Mỗi khi chờ đợi điều gì tốt, ta thường có hai tâm tình: một là lòng thấy vui vẻ phấn khởi, và hai là mình phải làm sao để tiếp nhận điều tốt ấy cho xứng đáng. Đây cũng là hai tâm tình gặp thấy trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, ngày Chúa Nhật được mệnh danh là Mừng vui lên. Mừng vui lên vì Đức Chúa “đã rút lại án lệnh phạt Ít-ra-en” theo lời ngôn sứ Xô-phô-ni-a. Thánh Phao-lô thì đem niềm vui vì Chúa Ki-tô đến vào trong đời sống Ki-tô hữu. Còn Gio-an Tiền hô quan tâm đến việc tiếp tục chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến bằng cách thực hiện cuộc sám hối. Như thế, vui vì Chúa đến không thể là một cảm nghĩ hời hợt, nhưng phải nằm trong bối cảnh chuẩn bị tâm hồn để sám hối.
1. Niềm vui của Ít-ra-en dân Chúa (bài đọc Cựu Ước – Xô-phô-ni-a 3:14-18a)
Phần bốn của sách ngôn sứ Xô-phô-ni-a ghi lại những lời Đức Chúa hứa với Ít-ra-en. Dĩ nhiên đó là những lời Chúa hứa sẽ thực hiện điều tốt lành cho dân Người. Mặc dù Thiên Chúa hạch tội Giê-ru-sa-lem và những người lãnh đạo, nhưng vì lòng nhân từ, Người không bỏ rơi dân Ít-ra-en và sẽ cho họ được hồi hương sau những ngày lưu đày.
Nhiều vị ngôn sứ như I-sai-a, Giê-rê-mia… đã nhắc đến cảnh tượng lưu đày, thí dụ dân chúng lầm lũi đi trong bóng tối, ngồi than khóc bên sông Ba-by-lon mà thương nhớ Giê-ru-sa-lem. Kiếp sống lưu đày đối với Ít-ra-en chính là “án lệnh” Thiên Chúa phạt họ vì lòng bất trung, không thờ phượng Chúa cho xứng đáng mà chạy theo các thần ngoại và lối sống dân ngoại. Lòng người Ít-ra-en lúc nào cũng nặng nề sợ hãi, không còn tiếng cười mà chỉ còn tiếng nức nở thở dài. Tương lai được trả tự do và hồi hương vẫn mù mịt. Bỗng nhiên họ nhận được tin vui: Đức Chúa đã rút lại án lệnh và sẽ đưa họ trở về Giê-ru-sa-lem. Làm sao ta tưởng tượng nổi cảnh tượng vui mừng của những người được trả tự do. Ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã thấy trước được niềm vui ấy. Ngài không chỉ loan báo tin vui ấy, mà còn như cùng sống niềm vui ấy với dân tộc mình nên lời lẽ vô cùng sống động.
Trước hết là lý do tại sao Ít-ra-en phải reo vui và hò vang lên. Ngôn sứ kể ra một chuỗi lý do: vì Đức Chúa đã rút lại án lệnh, vì Người đã đẩy lui quân thù của Ít-ra-en, vì Đức Vua của Ít-ra-en đang ở giữa họ và vì Người sẽ không giáng tai ương nào trên họ nữa. Tóm lại, tất cả những lý do này hoặc những điều này đều là do Thiên Chúa thực hiện cho Ít-ra-en. Do đó, xét cho cùng Thiên Chúa là lý do, là tác nhân làm cho Ít-ra-en có được niềm vui cứu độ.
Tuy nhiên điều khiến ta ngạc nhiên hơn nữa, đó là khi làm như vậy cho Ít-ra-en, Thiên Chúa cũng vui, cũng hãnh diện vì Ít-ra-en, cũng “nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội”. Chỉ có tình yêu thương đích thực mới hành động như vậy. Cha mẹ tuy sửa phạt con cái nhưng cảm thấy thật đau lòng. Thiên Chúa vui gì đâu khi Ít-ra-en phải sống khổ sở kiếp lưu đày. Giờ đây Người phục hồi mọi sự cho Ít-ra-en, nhất là niềm vui, thì Người như trút được nỗi lòng. Tuy nhiên đối với Người, Ít-ra-en vẫn cần được thay đổi, cho nên “vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi” (Xp 3:17). Tình thương sẽ là động lực và sức mạnh biến đổi tâm hồn người Ít-ra-en, để họ gắn bó với Chúa hơn nữa. Chắc chắn diễn trình đau khổ bước đến niềm vui của Ít-ra-en cũng phải là diễn trình xảy ra cho mỗi tâm hồn Ki-tô hữu mỗi khi Chúa phục hồi niềm vui cho họ và giúp họ lớn lên trong tình cha con với Người.
Niềm vui sống của Ki-tô hữu đã được thánh Phao-lô diễn tả hết sức đơn sơ, nhưng cũng vô cùng thâm thúy. Niềm vui sống ấy phải được thể hiện trong một khung cảnh thích hợp.
Về thời gian, vui sống là lý tưởng của Ki-tô hữu vì “Chúa đã gần đến” (Pl 4:5). Thánh Tông đồ thường nói đến thời điểm Chúa gần đến, không phải để đe dọa, nhưng luôn coi đó là một động lực lạc quan giúp Ki-tô hữu cố gắng sống cuộc sống tích cực. Khi viết cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, ngài đã quyết liệt lên án những người sống thụ động, không chịu làm gì cả và chờ đợi Chúa quang lâm với một thái độ tiêu cực, nếu không nói là buông xuôi để sống theo dục vọng và thú vui người đời. Thời gian ta sống trên đời là thời gian chờ đợi Chúa đã gần đến, nhưng cũng là thời gian để ta cộng tác với kế hoạch cứu độ của Chúa, để biến đổi chính mình mỗi ngày tốt hơn và cùng với mọi người biến đổi vũ trụ này thành trời mới đất mới.
Về không gian, vui sống là cuộc sống chung với mọi người trong môi trường sống hằng ngày tại gia đình, sở làm, cộng đoàn, Giáo Hội và đất nước. Trong môi trường sống ấy, ta sẽ gặp rất nhiều điều lung lạc niềm vui của ta. Có thể chúng làm cho ta mất bình tĩnh hoặc đóng cửa lòng lại. Khi ấy, ta hãy nhớ lời thánh Phao-lô dạy: “Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi” (Pl 4:5). Nếu ta gặp phải những hoàn cảnh khó khăn, không biết phải giải quyết thế nào, thánh Tông đồ bảo ta: “Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4:6). Ngài dạy ta cách cầu nguyện rất là thực tế. Sau cùng ngài không quên cho ta biết điều cần thiết để được sống vui, là phải có “bình an của Thiên Chúa”, thứ bình an chỉ có Chúa mới ban cho ta mà thôi. “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (Ga 14:27). Nếu Chúa Ki-tô là chính sự bình an của, thì muốn có bình an để vui sống ta cần phải “được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 4:7).
3. Để lãnh nhận niềm vui ơn cứu độ, “chúng tôi phải làm gì?” (bài Tin Mừng – Lu-ca 3:10-18)
“Chúng tôi phải làm gì?”, đó là câu hỏi chung của tất cả những ai đến xin ông Gio-an cho họ một lời khuyên để họ thực hiện sám hối và sẵn sàng đón nhận Đấng Cứu Độ. Trả lời họ, ông Gio-an không đưa ra những nguyên tắc cứng ngắc, những chương trình qui mô, nhưng là một điểm chính cần phải làm ngay trong môi trường sống của họ. Ai cũng có “vấn đề hoặc trục trặc” trong hoàn cảnh sống của chính mình. Cho nên muốn giải quyết vấn đề hay trục trặc là phải giải quyết ngay trong hoàn cảnh ấy.
Những người đương thời với ông Gio-an Tiền hô đã đến xin ông giúp họ có câu trả lời để đi tìm niềm vui được cứu độ. Liệu những Ki-tô hữu hôm nay có nhận thấy cần phải đi tìm niềm vui ấy hay không? Từ tuổi thơ ấu và học giáo lý, ta đã thường nghe nhắc đến “hạnh phúc thiên đàng”. Nhiều khi ta chỉ lờ mờ hiểu hạnh phúc thiên đàng là nơi ta phải cố gắng tới sau khi ta chết, phải cố gắng mà “lên thiên đàng”. Thực ra hạnh phúc thiên đàng chính là khi ta đã có trọn vẹn niềm vui được cứu độ. Như thế, niềm vui được cứu độ hoặc thiên đàng đã bắt đầu ngay từ cuộc đời trần gian này rồi. Sống ở đây và trong lúc này, ta đang xây dựng con đường lên thiên đàng bằng cách lắng nghe Chúa trả lời câu hỏi ta hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì?” và thực hành điều Người dạy. Khi ban cho ta câu trả lời là Chúa đặt ta trong một sự lựa chọn: phải làm theo lời Chúa, theo quy luật Tin Mừng, hay cứ làm theo lối sống cũ và tội lỗi của ta. Nếu ta làm theo Chúa dạy, ta đã sống niềm vui được cứu độ, hoặc nói khác đi, là nếm được một chút hạnh phúc thiên đàng rồi đấy.
Trong đoạn thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay, ông Gio-an Tiền hô mô tả công việc Chúa Giê-su cứu độ: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Lc 3:17). Đây là việc Chúa cứu độ toàn thể nhân loại. Nhưng nếu đem áp dụng vào đời sống cá nhân Ki-tô hữu, ta thấy cũng rất thích hợp. Chúa Giê-su hiện diện trong cuộc sống cá nhân tôi. Người dẫn dắt tôi trên con đường cứu độ bằng cách cầm nia mà rê sạch lúa trong đời sống thiêng liêng của tôi. Người thu lấy những hạt thóc mẩy làm cho đời sống đạo đức của tôi được thăng tiến tốt đẹp, đồng thời Người cũng giúp tôi loại đi những hạt thóc lép là những khuyết điểm và tội lỗi của tôi.
Hoặc ta cũng có thể chiêm ngưỡng hình ảnh Chúa Giê-su “sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa” (Lc 3:16). Trọn cuộc đời ta, ta hãy để cho Chúa tiếp tục làm phép rửa cho ta bằng tinh thần của Người, bằng lối sống của Người và bằng lửa yêu mến của Người. Nói khác đi, ta hãy để cho tinh thần và tình yêu của Chúa Ki-tô tiếp tục thay đổi lối sống của ta để ta được trở nên giống như Người. Khi ta đáp lại tình yêu của Người và hấp thụ tinh thần của Người là ta đang để cho Người rửa sạch ta trong tiến trình Ki-tô hóa. Người đang giúp cho niềm vui được cứu độ của ta tới mức độ thành toàn là hạnh phúc thiên đàng vậy.
4. Sống Lời Chúa
Ki-tô hữu chúng ta nhiều khi hoang mang về tương lai vĩnh cửu và không ý thức mình đang trên con đường được Thiên Chúa cứu độ. Do đó ta có thể dần dần đi tới tình trạng buông xuôi và không còn sống theo những điều Chúa và Giáo Hội dẫn dắt nữa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay thắp lại ánh sáng đức tin và niềm cậy trông vào ơn cứu độ Chúa Giê-su đem đến cho ta. Cứu độ không chỉ là một hành vi đơn độc, nhưng là cả một hành trình có vui có buồn, có gian nan thử thách và có niềm an ủi vì Chúa nâng đỡ ta. Tuy nhiên ta hãy nhìn vào đích điểm của hành trình là niềm vui được cứu độ và sống “kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” như thánh Phao-lô dạy. Đó chính là điều giúp ta thấy ý nghĩa đích thực của cuộc đời trần gian và vững lòng tiến bước trong tinh thần “reo vui lên” của người Ki-tô hữu.
Suy nghĩ: “Chúng tôi phải làm gì?”, đó là câu hỏi giúp ta mỗi ngày mỗi thay đổi nên tốt hơn trong cuộc sống. Tôi có hỏi câu hỏi ấy mỗi tối khi làm việc xét mình và cầu nguyện xin Chúa giúp tôi sống tốt hơn không? Nếu cần loại bỏ một tính xấu hay tập một tính tốt, tôi có thói quen hỏi mình phải làm gì không? Đặc biệt trong những ngày cuối cùng của mùa Vọng này, tôi phải làm gì để làm quà tặng cho Chúa Giê-su nhân ngày sinh nhật của Người?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật III mùa Vọng).
Đời là bể khổ hay là một Tin Mừng ? Chắc chắn không ai có thể phủ nhận niềm vui trong cuộc đời. Thử tưởng tượng cuộc đời hoàn toàn vắng bóng niềm vui, còn ai muốn sống nữa không ? Nhưng niềm vui phát xuất từ đâu ? Niềm vui dễ hay khó ?
NGUỒN SUỐI HOAN LẠC.
Thánh Gioan Tẩy giả vui chừng nào khi thấy kết quả tốt đẹp gặt hái từ những bài giảng bên bờ sông Giođan. Nghe ông nói, mặc dù có những điều trái tai, họ vẫn “lũ lượt tuốn đến xin ông Gioan làm phép rửa” (Lc 3:10) như một dấu chỉ lòng sám hối. Sám hối không chỉ là một hành động thiêng liêng, nội tâm, nhưng được thể hiện ra bên ngoài bằng những hành vi rất cụ thể, thực tế, đụng chạm đến miếng cơm, manh áo của con người. Sám hối có nghĩa là sống công bình và bác ái hơn.
Lần lượt các thành phần dân chúng hỏi ông phải làm gì để hoán cải cuộc sống, tìm lại được bình an và xứng đáng với ơn cứu độ sắp tới. Oâng đã có những chỉ dẫn sống động cho từng hạng người trong hoàn cảnh cụ thể. Chắc chắn thực tế những hạng người đó chẳng được lợi gì khi thi hành những chỉ dẫn đó. Được lợi gì cho những người dư ăn dư mặc phải chia cơm sẻ áo cho người khác ? Những người sở thuế không còn được ăn hối lộ ? Những quân nhân chỉ sống với số lương ba cọc ba đồng ?
Rõ ràng cái lợi vật chất không thể tìm thấy trong những hi sinh đó. Nhưng những cử tọa của Gioan Tẩy giả đã sẵn sàng thực thi công bình xã hội để cho người nghèo và người bị áp bức thấy được ngày mai. Công chính đã ngự trị, chắc chắn bình an sẽ đến với muôn người, trước tiên với những người đã biết lấp đầy hố sâu, san phẳng núi đồi, sửa lối quanh co, lồi lõm. Cuộc sám hối tập thể của những người nắm quyền trong dân chứng tỏ những bất ổn đã dày vò lương tâm họ từ trước tới nay. Bên ngoài tưởng chỉ những người yếu thế mới có lợi. Nhưng thực tế, họ là những người có lợi nhất, vì chiếm lại được hạnh phúc đích thực từ sự bình an trong lương tâm. Cuộc đời họ sẽ chan hòa niềm vui từ khi khám phá ra nền tảng đích thực của hạnh phúc. Hạnh phúc vẫn là điều sâu kín nhất, mầu nhiệm nhất.
Sau khi dân chúng đã sám hối, tới lượt ông Gioan Tẩy giả nói về con người đích thực của mình. Danh tiếng ông lên cao đến nỗi “ai nấy đều tự hỏi : biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia !” (Lc 3:15) Một người đang ở ưu thế tuyệt đối như thế không dễ gì nhường địa vị cho một người vô danh tiểu tốt đến sau. Bao nhiêu quyền lợi có thể đến với Gioan nếu ông biết khai thác lòng ngưỡng mộ của toàn dân. Nhưng không. Oâng dã hoàn toàn từ bỏ tất cả. Bởi đó, cuộc đời ông tràn ngập niềm vui vì đã hoàn thành sứ mạng “loan báo Tin Mừng cho” toàn dân (Lc 3:18) Oâng đã khiêm tốn thú nhận : “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa.” (Lc 3:16) Một lời thú nhận rất đáng khâm phục. Oâng tự nhận không bằng một tên nô lệ. Oâng đã tìm thấy được bình an và niềm vui khi khám phá thấy sự thực về mình. Ai cũng thấy sức mạnh của Gioan Tẩy giả là phép rửa. Nhưng phép rửa của ông chỉ có tính cách bên ngoài, cùng lắm gợi lên lòng sám hối ăn năn. Còn phép rửa của Đức Giêsu hoàn toàn thấm nhập vào tận tâm hồn. Không gì có thể tồn tại trong lửa. Thánh Thần chính là lửa sẽ thiêu đốt tận tâm can.
Không những thế, Thánh Thần còn đẩy sứ mạng của Đức Giêsu đến mức toàn hảo tột cùng. Mức toàn hảo đó được thực hiện trong tình yêu. Quả thực, Gioan Tẩy giả chỉ dừng lại ở lãnh vực luân lý. Đạo thật khô khan và nặng nề với những luật điều cứng ngắc. Đức Giêsu không thỏa mãn với giới hạn chật hẹp đó. Luân lý trở thành truyện nhỏ. Đạo không dừng lại ở đó. Thật vậy, mức độ phóng tới chính Người đã vạch ra : “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Luân lý mới dừng lại ở mức hoàn thiện con người. Làm cách nào đạt tới mức hoàn thiện của Chúa Cha, nếu không có sức mạnh Thánh Linh ?
NIỀM VUI ÒA VỠ.
Chỉ có Thánh Linh mới có thể biến bể khổ này thành một Tin Mừng và qui tụ tất cả vào trong gia đình Thiên Chúa. Mọi người sẽ là anh em vì cùng có một Cha. Tình yêu sẽ là động lực thúc đẩy mọi người sống cho nhau. Hạnh phúc không phát sinh từ những toan tính ích kỷ hay những nỗ lực qui ngã. Trái lại, con người chỉ thực sự hạnh phúc khi biết phục vụ lẫn nhau. Từ đó, niềm vui sẽ òa vỡ trong mọi cảnh ngộ cuộc đời. Chính vì thế, thánh Phaolô dám nói với tín hữu Philipphê : “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại : vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa, rộng rãi, Chúa đã gần đến.” (Pl 4:4-5) Niềm vui này không ai cướp mất được ! Vì “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh là Đấng anh hùng.” (Xp 3:17) Thế nên, dù đau khổ trăm bề, Kitô hữu luôn được trấn an : “Đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời.” (Xp 3:16)
Hạnh phúc không tìm thấy nơi những bảo đảm vật chất bên ngoài. Hạnh phúc nằm ngay trong tâm hồn. Thật thế, “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17:21) Chỉ cần trở vào nội tâm, con người có thể tìm gặp Thiên Chúa. Chính trong tâm hồn con người sẽ diễn ra một đại hội. “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương cuả Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng, như trong ngày lễ hội.” (Xp 3:17-18a) Hình ảnh tuyệt vời này đủ diễn tả tất cả niềm vui lớn lao của người tín hữu.
Niềm vui ấy chính Đức Maria đã cảm nghiệm sâu xa trong bài kinh Magnificat. Chính “Đức Mẹ dạy chúng ta muốn mang hòa bình và niềm vui đến cho thế giới, trước tiên cần nồng hậu tiếp đón vị Hoàng Tử Hòa Bình đến trong tâm hồn chúng ta. Và nguồn vui là chính Đức Đức Giêsu Kitô vậy.” (ĐGH Gioan Phaolô II, VietCatholic 19/12/2000)
Câu truyện ông Gio-an Tiền hô được tiếp tục với bài Tin Mừng hôm nay. Trong Chúa Nhật trước, Phụng vụ Lời Chúa giới thiệu thân thế, sứ mệnh và sứ điệp của ông Gio-an. Tiếng hô trong hoang địa là cách nói để diễn tả cường độ mạnh mẽ lời hô của ông, chứ không có ý nói là tiếng hô chìm vào tĩnh mịch của sa mạc. Vậy tiếng hô ấy đã vang động khắp nơi và người người muôn ngả lũ lượt kéo về miền ven sông Gio-đan để xin ông Gio-an một lời khuyên thực tế cho việc sám hối của họ. Ai ai cũng hỏi ông cùng một câu hỏi: Thưa ngài, tôi phải làm gì đây? Đáp lại, ông Gio-an cho mỗi người một câu trả lời ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề, vào nhu cầu sám hối của họ. Nói khác đi, ông Gio-an đã giúp những người thời ấy và những người hôm nay ý thức nhu cầu sám hối và tìm những việc làm cụ thể để thực thi sám hối.
1) Nhu cầu sám hối
Nếu Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII đã nói lên hiểm họa luân lý thời nay là con người không còn ý thức về tội lỗi nữa, thì điều kế tiếp sẽ là con người nghĩ rằng không cần phải sám hối hoặc thay đổi. Ngay thời ông Gio-an, ông đã nói lên cái não trạng không cần sám hối của nhiều người. Trong số “đám đông lũ lượt kéo đến xin ông Gio-an làm phép rửa”, ngoài những người thành tâm sám hối ra lại có những người Pha-ri-sêu và Xa-đốc (xem Mt 3:7) coi phép rửa của ông như một thứ bùa phép giúp họ tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Họ đến xin ông rửa không phải để bắt đầu một hành trình sám hối nội tâm, nhưng để tỏ ra họ lành thánh trước mặt người khác. Họ luôn mang thái độ cao ngạo, giống hệt như người Pha-ri-sêu cầu nguyện trong Đền Thờ vậy. Họ đâu thấy cần phải đấm ngực gục đầu thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi (Lu-ca 18:9-14).
Ông Gio-an vạch ra cái cao ngạo của họ. Họ cậy mình là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Ngày nay cũng thiếu gì những người như vậy. Người ta tự hào mình là dân đạo gốc, là những người hăng say làm việc tông đồ, là những người Công giáo đạo đức... Gốc gác như thế thì cần gì phải sám hối. Sám hối là dành cho những kẻ tội lỗi. Tôi không phải là kẻ tội lỗi!
Nhưng sám hối đâu phải chỉ là ăn năn tội lỗi, mà là một hành trình quay lưng lại với tội lỗi và tiến lên hướng mặt về Thiên Chúa. Hoặc nói theo sứ điệp rao giảng của Chúa Giê-su, là hãy thay đổi và tin vào Tin Mừng (Mc 1:15). Chúa còn dùng một hình ảnh cụ thể diễn tả sự sám hối: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt. 18:3). Trẻ em là hình ảnh đơn sơ và trong trắng, gần giống như con người A-đam nguyên thủy trước khi phạm tội. Ta cần phải trải qua một cuộc đổi đời, cởi bỏ khỏi tội lỗi và những tác hại của nó để “trở lại mà nên như trẻ em”. Ta cũng được nghe cùng những lời thiên sứ nói với những người chăn chiên tại Bê-lem: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Vậy thì được mời gọi hãy trở lại mà nên như trẻ em có nghĩa là ta được mời gọi mỗi ngày một thay đổi để nên giống như “Trẻ Em nằm trong máng cỏ” là Chúa Giê-su vậy.
2) Cần có những việc làm cụ thể để thực thi sám hối
Ông Gio-an có những câu trả lời cho các câu hỏi “Chúng tôi phải làm gì?”, rõ ràng, ngắn gọn và rất trực tiếp. Ông không lý thuyết dông dài, nhưng nhìn thẳng vào vấn đề của từng người. Đó chính là bí quyết của sám hối.
Có rất nhiều điều cần thay đổi. Nhưng quan trọng là phải làm sao thay đổi từ gốc. Kinh nghiệm nhổ cỏ giúp ta nhận ra bí quyết này. Khi nhổ cỏ ba lá, ta đừng vội thấy đâu nhổ đó. Trông nó như một đám cỏ lan rộng, nhưng thực ra chỉ có một gốc chính. Ta lần theo những dây lan nhỏ tìm tới cái rễ chính, đào sâu xuống tận chân rễ và từ từ kéo lên tất cả đám cỏ. Sám hối cũng vậy. Cần nhìn rõ vấn đề thay đổi từ điểm chính nào để bắt đầu. Sau khi đã nhận ra phải bắt đầu từ đâu, ta cần có những hành động cụ thể và ở trong tầm tay. Thí dụ, để trả lời đám dân chúng, ông Gio-an bảo họ hãy sống tinh thần chia cơm sẻ áo. Chỉ một điều thôi, nhưng là điều cốt yếu và thực tế.
Việc sám hối bao giờ cũng có hai mặt: đừng làm điều này và hãy làm điều kia. Không phải là hai điều hoàn toàn khác biệt, trái lại liên hệ mật thiết với nhau. Nết xấu và nhân đức bao giờ cũng là hai điều tương phản nhau, thí dụ yêu thương và thù ghét, chăm chỉ và lười biếng... Như vậy, muốn làm điều này ta phải bỏ điều kia. Ông Gio-an khuyên đám binh lính: “Anh em chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, nhưng hãy an phận với số lương của mình”.
Hành trình sám hối là một hành trình liên tục suốt cuộc đời, có lúc tiến nhưng cũng có khi lùi. Ta cứ làm hết sức mình, còn bao nhiêu là phần của Chúa. Vậy Chúa sẽ cộng tác thế nào với ta trong hành trình sám hối của ta?
3) Vai trò thanh luyện của Chúa Thánh Thần
Ông Gio-an biết giới hạn của ông. Ông chỉ làm phép rửa bằng nước, một nghi thức đem lại một hiệu quả rất hạn hẹp. Nhưng ông lại chỉ cho ta thấy một “Đấng quyền thế” sẽ giúp ta thay đổi trong Thánh Thần và lửa. Đấng ấy là Chúa Giê-su. Người sẽ giúp ta được thanh luyện trong Thánh Thần.
Ta không thể thực hiện cuộc sám hối theo tinh thần riêng của ta, nhưng trong tinh thần của Chúa Ki-tô, tức là trong Thánh Thần. Sự hiện diện của Thánh Thần là cần thiết, nếu không có Người, ta sẽ không biết đi về đâu trong hành trình sám hối. Chúa Ki-tô đã thi hành sứ mệnh thanh tẩy trần gian trong Thánh Thần (Lc 4:1), thì ta cũng phải “trở về và nên như trẻ thơ” trong sự hiện diện của cùng một Thánh Thần. Thánh Phao-lô tông đồ còn diễn tả cuộc sám hối trong Thánh Thần một cách cụ thể hơn khi ngài nói về “đời sống mới trong Thánh Thần”, hay nói khác đi, thực thi sám hối nghĩa là từ bỏ con người cũ tội lỗi của ta để sống đời sống mới trong Thần Khí của Chúa Ki-tô.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi thấy mình không cần phải thay đổi gì hết không? Nếu có thì tại sao? Làm thế nào để xác tín nhu cầu phải sám hối?
Trong mùa Vọng này, tôi đưa ra một điều cần phải thay đổi nhất và phương thức thực hiện sự thay đổi ấy. Mỗi buổi tối trong giờ xét mình, tôi kiểm điểm lại điều dốc lòng và cầu nguyện xin Chúa giúp tôi tiếp tục.
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su,
sám hối không phải là điều dễ dang,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gio-an ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vvào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Gia-kêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 89)
Sau khi đã trích dẫn đoạn Tin Mừng Lu-ca giới thiệu thân thế và sứ vụ của ông Gio-an Tẩy Giả (Chúa Nhật II mùa Vọng), Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tiếp tục sử dụng đoạn kế tiếp ghi lại những lời khuyên ông Gio-an nói với đám đông. Đây cũng chính là những điều cụ thể ông đề nghị người ta hãy làm mà sửa đường dọn lối để đón Chúa đến. Đám đông dân chúng đến với ông để xin lãnh nhận phép rửa. Nhưng trước khi lãnh nhận, họ cần phải biết ý nghĩa của nghi thức ấy. Nhận phép rửa không phải là chạy theo một phong trào, bởi vì thời ấy cũng có những nghi thức tương tự. Phép rửa của ông Gio-an chỉ là một dấu chỉ nói lên một quyết định của tâm hồn, một khởi đầu cho một hành trình mới, tức là hành trình của những nguời muốn trở về làm con Thiên Chúa. Do đó, quyết định phải trưởng thành, nghĩa là sau khi đã nhận phép rửa hoặc đã quyết tâm sám hối, thì phải làm sao “sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối.” Khi trả lời những lớp người tiêu biểu cho dân chúng Ít-ra-en đến hỏi ngài mình phải làm gì, ông Gio-an đã đi thẳng vào vấn đề của họ. Câu trả lời của ông cũng có thể là câu trả lời dành cho mỗi người chúng ta. a) Tôi phải làm gì?
Cùng một câu hỏi được lập lại cho từng lớp người đến với ông Gio-an sau khi họ nghe ông giảng về việc sám hối. Nhưng đó cũng là câu hỏi mỗi người Ki-tô hữu cần phải lập lại từng ngày mỗi khi nhìn lại cuộc sống mình và muốn được thăng tiến trong đời sống tâm linh. Khi tự hỏi “Tôi phải làm gì?” tức là ta đã dựa trên những gì không tốt đẹp thuộc dĩ vãng để phóng cái nhìn về tương lai và sẵn sàng làm một điều gì đó tốt đẹp hơn. Như vậy trước hết ta phải chấp nhận nhu cầu cần thay đổi hoặc cải tiến. Biến đổi con người mình mỗi ngày một tốt hơn đó là đáp lại lời gọi nên thánh mà Cha trên trời đã nhắc nhở ta: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Sở dĩ ông Gio-an phải ngăm đe đám đông đến xin làm phép rửa: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây” bởi vì họ cho là mình không cần phải sám hối. Họ tưởng họ có thể tránh né được cơn giận của Chúa, hoặc cậy mình là con cái Chúa và nghĩ có đời nào Chúa lại trừng phạt họ.
Chấp nhận nhu cầu sám hối là bước căn bản để bắt đầu hành trình đổi mới con người. Ta biết ta cần phải làm một điều gì đó để đổi mới. Điều gì đó không phải là cái gì hoàn toàn mới lạ mình chưa từng thấy, trái lại, là những gì gắn liền với cuộc sống thường ngày của ta. Là những gì đáng lẽ ta đã làm, nhưng hoặc vì quên, hoặc vì ngại phải hy sinh, hoặc vì không có lợi gì cho ta nên ta đã bỏ qua. Thí dụ như khi ta phung phí đồ ăn mà không biết chia sẻ với những người nghèo đói trên thế giới, khi ta có không phải chỉ hai cái áo nhưng là hàng chục hàng trăm cái áo đủ kiểu đủ mốt treo đầy mấy phòng quần áo mà không muốn dành ra một vài đồng để bỏ vào quỹ người nghèo. Ông Gio-an không bảo những người thu thuế và lính tráng phải thay đổi nghề nghiệp, nhưng họ phải sống sao cho đúng với danh nghĩa của mình: thu thuế thì phải công bằng chứ đừng gian lận, binh sĩ thì đừng cậy có khí giới trong tay mà lên mặt hà hiếp dân chúng. b) Con đường sám hối còn phải tiếp tục mãi
Có thể nhiều người ngộ nhận sứ vụ của ông Gio-an. Họ đã cảm nghiệm nơi họ một thay đổi đáng kể nhờ lời giảng và phép rửa của ông. Họ muốn dừng lại ở đây và coi như thế là đủ rồi. Nhưng ông Gio-an thẳng thắn cho họ biết ông và phép rửa của ông chưa phải là đích tới của sám hối, mà chỉ là một phương tiện giúp người ta bắt đầu lên đường đi đến đích tới. Đích tới ấy là Đấng Mê-si-a đích thực, Đấng quyền thế hơn Gio-an và “sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.”
Để làm sáng tỏ ý niệm về Đấng Mê-si-a, ông Gio-an đã giải thích thêm cho dân chúng hiểu. Thời ấy, người Do-thái thường hiểu Đấng Mê-si-a theo ý nghĩa chính trị, tức là một vị đến giải phóng quốc gia khỏi ách nô lệ. Ngay cả một số môn đệ Chúa Giê-su cũng lầm tưởng như vậy (Lc 24:21; Cv 1:6). Còn ông Gio-an thì cho ta một hình ảnh rõ ràng về Đấng Mê-si-a và sứ vụ của Người.
Trước hết, Đấng Mê-si-a sẽ đến trong một tư thế dũng mạnh. Không phải dũng mạnh do lực lượng quân đội và vũ khí như một ông vua trần gian, nhưng dũng mạnh vì “được đầy tràn Thánh Thần” để lãnh đạo một vương quốc của ơn cứu độ. Chính Người sẽ đánh bại Xa-tan và hủy diệt quyền lực của nó. Thánh Mác-cô diễn tả khởi đầu cuộc chiến đó: “Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó” (Mc 3:27). Vậy khi thắng cám dỗ của Xa-tan trong hoang địa, Chúa Giê-su đã “trói” nó lại rồi, sau đó Người trở về Ga-li-lê để bắt đầu sứ vụ cứu thế, và trong quyền năng Thánh Thần, Người sẽ dần dần “cướp sạch nhà nó.” Thánh Lu-ca sau này cũng ghi lại tư thế dũng mạnh của Chúa Giê-su qua lời Chúa nói về cuộc chiến giữa Người với quỷ vương Bê-en-dê-bun: “Nhưng nếu có người mạnh hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được” (Lc 11:22).
Thánh Gio-an Tẩy Giả còn mô tả sứ vụ của Đấng Mê-si-a qua hai hành động tiêu biểu: làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa, và cầm nia rê sạch lúa trong sân. Qua phép rửa trong Thánh Thần được khai diễn vào ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Chúa Giê-su sẽ làm cho nhân loại được trở thành những người con Chúa. Ta sẽ được rửa bằng “máu và nước” trào ra từ trái tim Người. Ta cũng sẽ được ở “trong Thánh Thần,” tức là được “đầy tràn Thánh Thần” như Chúa Giê-su. Chúa Giê-su sẽ dùng lửa Thánh Thần mà thanh luyện nhân loại, tạo dựng một nhân loại mới cho Chúa Cha. Cũng vậy, giống như người cầm nia rê sạch lúa trong sân, Chúa Giê-su sẽ tiêu diệt dần dần quyền năng và ảnh hưởng của Xa-tan trong thế giới, để “thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” Thế giới cũ là sân lúa gồm cả thóc mẩy lẫn thóc lép. Chúa Giê-su sẽ tạo dựng một “trời mới, đất mới” qua sứ vụ cứu thế của Người.
Như vậy, khi rao giảng sám hối, làm phép rửa, và giải thích về vai trò của Đấng Mê-si-a, ông Gio-an Tẩy Giả đã mở ra cho ta một viễn tượng mới: ơn cứu rỗi đã đến gần, hãy thay đổi lối sống để tiếp nhận Tin Mừng là chính Đức Ki-tô và sứ vụ cứu thế của Người, và tiếp tục cuộc thay đổi đó cho tới ngày Người đến gặp ta vào giờ sau hết.
Bí tích Rửa tội cho ta danh phận làm con Thiên Chúa để ta bắt đầu cuộc hành trình biến đổi trong quyền năng Thánh Thần. Cuộc biến đổi ấy phải được thể hiện từng giây từng phút cuộc đời, trong lời nói, suy nghĩ và hành động của ta, theo khuôn mẫu là chính Chúa Giê-su, người Con Một và Con Yêu Dấu của Chúa Cha, để khi Đấng Mê-si-a đến phán xét trong ngày cánh chung, ta cũng được ở trong số “thóc mẩy được thu vào kho lẫm” vĩnh cửu. c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nếu tôi hỏi thánh Gio-an Tẩy Giả tôi phải làm gì, ngài sẽ trả lời thế nào với tôi? Tôi có một chương trình nào để thực hiện lời khuyên của ngài không?
Tôi có hồi tâm mỗi ngày trước khi đi ngủ để nhìn lại ngày sống của mình và hỏi Chúa: “Con phải làm gì để tốt hơn?” không? Tôi có chú tâm vào một điểm nào đặc biệt (loại trừ một nết xấu, tập một nhân đức) và dành một thời gian để thực hiện điểm đó không? Cách thức thực hiện như thế nào?
Chúa Ki-tô dũng mạnh đến với tâm hồn tôi và cho tôi được đầy tràn Thánh Thần. Nhưng tôi có cộng tác với Người để việc biến đổi nên con người mới nơi tôi được thể hiện không? Tôi tìm thấy nơi Chúa Giê-su gương mẫu nào để biến đổi theo lời Người mời gọi: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15)? “Lạy Chúa,
khi đến với Chúa,
con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con,
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,
con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,
con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để con được ở một mình với Ngài,
lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào để đi theo đường của Chúa,
con sẽ đeo đồng hồ để sống trong thời gian của Chúa,
con sẽ mang kính vào để nhìn thế giới của Chúa,
con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên để mở những cánh cửa của Chúa.”
Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là “Chúa Nhật Niềm Vui”. Những bài đọc Kinh Thánh cũng như phụng vụ muốn chúng ta suy nghĩ theo hướng này.
1. “Tôn giáo là tiếng thở dài…”. Ông Karl Marx đã phát biểu như vậy. Đúng sai còn là chuyện phải bàn. Chỉ có điều, là người kitô hữu, Chúa muốn ta phải sống sao cho vui, đẩy lui những “tiếng thở dài” trong cuộc sống mà chính chúng ta đôi khi vô tình hay hữu ý đã gây ra.
Ai mà lại không muốn có niềm vui, nhưng làm sao để có niềm vui ?. Câu trả lời thật không đơn giản, bởi vì mỗi người có một cảnh ngộ khác nhau. Tuy nhiên, thiết tưởng cũng có những mẫu số chung cần phải thực thi.
2. Muốn có niềm vui phải có tâm hồn an bình. Thật chẳng phải vô lý mà trong đêm Chúa giáng trần, thiên thần cầu chúc cho nhân loại được “bình an”. Cứ nhìn vào thế giới hôm nay sẽ rõ : điều mà nhân loại thiếu hơn cả đó là sự an bình. Có ngày nào qua đi mà lại không có cảnh máu chảy đầu rơi ?. Làm sao vui được khi phải sống trong cảnh binh đao khói lửa ?. Rồi giữa người với người, một cách nào đó, người ta cũng gây ra những cuộc “chiến tranh” khi thì nóng khi thì lạnh.
Tuy nhiên, cõi lòng chúng ta mới thật sự là nơi mất an bình hơn cả. Vì thế Ông Gioan Tiền Hô kêu gọi hãy sửa lại những con đường. Những con đường ấy không phải là những con đường chạy bên ngoài nhưng là chính cõi lòng chúng ta, hang ổ của tội lỗi. Bao giờ cũng vậy, chính tội lỗi làm cho con người xao xuyến, cô đơn và mất an bình.
3. Muốn có niềm vui phải biết yêu thương và chia sẻ : “Ai có hai áo hãy chia cho người không có, ai có gì ăn cũng hãy làm như vậy”. Đây là một nghịch lý nhưng cũng là một sự thật hiển nhiên. Cho là mất, điều này đã rõ, nhưng lại nhận được một niềm vui sâu xa vì đã cho, đã quên mình, đã sống quảng đại và chia sẻ.
Ở Palestine có hai biển : Biển Hồ và Biển Chết. Cả hai đều tiếp nhận nước của sông Giođan. Biền Hồ quanh năm nước trong xanh và có nhiều cá, du khách thích qua lại nơi đây. Còn Biển Chết là nơi không ai muốn lui tới, trừ khi bắt buộc phải đi qua. Do đâu mà có sự khác biệt ấy?. Thưa là vì Biển Hồ Galilê tiếp nhận nước của sông Giođan rồi chảy sang những chỗ khác nữa. Còn Biển Chết tiếp nhận nước nhưng không chảy đi đâu, chỉ giữ lại cho mình nên gọi là Biển Chết. Nơi đây chẳng những khách tham quan không thích lui tới mà thậm chí cá mú cũng không thể sống được.
Đây là một hình ảnh rất thi vị dạy mỗi người chúng ta cách thế để tạo niềm vui cho chính mình.
4. Muốn có niềm vui phải bằng lòng với chính mình. “Hãy bằng lòng với đồng lương của mình”. Ông Gioan Tiền Hô đã nói với binh lính như vậy. Ở đời thì ai mà chẳng thích lương cao, lương thấp thì cuộc sống vì thế mà đôi khi phải khổ sở và thiếu thốn. Chỉ có điều con người rất nhiều khi mất niềm vui vì cứ so sánh với kẻ khác rồi đâm thèm thuồng và nhiều khi dẫn đến sự tội.
5. Muốn có niềm vui phải chấp nhận “nhỏ đi”. Ít ai nghĩ và muốn nghĩ như vậy. Chính Gioan Tiền Hô dạy ta. Gioan là vị tiên tri vĩ đại. “Trong số những người đàn ông sinh ra từ lòng mẹ, chưa có ai lớn hơn ông”, vậy mà khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, ông đã chấp nhận rút lui vào bóng tối : “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại”. Và Gioan gọi đó là niềm vui của ông (x. Ga 3, 29). Người ta thường cảm thấy vui khi biểu dương chính mình, mấy ai cảm thấy vui khi bị nhỏ đi. Gioan đã sống điều đó. Đây là một khám phá ngược với mọi suy tưởng của con người.
Cho hay, để có được niềm vui chân thật, phải biết sống những điều nghịch lý trong đời.
Chúa đến làm rộn rã tiếng cười và niềm vui. Ngài ví như chàng rể làm ngay ngất cô dâu và thực khách trong ngày hôn lễ. Khách dự tiệc không thể ăn chay và buồn ràu bao lâu chú rể còn ở giữa mọi người (Mt. 9,15). Hình ảnh tiệc cưới, trinh nữ đi đón lang quân… thường được dùng trong kinh thánh để mô tả niềm vui trong nước Thiên Chúa đọng lại trên khuôn mặt Chúa Kytô là chàng rễ sánh duyên cùng trinh nữ là hội thánh.
Chúa nhật thứ ba mùa vọng hôm nay đuợc gọi là chúa nhật màu hồng hay chúa nhật của niềm vui. Chúa càng đến gần thì lòng người càng háo hức và trào dâng niềm vui khôn tả. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên, vì Chúa đã gần đến” (Ph. 4,4-5).
Để có được niềm vui thanh thoát và tuyệt vời trong ngày Chúa đến, người kytô hữu phải biết chờ đợi trong sự hành thiện, một sự ‘đợi – làm’, chứ không phải ‘đợi xuông’. Người ta không thể ngối chờ Chúa trong phòng khách, vừa hút thuốc, vừa nhai kẹo và ngái ngủ trên salon, nhưng phải đợi Chúa trong tư thế của người lính canh gác tiền đồn hay của người gia nhân đợi chủ vừa huýt sáo vừa làm việc.
Tất cả mọi người trong xã hội, theo gợi ý của tin mừng và nói theo ngôn ngữ thời đại: nhân dân, cán bộ và các lực lượng vũ trang đều phải tự đặt cho mình câu hỏi : “Chúng tôi phải làm gì trong khi chờ đợi Người đến ?”. Dĩ nhiên mỗi người phải làm trọn bổn phận của mình, nhưng điều cần lưu ý hơn cả là phải biết sống quảng đại yêu thương, giữ sự công bằng và tôn trọng phẩm giá người khác. Những lời Chúa dạy tưởng như đã xưa nhưng nghe chừng lại rất sống động và hiện đại trong bối cảnh sống của chúng ta hôm nay : dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh….Làm tốt tất cả những điều ấy thì qủa thực nước Chúa không xa mỗi người chúng ta và khi Chúa đến thấy mọi người tích cực làm việc như thế thì thật phúc cho chúng ta. Lúc bấy giờ mỗi người sẽ trở thành thượng khách, được tiếp đãi ân cần và trọng thị, còn Chúa sẽ là người hầu bàn, đi đi, lại lại để sẵn sàng phục vụ ‘các thượng đế’ (Lc. 12.35-40). Niềm vui tiếng cười cứ mãi dòn tan thâu đêm suốt sáng.
Niềm vui mong chờ Chúa đến không chỉ là niềm vui của người chờ đợi là chúng ta, mà còn là niềm vui của người mong đến là chính Chúa. Đây chính là niềm vui ‘song hỷ’ của trai tài gái sắc trong đêm tân hôn. Thật vậy, tiên tri Sophonia đã diễn cảm niềm vui diệu vời ấy bằng những khúc hoan ca :
“ Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca!
Hỡi Israel, hãy hoan hỉ !
Hỡi thiếu nữ Giêrusalem,
hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn !
Người hân hoan vui mừng vì ngươi,
Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi,
Người sung sướng reo mừng” (Sô. 3, 14.17).
Thật là an ủi và hạnh phúc cho chúng ta và cho cả chính Chúa ! Vì không chỉ có chúng ta háo hức trông chờ Chúa đến, mà chính Chúa còn nôn nao từng giây từng phút muốn đến với con người và mong mãi mãi được ở lại với họ.
Mừng Chúa đến là mừng cho chúng ta và mừng cho Chúa nữa.
Linh mục PHAOLÔ DƯƠNG CÔNG HỒ
CHÁNH XỨ ĐẠ TẺH – LÂM ĐỒNG
· Xp 3, 14-18a: Ngày ấy, người ta sẽ bảo Giêrusalem: Này Sion đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời. Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị Cứu Tinh, là Đấng Anh Hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỉ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi.
· Pl 4, 4-7: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khấn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện TIN MỪNG: Lc 3, 10-18
Sứ Điệp Của Gioan Tẩy Giả
Khi ấy, có đám đông người Do Thái hỏi Gioan Tẩy Giả rằng: Chúng tôi phải làm gì đây? Ông trả lời: Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có ăn, thì cũng làm như vậy?. Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?. Ông bảo họ: Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh. Binh lính cũng hỏi ông: Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì. Ông bảo họ: Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.
Hồi đó, dân đang trông ngóng và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: Biết đâu ông Gioan lại chẳng là đấng Mêsia!. Ông Gioan trả lời mọi người rằng: Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước. Nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần là lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi. Ngoài ra, Ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa mà loan báo Tin Mừng cho họ.
1. Những việc Gioan Tẩy Giả đề nghị làm để tỏ lòng sám hối liên quan đến ai đến Thiên Chúa hay đến tha nhân?
2. Theo tinh thần của Gioan Tẩy Giả, để chuẩn bị đón Chúa đến, chúng ta nên làm gì? Cần thực hiện những gì? Suy tư gợi ý:
1. Những việc phải làm để sám hối đón chờ Chúa đến
Khi được hỏi rằng phải làm gì để tỏ lòng sám hối, Gioan Tẩy giả trả lời với những người bình thường: ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có ăn, thì cũng làm như vậy. Đó là những việc làm bác ái. Còn với những người bị coi là tội lỗi, ông khuyên: Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình, hoặc Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh. Đó là những điều liên quan đến luật công bằng. Ta thấy những việc Gioan Tẩy giả đề nghị làm để tỏ lòng sám hối không phải là những việc phải làm đối với Thiên Chúa, mà chỉ là những việc phải làm đối với tha nhân.
Điều này khiến chúng ta phải chỉnh lại tư tưởng hay thái độ của chúng ta. Vì khi nghĩ đến ăn năn sám hối, là ta nghĩ ngay đến sự khô khan nguội lạnh của ta đối với việc thờ phượng Chúa, với việc xưng tội, đi lễ, rước lễ. Ít người nghĩ đến cách sống, cách ăn nếp ở hay cách ăn nói của mình đã làm cho khác phải khó chịu, không bằng lòng, hoặc đã có những hành động gây thiệt hại cho họ. Càng ít người nghĩ đến những trường hợp mình gặp những người đau khổ, khốn khó, cần được cứu giúp hay nâng đỡ, mà mình đã làm lơ, bỏ qua, không làm gì cả, mặc kệ họ ra sao thì ra với nỗi đau khổ, cùng khốn của họ. 2. Tinh thần yêu thương, bác ái đối với tha nhân
Kitô giáo là đạo yêu thương. Cốt tủy lề luật của Kitô giáo là thể hiện tình yêu của mình đối với tha nhân. Thánh Phaolô viết: Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Gl 5, 13b-14). Cho nên điều khiến chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi ngược lại tinh thần Đức Kitô, và không phù hợp với bản chất Kitô hữu chính là những hành động thiếu tình thương của chúng ta đối với tha nhân.
Như thế, có thể ta không hề làm một điều gì bất công, hay một hành động xấu nào, nhưng ta vẫn chưa được Thiên Chúa hài lòng và chúc phúc, ta chưa trở nên người Kitô hữu đích thực, là vì ta chưa có những hành vi yêu thương người khác thật sự. Yêu thương ai đòi hỏi ta phải quan tâm tới chính người ấy, tới những nhu cầu thiết thực của họ, đồng thời cố gắng đáp ứng những nhu cầu ấy của họ. Lãnh đạm với họ, không quan tâm tới họ, không biết họ cần gì, và không làm gì để giúp đỡ họ, để khiến họ nên tốt hơn, hạnh phúc hơn, thì không phải là yêu thương họ. Và như thế là chưa sống tinh thần bác ái yêu thương của Đức Kitô.
Biết bao người trong chúng ta tự hào mình là Kitô hữu, thậm chí cho mình là một Kitô hữu tốt! Nhưng nếu thử hỏi: ta có luôn cố gắng trở nên hữu ích cho những người chung quanh, có quan tâm tới nhu cầu của những người sống bên cạnh ta, và tìm cách thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ, làm họ bớt khổ, bớt xấu hơn không? Có lẽ nhiều người trong số chúng ta, những người tự hào mình là Kitô hữu, sẽ trả lời không!. Chúng ta cần nghĩ lại: những người bị chúc dữ ngày phán xét trong Mt 25, 41-46 không hề bị kết án hỏa ngục vì đã làm một điều chi sai trái, mà chỉ vì đã không làm những gì tha nhân cần họ làm. Những điều đó, tha nhân tự cảm thấy không có quyền đòi hỏi họ làm, nhưng Thiên Chúa lại đòi hỏi những đối tượng của Nước Trời phải làm những điều ấy như điều kiện tiên quyết để là công dân Nước Trời. 3. Tinh thần công bằng
Để những việc bác ái, yêu thương có giá trị trước Thiên Chúa, chúng ta phải có tinh thần công bằng trước đã. Nếu ta saün sàng gây bất công cho người khác, saün sàng vì quyền lợi của mình mà làm người khác đau khổ, thiệt thòi, thì rõ ràng là ta không hề yêu họ. Lúc đó, những hành vi có vẻ yêu thương người khác của ta dù có to tát vĩ đại đến đâu, cũng chỉ là những hành động giả dối bên ngoài, xuất phát từ lòng ham danh - muốn được tiếng là có lòng yêu thương người khác - chứ không phải do có tình yêu đích thực bên trong thúc đẩy ta làm.
Gioan Tẩy Giả đã khuyên những người thu thuế và lính tráng phải thực thi công bằng, không được gây bất công cho ai. Nhân mùa Vọng, ta thử xét mình xem ta đã có tinh thần công bằng đối với mọi người chưa. Khi mượn tiền hay mượn đồ đạc của ai, ta có quyết tâm trả cho bằng được và trả đúng kỳ hạn không? Khi hợp đồng với ai điều gì, ta có thực hiện đúng những điều khoản mà ta đã đồng ý sẽ thực hiện trong hợp đồng không? Khi làm trong các xí nghiệp, công ty, ta có làm hết giờ, và làm hết năng lực của mình như mình đã chấp nhận lúc xin việc không? Ta có thực hiện những điều ta đã hứa với người khác không? Ta có hối lộ hay nhận hối lộ, cho dù dưới hình thức rất tế nhị là một món quà không? Ta có công bằng đối với con cái, hay với những người dưới quyền ta không? Ta ỷ mình là người trên buộc họ phải làm những điều ta không có quyền ép buộc chăng? Ta có thể thành thật tự nhủ với lòng mình rằng: mình rất xứng đáng được mọi người tín nhiệm, người khác có thể giao tiền bạc, của cải của họ cho mình mà không sợ bị thiệt thòi, mất mát hay thất thoát không?
Dấu hiệu đích thực của người Kitô hữu là sống bác ái (xem Ga 13,35). Vì thế, không thể là người Kitô hữu đích thực nếu không sống bác ái. Nhưng công bằng lại là nền tảng của bác ái. Không thể có bác ái thật sự khi chưa thực thi công bằng. Vì thế, một người Kitô hữu không tôn trọng và thực thi công bằng, saün sàng gây bất công hay để mặc cho bất công lộng hành, thì chỉ là Kitô hữu một cách hữu danh vô thực mà thôi! 4. Tinh thần tôn trọng sự thật
Khi thấy Gioan kêu gọi sám hối và làm phép rửa, nhiều người nghĩ rằng ông chính là đấng Mêsia, là vị Cứu Tinh của dân tộc mà các ngôn sứ đã loan báo. Điều đó chắc chắn cũng làm cho Gioan cảm thấy thích thú. Nhưng Gioan không chấp nhận để cho người ta hiểu lầm như thế, ông đã đính chính rõ ràng: có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần là lửa.
Tôn trọng sự thật là một hình thức của công bằng. Mọi người đều có quyền biết sự thật khi sự thật ấy không phải là điều bí mật cần thiết phải dấu diếm, hay khi biết sự thật thì không có gì gây thiệt hại cho họ hoặc người khác. Người Kitô hữu phải là người gương mẫu trong việc tôn trọng sự thật.
Nguyện:
Lạy Đức Kitô, chúng con đang đón chờ Chúa đến. Vì thế, chúng con quyết tâm thực hiện tinh thần yêu thương của Chúa, một cách cụ thể là quan tâm đến tha nhân, đến những nhu cầu thực tế của họ, đặc biệt những người gần gũi chúng con nhất. Chúng con cũng quyết tâm quảng đại hơn trong việc tìm cách thỏa mãn những nhu cầu của họ. Nhưng căn bản hơn cả, chúng con quyết tâm thực thi công bằng, và cố gắng làm cho xã hội chúng đang sống trở nên công bằng và hợp lý hơn. Amen. (Anrê Nguyễn hữu Nghĩa)
Chắc là niềm vui của Đại Hội Simon-Hòa IV vẫn còn âm vang trong anh và gia đình? Ở quê hương thì ngày 12.12 cũng là ngày cử hành năm thánh với các Chủng Sinh. Nhìn vào những khuôn mặt rạng rỡ của anh chị em tuốn về những ngày đó, chúng ta hiểu được lời kêu gọi của Thánh Phaolô "Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa : Anh em hãy vui lên". Niềm vui những ngày ấy, niềm vui của những con người đã từng theo đuổi cùng một lời gọi : niềm vui có gốc gác nơi Chúa. Không có niềm vui nào để lại trong lòng ta và cuộc sống ta âm hưởng rộng lớn và bền bỉ hơn niềm vui thật giản đơn ấy. Đức Cha Phaolô đã khẳng định như vậy khi chọn cho mình khẩu hiệu "Chúa là Nguồn Vui". Thánh Phaolô đã cho thấy là "Bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiều". Những ngày đại hội cho chúng ta cảm nếm ý nghĩa chân thật của Lời Chúa.
Những tháng ở gần anh em bên đó, tôi cũng có nhiều cơ hội để đến một số trung tâm giải trí, nhìn từ bên ngoài thì có cảm nghĩ là lời tiên tri Sophonia đang được thể hiện ở đó : người người như thác lũ tuốn về, hoan hỉ reo vui, nhảy mừng...tôi cũng thả bộ trên cầu bãi biển Cali nhìn dọc theo bờ những niềm vui dường như bất tận. Nhưng nó vẫn không che khuất được những lo nghĩ và căng thẳng trong lòng mỗi con người ở đó, họ vẫn còn có những bài toán nan giải đeo bám họ.
Gioan thật chí lý khi khiêm tốn xác minh phép rửa của ông chỉ là phép rửa trong nước : nó chỉ có thể đụng chạm tới da thịt, không thể gột rửa tâm hồn con người. Thậm chí, ngay cả những việc làm ông đề nghị cho từng hạng người, những việc làm ấy cũng chỉ là giai đoạn chờ đợi. Những niềm vui chúng ta phải trả giá đắt : ở Las Vegas, ở các Tours du lịch, ở những bãi biển... tất cả chỉ kích thích cho da thịt rung lên, nhưng cái ẩn kín của tâm hồn thì dường như càng thêm u uất... Cũng như Gioan, cũng như những người nghe Gioan hôm ấy, mọi nỗ lực tìm kiếm niềm vui và bình an của chúng ta tất cả cũng chỉ là những thoáng lửng trôi ngang qua cuộc đời trăm đắng nghìn cay.
Và Gioan loan báo Phép Rửa trong Thánh Thần, Phép Rứa gạn lọc tất cả để niềm vui thấm nhập tận cõi u minh của tâm hồn. Điều chúng ta cần thấy trong tất cả lời loan báo này : những cố gắng của con người như của chính Gioan không phải là vô ích, tất cả là điều kiện và sẽ tồn tại nếu như nó được dấn vào trong quyền năng của Thánh Thần. Sự khiêm tốn của Gioan mở toang mọi cánh cửa hiện sinh cho lửa Thánh Thần trở nên Lời Loan Báo Tin Mừng. Sự khiêm tốn được đồng hóa với sự đảm nhận hiện sinh trong lòng tin và niềm hy vọng vào Đấng Quyền Năng sẽ đến.
Niềm vui của những ngày Đại Hội là niềm vui của những con người đã một lần nghe tiếng gọi của Đấng yêu thương mình, và muốn có Người đồng hành trong cuộc sống hôm nay. Niềm vui ấy sẽ tròn đầy nếu như chúng ta biết như Gioan làm cho Đức Kitô bước vào "sân lúa" của Người. Điều ấy sẽ thành hiện thực, nếu như trong ngày gặp gỡ, chúng ta đã biết đứng sang một bên và ân cần giới thiệu Đức Kitô cho anh chị em mình. Đó cũng chính là niềm vui của mùa vọng của Giáo Hội, của tập thể cộng đoàn Simon-Hòa ngay từ thưở ban đầu. Không lẽ nào lại chẳng là niềm hy vọng của chúng ta hôm nay ?
Vậy chúng tôi phải làm gì?” (Lc. 3:10). 2. “Lạy Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời” MV 3-C109
1. “Vậy chúng tôi phải làm gì?” (Lc. 3:10).
2. “Lạy Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời” (Mt 19:16).
3. “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời” (Lc 10:25.
Ba câu hỏi trên mang cùng một ý nghĩa, đó là những người hỏi muốn tìm được câu trả lời cho phần rỗi đời đời của mình. Và những người hỏi đại diện có một số chính trong nhân loại. Thành phần thuộc giới bình dân, thương gia và quân nhân. Thuộc giới dư giả tiền bạc, giầu sang và có thế lực. Và thành phần thuộc giới trí thức và hiểu biết. Phần rỗi ấy, sự sống đời đời ấy là nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trong thế gian và đã chết để cứu độ nhân loại
Về người được hỏi, thì câu hỏi đầu tiên dành cho Gioan Tiền Hô, còn lại hai câu, trực tiếp đặt vấn đề với Chúa Giêsu.
Đại diện thành phần bình dân gồm những người nghèo khổ, bần cùng, một số thuộc thành phần quân nhân đã hỏi Gioan Tiền Hô. Trong khi đó, đại diện giới giầu có và trí thức lại hỏi chính Chúa Giêsu. Nhưng nếu Gioan đã trở lời trực tiếp những vấn nạn của những người hỏi ông, thì với Đức Kitô ngài đã không trực tiếp trả lời những câu hỏi ấy mà lại muốn chính những người đã hỏi ngài phải suy nghĩ về những gì mình đã hỏi. Qua hình thức trả lời của Gioan Tiền Hô và của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra điều này, đó là chân tướng của những chứng nhân Tin Mừng, và thái độ cần phải có khi gặp gỡ Thiên Chúa.
1. Chứng nhân Tin Mừng
Ngày nay nếu có ai muốn tìm gặp Chúa, muốn biết về Chúa thì họ phải làm gì? Dĩ nhiên, họ có thể tự mình học hỏi, tham vấn và tìm hiểu, như trường hợp người luật sỹ và anh nhà giầu đã hỏi Chúa về con đường phần rỗi. Nhưng thử hỏi những thành phần cao trong xã hội và trí thức này được bao nhiêu, do đó, phần còn lại vẫn là đông đảo những người chân lấm tay bùn, nghèo hèn, thất học, và lao động vất vả kể cả thành phần quân nhân.
Những người đến với Gioan Tiền Hô, họ đã được ông trả lời và bảo họ: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy” (Lc 3:10). Với những người thu thế, ông khuyên họ: “Các ngươi đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi” (Lc 3: 13. Và đối với những quân nhân, ông đã trả lời họ: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình” (Lc 3:14).
Đối với anh nhà giầu, Chúa Giêsu lại đặt ra một điều kiện. Có lẽ vì thấy lòng dạ anh hẹp hòi, và tham lam. Tâm trí anh kiêu căng tự phụ. Cũng có thể vì thái độ chỉ muốn nghe cho biết của anh mà Chúa Giêsu đã muốn dò hỏi anh bằng cách bảo anh phải về bán hết tài sản anh có, bố thí cho những kẻ nghèo và đến theo ngài. Và như Thánh Ký đã ghi là anh đã lặng lẽ rút lui. Anh vừa muốn chiếm hữu được Thiên Chúa, vừa muốn làm chủ của cải vật chất và sự giầu sang của thế gian.
Riêng đối với những đầu óc học rộng hiểu nhiều, biết rõ lề luật như người luật sư đã hỏi ngài, Chúa Giêsu không muốn có câu trả lời trực tiếp. Ngài đã dẫn chứng con đường dẫn vào nơi hằng sống ấy bằng câu truyện người Samaritanô hiền hậu.
Nhưng có lẽ điều mà ít khi chúng ta để ý đó là thái độ dân chúng đối với Gioan mà Thánh Ký đã ghi: “Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: Có phải chính ông là Đức Kitô chăng?” (Lc 3:15). Đây là cốt lõi của đời sống chứng nhân. Chúng ta tự hỏi: “Tại sao những người đến với Gioan lại tưởng ông là Đấng Thiên Sai?” Và: “Cái gì đã làm cho những người đến với ông tưởng ông là Đấng Thiên Sai?” Đây là điều mà tất cả những ai muốn trở thành nhân chứng cho Đức Kitô cần phải học hỏi, đó là câu ông nói với dân chúng trong khi họ tưởng rằng ông là Đức Kitô: “Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người. Chính Người sẽ rửa các ngươi trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3:16).
Đó là điều khiến người khác tưởng ông là Đấng Thiên Sai. Không phải vì ông có tài hùng biện. Cũng không phải vì ông đã làm được những việc cao cả. Nhưng là ông đã đóng trúng vai của một nhân chứng: Không cao ngạo, huênh hoang. Không khoe tài, khoe sắc. Không kể mình là cao trọng, đạo đức đến nỗi nếu thiếu mình thì mọi chuyện đều hỏng, đều không xong, và không ai có thể thay thế được.
Tóm lại, nếu lúc này có ai hỏi chúng về Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai thì chúng ta cũng không thể nào làm chứng hay hơn Gioan đã làm. Đó là tấm lòng chân thật và khiêm cung. Gioan chỉ muốn Đức Kitô nổi nang, và được mọi người nhận biết. Ông tự nhận mình chỉ là kẻ dọn đường, và còn tầm thường hơn một kẻ dọn đường, là không xứng đáng cởi dây giầy cho ngài.
Như vậy chúng ta không những phải là chứng nhân cho Đức Kitô mà chúng ta còn phải là chứng nhân của chính mình. Bằng cách sống và hành động để qua chúng ta, người khác nhận ra Chúa. Và chính chúng ta cũng phải nhận ra ngài để có thể hoàn tất sứ mạng chứng nhân của mình.
2. Thái độ khi đến với Chúa
Theo trình thuật của Thánh Ký, Gioan đã không giới thiệu Đấng Thiên Sai với mọi người khi thấy họ chưa sẵn sàng. Khi họ chưa làm được điều mà họ cần làm để xứng với những gì họ đang tìm kiếm. Ở đây thái độ chuẩn bị, và tìm cầu ơn cứu độ được lồng vào những hành động bác ái đối với tha nhân và tấm lòng khiêm nhường.
Những người đến với Gioan đều là những người thiện tâm, mặc dù họ có đôi lỗi lầm. Và vì thế, ông đã đưa điều kiện để họ đạt được nước Trời, để thấy Đấng Thiên Sai, đó là những hành động bác ái cụ thể. Gioan đã rất thực tế nói với những người đến với ông và đang muốn qua ông tìm gặp Đấng Thiên Sai. Cho một chiếc áo dư. Bố thí một đồng hay năm, mười xu. Bình an với chính mình. Đừng hà hiếp, bóc lột người. Tất cả là luật công bình và bác ái. Và tất cả là hướng về tha nhân một cách cụ thể.
Nhưng người giầu có và luật sỹ thì không được Chúa Giêsu đối xử như vậy. Ngài không giải thích về những hành động bác ái cụ thể mà họ cần phải làm để chiếm hữu nước Trời, vì những người này đã tự cho mình hiểu biết, nhưng thực sự lại không sống với điều mình hiểu biết. Chưa sống thật với mình thì làm gì có khả năng để sống với tha nhân. Không rộng lòng với tha nhân làm sao có thể mở rộng lòng mình để đón nhận Ơn Cứu Độ.
Nhân loại đang nô nức mong chờ ngày kỷ niệm Chúa giáng trần. Thật ra, ngài đã giáng trần và đã đến với nhân loại hơn 2000 năm trước, và Gioan cũng đã làm chứng về ngài. Nhưng chúng ta đã đón nhận ngài vào cuộc đời mình như thế nào. Ánh sáng của ngài có chiếu tỏa nổi qua cuộc đời và con người bằng xương thịt của chúng ta đây để qua đó người khác có thể nhận biết và yêu mến Đức Kitô không? Nếu không thì việc chuẩn bị, cũng như việc mừng kỷ niệm ngài giáng trần hoàn toàn mang tính nhân loại, hình thức và vô nghĩa. Nó sẽ làm cho biến cố Giáng Trần của Con Thiên Chúa thành một lễ hội vui chơi, tưng bừng và náo nhiệt. Chúa Giêsu chẳng được gì, và cũng chẳng ai nhìn ra ngài giữa những rộn ràng và chuẩn bị tốn kém, cũng như giữa những hình thức đón tiếp mà chính ngài cũng đã biết rằng nó không dành cho ngài. Trong đêm Giáng Trần, Ngài vẫn trơ trọi một mình bên trong hang bò tanh hôi, lạnh lẽo. Bên trong chiếc nôi bằng máng bò lừa ăn cỏ. Quanh ngài lại cũng chỉ vài mục đồng nghèo khó và mấy con lừa, con chiên, con bò vây quanh thở chút hơi ấm cho ngài giữa đêm trường rét mướt.
Và chúng ta có cần phải hỏi Chúa hay hỏi Gioan câu: “Chúng tôi phải làm gì” không?
Nhật báo The Times-Picayune ở vùng New Orleans vào dịp cuối năm đã cho thấy trước nhiều biến cố lớn có thể xảy vào thế kỷ này. Những người lạc quan thì bảo chẳng có gì phải sợ cả. Đừng có lo bò trắng răng. Vì kìa, thị trường kinh tế Việt Nam có chiều thay đổi; tên kẻ thù Liên Sô vĩ đại đã trở thành anh bạn con nhà lành.
Nhưng một số người bi quan thì ưa nói tới điềm ngày tận thế. Nào là thiên tai bão lụt động đất nhiều quá. Nào là khí hậu mùa hè nóng quá, mùa đông lạnh quá. Nào là xã hội hỗn loạn đảo điên quá. Nào là sợ một khối đá khổng lồ từ một ngôi sao nào vỡ ra rơi vào trái đất thì đúng là "các tầng đất" rung chuyển chết không kịp ngáp. Nào là sợ mấy tay quá khích khủng bố sẽ chế bom bẩn bằng vi trùng độc không thuốc nào trị được!
CON NGƯỜI SỢ GÌ NHẤT VÀO THẾ KỶ NÀY?
Ông Joel Cohen tác giả cuốn sách "Trái Đất Có Thể Nuôi Sống Được Bao Nhiêu Người" thì cho rằng nỗi lo nhất trong thiên niên kỷ thứ ba là vấn đề tăng thêm quá đông người. Dân số thế giới sẽ từ 6 tỷ tăng lên tới 8 tỷ, rồi 10 tỷ, và vọt lên 12 tỷ! Đào đâu ra đồ ăn, quần áo và nơi ở cho bằng ấy người!
Lớp khí ozone bao quanh trái đất đang mỏng dần vì các hóa chất chlorofluorocarbon đã ăn thủng một lỗ lớn ở nam bán cầu. Ngày 10 tháng 12 năm 1995 giải Nobel về hóa học được trao cho ba nhà bác học khảo cứu về lớp khí này là các ông Mario Molina, Sherwood Rowland và Paul Crutzen. Từ năm 1974 nhiều người đã nói tới lớp khí này bị các chất ga CFC từ những bình xịt, tủ lạnh v.v... ăn mỏng ra, khiến cho khí hậu trở thành nóng lạnh bất thường, vì tầng ozone loãng quá không chắn được sức nóng mặt trời, và không chặn hết được tia tử ngoại nữa nên dễ sinh ung thư.
Trước đây nhiều nhà buôn chống lại lý thuyết về ozone vì sợ không bán được hàng. Nhưng nay thì các nhà bác học đã chứng minh rành rành! Thì chính con người tạo ra cái bệnh ung thư, mát dây, chạm điện, vì làm mất trật tự của thiên nhiên. Mình đang phải tự trả giá. Hèn chi mấy năm qua xẩy ra nhiều hiện tượng lạ: mùa hè ở miền Bắc phía Chicago chết nóng cả mấy trăm mạng; mùa đông lại lạnh quá làm thần chết cũng bận rộn quá chừng. Cũng còn may là hiện nay nhiều phong trào bảo vệ môi sinh đang cổ võ để vào đầu thế kỷ tới sẽ có nhiều đạo luật khắt khe cấm những đồ dùng mang hóa chất. Và như vậy, các nhà khoa học tiên đoán là vào khoảng năm 2050 thì lớp khí ozone sẽ trở lại bình thường.
Các nhà địa chất tiên đoán về một cuộc động đất lớn có thể sẽ theo khe nứt Andreas ở biên giới Arizona mà hất cả bang California ra khơi Thái Bình Dương cho chìm nghỉm luôn. Theo cái nhìn của Hội Nghị về Thời Tiết của Liên Hiệp Quốc mới nhất thì vào năm 2100, khí hậu trên toàn cầu sẽ tăng lên hơn bây giờ 3 độ F. Như vậy thì các vùng nông nghiệp sẽ phải thay chuyển nhiều, các trận bão sẽ nhiều hơn và mạnh hơn. Ông Leatherman đứng đầu Viện Nghiên Cứu về Duyên Hải ở đại học Maryland cho biết rằng vì băng đá ở bắc cực sẽ tan thêm và nước tràn xuống biển và sẽ làm tăng mức nước biển lên 20 inches. Lúc đó thì quả là chưa tận thế, nhưng những quốc gia đất thấp như Bỉ, Hòa Lan, Belize, Bangladesh sẽ biến mất. Và khoảng một ngàn năm nữa, tức vào năm 3000, thì băng đá sẽ còn tan thêm không có cách nào cản được, mực nước biển sẽ tăng lên thêm 30 feet nữa, và những thành phố thấp ở ven Đại Tây Dương và vùng Vịnh Mễ Tây Cơ có thể bị xóa tên khỏi sổ bộ đời.
NỖI BUỒN THẾ KỶ
Những lời tiên đoán thì nhiều lắm. Nếu sợ quá thì chẳng dám ra khỏi nhà. Nhưng nỗi sợ lại chạy cả vào trong nhà mới là điều đáng sợ nhất. Trong báo Time ngày 28.8.1995, Robert Wright đã nhận định về hiện trạng “Nỗi Buồn Thế Kỷ 20” khi mà người Âu Mỹ đang bị cái vòng “văn minh” quay cho xây xẩm mặt mày:
“Trong cuộc sống hằng ngày, có những lúc thật sự có một cái gì không ổn: hoặc là chúng ta bị đè nặng bởi một náo động quá lớn do công việc hằng ngày; hoặc bị làm chai lì vì cảm giác bị xã hội cô lập; hoặc sa lầy trong một tâm tư về cuộc sống vô nghĩa. Cũng có khi bị đảo lộn bởi một tình trạng lo lắng không sao giải tỏa; hoặc không còn cảm thức được ý nghĩa của thời gian vì phải ngụp lặn trong những tuần lễ làm việc dài dài. Dù cho nguồn gốc của những căng thẳng tinh thần là gì, thỉnh thoảng chúng ta vẫn có cảm tưởng đời sống hiện thời không phải là những gì chúng ta mong ước mà chỉ là những gì chúng bị áp đặt.” (Robert Wright, Time)
Mấy nhà tâm lý về tiến hóa (evolutionary psychology) cho biết lý do: vì cấu trúc xã hội xoay cấp tốc quá, khác với cấu trúc di truyền tự nhiên của thân tâm nên sinh bấn loạn. Đưa một hình ảnh bình dân dễ hiểu: một người bị quay một chục vòng rồi buông ra là lảo đảo té xuống ngay, là vì cái nhịp độ ở ngoài và trong cơ thể không đi được với nhau. Cũng giống như một người lần đầu tiên đi tàu, bị nhiều đợt sóng nhồi. Nhịp sóng và nhịp cơ thể không quen nhau thành ra say quá sức.
Như vậy có nghĩa là cấu trúc của xã hội, hay cái nền văn minh này đang bất ổn, không tự nhiên, không hợp cho con người bình thường. Cả một xã hội bị bệnh. Thế giới ngày nay là một môi trường khó sống, thuận lơi để các bệnh tâm thần phát sinh. Con người của thế kỷ này nhiều thô bạo hơn là vị tha hiền hòa. Thân tâm con người không hợp với kiểu sống kỹ thuật quá cao, quá thành thị, mỗi người một hộp vuông tách biệt cô đơn, quá đòi hỏi với những tiêu chuẩn và người mẫu trong Tivi nên con người luôn cảm thấy bất ổn và bất mãn.
TIN VUI GỬI NGƯỜI HÚT THUỐC LÀO
Trong cơn rối loạn và khốn khổ, nhiều người tìm nhiều lối giải thoát khác nhau. Đây là một lối "giải thoát" thật độc đáo với điếu thuốc lào của một người đi tù lao động có tên là Châu Còm:
"Giờ giải lao, vứt cuốc, ngồi bệt xuống đất làm một bi. Hít vào, ếm trong phổi thật lâu cho khói thuốc ngấm vào máu chạy lên đầu. Lâng lâng, mơ màng, ngửa mặt nhìn trời cao mênh mông, ngọn gió mát vuốt ve da thịt, mùi đất thơm nồng, con người như thoát khỏi chốn trần ai ô trọc, quên cả nhọc nhằn, quên cả vợ con, quên cả thân phận mình. Ôi, bi thuốc lào giúp ta bay bổng vào cõi hư vô. Khói thuốc lào sạch ưu phiền, biến hận thù thành nhẫn nhục, để đấy, để đấy, ta không quên những ngày hôm nay, ta không quên lũ chúng mày! Ôi, khói thuốc lào yêu dấu, chỉ có mi an ủi được ta, thông cảm ta, khuyến khích ta, giúp ta vững tinh thần, vững hùng khí, chờ một ngày mai…"
Chả riêng gì người đi tù mới muốn tìm lối thoát. Người Âu Mỹ cũng đang nhớn nhác đi tìm một giải pháp cho cuộc sống quá căng. Không thì điên mất. Họ đi học món yoga của Ấn, luyện nhân điện cho sức rắn lửa bò lên đủ bẩy huyệt đạo; sang Nhật học ngồi thiền hít vào thở ra cho cân bằng tâm sinh lý; đi Tàu học vũ thái cực theo nhịp trời đất cho bớt cái nhịp náo loạn của xã hội quay cuồng. Có người tìm vào làng của dân Amish để học lối sống giản đơn, đi Do thái để sống theo lối liên hệ cộng đồng của những Kibbutz. Tìm cho ra một cái xã hội nào thuận lợi, lối sống nào hợp nhịp cho con người để giữ được thăng bằng chứ.
Giữa những lo sợ tăm tối và rối loạn, Đức Kitô Thiên Chúa làm người mới thật là câu trả lời. Đặt Chúa vào trung tâm điểm thì mọi mảnh vụn rời rã sẽ gắn lại được với nhau. Đó là phép mầu của đời sống.
Giữa những tang thương, người Do Thái đang náo nức vọng chờ một lối thoát, một vị Thiên Sai. Vì thế họ hỏi Gioan Tẩy Giả: Chúng tôi phải làm gì? Có phải chính ông là Đức Kitô, Đấng đến giải thoát không? Và ông đã quả quyết:
"Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người . Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa."
Quả thực, giữa những đòn phép kinh tế và những mưu đồ "toàn cầu hóa" kéo ghì con người xuống không sao vươn lên được, một Tin Vui lớn được báo: Hãy vui lên. Kìa Đấng giải thoát đời mình đang đến. Con người đang khấp khởi chờ đợi được ban thần lực mới, đầy lửa Thánh Thần, để có sức mọc cánh bay lên trong một nhãn quan mới.
PHÚT TỊNH TÂM
Vâng, con tin nhận Chúa là Cứu Chúa đời con. Xin Chúa giáng sinh vào lòng con, mang đến cho con tia sáng mới tràn trề hy vọng để con bước đi với đầu cao mắt sáng, vượt qua mọi lo sợ bất an của cuộc sống. Tông thư "Đệ Tam Thiên Niên" là một thời điểm cho con thấy rằng chỉ có một cách là tìm được Chúa Kitô trong cuộc sống. Ngài đã làm người ở giữa con người. Ngài là khởi thủy và là cùng đích đời sống:
“Sự kiện Ngôi Lời vĩnh cửu, trong sự toàn mãn của thời gian đã mặc lấy thân phận của tạo vật, đem lại cho biến cố của Bê-lem cách đây 2000 năm một giá trị hoàn vũ lạ lùng, Nhờ Ngôi Lời, thế giới của các tạo vật được xuất hiện như một hoàn vũ, nghĩa là một vũ trụ được xếp đặt trong trật tự. Và cũng chính Ngôi Lời khi nhập thể, làm mới lại trật tự hoàn vũ nơi các tạo vật.” Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
Theo tờ Time, Warren Buffett từng có một lời khuyên mà theo đó, mọi người nên đầu tư càng nhiều càng tốt vào một thứ mà ai cũng có. Theo tỉ phú 85 tuổi, không có khái niệm “quá mức” cho các khoản đầu tư. Đó chính là bản thân bạn.“Đầu tư càng nhiều càng tốt vào bản thân bạn. Vì bạn chính là tài sản lớn nhất, ” Warren Buffett nói.
Theo nhà đầu tư huyền thoại, chỉ khi bạn thực sự đầu tư vào bản thân, bạn mới có lợi nhuận một cách tốt nhất. Warren Buffett chia sẻ: “Bạn chỉ có một khối óc và một cơ thể. Chúng sẽ tồn tại cả cuộc đời này. Hiện tại, chúng vẫn còn có thể hoạt động tốt trong nhiều năm, nhưng nếu không được chăm sóc, chúng sẽ dần hỏng hóc như một chiếc xe sau 40 năm nữa.”
Một vài cách đơn giản để bồi bổ cho lý trí, cơ thể và tâm hồn là đọc sách, báo, nghĩ ra những ý tưởng mới; luyện tập thể dục, ăn thức ăn tốt, uống nhiều nước, ngủ ngon;cầu nguyện, hoặc đơn giản chỉ là đối xử tốt với người khác.
Hãy bắt đầu từ việc nhỏ: nghĩ ra một thói quen tích cực mà bạn có thể bắt đầu làm ngay từ hôm nay, và thực hiện nó. Sau đó, bạn làm lại việc đó một lần nữa vào ngày mai. Một khi đã nắm vững các thói quen, bạn sẽ tự nhiên thực hiện chúng mỗi ngày và cảm thấy tốt hơn.
Một trong những bí mật lớn nhất trong thành công của Warren Buffett là ông không bao giờ ngừng học hỏi. Charlie Munger, Phó chủ tịch tập đoàn đầu tư Berkshire Hathaway của Warren Buffett từng nói về tỉ phú Buffett: “Warren Buffett đã trở thành một nhà đầu tư giỏi hơn rất nhiều, so với ngày mà tôi vừa gặp ông ấy, và cá nhân tôi cũng vậy. Nếu chúng tôi ngừng học hỏi ở bất cứ giai đoạn nào, kết quả chúng tôi đạt được có lẽ tệ hơn thế này nhiều. Vậy nên luật chơi ở đây là không ngừng học.”
Tham gia hội thảo, hội nghị, du lịch, gặp mặt đối tác, lắng nghe nhiều hơn, đặt câu hỏi và học trực tuyến là những cách học sau khi rời ghế nhà trường khá hiệu quả. Nhà đầu tư 85 tuổi có lần cho biết: “Tôi dành rất nhiều thời gian, gần như là mỗi ngày, chỉ để ngồi xuống và suy nghĩ. Đây là chuyện rất hiếm thấy trong giới kinh doanh Mỹ. Tôi đọc nhiều hơn và nghĩ nhiều hơn, để rồi ít ra quyết định chóng vánh hơn nhiều người trong giới doanh nhân. Tôi làm thế vì tôi thích kiểu cuộc sống này.” ( Thu Thảo, Lời khuyên đầu tư đắt giá nhất của Warren Buffett, Thanh Niên).
Trong các lời khuyên của tỷ phú Warren Buffett, đáng chú ý hơn cả là bồi dưỡng tâm hồn bằng cầu nguyện và nhân ái, có nghĩa là sám hối, hòa giải, gần gũi với Chúa và thương yêu tha nhân. Chắc chắn đầu tư vào đây sẽ đem lại hiệu quả tuyệt vời nhất.
Với niềm hy vọng đó, Chúa Nhật hôm nay thường được gọi là Chúa Nhật Hồng, với áo lễ màu hồng của Linh mục chủ tế, kêu gọi: "Hãy vui lên ! Gaudete !” Khởi đầu, Ca Nhập Lễ hân hoan: “Hãy vui lên, tôi nhắc lại, anh em hãy vui mừng lên; vì Chúa đã đến gần.” Đấng Thiên sai sắp sửa đến với nhân loại, vì Lòng Thương Xót Chúa đã thứ tha những ai biết ăn năn, sám hối lỗi lầm ( Pl 4, 4-5 ).
Trong Tin Mừng hôm nay, dân chúng lũ lượt kéo nhau vào hoang địa, tìm nghe ngôn sứ Gioan Tiền Hô cảnh báo. Họ luân phiên hỏi phải làm gì để đáp ứng lời kêu gọi sám hối, xứng đáng chào đón Đấng Cứu Thế. Ngài trả lời hãy thực thi công lý và tình thương.
Công lý
Trả lời cho những người thu thuế và binh lính, vốn là hạng người bị dân Do Thái bấy giờ cho là tội lỗi, miệt thị và tẩy chay ra khỏi sinh hoạt tôn giáo thánh thiêng, ngôn sứ Gioan Tiền Hô không bảo họ từ bỏ nghề nghiệp, mà chỉ yêu cầu họ đổi mới tâm hồn, thay đổi thái độ, ứng xử, dứt khoát chừa bỏ thói xấu, :"Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi.“ và "Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình."
Hãy tôn trọng giữ đức công bằng, khôi phục công lý và sự thật. Hãy làm đúng vai trò, chức năng, vai trò giới hạn của mình, không gian tham, nhũng nhiễu, hối lộ, không lạm dụng chức quyền thủ lợi, không lộng hành quấy nhiễu, không vu oan cáo vạ, không ra tay đàn áp, bắt bớ, dọa nạt, hành hạ, hà hiếp dân chúng. Trái lại, cần sống đúng đắn bổn phận, quyền hành, làm tròn trách nhiệm đã lãnh nhận, cũng chính là vâng theo Thánh Ý Chúa.“Bổn phận là ý Chúa trong phút giây hiện tại” (Đường Hy Vọng, số 17 ).
Không ai là một hòn đảo. Mỗi người mỗi hoàn cảnh, nghề nghiệp, chức vị, đều có thể liên đới sống với người khác thân thiện và tốt lành, nếu tôn trọng công bằng, công lý và sự thật. Nhưng lòng vị kỷ, tham lam, háo lợi, háo danh đã bất chấp công bằng, đạo đức, sẵn sàng chà đạp người khác, coi tha nhân là bậc thang tiến thân. Vì thế ngôn sứ Gioan Tiền Hô mới kêu gọi ai sám hối, hãy cố gắng canh tân tâm hồn, đổi mới nhận thức và hành động cụ thể.
Báo cáo mới đây của Ngân hàng Credit Suisse cho biết khoảng cách giàu - nghèo trên thế giới tiếp tục mở rộng, với 1% dân số giàu nhất sở hữu tổng tài sản lớn hơn tài sản của 50% dân số trên toàn cầu, theo như báo Wall Street Journal ngày 14-10-2015 đưa tin. Như thế, mức chênh lệch giàu nghèo quá lớn, ngẫu tượng tiền tài đã chiến thắng khải hoàn, công bằng đành phải đội nón ra đi.
Mặt khác, một phần ba lương thực cho cuộc sống bị phung phí và “lương thực bị bỏ đi, cũng là cướp từ bàn ăn của người nghèo” ( Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Laudato Si, số 50 ). Sự công bằng chỉ có thể tái thiết lập, khi nhân loại tỉnh thức, biết nghe lời Ngôn Sứ Gioan Tiền Hô, nhân ái hào phóng nhường cơm sẻ áo cho những người thiếu thốn:"Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy."
Tình thương
Tùy hạng người mà Ngôn Sứ Tiền Hô khuyên nhủ cải thiện phù hợp. Với người dân đã sống công bình, tôn trọng công lý, thì ngài khuyến khích bước thêm đường nhân đức: Quan tâm đến tha nhân, tìm hiểu nhu cầu của họ, bác ái, chia sẻ của cải vật chất lẫn tinh thần trong tình yêu thương vô vị lợi. “Cho thì có phúc hơn là nhận” ( Cv 20, 35 ).
Đức Giêsu mãi không ngừng kêu gọi mọi người hãy có lòng nhân ái, noi theo tấm gương Thiên Chúa luôn tràn đầy lòng thương xót, tình yêu thương quảng đại vô song. “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng Nhân Từ” ( Lc 6, 36).
Hơn nữa, Người còn đòi hỏi cần độ lượng, khoan dung và yêu thương cả người thủ ác, thù địch. “Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” ( Lc 6, 35 ).
Lòng nhân phải được biểu lộ cụ thể qua hành động chia sẻ, tương thân, tương ái, chứ không thể môi mép, đãi bôi, đạo đức giả. “Anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn” ( 1Pr 3, 8 ). Bởi bác ái, lòng nhân chính là làm chứng nhân cho Đức Kitô giàu lòng thương xót, cũng như là một dấu chỉ rõ rệt cho tha nhân biết mình đích thực là tín hữu Kitô. “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” ( Ga 13, 35 ).
“Hãy yêu thương nhau không bằng lời nói, mà bằng việc làm. Hãy yêu thương nhau bằng tay mặt, mà tay trái không biết. “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” ( Đường Hy Vọng, số 755 ).
"Vì ngươi sám hối trở lại, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng" ( Xp 3, 18a ). Ôi lạy Chúa vô cùng cao sang, nhân ái và khoan dung. Cả thiên cung thảy đều vui mừng khi thấy bất cứ ai ăn năn trở lại tình thương của Chúa. “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” ( Lc 15, 10 ). Xin Chúa ban hồng ân, mở lòng chúng con, biết khiêm nhường thống hối, chuẩn bị xứng đáng chào đón Chúa đến.
Kính xin Mẹ Maria, cầu bầu cho chúng con biết sám hối tội lỗi và sống trung thực Tin Mừng, qua hành động dấn thân, yêu thương an ủi, chia sẻ, giúp đỡ tha nhân, không những vật chất, tinh thần mà cả đến mạng sống chúng con. Amen.
Chúa Nhật 3 Mùa Vọng thường được gọi là Chúa Nhật của Niềm Vui. Lời kêu gọi "hãy vui lên" được lặp đi lặp lại trong các bài đọc. Đây là Niềm Vui trong Chúa, Niềm Vui có Chúa. Cuộc sống sẽ vui tươi hạnh phúc khi chúng ta có Chúa trong cuộc đời của mình. “Niềm vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và đời sống tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu. Những ai tiếp nhận đề xuất cứu rỗi của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn sầu, trống rỗng và cô đơn nội tâm. Với Chúa Kitô, niềm vui luôn luôn trổ sinh như mới”. ( x. Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng ).
Đức Thánh Cha Phanxicô luôn luôn thao thức đối với việc sống và rao giảng Tin Mừng. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin vào trưa Chúa Nhật 1.2.2015, ngài khích lệ các tín hữu hãy có thói quen hàng ngày đọc và suy niệm Lời Chúa để cho Lời Chúa biến đổi tâm hồn, cuộc sống của mình. Ngài mời gọi mọi người dám ra khỏi mình để đem Tin Mừng đến các vùng ngoại biên. Theo ngài, Niềm Vui chính là vẻ đẹp của Tin Mừng.
Niềm Vui Tin Mừng là Niềm Vui trong Chúa và có Chúa ở giữa chúng ta.
1. Niềm Vui trong Chúa
Chủ đề Phụng Vụ Chúa Nhật 3 là ‘Niềm Vui’. Bài đọc 1 và bài đọc 2, mời gọi Dân Chúa hãy vui lên. Vui vì Thiên Chúa sắp đến thực hiện Ơn Cứu Độ. Người đến để tha thứ, để hòa giải, để cứu thoát dân khỏi nô lệ tội lỗi và ma quỉ ( Bài đọc 1 ). Thánh Phaolô khẳng định niềm vui đó là niềm vui trong Chúa: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa”. Niềm vui trong Chúa là niềm vui có được từ nơi Thiên Chúa. Hãy vui và vui luôn mãi trong Niềm Vui của Chúa. Niềm vui này không chỉ là một tình cảm, nhưng phát sinh những hoa trái cụ thể trong cuộc đời: sống hiền hòa rộng rãi với mọi người, không phải lo lắng gì cả, vì có gì thì cứ trình bày với Chúa, lòng trí luôn được bình an.
Niềm Vui là nét tiêu biểu của người Kitô hữu, là mong ước của mọi người. Sống ở đời ai cũng mong mình có được Niềm Vui sống và nỗ lực đi tìm Niềm Vui. Người Kitô hữu xác tín rằng, Niềm Vui đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa. Một khi biết mình đã có Chúa thì mọi âu lo buồn phiền sẽ không còn. Càng khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, càng gia tăng Niềm Vui Sống. Càng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống, Niềm Vui Sống càng sâu sắc bền vững. Niềm Vui trong Chúa luôn là một niềm vui gia tăng sức mạnh cho tâm hồn trước những nghịch cảnh, đau khổ của kiếp người. Niềm Vui trong Chúa cũng là niềm vui biến đổi đau thương thành hạnh phúc. Niềm Vui trong Chúa giúp cho mỗi người có nghị lực vươn lên vượt qua nghịch cảnh. Đức Cha Bùi Tuần viết: “Niềm vui cần nhất và quý nhất là Niềm Vui có Chúa là Tin Mừng trong lòng mình”.
Là con người, ai cũng mơ ước và đi tìm Niềm Vui Sống. Ngày nay, có nhiều người mải miết tìm kiếm những thú vui xác thịt, thú vui thụ hưởng vật chất. Có những niềm vui mà sau đó người ta cảm thấy trống rỗng buồn phiền và chán nản. Có những niềm vui mà sau đó người ta mệt mỏi và thất vọng. Có những niềm vui mà sau đó người ta lo âu hối hận. Còn người Kitô hữu đi tìm niềm vui trong Chúa. Niềm vui này là dấu hiệu của bình an nội tâm, của sự hài lòng, của tự tín, là dấu hiệu cho thấy rằng người ta đang cảm thấy được an toàn, được đón nhận, được yêu mến. Một người Kitô hữu mà sống bi quan chán chường, thất vọng buông xuôi, ấy là dấu hiệu có điều gì đó không ổn về đức tin.
Niềm vui là dấu hiệu của hạnh phúc. Một tâm trạng an vui thường xuyên và sâu xa, niềm an vui không loại trừ gian nan, thử thách và đau khổ. Người Kitô hữu biết mình được thương yêu, được đón nhận và tha thứ. Họ biết mình đang tiến về đâu. Cái gì có thể làm cho họ sợ hãi ? Gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, chết chóc chăng ? Hay là ma quỉ, hay những sức mạnh vô hình nào chăng ? Hay là tội lỗi của ta chăng ? Thánh Phaolô trả lời khẳng khái: Không ! Tôi không sợ vì không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Ðức Kitô được, trái lại trong tất cả những thử thách ấy, tôi toàn thắng nhờ Ðấng đã yêu mến tôi ( x. Rm 8, 35-38 ).
2. Niềm vui hoán cải
Để có được niềm vui trong Chúa, điều căn bản là phải tin tưởng gắn bó cuộc đời với Chúa, phải thực lòng yêu mến Người. Chính niềm tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa thúc đẩy con người hoán cải khi lầm lỗi. Bài Tin Mừng hôm nay kể câu chuyện hoán cải tuyệt vời. Sau khi nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả, nhiều người tỏ vẻ phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống sai lạc của mình. Phải làm gì để hoán cải. Phải làm gì để có hạnh phúc, có niềm vui ?
Nhiều người đến xin Gioan những lời khuyên thiết thực: "Chúng tôi phải làm gì đây ?" Tùy từng người mà Gioan khuyên bảo:
- Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.
- Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”.
- Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.
Gioan không có ý khuyên người ta phải bỏ việc đang làm nhưng ngài dạy họ phải làm việc thật tốt đúng với bổn phận đã được lãnh nhận, không những họ phải trở thành người biết yêu thương mà còn phải trở nên những người đáng mến và dễ thương. Câu trả lời của Gioan cho mỗi hạng người có một hành động khác nhau, nhưng tựu trung đều nhắm tới việc hoán cải. Ơn hoán cải hướng đến đời sống bác ái, công bằng với người khác. Ơn hoán cải mang lại niềm vui biết trao ban.
Có một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người Tân Tòng và một người chưa có niềm tin như sau:
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao ?... Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đức Kitô.
- Vậy xin hỏi anh, Ông Giêsu sinh ra ở quốc gia nào ?... Rất tiếc là tôi quên mất chi tiết này. - Thế khi chết ông ta được bao nhiêu tuổi ?... Tôi cũng nhớ không rõ nên chẳng dám nói.
- Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài ?... Tôi không biết.
- Quả thật anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã theo đạo...
- Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước tôi là một người nghiện rượu sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ, gia đình tôi xuống dốc trầm trọng, bao nhiêu của cải tôi đều nướng vào các cuộc men say tuý luý. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận, buồn tủi và xấu hổ. Thế mà bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Vợ tôi, các con tôi ngóng trông và vui mừng đón đợi tôi sau khi tôi đi làm về. Những điều này, không ai khác hơn chính là Đức Kitô đã làm cho tôi và đó là tất cả những gì tôi biết về Người.
Niềm vui Thiên Chúa ban chỉ dành cho những ai đón nhận được ơn đổi đời. Từ một người hẹp hòi ích kỷ trở thành người quảng đại dấn thân, biết sống bác ái yêu thương mọi người. Từ một người lạm dụng quyền hành hà hiếp bạo lực trở nên người dễ mến đáng yêu, được mọi người kính trọng. Từ người cơ hội, tham lam thủ đoạn chiếm đoạt của cải người khác khiến họ phải oán giận nguyền rủa trở thành người biết sống công bằng. Ơn hoán cải và niềm vui được biến đổi sẽ là khởi đầu để người ta đón nhận Ơn Cứu Độ.
3. Niềm Vui Tin Mừng
"Tin Mừng có nghĩa là tin mang đến niềm vui. Tin Mừng luôn là một lời mời gọi con người sống vui tươi. Tin Mừng là một lời xác nhận cao cả cho giá trị của thế giới và giá trị của con người. Bởi vì Tin Mừng là chính sự mạc khải sự thật về Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch nguyên thủy của niềm vui và hy vọng cho con người” ( x. Bước qua ngưỡng cửa hy vọng ). Tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta luôn có niềm vui và hạnh phúc.
Niềm Vui Tin Mừng đến từ nội tâm. Mỗi ngày, người tín hữu tìm được Niềm Vui khi đến Nhà thờ, khi đi tham dự Thánh Lễ: “Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: ta hãy đi đến nhà Đức Chúa” ( Tv 122, 1 ).
Niềm Vui Tin Mừng vì được sống trong lòng Giáo Hội. Giáo Hội như người mẹ, ôm ấp và chở che mọi người, đón nhận và đỡ nâng tất cả: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống sum vầy bên nhau” ( Tv 133, 1 ).
Niềm Vui Tin Mừng nhờ sống phó thác vào Chúa. Còn gì phải lo lắng nếu chúng ta có Chúa dẫn đường ? Còn gì phải sợ hãi nếu chúng ta có Chúa là Đấng che chở ? Niềm phó thác nơi Chúa sẽ giúp chúng ta tự tin hơn trong cuộc sống: “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào. Lời Chúa trở thành hoan lạc cho con, thành niềm vui của lòng con, vì con được mang danh Ngài” ( Gr 15, 16).
Niềm Vui Tin Mừng đối với người tín hữu là sự bình an của một trẻ thơ trong vòng tay mẹ: “Như trẻ thơ nếp mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” ( Tv 131, 2).
Niềm Vui Tin Mừng là được sống kết hợp mật thiết với Đức Kitô. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến cách sống hiền hòa rộng rãi, yêu thương và sẵn sàng tha thứ. Để thực hiện được điều này, ngài tha thiết mời gọi phải khiêm nhường cầu khẩn và tạ ơn. Có như thế, bình an của Thiên Chúa mới giữ cho lòng trí của chúng ta được kết hợp với Đức Giêsu Kitô được.
Niềm Vui Tin Mừng là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” ( Mt 11, 25-26; Lc 10, 21 ).
Niềm Vui Tin Mừng còn là chia sẽ trao ban. Niềm vui được nhân lên khi chia sẻ. Đi từ trái tim đến trái tim, hoa trái của bác ái thật là dịu ngọt đối với cả người cho lẫn người nhận. Hoa trái dịu ngọt chính là hạnh phúc. Hạnh phúc là niềm vui. Khi người ta vui thì hạnh phúc. Khi người ta hạnh phúc thì người ta vui. Rất đơn sơ, thật dễ hiểu. Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Những niềm vui làm thành cuộc đời. Niềm vui làm cho mỗi tâm hồn trở nên ấm cúng.
Niềm Vui chỉ thực sự có khi có Tình Yêu. Khi không có tình yêu thì không có niềm vui thực sự. Và đặc biệt khi được Tình Yêu của Thiên Chúa tiếp sức, con người ta lúc nào cũng có thể rạng rỡ tươi cười, mặc dù có khó khăn mặc dù có đau khổ, gương mặt luôn biểu lộ hạnh phúc bởi vì lúc nào trái tim cũng dào dạt yêu thương.
Niềm Vui Tin Mừng không phải là niềm vui của những thành công, của những thanh thế, của những hoạt động. Càng không phải là niềm vui do có nhiều phương tiện vật chất và được nâng đỡ của xã hội. Niềm Vui Tin Mừng là có trong lòng mình chính Chúa Giêsu khiêm nhường tự hạ và yêu thương để cứu chuộc loài người. Niềm Vui Tin Mừng ấy là động lực chính khiến chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa qua chính con người và cuộc sống của chúng ta. Con người chúng ta sẽ là con người hiền lành khiêm nhường đầy yêu thương tự hạ. Cuộc sống của chúng ta sẽ là cuộc sống hy sinh, phấn đấu, để được phục vụ như Chúa Hài nhi Giêsu và như Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá.
Lễ Giáng Sinh, Lễ Tình Yêu Nhập Thể đang đến gần. Niềm Vui Giáng Sinh là niềm vui được thức tỉnh, sám hối và hoán cải để canh tân đời sống. Đó là niềm vui trong nội tâm và diễn tả qua đời sống luôn chu toàn bổn phận hằng ngày của mình, yêu thương phục vụ mọi người.
“Vui lên” là chủ đề của Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng. Hôm nay Phụng Vụ Giáo Hội đang màu tím chuyển sang hồng thể hiện rõ nét của niềm vui, vui vì những gì đã đạt được trong chặng đường thứ nhất của Mùa Vọng, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng ( Chúa Giáng Sinh ), nên Giáo Hội mời gọi con cái mình “Gaudete – Hãy vui lên”.
Với lời thánh ca du dương phỏng theo lời của Thánh Phaolô: Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa. Vui như Ngôn Sứ Isaia nói: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” ( Is 61, 10 ). Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” ( Lời nguyện nhập lễ CN 3 Mùa Vọng ).
Những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui Ơn Cứu Độ. Nghe những lời loan báo của Xôphônia chúng ta không thể không vui: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca ! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn !” ( Xp 3, 14-15 ). Cũng sứ điệp của niềm vui, Thiên Thần chào Đức Maria: “Hỡi Bà đầy ơn phúc, hãy vui lên” ( Lc 1, 26 ). Lý do chính để thiếu nữ Sion vui là có: “Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng” ( Xp 3, 16-18 ).
Xôphônia muốn chúng ta phải vui mừng, không có lý do gì để thất vọng, nản chí, buồn sầu, dù tình trạng ta phải đương đầu có thế nào đi nữa, chúng ta chắc chắn về sự hiện diện của Chúa, nguyên sự hiện diện ấy cũng đủ để làm cho tâm hồn ta hân hoan.
Trong thư gửi tín hữu thành Philiphê, Thánh Phaolô mời gọi con cái mình vui lên trong niềm vui của Chúa, và ngài đưa ra lý do tại sao phải vui mừng. Thưa vì “Chúa đang đến gần !” ( Pl 4, 5 ).
Cánh cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót cấp Giáo hội địa phương được mở ra làm cho con cái Chúa hết sức vui mừng và phấn khởi. Với khẩu hiệu “Thương Xót Như Chúa Cha” ( x. Lc 6, 36 ) là lời mời gọi sống lòng thương xót theo gương Cha trên trời, dạy chúng ta đừng xét đoán và kết án, nhưng hãy tha thứ và yêu thương vô giới hạn ( x. Lc 6, 37-38 ).
Chúa sắp ngự đến rồi, vậy để đón Chúa, chúng ta làm gì đây ? Cám ơn những người thu thuế, các quân nhân và những người đã đến hỏi Gioan về cách thức chuẩn bị đón Chúa đến, vì nhờ họ chúng ta mới có câu trả lời, Thiên Chúa không đòi điều gì ngoại thường, nhưng Chúa muốn mỗi người sống theo các tiêu chuẩn liên đới và công bằng; nếu không có những đức tính này thì ta không thể chuẩn bị tốt đẹp để gặp gỡ Chúa.
Khi dân chúng đến hỏi ông Gioan Tẩy Giả, ông khuyên: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy” ( Lc 3, 11 ). Thật là phù hợp với Năm Thánh, bởi đức bác ái được đề cao, yêu thương được chú trọng phải thực hành như Thiên Chúa. Bác ái thúc đẩy quan tâm đến người khác và đáp ứng nhu cầu của họ. Công lý đòi phải vượt thắng sự chênh lệch giữa người có của dư thừa và người thiếu những điều tối cần thiết. Công lý và bác ái không đối nghịch nhau, nhưng cả hai chắp lại thành đôi cánh để con người thăng tiến trong yêu thương. Theo Đức Nguyên Giáo Hoàng Bênêđitô 16 thì, “Tình thương luôn là điều cần thiết, cả trong một xã hội công bằng nhất, vì luôn luôn có những tình trạng thiếu thốn về vật chất trong đó sự trợ giúp là điều tối cần thiết trong sự yêu thương cụ thể đối với tha nhân” ( Trích Deus caritas est, số 28 ).
Đối với người làm nghề thu thuế, họ thường bị khinh rể bởi lợi dụng địa vị. Ông Gioan không bảo họ phải đổi nghề, nhưng đừng đòi thêm điều gì khác ngoài mức đã được ấn định ( x. Lc 3, 13 ). Theo Gioan, tiên vàn hãy chu toàn nghĩa vụ của mình một cách lương thiện. Hãy tuân giữ các giới răn ( x. Xh 20, 15 ).
Đến lượt các quân nhân, hạng người dễ bị cám dỗ lạm quyền. Thánh Gioan nói: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình” ( Lc 3, 14 ). Cả trong trường hợp này, sự hoán cải bắt đầu bằng sự lương thiện và tôn trọng tha nhân: chỉ dẫn này có giá trị đối với mọi người, nhất là những người có trách nhiệm lớn hơn.
Israel vui vì có Chúa, để có được niềm vui đích thực, niềm vui trong Chúa và có Chúa ở cùng. Mượn lời các quân nhân, chúng ta hỏi Gioan Tiền Hô: Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì ? Chắc ngài sẽ chỉ cho chúng ta những việc phải làm. Chỉ dẫn của Gioan Tẩy Giả vẫn luôn thời sự: cả trong thế giới phức tạp của chúng ta ngày nay, tình thế sẽ khá hơn nếu mỗi người tuân giữ các quy luật hành xử này.
Cửa Năm Thánh đã được mở ra, để sống Năm Thánh cách tốt đẹp nhất, theo lời dạy của Đức Thánh Cha Phanxicô:
- Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, hãy tha thứ và cho đi, tránh tật nói hành nói xấu, tránh lời nói ghen tương, phân bì, đón nhận điều tốt lành ở nơi mỗi người.
- Cởi mở tâm hồn đối với những người đang sống trong tình trạng bấp bênh, đau khổ; những anh chị em bị tước đoạt phẩm giá. Hãy phá vỡ hàng rào của sự dửng dưng lãnh đạm là thái độ đang lan tràn, che đậy sự giả hình và ích kỷ.
- Vui mừng thực thi những công việc bác ái về thể lý và tinh thần, “để thức tỉnh lương tâm ngái ngủ của chúng ta trước thảm trạng nghèo đói” và đừng quên rằng “vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức bác ái” ( lời Thánh Gioan Thánh Giá ).
Ước chi Lễ Giáng Sinh nay đã gần, thôi thúc chúng ta khắp nơi trên trần thế canh tân niềm tin của mình vào Thiên Chúa và vào Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, đồng thời chuẩn bị một nơi xứng đáng để đón tiếp Chúa Kitô.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn để đón rước Chúa Giêsu. Amen.
“Mừng vui lên Sion, này đây Chúa ngươi đến rồi. Mừng vui lên Sion, Ngài khấng nghe lời ngươi đó. Ngài dẫn đưa ngươi, qua những hố sâu, qua núi đồi, Về nơi an vui, nơi suối mát trong đẹp tươi.” Đó là lời reo ca thoát thai từ niềm tin son sắt của tiên tri Sôphônia trong cảnh tang tóc khổ đau của kiếp lưu đày biệt xứ.
Số là vào thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên, vùng đất Do Thái bị áp lực và sâu xé bởi đoàn quân viễn chinh Assyria hùng mạnh ở phía Bắc và vương quốc Ai Cập rộng lớn ở phía Nam. Ngoài ra còn phải đương đầu với tệ nạn cướp bóc, sách nhiễu của các nước lân bang. Triều đình Do thái bị phân năm xẻ bảy. Người thì muốn cấu kết với Assyria để tránh tai hoạ, kẻ thì đòi liên minh với người Assur để chống giặc phương Bắc. Tình trạng rối rắm, bất ổn, chia rẽ, lo sợ đã làm đất nước nhỏ bé Giuđa rơi vào hoàn cảnh khốn đốn, kiệt quệ chưa từng thấy. Rốt cuộc Giêrusalem bị dày xéo, đền thờ rơi vào tay giặc, và dân cư phải đi lưu đày. Kiếp nô lệ cho đế quốc Assur bắt đầu.
Vào khoảng năm 609 trước Thiên Chúa giáng sinh, đế quốc Assur bắt đầu suy yếu. Tin tưởng ngày Giavê ra tay cứu thoát, thấy trước thời kỳ khôi phục quốc gia Giuđa, Sôphônia đã phấn chấn tâm hồn người dân lưu đày bằng lời reo vui: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi nhà Israel hãy vui mừng ! Vì Chúa đã cất án phạt trên ngươi. Địch thù của ngươi, Ngài bắt phải tháo lui. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn phải sợ khổ cực nữa” ( Xp 3, 14-15 ).
Đây là niềm vui lớn lao cho toàn dân. Vui vì được Giavê giải thoát. Vui vì Chúa đến ở với dân Người. Chính Thánh Phaolô cũng đã nhắc đến niềm vui cứu độ này cho cộng đoàn tiên khởi Philip: “Anh em hãy vui mừng lên… vì Chúa đã gần bên” ( Pl 4, 4-5 ). Đây chính là chủ đề của Chúa Nhật thứ 3 mùa vọng. Màu tím trong Phụng Vụ được thay bằng màu hồng. Qua đó, Giáo hội kêu mời dân Chúa hãy đổi mới thái độ sống, hãy hân hoan vui mừng, hãy hát lên, vì khổ đau kinh hoàng sẽ qua đi và bình an của trời cao đang ngự đến.
Hãy đổi mới thái độ sống cũng chính là câu trả lời của Thánh Gioan Tiền Hô khi dân chúng đến hỏi “Chúng tôi phải làm gì ?”
Theo Thánh Gioan, để đón chào Sứ giả Bình an, để tiếp nhận Hạnh phúc của trời cao, thì “ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy… Đừng đòi gì quá mức ấn định… Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai.” Phải chăng vị ngôn sứ đã muốn làm nổi bật chân lý: Hãy thương người để gặp được Chúa.
Khi hết lòng tu chỉnh thái độ sống của mình đối với anh chị em chung quanh, khi cố gắng thực thi công bình, bác ái, yêu thương và san sẻ, khi quyết tâm thay đổi tính khí xung giận hận thù, là tôi đang chân thành mở ngỏ đón mừng Đấng Cứu Thế ngự đến, là khơi dòng cho nguồn bình an tuôn tràn đến người thiện tâm, và làm cho thiên đàng thật sự chớm nở nơi trần thế.
Người Nhật thường kể cho nhau nghe câu chuyện về một hiệp sĩ Samurai hung bạo, cộc cằn không ai bằng. Một hôm chàng ta đến gặp một vị thiền sư và nói: "Xin hãy chỉ cho tôi biết thiên đàng là gì và hoả ngục là gì ?"
Vị thiền sư đưa mắt nhìn con người thô bạo từ đầu đến chân rồi thất vọng trả lời: "Dạy cho ngươi biết thế nào là thiên đàng và thế nào là hoả ngục ư ? Ta không thể dạy cho ngươi bất cứ điều gì cả. Vì ngươi là một kẻ hung bạo, thô lỗ. Ngươi là nỗi tủi nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ Samurai. Hãy cút khỏi mặt ta. Ta không chịu được ngươi nữa.
Nghe những lời sỉ vả ấy, chàng hiệp sĩ nổi nóng, liền rút gươm định chém đầu vị thiền sư. Nhưng vị này giơ tay ngăn lại và nói: "Hỏa ngục là thế đó !"
Chợt nhận ra đây là bài học thực tiễn của nhà tu hành, chàng hiệp sĩ vội dừng tay. Sự hối hận bỗng đâu dâng tràn tâm hồn, chàng ta hiểu rằng vị thiền sư muốn hy sinh cả mạng sống để dạy cho mình bài học về hoả ngục. Thế rồi chàng từ từ hạ gươm xuống, cho vào bao, đoạn đến quì gối trước mặt vị thiền sư với tất cả sự thành tâm sám hối. Vừa nâng chàng dậy, vị thiền sư vừa nhìn sâu vào đôi mắt của chàng và nói: 'Thiên đàng là thế đó !"
Thiên đàng đã hiện hữu nơi cõi thế. Đấng Cứu Thế đã đến trần gian. Một Hài Nhi đã sinh ra đời. Nhưng, nếu không biết thành tâm sám hối, đổi mới thái độ, làm sao người ta có thể cảm thấu được hạnh phúc thiên đàng là gì, Chúa Hài đồng là ai, hay niềm vui cứu độ là chi. Phải chăng vì bao lâu nay tính nóng nảy, giận hờn, ích kỷ, và nhất là vì thiếu hành vi sám hối mà người ta đã gây ra không biết bao nhiêu quang cảnh tan nát, lưu đày, hoả ngục cho chính mình và cho tha nhân ?
Nhưng nếu biết sống an hoà với mọi người, biết chia sẻ cứu giúp những ai bần cùng khốn khó, biết chế ngự thói xấu tật hư, biết hướng lòng lên với trời cao bằng kinh nguyện và lời tri ân, thì như lời Thánh Phaolô đoan quyết, “bình an của Thiên Chúa sẽ gìn giữ lòng trí của anh em trong Đức Giêsu Kitô” ( P1 4, 7 ).
Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Các Chúa Nhật trong Năm Phụng Vụ đều có tên gọi bằng La ngữ theo Ca Nhập Lễ. Chúa Nhật III Mùa Vọng là Chúa Nhật Gaudete – Chúa Nhật Vui. Ca Nhập Lễ của Chúa Nhật III Mùa Vọng sử dụng Pl 4, 4-6 và Tv 85 [84], 1, mở đầu là chữ Gaudete:
“Gaudete in Domino semper: iterum dico, gaudete. Modestia vestra nota sit omnibus hominibus: Dominus enim prope est. Nihil solliciti sitis: sed in omni oratione petitiones vestræ innotescant apud Deum. Benedixisti Domine terram tuam: avertisti captivitatem Jacob – Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa". Tôi nhắc lại: "Vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Lạy Chúa, Ngài đã tỏ lòng thương thánh địa, tù nhân nhà Giacóp, Ngài dẫn đưa về”.
Chúa Nhật III Mùa Vọng là Chúa Nhật Vui vì chúng ta đã đi được nửa chu kỳ Mùa Vọng, ngày Đức Kitô đến gần rồi. Chúa Nhật này khuyến khích chúng ta tiếp tục canh tân tâm hồn, dọn “đường lòng” cho Chúa đến, nghĩa là chúng ta phải chân thành chay tịnh và cầu nguyện.
Trong Mùa Vọng, ngọn nến thứ ba của Vòng Lá Mùa Vọng được thắp sáng vào Chúa Nhật Vui. Theo truyền thống, ngọn nến này có màu hồng.
Mùa Vọng có Chúa Nhật Vui ( Gaudete ), Mùa Chay có Chúa Nhật Mừng ( Laetare – với câu Is 66, 10-11 ). Lễ phục của hai Chúa Nhật này đều là màu Hồng, màu của sự Vui Mừng.
Ngôn Sứ Isaia nói: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy; vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Libăng, vẻ rực rỡ của núi Cácmen và đồng bằng Saron. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta. Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan: Can đảm lên, đừng sợ ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Vì có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất” ( Is 35, 1-6a, 10 ).
Thánh Gioan cho biết: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” ( Kh 21, 4 ). Niềm vui quá lớn lao !
Mỗi Kitô hữu đều được Thiên Chúa chúc lành. Chúng ta phải chia sẻ phúc lành đó cho những người khác, vì chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa, là chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô.
TRẦM THIÊN THU, chuyển ngữ từ Catholicism.about.com
Trước câu hỏi này, Gioan Tiền Hô đã trả lời cho ba nhóm người. Trước hết cho những người thiện chí đang mong chờ ngày Chúa đến, Gioan dạy họ cũng như dạy cho chúng ta biết chia sẻ cơm áo với những người túng thiếu. Đó là điều tối thiểu. Nếu ngày nay tiếng nhà tiền hô còn vang vọng khắp núi đồi, ông sẽ kêu gọi cải thiện hoàn cảnh kinh tế, xã hội, lo cho có công ăn việc làm, nhà ở, tiền lương tương xứng, bảo vệ sức khoẻ.
Tiếp đến với những người thu thuế, đại diện cho lớp quan chức hay tham nhũng bóc lột người khác, Gioan kêu gọi sự liêm khiết.
Sau cùng với những người có phận sự giữ gìn trật tự công cộng, Gioan bảo họ phải công minh, biết tôn trọng kẻ khác. Mỗi người trong địa vị, chức vụ và công việc của mình, cố gắng chu toàn một cách tốt đẹp. Thế nhưng Gioan, vị tiền hô ấy là ai?
Ông không phải chỉ được sai đến giảng dạy một vài bài học luân lý thường thức. Trái lại, tiếng ông vang dội trên núi đồi, lôi kéo đông đảo mọi người, thuộc đủ mọi thành phần. Người ta coi ông là đấng cứu thế, nhưng ông xác định mình chỉ là một tiếng kêu, một người làm phép rửa dọn đường. Ông là nhà tiên tri đầu tiên nói đến một phép rửa trong Chúa Thánh Thần và lửa. Ông cũng làm phép rửa theo tục lệ Do Thái để thúc đẩy mọi người sám hối ăn năn, thế nhưng đây mới chỉ là một nghi thức tiên báo bí tích Rửa tội của Đức Kitô, Đấng sẽ rửa trong nước và Thánh Thần.
Như thế, bí tích Rửa tội của Đức Kitô bao gồm hai mầu nhiệm, đó là phục sinh và hiện xuống, nhờ đó chúng ta được rửa sạch tội lỗi, liên kết với Đức Kitô phục sinh, nhưng đồng thời cũng được sức mạnh Chúa Thánh Thần nâng đỡ, để làm chứng cho Đức Kitô phục sinh.
Với chúng ta ngày hôm nay, là Kitô hữu, chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội, thế nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có thực sự sống ơn rửa tội hay không? Chúng ta có làm cho xã hội thấm nhuần tinh thần Phúc Âm hay không?
Trong Thông điệp Centesimus Annus, Năm thứ một trăm, được công bố vào năm 1991, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi phân tích về sự sụp đổ của cộng sản Đông âu và sự tái thiết một xã hội mới, ngài đã lên án điều mà gọi là “xã hội tiêu dùng” muốn giảm hạ con người vào lãnh vực kinh tế và làm thoả mãn các nhu cầu vật chất mà thôi, nghĩa là thay thế thần tượng đã sụp đổ bằng một thần tượng khác không mấy tốt đẹp hơn. Cho đến ngày hôm nay, chúng ta đã làm được những gì để đón mừng ngày Chúa đến.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau tìm hiểu về sứ điệp của Gioan bên bờ sông Giođan để rồi từ đó áp dụng vào Mùa Vọng, mùa chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Gioan xuất hiện rất khác biệt, không những khác biệt trong cách sống mà cả trong tư tưởng nữa. Đang khi tất cả những phe nhóm tôn giáo ở thời đại ông như nhóm Pharisêu, nhóm Saducêo, nhóm Etxenien, tất cả đều trông chờ một sự chiến thắng của Do Thái giáo trên mọi kẻ thù của họ thì Gioan đến như một dấu chứng đối kháng, một sự kết án và huỷ diệt cả Israel.
Gioan là một tiên tri loan báo sự đau khổ và tàn phá. Sứ điệp của Gioan rất đơn sơ: Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ với dân Ngài, Ngài đã hoạch định chương trình để phạt họ. Ngài sắp can thiệp vào lịch sử để lên án và thiêu huỷ họ. Gioan diễn tả cuộc tàn phá đó như một cuộc cháy rừng, đốt tất cả rơm rạ và cây cối, tiêu huỷ mọi dân tộc trong biển lửa. Gioan tiên tri rằng cuộc xử phạt nghiêm khắc của Thiên Chúa đối với Israel sẽ được một con người đến thực hiện.
Gioan nói về con người đó như Đấng phải đến. Ngài đã sẵn sàng, đang đứng, tay cầm rìu cầm sàng. Để có thể tránh cái án phạt mà Thiên Chúa sắp đổ xuống, Gioan kêu gọi sự sám hối. Nghi thức thanh tẩy là một dấu chỉ về sự sám hối ấy: họ đã xưng các tội của họ ra và nhận lấy nghi thức thanh tẩy của Gioan. Nếu tất cả cộng đoàn Do Thái hay có thể nói một số đông con cái Abraham thành tâm hối cải, có thể Thiên Chúa sẽ nguôi cơn giận và bỏ qua cuộc sử phạt này. Còn nếu Israel không hối cải, Thiên Chúa sẽ huỷ diệt và thiết lập một dân tộc mới. Chính vì thế mà Gioan đã kêu gọi hết mọi người, nào tội lỗi đĩ điếm, nào thu thuế lính tráng, nào luật sĩ và Pharisêu. Ở đây tất cả đều được mời gọi hãy hoán cải, hãy biến đổi cả cuộc đời.
Điều Gioan nhấn mạnh là một nếp sống luân lý mới đầy tính chất xã hội, lấy anh em làm gốc chứ không phải là lề luật, để sống vì con người: Kẻ nào có hai áo hãy chia cho người không có và kẻ có ăn cũng hãy làm như thế. Với người thu thuế ông nói: Chớ đòi điều gì quá mực đã định cho các ông. Với lính tráng, ông bảo: Đừng sách nhiễu, đừng vu khống, hãy bằng lòng với lương bổng của mình.
Từ xưa đến nay, khi nói đến việc chuẩn bị đón mừng Chúa, chúng ta nghĩ ngay tới việc đi xưng tội, lo dọn mình sạch mọi tội lỗi, trong khi đó Thánh Kinh lại nhắm vào việc cải đổi đời sống, một cuộc sống đầy tình người. Chỉ có cuộc sống chân chính không gian dối, không bóc lột, không lừa đảo, không gian tham; chỉ có cuộc sống liêm chính, công bình, yêu thương, chia sẻ và phục vụ mới dần dần tạo cho tâm hồn mình tinh sạch, mới giúp chúng ta chuẩn bị đón Chúa đến một cách đầy đủ và có ý nghĩa nhất.
Chương trình cứu độ của Thiên Chúa ban cho loài người được hình thành qua rất nhiều thời kỳ. Thiên Chúa đã mặc khải ý định qua từng biến cố vui buồn của một dân tộc. Người đi vào thời gian để thực hiện ý định của Người. Đọc lịch sử dân Do-thái, chúng ta nhận ra bàn tay quan phòng của Người qua từng giai đọan. Thiên Chúa không rút bớt thời gian và không dùng sự lạ để đạt tới mục đích ngay, nhưng chờ đợi chuẩn bị của từng thế hệ con người. Mỗi thế hệ, Chúa lại chọn gọi một số những ngôn sứ và chứng nhân. Người mong muốn cải đổi từng tâm hồn để đón chờ Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa sai các tiên tri để loan báo tin vui ngày xum họp trở về. Mỗi biến cố xảy đến cho dân là một dấu chỉ lòng thương xót. Tiên tri Sophonia đã cất tiếng: Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi (Soph 3, 14).
Dân Chúa đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Chúa ban cho Dân thật nhiều hồng phúc, nhưng họ cũng phải đối diện với nhiều thách đố thường ngày. Chúa để mắt đoái nhìn và dẫn dắt Dân trong nẻo chính đường ngay, nhưng rất nhiều lần họ đã đi lạc xa và rời bỏ Chúa. Chúa phạt họ lưu đầy, nhưng rồi Chúa lại qui tụ họ về. Tiên tri Sophonia diễn tả: Như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa (Soph 3, 18). Ơn cứu độ được cưu mang qua nhiều dòng dõi nối tiếp sứ mệnh chuẩn bị. Chúng ta không thể tách rời các biến cố nhỏ to trong chương trình cứu độ. Thời gian là trường huấn luyện và là thuốc chữa lành tâm linh. Biết bao nhiêu kinh nghiệm xương máu để gìn giữ kho tàng châu báu niềm tin của cha ông. Đó là tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất.
Bài phúc âm của Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng, Gioan Tẩy Giả xuất hiện giữa đám đông mở đường hoán cải. Gioan bắt đầu sứ mệnh rao giảng sám hối ngay giữa nơi quần chúng. Mọi cấp bậc và mọi giới đã chạy đến ngài và xin ý kiến làm sao có thể đổi đời. Cả các binh lính cũng đến hỏi: "Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?" Ông bảo họ: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình." (Lc 3, 14). Lời kêu gọi của ông Gioan vẫn vang vọng qua mọi thời. Hôm nay đây mỗi người chúng ta cũng hỏi: Tôi phải làm gì để nên trọn lành? Cũng chính những việc cần thi hành mà Gioan đã nói về lòng bác ái, sự công bằng, sống ngay chính và thái độ chấp nhận. Niềm vui trong tâm hồn sẽ dâng trào khi sự ích kỷ, gian tham và kiêu căng bị xóa nhòa.
Cuộc sống xã hội tạo nên hình dạng nếp sống con người. Người ta nói gần mực thì đen, gần đền thì rạng. Cách sống và suy tư hành xử của chúng ta cũng bị ảnh hưởng khi sống trong xã hội một xô bồ, gian dối và lừa đảo. Những sai lạc và lầm lỗi nho nhỏ trở thành thói quen hằng ngày, chúng ta không còn nhận diện sự chính thật. Thánh Gioan Tẩy Giả đã khơi dậy và nhắc nhở mọi người sống tinh thần mới lấy đức ái làm cột trụ dẫn đường. Việc làm cấp bách là hãy chia sẻ áo quần, cơm bánh cho những người nghèo khó đói ăn, thiếu mặc. Niềm an vui của ơn cứu độ không cao siêu xa vời, nhưng hòa nhập ngay trong cuộc sống đời thường. Chúng ta sẽ nhận được niềm vui hoan lạc khi biết chia sẻ, cho đi và hiến thân.
Mùa Vọng mang ý nghĩa gì cho mỗi người chúng ta trong giai đoạn này. Chúng ta có thực sự cảm nhận được niềm vui trào dâng khi đón nhận lời mời gọi của thánh Gioan không? Chúng ta có thật sự muốn canh tân đời sống và dọn đường đón nhận Chúa vào tâm hồn không? Chúng ta cần tu thân, phải tích đức và đổi mới cách suy tư sống đạo. Biết bao nhiêu cơ hội đã đi qua trong cuộc đời bị bỏ lỡ. Những ràng buộc của bản ngã và của tham sân si cuốn quyện trong cách sống. Chúng ta khó vượt ra khỏi vòng bao quanh ứng xử thường tình của người đời. Đôi khi chúng ta cũng đua đòi và hãnh diện về những thói hư tật xấu của mình. Nghĩ rằng mình hiểu đời, điệu đời, chịu chơi và thích ứng được với những đua chen xã hội. Chúng ta cảm thấy thỏa mãn cuộc sống và dần rời xa những ràng buộc luân lý đạo đức.
Không phải ngày một, ngày hai là chúng ta thoát được khỏi vòng cuốn hút đam mê cuộc đời. Người ta thường nói rằng con người thì chứng nào tật ấy. Đúng thật, một tật xấu đã nhiễm, không dễ gì thay đổi. Việc xấu đã thành thói, khó bề sửa chữa. Có người khoe rằng tính tôi là vậy đó. Ai chịu thì chịu, không chịu thì thôi. Đây chỉ là cách cãi chầy và nói cối. Cần khiêm hạ trong ý thức với cả ý chí quyết tâm để có thể tránh xa và loại trừ những thói xấu. Thuốc nhẫn nhục chữa bệnh tham sân si. Ai cũng cần phải tu thân và tu tâm để nên người hoàn thiện. Nếu chúng ta tu được trong nghịch cảnh mới gọi là chân tu. Khi gặp những sự trái tai, gai mắt và thị phi, mà chúng ta cầm lòng được mới gọi là tu. Nếu không đối diện với nghịch cảnh thì khó biết sức tu của mình. Khi đụng truyện, chúng ta mới biết kẻ dữ, người hiền. Nếu chúng ta không tu tập sửa đổi thì ngày qua tháng lại, tuổi đời chồng chất và tóc bạc răng long, các thói hư tật xấu vẫn còn đó.
Hãy vui lên vì ơn cứu độ đã gần kề. Hãy vui với những giây phút hiện tại, chúng ta không phải đợi đến ngày mai. Chúng ta hãy bắt đầu ngay ngày hôm nay những gì có thể làm. Chân thành nhận diện những gốc rễ của sự sai xót, yếu đuối và lầm lạc để hồi đầu. Chúng ta chấp nhận sự thật về mình và đứng trên đôi chân của mình. Bỏ đi được một thói hư hay một tật xấu là chúng ta đã bước lên một nấc thang của sự hoàn thiện. Như ông Gioan, tuy dù mọi người kính phục Gioan, nhưng không màng dư luận thị phi. Ông trả lời thẳng thắn: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16). Gioan khiêm hạ trong lòng để chu toàn sứ vụ được trao. Nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa để dọn đường cho Chúa. Là những thừa tác viên của lời Chúa, chúng ta hoàn tất mọi công việc như người đầy tớ phục vụ.
Niềm vui của ngày trở về quê hương xứ sở là biến cố hân hoan. Thánh Phaolô viết thơ cho tín hữu thành Philipphê cũng loan báo tin vui: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!(Phil 4, 7). Phaolô đã đón nhận niềm vui ngập tràn bởi chính nguồn ơn cứu độ là Chúa Kitô phục sinh. Ngài không quản ngại gian khó trên bước đường truyền giáo. Phaolô đã chịu trăm ngàn đắng cay để làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Ngài khuyên lơn các tín hữu khởi đầu là hãy đặt niềm tin vào Thiên Chúa: Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện (Phil 4, 7). Tin vui cần được loan truyền. Phaolô đã lãnh nhận nhưng không, nên ngài cũng đem tin mừng biếu không bằng mọi giá.
Lạy Chúa, nếu không có ơn Chúa, chúng con chẳng làm được gì. Hãy luôn gắn bó với Chúa Giêsu là nguồn cội để lãnh nhận sự sống. Chúa phán: Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được (Ga 15, 5). Xin cho chúng con biết tận dụng mọi thời gian để tu tâm và luyện tính để nên hoàn thiện hơn. Không tu luyện, kiềm chế và tiết độ thì không thể thay đổi tính tình. Cuối cuộc đời nhìn lại đời mình, có khác gì như con dã tràng xe cát biển đông.
Một trong những chủ đề của các bài đọc hôm nay là chủ đề về hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều mong muốn có hạnh phúc. Nhưng bí quyết của hạnh phúc là gì?
Lần kia, có một người chăn chiên gửi con trai của ông đến với một người khôn ngoan, để học hỏi bí quyết của hạnh phúc. Khi tới tòa lâu đài đẹp đẽ, nơi sinh sống của con người khôn ngoan đó, người con trai đó nói với ông ta rằng anh mong muốn được biết về bí quyết của hạnh phúc. Tuy nhiên, thay vì giải nghĩa cho anh về bí quyết này, con người khôn ngoan đó lại đưa cho anh một cái muỗng chứa đầy dầu, nói rằng: “Con hãy nhìn khắp chung quanh tòa lâu đài. Trong đi vòng quanh, con hãy mang theo cái muỗng này, mà không được làm chảy dầu ra”.
Anh thanh niên bắt đầu đi vòng quanh tòa lâu đài. Trong khi đi, anh liên tục nhìn vào cái muỗng. Sau hai giờ, anh trở lại căn phòng, nơi có nhân vật khôn ngoan đó.
Người khôn ngoan hỏi “Tốt, thế con nhìn thấy cái gì?”.
Anh thanh niên tỏ ra bối rối, và thú nhận rằng anh không hề nhìn thấy gì cả. Mối quan tâm duy nhất của anh là không làm chảy dầu ra, theo như người khôn ngoan đã tin tưởng vào anh. Người khôn ngoan nói: “Vậy thì con hãy đi trở lại, và quan sát những quang cảnh tuyệt vời trong thế giới của ta. Con không thể tin tưởng vào một người nào, nếu con không biết gì về ngôi nhà của người đó”.
Trong tâm trạng khuây khỏa, anh thanh niên cầm lấy cái muỗng, và trở lại với công việc đi khám phá tòa lâu đài, lần này, anh quan sát tất cả những đồ đạc đẹp đẽ và những tác phẩm nghệ thuật trang trí các căn phòng của tòa lâu đài. Sau đó, anh thăm viếng khu vườn, với vòi nước nguy nga, những bông hoa và những bụi cây xinh đẹp, thưởng thức thị hiếu thẩm mỹ mà tất cả mọi đồ vật được bố trí theo đó. Khi trở về với nhân vật khôn ngoan, anh tường thuật lại từng chi tiết mọi thứ anh đã nhìn thấy.
Người khôn ngoan hỏi: “Nhưng những giọt dầu mà ta đã tin tưởng giao phó cho con đâu rồi?”. Anh thanh niên nhìn xuống cái muỗng, và nhận thấy không còn chút dầu nào cả.
Người khôn ngoan nói “À, ta chỉ có thể cho con một lời khuyên mà thôi: Bí quyết của hạnh phúc hệ tại ở khả năng nhìn thấy tất cả những điều tuyệt vời của thế giới, không bao giờ quên lãng những giọt dầu trong cái muỗng”.
Ngay tức khắc, anh thanh niên hiểu được điều mà nhân vật khôn ngoan đang nói. Người chăn chiên có thể ưa thích đi đây đi đó, nhưng người đó không bao giờ được quên đàn chiên của mình. Bí quyết của hạnh phúc bao gồm sự trung thành với những lời cam kết của mình và có tinh thần trách nhiệm, trong khi đồng thời vẫn thưởng thức được hương vị cuộc sống. Thật dễ dàng có hạnh phúc, khi chúng ta đang làm công việc mà mình mong muốn. Nhưng để tìm thấy hạnh phúc trong những công việc mà chúng ta phải làm, chứ không đơn giản là trong công việc mà chúng ta muốn làm, thì đây là một ân sủng của Thiên Chúa.
Hạnh phúc không phải là một cảm giác tự mãn nông cạn. Chúng ta không thể có hạnh phúc, nếu những công việc chúng ta làm đều khác hẳn so với những điều chúng ta tin tưởng. Và không thể có hạnh phúc, mà không có tình yêu. Khi chúng ta khước từ tình yêu, thì một cảm giác buồn phiền sẽ thấm nhập vào tâm hồn chúng ta.
Chúng ta cũng không được đánh giá sự vui mừng và lạc thú ngang hàng với nhau. Lạc thú thuộc về cơ thể, còn sự vui mừng thuộc về tinh thần. Bạn có thể nhanh chóng ngán ngẩm lạc thú, nhưng bạn không bao giờ chán ngán niềm vui.
Cuối cùng, chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa mới có thể đáp ứng được trọn vẹn những giấc mơ của chúng ta. Sự hiện diện của Thiên Chúa chính là nguyên nhân đưa đến niềm vui cho chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói với dân chúng “Anh em hãy vui mừng lên”. Nguyên nhân của niềm vui đó là gì? Bởi vì “Thiên Chúa đang ở giữa anh em”. Và thánh Phaolô cũng nói với dân thành Philipphê: “Tôi mong muốn cho anh em được hạnh phúc”. Tại sao vậy? Bởi vì “Chúa rất gần rồi”. Niềm vui mà thế gian này không thể nào mang lại được, chính là niềm vui phát xuất từ ý nghĩ về Thiên Chúa và tình yêu của Người đối với chúng ta.
Phụng vụ của Chúa nhật 3 Mùa vọng mang một bầu khí vui mừng. Thực vậy, ngay từ ca nhập lễ, thánh Phaolô đã kêu gọi: Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tiếp đến, trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Sophônia cũng đã nhắn nhủ: Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan nhảy mừng. Sở dĩ như vậy là vì Chúa đã gần đến.
Kinh nghiệm cho thấy niềm vui là một điều rất cần cho đời sống con người. Vào dịp tết chúng ta thường cầu chúc cho nhau được vui vui tươi và hạnh phúc. Khoa tâm lý còn chứng minh niềm vui làm cho con người trẻ hơn và sống lâu hơn. Trong thực tế, con người cố tạo cho mình nhiều niềm vui, nhưng đâu mới chính là niềm vui đích thực? Bởi vì có những niềm vui, mà sau đó con người cảm thấy trống rỗng và chán nản. Có những niềm vui, mà sau đó con người cảm thấy mệt mỏi và thất vọng. Có những niềm vui, mà sau đó con người cảm thấy lo âu và hối hận.
Với lễ Giáng Sinh cũng thế. Chúng ta cảm thấy vui khi ngắm nhìn những ngôi sao, những hang đá rực rỡ ánh điện màu. Chúng ta cảm thấy hân hoan khi nghe những bản thánh ca tuyệt vời, hay khi nhận được những tấm thiệp chúc mừng. Tất cả đều là những niềm vui chính đáng, nhưng chưa phải là niềm vui đích thực. Bởi vì lễ Giáng Sinh sẽ qua đi, mọi trang trí sẽ bị dẹp bỏ, mọi người trở về với cuộc sống thường ngày. Vì thế, niềm vui đích thực phải là niềm vui xuất phát từ bên trong, từ tâm hồn của con người. Đi tìm niềm vui ở bên ngoài chỉ là một chạy trốn thực tại và không bao giờ đạt tới kết quả, vì người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Vậy phải làm gì để có được niềm vui đích thực?
Thánh Gioan tiền hô qua đoạn Tin Mừng hôm nay đã trả lời: Hãy sống công bình và bác ái, biết nghĩ đến người khác, biết chia sẻ với những người kém may mắn, đừng lợi dụng địa vị và quyền hành để chèn ép và bóc lột người khác. Tóm lại, hãy quên mình để phục vụ an em và chu toàn những bổn phận hằng ngày, đó là con đường dẫn tới niềm vui đích thực. Mảnh đất tối cho niềm vui phát triển là tình bác ái yêu thương. Sống trong một thế giới đầy hận thù và chiến tranh, sống trong một xã hội cá lớn nuốt cá bé. Sống trong một môi trường đảo điên và lừa gạt, chúng ta dễ bi quan và cho rằng: Con người khó mà yêu thương nhau chân thành. Dầu vậy, chúng ta đừng vội tuyệt vọng, nhưng hãy nhớ đến mối phúc thật thứ bảy: Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật, vì chưng họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Hãy thực thi công bằng và bác ái, nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng niềm vui mừng và bình an mà Chúa sẽ đem đến qua tiếng hát của các thiên thần trên cánh đồng Belem năm xưa: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Trước những biến cố quan trọng, trước những nguy khốn cấp bách, người ta thốt lên: Tôi phải làm gì? Gioan tiền hô xuất hiện, kêu gọi mọi người dọn đường đón Đấng Cứu thế. Dân Do thái hàng ngàn năm đã được nghe về Đấng Cứu thế. Bao nhiêu thế hệ đã khao khát mong chờ Đấng Cứu thế.
I/ Dân chúng mong đợi Đấng Cứu thế vì nhiều lý do:
1/ Kẻ buồn vì đất nước bị gót giày ngoại bang chà đạp, mất tự do tín ngưỡng, mất tự do nhân phẩm, khổ vì bị bóc lột, đau vì bị áp bức. Người có chức quyền địa vị chỉ lo vơ vét ăn chơi tửu sắc, còn dân chúng sống chết mặc bay.
2/ Kẻ học biết Kinh thánh và nhữnh kinh sĩ chỉ lo nghiền ngẫm những lời tiên tri loan báo: Đấng Cứu thế sắp đến là “Vua được xức dầu, Ngài đến trong dòng dõi Giuda, Ngài chiến thắng quân thù, giết những vua quan ngoại bang… Đấng xức dầu sẽ tụ họp dân Ngài trong đường công chính, cai trị các quốc gia, loại trừ mọi bất công và gian ác. Phúc cho ai được sống trong thời đại ấy”. Họ nghiền ngẫm những lời ấy và suy đoán sắp đến ngày Đấng Cứu thế xuất hiện và ai ai cũng đều cầu xin Ngài đến. Giờ đây họ được nghe loan báo Ngài đang đến. Thế là như cá gặp nước, như người chết đuối vớ được phao cứu, dân chúng đổ xô đến hỏi Gioan: “Chúng tôi phải làm gì để đón rước Đấng Cứu thế?”. Gioan không bắt họ phải bỏ nghề nghiệp, địa vị, việc làm, không bắt họ lên rừng ẩn tu khắc khổ, cũng không phải ăn chay, khóc lóc, mặc áo nhặm, rắc tro lên đầu như tiên tri Giona đã bảo dân Ninivê. Gioan chỉ kêu gọi họ phải hối cải, phải kiểm tra lối sống của mình, từ bỏ bất chính, cải thiện đời sống, quyết tâm thực thi công bằng, bác ái trong chính nhiệm vụ, nghề nghiệp, chức năng riêng của mình.
II/ Vậy công bằng, bác ái là gì?
1/ Công bằng là gì? Qua hai lời chỉ dẫn của Gioan cho hai hạng người lính và thu thuế.
Đối với lính thì Ngài khuyên: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. Lính tiêu biểu cho hạng người có sức mạnh, có quyền lực vũ khí trong tay, muốn hoành hành thế nào tùy thích, dễ ỷ mạnh hiếp yếu, đe dọa, áp bức bóc lột bất công, khó có thể sống ngay chính, vì thế Thánh Gioan đã khuyên họ: Hãy bằng lòng với số lương của mình hay số tiền do công lao chính đáng của mình làm ra, chứ đừng bóc lột, vơ vét, trộm cắp của người khác, sống công bằng như thế họ sẽ xứng đáng đón rước Đấng Cứu thế.
Lỗi đức công bằng này thì dễ biết vì nó trực tiếp làm hại người ta. Nhưng công bằng trong nhiệm vụ thì khó biết.
Công bằng trong nhiệm vụ được thực hiện trong việc thâu thuế, nên đối với người thâu thuế Gioan khuyên: “Đừng đòi gì quá mức ấn định”
Thứ nhất, mức ấn định là mức do luật pháp đã ban hành cách hợp lý, thuế quá mức là bất công.
Thứ hai, dân có mức nào thì xác định mức đó, không vì lập công mà khai thêm đánh quá.
Thứ ba, đồ tốt xấu thế nào, đánh giá đúng như thế, đừng gian dối tráo trở, tăng giảm sai sự thật là bất công.
Thứ bốn, giữ nhiệm vụ nào phải lo chu toàn nhiệm vụ ấy, lười biếng bê trễ, phung phí là bất công; làm Linh mục bê trễ là bất công; làm cha mẹ, thầy cô không lo dạy dỗ con trẻ là bất công; làm cán bộ, công chức không lo giúp đỡ dân là bất công; con cái không giúp đỡ, nghe lời cha mẹ, thầy cô là bất công. Sống công bằng thôi chưa đủ vì chỉ là mức đạo đức tối thiểu theo luật: “mắt đền mắt, răng đền răng, ác giả ác báo”. Nếu cứ ăn miếng trả miếng như thế, thì đời sống sẽ chất đầy hận thù. Sống bác ái mới đạt giá trị đạo đức đích thực. Để đáng được vui luôn trong niềm vui đón mừng Đấng Cứu thế đến, Gioan khuyên mọi người phải thực thi bác ái: “Ai có hai áo thì chia cho người không áo, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Thánh Luca đã diễn tả đúng đời sống bác ái của cộng đoàn tín hữu thời các tông đồ.
2/ Bác ái là gì? Theo Thánh Phaolô: “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ, anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành” (Rm. 12, 9). Gớm ghét điều dữ là cố gắng thanh tẩy những tâm tình bất chính, hung dữ, độc ác. Đó là vấn đề tu thân. Tha thiết với điều lành là thực hiện những điều thiện hảo, chân chính, tốt lành ơn ích cho người. Đó là vấn đề dấn thân, có tu thân mới dấn thân được, đây là hai chặng đường trên cùng một đường đức ái.
Tu thân: Đức ái đòi buộc phải tu sửa, thanh tẩy mình khỏi mắc vào thói ghen tuông, tự đắc, khoe khoang, làm điều bất chính, bất nhân, nóng giận hận thù, tư lợi, không mừng khi thấy sự ác. Đức ái cũng đòi buộc phải tu luyện, học tập những đức tính nhẫn nhục, khiêm tốn, hiền hậu, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả, vui khi thấy điều chân thật (1Cp. 13, 4-7). Đạo Nho cũng chủ trương muốn thực hiện đức nhân thì tiên vàn phải tu thân. Thân gồm tâm, ý, trí nên tu thân là chính tâm, thánh ý, trí tri. Rồi mới có thể thực hiện nhân, nghĩa, lễ, trí, tín trong tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Đạo Phật cũng chủ trương muốn có tâm từ ái, từ bi, hỉ xả, cứu độ chúng sinh, tiên vàn phải diệt tham, sân, si, rồi tu tập bát chánh đạo.
Dấn thân: Sau khi đã tu thân luyên tập tâm trí nên trong sạch thì mới thấy được mặt Thiên Chúa, mới dấn thân, xả thân, hiến thân phụng sự Người. Mặt Thiên Chúa đây là tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa, những người Thiên Chúa yêu thương chúc phúc. Lúc đó ta mới có thể chia áo cho người không áo, sẻ cơm cho người đói ăn... và còn sẵn sàng hiến mạng sống cho người Chúa thương. Chỉ khi đó ta mới vui với người vui, khóc với người khóc,và mùa vọng mới là mùa reo vui, mới vui luôn trong niềm vui của Chúa, vì chính Chúa đang ngự giữa ta và bình an của Thiên Chúa mới giữ lòng trí ta được kết hợp với Đức Kitô Giêsu. Amen (Bài I, II).
Victor Frankl là một bác sĩ tâm thần người Do thái. Ông đã bị Đức Quốc Xã bắt nhốt trong trại tập trụng. Ông có viết cuốn "Tìm ý nghĩa đời người". Trong đó ông mô tả những đau khổ đồng bào ông phải chịu trong trại tập trụng. Trong những đau khổ đó, nỗi đau khổ chờ đợi là chua xót nhất: chờ để biết số phận của người thân và của chính mình, chờ để được giải thoát!...
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái cũng đau khổ chờ đợi Đấng Mesia đến giải thoát khỏi nô lệ đế quốc Lamã. Nỗi đau khổ chờ đợi này tác động mạnh trên tâm hồn họ theo nhiều cách khác nhau: một số thất vọng buồn rầu chán nản, số khác mất niềm tin, còn lại nhóm người vẫn hy vọng chờ đợi với lời cầu khẩn, van xin, thỉnh nguyên...
***
Thực sự Chúa đã đến ở giữa họ, mà họ không nhìn nhận, không tiếp rước, vì Người không làm theo ý ho. Họ chỉ nghĩ đến lợi vật chât. Chúa đến đem niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn Chúa đến đem tình thuơng cứu rỗi đến cho loài người, dạy con người sống bác ái, công bình với nhau để được "thu vào kho lẫm" là được sống hạnh phúc muôn đời. (Theo "Vision 2000")
2. Anh là kẻ có tội
Bác sĩ Karl Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ đã làm nhiều người kinh ngạc với quyển sách của ông tựa đề: "Điều gì đang xảy đến cho tôi?". Ông bắt đầu bằng câu truyện trào lộng khiến mọi người suy nghĩ Năm 1972, vào một chúa nhật tháng 9, ở một gốc phố đông người qua lại tại Chicago, xuất hiện một nhà giảng thuyết đang khi các nhân viên vội vã đi ăn trựa. Ông chỉ vào người này nói: "Anh là kẻ có tội". Đoạn ông im lặng một lúc rồi chỉ người kia nói: "Anh là kẻ có tội!..."
Khách qua đường thấy thế thì lấy làm lạ, kinh sợ. Họ lấm lét nhìn ông rồi quay đi vội vã, rồi lại lén nhìn nữa.
***
Chắc chắn Gioan Tẩy Giả ngày xưa cũng gây tác động như thế trên dân chúng khi ông xuất hiện ở sông Giođan, khiến mọi người nhận biết tội lỗi mình mà ăn năn thống hối, từ người thu thuế, đến binh lính, và dân thuờng, để đón nhận ơn cứu rỗi của Chúa Cứu Thế. Họ xúm lại nhờ ông chỉ dạy điều gì phải làm, việc chi phải lánh để được Chúa tha tội, để được huởng nhờ ơn cứu độ.
Tôi có tội không? Tôi cần ăn năn sám hối để chờ mong Chúa đến với tôi không?!
Thánh Gioan Tông đồ nói với chúng ta: "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta... Tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: Đó là Đức Giêsu(1Ga.1,8-2,1) Đấng đang đến cứu độ chúng ta. (Theo Cha M. Link).
3. Được áp dụng vào cuộc sống
Trong sách của Do thái giáo có kể câu chuyện của một nhà chế biến xà bông với một giáo sĩ. Một hôm nhà chế biến xà bông đến gặp giáo sĩ và nói: "Tôi đã hiểu đạo Do thái Ngài đã nói với chúng tôi: mục đích của tôn giáo là đem lại hòa bình, công bằng, bác ái cho thế giới. Nhưng tôi thấy những người theo tôn giáo có thực hiện điều nào đâu!...
Vị giáo sĩ bình thản mời anh đi dạo trong công viên Họ đi ngang một đám trẻ đang chơi lấm lem. Giáo sĩ nói: Quan sát các trẻ này, anh kết luận xà bông không có hiệu quả gì. Anh phản đối: xà bông bao giờ cũng hiệu quả khi nó được sử dụng. Vị giáo sĩ đáp lại: Tôn giáo cũng thế Nó cũng chỉ có giá trị khi những lời giáo huấn và những điều luật được áp dụng vào cuộc sống. (Theo "Minh họa Lời Chúa).
***
Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi các thành phần dân chúng sống bác ái, thực hiện công bằng để đón rước Chúa Cứu Thế...
Tôi có muốn đón rước Chúa Cứu Thế không? Tôi có sống bác ái công bình không?
4. Nhìn thấy Chúa...
Ở quần đảo nọ, có hai nông phu luôn kình địch cải vã nhau, cương quyết không đội trời chung. Đời sống hai người ngày càng bất hạnh, kéo theo cả hai gia đình thù hằn xô xát nhau, làm cho bầu khí trong vùng ngày càng thêm nặng nề khó sống...
Các trưởng lão trong vùng thấy vậy, cố sức giải hòa hai người. Các ông đề nghị một anh nên đi gặp Chúa. Anh sẵn sàng, nhưng hỏi lại:
- Gặp Chúa ở đâu?
Các trưởng lão dẫn anh đến nhà người anh thù ghét, giải thích cho anh hiểu kẻ mà anh thù hận là Chúa đó, vì mỗi người là hình ảnh Thiên Chúa, là anh em với nhau vì là con một Cha trên trời.
Nghe các trưởng lão giải bày chí tình chí lý, hai người ôm nhau hòa lên khóc nức nở, vì nhớ lại từ trước đến giờ mưu mô hại nhau và thù ghét đến Chúa nữa!...
***
Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người sám hối, đón rước Chúa Cứu Thế. Ai nấy xúm lại hỏi ông: "Chúng tôi phải làm gì?..."
Hai người nông dân trên đây cũng sẵn sàng nghe các trưởng lão, ăn năn sám hối lỗi lầm của mình, tha thứ cho nhau, trở lại thương yêu đùm bọc nhau, vì họ thấy Chúa trong anh em mình: "Chúa đã đến ở trong mọi người. Muốn đón rước Chúa, phải tiếp nhận anh chị em mình..."
5. Sống bác ái công bình
Dưới thời vua Cảnh Công nước Tề, có lần bão tuyết 3 ngày liên tiếp. Vua Cảnh Công ngồi trong cung điện, mặc áo lông áo kép. Ánh Tử vào hầu, Cảnh Công bảo:
- Lạ thay, mưu tuyết 3 ngày rồi mà trời không rét nhỉ.
Ảnh Tử hỏi lại:
- Ngài không rét ư?
Cảnh Công cười. Ánh Tử nói tiếp:
- Ánh Tử này vẫn thuờng nghe nói các bậc vua hiền:
Lúc no biết người khác đói. Lúc ấm biết người khác rét. Lúc nhàn hạ biết người khác vất vả.
Nay vua lại không biết thế.
Cảnh Công đáp:
- Ánh Tử nói có lý. Cảnh Công này có lỗi. Xin nghe lời.
Rồi vua cho điều tra ai đói rét để phân phát cơm gạo quần áo. (Theo "Phút Cầu nguyện", tập III)
***
Nghe lời cảnh cáo, vua Cảnh Công biết sửa mình, từ bỏ thói ích kỷ bất công, trở lại sống công bình bác ái.
Mùa Vọng, Thánh Gioan Tiền hô cũng mời gọi mọi người sống bác ái công bình để đón nhận Chúa Cứu Thế.
Ước gì mỗi người chúng ta biết vâng nghe thực hành theo lời Thánh nhân, để được Chúa đến cứu thoát chúng ta khỏi lầm than khốn khổ hồn xác.
Chúa nhật III Mùa Vọng còn được gọi là chúa nhật màu hồng, là chúa nhật vui. Vui vì “Chúa sắp MV 3-C123
Chúa nhật III Mùa Vọng còn được gọi là chúa nhật màu hồng, là chúa nhật vui. Vui vì “Chúa sắp đến”. Vui vì ngày lễ Giáng Sinh gần kề. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa!” (Pl 4,4). Niềm vui mà Thánh Phaolô nhắc tới là niềm vui trong Chúa. Niềm vui có Chúa. Niềm vui được gặp gỡ Chúa. Niềm vui “đặc thù” của người Kitô hữu. Hay nói theo ngôn ngữ của Đức Thánh Cha Phanxicô, đây là “Niềm vui của Tin Mừng”. Ngài nói: “Niềm vui của Tin Mừng đổ tràn đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu” (x. Tông thư Niềm Vui Tin Mừng, số 1). Và để chứng minh điều đó, trong số 5 của Tông thư vừa nêu, Đức Thánh Cha đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể của người có niềm vui Tin Mừng: Đó là niềm vui mà thiên thần mời gọi Đức Maria trong biến cố truyền tin “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” (Lc 1,28). Đó là niềm vui của Gioan Tẩy Giả nhảy mừng trong lòng bà thánh Êlizabét khi Đức Mẹ đến thăm (x. Lc 1,41). Đó là “Niềm vui trọn vẹn” của Gioan Tẩy Giả khi Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ (x. Ga 3,29). Đó là niềm vui mà Đức Giêsu hứa với các môn đệ: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16,20). Đó là niềm vui của các môn đệ khi nhìn thấy Chúa Kitô phục sinh(x.Ga 20,20). Đó là niềm vui gặp gỡ của các kitô hữu đầu tiên, họ “Dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ”(Cv 2,46). Đặc biệt, các môn đệ đi đến đâu họ đem niềm vui tới đó(x. Cv 8,8); ngay cả giữa cơn bách hại, họ vẫn “Ngập tràn niềm vui” (13,52)…
Trong tập sách "Bước qua ngưỡng cửa hy vọng", Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã khẳng định Tin Mừng là tin vui, Ngài nói: "Tin Mừng có nghĩa là tin mang đến niềm vui mừng và Tin Mừng luôn là một lời mời gọi con người sống vui tươi”.
Thật vậy, Tin Mừng là tin mang đến niềm vui mừng. Nhờ Tin Mừng chúng ta mới biết Chúa. Nhờ Tin Mừng chúng ta mới trở thành người Kitô hữu. Nhờ Tin Mừng chúng ta gặp được Chúa qua các bí tích: Bí tích Rửa tội, bí tích Giao Hoà, Bí tích Thánh Thể…Nhờ Tin Mừng chúng ta gặp được Chúa qua cầu nguyện, qua việc đọc và suy niệm Lời Chúa, qua đời sống bác ái yêu thương. Nhờ gặp Chúa qua Tin Mừng cuộc đời của chúng ta được biến đổi và từ đó chúng ta gặp gỡ mọi người trong tình yêu thương như lời bài hát: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh. Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình. Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh”.
Để có được niềm vui trong Chúa, niềm vui Tin Mừng, tâm hồn chúng ta cần phải trong sạch, không vướng mắc tội lỗi. Lời Chúa hôm nay phần nào giúp chúng ta có được điều đó: Hãy giữ đức công bằng và hãy thực thi bác ái.
1. Hãy giữ đức công bằng: Khi những người thu thuế và các binh lính hỏi Thánh Gioan phải làm gì để đón chờ Chúa đến. Thánh Gioan mời gọi họ hãy giữ đức công bằng, Ngài nói: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh" (Lc 3,13); "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình" (Lc 3, 14). Tuy lời mời gọi này dành riêng cho những người thu thuế và binh lính nhưng rất thích hợp với tất cả mọi người qua mọi thời đại. Bởi vì, ai cũng có thể lỗi đức công bằng. Điều răn thứ bảy trong mười điều răn của Chúa đã liệt kê những tội lỗi đức công bằng như sau:
Thứ nhất, tội lấy của người khác cách bất công: Trộm cướp, gian lận, cho vay ăn lời quá đáng, nhận của hối lộ hoặc tham lam của công và đầu cơ tích trữ hoặc bắt chẹt người tiêu dùng.
Thứ hai, tội giữ của người khác cách bất công: Không trả nợ, không hoàn lại của đã mượn hay lượm được, không trả tiền công xứng đáng, trốn thuế, oa trử của gian.
Thứ ba, tội làm hư hại của người khác: Trực tiếp hay gián tiếp làm hư hại tài sản người khác, vu cáo hay là nói xấu khiến người ta làm ăn thất bại, lỗi các hợp đồng đã được thoả thuận cách công bằng.
Xã hội chúng ta đang sống có rất nhiều người tham ô tham nhũng, trộm cắp gian tham, ức hiếp của người, bỏ vạ cáo gian. Họ phải hoàn trả lại những tài sản đã chiềm đoạt và bồi thường cân xứng những thiệt hại đã gây ra. Về vấn đề này, Tin Mừng cho chúng ta thấy gương của ông Giakêu. Ông là một người thu thuế, đã từng tham ô tham nhũng, nhưng khi gặp được Chúa Giêsu, ông đã quyết định phân chia phần nữa của cải của mình cho người nghèo và nếu ông chiếm đoạt của ai cái gì thì ông xin đền trả gấp bốn (x. Lc 19,8).
2. Hãy thực thi bác ái: Bác ái là bản chất của Đạo Công Giáo. Thực thi bác ái là bổn phận của mỗi người kitô hữu. Có nhiều cách để thực thi bác ái. Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta thực thi bác ái bằng cách cho đi: “Ai có hai áo hãy cho người không có” (Lc 3,11). Cho đi không phải nơi môi miệng mà phải bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê nói: “Nếu có anh em hoặc chị em bị ở trần, hoặc nếu họ không có của ăn hằng ngày và nếu có ai trong anh em bảo họ: ‘Hãy đi bằng an, hãy mặc ấm và hãy ăn no’ mà không cho họ những gì cần thiết cho thân xác họ, thì có ích lợi gì đâu?” (Gc 2,15-16).
Khi biết thực thi bác ái là chúng ta gặp gỡ Chúa. Chính Chúa Giêsu đã đồng hoá Ngài nơi những người nghèo, những người bệnh tật, những người tù tội (x. Mt 25,40). Chính vì vậy, khi mẹ của Thánh Rosa thành Lima trách Ngài vì đã đưa những người nghèo và những người tàn tật về trong gia đình để săn sóc, Ngài thưa với mẹ Ngài rằng: “Khi chúng ta phục vụ những người nghèo và những bệnh nhân, đó là chúng ta phục vụ Chúa Giêsu. Chúng ta phải không ngừng giúp đỡ người đồng loại, bởi vì chúng ta phục vụ Chúa Giêsu ở nơi họ”.
Khi biết thực thi bác ái chúng ta sẽ gặp được niềm vui. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy điều đó: Khi cho ai cái gì với lòng bác ái chân thật chúng ta sẽ cảm thấy an vui.
Tại văn phòng của một cố vấn tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ đẹp vừa giàu sang bước vào giải bày tâm sự:
- Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho tất cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng lòng của tôi lúc nào cũng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên.
Nhà cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể lại chuyện đời cô cho người phụ nữ này nghe. Cô thư ký kể:
- Chồng tôi đã chết cách nay 3 tháng; con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả. Tôi không ngủ được. Tôi không muốn ăn uống. Tôi không bao giờ cười. Rồi một hôm, tôi đi làm về hơi khuya. Một chú mèo con cứ lẽo đẽo đi theo tôi. Trời lạnh. Tôi thấy tội nghiệp nó quá, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên từ sau những thảm kịch bi đát của gia đình... tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là ngay ngày hôm sau, tôi nướng vài ổ bánh đem sang cho bà cụ hàng xóm đang nằm bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp, được vui vẻ. Và quả thực, tôi đã tìm thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không có hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình. Ngược lại, ta sẽ hạnh phúc thật, khi ta làm cho người khác hạnh phúc.
Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì mà đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ (Câu chuyện trích từ bài chia sẻ của Lm. Giuse Đinh Tất Quý).
Nhìn vào xã hội hôm nay, chúng ta thấy có rất ít người tìm kiếm niềm vui trong Chúa. Trái lại, có rất nhiều người tìm kiếm những thú vui trần gian nơi chức quyền danh vọng, nơi tiền bạc của cải, nơi tình cảm ngang trái. Vui nơi cờ bạc rượu chè. Đó là niềm vui tạm bợ, niềm vui chóng qua mau hết. Chỉ có niềm vui trong Chúa mới là niềm vui đích thực. Niềm vui trọn vẹn. Niềm vui “Không ai lấy mất được” (Ga 16,20). Mỗi người chúng ta hãy tự xét mình xem: Tôi đang có niềm vui nào? Niềm vui trong Chúa hay niềm vui của thế gian?
Lạy Chúa, trong khi chờ đợi Chúa đến, xin cho chúng con biết siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, suy gẫm Lời Chúa. Đặc biệt, xin Chúa cho chúng con biết sống công bằng, biết thực thi bác ái, biết cho đi hơn là lãnh nhận, để chúng con có được niềm vui tro MV 3-C124ng Chúa, niềm vui của Tin Mừng. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
HÃY CANH TÂN CUỘC SỐNG CỦA MÌNH ĐỂ ĐƯỢC NIỀM VUI VÀ VUI THẬT.
Linh mục Antony de Mello Dòng Tên đã kể lại câu chuyện sau đây về một nhà tu Ấn Độ nổi tiếng MV 3-C124
Linh mục Antony de Mello Dòng Tên đã kể lại câu chuyện sau đây về một nhà tu Ấn Độ nổi tiếng. Vị tu sĩ đáng kính này đã nhận định về cuộc đời của mình như sau: "Khi còn trẻ, tôi là một con người hăng say cách mạng và lời cầu nguyện của tôi lúc đó dâng lên Thiên Chúa là: "Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh để thay đổi trọn cả thế giới này". Nhưng rồi khi tôi sống đến nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa thay đổi được ai cả, tôi ít tự phụ hơn và cầu nguyện cùng Chúa như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con một ơn này mà thôi, là có thể thay đổi được những ai mà con gặp hằng ngày, những người thân trong gia đình, những bạn bè. Chỉ được như thế thôi thì con cũng mãn nguyện lắm rồi". Nhưng giờ đây đến lúc già, tháng ngày đời tôi sắp tàn, tôi ý thức mình đã tự phụ và điên rồ, tôi chỉ còn cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con". Nếu tôi đã sống và cầu nguyện như thế ngay từ đầu cuộc đời của tôi, thì tôi đã không uổng phí cuộc sống của mình".
Lời tự thú trên đây của nhà tu hành người Ấn Độ nhắc chúng ta một điều căn bản là, hãy thay đổi chính bản thân của mình trước để có thể giúp anh chị em mình, xã hội mình thay đổi sau đó. Truyền thống đạo đức từ ngàn xưa còn nhắc mỗi người chúng ta hãy "tu thân, tề gia" rồi mới mong "trị quốc, bình thiên hạ". Tất cả đều bắt đầu với cuộc nhỏ. Đó là tu thân, là thay đổi chính cuộc sống của mình theo tinh thần Tin Mừng của Chúa. Đây là một điều rất khó.
Các bài đọc hôm nay dường như muốn nhắc chúng ta điều này. Bài Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại lời mời gọi ăn năn hối cải mà Gioan Tẩy Giả công bố cho tất cả mọi người. Nhưng trước khi công bố lời mời gọi ăn năn hối cải đó, Gioan đã sống thật trong cuộc đời của mình, điều mà ngài truyền dạy cho kẻ khác, đến xin ngài hướng dẫn: "Thưa Ngài chúng tôi phải làm gì?" Gioan đã lên tiếng kêu gọi: thực thi tình liên đới bác ái, thực thi công bằng, từ bỏ bạo lực, sống tôn trọng trật tự, sống hòa bình. Chỉ khi nào con ngươì và nhất là đồ đệ của Chúa Kitô thực hiện thật sự một cuộc trở lại của chính con người của mình, thì lúc đó, con người mới hưởng được niềm vui của Chúa, mới có thể sống an vui theo như lời mời gọi của tiên tri Sôphônia mà chúng ta đọc qua trong bài đọc thứ nhất của thánh lễ hôm nay, và lời mời gọi của thánh Phaolô tông đồ nơi bài đọc thứ hai: "Anh em thân mến! Hãy vui luôn trong Chúa". Làm sao chúng ta có thể sống an vui được khi tâm hồn chúng ta chưa thật lòng trở lại cùng Chúa, chưa dứt khoát chừa được những tội lỗi, chưa bỏ đi được những tâm tình tiêu cực, ghen tương, hận thù đố với anh em xung quanh.
Trong tập sách "Bước qua ngưỡng cửa hy vọng", Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã có những suy tư sau đây về niềm vui của đức tin Kitô. Chúng ta có thể chia sẻ lại những suy tư của Đức Thánh Cha như sau: "Tin Mừng có nghĩa là tin mang đến niềm vui mừng và Tin Mừng luôn là một lời mời gọi con người sống vui tươi. Tin Mừng là một lời xác nhận cao cả cho giá trị của thế giới và giá trị của con người. Bởi vì Tin Mừng là chính sự mạc khải sự thật về Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch nguyên thủy của niềm vui và hy vọng cho con người. Tin Mừng trước hết là niềm vui của công cuộc sáng tạo. Thiên Chúa khi tạo dựng đã nhìn thấy tạo vật Ngài đều tốt đẹp. Ngài là nguồn mạch của niềm vui cho mọi tạo vật và trước hết cho toàn thể nhân loại. Ngài nói với mọi tạo vật như sau: Sự hiện hữu của con là điều tốt đẹp. Và niềm vui của Thiên Chúa được phổ biến ra nhất là qua Tin Mừng. Theo đó, điều tốt lành luôn luôn cao cả hơn mọi điều xấu trong thế giới này. Thật vậy, sự xấu không phải là điều căn bản và không có tính cách quyết định vĩnh viễn. Đây là điểm phân biệt rõ ràng đạo Kitô ra khỏi mọi hình thức của thuyết bi quan hiện sinh, ra khỏi mọi hình thức nhận định bi quan về cuộc sống con người. Thiên Chúa là nguồn mạch của niềm vui và hy vọng cho con người".
Chúng ta hãy đến với Thiên Chúa, hãy đến gần Thiên Chúa hơn, hãy canh tân cuộc sống của mình để được niềm vui và vui thật.
Lạy Chúa, nếu chúng con không đủ can đảm để đến với Chúa, thì xin Chúa thương hãy đến với chúng con. Hãy đến chứng tỏ tình yêu thương của Chúa và tha thứ mọi tội lỗi chúng con đã phạm. Xin hãy tẩy sách tâm hồn chúng con khỏi những tâm tình oán hờn, ghen tương, hận thù, để chúng con thật sự sống trong ân sủng của Chúa, thật sự sống trong niềm vui và hưởng được niềm vui vì được Chúa thương ngự đến.
Trong bầu khí chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, Lời Chúa hôm nay kêu mời chúng ta sống trong niềm vui. Ngay từ ca nhập lễ, Giáo Hội dùng lời thánh Phaolô tông đồ kêu gọi tín hữu thành Philipphê để nhắc nhở tất cả: "Anh em hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên vì Chúa đã gần đến". Và khởi đầu bài đọc thứ nhất trích từ sách tiên tri Sôphônia, chúng ta nghe những lời đầy khích lệ: "Hỡi thiếu nữ hãy cất tiếng ca. Hỡi Israel hãy hân hoan. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn". Rồi đến câu đáp ca cũng kêu gọi: "Hãy nhảy mừng và ca ngợi vì ở giữa ngươi có Đấng thánh của Israel thật cao cả". Như thế Giáo Hội muốn chúng ta đón Chúa Cứu Thế với một tâm hồn thật vui vẻ. Niềm vui rất cần cho đời sống con người, ai cũng mong cho đời sống mình được luôn vui tươi.
Trong những cánh thiệp chúc mừng dịp lễ tết, người ta đều chúc nhau vui tươi hạnh phúc. Khoa tâm lý ngày nay còn chứng minh niềm vui làm cho con người tươi trẻ lâu già và sống lâu hơn. Và trên thực tế, con người cố tạo được nhiều cuộc vui chừng nào tốt chừng nấy và mỗi cuộc vui càng kéo dài càng hay. Nhưng phải là những niềm vui nào? Vì có những niềm vui mà sau đó con người cảm thấy trống rỗng buồn sầu và chán nản. Có những niềm vui mà sau đó con người mệt mỏi và thất vọng. Có những niềm vui mà sau đó con người lo âu hối hận. Vậy niềm vui mà Giáo Hội cầu chúc và mong muốn con cái mình đạt được đây phải là niềm vui thật. Niềm vui lâng lâng của Mùa Giáng sinh, khi thấy những trang hoàng rực rỡ với đèn màu, với ngôi sao hang đá máng cỏ, khi nghe những bản thánh ca du dương dịu vợi, khi nhận cánh thiệp với những lời cầu chúc êm đềm từ những người thân yêu. Tất cả vẫn luôn là niềm vui chính đáng. Nhưng chưa phải là niềm vui thật. Vì lễ Giáng sinh sẽ qua đi, mọi trang hoàng sẽ được dẹp lại, mọi người đều trở về với cuộc sống hằng ngày. Niềm vui thật phải là niềm vui phát xuất từ bên trong của con người. Đi tìm nguồn vui bên ngoài mà thôi chỉ là một sự chạy trốn thực tại trong tâm hồn và thường thì không bao giờ đạt được kết quả vì "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Niềm vui chân chính phải bắt nguồn từ một trạng thái của tâm hồn và đặt nền tảng trên sự bình an. Đó là niềm vui đã làm cho thánh Phanxicô trong cảnh nghèo khó tự nguyện hòa tâm hồn mình cùng vạn vật ca hát chúc tụng Thiên Chúa. Đó là niềm vui mà thánh Têrêxa Hài Đồng đã nói: "Niềm vui mằm trong cuộc sống con người và con người có thể đạt được nó bất cứ lúc nào và ở đâu, ngay cả trong lâu đài tráng lệ của hoàng cung hay trong chốn thâm u của ngục tù".
Làm thế nào để đạt được niềm vui đó? Trong bài Phúc Âm, thánh Luca ghi lại: Gioan Tiền Hô, người hô hào: "Hãy sửa đường cho Chúa bằng phẳng và ngay thẳng", đã trả lời câu hỏi cho từng lớp người đến hỏi ông. Dân chúng hỏi ông: "Chúng tôi phải làm gì?" Gioan đã trả lời: Hãy sống yêu thương và bác ái. Biết nghĩ đến người khác, biết chia sẻ với những người kém may mắn hơn mình, đừng lợi dụng địa vị, quyền hành hà hiếp người khác. Nói tóm lại, vì Chúa quên mình phục vụ anh chị em và chu toàn bổn phận hằng ngày của mình, đó là đường dẫn đến niềm vui thật sự.
Mảnh đất tốt cho niềm vui thật phát triển là tình thương yêu nhau giữa con người. Sống trong một thế giới đầy dẫy hận thù chiến tranh, sống trong một xã hội cá lớn nuốt cá bé, sống trong một môi trường tranh đấu lừa đảo, gạt gẫm nhau để sống làm cho chúng ta có một tư tưởng bi quan: con người chắc là không bao giờ yêu thương nhau được, con người khó thực hiện những điều Gioan Tiền Hô chỉ dạy trong Phúc Âm. Dầu vậy, chúng ta đừng bi quan mà hãy nhớ đến phúc thật thứ bảy Chúa Giêsu đã dạy: "Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời vậy". Và một điểm nữa giúp chúng ta lạc quan là mẫu số chung của tất cả mọi người, mọi phe nhóm, mọi xu hướng, mọi chủ trương đều là hòa bình và huynh đệ yêu thương nhau.
Thật vậy, nếu chúng ta có dịp hỏi tất cả mọi người, tất cả mọi tổ chức kể cả những tổ chức đang cầm súng lăn xả vào chiến tranh xâm lược, thì trong thâm tâm họ, họ vẫn tin là họ yêu mến hòa bình và huynh đệ, dầu cho họ sai lầm trong phương tiện. Đó có thể là mẫu số chung, là điểm phát xuất chung để dựng một thế giới an vui. Và điều những người có đức tin càng tin tưởng vững chắc là Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong lịch sử của con người, lịch sử cứu độ nhất là kể từ sự nhập thể của Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Đó là một sự hiện diện sống động như chính Chúa Giêsu đã nói: "Cha ta làm việc liên lỉ; Ta cũng thế". Sự hiện diện đó không bao giờ để một bên những nghịch cảnh, những đau buồn của con người nhất là những con người bị áp bức, bị kìm kẹp.
Trong những ngày chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng sinh này, chúng ta hãy có cái nhìn lạc quan vào vũ trụ, vào đời sống con người trên mặt đất này. Vì hãy biết rằng, công việc tạo dựng cũng như công việc cứu chuộc là công việc của Thiên Chúa, và công việc Chúa làm thì không bao giờ thất bại. Bằng chứng là gương của Chúa Giêsu, sau sự đau khổ cùng cực và cái chết đau thương nhục nhã là sự sống lại vinh quang làm vua cai trị trời và đất. Với cái nhìn lạc quan đó và với lòng tin tưởng Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy lòng từ bi thương xót, chúng ta hãy luôn sống trong niềm vui và hy vọng. Niềm vui và hy vọng đó phải thúc đẩy mỗi người chúng ta cộng tác tích cực vào công trình cứu rỗi, nhờ ơn Chúa và với những người thành tâm thiện chí.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng năng nhớ đến lời tiên tri Sôphônia trong bài đọc thứ nhất để sống tin tưởng vào Chúa hơn: "Hỡi Sion đừng sợ, Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi". Và cụ thể hơn, tôi sẽ cố gắng không than van về những cực nhọc hoặc đau buồn tôi đang gánh chịu, nhưng biết chấp nhận cho người khác được vui và luôn cố gắng tươi cười niềm nỡ với tất cả mọi người, nhất là những người trong gia đình của tôi.
Khi được chịu Phép rửa của thánh Gioan Tẩy Giả, đoàn người kéo đến hỏi ngài: "Chúng tôi phải làm gì?" Họ vui sướng và hạnh phúc vì được làm con cái Thiên Chúa. Gioan bảo họ phải anh năn sám hối để chờ Chúa đến. Chúng ta nghe Tin Mừng hôm nay thấy có ba hạng người hỏi thánh Gioan Tẩy giả câu hỏi này: "Chúng tôi phải làm gì?". Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu lời giải thích của ngài.
Thứ nhất, đám đông dân chúng hỏi: "Chúng tôi phải làm gì?" Ngài bảo họ phải làm những việc như sau: Họ phải sống công bình bác ái. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Như thế, bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo”. Và họ phải sống công bằng. Công bình là giữ đúng luật pháp. Chẳng hạn, ai làm thì người đó được hưởng, không gian tham của người khác, hối lộ, tham nhũng, lấy của chung làm của riêng.
Thứ hai, nhân viên thu thuế hỏi: "Chúng tôi phải làm gì?" Thánh Gioan Tẩy giả trả lời: “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”. Tại sao ngài lại dặn họ điều này, vì những người thu thuế là những người thường cho vay nặng lãi, bóc lộc sức lao động của người nghèo. Họ dùng quyền lực của đồng tiền để đàn áp và đưa người dân nghèo đến bước đường cùng. Gioan Tẩy giả dạy họ phải có lòng từ tâm và biết chia sẻ với người kém may mắn hơn họ, đừng chất lên vai họ những gánh nặng của nợ nần quá mức vì đồng lãi. Sám hối là phải thương cảm với nỗi khổ của người khác.
Thứ ba, binh lính hỏi: "Chúng tôi phải làm gì?" Thánh Gioan nói với họ là phải có lòng nhân từ chứ đừng cậy quyền thế áp bức mà bóc lột người khác: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng lòng với mức lương của mình." Người lính là người đại diện cho những người có thế quyền trong xã hội. Họ có thật sự là người có tâm để bảo vệ cho người dân hay chỉ dùng uy quyền để ra tay đàn áp người dân. Nhà lãnh đạo là người không chỉ có tài mà đòi phải có đức thì mới có thể mang lại cho một đất nước tự do, dân chủ, hạnh phúc và thịnh vượng. Chúng ta có thể đưa ra một hình ảnh của nhà lãnh đạo tài đức của nước Mỹ. Đó là tổng thống George Washington, dân chúng gọi ông là vị cha già của dân tộc. Người dân Mỹ luôn ca ngợi và nhớ đến công ơn của ông. Nhà lịch sử học Henry Lee có lời nhận định: " Người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên nằm trong lòng dân tộc, ông là người có một không hai về đức tính khiêm nhường và trải qua những đoạn đời riêng tư. Lễ nghĩa, công bình, nhân đạo, ôn hòa, và thành thật; trước sau như một, trang nghiêm, và uy nghi; mẫu người của ông như đang soi sáng cho tất cả những người quanh ông cũng như những hiệu ứng của mẫu hình này vẫn đang trường tồn... Cái xấu bị rúng động trước sự hiện diện của ông và cái đẹp luôn cảm thấy có bàn tay giúp đỡ của ông. Đức tính cá nhân thanh khiết của ông đã thắp sáng đức độ phục vụ dân công chúng của ông... Ông là một người đàn ông như thế, người đàn ông mà quốc gia chúng ta đang thương tiếc."
Thế thì, hôm nay chúng ta phải làm gì đây? Chúng ta đang chờ Chúa đến, chúng ta mong ơn phúc từ trời ban phát cho mình, mà lòng chúng ta có sám hối, có thay đổi, có từ tâm, có lòng bác ái và yêu thương không? Đó là câu hỏi cho mỗi người chúng ta trả lời và tự chất vấn lương tâm của mình.
Tóm lại, những việc cụ thể rút ra từ Tin Mừng hôm nay, chúng ta không phải tìm đâu những nơi xa xôi, nhưng là hãy thực hiện công bình bác ái trong đời sống thường ngày của mình, và với những người sống chung quanh mình. Điều cần chúng ta không phải đổi nơi ở, nhưng là thay đổi chính mình, đổi mới ý nghĩ, đổi mới lời ăn tiếng nói, đổi mới việc làm. Đó là con đường dẫn chúng ta đến gần Chúa, gặp được Chúa và lãnh nhận được niềm vui và ơn cứu độ. Amen.
Alqua Robil là một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng nhất trong các thiên tài dương cầm trên thế giới hiện nay. Tuy tự xưng mình là người vô thần, nhưng ông đã nói về Chúa Giêsu như sau: "Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô đã và luôn luôn là một nhân vật siêu việt cao vời và lý tưởng nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Sự kiện Ngài là người Do Thái khiến cho tôi kiêu hãnh lây, vì tôi cũng thuộc dòng giống Do Thái. Cuộc sống của Ngài, các lời Ngài giảng dạy, sự hy sinh và lòng tin của Ngài đã trao ban cho thế giới món quà quí báu cao trọng nhất mà thế giới chưa bao giờ nhận được. Đó là món quà của "tình yêu thương"; tình yêu thương đối với tha nhân, tình yêu thương đối với người nghèo khó, tình thương xót, tình nhân loại và sau cùng là tất cả các tâm tình khiến cho con người trở thành cao thượng."
Phải! Nhận xét trên đây của nhạc sĩ Alqua Robil thật sâu sắc và chí lý. Đúng thế! Ở đâu có tình yêu thương, thì ở đó có hạnh phúc tươi vui và an bình đích thực. Bởi vì, tình yêu thương là phương thế duy nhất hữu hiệu giúp con người xây dựng một thế giới tốt lành hơn mà không gây đổ máu, chết chóc và tàn phá thương đau cho con người.
Qua các bài đọc hôm nay, Mẹ Giáo hội kêu mời chúng ta thực thi tình yêu thương ấy trong cuộc sống mỗi ngày. Trong chương III, thánh Luca trình thuật biến cố ngôn sứ Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa thống hối bên bờ sông Jordan, để nêu bật tính cách đại đồng của ơn cứu độ. Thánh sử Luca lồng khung sinh hoạt này của thánh Gioan Tẩy Giả trong những môi trường và với những lớp người vẫn thường bị Do Thái giáo cho là tội lỗi, như đám đông dân chúng dốt nát, ô hợp, bọn thu thuế gian tham xảo trá và lũ lính tráng vô đạo ác độc.
Là người có nếp sống chay tịnh khắc khổ, khi nghe ngài giảng, người ta tưởng đâu là thánh Gioan cũng nghiêm ngặt đòi buộc mọi người sống khổ hạnh tiết chế như ngài. Nhưng không, thánh nhân không đòi buộc họ làm những việc lạ thường khó khăn, mà chỉ khuyên mọi người thay đổi kiểu cách sống và thái độ hành xử đối với người khác. Thánh nhân đề nghị với một thái độ sống quân bình, biết thực thi công lý và yêu thương, chia sẻ cụ thể với tha nhân như:
- Ai thuộc lớp người giàu có, dư tiền dư của và phương tiện vật chất thì từ nay đừng sống ích kỷ, bo bo vơ vét tích trữ cho mình như trước nữa, mà hãy biết chia sẻ cơm áo, quảng đại trợ giúp cho họ có công ăn việc làm, tạo điều kiện sinh sống cho các anh chị em nghèo khó thiếu thốn hơn mình, cốt sao để họ có cuộc sống hạnh phúc sung sướng và đầy đủ, xứng đáng với phẩm giá con người.
- Ai thuộc lớp công nhân viên nhà nước, nắm giữ các nhiệm vụ trong các guồng máy hành chính, thuế má và mọi dịch vụ ngành nghề của cuộc sống, thì từ nay đừng ỉ nại quyền bính mà gian tham, hối lộ, chèn ép, áp bức, hà hiếp và khai thác bóc lột người dân nữa, nhưng hãy sống công bằng.
Nhà nước và các giới chủ hãng hãy trả tiền lương công nhân viên của mình, còn các công nhân viên hãy chu toàn bổn phận của mình với lương tâm nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm và phục vụ cao độ. Bởi vì, khi thăng tiến công ích là mọi người phục vụ và lo lắng cho chính gia đình mình, cho tương lai của con cái và những người thân yêu của chính mình, chứ không phải cho ai khác.
- Giới quân nhân là những người có phận vụ phụng sự quê hương và bênh đỡ kẻ cô thân, cô thế thì hãy biết chu toàn phận vụ với tinh thần hào hiệp và ý thức trách nhiệm, chứ đừng dùng vũ khí và chức vụ của mình để hà hiêp bóc lột người dân.
Nói cách khác, thánh Gioan Tẩy Giả khuyên mọi người có kiểu cách sống và hành xử công bằng, yêu thương, liên đới và biết tôn trọng tha nhân, làm thế nào để loại trừ ra khỏi cuộc sống của chúng ta mọi hình thức bạo lực, ích kỷ, tính gian dối lừa đảo, lòng ham hố của cải và tư lợi, gây thiệt thòi và đau khổ cho nhau. Dĩ nhiên, kiểu cách sống trên đây chưa đủ để con người có thể trở thành môn đệ và con cái của Chúa, nhưng nó là một bước khởi đầu cụ thể tốt đẹp, giúp sửa soạn tâm hồn đón nhận Chúa Cứu Thế đến.
Ngoài những kiểu cách hành xử kể trên, cuộc sống lòng tin của người tín hữu còn phải mang một đặc thái khác, đó là thái độ tươi vui mà ngôn sứ Sôphônia nói đến trong chương 3,14-18. Ngôn sứ Sôphônia sống vào cuối thế kỷ VII, và thời đó có rất đông dân thành Jérusalem và vùng Judéa chạy theo các thần linh ngoại giáo. Họ chủ trương hòa đồng các thói tục tôn thờ thần ngoại này với việc phụng sự Thiên Chúa. Ngôn sứ Sôphônia đã mạnh mẽ tố cáo thái độ lệch lạc và bất trung này của họ. Ông báo trước cho họ biết các hình phạt họ sẽ phải gánh chịu, đó là cảnh thành thánh Jérusalem sẽ bị đạo quân Babylon bủa vây đánh chiếm.
Để diễn tả tai ương này, ngôn sứ dùng kiểu nói "Ngày Của Giavê". Trong ý nghĩa Kinh Thánh, "Ngày Của Thiên Chúa" ám chỉ biến cố Thiên Chúa phán xử con người và mọi loài, mọi vật trong thời cánh chung. Trong ngày lịch sử thế giới kết thúc, Thiên Chúa ra tay uy quyền can thiệp để tạo dựng trời mới đất mới. Đó là thời gian quyết liệt định đoạt đối với vận mệnh con người, hoặc rộng mở tâm hồn đón nhận ơn cứu độ hoặc tự loại trừ khỏi hàng ngũ những người sẽ được cứu thoát.
Tuy nhiên, ngôn sứ Sôphônia cũng hé mở cho dân Do Thái lòng xót thương nhân lành của Thiên Chúa và sự hiện diện cứu độ của Ngài. Thiên Chúa sẽ đến để thu hồi án phạt, chấm dứt tình trạng đọa đày buồn thương cho họ và cứu thoát họ. Chính vì thế, ông mời gọi mọi người "hãy vui lên", hãy reo hò hớn hở hân hoan, vì Sion là người con gái yêu của Thiên Chúa. "Con gái" là kiểu nói hay được thơ văn của các dân tộc vùng Trung Đông cổ dùng để gọi các thành phố vùng biển.
Trong truyền thống Kinh Thánh, "con gái Sion" ám chỉ nhóm tín hữu còn sót của dân Israel, tức những người đã kiên trung tin tưởng vào Thiên Chúa, tuân giữ luật Ngài và mong chờ Đấng Cứu Thế đến. "Vui lên" cũng là động từ thánh sử Luca dùng trong trình thuật thiên thần Gabriel truyền tin cho Trinh Nữ Maria. Biến cố Chúa Giêsu Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người để cứu chuộc nhân loại là một tin vui vĩ đại. Chính vì thế, nên sứ thần mới chào Mẹ Maria với lời chào lạ lùng: "Hãy vui lên, Đấng đầy ơn phúc".
Mẹ Maria là người được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn, nên được tràn đầy ơn thánh Chúa. Mẹ là hiện thân số còn sót lại của Israel, của cộng đoàn nhỏ bé gồm các tín hữu đã biết sống trung thành với Thiên Chúa và lời hứa của Ngài. Đồng thời Mẹ cũng là toàn thân của Israel đang trông đợi ơn cứu độ thực hiện trong lịch sử loài người. Mẹ Maria là Sion mới, nơi Thiên Chúa sẽ xuống ngự trị và sống với con cái loài người.
Trong chương 4,4 thư thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Philipphê, Ngài cũng lập lại sứ điệp Tin Mừng ấy và khuyến khích tín hữu sống vui tươi, để trong cuộc đời hãy quên hết mọi khó khăn đau đớn tủi nhục và gian truân cay đắng để chỉ còn cảm thấy niềm vui. Niềm vui đó được phát xuất từ chính tình yêu thương của Chúa Giêsu Kitô, và Ngài giải thích lý do của niềm vui đó là: Kitô hữu có nhiều lý do thuận tiện để luôn có thái độ sống vui tươi. Bởi vì kể từ khi Chúa Giêsu nhập thể làm người, thì Thiên Chúa đã hiện diện giữa lòng trần gian và Ngài đồng hành với họ, chia sẻ mọi biến cố vui buồn trong đời họ.
Qua bí tích rửa tội, Ngài đã giải thoát họ khỏi xích xiềng nô lệ tội lỗi, trả lại cho họ sự tự do, ơn làm con cái Thiên Chúa. Tin vui cứu độ ấy không cho phép Kitô hữu buồn sầu thất vọng như những người không có niềm tin. Có Chúa trong lòng, có Chúa trong đời, có Chúa kề bên thì người Kitô hữu có được tất cả.
Vì thế, họ phải sống tin yêu phó thác và an bình, tươi vui, không âu lo, không sợ hãi. Kết hợp với Chúa qua lời cầu nguyện, qua cuộc sống đối thoại thân tình với Ngài. Họ phó thác mọi sự cho Chúa, và noi gương Chúa Giêsu sống nhân hậu, sống tốt với mọi người, yêu thương, thông cảm và quảng đại với mọi người. Nếu Giáo Hội đánh mất đi sự tươi vui của mình, thì điều đó có nghĩa là Giáo Hội đã đánh mất đi tất cả. Khi đó Giáo Hội không làm chứng cho niềm hạnh phúc là hôn thê của Chúa Kitô nữa, và điều đó cũng có nghĩa là tình yêu đã chết hay đang hấp hối. Tuy nhiên, khi đó Giáo Hội sẽ không còn khả năng yêu thương con người hay yêu thương với một tình yêu buồn sầu, mà tình yêu buồn sầu thì không phải là tình yêu.
Cũng thế, một tín hữu không còn khả năng sống tươi vui là dấu chỉ họ chưa gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, Khi người Kitô hữu đánh mất đi niềm vui, thì họ phải tự vấn lương tâm mình xem nó có phải là ấu trĩ hay không? Và nếu quả thật có như vậy, thì đây là lúc chúng ta phải nghe lời thánh Phaolô kêu mời: Anh chị em hãy tìm lại Chúa Kitô, nghĩa là món quà và ơn thánh quí báu nhất trong Mùa Vọng hay sao?
Thánh Phaolô Tông đồ, trong thư gửi giáo đoàn Philiphê đã kêu lên “Anh em hãy vui luôn trong MV 3-C128
Thánh Phaolô Tông đồ, trong thư gửi giáo đoàn Philiphê đã kêu lên “Anh em hãy vui luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên” (Philiphê 4, 4).
Chúng ta hãy vui lên vì Chúa gần đến.
Chúng ta hãy vui lên vì Chúa đến đem sự bình an, hòa bình chân chính cho nhân loại.
HÒA BÌNH không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh.
Hòa bình chân chính dựa trên sự nhìn nhận quyền năng của Thiên Chúa, phụng sự Ngài, yêu mến Ngài, đồng thời đối xử với tha nhân trong tình bác ái và thương yêu. Sự an bình đó mới đem lại nguồn vui chân thật mà nhà tiên tri Sophonia mô tả trong bài đọc thứ nhất.
Muốn được sự hòa bình chân chính đó phải làm sao?
Qua bài Phúc âm, Gioan tiền hô mô tả cho chúng ta.
Trước tiên, Người trả lời cho ba nhóm người đến đặt câu hỏi: “Vậy chúng tôi phải làm gì?”
Cho nhóm người thiện chí đang mong ngày Chúa đến, Gioan dạy họ, cũng như dạy chúng ta biết chia sẻ cơm áo với những người túng thiếu. Đó là điều tối thiểu. Nếu ngày nay, tiếng nhà Tiền hô còn vang vọng giữa núi đồi, Ngài sẽ kêu gọi cải thiện hoàn cảnh tương xứng, bảo vệ sức khỏe v.v… Đối với những người thu thuế, đại diện cho lớp quan chức hay tham nhũng bốc lột người ta, nhà tiên tri gọi sự liêm khiết. Và với những người có phận sự giữ trật tự công cộng, họ phải công minh, biết tôn trọng kẻ khác. Mỗi người trong địa vị, chức vụ, công việc của mình, Gioan đòi hỏi phải chu tất.
Nhưng Gioan, vị tiền hô ấy là ai? Ông không được sai đến chỉ để ban vài bài luân lý thường thức. Tiếng ông vang dội trên núi đồi, lôi kéo đoàn người tầng lớp lớp. Người ta coi ông là Đấng Messia trông đợi. Nhưng Ông chỉ là một “tiếng kêu”, một người làm phép rửa dọn đường.
Gioan là nhà tiên tri đầu tiên nói đến một “Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần và lửa”. Ông cũng làm phép rửa, theo tục lệ Do-thái để khuấy động sự thống hối, ăn năn nhưng đây chỉ là một nghi thức tiên báo phép Rửa của Đấng Messia đã đến, đó là Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần và lửa, là Phép Rửa tội. Thánh Gioan Tông đồ sẽ nói rõ: “Rửa trong nước và Thánh Thần” (Gio 3, 5). Phép Rửa tội bao gồm hai mầu nhiệm: Phục sinh và Hiện xuống, nhờ đó chúng ta được rửa sạch tội lỗi, liên kết với Chúa Kitô Phục sinh, nhưng đồng thời cũng được sức mạnh Chúa Thánh Thần để làm chứng nhân của Chúa Giêsu sống lại. Sau này, với thời gian Giáo hội mới tách rời thành hai là Phép Rửa tội và Thêm sức, nhưng với phép Thánh Thể được gọi chung là Bí tích gia nhập Kitô.
Chúng ta đã được rửa tội “trong nước và Thánh Thần” (Ga 3, 5).
Chúng ta đã được “rửa tội trong Thánh Thần và Lửa” (Lc 3, 16).
Nhưng chúng ta có sống ơn Rửa tội không? Chúng ta có làm cho xã hội thấm nhuần tinh thần Kitô-giáo không?
Trong thông điệp Centesimus Annus (1991) khi phân tích sự sụp đổ của cộng sản Đông Âu và sự tái thiết một xã hội mới, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II lên án điều mà Ngài gọi là “Xã hội ăn xài” muốn giảm hạ con người vào lãnh vực kinh tế và làm thỏa mản các nhu cầu vật chất mà thôi, nghĩa là thay thế thần tượng đã sụp đổ bằng một thần tượng khác không mấy tốt đẹp hơn.
Hãy chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa.
“Hãy hát mừng Chúa, vì Người đã làm những việc cả thể, hãy công bố việc này trên khắp địa cầu. Hãy nhảy mừng ca ngợi vì ở giữa ngươi có Đấng Thánh của Israel thật cao cả” (Is 12).
Sau khi nghe lời kêu gọi ăn năn sám hối của thánh Gioan Tẩy Giả, nhiều người tỏ vẻ phục thiện MV 3-C129
Sau khi nghe lời kêu gọi ăn năn sám hối của thánh Gioan Tẩy Giả, nhiều người tỏ vẻ phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống sai lạc của mình, họ xin thánh Gioan những lời khuyên thiết thực: "chúng tôi phải làm gì đây?".
Một câu hỏi hết sức quan trọng.
Đây là câu hỏi các nhà sản xuất, chế tạo thường xuyên đặt ra với sản phẩm của mình: Tôi phải làm gì... để cải tiến công nghệ... để nâng cao chất lượng hàng hoá?
Kết quả là họ đã thực hiện được vô vàn cải tiến trong rất nhiều lãnh vực, từ máy bay siêu thanh khổng lồ cho đến những con chíp nhỏ xíu, tất cả đều được cải tiến nhanh chóng phi thường.
Không chỉ trong lãnh vực công nghệ lớn lao mà ngay cả trong các mặt hàng tiêu dùng nhỏ mọn hằng ngày như cái chổi lau nhà, cái thùng rác nằm trong xó bếp, cũng luôn được cải tiến. Nói chung, tất cả mọi sản phẩm do con người làm ra, từ những sản phẩm lớn lao đồ sộ cho đến những thứ ti tiểu như cái chổi quét nhà... cũng đều được cải tiến từng giờ từng phút!
Trong khi đó, con người là tạo vật ưu việt của Thiên Chúa, được chính Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài, thì được cải thiện bao nhiêu về nhân cách, về phẩm chất đạo đức? Hay ngược lại ngày càng suy thoái trầm trọng?
Hiện nay, luật pháp của một số nước cho phép mẹ giết con (trong bào thai), cho phép những cặp đồng tính luyến ái kết hôn với nhau (nam với nam, nữ với nữ, chung chạ với nhau như vợ chồng) và được công nhận như một gia đình thực thụ, được hưởng mọi quyền lợi của một gia đình. Thứ tội ghê tởm đáng trừng phạt của dân thành Sô-đô-ma ngày xưa, nay được pháp luật của các nước được xem là văn minh, công nhận và hợp pháp hoá!
Đau thương thay, khi sản phẩm do tay con người làm ra thì ngày càng được nâng cao chất lượng, trong khi con người là sản phẩm đệ nhất của Thiên Chúa, do chính Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh tuyệt vời của Ngài thì ngày càng sa sút, suy đồi thê thảm.
Con người không được nâng cấp thì cũng như bức tượng, trước sao, sau vậy, không cao thêm, không đẹp thêm; trái lại có khi càng về lâu càng bị rêu mốc, nứt nẻ, càng xuống cấp thêm. Như thế thì thật là đáng tiếc và đau lòng cho Thiên Chúa.
Bao nhiêu năm qua, chúng ta đầu tư rất nhiều công sức, thời gian cũng như tiền bạc để tạo bộ mã bên ngoài bằng các loại mỹ phẩm đắt tiền, bằng nâng cấp nhà, lên đời xe, nâng cấp đủ mọi thứ vật dụng trong nhà, còn chủ nhân của tất cả những thứ đó thì đã được nâng đến cấp nào hay đang xuống cấp nghiêm trọng?
Hãy tự đặt lại câu hỏi đó với chính mình và xin Chúa cho chúng ta càng quan tâm nhiều hơn, đầu tư nhiều công sức hơn để rèn luyện cho mình thành người có trình độ, có năng lực, có phẩm chất cao cho xứng với tầm vóc của người con Thiên Chúa.
Vậy để bắt đầu công cuộc cải thiện, chúng ta hãy noi gương những người đến nghe ông Gioan rao giảng, để thưa với Chúa và hỏi lại lòng mình: "Còn tôi, tôi phải làm gì?" rồi bắt đầu ra tay.
* * *
Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con biết noi gương Chúa để đào tạo lại bản thân con, nâng cấp con người con thành người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức, có văn hoá.
Cuộc đời thật vui khi con người sống yêu thương nhau. Tình yêu sẽ giúp người ta sáng tạo ra MV 3-C130
Cuộc đời thật vui khi con người sống yêu thương nhau. Tình yêu sẽ giúp người ta sáng tạo ra muôn nghìn cách để làm vui lòng nhau. Mỗi nghĩa cử yêu thương sẽ mang lại cho đời muôn vàn nụ cười của sự mãn nguyện hạnh phúc.
Có một lần đến quán cơm Nghĩa Tình ăn cơm giá 5.000đ với thợ lao động. Tôi nhìn thấy trên khuôn mặt những người nghèo là một nụ cười hạnh phúc vì được ăn ngon và no. Vì ở đây cơm được bao no với cơm thịt, cơm cá thật phong phú. Đặc biệt ở đây còn có "Ngày thứ năm hạnh phúc". Trong ngày này tất cả các món như: phở, hủ tíu, bún bò, bún bò huế... cũng đồng giá là 1.000 đồng/1 tô và mọi người ăn bao nhiêu tùy thích.
Nếu tình cờ đi ngang qua các bệnh viện, các nơi có đông những công nhân nghèo chúng ta cũng thấy rộ lên niềm vui trên khuôn mặt những người nghèo khi nhận được những chén cháo tình thương, những bát cơm nhân ái...
Và như vậy, nếu xã hội có nhiều người thiện tâm làm việc thiện, luôn quảng đại dấn thân cho mọi hạng người cùng đinh là chúng ta đang làm cho xã hội vui lên, nhất là cho những phận người bất hạnh vui lên.
Phụng vụ Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng mời gọi chúng ta cùng vui lên. Vui lên vì Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Vui lên vì giờ hồng phúc đã đến với con người chúng ta. Và niềm vui này càng được nhân lên khi Gioan mời gọi mọi thành phần hãy làm điều gì đó tốt cho anh em. Gioan bảo đám đông dân chúng hãy làm cho xã hội vui lên qua việc thực thi bác ái một cách quảng đại với tha nhân: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy". Xã hội sẽ vui hơn nếu con người biết sống công bình với nhau. Cuộc đời sẽ vui hơn nếu người nghèo được quan tâm, được giúp đỡ. Xã hội sẽ hòa bình trật tự nếu mọi người biết tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của nhau thay cho những hà hiếp, áp bức làm đau lòng nhau...
Có ai đó nói rằng: cuộc sống vốn đầy khổ đau rồi, đừng chồng chất gánh nặng lên nhau. Hãy sống làm vui lòng nhau hơn là đầy đọa nhau. Không ai lại vui khi nhìn thấy người khác khóc. Tại sao chúng ta không đối xử nhân ái với nhau thay vì cứ nói xấu, hay tìm cách loại trừ nhau? Làm đau lòng nhau đâu khiến ta vui lên?
Thế nên, điều quan yếu là hãy làm vui lòng nhau để gây tiếng cười cho nhân thế. Hãy thực thi lòng nhân ái trong Năm Lòng Thương Xót. Hãy thể hiện tình yêu một cách cụ thể chia cơm cho người đói ăn. Hãy tạo tình liên đới khi mời một gia đình nghèo hay di dân cùng ăn cơm với ta. Hãy sống khoan dung khi tha nợ cho những người bất hạnh đang gặp rủi ro, tai nạn trong làm ăn. Hãy sống tình tha thứ thay cho những đố kỵ ghen tương. Hãy xây dựng hòa bình thay cho những xung đột, hiềm khích lẫn nhau...
Đó là cách chúng ta loan báo Lòng Thương Xót Chúa cho anh em. Đó chính là lời chứng hùng hồn cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa mà chúng ta đã được hấp thụ, uốn nắn lên người loan báo tình thương.
Xin cho đời sống của chúng ta luôn mang lại niềm vui cho nhân thế qua việc bác ái, phục vụ. Xin cho lời loan báo tình thương của chúng ta luôn đi đôi với việc làm để muôn dân sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, và cùng ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa. Amen.
Thời gian Mùa Vọng là thời gian của sự chuẩn bị, thời gian của những sự biến đổi. Chúng ta luôn MV 3-C131
Thời gian Mùa Vọng là thời gian của sự chuẩn bị, thời gian của những sự biến đổi. Chúng ta luôn sống trong chờ đợi một cuộc thực hiện trọn vẹn của ơn cứu độ, của hạnh phúc và của Nước Trời. Phụng vụ Chúa nhật hôm nay diễn tả niềm vui đặc biệt ngày Chúa Cứu Thế đến với nhân loại. Lý do mà chúng ta vui mừng được tuôn tràn từ tin vui này "Chúa đã đến gần" (Pl 4, 5b). Thế nhưng, làm thế nào để ta có thể chờ đợi Ngày Chúa Đến trong niềm vui thật, niềm vui của Chúa? Thánh Gioan Tiền Hô đã chỉ cho ta những phương cách cụ thể cho việc chuẩn bị trong đời sống thực tế của ta:
- Chia sẻ tận tình những gì ta có với tha nhân cách cụ thể là cơm ăn, áo mặc. Đó là những nhu cầu mà chính ta cũng cần để sống. Thánh Gioan khuyên những người đến hỏi ngài: "Ai có hai áo thì chia cho người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy." (Lc 3,11) Mặc dù chúng ta đang sống trong thời đại mà người ta cho là văn minh và phát triển vượt bậc, nhưng ta lại thấy người nghèo ngày càng nghèo hơn và càng nhiều người rơi vào cảnh lầm than hơn nên chắc chắn lúc nào cũng có người nghèo ở chung quanh chúng ta và cần lắm tấm lòng chia sẻ tận tình. Chia cơm sẻ áo cho người túng thiếu cũng là một trong những khía cạnh của lòng thương xót mà chúng ta được mời gọi sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót "Cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách rưới mặc". Chia sẻ là trao tặng những gì mà ta có, ta cần và trong niềm vui chứ không phải chỉ cho những gì ta dư thừa. Cho đi trong niềm vui, ta cũng sẽ nhận được niềm vui tràn đầy như Mẹ Têrêsa nói "Ai cho với niềm vui là cho nhiều hơn và Thiên Chúa yêu kẻ cho đi với tấm lòng hoan hỉ." Chia sẻ tận tình cũng còn là sẻ chia tình yêu thương. Có những cái nghèo về vật chất nhưng cái nghèo ray rứt nhất là không được ai yêu thương nâng đỡ. Nghèo vì bị khinh miệt, ruồng bỏ, bị ném ra lề xã hội, bị áp bức... Lời Chúa luôn thôi thúc ta thi hành sứ mạng chữa lành những tâm lòng thương tích vì cô độc, vì sự thờ ơ lãnh đạm và vì bất công.
- Sống công bằng và nhân hậu là lời mời gọi ta thay đổi lối sống cũ bình thường hay tầm thường con người mọi thời vẫn sống đó là gian tham, ức hiếp người yếu kém... mà thời thánh Gioan Tiền Hô, người ta cũng đã từng sống như vậy. Vì thế, lời thánh Gioan kêu gọi người xưa cũng thiết thực cho ta hôm nay: "Đừng đòi hỏi quá mức đã ấn định cho mình. Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta..." (Lc 3, 13-14) Sống công bằng trong chính công việc, trong trách nhiệm hay bậc sống của mình cách cụ thể. Hãy đối xử công bằng với những người thân ngay trong gia đình của ta. Hãy sống công bằng với những người đồng nghiệp hay với mọi người ta có trách nhiệm. Hãy thực hiện công bằng với những khách hàng của ta. Hãy thực thi công bằng theo đúng luật pháp và luật của Chúa, Giáo Hội đề ra. Và hơn thế nữa, đừng hà hiếp ai, nhất là những người bé nhỏ yếu kém, nhưng hãy có lòng nhân hậu xót thương, như lời của Mẹ Têrêsa khuyên ta "Hãy trở nên nét nhân hậu của Thiên Chúa, nhân hậu trên nét mặt, nhân hậu trong khóe mắt, nhân hậu nơi nụ cười. Hãy luôn cho đi nụ cười hạnh phúc, cho lũ trẻ, cho đám dân nghèo, cho những ai đang đau khổ, đang đơn độc... Hãy cho họ cả trái tim." Thực thi công bằng và sống nhân hậu, ta sẽ có một niềm vui trào tràn vì được thanh thản trong tâm hồn và dạt dào tình yêu nơi trái tim ta. Gieo yêu thương và bình an, ta sẽ gặt được niềm vui và hạnh phúc.
Trong Chúa Giêsu-Đấng Emmanuel, Thiên Chúa đã hạnh phúc làm một con người giữa chúng ta để ở với chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và vui mừng vì ta như lời Ngôn sứ Xôphônia mời gọi dân Xion vui lên "Thiên Chúa sẽ vui mừng và hoan hỉ vì ngươi, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội."(Xp 3,17-18a) Sứ điệp vui mừng này sẽ đem lại cho chúng ta một niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa, Đấng đã tin tưởng trao cho ta sứ mạng vun đắp niềm vui này ở giữa chúng ta. Người chờ đợi sự cộng tác của ta. Người cần những bàn tay của chúng ta, khuôn mặt của chúng ta và những lời nói của chúng ta biểu lộ hạnh phúc của Người đang ở lại giữa chúng ta. Từ đó, chúng ta cần thực hiện và sống những "niềm vui nho nhỏ" nhưng thật quan trọng hằng ngày. Hãy làm cho gia đình, cộng đoàn của ta trở nên những nơi của sự lạc quan và hy vọng, nơi chia sẻ và nâng đỡ, nơi đầy công bằng và nhân hậu. Niềm vui sẽ rất dễ lây lan hơn cả những vi rút mà chúng ta sợ hãi. Vậy hãy làm cho tình bác ái và niềm vui trở thành nạn dịch lan tràn xung quanh đời sống của ta để rồi niềm vui trong yêu thương cũng sẽ là vui trong niềm vui của Chúa. Ước gì khi chờ đợi Chúa đến với chúng ta trong vinh quang, chúng ta sống tràn đầy niềm vui và biết công bố niềm vui ơn cứu độ cho thế giới qua chính đời sống của chúng ta.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Chúa đã biết niềm vui thật cần thiết biết bao cho con người của thời đại chúng con. Xin ban cho chúng con niềm vui của chính Chúa, niềm vui không ai lấy lấy mất được, để chúng con hoan hỉ chờ đợi ngày Con Chúa ngự đến. Amen.
------------------------------------
MV 3-C132: Vui luôn trong Chúa! - Lm. Phạm Quốc Hưng
Trong niên lịch Phụng Vụ của Hội Thánh, Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng hôm nay được gọi là MV 3-C132
Trong niên lịch Phụng Vụ của Hội Thánh, Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Vui Mừng” hay “Chúa Nhật hồng trong mùa áo tím.” Màu hồng được dùng trong Phụng Vụ để diễn tả niềm vui đang dâng tràn nơi tâm hồn của những người mừng đón Chúa. Vì vậy, thật thích hợp để chúng ta suy nghĩ về niềm vui trong cuộc sống đức tin.
Hồi còn là chủng sinh, một anh bạn cùng lớp với tôi mỗi khi gặp các linh mục thường hay hỏi các ngài: “Điều gì trong đời sống linh mục làm cha vui nhất?” Tôi thấy câu hỏi này thật ý nghĩa, vì nó giúp anh em chủng sinh chúng tôi hiểu biết hơn về ơn gọi linh mục mà mình đang theo đuổi. Nếu đời sống linh mục không có gì làm cho mình vui thì làm sao mình có thể trung tín và thăng tiến trong ơn gọi linh mục được?
Câu hỏi trên cũng có thể áp dụng cho mọi người: “Điều gì trong cuộc sống hiện nay làm bạn vui nhất?” Hay nói khác đi: “Điều gì đem lại niềm vui lớn nhất cho bạn?” Thành thật trả lời cho câu hỏi này sẽ cho chúng ta biết mình là ai?
Trong đời sống con người, bất cứ ai cũng ước mong có được niềm vui. Ai cũng ham vui! Ai cũng kiếm tìm niềm vui! Thật vậy, chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về những niềm vui và có thể nhận ra những niềm vui khác nhau:
Trong chiều kích tự nhiên, trước hết, ai trong chúng ta cũng biết đến những thú vui giác quan mà chúng ta có chung với mọi loài vật khác: đói ăn, khát uống, mặc ấm, mệt nghỉ, “buồn ngủ gặp được chiếu manh”, nhìn cảnh đẹp, nghe tiếng nhạc êm tai, ngửi mùi hương thơm tho, nếm vị ngọt bùi, được vuốt ve chiều chuộng và thích cảm thấy an toàn.
Kế đến là những niềm vui thích hợp tương hợp với trí tuệ con người: chúng ta thưởng thức được những tác phẩm văn chương, triết học, thi phú, hội họa, âm nhạc, phim ảnh hay những phát minh kỳ diệu của khoa học kỹ thuật hiện đại.
Rồi phải kể đến những niềm vui từ sinh hoạt tình cảm xã hội của chúng ta: sự thân mật trong tương giao vợ chồng, tình gia đình êm ấm, được bạn hữu chấp nhận, giúp đỡ, yêu mến, ngưỡng mộ, yêu thích công việc, thăng tiến trong nghề nghiệp.
Trong chiều kích luân lý thuộc bản tính tâm linh của con người, chúng ta phải nói đến những niềm vui của nhân đức đối nghịch với thú vui tội lỗi:
Người nhân đức vui với việc thực hành các nhân đức như yêu thương phục vụ, hy sinh xả kỷ vị tha, tận tâm với nghĩa vụ, trong sạch, ngay thẳng…Rất nhiều khi để có được niềm vui nhân đức, người ta phải hy sinh những thú vui tự nhiên. Đó là lý do của việc thực hành việc hy sinh hãm mình đền tội. Niềm vui nhân đức này hoàn toàn phù hợp và hài hòa với đức tin Công giáo; đồng thời niềm vui này được kiện toàn nhờ ánh sáng đức tin và mẫu gương nhân đức tuyệt hảo của Chúa Kitô.
Người xấu nết tìm thú vui nơi tội lỗi, nơi những việc nghịch với lương tâm và lề luật Chúa: đam mê rượu chè, cờ bạc, trai gái, ngoại tình, ghen tương, hút sách, tham lam hà tiện, bất chính, lật lọng… Thông thường, vì đam mê những thú vui giác quan quá đáng, người ta không biết tự chủ để sẵn sàng bất tuân luật Chúa.
Trong chiều kích đức tin Công giáo dưới ánh sáng Tin Mừng Chúa Kitô, chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã dựng nên con người để họ được chia sẻ niềm vui trong tình thương và sự hiệp thông với Thiên Chúa nhờ ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần. Niềm vui này bị phá vỡ bởi tội lỗi và được phục hồi nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô.
Các ngôn sứ trong Cựu Ứơc đã không ngừng mời gọi Dân Chúa đón nhận niềm vui vì được Chúa yêu thương, được Chúa tuyển chọn, được Chúa tha thứ, được Chúa cứu thoát, được Chúa hướng dẫn, được Chúa bênh vực, được Chúa chăm lo. Lời Chúa trích sách Tiên Tri Xôphônia trong bài đọc một của Phụng Vụ hôm nay đầy những lời hứa dịu ngọt ấy: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem. Hãy hân hoan, hãy nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa. Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng” (Xp 3:14-18a).
Chính vì nhằm mục đích giúp con người phục hồi niềm vui trong Chúa mà Thánh Gioan Tiền Hô đã rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Cũng chính vì cùng mục đích ấy, Chúa Giêsu cũng lập lại lời mời gọi phải sám hối và tin vào Tin Mừng. Tin Mừng ở đây chính là việc Thiên Chúa đã hứa ban tặng ơn tha thứ, ơn cứu độ, cũng là sự sống đời đời hay niềm vui khôn tả và vô tận cho những ai tin nhận Chúa Giêsu Kitô và sống theo giáo huấn của Người, như đã được ghi nhận trong Thánh Kinh theo sự hướng dẫn của Hội Thánh nhờ sức mạnh của Thánh Thần.
Hội Thánh không ngừng tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô, mời gọi mọi người đón nhận niềm vui của Chúa, niềm vui trong Chúa, và tiếp tục lập lại lời Thánh Phaolô trong bài đọc hai trong Phụng Vụ hôm nay: “Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên! Đức ôn hòa của anh em phải sáng tỏ trứơc mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô” (Pl 4:4-7).
Như vậy, câu hỏi “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3:10) trong Tin Mừng hôm nay mà dân chúng đã đặt ra cho Thánh Gioan Tiền Hô cũng chính là câu hỏi chúng ta phải đặt ra chính mình trước mặt Chúa hôm nay: “Chúng con phải làm gì?” Phải làm gì để có được vui đích thực, niềm vui trọn vẹn, niềm vui bất diệt? Chắc hẳn câu trả lời vẫn không gì khác hơn là lời rao giảng của Thánh Gioan như một sự nhắc lại truyền thống của các ngôn sứ, được tóm gọn nơi lời ngôn sứ Mikha: “Người hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi: tức là ngươi hãy thực hiện công bình, quý mến lòng nhân lành, và khiêm tốn bước theo Thiên Chúa của ngươi” (Mk 6:8), cùng với lời mời gọi sống theo niềm tin vào Chúa Kitô, thực thi đức ôn hòa, chuyên chăm cầu nguyện và cảm tạ Thiên Chúa của Thánh Phaolô trên đây.
Thiên Đàng hay Nước Trời-mục đích cuối cùng của chúng ta là tín hữu Công giáo-không gì khác hơn là Vương Quốc của Chúa Kitô, nơi chúng ta sẽ được vui luôn trong Chúa, trong sự yêu thương kết hiệp trọn vẹn với Chúa Ba Ngôi. Để xứng đáng vào Nước Trời, chúng ta phải tập trở thành những người biết vui luôn trong Chúa. Thật vậy, Thánh Giuse-Maria Escriva từng nhận xét: “Nếu bạn không sống vui với Chúa trở dưới thế, thì làm sao bạn có thể mong được sống vui với Chúa trên trời?”
Vậy nên, chúng ta phải coi lời mời gọi “Hãy vui luôn trong Chúa” (Pl 4:4) của Thánh Phaolô trong Phụng Vụ hôm nay như một lệnh truyền của chính Chúa! Chúa truyền chúng ta phải vui luôn trong Chúa qua việc yêu mến và tuân giữ Lời Chúa và Luật Chúa!
Vui luôn trong Chúa hay niềm vui trong Chúa vì vậy không phải chỉ là vấn đề của một giác cảm mau qua, nhưng phải là một chọn lựa kéo dài cả đời, một quyết định của niềm tin hướng đến chung cánh đời đời!
Lạy Mẹ Maria, “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy,” xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con luôn được yêu mến gắn bó với Chúa Giêsu Con Mẹ và luôn sống theo ơn Chúa Thánh Thần để chúng con được “vui luôn trong Chúa”. Amen.
Sứ vụ của thánh Gio-an Tiền Hô là loan báo Tin Mừng Đấng Cứu Độ sắp đến và kêu gọi mọi MV 3-C133
Sứ vụ của thánh Gio-an Tiền Hô là loan báo Tin Mừng Đấng Cứu Độ sắp đến và kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn để đón tiếp Người. Ngay ở thời điểm khai mạc sứ vụ, đã có kết quả là một tin vui: “dân chúng lũ lượt đến xin ông Gio-an làm phép rửa và họ hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10). Khung cảnh bên bờ sông Gio-đan lúc ấy không còn là nơi sa mạc hoang vu nữa, mà chỉ thấy người người từ khắp nơi kéo đến như một ngày hội. Và như vậy thì lời rao giảng của Thánh Gio-an không còn là “tiếng hô trong hoang địa” (theo nghĩa chiểu tự) nữa. Mọi người chen vai thích cánh để được thánh nhân làm phép rửa và để được hỏi thánh nhân xem mình phải làm gì để có thể “tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. “Chúng tôi phải làm gì?”, đó là câu hỏi chung của tất cả những ai đến xin thánh Gio-an cho họ một lời khuyên để họ thực hiện sám hối và sẵn sàng đón nhận Đấng Cứu Thế.
Có một điều đáng lưu ý là nếu đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Mat-thêu có cùng chủ đề (“Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng”), thì thấy trong đám đông có cả những “người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa” và thánh Gio-an Tẩy Giả đã nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối … Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 7-8). Đón Chúa đến nếu chỉ nghe những câu như vừa dẫn, thì tưởng chừng như một việc làm quá khó khăn, quá nặng nhọc, khó lòng thực hiện được. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay của thánh Lu-ca, thì sẽ thấy cũng đơn giản thôi, và chắc chắn sẽ làm được. Câu trả lời của thánh Gio-an cho từng người thật là ngắn gọn nhưng đầy đủ. Với thường dân thì "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy." Với người thu thuế thì "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh." Còn với binh lính thì "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình."
Cứ kể lời dạy của thánh Gio-an Tẩy Giả ("Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy") cũng đơn giản thật. Bình thường, một con người sống trên đời, dù có nghèo kiết xác đi chăng nữa, cũng đâu đến nỗi chỉ có một áo, hoặc chỉ có một chén cơm, mà phải nhường hết cho anh em, còn mình thì cởi trần, nhịn đói. Thậm chí, đến như kẻ thù đã đoạt áo ngoài thì cũng sẵn sàng nhường luôn áo trong cho nó ("Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong" – Lc 6, 29), hoặc như bà goá sẵn sàng dâng cúng vào đền thờ 2 đồng tiền kẽm cuối cùng của mình ("còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình" – Lc 21, 4). Quả thật, Chúa không đòi hỏi những gì quá sức của con người, nhưng dù là không vượt quá sức của con người, thì cũng vẫn có thể không thực hiện nổi, nếu không có một ý chí hướng thiện, một tấm lòng quảng đại, một niềm tin vững vàng vào mục đích nhắm tới của công việc, cùng với một quyết tâm thực hiện. Đúng như vậy, "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông" (Nguyễn Bá Học).
Chung quy, vấn đề đặt ra là phải có lòng tin vững vàng về Tin Mừng Đấng Cứu Độ sắp đến, và phải sống niềm tin ấy bằng cuộc sống chan hoà đức ái. Ấy mới là biết dọn đường cho Chúa đến. Vâng, hãy mạnh dạn nhìn thẳng vào lòng mình, lấp cho đầy những thung lũng tị hiềm, bạt cho thấp mọi núi đồi kiêu căng, uốn cho ngay khúc quanh co hiểm ác, san cho phẳng những lồi lõm bất minh; tắt một lời, với một niềm tin sắt đá, hãy sửa lối đi tâm hồn cho ngay thẳng, công chính. Đồng thời hãy thể hiện đức tin của mình bằng những “chứng tá bác ái” (Tông thư “Porta Fidei”, số 14) trong đời sống thường nhật với tất cả anh em, nhất là những kẻ thấp cổ bé miệng khó nghèo, tật bệnh, lao tù. Ấy cũng bởi vì, vào ngày chung thẩm, Đức Vua Tình Yêu sẽ thẩm định hành trình đức tin của mọi tín hữu rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25, 34-36).
Một nhân chứng sống là thánh Phao-lô đã thấy được ơn cứu độ mà ngôn sứ Xô-phô-ni-a loan báo (Xp 3, 14-18). Hơn thế nữa, chính ngài đã thấy và đã nhận được phép rửa trong Thánh Thần và lửa như thánh Gio-an Tiền Hô đã báo trước (“Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” – Lc 3, 16). Đó chính là biến cố Đa-mát. Vì thế, ngài nhắc nhở mọi người: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả.” (Pl 4, 4-6). Theo ngài, ngày Chúa quang lâm lần thứ hai có những hiện tương kinh hoàng báo trước, nhưng đừng sợ hãi lo lắng thái quá, mà phải mừng vui lên vì Chúa đã gần đến. Ngài còn lặp lại một lần nữa lời kêu gọi “mừng vui lên” để nhấn mạnh tinh thần “sống hiền hoà rộng rãi”. Đó phải chăng là những chứng tá sống động trong “hành vi bác ái” của mỗi Ki-tô hữu? Vâng, nếu quả thực mỗi tín hữu đều “sống hiền hoà rộng rãi” trong hành trình đức tin của bản thân, thì đâu còn sợ hãi lo lắng gì nữa mà chẳng “mừng vui lên chờ đón Chúa quang lâm”?
Là con người, Ki-tô hữu chúng ta nhiều khi hoang mang lo sợ trước viễn cảnh tương lai vĩnh cửu và không ý thức mình đang trên con đường được Thiên Chúa cứu độ. Từ chỗ mất niềm tin ấy, chúng ta có thể dần dần đi tới tình trạng buông xuôi, phó mặc cho số phận đẩy đưa, không còn sống theo những điều Chúa và Giáo Hội dẫn dắt nữa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay thắp lại ánh sáng đức tin và niềm hy vọng vào ơn cứu độ Đức Ki-tô đem đến cho chúng ta. Mà cũng “Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 5, 2). Quả thật “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11, 1). Hãy nhìn vào đích điểm của hành trình đức tin là niềm vui được cứu độ và sống “kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” như thánh Phao-lô dạy. Đó chính là điều giúp ta nhận chân được ý nghĩa đích thực của cuộc sống trần gian và vững lòng tiến bước trong tinh thần “mừng vui lên” vì ngày Chúa quang lâm đã gần kề.
Ôi! Lạy Chúa! Như xưa dân chúng đã đến với Thánh Gio-an Tiền Hô để hỏi “Chúng tôi phải làm gì”, thì ngày hôm nay, chúng con cũng xin thưa với Chúa: Chúng con phải làm gì để dọn lòng đón Chúa đến trong dịp Lễ Giáng Sinh này? Chúng con phải làm gì để luôn sẵn sàng đón Chúa đến với chúng con trong bất cứ biến cố nào xảy ra trong cuộc đời chúng con; nhất là khi Chúa đến gọi chúng con ra khỏi cuộc đời này? Cúi xin Chúa ban Thánh Linh soi sáng và dẫn dắt cho chúng con hiểu được rằng chúng con phải làm gì để được mừng vui khi đón Chúa quang lâm. Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.” (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật III mùa Vọng).
------------------------------------
MV 3-C134: Sống công bình, bác ái và tôn trọng tha nhân
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)
Kể từ Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng, bóng dáng của Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong Tin Mừng với MV 3-C134
Kể từ Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng, bóng dáng của Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong Tin Mừng với vai trò dọn đường cho Con Thiên Chúa đến. Ông đã rời hoang địa và rao giảng khắp vùng ven sông Giođan để kêu gọi dân chúng lãnh nhận phép rửa giục lòng sám hối (x. Lc 3,3). Có rất nhiều hạng người khác nhau kéo đến với Gioan. Họ là những người lao động chân tay bình thường trong xã hội hoặc cũng là bậc ông bà cha mẹ trong gia đình. Trong số đó, có những người làm nghề không được xã hội tôn trọng như nghề thu thuế, nhưng cũng có cả những viên sĩ quan. Tất cả đều xin ông cho mình lời khuyên để canh tân đời sống với cùng một tâm trạng thao thức: “Chúng tôi phải làm gì đây?”.
Trong bối cảnh chờ mong Đấng Mêssia đến, dân chúng mong muốn rằng chính bản thân mình cần phải có những hành động cụ thể, một sự thay đổi tận căn chứ không chỉ dừng lại ở những hình thức tiếp đón xã giao bề ngoài. Hành động đó cần được bắt đầu bằng việc đoạn tuyệt với những cử chỉ, lời nói và thói quen không tốt trong quá khứ, để rồi kể từ hôm nay bắt đầu lại một cuộc sống với những công việc cụ thể mang chiều hướng tích cực hơn. Việc chuẩn bị để đón Đấng Mêssia không chỉ là giục lòng sám hối mà còn hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Khi dành riêng cho mình một khoảng khắc trong cái ồn ào náo động của cuộc sống để nhìn lại chính mình bằng cách đặt câu hỏi “Tôi phải làm gì đây?” là đang chọn cho mình một lối đi đúng đắn bằng cả con tim, khối óc và ý thức trách nhiệm.
Lời khuyên cụ thể của Gioan Tẩy Giả dành cho mỗi hạng người có khác nhau, nhưng nhìn chung ông nhấn mạnh đến chiều kích chia sẻ, sống công bình và tôn trọng phẩm giá nơi tha nhân. Đó là những chuẩn mực cần thiết để xây dựng mối tương giao bền chặt mang đầy nhân bản và đậm nét Kitô giáo. Nếu như những người thu thuế trước đây ít để ý đến việc công bình mà có những hành vi bất minh làm thiệt hại đến người khác, thì nay họ được mời gọi “đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”. Nếu như những quân nhân xưa kia cậy quyền thế ức hiếp thường dân, thì nay Gioan đòi buộc họ “chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. Đối với dân chúng nói chung, tuy nhìn lên “chẳng bằng ai” nhưng khi nhìn xuống thì vẫn còn nhiều trường hợp “chẳng ai bằng” thì cần mở rộng vòng tay và con tim để chia sẻ cơm áo với những ai đang cần đến nhu cầu này.
Lời khuyên của Gioan cho dân chúng thời xưa cách thời đại chúng ta ngày nay thật xa, nhưng nó vẫn là chuẩn mực sống cho con người ở vào mọi nơi và mọi thời. Trong bất kỳ một quốc gia, cộng đồng xã hội và Giáo Hội hay cấp gia đình đều cần đi từ nguyên tắc hành xử tối quan trọng này giữa con người với nhau để củng cố tinh thần hiệp nhất và liên đới trên một cấp độ cao nhất.
Trong tâm tình mừng ngày Con Chúa giáng trần để chia sẻ thân phận làm người của chúng ta, mỗi người được mời gọi sám hối, canh tân đời sống và tăng cường mối tương giao tốt lành với tha nhân bằng những hành động cụ thể không chỉ trong Mùa Vọng mà suốt cả cuộc đời và cho tới ngày Chúa Giêsu lại đến với từng cá nhân. Amen.
------------------------------------
MV 3-C135: Thánh Thần và Lửa - P. Trần Đình Phan Tiến
MÙA VỌNG LÀ MÙA KHỞI ĐẦU CỦA TÌNH YÊU
Vâng! thật vậy, mùa vọng đã đi hơn nữa chặng đường. Nhưng con người mới bắt đầu cảm nghiệm MV 3-C135
Vâng! thật vậy, mùa vọng đã đi hơn nữa chặng đường. Nhưng con người mới bắt đầu cảm nghiệm ý nghĩa của mùa vọng.
Ai sống trong tâm trạng tình yêu, sẽ cảm nghiệm được ý nghĩa mùa vọng. Nhưng mùa vọng lại là mùa buồn. Mùa âu sầu, màu của phụng vụ chính là màu tím. Màu tím được khoác lên mình phụng vụ mùa vọng.Cuối năm phụng vụ, tháng các linh hồn, nhưng màu tím chỉ có mặt trong ngày lễ các linh hồn, còn lại là màu xanh, tượng trưng cho sự sống. Nhưng tháng đầu của năm phụng vụ, là mùa vọng, Giáo Hội chỉ định màu tím cho cả mùa vọng. Như vậy, ta thấy có một điểm đặc biệt gì? Bàn thờ không trưng hoa. Rõ ràng là mang sắc thái không vui. Tâm trạng nầy là tâm trạng của dân Do-thái xưa, diễn tả sự mong đợi Đấng Cứu Thế.
Mong đợi hay chờ mong là một tâm trạng buồn. Như vậy, cũng có thể lý giải về tình yêu. Tình yêu luôn mang tâm trạng buồn, vì không ai thỏa mãn được tình yêu. Nhưng tình yêu được định nghĩa là Thiên Chúa, vậy Thiên Chúa là sự buồn, vì Thiên Chúa là tình yêu. Giải thích như vậy có đúng không? Nếu giải thích như thế, quả nhiên là không đúng, vì mùa vọng chỉ có bốn tuần lễ. Nhưng tâm trạng buồn trong mùa vọng tượng trưng cho bốn mươi năm trong sa mạc của người Do- thái xưa. Tượng trưng cho thời gian từ khi Thiên Chúa Hứa ban Đấng Cứu Thế đến khi Đấng Cứu Thế Giáng Sinh là khoảng bốn ngàn năm. Như vậy, theo ý nghĩa đó, Thiên Chúa là Đấng buồn, buồn vì con người bất nghĩa, bất trung, buồn vì tội lỗi nhân loại và buồn vì nhân loại vẫn chìm đắm trong thế gian.
Đặc tính của tình yêu, không gì khác đó là nỗi buồn, vì càng yêu thì càng buồn. Sự thật nầy có đối lập với chân lý Kitô giáo không? Thưa chắc chắn là không.Bởi vì, chúng ta nhớ lại, trong vườn cây Dầu, Chúa Giêsu đã đau buồn đến thảng thốt. Sự thật không thể chối cải, và cũng chính vì thế, Thiên Chúa đã ban Người Con duy nhất cho thế gian, bởi vì Thiên Chúa đã yêu thế gian.
Nói như vậy, thì Kitô giáo là một Đạo buồn sao? Thưa hoàn toàn không phải vậy. Vì tình yêu sinh ra bác ái, bác ái thì sinh ra vị tha. Nên chi niềm vui của tình yêu, đó là sự tha thứ. Sự tha thứ mới chính là tình yêu đích thực.Vì thế, có vị thánh đã nói: “ Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn”. Vì sao? Thưa vì đó là sự yêu thương và tha thứ. Không thể có tha thứ, nếu như không yêu thương và không thể yêu thương mà không tha thứ. Vì vậy động cơ đích thực của tình yêu là sự tha thứ. Tha thứ là tình yêu lớn nhất và quà tặng lớn hơn tình yêu. Vì Thiên Chúa không thể tiếp tục yêu thương con người, nếu Ngài không tha thứ cho con người.
Như vậy, Thiên Chúa là tình yêu và mùa vọng là mùa khởi đầu của tình yêu. Thiên Chúa giáng sinh làm Người, là đã quá đỗi yêu thương con người, nhưng biết bao kỳ vọng và đẹp đẽ dành cho lễ giáng sinh được nhắc nhớ hằng năm không phải là một lễ giáng sinh đích thực. Vì lễ giáng sinh đích thực, là một lễ giáng sinh buồn. Vì Chúa đến thật sự lần I không được ai tiếp đón, và nơi được chào đời là một hang đá của súc vật ngủ nghĩ. Nhưng hào quang và ánh vinh quang uy quyền của Thiên Chúa đã chiếu tỏa nơi Người sinh ra. Còn sự tủi nhục nào, còn sự bất hạnh nào dành cho Ngôi Hai Nhập thế nữa hay không?
Như vậy, ý nghĩa của đoạn Tin Mừng (Lc 3, 10-18), hôm nay được tạm chia bốn phần:
- Cải thiện nội tâm là hướng lòng đến bác ái (c 10-14)
- Dân chúng đang ngóng trông Đấng Cứu Thế, nhưng lầm tưởng Gioan Tẩy giả là Đấng Messia.(c 15)
- Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đấng Cứu Thế cho dân chúng. (c 16a).
- Thánh Thần và Lửa (c 16 b -17).
Như vậy, Thánh Thần là tình yêu và sự tha thứ, còn lửa cũng chính là tình yêu và sự tha thứ, nhưng lửa cũng chính là sự thiêu đốt, sự trừng phạt, một khi không còn xứng đáng để yêu thương. Lại nữa, Thánh Thần chính là chân lý của Thiên Chúa và mở ra chân lý cho nhân loại, để họ nhận biết Ngài. Và một khi cuối cùng ai chối bỏ chân lý, thì sẽ bị ném vào lửa để thiêu đốt.
Lạy Chúa Thánh Thần, Ngài là Đấng Thánh hóa muôn loài trong lửa tình yêu và sự tha thứ. Mở ra chân lý để cho con người nhận biết và noi theo. Nhưng cuối cùng, nếu ai chối bỏ thì Ngài sẽ thiêu đốt như rơm rạ. Nguyện xin Ngài thương mở ra cho chúng con biết chân nhận giá trị đích thực của Thiên Chúa. Amen.
Thời gian đang đưa chúng ta tới gần lễ Giáng Sinh. Chúng ta đang mong chờ điều này và cảm MV 3-C136
Thời gian đang đưa chúng ta tới gần lễ Giáng Sinh. Chúng ta đang mong chờ điều này và cảm thấy vui khi được đón mừng lễ Noel. Cả những người khác tôn giáo với chúng ta cũng thấy vui. Nhiều người cứ hỏi sắp tới lễ Noel chưa vậy?
Chúa nhật thứ III mùa vọng hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui, nên cho phép sử dụng áo màu hồng. Thánh Phaolô nói: "Hãy vui lên, vì Chúa đã đến gần". Đó là lý do để chúng ta vui. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở lời nói, hô hào vui để đón Chúa thì niềm vui ấy chưa trọn vẹn, mau qua, giả tạo, khó đạt được lắm. Niềm vui mà Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại là những việc làm cụ thể kiểm chứng được. Đó chính là dấu chỉ về ơn cứu độ mà con người mọi thời hằng khát khao.
Lúc ấy ông Gioan đang ngồi tù, liền sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: Thầy có thật là đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? Đức Giêsu đã trả lời: các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ được nghe được, người chết trỗi dậy, và kẻ nghèo được nghe tin mừng".
Dân chúng đã được thấy, được hưởng những ân phúc của Thiên Chúa qua các phép lạ và công việc phục vụ đồng loại của Chúa Giêsu. Đây là công việc hàng đầu và là sứ mệnh của Chúa Giêsu. Sứ mệnh ấy xuất phát từ Chúa Cha, nay thể hiện qua Chúa Giêsu để cho nhân loại thấy rằng: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.
Nhưng tại sao trước bao nhiêu phép lạ và công việc phục vụ ấy của Chúa Giêsu mà người ta vẫn không nhận ra Chúa là đấng cứu thế.; thậm chí ông Gioan là kẻ dọn đường cho Chúa đến cũng còn chưa rõ, nên mới sai người đến thăm dò, hỏi han xem Chúa Giêsu có phải là đấng Thiên Sai không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác? Chắc chắn Gioan phải biết rõ hơn về Chúa Giêsu so với người khác. Việc Gioan sai người đi hỏi điều này không có nghĩa là Gioan thiếu hiểu biết về Chúa Giêsu nhưng ông muốn nói cho người khác đặc biệt môn đệ của ông được trực tiếp nghe Chúa Giêsu trả lời mà biết chính xác hơn, không còn mơ hồ, nghi ngờ nữa. Phải nói đây là phương pháp giáo dục rất tài tình và tế nhị của Gioan. Nhờ đó củng cố đức tin cho chúng ta hôm nay nữa. Đúng như thánh Phaolô nói: đức tin có là nhờ nghe, nghe thế nào được nếu không có người rao giảng, rao giảng thế nào được nếu không có ai được sai đi?
Gioan Tẩy Giả biết sứ mệnh của mình sắp chấm dứt, vì ông xác định mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Ong là tiếng, Đức Giêsu là Lời. Ong là ngọn đèn, Đức Giêsu là ánh sáng. Ong là phù rể, Đức Giêsu là chàng rể. Ong là người dọn đường, Đức Giêsu là con đường. Ong phải mờ nhạt, phải nhỏ bé đi để nhường chỗ cho Đức Giêsu xuất hiện. Quả thật, ông bị ngồi tù và bị chặt đầu đang khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Thánh Gioan đã không bỏ lỡ cơ hội nào mà không làm chứng cho Đức Giêsu. Dù thuận tiện hay không thuận tiện, Lời Chúa vẫn được rao giảng. Vì làm chứng cho Chúa là một niềm vui, giới thiệu về Chúa là một niềm vui, giới thiệu ơn cứu độ cho người khác là một niềm vui dù bản thân Gioan có phải bị thiệt thòi, tống ngục, bị chặt đầu.
Ơn cứu độ của Chúa mang lại niềm vui không chỉ cho con người mà cho cả những loài vô tri vô giác nữa. Isaia mời gọi: "Vui lên nào, hỡi sa mạc, hỡi đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang hãy mừng rỡ, hãy trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa nhưu khóm huệ và hân hoan múa nhảy reo hò...." Đúng thế, vì Thiên Chúa cứu độ tất cả mọi loài thụ tạo, nên có lần thánh Phaolô nói: 'muôn loài thọ tạo đang quằn quại rên xiết chờ ngày được giải thoát'. Riêng con người là loài có ý thức thì nỗi khát khao này càng cháy bỏng, mãnh liệt thiết tha hơn nhiều. Thánh vịnh 145 là lời cầu xin của dân Chúa thốt lên rằng: "Lạy Chúa xin ngự đến mà giải thoát chúng con".
Sau Chúa nhật I Mùa vọng, Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối, Chúa nhật II kêu gọi dọn đường, Chúa nhật này chúng ta được thấy kết quả của ơn cứu độ là niềm vui cho con người. Quả thật, nếu người ta hưởng ứng theo lời ngôn sứ Gioan rao giảng, thực hành những điều ông dạy là: ai có 2 áo hãy chia cho người không có, ai có cái gì ăn cũng làm như vậy. Đối với người thu thuế thì ông dạy: 'đừng đòi hỏi quá mức đã ấn định cho mình'. Đối với binh lính thì ông dạy: 'chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với đồng lương của mình'(x. Lc 3,10-18). Những lời đề nghị rất thực tế của Gioan mục đích muốn giải thoát con người tội lỗi khỏi những thứ cồng kềnh, ngổn ngang làm chúng ta quá nặng lòng với trần thế, quá bận tâm với cuộc sống khiến người ta buồn chứ không có niềm vui thật sự. Việc thay đổi tận căn phải phát xuất từ chính cõi lòng mỗi người trước tiên. Có câu tục ngữ nói: "Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ, ngược lại ở nhà mà đổi mới là đi rất xa".
Dựa vào Lời Chúa hôm nay, mỗi người kitô hữu chúng ta hãy suy nghĩ mình đang thế nào? Trạng thái tâm hồn có niềm vui của những bon chen, ích kỷ, những toan tính nhỏ nhen, những tham lam bất công, chà đạp, vụ lợi chỉ vì miếng cơm manh áo, chút quyền lợi địa vị; hay là có niềm vui thánh thiện về ơn cứu độ? Mình đang ở trong môi trường thú vui tội lỗi hay môi trường niềm vui đạo đức? Mình đã ăn năn sám hối và dọn lòng tới đâu để chờ đón Chúa Giáng Sinh, đón rước Chúa mỗi lần rước lễ? Sự thật căn bản mà thánh Gioan tông đồ bảo là "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta"(1Ga 1,8-9).
Không có niềm vui nào lớn bằng niềm vui của người tội lỗi được Thiên Chúa tha thứ, được ơn cứu rỗi. Thời gian còn rất vắn vỏi, mỗi người chúng ta hãy tìm cơ hội để thanh toán lương tâm, coi lòng với Chúa trước lễ Giáng Sinh. Vì thế, những ngay cuối cùng còn lại trong Mùa Vọng này chúng ta hãy sống tích cực hơn bằng cách không chỉ dừng lại ở những tâm tình đạo đức, dọn dẹp bên ngoài mà phải biết sám hối tận căn; biết hành động bác ái, chia sẻ phục vụ. Càng chuẩn bị kỹ, tốt thì niềm vui càng tràn đầy. Càng thực hành Lời Chúa, chúng ta càng hạnh phúc, bình an.
Chớ gì mọi người luôn có mãi niềm vui Chúa ban để giới thiệu cho những người khác biết về đạo, về Thiên Chúa của chúng ta bằng những hành động yêu thương cụ thể.
Phúc Âm hôm nay viết lại có 3 hạng người đến hỏi thánh Gioan Tẩy Giả cùng một câu hỏi:Vậy MV 3-C137
Phúc Âm hôm nay viết lại có 3 hạng người đến hỏi thánh Gioan Tẩy Giả cùng một câu hỏi:Vậy chúng tôi phải làm gì? Họ là hạng: dân chúng - thu thuế - quân nhân. Qua câu hỏi đó, chứng tỏ họ tin tưởng ở thánh Gioan và họ muốn sống tốt hơn.
Những câu trả lời của thánh Gioan rất thực tế: "Ai có áo, có của ăn hãy chia sẻ cho người không có" (đó là Đức Bái ái). "Đừng đòi hỏi gì quá mức ấn định - Đừng ức hiếp, đừng cáo gian ai" (Đó là đức Công bằng). "Hãy bằng lòng với số lương của mình" (Đó là sự An phận). Thánh Gioan Tẩy Giả chỉ cho họ cách sống để đẹp lòng Thiên Chúa. Nghĩa là đối với tha nhân hãy cư xử Công bằng và Bác ái. Còn đối với chính mình thì hãy Bằng lòng, An phận.
Thứ nhất đối với tha nhân chúng ta phải Công bằng trước đã rồi mới nói tới Bác ái. Công bằng là "trả cho người ta những gì thuộc về người ta." Đây là điều hợp với lẽ phải. Ăn cắp, ăn trộm, làm hư hại của cải, mượn rồi không trả, qụyt tiền... là lỗi đức Công bằng. Ngoài ra nói hành, nói xấu, đỗ vạ, cáo gian, vu khống, ức hiếp... cũng là lỗi đức Công bằng. Lỗi công bằng về danh giá thì nặng hơn lỗi công bằng về vật chất vì "hổ chết để da người chết để tiếng". Mất của cải thì hai bàn tay có thể làm lại được nhưng mất tiếng tốt thì xấu hổ, ô nhục suốt đời. Lỗi công bằng buộc phải đền trả lại bằng tiền của hay bằng lời nói, chữ viết thanh minh cho người ta.
Trên sự công bằng đó là đức Bác ái, có nghĩa là mình không lấy gì của người khác nhưng mình còn ban tặng thêm. Bác ái rất rộng rãi, có thể giúp: tiền bạc, thời giờ, sự săn sóc, chỉ bảo, che chở... Bác ái gồm tóm trong kinh thương người có 14 Phúc (Thương xác 7 Phúc, Thương Linh hồn 7 phúc)
Thứ hai đối với bản thân mình hãy cố gắng sống An phận. Đừng ngó sang ngườỉ khác để ghen tương, phân bì, so sánh, đừng ao ước viễn vông, giá tôi thế này thế kia. Mỗi người Chúa ban cho những tài năng, sức khoẻ, thời giờ, hoàn cảnh khác nhau để bổ túc cho nhau, xây dựng thế giới này tốt đẹp hơn. Điều đó nằm trong sự quan phòng tuyệt diệu của Thiên Chúa. Đó cũng là dụ ngôn nén bạc Chúa nói trong Phúc Âm, người 10 nén, người 5 nén, người 2 nén.... Hãy an phận với những gì mình có trong tay để hạnh phúc. Điều đó không có nghĩa biến mình thành lười biếng, không trau dồi, không cố gằng thêm. Chỉ muốn nói rằng những gì mình có trong tầm tay không thể thay đổi được thì hãy sống an phận. Đó là bí quyết để có sự bình an.
Chúng tôi phải làm gì? Thánh Gioan Tẩy Giả đã trả lời cách đây hơn 2000 năm và câu trả lời đó vẫn còn hiệu quả với chúng ta ngày hôm nay. Hãy Sống Công Bằng, Bác Ái với tha nhân và An Phận với chính mình.
Mùa Vọng phủ màu Tím, nhưng không phải là "sắc tím buồn" như Mùa Chay, mà là "sắc tím MV 3-C138
Mùa Vọng phủ màu Tím, nhưng không phải là "sắc tím buồn" như Mùa Chay, mà là "sắc tím thủy chung" trong khoảng mong đợi Đấng Thiên Sai đến cứu độ nhân loại.
Chúa nhật III Mùa Vọng và Chúa Nhật IV Mùa Chay được mệnh danh là Chúa Nhật Hồng. Nhưng để phân biệt, Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật Vui (Gaudete), Chúa Nhật IV Mùa Chay được gọi là Chúa Nhật Mừng (Laetare).
Chúng ta vui vì được Chúa Giêsu giải phóng khỏi ách tội lỗi, vì được Ngài cứu độ. Với tâm tình đó, Ns Đức Huy bày tỏ: "Và con tim đã vui trở lại, Tình yêu đến cho tôi ngày mai, Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời, Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi". Niềm hy vọng ấy không mơ hồ, mà chắc chắn sẽ được như ý muốn!
CHIA SẺ VUI MỪNG
Nỗi buồn thì người ta thường muốn giữ kín, chỉ muốn ngồi mình yên (một mình) mà gặm nhấm nó, nhưng niềm vui thì mấy ai mà giấu kín trong lòng, nghĩa là người ta muốn "khoe" niềm vui đó với người khác. Như vậy cũng là một dạng chia sẻ.
Ngôn sứ Xôphônia mời gọi: "Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi!" (Xp 3:14). Tại sao vậy? Lý do đơn giản mà kỳ diệu: "Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Ngài đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Ítraen đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ" (Xp 3:15). Do đó mà vào ngày ấy, người ta sẽ bảo Giêrusalem: "Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời" (Xp 3:16). Đừng hoang mang hoặc run sợ vì Thiên Chúa của chúng ta đang ngự giữa chúng ta, chính Ngài là Vị Cứu Tinh, là Đấng Anh Hùng.
Ngôn sứ Xôphônia xác định: "Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Ngài mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa" (Xp 3:17-18). Đó cũng là lời nói với chúng ta. Quả thật, chúng ta vui mừng có Chúa, và Ngài cũng vui mừng ở giữa chúng ta để chia vui sẻ buồn với chúng ta, dù chúng ta hoàn toàn bất xứng. Niềm vui tột đỉnh, hạnh phúc tuyệt vời!
Trong niềm vui đó, ngôn sứ Isaia quả quyết: "Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Đức Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi" (Is 12:2). Và ông cũng nói với chúng ta: "Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ. Các bạn sẽ nói lên trong ngày đó: Hãy tạ ơn Đức Chúa, cầu khẩn danh Ngài, vĩ nghiệp của Ngài, loan báo giữa muôn dân, và nhắc nhở: danh Ngài siêu việt" (Is 12:3-4). Chúng ta phải thể hiện cho mọi người biết niềm vui đang rạo rực trong mình: "Đàn ca lên mừng Đức Chúa, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công. Hãy reo hò mừng rỡ, vì Đức Thánh của Ítraen quả thật là vĩ đại!" (Is 12:5-6).
Người ta nói rằng "phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí", thế nhưng chúng ta đang có những niềm vui "trùng lai". Niềm vui nối tiếp điều mừng, Thánh Phaolô cũng chẳng giấu được nên phải lặp đi lặp lại lời động viên: "Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!" (Pl 4:4). Nhưng phải thể hiện niềm vui đó qua cách sống "sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi" (Pl 4:5), vì Chúa đã gần đến.
Có lẽ biết chúng ta còn e dè nên Thánh Phaolô tiếp tục khuyến khích: "Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu" (Pl 4:6-7). Niềm vui của Kitô hữu khác hẳn niềm vui của người không có niềm tin tôn giáo. Dù thế nào cũng vẫn vui, vui vì có Chúa, vui cả ngay trong nỗi buồn, vui vì luôn hy vọng và tin tưởng.
CHIA SẺ CÁCH SỐNG
Nói hay mà làm không hay thì cũng vô ích. Gioan Tẩy Giả, con ông Dacaria, mệnh danh là Tiếng-Hô-Trong-Hoang-Địa, nhưng ông là người đầy uy tín. Đám đông hỏi ông Gioan rằng: "Chúng tôi phải làm gì đây?". Ông trả lời ngay: "Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy" (Lc 3:11). Ôi, khó quá! Ông này đúng là dị nhân chính hiệu "con nai vàng". Ấy thế mà vẫn có những người thu thuế đến chịu phép rửa, và tôn ông Gioan là Thầy. Họ hỏi ông: "Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?". Ông bảo họ: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh" (Lc 3:13). Ngay cả binh lính cũng hỏi ông: "Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?". Ông bảo họ: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình" (Lc 3:14).
Ông Gioan muốn chia sẻ cách sống tốt với mọi người. Đó là sống công bình, vì mọi người có thể hiện công lý thì xã hội mới khả dĩ có nền hòa bình đích thực. Thể hiện công lý là tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của người khác. Những điều ông Gioan kêu gọi ngày xưa thì ngày nay là những điều thuộc lĩnh vực Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Hồi đó, dân đang trông ngóng Đấng Cứu Thế, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: "Biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia?" (Lc 3:15). Nhưng ông xác định với mọi người rạch ròi: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi" (Lc 3:16-17).
Ông Gioan nhận mình không xứng đáng "cởi quai dép" chứ đừng nói chi là "xách dép" cho Chúa Giêsu. Ông biết người và biết ta nên ông khiêm nhường. Chính ông cũng mong đợi Đấng đến sau ông, người đó mới là Đấng Thiên Sai.
Mong chờ ai đó vì chúng ta yêu mến người đó. Mong đợi Chúa thì chúng ta cũng phải yêu mến Chúa. Nếu không thì... "kẹt" lắm! Thật vậy, Thánh Phaolô đã khẳng định: "Nếu ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!" (1 Cr 16:22).
Lạy Thiên Chúa, chúng con vui mừng biết bao vì Ngôi Hai Thiên Chúa sắp sửa đến với chúng con, để chia sẻ vui buồn với chúng con, để thông phần số phận với chúng con, và dạy chúng con những điều tốt lành. Xin giúp chúng con biết yêu mến Con Chúa là hiện thân của Chúa, dám sống "khác người" và chia sẻ mọi thứ với tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Sự hoán cải chân thật không bao giờ chỉ dừng lại với những tâm tình tốt đẹp, nhưng phải được diễn MV 3-C139
Sự hoán cải chân thật không bao giờ chỉ dừng lại với những tâm tình tốt đẹp, nhưng phải được diễn tả ra bằng một cuộc sống tương hợp cụ thể với giáo huấn của Đức Kitô.
1.- Ngữ cảnh
Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại cái chặng của Tin Mừng Máccô: Gioan Tẩy Giả (3,1-20), phép Rửa và việc Thánh Thần ngự xuống (3,21-22), Cám dỗ (4,1-13). Giữa phép Rửa và Cám dỗ, ngài ghép gia phả của Đức Giêsu vào (3,23-28).
Bản văn đọc hôm nay là trích phần đầu của phần 2 của Tin Mừng Lc.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Gioan bảo dân chúng những việc phải làm (3,10-14);
2) Ông loan báo Đấng mạnh hơn đang đến (3,15-17);
3) Tóm kết sứ vụ Gioan (3,18).
Nếu muốn đầy đủ cho phần rao giảng của Gioan, thì lấy từ câu 7. Chúng tôi sẽ trình bày khởi đi từ c. 7 này.
3.- Vài điểm chú giải
- Đấng Mêsia (15): tức là “Đấng được xức dầu”. Ít ra từ đầu thế kỷ ii trước CN, trong Do Thái giáo Paléttina, đã kết tinh một nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia. Lời sấm của ngôn sứ Nathan (2 Sm 7,14-17) và “những lời cuối cùng của vua Đavít” (2 Sm 23,1-17) tiết lộ lời Thiên Chúa hứa ban một vương tộc và minh nhiên qui chiếu về vua Đavít lịch sử như là “đấng được xức dầu” của Thiên Chúa Giacóp. Xem Tv 18,51; 89,39.52; 132,10.17.
- Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến (16): Dịch sát là “Đang đến Đấng mạnh hơn tôi”. Luca nhấn mạnh đến động từ “đang đến” (HL. erchetai) đặt ở đầu câu; ngài đã lấy lại Mc 1,7, nhưng bỏ cụm từ “sau tôi”. Đây là một gợi ý tới bản văn Ml 3,1.23.
- tôi không đáng cởi quai dép (16): Hành vi này là nhiệm vụ của một nô lệ. Tập tục được thực thi như sau: người chủ đi dự một cuộc tiếp tân, có một nô lệ đi theo; vào phòng, người chủ phải cởi dép; khi đó, người nô lệ quì xuống (x. Mc 1,7) để tháo quai dép cho ông (x. Mc và Lc); và trong suốt cuộc tiếp tân, người nô lệ phải xách dép của chủ (x. Mt 3,11). Trong truyền thống kinh sư Do Thái, các kinh sư cấm môn đệ làm việc này cho thầy mình. Hình ảnh Gioan dùng nêu bật vị trí thấp kém của ông trong quan hệ với Đức Giêsu, Đấng mạnh hơn.
- phép rửa trong Thánh Thần và lửa (16): Nước có ý nói về nghi thức bên ngoài, thực hiện trên thân xác; còn lửa là biểu tượng diễn tả sự biến đổi bên trong tâm hồn. Trong khi nước chỉ đạt tới bề mặt của các sự vật, thì lửa thấm sâu vào, thanh luyện, soi sáng, đốt cháy. Trong phép rửa Đấng Mêsia thiết lập, người ta sẽ không gặp được thứ lửa nào ngoài thứ lửa của Thánh Thần, bởi vì chính Ngài thánh hóa các tâm hồn.
Dựa theo Mt 3,11, ta phỏng đoán rằng rất có thể Gioan Tẩy giả lịch sử đã không nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng là phép rửa trong “gió [khí]”, như thế để cho từ “lửa” vẫn giữ được ý nghĩa “lửa Phán xét” trong suốt bản văn. Sau đó, các Kitô hữu đã đọc lại và đã giải thích lại “gió [khí]” như là làn hơi Thánh Thần: đọc như thế cũng là hợp lý, bởi vì trong tiếng Híp-ri cũng như tiếng Hy Lạp, một từ ngữ duy nhất (Hp. ruâh, HL. pneuma) được dùng để chỉ gió và Thần Khí. Như vậy, hẳn là Gioan Tẩy Giả đã nói đến một phép rửa “trong gió [khí] và lửa” Phán xét, nhưng chẳng bao lâu (có khi là ngay lúc còn đang truyền khẩu), các Kitô hữu đã hiểu các lời này như loan báo một phép rửa “trong [Thần] Khí hoặc Thánh Thần và lửa” của Lễ Ngũ Tuần.
Cũng cần nói rằng không nên giới hạn tầm mức lời Gioan nói vào phép rửa mà thôi. Cần phải thấy đó là mọi cuộc thông ban Thánh Thần do Đức Giêsu thực hiện, hoặc bằng phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng bí tích thêm sức, hoặc bằng cách nào khác: Lc 12,49 (Đức Giêsu ném lửa xuống thế gian); Cv 1,4-5 (điều Chúa Cha đã hứa); 2,1-4 (lưỡi lửa).
Nhưng cũng vẫn có nghĩa là lửa Phán xét. Chúng ta bị đặt giữa hai ngọn lửa: lửa Thánh Thần và lửa của cơn giận không tắt. Bởi vì Đấng Mêsia sẽ là Thẩm Phán (x. cc. 17-18).
- Tay Người cầm nia rê sạch lúa (17): Cái rê (ptyon, winnowing-shovel) là một dụng cụ giống cái xẻng, người ta dùng để rê lúa (“làm sạch thóc bằng cách đổ thóc từ trên cao rơi từ từ theo hướng gió để bụi và hạt lép bay ra hết”, Đại từ điển tiếng Việt), còn thóc thì rơi xuống thành đống (x. Is 30,24). Hình ảnh này được dùng để chỉ việc Đấng quyền thế hơn phân loại loài người theo giá trị của họ.
- thóc mẩy thì thu vào kho lẫm (17): Đống thóc tượng trưng những người sẽ được cứu bởi vị thẩm phán đang đến. Công việc phân loại của Người được diễn tả bởi hai hành động, “rê sạch” và “thu vào kho”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Gioan đến như nhà rao giảng sự thống hối và như sứ giả niềm vui. Ông ra sức giải thích cho dân chúng biết rằng sự hoán cải cần được cụ thể hóa bằng những hoa trái xứng đáng (3,7-9). Và ông dạy họ những việc cụ thể phải làm cũng như về Đấng đang đến. Ông giới thiệu hoàn cảnh trong tính nghiêm túc và trong đặc điểm cứu độ, ông không giấu giếm gì cả. Nguyện vọng duy nhất của ông là chuẩn bị cho dân đón nhận ơn cứu độ, ơn này đang hiện diện nơi Đức Giêsu Kitô.
Các hoa trái hối cải tuyệt đối cần thiết, ta không thể loại trừ hay trì hoãn. Với những lời lẽ hết sức mạnh mẽ, Gioan ngỏ lời với những người muốn hoán cải. Họ đến với ông bởi vì họ coi trọng lời ông loan báo và muốn nhận phép rửa. Gioan bảo họ rằng chỉ có ý muốn mà thôi thì không đủ; còn cần phải có hoa trái nữa, tức là những hành động. Thiên Chúa muốn có những hành động này. Ai không làm những hành động này, thì sẽ phải gánh lấy cơn thịnh nộ của Ngài (3,7), tức là hậu quả của một chọn lựa đi ngược lại ý Ngài muốn. Phải có một sự hoán cải thực thụ. Dĩ nhiên phải hoán cải con tim, bằng cách hoàn toàn quay hướng về Thiên Chúa. Nhưng sự hoán cải không chỉ dừng lại ở bình diện nội tâm, thiêng liêng. Nó phải được diễn tả ra trong lối xử sự bên ngoài. Người ta không thể tránh né lối sống bên ngoài bằng cách nại đến các duyên cớ nào đó. Nại đến tư cách con cháu tổ phụ Abraham cũng không ích gì. chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng nên cũng phải luôn tìm cách sinh những hoa quà xứng với lòng hối cải.
* Gioan bảo dân chúng những việc phải làm (10-14)
Những người được Gioan ngỏ lời với không chỉ muốn nghe nói về cáh hoa quả cách chung chung; họ muốn biết cụ thể họ phải làm gì. Gioan không mời họ thực hành một việc đạo đức hình thức hay tham dự một nghi lễ thống hối nào; ông yêu cầu họ làm một việc cụ thể và triệt để nào đó. Ông trả lời họ không quanh co. Mọi hoa trái hối cải ông đề nghị đều liên hệ đến cách xử sự với người đồng loại. Sự hoán cải, nghĩa là việc quay về với Thiên Chúa, phải được diển tả ra thực sự qua cách thức xử sự với anh chị em mình. Sự hoán cải đòi hỏi sự chia sẻ huynh đệ và từ khước mọi thứ bất công. “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (3,11). Lời yêu cầu này được đề nghị không những cho tất cả những ai đang sống trong sự sung túc, để họ sớt bớt phần dư thừa, nhưng còn được gửi đến tất cả những ai có thứ gì hơn mức thực sự cần thiết. Ngay người chỉ có hai áo cũng phải cho một cái và bằng lòng chỉ còn một cái, nếu người thân cận không có cái nào. Đứng trước nhu cầu của người khác, người ta chỉ được giữ lại điều gì mình cần mà thôi.
Người thu thuế và lính tráng cũng đến với Gioan. Đây là hai hạng người bị khinh bỉ và căm ghét, bởi vì họ thường lợi dụng địa vị mà thủ lợi. Gioan không mời họ bỏ nghề, nhưng kêu gọi họ loại trừ những hình thức xử sự bất công khi hành nghề. Người thu thuế có thể lợi dụng địa vị để đòi mức thuế cao hơn mức đã quy định để làm giàu. Những người lính có thể dùng vũ lực để ép người khác làm theo ý mình, để gia tăng đồng lương. Trong cả hai trường hợp, vấn đề là áp bức người khác để có thêm tiền bạc. Hoán cải, quay về với Thiên Chúa, không phải là chuyện thực hiện trong trừu tượng, nhưng phải được thể hiện ngay trong lãnh vực nghề nghiệp.
Sau này, Đức Giêsu còn yêu cầu mạnh hơn nữa: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,29).
* Ông loan báo Đấng mạnh hơn đang đến (15-17)
Một yếu tố tiêu biểu của sự cao cả của Gioan là đánh giá đúng đắn vị trí của ông. Ông đến theo bài sai của Thiên Chúa và ông hành động hết sức cương quyết. Do đó, ông đã gợi lên nới dân chúng ấn tượng là ông chính là Đấng Cứu thế thời cuối cùng, Đấng Mêsia. Ông tuyên bố rằng ông chỉ là người dọn đường, và dứt khoát hướng người ta đến Đấng đến sau ông. Ngài cao cả hơn ông vô cùng, không sao sánh ví được. Tương quan giữa ông và Đấng ấy không thể mô tả cách nào cho xứng hợp, cho dù là bằng hình ảnh “nô lệ-chủ nhân”. Gioan không xứng đáng làm một việc phục vụ thấp hèn nhất cho Đấng đang đến. Bằng cách đó, vị ngôn sứ cao cả này đã cung cấp cho chúng ta một ý tưởng về sự cao trọng của Đức Giêsu. Ngay cụ Simêôn cũng đã loan báo Ngài như là Đấng làm cho người này được nâng dậy, còn kẻ khác bị té ngã (2,34). Gioan đã mô tả cách hành động của Đấng ấy theo hai cách: Người làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa; Người thu gom lúa và đốt vỏ trấu. Đức Giêsu có quyền thông ban thực tại cao hơn và quý hơn: Thần Khí, quyền năng sống động vĩnh hằng của Thiên Chúa, đối lập với mọi thứ bất lực, yếu đuối và mong mạnh tạm bợ. Ai không sẵn sàng với Thần Khí mang sự sống, thì phải chịu phép rửa trong lửa tiêu diệt sự sống. Đức Giêsu quy tụ lại với Người, trong sự hiệp thông vĩnh cửu, lúa (thóc mẩy), tức là những ai phù hợp với những tiêu chí nhân lành của Người; Người loại trừ và đẩy vào nơi bị dày vò muôn đời những người khác, những người trống rỗng và không có giá trị.
* Tóm kết sứ vụ Gioan (18)
Gioan đã “loan báo Tin Mừng” cho dân chúng? Như vậy ông là người đầu tiên loan báo Tin Mừng (Wink). Nhưng nếu theo bản văn Lc, thì dường như thiên thần Gabiel mới là vị đầu tiên loan báo Tin Mừng (1,19)! Thật ra, có lẽ nên cho rằng đây là một từ tác giả dùng để “bình” hoạt động của Gioan, là hoạt động khuyến khích người ta quay về với Thiên Chúa. Tác giả không cho thấy là có lần nào Gioan đã rao giảng về “Nước Thiên Chúa”, bởi vì ngài dành công việc này cho Đức Giêsu. Từ đó có thể nói cho dù hoạt động của Gioan là giai đoạn chuẩn bị cho giai đoạn Đức Giêsu, lời rao giảng của ông vẫn không giống với lời rao giảng của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Gioan không thể loan báo một ơn cứu độ dễ dàng cho mỗi người, dù họ muốn hay không, dù họ sẵn sàng đón lấy hay không. Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng không áp đặt cho loài người chúng ta, bất kể tình trạng cá nhân chúng ta hoặc ngược lại với ý muốn của chúng ta. Bởi vì Gioan biết ý nghĩa của việc Đức Giêsu đến và biết điều gì liên hệ, ông xứng đáng vừa là sứ giả niềm vui vừa là nhà rao giảng việc hoán cải.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sự hoán cải chân thật không bao giờ chỉ dừng lại với những tâm tình tốt đẹp, nhưng phải được diễn tả ra bằng một cuộc sống tương hợp cụ thể với giáo huấn của Đức Kitô. Các thính giả của Gioan đã hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây?”, và vị Tẩy Giả đã chỉ dẫn cho mỗi hạng người một cách thức cụ thể để sống hoán cải. Có người thì phải tôn trọng công bình, có người được đề nghị chia sẻ, có người thì được mời tha thứ những xúc phạm, hoặc sống lương thiện trong nghề nghiệp của mình.
2. Người ta có thể yêu cầu gì nơi những con người và những dân tộc đang sống và hầu như đang chết ngộp trong sự phồn vinh phú túc, trong khi hàng triệu người đang sống cũng trên trái đất này đang chết đói? Với quyền gì mà có những người được bảo rằng họ được duy trì và đảm bảo sự phú túc của họ, trong khi những người khác thậm chí không có những cái hết sức cần thiết? Tình trạng này là một sỉ nhục, chế nhạo lời kêu gọi hoán cải theo Tin Mừng. Cho dù cá nhân không có nhiều điều kiện để hành động, người ta cũng không được chấp nhận tình trạng ấy. Họ phải làm hết sức mà chia sẻ cách huynh đệ.
3. Liên kết với mỗi loại địa vị, thẩm quyền, khả năng, kiến thức… là một thứ quyền nào đó. Do đó trong mỗi loại nghề nghiệp, luôn có những nguy cơ và cám dỗ lạm dụng quyền hành để bóc lột người khác hầu thủ lợi cho mình. Mỗi thứ nghề nghiệp đều cần một nền luân lý nghề nghiệp riêng. Và mỗi người phải hành động với tinh thần trách nhiệm trong vị trí của mình và trong chính nghề của mình, phục vụ người khác bằng chính “quyền bính” của mình, chứ không lạm dụng mà làm thiệt hại đến người khác.
4. Nếu Đấng Mêsia đến đưa ơn cứu độ cho thế giới, các núi đồi (những ai có quá nhiều) phải lấp đầy các thung lũng (những người có quá ít). Nơi nào còn có bất bình đẳng, sự giàu có bất công bên cạnh cảnh sống cùng quẫn, người Kitô hữu phải san bằng các núi đồi và thung lũng. Nếu chúng ta có một thứ mà người khác rất cần, phải chăng chúng ta bán với giá thật cao để trục lợi? Có khi nào chúng ta lạm dụng địa vị, nghề nghiệp để khống chế kẻ khác? Có khi nào chúng ta lạm dụng quyền bính để bắt người khác chờ hàng giờ để được một điều chúng ta có thể làm dễ dàng tức khắc cho họ?
5. Xin ghi lại một suy tư của thánh Âutinh (354-430):
“Gioan cao trọng đến nỗi người ta đã có thể coi ông là Đức Kitô. Chẳng cần ông phải nói ra; người ta đã nghĩ như thế rồi… Nhưng người bạn khiêm tốn ấy của chàng rể, nhiệt thành phục vụ danh dự của chàng rể, không muốn chiếm lấy chỗ của chàng rể, như một chuyện ngoại tình. Ông làm chứng cho bạn mình, ông đưa chàng rể đích thực đến với cô dâu, ông kinh tởm chuyện mình được yêu thương thay thế Người bởi vì ông chỉ muốn được yêu thương trong Người mà thôi…
Người môn đệ nghe tiếng thầy; người ấy đứng bởi vì đang lắng nghe thầy, bởi vì nếu người ấy từ chối nghe thầy, chắc chắn người ấy sẽ té ngã. Điều làm nổi bật sự cao trọng của Gioan trước mắt chúng ta, đó là ông đã có thể được coi là Đấng Kitô, tuy thế, ông đã chọn làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, công bố sự cao cả của Người và hạ mình xuống, chứ không coi mình là Đấng Mêsia và tự lừa dối mình khi lừa dối kẻ khác. Do đó, Đức Giêsu có lý khi nói về ông rằng ông còn hơn là một ngôn sứ … Gioan đã tự hạ trước sự cao cả của Chúa, để sự khiêm nhường của ông đáng được sự cao cả ấy nâng lên” (Bài Giảng thứ hai lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, số 288, 2; PL 38-39, 1302-1304).
Thời gian gần đây, mỗi ngày có hàng trăm cây nến được mang tới nhà thờ làm phép. Các cửa MV 3-C140
Thời gian gần đây, mỗi ngày có hàng trăm cây nến được mang tới nhà thờ làm phép. Các cửa hàng bán nến xem ra “đắt như tôm tươi”. Vì người này rỉ tai người kia phải mua nến để chuẩn bị ngày “tận thế”. Người ta rỉ tai nhau “nếu không có nến được làm phép sẽ chịu cảnh tối tăm bao trùm trong ngày “tận thế”.
Có người còn xác định thật rõ ràng ngày định đoạt đó là ngày 21.12! Xem ra người ta rất sợ ngày đó. Đối với họ, đó không phải là ngày lành. Đó không phải là ngày họ chờ đợi mà là ngày họ không bao giờ muốn xảy đến trong cuộc đời của họ.
Theo niềm tin ky-tô giáo chúng ta vẫn xác tín sẽ có ngày “cánh chung” đối với con người và vũ trụ. Đó là ngày Chúa Ky-tô quang lâm để đưa vũ trụ tới thành toàn viên mãn. Nhưng đây không phải là ngày sợ hãi, mà là ngày tràn ngập niềm vui. Ngày mà muôn dân phải mong đợi. Vì trong ngày đó, Đức Ky-tô sẽ mang đến cho nhân trần niềm hạnh phúc viên mãn và trường cửu. Ngày đó con người sẽ không còn lo sợ chiến tranh, không còn lo âu vất vả, không còn những hỉ nộ ái ố. Ngày đó con người sẽ cùng nhau hát tiếng ca hoà bình. Ngày đó, Thiên Chúa sẽ thiết đãi các dân tộc một bữa tiệc hiệp nhất, một bữa tiệc tràn đầy hoan lạc và bình an.
Trong ngày cánh chung của vũ trụ và cũng là ngày Đức Ky-tô quang lâm lần thứ hai, Giáo hội vẫn nhắc nhở chúng ta phải luôn cầm nến sáng trên tay. Nhưng không phải là cây nến vật chất mau tan biến mà là cây nến tâm hồn chúng ta. Cây nến của đức tin luôn toả sáng giữa thế gian. Cây nến của cuộc đời luôn tràn ngập tình yêu với tha nhân.
Như Gioan đã đề nghị người Do Thái một cung cách sống để đón chờ Đấng Messia. Giáo hội cũng mượn lời Chúa hôm nay để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa hãy có thái độ sẵn sàng chờ đón Chúa. Đối với tín hữu hãy biết sống chia sẻ với nhau. Hãy sống đùm bọc nhau trong tình bác ái chân thành qua việc chia sẻ cơm ăn, áo mặc. Đối với người thu thuế và người giầu có hãy sống công bình bác ái. Đừng cho vay nặng lãi. Đừng chồng chất thêm gánh nặng cho dân bằng sưu cao thuế nặng. Hãy sống bằng một trái tim nhân ái biết xót thương kẻ bần cùng lầm than. Đối với quan quân hãy biết thương dân, đừng hà hiếp bóc lột, đừng sống theo kiểu tham quan vô nại, hãy sống theo chức vụ của mình là để bảo vệ và gìn giữ sự an ninh cho dân làng.
Năm xưa dân Do Thái, nghe lời Gioan ai nấy đều muốn thay đổi lối sống cho đẹp lòng Đấng Messia. Từng đoàn người đến sông Giordan. Trong đó có đủ mọi thành phần già trẻ, lớn bé. Quyền qúy cao sang và đói khổ bần hàn. Tất cả đều cúi mình sám hối. Tất cả đều muốn thay đổi lối sống. Sửa lại những quanh co gian trá của lòng người. Lấp đầy những hố sâu của ngăn cách bằng tình yêu chân thành. Và san bằng núi đồi kiêu căng bằng đời sống hoà hợp mến yêu. Một bầu khí thật vui tươi và an bình trải rộng khắp dòng sông Giordan. Một niềm hy vọng cho một thế giới không còn bất công, không còn hận thù chỉ còn có sự chia sẻ, cảm thông trong yêu thương chân thành. Một bầu khí hứa hẹn những ngày tháng thanh bình như lời tiên tri Isaia đã nói: “sói nằm chung với chiên con. Trẻ con thò tay vào hang rắn độc. Người ta sẽ lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cầy và nhân loại sẽ cùng nhau hát vang tiếng hát hoà bình”.
Thế nhưng, thế giới hôm qua cũng như hôm nay vẫn còn đó những bất công và hận thù, những chia rẽ, dối gian vì con người vẫn chưa dám sống theo niềm tin của mình. Họ tin Chúa, tin đạo nhưng không thực hành đạo. Đức tin của con người chỉ dừng lại nơi đầu môi chóp lưỡi nhưng không mang ra thực hành giữa cuộc đời. Đức tin của con người hôm nay đôi khi chỉ thể hiện trong nhà thờ nhưng không dám thể hiện trong thánh lễ cuộc đời.
Ước gì năm đức tin sẽ là dịp để chúng ta thể hiện đức tin của mình bằng hành động. Đức tin không dừng lại ở lời tuyên xưng nhưng thể hiện bằng cả đời sống tin cậy mến giữa cuộc đời. Ước gì ánh nến đức tin của chúng ta luôn sáng ngời, luôn được thắp sáng giữa thế gian còn đầy bóng tối của nghi nan, bóng tối của bất công và chia rẽ. Và ước gì chúng ta luôn là ngọn nến thắp sáng cho trần gian ánh sáng của tin yêu và hy vọng. Amen.
Lúc còn sinh thời, Mẹ Têrêxa Calcutta đã được thế giới biết đến nhờ vào lòng bao dung qua tình thương của Mẹ dành cho người nghèo! Tuy nhiên, điều mà thế giới ít biết đến, đó là món quà thiêng liêng mà mẹ dành tặng cho bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là: nụ cười.
Đã có nhiều cá nhân, đoàn thể, với những đối tượng khác nhau, họ đã xin Mẹ lời khuyên để sống bình an, hạnh phúc và tốt đẹp hơn! Khi được đề nghị như vậy, Mẹ đã nói: "Quí vị hãy về và ban tặng cho nhau những nụ cười... Hãy cười tươi với tất cả mọi người, bất luận người đó là ai! Với những nụ cười tươi như thế, quí vị sẽ lớn lên trong tình yêu hỗ tương”.
Còn đối với người Việt Nam, chúng ta cũng thấy mẫu gương này của Đấng Đáng Kính - Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận: ngài đã cười với mọi người, kể cả kẻ thù; ngài cười lúc bình an; khi chịu đau khổ; hiểu lầm, thử thách; ngài cười lúc tự do; nhưng cũng không thiếu những nụ cười ngay khi bị tù đầy khốn cùng nơi nhà lao... lý giải cho điều này, ngài đã chia sẻ trong sách Đường Hy Vọng như sau: “Vui với người thương con.Vui với người ghét con.Vui lúc con hớn hở.Vui lúc lòng con đau khổ tê tái.Vui lúc mọi người theo con.Vui lúc con cô đơn bị bỏ rơi.Vui tươi và làm cho mọi người đến với con cũng cảm thấy bầu khí vui tươi, mặc dù lòng con tan nát. Đó là thánh thiện hơn mọi sự ăn chay, hãm mình” (ĐHV. số 539), bởi lẽ: một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn.
Và ngài khuyên: “Con không có tiền? Con không có quà để tặng? Con không có gì cả. Con quên tặng họ niềm vui, tặng sự bình an mà thế gian không thể cho được, kho tàng vui tươi của con phải vô tận” (ĐHV. số 540).
Qua những mẫu gương đó, chắc hẳn chúng ta không khỏi thắc mắc rằng: tại sao các ngài có được niềm vui như thế? Thưa! Đơn giản: vì các ngài có Chúa trong mình và làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa và con người.
Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng hôm nay còn được gọi là Chúa Nhật của niềm vui, hay Chúa Nhật Hồng. Phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vui lên trong Chúa; hãy cảm nghiệm được tình thương và sự giải thoát của Thiên Chúa trong cuộc đời, nhất là tình thương cứu chuộc qua con của Người là Đức Giêsu. Tuy nhiên, để làm sao có được niềm vui cứu độ! Đây là điều chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Khi nói về niềm vui, chúng ta không thể chấp nhận một niềm vui giả tạo, nhưng niềm vui phải khởi đi từ chính nội tâm. Tâm tình này đã được tiên tri Sôphônia cảm nghiệm trong thời của Ngài.
Khi đối diện với cảnh nhiễu nhương, loạn lạc, cướp bóc, trả thù, tất cả những cái đó đã làm cho dân chúng thời bấy giờ rơi vào tình trạng hoang mang, sợ hãi và làm hao mòn thể xác, héo hon tinh thần... Hơn nữa, khi sống trong thảm trạng cơ cực, nhục nhã, đắng cay, bên trong thì suy đồi đạo đức, bên ngoài thì họa xâm lăng tứ phía.... Điều này đã làm cho dân Chúa luôn khao khát, mong chờ từng ngày với hy vọng được giải thoát khỏi cảnh khổ đau sầu thương họ đang chịu...
Tuy nhiên, ngay thời điểm đó, tiên tri Sôphônia đã tìm được niềm vui khi nhận ra sự tha thứ của Thiên Chúa, nên ngài hân hoan kêu gọi cũng như loan báo cho dân tin vui mừng:“Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa” (Xp 3, 14-15).
Niềm vui ấy cũng được thánh Phaolô diễn tả qua bài đọc 2 trong thư gửi giáo đoàn Philipphê khi mời gọi và loan báo về ơn giải thoát qua sự kiện Chúa gần đến, ngài nói: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến” (Pl 4,5).
Sang bài Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả đã chỉ ra cho dân chúng thấy đâu là niềm vui thật và đâu là niềm vui giả tạo! Muốn có được niềm vui thực sự thì phải làm gì!
Giáo huấn của Gioan Tẩy Giả được bắt đầu bằng câu hỏi của dân chúng sau khi nghe ông rao giảng và kêu gọi sám hối để được hưởng trọn niềm vui của ơn cứu độ qua Đấng Cứu Thế: “Chúng tôi phải làm gì?”.
Để giúp cho mọi thành phần được ơn cứu độ, và hưởng trọn niềm vui đích thực, Gioan đã mời gọi họ dân chúng sống tình huynh đệ, sẻ chia: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy"; với những người thu thuế, ngài dạy họ: "Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi"; còn với quân nhân, Gioan lên tiếng dạy họ cách dứt khoát: "Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình".
Những lời dạy của Gioan thật chí lý, thấu tình và thiết thực, không vòng vo, không trừu tượng, cũng như không quá khó! Những đường lối mà Gioan định hướng cho dân, ai cũng có thể làm được, nếu họ có đủ lòng khiêm tốn, sám hối và chân thành, nhất là nếu họ đặt mục đích tối hậu của cuộc đời mình nơi Chúa.
Khi dạy như thế, Gioan đã không buộc họ phải thay đổi nghề nghiệp, nhưng nếu để được hưởng trọn niềm vui đích thực thì phải thay đổi lối sống và cung cách hành xử.
2. Sống Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta: hãy sám hối để thay đổi lối sống cho phù hợp với thánh ý Chúa.
Nếu lối sống cũ là một lối sống ích kỷ, nhỏ nhen, ưa sống hào nhoáng, hình thức bên ngoài, thì từ nay, hãy sống quảng đại, bao dung, tha thứ, nhất là tình thương ấy được ưu tiên cho người nghèo.
Nếu trước kia, chúng ta sống kiểu bề trên kẻ cả, lộng quyền, gian tham, bóc lột, thì từ nay, chúng ta phải sống trong tinh thần phục vụ, mình vì mọi người, chứ không phải mọi người vì mình, xây dựng sự công bằng, bác ái với nhau.
Nếu trước kia, chúng ta thường hay nói hành, nói xấu, vu vạ cáo gian, nhất là nhân danh điều tốt để làm chứng gian hại người, thì từ nay, chúng ta hãy sống trong sự thật, đơn sơ, chân thành...
Sống được như thế, chúng ta sẽ có niềm vui Tin Mừng đích thực, bởi tất cả những điều thiện hảo đó chính là hoa trái của sự sám hối.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có được niềm vui sâu xa từ bên trong tâm hồn bằng việc thay đổi lối sống cho phù hợp với tinh thần của Chúa. Có được niềm vui đó, chúng con mới xứng đáng trở thành con của Chúa. Amen.
Việc Gioan Tẩy Giả rao giảng, kêu gọi ăn năn sám hối,canh tân đổi mới đã làm cho mọi người thuộc mọi cấp bậc, ngành nghề khác nhau trong xã hội thời đó băn khoăn tự hỏi :” Chúng ta phải làm gì đây ?”…Đúng thật, Gioan có uy tín rất lớn, Ngài đã kêu gọi mọi người phải thay đổi lối sống; sống đạo đức, thánh thiện, ngay trong môi trường họ đang sống và đang làm việc… Do đó, con người phải sống hy vọng và sống vui tươi, thanh thoát.
Vâng, Gioan không bảo những người này phải bỏ những địa vị, những công việc họ đang làm, nhưng Ông kêu gọi họ sống tốt, ngay lành ngay nơi họ đang sống, ngay trong địa vị và ngay nơi công việc họ đang làm.Gioan Tẩy Giả không nói họ phải rời bỏ nhiệm sở, để vào sa mạc tĩnh dưỡng, tu thân, không Ông kêu gọi họ thay đổi…Sự đổi mới mà Gioan mời gọi mang chiều kích cộng đoàn, sẵn sàng làm mới con người của mình bằng hành động cụ thể. Thánh Phaolô trên đường đi Đamas, đã bị Chúa quật ngã khỏi ngựa khi Ông đang hăng say bắt bớ Giáo hội…Và Ông thưa với Chúa :” Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Đây là thái độ mau mắn làm theo thánh ý Chúa, tuy nhiên, tâm tình này không phải là dễ dàng đối với mọi người. Nói như Đức Maria :” Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Ngài nói ( Lc 1, 38), thật cao cả và quí hóa biết bao! Con người chúng ta muốn tốt đẹp, muốn trở nên hoàn thiện, phải cố gắng thay đổi đời sống, canh tân chính mình. Như vậy, sám hối canh tân không có nghĩa là quay về với dĩ vãng để ăn năn, nhưng còn hướng đến một tương lai rạng rỡ, tốt đẹp hơn.Gioan Tiền hô đã khuyên bảo những ai có quyền thế, địa vị đừng hà hiếp người khác,đừng bóc lột dân. Một khi đã có tâm tình, thái độ sống đẹp, sống bác ái, yêu thương, nghĩa là từ bỏ nếp sống gian tà,họ sẵn sàng đón Đấng Cứu Tinh đang đến. Sám hối không chỉ là một cảm xúc, một sự hối hận mông lung, nhưng là một quyết tâm trở về với sự can đảm, cương quyết của mình. Thay đổi không chỉ là hướng tới một đời sống thánh thiện, đạo đức cho riêng mình, mà dành cho Chúa Đấng cứu độ chỗ đứng ưu tiên nhất trong cuộc đời mình.Gioan Tẩy Giả hô hào con người, mọi người hãy biết quảng đại, chia sẻ, phải có trái tim trong sáng để làm những công việc tỏa sáng. Thánh Têrêsa thành Calcutta đã luôn mời gọi con người hãy làm những công việc tốt đẹp, lành thánh…Hãy nở một nụ cười để mang lại niềm vui cho những con người đang gặp những chông gai thử thách. Hãy vui với người vui.Hãy khóc với người khóc như thánh Phaolô khuyên nhủ. Sám hối là nhìn lên Chúa để noi gương Chúa hơn là nhìn vào mình để so sánh với người khác. Thay đổi không có nghĩa chỉ ích kỷ bo bo làm cho mình tốt mà quên đi sự liên đới với anh chị em, liên đới với mọi người. Hãy làm mới con người cũ,con người tội lỗi yếu hèn của mình bằng cách làm những việc tốt, yêu thương cụ thể. Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đã luôn yêu thương những người nghèo, những người hấp hối, những người bơ vơ vất vưởng, không nhà không cửa.Đó là những hành động yêu thương cụ thể.
Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài không muốn chúng ta quá bận tâm, lo âu vật chất, bám víu lấy bạc tiền.Ngài muốn chúng ta thanh thản như Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ khi đi truyền giáo.Ngài muốn chúng ta phải có quyết tâm ra khỏi chính mình chứ đừng níu kéo của cải như chàng thanh niên giầu có. Ngài muốn chúng ta sống hy vọng, sống niềm tin phó thác vào Chúa. Ngài mời gọi chúng ta hãy vui mừng vì Ngài đã tới và đang ở giữa nhân loại, ở giữa chúng ta.
Các bài đọc hôm nay là lời đáp trả lại tình thương của Thiên Chúa vì Ngài đến đem hạnh phúc, niềm vui, hy vọng và ơn cứu độ cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến uốn nắn chúng con để chúng con luôn mau mắn đáp lại lời mời gọi yêu thương của Chúa. Maranatha! Lạy Chúa xin hãy đến… GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa nhật 3 Mùa vọng nói lên điều gì ? 2.Gioan Tẩy Giả kêu gọi chúng ta phải làm gì ? 3.Sám hối là gì ? 4.Tại sao Gioan Tẩy Giả lại kêu gọi chúng ta phải sống công chính? 5.Mỗi người chúng ta phải có quyết tâm nào trong Mùa vọng này ?
Bước vào Chúa nhật III Mùa Vọng quen gọi là Chúa nhật của Niềm Vui (Gaudete). Phụng vụ lễ ca, từ bài đọc, Thánh vịnh đáp ca cho đến màu sắc, tất cả đều diễn tả niềm vui sâu sắc ngập tràn. Với nhiều cung giọng khác nhau, nhưng Sôphônia, Luca tác giả Tin Mừng và cả thánh Phaolô nữa cũng đều hòa chung một khúc hát ca mừng Chúa đang đến mang lại niềm vui ơn cứu độ cho hết mọi người. Mùa sắc từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh ló rạng, đánh dấu nửa chặng đầu của Mùa Vọng, nay Giáo hội tạm dừng, lấy thêm can đảm bước tiếp, để chuẩn bị tâm hồn tốt hơn để cảm nghiệm được niềm vui thực sự của Lễ Giáng Sinh đã gần kề.
"Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! "
Mặc lấy tâm tình của dân Chúa, đọc và nghe những lời trên chúng ta cảm thấy lòng đầy niềm vui thiêng thánh ngập tràn làm sao không vui mừng được.
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng ?
Câu trả lời đúng nghĩa nhất : Chúa là nguyên nhân niềm vui của dân Chúa và của chúng ta. Trong lúc Vương quốc Giuđa bị Assyri tàn phá và Vương quốc Israel phải đi lưu đầy, Isaia loan báo rằng một đám đông người bị bỏ rơi, bị khinh dể, bị thương tích sẽ được Thiên Chúa đến cứu. Quả thật : "Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa… Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi ". Vui vì có Chúa ở cùng. Nhưng để có được Thiên Chúa đến ở cùng chúng ta làm gì nếu không phải là hoán cải.
Hoán cải
Lời Chúa qua miệng của Gioan Tiền Hô tiếp tục vang lên, gửi đến mọi thành phần dân chúng không trừ một ai. Hoán cái, vâng cần phải hoán cải, phải thay đổi hướng đi, thực thi đức công bằng, sống tình liên đới và tiết độ là những giá trị không thể tách rời khỏi một cuộc sống hoàn toàn nhân bản và Kitô chân chính.
Một đám đông thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội Do thái thời bấy giờ, đôi khi đối nghịch nhau về cách sống cùng đến nghe Gioan giảng. Họ không hỏi : "Chúng tôi phải tin gì? ", nhưng hỏi : "Chúng tôi phải làm gì ? "
Để trả lời, Gioan Tẩy giả mời gọi họ chuẩn bị cho Đức Messia đến bằng cách thực hiện những việc làm cụ thể và có ý nghĩa. Gioan không đưa ra một giáo huấn trừu tượng, đơn giản Gioan mời gọi họ chia sẻ những gì mình đang có : "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy" (Lc 3,10). Như thế, Gioan đặt sự sẻ chia, một khía cạnh của công bằng lên hàng đầu. Với những kẻ thu thế mang tiếng là tội lỗi cũng đến nghe Gioan giảng. Gioan đề nghị với họ, trong khi tác nghiệp đừng đòi nhiều hơn những gì họ phải trả. Có nghĩa là đừng đòi tiền hối lộ! Rõ ràng là thế. Với các binh sĩ, có lẽ là lính ngoại đạo, được tuyển vào phục vụ trong quân đội vua Hêrôđê. Gioan Tẩy Giả không lên án nghề nghiệp của họ, nhưng khuyên nhủ họ phải tôn trọng công lý, đừng bóc lột của ai điều gì nhưng hãy hài lòng với đồng lương của mình (Lc 3,14).
Sống Đạo với niềm vui
Giờ Kinh truyền tin tại quảng trường thánh Phêrô ngày13 tháng 12 năm 2015: Ðức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu sống tinh thần vui tươi giữa bao nhiêu khó khăn trong cuộc sống. Ngài nhận xét rằng Chúa nhật thứ III Mùa Vọng giúp chúng ta tái khám phá một chiều kích đặc thù của sự hoán cải, đó là sự vui mừng: "Ngày nay cần có can đảm để nói về niềm vui, nhất là cần đức tin! Thế giới bị vây bủa vì bao nhiêu vấn đề, tương lai đầy bấp bênh và sợ hãi. Nhưng Kitô hữu là người vui tươi, và niềm vui của họ không phải là một cái gì hời hợt chóng qua, trái lại sâu xa và bền vững, vì đó là một hồng ân của Thiên Chúa lấp đầy cuộc sống. Niềm vui của chúng ta xuất phát từ xác tín ‘Chúa ở gần’" (Phi 4,5).
Cũng như đám đông xưa kia, giờ đây chúng ta cũng đặt câu hỏi : Thưa ông Gioan chúng tôi phải làm gì? Gioan Tẩy giả không đòi chúng ta làm điều kì diệu. Nhưng chắc chắn ngài sẽ bảo chúng ta hoán cải khởi đi từ việc chia sẻ, chu toàn bổn phận của người Kitô hữu.
Chúng ta hãy phó thác hành trình Mùa Vọng tiếp theo của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ------------------------------------
Hôm nay bước vào Chúa nhật III Mùa Vọng, nên bầu khí có vẻ rộn ràng hơn dù rằng những ngày này là những ngày bà con giáo dân đang xét mình để lãnh nhận bí tích giao hòa. Thực tế, có nhiều người sợ phải nhìn lại mình, sợ phải đến tòa giải tội bởi vì họ sợ phải quay về quá khứ. Tuy nhiên, những ngày này phải là những ngày vui hơn, rộn ràng hơn bởi vì màu tím không phải là màu ảm đạm như nhiều người lầm tưởng, nhưng giữa mùa tím lại có màu hồng gợi lên niềm hy vọng. Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật hồng giữa mùa tím vì giữa sự ảm đạm của chờ đợi, nhân loại lại bừng lên niềm vui hy vọng…
Các bài đọc Chúa nhật III mùa vọng, đặc biệt là bài Tin Mừng của thánh Luca cho thấy sau khi Gioan Tẩy Giả rao giảng về việc ăn năn hối cải và cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trong ngày chung thẩm thì mọi người, nhất là những người bị coi là tội lỗi đều thành tâm hỏi Gioan xem họ phải làm gì để gọi là hối cải theo lời Gioan Tẩy Giả kêu mời ? Thánh Luca đã trình bầy cho chúng ta thấy Gioan đã đưa ra những việc làm cụ thể cho từng hạng người.Đối với mọi người, Gioan nói rằng họ phải chia sẻ. Chia sẻ là điều phải làm : chia sẻ cơm ăn, áo mặc là quan tâm tới những nhu cầu thực tế của những ai đang thiếu thốn, khó nghèo. Đối với những người làm nghề thu thuế, Gioan đòi hỏi họ không được thu thuế quá mức ấn định. Đọc Tin mừng, chúng ta nhận ra những người thu thuế thường không được người dân thiện cảm vì họ tiếp tay với ngoại xâm để bóc lột dân chúng, hà khắc, lợi dụng nghề để hái ra tiền làm giầu bất chính. Do đó, họ bị ghép vào hạng tội lỗi. Đối với các binh lính, Gioan buộc họ không được hiếp đáp, cáo gian cho dân, không được gian tham, ỉ quyền, ỉ thế vv... Rao giảng hối cải theo thánh Gioan là điều cần thiết, là ưu tiên để đi vào thời cứu chuộc, là thực hiện sự công bằng, tình huynh đệ giữa mọi người với nhau. Thánh Luca trong phần hai của đoạn Tin mỪng này đã cho các môn đệ của Ông hay rằng những việc làm của Ông chỉ để dọn đường cho Đấng Cứu Thế bởi vì Gioan Tẩy Giả là người của Cựu Ước. Ông đã trả lời cho các thắc mắc cho các môn đệ của Ông, đã từ lâu nay nghi ngờ trong lòng không biết Gioan Tẩy Giả có phải là Đấng Cứu Tinh hay không ? Đấng sẽ đến trong thời Tân Ước là Đấng đến đầy quyền uy, Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa, đồng thời lại là Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết : Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, là Đấng Mêsia.
Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa mới là nền tảng của sự sám hối, ăn năn. Bài đọc I trích sách ngôn sứ Sophonia cho hay :” Thiên Chúa là Đấng đầy lòng yêu thương, Ngài rút lại lời kết án và đẩy lui quân thù, đẩy lui sự dữ, Ngài là Đấng cứu độ và ở giữa dân Ngài với sức mạnh và tình thương vô biên của Ngài “. Đấng cứu độ chính là Đức Kitô Giêsu. Ngài đến để mạc khải tình thương của Ngài và chỉ cho con người cách thức đáp trả lại tình thương của Ngài.
Sám hối ăn năn chính là đi vào đường lối yêu thương của Chúa bởi vì Ngài đến để yêu thương, chỉ bảo con người sống yêu thương như Ngài. Chúa Giêsu đã yêu chúng ta, yêu thương nhân loại đến tận cùng. Hãy yêu thương như Chúa. Đó là toàn bộ giáo huấn của Chúa. Đó là nội dung xuyên suốt của toàn bộ Tin Mừng.
Giáo Hội đang đưa con người đi trên hành trình yêu thương để thực hiện lời Chúa dạy “ Anh em hay yêu thương nhau…Cứ dấu này người ta sẽ nhận ra anh em là môn đệ của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau “.
Chúa Giêsu đã sống và đã thực hiện yêu thương bằng cái chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại, cứu độ con người.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết chia sẻ, biết xây dựng tình huynh đệ hiệp nhất, yêu thương như lời Chúa dạy. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
Gioan rao giảng gì ? Phép rửa của Gioan Tẩy Giả khác với phép rửa của Chúa Gie6su thế nào ? Chúa đòi gì nơi mọi người ? Cốt lõi của Tin mừng là gì ? Tại sao OBACE lại phải siêng năng lãnh nhận bí tích giao hòa ?
Thiên Chúa phán với ông Môsê: Ta là Đấng Hiện Hữu, là Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Apraham, Isaac và Giacop. Đó là Danh Ta đến muôn thuở, là danh hiệu để kêu cầu ta từ đời nọ đến đời kia. Thiên Chúa thật sự quan tâm đến con cái Israel bên Ai cập. Và Ngài sẽ giải thoát Israel khỏi nỗi khổ ải, mà đưa vào miền đất sữa và mật.
Bài Đọc Hai: Pl 4, 4- 7
Thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa, rộng rãi, Chúa đã gần đến. Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa sẽ giữ lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô.
Bài Đọc Tin Mừng: Lc 3, 10- 18a
Khi nhiều người đến chịu phép rửa và hỏi ông Gioan phải làm gì để đón nhận ơn cứu độ, ông đã trả lời: Hãy làm đúng chức năng của mình và theo luật định, sống bác ái và tránh bốc lột người khác, bằng lòng với những gì mình đang có.
Hồi đó, người ta cứ nghĩ: biết đâu ông Gioan là Đấng Messia. Ông Gioan đã trả lời: Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh thần và lửa.
2. Suy Niệm
Khi được ai thổi phồng bản thân hay đề cao mình, chúng ta có khuynh hướng chấp nhận nó như một điều tất yếu, một tặng ân xứng đáng với việc mình làm. Ngay cả trong lãnh vực tôn giáo cũng vậy, không thiếu những lần chúng ta rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng, bố thí của cải, nhưng lại mong chờ lời khen nơi người thụ ơn. Do đó, chúng ta cảm thấy khó chịu khi không được người khác đáp lại xứng với những gì ta bỏ ra. Những bệ cao của chức quyền, danh vọng, lời khen luôn có nguy cơ làm cho ta bị đốn ngã; vậy mà chúng ta vẫn mong được người khác đặt lên đó và xông hương. Với hạng con người này, những gì làm nhân danh Chúa chẳng qua chỉ là cái giá nâng mình lên để ăn mày những lời tán thưởng nơi người khác.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta một khuân mặt đầy khiêm tốn là Gioan Tiền Hô. Khi được dân chúng ca tụng như một Đấng Messia, ông đã nói lên sự thật: “Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh thần và lửa” (Lc 3, 16). Gioan luôn nhận thức mình là người dọn đường cho Đấng quyền năng hơn đang đến; và khi đến, ông phải lui vào phía sau để nhường bước cho Chúa Giêsu. Thật là một con người vĩ đại. Ông được dân chúng coi như Đấng Messia mà lại xem mình không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Đức Giêsu; phép rửa của ông đã làm cho biết bao tâm hồn sám hối, mà lại xem không đáng gì so với một phép rửa lớn hơn: phép rửa trong Thánh thần và lửa. Như vậy, ông Gioan cũng chân nhận mình là ngọn đèn cháy sáng trong một thời gian để soi đường dẫn lối dân chúng tới ánh sáng vĩnh cửu là Đức Kitô. Khi Đức Kitô đến, Ngài sẽ đem lại niềm vui và ơn bình an đích thực cho con người để giúp mỗi người sống hiền hòa và rộng rãi ((x. Pl 4, 4- 7).
Qua con người của Gioa Tiền Hô, chúng ta cũng thành tâm nhìn lại chính bản thân mình. Nếu một chứng nhân Tin Mừng mà tâm hồn chất đầy những kiêu căng của tự mãn và tinh thần thế tục thì rất khó mang Chúa đến cho người khác. Thay vì một Thiên Chúa mạc khải, chúng ta lại tạo nên Thiên Chúa của ngẫu tượng hầu phù hợp với tâm tính và tinh thần vụ lợi của mình. Mỗi người chúng ta rất dễ rơi vào khuynh hướng dẫn người khác đến với mình thay vì đến với Chúa, muốn tô hồng bản thân thay vì làm cho Nước Chúa được vinh quang. Thật là đau buồn cho những người thợ trong cánh đồng truyền giáo nhưng lại nặng mùi thế tục.
Là những Gioan Tiền hô của thời đại, Thiên Chúa cũng muốn mỗi người chúng ta hãy dọn đương cho Chúa đến với thế giới này bằng chính cuộc sống trong sạch, khiêm tốn và đượm chất Tin Mừng. Điều này đòi hỏi mỗi người phải giữ lòng trí kết hợp với Chúa (Pl 4, 7), ở lại trong Ngài để được thanh luyện nên một con người mới. Chúng ta hãy can đảm để Đức Kitô tẩy rửa những uế tạp trần tục, loại bỏ những ý hướng thấp hèn hầu mặc lấy tâm tình của Ngài để thực sự sống công chính và thánh thiện.
Bởi chưng, con người thời nay cần nhân chứng hơn là thầy dạy. Do đó, Giáo hội cũng cần một kitô hữu thánh thiện, hơn là một kitô hữu “khua chiêng đánh trống”, mà tâm hồn lại trống rỗng. Điều đó đồng nghĩa để trở nên một nhân chứng sống động cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, mỗi người cần có một kinh nghiệp đích thực về Ngài: kinh nghiệm về một Thiên Chúa gần gũi để có thể bàn thảo, tâm sự và ngay cả để than van. Nói cách khác, nhà truyền giáo đích thực, trước hết phải là một con người cầu nguyện, luôn chìm đắm trong Đấng đã sai đi. Bởi vì, truyền giáo là mang Chúa đến cho người khác, chứ không phải để tiếp thị bản thân. Ý hướng này, chúng ta cũng gặp thấy nơi diễn văn của thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II gửi các Giám mục và cộng đoàn Dân Chúa ở Việt nam tháng 12/1996: “Tương lai truyền giáo tùy thuộc phần lớn ở chiêm niệm. Người thừa sai, nếu không phải là nhà chiêm niệm, thì không thể loan báo Đức Kitô một cách khả tín; họ là một chứng nhân của kinh nghiệm về Thiên Chúa và phải nói như thánh tông đồ: Điều chúng tôi đã chiêm niệm…, đó là lời sự sống…, chúng tôi loan báo cho anh em”.
Lạy Chúa, xin mở lòng và uốn nắn tâm trí chúng con để chúng con thực sự là chứng nhân của tình yêu Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.
Đs. Montfort Nguyễn Xuân Pháp Ocist. ------------------------------------
Nhạc sĩ Trần Tiến với bài hát “Lời nói cuối” đã đoạt giải nhất trong cuộc thi phong trào phòng chống MV 3-C146
Nhạc sĩ Trần Tiến với bài hát “Lời nói cuối” đã đoạt giải nhất trong cuộc thi phong trào phòng chống Siđa. Nội dung bài hát ông lấy cảm hứng từ một lá thư của một cậu bé bán bánh mì mắc bệnh Siđa. Cậu ta tâm sự rằng cậu chỉ bán bánh mì vào ban đêm vì khuôn mặt của cậu đã lỡ nhiều quá. Cậu bơ vơ và khát khao một cuộc sống. Cậu nhờ nhạc sĩ viết cho bài hát “lời nói cuối” như một lời trần tình cho mọi người về khát vọng sống. Nội dung bài hát: “Một buổi sớm, nhìn gương lại thấy buồn vết bầm tím lang rộng trên môi, mỗi một sớm thời gian, dục vó ngựa mang đời tôi đi vào đem đen. Mỗi ngày trôi, đời tôi một ngắn lại. Vó ngựa phi vội tới vực sâu, vó ngựa ơi chậm thêm một chút một chút thời gian, thời gian nhỏ nhoi. Cho tôi nhìn bầu trời của tôi, cho tôi nhìn người tình của tôi, cho tôi nói lời nói lần cuối: đừng ai, đừng ai chết trẻ như tôi. Tôi là đứa trẻ con còn non dại. Sao tuổi xuân sớm bỏ tôi đi. Tôi là đứa trẻ con còn mơ mộng. Sao tình yêu sớm bỏ tôi đi... Mỗi ngày trôi đời tôi một ngắn lại. Vó ngựa phi vội tới vực sâu. Vó ngựa ơi chậm thêm một chút. Một chút thời gian, thời gian nhỏ nhoi. Cho tôi chào mẹ già của tôi. Cho tôi chào bạn bè của tôi. Cho tôi nói lời nói lần cuối. Đừng ai đừng ai chết thảm như tôi”. Vâng, có lẽ giây phút gần cái chết, niềm khát vọng sống trở thành mãnh liệt hơn bao giờ hết vì thế nó thúc đẩy em bé thốt lên một lời nài van: “Hãy cho tôi thêm một chút một chút thời gian, thời gian nhỏ nhoi. Cho tôi nhìn bầu trời của tôi, cho tôi nhìn người tình của tôi. Cho tôi chào mẹ già của tôi. Cho tôi chào bạn bè của tôi. Cho tôi nói lời nói lần cuối đừng ai, đừng ai chết trẻ và chết thảm như tôi”. Vâng, cũng vậy, niềm khát vọng sống, không để chết thảm là sa hỏa ngục đời đời nhưng được sống vĩnh hằng trở thành hiện thực nơi mỗi người chúng ta qua việc Ngôi Hai Thiên Chúa sắp Giáng sinh làm người để cứu độ chúng ta: cho chúng ta làm con cái Chúa, cho chúng ta giao hòa với Chúa và với nhau, đặc biệt cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết, để được như vậy thì ngay từ bây giờ chúng ta hãy thay đổi thang giá trị cuộc sống này. Và đó cũng chính là tâm tình Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta.
Trong Tin Mừng, Thánh Gioan tẩy giả loan báo niềm hy vọng cho Dân Israel, đó không phải là niềm hy vọng trừu tượng mà là niềm hy vọng được tập trung vào Đấng mà người Do thái mong đợi Đấng Mesia, Ngôi Hai Thiên Chúa làm ngươi. Vì thế, mở đầu Tông Sắc “Dung Nhan Lòng Thương Xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng Chúa Giê-su Ki-tô là Dung Nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha vì chưng, trong Chúa Giê-su Kitô, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha trở nên sống động, rõ ràng và thấy tột đỉnh điểm của nó. Vì vậy ai thấy Ngài là thấy Cha (x. Ga 14,9) mà Chúa Cha là “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa, thành tín” (Xh 34,6) và "giàu lòng thương xót" (Ep 2,4) (số 1). Vâng, Lòng Thương Xót Chúa mạnh hơn tội lỗi, Ngài không bao giờ mõi mệt để tha thứ cho con người, làm cho con người được sống dồi dào và không bao giờ phải chết. Để được như thế, Thánh Gioan Tẩy giả, vị ngôn sứ kêu gọi chúng ta hãy sám hối mà sám hối không phải thứ sám hối chung chung mà phải sám hối cụ thể hoá trong cuộc sống bằng hành động.
Chúng ta thường đặt thang giá trị vào vô vàn khía cạnh của cuộc sống: đối với người làm lớn coi thang giá trị đó là quyền lực. Người kinh doanh đặt thang giá trị nơi tiền, lợi nhuận. Giới trẻ đặt thang giá trị cuộc sống nơi hưởng thụ, “văn hóa vứt bỏ” nói như Đức Thánh Cha Phanxicô. Giới thiếu nhi đặt thang giá trị nơi trò chơi điện tử, ăn chơi leo lỏng… Vì thế, Lời Chúa hôm nay khuyên chúng ta hãy thay đổi những thang giá trị đó: Nếu người làm lớn, hãy sống công bằng, không được ức hiếp người yếu thế. Nếu là công nhân đừng đòi hỏi quá mức lương ấn định. Nếu là chồng, hãy sống chung thuỷ với vợ và hy sinh lo cho con cái. Nếu là vợ, hãy là người vợ đạo đức và người mẹ hiền gương mẫu. Nếu là con cái, hãy chịu khó học hành và vâng lời Cha mẹ. Nếu là giới trẻ, hãy sống có đạo đức và tác phong là người trẻ. Chớ ăn chơi leo lỏng, chớ dùng bạo lực mà đối xử nhau. Nếu là sinh viên, hãy sống trung thực và hòa thuận với nhau, chớ gian dối, bạo lực hay nghiện ngập! Còn các gia đình thân mến, chúng ta hãy năng đọc kinh chung trong gia đình, năng tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận các bí tích để Chúa và hãy để Lời của Ngài luôn cư ngụ trong tâm hồn anh chị em, làm cho mỗi người trong gia đình gạt đi những ảo tưởng để đón nhận nhau, cùng nhau nên hoàn thiện hơn mỗi ngày; biết kiên nhẫn, hy sinh và quảng đại với nhau hơn”. Thánh Gioan tẩy giả nói: “Ai có hai áo thì chia cho người không có, ai có gì ăn cũng làm như vậy”, có nghĩa rằng Các thành viên trong gia đình hãy chia sẻ một chút vật chất, một chút thì giờ, một chút quan tâm cho nhau và cho những người khác. Các bậc làm cha làm mẹ đừng có lạm dụng quyền hành mà lỗi đức công bình, bác ái với nhau và với con cái”. Thánh Gioan tẩy giả nói tiếp: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền ai, có nghĩa rằng các con cái phải cư xử thảo hiếu và vâng lời cha mẹ, anh chị em và hàng xóm láng giềng với nhau. Và cứ như thế, tất cả mọi người sẽ nhìn thấy Ơn Cứu Độ.
Chính vì thế mà Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói rằng: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến”. Vì vậy, Chúa Nhật III mùa vọng hay còn gọi Chúa Nhật Gaudete: “Mừng Vui lên”, vui mừng vì Chúa giải thoát đã đến và đang ở với chúng ta. Ngài đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang quy tụ muôn nước thành một dân một nước: Dân Chúa, Nước Trời, không phải bằng vũ lực khống chế, nhưng bằng sự giải thoát loài người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, ích kỷ, nhỏ nhen, bất chính… Ngài cũng kêu gọi chúng ta hãy sống liên đới yêu thương, chia cơm sẻ áo cho người đói khổ, sống công bình, chính trực và chan hoà với mọi người đồng thời khơi lên niềm vui cho những ai đang chán nản, thất vọng chán chường vì không có niềm tin, vì đã mất niềm tin nơi con người, nơi xã hội và cả nơi Thiên Chúa nữa.
Xin cho Lời Chúa hôm nay thúc bách chúng ta lấy tình thương, công bằng, bác ái và thứ tha làm thang giá trị trong cuộc sống hầu làm Danh Chúa cả sáng và Nước Chúa đến với mọi người trong ngày Giáng sinh sắp đến cũng như mọi ngày. Amen.
“Chúng tôi phải làm gì?” là câu hỏi thích hợp cho tất cả những ai muốn đến xin ông Gio-an Tẩy Giả cho họ lời khuyên về việc sám hối. Những kẻ tới xin ngài chỉ dạy thuộc đủ mọi thành phần xã hội. Ai ra về cũng có một câu trả lời tuy ngắn gọn, nhưng quá đủ để giúp họ thay đổi lối sống, sao cho thỏa đáng những đòi hỏi của việc đón nhận Đấng Mê-si-a sắp đến. Những câu trả lời của Gio-an Tẩy Giả không nặng phần lý thuyết bài bản, nhưng áp dụng rất thực tế vào ngay hoàn cảnh và nghề nghiệp của mỗi người. Ông hết sức nghiêm túc khi trả lời, vì ông biết Đấng Mê-si-a vô cùng cao trọng và sứ mệnh của Người là “làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa” vượt xa trên tác vụ làm phép rửa của ông. Hôm nay mỗi người chúng ta cũng có cùng một câu hỏi khi đến với Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì để sám hối và chuẩn bị đón Chúa?”
Những người đến gặp ông Gio-an Tẩy Giả là ai? Họ là dân chúng, là những nhân viên của chính quyền hoặc quân đội. Nhưng họ đều có chung một khát vọng là muốn thực sự quay về với đời sống công chính. Họ đã ý thức thân phận tội lỗi
của mình và muốn có một sự thay đổi lớn lao.
Đối với dân chúng nói chung, ông Gio-an đã nhận thấy nhu cầu sám hối của họ ở điểm rất thực tế. Cuộc sống của những người Do-thái thời ấy không dễ dàng nên ai cũng ráng lo cho thân mình mà không quan tâm tới người khác. Đặc biệt những thành phần kém may mắn như các bà góa con côi lại càng khốn khổ hơn. Đây cũng là đề tài các vị ngôn sứ đã từng kêu gọi theo mệnh lệnh của Chúa. Các ngôn sứ như Hô-sê và A-mốt là những thí dụ cụ thể. Các ngài lên tiếng bênh vực cho người bị xã hội bỏ rơi. Cho nên giờ đây đối với những ai muốn quay lưng lại lối sống ích kỷ, thì việc chia cơm xẻ áo với người khác là một đề nghị rất thích hợp với hoàn cảnh đời sống luân lý của họ. Một tầng lớp xã hội khác cũng cần phải sám hối là các người làm việc cho chính quyền Rô-ma, đặc biệt là những người thu thuế. Đây là một nghề dễ gian lận và xâm phạm đến sự công bằng. Cho nên lời khuyên của Gio-an thật giản dị: Đừng đòi hỏi gì quá mức ấn định cho các anh! Sau hết là đám binh lính, họ cũng muốn thực hành một điều gì đó cụ thể để thay đổi lối sống. Họ làm việc cho đế quốc Rô-ma và lãnh lương của chính phủ. Nhưng cái đám “bất nhân như lính” ấy lại luôn cậy mình có khí giới trong tay, nên thường coi dân như rác, mặc sức tung hoành. Ông Gio-an thẳng thắn khuyên bảo họ: Chớ hà hiếp ai.
Những đề nghị thực tế nói trên cho chúng ta thấy rõ điều này là sám hối không chỉ là một vài hành vi bề ngoài, như chịu phép rửa thời Gio-an hoặc đi xưng tội thời nay, nhưng là mỗi người phải thay đổi não trạng (metanoia) và quay lưng lại lối sống cũ để tiếp nhận lối sống mới. Lối sống mới ấy là lối sống đã được Chúa Giê-su rao giảng khi Người loan báo Tin Mừng và thanh tẩy chúng ta bằng Thánh Thần và tình yêu Thiên Chúa. Giá trị tuyệt đối của Chúa Giê-su và Tin Mừng đã được chính miệng ông Gio-an tuyên xưng khi ông quả quyết Chúa Giê-su là “Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Ông chỉ là người chuẩn bị giúp người ta đón nhận sứ mệnh của Chúa Giê-su. Chúa mới thực sự là Đấng xóa bỏ mọi tội lỗi chúng ta, giống như “Người cầm nia mà rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta đã bước vào Năm thánh ngoại thường về Lòng Thương Xót. Có lẽ đây là thời điểm thích hợp để chúng ta đến hỏi Chúa về lối sống của mình có phản ánh lòng từ bi nhân hậu của Chúa hay không. Chúa sẽ dạy chúng ta hãy xét lại những lời ăn tiếng nói của chúng ta. Đó là những lời khích lệ, yêu thương, hay chỉ là những lời hằn học, đe dọa biểu lộ một tâm địa độc ác? Chúa muốn chúng ta nhìn lại những hành vi của mình. Tôi có những hành vi thiếu bác ái, làm tổn thương danh dự hoặc mất tiếng tốt của người khác không? Đặc biệt Đức Phanxicô đề nghị một phương thức cụ thể để chúng ta thực hành lòng thương xót, đó là sống “Thương người có mười bốn mối” mà chúng ta vẫn đọc trong kinh nguyện. Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Rồi chúng con nghe các bài đọc vừa rồi, chúng con có thấy nói tới cái gì nhiều không? Thí dụ bài đọc thứ nhất trích từ sách Ngôn sứ Sophonia?
Ngay từ câu đầu ngôn sứ đã kêu: "Hãy vui lên"
Rồi tới bài đọc II trích từ thư thứ I của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Thexalônica, thánh Phaolô cũng nói: "Anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa"
Tiếp theo là bài Tin Mừng theo Thánh Luca cho mọi người biết muốn có niềm vui thì phải làm gì.
Chính vì thế mà các nhà Phụng vụ thường gọi Chúa Nhật hôm nay là Chúa nhật của Niềm vui 1. Cha hỏi chúng con niềm vui là gì?
Cha kể cho chúng con câu chuyện này: Có một cậu bé muốn đi gặp Chúa Giêsu, để chuẩn bị cho cuộc hành trình, cậu bỏ vào giỏ mấy chiếc bánh và hai chai sữa tươi. Và cậu bé lên đường, lòng vui tươi hớn hở. Mới đi được mấy dãy phố, cậu chợt thấy một bà cụ già đang ngồi trên một chiếc ghế đá công viên. Cậu thấy mỏi chân nên quyết định ngồi nghỉ một chút bên cạnh bà lão. Cậu lấy một chai sữa tươi ra, định uống cho đỡ khát.
Nhưng nhìn sang, thấy bà cụ run lập cập, có lẽ vì đói quá chăng. Cậu liền lấy bánh lẫn sữa ra mời bà. Bà cụ nhận tất cả với một nụ cười cảm động và biết ơn ôi nụ cười mới đẹp làm sao? Thế là hai bà cháu mải mê ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ với nhau mãi.
Buổi chiều, khi cậu bé trở về nhà, bà mẹ thấy con rất vui liền hỏi:
- Hôm nay con có chuyện gì mà vui thế?
Cậu hớn hớ khoe:
- Mẹ có ngờ được không? Hôm nay con đã cùng ngồi ăn trưa với Chúa Giêsu. Người có nụ cười thật đễ thương mẹ ạ!
Trong khi đó, bà lão cũng chậm rãi trở về nhà, lòng chan chứa một niềm bình an. Cậu con trai lớn của bà hỏi thăm ngay từ cửa:
- Mẹ ơi, sao hôm nay mẹ có vẻ vui thế nhỉ?
Bà cụ móm mém trả lời:
- Này, con có ngờ được không? Hôm nay mẹ đã cùng được ngồi ăn trưa với đức Giêsu. Người trẻ hơn mẹ tương nhiều con ạ!
2. Làm sao để mình có được niềm vui?
Thánh Gioan cho chúng ta một bí quyết: Sống mỗi ngày tốt hơn một tí
Cha thấy ông Gioan là một người rất thực tế. Ông không đòi hỏi ai điều khó, khó đến nỗi họ không làm được.
Chúng con thấy khi những người lính đến hỏi ông thì ông trả lời: "Hãy bằng lòng với đồng lương của mình."
Với những người thu thuế thì ông bảo: "Đừng có hà hiếp ai."
Những người có đạo, ông khuyên người ta: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.”
Cha hỏi chúng con: Tại sao ông Gioan lại đưa ra những lời khuyên khác nhau như vậy? Có phải ông phân biệt đối xử hay không? Hay là ông không muốn mọi người đều phải được đối xử như nhau.
Không phải thế chúng con! Mà phải nói như thế này mới đúng: Ông Gioan đã không dám bắt mọi người phải sống hoàn hảo như nhau. Ông chỉ muốn mỗi người sống mỗi ngày tốt hơn một tí. Những người chưa có được cuộc sống theo lẽ công bình thì hãy cố gắng sống công bình với mọi người. Những ai đã quen với cuộc sống công bình rồi thì cố gắng đưa cuộc sống mình lên cao hơn để sống bác ái.
Với những người thu thuế và những người lính, họ đã quen sống thiếu công bằng và chưa biết sống bác ái yêu thương, nghĩa là họ chỉ quen sống với điều mà người ta gọi là luật rừng, ông chỉ dám khuyên họ sống tốt hơn một chút. Sống tốt hơn ở đây là biết cư xử công bình với nhau.
Còn đối với những người đã biết sống công bình, ông khuyên họ đưa cuộc sống của họ lên cao một tí. Cao ở đây là lên tới cuộc sống bác ái yêu thương. Bác ái yêu thương ở đây là biết chia sẻ. 3. Thí dụ cụ thể.
Có lần, một sinh viên nói với nhà khoa học và triết học Blaise Pascal:
- Nếu cháu được tài giỏi như chú, cháu sẽ trở thành một người tốt hơn!
Ông Pascal trả lời:
- Điều đầu tiên là cháu hãy trở thành một người tốt hơn, rồi cháu sẽ được tài giỏi như chú!
Tại một tiệm bán thực phẩm cho các loài chim kia, vì muốn thu hút khách hàng, nên ông chủ tiệm bắt được con phượng hoàng đem nhốt vào cái lồng lớn đặt trong tiệm.
Một hôm, có hai ông cháu từ miền núi xuống thành phố mua đồ. Khi đi ngang qua tiệm, vừa trông thấy con chim phượng hoàng bị nhốt trong lồng, ông ta động lòng thương hại, liền ngỏ ý với ông chủ tiệm xin mua con chim ấy.
Không để mất cơ hội, ông chủ tiệm đòi giá tiền thật cao.
Không một lời trả giá, người khách hàng đi thẳng tới nhà ngân hàng, rút số tiền cần thiết và trở lại tiệm mua chim phượng phoàng. Ông ta vui mừng ẵm con chim trên tay bước ra khỏi tiệm. Vừa bước chân tới quãng đường vắng, ông ta liền mở tay ra để chim được tự do bay bổng giữa bầu trời mênh mông của nó.
Ngạc nhiên trước việc làm của ông, đứa cháu nhỏ tò mò lên tiếng hỏi:
- Thưa ông nội, tại sao ông lại sẵn sàng hy sinh một số tiền lớn như vậy để chuộc trả tự do cho con chim phượng hoàng ấy.
Ông vui vẻ đáp:
- Cháu hãy ghi lòng tạc dạ điều này: trên đời, giàu sang không chỉ căn cứ trên những gì mình có thể chiếm đoạt được mà thôi, nhưng chính là trên những gì mình cần phải cho đi, để có thể thực hiện được điều tốt lành cần phải làm.
Hay quá chúng con! Làm sao có thể thực hiện được những điều tốt đẹp mà mình cần phải làm. Chẳng thiếu gì những điều như thế chung quanh cuộc sống của mỗi người chúng ta. Cha cho chúng con một thí dụ.
Một cậu bé xuất hiện trước cửa hàng bán chó và hỏi người chủ cửa hàng:
- Giá mỗi con chó là bao nhiêu vậy bác?
Người chủ cửa hàng trả lời:
- Khoảng từ 30 tới 50 đô la một con!
Cậu bé rụt rè nói:
- Cháu có thể xem chúng được không ạ?
Người chủ cửa hàng mỉm cười rồi huýt sáo ra hiệu. Từ trong chiếc cũi, năm chú chó con bé xíu như năm cuộn len chạy ra, duy có một chú bị tụt lại sau khá xa. Ngay lập tức, cậu bé chú ý tới chú chó chậm chạp, hơi khập khiễng đó. Cậu liền hỏi:
- Con chó này bị sao vậy bác?
Ông chủ giải thích rằng nó bị tật ở khớp hông và nó sẽ bị khập khiễng suốt đời.
Nghe thế cậu bé tỏ ra xúc động:
- Đó chính là con chó cháu muốn mua!
Chủ cửa hàng nói:
- Nếu cháu thực sự thích con chó đó, ta sẽ tặng cho cháu. Nhưng ta biết cháu sẽ không muốn mua nó đâu.
Gương mặt cậu bé thoáng buồn, cậu nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng và nói:
- Cháu không muốn bác tặng nó cho cháu đâu. Con chó đó cũng có giá trị như những con chó khác mà. Cháu sẽ trả bác đúng giá. Thực ra, ngay bây giờ cháu chỉ có thể trả bác 2 đô la 37 xu thôi. Sau đó, mỗi tháng cháu sẽ trả dần 50 xu được không ạ?
- Bác bảo thật nhé, cháu không nên mua con chó đó, người chủ cửa hàng khuyên. - Nó không bao giờ có thể chạy nhảy và chơi đùa như những con chó khác được đâu.
Ông vừa dứt lời, cậu bé liền cúi xuống vén ống quần lên, để lộ ra cái chân trái tật nguyền, cong vẹo được đỡ bằng một thanh kim loại. Cậu ngước nhìn ông chủ cửa hàng và khẽ bảo:
- Chính cháu cũng chẳng chạy nhảy được mà và chú chó con này sẽ cần một ai đó hiểu và chơi với nó.(Dan Clark)
Muốn có được niềm vui chúng ta cũng phải làm như thế. Phải biết chia sẻ, Chia sẻ càng nhiều càng tốt. Làm được như thế nhất định chúng ta sẽ có thật nhiều niềm vui trong Mùa Giáng Sinh này. Amen.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
------------------------------------
MV 3-C149: Một câu chuyện đáng ta nễ phục và suy nghĩ
Theo luật giao thông của nước Úc qui định, thì tất cả mọi người, khi đi xe hơi, mà không đeo dây MV 3-C149 FB
Theo luật giao thông của nước Úc qui định, thì tất cả mọi người, khi đi xe hơi, mà không đeo dây an toàn, thì sẽ bị phạt.
Thế là có một câu chuyện đã xảy ra tại nước này, rất đáng cho chúng ta phải nễ phục và phải suy nghĩ.
Số là ông Bê-phóp, đương kim là Thủ Tướng của nước Úc. Ông được coi là kẻ có quyền lực cao nhất nước của nước này. Một hôm trên con đường đi công tác, ông bị Cảnh sát giao thông phát hiện, là ông đang ngồi trên xe du lịch, bon bon chạy trên xa lộ, mà không có thắt dây an toàn. Ông bị bị cảnh sát giao thông chận lại và phạt tiền 100 Dola Úc, mặc dầu biết, ông là Thủ Tướng Chính Phủ.
Chuyện vi phạm này của ông, lại bị đài truyền hình nước Úc cho chiếu đoạn phim này công khai trên màn hình nhỏ, làm cho mọi người trong cả nước và cả thế giới đều biết.
Nhiều khán giả của đài truyền hình, khi xem thấy cảnh đó, cảm thấy quá bức xúc, liền gọi điện thoại tới tấp đến sở giao thông, để phản đối việc làm này. Bởi, họ muốn bảo vệ thanh danh và uy tín thủ tướng của họ. Họ muốn bỏ qua chuyện này, vì muốn bảo vệ sĩ diện lãnh tụ của họ và cũng là sĩ diện của một quốc gia.
Hơn nữa, chuyện không thắt dây an toàn trên xe hơi, cũng chỉ là một lỗi nhỏ thôi trong vi phạm luật lệ giao thông. Tội này dâu có quan trọng gì. Tội này đâu có đáng gì, để làm nhục công khai một vị thủ tướng, vị lãnh đạo cao nhất nước, đang rất có uy tín.
Nhưng, cũng trong chính ngày hôm đó, ông Thủ Tướng đã gọi điện thoại cho ông giám đốc sở cảnh sát giao thông, và đã nhận lỗi của mình. Ông muốn lên màn hình nhỏ, để được công khai xin lỗi trước toàn dân của cả nước, về cái tội làm gương mù gương xấu này, và xin được xử lý theo luật pháp, như mọi người công dân khác.
----------------------
Ý thức lỗi lầm và dám nhận lỗi lầm, là khởi đầu của sự hoàn thiện. Sai mà không biết mình sai, sai mà không dám nhận mình sai, sẽ không thể nào có được sự hoán cải, và sẽ không thể nào có được một sự thăng tiến trong cuộc sống, nhất là trong lãnh vực đạo đức.
Thánh Gioan thánh sử đã viết như thế này trong thư thứ nhất của Ngài, đoạn 1 câu 8: “Nếu chúng ta nói rằng, chúng ta không có tội, là chúng ta nói dối, là chúng ta tự lừa dối mình.”
Thật vậy, không ai trong chúng ta là kẻ vô tội. Bởi ai trong chúng ta cũng đều mang trong mình cái bản tính yếu hèn của con người. Chúng ta cần phải khiêm tốn chấp nhận thực tế đó.
Mà vì có tội, cho nên chúng ta cần phải ăn năn, chúng ta cần phải sám hối mỗi ngày.
Nhưng sự sám hối đích thực, không thể chỉ dừng lại ở những tâm tình ăn năn đau đớn bên trong, hay chỉ nói ra những lời hối hận nơi môi miệng, mà còn cần phải được biểu lộ ra, bằng những việc làm cụ thể bên ngoài nữa.
Nhiều người, khi nghe thánh Gioan tiền hô giảng dạy và kêu gọi việc dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến, thì đã nhận ra những khuyết điểm lỗi lầm của mình, đã thấy mình có nhu cầu, cần phải sám hối, cần phải sửa chữa.
Nhưng họ lại không biết phải làm gì bây giờ. Họ không biết phải bắt đầu từ đâu. Cho nên, họ đã lần lượt kéo nhau đến với Gioan tấy giả, để xin Người chỉ dạy cho. Và thánh Gioan cũng đã hướng dẫn họ, và đã dạy bảo họ phải thực hiện một số việc làm cụ thể như sau:
- Hãy lo chu toàn những bổn phận củaa mình, sao cho thật tốt đẹp, sao cho thật hoàn hảo. “Ai có hai áo, hãy cho những người không có. Ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”.
- Còn đối với những người thu thuế, thì Gioan dạy bảo: “Đừng có đòi quá mức những gì đã qui định”.
- Riêng những quân nhân, thì Gioan nhắc nhở: “Đừng có ức hiếp ai, đừng có cáo gian cho ai, hãy bằng lòng với số lương của mình”.
Nói chung, những lời chỉ dạy của Gioan, là hãy lo giữ sự công bình cho nghiêm túc trong cuộc sống, đừng bóc lột ai, đừng lừa đảo người nào, để kiếm lợi hay để làm giàu cho bản thân, đừng chiếm đoạt của cải của ai, đừng biển thủ của công làm của riêng mình.
Rồi hãy cố gắng mà sống bác ái yêu thương, hãy biết quan tâm tới những nỗi khổ đau thiếu thốn của những người mà chúng ta biết được, hãy biết chia sẻ những cái mình có cho những người neo đơn nghèo khổ sống bên cạnh mình.
Phải có những việc làm cụ thể như trên, thì mới chứng tỏ được lòng sám hối chân thành của ta. Chỉ khi nào có lòng sám hối chân thành như trên, chúng ta mới có thể gặp gỡ được Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người. Và chỉ khi nào ta gặp được Con Thiên Chúa làm người, thì đời ta mới có được niềm vui, và đời ta mới có được sự bình an thực sự.
Ước gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng hãy biết bắt chước dân Do Thái xưa kia, mà thân thưa với Chúa thường xuyên trong kinh nguyện, trong cuộc sống hằng ngày:
Lạy Chúa, bây giờ đây, con phải làm gì?
Chúng ta hỏi Chúa, nhưng chúng ta cũng hãy tìm những giây phút thinh lặng riêng tư, để nghe Chúa trả lời cho ta.
Rồi một khi đã nghe được tiếng Chúa nói, chúng ta cũng hãy can đảm mà làm theo những điều Chúa dạy, dù những điều Chúa dạy đó, có khi đòi ta phải hy sinh nhiều lắm, phải chấp nhận từ bỏ nhiều thứ lắm trong cuộc sống mình. Bởi vì, đó chính là điều kiện để mang lại ơn cứu độ cho chúng ta.
Lạy Chúa, xin dạy cho con biết những việc con phải làm, trong những ngày dọn tâm hồn chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh sắp tới..
THIÊN CHÚA NHÂN TỪ BAN ƠN CỨU ĐỘ
THẾ NHÂN TỤC LỤY HƯỞNG PHÚC BÌNH AN
Cuộc sống luôn nhiêu khê, phức tạp hơn người ta tưởng. Vì thề, cần hiểu biết quá khứ, tin tưởng MV 3-C150
Cuộc sống luôn nhiêu khê, phức tạp hơn người ta tưởng. Vì thề, cần hiểu biết quá khứ, tin tưởng vào tương lai, chấp nhận chính mình và người khác để có thể “nhẹ lòng” mà sống hết phần đời mình. Biết chấp nhận mình là tự tặng món quà cho mình, biết chấp nhận người khác là trao tặng món quà cho họ. Thật vậy, Brian Tracy (Canada) nói: “Món quà lớn nhất mà bạn có thể trao cho người khác là món quà của tình yêu và sự chấp nhận vô điều kiện – The greatest gift that you can give to others is the gift of unconditional love and acceptance”.
Đó là điều phù hợp với Mùa Vọng vì Mùa Vọng là mùa chia sẻ yêu thương – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, cả cụ thể lẫn trừu tượng. Sắc Tím Mùa Vọng không phủ màu tím “buồn” mà là sắc tím thủy chung khi mong đợi Đấng Thiên Sai đến cứu độ nhân loại.
Hai ngọn nến tím đã được thắp lên, ngọn nến thứ ba được thắp lên mang sắc hồng vui mừng vì chúng ta đã kiên trì chờ đợi Chúa được nửa chặng đường Mùa Vọng, cũng đồng nghĩa rằng Ngài sắp đến: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4:4).
Mùa Vọng càng rút ngắn thì niềm hân hoan vui mừng càng dâng cao vì nhân gian sắp được đón Chúa Giêsu đến giải thoát nhân gian khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi, vì được lãnh nhận Ơn Cứu Độ. Niềm hy vọng ấy không mơ hồ, mà chắc chắn được toại nguyện.
VUI VẺ CHẤP NHẬN
Chấp nhận trái ngược với khước từ, nhưng chấp nhận cũng có hai kiểu khác nhau: chấp nhận vì yêu thích thì vui mừng, còn chấp nhận vì miễn cưỡng thì chẳng vui chi. Điều không vui hoặc điều buồn thì người ta thường muốn giữ kín, chỉ muốn ngồi một mình và tự gặm nhấm nó, nhưng niềm vui thì người ta muốn người khác cũng biết, đó cũng là một dạng chia sẻ – chia sẻ trong niềm vui nỗi mừng.
Thuở xưa, Ngôn Sứ Xôphônia phấn khởi mời gọi: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi!” (Xp 3:14). Sao lại thế nhỉ? Lý do rất đơn giản mà kỳ diệu: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Ngài đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Israel đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ” (Xp 3:15). Và rồi vào chính ngày ấy, người ta sẽ nói với Giêrusalem: “Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời” (Xp 3:16). Thật vậy, chớ hoang mang hoặc run sợ vì Thiên Chúa của chúng ta đang ngự giữa chúng ta, chính Ngài là Vị Cứu Tinh, là Đấng Anh Hùng. Không ai lại sợ hãi khi ở bên một vị oai phong lẫm liệt như vậy.
Mạnh mẽ xác định, Ngôn Sứ Xôphônia cho biết: “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Ngài mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa” (Xp 3:17-18). Đó cũng là lời dành cho mỗi chúng ta – đặc biệt là ngay ngày hôm nay. Quả thật, chúng ta vui mừng có Chúa, và Ngài cũng vui mừng ở giữa chúng ta để chia vui sẻ buồn với chúng ta, dù chúng ta hoàn toàn bất xứng. Niềm vui tột đỉnh, hạnh phúc dạt dào. Thật tuyệt vời biết bao!
Trong niềm vui khôn tả đó, Ngôn Sứ Isaia quả quyết: “Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Đức Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Is 12:2). Và ông cũng nói với tất cả chúng ta: “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ. Các bạn sẽ nói lên trong ngày đó: Hãy tạ ơn Đức Chúa, cầu khẩn danh Ngài, vĩ nghiệp của Ngài, loan báo giữa muôn dân, và nhắc nhở: danh Ngài siêu việt” (Is 12:3-4). Như vậy, chúng ta cũng phải thể hiện cho mọi người biết niềm vui đang rạo rực trong lòng mình: “Đàn ca lên mừng Đức Chúa, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công. Hãy reo hò mừng rỡ, vì Đức Thánh của Israel quả thật là vĩ đại!” (Is 12:5-6). Chắc chắn không ai có thể trì hoãn cái sự sung sướng đó.
Người ta nói rằng “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, thế nhưng chúng ta đang có những niềm vui trùng lặp – không chỉ theo cấp số cộng mà là cấp số nhân. Niềm vui nối tiếp điều mừng, Thánh Phaolô cũng chẳng giấu được nên phải lặp đi lặp lại lời động viên: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Pl 4:4). Thế nhưng không thể nói suông, mà phải thể hiện niềm vui đó qua cách sống “sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi” (Pl 4:5), lý do chính xác là “vì Chúa đã gần đến”. Lý do đơn giản mà to lớn và đặc biệt lắm.
Như đoán biết chúng ta còn e dè, ngần ngại, Thánh Phaolô tiếp tục động viên: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7). Niềm vui của Kitô hữu khác hẳn niềm vui của người không có niềm tin tôn giáo. Đạo Chúa là đạo của tình yêu thương, đạo của niềm vui mừng. Và dù có thế nào cũng vẫn vui, vui vì có Chúa, vui cả ngay trong nỗi buồn, vui vì luôn hy vọng và tin tưởng – tích cực chứ không tiêu cực.
TIN TƯỞNG CHẤP NHẬN
Chấp nhận là điều không dễ, cũng là dạng quyết định, càng khó hơn khi phải chấp nhận điều gì đó quan trọng, và lại càng khó hơn gấp bội khi điều đó cần có niềm tin. Thánh Bernadette lý luận đơn giản mà chí lý: “Đối với người tin thì không cần giải thích, đối với người không tin thì giải thích cũng vô ích”.
Xã hội Việt Nam ngày nay khiến dân chúng mất niềm tin, bởi vì những người hữu trách chỉ nói mà không làm – nói thẳng ra là “lừa đảo đúng quy trình”. Cướp giỏi mà hèn hạ khi phải đối mặt với sự thật. Nói hay mà làm dở thì quá tệ, hoàn toàn vô ích, không có tác dụng. Tân Ước nói: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Cựu Ước nói: “Con chó quay lại chỗ nó mửa, đứa ngu lặp lại chuyện ngu đần. Nếu con gặp một kẻ tự cho mình là khôn, thà hy vọng vào đứa ngu còn hơn” (Cn 26:11).
Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả là con ông Dacaria, và mệnh danh là Tiếng-Hô-Trong-Hoang-Địa, nhưng ông là người đầy uy tín. Khi đám đông hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Ông trả lời ngay: “Ai có hai áo thì CHIA cho người không có; ai có gì ăn thì cũng LÀM như vậy” (Lc 3:11). Ui da, sao mà khó quá! Ông này đúng là dị nhân chính tông đây. Ấy thế mà vẫn có những người thu thuế đến chịu phép rửa, và tôn ông là Sư phụ. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Ông bảo họ: “ĐỪNG ĐÒI HỎI gì quá mức đã ấn định cho các anh” (Lc 3:13). Ngay cả binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì PHẢI LÀM GÌ?”. Ông bảo họ: “CHỚ hà hiếp ai, cũng ĐỪNG tống tiền người ta, HÃY an phận với số lương của mình” (Lc 3:14). Một câu ngắn mà có ba mệnh lệnh – hai xác định, một phủ định.
Ông Gioan chấp nhận “sống bụi” và muốn chia sẻ cách sống giản dị với mọi người – nghĩa là ông muốn chúng ta hành động như ông vậy: Chấp nhận đức tin và chia sẻ đức tin. Đó là sống theo chân lý, công bình, bởi vì mọi người có thể hiện công lý thì xã hội mới khả dĩ có nền hòa bình đích thực. Thể hiện công lý là tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của người khác. Những điều ông Gioan kêu gọi ngày xưa thì ngày nay là những điều thuộc lĩnh vực Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo. Ngày xưa “dị ứng” với chính trị, nhưng ngày nay đã có cách nhìn khác. Thánh GH Phaolô VI nói: “Chính trị là một trong những hình thức bác ái cao nhất”. Chủ đề Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2019 (ngày 1-1, tết dương lịch) đề cập mối quan hệ giữa chính trị và hòa bình: “Chính Trị Tốt Phục Vụ Hòa Bình”.
Ngày xưa, trong khi tha thiết trông mong Đấng Cứu Thế, dân chúng thấy ông Gioan có phong cách lạ nên họ đặt vấn đề: “Biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia?” (Lc 3:15). Thế nhưng ông xác định với mọi người thẳng thắn và rạch ròi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi KHÔNG ĐÁNG cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: THÓC MẨY thì thu vào kho lẫm, còn THÓC LÉP thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Lc 3:16-17). Mùa Vọng là cơ hội tốt, là dịp may để thóc lép “hút” các dưỡng chất tâm linh mà có thể trở nên thóc mẩy.
Là người được Thiên Chúa đề cao, nhưng ông Gioan khiêm nhường nhận mình bất xứng, không đáng “cởi quai dép” chứ đừng nói chi là “xách dép” cho Chúa Giêsu. Ông biết người và biết mình nên ông chấp nhận. Vả lại, chính ông cũng đang mong đợi Đấng đến sau ông, vì người đó mới đích thực là Đấng Thiên Sai – Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.
Bất cứ lúc nào chúng ta mong chờ ai đó thì cũng chỉ vì quý mến người đó. Mong đợi Chúa, chắc chắn chúng ta cũng phải yêu mến Ngài, nếu không thì… “kẹt” lắm! Thật vậy, Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nếu ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1Cr 16:22). Rất rõ ràng, rất rạch ròi.
Lạy Thiên Chúa, hôm nay chúng con hân hoan vì Ngôi Lời sắp sửa đến ở với chúng con, để chia vui sẻ buồn, đồng lao cộng khổ, thông phần số phận với chúng con, và dạy chúng con những điều tốt lành.
Xin giúp chúng con biết yêu mến Con Chúa, hiện thân của Chúa, mà dám sống “khác người”, đồng thời can đảm chấp nhận và chia sẻ mọi thứ với bất cứ ai – nhất là với những người hèn mọn nhất. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.