Gioan Tẩy giả "Rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội". Chúng ta đã đọc như thế trong Chúa nhật trước. Đám đông người Palestine thời Đức Giêsu gồm có những nông dân, đơn giản và thực tế; họ muốn sống phù hợp với phép rửa của họ. "Chúng tôi phải thay đổi những gì trong cuộc sống? Chúng tôi phải làm gì?".
Chúng ta đã nhận phép rửa để tha tội trong tình trạng vô ý thức của thời thơ trẻ. Nhưng suốt cuộc đời ý thức trưởng thành, chúng ta phải sống lại "dấu chỉ" này, bí tích hoán cải này. Và chúng ta biết rằng, bí tích rửa tội đúng ra không thể tái diễn được nữa, chúng ta có thể sử dụng điều mà thần học truyền thống gọi là "phép rửa thứ hai"; đó là “bí tích sám hối" mà chúng ta chuẩn bị nhận lãnh để chúng ta cũng đón tiếp Đấng sẽ đến.
Cũng như đám đông Palestine, chúng ta không thể thỏa mãn với những lời nói suông với những nghi lễ. Chúng ta cần phải nhiệt tình đặt câu hỏi với Chúa: "Lạy Chúa, con phải làm gì để trở thành Kitô hữu?".
Ông trả lời: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy."
Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là rõ ràng, chính xác và cần thực hiện ngay không được chậm trễ. Nó không có gì thuộc phạm vi trí thức hay khó hiểu cả, chính trong cái bình thường nhất hay tầm thường nhất của cuộc sống hằng ngày (ăn, mặc...) mà sự "hoán cải" qua thân xác, sự quay lại của tâm hồn gọi là "métadola” cần được thực hiện.
Để xét xem những cách tuyên xưng đức tin của bạn có đúng hay không, bạn không nên kiểm tra tính xác thực có vẻ lý thuyết của chúng trong sách vở... nhưng tốt hơn hãy nhìn vô tủ áo, tủ chứa đồ ăn, những ngăn kéo và trương mục ngân hàng của bạn. Hãy chia sẻ - Hãy cho một nửa đi- Lạy Chúa, Chúa yêu cầu con những gì?
Chúng con nhận thấy rõ Luca người loan báo Tin Mừng của Chúa sẽ nêu gương cho chúng con qua cử chỉ điên rồ của tên vô lại Da-kêu trưởng ban thu thuế thành Giêrikhô: "Tôi cho người nghèo phân nửa tài sản của tôi" (Lc 19,9). Luca còn kể lại rằng, chính Đức Giêsu đã bảo những người giàu có đương thời sống, chia sẻ, thay vì quá lo lắng đến sự "trong sạch" của họ (Lc 11,41). Luca cũng cống hiến cho chúng ta gương mẫu của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu: "Họ để mọi sự làm của chung" (Cv 2,44 - 4,32-35). Còn chúng ta thì sao?
Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: "Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?" Ông bảo họ: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh." Binh lính cũng hỏi ông: "Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?" Ông bảo họ: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình."
Từ những đám đông này, Luca rút ra được hai loại người: thu thuế và cảnh sát. Đó là những người bị người ta ghét nhất thời đó, là những người ít tư cách nhất để đón tiếp Đức Giêsu, những người sống ngoài xã hội và bị khinh bỉ, những người tội lỗi nhất, những hạng người "đểu cáng".
Ở đây chúng ta cũng nhận ra rằng Tin Mừng theo Thánh Luca sẽ cho chúng ta thấy Đức Giêsu "dùng bữa nơi nhà những người tội lỗi" (Lc 5,27-30). Làm cho những người công chính rất bất bình Đức Giêsu, "ngụ tại nhà người tội lỗi" (Cl 19,7) làm cho những "người đàng hoàng" phải bực bội. Đức Giêsu nói rằng Người đến không phải vì những người công chính (Lc 5,32).
Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa (Lc 3,6) cả những người thu thuế và những binh lính, cả những người tội lỗi, và cả tôi nữa. Lạy Chúa, Tạ ơn Chúa về lòng từ bi của Chúa.
Đối với những người thu thuế và cảnh sát của quân đội chiếm đóng, Gioan Tẩy giả không yêu cầu họ đổi nghề, nhưng chỉ cần có cung cách sống mới, tôn trọng công lý, không lạm dụng sức mạnh mình có trong tay, bằng lòng với những gì mà quyền lợi và luật pháp đã quy định. Tất cả những lời khuyên trên đây thuộc lãnh vực nghề nghiệp. Chúng nhằm đến những tội lỗi, mà người thu thuế và binh lính thời bấy giờ thường hay vấp phạm: làm giàu bằng cách lợi dụng tư thế bất khả xâm phạm do nghề nghiệp của mình, lợi dụng thế mạnh nhất của mình đang nắm giữ.
Còn tôi thì sao? Tôi thường phạm những tội nào do nghề nghiệp, địa vị của tôi?
Tội của linh mục? Của giáo sư? Của nhân viên văn phòng? Của cô y tá? Của y sĩ? Của công chức? Của chủ xí nghiệp? Của người thợ ăn lương? Của người buôn bán? Của con cái? Của cha mẹ? Của nữ tu sĩ? Xã hội đã đổi mới biết bao, nếu tất cả những người được rửa tội đều cử hành một "phụng vụ sám hối" đích thực.
Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì?
Trình thuật của Luca có thể dừng ở đó. Nhu cầu "hoán cải” có thể dừng lại ở phương diện nhân bản, xã hội và luân lý. Thế nhưng, đám đông lại chờ đợi một cái gì khác.
Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia!
Ở đây Luca đổi từ ngữ những "đám đông" (tiếng Hy Lạp là ochloi) bây giờ trở thành một "dân tộc" (tiếng Hy Lạp là laos). Khối dân chúng nặc danh đạt được một phẩm giá mới, nhờ tự đặt ra cho mình một câu hỏi: họ không chỉ đợi một cái gì đó nữa, mà là một Đấng nào đó... Khát vọng căn bản của họ, là một ước muốn thầm kín, nằm sâu trong lòng họ, mà họ không biết diễn tả hay không dám diễn tả. Biết bao người ngày nay cũng như thời bấy giờ không biết "gọi tên Đấng - mà họ mong đợi trong lòng". Có một Đấng Cứu chuộc hay không? Chúng ta có thể trông cậy ở một Đấng Mêsia, một Đấng Thiên Chúa sai đến để giải thoát tận căn những khổ đau của chúng ta không?
Ông Gioan trả lời mọi người rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người.
Bề ngoài, người ta không nghe thấy họ đặt câu hỏi cách rõ ràng, nhưng Gioan Tẩy giả, do một thứ ân sủng ngôn sứ, đã đọc thấy trong lòng họ. Tôi có biết lắng nghe những gì thầm kín trong lòng các bạn đồng nghiệp, người lân cận và bạn bè của tôi không? Từ những vấn đề thuộc nhân quyền, tôi có đi đến chỗ nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa không? Người đã mời họ mở tủ áo, mở tủ đồ ăn của họ. Bây giờ Người mời họ mở lòng họ ra để tiếp gặp một Đấng đang tiến đến phía họ. Hãy lắng nghe! Lắng nghe. Những bước chân của Chúa đang đến với bạn đó.
Đối với Gioan, không chỉ có những diễn viên hiện diện trên sân khấu: đám đông, người thu thuế, binh lính, v.v... Nhưng có một diễn viên chính còn đang ẩn nấp. Còn đối với tôi thì sao?
Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.
Đây chính là trung tâm của trình thuật Tin Mừng: Sự can thiệp cần thiết của Thiên Chúa. Hoán cải có thể là một hành vi không thường dễ dàng. Gioan Tẩy giả chỉ đòi hỏi những việc tầm thường. Các bạn hãy thử đi? Những điều Thiên Chúa đòi hỏi, dù có nhiều dạng thức nhưng đều là những gì khó có thể thực hiện: “Hoán cải", "trở lại", đổi đời đều khó thực hiện, nếu con người chỉ dùng sức riêng của mình. Cần phải có một hành vi của Thiên Chúa: Mỗi bí tích là một hành vi của Thiên Chúa, bằng và hơn một hành vi của con người.
Để mô tả tác động của Thiên Chúa, Gioan Tẩy giả dùng ba hình ảnh: Sự dìm xuống nước, gió và lửa. Trong tiếng Aramên cũng như trong tiếng Do Thái, cùng một từ là “ruah" có nghĩa vừa là "gió" vừa là "tinh thần". Lối chơi chữ này muốn cho ta hiểu rằng, Thần khí của Thiên Chúa sẽ lay chuyển chúng ta như một cơn gió bão, một cơn bão táp mà ta bị "nhận chìm", bị "dìm sâu” trong đó. Và Thần Khí của Thiên Chúa cũng như một ngọn lửa sẽ đốt cháy và thiêu hủy những nhơ bẩn của ta. Quả nhiên, khi Luca mô tả phép rửa trong Thánh Thần, Đấng "hoán cải” các tông đồ, thì trong ngày lễ Ngũ Tuần, sự kiện đó sẽ diễn ra qua một "tiếng gió mạnh" và những hình lưỡi giống như lưỡi lửa" (Cv 2,2-3).
Để giúp bạn tưởng tượng ra bí tích sám hối ngày Giáng sinh (phép rửa thứ hai), bạn hãy thử coi bạn như đang ở trong sức thiêu đốt của một cơn bão lửa... sẽ đổi mới bạn. Ôi, sự thiêu đốt đầy hạnh phúc của Thần Khí Thiên Chúa! Chúng ta có khuynh hướng biến những "chất nổ" Tin Mừng thành những thứ "kẹo bánh" dịu ngọt, tuy nhiên, đâu có hoàn toàn giống như thế!
Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi."
Ở đây đúng là đang nói về Đức Giêsu: Người đến, tay cầm "nia" như vị thẩm phán ngày cánh chung để thu dọn và quét sạch một lần cuối cùng. Bạn đã bao giờ nhìn thấy một người rê thóc trên sân phơi của anh ta chưa? Vào một ngày có gió lớn, anh ta đứng thẳng, tay cầm chiếc nia lớn chứa thóc lẫn lộn với trấu và bụi bặm... rồi anh ta đổ xuống. Lúc đó, gió sẽ tách rời hạt nặng hơn khiến chúng rơi thẳng xuống, còn rơm trấu thì gió thổi đi xa. Người ta đem lúa vào vựa người ta đốt rơm trong lửa.
Chúng ta chớ lừa gạt chính mình. Chúng ta cũng không thể lừa gạt được Thiên Chúa. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy những gì có giá trị, có trọng lượng trong cuộc sống của mình, và những gì không có giá trị trong lòng dạ con người: Có bao nhiêu thóc? hay chỉ là rơm rác?
Mong sao cho "gió và lửa" của Thần Khí ngay từ bây giờ hãy làm ra sự thật. Nhờ "phép rửa thứ hai" tôi lãnh nhận, nhờ "hành động của Thiên Chúa", tôi sẽ cố gắng làm nên sự thật, để chọn lựa trong cuộc sống của tôi, giữa ích kỷ và tình thương, giữa đàn áp và công lý, giữa tính ích kỷ làm nhơ bẩn tình yêu của tôi và tình yêu trong sự trong sạch của nó, giữa thái độ thực sự ngóng đợi Thiên Chúa và thái độ lãnh đạm buồn thảm đầy duy vật.
Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.
Sự phán xét này không phải là những điều khủng khiếp đáng sợ, mà là một "Tin Mừng". Chúa phán: "Không đâu, sự ác sẽ không tồn tại luôn mãi. Ta đã cầm nia rồi đấy”. Tạ ơn Chúa.
Sau khi trình bày đề tài tổng quát trong việc rao giảng lòng thống hối của Gioan tẩy giả và những lời ông đe dọa án xử của vị Thiên sai (cc. 7-9), Luca cho thấy rõ những lời Gioan khuyên bảo những người đến bàn hỏi với ông. Vì Gioan tẩy giả không muốn bắt mọi người sống theo cách sống của ông. Thực ra ông có lập một nhóm môn đệ thân tín và dạy cho họ một công thức cầu nguyện (Lc 11,1); họ cũng có ngày ăn chay (Lc 5,33). Ông chuẩn bị cho họ cách đặc biệt để gởi họ cho Đấng Thiên sai ngay khi có thể.
Nhưng ông cũng kêu mời nhiều người khác sống thánh thiện tùy theo hoàn cảnh của mình. Ông ban cho mỗi người sống những lời khuyên tùy theo hoàn cảnh của mình. Ông ban cho mỗi người những lời khuyên thích hợp vị địa vị của họ. Với tất cả mọi người, ông truyền dạy phải thực thi bác ái; với nhân viên thu thuế và bộ đội, ông nhắc nhở sống công bình trong khi thi hành nhiệm vụ, chống lại những ước muốn tham lam. Đó là những ý kiến đúng và rõ ràng, có thể áp dụng ngay. Về phương diện này, Gioan không tự cho mình là người đầu tiên đưa ra những lời khuyên đó, ông chỉ lấy lại những yêu sách các tiên tri đã công bố. Đó là lời giảng dạy mà ta gặp thấy ví dụ như trong tiên tri Mikêa: “Với cái gì tôi sẽ trình diện trước Giâvê, tôi sẽ phủ phục trước Thiên Chúa Đấng tối cao? Tôi ra trình diện với của lễ, với bò con một năm ư? Đức Giavê lại thích hàng ngàn chiên đực hay là hàng vạn sông dầu sao? Phải chăng tôi nên dâng con đầu lòng của tôi vì sự phạm pháp của tôi và trái của thân thể tôi vì tội lỗi linh hồn tôi sao? Hỡi ngươi, Người đã tỏ cho ngươi điều gì là thịên; điều mà Đức Giavê đòi ngươi lại không phải là thực thi công bình, yêu mến sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường với Thiên Chúa của ngươi sao? (Mi 6,6-8).
Như thế Gioan dạy một luân lý “tạm thời” mà trọng tâm là: “Hãy làm hết sức mình trong các hoàn cảnh hiện tại, đang khi chờ đợi thời đại thiên sai đến”. Vì thế ông không đòi buộc người ta phải tách lìa khỏi thế gian xấu xa hoặc phải từ bỏ các nghề nghiệp trong thế gian. Ông chỉ đòi hỏi lòng nhân hậu và đức công bình: đó là những hoa trái biểu lộ lòng sám hối đích thực trong lúc này. Những việc làm cụ thể của đức ái mà ông đề nghị đã được qui định trong CƯ (Is 58,7; Giop 31,17.19.21; Ez 18,7.16...) và trong đạo Do thái sau này, như là dấu hiệu phân biệt làng đạo đích thực đẹp lòng Giavê. Giáo huấn của Gioan chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt hơn của Chúa Giêsu (Lc 6,29t 32-36; Mt 5,39-48).
Sứ điệp của vị tiền hô liên quan đến Đấng Thiên Sai (cc. 15-18) được đóng khung trong một câu nhập đề và một câu kết luận theo lối hành văn thông thường trong Phúc âm thứ ba. Chúng ta biết dân chúng đang chờ đợi sự thực hiện các lời hứa Thiên sai. Cho nên lời rao giảng của Gioan gặp được thửa đất thuận lợi để sinh hoa trái vì ông loan báo Tin mừng (c.18). Nhưng dần dần người ta tự hỏi có phải Gioan là Đấng Thiên sai không, nên ông cố gắng đánh tan sự ngộ nhận đó.
Gioan so sánh phẩm giá của hai nhân vật mà dân chúng dễ lẫn lộn: người này là chủ, người kia là nô lệ. Để cho dân chúng hiểu rõ hơn, ông lấy hình ảnh người đầy tớ đi theo chủ tiệc đến dự tiệc: khi vào phòng tiệc, ông chủ cởi giày, thì người đầy tớ cúi xuống chân chủ (chi tiết này chỉ có Mc 1, tả lại thôi) để cởi sợi dây buộc giày và trong suốt bữa tiệc, người đầy tớ cầm giày của chủ trên tay (Mt 3,11). Trong cả ba Phúc âm nhất lãm, chúng ta có thể đọc lời tuyên xưng của vị tiền hô về địa vị thấp kém của mình đối với Đấng Thiên Sai. Ý tưởng diễn tả trong ba bản văn đều giống nhau; hình ảnh trình bày ý tưởng đó cũng giống nhau, nhưng trong các lời nói của Gioan, ba bản văn đã không giữ lại cùng một chi tiết của cũng một hình ảnh: hai bản Lc và Mc chú trọng đến cử chỉ của người đầy tớ đang cởi giày, bản văn Mt thì làm nổi bật thái độ của người đầy tớ xách đôi giày ấy.
Người ta cũng còn có thể so sánh hai phép rửa. Đó là điều mà Gioan đã không bỏ quên. Nét khác biệt rất rõ ràng: “Phần tôi, tôi thanh tẩy các người bằng nước... Đấng quyền thế hơn tôi... chính Ngài sẽ thanh tẩy các người trong Thánh Thần và lửa”.
Sự đối nghịch rõ rệt đó có thể làm cho ta tưởng rằng phép rửa do Đấng sẽ đến, Đấng Thiên sai, sẽ không là phép rửa bằng nước như phép rửa của vị tiền hô. Tuy nhiên, sau này Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô là sự tái sinh Kitô giáo được thực hiện bởi Thánh Thần và nước, trong phép rửa (Ga 3,1-10).
Phép rửa mà Đấng Thiên sai thiết lập sẽ vừa là một phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa. Nước chỉ nghi thức bên ngoài, rửa sạch trên thân xác, lửa là biểu tượng cho sự biến đổi trong tâm hồn sâu thẳm. Vì trong lúc nước chỉ chạm tới mặt ngoài của sự vật, thì lửa trái lại, xuyên thấu vào trong, thanh tẩy, soi sáng và đốt nóng Ta sẽ không tìm gặp được nơi phép rửa do Đấng Thiên sai lập một thứ lửa nào khác ngoài lửa của Thánh Thần: vì chính Ngài thánh hóa các tâm hồn.
Tuy nhiên về điểm này, hãy xem lại những giải thích đã học được trong loạt bài chú giải về Mt 3,11 (bộ chú giải phúc âm chủ nhật năm A). Có thể là trên bình diện lịch sử của Gioan tẩy giả, không nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng đúng hơn là phép rửa trong “gió” điểm này cho phép kết luận là chỉ “lửa” giữ nguyên cùng một ý nghĩa như “lửa phán xét” được nói qua cả đoạn văn. Sau nữa, khi người Kitô hữu đọc lại phúc âm, thì họ giải thích “gió” như là hơi thở của Thánh linh: lối giải thích như thế không có gì lạ, vì trong tiếng Do thái cũng như Hy Lạp, cũng một chữ đó (ruâ: Do thái; pneuma: Hy lạp) vừa chỉ gió và Thánh Linh. Cho nên theo lối tái lập lịch sử thì có lẽ Gioan tẩy giả đã nói đến phép rửa “trong gió và lửa” của sự phán xét; nhưng từ thuở ban đầu (có lẽ bắt đầu từ thời truyền khẩu) người Kitô hữu đã hiểu những chữ này như báo trước một phép rửa trong “gió hay trong Thánh Linh và lửa” của ngày hiện xuống.
Cũng nên nói ngay là hình như không cần phải hạn hẹp tầm quan trọng của Lời Gioan vào phép rửa Kitô giáo: “Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Linh và lửa”. Phải xem câu này là lời loan báo về sự chuyển thông Thánh Linh do Chúa Giêsu, hoặc bằng phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng phép thêm sức, hoặc bằng các cách khác.
Đó là ngọn lửa lớn mà Chúa Giêsu đã đến để ném vào thế gian (Lc 12,49). Trước khi lên trời, ngay thăng thiên, Ngài đã truyền cho các tông đồ hãy ở lại Giêrusalem để chờ đợi “điều Chúa Cha đã hứa, như các con đã nghe Ta nói”. Vì chưng, Gioan đã được thanh tẩy bằng nước, còn các con, không mấy ngày nữa, sẽ được thanh tẩy bằng Thánh Thần (Cv 1,4-5). Và trong chính ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần đã xuống trên đầu họ dưới hình lưỡi lửa, đem lại phép rửa trong Thánh Thần và lửa cách tỏ tường (Cv 2,1-5).
Như thế, giữa phép rửa của Gioan và của Đấng Thiên sai không có cùng một giá trị. Phép rửa của Gioan không luôn luôn là phép rửa bằng nước và chỉ là phép rửa bằng nước. Đó là một nghi thức tượng trưng nhằm thúc đẩy và diễn tả tâm tình thống hối. Phép rửa của Đấng thiên sai là sự tuôn tràn Thánh linh mà có thể không cần phải rửa bằng nước và ngay chính khi nghi thức bên ngoài là việc rửa bằng nước (phép rửa Kitô giáo), thì vẫn nhằm nóiđ ến hoạt động bên trong tâm hồn nơi Thánh linh xuyên thấu như lửa.
Nhưng đây còn có một thứ lửa khác mà Đấng Thiên sai trang bị sẵn sàng: lửa của phán xét. Như thế chúng ta được đặt giữa hai thứ lửa: lửa của thánh linh và lửa giận dữ không hề tắt. Vì Đấng Thiên sai sẽ là quan án: sân lúa là thế gian, kho lẫm là cõi trời. Khốn cho ai bị Ngài ném vào lửa như vỏ trấu vô dụng hoặc như rơm rạ vụn vặt. Vì “Đấng uy quyền” hơn Gioan thật đáng sợ. Hình như đó là nét chính yếu của lời rao giảng và hành động tượng trưng của Gioan tẩy giả.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai, là quan án thời tận thế. Đức tin và lời kinh của Giáo hội không có quyền chểnh mảng vai trò của mình trong khía cạnh này. Lời rao giảng của Gioan tẩy giả vẫn còn giá trị, dù không chứa đựng tất cả những gì Chúa Thánh Thần đã mạc khải Luca đã hiểu bài diễn từ của Gioan như một lời rao giảng hiện đại cho hoàn cảnh Giáo hội của ông bấy giờ. Điều đó biểu lộ qua câu 15 dùng để nhập đề, với câu hỏi: Gioan có phải là Đấng Thiên sai không? Vị Tẩy giả làm chứng Đấng Thiên sai là một người khác: là Đấng mà ông chiêm ngưỡng và loan báo như là quan án. Hình ảnh quan án vẫn là hình ảnh cốt yếu cho Tân ước và Giáo hội. Không phải chỉ có những thính giả thời ấy, nhưng tất cả mọi Kitô hữu đều có sự chọn lựa được “thanh tẩy” trong Chúa Thánh Thần.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thính giả Gioan tẩy giả chất vấn: “Chúng tôi phải làm gì?” Lòng thống hối đích thực không bao giờ dừng lại nơi những tình cảm bên trong, nơi những tư tưởng tốt đẹp, nhưng còn phải thể hiện qua hành động bằng một cuộc sống phù hợp với giáo huấn của Chúa kitô. Không phải những người nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa là vào được nước trời, nhưng những ai thực hành ý Chúa, nghĩa là thực thi công bằng xã hội, chia sẻ, tha thứ xúc phạm, liêm chính trong nghề nghiệp.
2. Gioan tẩy giả sai mỗi người trở về nghề nghiệp hiện tại, với nhiệm vụ của mình. Không phải việc ta làm khiến ta trở thành môn đệ hoặc không phải là môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng là cách thế ta làm. Chúa Giêsu không đòi ta từ bỏ nghề nghiệp và từ bỏ thế gian để đi tu. Ngài đòi chúng ta phải thi hành nghề nghiệp chúng ta theo Phúc âm: nghĩa là phục vụ anh em trong yêu thương và công bằng, chú ý đến kẻ khác và quên mình, chuyên cần làm việc và vui tính. Nhờ nghề nghiệp khiêm tốn mấy đi nữa của chúng ta mà người khác “sẽ thấy ánh sáng và ca tụng vinh quang Chúa: (Mt 5,16).
3. Gioan tẩy giả tự nhận mình dưới quyền Chúa Giêsu: ông là đầy tớ chỉ đáng lo giày dép cho Ngài thôi. Khi tự coi mình như thế, trước mặt Chúa, Gioan tẩy giả không tìm cách hủy diệt mình bằng một thứ tình cảm giận ghét chính bản thân. Ông không tìm cách chối cãi những ưu điểm có thật và những năng khiếu tự nhiên của mình. Không khinh chê ơn gọi tiên tri của mình. Ông chỉ làm cho người ta nhận ra địa vị đích thực của ông: là vị tiền hô, chứ không phải là Đấng Thiên sai. Đó chính là Đức khiêm nhượng đích thực của người Kitô hữu: nhận biết mình là gì trước mặt Chúa. Vui vẻ chấp nhận mình chỉ là Đấng thụ tạo trước mặt Đấng tạo hóa, một tội nhân trước mặt Đấng cứu chuộc. Đức khiêm nhượng đích thực không dừng lại nơi chính mình, dù là chỉ để chê bai: người nào luôn nói tới những lỗi lầm của mình, những thiếu sót khả năng, sự bất xứng... người đó có ít cơ may trở thành kẻ khiêm tốn, họ quá lo lắng về chính mình. Cái nhìn khiêm tốn thật sự phải hướng về Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, phải ý thức đến vực thẳm ngăn cách mình với Ngài, nhưng còn phải ý thức nhiều hơn về lòng nhân hậu, cao sang của Đấng mình yêu.
4. Gioan thanh tẩy trong phép rửa thống hối. Về điểm này, sứ điệp của ông vẫn luôn thực hiện cho chúng ta. Vì chúng ta phải luôn luôn thống hối, phải chuẩn bị cho “Đấng uy quyền hơn chúng ta” đến phải thanh tẩy tâm hồn khỏi những khát vọng bất chính, khỏi những hẹp hòi, khỏi chai đá. Nhất là trong mùa vọng này, chúng ta phải làm cho các năng lực của phép rửa tội tái hoạt động bằng việc canh tân tâm hồn để mừng đại lễ Giáng sinh và dịp đó Đức Giêsu sẽ tự trao ban Ngài cho chúng ta với một nguồn súc mạnh và ánh sáng phong phú để nối kết chúng ta trong tình thân mật với Ngài.
5. Lời Gioan tẩy giả hứa về một phép rửa tương lai của Thánh linh đã được thực hiện cho chúng ta. Khi ta lãnh nhận bí tích rửa tội, Chúa Thánh Thần đã thực sự thông ban cho chúng ta. Ngài làn cho chúng ta trở thành đền thờ, nơi cư ngụ thường xuyên của ngài, dấy lên trong lòng chúng ta những tâm tình con thảo đối với cha trên trời. Chính Thánh Linh, giây tình ái giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu, hằng cầu nguyện trong ta và giúp ta dần dần trở nên giống Chúa Giêsu con thật của Chúa Cha, nếu ta biết vâng theo cảm hứng của Ngài và các tác động êm dịu của Ngài trong tâm hồn chúng ta. Hoạt động của Thánh Linh trong ta sẽ thanh tẩy ta bừng một, sẽ đốt cháy những ngọn rơm ích kỷ và hèn nhát, sẽ giữ gìn đến muôn đời hạt cúa công phúc và trung tín của ta đối với việc bổn phận.
Chúa nhật thứ III Mùa vọng này thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Lời kêu gọi "hãy: MV 3-C53
Chúa nhật thứ III Mùa vọng này thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Lời kêu gọi "hãy vui lên" được lặp đi lặp lại trong các bài đọc. Chúng ta vui vì Chúa đã đến gần. Nhất là khi chúng ta họp nhau trong Thánh lễ thì Chúa rất gần. Ngài đang hiện diện giữa cộng đoàn chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Mặc dù Chúa đã bảo chúng ta đừng lo, nhưng vì thiếu lòng trông cậy và phó thác nên chúng ta cứ băn khoăn lo lắng về cuộc sống vật chất ở trần gian này.
Chúng ta chưa thực sự thấm nhuần tinh thần lạc quan của Tin Mừng nên chúng ta chưa tỏa chiếu niềm vui ra môi trường chung quanh.
Khi cầu nguyện, thường chúng ta hay trình bày với Chúa những băn khoăn lo lắng phàm tục, rất ít khi chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa vì tình thương bao la của Ngài dành cho chúng ta.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Xp 3,14-18
Ngôn sứ Xôphônia rao giảng trong thế kỷ VII trước công nguyên, vào những năm trước khi vua Giosias thực hiện cuộc cải cách tôn giáo.
Khi đó nước Do thái đang ở trong một tình trạng tồi tệ: bên trong thì đạo đức suy dồi, bên ngoài thì họa xâm lăng đang rình sẵn. Mặc dù vậy, Xôphônia vẫn kêu gọi dân chúng hãy vui lên, lý do là "Án lệnh phạt ngươi Thiên Chúa đã rút lại, và thù địch của ngươi Ngài đã đẩy lùi xa".
2. Ðáp ca Tv Is 12
Thánh vịnh này triển khai tâm tình lạc quan của bài đọc I: Lý do khiến dân Sion lạc quan là vì Thiên Chúa chính là sức mạnh và là Ðấng cứu độ họ.
3. Bài đọc II Pl 4,4-7
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy vui và vui luôn mãi trong niềm vui của Chúa. Niềm vui này không chỉ là một tình cảm, nhưng phát sinh những hoa trái cụ thể trong cuộc sống: (1) sống hiền hòa rộng rãi với mọi người; (2) Không phải lo lắng gì cả, vì có gì thì cứ trình bày với Chúa; (3) Lòng trí luôn được bình an.
4. Tin Mừng Lc 3,10-18
Khi "dọn đường" tâm hồn cho các thính giả nghe Gioan giảng, ông đã nói "Hãy sám hối". Người ta hỏi lại "Vậy chúng tôi phải làm gì?". Và Gioan đã chỉ cho họ những việc cụ thể phù hợp với tình trạng cuộc sống của họ:
Người có thì hãy chia sớt cho kẻ không có.
Người đang sống bằng những thu nhập bất công thì hãy cố gắng sống công bình.
Kẻ đang áp bức người khác thì chấm dứt những việc làm hà hiếp của mình.
Gioan còn khiêm tốn phủ nhận những dư luận coi ông là chính Ðấng Messia, và giới thiệu Ðấng Messia thật cho họ biết.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Bí quyết hạnh phúc
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy vui luôn. Nhưng làm thế nào để có thể vui luôn? Câu chuyện sau đây có thể cho ta câu trả lời.
Một người chăn cừu sai đứa con trai của mình đến hỏi một nhà hiền triết về bí quyết của hạnh phúc. Nhà hiền triết đưa cho chàng trai một chiếc muỗng đựng đầy dầu và bảo: "Hãy cầm chiếc muỗng đi vòng quanh tòa lâu đài này và cố làm sao đừng cho một giọt dầu nào bị đổ".
Chàng trai nghe lời, đi vòng quanh tòa lâu đài, đôi mắt chẳng dám nhìn bất cứ thứ gì khác mà chỉ dán chặt vào chiếc muỗng. Khi chàng trở lại, nhà hiền triết hỏi "Có thấy gì không?". Chàng trai đáp "Dạ chẳng thấy gì cả". Nhà hiền triết lại bảo "Bây giờ hãy đi một vòng nữa và hãy mở mắt quan sát tòa lâu đài". Chàng trai lại cầm chiếc muỗng đi một vòng. Lần này chàng chăm chú ngắm nhìn từng chi tiết của tòa lâu đài: những gian phòng rất đẹp, những món trang trí rất mỹ thuật, khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, những vòi nước rất ngoạn mục... Khi trở lại, chàng kể hết cho nhà hiền triết nghe. Ông hỏi: "Thế những giọt dầu ta giao cho ngươi thì sao?" Chàng nhìn xuống chiếc muỗng. Ôi thôi, dầu đã đổ hết chẳng còn giọt nào.
Bấy giờ nhà hiền triết nói: "Ta chỉ có một lời khuyên nhỏ cho ngươi: bí quyết của hạnh phúc là khả năng vừa ngắm được mọi vẻ đẹp của tòa lâu đài, vừa không làm đổ mất một giọt dầu nào trong muỗng". Chàng trai trẻ chợt hiểu: người chăn cừu có thể du ngoạn để ngắm nhìn những vẻ đẹp khắp nơi, nhưng không bao giờ được quên đàn cừu của mình. Bí quyết hạnh phúc là vừa chu toàn nhiệm vụ được giao cho mình, vừa vui hưởng cuộc sống.
Thật dễ có hạnh phúc khi ta làm điều ta muốn làm. Nhưng để tìm được hạnh phúc không phải trong điều ta muốn làm mà trong điều ta phải làm thì phải có ơn Chúa.
Hạnh phúc thật không do thỏa mãn được những ước muốn ích kỷ của mình. Hạnh phúc thật không thể có khi những điều ta làm lại khác với những điều ta tin. Hạnh phúc thật không thể có khi không có tình yêu. Bởi vậy nỗi buồn sẽ ập xuống trên ta mỗi khi ta trả lời "không" với tình yêu.
Chúng ta cũng không nên đồng hóa vui và sướng. Sướng thuộc về thể xác, còn vui thuộc về tinh thần. Sướng chẳng bao lâu rồi cũng sẽ chán, còn vui thì không bao giờ chán.
Ðiểm cuối cùng: chỉ có Chúa mới đong đầy mọi mơ ước của chúng ta, do đó nguồn phát sinh hạnh phúc chính là sự hiện diện của Chúa. Có Chúa trong đời ta thì đời ta sẽ vui. Ngôn sứ Isaia kêu gọi "Hãy vui lên". Nhưng tại sao vui? Thưa vì "Có Chúa ở giữa chúng ta". và Thánh Phaolô viết cho tín hữu Philipphê "Tôi muốn anh em hãy vui luôn". Tại sao? Thưa "Vì Chúa đã đến gần". Niềm vui mà thế gian này không thể ban cho chúng ta là niềm vui xuất phát từ ý thức về Chúa và về tình yêu của Ngài đối với chúng ta. (FM)
2. Sự vĩ đại của Gioan Tẩy Giả
Ngày xưa có một người thắp đèn thường được người ta gọi là Ông T. Ông làm nhiệm vụ thắp đèn hết sức chu đáo và đúng giờ. Mỗi tối khi màn đêm vừa buông xuống thì lập tức ngọn đèn của ông cũng sáng lên. Không ai biết ông làm thế nào để canh đúng giờ mà thắp đèn, bởi vì ông không có đồng hồ. Cuộc sống của ông cũng chẳng khá giả gì, nhưng ông yêu nghề của mình. Mọi người đều thương mến ông, nhất là trẻ con: khi trời tối khiến chúng không chơi đùa được nữa, thì ông đến, mang lại ánh sáng và chúng có thể tiếp tục chơi.
Công việc của Ông T. thật có ý nghĩa. Nhưng điều khiến ông vĩ đại là ông bị mù! Ông mang ánh sáng cho mọi người trong khi bản thân ông thì không nhìn thấy ánh sáng! Cuối cùng thì điện đã đến với thị trấn này. Dân chúng trước đây quý mến ông thì bây giờ không còn nhớ gì đến ông nữa. Ánh điện sáng hơn ánh đèn nên chẳng ai màng tiếc nuối quá khứ làm chi nữa. Ông T. nhắc chúng ta nhớ tới thánh Gioan Tẩy giả. Cũng như Ông T. thánh Gioan đã cần mẫn mang ánh sáng đến cho mọi người. Trong một thời gian, Ngài là sự ngưỡng mộ và quý mến của mọi người. Nhưng Ngài luôn ý thức mình chỉ là kẻ dọn đường, một ánh sáng lớn hơn sẽ đến, và Ngài sẽ không được đi trong ánh sáng tuyệt vời ấy. Và khi ánh sáng tuyệt với ấy là Chúa Giêsu đến, Ngài lùi lại phía sau để nhường bước cho Chúa Giêsu. Thật là vĩ đại.
Không ai thành đạt chỉ nhờ vào bản thân mình, mà luôn có ai đó ở phía sau giúp đỡ mình, hướng dẫn mình, khuyến khích mình, nói tóm lại là chuẩn bị cho mình. Rồi khi mình thành đạt thì người ấy lặng lẽ biến đi vào quên lãng.
Ðể làm một kẻ dọn đường cho người khác thì cần phải có tinh thần khiêm tốn và quảng đại cao cả lớn lao. Thật vậy, vì đó là một hình thức chết đi chính mình. Rút lui khỏi một chức vụ lớn để rồi chết dần mòn trong một cuộc sống âm thầm là điều mà chỉ những người vĩ đại mới làm được. Có nhiều người làm hỏng mọi việc chỉ vì bám giữ quá lâu địa vị và quyền lực của mình.
Những bậc làm cha mẹ đã không ngại bỏ ra quãng thời gian tốt đẹp nhất của đời mình để chuẩn bị tương lai cho con cái. Khi con cái đã lớn, cha mẹ phải rút lui để chúng có thể sống cuộc đời của chúng. Ðó là sự vĩ đại của những người làm cha làm mẹ.
Nhiều người cứ muốn bám vào ánh đèn sân khấu rực rỡ chói chang, cứ muốn cho mình mãi sáng và đẩy người khác lùi vào bóng tối. Chúng ta không được làm thế. Chúng ta phải vận dụng hết mọi khả năng của mình để chiếu sáng tối đa, nhưng đồng thời cũng phải quan tâm đừng cản đường tiến của người khác. Vả lại, chúng ta còn phải nhớ rằng mình còn mang nợ của những kẻ đã dọn đường cho mình. (FM)
* 3. Ðạo thực hành
Kitô giáo là một đạo thực hành và có tính xã hội, nghĩa là không chỉ là tương quan giữa Chúa với tôi, mà là Chúa - tôi - và những người khác. Có một câu chuyện về một người thợ giày tên là Martin. Ông sống và làm việc ở tầng hầm. Tầng hầm này chỉ có mỗi một cửa sổ, cho nên ông chỉ nhìn thấy những bàn chân của những người qua lại. Chỉ cần thấy đôi giầy của người đi qua là ông biết người ấy là ai.
Ðời ông rất vất vả. Vợ ông đã chết, để lại một đứa con trai. Tuy nhiên khi thằng con vừa đủ lớn để có thể giúp ông thì nó cũng lâm bệnh và chết. Ông Martin rơi vào tuyệt vọng. Chôn cất thằng con xong, ông bỏ đạo và rơi vào thói rượu chè.
Một ngày kia, một người bạn già đến thăm ông. Ông trút hết bầu tâm sự. Người bạn khuyên ông nên đọc Tin Mừng, mỗi ngày một đoạn. Và bảo đảm rằng nhờ đó ông sẽ tìm lại được ánh sáng và niềm vui cho cuộc sống. Ông Martin làm theo lời bạn. Mỗi ngày làm việc xong tới chiều là ông cầm sách Tin Mừng đọc một đoạn. Ban đầu ông chỉ đọc những đoạn Tin Mừng Chúa nhật. Nhưng sau đó thấy hấp dẫn nên ông đọc luôn những ngày trong tuần. Dần dà đời ông thay đổi, niềm vui đã trở lại với đời ông.
Một đêm, khi ông đang đọc Tin Mừng thì ông nghe có tiếng nói với mình "Martin, ngày mai hãy nhìn qua cửa sổ, tôi sẽ đến thăm ông". Vì khi đó chẳng có ai cả nên ông Martin tin rằng đó là tiếng Chúa nói với ông. Bởi đó sáng hôm sau, lòng ông rất phấn khởi. Ông vừa làm vừa nhìn qua cửa sổ. Ông chăm chú để ý mọi đôi giày đi qua đi lại để chờ xem Chúa có đến thăm ông không. Nhưng chẳng có một đôi giày nào lạ cả.
Ðến xế chiều thì ông thấy một đôi giày rất quen, đó là giày của một người lính già tên là Stephen. Mở cửa ra, Ông Martin thấy Stephen đang đứng chắn ngay cửa, hai tay khoanh chặt trước ngực vì trời đang rất lạnh. Ông Martin rất muốn hắn ta đi chỗ khác cho rồi kẻo cứ chắn cửa sổ khiến ông không thấy được Chúa nếu Ngài đi ngang qua. Tuy nhiên Stephen cứ đứng đấy mà run. Cuối cùng Ông Martin nghĩ rằng chắc là hắn đói nên mời hắn vào ngồi cạnh lò sưởi, đưa cho hắn một ly trà và một mẫu bánh mì. Một lát sau Stephan cáo từ. Ông Martin còn đưa thêm cho hắn một chiếc áo khoác để đỡ lạnh. Suốt khoảng thời gian tiếp Stephen, Ông Martin không quên để ý nhìn về cửa sổ. Mỗi lần có một bóng người đi qua là ông chăm chú nhìn. Nhưng chẳng có gì đặc biệt. Ðêm xuống. Ông Martin thu dọn đồ nghề và miễn cưỡng đóng cánh cửa sổ. Ăn buổi tối xong, ông cầm quyển Tin Mừng và tình cở mở ngay đoạn này: "Bấy giờ dân chúng đến hỏi Gioan 'Chúng tôi phải làm gì?' Gioan đáp 'Ai có hai áo hãy chia cho người không có. Ai có gì ăn cũng hãy làm như vậy". Ông Martin bỏ sách xuống và suy nghĩ, rồi ông chợt hiểu rằng quả thực hôm nay Chúa đã đến thăm ông qua anh chàng Stephen ấy. May mà ông đã đón tiếp tử tế. Thế là Ông Martin cảm thấy lòng tràn ngập vui mừng, một niềm vui mà từ trước tới nay ông chưa từng cảm nghiệm.
Ông Martin đã đón rước Chúa vào đời mình bằng việc đọc Tin Mừng. Và bước thứ hai đến một cách tự nhiên: ông đã đón rước Chúa qua việc đón rước người anh em đói khổ. Chúng ta đang dọn đường cho Chúa đến, và chúng ta tin chắc rằng Ngài sẽ mang quà đến cho chúng ta. Nhung hãy nhớ rằng Chúa không chỉ đến trong lễ Giáng sinh. Ngài luôn đến, mọi lúc, mọi nơi, dưới mọi hình dáng, nhất là dưới hình dáng những người đang cần giúp đỡ. (FM)
4. Cho Chúa một cơ hội
Cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao? - Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Ðức Ki tô. - Vậy xin hỏi anh, ông ta sinh ra trong quốc gia nào? - Rất tiếc là tôi đã quên mất chi tiết này. - Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi? - Tôi cũng không nhớ rõ nên chẳng dám nói. - Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài? - Tôi không biết!
- Quả thật, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo ông Kitô!
- Anh nói đúng một phần. Tôi rất hỗ thẹn vì mình đã biết quá ít về Ðức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước, tôi là người nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận và buồn tủi.
Thế mà, bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại hạnh phúc, các con tôi trông ngóng, chờ tôi về sau giờ tan sở.
Những điều này không ai khác hơn, chính là đức Ki tô đã làm cho tôi. Và đó là tất. cả những gì tôi biết về Người.
Khi lãnh phép rửa sám hối của Gioan, dân chúng hỏi ông: "Chúng tôi phải làm gì?" (Lc3,10). Qua câu hỏi ấy, chúng ta thấy sám hối mang chiều kích cộng đoàn, sẵn sàng đổi mới bằng hành động cụ thể. Các Thánh thường nói: "Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?" Ðó là một thái độ sẵn sàng làm theo ý Chúa. Có được tâm tình ấy quả không dễ dàng. Nhưng nói được như Ðức Maria mới thực là cao quí: "Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Ngài nói" (Lc 1,38).
Người tân tòng trong câu chuyện trên đây, sau khi được đổi mới hoàn toàn, ông đã nói: "Những điều này không ai khác hơn, chính là Ðức Kitô đã làm cho tôi".
Như vậy:
Sám hối không chỉ là quay trở về với quá khứ, mà còn hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn. Sám hối không chỉ có tính cách cá nhân, mà còn mang tính liên đới trong cộng đoàn. Sám hối không chỉ là một cảm xúc mông lung, nhưng chính là một quyết tâm hành động. Sám hối không chỉ là hướng tới đời sống thánh thiện, mà là trở về với một đấng thánh: Chúa Giêsu Ki tô. Vì thế, sám hối chính là dành cho Chúa Ki tô cơ hội để Người thanh tẩy tâm can, thay đổi con người, nhất là để Người biến những tâm tình và ước muốn của chúng ta nên giống những tâm tình và ước muốn của Người.
Thay vì sám hối bên ngoài, Chúa Ki tô muốn chúng ta thật sự hướng lòng về Người. Thay vì kiêu căng tự mãn, Chúa Ki tô muốn chúng ta thực sự khiêm tốn để nên giống Người.
Thay vì nô lệ cho của cải, tiền bạc, Chúa Kitô muốn chúng ta hãy ra khỏi nỗi bận tâm về mình mà nhường cơm sẻ áo cho anh em.
Mùa Vọng là mùa của hy vọng. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Cho dù con người có sa ngã, phản bội, Thiên Chúa vẫn theo đuổi chương trình cứu độ của Người. Cho dù thấp hèn tội lỗi, con người vẫn mang hình ảnh cao đẹp của Thiên Chúa, nên mỗi người đều được Thiên Chúa tin tưởng, yêu thương. Mùa Vọng mời gọi chúng ta sám hối, đồng thời cũng kêu gọi chúng ta hãy hoàn toàn phó thác và hy vọng nơi Người.
Lạy Chúa Giêsu, sám hối là dọn đường cho Chúa đến, sám hối cũng là dọn lối để đến với tha nhân. Xin dạy chúng con biết bày tỏ lòng sám hối bằng cách mềm mại để Chúa uốn nắn, và quyết tâm sống công bình bác ái với anh em. Amen (TP)
* 5. "Chúa đã đến gần"
"Chúa đã đến gần". Câu này nghĩa là gì?
Phải chăng là đã gần đến lễ Giáng sinh? Hôm nay vào tuần thứ ba Mùa Vọng rồi. Chỉ còn hơn một tuần nữa thôi. Hiểu như vậy là hời hợt quá.
Phải chăng là Chúa đã ở ngay cửa lòng chúng ta. Chỉ cần chúng ta mở cửa thì Ngài bước vào? Ðúng vậy. Việc quan trọng nhất phải làm không phải là dọn dẹp bên ngoài mà là mở rộng cửa lòng để đón Chúa.
Và còn một nghĩa rất đặc biệt nữa: "Chúa đã đến gần" nghĩa là Chúa ở ngay trong những người gần cạnh chúng ta, ở ngay trong công việc chúng ta đang làm, ở ngay trong hoàn cảnh chúng ta đang sống. Ăn thua là chúng ta có nhận ra Chúa đang ở rất gần chúng ta hay không?
* 6. Chuyện minh họa
a/ Ông nhà giàu và người thợ giày
Có một người thợ giày suốt ngày vui vẻ ca hát. Lúc nào trẻ con trong xóm cũng xúm quanh nghe ông hát.
Ðối diện nhà anh là một ông nhà giàu suốt đêm lo đếm tiền, đến sáng mới đi ngủ nhưng cũng không ngủ được vì tiếng hát của anh thợ giày. Một hôm ông nghĩ ra một cách buộc người thợ giày im tiếng hát.
Ông mời người thợ giày sang nhà ông và tặng anh một túi đầy những đồng tiền vàng. Anh thợ giày trở về nhà ngồi đếm tiền cả ngày. Ðám trẻ con nhìn anh, anh sợ chúng biết anh có nhiều tiền nên đuổi chúng đi và đóng cửa lại. Ban đêm anh cứ nhớ tới túi tiền nên không ngủ được, anh ngồi dậy đem túi tiền giấu ở một nơi kín đáo. Sau đó anh nghĩ rằng nơi đó cũng chưa đủ an toàn nên lại ngồi dậy đem giấu nơi khác. Ban ngày lòng anh cũng canh cánh lo sợ. Thế là anh không còn hát ca gì nữa, cũng không đóng được đôi giày nào nữa. Tệ hại nhất là trẻ con không còn tới chơi với anh. Một thời gian sau anh chịu không nỗi nửa, đem túi vàng trả lại ông nhà giàu. Thế là từ đó trở đi anh lại vui vẻ, hát ca và trẻ con trở lại chơi với anh. (Willi Hoffsemmer).
b/ Tiếng cười - tặng phẩm
Sau mấy ngày hội thảo đầy căng thẳng, hai nhà truyền giáo Theodore Cuyler và Charles Spurgeon đi ra ngoài xả hơi. Họ chạy nhảy giữa cánh đồng như thể các học sinh được nghỉ học, vui chơi thỏa chí. Cuyler kể một câu chuyện vui làm Spurgeon bật cười sảng khoái. Rồi thình lình ngài nói:
- Này bạn Theodore, chúng ta hãy quì gối cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta tiếng cười vui vẻ vừa rồi.
Và rồi cả hai nhà truyền giáo vĩ đại đó thản nhiên quì trên bãi cỏ xanh tươi cám ơn Chúa trước quà tặng là tiếng cười đó.
Ðâu có gì mâu thuẫn giữa cầu nguyện và cười vui? Vì một đàng là biểu hiện của sức khỏe tâm linh, một đàng là của sức khỏe thể xác.
* 7. Bài giải thích của Origène (+ 253)
Phép rửa của Chúa Giêsu là rửa "bằng Thánh Thần và lửa" (Lc 3,17). Nếu bạn thánh thiện, bạn sẽ được rửa bằng Thánh Thần; nếu bạn tội lỗi, bạn sẽ bị rửa bằng lửa. Cùng một phép rửa sẽ thành án phạt và lửa cho những người tội lỗi bất xứng; nhưng các thánh, tức những người trở lại cùng Chúa với một niềm tin tưởng trọn vẹn, thì họ sẽ nhận được ơn sủng của Chúa Thánh Thần và ơn cứu độ.
Vậy, Ðấng được nói là "rửa bằng Thánh Thần và lửa" ấy, "tay Ngài cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẫy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi" (Lc 3,17-18). Tôi muốn tìm hiểu xem vì sao Chúa cầm nia trong tay, và bởi luồng gió nào mà thóc lép bị thổi bay đi trong khi lúa mẫy, nặng hơn, thì gom lại một chỗ. Vì, nếu gió không thổi thì người ta không thể tách thóc mẫy ra khỏi thóc lép được.
Tôi tin rằng phải hiểu gió là những cơn cám dỗ khiến cho trong đám đông các tín hữu lẫn lộn lộ ra những người thuộc hạng thóc mẫy và những người thuộc hạng thóc lép. Vì chưng, khi tâm hồn bạn bị cám dỗ khống chế thì không phải cơn cám dỗ ấy biến bạn thành thóc lép, mà vì chính bạn thuộc về hạng thóc lép, tức là hạng người nhẹ dạ và không có đức tin. Cám dỗ chỉ vạch trần bản chất ẩn dấu của bạn mà thôi. Ngược lại, khi bạn can đảm chống lại cám dỗ thì cũng không phải cám dỗ làm cho bạn trở nên trung thành và kiên trì. Cám dỗ chỉ giúp làm hiện rõ những nhân đức kiên trì và can đảm có sẵn trong bản chất bạn trước đây còn ẩn kín mà thôi. Chúa đã nói: "Ngươi tưởng rằng Ta còn có mục đích nào khác hơn là làm tỏ lộ sự công chính của ngươi chăng?" (G 40,3 theo bản LXX). Chỗ khác Ngài còn nói: "Ta đã hạ ngươi xuống và cho ngươi chịu đói hầu bày tỏ ra điều gì đang có trong lòng ngươi" (Ðnl 8,3-5)
Cũng một cách ấy, bão táp không làm vững chắc cho "ngôi nhà xây trên cát" (Mt 7,24-25). Nhưng nếu bạn muốn xây nhà thì hãy "xây trên đá". Khi ấy dù bão tố có nổi lên cũng không đánh đổ được ngôi nhà được xây trên đá, mà chỉ làm sập ngôi nhà xây trên cát thôi. Cũng vậy, trước khi nổi lên bão tố, gió thổi, sóng ùa, khi mọi sự còn yên tĩnh, chúng ta phải chú ý đến cái nền nhà, chúng ta phải xây ngôi nhà chúng ta bằng những viên đá vững chắc là các giới răn của Chúa; khi cơn bắt bớ bùng nổ làm cho các kitô hữu phải hoang mang lo lắng thì chúng ta chứng tỏ rằng ngôi nhà chúng ta đã được xây trên đá tảng là Chúa Giêsu Kitô.
Nhưng nếu ai đó chối bỏ Ngài - nguyện cho chúng ta thoát khỏi điều khốn nạn này - thì người ấy phải biết rằng không phải lúc việc nó chối Chúa được tỏ lộ rõ ràng thì nó mới chối Ngài đâu; nó đã mang sẵn trong mình nó những gốc rễ xa xưa của việc chối Chúa rồi; chỉ sau này khi người ta khám phá điều nó mang sẵn trong lòng thì điều ấy mới được công khai ra.
Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta là ngôi nhà vững chắc không cơn bão nào đánh đổ được vì đã được xây trên nền đá, trên Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Kính dâng Ngài vinh quang và quyền lực đến muôn thuở muôn đời, Amen.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, thánh Phaolô mời gọi chúng ta: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa, và giãi bày trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Trong niềm hân hoan trông chờ Con Chúa ngự đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn khuyên nhủ con cái mình / cố gắng sống bác ái yêu thương với tất cả mọi người / tôn trọng công bằng trong đời sống xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết quan tâm đến lời khuyên tha thiết của Hội thánh / và cố gắng thực hiện trong đời sống đức tin thường ngày.
2. Trên thế giới ngày nay / vẫn còn biết bao người đang đói khổ vì thiên tai / vì thiếu lương thực thực phẩm trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang lâm cảnh gian truân khốn khó / được cứu trợ đầy đủ và kịp thời.
3. Trong cuộc sống thường ngày / có một số người chỉ lo cho bản thân mình / mà ít khi quan tâm đến người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu hiểu rằng / họ cần phải sống theo lời thánh Phaolô dạy: / là vui với người vui và khóc cùng người khóc.
4. Chia sẻ cơm áo cho những ai đói rách bần cùng / cũng như tôn trọng tài sản và danh dự của mọi người / là bổn phận của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng chu toàn các bổn phận quan trọng này.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đang hết lòng trông đợi Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa giáng trần để cứu độ chúng con. Xin Chúa ban ơn thanh tẩy tâm hồn chúng con sạch mọi vết nhơ tội lỗi, để xứng đáng đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu xin.
Phaolô mời gọi các tín hữu của Ngài: “hãy vui lên”. Tiên tri Sophônia nói: “hãy ca lên”: MV 3-C54
Phaolô mời gọi các tín hữu của Ngài: “hãy vui lên”. Tiên tri Sophônia nói: “hãy ca lên”. Tôi phải làm gì để chuẩn bị tâm hồn đón Thiên Chúa đến? Tôi phải làm gì để có thể sống vui?
1. Vì Thiên Chúa ở giữa ngươi
Tiên tri Sôphônia cho rằng phải ca hát vì Thiên Chúa đang ở giữa dân Người, vì Thiên Chúa đã đẩy lui quân thù cho dân, vì Thiên Chúa sẽ thêm sức mạnh cho dân Người, vì Thiên Chúa yêu thương dân Người, Ngài quy tụ cả những kẻ đã bỏ lề luật của Ngài.
Thiên Chúa ở với ai, thì người đó sẽ được Thiên Chúa bảo vệ. Thiên Chúa đã ở với Abraham khi ông đi vào Aicập, Ngài đã bảo vệ ông khỏi bao tai họa và bênh vực quyền lợi của ông. Khi Sara, vợ của Abraham, được thương yêu và bị bắt làm vợ vua Pharaô, thì Thiên Chúa đã đổ tai họa xuống người Aicập và buộc Pharaô phải trả Sara về cho Abraham. Thiên Chúa đã ở với Giacóp, đã đi với Giacóp và dẫn ông trở về quê cha đất tổ khi ông chạy trốn Esau. Thiên Chúa đã ở với Môsê, để ông có thể đứng vững trước vua Pharaô, để ông có thể đem dân Do Thái ra khỏi Aicập. Thiên Chúa đã ở với các tiên tri, để làm cho các tiên tri dám nói những điều mà những người có quyền thế và dân chúng không muốn nghe.
Hôm nay người ta biết rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Ngài luôn luôn hiện diện với tất cả mọi người và với dân Người. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, Ngài luôn trợ giúp con người vì tất cả đều là con dân của Ngài. Không nhờ Ngài, không gì có thể hiện hữu và thành sự. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người. Con người cần Thiên Chúa để sống hạnh phúc, và Thiên Chúa cũng cần con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa đang ở với con người, đó là lý do mọi người cần biết để có thể vui lên.
2. Vì Chúa đã gần đến
Thánh Phaolô kêu gọi dân thành Philip hãy vui lên, vì “Chúa đã gần đến”. Với thánh Phaolô, Đức Giêsu là Đấng có thân phận Thiên Chúa, Ngài đã tự hủy khi mang thân phận con người, Thiên Chúa đã đến và ở giữa con người, hiện Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đến hiện diện giữa trần gian trong thân phận con người, và Ngài sẽ lại đến. Ngài đang đến, nên các Kitô hữu hãy vui mừng.
Tại sao vui khi Chúa đến gần? Trong quan niệm của thánh Phaolô, Đức Giêsu là niềm vui, là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào! Chúa tới, là để cứu độ con người, để giải phóng toàn diện con người, đưa con người vào hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Vì vậy, Kitô hữu vui biết bao khi biết Chúa đang tới gần. “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi… Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại đón anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng được ở đó với Thầy”. Trong khi chờ đợi Chúa, Kitô hữu hãy sống ôn hòa. Niềm vui phải tỏa rạng trên gương mặt của các Kitô hữu, vì đây là niềm vui lớn vô cùng. Trên đời này, không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui này: Chúa đến để cứu độ con người, để đưa con người tới hạnh phúc viên mãn. Dân ngoại không biết, nên không có niềm vui này được; còn Kitô hữu biết điều này, nên họ vui. Nếu Kitô hữu không biết điều này, thì thánh Phaolô đã nhắc nhở các con cái của Ngài: “hãy vui lên, tôi nhắc lại lần nữa: anh em hãy vui lên trong Chúa”.
3. Đức Giêsu- niềm vui của con người
Đức Giêsu quả thực là niềm vui của con người! Khi được sinh ra tại chuồng chiên cừu nơi làng Bêlem, không ai biết Ngài là nhân vật đặc biệt. Khi sống thời thơ ấu tại Nazarét, cũng chẳng ai biết nguồn gốc thần linh của Ngài ngoại trừ Đức Mẹ và thánh Giuse. Khi Ngài đi rao giảng, Ngài được coi là một tiên tri, là người qua đó Thiên Chúa hiện diện và yêu thương dân Người. Với tư cách là một tiên tri, người của Thiên Chúa, Ngài cũng đã làm cho dân chúng thêm tin tưởng vào Thiên Chúa, làm cho dân chúng vui vì họ cảm nhận Thiên Chúa quan tâm và an ủi dân Người.
Sau biến cố Phục Sinh, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu hoàn toàn lấy ý Thiên Chúa làm ý mình, Ngài chấp nhận vâng phục cho đến chết, Ngài hoàn toàn phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, Ngài thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Đức Giêsu có nguồn gốc thần linh; điều này là nguyên nhân khách quan làm Kitô hữu vui mừng.
Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng đồng bản tính với Thiên Chúa, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng! Thiên Chúa đã yêu thương con người đến cùng cực nên mới cho Con của Ngài nhập thể làm người! Con người thật hạnh phúc dường bao khi nghe Tin Mừng này. Niềm tin này ảnh hưởng trên con người toàn diện, làm con người vui mừng hân hoan. Đâu còn niềm vui nào lớn hơn niềm vui này! Niềm vui này phải lan tỏa và chi phối toàn diện con người, cả về thể lý lẫn tinh thần. Ước gì mỗi Kitô hữu tin tuyệt đối vào Đức Giêsu Kitô, để cuộc đời của mỗi người là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người được biểu lộ qua Đức Giêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Xin chia sẻ niềm vui lớn nhất trong đời bạn.
Bạn có kinh nghiệm về nỗi buồn không? Nó là gì? Nó có đáng cho bạn buồn không?
Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin chia sẻ!. Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ
Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng này, Phụng Vụ mời gọi chúng ta hãy vui lên, bởi vì lễ Giáng: MV 3-C55
Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng này, Phụng Vụ mời gọi chúng ta hãy vui lên, bởi vì lễ Giáng Sinh sắp đến rồi.
Quả thật, Chúa Nhật này đánh dấu nữa đoạn đường Mùa Vọng, và như nữa đoạn đường Mùa Chay, đây thời gian nghỉ ngơi lấy sức cho một cuộc hành trình. Xưa kia, Chúa Nhật này được gọi Chúa Nhật “hãy vui lên”, nhan đề được rút ra từ đoạn thư thánh Phao-lô gởi các tín hữu Phi-líp-phê mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật hôm nay.
Xp 3: 14-18
Bài đọc thứ nhất là bản văn của ngôn sứ Xô-phô-ni-a mời gọi Giê-ru-sa-lem “hãy vui lên”, vì đã được Thiên Chúa sủng ái và sắp được Thiên Chúa viếng thăm.
Pl 4: 4-7
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê “hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”, Ngài là nguồn mạch của bình an.
Lc 3: 10-18
Đoạn Tin Mừng Lu-ca thuật lại lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả; lời rao giảng này xác định những nét đặc thù của “Tin Mừng”.
BÀI ĐỌC I Xp 3: 14-18
Ngôn sứ Xô-phô-ni-a sống vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên; ông thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào những năm 640-625 trước Công Nguyên.
1. Bối cảnh:
Vương quốc Giu-đa vào lúc đó được cai trị bởi một ấu chúa là Giô-si-gia, lên ngôi lúc tám tuổi. Thời kỳ được ghi dấu bởi những di hại của một triều đại dài lâu do một vị vua vô đạo là vua Mơ-na-se. Phong tục tập quán ngoại giáo, thờ cúng ngẫu tượng, bạo lực, gian lận, bất công xã hội, thói kiêu căng của những kẻ quyền thế, tinh thần hưởng thụ của những người giàu có, vân vân. Vị ngôn sứ lớn tiếng chê trách và tiên báo cơn thịnh nộ của Thiên Chúa; đó sẽ là “Ngày của Đức Chúa”, ngày thịnh nộ. Tuy nhiên, đó sẽ không là ngày tận thế. Thiên Chúa sẽ cho sót lại một dân nghèo hèn và bé nhỏ, chúng sẽ không làm những chuyện tàn ác bất công, nhưng tìm nương ẩn nơi Đức Chúa.
Bài hoan ca được trích dẫn hôm nay mời gọi Giê-ru-sa-lem hãy vui lên, ngay liền sau đó, gợi lên những người công chính thoát khỏi án phạt.
Nguyên nhân sâu xa khiến Giê-ru-sa-lem hoan hĩ vui mừng chính là chắc chắn mình đã được Thiên Chúa sủng ái, đã được Thiên Chúa cứu độ, Ngài là Chúa Tể lịch sử và đang ngự giữa dân Ngài.
2. Niềm vui của dân Ngài cũng là niềm vui của Thiên Chúa:
Điều ngạc nhiên nhất của bài hoan ca này đó là vị ngôn sứ thiết lập một sự song đối giữa niềm vui của dân thành Giê-ru-sa-lem và niềm vui của Thiên Chúa, chính Ngài sẽ vui mừng hoan hĩ vì gặp lại dân Ngài.
Chắc chắn không cần thiết phải tìm kiếm xem biến cố nào đã gây nên niềm phấn khởi đầy lạc quan ở nơi vị ngôn sứ. Trước tiên, đây là viễn cảnh thời Mê-si-a. Bài thơ của ông ca ngợi vị Vua Cứu Tinh tiến vào trong Thành Thánh; Ngài là vị vua chiến thắng và giải thoát: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy xa”. “Này Xi-on, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời”. Bởi vì, trong ngôn từ của vị ngôn sứ, sự giải thoát là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa tha thứ: “Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng”.
Thành Thánh Giê-ru-sa-lem hân hoan reo mừng đón tiếp Đức Vua của mình, chính Đức Chúa thân hành ngự giá đến ở giữa dân Ngài, Ngài là vị vua đích thật của Ít-ra-en. Trong một bản văn mang đậm nét Mê-si-a hơn, ngôn sứ Da-ca-ri-a ca ngợi niềm vui của Giê-ru-sa-lem bằng những lời lẽ tương tự: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỹ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Chúa của người đang đến với ngươi…” (Dcr 9: 9). Thành Đô Giê-ru-sa-lem được giải thoát và sống trong cảnh thanh bình, bởi vì Chúa “sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi” như người yêu lấy tình thương mà biến đổi người mình yêu.
Niềm vui của Thiên Chúa chẳng thua kém gì niềm vui của Thành Thánh. Thiên Chúa hạnh phúc được ở giữa những người mà tình thương của Ngài đã cứu thoát. “Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” vì dân Ngài đã thấy ơn cứu độ.
Một vị ngôn sứ khác, I-sai-a đệ tam, cũng thấy Thiên Chúa vui mừng hoan hĩ nhưng trong viễn cảnh cánh chung, Chúa liên kết mình vào với niềm vui của những người được tuyển chọn”: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính Ta sáng tạo. Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng. Vì Giê-ru-sa-lem Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng. Nơi đây, sẽ chẳng còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la” (I s 65: 17-19). Thật ra bản văn của Xô-phô-ni-a không phải là không gợi lên quang cảnh Thành Thánh Giê-ru-sa-lem trên trời.
Niềm vui cứu độ thời Mê-si-a là niềm vui mà sứ thần loan báo cho Đức Ma-ri-a, thiếu nữ Xi-on tuyệt vời nhất: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà…Thưa bà, xin đừng sợ…Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà”.
BÀI ĐỌC II Pl 4: 4-7
Thánh Phao-lô cũng khẩn khoản nhắc đi nhắc lại các tín hữu Phi-líp-phê hãy vui lên. Còn hơn cả lời khuyên, lời mời gọi này là nguyên tắc căn bản trong thần học của vị sứ đồ; niềm vui tâm linh, “Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”, đúng nguyên ngữ, “trong niềm vui của Chúa Ki tô”; đây là biểu thức quen thuộc của thánh Phao-lô.
1. Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa:
Tuy nhiên, như chúng ta biết qua bức thư này, các tín hữu Phi-líp-phê phải chiến đấu cam go vì niềm tin của mình: “Quả thế, nhờ Đức Giê-su Ki tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì người. Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục” (Pl 1: 29-30).
Thánh Phao-lô đưa ra một mẫu gương về niềm vui này, vì vào lúc đó ngài đang bị giam cầm, chắc chắn ở Ê-phê-sô. Thánh nhân vừa mới nhận biết những đau khổ sống động của sứ vụ tông đồ (vài người dân Cô-rin-tô đố kỵ và vu khống ngài và cản trở sứ vụ của thánh nhân ở Ê-phê-sô), tuy nhiên, thánh nhân vẫn vui trong niềm vui của Chúa.
2. Sống hiền hòa.
“Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi”. “Hiền hòa” là dụng ngữ của sự khôn ngoan Hy lạp; từ này chỉ đức hạnh đặt nền tảng trên lý trí và đức độ, thăng hoa ở nơi một cuộc sống hiền hòa. Thánh Phao-lô lập lại đức hiền hòa này trong lời khuyên gởi đến hai môn đệ và là cộng tác viên của ngài là Ti-mô-thê và Ti-tô (Tm 3: 3; Tt 3: 2). Nếu dân ngoại tìm kiếm một lý tưởng như vậy, huống chi là những người Ki tô hữu. Còn gì tốt đẹp cho bằng các tín hữu phải nêu gương một cuộc sống hiền hòa. Rõ ràng thánh Phao-lô gởi đến các Ki tô hữu gốc Hy lạp, họ có thể hiểu được lời khuyên của Ngài.
3. Chúa đã gần đến:
Những Ki tô hữu sống vui vẻ và hiền hòa vì họ xác tín ơn cứu độ đang ở trong tầm tay, điều mà các tác giả Tin Mừng diễn tả “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần rồi”. Quả thật, thật thích hợp để duy trì sự uyển chuyển ở nơi câu nói: “Chúa đã đến gần rồi”. Thánh Phao-lô có một cái nhìn tăng tốc của lịch sử. Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su đã thiết lập kỷ nguyên cứu độ; chắc chắn kỷ nguyên này sẽ triển nở viên mãn vào ngày Đức Giê-su quang lâm. Viễn cảnh này phải đem lại niềm vui tròn đầy cho người Ki tô hữu, tuy nhiên, ngay từ bây giờ viễn cảnh này được khai mở trong một cuộc sống kết hợp với Đức Ki tô.
4. Niềm vui, lời khẩn nguyện và bình an:
Vui vì tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, vậy chẳng có gì phải lo lắng cả. Chính ở nơi niềm tin tưởng này mà lời khẩn nguyện và tâm tình tạ ơn có thể được liên kết mật thiết với nhau. Mối liên kết này hoàn toàn theo truyền thống kinh thánh. Thánh vịnh gia dâng lên Thiên Chúa lời khẩn nguyện và tâm tình cảm tạ tri ân của mình, đồng thời ông tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ đáp trả niềm tin tưởng của mình. Trong những viễn cảnh Ki tô giáo, lời khẩn nguyện cắm rể sâu vào trong tâm tình cảm tạ và chiêm ngắm mầu nhiệm cứu độ. Từ đó sinh ra một sự bình an trong tâm hồn, một sự bình an không phát xuất từ nỗ lực phàm nhân, nhưng từ lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài, một sự bình an vượt quá mọi hiểu biết của con người.
Trong các bức thư của thánh Phao-lô chúng ta cũng gặp thấy những lời khuyên tương tự; nhưng thư gởi các tín hữu Phi-líp-phê được viết với những lời lẽ thân tình và tràn đầy tin tưởng, qua đó thánh Phao-lô để lộ những bí ẩn đời sống nội tâm của mình.
TIN MỪNG Lc 3: 10-18.
Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng duy nhất cho nhiều chi tiết xác định về lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Bản văn này cũng dâng hiến một lợi ích lớn lao: thánh ký không rao giảng về những đề tài thần học khó hiểu, nhưng về đời sống.
Bản văn bao gồm hai phần, tương xứng với chuyển động kép của câu chuyện: phát triển sứ điệp của thánh Gioan Tẩy Giả, khởi đi từ giáo huấn thực tiển đến mặc khải về Đấng Mê-si-a; đồng thời phát triển tâm lý của những ai thực tâm muốn thay đổi cuộc đời mình, từ việc mở lòng mình ra thi hành đức ái và sự công chính, cho đến việc vươn mình lên tìm kiếm Thiên Chúa hay ít ra vị sứ giả của Ngài.
1. Đám đông:
Đối với đám đông, những người đến xin được chịu phép rửa và bày tỏ ước nguyện thăng tiến trên con đường đức hạnh, thánh Gioan Tẩy Giả đề xuất nguyên tắc đức ái: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Việc san sẻ chia sớt cho nhau những hạt cơm manh áo là bước khởi đầu của sự biến đổi tấm lòng. Chúng ta đừng quên, thánh Lu-ca cũng là tác giả sách Công Vụ Tông Đồ: thánh ký đã mô tả hành động “tương thân tương ái” giữa các Ki-tô hữu tiên khởi: “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự điều là của chung” (Cv 4: 32).
Tiếp đó, thánh nhân trình bày những trường hợp cá biệt, trước tiên, trường hợp của những người thu thuế.
2. Những người thu thuế:
Những người thu thuế bị quy trách nhiệm là những kẻ tham lam hút máu đồng bào của mình, bởi vì những người thu thuế này ứng trước tiền thuế dân chúng phải nộp cho đế quốc Rô-ma, sau đó, thu lãi tiền thuế của dân chúng. Hơn nữa, dân chúng khinh bĩ họ vì sự hiện diện của họ nhắc nhớ ách đô hộ của chính quyền Rô-ma trên dân Do thái và buộc tội họ là tay sai của thế lực ngoại bang và đối xử họ như “quân trộm cướp”.
Đức Giê-su thường giao du với “quân trộm cướp” này, những kẻ tội lỗi này; Ngài cũng sẽ đưa ra một người trong số họ làm mẫu gương cầu nguyện (Lc 18: 9-14). Chính họ mà thánh Lu-ca, ngay từ khởi đầu Tin Mừng, giới thiệu họ như những người thành tâm thiện chí muốn được hoán cải: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Thật lạ lùng, trong cùng một chương Tin Mừng Gioan sóng đôi với chương Tin Mừng Lu-ca, những người Pha-ri-sêu cũng đến hỏi Gioan Tẩy Giả, nhưng với thái độ hiếu kỳ và ngờ vực, vì thế họ từ chối hoán cải. Thói tự cao tự đại làm cho họ trở nên cố chấp trong khi những kẻ bị khinh bĩ, ghét bỏ và những người khiêm tốn lại mở lòng mình ra trước ánh sáng.
Đối với những người thu thuế này, thánh Gioan Tẩy Giả không đòi hỏi họ phải từ bỏ nghề nghiệp của mình, nhưng thực thi công bình: “Đừng đòi hỏi điều gì quá mức ấn định cho các anh”.
3. Binh lính:
Binh lính cũng đến hỏi thánh nhân: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?”. Những binh lính này là ai? Chắc chắn không phải là các binh lính Rô-ma, họ tránh không trà trộn vào đám đông dân chúng; cũng không phải binh lính Do thái, vì Rô-ma không cho các đất nước bị chiếm đóng quyền tổ chức quân đội. Chắc hẳn đây là dân quân tự vệ được chiêu mộ từ các dân tộc chung quanh, họ thường hộ tống những người thu thuế, vì việc thu thuế thường khó khăn. Khi kể họ ra, phải chăng thánh Lu-ca có ý định khoắc cho sứ điệp của Gioan Tẩy Giả một chiều kích phổ quát? Dù thế nào, họ cũng là hạng người bị dân chúng ghét cay ghét đắng như bọn người thu thuế.
4. Dân chúng:
Thật có ý nghĩa biết bao, vào lúc này, thánh Lu-ca không còn nói đến đám đông, nhưng đến “dân”: “Hồi đó, dân đang trông ngóng”. Như các ngôn sứ xưa kia, thánh nhân kêu gọi họ hãy hoán cải đừng chần chờ gì nữa vì thời gian sắp đến gần rồi.
Thánh nhân nói như một người có uy quyền khiến những ai trông đợi Đấng Mê-si-a tự hỏi: “biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mê-si-a!”. Qua sách Công Vụ Tông Đồ chúng ta biết rằng trong suốt nhiều thập niên có những cộng đoàn môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, họ vẫn trung thành lời dạy của thầy mình và tôn kính thánh nhân như Đấng Mê-si-a (Cv 18: 24-25; 19: 1-7).
Lúc đó, thánh Gioan Tẩy Giả công bố cho mọi người biết rằng ông không là Đấng Mê-si-a. Với đức khiêm hạ ông gợi lên sự cao cả vô cùng tận của Đấng mà ông chỉ là Tiền Hô của Ngài: “Tôi không đáng cỡi quai dép cho Người”. Lời này ám chỉ chính xác đến một truyền thống lâu đời: các kinh sư cấm không được bắt một người nô lệ Do thái làm một công việc nặng nhọc hay hèn hạ như cỡi dày cho chủ hay rửa chân cho chủ.
5. Phép rửa của Đấng Mê-si-a:
Thánh Gioan Tẩy Giả nhấn mạnh sự khác biệt giữa phép rửa của ông và phép rửa mà Đấng Mê-si-a sẽ thực hiện: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. “Lửa” này phải chăng được hiểu là lửa của Chúa Thánh Thần như các Giáo Phụ đã hiểu, hay phải hiểu lửa vừa theo Kinh Thánh vừa theo các văn chương phàm trần, nghĩa là lửa có chức năng vừa thanh luyện những người công chính vừa tiêu hủy quân vô đạo? Chúng ta không biết chính xác, nhưng một điều chắc chắn, đó là thánh Gioan Tẩy Giả tự nhận mình là vị Tiền Hô, không chỉ của Đấng Mê-si-a nhưng cũng là của Giáo Hội. Chính Giáo Hội sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, Đấng ngự xuống trên Giáo Hội như “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2: 1-4).
6. Đấng Mê-si-a Thẩm Phán:
Khi miêu tả chan dung của Đấng Mê-si-a như một vị Thẩm Phán, Ngài sẽ chọn lựa những người tốt ra khỏi những kẻ xấu, thánh Gioan Tẩy Giả định vị mình vào hàng những đại ngôn sứ, liên kết kỷ nguyên Mê-si-a và kỷ nguyên cánh chung vào trong cùng một viễn cảnh: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Giờ thu hoạch mùa màng sẽ tới, nhưng chậm hơn. Chính Đức Giê-su sẽ là vị Thẩm Phán của ngày Chung Thẩm.
7. Tin Mừng: “Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ”. Cũng như tại sách Tin Mừng Mác-cô, tại sách Tin Mừng Lu-ca lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả đánh dấu khởi điểm của Tin Mừng. Điều này khiến chúng ta nghĩ rằng khoa giáo lý tiên khởi bắt đầu với việc kể ra thánh Gioan Tẩy Giả và lời dạy của thánh nhân. Bản văn của thánh Lu-ca bày tỏ rất rõ nét khoa giáo lý này. Việc thực hành đức ái và công bình được xem như bước khởi đầu của việc hoán cải, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải dẫn đến việc kết hiệp với một con người, Đức Ki tô. Chính trong Giáo Hội mà sự kết hiệp này sẽ được thực hiện.
Đây là một trong những bài học, một bài học không nhỏ chút nào, của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Sau khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi ăn năn sám hối, nhiều người tỏ ra phục thiện: MV 3-C56
Sau khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi ăn năn sám hối, nhiều người tỏ ra phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống sai lạc của mình. Họ xin thánh Gioan những lời khuyên: "Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?"
Gioan Tẩy Giả đã đưa ra những lời khuyên thiết thực.
Đối với người khá giả thì ngài khuyên họ hãy chia cơm xẻ áo: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy." (Luca 3, 11)
Đối với người thu thuế thì ngài dạy họ đừng bắt chẹt ai: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh." (Luca 3, 13)
Đối với người nắm quyền lực trong tay thì đừng ức hiếp dân lành và đừng tham nhũng: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình." (Luca 3, 14)
Nói chung, các lời khuyên nêu trên đều khuyến khích mọi người thực hiện công lý, công bằng và bác ái. Nhưng tiếc thay, những lời khuyên của Gioan Tẩy Giả trên đây cũng như những lời Chúa dạy trong Tin Mừng chưa được nhiều người đón nhận và đem ra thực hành nên nhân loại phải sống triền miên trong bất công và nghèo đói.
Theo báo cáo của Viện Nghiên Cứu Kinh Tế Phát Triển của Liên Hiệp Quốc năm 2009, hiện nay những người giàu nhất trên thế giới tuy chỉ chiếm 2% số người trưởng thành trên địa cầu nhưng lại sở hữu tới hơn một nửa của cải toàn thế giới; trong khi hơn một nửa dân số nghèo trên thế giới chỉ chiếm chưa đầy 1% của cải trên toàn trái đất nầy!
Còn theo báo cáo của FAO (Tổ Chức Lương Nông Thế Giới) ngày 14 tháng 10 năm 2009 thì hiện nay có đến 1,02 tỉ người, chiếm 1/6 dân số toàn cầu, đang lâm nạn đói. Số người đói đã lên đến mức kỷ lục!
Trong hoàn cảnh số người lâm nạn đói tăng lên nhiều chưa từng thấy và sự chênh lệch giàu nghèo đạt tới khoảng cách chưa từng có trong lịch sử loài người, thì việc chia cơm xẻ áo, thực thi công lý và công bằng mà Thiên Chúa mời gọi, qua miệng ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, là việc làm khẩn thiết hơn bao giờ hết, để đem lại ấm no cho mọi người, đem lại công bằng cho xã hội, đem lại hạnh phúc cho muôn dân.
Hơn ai hết, ki-tô hữu phải là người đầu tiên đáp lời mời gọi của Thiên Chúa và Hội Thánh để thực thi bác ái, công bình trong xã hội. Một số người cho rằng đạo và đời là hai lãnh vực cách biệt, chẳng có liên hệ gì với nhau nên bên nào thì chuyên lo việc bên đó. Thực ra, hai lãnh vực nầy gắn bó với nhau mật thiết như xác với hồn, bởi vì khi tôn giáo đào tạo nên một tín hữu tốt thì xã hội có thêm một công dân tốt; khi người tín hữu sống công bằng bác ái với người chung quanh, là họ đang làm cho xã hội nên tốt đẹp, vì họ cũng là công dân trong xã hội. Chính khi sống theo những lời khuyên dạy của Tin Mừng, ki-tô hữu góp phần xây dựng và phát triển xã hội bằng chính đời sống của mình.
Vì thế, trong thư gửi cộng đồng dân Chúa dịp công bố năm thánh 2010, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắc lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI gửi cộng đồng dân Chúa: “Khi xây dựng đời sống mình trên nền tảng những giá trị Tin Mừng như bác ái, liêm chính và quý trọng công ích, anh chị em là những công dân tốt, tích cực tham gia vào việc xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng. Qua anh chị em, Giáo Hội đóng góp phần mình vào việc phát triển con người và xã hội cách toàn diện…” Nói tóm lại: bằng đời sống phản chiếu Tin Mừng, người giáo dân góp phần phát triển con người và xã hội.
Dù chỉ là một khối đất đá sù sì không có gì hấp dẫn nhưng mặt trăng trở nên cần thiết và mang vẻ đẹp tuyệt vời khi đón nhận ánh sáng mặt trời và phản chiếu ánh sáng đó soi chiếu nửa phần trái đất đang chìm trong bóng tối. Cuộc đời người ki-tô hữu dù có tầm thường, cũng trở nên hữu dụng và có giá trị cao khi biết đón nhận Tin Mừng của Thiên Chúa và phản chiếu ánh sáng Tin Mừng đó cho những người chung quanh.
Là người ai ai cũng mong đón nhận được niềm vui. Có người tìm niềm vui nơi những thú vui: MV 3-C58
Là người ai ai cũng mong đón nhận được niềm vui. Có người tìm niềm vui nơi những thú vui giải trí. Có người tìm niềm vui nơi những phát minh khám phá. Có người tìm niềm vui khi thống trị, hành hạ người khác…
Phụng vụ lời Chúa Chúa nhật III mùa Vọng năm C sẽ hướng người tín hữu tìm niềm vui đích thực trong Chúa.
I. CHÚA THỨC TỈNH
Tiếp xúc và nghe lời giảng dạy của thánh Gio-an Tẩy Giả, dân chúng đủ mọi thành phần túa đến với thánh nhân xin được làm phép rửa và hỏi ngài: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10).
Câu hỏi của họ cho thấy đã có một sự đột biến trong tâm linh. Trước đây, nhiều người đã sống vị kỷ không quan tâm gì đến người nghèo, những binh lính ngông cuồng hà hiếp dân lành, những người thu thuế vẽ chuyện đòi hỏi người khác quá đáng… Nay, thái độ của họ đã khác hẳn. Họ nỗ lực tử tế qua việc xin được lãnh nhận phép rửa và xin được chỉ dạy để tìm về một cuộc sống có ý nghĩa.
Ngày nay, thế giới không ngừng tiến triển; cuộc sống con người xem ra văn minh hơn xưa. Thế nhưng, trong thế giới văn mình đầy đủ tiện ích không ít người vẫn còn sống trong ích kỷ. Khoảng cách người giàu và người nghèo như càng xa hơn. Cũng trong những thế giới văn minh thì không ít người có quyền đã lạm dụng quyền lực để đàn áp những người thấp cổ bé miệng. Bất chấp nỗi thống khổ của người nghèo, họ bao che cho nhau tham nhũng và dùng mọi thủ đoạn mánh khóe để bòn rút của cải vật chất cho riêng mình,
Khi xưa, Thiên Chúa đã dùng cuộc đời khổ hạnh và những lời giảng dạy đanh thép của thánh Gio-an Tẩy Giả để thức tỉnh lương tâm con người, giúp họ tìm về nẻo chính đường ngay. Chắc chắn những lời giảng dạy Chúa thánh Gio-an Tẩy Giả sẽ vượt thời gian thức tỉnh con người mọi thời đại.
Lời Chúa sẽ mang lại niềm vui cho những ai được thức tỉnh để dấn thân bằng cuộc sống bác ái yêu thương, bằng sự chu toàn đúng mức những bổn phận được trao phó II. CHÚA ĐỔI ĐỜI
Vấn nạn “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10) của đám đông dân chúng đã được thánh Gio-an Tẩy Giả giải mã: Mọi người “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy” (Lc 3, 11)
Người thu thuế: “Đừng đòi hỏi những gì quá mức ấn định cho các anh” (Lc 3, 13).
Binh lính: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng lòng với đồng lương của mình” (Lc 3, 14).
Rõ ràng thánh Gio-an Tẩy Giả không có ý bảo người ta phải bỏ việc đang làm nhưng ngài dạy họ phải làm việc thật tốt đúng với bổn phận đã được lãnh nhận, không những họ phải trở thành người biết yêu thương mà còn phải trở nên những người đáng mến và dễ thương.
Thiên Chúa đã dùng lời của thánh Gio-an Tẩy Giả để ban ơn đổi mới cho nhân loại. Người đổi mới chứ không hủy bỏ những trật tự đã ban cho con người trong trần gian. Thiên Chúa đã muốn con người tìm được niềm vui và hạnh phúc trong chính môi trường sống hòa nhã đáng yêu và dấn thân phục vụ, làm việc bác ái từ thiện giúp đỡ người nghèo.
Niềm vui Thiên Chúa ban chỉ dành cho những ai đón nhận được ơn đổi đời. Từ một người hẹp hòi ích kỷ trở thành người quảng đại dấn thân biết chia sẻ biết sống bác ái yêu thương chan hòa với mọi người được mọi người quý mến. Từ là người lạm dụng quyền hành hà hiếp bạo lực trở nên dễ mến đáng yêu được mọi người kính trọng. Từ là người cơ hội, tham lam thủ đoạn chiếm đoạt của cải người khác khiến họ phải oán giận thậm chi nguyền rủa trở thành người biết sống công bằng. Ơn sám hối và niềm vui được biến đổi sẽ là khởi đầu để người ta đón nhận ơn cứu độ.
III. CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ
Được thánh Gio-an Tẩy Giả cử hành phép rửa và được lãnh nhận những lời thánh nhân chỉ dạy, dân chúng ngỡ rằng chính ngài là Đấng Mê-si-a muôn dân mong đợi “Biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a” (Lc 3, 15).
Trước tình trạng này, thánh Gio-an Tẩy Giả đã khiêm tốn hướng họ đến với Đấng Mê-si-a đích thực “Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa” (Lc 3, 16). Vậy là phép rửa của thánh Gio-an chính là giai đoạn chuẩn bị lòng người đón nhận phép rửa bằng lửa và Thánh Thần của Chúa Giê-su Cứu Thế. Niềm vui trọn vẹn là niềm vui trong Chúa “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4, 4).
Lễ Giáng Sinh đang đến gần; khung cảnh đất trời như đổi thay nhộn nhịp rõ rệt: những ánh đèn rực rỡ sắc màu, những tiếng thánh ca làm lòng người rộn rã, những tấm thiệp, những món quà truyền đi khắp nơi… Tất cả những điều này sẽ tô điểm cho ngày lễ Giáng Sinh thêm rực rỡ, nhưng chưa thể là niềm vui trọn vẹn. Niềm vui Giáng Sinh không chỉ dừng lại nơi sự đổi thay nhất thời đời mà sâu xa hơn là niềm vui được thức tỉnh, được biến đổi hưởng ơn cứu độ, được phục hồi quyền làm nghĩa tử của Thiên Chúa, được sống muôn đời.
KẾT
Mùa Vọng, Thiên Chúa dùng Hội Thánh ban cho người tín hữu niềm vui đích thực nhờ “tỉnh thức và cầu nguyện”. Trong cô tịch và cầu nguyện kết hiệp với Chúa, họ sẽ đón nhận niềm vui trong nội tâm và diễn tả ra bên ngoài bằng cuộc sống biến đổi vượt qua những thói hư tật xấu, những ích kỷ, những lo âu trĩu nặng vật chất, những sợ sệt ngại ngùng, những mặc cảm do tội lỗi gây ra… Nhờ ơn Chúa, người tín hữu hoán cải cuộc đời để lãnh nhận ơn cứu độ, lãnh nhận niềm vui bất tận trong Chúa.
Những lần đi tham dự tiệc cưới, người ta thường hay chúc cho những đôi tân hôn với những: MV 3-C59
Những lần đi tham dự tiệc cưới, người ta thường hay chúc cho những đôi tân hôn với những lời chúc hết sức dễ thương: chúc cho hai bạn được an vui, hạnh phúc. Và trong những ngày đầu năm người ta vẫn thường hay chúc nhau: chúc anh, chúc chị, chúc ông, chúc bà sang nắm mới được an vui, hạnh phúc. Chẳng biết vô tình hay hữu ý mà chữ an vui nó dính liền với nhau. Nếu suy nghĩ như vậy thì ta có thể nói là khi nào tâm hồn ta bình an thì lòng ta mới vui được. Mà thật là thế ! Không có niềm vui trọn vẹn nếu như tâm hồn người đó không được vui.
Thánh Lễ Chúa Nhật 3 Mùa Vọng người ta vẫn thường gọi là Chúa nhật hồng với ý chỉ rằng Chúa gần đến rồi, hãy vui lên, vui lên vì Chúa sắp đến.
Thi thoảng, chúng ta vẫn thường nghe hay thường hát với nhau: Vui lên anh em hãy mừng vui trong Chúa ! Vang lên câu ca ta tạ ơn Thiên Chúa ! Người đã đoái đến viếng thăm người chúng ta ! Hallê Hallê lui ! Hallêluia ! Một khách quý, một thượng khách đến với gia đình ta, đến với cộng đoàn ta thì ta đã cảm nhận niềm vui ấy như thế nào huống hồ chi Chúa chính là vị Thượng thượng khách của mỗi người chúng ta. Lẽ nào Chúa đến với mỗi người chúng ta mà chúng ta lại buồn ?
Hơn ai hết, Israel có cái cảm nghiệm hết sức sâu sắc về sự mong chờ Chúa đến. Trong lịch sử cứu độ, Chúa đã bằng cách này cách khác đến với dân qua các ngôn sứ, qua các sấm ngôn. Một trong những sấm ngôn, ngôn sứ loan báo niềm vui Chúa đến đó chính là ngôn sứ Sôphônia. Sấm ngôn mà chúng ta vừa nghe thật là hay:
Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi !
Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại,thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Ísrael đang ngự giữa ngươi,chính là Đức Chúa.
Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ. Ngày ấy, người ta sẽ bảo Giêrusalem:
"Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời."
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội."
Thiên Chúa cũng mang trong mình cảm thức của con người, có lúc Ngài vui và cũng có lúc Ngài buồn. Vui khi thấy dân chúng nghe lời của Ngài và đi theo đường ngay nẻo chính mà Ngài chỉ vẽ. Buồn khi mà dân chúng cứng đầu cứng cổ. Bằng chứng, qua lời sấm ngôn chúng ta thấy đó. Thiên Chúa tức giận nên ra án phạt nhưng rồi khi nguôi cơn giận thì Ngài lại thương. Giá như mà dân Israel chịu đi theo con đường mà Thiên Chúa vạch ra thì đâu có chuyện tai ương, đâu có chuyện án phạt.
Dừng lại một chút để chúng ta thấy tại sao có tai ương, tại sao có án phạt ? Đơn giản có tai ương án phạt vì dân Israel - dân Do Thái - sống có Chúa mà như không có Chúa trong cuộc đời của họ vậy. Họ đã đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của họ. Khi họ đẩy Thiên Chúa ra khỏi đời họ thì họ thoải mái sống bất công, chèn ép những người nghèo, những người thấp cổ bé họng hơn họ.
Đọc lại lịch sử cứu độ thời Cựu Ước, ta sẽ thấy rõ phần nào của cái kiếp nô lệ. Đã nghèo mà còn rơi vào cảnh nô lệ nữa thì coi như đời đã tàn.
Sang thời Tân Ước tưởng chừng khá hơn nhưng có khá gì đâu ? Khi người ta đến hỏi thì Gioan trả lời một cách mau chóng, một cách thẳng thừng như chúng ta vừa nghe ông trả lời với dân. Không phải ngẫu nhiên mà Gioan lại trả lời một cách huỵt tẹt như thế này: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy". Câu trả lời này đủ hiểu là cuộc sống của của những người Do Thái thời Gioan như thế nào.
Và, gần nhất, ngay cái thời buổi hiện tại này, chuyện bất công trong xã hội, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội còn quá nhiều. Người ta nói cũng không sai rằng người giàu càng giàu thêm và người nghèo càng nghèo thêm. Vì sao ? Vì tình trạng bất công cứ lan tràn trong xã hội.
Thế nên, lời của Gioan hôm nay rất có giá. Gioan trả lời quá sức là thực tế: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình."
Bi đát của cuộc đời ngày hôm nay đó chính là tình trạng “sống chết mặc bay”. Người ta bất chấp lương tâm, bất chấp đạo đức của con người để rồi chỉ cần biết sao cho đầy túi tiền của họ là được rồi. Người ta vẫn mang trong mình cái tâm trạng hơn người khác là bắt đầu lên mày lên mặt và tìm đủ mọi cách để hà hiếp những kẻ dưới quyền mình, những kẻ thấp cổ bé họng hơn mình. Thực tế cuộc đời đã cho ta thấy quá rõ vai trò địa vị của những người nghèo trong cuộc sống và vì thế Gioan khuyên nhủ rất chính xác: Đừng hà hiếp ai ! Đừng tống tiền ai !
Thật sự ra mà nói, hà hiếp, tống tiền người khác thì đời sống vật chất thoải mái thật đấy vì nhà cửa của họ thường sung túc, cao sang hơn người nghèo. Nhìn bề ngoài, những người giàu có có vẻ hạnh phúc hơn người nghèo, đó là điều hiển nhiên nhưng chưa chắc như vậy. Có chắc chắn rằng là giàu có là hạnh phúc hay không ? Nếu được nghe những người giàu tâm sự ắt hẳn chúng ta, những người nghèo sẽ vở lỡ ngay ! Vì lẽ đa phần người giàu họ hiếm có hạnh phúc lắm. Có chăng thì thoả mãn được nhu cầu vật chất của con người nhưng con người đâu sống bởi vật chất mà còn cả một cái khoảng trời tinh thần rất lớn.
Nhớ lời của Thánh Gioan nói thật hay: Hãy an phận ! Vấn đề nằm ở chỗ đó đó ! Không phải là chuyện giàu hay nghèo nhưng là chuyện ta có cảm thấy cuộc đời ta, phận người của ta có an hay không mà thôi !
Một chuyện kể có thật. Ở một xứ đạo nghèo nọ, có anh chàng kia bỗng dưng không thấy lui tới nhà thờ nữa. Cha xứ hỏi anh ấy tại sao anh không đến nhà thờ thì anh nói là tại vì anh đi chiếc xe đạp cọc cạch đến nhà thờ anh ta cảm thấy nhục quá ! Để khi nào anh có xe máy thì anh sẽ đến nhà thờ ! Thời gian sau, cha xứ thấy anh đi xe máy nhưng anh vẫn không đến nhà thờ. Cha xứ thắc mắc và hỏi tại sao anh không đến nhà thờ thì anh thiệt tình nói là anh cảm thấy nhục, nhục vì lẽ nhà anh ở còn xập xệ !
Thế đấy ! Lòng tham của con người hình như nó vô đáy ! Tưởng chừng có chiếc xe máy thì cũng an được cái phận nghèo nhưng chưa ! Còn cái nhà ! Thế nhưng, chưa chắc có cái nhà là anh ta chưa cảm thấy hết nhục vì khi anh ta xây được nhà thì người ta đã ở cao ốc cả rồi !
Cái vòng luẩn quẩn của sự bất an nó cứ đeo bám anh ta để rồi anh ta không bao giờ cảm thấy an được. Và không thấy an với tất cả những gì mình có thì làm sao cuộc đời của anh có thể vui được.
Ta cũng vậy thôi, ta dừng lại một chút để nhìn ta. Thời còn bao cấp, ta ước ao có được chiếc xe đời 81 như nhà hàng xóm nhưng nay, ta có cả một chiếc xe Dream, ngoài ước mơ của ta thuở ấy nhưng ta đâu có chịu dừng lại ở chiếc xe Dream. Khi có Dream rồi, ta lại ước mơ cao hơn nữa để rồi mãi mãi cuộc đời ta ở trong tâm trạng bất an.
Ta cũng giống như cái anh chàng ở xứ đạo nghèo kia. Khi ước mơ của ta thành hiện thực thì ta không dừng lại ở ước mơ đó mà lại đi tìm cái ước mơ cao hơn. Không phải ước mơ là xấu, không phải có óc cầu tiến là xấu nhưng chuyện quan trọng là ta phải biết dừng ước mơ của ta ở đâu và óc cầu tiến của ta như thế nào là đủ. Chuyện cần thiết là ta có cảm thấy ta an khi ta được như vậy hay không ? Khi ta cảm thấy không đủ, không bằng người khác thì ta lại cứ đi tìm và đi tìm mãi có bao giờ thoả mãn lòng tham của con người. Khi nào ta cảm thấy ta đủ thì ta mới vui, ta mới bình an được.
Tâm thư của Thánh Gioan vừa gửi cho ta nơi cộng đoàn Philip thật là hay: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su
Tâm tình của Thánh Phaolô quá rõ ràng, chuyện của ta, chuyện cuộc đời của ta, ta cứ đem đi giãi bày cho Thiên Chúa và Ngài sẽ ban cho ta những điều mà ta thỉnh nguyện. Khi ta giãi bày với Thiên Chúa, ta sẽ được sự bình an thật, bình an của Chúa trong đời ta. Cuộc đời ta, nhìn lên không bằng ai như người ta vẫn thường nói nhưng khi nhìn xuống ta hơn được nhiều người. Khi ta đặt mình trước mặt Chúa, ta thấy Chúa thương ta nhiều hơn ta tưởng, ấy vậy mà ta vẫn cứ để cho cuộc đời ta cứ mãi loay hoay với nhiều thứ phù du mau qua chóng tàn.
Khi và chỉ khi ta chìm đắm trong cầu nguyện ta mới có được sự bình an và niềm vui thật.
Thật sự thì Chúa đã đến rồi, Chúa đã đến trong thế gian này và một lúc nào đó bất chợt Chúa đến với cuộc đời của mỗi người chúng ta. Chúa đến với mỗi người chúng ta như kẻ trộm như Chúa đã từng báo trước vậy. Chúa đến vào lúc chúng ta không ngờ và vào giờ mà chúng ta không thể nào biết được. Chuyện quan trọng, chuyện cần thiết là ta phải giữ sao cho tâm hồn của ta được bình an đển khi Chúa đến ta có được niềm vui trọn vẹn. Khi ta thấy Chúa là đủ cho chúng ta, Chúa là tất cả cho chúng ta thì cuộc sống ta mới an bình thư thái thật sự.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời – bình an dưới thế cho người thiện tâm ! Bình an chỉ dành cho những ai thiện tâm, những ai có tấm lòng biết chia sẻ, biết quan tâm đến người nghèo.
Nguyện xin Chúa đến và ở lại với mỗi người chúng ta để tâm hồn chúng ta được tràn đầy niềm vui, tràn đầy bình an thật sự.
Cũng như Chúa Nhật III Mùa Chay, Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật mầu: MV 3-C60
Cũng như Chúa Nhật III Mùa Chay, Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật mầu hồng. Không biết truyền thống này có từ bao giờ, nhưng hẳn chúng ta thầm hiểu ý của giáo hội khi cho phép mặc phẩm phục mầu hồng trong Thánh Lễ. Mầu hồng gợi lên niềm vui, niềm hân hoan. Các bài đọc Lời Chúa cũng tràn đầy niềm hân hoan, phấn khởi. Tất thảy vì một lẽ này: đổi mới vì sợ hải thì sẽ hời hợt và chóng qua, trái lại vì hân hoan phấn khởi mà đổi mới thì sẽ thiết thực và bền lâu.
Sau khi nghe Gioan Tẩy giả rao giảng, dân chúng tuôn đến tham vấn: chúng tôi phải làm gì đây ? Không ẩn mình trong đám đông, nhóm thu thuế, anh em binh lính cũng đến để xin hướng dẫn cách cụ thể đối với trường hợp của mình ( x. Lc 3,11-14 ). Chắc hẳn người dân Israel thời bấy giờ đang khát khao sự xuất hiện của Đấng Thiên sai để giải thoát họ khỏi ách nô lệ ngoại bang. Và họ cũng như đã thông thuộc lời tiên báo của ngôn sứ Isaia năm nào về thời của Người: “ Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi…Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” ( Is 40,4-5 ). Qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, chúng ta có thể nhận ra một vài lý do để phấn khởi, vui mừng:
“Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Đấng Thánh của Israel thật cao cả”. Điệp khúc của đáp ca cho chúng ta một lý do để hân hoan đó là vì Đấng Thánh đang ở giữa chúng ta. Gioan Tẩy Giả cũng đã trả lời với một số tư tế và thầy Lêvi được phái đi từ Giêrusalem: “ Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một Đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết” ( Ga 1,26 ). Đấng ấy chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Có Chúa ở cùng, chính là hạnh phúc bất tận. Có Đấng cao cả cũng là Đấng đầy lòng từ bi và hay thương xót ở cùng, thì chúng ta đâu còn sợ gì. Dù người mẹ nào có bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa không bao giờ bỏ chúng ta, vốn là hình ảnh của chính Người ( x. St 1,27 ). Vấn đề là chúng ta đã thực sự nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa chưa ? Câu trả lời nằm ở nơi thái độ của chúng ta, đó là có phấn khởi mừng vui hay không.
Nếu như chúng ta chưa thực sự mừng vui thì đó là một trong những dấu chỉ cho biết chúng ta chưa nhận ra Đấng Thánh, Đấng cao cả đang ở giữa chúng ta. Phận phàm hèn, làm thế nào để chúng ta có thể thấy Thiên Chúa, Đấng ngàn trùng chí thánh ? Chính Chúa Giêsu đã minh nhiên cho chúng ta chìa khóa vấn nạn. “ Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ được nhìn thấy Thiên Chúa” ( Mt 5,8 ). Những lời khuyên của Gioan Tẩy Giả cho dân chúng cũng như cho binh lính và những người thu thuế xưa chính là cách thế giúp họ thanh tẩy tâm hồn để nên trong sạch. Và Ngài đã lưu ý rằng không phải cứ cúi mình xuống nhận dấu thanh tẩy mà được thanh sạch, nhưng phải thay đổi đời sống. Sau này chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định với người Pharisiêu đã mời Người dùng bữa rằng: Không phải do việc tẩy rửa bên ngoài mà làm cho chúng ta nên thanh sạch, nhưng phải đem những cái bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho chúng ta. ( x. Lc 11,37-41 ).
Hãy vui mừng vì Thiên Chúa đã rút lại lời kết án. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và vì chúng ta, Người cũng quy tụ những kẻ hư hỏng, người tội lỗi về ( x.Soph 3,14-18 ). Niềm vui của người được tha thứ tội lỗi là niềm vui thật khó tả, hơn nữa, khi đó là một món nợ, vượt quá khả năng chi trả của chúng ta. Một người được thứ tha sẽ trở thành nguyên cớ để nhiều người tội lỗi khác tin tưởng trở về. Bất cứ tội lỗi nào cũng có tính lây nhiễm ít nhiều. Cũng thế và hơn thế nữa, ân phúc tha thứ nào cũng có sức năng động lan tỏa. Đây chính là lý do để ngôn sứ Sôphônia mời gọi chúng ta hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn ( Soph 3,14 ).
Hãy vui mừng vì Chúa Kitô đã chọn chúng ta, không vì công nghiệp của chúng ta mà chỉ vì tình yêu của Người. Thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Philipphê rằng nếu tự hào về công trạng theo lề luật, thì ngài có thể hơn rất nhiều người. Nhưng ngài bỏ tất cả đằng sau, ngài chấp nhận mọi thua thiệt, trước một mối lợi lớn là được biết chúa Kitô ( x. Phil 3,1-16 ). “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em…” ( Ga 15,16 ). Vì đã chọn chúng ta nên Chúa Giêsu tự nguyện liên đới với chúng ta cho đến cùng. Người không chỉ làm con chiên gánh lấy tội nhân trần mà còn đón nhận loài người như đàn em đông đúc để thông chia phần phúc gia nghiệp đã hứa ban ( x. Êph 1,3-14 ).
Tuy nhiên, một vấn đề cần làm sáng tỏ: niềm vui đích thật được biểu lộ như thế nào ? Chắc hẳn chúng ta đồng thuận với nhau rằng đó không phải là những tiếng cười ha hả của những bữa tiệc tùng đầy sơn hào hải vị và rượu bia. Cũng chẳng nhất thiết là trạng thái lâng lâng, ngay sau khi đạt được một thành công trong kinh doanh hay trong thi đấu thể thao…Một niềm vui đích thật đó là tâm trạng của người cảm nhận mình được yêu thương vượt quá mọi công trạng mình đã có, vượt quá mọi khả năng mình đang có hay sẽ có. Tâm trạng này chính là sự bình an tận đáy tâm hồn khiến chúng ta can đảm vượt qua mọi thử thách và gian khổ, đồng thời thúc đẩy chúng ta nỗ lực sống đức ái, nghĩa là biết yêu thương một cách không tính toán không chỉ với người dễ thương mà với cả những người thù ghét và bách hại chúng ta. Có thể nói rằng các thánh tử đạo là những người đã thể hiện niềm vui đích thực này cách rõ nét.
Nước Trời là vương quốc của tình yêu và của niềm vui đích thật. Chúng ta có thể luận suy chân lý này qua các hình ảnh tiệc cưới mà Chúa Giêsu đã dùng để minh họa về thực tại Nước Trời và các hình ảnh mà Người nói về tình trạng trầm luân đời đời, đó là nơi phải khóc lóc và nghiến răng ( x. Mt 22,2; Mt 8,12 ). Mùa Vọng lại về, một trong những ý nghĩa của Mùa Vọng là chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Chúa nhập thể - nhập thế. Thiên Chúa đã làm người, đã vào trần gian và Người mãi ở với chúng ta cho đến tận thế ( x. Mt 28,20 ). Nước Trời đang ở giữa chúng ta ( x. Lc 17,21 ). Ước gì bà con lương dân, anh em khác đạo và cả những người tự nhận là vô thần, thấy được niềm vui đích thật nơi Kitô hữu chúng ta. Trăm nghe không bằng một thấy. Thiết tưởng rằng đó cũng là một lời loan báo tin mừng khả tín không thua, mà có khi lại hơn những tổ chức “lễ hội đình đám” bên ngoài trong dịp mừng Chúa Giáng Sinh.
Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là “Chúa Nhật Hãy Vui Lên!” (Gaude/Rejoice Sunday). Chủ: MV 3-C61
Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là “Chúa Nhật Hãy Vui Lên!” (Gaude/Rejoice Sunday). Chủ Tế có thể mặc Áo Lễ mầu hồng. Lý do là vì chúng ta đã sống được một nửa thời gian đặc biệt hy sinh, hãm mình, tĩnh tâm và cầu nguyện để chuẩn bị Đại Lễ Chúa Giáng Sinh, và “Ngày Chúa Đến” đã gần tới.
Mở đầu Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, trong lời Ca Nhập Lễ, Giáo Hội trích lời Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Philiphê “Hãy vui lên trong Chúa; tôi nhắc lại, anh em hãy vui lên, vì Chúa đã đến gần!” (Philiphê 4: 4-5). Đây cũng là những lời mở đầu của Bài Đọc II (Philiphê 4:4-7) trong Thánh Lễ hôm nay.Trong đoạn này, Thánh Phaolô khuyến khích chúng ta hãy vui luôn trong Chúa với tâm tình cầu nguyện, cảm tạ, tri ân và sống an hòa với mọi người; rồi phó thác mọi nỗi lo âu cho Chúa, Chúa sẽ lo liệu mọi sự cho chúng ta, và lòng chúng ta sẽ được an vui trong Chúa với niềm phó thác tuyệt đối.
Ngay trong Bài Đọc I, trích trong sách Tiên Tri Sophonia (3: 14-18), chúng ta đã đọc được những lời phấn khởi vui mừng: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hân hoan! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui lên…!” Tiên Tri Sophonia (Zephaniah) sống vào thế kỷ 7 trước Chúa Giáng Sinh. Tiên tri có nhiệm vụ cảnh tỉnh và kêu gọi dân chúng hãy sám hối lỗi lầm, ăn năn sửa đổi đời sống “vì ngày của Giavê đã tới gần!”, và sau cùng, Tiên Tri cũng đem lại niềm vui cho Dân Chúa “Vì Chúa đã đến gần… Chúa yêu thương dân của Người… ngày của Chúa là ngày giải thóat!”
Cũng như các Tiên Tri khác trong Cựu Ước, Tiên Tri Sophonia có nhiệm vụ kêu gọi Dân Chúa đừng bỏ đường lối Chúa, và đừng quên đi niềm mong chờ “Đấng Thiên Sai” (“Đấng Được Xức Dầu” - “The Messiah” - “Đấng Kitô”) mà Thiên Chúa đã hứa sẽ đến để cứu độ Dân Chúa. Đó là “Ngày của Chúa.” Ngày đó đã thực sự đến, là ngày Chúa Giêsu Kitô Giáng Sinh, và nhân loại đang sửa soạn mừng kỷ niệm ngày đại lễ đó – LỄ CHÚA GIÁNG SINH!
Vị tiên tri sau cùng của Cựu Ước chuẩn bị lòng người chờ đón “Ngày Chúa Đến” là Thánh Gioan Baotixita. Ngài thường được gọi là Gioan Baotixita hay Gioan Tẩy Giả, vì ngài ban Phép Rửa thống hối dọn lòng dân đón Đấng Kitô. Ngài cũng còn được gọi là Gioan Tiền Hô, vì Ngài “đi trước để dọn đường” cho Chúa đến. Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước (Luca 3: 1-6), chúng ta đã nghe Thánh Gioan nhắc lại lời của Tiên tri Isaia kêu gọi “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng…” Chúa Nhật tuần này, trong Bài Phúc Âm (Luca 3: 10-18), Thánh Gioan thẳng thắn xác định Ngài không phải là Đấng Kitô, Ngài chỉ làm phép rửa thống hối để dọn lòng dân chúng đón “Đấng uy quyền hơn tôi đang đến… Ngài sẽ ban phép Thanh Tẩy cho anh em trong Chúa Thánh Thần và lửa.” Thánh Gioan cũng chỉ cho mọi người phải làm gì để dọn lòng đón Chúa đến. Đó là chia cơm sẻ áo cho người nghèo khó. Mỗi người, tùy theo nghề nghiệp, phải làm gì cụ thể để sửa đổi đời sống: “người thu thuế” hay “quân nhân” hay các ngành nghề nào khác, tất cả đều cần phải chu toàn bổn phận, sống theo lương tâm ngay thẳng.
Mỗi người chúng ta hôm nay cũng cần lắng đọng tâm hồn và thưa với Chúa: Chúng con phải làm gì để dọn lòng chúng con đón Chúa đến trong dịp Lễ Giáng Sinh sắp tới? Chúng con phải làm gì để luôn sẵn sàng đón Chúa đến với chúng con trong bất cứ biến cố nào xảy ra trong cuộc đời chúng con; nhất là khi Chúa đến gọi chúng con ra khỏi cuộc đời này?
Trong thinh lặng và cầu nguyện, chúng ta sẽ được Chúa chỉ bảo phải làm gì, tùy theo cương vị chúng ta là Chủ Chăn, Linh Mục, Tu sĩ hay cha mẹ trong gia đình, hay giới trẻ đang lớn lên trong một xã hội đầy xáo trộn này.
“Mừng vui lên Sion! Này đây Chúa ngươi đến rồi! Mừng vui lên Sion, Ngài khấng nghe lời ngươi đó! Ngài dẫn đưa ngươi qua những hố sâu, qua núi đồi, Về nơi an vui, nơi suối mát đẹp tươi…”
Người Việt Nam được coi là một dân tộc hiếu khách. Vì thế, khi khách đến nhà thì “không: MV 3-C62
Người Việt Nam được coi là một dân tộc hiếu khách. Vì thế, khi khách đến nhà thì “không gà thì vịt” và cố gắng tiếp đón làm sao để “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Thực vậy, khi có khách đến thăm, người ta thường thăm dò ý muốn sở thích của vị khách để tiếp đãi cho chu đáo. Khách càng sang, càng cao qúy người ta càng chuẩn bị kỹ lưỡng từ trang trí nhà cửa, sân vườn đến các món ăn mà vị khách ưa thích. Cũng bởi sự hiếu khách đó, mà người Việt Nam thường tự trách mình thất lễ khi thiếu sự chuẩn bị mà khách lại đột xuất viếng thăm.
Cách đây hơn 2000 năm người dân Palsetin cũng háo hức đón chờ một thượng khách đến viếng thăm. Một vị khách mà cả pho Cựu ước là bằng chứng sự trăn trở đợi chờ. Đó chính là Đấng Thiên Sai, Đấng Messia sẽ đến để thực hiện lời hứa cứu độ cho nhân trần. Hôm nay họ nghe Gioan rao giảng Đấng đó đã đến nhân trần. Đấng mà cha ông họ ngày đêm mong chờ mà chưa có diễm phúc gặp gỡ, nay quả là phúc đức cho họ được diện kiến Đấng Thiên sai.
Họ tràn ngập niềm hân hoan. Họ chạy đến Gioan để tư vấn, xem phải làm gì để vui lòng Đấng Messia? Từ những người nông dân chất phác đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn đến các nhà thu thuế và quan quyền đều muốn có một động tác chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp Đấng Messia. Nhưng lạ thay, Gioan không bảo họ trang trí nhà cửa phố xá cho nguy nga lộng lẫy. Gioan không bảo họ chuẩn bị các món ăn đặc sản của dân tộc để thiết đãi Đấng Messia. Gioan đề nghị họ một cung cách sống để vui lòng Đấng Messia. Đối với đám đông dân chúng hãy biết sống chia sẻ với nhau. Hãy sống đùm bọc nhau trong tình bác ái chân thành qua việc chia sẻ cơm ăn, áo mặc. Đối với người thu thuế và người giầu có hãy sống công bình bác ái. Đừng cho vay nặng lãi. Đừng chồng chất thêm gánh nặng cho dân bằng sưu cao thuế nặng. Hãy sống bằng một trái tim nhân ái biết xót thương kẻ bần cùng lầm than. Đối với binh lính, Gioan đề nghị hãy biết thương dân, đừng hà hiếp bóc lột, đừng sống theo kiểu tham quan vô nại, hãy sống theo chức vụ của mình là để bảo vệ và gìn giữ sự an ninh cho dân làng.
Nghe lời Gioan ai nấy đều muốn thay đổi lối sống cho đẹp lòng Đấng Messia. Từng đoàn người đến sông Giordan. Trong đó có đủ mọi thành phần già trẻ, lớn bé. Quyền qúy cao sang và đói khổ bần hàn. Tất cả đều cúi mình sám hối. Tất cả đều muốn thay đổi lối sống. Sửa lại những quanh co gian trá của lòng người. Lấp đầy những hố sâu của ngăn cách bằng tình yêu chân thành. Và san bằng núi đồi kiêu căng bằng đời sống hoà hợp mến yêu. Một bầu khí thật vui tươi và an bình trải rộng khắp giòng sông Giordan. Một niềm hy vọng cho một thế giới không còn bất công, không còn hận thù chỉ còn có sự chia sẻ, cảm thông trong yêu thương chân thành. Một bầu khí hứa hẹn những ngày tháng thanh bình như lời tiên tri Isaia đã nói: “sói nằm chung với chiên con. Trẻ con thò tay vào hang rắn độc. Người ta sẽ lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cầy và nhân loại sẽ cùng nhau hát vang tiếng hát hoà bình”.
Hôm nay, Giáo hội cũng gợi lại hình ảnh đó để nhắc nhở con người thời nay. Chúa đã đến với chúng ta hôm nay qua tha nhân, qua các bí tích. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày cuối cùng của đời người dương gian, và Chúa sẽ đến trong uy nghi vinh hiển trong ngày quang lâm. Vậy có ai đó đã tự hỏi lòng mình: tôi phải làm gì để đón tiếp Chúa? Nếu chúng ta tin rằng Chúa đang hiện diện giữa chúng ta, liệu rằng chúng ta có gì để dâng cho Chúa? Có lẽ Chúa không cần chúng ta xây nhà nguy nga lộng lẫy cho Chúa. Chúa cũng không cần chúng ta trải thảm lót đường cho Chúa. Chúa chỉ cần chúng ta dâng cho Chúa tấm lòng thanh sạch không vương vấn tội nhơ. Một con tim tràn đầy tình yêu thương đồng loại. Một tấm lòng muốn sửa đổi, muốn thăng tiến bản thân cho tốt hơn, cho đúng với giáo huấn và lề luật của Chúa.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Khi Chúa giáng sinh, muôn loài đều tới mừng Chúa. Mỗi loài đều dâng cho Chúa chút quà. Chị bò cái dâng sữa, cậu khỉ biếu Chúa mấy trái cây nhỏ, chú sóc nâu bé nhỏ tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa. Chúa hài đồng vui vẻ nhận tất cả.
Đang lúc các thú vật quây quần bên Chúa, thì chàng cáo xuất hiện. Các con vật đều ghét cáo, vì hắn gian manh quỉ quyệt. Chúng chận không cho cáo đến gần Chúa và tự hỏi không biết cáo định âm mưu gì. Cáo nói rằng, cáo đến dâng lễ vật cho Chúa, nhưng chẳng thấy cáo mang theo lễ vật. Chúa ra hiệu cho cáo vào. Quì bên Chúa hài đồng chàng cáo thì thầm:
Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa lòng quỷ quyệt của con!
Mọi con vật bỡ ngỡ:
Dâng gì kỳ cục vậy?
Nhưng cáo vui cười hớn hở, còn Chúa đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng thuận chúc lành.
Có lẽ đó là món quà mà Chúa cần chúng ta dâng cho Chúa. Dâng lên Chúa chính tội lỗi, yếu đuối của mình. Dâng cho Chúa là hứa với Chúa từ nay sẽ thôi không theo đường cũ, quyết ăn ở ngay lành, sống công bình bác ái và thân ái với mọi người. Ước mong những ngày chuẩn bị mừng lễ giáng sinh với sự trang hoàng bên ngoài bằng hang đá, cây thông, đèn sao lấp lánh, mỗi người chúng ta cũng chuẩn bị một món quà từ tấm lòng sám hối ăn năn để từ trong sâu thẳm cõi lòng có thể rộn ràng lên câu hát “vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Amen Lm. Giuse Tạ duy Tuyền
Cùng với thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta đang ở ven sông Giođan – nơi vị Tiền hô của Thiên: MV 3-C63
Cùng với thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta đang ở ven sông Giođan – nơi vị Tiền hô của Thiên Chúa đang thực thi sứ vụ của mình. Và cũng chính tại đây, chúng ta chứng kiến cảnh người người tuôn đến với Gioan để chịu phép đồng thời nghe ông khuyên dạy.
Chúng ta thấy, khi dân chúng đến xin Gioan chịu phép rửa, ông đã không ngần ngại dùng những lời “thép”, rất cứng rắn để lên án họ (x. 3, 7-9). Thế nhưng lạ một điều là dù Gioan Tẩy giả có nghiêm khắc chỉ trích lối sống của họ thế nào đi nữa, dân chúng vẫn kéo đến với ông để lắng nghe lời ông dạy dỗ. Điều đó đủ cho thấy lòng dân ý thức về niềm tin của mình trước Vị Thẩm phán sắp ngự đến mà Gioan loan báo. Đám đông tuôn đến với Gioan ngoài việc xin lãnh nhận phép rửa- được xem như là bước quyết định để có thể nhận phép rửa trong Thánh Thần vào thời đại của Đấng Mêsia đến, họ còn đến để xin ông dạy học phải làm gì để có thể đón nhận ơn cứu độ.
“Chúng tôi phải làm gì đây?”. Đó là câu hỏi được vang lên từ trong đám đông thuộc đủ mọi lứa tuổi, địa vị trong xã hội. Câu hỏi của họ liên quan đến nền đạo lý, cách đối nhân xử thế trong xã hội. Gioan Tẩy giả đã đưa ra những câu giải đáp rất cụ thể và thích hợp tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi người và tuỳ theo từng địa vị của họ.
Với đám đông – những người mà chẳng còn bao lâu nữa, họ cũng sẽ nô nức đến với Chúa Giêsu như hai môn đệ của Gioan Tẩy giả khi được thầy mình giới thiệu: “Đây Chiên Thiên Chúa” đã vội vàng bước theo Chúa(x. Ga, 1,35-39)- Gioan mời gọi họ thực thi việc bác ái cách cụ thể. “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Với những người thu thuế- vốn bị liệt vào hàng tội lỗi, bị thường dân căm ghét vì cộng tác với đế quốc và sách nhiễu dân lành- Gioan không hề yêu cầu họ phải từ bỏ nghề nghiệp mà khuyên nhủ họ hãy hành nghề theo cách thức mới, bác ái hơn, ngay lành hơn. “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”.
Với những anh nhà binh – đây có thể là những anh lính thuộc thành viên quân đội của đế quốc Rôma hoặc thuộc lính đánh thuê cho vua Hêrôđê Antipa lúc bấy giờ. Họ cũng là một trong những thành phần bị dân chúng căm ghét- Gioan cũng không hề bắt buộc họ phải từ bỏ quân ngũ, trở về làm thường dân, thay đổi nghề nghiệp; trái lại ông khuyên răn họ dù sống trong bất cứ địa vị nào, điều quan trọng là hãy bằng lòng với những gì mình có. “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiến người ta, hãy an phận với số lương của mình”.
Như thế, công bình bác ái đối với tha nhân -theo Gioan - là điều trọng yếu nhất cho hành vi sám hối, cho việc hoán cải tâm hồn chứ không phải là việc ăn chay, cầu nguyện lâu giờ hay dâng lễ đền tội.
Đồng thời với việc thực thi công bình bác ái, dân chúng luôn ngóng trông Đấng mà hàng bao thế kỷ nay muôn dân đang mong đợi. Niềm tin mong chờ đó đôi khi được “gán” cho người này, nhân vật nọ mà dân chúng thấy có nhiều điều khác lạ. Gioan Tẩy giả là một điển hình. Nhận định của dân chúng quả không sai. Gioan Tẩy giả đúng là người con của phép lạ mà Thiên Chúa gửi đến cho dân Người ngay từ trong gia đình Dacaria (sự kiện bà Êlisabét đã cao niên mà thụ thai, ông Dacaria bổng dưng bị câm, tên Gioan, Dacaria hết câm,…). Dân chúng luôn tự hỏi có phải Gioan là “Đấng phải đến” chăng? Gioan Tẩy giả đã vội vàng xoá tan ý nghĩ của dân chúng. Đứng trước Đấng Tối Cao và trước mặt dân chúng, ông chỉ dám nhận mình chỉ là người “không đáng cởi quai dép” và vai trò của ông cũng chỉ là người đi trước để dọn đường sửa lối cho Người mà thôi. Đấng đang đến là Đấng quyền thế, chính Người sẽ thực thi công cuộc xét xử muôn dân tuỳ theo công trạng của họ.
“Chúng tôi phải làm gì đây” phải chăng đó cũng là câu hỏi liên quan đến tất cả chúng ta trong thế giới hôm nay? Chúng ta sẽ làm gì để thể hiện sự trở về với Thiên Chúa, để tỏ lòng sám hối ăn năn không chỉ cho chính chúng ta mà thôi, nhưng còn cho chính gia đình, giáo hội và xã hội? Hãy trở về với Thiên Chúa trong công bình và bác ái để có thể lãnh nhận hồng ân cứu rỗi của người trong ngày sau hết.
Sau khi giới thiệu và giải thích sứ mạng của thánh Gio-an Tẩy Giả, thánh Lu-ca, qua bài Tin: MV 3-C64
Sau khi giới thiệu và giải thích sứ mạng của thánh Gio-an Tẩy Giả, thánh Lu-ca, qua bài Tin Mừng hôm nay, cho chúng ta biết một vài nét về nội dung rao giảng của thánh Gio-an. Chủ điểm lời rao giảng của ngài là loan báo một cuộc can thiệp của Thiên Chúa để phán xét dân Ngài. Muốn khỏi bị trừng phạt trong ngày phán xét ấy, phải sám hối, phải thay đổi cuộc sống. Dân chúng nghe ngài giảng liền hỏi ngài cho biết họ phải làm gì để cụ thể hóa lòng sám hối ? Thánh Gio-an đã chỉ dẫn cụ thể việc phải làm và cách phải sống cho từng giới, từng loại người. Thán phục lời ngài giảng, dân chúng thắc mắc về ngài: phải chăng ông chính là Đấng Mê-si-a ? Thánh Gio-an trả lời bằng cách so sánh sứ mạng của ngài với sứ mạng của Đấng Mê-si-a.
Trước hết, chúng ta thấy mọi người đều đến gặp thánh Gio-an và hỏi ngài: “Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì ?”. Đây là một câu hỏi khởi đầu mỗi khi gặp một câu chuyện quan trọng hay một biến cố đặc biệt nào. Kinh Thánh cho biết: người thanh niên giàu có và người thông luật cũng đến hỏi Chúa Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời ?”. Ông Ni-cô-đê-mô, sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sự “tái sinh” bởi nước và Thánh Thần, ông thấy khó hiểu và tự hỏi: “Tôi phải làm gì, không lẽ già cả như tôi lại chui vào lòng mẹ mà sinh lại ?”. Khi bị quật ngã trên đường đi Đa-mát, thánh Phao-lô cũng đã hỏi Chúa một câu tương tự: “Thưa Ngài, tôi phải làm gì ?”. Thánh Phê-rô, theo truyền khẩu qua phim “Cua va-đít” (Quo Vadis) vào lúc cuối đời, ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, được Chúa hiện ra hỏi: “Con đi đâu vậy ?”. Ngài cũng hỏi lại Chúa: “Tôi phải làm gì bây giờ ?”.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi dân chúng đến với thánh Gio-an và hỏi ngài: “Chúng tôi phải làm gì ?”. Ngài đã trả lời cho mỗi loại người tùy theo hoàn cảnh và đời sống hiện tại của họ. Với đa số dân chúng, ngài khuyên họ chia cơm xẻ áo cho nhau. Với giới thu thuế, là giới thường lợi dụng nghề nghiệp để bóc lột đồng bào, ngài khuyên họ bỏ thái độ bóc lột ấy và làm đúng nhiệm vụ. Với giới binh lính, ngài khuyên họ đừng tàn bạo, đừng ức hiếp người khác, nhưng sống bằng đồng lương của mình.
Chúng ta thấy thánh Gio-an không bảo họ phải lên rừng, vào hoang địa đi tu như ngài. Không bảo người ta phải sống khắc khổ, ăn châu chấu, mật ông rừng, mặc áo nhặm da thú như ngài. Nhưng với đại đa số dân chúng, ngài chỉ bảo họ sống yêu thương, hãy thực thi bác ái. Bác ái là bằng chứng của giới luật yêu thương. Tình yêu thương được nhận diện qua hành động, tức là yêu thương bằng việc làm, cũng như đức tin không việc làm là đức tin chết hay không có đức tin. Yêu thương không có việc làm là tình yêu chết hay không có tình yêu thương.
Còn đối với những người đang làm công việc bổn phận, thánh Gio-an không đòi họ phải bỏ nghề nghiệp, cứ hành nghề như thường, nhưng phải sống đúng tinh thần nghề nghiệp, lương tâm chức nghiệp, tránh tham lam vô lối, hãy sống công bằng với nhau và với mọi người. Nhìn chung những lời khuyên này chúng ta thấy xoay quanh vấn đề công bằng xã hội và thực thi bác ái chi sẻ cho nhau. Thái độ khư khư giữ của gây nên chênh lệch trầm trọng giữa người với người, phải được thay thế bằng thái độ chia sẻ để mọi người được sống xứng phẩm giá con người, không còn cảnh người đói khổ sống bên cạnh người thừa thải xa hoa. Tóm lại, thánh Gio-an kêu gọi mọi người sống với nhau thành một cộng đồng công bình và bác ái huynh đệ, không còn ai bị bóc lột nhưng mỗi người đều sống cho mọi người, và mọi người sống cho mỗi người: “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
Vấn đề thứ hai, thánh Gio-an Tiền Hô và Đấng Mê-si-a. Dân Do Thái đang trông mong chờ đợi Đấng Mê-si-a, nên khi nghe những lời giảng dạy quá hay của thánh Gio-an, họ tự đặt câu hỏi: phải chăng ông này là Đấng Mê-si-a ? Ngài đã giải tỏa nỗi thắc mắc ấy bằng cách đối chiếu sứ mạng của ngài với sứ mạng của Đấng Mê-si-a. Ngài làm phép rửa bằng nước, còn Đấng Mê-si-a làm phép rửa bằng Thánh Thần và lửa. Bản thân ngài chỉ là đầy tớ của Đấng Mê-si-a, không đáng xách dép hay cởi giày cho Đấng Mê-si-a. Chính Đấng ấy mới có quyền phán xét mọi người. Như vậy, sứ mạng của thánh Gio-an chỉ là người tiền hô đi trước dọn đường cho Đấng Mê-si-a. Chính Chúa mới là Đấng Mê-si-a. Người đang tới và sắp tới.
Tóm lại, muốn đón Chúa đến, cách tốt nhất thánh Gio-an đề nghị là hãy sống yêu thương và công bằng. Đó là những hoa trái biểu lộ đích thực lòng thống hối. Đó cũng là những giáo huấn chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt hơn của Chúa Giêsu sau này. Chúa đòi hỏi chúng ta phải ra sức làm việc phục vụ anh em trong yêu thương, trong công bằng bác ái, chú ý đến kẻ khác và quên mình, chuyên cần làm việc trong niềm vui. Tóm lại, chúng ta hãy sống chan hòa tình yêu thương với nhau, không phải chỉ trong dịp lễ Giáng Sinh mà trong suốt cuộc đời.
Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật Mầu Hồng vì Ca nhập lễ bắt đầu bằng lời kêu gọi: MV 3-C65
Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật Mầu Hồng vì Ca nhập lễ bắt đầu bằng lời kêu gọi “Hãy vui lên” của thánh Phaolô. Bài đọc 1 và 2 hôm nay làm sáng lên niềm vui và hy vọng. Mầu hồng là mầu diễn tả niềm vui thay vì mầu tím, mầu của tình trạng chưa được thỏa mãn. Có tất cả những điều ấy vì ngày Chúa đến đã gần kề. Ngày hôm nay là cơ hội thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về niềm vui của đời Kitô hữu, của những người có Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta chỉ có được niềm vui thực sự khi tâm hồn chúng ta đã được chuẩn bị sẵn sàng cho việc Chúa đến. Nói cách khác, trong khi chờ đợi Chúa đến, chúng ta phải làm gì một cách cụ thể ? Thánh Gioan đã trả lời cho chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay.
Một cách tổng quát, thánh Goan bảo mọi người phải thực thi công bằng và bác ái trong khi chờ đợi Chúa đến. Nhưng cách riêng đối với từng hạng người thì Gioan đã cho những chỉ dẫn khác nhau:
Đối với dân chúng: hãy biết chia sẻ cho người khác. Đối với người thu thuế, hãy thực thi đức công bằng. Đối với quân nhân: đừng hà hiếp dân chúng.
Họ không cần thay đổi nghề nghiệp mà chỉ cần sống cho lương thiện.
Ngoài ra, để đánh tan dư luận cho ngài là Đấng Messia thì Gioan đã khiêm tốn loan báo cho họ biết Đấng Messia sẽ đến, Ngài cao trọng hơn ông, đến nỗi ông không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài.
I. ẢNH HƯỞNG CỦA LỜI KÊU GỌI.
1. Gioan rao giảng việc sám hối.
Trong tuần lễ trước, thánh Gioan đã xuất hiện tại sa mạc Giorđan rao giảng kêu gọi mọi người chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Ôâng đã lặp lại lời tiên tri Isaia cách đó 500 năm, vạch ra con đường để dân chúng theo:”Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Lời kêu gọi đó đã được nhiều người chấp nhận, trong số những người đã chịu phép rửa ở sống Giorđan có cả những người thu thuế và quân nhân. Dĩ nhiên cũng có người tò mò đến xem hoặc đến nghe mà cứng lòng không hối cải như những người biệt phái và luật sĩ. Đối với những ngưới ấy, Gioan đã răn đe, báo trước cho họ hình phạt sẽ hòng đổ xuống đầu như chiếc rìu đã đặt sẵn vào gốc cây.
2. Ý thức và nhận mình là người có tội.
Muốn sửa đổi con người của mình, muốn tiến triển trên con đường nhân đức, đều cần thiết là phải biết mình. Người ta thường mắc khuyết điểm nay vì:”Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê”: việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Nhiều khi con người bị tính tự ái hay tình tư dục làm mờ ám lương tri, không còn nhìn ra chân lý, không biết thực trạng con người mình, nên nhiều khi cần có người thức tỉnh.
Truyện: Anh là người có tội.
Cách đây ít lâu, bác sĩ Karl Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ đã làm nhiều người kinh ngạc với quyển sách của ông mang tựa đề “Whatever became of sins”(điều gì đang xẩy đến cho tội lỗi). Ôâng bắt đầu quyển sách bằng một câu chuyện trào lộng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Vào một ngày chúa nhật tháng 9 năm 1972, trên góc phố đông người qua lại thuộc khu trung tâm Chicago, xuất hiện một nhà chuyên giảùng thuyết ở đường phố. Đang lúc các nhân viên văn phòng vội vã lo đi ăn trưa, nhà giảng thuyết này thình lình giương cánh tay phải lên, dùng cánh tay xương xẩu chỉ vào một nhân viên nào đó rồi la lên:”Anh là kẻ có tội”! Đoạn ông đứng im, nghỉ vài giây rồi lại bắt đầu chỉ vào một nhân viên khác rồi la lên:”Anh là kẻ có tội”!
Bác sĩ Menninger nói:”Tác động mà nhà giảng thuyết gây ra nơi những người bộ hành đi ngang qua đó thật là kỳ lạ”. Họ lấm lét nhìn ông, rồi lại quay mặt đi chỗ khác, rồi lại lén nhìn nữa, và cuối cùng vội vàng đi tiếp (M. Link).
Chắc chắn Gioan Tẩy giả cũng gây được tác động tương tự trên đám dân khi ngài xuất hiện ở bờ sông Giorđan. Ngài cũng như nhà giảng thuyết đã chạm vào nơi vùng thâm sâu dễ thương tổn nhất của dân chúng. Ngài đòi buộc dân chúng xét lại tâm hồn mình và nhận biết lỗi lầm của mình. Ngài còn đòi hỏi họ phải từ bỏ tội lỗi để quay về cùng Thiên Chúa.
3. Chờ đợi Đấng Cứu thế.
Kẻ học biết Kinh thánh và những luật sĩ chỉ lo nghiền ngẫm những lời tiên tri loan báo: Đấng Cứu thế sắp đến là:”Vua được xức dầu. Ngài đến trong dòng dõi Giuđa. Ngài chiến thắng quân thù, giết những vua chúa ngoại bang… Đấng xức dầu sẽ tụ họp dân Ngài trong đường công chính, cai trị các quốc gia, loại trừ mọi bất công và gian ác. Phúc cho ai được sống trong thời đại ấy” Họ nghiền ngẫm những lời ấy và suy đoán sắp đến ngày Đấng Cứu thế xuất hiện và ai ai cũng đều cầu xin Ngài đến.
Giờ đây họ được nghe loan báo Ngài đang đến. Thế là như cá gặp nước, như người chết đuối vớ được phao cứu, dân chúng đổ xô đến với Gioan và hỏi:”Chúng tôi phải làm gì để đón rước Đấng Cứu thế” (Vũ khắc Nghiêm).
II. CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ ?
1. Những hướng dẫn cụ thể.
Sau khi được nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy giả, dân chúng nôn nóng muốn thực hành ngay những điều ông dạy, nhưng những lời rao giảng ấy còn khó hiểu với những người phần lớn là thôn quê, đơn sơ chất phác. Họ muốn những lời dạy cụ thể hơn. Những việc mà Gioan muốn cho họ thực hiện chung qui là “Công bằng và Bác ái”. Tùy từng hạng người mà ông cho những hướng dẫn cụ thể.
a) Đối với dân chúng.
Đám dân đến nghe Gioan rao giảng đều là những người bình dân, cho nên lời rao giảng của ông là rõ ràng, chính xác và cần thực hiện ngay không được chậm trễ. Nó không có gì thuộc phạm vi trí thức hay khó hiểu cả, chính trong cái bình thường nhất hay tầm thường nhất của cuộc sống hằng ngày (ăn, mặc…) mà sự hoán cải qua thân xác, sự quay lại của tâm hồn gọi là “metanoia” cần được thực hiện. Nên Gioan đã trả lời:”Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”.
b) Đối với người thu thuế và quân nhân (cảnh sát).
Trong đám đông dân chúng đến chịu phép rửa, người ta nhận thấy có cả người thu thuế và cảnh sát. Đó là những người bị người ta ghét nhất thời đó, là những người ít tư cách nhất để đón tiếp Đức Giêsu, những người sống ngoài lề xã hội và bị khinh bỉ, những người tội lỗi nhất, những hạng người “đểu cáng”.
Những người thu thuế cũng thành thực hỏi ông:”Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì” ? Ông trả lời cho họ:”Đừng hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”. Binh lính cũng hỏi ông:”Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì”? Ôâng bảo họ:”Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”
Ở đây chúng ta nhận ra rằng Tin mừng theo thánh Luca sẽ cho chúng ta thấy Đức Giêsu”dùng bữa nơi nhà người tội lỗi”(Lc 5,27-30). Làm cho những người công chính rất bất bình với Đức Giêsu,”ngụ tại nhà người tội lỗi”(Cl 19,7) làm cho những người “đàng hoàng” phải bực bội. Đức Giêsu nói rằng Ngài đến không phải vì những người công chính (Lc 5,32).
2. Không đổi nghề nhưng đổi cung cách hành xử.
Thánh Phaolô không bảo họ phải lên rừng, vào hoang địa đi tu như Ngài. Không bảo người ta phải sống khắc khổ, ăn châu chấu và mật ong rừng, mặc áo nhặm da thú như ngài. Nhưng đối với đại đa số dân chúng, ngài chỉ bảo họ sống yêu thươug, hãy thực thi bác ái.
Còn đối với những người thu thuế và cảnh sát của quân đội chiếm đóng, Gioan Tẩy giả không yêu cầu họ đổi nghề, nhưng chỉ cần có cung cách sống mới: tôn trọng công lý, không lạm dụng sức mạnh mình có trong tay, bằng lòng với những gì mà quyền lợi và luật pháp đã quy định. Tất cả những lời khuyên trên đây thuộc lãnh vực nghề nghiệp. Chúng nhằm đến những tội lỗi, mà người thu thuế và binh lính thời ấy thường hay vấp phạm: làm giầu bằng cách lợi dụng tư thế bất khả xâm phạm do nghề nghiệp của mình. Lợi dụng thế mạnh nhất của mình đang nắm giữ (Quesson).
Lao động là việc cần thiết và có lợi cho đời sống vật chất cũng như tinh thần. Nói đến lao động là nói đến nghề nghiệp. Hiện nay bên Mỹ người ta đếm được 23.559 cách làm ăn để sinh sống. Tựu trung tất cả các nghề làm ăn sinh sống đều qui về hai loại lao động là trí óc và chân tay. Nghề nào cũng tốt, không có nghề nào xấu, chỉ có người xấu như ngạn ngữ Pháp đã nói:”Il n’y a pas un sot métier”: không có nghề nào xấu cả. Chúng ta cứ tiếp tục nghề nghiệp hiện tại của mình một cách lương thiện.
Những lời khuyên của Gioan ở trên thích nghi với địa vị của mỗi người. Ôâng không đòi buộc người ta tách lìa khỏi thế gian hoặc phải từ bỏ các nghề nghiệp. Ông chỉ đòi hỏi lòng nhân hậu và đức công bình, đó là những hoa trái biểu lộ lòng sám hối đích thực trong lúc chời đợi Đấng Cứu thế.. Giáo huấn của Gioan vì thế có tính cách chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt hơn của Đức Giêsu (Lc 6,29.32-36; Mt 5,39-48).
3. Kết quả của việc sám hối.
Nếu mọi người biết thực thi lời Gioan khuyên nhủ, chắc chắn niềm vui sẽ đến với mọi người vì tâm hồn mình đang sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Lời thánh Phaolô tông đồ trong bài đọc 2 hôm nay phải rộn vang trong lòng mọi người đón chờ Chúa đến:”Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa: Anh em hãy vui lên”(Pl 4,4).
Tác giả Chesterton đã viết:”Niềm vui là bí mật to lớn của người Kitô hữu”. Quả đúng như thế, bởi vì Kitô hữu là người đã được Thiên Chúa mạc khải, được Ngài hướng dẫn đưa vào trong những kế hoạch huyền nhiệm của Ngài liên quan đến tương lai của nhân loại, cũng như những phương thế để thực hiện tương lai này. Ngoại trừ tội lỗi, không một thứ gì có thể làm cho người Kitô hữu phải buồn phiền: họ vui vì họ đã đặt mọi niềm hy vọng nơi Thiên Chúa; họ luôn luôn vui. Bởi vì Chúa Thánh Thần là Đấng dưỡng nuôi niềm vui của họ.
Để cho niềm vui được chan hòa trong lòng, người Kitô hữu cần biết chia sẻ niềm vui; bởi vì tâm hồn càng triển nở và dồi dào sức sống, nếu nó biết trao hiến, biết tận tình phục vụ. Đây không phải là một tình huynh đệ giả tạo, mà là sự khả ái, sự an nhiên giúp chúng ta có thể thấu hiểu mọi sự, mà không thiếu sự cương quyết; có thể sống an nhiên, mà không vì thế trốn tránh các khó khăn của cuộc đời.
Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu:”Hãy vui cùng kẻ vui, hãy khóc cùng kẻ khóc”. Sở dĩ Ngài khuyên các tín hữu như vậy là vì con người hay ích kỷ, chỉ biết vơ mọi cái vào cho mình, mình là trung tâm của vũ trụ, còn thì sống chết mặc bay. Cho nên biết chia sẻ niềm vui cho người khác cũng là thực thi bác ái và nó đòi phải hy sinh, hy sinh phải ra khỏi cái ốc đảo của mình để chú ý đến người khác. Người ta nói:”Niềm vui mà được chia sẻ thì tăng lên gấp bội, và nỗi buồn mà được chia sẻ thì sẽ giảm đi được một nửa”. Như vậy thì ai mà không muốn được chia sẻ ?
Sự vui tươi không ở trong cảnh vật mà chỉ có ở trong lòng người: ta vui thì cảnh vật vui, ta buồn thì cảnh vật sẽ buồn. Cảnh vật bên ngoài chỉ là bức họa phản chiếu tâm hồn từng người. Đúng như thi sĩ Nguyễn Du đã nói trong truyện Kiều:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Một người đã có Chúa trong mình thì bao giờ cũng vui tươi mặc dầu sống trong cảnh đau khổ. Không gì có thể làm cho họ buồn vì thánh vịnh 42 đã chứng minh:”Introibo ad altare Dei, ad Deum qui laetificat juventutem meam”: Tôi sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Đấng làm cho tuổi xuân tôi được mừng vui”(Tv 42,4).
Truyện: Vui buồn ở tại lòng người.
Buổi sáng ở trạm xăng ngoại ô San Francisco. Một người ngồi xe hơi đến:
Xin cho hỏi thăm ông chủ một chuyện. Hai tuần lễ vừa qua, tôi nghỉ mát tại Santa Cruz. Thật hứng thú. Phong cảnh ở đó đẹp. Dân ở đó dễ thương. Còn về Redwood Highway, ông chủ có ý kiến gì không ?
Ông chủ cây xăng hớn hở trả lời:
Ở Redwood-Highway dân cũng dễ mến lắm.
Chưa đầy một tiếng đồng hồ sau, một người khác cũng muốn biết về nơi nghỉ mát này. Chàng nhăn nhó nói:
Vừa rồi, tôi đã uổng mất hai tuần nghỉ mát. Chỉ thấy bực mình. Phòng ngủ thì thiếu tiện nghi. Dân ở đó dễ ghét.
Ông chủ rầu rầu đáp:
Miền Redwood-Highway cũng chẳng hơn gì.
Khách đi rồi, người ta mới hỏi ông:
Tại sao thay đổi ý kiến chóng như vậy ?
Ông nói:
Đâu có. Tôi chỉ nhận xét rằng hai ông khách kia mỗi người theo đuổi một cảm nghĩ, không ai muốn thay đổi. Ôâng thứ nhất yêu những người đã gặp, và thích phong cảnh đã được xem. Vậy chắc là đi tới nơi nào ông cũng thích cũng yêu nơi đó. Còn người thứ nhì thì khó tính, hay càu nhàu. Vậy tôi nghĩ rằng đi tới đâu, ông ta bất mãn nơi đó.(Vũ minh Nghiễm, Sống sống, tr 210-212)
Trong tuần lễ này, chúng ta phải năng hỏi Chúa:”Lạy Chúa, con phải làm gì”? Câu hỏi này chúng ta đã từng gặp nhiều lần trong Kinh thánh để rồi Chúa sẽ trả lời cho chúng ta trong ơn thánh. Chúng ta thử đưa ra mấy trường hợp. Trước hết, người thanh niên giầu có và thông luật đến hỏi Đức Giêsu:”Tôi phải làm gì để được sống đời đời”? Ôâng Nicôđêmô, sau khi nghe Đức Giêsu nói về sự “tái sinh” bởi nước và Thánh Thần, ông thấy khó hiểu và tự hỏi:”Tôi phải làm gì, không lẽ già cả như tôi lại chui vào lòng mẹ mà sinh lại”? Khi bị quật ngã trên đường đi Đamas, thánh Phaolô cũng đã hỏi Chúa một câu tương tự:”Thưa ngài, tôi phải làm gì”?
Tóm lại, qua bài Tin mừng hôm nay, thánh Gioan Tẩy giả đã vạch ra cho chúng ta một cách sống đẹp lòng Chúa để dọn đường cho Chúa đến là hãy sống yêu thương và công bằng. Đó là những hoa trái biểu lộ đích thực lòng sám hối. Và đó cũng là những chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu sẽ vạch ra sau này. Chúa đòi hỏi chúng ta phải ra sức làm việc phục vụ anh em trong yêu thương, trong công bằng bác ái, chú ý đến kẻ khác để có thể nói “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Chúa cũng muốn chúng ta thực hiện câu tục ngữ người ta thường nói:”Có đi có lại mới toại lòng nhau”: chúng ta có biết quên mình đi mà đến với tha nhân, thì Chúa mới đến với chúng ta và khi đã có Chúa là nguồn vui thì chắc chắn chúng ta sẽ được vui tươi. Hãy thực hiện lời thánh Phaolô:”Anh em hãy vui lên trong Chúa”.
Những tiên tri hiếm khi tạo sự đối tác thoải mái, và những lời tiên tri của Zephaniah hầu hết các: MV 3-C66
Những tiên tri hiếm khi tạo sự đối tác thoải mái, và những lời tiên tri của Zephaniah hầu hết các phần không làm cho việc lĩnh hội được thú vị. Viết trong thời cai trị của Josiah vào thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên, Zephaniah đã rao giảng chống lại việc sùng bái tượng thần và những hình thức khác của sự lũng đoạn tôn giáo. Bằng nỗ lực của mình đã khuấy động đối với sự tái tạo tinh thần và đạo đức. Ông tiên đoán cái chết và sự đau khổ đối với Jerusalem như sự trừng phạt. Thậm chí ông còn diễn đạt chi tiết lời tiên tri của mình bao gồm phần còn lại của thế giới trong sự phán xét đang đến được gọi là “Ngày của Chúa Trời.” Trong mắt họ, những lời tiên tri và khuyến cáo này được thực hiện với sự tàn phá ngôi đền thờ đầu tiên vào năm 586 trước Chúa giáng sinh bởi dân Babylon.
Dường như không xuất hiện nhiều lý do để vui mừng. Nhưng một tầm nhìn của sự hy vọng được chu cấp: thời gian sẽ đến khi kẻ thù của Israel bị chế ngự và một di tích trung thành và tinh khiết sẽ trị vì trong sự hòa bình với Thiên Chúa ở giữa họ. Sự tàn phá và đau khổ không phải là sự kết thúc ý định bởi Thiên Chúa. Chúng ta có thể trải qua nó đề dẩn đến một tương lai sán lạn. Tầm nhìn này có ý định để dần thấm nhuần những hy vọng và niềm vui được dân chúng vượt lên trên tính tiêu cực của sự trải nghiệm hiện thời của họ.
Bóng ma “Ngày của Chúa Trời” này vẫn hiện diện trong Tân Ước nơi mà nó được gắn liền với sự trở lại của Chúa Giê-su và sự phán xét cuối cùng xảy ra sau đó vào khoảnh khắc cuối cùng. Một lần nữa, nó được dùng để gây hoảng sợ, và chúng ta không bị sai sót trong sự chất vấn không biết thứ hình ảnh này có sẽ được nối kết với Chúa Giê-su hay không. Không thể có niền vui tràn trề trong những lúc đau khổ chống chất như vậy hoặc bị lấy mất đi.
Niềm hân hoan và lòng tri ân là những phương tiện đắc lực của sự canh tân và hòa giải. Thánh Phao-lô hô hào cộng đồng của mình luôn hân hoan trong trong Chúa. Khi lời cầu của họ được tham gia với một cảm giác hân hoan và thành kính tri ân họ mạnh mẽ hơn bao giờ hết – có khả năng xảy ra bởi lẽ hoan hỉ và tri ân là những chỉ dấu mà họ đã gần gũi với Thiên Chúa rồi. Lòng tri ân hơn gấp bội vài lời thì thầm cảm ơn – đó là sự tiếp cận hoàn toàn tới cuộc sống và tính chất tâm linh sâu sắc. Điều đó thật khó ngoại trừ không vị kỷ, sợ hãi và tức giận trong lúc đang sống trong một trạng thái vui vẻ và biết ơn. Không gì ngạc nhiên vì nó mang đến cho chúng ta sự bình an để vượt lên trên tất cả mọi hiểu biết.
Đám đông bị kích động. Thánh Gio-an Tẩy Giả kêu gọi một Lễ Rửa ăn năn sám hối và gợi ý nhẹ nhàng tế nhị trước những mời gọi nồng nhiệt từ Thiên Chúa. Nên một số trong họ đã đưa ra một số câu hỏi một cách thẳng thắn: thiên Chúa muốn chúng tôi làm gì trong lúc chúng tôi chờ đợi? Và những ai đưa ra câu hỏi ấy là đã có sự suy lý hoàn hảo để ăn năn thống hối. Những người thu thuế và những người linh đã không đề cao danh sách những người được quí mến vì cả hai đều bị tiền bạc và bạo lực mua chuộc. Câu trả lời của Thánh Gio-an là một sự ngạc nhiên. Ông đã khẳng định rằng họ đã không tìm thấy cho mình một lối đi hoàn toàn mới trong cuộc sống – họ có thể tiếp tục là người thu thuế và là những người lính. Nhưng họ phải thực hiện công việc như vậy trong một cách thức công bằng và chính trực. Không tống tiền, không bạo lực, không lừa gạt. Chỉ cần đối xử với mọi người một cách đúng đắn. Không quá rắc rối phiền toái, phải không? Vì đối với tha nhân, họ phải chia sẻ những gì mà họ có với tha nhân. Nếu họ có nhiều hơn họ cần thiết một cách thực sự, thì họ nên thi ân những người khác. Một lần nữa, nó có vẻ như hiển nhiên và đơn giản một cách đáng hoài nghi. Nhưng đó là điểm trọng yếu. Không phải Thiên Chúa yêu cầu chúng ta điều gì đó phức tạp và nan giải – duy nhất là chúng ta hãy cư xử với người khác với một phong cách mà chúng ta muốn người khác cư xử.
Có lẽ chúng ta cần phải suy nghĩ lại những hình ảnh nóng bỏng và sự trừng phạt – những điều này tiêu biểu cách suy nghĩ đường mòn của thế giới cổ đại. Chúa Giê-su đã gây bối rối và bực mình tới những người cùng thời một cách đúng đắn bởi vì Người không biểu lộ sự gay gắt căng thẳng và bạo lực thiết tưởng. Nhưng những lời cảnh cáo của Thánh Gio-an đối với ngày nay nghiêm khắc và cương quyết như đối với họ ngày ấy. Làm những gì có thể được chấp nhận và đẹp lòng Thiên Chúa bao gồm những giao dịch kinh doanh, việc làm, những quan hệ gia đình, tình bằng hữu và sự nhận thức của chúng ta trước những nhu cầu của người khác. Chúng ta có thể yêu cầu nếu phong cách sống, giá tri và thái độ của chúng ta có sự va chạm tiêu cực với những người xa cách hoặc những ai chúng ta không bao giờ gặp gỡ. Khi chúng ta tiên liệu sự sắp đến của Chúa Trời, điều đó cần một thời gian để kiểm tra những giá trị của chúng ta và tư cách đạo đức của chúng ta để bảo đảm rằng sự độc ác, bạo lực, tham lam hay vô cảm trước sự đau khổ của người khác không tìm được chỗ đứng trong tâm hồn của chúng ta.
Thiên Chúa không yêu cầu chúng ta phải hoàn hảo hay siêu phàm, mà duy nhất mọi người công bằng và bác ái.
(Nguồn: Regis College – the School of Theology) Giuse Tú Nạc, NMS
Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: "Vậy chúng tôi phải làm gì?" Ông trả lời: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy". Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?" Gioan đáp: "Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi". Các quân nhân cũng hỏi: "Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?" Ông đáp: "Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình".
Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: "Có phải chính ông là Ðức Kitô chăng?" Gioan trả lời cho mọi người rằng: "Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Ðấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, - chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!" Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng.
Các bài Kinh Thánh đọc hôm nay chan chứa vui mừng và hy vọng. Phụng vụ nhờ những bài đọc: MV 3-C67
Các bài Kinh Thánh đọc hôm nay chan chứa vui mừng và hy vọng. Phụng vụ nhờ những bài đọc ấy khuyến khích chúng ta hân hoan sung sướng, làm cho ngày Chúa nhật hôm nay trở thành Chúa nhật màu hồng trong mùa Vọng. Phụng vụ cũng muốn, nếu có thể được hôm nay hãy dùng lễ phục màu hồng thay màu tím. Vì lẽ ngày Chúa đến đã gần. Chúng ta phải vui mừng để phấn khởi lấy đà đi mau hết giai đoạn chót. Do đó hôm nay là dịp thuận lợi để chúng ta suy nghĩ về niềm vui của người Kitô hữu. Chúng ta sẽ nhờ các bài đọc Thánh Kinh để khám phá ra lý do cũng như cách thức vui mừng trong đời sống đạo. Chắc chắn với ba bài đọc ngắn ngủi trong toàn bộ Kinh Thánh rất dày, công việc tìm hiểu niềm vui của Kitô giáo sẽ bị giới hạn. Nhưng chúng ta sẽ có nhiều dịp lễ vui mừng khác, để nhờ những bài đọc Thánh Kinh khác, bổ sung cho những điều chúng ta gặp thấy hôm nay trong sách Sôphônia, trong bài thư gởi giáo đoàn Philip và nhất là trong bài Tin Mừng Luca.
1. Vui Nhờ Niềm Tin
Có thể nói, ít thời buổi nào lung tung, phập phồng và nhiều sợ hãi như thời của Sôphônia. Ông hoạt động vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 trước Chúa Giêsu Giáng Sinh. Mảnh đất Do Thái nhỏ bé, quê hương của ông, nay sợ quân phía Bắc xâm chiếm; mai hãi sức ép của quân lực phía Tây Nam. Người ta chưa hết sợ đoàn quân viễn chinh Assyri, đã phải trốn tránh sự trả thù của Haòng đế Ai Cập. Tội nghiệp cho triều đình Giêrusalem nhỏ bé. Người chủ trương liên kết với phía này; kẻ lại tranh đấu để được lòng phía kia. Bất ổn, lung tung, cướp bóc, trả thù, chinh chiến gieo sợ hãi, kinh hoàng, hao mòn và kiệt quệ... cho đến khi Giêrusalem bị dày xéo và dân cư bị đưa đi lưu đày.
Chính trong cảnh tang tóc tuyệt vọng ấy, Sôphônia đã tìm được niềm tin, một niềm tin vững vàng đến nỗi đã thoát thành lời hô vui sướng mà chúng ta đọc hôm nay, Sôphônia làm gương cho tất cả chúng ta. Không bao giờ được nản chí, bỏ mất niềm tin. Không được để cho khó khăn đau thương đè ép được niềm tin cứu độ. Chúa đang đến cứu độ chúng ta, lẽ nào chúng ta không phấn khởi đi trong tinh thần mùa Vọng? Chúng ta hãy để cho lời của Sôphônia luôn vọng đến tai:
Reo vui lên hỡi sư tử Sion; hãy hò la hỡi Israen. Hãy vui mừng, hãy hoan hỉ hết lòng, nữ tử Giêrusalem. Người nói lên được những lời ấy đã quan niệm sự vui mừng vừa phải thật lòng, vừa phải hân hoan bộc phát ra bên ngoài. Nói cách khác, lòng vui chưa đủ mặt cũng phải vui nữa. Niềm vui khi ấy mới chân thật và hồn nhiên. Cả con người đều vui.
Là vì đây là niềm vui cứu độ. Thiên Chúa xóa mất án phạt trên con người và đuổi xa địch thù hãm hại. Người không đánh phạt tội lỗi chúng ta nữa nhưng đã tha thứ rồi. Người không cho kẻ thù đến rình rập gài bẫy chúng ta nữa. Ngược lại chính Người đến ở giữa chúng ta để chúng ta không còn phải sợ tai họa và tay chân chúng ta hết bủn rủn. Hơn nữa Người còn làm mới tình yêu của Người đối với chúng ta, tỏ sung sướng reo vui vì chúng ta và quây quần chúng ta lại để mừng lễ.
Thật ra, Sôphônia không rõ ràng bao nhiêu. Ông lúng túng dùng nhiều hình ảnh. Chúng ta có thể phân tách và thấy ông có hai cảm tưởng này: khi Thiên Chúa ban ơn cứu độ khiến dân Người được vui mừng, thì một đàng Người đưa dân ra khỏi đau thương thử thách và khỏi tay địch thù; và đàng khác Người đến ở với dân để quây quần họ như ăn mừng lễ; một đàng Người củng cố dân khỏi sợ hãi và đàng khác Người làm mới tình yêu khiến họ được sướng vui. Hai công việc này Thiên Chúa đã làm khi đưa dân ra khỏi lưu đày và về xây lại Ðền thờ... Nhưng lần cứu độ ấy mới tạm thời và bề ngoài. Chính khi Ðức Giêsu Kitô Giáng sinh vừa để cứu vớt thế gian khỏi tội lỗi, vừa để sung sướng ở giữa con cái loài người, lời sách Sôphônia mới được thực hiện. Tuy nhiên việc Chúa Giáng sinh cứu đời cũng chỉ mới khởi sự công cuộc cứu độ thực sự, sẽ được hoàn tất trong ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Vì thế lời Sôphônia đối với chúng ta vẫn còn là lời tiên tri. Chúng ta vẫn phải nghe để không những chẳng bao giờ mất niềm tin, mà còn để trông đợi ơn tha thứ tội lỗi và được kết hợp với Thiên Chúa tình yêu. Chúng ta có lý để tin lời tiên tri ấy, vì một phần nào đó đã được thi hành khi Ðức Giêsu Giáng Sinh làm người. Càng suy nghĩ về cuộc đời của Ðức Giêsu, chúng ta càng tin tưởng tiếp tục mùa Vọng muôn thuở. Do đó việc tìm hiểu bài Tin Mừng hôm nay cũng sẽ làm sáng tỏ thêm lời sách Sôphônia.
2. Vui Vì Cứu Ðộ
Tác giả Luca đã cho chúng ta thấy dân chúng tuôn đến với Gioan để được ông thanh tẩy. Họ muốn chuẩn bị đón Ðấng Cứu Thế. Họ thành thật muốn biết phải làm gì?
Tác giả Luca để cho dân chúng lên tiếng hỏi trước. Ông vẫn có thiện cảm với quần chúng. Và khi viết tác phẩm Tin Mừng ông vẫn quan tâm nhấn mạnh tính cách phổ cập của ơn cứu độ. Ông nói đến hạng người thu thuế. Những người này cũng được ông thương mặc dù bị người Do Thái liệt vào hạng tội lỗi vì họ lấy thuế cho ngoại bang và nhiều khi hà lạm. Nhưng Chúa đã chẳng đến để cứu chuộc kẻ tội lỗi ư? Chính họ cần lòng thương cứu độ của Người. Sau đó tác giả Luca nói đến lính tráng. Ở đây có lẽ là hạng lính đánh thuê, hay phiền nhiễu đồng bào. Ai yếu thì sợ họ, nhưng người hiểu biết chỉ nhìn họ bằng ánh mắt thương hại. Luca là tác giả tình thương. Ông muốn cho họ được ơn cứu độ. Và vì thế, ông đã để cho tất cả những hạng người trên phát biểu thiện chí muốn làm gì để được lòng thương của Chúa.
Ðối với dân chúng, Gioan bảo họ hãy chia cơm sẻ áo cho nhau, vì dưới mắt ông dân chúng như đoàn chiên đói rách. Ơn cứu độ đối với họ là được yêu thương chia sẻ. Người ta làm cho họ thấy ơn cứu độ đã gần khi tổ chức lại đời sống xã hội cho công bình và thương yêu nhiều hơn. Và chính họ có biến đổi lòng ấm ức xã hội nên những tâm tình chia sẻ nhiều hơn, thì mới trở nên những con người mới. Ðang khi ấy những người thu thuế và lính tráng, muốn được cứu độ, phải liêm chính và đừng sách nhiễu đồng bào. Gioan không bảo họ phải bỏ nghề bất chính họ đang làm; vì ông không phải là đấng đổi mới thế gian". Ông chỉ là tiền hô và rao giảng việc dọn đường, chuẩn bị. Ông sung sướng được thấy người ta muốn biết ai là Ðấng Kitô?
Ông trả lời, ông không phải là Người. Ông chỉ rửa trong nước; Người sẽ rửa trong Thánh Thần và lửa, Người quyền thế hơn ông và ông không đáng cởi quai dép cho Người.
Chúng ta hãy cảm mến lòng thành thực của Gioan. Ông không lạm dụng lòng tín nhiệm của người ta, vì họ sẵn sàng nhận ông là Ðấng Kitô. Chúng ta cũng cảm phục lòng khiêm nhượng của ông khi ông tự ví mình không xứng đáng là tôi tớ của Ðấng ông rao giảng, ví ngay kẻ tôi tớ Do Thái cũng không buộc phải cởi quai dép cho chủ. Nhưng điều Gioan muốn cho chúng ta để ý hơn cả, là biết Ðức Kitô là Ðấng quyền phép sẽ đến rửa trong Thánh Thần và lửa. Ông rửa người ta với nước, mà không có sự hiện diện của Thánh Thần, tức là không có lời hứa sẽ được ban trong thời kỳ cứu độ và nghĩa là không có ơn thánh hóa kèm theo.
Còn Ðức Kitô, Người sẽ rửa trong Thánh Thần, tức là sẽ ban Thánh Thần cho kẻ nhận phép rửa nhân danh Người. Chắc chắn khi viết tư tưởng này, tác giả Luca nhớ đến những lúc Thánh Thần hiện xuống trên những người tin đạo (thí dụ trong trường hợp tại nhà ông Corneliô, kể trong sách Công vụ). Và ông hẳn cũng liên tưởng đến hôm Chúa Thánh Thần hiện xuống dưới hình lưỡi lửa, ở đây ông nói đến cả Thánh Thần và lửa, là muốn nhấn mạnh đến một tác động đặc biệt của Thánh Thần là phán xét và phân biệt kẻ lành người dữ. Ðức Kitô sẽ đến đầy Thánh Thần. Người sẽ ban Thánh Thần cho chúng ta.
Nhưng đồng thời Người cũng thanh tẩy phân biệt chúng ta như người nông dân cầm rê xảy lúa. Thóc thì Người cho vào lẫm, còn trấu thì cho vào lửa đời đời. Công việc của Người, như vậy, sẽ hoàn tất việc làm của Gioan. Ông này rao giảng việc thống hối ăn năn; nhưng chính xác Ðức Kitô mới là Ðấng sẽ đến thánh hóa kẻ thống hối và trừng phạt kẻ không hối cải. Gioan chỉ là người chuẩn bị Ðức Kitô là Ðấng thực hiện việc cứu thế. Chúng ta phải chờ đợi Người.
Như vậy, Gioan cũng như Sôphônia chỉ là tiên tri. Các ông đóng vai trò loan báo và dọn đường. Tiếng của các ông reo vui hơn tiếng các tiên tri khác, vì Ðấng Cứu Thế đã gần đến và công việc của Người là cứu độ. Lời rao giảng của các ông thật là Tin Mừng, nhưng vẫn còn là sự vui mừng trong tin yêu và chờ đợi ơn cứu thoát. Nó không như lời khuyên bảo vui mừng trong thư Phaolô mà chúng ta sắp đọc.
3. Vui Trong Thiên Chúa
Phaolô đã thấy được ơn cứu độ mà Sôphônia loan báo. Hơn nữa chính Người đã thấy phép rửa trong Thánh Thần và lửa như Gioan đã báo trước. Người bảo chúng ta trong bài thư hôm nay: hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn. Theo Người, mặc dù ta đang sống trong chờ đợi ngày Chúa đến, luôn luôn chúng ta phải vui mừng. Người lặp lại một lần nữa và bảo chúng ta hãy vui mừng. Vui mừng là đặc tính của đạo Tin Mừng.
Ðây không phải là sự vui mừng trong lý lẽ thế gian, mà là trong Thiên Chúa. Người đã cứu độ chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Chúng ta đang ở trong nhiệm thể của Ðấng đã sống lại trong sự vui mừng. Làm sao chúng ta có thể còn buồn được nữa? Và vì vui trong Thiên Chúa, sự vui mừng của chúng ta phải luôn mãi, không thay đổi, không nao núng, vì thánh giá Ðức Kitô đã toàn thắng cả sự chết. Chúng ta không được dấu sự vui mừng ấy, mà phải làm sao cho mọi người nhận biết, vì như Sôphônia đã nói sự vui mừng cứu độ phát xuất từ bên trong nhưng tràn ngập ra bên ngoài. Và cũng chính nhà tiên tri ấy đã báo: không gì có thể dồn ép được niềm vui cứu độ vì lẽ Chúa ở gần bên chúng ta. Người đuổi xa sự sợ hãi và địch thù; nên chúng ta đừng lo. Có gì chúng ta cứ thành khẩn thưa Người. Người sẽ ban bình an và canh giữ lòng dạ chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô.
Thiết tưởng không ai hơn được thánh Phaolô trong phân tách sự vui mừng của người Kitô hữu. Nếu chúng ta đã nhận được niềm tin vào lời hứa của Chúa như tiên tri Sôphônia; và nếu chúng ta đã chắc được cứu độ nhờ phép rửa trong Thánh Thần và lửa, như lời Gioan đã báo trước, thì chúng ta phải chấp nhận lời khuyên của Phaolô mà vui mừng luôn mãi trong Chúa. Ðiều duy nhất là liệu có thể ở mãi trong Chúa. Và điều ấy có thể được, đặc biệt nhờ vào việc tham dự thánh lễ.
Ðây là lúc chúng ta không những được nghe loan báo về Chúa như thời Sôphônia, và được đón Chúa đến như dưới thời Gioan Tẩy Giả; chúng ta còn được kết hợp với Người, để Người ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Người. Rồi ở trong bất cứ hoàn cảnh nào Người cũng ở với chúng ta, để cứu độ và canh giữ cả ý nghĩ lẫn việc làm, cả tâm hồn và đời sống.
Thế nên chúng ta hãy bình an và vui mừng, hãy chứng tỏ chúng ta có tin mừng cứu độ; chúng ta có các lời tiên tri hứa hẹn và những lời ấy đã thực sự khởi sự thực hiện nơi chúng ta. Do đó chúng ta vui mừng và vui mừng luôn mãi trong Thiên Chúa.
Trên đường đi, anh chị em gặp nhiều bản hiệu hướng dẫn; nào cấm đậu xe, không được nhấn: MV 3-C68
Trên đường đi, anh chị em gặp nhiều bản hiệu hướng dẫn; nào cấm đậu xe, không được nhấn còi, rẻ trái, rẻ phải. . . thỉnh thoảng còn có những cảnh sát giao thông. Vậy mà tai nạn giao thông cứ xảy ra thường xuyên. Không phải những người đó không nhìn thấy bản chỉ dẫn, cũng không phải họ không biết luật lệ giao thông. Trái lại họ biết rất rỏ, nhưng không tuân giữ nên mới có tai nạn xảy ra. Nếu họ biết tôn trọng luật lệ giao thông thì họ bảo đảm an toàn cho mình mà còn gìn giữ cho người khác nữa.
Gioan tẩy giả xuất hiện, ông kêu gọi ăn năn sám hối, sửa đỗi cuộc sống. Mọi người chạy đến với ông và hỏi: “chúng tôi phải làm gì?”. Ông không chỉ cho điều gì mới lạ, mà từng người từng địa vị, từng trường hợp, ông bảo sống đúng trách nhiệm của mình, làm tròn bổn phận được chỉ định. Ông chỉ dạy và ông còn làm gương cho mọi người, qua việc ông xác định thân phận của mình. Ông chỉ là người đi báo tin, ong chỉ biết làm tròn trách nhiệm của mình, ông không chấp nhận những gì mà mọi người gán ghép cho, ông không thể nhận điều mình không xứng đáng được nhận. Ông chỉ kêu gọi mọi người chuẩn bị đón Đấng đến sau ông, nhưng có trước ông, quyền lực hơn ông và là Đấng mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người.
Lời kêu gọi của Gioan năm xưa đối với những người Do Thái thời bấy giờ, cũng là lời mời thống thiết đối với từng người trong chúng ta. Nhưng chúng ta có biết lắng nghe và chạy đến để hỏi như người Do Thái khi xưa không? Tôi phải làm gì? Chúng ta cũng đã từng nghe câu trả lời, nghe rất nhiều, nhưng những gì đã nghe có đưa tới hành động hay không lại là một chuyện khác.
Ai có hai áo thì chia cho ngưới không có,
Ai có của ăn cũng hãy làm như vậy.
Đừng đòi hỏi quá mức ấn định. Chớ dùng vũ lực,đừng vu khống mà tống tiền người ta, Hãy an phận với số lương của mình.
Những điều đó chúng ta biết quá rõ, những điều đó chúng ta cũng nghe quá nhiều, nghe nhiều quá rồi đôi khi trở nên nhàm chán. Chính vì nhàm chán nên chúng ta không thi hành được, mà đó lại là những điều cần thiết cho cuộc sống.
Hôm nay một lần nữa chúng ta lại nghe lời mời gọi, nhưng chúng ta có dám hỏi như những người Do Thái khi xưa: “chúng tôi phải làm gì?” Chúng ta có nghe câu trả lời và chúng ta có dám thực hành những gì mình đã lắng nghe không?
Nếu chúng ta biết nhìn lại chính mình, nhìn thấy những gì cần thay đỗi và không ngần ngại để cho con người chúng ta được trở nên tốt hơn.
Nếu chúng ta nhìn thấy được nhu cầu của những người chung quanh và biết đáp ứng theo khả năng của mình khi cần thiết.
Nếu chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm của mình trong cuộc sống và biết chu toàn cách tốt đẹp.
Nếu chúng ta biết chấp nhận cuộc sống hiện tại mà không một lời kêu ca, phàn nàn, chỉ trích.
Nếu chúng ta biết tôn trọng những người chung quanh qua lời nói, hành động và cả suy tư.
Nếu chúng ta biết chấp nhận những gì mình đang có và bằng lòng với tất cả niềm tuân phục Thánh Ý Thiên Chúa.
Đó là chúng ta biết lắng nghe lời chỉ dạy của Gioan. Đó là chúng biết tự bảo vệ mình, đồng thời cũng tôn trọng và bảo vệ người chung quanh mà không gây thiệt hại cho họ và cho cả chính mình.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta nhìn thấy được chính mình, thấy những gì cần sửa đỗi, thấy những gì cần phải làm, để xứng đáng đón rước Chúa và lãnh ơn cứu độ.Xin Chúa đến và ngự trong tâm hồn mỗi người chúng ta.
Dân chúng tỉnh ngộ đến hỏi Gioan: “ chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10)
Gp. Vĩnh long
Khi ấy, thánh Gioan Tiền hô đã đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng kêu gọi người ta chịu: MV 3-C69
Khi ấy, thánh Gioan Tiền hô đã đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng kêu gọi người ta chịu: phép rửa tỏ lòng sám hối, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia (Is 40, 3): hãy dọn đường cho Chúa; thung lũng hãy lấp đầy - núi đồi phải bạt xuống - quanh co uốn cho ngay - gồ ghề phải san cho bằng…. Lời rao giảng của Gioan vừa đanh thép, đánh động lòng người, vì thế dân chúng tuôn đến nghe Gioan giảng dạy, đồng thời vì xúc động và tỉnh ngộ do những lời Gioan rao giảng, nên họ đã hỏi Gioan: Lạy Thầy, chúng tôi phải làm gì? Câu hỏi này, hôm nay có phải cũng là câu hỏi của mỗi người Kitô hữu chúng ta không, nhân mùa Vọng, kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Câu hỏi: trong Kinh thánh, một số trường hợp người ta đến hỏi Chúa như thế:
Mc 10, 17: một anh thanh niên giàu có đến trước mặt Chúa Giêsu, sụp lạy Chúa và hỏi: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” ….
Lc 10, 25-28: một kinh sư đứng lên hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời……? “
Cvtđ 22, 6-11: Thánh Phaolô sau khi bị Chúa quật ngã trên đường đi Damas, đã hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì đây?”
Thánh Phêrô, trong tác phẩm và phim “Quo Vadis”, khi ông muốn trốn chạy ra khỏi thành tránh cơn bắt bớ, đã bị Chúa chặn lại hỏi: “con đi đâu vậy?”, và ông cũng đã hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì?”
Anh chị em thân mến, câu hỏi trên đây, Hội thánh cho chúng ta đọc lên ngay giữa Mùa Vọng này, chắn chắn phải có ý nghĩa và mục đích của nó. Chính vì thế trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta còn tìm thấy câu trả lời cho dân chúng của thánh Gioan Tiền Hô nữa…
b. Câu trả lời: nhiều hạng người đến hỏi Gioan Tiền Hô , ông trả lời theo hoàn cảnh họ:
Với dân chúng cách chung, là những người chỉ thích làm toán cộng và toán nhân, để tiền của và quyền lợi càng nhiều thêm, Gioan dạy làm toán trừ và toáV chia: hãy chia sẻ. Bác ái kitô giáo là yêu thương bằng hành động, là chia sẻ với anh em khó khăn hơn mình, chứ không phải là bố thí cái dư thừa của mình. Đức Kitô đã yêu thương ta bằng một tình yêu cụ thể, sống động, và là mẫu gương trước tiên về tình yêu đó…
Với các người thu thuế, là những người muốn thu càng nhiều chừng nào càng tốt, Gioan khuyên: đừng đòi hỏi quá mức ấn định; mỗi người hãy sống đúng cương vị và bổn phận của mình
Với binh lính là hạng người thường lợi dụng sức mạnh để hà hiếp kẻ khác, Gioan nhắc nhở: “ hãy biết bằng lòng ”.
Những điều Gioan dạy hầu như không giống thói quen ở đời, là thích được thêm; ở đây Gioan dạy phải bỏ bớt. Người đời thì hi vọng thu tích thêm cái bên ngoài, Gioan dạy hi vọng chính là giải thoát được những thứ cồng kềnh làm ta buồn, những cái làm ta chìm xuống; thoát được những thứ đó, cuộc đời sẽ vui hơn và tràn đầy hi vọng…
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúng tôi phải làm gì? Dân chúng đã khiêm tốn và tỏ lòng sám hối mà hỏi thánh Gioan, để ông chỉ cho họ con đường phải theo. Phần ta ta có đủ khiêm tốn và ăn năn, để dọn tâm hồn chờ Chúa đến không, nhất là khi ta có tội?
Thánh Gioan không nói người khác phải sống như Ngài, nhưng nhắc nhở mọi người hãy sống xứng đáng với chức vụ, địa vị và nghề nghiệp của họ. Thánh Gioan là như thế. Còn ta ta có sẵn sàng noi theo gương Ngài? để không đòi hỏi kẻ khác theo ý riêng của mình, mà giúp họ nên thánh trong ơn gọi của họ không?
Lần mò tiến bước trong bóng đêm, ta ước ao có được ánh sáng soi chiếu, ta sẽ mừng rỡ khi bắt: MV 3-C70
Lần mò tiến bước trong bóng đêm, ta ước ao có được ánh sáng soi chiếu, ta sẽ mừng rỡ khi bắt gặp được một tia sáng dù le lói, dù chỉ là vật được chiếu sáng. Dân Do Thái xưa cũng mừng rỡ đến đón nhận phép rửa của Gioan. Họ đã mong ngóng đợi chờ Vị Cứu Tinh và nay họ nhận thấy nơi Gioan có vẻ là Vị Cứu Tinh mà họ đang trông ngóng, họ xin ông chỉ cho họ phải làm gì để tỏ lòng sám hối. Và Gioan đã chỉ cho họ cũng như ông tự nhận về vai trò của mình.
Ta thấy được rằng lòng sám hối không chỉ được thực hiện trong tâm nhưng còn đòi hỏi phải thể hiện bằng hành động cụ thể, bằng việc thực thi công bằng bác ái. Với dân chúng “ai có hai áo thì chia cho người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Với người thu thuế thì “đừng đòi hỏi gì quá mức đã quy định....” Gioan không đòi hỏi mọi người phải và sa mạc như ông nhưng hãy thực thi công bình bác ái trên chính nghề nghiệp của mình. thế nên cuộc sống thường ngày của ta chính là phương tiện giúp ta nên thánh. “Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp” nên mọi việc chúng ta làm dù khiêm tốn mấy đi chăng nữa nếu được thực thi với tấm lòng quảng đại vui tươi thì cũng trổ hoa nhân đức trước mặt Chúa.
Gioan cũng tiết lộ thân phận của mình cho người Do Thái. Ông nhận mình không phải là Mêssia, ông chỉ là người dọn đường, chỉ là vật được chiếu sáng bởi ánh sáng thật đang đến, ông nhận mình không đáng cởi quay dép cho Đấng Mêssia... Gioan qủa là một con người được tuyển chọn, đang khi sự nghiệp của ông đang hoang đãng, mọi người đang tín nhiệm lũ lượt kéo đến với ông nhưng ông không vì thế mà ngộ nhận về sứ mạng của mình, ông khiêm tốn nhìn nhận chính mình. khiêm tốn không có nghĩa là hạ mình nhưng là nhìn nhận chính mình. Phép rửa của Gioan chỉ là tỏ lòng sám hối không đáng gì so với phép rửa trong cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô sẽ thực hiện. Gioan giới thiệu Đấng Mêsia cho dân chúng rằng Ngài sẽ thanh luyện để dành riêng những người con mới trong trời mới đất mới. Cũng như Gioan ta biết mình chỉ là thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương cho hiện diện trong cuộc sống này và đã được máu châu báu của Đức Kitô đổ ra mà chuộc lại nên ta phải biết trân trọng từng giây từng phút trong cuộc sống của ta. Tuy nhiên quê hương thật của chúng ta là quê hương vĩnh cửu trên trời, ta xây dựng quê hương trần thế nhưng không vì thế mà bỏ quên quê hương thật. Nhìn nhận mình chỉ là thụ tạo còn cho ta thấy được mọi sự trong cuộc sống mà ta có được đều là ân ban. Nên tâm tình cảm tạ tri ân phải hằng luôn đặt trên môi miệng chúng ta. vì là ân ban nên mọi sự ta có đều là đón nhận, ý thức điều này cho ta biết khiêm tốn tránh thái độ tự kiêu tự mãn nhưng phải luôn dâng lời cảm tạ.
Chúa đã gần đến! Gioan đã hé mở cho dân Do Thái thấy Đấng Mêssia đã gần đến, hãy ăn năn sám hối để nhận ra Ngài. Khung trời hy vọng đã hé mở, thời kỳ muôn dân mong đợi đã gần đến..
Khi nghe ông Gioan rao giảng kêu gọi sám hối, rất nhiều người đến từ Giêrusalem và các vùng: MV 3-C71
Khi nghe ông Gioan rao giảng kêu gọi sám hối, rất nhiều người đến từ Giêrusalem và các vùng phụ cận để được Gioan thanh tẩy, họ thú nhận sự bất trung đối với Thiên Chúa và những tội ác đã phạm. Sám hối là cải đổi nội tâm, thay đổi suy nghĩ và đời sống. Sám hối bao gồm dứt khoát từ bỏ quá khứ tội lỗi, đồng thời quyết tâm dấn thân thực sự trong đời sống mới. Sám hối đúng nghĩa làm ta phải đau xót, mất mát, tổn thương vì là tự mình cắt bỏ một thói quen chưa hay, một đam mê thiếu trong sáng, hay một tật xấu nào đó … để lòng mình khiêm nhường hơn, biết yêu mến sự thiện hảo hơn, biết sống tinh thần phục vụ, biết sống vì Chúa và vì anh chị em hơn …
Khi chịu phép rửa tỏ lòng sám hối, đông đảo dân chúng hỏi ông Gioan, “Chúng tôi phải làm gì ?” vì không phải chịu phép rửa là xong, nhưng còn phải sinh hoa quả là việc lành phúc đức thể hiện lòng thống hối nữa. Ông Gioan kêu gọi hãy cảm thông, chia cơm sẻ áo cho người nghèo khổ “ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Ông Gioan không đòi dân chúng bỏ lối sống bề ngoài, nếu họ là lính hay người thu thuế, thì cứ hãy giữ chức vụ của mình, nhưng phải cải đổi nội tâm, đổi mới tâm hồn bằng sám hối và dấn thân vào một lối sống mới “người thu thuế thì đừng đòi gì quá mức ấn định cho các người; còn các người lính thì đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, hãy bằng lòng với số lương của mình”. Ông Gioan dạy bảo dân chúng hãy sống ngay lành, trong sự công bằng và tình bác ái với nhau. Đây là cách chuần bị rất tốt để “dọn đường” cho Chúa đến trong tâm hồn mình.
Một hôm Mẹ Têrêsa Calcutta đem 5 chiếc bánh cho một gia đình nghèo đói. Sau khi cám ơn và chia cho bốn đứa con, bà mẹ đó cầm 2 chiếc bánh vội vã chạy sang nhà hàng xóm. Khi bà trở lại Mẹ Têrêsa hỏi: Chị cầm bánh đi đâu vậy ?
Người mẹ đó vui vẻ trả lời: Con mang bánh chia cho gia đình chị Ba. Họ cũng đang đói như gia đình con. Thật cảm động và yêu thương: Dù nghèo dù thiếu thốn họ vẫn quan tâm và chia sẻ cho nhau. Một nghĩa cử cao đẹp thay.
Xưa dân chúng đã nghe lời ông Gioan kêu gọi mà chịu phép rửa tỏ lòng thống hối và thực hành những nhân đức để thay đổi đời sống, chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến. Còn chúng ta hôm nay thì sao ? Lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả có làm lay động tâm hồn chúng ta không ? Mỗi người hãy tự đặt câu hỏi như những người Do thái xưa với Gioan “Tôi phải làm gì ?” Xưa Gioan bảo những người Do thái hãy sống đúng cương vị và trách nhiệm của mình.
Hôm nay thánh Gioan cũng bảo chúng ta, đừng tham lam của cải người khác, đừng nói thêm nói bớt, hay đặt chuyện vu khống; nhưng mỗi người hãy sống đúng cương vị của mình, hãy hoàn thành tốt trách nhiệm của mình, hãy thực thi công bằng và bác ái trong đời sống mình với hết thảy mọi anh chị em chung quanh. Những ai biết sống yêu thương chia sẻ là những người ở trong Thiên Chúa.
Hãy tiết kiệm trong chi tiêu, mua sắm để chia sẻ, giúp đỡ những người đang thiếu thốn, những người kém may mắn hơn; nhất là cho những anh chị em là nạn nhân của cơn bão số 9 vừa qua. Người phụ nữ nghèo trong câu chuyện trên còn biết nhín chút quà bánh để chia cho người hàng xóm nghèo của chị. Còn chúng ta, chúng ta có làm được thế không ?
Mảnh đất sau khi đã được dọn dẹp sạch cỏ rác, muốn cho tốt hơn người ta thường tìm cách: MV 3-C72
Mảnh đất sau khi đã được dọn dẹp sạch cỏ rác, muốn cho tốt hơn người ta thường tìm cách cải tạo. Vun xới hay bón thêm phân là một trong những cách cải tạo. Nhờ đó, những cây trồng xuống sẽ mau xanh tốt và nếu là cây thu hoạch thì đem lại năng suất cao.
Lời Chúa Chúa nhật II Mùa vọng Thánh Gioan đã chỉ cho cách dọn dẹp những trở ngại trên đường liên lạc giữa ta với Chúa. Tuần này, ông cũng tiếp tục chỉ cách cụ thể hơn. “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy." Với những người thu thuế thì: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”. Còn với binh lính thì: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình."
Đặc biệt, ông còn chỉ cho cách để cải tạo con đường liên lạc giữa ta với Chúa hiệu quả hơn. Ông nói: “.....Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Như vậy, Thánh Thần mà Chúa Giêsu đem lại sẽ giúp ta.
Tâm lý chung của nhiều người gần đến Lễ Giáng sinh thường lo nghĩ đến những việc mang tính bên ngoài hơn. Máng cỏ, đèn sao và cờ xí phải cho rực rỡ và rầm rộ. Tổ chức lễ sao cho thật ồn ào và náo nhiệt. Đó là suy nghĩ có thể nói được là còn nông cạn nếu nhìn theo cái nhìn đức tin.
Xưa kia, Chúa Giêsu đến thế gian trong khung cảnh âm thầm lặng lẽ. Đến nỗi nơi Người được sinh ra có thể nói là đầu đường xó chợ vì là nơi tồi tàn và hôi thối. Dường như lịch sử loài người từ trước đến nay chưa từng có ai được sinh ra trong khung cảnh như thế. Hơn nữa, Người lại còn được sinh ra giữa đêm đông lạnh giá mà không có tấm áo che thân phải nhờ đến hơi của bò lừa sưởi ấm.
Vì thế, những sự chuẩn bị chỉ mang tính cách bên ngoài chắc là Người sẽ không vui. Vì thế, hãy để lòng ta chìm đắm trong mầu nhiệm cao cả này. Chắc chắn trong sự chìm đắm ấy, Thánh Thần Chúa sẽ chỉ cho cần phải làm gì để vun xới tâm hồn cho hiệu quả.
Hãy tỏ lòng yêu mến Chúa thật nhiều như chị phụ nữ tội lỗi đã quỳ gối trước Chúa Giêsu lấy nước mắt và tóc mà lau chân Người. (Lc 7, 36 – 50)
Hãy có thái độ chăm chỉ lắng nghe Lời Chúa như cô Maria ở làng Bêtania khi Chúa Giêsu đến thăm nhà. (Lc 10, 38 – 41)
Hãy khiêm tốn thật lòng và khao khát đi tìm Chúa như Dakêu - người thu thuế xưa. (Lc 19, 1 – 10)
Hãy thực thi giới răn yêu người như người Samaritanô nhân hậu. (Lc 10, 29 – 37)
Phúc âm hôm nay mô tả lại khung cảnh dân chúng tìm đến Gioan để được hướng dẫn sống: MV 3-C73
Phúc âm hôm nay mô tả lại khung cảnh dân chúng tìm đến Gioan để được hướng dẫn sống như thế nào cho phù hợp và xứng đáng để đón chờ Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan xuất hiện với cách sống và tinh thần khiêm, lời mời gọi của ông đã đánh động rất nhiều con người, khơi lên trong lòng họ những tâm tình sám hối và muốn quay về với Thiên Chúa, dù họ còn rất mơ hồ về Đấng Cứu Thế khi họ tự hỏi có phải Gioan là Đấng Cứu Thế. Họ vẫn đến với Gioan để nghe giảng dạy và lời mời gọi của Gioan đơn giản, cụ thể bằng việc chia sẻ cơm ăn áo mặc, sống công bằng, nhường nhịn…
Lời mời gọi của Gioan đối với những người đồng thời với ông cũng là lời mời gọi mọi người chúng ta, nó là những gì rất gần gũi, là cuộc sống xảy ra xung quanh ngày hôm nay chúng ta cần làm. Chúa đến với chúng ta qua rất nhiều người, nhiều cách và nhiều biến cố. Tất cả là cơ hội để chúng ta đón nhận Chúa. Có những biến cố và những người Chúa gởi đến để thức tỉnh và mời gọi chúng ta trong cuộc sống thường. Mùa vọng là thời gian thuận tiện để thực hành sâu sắc hơn đời sống người kitô hữu, gắn bó với Chúa bằng đời sống cầu nguyện, thực hành tình yêu thương với mọi người bằng cách sống chia sẻ, công bằng và khiêm tốn. Đối với chúng ta Chúa đã đến và đang đến mỗi giây phút trong cuộc sống hằng ngày, điều cần thiết là chúng ta mở rộng tâm hồn đón Chúa, chuẩn bị đời sống nội tâm để đón Chúa trong ngày Chúa quang lâm, sống hài hoà các mối tương với tha nhân, mở rộng tấm lòng để san sẻ.
Cuộc sống xao động, nhiều cách sống để chọn lựa, có nhiều lúc chúng ta không nhận ra rõ điều nào là ý Chúa, tinh thần của Chúa để thi hành. Vì vậy chúng ta cần sự hướng dẫn của Lời Chúa và Giáo Hội. Cậy dựa vào Chúa, luôn bám víu vào Chúa trong suy nghĩ, lời nói và hành động của mình. Dù cuộc sống có nhiều thay đổi, biến chuyển và nhiều lý thuyết mơ hồ nhưng trong tay Chúa chúng ta vững vàng chu toàn bổn phận của người kitô hữu và hoàn thành trọn vẹn cuộc sống ở trần gian này.
Hôm nay là chúa nhật III Mùa Vọng, chủ tế mặc phẩm phục màu hồng, sắc màu của niềm vui: MV 3-C74
Hôm nay là chúa nhật III Mùa Vọng, chủ tế mặc phẩm phục màu hồng, sắc màu của niềm vui.
Hoà cùng niềm vui của phụng vu, mỗi người chúng ta hãy ý thức thay đổi trạng thái tâm hồn mình cho phù hợp với ý nghĩa phụng vụ mà Giáo Hội mời gọi. Gác lại chuyện cơm áo gạo tiền, tạm hoãn những ưu tư nghề nghiệp, vơi đi những lo âu bệnh hoạn, lau khô những giọt nước mắt tang chế u sầu của đời tạm. Và bây giờ, hỡi những ai có niềm tin vào Chúa Kitô, hãy vui lên, hãy thay đổi đời mình.
Hãy thay đổi đời mình! Đây là điều mà Gioan Tẩy giả kêu gọi mọi người thực hiện qua đoạn Phúc Âm hôm nay. Đó cũng là thái độ sống mà phụng vụ mùa vọng mời gọi từng người. Nhưng gần gũi hơn, thiết thực hơn, thay đổi đời mình, sống bác ái là tiếng gọi tha thiết của những người bên cạnh chúng ta: vợ chồng, con cái, hàng xóm, bè bạn, thầy cô, bạn bè…
Sự thay đổi hôm nay của bạn có ý nghĩa quan trọng cho cuộc đời bạn. Bạn thay đổi cho sự thăng tiến của bản thân. Bạn thay đổi vì hạnh phúc của người bên cạnh. Bạn thay đổi để chứng tỏ bạn gắn bó và lắng nghe lời Giáo Hội mời gọi. Bạn thay đổi để nói lên rằng bạn tin vào Tin Mừng Đức Kitô. Và hơn thế, giờ đây bạn thay đổi vì bạn yêu mến Đức Kitô và không muốn làm phiền lòng Người.
Hài Nhi Giêsu rất cần sự anh tân của từng người trong nhân loại. Ai cũng biết Chúa Giêsu sinh ra trong thời tiết khắc nghiệt của đêm đông lạnh giá. Nhưng cái lạnh Ngài sợ hơn cả là cái lạnh của lòng người. Bạn đang lạnh nhạt, hờ hững với những người thân trong gia đình, sống vô trách nhiệm, chỉ lo cho riêng mình. Bạn sống vô tình với tha nhân, dù họ đang cần sự giúp đỡ. Chúa sợ cái lạnh đó nhiều lắm. Không phải Chúa sợ cho Chúa mà Chúa đang lo sợ cho bạn. Chúa lo cái lạnh ấy diễn tiến lâu ngày sẽ đóng băng con tim bạn, sẽ làm mất dòng chảy yêu thương nơi tâm hồn bạn. Giáng sinh năm nay Chúa không đến được vì máng cỏ lòng bạn không còn hơi ấm.
Bạn ơi! Hãy ý thức rằng đối xử tệ bạc với mọi người trong đức ái là giết chết trái, là ngăn chặn hành trình giáng lâm của Đức Kitô nơi tâm hồn, là huỷ hoại công cuộc cứu chuột của Thiên Chúa.
Bạn là người Kitô hữu: Hãy vui lên, hãy thay đổi để chuẩn bị cho Chúa một máng cỏ lòng; lòng tin, lòng cậy, lòng mến.
Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Nếu con người luôn sống: MV 3-C75
Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Nếu con người luôn sống trong niềm vui, họ sẽ cảm thấy mọi người và mọi vật thật đáng yêu! Bởi đó, thánh Phaolô tông đồ khuyên bảo mọi người hãy vui lên: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi. Chúa đã gần đến!”. Quả thực, người Kitô hữu đích thực phải là người sống trong niềm vui, vì chúng ta đang mang trong mình niềm hy vọng về một tương lai huy hoàng và chắc chắn. Đó chính là hạnh phúc Nước Trời mai sau. Đó là niềm vui được sống kết hiệp với Chúa trong tình yêu vĩnh cửu. Như vậy, ai sống trong chán chường, thất vọng và buông trôi thì người ấy chưa phải là người Kitô hữu đích thực. Vì đó là lối sống của những người không có niềm tin và niềm hy vọng.
Lời Chúa trong những Chúa Nhật Mùa vọng phát hoạ cho chúng ta thấy rất rõ nét hình ảnh của một người sống niềm niềm vui và niềm hy vọng đích thực.
- Đó là người luôn biết hoán cải tâm hồn bằng đời sống tỉnh thức và cầu nguyện: ý thức mình là người tội lỗi nên luôn nép mình bên Chúa, chiến đấu trong sức mạnh của Chúa. Không liều lĩnh làm quen và tiếp cận với những dịp tội vì biết thân phận mình yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội. Có nhiều người lý luận nghe ngon lành lắm: con đi uống bia ôm cho vui vậy thôi chứ có ôm ai đâu! Con chơi đánh bài để giải trí vậy thôi chứ có sát phạt gì đâu! Con coi phim sex cho biết vậy thôi chứ có bao giờ làm chuyện ấy đâu! Có chắc vậy không? Đừng tưởng mình là mình đồng da sắt nên miễm nhiễm với mọi thú vui bất chính trong cuộc đời này! Thái độ khôn ngoan vẫn là biết giữ mình tránh xa các dịp tội. Khôn ngoan là biết mình, là không liều lĩnh hoặc nghĩ rằng: “có vào hang mới bắt được cọp”. Ma quỷ luôn giăng mắc mưu kế đầy tràn xung quanh chúng ta.
- Người sống niềm hy vọng đích thực là người cảnh tỉnh mình luôn luôn để khỏi chè chén say sưa và ham hố sự đời. Con người hôm nay sống trong một thế giới văn minh và đề cao vật chất, nên chúng ta dễ dàng bị cuốn hút vào vòng xoáy ham thích hưởng thụ. Hưởng thụ càng nhiều càng tốt. Vì thế, họ lao mình vào những cuộc vui không bờ bến như những con thiêu thân tội nghiệp!
- Người sống niềm hy vọng sống động nhất là người biết sống chia sẻ: Thánh Gioan Tẩy giả khuyên người ta rằng: “ Ai có hai áo thì chia cho người không có, có gì ăn cũng hãy làm như vậy”. Đây là việc làm cụ thể, việc làm của tình yêu. Nó thể hiện tinh thần: “lá lành đùm lá rách”, hoặc “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Nó rất thực tế và thắm tình thương của con người từ ngàn xưa đến nay. Nói đến đây, tôi không thể nào quên câu chuyện mà Mẹ Têrêsa Calculta đã kể lại như sau: Khi Mẹ đến cứu trợ cho một ngôi làng nghèo lắm ở Ấn độ. Mẹ Têrêsa gặp một bà mẹ có 5 đứa con mà đứa nào cũng gầy còm, đen đúa, xấu xí vì thiếu ăn. Mẹ cho ta bà ta một bao gạo 50 kilô. Điều lạ lùng là liền sau khi nhận bao gạo từ tay Mẹ Têrêsa, thì người phụ nữ này vội vàng sớt bao gạo ra làm hai, rồi nhanh chóng ôm nửa bao gạo ấy đi nhanh đến cái chòi gần đó để chia cho một người chị em của mình. Khi trở lại, Mẹ Têrêsa hỏi bà: “Sao chị không để dành gạo ăn mà đem đi đâu vậy?” Chị liền nói: “Thưa Mẹ, người đàn bà ấy cũng có 5 người con như con vậy mà mấy ngày nay họ không có gì để ăn cả”. Mẹ Têrêsa nghe những lời nói ấy thì quá xúc động. Mẹ liền cho bà ấy một bao gạo khác. Mẹ Têrêsa nhớ mãi hình ảnh đẹp ấy trong cuộc đời của Mẹ và thường kể lại câu chuyện cảm động ấy cho những người khác nghe. Đó là thái độ anh hùng vì người ta dám chia sẻ ngay trong sự thiếu thốn của mình. Phải chăng, đó là hình ảnh của những con người đang sống niềm hy vọng mà Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay kêu mời mọi người đi vào lối sống ấy.
- Sống niềm vui và niềm hy vọng đích thực còn là sống tử tế với mọi người cùng với việc sống đức công bằng với mọi người trong tình huynh đệ anh em. Thánh Gioan tẩy giả đã chỉ thị cho những người thu thuế và binh lính rằng: “đừng đòi hỏi quá mức ấn định, đừng ức hiếp ai”. Bởi lẽ, khi mình có quyền cao chức trọng, con người rất dễ dùng uy thế của mình để hà hiếp kẻ dưới tay mình. Đó là tinh thần của thế gian. Còn những người con cái Chúa luôn được dạy bảo rằng: “Hãy dùng quyền bính của mình để phục vụ người khác.” Chúa Giêsu đã nêu gương sáng tuyệt vời cho chúng ta về đời sống yêu thương và phục vụ ấy.
Như vậy, khi con người biết sống theo những giá trị của Tin mừng thì họ trở thành những con người sống trong niềm vui của Chúa. Và bất cứ ai đã mang trong mình niềm vui của Chúa rồi thì họ sẽ sống hiền hoà và bình an vô cùng dẫu cho cuộc đời có phủ phàng đối với họ, có gán ghép cho họ những điều xấu xa tồi tệ cách nào đi chăng nữa.
Có một câu chuyện kể như sau: Hakuin nổi tiếng là một vị thiền sư trong sạch, thánh thiện. Gần chùa Hakuin trụ trì có một cô gái rất xinh đẹp. Thế rồi bất ngờ, cha mẹ phát hiện ra cô có thai. Tra hỏi mãi, sau bao nhiêu dằn vặt, đau đớn, cô gái thú nhận đang mang trong mình giọt máu của Hakuin. Ngay lập tức, cha mẹ cô đến gặp nhà sư và trút lên người vị thiền sư mọi nỗi phẫn uất, tức giận của họ. Hakuin điềm đạm, bình tĩnh chỉ thốt lên hai tiếng “Thế à!?” và với gương mặt bừng sáng, vị thiền sư dang hai tay đón sinh linh bé nhỏ. Đứa bé lớn lên mạnh khoẻ trong vòng tay ấm áp của Hakuin. Một năm trời trôi qua, cô gái không chịu đựng được sự cắn rứt lương tâm của mình, đành nói ra sự thật về quan hệ của mình với anh chàng bán cá ngoài chợ. Cha mẹ cô vội vàng đến chùa xin lỗi vị thiền sư và xin phép được nhận lại đứa bé về cho bố mẹ nó nuôi. Vẫn gương mặt bình thản, điềm tĩnh, Hakuin thốt lên vẻn vẹn hai tiếng: “Thế à!?
Câu chuyện cho chúng ta thấy rằng: trong hoàn cảnh bị tước đoạt hết danh dự, phẩm giá, Hakuin không hề buồn, không giải thích, phân trần, chỉ có im lặng, sự im lặng đáng giá ngàn vàng và tình yêu thương con người vô bờ bến đã minh chứng cho tất cả. Cách ứng xử của Hakuin biểu lộ thái độ của một con người sống có niềm hy vọng và có niềm tin vào một hạnh phúc lớn hơn và trỗi vượt hơn.
Chúng ta cũng hãy chứng tỏ niềm vui trong Chúa, niềm tin và hy vọng của mình qua cuộc sống hiền hoà và nhân ái trong cách đối xử với mọi người để xứng đáng trở thành những người môn đệ của Chúa Kitô nơi trần thế này. Amen.
Theo cái nhìn bình thường khi có được niềm vui và phấn khởi trong lòng người ta dễ thay đổi: MV 3-C76
Theo cái nhìn bình thường khi có được niềm vui và phấn khởi trong lòng người ta dễ thay đổi. Phần nhiều người ta thay đổi từ những điều xấu sang những điều tốt hơn. Có khi người ta thay đổi hoàn toàn.
Chúng ta nhớ trường hợp ông Dakêu đã thay đổi như thế nào. Từ một con người keo kiệt chỉ biết thu gom cho chính mình ông đã thay đổi trở thành một con người quảng đại biết mở ra cho hết mọi người: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." (Lc 19, 8b). Sở dĩ ông thay đổi như thế vì ông đã được một niềm vui hết sức to lớn. Ông chỉ dám trông mong được thấy mặt Chúa Giêsu nhưng Người đã ban cho ông quá niềm mong ước. Người đã đến cư ngụ và dùng bữa nơi căn nhà của ông.
Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật thứ ba Mùa vọng. Ðây là ngày Chúa nhật của sự vui mừng. Vui mừng vì Ðấng Cứu Thế Giêsu đã đến và đang ngự giữa chúng ta.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy một số người Do thái chỉ vì Ðấng Cứu Thế sắp đến theo lời rao giảng Thánh Gioan Tẩy Giả thôi mà họ đã hồ hởi xin được thay đổi: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10). Ông đã chỉ cho họ cách thay đổi rất cụ thể tùy theo từng hạng người và tùy theo từng nghề nghiệp. Chắc chắn họ sẽ làm theo sự chỉ dẫn của Thánh Gioan để đón nhận Ðấng Cứu Thế đến với mình.
Liên tiếp hai Chúa nhật vừa qua Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức và dọn đường để đón Chúa đến. Hôm nay, Lời Chúa một lần nữa tiếp tục mời gọi chúng ta đón Chúa cách khẩn thiết hơn.
Thật ra Ðấng Cứu Thế Giêsu đã đến rồi. Hơn nữa, trong từng giây phút Chúa Giêsu đang đến với từng người và từng gia đình chúng ta. Không lẽ bấy nhiêu không đủ để chúng ta vui mừng sao. Nếu thật sự vui mừng chúng ta hãy nhanh chóng đừng chậm mà thay đổi tùy theo hoàn cảnh sống của mình cho thật tốt hơn.
Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là kêu gọi người ta ăn năn sám hối ( Lc 3, 7 - 9) để dọn lòng mừng: MV 3-C77
Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là kêu gọi người ta ăn năn sám hối ( Lc 3, 7 - 9) để dọn lòng mừng Chúa đến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Ông, dân chúng tuôn đến nghe ông giảng dạy và muốn thực thi sự hóan cải đó. Vì thế họ gặp trực tiếp để bàn hỏi mình phải làm gì.
Gioan khuyên họ sống tốt trong hoàn cảnh của mình. Tùy theo hoàn cảnh của họ mà Gioan truyền dạy phải thực thi công bằng bác ái, sống đúng với nhiệm vụ của mình, thích hợp với địa vị của mình.
Việc thực thi công bằng bác ái mà Gioan đề ra như ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy.
Gioan lấy lại những yêu sách các tiên tri đã công bố. “Hỡi ngươi, Người đã tỏ cho ngươi điều gì là thiện; điều mà Giavê đòi ngươi lại không phải là thực thi công bằng, yêu mến sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường với Thiên của ngươi sao? ” (Mi 6, 6-8). Vì thế, ông không đòi buộc người ta phải lìa khỏi thế gian xấu xa hoặc phải từ bỏ các nghề nghiệp trong thế gian. Ông chỉ đòi hỏi lòng nhân hậu và đức công bằng: đó là những hoa trái biwe63u lộ lòng sám hối đích thực trong lúc này. Những việc làm bác ái mà ông đề nghị đã được quy định trong Cựu Ước (Is 58,7; Giop 31,17.19.21; Ez 18,7.16...)
Như thế lời khuyên này vẫn còn thích hợp trong thời đại chúng ta. Bên cạnh chúng ta còn nhiều người cần chúng ta thực thi lòng bác ái, sự chia sẻ, quan tâm giúp đỡ…. Vì cuộc sống của họ còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn; bệnh tật luôn theo đuổi. Họ thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần, thiếu tình thương, thiếu sự chia sẻ công bằng, sự thật, chân lý,…
Để thực hiện lời mời gọi của Gioan thực thi công bằng bác ái, sống đúng với nhiệm vụ của mình, thích hợp với hoàn cảnh của mình, chúng ta phải thực hiện cuộc hoán cải nội tâm, canh tân đời sống, nhất là trong thái độ ứng xử tốt đối với mọi người, xây dựng m,ột nền văn minh tình thương, có công lý và hòa bình ngự trị.
Qua sứ điệp Lời Chúa hôm nay, Giáo Hội muốn dùng lời khuyên bảo của Gioan đối với dân chúng để nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng sám hối và đời sống bác ái và công bằng để xứng đáng đón nhận Chúa đến.
Ước gì niềm vui của Chúa Nhật III mùa vọng hôm nay không chỉ mang đến niềm vui cho chúng ta mà còn mang đến niềm vui cho tha nhân sưởi ấm lòng họ chờ đón Chúa đến.
Xin Chúa cho chúng ta sống niềm vui này là gặp được tha nhân và chính Chúa trong đời sống mình.
Tác giả Ôn Như Nguyễn Ngọc có kể câu chuyện như sau: Gia đình buôn bán nọ chế ra một: MV 3-C78
Tác giả Ôn Như Nguyễn Ngọc có kể câu chuyện như sau: Gia đình buôn bán nọ chế ra một cái cân để lừa đảo khách. Cái cân vừa nhẹ vừa nặng và bao giờ phần lợi cũng về phía ông ta. Vì buôn bán vậy nên chẳng bao lâu ông đã trở nên giàu có. Lại sinh được hai người con trai hiền lành, học giỏi khôi ngô tuấn tú, ai cũng khen là nhà có đại hồng phúc.
Một hôm, hai vợ chồng bàn nhau: bây giờ hai vợ chồng ta đã dư giả, giàu có không còn thiếu thứ gì ta hãy phá bỏ cái cân kia đi để dành cái đức lại cho con. Sau khi đem cái cân ra đập. Khi bể ra thì thấy có đọng một cục máu đỏ hỏn. Sau đó ít lâu thì hai đứa con bất tử lăn đùng ra chết, làm cho hai vợ chồng khóc lóc thảm thiết. Được Bụt hiện ra dạy “Hãy tu tĩnh làm ăn không tham lam gian lận”. Từ đó hai vợ chống cố gắng làm ăn không gian lận, làm phúc bố thí. Quả nhiên sau một thời gian sinh được hai đứa con trai khác hiền lành tử tế, văn hay chữ tốt, và sau lớn lên cha mẹ được vẻ vang hạnh phúc.
Qua câu chuyện trên ta thấy hai vợ chồng vì buôn bán gian lận nên hai đứa con bị Trời phạt nhãn tiền. Điều đáng khen là họ nhận ra mình tội lỗi, và tự biết phục thiện sửa đổi và được tha thứ. Công việc mà họ phục thiện chính là ăn ngay ở lành, làm phúc bố thí và không buôn bán gian lận. Nhìn chung lại chính là hãy biết làm tròn bổn phận và sống bác ái. Tương tự bài Tin Mừng dân chúng cũng lũ lượt kéo đến với Gioan.B và hỏi ông “Tôi phải làm gì?” hay “Tôi phải phục thiện bằng cách nào? “ để rước Chúa. Câu trả lời của Gioan.B không ngoài hai việc chính là:
1. Sống bác ái
Trong bản văn Tin Mừng không nói rõ là Gioan.B kêu gọi mọi người sống bác ái. Nhưng qua lời ông yêu cầu mọi người hãy sống tương trỡ lẫn nhau: “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Gioan.B muốn họ làm một công việc bác ái cụ thể giúp tha nhân chứ không phải chờ đợi bằng lời nói xuông. Thật ra ngày nay chúng ta cũng gặp được nhiều người làm việc từ thiện, làm những công việc bác ái giúp đỡ người nghèo, người tàn tật cơ nhỡ ở khắp nơi. Nhưng cách làm việc của họ không có được tinh thần bác ái như lời Gioan.B kêu gọi. Vì đôi khi họ chi cho những chiếc “áo cũ”, “áo không mặc nữa”. Còn Gioan.B thì kêu gọi người ta cho đi cái mình “đang mặc”. Không thể phủ nhận lòng tốt của mọi người, nhưng nhiều người đã lạm dụng công việc bác ái để đạt được mục đích mà họ muốn , chứ không có chút gì là ái cả. Cho nên cũng có rất nhiều phần lương thực được giúp cho người nghèo, mà là phần dư thừa chứ không phải tất cả những gì họ có. Nhưng cũng có những tấm lòng cao cả mà cho đi với tinh thần không đắn đo, không đòi hỏi mà làm việc bằng một con tim hiến dâng. Điều đó thật đáng khen.
Thực trạng ngày nay đang cần con người sống bác ái với nhau nhiều hơn nữa, biết “nhường cơm xẻ áo”. Qua thống kê mới đây cho biết trên thế giới có khoảng một tỉ người bị đói vì cuộc khủng hoảng kinh tế. Bên cạnh đó lại có quá nhiều người dư thừa tiền của. Nếu tất cả mọi người đều sống theo lời mời gọi cua Gioan.B, thì trên thế giới không còn người đói nghèo và bệnh tật nữa. Thánh Gioan.B khôngđưa ra một đòi hỏi nào quá sức mình, vì vậy để sống trong tầm tình mùa vọng, chúng ta không chỉ dọn đường mà còn phải sống bác ái ngay trong đời thường, với những người ở xung quanh ta. Vì chắc chắn Thiên Chúa sẽ không thích ta sống dư thừa của cải, trong khi người anh em lại thiếu thốn không đủ cung ứng cho nhu cầu của họ.
2. Làm việc bổn phận
Bài Tin Mừng còn nhắc đến những người thu thuế và lính tráng. Đối với dân Israel, hai hạng người này bị coi là xấu xa tội lỗi, vì họ tiếp xúc với dân ngoại và nghề nghiệp mang đến cho họ hành vi bất nhân, làm giàu cách bất chính. Nhưng thánh Gioan.B thì không nghĩ thế, ngài chỉ yêu cầu họ làm đúng, làm tròn và làm tốt công việc mà họ đang làm. Tiêu biểu đối với người thu thuế ngài nói: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”. Nghĩa là gian lận trong thu thuế là không hợp với đạo đức. Với người lính cũng nhận được mệnh lệnh tương tự: “Chớ hà hiếp ai cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. Công việc binh nghiệp tự nó đâu phải là xấu, mà cũng chẳng đáng chê trách, chỉ xấu khi người ta lợi dụng nó làm việc bất chính, như hà hiếp, tống tiền… Lời kêu gọi của Gioan.B trong mùa chay này thật đơn giản dễ thực hiện. Nhưng đòi hỏi mỗi người phải thực hiện cách triệt để và quyết liệt. Vì nếu chúng ta dọn lòng không sửa đổi thì Thiên Chúa sẽ không vào được lòng ta, vì nó đã chứa đầy những bất chính lo âu rồi. Vậy mỗi người hãy biết ăn năn sám hối để dọn lòng đón Chúa trong mùa vọng này.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở lòng ra với tha nhân, để yêu thương chia sẻ những gì mình có, và làm tốt công việc mà Chúa đã giao . Amen
Dân chúng tỉnh ngộ đến hỏi Gioan: “ chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10) Khi ấy, thánh Gioan: MV 3-C79
Dân chúng tỉnh ngộ đến hỏi Gioan: “ chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10)
Khi ấy, thánh Gioan Tiền hô đã đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia (Is 40, 3): hãy dọn đường cho Chúa; thung lũng hãy lấp đầy - núi đồi phải bạt xuống - quanh co uốn cho ngay - gồ ghề phải san cho bằng…. Lời rao giảng của Gioan vừa đanh thép, đánh động lòng người, vì thế dân chúng tuôn đến nghe Gioan giảng dạy, đồng thời vì xúc động và tỉnh ngộ do những lời Gioan rao giảng, nên họ đã hỏi Gioan: Lạy Thầy, chúng tôi phải làm gì? Câu hỏi này, hôm nay có phải cũng là câu hỏi của mỗi người Kitô hữu chúng ta không, nhân mùa Vọng, kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Câu hỏi: trong Kinh thánh, một số trường hợp người ta đến hỏi Chúa như thế:
Mc 10, 17: một anh thanh niên giàu có đến trước mặt Chúa Giêsu, sụp lạy Chúa và hỏi: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” ….
Lc 10, 25-28: một kinh sư đứng lên hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời……? “
Cvtđ 22, 6-11: Thánh Phaolô sau khi bị Chúa quật ngã trên đường đi Damas, đã hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì đây?”
Thánh Phêrô, trong tác phẩm và phim “Quo Vadis”, khi ông muốn trốn chạy ra khỏi thành tránh cơn bắt bớ, đã bị Chúa chặn lại hỏi: “con đi đâu vậy?”, và ông cũng đã hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì?”
Anh chị em thân mến, câu hỏi trên đây, Hội thánh cho chúng ta đọc lên ngay giữa Mùa Vọng này, chắn chắn phải có ý nghĩa và mục đích của nó. Chính vì thế trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta còn tìm thấy câu trả lời cho dân chúng của thánh Gioan Tiền Hô nữa…
b. Câu trả lời: nhiều hạng người đến hỏi Gioan Tiền Hô , ông trả lời theo hoàn cảnh họ:
* Với dân chúng cách chung, là những người chỉ thích làm toán cộng và toán nhân, để tiền của và quyền lợi càng nhiều thêm, Gioan dạy làm toán trừ và toáV chia: hãy chia sẻ. Bác ái kitô giáo là yêu thương bằng hành động, là chia sẻ với anh em khó khăn hơn mình, chứ không phải là bố thí cái dư thừa của mình. Đức Kitô đã yêu thương ta bằng một tình yêu cụ thể, sống động, và là mẫu gương trước tiên về tình yêu đó…
* Với các người thu thuế, là những người muốn thu càng nhiều chừng nào càng tốt, Gioan khuyên: đừng đòi hỏi quá mức ấn định; mỗi người hãy sống đúng cương vị và bổn phận của mình
* Với binh lính là hạng người thường lợi dụng sức mạnh để hà hiếp kẻ khác, Gioan nhắc nhở: “ hãy biết bằng lòng ”.
Những điều Gioan dạy hầu như không giống thói quen ở đời, là thích được thêm; ở đây Gioan dạy phải bỏ bớt. Người đời thì hi vọng thu tích thêm cái bên ngoài, Gioan dạy hi vọng chính là giải thoát được những thứ cồng kềnh làm ta buồn, những cái làm ta chìm xuống; thoát được những thứ đó, cuộc đời sẽ vui hơn và tràn đầy hi vọng…
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* Chúng tôi phải làm gì? Dân chúng đã khiêm tốn và tỏ lòng sám hối mà hỏi thánh Gioan, để ông chỉ cho họ con đường phải theo. Phần ta ta có đủ khiêm tốn và ăn năn, để dọn tâm hồn chờ Chúa đến không, nhất là khi ta có tội?
Thánh Gioan không nói người khác phải sống như Ngài, nhưng nhắc nhở mọi người hãy sống xứng đáng với chức vụ, địa vị và nghề nghiệp của họ. Thánh Gioan là như thế. Còn ta ta có sẵn sàng noi theo gương Ngài? để không đòi hỏi kẻ khác theo ý riêng của mình, mà giúp họ nên thánh trong ơn gọi của họ không?
Nỗ lực cao nhất của ông Gioan Tẩy Giả là chuẩn bị dân đón nhận ơn cứu độ sắp được thực hiện: MV 3-C80.
Nỗ lực cao nhất của ông Gioan Tẩy Giả là chuẩn bị dân đón nhận ơn cứu độ sắp được thực hiện nơi Đức Kitô. Ông kêu gọi mọi người hối cải và sinh hoa trái xứng với lòng hối cải ( Lc 3, 8 ). Trong Lc 3, 10 – 18, ông Gioan cho chúng ta biết “hoa trái xứng với lòng hối cải” ấy là gì ( cc. 10 – 14 ), và Đấng sắp đến là ai ( cc. 15 – 18 ).
1. Hoa trái xứng với lòng hối cải ( cc. 10 – 14 )
Đám đông dân chúng ( okhloi ) đón nhận lời kêu gọi hối cải của ông Gioan. Nhưng họ không chỉ muốn nghe nói chung chung về hoa trái của sự hối cải ấy. Họ muốn biết một cách cụ thể hơn nữa điều họ cần phải thực hiện. Họ không bằng lòng chỉ với “đạo tại tâm”, vì cuộc hoán cải trở về với Thiên Chúa không phải chỉ là chuyện của lời nói và những ý nghĩ trừu tượng, mà còn phải là và chính yếu là những hành động cụ thể: “Vậy chúng tôi phải làm gì ?”
Đám đông dân chúng ở đây đã được tác giả Luca trình bày như gương mẫu cho các Kitô hữu khao khát ơn cứu độ và quyết tâm hoán cải quay trở về với Thiên Chúa. Nhưng rất nhiều khi, chính chúng ta lại chỉ thoả mãn với những lời nói suông và những nghi lễ này khác, mà quên mất một câu hỏi quan trọng: “Tôi phải làm gì ?” Mùa Vọng là cơ hội rất tốt để chúng ta đặt câu hỏi đó cho chính mình trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh. Và chắc chắn chúng ta sẽ có câu trả lời.
Đáp lại câu hỏi của đám đông, câu trả lời của ông Gioan cho thấy nguyên tắc đạo đức căn bản của ông là tình yêu đối với tha nhân. Tất cả hoa trái của sự hoán cải mà ông Gioan nghĩ đến đều nằm ở thái độ và cách hành xử đối với tha nhân. Cũng giống như đối với Chúa Giêsu, đối với ông Gioan, chọn lựa triệt để sống cho Thiên Chúa ( = hoán cải ) phải đưa người ta đến chỗ thực hiện trọn vẹn thánh ý Người trong tình yêu mến. Cuộc hoán cải làm cho người ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa cần phải được và chỉ được thực hiện một cách thực sự hữu hiệu qua những cách hành xử của người ta đối với tha nhân.
Cuộc hoán cải đó đòi hỏi một sự chia sẻ những thực tại thiện hảo của mình cho tha nhân trong tình huynh đệ ( c. 11 ) và đòi hỏi sự khước từ mọi cách hành động bất chính ( cc. 12 – 14 ).
Đối với mọi người nói chung, ông Gioan yêu cầu sự sẻ chia huynh đệ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” ( c. 11 ). Vị Ngôn Sứ nhìn vào tình cảnh cụ thể của đám đông đang ở trước mặt ông. Đó là một đám đông đã thực hiện một cuộc hành trình có khi là khá xa để đến nghe ông rao giảng. Họ cần phải ăn và cần phải có áo choàng để đắp ban đêm. Đó là những nhu cầu thiết yếu nhất của họ lúc đó.
Vậy lời yêu cầu của ông Gioan không chỉ là dành cho những người đang sống trong sung túc, đòi họ dâng tặng những thứ dư thừa của họ. Đây còn là lời mời gọi dành cho mọi người đang có những gì nhiều hơn điều mà họ thực sự cần phải có để độ nhật ở mức độ tối thiểu. Ngay cả người chỉ có hai cái áo choàng cũng phải cho đi một cái và chỉ giữ lại một cái duy nhất, nếu người bên cạnh anh ta chẳng có cái nào. Trước nhu cầu cấp thiết của người khác, anh ta chỉ được giữ lại cho mình những gì tối cần thiết mà thôi. Cần phải làm tất cả những gì có thể để chia sẻ, trong tình huynh đệ, với những người thiếu thốn hơn mình.
Lời kêu gọi của ông Gioan rõ ràng hết sức cụ thể trong hoàn cảnh đám đông dân chúng đang có mặt ở đó. Ông đã không đưa ra một nguyên tắc trừu tượng, trí tuệ và khó hiểu. Ông tỏ cho đám đông thấy rõ rằng chính trong chuyện bình thường nhất của cuộc sống hằng ngày như chuyện ăn chuyện mặc, mà cuộc hoán cải cần phải được thực hiện.
Chúng ta dễ có khuynh hướng kiểm tra tính xác thực của đời sống Đạo dựa vào những nguyên tắc lý thuyết trừu tượng, thay vì mở tung tủ áo, mở tung tủ thức ăn, mở tung chiếc ví đựng tiền… Ngay cả khi đến toà cáo giải, chúng ta cũng thường dễ chấp nhận việc tỏ lòng sám hối bằng cách đọc nhiều kinh thay vì cho đi một nửa số tiền mình đang có trong ví. Nhưng sự hoán cải đích thực đòi chúng ta phải chia sẻ với những người khác các thực tại thiện hảo của mình ( vật chất và tinh thần ) trong tình huynh đệ chân thành.
Những người thu thuế và các binh lính cũng đến hỏi ông Gioan xem họ phải làm gì. Tác giả Luca nêu hai trường hợp cụ thể này để cho thấy khía cạnh thứ hai của cuộc hoán cải: khước từ những cách hành động bất chính.
Những người thu thuế và các binh lính là hai hạng người bị coi thường và khinh ghét trong xã hội Do Thái bấy giờ, vì họ thường lợi dụng vị trí của mình để thu lợi bất chính và hành xử bất công với người khác. Với những người thu thuế, ông Gioan nói: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”. Với các binh lính, ông bảo: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng lòng với đồng lương của mình”. Ông Gioan đã không đòi hỏi họ phải từ bỏ nghề nghiệp của mình, những nghề bị coi khinh trong xã hội Do Thái đương thời. Ông chỉ đòi hỏi họ từ bỏ những cách hành động bất chính khi hành nghề mà thôi, tức là từ bỏ những cách thức lợi dụng vị trí của mình mà bóc lột và đối xử bất công với kẻ khác.
Đó cũng có thể là đòi hỏi dành cho chính chúng ta hôm nay trong tư cách là linh mục, trong tư cách là bác sĩ, trong tư cách là giáo viên, trong tư cách là doanh nhân, trong tư cách là phụ huynh, trong tư cách là con cái… Vấn đề không phải là thay đổi nghề nghiệp, mà là thay đổi con tim. Cái đáng sợ là con tim không còn hướng về Thiên Chúa và không còn tìm kiếm sự thiện và sự thật cho người khác. ( Đã đành là cũng có những nghề nghiệp tự nó là bất chính không thể chấp nhận, ví dụ “nghề” nạo hút thai, “nghề” buôn bán phụ nữ và trẻ em, “nghề” buôn bán ma tuý, “nghề” tổ chức mại dâm…; nhưng sở dĩ người ta làm những nghề nghiệp xấu xa ấy là vì con tim người ta đã không còn Thiên Chúa nữa ).
Tóm lại, cả hai đòi hỏi nói trên của cuộc hoán cải đều cho thấy: cuộc hoán cải đích thực không buộc người ta làm những hành động vượt quá hay ở bên ngoài cuộc sống con người. Ông Gioan đã không đòi hỏi dân chúng phải làm những hành động khổ hạnh hay những nghi thức đặc biệt nào. Ông chỉ đòi hỏi người ta phải sống đúng như một con người đích thật giữa xã hội loài người, tức là sống ngay chính, quảng đại và liên đới với người khác. Kết quả cụ thể của cuộc hoán cải là sự hiệp thông ngay lành với tha nhân trong những thực tại hằng ngày của cuộc sống.
2. Đấng Mêsia đang đến ( cc. 15 – 18 )
Điều đáng chú ý đầu tiên là đám đông ( okhloi ) được nói đến ở phần đầu bài Tin Mừng, giờ đã được tác giả Luca gọi là “dân ( laos ) đang trông đợi”, tức là Israel được chuẩn bị để nhận biết ơn cứu độ thời Mêsia ( x. Lc 1, 17. 77 ). Trong số các tác giả Nhất Lãm, chỉ một mình ông Luca quy chiếu một cách tường minh về một ý tưởng có lẽ vẫn còn tồn tại trong một số nhóm người Do Thái đương thời: một số người vẫn coi ông Gioan là Đấng Mêsia ( c. 15; xem thêm Cv 18, 25; 19, 1 – 3; Ga 1, 6 – 8. 15. 20; 3, 28 ).
Câu trả lời của ông Gioan ( cc. 16 – 17 ) cho ý tưởng đó đã là một lời tuyên bố về vai trò Mêsia của Đức Giêsu: chính ông Gioan, vị Ngôn Sứ của Đấng Tối Cao ( Lc 1, 76 ) đã tuyên xưng về sự cao cả hơn hẳn của Đấng Mêsia, Con của Đấng Tối Cao ( Lc 1, 32 ): “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”.
Có lẽ thoạt đầu, trên miệng ông Gioan, lời tuyên bố này mang đặc tính cánh chung. Hình ảnh “Đấng quyền thế hơn” có thể muốn nói đến một Đấng thuộc cõi thiên thai, hoặc có thể là chính Thiên Chúa. Trước Đấng ấy, ông Gioan nhận mình không xứng đáng làm đầy tớ: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Hoặc ít nhất, “Đấng quyền thế hơn” mà mọi người đang trông đợi sẽ không phải là một phàm nhân bình thường. Khác với ông Gioan là người làm phép rửa bằng nước, “Đấng quyền thế hơn” sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Ta gặp ở đây chủ đề về cuộc phán xét cánh chung của Thiên Chúa. Trong cuộc phán xét ấy, có hai khả năng xảy đến cho con người: một là phán quyết cứu độ của Thiên Chúa, được thực hiện bằng việc Thiên Chúa đổ tràn Thánh Thần để biến đổi con người tự bên trong trái tim ( xem thêm Ed 36, 25tt ); hai là phán quyết kết án của Thiên Chúa bằng lửa huỷ diệt.
Sau đó, lời tuyên bố của ông Gioan đã được “Kitô hoá”. Thánh Luca đã hiểu “Đấng quyền thế hơn” chính là Đức Giêsu. Khác với tác giả Máccô và tác giả Mátthêu, Thánh Luca cẩn thận dùng những cách nói khác nhau để chỉ ra sự khác hẳn giữa phép rửa của ông Gioan và phép rửa của Đức Giêsu: một bên là phép rửa bằng nước, còn bên kia là phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Vấn đề không phải là sự khác nhau về chất liệu của hai phép rửa, mà là hai thực tại thuộc hai bình diện và cấp độ khác nhau về bản chất. Trong Cv 1, 5 và 11, 16 lời tuyên bố trên đây về phép rửa sẽ được Thánh Luca đặt vào miệng của chính Chúa Giêsu. Phép rửa trong Thánh Thần và lửa không còn là phán quyết của Thiên Chúa trong ngày cùng tận nữa. Đó là phép rửa đưa người ta vào Hội Thánh. Nó không xoá bỏ phép rửa bằng nước, nhưng kiện toàn phép rửa ấy, biến phép rửa bằng nước thành bí tích của ơn cứu độ viên mãn.
Để cho mình được thuộc về Đức Giêsu, tức là để cho mình được dìm trong Thánh Thần và lửa, chúng ta sẽ được tràn đầy sức sống của chính Thiên Chúa. Gieo mình vào trong tay Đức Giêsu, ta sẽ thấy những gì là chất lượng thật, những gì chỉ là thực tại giả trá, vì như người ta rê lúa trong sân, thóc mẩy và rơm rác sẽ được tách riêng ra. Đó không phải chỉ là chuyện của ngày chung thẩm, mà cũng là chuyện đang diễn ra trong cuộc sống hiện tại của chúng ta.
Cuốn nhật ký Pole to Pole – One Man, 20 Million Steps ( từ cực Bắc tới cực Nam – Một người: MV 3-C81
Cuốn nhật ký Pole to Pole – One Man, 20 Million Steps ( từ cực Bắc tới cực Nam – Một người, 20 triệu bước chân ), của tác giả Pat Farmer chỉ vừa xuất bản vài tháng, đã in tới lần thứ 10, vì sự chân thật và sức hấp dẫn của nó.
Ông Pat Farmer đã từ bỏ con đường chính trị đang thênh thang, bán ngôi nhà cùng chiếc xe duy nhất để lấy vốn làm lộ phí. Bởi lúc đó, chẳng ai tin ông có thể chạy bộ từ Bắc cực đến Nam cực, với 21 ngàn cây số, trong vòng 10 tháng, 13 ngày, cùng vô số gian lao do thời tiết, con người và dã thú. Ông đã chạy một cự ly bình quân không thể tin nổi: 65km mỗi ngày, có một số ngày chạy tới 100 km hoặc hơn.
Pat Farmer viết: “Vì sao tôi chạy ? Tôi chạy vì tôi cần cống hiến cho nhân loại. Tôi chạy từ cực này tới cực kia của tôi không phải vì mục đích trở thành một kẻ tử vì đạo hay một anh hùng. Cha mẹ tôi và người vợ quá cố của tôi là một tấm gương sáng cho tôi; họ luôn giúp đỡ người khác. Có lẽ tôi làm điều này xuất phát từ cảm giác tội lỗi, vì đang sống một cuộc sống nhiều đặc quyền đặc lợi, trong một đất nước nhiều đặc quyền đặc lợi, hay vì những tội lỗi mà tôi đã phạm…”
Rất nhiều lần trong hành trình, Pat Farmer đã muốn ngã quỵ, muốn dừng lại, nhưng rồi ông đã tự chiến thắng bản thân để vượt qua mọi hoàn cảnh. Ông đã giúp các Hội Chữ Thập Đỏ Úc quyên góp là rất đáng kể. Sau cuộc chạy, đã có vô số cư dân nghèo, đặc biệt trẻ em được cứu sống hoặc giúp thoát khỏi bệnh dịch nhờ hệ thống nước sạch.
Từ ngày 9 – 12.2012 đến 20.1.2013, với cùng mục đích cao quý như trên, ông Pat Farmer và chàng thanh niên Việt Nam 25 tuổi, Mai Nguyễn Đình Huy, cùng đồng hành, thực hiện hành trình siêu marathon từ Móng Cái đến mũi Cà Mau, hơn 3.200km trong 40 ngày liên tục, mỗi ngày chạy khoảng 80km. ( theo Hiền Hòa, Tiền Phong ). Như thế, ông Pat Farmer và Mai Nguyễn Đình Huy đang chạy để phục vụ tha nhân, dường như cũng đang hưởng ứng lời kêu gọi trong hoang địa. Bài trích Tin Mừng hôm nay, ngôn sứ Gioan Tiền Hô ân cần hướng dẫn, chỉ vẽ những đường chạy vô cùng lý thú và hữu ích, khi thiên hạ đổ xô đến nhờ tư vấn, thắc mắc phải chạy đường trường như thế nào.
Chạy theo Bác Ái
Thay vì chạy ghế, chạy chức, chạy theo thói tham lam, vơ vét, vỗ béo bản thân, ích kỷ, bất nhân, hận thù, mù quáng, thì Ngôn Sứ Gioan Tiền Hô khuyên nhủ, lấy đức bác ái làm kim chỉ nam cho cưộc chạy: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” ( Lc 3, 11 ). Sự chia sẻ, như xẻ cơm nhường áo, lá lành đùm lá rách, là biểu hiệu đầu tiên của tính nhân bản, khiến cho con người thoát ra khỏi kiếp sống theo bản năng, giúp cho loài người đứng trên các loài động vật, các loài thọ tạo khác.
Chạy theo Công Bằng
Thay vì chạy theo thói bất công, tham ô, nhũng lạm, xách nhiễu, lợi dụng làm giầu bất chính trên mồ hôi, xương máu và nước mắt của dân đen, thì Ngôn Sứ Gioan khuyên nhủ mọi người, các nhân viên công chức, những người có chức, có quyền, như thuế má, hải quan, hãy chạy theo đức công bằng, ngay thẳng: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh” ( Lc 3, 13 ).
Không chỉ nói riêng với công viên chức, Gioan Tiền Hô còn nhắm đến quần chúng rộng rãi, những kẻ kinh doanh, những giao dịch mua bán, sang nhượng, những quan hệ trao đổi, phải sòng phẳng, không dối gian, lừa gạt, không lời lãi quá mức bình thường, không ép giá thu lợi bất chính.
Chạy theo Chính Trực
Thay vì dùng võ lực có sẵn trong tay, để uy hiếp, bóc lột, chiếm đoạt, ức hiếp, tịch thu tài sản, sở hữu của người dân, thì Ngôn Sứ Gioan khuyên nhủ, chạy theo đức chính trực, tôn trọng người khác, không tơ hào, lợi dụng quyền thế để quấy nhiễu hành dân: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng lòng với đồng lương của mình” ( Lc 3, 14 ).
Ngôn Sứ Gioan Tiên Hô đồng thời cũng muốn nhắm đến những người có lợi thế, những người giàu có, quyền cao chức trọng, đừng lợi dụng thế mạnh tài chánh, hay quyền hành để chèn ép, bắt nạt, hoặc cướp trắng của cải người yếu thế, cô thế.
Chủ Nhân đường đua
Nhân tiện, Ngôn Sứ Gioan Tiền Hô đính chính điều dân Do Thái đang ngộ nhận. Rằng ông chỉ là người tiền hô, đi trước dọn đường cho Chủ Nhân của cuộc đua đường trường. Người cao trọng vô cùng, mà chính ông cũng tự nhủ, không đáng cởi quai dép cho Người !
Trước Đấng Quyền Thế hơn đang đến, Ngôn Sứ Gioan tỏ ra kính cẩn và khiêm tốn, cùng tỏ thái độ vâng lời và phục vụ. Ngài cũng nhận mình chỉ là tôi tớ hèn mọn, như phận nữ tỳ hèn mọn của Mẹ Maria trong kinh Magnificat.
Chủ Nhân kiêm luôn trọng tài, sẽ phán quyết, thưởng phạt công minh, dựa theo cung cách chạy của những tay đua đến đích: “Tay Người cầm nia, rê sạch lúa trong sân: Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không bao giờ tắt, mà đốt đi” ( Lc 3, 17 ).
Thánh Phaolô cũng đã nỗ lực và nhiệt thành chạy đường trường, chia sẻ với tín hữu thành Philípphê: “Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” ( Pl 3, 13 – 14 ).
“Dù mọi người bỏ dở hành trình, con cứ tiến, quần chúng dễ bị lôi cuốn thì đông đảo, lãnh đạo sáng suốt lại hiếm hoi. Con phải có bản lãnh, đừng theo quần chúng mù quáng” ( Đường Hy Vọng, 50 ).
Lạy Chúa Giêsu, Chủ Nhân của cuộc đua đường trường, xin luôn nhắc nhủ con bỏ lại sau lưng mọi thứ nặng nề, làm cản trở bước đường, mà bền chí vững vàng chạy đến Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đồng hành cùng con, để con noi gương Mẹ nhân ái, đôn hậu, biết quên mình, yêu thương, phục vụ mọi người. Amen.
Hạt lúa trong nia là hạt lúa no tròn, đẫy đà, chắc mẫm, vàng sáng. Hạt lúa ngoài nia là hạt lúa lép xẹp: MV 3-C82
Hạt lúa trong nia là hạt lúa no tròn, đẫy đà, chắc mẫm, vàng sáng. Hạt lúa ngoài nia là hạt lúa lép xẹp, rỗng ruột, nhẹ tênh.
Năm 1979, cánh đồng ông Bỉnh ở xứ tôi gần như mất trắng. Mẹ tôi sảy cả nia lúa mà không còn được mấy hạt chắc trong nia. Cả hecta ruộng được vài bao lúa chắc, còn lại là cả đống lúa lép. Cha tôi, mẹ tôi nhìn đàn con mà đau thắt ruột. Mất mùa, đói chắc !
Trong bữa cơm chiều, một hạt cơm cõng năm bảy lát củ khoai nhìn chua xót. Mẹ tôi nói: “Hành trình đời người như hành trình của hạt lúa con ạ. Thiên Chúa đã gieo chúng ta vào ruộng đời, và đến một ngày nào đó, Người sẽ đến mà thu hoạch. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người. Mỗi người phải là hạt lúa trong nia để Thiên Chúa thu vào kho lẫm của người. Nếu là hạt lúa lép, hẳn Người để ngoài đồng kia mà đốt đi”…
Lời Chúa hôm nay gợi lại cho tôi những bài huấn đức của mẹ thật tuyệt vời trong đêm trăng khó ngủ vì đói. Chị em tôi vẫn cảm phục Đức Tin của mẹ. Giữa lúc khốn khổ như thế mà mẹ vẫn không quên nhiệm vụ làm gương và giáo dục Đức Tin cho chúng tôi.
Mẹ từng giải thích cho chúng tôi về nguyên nhân sinh lúa lép: “Do cây lúa yếu, ngã đổ, do sâu bệnh, do sâu cuốn lá, bệnh đạo ôn trên lá, đạo ôn cổ bong, do sạ dày, do dọn đất không kỹ, thiếu phân, thiếu nước… Đời sống Đức Tin cũng vậy con ạ…” Rồi mẹ dừng lại ở đó để chị em tôi tự hiểu.
Vâng, nếu ngày ấy chưa hiểu ý mẹ, thì mỗi Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng, Thánh Gioan Tẩy Giả lại giải thích cho chúng tôi hiểu “chúng tôi phải làm gì” để trở nên một hạt lúa no tròn chắc mẫm:
“Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”… “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”… “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.
Vâng, hạt lúa Đức Tin của tôi của bạn hẳn cũng phải là hạt lúa no tròn chắc mẫm để khi Chúa đến, hạt lúa đời mình được Chúa chọn vào kho lẫm của Người. Để được no tròn, phải tránh các nguyên nhân gây lép: một mặt cây lúa yếu do bộ rễ yếu vì không bám chặt vào Lời Chúa, vào Thánh Thể, mặt khác, cây lúa đời mình để nhiễm bệnh kiêu căng, ích kỷ, hà tiện, bất công, và bao thứ bệnh nguy hiểm khác cho Đức Tin.
Thánh Gioan còn đề nghị rất rõ phương thức làm cho hạt lúa no tròn. Đó là Bác Ái, Công Bình.
Bác ái, công bình không chỉ là những khẩu hiệu, logo, bích chương hay biểu ngữ, nhưng là một cuộc sống sẻ chia đích thực vì yêu mến Chúa. Sự sẻ chia cho người vì yêu mến Chúa, có sức làm cho mỗi chúng ta thêm phong phú dồi dào về đời sống Đức Tin: vì “Những bác ái trong cuộc đời tôi là kho tàng muôn đời cho tôi. Ngày tôi về với Người trên trời, kho tàng ấy lại thuộc về tôi”. ( Lời bài hát “Tôi biết tôi tin”, PM. CHH ).
Tôi bỗng nhớ trong lễ Giỗ Tổ Tộc Họ Trần Bùi và Mừng Chúa Giáng Sinh tại Giáo Xứ Gia Viên ngày 9.12.2012, cha Vĩnh Tiến giới thiệu Giáo Xứ Xuân Sơn, Hạt Túc Trưng, và mong mọi người sẻ chia. Người dẫn chương trình có đặt vấn đề: Mừng Chúa Giáng Sinh bằng việc bác ái cụ thể và đọc liền mấy câu thơ: “Hướng lòng lên tới Xuân Sơn, Nghe Con Thiên Chúa từng cơn nghẹn ngào. Tình này con quyết dâng trao, Tiền này con quyết gửi vào Xuân Sơn”. Rồi anh dí dỏm: “Trong Nước Trời, không sử dụng đồng tiền in hình ông Abraham Lincohn, và các ông khác, nhưng sử dụng đồng tiền in hình Chúa Giêsu, hoặc đồng tiền in hình Thánh Giá”. Và hôm ấy, gần 700 khách tham dự đã cùng đồng tình đổi tiền đang sử dụng thành tiền in hình Chúa Giêsu, bằng cách bỏ vào thùng tiền hiệp thông làm quà cho Giáo Xứ Xuân Sơn. Mọi người hôm ấy hẳn vui vẻ, vì biết việc bác ái của mình chính là việc làm cho hạt lúa của mình no tròn, hạt lúa được nằm trong nia.
Hơn nữa, khi làm việc bác ái sẻ chia cho người, cũng chính là lúc chúng ta thể hiện đức Công Bình với Thiên Chúa và với anh em. Với Thiên Chúa, đức Công Bình là một hành vi cảm tạ. Với tha nhân, đức Công Bình không thể là một sự quân bình ăn đồng chia đều xét trên cá vị, hoặc được phép hưởng dùng cách ưu tiên cho xứng danh xứng phận, nhưng lại là sự hưởng dùng ở một mức vừa đủ để sống trong khi ta vẫn có thể tự do sử dụng cách sung túc hơn.
Biết bao người đã chọn cách sống vừa phải, và phần sung túc có thể kia thì nhường cho những người thiếu thốn. Không thiếu những đại gia giàu lòng đai lượng nhưng không vì cầu được danh tiếng hay tên tuổi hão huyền. Cũng không thiếu những hạt muối chia đôi trong cảnh lao tù, khốn khó. Càng không thiếu những sẻ chia khi người chia sẻ lại thực sự là những người đói khổ.
Những hạt lúa của bao người đang no tròn chắc mẫm. Có lẽ nào, tôi và bạn bằng lòng làm hạt lúa lép rỗng ruột, nhẹ tênh, bay theo gió cuốn giữa đời. Cũng có người vì thấy tôi, thấy bạn có chút khả năng, kiến thức Giáo Lý, chức vụ trong Giáo Hội, hay những đóng góp cách nào đó mà khen tặng chúng ta là “hạt gạo trên sàng”, nhưng thực ra, hạt gạo trên sàng phải là hạt gạo no tròn đức Bác Ái.
Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng là Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật vui mừng vì Chúa sắp đến cho tất cả những ai sẵn sàng chờ đợi bằng chính đời sống bác ái công bình. Họ sẽ vui mừng vì an tâm tin rằng mình sẽ là hạt lúa trong nia, hạt lúa được vào kho lẫm của Thiên Chúa, hạt lúa được cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài sẽ sàng con trong nia lúa của Ngài. Xin cho đời sống Đức Tin của con no đầy vì những sẻ chia cụ thể cho người thân kẻ sơ, cho người thương kẻ ghét. Và xin cho tất cả việc bác ái công bình của chúng con làm là vì Tin vào Ơn Cứu Độ Chúa hứa ban. Amen.
Hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Hồng giữa mùa Tím”. Nỗi niềm trông đợi ngày Chúa đến được thể hiện bằng tấm lòng háo hức, nôn nao… “Hỡi Israel, hãy hoan hỉ ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn ! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa” ( Xp. 3, 14 – 15 ).
Trong những ngày này, tôi lại đọc thấy trên mạng Internet những thông tin từ nhiều nguồn về ngày 21 và 23.12.2012. Những thông tin dù lành dù dữ đều khiến những người đọc nó lo lắng, bồn chồn… Người thì dự trữ mì gói, gạo sấy; người thì trữ xăng dầu để chạy máy phát điện; người thì lo sắm áo phao, đèn pin, bếp cồn…; có người còn đào hầm để tránh động đất… Để đối phó với ngày quang lâm của Chúa, người ta lo tém vén mọi thứ có thể được để bảo đảm cho mạng sống của mình.
Còn Gioan khuyên dân Do Thái ngày xưa điều gì ?
Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy.
Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi.
Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai.
Các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình.
Nói chung là: Bằng lòng với cuộc sống tối thiểu cho bản thân và dành sự quan tâm đối với tha nhân. Bài học từ hai ngàn năm trước đã mấy ai ứng dụng ? Tôi vẫn thường nghe nói: “Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giàu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”. Đối với tôi, xem ra câu nói này chỉ đúng có vế… sau ! Lo cho bản thân mình thì tôi thấy không biết bao nhiêu cho đủ nhưng cho người khác thì cứ phải cân nhắc, đắn đo hoài…
Đối với đại đa số dân chúng, hình tượng 2 cái áo diễn tả thật tích cực tâm tình bác ái và phó thác của Đức Tin Kitô giáo. Chỉ có 2 cái để thay đổi mà Gioan còn kêu gọi cho đi bớt 1 cái, rồi để ngày mai cho Chúa lo liệu. Trong thời đại hiện nay, có lẽ lại càng khó tìm ra người có ít hơn 2 cái áo. Điều này đồng nghĩa với việc “không có ai nghèo khó đến mức không có gì để cho đi”.
Với những người thu thuế đại diện cho tầng lớp viên chức nhà nước, Gioan thấy được những cám dỗ kim tiền nơi họ. Chỉ cần thêm bớt một dấu phẩy, họ đã có cả một gia tài lận lưng. Ngày nay, giới viên chức lại càng có nhiều cơ hội để kiếm chác từ một chữ ký, một con dấu hay những hợp đồng tranh tối tranh sáng… Ngay cả giáo viên cũng cắn con chữ làm đôi, một nửa dạy trên lớp, một nửa đem về nhà… dạy thêm ! Với giới quân nhân đại diện cho thành phần nắm quyền lực, Gioan thấy được khuynh hướng lạm quyền để tư lợi nơi họ. Ngày nay, hình ảnh này lại càng đại trà và rõ nét hơn với hiện tượng tham nhũng ( nhũng nhiễu dân chúng để thỏa lòng tham ) khắp nơi. “Lương” không quan trọng bằng “bổng”. Tình trạng “chạy ghế” khiến tham nhũng càng phổ biến và lan tràn. Tốn vài trăm triệu để “chạy” vào một vị trí nào đó nên khi “yên vị”, tất người ta phải… thu lại nhiều hơn những gì đã chi ! Nhiều năm trước, tôi phải nuôi người thân điều trị ở bệnh viện K. Dính phải thứ này thì coi như “trúng số độc đắc”, không hết bệnh thì cũng… hết tiền. Vô bệnh viện phải lo thủ thân, tối nằm không dám ngủ. Đêm đã khuya, tôi bỗng nghe tiếng thì thào từ giường bên cạnh:
“Anh à, em thú thiệt với anh cái này… Em biết nhà mình chẳng giàu có gì ! Anh cũng phải bán đi chiếc xe và mấy công đất để lo cho em. Nhưng em nghĩ… bệnh tình của em thì có thêm vài triệu bạc cũng chẳng bõ bèn gì ! Vô đây, em mới thấy nhiều người còn khổ hơn mình gấp bội anh ạ ! Như chị Hai ở Cai Lậy kia, mỗi cuối tuần về nhà, chị lại bới lên một bao dưa leo với chai nước mắm để dành ăn dần cả tuần… Rồi cô Sáu Lagi nữa, nhiều bữa mắc lo cho đứa con gái mà đi xin cơm từ thiện không kịp là nhịn đói luôn. Vậy cho nên, mỗi khi có người thân vào thăm cho chút ít tiền, em đều cho họ hết. Tuần trước, cô Ba cho em hai trăm; hôm qua, cậu Bốn vào cho năm trăm. Em không nói với anh vì số tiền đó em đã cho người ta hết rồi ! Anh đừng giận em nghen.”
Thinh lặng giây lát rồi có tiếng anh chồng: “Ừ, em làm vậy anh thấy cũng hay. Hồi nào tới giờ mình cứ tưởng mình nghèo nên chẳng bao giờ giúp đỡ ai. Bây giờ mới có cơ hội…”
Gần chục năm sau, tôi lại gặp cô bệnh nhân ấy đi tái khám ở bệnh viện K. nọ, mặt mày tươi tắn, thân thể nở nang, khỏe mạnh… Vị bác sĩ tái khám nói với tôi: “Trường hợp của cô ấy như một phép mầu vậy. Tôi cứ tưởng cổ chỉ sống được chừng một năm nữa là cùng. Vậy mà… Hiện nay, tôi hẹn cổ 6 tháng tái khám một lần như là đi kiểm tra sức khỏe định kỳ vậy thôi, chứ mức máu K của cổ không có gì đáng ngại. Lần nào, cổ vào tái khám cũng đem đường, sữa vô cho các bệnh nhân. Món quà thì chẳng đáng là bao nhưng sự hiện diện của cổ là niềm khích lệ rất lớn đối với bệnh nhân ở khoa này khi biết cổ đã từng điều trị ở đây 10 năm trước.”
Bệnh tình đối với tôi là tai họa hoặc chí ít là thử thách, trong khi đối với cặp vợ chồng kia lại là… cơ hội ! Và, Thiên Chúa giàu lòng từ ái đã không để ai phải thiệt thòi ! Chúa lại đòi hỏi còn ít hơn Gioan, chỉ cần một chén nước lã: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đây” ( Mc 9, 41 ).
Tôi cứ cố sức vơ vét cho mình những gì có thể được trong điều kiện sống hiện có và khư khư giữ lấy cho riêng mình, để rồi tôi lại dùng những thứ ấy để mua sắm mì tôm, xăng dầu, máy phát điện, áo phao, bếp cồn… mà lòng cứ thắc thỏm không yên. Trong khi nhiều người đã nghe theo Gioan trút bỏ những vướng víu trần thế để lòng nhẹ thênh thang khi ra trình diện Đấng Quyền Năng Uy Linh Cao Cả. Đấng ấy không chỉ giáo huấn và ban phép Thanh Tẩy như Gioan mà còn là Vị Thẩm Phán Tối Cao “cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt !” Lúc bấy giờ, tôi sẽ là “lúa” hay là “rơm” ? Liệu những mì tôm, áo phao… có cứu tôi thoát khỏi “lửa không hề tắt” ?
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì đã dựng nên chúng con, đã thanh tẩy hồn xác chúng con bằng lửa và Thánh Thần, đã ban Lời để giáo huấn chúng con, và nhất là đã hy sinh chính thân mình làm giá cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con biết từ bỏ những quyến rũ của thế gian hư ảo này, biết quan tâm đến anh chị em chung quanh chúng con như Lời Chúa dạy, để ngày sau chúng con trở thành “lúa” được Chúa thu gom và tích vào kho lẫm vinh quang của Người. Amen.
Anh em hãy vui luôn trong Chúa ! tôi ......Đó là lời mời gọi của Thánh Phaolô trong bài đọc II mà: MV 3-C84
“Anh em hãy vui luôn trong Chúa ! tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên” ( Pl 4, 4 ). Đó là lời mời gọi của Thánh Phaolô trong bài đọc II mà chúng ta vừa đón nghe. Hay như trong phần đáp ca, chúng ta vừa đáp sau các câu xướng: “Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả” ( Is 12, 6 ). Niềm vui ấy cũng được lời nguyện đầu lễ nhắc đến như một định hướng: “Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả, để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” ( Lời nguyện nhập lễ Chúa Nhật 3 Mùa Vọng ). Như vậy, Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay phải là Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật của niềm vui, hoan lạc và bình an.
Niềm vui ấy được Ngôn sứ Xôphônia loan báo: "Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi !" ( Xp 3, 14 ), vì: “Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Israen và về Giuđa… Trong những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành: Đức Chúa là sự công chính của chúng ta” ( Gr 33, 15 – 16 ). Bởi lẽ: "Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Ngài đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Ítraen đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ" ( Xp 3, 15 ). Và: "Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Đức Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi" ( Is 12, 2 ).
Không vui sao được khi dân Do Thái đang sống trong cảnh lưu đày tha hương tại Babylon, không biết đến bao giờ mới được trở về nơi quê cha đất tổ. Đặt mình vào giữa nỗi buồn day dứt đó, chúng ta mới cảm nghiệm được niềm vui mừng, hy vọng của dân Chúa mong chờ Đấng Cứu Thế là chừng nào ! Vì vậy, khi nghe Gioan loan báo về Đấng Cứu Thế sắp đến, dân chúng đã lũ lượt đến để xin lãnh nhận phép rửa sám hối và không quên xin Gioan vạch ra cho mình một lối sống phù hợp để xứng đáng đón chờ Đấng Cứu Thế, họ nói: “Chúng tôi phải làm gì ?” và Gioan đã dạy: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy". Và, với những người người thu thu ế thì: "Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi". Với các quân nhân: "Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình" ( x. Lc 3, 10 – 18 ).
Nếu Chúa Nhật 1 Mùa Vọng, Gioan mời gọi tỉnh thức và sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến; Chúa Nhật 2 ông kêu gọi ăn năm sám hối, sửa sang con đường tâm hồn để đón Chúa là nguồn ơn cứu độ, thì Chúa Nhật 3 hôm nay ngài đã vạch ra cho người đương thời và cũng là cho mỗi người chúng ta những việc làm cụ thể để đón nhận trọn vẹn nguồn ơn cứu độ.
Khi loan báo và kêu gọi dân chúng sám hối và tin vào Tin Mừng, Gioan đã không bảo người ta phải từ bỏ công việc, môi trường cũ hay phải lên rừng, vào hoang địa để lánh xa trần gian. Ngài cũng không bảo người ta phải sống khắc khổ, ăn châu chấu và uống mật ong rừng, mặc áo da thú như ngài. Nhưng Gioan muốn họ vẫn sống trong đời sống thường ngày với công việc của mình. Ai thu thuế, cứ thu thuế. Ai đang là binh lính thì vẫn là binh lính. Điều quan trọng là thi hành đúng phận vụ của mình cách chính đáng, lương thiện, sống yêu thương và thực thi bác ái.
Qua đó, Gioan đã muốn nói với dân chúng thời bấy giờ và chúng ta ngày hôm nay một điều là: vui mừng, hân hoan đón chờ Chúa đến, đồng nghĩa với việc chu toàn bổn phận và đổi mới lại cung cách bề ngoài, ý nghĩ bên trong, và, mang lại cho nó một ý nghĩa mới, ý nghĩa cứu độ. Tức là làm mới lại những hành động, cử chỉ đó và mặc cho nó giá trị của nội dung Tin Mừng.
Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy chia sẻ bác ái trong tinh thần Kitô giáo. Sự chia sẻ đó có thể là vật chất, lời khuyên, một sự trải nghiệm, một lời nói chân tình hay còn là một ánh mắt thiện cảm, yêu thương, luôn thực thi công bằng, không phải chỉ bằng lời nói suông, hay bằng thứ tình cảm nhất thời, nhưng bằng việc làm cụ thể như: không được dùng quyền lực để áp bức, dùng vũ lực để hà hiếp những người thấp cổ bé họng; không được vu khống, bịa đặt làm phương hại đến thanh danh tiếng tốt của người khác.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con khi vui mừng hân hoan chuẩn bị đón Chúa đến trong đêm Giáng Sinh, thì cũng biết chuẩn bị tâm hồn mình, thay đổi cách sống cho phù hợp với Tin Mừng để được hưởng trọn vẹn niềm vui của ơn cứu độ. Amen.
Một trong những điều kiện cần và đủ đến dọn tâm hồn đón mừng Chúa Giáng Sinh, đón nhận Ơn: MV 3-C85.
Một trong những điều kiện cần và đủ đến dọn tâm hồn đón mừng Chúa Giáng Sinh, đón nhận Ơn Cứu Độ đó chính là hoán cải và sẻ chia. Ánh sáng cứu độ không bao giờ hiện diện trong bóng tối. Thế nên, để có thể đón nhận niềm vui giáng sinh, con người cần phải gột rửa tâm hồn mình trắng trong, tinh tuyền. Một tâm hồn không hoen ố bởi tội lỗi và tham vọng.
Việc làm đầu tiên của việc hoán cải chính là hành động sám hối và thanh tẩy. Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay đã kêu gọi mọi người lãnh nhận phép rửa để hòa giải cùng Thiên Chúa. Thế nhưng, ngài đã khẳng định cho muôn người hiểu rằng, phép rửa mà ngài đang thực hiện trên dòng sông Giođan không mang lại ơn cứu độ vĩnh cửu. Vì ngài chỉ là ngôn sứ của Thiên Chúa, là người loan báo tình thương của Người, chứ không phải là người có quyền tha tội. Chỉ một mình Đức Giêsu, Đấng cứu độ đến từ Thiên Chúa, chỉ mình Đấng ấy mới có quyền tha tội và xét xử, Đấng ấy mới ban phép rửa vĩnh cửu: “Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” ( Lc 3, 16 ).
Phải, vị Vua của vương quốc tình yêu sắp ngự đến, chính Người là niềm hy vọng của nhân loại. Người là Ánh sáng, là vua Bình an, vua Tình yêu vĩnh cửu đến trao cho con người hạnh phúc bất diệt mà họ đã bị đánh mất từ tội nguyên tổ. Chính Ngài sẽ đến gánh lấy mọi tội lỗi, đau khổ của trần gian để cho con người được hạnh phúc. Còn gì sung sướng hơn, vĩ đại hơn tình yêu hy sinh, trao ban cao cả ấy. Nhờ Người mà tất cả thế giới được hòa giải với Thiên Chúa Cha, và được hưởng nếm hạnh phúc cứu độ vĩnh cửu, không còn phải đau khổ và phải chết nữa. Đấng Cứu độ thực sự của trần gian đang sắp đến, mở lối thoát, đưa con người về với vương quốc bất diệt. Đó cũng chính là niềm khát vọng sâu thẳm và chân chính nơi tâm hồn nhân loại.
Không có gì nghi ngờ, cũng chẳng còn gì phải bàn cãi về tình yêu cũng như hành động nhập thể, nhập thế của Con Thiên Chúa. Thế nhưng, vấn đề cần phải nghi ngờ, cần phải bàn cãi chính là niềm tin và lòng mến của con người. Thật ra, có ai không muốn lãnh nhận ơn cứu độ ? Có ai không muốn mình được hạnh phúc trường sinh ? Nhưng trên tất cả là con người ngại thay đổi, ngại hoán cải, ngại sẻ chia.
Để có thể bỏ mình, cúi đầu bước xuống dòng sông thanh tẩy tội lỗi là một hành động chẳng mấy dễ dàng. Từ bỏ căn nguyên mọi tội trong sâu thẳm tâm linh lại là điều càng khó khăn hơn biết mấy. Mở rộng vòng tay để có thể cho đi lại là điều càng không mấy dễ bao giờ cả. Tất cả những khó khăn ấy, tựu trung cũng chỉ vì đụng chạm đến nhu cầu thiết yếu sống còn của nhân loại. Người ta cần phải bảo tồn cuộc sống bản thân, người ta cần phải xây đắp cho mình những lâu đài vững chắc về tiền tài, sự nghiệp, danh vọng… bởi nó gắn liền với nhu cầu bảo tồn cuộc sống. Đó cũng không phải là điều sai trái. Chỉ tiếc một điều, không sai nhưng không phải là tất cả. Vì sự sống mà nhân loại đang cố gắng bảo tồn, nâng niu, giữ gìn ấy không phải là tất cả. Nó chỉ là tạm bợ, cuộc sống thật của họ là ở nơi khác kìa.
Mặc dầu là tạm bợ nhưng đó lại chính là con đường để nhân loại có được sự sống vĩnh cửu. Không ai có thể lên trời nếu không đi trên con đường bằng đất, mà con đường ấy, ngay cả chính Con Một Thiên Chúa cũng đã đi. Ngài cũng từng phải trải qua đau khổ và phải chết mới có thể đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu. Nếu đã nói vậy, tại sao chúng ta còn ngại ngần để có thể mở rộng tay ban phát ? Ai ai cũng khư khư, bo bo nắm chặt trong tay mớ hành trang vụn vắn về tiền bạc, danh vọng chóng qua ? Con người lo sợ phải mất đi, phải đối diện với cuộc sống lầm than khốn cực, nỗi lo lắng ấy lớn quá, đến nỗi họ quên mất giá trị của hạnh phúc vĩnh hằng.
Chúng tôi phải làm gì đây ? Chúng tôi phải làm gì để có thể đón nhận hạnh phúc vĩnh cửu đang đến ? Câu trả lời của Thánh Gioan đã quá minh bạch: “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy” ( Lc 3, 11 ).
Lạy Chúa, ngày kỷ niệm lần Ngài từ trời ngự đến dương gian để mang niềm vui, niềm hy vọng và ơn cứu độ đã gần kề, nhưng con chưa làm được gì để gọi là dọn tâm hồn đón Chúa. Lòng con còn đầy dẫy những tham vọng, oán thù, ganh ghét, vì mê mải của cải trần thế với những lời biện hộ cho sự bảo đảm cuộc sống thế trần. Con đã không làm gì sai, vì nó thực sự cần cho con sống. Lao động cũng chính là tham dự vào công cuộc sáng tạo và cứu chuộc của Ngài. Thế nhưng, cần mà chưa đủ. Chỉ khi nào con có được tình yêu, có được ân sủng của Thiên Chúa. Như thế mới đủ cho con hạnh phúc Thiên Đàng. Cảm ơn Ngài đã đến cho con niềm vui cứu độ, cho con niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh hằng.
Xin giúp con biết rộng tay sẻ chia, nâng đỡ những người anh em nghèo túng sống quanh con, để mọi người cùng nhau nắm tay bước vào con đường cứu độ, con đường tử bỏ, hy sinh, vâng phục và yêu mến. Xin giúp con can đảm đầm mình nơi dòng sông cứu độ là chính Thiên Chúa để được thanh tẩy, hoán cải và biến đổi. Ước gì tình yêu và chân lý Ngài hoàn toàn chiếm ngự trái tim con, giúp con vui sống an bình, hạnh phúc như chính Đấng là Hạnh phúc và An bình đang ngự đến… sống cùng con.
Trong tâm tình chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, Chúa nhật III mùa vọng hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa: MV 3-C86
Trong tâm tình chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, Chúa nhật III mùa vọng hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa kêu mời chúng ta sống tâm tình vui mừng, hoan hỷ, mừng biến cố Ngôi Hai Nhập Thể.
Niềm vui đó bén rễ sâu trong lời cầu nguyện và đó là dấu chỉ của người Kitô hữu: "Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa!" (Pl 4, 4). Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: "Anh em hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên vì Chúa đã gần đến". Và chúng ta nghe những lời đầy khích lệ được trích từ sách tiên tri Sôphônia: "Hỡi Israel, hãy hân hoan. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nhảy mừng. Chúa đã rút lại lời kết án. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi sẽ không còn sợ tai họa nữa" (Xp 3, 14 - 15). Câu đáp ca cũng kêu gọi sống tâm tình hân hoan: "Hãy nhảy mừng và ca ngợi vì ở giữa ngươi có Đấng thánh của Israel thật cao cả". Như thế Giáo Hội muốn chúng ta đón mừng Chúa Cứu Thế bằng một tâm hồn hân hoan, vui vẻ.
Trên thực tế, chúng ta không dễ dàng được an ủi và vui mừng vì mình mỗi ngày nghe, thấy, chứng kiến biết bao cái chết do chiến tranh, thiên tai, ôn dịch, nghèo đói, công lý bị coi thường. Làm sao chúng ta có thể vui mừng được khi biết rằng chung quanh chúng ta nhiều người đang gặp khổ sở do những ảnh hưởng trên. Hơn nữa, ngày nay con người cố tạo nhiều niềm vui giả tạo. Nhưng đâu là những niềm vui đích thực cho con người? Vì có những niềm vui mà sau đó con người cảm thấy trống rỗng, buồn sầu và chán nản. Có những niềm vui mà sau đó con người trở nên mệt mỏi và thất vọng. Có những niềm vui làm cho con người thêm âu lo, hối hận. Thế nên niềm vui mà Giáo Hội mong muốn chúng ta đạt được đây phải là niềm vui thật.
Nếu niềm vui bên ngoài như đến từ những cánh thiệp của mùa Noel, những trang hoàng rực rỡ đèn màu, ngôi sao, hang đá, máng cỏ,... thì đó chưa hẳn là niềm vui thật. Vì lễ Giáng sinh sẽ qua đi, mọi trang hoàng sẽ được dọn dẹp, mọi người đều trở về với cuộc sống hằng ngày. Niềm vui thật phải là niềm vui phát xuất từ bên trong của con người. Nếu chỉ đi tìm niềm vui bên ngoài mà thôi thì chỉ là một sự chạy trốn thực tại trong tâm hồn. Niềm vui chân chính phải bắt nguồn từ một trạng thái của tâm hồn và đặt nền tảng trên sự bình an.
Khi phục vụ tha nhân và chu toàn bổn phận hằng ngày của mình vì Chúa, đó là đường dẫn đến niềm vui thật sự cho tâm hồn mình. Mảnh đất tốt cho niềm vui thật phát triển là tình thương yêu nhau giữa con người. Sống trong một thế giới chạy theo lợi nhuận cá nhân "mạnh được yếu thua", theo lối "chủ nghĩa cái tôi" thì con người chắc là không bao giờ yêu thương nhau được, họ khó thực hiện những điều Gioan Tiền Hô chỉ dạy trong Phúc Âm. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể mĩm cười trong đau khổ và vui tươi trong thử thách, khi chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện trong đau khổ của chúng ta. Niềm xác tín này làm nảy sinh và gia tăng niềm hy vọng hân hoan.
Thật vậy, Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong lịch sử của con người, lịch sử cứu độ nhất là kể từ sự nhập thể của Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Đó là một sự hiện diện sống động như chính Chúa Giêsu đã nói: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng thế"(Ga 5, 17). Sự hiện diện đó không bao giờ là không giá trị nhưng chính sự hiện diện đó làm cho con người có giá trị hơn trong cuộc sống chung với đồng loại. Vì thế, chúng ta hãy có cái nhìn lạc quan vào Thiên Chúa và tha nhân. Với cái nhìn lạc quan và tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy lòng từ bi thương xót, chúng ta hãy luôn sống trong niềm vui và hy vọng. Niềm vui và hy vọng đó phải thúc đẩy mỗi người chúng ta cộng tác tích cực vào công trình cứu rỗi, nhờ ơn Chúa và với những người thành tâm thiện chí.
Nhưng làm sao để nhận ra "Đấng đang ở giữa ngươi"? Gioan Tẩy Gỉa đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể: "Ai có hai áo thì hãy chia cho người không có..Ai có cái ăn thì cũng làm như vậy...Đừng đòi hỏi quá mức ấn định...Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình"( Lc 3, 10 - 14). Nói chung, Gioan đã đưa ra những hướng đi cụ thể: bác ái, chia sẻ, chấp nhận thực tại, sống hiền hòa, công bình, chính trực trong các mối tương quan xã hội. Sống như vậy là chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế, là đặt mình vào trong hàng ngũ những kẻ bé mọn của Thiên Chúa. Chính những người bé mọn này mới cảm thấy vui mừng và hy vọng, vì nhận ra Chúa sắp đến, đang đến...Ngài sẽ thay đổi tất cả, đổi mới toàn thế giới và xã hội.
Hãy vui mừng vì Chúa giải thoát đã đến và đang ở với chúng ta. Ngài đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang qui tụ muôn nước thành một dân một nước. Đó là Dân Chúa, Nước Trời. Không phải bằng vũ lực khống chế, nhưng bằng sự giải thoát loài người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, ích kỷ nhỏ nhen, bất chính; bằng cách sống liên đới yêu thương, chia cơm sẻ áo; bằng cách sống công bình, chính trực và chan hòa với mọi người.
Lời Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước đều cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng của những kẻ tin, đâu là lý do hân hoan của những người bé nhỏ của Thiên Chúa: Thiên Chúa Cứu Độ, đó là tất cả động lực của cuộc sống và cuộc chiến đấu của người tin theo Chúa Kitô. Thiên Chúa nhập thể và cứu độ là căn bản để giải quyết mọi vấn đề: Thiên Chúa nhập thể để chúng ta sống như con cái, nghĩa là, như những con người tự do và trách nhiệm, những con người tự nguyện cống hiến cho tha nhân. Vì vậy, trong bất cứ hoàn cảnh bế tắc khó khăn nào, người có lòng tin vào Thiên Chúa vẫn không thất vọng, chán nản, vì họ biết rằng mọi phấn đấu của mình và của loài người đều mang một ý nghĩa cứu độ: ý nghĩa dọn đường cho Nước Trời, cho Đức Giêsu của Thiên Chúa ngự đến.
Muốn hòa mình vào niềm vui của Phụng vụ, chúng ta không thể không liên đới với những người đang khao khát đổi mới, đang khát vọng phẩm giá con người. Hơn thế nữa, Giáo Hội Chúa Kitô không thể đứng ngoài nhửng cuộc đấu tranh cho hòa bình, bình đẳng, tôn trọng con người, phát triển xã hội mà loài người đang theo đuổi. Sống Mùa Vọng là sống liên đới với người nghèo, là sống công bình với tha nhân, là sống hòa giải với mọi người, là sống yêu thương, an bình trong mọi hoàn cảnh, là đấu tranh cho tình huynh đệ và khơi lên niềm vui cho những ai đang chán nản, thất vọng chán chường vì không có niềm tin, vì đã mất niềm tin nơi con người, nơi xã hội và cả nơi Thiên Chúa nữa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết mở lòng mình ra để đón nhận Lời Chúa, thay đổi cách nghĩ, để sống tích cực hơn, phù hợp hơn với tinh thần Chúa mời gọi và cho chúng con niềm vui vì nhận ra Chúa đang hiện để cứu độ chúng con. Amen.
Dòng cuối của bài Tin mừng hôm nay tóm tắt tất cả nội dung bài Tin mừng, mô tả những gì dân: MV 3-C87
Dòng cuối của bài Tin mừng hôm nay tóm tắt tất cả nội dung bài Tin mừng, mô tả những gì dân chúng nghe được từ ông Gioan Tẩy Giả, "ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ". Chúng ta thường chờ đợi một tin vui khi lắng nghe Lời Chúa, việc dân chúng đáp lại lời giảng của Gioan nhắc nhở chúng ta biết điều gì xảy đến cho những ai lắng nghe Lời: "Dân chúng đang trông ngóng". Tất cả các bài đọc hôm nay đều nói đến việc đáp lại Lời Chúa - niềm vui, hoan hỉ, sung sướng, hò vang dậy, tạ ơn, bình an và mong đợi.
Hôm nay, lời mời gọi hãy vui lên được lặp đi lặp lại, những lời đầu tiên chúng ta bắt gặp nơi Xôphônia. Ông mở đầu bài viết với niềm hoan hỉ, "Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion! Dậy tiếng hò vang đi nào, nhà Israel hỡi!" Thật bất thường đối với một ngôn sứ được mệnh danh là "ngôn sứ của sự bi quan!" Hai chương đầu của sách Xôphônia lên án và cảnh cáo Giêrusalem, "thiếu nữ Xion", tiên báo thảm họa vì dân đã bất trung. Nhưng đoạn văn hôm nay lại nói đến một ngày sắp đến khi Thiên Chúa tiêu diệt kẻ thù đã triệt hạ thành thánh và khiến dân phân tán. Vị ngôn sứ hứa rằng "ngày của Đức Chúa" đang đến, một ngày vui cho những ai luôn tỉnh thức và không ngừng hy vọng nơi Thiên Chúa.
Vị ngôn sứ trước hết lên án dân vì bao tội lỗi của họ. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi dân của Ngài, như Xôphônia đoan hứa, "Người sẽ lấy tình thương mà đổi mới ngươi". Đâu là lý do khiến dân vui sướng? Thiên Chúa sắp đến để ban ơn thứ tha và tái thiết giao ước với họ. Đó là điều mà chúng ta khẩn nguyện và đợi trông trong suốt Mùa Vọng này: Thiên Chúa sẽ trở lại với chúng ta; tội lụy của chúng ta sẽ được rửa sạch; tinh thần chuẩn bị và những thực hành đạo đức không ngừng sẽ mang lại một đời sống mới nhờ hơi thở của Thánh Thần Chúa.
Hầu hết chúng ta đều đã sống đức tin trong suốt thời gian dài. Có lẽ cũng đã trở nên đều đặn và khuôn phép. Chúng ta hiếm khi tham dự Thánh lễ Chúa Nhật mà thấy muốn la lên vì vui sướng, như vị ngôn sứ mời gọi (đừng có cố la to, coi chừng ban chức việc mời quý vị ra ngoài đấy!). Chúng ta biết những gia đình hoặc bạn bè mình đã bỏ nhà thờ vì nhiều lý do; có thể do nhàm chán. Chúng ta cần một "ngày của Chúa" mới mẻ, một lần Chúa đến trong tinh thần ủ rũ của chúng ta. Có thể, như Xôphônia nói, Thiên Chúa đang đến và thực sự đã đến, và "đang ở giữa ngươi" rồi. Chúng ta hãy cầu xin cho được mở lòng ra trong Mùa Vọng này để sẵn sàng đón Chúa, Đấng luôn sẵn sàng ngự đến.
Gioan Tẩy Giả nói với đám đông rằng: Thiên Chúa sắp thực hiện một điều mới lạ và Đấng đang đến "...sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa". Trong khi giới kinh doanh thông báo với chúng ta "còn chín ngày nữa để mua sắm trước Giáng Sinh", thì Gioan Tẩy Giả chuẩn bị cho chúng ta lửa của Thánh Thần Thiên Chúa. Một điều mới mẻ, trong con người Đức Giêsu, là sẽ đến giải thoát chúng ta khỏi những bận tâm lo lắng cũng như thoát khỏi niềm tin hững hờ. Thay vì dấn sâu hơn vào những mua sắm, thì Mùa Vọng là một lời mời gọi chúng ta thoát khỏi nợ nần của việc tiêu xài và những niềm khao khát đặt không đúng chỗ; đây là cơ hội để Thiên Chúa xây dựng một con đường thẳng tắp dẫn vào tâm hồn và đưa chúng ta ra khỏi nhà tù mà chúng ta tự xây dựng và nhốt mình trong đó. Mùa Vọng là đây, Thiên Chúa đến loan báo ơn giải thoát cho chúng ta!
Hôm nay, thánh Phaolô có vẻ như quan trọng. Ngài giống như trưởng đoàn những cổ động viên thắng trận sau mùa World Cup. Nhưng, thực tế không hề suôn sẻ đối với cả Phaolô lẫn tín hữu Philiphê. Các tín hữu tại Philíphê trong tình trạng sợ hãi vì đang bị bách hại. Ngài khích lệ họ hãy đứng vững trong những điều kiện hết sức khó khăn này.
Nhưng chính Phaolô cũng đang trong những ngày tăm tối. Ngài viết thư này khi bị giam trong tù. Nhưng, ngài nói với tín hữu Philíphê: "Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em! Chúa đã gần kề!" Vì thế, lý do để vui mừng không phải vì Phaolô và hội thánh Philíphê đang thành công trong một thế giới an bình. Nhưng, lý do là vì Chúa đang đến gần.
Khi cuộc đời thử thách chúng ta và Thiên Chúa ra như vắng bóng hay ở rất xa những hoàn cảnh thực tế của những khó khăn thường nhật, thánh Phaolô lại mời gọi chúng ta đáp trả dựa trên những gì ngài đã rao giảng và xác tín. Ngài hối thúc chúng ta phải cầu nguyện "van xin và tạ ơn". Chính việc cầu nguyện của chúng ta diễn tả hoàn cảnh và cảm xúc của mình ra như mâu thuẫn. Thiên Chúa ở gần kề và bình an luôn có vì "bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Giêsu Kitô".
Chúng ta thường hay liên tưởng việc sám hối với Mùa Chay. Nhưng đó còn là chủ đề yêu thích của Tin mừng Luca. Những người thuộc những cấp bậc ngành nghề khác nhau đến nghe Gioan giảng và băn khoăn: "chúng phải làm gì đây?" Ngài kêu gọi họ thay đổi cách sống; để sống một cuộc đời công chính ngay trong môi trường họ sống và làm việc. Ngài không bảo họ phải bỏ cuộc sống hiện tại để vào trong sa mạc, nhưng hãy sống thánh thiện ngay nơi họ đang sống. Những ai có quyền lực thì ngài bảo hãy đừng tống tiền hay hà hiếp người ta. Một khi họ thay đổi lối sống gian dối, uốn ngay cuộc đời của họ, thì họ sẽ sẵn sàng đón Đấng sắp đến. Tin mừng của Gioan Tẩy Giả thể hiện ở hai điểm: trước hết, dân chúng tin sứ điệp của ngài và thay đổi lối sống; rồi họ sẽ được chuẩn bị sẵn sàng đón Đức Giêsu ngự đến, "Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến". Và những ai tin thì tinh thần của họ sẽ được phấn khởi.
Lời giảng của Gioan Tẩy Giả cho thấy rằng nếu chúng ta muốn cảm nghiệm được thực tại mới mà ngài đang loan báo, chúng ta cần phải lắng nghe lời mởi gọi của ngài để hoán cải. Chúng ta cần phải thay đổi. Lời khẩn nài mà chúng ta thốt lên trong cử hành phụng vụ hôm nay phải là thắc mắc của dân chúng khi hỏi Gioan: "Chúng tôi phải làm gì?" Đó chính là lời cầu nguyện mà chúng ta thưa lên trong từng bước đi trong hành trình Mùa Vọng này.
Tôi viết những dòng này khi ngồi chờ ờ phi trường. Một bé gái dễ thương tầm hai tuổi đang chăm chú nhìn qua cửa kính và chỉ cho mẹ ngồi bên cạnh những gì cô bé thấy - phi cơ, xe tải, xe đẩy hành lý và cả mặt trời đang lên. Bà mẹ gọi tên từng thứ mà cô bé chỉ. Tôi thấy cảnh này nhiều lần; nhưng ít khi để ý thấy một ngày mới ngoài kia tuyệt vời làm sao và tất cả mọi việc ngoài ấy đang trôi chảy thế nào. Nhưng cô bé với cái nhìn thắc mắc vỗ tay vui sướng với mỗi khám phá của mình.
Người mẹ giống như những thánh ký hôm nay. Các ngài giúp chúng ta hiểu và trân trọng những thứ chúng ta có lẽ đã lỡ mất. Các ngài giúp chúng ta thấy, như thể lần đầu tiên, những gì diễn ra quanh ta. Nếu lắng nghe thông điệp của các ngài, có thể chúng ta sẽ phải xin cho được ơn có cái nhìn thắc mắc như trẻ nhỏ, để lắng nghe và chiêm ngắm như thể ấy là lần đầu tiên. Rồi, giống như trẻ nhỏ, chúng ta vỗ tay cảm nhận những điểu tuyệt vời được tỏ bày cho mình.
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của năm đức tin. Do đó, Mùa Vọng lại có một ý nghĩa thật: MV 3-C88
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của năm đức tin. Do đó, Mùa Vọng lại có một ý nghĩa thật đặc biệt. Mùa Vọng là Mùa chờ đợi, là mùa hy vọng và là mùa của niềm tin. Trong năm đức tin, Giáo Hội mời gọi chúng ta khơi dậy niềm tin. Đức tin của chúng ta đã có ngày chúng ta lãnh nhận phép rửa, ngày chúng ta tuyên xưng để lãnh nhận Chúa Thánh Thần và khi vào đời chúng ta đang sống niềm tin. Tuy nhiên, có lúc vì vô tình hay hữu ý, chúng ta đã làm đức tin của mình bị lu mờ. Nên, chúng ta phải làm ấm lại đức tin. Chúng ta phải khơi dậy. làm đức tin bừng sáng và tỏa sáng. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi con người. Dù con người có lúc lỗi phạm, có lúc sa ngã. Thiên Chúa luôn một mực trung thành. Các bài đọc hôm nay nói lên ý nghĩa sâu xa ấy.
Gioan Tẩy Giả được Chúa mời gọi từ sa mạc để loan báo Chúa đến. Sa mạc là nơi thanh vắng, là nơi tĩnh mịch. Gioan Tẩy Giả đã ở trong sa mạc: ăn chay, cầu nguyện, sống mật thiết với Chúa và tới thời, tới lúc, Gioan Tẩy Giả vâng lời Chúa ra khỏi sa mạc, lãnh sứ mạng dọn đường cho Chúa và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho môn đệ của Ông và cho nhiều người. Được Gioan kêu gọi thống hối, ăn năn, nhiều lớp người, nhiều hạng người đã tới với Gioan. Họ hỏi Gioan: " Chúng tôi phải làm gì ? ". Gioan trả lời: " Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy ". Những người thu thuế cũng đến hỏi Gioan: " Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì ?". Ông trả lời: " Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định ". Binh lính cũng hỏi Gioan: " Còn anh em chúng tôi phải làm gì ? ". Ông bảo họ: " Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng lòng với đồng lương của minh ". Gioan Tẩy Giả đã dạy dỗ dân chúng những điều thực tế theo từng nghề nghiệp, chức vụ của con người. Ngài không dạy những điều trừu tượng, nói trên mây trên gió, không dạy dân chúng những việc quá sức họ. Gioan chỉ dạy họ những điều hợp với khả năng, hợp với chức vụ của con người mà thôi. Gioan Tẩy Giả chỉ là một vị ngôn sứ lớn, nhưng thực tế,
Ông đã sống đời sống khắc khổ, đời sống nhiệm nhặt đến nỗi đã có rất nhiều người lầm tưởng và tự đặt câu hỏi hay Gioan là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai mà dân chúng mong mỏi chờ đợi từ lâu. Gioan dạy dân chúng sống đạo đức bởi vì muốn nên giống Chúa phải sống đời sống của Chúa như thánh Phaolô đã nói: " Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi ". Sống đời sống của Chúa là đang làm chứng cho Chúa. Gioan đã làm chứng cho Chúa bằng chính cái chết của mình dưới sự tàn bạo của Hêrôđê. Thánh Luca đã đặt trên môi miệng Gioan câu trả lời mạnh mẽ và dứt khoát bởi vì Gioan quả thực chỉ là tiếng kêu trong sa mạc dọn đường cho Chúa đến, và khi Chúa Giêsu xuất hiện Gioan đã lui vào bóng tối, để cho vai trò của mình lu mờ đi và để Chúa lớn lên, nổi bật lên: " Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại ". Ngài còn xác đinh: " Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người ". Rồi Gioan lại cho chúng ta biết: " Ngài làm phép rửa thống hối bằng nước theo tập tục của người Do Thái. Còn Chúa sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa ".
Tin Mừng của thánh Matthêu trong chương nói về ngày tận thế, Chúa đồng hóa mình với kẻ khó nghèo, bần cùng, rách rưới, đói ăn, khát nước, kẻ bị tù tội vv...Chúa nói mỗi lần chúng ta làm cho những người vừa nêu trên là chúng ta làm cho Chúa. Mùa Vọng còn là mùa bác ái, mùa chia sẻ, mùa thi ân. Ông phú hộ đã không biết chia sẻ cho Lazarô người nghèo. Chàng thanh niên giầu có đã không dám làm theo lời Chúa đề nghị. Mùa Vọng luôn mời gọi chúng ta thực thi bác ái, chia sẻ, quảng đại và cảm thông vv...Trong năm đức tin, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy trở về với đức tin của mình đã lãnh nhận, học hỏi, tìm hiểu qua Sách Thánh, Giáo Lý và qua các Huấn từ của Hội Thánh để càng ngày càng hiểu biết Chúa Giêsu, yêu mến ngài và thông truyền đức tin cho nhiều người. Năm đức tin, nhiều hình thức và nhiều con đường mà các tín hữu phải thực hành để gặp được Chúa và gặp gỡ tha nhân.
Mùa Vọng là mùa mong đợi. Mong và chờ như người lính canh mong đợi hừng Đông, như người vợ chờ chồng trở về. Để mong đợi Chúa đến, mọi Kitô hữu phải biết lắng nghe lời Chúa, và thực hành lời Chúa trong đời sống của mình. Thực tế, thái độ của người Kitô hữu là phải mau mắn và nhạy cảm trước các dấu chỉ của thời đại để mau chóng nhận ra ý Chúa. Chúa Giêsu chê trách và lên án những người Biệt phái, cũng như người Pharisêu không phải họ thiếu đạo đức nhưng vì họ tự mãn, kiêu ngạo, nên họ không thể nhận ra Chúa khi Chúa đang ở với họ. Chờ đợi Chúa phải có thái độ khiêm tốn như các mục đồng, như các tông đồ và đặc biệt như Đức Mẹ, Thánh Giuse vv...
Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho Chúa và giới thiệu Chúa cho nhiều người bằng thái độ khiêm tốn của mình.
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Amen ( Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật III Mùa Vọng ).
Vua Aman coi tướng Naaman, tổng tư lệnh quân đội, của ông là một nhân tài tuyệt luân. Đánh: MV 3-C89
Vua Aman coi tướng Naaman, tổng tư lệnh quân đội, của ông là một nhân tài tuyệt luân. Đánh đâu thắng đó. Dư tài điều binh, khiển tướng có đến ngàn, vạn quân sĩ nhưng ông thất bại trong việc kiểm soát chính con người mình, nhất là chứng bệnh cùi. Ông nghe đồn tiên tri Elisha bên Samaria chữa được bệnh cùi. Naaman và đoàn tuỳ tùng kéo đến xin ra mắt nhà tiên tri. Elisha đã không tiếp chỉ nhắn bảo đến sông Giođan tắm bảy lần sẽ khỏi. Nghe tới đó Naaman nổi giận như sóng cồn. Tự ái bị tổn thương. Tiên tri có thá gì, sao coi thường tể tướng quá thế. Quốc thể ta bị nhục mạ quá lắm. Không lẽ nước sông xứ Israel tốt hơn nước sông xứ chúng ta sao. Đoàn tuỳ tùng tức tối trên đường về. Rất có thể ông tâu vua cho quân dậy cho một bài học. Thiên Chúa không mở mắt ông bằng các nhà luật sĩ nhưng bằng đứa đầy tớ gái. Nó nói với ông. Ngài hẳn vui mừng nếu tiên trì bắt Ngài vượt rừng sâu, trèo núi cao, lặn đáy biển để lành bệnh. Thưa không, tiên tri mong ngài làm điều bình thường, điều nhỏ để hái kết quả vĩ đại, mong Ngài đừng từ chối. Lời con bé khiến ông tướng suy nghĩ.
Ông đến tắm nơi tiên tri chỉ bảo. Lần tắm thứ bảy vừa xong, ra khỏi nước da ông mịn màng, mặt ông tươi sáng, miệng ông cười rộ, lòng ông thanh thản, chân ông nhảy, tay ông múa, cổ ngẩng cao ca tụng Thiên Chúa. Đoàn tuỳ tùng trở lại xin lỗi nhà tiên tri và trao quà đáp lễ. Elisha không nhận quà nhưng vui vì tể tướng vui mừng ca tụngThiên Chúa. 2Vua 5,11tt.
Chúng ta cũng muốn làm việc vĩ đại để chúc tụng Thiên Chúa. Đây là lối suy nghĩ của vị tể tướng muốn làm việc lớn, trọng đại hơn là làm những việc bé nhỏ tầm thường hàng ngày. Lối suy nghĩ đó không phải là lề lối của Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta trung thành trong công việc nhỏ, việc bình thường. Qua Ngài việc nhỏ đó mang lại thành quả trọng đại. Việc trọng đại là việc của Chúa, không phải của ta. Những ai mong muốn, ước ao làm việc trọng đại thường gây tai hoạ cho mình và cho người khác. Chính những công việc nhỏ mọn có sức mạnh làm thanh thản tâm hồn, làm vơi đi gánh nặng cuộc đời. Những câu đáp ca trong thánh vịnh hôm nay và tiên tri Zapharia đều kêu gọi con gái Sion và con cái thành Jerusalem thực hiện những việc đơn sơ, bé mọn.
Mừng vui lên, hãy nhảy mừng ca tụng, tán dương..... hãy ca múa trong niềm hân hoan như ngày hội. Thánh vịnh kêu gọi ca tụng Thiên Chúa và dâng lời ca ngợi. Hãy hát lên bài ca ngợi khen, hãy reo vui.
Thánh Phaolô trong thư gởi cho tín hữu thành Philipi 4,4tt nói rõ hơn khi ngài viết
Tôi kêu gọi anh em hãy vui lên, hãy vui lên trong Chúa.
Vui lên trong Chúa, không phải vui vì niềm vui khác nhưng niềm vui đến từ Chúa. Muốn có niềm vui trong Chúa cần cầu nguyện. Cầu và tạ ơn cho niềm vui được trọn vẹn. Khi làm điều đó tâm hồn thanh thản, tâm trí an bình. Làm sao lời cầu có sức mạnh ban bình an cho tâm hồn? Thánh Phaolô cho biết việc này cao sâu ngoài trí tưởng của loài người.
Thánh Gioan Tẩy Giả cũng kêu gọi con người sống đời đơn sơ, chân thành khi họ đến hỏi ngài họ cần làm gì để có bình an tâm hồn. Thánh nhân bảo đừng lạm quyền, sống ngay thẳng và bằng lòng, vui với những gì đang có. Thánh nhân cho biết không thể tìm thấy Tin Mừng trong một tâm hồn buồn đau, thảm sầu. Tin Mừng nếu không đem lại niềm vui thì sao gọi là tin vui, Tin Mừng.
Cầu nguyện trở thành gánh nặng, chán nản khi giờ cầu thiếu sức mạnh của niềm vui. Niềm vui biến mất khi tâm hồn mất đơn sơ, khi tâm hồn đi tìm lí luận giải thích thoả đáng mầu nhiệm trong đạo. Thánh Phaolô cho biết mầu nhiệm trong đạo vượt quá trí hiểu loài người. Hãy cẩn thận, một tâm hồn tìm lí luận giải thích mầu nhiệm sẽ rơi vào trường hợp hoặc là chấp nhận giới hạn của con người để tin vào Thiên Chúa hai là chối bỏ một thực thể rõ ràng là sự thật về đức tin. Thiên Chúa chúng ta tin thờ là một Thiên Chúa huyền bí, mầu nhiệm cao cả, vượt quá trí hiểu. Tình yêu Ngài dành cho nhân loại cũng cao siêu mầu nhiệm. Niềm tin mà không có mầu nhiệm kèm theo thì niềm tin đó quá đơn giản, không đáng tin. Tể tướng Naaman từ bỏ tính kiêu căng để chấp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa. Nhờ khiêm nhường ông tìm gặp Thiên Chúa nhiệm mầu và ông vui mừng dâng lời ca tụng.
Nhà nông chuyên nghiệp liếc qua biết ngay là bông lúa cờ, không ích lợi gì cho mùa gặt. Gọi là bông: MV 3-C90:
Nhà nông chuyên nghiệp liếc qua biết ngay là bông lúa cờ, không ích lợi gì cho mùa gặt. Gọi là bông lúa cờ vì là bông lúa cao hơn những bông khác và phất phới trước gió khi có làn gió nhẹ phớt qua. Câu văn trên có nhiều chữ bông nói lên cái ruột nhẹ, trống lép của hạt lúa.
Khi còn là bụi lúa non cây nó cao lớn hơn những bụi lúa khác, mạnh khoẻ, xanh tươi khác thường. Chủ lúa ít kinh nghiệm vui mừng hy vọng nó cho những bông lúa vàng trĩu hạt. Đến mùa gặt niềm hy vọng tan biến vì bông lúa to lớn khác thường, là bông lúa cờ, phất phới trước gió, sau lớp vỏ kia trống rỗng, không ruột, toàn trấu tốt cho phân gio. Đời nó sẽ là
Thóc mẩy thu vào kho lẫm, thóc lép bỏ vào lửa đốt đi (Lc 3,17).
BÔNG LÚA NGẨNG ĐẦU
Bông lúa cờ trọn đời may mắn, hạt rơi vào vùng đất tốt, nhiều nước lắm phân nên đời nó dư ăn, thừa uống trở thành bụi lúa lốp. Hạt lúa to, ruột trống rỗng, không hạt gạo bên trong. Ngoài lớp vỏ trấu chỉ có lớp màng mỏng che cái hạt gạo xẹp lép vừa đủ để thải ra ngoài thành đồ bỏ. Ruột rỗng nên nhẹ nhàng, ngẩng đầu bay trong gió.
BÔNG LÚC GỤC ĐẦU
Những bông lúa mẩy nặng hạt nên đầu bông lúa cúi gục xuống nằm sáp rạp lấy nhau tạo nên tấm thảm lúa vàng ươm, niềm vui của nhà nông, thành quả của lao tác, hoa trái màu mỡ của đất trời nuôi sống con người.
Bông lúa gục đầu vì các hạt lúa mẩy căng tròn, hạt gạo bên trong trắng mượt và chất cám thơm ngạt ngào. Khi nấu chín cho thơm mùi cơm mới.
SỐNG THỜI ANH CHỊ
Bông lúa cờ cho hạt lép vì dành hết chất bổ nuôi lá óng ả, mượt dài, thiếu dinh dưỡng nuôi hạt. Người chú trọng vẻ đẹp bên ngoài sẽ bê bối bên trong- chè chén cho ngon, diện cho đẹp, bất kể cách kiếm tiền. Tiền chém giết dính máu, tiền gian lận, tiền lời bán xìke- Người trang điểm bằng tiền định giá trị người khác trên căn bản hối xuất đồng tiền. Tiền khơi dậy đam mê trụy lạc.
Muốn ăn ngon bắt người nhịn đói. Muốn mặc đẹp ép người khoác giẻ rách. Sao giật của người khoác cho mình, giành của người nuôi thân mình. Nói xấu người nói tốt cho mình. Tật xấu làm chủ con người, mùa thu hoạch sẽ gặt bông lúa cờ.
Bông lúa cờ lép vì nó cao hơn các lúa bạn, phấn hoa bay không tới. Sống trên cao ngó xuống, hưởng trăng thanh, gió mát, mưa sa. Sống đè đầu cỡi cổ kẻ khác, thích đời sống trăng hoa cuối đời kết quả xẹp lép, bông trái phúc đức bên trong không nhân, nhân lép bao bọc bởi lớp vỏ cám. Đời không nhân đức là đời bất hạnh vì nhân đức làm nên con người thiện tâm. Bình an dưới thế cho người thiện tâm. Không nhân đức sống bất an.
Bông lúa cờ lép vì đời nó đưa đẩy theo cánh gió. Lép nên đứng thẳng đầu. Sống đón gió ăn tàn là sống không lí tưởng, không chủ đích rõ ràng. Gió chiều nào ngả chiều đó. Đức tin lay theo chiều gió là đức tin non dại, thiếu trưởng thành, không rễ sâu nên dễ bị chao đảo theo xu thế xã hội. Ngả theo xu hướng nghe bùi tan, ngon ngọt, nịnh hót là chết êm dịu.
SÁM HỐI
Điều Gioan đòi hỏi rất thực tiễn, nếu quyết tâm sẽ thực hiện được. Đòi hỏi hợp khả năng, trong quyền hạn mỗi hối nhân. Không cần thay đổi thế giới. Hãy sống như đang sống, làm việc như đang làm chỉ cần làm với lòng mến. Gioan không kêu gọi đổi núi, dời non, hoán chuyển vũ trụ. Gioan mời gọi nhìn vào hiện tại. Đừng nhìn lại quá khứ để hối tiếc; tránh nhìn vào tương lai để lo sợ; hãy nhìn vào hiện tại, công việc đang làm. Đừng nhìn thiên hạ để mơ màng, hãy nhìn vào thực tế đời mình. Với thợ thuyền gioan khuyên: chia cơm ăn, áo mặc cho người không có.
Nhóm cầm bút, sổ sách tránh lạm dụng quyền hành trong tay.
Nhóm cầm gươm giáo chớ hà hiếp, chiếm đoạt của người và bằng lòng với đồng lương.
Theo Gioan sám hối bắt đầu bằng chính mình trong khả năng, quyền hạn. Đừng bắt ai thay đổi nhưng thay đổi chình mình. Đừng sống mơ màng chức tước đám đông gán cho. Nhìn vào chính mình để biết khả năng, chức vụ và giới hạn của mình. Đừng sống điều anh em ban tặng nhưng sống chân thật với chính mình, đó là con đường hoàn thiện và là đường chân lí. Nếu không thành thật với chính mình thì không thể thành thật với người
Ai trong chúng ta lại không muốn được hân hoan vui mừng ? Ai trong chúng ta lại không muốn: MV 3-C91
Ai trong chúng ta lại không muốn được hân hoan vui mừng ? Ai trong chúng ta lại không muốn thoát ra khỏi tất cả những gì đang ám ảnh và đè nặng lên mình: Những trách nhiệm quá nặng nề; những tư tưởng xâu xé dằn vặt; những băn khoăn lo lắng cho con cái, cho tình yêu, cho gia đình và cho tương lai; sự sợ hãi trước đau ốm bệnh tật, trước cảnh già yếu và trước sự chết ? Ai lại không muốn thoát ra khỏi vòng tay của những người đang khống chế và đe dọa mình ? Ai lại không muốn thực sự thoát ra khỏi chính mình, khỏi những biên giới hạn hẹp, khỏi tình trạng bất ổn và khỏi sự thiếu sót bất toàn của mình ?
Ðược hân hoan vui mừng: Có nghĩa là có thể thở ra nhẹ nhõm thoải mái, là biết bằng lòng với chính mình và ngoại cảnh, là có thể mĩm cười với đời, là có thể bình tĩnh nhìn thẳng vào các biến cố của cuộc đời và thản nhiên chấp nhận chúng !
Vui mừng: Có nghĩa là tôi không còn bị kích thích xúc động nữa; tôi không còn bị ngoại cảnh chi phối và kích động nữa; tôi không còn nhìn cuộc đời bằng cặp kính đen nữa; trái lại, tôi đã làm chủ được chính mình, tôi đã tìm cho mình được sự an bình thanh thản và có thể đầy lạc quan tin tưởng chờ đợi một ngày mới sắp tới !
Vui mừng: Ðó chính là sự xác tín được mình đang đi đúng đường, mình đang sống một cuộc sống chân chính và lương thiện. Và đó chính là lúc chúng ta đã thực sự sống đời mình ! Ðó chính là lúc chúng ta thực sự cảm nhận, nhìn thấy và kinh nghiệm được niềm vui là gì ! Tuy nhiên, những mâu thuẩn và những đối kháng cũng rất lớn: Ai còn có thể vui được khi đưa mắt nhìn vào tình trạng bấp bênh và bất an của thế giới hôm nay ? Người ta có thể nói đó là một tình trạng đầy lo ngại hơn là an vui. Thật ra, nhân loại đã tiến xa trên phương diện kỹ thuật và khoa học. Nhân loại ngày nay đã đạt được một sự giàu có thịnh vượng mà những thế hệ trước đây không dám mơ ước. Nhưng có phải vì thế mà chúng ta đã trở nên hạnh phúc hơn, vui vẻ và sung sướng hơn hay không ? Khắp nơi trên thế giới vẫn ngự trị hận thù và ghen ghét, bạo động và khủng bố, lừa đảo và ích kỷ, tham lam và đố kỵ, v.v... !
Và ngay trong cuộc sống gia đình của chúng ta vẫn không thiếu căng thẳng, nghi ngờ, thất trung và mất tín nhiệm. Thêm vào đó còn có gánh nặng của công ăn việc làm, và những mất mát thiệt thòi. Và sau tất cả những tình trạng và hiện tượng đó là một câu hỏi được đặt ra: Tại sao lại có những cảnh trớ trêu như thế ? Phải chăng cả cuộc sống chúng ta là vô nghĩa hay sao ?
Dĩ nhiên, người ta có thể chạy trốn trước tất cả những hiện tượng đó bằng cách lao mình vào công việc, bằng sự thành công, bằng những cuộc ăn uống say sưa, bằng rượu chè và ma tuý, hay bằng những phương tiện lệch lạc rẽ tiền khác. Nhưng chúng ta vẫn không thể làm thay đổi được cục diện của vấn đề, trái lại vấn đề càng trở nên tồi tệ hơn và càng lút sâu vào cái vòng luẩn quẩn không có lối thoát. Và bấy giờ một câu hỏi khác lại được đặt ra là: Chúng ta sẽ còn lại những gì ? Phải chăng bấy giờ chỉ còn lại sự sợ hãi và nội tâm bất an, thái độ xa lạ đối với môi trường thiên nhiên và đồng loại, sự thác loạn và sự đổ vỡ mất mát hoàn toàn ? - Một điều gì đó trong chúng ta đang vùng lên và cự tuyệt lại tình trạng đó !
Vâng, chúng ta không tìm cách chạy trốn sự thật, chạy trốn thực tại, nhưng chúng ta tìm kiếm một lối thoát đúng đắn. Chúng ta hướng nhìn về một Ðấng duy nhất có thể giúp đỡ được chúng ta. Nhưng Ðấng đó là ai ? Bởi vì quanh chúng ta chỉ có toàn những người cùng mang trên mình những gánh nặng và những bức xúc tương tự ! Vậy, để tìm được một sự giúp đỡ thực sự không phải là điều dễ dàng.
Trong khi đó, thánh Phaolô nói: Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy vui lên ! Anh em hãy vui lên, mặc cho phải chịu đau khổ nhiều ! Sự vui mừng lạc quan phải luôn luôn là thái độ sống của anh em. « Bởi vì Ðức Chúa đã gần đến ! Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giải bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện » (Pl 4,6). Vâng, niềm vui mùa vọng là « Ðức Chúa đang đến gần ! »
Phải chăng lý do cho bao thất vọng mà chúng ta từng phải gánh chịu, cho bao cay đắng và bao cam phận: là vì chúng ta đã nuôi nấng và ấp ủ những sự chờ đợi sai lạc, là chúng ta cứ tưởng sẽ tự giải cứu được mình, nếu chúng ta càng lao mình vào công việc và vào kỹ thuật nhiều hơn nữa, càng chạy theo săn tìm sự phồn vinh giàu có và sự tự do hơn nữa ?
Những sự thất vọng đều có thể cứu chữa và hàn gắn được, nếu người ta biết chấp nhận mình bị làm lẫn !
Vì thế, Mùa Vọng nói cho chúng ta rằng: Con người có thể làm được tất cả, nhưng chỉ sự cứu rỗi của mình thì con người không thể tạo ra được. Con người có thể tạo ra được cả những thần thánh và rồi quì gối thờ lạy chúng, nhưng chỉ có Thiên Chúa là con người không thể tạo ra được. Thiên Chúa muốn tự ban tặng mình cho chúng ta. Người đã ban tặng mình cho chúng ta ! Chúng ta hãy mở vòng tay ra, hãy mở rộng trái tim ra để đón tiếp Người, Emmanuel, Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Người đã ở gần bên chúng ta qua lời Người phán. Người đã ở giữa chúng ta dưới hình thức tấm bánh mà chúng ta bẻ chia cho nhau. Người tiếp xúc với chúng ta qua sự gần gủi của những người thân yêu. Chúng ta luôn được Người ủ ấp, dù phải chịu thiếu thốn cơ bần. Thánh nhan Người chiếu giãi trên chúng ta khắp nơi. Ðược gần gủi bên Người, mọi lo lắng sẽ trở nên nhẹ nhàng. Chúng ta không còn cần phải tự khẳng định chính mình nữa, không còn cần phải áp đặt được kẻ khác bằng bất cứ giá nào. Ðược gần gủi bên Người, chúng ta sẽ trở nên thanh thản, an bình, tin tưởng và vui mừng hơn !
Thánh Phaolô nói niềm vui mừng như thế giải thoát chúng ta thành những con người thánh thiện. Chúng ta không cần phải lấy oán báo oán. Chúng ta có thể tha thứ bỏ qua và luôn luôn có can đảm bắt đầu lại từ đầu. Chúng ta sẽ không còn cảm thấy cay đắng đau thương, mặc dầu còn phải đối mặt với đủ thư đắng cay khổ nhục.
Trong những ngày Mùa Vọng này, tôi cầu chúc cho tất cả chúng ta cảm nghiệm được chắc chắn rằng: Ðức Chúa đang đến gần. Nhưng tôi cũng cầu chúc cho chúng ta biết giúp nhau cảm nghiệm được Ðức Chúa đang đến gần trong cuộc sống của chính mình, trong chính gia đình mình và trong khu vực mình sinh sống: bằng những lời nói thánh thiện và đầy an ủi; bằng việc băng bó và chữa lành các vết thương thay vì gây ra các vết thương; bằng việc biết quan tâm đến những đau khổ thầm kín của kẻ khác; bằng vòng tay mở rộng cho hết mọi người. Và nếu có thể, bằng cả những món quà được chọn lựa đàng hoàng và bằng những tấm thiệp mừng Giáng sinh với những lời cầu chúc chân tình !
Ðược vậy, sứ điệp Mùa Vọng và Giáng Sinh đối với tất cả chúng ta không còn là điều mơ ước, nhưng là một thực tại cụ thể, nghĩa là: Tất cả mọi người sẽ được nhìn thấy được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Amen.
Vào thời tiên tri Sophia, nước Do Thái đang ở trong tình trạng tồi tệ. Bên trong đạo đức suy đồi: MV 3-C92
Vào thời tiên tri Sophia, nước Do Thái đang ở trong tình trạng tồi tệ. Bên trong đạo đức suy đồi, bên ngoài họa xâm lăng đang rình sẵn. Nhưng tiên tri vẫn kêu gọi dân hãy vui lên. Lý do vui lên vì án phạt trên họ Thiên chúa đã rút lại và thù địch của họ Ngài làm cho nó tháo lui (Sph. 3,14-,18). Thánh Phaolô lập lại lời hô hào của tiên tri với tín hữu Philipphê: " Anh em hãy vui luôn trong Chúa...." Niềm vui này không chỉ là tình cảm, nhưng phát sinh những hoa trái cụ thể trong cuộc sống, đó là hiền hòa, rộng rãi với mọi người..." (Pl.4,4-7), như trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Thánh Gioan Tẩy Giả hướng dẫn dân chúng: Hãy chia sớt của ăn áo mặc cho kẻ không có, sống công bình, tránh bất công, đừng áp bức và hà hiếp người khác (Lc.3,10-18). Đấy là hoa trái của niềm vui. Vì Thiên Chúa đang đến, Người là Đấng cứu độ ( đáp ca).
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy vui luôn, nhưng làm thế nào để có thể vui luôn? - Phải có hạnh phúc, mà hạnh phúc là vừa chu toàn nhiệm vụ được trao vừa vui hưởng cuộc sống. Chúng ta dễ thấy hạnh phúc khi ta thực hiện được điều ta muốn, nhưng để có được niềm vui cả trong điều ta phải thực hiện thì phải có ơn Chúa. Hạnh phúc thật không do thỏa mãn nhưng ước muốn ích kỷ của mình, vì hạnh phúc thật không thể có khi không có tình yêu. Chỉ có Chúa mới đong đầy mọi mơ ước của chúng ta. Do đó nguồn phát sinh hạnh phúc chính là sự hiện diện của Chúa. Có Chúa trong đời ta sẽ vui. Niềm vui mà thế gian này không thể ban cho chúng ta là niềm vui xuất phát từ ý thức về Chúa và tình yêu của Ngài đối với chúng ta.
Quả thật, thanh Gioan Tiền hô mời gọi: Anh em hãy hành động thật tốt trong cuộc sống hiện tại của chính mình trong khi chờ đợi Đức Messia tới, Ngài không đòi buộc ta phải tách rời thế gian xấu xa này, hay phải vất bỏ mọi nghề nghiệp và bổn phận nơi trần gian này. Ngài chỉ đòi buộc chúng ta có lòng nhân ái và sự công chính. Vì đó là những hậu quả rõ ràng của lòng hoán cải thực sự. Các việc làm cụ thể biểu lộ tình thương, đã có ghi trong Cựu Ước như là một dấu chỉ đặc biệt nói lên lòng đạo đức được Giavê ưng thuận. Vì thế, Gioan Baotixita tùy theo hoàn cảnh của mỗi người mà ông đưa ra lời khuyên khác nhau. Nhưng đó là lời khuyên gọn gàng, quí báu và cụ thể. Sống bác ái chia sẻ cho nhau sống công bình theo luật định nghĩa là làm hết sức mình trong hoàn cảnh hiện tại đang khi chờ thời đại Thiên Sai đến. Ong không đòi phải bỏ nghề mình đang làm để sinh nhai, nhưng ông mời gọi phải hoán cải trong khi hành nghề, đó là hoa trái biểu lộ lòng sám hối đích thực. Có hoán cải thì việc chờ mong Đấng Messia đến mới đem lại niềm vui đích thực.
Giáo huấn của Gioan Tẩy Giả chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt hơn của Chúa Giêsu sau này. Chúng ta thực sự chưa thấm nhuần tinh thần lạc quan của Tin Mừng nên chúng ta chưa chiếu tỏa niềm vui ra môi trường chung quanh. Trong khi Mùa Vọng là niềm hi vọng, là niềm chờ mong của những người yêu nhau. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, Ngài chờ đợi mọi người hãy phát quang niềm vui tới tha nhân trong việc phục vụ. Niềm hi vọng này phát xuất từ lời hứa mà Thiên Chúa hứa với tổ phụ chúng ta. Tuy nhiên để lời hứa được thực hiện con người phải có lòng sám hối, phải có cuộc hoán cải toàn diện. Mà sám hối là gì ?- Không phải chỉ quay về quá khứ mà còn hướng về tương lai với niềm hi vọng, như màu hồng của áo lễ hôm nay. Vì thế, Mùa Vọng là mùa của chờ đợi trong niềm vui. Nhưng không phải chỉ ngồi mà chờ đợi, trái lại được thực hiện trong hoạt động cụ thể như thánh Gioan đã đưa ra mà chúng ta vừa khai triển. Trở về với Chúa diễn tả qua việc trở về với anh em là làm điều tốt lành cho tha nhân.
Lay Chúa, xin cho chúng con một khi đã ý thức mình là ai và trách nhiệm phải làm gì. Xin cho chúng con biết hồi tâm sám hối và minh chứng lòng tin vào Đức Kitô qua việc học Lời Chúa hôm nay để sống đạo hầu trở nên chứng tá cho Thiên Chúa đang hiện diện giữa lòng Hội Thánh hôm nay.
Mùa vọng là mùa của hy vọng, mùa của đợi chờ, mùa của niềm tin. Thiên Chúa không bao giờ: MV 3-C93
Mùa vọng là mùa của hy vọng, mùa của đợi chờ, mùa của niềm tin. Thiên Chúa không bao giờ chùn bước, ngã lòng trước con người. Dù rằng con người phản bội, yếu hèn, tội lỗi, Thiên Chúa vẫn luôn tiếp tục công trình cứu rỗi của Người trong lịch sử cứu độ nhân loại. Cho dù con người sa ngã, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người vì con người họa lại hình ảnh của chính Ngài. Do đó, mùa vọng kêu gọi con người ăn năn, sám hối, trở về với Thiên Chúa tình thương. Các bài sách thánh hôm nay nói lên ý nghĩa thâm sâu ấy.
Nghe Gioan Tẩy Giả rao giảng, kêu mời dân chúng sám hối và lãnh nhận phép rửa sá tội. Dân chúng đổ xô tới gặp ông Gioan Tẩy Giả và xin ông làm phép dìm nước cho họ. Cứ lần lượt, dân chúng thuộc mọi thành phần: người thu thuế, binh lính đều hỏi Gioan Tẩy Giả:" Chúng tôi phải làm gì ? " ( Lc 3, 12 ). Ông Gioan Tẩy Giả nói với những người thu thuế:" Đừng đòi hỏi gì quá mức ấn định cho mình " ( Lc 3, 13 ). Còn đối với các binh lính, ông trả lời:" Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình" ( Lc 3, 14 ). Thánh Gioan Tẩy Giả không đưa ra những nguyên tắc trừu tượng, những lời dậy dỗ không thực tế mà Ngài khuyên họ hãy giữ đức công bình, sống bác ái, yêu thương và như thế giống như Đức Giêsu Kitô đã nói trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu về ngày chung thẩm:" Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, Ta ở tù các ngươi đã viếng thăm vv..." ( Mt 25, 31-46 ). Thánh nhân đã không đòi hỏi những người này phải có tâm tình đạo đức, thay đổi quan niệm, thay đổi nghề nghiệp nhưng Ngài đòi hỏi họ phải sống cụ thể và hành động cụ thể. Thời của thánh Gioan Tẩy Giả, dân chúng khó chịu về thái độ của các môn đệ của Ngài. Họ chỉ chấp nhận giáo huấn của Gioan Tẩy Giả mà không hiểu biết những mới mẻ của Tin Mừng. Thánh Luca xác nhận giáo huấn của ông Gioan Tẩy Giả cũng là giáo huấn của Chúa Giêsu. Thánh sử còn phân biệt rõ vai trò của Gioan trong lịch sử cứu độ. Ông không phải là Đấng Thiên Sai, nhưng ông chỉ là tiếng kêu trong sa mạc dọn đường cho Chúa đến. Thánh Gioan cũng bộc bạch: " Ông không đáng cởi giây giầy cho Người " và " Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại " ( Ga 3, 30 ). Thánh Luca còn phân biệt rõ ràng hai phép rửa: " Phép rửa của Gioan là một việc tẩy rửa bằng nước, một nghi thức thông thường về tôn giáo của người Do Thái. Phép rửa của Chúa Giêsu là phép rửa của Chúa Thánh Thần, phép rửa trong thần khí và lửa ".
Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi:" Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy" ( Lc 3, 11 ). Rõ ràng, thánh nhân kêu mời dân chúng sống chia sẻ, sống cảm thông, yêu thương và sống bác ái. Người thanh niên giầu có mà Chúa Giêsu đề cập tới vì anh quá bám víu lấy của cải vật chất, nên anh đã không sẵn sàng nghe lời đòi hỏi của Chúa:" Hãy về bán của cải anh có mà phân chia cho người nghèo khó, rồi hãy đi theo Ta ". Anh thanh niên đã giữ lề luật ngay từ thuở nhỏ, nhưng anh lại thiếu thực hành bác ái. Anh chỉ giữ đạo chứ chưa sống đạo đích thực. Mùa vọng là mùa hy vọng. Hy vọng vì Chúa sẽ đến. Mùa vọng là mùa sám hối. Sám hối là nhìn vào bản thân, để chuyển hoá nội tâm, biến đổi con người, biến đổi cuộc sống để sẵn sàng chờ đón Chúa đến gần trong ngày lễ Giáng Sinh, và đợi chờ Ngài lại đến trong vinh quang, trong ngày sau hết của mỗi người. Mùa vọng là mùa chia sẻ. Chia sẻ là sống lưu tâm thiết thực, cụ thể đến nỗi khốn cùng của anh em mình đến nỗi mỗi người phải ý thức, phải cảm nghiệm sâu sắc: " Chúa là hiện thân của người nghèo, người đói, người khát, người bơ vơ vất vưởng đầu đường xó chợ, người neo đơn, người cô thân cô thế, thấp cổ bé họng vv..." và thương giúp những người đó là chính làm cho Chúa. Chúa đòi hỏi mỗi người phải tỉnh thức, sám hối và cầu nguyện để chờ ngày Chúa quang lâm.
Chờ đón Chúa đến có nghĩa là con người phải khiêm nhượng, phải đơn sơ và chóng vánh nhạy bén nhìn ra càng dấu chỉ của thời đại. Chúa Giêsu đã lên án gắt gao những Biệt phái, những Pharisiêu không phải họ thiếu đạo đức nhưng vì họ tự mãn, tự cao, tự đại và như thế họ sống bên Chúa mà vẫn không nhận ra Chúa.Sống mùa vọng, mọi người chúng ta hãy dành cho Chúa một cơ hội.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một tấm lòng quảng đại để chúng con luôn biết chia sẻ những gì chúng con có với những anh em đang gặp khó khăn, khốn khó. Amen.
Nếu có ai hỏi tôi: Bây giờ chúng tôi phải sống đạo làm sao cho đúng với tin mừng của Chúa? Tôi sẽ: MV 3-C94
Nếu có ai hỏi tôi: Bây giờ chúng tôi phải sống đạo làm sao cho đúng với tin mừng của Chúa? Tôi sẽ lúng túng không biết trả lời làm sao cho đúng, cho ngắn gọn dễ hiểu và dễ thi hành.
Nếu có ai hỏi tôi: Lề luật nào là kim chỉ nam cho đời sống người tín hữu Chúa ở trần gian? Tôi không ngần ngại trích dẫn tin mừng của Chúa như sau: Đó là luật mến Chúa và yêu người (Mt 22,33-40).
Nếu có ai hỏi tiếp: Như vậy chúng tôi phải sống như thế nào?
Phúc âm hôm nay ghi lại câu trả lời của Ông Thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa trả lời cho những người hỏi ông cũng câu hỏi này: Anh em biết đấy, chúng ta nên chia cơm xẻ áo với người nghèo khổ; không nên cậy quyền thế hà hiếp người khác, không nên tham lam vượt quá giới hạn cho phép...( Lc 3, 10-14)
Tôi chắc người nghe sẽ có phản ứng ít là âm thầm trong lòng: Lại giọng luân lý. Điều đó ai chả biết! Vả chăng đạo nào, sách luân lý nào cũng dậy như vậy mà, có gì khác đâu!
Có thật sự Ông Thánh Gioan chỉ dậy luân lý như thế hay ông còn muốn điều gì khác hơn nữa?
Tôi không tin là ông chỉ muốn đem một mớ lý thuyết luân lý dậy đời ra làm câu trả lời. Nhưng Ông muốn nói đến những sự việc nhỏ nhặt, những biến cố, những khó khăn, những thắc mắc, những tiếng kêu cứu cần sự giúp đỡ trong đời sống của con người. Những sự việc đó tuy nhỏ bé, tuy không có chiều kích gì to lớn vĩ đại, nhưng là nền tảng cho câu trả lời người ta hỏi Ông: Chúng tôi phải sống thế nào?
Câu trả lời của Ông Gioan không dựa trên một sách vở dẫn chứng cớ, hay một lý luận nào, nhưng đặt nền tảng trong nhu cầu đời sống: bất cứ người nào cũng cần cơm ăn áo mặc, cần được kính trọng che chở bảo vệ, cần được quan tâm và không bị hà hiếp. Theo Ông, nếu biết nhậy cảm và sống tình liên đới với hoàn cảnh đời sống của con người, chính là sẵn sàng biết chấp nhận đổi mới cuộc sống của chính mình: Trở về với tin mừng mến Chúa yêu người rồi.
Những dấu chỉ bên ngoài tỏ tình liên đới với con người không là những dấu hiệu trống không vô nghĩa, nhưng có giá trị mang lại ơn cứu rỗi, mang lại hạnh phúc, vì là phản ảnh tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian và Thiên Chúa nhìn thấy tâm tư của người làm và chúc phúc cho việc họ làm.
Truyện kể: "Một người giầu có luôn luôn nghĩ về cách làm thế nào giữ của cải của mình kể cả khi sắp chết. Ông muốn khi chết cũng phải mang tiền đi theo để có thể mua sắm những thứ cần dùng cho đời sống. Lúc nằm trên giường bệnh và biết ngày giờ sống của mình sắp hết hạn, ông cố gượng lần mò chiếc chìa khóa hòm đựng tiền buộc dính liền với sợi dây chuyền nơi cổ. Ông gọi người đầy tớ tín cẩn đến bảo mở hòm tiền ra và lấy vòng vàng chôn cùng với ông trong quan tài.
Sau khi qua đời, ông được gọi lên trời. Đi qua tầng trời ông nhìn thấy một bàn dài có bày bán nhiều thứ hàng. Ông hỏi ngay: Thứ bánh này giá bao nhiêu? Người bán trả lời: Một đồng thôi!. Còn hộp cá mòi kia giá bao nhiêu? Dạ giá cũng như vậy! Còn hộp sữa giá bao nhiêu? Dạ cũng một đồng thôi!
Như vậy quá rẻ. Được, tôi mua hết cả mâm đựng những thứ này! Ông ta lần túi tiền mang theo, móc ra những đồng tiền vàng tính trả cho người bán.
Người bán hàng lắc đầu nói ngay: Này Ông, như thế không đủ đâu. Ông đã được sống hơn năm mươi nhăm năm trên đời, nhưng ông đã không học biết đủ!!!
Ông ta liền sừng sộ đối lại: Như thế nghĩa là gì? Bộ những thỏi vàng này không đủ để trả cho bằng ngần ấy thứ sao?
Người bán hàng bình tĩnh cắt nghĩa tiếp: Chúng tôi chỉ nhận những loại tiền đã trao tặng giúp đỡ người khác thôi. Đó là lòng bác ái thương người!"
Bài tin mừng hôm nay nói về sứ điệp của Gioan: sứ điệp tình thương. Thương là chia xẻ những: MV 3-C95
Bài tin mừng hôm nay nói về sứ điệp của Gioan: sứ điệp tình thương. Thương là chia xẻ những gì mình có, vật chất hay tinh thần. Có hai áo thì cho một áo. Thỏa mãn với đồng lương của mình. Đừng ức hiếp ai. Nói tóm lại muốn đón Chúa phải thực tập yêu thương.
Càng có kinh nghiệm sống chúng ta càng cảm nhận lời kinh thánh: Omnis homo mendax: mọi người đều giả dối. Tội lỗi làm cho con người thành pháo đài của nhau. Hay như hiền triết la mã: homo homini lupus: người là chó sói của con người. Gần đây Jean Paul Sartre: l"enfer c"est les autres.
Không yêu thương là tội lỗi và tội lỗi làm cho con người xa cách nhau. Gioan kêu gọi sự chia sẻ và sự lương thiện. Chúng ta đang sống ở trần gian có nghĩa là không có gì thiệt trong cõi ta bà thế giới này. Thi sĩ gọi trần gian chỉ là ảo ảnh là hư không. Vi thực ra cái trò huyễn hóa của trần gian này như giấc mộng vàng. Và tình yêu chúng ta dành cho nhau nhiều khi cũng không thực như là dọi chiếu tình yêu qui hướng về mình mà thôi. Chúng ta yêu kẻ khác có thật sự vì họ hay là vì chúng ta ? Cái phân biệt tình yêu đích thực chính là sự qui chiếu này.
Người Mỹ rất sợ hurt feelings nên ngôn ngữ hành động của họ nhiều khi hời hợt giả dối không thật. Mới buổi sáng nói: you are wonderful buổi chiều đã có thể lay off không thương tiếc. Hai ông cha Việt nam thấy thằng nhỏ cỡi xe đạp ném báo bị xỉu vì lạnh. Mang nó vào nhà. Mẹ nó kêu cảnh sát vì nghi cho hai chàng đông phương này làm con bà xỉu. Cũng may thằng bé tỉnh dậy cho hay: không có hai ông nó đã chết. Bà mẹ cám ơn rối rít. Về nhà cha sở còn quở: các cha bác ái không phải lối. Vậy thì bác ái đúng là như thế nào ? Bác ái đúng là: cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm (thánh Âutinh) hay đối với những kẻ Chúa yêu mọi sự đều tốt đẹp.
Sứ điệp thứ hai là lòng khiêm nhượng của Gioan. Ngài khiêm nhường đến mức không coi mình là nô lệ của Chúa. Nô lệ cởi dây giày mà ngài nói mình không đáng cởi dây giày. Tận cùng bằng số trong cuộc đời. "Ai nhất thì tôi thứ nhì, ai còn muốn nữa tôi thì thứ ba". Tội đầu tiên của con người là kiêu ngạo nên Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài nâng kẻ hèn mọn lên (kinh Magnificat). Gioan còn nói: Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi.
Đa số chúng ta muốn lớn hơn người khác. Chúng ta còn muốn lớn hơn cả Chúa nữa. Sau tội kiêu ngạo là tội ghen ghét: Cain Abel, Esau Jacob, 11 anh em và Giuse, vì thấy người khác hơn mình.
Trong "Cổ Học Tinh Hoa" có kể câu chuyện: loài hồ sợ loài vật nào nhất: loài hồ sợ loài hồ nhất. Hai ca sĩ hai bác sĩ hai người cùng làm một nghề thường ghen ghét nhau. Chẳng qua vì thiếu sự khiêm nhường. Thánh Têrêxa nói: khiêm nhường là nhận sự thực. Ta không dám nhận sự thực của chính ta vì sợ mất lòng. Nếu ai cũng thấy ta như Chúa thấy, chắc là chúng ta xấu hổ lắm. May thay ngày tận thế mọi người sẽ thấy. Nhưng nếu chúng ta thành thực và nhận sự thực của chính chúng ta, chúng ta sẽ thêm xác tín sự yếu đuối để dựa cậy vào Chúa hơn. Hãy tâm niệm thánh vịnh 131:
Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi,
đường cao vọng chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu,
hồn con con vẫn trước sau,
giữ cho thinh lặng giữ sao thanh bình,
như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con hồn lặng lẽ an vui,
cậy vào Chúa Ich diên ơi,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
Sau khi nghe Gioan giảng, dân chúng hỏi ông rằng: Vậy chúng tôi phải làm gì? Ông trả lời: MV 3-C96
Suy Niệm: "Sau khi nghe Gioan giảng, dân chúng hỏi ông rằng: Vậy chúng tôi phải làm gì? Ông trả lời: Ai có hai áo hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậỵ"(Lk 33:10-11) Chuyện kể rằng thánh Martin of Tours xưa là một viên sĩ quan thuộc quân đội Pháp. Một hôm, sau chuyến công tác mệt mỏi trở về, ông gặp một người ăn mày ngồi xin ở cổng thành. Hôm đó trời lạnh làm cho vạn vật co ro, lòng người tê tái, nhìn người ăn mày run rẩy xin bố thí, ông động lòng thương. Vì không có tiền trong túi, ông liền nhảy xuống khỏi lưng ngựa, lấy dao cắt áo choàng của ông làm hai phần và trao cho người ăn mày một nửa. Đêm hôm đó, trong giấc ngủ ngon ông thấy Chúa Giêsu mặc miếng áo choàng mà ông cho người ăn mày nghèo khổ hôm qua. Chúa Giêsu rất vui vẻ giữa các thiên thần đang ca hát. Có một thiên thần hỏi Chúa Giêsu là tại sao Ngài mặc miếng áo bẩn như vậy. Chúa Giêsu khoe là đêm qua tôi tớ của Ngài là Martin, sau khi đi công tác mệt mỏi trở về, quần áo lẫm bụi đường, mà vẫn không làm ngơ trước những đau khổ của những người bất hạnh, nghèo đói. Để thử lòng Martin, thì chính Chúa Giêsu đã cải dạng người ăn mày xin ở vệ đường. Chúa Giêsu khen ngợi Martin là tôi tớ trung thành của Ngài đã sống đúng tinh thần bác ái Kitô hữu.
Có nhiều quan niệm thật sai lầm trong cuộc sống! Người thì nghĩ rằng chỉ có quyền hành, danh vọng, của cải trần thế đem lại hạnh phúc. Kẻ khác cho rằng phải làm những việc to lớn mới xứng đáng là làm việc thiện. Nhưng tâm tình của Kitô hữu thì khác. Vì có Chúa sống trong họ nên họ rất hạnh phúc. Bất cứ việc gì, dù nhỏ, dù to đều đem cho họ niềm vui vì họ làm với Chúa. Điều này được tiên tri Isaiah loan báo từ xưa: "Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi, có Đấng Thánh của Israel thật cao cả."(Is 12:6) Là Kitô hữu, chúng ta sống trong hạnh phúc, vì Chúa hiểu lòng ta. Mọi cử chỉ, lời nói to nhỏ đều có gía trị trước tôn nhan Chúa.
Thực Hành: "Anh Chị Em thân mến, hãy vui lên trong Chúa."(Phil 4:4) Lạy Chúa xin dạy con biết an vui và biết sống trước tôn nhan Chúa. Xin soi sáng cho con biết rằng khi cho đi là lúc con nhận được hạnh phúc trong tâm hồn. Chúa là nguồn hạnh phúc thật của đời con.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 3:10-18)
Trong bài Tin Mừng tuần trước, thánh Lu-ca đã giới thiệu với chúng ta thánh Gio-an Tẩy Giả và sứ: MV 3-C97
Trong bài Tin Mừng tuần trước, thánh Lu-ca đã giới thiệu với chúng ta thánh Gio-an Tẩy Giả và sứ mệnh của ngài làm tiếng người hô trong hoang địa. Tiếng hô ấy kêu gọi người ta dọn đường tâm hồn đón Chúa đến. Tiếng hô vang dội tới khắp miền và ngày hôm nay để đáp lời kêu gọi, “dân chúng lũ lượt đến xin ông Gio-an làm phép rửa”. Tuy nhiên phép rửa chỉ là dấu hiệu nói lên sự sám hối, còn thực hành sám hối như thế nào mới là cốt yếu. Vậy thánh Gio-an đưa ra những đề nghị thực tế cho từng hạng người đến xin ngài một lời khuyên giúp họ sám hối.
Chúng ta hãy trở lại khung cảnh bờ sông Gio-đan, nơi thánh Gio-an Tẩy Giả thi hành sứ vụ. Người ta từ các nơi kéo đến để xin ngài làm phép rửa, khai mào cho một cuộc trở về với Thiên Chúa. Ngoài thành phần dân chúng Do-thái ra, chúng ta lấy làm lạ về sự có mặt của cả những người thu thuế và binh lính Rô-ma nữa. Như vậy việc sám hối không dành riêng cũng không loại trừ ai, mà là cho mọi người muốn tìm về với Chúa. Câu hỏi chung mọi người đặt ra cho Gio-an là: “Chúng tôi phải làm gì?” Câu trả lời là hãy thay đổi trong chính hoàn cảnh sống và bổn phận của mình, rời bỏ đường tội lỗi để trở về nẻo công chính. Nếu là một đời sống ích kỷ, chỉ biết mình chứ không để ý ân cần giúp đỡ tha nhân, thì người sám hối phải biết chia cơm xẻ áo với những người nghèo khổ. Nếu là nhân viên chính phủ hay sở tư, công nhân của các nhà máy hay hãng xưởng, thì người sám hối phải làm việc sao cho xứng với tiền lương và đức công bằng. Nếu là binh lính, họ cũng phải phục vụ đất nước trong tinh thần kỷ luật, không lấy sức mạnh của súng ống vũ lực mà hà hiếp bóc lột dân lành.
Trong diễn trình sám hối, lời kêu gọi của Gio-an Tẩy Giả chỉ là giai đoạn khởi đầu. Nó cần được tiếp tục với cuộc thanh tẩy bằng Thánh Thần và bằng lửa do phép rửa của Chúa Giê-su. Do đó khi sám hối, chúng ta không thể không xác tín vai trò tối quan trọng của Chúa Giê-su, Đấng sẽ “cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Thóc mẩy là biểu tượng nói lên những người thực sự thi hành sám hối, tiến triển trong cuộc biến đổi dần dần để đạt tới tầm vóc trưởng thành của Đức Ki-tô. Còn thóc lép là hình ảnh những người không đáp lời thánh Gio-an Tẩy Giả kêu gọi, không theo sự dẫn dắt của Thánh Thần và cũng chẳng có lửa mến đối với Chúa cũng như tha nhân, tất nhiên họ sẽ bị hủy diệt. Trong ngày tận thế, Chúa Giê-su sẽ quy tụ tất cả những người lành giống như thu góp thóc mẩy, để đem về quê hương vĩnh cửu trên trời.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Nói đến sám hối, chúng ta thường nghĩ tới một tình trạng tội lỗi nặng nề, nên cũng nghĩ sám hối là một việc thật lớn lao. Không hẳn như vậy. Nhưng sám hối là đứng trước nhu cầu cần thay đổi đời sống hiện tại của chúng ta, chúng ta phải trả lời câu hỏi: “Vậy tôi phải làm gì?” Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy sống trong “phép rửa của Chúa Giê-su”, tức là để cho sự dẫn dắt của Thánh Thần và lửa yêu mến biến đổi chúng ta. Chúa Giê-su tiếp tục thanh tẩy chúng ta bằng lối sống và tình yêu của Người. Khi chọn suy nghĩ và hành động như Chúa Giê-su, chúng ta sẽ từ chối lối suy nghĩ và hành động của thế gian. Khi chúng ta sống bằng ngọn lửa tình yêu của Chúa Giê-su, chúng ta sẽ thực thi giới răn yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh chị em bằng tất cả khả năng sức lực, tâm trí và linh hồn của mình.
Một cách cụ thể, hầu hết chúng ta không phải là những nhân viên thuế vụ hoặc binh lính, nên chúng ta có thể thực hành một đề nghị hết sức thực tế của thánh Gio-an Tẩy Giả, là “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Có lẽ từ lâu, trái tim chúng ta đã thu hẹp lại, lòng quảng đại chúng ta đã héo tàn, nên chúng ta không còn thấy lòng mình rung động trước những khổ đau thiếu thốn của những người chung quanh. Áo mặc và của ăn người khác cần, có khi chỉ là một chút hơi ấm của tình yêu thương hay sức mạnh của lời an ủi khích lệ. Đó là những gì chúng ta ít nhất có thể đem lại cho anh chị em. Nhưng muốn làm như vậy, chúng ta phải biết mở bàn tay và mở lòng trước đã!
(10) Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” (11) Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. (12) Cũng có những người thu thuế đến chịu phép Rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” (13) Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”. (14) Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì? Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”.(15) Hồi đó, dân đang trông ngóng và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gio-an: Biết đâu ông chẳng là Đấng Mê-si-a! (16) Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước. Nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và Lửa. (17) Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào Lửa không hề tắt mà đốt đi”. (18) Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin mừng cho họ.
2. Ý CHÍNH: CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?
Bài Tin mừng hôm nay gồm có 3 câu trả lời cho ba hạng người về những việc họ phải làm để sám: MV 3-C98
Bài Tin mừng hôm nay gồm có 3 câu trả lời cho ba hạng người về những việc họ phải làm để sám hối: dân chúng phải chia sẻ cơm áo cho người nghèo, người thu thuế phải ăn ở công bình và binh lính phải biết tôn trọng tha nhân. Gio-an cho biết phép rửa bằng nước của ông chỉ là một phương thế chuẩn bị lòng trí dân chúng để họ được lãnh phép rửa mới trong Thánh Thần và Lửa, do Đấng Thiên Sai sắp đến thực hiện, mà ông không đáng làm nô lệ cho Người. Người sẽ xét xử để thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ vào ngày tận thế.
3. CHÚ THÍCH:
- C 10-11:
+ “Ai có hai áo thì chia cho người không có”...: Chia sẻ cơm áo vật chất cụ thể là một yêu cầu tối thiểu mà dân chúng phải làm để biểu lộ lòng sám hối.
- C 12-14:
+ Những người thu thế: Bọn người này thường bị dân chúng khinh thường thù ghét, vì họ đã cộng tác thu thuế cho người Rô-ma. Rồi khi làm việc này, họ còn sách nhiễu dân chúng. Họ bị dân chúng liệt vào loại người tội lỗi công khai (x. Lc 5,30). Gio-an khuyên họ phải tránh bóc lột kẻ khác bất công và không được tham lam thu quá mức thuế quy định.
+ Binh lính: Đây chắc không phải là binh lính Rô-ma vốn chỉ ở trong đồn binh, chứ không đi trà trộn với đám đông dân chúng. Đây cũng không phải lính Do thái, vì ngừơi Rô-ma cấm nước bị chiếm đóng tổ chức quân đội. Có lẽ đây là dân quân tự vệ thường đi theo bảo vệ người thu thuế. Họ là những người vừa có sức mạnh lại vừa có khí giới, nên thường hiếp đáp kẻ yếu, nên bị dân chúng căm ghét giống như bọn thu thuế tội lỗi. Khi gọi bọn người này là binh lính, có lẽ Lu-ca muốn nói lên tính phổ quát của lời rao giảng của Gioan Tiền Sứ. Tuy không buộc họ phải đổi nghề, nhưng ông khuyên họ phải giữ công bình, tránh cáo gian bách hại người vô tội và hãy bằng lòng với đồng lương của mình.
- C 15-16:
+ Đấng Mê-si-a: Chữ Hy lạp Chris-tos có nghĩa là “Người được xức dầu”, tương đương với chữ Mê-si-a trong tiếng Do thái (nghĩa là Đấng Thiên Sai). Ở đây tác giả Tin mừng dùng từ Mê-si-a vì ông viết Tin Mừng cho người Do thái theo đạo Công giáo. Tuy nhiên dân Do thái khi ấy lại hiểu từ Mê-si-a theo nghĩa ái quốc cực đoan. Họ mong chờ Đấng Thiên Sai đến lãnh đạo dân chống lại ách thống trị của ngoại bang (x Lc 23,2).
+ Cởi quai dép: Đây là hành vi phục vụ dành cho nô lệ ngoại quốc. Người Do thái không có quyền đòi người giúp việc Do thái làm điều này, vì họ là“dòng dõi tổ phụ Áp-ra-ham”, và thuộc dân được Chúa chọn (x. Ga 8,33).
- C 17-18:
+ Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: Gio-an mô tả Đấng Mê-si-a như một vị Thẩm Phán của ngày tận thế: Đấng Thẩm Phán sẽ đến tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ, giống như chủ ruộng tách lúa thóc khỏi rơm rạ.
+ Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm...: Sau khi đập lúa trước gió, hạt thóc nặng hơn sẽ rơi xuống thúng và được cất vào kho, còn rơm rạ nhẹ hơn sẽ bay ra ngòai thúng và sẽ bị thu gom thiêu đốt trong lửa (x Gr 15,7). Cũng vậy, trong ngày thẩm phán, kẻ lành sẽ được hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa, còn kẻ ác làm tay sai cho ma quỷ sẽ bị phạt trong lửa không hề tắt là hỏa ngục muôn đời (x. Is 66,24; Mc 9,43.48).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao người thu thuế và binh lính lại bị dân chúng khinh khi thù ghét? 2) Dân Do thái thời Đức Giê-su trông mong Đấng Mê-si-a đến để làm gì? 3) Gio-an đã khuyên đám đông dân chúng, những người thu thuế và binh lính phải sám hối cụ thể thế nào để chuẩn bị đón Đấng Mê-si-a sắp đến? 4) Gio-an cho biết sứ mệnh của Đấng Mê-si-a ra sao?
II SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,11).
2. CÂU CHUYỆN:
Một hôm có một thương gia vào một quán ăn bên đường để dùng bữa trưa. Khi ngồi xuống chiếc bàn còn trống thì phát hiện một bé gái độ 12 tuổi, áo quần cũ rách đang đứng ngoài cửa sổ nhìn vào bàn ăn và ngửa tay ra xin bố thí. Thấy mặt cô bé tái xanh và tay chân run rẩy vì đói, ông thương gia động lòng thương. Ông tiến lại gần bên cầm lấy tay cô bé, rồi mời cô cùng vào ngồi ăn chung bàn với mình. Nhưng thật bất ngờ: cô bé cương quyết từ chối. Gặng hỏi mãi em mới nói lí nhí như sau: “Thưa ông, cháu cám ơn ông đã tôn trọng cho cháu được ngồi ăn chung bàn với ông. Nhưng làm sao cháu có thể ăn được đang khi thằng em của cháu cũng đang đói và đang đứng kia!” Nhìn theo tay em chỉ, ông thương gia thấy một bé trai thân hình gầy gò ốm yếu, quần áo lôi thôi nhơ bẩn, đang đứng bên cửa sổ đối diện và cặp mắt đang nhìn cách thèm thuồng vào bàn đầy thức ăn ngon lành trong quán. Chung quanh bàn ăn là năm thanh niên nam nữ đang ngồi ăn uống thoải mái nói cười vui vẻ, không ai thèm để ý đến cậu bé đói khát đang đứng ngay bên.
3. SUY NIỆM:
1) SỨ MỆNH DỌN ĐƯỜNG CỦA GIO-AN:
Dân chúng nghĩ Gio-an là Đấng Mê-si-a, nhưng chính ông lại phủ nhận và khẳng định mình không phải Đấng Mê-si-a nhưng chỉ là kẻ đi trước dọn đường cho Người. Ông tiên báo về Đấng đến sau nhưng lại có trước ông, cao cả hơn ông và ông không đáng hầu hạ Người. Đấng ấy sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa. Người sẽ xét xử mọi người, giống như người nông dân sàng sảy sân lúa sau mùa gặt: Lúa tốt thì chất vào kho, còn trấu rơm thì thiêu cháy trong lò lửa không hề tắt (x Mt 3,11-12). Khi Đức Giê-su xuất hiện, Gio-an đã làm phép rửa cho Người và nhận ra Người chính là Đấng Thiên Sai. Ông đã giới thiệu Đức Giê-su cho các môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian… Tôi đã thấy, nên xin chứng nhận rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29.34). Ông khiêm tốn đề cao Đức Giê-su khi nói: “Người cần phải lốn lên, còn tôi phải lu mờ đi”. Đây phải là thái độ của các tín hữu chúing ta trong Mùa Vọng này. Chúng ta cũng phải trở thành tiền hô dọn đường giúp đồng bào Việt Nam tin nhận Chúa Giẹ-su để được hưởng ơn cứu độ của Người..
2) SỐNG TINH THẦN SÁM HỐI HÓAN CẢI TRONG MÙA VỌNG:
Khung cảnh bờ sông Gio-đan, nơi Gio-an Tẩy Giả thi hành sứ vụ: Người ta từ khắp các nơi kéo đến nghe ông giảng và sau đó chịu phép rửa do ông thực hiện dưới dòng sông. Ngoài dân chúng ra, có cả những người thu thuế và binh lính. Qua đó cho thấy hết mọi thành phần xã hội đều được Chúa mời gọi sám hối để được hưởng ơn cứu độ.
Trong những ngày Mùa Vọng này Hội Thánh cũng mời gọi chúng ta hãy hồi tâm sám hối. Sám hối không những bằng việc tham dự các buổi tĩnh tâm và dọn mình xưng tôi, mà quan trọng hơn là quyết tâm thay đổi đời sống bằng việc lắng nghe Lời Chúa dưới ơn soi sáng của Thánh Thần. Cần tránh theo ý riêng do ma quỷ cám dỗ hoặc theo thói gian tà của thế gian, nhưng biết noi theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su được thánh Gio-an kêu gọi như sau:
+ “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”: Áo mặc và của ăn ở đây có thể là một số tiền ủng hộ cho việc “Làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”, là tổ chức quyên góp để thăm viếng chia sẻ cơm bánh cho những người nghèo khó, săn sóc những ai đau liệt, là lắng nghe và đồng cảm, ủi an những người gặp thất bại đau khổ trong cuộc sống. Câu nói của cô bé nghèo trong câu chuyện trên: “Làm sao cháu có thể ngồi ăn chung với ông được, đang khi còn thằng em của cháu cũng đang bị đói và đang đứng kia!”, là lời nhắc nhở chúng ta xét mình và thành tâm thực hành bác ái trong những ngày này
+ “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”: Cần giữ sự công bình về tiền bạc vật chất như: tránh lường gạt người khác, không làm hàng gian hàng giả, nhưng hãy buôn ngay bán thật.Tránh nói thêm nói bớt mất uy tín trong các hợp đồng làm ăn với tha nhân.
+ “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”: Cần tránh thái độ “lấy thịt đè người” hoặc “Cả vú lấp miệng em” thể hiện qua thái độ quan liêu hách dịch, hà hiếp bóc lột những người “thân yếu thế cô”. Cũng cần sử dụng chức vụ quyền bính để phục vụ tha nhân thay vì lạm dụng để trục lợi. Tránh hẹn hết lần này đến lần khác hoặc bắt người xin phải chờ đợi hàng giờ trong khi công việc phục vụ chỉ cần giải quyết trong giây lát.
4. THẢO LUẬN:
1) Hãy cho biết trong hai nhân đức công bình và bác ái thì nhân đức nào quan trọng hơn và phải được ưu tiên thực hiện?
2) Để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đền, trong những ngày mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì cụ thể để cảm thông, tôn trọng và chia sẻ đối với cha mẹ, thày dạy, anh chị em, bạn bè hay người nghèo khó chung quanh?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến bằng việc vâng nghe lời thánh Gio-an để quảng đại chia sẻ cơm áo, an ủi người đau khổ và bất hạnh như lời thánh Gio-an: “Ai có hai áo, hãy nhường cho người không có. Ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”. Cho chúng con quyết tâm giữ đức công bình trong quan hệ làm ăn buôn bán, như lời thánh Gio-an khuyên những người thu thuế: “Các người đừng đòi gì quá mức đã ấn định”. Cho chúng con biết tôn trọng tha nhân quan cách ứng xử, để thực hành lời thánh Gio-an khuyên các binh lính: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai và hãy bằng lòng với số lương của mình”. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được Chúa giáng sinh trong lòng chúng con và ban ơn cứu độ cho chúng con.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 3:10-18)
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp theo bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, nhưng thay vì nói nhiều đến sứ vụ: MV 3-C99
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp theo bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, nhưng thay vì nói nhiều đến sứ vụ của thánh Gio-an Tiền hô thì có vẻ lại khai triển những kết quả do sứ vụ ấy đem lại. Sứ vụ của ông là loan báo sứ điệp Tin Mừng rằng Đấng Cứu Độ sắp đến và hãy chuẩn bị tâm hồn đón tiếp Người. Còn kết quả do lời giảng của Gio-an là “dân chúng lũ lượt đến xin ông Gio-an làm phép rửa và họ hỏi ông: ‘Chúng tôi phải làm gì?’”
Như thế, bài Tin Mừng đã kể lại một tin vui là dân chúng đã nghe theo lời giảng của ông Gio-an và đến xin ông giúp họ bắt đầu thực hiện việc “dọn đường sửa lối”, hoặc nói rõ hơn, là giúp họ làm cuộc sám hối. Chúng ta có thể tưởng tượng ra khung cảnh bên bờ sông Gio-đan lúc ấy. Không còn là nơi hẻo lánh nữa, nhưng chỉ thấy người với người. Hình ảnh dân chúng lũ lượt đến gặp ông Gio-an tại hoang địa thật khác xa với hình ảnh hôm nay người ta ùn ùn đi shopping để chuẩn bị… đón Chúa. Ở nơi ông Gio-an làm phép rửa, không có những bài hát No-en vui nhộn giật gân và quá trần tục, nhưng là những tiếng lòng thổn thức của những tâm hồn đang băn khoăn với câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?” để lãnh nhận ơn cứu độ.
Mỗi người có câu hỏi và trả lời riêng cho mình, thích hợp với hoàn cảnh sống của họ. Những người đến hỏi ông Gio-an thuộc đủ thành phần: thường dân giàu nghèo, viên chức nhà nước như người thu thuế, binh lính. Điều lạ là không thấy thánh Lu-ca kể lại có người Pha-ri-sêu hoặc kinh sư nào đến gặp ông Gio-an. Chắc những người này cho rằng họ không cần phải sám hối! Sự kiện này khiến chúng ta nhớ đến câu truyện Chúa Giê-su kể về hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một người Pha-ri-sêu và một người thu thuế.
Câu trả lời của ông Gio-an cho từng người thật là ngắn gọn nhưng đầy đủ. Với thường dân, kẻ giàu thì “có hai áo hãy chia cho người không có”, kẻ nghèo thì “có gì ăn cũng chia cho người không có gì ăn”. Với người thu thuế thì đừng gian lận. Với binh lính thì đừng cậy có vũ khí, thế lực mà áp bức người khác.
Sau cùng là chính tấm gương của ông Gio-an Tiền hô. Ông sống chân thực với mình, với Đấng Mê-si-a, với Chúa Thánh Thần, chứ không vơ lấy những gì không thuộc về mình. Ông không ngại nói thẳng nói thật: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Đấng Mê-si-a”. Cởi quai dép là việc làm của tên đầy tớ, nên ngay cả việc làm đầy tớ cho Đấng Mê-si-a, ông thấy mình cũng không xứng đáng nữa. Quả là sự khiêm nhường đích thực.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Lời giảng và phép rửa của ông Gio-an đã mang lại kết quả lớn lao là dân chúng đủ thành phần bắt đầu làm một cuộc sám hối. Tuy nhiên việc sám hối phải khởi đi từ cá nhân.
Việc sám hối bắt đầu bằng câu hỏi: “Tôi phải làm gì?” Chúng ta tự hỏi mình để có câu trả lời. Chúng ta cũng có thể hỏi những người có khả năng giúp đỡ chúng ta, như cha giải tội, cha mẹ, bề trên, linh hướng. Tiếp đến việc sám hối cần phải rõ ràng, quyết liệt và ngắn gọn, chứ đừng chương trình đao to búa lớn. Sám hối cũng giống như làm vườn, nhổ cỏ chứ đừng tính chuyện nhổ… cây! Cây nó lù lù ra đấy, thế nào rồi cũng hạ được nó. Còn cỏ thì khó lắm, vừa mới nhỗ chỗ này xong, quay lại vẫn thấy mình còn bỏ sót. Các tính hư tật xấu giống như là cỏ với cây. Chính những cọng cỏ dại mới khó trị đấy. Sám hối còn đòi hỏi chúng ta phải sống chân thực với mình, với Chúa và với tha nhân. Cốt lõi của việc thực hành sám hối là sửa lại những mối quan hệ ấy cho mỗi lúc một tốt đẹp hơn.
Lc 3:10-18: 10 Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” 11 Trả lời ông nói với họ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có của ăn, thì cũng làm như vậy.” 12 Nnhững người thu thuế cũng đến chịu phép rửa, và họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” 13 Ông bảo họ: “Đừng thu tiền quá mức đã ấn định cho các anh” 14 Binh lính cũng hỏi ông: “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ tống tiền, cũng đừng lừa đảo, hãy an phận với số lương của các anh.” 15 Hồi đó, dân đang trông ngóng và tự hỏi trong thâm tâm họ biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Kitô! 16 Ông Gioan trả lời họ rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em với nước, nhưng Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em với Thánh Thần và lửa. 17 Cái nia trong tay của Người, Người rê sạch lúa trong sân đập lúa của Người và Người thu thóc mẩy vào kho lẫm của Người, còn vỏ trấu thì Người đốt trong lửa không hề tắt.” 18 Ngoài ra, còn nhiều điều khác nữa ông loan báo Tin mừng cho dân chúng.
Văn mạch của đoạn 3:10-18 là lời rao giảng của Gioan (3:7-18), gồm: - Ngỏ với dân chúng mà đối: MV 3-C100
Văn mạch của đoạn 3:10-18 là lời rao giảng của Gioan (3:7-18), gồm: - Ngỏ với dân chúng mà đối tượng chính là người là người Pharisêô và Kinh sư (3:7-19; x. Mt 3:7); - Ngỏ với đám đông, thu thuế và lính tráng (3:10-14); - Nói về chính mình trong tương quan với Đấng Kitô (3:15-17). Câu 18 là một tổng kết. Đoạn 3:10-14 gồm một câu hỏi được lập lại ba lần “Chúng tôi phải làm gì?” (cc. 10.12.14), và những câu trả lời của Gioan cho từng hạng người. Nội dung của nó là cách sống đạo đức. Đoạn 3:15-17 gồm các thắc mắc của dân chúng (3:15) và khẳng định liên quan đến Gioan và Đấng Kitô (3:16-17).
Câu hỏi “Chúng tôi phải làm gì?” (3:10.12.14; x. 10:25; Cv 2:37; 22:10) do dân chúng, những người thu thuế và lính tráng đặt ra ngụ ý là “Chúng tôi phải làm gì để được cứu độ?” (x. 3:6). Trong câu trả lời, Gioan nhấn mạnh đến sự đáp trả cá nhân cách thực tiễn. Cơm ăn áo mặc là những nhu cầu thiết yếu của con người (x. 12:28-29). Luca thường đề cập đến việc giúp đỡ và chia sẻ với người nghèo nhu cầu thiết yếu nầy. Việc thực hành nầy sẽ mang lại phần thưởng sự sống muôn đời khi Đấng Cứu Độ đến (6:30; 12:33; 14:12-14; 16:9; 18:22; x. Mt 25:36). Điều nầy cũng thấy trong giáo huấn của các ngôn sứ Cựu ước (Gióp 31:16–20; Isa 58:7; Êzêk 18:7). Những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa (x. 7:29). Họ thu thuế cho người Rôma theo giá biểu thuế đã được qui định. Tuy nhiên, vẫn có những lạm dụng trong việc thu thuế, như Zachêô nói đến việc lấy tiền sai trái của người khác (x. 19:8). Do sự bất liêm chính nầy mà họ bị khinh rẻ và xếp vào hạng những người tội lỗi và làm điếm (7:34; 15:1; 18:11). Tương tự như hạng thu thuế, vấn đề của binh lính cũng là tiền bạc. Họ có thể lạm dụng quyền hành hoặc dùng vũ lực để lấy tiền của người khác cách bất chính (sykophanteō, tương tự như việc làm của Zachêô, x. 19:8). Vậy, ai cũng được đòi hỏi phải hoán cải và thay đổi cách sống khi trông chờ Đấng Kitô đến (x. Cvtđ 2:37-47).
Khung cảnh của đoạn 3:15-18 giống như những đoạn trước là dân chúng đặt câu hỏi và Gioan trả lời. Thắc mắc của họ là Gioan có phải là Đấng Kitô hay không. Dân chúng nói cách chung đang trông đợi Đấng Kitô đến (3:15); Simêôn (2:26), Gioan (7:19.20) và cả giới lãnh đạo của người Do thái cũng trông đợi (x. 22:67). Để trả lời, Gioan không phủ quyết điều ấy cách trực tiếp (x. Gio 1:20), mà trình bày bản chất của phép rửa ông đang làm “bằng nước” và phép rửa Người sẽ làm “bằng Thánh Thần và lửa”; sự chênh lệch giữa ông và Đấng sẽ đến được diễn tả qua câu nói về việc cởi dép. Khi khẳng định là “không xứng đáng cởi quai dép cho Người” (x. Cvtđ 7:6; 13:24-25), Gioan cho thấy sự cao trọng của Đấng sẽ đến, của phép rửa Người sẽ thực hiện và cả sự nhầm lẫn của dân chúng khi đặt hy vọng thiên sai vào ông.
Phép rửa bằng/với nước do Gioan rao giảng và thực hiện là phép rửa dùng nước để thanh tẩy tội lỗi cho những ai tỏ lòng sám hối (x. 3:7). Phép rửa nầy đi kèm theo hành vi thống hối và thay đổi cuộc sống do người lãnh nhận phép rửa (3:7-7. 10-14). Trong hai lần nói đến phép rửa Chúa Giêsu chịu, một lần Luca ghi nhận Người đầy tràn Thánh Thần (3:21-22), và lần kia ông dùng “lửa” để chỉ sứ vụ của Chúa Giêsu và gắn liền nó với phép rửa Người sẽ chịu; phép rửa ở đây lại được dùng cách ẩn dụ để chỉ cuộc thương khó của Người (x. 12:49-50). Vậy trước khi ban phép rửa, chính Chúa Giêsu cũng đã nhận phép rửa bằng/với “Thánh Thần và lửa”. Điều đáng chú ý là chỉ ở đây Chúa Giêsu là chủ ngữ của động từ “làm phép rửa” (baptizō) ở thể chủ động. Làm phép rửa bằng/với “Thánh Thần và lửa” là Người sẽ ban Thánh Thần của Người (4:1.14.18; 10:21; 11:13; 12:12) và thanh luyện người lãnh nhận trong “lửa” của cuộc thương khó của Người để họ có thể sinh trái tốt (x. Mc 10:39). Ý tưởng nầy được khai triển trong câu 17 với hình ảnh thu gặt mùa màng. Cần ghi nhận chữ “của Người” được lập lại cách ấn tượng đến ba lần: “tay của Người”, “sân đập lúa của Người” và” kho lẫm của Người”. Chúng cho thấy kết quả tích cực của việc ban Thánh Thần là Người thu góp hạt thóc vào kho lẫm. Và lửa Người dùng để đốt vỏ trấu còn lại. Động từ “đốt sạch” (katakaiō) chỉ được dùng cho việc đốt cỏ lùng (x. Mt 13:30). Do đó, “lửa” trong câu nầy và câu trước có nghĩa là sự thanh luyện hơn là sự phán xét và hủy diệt (x. 3:9; 9:54; 17:29), vì phép rửa bằng/với “Thánh Thần và lửa” được hiểu là chỉ ban cho người tin, chứ không phải cho người không tin. Vậy, Gioan ý thức sự bất xứng của ông trước Đấng đang đến (3:16) là vì điều ông có thể làm là rao giảng về một phép rửa, kêu gọi nguời ta thay đổi cuộc sống và thực hiện nghi thức đó; ngoài ra ông không thế làm gì hơn để chuẩn bị cho Người (3:3-4). Trong khi đó, phép rửa của Chúa Giêsu cao trọng hơn vì Người sẽ làm tất cả cho người lãnh nhận. Người đưa họ vào thông hiệp trọn vẹn sự sống của Người nhờ Thánh Thần và lửa của cuộc thương khó. Luca kết thúc đoạn về lời rao giảng của Gioan (3:7-18) bằng một tổng kết là Gioan đang rao giảng Tin mừng (3:18). Sứ điệp sám hối là Tin mừng, vì trong sám hối con người được ơn tha tội.
Sám hối và thay đổi cuộc sống là bước đầu chuẩn bị cho Chúa đến và cũng là ngưỡng cửa bước vào sự thông hiệp với Người.