của đức tin. Nhằm vào niềm vui tối hậu, Chúa đã kiên nhẫn vác cây thập giá xem thường sỉ nhục, và hiện nay ngồi trên ngai uy quyền tuyệt đối, bên phải ngai Thiên Chúa." (Dt12,2). Cả cuộc đời đã như thế, còn gì mà không vui mừng: "Riêng phần ta, ta biết gần đến ngày từ giã trần gian, về thiên đàng. Ta đã chiến đấu anh dũng, chạy xong cuộc đua, giữ vững niềm tin. Từ đây mão miện công chính đã dành sẵn cho ta. Chúa là Chánh án chí công sẽ ban cho ta trong ngày Ngài trở lại, cũng như cho tất cả những ai yêu mến, trông đợi Ngài." (2 Tm 4,6-8).
Có lẽ trong chúng ta có người tự nghĩ: ai được như Phao-lô, ai được Chúa đích thân gặp gỡ. Đúng thế, nhưng chúng ta cũng rất tự hào vì đã có một anh hùng tử đạo, không những có tinh thần của Phao-lô, nhưng còn mang tên Phao-lô nữa, đó là cha thánh Phao-lô Lê Bảo Tịnh.
Trong bức thư viết từ nhà giam tại Hà Nội đề ngày 24.04.1843 gửi cho các bạn ở chủng viện Vĩnh Trị, thầy viết: "Tôi, Phao-lô Lê Bảo Tịnh, đang mang gông xiềng vì Đức Ki-tô, từ ngục thất tôi gửi về các bạn những lời chào thân ái, và chắc chắn là những lời chào sau cùng … Tù ngục này quả là hình ảnh sống động của hỏa ngục muôn đời. Không kể gông cùm xiềng xích, tôi còn phải nghe, phải chứng kiến, phải chịu đựng những oán ghét, thù hằn, những lời phỉ báng Thiên Chúa, những lời nói dâm ô, những cuộc xô xát, những hành vi bỉ ổi, những lời thề nguyền gian dối. Ngoài ra, tôi còn phải chịu phiền cực, chịu muỗi đốt, rệp cắn. Đã hết đâu, người ta còn luôn tuôn ra những lời căm hờn chửi rủa vua quan, bạn hữu, cha mẹ … Ngoài những đau khổ nói trên, mùa hè tôi phải chịu cái nóng nung người, mùa đông chịu rét buốt. Qua nhiều năm không bao giờ nhìn thấy mặt trăng hay ánh sao. Suốt đêm tôi không ngủ được, hoặc chỉ chợp mắt một vài trống canh là cùng … Nhưng nhờ ơn Chúa, ở giữa những cực hình thường làm cho các tù nhân khác phải sầu khổ, tôi lại được tràn ngập hoan lạc, vì tôi không cô đơn, nhưng Chúa Ki-tô ở với tôi. Chính Người, Thầy chúng ta, chịu đựng sức nặng của thập giá, phần tôi, tôi chỉ vác cách nhẹ thôi. Vì Người không phải chỉ đứng xem chiến đấu nhưng chính Người chiến đấu và đắc thắng. Chính Người sẽ kết thúc cuộc chiến đấu …"
Nhưng xem ra cuộc chiến chưa kết thúc, thầy lại được ra khỏi ngục, tiếp tục tu, làm linh mục chui, trở thành giám tử chủng viện Vĩnh Trị, để rồi lại bị bắt giam tại nhà tù Nam Định, ngày 6.04.1857, tức là mười hai ngày trước khi chịu tử đạo, cha viết cho chủng sinh: "Chúng con hãy ca tụng Chúa nhân lành vì việc Người đã thực hiện nơi cha", sau đó cha kể sơ qua về đời sống khổ cực trong lao tù, rồi tâm sự: "Cha cảm tạ Chúa đến muôn đời vì Người cho cha được sống trong yên lặng, cha có thể cầu nguyện và suy niệm tùy ý. Cha sung sướng tin tưởng rằng không gì có thể phân ly cha khỏi tình yêu Chúa Ki-tô, dù tù tội, đói khát, gươm giáo hay cái chết, vì Chúa Ki-tô là sự sống của cha." Và rồi cha nhắc lại hầu như đúng lời vị đại tông đồ: "Cha có thể nói rằng: đã đến giờ cha phải ra đi, cha đã giữ vững đức tin, đã chạy hết chặng đường và cha trông đợi rằng: vị Thẩm Phán sẽ trao cho cha vòng hoa dành cho người công chính, không phải chỉ cho cha, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người đến." Cha kết thúc bức thư: "Sau khi khuất đi, nếu có thế lực gì bên Chúa, cha hứa sẽ không bao giờ quên chúng con. Vĩnh biệt."
Chính nhờ thế lực của các vị anh hùng đức tin bên tòa Chúa, và gương sáng của cha ông để lại mà chúng ta có được như ngày hôm nay. Tôi xin kết thúc bài chia sẻ với câu truyện sau đây: "Khi đạo Chúa được truyền bá ở thành phố lớn nhất miền Nam, có rất ít người tin Chúa. Một hôm có người ga trưởng là thầy Lê theo đạo. Thầy về thuyết phục những người trong gia đình và bạn hữu ở Bình Trị Đông, nhưng không ai chịu theo. Mấy tháng sau, thầy đau nặng rồi qua đời. Khi an táng, các tín hữu chung quanh tới cử hành, họ đau buồn vì mất một người anh em thân yêu, nhưng tất cả đều có niềm an ủi lớn và vui thỏa khác thường trong Chúa, vì biết chắc thầy Lê đang an nghỉ trong Nước Chúa như lời Chúa dạy. Niềm an ủi và vui thỏa khác thường đó đã gây một ấn tượng sâu xa nơi những người dự đám tang. Sau đó ít lâu, cả gia đình thầy Lê xin theo đạo, và rất nhiều người ở Bình Trị Đông quyết định theo Chúa. Những người ấy khi tin Chúa đều nói rõ, tuy trước kia họ không muốn nghe Phúc Âm. nhưng niềm vui an ủi vui thỏa của các tín hữu giữa đám tang thầy Lê đã khiến họ lưu ý đặc biệt, rồi tìm hiểu đạo và tin Chúa.
Có hai gia đình cắm trại trên bờ hồ ở Wisconsin họ rất vui vẻ, tắm, bơi thuyền, ăn: MV 3-C24
Có hai gia đình cắm trại trên bờ hồ ở Wisconsin họ rất vui vẻ, tắm, bơi thuyền, ăn uống thỏa thuê, vui hưởng cái vui sống ngoài trời. Ngày Chúa nhật đến, vì quá xa nhà thờ. Bẩy em nhỏ quyết định cử hành phụng vụ lời Chúa riêng. Các em cột hai cây gỗ làm thánh giá các em vây quanh ca hát Thánh ca, đọc kinh thánh và sau cùng chia nhau bánh nhân trái cây.
Trong buổi phụng vụ lời Chúa, các em quyên góp được một số tiền nhỏ, các em quyết định gởi số tiền đó cho cơ quan cứu trợ, một tổ chức lương thực cho những người đói trên khắp thế giới.
Các em nhỏ này đã có tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay; tinh thần của Chúa Kitô Đấng đã truyền cho chúng ta hôm nay rằng: “Ai có của ăn... Hãy chia cho người không có”.
Chúng ta thường nghe nói có hàng triệu người trên thế giới đang đói. Nếu có ai đến gõ cửa, chắc hẳn mỗi người chúng ta sẽ chia phần ăn với họ. Vấn đề khó là phần lớn chúng ta chưa bao giờ gặp một người thật sự đang chết đói, nhưng chúng ta biết rằng một phần ba thế giới mang bụng đói đi ngủ. Chúng ta có thể làm được gì ?
Quả thật hàng năm chúng ta cũng có một vài lần lạc quyên, nhưng không phải là để cứu đói. Vậy trong mùa Giáng sinh sắp tới chúng ta hãy chia sẻ phúc lành của chúng ta cho nhiều anh em khác: nhất là trong phần ăn của chúng ta.
Cụ thể là chúng ta có thể quyên góp để giúp đỡ những gia đình nghèo trong xứ đạo. Những người già yếu, bệnh tật không ai chăm sóc, chúng ta hãy viếng thăm và tặng quà Giáng sinh cho họ.
Đó là tinh thần của lễ Giáng sinh, tinh thần kinh nguyện của Chúa Giêsu đã dậy chúng ta: “Xin cho chúng con cương thực hàng ngày” hãy chú ý lời “chúng con” nó bao gồm mọi người đang cần đồ ăn vật chất và tinh thần.
Hãy chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh ở đây và lúc này bằng quyết tâm làm sao thực hành lệnh truyền của Chúa Kitô: “Ai có đồ ăn... Hãy chia sẽ cho người không có”. Amen.
Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là "Chúa nhật Vui mừng" vì chủ đề chính của Chúa nhật: MV 3-C25
Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là "Chúa nhật Vui mừng" vì chủ đề chính của Chúa nhật này là "Niềm vui."
Hôm nay tiếng của ngôn sứ Sophonia vang lên thúc giục mọi người: "Hời thiếu nữ Sion hãy cất tiếng ca. . . hãy hân hoan và hãy nhảy mừng. “Thánh Phaolô cũng phụ họa thêm "Anh em thân mến, hãy vui lên trong Chúa. .. Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên”
Tại sao Phụng vụ Chúa nhật này li chọn niềm vui làm chủ đề chính? Lý do là vì Chúa nhật III Mùa Vọng này chia Mùa Vọng làm đôi, và Giáo hội thấy thời điểm này là lúc thuận tiện nhất để nhắc chúng ta nhớ: Mùa Vọng không được mang mầu sắc ảm đạm, bi thảm, gây ấn tượng nặng nề. Chúng ta đang chờ đợi Chúa, nhưng phải chờ đợi trong lòng cậy trông, không chờ đợi một cách tuyệt vọng, chờ mà còn nghi ngờ không biết người mình chờ có đến không. Trái lại ngay trong khi chờ đợi chúng ta đã phải cảm thấy Chúa gần gũi, đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài. Và vì thế lòng đã bắt đầu thấy niềm vui dâng lên.
LUÔN SỐNG TRONG NIỀM VUl
Niềm vui là một nét tiêu biểu của tâm hồn Kitô hữu, một đặc trưng có nền tảng vững chắc. Có lẽ nhiều người tín hữu không nghĩ như vậy.
Thánh Phaolô đã chỉ rõ niềm vui đó và xác định niềm vui của người Kitô hữu bắt nguồn từ đâu. Sau khi cổ vũ: "Anh em hãy vui lên, ngài thêm: "vì Chúa đã đến gần". Như vậy người Kitô hữu có một kho tàng quý giá vô tận vì có Chúa ở cùng, vì đã có Chúa rồi. Điều mà mình còn đang khao khát là có Chúa nhiều hơn, tràn đầy hơn, trọn vẹn hơn.
Trong khi nhiều người lo lắng theo đuổi những ước mơ vô vọng - theo đuổi mà chẳng tạin tưởng bao nhiêu - thì người Kitô hữu có thể hoàn toàn thanh thản, an tâm. Thanh thản, an tâm vì đã có và đang có Đấng mà mình khao khat. Một khi đã có Chúa, li biết mình sẽ có mãi mãi và càng ngày càng có nhiều hơn thì làm sao có thể lo lắng, phiền muộn được. Chính vì thế mà Phaolô còn thếm vào câu: "Hãy vui mừng" hai chữ: "trong Chúa, "Anh em hãy vui mừng trong Chúa".
Vui mừng trong Chúa có nhiều nghĩa
Trước hết có nghĩa là niềm vui của người Kitô hữu không lệ thuộc hoàn toàn vào hoàn cảnh bên ngoài. Đúng hơn thì phải nói: "lẽ ra” niềm vui đó không chỉ lệ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài. Những khó khăn của cuộc đời, những nghịch cảnh, những khó nhọc đè chĩu trên vai, những tai họa nhiều khi ác liệt không được dập tắt bình an và niềm vui trong lòng tín hữu. Bởi vì niềm vui của người Kitô hữu là niêm vui "trong Chúa" và "bởi Chúa'.
Lẽ ra thì phải như thế. Nhưng trong thực tế chúng ta chưa được như thế chỉ vì lòng tin của chúng ta còn yếu và sự gắn bó với Chúa chưa thật khăng khít.
Vui mừng trong Chúa còn có nghĩa là Chúa có thể biến những đau buồn thành niềm vui nội giới cho chúng ta. Ở đây cũng vậy, chúng ta chỉ có thể hiểu được điều này và cảm nghiệm được nó nếu lòng tin và sự gắn bó của chúng ta với Chúa đạt tới một mức độ rất cao. Trước khi đạt tới mức độ đó thì nghe còn l tai và thấy khó có sức thuyết phục.
KHÁM PHÁ NIỀM VUI
Có lẽ ít khi chúng ta nghĩ đến niềm vui trong Chúa. Chúng ta cũng thường quên rằng niềm vui là nét tiêu biểu của đời Kitô hữu. Có lẽ bởi vậy mà ít khi chúng ta vui thật, vui sâu xa và lâu bền trong lòng, một niềm vui biến thành bình an. Bình an chính là một tên gọi khác của niềm vui.
Cũng chính vì chúng ta không đặt niềm vui của chúng ta "trong Chúa" nên chúng ta thường đại tìm nguồn vui độc hại ở nơi khác ngoài Chúa. Hậu quả là lo âu, buồn chán của cuộc sống có cơ lấn át bình an, làm cạn nghị lực và sức sống, làm chúng ta yếu đi, già đi.
Phụng vụ ”Chúa nhật Vui mừng chẳng những gợi lên tính vui tươi của Mùa Vọng mà còn chỉ cho chúng ta thấy nguồn vui vô tận luôn tiềm ẩn trong lòng người tín hữu. Nguồn vui vô tận ấy chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn.
Làm! Một động từ rất ngắn gọn: chỉ có một tiếng, nhưng lại là một con đường dài, khởi đi từ: MV 3-C26
Làm! Một động từ rất ngắn gọn: chỉ có một tiếng, nhưng lại là một con đường dài, khởi đi từ suy nghĩ đến cái miệng hoặc cái tai và đến bàn tay. Làm! Một động từ mà bản thân nó chẳng nói lên điều gì tốt hay xấu. Nhưng khi nó trượt hết con đường dài đến với bàn tay, thì kết quả của nó có thể là hoa trái của tình yêu, nhưng cũng có thể gây ra không biết bao nhiêu hận thù, chết chóc. Làm! Đơn giản là thế, nhưng cũng phức tạp không ít. Vì chỉ một hành vi nào đó, có khi thể hiện ra bên ngoài là một nghĩa cử rất yêu thương, lại ẩn chứa bên trong nó là một thái độ mua chuộc, mưu lợi, tệ hơn: trả thù. Có khi nó là một sự che đậy giả tâm của một ai đó.
Tháng mười một năm 2003 vừa qua, và cả những ngày đầu tháng mười hai này nữa, xem trên các phương tiện truyền thông, thế giới đã chứng kiến thật nhiều những cuộc giết hại lẫn nhau, làm cho bất cứ ai, dù thờ ơ nhất, cũng phải ngậm ngùi đau xót. Tại Đất Thánh, quê hương của Chúa Giêsu, người ta đổ máu nhau gần như mỗi ngày. Sự thù hận làm cho người ta trở nên những kẻ điên cuồng. Hết đánh bom cảm tử đến càn quét, cày xới nhà cửa, đất đai của nhau. Và bay giờ, cũng tại Đất Thánh, người ta đang cố tình dựng lên bức tường ngăn cách. Nếu phải gọi tên cho bức tường này, có lẽ phải gọi nó là sự thất bại của con người cho một mơ ước rất đơn giản: hòa bình! Đơn giản là thế, vậy mà bao nhiêu năm rồi vẫn cứ giằn co, máu vẫn cứ thay nhau mà đổ, mà chảy, đỏ thắm cả niềm đau.
Tại Iraq, những cuộc đánh bom giết người, tàn phá tài sản liên tục xảy ra, mặc cho thế giới lên án, căm phẫn, mặc cho những bên có liên quan, những người trong cuộc, các nhà lãnh đạo lo sợ. Nổi cộm trong các lần đó, người ta ghi nhận cuộc tử nạn của 19 ngườ Ý (gồm 12 quân cảnh, 5 hiến binh và 2 dân thường), 14 người khác cùng 80 người bị thương. Tất cả thuộc tổng hành dinh quân đội Ý tại An Nasiriyah hôm 12.11. 2003.
Cũng tại Iraq, ngày 30.11, thành phố Suwayrah đã chứng kiến cuộc thảm sát, đốt cháy hai chiếc xe chở 8 nhân viên thuộc Trung tâm tình báo Tây Ban Nha. Chưa kể trước đó, ngày 9. 10, một nhân viên người Tây Ban Nha bị ám sát tại thủ đô Baghdad...
Và có lẽ, cuộc đánh bom gây kinh hoàn nhất trong tháng 11 vừa qua đó là cuộc tấn công lãnh sự quán Anh và ngân hàng HSBC tại Istanbul, thủ đô Thổ Nhỉ Kỳ. Cuộc đánh bom này đã tàn sát gần 30 người và khoảng 450 người bị thương. Ngay cả Tổng lãnh sự Anh, ông Roger Short cũng đã thiệt mạng.
Ngược thời gian xa hơn một chút. Tuần lễ trước đó, cũng tại Istanbul, khủng bố tấn công bằng bom phá sập hai giáo đường Do Thái, đã làm thiệt mạng ít nhất 25 người.
Tại Nigeria, ngày 21. 11. 2003, người Hồi giáo đã đốt cháy 13 nhà thờ Công giáo, cùng nhiều nhà cửa và cửa hiệu.
Đó mới là những con số và sự kiện ghi nhận trong nửa sau tháng 11. Nếu ước tính những vụ khủng bố và bạo động trong một năm hay xa hơn nữa, chắc không ai dám nghĩ tới, vì nó sẽ làm ta rùng mình khiếp sợ. Thật là trái ngược, trái ngược đến mức mâu thuẫn hoàn toàn, vì tận trong tâm, ai cũng yêu hòa bình, ai cũng muốn sống niềm vui và hạnh phúc. Nhưng tại sao khi hành động, thì việc làm của con người lại có quá nhiều nguy hiểm, đe dọa và giết chóc. Lòng người sao tàn nhẫn đến thế!
Người ta nhân danh sự lớn mạnh, sự giàu có của quốc gia mình để trút bao nhiêu bom đạn và huênh hoan rằng, sẽ dẹp yên bạo động, trừ vạ khủng bố. Không biết người ta đã trừ, đã dẹp đến đâu, đạt được những thành quả nào, chỉ biết rằng, hôm nay nhân loại vẫn đang mất bình an, thế giới càng đầy dẫy hận thù, nguy cơ của những cái chết tập thể không ai lường hết được.
Con người dường như không ngăn nổi sự điên cuồng của bản thân, hay cũng có thể trở nên những kẻ điên cuồng. Tất cả những điều đó đều gói trong một động từ duy nhất: LÀM. Và sử dụng động từ làm như thế đã biến con người ta thành những kẻ say máu đến độ thèm khát giết chóc, lao mình vào giết chóc. Những kẻ đánh bom cảm tử là một điển hình.
Cũng cùng một động từ làm, nhưng đối với thánh Gioan Tẩy Giả, nó lại quásức thân thương, đáng yêu và đáng học đòi. Thánh Gioan đề nghị mọi người động từ LÀM, mà nếu ai sống như thế, chẳng những bản thân bình an, cuộc sống của mọi người xung quanh cũng sẽ hưởng bình an lớn lao.
Đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, ta sẽ cảm nhận tất cả tình cảm đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng của động từ làm mà thánh Gioan đề nghị: Dân chúng hỏi thánh Gioan, “Chúng tôi phải LÀM gì?”. Thánh Gioan trả lời cho họ biết phải làm gì bằng những việc làm thật cụ thể, thật gần gũi, dính kết ngay trong bổn phận của mỗi một người. Và tùy từng đấng bậc, nhiệm vụ mà thánh Gioan dạy họ làm:
* Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.
* Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”.
Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.
Nếu ở thời đại chúng ta, chắc chắn thánh Gioan cũng không đề nghị một cái gì khác hơn, nhưng vẫn chỉ là một động từ làm kết dính vào bổn phận của từng người, của chính bạn và chính tôi.
Điều cần chú ý ở đây là những gì thánh Gioan nói cũng chính là những gì Chúa Giêsu dạy. Trong Tin Mừng, động từ LÀM được nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần. Chẳng hạn trước câu hỏi của người thanh niên giàu có: “Tôi phải làm gì để sống đời đời”, Chúa dạy: “Ngươi hãy bán tất cả của cải và phân phát cho người nghèo, rồi đi theo Ta”. Như vậy, điều cần làm ở đây, đó là sự trút bỏ để nên nghèo khó, là lòng bác ái với anh chị em nghèo.
Hay ở nơi khác, Chúa dạy người luật sĩ bằng dụ ngôn về người Samari tốt bụng, giúp đỡ người bị nạn trên đường đi. Và Chúa kết luận: “Anh hãy đi và LÀM như vậy” (Lc 6, 46). “Làm như vậy”, nghĩa là nếu người Samari trong dụ ngôn tốt bụng thế nào, thì người luật sĩ và cả chúng ta cũng hãy tốt bụng như thế. “Làm như vậy” còn là cúi xuống để nâng dậy những anh chị em khốn cùng, bất hạnh, đói rét... “Làm như vậy”, nghĩa là chấp nhận xóa mình, chấp nhận hao mòn sức lực, thời giờ, để hiến thân như chính Chúa đã hiến thân cho chúng ta.
Dẫu biết rằng con đường dài nhất làcon đường đi từ nói hoặc nghe đến làm. Nhưng khó không có nghĩa là không thể thực hiện được. Chỉ cần chúng ta học lấy mỗi ngày một chút, chú ý thêm mỗi ngày một chút, chắc chắn không có gì khó đến mức không thể làm được. Đó là chưa kể tới ơn Chúa trợ giúp ta. Với ơn Chúa, chúng ta vững tin rằng, lòng mình sẽ được biến đổi để trở nên mềm mại hơn, đáng yêu hơn và dễ đến với anh em hơn. Bởi vậy động từ làm mà hôm nay thánh Gioan đề nghị sẽ là một từ ngữ đẹp hơn hết mọi thứ mà ta có thể cho là đẹp.
Chúng ta nói tới những việc làm gây chấn động thế giới bằng sự giết người tàn bạo. Nhưng cụ thể nơi tâm hồn mỗi người thì sao? Có lẽ bạn và tôi không ai dám nghĩ tới việc hãm hại anh chị em quanh mình, nhưng cách này cách khác, bằng sự đố kỵ, bằng thái độ chấp nhất, không tha thứ, không bao dung, nói không tốt về người khác, hoặc có khi trả đũa một người nào, không phải bằng giết người, nhưng bằng một hành động, một việc làm nào đó&., ta đã không LÀM tốt, không LÀM như Tin Mừng dạy. Vì thế, nhiều lần bản thân mỗi người đã xúc phạm đến anh chị em, gây đổ vỡ trong tình yêu, trong những mối tương thân tương ái, và làm mất bình an trong lòng người khác, nặng hơn: đào sâu thêm mối oán hận, thù nghịch nào đó...
Không biết có phải bi quan quá không, khi nói rằng: Nếu đi từ suy nghĩ đến hành động đã khó, thì từ suy nghĩ đến suy nghĩ đúng, lan rộng tới hành động: làm đúng, lại càng khó. Bởi thế, đứng trước mọi hiểm họa do lòng người độc ác đã tàn nhẫn gây nên, người Kitô hữu được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy sống những gì Tin Mừng dạy và làm những gì hợp Thánh ý Thiên Chúa để thế giới hòa thuận hơn, cuộc sống con người bình an hơn. Khi môi trường xung quanh có bình an, mỗi người cũng sẽ tràn ngập bình an.
Đối với người Công giáo Việt Nam ở trong nước thì Mùa Vọng năm nay quả là một Mùa Vọng: MV 3-C27
Đối với người Công giáo Việt Nam ở trong nước thì Mùa Vọng năm nay quả là một Mùa Vọng đặc biệt. Ngoài niềm vui của việc chuẩn bị Mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta còn có thêm hai niềm vui khác: một là của Đại hội Thể thao Đông Nam Á (SEA GAMES) lần thứ 22 được tổ chức lần đầu tiên tại Việt Nam và một là của Lễ Tạ ơn của Đức Tân Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn tại Sàigòn vào hai ngày 8 & 9.12 này. Cả ba niềm vui lớn ấy hòa trộn trong tôi khi tôi ngồi viết những dòng chữ này. Trong niềm vui dạt dào và hiếm có này, tôi suy nghĩ về câu hỏi mà những người Do Thái đã đặt ra với ông Gioan khi họ đến xin ông làm phép rửa cho họ: “Chúng tôi phải làm gì?” Ước gì mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta cũng đặt cho mình câu hỏi ấy và tìm trong Thánh Kinh, nhất là trong các bài Sách Thánh của Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng này, lời giải đáp!
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
2.1 Bài đọc 1: Xp 3,14-18a: * “Ngôn sứ Xôphônia hoạt động ở phía nam thời ấu vương Giôsia (640-630) trước cuộc phục hưng tôn giáo mà vua này sẽ phát động. Tân ước trích dẫn sách này một lần (Mt 13,41). Cách ông mô tả “Ngày của Đức Chúa” ảnh hưởng tới ngôn sứ Giôen và bài ca “Dies Irae” thời trung cổ” (Kinh Thánh trọn bộ, Dẫn nhập Cựu ước, trang 31).
* Xp 3,14-18a: là thánh vịnh mời gọi Xion vui mừng với những lời hết sức ngọt ngào: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi.” Lý do của sự vui mừng ấy là: “Án lệnh phạt ngươi, ĐỨC CHÚA đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Ítraen đang ngự giữa ngươi, chính là ĐỨC CHÚA. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ”
2.2 Bài đọc 2: Pl 4,4-7: * Thánh Phaolô khuyên các tín hữu Philípphê: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa và làm sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa, rộng rãi, vì Chúa đã đến gần.”
* Theo Thánh Phaolô thì niềm vui của Chúa không tùy thuộc vào sự giầu sang phú quí trần gian mà tùy thuộc vào sự cảm nghiệm được Tình Thương của Thiên Chúa. Còn bình an của Thiên Chúa thì vượt trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí người tín hữu kết hợp với Đức Kitô Giêsu. Vì thế, người tín hữu rất cần phải có được niềm vui và bình an của Chúa.
* Hôm nay Hội Thánh mượn lời của ngôn sứ Xôphônia và của Thánh Phaolô để mời gọi chúng ta hãy vui lên, vì Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, đã đến ngự giữa chúng ta. Mừng Lễ Giáng Sinh là mừng Sự kiện và Mầu nhiệm Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta. Sống tinh thần Giáng Sinh là sống hân hoan, hiền hòa và bình an, vì chúng ta có Chúa ở cùng. Nếu chúng ta không cảm nhận được niềm vui vì có Chúa và nếu chúng ta chưa sống trong an vui, hiền hòa thì có lẽ chúng ta phải xem xét lại lòng tin và cách sống của mình.
2.3 Bài Tin Mừng: Lc 3,10-18: * Là những trao đổi về đời sống tôn giáo giữa Gioan Tẩy Gỉa và các thành phần dân chúng đến nhờ ngài chỉ giáo về cách dọn đường cho Thiên Chúa đến. Gioan đóng vai người tư vấn tâm linh, chỉ đường vạch lối cho những người Do Thái muốn chuẩn bị đón Chúa Cứu Thế. Gioan đề nghị với mọi người cách sống chia sẻ: “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Riêng với những người thu thuế đến hỏi ông, thì ông đề nghị họ sống thanh liêm trong nghề nghiệp. Còn với những người lính thì ông đề nghị họ sống công bằng và tôn trọng người khác.
* Những hướng dẫn của Gioan quả không có gì mới mẻ vì người Do Thái có thể tìm thấy tất cả các giáo huấn ấy trong Cựu ước. Nhưng trong khung cảnh của thời kỳ đầu Công Nguyên, thì những hướng dẫn cụ thể của Gioan mang tính cấp bách và hết sức cần thiết. Lối sống ích kỷ, tham lam, lừa dối, hà hiếp bóc lột con người là những chướng ngại vật cản trở việc Đấng nhân danh Thiên Chúa sẽ đến. Người đến để thiết lập Vương quốc của Người trên trần gian, trong lòng người cũng như trong xã hội. Lối sống vị tha, chia sẻ, thanh thoát, từ bỏ, yêu thương tôn trọng con người mới mở đường cho Chúa Cứu Thế đi vào lòng ta và lòng người.
III. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
3.1 Giáo huấn của Lời Chúa: Câu hỏi mà dân chúng đặt ra với Gioan Tẩy Giả là “Chúng tôi phải làm gì?” Đó cũng có thể là câu hỏi mà mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta tự đặt ra cho mình. Ngôn sứ Xôphônia, Thánh Phaolô và Thánh Gioan tiền hô đã trả lời cho câu hỏi ấy. Chúng ta hãy đi sâu vào nội dung:
a) Sống an vui và hiền hòa: Phải là một trong những nét nổi bật của người Kitô hữu. Vì chưng nhờ lòng tin, chúng ta đã được diễm phúc đón nhận Chúa và có Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Hơn nữa mỗi ngày chúng ta còn chuẩn bị để đón rước Người đến với chúng ta hơn nữa. Cũng nhờ lòng tin, chúng ta cảm nhận Tình Yêu bao la của Thiên Chúa bao phủ cuộc đời chúng ta bằng sự Quan Phòng của một người Cha. Vậy chúng ta có gì phải lo? có gì phải sợ?
* Nhưng trong thực tế không phải người tín hữu nào cũng có được một cuộc sống an vui và hiền hòa. Nhiều người không biết thế nào là niềm vui. Nhiều người khác chỉ biết sống cách hung dữ và hận thù. Nhiều người khác nữa luôn sống trong lo âu sợ hãi vì những mối đe dọa đang đè nặng. Vậy thì do lòng tin không đủ mạnh hay do khó khăn của cuộc sống vượt sức chịu đựng của đương sự mà nhiều Kitô hữu không có được một cuộc sống an vui và hiền hòa?
* Muốn sống an vui và hiền hòa, chắc chắn chúng ta phải tin tưởng vào Chúa và phó thác cả cuộc sống mình cho Người. Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến sẽ có dịp được thử thách xem các nhân đức ấy là nhân đức “thiệt” hay chỉ là nhân đưc “dổm” mà thôi. Chắc chắn chúng ta cũng phải từ bỏ rất nhiều, nhất là dục vọng tức lòng ham muốn sân si (danh vọng, chức quyền, của cải, thú vui) sẵn có trong chúng ta.
b) Sống thanh liêm và công bằng: Đó phải là nét nổi bật thứ hai của đời sống Kitô hữu. Sống thanh liêm là sống “trong sạch” trong mối tương quan với tiền bạc, của cải vật chất. Lòng tham vô đáy của con ngươi sẽ không bao giờ thỏa mãn với những gì hiện có. Vụ án Năm Cam cũng như vụ án Lã Thị Oanh là biểu trưng của những cuộc đời và con người chà đạp lối sự thanh liêm và công bằng là những giá trị đáng trân trọng và cần thiết vô cùng cho sự phát triển của xã hội và sự thăng tiến của con người. Nhưng trong xã hội Việt Nam ta hiện nay, không chỉ những nhân vật “nổi tiếng” kể trên vi phạm sự thanh liêm và công bằng xã hội mà có rất nhiều người khác cũng không coi sự thanh liêm và công bằng là gì cả.
Thật vậy từ một anh cảnh sát giao thông cho đến anh công an khu vực hay một cán bộ cấp phừơng, xã&. đều có thể là những người xâm phạm sự thanh liêm và công bằng xã hội. Nạn tham nhũng hối lộ, bòn rút của công ở nước ta - mà báo chí ngày nào cũng nói tới- cho thấy một thành phần xã hội có chức có quyền không coi sự thanh liêm và công bằng xã hội là gì hết. Trong bối cảnh ấy, người Công giáo - từ bác sĩ, kỹ sư, kiến trúc sư cho đến người công nhân và dân thường- càng phải quyết chí sống thanh liêm và công bằng để thể hiện tính siêu việt của Đạo lý Kitô.
* Để sống thanh liêm và công bằng, chúng ta cũng cần phải đấu tranh rất cam go chống lại lòng tham của mình và chống lại sự cám dỗ của hoàn cảnh bên ngoài. Sống thanh liêm và công bằng là như lội ngược dòng, là như leo núi, là đi vào cửa hẹp mà Chúa Giêsu luôn đề cao và mời gọi trong Phúc Âm. Sống thanh liêm và công bằng là khó, nhưng nếu không sống như thế thì làm sao Chúa Giêsu đến được với tâm hồn và gia đình chúng ta. Câu chuyện ông Giakêu trong Phúc âm cho thấy tầm quan trọng của cách sống thanh liêm và công bằng của người tin theo Đức Giêsu. “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo. Và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8).
c) Sống rộng rãi và chia sẻ: * Đây phải là nét nổi bật thứ ba của đời sống Kitô hữu. Con người luôn có xu hướng giữ chặt những gì mình có, không muốn chia sẻ cho ai. Chính lòng tham của cải là một trong những nguyên nhân gây ra bao xáo trộn, thậm chí cả chiến tranh, trong xã hội và thế giới. Chính vì thế mà tôn giáo nào cũng mời gọi tín đồ sống siêu thoát: Phật giáo thì mời gọi con người sống diệt dục và từ bi hỷ xả; Thiên Chúa giáo thì giảng dậy hy sinh, từ bỏ, chia sẻ và siêu thoát. Đến ngay cả nền văn hóa truyền thống của dân tộc ta còn chủ trương: “thương người như thể thương thân” Mà đã thương người thì phải có sự san sẻ, giúp đỡ lẫn nhau một cách cụ thể.
* Có bốn lý do chính khiến chúng ta khó sống rộng rãi và chia sẻ: một là chúng ta quá đính bén của cải vật chất; hai là chúng ta không nhìn nhận giá trị đích thực của con người, nhất là của những người nghèo; ba là chúng ta không thấy giá trị của việc cho đi; và bốn là chúng ta không coi trọng giáo huấn và gương lành của Chúa Giêsu Kitô, của Thiên Chúa Ba Ngôi.
3.2 Thực hành: Để cụ thể hóa việc đón nhận và sống giáo huấn của Lời Chúa, mỗi người hãy chọn một trong hai hoặc cả hai việc thực hành sau đây:
(1) Mỗi ngày tập sống hiến dâng, một cách cụ thể, trong mối tương quan với tha nhân để thực thi giáo huấn của Lời Chúa.
(2) Nhân dịp Lễ Giáng Sinh sắp tới, tặng một món quà đặc biệt (vải vóc, quần áo, thực phẩm, tiền bạc) cho một người nghèo hay cho một công trình từ thiện xã hội, để thể hiện cách sống theo Phúc Âm.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-con, chúng con xin dâng lời cảm tạ Chúa! Chúng con xin Chúa ban bình an và niềm vui của Chúa cho chúng con. Chúng con cũng xin Chúa giúp chúng con sống hiền hòa, thanh liêm, công bằng, rộng rãi và chia sẻ như Chúa mong muốn và dạy dỗ chúng con qua các bài Thánh Kinh hôm nay! Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần: - Phần thứ nhất là 3 câu trả lời của Gioan cho dân: MV 3-C28
Bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần:
- Phần thứ nhất là 3 câu trả lời của Gioan cho dân chúng, các người thu thuế và binh lính biết phải sám hối bằng cách sống chia sẻ cơm áo vật chất cụ thể, giữ đức công bình và có lòng tôn trọng tha nhân.
- Phần thứ hai là lời tâm tình của Gioan về phép rửa bằng nước của ông chỉ là phương thế sám hối, là một hình thức để chuẩn bị cho người ta chịu phép rửa trong Thánh Thần và lửa, do Đấng Thiên sai sắp đến thực hiện và ông không đáng làm nô lệ xách dép cho Người. Người sẽ đến làm thẩm phán để phán xét và thưởng kẻ lành phạt kẻ dữ trong ngày tận thế.
2) CHÚ THÍCH:
- Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây ?” Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,10-11):
+ “Chúng tôi phải làm gì đây ?”: Đám đông dân chúng là những người đã nghe Gioan rao giảng và cảm thấy mình có tội, cần sự ăn năn sám hối để chuẩn bị đón Đấng Thiên sai. Sau này, khi được các tông đồ rao giảng Tin Mừng, một số người đã nhận ra thân phận tội nhân của mình và muốn đáp lại lời mời gọi sám hối bằng những việc làm cụ thể (x. Cv 2,37; 16,30).
+ “Ai có hai áo thì chia cho người không có...”: Chia sẽ cơm áo vật chất cụ thể là một yêu cầu tối thiểu mà hối nhân phải làm để biểu lộ lòng sám hối bên trong.
- Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì ?” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”. Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi phải làm gì ?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình” (Lc 3,12-15):
+ Những người thu thuế: Bọn người này thường bị dân chúng khinh thường thù ghét, vì họ đã cộng tác với quân Rôma bằng việc thu thuế cho ngoại bang. Và khi làm việc này, họ cũng không tránh khỏi những hành vi sách nhiễu dân chúng. Do đó dân Do thái liệt họ vào loại người tội lỗi công khai (x. Lc 5,30; 7,34; 15,1-2; 19,7). Gioan khuyên họ tránh bóc lột kẻ khác cách bất công, tránh những đòi hỏi quá mức khi thu thuế,
+ Binh lính: Là những người có sức mạnh và khí giới trong tay. Họ luôn bị cám dỗ xử dụng bạo lực để đàn áp dân chúng. Tuy Gioan không buộc họ phải đổi nghề, nhưng khuyên họ phải ăn ở công minh. Tránh ức hiếp, cáo gian ai và bằng lòng với đồng lương của mình.
- Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gioan: Biết đâu ông chẳng là Đấng Mêsia ! Ong Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước. Nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3,15-16):
+ Đấng Mêsia: Chữ Hy lạp Chris-tos có nghĩa là “người được Chúa xức dầu”, tương đương với chữ Mêsia trong tiếng Do thái. Ở đây tác giả Tin Mừng dùng từ Mêsia vì đang nói với Người Do thái. Còn dân Do thái lại thường hiểu từ này theo nghĩa quốc gia cực đoan, chờ mong một Đấng Thiên Sai đến giải thoát họ bằng bạo lực chiến tranh, khỏi ách thống trị của ngoại bang Rôma (x. Lc 23,2).
+ Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến: Luca cũng có lần đề cập đến đặc tính dũng mãnh này của Đấng Mêsia (x. Lc 11,22).
+ Cởi quai dép: là hành vi của nô lệ người dân ngoại. Người Do thái không thể đòi một người giúp việc cùng chủng tộc Do thái làm điều này, vì cùng “là dòng dõi Apraham”, và thuộc về dân được Chúa tuyển chọn (x. Ga 8,33).
+ Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa: Luca phân biệt phép rửa bằng nước của Gioan với phép rửa trong Chúa Thánh Thần của Đức Giêsu. Phép rửa của Gioan chỉ là một nghi lễ có tính tượng trưn, giúp người ta sám hối tội lỗi để xin Chúa tha tội. Còn phép rửa do Đức Giêsu thiết lập thì có giá trị cứu độ, ban ơn tha thứ, thanh tẩy tội lỗi và thánh hóa người lãnh nhận. Đó là phép rửa trong Chúa Thánh Thần, sẽ được thực hiện vào lễ Ngũ Tuần (x. Cv 1,5; 11,16). “Trong Thánh Thần” chứ không phải “bằng Thánh Thần”, vì Thánh Thần không phải là phương tiện, nhưng là một Đấng hiện diện tích cực. Chính Người đã hướng dẫn Đức Giêsu vào trong sa mạc để ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày và chịu ma quỷ thử thách (x. Lc 4,1). Lửa ám chỉ tác động thánh hóa trong tâm hồn các tín hữu sẽ được Thánh Thần thực hiện (x. Cv 2,3-4; Ml 3,1-2; 1 Pr 1,7).
- Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi. Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ (Lc 3,17-18):
+ Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: Gioan mô tả vai trò của Đấng Thiên Sai như một vị thẩm phán ngày cánh chung: Nông dân thời đó có thói quen vứt bừa lúa với rơm ra trên sân. Sau khi đập trước gió, lúa có bông hạt vì nặng hơn sẽ rơi xuống đất, rơm rạ nhẹ hơn nên sẽ bị gió cuốn đi. Sau đó người ta thu lúa thóc vào kho, còn rơm rạ thì bị đốt cháy. Đây là hình ảnh về việc Đấng Thẩm phán sẽ đến xét xử để tách người lành ra khỏi kẻ dữ. Bấy giờ kẻ lành sẽ được vào hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa, còn kẻ gian ác tay sai ma quỷ sẽ bị trừng phạt trong hỏa ngục đời đời.
+ Lửa không hề tắt: Các ngôn sứ trong Cựu Ước cũng tiên báo về ngày phán xét giống như gặt hái trong “ngày mùa” (x. Gr 15,7, Is 5,24). Hình ảnh “Lửa không hề tắt” cho thấy sự xét xử có tính quyết định vĩnh viễn trong ngày tận thế (x. Is 66,24; Mc 9,43.48).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,11):
- CÂU CHUYỆN: Cảm thông và chia sẻ
Một hôm có một thương gia vào trong quán ăn dùng bữa trưa. Khi ngồi xuống chiếc bàn còn trống thì ông phát hiện ra một bé gái độ 12 tuổi, áo quần cũ rách đang đứng ngoài cửa sổ nhìn cách thèm thuồng vào bàn ăn trong quán và em ngửa tay ra xin ông giúp đỡ. Thấy mặt cô bé tái xanh và tay chân đang run rẩy như sắp quỵ xuống vì đói, ông thương gia động lòng thương cảm. Ông lại gần bên và cầm lấy tay em, rồi kêu em cùng ngồi bàn ăn với mình. Nhưng thật bất ngờ: cô bé lại cương quyết từ chối. Gặng hỏi mãi em mới cho biết lý do như sau: “Thưa ông, cháu cám ơn ông đã cho cháu được ăn chung bàn với ông. Nhưng làm sao cháu có thể ngồi ăn được đang khi thằng em của cháu cũng đang đói khát và đang đứng phía ngoài kia !” Nhìn theo tay em chỉ, ông thương gia thấy một bé trai, thân hình ốm yếu, quần áo lôi thôi dơ bẩn, đang đứng bên cửa sổ đối diện và nhìn vào bàn đầy thức ăn trong quán. Ngồi quanh bàn là bốn năm cô cậu đang ăn uống thoải mái và nói cười vui vẻ. Không ai thèm để ý đến đứa bé đói khát đang đứng gần bên.
- Suy niệm:
+ Trong những ngày Mùa Vọng này, câu nói thành thật của cô bé trong câu chuyện phải trở thành một dịp để chúng ta xét lại con người của mình và thành tâm sám hối: “Làm sao cháu có thể vào ngồi ăn chung với ông được, đang khi còn đứa em khác cũng đang đói khát đứng phía ngoài kia !”
+ Lời kêu gọi của Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay chính là lời Chúa dạy các tín hữu chúng ta phải biết thực thi bác ái cách tích cực để chuẩn bị đón Chúa đến ban ơn cứu độ cho chúng ta: “Ai có hai áo thì chia cho người không có. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”.- “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”.-”Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”.
- Thảo luận: Ba lời khuyên dạy của Gioan đã được tóm gọn như sau: “Hãy sống công công bình và bác ái qua việc chia sẻ cơm áo và tôn trọng tha nhân”. Vậy bạn có đồng ý câu nói trên hay muốn thay đổi câu nào khác cho đầy đủ ý nghĩa hơn ? Tại sao thay đổi như vậy ? Trong Mùa Vọng này chúng ta sẽ làm gì cụ thể để thực hành lời dạy của Chúa qua miệng Gioan ?
Một bà cụ kia đi thăm con gái từ Bớp-phơ-lô (Buffalo) đến Kờ-le-vơ-len (Cleveland) Hoa Kỳ, trên một chuyến tàu chở khách. Khi tàu đang rẽ sóng ở ngoài khơi thì một cơn bão mạnh đột nhiên thổi tới làm cho con tàu chao đảo liên hồi. Ai nấy đều lo sợ tàu có thể va phải đá ngầm và có thể bị chìm. Người ta sợ hãi hét to lên mỗi khi con tàu chao đảo mạnh ! Riêng người đàn bà nói trên luôn có thái độ bình tĩnh ngồi vào một góc và đọc kinh lần hạt. Sau khi cơn bão qua đi, một số người đến gần bà cụ và hỏi lý do tại sao bà có thể giữ được thái độ bình tĩnh trong cơn nguy biến như vậy ? Bà đáp như sau: “ Tôi có hai đứa con gái, một đứa đã về với Chúa, còn một đứa đang ở Kơ-le-vơ-len. Trong cơn bão tố, tôi không biết sẽ gặp đứa con nào. Nếu tôi chết thì tôi sẽ gặp Chúa và gặp đứa con của tôi ở trên thiên đàng. Còn nếu tôi bình an đến được Kơ-le-vơ-len, thì tôi sẽ gặp con gái đang ở đó. Trong cơn nguy biến tôi chỉ biết cầu nguyện phó thác trong tay Chúa quan phòng và chờ đợi trong niềm vui mừng và hy vọng Chúa sẽ làm điều tốt nhất cho mình. Do đó tôi không cảm thấy lo sợ chút nào”.
- CÂU CHUYỆN 2: Nụ cười đáng giá 40 ngàn Đô-la
Han Béc-gen (Hans Bergen), một chành thanh niên sống trong một ngôi làng nhỏ bên Hòa Lan. Anh ta có một bộ mặt dị dạng xấu trai, nên bị mọi người khinh dể và không ai muốn nói chuyện tiếp xúc. Anh ta cảm thấy rất buồn phiền khi bị người ta đối xử cách thiếu thân thiện như vậy và chỉ thầm mong cho mình được chết sớm !.
Rồi một hôm, anh chàng cô độc buồn khổ ấy bị chết thực sự. Dân làng cũng chẳng thèm quan tâm. Thế nhưng sau đó mọi người đều ngạc nhiên khi đọc chú thư của Han Béc-gen: Anh ta để lại gia tài 40 ngàn mỹ kim cho một cô bé chẳng có họ hàng gì với anh, là cô bé An-nơ Mác-tin (Anne Martine). Trong chúc thư anh cho biết lý do như sau: “Tất cả mọi người dân làng đã cau mày hoặc nhìn đi nơi khác khi gặp mặt tôi. Nhưng một ngày kia, tôi đã gặp cô bé An-nơ và em đã trao cho tôi một nụ cười khả ái. Đó chính là nụ cười chân thành duy nhất mà tôi nhận được trong cuộc đời tôi”.
- Suy niệm:
+ Phụng vụ Chúa Nhật tuần 3 Mùa Vọng hôm nay nói lên niềm vui hân hoan, thể hiện qua phẩm phục màu hồng. Bài đọc Một, tiên tri Xo-pho-ni-a tuyên sấm như sau: “reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hoan hô đi nào, Ítraen hỡi ! Mừng vui lên, vui với cả tâm hồn, hỡi thiếu nữ Giêrusalem ! An lệnh phạt ngươi, Chúa đã tiêu hủy. Thù địch ngươi, Chúa đã đẩy lui rồi. Vua của Ítraen chính là Chúa, đang ngự giữa ngươi. Ngươi sẽ không còn phải sợ tai ương nữa” (Xp 3,14-15). - Trong bài đọc Hai, thánh Phaolô Tông đồ đã khuyên bảo các tín hữu Philipphê như sau: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4,4-6).
+ Sự đạo đức thánh thiện không đồng nghĩa với nét mặt cau có, nhăn nhó đau thương ! Thánh thiện chính là niềm vui liên lỉ vì có Chúa làm gia nghiệp của cuộc đời. Mỗi tín hữu chúng ta nên noi gương bà cụ trong câu chuyện trên: luôn giữ thái độ bình tĩnh và lạc quan, dù đang ở trong cơn phong ba bão táp cuộc đời. Người tín hữu cần luôn lạc quan trong mọi hoàn cảnh khi vui lúc buồn, khi thành công hay lúc thất bại. Như hai tông đồ Gioan và Phêrô đã chịu bắt bớ, đánh đòn và bị cấm rao giảng về danh Đức Giêsu. Sách Công vụ thuật lại thái độ của các ngài như sau: “Các Tông Đồ ra khỏi Thương Hội Đồng lònh hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,40-41). Tông đồ Phaolô cũng luôn vui tươi khi chịu thử thách như ngài đã tâm sự: “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2 Cr 7,4).
- Thảo luận: Bạn có đồng ý với câu: “Một vị thánh buồn sầu là một vị thánh đáng buồn !” Tại sao ? Làm thế nào để hết buồn phiền khi bị thi rớt, bị người yêu bỏ, bị mất xe hay bị lừa một số tiền lớn ? ... - Thực hành: “Vui với người vui !”, vui với người mến thương ta, mà vui cả với người ganh ghét nói xấu ta. Vui khi ta được vừa lòng, nhưng vui cả những lúc ta gặp sự đau khổ thất bại. Vui lúc mọi người chạy đến với ta, mà vui cả những khi ta bị người khác hiểu lầm, và xa lánh. Luôn vui tươi với lòng tin cậy phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng, rồi làm cho người khác cũng có được niềm vui hạnh phúc, thì đó chính là dấu hiệu của một lòng đạo đức thực sự, và điều này có giá trị hơn cả những việc cầu nguyện, ăn chay và bố thí nhưng làm trong sự lo âu buồn sầu !
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan đã khuyên dân chúng phải chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai sắp đến. Lời khuyên dạy của Gioan cũng chính là lời Giáo Hội khuyên các tín hữu chúng con cách thức chuẩn bị tâm hồn để mừng lễ Giáng Sinh sắp đến. Xin Chúa giúp chúng con biết vâng nghe lời Chúa dạy là thực thi công bình bác ái. Xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa đang ở trong những người nghèo khó để chúng con sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho họ như lời Gioan đã khuyên dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có. Ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”. Xin cho chúng con giữ được đức công bình trong quan hệ làm ăn buôn bán, như lời Gioan khuyên những người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”. Xin cho chúng con biết thực thi bác ái trong cách cư xử với mọi người như lời Gioan đã khuyên bảo quân lính: “ Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai và hãy bằng lòng với số lương của mình”.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, Ngày lễ mừng Chúa Giáng Sinh đã đến gần. Chúa đến đem bình an và niềm vui ơn cứu độ cho loài người chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con “Vui luôn trong Chúa” như lời thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca trong bài đọc hôm nay. Niềm vui ấy chỉ có được khi chúng con gặp được chúa Giêsu trong bầu khí cầu nguyện kết hiệp với người, trong việc quyết tâm làm điều tốt lành và tránh xa các điều gian ác, và trong thái độ khiêm tốn; luôn nhận mình là tôi tớ hèn mọn của Chúa và cần lệ thuộc vào Người, nhận mình là tội nhân và hồi tâm sám hối để ngày một nên hoàn thiện giống như Chúa Cha trên trời; không ham mê danh vọng tranh dành chức quyền với người khác. Làm sao để Đức Giêsu ngày một lớn lên, được nhiều người biết và tin theo để được ơn cứu độ, còn con thì ngày một lu mờ đi.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on; hò vang dậy đi nào....Hãy nức lòng phấn khởi./ Shout for: MV 3-C29
* BÀI ĐỌC 1: Xôphônia 3, 14-18 = Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on; hò vang dậy đi nào....Hãy nức lòng phấn khởi./ Shout for joy, O daughter Zion! Sing joyfully,O Israel!&with all your heart.
* BÀI ĐỌC 2: Philip.4, 4-7 = Anh em hãy Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa ! Hãy vui lên anh em./ Brothers and sisters:Rejoice in the Lord always. I shall say it again: Rejoice!
* TIN MỪNG(Gospel): Luca 3, 10-18 = Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có cuả ăn cũng làm như vậy./ Let the man with two coats give to him who has none&food do the same . A- Bạn và tôi cùng Cãm - Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share)
1/ Trong bài Tin Mừng hôm nay đám đông đã hỏi ông Gioan: “Chúng tôi phải làm gì đây? Ông trả lời:Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có của ăn thì cũng làm như vậy.”. Người thu thuế, người lính cùng hỏi như vậy. Ông Gioan đều trả lời họ phải thực hiện cụ thể nhân ái và công bằng, dù bất cứ làm nghề nào. Không nên để mọị người khinh chê. Chia sẻ tôi đã thực hiện bác aí và công bình với anh em? (Hành đạo)
“Let the man with two coats give him who has none, the man who has food should do the same.” ( Lc. 3, 11 )
2/ Ông Gioan nói cần phải sám hối sửa mình và về ngày cánh chung như sau: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt.” Ngôn sứ thường tiên báo ngày phán xét với hình ảnh ngày mùa. Chuá luôn sàng saỷ mọi Tín hữu bằng các hình thức khác nhau như bệnh tật, tai nạn, tiên tai v.v& Những gì gíup bạn thanh tẩy thể xác và tâm hồn mỗi ngày?( Đào luyện)
“His winnowing fan is in His hand to clear His threshing floor and to&He will burn with unquenchable fire. (Lc. 3, 14)
3/ Bài đọc 1, sách Xôphônia mời thiếu nữ Xi-on như sau: “Reo mừng lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào&haỹ nức lòng phấn khởi.” Xi-on là đền nuí thánh tại Giêrusalem, hơn nữa là dân của Chúa, hãy vui mừng lên, vì ơn cưú độ đang đến. Người Tín hữu cảm nghiệm được Chúa đang đồng hành và cứu mình trong cuộc sống, có Chúa tôi còn sợ chi!Bạn có ca ngơị Chúa trong moị hoàn cảnh không?Taị sao? (Thánh thiện)
“Shout for joy, O daughter Zion! Sing joyfully, O Israel! Be glad and exult with all your heart&" (Xôphônia 3,14)
4/ Trong thư gơỉ Philipphê, thánh Phaolô mơì goị: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui vủa Chúa Tôi nhắc lại: Vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng raĩ,...” Vui là biểu hiệu sống đức Tin của người Tín hữu, vì Tin thì không sợ haĩ, đó là hoa quả của Thánh Linh, của đời sống nội tâm cao luôn gắn bó keo sơn với Chúa trong mọi lúc. Nói những điều gíup gia đình & Cđ bạn Sống hạnh phúc? (Sống đạo)
“Rejoice in the Lord always! I say it again. Rejoice! Everyone should see how unselfish you are&” (Phil. 4, 4 )
B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best GodỴs Word )
AI CÓ HAI ÁO THÌ CHIA CHO NGƯỜI KHÔNG CÓ, AI CÓ CỦA ĂN CŨNG LÀM NHƯ VẬY.Let the man with two coasts give him who has none, the man has food should do the same. ( Lc.3, 11)
Vatican II: Thế là Chúa Con được sai đến do Chúa Cha, Đấng đã tuyển chọn chúng ta nơi Người trước khi tạo dựng vũ trụ và tiền định chúng ta làm dưỡng tử& (Giáo hội # 3 )
Gương Mẹ Maria: Ngài trổi vượt trên các người khiêm nhường và khó nghèo cuả Chúa. (Giaó hội #55)
C- Thực hành Lời Chúa: (For Action) Tôi tình nguyện tham gia một chuơng trình gíup người nghèo tại hải ngoại hay Việt-Nam.
* Bạn chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống trong Gia đình hay Xã hội.
D- Tôi cầu nguyện với Lơì Chúa và Sống lời cầu xin: (I pray and practice)
Lạỵ Cha, thánh Phaolô đã mời con: anh em hãy luôn vui trong niềm vui cuả Chuá. Xin giúp con luôn thực hành yêu thương anh em bằng việc làm và vui mừng tin tưởng vì Chúa đang đến cứu độ con.
Hoa thơm cỏ lạ: NẾU CUỘC SỐNG LÀ SỰ MÀI DUÃ, HÃY DÙNG NÓ ĐỂ MÀI DŨA CÁ TÍNH BẠN
“If life is a grind, use it to sharpen your character” - Pt. Huyền Đồng
Giáng sinh năm ấy, cha Lini đang hoàn tất những chuẩn bị cuối cùng để cử hành thánh lễ trong: MV 3-C30
Giáng sinh năm ấy, cha Lini đang hoàn tất những chuẩn bị cuối cùng để cử hành thánh lễ trong một bầu khí trang trọng, thì bỗng mọi người trong nhà thờ đều xôn xao. Ngẩng đầu lên, cha nhìn thấy một người phong cùi, mặt mũi xần xùi. Hai cánh tay bị cụt. Vết thương ở chân tuôn máu làm thành một vệt dài trên nền gạch bông. Toàn thân bốc ra mùi hôi thối.
Tất cả đều kinh hoàng. Còn cha thì bối rối. Một đàng không thể bắt đầu thánh lễ khi người phong cùi còn đứng đó. Đàng khác, cha cũng không thể đuổi anh ta, bởi lẽ nhà thờ là nhà của Chúa, cha chung của mọi người, không trừ một ai. Càng là bất hạnh thì lại càng đáng được ở lại để đón mừng Chúa giáng sinh.
Người phong cùi dừng lại trước bàn thờ với thái độ van xin. Thế rồi cha nói với anh:
- Bạn hãy ở lại với chúng tôi và chúng ta sẽ làm thành một gia đình duy nhất. Các vết lở loét nơi tâm hồn còn thối tha hơn những vết lở lóet nơi thân xác gấp bội. Tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Và dưới một góc cạnh nào đó, tất cả chúng ta đều là những người phong cùi về đời sống thiêng liêng trước mặt Chúa.
Sự việc này đã đánh động cha để rồi sau lễ giáng sinh năm ấy, cha đã dồn mọi nỗ lực để chăm sóc cho những người đáng thương này.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và đưa ra câu hỏi:
- Nếu Thiên Chúa là tình yêu thì tại sao lại xảy ra biết bao nhiêu tội ác và bất hạnh trên thế giới ?
Và như thánh Phaolô đã diễn tả:
- Đối với nhiều người, thập giá đã trở nên dấu chỉ của sự điên khùng và dại dột. Thế nhưng Thiên Chúa lại dùng chính sự điên khùng và dại dột này để cứu chuộc chúng ta.
Thực vậy, để cứu chuộc chúng ta Ngài không cần phải đổ máu, mà chỉ cần phán một lời hay sai một thiên thần cũng đủ. Tuy nhiên, Ngài đã không làm như vậy. Trái lại, Ngài đã xuống thế làm người để trở thành một Emmanuel, một Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ở cùng chúng ta mà thôi chưa đủ, Ngài còn muốn chia sẻ thân phận khổ đau của kiếp người: Sinh ra trong nghèo khó. Lớn lên trong lao động cực nhọc. Cũng khổ đau. Cũng đói khát. Cũng mỏi mệt. Suốt dọc quãng đời công khai Ngài đã thực hiện biết bao nhiêu phép lạ để xoa dịu những đớn đau của những người đương thời. Như lời tiên tri Isaia: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi loan báo tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, công bố sự giải phóng cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được xem thấy, trả tự do cho kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân về ngày khen thưởng…”.
Và sau cùng đã đổ ra những giọt máu cuối cùng với cái chết đầy tủi nhục, đầy ê chề trên thập giá để cứu chuộc chúng ta như lời thánh Phaolô: “Chính Ngài đã hạ mình bằng cách vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá”. Để rồi kể từ đây, thập giá đã trở nên dấu chỉ của sự khôn ngoan, của tình thương và của ơn tha thứ.
Còn chúng ta thì sao, chúng ta có thái độ nào khi đứng trước thập giá của đời mình và nhất là chúng ta có biết nâng đỡ để làm giảm nhẹ thập giá của những người chung quanh hay không.
Bác sĩ Karl Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ đã làm nhiều người kinh ngạc với: MV 3-C31
Bác sĩ Karl Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ đã làm nhiều người kinh ngạc với quyển sách của ông mang tựa đề: “Whatever became of sin? (Điều gì đang xảy đến cho tội lỗi?). Ông bắt đầu quyển sách bằng một câu chuyện trào lộng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Vào một ngày Chúa nhật tháng chín năm 1972, trên góc phố đông người qua lại thuộc khu trung tâm Chicago, xuất hiện một nhà chuyên giảng thuyết ở đường phố. Đang lúc các nhân viên văn phòng vội vã lo đi ăn trưa, nhà giảng thuyết này thình lình giương cánh tay phải lên, dùng ngón tay xương xẩu chỉ vào một nhân viên nào đó rồi la lên: “Anh là kẻ có tội!”, đoạn ông đứng im, nghỉ vài giây rồi lại bắt đầu chỉ vào một nhân viên khác và la lên: “Anh là kẻ có tội!”.
Bác sĩ Menninger nói: “Tác động mà nhà giảng thuyết gây ra nơi những người bộ hành đi ngang qua đó thật là kỳ lạ. Họ lấm lét nhìn ông, rồi lại quay mặt đi chỗ khác, rồi lại lén nhìn nữa, và cuối cùng vội vàng đi tiếp”.
Chắc chắn Gioan Tẩy giả cũng gây được tác động tương tự trên đám dân khi ngài xuất hiện ở bờ sông Giócđan. Hẳn nhiên trong đám dân, một số chế nhạo ngài, số khác tức giận ngài, còn số khác nữa nhận biết từ thâm sâu cõi lòng mình sự sai quấy của mình. Chẳng hạn chúng ta đọc thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: Các người thu thuế nhận ra mình đã có lỗi trong việc thu thuế quá mức, đám lính tráng nhận thấy mình thường hay bắt nạt dân chúng, còn tất cả dân chúng đều nhận ra tội không biết chia sẻ phần của cải dư thừa cho người túng thiếu. Trong quyển sách nói trên, bác sĩ Menninger cho thấy rằng nhiều người thời nay cũng đã phạm những điều sai quấy. Nhưng điều đó không làm cho bác sĩ Menninger phải ưu tư hay lưu tâm tới. Điều khiến cho ông phải ưu tư hay lưu ý tới là có nhiều người thời nay không chịu chấp nhận rằng mình đã làm những điều sai quấy. Chính vì thế mà nhà giảng thuyết trên chỉ nói: “Anh (hay chị) là kẻ có tội” đã tạo ra một tác động thật là kỳ lạ nơi những nhân viên làm việc ở Chicago.
Thánh Gioan Tẩy giả cũng như nhà giảng thuyết nọ đã chạm vào nơi vùng thâm sâu dễ tổn thương nhất của dân chúng. Ngài đòi buộc dân chúng xét lại tâm hồn mình và nhận biết lỗi lầm của mình. Ngài còn đòi họ phải từ bỏ tội lỗi để quay về cùng Thiên Chúa.
Trong cuốn sách tựa đề ‘Something more’ (Một cái gì hơn thế nữa) của bà Catherine Marshall, người ta tìm thấy một minh hoạ sống động về những khuyến dụ của Gioan Tẩy giả. Một hôm, cô Linda, con gái bà chuẩn bị đi tắm. Ngay khi vừa đặt một chân xuống bồn ngay dưới vòi tắm, còn chân kia vẫn còn trên chiếc thảm ngoài bồn tắm, cô bỗng liên tưởng đến hình ảnh cuộc đời của mình. Cô thường muốn hiến dâng đời mình cho Chúa, nhưng chẳng bao giờ hoàn tất được ước nguyện đó, vì cô luôn sống trong tình trạng chân trong chân ngoài như thế này. Giờ đây có lẽ đã đến lúc cô phải quyết định dứt khoát hoặc theo Chúa hoặc không theo Ngài. Cô nghĩ đến cái giá phải trả khi chọn con đường theo Chúa. Giá ấy chẳng phải rẻ, nhưng cô đã quá mệt mỏi vì tình trạng lập lờ hai phía, để rồi chả phía nào đem lại cho cô bình an thoải mái. Thế rồi, cô đứng im suy nghĩ một hồi lâu, đoạn hít một hơi sâu vào lồng ngực, và nói to lên: “Lạy Chúa, con xin chọn Ngài”. Nói xong, cô bước hẳn hai chân vào bồn tắm. Hành vi này đối với cô giống như một phép rửa đích thực. Đây chính là sự biến đổi tâm hồn mà Gioan Tẩy giả đề nghị dân Do Thái thực hiện.
Vậy làm thế nào áp dụng thực tế những điều trên đây vào cuộc sống chúng ta? Muốn trả lời câu hỏi quan trọng này, chúng ta hãy trở lại câu chuyện của bác sĩ Menninger về nhà giảng thuyết trên đường phố nọ. Tất cả chúng ta đều đã từng làm điều sai quấy. Nếu còn chút nghi ngờ gì về điều này chúng ta chỉ cần đọc lại lá thư thứ nhất của thánh Gioan Tông đồ, trong đó ngài dùng những câu nói hết sức thẳng thừng: “Nếu chúng ta nói rằng: chúng ta không có tội là chúng ta tự lừa dối mình… Nếu chúng ta cho rằng mình không hề phạm tội tức chúng ta xem Thiên Chúa là kẻ nói dối và không có lời Ngài trong bản thân chúng ta” (1Ga 1, 8.10).
Chúng ta rất vui mừng khi nghe thánh Gioan công bố ra tội lỗi của chúng ta một cách thẳng thừng như thế, vì điều đó giúp chúng ta dễ dàng đồng ý với bác sĩ Menninger hơn, khi ông cho rằng việc nhìn nhận tội lỗi đem lại cho chúng ta sức khoẻ tâm lý lẫn tinh thần. Quả thế, chúng ta phải nhìn nhận mình là kẻ có tội. Nói rõ hơn là chúng ta rất xinh, rất đẹp, nhưng đồng thời cũng rất yếu hèn. Có nhiều khía cạnh trong cuộc sống chúng ta cần được Chúa tha thứ và chữa lành nhờ bí tích Giải tội.
Vì thế, mùa vọng chính là thời gian giúp chúng ta nhìn nhận mình là kẻ có tội để rồi chúng ta ăn năn thống hối xưng tội ra ngõ hầu mở rộng tâm hồn trước Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Đây là thời gian để chúng ta làm điều Linda Marshall đã làm, nghĩa là không thể kéo dài tình trạng sống hai mặt mà chả cái nào ra hồn cả. Đây là thời gian để chúng ta hít sâu hơi thở vào lồng ngực rồi thốt lên với Chúa: “Lạy Chúa, con xin chọn Ngài”.
Để kết thúc, chúng ta hãy lập lại lời cầu nguyện được một Kitô hữu tên là Origen viết ra: “Lạy Chúa Giêsu, đôi chân con dơ bẩn… xin hãy đổ nước vào thau và rửa cho con. Con biết rằng con quá bạo gan khi cầu xin Chúa điều này, nhưng vì con sợ bị Chúa quở trách: Nếu Ta không rửa chân con thì con chẳng phải là bằng hữu của Ta. Vậy xin Chúa hãy rửa chân con vì con ao ước được làm bằng hữu của Ngài”.
Hồi còn bé, giai đoạn gọi tôi là thằng Cu. Tôi sống ở miền quê. Vào dịp Tết. tôi được dẫn lên: MV 3-C32
Hồi còn bé, giai đoạn gọi tôi là thằng Cu. Tôi sống ở miền quê. Vào dịp Tết. tôi được dẫn lên Sài Gòn ăn tết ở nhà bà ngoại. chị tôi dẫn đi coi sở thú. Vì mải coi thú, tôi bị lạc& Sau khoảng 20 phút tìm kiếm mà không thấy, tôi sợ và bắt đầu khóc mếu máo. bỗng có tiếng chị tôi gọi sau lưng “Cu!” Tôi đang chạy đi tìm, dừng ngay lại. Những giọt nước mắt ngưng rơi. Nét mặt tươi trở lại với nụ cười. Tôi chạy đến ôm chị.
Một tiếng gọi đã thay đổi tôi từ lo âu, sợ hãi, sang hoan hỉ và bình an!
Khi ở trong tiểu chủng viện (high School seminary) tôi ham ngủ lắm. Tiếng chuông điện inh tai nhức óc vang lên ba hồi dài mà vẫn chưa đánh thức tôi dậy nổi. Không những tôi mê ngủ, mà còn ngủ mê nữa! Và sướng nhất là ngủ nướng! Không lẽ chỉ vì tật mê ngủ mà cha giám đốc lại đuổi những tên ngủ nướng như tôi về nhà. Không còn cách nào khác, ngài bèn có sáng kiến. Sau ba hồi chuông điện thì mở nhạc. Tôi còn nhớ khúc nhạc. “Hãy chỗi dậy hỡi ai ngủ mê, hãy chỗi dậy từ cõi chết. Chúa sẽ chiếu ngời ánh vinh quang trên đầu ngươi”. Nghe nhạc tôi tỉnh ngủ!
Tiếng nhạc đánh thức tôi từ kẻ mê ngủ trở nên tỉnh thức!
Vào khoảng trước lễ Giáng Sinh năm 1994, sau khi đi học về, tôi nhận được một cú điện thoại của một anh chị ở gần chủng viện báo tin cho biết cha Đôminicô Trần Minh Thắng vừa tử nạn xe hơi trên đường về thăm gia đình ở New Orleans. Tôi bàng hoàng ngồi im lặng trên ghế hình dung ra hình ảnh của ngài với nụ cười rất tươi vui luôn xuất hiện trên khuôn mặt tròn trĩnh. Một linh mục trẻ, mới 31 tuổi, vừa chịu chức được vài năm, hiền hoà và đạo đức, ai cũng mến.
Một tiếng gọi bất ngờ để con người về với Chúa!
Những kinh nghiệm về tiếng gọi tôi vừa kể ra trên đây đều có một điểm chung là đưa đến sự thay đổi. Thay đổi từ lo âu sang vui tươi, từ mê ngủ sang tỉnh thức, từ cuộc đời này sang đời sau. Trong các bài đọc của Chúa Nhật thứ III Mùa vọng, được gọi là “Gaudele Sunday” thay đổi trong thái độ sống, vì Chúa đã đến gần rồi.
1- Sống đáng yêu
Trong bài Phúc Âm, Lc 3: 10-18, Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người phải thay đổi thái độ sống một cách cụ thể, sống hân hoan vui tươi. Phải trở nên đáng yêu, dễ mến. Phải làm việc bác ái từ thiện, giúp đỡ kẻ nghèo khó. Người thu thuế đừng tham nhũng nữa. Quân lính thì đừng hà hiếp dân lành. Qua tình yêu được thể hiện nơi hành động của chúng ta mà người khác nhận ra dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa đang đến gần.
Đức Tổng Giám Mục Rembert Weakland của Milwaukee đã kể câu chuyện về một linh mục Công Giáo vừa viếng thăm Ấn Độ và gặp vị tôn sư Ấn Giáo. Trong cuộc đàm thoại của họ, vị tôn sư Ấn Giáo đã nói một câu làm cho linh mục này rất tức giận. Ông nói rằng ý niệm về tình yêu và bác ái của Kitô giáo làm ông ghê tởm! “Ghê tởm!” vị linh mục tức giận lầm bầm trong miệng. “Làm thế nào ngài lại có thể nói được như vậy chứ?” “Này nhé,” vị tu sĩ Ấn giáo cắt nghĩa, “Những người Kitô hữu xông xáo đi tìm những cách thức để trở nên đáng mến và dễ thương hơn”
Tình bác ái yêu thương và sự công bằng xã hội là dấu chỉ của Vương quốc Thiên Chúa. Theo thánh Phaolô “Ai yêu thương tha nhân thì như thế đã chu toàn lề luật, đức ái là tất cả lề luật” (Rm 13:8-10). Và ngài đã khuyên những người tín hữu philipphê: “Đức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến” (Pl 4; 4-7)
Theo ĐGH Gioan Phaolô II “Đức ái là đáp ứng lời Thiên Chúa kêu gọi yêu thương” “Đức ái là yếu tính của “giới răn” mới được Công Giáo truyền dạy” (bài Gíao lý 72, ngày 13/10/1999)
Vào thời điểm này, chúng ta đang chuẩn bị những món quà Giáng Sinh, vì Giáng Sinh gần đến. Không ai muốn nhận một món quà từ một người, cho quà vì bị bắt buộc bởi tập quán xã hội. Cũng không ai để ý đến giá cả là bao nhiêu khi món quà đó được cho đi bởi một người thật đáng yêu, dễ mến. Điều đầu tiên chúng ta phải để ý khi tặng quà Giáng Sinh là nhìn vào cung cách chúng ta cư xử với những người khác để có những nổ lực trở nên tử tế, hoà nhã và đáng yêu.
2- Sống nội tâm:
Một người đã hỏi Thiên Chúa rằng: “Lạy Chúa, một tỉ đô la có nghĩ gì đối với Ngài, Đấng có uy quyền trên tất cả mọi sự?” Thiên Chúa trả lời, “Hầu như là một xu”. Rồi người đó lại hỏi Thiên Chúa, “Thế mọi trăm ngàn thế kỷ có nghĩa là gì đối với Ngài là Chủ của thời gian?” Thiên Chúa cũng trả lời, “Hầu như là một giây.” “Vậy thì, lạy Chúa, xin hãy ban cho con một xu thôi!” người đó năn nỉ. Thiên Chúa trả lời: “Con ráng chờ ta một giây thôi nhé”.
Câu chuyện trên nói lên não trạng duy vật chất của con người. Người ta nghĩ rằng tiền bạc sẽ giải quyết được mọi sự mà quên đi đời sống nội tâm mới thực sự mang lại hạnh phúc. Một thái độ sống nội tâm rất cần thiết cho thời đại văn minh điện tử hiện nay. Giữa cuộc sống vội vàng và máy móc, bạn “Hãy Ngừng Lại và Lắng Nghe” đó là lời khuyên của tờ báo New York Times xuất bản vào năm 1971:
“Ban đêm bạn đi ra ngoài, nhìn lên bầu trời, và thấy đầy sao đang chậm rãi chuyển động xoay tròn không chỉ đi qua ban đêm, nhưng còn qua các mùa, các năm. Có những mẫu hình ngôi sao không thay đổi qua suốt cuộc đời của bạn Ợ cũng vẫn những chòm sao Bắc Đẩu, sao Đại Bàng, sao Thiên Nga. Bạn nhìn thấy mặt trăng đang từ từ ló dạng với tất cả hình thể của nó, từ lúc lờ mờ ánh trăng non hình lưỡi liềm tới khi sáng vằng vặc, ánh trăng rằm.
Những hình thể và độ sáng của ánh trăng được con người biết đến từ khi người đầu tiên nhìn vào bầu trời ban đêm. Bạn nhìn thấy ánh bình minh và bóng tà dương đang thay đổi từng ngày sớm muộn vài phút. Thời gian cứ trôi qua bốn mùa, những tháng âm lịch, năm dương lịch. Thế mà thời gian vẫn chưa thay đổi một phần nhỏ đáng kể nào của một giây trong 10 triệu năm trời. Con người đầu tiên đứng thẳng bằng hai chân, ngắm nhìn ánh hừng đông và loé lên sự ngạc nhiên về thời gian, con người ấy cũng đã biết cùng một quãng thời gian của ánh sáng ban ngày như chúng ta biết ngày nay. Cỏ cây thời xưa cũng đã mọc lên một cách thong thả, khoan thai như bây giờ, và bất cứ trái đào nào cũng chín vào đúng mùa của nó. Nhưng vào một lúc nào đó con người đã bắt đầu tính toán không chỉ đếm bằng những ngày, nhưng còn tính đến những giờ, phút, giây.
Thời gian không thay đổi, nhưng con người đã bị mắc kẹt vào những cái bẫy thời gian của chính mình. Những tiếng âm vang đã đến thúc giục họ, “Mau lên, mau lên, mau lên!” và chỉ thỉnh thoảng mới có một người đó đã ngừng lại tự hỏi, “Tại sao phải vội vàng như thế?” “Vội vàng như thế để làm gì?”
Càng văn minh hiện đại, con người càng sống hấp tấp và vội vàng, càng bị kẹt vào trong những chiếc bẫy thời gian của mình. Mùa vọng là thời gian Giáo Hội kêu gọi chúng ta “Hãy ngừng lại và Lắng nghe” đây là lúc để nới lỏng cái bẫy thời gian vô hồn của mình ra và có một cái nhìn mới mẻ vào cách sống của mình: “Khi chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha là chúng ta giao tiếp với Ngài cũng như với Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Bấy giờ chúng ta hiểu biết và nhận ra Ngài bằng một cảm quan chiêm ngắm luôn luôn mới mẻ” (GLCG # 2781)
Lễ Giáng Sinh gần đến, với những thay đổi rõ rệt ngoài xã hội. Các siêu thị nhộn nhịp khách hàng. Những cây Giáng Sinh rực rỡ ánh đèn. Tiếng nhạc thánh ca từ các buổi hoà tấu làm xôn xao nao nức lòng người. Những món quà, những tấm thiệp với những lời chúc tốt đẹp thánh thiện. Nhưng tất cả những thay đổi bên ngoài đó có làm cho ta vui thực sự được không? Giáo Hội muốn giúp ta có được niềm vui thực sự, một niềm vui từ bên trong tâm hồn mỗi người phát ra. Niềm vui đó chỉ có được nếu có sự thay đổi từ nội tâm đến thái độ sống bên ngoài, sự vượt thoát ra khỏi những ánh mây mù của tội lỗi và tính ích kỷ, thoát ra khỏi những âu lo trĩu nặng của vật chất, những sợ sệt ngại ngùng, những cắn rứt mặc cảm do tội lỗi gây nên.
Trong cuốn “Let Go Of Fear”, tác giả Carlos Valles đã kể lại việc chứng kiến một cảnh thật xảy ra khi ông đang đi bách bộ trong một khu rừng. Hôm đó ông tình cờ thấy một con chim đang đậu trên cành. Thân nó cứng đờ ra như bị thôi miên. Nó muốn bay lên mà bay không nổi. Ông lấy làm lạ, tò mò đến gần quan sát, để tìm ra lý do. Thì ra; ở dưới gốc cây, có một con rắn hổ mang đang cất cao cổ, phun khì khì, như toan tính phóng lên. Con rắn biết sức mạnh của nó. Nó có thể đe doạ làm con chim khiếp sợ. Còn con chim thì có cả một bầu trời bao la và đôi cánh mạnh mẽ, nhưng lại không thể nào thoát nổi sự sợ hãi đang đe doạ của con rắn.
Thấy cảnh tượng đáng thương và tội nghiệp, ông Carlos liền ho lên mấy tiếng. Con rắn thấy tiếng động của loài người liền rụt cổ xuống có vẻ thèm thuồng rồi bỏ đi. Con chim sực hoàn hồn lại. Nó nhận ra một điều mà trong cơn sợ hãi tột cùng nó đã đánh mất. Đó là niềm tin vào chính mình, nhận ra rằng con rắn thì ở đằng xa, mà nó thì có đôi cánh, chỉ cần vỗ cánh bay lên thì con rắn đâu có làm gì được. (Trích Tin Vui Thời Điểm 2000, lm Trần Cao Tường)
Tiếng ho, tiếng hắng giọng của ông Carlos đã làm con chim tỉnh lại, ý thức về đôi cánh của nó, và bầu trời cao xanh. Hôm nay giáo hội cũng lên tiếng kêu gọi giống như một tiếng ho, tiếng hắng giọng để giúp chúng ta có được niềm vui và sự hy vọng qua sự thay đổi thái độ sống như trong bài đọc thứ nhất trích từ sách tiên tri Sôphônia 3: 14-18 kêu gọi: “Hỡi Israel, hãy hoan hỉ ! Hỡi Sion, đừng sợ ! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi”
Có một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người Tân Tòng và một người chưa có niềm tin.
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
- Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đức Kitô.
- Vậy xin hỏi anh, Ông Giêsu sinh ra ở quốc gia nào ?
- Rất tiếc là tôi quên mất chi tiết này.
- Thế khi chết ông ta được bao nhiêu tuổi ?
- Tôi cũng nhớ không rõ nên chẳng dám nói.
- Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài ?
- Tôi không biết.
- Quả thật anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã theo đạo.
- Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước tôi là một người nghiện rượu sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ, gia đình tôi xuống dốc trầm trọng, bao nhiêu của cải tôi đều nướng vào các cuộc men say tuý luý. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận, buồn tủi và xấu hổ.
Thế mà bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Vợ tôi, các con tôi ngóng trông và vui mừng đón đợi tôi sau khi tôi đi làm về.Những điều này, không ai khác hơn chính là Đức Kitô đã làm cho tôi và đó là tất cả những gì tôi biết về Người.
Kính thưa cộng đoàn.
Khi lãnh Phép Rửa sám hối của Gioan, dân chúng hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì ?”. Sám hối ở đây mang chiều kích cộng đoàn, đi đến đổi mới bằng hành động cụ thể. Người tân tòng trong câu chuyện trên sau khi được đổi mới hoàn toàn đã xác tín: Những điều này không ai khác hơn là chính Đức Kitô đã làm cho tôi…… Như thế, sám hối không chỉ là quay trở về với quá khứ mà còn hướng tới một tương lai tốt đẹp; sám hối không chỉ có tính cá nhân mà còn mang tính liên đới cộng đoàn; sám hối không phải là một cảm xúc mông lung nhưng là một quyết tâm hành động !
Trong Tin mừng, Luca đưa ra hai loại người tiêu biểu: thu thuế, lính. Đó là những người bị người ta ghét nhất thời đó, những người sống ngoài xã hội bị lên án, họ là những người ít tư cách nhất để đón tiếp Chúa Giêsu, … họ đến hỏi Gioan: “Chúng tôi phải làm gì ?”. Gioan không yêu cầu họ thay đổi nghề nghiệp, nhưng là thay đổi cung cách sống mới: tôn trọng công lý, không lạm dụng sức mạnh có trong tay, bằng lòng với những gì mà quyền lợi và luật pháp đã quy định. Lời khuyên của Gioan thuộc lãnh vực nghề nghiệp,thu thuế và lính tráng làm giàu bằng cách lợi dụng thế mạnh mình nắm giữ, dùng chức quyền để cưỡng đoạt áp bức,dùng địa vị xã hội để trục lợi.Nếu Gioan sống vào thợi đại này,có lẽ ông sẽ nói rất mạnh mẽ,đầy cương quyết với những tệ đoan,những bất công đầy dẫy trong xã hội.
Lời Gioan cũng chính là lời mời gọi sám hối cho mỗi người chúng ta. Tôi thường phạm những tội nào do nghề nghiệp và địa vị của tôi ?
Tội của linh mục, của mỗi tu sĩ, của y sĩ, y tá, của người buôn bán, của người lao động tay chân? Mỗi người trong nghề nghiệp tự đặt vấn nạn để sám hối.
Sám hối không chỉ là hướng tới đời sống thánh thiện mà là trở về với một Đấng thánh: Đức Giêsu Kitô !
Vì thế, sám hối chính là dành cho Chúa Kitô cơ hội để Người thanh tẩy tâm can, thay đổi con người, nhất là để Chúa Giêsu biến đổi tâm tính, ước muốn của mình hợp ý Chúa.Sám hối có màu hồng như màu áo lễ hôm nay.
Chúa nhật III Mùa Vọng gọi là Chúa nhật mừng vui lên vì chủ đề chính của Chúa nhật này là niềm vui. Ngôn sứ Sôphônia vang lên: hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca, hãy hân hoan, hãy nhảy mừng. Thánh Phaolô còn thêm: Anh em hãy vui luôn trong Chúa, tôi nhắc lại, anh em hãy vui lên !
Chúa nhật của niềm vui vì trong sám hối, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa nên cõi lòng dâng lên niềm vui.
Vui trong Chúa là niềm vui không lệ thuộc hoàn toàn hoàn cảnh bên ngoài. Cho dù có nghịch cảnh khó khăn, cho dù có tai hoạ nhưng cũng không thể nào dập tắt bình an niềm vui trong lòng tín hữu, vì niềm vui Kitô hữu là niềm vui trong Chúa và bởi Chúa. Vui trong Chúa là để Chúa biến đau buồn thành niềm vui nội tâm.
Mùa Vọng mời gọi chúng ta sám hối để canh tân và cũng mời gọi chúng ta phó thác hy vọng nơi Thiên Chúa để luôn có niềm vui thánh thiện, bình an nội tâm.
Với những vị lớn tuổi, hiểu biết tiếng Latinh, thì chúa nhật này được gọi là Dominica Gaudete (chúa nhật hãy vui lên). Gọi như vậy vì cả hai bài đọc 1 và 2 đều bắt đầu bằng các từ “Hãy vui lên”: Reo vui lên hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi (bài đọc 1). Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em (bài đọc 2). Từ xưa đến nay niềm vui này đã được các nhà giảng thuyết, các nhà diễn giải Kinh Thánh, và nhất là các thánh nhân đã đề cập tới rất nhiều. Nó là tinh thần chính yếu của những người sống gần gũi với Thiên Chúa. Un saint triste est un triste saint (một vị thánh buồn sầu là vị thánh chẳng ra gì.) Cho nên tôi cũng theo tinh thần đó mà khai triển suy tư cho ngày lễ hôm nay. Có lẽ suốt cả tuần ba mùa vọng, chúng ta nên chăm chỉ đọc toàn bộ lá thư của thánh Phaolô để rao giảng và cầu nguyện. Đoạn trích hôm nay là căn bản. Xin đừng hiểu lầm thánh nhân, ông không phải la người lạc quan cuồng tín, vùi đầu xuống cát khi chung quanh toàn là gian giảo, độc ác. Lý do ông đưa ra để vui mừng là “ Chúa đã gần đến”. Nói cách khác. Việc Chúa đến là nguồn vui của các tín hữu trên khắp hoàn cầu.
Nguồn vui này được thể hiện trong tình đoàn kết làm việc mở mang Nước Chúa: “Tôi luôn vui mừng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng” (1,5). Như vậy tín hữu thành Philipphê là cộng sự viên của thánh nhân và là đồng chí với nhau trong công việc. Suốt lá thư, thánh nhân dùng ý tưởng này như chủ đề khai triển nội dung. Thí dụ ở đoạn 4 câu 2, tác giả kêu gọi sự hoà giải giữa hai người đàn bà nổi tiếng trong cộng đoàn: “Tôi khuyên chị Evôđia và cả chị Xintikhe nữa: Xin hai chị sống hoà thuận với nhau trong Chúa”. Như vậy chúng ta hiểu được trong Hội Thánh Philipphê không phải đã hoàn toàn đoàn kết, vẫn còn chia rẽ. Dầu sao thánh nhân khuyên nhủ họ hãy sống hoà hợp, một lòng một trí hầu việc Chúa. Nói rộng ra thánh Phaolô viết cho tất cả những ai xưa kia xa lạ, hiềm khích, nhưng sau khi đã lãnh nhận bí tích rửa tội, thì đều là quen thân trong gia đình Thiên Chúa, cùng nhau cộng tác rao giảng Tin Mừng, chịu thử thách bách hại, thực hiện những hy sinh cá nhân, cộng đoàn, yêu thương và yên ủi lẫn nhau. Cho nên, dù còn những chia rẽ bất hoà, Hội Thánh Philipphê vẫn nhận được tình cảm ưu ái của thánh nhân. Bởi lẽ họ vẫn là tôi tớ trung thành và rộng rãi của Thiên Chúa. Họ phải vật lộn với những khó khăn. Nhưng thánh Phaolô hiểu biết lòng kiên nhẫn phục vụ Chúa của cộng đoàn. Cho nên thánh nhân vui vẻ nói:“Hãy vui lên trong niềm vui của Chúa, luôn luôn.”
Ngày nay cũng vậy, Hội Thánh xem ra chẳng bao giờ được sống trong hoàn cảnh lý tưởng, bốn bề yên ổn. Ngược lại luôn gặp thử thách, gian truân. Qua mọi thời đại, các tín hữu đều phải than van: “Chưa bao giờ khốn đốn như hôm nay.” Nó đã thành câu điệp khúc vĩnh viễn. Bây giờ những người cấp tiến hô hào Giáo Hội phải biết thức thời, thay đổi cơ chế, liên minh với quyền lực thế gian, tiến bộ tư duy, kinh tế, xã hội cho kịp với thời đại khoa học, loại bỏ cổ hủ, để được sống yên ổn. Nhưng như thế là phản bội với ơn gọi của mình. Chúa Giêsu chưa bao giờ được nghỉ ngơi khỏi những chống đối. Từng cá nhân tín hữu cũng vậy. Có lúc nào chúng ta tự vấn: Phải chăng tôi đã đánh đổi lòng trung thành theo Chúa để được đời sống thoải mái như hiện thời? Đây không phải là câu hỏi đùa bỡn, mà để chúng ta thẩm định xem mình có chạy theo thói tục thế gian để được giàu sang, bất chấp những đòi hỏi của Tin Mừng ?
Mùa vọng này, cộng đoàn giáo xứ cũng như từng tín hữu có rất nhiều vấn đề cần xem xét lại. Chúng ta chờ đợi Chúa ngự đến với tấm lòng nặng trĩu những lo âu hoặc hiềm tỵ vì quan điểm cá nhân. Dầu chưa hoàn toàn đồng ý, nhưng vẫn cùng nhau chia sẻ Lời Chúa và Bánh Thánh, Rượu Nho. Vậy xin hãy mừng vui lên vì có những người khác cùng tin kính, phụng thờ Chúa như mình. Giống như hai bà Xintikhe và Evôđia, chúng ta có những va chạm trong giáo xứ, ngoài xã hội, vì những khác biệt kinh tế, tính tình, học vấn, chữ đỏ phụng vụ, tiền bạc chung, trường học, bệnh viện, từ thiện... có thể là chúng gây nên nhiều cay đắng hơn thông cảm tha thứ. Tuy nhiên với thánh Phaolô và như giáo dân thành Philipphê, chúng ta cùng vui lên vì Chúa đã gần đến. Hãy ăn ở sao cho mọi người thấy được chúng ta sống hiền hoà rộng rãi. Đặc biệt, hôm nay chúng ta thành thực tạ ơn những bạn bè thân thích, những người làm gương sáng đức tin trong cộng đồng, những người đã nâng đỡ tinh thần lúc chúng ta đang nghi nan, lưỡng lự hay nhát đảm, thất vọng. Ở đây chúng ta lại thấy có lý do để cùng thánh Phaolô nói: “Hãy vui lên trong Chúa luôn mãi”.
Vì Phúc Âm, thánh nhân đã bị quyền bính đền thờ hay vua quan Rôma bắt tống ngục nhiều lần, bị đòn vọt, tra khảo chí tử, chỉ thiếu cái chết. Ông viết lá thư này từ nhà tù ở Rôma, Êphêsô hay Cesare gởi giáo đoàn đang bị chèn ép, làm khó dễ ở thành phố Philipphê. Nhưng tại sao ông lại tuyên bố “Mừng vui lên anh em!” Xét theo bề ngoài thì chẳng có chi để vui mừng được cả, trái lại mọi sự rất tồi tệ, buồn thảm. Vậy thì phải vì lý do nào khác ngoài tình hình vật chất. Chẳng lẽ thánh nhân khuyên chúng ta diễn kịch giấu buồn làm vui ? Không đúng vậy, thánh nhân tin chắc Chúa Giêsu, nguồn vui chính yếu của mọi tín hữu, đã gần đến, bất chấp những vật lộn nội bộ hoặc bằng chứng bên ngoài ngược lại. Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta nhìn tỏ bằng đức tin sự thật Chúa đang đến, mặc dầu chúng ta phải lội ngược dòng thế sự. Trên đường về quê trời chúng ta không chiến đấu một mình, nhưng luôn có Chúa cùng hoạt động, nâng đỡ và khích lệ trong các thử thách tối tăm của cuộc đời. Ngoại cảnh chẳng thể có ảnh hưởng gì tới mối tương giao thánh thiện giữa chúng ta với Chúa Giêsu, trừ phi chúng ta đầu hàng ma quỷ và thế gian. Thực tế hàng ngày, hàng giờ, hàng giây phút chúng ta bị cám dỗ tìm an ủi nơi vật chất. Nó bảo đảm cho mình cuộc sống giàu sang, đầy tiện nghi. Nhưng một khi Chúa ngự đến thì những thứ đó không cần thiết nữa. Sẽ đến ngày chúng ta không có nhu cầu nào khác ngoài việc chiếm hữu Nước Trời mà Chúa Giêsu chính là hiện thân trong xác phàm. Cho nên Chúa luôn gần gũi để kiên cường các quyết định của mỗi linh hồn. Chúng ta cố gắng lắng nghe tiếng Ngài khuyên nhủ. Thánh Phaolô nói:“Anh em đừng lo lắng gì cả” không có nghĩa là tự mình đủ sức làm nên mọi sự, nhưng thánh nhân muốn hàm ý “hãy tin cậy vào Chúa, Ngài đang đến gần.” Chính Ngài sẽ ban quyền năng để hoàn thành mọi việc. Do đó qua sự mật thiết với Chúa Giêsu và qua Chúa Thánh Thần chúng ta giãi bày những khát khao, những nhu cầu của mình trước tôn nhan Chúa trong lời cầu nguyện. Thiên Chúa sẽ biến đổi những lo lắng đó thành “Bình an vượt lên trên mọi hiểu biết”. Đây lại là lý do khác để chúng ta “Vui mừng luôn trong Chúa”.
Tiếp theo thánh Phaolô nói: “Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn” lên Thiên Chúa. Đó cũng là lý do để người tín hữu vui mừng, vì lúc ấy họ cảm nhận được Thiên Chúa hằng quan tâm săn sóc mình, kể cả những chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống. Một phương pháp cầu nguyện đặc biệt là dùng chính lời Kinh Thánh. Chúng được linh hứng bởi Chúa Thánh Thần. Chúng toát ra từ sự kiện chúng ta quyết tâm trung thành theo Chúa. Như vậy chúng nhắc nhơ: Thiên Chúa thấu suốt mọi tư tưởng trong trí khôn mình, mọi lo âu trong trái tim mình, mọi nguyên nhân gây cho mình bất an. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu giãi bày tất cả những điều đó lên Thiên Chúa và tin tưởng Ngài sẽ nghe lời. Thánh nhân cảm thấy phải “vui mừng luôn trong Chúa.”
Lý do cuối cùng thánh Phaolô dạy bảo phải mừng vui là ơn bình an Thiên Chúa ban. Thánh nhân không cam đoan mọi lời cầu khẩn sẽ được Chúa đáp trả. Nhưng ông xác quyết rằng sẽ có an bình trong tâm hồn và trí khôn. Từ Do Thái “Shalom” bình an có nguồn gốc Thánh Kinh, thứ an bình thế gian không thể ban. Linh hồn cảm nghiệm nó sâu sắc từ sức mạnh thần linh. Nó không chỉ là vắng bóng chiến tranh hoặc xung đột, nó là sự yên tĩnh nảy sinh từ trật tự vĩnh hằng: Mọi sự thuộc về anh em, anh em thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa. Những linh hồn phân tán hoặc làm đảo lộn thế giới luân lý không được hưởng thứ bình an này, các tội nhân không thống hối ăn năn chẳng hạn. Sự bình an Chúa ban không làm chúng ta dửng dưng với bổn phận trần thế hoặc vô tâm với những đau khổ chung quanh mình. Ngược lại với an bình nội tâm, chúng ta có thể can đảm đối phó với hết mọi khó khăn long trời lở đất, kể cả sự chết. Bởi luôn luôn ý thức Thiên Chúa bênh đỡ mình. Nó là sức mạnh hàng ngày để chúng ta vượt sóng gió biển đời trần gian. Bình an Chúa ban không thể mua bằng vàng bạc, châu báu, ngọc trai. Nó là quà tặng nhưng không từ Thượng Đế. Như vậy thánh Phaolô lại cho chúng ta lý do để “Vui lên trong Chúa luôn mãi”.
Những ngày mùa vọng sẽ thật nhộn nhịp, vội vàng mua sắm, các bất ổn tiềm tàng. Thế giới đang quằn quại đau khổ vì chiến tranh, đói khát, thù hận, bế tắc. Nhiều gia đình đang chịu cảnh chia ly, tan tác, khó khăn. Làm thế nào chúng ta có thể nói được hai chữ bình an ? Làm thế nào mùa này được gọi là “thánh thiêng” khi người ta ồn ào chạy chợ thương mại, quảng cáo vô luân, cạnh tranh bẩn thỉu ? Tuy nhiên thánh Phaolô vẫn khuyên nhủ: “Vui lên anh em vì Chúa đã gần đến.” Chúng ta phó thác mọi nhu cầu vào tay Chúa. Ngài sẽ chiến thắng tất cả và ban cho chúng ta bình an như món quà quý báu khi Ngài ngự đến. Vậy thì thánh Phaolô không phải là vô lý hoặc lạc quan mù quáng. Ngài rất thực tế khi khuyên nhủ tín hữu thành Philipphê ngày xưa, và chúng ta hôm nay: “Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em”. Xin cho mỗi người chúng ta kinh nghiệm đầy đủ niềm vui thánh thiện này. Amen.
Có lẽ các giáo xứ Việt Nam đang bận rộn với hai công việc: một là tổ chức các Ngày Tĩnh Tâm Mùa Vọng nhằm giúp giáo dân chuẩn bị tâm hồn mừng Lễ Giáng Sinh; hai là thực hiện một số việc như tập hát và tập hoạt cảnh Giáng Sinh, trang trí nhà thờ, cắt biểu ngữ, chuẩn bị làm hang đá… để cho việc tổ chức Lễ Giáng Sinh được long trọng và sốt sáng.
Những việc làm ấy đều tốt lành thánh thiện đáng và cần được thực hiện. Nhưng chúng ta đừng quên điều quan trọng nhất của thời kỳ chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh: Đó là nhận thức Chúa mà chúng ta đang chuẩn bị đón mừng là Ai? Người đến trần gian để làm gì?
Thánh Gio-an Tiền Hô nhắc chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi."
Biết Chúa Giêsu như thế, chúng ta sẽ biết cách chuẩn bị và đón rước Chúa như thế nào cho thích hợp.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh:
(1) Bài đọc 1: Xp 3,14-18: Thánh vịnh mời gọi Xi-on vui mừng.
14 Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi. 15 Án lệnh phạt ngươi, ĐỨC CHÚA đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là ĐỨC CHÚA. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ. 16 Ngày ấy, người ta sẽ bảo Giê-ru-sa-lem: "Này Xi-on, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời." 17 ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng 18 như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai họa khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa.
(2) Bài đọc 2: Pl 4,4-7: Lời khuyên cuối cùng.
4 Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! 5 Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. 6 Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. 7 Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 3,10-18: Ông Gioan Tẩy Giả rao giảng (Mt 3,1-12; Mc 1,2-6; Ga 1,19-28).
10 Đám đông hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải làm gì đây?" 11 Ông trả lời: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy." 12 Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: "Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? " 13 Ông bảo họ: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh." 14 Binh lính cũng hỏi ông: "Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?" Ông bảo họ: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình."
15 Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a! 16 Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. 17 Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi." 18 Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Xp 3,14-18) là những lời kêu mời dân chúng Ít-ra-en hãy reo hò mừng vui vì Thiên Chúa đang ngự giữa họ là Đấng cứu tinh quyền năng và yêu thương; Người sẽ thay đổi hiện tại và tương lai khiến cuộc sống của họ tràn đầy niềm vui.
Trong đoạn Sách Xô-phô-ni-a 3,14-18 trên, chúng ta khám phá ra gương mặt và tấm lòng đầy yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa đối với nhà Ít-ra-en và thành thánh Giê-ru-sa-lem. Người sẽ biến đổi mọi hoàn cảnh để niềm vui thay thế cho nỗi sầu khổ, bình an thế chỗ cho lo âu, sợ sệt trong tâm hồn và cuộc sống của người tin theo Chúa.
(2) Bài đọc 2 (Pl 4,4-7) là những lời khuyên nhủ thân thương của Thánh Phao-lô Tông đồ dành cho các tín hữu Phi-líp-phê. Thánh Phao-lô thúc giục họ hãy sống an vui, hiền hòa, quảng đại, tin tưởng và phó thác vì Thiên Chúa đã gần, khi Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, xuống thế làm người và chịu khổ hình vì mọi người.
Qua đoạn thư Philípphê 4, 4-7 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, tinh tuyền, yêu thương, chăm lo cho con cái và nghe lời cầu xin của chúng ta; Người muốn chúng ta sống an bình, hoan lạc và tin tưởng phó thác. Chúng ta cũng nhận ra Chúa Giêsu là Đấng đang chờ đợi để gặp chúng ta.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 3,10-18) là tường thuật về những lời trao đổi và chỉ dẫn của Gio-an Tiền Hô với dân chúng. Ông thúc giục họ thay đổi cách sống để đón nhận Chúa Cứu Thế. Nhiều người xin ông chỉ bảo phải làm gì cụ thể để được Chúa thương. Ông Gio-an Bao-ti-xi-ta ân cần chỉ bảo từng người, và giới thiệu cho mọi người biết về Chúa Giê-su: Người cao trọng hơn Gio-an bội phận, Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa; Người sẽ thanh lọc kẻ xấu người tốt.
Qua đoạn Phúc Âm Luca 3, 10-18 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng muốn cứu độ tất cả mọi người; Chúa Giêsu là Đấng cao trọng vô cùng và là Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa; Người cũng là Đấng sẽ thanh lọc kẻ xấu người tốt khi Người đến trong thế gian này.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Chúa Cứu Thế là Đấng cao trọng vô cùng; Người sẽ thanh lọc kể xấu người tốt; Người sẽ canh tân đổi mới bằng phép rửa trong Thánh Thần và lửa cho mọi người nên tinh tuyền.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay,
3.1 Trước hết chúng ta hãy tự hỏi mình như những người Do Thái xưa đã hỏi ông Gio-an Tiền Hô: “Chúng tôi phải làm gì đây?”
3.2 Kế tiếp chúng ta xin Chúa Thánh Thần soi sáng, mở lòng, mở trí, mở mắt tâm linh cho chúng ta nhìn thấu suốt con người của mình mà thấy được những “ngóc ngách” nào trong tâm hồn và đời sống của chúng ta cần được Chúa Giê-su Ki-tô rửa trong Thánh Thần và trong lửa.
Trong tâm hồn của chúng ta, có thể có những “ngóc ngách” cần được thanh tẩy, như lòng kiêu căng, cứng tin, ganh tỵ, hận thù, thờ thần nào khác không phải là Thiên Chúa.
Trong đời sống của chúng ta, có thể có những “ngóc ngách” cần được thanh tẩy, như đam mê sắc dục, rượu chè, cờ bạc, tiền tài, danh vọng, chức quyền hay lối sống giả hình, nhỏ nhen, ích kỷ, thờ ơ trước nỗi khổ của người chung quanh hoặc hẹp hòi trong chia sẻ (tài năng, tấm lòng, thời gian, tiền của) với người hay cộng đồng cần đến sự giúp đỡ và đóng góp của chúng ta.
3.3 Sau cùng chúng ta tha thiết nài xin Chúa Giê-su Ki-tô dùng Máu Châu Báu, Thánh Thần và lửa để rửa sạch những “ngóc ngách” tối tăm, bụi bậm ấy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm lời cầu nguyện giáo dân)
1. Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành, Chúa đã trung tín trong lời hứa với Ít-ra-en mà sai Con Một Người đến trần gian, để đổi mới tất cả và đổ tràn niềm vui trong các tâm hồn. Chúng con xin dâng lời chúc tụng, ngọi khen và cảm tạ về món quà mà Chúa ban tặng cho trần gian.
Lạy Chúa xin nhận lời chúng con. Xin nhận lời chúng con.
2. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã đến trần gian là một hài nhi yếu ớt, lệ thuộc; nhưng đồng thời Chúa lại là Đấng cao trọng hơn các ngôn sứ, tư tế, vương đế của thời Cựu Uớc, hơn các quốc trưởng, nữ hoàng, tổng thống, thủ tướng của các quốc gia thời nay.
Lạy Chúa chúng con xin đón rước Chúa vào tâm hồn và đời sống chúng con để Chúa làm Vua, làm Chúa ngự trị trong tâm hồn và đời sống của chúng con.
Lạy Chúa xin nhận lời chúng con. Xin nhận lời chúng con.
3. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã đến trần gian để đem bình an và hoan lạc cho người thành tâm thiện chí; nhưng đồng thời Chúa cũng đem Thánh Thần và lửa để rửa sạch và thiêu hủy những gì là tội lội, nhuốc nhơ, thế gian, trần tục trong tâm hồn và đời sống con người.
Lạy Chúa chúng con xin đón rước Chúa vào tâm hồn và đời sống chúng con để Chúa rửa sạch mọi ngóc ngách tối tăm, bụi bậm của tâm hồn và đời sống chúng con, bằng Thánh Thần và bằng Lửa.
Lạy Chúa xin nhận lời chúng con. Xin nhận lời chúng con.
4. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã đến trần gian để cứu độ hết mọi sinh linh; nhưng đồng thời Chúa cũng đến để thanh lọc kẻ xấu người tốt trong trần gian.
Lạy Chúa chúng con xin đón rước Chúa vào tâm hồn và đời sống chúng con, để Chúa biến đổi chúng con thành những con người mới, tốt lành thánh thiện thật sự trước mặt Chúa và trước mặt mọi người.
Lạy Chúa xin nhận lời chúng con. Xin nhận lời chúng con.
5. Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, sứ mạng của Chúa là thanh tẩy và thiêu đốt tất cả những gì là không thánh thiện trong tâm hồn và đời sống con người.
Lạy Chúa chúng con xin đón rước Chúa vào tâm hồn và đời sống chúng con, để Chúa rửa sạch và đốt cháy mọi tế bào, mọi thớ thịt của trái tim chúng con, để Chúa canh tân đổi mới hoàn toàn đời sống chúng con.
Lạy Chúa xin nhận lời chúng con. Xin nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Seattle (WA/USA) ngày 03.12.2006. (Lễ Thánh Phanxicô Xaviê, Bổn Mạng các Xứ Truyền Giáo)
Các Kitô hữu lo sám hối để lãnh nhận bí tích Hòa giải. Nhiều người ngại xưng tội, ngại đào bới lại quá khứ. Xưng tội mang dáng dấp của một cái gì buồn thảm!
Thật ra bí tích Hòa giải là một điều tươi tắn hơn nhiều. Sám hối không phải chỉ là quay về quá khứ, mà còn là hướng đến tương lai với rất nhiều hy vọng.
Sám hối còn có màu hồng như màu áo lễ hôm nay.
Khi dân chúng đến với Gioan, nhận phép rửa sám hối, họ đã hỏi ông: Chúng tôi phải làm gì đây? Cả những người thu thuế và binh lính cũng hỏi những câu tương tự.
Chúng tôi: sám hối mang tính tập thể, tính liên đới. Hội Thánh chúng tôi cùng chịu trách nhiệm về sự dữ.
Phải: một thúc bách của trái tim hoán cải thực sự.
Làm gì đây: sám hối không phải chỉ là một cảm xúc, tuy thánh thiện, nhưng lại mông lung, xa rời thực tế.
Sám hối đích thực đưa đến một hành động cụ thể. Gioan đã cho ta những câu trả lời còn nguyên giá trị.
Sám hối là sống bác ái, có hai chia một. Nhường cơm sẻ áo là ra khỏi nỗi bận tâm về mình.
Sám hối là sống công bằng, không tham lam vơ vét, không dùng quyền lực để cưỡng đoạt, áp bức ai.
Sám hối là hết nô lệ cho của cải, tiền bạc, quyền lực. Như thế dọn đường cho Chúa đến bằng sám hối đòi ta chỉnh đốn lại con đường đến với tha nhân.
Trở về với Chúa diễn tả qua việc trở về với anh em.
Gioan không bắt những người thu thuế bỏ cái nghề ô nhục, cũng không đòi những người lính Do thái bỏ phục vụ Hêrôđê. Ông cũng không bảo họ lên Đền Thờ dâng lễ đền tội, hay vào hoang địa sống nhiệm nhặt như mình. Họ cứ làm nghề của họ, nhưng với một tinh thần mới.
Sám hối thực sự thì đụng đến bàn tay, một bàn tay chứa đựng cả con tim và khối óc.
Trong mùa Vọng này, chúng ta phải hỏi nhau: mình phải làm gì?
Giới trẻ hôm nay muốn cảm thấy mình có ích, và muốn dùng thời giờ của mình sao cho có ý nghĩa.
Hãy gặp nhau, chấp nhận nhau và làm việc với nhau. Hãy cùng nhau làm một điều tốt nào đó cho đồng bào. Hãy cho thấy mình là người có đức tin. Đức tin được diễn tả qua hành động yêu thương cụ thể, và yêu thương lại làm cho đức tin lớn lên.
Xưng tội cần dốc lòng chừa. Dốc lòng chừa đòi đổi lối nghĩ và lối sống.
Đứa con thứ cần sống khác, sau khi trở về nhà Cha.
Chúng ta đã được chịu phép rửa trong Thánh Thần, nhưng chúng ta vẫn cần được Thánh Thần thanh tẩy mỗi ngày. Chúng ta không thể tự sức mình canh tân cuộc sống. Trở lại với tình yêu là hồng ân của Thánh Thần. Ước gì chúng ta mềm mại để cho Ngài uốn nắn và dạy ta biết làm gì để bày tỏ lòng hoán cải.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những tội cá nhân và những tội tập thể. Bạn thấy nhóm của bạn, giáo xứ của bạn, Hội Thánh của bạn thường vấp vào những khuyết điểm hay thiếu sót nào, thậm chí tội nào, đối với Chúa và tha nhân?
Tội tâp thể cần có một cuộc sám hối tập thể. Nhóm của bạn định làm một việc cụ thể nào để bày tỏ lòng sám hối tích cực trong mùa Vọng này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lắm khi lối sống đạo hình thức và cằn cỗi của ta làm nhiều người coi Kitô giáo là một thứ duy tâm tự ru ngủ với những ý tưởng tuy đẹp nhưng chẳng bao giờ trở thành hiện thực trong cuộc sống. Thực ra Kitô giáo là tôn giáo của hành động. Niềm tin đích thực đòi nhập cuộc và dấn thân. Tình yêu đích thực đòi thực hiện cuộc cách mạng nơi lòng cá nhân cũng như ngoài xã hội.
Trong Tin Mừng theo thánh Luca, động từ LÀM được nhắc lại nhiều lần: “Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa! mà anh em không làm điều Thầy dạy?” (Lc 6,46). “Người nghe mà không làm thì giống như người xây nhà không nền móng” (Lc 6,49). Trong cuộc đối thoại với một luật sĩ, Đức Giêsu đã bảo ông: “Hãy làm như vậy và ông sẽ được sống” (Lc 10,28). Sau dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Ngài còn dặn ông: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37).
Con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Đức Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó.
Chúng tôi phải làm gì đây? Câu hỏi này được nhắc lại ba lần trong đoạn Tin Mừng.
Những người đến với Gioan để chịu phép rửa đã không chỉ sám hối về quá khứ tội lỗi mà còn muốn tìm một hướng sống trong tương lai.
Hoán cải đích thực đòi thay đổi cách sống.
Ông Dakêu đã chia phân nửa tài sản cho người nghèo. Gioan mời gọi người có hai áo chia cho kẻ không có.
Hoán cải thực sự đòi phải trả giá vì nó đụng đến bản thân tôi ở chỗ sâu nhất. Chính vì thế, hoán cải là một ơn mà ta phải xin và can đảm đón nhận.
Mùa Vọng là thời gian hoán cải để chờ Chúa đến.
Nhiều bạn trẻ lo xét mình xưng tội, xưng tội để rồi bắt đầu một đời sống mới, vui tươi và quên mình, công bình và bác ái.
Như Phao-lô sau khi bị quật ngã trên đường về Đa-mát, chúng ta cũng muốn đặt câu hỏi: "Lạy Chúa, tôi phải làm gì?" (Cv 22,10).
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người nhận xét rằng người Công Giáo Việt Nam giữ đạo trong nhà thờ, nhưng chưa sống đạo ở ngoài nhà thờ. Bạn nghĩ gì về nhận xét đó?
Bạn hãy chia sẻ một quyết tâm riêng của bạn trong những ngày cuối của mùa Vọng. Nhóm của bạn có thể có một quyết tâm chung không? Cầu Nguyện
Lạy Chúa, con được no nê mà vẫn thiếu ăn, vì bên con còn có người đói lả. Con uống nước mát mà họng vẫn khô ran, vì bên con còn có người đang khát. Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi, vì bên con còn có người phiền muộn. Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm, vì bên con còn có người mù tối. Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi, vì bên con còn có người trần trụi. Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức, vì bên con còn có bao người thiếu thốn.
Sự thể nhiều hạng người khác nhau đến nghe Gioan Tẩy giả rao giảng cho thấy niềm hy vọng vào một thế giới tốt hơn phổ cập đến mức nào trong dân Israel. Với người Biệt phái và người Sa đốc tự tin đã giữ đạo cách đầy đủ, ông nghiêm khắc cho biết giữ đạo bề ngoài mà thiếu thật lòng ăn năn trở lại thì chẳng ích gì. Với những người thu thuế, ông khuyên hãy thi hành chức vụ cách công bằng, vì thật vậy, họ là nhân viên thuế vụ, thậm chí lại thu thuế cho người La mã đô hộ. Với những quân nhân, ông khuyên không nên dùng sức mạnh phục vụ cho bất công. Với tất cả đám đông, ông rao giảng hãy chia sẻ của cải, tương thân tương ái và thực thi công bằng cách thực tế. Ở điểm này chúng ta thấy rằng biến cố lớn là công cuộc cứu độ mà Gioan Tẩy giả loan báo sắp xảy đến trong tương lai gần, nó liên quan đến khắp mọi người chẳng trừ ai. Để chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ, người ta cần thay đổi nếp sống cho phù hợp với tinh thần tôn trọng công lý và liên kết nhau trong tình nhân ái.
Một vấn đề cho chúng ta: Phúc Âm loan báo một cuộc cách mạng. Vậy cách mạng này là gì?
1) Đó là một cuộc cách mạng nội tâm thực hiện bằng sự thanh tẩy tâm hồn trong Chúa Thánh Thần và trong lửa. Nhờ được thanh tẩy trong Chúa Thánh Thần, con người được mặc khải, nhận thức rằng mình là con Thiên Chúa. Qua trung gian Chúa Thánh Thần, con người nói với Thiên Chúa và gọi Thiên Chúa là Cha. Thanh tẩy bằng lửa là một sự thanh lọc thiêng liêng, là sám hối vì trót phạm tội, chấp nhận mình phải cố gắng xua đuổi sự dữ. Thanh tẩy do Gioan Tẩy giả loan báo chính là phép rửa của Kitô giáo, là bí tích thăng tiến con người lên địa vị làm con Thiên Chúa, và điều hợp lý là từ đây con người phải tỏ ra xứng đáng với phẩm trật cao quý đó.
2) Đó cũng là một cuộc cách mạng trong xã hội loài người – được thực hiện bằng bạo lực ư? Không, vì Gioan Tẩy giả khuyên các thính giả chớ dùng bạo lực, theo nghĩa cưỡng bách người khác làm theo ý mình. Ông cũng không đề nghị dùng bạo lực để giải phóng, nhưng nói rằng xã hội được giải phóng là do kết quả những nỗ lực mỗi cá nhân để cố gắng cư xử công bằng vì lòng bác ái. Tuy nhiên xin chớ hiểu lầm. Một hình phạt ghê gớm dành cho những kẻ nào vì ích kỷ, tham lam hoặc ác ý mà từ chối không đón nhận Tin Mừng. Thánh Gioan Tẩy giả ví họ với rơm rạ người ta đem đốt sau vụ gặt. Một sự cưỡng bách chính đáng duy nhất là tự ép buộc mình thực thi công bằng bác ái. Sử dụng bạo lực đối với tha nhân, dù để đạt một cứu cánh mình cho là tốt, tất sẽ bị Thiên Chúa nghiêm phạt.
Bài Tin Mừng hôm nay nối kết với bài Tin Mừng Chúa nhật 2 mùa vọng, một lần nữa, Luca nói với chúng ta về Gioan Tẩy giả, vị tiền hô của Chúa Giêsu, và về lời rao giảng của ông.
Bản văn gồm hai phần: Trong phần thứ nhất, Gioan trả lời câu hỏi của thính giả về những gì họ phải làm để hưởng ứng sứ điệp căn bản của ông – sứ điệp loan báo về cuộc xét xử sắp xảy đến và nêu đòi hỏi người ta phải triệt để đổi đời. Trong phần thứ hai, Gioan Tẩy giả phân trần rằng ông không phải là Đấng Mêsia, và rằng ông không thể hành động như trung gian chuyển giao Thánh Thần của Vương Quốc đang đến.
Phần thứ nhất không phải là cái gì đáng ngạc nhiên lắm. Bao giờ cũng có những cám dỗ để người ta phớt lơ những bổn phận luân lý được nêu ra ở đây, xem chúng là quá rõ ràng, thậm chí quá bình thường. Nhưng nếu xét kỹ hơn, ta sẽ thấy những bổn phận luân lý ấy đầy thúc bách.
Gioan được nhìn nhận là người mà Ngôn sứ Isaia đã loan báo trước; là tiếng kêu trong hoang địa, là người loan báo sự cứu độ đang đến của Thiên Chúa, là ngôn sứ của cuộc xét xử cuối cùng sắp xảy đến, là ngôn sứ của cơ hội cuối cùng để hoán cải tận căn, của sự thực rằng người ta không thể làm hài lòng Thiên Chúa bằng bất cứ gì khác hơn là thực hiện một cuộc hoán cải dứt khoát trong đó thay đổi toàn bộ và tận nền tảng cuộc sống của mình, bứt mình ra khỏi tình trạng của mình hiện tại. Và giờ đây người ta đến hỏi vị giảng thuyết này về một cuộc thay đổi tận căn và một sự bắt đầu mới. Điều gì họ thực sự phải làm nếu họ muốn hưởng ứng sứ điệp không khoan nhượng ấy? Câu trả lời xem ra chỉ là một chuỗi những huấn dụ đạo đức sáo mòn mà người ta có thể gặp thấy ở bất cứ chỗ nào khác – và đó là những huấn dụ không cần phải được dẫn trước bởi bất cứ sự cảnh báo thế mạt nào để làm cho nó trở nên dễ hiểu. Các nhân viên thuế vụ không được đòi hỏi người ta thái quá; các binh lính phải trở nên những con người đàng hoàng, không doạ nạt người khác và phải biết hài lòng với lương bổng của mình. Dĩ nhiên, Gioan không đặt vấn đề về động cơ hay công việc của các nhân viên thuế vụ và binh lính làm tay sai cho chính quyền đô hộ – công việc mà những người có vẻ đạo đức sẽ đánh giá là rất tồi tệ và đáng khinh bỉ.
Ngay cả khi Gioan tiếp tục nói rằng họ phải chia sẻ thực phẩm và áo quần (nếu họ có đủ phần mình) cho người thiếu thốn xung quanh, ông cũng đã không đi quá điều xem ra được thấy chỉ là những mệnh lệnh luân lý phổ quát và hiển nhiên của con người. Nếu chúng ta làm một liệt kê dài hơn về những lời khuyên tương tự cho những người thuộc các nghề nghiệp và hoàn cảnh khác, thì sự tương phản bên ngoài sẽ vẫn còn giữa một bên là mệnh lệnh triệt để đòi người ta đổi đời và bên kia là những chuẩn mực đạo đức rất thông thường mà chắc chắn các thính giả của Gioan đã hiểu rõ – và đã thi hành hay đã không thi hành – trước khi nghe ông rao giảng; và nếu gạt chuyện thiện chí qua một bên thì chắc hẳn là các thính giả của Gioan cũng đã không chu toàn các chuẩn mực ấy một cách hữu hiệu hơn mấy kể từ lúc họ nghe ông kêu gọi trong bối cảnh đặc biệt này.
Điều ấy có nghĩa gì? Bài Tin Mừng không hề cung cấp câu trả lời trực tiếp. Chúng ta chỉ biết rằng những tương phản mặt ngoài này lại ăn nhập với nhau một cách nào đó và làm bật ra ý nghĩa.
Chắc chắn ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm rằng những đòi hỏi đạo đức xem ra thông thường ấy không hề là những đòi hỏi dễ dàng chút nào – miễn là chúng ta đừng lập lờ đánh lận con đen để chỉ xếp vào các nguyên tắc đạo đức những gì phù hợp và dễ dàng đối với mình. Cuộc sống hằng ngày tự nó đòi hỏi người ta rất nhiều. Sống được cuộc sống đơn điệu nhạt nhẽo hằng ngày thường khó hơn là thực hiện một hành vi phi thường nào đó mà tính anh hùng của nó dễ làm cho ta tự mãn.
Giá trị đạo đức và tôn giáo không duy chỉ là tổng số ý nghĩa của các khoảnh khắc dồn lại; giá trị ấy hình thành một toàn thể với đặc tính riêng của nó là một toàn thể – ngay cả khi giá trị ấy được nhận ra xuyên qua các hành vi riêng lẻ. Nếu không phủ nhận điều đó thì ta sẽ nghĩ gì về một đời sống được kết dệt trong các bổn phận, trong ý chí mới mẻ mãi muốn trung thực và tốt lành đối với người khác; một đời sống không cho phép mình sa vào bạc nhược chán chường do bởi sự vô nghĩa của hiện tại; một đời sống với tinh thần lành mạnh sáng suốt vốn là một ân huệ và là nhân đức Chúa ban …? Một đời sống như vậy đâu có còn đối lập với lời kêu gọi hoán cải của Gioan nữa! Một đời sống đạo đức xem ra thông thường như thế thực sự cho thấy rằng sự hoán cải không phải là một cái gì đó xảy ra vào một khoảnh khắc nhất định trong thời gian – nhưng là một nguyên động lực giấu ẩn thấm nhuần vào bản chất trông có vẻ bình thường của đời sống xét như một toàn thể.
Nhưng không phải chỉ vậy. Đó không phải là tất cả ý nghĩa rút ra được từ sự tương phản ngoại tại nói trên. Còn một ý nghĩa gì đó khác nữa – (có lẽ không thể cảm nhận được ít là trong một số trường hợp) – hàm chứa trong việc chúng ta thi hành những bổn phận hằng ngày của mình, kể cả những bổn phận thuộc loại tiện ích cho chính mình.
Trong cuộc sống thường ngày, nhiều lúc chúng ta bị đẩy vào những tình huống trong đó ta bỗng thấy các công việc lặt vặt buồn tẻ của mình chẳng có nghĩa lý gì, hoặc thậm chí phi lý. Có những lúc bất chợt tính chất đạo đức thông thường trở nên chẳng đáng gì. Ý nghĩa đạo đức thông thường bỗng biến mất, hoặc đổi thành một cái gì hoàn toàn khác. Tính hiệu dụng của một hành vi bỗng tiêu ma, hoặc đã chuyển vào cõi thiêng thánh! Đó là những lúc mà ta phải làm việc bổn phận chỉ vì đó là bổn phận chứ không cảm nhận được một sự tưởng thưởng nào; đó là những lúc mà ta thấy bổn phận giống như một thứ hình phạt.
Một kẻ đang có danh giá bỗng không còn được trọng vọng trước mặt người ta nữa, nhưng trở thành một kẻ khờ dại vụng về bước đi giữa đời. Đột nhiên, thiên hạ triệt để lợi dụng tấm lòng vị tha; thiên hạ không còn nể trọng sự thành thực mà thậm chí sử dụng nó như một thứ vũ khí để chống lại chính kẻ thành thực!
Có cả ngàn cách trong đó tính chất đạo đức thông thường có thể trở thành một điều hết sức mỉa mai, trong tất cả tính hiển nhiên của nó và chẳng thấy ở nó ý nghĩa gì là đặc biệt anh hùng. Nó không còn cần thiết nữa; nó không còn sảnh sinh ra kết quả rõ ràng mà chính người thực hiện mong muốn nhận được …
Song nếu như người ta vẫn kiên thủ thi hành các việc đạo đức thông thường ấy ngay cả khi nó không còn có lợi nữa, ngay cả khi nó trở thành dường như vô nghĩa – thì điều gì xảy ra? Những việc thi hành như thế sẽ trở thành một loại “tiền hô” của Thiên Chúa, Đấng là nguồn ơn cứu độ và là nguồn mạch tự do. Từ “Thiên Chúa” ở đây không được hiểu một cách mơ hồ chung chung. Từ “Thiên Chúa” ở đây mang một ý nghĩa trực tiếp. “Thiên Chúa” ở đây được cảm nghiệm trong chính cuộc biến đổi lặng lẽ nhưng phi thường này, cuộc biến đổi làm hoàn thành trọn vẹn ý nghĩa cho hành vi đạo đức thường ngày của chúng ta.
Khi chúng ta dám điên rồ, khi chúng ta từ chối tranh chấp dù mình có cơ hội giành phần thắng, khi chúng ta nhất mực yêu thương dù ngay từ đầu mình không nắm chắc sẽ được yêu thương đáp lại, khi chúng ta vẫn trung thực với những xác tín của mình – thậm chí với sự bất lợi của mình dù sự bất lợi đó không phải chỉ là một giai đoạn trong cuộc chiến mà ta chắc chắn sẽ đạt chiến thắng chung cuộc, tóm lại – khi chúng ta không lập lờ với lương tâm mình và không còn nhập nhằng lẫn lộn những đòi hỏi của lương tâm với tính hiệu dụng và ý nghĩa vật chất hiển nhiên được chủ yếu hàm chứa (và hoàn toàn có thể biện minh) trong tính chất đạo đức thường ngày… đó là những khi mà chúng ta gặp gỡ chính Thiên Chúa, dù có lẽ chúng ta không gọi tên Ngài và dù ta không ý thức rằng mình đang gặp Ngài.
Để cho sự đòi hỏi của lương tâm chuyển hoá ý nghĩa của những hành vi đạo đức thường ngày đằng sau vẻ bên ngoài của chúng – đó là một thách đố, và nếu chúng ta từ thác sự thách đố này (nhiều khi một cách rất khéo léo), thì đó chính là lúc Thiên Chúa đang xét xử chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta hưởng ứng tiếng gọi bất chợt ấy, chúng ta sẽ được chính Thiên Chúa là nguồn mạch tự do và là nguồn ơn cứu độ. Tất cả điều này có thể diễn ra một cách thật âm thầm lặng lẽ chính khi ta chu toàn các bổn phận hằng ngày. Chúng ta dường như cũng ứng xử theo khuôn mẫu thông thường của con người, hết mực kính trọng người khác (ngay cả dù mình đang ở vị trí thượng phong trên họ). Nhưng rồi bất chợt, trong nháy mắt, chúng ta ở trong sa mạc – sa mạc cứu độ của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta trân trọng giương cao nguyên tắc đạo đức thường ngày và không lập lờ quẳng bỏ nó khi nó không đem lại lợi ích cho mình, đó là chúng ta đang thật sự tiến tới một sự biến đổi tận căn trong tâm hồn, cho dù chúng ta không thể xác định rõ sự biến đổi ấy diễn ra chính xác vào lúc nào. Bấy giờ chúng ta cầu khẩn và tán dương ân sủng Chúa, ân sủng lấp đầy các chiều sâu mà những nẻo bước của cuộc sống bình dị hằng ngày chúng ta thực sự vẫn hướng về, vươn lên tới điểm mà ở đó chúng ta không chút hãi sợ để cho chính mình rơi vào cõi sâu thăm thẳm ấy.
Chúng tôi sẽ làm gì? Dường như bị khiếp sợ, người ta đã nêu câu hỏi ấy sau bài giảng đầy tính đe doạ của Gioan Tẩy giả về tội lỗi và về sự xét xử tất yếu sẽ xảy đến, về cuộc hoán cải toàn diện. Gioan đã trả lời họ. Và thật bất ngờ, câu trả lời của ông đặt chúng ta vào ngay chính chỗ hiện tại của mình, yêu cầu ta sống một cách hết sức bình thường, yêu cầu ta tiếp tục nhẫn nại sống cuộc sống thực tế của mình. Câu trả lời ấy cho thấy rằng chính ở đây và chính lúc này ta có thể cảm nghiệm Nước Thiên Chúa đang đến, chỉ cần chúng ta thực sự muốn cảm nghiệm, và chỉ cần chúng ta chịu nhìn nhận – trong niềm cậy trông – ý nghĩa ẩn giấu và năng lực nội tại thâm sâu của cuộc sống thường ngày.
Cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao? - Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đức Kitô. - Vậy xin hỏi anh, ông ta sinh ra trong quốc gia nào? - Rất tiếc là tôi đã quên mất chi tiết này. - Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi? - Tôi cũng nhớ rõ nên chẳng dám nói. - Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài? - Tôi không biết!
- Quả thật, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo ông Kitô!
- Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước, tôi là người nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ nần lút đầu ngập cổ, gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại hạnh phúc, các con tôi trông ngóng, chờ tôi về sau giờ tan ca. Những điều này không ai khác hơn, chính là Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Người.
Khi lãnh phép rửa sám hối của Gioan, dân chúng hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?”. Qua câu hỏi ấy, chúng ta thấy sám hối mang chiều kích cộng đoàn, sẵn sàng đổi mới bằng hành động cụ thể.
Các thánh thường nói: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Đó là một thái độ sẵn sàng làm theo ý Chúa. Có được tâm tình ấy quả không dễ dàng. Nhưng nói được như Đức Maria mới thực là cao quý: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Ngài nói”.
Người tân tòng trong câu chuyện trên đây, sau khi được đổi mới hoàn toàn, ông đã nói: “Những điều này không ai khác hơn, chính là Đức Kitô đã làm cho tôi”.
Như vậy:
Sám hối không chỉ là quay trở về với quá khứ, mà còn hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn.
Sám hối không chỉ có tính cách cá nhân, mà còn mang tính liên đới trong cộng đoàn.
Sám hối không chỉ là một cảm xúc mông lung, nhưng chính là một quyết tâm hành động.
Sám hối không chỉ là hướng tới đời sống thánh thiện, mà là trở về với một Đấng thánh: Đức Giêsu Kitô.
Vì thế, sám hối chính là dành cho Chúa Kitô cơ hội để Người thanh tẩy tâm can, thay đổi con người, nhất là để Người biến những tâm tình và ước muốn của chúng ta nên giống những tâm tình và ước muốn của Người.
Thay vì sám hối bên ngoài, Chúa Kitô muốn chúng ta thực sự hướng lòng về Người.
Thay vì kiêu căng tự mãn, Chúa Kitô muốn chúng ta thực sự khiêm tốn để nên giống Người.
Thay vì nô lệ cho của cải, tiền bạc, Chúa Kitô muốn chúng ta hãy ra khỏi nỗi bận tâm về mình mà nhường cơm sẻ áo cho anh em.
Mùa vọng là mùa của hy vọng. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Cho dù con người có sa ngã, phản bội, Thiên Chúa vẫn theo đuổi chương trình cứu độ của Người. Cho dù thấp hèn tội lỗi, con người vẫn mang hình ảnh cao đẹp của Thiên Chúa, nên mỗi người đều được Thiên Chúa tin tưởng, yêu thương. Mùa vọng mời gọi chúng ta sám hối, đồng thời cũng kêu gọi chúng ta hãy hoàn toàn phó thác và hy vọng nơi Người.
Lạy Chúa Giêsu, sám hối là dọn đường cho Chúa đến, sám hối cũng là dọn lối để đến với tha nhân.
Xin dạy chúng con biết bày tỏ lòng sám hối bằng cách mềm mại để Chúa uốn nắn, và quyết tâm sống công bình bác ái với anh em. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay Gioan Tẩy giả đưa ra lời kêu gọi thống hối đầy khó khăn, theo văn phong tiên tri của Cựu Ước: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối”.
Nhiều người nhanh chóng phản ứng và hỏi: “Phải làm gì đây?”. Đây là bài học quý giá của bài Tin Mừng này: đừng bao giờ để nhiệt tình thống hối ở trong sự mập mờ, không có sự thống hối. Có những hành vi chứng tỏ rằng chúng ta muốn thống hối và những hành vi đó cụ thể hoá tức khắc sự quay lại của con tim: “Phải làm gì đây?”
Trong khi suy niệm Tin Mừng Máccô, chúng ta thấy có điều gì đó làm thất vọng trong sự “thống hối” của chúng ta. Tâm tình của một sự biến đổi tuyệt diệu làm chúng ta hứng khởi: “Giờ đây, tốt lắm, cuộc sống của tôi sắp thay đổi”. Chúng ta nghĩ đây là bước đầu vĩ đại hướng tới lý tưởng, hướng tới sự thánh thiện. Nhưng chúng ta hầu như luôn luôn bị mắc bẫy, chúng ta ở trong “tình cảm” nồng nhiệt này (không đến) vài ngày, không nhanh chóng khai thác ơn thống hối này, và sự hứng khởi hạ xuống, cuộc sống tái diễn như trước.
Có một ranh giới khó vượt qua mà chúng ta thường kinh nghiệm: đi từ tình cảm tới hành động. Để chúng ta tức khắc đi cho đúng đường, bài suy niệm đầu tiên về sự thống hối nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đức tin và lời cầu nguyện. Đừng láu cá, đừng chỉ dựa vào sức mình mà thôi, cầu xin sự giúp đỡ của Thiên Chúa.
Lần này lại chú trọng đến lòng can đảm của chúng ta, cũng phải tự tin nữa! Và do đó nhanh chóng tự hỏi “phải làm gì đây?”, một câu hỏi đơn sơ nhưng dứt khoát, trong khi hướng về cái đời thường nhất của cuộc sống chúng ta.
Những lời khuyên của Gioan Tẩy giả có thể xa vời với những vấn đề của chúng ta, nhưng chúng ta hãy ghi nhận lời mời gọi yêu thương, công bằng và bất bạo động. Một số nhiệt tình thống hối thúc đẩy chúng ta hướng về cầu nguyện hoặc thờ phượng, hay nỗ lực tạo tính cách: “Tôi sẽ tỏ ra dễ thương hơn đối với x…”. Tốt, nhưng chúng ta hãy nhìn xem chung quanh chúng ta một chút. Chúng ta sẽ đi đến chỗ chia sẻ như thế nào? “Ai có hai áo hãy cho bớt một áo”. Thật giản dị… và hiệu quả hơn là giấc mộng anh hùng cho mười cái áo mà điều này sẽ chỉ là một giấc mơ và sau đó sẽ là biết bao lần thống hối thất bại. Chúng để lại cho chúng ta vị đắng chát.
“Đừng ép buộc quá!”, Gioan Tẩy giả nói như thế với những người thu thuế. Thật là một sự xem xét lại rất cụ thể cách cư xử của chúng ta trong công việc, việc kinh doanh, sự giao dịch!
“Đừng làm khổ ai cả!”. Thậm chí không phải binh sĩ cũng không phải Trung tâm nghiên cứu khoa học, có lẽ chúng ta ảnh hưởng quá mạnh trên con cái chúng ta, trên các nhân viên, trên các thành viên của một cộng đồng mà chúng ta có trách nhiệm. Có rất nhiều cách để làm khổ, làm tay anh chị. Chúng ta càng nỗ lực để trở nên sáng suốt trong lãnh vực tế nhị này, sự thống hối của chúng ta càng sẽ đi từ giấc mơ đến thực tế.
Và điều mà Gioan Tẩy giả đã không nói, chúng ta phải tìm cho ra, trong khi vẫn ở trong đường lối thực tiễn này: - Làm gì đây? – Cứ làm một điều gì đó!
Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế: MV 3-C42
Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại cái chặng của Tin Mừng Máccô: Gioan Tẩy Giả (3,1-20), phép Rửa và việc Thánh Thần ngự xuống (3,21-22), Cám dỗ (4,1-13). Giữa phép Rửa và Cám dỗ, ngài ghép gia phả của Đức Giêsu vào (3,23-28).
Bản văn đọc hôm nay là trích phần đầu của phần 2 của Tin Mừng Lc.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần:
Gioan bảo dân chúng những việc phải làm (3,10-14); Ông loan báo Đấng mạnh hơn đang đến (3,15-17); Tóm kết sứ vụ Gioan (3,18).
Nếu muốn đầy đủ cho phần rao giảng của Gioan, thì lấy từ câu 7. Chúng tôi sẽ trình bày khởi đi từ c. 7 này.
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Đấng Mêsia (15): tức là “Đấng được xức dầu”. Ít ra từ đầu thế kỷ ii trước CN, trong Do-thái giáo Paléttina, đã kết tinh một nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia. Lời sấm của ngôn sứ Nathan (2 Sm 7,14-17) và “những lời cuối cùng của vua Đavít” (2 Sm 23,1-17) tiết lộ lời Thiên Chúa hứa ban một vương tộc và minh nhiên qui chiếu về vua Đavít lịch sử như là “đấng được xức dầu” của Thiên Chúa Giacóp. Xem Tv 18,51; 89,39.52; 132,10.17.
- Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến (16): Dịch sát là “Đang đến Đấng mạnh hơn tôi”. Luca nhấn mạnh đến động từ “đang đến” (Hl. erchetai) đặt ở đầu câu; ngài đã lấy lại Mc 1,7, nhưng bỏ cụm từ “sau tôi”. Đây là một gợi ý tới bản văn Ml 3,1.23.
- tôi không đáng cởi quai dép (16): Hành vi này là nhiệm vụ của một nô lệ. Tập tục được thực thi như sau: người chủ đi dự một cuộc tiếp tân, có một nô lệ đi theo; vào phòng, người chủ phải cởi dép; khi đó, người nô lệ quì xuống (x. Mc 1,7) để tháo quai dép cho ông (x. Mc và Lc); và trong suốt cuộc tiếp tân, người nô lệ phải xách dép của chủ (x. Mt 3,11). Trong truyền thống kinh sư Do-thái, các kinh sư cấm môn đệ làm việc này cho thầy mình. Hình ảnh Gioan dùng nêu bật vị trí thấp kém của ông trong quan hệ với Đức Giêsu, Đấng mạnh hơn.
- phép rửa trong Thánh Thần và lửa (16): Nước có ý nói về nghi thức bên ngoài, thực hiện trên thân xác; còn lửa là biểu tượng diễn tả sự biến đổi bên trong tâm hồn. Trong khi nước chỉ đạt tới bề mặt của các sự vật, thì lửa thấm sâu vào, thanh luyện, soi sáng, đốt cháy. Trong phép rửa Đấng Mêsia thiết lập, người ta sẽ không gặp được thứ lửa nào ngoài thứ lửa của Thánh Thần, bởi vì chính Ngài thánh hóa các tâm hồn.
Dựa theo Mt 3,11, ta phỏng đoán rằng rất có thể Gioan Tẩy giả lịch sử đã không nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng là phép rửa trong “gió [khí]”, như thế để cho từ “lửa” vẫn giữ được ý nghĩa “lửa Phán xét” trong suốt bản văn. Sau đó, các Kitô hữu đã đọc lại và đã giải thích lại “gió [khí]” như là làn hơi Thánh Thần: đọc như thế cũng là hợp lý, bởi vì trong tiếng Híp-ri cũng như tiếng Hy-lạp, một từ ngữ duy nhất (Hp. ruâh, Hl. pneuma) được dùng để chỉ gió và Thần Khí. Như vậy, hẳn là Gioan Tẩy Giả đã nói đến một phép rửa “trong gió [khí] và lửa” Phán xét, nhưng chẳng bao lâu (có khi là ngay lúc còn đang truyền khẩu), các Kitô hữu đã hiểu các lời này như loan báo một phép rửa “trong [Thần] Khí hoặc Thánh Thần và lửa” của Lễ Ngũ Tuần.
Cũng cần nói rằng không nên giới hạn tầm mức lời Gioan nói vào phép rửa mà thôi. Cần phải thấy đó là mọi cuộc thông ban Thánh Thần do Đức Giêsu thực hiện, hoặc bằng phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng bí tích thêm sức, hoặc bằng cách nào khác: Lc 12,49 (Đức Giêsu ném lửa xuống thế gian); Cv 1,4-5 (điều Chúa Cha đã hứa); 2,1-4 (lưỡi lửa).
Nhưng cũng vẫn có nghĩa là lửa Phán xét. Chúng ta bị đặt giữa hai ngọn lửa: lửa Thánh Thần và lửa của cơn giận không tắt. Bởi vì Đấng Mêsia sẽ là Thẩm Phán (x.cc. 17-18).
- Tay Người cầm nia rê sạch lúa (17): Cái rê (ptyon, winnowing-shovel) là một dụng cụ giống cái xẻng, người ta dùng để rê lúa (“làm sạch thóc bằng cách đổ thóc từ trên cao rơi từ từ theo hướng gió để bụi và hạt lép bay ra hết”, Đại từ điển tiếng Việt), còn thóc thì rơi xuống thành đống (x. Is 30,24). Hình ảnh này được dùng để chỉ việc Đấng quyền thế hơn phân loại loài người theo giá trị của họ.
- thóc mẩy thì thu vào kho lẫm (17): Đống thóc tượng trưng những người sẽ được cứu bởi vị thẩm phán đang đến. Công việc phân loại của Người được diễn tả bởi hai hành động, “rê sạch” và “thu vào kho”.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Gioan đến như nhà rao giảng sự thống hối và như sứ giả niềm vui. Ông ra sức giải thích cho dân chúng biết rằng sự hoán cải cần được cụ thể hóa bằng những hoa trái xứng đáng (3,7-9). Và ông dạy họ những việc cụ thể phải làm cũng như về Đấng đang đến. Ông giới thiệu hoàn cảnh trong tính nghiêm túc và trong đặc điểm cứu độ, ông không giấu giếm gì cả. Nguyện vọng duy nhất của ông là chuẩn bị cho dân đón nhận ơn cứu độ, ơn này đang hiện diện nơi Đức Giêsu Kitô.
Các hoa trái hối cải tuyệt đối cần thiết, ta không thể loại trừ hay trì hoãn. Với những lời lẽ hết sức mạnh mẽ, Gioan ngỏ lời với những người muốn hoán cải. Họ đến với ông bởi vì họ coi trọng lời ông loan báo và muốn nhận phép rửa. Gioan bảo họ rằng chỉ có ý muốn mà thôi thì không đủ; còn cần phải có hoa trái nữa, tức là những hành động. Thiên Chúa muốn có những hành động này. Ai không làm những hành động này, thì sẽ phải gánh lấy cơn thịnh nộ của Ngài (3,7), tức là hậu quả của một chọn lựa đi ngược lại ý Ngài muốn. Phải có một sự hoán cải thực thụ. Dĩ nhiên phải hoán cải con tim, bằng cách hoàn toàn quay hướng về Thiên Chúa. Nhưng sự hoán cải không chỉ dừng lại ở bình diện nội tâm, thiêng liêng. Nó phải được diễn tả ra trong lối xử sự bên ngoài. Người ta không thể tránh né lối sống bên ngoài bằng cách nại đến các duyên cớ nào đó. Nại đến tư cách con cháu tổ phụ Abraham cũng không ích gì. chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng nên cũng phải luôn tìm cách sinh những hoa quà xứng với lòng hối cải.
* Gioan bảo dân chúng những việc phải làm (10-14)
Những người được Gioan ngỏ lời với không chỉ muốn nghe nói về cáh hoa quả cách chung chung; họ muốn biết cụ thể họ phải làm gì. Gioan không mời họ thực hành một việc đạo đức hình thức hay tham dự một nghi lễ thống hối nào; ông yêu cầu họ làm một việc cụ thể và triệt để nào đó. Ông trả lời họ không quanh co. Mọi hoa trái hối cải ông đề nghị đều liên hệ đến cách xử sự với người đồng loại. Sự hoán cải, nghĩa là việc quay về với Thiên Chúa, phải được diển tả ra thực sự qua cách thức xử sự với anh chị em mình. Sự hoán cải đòi hỏi sự chia sẻ huynh đệ và từ khước mọi thứ bất công. “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (3,11). Lời yêu cầu này được đề nghị không những cho tất cả những ai đang sống trong sự sung túc, để họ sớt bớt phần dư thừa, nhưng còn được gửi đến tất cả những ai có thứ gì hơn mức thực sự cần thiết. Ngay người chỉ có hai áo cũng phải cho một cái và bằng lòng chỉ còn một cái, nếu người thân cận không có cái nào. Đứng trước nhu cầu của người khác, người ta chỉ được giữ lại điều gì mình cần mà thôi.
Người thu thuế và lính tráng cũng đến với Gioan. Đây là hai hạng người bị khinh bỉ và căm ghét, bởi vì họ thường lợi dụng địa vị mà thủ lợi. Gioan không mời họ bỏ nghề, nhưng kêu gọi họ loại trừ những hình thức xử sự bất công khi hành nghề. Người thu thuế có thể lợi dụng địa vị để đòi mức thuế cao hơn mức đã quy định để làm giàu. Những người lính có thể dùng vũ lực để ép người khác làm theo ý mình, để gia tăng đồng lương. Trong cả hai trường hợp, vấn đề là áp bức người khác để có thêm tiền bạc. Hoán cải, quay về với Thiên Chúa, không phải là chuyện thực hiện trong trừu tượng, nhưng phải được thể hiện ngay trong lãnh vực nghề nghiệp.
Sau này, Đức Giêsu còn yêu cầu mạnh hơn nữa: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,29).
* Ông loan báo Đấng mạnh hơn đang đến (15-17) Một yếu tố tiêu biểu của sự cao cả của Gioan là đánh giá đúng đắn vị trí của ông. Ông đến theo bài sai của Thiên Chúa và ông hành động hết sức cương quyết. Do đó, ông đã gợi lên nới dân chúng ấn tượng là ông chính là Đấng Cứu thế thời cuối cùng, Đấng Mêsia. Ông tuyên bố rằng ông chỉ là người dọn đường, và dứt khoát hướng người ta đến Đấng đến sau ông. Ngài cao cả hơn ông vô cùng, không sao sánh ví được. Tương quan giữa ông và Đấng ấy không thể mô tả cách nào cho xứng hợp, cho dù là bằng hình ảnh “nô lệ-chủ nhân”. Gioan không xứng đáng làm một việc phục vụ thấp hèn nhất cho Đấng đang đến. Bằng cách đó, vị ngôn sứ cao cả này đã cung cấp cho chúng ta một ý tưởng về sự cao trọng của Đức Giêsu. Ngay cụ Simêôn cũng đã loan báo Ngài như là Đấng làm cho người này được nâng dậy, còn kẻ khác bị té ngã (2,34). Gioan đã mô tả cách hành động của Đấng ấy theo hai cách: Người làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa; Người thu gom lúa và đốt vỏ trấu. Đức Giêsu có quyền thông ban thực tại cao hơn và quý hơn: Thần Khí, quyền năng sống động vĩnh hằng của Thiên Chúa, đối lập với mọi thứ bất lực, yếu đuối và mong mạnh tạm bợ. Ai không sẵn sàng với Thần Khí mang sự sống, thì phải chịu phép rửa trong lửa tiêu diệt sự sống. Đức Giêsu quy tụ lại với Người, trong sự hiệp thông vĩnh cửu, lúa (thóc mẩy), tức là những ai phù hợp với những tiêu chí nhân lành của Người; Người loại trừ và đẩy vào nơi bị dày vò muôn đời những người khác, những người trống rỗng và không có giá trị.
* Tóm kết sứ vụ Gioan (18)
Gioan đã “loan báo Tin Mừng” cho dân chúng? Như vậy ông là người đầu tiên loan báo Tin Mừng (Wink). Nhưng nếu theo bản văn Lc, thì dường như thiên thần Gabiel mới là vị đầu tiên loan báo Tin Mừng (1,19)! Thật ra, có lẽ nên cho rằng đây là một từ tác giả dùng để “bình” hoạt động của Gioan, là hoạt động khuyến khích người ta quay về với Thiên Chúa. Tác giả không cho thấy là có lần nào Gioan đã rao giảng về “Nước Thiên Chúa”, bởi vì ngài dành công việc này cho Đức Giêsu. Từ đó có thể nói cho dù hoạt động của Gioan là giai đoạn chuẩn bị cho giai đoạn Đức Giêsu, lời rao giảng của ông vẫn không giống với lời rao giảng của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Gioan không thể loan báo một ơn cứu độ dễ dàng cho mỗi người, dù họ muốn hay không, dù họ sẵn sàng đón lấy hay không. Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng không áp đặt cho loài người chúng ta, bất kể tình trạng cá nhân chúng ta hoặc ngược lại với ý muốn của chúng ta. Bởi vì Gioan biết ý nghĩa của việc Đức Giêsu đến và biết điều gì liên hệ, ông xứng đáng vừa là sứ giả niềm vui vừa là nhà rao giảng việc hoán cải.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Sự hoán cải chân thật không bao giờ chỉ dừng lại với những tâm tình tốt đẹp, nhưng phải được diễn tả ra bằng một cuộc sống tương hợp cụ thể với giáo huấn của Đức Kitô. Các thính giả của Gioan đã hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây ?”, và vị Tẩy Giả đã chỉ dẫn cho mỗi hạng người một cách thức cụ thể để sống hoán cải. Có người thì phải tôn trọng công bình, có người được đề nghị chia sẻ, có người thì được mời tha thứ những xúc phạm, hoặc sống lương thiện trong nghề nghiệp của mình.
2. Người ta có thể yêu cầu gì nơi những con người và những dân tộc đang sống và hầu như đang chết ngộp trong sự phồn vinh phú túc, trong khi hàng triệu người đang sống cũng trên trái đất này đang chết đói? Với quyền gì mà có những người được bảo rằng họ được duy trì và đảm bảo sự phú túc của họ, trong khi những người khác thậm chí không có những cái hết sức cần thiết? Tình trạng này là một sỉ nhục, chế nhạo lời kêu gọi hoán cải theo Tin Mừng. Cho dù cá nhân không có nhiều điều kiện để hành động, người ta cũng không được chấp nhận tình trạng ấy. Họ phải làm hết sức mà chia sẻ cách huynh đệ.
3. Liên kết với mỗi loại địa vị, thẩm quyền, khả năng, kiến thức… là một thứ quyền nào đó. Do đó trong mỗi loại nghề nghiệp, luôn có những nguy cơ và cám dỗ lạm dụng quyền hành để bóc lột người khác hầu thủ lợi cho mình. Mỗi thứ nghề nghiệp đều cần một nền luân lý nghề nghiệp riêng. Và mỗi người phải hành động với tinh thần trách nhiệm trong vị trí của mình và trong chính nghề của mình, phục vụ người khác bằng chính “quyền bính” của mình, chứ không lạm dụng mà làm thiệt hại đến người khác.
4. Nếu Đấng Mêsia đến đưa ơn cứu độ cho thế giới, các núi đồi (những ai có quá nhiều) phải lấp đầy các thung lũng (những người có quá ít). Nơi nào còn có bất bình đẳng, sự giàu có bất công bên cạnh cảnh sống cùng quẫn, người Kitô hữu phải san bằng các núi đồi và thung lũng. Nếu chúng ta có một thứ mà người khác rất cần, phải chăng chúng ta bán với giá thật cao để trục lợi? Có khi nào chúng ta lạm dụng địa vị, nghề nghiệp để khống chế kẻ khác? Có khi nào chúng ta lạm dụng quyền bính để bắt người khác chờ hàng giờ để được một điều chúng ta có thể làm dễ dàng tức khắc cho họ?
5. Xin ghi lại một suy tư của thánh Âutinh (354-430):
"Gioan cao trọng đến nỗi người ta đã có thể coi ông là Đức Kitô. Chẳng cần ông phải nói ra; người ta đã nghĩ như thế rồi… Nhưng người bạn khiêm tốn ấy của chàng rể, nhiệt thành phục vụ danh dự của chàng rể, không muốn chiếm lấy chỗ của chàng rể, như một chuyện ngoại tình. Ông làm chứng cho bạn mình, ông đưa chàng rể đích thực đến với cô dâu, ông kinh tởm chuyện mình được yêu thương thay thế Người bởi vì ông chỉ muốn được yêu thương trong Người mà thôi…
Người môn đệ nghe tiếng thầy; người ấy đứng bởi vì đang lắng nghe thầy, bởi vì nếu người ấy từ chối nghe thầy, chắc chắn người ấy sẽ té ngã. Điều làm nổi bật sự cao trọng của Gioan trước mắt chúng ta, đó là ông đã có thể được coi là Đấng Kitô, tuy thế, ông đã chọn làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, công bố sự cao cả của Người và hạ mình xuống, chứ không coi mình là Đấng Mêsia và tự lừa dối mình khi lừa dối kẻ khác. Do đó, Đức Giêsu có lý khi nói về ông rằng ông còn hơn là một ngôn sứ … Gioan đã tự hạ trước sự cao cả của Chúa, để sự khiêm nhường của ông đáng được sự cao cả ấy nâng lên" (Bài Giảng thứ hai lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, số 288, 2; PL 38-39, 1302-1304).
Vào một ngày Chúa nhật tháng chín năm 1972, tại góc phố đông người qua lại, người ta thấy xuất hiện một nhà giảng thuyết. Ông đưa cánh tay phải lên và chỉ vào một người nào đó và nói: Anh là kẻ có tội. Hành động này đã gây nên một hậu quả kỳ lạ. Mọi người lấm lét nhìn ông rồi cúi mặt xuống trong thinh lặng.
Từ mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chắc hẳn lời giảng của Gioan Tiền hô bên bờ sông Giócđan cũng đã tạo ra một hậu quả như thế. Trong đám đông, có những người đã cười nhạo ông. Có những người đã tức giận ông, nhưng cũng có những người đã nhận biết sự sai trái của mình.
Chẳng hạn những người thu thuế nhận ra có lúc mình đã đòi hỏi quá mức ấn định. Những người lính có lúc đã đối xử tàn bạo với dân chúng. Còn tất cả thì có lúc đã khước từ sự giúp đỡ cần thiết cho những người chung quanh. Ông đã đụng vào vùng thâm sâu và dễ thương tổn nhất của họ, ông đòi buộc họ phải nhìn lại tâm hồn mình, khám phá ra những khuyết điểm, để rồi dứt khoát từ bỏ tội lỗi mà quay trở về cùng Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã ý thức được những hậu quả mà tội lỗi gây ra cho bản thân, cho gia đình cũng như cho xã hội, thế nhưng chúng ta lại không có đủ can đảm dứt bỏ tội lỗi, trái lại nhiều lúc chúng ta còn chạy theo những mời mọc, những quyến dũ, những lôi kéo của tội lỗi, để rồi như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm.
Chúng ta giống như một người muốn nhảy xuống sông để tắm cho được sạch, nhưng lại ngại trời rét. Vì thế, cứ ngồi trên cầu ao, thò một chân xuống rồi lại co lên. Cứ thế, cứ thế, nửa muốn tắm nửa lại sợ rét.
Hay như một con bò, nửa muốn uống nước, nửa muốn ăn cỏ, thành thử hết nhìn qua bên này lại nhìn qua bên kia, mà bụng thì vẫn đói và khát.
Vậy cho đến lúc này, chúng ta đã có thái độ dứt khoát hay chưa? Chúng ta hãy nhớ lại lời thánh Gioan Tông đồ: Nếu chúng ta nói rằng mình vô tội, thì chúng ta chỉ là kẻ nói dối.
Mặc dù tâm hồn chúng ta rất xinh đẹp vì được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nhưng đồng thời nó lại rất yếu đuối và có thể vấp ngã bất cứ lúc nào. Chúng ta giống như một chiếc bình sành dễ vỡ. Có nhiều khía cạnh trong cuộc sống chúng ta cần được Chúa tha thứ và chữa lành qua Bí tích Giải tội.
Mùa vọng chính là thời gian giúp chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, rồi sám hối ăn năn để được ơn tha thứ, cũng như được hưởng sự bình an mà Chúa sẽ đem đến trong đêm Giáng sinh.
Khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng, hàng đoàn người lũ lượt kéo đến xin chịu phép rửa ăn năn sám hối. Hơn thế nữa, họ còn muốn thay đổi cuộc đời nên ai cũng hỏi thánh nhân: “Chúng tôi phải làm gì?”. Thái độ của họ thành khẩn, đơn sơ, hiểu biết và đầy quyết tâm. Để trả lời, thánh nhân đưa ra những hướng dẫn thật cụ thể. Đó là:
Phải làm những việc cụ thể. Hai thái độ cơ bản phải có là công bình bác ái. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Như thế, bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo” “hạt gạo cắn đôi”. Chia cả những gì mình đang cần thiết. Trong tinh thần huynh đệ. Trong tinh thần yêu người khác như chính mình. Cơm ăn áo mắc là những gì rất cụ thể thiết thực và vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể chia sẻ được. Chỉ cần muốn là có thể làm được. Công bình cũng không phải là điều gì quá phức tạp. Chỉ đơn sơ giữ đúng luật pháp: nhân viên thu thuế “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”. Và khi thi hành luật pháp binh lính phải có lòng nhân ái chứ đừng cậy quyền thế áp bức và nhất là bóc lột người khác: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Tuy đơn sơ, thiết thực nhưng lại rất quan trọng để được ơn cứu độ.
Phải làm trong đời sống cụ thể. Những việc cụ thể đó không phải tìm những nơi xa xôi mới thực hiện được. Mỗi người hãy thực hiện công bình bác ái trong đời sống thường ngày của mình, với những người sống chung quanh mình. Thánh nhân không kêu gọi người ta phải ra khỏi môi trường cũ. Ngài chỉ kêu gọi người ta từ bỏ nếp sống cũ. Người thu thuế cứ thu thuế. Binh lính cứ làm nhiệm vụ của binh lính. Nhưng làm với tinh thần mới. Điều quan trọng không phải là đổi mới nơi ở, nhưng là đổi mới chính mình, đổi mới ý nghĩ, đổi mới lời ăn tiếng nói, đổi mới việc làm. Tục ngữ có nói: “Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ”. Cứ ở nhà mà dám đổi mới là ta đã đi những bước rất xa, sẵn sàng gặp được Chúa và lãnh nhận được ơn cứu độ.
Những người Do Thái thời Thánh Gioan Tẩy Gỉa thực lòng mong chờ Chúa đến. Nên đã hỏi ngay những việc cụ thể để làm. Và khi nhận được lời khuyên của thánh nhân, họ đã thực hành ngay tức khắc. Vì thế họ đã gặp được Chúa. Hôm nay ta cũng tích cực sửa chữa đời sống theo tinh thần công bình và nhất là theo tinh thần bác ái. Biết sống tinh thần chia sẻ. Dám cho đi cả những gì cần thiết. Mẹ Têrêsa Calcutta dạy ta: hãy cho đi cho đến khi cảm thấy đau đớn xót xa, thì sự cho đi mới thực sự có ý nghĩa. Biết cho đi như thế, chắc chắn ta sẽ gặp được Chúa.
Ta luôn bất bình với thế giới chung quanh. Ta mong ước đổi mới thế giới. Hãy nghe lời Thánh Gioan Tẩy Giả, đừng đòi hỏi người khác đổi mới nếu chính mình không đổi mới. Hãy đổi mới chính mình trước, rồi mọi người sẽ đổi mới. Khi mọi người đổi mới, thế giới sẽ đổi mới. Hãy bắt đầu sống tốt. Rồi mọi sự và mọi người quanh ta sẽ trở nên tốt. Sống tốt chính là bắt đầu thay đổi thế giới. Sống tốt chính là góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con bắt đầu cuộc đời mới ngay từ ngày hôm nay, để con được gặp Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Chia sẻ khác với bố thí thế nào? Thánh Gioan Tẩy Giả đòi ta chia sẽ hay bố thí? 2. Bạn có ước mong thế giới đổi mới nên tốt hơn không? Muốn thế bạn phải làm gì? 3. Bạn có mong ước Chúa đến với mọi người không? Muốn thế bạn phải dọn đường cho Chúa như thế nào?
Các Kitô hữu lo sám hối để lãnh nhận bí tích Hòa giải. Nhiều người ngại xưng tội, ngại đào bới lại quá khứ. Xưng tội mang dáng dấp của một cái gì buồn thảm!
Thật ra bí tích Hòa giải là một điều tươi tắn hơn nhiều. Sám hối không phải chỉ là quay về quá khứ, mà còn là hướng đến tương lai với rất nhiều hy vọng.
Sám hối còn có màu hồng như màu áo lễ hôm nay.
Khi dân chúng đến với Gioan, nhận phép rửa sám hối, họ đã hỏi ông: Chúng tôi phải làm gì đây? Cả những người thu thuế và binh lính cũng hỏi những câu tương tự.
Chúng tôi: sám hối mang tính tập thể, tính liên đới. Hội Thánh chúng tôi cùng chịu trách nhiệm về sự dữ.
Phải: một thúc bách của trái tim hoán cải thực sự.
Làm gì đây: sám hối không phải chỉ là một cảm xúc, tuy thánh thiện, nhưng lại mông lung, xa rời thực tế.
Sám hối đích thực đưa đến một hành động cụ thể. Gioan đã cho ta những câu trả lời còn nguyên giá trị.
Sám hối là sống bác ái, có hai chia một. Nhường cơm sẻ áo là ra khỏi nỗi bận tâm về mình.
Sám hối là sống công bằng, không tham lam vơ vét, không dùng quyền lực để cưỡng đoạt, áp bức ai.
Sám hối là hết nô lệ cho của cải, tiền bạc, quyền lực. Như thế dọn đường cho Chúa đến bằng sám hối đòi ta chỉnh đốn lại con đường đến với tha nhân.
Trở về với Chúa diễn tả qua việc trở về với anh em.
Gioan không bắt những người thu thuế bỏ cái nghề ô nhục, cũng không đòi những người lính Do thái bỏ phục vụ Hêrôđê. Ông cũng không bảo họ lên Đền Thờ dâng lễ đền tội, hay vào hoang địa sống nhiệm nhặt như mình. Họ cứ làm nghề của họ, nhưng với một tinh thần mới.
Sám hối thực sự thì đụng đến bàn tay, một bàn tay chứa đựng cả con tim và khối óc.
Trong mùa Vọng này, chúng ta phải hỏi nhau: mình phải làm gì?
Giới trẻ hôm nay muốn cảm thấy mình có ích, và muốn dùng thời giờ của mình sao cho có ý nghĩa.
Hãy gặp nhau, chấp nhận nhau và làm việc với nhau. Hãy cùng nhau làm một điều tốt nào đó cho đồng bào. Hãy cho thấy mình là người có đức tin. Đức tin được diễn tả qua hành động yêu thương cụ thể, và yêu thương lại làm cho đức tin lớn lên.
Xưng tội cần dốc lòng chừa. Dốc lòng chừa đòi đổi lối nghĩ và lối sống.
Đứa con thứ cần sống khác, sau khi trở về nhà Cha.
Chúng ta đã được chịu phép rửa trong Thánh Thần, nhưng chúng ta vẫn cần được Thánh Thần thanh tẩy mỗi ngày. Chúng ta không thể tự sức mình canh tân cuộc sống. Trở lại với tình yêu là hồng ân của Thánh Thần. Ước gì chúng ta mềm mại để cho Ngài uốn nắn và dạy ta biết làm gì để bày tỏ lòng hoán cải.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những tội cá nhân và những tội tập thể. Bạn thấy nhóm của bạn, giáo xứ của bạn, Hội Thánh của bạn thường vấp vào những khuyết điểm hay thiếu sót nào, thậm chí tội nào, đối với Chúa và tha nhân?
Tội tâp thể cần có một cuộc sám hối tập thể. Nhóm của bạn định làm một việc cụ thể nào để bày tỏ lòng sám hối tích cực trong mùa Vọng này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Ngày kia, có một người thắp đèn kỳ lạ, tên là ông T. Ông là một người hoàn toàn đáng tin cậy và chính xác như một cái đồng hồ. Mỗi tối, khi trời vừa chập tối, thì các ngọn đèn dầu luôn luôn được thắp sáng lên. Bằng cách nào mà ông đoán biết được giờ giấc mà không một ai biết được, bởi vì ông không hề có đồng hồ.
Người ta thường nhìn ra cửa sổ đằng trước, khi ông đi lên đi xuống trên đường, để lại một vệt ánh sáng phía sau ông. Đối với tất cả mọi người, rõ ràng ông yêu mến công việc của mình. Ông sống chỉ vì một việc duy nhất: đốt lên những ngọn đèn. Cuộc sống của ông không phải là một cuộc sống dễ dàng, nhưng sáng rực một ý nghĩa.
Tất cả mọi người đều yêu quý ông, đặc biệt là các trẻ nhỏ. Khi bóng tối đến đe dọa kết thúc những trò chơi trên đường phố của chúng, thì ông T. đến, cùng với ngọn đèn, và chúng lại được tiếp tục chơi.
Điều gì làm cho ông T. trở nên lạ lùng đến thế? Rốt cuộc, có nhiều người yêu mến công việc của mình, và làm một cách trung thành. Tính cách vĩ đại của ông T. hệ tại ở sự kiện rằng ông bị mù lòa. Con người quá trung thành trong việc đem ánh sáng đến cho những người khác, nhưng lại không bao giờ nhìn thấy bản thân mình.
Cuối cùng, khi có đèn điện, và hiện nay, theo năm tháng, ông T. đã già yếu rồi, thì ông trở nên một người thừa. Cuộc sống của ông đột nhiên bị mất đi ý nghĩa. Ông cảm thấy mình vô dụng và không còn ai mong mỏi nữa. Thật đáng buồn. Những người đã từng quý mến ông, thì nay đã quên lãng ông. Ánh sáng mới vượt xa ánh sáng cũ quá nhiều, đến nỗi không còn ai tiếc nuối ánh sáng cũ nữa.
Ông T. nhắc nhở chúng ta về thánh Gioan Tẩy Giả. Tương tự như ông T., thánh Gioan Tẩy Giả đã làm việc cần cù, để mang đến cho mọi người ánh sáng của bản thân ngài. Ngài đã một nhân vật nổi tiếng, thống trị cả một vùng. Nhưng ngài luôn ý thức rằng có một ánh sáng vĩ đại hơn sắp đến, một ánh sáng mà bản thân ngài không được tiền định để đi vào. Khi ánh sáng đó xuất hiện qua con người của Đức Giêsu, thì ngài đứng sang một bên, để dọn đường cho Đức Giêsu. Đó là một tính cách vĩ đại.
Không một người nào đến, để làm nổi bật hoặc đạt được sự nổi tiếng cho bản thân mình. Bạn sẽ luôn luôn nhận thấy rằng ở sau hậu trường, có một người tạo điều kiện thuận lợi. Công việc của người đó là giúp đỡ, hướng dẫn và khích lệ bạn. Nói cách khác, để chuẩn bị đường cho bạn. Khi bạn đạt được sự nổi tiếng thì không ai nhìn đến người dọn đường nữa, và thường bị rơi vào quên lãng.
Để dọn đường, hoặc thậm chí chỉ để dọn phòng cho người khác, thì đòi hỏi phải có tinh thần khiêm tốn và quảng đại. Thật vậy, công việc này đòi hỏi một kiểu chết đi về bản thân mình. Khi rút lui khỏi một chức vụ cao, là chết đi một chút, thậm chí lại còn hơn cả một chút nữa. Một số người làm hư việc, khi nắm quyền lực trong một thời gian quá lâu dài.
Các bậc cha mẹ luôn dành ra những năm tháng tốt đẹp nhất cuộc đời mình, để chuẩn bị đường cho những đứa con của họ, theo ý nghĩa là mở lối cho chúng đi vào cuộc đời. Nhưng đến một thời điểm nào đó, cha mẹ phải rút lui, để con cái họ có thể tự đi trên đôi chân của chúng. Một khi đã đem cuộc sống đến cho con cái, thì cha mẹ cũng phải cho phép chúng được sống cuộc sống đó.
Tất cả chúng ta đều có khuynh hướng thích được nổi tiếng. Có lẽ một cách đầy bất ngờ, chúng ta thường thống trị người khác, và loại bỏ họ vào bóng tối. Chúng ta phải cố gắng chiếu tỏa hết khả năng của mình ra, trong khi vẫn phải cẩn thận, để không ngăn cản đường đi của người khác. Và chúng ta cũng phải ý thức về món nợ đối với người khác, đó là những người đã chuẩn bị đường cho chúng ta.
Gần đến lễ Giáng Sinh, người ta thấy hình ảnh ông già Noel đủ cỡ xuất hiện khắp nơi. Các em thắc mắc không biết ông già Noel là ai? Và có thật không?
Tháng 9 năm 1987, một bé gái tên là Virginia đã viết cho một tờ báo Công giáo Hoa Kỳ để hỏi về ông già Noel. Câu hỏi của cô bé là: Ông già Noel có thật không?
Vài ngày sau, trên mục quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau: “Virginia yêu dấu của bác. Điều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu đã bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.
Virginia ạ! Ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại, nhờ đó cuộc sống của cháu sẽ trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào?...”.
Được biết ông già Noel là một nhân vật lịch sử có thật. Người Pháp gọi là Cha Noel (Le père Noel). Người Anh gọi trực tiếp là Thánh Nicola (Santa Claus). Thánh Giám mục Nicola nầy được mừng lễ ngày 6/12 mỗi năm, trước lễ Giáng Sinh gần 20 ngày. Người Pháp thân mật gọi ngài là Cha Noel, vì ngài liên hệ nhiều với lễ Noel, nhất là với trẻ em. Các em mộ mến ngài như một ông già Noel. Các em được kể rằng nếu chúng ngoan, ông già Noel sẽ chui vào lò sưởi, vào phòng của chúng, bỏ bánh kẹo vào những chiếc giày các em để ở bên lò sưởi hay bỏ vào những chiếc vớ các em treo ở chân giường…
Ông già Noel sẽ tiếp tục làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc. Cũng vậy, lời Chúa của Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay mời gọi chúng ta hãy vui lên. Không phải vui vì có ông già Noel, vì quà tặng, vì những thiệp chúc mừng, vì đèn sao, máng cỏ… Những niềm vui hời hợt bên ngoài ấy sẽ qua mau nhưng niềm vui đích thực sẽ còn mãi, cả trong lúc lo âu, thất bại. Niềm vui đó bén rễ sâu trong lời cầu nguyện và đó là dấu chỉ của người Kitô hữu.
“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa!”
Qua bài đọc thứ nhất, Tiên tri Sôphônia cất lên những tiếng kêu đầy lạc quan: “Hỡi Israel, hãy hân hoan. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nhảy mừng. Chúa đã rút lại lời kết án. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi sẽ không còn sợ tai hoạ nữa”.
Thưa anh chị em,
Lời đó có an ủi được chúng ta hay không, khi mỗi ngày tai chúng ta nghe sang sảng từ trong đài phát thanh những tin tức bi đát của một thế giới đang còn nhiều điểm nóng chiến tranh, còn những cuộc tranh chấp vì bất công, vì đói khổ; khi mắt chúng ta còn thấy nhan nhản những chiếc khăn sô chít trên đầu, những đàn con mất cha mất mẹ; còn chứng kiến biết bao bệnh nhân trong các bệnh viện rên la đau đớn…
Khi nghe, khi nhìn các điều đó, có phải chúng ta là người ngoài cuộc không? Chúng ta thấy hoà bình và hạnh phúc trộn lẫn những mối nguy đang đe doạ chúng ta. Trong thực tế, chúng ta vẫn lo lắng và đau khổ, mà chính những cơn bão táp trong lòng, những cái mâu thuẫn giữa con tim, giữa lý trí, làm chúng ta xao xuyến băn khoăn. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm điều đó trong bản thân và ngài đã thốt ra những lời chân thành của một con người chân đạp đất: “Sự lành tôi muốn thì tôi không làm; còn sự không muốn thì tôi lại làm”.
Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể mỉm cười trong đau khổ và vui tươi trong thử thách, khi chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện trong đau khổ của chúng ta. Niềm xác tín này làm nảy sinh và gia tăng niềm hy vọng hân hoan. Nhưng làm sao để nhận thấy “Đấng đang đến” gần kề? Làm thế nào để nhận ra “Đấng đang ở giữa ngươi?” Gioan Tẩy Giả đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho những người hỏi ông: “Chúng ta phải làm gì?” – “Ai có hai áo thì hãy chia cho người không có. Ai có cái ăn thì cũng làm như vậy” – “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định” – “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”. Nói chung, Gioan đưa ra những hướng đi cụ thể: bác ái, chia sẻ, chấp nhận thực tại, sống hiền hoà, công bình, chính trực trong các mối tương quan xã hội. Sống như vậy là chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế, là đặt mình vào trong hàng ngũ những kẻ bé mọn của Thiên Chúa. Chính những người bé mọn này mới cảm thấy vui mừng và hy vọng, vì nhận ra Chúa sắp đến, đang đến… Ngài sẽ thay đổi tất cả, đổi mới toàn thế giới và xã hội.
Chính vì thế mà trong Mùa Vọng, Chúa Nhật III bao giờ cũng nổi bật nét hân hoan: “Anh em hãy vui lên!”. Hãy hoan hỉ vui mừng vì Chúa giải thoát đã đến và đang ở với chúng ta. Ngài đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang quy tụ muôn nước thành một dân một nước: Dân Chúa, Nước Trời. Không phải bằng vũ lực khống chế, nhưng bằng sự giải thoát loài người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, ích kỷ, nhỏ nhen, bất chính; bằng cách sống liên đới yêu thương, chia cơm sẻ áo; bằng cách sống công bình, chính trực và chan hoà với mọi người.
Anh chị em thân mến,
Có phải là điều viễn vông không, khi chúng ta nhắc lại lời mời gọi của Phụng vụ: “Anh em hãy vui lên!”. Vui làm sao được khi đông đảo dân chúng đang nghèo đói, đau khổ? Phải chăng là để nhạo cười những người này mà Giáo Hội cứ lập lại những lời cũ rích, không gắn liền với cuộc sống thực tế lúc này? Bởi vì, hơn bao giờ hết, vấn đề cơm áo, phát triển, quyền con người đang là những vấn đề nóng bỏng trên hành tinh này cũng như trong xã hội hiện tại của chúng ta.
Lời Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước đều cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng của những kẻ tin, đâu là lý do hân hoan của những người bé nhỏ của Thiên Chúa: Thiên Chúa Cứu Độ, đó là tất cả động lực của cuộc sống và cuộc chiến đầu của người tin theo Chúa Kitô. Thiên Chúa nhập thể và cứu độ là căn bản để giải quyết mọi vấn đề: Thiên Chúa nhập thể để chúng ta được sống như con cái, nghĩa là, như những con người tự do và trách nhiệm, những con người tự nguyện cống hiến cho anh em, cho xã hội. Vì vậy, trong bất cứ một hoàn cảnh bế tắc khó khăn nào, người có lòng tin rằng mọi phấn đấu của mình và của loài người đều mang một ý nghĩa cứu độ: ý nghĩa dọn đường cho Nước Trời, cho Đức Giêsu của Thiên Chúa ngự đến.
Muốn hoà mình vào niềm vui của Phụng vụ, người Kitô hữu và Giáo Hội không thể không liên đới với những người đang khao khát đổi mới, đang khát vọng phẩm giá con người. Hơn thế nữa, Giáo Hội Chúa Kitô không thể đứng ngoài những cuộc đấu tranh cho hoà bình, bình đẳng, tôn trọng con người, phát triển xã hội mà loài người đang theo đuổi. Sống Mùa Vọng là sống liên đới với người nghèo, là sống công bình với tha nhân, là sống hoà giải với hết mọi người, là sống yêu thương, an bình trong mọi hoàn cảnh, là đấu tranh cho tình huynh đệ và khơi lên niềm vui cho những ai đang chán nản, thất vọng chán chường vì không có niềm tin, vì đã mất niềm tin nơi con người, nơi xã hội và cả nơi Thiên Chúa nữa.
Vui lên anh em! Hãy vui lên trong niềm vui của Chúa!
Đây là sứ điệp của Gioan cho dân chúng. Tại đây sự khác biệt giữa Gioan và Chúa Giêsu được hiểu rõ nhất, bởi vì dù sứ điệp của Gioan là gì đi nữa, đó cũng không phải là Phúc Âm, không phải tin vui mừng, đó là tin đáng kinh sợ. Gioan đã sống trong hoang địa. Hoang địa bị cây cỏ và bụi rậm che phủ, khô như bùi nhùi. Đôi khi chỉ một tàn lửa cũng làm cháy lan tràn khiến nhiều rắn độc từ các khe hở sợ hãi chui ra ngoài để trốn cơn hoả hoạn đang đe doạ đốt cháu chúng. Gioan đã vì đám dân đến chịu phép rửa với những loài rắn đó. Người Do Thái không chút nghi ngờ trong chương trình của Chúa, dân tộc họ rất được ưu đãi. Họ tin rằng Chúa xét xử các dân tộc khác theo một luật, nhưng Ngài xét xử dân Do Thái theo một luật khác. Họ tin rằng là người Do Thái, là con cái của Ápraham thì họ được miễn trừ xét xử. Gioan bảo họ rằng đặc quyền chủng tộc chẳng có ý nghĩa gì, tiêu chuẩn xét xử của Chúa là đời sống chứ không phải dòng giống. Có ba điểm nổi bật trong sứ điệp của Gioan:
1. Nó bắt đầu bằng một lời yêu cầu mọi người phải tương trợ lẫn nhau. Đó là một Phúc Âm xã hội, Chúa sẽ không bao giờ tha cho kẻ nào thích có quá nhiều trong khi nhiều kẻ khác thì không đủ cung ứng cho nhu cầu.
2. Nó không cho phép người ta bỏ công việc mình, nhưng phải tìm sự cứu rỗi bằng cách làm tròn bổn phận mình. Người thâu thuế phải làm việc cách ngay thẳng, bộ đội làm xong nghĩa vụ. Mỗi chúng ta phải phục vụ Chúa hết lòng tại nơi Chúa đặt chúng ta. Theo Gioan, ngươi ta không thể phục vụ Chúa ở đâu tốt hơn là ngay trong chính công việc hàng ngày của mình.
3. Gioan cũng xác nhận rằng chính ông cũng chỉ là một sứ giả. Vua sẽ đến sau và Ngài sẽ đến với sự xét xử. Cái quạt lúa làm tấm ván mỏng, rộng để tung những hạt lúa trên không, hạt lúa nặng thì rơi xuống đất và trấu bay đi. Cũng như vậy, Gioan vẽ một bức tranh về sự phán xét, nhưng đó là sự phán xét mà một người có thể đối diện với lòng tin cây, nếu người ấy làm tròn bổn phận với anh em mình và trung tín trong công việc hàng ngày. Gioan là mình một trong những thầy dạy vĩ đại nhất của thế giới. Thật vậy, Gioan đã giảng về hành động và đã hành động, ông không giảng về những gì khó hiểu của thần học, ông giảng về đời sống.
Phương diện đạo đức trong lời rao giảng của Gioan (cc. 10-14) được trình bày dưới hình thức đối thoại. Cả ba lần cũng một câu hỏi được lặp lại: “Phải làm gì?”. Đâu là những thay đổi đời sống cụ thể sẽ diễn tả ra bên ngoài sự hối cải sâu xa? Lời đáp của diễn giả đáng lưu ý ở hai điểm. Một đàng nó bao gồm những hành vi xã hội của con người và không đòi hỏi hy lễ đền tội, cũng như thực hành khổ chế; đàng khác, phải giúp đỡ những người túng thiếu, phải trung thực và công bình trong nghề nghiệp của mình. Đó là những đòi hỏi vượt quá luật Môsê và bắt buộc tất cả mọi người, người không cắt bì cũng như người Do Thái. Sự cần thiết phải hoán cải có tính cánh phổ phát, cũng như ơn cứu độ được trao ban (x. 6); điều có ý nghĩa là chính đám đông hiện diện trong hoạt cảnh này.
Cũng cần ghi chú thêm là những đòi hỏi này không được đặc biệt tô điểm lời rao giảng có tính cánh chung ở các câu 7-9. Gioan không loan báo gì về sự đảo lộn các cơ cấu xã hội (so sánh với Chúa Giesu ở Lc 6,20-26); ông không đòi hỏi các người thu thuế đoạn tuyệt với người Rôma xâm lược mà họ đang cộng tác, cũng không bảo các người lính Do Thái phục vụ trong đạo binh của Hêrôđê phải đào ngũ. Ông không kêu mời ai bỏ tất cả mọi sự để theo ông; điều mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi một bậc vị vọng ở La 18,22 sẽ triệt để hơn! Đối với Luca, việc chia sẻ trở lại điều này. Ở đây chỉ cần để ý là ông Giakêu – người thu thuế (Lc 19,8) hứa với Chúa Giêsu sẽ đền bù những thiệt hại cho người khác – chính là điều Gioan đòi hỏi những người anh em mình – và dâng tặng cho người nghèo khó phân nửa gia tài của mình – đó là lời đáp của Gioan cho đám đông nghĩa là cho tất cả mọi người.
Cánh cửa chót trong lời rao giảng của vị Tẩy Giả (cc. 15-18) được khai mở bằng một câu hỏi mà mọi người đặt ra: phải chăng Gioan là phẩm phán quan thuộc dòng Đavit sẽ đến thiết lập nền hòa bình và công chính mà dân trông đợi? Rõ ràng khía cạnh cánh chung trong sứ điệp của Gioan kép chú ý thính giả hơn là khía cạnh đạo đức...
Lúc đó vị Tẩy Giả định nghĩa vai trò của mình trong tương quan với Đấng sẽ đến. Việc nhận chìm trong dòng nước khác với phép rửa bằng thần khí và bằng lửa mà Chúa Kitô sẽ ban kể từ ngày Ngũ tuần (Cv 2). Vì vậy, Gioan không xứng đáng với lao dịch chỉ dành cho hàng nô lệ, đó là cởi dép cho Đấng sẽ là người cải cách phong tục một cách quyết liệt khác với kiểu của ông. Cụm từ “Đấng đến sau tôi” (x. Mt, Mc và Ga) xác nhận lúc đầu rằng Chúa Giêsu thuộc nhóm đệ tử của Gioan đã được cẩn thận sửa chữa: Chúa Giêsu chỉ đến sau vị Tẩy Giả theo nghĩa thời gian thôi! Vị sứ giả cuối cùng, theo như Gioan mô tả, trước hết là vị thẩm phán vào thời cuối cùng; Ngài sẽ tẩy sạch dân Ngài khỏi những cáu bẩn để chúng vĩnh viễn biến mất.
Cuối cùng hai động từ tiêu biểu cho diễn từ của vị Tẩy Giả –khuyến dụ– đó sẽ là một hoạt động đặc biệt của các thừa sai Kitô giáo, Cv 2,40; 15,22 – và nhất là loan báo Tin Mừng/Phúc Âm hóa. Như thế, trước cặp mắt của Luca, vị Tiền hô khai mạc việc rao giảng trong thời đại cuối cùng. Nhưng việc Phúc Âm hóa này, về mặt hình thức, không có nội dung, trong khi mà ở thời đại Kitô, Tin Mừng thường quen được xác định rõ: Tin Mừng về Vương Quốc (Lc 4,43; 8,1; 16,16; Cv 8,12) hoặc, sau Phục Sinh, Tin Mừng về Chúa Giêsu như Đấng Kitô và Đức Chúa (Cv 5,42; 11,20). Khi không nói Tin Mừng về Vương Quốc qua môi miệng của vị Tiền hô, Luca chứng tỏ rằng Gioan rao giảng khác với Chúa Giêsu; ông dẫn vào kỷ nguyên mới, không thuộc về lĩnh vực của Chúa Giêsu. Và nếu không có vấn đề đảo lộn các giá trị trong chương trình của vị Tẩy Giả, chính bởi vì việc đảo lộn này được gắn liền cách nội tại với việc Thiên Chúa đến.
Những lời khuyến cáo của Gioan, hoàn toàn phù hợp với sứ mạng của ông trong việc sửa dọn đường cho Chúa sắp đến. Những lời giảng đó bao gồm hai giáo huấn:
1. Sửa dọn.
Như các vị ngôn sứ xưa, Gioan coi nước cứu độ như quà tặng ban một lần hay tất cả. Ý niệm về một Đấng Messia đến hai lần, lần đầu là lần sửa soạn, rồi trong ngày thế mạt là lần quyết định để hoàn tất nước Thiên Chúa, còn là cái gì xa lạ với Ngài. Vì thế Ngài đã nhìn Đấng Messia như vị Thẩm phán sẽ đến. Những lời cảnh cáo đánh dấu đặc tính quan hệ và cấp bách của cuộc sửa soạn được đòi hỏi ở đây.
‘Cuộc thẩm phán trong thịnh nộ’ sẽ đến và chẳng ai tránh được. Cái rìu đã được đặt ở gốc cây, người ta sẽ chặt những cây cằn cỗi và gỗ của nó sẽ bị vứt vào lửa. Cây nào cũng phải sai trái: đối với Israel hoa quả này là thống hối, thay đổi tâm trí, nhận biết tội riêng của mình. Nhưng những người Do thái chưa sửa soạn đủ: họ cậy mình thuộc đòng dõi huyết tộc của Abraham, và vẻ bên ngoài thuộc về dân Thiên Chúa. Thực ra, đó là tình trạng tâm trí hoàn toàn sai lầm, vì trước Đấng có thể biến hòn đá thành con cháu Abraham, thì nó chẳng có nghĩa gì.
Thay vì liên hệ huyết tộc, sẽ xuất hiện liên hệ thiêng liêng. Thay vì thuộc về dáng vẻ bên ngoài, là thuộc về bên trong, thuộc về Thiên Chúa.
Trong phạm vi tôn giáo, ai chỉ liên kết với yếu tố bên ngoài, với cơ chế hữu hình của Giáo Hội, với một chức vụ hay với một nhiệm sở chính thức hoặc với những công tác bên ngoài, với những hoạt động cá nhân mà chẳng thêm vào đó: những tình cảm, sám hối, sự nhận thức về tình trạng tội lỗi của mình và lòng ao ước chân thành một cuộc hoán cải sâu xa, thì đó chưa thể được kể là con cháu Abraham, huống nữa là con cái Thiên Chúa. Họ thuộc về ‘loài rắn độc’. Vậy ra họ là con ma quỉ chứ không phải con Chúa.
Sự cải thiện thực sự kéo theo những hoa quả hữu hiệu về sám hối, hẳn sẽ biểu lộ rõ khi con người bắt đầu làm những việc lành cách vô vụ lợi. ‘Kẻ có hai áo, hãy chia cho người không có, và kẻ có của ăn, cũng hãy làm như vậy’.
Thời nào cũng vậy, các ngôn sứ, vẫn đặt ưu tiên phong hoá trên lễ nghi, hay ít là đòi hỏi phải có những chuẩn bị về luân lý và hành vi nhân đức như yếu tố bất khả kháng của các cuộc lễ. Chính vị tẩy giả cũng đòi phải việc từ thiện không tính toán, đòi phải giúp nhau, mở rộng bàn tay như dấu chỉ của một tâm hồn quảng đại.
Hoa quả của sám hối là đức ái hoạt động phát xuất từ sự hoán cỉa nội tâm. Cái nhìn hướng lên Thiên Chúa phải làm dội lại sâu xa hơn cái nhìn hướng về tha nhân; quay về với Thiên Chúa mà không biến đổi những liên hệ với đồng loại thì chỉ là một việc đạo đức giả.
Bản văn Tin mừng còn đặc biệt nhắc tới những người thu thuế và lính tráng. Đối với dân Israel, những phần tử của hai hạng người này coi như đã hỏng vì họ tiếp xúc với dân ngoại (tự bản chất là dơ dáy) và vì nghề nghiệp của họ mang đến những hành vi bất nhân và làm giàu cách bất chính. Vị tẩy giả nghĩ khác. Ngài quảng đại đối với họ, chỉ đòi hỏi họ những cái nhỏ bé nhất: với những người thu thuế, Ngài nói: “Chớ đòi gì quá mức đã định cho các anh’. Họ phải giữ tiết độ đúng mức. Vượt quá kích thước đã định mới là điều không hợp với lòng đạo đức chứ không phải vì nghề nghiệp. Những người lính đã nhận đươc một mệnh lệnh tương tự: ‘đừng xách nhiễu, đừng vu khống cho ai, hãy bằng lòng với số lương bổng của mình’. Đó lại là một sự khuyến khích giữ giới hạn của mình. Binh nghiệp tự nó đâu phải là xấu, mà cũng chẳng có gì là đáng chê trách khi phục vụ cho thế quyền. Nhưng chắc chắn phải tố giác việc dùng sức mạnh theo sở thích, sử dụng quyền hành và khí giới cách đáng trách và sự bất mãn, là nguồn mọi tham vọng.
2. Đức Messia đến.
Dân chúng coi Gioan như Đấng Messia. Nhưng vị tiền hô cũng không phải là Vua; nên Ngài nói: ‘không phải ta đâu, mà là Đấng khác’. Vị tiền hô hướng họ tới Đức Kitô. Đó không phải là người ích kỷ, vì người ích kỷ thì vẫn muốn chiếm đoạt tha nhân, nhưng đây là người của Chúa, một người bất vụ lợi đưa đường tha nhân về với Thiên Chúa. Phải, giữa Đấng Messia và Ngài có một sự cách biệt quá lớn lao như người đầy tớ nghĩ mình không đáng cởi giây giày cho chủ mình.
Cả hai phép rửa cũng khác nhau như vậy. ‘Tôi, tôi rửa anh em trong nước, sẽ có Đấng quyền năng hơn tôi: Ngài sẽ rửa các ông trong Thánh Thần và trong lửa’. Phép rửa của Gioan chỉ là bên ngoài, như nước chảy trên thân xác, còn phép rửa của Chúa Giêsu, bên trong, như lửa thiêu huỷ tất cả, như Thánh Thần mà sức nóng của Ngài ăn sâu vào tận đáy lòng và biến đổi tất cả.
Để hoàn tất lời giảng, Gioan còn nhấn mạnh tới việc hệ trọng của giờ đã đến. Phải có vị trí nào với Chúa Kitô. Phải quyết định, vì Đức Kitô sẽ đến thi hành một cuộc phân cách. Ngài sẽ sảy sạch lúa sân Ngài, thu lúa vào lẫm, và đốt hết trấu.
Sứ điệp của Gioan đã bắt đầu bằng những lời giảng về phán xét thì cũng bằng những lời đó Ngài kết thúc. Người ta, một khi bị gọi trình toà, hẳn phải nhận thức được tầm quan trọng của lúc đó. Họ còn được tuỳ ý sắp xếp công việc, để có thể tự biện hộ cho mình. Nhưng ở đây đã thực cấp bách. Sự phân cách và phán xét đã đang xảy ra rồi: sau cùng, trình thuật Tin mừng đã ám chỉ việc này.
Thực ra dân chúng có đón nhận ‘Tin mừng’ mà họ biết nhận ra dưới những lời lẽ long trọng và có tính cách đe doạ đó. Tin mừng đã bắt đầu. Nhưng nó lại là khởi sự của một chống đối. Hêrôđê mà liên hệ tội lỗi với chị dâu bị lời Chúa cảnh cáo đã lợi dụng quyền hành của mình để bắt giam vị tẩy giả. Sự phân cách các tâm trí bắt đầu, và cùng với sự phân cách đó là sự phán xét.