Bài Tin Mừng hôm nay cho ta gặp hai phụ nữ. Cả hai đang mang thai lần đầu cách diệu kỳ. Cả: MV 4-C1
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta gặp hai phụ nữ. Cả hai đang mang thai lần đầu cách diệu kỳ. Cả hai đều được Thiên Chúa đoái thương tuyển chọn.
Theo lời sứ thần, Đức Maria đi thăm bà Êlisabét. Hai bà mẹ gặp nhau tạo điều kiện cho hai thai nhi gặp nhau. Đấng Cứu độ nhân loại đi thăm vị Tiền hô của mình. Cuộc gặp gỡ thật bình thường, nhưng lại rất linh thánh, được diễn ra trong bầu khí tràn ngập Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn luôn tác động trên Đức Maria, và làm cho thai nhi Giêsu lớn lên từng ngày. Thánh Thần đã đầy tràn Gioan từ trong lòng mẹ khiến ông nhận ra Đức Kitô và nhảy mừng chào đón. Thánh Thần bỗng chốc đến với bà Êlisabét làm bà nhận ra điều mắt thường không thấy được, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Maria đem đến cho Êlisabét niềm vui và sự phục vụ, nhưng chính Mẹ cũng nhận được sự đỡ nâng. Mẹ xác tín hơn về lời thiên sứ loan báo cho mình, khi Mẹ thấy quả thật bà chị hiếm muộn đã có thai. Mẹ ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm kín ẩn mà Mẹ âm thầm đón nhận trong lòng tin, nay lại được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà đã khiến Mẹ cất lời ngợi khen Thiên Chúa (x. Lc 1,46-55).
Cuộc đi thăm nào cũng làm tôi hiểu hơn về mình, và ý thức sâu hơn về những ơn tôi đã lãnh nhận. Maria biết mình có phúc hơn mọi phụ nữ vì Mẹ được chọn để cưu mang Đấng Mêsia. Maria biết mình diễm phúc, vì dám tin vào Lời Chúa. Cuộc gặp gỡ với bà Êlisabét giúp Maria vững tin hơn vào tính khách quan của kinh nghiệm mình được gặp Chúa.
Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Khi chấp nhận làm người, Con Thiên Chúa cần một người mẹ. Ngài được thụ thai cách lạ lùng trong lòng một trinh nữ, và Ngài đã lớn lên bình thường trong dạ mẹ. Dạ mẹ là mái nhà êm ấm đầu tiên, là Đền Thánh trước khi Con bước vào thế giới.
Khi được nuôi bằng sự sống của Mẹ Maria, Con đã thánh hóa tất cả những gì thuộc về Mẹ.
Tất cả những gì nằm trong tiến trình làm người như thụ thai, mang thai, sinh đẻ, dưỡng nuôi bú mớm ... đều trở nên thánh thiêng, vì được Con Thiên Chúa đảm nhận.
Con Thiên Chúa đã từng là thai nhi trước khi chào đời, nên mỗi thai nhi đều là hình ảnh Chúa cần trân trọng. Như Gioan nhảy mừng lúc còn trong dạ mẹ, mỗi thai nhi đã biết diễn tả buồn vui, đã cần được yêu mến. Lễ Giáng Sinh đòi ta quan tâm đến các bà mẹ và thai nhi.
Hàng năm có cả triệu vụ phá thai trong nước... Kính trọng thân xác phụ nữ, tôn trọng sự sống thai nhi: đó là Tin Mừng Giáng Sinh cho khắp thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các nhà nghiên cứu xã hội phỏng đoán có tối thiểu khoảng 2 triệu người phá thai mỗi năm trong cả nước. Bạn có biết những nguy hiểm về thể xác và tinh thần cho các bà mẹ phá thai không?
Các tệ nạn xã hội gia tăng dẫn đến đại dịch AIDS. Bạn nghĩ gì về chuyện buôn bán thân xác phụ nữ? Có cách nào giải quyết không?
Cầu Nguyện
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
Trong Chúa Nhật cuối cùng của mùa Vọng, Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp: MV 4-C2
Trong Chúa Nhật cuối cùng của mùa Vọng, Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét, giữa hai thai nhi: Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui. Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê. Chị không đi một mình trên đường xa, vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị. Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở. Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria. Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được. Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm. Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng. Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư, để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần. Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria. Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét. Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria vì chị mang lại Đấng ban Tin Mừng cứu độ. Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ và chị cưu mang Đấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa, chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người. Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, chị còn có phúc vì chị đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ. Ngài tăng trưởng như mọi người. Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé, những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt. Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ, không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi, vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa; không ai được coi thường người phụ nữ, vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Maria đi phục vụ bà Êlisabét, theo ý bạn, đâu là những đặc tính của một người phục vụ tốt?
Nhiều quốc gia chấp nhận cho phá thai. Bạn nghĩ gì về sự kiện đó?
Cầu Nguyện
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại. không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn. yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều: MV 4-C3
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang sống. Đại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến. Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Chúa đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời: “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình riêng của Mẹ, và qua lời “Xin Vâng”, Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Chúa đảo lộn chương trình sống, và cùng Chúa bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Capharnaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.
Mẹ đã “suy đi nghĩ lại trong lòng” vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Đấng Cứu Thế vì Mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: “xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Đền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.
Chính vì Mẹ là Đền Thánh nên Đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat.
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm của thiên đàng.
Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Đức Maria và bà Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Đấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người.
Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ: Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta tìm thấy nơi Mẹ Maria một mẫu gương tuyệt vời, giúp: MV 4-C4
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta tìm thấy nơi Mẹ Maria một mẫu gương tuyệt vời, giúp chúng ta sống tinh thần mùa vọng và chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Thực vậy, Mẹ Maria cũng như nhiều người Do Thái khác đã đọc và suy gẫm Kinh thánh, đã mòn mỏi trông chờ và mong đợi Đấng Cứu Thế.
Với một tâm hồn trong sạch và nhất là với lời xin vâng dưới mái nhà Nagiarét trong hoạt chảnh truyền tin, Mẹ đã trở thành người đầu tiên được diễm phúc đón nhận Chúa vào cõi lòng của mình.
Thế nhưng, có Chúa trong tâm hồn mà thôi chưa đủ, Mẹ còn đem Chúa đến cho người khác. Phúc âm thánh Luca kể lại rằng: Sau khi hay biết, nhờ hồng ân Thiên Chúa, bà chị họ của mình là Isave cũng đã có thai trong lúc tuổi già, Mẹ đã vội vã lên đường, băng qua đồi núi để viếng thăm và giúp đỡ bà chị họ trong những ngày tháng mang nặng đẻ đau.
Nhờ cuộc thăm viếng này, Mẹ đã đem đến cho gia đình bà Isave niềm hân hoan vui mừng, hay nói cách khác, nhờ cuộc thăm viếng này, Mẹ đã đem Chúa đến cho già đình bà Isave, và cùng với sự hiện diện của Chúa là niềm vui mừng và hy vọng tràn đầy. Chính vì thế, Gioan tiền hô đã nhảy mừng trong lòng bà Isave.
Còn chúng ta thì sao ?
Trong mùa vọng này việc thứ nhất chúng ta cần phải làm ngay, đó là hãy sống thế nào để thực sự có Chúa ở trong tâm hồn.
Đúng thế, như chúng ta vồn thường nói:
- Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt vời, còn tôi chỉ là kẻ tội lỗi xấu xa. Giữa Đấng thánh thiện tuyệt vời và tội lỗi xấu xa sẽ không có thành phần thứ ba, sẽ không có vị thế trung lập. Tôi phải dứt khoát chứ không thể lửng lơ con cá vàng, chơi trò đi nước đôi và bắt cá hai tay với Chúa. Đấng thánh thiện tuyệt vời và tội lỗi xấu xa sẽ không thể nào đội trời chung và sánh vai cùng bước đi bên nhau. Nơi nào có tội lỗi ngự trị, thì nơi đó không có chỗ cho tình thương của Chúa. Trái lại, muốn cho tình thương của Chúa ngự trị thì cần phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi.
Chính vì thế, chúng ta phải khử trừ tội lỗi, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, như lời kêu gọi của Gioan tiền hô:
- Hãy dọn đường Chúa đến. Quanh co uốn cho ngay. Gồ ghề san cho phẳng. Hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Việc thứ hai chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng, đó là hãy bắt chước Mẹ Maria mà đem Chúa đến cho người khác.
Đúng thế, qua hành động thăm viếng, Mẹ đã đem Chúa đến cho gia đình bà Isave thế nào, thì bằng những hành động bác ái và yêu thương, chúng ta cũng sẽ giới thiệu khuôn mặt đích thực của Đức Kitô cho những người chung quanh, để rồi cuối cùng, họ cũng sẽ nhận biết và tin theo Chúa.
Thánh Phanxicô Salêsiô nổi tiếng là một vị thánh hiền lành và nhân hậu. Ngài có một người giúp việc mắc phải tật nghiện rượu. Một hôm anh ta trốn nhà ra quán nhậu say bí tỉ, mãi tới khuya mới về, rồi nằm vật xuống ngưỡng cửa mà ngủ.
Nghe tiếng động, thánh nhân ra mở cửa. Thấy anh ta nằm đó thì nhẹ nhàng bồng anh về phòng, đặt anh ta trên chiếc giường của mình, còn mình thì nằm ngủ ở chỗ khác.
Ban sáng, vừa thức dậy, thấy mình nằm trên giường của thánh nhân, anh ta hoảng hốt vội chạy tới quì dưới chân thành nhân xin lỗi và hứa sẽ chừa bỏ rượu chè, hoán cải bản thân và làm lại cuộc đời.
Từ đó, anh ta đã dứt khoát với tật nghiện rượu và trở nên một người tốt lành.
Hãy khử trừ tội lỗi để trở nên người có Chúa trong tâm hồn, đồng thời bằng những hành động bác ái và yêu thương, hãy đem Chúa đến cho những người chung quanh. Đó là hai việc chúng ta cần phải làm ngay theo mẫu gương của Mẹ Maria trong mùa vọng này.
Đoạn Phúc âm mà Giáo Hội gởi đến cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa vọng kể lại biến cố: MV 4-C5
Đoạn Phúc âm mà Giáo Hội gởi đến cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa vọng kể lại biến cố Mẹ Maria đến viếng thăm bà Elisabéth liền sau khi được thiên thần truyền tin cho biết Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Một Ngài.
Chúng ta có thể hình dung được niềm vui sâu xa của Mẹ Maria sau khi đã khiêm tốn thưa vâng, chấp nhận cộng tác với chương trình của Thiên Chúa để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Mẹ do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài là niềm vui và chắc chắn Mẹ Maria trong lúc cưu mang Con Thiên Chúa trong cung lòng mình, Mẹ được diễm phúc hơn ai hết, sống kết hiệp với Con Mẹ vừa là Con Thiên Chúa và cũng vừa là Chúa của Mẹ.
Do đó, khi được hưởng nếm niềm vui, Mẹ đã mau mắn bộc lộ niềm vui mừng đó trong bài ca tạ ơn: “Linh hồn tôi chúc tụng Chúa”. Khi đến viếng thăm bà Elisabéth. Mẹ không giữ niềm vui đó cho chính mình, nhưng muốn chia sẻ với người khác. Sự hiện diện của Chúa nơi Mẹ càng giúp cho tâm hồn đã sẵn sàng quảng đại của Mẹ trở nên dịu dàng, quảng đại hơn nữa để nhìn thấy nhu cầu cần thiết được sự trợ giúp của anh chị em xung quanh.
Niềm vui và thái độ phục vụ quảng đại là hoa trái không thể chối cãi được của sự hiện diện của Thiên Chúa trong một người. Mẹ Maria là mẫu gương chỉ đường cho chúng ta, cho mọi đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô.
Điểm thứ hai đáng chúng ta chú ý trong lần gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Elisabéth là vai trò của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Mẹ điều mà không một quyền lực trần gian nào có thể làm được, đó là làm cho Mẹ trở nên Mẹ của Con Thiên Chúa mà vẫn duy trì trọn vẹn sự đồng trinh. Và Chúa Thánh Thần cũng hiện diện nơi bà Elisabéth để soi sáng cho bà nhìn ra giờ ân sủng đã đến, nhìn ra nơi con người đến thăm mình kia là Mẹ của Thiên Chúa.
Nhìn ra hạnh phúc đích thực của một người không hệ tại ở điều gì khác hơn là sự vâng phục kính tin vào lời Thiên Chúa: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”. Thực tại mà Mẹ Maria và bà Elisabéth đang sống không phải là thực tại phàm trần do con người tạo nên, nhưng là thực tại siêu phàm, thiêng liêng do Thiên Chúa thực hiện và con người chỉ có thể nhận ra nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần mà thôi, vừa đồng thời được mời gọi cộng tác vào đó nhờ qua thái độ khiêm tốn, vâng phục và kính tin.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: Một hôm mẹ đến thăm một nhà thương Anh Quốc rất tối tân, khung: MV 4-C6
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: Một hôm mẹ đến thăm một nhà thương Anh Quốc rất tối tân, khung cảnh và các phòng ốc của nhà thương khang trang sáng sủa, trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng tiện nghi vô cùng tối tân, tương xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra các y tá và nhân viên làm việc trong nhà thương đều nhã nhặn, nhưng mẹ nhận thấy một điều kỳ lạ và hỏi vị bác sĩ trưởng đang hướng dẫn mẹ đi thăm nhà thương:
Thưa bác sĩ, tại sao các người bệnh nhân cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy ?
Câu trả lời của viên y sĩ giám đốc nhà thương rất đơn sơ nhưng thoáng vẻ buồn: Dạ thưa, là vì họ luôn luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm họ nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ.
Ngay từ thời khai sinh, Giáo Hội đã luôn luôn khuyến khích tìm hữu viếng thăm những người già cả, bệnh tật, ốm yếu, các tù nhân, người nghèo khó và tất cả những ai cần sự trợ giúp, an ủi và nâng đỡ, nghĩa là Giáo Hội thôi thúc tín hữu thực thi Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu và nhìn ra gương mặt của Ngài nơi các anh chị em đau khổ và bị bỏ rơi.
Các bài đọc trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về con đường nghèo khó, tầm thường và bé nhỏ mà Thiên Chúa đã dùng để đến với nhân loại và các hệ lụy của sự lựa chọn ấy. Sách Ngôn sứ Malakia là một lời sấm thuộc loại lời sấm cứu thế, được thánh sử Matthêu nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sở dĩ Giêrusalem đã không chu toàn sứ mệnh này vì các tội lỗi và bất trung nó đã vấp phạm, khiến cho nó không có khả năng thực hiện nhiệm vụ ấy. Do đó, Thiên Chúa đã chọn một nơi khác xa xôi, bé nhỏ và hẻo lánh không ai ngờ tới. Đó là làng quê Bethlem, trước đây gọi là Efphata. Đấng Cứu Thế và dòng tộc của Ngài sẽ bắt nguồn từ đó chứ không phải tại thủ đô Giêrusalem hay là một thành phố lớn ở Bethlem. Thiên Chúa chọn gia đình ông Jessé, cha của Đavid và là ông tổ của thánh Giuse bạn với Đức Trinh nữ Maria, người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu thế.
Như thế, Chúa Giêsu Kitô xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại tại làng quê bé nhỏ. Bethlem này cách xa khung cảnh huy hoàng vĩ đại của các thành phố lớn thuộc các đế quốc vùng Trung đông. Ngài đã bước vào gia đình nhân loại như một trẻ thơ bé bỏng yếu đuối, trong một gia đình tầm thường như hàng ngàn, hàng vạn gia đình thường dân khác.
Tuy nhiên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì là tình cờ cả, các lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa như làng quê Bethlem, cuộc sống khiêm tốn, điều kiện lúc bé bỏng, sự mỏng giòn yếu đuối của con người đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, bởi vì Đấng xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị với chính uy quyền của Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân loại. Kiểu cách lựa chọn ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ lại càng nổi bật hơn trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Luca.
Maria một thiếu nữ vô danh, con của một gia đình làng quê Nagiarét được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Đấng Cứu thế, con của Ngài. Phước lành Thiên Chúa đổ tràn đầy trên trinh nữ Maria cũng là phước lành Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại. Trong dòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu là phước lành, nhưng phước lành cao quí và trọng đại nhất là Ngài đã ban chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế cho nhân loại.
Lời chào của bà Elisabéth khi thấy trinh nữ Maria đến thăm mình và lời kinh chúc tụng của trinh nữ Maria đều ngợi khen đến cách thế Thiên Chúa lựa chọn con đường dẫn Ngài đến cuộc gặp gỡ cứu độ loài người. Con đường bé nhỏ nghèo nàn, khiêm tốn và kín nhiệm. Nhiều người không chịu được ý tưởng Con Thiên Chúa phải nhập thể làm người trong lòng một phụ nữ, và mở mắt chào đời từ cung lòng của một bà mẹ. Do đó, câu chào của bà Elisabéth: “Em ơi, em thật có phúc hơn mọi phụ nữ và Giêsu con em được chúc phúc” khiến cho họ khó chịu.
Nhưng đây là một sự thật, một sự thật lịch sử minh chứng cho thấy tất cả cái nghiêm trọng của biến cố Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người và sinh ra từ cung lòng của một người đàn bà trong gia đình nhân loại. Hoa trái tuyệt diệu ấy, Người Con ấy đã do hoạt động và quyền năng của Chúa Thánh Thần nên đã được cưu mang trong cung lòng của trinh nữ Maria.
Nhưng cũng như bất cứ bào thai nào khác, con người được sinh ra trên trần gian đều gắn liền với xác thịt, máu huyết của bà mẹ. Và để nhập thể làm người, Con Thiên Chúa đã cần đến cung lòng của một bà mẹ. Trinh nữ Maria đã không tiếp nhận Ngôi Lời trong linh hồn mình, mà đã tiếp nhận Ngài trong chính thân xác mình, trong chính cung lòng của mình. Và Chúa Giêsu hoa trái tuyệt diệu của ơn cứu rỗi ấy đã trở thành một bào thai, nhận chịu mọi luật lệ tâm sinh vật lý của một bào thai. Thân hình, lớn lên, phát triển trong thời gian, giãy giụa đợi chờ trong lòng Mẹ, được Mẹ nuôi nấng bằng chính máu huyết của bà như bất cứ một thai nhi nào khác. Sự kiện Con Thiên Chúa nhập thể làm người lớn lên từ ấy tỏ hiện rõ ràng qua hình ảnh cụ thể tròn trịa của bụng mẹ mình ngày càng lớn lên trong thời gian. Hoa trái gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh thực phẩm để hưởng nếm, để ăn, bồi bổ và nuôi sống. Hoa trái phát sinh từ sự sống và diễn tả sự sống, nó có nhiệm vụ dưỡng nuôi sự sống và không thể có sự sống mà không có hoa trái.
Sự kiện Chúa Giêsu là hoa trái, là bào thai, là sự sống lớn lên trong cung lòng Mẹ Maria, chứng minh Thiên Chúa không phải là một lý thuyết, một tư tưởng hay một giả thuyết. Thiên Chúa cũng không phải là một luận lý mà Ngài là một hoa trái Thiên Chúa ban để dưỡng nuôi, để cứu thế giới này khỏi chết đói. Mẹ Maria đã không nói nhiều mà chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ, thầm lặng, ẩn dật, cưu mang Chúa Giêsu trong lòng rồi hiến dâng Ngài cho chúng ta. Sự phong phú không cần lời, ánh sáng không cần lời nói và sự sống với hơi thở và nhịp đập của con tim chính là sứ điệp. Khi tâm hồn càng trống rỗng khô cằn bao nhiêu thì con người càng nhiều người và gây nhiều tiếng động bấy nhiêu.
Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong tâm hồn, nhưng chúng ta chỉ có thể cưu mang Chúa Kitô phong chức và hữu hiệu như Mẹ Maria khi chúng ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ, yêu thích chọn lựa con đường và kiểu cách sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ, như người khiêm hạ. Kiểu cách chọn lựa con đường gặp gỡ và cứu rỗi nhân loại trên đây cũng được nêu bật trong thư gởi giáo đoàn Do thái hay diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu.
Biến cố Chúa Giêsu Con Thiên Chúa nhập thể làm người là một biến cố trọng yếu và là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, bởi vì nó mở cửa ra một kỷ nguyên mới, nó vượt xa quan niệm cũ của Do thái giáo để liên hệ giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa con người và Thiên Chúa. Do thái giáo đóng khung các liên hệ này trong đền thánh, trong việc dâng cúng các lễ vật và tuân giữ luật lệ, mặc dầu các sinh hoạt này đã có nhiệm vụ và vai trò rất quan trọng trong lịch sử cuộc sống tinh thần của dân tộc Israel, Chúa cũng không thể trao ban ơn cứu độ cho con người. Nếu muốn được ơn cứu độ, con người phải tìm trở về với chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với nó ngay từ thời tạo dựng, nghĩa là trước khi con người phạm tội.
Cần phải nhận biết Thiên Chúa và thánh ý Ngài, và lấy đó làm trung tâm lịch sử đời mình và lịch sử cứu rỗi. Cần phải qui hướng cuộc sống của mình theo chương trình và ý muốn của Thiên Chúa và hoán cải trở về với Ngài. Thái độ sống này đòi buộc chúng ta không được tách khỏi cuộc sống lòng tin ra khỏi các sinh hoạt thường ngày. Bởi vì chúng ta không chỉ là Kitô hữu khi cử hành các nghi lễ phụng vụ mà thôi, nhưng là trong suốt ngày sống, trong mọi công việc khác nhau. Tách rời cuộc sống lòng tin khỏi các sinh hoạt và cung cách hành xử thường ngày là chúng ta khước từ việc tin nhận biến cố nhập thể của Chúa Giêsu. Bởi vì khi nhập thể, Chúa Giêsu chấp nhận qui hướng toàn cuộc sống của Ngài theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Này con xin đến để thực thi ý Cha”. Và Chúa Giêsu đã sống mọi giây phút đời mình dưới ánh sáng chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, khi biết noi gương Chúa Giêsu sống tinh thần nhập thể trọn vẹn ấy, là chúng ta đón nhận sứ điệp Giáng sinh đúng đắn và trọn vẹn nhất vậy.
Có những hoàn cảnh mà trong đó sự mới mẻ xuất hiện: một phụ nữ mang thai, một cây hoa sinh: MV 4-C7
Có những hoàn cảnh mà trong đó sự mới mẻ xuất hiện: một phụ nữ mang thai, một cây hoa sinh nụ, một gói quà sắp mở, một món ăn sắp lấy ra từ trong lò. Đó là những thời điểm kích thích thần kinh. Trẻ con nôn nóng xé tờ giấy gói quà, trở cái thìa trong đĩa. Những lúc mà vợ chồng đoán xem đứa con sẽ như thế nào. Thời gian chín mùi kết thúc, việc nảy sinh bắt đầu… vào thời giáng sinh đất trổ hoa đơm trái.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nhắc đến đất đai, nguồn gốc và tận cùng. Một trái đã sẵn sàng để được hái. Muốn đánh giá tốt hơn trái đó ta hãy phân tích mảnh đất sản xuất ra nó. Người ta nói: “Cây nào, trái ấy. Ruộng nào, lúa ấy”. Đất và ruộng ở đây là những đoạn Thánh Kinh chúng ta vừa nghe đọc.
Bài đọc một của ngôn sứ Mikêa đưa chúng ta trở lại mảnh đất tổ tiên. Chúa Giêsu xuất phát từ một dòng tộc, một lịch sử. Ngài nói tiếng nói của cha ông, mang một tên quen thuộc trong thôn xóm: “Hỡi Bêlem Epphata, chi tộc bé nhỏ nhất trong các chi tộc Giuđa, từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng sẽ cai trị Israel”.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ là con người lịch sử do bởi di sản đã nhận được. Ngài sẽ dấn thân trong lịch sử ấy, trong dòng chảy của biến cố. Ngài sẽ tham gia vào cộng đoàn của Ngài, như ngôn sứ Mikêa loan báo: “Ngài sẽ đứng lên và sẽ là mục tử của họ”.
Bài đọc hai, trích từ thư Do thái, nói đến một loại đất khác còn thân thiết với chúng ta hơn là mảnh đất của nền văn hóa chúng ta. Người ta nói đến chất liệu làm nên xương thịt của chúng ta. “Chúa không muốn hy tế và của lễ, nhưng Ngài đã tạo cho con một thân xác”.
Hoa quả của Giáng sinh đầu tiên là Thiên Chúa nhập thể bằng xương bằng thịt. Chúa Giêsu là con cái của mảnh đất xác thịt từ đó mỗi người được sinh ra. Hoa quả mong manh. Hoa quả dễ hư nát nhưng cũng là cái vỏ cần thiết. Chúa Giêsu không phải là một bóng ma, cũng không phải là một giấc mơ, lại càng không phải là một ông già Noel. Ngài là người bằng xương bằng thịt, và có lẽ không đẹp như người ta hình dung hay tưởng tượng.
Và đây là mảnh đất thứ ba sẽ ban cho chúng ta Chúa Giêsu: mảnh đất của con người. Một phụ nữ, Đức Maria. Một phụ nữ đi đến gặp gỡ kẻ khác, cởi mở đối với tha nhân: “Maria nhanh nhẹn lên đường, bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabét”.
Chúa Giêsu sẽ thuộc về mảnh đất này, thuộc về phẩm chất hữu thể này: là quả được chúc phúc từ lòng Đức Maria, như ta vẫn đọc trong kinh Kính Mừng, một quả được chúc phúc sẽ mang sự chúc lành đến cho kẻ khác, sẽ làm cho họ vui lên: “Bởi đâu tôi được diễm phúc Mẹ của Chúa đến viếng thăm tôi? Vì khi tôi nghe lời chào của em, hài nhi đã nhảy mừng trong lòng tôi”.
Vào dịp Giáng sinh những cuộc gặp gỡ thật quan trọng, những cuộc hội họp gia đình, bạn bè, chính là một trong những hoa quả tốt đẹp nhất của Giáng sinh. Những cuộc hội họp này là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thiên Chúa hiện diện chính là Chúa Giêsu: con người phát xuất từ một lịch sử và dấn thân vào lịch sử, con người bằng xác thịt, có thật, mỏng giòn, và con người của sự gặp gỡ. Và những mảnh đất này đã trổ sinh hoa trái tốt đẹp dường ấy cũng là những mảnh đất nơi chúng ta mọc lên. Vậy xin Chúa Giêsu làm nở ra nơi mỗi người chúng ta gương mặt của Ngài.
Viếng thăm nhau là điều rất bình thường trong cuộc sống con người. Nhưng với thánh Luca: MV 4-C8
Viếng thăm nhau là điều rất bình thường trong cuộc sống con người. Nhưng với thánh Luca, việc Đức Mẹ đi thăm viếng bà Isave ngoài ý nghĩa thông thường của một cuộc viếng thăm, nó còn mang một nội dung giáo lý rất sâu xa.
Thánh Luca đã đối chiếu cuộc viếng thăm này với cuộc cung nghinh hòm bia giao ước đã được ghi lại trong sách Samuel quyển thứ 2. Chúng ta có thể ghi nhận mối liên hệ giữa hai bản văn Thánh kinh Cựu và Tân ước qua hai chi tiết sau đây:
. Khi Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Israel trên núi Sinai, Người đã ban mười giới răn được khắc ghi trên hai bia đá, và Người truyền phải đặt hai bia đá ấy vào trong một cái hòm gọi là hòm bia giao ước. Hòm bia ấy là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Sách Samuel kể lại rằng: Khi vua Đavid thống nhất đất nước đã bị phân ly trước đó, ông nhất định đưa hòm bia giao ước về thành thánh Giêrusalem. Cuộc cung nghinh hòm bia là một niềm vui rất lớn đối với người Do thái, đến nỗi vua Đavid đã như trẻ con, vừa đi, vừa hát, vừa nhảy múa trước hòm bia.
Mẹ Maria cưu mang Chúa Giêsu trong lòng và đi đến thăm bà Isave cũng đã mang lại niềm vui rất lớn cho bà và ngay cả thai nhi trong lòng bà cũng đã nhảy mừng.
. Cuộc cung nghinh hòm bia giao ước không về Giêrusalem ngay, nhưng dừng lại ở nhà ông Obed ba tháng. Trong thời gian này, gia đình ông đã nhận được biết bao nhiêu là phúc lộc. Cũng vậy, Mẹ Maria mang Hài Nhi Giêsu trong lòng đã ở lại nhà bà Isave ba tháng và cũng đã đem đến cho gia đình bà nhiều ân phúc.
Như vậy, điểm giáo lý quan trọng hàm chứa trong trình thuật thăm viếng này là: Bào thai trong lòng Trinh Nữ Maria chính là Thiên Chúa. Ngày xưa bia giao ước là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngày nay, chính Thiên Chúa đã làm người và hiện diện thực sự giữa con người chứ không qua dấu chỉ nữa. Cung lòng Đức Maria đã trở nên nơi cho Thiên Chúa ngự trị trong những ngày tháng đầu đời làm người. Cung lòng ấy đã được coi là hòm bia của Thiên Chúa như trong kinh cầu Đức Bà chúng ta vẫn thường đọc: Đức Bà như hòm bia Thiên Chúa vậy.
Nối kết nội dung giáo lý mà chúng ta vừa trình bày ở trên với ý nghĩa bình thường của một cuộc viếng thăm, chúng ta sẽ khám phá ra được một hướng dẫn rất cần thiết cho đời sống đạo của chúng ta hôm nay. Hướng dẫn đó là: Hãy mang Chúa đến cho anh em bằng những bước đi của tình thương.
Mẹ Maria đã đến với bà Isave chỉ vì bác ái, chỉ vì tình thương. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui, để giúp đỡ người chị em. Trong tình yêu thương ấy, bước đi của Mẹ đã trở thành bước đi của Thiên Chúa đến với con người. Và chính trong khi thực hiện tình yêu thương, Mẹ đã đem Chúa đến cho người chị em của mình.
Đức tin của chúng ta hôm nay cũng cần phải được diễn tả bằng ngôn ngữ của tình thương. Bởi chỉ có tình thương mới đụng chạm đến trái tim con người, mới len lỏi vào được tận cõi thâm sâu của lòng người, nhờ đó mới làm cho người ta tin nhận Thiên Chúa một cách dễ dàng. Khi sống tình yêu thương đối với anh em mình thì đó đã là một lời tuyên xưng niềm tin, là một cuộc cung nghinh Thiên Chúa, là mang Chúa đến cho anh em, và là một việc làm bày tỏ sự tôn thờ rất đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng đã sống và chết vì yêu thương.
Hôm nay Chúa nhật thứ IV Mùa vọng, Giáo Hội trình bày cho chúng ta về hình ảnh của Mẹ: MV 4-C9
Hôm nay Chúa nhật thứ IV Mùa vọng, Giáo Hội trình bày cho chúng ta về hình ảnh của Mẹ Maria như là mẫu mực của người có niềm tin. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong lòng Mẹ đã thúc đẩy Mẹ lên đường đi thăm viếng bà chị họ Isave. Qua biến cố đó, Mẹ Maria đã thực thi hai giới răn căn bản nhất trong đạo, đó là mến Chúa và yêu người.
Tình yêu Chúa phải là sức đẩy con người tìm đến với tha nhân. Trong tâm tình chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Những chuẩn bị đón mừng Chúa đến của chúng ta có được cụ thể hóa bằng những sự đón tiếp chân thành mật thiết mà chúng ta đã dành cho tha nhân không ? Những kẻ không nhà, không cửa, những người khốn khổ cùng tận có tìm được một chút nương tựa nơi lòng quảng đại của chúng ta không ?
“Ngày ấy Maria chỗi dậy vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến với một thành xứ Giuđêa, Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave”. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã quen thuộc với những dòng trên đây, khung cảnh đã trở thành đề tài cho không biết bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật. Hai người thiếu phụ đang mang thai, có họ hàng với nhau, tìm đến gặp nhau để giúp đỡ nhau. Hơn nữa, Maria người em họ ở lại ba tháng với người chị họ của mình.
Chúng ta có thể tưởng tượng được những gì mà hai người đàn bà trao đổi cho nhau để giúp đỡ nhau, cũng như những lời tâm sự hỏi han mà họ chia sẻ cho nhau. Thế nhưng, thánh Luca tác giả đoạn Tin Mừng hôm nay đã không ghi lại một chi tiết nào về những giai thoại quí giá ấy. Nhưng trọng tâm của biến cố mà tác giả muốn nêu bật chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu tuy còn trong lòng Mẹ đã là nhân vật chính của bức tranh, Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Đó là tất cả những gì mà thánh Luca muốn làm nổi bật nơi biến cố Đức Maria đi thăm viếng người chị họ Isave.
Lời chúc tụng của bà Isave và sự nhảy mừng của Gioan tẩy giả đã được thánh Luca ghi lại, gợi lên cho chúng ta việc dân Do thái kiệu hòm bia Thiên Chúa về thành thánh Giêrusalem. Vua Đavid vừa nhảy múa trước hòm bia của Thiên Chúa, vừa kêu lớn: “Bởi đâu hòm bia Thiên Chúa đến nhà tôi”.
Đối với người Do thái trong Cựu ước, hòm bia giao ước có chứa đựng mười giới răn, chính là biểu tượng về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài. Mang Ngôi Hai Thiên Chúa trong lòng, Mẹ Maria cũng được ví như hòm bia của Thiên Chúa. Mẹ Maria chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa với Giáo Hội. Nhờ Mẹ Maria, Thiên Chúa trở thành Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở với con người. Niềm vui no thỏa của bà Isave và hài nhi nằm trong lòng bà cũng phải là niềm vui của chúng ta trong Mùa Giáng Sinh này.
Hằng năm cứ đến Mùa Giáng sinh, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta sống một cách sâu sắc chân lý căn bản nhất trong niềm tin của mình: Đó là Thiên Chúa làm người để mặc cho cuộc sống của chúng ta một chiều kích thần linh.
Hai người chị em họ gặp gỡ nhau, hai người đàn bà trò chuyện với nhau, đó là chuyện thường ngày như cơm bữa trong cuộc sống của chúng ta. Thế nhưng, chính do sự hiện diện của Chúa Giêsu mà cuộc gặp gỡ thường ngày ấy đã trở thành một biến cố, hay đúng hơn thành một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Do đó tất cả mọi sinh hoạt của con người dù là những việc làm vô danh phiền toái nhất cũng đều có thể là một thể hiện của một tình yêu Thiên Chúa, cũng đều có thể là một loan báo Tin Mừng. Thánh Phaolô đã không ngừng nhắc nhở chúng ta: “Dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm việc gì, anh em hãy làm sáng danh Chúa”.
Chúng ta hiệp nhau trong thánh lễ ngày Chúa nhật để cử hành bí tích tình yêu của Thiên Chúa. Bánh Thánh và Rượu Thánh tượng trưng cho cả cuộc sống của chúng ta, cũng như bánh và rượu ấy sẽ trở thành Mình và Máu Chúa Giêsu, thì toàn thể cuộc sống của chúng ta cũng được Chúa đón nhận để trở thành nơi gặp gỡ giữa Ngài và con người.
Gặp gỡ Chúa Giêsu trong những phút ưu việt trong thánh lễ đã đành, con người còn gặp gỡ Chúa qua từng phút giây sinh hoạt trong cuộc sống. Bàn thờ không chỉ ở trong nhà thờ, bàn thờ còn là cả cuộc sống. Chính cuộc sống với không biết bao nhiêu phấn đấu và hy sinh cùng với những cố gắng tin yêu phó thác. Đó chính là bàn thờ để gặp gỡ Chúa và loan báo Tin Mừng của Ngài cho mọi người.
Mẹ Maria là người lữ hành đức tin kiểu mẫu. Mẹ mang Chúa Giêsu trong mình, Mẹ đã sống từng phút giây trong cuộc sống như một cuộc gặp gỡ triền miên với Chúa, với tha nhân. Mẹ đã chỉ cho chúng ta con đường phải đi, đó là sống một cách sung mãn từng phút giây hiện tại, biến một phút giây hiện tại và cuộc gặp gỡ thành một lời loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu mà chúng ta đón nhận qua Bí tích Thánh Thể mang lại sức mạnh, để chúng ta cũng lên đường và sống như Mẹ Maria.
Ta học được những gì trong việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét? Thăm viếng có phải là một: MV 4-C10
1. Ta học được những gì trong việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét? Thăm viếng có phải là một việc mà tình yêu đòi buộc phải có không?
2. Thăm viếng cũng là dịp đem Chúa đến cho người khác. Nhưng đem Chúa đến cho người mình thăm viếng bằng cách nào?
3. Giữa những hành động cụ thể biểu lộ yêu thương đích thực, và những lễ tế, kinh kệ làm theo thói quen, Thiên Chúa ưa chuộng cái nào?
Suy tư gợi ý:
1. Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương
Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Êlisabét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả. Chắc chắn việc Đức Maria đến thăm bà Êlisabét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Êlisabét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Đức Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế!
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói: «Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ», ngài gọi cái khổ ấy là «ái biệt ly khổ». Tục ngữ có câu: «Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!» (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Đến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.
2. Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương
Khi Đức Maria đến thăm bà Êlisabét, Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlisabét vui mừng, mà hài nhi trong bụng bà cũng vui theo mà «nhảy lên» trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Êlisabét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Đức Maria cùng với bào thai Giêsu chẳng những mang niềm vui, mà còn biến đổi hai mẹ con bà Êlisabét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.
Như thế, đến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Có những người nói về Chúa rất nhiều và rất hay, nhưng họ không thật sự có Chúa trong bản thân họ. Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đức Maria có nói gì về Chúa với bà Êlisabét đâu! Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
3. Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng
Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Do tình yêu vô biên phổ quát của Ngài, Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Nhưng hiện nay Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta. Khi ta đến với họ, Ngài cũng muốn ta coi họ như hiện thân của Ngài, nghĩa là như chính bản thân Ngài.
Ngài đã chẳng từng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi!» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài: «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…» (Is 1,11-15; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng!
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
Đây là đoạn Tin Mừng Đức Mẹ Maria viếng thăm bà Elizabeth, trước đoạn này là hai sự việc: MV 4-C11
Đây là đoạn Tin Mừng Đức Mẹ Maria viếng thăm bà Elizabeth, trước đoạn này là hai sự việc truyền tin: Thiên Thần truyền tin cho ông Dacaria về sự sinh hạ Gioan Tẩy Giả khi bà Elizabeth đã về già và việc truyền tin cùng trinh nữ Maria về sự giáng sinh của Đức Giêsu.
(c.39) Chuyến đi từ Galilê nơi Maria ở tới làng ở Giudêa nơi Elizabeth ở cũng mất tới bốn ngày đường. Một trinh nữ mười bốn tuổi như Maria mà đi xa một mình như vậy trong một xã hội trọng nam giới, thì thế nào cũng bị mang tiếng không tốt và không lương thiện.
Có lẽ Luca không có ý định giới thiệu Maria như một biểu tượng của một người làm việc bác ái, bởi vì trong câu 56 tiếp theo sau Maria đã trở về nhà ngay lúc mà Elizabeth cần nhất là lúc sanh đẻ.
Ý định của Luca có tính cách văn chương và thần học, ông đem hai người sắp làm mẹ lại với nhau để cho thấy cả hai cùng nhận ra và ngợi khen Thiên Chúa sống động trong đời sống của mỗi người.
(v.41) Gioan Tẩy Giả nhảy mừng trong bào thai của bà Elizabeth gợi tới sự cựa quậy của Esau và Jacob trong bụng bà Rebekah như trong Cựu Ước, Sách Sáng Thế 25:22, đây là điềm báo trước thân phận của hai đứa trẻ.
(v.43) Ngay cả trước khi chào đời, Đức Giêsu đã được gọi là Đấng Mesia, một danh hiệu gắn liền với sự sống lại.
Một Điểm Chính
Mẹ Maria là người Kitô hữu đầu tiên trong Tân Ước bởi vì Mẹ đã tin vào lời Chúa hứa, một lòng tin hoàn toàn vào Chúa. Cũng như Mẹ Maria, phúc thay cho những ai tin tưởng vào Chúa.
Suy Niệm
Hồi tưởng lại một kỵ niệm vui mừng và hân hoan khi Chúa là một phần trong đời sống của bạn. So sánh kỵ niệm này với niềm vui và hãnh diện của một người sắp làm mẹ khi đứa con đá trong bụng. Bạn có cùng niềm hân hoan như Mẹ Maria và bà Elizabeth khi có Chúa ở cùng không?
Đọc kinh Kính Mừng thật chậm rãi từng chữ một và tưởng tượng bạn là bà Elizabeth đang đón chào Maria còn rất trẻ. Bạn thấy gì trên gương mặt, trên cử chỉ của Mariả Bạn sẽ thốt lên những lời gì?
Biết bao người trên thế giới cô đơn, họ cần người để trò chuyện. Bạn có khi nào thăm viếng nhà thương, nhà dưỡng lão hay nhà tù chưa? Khi thăm viếng một người bạn, một người bà con, bạn thường có ý gì?
Vào tháng Ba năm 1987, nhà nhật ký Maura Rossi viết về câu truyện của Anne Donahue. Anne: MV 4-C12
Vào tháng Ba năm 1987, nhà nhật ký Maura Rossi viết về câu truyện của Anne Donahue. Anne tốt nghiệp Trường Đại Học Georgetown và tình nguyện giúp việc tại một trung tâm tên là Covenant House tại thành phố New York. Mục đích của trung tâm này là giúp chỗ ăn chỗ ở cho những người vô gia cư.
Mỗi buổi tối vào lúc mười giờ, Anne và những người tình nguyện khác chất đồ ăn lên xe. Trong vòng vài tiếng đồng hồ, chiếc xe van với hình một con bồ câu trên một cánh cửa, sẽ đi vòng quanh các vùng trong thành phố mà có những thanh thiếu niên mãi dâm. Những người tình nguyện sẽ phát cho những người đó những chiếc bánh mì sandwich và sô-cô-la nóng.
Có lẽ các bạn đang suy nghĩ, tại sao trung tâm Covenant House mong muốn đạt mục đích gì khi họ cứ đi phát đồ ăn mỗi đêm như thế?
Anne trả lời cho câu hỏi này là: "Chúng tôi đi ra ngoài đó, bởi vì chúng tôi biết rằng có rất nhiều người trẻ còn chưa biết đến trung tâm Covenant House. Khoảng chừng hai phần ba trong số đó chưa từng bao giờ nghe biết về chúng tôi."
Anne còn tiếp rằng qua việc từ thiện đó, họ còn đạt được một điều khác nữa. Khi họ làm như vậy thì họ cho những người trẻ mãi dâm đó biết rằng họ được yêu thương, và còn có những người đến với họ mà không phải để mua hoặc bán họ.
Liên quan đến năm đầu tiên trong tư cách là một người tự nguyện, Anne nói: "Tôi đã trải qua những lúc căng thẳng. Chúa là Chúa gì đây mà để cho những người trẻ đó phải đau khổ như thế?... Sau hết tôi đã vượt qua... Chúa không xuống thế gian và chỉ cho tôi biết tình yêu của Ngài. Chúng ta phải để cho tình yêu của Chúa làm việc qua chúng ta."
Cô ấy nói rất đúng. Thiên Chúa đã làm việc đó qua con người của Chúa Giêsu. Đó là tất cả ý nghĩa của Mùa Vọng. Vì thế: "Chúng ta phải để cho tình yêu của Chúa làm việc qua chúng ta."
Cũng như Chúa Cha đã làm việc qua Chúa Giêsu khi Ngài còn sống trên thế gian này thế nào, thì Chúa Giêsu dậy chúng ta cũng hãy để cho Chúa Cha làm việc qua chúng ta trong cuộc sống dương gian này như thế. Chúng ta hãy trở nên những dụng cụ của ơn Chúa cho người khác, như chính Chúa Giêsu đã làm.
Cô Anne đã phục vụ như là một dụng cụ của ơn Chúa đến với rất nhiều người trẻ đang sống trong thiếu thốn. Cô đã làm điều mà Mẹ Maria đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay. Cô đã thưa tiếng xin vâng với sự mời gọi của Thiên Chúa để trở nên phương tiện cho tình yêu của Ngài trong thế giới ngày nay.
Điều mà Anne và Mẹ Maria đã làm thì chúng ta cũng phải làm. Chúng ta không biết rằng nếu Chúa Giêsu có xuống thế gian làm người một lần nữa, thì sự việc đó phải qua chúng ta.
Đôi lần chúng ta đã quên mất rằng, trong một số trường hợp trong cuộc sống trần gian này, Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy nói điều mà Mẹ Maria đã nói: "Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy làm nơi tôi theo như lời ngài truyền."
Chúa Giêsu đã sinh xuống trần gian. Tại sao Chúa Giêsu đã xuống thế gian? Bởi vì qua việc làm đó, chúng ta học được bài học mang Chúa đến cho người khác.
Đó là một bài học quí giá nhất. Bởi vì đó là bài học mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta khi Ngài nhập thể xuống trần gian.
Như Mẹ Maria đã mang Chúa đến với chúng ta qua những lời của Mẹ nói với thiên thần trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cũng hãy mang Chúa đến cho người khác. Chúng ta phải học được bài học này, nếu không, chúng ta đánh mất đi cái ý nghĩa của ngày lễ mà chúng ta đang chuẩn bị để cử hành.
Ngay sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria vội vã lên đường thăm người chị họ là bàt: MV 4-C13
Ngay sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria vội vã lên đường thăm người chị họ là bà Elisabét. Chúng ta đang ở trong nhà của Dacaria và chứng kiến những gì sẽ xảy ra nơi ngôi nhà dân dã này.
Bước chân vội vã lên đường của Đức Maria đến miền sơn cước Giêrusalem - có lẽ là miền Ain Carim hiện nay, cách Giêrusalem khoảng 6 km về phía tây- thăm người chị họ không chỉ nhằm loan báo mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa hay chỉ hát lên bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa (bài ca Magnificat), nhưng đó còn là hình ảnh gợi nhớ điều mà Ngôn sứ Isaia loan báo ngày xưa về Đấng Thiên Sai sẽ đến. Thật vậy, trong bối cảnh thời đại Isaia, lúc Batư tiến đánh Babylon, Ngôn sứ Isaia cũng như nhiều người Dothái lưu đày khác đang ở Babylon. Chính trong hoàn cảnh ấy, ông ước mơ làm sao có thể chạy về Giêrusalem để báo tin rằng Thiên Chúa sắp giải phóng dân Người. Ông đã nhảy lên vui sướng và reo vang: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria với sự hiện diện của Ngôi Hai Thiên Chúa mà Mẹ đang cưu mang, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh mà khi xưa Isaia đã loan báo. Hơn thế nữa, đó còn là hình ảnh của Giáo hội “ra khơi” (Duc in altum) mang Chúa đến cho muôn dân.
Nhìn từ bên ngoài, chúng ta chỉ thấy được sự kiện hai bà mẹ gặp nhau, vui vẻ hàn huyên; thế nhưng, thực chất lại là sự gặp gỡ của hai hài nhi. Bằng chứng là với lời chào thăm của Đức Maria, hài nhi Gioan - mà đúng theo nguyên ngữ Hylạp- là đã “nhảy cẫng lên”, “nhảy tung lên” vui sướng. Như thế, hài nhi Gioan ngay từ khi còn trong lòng mẹ đã tiên báo về Đấng Cứu thế - Đấng mà mình sẽ là tiền hô sau này. Có điều chúng ta thấy, điều tiên báo đó không thực hiện bằng lời nói mà bằng ngôn ngữ của thân xác.
Bà Elisabét - qua Thánh Thần- đọc được ý nghĩa mà người con trong lòng bà “nhảy cẫng” lên cũng như ý nghĩa của cuộc gặp gỡ với Mẹ Thiên Chúa, bà đã thốt lên lời tụng ca ca ngợi Mẹ Maria như là người phụ nữ có phúc hơn hết mọi phụ nữ. Chúng ta thấy, lời tụng ca của bà Elisabét trước hết chịu ảnh hưởng của ca vịnh Debora trong Cựu ước. Đây là ca vịnh dùng để tụng ca bà Giaên, vợ ông Kheve người Kêni. Chúng ta biết, khi thủ lãnh Canaan là Xixơra chạy trốn vì thua trận, ông chạy vào lều bà Giaên. Bà đã dùng cọc để đóng vào tai Xixơra giết chết kẻ thù. Nhờ đó, bà được ca ngơi là người phụ nữ trổi vượt hơn muôn ngàn phụ nữ (x. Tl 5, 24).
Mười thế kỷ sau, dân Thiên Chúa cũng hát bài ca đó để ca ngợi bà Giuđitha. Đứng trước tình cảnh bi đát mà dân Thiên Chúa sắp phải chịu là trao tất cả dân chúng và thành thánh vào tay quân Atsua, bà Giuđitha - một phụ nữ đạo đức và kính sợ Thiên Chúa- đã sẵn sàng ra đi vào hang ổ của kẻ thù. Với nhan sắc tuyệt mỹ, bà đã lọt vào doanh trại của quân Atsua và sau đó được gặp tướng Atsua là Hôlôphécnê để rồi dùng mưu chặt đầu tướng giặc mang vinh quang cho dân Israel. Bởi đó, Giuđitha cũng được ngơi ca là người phụ nữ được Thiên Chúa chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (x. Gđt 8-13)
Như thế, khi bà Elisabét ca ngợi Đức Maria là người “được chúc phúc hơn hết mọi người phụ nữ”, thánh Luca muốn ám chỉ việc Thiên Chúa thực hiện công trình cứu chuộc của Người nơi Mẹ. Nơi Mẹ, không chỉ thay thế bà Giaên, bà Giuđitha mà Mẹ còn vượt xa họ về mọi phương diện, đặc biệt là vì dòng dõi Mẹ sẽ là dòng dõi “đạp nát đầu con rắn” vốn được xem là kẻ thù của dân Thiên Chúa (x. St 3,15).
Việc bà Elisabét được Thánh Thần soi sáng để nhận ra Đức Maria là “thân mẫu Thiên Chúa” không chỉ là nền tảng kinh thánh để đi đến tín điều Mẹ Thiên Chúa (Theolokos) vốn được công đồng Ephêxô tuyên tín vào ngày 22. 6. 431, mà theo Luca, đó còn là mối liên hệ giữa Đức Maria với Hòm bia Thiên Chúa. Thật vậy, nhìn vào trình thuật Truyền tin và Thăm viếng, chúng ta thấy có một sự tương đồng cách nào đó giữa Mẹ với Hòm bia Giao ước thời Vua Đavít. Nếu như trước kia, Hòm bia Giao ước luôn được đám mây che phủ thì nay Đức Maria được “Thánh Thần rợp bóng” khi cưu mang Con Thiên Chúa; ngày xưa Vua Đavít nhảy mừng khi gặp Hòm bia thì nay, chính Gioan cũng nhảy lên vui sướng khi gặp Mẹ viếng thăm; Hòm bia Giao ước được rước lên Giêsusalem để muôn dân chiêm ngưỡng và thờ lạy thì nay Đức Maria cũng băng rừng vượt suối để lên miền núi Giêrusalem để gia đình Dacaria tán tụng Thiên Chúa; và cuối cùng, ngày xưa, Hòm bia Giáo ước đã ở lại nhà của ông Ôvết Êđôm 3 tháng thì nay, Đức Maria cũng đã ở lại nhà ông Dacaria 3 tháng để phục vụ cho bà Elisabét (x. 2Sm 6, 9-11).
Đức Maria là mẫu gương cho hết mọi người chúng ta. Khi nhận được tin vui cứu độ, Mẹ đã không giữ lại cho riêng mình; trái lại, Mẹ đã ra đi đem Chúa đến cho người khác. Phải chăng đó cũng chính là trách nhiệm của mỗi người Kytô? Chúng ta được Thiên Chúa mời gọi - qua bí tích Thánh tẩy- ra đi mang Chúa đến cho muôn dân. Hãy nhớ rằng, khi chúng ta lãnh nhận những ơn lành từ nơi Thiên Chúa, đừng chôn giấu ơn Chúa đi mà hãy hăng hái ra đi làm cho nhiều người được biết để có thể họ cũng được đón nhận ơn Thiên Chúa. “Cùng Mẹ con đi trên đường đầy bao gian nguy” để đem ơn Chúa đến cho muôn người.
Đức Maria “vội vã” lên đường. Đây là bước đầu của những chuyến đi trong thánh Luca, tác: MV 4-C14
Đức Maria “vội vã” lên đường. Đây là bước đầu của những chuyến đi trong thánh Luca, tác giả Phúc Âm chuyên viết về những con đường. Sách Phúc Âm của ngài chuyển động, cũng thế đối với quyển sách thứ hai của ngài, quyển Công vụ Tông đồ. Từ Nagiarét, sự cứu độ sẽ tiến về Giêrusalem, rồi sau Phục sinh, sự cứu độ sẽ bắt đầu chinh phục thế giới. Chúa Giêsu nói: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Thánh Phêrô giải thích các chứng nhân là những người “đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa chúng ta”.
Đây là bước truyền giáo đầu tiên: Đức Maria vội vã lên đường khi đang còn vang vọng lời truyền tin. “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”, Đức Maria vội vã đi xem sự kỳ diệu đầu tiên được loan báo: “Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”. Đức Maria tin điều ấy. Tất cả đều lạ lùng và bà tin. Một niềm vui xâm chiếm bà, thúc đẩy bà; niềm vui tin tưởng, niềm vui đi vào trong thời đại cứu độ và là người mở ra thời đại đó. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”.
Việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét chiếu sáng niềm vui của việc tin tưởng. Bà Êlisabét thốt lên nhiều lời vui mừng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”, “Tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”, “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đức Maria trả lời bằng bài ca Magnificat, bài hát vui mừng của người.
Luca cống hiến cho chúng ta niềm vui rất đặc biệt này của đức tin.: Thánh Thần. Thánh Thần xuống trên Đức Maria. Ngài tràn đầy trong lòng bà Êlisabét. Ngài tràn ngập nơi các môn đệ vào lễ Hiện Xuống. Ngài đầy tràn chúng ta khi chúng ta tin và công bố rằng Chúa Giêsu là Chúa, nghĩa là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, nhưng là Đấng Cứu Thế không như người Do thái nghĩ: Thiên Chúa ban Con Ngài cho chúng ta.
Đức tin và niềm vui của chúng ta tuỳ thuộc vào sức mạnh mà chúng ta tin vào điều đó. Chúng ta sa lầy trong những điều phụ thuộc. Chúng ta những Kitô hữu tranh luận với nhau vì những chi tiết thay vì sống trọn và loan truyền điều cốt yếu, mặc khải kỳ diệu: Con Trẻ sẽ sinh ra từ Đức Maria là Con Thiên Chúa. Có một bài hát khác phát xuất từ bài Magnificat, bài Benedictus: “Chúc tụng Chúa, Ngài đã viếng thăm dân Ngài”.
Đích thân Thiên Chúa đến viếng thăm chúng ta! Có nhiều điều phải tin: sự phục sinh của Chúa Kitô, sự hiện diện của Ngài trong Thánh Thể, việc tha tội lỗi cho chúng ta, chiến thắng cuối cùng của sự sống trên đau khổ và cái chết. Nhưng đối với tất cả những điều đó, đức tin của chúng ta sẽ dễ dàng và vững chắc nếu chúng ta bám rễ vào điều khó nhất: tin rằng Thiên Chúa đã đến trên các con đường của chúng ta: ‘Chúng ta đã thấy các bước chân của Thiên Chúa gặp gỡ các bước chân của con người’.
Để Ngài đến ở với chúng ta, phải có Mẹ Maria. Không gì có thể làm cho chúng ta tôn sùng Mẹ hơn là việc thấy Mẹ hạnh phúc biết bao khi tin và dâng hiến Con Trẻ để cho những niềm vui đầu tiên của đức tin bùng nổ. Muốn nói về Đức Maria, Công Đồng đã có từ ngữ rất đẹp này: Mẹ đã giới thiệu Sự Sống cho thế giới. Chính điều này đã làm con trẻ của Êlisabét nhảy mừng, và đó là điều làm chúng ta vui mừng trước mặt Đức Maria: Mẹ là Sự Viếng Thăm của Thiên Chúa, Mẹ giới thiệu cho chúng ta Sự Sống, Sự Sống trở thành sự sống của con người đối với chúng ta.
Nếu tin điều này là niềm vui của chúng ta thì chúng ta đừng quá che đậy niềm vui đó. Chẳng hạn trong một cuộc thăm viếng mà sự tiếp xúc có thể được thực hiện trong một chiều sâu nào đó, ai mà biết được? Trong khi lắng nghe chúng ta, hay có thể chỉ nhìn chúng ta mà thôi, một người nào đó có thể vui mừng.
Đoạn Phúc Âm này bắt nguồn từ những bản văn người ta mệnh danh là ‘truyện thời thơ ấu: MV 4-C15
Đoạn Phúc Âm này bắt nguồn từ những bản văn người ta mệnh danh là ‘truyện thời thơ ấu Chúa Giêsu’ và cho rằng tất cả chỉ là ‘thần thoại’. Có những thuyết nhìn thấy trong đó một sự pha trộn những chuyện tưởng tượng của một số tôn giáo cổ. Ở đây không xét đến lập trường ấy, chúng ta căn cứ vào những công trình khảo cứu theo phương pháp khoa học nghiêm chỉnh nhất và học thuyết của Giáo Hội. Thật ra Phúc Âm chứa đựng đức tin thuần khiết và trọn vẹn, cho nên phải đọc Phúc Âm với một tâm tình thanh khiết.
Đức Maria đi thăm chị họ là bà Êlisabét và được đón chào: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ”. Lúc đó xảy ra một sự kiện quan trọng cho cả chủ lẫn khách: Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong lòng mẹ khi Đức Maria đang mang thai Chúa Giêsu vừa tới nơi. Đoạn tả cảnh thăm viếng kết thúc bằng tiếng hô lớn của bà Êlisabét, nhận định của bà đối với hết thảy chúng ta rất là quan trọng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Giáp lễ Giáng sinh là lúc thích hợp để suy niệm về mầu nhiệm Đức Maria:
1) Mầu nhiệm trinh khiết.
Ơn trinh khiết của Đức Maria có tính cách thanh sạch trọn vẹn bao trùm và thấm nhuần tất cả hồn xác Người. Dường như bà Êlisabét cảm biết sự thật ấy trong con người của Đức Maria vì bà nghĩ rằng, nhờ lời Chúa, Đức Maria trở thành mẹ Đấng Cứu thế. Được ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần và đáp trả ân huệ đó, Đức Maria quan niệm cuộc đời mình chỉ là để trao phó tất cả hồn xác cho Chúa trong niềm cung hiến thuần khiết trọn vẹn nhất. Khi thiên sứ xin Người trả lời, Đức Maria nhìn rõ toàn diện vấn đề đặt ra cho mình. Ngay lúc đó, hành vi tin của Đức Maria đối với Thiên Chúa cho Người cảm biết sự thụ thai vượt khỏi định luật nhân loại chính là phương cách triệt để nhất, hoàn toàn nhất để thuộc về Thiên Chúa. Tiếng vâng của Đức Maria là sự thánh hiến đức trinh khiết của Người.
2) Mầu nhiệm làm mẹ
So sự ưng thuận làm mẹ, Đức Maria gia nhập mầu nhiệm Đức Giêsu trong đời sống thế gian của Chúa, bắt đầu từ khoảnh khắc truyền tin cho tới khoảnh khắc sau cùng là Chúa sống lại, qua những giai đoạn Chúa sống ẩn dật, Chúa đi rao giảng, Chúa chết trên thập giá.
Thái độ Đức Maria trong những giai đoạn ấy có thể vạch cho chúng ta hai hướng cầu nguyện:
+ Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, dù gặp những hoàn cảnh phi lý nhất, đó là con đường chắc chắn để hoàn thành sứ mạng mình.
+ Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, chung cục đem niềm vui đến với chúng ta nhờ kết hợp mật thiết với mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô hấp hối và sống lại để cứu độ chúng ta và thế giới.
Trong đời sống có nhiều cơ hội mà chúng ta không nắm bắt được, vì không biết đó là cơ hội: MV 4-C16
Trong đời sống có nhiều cơ hội mà chúng ta không nắm bắt được, vì không biết đó là cơ hội của mình. Cũng thế, có nhiều người đi qua hay đi bên cạnh cuộc đời của chúng ta mà chúng ta không gặp được vì không biết họ là ai nên không trân trọng đón rước họ.
Có thể Chúa Giê-su là một người đi qua, thậm chí đã đến trong cuộc đời của chúng ta mà chúng ta vẫn không nhận ra Người. Vậy thì “nhận diện” được Chúa Giê-su là việc hết sức quan trọng. Và để có thể “nhận diện” được Chúa thì chúng ta cần có Thánh Kinh và Thánh Thần hướng dẫn và giúp sức. Điều này được khẳng định trong các Bài Sách Thánh hôm nay. Chúng ta hãy đọc kỹ và nghiền ngẫm … để rút ra bài học chẳng những cho Mùa Vọng năm nay mà còn cho cả cuộc đời của chúng ta nữa.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh:
(1) Bài đọc 1: Mk 5,1-4: Vai trò của Bê-lem.
1 Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa. 2 Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en. 3 Người sẽ dựa vào quyền lực ĐỨC CHÚA, vào uy danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất. Người sẽ chiến thắng Át-sua 4 Chính Người sẽ đem lại hòa bình. Khi Át-sua xâm nhập xứ sở và giày đạp đất nước chúng ta, chúng ta sẽ đặt bảy mục tử và tám thủ lãnh chống lại chúng.
(2) Bài đọc 2: Dt 10,5-10: Hy lễ theo luật cũ thì vô hiệu.
5 Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. 6 Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. 7 Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.
8 Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. 9 Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. 10 Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.
39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. 41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, 42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? 44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Mk 5,1-4) là những lời loan báo của ngôn sứ Mi-kha (rao giảng vào khoảng năm 721 trước Công Nguyên) về sứ mạng trọng đại của Bê-lêm và của nhân vật sẽ xuất thân từ xứ sở nhỏ bé và vô danh này.
Trong đoạn Sách Mi-kha 5,1-4 trên, chúng ta khám phá ra dung mạo, uy quyền (có từ thời trước, từ thuở xa xưa; quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất; Người sẽ chiến thắng vua ngoại và sẽ đem lại hòa bình cho dân Chúa) và sứ mạng (thống lãnh và chăn dắt Ít-ra-en) của Vị Thiên Sai là Chúa Giê-su Ki-tô.
(2) Bài đọc 2 (Dt 10,5-10) là những lời khẳng định của Thánh Phao-lô Tông đồ về lý do thâm sâu tại sao Chúa Giê-su đến trong trần gian. Đó là để thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha và dâng hiến mình làm của lễ đẹp lòng Chúa Cha, thay thế các lễ tế và lễ vật của Cựu Ước.
Qua đoạn thư Do Thái 10, 5-10 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng vô hình, siêu việt, chẳng ưa thích gì những lễ tế vật chất như máu thịt chiên bò xúc vật. Lễ dâng đẹp lòng Người là tấm lòng của con người, là việc thực hiện thánh ý của Người là cứu độ muôn dân, muôn họ.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 1,39-45) là tường thuật về cuộc viếng thăm người chị họ (là bà Ê-li-sa-bét) của Đức Ma-ri-a. Nói bằng ngôn ngữ bình dân Việt Nam thì là đây đúng là cảnh “bà bầu đi thăm bà bầu”. Bà bầu Ma-ri-a đang mang trong lòng cả một BÍ MẬT của Trời Đất (là Giê-su Cứu Chúa) đến thăm bà bầu Ê-li-sa-bét đang mang trong lòng một ngôn sứ vĩ đại của lịch sử Cứu Độ (là Gio-an Tiền Hô). Hai bà bầu gặp nhau cũng là hai con trẻ gặp nhau. Thật diệu kỳ! Bà Ê-li-sa-bét vừa ca ngợi người em họ Ma-ri-a của mình, vừa chúc tụng Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ của muôn dân.
Qua đoạn Phúc Âm Lu-ca 1, 39-45 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng và Mạc Khải tuyệt diệu. Chúa quan phòng để hai người mẹ và hai người con gặp nhau chẳng bao lâu trước ngày Gio-an và Giê-su chào đời. Chúa tự mạc khải qua cảm nghiệm tâm linh và lời công bố đầy Thần Khí và bất ngờ của Bà Ê-li-sa-bét.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là:
(a) Chúa Giê-su là Đấng
* sinh ra ở Bê-lem (là một địa danh khiêm tốn và vô danh),
* sinh ra bởi Đức Ma-ri-a, một thiếu nữ đơn sơ, giản dị, nhưng thánh thiện tuyệt vời (vô nhiễm nguyên tội) của Ít-ra-en và của cả nhân loại,
* được ngôn sứ Gio-an Bao-ti-xi-ta, con ông bà Gia-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét, dọn dường bằng lời rao giảng và bằng phép rửa kêu gọi sám hối.
(b) Chúa Giê-su đến để thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha là cứu chuộc, hướng dẫn và chăn dắt (hay chăm lo) hết mọi người, mọi dân.
(c) Chúa Giê-su có sứ mạng hòa giải con người với Thiên Chúa bằng của lễ toàn thiêu mà Ngài dâng lên Thiên Chúa là chính mình Ngài trên thập giá. Một khi con người được hòa giải với Thiên Chúa rồi thì con người sẽ được hưởng hòa bình và thịnh vượng. Vì thế Chúa Giê-su là Vua Hòa Bình!
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta “nhận diện” được Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến trần gian để thực hiện Thánh Ý của Cha. Người là Chúa Cứu Thế, là Vua Hòa Bình, là Lãnh Đạo của toàn Dân Chúa. Chúng ta cần biết nhận ra Người ở những nơi Người hiện diện:
3.1 Trước hết là trong Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa, là lịch sử Cứu Độ của Thiên Chúa: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giê-su” (Thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục tiến sĩ Hội Thánh).
3.2 Và trong Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu, là Lễ Dâng đẹp lòng Thiên Chúa hơn mọi lễ dâng khác của Cựu Ước và của loài người.
3.3 Kế tiếp là trong Cộng Đoàn, là Gia Đình của Chúa: “Hễ ở đâu có hai, ba người tụ họp vì Danh Thày thì Thày có mặt ở đó.”
3.4 Và trong những con người chúng ta gặp hằng ngày, nhất là những người bé mọn, nghèo hèn vì mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều là anh chị em của Chúa Ki-tô: “Ai làm việc ấy (hay không làm việc ấy) cho một trong những người bé mọn đây là làm (hay không làm) cho chính Ta” (xem Mt 25).
3.5 Sau cùng là trong các biến cố cuộc đời, vì mỗi sự việc xẩy ra đều do Chúa cho phép và đều mang theo một lời nhắn, một sứ điệp cho chúng ta.
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
1. Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng tạo dựng vũ trụ muôn loài và điều hành lịch sử nhân loại, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Chúa vì Chúa đã chọn Bê-lem là nơi “nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa” làm nơi sinh ra cho Đấng Cứu Thế và Chúa đã ban Chúa Giê-su Ki-tô, Con Chúa, cho chúng con.
Lạy Chúa xin nhận lời chúng con. Xin nhận lời chúng con.
2. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã đến trần gian để thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Chúa vì Chúa đã làm đẹp lòng Chúa Cha và giải hòa chúng con với Thiên Chúa bằng lễ tế toàn thiêu là cuộc sống và cái chết của Chúa trên thập giá.
Lạy Chúa xin nhận lời chúng con. Xin nhận lời chúng con.
3. Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã “ngự xuống trên Trinh Nữ Ma-ri-a” chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Chúa, vì nhờ có Chúa mà Đức Ma-ri-a đã thụ thai Con Một Thiên Chúa và vì Chúa đã luôn cùng sống và cùng hoạt động với Chúa Giê-su Ki-tô để cứu độ chúng con.
Lạy Chúa xin nhận lời chúng con. Xin nhận lời chúng con.
4. Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã tác động và soi sáng cho bà Ê-li-sa-bét để bà công bố Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ngôi Hai đang được Đức Ma-ri-a cưu mang trong long và vì Chúa luôn tác động và soi sáng các tâm hồn để mọi người nhận ra Ơn Huệ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa xin nhận lời chúng con. Xin nhận lời chúng con. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Seattle (WA/USA) ngày 10.12.2006.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: Ngày kia, mẹ đến thăm một nhà thương rất tối tân tại Anh quốc.: MV 4-C17
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: Ngày kia, mẹ đến thăm một nhà thương rất tối tân tại Anh quốc. Mọi căn phòng đều khang trang, sáng sủa và được trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng với những tiện nghi, cân xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra các y tá, nhân viên làm việc rất nhã nhặn và lịch sự.
Nhưng mẹ nhận thấy một điều kỳ lạ và hỏi vị bác sĩ đang hướng dẫn mẹ đi thăm:
- Thưa bác sĩ, tại sao các bệnh nhân, cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?
Câu trả lời của ông bác sĩ rất đơn sơ nhưng đượm vẻ buồn buồn:
- Thưa mẹ, vì họ luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm, nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ.
Từ câu chuyện này, chúng ta đi vào nỗi chờ mong của nhân loại. Thực vậy, sau khi nguyên tổ phản bội, Thiên Chúa đã hứa ban cho con người một Đấng Cứu thế qua lời tuyên phán với Eva: Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người phụ nữ. Người phụ nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi chỉ rình cắn trộm gót chân người.
Trải qua dòng thời gian, Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái để duy trì lời hứa thuở ban đầu. Và hình ảnh Đấng Cứu thế mỗi ngày một thêm rõ nét.
Chẳng hạn tiên tri Isaia đã xác định: Một trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Suốt dọc thời gian, nhân loại đã mò mẫm tìm kiếm Thiên Chúa. Và nhất là dân Do Thái, họ khắc khoải chờ mong Đấng Cứu thế sẽ đến để giải thoát họ, mỗi khi đất nước họ gặp phải tai ương hoạn nạn. Nỗi khắc khoải chờ mong ấy đã kết tinh thành những lời nguyện cầu tha thiết: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời.
Và khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời phán hứa thuở xưa bằng cách sai Con Một Ngài xuống trần để cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, để Ngôi Lời có thể mặc lấy xác phàm và ở giữa chúng ta, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria để cộng tác với Ngài trong việc thực hiện chương trình cứu độ mà Ngài đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Với lời xin vâng của Mẹ trong hoạt cảnh truyền tin, lời hứa thuở ban đầu đã trở thành sự thật. Thiên Chúa đã đến với con người để giải thoát họ khỏi án phạt của tội lỗi. Thế nhưng, trước khi đem Chúa đến cho nhân loại, thì ngày hôm nay bằng hành động thăm viếng, Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho nhà bà Êlisabéth, khiến cho Gioan được nhảy mừng.
Mẹ đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho người Kitô hữu, bởi vì Mẹ không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà còn đem Chúa đến cho người khác.
Noi gương Mẹ Maria, bằng những hành động bác ái yêu thương, chúng ta cũng hãy đem Chúa đến cho những người chung quanh. Đó cũng chính là sứ điệp chúng ta cần phải thực hiện trong Mùa Giáng sinh này.
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến: MV 4-C18
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.
Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường.
Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Elizabeth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Maria đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.
Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái.
Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy, Ngài đã rợp bóng trên Đức Maria và lập tức Đức Maria được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Maria không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Maria vội vã lên đường ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra cho cả dân tộc, cả đồng loại. Nên trong bài Magnificat, Đức Maria đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.
Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình.
Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình. Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Maria còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yếu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Đức Giêsu và can đảm đứng dưới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.
Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ.
Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Maria không quản thân phận là Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Elizabeth. Đức Maria cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.
Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Thánh Gioan Baotixita còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo cho Giáo Hội và Nước Thiên Chúa.
Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh, ta hãy noi gương Đức Maria, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Maria dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần? 2. Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth tràn đầy niềm vui? 3. Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho người khác và cho chính bạn không?
Nhân vật quan trọng thường đến sau cùng, Đức Trinh Nữ Maria, người phụ nữ được chọn làm: MV 4-C19
Nhân vật quan trọng thường đến sau cùng, Đức Trinh Nữ Maria, người phụ nữ được chọn làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, hôm nay mới chính thức xuất hiện vào Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng-Giáng Sinh. Mẹ xuất hiện trong khung cảnh một cuộc đi thăm viếng và phục vụ bà Elizabeth, một phụ nữ son sẻ lại được làm mẹ sinh ra Gioan Tẩy Giả, Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Một cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ và cũng là một cuộc chào đón giữa hai người con trong cung lòng hai người mẹ.
Trong dịp này, Mẹ Maria đã tỏ ra như gương mẫu cho chúng ta noi theo để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh.
Để mừng lễ Giáng Sinh với Mẹ Maria, chúng ta phải có tâm tình của Mẹ: tâm tình đầu tiên của Mẹ là sẵn sàng đối với Chúa. Tin Mừng trình bày Mẹ Maria qua một khung cảnh cảm động. Một thiếu nữ đã đính hôn vừa có thai, lên đường thực hiện một cuộc hành trình dài đến 150 cây số và ở lại nhà bà Elizabeth trong một thời gian ba tháng. Một thiếu nữ mới lên 17, 18 tuổi, chưa bao giờ ra khỏi nhà mẹ mình, đã vội vã ra đi tiến lên miền núi theo một tiếng gọi thiêng liêng thì thầm trong lòng.
Ngay từ đầu, trong buổi Truyền Tin, Mẹ Maria đã tỏ ra sẵn sàng rồi: Thiên sứ báo tin Maria sẽ sinh con, Maria bối rối vì mình không biết đến đàn ông. Nhưng Thiên Sứ lại nói, Maria sẽ cưu mang bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Thiên Sứ nhắc đến trường hợp của bà Elizabeth, tuy đã già cả và có tiếng là son sẻ, nhưng đã cưu mang được 6 tháng. Và Thiên Sứ kết thúc: “Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm đuợc”. Đức Maria liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Thiên Sứ truyền”. Maria luôn tỏ ra sẵn sàng khi đã biết được ý muốn của Chúa.
Chính sự sẵn sàng đó đã làm cho bà Elizabeth nhận ra khi Maria bước vào nhà mình: “Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói cho em biết”. Vì vậy, thái độ chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh đối với chúng ta hôm nay là phải suy gẫm và sống lời Chúa như Mẹ Maria, điều mà cách đấy 30 năm sau chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Phúc cho ai nghe Lời Chúa mà đem ra thực hành ”.
Mẹ Maria sẵn sàng vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng và đơn sơ. Chính đức tin là động cơ thúc đẩy các hoạt động của Mẹ. Chúng ta đọc được ở chương 2 Tin Mừng theo thánh Luca, hai điểm rất đơn sơ, bề ngoài xem ra không quan trọng, nhưng thật sự đầy ý nghĩa. Đó là khi các mục đồng từ hang đá Bêlem ra về, họ đã thuật lại khắp nơi những biến cố của đêm Chúa Giáng Sinh, và tất cả những ai nghe đều kinh ngạc về các điều mục đồng thuật lại. “Còn Maria thì giữ kỹ những điều ấy và luôn suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,18-19). Cũng ở cuối chương 2 này, khi Đức Mẹ gặp được Chúa Giêsu trong Đền Thánh sau mấy ngày lạc mất con, Thánh sử Luca cũng ghi: “Rồi Chúa Giêsu đã theo hai ông bà trở về Nazaret. Ngài luôn vâng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ các điều ấy trong lòng” (Lc 2,51).
Cả hai lần đó, Thánh Luca lưu ý với chúng ta rằng: Mẹ Maria không những chỉ trao ban cho Chúa Giêsu Hài Đồng một thân xác mà Mẹ còn muốn hiến trong cuộc đời mình, lòng trí của mình cho việc phục vụ Con Thiên Chúa làm người. Mỗi lời nói, mỗi sự việc, mỗi cảm nghĩ, Mẹ đã gói ghém cẩn thận và chôn giấu trong trí lòng Mẹ. Mỗi một phép lạ, lời chào của Thiên sứ, của bà Elizabeth, biến cố đêm Giáng Sinh, những lời nói của mục đồng, của các Đạo sĩ, những lời tiên tri của Simêon, của Anna, những tiếng bập bẹ đầu tiên của Chúa Giêsu, mỗi cái nhìn của Ngài, mỗi hành động của Ngài, tất cả ngần ấy thứ Mẹ suy đi nghĩ lại và cẩn thận gìn giữ như kho tàng thiêng liêng quý giá nhất của Mẹ.
Không những Mẹ Maria luôn vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng mà còn vâng theo ý Chúa một cách đơn sơ. Bởi vì, có nhiều người cũng vâng nghe ý Chúa với niềm tin tưởng nhưng nhiều khi vì miễn cưỡng, vì bất đắc dĩ, không hoà đồng ý mình với ý Chúa. Tin Mừng nói: Mẹ Maria ra đi vội vã, nhanh chóng, không do dự, không tính toán so đo, cứ ra đi trong phó thác. Vâng theo ý Chúa khi ý Chúa ăn hợp với ý ta thì dễ, nhưng khi ý Chúa trái hẳn với ý ta mà ta vui vẻ đón nhận, khi ấy mới quý, và chứng tỏ lòng yêu mến đích thực của chúng ta.
Mẹ Maria luôn sẵn sàng đối với Chúa, Mẹ cũng luôn sẵn sàng đối với tha nhân. Mẹ đã đi phục vụ bà chị họ của mình, không chút do dự, vì Mẹ thấy ý Chúa trong đó. Hơn nữa, Mẹ thấy đó là nhiệm vụ của mình. Là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ có nhiệm vụ phải đem Chúa cho kẻ khác. Lại nữa, Mẹ cảm nghiệm rằng, lòng mình khi được mang Chúa thì được hạnh phúc biết bao, bình an biết mấy và phấn khởi dường nào. Ước chi bao nhiêu người khác cũng được Chúa đem lại niềm vui và hạnh phúc như mình. Nghĩ như vậy, Mẹ vội vàng lên đường. Chúa không để cho Mẹ phải thất vọng. Mẹ đến, Mẹ đã làm cho cả gia đình bà Elizabeth sung sướng. Bà Elizabet phải thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi. Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, Hài Nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi”.
Anh chị em thân mến,
Toàn dân Chúa có thể nhận ra mình nơi Đức Trinh Nữ Maria, Người được làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Chúng ta luôn có thể chuẩn bị lễ Giáng Sinh trong thái độ phục vụ anh chị em như Mẹ Maria.
Gương Mẹ sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi, tiếng tha nhân mời, phải được chúng ta noi theo. Chúa gọi chúng ta qua tiếng mời của tha nhân. Tiếng tha nhân gọi ta là tiếng Chúa mời gọi. Chúng ta vui vẻ thưa “vâng” với Chúa và sẵn sàng trả lời “có” với tha nhân, không lẩm bẩm kêu ca khi gặp điều trái ý, không từ chối, lảng tránh bất cứ ai cần đến.
Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, khi gặp những hoàn cảnh chúng ta tưởng là phi lý, cứ thưa “vâng”, vì đó là con đường chắc chắn hoàn thành sứ mạng. Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, để noi gương Mẹ bước vào lịch sử cứu độ, kết hiệp mật thiết với mầu nhiệm Chúa Kitô đã chết và sống lại, để cứu độ loài người. Phúc cho ai ngày càng bớt tự tin để thêm tin Chúa, bớt tự ái để thêm bác ái yêu người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu kể cho chúng ta một mẩu chuyện nhỏ: Lúc ấy, Têrêsa còn nhỏ. Nghe đọc chuyện thương khó của Chúa Giêsu. Têrêsa cảm động, nước mắt tràn mi. Têrêsa cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thương con quá, còn con chưa làm được gì để đền đáp cả. Con phải qua xứ truyền giáo xa xôi và con sẽ chết tử vì đạo ở đó như các vị truyền giáo. Cầu nguyện xong, Têrêsa bỏ nhà và chạy ra đường. Cứ chạy, chạy mãi, quyết sẵn sàng chết mà… Bỗng một cậu bé trai cùng tuổi chặn Têrêsa lại và hỏi: “Cô tên gì?”. Têrêsa ngập ngừng trả lời: “Tôi là Têrêsa của Giêsu Hài Đồng”. “Còn cậu, cậu tên gì?”. –Tôi hả? Tôi là Giêsu Hài Đồng của Têrêsa. Cậu bé liền biến mất.
Thưa anh chị em,
Với viễn ảnh một Chúa Giêsu Hài Đồng sắp đến trong máng cỏ từ phía bên kia, thì từ phía bên này chúng ta đã sẵn sàng tiến bước để đi đón Ngài chưa? Chỉ còn một tuần nữa thôi. Chuẩn bị “dầu đèn” sẵn sàng đi, để hôm đó, đèn chúng ta rực sáng và không còn lo thiếu dầu. Ôi! Đêm Giáng Sinh này, chàng rể Giêsu sẽ mỉm cười với chúng ta, và sẽ đưa tay ra nắm lấy bàn tay chúng ta, để chúng ta lại nối vòng tay lớn cho mọi người anh em trên thế giới. Trên con đường đến với Ngài, chúng ta sẽ mời gọi tất cả mọi người kết đoàn với chúng ta, để cùng với chúng ta dâng lên tấm lòng yêu mến như một món quà Noel cho Chúa Giêsu Hài Đồng.
Lạy Mẹ Maria, mẫu gương chuẩn bị Lễ Giáng Sinh, xin cầu cho chúng con. Amen.
Ngày xưa, cuộc sống thật đơn giản, và người ta thăm viếng nhau rất nhiều. Ngày nay, sự thăm: MV 4-C20
Ngày xưa, cuộc sống thật đơn giản, và người ta thăm viếng nhau rất nhiều. Ngày nay, sự thăm viếng không xảy ra thường xuyên như vậy nữa. Người ta sử dụng điện thoại để thay thế cho sự thăm viếng. Một cú điện thoại cũng tốt thôi, nhưng nó không thể thay thế được cuộc thăm viếng.
Có một phụ nữ sinh sống tại thành phố New York, bên cạnh một người hàng xóm trong suốt 30 năm. Bà ta không bao giờ có bất cứ cuộc cãi và nào với người hàng xóm đó, và mỗi khi gặp nhau, họ vẫn luôn luôn dừng lại nói chuyện với nhau. Nhưng trong suốt thời gian đó, bà ta chưa bao giờ đặt chân sang ngôi nhà của người hàng xóm. Thật là một điều đáng buồn, và có một sự mất mát nào đó.
Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi nữa. Chúng ta cũng trở nên phong phú, mặc dù chỉ là để xem cách thế người khác đương đầu với những khó khăn, hoặc những tình huống hầu như không thể giải quyết được. Thậm chí ở giữa những người đau yếu, bạn vẫn có thể tìm thấy một tâm hồn toả sáng. Có thể bạn đến thăm người đó, để đem lại cho họ điều gì đó, nhưng rồi bạn lại nhận ra rằng chính mình đang nhận được. Bạn ra về với tâm hồn phấn chấn. Trong mỗi cuộc thăm viếng, có điều gì đó xảy ra theo mức độ nào đó. Người này được vui mừng khi tiếp nhận, người kia được vui mừng khi cho đi.
Một vị linh mục trong xứ đạo kể lại việc ông đến thăm một người phụ nữ trẻ, đang chết dần chết mòn vì căn bệnh ung thư. Ông đến với hy vọng đem lại cho cô một chút an ủi. Sau cuộc thăm viếng này, ông ra đi với cảm giác là chính bản thân ông lại được an ủi. Ông kinh ngạc trước đức tin của cô và vẻ thanh thản mà cô cảm thấy, khi đối diện với cái chết. Nhờ được tiếp xúc với cô, đức tin của ông đã được đào sâu và củng cố thêm.
Trong bài Tin Mừng, chúng ta nhận thấy cuộc thăm viếng của Đức Maria đối với bà Elizabeth. Chính Mẹ cũng vừa mới được thiên sứ Gáprien viếng thăm, mang đến cho Mẹ tin vui rằng Mẹ trở thành Mẹ của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, thay vì bỏ đi và chỉ nghĩ đến mình, thì Mẹ lại vội vã đến thăm bà Elizabeth, một người cũng đang mong đợi con bà ra đời.
Bà Elizabeth là chị họ của Mẹ. Bổn phận đầu tiên và đáng quý nhất cảu chúng ta là cư xử tử tế với những người trong họ hàng, mặc dù đây không phải là một điều dễ dàng. Người trong họ hàng chúng ta có thể có tính cách rất hay đòi hỏi. Cuộc thăm viếng của Đức Maria mang lại ý nghĩa rất lớn đối với bà Elizabeth. Nhưng bản thân Mẹ cũng được ích lợi nhờ cuộc thăm viếng này. Bà Elizabeth đã nói những lời nói đẹp đẽ, mang tính cách xác nhận và củng cố đối với Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. So với Đức Maria, thì bà Elizabeth là người lớn tuổi hơn và có kinh nghiệm hơn, nên bà có thể giúp đỡ Đức Maria. Ở đây, chúng ta nhận thấy điều chủ yếu là cả hai người phụ nữ đều có tình trạng như nhau, nên có thể giúp đỡ nhau.
Bằng cách cho đi, chúng ta lại có thể được đón nhận. Một trong những biện pháp mà chúng ta có thể cho đi, đó là đến thăm viếng người khác. Lễ Giáng Sinh là một thời điểm tốt nhất, để thăm viếng những người mà có thể chúng ta đã quên lãng suốt bao năm qua.
Vừa bắt đầu chúng ta đã thấy ngay đây là cách hành văn của Luca. Vừa gợi lên cuộc lên: MV 4-C21
Vừa bắt đầu chúng ta đã thấy ngay đây là cách hành văn của Luca. Vừa gợi lên cuộc lên đường vội vã liền sau đó đã cho thấy lý do. Nếu Đức Maria vội vã lên đường, thì không phải là để tìm xem, lời thiên thần có đúng không, nhưng là để “vui với người vui” và đưa tới ơn phúc Mẹ giúp đỡ. Mẹ Thiên Chúa đã trở nên đấng trung gian các ơn phúc. Miền núi, cuộc hành trình hướng về đây là dãy núi miền cao nguyên Giuđa, kéo dài từ vùng Samari. Ngày nay không ai biết rõ đích xác thành phố mà Maria nhằm tới, một truyền thống đã có trước thời thập tự quân cho là đất làng Ain-Karim ngày nay. Làng này cách thủ đô Giêrusalem khoảng bảy cây số về phía tây. Khách hành hương nay tới kính viếng một nhà nguyện mang tên Thăm viếng. Từ Nadaret, phải bốn ngày đường mới tới nơi.
Lời chào thăm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa hướng về người được nhận lời chào, vì vừa nghe lời chào thai nhi trong bụng Elizabeth liền nhảy mừng và bà được tràn đầy Thánh Thần. Sự nhảy mừng này có một cái gì khác hẳn với sự cựa quậy của một thai nhi vào những tháng cuối cùng khi bà mẹ có một xúc động bất ngờ. Vì sự xúc động của Elizabeth không phải là nguyên nhân mà là kết quả của sự nhảy mừng của thai nhi Gioan. Thai nhi nhảy mừng vì tác động của ơn Chúa, là điều mà thiên sứ đã báo trước: “Con trẻ sẽ được đầy dẫy Thánh Thần ngay từ khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1,15), mà được thánh hoá nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể. Sau thai nhi, bà mẹ Elizabeth cũng được đầy tràn Thánh Thần, và lập tức bày tỏ niềm cảm xúc chẳng những bằng những lời được linh hừng mà còn bằng cả giọng nói xúc động. Vì bà nói lớn với Maria: “Em là người hạnh phúc nhất trong giới phụ nữ, và thai nhi trong lòng em là phước hạnh lớn lao”. Như thế bà đã diễn tả hai lời chúc phúc song song mà thiên sứ Gáprien đã nói với Đức Maria trước đó. Bà ca tụng cô em, đặt cô cao trọng hơn tất cả trong giới phụ nữ. Bà cũng cho thấy, ngay cả khi cô em chưa nói gì, bà đã biết Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế. Bà kính tặng cho thai nhi chưa được sinh ra danh hiệu “Chúa”, danh hiệu mà Thánh Vịnh áp dụng cho Đấng Mêsia trông đợi. Thật vậy, và đã thêm: “Thật vinh hạnh cho tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm”. Bà không chút nghi ngờ gì về điều đã xảy ra trong lòng cô em Maria và bà đã thấy rõ dấu chỉ: “Vì vừa nghe lời em chào, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy mừng”. Như thế bà cho biết có mối liên hệ lệ thuộc giữa thai nhi Gioan nhảy mừng với chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, bà bày tỏ đây là “hãy nhảy mừng”, và còn hơn cả cảnh núi đồi nhảy mừng mà Thánh Vịnh đã diễn tả trước sự hiện diện của Đấng Toàn Năng, vì đây là một thai nhi nhảy mừng vì được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Thế nào những lời ca tụng vừa đưa ra, bằng một kiểu kết điểm Elizabeth chúc phúc: “Thiên Chúa ban phúc cho em, vì em tin lời Ngài hứa sẽ thành sự thật”.
Qua đoạn Lời Chúa này, chúng ta học được gương yêu thương của Đức Maria:
Vừa mới thưa với Chúa: “Tôi là tôi tớ của Chúa” Đức Maria đã hành động như thể là tôi tớ của loài người. Ngay sau khi được loan báo được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria lên đường là vì muốn giúp đỡ và chia vui với người chị già. Qua lời loan báo, sứ thần cho thấy bà Elizabeth đang cần được giúp đỡ, vì bà sắp sinh con. Trong sứ điệp, sứ thần không bảo phải đi, chỉ gợi cho thấy. Thế là Maria thu xếp sẵn sàng ra đi, không để chậm trễ.
Dầu Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khoẻ nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, phải ít nhất bốn ngày dòng dã mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do để mà từ chối.
Những lý do trở ngại ấy không cản được Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Maria quét sạch mọi chần chừ và lưỡng lự đó. Từ xưa, Đức Maria đã quen quan tâm đến người khác hơn nghĩ đến chính mình, thì lúc này, Mẹ cũng không phải đo lường cân nhắc sự bất tiện của chuyến đi xa, Mẹ chỉ nghĩ đến việc cần giúp đỡ bà chị già, và cứ như thế, Đức Maria lên đường.
Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác hơn nghĩ tới chính mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải hao mòn chính bản thân mình. Khi xảy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do nãi ra để từ chối! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.
Lại còn phải tránh cho ta những tính toán ích kỷ, những điểm tựa để khỏi phải giúp đỡ tha nhân, thay vì sáng kiến để tránh khỏi, hãy tìm cách làm nhẹ gánh nặng cho tha nhân, để giúp đỡ họ.
Thay vì phải ép lòng giúp đỡ vì không thể tránh được, hãy biểu lộ thái độ mau mắn thực sự. Mong ước sao ta luôn ở tư thế sẵn sàng giúp đỡ, phục vụ.
Nhưng phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.
Chúa Giêsu rất yêu thương các môn đệ ở trần gian, Chúa Giêsu biết rõ Chúa Cha đã trao mọi quyền hành cho Ngài… Vì thế, Chúa đứng dậy, ra khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn quấn ngang lưng, Chúa đổ nước vào chậu, lần lượt rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1.3). Giờ đây chúng ta thấy Mẹ Chúa, người vừa được thiên sứ báo tin được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, người tự tình đi làm đầy tớ bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ Người biết Thiên Chúa đã ban cho Người địa vị cao cả hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả các phụ nữ Israel, một địa vị mà không một người phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó, Mẹ tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một người đàn bà trong lúc sinh nở nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.
Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Mẹ không muốn tỏ ra nhân vật quan trọng, dầu Mẹ quan trọng nhất trong các tạo vật. Không một ai có thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một người thiếu nữ đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ thấy nơi nhà ông bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất, và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng. Mẹ làm những công việc đó cho bà chị già như là làm cho Chúa. Mẹ luôn tỏ ra nhỏ bé để dường như Elizabeth không lấy làm ngại ngùng khi nhờ Mẹ làm bất cứ việc hèn hạ nào. và Mẹ không đặt một giới hạn nào cho tình yêu Chúa, Mẹ cũng không có một hàng rào cho tình yêu tha nhân. Không bao giờ Mẹ thấy một việc nào là quá thấp, là quá thường, quá hèn hạ. Mẹ đã làm với tất cả sự vui vẻ dường như không có ai nhận ra sự vất vả và đôi khi ghê tởm mà Mẹ đã phải âm thầm khắc phục. Với nụ cười của niềm vui buổi gặp gỡ đầu tiên, Mẹ đã duy trì gìn giữ bên trong nhà người thân này.
Thái độ mau mắn sẵn sàng giúp đỡ đó, chẳng phải chỉ giới hạn nơi nhà bà Elizabeth, tất cả những ai cần được giúp đỡ, Mẹ rất sẵn sàng, trong điều kiện và thời giờ cho phép. Ngay từ đó Đức Maria đã biết từng hoàn cảnh mà “làm tôi thiên hạ”. Thái độ đó đối với chúng ta, cũng như hẳn xưa kia đối với bà Elizabeth, luôn là đối tượng của lòng ngưỡng mộ kính yêu. Ngày nay chữ tôi tớ đã mang một ý nghĩa hèn kém hạ giá, không dám dùng, và nhất là thực hiện ý nghĩa của từ ấy. Ước chi chúng ta cũng lấy làm hân hạnh được phục vụ tha nhân.
Chúng ta phải khó khăn lắm mới thực hiện được giáo huấn của Đức Kitô: Ai lớn nhất hãy làm như người nhỏ nhất, ai làm đầu phải hầu thiên hạ. Gương Đức Maria còn đó để khích lệ: ai là đầu, ai có phúc hơn mọi người nữ, thế mà Mẹ trở nên bé nhỏ, trở nên rốt hết. Ai dám thống trị kẻ khác khi thấy gương Mẹ tự tình phục vụ như thế?
Mẹ cũng dậy nghệ thuật phục vụ trong những công việc tầm thường, tự chọn lấy cho mình những công việc nhọc nhằn, tởm gớm, tự tình thi hành với nét mặt vui tươi. Đã từng có một người tớ nữ không hề than trách công việc đè nặng trên vai, không bao giờ càu nhàu trong công tác phục vụ, đó là gương mẫu cho chúng ta!
Ngày nay trong vinh quang thiên quốc, Mẹ vẫn ân cần giúp đỡ tất cả mọi người, chúng con vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Mẹ, và Mẹ kêu gọi chúng ta cộng tác với Mẹ trong việc giúp đỡ mọi người.
Cả đoạn Kinh Thánh này là một điệu nhạc êm đềm về hạnh phúc của Maria. Không ở đâu: MV 4-C22
Cả đoạn Kinh Thánh này là một điệu nhạc êm đềm về hạnh phúc của Maria. Không ở đâu chúng ta có thể thấy rõ sự mâu thuẫn của hạnh phúc cho bằng trong cuộc đời của Maria. Maria đã được diễm phúc làm mẹ phần xác Con Chúa. Nhận một đặc ân vĩ đại dường ấy, hẳn lòng mẹ chứa chan niềm vui sâu xa và đầy ngạc nhiên kỳ thú. Nhưng cũng chính hạnh phúc đó sẽ là lưỡi gươm sắc thâu qua lòng mẹ. Điều này có nghĩa là một ngày kia mẹ sẽ nhìn thấy con mẹ treo thân trên cây thập giá.
Việc được Chúa lựa chọn thường có nghĩa là cùng một lúc có cả mầu nhiệm vinh hiển lẫn thập giá khổ đau. Thực ra Thiên Chúa không chọn lựa một người đó hưởng an nhàn, sung sướng và vui chơi ích kỷ, nhưng để con người đó hoàn thành một nhiệm vụ lớn lao với tất cả con tim, khối óc và tay chân của mình.
Thiên Chúa lựa chọn con người để sử dụng người đó cho công việc của Ngài. Khi Jeanne d’Are biết thì giờ của mình chẳng còn bao lâu, bà cầu nguyện rằng: “Con chỉ còn sống một năm nữa thôi, xin Chúa hãy dùng con tận lực”. Khi nhận ra điều này thì những buồn rầu, đau khổ bởi phục vụ Chúa không còn là cớ để than khóc, nhưng đó là vinh hiển của chúng ta, vì chúng ta đã làm mọi sự và chịu mọi sự vì Chúa.
Khi Richard Cameron sa vào tay quân giặc, chúng liền giết chàng, chàng có hai bàn tay rất đẹp, chúng cắt đôi bàn tay gửi cho cha chàng và hỏi ông có nhận ra hai tay đó chăng. Ông trả lời: “Đó là tay của con tôi, con yêu quí của tôi, ý Chúa là tốt lành, Ngài không bao giờ lừa dối tôi”. Những nước mắt của cuộc đời được chiếu long lanh bởi cảm biết chính sự đó cũng nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Một thánh nhân Tây Ban Nha đã cầu nguyện cho dân tộc mình: “Cầu xin Chúa chối từ bình an để ban cho anh em vinh hiển”. Một nhà truyền giáo đã nói: “Chúa Giêsu đến không phải để tạo an nhàn cho cuộc sống, nhưng để làm cho con người trở thành vĩ đại”.
Đó chính là mâu thuẫn của phúc lộc, vì nó đem đến đồng thời cả hai điều: sự vui mừng lớn nhất thế gian cùng với trách nhiệm lớn nhất trên đời.
Cảnh này không có cảnh tương ứng thì không có gì lạ: kết quả của nó là việc thành công sự giao: MV 4-C23
Cảnh này không có cảnh tương ứng thì không có gì lạ: kết quả của nó là việc thành công sự giao liên giữa chu kỳ của Gioan và chu kỳ của Chúa Giêsu. Việc gặp gỡ của hai phụ nữ mang thai cho phép liên kết hai em bé sắp sinh ra. Trong bố cục của Luca, thực ra vị tiên hô bị tống giam trước khi Chúa Giêsu Kitô đến nhận phép rửa (3,20-21).
Đề tài của cuộc hành trình xuất hiện lần đầu tiên trong một tác phẩm mà các nhân vật di chuyển nhiều: Lời bắt đầu lên đường và cuộc hành trình (mau lẹ) sẽ dẫn Lời đến tận La Mã, tượng trưng cho ranh giới cuối cùng của miền đất có người ở (Cv 1,8; 28,30-31). Việc ngự đến của thần khí tiên tri trên bà Elizabeth chắc chắn muốn nói rằng Thiên Chúa đang hành động; nhưng sự can thiệp thần linh này cần sự thông hiệp và suy tư của những con người; ở đây cũng như ở Cv 10 với cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Conêliô, Lời chính là sự gặp gỡ của các nhân vật.
Thực vậy, vai trò của các nhân vật không hoàn toàn thụ động. Khi đã nhận lời thiên sứ chào, Đức Maria liền chuyển giao lời ấy; và điều đó mở đầu cho tiến trình. Khi lời chào vang đến tai bà Elizabeth, con trẻ sắp sinh nhảy mừng trong dạ mẹ. Em được đầy Thánh Thần như sứ thần đã loan báo (1,15), em bé thấy hừng lên bình minh của thời đại mới và nói tiên tri bằng việc nhảy mừng và không phải bằng lời nói, khi hân hoan nhận ra sự hiện diện của Đấng mà thiên hạ đợi trông vào thời cuối cùng. Được đầy thần khí tiên tri, lúc ấy Elizabeth hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc vừa xảy ra trong lòng dạ bà; bà không chỉ bằng lòng nhận ra rằng Đức Maria và đứa con bà cưu mang là đối tượng cho phúc lành của Chúa. Bà còn tuyên xưng người bà con của mình là Mẹ của Chúa tôi; bà Elizabeth nói bằng chính môi miệng mình điều mà đứa con bà đã xác nhận bằng cách nhảy mừng: con của Đức Maria là Đấng Kitô, Chúa đã loan báo trong Thánh vịnh 110, câu 1 (được trích dẫn bởi Lc 20,41-44 và Cv 2,34-36).
Như vậy tiếng kêu lớn của bà Elizabeth như vậy trước hết có ý nghĩa Kitô học: điều được nói về mẹ lại đến trước sự cao cả của Người Con. Nếu Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế thì thật sự Ngài được chúc phúc hơn mọi phụ nữ. Tự nó, việc thụ thai đồng trinh đề cao Người Con chứ không phải người mẹ – như “Tin Mừng thời thơ ấu” của Mt 1-2 đã cho thấy. Tuy nhiên, Luca cũng lưu ý đến nhân vật Maria, và qua việc đó ông cho thấy một điều mới mẻ. Lời chúc phúc liên quan tới lòng tin của Đức Maria tự căn bản khác với cô thiếu nữ trong sách tiên tri Giacaria (c. 45) và những câu 42-45 cho phép Luca quy tụ trong Đức Maria hai cái phúc, phúc vì được làm mẹ và phúc vì có lòng tin mà ông tách rời ra trong đoạn 11,27-28. Khi tin rằng các lời của Thiên Chúa sẽ được thực hiện, Đức Maria trở thành mẹ; rõ ràng đức tin của người là thiết yếu để cho những lời ấy được thực hiện. Người là mẫu mực cho những ai nghe lời, là gương mẫu cho tín hữu, là Kitô hữu đầu tiên. Người ta cũng không coi thường việc Luca căn cứ vào lời cầu nguyện và suy tư sau này của Giáo Hội về người trinh nữ thành Nagiaret. Diễn ngữ Mẹ của Chúa chắc chắn cũng là dùng để tôn vinh Đức Maria: théotokos, mẹ của Thiên Chúa, cũng như lời nguyện cầu sẽ làm thành phần thứ hai của kinh “kính mừng”.
Lúc ấy, Đức Maria xướng lên bài thứ nhất trong bốn bài thánh ca của Lc 1-2. Đó là một bức tranh ghép toàn bằng những trích dẫn Cựu ước, theo bản dịch Hy Lạp Bảy Mươi. Như thánh ca của Anna (Sm 2,1-10) được Luca đường như khuôn mẫu, thánh ca ngợi khen này có một điểm nối kết với mạch văn, chỉ có câu 48 nối liền với trình thuật trước đó khi gợi lại một cách kín đáo việc truyền tin. Tuy nhiên, kinh Ngợi khen này có ý nghĩa của nó chính nhờ việc Luca đặt nó vào chỗ này. Vai trò của bản thánh ca này làm ta nghĩ đến vai trò của các giai điệu trong một bản nhạc kịch: cử điệu tạm thời bị ngưng lại và tiếng hát lời ca biểu lộ tâm lý của nhân vật trong cảnh hoặc ý nghĩa của biến cố.
Như bà Anna, người đã thụ thai một cách lạ lùng, Đức Maria bắt đầu bằng việc diễn tả điều Ngài cảm thấy (c. 46-47). Sau đó, tới lý do lời ngợi khen: bởi vì, lúc truyền tin, Người đã nhìn đến sự thấp hèn của nữ tỳ nữ Người và bởi vì, Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều kỳ diệu; lý do này bị gián đoạn giữa chừng bởi cái phúc của người tì nữ (c. 48b). So sánh bới St 30,13 thấy rằng: mọi thế hệ sẽ khen Đức Maria có phúc vì người con mà Ngài đang mang trong dạ chứ không phải do một công nghiệp cá nhân nào. Nhưng đồng thời, dường như Luca đã muốn bày tỏ qua điều diễm phúc này một thái độ tự nhiên của Kitô hữu đối với người mẹ đầy niềm tin của Chúa. Dù thế nào đi nữa, đối với nền tảng này của các suy tư sau đó về Đức Maria, điều đáng chú ý là từ câu này trở đi Thiên Chúa là chủ từ mọi động từ, trừ hai câu trong ngoặc này: Người chỉ được diễn tả là Đấng quyền năng, thánh thiện và nhân từ (c. 48-50).
Những câu 51-53 làm thành phần thứ hai cho thấy cảnh đổi lộn các tình huống và giá trị làm nổi bật bước chuyển từ thế giới này sang thế giới mới. Sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa, được bắt đầu với việc thụ thai con người, là Đấng Mêsia, sẽ ưu tiên xét xử công bình cho người thấp hèn, kẻ bị chà đạp. Đó là một suy tư mà Luca ưa thích và ông sẽ khai triển dài hơn khi trình bày các mối phúc và những nỗi bất hạnh (Lc 6,20-26) để giải thích luận đề này. Chúng ta hãy chỉ ghi nhận rằng bố cục của Luca đã đặt trên môi miệng Đức Maria một ngôn ngữ sẽ làm nổi bật tính cách hiển thị của Vương Quốc trong lời rao giảng của Đức Giêsu.
Trong phần kết, sự can thiệp có tính cách cứu độ bắt đầu thực hiện lời hứa với các tổ phụ, cho con cháu của Abraham (cc. 54-55). Luca cẩn thận không nói trước đến đề tài lương dân vào đạo, cũng như tô điểm cho bài thánh ca màu sắc Kitô học hậu-Phục Sinh.
Đức Maria ở lại nhà bà Elizabeth độ ba tháng. Đối với Luca, khoảng thời gian trong khi Đức Maria xa cách Giuse là một dấu chỉ, dưới mắt độc giả, xác minh cho việc thụ thai đồng trinh. Đồng thời, không có vấn đề Đấng Mêsia hiện diện – dù là trong dạ mẹ – vào ngày vị tiền hô sinh ra! Đức Maria trở về nhà mình.
Cuộc gặp gỡ giữa bà Êlisabét và Đức Maria mang nhiều ý nghĩa, một khi được liên kết với hai: MV 4-C24
Cuộc gặp gỡ giữa bà Êlisabét và Đức Maria mang nhiều ý nghĩa, một khi được liên kết với hai khung cảnh Kinh thánh ta thấy ở trên. Êlisabét biểu hiệu Israel: già cả, gia đình tư tế, bị son sẻ tự nhiên, và nhờ phép lạ của Thiên Chúa trở thành người mẹ có con cái sinh ra vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Maria tượng trưng cho Giáo Hội: trẻ trung, trinh tiết, thành người Mẹ nhờ phép lạ của Thiên Chúa, sắp sinh hạ là Đấng Messia, Đấng Cứu độ. Hai người mẹ mà việc làm Mẹ mang một tầm vóc lịch sử, đã tìm gặp nhau và cùng liên kết với nhau để cùng tụng ca vinh quang Thiên Chúa.
Maria lên đường đến thăm viếng phần vì –một cách rất tự nhiên- muốn thông dự vào biến cố vĩ đại và rồi bày tỏ tâm tình của mình, nhưng cũng vì muốn giúp đỡ và cuối cùng là đón nhận một dấu hiệu Thiên Chúa đã chỉ: như vậy, Mẹ đã đi sâu vào chương trình vĩ đại của Thiên Chúa.
Đằng sau tất cả những cái đó, người ta khám phá ra được sáng kiến, quyết định cá nhân của Mẹ. Một lời nói của Thiên Thần và sự thúc đẩy của ơn thánh đã đủ. Mẹ hiểu và Mẹ hành động. Tin mừng nói thêm là Mẹ vội vã. Ưng thuận thánh Ý Chúa, vâng lời tiếng mời gọi của Ngài thì không được chậm trễ và nặng nề, nhưng vui vẻ và lanh lẹ. Người nào đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa và được Thần Khí thúc đẩy, phải bước đi với tâm hồn hài lòng và tinh thần cởi mở, dầu trên con đường đầy khó khăn.
Việc Maria cất bước đâu phải việc tự nhiên. Một thiếu nữ trẻ tuổi tự ý làm một cuộc hành trình dài ba ngày đường, rồi ở lại cả mấy tháng trời xa nhà xa cửa, hẳn phải là cái gì gây kinh ngạc cho người Do thái thời đó- và có thể được coi là quá đáng. Nhưng Maria đã để kệ tất cả những cái nhìn phàm trần đó một khi muốn thực thi Thánh Ý Chúa.
2. Lời nói
Đức Maria đến chào thăm Êlisabét trong căn nhà của Giacaria. Chúng ta không biết đó là lời chào bình thường hay cùng lúc đó truyền đạt sứ điệp thiên thần đã cho biết liên quan đến biến cố kỳ diệu kia. Trong mọi trường hợp, lời nói của Đức Maria làm cho Êlisabét và con bà đang mang trong lòng một sự cảm động và nhiệt tình cả về tự nhiên lẫn thần hứng của Thánh Thần. Chính vì đó mà khi đáp lại lời chào, bà Êlisabét đã thốt lên với vẻ cảm động sâu xa: ‘Em có phúc hơn mọi người nữ, và hoa quả bởi lòng em thật đáng chúc phúc’. Phần đầu của Kinh Kính mừng được Thiên thần Chúa phát biểu, phần sau đã được Êlisabét xướng lên, và do đó bởi lòng thán phục của loài người. Sau này Giáo Hội đã thêm vào phần thứ ba trong ý nghĩa và theo tinh thần của con người tội lỗi.
Kinh Kính mừng như vậy hoàn toàn có nguồn gốc Kinh Thánh và Giáo Hội, đã là một trong những lời kinh đẹp nhất, sâu xa nhất, nhờ nó mà Êlisabét và Cựu ước nôí kết với Đức Maria và Tân ước, tất cả kết thúc bằng lời Giáo Hội, trong đó hết thảy đều quy tụ về.
Hoa quả của lòng Đức Nữ Trinh đã làm nên đối tượng cho việc vinh chúc, chính vì thế ta hiểu được tại sao Đức Mẹ đáng được ca tụng giữa hàng phụ nữ. ‘….Việc làm Mẹ của Đức Maria là một bí nhiệm của vẻ lớn lao của Mẹ, đồng thời cũng nói lên sự bí mật trong việc sùng kính Đức Mẹ của tất cả những ai suy nghĩ và tin tưởng theo Kinh Thánh.
‘Và bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến với tôi?’. Bà Êlisabét, dù đã cao niên, cũng nhận thức được và tuyên xưng sự nhỏ bé của mình, ngạc nhiên và sung sướng, ca tụng người em họ này ‘Mẹ của Chúa tôi’: bà biết trẻ nhỏ nằm trong lòng trinh nữ là ai, và trẻ này sẽ làm Chúa theo hai nghĩa của danh từ. Vì Ngài là Chúa của mọi người, nên cũng là Chúa của Bà và là Chúa là Vua của vị loan tin, của vị tiền hô mà Bà sắp sinh hạ.
‘Phúc cho em là kẻ đã tin: vì tất cả những gì Chúa đã phán với em, sẽ nên trọn’. Đức Maria thật đã cao cả trong sự kiện, và nhiệm vụ làm Mẹ của Chúa; Mẹ còn cao cả xét về cá nhân Mẹ, vì lòng tin vào sức mạnh và quyền năng của Lời Thiên Chúa. Đức tin này hoàn toàn nghịch laị với sự cứng tin của loài người.
Ngay từ khởi đầu lịch sử ơn cứu độ, đức tin đã được biểu hiện như một sự chấp nhận tiêng nói đòi hỏi, ưng chịu, mời gọi, ban ơn sủng, sinh hạ và tạo thành. Ơn Cứu độ đến từ Thiên Chúa, là công việc của Thiên Chúa. Tuy nhiên,con người phải đón nhận bằng sự sẵn sàng vì Thiên Chúa không thể bỏ qua sự cộng tác này. Hoạt động của Thiên Chúa đòi hỏi sự tham gia của con người. Sự tham gia, cộng tác này, chính là lòng tin biểu lộ ra bằng việc làm: đức tin sống động, câu trả lời quả quyết của cả con người đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa.
Êlisabét ca tụng Đức Mẹ, đó là Israel ca tụng Giáo Hội. Đó là việc Cựu ước thừa nhận Tân ước và đó cũng là sự kính trọng của dân cũ của Thiên Chúa đối với dân mới của Ngài.
Toàn cảnh trên đây đã tạo nên nền tảng cho việc sùng kính Đức Mẹ, vì sự sùng kính này rút từ nguồn gốc của lời nói và trình thuật Kinh thánh, diễn tả hai vẻ lớn lao của Đức Mẹ: lớn lao nơi con người và nơi nhiệm vụ của Mẹ, đồng thời lớn lao về tư cách làm Mẹ của Mẹ và sự sẵn sàng nơi đức tin của Mẹ.
Lời ca tụng của bà Êlisabét nối tiếp lời ca ngợi của thiên thần. Cả hai đã được tiếp tục qua môi miệng Giáo Hội và môi miệng của tất cả những người thấm thía lời văn cũng như tinh thần của Kinh Thánh và của Giáo Hội, đã không bao giờ để cạn khô lời tán tụng Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu.
Trong Mùa Vọng này, với Tin Mừng của Luca, chúng ta đã đi ngược dòng thời gian. Vào Chúa: MV 4-C25
Trong Mùa Vọng này, với Tin Mừng của Luca, chúng ta đã đi ngược dòng thời gian. Vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, ông đã yêu cầu chúng ta "ngẩng đầu lên" trước Đức Kitô vinh quang đang "hiện đến" trên đám mây trời: Đức Kitô Phục sinh hôm nay cũng là Đức Kitô ngày "cánh chung". Chúa nhật II và III Mùa Vọng, Luca đã cho chúng ta quay lại 2000 năm về trước, vào thời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị cho tác vụ công khai của Đức Giêsu Kitô Nadarét. Chúa nhật thứ IV này, chúng ta lời đi ngược lên 30 năm nữa, tới thời mà Đức Giêsu mới chỉ là một phôi thai trong lòng một trinh nữ, Đức Maria và chúng ta cũng ở trong thời gian.
Còn vài ngày nữa là tới lễ Giáng sinh. Những ngày này, đường phố của chúng ta nhộn nhịp tưng bừng đón lễ, những cửa hàng đua nhau quảng cáo. Trong những ngày tích cực chuẩn bị lễ hội cuối năm này, chúng ta có dành một thời gian thanh thản nội tâm, để cùng suy niệm với Đức Maria, đang chờ đợi người con của mình ra đời không?
Bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa
Tên của Mẹ trong tiếng Hipri là Myriam, chắc chắn có nghĩa là "Công Chúa” hay "Bà lớn".
Đoạn văn nói cho ta hay, "Bà hấp tấp chỗi dậy", có thể nói ngay sau khi Thiên Thần báo tin. Sự phản ứng nhanh nhẹn này là một dấu chỉ. Đó là Lời Chúa đã thúc đẩy Bà lên đường. "Êlisabét, người họ hàng với Bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai... và nay đã có thai được sáu tháng". Maria lên đường ngay tức khắc. Chúng ta hình dung ra Bà trong dáng vẻ đầy nhiệt tình và trẻ trung. Thái độ vội vã đó là dấu chỉ đức tin của Bà. Bà phải đi bộ 150km, không có xe hơi tàu hỏa gì cả! Bà đi về Giêrusalem. Air Kharim là một địa danh ở ngoại ô phía Tây của thành phố, cách 6km. Ngày nay đó là khu đại học y khoa Giêrusalem với bệnh viện lớn là Hadassah.
Nhưng đó không đơn thuần là một sự di chuyển địa dư. Đó cũng là một dấu chỉ. Cuộc hành trình này sẽ mở đầu cho hàng loạt những cuộc hành trình chứa đầy trong các trình thuật của Luca, một cách tượng trưng. Đường đi là nơi mạc khải và thi hành sứ vụ. Lời Chúa đã từ trời xuống Nadarét. Nay Lời Chúa đi từ Nadarét đến Giêrusalem, mở đầu cho biến cố quan trọng "lên thành Giêrusalem" để kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu. Và từ Giêrusalem Lời Chúa sẽ mở ra tới Samaria và đến tận cùng trái đất... đến cả tâm hồn tôi, nếu tôi biết lặng nghe Lời. Sự vội vã của Đức tin là một sự vội vã "thừa sai". Luca là đệ tử của Thánh Phaolô, vị tông đồ đã đi dọc các con đường của đế quốc cùng với Luca (CVTĐ).
Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét
Bước đường của Lời Chúa trước tiên ở giai đoạn thân mật nhất, và trong khung cảnh sống tự nhiên nhất: "ở nhà"... "giữa những bà con", ở đây là giữa hai chị em bà con. Đức tin luôn được thông truyền như thế!
Ông Dacaria bị câm, vì ông đã không chịu tin (Lc 1,20 - 1,64). Đây lại là một dấu chỉ có ý nghĩa. Ông Dacaria đáng thương, sẽ không thể nói một tiếng nào với hai bà trong thời gian gặp gỡ suốt 3 tháng (Lc l,56) chỉ có các bà nói chuyện với nhau. Chính các bà là những người đầu tiên có đức tin.
Lời chào của Maria là: "Shalom" có nghĩa là bình an, trong ngôn ngữ của bà. Chào? Dacaria và Elisabét sáu tháng trước vẫn còn là một đôi vợ chồng già buồn bã. Buồn vì không có con (Lc l,7). Bà Maria đã biết điều đó. Bà đến để chúc mừng người chị bà con và chia sẻ niềm vui với bà.
Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên.
"Đứa con nhảy lên trong bụng". Đó là những từ cụ thể? Phaolô nói rằng, Luca là một y sĩ (Cl 4, 14). Chúng ta hiểu vì thế mà Luca đã lưu ý đến chi tiết này. Bất cứ phụ nữ nào đã làm mẹ, cũng đều nhớ đến giây phút khó quên đó giây phút mà hài nhi ra dấu hiệu đầu tiên về sự hiện diện của mình bằng cách cựa quậy. Có phải đó là biến cố tầm thường? Là hình ảnh văn chương ngây ngô? Là thứ tình cảm lỗi thời? Không, đối với Luca, đó là một quả quyết thần học, một "dấu chỉ" nữa? cũng như hai anh em sinh đôi Êsau và Giacóp đã nhảy múa trong bụng bà Rêbécca trước kia là vô sinh (St 25,22). Thiên Chúa đi trước con người, trong những ý định của Người: "ngay từ trong lòng mẹ", ngôn sứ Giêrêmia đã biết rằng "Chúa biết mình" (Gr l,5). Cách nói này phải chăng là hạnh phúc?
Gioan Tẩy Giả bắt đầu vai trò của mình là ngôn sứ và nhân chứng cho Đức Giêsu Kitô! Chính ông báo trước cho mẹ ông biến cố vĩ đại đang sắp đến. Tại sao chúng ta lại cứ muốn hợp lý hóa mầu nhiệm? Đấy là một hiện tượng sinh học thông thường chăng? Phải, nhưng cũng là mầu nhiệm thần linh về sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn "đi trước" chúng ta.
Và bà được đầy tràn Thánh Thần
Đối với Luca, những trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu đã là một sự báo trước thời gian Phục sinh. Đó là Lễ Hiện Xuống cách tượng trưng, nhưng là một lễ Hiện xuống bên trong, không rực rỡ bên ngoài. Sau này Luca sẽ nói rằng, chính vùng Thần Khí Thiên Chúa đó sẽ "đổ xuống trên mọi xác thịt" (Cv 2,17-21 - Ge 3,l-5).
Chúng ta thấy rằng, Luca giúp chúng ta đọc lại biến cố Giáng sinh của Đức Giêsu theo ánh sáng của sự khai sinh Giáo Hội! Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là những sự kiện trên là 'không có thực: Luca đã nhận biết những sự kiện đó từ các giới tham dự nghi thức thanh tẩy và họ hàng của Mẹ Maria, Đấng đã "ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy trong lòng" (Lc 1,66 - 2,19-51).
Liền kêu lớn tiếng và nói rằng
Từ Hy Lạp Luca dùng ở đây (anéphonèsén) trong toàn bộ Kinh thánh chỉ thấy xuất hiện trong đoạn này mà thôi, còn trong sách Sử biên niên (1 Sb 15,21 - 16,4.5.42 2 Sb 5;13) từ này chỉ được dùng nhằm diễn tả những câu "tung hô phụng vụ” để chào mừng khám giao ước. Chúng ta có thể dịch là: "Bà Elisabét đã lớn tiếng hát lên bài thánh ca này".
Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.
Đa số các Kitô hữu đọc kinh Kính Mừng không biết rằng lời kinh của họ được trích từ đoạn Tin mừng này. Những từ này đã vượt qua nhiều thế kỷ trên mỗi tổ tiên của chúng ta, chúng ta sẽ để những từ này rơi vào lãng quên chăng? Chúng ta có thường đọc kinh Kính Mừng không? Có lần chuỗi Mân Côi? Những từ này cũng là một trích dẫn Kinh Thánh được dùng hai lần khác, đối với hai phụ nữ khác là Gia-en và Giuđitha (Tl 5,24 - Gđt 13,18). Hai phụ nữ đã cứu dân tộc họ vào những ngày nguy khốn nhất. Câu trích dẫn này có phải là ngẫu nhiên không?
“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ": đây là một lời khen tặng của một phụ nữ đối với một phụ nữ khác: Luca lấy làm sung sướng nhấn mạnh về một trong những đề tài của ông trong Tin Mừng. Bí mật đầu tiên về Thiên Chúa không được giao phó cho người nam. Ngày nay có những phong trào đấu tranh để giải phóng phụ nữ. Có một số người cho rằng những phong trào đó là nhập nhằng. Nhìn dưới khía cạnh tích cực, những phong trào đó là một dấu chỉ thời đại, một dấu chỉ của Thiên Chúa. Mới đây một phong trào phụ nữ tự cho mình có nhiệm vụ “dám sống như phái nữ…dám nói Đức Giêsu Kitô thuộc phái nữ”. Điều này đã bắt đầu trong Tin Mừng thánh Luca. Trước cả các thánh Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ tuần (30 năm trước). Bà Elisabét đã được "đầy ơn Thánh Thần". Ở đây trong bản văn Hy Lạp có dùng cùng một từ như trên. Ta có thể dịch là "'quả trong lòng bà được chúc phúc”.
Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?.
Ở đây Luca lại trích dẫn một câu Kinh Thánh (2 Sm 6,9) nói về Vua Đavit, đã không tin rằng hòm bia giao ước lại có thể đến nhà ông. Khám giao ước đó là nơi hiện diện của Thiên Chúa. Từ đó về sau Đức Giêsu sẽ nói (Ga 2,19) rằng Thiên Chúa quyết định không cư ngụ trong những "đồ vật" phượng tự nữa, những căn nhà bằng đá, nhưng hiện diện trong thân thể "sống động" của Đức Kitô. Bạn đang tìm một Đấng Cứu chuộc, hãy mở mắt ra mà nhìn ngắm: Thai nhi nhỏ bé và mảnh mai này, đang hiện diện trong bụng Mẹ người... "Có phải chính Người là Con Thiên Chúa, đầy ân sủng và chân lý không " (Ga l,14). Mầu nhiệm của Thiên Chúa còn đang giấu ẩn. Đó cũng là mầu nhiệm Thánh Thể.
Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng
Nếu dịch từng chữ theo bản văn Hy Lạp thì sẽ là: "Khi lời chào mừng của em vừa đến tai tôi, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy lên vì vui mừng (Cùng một từ "Koilia" thế mà ba dịch giả lại dịch ba cách khác nhau!).
Từ "giật mình" hay "nhảy lên", gợi cho ta nhớ tới một vũ điệu bước khiêu vũ của Vua Đavit trước khám giao ước (2 Sm 6,15-16). Từ “vui mừng" ("agalhasis") chỉ được dùng trong những Thánh Vịnh (90 lần!) và không bao giờ được dùng trong ngôn ngữ cổ điển Hy Lạp. Đó là sự vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự vui mừng của Chúa ban cho, không giống như những lạc thú trên đời. Đó là chủ đề vui mừng mà Thánh Thần ban cho, chủ đề điển hình của Thánh Lu ca “các người sẽ nhảy nhót như những chú bê bé nhỏ thoát ra khỏi chuồng" như ngôn sứ đã nói như thế (Mt 3,10). Còn chúng ta những người Kitô hữu thì sao?
Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.
Rõ ràng, toàn thể trình thuật này chìm đắm trong đức tin và chỉ có thể giải thích theo đức tin. Đức Maria đã được gọi là "có phúc", vì Bà có đức tin: Bà đã tin. Đức Giêsu sẽ nói lại về “mối phúc" này, mối phúc hàng đầu. Khi nghe người ta ca tụng mẹ mình, Đức Giêsu nói ngay: "Nhưng đúng hơn: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa" (Lc 11,28).
Mối phúc này có thể dành cho chúng ta. Trong đời sống, tôi có dùng thời giờ cho việc suy niệm Lời Chúa không? Giờ đây tôi bắt đầu kinh "Magnificat anima mea Dominum" "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi".
ĐỨC MẸ ĐI THĂM VIẾNG: CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN VÀ NHIỆM MẦU GIỮA ĐỨC GIÊSU VÀ GIOAN, VỊ TIỀN HÔ CỦA NGƯỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một cảnh liên hệ chặt với Truyền Tin
Trước khi cáo từ ra đi, Sứ thần Truyền tin đã chỉ dẫn cho Đức Maria một dấu chỉ: "Kìa bà: MV 4-C26
Trước khi cáo từ ra đi, Sứ thần Truyền tin đã chỉ dẫn cho Đức Maria một dấu chỉ: "Kìa bà Elisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là "hiếm hoi", mà nay đã có thai được sáu tháng". Thế là Đức Maria, hình ảnh Giáo Hội truyền giáo người mang Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, tức thì "vội vã lên đường đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa". H. Cousin nhận định: "Luận đề về con đường xuất hiện lần đầu tiên trong một công trình, ở đó các nhân vật di chuyển nhiều. Lời khởi sự cuộc hành trình, và cuộc chạy ("lanh lẹ") (của Lời cuối cùng dẫn Lời tới Rôma, biểu tượng của những miền đất xa xôi có người ở" (Cv 1,8. 28, 30-31) (L' Evangile de Luc", Centurion, trg 30).
Chúng ta chẳng được biết gì hơn về cuộc hành trình của Đức Mẹ xuống miền Nam. Như cha Lagrange tính toán, thì cuộc hành trình ấy có thể phải mất bốn ngày. Chủ tâm của tác giả Luca là muốn tập trung vào lúc tới nơi để có thể tạo cảnh làm nhịp cầu nối kết hai giai đoạn mà trước đây Luca đã triển khai riêng rẽ: giai đoạn của Gioan Tẩy Giả và giai đoạn của Đức Giêsu.
2. Cho biết số mệnh nhiệm mầu của hai con trẻ sắp sinh ra.
Trong cảnh Truyền tin, Đức Maria vừa mới nhận được lời chào của Thiên thần, liền chuyển lời chào ấy tới người chị họ của mình: "Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Elisalbét". F. Bovon nhận xét, "Trong những chương này có nhiều lời chào hỏi, vì có nhiều cuộc gặp gỡ, bởi lẽ là Thiên Chúa can thiệp và khai mào ơn cứu độ thông qua những mối tương quan của con người" (Tin Mừng theo thánh Luca 1-9, Labor et Fides, trg 86). Và lời chào hỏi của Đức Maria châm ngòi cho tiến trình ấy. Khi lời chào ấy vừa lọt tai bà Êlisabét thì đứa con trong bụng bà nhảy lên; một sự nhảy mừng mà bản dịch đã dùng một từ làm giảm đi sức mạnh, bởi vì nguyên văn tiếng Hy Lạp là "nhảy cẫng lên", "nhảy tung lên", "nhảy múa".
Vì được đầy tràn Thánh Thần, ngay cả trước khi chào đời, nên Gioan nhìn thấy bình minh của kỷ nguyên mới đang ló dạng và bằng cách thi hành trước sứ mệnh của mình; như vậy ông nói tiên tri không phải bằng lời nói, nhưng bằng cử động nhảy tung lên, rằng Đấng mà người ta trông đợi đến vào ngày tận thế, thì từ nay người đang có mặt đây rồi: "Thiên Chúa không chỉ dùng những lời nói, mà còn sử dụng cả ngôn ngữ của thân xác nữa". F. Bovon còn nhận xét thêm như vậy.
+ Được đầy tràn Thánh Thần, bà Êlisabél đọc được ý nghĩa của động tác con trong bụng mình nhảy lên vui sướng và ý nghĩa của cuộc hội ngộ mà bà đang sống.
+ Bằng một tiếng kêu lớn bà tỏ vẻ ngỡ ngàng, bà Êlisabét nhìn nhận rằng Đức Maria và "hoa trái của lòng" mà Maria đang cưu mang đều được Chúa chúc phúc.
+ Rồi bằng danh hiệu "Thân mẫu Chúa tôi", bà tung hô người con của người em họ mình là Đấng mà Tv 109,1 đã loan báo, Đấng Kitô Đức Chúa.
+ Sau cùng theo hình thức một mối phúc, bà tán tụng lòng tin của Đức Maria. “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đức Maria "đã cưu mang trong tinh thần trước khi cưu mang trong thân xác mình", điều mà thánh Augustinô sẽ chú giải sau này.
H. Cousin viết: “Mối phúc về lòng tin của Đức Maria, phân biệt tự căn bản người thiếu nữ ấy với ông Dacaria (câu 45) và những câu 42-45 cho phép Luca kết hợp lại trong chính bản thân Đức Maria hai mối phúc: phúc được làm mẹ Thiên Chúa và phúc vì có lòng tin; sau này ở 11, 27-28, hai mối phúc ấy lại được Luca tách riêng ra. Nhờ tin rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói, Đức Maria được làm mẹ: lòng tin của Người cần thiết để Thiên Chúa phải thực hiện những gì Người đã nói! Đức Maria là điển hình kẻ nghe Lời Chúa, là mô hình của người có lòng tin, là tín hữu đầu tiên. Bởi vậy, ta không nên coi thường phần Luca đóng góp vào kinh nguyện và suy niệm của Giáo Hội sau này liên can tới Đức Trinh Nữ Nadarét. Không ai chối cãi được rằng kiểu nói " Thân Mẫu Chúa " cũng là phiến đá đặt nền cho tước hiệu đầu tiên sau này, tước hiệu mà cả hai Giáo Hội Rôma cũng như Chính Thống sẽ tôn phong và ca mừng Đức Maria: "Théotokos", "Mẹ Thiên Chúa”. ("L'evangile de Luc". Centurion. trg 31)
BÀI ĐỌC THÊM
1. Thăm viếng: gặp gỡ giữa hai người phụ nữ, giữa hai con trẻ, giữa hai giao ước
(H. Voulliez, “Dieu si proche", Desclée de Brouwer, trg 17- 18).
“Thánh Kinh là cả một chuỗi dài những cuộc viếng thăm mà Thiên Chúa đã thực hiện với dân Người. Mặc dầu những bất trung thất tín của con người, và đôi khi vì chính những bất trung ấy mà từ chín tầng trời cao thẳm, Thiên Chúa vẫn thường xuyên ngự xuống trần gian. Một ngày kia, qua trung gian Sứ thần Gabrien, Người loan báo cho một thiếu nữ làng Nadarét, là Maria, biệt tin con Người đến. Tức thì người thiếu nữ ấy lên đường đi "thăm" người chị họ của mình là Êlisabét.
Hai người phụ nữ gặp nhau, và qua họ hai con trẻ là Gioan và Giêsu cũng gặp nhau. Rồi qua hai con trẻ ấy. hai Giao ước cũ và mới gặp nhau. Tường thuật của Luca về khoảnh khắc có một không hai này có giá trị còn hơn một trang sử giáo dục. Cuộc viếng thăm này mở ra một tương lai cực kỳ mới lạ. Từ nay qua trung gian con người, qua người con đã làm người mà Thiên Chúa viếng thăm nhân loại. Và cũng chính khi thăm viếng người ta, là ta thăm viếng Chúa vậy. Trong chuyến viếng thăm cuối cùng của Chúa vào ngày tận thế, người ta sẽ kêu lên ngỡ ngàng: "Nhưng có khi nào chúng tôi đã viếng thăm Chúa đâu? Và Chúa sẽ đáp lại họ: "Mỗi lần anh em thăm viếng những người ốm đau, nghèo khổ.. và bất cứ ai khác, là anh em đã thăm viếng chính Ta, anh em đã mở ra trên trần gian này, những con đường xuyên đồi đậm tình nghĩa thiết đời đời vậy ".
2. “Cùng với Đức Maria hãy tin vào Thiên Chúa Đấng làm được mọi sự ngay cả những điều không thể được”
(G. Boucher, trong “Le ciel sur la terre").
"Thế là lịch sử chuẩn bị sang trang, để khai trương một kỷ nguyên mới. Vậy mà thế giới vẫn chưa biết điều ấy. Chẳng bao lâu sau, một phần lớn nhân loại sẽ bắt đầu tính số năm và thể kỷ từ một biến cố có vẻ như không có gì quan trọng cả.
Người ta còn gọi thêm nữa là: năm một sau Đức Giêsu Kitô, thế kỷ thứ nhất sau Đức Giêsu Kitô, hai ngàn năm sau Đức Giêsu Kitô.
Trong niềm trông đợi ơn mạc khải về thế giới mới này, rất cả đều tuỳ thuộc vào quyết định của một người phụ nữ rất bình dị. Chỉ một mình người phụ nữ khiêm tốn, không tên tuổi ấy đang nắm giữ bí mật của đất và trời. Người phụ nữ ấy là MARIA, đang mang trong máu thịt mình; những lời hứa về một người con cùng chung một bản tính với Cha trên trời.
Những bà con của Người đã lấy làm lạ lùng. Trong nhà Dacaria và Êlisabét, người ta linh cảm rằng ơn làm mẹ của người em họ trẻ tuổi này là do lời Chúa hứa.
Thật là tuyệt vời khi nghe người phụ nữ sơn cước ấy chúc tụng một phụ nữ làng quê Nadarét, đồng thời cũng chúc tụng luôn cả hài nhi mà phụ nữ Nadarét ấy đang cưu mang và hài nhi ấy không bao lâu nữa sẽ cho người ta biết mặt và kế hoạch cứu nhân độ thế của mình!
Bà Êlisabét nhờ lớn tuổi hơn nên được đặc ân nhận ra một dấu lạ của trời ngay trong tư cách làm mẹ của bà; bà cũng phát hiện cùng một dấu lạ như thế nơi người em họ còn trẻ măng của bà. Khi nghe con mình nhảy mừng trong bụng, bà ức đoán rằng người em họ của mình là một người mẹ dã cùng với Thiên Chúa dấn thân trong cuộc phiêu lưu này.
Ai sẽ nói hết được những nỗi niềm và tâm tư mà hai chị em chia sẻ cho nhau lúc ấy? Ai sẽ kể hết được những lời kinh tuyệt vời mà hai người mẹ ấy cùng dâng lên? Bởi vì Tin Mừng vẫn luôn luôn nhấn mạnh đến một điều, đó chính là lòng tin của hai người phụ nữ này. Nên hạnh phúc thật mà họ có được là vì người này cũng như người kia đều đã tin vào một điều không thể xảy ra được.
Gần tới lễ Giáng sinh, chúng ta tán tụng lòng lin của Đức Maria. Một lòng tin đưa Mẹ đến dấn thân hào một chuyến đi không biết trước hậu quả, trên những miền đất của thiên Chúa. Một lòng tin khiến Mẹ mạo hiểm mang theo gánh nặng Chúa trao, để lặn lội vượt đèo lội suối đi tới nhà người chị họ Êlisabét. Một lòng tin vào Thiên Chúa Đấng làm được mọi sự. Một lòng tin tuyệt đối.
Ta hãy mừng vui ngây ngất trước nhan Mẹ! Nhưng còn mừng vui hơn nữa trước một Thiên Chúa dám chọn con đường của phàm nhân để bắt liên lạc với nhân loại.
Bởi lẽ Đức MARIA cho phép ta nhận ra ân huệ Chúa ban cho Mẹ do lòng tin, ân huệ mà Thiên Chúa cũng có ý định ban cho mỗi người chúng ta. Ta có biết đáp lại kế hoạch của Chúa dành cho ta bằng cũng một niềm tin phó thác như Đức Maria không?
Phúc thay nếu ta tin rằng “Không có gì mà Thiên Chúa không làm được!".
Đức Maria đon đả ra đi tiến lên miền núi. cuộc hành trình vất vả nhưng Người vẫn vội vàng: MV 4-C27
1. Đức Maria đon đả ra đi tiến lên miền núi. cuộc hành trình vất vả nhưng Người vẫn vội vàng. Cuộc đăng trình vĩ đại Luca trình bày luôn trong tác phẩm của ông. Phúc âm thứ ba và Công vụ sứ đồ bắt đầu từ đây. Lời của Thiên Chúa, Ngôi Lời, đi từ trời xuống thế, từ Nazareth đến Giêrusalem, từ Giêrusalem đến Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất, luôn luôn vội vàng, bất kể những khó khăn.
2. Đức Maria vội vã đem Chúa Giêsu đến cho người khác. Đó cũng là bổn phận đặc biệt của người Kitô hữu, Trong cuộc sống mình, chúng ta cũng phải làm chứng Chúa Giêsu luôn sống trong chúng ta và thôi thúc chúng ta gieo rắc sự vui mừng và bình an cho mọi người chung quanh trong một thế giới u buồn và tăm tối.
3. Đức Maria đã lưu lại chừng ba tháng trong nhà người chị họ cho đến khi Gioan tẩy giả chào đời. Tự nhận là “tôi tớ Chúa”, người cũng muốn làm tôi tớ mọi người. Không nghĩ đến phẩm chức cao trọng làm mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã phục vụ, đã chứng tỏ Mẹ thật là Mẹ của Đấng đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ. Và ta cũng phải nói rằng vì Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu nên cũng là tôi tớ mọi người. Như thế, Mẹ tỏ cho chúng ta thấy ai muốn gần Chúa Giêsu thì cũng phải sống cuộc đời như thế.
4. Đức Maria là hòm bia giao ước mới. Người mang trong mình Đấng Thánh, mạc khải của Thiên Chúa, nguồn ân phúc, nguồn vui ơn cứu độ và trung tâm của việc phụng tự mới.
5. Hoàn toàn giống Abraham, cha các kẻ tin. Đức Maria đã tin vào lời Chúa loan báo cho mình một việc xem ra không thể được: là một trinh nữ sẽ làm mẹ. Vì mẹ đơn sơ khiêm tốn và sống gần gũi Chúa nên mẹ biết rằng không có gì mà Thiên Chúa không làm được (1,37).
6. Được sống gần Đức Maria là nguồn vui sâu xa đối với bà Elisabet và Gioan tẩy giả, vì họ linh cảm rằng Người mang đến ơn cứu độ. Mỗi ngày Đức Maria cũng mang đến ơn cứu độ cho chúng ta. Là mẹ của giáo hội (theo công đồng Vaticano II), Người lưu tâm đến mỗi con cái người, và tìm cách mang đến ơn cứu độ cho họ là Chúa Giêsu.
7. Ơn gọi của Gioan tẩy giả bắt đầu ngay trước khi sinh ra, vì việc ông nhảy mừng trong lòng bà Elisabet đã là một cuộc loan báo đầu tiên về Đấng Messia. Chúng ta cũng vậy, trước khi sinh ra, Thiên Chúa đã trao cho chúng ta một sứ mệnh đặc biệt, một vai trò độc đáo mà không ai có thể thay thế được. Do đó, cần phải để Chúa Thánh thần tác động lay chuyển như bà Êlisabet và Gioan tẩy giả để ngày càng trung thành với ơn gọi riêng biệt của mình hơn. Như thế một ngày kia chúng ta sẽ nếm được niềm vui sung mãn trong cuộc sống thiên đàng với Chúa và Đức Maria là tôi tớ trung thành của Ngài.
Cuộc sống hàng ngày, thăm viếng nhau là chuyện hết sức bình thường. Nghe tin bên nhà ông: MV 4-C28
Cuộc sống hàng ngày, thăm viếng nhau là chuyện hết sức bình thường. Nghe tin bên nhà ông A có chuyện không may, ông B đến nhà ông A thăm hỏi, chia sẻ niềm đau. Hoặc biết nhà bà B có tin vui, bà A đon đả chạy sang góp thêm tiếng cười, chia sẻ niềm vui. Hai người hàng xóm thăm nhau, hai người bạn thăm nhau, những người trong thân tộc máu mủ, họ hàng thăm nhau, tất cả đều là chuyện bình thường của cuộc sống.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho biết Đức Maria đi thăm bà Isave, người chị họ của Mẹ, khi nghe tin bà mang thai. Đây là một sự thăm viếng bình thường giữa hai người họ hàng của nhau. Dẫu cho Đức maria, lúc đó đã bắt đầu mang thai Chúa Giêsu, và dẫu cho bà Isave từ xưa tới nay không có con, bây giờ lại mang thai trong lúc già nua tuổi tác, thì việc Đức Maria thăm bà Isave vẫn là chuyện bình thường. Có chăng, thì chỉ niềm vui là lớn hơn mà thôi. Nhưng trong sự thăm viếng bình thường giữa hai người phụ nữ ấy, Thiên Chúa lại làm một điều rất phi thường. Vậy đâu là sự phi thường do bàn tay Thiên Chúa?
Vì đây không chỉ là một cuộc thăm viếng, gặp gỡ giữa hai người mẹ mà thôi. Nhưng trong cuộc thăm viếng giữa hai người mẹ, là một cuộc chào đón giữa hai người con, dù hai người con đó chỉ mới là bào thai trong lòng của hai người mẹ. Sự chào đón lạ thường này, đã khiến thánh Gioan Tiền Hô nhảy mừng trong lòng bà Isave, ngay sau lời chào đầu tiên mà Đức Maria dành cho bà.
Nhảy mừng là để diễn tả niềm vui. Bào thai trong lòng bà Isave chính là thánh Gioan Tiền Hô, đã biểu lộ niềm vui mừng bằng động tác “nhảy mừng”. Niềm vui cho gia đình của thánh Gioan lớn lắm. Vì đây không phải là niềm vui bình thường, nhưng là niềm vui ơn cứu độ. Niềm vui lớn lao đó, trước hết không chỉ vì hạnh phúc được Đức Maria đến thăm, đúng hơn, cùng với sự thăm viếng của mình, Đức Maria đã mang Chúa đến viếng thăm gia đình thánh Gioan.
Niềm vui càng lớn và ý nghĩa nhiều hơn, khi vừa nhập thể trong lòng Đức Maria, nghĩa là vừa mới xuống thế làm người, Chúa Giêsu đã chọn gia đình thánh Gioan làm gia đình đầu tiên để Người thực hiện cuộc viếng thăm đầu tiên. Bởi thế, ơn cứu chuộc, lần đầu tiên đến trong trần gian, ngoài Đức Maria và gia đình thánh Gia, gia đình đầu tiên được diễm phúc đón nhận là chính gia đình của thánh Gioan. Còn hơn thế nữa, chẳng những được Chúa đến thăm, gia đình thánh Gioan còn hãnh diện vô cùng vì cùng với việc Đức Mẹ ở lại, gia đình thánh Gioan được Chúa ngự đến, hiện diện và cùng chung sống. Chỉ có gia đình thánh Gioan là gia đình đầu tiên được diễm phúc như thế.
Thật ra bào thai không thể nhảy mừng, dù sẽ là một siêu nhân, cũng không bao giờ biết niềm vui, nỗi buồn, cũng chẳng hiểu được bất cứ một điều gì, để có thể nhảy mừng hay không nhảy mừng. Nhưng ở đây, thánh Luca khẳng định rất dứt khoát: “Hài nhi nhảy mừng trong lòng bà”. Như vậy, ta phải giải thích làm sao cho hiện tượng kỳ diệu này? Chắc bạn đồng ý với tôi, đây là một phép lạ: Thiên Chúa đã thực hiện phép lạ tuyệt vời. Người đã làm cho một cuộc viếng thăm bình thường, trở nên rất đỗi lạ thường: thai nhi có thể nhảy cẩng lên mà vẫn bình yên vô sự. Sự nhảy mừng, đồng thời là phép lạ ấy, có được là do một bào thai khác, được một người mẹ khác mang trong lòng mình làm nên. Người mẹ đó là Đức Maria, và bào thai mà Mẹ mang trong dạ, đó là Đâ;ng Cứu Thế, là Thiên Chúa làm người. Chỉ có một Thiên Chúa và quy về Thiên Chúa, ta mới dám khẳng định đức tin của mình vào một sự kiện lạ thường như thế.
Vâng! Chỉ có Thiên Chúa mới làm nên điều kỳ diệu đến nỗi con người phải chưng hửng. Do đó, việc Đức Mẹ thăm viếng bà Isave không còn là một cuộc thăm viếng bình thường nữa, mà là một cuộc trao ban ơn cứu độ. Mẹ đã mang chính Đấng là Ơn Cứu Độ tuyệt đối đến cho gia đình bà Isave.
Mẹ đến thăm bà Isave, thì trong hành động thăm viến đó, Mẹ đã mang Chúa Giêsu đến cho gia đình bà Isave. Bởi vậy, bất cứ nơi nào người ta mang Thiên Chúa đến cho nhau, ở đó sẽ có niềm vui, có sự bình an, có ơn thánh, và sự cứu rỗi sẽ tràn ngập.
Trong cuộc thăm viếng người chị họ của mình, Mẹ Maria dạy chúng ta một bài học đáng giá: Hãy mang Chúa đến với mọi người, chứ đừng mang hận thù, đừng mang những suy nghĩ đen tối, những nghi kỵ đến với nhau. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ để yêu thương và chia sẻ tình yêu với mọi người. Hãy cưu mang Chúa Giêsu trong tâm hồn, để như Mẹ, ta cũng có thể mang một tâm hồn tràn ngập sự sống của Chúa Giêsu và mang chính Chúa Giêsu đến với anh chị em xung quanh. Nhờ đó, mọi người sẽ chứa chan niềm vui, chứa chan ơn thánh, chứa chan niềm hạnh phúc và bình an.
Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, Lc bố trí ba giai thoại: loan báo Gioan chào đời (Lc 1,5-25): MV 4-C29
Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, Lc bố trí ba giai thoại: loan báo Gioan chào đời (Lc 1,5-25), loan báo Đức Giêsu chào đời (1,26-38) và Đức Maria đi thăm bà Êlisabét (1,39-56). Truyện thứ ba này giả thiết có hai truyện đầu và bổ sung cho hai truyện đó. Truyện thứ ba này đóng vai trò nối kết hai truyện trước, đặc biệt liên kết cc. 24-25 với cc. 36-37. Đã soạn thảo bài tường thuật về loan báo Gioan chào đời, sau đó, mô phỏng theo bài ấy mà soạn ra bài nói về loan báo Đức Giêsu chào đời, nay Lc dùng giai thoại Đức Maria đi thăm viếng bà Êlisabét để liên kết truyện hai lời loan báo cách chặt chẽ hơn. Câu truyện ở 1,5-24a được tiếp nối với 1,57-66.
Trong giai thoại trước, sứ thần cho biết: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng [episkiasei] trên bà” (1,35). Tác giả đã mượn lại hình ảnh Đám mây sáng che phủ Nhà Tạm (Xh 40,35: “Ông Môsê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu/rợp bóng [epeskiazen] trên đó, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm”) tượng trưng cho sự hiện diện vinh quang của Yhwh (Đức Chúa) với Israel để nói về Đức Maria lúc này: Mẹ được coi như là Hòm Bia Giao ước.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:
Đức Maria gặp bà Êlisabét (1,39-41);
Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria (1,42-45):
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (42): Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào như thế: bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18).
- đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng … Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (41.42.43): Lc đã dựa vào 2 Sm 6 (vua Đavít chuyển Hòm Bia về Giêrusalem), 1–2 Sb và sách Giuđitha để viết 1,39-56: Đức Maria là “Hòm Bia giao ước” mới cũng đang di chuyển về phía nam (Giuđa).
2 Sm 6
Lc 1,39-56
Trong xứ Giuđa (2)
Trong xứ Giuđa
Dân vui
Êlisabét và con vui
Đavít nhảy mừng
Gioan nhảy mừng (44)
Dân reo
Êlisabét reo, anephônêsen (42)
Vào nhà Ôvết Êđôm (10)
Vào nhà Dacaria (40)
Hòm Bia: nguồn phúc (11-12)
Maria:nguồn phúc (41.44)
Bởi đâu tôi được Hòm Bia Đức Chúa đến nhà tôi? (9)
Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi? (43)
Ở nhà Ôvết Êđôm ba tháng (11)
Ở với bà Êlisabét độ ba tháng (56)
- Kêu lớn tiếng (42): Động từ anephônêsen (“reo”) chỉ được dùng để chỉ những tiếng tung hô trong phụng vụ (1 Sb 16,45.42) và đặc biệt trong cuộc di chuyển Hòm Bia (1 Sb 15,28 và 2 Sb 5,13).
- Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (42): Ở đây tác giả đặt song đối Đức Maria với Gdt 13,18-19, như thế ám chỉ Đức Giêsu là Thiên Chúa:
Gdt 13,18-19
Lc 1,42
Bà được chúc phúc…
Em được chúc phúc…
giữa tất cả các phụ nữ
hơn mọi người phụ nữ
Và Đức Chúa là Thiên Chúa
Và quả lòng dạ em cưu mang
được chúc phúc (eulogêmenos)
được chúc phúc (eulogêmenos)
- Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm Lc nêu ra để chứng tỏ các lời ngôn sứ đã ứng nghiệm: Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabrien hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Maria được báo tin:
30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời:
30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng:
= 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày
= 70 tuần 7 ngày.
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Ít-ra-en”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Malakhi (3,1).
- Em thật có phúc, vì đã tin (45): Nhận định khiến độc giả nghĩ ngay đến Abraham, vị tổ phụ đã mở đầu lịch sử cứu độ bằng hành vi đức tin (x. St 12,1-5).
4. Ý NGHĨA BẢN VĂN
Trong cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Êlisabét, tác giả Lc cho thấy kinh nghiệm của một người phàm lần đầu tiên hiểu ra điều gì đã xảy ra cho Đức Maria và phản ứng khi hiểu được điều ấy. Ở tại trung tâm, có Thiên Chúa và hoạt động của Ngài đối với Đức Maria, nơi Mẹ mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã được thực hiện.
* Đức Maria gặp bà Êlisabét (39-41)
Khi đã được biết rằng người chị họ của mình đã mang thai trong tuổi già, Đức Maria đã vội vã đi lên miền núi. Chuyến đi không dễ dàng, nhưng Mẹ vẫn vội vã. Có thể nói, với cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa, chuyến đi dài được tác giả của tác phẩm hai tập là Lc và Cv trình bày dọc theo tác phẩm, đã bắt đầu. Con Thiên Chúa từ trời đã xuống trần gian, rồi Người đi từ Nadarét lên Giêrusalem, còn các môn đệ của Người sẽ đi từ Giêrusalem, qua Samaria, và đến tận cùng trái đất, tất cả các đấng đều vội vã, dù gặp biết bao khó khăn.
Là Hòm Bia của giao ước mới, Đức Maria mang trong lòng mình “Con Đấng Tối Cao” (1,32), là Đấng mạc khải, là nguồn ơn phúc, là nguyên do đưa lại niềm vui. Đức Maria vội vã đưa Đức Kitô đến với những người khác. Mẹ đi trong tư cách là người tin vào lời Thiên Chúa qua trung gian sứ thần Gabrien.
* Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria (42-45)
Cuộc gặp gỡ với giữa Đức Maria với bà Êlisabét nhắc lại cuộc gặp gỡ giữa Mẹ với sứ thần Gabrien: cả hai vị đều nhận định Mẹ đầy ơn phúc. Thiên Chúa đã chúc phúc cho Mẹ; phúc lành của Thiên Chúa tiếp tục ở trên Mẹ. Thiên Chúa đã chúc phúc cho Mẹ cùng với hoa quả lòng Mẹ. Phúc lành của Thiên Chúa là quyền lực và sức mạnh làm cho có thể có sự sống và bảo tồn sự sống. Đức Maria là người “được chúc phúc” theo cách đặc biệt: quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa đã làm cho Mẹ có khả năng chuyển thông sự sống nhân loại cho Đức Giêsu; Người là Con Thiên Chúa, cũng là Chúa tể sự sống, sẽ chiến thắng cái chết và ban sự sống vĩnh cửu. Tiếng kêu lớn của bà Êlisabét là một lời ca tụng hành động của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả một nỗi kinh ngạc chan chứa niềm vui đối với Maria, người đã được Thiên Chúa làm cho những việc cao cả như thế.
Bà Êlisabét diễn tả nhận định của bà về cách xử sự của Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào bằng những lời này, đó là bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18). Các bà đã đánh bại các đoàn quân áp bức dân các bà. Kinh Thánh không tường thuật những gì các bà đã làm hầu chuẩn nhận cho chiến tranh, nhưng để cho thấy Thiên Chúa có thể làm những việc kỳ diệu bằng cách dùng những con người không phù hợp về phương diện loài người, những con người không có uy lực. Khi ghi nhận bà Êlisabét chào Đức Maria như vậy, tác giả Lc bảo chúng ta rằng Đức Maria thuộc về một hạng người, tuy bị coi là không phù hợp, lại được Thiên Chúa dùng mà đưa lại ơn cứu độ cho chúng ta. Qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm một việc phi thường nhất trong lịch sử: Ngài ban cho chúng ta Con của Ngài. Nếu Đức Maria được như thế, thì chỉ do cốt yếu và trước tiên Mẹ là người đã tin. Cách đối xử của Thiên Chúa đối với Đức Maria được diễn tả bằng ân sủng và phúc lành; cách đối xử của Đức Maria đối với Thiên Chúa được diễn tả bằng lòng tin. Đức Maria đã tin vào Thiên Chúa, vào giá trị của lời Ngài, quyền năng của Ngài. Mẹ đã diễn tả niềm tin đó qua tiếng “xin vâng” với sứ điệp của sứ thần. Lịch sử dân Israel mở ra với hành vi đức tin của Abraham; lịch sử cứu độ thế giới mở ra với hành vi đức tin của Đức Maria.
Bà Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (c. 43). Lời này cũng được lấy từ Cựu Ước. Đavít dùng những lời này khi Hòm Bia Giao ước được di chuyển về Giêrusalem. Ong đã reo lên: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2 Sm 6.9). Có những chi tiết khác liên kết cuộc viếng thăm của Đức Maria với Hòm Bia Giao ước. Cả Đức Maria và Hòm Bia ở lại “ba tháng” trong miền Giuđê; Hòm Bia được đón tiếp trong niềm vui và lễ mừng, và đưa phúc lành đến gia đình đã nhận lấy Hòm Bia (2 Sm 6,10-11); khi Đức Mariavào nhà Dacaria, trẻ Gioan (đại diện cho dân Cựu Ước đang trông chờ Đấng Mêsia) đã nhảy lên vui sướng.
Phần Đức Maria, Mẹ vẫn tiếp tục sống thân phận nữ tỳ: không chỉ đến thăm bà Êlisabét, nhưng còn ở lại ba tháng, để phục vụ.
+ Kết luận
Bà Êlisabét gặp Đức Maria. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của một con người với mẹ của Đức Chúa như Lc mô tả, hoàn toàn đơn giản và thanh thoát. Cuộc gặp gỡ này chan hòa niềm tâm tình phấn khởi và niềm vui tươi hân hoan. Bà Êlisabét tự giới thiệu cho chúng ta như là người đã tôn kính Đức Maria trước tiên. Bằng những lời “em được chúc phúc”, “Thân Mẫu Chúa tôi”, “em thật có phúc”, bà phác họa những đường nét chính của dung mạo Đức Maria: công trình của Thiên Chúa nơi Mẹ, tương quan của Mẹ với Chúa Giêsu Kitô, thái độ của Mẹ đối với Thiên Chúa. Tất cả những điều này, bà Êlisabét hiểu được nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng. Cuộc gặp gỡ này đã là cơ hội cho phép bà có một kinh nghiệm hết sức mạnh mẽ và một niềm vui thật chan hòa.
Một điều quan trọng hơn nữa, đó là khi giới thiệu tư cách đặc biệt của Đức Maria, bà Êlisabét không ngờ đang đưa chúng ta đến chỗ đối diện với Đấng mà Mẹ đang cưu mang trong lòng: Người không những là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Đấng Tối Cao, mà cũng là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa.
Đàng khác, tác giả Lc muốn chúng ta thấy Đức Maria như là Hòm Bia Giao ước. Thiên Chúa đã chọn không ở trong một tòa nhà, nhưng ở trong lòng dạ một người phụ nữ.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Phần thứ nhất của Kinh Kính Mừng hoàn toàn lấy từ Tân Ước, liên kết các lời nói đầu tiên của thiên thần (“Kinh mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”) với những lời nói đầu tiên của bà Êlisabét (“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”). Sứ thần đã gọi Đức Maria là “đầy ơn phúc”; bà Êlisabét đã gọi ngài là “có phúc lạ” (= được chúc phúc). Cả hai vị đều diễn tả trước hết quan hệ Thiên Chúa tạo ra với Đức Maria, cách thức Ngài ngỏ lời với Đức Maria. Tất cả những gì người ta có thể nói về Mẹ tùy thuộc tương quan này. Đức Maria vui sướng được sống trong tương quan này. Chúng ta có sống với lòng biết ơn trong sự lệ thuộc vào Thiên Chúa chăng?
2. Đức Maria được bảo là “có phúc” vì Mẹ đã tin rằng lời Chúa hứa với Mẹ sẽ được hoàn tất (c. 45). Thiên Chúa đã hứa biết bao điều qua các ngôn sứ? Khi thấy rằng các lời hứa của Thiên Chúa chậm được thể hiện, dân nghi ngờ Thiên Chúa. Họ đã đặt niềm tin tưởng vào chính họ, nên đã kết thúc trong thất bại. Đức Maria “có phúc” vì đã tin tưởng vào Thiên Chúa. Mẹ biết rằng cho dù bề ngoài thế nào, Lời Chúa sẽ được thực hiện.
3. Đức Maria đã cưu mang Con Đấng Tối Cao (1,32), Con Thiên Chúa (1,35) và sẽ sinh hạ Người ra. Do đó, Mẹ là “Thân Mẫu Đức Chúa”. Như bà Êlisabét đã trải nghiệm thân phận bất xứng, chúng ta cũng diễn tả kinh nghiệm này qua lời cầu xin: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Chúng ta xin Mẹ Đức Chúa, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho chúng ta. Chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Bà Êlisabét chan hòa niềm vui vì Thân Mẫu Đức Chúa đến nhà bà; đồng thời bà biết rằng bà không ở ngang tầm với Thân Mẫu Đức Chúa, nhưng không hề tị hiềm. Bà bày tỏ sự kính trọng đối với Đức Maria. Trong khi đó, Đức Maria, Mẹ Đức Chúa, lại ở lại nhà bà Êlisabét. Sự kính trọng các khác biệt không chống lại sự hiệp thông thân tình và vui tươi.
4. “Do mầu nhiệm Truyền Tin và Thăm Viếng, Đức Maria chính là điển hình của kiểu sống mà chúng ta phải theo. Trước tiên, Mẹ đã đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của Mẹ; sau đó, những gì Mẹ đã lãnh nhận, Mẹ đã chia sẻ. Mỗi lần chúng ta rước lễ, Đức Giêsu là Ngôi Lời trở thành thịt trong cuộc đời chúng ta. Vậy đấy đã là Lễ Tế Tạ Ơn đầu tiên: phần dâng lễ chính là Đức Maria dâng Con Mẹ nơi mình, còn bàn thờ Người đã thiết lập là lòng Mẹ. Là người duy nhất có thể khẳng định với một niềm tin tưởng tuyệt đối: “Này là Mình tôi”, kể từ lúc đó, Đức Maria đã dâng chính thân Mẹ, sức mạnh của Mẹ, toàn bản thân Mẹ, để tạo nên Thân Thể Đức Kitô” (CP. Têrêxa Calcutta).
5. Có Chúa trong mình không chỉ là đặc ân dành riêng cho Đức Maria. Mỗi cộng đoàn và mỗi người trong chúng ta phải trở thành như Đức Maria, một “Hòm Bia Giao ước”. Nhiệm vụ của chúng ta là mang Chúa đến cho người khác. Một điều có thể bảo cho biết là chúng ta đang là một “Hòm Bia Giao ước”, đó là niềm vui. Bất cứ đi đâu, Đức Maria đều tuôn đổ niềm vui (x. Lc 1,41.42.45-48). Sự hiện diện của chúng ta có đưa niềm vui đến cho người khác không? Lm PX Vũ Phan Long, ofm
Chỉ còn khoảng một tuần nữa thôi, chúng ta sẽ cử hành lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu. Chúa sẵn: MV 4-C30
Chỉ còn khoảng một tuần nữa thôi, chúng ta sẽ cử hành lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu. Chúa sẵn sàng đến với những ai nhận thức mình cần Ngài. Vậy bây giờ chúng ta hãy tới gần Ngài, mang theo tất cả những sự nghèo nàn thiêng liêng, những thương tích và những tội lỗi của chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối hèn hạ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Lạy Chúa, chúng con đầy dẫy tội lỗi. Xin Chúa thương xót chúng con.
Lạy Chúa, chúng con khổ sở nhiều mặt. Xin Chúa thương xót chúng con.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Mk 5,1-4
Ngôn sứ Mikha cho biết trước một số nét về Ðấng cứu thế sẽ đến:
Ngài không xuất thân từ thủ đô Giêrusalem hay một thành phố lớn, nhưng từ một thị trấn nhỏ bé khiêm nhường là Bêlem.
Mặc dù vậy, Ngài có sứ mạng thống lãnh Israel.
Quyền lực Ngài sẽ trải rộng ra đến tận cùng trái đất, chính Ngài sẽ đem lại hòa bình.
2. Ðáp ca Tv 89
Bối cảnh của Thánh vịnh này là đất nước Do Thái đang chia rẻ thành hai, Israel ở phía Bắc và Giuđa ở phía Nam. Như vậy là đoàn chiên Chúa bị phân tán, và vườn nho Chúa cũng tan hoang.
Tác giả Thánh vịnh hình dung Ðấng Messia là một mục tử, khi Ngài đến Ngài sẽ quy tụ các chiên về thành một đoàn duy nhất; và như một người chủ vườn trở lại thăm nom và chăm sóc vườn nho cũ.
3. Bài đọc II Dt 10,5-10
Tác giả thư Do thái thì hình dung Ðấng Messia là một vị Thượng Tế và Chức thượng tế của Ngài trổi vượt chức thượng tế Cựu Ước:
Lễ tế Ngài sẽ dâng lên không phải là lễ toàn thiêu hay lễ xá tội của Cựu Ước, mà là chính thân thể Ngài và việc thực thi thánh ý Thiên Chúa.
Lễ tế ấy không cần phải dâng lên nhiều lần, mà một lần duy nhất có giá trị vĩnh cửu.
4. Tin Mừng Lc 1,39-45
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết về Mẹ Ðấng cứu thế sắp sinh ra.
Thánh Luca cố ý viết câu chuyện này giống với chuyện Ðavít mang Hòm Bia về Giêrusalem (2.Sm 6), để nói rằng Ðức Maria chính là Hòm Bia Tân Ước. Sau đây là các chi tiết:
a. Hòm Bia tiến về hướng Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom. Maria đi từ Nagiarét theo hướng Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét.
b. Ðavít đã "kêu lên" rằng: làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được. Êlisabét cũng "kêu lên": làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.
c. Nhờ Hòm Bia ghé ở nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc. Ðức Maria ghé nhà Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc.
d. Hòm Bia ở nhà Obed-Êđom 3 tháng; Ðức Maria cũng ở nhà Êlisabét 3 tháng (xem câu 56)
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Ðức Mẹ và Lễ Giáng Sinh
Lời Chúa ngày Chúa nhật cuối Mùa Vọng luôn đề cao Ðức Mẹ. Trong Chúa nhật thứ IV năm nay, Ðức Mẹ được mô tả là "người phụ nữ sinh con" (bài đọc I). Còn bài Tin Mừng thì tường thuật việc Người đi thăm viếng Bà Êlisabét. Cũng như con của mình, Ðức mẹ là người "đến để thực thi ý Chúa" (bài đọc II). Gương Ðức Mẹ có thể giúp chúng ta biết cách chuẩn bị Lễ Giáng sinh.
a/ Ðức Mẹ luôn tin vào Lời Chúa, như nhận xét của Bà Êlisabét: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em". Chuẩn bị Lễ Giáng Sinh là quan tâm đọc Lời Chúa và tin vào Lời ấy.
b/ Ðức Mẹ luôn vâng theo ý Chúa: Trong biến cố Truyền tin, Người đã thưa với Thiên thần "Này tôi là tôi tớ Chúa, xin vâng". Chuẩn bị lễ Giáng sinh là tỉnh táo nhận ra ý Chúa đối với mình và cố gắng vâng theo.
c/ Ðức mẹ sẵn sàng giúp đỡ người khác: dù đường xá xa xôi, Ðức Mẹ không ngại và đến thăm để giúp đỡ Bà Êlisabét. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là quan tâm đến người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ.
2. Thăm viếng
a/ Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương
Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Ê-li-sa-bét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả.
Chắc chắn việc Ðức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Chúa Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: «Ðức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế!
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Ðức Phật nói: «Yêu mà không được ở gần nhau thì sẽ đau khổ». Tục ngữ có câu: «Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!». Vì thế, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Ðến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tính gia đình, tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.
b/ Ðến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương
Khi Ðức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét, thì Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Ðức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Ê-li-sa-bét vui mừng, mà hài nhi trong bụng Bà cũng vui mừng theo, đến nỗi phải «nhảy lên» trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Ðức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Ê-li-sa-bét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Ðức Maria cùng với bào thai Giêsu còn biến đổi hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Ðức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.
Ðến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.
Ðem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Rất nhiều người nói về Chúa rất nhiều rất hay, nhưng thật sự không mang Chúa trong mình. Chúa là tình thương, mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi chính mình yêu thương họ thật sự, bằng một tình yêu chân thực. Ðức Maria có nói gì về Chúa với bà Ê-li-sa-bét đâu! Mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi mình đến với họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa.
c/ Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng
Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Nhưng tình yêu vô biên phổ quát của Ngài khiến Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Ðó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta.
Ngài đã chẳng từng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời mới được vào mà thôi!» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài: «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (...) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (...) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu...» (Is 1,11-15; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng!
|||
Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen. (Nguyễn chính Kết)
3. Maria dám tin
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Ðại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Ðúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà
không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến... Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân th́ đã muộn.
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Ðức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1,4 5).
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời "Xin Vâng", Ðức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời "Xin Vâng" Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa. Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphanaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá. Mẹ đã "Suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19) vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người. Mẹ xứng đáng là Mẹ Ðấng Cứu thế vì mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người. Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: "Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói" (Lc 1,38).
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Ðền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời. Chính vì Mẹ là Ðền Thánh nên đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh. Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Ðấng Cứu Thế. Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat (x. Lc 1,46-54).
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm cửa thiên đàng.
Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Ðức Ma ria và bà Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Ðấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ: Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen. (TP)
4. "Em có phúc vì đã tin"
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Bà Êlisabét nói với Ðức Maria: "Em có phúc vì đã tin". Tin và hạnh phúc, đó là hai điều liên hệ chặt chẽ với nhau, một liên hệ nhân quả. Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều bằng chứng trong các sách Tin Mừng:
- "Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh" (Mt 8,13)
- Chúa Giêsu quay lại nói với người đàn bà bị băng huyết: "Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con". Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt 9,22)
- Chúa Giêsu nói với hai người mù đi theo Ngài "Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?" Họ đáp "Thưa Ngài chúng tôi tin". Bấy giờ Ngài sờ vào mắt họ và nói "Các anh tin thế nào thì được như vậy". Mắt họ liền mở ra. (Mt 9,28-29)
Chúng ta có thể nói chủ đề chính của Tin Mừng là hạnh phúc cho những kẻ tin. Tất cả những lời Chúa Giêsu giảng dạy là nhằm khơi lên đức tin trong lòng người nghe. Tuy nhiên, chỉ tin thôi thì chưa đủ mà còn phải làm theo như mình tin. Người ta nói ma quỷ cũng tin Chúa đó, nhưng nó không làm theo ý Chúa.
Ðức tin không biến cuộc sống của ta thành dễ dàng. Ngược lại là đàng khác, vì tin đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu, phải kiên trì.
Ðức Maria được chúc phúc vì Người không chỉ tin mà còn hành động theo điều Người tin. Ngay sau khi được Thiên sứ viếng thăm, Người đã vội vàng đi thăm viếng Bà Êlisabét. Qua đó, chúng ta thấy rằng sống đạo không phải chỉ là tin suông mà còn phải thể hiện đức tin bằng việc làm.
Lễ Giáng sinh có thể giúp ích chúng ta rất nhiều trong đức tin, vì dù sao trong dịp này chúng ta cũng thấy Chúa gần gũi với mình hơn những lúc khác. Nhưng cốt lõi của sứ điệp Giáng sinh là Con Thiên Chúa đã nhập thể trong một đứa trẻ nghèo nàn yếu ớt. Trong lễ Giáng sinh đầu tiên, có những người đã tin vào điều ấy, và cũng có những người không tin. Nhưng chỉ những người tin mới được chúc phúc. (FM)
5. Chúa Giáng sinh mang lại gì mới?
Người ta thích những điều mới. Một món hàng mới xuất hiện trên thị trường, người ta đổ xô đi mua. Một thời gian sau, món đồ ấy không còn mới nữa, người ta nhàm chán. Thế là nhà sản xuất phải nghĩ ra cái khác mới hơn. Hiện tượng này cho thấy 2 điều: một là khuynh hướng thích cái mới thúc đẩy sự tiến bộ; hai là cái gì mới rồi cũng sẽ cũ đi.
Có cái gì vẫn luôn luôn mới chứ không bao giờ cũ không? Nếu có cái đó thì cái đó mới là cái thực sự mới.
Ðó chính là cái mà Chúa Giáng sinh mang lại. Ðó là tình yêu hiến dâng. Chúa đến trong lòng Ðức mẹ. Lòng Ðức Mẹ đổi mới. Ðức Mẹ lập tức mang điều mới mẻ đó trao ban cho Bà Êlisabét.
Trong số những điều mới mẻ trên thế giới và trong Giáo Hội, những cái vẫn còn mới và tồn tại mãi qua dòng thời gian chính là những thứ giúp phát triển tình yêu và sự dâng hiến. Chúa Giêsu giáng sinh là người đầu tiên mang điều mới mẻ ấy cho nhân loại.
6. Lời nguyện Mùa Vọng
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến Xin hãy bước vào những yếu đuối của chúng con Xin hãy bước vào những nỗi sợ hãi của chúng con Xin hãy bước vào những lo lắng của chúng con Xin hãy bước vào những thất bại của chúng con Xin hãy bước vào những chia rẻ của chúng con Xin hãy bước vào những buồn phiền của chúng con Xin hãy bước vào những cô đơn của chúng con Xin hãy bước vào những bóng tối của chúng con Xin hãy bước vào những hoài nghi của chúng con Xin hãy bước vào những thất vọng của chúng con Xin hãy bước vào những nghèo hèn của chúng con Xin hãy bước vào cuộc tìm kiếm của chúng con Xin hãy bước vào những niềm vui và hy vọng của chúng con Xin hãy bước vào cuộc hấp hối của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, thật hạnh phúc cho những ai biết tin tưởng vào Thiên Chúa là Ðấng toàn năng và là Cha nhân ái. Trong niềm hân hoan vì Ngôi Hai Thiên Chúa sắp ngự đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh cần những mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh / luôn có nhiều mục tử như lòng ước mong.
2. Cùng với Ðức Trinh Nữ Maria / nhiều sứ giả của tình thương đã vội vã lên đường / đem niềm vui cho những người sầu khổ / đem ủi ban cho những ai đang gặp bế tắc trong cuộc sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn những anh chị em đang dấn thân phục vụ tha nhân / luôn được an lành.
3. Hiện nay / có rất nhiều bạn trẻ đang tích cực cộng tác với các vị mục tử / trong việc dạy giáo lý cho các em thiếu nhi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giáo lý viên / tìm được niềm vui trong công việc cao quý này.
4. Ðức tin không việc làm là đức tin chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thể hiện niềm tin sống động của mình / bằng việc luôn vâng theo thánh ý Chúa / hết lòng phó thác và tận tụy phục vụ như Ðức Maria.
Chủ tế: Lạy Chúa, ngày xưa Ðức Trinh Nữ Maria đã vội vã lên đường mang Chúa Giêsu đến cho người khác; ngày nay, xin Chúa cho chúng con cũng biết noi gương Người mà nhiệt tình đem Chúa đến cho anh chị em chúng con, bằng chính đời sống thấm nhuần tinh thần Tám Mối Phúc thật của chúng con. Chúng con cầu xin
Chủ đề: "Mùa vọng là thời gian tự chấn chỉnh lấy mình để chờ Chúa đến bằng cuộc sống tín trung hiện tại đồng thời vẫn hướng vọng về cuộc sống tương lai."
Lm. Mark Link, S.J.
William James, nhà tâm lý học lừng danh thế giới, có kể lại câu chuyện có thực sau đây trong: MV 4-C31
William James, nhà tâm lý học lừng danh thế giới, có kể lại câu chuyện có thực sau đây trong tác phẩm nhan đề "Varieties of Religious Experience" (những cảm nghiệm tôn giáo). Một đêm nọ có người đàn ông đứng một mình trên đỉnh đồi heo hút. Đó là một đêm tuyệt đẹp, bầu trời đầy sao, tình yêu chan hoà muôn trái tim và bình an phủ xuống mọi tâm hồn. Đang khi đứng đó, bỗng ông thấy lòng tràn ngập niềm vui giống như ông đang lắng nghe bản hoà tấu tuyệt vời trong đó mọi nốt nhạc đan quyện vào nhau khiến tâm hồn ông đột nhiên bị xúc động. Thế rồi ông có cảm giác một người nào đó đang cùng hiện diện trên đỉnh đồi với ông. Sự hiện diện của vị này càng lúc càng mãnh liệt đến nỗi ông cảm thấy sự hiện diện ấy còn rõ rệt hơn chính sự hiện diện của ông nữa. Về sau, ông thổ lộ "chính trên đỉnh đồi vào đêm hôm ấy, tôi bắt đầu tin vào Chúa".
Các nhà tâm lý học thường gọi cảm nghiệm trên là "khoảng khắc cao điểm". Đó chính là lúc mà chỉ trong phút chốc chúng ta chợt nhận ra một thế giới vô cùng vĩ đại hơn, xinh đẹp hơn và còn thực hơn thế giới chúng ta hiện sống. Kinh nghiệm trên đỉnh đồi của người đàn ông nọ giúp ta hiểu rõ hơn câu chuyện trong Phúc Âm hôm nay, đặc bịêt giúp ta thấy rõ hơn lời bà Elizabeth nói với Đức Maria "Vừa nghe em chào là con trong bụng chị liền nhảy mừng lên!" Một đứa bé quậy trong bụng mẹ là điều rất bình thường, vì thế khi Luca kể lại câu chuyện này, chắc chắn ông muốn nhấn mạnh đến điều gì khác lạ hơn. Ông muốn ám chỉ cử động kia như là lời chào đón Chúa Giêsu đang hiện diện nơi cung lòng Đức Maria nghĩa là thai nhi trong bụng bà Elizabeth cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu nên đã mừng rỡ nhảy lên. Điều này báo trước những điều sẽ xảy ra thường xuyên về sau trong cuộc đời Chúa Giêsu, tức là quyền năng của Ngài sẽ tác động mãnh liệt trên dân chúng. Hai ví dụ sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn.
Trước mắt là câu chuyện xảy ra trên biển Galilê lúc Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài. Simon Phêrô và Anrê sau một đêm đánh cá trở về thì gặp Chúa Giêsu bước đến thuyền họ và truyền cho thuyền ra khơi thả lưới. Simon liền đáp: "Thưa Thầy, chúng ta đã vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được gì nhưng vâng lời Thầy con sẽ thả lưới"… Thế rồi sau khi thả lưới xong, họ đã bắt được vô số cá đến nỗi lưới muốn rách…Thấy thế, Simon Phêrô vội quỳ sụp xuống thưa với Đức Giêsu: "Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con vì con là một kẻ tội lỗi" (Lc 5: 5-6,8). Nói cách khác, ngay phút giây ngắn ngủi ấy, lần đầu tiên Phêrô cảm nhận được sự thánh thiện của Chúa Giêsu.
Câu chuyện thứ hai xảy ra vào một ngày Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Ngài dẫn theo Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bỗng nhiên khuôn mặt Ngài sáng chói như mặt trời và một cụm mây phủ rợp trên Ngài. Thánh sử Matthêu mô tả sự kiện xảy ra tiếp sau đó. "Từ trong đám mây có tiếng phán ra: Đây là Con Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, hãy nghe lời Ngài". Khi các môn đệ nghe thế họ liền sấp mình xuống đất, lòng vô cùng sợ hãi (Mt 17: 5-6). Trong phút chốc ngắn ngủi ấy Phêrô, Giacôbê và Gioan cảm nghiệm được lần đầu tên chiều kích thâm sâu của Chúa Giêsu. Họ sẽ không bao giờ quên được phút giây đó.
Nhiều năm về sau, thánh Phêrô nhắc lại Kinh nghiệm này như sau: "Chúng tôi đã chứng kiến tận mắt vẻ oai nghi của Ngài, đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi được ở cùng Ngài trên núi thánh" (2 Pr 1: 16,18). Ngày nay vẫn có nhiều người cảm nhận được Kinh nghiệm của Gioan Tẩy giả khi còn trong bụng bà Elizabeth, Kinh nghiệm của thánh Phêrô trên bãi biển và Kinh nghiệm của ba thánh tông đồ trên núi. Trong quyển tự thuật nhan đề "The Seven Storey Mountain" (Ngọn núi bảy tầng) Thomas Merton, một tác gỉa vĩ đại từng là người trở lại đạo Công giáo, đã mô tả kinh nghiệm của ông về Chúa Giêsu vào những năm cuối thời niên thiếu của mình.
Sau khi tốt nghiệp Trung học, Thomas một mình đi du lịch quanh Âu Châu. Trong những chuyến đi này, chàng trai khám phá ra những ngôi giáo đường hùng vĩ của Âu Châu với những pho tượng gây cảm hứng và những cửa sổ muôn màu. Thomas ghi lại: "khám phá này thật diệu kỳ… tôi bắt đầu lui tới các nhà thờ … lần đầu tiên trong đời tôi khám phá ra đôi điều về Đấng mà mọi người gọi là Đức Kitô, và quan trọng hơn nữa, tôi bắt đầu cảm nghiệm được chính Đức Kitô đang hiện diện trong các ngôi nhà thờ ấy".
Cảm nghiệm về Đức Kitô hiện diện không máy móc nào có thể chế tạo được, không một máy tính nào có thể lập chương trình được, và cũng không thể cứ ước muốn là được, chẳng ai có thể tạo ra cảm nghiệm này được ngoài Đức Kitô. Vì đây chính là quà Ngài ban tặng. Chúng ta chỉ việc mở rộng lòng ra lãnh nhận và Mùa vọng nhằm giúp chúng ta làm việc này. Đây là lúc chính chúng ta phải tự chấn chỉnh lấy mình để đón chào Chúa Giêsu đến trong đời sống chúng ta. Có lẽ chúng ta chưa bao giờ có được cảm nghiệm mãnh liệt giống như thánh Gioan tẩy giả khi còn trong bụng mẹ, hay cảm nghiệm giống như thánh Phêrô trên bờ biển, hay cảm nghiệm của ba tông đồ trên ngọn núi, hoặc cảm nghiệm của Merton trong các giáo đường Châu âu. Nhưng chúng ta cũng biết chắc rằng nếu chúng ta tự chấn nhỉnh mình để chờ đón Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết tiếp tục mở rộng tâm hồn ra cho Ngài, thì ngày diễm phúc ấy sẽ đến, lúc đó chúng ta sẽ thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài. Đó chẳng phải là một cảm nghiệm mơ hồ, chóng qua mà là một cảm nghiệm gặp gỡ tận mặt trên cõi trời. Và khi cảm nghiệm gặp tận mặt này xảy ra, chúng ta cũng sẽ thấu hiểu được chân lý sống động từng được thánh Phaolô ghi nhận "Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Ngài những điều mắt chưa hề thấy, tai chừa hề nghe, tâm hồn chưa hề cảm nhận. Đó chính là những điều Ngài đã mặc khải cho chúng ta qua Thánh Linh của Ngài" (Lc 2: 9-10)
Bà Lê Thị Mỹ (Lely Lemieux) là một Kitô hữu Canada. Từ 8 năm nay, bà là hội trưởng hội: MV 4-C32
Bà Lê Thị Mỹ (Lely Lemieux) là một Kitô hữu Canada. Từ 8 năm nay, bà là hội trưởng hội "Ngọn Lửa Cháy" của giáo phận thành phố Mông-rê-an. Hội có mục đích dẫn đường và cùng đi với các người trẻ trong cuộc hành trình nhắm tới tương lai. Ngoài ra, bà Mỹ còn năng thăm viếng các tù nhân, mang lại cho họ niềm hy vọng và sự cảm thông. Vậy do đâu mà bà Mỹ có được tinh thần nhiệt thành đối với người trẻ và với người tù tội? Hãy nghe lời bà Mỹ tâm sự:
Ðời sống của tôi thật giản dị và đâm rễ sâu trong tình thương của Chúa. Giờ đây ở tuổi trưởng thành, tôi càng thấy rõ tôi hết lòng tin vào sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong đời tôi. Tôi vô cùng cảm tạ Chúa về hồng ân đức tin đó. Tôi còn hưởng một hồng ân khác nữa là được sinh ra trong một gia đình trên thuận dưới hoà. Cha mẹ tôi rất quan tâm săn sóc con cái. Tình thương, sự chăm sóc tế nhị và lòng trìu mến của cha mẹ đối với tôi, là một món quà tôi không bao giờ quên, cũng không bao giờ giữ riêng lấy cho tôi.
Ngay ở tuổi 14, tôi đã dành giờ rảnh ngày thứ bảy đi giúp tắm rửa các em bé tại nhà thương Từ Bi. Kế đến tôi gia nhập hội Hướng Ðạo. Các sinh hoạt Hướng Ðạo đã cho tôi cơ hội sống với người trẻ.
Từ tám năm nay, tôi được giáo phận giao cho việc điều khiển hội đoàn "Ngọn Lửa Cháy". Ðây là cộng đoàn dành riêng cho người trẻ từ 18-25. Cứ vào cuối tuần, chiều thứ 6 đến chiều Chúa Nhật, họ họp lại để suy tư về những đề tài xoay quanh "Bản thân, tha nhân, gia đình và Chúa Kitô". Mỗi chiều Chúa Nhật, tôi được an ủi rất nhiều khi thấy những người trẻ ra về với gương mặt vui tươi. Ðó là những người trẻ đã từng trải qua những kinh nghiệm đau thương, như nghiện rượu, nghiện ma tuý, thất tình, cô đơn, không kiếm được việc làm, thiếu tự tin. Nhờ được chung sống và chia sẻ với nhau những ngày cuối tuần mà họ tìm lại được hơi ấm của tình người, nhất là có được hy vọng và lòng tự tin.
Ngoài ra, tôi còn thường xuyên thăm viếng các tù nhân. Những người này chiếm một chỗ đứng quan trọng trong đời tôi và mang lại cho tôi rất nhiều kinh nghiệm quý báu. Thật ra việc tiếp xúc với họ không phải là chuyện dễ dàng và đơn giản. Tôi không bao giờ biết trước được ai là người tôi sẽ gặp nơi nhà tù, và khi gặp họ tôi phải nói gì. Tôi hoàn toàn phó thác nơi Chúa Thánh Linh qua mỗi cuộc gặp gỡ. Chính Chúa Thánh Linh cho tôi biết phải nói gì. Tôi thường ra về lòng tràn đầy ơn bình an nhờ tham dự vào lòng thương xót của chính Chúa Giêsu.
Tôi có một niềm tin vững chắc nơi Chúa. Với tôi, Thiên Chúa là một người CHA tuyệt diệu, trên hết mọi người cha. Nơi Chúa, tôi đặt trọn niềm tin và tình cảm, nhờ đó tôi được an tâm trước mọi thử thách.
Bất Cứ Ai Ðón Nhận Sự Hiện Diện Ưu Ái Của Thiên Chúa?
Buổi sáng khi thức dậy, tôi dâng ngày cho Chúa, rồi tôi khiêm tốn xin Chúa cho tôi trở nên người phản ảnh tình thương của Chúa cho tha nhân.
Với ai đó than phiền vì chỉ gặp toàn khó khăn xui xẻo, tôi liền hỏi người đó: "Ðâu là chỗ đứng trong đời của bạn?" Quả thật, đối với tôi, Thiên Chúa chính là gia nghiệp đời tôi. Tôi tìm nơi Người sức mạnh, niềm hy vọng, tình thương và ánh sáng chiếu soi bước đường hàng ngày của tôi.
Riêng với Mẹ Maria, bà Lê Thị Mỹ kể ra một câu chuyện nhỏ: "Trước kia, tôi có tật hút thuốc lá mỗi ngày hai gói! Tôi đã cố gắng bỏ tật xấu đó một số lần nhưng lần nào cũng thất bại. Ngày kia, một người bạn nói với tôi: "Bạn biết không? Ðức Mẹ đã giúp mình bỏ thuốc đó." Nghe vậy, tôi tự nhủ: "Chắc Ðức Mẹ cũng sẵn sàng giúp tôi bỏ thuốc." Thế là tôi mang gói thuốc đặt dưới chân tượng Ðức Mẹ. "Xin Mẹ giúp con bỏ thuốc từ này trở đi" và quả thật, từ hồi đó, Ðức Mẹ đã giúp tôi bỏ hẳn tật hút thuốc.
Lời tâm sự của bà Lê Thị Mỹ gợi ý cho thấy biến cố Ðức Maria đi thăm viếng bà Isave thường được lặp đi lặp lại nhiều lần nhiều cách trong đời người Kitô hữu. Có thể nói chính việc lặp đi lặp lại này làm nên đời người Kitô. Quả thật không riêng gì bà Lê Thị Mỹ, bất cứ ai đón nhận sự hiện diện ưu ái của Thiên Chúa đều được mời tham dự mầu nhiệm đi viếng của Ðức Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế.
Xuất Xứ Của Mầu Nhiệm Ði Viếng
Hãy coi xuất xứ của mầu nhiệm đi viếng này bắt rễ từ biến cố Truyền Tin. Một cô gái thôn quê làng Na-da-rét, mới 13-14 hoặc 15 tuổi, đã kết hôn và được Sứ Thần của Thiên Chúa đến loan tin động trời. Cô đã được ban cho đầy ơn sủng và được Thiên Chúa ở cùng (Lc 1,28), bây giờ cô còn được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa làm người do quyền năng của Chúa Thánh Thần (c.31.35) vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, nên Ðức Trinh Nữ đã đặt mình hoàn toàn để Thiên Chúa sử dụng khi thưa: "Xin cứ làm cho tôi như Sứ Thần nói" (c.38). Ðó chính là xuất xứ của mầu nhiệm của mọi việc viếng thăm có ý nghĩa Kitô giáo, khởi sự với cuộc thăm viếng bà Isave được kể trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ðiều kiện tiên quyết cho giá trị của mọi cuộc thăm viếng Kitô giáo là Thiên Chúa ở cùng ta. Dọc theo mọi ơn gọi trong Kinh Thánh, như với nhà lãnh tụ Mô-sê (Xh 3,12), với ngôn sứ Giê-rê-mi (1,8.19; 15,20), với tổ phụ Áp-ra-ham (St 26,24; 28,15) cũng như với Ðức Trinh Nữ Maria, khởi sự phải là việc Thiên Chúa chiếu cố đến thân phận yếu hèn (Lc1, 48) của con người mà Người muốn ban ơn. Ơn Người ban bao giờ cũng vậy, phải phát xuất do lòng tốt lành của Người. Tuỳ ở mức sẵn sàng đón nhận mà con người được tràn đầy ân sủng của Thiên Chúa. Nơi Ðức Maria sẽ không có rào cản đối với ơn Chúa hiện diện và hành động, nên Mẹ được nhìn nhận là "Ðấng đầy ân sủng" (Lc 1,28). Loài người càng thoát ách tội lỗi (dù chỉ là thoát khỏi một đam mê nhỏ như thói quen hút thuốc), ơn Chúa càng tự do hoạt động. Nhưng khởi sự bao giờ cũng là chính Chúa hiện diện và hoạt động như lời bà Lê Thị Mỹ nói "ngay từ nhỏ tôi đã cảm nhận tình thương của Chúa. Giờ đây ở tuổi trưởng thành, tôi càng thấy rõ tôi đã hết lòng tin vào sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa trong đời tôi".
Thiên Chúa mặc xác phàm nơi lòng Ðức Maria do quyền năng tác động của Chúa Thánh Thần: đó là cội nguồn của sự hiện diện và hành động hoàn toàn mới của Thiên Chúa ở giữa loài người. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ðức Maria sẵn sàng (c.39) như thế nào để Chúa sử dụng Mẹ trong vai trò hòm bia Giao Ước mới của Thiên Chúa. Rõ ràng cuộc gặp gỡ của hai người mẹ là cơ hội để hai người con gặp nhau. Có thể nói ông Gioan Tẩy Giả bắt đầu thi hành sứ mạng tiền hô bằng động tác nhảy lên trong bụng mẹ (c.41) để giới thiệu vị Thiên Sai Giêsu cũng còn trong dạ mẹ. Hẳn bà Lê Thị Mỹ có lý khi khám phá ra nguồn suối của ơn nhiệt thành tông đồ ngang qua cha mẹ mình khi nói: "Cha mẹ tôi rất quan tâm săn sóc con cái. Tình thương, sự chăm sóc tế nhị và lòng trìu mến của cha mẹ đối với tôi, là món quà tôi không bao giờ quên, cũng không hề giữ riêng lấy cho tôi".
Nhưng mãnh liệt nhất trong nhiệm cục mới của ơn cứu độ là sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Linh. Với biến cố Ðức Giêsu được Mẹ Người cưu mang do quyền năng của Chúa Thánh Linh (c.35), Thần Khí của Thiên Chúa sẽ hành động mạnh mẽ nơi các nhân vật khác nữa như bà Isave (c.41), ông Da-ca-ria (c.67) cũng như cụ già Si-mê-on (Lc 2,27). Hiện tượng đó báo hiệu việc Ðức Giêsu sau này được tôn vinh. Ðó là lúc Thiên Chúa ra tay uy quyền nâng Người lên, trao Người Thánh Thần đã hứa để Người đổ xuống: "Ðó là điều anh em đang thấy đang nghe" (Cv 2,33), đó cũng chính là hiện tượng mà bà Lê Thị Mỹ nghiệm thấy khi thăm viếng các tù nhân như chính bà tâm sự: "Tôi không bao giờ biết trước được ai là người tôi sẽ gặp. Tôi hoàn toàn phó thác cho Chúa Thánh Linh qua mỗi cuộc gặp gỡ".
Một số câu hỏi gợi ý
Lời tâm sự của bà Lê Thị Mỹ có điều gì đáng chú ý hoặc đánh động bạn chăng?
Bạn nghĩ vì lý do gì mà Ðức Maria đã vội vã lên đường (c.39)?
Thiên Chúa thực hiện những ý định cao cả của Ngài khi dựa trên sự bé nhỏ và sự yếu đuối của: MV 4-C33
Thiên Chúa thực hiện những ý định cao cả của Ngài khi dựa trên sự bé nhỏ và sự yếu đuối của con người và trên những tấm lòng khiêm hạ. Đó là giáo huấn mà Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này đem đến.
Mk 5: 1-5
Ngôn sứ Mi-kha loan báo rằng chính ở nơi thị trấn nhỏ bé của miền Giu-đê, ở đó một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa sinh sống, mà Đấng Mê-si-a một ngày kia sẽ xuất hiện. Con trẻ này sẽ thống lãnh Ít-ra-en và quyền lực của Ngài sẽ trải rộng cho đến tận cõi đất.
Dt 10: 5-10
Ngay từ khi nhập cuộc vào kiếp sống con người, Đức Giê-su sống khiêm hạ và vâng phục trước ý muốn của Thiên Chúa, Cha Ngài. Ngài luôn luôn sống trong tư thế dâng hiến bản thân mình thành hy lễ để kế hoạch của Cha Ngài được thành tựu.
Lc 1: 39-45
Tin Mừng Lu-ca tường thuật cuộc gặp gỡ của Đức Ma-ri-a với người chị họ mình là bà Ê-li-sa-bét, sau biến cố Truyền Tin. Ở nơi sự nhỏ bé và khiêm hạ của người thiếu nữ làng Na-da-rét, bà Ê-li-sa-bét nhận ra ý định cao cả của Thiên Chúa và niềm vui Mê-si-a khiến con trẻ, Gioan Tẩy Giả, nhảy lên vui sướng trong dạ mẹ.
BÀI ĐỌC I Mk 5: 2-5
Sấm ngôn của ngôn sứ Mi-kha này là một trong những bản văn vĩ đại loan báo về Đấng Mê-si-a. Sấm ngôn này đã được trích dẫn hai lần trong các sách Tin Mừng: một lần trong Tin Mừng Mát-thêu, các kinh sư trưng dẫn sấm ngôn này cho vua Hê-rô-đê để chỉ dẫn cho các nhà Chiêm Tinh biết “Bê-lem” là nơi Vua dân Do thái vừa mới sinh ra (Mt 2: 6); và một lần khác trong Tin Mừng Gioan, đám đông dân chúng tranh luận với nhau về Ngài, có kẻ lại nói rằng Ngài không thể là Đấng Mê-si-a bởi vì Ngài không “xuất thân từ Bê-lem” (Ga 7: 42).
1. Thân thế và sự nghiệp:
Ngôn sứ Mi-kha thi hành sứ vụ của mình trong vương quốc Giu-đa suốt hậu bán thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, đồng thời với ngôn sứ I-sai-a. Nhưng trong khi ngôn sứ I-sai-a thuộc gia đình quý tộc ở Giê-ru-sa-lem, thì ngôn sứ Mi-kha xuất thân từ hàng dân giả phương nam, phía tây Khê-ron.
Như các ngôn sứ thuộc thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên như A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, ngôn sứ Mi-kha tố cáo những bất công xã hội, nạn áp bức những người nghèo, tệ nạn tham ô hối lộ của các quan án, các tư tế, các thủ lãnh, vân vân, những hành vi này tạo nên một đoạn tuyệt với Giao Ước và dẫn đến những án phạt của Thiên Chúa. Có lẽ ngôn sứ Mi-kha định nghĩa rõ nét nhất những yêu sách của Giao Ước: “Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào Đức Chúa đòi hỏi bạn: đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn” (Mk 6: 8). Ngôn sứ Mi-kha báo trước cho Sa-ma-ri cũng như cho Giê-ru-sa-lem những bất hạnh kinh khiếp, nhưng ông cũng hé mở những viễn cảnh chứa chan hy vọng, như bản văn hôm nay làm chứng.
Tác phẩm của ngôn sứ Mi-kha đã chịu nhiều sửa đổi và vài đoạn thêm vào cuối thời lưu đày hay hậu lưu đày, tức cuối thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Bản văn hôm nay được trích từ chương 5 là một trong những bản văn nêu lên nhiều vấn đề. Tuy nhiên, cũng vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên này, ngôn sứ I-sai-a vang lên cùng một sứ điệp tương tự: ở lòng những biến cố bi thảm (những đột nhập của quân đội Át-sua, cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem, sự tàn phá Sa-ma-ri, vân vân), các ngôn sứ nối tiếp nhau khơi lên niềm hy vọng khi nhắc nhớ lại những lời hứa gắn liền với nhà Đa-vít. Đó là điểm chung giữa các sấm ngôn của họ.
2. Bê-lem Ép-ra-tha:
Hai địa danh Bê-lem và Ép-ra-tha được liên kết với nhau ngay từ những bản văn cổ xưa nhất, ví dụ: “Bà Ra-khen qua đời và được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem” (St 35: 9). Thị trấn Bê-lem nhỏ bé là nơi một thị tộc bé nhỏ, những người Ép-ra-tha, từ phương nam đến định cư lập nghiệp; sau đó, họ đã được sáp nhập vào bộ tộc Giu-đa. Tuy nhiên, “Ép-ra-tha” theo tiếng Do thái có nghĩa “sự màu mỡ”. Ngôn sứ Mi-kha xem ra chơi chữ: Bê-lem là vùng đất màu mỡ vì nó sẽ sinh ra Đấng Mê-si-a.
3. Một sự tương phản:
Sấm ngôn của ngôn sứ Mi-kha được xây dựng trên một sự tương phản: sự tương phản của một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, giữa viễn cảnh về một con trẻ chào đời và uy danh cũng như quyền lực của con trẻ này có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en, quy tụ dân chúng bị phân tán và trải rộng quyền lực của mình cho đến tận cùng cõi đất.
Câu này được dịch sát nghĩa theo bản văn gốc bằng tiếng Do thái như sau: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi quá nhỏ bé đến nổi không thể là một trong các thị tộc Giu-đa”. Từ “thị tộc” theo tiếng Do thái có nghĩa “ngàn”, vì nhóm người chỉ có thể hình thành nên một thị tộc nếu có thể cung cấp một ngàn chiến binh. Vì thế, Bê-lem nhỏ bé đến nổi nó không thể cung cấp một ngàn chiến binh. Chúng ta cũng gặp thấy một cách đối lập giữa sự nhỏ bé và sự vĩ đại như thế ở ngôn sứ I-sai-a đệ tam: “Người nhỏ nhất sẽ có ngàn con cháu, kẻ hèn nhất thành một dân hùng cường” (Is 60: 22).
4. Bê-lem, thành vua Đa-vít, thành Đấng Mê-si-a:
“Từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en”. Sấm ngôn của ngôn sứ Mi-kha đem đến một sự xác định mới. Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than khẳng định tính muôn năm bền vững của vương triều Đa-vít: “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7: 16); ngôn sứ I-sai-a công bố rằng dòng dõi vua Đa-vít sẽ được đảm bảo nhờ một con trẻ chào đời, được gọi là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7: 14); trong khi đó, ngôn sứ Mi-kha xác định Bê-lem là sinh quán của Đấng Mê-si-a. Xưa kia, khi còn niên thiếu, vua Đa-vít đã chăn dắt đàn chiên trên cánh đồng Bê-lem; Đấng Mê-si-a sẽ là một Đa-vít mới và sẽ là vị mục tử đích thật của dân Ngài.
“Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa”. Có lẽ đây là lối nói phóng dụ về gia tộc của vua Đa-vít, có nguồn gốc lâu đời (sách Sử Biên quyển thứ nhất cho gia phả của vua Đa-vít lên đến tổ phụ Gia-cóp). Nhưng chúng ta có thể nghĩa rằng sấm ngôn này tiên báo về cuộc sống tiền hữu của Đấng Mê-si-a.
5. Thời thử thách và thời hy vọng:
Trước khi Đấng Mê-si-a sinh ra ở Bê-lem, Ít-ra-en sẽ phải kinh qua một thời gian đầy thử thách cam go, thời “Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en”. Trước đó, ngôn sứ đã khai triển những tiên báo kinh khiếp liên quan đến vương quốc phương Bắc cũng như vương quốc phương Nam. Nhưng những trừng phạt không bao giờ là lời cuối cùng của Thiên Chúa. “Cho đến thời một phụ nữ sinh con”. Con trẻ kỳ diệu sinh ra từ một phụ nữ này sẽ cai trị Ít-ra-en và thế giới. Bản văn không nói một chút gì về cha của cậu.
Toàn thể đoạn văn nhắc nhớ sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a được công bố hai mươi năm trước đó: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en. Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong cho tới khi biết bỏ cái xấu mà chọ cái tốt. Vì trước khi con trẻ biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt, thì đất đai…đã bị bỏ hoang. Thiên Chúa sẽ đem lại cho ngài, cho dân ngài, cho thân phụ ngài những ngày như chưa từng có, kể từ khi Ép-ra-im tách khỏi Giu-đa” (I s 7: 14-17)
6. Quy tụ những người tản mác khắp nơi:
“Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en”. Chúng ta nhận ra ở đây nỗi bận lòng quy tụ những người Do thái bị tản mắc khắp nơi, nỗi ám ảnh xuất hiện nhất là vào thời lưu đày Ba-by-lon cũng như vào thời hậu lưu đày: có nhiều lý do xác đáng để nghĩ rằng đoạn văn này được thêm vào sau này.
7. Vị Mục Tử của Ít-ra-en:
Đấng Mê-si-a sẽ lãnh nhận từ chính Thiên Chúa sứ mạng chăn dắt Ít-ra-en: “Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ”. Bản văn tiên báo hay nhắc nhớ một đoạn văn nổi tiếng của ngôn sứ Ê-dê-ki-en về “vị mục tử nhân lành” (Ed 34: 23). Việc gợi lên quyền năng vũ hoàn và nền hòa bình viên mãn của Đấng Mê-si-a tương lai ghi đậm nét I-sai-a (Is 9: 5), nhưng cũng có thể mang dấu ấn Mi-kha, trừ phi cốt là một bản văn được làm việc lại.
Từ cực nhỏ đến cực lớn, đây rõ ràng là bài học mà bản văn Tin Mừng hôm nay đưa ra: Đức Ma-ri-a, một thiếu nữ khiêm hạ làng Na-da-rét được người chị họ của mình, bà Ê-li-sa-bét, hoan hĩ chào đón như “Thân Mẫu Chúa tôi”.
BÀI ĐỌC II Dt 10: 5-10
Lễ Giáng Sinh sắp đến gần, Phụng Vụ dâng hiến cho chúng ta suy niệm một bản văn trình bày một cách thống thiết mục đích biến cố Nhập Thể; Đức Ki tô chấp nhận mặc lấy một thân thể nhằm dâng hiến thân mình thành hiến lễ và biến cuộc tử nạn của mình thành hy lễ để thánh hóa con người.
Chúng ta không biết tác giả thư gởi tín hữu Do thái (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô); bản văn của ông gần với bài giảng hơn là thư tín; ông ngỏ lời với các Ki tô hữu gốc Do thái, họ đã biết và đã thực hành phụng tự Mô-sê và xem ra luyến nhớ sự uy nghi trang trọng của nền phụng tự này. Tác giả chứng minh cho họ chức tư tế của Đức Giê-su cao vời hơn chức tư tế Cựu Ước và hy lễ của Đức Ki tô thì độc nhất, vô giá và có hiệu quả khôn sánh so với của hy lễ của Luật cũ.
1. Phụng Tự tinh thần:
Để giải thích bản chất rất đặc biệt và đặc thù của hy lễ Đức Ki tô, tác giả dựa trên thánh vịnh 40, thánh vịnh mang chiều kích Mê-si-a.
Thánh vịnh này diễn tả tâm tình của một người công chính. Từ cuộc sống đạo hạnh của mình, ông hiểu rằng vâng phục thánh ý Thiên Chúa và sẳn sàng hiến dâng bản thân mình thì cao vời hơn bất cứ hy lễ nào.
Một viễn cảnh như vậy không hoàn toàn đơn độc lẽ loi trong Cựu Ước. Chúng ta gặp thấy viễn cảnh này trên môi miệng của các ngôn sứ (x. Is 1: 11-16), họ công bố rằng các hy lễ sẽ là vô ích nếu thiếu tấm lòng; điều này cũng được khẳng định trong các Thánh Vịnh, hai sách Sa-mu-en (x. 1Sm 15: 22), và các tác phẩm minh triết (x. Hc 34: 19 và 35: 2-3). Vị thế hàng đầu của phụng tự tinh thần này là một sợi chỉ vàng chạy xuyên suốt cái cốt lõi mặc khải Kinh Thánh và chuẩn bị sứ điệp Tin Mừng.
2. Ơn gọi của Đức Ki tô:
Chính ở nơi Người Công Chính này mà tác giả thư gởi các tín hữu Do thái tái khẳng định tư thế sẳn sàng dâng hiến trọn vẹn bản thân mình của Đức Ki tô, ngay từ giây phút đầu tiên của biến cố Nhập Thể: “Ngay khi vào trần gian…”. Đồng thời tác giả cũng muốn nói đến cuộc sống tiền hữu của Đức Ki tô.
“Chúa không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể”. Thánh vịnh này nhấn mạnh tính chất hiến lễ tự thân bởi những lời: “Chúa đã tạo cho con một thân thể”. Tác giả thư gởi các tín hữu Do thái đã đọc thấy ở đây lời tiên báo về biến cố Nhập Thể. Thân thể của Đấng Mê-si-a đã được Chúa Cha yêu thương chuẩn bị nhằm hiến lễ cao vời.
Với những thuật ngữ: “Hy lễ và hiến lễ”, tác giả tập hợp hai loại lễ tế vĩ đại, đổ máu và không đổ máu. Đoạn, ông thêm lễ toàn thiêu theo đó thân thể của tế vật hoàn toàn bị hỏa tế, và lễ xá tội theo đó máu hoàn toàn được hiến dâng. Tất cả những lễ tế này được Lề Luật quy định nhưng không được Thiên Chúa ưa thích. Bản văn để cho hiểu rằng chính vì tính chất duy luật của chúng.
Đức Ki tô bãi bỏ phụng tự duy hình thức và đề cao hiến lễ tinh thần.
3. Cái chết thành hiến lễ:
“Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”.
Đối với Đức Ki tô không cốt tuân giữ những huấn lệnh mà ông Mô-sê truyền, nhưng chấp nhận quyết định của Thiên Chúa, đó là dẫn dắt nhân loại đến ơn cứu độ qua con đường đau khổ và tử nạn của Ngài.
Thư gởi tín hữu Do thái là một trong những bản văn Tân Ước giải thích rõ nhất tại sao cuộc tử nạn của Đức Ki tô có thể được xem như một hy lễ.
Xét trên thực tại hữu hình, cuộc tử nạn của Đức Ki tô không là một hy lễ, nhưng là kết quả của một sự sai lầm xét xử, hay, chính xác hơn, do sự thù hận quá độ; không có bàn thờ, người dâng hiến, sự thanh tẩy, tế vật. Nhưng xét trên thực tại vô hình, cái chết này có giá trị của một hy lễ vì đây là hiến lễ tự nguyện, tự ý, cá nhân, vì thế nó có một hiệu quả tinh thần: vả lại đã có một thân thể bị giết chết và máu đã hoàn toàn đổ ra.
Tuy nhiên, có một hy lễ chỉ vì có tội lỗi của con người. Đây là bằng chứng bi thảm. Suốt bức thư của mình, tác giả chứng mình rằng con người hưởng được hy lễ của Đức Ki tô, dưới ba khía cạnh liên tục: thanh tẩy, thánh hóa, và hiệp nhất với Thiên Chúa.
Như vậy trong lời “Xin vâng” của mầu nhiệm Nhập Thể hàm chứa rồi lời xin vâng của cuộc Khổ Nạn: “Xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22: 42).
TIN MỪNG Lc 1: 39-45
Trong sách Tin Mừng Lu-ca, chuyện tích Viếng Thăm tiếp liền sau chuyện tích Truyền Tin, như vậy, lời chào của sứ thần tiếp liền theo sau lời chào của bà Ê-li-sa-bét. Rất sớm các Ki tô hữu đã liên kết hai lời chào này. Chúng ta gặp thấy chúng trong những bản văn thuộc thế kỷ thứ năm: “Kính mầng Ma-ri-a đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ”. Đây sẽ là khởi điểm của Kinh Kính Mầng.
1. Đức Ma-ri-a vội vã lên đường:
Lý do đầu tiên của việc “Đức Ma-ri-a vội vã lên đường” có thể nhằm kiểm chứng những lời của sứ thần đã cho Mẹ biết rằng chị họ của Mẹ, tuy đã già rồi mà cũng đã cưu mang một người con trai. Đây là một “dấu lạ” đã được ban cho Mẹ để nâng đỡ mặc khải làm xáo động cuộc đời của Mẹ và cho Mẹ hiểu rằng đối với Thiên Chúa không có gì là không thể. Nhưng đây không là lý do chính yếu. Đức Ma-ri-a đã tin rồi; Mẹ đã không một mảy may nghi ngờ gì về sứ điệp của thiên sứ; sự vội vã của Mẹ là diễn tả niềm vui của Mẹ; Mẹ muốn đi chúc mừng người chị họ của Mẹ và chia vui với chị vì được làm mẹ như một thiên ân trong khi bà chị này không còn một chút hy vọng gì. Chắc chắn Đức Ma-ri-a cũng muốn giúp đỡ bà chị họ của mình “nay đã có thai được sáu tháng”. Quả thật, thánh ký viết ở cuối chuyện tích của mình: “Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng”, nghĩa là cho đến khi con trẻ chào đời.
2. Niềm vui thời Mê-si-a:
Đức Ma-ri-a “vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét”. Vì là vai em nên Đức Ma-ri-a là người đầu tiên chào hỏi bà chị họ mình. Nhưng đột nhiên vai trò của hai chị em bị đảo ngược. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, bà Ê-li-sa-bét phát hiện bí mật của người em họ của mình và thốt lên lời “Chúc Tụng”: “Em được chúc phúc hơn mọi người nữ!”. Đây là cách thức người Do thái diễn tả tuyệt đối mà chúng ta gặp thấy nhiều lần trong Cựu Ước (Tl 5: 24; Gđt 15: 10): Đức Ma-ri-a là người phụ nữ tuyệt vời nhất bởi vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
“Người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Danh hiệu “Chúa tôi” thường được dành riêng cho Đức Chúa, tuy nhiên cũng được gán cho Đấng Mê-si-a trong vài bản văn ngôn sứ. Chắc hẳn bà Ê-li-sa-bét không nghi ngờ gì về thần tính của Đấng Mê-si-a; nhưng chính xác hơn, các Ki tô hữu tiên khởi sẽ dùng danh hiệu này cho Đức Ki tô để tuyên xưng thần tính của Ngài. Danh xưng “Thân Mẫu Chúa tôi” chắc chắn là nền tảng cho tước hiệu đầu tiên mà Giáo Hội sau này dùng để tôn vinh Đức Ma-ri-a, “Theotokos”, Mẹ Thiên Chúa, cũng như hình thành nên phần thứ hai của Kinh Kính Mừng: “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…”.
“Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đây là mối phúc đầu tiên của Tân Ước. Ân phúc này liên quan đến lòng tin của Đức Ma-ri-a được thể hiện ở nơi biến cố Truyền Tin.
Thánh Lu-ca quy tụ vào trong lời ca ngợi của bà Ê-li-sa-bét (1: 42-45) hai ân phúc của Đức Ma-ri-a: phúc được làm Mẹ Đấng Cứu Thế và phúc vì đã tin vào mọi lời Chúa phán. Chính hai ân phúc này mà thánh ký chủ ý tách rời ra ở 11: 27-28, ở đó một người phụ nữ giữa đám đông ca ngợi ân phúc của người mẹ Đức Giê-su: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớn”; Đức Giê-su đáp lại: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Ở nơi Đức Ma-ri-a hai ân phúc này trở thành một: ngay khi tin rằng mọi lời Thiên Chúa phán sẽ được thực hiện, Đức Ma-ri-a trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế. Rõ ràng đức tin của Mẹ là điều cốt yếu nhất cho mọi lời Chúa phán được thực hiện.
3. Bài ca “Ngợi Khen” (Mangificat):
Tất cả lời chào của bà Ê-li-sa-bét tràn đầy niềm vui thời Mê-si-a. Đức Ma-ri-a được công bố là có phúc; niềm hạnh phúc ở với bà Ê-li-sa-bét, đứa con trong bụng bà đã nhảy lên vui sướng. Sứ thần cũng đã nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng” và Đức Trinh Nữ xướng lên bài ca “Ngợi Khen” của mình. Đây là bài thánh ca thứ nhất trong bốn bài thánh ca của Tin Mừng Thời Thơ Ấu của Lc 1-2. Bài thánh ca này mô phỏng bài thánh ca của bà An-na (1Sm 2: 1-10), gồm có ba phần:
- Phần thứ nhất (1: 46-50): Đức Ma-ri-a ngợi khen Thiên Chúa vì đã đoái thương ban cho Mẹ được làm Mẹ Đấng Mê-si-a, dẫu Mẹ chỉ là phận nữ tì hèn mọn, chẳng có công trạng gì.
- Phần thứ hai (1: 51-53): một sự đảo ngược cảnh sống và bậc thang giá trị vào thời Mê-si-a giữa những người thấp hèn, bị áp bức chà đạp và những kẻ quyền thế kiêu căng, tự cao tự đại.
- Phần kết (1: 54-55): Đức Ma-ri-a cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài vẫn hằng trung tín với những gì Ngài đã hứa.
Thánh Lu-ca là thánh ký gợi lên rõ nét nhất niềm vui cứu độ được đem đến cho loài người qua việc Đấng Mê-si-a ngự đến. Ngoài ra, chuyện tích Viếng Thăm của thánh ký đem đến một lời chứng quý giá về tâm tình cảm tạ tri ân của các Ki tô hữu tiên khởi về đức tính cao vời của “Thân Mẫu Chúa chúng ta”.
Khi đang lâm bệnh ngặt nghèo, thập tử nhất sinh hay đang cơn hấp hối mà có người thân yêu ở kề: MV 4-C34
Khi đang lâm bệnh ngặt nghèo, thập tử nhất sinh hay đang cơn hấp hối mà có người thân yêu ở kề bên chia sẻ cảm thông thì đó là niềm an ủi lớn lao không gì sánh được. Khi gặp cô đơn sầu não không kẻ đoái hoài mà có một người bạn chân tình hiện diện bên cạnh thì không gì quý báu hơn. Trong những trường hợp đó, người ta mới cảm nhận được nhu cầu có người thân sống-với mình hay hiện-diện-bên-cạnh mình cần thiết xiết bao!
Vì thế, Đức Cha Gaillot, một giám mục Pháp, đã nhận định rất xác đáng rằng:
“Sống quảng đại thì tốt, nhưng ”sống-với” tốt hơn;
việc từ thiện là cần thiết, nhưng “hiện-diện-bên cạnh”cần thiết hơn.” Như thế, chấp nhận sống-với tha nhân, hiện-diện-bên-cạnh tha nhân thì tốt hơn mọi hình thức trao ban giúp đỡ khác.
Thiên Chúa là Người Cha nhân lành rất yêu thương nhân loại nên Người muốn sống với, muốn hiện diện bên cạnh nhân loại mãi mãi không cùng. Chính vì thế, Thiên Chúa tự xưng mình là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa hằng ở cùng chúng ta. (Isaia 7, 14. Mat-thêu 1, 23)
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách vô tận giữa trời và đất để đến ở với loài người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Chúa Giê-su đã sống kiếp phàm nhân suốt ba mươi ba năm để chia sẻ mọi vui, buồn, sướng, khổ của phận người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên dù đã sống lại và lên trời vinh hiển, Chúa Giê-su vẫn không rời xa các môn đệ. Người nói với họ: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
“Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại để đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó.” (Mt 14,3)
Vì mong muốn ở lại mãi với các môn đệ, nên Chúa Giê-su khấn nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Mt 17,24)
Thế rồi Chúa Giê-su lập nên Bí Tích Thánh Thể để không những ở với, ở cùng, hiện diện bên cạnh mà còn ở trong chúng ta và nên một với chúng ta.
Vì biết rằng nhu cầu được thăm viếng, được sống với, được hiện diện bên cạnh là rất cần thiết nên khi hay tin người chị họ cao niên của mình được Chúa đoái thương cho cưu mang quý tử, Đức Maria đã không quản ngại thân gái dặm trường, sẵn sàng băng rừng vượt núi tiến lên miền sơn cước để chúc mừng, để phục vụ và nhất là để sống với, để hiện diện bên cạnh người chị họ cao niên suốt cả ba tháng trời.
Về sau nầy, khi tâm hồn các môn đệ hoang mang xao xuyến sau biến cố Chúa Giê-su về trời, Mẹ Maria tiếp tục hiện diện bên các môn đệ, củng cố niềm tin đang chao đảo của các ngài.
Và rồi trong suốt dòng lịch sử Hội Thánh, Giáo Hội phải nhiều phen trải qua gian lao sóng gió, Mẹ Maria luôn có mặt trong những thời điểm khó khăn đen tối, để hiện diện và đồng hành với đoàn con cái trong lúc gian nan, để ủi an khích lệ họ trong cảnh u sầu.
“Sống quảng đại thì tốt, nhưng “sống-với” tốt hơn. Việc từ thiện là cần thiết, “hiện-diện-bên-cạnh”, cần thiết hơn.”
Hôm nay, noi gương Chúa Giê-su là Emmanuen, Đấng luôn ở với loài người để cùng chia sẻ ngọt bùi, noi gương Mẹ Maria là Đấng luôn ở cùng nhân loại để che chở ủi an họ trong những lúc gian truân khốn khó, chúng ta hãy trở nên những Emmanuen khác, để viếng thăm, an ủi, để sống-với, để hiện-diện-bên-cạnh những người đang gặp hoàn cảnh đau thương.
Cũng hơn chục năm rồi không gặp từ ngày Em lấy chồng và tôi đi tu. Bỗng dưng hôm nay Em lại: MV 4-C36
Cũng hơn chục năm rồi không gặp từ ngày Em lấy chồng và tôi đi tu. Bỗng dưng hôm nay Em lại phone thăm kẻ tu trì này! Biết “tại hạ” đang lo cho các em khuyết tật, Em cũng cố gắng kiếm chút chút nào đó lòng quảng đại của những người thân quen để sẻ chia “gánh nặng” nhưng hầu như chẳng được. Em ngậm ngùi bảo: “khó lắm cha ơi” !
Em sợ “tại hạ” nghĩ ngợi vì gia đình em thuộc dạng khá giả nên em mới bắt đầu phân trần. Gia đình Em may mắn hơn nhiều gia đình khác ! Hiện nhà Em sở hữu “chỉ có” một dàn máy dệt cộng với hai căn nhà mặt tiền của con đường lớn trung tâm đô thị và dăm ba căn nhà trong hẻm nhỏ. Tưởng chừng với thu nhập của một dàn máy dệt cộng với nhập thu mỗi tháng dăm bảy chục triệu từ chuyện cho thuê nhà sẽ mang đến hạnh phúc cho gia đình Em như nhiều người mơ mước.
Mơ ước đâu làm thoả mãn được ước mơ! Tổng thu nhập hơn trăm triệu ấy vẫn chưa làm cho Ba của như mấy đứa em của Em an phận. Ngày nào cũng như ngày nấy, trận to thì cá to, trận nhỏ thì cá nhỏ. Em kể rằng có tháng mẹ Em phải chi gần bạc tỷ cho dòng máu đỏ đen của cha.
Mới đây nhất, thằng em kế của Em cầm tạm chiếc xe SH mới cáu với giá 60.000.000 đ. Mẹ Em cũng phải nai lưng bỏ tiền chuộc xe về.
Thằng em út đi bộ đội có khá gì hơn đâu? Mỗi ngày chi cho nó 200.000đ tiêu vặt trong những ngày “nhập ngũ” nhưng dường như không đủ. Thứ Bảy vừa rồi nó về thăm nhà như thường lệ, biết đến ngày lấy tiền thuê nhà, nó đến gặp người thuê mướn “cầm tạm” 6 triệu bạc ! Khi Em đến lấy thì dĩ nhiên người thuê mướn nhà của Em phải trừ đi khoản “cầm tạm” của đứa em tội nghiệp.
Qua điện thoại, giọng Em đượm buồn ! Em bảo rằng bố Em chuyên gia cá độ thì làm sao bảo được các con !
Chi tiêu như nước như vậy cho chuyện cờ bạc, cá cược nhưng chẳng bao giờ người cha cũng như các em nhớ đến những phận người bất hạnh.
Không riêng gì nhà Em. Em cũng “chạy tới chạy lui” bà con họ hàng thân thích nhưng họ đều thoái thác với những lời than vãn dẫu rằng họ đều có của để của dư.
Em tiếc nuối vì những người thân ấy thừa khả năng chia sẻ nhưng họ lại chẳng sẻ chia.
Nhà nhỏ - lòng to
Cha già nọ ở Vũng Tàu nhờ làm “hướng dẫn viên” khám bệnh cho người nghèo xa xôi. Nghĩ ngay đến bà chị làm ở Ung Bướu và “hành” chị ngay. Chỉ qua điện thoại thôi nhưng mà chị lo lắng một cách hết sức sốt sắng.
Về Sài Thành có chút việc, chuẩn bị về lại vùng nghèo biển mặn bỗng dưng bà chị gọi: “Cha ráng chờ con chút nha, Cha đợi con ở 10 Phan Đăng Lưu nha !”.
Chỉ dăm phút sau chị có mặt tại nhà hưu Bác Ái Vinh Sơn. Không chỉ mình chị mà còn có cả hai chị em bệnh nhân nghèo. Chị thật lòng bảo: “Tối nay hai chị em này sẽ về ở nhà con” !
Lời của chị nói sao mà khó nghe quá ! Nhờ lo trong bệnh viện là cũng phiền hà lắm rồi chứ còn dám nhờ chuyện gì khác. Ấy vậy mà chị nhanh nhảu cho người nghèo nương náu trong những ngày chữa trị.
Mất vài phút qua vài con hẻm thì đến nhà chị. Dù còn nhiều việc nhưng chị ráng mời cha vào nhà cho bằng được để cha tận mắt nhìn căn nhà nhỏ. Gọi là nhà cho oai chứ bề ngang vỏn vẹn có hai mét rưỡi và bề dài chưa đầy sáu mét. Tận dụng không gian nhỏ hẹp, chị làm cái gác gỗ để có thêm chỗ dung thân. Nghe chị nói mà tóc tai cứ muốn dựng lên được: “Cha biết không ! Con xin Chúa lâu rồi, Chúa mới cho con đó. Chúa thương con lắm ! Con ước nguyện có căn nhà nhỏ này để phục vụ cho bệnh nhân nghèo không có chỗ ở khi lên đây chữa bệnh. Bất cứ khi nào Cha có bệnh nhân mà không có chỗ ở thì Cha cứ nói cho con nhé !”.
Vừa nói chị vừa hướng dẫn những gì cần thiết cho hai con người quê mùa xốc xếch đêm nay tá túc nhà chị. Với căn bệnh ung thư, chắc có lẽ không phải đêm nay mà còn nhiều đêm khác nữa.
Tưởng chừng sau khi hướng dẫn cho hai người nghèo này được an cư thì chị lại vội vã ra đi. Chị giải thích cho cử chỉ vội vã ấy: “Cha ơi ! Cha thông cảm nhá, con phải vội đi lắm ! Giờ con phải chạy qua bên mái ấm của con để con lo cho các em nữa !”. Vừa nói chị vừa quay xe đi một mạch cho kịp giờ.
Chị đã khuất bóng khỏi con hẻm nhưng hình ảnh của chị sao cứ còn mãi ! Không thể nào tưởng được những gì vừa xảy ra trước mắt mình. Hình như là ngoài sức mong đợi của mình thì phải.
Sau ngày gặp chị vài hôm, gọi điện cảm ơn cũng như thăm hỏi công việc thì chị nói chị đang cưu mang gần hai chục con người bị bỏ rơi ở căn nhà nhỏ trong cư xá Đô Thành sau bệnh viện Bình Dân. Cũng muốn chung chia với chị chút chút từ những tấm lòng thơm thảo là trái bí, trái bầu nhưng chị xin nhường lại cho người khác vì giờ đây chị đã tạm ổn. Chị nói: “Giá mà cha cho con cách đây chừng 5 năm thì con mừng lắm ! Giờ thì con ổn rồi !”.
Tiếng người nói bên kia điện thoại đã chấm dứt nhưng sao vẫn còn văng vẳng bên tai tấm lòng nhân hậu của một con người đơn sơ nhỏ bé.
Chút suy tư nho nhỏ
Câu chuyện căn nhà to và tấm lòng nhỏ của cô bạn ngày xưa làm cho mình cảm thấy chạnh lòng. Chưa kịp nghĩ đến chuyện họ chia sẻ cho những người nghèo bất hạnh là những người luôn cần sự trợ giúp của những người may mắn, chỉ nghĩ đến chuyện là bố con gia đình ấy đừng chạy theo những canh bạc đỏ đen để gia đình được bình an và xã hội đừng xuống cấp là được rồi. Dĩ nhiên là tiền họ làm ra họ có quyền sử dụng trên nó nhưng một cách nào đó họ đã góp phần làm cho xã hội băng hoại vì những đồng tiền bất chính từ những trận cá cược đã làm cho bao gia đình tan vỡ.
Hình ảnh người phụ nữ nghèo trong căn nhà nhỏ với tấm lòng hết sức quảng đại là nhân chứng sống động của tình Chúa – tình người. Căn nhà với diện tích chưa đầy mười lăm mét vuông ấy nhưng tấm lòng quá lớn.
Giá như mà những căn nhà to thật là to cho thuê để lấy tiền nướng vào các canh bạc được làm chỗ tá túc cho những người nghèo cô thế cô thân thì hay biết mấy ! Những người nghèo họ chẳng mơ ước gì cao sang, chỉ cần một góc nho nhỏ để vùi cho cơn ngủ được ngon hơn khi cuộc sống lam lũ đêm ngày lại gặp trọng bệnh.
Vẫn còn đó những căn nhà nhỏ - tấm lòng to để bù lại cho những căn nhà to - tấm lòng nhỏ. Vẫn còn đó một chút lòng nhân, một chút tình người le lói giữa cuộc đời mà người ta rủ nhau đi vun vén, rủ nhau đi hơn thua.
Gặp gỡ là cùng có mặt tại một không gian, là sự giáp mặt, tiếp xúc giữa những người thân quen: MV 4-C37
Gặp gỡ là cùng có mặt tại một không gian, là sự giáp mặt, tiếp xúc giữa những người thân quen hay cùng có một mối liên hệ nào đó. Vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng C này giáo hội khi dọn cho chúng ta bàn tiệc Lời Chúa, đặc biệt qua bài Tin mừng, muốn giới thiệu hai cuộc gặp gỡ. Một là giữa hai chị em Isave và Maria và hai là giữa Thai Nhi Giêsu với bà Isave và Thai nhi Gioan Tẩy giả. Đã nói đến sự gặp gỡ thì hàm ý có những hiệu quả tốt đẹp phát sinh. Qua cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ cũng như hai thai nhi trên, hiệu quả tốt đẹp đã xảy ra. Bà Isave đầy ân sủng Thánh Thần, xác nhận sự diễm phúc của cô em Maria cũng như nói lên hồng ân mà trẻ bé Gioan Baotixita trong dạ của bà đang hưởng nhận. Chúng ta đừng quên cuộc gặp gỡ ấy cũng đem niềm vui cho cả nhà Giacaria, vì nay đã có người góp sức cho việc hạ sinh trẻ Gioan. Điều này được hé lộ khi Tin mừng tường thuật rằng Maria ở lại với gia đình Giacaria – Isave độ ba tháng mới trở về nhà mình ( Lc 1,56 ).
“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng”. Câu đối của người xưa nhấn mạnh đến cái duyên, tức là phần số đã được trời sắp đặt, chuẩn bị, an bài từ trước, như là nguyên nhân chính làm nên sự gặp gỡ hay không gặp gỡ. Theo viễn kiến này, thì người ta cũng có thể nói như người xưa: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” hoặc như tác giả Thánh Vịnh: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” ( Tv 126,1). Thế nhưng dưới cái nhìn của mạc khải thời Tân Ước, thì phải chăng chúng ta cũng có thể nói ngược lại: Mưu sự tại thiên. Thành sự tại nhân.
Mưu sự tại thiên: Thiên Chúa đã yêu thương, chọn gọi loài người từ ngàn xưa để ban cho con người hạnh phúc vĩnh cửu là thông phần sự sống với Người trong Con Một của Người là Đức Kitô. Thánh Phaolô đã trình bày ý định nhệm mầu này bằng bản thánh ca: “ …Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta trước khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo lượng ân sủng rất phong phú của Người… (Eph 1,3-14).
Thánh ý của Thiên Chúa là ban cho thế gian chính Con Một dấu yêu, trong một thân xác cụ thể, làm dấu chỉ và làm phương thế cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã nói: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7).
Khi ban Người Con Một vào trần gian, Thiên Chúa muốn mạc khải cho biết nguồn gốc đích thực của mọi loài, cách riêng loài người chúng ta chính là Người, vị Thiên Chúa duy nhất đầy quyền năng đáng tôn thờ và cũng là người Cha đầy lòng thương xót đáng mến yêu trên hết mọi sự, đồng thời qua đó, mạc khải cho chúng ta biết mình là anh chị em với nhau, bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ…( x.Mt 5,9; 43-48 ). Nói một cách không sợ sai lầm rằng chúng ta đã biết một trong những nội hàm của “mưu sự tại thiên”: Đó là Thiên Chúa muốn mọi người gặp gỡ Người để được hạnh phúc và gặp gỡ nhau để sống tình huynh đệ.
Thành sự tại nhân: Chúng ta vốn quen với câu nói của thánh giáo phụ Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Thánh giáo phụ vừa nói lên quyền năng cao cả của Thiên Chúa, vừa nói lên đường lối của Người, Đấng là Tình Yêu ( x.1Ga 4,8 ). Thiên Chúa đã thương ban cho loài người, hình ảnh của Người, có lý trí và ý chí tự do. Đây là hệ lụy tất yêu của tình yêu. Tình yêu đòi hỏi có sự ý thức và tự nguyện. Có thể dễ bị hiểu lầm là kiêu ngạo khi đề cao vai trò của nhân loại. Thế nhưng đó là một cách thế hành động của Thiên Chúa. Dù rằng đầy quyền năng và không có sự gì là không thể, nhưng Thiên Chúa lại muốn có sự tự do cộng tác của con người trong việc thi ân, cứu độ con người.
Để chuẩn bị một dân tuyển lựa, Thiên Chúa không bắt ép, nhưng mời gọi Abraham, một người chăn nuôi súc vật đã khá cao niên lên đường ( x. St 12,1-5 ). Để cho Ngôi Lời Nhập thể cứu đời, Thiên Chúa không ra chỉ thị mà lại ngỏ ý, đề nghị Maria, một thiếu nữ thôn dã cộng tác ( x. Lc 1,26-38 ). Khi công khai rao giảng tin mừng Chúa Giêsu thường lặp đi lặp lại câu nói: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe!” (Mt 11,15).
Điều gì cần có nơi phía loài người để thánh ý Thiên Chúa được thành sự ? Chúng ta có thể nhận ra đó là lòng thành và sự khiêm nhu trong một tâm hồn đầy lửa mến, khát khao sự thiện. Để cho thánh ý Thiên Chúa được thành hiện thực, nghĩa là có sự gặp gỡ thực sự giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau, thì phía con người không thể thiếu:
Một sự hướng thiện trong tình mến: Biết bao cuộc họp mặt giữa người với người, giữa vị đại diện quốc gia này với quốc gia kia mà vẫn chưa trở thành sự gặp gỡ, nghĩa là chưa mang lại kết quả. Trong nhiều lý do rất có thể có lý do là một trong hai phía chưa thực sự có tình yêu thương nhau hoặc chưa thực sự hướng thiện, nghĩa là tìm kiếm điều tốt trong chân lý.
Một tấm lòng thành đầy sự khiêm nhu: Khi sinh thời, cách riêng trong quảng đời rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã tiếp xúc rất nhiều người nhưng vẫn có đó không ít người chưa gặp gỡ Người mà trong số đó có nhiều người biệt phái, luật sĩ. Lý do chính yếu mà tin mừng tường thuật, đó là vì họ thiếu lòng thành và sự khiêm hạ. Họ là những người có tai mà không nghe, đúng hơn là không thèm nghe; có mắt mà không thấy, đúng hơn là không muốn thấy. Làm sao có sự gặp gỡ khi một phía cố tình bịt tai, che mắt ?
Trở lại với hai bà mẹ đang mang thai, một trẻ, một già là Isave và Maria. Tình yêu của của hai bà mẹ dành cho Thiên Chúa, cho con người đã quá rõ. Một người tuy như là bất hạnh trước người đời vì son sẻ mà vẫn kiên trung trong sự công chính trước mặt Thiên Chúa và không ai chê trách được điều gì ( x.Lc 1,6 ), một người thì tràn trề ân sủng ( x. Lc 1,28 ), và cả hai đều đầy ơn Thánh Thần ( x. Lc 1,35; 41 ). Lòng thành và sự khiêm hạ của Maria đã rõ nét qua lời thưa xin vâng và lời ca Magnificat “ Chúa đã đoái thương phận hèn tớ nữ…”( x. Lc 1,48 ). Bà Isave đã nhìn nhận tất cả là ơn Chúa “khi Người đã thương cất nỗi hổ nhục bà phải chịu trước mặt người đời” ( Lc 1,25 ).
Thiên Chúa không chỉ muốn mà còn tìm
mọi cách để gặp gỡ con người, đồng thời giúp con người gặp gỡ nhau. Thế nhưng trong vấn đề này, chúng ta có thể nói rằng “mưu sự tại thiên mà thành sự tại nhân” vậy.
Tin mừng Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Vọng cho chúng ta chân dung của hai người mẹ diễm phúc: MV 4-C38
Tin mừng Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Vọng cho chúng ta chân dung của hai người mẹ diễm phúc nhất trần gian: Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế và Isave, mẹ Gioan Tiền Hô.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui, diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần. Thánh Thần tác động trên Maria. Thánh Thần tràn đầy bà Isave. Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15). Đó là một Lễ Ngũ Tuần đầu tiên mà bà Isave nói dưới tác động của ThánhThần. Đức Maria đã tiếp đón một cách đơn sơ sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính cung lòng Mẹ. Cuộc gặp gỡ ngoại hạng này cũng như sáng ngày Phục Sinh, bí mật nầy của Thiên Chúa được giao phó cho phụ nữ trong niềm hân hoan vui sướng chỉ có thể đến từ Chúa Thánh Thần.
Thánh Luca thích nói rằng Thánh Thần sẽ “được đổ tràn đầy trên mọi xác thịt”, khi trích dẫn những lời của tiên tri Gioel. Bà Isave trở thành nữ tiên tri. Bà kêu lên, bằng giọng của lời tung hô phụng vụ: “Maria, em thật có phúc giữa tất cả phụ nữ và hoa trái lòng em được chúc phúc”.
Suy niệm về cuộc gặp gỡ kỳ diệu của hai bà mẹ cho chúng ta những bài học bổ ích.
Đức Maria đã đi thăm người chị họ Isave. Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm vì yêu thương. Chính tình thương đã thúc đẩy bước chân Mẹ. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo.
Cuộc viếng thăm là sự gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang và giữa hai giao ước cũ và mới.
Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng là đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ơ lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Isave được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.
Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, thì con trẻ Gioan trong lòng mẹ Isave nhảy mừng vui sướng.
Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.
Cuộc viếng thăm của Đức Maria là cuộc viếng thăm của tình yêu. Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Đức Phật nói: “Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ”. Ngài gọi cái khổ ấy là “ái biệt ly khổ”. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.
Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
Khi đến thăm bà Isave, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Isave vui mừng, mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Isave, được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Isave là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.
Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện hơn.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Isave đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con yêu dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn 2000 năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Ngưòi cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người.Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.
Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.
Có đôi bạn trẻ yêu nhau đã nhiều năm nhưng hai gia đình không chấp nhận vì vấn đề tôn giáo. Cô gái là con của gia đình đạo đức. Chàng trai là con gia đình theo đạo ông bà. Nhà gái muốn con rễ theo đạo mới gã con gái. Nhà trai không chấp nhận vì họ quan niệm, con trai theo đạo là bỏ tổ tiên ông bà. Khi đến thăm gia đình chàng trai, qua vài câu chuyện mở đầu, tôi thắp mấy nén nhang trước bàn thờ tổ tiên với lòng thành kính. Hai ông bà quá đổi nhạc nhiên: Cha xứ Nhà thờ mà thắp nhang trước bàn thờ ông bà mình ư? Tôi giải thích cho họ về đạo hiếu về việc thắp nhang của người kitô hữu. Họ nhận ra là lâu nay họ hiểu lầm về đạo Công giáo nên không cho con theo đạo. Hai ông bà vui mừng và sẵn sàng cho con trai gia nhập đạo. Hạnh phúc đến với đôi bạn trẻ ấy. Niềm vui bừng lên khi mọi khúc mắc được giải toả.
Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.
Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẽ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.
Đức Maria viếng thăm, phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Isave. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo Mẹ. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẽ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của con cái Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
Trong Chúa Nhật tuần này, Bài Đọc I trích trong sách Tiên Tri Mikha (5: 1-4) nói rõ về việc: MV 4-C39
Trong Chúa Nhật tuần này, Bài Đọc I trích trong sách Tiên Tri Mikha (5: 1-4) nói rõ về việc một Trinh Nữ sẽ sinh con là Đấng đã có từ nguyên thủy, từ muôn đời, và nơi Ngài sinh ra chính là thành phố nhỏ bé Bêlem (miền Nam nước Israel, cách thủ đô Giêrusalem 8 cây số về phía đông nam). Bài Đọc II trích trong thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Do Thái (10: 5-10) nói đến việc Chúa Giêsu đã đến trần gian, mặc thân xác loài người, để “thi hành thánh ý Chúa, hiến dâng mình làm của lễ cứu độ trần gian. Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (1: 39-45) ghi lại biến cố trọng đại “Trinh Nữ Maria vội vã đi lên miền núi, đến một thành thuộc chi tộc Giuđa để thăm viếng bà chị họ Elisabeth đã thụ thai một con trai trong tuổi già và nay đã đựợc 6 tháng.”
Chúng ta đang tiến gần ngày mừng kỷ niệm lễ Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng, Giáo Hội muốn hướng lòng chúng ta về Mẹ Maria, đặc biệt biến cố “Truyền Tin” và cuộc “Thăm Viếng” bà chị họ Elizabeth.
Trong Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm B, Giáo Hội hướng lòng chúng ta về bién cố “Truyền Tin” qua Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (1: 26-38). Hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm C, Giáo Hội dẫn chúng ta nhớ về biến cố “Thăm Viếng” bà Thánh Elizabeth, bà chị họ của Đức Mẹ, qua Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (1: 38-45).
Trong mầu nhiệm Mân Côi “Năm Sự Vui”, điều thứ nhất chúng ta suy gẫm: “Thiên Thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được lòng khiêm nhường”; điều thứ hai, chúng ta suy gẫm: “Đức Bà đi viếng bà Thánh Isave (Elizabeth), ta hãy xin cho được lòng yêu người.”
Ngay sau khi được diễm phúc “chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần để sẽ hạ sinh Đấng mà muôn dân đang trông đợi,” và được Thiên Thần cho biết “bà chị họ của Trinh Nữ là Elizabeth cũng đã thụ thai trong tuổi già, tới nay đã được 6 tháng,” Đức Maria đã vội vã lên đường đi lên miền núi để thăm viếng bà chị họ Elizabeth và ở lại giúp bà 3 tháng trong lúc chuẩn bị sinh con trong tuổi già.”
Lòng “yêu người” của mẹ Maria đã thúc đẩy Mẹ. Mẹ quên đi ngay diễm phúc thật cao cả “được làm Mẹ Chúa Cứu Thế” để lo cho người chị họ đã lớn tuổi và sắp đến ngày sinh con cần một người thân thuộc để giúp đỡ. Vì thế, Mẹ đã quên mình, không quản ngại đường bộ xa xôi, núi đồi hiểm trở. Theo địa danh thì Mẹ phải đi từ làng Nagiaret miền Galilêa ở phía Bắc đến tận miền Giuđêa ở phía Nam, đường dài cả hàng trăm cây số. Chắc chắn Mẹ đã phải đi bộ một mình, vì Mẹ đâu có phương tiện nào khác, nhất là vào thời buổi bấy giờ. Đến nơi, Mẹ khổng phải chỉ thăm qua loa rồi đi về, nhưng Mẹ đã ở lại cả 3 tháng trường để giúp bao công việc cho bà chị họ trong lúc chuẩn bị sinh con. Hơn nữa, trong dịp này, Mẹ cũng đem đến một hồng phúc thật lới lao cho gia đình bà chị họ, đến nỗi bà đã phải thốt lên: “Bởi đâu tôi được diễm phúc Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi! Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, hài nhi trong lòng tôi đã nhảy mừng…”
Tại Hoa Kỳ, ngay sau ngày Lễ “Tạ Ơn” (Thanksgiving Day), rất nhiều gia đình đã chăng đèn và trưng bày cảnh Giáng Sinh ở trong nhà cũng như trước nhà rất huy hoàng, lộng lẫy. Tại các Thánh đường, quang cảnh càng huy hoàng, trịnh trọng hơn. Mỗi năm, vào mùa này tại Hoa Kỳ, hàng tỉ cây thông Giáng Sinh đã được bán ra cho dân chúng đem về nhà và các nơi để trang trí. Các phương tiện truyền thông như truyền thanh, truyền hình, báo chí, đạo cũng như đời thường đưa các bản tin về Đại Lễ Giáng Sinh và truyền đi những bản Thánh ca Giáng Sinh rất hay. Khi gặp gỡ, người ta thường chào nhau bằng câu “Chúc Mừng Giáng Sinh!” (Merry Christmas!)
Tuy nhiên, Mùa Giáng Sinh cũng là mùa chia sẻ (sharing season) tình thương với nhau, đặc biệt đối với những người nghèo khổ, đau yếu, cô đơn. Các tín hữu năm nào cũng rộng rãi đóng góp tiền bạc, quà, thực phẩm để giúp đỡ những người kém may mắn tại Hoa Kỳ cũng như khắp nơi trên thế giới. Điều này nhắc nhở chúng ta noi gương lòng thương người của Mẹ Maria, để chúng ta cũng nhớ chia sẻ hạnh phúc, và niềm vui Giáng Sinh với những người chung quanh. Cũng như Mẹ Maria, Thánh Giuse và Chúa Hài Nhi phải sống trong cảnh khó nghèo, không nhà cửa chính trong đêm Chúa giáng sinh, ngày nay vẫn có biết bao người nghèo khổ, đói khát, không nhà cửa, không đủ quần áo mặc ấm trong mùa đông lạnh giá, đang trông mong sự thăm viếng và giúp đỡ của chúng ta.
Chúng ta phải làm những gì để chuẩn bị mừng Đại Lễ Chúa Giáng Sinh sắp tới? Chúng ta phải làm gì khi chúng ta chiêm ngắm Chúa Hài Nhi, Mẹ Maria và Thánh Giuse trong cảnh nghèo khó tại hang Bêlem?
Trong Mùa Vọng, đa số chúng ta đã đi dự các buổi tĩnh tâm, lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải để chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, nhưng chúng ta còn có bổn phận đem Chúa đến với những người chung quanh, có khi ngay trong gia đình chúng ta, ngay trong khu xóm chúng ta đang ở, và giúp đỡ những người đang cần sự thăm viếng và giúp đỡ của chúng ta.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cùng hiệp lời cầu nguyện chung, xin Chúa mở rộng tâm hồn chúng ta để đón Chúa giáng sinh vào lòng chúng ta, vào gia đình chúng ta, và noi gương thương người của Mẹ Maria, chúng ta cũng “vội và lên đường” đem Chúa đến cho những người chung quanh chúng ta, đặc biệt cho những người nghèo khó, qua món quà tình thương trong mùa Giàng sinh này.
Có một câu chuyện kể rằng: tại Na Uy, một chiều đông, tuyết rơi nặng từng hạt. Một người đàn: MV 4-C40
Có một câu chuyện kể rằng: tại Na Uy, một chiều đông, tuyết rơi nặng từng hạt. Một người đàn ông say rượu lảo đảo bước đi trên tuyết. Cậu con trai 10 tuổi của ông sau khi ngồi chờ cha mình ngoài quán rượu cũng lẽo đẽo theo cha về nhà. Cậu đặt bàn chân nhỏ bé của mình lên những dấu chân hằn sâu trên tuyết mà cha cậu để lại, những bước chân ngả nghiêng, chao đảo. Bất chợt người đàn ông quay lại, nhìn thấy con mình bước thấp bước cao, dáng vẻ như một người say rượu, ông gắt gỏng hỏi nó với giọng lè nhè:
Mày đi kiểu gì vậy?
Cậu bé trả lời:
Dạ, con đang đi theo bước chân của cha! Quả thực. sự gương mẫu thật hệ trọng trong việc giáo dục. Có những bước chân vô tình tưởng chừng như chẳng liên hệ gì đến ai, nhưng vẫn để lại cho đời những dấu vết chẳng phai mờ. Có những bậc làm cha, làm mẹ đã thật ngạc nhiên qua cách ứng xử của con cái sao giống hệt như mình: giận dữ, hống hách, lười biếng giống như là bản sao của chính mình. Có những người đã từng quát lên trong cay đắng “sao con lại hành xử như vậy?”. Và dường như nó cũng đang thầm nói lại rằng:“con đang bước theo bước chân của cha mẹ!"
Giống như con suối tưởng như vô tình, cứ uốn mình theo dòng chảy của thời gian. Vậy mà nó vẫn còn để lại dấu vết chẳng phai mờ trên mặt địa cầu bao la rộng lớn. Đời người cho dẫu chỉ là phù hoa, kiếp nhân sinh cho dẫu có vắn vỏi hay lặng lẽ trôi qua vẫn để lại những dấu vết chẳng phai mờ nơi trần gian. Vì vậy mà Nguyễn công Trữ mới bảo rằng:
“Người trồng cây hạnh người chơi Ta trồng cây phúc để đời về sau”
Hôm nay, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm một bước chân thật đẹp của tình người. Một bước chân của yêu thương không phai mờ qua mọi thời gian. Một bước chân tràn ngập tình yêu thương để có thể băng đồi, lội suối, vượt qua mọi thác gềnh, chẳng sợ gian nan của Mẹ Maria. Một bước chân vồn vã bước đi trong bác ái yêu thương, trong dấn thân phục vụ. Một bước chân có sức mạnh phá tan mọi băng giá của con tim để sưởi ấm tình người. Một bước chân thăm viếng thắm đượm tình Chúa, tình người đến nỗi bà Elisebeth đã nghẹn lời thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi viếng thăm”. Một bước chân nở hoa bác ái, yêu thương trên hành trình Mẹ đã đi qua.
Mẹ Maria đã chẳng để lại cho đời những giáo thuyết cao siêu, những lời hay ý đẹp. Mẹ chỉ để lại cho đời một tấm gương sáng ngời của bác ái, vị tha, của xin vâng và phó thác. Cuộc sống của Mẹ là trang sử thật đẹp để lại cho trần gian. Một cuộc sống tử bỏ ý riêng để phục vụ cho chương trình Thiên Chúa. Một cuộc sống chỉ lo chu toàn thánh ý Chúa. Cho dẫu lời xin vâng là chén đắng, là khổ đau nhưng Mẹ đã làm tất cả vì chỉ mong cho ý Chúa được thực hiên, cho nhân trần được hưởng nguồn ơn cứu độ.
Ước mong mỗi người chúng ta hãy sống một đời yêu thương để mang lại cho đời những dấu tích của hiệp nhất và bình an. Tình yêu sẽ giúp con người vượt qua những nhỏ nhen, ích kỷ để chiến thắng bản thân, để mang lại an bình, tươi vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Không có tình yêu, cuộc sống giống như giòng suối khô cạn. Không sự sống. Không sinh khí và hiển nhiên cũng không còn nguồn sống cho nhau. Cuộc đời cần có tính yêu thì sự sống mới được chăm sóc, được bảo vệ. Cuộc đời cần có tình yêu thì sự sống mới sung mãn và ngập tràn niềm vui.
Ở đâu đó vẫn còn nạn phá thai, nạn bạo hành gia đình là vì thiếu tình yêu. Ở đâu đó vẫn còn tranh chấp, còn chiến tranh, còn hận thù là vì thiếu tình yêu giữa con người với nhau. Ở đâu đó vẫn còn nghi kỵ, kết án, hiểu lầm, ghen tương là vì giòng chảy tình yêu đã khô cạn.
Ước mong mùa giáng sinh cùng với những đèn sao lấp lánh nơi hang đá, mỗi người chúng ta hãy thắp lên cho giòng đời những cây nến sáng của yêu thương, của lòng trắc ẩn trước nỗi khổ của tha nhân, của dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau cho anh em. Nguyện xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng ta trên những bước chân của yêu thương đang đi tới với anh em trong yêu thương và phục vụ. Amen
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng, mùa chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh. Trong Mùa: MV 4-C41
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng, mùa chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh. Trong Mùa Vọng, có ba nhân vật nổi bật luôn được nhắc đến, đó là ngôn sứ I-sai-a loan báo Đấng Thiên sai sẽ đến. Đó là thánh Gio-an Tiền Hô, người mở đường và dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến. Nhân Vật quan trọng thứ ba là Đức Maria, qua Mẹ, Đấng Thiên sai đã đến trần gian, và nhờ Mẹ, ơn cứu rỗi bắt đầu được thực hiện. Vì thế, trong suốt Mùa Vọng, chúng ta được nghe đọc những lời loan báo của I-sai-a, được nhận biết cuộc đời và sứ mạng của Gio-an Tiền Hô, và hôm nay, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta chân dung Đức Mẹ qua việc Mẹ đi thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, chúng ta quen gọi theo ảnh hưởng của các cố Tây Ban Nha là bà I-sa-ve.
Khi sứ thần Gáp-ri-en đến báo tin cho Đức Mẹ biết: Đức Mẹ rất có phúc vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ Con Thiên Chúa. Và để bảo đảm cho lời truyền tin này, sứ thần đã đưa ra một bằng chứng về quyền năng của Thiên Chúa: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Khi được sứ thần cho biết như thế, sau đó ít ngày, Đức Mẹ đã đi thăm bà Ê-li-sa-bét và ở lại giúp đỡ ba tháng. Những lý do nào đã thúc đẩy Mẹ Maria đi thăm bà Ê-li-sa-bét ?
Lý do đơn giản trước nhất là Đức Mẹ đã coi những lời sứ thần báo tin về bà chị họ là một lời mời thăm viếng, hỏi thăm. Thứ hai, có thể Đức Mẹ đi để kiểm điểm, xem xét dấu chứng mà sứ thần đã đưa ra, đó là việc bà Ê-li-sa-bét có thai có đúng không ? Tuy nhiên, làm thế không có nghĩa là Đức Mẹ hồ nghi lời sứ thần truyền tin cho mình. Bởi vì Đức Mẹ đã thưa: “Xin vâng”, tức là Đức Mẹ đã tin rồi. Thứ ba, có thể Đức Mẹ ra đi để chia sẻ niềm vui và có dịp cùng bà chị họ chúc tụng Thiên Chúa, vì cả hai đều được hưởng đặc ân Thiên Chúa. Lý do thứ tư, lý do chính, là lòng bác ái, yêu thương của Đức Mẹ. Lòng tốt, bác ái, giúp đỡ, chia sẻ… đã thúc bách Đức Mẹ lên đường. Bởi vì gia đình bà Ê-li-sa-bét neo đơn, cả hai ông bà đã già yếu, cần sự giúp đỡ trong những tháng cuối cùng thai nghén và trong thời gian sinh hạ.
Mẹ Maria đi thăm gia đình Da-ca-ri-a là để chia sẻ một niềm vui trong gia tộc, Mẹ đã quên mình ra đi đem niềm vui cho người khác. Vì thế, có thể nói Mẹ ra đi truyền giáo. Đức Mẹ đã là một nhà truyền giáo đầu tiên, là đem Đấng Cứu thế đến cho bà chị họ và riêng cho Gio-an Tiền Hô. Vì thế, thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng mẹ. Tóm lại, Mẹ đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho Mẹ niềm vui. Đức Mẹ đã quên mình ra đi, đem niềm vui cho người khác. Đó cũng là bổn phận của chúng ta. Chúng ta sống với nhau, chúng ta hãy là một ánh bình minh gieo vui nắng ấm tình thương, đức tin, hy vọng cho những người chung quanh, nhất là những người đang gặp u buồn tăm tối. Phải biết vui với người vui, khóc với người khóc. Xin Chúa cho chúng ta, bất cứ đi đâu, đến đâu, gặp ai, họ đều nhận được nơi chúng ta niềm vui.
Trong việc đi thăm và ở lại ba tháng giúp đỡ gia đình bà Ê-li-sa-bét, chúng ta thấy có năm đặc tính trong đức bác ái của Đức Mẹ: Thứ nhất, Mẹ để ý đến nhu cầu của người bà con, để ý đến hoàn cảnh gia đình bà Ê-li-sa-bét cần sự thăm hỏi, giúp đỡ. Thứ hai, dù là chỗ họ hàng, mà chỉ là họ hàng xa, không bó buộc theo phong tục thăm viếng, giúp đỡ, nhưng Mẹ đã nhận trách nhiệm ấy cho mình. Bởi vì bác ái thì không phân biệt xa hay gần, thân hay sơ. Thứ ba, Mẹ không quản ngại đường sá xa xôi, nguy hiểm và vất vả. “Đường đi khó không khó vì ngăn sống cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Đường đi có thể khó khăn, nguy hiểm, nhưng nếu vì bác ái, vì lòng người đã quyết thì khó khăn đến đâu cũng không quản ngại. Đức Mẹ là người đã có tấm lòng như thế. Thứ tư, Mẹ kiên tâm giúp đỡ suốt ba tháng trời. Đó là bác ái cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương bằng lời nói thì có thể bị coi là đầu môi chót lưỡi. Bác ái yêu thương trong lòng thì thiêng liêng vô hình, không cảm nhận được. Nên giúp đỡ, chia sẻ cụ thể là bằng chứng lòng yêu thương rõ ràng nhất. Đức Mẹ đã làm như thế. Thứ năm, Mẹ mang Chúa đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Mẹ đã đem Đấng Cứu Thế đến cho bà chị họ, nhất là cho Gio-an Tiền Hô, nên Gio-an đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Mẹ đã đem ơn Chúa đến cho người khác.
Đây cũng là bài học Đức Mẹ dạy chúng ta. Vì thế, khi suy niệm mầu nhiệm thăm viếng này, Giáo Hội bảo chúng ta hãy học gương yêu người của Đức Mẹ. Chung quanh chúng ta hay gia đình họ hàng chúng ta có rất nhiều dịp đòi chúng ta phải thăm viếng, giúp đỡ. Chúng ta đừng bao giờ giả điếc làm ngơ hay giả mù không thấy để rồi khép kín lòng chúng ta lại trước những người đang cần chúng ta thăm viếng, an ủi, giúp đỡ. Tóm lại, chúng ta hãy sống với nhau bằng tình người chứ đừng vì lý lẽ này hay lý do nọ, vì bác ái yêu thương thì không có giới hạn hay bất cứ một phân biệt nào.
Thiên Chúa rất hài lòng khi thấy chúng ta sống tình liên đới với nhau. Biết chia sẻ những hồng ân Ngài ban cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta biết chia sẻ và thông cảm với nhau một cách tươi vui, với tâm hồn biết ơn, với ý định thành thật ngay chính, không hậu ý lợi dụng. Ngài không muốn chúng ta chia sẻ vì những hậu ý đen tối, chẳng hạn như để thỏa mãn cái tôi tự tôn hay tính khoe khoang, phô trương, kiêu ngạo của chúng ta. Thánh Phao-lô đã dạy: “Mỗi người trong anh em hãy cho đi, hãy chia sẻ với nhau tùy theo ý định tốt lành của lòng mình. Không cau có, không tính toán, không miễn cưỡng, vì khi chúng ta vui mừng trao ban thì Thiên Chúa mới nhận lời”.
Chúng ta không có đủ khả năng hay điều kiện để đáp ứng mọi nhu cầu của anh chị em chung quanh. Nhưng gần bên chúng ta lúc nào cũng có những người cần đến những trợ giúp nho nhỏ của chúng ta: Những nụ cười cảm thông, những lời nói khuyến khích, những lời hỏi thăm chân tình…đó là những điều ở trong tầm tay của chúng ta. Có những người không cần chúng ta chia sẻ giúp đỡ về tiền bạc vật chất, chỉ cần chúng ta chia sẻ những niềm vui nho nhỏ trên đây.
Chúng ta bắt đầu bước vào tuần lễ thứ 4 của Mùa Vọng, được coi là thời gian chót của Mùa: MV 4-C42
Chúng ta bắt đầu bước vào tuần lễ thứ 4 của Mùa Vọng, được coi là thời gian chót của Mùa Vọng. Trong các Chúa nhật trước, tiên tri Isaia đã loan báo cho dân chúng về Đấng Thiên sai, tiếp đến thánh Gioan Tẩy giả thúc giục mọi người hãy sám hối để được ơn tha tội trong khi đón chờ , đồng thời mách bảo cho mọi người cách thức dọn đường cho Chúa đến.
Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng này có thể được gọi là Chúa nhật của Đức Mẹ vì bài Tin mừng của ba năm đều nói đến Đức Mẹ. Như vậy, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta nhớ đến vai trò của Đức Mẹ trong việc Chúa Cứu thế giáng sinh. Đặc biệt bài Tin mừng hôm nay nói đến việc Đức Maria đi thăm viếng bà chị họ Elizabeth để vị Tiền hô và Đấng Cứu Thế gặp nhau ngay khi còn trong bụng mẹ.
Trong tâm tình dọn lòng mừng lễ Giáng sinh, chúng ta hãy để ra thời gian vắn để suy niệm về cuộc thăm viếng của Ngài. Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Maria để lại cho chúng ta nhiều bài học để thực hành: Đức Maria là mẫu gương của niềm tin, của bác ái và khiêm nhường. Noi gương sáng ngời của Đức Mẹ, chúng ta hãy tập sống bác ái theo phương châm của thánh Phaolô Tông đồ đã đề ra: ”Nên mọi sự cho mọi người”(1Cr 9,19).
I. CUỘC VIẾNG THĂM CỦA ĐỨC MARIA.
1. Hai chị em gặp nhau.
Theo ý định ngàn đời của Thiên Chúa, Trinh nữ Maria đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Và đặc biệt là Trinh nữ thụ thai, sinh con mà vẫn còn đồng trinh vì đây là việc làm đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng; và cũng là một dấu hiệu để Maria tin: bà chị họ Elizabeth của cô đã thụ thai trong lúc tuổi già và đã mang thai được sáu tháng. Vừa nghe tin mừng này Maria liền vội vã lên đường đến thăm và chia vui với chị.
Bà Elizabeth ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi không tránh được mệt nhọc vất vả. Theo lời truyền tụng từ thế kỷ thứ 5, gia đình Giacaria ở triền núi, trong một thành thuộc xứ Giuđa, tên gọi Ain Karim cách Giêrusalem 7 cây số về phía tây. Đường đi từ Nazareth đến Ain Karim phải 3,4 ngày đường.
Hai chị em gặp nhau tay bắt mặt mừng, chúc tụng nhau những lời tốt đẹp, trong khi đó hai thai nhi gặp nhau trong bụng mẹ. Sự hiện diện của thai nhi Giêsu làm cho thai nhi Gioan có phản ứng lạ lùng: Thai nhi trong dạ Elizabeth nhảy mừng lên. Việc nhảy mừng của Gioan trong bụng mẹ là dấu chỉ cho bà Elizabeth nhận ra sự cao cả của thai nhi Giêsu và của Đức Maria. Chính bà Elizabeth đã nhận ra và chúc tụng Đức Maria là Mẹ Đấng Cứu thế:”Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Sau đó, Đức Maria ở lại nhà ông Giacaria độ ba tháng để phục vụ, đoạn trở về nhà mình.
2. Lý do thúc đẩy cuộc viếng thăm.
Thiên sứ đã củng cố niềm tin cho Maria để Ngài tin vào quyền năng của Thiên Chúa bằng cách cho biết: Bà chị họ Elizabeth đã có thai trong tuổi già được 6 tháng, bởi vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được. Chắc chắn Maria không hề hồ nghi về quyền năng của Thiên Chúa trong việc sinh con của mình và tin người chị họ mang thai trong tuổi già là tín hiệu của tình yêu Thiên Chúa đối với người chị họ.
Đây là một tin vui, vì thế Maria vội vã lên đường thăm viếng và chia vui với chị. Do đó lý do cuộc thăm viếng của Đức Maria không phải là tò mò hay kiểm tra xem việc thực hư, mà là do tình thương yêu thúc đẩy. Ngài không đến thăm thì bà Elizabeth chẳng trách ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại, chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi vì Ngài rất giầu tình thương. Và cũng vì chính giầu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Đức Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín trong lòng. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: ”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”(Gc 2,26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ: ”Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua” có nghĩa như thế.
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Đức Phật nói:”Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ”, ngài gọi cái khổ ấy là “Ái biệt ly khổ”. Tục ngữ có câu: ”Nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.
3. Ảnh hưởng hỗ tương của việc thăm viếng.
Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi nữa. Chúng ta cũng trở nên phong phú, mặc dù chỉ là để xem cách thế người khác đương đầu với những khó khăn, hoặc những tình huống hầu như không thể giải quyết được. Thậm chí khi ở giữa người đau yếu, bạn vẫn có thể tìm thấy một tâm hồn tỏa sáng. Có thể bạn đến thăm người đó, để đem lại cho họ điều gì đó, nhưng rồi bạn lại nhận ra rằng chính mình đang nhận được. Bạn ra về với tâm hồn phấn chấn. Trong mỗi cuộc viếng thăm, có điều gì đó xẩy ra theo mức độ nào đó. Người này được vui mừng khi tiếp nhận, người kia được vui mừng khi cho đi (Flor McCarthy).
Khi thăm viếng, Maria đem đến cho ông bà Giacaria và Elizabeth niễm vui và sự phục vụ, đồng thời chính Ngài lại đón nhận được sự nâng đỡ về tinh thần: Ngài thêm xác tin về lời sứ thần khi thấy bà chị họ hiếm muộn mà giờ đã có thai. Ngài ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm được làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nay đã được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ biết. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà Elizabeth đã động viên Ngài cất lên lời Ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong Kinh ngợi khen Magnificat.
Bác sĩ Tom Dolly, một người đã hy sinh cả cuộc đời giữa chốn rừng thiêng nước độc bên Lào vào đầu thế ký này, đã nói như sau:”Không có ai nghèo đến độ không có cái gì đó để tặng cho người khác”. Một người ăn xin ư? Anh ta vẫn có thể cho chúng ta cơ hội để ta thể hiện sự chia sẻ quảng đại đối với anh. Một người tàn tật ốm đau cũng có thể mời gọi chúng ta cơ hội thuận tiện để kiên nhẫn chịu đựng sự xỉ nhục và sẵn sàng tha thứ. Phải, bất cứ ai cũng có thể đem lại cho chúng ta một cái gì đó. Vấn đề là chúng ta có biết mở rộng lòng để đón nhận quà tặng đó hay không.
II. DƯ ÂM CUỘC VIẾNG THĂM.
1. Đức Maria, mẫu gương của niềm tin.
Tin Thiên Chúa là ký thác đời mình vào tay Thiên Chúa. Là ưng thuận điều Thiên Chúa muốn. Trước khi thưa “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình của Ngài là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời “Xin Vâng”, Ngài đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Thiên Chúa đảo lộn chương trình sống, và cùng Chúa bước vào cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Đức Maria đã đi từ bước phiêu lưu này đến bước phiêu lưu khác. Hình ảnh Đức Maria trong Tân ước xuất hiện vài lần ở những mốc chính trong cuộc đời Đức Giêsu: bình tĩnh đón nhận thụ thai, hạ sinh con trong một hang đá lạnh lẽo, dâng con trong đền thánh, đem con lánh sang Ai cập, dẫn con tới tiệc cưới Cana và có mặt trong chặng đường khổ giá cuối đời của người con tội nhân. Ở đâu, Đức Maria cũng chứng tỏ một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa.
Chính bà Elizabeth đã chúc tụng Đức Maria:”Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng Chúa đã thực hiện những gì Người đã nói cho em biết”. Không những Đức Maria đã có niềm tin vào Lời Chúa mà còn thể hiện lòng tin đó vào việc vội vã đi viếng thăm bà Elizabeth. Đúng như lời thánh Giacôbê nói: ”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Truyện: Không thể ngờ được.
Một doanh nhân giầu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9 g đến 12 giờ đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 g mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến… Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, C, tr 20).
Lời hứa của doanh nhân trong chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào Lời Chúa hứa nên đã được tràn đầy ơn phúc. Bà Elizabeth đã nói: ”Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì người đã nói với em”(Lc 1,45).
2. Đức Maria, mẫu gương của bác ái.
“Maria đã vội vã ra đi lên miền núi”: điều đó nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria trong việc đi thăm viếng, chia vui sẻ buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ đến bốn, năm ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Ngài.
Dầu Đức Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khỏe nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, nguy hiểm, phải ít nhất bốn năm ngày mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm, nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý để từ chối.
Những lý do trở ngại ấy không cản bước được Đức Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Maria phá tan mọi chần chừ, lưỡng lự để vội vã lên đường. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết.
Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác hơn là nghĩ tới mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải hao mòn chính bản thân mình. Khi xẩy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do nại ra để từ chối ! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.
3. Đức Maria, mẫu gương khiêm nhường.
Khác hẳn với những thiếu nữ Do thái, Maria không bao giờ dám mơ tưởng mình là Mẹ Đấng Cứu Thế, vì Ngài thấy rõ thân phận mình chỉ là một nữ tỳ hèn mọn, đã đính hôn với một bác thợ mộc lao động cực khổ ở một làng quê vô danh. Thế mà:”Phận nữ tỳ hèn mọn đã được Thiên Chúa đoái thương đến”. Sau khi biết đó là ý Thiên Chúa, Đức Maria đã tin và dám xin:”Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời thiên thần nói”. Lời xin vâng thật khiêm tốn, luôn luôn chỉ coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, không dám nhận làm Mẹ Đấng Cao Cả.
Cũng thế, khi Đức Maria vừa được thiên sứ báo tin được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Ngài tự nguyện đi làm tôi tớ cho bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ, Ngài biết Thiên Chúa đã ban cho Ngài địa vị cao cả hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả phụ nữ Israel, một địa vị mà không một phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó, Ngài đã tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một người đàn bà trong lúc sinh nở, nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.
Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Đức Maria muốn bắt chước việc làm của Con mình sau này: Đức Giêsu yêu thương các môn đệ, tuy là Chúa và là Thầy mà Ngài còn “Đứng dậy, ra khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn cuốn ngang lưng, đổ nước vào chậu, lần lượt rửa chân cho các môn đệ”(Ga 13,1-3). Nàng không muốn tỏ ra là một nhân vật quan trọng, dầu ngài quan trọng nhất trong tạo vật. Không một ai có thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một thiếu nữ ấy đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ nhận thấy nơi nhà ông bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất, và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng.
Truyện: Khiêm nhường hay danh dự ?
Thầy Đô-đi-kê nổi tiếng thánh thiện nhất trong dòng và hay làm phép lạ. Tin đồn rằng bất cứ điều gì thầy xin đều được Chúa nhận lời. Một hôm dân làng kéo đến xin thầy cầu nguyện cho trời mưa. Nhưng thay vì trời mưa thì lại nắng hạn lâu hơn nữa. Một người mẹ đến xin thầy cầu nguyện cho đứa con đang đau được mau lành. Nhưng đứa con đã chết sau đó vài ngày. Vài người khác đến xin thầy làm phép lạ cho đá thành bánh. Nhưng đá vẫn trơ ra đấy.
Sau những lần thử thách mà không được gì cả, dân làng nổi giận đuổi thầy ra khỏi phạm vi của làng, cấm không cho thầy trở lại tu viện nữa. Thầy đành phải đi tìm một hang đá trong sườn núi để ẩn mình, rồi than thở với Chúa:
Lạy Chúa, con không hiểu tại sao lại xẩy ra như vậy. Con cầu xin Chúa cho mưa xuống thì Chúa lại làm cho nắng hạn lâu hơn. Con xin cho đứa trẻ mau lành bệnh thì Chúa lại cho nó chết. Con xin Chúa cho dân làng bánh ăn thì Chúa cứ để những viên đá trơ trơ ra đó. Vì thế Chúa xem đây: con bị mọi người xua đuổi, coi con như một kẻ tội lỗi nhất.
Nói xong, thầy nghe có tiếng từ trời phán:
Hỡi con, bởi vì Ta đã cho con điều con cầu xin lúc trước đó rồi.
Thầy Đi-đô-kê không còn nhớ thầy đã xin gì trước đó nữa nên mới hỏi lại:
Nhưng lạy Chúa, con đã xin Chúa điều gì ?
Tiếng lạ đáp:
Trước đây con đã chẳng cầu xin Ta cho con được dịp sống khiêm nhường đó sao?(D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 108-109)
III. BÀI HỌC TỪ CUỘC THĂM VIẾNG.
1. “Nên mọi sự cho mọi người” Trong thư gủi cho tín hữu Corintô, thánh Phaolô tông đồ đã viết: ”Tôi đã trở nên mọi sự cho mọi người”(1Cr 9,19). Thánh Tông đồ chỉ có một ước vọng là đi rao giảng Tin mừng cho mọi người, không đòi hỏi đời sống vật chất mặc dầu Ngài có quyền đòi hỏi vì thợ thì đang hưởng lương”. Ngài là con người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng đã thành nô lệ cho mọi người hầu chinh phục được nhiều người. Ngài sẵn sàng trở nên người Do thái để chinh phục người Do thái. Đối với những người sống theo Lề Luật, Ngài cũng sống theo Lề Luật mặc dù không còn phải sống theo Lề Luật; còn đối với những người sống ngoài Lề Luật, Ngài cũng sống ngoài Lề Luật dù Ngài không sống ngoài luật Thiên Chúa, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật.
Thánh Tông đồ đã quên mình hòa nhập với mọi người để chinh phục mọi người về cho Chúa. Cuộc đời như thế chỉ là phản ảnh, rập khuôn, bắt chước cuộc đời của Đức Giêsu và Đức Maria. Vì con đường mà Chúa xuống thế làm người để truyền dạy cho nhân loại noi theo không khác gì ngoài con đường hiến thân phục vụ Thiên Chúa qua anh em, hy sinh làm tôi tớ cho mọi người vì yêu Chúa. Vậy để có thể nên giống Chúa và bắt chước gương sống của Đức Mẹ, mỗi người chúng ta phải làm gì? Hãy thực hiện phương châm: ”Omnia omnibus factus sum” (x. 1Cr 9,19): nên mọi sự cho mọi người .
Trước hết “Nên mọi sự” là một nguyên tắc xả thân cao độ khi ta biết biến đời mình và những gì thuộc về mình thành hữu ích cho nhân quần xã hội vì lòng yêu mến Chúa và thương người. Do đó, một khi đã chọn con đường đi theo Đức Kitô thì người môn đệ đúng nghĩa sẽ tự nguyện hiến toàn thân bao gồm sức khỏe, thời giờ, tài năng, của cái cho mưu cầu ích chung, thành như đồ vật cho mọi người xử dụng. Muốn được như thế, tất nhiên chúng ta phải luôn có Chúa trong mình và hoàn toàn lệ thuộc vào thánh ý của Ngài.
Thứ đến là “Cho mọi người” vì khi đã nên mọi sự mà chỉ giữ lại cho riêng mình hoặc chỉ ban phát kiểu nhỏ giọt thì không thể nên giống Chúa được, mà phải trở nên như một đồ vật cho người ta xài, theo kiểu nói của Cha Antôn Chevrier, trở thành một “Homme mangé”: làm người bị người ta ăn đi, nghĩa là phải hao mòn vì người ta. Cũng thế, một người Kitô hữu thực sự theo đúng gương Thầy mình thì phải đem cuộc sống của mình cho mọi người xử dụng. Đây là một cuộc đầu tư làm ăn sáng suốt nhất và khôn ngoan nhất vì họ chỉ bỏ ra một cuộc sống tạm bợ ở đời này để đổi lấy một cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Hơn nữa vì yêu mến anh em mà sẵn lòng cho đi tất cả sẽ được Chúa thương yêu và thưởng công gấp bội.
Truyện: Bác sĩ Longet.
Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Doley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.
Được hỏi tại sao ông quí mến bệnh nhân như thế ?
Bác sĩ Longet đáp:
Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.
Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ, bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe ; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm Linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở giáo phận Cần thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước (Quê Ngọc, Nên mọi sự cho mọi người, C, tr 12).
2. Thăm viếng để chia sẻ.
Chúng ta nhận thấy trong mùa Vọng này có ba nhân vật quan trọng được nhắc tới:
Tiên tri Isaia loan báo Đấng Thiên Sai sẽ đến (Chúa nhật I).
Gioan Tẩy giả rao giảng sám hối để dọn đường cho Chúa đến (Chúa nhật II).
Đức Maria là một nhân vật không thể thiếu được, vì qua Ngài, ơn cứu độ bắt đầu được thực hiện (Chúa nhật IV).
Vì thế, trong suốt Mùa Vọng, chúng ta được nghe đọc những lời loan báo của tiên tri Isaia, được nhận biết cuộc đời và sứ mạng của Gioan Tẩy giả; và hôm nay, bài Tin mừng trình bầy cho chúng ta chân dung Đức Mẹ qua việc Đức Mẹ đi thăm viếng bà Elizabeth.
Bắt chước việc làm của Đức Mẹ, chúng ta phải biết chia sẻ với những người chung quanh. Có biết bao gia đình đòi hỏi chúng ta phải thăm viếng, giúp đỡ. Chúng ta đừng bao giờ giả điếc làm ngơ hay giả mù không thấy để rồi khép kín lòng chúng ta lại trước những người cần chúng ta thăm viếng, an ủi, giúp đỡ. Thiên Chúa rất hài lòng khi thấy chúng ta sống tinh thần liên đới với nhau, biết chia sẻ những hồng ân Ngài ban cho chúng ta để luôn sống trong phương châm “Nên mọi sự cho mọi người”.
Truyện: Đức Giáo hoàng Gioan 23.
Đức Giáo hoàng Gioan 23, lần đầu tiên, một vị Giáo hoàng rời khỏi Rôma, đến thăm giáo chủ Anathagoras của Giáo hội Đông phương. Một Giáo hội đã ly khai khỏi Giáo hội Công giáo từ lâu đời. Cuộc viếng thăm của Đức Giáo hoàng đã biểu lộ tình bạn chí thiết với Đức Giáo chủ và nhìn nhận Giáo hội Đông phương cùng một chi thể với Đức Kitô, hợp nhất trong Chúa Thánh Thần. Từ hai ngàn năm nay, noi gương cuộc viếng thăm của Đức Mẹ và Chúa Giáng sinh, bao nhiêu cuộc viếng thăm hồng phúc như thế đã loan truyền Tin mừng đi khắp năm châu bốn bể .
Lạy Mẹ Maria , chính cuộc sống khó khăn đã biến chúng con thành người ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình, đến gia đình mình, mà không nghĩ đến tha nhân; ai sống chết thế nào cũng mặc! Nhiều lúc con có thái độ dửng dưng và thờ ơ trước những nỗi thống khổ của tha nhân. Xin Mẹ dạy con biết noi gương Me: Mở lòng đón nhận những kẻ bất hạnh, quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người đói khát, luôn nghĩ tốt và làm tốt cho người chung quanh, sẵn sàng tha thứ vô điều kiện cho những ai xúc phạm đến mình. Xin cho con học theo Mẹ: Mau mắn đem Chúa đến cho tha nhân, giúp mọi người nhận biết và yêu mến Chúa. Xin cho con biết sống thanh sạch và luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu con yêu của Mẹ, để con xứng đáng nhận được ơn cứu độ của Người trong mùa hồng phúc này (Đan Vinh).
Kinh thánh xác quyết mầm sống đến từ Thiên Chúa. Sự sống là món quà Thiên Chúa tặng riêng: MV 4-C43
Kinh thánh xác quyết mầm sống đến từ Thiên Chúa. Sự sống là món quà Thiên Chúa tặng riêng cho từng cá nhân. Đối với người lớn thì món quà sự sống nhiều năm hay hay ít tháng tùy từng người. Đối với phụ nữ họ vừa nhận quà sự sống cho mình vừa nhận sự sống cho từng thai nhi trong vai trò làm mẹ hài nhi. Những cặp hôn nhân hiếm muộn con cái hiểu rất rõ điều này. Họ đi khắp nơi, thử mọi thứ thuốc mong sao có một em bé nhưng cuối cùng bó tay vì trần gian không ai có khả năng kích thích cơ thể họ cộng tác với thiên nhiên bảo tồn mầm sống họ mong mỏi. Niềm hy vọng cuối cùng là phép lạ. Không phải ai cũng nhận được phép lạ như bà Elizabeth, có con trong tuổi già, trong tuổi tuyệt vọng về đường sinh sản.
Bà Eliazabeth có con không phải do cố gắng của hai ông bà mà do Thiên Chúa trao ban. Sứ Thần Thiên Chúa xác nhận điều đó khi sứ thần loan tin
‘Kìa bà Elizabeth, người họ hàng với bà, tuy tuổi già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai: Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng’ (Lc 1,36).
Họ mong mỏi cầu xin và ở tuổi già Thiên Chúa ban điều họ xin. Không phải xin trong một ngày mà mong mỏi cầu xin điều đó gần như trọn đời. Bà Elizabeth xác nhận điều đó qua câu ‘ Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục, tôi phải chịu trước mặt người đời’ (Lc 1,25).
Trường hợp bà Elizabeth có con vì do hai ông bà tha thiết, cầu xin và mong đợi điều cầu xin nhiều năm.
Trái lại, trường hợp bà Maria không xin nhưng là Chúa muốn thực hiện nơi bà điều Thiên Chúa hứa nhiều ngàn năm trước. Điều này cho thấy Thiên Chúa yêu thương nhân loại trao ban cho nhân loại ngay cả điều chúng ta không biết để kêu xin. Thiên Chúa không những đã trao ban điều chúng ta không xin nhưng Thiên Chúa còn tin tưởng mời gọi con người cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài. Chương trình bảo vệ và phát huy sự sống. Ngài ban những gì tốt lành, cần thiết cho sự sống ngay cả khi chúng ta không xin.
Bà Maria trở thành mẹ cũng không phải do tài sức bà nhưng do ơn Chúa trao ban. Tường thuật Kinh Thánh cho thấy bà không ước mong có con trẻ nhưng ý Chúa muốn và bà vui nhận món quà Chúa trao. Khi nghe tin bà sẽ trở thành mẹ bà cất tiếng
‘việc ấy sẽ xảy ra cách nào vì tôi không biết đến việc vợ chồng’ (Lc1,34).
Sứ thần đáp
‘Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng \Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế người con sinh ra sẽ là thánh và được gọi là con Thiên Chúa’ (Lc 1, 35).
Thiên Chúa can thiệp vào đời sống con người trước khi bắt đầu có sự sống trong lòng mẹ. Tiên tri Jeremiah tiên đoán sự việc rõ ràng, không úp mở, khi ngài nói
‘Trước khi tác thành ngươi trong lòng mẹ Ta đã biết ngươi,
Trước khi ngươi sinh ra Ta thánh hiến ngươi.
Ta chỉ định ngươi làm tiên tri cho mọi dân tộc’ (Jer 1,4-5)
Thiên Chúa gọi ta vào đời ban cho ta sự sống, bảo vệ sự sống của ta. Thiên Chúa can dự vào đời ta nên ta có mặt trong vũ trụ. Nếu Ngài không thánh hiến, đưa ta vào đời ta sẽ chẳng hiện hiện trên đời. Thiên Chúa là nguồn sự sống của từng con người. Giết chết mầm sống dù là mầm sống nhỏ tí ngay từ lúc phôi thai phạm điều chống lại ý định của Thiên Chúa. Phạm điều Thiên Chúa tác thành, thánh hiến và chỉ định cho tương lai hài nhi đó.
Cùng tư tưởng với Jeremiah, tiên tri Isaiah tiên báo
Có phụ nữ nào quên được con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con đã mang nặng đẻ đau. Cho dù nó có quên đi nữa.
Ta chẳng bao giờ quên ngươi.
Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta (Is. 49,17).
Xúc phạm đến sự sống người khác dù ở bất cứ giai đoạn nào, thai nhi, trẻ thơ, người lớn hay tuổi già đều xúc phạm đến sự sống Chúa trao ban cho người đó. Xúc phạm đến sự sống là giành sự sống ghi khắc trong lòng bàn tay Chúa ra để chà đạp, giết chết.
Xúc phạm đến sự sống là hành động trái với ý Thiên Chúa, Người là đường, sự thật và là sự sống.
Giáng Sinh chúng ta mừng vui vì Chúa ban sự sống cho ta và ban Đấng Cứu Độ mang sự sống tâm linh cho tâm hồn.
"Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi".
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave. Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
SUY NIỆM:
Chúa nhật I mùa Vọng báo tin ngày Chúa đến. Chúa nhật II cho thấy Gioan đến dọn đường. Chúa: MV 4-C44
Chúa nhật I mùa Vọng báo tin ngày Chúa đến. Chúa nhật II cho thấy Gioan đến dọn đường. Chúa nhật III nói về niềm vui nổi lên vì Chúa đến gần. Còn Chúa nhật IV mùa Vọng hôm nay, chúng ta biết nói gì khi thấy Mẹ Chúa đến viếng thăm? Chắc chắn Phụng vụ, muốn chúng ta gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Ðức Mẹ. Và các bài Kinh Thánh hôm nay, sâu xa đều vẫn muốn nói về Người. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh bài Tin Mừng; Và trong bài Thánh thư nói đến tâm tình của Chúa Kitô khi nhập thể chúng ta có thể thấy chính lòng của Ðức Mẹ.
Và điều này đúng, nghĩa là nếu tâm tình của Chúa Giêsu cũng là tâm lý của Ðức Mẹ thì Chúa nhật hôm nay của Ðức Mẹ cũng là Chúa nhật của chính Ðức Giêsu Kitô, chúng ta thấy cả hai đấng. Chúng ta thấy Ðức Mẹ mang Chúa Giêsu và Chúa Giêsu ở nơi Ðức Mẹ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đang đến với chúng ta nơi Ðức Mẹ, khiến chúng ta trong đời sống chờ ngày Chúa đến, phải biết mến yêu Ðức Maria và bắt chước Người.
1. Một Người Nữ Thụ Thai
Bài sách Mikha hôm nay rất thời danh. Nó được coi như lời tiên tri rất sáng sủa về Ðức Giêsu Kitô cứu thế. Nó nói Người xuất thân từ Belem, sinh bởi một người nữ "đồng trinh" và mang uy quyền của Thiên Chúa. Nhưng đọc ở thời Cựu ước, ý nghĩa của nó không rõ rệt như thế đâu.
Trước hết, ở thời xưa không chắc nhiều người đã để ý đến lời tiên tri này. Chính Mikha cũng là một nhân vật ít được chú trọng. Ông là một tiên tri nhỏ, sống ở thế kỷ thứ VIII trước Chúa Giêsu Giáng Sinh. Ông hoạt động ở Giuđa, tức là miền Nam. Và chắc ông cũng chỉ tuyên sấm chung chung như mọi ngôn sứ khác. Ðại khái ông tố giác đời sống tội lỗi ở Giêrusalem, tiên báo hình phạt sẽ đến, nhưng khuyên nhủ tin cậy vào thời Phục hưng. Tác phẩm của ông chia làm ba phần rõ rệt như thế, nên người ta có lý để nghĩ rằng nó đã được một bàn tay nào sắp đặt, chứ khi ông rao giảng các tư tưởng không cách nhau như vậy đâu. Nhất là khi nhìn vào đoạn văn trích đọc hôm nay, người ta tưởng đã có một nhà thần học, sống sau ông rất nhiều và đã đào sâu tư tưởng của ông mới có thể viết ra được những lời tiên tri giá trị như vậy. Dù sao chúng ta cũng rất mừng được một bản văn như thế. Và khi đem đọc nó dưới ánh sáng của Tân ước, chúng ta càng thấm thía ý nghĩa của chính tên tác giả. Là vì trong tiếng Do Thái, Mica có nghĩa là: Ai như Thiên Chúa? Ðọc sách Mikha, chúng ta sẽ thấy không ai như Thiên Chúa chúng ta. Người thật lạ lùng và công việc của Người thật kỳ diệu.
Quả vậy, ai có thể nghĩ như người? Ðang khi Israen đang bị chà đạp dưới gót giày của các đế quốc khổng lồ, Người tuyên sấm sẽ cứu đoàn dân nhỏ bé của Người. Người sẽ chọn một mục tử để chăn dắt, không những các chiên của Israen mà cả thế giới cũng chỉ là chiên của Người. Ý tưởng Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ là một mục tử, là một ý tưởng rất phổ thông trong sách Cựu Ước. Người ta còn được biết Người thuộc dòng dõi Ðavít nữa. Có lẽ góp hai quan niệm ấy lại, tác giả bài sách Mikha hôm nay đã dám bạo viết rằng:
Phần ngươi hỡi Bêlem Ephrata nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa. Chính tự nơi ngươi sẽ xuất hiện cho Ta, vị có định mệnh thống lĩnh Israel.
Nhà tiên tri đã được linh ứng để thấy trước việc Ðấng Thiên Sai sẽ xuất thân từ Bêlem, một làng rất nhỏ trong đất Giuđa, hay vì theo lời giao ước Ngài thuộc dòng Ðavít và sẽ là mục tử, nên ở đây nhà tiên tri muốn diễn tả Ngài như một Ðavít mới thật sự và do đó phải xuất từ Bêlem cũng như sẽ phải là một mục tử, như sẽ viết sau này?
Dù sao ý tưởng tác giả muốn nhấn mạnh ở đây không phải là chính Bêlem cho rằng tính cách nhỏ bé nhất của nơi này. Ông muốn nói rằng xét theo lai lịch xác thịt, Ðấng Cứu Thế không có gì đáng kể, nhưng như lời viết sau đây: Nguồn gốc của Ngài lên tới những ngày thuở xưa. Ngài là Con Người mầu nhiệm. Ngài có vẻ sinh ra từ một nơi tối tăm, không có danh tiếng gì; nhưng thật sự Ngài đã hiện diện từ xa xưa, từ thời có những lời hứa đầu tiên và trước cả đó nữa. Ðề cập đến Ngài như vậy Mikha còn tỏ ra đáng phục hơn là khi ông nói Ðấng thống lĩnh Israel sẽ xuất thân từ Bêlem. Biết quê hương một người đâu quan trọng bằng biết bản chất con người ấy?
Thế mà Mikha không dừng lại ở điểm này. Những lời ông viết tiếp đã được giải thích nhiều cách. Thông thường thì người ta hiểu rằng: Chúa còn bỏ rơi dân Người cho đến ngày một người nữ sẽ sinh con và khi ấy con cái Israel sẽ được đoàn tụ. Tức là ở trên nhà tiên tri đã nói đến quê quán Ðấng Thiên Sai, giờ đây ông bàn đến thời đại Ngài ra đời cũng như dòng họ của Ngài. Ngài sẽ sinh ra sau thời gian Chúa thử thách dân Người và việc Ngài đản sinh là dấu Chúa đã đoái thương, muốn cứu lại dân và cho họ về đoàn tụ. Còn ai sẽ sinh ra Ngài? Isaia đã nói về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai. Lời tiên tri ấy mầu nhiệm đến nỗi đã ám ảnh tâm trí mọi người. Mikha ở đấy chỉ lặp lại... Nhưng dường như ông nghĩ rằng người nữ sinh con kia không là ai khác chính dân Chúa, và chính số dân sót còn lại sau thử thách, số dân nghèo đạo đức còn lại sau nhiều phấn đấu cam go. Ðấng Thiên Sai sẽ sinh ra từ dòng dõi những người này. Ngài sẽ là mục tử dùng sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa để cai trị cả thế giới và ban hòa bình cho muôn dân.
Và như vậy, ở đây chúng ta lại thấy tính cách mầu nhiệm nghịch thường của con người Ðấng Thiên Sai. Ngài sẽ sinh ra từ dòng dõi khó nghèo, nhưng sức mạnh và quyền lực Ngài có lại là của Thiên Chúa. Do đó toàn bài sách Mikha hôm nay đã nói về Ðấng Thiên Sai cứu thế. Tác giả nhấn mạnh đến con người mầu nhiệm của Ngài. Bề ngoài Ngài nghèo khó hèn mọn nhưng thật sự Ngài cao cả quyền uy. Ðấng cứu độ là Thiên Chúa ở trong dân khó nghèo...
Tuy nhiên chúng ta cũng được phép đọc câu "Một người nữ sẽ sinh con" và dừng lại để nghĩ đến Ðức Mẹ. Người cũng bình dị nhưng cao cả vì Người sẽ sinh Ðấng thống lĩnh nhà Israen. Và Ðức Mẹ cũng chính là Dân Chúa, là bông hoa kết tinh của Cựu Ước và là gương mẫu của Hội Thánh ngày nay bắt chước. Chúng ta hiểu lời tiên tri ấy về Người, thì cũng phải hiểu về Hội Thánh và về chính chúng ta, như Mikha đã làm cho thế gian thấy Chúa cứu thế đến cứu đời. Và chúng ta sẽ làm được việc ấy nếu biết chiêm ngưỡng Ðức Mẹ và bắt chước Người. Do đó chúng ta hãy nhìn Người trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Bà Là Mẹ Thiên Chúa
Chúng ta hết thảy đều biết: Buổi đầu khi các Tông đồ khởi sự truyền giáo, các ngài đã rao giảng về Ðức Giêsu cho người ta, theo một dàn bài rõ rệt, tức là khởi sự từ ngày Người chịu Gioan rửa cho tới khi Người chịu chết - sống lại - lên trời - và sai Thánh Thần xuống. Nhưng bên cạnh công thức huấn giáo Tông đồ ấy, dần dà đã có những câu chuyện truyền tai nhau về thời thơ ấu và niên thiếu của Ðức Giêsu. Thánh Luca, khi viết tác phẩm Tin Mừng, đã nhặt một số các câu chuyện này và đem viết thành những chương đầu tiên. Người chẳng làm công việc này nếu những câu chuyện kia không ăn khớp với những chương sau trình bày giáo huấn chính thức của các tông đồ. Nói cách khác, Người đã quan niệm những chương nói về cuộc đời niên thiếu của Chúa phải như tiền đề dẫn vào những chương nói về cuộc đời công khai của Ngài. Do đó chúng ta có thể tìm thấy mầm mống những chương sau đã nằm nơi những chương đầu tiên rồi. Và chúng ta chỉ hiểu được những chương này dưới ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Kitô sẽ phát huy trong việc Ngài tử nạn phục sinh.
Ðoạn văn hôm nay nằm trong những chương đầu tiên này. Tác giả Luca thuật những chuyện về Ðức Giêsu với những chuyện về Gioan Tẩy Giả để làm nổi bật sự mật thiết cũng như sự khác biệt giữa vị tiền hô và vị cứu thế, giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa luật pháp và ân sủng. Ở đây chúng ta thấy Ðức Maria đi thăm bà Isave.
Người lên đường sau ngày được sứ thần truyền tin. Nên cuộc viếng thăm ngày hôm nay gắn liền với sự việc ngày hôm trước. Theo như Kinh Thánh luôn cho biết, Thiên Chúa nói sao là có vậy. Thế mà sứ thần đã bảo Ðức Maria thụ thai Con Thiên Chúa để Ngài sẽ được gọi là Giêsu tức là cứu thế. Ðồng thời sứ thần cũng loan tin bà Isave ðã thụ thai trong tuổi già được 6 tháng rồi. Có cái gì ở giữa hai sự việc này đây? Maria cứ lên đường và sẽ biết. Người đon đả ra đi là vì lẽ đó. Vậy khi Người vừa vào nhà và chào bà Isave, thì lập tức bà này đã lớn tiếng kêu lên: "Trong nữ giới có Người là diễm phúc. Và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng Người". Làm sao Isave có thể nói lên được những lời ấy; và nếu bà không giải thích thì ai mà hiểu được? Hơn nữa bà còn nói về Maira là Mẹ Thiên Chúa tôi đến với tôi. Làm sao bà biết được Maria đã cưu mang Chúa Cứu Thế? Nỗi vui của bà quả thật là niềm vui cứu độ mà các tiên tri đã từng hứa cho thiếu nữ Giêrusalem; và Mikha đã loan báo sẽ xảy đến cho Bêlem nhỏ nhất trong xứ Giuđa. Chúng ta hãy nghe và giải thích: "Vì này thoạt tiếng Người chào vừa đến tai tôi, thì hài nhi trong dạ tôi nhảy mừng".
Như vậy Gioan đã bắt đầu đóng vai trò "tiền hô của ông". Ngay từ trong bụng mẹ, Gioan đã báo tin Chúa đến. Nhờ sự vui mừng của ông, mẹ ông đã được chỉ cho biết ân sủng đã đến trong con người Ðức Maria. Và nhờ việc ông nhảy mừng chúng ta thấy rõ Lời Chúa phán với Ðức Maria đã công hiệu. Chúa nói là Chúa làm. Ngài sẽ được gọi là Giêsu vì Ngài đã cứu thế. Ngài đã cho Gioan được sự vui mừng cứu độ. Và Gioan đã được chia sẻ niềm vui ấy; để rồi Ðức Maria không thể nào dấu được nữa những ơn cao cả Người đã được và đang mang trong mình.
Do đó, câu chuyện đi viếng hôm nay là để xác nhận việc Con thiên Chúa đã đến để cứu đời. Vị tiền hô còn nằm trong dạ mẹ đã loan báo điều ấy. Và Mẹ Chúa hôm nay xuất hiện là để chúng ta biết ơn cứu độ đã gần.
Thiên Chúa đã không dùng những hành vi và khung cảnh thật nhỏ mọn để bày tỏ quyền năng cao cả của Người đó sao? Nếu Bêlem nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa, như lời sách Mica viết, thì câu chuyện thăm viếng xảy đến trong nhà bà Isave ở một làng không tên tuổi nào đó lại còn nhỏ bé hơn nữa. Nhưng tất cả những gì có vẻ nhỏ bé trong câu chuyện lại đều hết sức lớn lao. Nhờ sự nhảy mừng của Gioan trong bụng mẹ, chúng ta được biết chúc tụng hoa quả của lòng Người. Tác giả thư Do Thái là một trong những người sớm biết làm công việc này. Chúng ta hãy nghe lời ông trong đoạn trích hôm nay.
3. Bà Ðã Thưa: Xin Vâng Ý Chúa
Tác giả muốn diễn tả tâm trạng của Chúa Kitô "lúc vào trần gian", tức là lúc nhập thể cứu đời. Do đó, đoạn văn này hợp với Phụng vụ hôm nay, vì bài Tin Mừng cũng vừa nói đến "Hoa quả của lòng Ðức Trinh Nữ".
Nhưng làm sao tác giả có thể biết được cảm nghĩ của Chúa khi nhập thể? Ông chỉ có thể tìm thấy những ý nghĩ ấy trong chính cuộc đời trần gian của Người. Thế mà khi còn tại thế và trong lúc giảng dạy, Chúa Giêsu vẫn không ngớt nhấn mạnh rằng: Ngài đến không để làm theo ý mình nhưng để thi hành ý của Chúa Cha. Và tất cả các sách Tân Ước đều khẳng định cuộc khổ nạn cứu thế của Chúa Kitô là một sự vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Do đó tác giả thư Do Thái có lý để viết về Chúa Kitô lúc vào trần gian rằng: Người nói: Này con đến để thi hành ý muốn của Chúa. Tác giả có vẻ muốn căn cứ vào lời trong một cuốn sách đã viết về Ngài. Nhưng cuốn sách nói đây không phải là một cuốn sách nào đó trong bộ Kinh Thánh mà là toàn bộ Kinh Thánh, kể từ "Môsê cho đến hết các tiên tri", như lời Chúa Phục sinh nói với hai môn đệ trên đường Emmaus và với các tông đồ.
Nhưng điều đáng để ý ở đây là mạch văn của tất cả đoạn thư này. Tác giả đang nói rằng tất cả các lễ dâng đạo cũ đều không có sức tẩy rửa tâm hồn và làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì lẽ "các điều ấy được hiến dâng chiếu theo lề luật". Bấy giờ, lúc vào trần gian, Chúa Kitô đã nói: Này con đến để thi hành ý muốn Chúa. Chính trong ý muốn ấy, tức là trong thánh ý của Thiên Chúa mà chúng ta đã được tác thành, nhờ việc tự nguyện hiến thân vâng lời của Chúa Kitô.
Nói cách khác, ơn cứu độ chúng ta nằm nơi thánh ý Chúa đã xót thương thí ban Con Một của Người cho chúng ta và sự vâng lời của Chúa Con đã hiến thân như ý Chúa Cha đã định. Và nơi đang thực hiện những điều này là chính lòng Trinh Nữ Maria, người mà bà Isave hôm nay đã nhận ra là "kẻ đã tin rằng viên thành sẽ đến cho mọi điều Chúa truyền phán dạy cho Người!" Với câu này, rõ ràng tác giả Luca có ý gợi lại thái độ và lời "xin vâng" của Ðức Maria khi được thiên thần đến truyền tin.
Và như vậy, chúng ta có thể hiểu cả ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay về Ðức Maria cũng như về Chúa Giêsu, về Ðức Maria cưu mang Ðức Giêsu cứu thế trong thân phận nhỏ bé và vâng lời, và về Chúa Giêsu đang đến với chúng ta nơi cung lòng Ðức Trinh Nữ cũng trong thái độ nhỏ bé và vâng lời. Phải chăng phụng vụ chẳng muốn cho chúng ta nghĩ rằng khó nghèo và vâng lời là môi trường và điều kiện để ơn cứu độ của Chúa thể hiện? Và gần đến lễ Giáng sinh, cũng như để chuẩn bị ngày Chúa đến trong vinh quang, thái độ của chúng ta há chẳng phải là khiêm nhường trước mặt Chúa và tuân giữ các giới răn của Người? Việc nhìn nhận tội lỗi của mình rồi đến với Chúa trong tòa cáo giải là cách dọn mình để đón nhận ơn Chúa Giáng Sinh. Cũng như khiêm cung thi hành các đỏi hỏi của Tin Mừng trong đời sống là con đường chắc chắn nhất làm cho ơn cứu độ của Chúa tỏ hiện một cách vinh quang.
Thánh lễ này cho chúng ta được tiếp xúc với Chúa trong mầu nhiệm cứu thế, là mầu nhiệm thật cao cả nhưng diễn ra trong khung cảnh đơn sơ khó nghèo biết bao! Ước chi chúng ta được niềm tin như tiên tri Mica để khẳng định có ơn cứu độ. Niềm tin ấy sẽ giúp chúng ta được như Ðức Maria, đón nhận Chúa Cứu Thế vào lòng. Rồi như Người, chúng ta sẽ khiêm tốn ra về để đến với anh em. Chúa sẽ làm cho anh em biết ơn Người cứu độ nếu niềm tin của chúng ta được thể hiện trong đời sống phục vụ khiêm tốn.
Nước VN chúng ta nằm trong một vùng mà năm nào cũng chịu ảnh hưởng gió mùa hơi khắc: MV 4-C45
Nước VN chúng ta nằm trong một vùng mà năm nào cũng chịu ảnh hưởng gió mùa hơi khắc nghiệt, chính vì thế nên năm nào cũng có những trận bão lụt, khiến cho người người phải vất vã khó khăn hơn. Như vừa qua, cơn bão đã ghé thăm miền trung của chúng ta, cơn bão bất ngờ gây thiệt hại rất nhiều về tài sản và người, khiến cho cả thế giới phải động lòng, tìm mọi phương cách để giúp đỡ những người đang trong hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta thử suy nghĩ: Nếu người cho mà không có người nhận, thì việc làm của họ sẽ trở nên vô ích. Còn người cho, mà thấy người nhận thật sự cần thiết và đang trong tình trạng chờ đợi, thì việc làm đó mới là một việc làm có ích lợi thật sự, và mang đầy đủ ý nghĩa của nó. Việc làm này mang lại niềm vui cho cả hai bên, người cho lẫn kẻ nhận: vì người cho thấy mình đang thực hiện một việc làm có ý nghĩa và mang lại lợi ích cho bao nhiêu người đang cần thiết và chờ đợi. Còn người nhận thì vì tình trạng đang thiếu thốn, đang chờ đợi có người giúp đỡ, để vượt qua được tình trạng khó khăn hiện tại mà mình đang bất lực. Một việc làm mà đem lại niềm vui cho cả hai bên: người cho lẫn kẻ nhận.
Mẹ Maria đã nhận ra điều đó, nhận ra được niềm vui Thiên Chúa mang đến cho mình, đồng thời cũng nhận ra được nhu cầu của người khác đang cần đến niềm vui mà Mẹ đang tận hưởng, nên Mẹ không thể ngồi yên. Mẹ vội vã lên đường đáp ứng nhu cầu cho người khác đang cần đến. Việc phục vụ sẽ gặp nhiều trở ngại khó khăn về hoàn cảnh, địa hình. Nhưng Mẹ vượt qua tất cả, cho dù sức lực yếu đuối, Mẹ cũng vượt qua đồi núi, địa hình hiểm trở, để mang niềm vui cho người cần đến. Người cần cũng biết đón nhận, nên niềm vui được nhân đôi. Chúng ta thấy bà Elisabeth vui mừng vì nhận ra được niềm vui mà bà đang cần thiết và chờ đợi. Bà cũng không thể lặng thinh, bà đã cảm tạ Thiên Chúa, cảm tạ người mang niềm vui bất ngờ đến cho mình. Đó là cách bà biểu lộ niềm vui đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Biết bao người đã từng lãnh nhận, không phải một lần, mà rất nhiều lần những ân huệ của Thiên Chúa, nhưng vẫn không có được niềm vui, vẫn không tỏ lộ một cử chỉ cảm tạ nào, vẫn không bằng lòng với những gì mình đã nhận được. Cũng có rất nhiều người không bao giờ biết bước chân ra đi, không bao giờ biết mang những gì mình có để tạo niềm vui cho mình và cho người khác. Chính vì thế họ luôn lo sợ, khó chịu và không bao giờ bằng lòng với cuộc sống, vì họ chỉ biết lo cho mình mà không bao giờ dám nhìn thấy nhu cầu của bao người chung quanh, chính vì thế không bao giờ họ có niềm vui. Không muốn cho người khác niềm vui, đó cũng chính là không biết chờ đợi và đón nhận niềm vui.
Còn chúng ta, những người đang ngồi đây, những người đang lắng nghe, những người đang nhìn thấy những diễn biến của thời đại. Nhưng không biết chúng ta có nghe và thấy được những gì cần thiết hay không? Chúng ta có thấy được nhu cầu của bao người chung quanh, chúng ta có thấy được sự chờ đợi mỏi mòn của những người đang thống khổ để đáp ứng không?
Họ đang chờ đợi chúng ta mở rộng lòng nhân ái để đến với họ và nói lên những lời yêu thương, những lời tha thứ . Họ đang chờ đợi ánh mắt dịu hiền hòa nhã, để họ có được niềm vui trong cuộc sống. Họ đang chờ đợi chúng ta mở rộng đôi tay để cho họ những gì cần thiết. Họ cũng đang chờ đợi những bước chân đi tới của chúng ta, để ban cho họ niềm vui, đồng thời chúng ta cũng nhận được niềm vui, vì thấy mình làm một việc có ý nghĩa. Nếu chúng ta thấy và đáp ứng được những nhu cầu như thế cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đã học được bài học của Mẹ Maria là biết đem niềm vui đến cho người khác. Đồng thời chúng ta cũng học được bài học biết ơn, cảm tạ vì biết đón nhận Hồng Ân Thiên Chúa mà bà Elisabeth đã làm. Thiên Chúa đã đem Hồng Ân đến cho ta rất nhiều, nhưng chúng ta nhận ra được bao nhiêu lần, để biết nói lên lời cảm tạ tri ân. Những lần nhận được niềm vui bất ngờ, những lần may mắn, đời sống hằng ngày được nhiều điều tốt đẹp, những người chung quanh yêu mến giúp đỡ. Đó là những lần Chúa thăm viếng và mang niềm vui đến cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn sáng suốt, nhìn thấy nhu cầu của người chung quanh, để biết đáp ứng và đem niềm vui cho người khác, đồng thời cũng nhận ra được niềm vui mà Thiên Chúa ban cho.
Bà Isave nói: “Em là người có phúc nhất trong giới phụ nữ, và con em đang cưu mang cũng thật hạnh phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm?” (Lc 3, 10)
Vua David khi chiếm được thành Giêrusalem, đã sai người đi rước Hòm Bia Giao Ước về: MV 4-C46
Vua David khi chiếm được thành Giêrusalem, đã sai người đi rước Hòm Bia Giao Ước về trên một cổ xe do bò kéo. Khi tới sân lúa, bò trược chân, Hòm Bia bị nghiêng. Ông Utda vội đưa tay đỡ lấy, bị phạt chết vì ông không phải là tư tế. David nghe tin, sợ không dám đem Hòm Bia về Giêrusalem, mà phải gởi lại ở nhà Obed Êdom. Chúa đã chúc phúc cho ông và cả nhà. Hòm Bia đã ở lại đây ba tháng (2 Sam 6, 10). Câu chuyện bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay, cũng là câu chuyện gần như song song với chuyện trên. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Hai câu chuyện này cho ta thấy có những nét song song khá rõ rệt:
Cả Hòm Bia Giao Ước và Mẹ Maria, đều tiến về Giêrusalem.
Hòm Bia đã lưu lại tại nhà ông Obed Êdom trong ba tháng. Mẹ Maria cũng ở lại nhà Bà Isave ba tháng để giúp đỡ gia đình này.
ông Obed vả cả nhà được chúc phúc. Nhà Bà Isave cũng thế: ông Zacaria hết câm khi thánh Gioan sinh ra – thánh Gioan nhảy mừng trong bụng mẹ và được khỏi tội tổ tông khi nghe lời Mẹ Maria chào – Bà Isave được tràn đầy hạnh phúc. Rõ ràng, thánh Luca muốn so sánh Mẹ Maria như là Hòm Bia giao Ước mới.
b. Hòm Bia giao Ước mới: Thánh Luca muốn nói Mẹ Maria chính là Hòm Bia mới mang Chúa Giêsu đến trong nhà Bà Isave, vì thế cả nhà nầy được chúc phúc. Mẹ Maria nếu muốn mang Chúa đến cho gia đình Bà Isave, chính vì Mẹ có Chúa ở trong mình; điều này chính là điểm căn bản Hội thánh muôn nói cho chúng ta trong chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, chúa nhật cận kề lễ Giáng Sinh. Nói một cách khác, kinh thánh muốn xác nhận cho chúng ta; Mẹ Maria chính là Hòm Bia Giao Ước mới, đã cưu mang Con Thiên Chúa trong mình, đã sinh ra Đấng Cứu thế, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa, Đấng đồng công cứu chuộc trong công trình rổi nhân loại. Đồng thời, kinh thánh cũng muốn nói: Mẹ Maria khi đi thăm Bà Isave, đã đem Chúa đến cho gia đình này; mà Chúa Giêsu, Con Mẹ, chính là nguồn ơn phúc, nên hiển nhiên gia đình này được chúc phúc. Thực ra, khi Mẹ thưa lời: “ Xin vâng”, đó chính là Mẹ đã sẵn sàng mang Chúa Giêsu trong mình, đồng thời Mẹ cũng sẵn sàng mang Chúa đến không chỉ cho gia đình Bà Isave, mà còn cho cả nhân loại nữa…
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
Qua câu chuyện hôm nay cho ta thấy, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, mỗi khi đến đâu, đều cũng là đem hạnh phúc đến cho nơi đó. Mẹ đến thăm Bà Isave, đã đem đem lại hạnh phúc cho thánh Gioan, nhờ đó ông khỏi tội tổ tông ngay trong bụng mẹ. Chúa Giêsu và Mẹ Maria là thế, còn phần chúng ta thì sao? Mỗi lần ta đến với người khác, có phài là một lần ta đem Chúa đến với họ không?
Mẹ Maria ở lại với Bà Isave độ 3 tháng, để giúp đở. Chúa Giêsu cũng nói: “Ta đến là để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ…” Mẹ Maria và Chúa Giêsu đã sống phục vụ như thế. Còn ta thì sao? Ta có đến là để phục vụ người khác không?
Chúa Giêsu đã có mặt trong lần Mẹ Maria đi thăm Bà Isave. Chúa cũng có mặt trong lễ giáng sinh năm nay. Ngài cũng có mặt trong các Bí tích mỗi khi ta lãnh nhận, khi ta rước lễ, khi ta mở tâm hồn mình ra đón Ngài. Thực ra, ta có gặp được Chúa trong cuộc sống của ta chưa?
Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Độ để giải thoát con người: MV 4-C47
Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Độ để giải thoát con người. Trãi qua thời gian dài chuẩn bị nay đến thời viên mãn Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người qua lời sứ thần Gariel truyền tin cho Mẹ Maria. Cửa Thiên Đàng đóng lại do tội con người lỗi phạm nay Thiên Chúa mở ra để đến với con người, thời kỳ lần mò đi tìm Thiên Chúa nay Thiên Chúa đã tự tỏ lộ. Một thời đại mới, thời Tân Ước, thời của Đức Giêsu Kitô.
Lời Chúa trong Phúc Âm thánh Luca hôm nay ( Lc 1, 39 - 45 ) diễn tả lại việc Đức Mẹ Maria đi thăm bà Isave, sau lời chào của Đức Mẹ thì hài nhi trong lòng bà Isave nhảy lên vì vui sướng. Do đâu mà Mẹ Maria đi thăm bà Isave ? Do đâu Gioan nhảy mừng ? ..
Trở lại ngày truyền tin Đức Mẹ hay biết chị họ của mình đã mang thai được sáu tháng, lại mang thai trong lúc tuổi già và son sẻ nên rất cần sự giúp đỡ. Đức Mẹ lên đường thăm chị họ của mình không phải là để xác minh lời của sứ thần truyền tin là có thật hay không nhưng cốt ý của Đức Mẹ là giúp đỡ người chị em mình trong lúc thai kỳ, Mẹ đã tin lời Sứ thần truyền tin qua lời thưa đầy tin tưởng của Mẹ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói.....”. Đức Mẹ đã tự nguyện lên đường khi biết người chị em mình cần đến mình, Mẹ không đợi ai mời gọi hay nhờ vả, Mẹ đi bước trước ( tiệc cưới Cana cũng thế). Sự lên đường của Mẹ ngoài sự gặp gỡ giúp đỡ giữa hai con người mà còn là sự gặp gỡ, giao thời giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa Thiên Chúa và con người. Đức Mẹ ra đi đem Chúa đến cho nhân loại qua gia đình bà Isave là đại diện, cùng với sự hân hoan của Gioan Tẩy Giả. Trong truyền thống của Giáo hội Đức Mẹ được sánh ví như hòm bia Giao Ước. Hòm bia Giao Ước xưa được cung nghinh long trọng , được thờ lạy vì sự hiện diện của Thiên Chúa, nay Đức Mẹ mang nơi mình chính Con Một Thiên Chúa. Hòm bia giao ước xưa đánh dấu sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Israel, hòm bia giao ước nay đánh dấu sự hiện diện mới, sự hiện diện bằng xương thịt của Thiên Chúa giữa nhân loại. Thiên Chúa nhờ Đức Mẹ đã phá đổ quan niệm xa xưa về một Thiên Chúa trong Cựu Ước nay Thiên Chúa ở giữa nhân loại.
Sau lời chào của Đức Mẹ Gioan nhảy lên vui sướng vì là người nhận ra Đấng Cứu Độ mà muôn dân đợi trông. Vua Đavit xưa nhảy múa như đứa trẻ khi đón hòm bia giao ước từ nhà ông Ôbed Êđom về Giêrusalem thì hôm nay Gioan cũng nhảy mừng. Gioan vừa là con người của Cựu Ước vừa là con người của Tân Ước. Thời đại mới của Thiên Chúa đã hé mở, thời đại hồng ân Thiên Chúa ban chính Con của Ngài cho nhân loại. Trong thư Do thái trong bài đọc 2: “này đây Con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Ngài bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới” ( Dt 10, 5 - 10 ) mà lễ tế mới chính là Thân Thể Đức Giêsu Kitô được hiến tế một lần cho tất cả trên đồi Sọ.
Chúng ta là những người Kitô hữu đang sống trong niềm hy vọng chờ đợi Chúa đến trong vinh quang. Chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô, chúng ta hãy noi gýõng Ðức Mẹ tự nguyện ðem Chúa ðến với anh chị em chúng ta, những ngýời ðang cần ðến sự giúp ðỡ của chúng ta từ vật chất cho ðến tinh thần và cả lời cầu nguyện nữa. Mẹ Maria ðã chẳng ngại gian khó, xa xôi để đến với bà Isave, nay chúng ta hãy hy sinh để mang Chúa đến với người khác. Mặt khác, chúng ta cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được làm người, làm con cái Chúa qua cái chết và sự phục sinh của Chúa, qua bí tích Thanh Tẩy. Hãy ý thức địa vị cao cả của mình là Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói: phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.... Biết như vậy để ta vui mừng vì Thiên Chúa luôn ở với ta nếu ta biết đón nhận Ngài. Hôm nay Chúa Nhật IV mùa Vọng, mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa, Chúa đã đến bên ta và chắc chắn Chúa sẽ đến với những ai có lòng trông cậy.
Báo tuổi trẻ cuối tuần ra ngày 22/ 10/ 2006 có đăng bài của Vũ Bình với nhan đề “Người thích: MV 4-C48
Báo tuổi trẻ cuối tuần ra ngày 22/ 10/ 2006 có đăng bài của Vũ Bình với nhan đề “Người thích làm từ thiện”. Bài này đề cập đến một người có tấm lòng nhân hậu cao cả. Đó là chị Ngụy Thị Phương Thảo. Từ một người chân lấm tay bùn, khốn khổ nhưng sau thời gian cần mẫn và gặp thời vận may vợ chồng chị đã trở nên khá giả. “Vợ chồng chị hiện đang sở hữu hàng chục miếng đất và nhà cho thuê cùng hàng chục chiếc taxi....”.
Chị Thảo là người biết mở ra cho anh chị em đồng loại. Chị sẵn sàng bỏ ra hàng chục triệu đồng để giúp đỡ bất cứ ai đang gặp khốn khổ. Cách đặc biệt, sau vụ tai nạn thương tâm của một đoàn cán bộ đi cứu trợ, chị đã không ngần ngại tặng một căn nhà trị giá hơn nửa tỉ đồng cho vợ con anh Trần Thanh Liêm. Anh này là một trong những người đã chết trong vụ tai nạn đó. Quả thật chị Thảo là một mẫu gương đáng tuyên dương.
Như thế, là người có đức tin chắc hẳn qua mẫu gương này ít nhiều gì cũng để lại trong ta nhiều suy nghĩ. Từng giờ, từng phút và từng giây ta đã nhận biết bao ơn lành từ Chúa cũng như từ nhiều người khác. Thử hỏi ta có được tinh thần biết mở ra như chị Thảo chăng? Trong các kinh Giáo hội dạy có kinh “Thương người có mười bốn mối”. Thử hỏi kinh ấy có được thấm nhuần trong ta chưa?
Tin mừng hôm nay Thánh Luca cho biết Thánh Gioan đã nhảy lên vui mừng khi được Đức Mẹ đến viếng thăm. Sự kiện đó cho thấy Đức Mẹ đã biết đem niềm vui đến cho gia đình Bà Elisabeth. Như ta biết đường đi ở xứ Do thái xưa kia không phải dễ đi mà nhiều núi non hiểm trở. Cho nên, chắc là Đức Mẹ đã phải hy sinh nhiều lắm. Thánh Luca còn cho biết: “Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.” (Lc 1, 56)
Khi có đức tin mạnh và trái tim nhạy cảm ta sẽ dễ dàng nhận ra được nhu cầu của anh chị em đang sống quanh ta. Có người đã nói: “Không ai giàu đến nỗi không cần đến sự giúp đỡ của người khác và không ai nghèo đến nỗi không có gì cho anh em mình.” Hãy tha thiết nài xin Chúa ban cho ta có được đức tin mạnh và trái tim nhạy cảm biết mở ra.
Đồng thời, ta cũng hãy noi gương Đức Mẹ và chị Thảo để biết sống cho anh chị em theo khả năng của mình. Bởi lẽ, niềm vui được chia sẻ được nhân đôi và nỗi buồn chia sẻ vơi một nửa. Những việc làm ấy chắc chắn sẽ là những cọng rơm ấm áp mà chúa Hài Đồng đang chờ đợi ta.
“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này” (Lc 1,43)
Đức Maria được Phúc Âm Chúa nhật IV Mùa vọng là một người đầy ơn phúc, Mẹ được chúc: MV 4-C49
Đức Maria được Phúc Âm Chúa nhật IV Mùa vọng là một người đầy ơn phúc, Mẹ được chúc phúc và mang hạnh phúc đến cho người khác. Có phúc vì cưu mang Đấng Cưú Thế, có Chúa Kitô ngự trị trong tâm hồn của mình. Mẹ Maria thật sự được diễm phúc như lời chào của sứ thần Gapriel trong ngày truyền tin và hôm nay là lời khẳng định của bà Elisabeth. Cái phúc của Mẹ đã có ngay từ đầu công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã gìn giữ và bao bọc Mẹ trong ân phúc của Ngài. Từ nguồn ân phúc đó Mẹ đã mang đến cho người khác. Trước tiên là cho người chị họ của mình, bà Elisabeth và đặc biệt là Gioan còn đang ở trong lòng bà Elisabeth, người mà Thiên Chúa đã chọn để dọn dường, Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Elisabeth và Gioan là những người hạnh phúc khi được đón nhận chính Đấng Cứu Thế qua Mẹ Maria. Mọi người chúng ta trong ngày hôm thì sao? Chúng ta có như bà Elisabeth nhận ra và cảm nghiệm được ân phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta? Đấng Cứu Thế mà mọi người đợi trông ở gần kề bên chúng ta, Đức Giêsu Kitô đang hiện trong mỗi tâm hồn chúng ta, ở xung quanh và hoạt động trong thế giới này. Những con người sống động đã được ân phúc của Chúa như Mẹ Maria, Gioan và cụ thể là bà Elisabeth, họ thật sự hạnh phúc và niềm vui trong cuộc đời của mình, khi họ nhận Đức Giêsu Kitô đang đến và ở với họ.
Chúng ta có thể hiểu được niềm vui sướng của bà Elisabeth, niềm vui của bà liên tục và lớn lao. Từ một phụ nữ son sẻ nay lại được cưu mang vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Bà không thể ngờ mình có được niềm vui như vậy sao bao năm chờ đợi gần như tuyệt vọng nay lại được toại nguyện nhưng đây cũng chỉ là niềm vui cá nhân của bà. Niềm vui lớn lao hơn là bà được chính Mẹ Đấng Cứu Thế và Đấng Cứu Thế lại viếng thăm mình. Có lẻ suốt một đời cậy trông, tin tưởng và thờ phượng Thiên Chúa hôm nay hạnh phúc và niềm vui như vậy đã đủ cho bà.
Đời sống đạo của mỗi người chúng ta cũng vậy Chúa và Mẹ luôn đến với chúng ta từng giờ từng phút, chúng ta phải biết nhận ra điều đó, có như vậy hạnh phúc và niềm vui luôn có trong đời sống đạo của chúng ta.
Càng gần đến ngày lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu, khuôn mặt của Đức Maria càng nổi bậc lên:. MV 4-C50
Càng gần đến ngày lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu, khuôn mặt của Đức Maria càng nổi bậc lên. Quả thật, vai trò của Mẹ Maria trong chường trình cứu chuộc nhân loại quả thật là quá lớn lao và quan trọng. Không ai có thể phủ nhận được điều này. Lời nói “xin vâng” của Mẹ đã mang lại cho nhân loại ánh sáng và niềm hy vọng vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Mẹ Maria vội vã lên đường đi thăm bà chị họ Êlisabeth của mình. Tại sao Mẹ lại vỗi vã đi như thế ngay sao khi nghe thiên thần Gabriel báo tin? Có người cho rằng: “Mẹ đi để xác định thông tin xem thiên thần nói thế mà không biết sự thật ra sao?”. Nói như thế là không đúng cho Đức Mẹ, vì Mẹ đã thưa “xin vâng” với tất cả những gì Sứ thần đã báo tin cho Mẹ. Mẹ trở thành người có phúc vì Mẹ tin những gì Chúa đã hứa cùng Mẹ: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng, lời Chúa hứa cùng Bà sẽ được thực hiện” (Lc1, 46). Cho nên, không có chuyện Đức Mẹ nghi ngờ lời Sứ thần Gabriel nói bao giờ. Có người lại cho rằng: “Mẹ đi thăm bà Elisabeth để khoe mình được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa”. Chắc cũng không phải thế đâu! Vì Mẹ là con người thích sống âm thầm, luôn xưng mình là “nữ tỳ của Chúa”. Mẹ không thích mình được người ta tôn vinh bao giờ!
Vì thế, việc Mẹ vội vã đi thăm bà Êlisabeth chỉ là cuộc viếng thăm thông thường của con người trong cuộc sống mà thôi. Có đặc biệt chăng thì đây là cuộc gặp gỡ thân tình của hai người chị em có cùng niềm tin và cùng cưu mang niềm hy vọng. . . Đức Maria biết rằng: người chị của mình mang thai trong lúc tuổi già như thế rất cần được sự chia sẻ, giúp đỡ. . . Nhưng sự gặp gỡ ấy lại biến thành một cuộc hội ngộ của tình yêu, của bình an và hạnh phúc dành cho những người luôn biết sống tin tưởng vào Thiên Chúa. Bà Êlisabeth mừng rỡ vì được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm, Gioan tẩy giả trong bụng bà cũng nhảy mừng vì nhận ra được ân sủng lớn lao là được gặp gỡ Đức Giêsu và Mẹ của Người. Mẹ Maria mang Chúa đến cho gia đình bà Êlisabeth để làm cho gia đình này được chan hoà niềm vui và ân phúc. Thật vậy, nơi đâu có Chúa ngự trị, nơi đó có bình an và hạnh phúc!
Câu chuyện Đức Maria đi thăm bà Êlisabeth nhắc ta nhớ đến một câu chuyện rất cảm động trong Cựu Ước. Khi Vua Đavit rước Hòm Bia Giao ước (nơi lưu giữ 10 Điều răn của Chúa) về thành Giêrusalem, thì ông mừng vui quá mức nên nhảy nhót trước Hòm Bia Chúa như một đứa trẻ con. Nhưng rồi Hòm Bia ấy chưa được đem về Giêrusalem ngay mà được chuyển đến nhà của ông Ôved-Êđom. Và trong thời gian ba tháng lưu lại nơi đây, gia đình của Eved-Êđom đã đón nhận không biết bao nhiêu là phúc lành của Thiên Chúa. Đức Maria cũng chính là Hòm Bia của Giao ước mới, vì Mẹ đã cưu mang chính Chúa Giêsu là nguồn gốc mọi ơn sủng nơi cung lòng Mẹ. Chính Mẹ đã đón nhận ân phúc bởi trời và Mẹ sẽ chuyển cầu lại cho chúng ta.
Ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tục làm công việc của Mẹ Maria là mang Chúa đến cho người khác. Mỗi khi Rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, thì tâm hồn chúng ta cũng tràn ngập Chúa. Chúng ta cũng trở thành người “cưu mang” Chúa trong lòng mình. Vì thế, chúng ta cần phải sinh Chúa ra cho đời. Chúng ta có trách nhiệm phải giới thiệu Chúa cho người khác bằng chính cuộc sống của mình, một cuộc sống vui tươi, thân ái và đầy hy vọng. Đây là một sứ mạng nặng nề nhưng cũng thật cao quí mà Chúa và Giáo hội ưu ái dành cho chúng ta.
Noi gương Mẹ, ta hãy đến với người khác bằng tấm chân tình, muốn chia sẻ những gánh nặng cho nhau, muốn giúp nhau trong những chuyện cần thiết, muốn mang niềm vui và hạnh phúc người mình gặp gỡ. . .Cụ thể, trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy tìm đến với với một hai gia đình túng nghèo nào đó; hãy tặng quà cho một hai đứa trẻ mồ côi, bệnh tật nào đó. . . để động viên, an ủi và chia sẻ phận người với họ. Có như thế, niềm vui mừng Chúa Giáng Sinh mới thật sự có ý nghĩa và trở thành ngày hồng ân cho chúng ta. Amen.