Suy Niệm Tin Mừng 7 Vọng & PS1 ABC Bài 151-200 Chúa đã sống lại rồi
--------------------------------------------------------
Phúc Âm Năm A:
Phúc Âm: Ga 20,1-9: "Người phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo
Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------
Phúc Âm Năm B: Mc 16,1-8: "Giêsu Nazarét chịu đóng đinh, đã sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta". Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn. Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: "Các người đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nazarét chịu đóng đinh: nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Ðây là chỗ người ta đã đặt Người. Các bà hãy đi nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước". Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi. - Ðó là Lời Chúa.
----------------
PS1-151 HÀNH ĐỘNG MỚI CỦA THIÊN CHÚA TRONG THẾ GIỚI 2
PS1-152 CHÚA GIÊSU PHỤC SINH.. 12
PS1-153 CSLC/100 - Mầu Nhiệm.. 16
PS1-154 SNLC/233- Sự sống. 18
PS1-155 CSTM/122- Sáng và tối 19
PS1-156 Ơn Phục Sinh - Lm. Thu Băng, CMC.. 21
PS1-157 TÔI ĐÃ THẤY VÀ TÔI ĐÃ TIN.. 22
PS1-158 Chúa Đã Sống Lại 25
PS1-159 MẦU NHIỆM PHỤC SINH TRONG ĐỜI SỐNG.. 27
PS1-160. ĐỨC KITÔ PHỤC SINH - CÁNH CỬA CUỘC ĐỜI 30
PS1-161. PHẢI MỪNG CHÚA PHỤC SINH VỚI TÂM TÌNH NÀO?. 34
PS1-162. NGÔI MỘ TRỐNG.. 37
PS1-163. CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI - Lm. Carolô Hồ Bặc Xái 44
PS1-164. NGÔI MỘ TRỐNG.. 51
PS1-165. Thời đại của chúng ta rất cần đến Lòng Nhân Từ Của Thiên Chúa. 54
PS1-166. Đức Kitô chiến thắng. 64
PS1-167. CHÚA ĐÃ PHỤC SINH.. 66
PS1-168. Hai thaùi ñoä canh thöùc. 68
PS1-169. Đêm Phục Sinh: Hãy đi tới Ga-li-lê-a của đời mình! 70
PS1-170. CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI 72
PS1-171. Mệt 74
PS1-172. Hy vọng mạnh hơn thất bại 75
PS1-173. TẢNG ĐÁ TRONG ĐỜI 77
PS1-174. Người đã sống lại, 78
PS1-175. CHÚA NHẬT PHỤC SINH - Lm. Ignatiô Hồ Thông. 81
PS1-176. NGƯỜI ĐÃ SỐNG LẠI THẬT - Lm. Anphong Trần Đức Phương. 87
PS1-177. CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT – Lm Giuse Đinh Lập Liễm.. 88
PS1-178. CHÚA KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI THẬT.. 97
PS1-179. LỜI ƯỚC PHỤC SINH - Lm Nguyễn Khoa Toàn. 99
PS1-180. TIN MỪNG PHỤC SINH - Lm Giuse Trần Đình Long, SSS. 100
PS1-181. CUØNG CHUNG NHINHÒP ÑAÄP VÔÙI TIM ... 103
PS1-182. MỘT BUỔI SÁNG ĐẸP TƯƠI - Lm. An Phong, OP. 113
PS1-183. PHỤC SINH., MẦU NHIỆM TÌNH YÊU.. 114
PS1-184. CHÚNG TÔI XIN LÀM CHỨNG - Lm. Giuse Nguyễn cao Luật, OP. 117
PS1-185. LÀM CHỨNG.. 120
PS1-186. Tin. 125
PS1-187. CÂU TRẢ LỜI CỦA NGÔI MỘ TRỐNG.. 126
PS1-188. ÔNG ĐÃ THẤY VÀ TIN.. 129
PS1-189. TÌNH ĐÃ CHẾT, CÓ MONG GÌ SỐNG LẠI 135
PS1-190. Phục Sinh. 139
PS1-191. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux. 140
PS1-192. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour 143
PS1-193. Ngôi mộ trống. 145
PS1-194. Hãy khai phóng tâm trí (Mc 16,1-8) 148
PS1-195. Đức tin của chúng ta. 149
PS1-196. Tin mừng Phục Sinh. 151
PS1-197. Chú giải của William Barclay (Mc 16,1-8) 152
PS1-198. Chú giải của Noel Quesson (Mc 16,1-8) 153
PS1-199. Chú giải của Fiches Dominicales (Mc 16, 1-8) 157
PS1-200. Chú giải của Fiches Dominicales (Ga 20,1-9) 160
-----------------------------
LỄ PHỤC SINH
1. BIẾN CỐ PHỤC SINH CỦA ĐỨC KITÔ
Để trả lời tiếng kêu xé lòng khi bị bỏ rơi vang lên nơi miệng của Đức Kitô trên thập giá “Lạy Chúa con, Lạy Chúa con, sqo Chúa lại bỏ con?" tiếng kêu tóm gọn mọi tình huống đau khổ của nhân loại, là tiếng kêu vui tươi của đức tin và hy vọng: Đức Kitô đã sống lại! trong đêm thứ Bảy Tuần thánh và ngày Phục sinh.
Dó là tiếng kêu của đức tin vì nó loan báo những gì đã qua đi vĩnh viễn nơi Đức Kitô; đó là tiếng kêu của niềm hy vọng vì nó loan báo điều mà mọi người nam nữ trên mặt đất này đợi chờ khi họ thấy Ngài sống lại trong sự vinh hiển viên mãn ngời sáng của Ngài.
Trong thực tế, sự sống lại của Đức Giêsu không giống sự sống lại của Lagiarô (được Tin mừng theo thánh Gioan tường thuật ở chương 11) là sự trở lại với người thân một ít thời gia, nhưng đây là một thành vi mới của Thiên Chúa, mà trí khôn của ta không bao giờ đạt tới việc hình dung ra nó, chúng ta không thể tưởng tượng thực tế huy hoàng mà Thiên Chúa làm cho chúng ta vào lúc ta chết và sống lại. Hành động của Thiên Chúa trên Đức Giêsu và trên chúng ta như thể sự chết chẳng còn quyền gì trên hành động đó.
Chắc chắn tiếng kêu vui mừng công bố vực thẳm của điều thiện sẽ nuốt chửng vực thẳm của sự dữ trên thế giới, tất cả sự chết có đối trọng là sống, mọi cơn khủng hoảng, mọi nỗi buồn đã chứa đựng niềm vui.
Đấng sống lại đã thực sự khai mào một thế giới mới đi vào ở giữa chúng ta với Tư cách Phục sinh là sự tái sáng tạo, một cuộc tạo dựng nhân loại mới.
Sự sống lại của Đức Giêsu là một sự kiện lịch sử mang ý nghĩa vũ trụ, đó là sự khởi đầu cuộc biến đổi toàn diện thế giới. Biến cố mang ý nghĩa thời sự bằng cách biến đổi ý nghĩa lịch sử và chỉ ra hướng đi đích thực. Đó vừa là một biến cố độc nhất, vừa là biến cố mạc khải niềm mong chờ kiên trì và phổ quát được khắc ghi trong cõi lòng mỗi người nam và nữ.
- Một biến cố độc nhất: không bao giờ xảy ra sự kiện tương tự về niềm tin vào sự sống lại chung cuộc và vinh hiển của một con người mà cuộc sống, sự chết và sự sống lại được viện chứng. Điều này đã không bao giờ xảy ra vơi một tôn giáo nào khác, dầu có những tiền đề sánh được với những tiền đề hiện diện trong cuộc sống trần thế của Đức Giêsu: những nhà lãnh đạo tôn giáo được mọi người quí trọng, điểm đến những học thuyết thiêng liêng cao cả. Theo dòng các thế kỷ có nhiều người mà người ta muốn xác minh họ vẫn còn đang sống. Dầu vậy chỉ một mình Đức Giêsu Nagiareth được các môn đệ và những đối phương quả quyết đã gặp Ngài sống lại, và tin rằng Ngài vẫn còn sống trong cuộc sống thần linh viên mãn, đồng thời vẫn luôn ở bên cạnh chúng ta bằng Thần khí Ngài.
- Một biến cố lạ thường biểu lộ luật phổ quát.
Biến cố này cho thấy sự sống lại của Đức Kitô đáp trả cho những trực giác và hy vọng về một định mệnh hướng mở tới tương lai. Biến cố đó gặp gỡ khát vọng của ta, vốn khao khát rằng sự chết không phải tiếng nói cuối cùng của sự sống, và việc đặt tảng đá che cửa mộ không phải là hành vi cuối cùng cho cuộc sống con người.
Linh tính và niềm hy vọng không thay đổi đó mặt trong lịch sử nhân loại, cũng như trong cõi lòng của mỗi người và mọi người. Dù có niềm tin tôn giáo nào chăng nữa, mỗi người đều sống một thứ hy vọng nào đó vào sự tồn tại của mình bên kia sự chết; và người ta sống, hoàn thành hy vọng đó theo cách của mình: hoặc tự do đón nhận và tín thác, hoặc tự do chối từ, thiếu tin tưởng, hoài nghi. Thế nhưng kể cả khi tin tưởng tín thác, niềm hy vọng vào sự tồn tại bên kia cái chết vẫn hàm chứa sự căng thẳng hướng tới tương lai chưa ai biết; và khi ta từ chối hành vi đó, thì điều đó khép kín chúng ta lại, để chúng ta lại trong trạng thái không hài lòng và hầu như tuyệt vọng.
Việc Đức Giêsu sống lại là một tin tức mang tính lịch sử, được nổ ra giữa ban ngày: Ngài hiện ra với những kẻ thuộc về Ngài, biến đổi những âu lo mong chờ của con người thành ánh sáng chói lòa, cho phép ta thấy nơi Ngài sự mới lạ tuyệt đối của sự sống lại chúng ta, sự chắc chắn về một cuộc sống sẽ không bao giờ tan biến. Nơi Đấng Phục sinh ta thấy được một phần của lịch sử và của vũ trụ được vinh hiển với tư cách là dấu chỉ và là sự khởi đầu của định mệnh toàn thể nhân loại và vũ trụ, của con người nam nữ được mời gọi tạo nên một thân thế vĩ đại của nhân loại dược phục sinh trong Đức Kitô.
Vì vậy sự sống lại của Đức Giêsu mang ý nghĩa cuộc sống con người được công trình của Thiên Chúa cứu độ trước mặt Ngài.
Thực vô ích khi phủ nhận rằng trong chân trời mới do sự sống lại của Đức Kitô phác họa ra, vẫn còn sự đau khổ, thù nghịch, chán chường, bạo lực, chiến tranh. Những điều đó làm chúng ta tự hỏi: Vậy đâu là sự thay đồi do Đấng sống lại đã thực hiện? Câu trả lời cũng đơn giản thì: Sự Phục sinh của Đức Giêsu không tự động chuyển chúng ta đến ngay vương quốc hằng mơ ước, nhưng nó đi vào cõi lòng chúng ta, để ta vui tươi và hy vọng đi vào con đường thanh tẩy và chân chính, con đường kiểm chứng tác phong của chúng ta, con đường này có mục tiêu là chắc chắn đạt được sự sống không bao giờ chết. Sự Phục sinh không hoàn lại cho chúng ta một thế giới không có thực nhưng là một cuộc sống đích thực của đức tin, đức cậy và đức mến. Một đức tin là nguồn mạch vui tươi và bình an nội tâm, một đức cậy mạnh hơn những thất vọng, một đức mến mạnh hơn mọi thứ ích kỷ. Đấng Phục sinh ở với chúng ta và cùng với Ngài ta có khả năng dùng điều thiện chiến thắng sự dữ, từ sự dữ rút ra một điều thiện lớn hơn. Đấy là sức mạnh và tính chất mới lạ của sự Phục sinh
2. BÀI TƯỜNG THUẬT VỀ SỰ PHỤC SINH CỦA ĐỨC GIÊSU
Không ai đã chứng kiến cuộc Phục sinh của Đức Giêsu. Không ai đã hiện diện ngay lúc Đức Giêsu ra khỏi mồ. Thánh sử Maccô đã tường thuật: sau khi chết Đức Giêsu đã được đặt vào trong mộ khoét sâu trong đá như thế nào. Qua khỏi ngày thứ bảy, những người phụ nữ muốn tẩm liệm xác Đức Giêsu nên họ đi đến mộ. Vào lúc mặt trời mọc họ đến nơi thì ngạc nhiên khám phá ra tảng đá đặt ở cửa mộ đã bị di chuyển. Họ liền vào và này một thanh niên ngồi ở bên phải mặc áo dài trắng nói với họ: " Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giêsu Nazarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi không còn ở đây nữa. Chỗ đặt Người đây này! Xin các bà về nói với các môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ơ đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông”(Mc. 16,6-7)
Như các thánh sử khác, Maccô lưu tâm đến việc tường thuật những sự kiện và lời nói; ông không thêm vào điều gì của riêng mình cả. Tuy nhiên người ta có thể phản bác: Sự việc có đúng như ông tường thuật không? Sự Phục sinh của Đức Giêsu lại không có thể là một huyền thoại sao?
3. NHỮNG LẦN HIỆN RA CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
Ta có những chứng từ lịch sử không thể phản bác được xác nhận những lần hiện ra của Đức Giêsu Phục sinh.
bốn sách Tin mừng – Mt, Mc, Lc, Ga, - mô tả nhưng lần gặp gỡ với Đấng Phục sinh chỉ để nhấn mạnh rằng Ngài vẫn còn sống giữa chúng ta, Ngài đồng hành với nhân loại dọc theo chiều dài các thế kỷ.
Mathêu tường thuật cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với các phụ nữ (28,9-10), và với 11 tông đồ (28, 16-20), Mc, mô tả cuộc gặp với bà Maria Magdala, với hai môn đệ và 11 tông đồ (16, 9-18); Lc; Tường thuật cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và hai môn đệ trên đường Emmaus với các tông đồ khác (24, l3-53); Ga; tả lại cuộc gặp gỡ với bà Maria Magdala, với các tông đồ, với Toma cùng lòng và với "các môn đệ ở biển hồ Tibériade (20, 11-29; 21,1-23). Luca trong sách Công vụ sứ đồ viết rằng Đức Giêsu hiện ra với những người của Ngài trong vòng 40 ngày nói về Nước Thiên Chúa. (1,1-8)
Tài liệu cổ xưa nhất mà ta có được nói về đức tin Kitô giáo và sự sống lại là đoạn sách trong thơ thứ nhất thánh Phaalô gởi cho tín hữu Corintô:
"Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba chỗi dậy, đúng như lời Kinh thánh, Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với nhóm Mười hai. Sau đó, Người hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các tông đồ. Sau hết Người cũng hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non" (1 Co. 15,3-8)
Ta ghi nhận theo bản văn Hy Lạp nguyên thủy, 4 động từ gán cho Đức Kitô thì có động từ ở thì chỉ một sự kiện xảy ra, trong quá khứ đã chết, đã được mai táng, đã hiện ra, ngược lại chỉ có động từ thứ tư "sống lại", trong bản văn Hy Lạp là ở thì chỉ tính thường xuyên của một biến cố xảy ra trong quá khứ, nhưng vẫn còn có những hậu quả trong cái thường ngày.
Đức Giêsu không chỉ sống lại mà thôi nhưng hiện nay vẫn còn sống đối với chúng ta và đối với toàn thể thế giới. Ta có thể nói nếu sự sống lại là thời điểm đạt tới đỉnh cao sự viên mãn của sự sống và tình yêu Thiên Chúa được thông ban cho con người nơi Đức Giêsu Kitô, thì sự viên mãn như tiếp tục tăng trưởng xuyên qua việc lãnh nhận ơn sủng của Đấng Phục sinh mà nhân loại thực hiện trong cuộc hành trình của mình.
Đấng Phục sinh hiện ra, Ngài tạo nên một chuỗi tương quan: với những cá nhân, các nhóm, đám đông, ban cho họ tất cả khả năng sống những mối liên hệ đích thực, sự tha thứ, vượt qua những tình trạng xung đột hiện tại trong gia đình, xã hội và quốc gia.
Ta dừng lại ở đoạn Đức Giêu gặp gỡ bà Maria Magdala:
“Bà Maria đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai Thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đặt thi hài Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ đã để Người ở đâu!” Nói xong, bà quay lại thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Maria tưởng là người làm vườn liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về” Đức Giêsu gọi bà: “Maria” Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: “Ráp-bu-ni!” (nghĩa là “Lạy Thầy”). Đức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em”. Bà Maria Magdala đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa” và bà kể lại những điều Người đã nói với bà(Ga 20,11-18)
Maria Magdala đã đến mộ lừ sáng sớm, bà ngạc nhiên thấy ngôi mộ trống không và đứng gần ngôi mộ mà khóc bởi vì người bạn và người Thầy đã chết. Bà đành lòng với chuyện biết người ta để Thầy ở đâu.
Bà tiêu biểu cho một nhân loại luôn tìm kiếm Đấng cứu độ nhưng còn với niềm hy vọng rụt rè và hạn chế. Việc tìm kiếm Đức Giêsu của bà còn mang tính chất rất nhân loại: bà tìm Đức Giêsu giữa những kẻ chết, nơi Ngài không còn ở đó nữa. Chúng ta cũng thường tìm Chúa ở nơi Ngài không có ở đó, với những kiểu loài người theo hiệu năng, thành công, quyền lực, và hài lòng dễ dãi.
Việc tìm kiếm của Maria Magdala cũng là hình ảnh của một xã hội sầu buồn và lầm lạc, ít ra cũng muốn suy tư một chút để hiểu lý do những tai họa của mình, để thấy những sai lầm mình phạm phải là những sai lầm nào.
Đức Giêsu không cáu giận lối tìm kiếm bất an toàn, bất túc của người phụ nữ hày bởi vì Ngài biết nơi bà lòng yêu mến nồng nàn và một khát vọng sâu lắng. Còn Maria Magdala nhìn tận mắt Đấng mà bà tưởng không còn nhìn thấy được nữa, nghe giọng nói mạnh mẽ mà bà nghĩ sẽ chẳng bao giờ được nghe nữa, bà nghe gọi tên mình: "Maria".
Thực ý nghĩa khi Đức Giêsu tỏ mình ra cho bà không phải bằng cách loan báo biến cố liên quan đến Ngài: "Ta đã sống lại, ta đang sống" nhưng lại gọi tên bà: “Maria". Đây là một mạc khải cá nhân, hiện sinh tạo nên sự tin chắc Đức Kitô hằng sống và làm cho người ta ý thức rằng mình được Ngài biết thực sự, trong sự viên mãn và uy nghiêm của Ngài. Về phía Đức Giêsu đây là lời gọi kín đáo của tự do được diễn tả qua việc gọi đích danh.
Như thế, Đức Giêsu muốn đến gần mỗi người: khi tiếp cận, điều chỉnh những cuộc tìm kiếm không chắc chắn, lẫn lộn, vụng về, để mạc khải tình yêu của Ngài, và gọi đích danh người ta. Mỗi người chúng ta có thể có kinh nghiệm về Đấng phục sinh, khám phá ra dấu chỉ của Ngài, ngay cả khi cảm thấy ít hy vọng trong tâm hồn và những giọt lệ lăn trên má.
- Chính trong đời sống nội tâm mà ta có thể khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa; trong chính bản thân chúng ta có thể cảm thấy được kêu gọi và được hoàn lại căn tính sâu xa và ơn gọi làm con Thiên Chúa của mình.
Thánh sử Gioan cho ta biết tạo vật đầu tiên khám phá ra những dấu chỉ của Đấng Phục sinh lại là một người phụ nữ đầy nhạy cảm yêu mến và dịu dàng. Một phụ nữ đầy khát khao đi xa hơn cái chết và sự giới hạn của con người, mà mọi người đều có kinh nghiệm; Vd. Khi trong cuộc đời của mình họ có những quyết định can đảm và lương thiện mà chẳng có được một lợi lộc gì cho cuộc sống hiện tại, và đôi khi chịu đựng cả sự thiệt hại. Qua những hành vi như thế, chúng ta hiểu rằng mình có bổn phận phải thi hành cách tuyệt đối mà không được đáp trả theo kiểu loài người cĩng không bị cưỡng ép bên ngoài.
Ít ra là một cách mặc nhiên, ta khẳng định sự hiện hữu của một điều gì đó, mà có lẽ ta không đồng hóa nó với những lời nói hay khái niệm tôn giáo, tuy nhiên nó lại hướng dẫn mọi hành động lương thiện và vô vị lợi, làm ta cảm thấy làm thế nào có những tính toán ở trần thế này không được chính xác, nhưng cuối cùng lại đạt đến mục đích.
Sức mạnh nội tâm và niềm hy vọng này là tiếng kêu hướng tới Đấng Phục sinh. Sự tìm kiếm của Maria gần bên mồ, lối tìm kiêm theo trực giác và không chắc chắn nhưng lại quý giá, đó là kinh nghiệm không vặn vẹo kiểu cọ của một cá nhân đạt tới mức trung thực và lương thiện tối thiểu với chính bản thân mình và với cuộc sống.
Sức mạnh nội tâm và niềm hy vọng đó là phương thuốc chúng ta cần đến để chống lại sự thoái hóa xã hội, luân lý, dân sự và chính trị. Sự thoái hóa muộn bẻ gãy sự hiệp nhất văn hóa và dân sự của một dân tộc, làm cho họ đánh mất khỏi tầm nhìn những lý do ngồi chung lại với nhau và làm việc trong cùng một mục đích và cùng một hướng đi.
Để ra khỏi vòng hỏa ngục của việc xuống cấp về mặt xã hội, cần phải có một cõi lòng nẵng trĩu như cõi lòng của Maria Magdala khi bà khóc, cần phải được lay động bởi một niềm hy vọng lớn lao và cụ thể, niềm hy vọng này không bị ràng buộc với những hoàn cảnh bất tất và những phương thuốc xoàng xĩnh mà chúng ta rất nghi ngờ.
Đức Giêsu hiện ra với người phụ nữ và mời gọi ta thay đổi cách suy tư và cách nhìn của mình, chấp nhận rằng lòng yêu mến Thiên Chúa làm tan biến sự sợ hãi, ơn sủng tha thứ tội lỗi, sáng kiến cả Thiên Chúa đến trước những nổ lực của con người, Ngài làm ta hồi sinh và tái sinh trong đời sống nội tâm.
-Một cuộc hiện ra khác của Đấng Phục sinh làm người ta nhớ lại: cuộc gặp gỡ với hai môn đệ trên đường Emmaus
Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau
Cũng là ngày hôm ấy có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmaus, cách Giêrusalem chùng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?" Ho dừng lại vẻ mặt buồn rầu.
Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Jêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay" Đức Giêsu hỏi: "Chuyện gì vậy?” Họ thưa: "Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thấ mà các Thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào Thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy”.
Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quanh của Người sao?” Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Ho nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn". Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”
Trong trình thuật này ta có thể hiểu được 4 Kinh nghiệm cơ bản của con người: đi đường, lòng hiếu khách, việc bẻ bánh và mắt mở ra.
Tất cả đều diễn ra trên lộ trình: “hai môn đệ đi đến một làng kia" Thánh sử Luca thường nói về Đức Giêsu như "một người đi đường" đang trên đường đi. Ngay cả chi tiết cho biết Đức Giêsu đặt câu hỏi, và hai người dừng lại rồi lại tiếp tục đi tỏ cho thấy người ta đặt quá nhiều quan trọng vào kinh nghiệm mà qua đó lịch sử của mọi người có thể thấy được. Nhưng cuộc sống thì lại năng động nó nhắm một hướng đi và Thiên Chúa đi trước con người để đồng hành và cùng đi với họ.
Lòng hiếu khách, việc tiếp đón là một biều tương rất cổ xưa khác của con người vượt qua nỗi sợ hãi theo bản năng đối với người lữ hành gõ cửa nhà mình. Những lời tuyệt diệu đã diễn tả lòng hiếu khách ở đây: “Mời ông ở lại với chúng tôi”. Hai người đã nói với Đức Giêsu như thế, xin đừng đi, chúng tôi muốn ở lại với ông. Sự ngờ vực ban đâu của họ đối với người vô danh tan biến đi đến độ họ trở thành tình bạn: ông hãy đến ở nhà tôi, hãy là khách của tôi. Đông phương, lòng hiều khách là một thói quen, là cách thành con người thực sự. Biết tiếp rước bất kỳ ai, vào bất cứ giờ nào, bất kỳ lúc nào mà không nổi cáu, đó là bổn phận của một người đông phương. Đây là một hình ảnh chất vấn chúng ta là những người sống trong những thành phố lớn, sống trong cùng một chung cư, trong những căn phòng có chung một cầu thang, nhưng bao nhiêu năm lại không biết nhau, không cảm thấy nhu cầu qua lại với nhau, biết nhau và tiếp đón nhau.
Ngay cả việc bẻ bánh cũng là một ký hiệu mang tính nhân bản và lịch sử: "Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ ". Việc bẻ cùng một tấm bánh còn hơn lòng hiếu khách nữa, nó là sự đồng bàn làm cho người ta thực sự thành anh em với nhau, nó giống như một nghi thức của giao ước và tình bạn: Tôi dùng chung với anh tấm bánh, vốn là điều thiện hảo của tôi.
Qua câu "Người bẻ bánh", Luca đã có trong đầu ý nghĩ về Phép Thánh thể. Ông muốn nhấn mạnh Đức Giêsu, từ nay trở đi là Đấng Phục sinh và hằng sống, tự trao ban mình cho hai người bằng việc tỏ mình ra trong đức ái hoàn hảo của Phép Thánh thể. Nhưng trên thực tế, việc bẻ bánh là một biểu tượng của con người, chính vì thế Đức Giêsu đã chọn cử chỉ này như biểu tượng của Phép Thánh thể, như dấu chỉ tặng ban sự sống Ngài cho con người.
Việc họ mở mắt ra đối nghịch lại với chủ đề mắt họ bị ngăn cản, không nhận ra Người. Ho giống như mù mắt. Ngay cả bà Maria Magdala lúc đầu tiên cũng lộn Đức Giêsu với người làm vườn. Tại sao đã từng biết rõ khuôn mặt Ngài, đã từng là những môn đệ trung thành của Ngài, thế mà họ lại không hiểu ra đó là Đức Giêsu? Đôi mắt của Maria khép lại vì đầy nước mắt, đau đớn và vì tìm kiếm sai lạc. Hai môn đệ làng Emmaus bị mù tối đi vì mất hết mọi niềm hy vọng để không còn hiểu nổi lời Chúa chứa đựng trong Thánh Kinh. Bỗng nhiên “mắt họ mở ra và họ nhận ra Người"
Đắm mình trong sự trì trệ hằng ngày, con người không thấy được sự kỳ diệu của tình yêu Thiên Chúa đang bao quanh họ, họ không biết đọc Kinh thánh cho đúng cách, họ sợ Thiên Chúa của Đức Giêsu mà họ nghe nói đến, Ngài ngăn cản họ được hạnh phúc, được sống như họ mong ước. Nhưng một khi bước vào con đường tìm kiếm khó khăn, như ân sủng của Đấng Phục sinh, họ mở mắt ra, họ vui mừng sững sờ khám phá ra rằng Thiên Chúa là người bạn và là ngườì Cha đối với họ; Đức Giêsu là người anh em của họ và đức lin là chìa khóa cho cuộc sống đích thực của con người.
Hai người môn đệ biết Thánh Kinh, nhưng họ không nhận ra ý nghĩa sâu sa hơn của Thánh Kinh. Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh cho họ, giải thích mầu nhiệm của con người, của lịch sử, của những biến cố và những câu chuyện, bây giờ lòng họ bừng cháy lên: "Khi Người giải thích Thánh Kinh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?" Ngọn lửa lay chuyển, tạo ra một cuộc đảo lộn trong nội tâm, một cảm xúc mạnh mẽ. Đó là Kinh nghiệm nảy sinh từ việc thực sự lắng nghe Lời Chúa. Bây giờ họ mới hiểu ra mỗi trang ở trong Kinh thánh, từ quyển sách đầu hết cho đến quyển cuối hết đều chứa Lời hằng sống là chính Đức Giêsu chết và sống lại.
Từ đó đi đến kết quả là có được một giáo huấn quí giá. Điều cơ bản đó là biết Kinh thánh, tất cả Sách thánh để khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người và câu chuyện dài về tình yêu của Ngài đối với chúng ta, câu chuyện đó được trải dài trong toàn bộ lịch sử cứu độ.
Trong toàn cảnh, việc Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ nhắc nhở chúng ta rằng con người là một hữu thể đang trên đường đi và tìm kiếm ý nghĩa. Trên con đường này, họ được mời gọi nhận ra Lời Chúa đang thời thúc và chất vấn họ thường xuyên về hướng đi cuộc hành trình của họ để giải thích cho họ hiểu ý nghĩa của hướng đi đó. Sự tự do và hạnh phúc của con người hệ tại việc đón nhận Lời này. Nhất là đừng bao giờ từ chối nhưng mở mắt ra, mở rộng cõi lòng ra trước ý định của Thiên Chúa Đấng tự mặc khải cách trọn vẹn trong mầu nhiệm Con của Ngài là Đức Giêsu chết và sống lại vì chúng ta, Người vẫn hằng sống và hoạt động giữa chúng ta.
KẾT LUẬN:
ĐẤNG CHỊU ĐÓNG ĐINH SỐNG LẠI VÀ SỰ VĨNH CỬU TRONG THỜI GIAN LỊCH SỬ
Biến cố vượt qua được đổi mới mỗi khi có cử hành Phép Thánh Thể đòi hỏi người Kitô hữu phải có khả năng nói với nhân loại: Hỡi bà, đừng sợ gì cả, đừng có khóc nữa! Bây giờ bà đã biết chỗ nào có con đường của sự sống, từ nay trở đi bà biết Chúa ở với bà.
Tuy nhiên chúng ta không được quên rằng Đấng sống lại mãi mãi là Đấng chịu đóng đinh và Ngài ở trước mặt Chúa như Đấng đã kinh qua, bằng tình yêu của mình, cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá. Khi hiện ra với các tông đồ, Đấng sống lại đã “chỉ cho họ xem thấy tay và cạnh sườn Ngài" bị đâm thấu, như ta đã học được điều đó trong Tin mừng theo thánh Gioan (chương 20, l9-29). 8 ngày sau, quay trở lại với họ có cả Tôma là người vắng mặt trong lần hiện ra đầu tiên của Đức Giêsu và từ chối tin rằng Ngài vẫn còn sống. Ngài nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, những hãy tin"
Mầu nhiệm Phục sinh mãi mãi gồm sự chết và sống lại không tách rờì khỏi nhau vì Thiên Chúa đã chọn cách cứu dộ chúng ta như thế. Ngài tự biểu lộ ra với tư cách là bạn hữu của con người ngang qua tình yêu bị đóng đinh của Chúa Con. Ngài tự bóc trần mình nơi Chúa Con là Đấng trở nên nghèo khó để làm cho tình yêu của Ngài đối với ta trở thành đáng tin.
Đối với câu hỏi vừa cũ vừa mới của con người cái gì sẽ xảy ra cho tôi sau cái chết? Đức tin Kitô giáo không trả lời bằng cách trấn an đơn giản rằng mọi sự sẽ tiếp tục sau sự tận cùng thời gian, tất cả sẽ phục hồi lại cho chúng ta. Đây là câu trả lời bất toàn. Đức tin Kitô giáo khẳng định rằng sự vĩnh cửu, cuộc sống mới đích thực và chung cuộc đã cùng với sự Vượt qua của Đức Kitô đã đi vào Kinh nghiệm của tôi rồi. Tôi sống điều này bây giờ và ở đây trong những cử chỉ trung tín, bình an, tình yêu, tha thứ, tình bạn, lương thiện, tự do trách nhiệm, đó là những điều không thể hủy diệt được.
Qua những cử chỉ này con người vượt qua thời gian đạt đến vĩnh cửu trong mức độ họ phó thác nơi sự sống và sự vĩnh cửu của Đấng Phục sinh đã chiến thắng sự chết.
Sự sống lại của Đức Giêsu không độc nhất là điều chờ đợi chúng ta sau sự chết. Đây là sự kiện Vượt qua hiện tại được thực hiện ngày qua ngày nơi người tin và hy vọng, nơi người đau khổ và yêu thương, nơi người để cho Lời Chúa hướng dẫn mình hằng ngày hầu bước theo Đức Giêsu. Qua cuộc khổ nạn và cái chết Ngài đã hoàn thành việc đi từ thế giới này về với Chúa Cha.
Mỗi lần chúng ta can đảm có một quyết định tốt, quan trọng về mặt đạo đức, là ta nội tâm hóa sự vĩnh cửu nhờ sự vĩnh cửu của Đức Giêsu đi vào giữa chúng ta. Bây giờ ta có thể cứu chuộc nỗi âu lo về thời gian vì biết rằng những hành vi Tận tụy của mình có một giá trị chung cuộc được đặt nơi thân thể phục sinh viên mãn của Đức Kitô.
Một cách nào đó chúng ta cũng đạt đến việc nắm bắt được bi kịch của những thái độ ứng xử phi đạo đức bởi vì ngay trong nhưng thái độ này cũng mang tính không đổi lại được. Có thể đây là những hành vi nhân linh được thực hiện cách nhẹ dạ và vô ý thức, và khi ấy chúng được cứu chuộc nhờ vào những khổ cực và đau đớn của toàn bộ cuộc sống. Ngược lại có thể đây là những hành vi nắm giữ toàn thể con người, chúng "đóng đinh" con người vào sự dữ, vào sự chối từ Thiên Chúa và con người. Đứng trước toàn bộ những thái độ như thế của con người, chỉ có ơn cứu độ nơi sự toàn năng của Đấng Phục sinh. Nếu còn những tình trạng thường xuyên nổi loạn dai dẳng chống lại Thiên Chúa, ít ra Đấng Phục sinh cũng còn để chúng ta hy vọng rằng lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô biên dù chẳng còn hy vọng gì được nữa.
Thiên Chúa là Cha, là Đấng yêu thương chúng ta trước tiên, ban mình cho ta nơi Đức Giêsu trước mọi niềm mong chờ và hy vọng của con người, Ngài tha thứ cho ta cách nhưng không. Thiên Chúa là Đấng mà tất cả đến từ Ngài, tất cả lệ thuộc vào Ngài, tất cả hướng tới và quay trở về với Ngài.
-----------------------------
Chôn cất Chúa xong, thế là hết ! Không một ai nghĩ rằng Chúa sẽ sống lại. Các chức sắc Do-thái sợ các môn đệ của Chúa đến trộm xác, họ đến xin Philatô cho lính canh mồ. Các Tông đồ thì sợ chức quyền Do-thái truy nã, bắt giam, nên các ngài ẩn kín trong nhà. Lễ Vượt Qua Do-thái năm ấy mang sắc thái nghịch thường: dân chúng Do-thái vui mừng ăn mừng lễ, các Thượng tế, Kỳ lão, Luật sĩ hả hê vì gặt thắng lợi lớn, còn các môn đệ Chúa Giêsu buồn rầu chán nản, chỉ cầu mong hết ngày Hưu lễ, trở về quê quán cho yên thân. Các bà Maria Mađalêna, bà Salomê, Bà Giona, thì phản ứng như nữ giới đã quen: than khóc, sụt sùi một lúc, rồi nghĩ ngay tới công việc mình phải làm: chuẩn bị thuốc thơm để sáng ngày thứ nhất ra mồ, Đàn bà ai mà bắt bớ, sợ gì !
Nhưng lúc ra mồ, các bà không còn dịp xức thuốc cho Chúa nữa, các bà chỉ thấy mồ trống: VÌ CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI.
Bốn Phúc âm thuật lại biến cố mồ trống theo mỗi cách khác nhau:
- SỐ CÁC BÀ ĐẾN MỘ
Thánh Gioan chỉ đề cập đến Maria Mađalêna; thánh Mathêu kể thêm bà Maria, thánh Marcô kể thêm bà thứ ba: Salômê; thánh Luca kể rõ có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ ông Giacôbê, Giona và các bà khác.
- THỜI GIAN VIẾNG MỒ
Thánh Luca nói “sáng sớm ngày thứ nhất”; thánh Gioan nói “đến mồ lúc sáng sớm, trời vẫn còn tối”; thánh Marcô “Sáng sớm tinh sương, ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trờ hé mọc”; thánh Mathêu nói về thời gian ấy, bản La tinh dịch là “chiều ngày thứ bảy” (vespere autem sabbati).
- CÁC BÀ THẤY GÌ
Thánh Marcô nói “các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mình mặc áo trắng”; thánh Luca: “Có hai người bỗng hiện ra cùng các bà, áo trắng sáng như chớp”; thánh Gioan: “Thấy hai thiên thần, y phục trắng xóa, ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một người phía đầu, một người phía chân”; thánh Mathêu: “Thiên thần Chúa từ trời xuống, tiến lại lăn viên đá ra, rồi ngồi ở trên đó”.
Những việc liên quan tới sự kiện Chúa sống lại, Phúc âm đã viết ra khác nhau. Trước tiên, nói về bản dịch La tinh “chiều thứ bảy”. Tiếng “chiều” (vespere) trong bản La tinh dịch từ tiếng “opsé” trong nguyên bản Hy-lạp. Trong ngôn ngữ Hy-lạp, tiếng “opsé” có ba nghĩa: buổi chiều (vespere), đã muộn (sero) và sau (post). Đọc cả câu “Vespere autem sabbati, quae lucescit in prima sabbati”, ta phải hiểu “opsé” là “sau” (sau ngày thứ bảy, chứ không phải là chiều ngày thứ bảy).
Nhìn vào “phái đoàn” các bà đi viếng mồ, ta không thể biết rõ con số chính xác bao nhiêu, nhưng chắc chắn ngoài các bà “trưởng đoàn” Maria Mađalêna, Maria mẹ ông Giacôbê, bà Salômê, bà Giona, còn một số bà khác, thế mà thánh Gioan chỉ nói tới một mình bà Maria Mađalêna “đi viếng mồ lúc sáng sớm trời vẫn còn tối, và bà thấy viên đá đã cất khỏi mồ; bà chạy đi gặp Simon Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu yêu dấu” (Gioan 20, 1-2) hẳn thánh Gioan có một dụng ý gì đây, muốn truyền một sứ điệp gì đây ?
Số các thiên thần và vị trí đứng ngồi của các ngài, các Phúc âm cũng mô tả khác nhau, phải chăng Phúc âm muốn truyền cho ta một “mầu nhiệm gì” hơn là mô tả một sự kiện ?
Chúng ta biết bốn sách Phúc âm viết lịch sử Chúa Giêsu chỉ là những bản tóm tắt lời nói, việc làm và đời sống trần gian của Ngài hướng về nhóm độc giả khác nhau để phục vụ sứ mệnh rao giảng. Có lẽ “Bài giảng Tám Mối Phúc thật”, Chúa giảng thành nhiều bài và ở nhiều nơi, thánh Mathêu tóm lại cho độc giả dễ nhớ, dễ học thuộc. Tường thuật “chữa người bất toại”, thánh Marcô tả “họ rỡ mái chỗ có Ngài, khoét một lỗ”, (Mc 2,4), còn thánh Luca viết “họ trèo lên sân thượng, và ngang qua mái ngói, họ chuyền người và cả chõng xuống” (Lc 5,19); thánh Marcô đã mô tả đúng lối kiến trúc nhà cửa người Do-thái (qua cầu thang bên ngoài, người ta đưa lên mái sân thượng, khoét một lỗ hổng bằng cách hất các thanh que, rơm rạ đất trét), thánh Luca lấy lại các yếu tố của thánh Marcô nhưng đã thích nghi với lối kiến trúc Hy-lạp bằng cách thay thế sân thượng trét đất trộn rơm bằng một mái ngói. Như vậy, một sự kiện có thực trong lịch sử Chúa Giêsu, qua ngòi bút các Tông đồ có thể được các Ngài gọt dũa, biến đổi một phần nếu cần để phục vụ sứ mệnh rao giảng, làm như thế không có nghĩa là bóp méo, xuyên tạc lịch sử, trái lại đó là cách thế linh động do Chúa Thánh Thần hướng dẫn khiến các Ngài truyền sứ điệp cứu rỗi đến độc giả của mình một cách thành công.
Trở lại các bài Phúc âm mô tả sự kiện Chúa phục sinh, thì việc mồ trống, các bà tới thăm mồ vào sáng ngày thứ nhất, Chúa hiện ra cho các môn đệ, cho hai môn đệ đi về làng Emmau là những sự kiện có thật. Còn hai hoặc một thiên thần hiện ra báo tin cho các bà biết Chúa sống lại và dặn các bà đi báo lại cho các Tông đồ, một số nhà chú giải nghĩ rằng “là cách diễn tả văn chương” nhấn mạnh tới việc biết Chúa sống lại là do Thiên Chúa mạc khải, chứ trí tuệ con người không thể biết được. Việc thánh Gioan dành cho một mình Bà Maria Mađalêna, người được thánh nhân ghi rõ tên tuổi đứng bên Thánh giá, buồn khổ nhìn Chúa bị treo “cũng sẽ hết sức vui mừng khi biết Chúa sống lại”, thánh nhân đã cho bà đóng vai “Hội Thánh” hết sức vui mừng gặp Chúa sống lại và được Ngài ủy thác loan Tin Mừng Chúa sống lại cho người khác.
Có lẽ bốn bài tường thuật của bốn Phúc âm về Chúa sống lại, không có giọng hùng hồn bằng các lời sau đây của thánh Phaolô:
“Quả vậy, mọi sự tôi đã truyền cho anh em, điều mà chính tôi nhận lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta theo lời Kinh Thánh, Ngài đã bị chôn cất, Ngài đã sống lại ngày thứ ba theo lời Kinh Thánh, và Ngài đã hiện ra cho Kêpha, rồi cho nhóm Mười Hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm người một lần, trong số đó phần đông vẫn còn sống, nhưng cũng có người đã qua đời; rồi Ngài hiện ra cho Giacôbê, rồi cho các Tông đồ hết thảy” (1 Corintô 15, 5-7).
Trưng bằng chứng Chúa hiện ra cho các Tông đồ đã đành, còn hiện ra cho một số đông “trên năm trăm người” phần đông hiện còn sống lúc Ngài viết bức thư, nếu thánh nhân “nói dối” thì niềm tin Chúa sống lại bị sụp đổ ngay, kéo theo sự tan rã của các giáo đoàn.
Thánh nhân còn nhấn mạnh những câu liên quan tới sự nghiệp của Ngài: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi thành hư không, và niềm tin của anh em cũng thành ảo tưởng. Và chúng tôi hóa thành chứng gian cho Thiên Chúa vì đã dám chống lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Ngài đã cho Đức Kitô sống lại… Nếu Đức Kitô không sống lại thì lòng tin của anh em cũng hão huyền và hiện anh em cũng còn trong tội lỗi của anh em… Nếu ta chỉ đặt hy vọng vào lúc sinh thời mà thôi, thì quả ta là kẻ khốn nhất trong thiên hạ” (1 Corintô 15, 14-18).
Thật vậy, nếu Chúa Kitô không phục sinh mà ta cứ tin Ngài phục sinh, tôn thờ Ngài là Thiên-Chúa-Làm-Người, rao giảng Giáo lý của Ngài, thì chúng ta là kẻ khốn khổ nhất, đáng thương hại nhất, nhưng lịch sử Phúc âm đã chứng minh Chúa Kitô phục sinh, niềm tin của các giáo đoàn tiên khởi bành trướng tới nay ắt hẳn những nghịch thuyết, máu của bao nhiêu vị thánh tử đạo đã đổ ra làm chứng Chúa phục sinh không còn chối cãi được. Đức Kitô của lịch sử (có sinh ra thật, có sống, có chết, có sống lại thật) và Chúa Kitô của niềm tin (là Thiên Chúa làm người, hiện ngự bên hữu Đức Chúa Cha và ở lại trong Hội Thánh) là một, nhờ mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Ngài.
CHÍNH VÌ CHÚA KITÔ PHỤC SINH, ƠN CỨU ĐỘ MỚI BAN PHÁT CHO CHÚNG TA
Cuộc phục sinh nghĩa là vinh thăng của con người Giêsu, không phải chỉ là một phép lạ có tính cách minh giáo để củng cố đức tin của các Tông đồ mà thôi, cuộc phục sinh nầy không chỉ là tiêu biểu hoặc nguyên nhân kiểu mẫu sẽ đảm bảo sự phục sinh cho người Kitô hữu mà thôi, nhưng tự bản chất, cuộc phục sinh của Đức Kitô có giá trị cứu độ, nghĩa là có năng lực sinh ơn cứu độ, xét theo phục sinh là chấm dứt tình trạng “thấp hèn” (Kénosis), một tình trạng mà trong đó Đức Kitô bị thời gian và không gian hạn chế.
Chúng ta biết khi Nhập Thể, Ngôi Hai Thiên Chúa kết hợp với bản tính nhân loại. Sự kết hiệp này là mầu nhiệm Ngôi Hiệp, làm cho nhân tính Chúa Kitô hết hiệp với Ngôi Hai đến mức độ tận cùng đến nỗi nơi Chúa Kitô chỉ có một Ngôi Vị là Ngôi Hai hoạt động trong hai bản tính, như thế nhân tính Chúa đã được nâng lên cao trở thành nguyên nhân dụng cụ trong việc Ngôi Hai nhập thể, cứu chuộc và thánh hóa các tâm hồn. Tuy nhiên, hoạt động thánh hóa bị hạn chế, chỉ ở tình trạng năng thể, bị hạn chế bởi xác thể “làm người như chúng ta”. Cuộc phục sinh đã chấm dứt mọi hạn chế do thời gian và không gian gây ra, Ngôi Hai nhờ nhân tính vinh thăng của mình, có đủ quyền năng ảnh hưởng tới mọi ý chí nhân loại trong mọi thời mọi nơi và làm cho mọi tâm hồn “nhạy cảm ơn thiêng”, làm cho muôn loài, và vũ trụ hưởng nhờ ơn cứu độ. Nhờ phục sinh, từ năng thể đi tới hiện thể, Chúa Kitô làm Vua làm Chúa vũ trụ, hoạt động thánh hóa loài người, lôi kéo cả vũ trụ lên với Ngài.
Đời sống kitô hữu chúng ta gắn chặt vào một Ngôi vị: Thiên-Chúa-Làm-Người, sống bằng sức sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, đúc khuôn mẫu theo Chúa Kitô, rao giảng tình yêu Thiên Chúa, thực hiện nơi Chúa Kitô và đặt niềm hy vọng duy nhất là được sống lại với Chúa Kitô. Sống như thế, người kitô hữu có thể sống bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh thử thách nào, nhưng… vì mức độ tin tưởng và kết hợp với Chúa nơi chúng ta còn “non kém”, sức mạnh của Thiên Chúa không thể hoạt động mạnh nơi chúng ta. TIN MẠNH SẼ CÓ SỨC MẠNH NHƯNG TA CHƯA TIN MẠNH.
LM FX. Tân Yên Nguyễn Hùng Oánh
-----------------------------
Chúa Giêsu Kitô, một vị tướng lãnh có một chiến lược hết sức ly kỳ: lùi một bước để tiến hai bước, Ngài lùi để tiến mạnh mẽ và chắc chắn hơn, Ngài nhượng bộ cho địch thù, để đang khi họ đàn hát vui mừng vì đã loại trừ được một đối thủ nguy hiểm thì Ngài quay lại mà chiếm cuộc toàn thắng cuối cùng, Ngài đã tự nộp mình cho những vua quan văn võ đạo đời về cả hai dân Do Thái và Rôma, họ đã đối xử với Ngài như bọn sói rừng hung dữ xông vào cắn xé con chiên hiền lành: đánh đập Ngài, bắt Ngài vác thập giá và căng thây Ngài trên cái giá khổ hình đó, họ đã giết Ngài, chưa hết, một tên lính lại lấy lưỡi đòng đâm thủng trái tim Ngài. Lẽ nào một người đã bị đâm thủng trái tim mà còn sống được sao ? Một người đã được chôn táng cẩn thận trong mộ đá mà còn sống sao ?
Đúng thế, đúng như Chúa đã báo trước nhiều lần: “Con Người sẽ bị nộp cho kẻ gian ác, chúng sẽ giết Người, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới đều hân hoan mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Giêsu: Ngài đã sống lại, Ngài đã Phục sinh. Không có tác giả Tin Mừng nào thuật lại chính sự việc Chúa sống lại: Ngài sống lại đích xác vào giờ nào và như thế nào, điều đó không ai được biết, nhưng cả bốn sách Tin Mừng khi kể biến cố Chúa Giêsu sống lại đều nhất trí về ba điều: Thứ nhất, thời gian sống lại là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, theo cách tính bây giờ là sáng sớm ngày Chúa nhật. Thứ hai, sự việc xảy ra là mộ trống, Chúa Giêsu không còn ở trong mộ, có những nhân vật chứng kiến sự kiện này là cô Maria Macđala, hai tông đồ thế giá nhất là Phêrô và Gioan. Thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ và với nhiều người khác trong những hoàn cảnh khác nhau.
Quả thực, một con người có tên là Giêsu, và còn được gọi là Kitô, đã từng khuấy động cả nước Do Thái, con người đó đã bị xét xử trong một vụ án công khai làm xôn xao cả thủ đô Giêrusalem, liên hệ đến cả chính quyền bảo hộ cao cấp nhất thời đó ở Palestine, con người đó đã bị giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, và mộ đã được niêm phong cẩn thận có lính gác. Thế rồi, đúng như đã nghe nói trước, ngày thứ ba sau khi chết, con người đó không còn trong mộ, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử: Chúa Giêsu Kitô Phục sinh.
Đây là một sự kiện minh giáo hùng hồn nhất, chứng tỏ sứ mệnh thần linh của Chúa Giêsu, đồng thời đây cũng là một chân lý nòng cốt của đức tin Công giáo, là nền tảng căn bản cho lâu đài đức tin của chúng ta: Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, là Thiên Chúa hằng sống và là nguồn sống, từ đó Ngài ban sự sống cho tất cả mọi người, ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một sự kiện tự nhiên, không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm, cho nên, việc Chúa sống lại, vấn đề chính yếu là đức tin: không thấy mà tin, bởi vì sự việc đó vượt trên phạm vi của khoa học thực nghiệm cũng như không thể nào dùng những lý luận hay những bằng chứng khoa học để minh chứng. Tuy nhiên, khi xem xét hậu quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người ta có thể nhận ra mầu nhiệm ấy chân thật, vững chắc.
Hậu quả của niềm tin đó là Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng. Nói rõ hơn, Kitô giáo chính là bằng chứng lịch sử cho sự kiện Phục sinh của Chúa Kitô, chính sự kiện Chúa Kitô Phục sinh đã phát sinh ra Kitô giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm Phục vinh vẫn là nền tảng của Kitô giáo, không có Chúa Kitô Phục sinh không thể có Kitô giáo, hủy bỏ được Chúa Kitô Phục sinh, đạo Kitô không còn. Lời thánh Phaolô xưa kia đã đúng, ngày nay vẫn đúng và sẽ còn đúng mãi: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả niềm tin của chúng ta sụp đổ”. Như vậy, tất cả những điều trên đây cho chúng ta biết: mặc dầu Kinh Thánh đã cống hiến cho chúng ta một số bằng chứng về sự Phục sinh của Chúa Kitô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả và nòng cốt này vẫn đòi hỏi chúng ta phải có một niềm tin, hay đúng hơn, một đức tin. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải tin những điều Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm nhân danh Thiên Chúa, thì Ngài lại càng đòi hỏi chúng ta phải đặt niềm tin sắt son gắn bó với mầu nhiệm Phục sinh, là cao điểm, là trung tâm điểm của toàn thể các mầu nhiệm của Ngài.
Tóm lại, sự kiện Chúa Kitô Phục sinh là một trong những chân lý đức tin, một mầu nhiệm. Đây là chân lý nền tảng cho cuộc sống đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Chân lý đức tin này giúp cho chúng ta có một cái nhìn mới về Thiên Chúa, về chính mình, về cuộc đời, về sự sống, sự chết, đời này, đời sau, về lịch sử, về những biến cố thăng trầm… những cái nhìn mới ấy không sách vở nào ban cho chúng ta được, mà chính mỗi người phải cảm nghiệm để hướng dẫn và giúp chúng ta sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đừng bao giờ hài lòng với một đức tin lý thuyết và hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thật và thân ái. Nói rõ hơn, chính cách sống tốt đẹp của chúng ta, như thực hành các việc đạo đức cho nghiêm chỉnh, sống hài hòa, công bằng và yêu thương với mọi người… Sống như vậy là chúng ta đang thể hiện niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh và sự phục sinh của chính mình.
-----------------------------
Hai Chúa nhật trước chúng ta suy niệm về vai trò của hy sinh và đau khổ, cũng như cách chúng có thể là người dọn đường cho sự sống. Hôm nay, chúng ta cử hành chính sự sống. Sự Phục sinh của Chúa Giêsu là dấu chỉ và là lời hứa, đem lại hy vọng cho chúng ta, mỗi khi chúng ta phải sống giữa những thử thách, đau khổ và nghịch cảnh. Chúng ta cử hành ngày Phục sinh kỳ diệu, là sự thật và là chiến thắng tối hậu của sự sống và tình yêu.
Tiếng reo vui từ khắp nơi: “Chúa Giêsu đã sống lại rồi”. Tiếng reo vui đó xuất phát từ kinh nghiệm được bà Maria Mađalêna kể lại: “Tôi đã thấy Chúa”. Đó cũng là thực tại mà các tông đồ sẽ chia sẻ với ông Tôma trong bài Tin Mừng tuần tới. Tin Mừng về việc Chúa Giêsu đã sống lại sẽ còn được chúng ta chia sẻ với toàn thể thế giới.
Ngày hôm nay không còn việc sầu thương khóc lóc nữa. Ngày hôm nay là thời giờ để vui mừng và tạ ơn.
Tất cả những đau khổ và hy sinh mà chúng ta đã trải qua là quan trọng vì chúng ta sẽ đem lại cho chúng ta một cảm nghiệm về niềm hoan lạc tràn đầy của ngày Phục sinh. Nếu không có thập giá, nếu không có những đau khổ của Chúa Giêsu, thì sự sống lại sẽ mất đi quyền năng của nó là dấu chỉ của cuộc chiến thắng của Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết. Ngày hôm nay, chúng ta đã bắt đầu được chia sẻ cuộc chiến thắng quyết định của Chúa Kitô, và mang lấy trách nhiệm chia sẻ Tin Mừng này với mọi người. Sự Phục sinh làm biến đổi cách chúng ta nhìn về cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không còn thất vọng khi phải đương đầu với thử thách và đau khổ nữa, nhưng chúng ta có thể nhìn thấy trước với niềm hy vọng sẽ được hưởng vinh quang mà các thánh sẽ lãnh nhận trong ngày tận thế.
Chúng ta hãy bước ra khỏi bóng tối của ngôi mồ và bước vào ánh sáng Phục sinh, rồi sống cuộc đời của mình trong niềm tín thác vào tình yêu vô biên mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta hãy mở lòng ra để đón nhận ân sủng hy vọng. Chúng ta hãy để cho tâm trí mình được đổi mới và sống trong niềm xác tín vào lời hứa về sự sống đời đời, mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho chúng ta nếu chúng ta đặt niềm tin, cậy, và yêu mến vào Người.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và đổi mới cuộc sống của con trong chân lý về sự sống lại. Xin đừng để con thất vọng khi gặp phải đau khổ và tội lỗi xảy đến trong cuộc đời, nhưng xin cho con luôn xác tín và chia sẻ cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trong từng ngày sống của con.
-----------------------------
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm trong bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức Kitô Phục sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình, Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng dìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
-----------------------------
Hàng năm chúng ta cùng với Giáo Hội long trọng mừng đại lễ Phục sinh, mừng biến cố Chúa Kittô sống lại để phục hồi chúng ta trong ơn nghĩa tử. Đây là dịp tốt để chúng ta suy tư về sự phục sinh của mình. Mỗi người chúng ta có hai biến cố phục sinh: Phục sinh với Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy và phục sinh viên mãn trong ngày chúng ta cùng sống lại trong vinh quang.
1. Phục sinh trong Bí Tích Rừa tội.
Thực vậy, khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta được phục hồi ơn làm con Thiên Chúa, được quyền hưởng gia nghiệp nước trời, được sống lại trong ơn nghĩa Chúa. Ơn Phục sinh này là cửa ngõ đón nhận chúng ta vào nhà Giáo hội, được biến đổi từ con người không có ơn nghĩa Chúa, đến tình trạng làm con, được gọi Chúa là Cha và được toàn thể các thánh trên trời và mọi phần tử Giáo hội trần gian là anh chị em. Cũng qua Bí tích này chúng ta được hiệp nhập với mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, được thừa hưởng kho tàng ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội, được có khả năng làm việc lành đáng thưởng công và có một cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần (Glcg.1262). Chúng ta có thường xuyên cảm tạ Chúa vì ơn trọng này không ?
2. Phục sinh trong Bí Tích hòa giải:
Lại nữa, qua Bí tích Hòa giải, chúng ta được ơn trở về mỗi khi chúng ta dại dột phạm tội mất lòng Chúa. Nhờ Bí Tích này, chúng ta không những được làm hòa với Thiên Chúa, mà lại còn được thêm ơn thánh để bền lòng chiến đấu với những cơn thử thách mới. Như thế mỗi lần lãnh nhận Bí tích Hòa giải lại là một lần chúng ta cử hành lễ Phục sinh, tái diễn việc sống lại từ cõi chết tinh thần.
3. Phục sinh trong ngày tận thế.
Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng vững vàng "xác loài người sống lại để hưởng vui sự sống đời sau". Điều này chứng tỏ chúng ta đang mong đợi một cuộc sống mới vĩnh cửu, mà Thiên Chúa vĩnh viễn ban lại cho chúng ta sự phục sinh bất diệt của thân xác, một cuộc sống lại kỳ diệu giống như cuộc sống lại với thân xác vinh quang của Đức Kitô, một thân xác linh thánh vượt trên cả vật chất.
Lễ Phục sinh thật là một cơ hội quí báu và thích hợp để chúng ta hướng về gia đình thiên quốc, hướng về sự sống vĩnh cửu quê trời. Khi nhắc lại cho mình tới nơi hạnh phúc ấy, chúng ta nhắc lại trách nhiệm của mình là làm sao sống xứng đáng với nghĩa vụ làm con dân nước trời ? Phải sống theo lời mời gọi "trọn hảo hơn" của tin mừng. Không chỉ làm lợi cho cuộc đời trần thế, mà phải dành dụm cho sự sống ngày sau "Hãy lợi dụng của đời này mà mua lấy nước thiên đàng". Chúng ta hãy kiểm xem trong gia đình ai là người khao khát tìm kiếm sự sống lại? Ai là người biết đặt nước Thiên Chúa trên tất cả những lo lắng trần thế?
Xin Mẹ Maria, Mẹ Chúa Phục sinh chúc lành cho gia đình anh chị em và ban cho chúng ta ơn biết lợi dụng mùa thánh thiện này để nhớ đến ơn cứu sống Chúa Phục sinh dành cho chúng ta.
-----------------------------
(CN-PS, Ga 20, 1-9)
Lòng mến của thánh Gioan tông đồ, được chính ngài thổ lộ, bộc bạch qua danh xưng “người môn đệ được Đức Giêsu thương mến”, đã đi từ tâm trạng lo âu vì sợ mất thân xác yêu dấu của Chúa. Vì sợ mất thân xác hữu hình của Chúa mà ông hằng yêu mến, nên ông đã chạy mau hơn cả Phêrô. Ông đã tới mộ trước. Sự kiện đó chưa thể hiện được lòng mến đích thực, vì những hành động này chưa nói lên được điều thâm sâu kín ẩn. Nó mới chỉ lộ ra từ bề nổi bên ngoài mà thôi.
Nghĩ tới đây, tôi cảm phục tác giả đã không che dấu cái đạo đức dáng vẻ bề ngoài của ngài. Thật là can đảm khi nói về cái bất toàn của mình. Nhất là ngài đã thổ lộ rất minh bạch sau đó:
“Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết.” (Ga 20, 9)
Nhờ vào cung cách nói thẳng nói thật của ngài mà tôi đã nhận ra những ngày tháng siêng năng việc lễ lạc, nhưng trong lòng tôi thì lại đã nhiều lúc ganh ghét, đố kỵ, nói hành nói tỏi anh chị em của mình.
Cám ơn thánh nhân của tôi biết bao!
Điều mà tôi thích thú và cảm nghiệm được hơn hết là, qua sự chiêm niệm thâm sâu của thánh Gioan, ngài muốn mời gọi tôi hãy cúi xuống, hãy nhìn vào bên trong cái thân xác hư đốn của mình tựa như một ngôi mộ trống, một thân xác không hồn thiêng bởi hồn bị cột chặt vào những xiềng xích trói buộc như ngài đã từng sống với Chúa ba năm ròng rã và đã “được Đức Giêsu thương mến”, nhưng vẫn chưa thể nào mau mắn hiểu và tin vào lời của Người, chỉ vì quan niệm trần tục đã ăn sâu vào trong tâm trí của ngài.
Và khi đã nhìn ra những bất toàn tồn tại, những thấp hèn của mình và nhờ vào những dấu chỉ còn để lại trong ngôi mộ trống mà thánh sử đã tin vào Lời Chúa. Đồng thời, ngài đã tự hổ thẹn về sự thấp hèn của mình và, tận trong sâu thẳm, ngài đã không xứng đáng vào ngay trong ngôi mộ. Ngài đã thấy nội tâm của mình thật đáng xấu hổ.
Quả thật, lời kinh thánh chỉ được soi tỏ rõ ràng khi được Chúa Giêsu Phục Sinh mở mắt đức tin ra mà thôi. Chẳng thế mà thánh Phaolô đã nói trứơc cả Tin Mừng Gioan là:
“Nhưng trí họ đã ra mê muội. Thật vậy cho đến ngày nay khi họ đọc Cựu Ước tấm màn ấy vẫn còn, chưa được vén lên, vì chỉ trong Đức Kitô, tấm màn ấy mới được vứt bỏ.”(2Cr 3, 14).
Thánh Gioan đã là người say mê suy niệm thấm nhuần lời Kinh Thánh, nên khi thấy những “bông vải còn ở đó”, Ngài đã nhận ra rằng:
“Những bông vải còn ở đó” chính là những:
“xiềng xích của con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116, 16b).
Người sống chiêm niệm, gắn bó mật thiết Lời Chúa đến nỗi chỉ cần thấy những dấu chỉ bên ngoài là đã đủ nhận ra rằng lời Kinh Thánh trong thánh vịnh được Ngôi Lời mặc khải. Mà: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14a) và ngài đã ghi lại lời Chúa Giêsu đã tiên báo về cái chết của Người:
“Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (Ga 3, 4).
Nhờ sống kết hợp liên lỉ Lời Chúa mà vị Thầy của Thần Hiệp đã tin vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh hiển của Đức Kitô là một trong tổng thể của Mầu Nhiệm Thiên Chúa đã được Thượng Trí của Người đưa vào trong chương trình cứu độ. Điều này được minh chứng rất cụ thể chính xác bằng một khẳng định “phải”:
“Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20, 9).
Cho đến nay, những chân lý cao siêu của ngài luôn luôn là đề tài làm say mê những con người được ngài lôi cuốn mời gọi đi vào sống thần hiệp như ngài. Để có được cuộc sống gắn bó thâm sâu với Đức Kitô, thánh nhân đã phải tường thuật về mình:
“Ông đã thấy và đã tin”(Ga 20, 8b).
Ngài đã thấy cái xấu xa đáng hổ thẹn, cái bất toàn hèn kém cùng đức tin yếu đuối của mình. Đồng thời, ngài đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Toàn Năng, Đấng Phục Sinh Vinh Hiển. Nhờ “đã thấy” như thế mà ngài “đã tin” bằng một lòng mến đích thực kiện toàn.
Qua suy niệm và cầu nguyện, tôi lắng nghe được tiếng Thần Khí chỉ dậy: hãy để cho Thần Khí Đức Kitô Phục Sinh tháo cởi những xiềng xích đang cột chặt nơi linh hồn của mình với những ích kỉ nhỏ nhen ganh tỵ, hiềm khích. Rồi sau đó hãy cố gắng dành thật nhiều thời gian để những tư tưởng của Chúa Giêsu được thấm vào trong tâm hồn, trái tim của mình tức hãy chuyên cần hăng say đọc, suy niệm và cầu nguyện Lời Chúa (Lectio Divina).
Tôi rất tâm đắc với suy tư của thánh Phaolô, người đã được Đức Kitô Phục Sinh mở tâm hồn để hiểu được lời Kinh Thánh. Chính Ngài cũng dậy:
“Con người sống theo Thần Khí thì xét đoán mọi sự mà chẳng có ai xét đoán được người đó. Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa, để chỉ vẽ cho Ngài? Còn chúng tôi, chúng tôi biết được tư tưởng của Đức Kitô” (1Cr 3, 15-16).
Như vậy, nhờ sống theo Thần Khí tức nhờ thấm nhuần “Lời Chúa là Thần Khí, là sự thật và là sự sống” mà vị thánh hiểu được tư tưởng của Đức Kitô, tức nhận ra Thánh Ý Chúa để kiên trì sống Lời Ngài.
Nhất là trước khi về lại cung lòng Chúa Cha, Chúa Giêsu Phục Sinh đã nói với thánh Phêrô về “người môn đệ Đức Giêsu thương mến”:
“Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho đến khi Thầy đến thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy theo Thầy” (Ga 21, 22).
Qua đó, tôi tin chắc rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đã muốn đến hiệp thông liên lỉ với thánh Gioan trong thần bí thâm sâu. Tức được sống thần hiệp với Chúa Giêsu là một hồng ân cao cả và tuyệt vời mà Chúa đã mặc khải cho người môn đệ yêu dấu những chân lý cao siêu trong Tin Mừng và sách Khải Huyền của ngài.
Bản thân tôi khi mới đầu sống với Lời Chúa, tôi cũng chỉ hiểu một cách đơn giản Lời Chúa trong Giêmêria 15, 16 là những lời Kinh Thánh cần phải thuộc lòng, phải ghi nhớ:
” Gặp được Lời Chúa con đã nuốt vào, Lời Ngài làm con hoan hỉ, làm vui thoả lòng con, vì con được mang danh Ngài”.
Nhưng khi đã sống lòng mến đối với tha nhân tốt hơn, tôi mới vỡ lẽ ra rằng Lời Chúa ở đây còn có nghĩa là Đức Kitô, là hiện thân của Người, là những người nghèo bệnh tật. Và khi gặp được họ là trái tim và bàn tay của tôi đã ôm ấp, đã đem về giúp đỡ ủi an. Rồi sau đó tạo điều kiện tốt cho họ tự lập, tôi lại bị ngay chính gia đình mình xỉa xói, bới móc tận tình. Chưa hết những người láng giềng lại còn cho rằng tôi điên loạn vì chính mình còn chưa nuôi nổi mình, thế mà còn ham đèo bồng! Thứ rởm đời! Thứ hợm hĩnh! Nhưng với tôi thì:
“Lời Ngài làm vui thoả lòng con vì con được mang danh Ngài” nghĩa là con được cùng vác Thập Giá với Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh vinh hiển của con,
Chúa là “sự sống lại và sự sống” của con. Con hết lòng cảm tạ và tri ân Ngài đã cho con thấy con là kẻ tội lỗi, còn Chúa là Đấng Tuyệt Đối Yêu Thương và Vĩnh Cửu của con.
Nhờ Lời Chúa và nhờ Mình Máu Thánh Chúa mà con đã được Chúa cho phục sinh từ những xiềng xích trói buộc con. Xin cho con yêu mến Lời Ngài luôn mãi.
Xin Thần Khí Phục Sinh của Chúa luôn dìu dắt con đi để con xứng đáng luôn mãi là “người được mang danh Ngài”. Amen.
Chúa Nhật Phục Sinh, 23/03/2008
Phêrô Vũ văn Quí CVK64
Email: peterquivu@gmail.com
-----------------------------
(Ga 20, 1-9)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Ðứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Ðức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Ðức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Đ.Ô. Nguyễn Văn Tài
-----------------------------
(Ga 20, 1-9)
Chúng ta hân hoan mừng ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).
Niềm tin vào Chúa Phục Sinh là cả một chặng đường dài trong cuộc sống. Nói đến TIN là nói đến YÊU, hay trái lại cũng thế. Đó là cặp sóng đôi trong đời sống Kitô hữu.
Tình yêu mến, tương ứng nhưng lại khác biệt
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Mađalena nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan. Nhờ lòng mến thiết tha mà Mađalena khám phá ra mồ trống trước tiên. Nhưng rất tiếc khi chỉ dừng lại ở mức độ tình cảm trong cơn hốt hoảng, Chị đã không có khả năng nhận ra ý nghĩa của các dấu chỉ, và trở nên buồn rầu, lo lắng, khóc lóc. Có thể chúng ta cũng sẽ như vậy khi đứng trước những lầm than, mất mát và đổ vỡ trong đời, chỉ còn lại nuối tiếc và đau thương của một tình cảm đã chôn vùi. Đời chúng ta lắm khi giống như ngôi mộ trống trải. Những gì chúng ta yêu quí nay chẳng còn. Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất trong nước mắt và đau khổ như Mađalena. Nhưng nếu xác Chúa Giêsu cứ nằm yên trong mồ để cho Chị thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa Phục Sinh. Chị ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ, nhưng chỉ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài ngôi mộ (Ga 20, 11-17), ở ngoài sự đau xót cho một quá khứ đã qua, ở ngoài sự bám níu vào một cách thế, một hình thức cố định nào đó. Mọi sự ràng buộc bên ngoài đều làm mất đi tự do chân chính trong tinh thần, mất đi ánh sáng của niềm tin và hy vọng vươn lên của một sự sống luôn mời gọi triển nở.
Gioan, người môn đệ Chúa yêu, cũng rất yêu Thầy, nhưng tình cảm của ông được đức tin hướng dẫn. Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố, cũng giống như Gioan, ông khám phá ra ý nghĩa của cái chết bi đát trên đồi Canvê như một dấu chỉ của sự sống mới (Ga 12, 24); ông khám phá ra ý nghĩa của ngôi mộ trống và các tấm khăn đã được xếp gọn gàng như dấu chỉ của một trật tự mới (Mt 9, 17). Dấu chỉ chẳng làm cho tin nhưng giúp người ta bắt đầu tin. Vì thế, khởi đi từ các dấu chỉ hữu hình, đức tin vẫn là sự gắn bó vào cái vô hình. Khi quan sát kỹ những dấu vết để lại, Gioan nhận ra cách thức hành động của Chúa Giêsu trước đây và nhất là ông hiểu được Kinh Thánh, đồng thời nhớ lại những lần tiên báo phục sinh của Thầy.
Chúng ta cần ra khỏi tình cảm bi lụy của mình, ra khỏi tâm trạng buồn thương do tác động của hoàn cảnh bên ngoài, phải vượt trên cái thấy cách vật chất để thấy trong đức tin nhờ cái nhìn trầm tĩnh và sâu lắng hơn trước những gì xảy ra. Sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh luôn bao trùm mọi ngõ ngách của cuộc đời chúng ta, đừng đòi buộc Ngài phải hiện diện trở lại theo phương cách cũ của một thân xác hay chết, đừng bắt buộc Ngài phải hành động theo một khuôn khổ cố định và hạn hẹp theo lối nhìn của chúng ta. Cần phải mở lòng để đón nhận ơn cao cả này: “Phúc thay những người không thấy mà tin”(Ga 20, 24-29): tin vào sự hiện diện và cách hành động rất mới mẻ và rất sâu rộng của Chúa Kitô Phục Sinh trong mọi biến cố của cuộc đời chúng ta. Đức tin đó đem lại bình an và hạnh phúc biết bao cho chúng ta.
Hành vi đức tin chính là việc Thần Khí hoạt động trong tâm hồn một con người để làm cho kẻ ấy vừa nhận ra một thực tại chất chứa mạc khải vừa nhận ra ý nghĩa của Lời quy hướng về thực tại đó. Nguồn gốc của mạc khải duy nhất lưỡng diện này (thực tại và Lời) là Thánh Thần. Chính Ngài cho tín hữu niềm xác tín rằng mình có lý để tin (Ga 16, 7-11). Đức tin khởi đi từ các sự kiện lịch sử mà nhiều nhân chứng đã “thấy”, nhưng sự chắc chắn dứt khoát của chúng ta rốt cuộc chỉ dựa vào chứng từ của Thần Khí trong chính tâm hồn mình mà thôi. Như vậy, đức tin là sự phối hợp nhịp nhàng của con tim và lý trí, dựa trên hoạt động của Chúa Thánh Thần trước dấu chỉ hữu hình để đạt tới một thực tại vô hình.
Con tim và lý trí
Dĩ nhiên, trong đời sống đức tin, ngoài việc hoạt động nền tảng của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mỗi người, thì trước tiên là con tim chứ không phải lý trí. Chính vì thế mà ta thấy Gioan luôn được đặt trổi vượt hơn Phêrô về lòng mến, trong bửa tiệc ly (Ga 13, 24), trong nhà thượng tế (Ga 18, 12-16), và rồi ông bỏ xa Phêrô trong khi chạy tới mồ (Ga 20, 3-4). Điều đó cho thấy rằng, dù trách nhiệm của mỗi người ra sao chăng nữa, thì tình yêu vẫn là cái dẫn tới niềm tin vào Chúa Giêsu đã sống lại. Sau này, trước khi Chúa Giêsu Phục Sinh về Trời, Ngài cũng đã mời gọi lòng yêu mến của Phêrô đến 3 lần trước khi giao quyền tối thượng cho ông trên đoàn chiên (Ga 21, 15-17). Chính tình yêu là động lực giúp khám phá hoặc đi mau hơn và xa hơn trong mọi diễn biến của cuộc sống. Chính tình yêu làm cho ta thực sự biết được chiều sâu của các biến cố.
Cái nhìn đức tin
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hoảng hốt trước những thất bại, đổ vỡ và mất mát trong cuộc đời. Là Kitô hữu, chúng ta vẫn có cái nhìn tự nhiên như mọi người, nhưng vẫn phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc quan. Có thể ví cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tin hồng ngoại, nên có thể nhìn thấy những điều mà mắt thường không nhìn thấy được.
Bằng cái nhìn đức tin, Thánh Phaolô khi đối diện với tình trạng nguy biến có thể kết thúc cuộc đời mình, Ngài đã suy nghĩ rằng sống hay chết đều tốt cả: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”(Pl 1, 21). Thánh Têrêsa cũng thế, sau khi nhìn những sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận rằng “Tất cả đều là hồng ân”. Tình yêu mến Chúa dạy cho người ta có cái nhìn đức tin. Dù bất cứ người tín hữu nào miễn có một lòng mến sâu xa vẫn có thể mau mắn nhận ra sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh trong những biến cố của cuộc đời mình.
Đức Giêsu phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia !
Lạy Chúa, điều mà con khao khát và cầu xin hằng ngày là được yêu mến Chúa trên tất cả. Nhưng tình yêu mến đó mời gọi con phải có cái nhìn đức tin trong mọi sự, nhất là thấy được Chúa Phục sinh đang hiện trong mọi biến cố và trong từng anh chị em của con. Cái nhìn này đòi con phải xóa sạch những quá khứ ngổng ngang của con và của mọi người, để nhìn thấy đó như những chặng đường phải đi qua để thành hình một con người mới. Con không thể cứ ôm lấy cái xác đã chết để kêu gào, than van và nuối tiếc. Con không thể cứ trói buộc mình vào những tư tưởng, những hình ảnh, những con người của một thời đã qua để phê phán, than van và trách móc hoặc để dựa dẫm, khen ngợi và ca tụng. Nếu cứ như thế thì con vẫn chết trong quá khứ, đang khi Chúa đã Phục sinh trong hiện tại. Thật ra, tất cả đã được chôn vùi rồi, và giờ đây trước mắt là ngôi mộ trống. Ngôi mộ trống chẳng còn lại gì của quá khứ, nhưng có một vài dấu chỉ rất tinh tế đủ để cho con đọc ra sự hiện diện Phục sinh của Chúa và giải mã những điều huyền nhiệm trong cuộc đời mà Chúa đã làm nên cho con và cho mọi người. Như Gioan đã thấy và đã tin, thì xin cho con được bừng sáng lên niềm tin yêu hy vọng để thấy Chúa đang hình thành và làm nên những điều mới lạ trong con và trong mọi anh chị em; cho cõi lòng con rộng mở để thấy được nét mặt Chúa trên khuôn mặt kẻ khác. Đó chính là niềm vui và hạnh phúc của con trong đời sống hằng ngày, để con luôn phấn khởi ra đi cho một niềm tin, để được sống bên Chúa bây giờ và mãi mãi. Amen.
LM Thái Nguyên
-----------------------------
Đức Kitô Phục Sinh – Cánh Cửa cuộc đời
„Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính,
để Đức Vua vinh hiển ngự vào“ (Tv 24, 7)
Bạn thân mến,
Phục Sinh – hai tiếng rất thân thương, hai tiếng đem lại niềm hy vọng.
Nhưng làm sao có thể hiểu được và thấm thía được sứ điệp Phục Sinh sâu sa của Đức Kitô, giữa một thế giới như là ngục tù chỉ có lối vào mà không có lối ra đây?
Làm sao có thể vẫn vui cười và chẳng bao giờ chán sống, khi vẫn thấy bạo chúa của sự chết, của sự dữ vẫn mạnh mẽ, vẫn giương oai trong cuộc đời?
Đức Kitô Phục Sinh có là cánh cửa dẫn chúng ta đến với mảnh đất tự do thực sự hay không?
Dưới đây xin chia sẻ cùng Bạn những suy tư của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, giờ đây là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI.
Ý nghĩa của lễ Phục Sinh
Sự phục sinh của Đức Kitô làm thay đổi điều gì?
Một cách nào đó sứ điệp Phục Sinh của Đức Kitô vượt khỏi khả năng tưởng tượng của chúng ta. Sứ điệp Phục Sinh không dễ dàng trực tiếp đi vào tâm hồn của chúng ta như sứ điệp Giáng Sinh. Sự sinh ra nằm ở trong kinh nghiệm của con người. Và sự sinh ra luôn mang trong mình niềm hy vọng và niềm vui. Như vậy, câu chuyện của Con Thiên Chúa, sinh ra như một hài nhi trong hang lừa dễ dàng đánh động con tim của chúng ta và cũng có ý nghĩa đối với những người chưa có niềm tin vào Thiên Tính của Hài Nhi. Còn Phục Sinh thì nằm ngoài phạm vi kinh nghiệm của chúng ta. Chúng ta chỉ quen với sự sống, sự sống hướng đến cái chết. Rudolf Bultmann đã diễn tả rất rõ ràng sự bất lực của chúng ta về sứ điệp Phục Sinh. Bultmann đã nói rằng: „Ngay cả khi điều đó xảy ra, thì phép lạ của một thân xác chết sống lại có gì để nói với chúng ta?“ Đây là câu hỏi: Phải chăng Phục sinh là một phép lạ rắc rối khó hiểu, và chẳng thay đổi gì trong suy nghĩ của con người?
Thiên Chúa trong nhà của con người?
Ở đây phụng vụ Giáo Hội muốn tiếp tục giúp chúng ta, bằng cách phụng vụ đã „chuyển ngữ“ điều không thể hiểu được vào trong tranh ảnh và sự tưởng tưởng hợp với chúng ta, hay ít nhất cũng đem lại cho chúng ta những điểm liên hệ. Những điểm đó hướng con tim chúng ta đến với niềm tin Phục Sinh. Phụng vụ đã dùng các biểu tượng như ánh sáng và nước. Phụng vụ đã „múc“ từ kho tàng lớn lao của sự đau khổ, của việc cầu nguyện, của sự nghi ngờ, của niềm hy vọng mà con người chúng ta có, và cũng chất chứa sẵn trong Cựu Ước. Từ rất nhiều lời Thánh Kinh mà phụng vụ từ lúc đầu tiên đã dùng để làm sáng tỏ mầu nhiệm Phục Sinh, tôi chỉ chọn ra một tâm tình. Tâm tình này kết nối Giáng Sinh và Phục Sinh, và qua đó làm cho sự hiệp nhất của Kitô giáo được rõ ràng hơn. Tâm tình này ở trong thánh vịnh 24: „Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào“ (câu 7) Bài hát trong mùa vọng của chúng ta: „Macht hoch die Tür – Hỡi cửa đền hãy cất cao lên“ được khởi hứng sáng tác từ lời trong thánh vịnh này. Trong nguồn cội thì thánh vịnh này là một phần trong phụng vụ về Cửa, một phụng vụ tiến vào và phụng vụ của các cánh cửa. Người ta hát bài thánh vịnh này trong dịp long trọng rước hòm bia thánh vào đền thờ. Vâng, người ta muốn mời Thiên Chúa vào trong ở trong nhà này, hiện diện ở giữa mọi người, trở thành hàng xóm láng giềng và người chia sẻ cùng một căn nhà. Thiên Chúa cần đi vào trong ngôi nhà của con người, để biến ngôi nhà này trở thành ngôi nhà Thiên Chúa, và trong đó Chúa sẽ biến thế giới của con người trở thành thế giới của Thiên Chúa. Nhưng ngay lúc đó thì người ta cảm nhận rằng, làm sao có thể xảy ra như vậy được: Không có ngôi nhà nào của con người có thể lớn đủ, để cho Thiên Chúa ngự vào. Ngài vượt cao hơn tầm mức không gian của con người. Vâng, Thiên Chúa sẽ đến ở đâu và đến như thế nào?
Một thế giới không có cửa giành cho Chúa?
Thế giới của con người không có cửa giành cho Chúa. Hình như là như vậy đấy.
Thế giới đã tự khép mình lại. Thế giới là một ngục tù, một ngôi nhà chết. Con người trong thời đại Cựu Ước và của các văn hóa xa xưa khác nhìn ngục tù với hình ảnh của một thế giới chết: Ai chết, thì không bao giờ trở về lại. Người ta đã nhìn cõi chết như là một ngục tù vĩ đại và khủng khiếp, trong đó một bạo chúa dữ tợn cai quản. Đó là một ngôi nhà không đường trở về. Một cảm giác về điều này được rõ ràng hơn, khi tất cả mọi con đường của chúng ta đều dẫn vào ngục tù, nơi chỉ có lối vào mà không có lối ra. Như vậy chúng ta chỉ là những tội nhân. Và thế giới của chúng ta chỉ là ngôi nhà chết, một cái phòng ở trước lối vào ngục thất. Trong thực tế: Nếu sự chết là chữ cuối cùng, thì thế giới này là một phòng đợi dẫn đến cái hư không.
Những thi sĩ trong thời đại chúng ta đã diễn tả về viễn cảnh khủng khiếp này. Franz Kafka đã đi vào chỗ thẳm sâu nhất của sự sợ hãi. Trong sự tưởng tượng về một thế giới bị thống trị hoàn toàn, ông ta đã tự giải thích về cuộc sống của mình. Cuộc sống trong lâu đài như là một cuộc đợi chờ viễn vông, một cuộc thử nghiệm không lối thoát, đi qua sự lộn xộn của bàn giấy đế tới được người mình cần gặp, để đạt tới sự giải thoát. Trong tiến trình này cuộc sống được diễn tả như là một tiến trình với đích đến và cái chết. Lịch sử chấm dứt với dụ ngôn về một con người, cả một cuộc đời đã chờ đợi trước cánh cửa, và không thể bước vào bên trong, mặc dù cửa đó được làm ra để mở đón mời con người. Thực, nếu Đức Kitô không sống lại thì chẳng còn gì để nói ngoài dụ ngôn con người được nhắc ở đây. Tất cả mọi điều khác đều là thuốc mê. Tiếng la hét trong nghi ngờ, sự giải phóng mang tính cách bạo lực mà chúng ta đã chứng kiến và trải qua, chính là kết quả của một thế giới từ chối niềm hy vọng, từ chối Đức Kitô.
Một thế giới không còn là ngục tù.
„Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính“. Câu thánh vịnh này không chỉ để hát chơi chơi, không chỉ thuộc về phụng vụ cửa của thời xa xưa. Đó là tiếng kêu của con người trong một thế giới vẫn còn chật chội, dù cho người ta có bay ra khỏi vũ trụ, có đặt chân đến mặt trăng hay cất cánh bay xa hơn nữa. Giáng Sinh chỉ là một nửa câu trả lời của Kitô giáo cho tiếng kêu của này. Giáng Sinh nói rằng: Không chỉ có Thần chết, mà con có Thiên Chúa, Đấng là sự sống, và Thiên Chúa này có thể đến với chúng ta và Ngài cũng muốn đến với chúng ta nữa. Vâng, Ngài đã mở đường rộng thênh thang để đến với chúng ta. Ngài đã tìm thấy cánh cửa đủ cao cho Ngài. Và còn hơn thế nữa: Ngài đã tạo nên cánh cửa này. Nhưng lời đáp trả chỉ được kiện toàn, khi đó không chỉ là lối vào giành cho Chúa để đến với chúng ta, mà còn là lối ra giành cho chúng ta nữa. Vâng, câu trả lời chỉ có thể thỏa mãn, khi sự chết không còn là một ngục tù không lối ra nữa. Đó chính là nội dung của sứ điệp Phục Sinh. Như vậy ngục thất không chỉ có lối vào mà còn có lối ra. Sự chết không còn là ngôi nhà không có lối ra nữa, không còn là mảnh đất không có lối về.
Giáo hội thời xa xưa đã nhìn thấy trong câu thánh vịnh này một sự giải thích cho Đức Tin: „Với giáo hội thì đây là một bài học của ngày thứ bảy tuần thánh – không phải là những lời buồn đau, mà là những lời chiến thắng. Giáo hội đã diễn tả lời này rất thi vị: cái then cửa của ngục tù chết chóc, của ngục thất nhân trần đã bị bẻ gãy, tường lũy cắt chia đã bị phá đổ, và mọi cổng vào đã được dương cao Giêsu, Đấng đã làm tất cả những điều này, nắm lấy tay của tất cả những tội nhân đang xếp hàng dài – Ađam và Evà cùng tất cả nhân loại, và Ngài dẫn đưa tất cả vào mảnh đất tự do. Cuộc sống không còn là phòng đợi dẫn đến cái hư không, mà sự sống là sự bắt đầu của vĩnh cửu. Thế giới không còn là trại tập trung bao quát, mà là một ngôi vườn hy vọng. Cuộc sống không còn là một cuộc đi tìm viễn vông về ý nghĩa, với hình ảnh là những bước lạc đường ở bàn giấy. Thiên Chúa không phải là một nhân viên bàn giấy. Ngài không sống trong một lâu đài xa xôi, và Ngài không ẩn mình đàng sau căn phòng chờ không có lối dẫn vào phía trong. Cánh cửa đã mở toang. Cánh cửa đó là: Giêsu Kitô.
Chỉ cho mọi người thấy ánh sáng của cánh cửa này – Đó là ý nghĩa của lễ Phục Sinh. Tiếng kêu mời của Ngài là, không phải phân vân gì nữa, cứ bước theo Ánh Sáng này. Ánh Sáng này không phải là một ảo tưởng viễn vông, mà là Ánh Sáng hướng về chân lý thực có sức cứu rỗi.
(bài giảng về ý nghĩa Phục Sinh của Joseph Ratzinger, Benedikt XVI, trong „Wer hilft uns leben?“, Herder Verlag, 2005, S. 132-135)
Bạn thân mến,
Đọc những suy tư của Đức Thánh Cha, Bạn cảm thấy Phục Sinh giờ đây là gì đối với Bạn vậy?
Cánh cửa được Đức Kitô giương cao, để Ngài vào gặp Bạn và để Bạn ra gặp Ngài. Cánh cửa đó nói cho Bạn điều gì về tương quan của Đức Kitô giành cho Bạn?
Đức Kitô có phải là „Cánh Cửa“ cuộc đời của Bạn không?
Bạn có muốn giới thiệu cho anh chị em, đặc biệt những ai đang ngồi trong ngục thất chỉ có lối vào mà không có lối ra, cánh cửa tuyệt vời này, Đức Kitô Phục Sinh không? Bạn sẽ phải làm thế nào?
Hôm nay Đức Kitô sống lại sẽ làm cho chúng ta, những con người tội lỗi, qua bí tích rửa tội và qua việc đóng đinh mình vào thập giá của Đức Kitô, trở thành con người mới, con người mang dấu ấn Phục Sinh, mang hơi ấm sự sáng.
Mến chúc Bạn thật vui, thật rạng rỡ khi ra ra vào vào cánh cửa là chính Đức Kitô Phục Sinh.
Nguyện xin Ngài là sự sống lại và là sự sống, luôn mở cánh cửa là chính Ngài, để Bạn và tôi cùng tất cả mọi người đi vào và tìm thấy sự thật, sự sống và sự sống lại vĩnh cửu. Amen
Halleluia Halleluia Halleluia !!!
Lm. Nguyễn ngọc Thế sj
-----------------------------
Một lần nữa, chúng ta lại cùng Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Vượt qua (Paschal Mystery) của Chúa Kitô và mừng vui vì Chúa đã sống lại từ cõi chết cách nay trên 2000 năm như Người đã tiên báo với các Tông đồ trước ngày chịu khổ hình thập giá. (x.Mt 17,9: Mc 9,9)
Chúa sống lại là một biến cố lịch sử và là niềm tin lớn lao của Giáo Hội, của mọi người tín hữu chúng ta. Niềm tin này vô cùng cần thiết cho hy vọng của chúng ta vào sự sống đời đời mai sau trong Nước Thiên Chúa, như Thánh Phaolô đã quả quyết: “Nếu kẻ chết không sống lại thì Đức Kitô đã không chỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cor 15: 13-14). Nghĩa là, nếu Chúa Kitô không sống lại thì tất cả những gì Chúa đã giảng dạy trong 3 năm về sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa sẽ là ảo tưởng và chính Thiên Chúa cũng không có thực nữa. Nhưng hạnh phúc thay, Chúa đã sống lại thật tức là bảo đảm chắc chắn cho những chân lý mà Người đã rao giảng, và do đó, cho chúng ta hy vọng chắc chắn về sự sống vĩnh cửu sau khi chúng ta sẽ phải chết đi trong thân xác, như Chúa Kitô đã trải qua 3 ngày trong mồ tối.
Phúc Âm Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay kể lại sự kiện Ngôi Mộ trống và khăn liệm xác Chúa được “cuốn lại và xếp riêng ra một nơi” như Phêrô và môn đệ kia (Gioan) trông thấy trong mồ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Sự kiên này đã hùng hồn minh chứng: Chúa Kitô đã sống lại thật từ cõi chết Alleluia!
Chúa sống lại vì Người đã toàn thắng sự tội và sự chết qua chính cái chết trong thân xác con người mà Chúa đã chia sẻ với nhân loại qua Mầu Nhiệm Nhập Thể (Mystery of Incarnation).
Như thế, mừng kỷ niệm Chúa Phục Sinh cũng là mừng niềm vui của chúng ta về hy vọng sẽ được sống lại để huởng hạnh phúc NướcTrời với Chúa sau này, nếu chúng ta cũng sống và chết như Chúa. Nhưng trước hết, đây là dịp thuận lợi để một làn nữa chúng ta suy niệm thêm về tình yêu thương quá lạ lùng củaThiên Chúa và về ác tính của tội lỗi con người.
Thật vậy, Chúa Giêsu đến trần gian và chết nhục nhã trên thập giá vì Thiên Chúa yêu thương con người mà cũng vì tội lỗi của nhân loại.
Trước hết vì yêu thương, Chúa đã tạo dựng và mong muốn cho “mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (x 1 Tm 2,4 ) nghiã là được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trong Nước Trời. Tuy nhiên, con người đã tự do chọn sự dữ nên “tội đã xâm nhập trần gian và gây nên sự chết cho mọi người ” (x Rm 5,12).Thiên Chúa laị vì yêu thương mà tha thứ cho con người trong Đức Kitô, Đấng cũng vì yêu thương mà bằng lòng chịụ chết để làm giá cứu chuộc cho muôn người.
Những cực hình mà Chúa Giêsu phải chịu trước khi chết đã cho ta thấy rõ ác tính của tội lỗi ghê sợ đến mức nào.Hãy hình dung những roi đòn tàn nhẫn quất vào thân mình của Chúa, những cú đấm đá ác nghiệt của quân thù, những gai nhọn quấn quanh đầu Chúa, những giọt máu đào chẩy ra từ môi miệng Chúa đã nói lên cái giá quá đắt mà Chúa đã phải trả cho phần rỗi của mỗi người chúng ta.
Giá quá đắt vì ác tính của tội lỗi thật ghê gớm.Ác tính này vẫn đang thể hiện qua mọi hình thức của tội lỗi ở khắp mọi nơi trên thế giới ngày nay cũng như xưa, đặc biệt tại quê hương ViệtNam nghèo đói, nơi mọi giá trị luân lý, đaọ đức đã và đang tụt hậu ở mức thê thảm. Điển hình là nạn buôn bán phụ nữ Việt Nam để làm nô lệ tình dục cho đàn ông Đài Loan, Đaị Hàn, Mã lai dưới chiêu bài “hôn nhân ngoại quốc” đang ồn ào diễn ra trước sự dửng dưng của chánh quyền và nhắm mắt, bịt taị của các Giáo Hội. Đây là một tội ác xúc phạm nặng nề đến nhân phẩm của người phụ nữ ViệtNam, một tội chống lại chính Thiên Chúa, Đấng tạo nên người nữ để làm bạn cộng tác với người nam trong chương trình sáng tạo và yêu thương của Chúa chứ không phải để làm vật mua vui cho kẻ vô luân vô đạo buôn bán và chà đạp!
Tại sao người ta có thể làm ngơ cho sự dữ này và bao sự dữ khác đang lộng hành như vậy ở khắp nơi và cách riêng ở ViệtNam hiện nay?
Tại sao không có biện pháp tích cực ngăn chặn hay cảnh giác, lên án của người có trách nhiệm duy trì kỷ cương xã hội, giảng daỵ đaọ đức, bảo vệ luân lý, thực thi công bằng, đề cao nhân ái, là những điều mà Chúa Giêsu đã giảng dạy và trả giá bằng chính mạng sống của mình?
Chúa đã chết và sống lại nhưng sẽ còn phải tiếp tục chịu khổ nạn thêm nữa vì những sự dữ của “văn hoá sự chết” đang lan tràn khắp nơi trên thế giới ngày nay.
Như vậy, mừng Chúa Phục sinh cách thích đáng phải chăng cũng nhắc nhở chúng ta nhận diện rõ thêm ác tính của tội lỗi từng làm cho Chúa phải chết để từ đó thêm quyết tâm xa lánh mọi sự dữ này và sống tốt lành hầu cho sự hy sinh chịu đau khổ của Chúa Kitô không trở nên vô ích cho ai?
LM Phanxicô X Ngô Tôn Huấn
-----------------------------
Gioan 20,1-9
Phục Sinh là chuyển sang một cuộc sống bên kia cái chết, sang một cuộc sống không cùng, nghĩa là một đời sống vĩnh cửu.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
I. NgỮ cẢnh
Chúng ta đã sang phần ii của TM Gioan, gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu” với hai phần chính: (1) Đức Giêsu cáo biệt khi đến Giờ (tại Bữa tối cuối cùng) (Ga 13–17); (2) Giờ của cuộc Khổ Nạn-Chết-Sống lại của Đức Giêsu (18,1–20,29).
Phần 2 có cấu trúc như sau:
A (18,1-14+): Đức Giêsu uy nghi toàn năng trước Giuđa kẻ phản bội và nhóm đi bắt Người.
B (18,12-27): Đức Giêsu bị xử trước thượng tế và các lần Phêrô chối tư cách môn đệ.
C (18,28–19,16b): Cuộc xử án và kết án Đức Giêsu, vua dân Do-thái, do Philatô thực hiện.
C’(19,16c-42): Vua dân Do-thái chịu đóng đinh, chết và được an táng trên đồi Gôngôtha.
B’(20,1-18): Phêrô và người môn đệ Chúa yêu tại mồ trống và Đức Giêsu hiện ra với Maria Mácđala.
A’(20,19-29): Các lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma người không tin.
II. BỐ cỤc
Bản văn Ga 20,1-10 có thể chia thành hai phần:
1) Thời gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Mácđala ra mộ (20,1-2);
2) Hành động chính: Phêrô và Gioan ra mộ (20,3-10).
III. Vài điỂm chú giẢi
- lúc tảng sáng (1): Prôi, dịch sát là “lúc sớm trong buổi sáng”. Đây là canh cuối theo cách chia của người Rôma, từ 3-6 giờ sáng (người Rôma tính giờ bắt đầu từ nửa đêm).
- Maria Mácđala (1): TM Ga chỉ nêu tên một mình bà Maria Mácđala; Mt nêu tên hai bà; Mc nêu ra ba bà; còn Lc (24,10) nêu tên ba bà “cùng với các phụ nữ khác”. Có lẽ truyền thống Nhất Lãm sát thực tế hơn, bởi vì khó mà cho rằng một phụ nữ lại dám đi một mình trong lúc trời còn nhá nhem đến nơi hành hình ở bên ngoài tường thành. Với lại chính câu nói của bà: “Và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” gợi ý là có nhiều phụ nữ ở với bà. Ngoại trừ Lc 8,2 đã đặt bà Maria Mácđala vào thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai và giới thiệu như là người được trừ khỏi bảy quỷ, bà chỉ được nhắc đến trong liên hệ với cuộc đóng đinh và với mộ trống mà thôi. Biệt danh của bà cho thấy là rất có thể bà xuất thân từ thành Mácđala, ở về phía bờ biển tây bắc của Hồ Galilê, cách Caphácnaum khoảng bảy dặm về phía tây nam.
- đi đến mộ (1): Ga không xác định lý do. Mc và Lc cho biết là các phụ nữ mang dầu thơm đến để tẩm liệm thi hài Đức Giêsu. Mt chỉ nói là các bà đến để nhìn xem mộ, có lẽ vì Mt đã kể là mộ có lính canh nên các bà không thể vào mộ được.
- bà … thấy (1): TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: blepein, theôrein, theasthai, horan [idein]. Các chuyên viên cho rằng “thấy” ở đây là blepein, cấp thấp nhất, nói về cái nhìn mang tính vật chất, cái nhìn bằng mắt thịt (x. ch. 9; 21,9), và như thế blepein không có một ý nghĩa đặc biệt. Dù vậy, vẫn có những ngoại lệ: 5,19 (Đức Giêsu thấy Chúa Cha) và 9,39 (hẳn là tác giả có ý chơi chữ ở đây: dùng một động từ với hai nghĩa).
Theôrein có nghĩa là nhìn tập trung, tức là phải có nhiều thì giờ hơn blepein, do đó cũng hàm ý một sự hiểu biết sâu xa hơn; cái nhìn này đưa đến chỗ chấp nhận Đức Giêsu là một con người đặc biệt, có khả năng làm các việc kỳ diệu, nhưng chưa phải là đức tin tròn đầy (x. 2,23; 4,19; 6,2.19;20,12.14). Tuy nhiên cũng có ngoại lệ: 6,40; 17,24; còn 14,17 có lẽ là một kiểu chơi chữ với hai nghĩa.
Horan (idein) có nghĩa là cái nhìn kèm theo sự hiểu biết đích thực, tức đưa tới đức tin (20,8.25). Câu 16,16 có cách dùng các động từ như thế: “Một ít nữa, anh em sẽ không thấy Thầy (= theôrein), rồi một ít nữa, anh em sẽ xem thấy (= horan) Thầy”. Xem thêm 1,34.50.51; 3,11.32; 11,40; 14,7.9; 19,35.37; 20,29. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, khi horan được dùng theo nghĩa thể lý: 1,39; 5,6; 4,45.48; 6,14.22.24.30.36; 7,52; 12,9 (horan = theôrein).
Theasthai được một vài nhà chú giải dịch là “chiêm ngưỡng”, với nghĩa là hiểu ý nghĩa sâu xa của các sự việc đang xảy ra (x. 1,14; 4,35) và nếu dựa vào 1 Ga 1,1, dường như horan là cấp thấp hơn theasthai (“điều chúng tôi đã thấy [horan] tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng [theasthai]”). Tuy nhiên, ở 1,38 và 6,5, theasthai dường như chỉ có nghĩa là nhìn thấy thể lý; ở 1,32 (= 1,34); 11,45, theasthai lại được dùng đồng nghĩa với horan. Bởi vì theasthai không được dùng nhiều và phong phú như horan, chúng tôi tạm xếp theasthai vào cấp thứ ba.
- tảng đá (1): Tác giả viết y như thể độc giả biết rõ tảng đá này. Cũng như Lc, Ga không nói đến việc niêm phong tảng đá (x. Mt 27,66) hay niêm phong ngôi mộ bằng một tảng đá.
- đã cất khỏi mồ (1 - NTT): Các TMNL nói là “đã được lăn ra” (Mc 16,4; Mt 28,2; Lc 24,2 dùng động từ apokyliô, “lăn đi xa”, ở các thể thụ động cách); Ga thì nói “đã được cất (êrmenos] khỏi mồ”. Ngành khảo cổ xứ Paléttina cho thấy là có những ngôi mộ nằm ngang và cửa vào các ngôi mộ này nhỏ hẹp, có khi cao chỉ gần một thước, nên người lớn thì phải trườn mà vào. Người ta có thể niêm mộ bằng một tảng đá chắn ngay cửa vào. Nhưng cũng có những ngôi mộ rộng hơn thì cửa được chắn bằng một tảng đá có thể lăn tròn theo một cái rãnh ở ngang cửa vào, giống như một cánh cửa lùa. Ngôi mộ rộng bên trong có thể có một gian ngoài; gian trong mới dành để mai táng người quá cố. Có nhiều cách mai táng: có khi người ta khoét những cái hầm đục vào sâu trong vách đá và đẩy thi hài vào trong đó, đầu đi trước; có khi người ta lại đẽo vào đá để làm thành những tầng có những cái ổ bán cung (như một cái kệ) cách mặt đất chừng nửa thước để đặt thi hài vào; có khi người ta đặt một băng bằng đá sát vách và đặt thi hài lên. Dường như Đức Giêsu được mai táng trong một ngôi mộ rộng và theo cách cuối cùng.
- Bà liền chạy về (2): Maria Mácđala đã nhìn vào mộ nên phát hiện ra là thi hài không còn ở đó nữa, hay là bà suy diễn ra từ sự kiện ngôi mộ không còn bị niêm phong? Người ta thường theo giả thuyết thứ nhất vì hiểu theo lẽ thường; nhưng cứ theo bản văn TM IV thì phải hiểu theo giả thuyết thứ hai, bởi vì trời còn tối và bởi thông tin là đến c. 11, bà mới “cúi xuống nhìn vào trong mộ”. Nhiều người giải quyết khó khăn này bằng cách cho rằng lúc đầu c. 11 đi theo c. 1.
- gặp ông Simôn Phêrô (2): Người ta thường cho rằng Maria đi tìm Phêrô vì ông là thủ lãnh các môn đệ Đức Giêsu. Nhưng đơn giản hơn, nên nhớ rằng Phêrô không chạy trốn với các ông khác và ông ở gần Đức Giêsu khi Người bị giới chức Do-thái thẩm vấn (Ga 18,27).
- đem Chúa (2): Có lẽ bây giờ viết trong giai đoạn hậu Phục Sinh, tác giả đã sử dụng danh hiệu này như một cách diễn tả niềm tin của cộng đoàn Kitô hữu.
- và chúng tôi (2): Chỉ có một mình Maria Mácđala ở ngoài mộ. Thế mà bà lại nói là “chúng tôi”. Người ta giải thích nhiều cách: (1) Có các bà khác, nhưng tác giả đơn giản hóa, chỉ nói đến bà Maria Mácđala thôi; (2) Từ “chúng tôi” là để dung hòa TM IV với các TMNL (Wellhausen và Spitta); nhưng vấn đề là vì sao TM IV khác các TMNL ở rất nhiều chi tiết, mà lại ráng dung hòa tại một chi tiết nhỏ, tinh tế như thế? (3) Bultmann và vài tác giả khá nghĩ rằng từ “chúng tôi” chỉ là một cách diễn tả Sê-mít để nói “tôi”; nhưng dù sao chúng ta cũng lấy làm lạ là trong truyện tiếp theo, Maria lại nói lại câu này, mà lần này ở số ít (c. 13).
Có lẽ cách giải thích đầu tiên là tốt nhất và tự nhiên nhất.
- chạy mau hơn (4): Cha Lagrange cho rằng vì “người môn đệ kia” còn trẻ hơn và nhanh nhẹn hơn Phêrô nên chạy mau hơn. Ishodad de Merv cho rằng vì ông chưa lập gia đình! Có tác giả cho rằng vì tình yêu đã làm cho ông chạy nhanh. Nhưng hợp lý là cho rằng vì ông biết cách chạy hơn Phêrô.
- nhưng không vào (5): Nhiều nhà chú giải cho rằng “người môn đệ Chúa thương mến” không vào vì kính trọng Phêrô là đàn anh, hay là vì kinh ngạc, hoặc vì sợ hãi (sợ ma!), hoặc muốn tránh sự lây nhiễm theo nghi thức khi chạm vào một xác chết. Những kiểu giải thích như thế không hòa hợp được với dung mạo đã được lý-tưởng-hóa của người môn đệ này trong TM. Có lẽ cách giải thích tốt nhất là nói rằng tác giả đã ghi lại một chi tiết không đáng kể như thế, là vì đã xảy ra đúng như thế. Khi kể lại một biến cố quan trọng, ngài lại nhớ lại cả một chi tiết nhỏ bé như thế, và ghi lại trong TM của ngài để gợi lên trung thực điều ngài đã sống (Guillemette).
- Ông cúi xuống và nhìn thấy (5): “Thấy” ở đây là blepô
- Phêrô theo sau (6): Phêrô bước theo (akolouthôn) người môn đệ Chúa thương mến như là môn đệ? Động từ “bước theo” rất hiếm khi được dùng theo nghĩa này; thông thường người ta chỉ “bước theo” Đức Giêsu. Ai muốn đặt đối lập Phêrô với người môn đệ Chúa thương mến thì nhắm vào cách sử dụng trên. Nhưng thật ra như thế là phóng đại.
- Ông vào … thấy (6): Simôn Phêrô “thấy”: động từ được dùng là theôrei, tương tự người môn đệ Chúa thương mến.
- khăn che đầu (7): Soudarion là một cái khăn giống như nhưng có lẽ to hơn cái khăn tay. Có thể người ta dùng chiếc khăn này để bọc lấy cằm và thắt lại trên đầu để cho miệng người chết khỏi mở ra.
- các băng vải (7): Khác với Ladarô (11,43), khi sống lại, Đức Giêsu không cần ai giúp cả. Sự kiện “băng vải để ở đó, và khăn che đầu xếp riêng ra một nơi” loại trừ giả thuyết là có một cuộc đánh cắp thi hài, bởi vì không kẻ nào lại còn nghĩ đến việc lột trần thi hài ra.
- Ông đã thấy và đã tin (8): “Thấy” ở đây là horan, một cái nhìn đưa tới đức tin. Từ cấp “thấy thấp nhất bằng cặp mắt thể lý (blepœ, c. 5), người môn đệ khác đã đạt tới cấp “thấy” cao nhất (horan) bằng đức tin. Câu văn hẳn cho phép được hiểu: đã thấy (eiden, aor của horan) = đã tin (episteusen, aor của pisteuô).
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
Các môn đệ biết rằng Đức Giêsu đã chết và đã được mai táng. Ngôi mộ và thi hài là dấu vết cuối cùng của Đức Giêsu trần thế. Tất cả những gì tác giả TM IV quy chiếu đến ở đây, đều diễn đi từ ngôi mộ này và liên hệ đến thi hài của Đức Giêsu. Đối với các môn đệ, chặng cuối cùng của Đức Giêsu là ngôi mộ; các phụ nữ cũng như các ông đều không hề quay hướng về cuộc phục sinh của Người: chẳng hạn phản ứng của Maria Mácđala ở đây chứng tỏ bà nghĩ rằng Đức Giêsu đã chết thật. Họ không hề hiểu những loan báo Người đã cung cấp, cũng chẳng hiểu những gì được viết trong Kinh Thánh. Ở đây tác giả cho thấy những bước đầu đưa các môn đệ đi từ ý thức là Đức Giêsu đã chết đến hiểu biết là Người đã sống lại. Con đường đi từ nỗi kinh ngạc này đến nỗi kinh ngạc khác, và không phải tất cả các môn đệ đều đạt tới mục tiêu cùng một lúc.
* Thời gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Mácđala ra mộ (1-2)
Trong cả bốn Tin Mừng, các môn đệ của Đức Giêsu, dù nam hay nữ, đều tỏ ra kính trọng ngày sa-bát. Chúng ta thấy các ông đã hạ thi hài Đức Giêsu khỏi thập giá trước khi bắt đầu ngày sa-bát (Ga 19,31 và //), còn các phụ nữ chỉ đi ra một sau ngày sa-bát (Ga 20,1 và //).
Lúc tảng sáng, Maria Mácđala đã đi ra mộ Đức Giêsu. Chúng ta tự hỏi là vì sao bà lại ra mộ khì trời chưa sáng hẳn? – Tác giả trung thành với biểu tượng ánh sáng đã nói đến ngay trong Lời Tựa (1,9), rồi ở 8,12 khi Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho trần gian”, rồi Giuđa bỏ Người là đi vào bóng tối (13,30). Ở đây, vì Đức Giêsu đã chết, nên ánh sáng đã tắt. Tuy nhiên, trời đã tảng sáng như là một dấu chỉ xa xa cho biết Đức Giêsu sắp sống lại và Maria Mácđala sẽ gặp được Người..
Đến nơi, bà thấy (blepei) là tảng đá đã được lăn khỏi mộ và cửa mộ đã mở. Dựa vào điểm quan sát đó, bà giải thích: bà nghĩ rằng thi hài của Đức Giêsu đã được mang đi khỏi mộ. Đó là lời giải thích hợp lý nhất, theo những tiêu chí loài người, khi đứng trước một ngôi mộ đã mở và trống không. Một thi hài thì ở thế hoàn toàn thụ động: đã được người ta đưa vào đặt trong mộ, nay có thể lại đã được người ta đưa đi.
Vì hết sức bận tâm tìm biết là ai đã mang xác Đức Giêsu đi và nay đã đặt ở đâu, Maria đi tìm Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Lối xử sự này chứng tỏ bà rất thương yêu Đức Giêsu. Nhưng trong khi bà còn bận tâm về thi hài Đức Giêsu, Người đã sống lại rồi. Khởi đi từ ngôi mộ của Người, các môn đệ còn phải đến gặp Người trên nẻo đường mà chính Người đã đi qua. Hai người môn đệ đến mộ là hai người đặc biệt gắn bó với Người khi Người còn sống: Phêrô là người đã được Đức Giêsu đổi cho một tên mới (1,42) và luôn được để ý trong nhóm các môn đệ (6,68-69; 13,6-10.35-38); người môn đệ kia là người đặc biệt gần gũi với Đức Giêsu (13,23-24; 18,15-16; 21,20-23).
* Hành động chính: Phêrô và Gioan ra mộ (3-10)
Tin tức Maria Mácđala đưa đến khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và Gioan muốn chính mình đi kiểm chứng sự việc, hai ông chạy ra mộ. Tốc độ khác nhau không có nghĩa là lòng nhiệt thành khác nhau, nhưng là khả năng thể lý khác nhau. Các hành động tiếp đó của hai ông đan quyện vào nhau và càng lúc càng vượt xa điều Maria Mácđala đã quan sát được. Người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đến mộ trước. Ông không chỉ nhìn từ bên ngoài, mà còn nghiêng mình nhìn vào bên trong và thấy (blepei) những băng vải. Phêrô đi vào trong mộ, thấy (theôrei) các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra một góc. Những gì Phêrô ghi nhận được thì đi ngược lại với cách giải thích của Maria: không thể cho rằng người ta mang một thi hài đi mà lại tháo gỡ các tấm vải bọc thi hài ra trước, và còn gấp lại để riêng ra. Gỡ mình khỏi các tấm vải liệm là hành vi ngược lại với việc bọc thi hành trong các tấm vải (x. 19,40). Như thế, việc tẩm liệm đã thành vô ích rồi. Ngôi mộ trống và các dải vải cuộn để riêng không phải là một bằng chứng, nhưng là một dấu chỉ cho biết rằng Đức Giêsu đã rời bỏ ngôi mộ và đã chiến thắng cái chết.
Phêrô ghi nhận chính xác tình huống, nhưng có tin chăng, bản văn không khẳng định minh nhiên. Người môn đệ kia đi vào mộ sau ông, cũng thấy tình cảnh như thế và thực hiện được một bước xa hơn: đã thấy (eiden) và đã tin (episteusen) (c. 8). Dường như tác giả TM IV chia sẻ với Lc 24,12 ý tưởng là Phêrô không bị thuyết phục bởi cuộc thanh sát ngôi mộ trống, nhưng cách ngài trình bày về tình trạng Phêrô thiếu đức tin thì tinh tế hơn là tác giả Lc. Tác giả TM IV không nói là Phêrô không tin. Ngài chỉ kể rằng người môn đệ Chúa thương mến “đã thấy và đã tin”. Các động từ này là tiêu biểu của TM IV, nhưng đều ở số đơn, tức về ngữ pháp thì tương phản với dạng số phức ở các câu trước (“Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra [êrchonto] mộ. Cả hai người cùng chạy [etrechon]”) và ở các câu sau (“hai ông chưa hiểu [êdeisan] Kinh Thánh, rằng…”). Hai môn đệ đã đi ra mộ; chỉ một người rời mộ như là người tin: đó là người môn đệ Chúa thương mến. So với người ấy, thì phải nói Simôn Phêrô còn thiếu đức tin.
Dù sao chỉ những lần Đấng Phục Sinh hiện ra mới làm cho dấu chỉ mộ trống không còn mang tính hàm hồ nữa và sẽ đưa tất cả các môn đệ đến chỗ tin vào Người.
“Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà”: Làm sao có thể thản nhiên trở về nhà sau một kinh nghiệm như thế? Rất có thể đây là chuyện đã xảy ra. Sau một kinh nghiệm quá mạnh như vậy, các ông cần thì giờ để phản ứng. Các ông không reo hò cũng không ca hát: các ông trở lại với đời sống thường ngày.
+ Kết luận
Những điều vừa được kể ở đây đã được kiểm chứng vào “lúc tảng sáng” (20,1). Trong TM IV, giờ và các biến cố tương ứng với nhau. Vào lúc tảng sáng, có nhiều điều tiên báo một sự thay đổi tận căn: đêm đang qua đi, chân trời rạng sáng dần, các sự vật rõ nét thêm. Ai chưa bao giờ thấy mặt trời, thì không thể biết điều gì đã gần kề. Mặt trời lên soi sáng tất cả và làm cho mọi điều đã được tiên báo nên sáng tỏ. Các môn đệ còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng, ở trong tình trạng gồm những dấu chỉ tiên báo và chờ đợi. Chỉ khi họ gặp Đấng Phục Sinh, mặt trời mới mọc lên cho họ, mọi sự mới nên sáng tỏ. Đêm đen và bóng tối, cái chết và niềm đau, sự bần khốn và yếu đuối đều được ánh sáng của Đấng Phục Sinh, được vinh quang của sự sống vĩnh cửu của Người, chiếu rọi.
Không còn thi hài của Đức Giêsu trong mộ nữa. Điều này rất quan trọng đối với sự phục sinh: Bởi vì người ta không thể tìm ra xác ướp của Đức Giêsu hay một vài vết tích, vài mảnh rơi rớt của thi hài, mà lại khẳng định về sự phục sinh được. Bởi vì sự phục sinh không phải là một hiện tượng thiêng liêng nào đó chỉ liên hệ tới phần hồn, nhưng sự phục sinh đặt dấu ấn lên trên toàn thể con người: thân xác và linh hồn, và biến đổi cách vĩnh viễn toàn thể con người. Vậy không bao giờ được hiểu Phục Sinh chỉ là sự hồi sinh của một người chết như chẳng hạn trường hợp Ladarô, vì sau này ông cũng lại đã chết. Sự Phục Sinh là việc chuyển sang một cuộc sống bên kia cái chết, sang một cuộc sống không cùng, nghĩa là một đời sống vĩnh cửu.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Trong cuộc sống, có lắm phen chúng ta nếm cảm những thất bại đau đớn, chúng ta muốn buông xuôi, y như ngôi mộ đã được một tảng đá niêm phong lại, chẳng còn gì để hy vọng, ngoài một niềm nuối tiếc khôn nguôi. Nhưng “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”! Chính Thiên Chúa đã lăn tảng đá ra khỏi mộ Đức Giêsu, thì Ngài cũng lăn được những tảng đá đang chắn cuộc đời chúng ta lại, miễn là chúng ta đừng nhất định bám cứng vào những tảng đá đó.
2. Tác giả TM IV viết: “Ông đã thấy và đã tin”. Đó là một lời chứng nhưng cũng là một lời thú nhận là ngài đã không thể hiện được trọn vẹn mối phúc Đức Giêsu công bố: “Phúc thay kẻ không thấy mà tin” (20,29). Chỉ có Đức Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu, mới đạt được mức độ đức tin ấy: tại Cana, trước khi Đức Giêsu làm phép lạ đầu tiên, Mẹ đã tin cách nào đó, nên mới cho Con biết là tiệc hết rượu. Quả thật, tin không phải là một chuyện dễ dàng hay dễ dãi, trốn tránh trách nhiệm, như nhiều người vẫn nghĩ!
3. Các tông đồ chỉ có thể làm chứng rằng các ông đã biết Đức Giêsu trước khi chịu chết, đã gặp lại Người đang sống; nhưng các ông không thể nói về cách thức Đức Giêsu đã sống lại. Niềm tin của Kitô hữu hôm nay cũng khẳng định Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, nhưng không thể trả lời những câu hỏi về cách thức diễn tiến sự Phục Sinh. Nhưng không thể phủ nhận được sự Phục Sinh, bởi vì chính sự hiện diện và hoạt động của Đức Kitô Phục Sinh trong đời người Kitô hữu đang làm thay đổi con người họ, và họ đang trải nghiệm điều đó. Họ có thể làm chứng, chứ họ không thể giải thích, vì đây là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm làm cho sống.
4. Nếu như hai môn đệ đã ghi nhớ và tin những lời Đức Giêsu đã nói trước về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người, các ông đã chẳng phải chạy trên nẻo đường đưa tới mộ, đưa tới cõi chết, đưa tới sự tuyệt vọng, trong khi Thầy của các ông đã sống lại, và nay đã “lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (20,17). Tuy nhiên, thái độ của hai ông lại là bài học quý cho chúng ta hôm nay, vì chúng ta cũng vẫn có thể rơi vào tình trạng tiêu cực ấy.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
-----------------------------
I. DẪn vào Thánh lỄ
Chúa đã sống lại rồi", đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, của Phaolô và của mọi: PS1-163
"Chúa đã sống lại rồi", đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, của Phaolô và của mọi thế hệ kitô hữu. Ðó là niềm tin của Giáo Hội. Cho dù cuộc sống có muôn vàn khó khăn và ai cũng phải chết, nhưng cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng, bởi vì sau khi chết là sống lại, và ai chết trong Chúa thì sẽ được sống lại với Ngài.
Trong Thánh lễ này, xin Chúa cho chúng ta càng ngày càng xác tín hơn về điều ấy.
II. GỢi ý sám hỐi
Vì chưa xác tín vào việc sống lại nên chúng ta sống như mục đích của cuộc đời chỉ là ở thế gian này.
Vì chưa xác tín vào việc sống lại nên khi gặp gian nan thử thách, chúng ta ngã lòng, thất vọng.
Cuộc sống chúng ta chưa là một bằng chứng trước mặt người thế về niềm tin có sự sống lại.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I: Cv 10,34.37-43
Lời rao giảng này của Phêrô được các nhà Thánh Kinh gọi là Kerygma, tức là bài giảng truyền giáo. Lần đầu tiên ngõ lời với một nhóm thính giả mới, các tông đồ luôn giảng Kerygma.
Mỗi Kerygma, cho dù có khác nhau trong những chi tiết phụ, nhưng luôn gồm những yếu tố chính về Ðức Giêsu:
a/ Tóm tắt cuộc sống trần thế của Ðức Giêsu ;
b/ Cái chết của Ngài ; c/ Việc Ngài sống lại ; d/ Kêu gọi tin vào Ngài để được cứu độ.
Tin vào nội dung Kerygma là bước đầu tiên và là điều quan trọng cơ bản để trở thành Kitô hữu.
2. Ðáp ca: Tv 117
Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.
3. Bài đọc II: Cl 3,1-4
Thánh Phaolô dạy cách sống của người thực sự tin vào việc Ðức Giêsu sống lại:
Kitô hữu là người đã chết với Ðức Giêsu và sống lại với Ngài.
Hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới.
Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc về thượng giới.
4. Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9
Những chi tiết quan trọng nhất của bài tường thuật này là ngôi mồ trống và 3 phản ứng trước hiện tượng ấy.
Maria Mađalêna nghĩ rằng "Người ta đã lấy mất Chúa rồi". Bà hoang mang chạy đi báo tin "chẳng lành" ấy cho các tông đồ khác. Phải chờ đến khi Ðức Giêsu phục sinh hiện ra với bà thì bà mới tin Ngài sống lại.
Phêrô nhìn thấy những hiện tượng nhưng chưa có phản ứng nào cả.
"Người môn đệ kia" khi thấy thì nhớ lại những lời Ðức Giêsu đã nói trước nên đã tin ngay.
IV. GỢi ý giẢng
* 1. Hai cách nhìn
Trước ngôi mồ trống của Ðức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy khác nhau:
- Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: "Người ta đã đem Chúa ra khỏi mộ!" Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
- Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh Kinh mà Ðức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Ðức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: "Ông đã thấy và đã tin".
*
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những điều mà mắt thường không trông thấy.
Theo định nghĩa, "Tín hữu" là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn Thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: "Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô và chết là một mối lợi" (Pl 1,21). Còn thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận "Tất cả là hồng ân".
Ðức Giêsu phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
* 2. Tin là thế nào?
Ðức tin của các tín hữu thường chỉ có một chiều kích, đó là chiều kích của trí óc: tin có Thiên Chúa ; tin rằng Ngài đã tạo dựng mọi sự, Ngài biết mọi sự và điều hành mọi sự.
Ðức tin của các tín hữu thường hướng tới đời sau: tin rằng mình sẽ được ở với Thiên Chúa sau khi từ giã cõi đời này.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay buộc ta phải điều chỉnh lại đức tin ấy: phải có thêm chiều kích hiện sinh nữa: Không chỉ tin bằng trí óc mà còn bằng cả cuộc sống. Không chỉ nhắm tới cuộc sống mai sau, mà phải nghĩ tới cuộc sống hiện tại. Thánh Phaolô dạy: "Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Ðức Kitô".
* 3. Làm chứng là thế nào?
Chỉ có các tông đồ là những "chứng nhân" đúng nghĩa: các ngài đã cùng sống với Ðức Giêsu, đã thấy Ngài chết và thấy Ngài sống lại. Việc làm chứng của các ngài dựa trên điều các ngài đã thấy.
Nhưng lời chứng xuất phát từ cảm nghiệm cũng có giá trị, nhiều khi lại còn có sức thuyết phục hơn. Chúng ta có thể làm chứng cho Ðức Giêsu phục sinh theo cách thứ hai này: sống làm sao cho người ta biết chúng ta đang sống một cuộc sống mới, chúng ta hạnh phúc, chúng ta tự do, chúng ta vui mừng trong cuộc sống mới đó, và trong bất cứ hoàn cảnh nào lòng chúng ta cũng tràn trề hy vọng.
* 4. Tâm thức kiêu căng của kẻ chiến thắng
Nhiều người trách rằng những người công giáo có tâm thức kiêu căng vì nghĩ rằng mình là kẻ chiến thắng, kẻ mạnh, kẻ giỏi hơn người... Tiếng pháp là "triomphalisme". Thực ra, chúng ta có tâm thức đó không? Và xét cho cùng, nên có tâm thức đó không?
Chúng ta xác tín rằng chúng ta có một chỗ dựa vô cùng vững chắc là Ðức Giêsu phục sinh, và cũng xác tín rằng nếu có Ngài phù trợ thì chúng ta sẽ vượt thắng tất cả. Những câu đáp ca hôm nay trích từ Thánh vịnh 117 tuyên bố niềm xác tín đó: "Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa cao cả vô song. Tôi không phải chết nhưng còn sống mãi, để tường thuật những kỳ công Chúa làm".
Thế nhưng, chúng ta không nên kiêu căng, cũng không nên khinh chê những người khác không có được niềm xác tín của chúng ta. Ðúng hơn, chúng ta cần làm chứng cho họ và chia xẻ với họ niềm xác tín ấy, một niềm xác tín vẫn giúp con người lạc quan hy vọng cho dù đang ở giữa bao khổ đau, thất bại, bệnh tật và thậm chí sắp chết.
* 5. Mộ mở toang
Gioan "cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó... Ông đã thấy và đã tin. "
Nhưng ông thấy gì? Chẳng thấy gì hết. Có gì đâu mà thấy. Tuy vậy điều ông thấy đã dẫn ông tới chỗ tin.
Ta hãy nghiêng mình xuống như Gioan. Ta thấy gì? Một hố sâu thăm thẳm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông dâng đầy mầm sống. Cờ tang khăn tang chuyển biến thành y phục ánh sáng. Một sự vắng mặt vang dội sự có mặt. Một sự im lặng của nấm mồ nói nhiều hơn mọi bài diễn văn. Một bức tường mà ta chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết quả của tất cả mang dáng dấp khởi đầu. Một cái chết có bộ mặt một cuộc giáng sinh. Mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí mật.
Vậy ai đã tạo ra ngôi mộ trống. Ngôi mộ đâu có trống. Vì Gioan đã thấy chân dung thực sự của Ðức Giêsu, bạn ngài.
Ngôi mộ không trống, không sâu, không câm nín, không vương mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó còn nói với ta. Ta có bị cụt hứng không? Vì sự vắng mặt này, lớn như một nấm mồ, chính là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới nhãn quan của não trạng hiện đại, đã thấm nhiễm vào ta, chết là hết. Chấm hết. Chết rồi chẳng còn gì ráo. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết chôn kín đời ta.
Nhưng ở đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người đã mở ra. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Mầu nhiệm mang tên chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở lòng mở trí ta. Ký ức sống và sống lại. Ta mở hồn ra với đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng Ðức Giêsu đã vượt qua bức tường sự chết, đã nâng phiến đá che mộ, đã hoàn thành Phục sinh báo trước. (G. Boucher, "Le ciel sur terre", được trích trong Fiches dominicales, năm A, trang 122-123).
* 6. Tin mừng Phục sinh
Bà Regina Riley hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã xa rời đức tin nhiều năm. Bỗng một sáng Chúa Nhật, bà không thể tin vào mắt mình, hai đứa con bước vào nhà thờ ngồi ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào khiến các con trở về với Chúa. Ðứa con nhỏ mau mắn kể lại:
Thời gian nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa Nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, một cụ già không dù che, người ướt sũng đang vội vã bước đi, dáng điệu khập khiễng. Chúng con dừng lại mời cụ lên xe, mới được biết cụ đang đi lễ, đến một nhà thờ cách đó 5 cây số. Chúng con liền đưa cụ đến dự lễ. Nhưng vì trời vẫn mưa nên hai anh em quyết định vào xem lễ rồi cùng đón cụ về. Lạ thay, sau khi lắng nghe Lời Chúa chúng con rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như được trở về nhà sau một chuyến đi dài đầy mệt mỏi.
*
Câu chuyện hai anh em gặp gỡ cụ già xa lạ sẽ minh họa cho chúng ta bài Tin mừng Phục sinh hôm nay.
Bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê là ba phụ nữ nhân đức từng theo giúp Ðức Giêsu và các môn đệ. Các bà đã từng được Thầy Giêsu dạy dỗ, yêu thương. Nhưng giông tố kinh hoàng của chiều thứ Sáu Tuần Thánh đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yêu của họ. Giờ đây, Thầy đã nằm yên trong mộ đá. Còn lại gì? hay chỉ còn bao kỷ niệm thân thương và nước mắt. Ðể vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về ướp xác Thầy. Nhưng "Ai sẽ lăn dùm tảng đá ra cho chúng ta?" (Mc.16,3).
Kinh ngạc thay, khi đến nơi, các bà đã thấy tảng đá được lăn ra một bên, và xác Thầy cũng không còn nữa. Chỉ còn đó sứ thần chờ để loan báo Tin mừng: "Ðấng bị đóng đinh đã sống lại rồi, Người hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê" (x. Mc.16,7). Từ ngôi mộ trống, nơi tối tăm và chết chóc, sự sống đã bừng lên.
Hai anh em trong câu chuyện trên cũng đã một thời tin theo Chúa. Nhưng giông tố của thời niên thiếu đến, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức thuở ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện loan báo một Tin mừng, không phải bằng lời mà bằng gương sáng đạo đức: "Thầy Giêsu hẹn gặp lại các con nơi thánh đường".
Tin mừng chính là: Hễ có giông tố của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, thì cũng có bình an của sáng Chúa Nhật Phục sinh.
Tin mừng chính là: Hễ có bình an là có niềm hy vọng, có trở về và có đổi mới.
Tin mừng chính là: Nếu ta cùng chết với Ðức Kitô, ta sẽ cùng được sống lại với Người.
Tin mừng chính là: Nếu có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng Phục sinh.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con, luôn xác tín rằng:
Mỗi lần chúng con trở về sau những lầm lỗi,
là chúng con đang phục sinh với Chúa.
Mỗi lần chúng con tin tưởng
sau những lần phản bội niềm tin,
là chúng con đang sống lại với Người.
Mỗi lần chúng con tiếp tục cố gắng
sau những lần thất bại đắng cay,
là chúng con đang ra khỏi mồ trống.
Xin giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn
để đón nhận ân sủng Phục sinh của Chúa. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay toàn thể Hội thánh long trọng mừng Ðức Giêsu Kitô sống lại vì đó là nền tảng cho niềm tin của Hội thánh, là nền tảng cho Tin mừng Người loan báo. Chúng ta hãy phấn khởi dâng lên Chúa những lời cầu nguyện sau đây:
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / đã được chết cho tội lỗi và sống lại trong Ðức Kitô nhờ Bí tích Thanh tẩy / biết mau mắn từ bỏ tội ác / và sống theo đời sống mới của con cái Thiên Chúa.
2. Chúng ta cầu xin Chúa cho những người không tin Chúa, chống lại Chúa và sống trong tình trạng tội lỗi / biết mở lòng mở trí đón nhận ánh sáng của Chúa Phục sinh / để tìm được chân lý và hy vọng cho đời mình.
3. Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang sống trong nghèo đói, thất nghiệp không nhà không cửa / gặp được nhiều người giúp đỡ ủi an / và nhận ra Ðức Giêsu là đã chết và sống lại vì yêu thương họ.
4. Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / biết dùng lời nói và việc làm để làm chứng về Ðức Giêsu Phục sinh / cho những người lương dân sống chung quanh chúng ta.
CT: Lạy Ðức Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã đem niềm vui phục sinh đến cho chúng con hôm nay, xin cho chúng con biết chia sẻ niềm vui và niềm tin ấy cho mọi người chúng con gặp để tất cả được chung hưởng niềm vui của con cái Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
-----------------------------
Đầu tháng 3/2007, kênh truyền hình Discovery đã cho trình chiếu một phim tài liệu mang tựa đề “Ngôi Mộ Thất Lạc của Chúa Giêsu”. Nội dung xoay quanh việc khám phá khảo cổ năm 1980 ở khu Talpiot, phía đông Giêrusalem. Mười hộp đựng cốt đã đưọc khai quật, trong đó có một hộp khắc tên Yêsu (Yeshua) con ông Yôseph. Phải chăng đoàn làm phim đã kiếm được bằng chứng khảo cổ về con người Yêsu thành Nazarét? Phải chăng đây là chứng cớ làm lung lay niềm tin vào Đấng Phục Sinh?
Các chuyên gia khảo cổ Do thái đã không cho là như thế. Vì chín phần trăm đàn ông Do thái ở thế kỷ thứ nhất mang tên Yêsu; mười bốn phần trăm mang tên Yôseph, đây không phải là lần đầu tiên, và cũng không phải là lần cuối cùng những hộp đựng cốt như thế này xuất hiện. Ít ra là đã có hai hộp mang tên Yêshua con ông Yôseph được khai quật từ năm 1930. Câu chuyện tìm được hài cốt của Chúa Giêsu chỉ là giả tưởng.
Các tôn giáo lớn trên thế giới đều rất trân trọng những thánh tích thuộc về vị giáo chủ của mình, như ngọc xá lợi (xương cốt) của Phật Thích Ca, hoặc những lọn tóc của giáo chủ Môhamét. Điều lạ lùng là người Kitô chẳng có một vật kỷ niệm gì thuộc về Chúa Giêsu. Người chẳng để lại cho chúng ta một điều gì ngoài “ngôi mộ trống” và chứng từ của những môn đệ đầu tiên rằng Người đã sống lại.
***
Mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta tuyên xưng rằng: đằng sau câu chuyện “Ngôi Mộ Trống” là sự hiện diện đích thực của một “Đấng Phục Sinh”, của một quyền năng có sức mạnh biến cải những trái tim đang đau buồn thất vọng thành bừng sáng tin yêu, biến những con người yếu đuối nhát sợ nên mạnh mẽ tuyên xưng đức tin dù phải lấy cái chết mà “làm chứng” Thầy mình đã sống lại và đang sống.
Vâng, câu chuyện “Ngôi Mộ trống”, ”Đức Kitô phục sinh” mãi mãi, muôn đời, khắp nơi, là câu chuyện của niềm tin căn bản của Kitô giáo. Bởi vì câu chuyện nầy, biến cố nầy lại không là một sự kiện đột xuất, tình cờ của lịch sử, nhưng là một công trình vĩ đại trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Và sự cứu độ là gì nếu không phải là đem lại cho chúng ta niềm hy vọng nơi một Thiên Chúa luôn trung tín với tình yêu của Người?
Niềm tin Phục Sinh căn bản là một niềm tin vào một Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi các những ai tín thác vào Người. Niềm tin Phục Sinh là xác tín rằng cuộc đời không phải chỉ đầy dẫy những thất bại khổ đau. Chúa sống lại có nghiã rằng đêm đen dù có dài đằng đặc nhưng sẽ có một ngày mai tươi sáng.
Cuộc sống nào mà lại không có những nhọc nhằn và phiền muộn? Ai trong chúng ta mà lại chẳng có lần thất vọng? Mà lại chẳng có lần thấy mình khổ đau?
Đường thánh giá là đường để đi, không phải là nơi dừng lại. Điểm hẹn phải là biến cố Phục Sinh… Chúng ta không thể ở mãi trong than khóc của thứ sáu tuần thánh, nhưng phải bước vào niềm vui của Chủ Nhật Phục Sinh.
Chúa đã Phục Sinh! Nhưng sự kiện Chúa Sống Lại có ích gì cho chúng ta, nếu như chúng ta không cảm nghiệm được tin mừng Phục Sinh? Nói một cách khác, liệu chúng ta đã sống, đã chuẩn bị tâm hồn cho Chúa Phục Sinh vào ngự trị? Hay bóng tối vẫn còn đầy? Và Thần Chết vẫn còn thống trị?
Như vậy, điều quan trọng là làm sao để chúng ta có thể sống tin mừng Phục Sinh một cách trọn vẹn. Làm sao cho tin mừng này chi phối mọi nẻo đường phục vụ và sống. Làm sao cho sứ điệp Phục Sinh đó, niềm vui đó, sức sống đó lan toả, chi phối đời sống cộng đoàn cũng như cuộc sống mỗi người. Làm sao để gương mặt, lời nói, cách ứng xử của chúng ta luôn phản ảnh niềm vui phục sinh. Để rồi chúng ta có thể xác tín như Đức cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận rằng: "Trong tự điển của Kitô hữu, không có từ buồn".
Mỗi lần chúng ta tiếp tục yêu thương dù bị từ chối, mỗi lần thất bại mà vẫn cố gắng, mỗi lần tiếp tục hy vọng dù hy vọng đã tan vỡ, mỗi lần lau khô dòng lệ và khởi sự lại, là chúng ta tham dự vào mầu nhiệm và quyền năng phục sinh.
Như thế tin mừng phục sinh là không có gì có thể hủy diệt chúng ta, dù đau khổ, tật nguyền, tội lỗi, hay sự chết. Vì Đức Kitô đã chinh phục tất cả thì chúng ta cũng sẽ chinh phục tất cả nếu chúng ta đặt trọn niềm tin vào Người. Chúng ta hãy hoan hỉ vui mừng trong niềm tin đó.
Antôn Bảo Lộc
***
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
(trích Manna năm C)
-----------------------------
(Nhân ngày lễ Chủ Nhật Lòng Chúa Xót Thương)
LTS: Đây là bài viết của Linh Mục Stanley Smolenski. Phiên bản tiếng Anh được đăng trong trang giữa (trang 8-9) trong tờ báo Công Giáo của Địa Phận Charleston, SC tờ The Catholic Miscellany số ra ngày 17 tháng 3 năm 2005, hay tại trang web www.catholic-doc.org
Việc thành kính đối với lòng nhân từ của Thiên Chúa (Divine Mercy) dựa theo những trang nhật ký của Thánh Nữ Faustina Kowalska đã lan rộng ra khắp nơi, trên bình diện quốc tế, vì lẽ, nhật ký của Thánh Nữ đã được dịch ra nhiều thứ tiếng chính, nhờ công sức của các Cha thuộc Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (Marian Fathers of the Immaculate Conception), là những người trông nom Đền Thờ Quốc Gia về Lòng Từ Bi của Thiên Chúa (National Shrine of Divine Mercy) ở thành phố Stockbridge, thuộc tiểu bang Massachusetts. Chính một thành viên của Dòng tu đó đã đem các đoạn văn viết tay của Thánh Nữ ra khỏi đất nước Ba Lan vào lúc khởi đầu của cuộc Đại Chiến Thế Giới lần thứ II. Vị linh mục ấy đã hứa là sẽ lan truyền rộng ra để mọi người biết sùng kính đến lòng từ bi của Thiên Chúa nếu như ngài thoát khỏi đất nước Ba Lan thành công. Và cuối cùng, thì điều hứa đó trở thành hiện thực, khi ngài đặt chân đến nước Mỹ bình yên.
Phần viết giới thiệu của tôi đối với sự sùng kính này xảy ra khi tôi hãy còn là một cậu thanh thiếu niên, khoảng 60 năm trước, và đã được vinh dự đọc được những cuốn sách nhỏ chính gốc. Có hai điều thuyết phục tôi. Điều đầu tiên chính là, đất nước mà Thánh Nữ Faustina sống, không phải là nước Pháp, cũng chẳng phải là nước Ý hay Tây Ban Nha, những nơi mà ai cũng đều biết đến qua các bài báo, mà lại là từ một đất nước mà cả cha và mẹ tôi đã bỏ làng để di cư. Điều thứ hai chính là một lời báo tiên tri được mật bí cho Thánh Nữ Faustina bởi chính Chúa Giêsu, về những ảnh hưởng mà đất nước Ba Lan sẽ phải gánh chịu. Thế nhưng, nếu Ba Lan vẫn mãi trung tín với Ngài, thì Chúa Kitô với quyền năng phát tỏa, sẽ cứu đất nước này ra khỏi thảm họa chung của thế giới.
Ngay lúc đó tôi hơi bị bối rối, mù mờ, vì lẽ, Chiến Tranh Thế Giới II vừa mới chấm dứt và đất nước Ba Lan lại bị Quân Phát Xít Đức sang bằng, và rồi sau đó lại bị bóc lột (despoiled) và cai trị bởi quân Cộng Sản Nga Sô. Suy cho cùng thì đất nước này chẳng có một tầm quan trọng gì cả nếu xét về mặt kinh tế, chính trị hay quân sự. Thế đất nước này làm sao mà có thể tạo ra những ảnh hưởng quốc tế cho được? Khoảng 30 năm sau, vào năm 1978, lời tiên tri đó lập tức ánh lên trong tâm trí tôi khi Tòa Thánh công bố rằng Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Karol Wojtyla từ đất nước Ba Lan đã được bầu chọn Giáo Hoàng, và Ngài lấy tên là Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị.
Là vị Tổng Giám Mục của Krakow, thành phố mà Thánh Nữ Faustina đã từng sống, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đóng một vai trò thiết yếu trong việc cảm kích sâu sắc về sự thành kính này. Khi có một sai lầm trong đoạn văn trích trong nhật ký của Thánh Nữ Faustina được Rôma điều tra, thì bổng dưng việc phân phát ra các trang nhật ký đó bị ngừng hẵn trong thinh lặng. Sự cố ấy cũng đã được tiên báo cho Thánh Nữ. Đức Hồng Y Wojtyla lúc ấy đã giao phó cho nhà thần học nổi tiếng theo thuyết của Thánh Tôma Aquinas (Thomist) để điều tra lại sự cố ấy. Vị linh mục này vốn chẳng ưa thích gì đến những trang viết của Thánh Nữ vì lẽ rất nhiều người cho rằng chúng chỉ là những ảo giác (hallucinations) của một nữ tu thất học. Thế rồi, ngay khi vị linh mục ấy dở từng trang nhật ký viết tay, có rất nhiều đoạn đã thật sự gây ấn tượng cho ngài và ngài đã quyết định xem lại toàn bộ những gì mà Thánh Nữ đã ghi chép. Lòng thánh thiện sâu sắc của Thánh Nữ đã thuyết phục ngài đến cao độ, và rồi ngài đã phải bênh vực cho hồ sơ phong thánh của vị nữ tu này.
Liền sau đó, những thận trọng, dè dặt được bãi bỏ vào mùa Xuân năm 1978, và vào mùa Thu, Giáo Hội đã tôn phong vị Hồng Y Tổng Giám Mục của Krakow lên chức Giáo Hoàng. Đức Giáo Hoàng khi đó đã từng biết về hồ sơ phong Chân Phước cho nữ tu Faustina, mà Ngài chính là người phong với tư cách là Giáo Hoàng, và không lâu sau đó Chân Phước Faustina được phong lên hàng Hiển Thánh, và Thánh Nữ chính là vị Thánh đầu tiên của thiên niên kỷ thứ ba của Kitô Giáo. Một trong những hiến chế (encyclicals) đầu tiên của Ngài trong cương vị Giáo Hoàng, chính là hiến chế có tên “Dives in Misericordia” (hay Divine Mercy) nhằm tôn sùng Lòng Từ Bi của Thiên Chúa.
Thánh Nữ Faustina xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo. Nữ Thánh cần phải làm việc trên cánh đồng, và trình độ học vấn của Nữ Thánh rất là giới hạn, chỉ vài khóa học lên lớp vào những mùa Đông tại trường. Nữ Thánh sau đó trở thành một thiếu nữ và theo thánh ý tiền định của Thiên Chúa, Ngài đã gia nhập vào một dòng tu, và trở thành nữ tu dự bị. Công việc của vị nữ tu ấy chính là chăm sóc vườn rau và nhà bếp, và có lúc trở thành bà gác cổng (portress) của một học viện thuộc dòng, vốn dành cho những cô gái quậy phá, hư hỏng. Vào năm 1934, theo yêu cầu của vị linh mục lắng nghe giải tội cho nữ tu này, Nữ Thánh bắt đầu lưu và chép lại mọi hồ sơ có liên quan đến những cảm nhận và khát vọng phi thường của mình, và Nữ Thánh cứ tiếp tục làm việc đó cho đến khi băng hà vào năm 1938 khi đang ở tuổi 33. Tổng cộng, có tất cả là 1828 mục trong nhật ký của Nữ Thánh mô tả về ước vọng thánh thiện của Nữ Thánh trong việc hiệp kết cùng với Thiên Chúa.
Điểm nhấn mạnh chính của những bài viết này là thái độ hoàn toàn tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Cụ thể là việc Nữ Thánh được Thiên Chúa hướng dẫn về những sùng kính sau: 1) chuỗi tràng hạt (chaplet) về Lòng Từ Bi của Thiên Chúa ; 2) một buổi cầu nguyện đặc biệt (novena) đến Lòng Từ Bi của Thiên Chúa ; 3) một thánh lễ ghi nhớ Lòng Từ Bi của Thiên Chúa ; và 4) cuối cùng chính là một hình ảnh đặc biệt về Lòng Từ Bi của Thiên Chúa.
Chuổi tràng hạt chính là việc dùng chuổi tràng hạt thường. Nghĩa là, việc lần hạt được bắt đầu bằng một Kinh Lạy Cha, một Kinh Kính Mừng và theo sau đó là một Kinh Tin Kính. Hạt của Kinh Lạy Cha là nhằm nhấn mạnh đến việc chịu khổ nạn của Chúa Kitô, để dâng lên cho Thiên Chúa Cha, hòng đền bù tội lỗi của nhân loại: “Lạy Thiên Chúa Cha vĩnh cữu, con xin kính dâng lên mình, máu, tâm hồn và bản tính thánh thiêng của người Con Ngài yêu dấu, là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền bù tội lỗi cho chúng con và cho tất cả mọi người trên khắp thế giới này”.
Còn hạt của Kinh Kính Mừng là việc chúng ta khẩn cầu lòng từ bi của Thiên Chúa tuôn đổ xuống cho cả thế giới này: “Lạy Thiên Chúa, vì việc đau khổ chịu nạn của Ngài, hãy đem lòng nhân từ của Ngài xuống trên chúng con và cả thế giới này”. Việc lần hạt được kết thúc bằng câu: “Lạy Thiên Chúa Rất Thánh, Từ Bi và Bất Diệt, hãy đổ lượng nhân từ của Ngài đến trên chúng con và cho cả thế giới này”, vốn được lập lại ba lần.
Buổi cầu nguyện đặc biệt được bắt đầu vào Thứ Sáu Tuần Thánh và kết thúc vào Thứ Bảy trước khi cử hành thánh lễ. Vào một trong những ngày này, tinh thần cứu chuộc của Chúa Kitô được áp dụng vào một nhóm người cụ thể, đó là: toàn thể nhân loại, đặc biệt là những người tội lỗi ; các linh mục và các nam nữ tu sĩ dòng ; những người giáo dân thành kính, thánh thiện ; những người vô thần và không phải là Kitô Giáo ; những người không phải là Công Giáo, tức chỉ là Kitô Giáo mà thôi; các trẻ em ; những người sùng kính lòng nhân từ của Thiên Chúa ; các linh hồn nơi lửa luyện tội ; những người lãnh đạm, thờ ơ (lukewarm), và những người trung lập (indifferent).
Chủ Nhật đầu tiên sau Mùa Phục Sinh hay Chủ Nhật Thứ Hai của Mùa Phục Sinh, phụng vụ dành ra ngày này để cử hành về Lòng Nhân Từ của Thiên Chúa. Việc được tha tội hoàn toàn cùng với những hình phạt và những ơn huệ đặc biệt khác sẽ được Thiên Chúa ban với điều kiện là phải xưng tội và rước lễ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã thiết lập ra ngày kính nhớ khắp hoàn vũ này khi Ngài phong hiển thánh cho Thánh Nữ Faustina.
Hình ảnh về Lòng Nhân Từ của Thiên Chúa phát họa ra hình ảnh của Chúa Kitô trong áo phục trắng, tay phải của Ngài đang ban phép lành, trong khi đó tay trái của Ngài mở bộ áo phục ngay phần ngực, để từ đó các tia xám và đỏ được lan tỏa ra. Điều này tượng trưng cho việc bí tích hóa (sacramentalization) mình và máu xuất phát từ trái tim đã bị đâm thấu của Chúa Kitô trên cây thập giá. Nước tượng trưng cho Phép Rửa Tội, và máu tượng trưng cho Phép Thánh Thể. Để bằng cách này, chúng ta được thánh hóa qua việc chịu khổ nạn và chết đi của Chúa Kitô.
Qua đó, chúng ta thấy được việc Chúa Giêsu sống lại và lên trời, qua Mầu Nhiệm Vượt Qua (Paschal Mystery) của Thiên Chúa. Ở phía cuối của bức ảnh này, chính là dòng chữ “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”. Hay nói cách khác, mục đích của bức ảnh này là nhằm gợi lên cảm hứng của đức tin, của niềm hy vọng, của sự tin tưởng, cậy trông và tình yêu về lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Với sự trần tục hóa trong xã hội thời nay, vốn đã từng là xã hội của những người Kitô hữu, thì thông điệp này rất là quan trọng vì lẽ mọi người sẽ biết ý thức được tầm quan trọng của tội lỗi, khiến họ trở nên thất vọng và ngã lòng về lòng nhân từ và thiện hảo của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho Thánh Nữ Faustina về việc Ngài cảm thấy khó chịu vì những người như vậy, và do đó, Ngài muốn cho toàn thể thế giới này, có thêm được một nguồn hy vọng dồi dào.
Lòng Từ Bi của Thiên Chúa và Mầu Nhiệm Vượt Qua (Divine Mercy and the Paschal Mystery)
Thần học thì cho hay rằng chúng ta không bị bắt buộc phải tuân theo những lời mạc khải riêng tư của một người nào đó, thế nhưng Thánh Tôma Aquinas cũng đã chỉ ra rằng sẽ là khinh suất (imprudent) khi coi thường những lời mạc khải đó. Mục đích của những lời mạc khải riêng tư chính là liều thuốc hướng chúng ta đến một hành động cần thiết nào đó vào một thời điểm cụ thể nào đó cho một nhu cầu hết sức đặc biệt.
Chúng ta nhận thấy được sự nhấn mạnh trọng tâm ở đây chính là vào lòng từ bi của Thiên Chúa. Liệu sự tin tưởng vào điều thiêng liêng này có giúp ích được nhu cầu nào trong thời đại của chúng ta ngày nay không ? Thưa, với sự gia tăng của việc trần tục hóa và việc xem thường tội lỗi, qua việc phá thai, chẳng hạn, thì con người đã bị sốc khi khám phá ra ý nghĩa thật sự của tội lỗi mà họ đã cho phép chúng chế ngự cuộc đời của họ. Họ cần đến sự cam đoan về lòng tốt và từ bi của Thiên Chúa, cũng như về sự tha thứ của Ngài. Thêm vào đó, để giúp mọi người ý thức được nhu cầu của sự ăn năn, hối lỗi trong cuộc sống của họ, thì cần phải có việc chiêm niệm, suy gẫm về Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Chính vì thế, chúng ta hãy cầu khẩn vào sự chịu nạn của Chúa Kitô trong việc lần chuổi về lòng từ bi của Thiên Chúa, để được thứ tha mọi tội lỗi, và tín thác khẩn cầu trước hình ảnh của Chúa Kitô từ nhân. Liệu chúng ta không nhận thấy được sự trình bày của đoạn Thánh Kinh “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” hay sao ?
Trong buổi cầu nguyện đặc biệt về Lòng Từ Bi của Thiên Chúa, giá trị của việc Chúa Kitô cứu chuộc được áp dụng vào mỗi một người trong chúng ta hằng ngày. Buổi cầu nguyện đặc biệt này được bắt đầu vào Thứ Sáu Tuần Thánh và kết thúc vào ngày thứ Bảy sau Phục Sinh. Khi Giáo Hội long trọng cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô trong tuần Tam Nhật, thì buổi cầu kinh đặc biệt này hướng người tín hữu hòa vào việc tưởng niệm chung của Giáo Hội. Bằng sự sùng kính này, người tham dự vào buổi cầu kinh được hiệp kết với việc cử hành phụng vụ của mầu nhiệm vượt qua của Giáo Hội. Buổi cầu kinh đặc biệt này không tương phản gì cả với ý chỉ về phụng vụ của tuần Tam Nhật. Mà trái lại, nó giúp làm giản dị hóa không khí trông có vẽ trịnh trọng theo đúng với các ngôn từ của phụng vụ.
Sự thật chính là việc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã dành riêng ngày Chủ Nhật sau Lễ Phục Sinh là ngày Chủ Nhật Thiên Chúa Từ Bi để cho thấy được sự phù hợp này. Các đoạn Thánh Kinh đọc trong ngày lễ đó nhấn mạnh đến Lòng Từ Bi của Thiên Chúa vì lẽ chính Chúa Giêsu đã từ bi, nhân hậu tha thứ hết mọi tội lỗi cho các tông đồ để thiết lập ra Bí Tích Hòa Giải, vào chính ngày Người Sống Lại.
Hình ảnh của Thiên Chúa Từ Bi đã nói lên tất cả những điều đó. Hình ảnh phát họa lại việc Chúa Giêsu lên trời, khải hoàn, để qua Ngài, mọi ơn huệ được tuôn đổ xuống trên chúng ta qua các tia màu đỏ và màu nhạt, tượng trưng cho máu và nước tuôn đổ từ trái tim bị đóng trên cập thập giá của Ngài. Thì đó chính là một biểu tượng của Phép Bí Tích hiện thể việc Con Chiên làm tư tế với tư cách là vị Thượng Tế Muôn Đời, là nguồn của Phép Rửa Tội và Thánh Thể, vốn được long trọng cử hành trong suốt phụng vụ của lễ vượt qua và kéo dài suốt cả mùa Phục Sinh lẫn các mùa phụng vụ khác.
Chính vì thế, trong chuỗi tràng hạt, trong kinh cầu đặc biệt, trong thánh lễ Thiên Chúa Từ Bi và qua hình Thiên Chúa Từ Bi, chúng ta có rất nhiều cách để biểu lộ lòng thành kính của chúng ta đối với Mầu Nhiệm Vượt Qua vì lẽ mầu nhiệm ấy tập trung vào việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại. Chẳng phải là ngẫu nhiên, khi chúng thành kính và tôn sùng Phép Thánh Thể. Tất cả những đoạn ký sự trong quyển nhật ký của Thánh Nữ Faustina đều có liên quan đến Phép Thánh Thể trên bàn thờ của Thiên Chúa. Và sau đây là một ví dụ điển hình của đoạn viết đó: “Tôi thấy được làm cách nào mà hai tia sáng đó, như đã được vẽ trong bức ảnh, đến từ mình thánh và lan tỏa ra khắp cả thế giới. Hai tia này không chỉ có xuất hiện trong chốc lát mà đã kéo dài mọi ngày, và nhà nguyện của chúng tôi tràn ngập các tia này suốt cả ngày, tạo ra một không khí rất vui nhộn” (Mục 1046).
Sự thành kính và biết ơn của Thánh Nữ dành cho Thánh Lễ thì đúng là một điều diệu kỳ biết bao. Thánh Nữ viết: “Ôi, thật là nhiều mầu nhiệm cao vời được diễn ra trong suốt Thánh Lễ! Cứ mỗi Thánh Lễ là có một mầu nhiệm vĩ đại. Với lòng thành kính và tôn sung lớn lao này, chúng ta nên biết lắng nghe và dự phần vào cái chết của Chúa Giêsu. Rồi sẽ có một ngày, chúng ta sẽ biết được Ngài làm gì cho ta trong mỗi Thánh Lễ, và những loại phần thưởng nào mà Ngài đang chuẩn bị cho chúng ta qua Thánh Lễ ấy. Chỉ có lòng yêu thương nhân từ của Ngài mới cho phép chúng ta nhận được món quà đó. Ôi, Chúa Giêsu, Chúa Giêsu của con, với những nổi đau đâm thấu trong lòng con khi con nhìn thấy được nguồn sống của con vốn được tuôn đổ từ Ngài, thì đó chính là nguồn sống ngọt ngào và quyền năng mà Ngài dành cho mỗi một linh hồn, và đồng thời con cũng đã thấy được rất nhiều linh hồn bỏ xa, khinh miệt (withering) và khô héo vì tội lỗi của họ. Ôi lạy Chúa Giêsu, hãy ban sức mạnh về lòng nhân từ của Ngài xuống trên các linh hồn đó” (Mục 914).
Việc Thánh Nữ thông hiệp với Thiên Chúa thật là nồng nhiệt và sôi nổi. “Con cảm thất mình quá yếu đuối để có thể đón nhận Mình Thánh Chúa, vì con cứ mãi tiếp tục té ngã. Chỉ có một điều duy nhất có thể duy trì sức sống của con, đó chính là Mình Thánh Chúa. Từ đó, con mới có được sức mạnh. Con sợ chính bản thân mình. Chúa Giêsu luôn ngự trong bánh, thì đó là tất cả những gì con cần. Từ Phép Thánh Thể, con có được sức mạnh, sự can đảm, quyền năng và ánh sáng. Lúc nào, con cũng tìm sự ủi an nơi Ngài, và vào cả những lúc con đớn đau, thống khổ. Con sẽ không biết cách nào để tán tụng danh Ngài nếu như con không có Phép Thánh Thể ngự trong lòng” (Mục 1037).
Khi Giáo Hội nâng một vị Chân Phước lên hàng Hiển Thánh, thì phải có đầy đủ các chứng cớ về sự linh thiêng, nên thánh và sự chuyển cầu của Thiên Chúa. Thánh Nữ Faustina Kowalska biểu lộ sự linh thánh của mình qua cuốn nhật ký. Sự linh thánh đó chính là học thuyết, là bí tích và là mầu nhiệm. Vì qua lời chuyển cầu quyền năng của Thánh Nữ, mong ước và công trình rao giảng của Thánh Nữ đã quá rõ: “Con tin rằng sứ vụ của con sẽ không bị chấm dứt đi sau khi con chết, mà nó sẽ được bắt đầu. Hỡi các linh hồn còn nghi ngại và ngờ vực, ta sẽ vén cho ngươi thấy cánh cửa thiên đàng, để ngươi mau chóng biết ăn năn, hối lổi và đừng làm tổn thương đến Trái Tim Lòng Lành của Chúa Giêsu, vì Thiên Chúa chính là Tình Yêu và Lòng Nhân Từ”. (Mục 281).
Muốn biết thêm nhiều chi tiết, mời vào trang web:
www.thedivinemercy.org.
trích từ www.dunglac.net
Thánh Nữ Faustina Kowalska sinh tại làng quê BaLan tên là Glogowiec, ngày 25 tháng 8 năm 1905. Lúc 20 tuổi, chị được nhận vào tu nơi dòng của các Nữ Tu của Đức Bà Hay Thương Xót tại Warsaw. Và từ đó, trong vòng 13 năm liên tiếp của cuộc đời tận hiến, nữ tu Faustina Kowalska âm thầm và khiêm tốn chu toàn những công việc hết sức tầm thường trong dòng như nấu bếp, làm vườn, giữ cửa tu viện. Nữ Tu qua đời ngày 5 tháng 10 năm 1938, lúc mới 33 tuổi. Tuy nhiên, trong cuộc sống âm thầm khiêm tốn nầy, Nữ Tu Faustina Kowalska đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân được cảm nghiệm thần bí và sống tận hiến cho Thiên Chúa Nhân Từ. Nữ tu nhận được nhiều thị kiến, nhiều mạc khải riêng và được in Năm Dấu Thánh.
Theo lời khuyên của cha linh hướng, Nữ Tu Faustina Kowalska ghi lại những thị kiến, những mạc khải và những kinh nghiệm thần bí của mình vào Nhật Ký năm 1934, bốn năm trước khi qua đời, ngày 5 tháng 10 năm 1938. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho nữ tu Faustina Kowalska ngày 30 tháng 4 năm 2000, và đã truyền thiết lập Chúa Nhật Kính Thiên Chúa Nhân Từ trong khắp giáo hội vào Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm, để phổ biến sứ điệp trung tâm của Nữ Tu Faustina Kowalska, vị thánh của thời đại chúng ta. Đó là sứ điệp Thiên Chúa Nhân Từ đối với mỗi người. Năm 1935, Nữ Tu Faustina đã mô tả cho một họa sĩ vẽ lại Hình Chúa Giêsu, như Chúa đã hiện ra cho Nữ Tu, và bên dưới bức hình có đề thêm câu kinh nguyện tắc như sau: “Lạy Chúa Giêsu, Con Tin Tưởng Vào Chúa !”
Trong tập nhật ký có tựa đề “Tình Thương Nhân Từ của Thiên Chúa trong Linh Hồn Tôi”, nữ tu Faustina Kowalska cho biết là Chúa Giêsu đã trao phó cho Nữ Tu sứ mạng rao giảng cho toàn thế giới sứ điệp phúc âm về Tình Thương Nhân từ của Thiên Chúa. Đặc điểm thiết yếu và và căn bản của con đường tu đức được Thánh Nữ Faustina Kowalska phổ biến là lòng sùng kính Thiên Chúa Nhân Từ và lòng tin tưởng phó thác vào Chúa Giêsu, và tôn kính giây phút đặc biệt lúc 3 giờ chiều mỗi ngày, giây phút tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. “Lạy Chúa Giêsu, Con Tin Tưởng Vào Chúa”. Theo thánh nữ Faustina Kowalska, lòng sùng kính Thiên Chúa Nhân Từ mời gọi con người hãy đối xử đại lượng nhân từ đối với anh chị em xung quanh, bằng hành động, bằng lời nói và bằng lời cầu nguyện.
CHÚA NHẬT "CHÚA THƯƠNG XÓT"
(DIVINE MERCY SUNDAY)
Ngày 23 tháng 5 năm 2000, Thánh Bộ Phượng Tự đã ra quyết định chọn ngày Chúa Nhật II Phục Sinh là ngày Chúa Nhật "Chúa Thương Xót" (giống như Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh là Chúa Nhật "Chúa Chiên Lành – Good Shepherd Sunday"), để các tín hữu trên toàn thế giới dùng Chúa Nhật này suy ngắm về lòng thương xót của Chúa đối với mỗi người và toàn thể nhân loại. Tin tưởng ở lòng Chúa Thương Xót, chúng ta sẽ luôn vửng lòng trông cậy, phó thác nơi Chúa khi gặp những thử thách, những biến cố khủng khiếp xảy ra cho mỗi người, mỗi gia đình chúng ta và thế giới.
Việc tôn sùng "Lòng Thương Xót Chúa" (devotion to the Divine Mercy) đã được bà Thánh Faustina Kowalska cổ động. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn Bà lên bậc hiển Thánh ngày 30 tháng 4 năm 2000. Sau đây là một số đoạn Đức Thánh Cha đã viết về Chúa Nhật "Chúa Thương Xót".
"Cũng như Thánh Faustina, chúng ta cũng tuyên xưng rằng ngoài Tình Chúa Thương Xót, không còn nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại. Chúng ta cùng hết lòng tin tưởng kêu lên Chúa: "Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa". Lời tuyên xưng hết lòng tin tưởng nơi tình thương toàn năng của Chúa, đặc biệt cần thiết cho thời đại chúng ta, một thời đại mà nhân loại đang phải trải qua những hoảng sợ trước bao nhiêu những xuất hiện của sự dữ. Kêu cầu đến lòng thương xót của Chúa rất cần thiết để tự đáy tâm hồn đầy khổ đau, lo lắng, và bất ổn của chúng ta, luôn nổi lên một nguồn cậy trông vửng chắc... Với con mắt linh hồn, chúng ta ước ao được nhìn vào con mắt của Chúa Giêsu đầy lòng thương xót để nhận ra nơi sâu thẳm trong cái nhìn của Chúa phản ảnh đời sống sâu xa của Chúa, nơi đó chúng ta cũng nhận ra ân sủng mà chúng ta thường nhận được và Chúa vẫn tái ban hàng ngày cho chúng ta mãi mãi cho đến tận thế...".
Chính Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi và là Thánh Thần Chân Lý, dẫn chúng ta trên đường đến với lòng Thương Xót của Chúa. Chúa Thánh Thần làm cho thế giới nhận ra tội lỗi, sự công chính, và "sự phán xét" (Ga 16,8). Chúa Thánh Thần cũng cho chúng ta hiểu được ơn cứu rỗi trọn vẹn nơi Chúa Kytô. Càng nhìn nhận ra tội, càng dể nhớ đến Thánh Giá Chúa Kytô. Hơn nữa, Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta, qua thánh giá Chúa Kytô, nhìn nhận tội lỗi của mình, từng tội lỗi một với trọn vẹn sự dữ chứa chấp trong đó. Cũng qua thập giá Chúa Kytô, Chúa Thánh Thần cho chúng ta nhìn ra tội lỗi trong ánh sáng mầu nhiệm "Tình Chúa Thương Xót": đó là tình yêu của Chúa chứa đầy lòng thương xót và tha thứ; nhờ đó, sự nhận ra tội lỗi của mình đem lại lòng vững tin rằng tội có thể được xóa bỏ và con người được phục hồi trở lại tình trạng người con yêu thương của Chúa. Thánh Giá là một sự "hạ mình" sâu thẳm nhất của Thiên Chúa xuống tới nhân loại. Thánh Giá là sự hoàn tất cuối cùng của Tình Yêu muôn thuở của Chúa đối với những vết thương đau đớn nhất của cuộc sống con người...
"Lạy Cha là Đấng Hằng Hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, Linh Hồn và bản tính Thiên Chúa của con yêu dấu của Cha, Chúa Giêsu Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và tội lỗi của toàn thế giới ; nhờ những đau khổ trong cuộc khổ nạn của Người, xin thương xót chúng con và cả thế giới...".
Ngày nay, hơn lúc nào hết, thế giới cần đến lòng thương xót của Chúa. Ở mọi lục địa, từ sâu thẳm của những khổ đau của nhân loại, lời kêu xin lòng thương xót của Chúa hằng vọng lên khắp nơi. Nơi nào ghen ghét và lòng khát vọng trả thù ngự trị, nơi đó chiến tranh lại đem đến đau khổ và chết chóc cho những người vô tội ; và nơi đó lòng Chúa xót thương lại cần thiết để đem lại sự ổn định cho tâm hồn và con tim nhân loại, và đem lại an bình. Nơi nào thiếu tôn trọng sự sống và phẩm giá con người, nơi đó lại càng cần lòng thương xót Chúa ; vì trong ánh sáng của tình thương xót của Chúa, chúng ta nhận ra giá trị tuyệt vời của mỗi con người.
Tình thương xót của Chúa rất cần thiết để những bất công trên thế giới được chấm dứt và ánh sáng chân lý được ngời sáng...
"Con xin cảm tạ Chúa, gần một năm trước đây đã ban ơn cho con để con tuyên bố cho toàn thể Giáo Hội Chúa Nhật Thứ II Phục Sinh là ngày lễ Tình Thương Xót của Chúa".
(ĐGH Gioan Phaolô II, "Chúa Nhật Tình Thương Xót Chúa" năm 2001).
"Trong ngày lễ "tình thương xót", lòng thẳm sâu của Tình Ta nhân từ xót thương mở ra. Ta tuôn đổ cả một đại dương ơn phúc cho những tâm hồn nào đến múc nguồn thương xót của Ta. Những ai ngày đó đi xưng tội, đi lễ và rước lễ; sẽ nhận được sự tha thứ hoàn toàn mọi tội lỗi và mọi hình phạt". (Trích nhật ký của Thánh Faustina).
Chúng ta hãy cùng hợp nhau cầu nguyện: Xin Chúa thương đến nhân loại khổ đau trong thế giới chúng ta hôm nay còn nhiều hận thù và chia rẽ ; xin cho nhân quyền, phẩm giá, sự sống, và tự do, nhất là tự do tôn giáo được tôn trọng ở khắp nơi ; xin cho Hòa Bình và Hạnh Phúc thật sự trở lại Miền Trung Đông và nơi nơi trên thế giới. (LM Anphong Trần Đức Phương).
-----------
NB. Ngày 29/6/2002 Tòa Ân Giải ký Sắc lệnh ban Ân xá trong ngày Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa:
“Ơn toàn xá được ban với những điều kiện thường lệ là xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha cho những tín hữu nào trong ngày Chúa Nhật thứ hai sau lễ Phục Sinh tức là Chúa Nhật Kính Lòng Từ Bi Chúa tại bất kỳ nhà thờ nào có lòng quyết tâm từ bỏ mọi quyến luyến tội lỗi kể cả tội nhẹ và tham dự vào các việc đạo đức tôn vinh lòng từ bi Chúa hay ít là đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Tin Kính cùng với sự kêu cầu Chúa Giêsu từ bi trước sự hiện diện của Mình Thánh Chúa được trưng bày công khai hoặc giữ trong nhà tạm.
Ân xá một phần được ban cho những tín hữu nào ít là với tâm tình thống hối dâng lên Chúa Giêsu từ bi một trong những lời cầu khẩn được phê chuẩn hợp pháp ví dụ: "Lạy Chúa Giêsu từ bi con tín thác nơi Chúa".
Ngoài ra những người làm nghề hàng hải, những người phải di tản vì chiến tranh hay các biến cố khác, những người đau yếu và những người phải săn sóc cho kẻ đau yếu, hoặc những người không thể bỏ các công việc vì lợi ích chung cũng có thể được ơn toàn xá trong Chúa Nhật Kính Lòng Từ Bi Chúa nhưng họ phải có quyết tâm từ bỏ tội lỗi và có ý hướng thi hành ba điều kiện thường lệ một khi có thể và đọc trước ảnh Chúa Giêsu từ bi một Kinh Lạy Cha, một Kinh Tin Kính và một lời cầu Chúa Giêsu từ bi”.
-----------------------------
Tại công trường thánh Phêrô ở Rôma, có một đài tưởng niệm hoàng đế Caligula. Đài tưởng niệm này là một phiến đá cẩm thạch cao 30 thước, được mang về từ Ai Cập. Đỉnh cao là một cây thánh giá. Trên phiến đá này, người ta đã khắc ghi hàng chữ sau đây:
Christus vincit, Christus regnat, Christus imperat. Có nghĩa là Đức Kitô chiến thắng, Đức Kitô thống trị, Đức Kitô hiển trị.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ý tưởng thứ nhất: Đức Kitô chiến thắng.
Phải, Đức Kitô Phục sinh đã chiến thắng tội lỗi, đau khổ và sự chết. Đồng thời, Ngài cũng đã chiến thắng kẻ thù của Ngài.
Đúng thế, kẻ thù của Ngài đang reo mừng ngạo nghễ vì đã nhìn thấy Ngài trút hơi thở cuối cùng một cách tủi nhục ê chề trên thập giá. Từ nay, Ngài không còn giảng dạy và hoạt động nữa. Từ nay họ có thể yên tâm ngủ quên trên tội ác của họ. Đức Kitô đã bị mai táng trong mồ. Thế nhưng, cũng chính từ ngôi mộ này mà Ngài đã bước ra để khởi đầu cho một trang sử mới, một trang sử bất tận.
Kẻ thù của Ngài reo mừng vì nghĩ rằng: Ngài cùng với giáo lý của Ngài đã bị chôn vùi dưới lòng huyệt lạnh.
Dioclétien đã phát hành một loại tiền và trên loại tiền này có ghi hàng chữ:
- Kỷ niệm ngày quét sạch danh hiệu Kitô.
Thế nhưng, sự thật thì trái ngược hẳn lại. Dioclétien cùng với đế quốc Lamã của ông đã bị quét sạch khỏi mặt đất này từ lâu. Ông tưởng rằng mình đã hủy diệt được Kitô giáo, nhưng nếu giờ đây được sống lại, ông sẽ phải ngạc nhiên vì trải qua 20 thế kỷ, Kitô giáo vẫn không ngừng phát triển, vẫn không ngừng lớn lên.
Vào thế kỷ 18, Voltaire đã nói:
- Chỉ 20 năm nữa, Đức Kitô sẽ bị chìm vào quên lãng.
Nhưng sự thật thì trái ngược hẳn lại, bởi vì chính 20 năm sau, Voltaire đã chết trong kinh hoàng khiếp hãi và phải ra trước tòa án tối cao của Đức Kitô.
Rồi trong cuộc Cách mạng Pháp, năm 1789 một ông bộ trưởng đã nói:
- Đức Kitô chỉ còn là một thây ma cho chúng ta đẩy xuống hố.
Nhưng sự thật thì trái ngược hẳn lại, bởi vì chẳng bao lâu chính ông bộ trưởng này đã bị xử tử và thi thể của ông đã bị đẩy xuống hố. Chống lại Đức Kitô là giơ chân đạp mũi nhọn. Chỉ những kẻ ngu xuẩn mới dám làm cái hành động liều lĩnh và dại dột ấy mà thôi.
Còn Đức Kitô, Ngài vẫn sống, vẫn tươi mới như mỗi độ xuân về của một năm, hay như mỗi khoảng bình minh của một ngày. Những bạo vương, những hoàng đế, những kẻ bách hại Ngài ở đâu bây giờ ? Có ai còn nhắc đến họ và van xin họ ? Lòng đất đã chôn vùi sự nghiệp của họ và thời gian đã đẩy họ vào quên lãng, như Nguyễn Du tiên sinh đã phát biểu:
- Bất tri tam bách du niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Có nghĩa là:
- Biết rồi ba trăm năm sau,
Nào ai còn khóc một câu thương mình.
Đức Kitô của chúng ta thì khác hẳn. Cho đến bây giờ, Ngài vẫn còn là một vấn đề thời sự nóng bỏng. Người ta không ngừng học hỏi và tìm hiểu về Ngài. Và giờ đây, trong giây phút này, hằng triệu cặp môi vẫn còn cầu khẩn và ca tụng Ngài.
Những bắt bớ và cấm cách của kẻ thù, giống như một trò chơi của con trẻ. Vì tức giận với biển cả, nên đã cầm một cục đá và ném xuống lòng biển. Hòn đá được ném đi chỉ đủ gây nên một vài vòng tròn giao động trong thoáng chốc trên sóng nước mà thôi, còn biển cả thì vẫn bao la và hùng vĩ.
Những bắt bớ và cấm cách của kẻ thù, giống như hành động của một tên điên khùng. Hắn bực bội với mặt trời vì mặt trời luôn chiếu sáng. Vì thế vào lúc giữa trưa nắng gắt, hắn ngửa mặt lên và phun nước miếng vào mặt trời. Thế nhưng những giọt nước miếng do hắn phun ra thay vì rớt vào mặt trời thì lại rơi vào chính khuôn mặt của hắn.
Đức Kitô đã chiến thắng và chỉ mình Ngài mới trường tồn, mới bất diệt như lời thánh Phaolô Tông đồ:
- Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn chỉ là một.
Chúng ta hãy mượn lời thánh vịnh 73 như một kết luận:
- Lạy Chúa, Ngài là vua chúng tôi từ muôn thuở, Đấng đã từng chiến thắng trên toàn cõi địa cầu.
-----------------------------
Chúa Giêsu Ki-tô đã Phục Sinh…. Thánh Gioan đã tường thuật trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay như một nhân chứng mắt thấy tai nghe. Ngài diễn tả hành trình mà các tông đồ, cụ thể là Maria Macđala, Phêrô và Gioan đã trải qua để tiến đến niềm tin ”Chúa đã Phục Sinh”.
Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích,… chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền” (1Cr 15,12-19).
Vậy Phục Sinh là gì ? Đâu là ý nghĩa của biến cố Phục Sinh ?
Ðể hiểu thấu mầu nhiệm Phục Sinh, chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (Ga 19,41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Ðồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Ðức Giêsu. Ông đã đến gặp chính quyền để xin xác của Thầy mình và tẩm liệm cẩn thận. Hãy đến thăm mộ Chúa vào ngày thứ Bảy, thật vắng lặng, không có ai. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ. Kẻ thù Chúa đã hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vui vì Ðấng là Sự Sống đã bị thất bại. Xác Ðức Giêsu nằm trong mộ tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình không? Có ai thấy được một mầm non đang nhú không?
Ðêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ với xác của Thầy nằm trong đó. Và khi lóe lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba bà đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác. Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: "Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to thật là một trở ngại... Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra một bên, và xác của Thầy cũng không còn ở trong mồ.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm chết chóc và rữa nát, sự sống đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt. Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu thơm. Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Ðấng đã phục sinh …
Phục Sinh của Đức Giêsu không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp con trai bà góa thành Na-im (Lc 7,11-17), như con gái ông Gia-ia (Lc 8,40-56), và đặc biệt như ông La-za-rô (Ga 11,1-45). Cả ba trường hợp này người chết đã sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ, và một ngày nào đó họ cũng phải theo số phận chung của loài người là phải chết một lần nữa, phải trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền thống trị của sự chết.
Phục Sinh của Đức Giêsu là Ngài đã sống lại từ cõi chết. Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại phải chết. Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết. Sự chết không còn làm gì được Ngài. Không định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Ngài
Phục Sinh của Đức Giêsu đã trở nên nguồn mạch sự sống và sự sống lại của mỗi người chúng ta. "Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,24)
* * * * *
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh,
Vẫn có những ngôi mộ trong đời con. Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều con yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của mất mát, đổ vỡ, khổ đau, thất bại ... Nhưng sự Phục Sinh của Chúa làm con tin rằng chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm con bừng tỉnh, lớn lên và trưởng thành. Ước gì giữa nước mắt, con cảm nghiệm được niềm vui, dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Lạy Đấng là Nguồn Mạch Sự Sống,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con. Amen
(Trích từ R. Veritas)
-----------------------------
Vọng Phục Sinh
ĐÊM CANH THỨC
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Lc 24, 1-12
Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: "Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại."
Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.
Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Tại khắp các nhà thờ trên thế giới hôm nay đều tổ chức Đêm Canh Thức. Xưa kia, trong ngày an táng Chúa Giêsu, cũng có những người canh thức. Lính gác cửa mộ canh thức vì sợ các môn đệ đến lấy trộm xác Chúa. Còn các môn đệ, nhất là các phụ nữ đạo đức canh thức chờ trời sáng đến viếng mộ và xức thuốc thơm xác Chúa.
Cả hai thái độ canh thức đều thất bại vì đặt sai mục đích: nhắm vào xác chết của Chúa Giêsu. Lính canh muốn giữ Chúa mãi mãi trong ngôi mộ để cho thân xác tan rữa và dập tắt mọi niềm hi vọng. Và Chúa sẽ đi vào quên lãng của người đời. Còn các môn đệ muốn được nhìn lại xác Thầy yêu dấu cho thỏa nỗi nhớ mong, và để xức dầu cho trọn nghi thức và lòng kính mến.
Nhưng thất bại đưa đến hai thái độ khác nhau. Đối với lính canh là một thất bại kinh hoàng. Họ canh giữ nhưng không đủ sức canh giữ. Phiến đá to lớn nặng nề và được niêm phong cẩn thận bỗng nhiên lăn ra khỏi cửa mộ. Anh sáng bừng lên. Chúa Giêsu phục sinh và ra khỏi mồ. Quá kinh hoàng lính canh bỏ chạy.
Trái lại đối với các môn đệ là một thất bại vui mừng. Không thấy xác Chúa trong mộ, tâm hồn các ngài tràn đầy niềm vui. Vì các ngài tìm Chúa như một xác chết, nhưng Chúa lại đang sống. Như lời các thiên thần loan báo: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết?” Các ngài đi tìm Chúa như đi tìm hạt lúa bị chôn vùi, không ngờ hạt lúa đã mục nát và mọc lên thành cây sinh muôn ngàn bông hạt. Các ngài vào mộ như đi vào miền tăm tối, nhưng Chúa Phục Sinh đã làm cho ngôi mộ sáng lên huy hoàng. Các ngài đi đến mộ như đi đến tuyệt vọng, không ngờ Chúa Phục Sinh đã làm dậy lên niềm hi vọng lớn lao trong tâm hồn.
Ngôi mộ đã chôn con người cũ của Chúa Giêsu nhưng Chúa Giêsu đã ra khỏi mộ trong thân xác vinh quang, trong một đời sống mới. Các môn đệ đến mộ với con người cũ. Và khi ra khỏi mộ, các ngài đã trở thành những con người mới. Tâm hồn các ngài đã phục sinh.
Chúng ta đang canh thức trong đêm cực thánh này. Đừng như các lính canh muốn giữ chặt con người cũ, con người tội lỗi, con người xấu xa đưa đến diệt vong. Ta hãy noi gương các môn đệ canh thức để được gặp Chúa. Hãy cùng vào ngôi mộ với Chúa Giêsu. Trong ngôi mộ ta hãy cùng chết với Chúa và cùng Chúa chôn con người cũ của ta với những tính mê nết xấu, với những tham vọng, với những dục vọng thấp hèn. Để khi trở ra chúng ta trở thành những con người mới cho một cuộc sống mới: cuộc sống vui tươi lạc quan, cuộc sống chứa chan niềm hi vọng, cuộc sống can đảm phấn đấu, sống bác ái, quên mình để yêu thương và phục vụ, cuộc sống hướng về những lý tưởng cao thượng.
Hôm nay chúng ta vui mừng đón nhận một số anh chị em tân tòng lãnh nhận bí tích rửa tội. Từ nhiều tháng nay anh chị em đã sống trong tâm trạng canh thức chờ đón ngày hồng phúc hôm nay. Được rửa tội anh chị em được gìm vào dòng nước thánh, dòng nước phát sinh từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giêsu. Được gìm trong dòng nước thánh tượng trưng cho bị chôn táng trong ngôi mộ cùng với Chúa Giêsu, anh chị em sẽ chết cho con người cũ. Bước ra khỏi dòng nước, anh chị em được phục sinh với Chúa, sống trong con người mới, sống trong ơn thánh, sống trong tình yêu mến Chúa và yêu mến mọi người.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Bạn thường hay hướng về quá khứ hay hướng về tương lai, hướng về sự chết hay sự sống?
2- Bạn có dám chôn cất con người cũ để trở thành con người mới không?
3- Phục sinh với Chúa là sống theo Thánh Thần. Bạn hiểu điều này thế nào?
+TGM. Ngô Quang Kiệt
-----------------------------
(Mt 28,1-10)
Chỉ trong đoạn Tin Mừng ngắn ngủi mà chúng ta vừa nghe, đã được nhắc lại tới hai lần “Ði đến Ga-li-lê-a”.
Vâng, con đường của Ðấng Phục Sinh không chỉ theo hướng “đi lên cao”! Ðức Giêsu, Ðấng đã chiến thắng tử thần lại đi về hướng Ga-li-lê-a, một nơi Người đã trải qua nhiều thời gian nhất khi còn sinh thời. Người trở lại miền đất mà Người và các môn đệ đã từng mỏi gót rảo bước, một nơi Người thường không được nồng hậu đón tiếp, mệt mỏi và kiệt sức. Nói cách khác: Sau khi sống lại, Ðức Giêsu đã trở lại cuộc sống hằng ngày của Người và của các môn đệ. Ga-li-lê-a là nơi có nhiều người nghèo đói và nhiều người bị xã hội ruồng bỏ sinh sống, là nơi thực tại phũ phàng của cuộc sống hằng ngày ngự trị, chính nơi đó Ðức Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ. Thật ra, sự Sống Lại là một thực tại hoàn toàn mới mẻ. Nó vượt khỏi những kinh nghiệm bình thường của con người. Nó công bố một thế giới mới mà Thiên Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Nhưng nó không phải là Thiên đàng, không phải là động tiên, cũng không phải là một thực tại xa lạ với cuộc sống của chúng ta, ngược lại: Sự Phục Sinh trước hết có liên quan chặt chẽ với cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Vì thế, sau khi sống lại, Ðức Giêsu đã dấn thân nhiều và một cách đặc biệt cho cuộc sống chúng ta. Từ trong kẻ chết sống lại, Người không muốn ngự trị trên Thiên tòa, nhưng là sống giữa chúng ta, muốn giải cứu thế giới bé nhỏ và nghèo nàn của chúng ta bằng sự hiện diện của Người. Vì thế, Ðấng Phục Sinh đã không vội tìm hướng về một khung trời xa xăm, nhưng là nhắm hướng trở lại “Ga-li-lê-a”, trở lại cuộc sống hằng ngày của chúng ta, trở lại cuộc sống thực tế. “Ở Ga-li-lê-a các ngươi sẽ được xem thấy Người“!
Ðàng khác, không những Ðức Giêsu đi tới Ga-li-lê-a để tỏ mình ra cho các môn đệ ngay giữa môi trường sống của những người nghèo khổ, những người cùng đinh sống ngoài lề xã hội, nhưng cả các môn đệ cũng “phải đi tới Ga-li-lê-a” (Mt 28,10).
Nhờ sự sống lại của Ðức Giêsu, các môn đệ đã trở nên những người mới và sống trong một thực tại mới.Vâng, nhờ Ðấng đã phục sinh, họ đã có thể:
• nhìn vào thực tại hằng ngày bằng những con mắt mới,
• đến với những người đơn sơ bé nhỏ và loan báo cho họ rằng từ nay, với sự Phục Sinh của Ðức Giêsu, sự cùng khổ và sự chết sẽ bị tiêu diệt,
• trở thành những người mang niềm hy vọng đến trong một thế giới của bất công và của đàn áp, và qua đó họ đã đổi mới bộ mặt trái đất.
Và như con đường dẫn các môn đệ đến Ga-li-lê-a để họ cảm nhận được đời sống phục sinh mới, cũng vậy, con đường của chúng ta cũng sẽ dẫn đi tới “Ga-li-lê-a” của chúng ta, tới cuộc sống hằng ngày của chúng ta, tới cuộc sống cụ thể của chúng ta, một cuộc sống mà mọi sự thường khác hẳn, chứ không phải “chốn thiên thai” hạ giới. Cả hôm nay nữa, nếu ai muốn tìm gặp được Ðức Giêsu, nhất thiết phải đi tới những người nghèo khổ và những người bị bỏ rơi, đi tới những người đang sống trong cảnh tang tóc sầu khổ, những người vô gia cư và đến với những người đau ốm bệnh tật và thất nghiệp.
Ðức Giêsu không sống lại từ cõi chết để muôn đời được sống trong vinh quang bất diệt và không phải đối mặt với những đau khổ thử thách nữa. Nhưng Người muốn thắng vượt được sự khổ đau và ngay ở những nơi mà mãi tới ngày nay sự khổ đau vẫn còn là một thách đố to lớn cho cuộc sống con người. Ai nhờ đức tin và phép rửa đã được sống lại với Ðức Giêsu, người đó sẽ không còn đi tìm kiếm chỗ cho mình trong những ngôi biệt thự của Giê-ru-sa-lem, hay ở bàn ăn của những nhà trọc phú, nhưng là lên đường đì tìm kiếm Ðức Giêsu ở một nơi duy nhất, mà cả đến hôm nay người ta chỉ có thể gặp được Người: đó là cuộc sống hằng ngày với bao lo lắng và cơ cực của nó!
Mệnh lệnh của Ðấng Phục Sinh là “hãy đi tới” những người mà Ðức Giêsu vô cùng thương mến, đến nỗi Người đã tự đồng hóa với họ (x. Mt 25, 40b+45b).
Vâng, qua phép rửa chúng ta đã chết cho những hành động bất công, cho những tư cách sống lệch lạc, hầu chúng ta có thể sống cho một thế giới mới và một nhân loại mới. Phép rửa nối kết chúng ta lại với nhau trong cùng một đức tin và làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa, trở thành một dân tộc thánh.
Lm Nguyễn Hữu Thy
-----------------------------
Ga 20, 1-9
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Suy đi nghĩ lại tôi vẫn cảm thấy câu nói của bà cụ già trong phim Sám Hối trong thời Liên Xô cũ vẫn còn giúp tôi tâm đắc. Bà cụ nói: “Nếu con đường không dẫn tới nhà thờ thì con đường không có giá trị gì đối với cụ”. Tôi lại nẩy ra một ý: nếu con đường không dẫn tới căn phòng Tiệc Ly mà Chúa Giêsu và các môn đệ dùng bữa Vượt Qua cuối cùng và nếu con đường không dẫn tới ngôi một trống, nơi Chúa Giêsu đã khải hoàn sống lại thì quả thực tôi chẳng cần suy nghĩ gì.
TIN MỪNG THUẬT LẠI
Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần có 3 người tất bật chạy ra mộ. Bà Maria Mađalêna, ông Phêrô và Gioan. Tất cả đều đến mộ để mong gặp thấy Chúa còn chôn trong mộ. Đây là định luật của đời sống: con người có sinh, có tử. Hình ảnh này vẫn là hình ảnh muôn đời của loài người, sinh ra và đi vào cõi chết. Thiên Chúa đã dựng nên con người bằng đất, con người sẽ phải trở về cát bụi. Tuy nhiên, sáng hôm nay tất cả đều khác, tất cả đều đổi mới. Phêrô, Gioan va Mađalêna đi tìm một người chết nhưng họ lại gặp một người sống. Họ vào trong mộ, khăn liệm xác còn đó, dây băng nhỏ cũng còn đây. Chiếc khăn che đầu để riêng một chỗ. Chúa Giêsu không còn ở đó nữa. Chúa bị đánh cắp lấy xác ư ? Không…Chúa đã sống lại thật và tất cả họ đều đã tin. Tất cả họ đều trở thành nhân chứng đầu tiên cho Chúa phục sinh. Chúa đã toàn thắng sự chết như Tin Mừng Mt 16, 21 đã viết: “Ngài sẽ phải lên Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thương tế, phải bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Phêrô và các tông đồ đều là chứng nhân vì họ đã tin. Hội Thánh cũng trở thành nhân chứng và gieo rắc niềm tin phục sinh cho nhiều người.
MẦU NHIỆM PHỤC SINH
Chúa sống lại rồi.Alléluia. Đây là niềm tin của Hội Thánh, và là căn bản của đức tin Kitô giáo. Thánh Phaolô đã viết: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đức tin của chúng ta sẽ trở nên vô ích, và như thế chúng ta vẫn còn ở trong tội lỗi”( 1 Co 15, 17 ). Nếu Chúa không sống lại thì niềm tin của chúng ta thật vô ích, hão huyền. Chúng ta cảm tạ ơn Chúa vì Chúa đã sống lại. Chúa có quyền trên sự sống và sự chết .Thánh Phaolô cũng viết: “Bởi vì nếu bạn tuyên xưng nơi miệng bạn: Giêsu là Chúa, và nếu bạn tin trong lòng bạn: Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại từ cõi chết, bạn sẽ được cứu”( Rm 10,9 ). Chúa đã sống lại. Các tông đồ, các người phụ nữ Chúa cho gặp đầu tiên đã làm chứng. Do đó, chúng ta từng kẻ tin trong Giáo Hội cũng mau mau làm chứng. Việc đồn đoán của bọn lính canh và tiền mua chuộc của các quan chức lúc đó về xác Chúa Giêsu bị đánh cắp trở thành trò lừa bịp mọi người. Chúa đã sống lại, ngôi mộ trống chứng minh Chúa sống lại vì Gioan làm chứng, vì Phêrô và các tông đồlà chứng nhân. Chúa sống lại đã “đi trước các môn đồ tới Galilê” ( Mc 16, 7 ). Ngày nay Chúa vẫn hằng gặp chúng ta nơi nhà chầu, nơi anh chị em, nơi những người nghèo khổ. Vâng chúng ta không được gặp chính Ngài bằng xương bằng thịt như các môn đồ xưa ở Galilê nhưng chúng ta vẫn được thấy Ngài. Chúa đã sống lại là một sự thật. Mầu nhiệm của đức tin và chỉ có mình Chúa Giêsu mới có quyền làm được như lời Ngài tiên báo.
Alléluia Chúa đã phục sinh. Hội Thánh hãy cùng các tông đồ mau mau đi loan truyền mầu nhiệm Chúa sống lại. Chúa đã nói: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Chúa đã sống lại là niềm hy vọng, cậy trông của chúng ta: “Khi Chúa Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang” ( Col 3, 4 ). Con đường đã dẫn tôi tới ngôi mộ trống và như Gioan, Phêrô và maria Madalêna, tôi đã tin, tôi đã làm chứng.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con mau mắn loan truyền Tin Mừng phục sinh cho nhiều người, cho mọi người. Amen.
-----------------------------
Với cái nắng oi ả của những ngày hè, chúng ta cảm thấy mệt mỏi. Đúng thế, chúng ta là những kẻ mệt mỏi. Không cần phải đợi đến lúc tuổi đời chồng chất, mà ngay từ những tháng ngày còn trẻ, chúng ta cũng đã cảm thấy mệt mỏi vì chính sự hăng say và lạc quan của mình. Chúng ta mệt mỏi vì nghề nghiệp, vì cuộc đấu tranh dành chén cơm manh áo, vì những bổn phận không tên cứ âm thầm tiếp diễn.
Bà nội trợ mệt mỏi vì nồi niêu xoong chảo. Người dệt chiếu mệt mỏi vì ngồi mãi đau lưng. Anh thợ hầm đá mệt mỏi vì công việc nặng nhọc. Vợ chồng dù tình nghĩa còn mặn nồng nhiều lúc cũng phải mệt mỏi vì nhau, ấy là chưa nói tới khi tình nghĩa không còn nữa, phải âm thầm mang lấy gánh nặng suốt hai mươi, ba mươi năm chỉ vì con cái và danh dự gia đình. Cha mẹ mệt mỏi vì con cái luôn ồn ào, cãi cọ, cứng đầu và vô ơn. Con cái mệt mỏi vì cha mẹ độc tài, khó tính.
Chúng ta mệt mỏi vì chính bản thân mình như con ngựa bất kham không phục tùng ý muốn. Chúng ta mệt mỏi vì đời sống đạo đức với những giới luật và cấm đoán. Chúng ta mệt mỏi vì những điều dốc quyết sớm bị quên lãng, chúng ta mệt mỏi vì phải đi tham dự thánh lễ không chút sốt sắng, vì phải đi xưng tội không chút hứng thú. Chúng ta mệt mỏi vì đức tin, cứ tin mà chẳng thấy bao giờ.
Làm sao mường tượng ra khuôn mặt của Thiên Chúa. Làm sao thấy được nơi Bí tích Thánh Thể không phải chỉ là một tấm bánh, và nơi vị linh mục không phải chỉ là một con người. Chúng ta mệt mỏi vì phải từ chối những quyến dũ trần gian cho một nước trời quá xa vời. Chúng ta mệt mỏi vì phải tuân giữ những tiêu chuẩn luân lý… Và như thế chúng ta là những kẻ mệt mỏi. Sự mệt mỏi dường như là cái số phận được dành sẵn cho con người kể từ Adong.
Vậy sự mệt mỏi có phải là một sự xâm chiếm của cái chết trên sự sống? Không phải là như thế. Theo tôi nghĩ sự sống và sự chết không phải là biến cố kế tiếp nhau, như một cuộn dây trải dài cho đến cuối, thì đó là sự chết. Trái lại sự sống và sự chết cùng có mặt trong cuộc đời chúng ta.
Đứa trẻ đã có lý khi cất tiếng khóc chào đời vì nó nhìn thấy bóng dáng cái chết đã lởn vởn. Cái chết có mặt ở bất cứ nơi nào có sự sống, nhưng hơn thế nữa, chính trong sự chết thì đã có mầm mống của sự sống. Mùa đông tới, nhưng sau đó là mùa xuân rực rỡ. Trên những bức tường đổ nát, đôi khi có những cây to lớn mọc lên. Sức mạnh của sự sống trong lãnh vực siêu nhiên chính là Đức Kitô.
Với tội của Adong, cái chết đã chế ngự mọi lãnh vực của con người, nhưng liền sau đó Đức Kitô đã được phán hứa, Ngài sẽ đem lại sự phục sinh và chiến thắng trên tử thần như lời thánh Phaolo đã viết:
- Bởi một người mà nhân loại phải chết thì nay bởi một người mà nhân loại được sống. Mọi người phải chết nơi Adong thế nào thì cũng sẽ được sống lại trong Đức Kitô như vậy.
Chính Chúa Giêsu cũng đã phán:
- Ta là sự sống và Ta đến để cho chúng được sống một cách phong phú.
Đức Kitô là sự sống, Đấng đã lăn tảng đá ra khỏi mồ. Đức Kitô là sự sống, một sự sống luôn trẻ trung và không bao giờ tàn úa. Đức Kitô là sự sống trong chúng ta, sự sống ấy được trao ban qua Bí tích Rửa tội, được nuôi dưỡng nhờ Bí tích Thánh Thể, được chữa lành bởi Bí tích Giải tội, được phát triển do sự cầu nguyện và việc thực hành các nhân đức.
Hãy kết hiệp mật thiết với Chúa như ngành nho với cây nho, nhờ đó sự sống của Chúa được truyền sang cho chúng ta. Với sự sống thần linh này, chúng ta vẫn tiếp tục vươn lên trên muôn ngày khổ đau, nhưng luôn được Chúa an ủi và trợ giúp, vì như lời Chúa đã phán: Hỡi những ai vất vả, gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta. Ta sẽ nâng đờ bổ sức cho các ngươi.
-----------------------------
Điều gì người ta sống cách sâu đậm nhất là điều khó diễn tả nhất. Đó là trường hợp của kinh nghiệm về đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Đối với người vô thần, sự sống lại của Đức Kitô là cái gì chỉ có trong lòng tin của người Kitô hữu. Đối với người Kitô hữu, đó là một thực tại còn chắc chắn hơn sự kiện lịch sử được chứng minh cách vững vàng nhất. Họ có thể diễn tả thế nào lòng tin của mình trước người không tin, hoặc ngay trước những đòi hỏi hợp lý của chính lý trí mình?
Ai tin Đức Kitô sống lại, chỉ còn cách có thái độ như các Tông đồ. Với ngôn ngữ và cách suy nghĩ của riêng mình, các ngài làm chứng rằng đã biết Chúa Giêsu trước khi Người chết, và đã gặp lại Người sau khi sống lại. Làm chứng, nghĩa là quả quyết đã sống và đã thấy. Các ngài không hiểu bằng cách nào Chúa Giêsu đã từ cõi chết đi vào cõi sống, đã hiện ra trong những điều kiện khác với điều kiện trước khi chết. Các ngài không nói gì về điểm này. Nhưng quả quyết một cách vô cùng chắc chắn là sự việc đã xảy ra.
Người Kitô hữu ngày nay cũng thế, họ tin Chúa chịu chết và phục sinh nhưng không thể trả lời cho những ai chất vấn họ, xin họ giải thích. Vậy mà sự hiện diện và hoạt động của Chúa Phục Sinh trong cuộc sống họ là một kinh nghiệm biến đổi cả con người họ. Họ có thể làm chứng mà không thể cắt nghĩa việc ấy.
Chúng ta có thể rút từ bài đọc của thánh Gioan hai đề tài suy niệm:
1) Hai người đều chạy.
Phêrô và Gioan khi nghe Maria Madalêna báo tin liền vội vàng chạy tới mồ. Trong sự vội vàng và sự ‘hướng về’ này, chúng ta nhìn thấy một ý nghĩa tượng trưng. Ta có hướng về Chúa Giêsu sống lại và đang sống không? Đối với Phêrô và Gioan, ngôi mộ tượng trưng cho thất bại ê chề, kể từ chiều thứ sáu (sau khi Chúa tắt thở). Bây giờ thì họ lại hướng về một hy vọng tuy còn mập mờ, bí ẩn, nhưng họ vẫn lao mình chạy. Trong đời ta phải chăng cũng có những thất bại mà ta tưởng là nhất định rồi. Chẳng hạn một ước muốn không thành, một công việc tông đồ không kết quả, một hạnh phúc hợp lý rơi vào thất bại… Ta có hay chăng một niềm hy vọng biết nhìn thấy quyền năng Phục Sinh Chúa dành cho ta qua thử thách, dù lớn lao thế nào đi nữa? Ta là môn đệ của Chúa sống lại. Người kêu mời ta đừng bao giờ đặt một viên đá tuyệt vọng trên cái gì hết, song hãy hy vọng. Cái được phục sinh có thể sẽ khác với ta chờ đợi nhưng ‘khác’ hơn theo nghĩa ‘tốt’ hơn.
2) Ông thấy và tin.
Điều này nói về tông đồ Gioan. Bản văn thêm rằng lúc đó ông hiểu rõ Kinh Thánh, tức Cựu Ước. Quả thật con người và lịch sử của Chúa Giêsu là ánh sáng soi chiếu toàn bộ Cựu Ước, cũng như Tân Ước. Phải đọc Thánh Kinh thế nào? Thưa bằng cách tìm gặp ở đó Chúa Giêsu Kitô là chân lý ta, là sức mạnh ta, là sự chỉ giáo, luân lý, đời sống của ta.
-----------------------------
Khi nói đến đá hay đá tảng, người ta thường nghĩ tới ý tốt lẫn ý xấu.
Để chỉ một ý hướng tốt, người ta coi đó là chỗ dựa vững chắc. Trong Kinh Thánh vẫn nhìn nhận “Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn”. Chúa Giêsu xây dựng Giáo hội trên đá tảng là Thánh Phêrô: “Phêrô con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.
Tuy nhiên, đá tuy cứng nhưng cũng có nhược điểm:“Nước chảy đá mòn”. Để chỉ những người yếu chống lại những thế lực mạnh, người ta thường nói “trứng chọi với đá” chỉ một người lì lợm, người ta thường nói “trơ như đá”.
Tin Mừng của Chúa Nhật Phục Sinh cũng liên hệ đến tảng đá che chắn cửa mộ của Chúa Giêsu. Với diễn biến của “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần”. Cùng một sự kiện “tảng đá lăn ra khỏi mồ”, Mađalêna đi đến kết luận “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mồ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Còn Gioan “ông đã thấy và đã tin”.
Với một tảng đá thất vọng, Mađalêna chỉ thấy tảng đá là sự kết thúc. Còn Gioan lại thấy niềm hy vọng khi thấy tảng đá lăn ra
Tảng đá trong tâm hồn
Với một tảng đá tham lam đè nặng và che khuất tâm hồn, Giuđa đã bán thầy với giá 30 đồng bạc.
Với một tảng đá của sợ hãi đè nặng đã làm cho Phêrô chối thầy đến 3 lần. Còn những tong đồ khác lại bỏ trốn vì sợ liên luỵ đến Thầy Giêsu.
Mỗi người cũng bị một tảng đá vô hình nào đó đè nặng trên tâm hồn mình. Tảng đá đó có thể là những đam mê xấu làm cho tôi không còn thấy những điều hay lẽ phải. Phaolô từng nói: “ Điều tôi muốn tôi không làm, điều tôi không muốn tôi lại làm”.
Tảng đá có thể là những hận thù gây ra cảnh “ con cái chống đối cha mẹ và làm cha mẹ phải chết”.
Tảng đá của đam mê dục vọng khiến nhiều người “tham vàng bỏ ngãi”, “ đứng núi này trông núi nọ”, làm nhiều gia đình rơi vào cảnh “tan đàn xẻ nghé”.
Tảng đá được Thiên Chúa lăn ra khỏi tâm hồn tôi.
Dù người Do Thái tin rằng tảng đá đã khóa chặt Đức Giêsu người tự xưng là con Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại. Bởi thế niềm vui Phục sinh là niềm vui của những người được Thiên Chúa lăn tảng đá đam mê ra khỏi tâm hồn họ và làm cho tâm hồn của họ được bình an.
Niềm vui Phục sinh còn là niềm vui của những người được Thiên Chúa giải thoát khỏi những sự cắn rứt của lương tâm.
Một Phaolô đã sống trọn vẹn niềm vui Phục Sinh khi Thiên Chúa lăn cái vảy ra khỏi mắt ông và ông nhìn thấy và dấn bước theo Đức Giêsu.
Một Giakêu, Lêvi đã được Đức Giêsu giải thoát khỏi tảng đá của tội lỗi và họ nhẹ nhàng thanh thản bước theo Chúa Giêsu.
Còn biết bao nhiêu gương mặt được giải thoát khỏi những tảng đá vô hình để bước theo Chúa Giêsu.
Lm. Đaminh Đặng Quốc Hưng
-----------------------------
VietCatholic News (Thứ Ba 01/04/2008 06:39)
Bài Giảng của Đức Cha Joseph Oudeman - Quản Nhiệm Cộng Đồng CG.VN Brisbane: Đêm Thánh Phục Sinh – 2008
Đức Kitô, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta, Người đã sống lại, chúng ta hãy chúc tụng Ngài. Ngài là lẽ sống, Ngài là Đấng Cúu Độ, Ngài là niềm hy vọng lớn lao trong từng ngày của cuộc sống của chúng ta ! Chúc tụng Ngài với vinh quang muôn thủa muôn đời..
Các con thân mến, Mến chào tất cả quý ông bà và anh chị em trong Chúa Kitô,
Ðây là sứ điệp của người Kitô hữu trong mọi thời đại, sứ điệp này là niềm vui của Kitô Giáo chúng ta. Sứ điệp này là lời tuyên bố Phục Sinh của Giáo Hội đến toàn thể nhân loai. Sứ điệp này là nguyên do của mọi niềm vui lớn lao của chúng ta, niềm vui của sự tán dương Thiên Chúa chúng ta, đây là sứ điệp: “Thiên Chúa Đã Phục Sinh”.
Trong Tuần Thánh, chúng ta đã được chúc lành qua việc chuẩn bị tâm hồn bằng những ngày tĩnh tâm của Cha Phaolô Chánh, cha Phêrô Hổ, Cha Giuse Xưa, hầu hết các con đã làm hòa với Thiên Chúa qua Bí Tích Giải Tôi. Tội lỗi của các con đã được tha. Các con đã chuẩn bị trọn vẹn, từ linh hồn đến thể xác.
Ngày thứ Năm Tuần Thánh, các con đã tưởng niệm Bữa Tiệc Ly của Đức Kitô Chúa chúng ta, khi Nguòi thiết lập Bí Tích Tình Yêu, đó là Bí Tích Thánh Thể và Thiên Chức Linh Mục, và Ngài cũng trao cho chúng ta một mệnh lệnh, mệnh lệnh đó là: ”YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ”
Qua ngày thứ Sáu Tuần Thánh, các con đã tưởng niệm cuộc Thương Khó, cuộc Tử Nạn của Ðức Kitô, Đấng Cúu Độ chúng ta trên Thập Giá. Hãy nhìn ngắm tình yêu vô vị lợi của Thiên Chúa chúng ta, tình yêu thí mạng cho người mình yêu, thí mạng cho những con chiên lạc đường, mất ơn nghĩa với Thiên Chúa. Tình yêu đó được trao ban cho từng người, và mỗi người chúng ta được ôm ấp, cảm nhận và được gọi là con Thiên Chúa. Tất cả những Ân Sủng này là nhờ Đức Kitô, con Thiên Chúa. Cũng chính nhờ Ðức Kitô con Thiên Chúa, chúng ta được nâng cao như các thần linh, gần gũi với Thiên Chúa mặc dù tội lỗi, dù tuyệt vong, dù bao khốn khó và bao thảm kịch của cuộc sống trong các mối tương quan tình Chúa tình người.
Đêm hôm nay, chúng; ta chúc tụng ánh sáng từ trời cao đã đến phá tan bóng tối tội lỗi của thế giới. Đức Kitô là Ánh Sáng. Ánh Sáng đã mở mắt chúng ta, lau sạch tư tưởng vì tối tăm và thiếu hiểu biết về Thiên Chúa. Chúng ta cũng chúc tụng nước Hằng Sống, Nước đã được làm phép trong đêm Cực Thánh này. Bài Tin Mừng các con vừa nghe về sự SỐNG LẠI, việc không thể xảy ra nhưng đã xảy ra trong quyền năng của Thiên Chúa đã mang lại một niềm vui thật tuyệt vời, niềm vui đó là Đau khổ và gian nan đã chấm dứt qua việc Phục Sinh của Đức Kitô, vào ngày thứ ba sau khi Ngài hiến mình trọn vẹn vì chúng ta.
Hôm nay các Thiên Thần cũng sẽ hỏi chúng ta: ”Anh em có biết chăng, Đức Kitô trước tiên phải qua đau khổ mới vào vinh quang ? ”
Chúng ta hãy hồi tưởng giây phút trong vườn Cây Dầu khi Đức Giêsu hỏi Thiên Chúa Cha rằng, “Cha ơi ! Hãy cất chén đắng khỏi Con ….” Ngài mang than phận con người như chúng ta, Ngài không muốn đau khổ, không ai trong chúng ta muốn đau khổ. Nhưng Chúa Kitô đã kết lời nguyện xin của Ngài bằng: VÂNG PHỤC, “Xin cho ý Cha được thể hiện, Xin đừng theo ý Con”
Những điều xấu của thứ Sáu Tuần Thánh, là những tối tăm, những căm hờn trong thế giới ngày nay. Tất cả những sự xấu này chỉ có thể vuợt qua bằng NIỀM VUI PHỤC SINH. Niềm vui Phục Sinh có khả năng biến đổi tất cả qua Tình Yêu và quyền năng của Thiên Chúa chúng ta.
Chúng ta hãy tin rằng quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa, là “Tình Yêu chân chính đã trao ban cho chính chúng ta và cho toàn thể nhân loai”. Đây là niềm tin, niềm tin vui mang lại hy vọng trong từng ngày của cuộc sống, mang lại ánh sáng, mang lại an bình và an ủi trong những lúc tối tăm và tang thương nhất của cuộc đời chúng ta. Tất cả vì chúng ta có niềm hy vọng của sự Phục Sịnh, mà Đức Kitô đã mang lại cho chúng ta. Cuộc đời của chúng ta phải biến đổi để biết “YÊU THƯƠNG – THA THỨ - VÀ QUẢNG ĐẠI “ bằng tâm tình biết ơn vì những gì Thiên Chúa đã làm và vẫn đang làm cho chúng ta.
Chúng ta hãy cầu nguyện để chúng ta để trở thành những Kitô Hũu với niềm tin sâu xa, với niềm hy vọng bất diệt, và với lòng yêu thương quảng đại vị tha vì Đức Kitô và vì tha nhân. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là Môn đệ Thầy là “CÁC CON HÃY YÊU THƯƠNG NHAU”, Hãy thực thi Mệnh Lệnh YÊU THƯƠNG đồng loại, bằng chia sẻ khi đau thương, hoạn nạn, bằng tình bằng hữu, bằng sự đoàn kết trong Cộng Ðoàn, khi gặp gỡ.
Cha chúc lành cho chúng con, chúc lành đến từng người chúng con, niềm vui thánh đức của Ðêm Thánh Phục Sinh hôm nay. Cha cũng chúc lành cho từng ngày trong cuộc đời của chúng con.
CĐ Brisbane
-----------------------------
Vào Chúa Nhật Phục Sinh nầy, Phụng Vụ Lời Chúa tập trung vào biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su, vì thế bỏ rơi bài đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến những bản văn tiên báo. Khởi đi từ Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần, bài đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Đây là một truyền thống xa xưa lên đến tận thế kỷ thứ tư.
Cv 10: 34a, 37-43
Bài đọc I nhắc nhở cho chúng ta rằng đức tin của chúng ta vào Đức Ki tô phục sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, lãnh tụ của Giáo Hội, được nhấn mạnh trong đoạn văn sách Công Vụ nầy.
Cl 3: 1-4
Đoạn trích thư gởi tín hữu Cô-lô-sê đưa chúng ta vào trung tâm của mầu nhiệm Phục Sinh, mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học của biến cố Phục Sinh.
Ga 20: 1-9
Sau cùng, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống, giai đoạn thứ nhất đức tin các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I Cv 10: 34a, 37-43
Sách Công Vụ được giới thiệu như phần tiếp theo của Tin Mừng thứ ba: cùng một tác giả, thánh Lu-ca; cùng một người nhận, ông Thê-ô-phi-lô nào đó, nhân vật vô danh.
Thánh Lu-ca mang nỗi bận lòng của một sử gia: "tra cứu đầu đuôi mọi sự". Trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đã quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su; trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh ký tường thuật cuộc đời thơ ấu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất của sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, trong phần thứ hai là dung mạo của thánh Phao-lô.
Thánh Lu-ca nhiều lần nhấn mạnh các Tông Đồ đã mạnh mẽ làm chứng về biến cố Phục Sinh như thế nào. Diễn từ của thánh Phê-rô tại nhà ông Co-nê-li-ô, viên đại đội trưởng người Rô-ma, cung cấp một ví dụ. Đó là lý do chọn lựa đoạn trích nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh nầy.
Vị lãnh đạo Giáo Hội đang thực hiện một cuộc "kinh lý mục vụ". Sau cuộc bách hại giáng xuống cộng đoàn Ki tô hữu Giê-ru-sa-lem non trẻ vào năm 36 (năm mà thánh Tê-pha-nô được phúc tử đạo), thời kỳ lắng dịu đã xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ tạm yên nầy để viếng thăm những giáo đoàn vừa mới được thành lập. Sách Công Vụ nói với chúng ta, "thánh Phê-rô rảo khắp nơi" (Cv 9: 32). Chính như vậy thánh nhân đến miền duyên hải mà vừa mới đây "phó tế" Phi-líp-phê đã mang Tin Mừng đến đó.
Trong khi thánh Phê-rô đang ở tại nhà ông Gia-phô thì một viên đại đội trưởng người Rô-ma đồn trú ở Xê-da-rê cách đó khoảng năm mươi cây số, sai người đến mời thánh nhân đến nhà ông.
Viên đại đội trưởng là một cảm tình viên của Do thái giáo, trong số những người được gọi "những người kính sợ Thiên Chúa". Sách Công Vụ nói với chúng ta ông là người đạo đức và rộng tay bố thí.
Thánh Phê-rô đến tại nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước vào nhà của một người không chịu phép cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm tiếp xúc với những người không chịu phép cắt bì không được phát biểu trong Lề Luật; lệnh cấm nầy phát xuất từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư. Lý do đầu tiên chính là để tránh tất cả tiêm nhiễm tôn giáo, nhưng dần dần lệnh cấm nầy được phổ biến và được tuân giữ nghiêm nhặt. Lần đầu tiên thánh nhân mang sứ điệp Tin Mừng đến một người lương dân và tất cả gia quyến của ông. Đây thực sự là một kinh nghiệm chấn động.
Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không cùng chung những điểm nhấn như những bài diễn văn mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, ở đó thánh Tông Đồ chứng mình cho người Do thái thấy rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, ngỏ lời với một cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh phẩm chất "chứng nhân" của mình: chính thánh nhân và các vị Tông Đồ khác đã là những "chứng nhân" của những hành động của của Đức Giê-su người Na-da-rét, "chứng nhân" của cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, và nhất là "chứng nhân" của cuộc sống Phục Sinh của Ngài. Có một ít người được diễm phúc gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh và sống thân mật với Ngài. Thánh nhân là một trong số những người "đã được cùng ăn cùng uống với Ngài sau khi Ngài đã từ cõi chết sống lại". Đấng Phục Sinh đã cho họ sứ mạng làm chứng rằng Thiên Chúa đã đặt Ngài làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết: với những người có ý định gia nhập Hội Thánh và đón nhận phép Rửa, thánh nhân tế nhị nói thêm rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng tha tội. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng đó là lời loan báo của các ngôn sứ: "Phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội".
Giáo Hội đặt nền tảng đức tin của mình vào biến cố Phục Sinh trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy dứt khoát đến nổi Giáo Hội đã không bao giờ cảm thấy cần phải đặt biến cố Phục Sinh như một tín điều. Sự kiện hiển nhiên buộc phải nhận như thế; nền tảng quá vững chắc: những người đã "thấy" và "đã sống" với Đức Ki tô phục sinh đã làm chứng.
BÀI ĐỌC II Cl 3: 1-4
Trong đoạn trích thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê mà thánh Phao-lô viết trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào khoảng những năm 61-62, thánh nhân đào sâu chiều kích thần học về biến cố Phục Sinh.
1. Kinh nghiệm về Đấng Phục Sinh:
Thánh Phao-lô là chứng nhân của Đức Ki tô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh nầy đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng huy hoàng chói lọi, đã cho ngài những giáo huấn của mình và trao phó cho ngài một sứ mạng. Kẻ bách hại xưa kia trở thành người xác tín, không chỉ người tiên phong của đức tin nhưng đặc biệt còn là một nhà thần học của mầu nhiệm Phục Sinh.
2. Cuộc sống của người Ki tô hữu trong mối tương quan với Đấng Phục Sinh:
Lập luận của thánh Phao-lô xem ra không hợp lý: trước hết thánh nhân nói: "Anh em đã được chỗi dậy từ cõi chết cùng Đức Ki tô", đoạn tiếp đó: "Anh em đã chết với Đức Ki tô" (nghĩa là chết vì tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương cách của thánh Phao-lô đặt ra trước hết thực tại "tinh thần" và tiếp đó cho thấy những hậu quả "luân lý" đòi buộc cách ăn nết ở của chúng ta, đoạn, những hậu quả "hữu thể", nghĩa là những hậu quả ghi dấu con người của chúng ta.
Như trường hợp ở đây. Thánh nhân định nghĩa người Ki tô hữu là người, nhờ phép Rửa của mình và cuộc sống bí tích mà được dự phần vào sự phục sinh của Đức Ki tô, vì thế, họ đã là một con người được phục sinh rồi (thánh Phao-lô diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa trong thư gởi tín hữu Ê-phê-sô khi dùng thì quá khứ: "Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki tô trên cõi trời" (Ep 2: 6).
Vì thế, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước hết những hậu quả "luân lý" của hoàn cảnh tinh thần nầy của người Ki tô hữu: "Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới". Đoạn thánh nhân đề cập đến hậu quả "hữu thể": được phục sinh rồi, nghĩa là đã chết vì tội lỗi; tức là được biến đổi ở bên trong. Không có gì thay đổi ở bên ngoài, nhưng "sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki tô nơi Thiên Chúa", mà ánh vinh quang của sự sống nầy sẽ xuất hiện tròn đầy chỉ vào thời sau cùng.
Đây là ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: cuộc sống theo Đức Ki tô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta: chúng ta "cũng sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang".
TIN MỪNG Ga 20: 1-9
Niềm xác tín của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki tô đặt nền tảng trên hai kinh nghiệm; chúng ta có thể nói rằng niềm xác tín nầy đã hình thành nên hai giai đoạn.
Trước hết, việc "khám phá ngôi mộ trống" là mặc khải gây kinh ngạc đầu tiên, chúng ta dám nói kinh nghiệm về sự "trống rỗng" ; kinh nghiệm nầy đã làm cho đôi mắt của họ sáng ra và đã khai mở lòng trí của họ để hiểu Kinh Thánh.
Tiếp đó, vào cũng một ngày hôm ấy, "những lần Đức Giê-su hiện ra" đem đến bằng chứng xác thực về cuộc sống của Ngài: một người đang sống, tuy nhiên các môn đệ không thể nào hiểu được mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác mang lấy những vết thương Tử Nạn của Ngài. Vì thế, đây không là một bóng ma, cũng không thân xác giả mạo. Hai kinh nghiệm cũng cố cho nhau, bổ túc lẫn nhau. Các Tông Đồ làm chứng về niềm xác tín tuyệt đối nầy của mình cho đến đổ máu mình.
1. Ngày thứ nhất trong tuần:
Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một bài tường thuật sống động và chính xác về cuộc khám phá ngôi mộ trống, bài tường thuật của một "chứng nhân nhãn tiền". Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết mặc khải những ý nghĩa sâu xa.
Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua; ngày thứ nhất trong tuần đã khởi sự, ngày thứ nhất nầy sẽ trở nên Ngày Chúa Nhật của chúng ta, "Ngày của Chúa", chính xác vì đó là ngày của biến cố Phục Sinh.
2. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:
Thánh ký nói với chúng ta, ngay từ "sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ".
Thánh Gioan chỉ nêu đích danh bà Ma-ri-a Mác-đa-la; tuy nhiên, theo chính bản văn, dường như có các người phụ nữ khác (hay ít ra một người phụ nữ khác) cùng đồng hành với bà, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói: "Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu". Quả thật, thánh Mát-thêu nêu tên hai người phụ nữ, còn thánh Mác-cô lại ba; nhưng bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được trích dẫn.
Tại sao chỉ một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu tên? Chắc chắn vì trong số những thánh nữ trung thành, kỷ niệm của bà đã là nổi bật nhất (thánh Gioan biên soạn Tin Mừng của mình với một sự hổi tưởng nào đó); và vì chính bà được diễm phúc chứng kiến cuộc hiện ra đầu tiên trong số những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh được các sách Tin Mừng tường thuật.
3. Thánh Phê-rô và thánh Gioan:
Bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho thánh Phê-rô và thánh Gioan. Lúc đó, có thể cả hai ông đang tá túc dưới một mái nhà; hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hành động cùng nhau (Cv 3: 1-11; 4: 1-22). Cả hai ông đều đã là nhân chứng của cuộc Biến Hình, chắc chắn kinh nghiệm nầy giúp hai ông hiểu biến cố mà hai ông sống vào buổi sáng nầy.
Thánh Phê-rô là người lớn tuổi hơn thánh Gioan, vì thế, với sứ trẻ, thánh Gioan chạy đến mổ trước. Ông cúi xuống và liếc nhìn vào bên trong ngôi mộ. Để tỏ lòng kính trọng, thánh Gioan chờ đợi thánh Phê-rô đến và nhường thánh Phê-rô vào ngôi mộ trước. Thánh Gioan nhận ra ở nơi thánh Phê-rô quyền lãnh đạo các Tông Đồ. Quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô được xác nhận chỉ sau biến cố Phục Sinh: "Nầy, Si-mon, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em nầy không?" (Ga 21: 15-17), nhưng thật ra đã hàm chứa trong việc đổi tên mà Đức Giê-su đã ban cho vị Tông Đồ nầy rồi: "Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy" (Mt 16: 18). Như vậy cả hai người đều cùng thấy, chứng thực hiện trường. Nét đặc sắc này có một tầm quan trọng lớn lao; vì đối với luật Do thái, một sự kiện chỉ được nhận biết nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Trước đây, Đức Giê-su đã nhắc lại điều nầy cho những người Biệt Phái: "Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật" (Ga 8: 17).
4. Khăn che đầu được cuốn lại và xếp riêng một nơi.
Ngoài ngôi mộ trống, việc "khăn che đầu không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi" đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu người ta trộm cắp xác của Đức Giê-su như lập luận của bà Ma-ri-a Mác-đa-la, có giờ đâu cuốn xếp khăn, để riêng ra.
Mặt khác, làm thế nào không nghĩ đến La-da-rô, thân thể của ông được hổi sinh bước ra khỏi mồ, "chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn" (Ga 11: 44) chứ ? Đức Giê-su hoàn toàn tự do, không còn bị băng vải liệm hay khăn che đầu, biểu tượng xích xiềng Tử Thần, buộc chặc thân thể của Ngài. Như vậy, ông La-da-rô còn bị xích xiềng Tử Thần trói buộc nên phải chết một lần nữa, trong khi Đức Giê-su không còn bị trói buộc bởi Tử Thần nữa: Ngài đã vĩnh viễn đánh bại Tử Thần. Chắc chắn hai Tông Đồ đã hiểu dấu chỉ nầy và bị xao động đến mức thánh Gioan tuyên xưng: "Tôi đã thấy và đã tin".
Ánh sáng bừng lên trong lòng người môn đệ Chúa yêu nầy trước ngôi mộ trống và khăn che đầu cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nếu đức tin của ông đã bị chao đảo bởi những biến cố đau thương, tình yêu của ông đã không chùn bước như ông đã cho thấy. Tình yêu nầy hướng dẫn ông. Vài ngày sau nầy, thánh Gioan cũng sẽ là người đầu tiên nhận ra Đức Giê-su trên bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Sự sáng suốt của con tim là một hổ trợ lớn lao trong việc hiểu biết con người và sự vật.
5. Theo Kinh Thánh.
Nếu cái nhìn đức tin có thể trước hết là cái nhìn tình yêu, tuy nhiên vị môn đệ nầy cần ơn soi sáng của tâm trí. Vào giây phút nầy, hai vị Tông Đồ khám phá ý nghĩa Kinh Thánh: "Cho đến lúc đó, hai ông đã chưa hiểu". Nhiều bản văn trở lại trong trí nhớ của hai ông… Người ta có thể phỏng đoán rằng hai ông nhớ đến Thánh vịnh 16, vì vài tuần sau nầy, chính thánh Phê-rô sẽ trích dẫn Thánh vịnh nầy cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để hổ trợ những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh. Quả thật người ta đọc thấy trong thánh vịnh nầy những hàng như sau:
"Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ" (Tv 16: 10).
Hay, ngôn sứ Hô-sê là ngôn sứ đầu tiên nói về "ngày thứ ba", Thiên Chúa cho trỗi dậy:
"Sau hai ngày, Người sẽ hoàn lại cho ta sự sống;
sau ngày thứ ba, Người sẽ cho ta trỗi dậy,
và ta sẽ được sống trước nhan Người". (Hs 6: 2).
Hoặc, cũng một con số ba được gặp lại trong sách Gio-na, trong một đoạn văn rất gợi cảm: ông Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm…ông cầu nguyện cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của ông:
"Con đã xuống tận nền móng núi non,
cửa lòng đất đã cài then nhốt con mãi mãi.
Nhưng Ngài đã đưa sự sống của con lên khỏi huyệt" (Gn 2: 7).
Lúc còn ở giữa các ông, Đức Giê-su đã nói: "Thế hệ nầy là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na" (Lc 11: 29; Mt 12: 38-42).
Sau cùng, làm thế nào không nghĩ đến bài thơ về người tôi trung đau khổ trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị nhỉ?
"Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh,
vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt.
Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn,
bị mai táng với người giàu có, dù chẳng làm chi tàn bạo
và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa.
…….
Nhờ nỗi thống khổ của mình,
người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện" (Is 53: 8-11).
Như vậy, hai môn đệ ra khỏi ngôi mộ với hai niềm xác tín ở trong lòng:
- chứng thực những điều hai ông đã thấy;
- củng cố những lời Kinh Thánh loan báo.
Lm. Ignatiô Hồ Thông
-----------------------------
Sau những ngày hy sinh và cầu nguyện trong suốt Mùa Chay Thánh để thanh luyện đời sống, và sau Tuần Thánh đặc biệt tưởng niệm những Mầu nhiệm cuộc khổ nạn và cái chết khổ nhục của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để chuộc tội nhân loại, hôm nay chúng ta hân hoan mừng Đại Lễ Phục Sinh.
Chúa đã sống lại thật! Alleluia! Alleluia!
Alleluia (nguồn gốc từ tiếng Do Thái) có nghĩa là “Hãy ca ngợi Chúa!” và để tỏ lòng vui mừng trong niềm tạ ơn Chúa. Trong nghi thức phụng vụ Mùa Phục sinh, chúng ta hay nghe hát long trọng Alleluia để cùng hân hoan vì “Chúa Đã Sống Lại Thật” và là nguồn sức sống đời đời cho chúng ta.
Qua từng thế kỷ cho đến ngày nay, nhiều bè phái đã chối bỏ điều này. Ngay thời đầu, các Thượng Tế và Kỳ Mục Do Thái đã đặt ra câu chuyện “Cướp Xác Chúa” để phủ nhận việc Chúa đã sống lại thật (Xin xem Phúc Âm Matthêu 28,11-15). Nhưng Chúa đã sống lại thật, đã thành lập Giáo Hội Chúa và sai các Tông Đồ đi rao giảng Tin Mừng: “Các con hãy đi rao giảng khắp nơi, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép Thanh Tẩy sẽ được cứu độ, ai không tin thì sẽ bị luận phạt!” (Phúc Âm Matcô 16, 15-16). Từ đó Giáo Hội đã lan rộng khắp nơi trên thế giới và loan truyền Tin Mừng Tình Thương của Chúa. Dù thời nào và ở mọi nơi, Giáo hội luôn bị các thế lực thù nghịch chống đối, kết án và bách hại, nhưng Giáo hội vẫn tồn tại và phát triển để đem Tình thương của Chúa đến cho mọi người.
Trong “Đêm Cực Thánh” vọng Lễ Phục Sinh, chúng ta chứng kiến nghi thức Thắp Nến Phục Sinh và lời tung hô “Ánh Sáng Chúa Kitô!” rồi chúng ta cũng vui mừng thưa lên “Tạ Ơn Chúa!”
Và năm nào chúng ta cũng vui mừng chứng kiến những anh chị em ‘Dự Tòng’ sau những ngày dài tìm hiểu Giáo lý và qua nhiều thử nghiệm đã quyết tâm từ bỏ “ma quỷ, thế gian và tội lỗi” để theo Chúa và gia nhập Giáo Hội Chúa. Chính chúng ta cũng cùng mọi người thề hứa ‘Từ bỏ tội lỗi, từ bỏ nếp sống thế gian” để sống đời sống mới theo Tin Mừng. Vậy chúng ta hãy cùng hiệp lời cầu nguyện cho các anh chị em Tân Tòng luôn bền vững trong Đức Tin nơi “Chúa Đã Sống Lại Thật” và cầu xin cho mọi người chúng ta luôn sống như ‘Những Ngọn Nến Phục Sinh Cháy Sáng” để chiếu tỏa Ánh Sáng Chúa Kitô Phục Sinh đến cho mọi người trong gia đình, xưởng thợ, sở làm và trong mọi môi trường sống hàng ngày của chúng ta.
Tạ Ơn Chúa! Alleluia! Vì Chúa đã sống lại thật như lời đã phán hứa! Alleluia!
Lm. Anphong Trần Đức Phương
-----------------------------
I. ĐỨC GIÊSU THÀNH CÔNG HAY THẤT BẠI ?
Trong mùa chay, cách riêng trong tuần thánh vừa qua, tâm trí chúng ta luôn luôn bị căng thẳng, tâm hồn chúng ta luôn luôn bị xúc động và hồi hộp khi suy ngắm những biến chuyển nơi Chúa Giêsu trước đây ngót hai ngàn năm, mà Giáo hội đã diễn lại một cách sống động khác nào sự việc đang xẩy ra vậy:
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem (Ga 12,13)
Chúa từ giã các môn đệ (Mt 16,45).
Chúa ăn bữa tối sau hết (Mc 14,15).
Chúa rửa chân cho 12 tông đồ (Ga 13,50.
Chúa lập phép Thánh Thể (Lc 22,17).
Chúa vào vườn Cây Dầu cầu nguyện (Lc 22,42).
Chúa bị Giuđa tìm bắt (Lc 22,48).
Chúa bị điệu đến dinh Philatô (Lc 23,1)
Chúa chịu đánh đòn (Mt 26,67).
Chúa chịu đội mạo gai (Mt 27,29).
Chúa bị nhạo báng (Mt 27,30).
Chúa phải vác thánh giá nặng (Lc 23,26).
Và sau cùng Chúa phải chịu đóng đinh vào thập giá (Lc 23,33).
Tất cả những điều này đã làm lu mờ sự nghiệp của Chúa: nào làm bánh hóa ra nhiều – nào kẻ mù được sáng – kẻ điếc được nghe – kẻ câm được nói – kẻ què được đi – kẻ chết sống lại với những niềm tin Người là Đấng Cứu thế muôn dân đợi trông – là Con Thiên Chúa, tất cả đều tan đi như mây khói.
Nhưng ở đời có tan thì lại có hợp, có mưa rồi lại có nắng, và có thất bại rồi mới có thành công vì như người ta nói:”Thất bại là mẹ thành công”. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn, bởi vì người ta thường nói: chết là hết, bao nhiêu sự nghiệp đều tiêu tan. Có biết bao nhiêu anh hùng cái thế, bao nhiêu bậc vĩ nhân trên thế giới đã làm được những công việc vĩ đại, nhưng rồi họ cũng đã ra đi, họ bị lãng quên cùng thời gian, họa chăng chỉ còn trong sử sách.
Nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã thành công giữa những thất bại. Những thất bại Ngài phải chịu trong một thời gian càng làm cho thành công của Ngài thêm vinh quang. Đúng như văn hào Corneille đã nói:”Chiến đấu có gian nan, khải hoàn mới vinh quang”. Nhìn vào cuộc tử nạn của Ngài, ta thấy Ngài thất bại hoàn toàn bởi vì bao nhiêu sự nghiệp lẫy lừng Ngài đã làm trong ba năm truyền giáo đã bị tiêu tan. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại như lời Ngài đã báo trước lúc còn sinh thời. Ngài đã sống lại, nên các sự nghiệp xem ra đã bị tiêu tan, ngày này cũng được sống lại theo và muôn đời sẽ còn ghi nhớ những công việc ấy. Ngày nay, sau 2000 năm, hằng tỷ người vẫn còn nhắc đến những sự kiện ấy, nhất là trong Tuần thánh vừa qua.
II. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI THƯỜNG.
1. Suy nghĩ của người đời.
Trong cuộc sống hằng ngày, không ai dám nói rằng mình chưa bao giờ gặp đau khổ, chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chỉ có những kẻ không làm gì thì mới không thất bại. Thất bại và thành công luôn đi đôi với nhau, cũng như vinh với nhục là chị em với nhau, đã có vinh thì có nhục:
Nước dưới sông có khi trong khi đục,
Trang anh hùng có khi nhục khi vinh.
(Tục ngữ)
Xưa nay biết bao người không thành công, chí không đạt được, là vì bỏ cuộc giữa đường, thất vọng tràn trề khi gặp hết tai nọ đến nạn kia. Người có chí phải bền gan gánh vác việc đời, bắt chước theo câu phương ngôn người Nhật:”Ngã xuống bảy lần, lần thứ tám đứng dậy “ mà hành động thì mới mong thành đạt.
Ngày xưa, Hán Bái Công đánh với Hạng Vũ, trăm trận đều thua, vậy mà ông vẫn không hề thối chí, cho đến khi thắng trận cuối cùng thì thành được đế nghiệp. Lưu Bị đời Tam quốc, lúc chưa gặp thời, lang thang ở trọ hết nơi này sang nơi khác, không mảnh đất dung thân, thất bại bao phen, nhiều lần suýt vong mạng, vậy mà vẫn bền gan chịu đựng cho đến ngày làm vua một cõi.(Nguyễn văn Y, Có chí thì nên, 1971, tr 24-25)
Muốn thành công phải chấp nhận thất bại vì như người ta thường nói:”Thất bại là mẹ thành công”. Đối với người hèn kém thì thất bại là cơ hội làm cho họ nhụt chí, còn đối với người hùng thì thất bại là dịp thúc đẩy họ tiến lên hơn.
Vì thế, René Bazin, hàn lâm viện Pháp, có khuyên mọi người:”Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ nhất cần phải có, vì nhờ đó mà ý chí ta thêm cứng cát. Lần thất bại thứ hai có thể có ích. Bị bại lần thứ ba mà anh vẫn đứng vững, thì anh thật là một người..., anh như chùm nho chín ở trên đá sỏi: Không có thứ nho nào ngọt hơn nữa”.
Hòn sỏi nào tròn trịa trơn láng mà chẳng phải chịu biết bao nhiêu sự cọ xát từ tháng năm này sang tháng năm khác. Con người muốn đạt được sự cao qúi của tâm hồn, học hỏi được kinh nghiệm sống, không thể chưa từng va chạm tới trăm đau nghìn khổ. Xưa nay anh hùng hào kiệt, chí sĩ văn gia, những bậc tài hoa dường như đều trần ai như thế cả. Nếu mỗi lần gặp gian nguy, trở ngại mà lùi lại thì bao giờ mới đặt chân được đến đài vinh quang (Sđd, trang 27).
Cũng trong tư tưởng ấy, Abraham Lincoln nói:”Điều mà tôi muốn hiểu trước hết, không phải là anh có thất bại không, mà là anh có biết chấp nhận sự thất bại của anh không”.
Ông Henry Ford cũng khuyên:”Một cuộc thất bại chỉ là cơ hội để thử lại lần thứ nhì với nhiều khôn ngoan hơn”.
2. Chuyển bại thành thắng.
Trong cuộc sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng, chúng ta đã có kinh nghiệm: không thiếu gì thành công, nhưng cũng chứa đầy thất bại. Có người vui sướng đón nhận những thành công và buồn rầu chấp nhận thất bại ; nhưng cũng có những con người xứng đáng là con người: đón nhận thành công nhưng cũng bình tĩnh và đôi khi vui lòng đón nhận thất bại. Đối với những con người này, họ coi thất bại chỉ là động lực khiến họ mạnh dạn tiến lên đến thành công. Thành thử, thất bại không còn gì là đáng sợ mà chỉ là cơ hội cho họ can đảm hơn.
Ai cũng đã có lần thành công mỹ mãn, nhưng cũng đã có lần gặp những thất bại chua cay. Thất bại cũng có ý nghĩa của nó.
Có hai loại thất bại:
- Thất bại khách quan (hay thụ động , tiêu cực).
- Thất bại chủ quan (hay chủ động, tích cực).
Thất bại khách quan: đó là những thất bại không thể tránh được vì nó vượt quá sức lực của con người. Đó là tình trạng bi đát, không còn cách nào tránh né và cũng không thể chỗi dậy được. Đối với những loại thất bại này, người ta chỉ thụ động chịu đựng ví dụ như bệnh tật, sa cơ thất thế, thua trận...
Thất bại chủ quan: đó là những thất bại có tính toán trước theo phương pháp:”Thả con tép, bắt con tôm” hay “Hy sinh đời bố, củng cố đời con”. Người ta sẵn sàng chịu những thất bại nhỏ để đạt tới những thành công lớn, hay ít ra chịu thất bại trước mắt để thành công trong tương lai. Như vậy, người ta không nhằm rước lấy thất bại những nhằm đón lấy thành công sau này.
- Chúng ta đã có kinh nghiệm trong thể thao: muốn nhảy xa, muốn nhảy cao, người ta phải lùi lại nhiều bước rồi mới tiến lên, mới nhảy cao, nhảy xa được, những bước lùi đó chính là những bước tiến, vì không có nó thì không thể nhảy cao, nhảy xa được.
- Trong chiến trận cũng thế: đôi khi người ta phải giả vờ thua chạy tháo lui cho quân địch đuổi theo, khi quân địch lọt vào vòng vây, khi ấy người ta mới phản công, chiến thuật này rất nguy hiểm, đã bị lọt vào trong vòng vây, quân địch không còn cách nào tháo lui được nữa và chắc chắn người ta thành công.
- Trong cuộc sống hằng ngày, người ta cần phải hiểu phương cách “Tiến thoái”. Tiến là đi lên, thoái là đi xuống hoặc rút lui. Có một sự tương quan biện chứng giữa tiến và lùi. Tiến chưa hẳn đã thắng và lùi chưa hẳn đã thua. Trong cái lùi đã có cái thắng. Như trong thể thao và trận chiến, chúng ta đã nhận thấy phải có lùi thì mới tiến được , lùi là điều kiện phải có để tiến, lùi đây là lùi chiến thuật.
Chúng ta thử xem câu nói này có đúng không ? Mới đọc xem ra vô lý, nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì câu nói ấy rất hay. Đây là một kiểu nói bắt người đọc phải động não mới tìm ra ý nghĩa của nó:
“Một ngàn việc tiến,
“Chín trăm chín mươi chín việc lùi,
đó là TIẾN BỘ”.
(Henri Frédéric AMIEL)
III. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG.
1. Chúa đã sống lại thật.
Khi còn sinh thời, Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo trước Ngài sẽ bị bắt, đánh đòn, giết chết và sau ba ngày thì sống lại. Sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây đền thờ Giêrusalem trong ba ngày đã là những hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu sống lại sau ba ngày đã chết. Trên dương gian này, những ai đã chết là chết luôn, chỉ có Đức Giêsu mới có thể dùng quyền năng của mình mà tự sống lại.
Đức Giêsu đã sống lại thế nào ? Ai đã khám phá ra điều này ? Cả bốn sách Tin mừng đều tường thuật về biến cố này, nhưng đều không cho biết Đức Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự, không ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng này. Nhưng có những nhân chứng đã thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ, và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Đức Giêsu.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Đức Giêsu phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên mà phải dùng đến đức tin. Cho nên, đối với chúng ta việc Chúa sống lại là vấn đề đức tin: phúc cho ai không thấy mà tin.
2. Phải sống theo niềm tin ấy.
Trong mùa Phục sinh chúng ta vẫn đọc đi đọc lại câu:”Người đã sống lại thật như lời đã phán hứa”. Chúng ta tin thật Đức Giêsu đã sống lại như lời minh chứng của Thánh Kinh, chúng ta hân hoan ca mừng việc Chúa sống lại vì Ngài đã chết để tiêu diệt sự chết và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Chúng ta tin chắc như vậy ! Nhưng tin như thế vẫn chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin ấy ra trong cuộc sống hằng ngày. Phải theo gương Đức Giêsu mà chết đi để rồi mới sống lại được. Phần thưởng của chúng ta chỉ có được sau khi đã trải qua mọi thử thách trong cuộc sống ở trần gian này: per crucem ad lucem !
a) Có những nghịch lý phải chấp nhận.
Chúng ta đã có một gương sán lạn của Đức Giêsu: Người đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Trước mặt người đời, người ta cho là Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn vì chết là một thất bại, mọi sự nghiệp đã tan thành mây khói. Nếu chết là hết mà không có sự sống lại thì Đức Giêsu bị thất bại hoàn toàn, nhưng sau cái chết đã có sự sống lại. Ngài đã dùng sự chết để đánh tan cái chết và sống lại để phục hồi sự sống lại cho chúng ta. Vậy Ngài đã chuyển bại thành thắng, đã thành công trong thất bại.
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, phải lột bỏ con người cũ đầy tội lối để mặc lấy con người mới thánh thiện. Chúng ta có chết đi cho tội lỗi thì mới hy vọng được sống lại vinh quang như lời Chúa Giêsu dã nói:”Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Như vậy, chúng ta phải đón nhận những thất bại đời này để chuẩn bị cho đời sau. Đây chỉ là thất bại chiến thuật vì trong thất bại đã có chiến thắng.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy có những nghịch lý. Nghịch lý là điều thoạt xem có vẻ phi lý nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Chúng ta thấy có nghịch lý giữa “mất” và “được” hay giữa “bị” và “được”. Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn “được” và sợ “mất”, muốn “sống” hơn là “chết”. Nhưng nghịch lý thay ! Nhiều khi vì “được” mà phải “mất”. Ví dụ: bạn muốn cho có một mùa bội thu thì hạt giống phải “bị” mục nát ra thì mới có thể “được” một mùa bội thu, nếu không “bị” thì cũng chẳng có “được”.
Hay một ví dụ khác: trong một vụ tranh cãi bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu mô để tranh cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng trong vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè hay người thân; trái lại, nhiều khi “mất” mà lại “được”. Ví dụ: thánh Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài biện hộ cho một vụ kiện lớn, ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp cho ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là giả trá, ngài đi tìm một lẽ sống khác và trở thành một vị thánh lập dòng (Cf Carôlô).
Chúng ta cũng thấy có một nghịch lý nữa giữa “sống” và chết”. Chết và sống không phải là ø hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Ví dụ: con vật phải chết đi mới có thịt nuôi sống con người, hay cây nến sáp phải chảy ra và bị đốt thì anh sáng mới bùng lên soi sáng cho con người.
Đối với cái chết của Chúa trên thập giá cũng vậy. Đức Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng trong sa mạc là hình ảnh loan báo trước:”Khi các ông đưa Con người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
Vì thế, chính khi Đức Giêsu “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Đức Giêsu là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Thiên Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy nghiền ngẫm câu nói của Đức Giêsu:”Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25). Như vậy, chúng ta thấy rõ tương quan giữa cái “mất” và cái “còn”.
Truyện gợi ý: Phải biết tan biến đi
Nếu Đức Giêsu là người Ả rập, thì thay vì hình ảnh của hạt lúa được gieo vào lòng đất, có lẽ Ngài sẽ kể câu truyện ngụ ngôn sau đây:Một dòng suối mát rơi từ ngọn núi, chảy qua một đồng bằng cho đến khi chạm đến một sa mạc. Tại đây, nó chợt nhận ra nước của mình bắt đầu bốc hơi và khô dần. Dù vậy, dòng nước vẫn quyết tâm băng qua sa mạc. Nó nghe có tiếng thì thầm:
Nếu ngươi muốn, ngươi có thể băng qua sa mạc được, bởi vì gió vẫn làm được điều đó.
Dòng suối giận dữ:
Nhưng ta có phải là gió đâu ?
Nó thấy gợi ý của tiếng thì thầm là điều ngu xuẩn, nhưng tiếng nói vẫn tỏ ra kiên nhẫn:
Gió sẽ mang ngươi đi. Dĩ nhiên với điều kiện là ngươi phải tan biến đi trong gió.
Dòng suối suy nghĩ miên man về ý nghĩa này: nó vẫn chưa hiểu được tại sao nó phải tan biến đi, phải chăng nó phải đánh mất chính mình ? Điều gì bảo đảm được rằng khi băng qua hết sa mạc, nó sẽ tìm lại được bản thân một cách nguyên vẹn ?
Đọc được ý nghĩ của nó, gió mới lên tiếng
Ngươi chỉ cần tin tưởng nơi ta, không còn cách nào khác nữa đâu.
Dòng suối vẫn tiếp tục giữ giọng kiêu hãnh:
Đồng ý, nhưng ta không thể chấp nhận tan biến được.
Tiếng nói thì thầm giải thích:
Ngươi không thể băng qua sa mạc mà vẫn giữ nguyên hình nguyên trạng được. Làm thế ngươi chẳng khác nào một con rắn xấu xí, nhưng nếu ngươi để cho gió mang ngươi đi xuyên qua sa mạc, thì bên kia sa mạc, ngươi sẽ hiện nguyên hình là một dòng suối xinh đẹp.
Dòng suối thắc mắc:
Vẫn một dòng suối như cũ ư ?
Giọng nói giải thích:
Dĩ nhiên, ngươi sẽ tìm gặp lại bản thân, tóm lại nếu ngươi cứ chần chừ đứng ở đây, ngươi cũng sẽ đánh mất chính mình ngươi mà thôi.
Thế là dòng suối chấp nhận biến thành hơi nước và để cho gió mang đi. Nó cùng với gió băng qua sa mạc. Và khi cả hai đến đầu ngọn núi bên kia sa mạc, gió để cho nó rơi từ từ như mưa. Không mấy chốc, dòng suối gặp lại chính nó, đẹp hơn, trong suốt hơn.(R. Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 96-97)
Hạt lúa có được gieo vào lòng đất để thối đi mới có thể sinh hoa kếtr quả. Dòng suối có chấp nhận tan biến trong gió mới có thể gặp lại bản thân. Đây là định luật của cuộc sống thiêng liêng mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta. Đây là con đường siêu thoát, con đường chiến đấu, ai muốn được sự sống đời đời không thể đi theo con đường nào khác.
b) Chiến đấu không lùi bước.
Đức Giêsu đã chỉ đường dẫn lối cho chúng ta tiến tới cuộc sống đời đời. Con đường ấy là con đường khổ giá. Con đường từ bỏ, con đường siêu thoát chính mình, vì Đức Giêsu đã phán:”Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Đấy là con đường một chiều, ai đã theo thì chỉ có tiến chứ không có lùi, như thế mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa:”Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”(Lc 9,62).
Thập giá của Chúa trao không nặng lắm, luôn vừa sức ta, nhưng đòi hỏi ta phải kiên trì vác hằng ngày vì sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày ấy. Hãy bắt tay vào việc ngay, đừng chần chừ, đừng để công việc hôm nay sang ngày hôm sau. Về vấn đề này, ta hãy nghe John Newton nói:
“Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”.
Hãy tin tưởng cất bước, quyết không lùi trước những khó khăn. Phần thưởng chỉ dành cho những ai chiến đấu và kiên trì cho đến cùng. Hãy tin tưởng vào Chúa, Đấng đã trải qua mọi khó khăn sẽ giúp đỡ chúng ta vượt qua mọi thử thách. Trong cuộc chiến này, chúng ta chỉ biết tiến chứ không biết lùi.
Truyện: Quên bài kèn rút lui.
Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh:”Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều”.
Tên lính trẻ được lệnh, nhảy tót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng bất ngờ. Tuy nhiên, hoàng đế Napoléon sai bắt tên lính kèn kia lại, và khiển trách y rất nặng nề về tội bất tuân thượng lệnh. Anh lính bình tĩnh tâu:”Muôn tâu đức vua, từ khi được theo bước chân ngài trong binh lửa, và chiến đấu trăm trận đều trăm thắng cho nên hạ thần đã quên hẳn bài kèn rút lui rồi”.
Muốn có chiến thắng thì phải chiến đấu. Chiến đấu càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Không có thành công nào mà không đòi cố gắng. Thành công của chúng ta là biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Để giúp chúng ta biết cách kiên trì sống theo thánh ý Chúa với niềm tin tưởng trong gian truân, chúng ta hãy đọc đoạn thư của thánh Phaolo âtông đồ gửi cho tín hữu Do thái sau đây:
“Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy ? Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình ; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
-----------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Đó là lời hô vang của các môn đệ xưa. Đó là lời loan báo của những người phụ nữ đầu tiên được gặp Chúa Kitô phục sinh. Tin Mừng phục sinh được vang lên trong Hội Thánh trong khắp buổi đầu. Tin Mừng này còn được vang lên mãi, vang lên mãi để tuyên xưng niềm tin, mời gọi nhân loại, mời gọi con người sống niềm hy vọng. Chúa Kitô đã sống lại, alléluia. Chúa Kitô sẽ làm cho chúng ta được sống lại như Người.
CHÚA GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI:
Chúa nhật phục sinh là Chúa nhật vĩ đại cho toàn thể nhân loại, cho những người có đức tin. Bởi vì, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, Chúa Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết.Mọi người chúng ta không được chứng kiến sự phục sinh của Chúa như các người phụ nữ, như các môn đệ, nhưng Kinh Thánh, và việc làm chứng của các môn đệ, của những người phụ nữ, của Hội Thánh là lời tuyên xưng đức tin không hề lay chuyển. Thánh Phaolô đã viết trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô 1Co 15, 14:” Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì việc rao giảng của chúng tôi trở nên vô ích và đức tin của anh em cũng trống rỗng nữa “.Ơn huệ Thiên Chúa trao ban, ơn phục sinh Chúa Kitô đem lại củng cố đức tin của chúng ta, đến nỗi mỗi lần tung hô đức tin sau khi truyền phép, chúng ta cùng với Hội Thánh muôn thời tung hô:” Đức Kitô đã chết, Đức Kitô đã sống lại, xin cứu độ chúng con “. Chúa Kitô quả thực cứu độ chúng ta và qua cái chết, qua sự sống lại của Ngài, Ngài muốn làm cho mọi người được phục sinh với Ngài:” Bằng sự chết, Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta, bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống cho chúng ta. Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến trong vinh quang “. Chúng ta hy vọng, niềm hy vọng vào sự sống lại sẽ giúp chúng ta vui sống, tin yêu, phó thác vào Chúa. Chính nhờ niềm vọng vào đời sống mai sau, chúng ta sẽ chấp nhận sự sống hiện tại và vững lòng tin yêu sống tình yêu và sự sống của Chúa trong hiện tại:” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Chấp nhận sống tình yêu trong hiện tại sẽ mở ra chân trời hy vọng tốt đẹp cho mỗi người có lòng tin vào Chúa.
TIN MỪNG PHỤC SINH LUÔN VANG LÊN, ALLÉLUIA:
Chúa nhật phục sinh là lễ của mọi lễ bởi vì Hội Thánh mừng ngày Chúa Kitô khải hoàn. Tin Mừng phục sinh hôm nay vẫn vang lên, vang lên mãi mãi như lời thánh Phêrô diễn tả trong bài đọc I hôm nay:” Chúa Kitô, Đấng mang Tin Mừng đến cho nhân loại, và chữa mọi người bị quỉ ám, đã bị giết treo trên cây thập giá, nhưng ngày thứ ba Người từ trong kẻ chết sống lại”. Tin Mừng phục sinh luôn thôi thúc, giục giã mọi người lên đường làm chứng cho Chúa Kitô sống lại. Người Kitô hữu luôn sống hy vọng và luôn sống tình yêu hiện tại tràn đầy bởi Đức Kitô đã phục sinh để đem lại tình yêu vô biên cho mọi người:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu tự hiến, tình yêu nhưng không, tình yêu cao cả. Sống tình yêu như Chúa là sống trong niềm hy vọng phục sinh: Alléluia.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Chính nhờ sự sống lại của Chúa Kitô mà nhân loại, con người và mọi người sẽ luôn hy vọng, một chân trời mới mở rộng.Bởi vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì đức tin của chúng ta trở nên hão huyền, mơ hồ và vô ích. “ Lạy Chúa, bởi thánh giá và sự phục sinh của Người, Người đã giải thoát chúng con; Người là Đấng cứu độ của thế gian “.
Alléluia.Alléluia.Alléluia. Chúa Kitô đã sống lại để chúng ta được đi vào sự sống mới và được sống lại với Ngài. Alléluia.
Xin cho chúng con luôn xác tín và tuyên xưng niềm tin Chúa Kitô phục sinh để chúng con không nhát đảm, lùi bước trước những khổ đau, thất vọng ê chề trong cuộc đời. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
-----------------------------
Một thiền sư kia gọi các môn đệ mình đến vào một buổi sớm tinh sương và hỏi: “Làm sao biết đuợc lúc nào đêm chấm dứt và ngày bắt đầu?”
Một môn đệ nhanh nhẩu đáp: “Khi thấy một con vật và biết đó là chiên hay dê.” Một môn đệ khác thưa: “Khi nhìn một cây từ đàng xa và biết đó là cây sồi hay cây dẻ.” Rồi lần luợt từng môn đệ đều ướm thử câu trả lời nhưng vị thiền sư vẫn lắc đầu nguầy nguậy. Cuối cùng tất cả đều đồng thanh hỏi: “Thế thì Thầy hãy nói cho chúng con biết khi nào đêm chấm dứt và ngày bắt đầu?” Vị thiền sư chậm rãi trả lời: “Ngày chỉ bắt đầu khi các con dám nhìn vào mặt mỗi người và nhận biết họ là anh chị em mình. Nếu không, thì dẫu có giữa ngọ trưa đi nữa, đêm vẫn chưa tàn và ánh mắt trời vẫn chưa toả chiếu!!!”
Bài Phúc Am Chúa Nhật Phục Sinh kể về người phụ nữ đầu tiên mang tên Mai Đệ Liên đến ngôi mộ trống lúc trời vừa mờ sáng. Bóng tối lúc ấy đang còn bao phủ cả vạn vật và cả tâm hồn người thiếu phụ họ Mai đang điếng người vì nghi ngờ và sợ hãi: “Người ta đã lấy xác Thầy ra khỏi mồ!” Chỉ đến khi Chúa Giêsu gọi chính tên mình, Mai Đệ Liên mới hoàn hồn, thấy và hiểu điều phải thấy và hiểu: Chúa đã từ cỏi chết sống lại.
Nghịch lý của mầu nhiệm Phục Sinh -một sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử con người- là đời sống mới không lộ rõ nguyên hình nhưng chỉ tiềm ẩn trong Chúa Kitô. Và đời sống mới ấy chỉ thực sự có ý nghĩa khi dám áp dụng mầu nhiệm ấy vào những môi trường chúng ta đang sống chung quanh.
Chúa đã sống lại nhưng Người không thay đổi thế giới. Con người vẫn cần phải lao động. Vẫn cần phải sống kỷ cương. Vẫn cần phải luôn hy sinh dâng hiến. Nhưng sự phục sinh đã tăng thêm nghị lực để chúng ta có thể “đổ mồ hôi sôi nước mắt” và sống một đời sống dâng hiến kỷ cương.
Mấu nhiệm Phục Sinh cũng không phải là cây đủa thần giải quyết những vấn nạn của thế giới và của đời sống riêng tư. Nhưng qua mầu nhiệm Phục Sinh, chúng ta đã có thể nhìn những vấn nạn trên bằng con mắt đức tin mình.
Shartacos đã nói rằng chính cây thánh giá đã cấy hy vọng cho toàn nhân loại. Khi Chúa Giêsu lê tấm thân tàn đầy bùn nhơ và nước bọt vác thánh giá trên đường lên Núi Sọ, Người đã hiểu thật hiểu thực tế cuộc đời; những đau đớn xác thịt quyện với những xé nát tâm can. Nhưng chính những hy sinh trời biển của Người đã mang lại niềm tin cho ngàn muôn thế hệ: mất mát thiệt hại cho mình lại là hồng ân tuôn đổ xuống tha nhân.David Watson đã viết là “cọng rác trong mắt người phản chiếu cái xà trong mắt ta.”
Chúa đã chết cho mỗi chúng ta được sống và Người đợi đến khi ta nhắm mắt xuôi tay mới thưởng kẻ có công và luận phạt người có tội. Đấng Tạo Thành đã rộng lòng như thế, lẽ nào tạo vật chúng ta lại xét đoán hơn Người?
Khi câu Alleluia đuợc trang trọng xướng hát lên Chúa Nhật này sau 40 mươi ngày lặng tiếng, hãy gắng đưa mắt nhìn và tìm khuôn mặt Chúa đang ẩn hiện chung quanh. Nếu không, bóng tối vẫn còn đang néo kíu tâm hồn và bình minh Phục Sinh vẫn chưa buồn ló dạng…
Lm Nguyễn Khoa Toàn
-----------------------------
Chúa Nhật Phục Sinh là Cngày trọng đại nhất trong năm. Cả Hội Thánh Công giáo hân hoan vui mừng kỷ niệm ngày Đức Kitô Phục Sinh. Đây là niềm vui vỡ bờ của cả nhân loại, kẻ tin cũng như người không tin. Vì Đức Giêsu Phục Sinh, Đấng đã được Thần Khí đưa vào giới Thiên Chúa, và đã nên nguồn suối thông ban Thánh Thần cho cả nhân loại.
Chúng ta cần phải nhất trí với nhau một điều hết sức quan trọng này là:
1. Về phía Thiên Chúa, trong mầu nhiệm cứu chuộc, sự chết thập giá của Đức Giêsu và sự sống lại vinh hiển của Ngài là một mầu nhiệm duy nhất.
2. Về phía những kẻ tin, nếu lãnh nhận bí tích rửa tội cho ta thông chia sự chết của Chúa Kitô; thì cùng một lúc cũng cho ta thông chia sự sống lại với Người. Chúng ta được thông chia ngay nơi chính bản thân của mình, đến độ trở thành những kẻ đang sống trong sự phục sinh của Đấng sống lại, ngay lúc đang ở giữa muôn vàn khó khăn trần thế này.
Bài Tin Mừng thánh Gioan kể lại việc Chúa phục sinh. Những sự việc chính mắt ông đã thấy và tay ông đụng đến được. Chủ yếu của thánh Gioan là nói đến việc nôn nóng của Maria Mađalene và sự hối hả của hai tông đồ Phêrô và Gioan. Hai ông chạy đến để xem một ngôi nhà mồ trống không. Kinh Thánh viết: Bà Maria người thành Madagla đi đến mồ lúc sáng sớm, khi trời còn tối và thấy viên đá chặn bít cửa đã được cất đi khỏi mồ. Bà liền chạy về báo cho Phêrô và Gioan rằng, người ta đã lấy mất Chúa khỏi mồ rồi. Phần Phêrô và Gioan nghe tin ấy thì cuống cuồng cả lên. Kinh Thánh nói: Cả hai cùng chạy với nhau. Khi đến mồ hai ông chỉ thấy khăn phủ đầu và những dải vải cột xác Đức Giêsu đã được xếp lại ngăn nắp để riêng ra một chỗ. Kinh Thánh nói tiếp: “Gioan đã thấy và ông đã tin”.
Trong biến cố Phục sinh của Đức Giêsu có 3 sự kiện rất quan trọng và rất căn bản đó là:
1. Mồ trống: Sự kiện này tuy tiêu cực nhưng rất cụ thể.
2. Những lần Chúa Giêsu hiện ra: Đây là một sự kiện tích cực, giá trị cả về mặt tự nhiên cũng như siêu nhiên. Phêrô đã lớn tiếng tuyên xưng việc này trước dân ngoại như sau: “Đức Giêsu Đấng mà người Do Thái đã treo trên cây gỗ mà giết đi. Chính Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại ngày thứ ba, và đã hiện ra tỏ tường không phải cho toàn dân, nhưng mà cho những nhân chứng Thiên Chúa đã chọn trước là chúng ta, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài đã sống lại từ cái chết.” (CVTĐ 10, 39-41)
3. Đức tin: Đây là điều quan trọng nhất trong biến cố sống lại, vì đụng đến ơn cứu độ không phải chung chung cho thế giới, mà ơn cứu độ cho riêng bản thân từng người. Trong Kinh Thánh biết bao lần Đức Giêsu đã nói: “Lòng tin của con đã cứu con” (Mc 10,52; Mt 9,22) (chỗ này nên đọc Ephêsô 2,8-9; nếu không sẽ bị lấn cấn).
Tin là một điều rất quan trọng, nên chúng ta được gọi là tín hữu, nghĩa là những kẻ tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh thì được cứu (Rm.10, 9).
Biết bao nhiêu người đã được nghe các môn đồ Đức Kitô rao truyền việc Đức Giêsu chịu chết, tuyên xưng việc Chúa sống lại, nhưng mà họ không tin.
Hôm nay cũng vậy biết bao nhiêu người trí thức nghiên cứu Kinh Thánh, nhưng không tin Đức Kitô Phục Sinh, không tin vào Lòng Thương Xót Chúa!
Thế nên trong thư Ephêsô, thánh Phaolô nói: “Chính bởi ơn huệ mà anh em đã được cứu, nhờ lòng tin, mà lại không phải do tự anh em. Đó là ơn tự Thiên Chúa ban.”
Là Kitô hữu, chúng ta là những kẻ tin, tức là những kẻ chịu ơn huệ vô cùng lớn lao của Thiên Chúa. Thế mà biết bao Kitô hữu tuy đã được dìm chết đời tội lụy mình trong sự chết của Đức Kitô nơi bí tích thanh tẩy, để được sống lại trong Thần Khí Đức Giêsu Phục Sinh, mà vẫn lê lết một cuộc sống như những kẻ không có đức tin.
Gặp Chúa là một ơn huệ. Bà Maria Mađalena buồn bã vì thấy mồ trống. Các môn đồ của Đức Giêsu cũng phải qua những ngày hoang mang, hốt hoảng: “Thầy chết rồi! Chúa đâu rồi?” Nhưng Đức Giêsu đã nói với họ: “Các con sẽ khóc than, các con sẽ ưu phiền nhưng sự ưu phiền các con sẽ trở thành niềm vui” (Gn 16,20).
Hội Thánh Chúa Kitô cũng muốn cho các tín hữu của mình, trong suốt một năm phụng vụ đã sung túc dư đầy ân sủng, phải có ít ngày sống trong cảnh mồ trống. Chúa đâu rồi? Nhìn vào các nhà chầu Thánh Thể, cửa mở toang ! Trống không ! Khăn bàn thờ cũng bị lột mất, để trơ trọi một cái bàn quạnh hiu vô tri vô giác. Lúc ấy lòng mỗi tín hữu phải nôn nao thế nào ? Nhưng có nơi thấy quang cảnh buồn quá lại vội lấp vào khoảng trống ấy bằng những nghi thức đa tạp ồn ào ngoài phụng vụ cho vui, nên mất hết ý nghĩa. Mất Chúa thì đúc bò vàng!
Trong cuộc đời nhiều lúc ta cũng chỉ thấy mồ trống. Đức Kitô đi vắng đâu mất! Chỉ thấy ốm đau, hết tiền, hết bạc, làm ăn lụi đụi, đụng đâu hư đó, cơ cực trăm bề. Chán cả nhà thờ, chán cả kinh kệ. Chúa đi đâu? Giống như Maria Mađalena chạy đôn đáo, khóc lóc đi tìm cái xác Chúa. Hôm nay Đức Chúa của tôi đã Phục sinh. Ngài đến cách khác, đến ngay trong cái lận đận long đong cay đắng cơ cực của tôi. Cao hơn, tốt hơn cái ước muốn của tôi.
Thánh Phaolô nói: “Anh em đã cùng sống lại với Đức Kitô, hãy tìm kiếm những điều trên cao, đừng hướng chiều về những điều dưới đất. Quả vậy, anh em đã chết, và sự sống của anh em đã được tàng ẩn nơi Thiên Chúa, làm một với Đức Giêsu Kitô” (Col 3,1-4).
Lời này khó hiểu cho nhiều người, và chói tai đối với những ai tuy là Kitô hữu nhưng cái đích của họ là tiền của, danh vọng, chức tước, địa vị, trong đạo cũng như ngoài đời.
Thật sự Đức Kitô đã phục sinh, thế nhưng thực tế đau khổ và sự chết vẫn còn đó. Tuy nhiên, chúng ta phải nhận ra một điều, cho dù đau khổ và sự chết còn đó, nhưng nó đã khác rồi. Bởi vì nó đã mất hết khả năng, không thể tiêu diệt được những ai tin vào Đức Kitô nữa. Thánh Thần Thiên Chúa đã tràn ngập khắp vũ trụ, tràn ngập trên nhân loại, mãnh lực hỏa ngục đã bị đánh gục nơi chân Thập Giá rồi. Bất cứ ai, chỉ cần mở lòng ra cho Đức Giêsu Phục Sinh là tức khắc người ấy trở thành con cái ơn cứu độ.
Vì thế, tôi là người Kitô hữu đích thật thì tôi là người chấp nhận đau khổ và sự chết. Nói rõ hơn, tôi là người chấp nhận đau khổ và sự chết, bởi vì Thánh Thần của Chúa Giêsu Phục Sinh đã thấm vào trong tôi, tiêu diệt mầm mống và nọc độc của đau khổ và sự chết trong tôi. Nọc độc ấy là sự tội. Ngài biến đau khổ và sự chết ấy thành sự bình an khôn tả. Bởi vì sức mạnh để gánh lấy đau khổ và vượt qua sự chết không phải là sức mạnh của tôi nữa, mà là sức mạnh của Đức Kitô Phục Sinh, và bởi vì tôi đã phó thác đến mức bỏ ngỏ cả đời tôi cho Ngài rồi.
Lạy Đức Giêsu Kitô, nếu Ngài chết mà không sống lại thì chẳng còn gì để mà nói. Vì trên đời này, không ai có thể đặt niềm tin vào một kẻ chết, hay vào một kẻ đang sống mà cũng sẽ chết. Nhưng lạy Đức Giêsu Kitô, Ngài đã phục sinh. Hôm nay con tuyên xưng Ngài là Chúa của con, và con chỉ đặt mạng sống và sự chết của con trong bàn tay quyền năng đầy yêu thương của một mình Ngài mà thôi. Halleluia.
Lm Giuse Trần Đình Long, SSS
-----------------------------
Lm Giuse Nguyeãn Vaên Nghóa
Cùng chung nhỊp đẬp vỚi tim ĐẤng tỬ nẠn và phỤc sinh - Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Trước lễ Vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng”(Ga 13,1).
Đã yêu thì không biết dừng, vì biên giới của tình yêu là yêu thương không biên giới. Chúa Giêsu yêu thương nhân loại chúng ta, Người yêu thương từng người trong chúng ta bằng một tình yêu đến cùng cả trong mức độ lẫn trương độ. Tình yêu ấy được biểu lộ rõ nét và lên đến đỉnh cao nơi cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
CHÚA YÊU THƯƠNG TA ĐẾN CÙNG TRONG MỨC ĐỘ:
“ Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình hiến dâng mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 13,13). Chúa Giêsu đã thể hiện điều này bằng tấm thân trần trụi chẳng còn hình thượng nào trên thập giá. Sự hiến thân này được quyết định dứt khoát khi Người lập Bí tích Thánh Thể.
Mầu nhiệm Thánh Thể, một đề tài thật phong phú đã làm tiêu tốn biết bao nhiêu giấy mực mà dường như vẫn không tát cạn chút nào sự bao la và sâu thẳm của Tình Yêu Thiên Chúa qua mầu nhiệm này. “Giọt máu đào hơn ao nước lã”. Ngạn ngữ này không chỉ đề cao ưu thế của “tình huyết nhục” mà còn gợi cho chúng ta thấy một trong những biểu tượng của tình yêu mang đậm nét hiện sinh là máu-thịt. Tình yêu con người lên đến đỉnh cao khi nên một xương một thịt với nhau (x.Mc 10,8). Trích huyết ăn thề cũng là một cách thế tỏ bày tình yêu và sự tín thành với nhau. Máu- thịt vừa biểu trưng cho sự sống vừa biểu trưng cho tất cả những gì ta là. Không phải tôi có thịt máu này, mà thịt máu này chính là tôi.
“Các con hãy nhận lấy mà ăn. Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con… Này là Máu Thầy, Máu giáo ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Là tín hữu, chúng ta vốn quen và dễ thuộc những lời này. Dù rằng công thức truyền phép trong Thánh Lễ hiện nay có thay đổi vài chữ, nhưng nội dung lời Đức Kitô không hề đổi thay. Chúa Giêsu tự nguyện trao ban trọn vẹn bản thân mình để thể hiện tình Chúa yêu chúng ta, yêu nhân loại đến cùng. Thầy sẽ bị nộp vì các con, nghĩa là vì yêu, Chúa tự nguyện nhận lấy mọi hậu quả do tội chúng ta gây ra. Khi cho chúng ta tiếp nhận sự sống của Chúa, qua việc nhận Máu của Người là Chúa bày tỏ lòng khoan dung tha thứ. Và hiệu quả của sự thứ tha ấy là nhân loại chúng ta được cứu sống, được giải phóng khỏi ách nô lệ, được trở về làm con cái Chúa và thừa hưởng hạnh phúc Chúa trao ban.
Chúa Kitô lập bí tích Thánh Thể là vì chúng ta, nhân loại chúng ta đã phạm tội và đang ở trong cảnh nô lệ Thần Dữ. “Người mạnh khoẻ không cần đến thầy thuốc mà là người đau yếu. “Con Người đến để cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10). Như thế có thể nói Bí Tích Thánh Thể có ra là vì người tội lỗi chứ không phải cho người công chính. Mẹ Hôi Thánh đã nhắc nhớ chúng ta điều này nhiều lần trong Thánh Lễ bằng những công thức thống hối. Ngay trước khi lên “chịu” Thánh Thể, chúng ta một lần nữa được hướng dẫn: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…”. Phải, nếu Chúa không vì yêu thương tự nguyện đến với ta thì trên trần gian này chẳng một ai xứng đáng đón nhận Người. Chính Chúa đến mới làm ta nên xứng đáng chứ không phải vì ta xứng đáng rồi nên Chúa mới ngự vào. Không phải do Giakêu xứng đáng, nhưng chính nhờ Chúa Giêsu đến viếng thăm đã khiến cho Giakêu đổi thay và nên xứng đáng (x.Lc 19,1-10).
Hãy nhận lấy… và hãy làm việc này… Hai mệnh lệnh của tình yêu từ Bí tích Thánh Thể. Hãy nhận lấy để được thứ tha. Hãy nhận lấy để được cứu sống, được giải phóng và nên xứng đáng. Tuy nhiên chúng ta đừng quên mệnh lệnh thứ hai. Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Theo giáo lý truyền thống ta dễ xem đây là lời lập Bí tích Truyền Chức Thánh, lập nên hàng Tư tế thừa tác. Là con cái trong lòng Mẹ Hội thánh Công giáo, chúng ta tin nhận chân lý này theo thần học Bí tích. Thế nhưng đọc Thánh kinh, đặc biệt Tin Mừng, ta cũng phải thừa nhận một chân lý khác: bên cạnh một ân sủng luôn có đó một sứ mạng. Ân sủng càng cao quý thì sứ mạng càng trọng đại. Được thứ tha nhiều là để ta tha thứ cho tha nhân cách quảng đại. Được cứu sống là để ta biết nỗ lực giải phóng tha nhân khỏi ách nô lệ ma quỷ.
Hãy làm việc này…đâu phải chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài dành cho các bậc tư tế thừa tác. Cầm lấy bánh, rượu rồi đọc công thức truyền phép quả là khá dễ dàng, nhưng sống nội hàm của mệnh lệnh ấy mới là vấn đề. Hãy làm việc này… là tất cả những ai đã đón nhận ân ban qua Thánh Thể thì hãy dùng chính máu thịt của mình để gánh lấy hậu quả tội lỗi của nhau đồng thời giúp cho nhau được sống, sống dồi dào.
Là tín hữu giáo dân, chúng ta vốn thích thực hiện mệnh lệnh đầu tiên: hãy nhận lấy…Là hàng tư tế thừa tác, chúng ta có thực hiện thêm mệnh lệnh thứ hai: hãy làm việc này… Tuy nhiên, phải chăng chỉ dừng lại ở nghi thức cử hành Bí tích theo luật dạy. Tin Mừng Thánh Gioan không tường thuật việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể nhưng lại tường thuật việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Mẹ Hội Thánh cho ta nghe bài Tin Mừng này trong Thánh Lễ chiều thứ Năm Tuần Thánh, lễ Tiệc Ly, hẳn có ý nhìn nhận hành vi phục vụ trong khiêm hạ này chính là hành vi yêu thương tự hiến của Chúa thật cao quý không kém như khi Người tự hiến trong Bí tích Thánh Thể. Sau khi rửa chân cho các môn đệ Chúa Giêsu đã minh nhiên truyền lệnh: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”(Ga 13,14).
Không thực hiện mệnh lệnh thứ hai thì có làm mệnh lệnh thứ nhất cách đầy đủ nghi tiết theo luật dạy thì vẫn không chắc có được hiệu quả mong muốn. Xin hãy nhớ lại câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể về anh đầy tớ chỉ biết nhận mà không biết cho đi trong Mt 18,23-35: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao ?”(c.32-33). Cuối dụ ngôn, Chúa Giêsu khẳng định anh này đã chẳng nhận được sự gì.
Chúng ta đã từng rước Thánh Thể rất nhiều lần. Chúng tôi, các linh mục đã từng cử hành Bí tích Thánh Thể dường như hằng ngày. Chúng ta có dốc hết tâm huyết của mình để gánh lấy những hậu quả xấu xa do tội lỗi của những người trong đạo lẫn ngoài đời, đã và đang thấy đó trên quê hương Việt Nam, trên thế giới hay trong Hội Thánh ? Để cho Hội Thánh ngày thêm tinh tuyền, để cho quê hương và xã hội loài người phát triển trong công lý và hoà bình, chúng ta đã hao mòn máu thịt mình chút nào chưa đây ?
CHÚA YÊU THƯƠNG CHÚNG TA ĐẾN CÙNG TRONG TRƯƠNG ĐỘ:
Yêu thương, yêu hết cả lòng mà trong một lần, một lúc thì có thể đựơc lắm chứ. Tuy nhiên yêu hết mình, yêu hết sức, hết tâm hồn không chỉ một lần mà suốt cả đời, với mọi người, ở mọi nơi, mọi hoàn cảnh thì quả là không thể. Thế mà Chúa Giêsu đã và đang yêu chúng ta bằng mói tình ấy. Qua sự Phục sinh vinh hiển Chúa Giêsu vẫn tiếp tục ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế bằng Thánh Thần của Người để yêu thương chúng ta mãi mãi.
Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của anh em ra vô ích và chúng ta là những kẻ khốn khổ nhất (x. 1Cor 15,16-19). Ra vô ích có nghĩa là mất tất cả. Thánh Tông đồ dân ngoại lại nói rằng “khốn khổ nhất” thì dường như là “mất cả chì lẫn cả chài”. Mầu nhiệm Chúa phục sinh quả là mầu nhiệm có ý nghĩa sống còn đối với niềm tin Kitô hữu chúng ta. Việc Đức Giêsu phục sinh chính là bảo chứng cho phần phúc của chúng ta. Thế nhưng việc Ngài sống lại mãi vẫn là mầu nhiệm đối với các kẻ tin còn lữ thứ trần gian này. Đã nói đến mầu nhiệm là nói đến lý trí và nói đến mầu nhiệm cũng là nói đến sự góp phần của trí khôn. Đức tin là ân sủng Chúa ban, nhưng nó cũng là sự đáp trả của con người không nguyên bằng ý chí mà cả lý trí. Ngoài ơn Chúa ra thì truyền thống các tông đồ còn là nền tảng của đức tin chúng ta. Việc dùng trí khôn để đào sâu vào các mầu nhiệm thật chẳng khi nào thừa và hoài công cả, nhất là với mầu nhiệm có tính sống còn của đời Kitô hữu là mầu nhiệm Chúa Phục sinh.
CHÚA PHỤC SINH: MỘT MẦU NHIỆM
Chúa Kitô phục sinh không phải là một sự kiện hiển nhiên. Một Đức Giêsu đã chết, với nhiều người Do Thái hẳn đã rõ, còn việc Ngài phục sinh thì ít ai hay, và chắc chắn không một ai chứng kiến giây phút Ngài chỗi dậy từ cõi chết. Tân Ước, đặc biệt bốn Tin Mừng làm chứng cho ta điều này. Quả thật nếu việc Chúa Kitô sống lại mà hiển nhiên, nghĩa là tự nhiên rõ ràng thì chẳng còn vấn đề tin hay minh giáo. Việc một người đã chết và tự mình phục sinh không còn chết nữa hiện đang sống sờ sờ trước mắt ta thì quả là không cần khổ công rao giảng. Thế mà việc Chúa phục sinh mãi vẫn là một mầu nhiệm, là đối tượng của đức tin chúng ta tức là vẫn mãi cần đến sự suy luận của lý trí, cần đến chọn lựa và dấn thân của mỗi người.
Chúa Phục sinh đối tượng của đức tin. Ông đã thấy và ông đã tin (x. Ga 20,1-10). Đã không ít lần chúng ta được nghe giảng về mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô dựa vào chứng cứ là ngôi mộ trống. Một bằng chứng xem chừng có vẻ hùng hồn nhưng khó thuyết phục vì “cái không” chưa nói đủ về “cái có”. Tôi không buồn chưa chắc minh chứng là tôi vui; tôi không phản đối thì chưa chắc là tôi đã đồng thuận… Một kiểu chứng minh tương tự các lý lẽ minh chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa theo triết “kinh viện”. Thiên Chúa không là như thế này, không là thế kia tuy nhiên các lý lẽ ấy cũng khó dẫn người ta đến một kết luận rằng có một Đấng siêu việt, vì thực tế cho hay vẫn còn đó nhiều người không tin có Thượng đế.
Chúng ta còn được nghe các lý lẽ hùng hồn khác để luận bác những giả thuyết cho rằng Chúa không sống lại. Chẳng hạn giả thiết các môn đệ “chôm” xác Thầy thì có việc lính quân canh phòng cẩn mật và cả sự thiếu logic trong lời phao đồn của lính canh. Đã có lệnh rất nghiêm từ cấp trên thì sao lại ngủ quên hoặc đã ngủ quên thì sao lại có thể chứng kiến việc các tông đồ lấy trộm xác (x. Mt 28,12-15). Với giả thiết do động đất làm mất xác Đức Giêsu thì có tấm vải liệm và dây buộc làm phản chứng. Tương tự như thế với giả thiết cho rằng số hương liệu tẩm xác Chúa đã làm hủy thi hài…
Những cố gắng lý luận dựa trên sự logic hay căn cứ khoa học dẫu sao cũng là những lý chứng tiêu cực. Dù ta có bác bỏ một cách thuyết phục các luận chứng của kẻ khác nói rằng ta không đúng thì cũng không chắc chứng minh được rằng ta đúng. Xin đừng sa đà vào một trong những cách thế “nguỵ biện” của khoa luận lý học: tìm cách chứng minh đối phương sai để minh chứng rằng mình đúng. Vẫn có đó nhiều trường hợp đối phương sai mà ta cũng lầm.
Thế là ta phải cần đến các chứng cứ tích cực, tức là những lần Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra. Giả như Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra cho toàn dân thì ta khỏi phải loay hoay minh chứng. Đằng này Ngài hiện ra với trên năm trăm người theo lời Thánh Phaolô thuật lại (1Cr 15,6). Theo bốn Tin Mừng tường thuật, Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra chỉ dăm ba lần với một số người ít ỏi thuộc Nhóm Mười Hai, các Môn Đệ, những bà đã từng theo giúp Ngài trước đây.
Đây là điểm ta cần lưu ý cách đặc biệt vì nó là dấu chỉ của đức tin. Các Tông đồ, các môn đệ đã gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh. Vị Thầy mà họ gặp lại sau khổ nạn đã có nhiều đổi thay. Thân xác Thầy Chí Thánh đã biến đổi không còn như xưa nữa. Thân xác ấy nay không còn lệ thuộc thời gian, không gian, chợt có đó, chợt biến mất, hay dù cửa đóng then cài cũng không làm cản trở Ngài vào ra theo ý. Vóc dáng bên ngoài của thân xác ấy dường như cũng đổi thay. Khi Lazarô, người thanh niên con bà góa thành Naim, cô bé con bà Giaia cũng thân xác đó, hình dáng đó và chẳng một ai nghi ngờ còn Đức Giêsu khi sống lại thì ít ai nhận ra ngay Thầy mình dù là người rất thân quen.
CHÚA PHỤC SINH: CÓ ĐIỀU GÌ ĐÓ ĐÃ ĐỔI THAY
Ngày thứ nhất trong tuần Maria Madalêna ra mộ không thấy xác Chúa. Bà ở gần bên mộ mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào mộ thì thấy hai Thiên Thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu… Bà thưa với Thiên thần: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi và tôi không biết họ để Người ở đâu”. Nói xong bà quay lại thấy Đức Giêsu đứng đó nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu hỏi “ Này bà sao bà khóc ? Bà tìm ai ? “ Bà Maria tưởng là người làm vườn … (Ga 20,1.11-15). Một phụ nữ hết sức gắn bó với người mình yêu thì làm sao quên được dáng hình người ấy và cũng thật khó mà lầm lẫn với người khác. Madalêna đã được Thầy Chí Thánh trừ bảy quỷ, đã từng theo chân Thầy đến dưới chân thập giá, hẳn hình bóng người Thầy mình yêu đã khắc đậm vào tâm khảm thế mà giờ đây lầm tưởng là người giữ vườn, kể ra hơi nghịch thường. Ta có thể lý giải rằng Madalêna đang trong cơn phiền muộn và đôi mắt đang ngấn lệ, rất dễ “ trông gà hóa cuốc”. Thế nhưng với hai môn đệ đi thành Emau mà Tin Mừng Luca tường thuật thì chẳng có lý do gì để bào chữa. Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cùng đi với hai ông cả đoạn đường trên dưới 11 cây số thế mà họ cũng không nhận ra Ngài. Nếu dáng hình Đức Giêsu vẫn như xưa thật khó mà biện minh cho đôi mắt không chỉ một người mà cả hai người trong khoảng thời gian gần cả ngày ròng rã bách bộ bên nhau (x. Lc 24,13-29). Những lần Đức Giêsu hiện ra với các tông đồ và môn đệ thì các Ngài đều tưởng là ma hoặc hoài nghi và hết sức kinh sợ (x. Lc 24,37; Mc 16,14; Mt 28, 17). Riêng Tin Mừng Mathêu có tường thuật Đức Giêsu Phục Sinh gặp các bà và họ ôm lấy chân Người và bái lạy Người nhưng vẫn còn sợ hãi. Trên bờ hồ Tibêria tuy trời đã sáng, Đức Giêsu đứng bên bờ hồ nhưng các môn đệ đều không nhận ra (Ga 21,4).
Với các chứng cứ Tin Mừng nêu trên chúng ta có thể khẳng định thân xác của Đức Giêsu Phục Sinh đã được biến đổi khác trước nhiều. Điều này được thánh Phaolô xác nhận: “Ngày sau thân xác của chúng ta cũng sẽ được biến đổi như thân xác Phục Sinh của Đức Kitô” (x. Pl 4,21). Giả như sau này thân xác loài người chúng ta được sống lại mà vẫn như cái dáng vóc hiện tại thì bảo đảm 100% rất nhiều người chẳng muốn được sống lại. Là người, hình như ít ai hài lòng với số phận mình và với cả cái vóc dáng bề ngoài hiện nay của bản thân nhất là những người dị tật bẩm sinh (On n’est pas toujours content de son sort et même de son corps). Thật chẳng công bình chút nào đến khi thân xác được sống lại người ta lại phải mang lấy cái dáng vóc bất hạnh như hiện nay.
CHÚA PHỤC SINH: CÓ MỘT ĐIỀU KHÔNG THAY ĐỔI
Thế thì chúng ta cần truy tìm một cái gì đó không thay đổi nơi Đức Giêsu Phục Sinh để làm căn cứ cho các tông đồ, các môn đệ, các bà nhận ra Thầy của mình. Phải có một cái gì đó không hề đổi thay. Xin mạo muội khẳng định đó là tình yêu của Đấng Cứu Độ. Dù trời đất có qua đi thì Lời của Ngày vẫn tồn tại và nhất là mối tình của Ngài dành cho nhân loại chẳng hề thay đổi. Cái tình, tấm lòng của một người được bày tỏ bằng nhiều cách thế: kiểu nói, cách làm, lối sống…
Phêrô và người môn đệ kia chạy ra mộ, hai Ngài vào trong mộ và người môn đệ Chúa yêu đã thấy và đã tin. Cái mà ông thấy đâu chỉ có cái ngôi mộ trống nhưng là băng vải để đó và khăn che đầu Đức Giêsu khi tẩm liệm. Khăn này không để lẫn với các dây băng nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi (x. Ga 26). Ông đã thấy dấu chỉ của một vị Thầy xưa đã từng ở giữa các ông như kẻ hầu người hạ (x. Lc 22,27). Mỗi người có nét riêng trong kiểu sống, cách thế làm việc. Đã yêu nhau thời rất dễ nhận ra nhau qua các dấu chỉ quen thuộc: tiếng dép lê, cách ho, kiểu nói, cách sắp xếp vật dụng… Sự gọn gàng ngăn nắp như thế này chính tay Thầy chứ không một ai khác vào đây. “Ông Phê-rô và môn đệ liền kia đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tời mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn đó, nhưng không vào. Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.”(Gio 19,3-8).
Hai môn đệ trên đường Emmau cả ngày bên Thầy chí thánh mà mắt vẫn như mù dù trời vẫn sáng. Đến khi trời đã tối, vị khách được mời cầm bánh bẻ ra trao cho hai ông. Người mời phải là người phục vụ chứ. Sao khách lại làm công việc phục vụ của chủ ? Khách chủ đổi ngôi. Dù trời đã tối nhưng mắt hai ông chợt sáng, vì bóng dáng vị Thầy “ đến không phải để được hầu hạ nhưng để hầu hạ…” đây rồi. Hẳn đã hơn hai lần các ngài quen thuộc hành vi bẻ bánh phục vụ này của Thầy Giêsu. Năm ngàn và bốn ngàn người đàn ông ăn no nê chưa kể đàn bà và con trẻ. Diện mạo dù có đổi thay nhưng trái tim của Thầy vẫn mãi thế.
“Maria” quay lại Madalêna thưa: “Rabbôni”. Kiểu gọi ấy Madalêna làm sao quên được. Từ khi ngươi còn trong lòng mẹ, Ta đã gọi tên ngươi. Tình cảm con người vẫn thường được bộc lộ nơi cách gọi tên nhau. Lũ nhỏ khi mẹ gọi tên chỉ cần phân biệt cung cách, giọng gọi là có thể biết phải nhanh chân để nhận quà, hoặc phải chần chừ để khỏi bị rầy la.
Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá (x.Ga 21,6). Trời đã tảng sáng bắt được gì đây ? Vị khách lạ muốn làm thầy các tay ngư phủ lão luyện này chắc ? Dẫu sao cũng là một tấm lòng. Đã có lòng thì quan tâm đến kẻ khác bất chấp hoàn cảnh thuận nghịch. Ba năm trước đó, Phêrô tuân lệnh cách chẳng đặng đừng, nhưng hôm nay có cái gì đó khiến ông và các môn đệ làm ngay cái điều xem ra nghịch lẽ với nghề đánh cá. Thả lưới ban ngày mà được ngay một mẻ cá lạ lùng đủ các loại (153 con). Giác quan thứ sáu chăng hay tình gặp tình. Người môn đệ Chúa yêu nói với Phêrô: “Chúa đó” (Ga 21,7). Đấng mà năm xưa động lòng xót thương đoàn lũ dân chúng đói khát, Đấng mà năm xưa động lòng trước bao vất vả sinh kế của ngư dân giờ đây vẫn mãi chạnh lòng và thương xót. Xưa, cũng hoàn cảnh tương tự thì Phê-rô sợ hãi: “lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là người tội lỗi” thì nay chính ông đã vội vã nhảy xuống biển, bơi đến với Thầy.
“Bình an cho anh em Thầy đây đừng sợ !” (x. Lc 24,26; Ga 20,21.26; Mt 28,10). Tấm lòng của vị Thầy năm xưa lo lắng cho các môn đệ đang vất vả vì sóng gió giữa đêm khuya trên biển cả, giờ đây trong thân xác phục sinh chẳng có đổi thay. Thầy ban cho anh em sự bình an, sự bình an không như thế gian ban tặng. Đừng sợ, Thầy đã chiến thắng thế gian.
TIN LÀ THẤY MỘT ĐIỀU VÀ QUA ĐÓ TA NHẬN MỘT ĐIỀU KHÁC
“Và đây, Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20b). Đức Giêsu Phục Sinh vẫn hiện diện và đồng hành với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Vấn đề đặt ra là chúng ta có nhận ra Ngài hay không ? Chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài nơi “những tấm lòng” đang sống chung quanh ta chăng ? Có thể là một người cùng niềm tin mà cũng có thể là một người khác chính kiến với ta là chính Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện. Ta dễ nhận ra sự hiện diện của Ngài nơi một Mẹ Têrêsa thành Calcutta, nhưng có thể chưa thấy Ngài nơi những người tự nguyện đứng giữa làn đạn của Palestin và Israel để mong nối lại nhịp cầu yêu thương hòa bình. Ta dễ tin nhận Chúa phục sinh hiện diện nơi Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II hay nơi nhiều vị thánh, ước gì ta cũng tin nhận Ngài nơi một người anh em lương dân hay một người chị phụ nữ khác tôn giáo đang xả thân vì hạnh phúc của đồng loại, đang hiến mình để cứu sống những mảnh đời bất hạnh...
Đức Giêsu Phục Sinh luôn là mầu nhiệm, vậy cần phải có con mắt đức tin. Có được một chút đức tin hẳn ta cũng sẽ nhận ra Chúa Phục Sinh nơi một khán giả đang cổ võ cách vô tư và hết tình cho cả đội bóng đá Công Giáo lẫn đội Tin Lành ở Bắc Ailen trước những pha bóng đẹp trong một trận đấu sinh tử cho dù người ngồi kế bên có thể hiểu lầm đây là tên, nếu “không vô thần thì cũng là cộng sản”. (Lm. Antony De Mello)
Nhân tình thế thái, thời hiện đại có vẻ nhiễu nhương vì hận thù, chiến tranh, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh… Đừng sợ ! Đức Giêsu Phục Sinh vẫn hiện diện và đang đồng hành với chúng ta. Vẫn có đó những tấm lòng quyết sống chết cho hòa bình xanh, những con người hiến mình cho môi sinh trong lành. Vẫn có đó những con người chấp nhận đổ máu để cho nhân phẩm con người được tôn trọng. Vẫn có đó những con tim rộng mở cho những mảnh đời bất hạnh, bị bỏ rơi. Vẫn và đang còn đó những tấm lòng chấp nhận mọi hậu quả chỉ mong cho quê hương dân tộc cất cánh vươn cao trong hoà bình và công lý, mong cho đồng bào thoát khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Vẫn có đó và vẫn còn đó… nhiều con người và nhiều cuộc đời để ta nhận ra Chúa Phục sinh mãi cùng ta đồng hành.
Tin rằng Chúa phục sinh, Chúa đang sống cũng có nghĩa là tin rằng trái tim con người vốn chai đá đang được Thánh Thần nung đốt để hoá nên thịt mềm (x. Ed 36,26). Một vị tổng thống nước cờ hoa đã từng xin thầy giáo dạy cho con mình rằng dẫu khi nào đó trong cuộc sống nó gặp vài ba người vô lại thì hãy vững tin rằng vẫn còn đó những con người có tâm, có lòng.
Chúa đã phục sinh, Chúa đã thắng thần dữ nhưng cuộc chiến giữa thiện-ác, lành-dữ vẫn đang tiếp diễn. Xin góp một chút tình nhỏ cho Chúa Phục Sinh hiện diện với con người nơi chính bản thân ta. Chúa đã phục sinh, nghĩa là Chúa vẫn tiếp tục rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ. Ngài vẫn đang diệt trừ sự dữ, điều xấu xa và làm cho nhân loại được sống, sống dồi dào qua người này, người kia cách nhiệm mầu. Góp một tiếng nói thẳng thắn để khử trừ sự bất công, gian ác ra khỏi môi trường ta sống, góp một việc làm bé nhỏ để xoa dịu nỗi đau của người bé phận, kém may mắn kề bên có lẽ là một trong những phương thế tuyên xưng Chúa đã phục sinh cách khả tín. Phải chăng chính vì khi ấy “tôi sống nhưng không phải tôi sống mà Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong tôi ?”.
Kitô hữu chúng ta tiên vàn không lấy những ý thức hệ làm nền tảng cho động lực xây dựng thế giới, xây dựng xã hội loài người tiến đến chỗ hoàn thiện, nhưng động lực ấy phải được đức tin hướng dẫn và đức tin sẽ hoạt động trong đức ái (x. Gl 5,6). Trước hết, họ phải là những con người được tình yêu của Đức Kitô đụng chạm tới; những con người mà trái tim của họ đã được Đức Kitô chinh phục bằng tình yêu tự hiến cách vô điều kiện và đến cùng. Và qua đó, Người khơi dậy tình yêu tha nhân trong lòng họ. Như thế, Lời hướng dẫn của họ sẽ là câu rút từ Thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô: “ Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (5,14). (x. TĐ. Thiên Chúa là Tình Yêu. Số 33).
MỘT VẤN NẠN MANG TÍNH THỜI SỰ:
Nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, nhưng đừng quên phải trân trọng hoa trái ơn cứu độ. Chúa Kitô đã chịu tử nạn và phục sinh để ban sự sống đời đời cho nhân loại. Dù rằng sự sống đời đời là sự sống đằng sau cánh cửa sự chết, nhưng lại được đặt nền tảng ngay trong sự sống hôm nay, một sống trong công lý và sự thật, một sự sống trong tình yêu và an bình.
Ngôi Hai Thiên Chúa làm người để con người được làm con cái Thiên Chúa. Chúa Kitô tự nguyện nên khó nghèo để chúng ta được nên sang giàu. Người chấp nhận chịu kết án bất công để chúng ta được sống trong công lý. Người chấp nhận bị cáo gian để chúng ta được sống trong sự thật, vì Người đến thế gian này là để làm chứng cho chân lý. Người đón nhận mọi hậu quả của sự ganh tương, hận thù để chúng ta được sống trong an bình và tình yêu. Người chấp nhận chịu đóng đinh vào khổ giá để giải phóng chúng ta khỏi cảnh nô lệ, giúp ta bước vào cảnh đời tự do của con cái Chúa…
“Thế hệ chúng ta phải hy sinh, phải chịu khổ, để cho thế hệ mai sau được hạnh phúc” Một khẩu hiệu hữu lý, hữu tình nhưng đã được lạm dụng và lợi dụng cho các chiêu bài chính trị một thời. Phải hy sinh, phải chịu khổ mãi cho cái ngày mai không bao giờ thấy mà vô tình hay hữu ý lãng quên rằng ngay thế hệ hôm nay cũng cần được trân trọng, cũng đáng được hưởng hạnh phúc. Tương tự như thế, một thái độ sống thụ động, cam chịu sự bất công, cam chịu bao cảnh gian dối, gian ác…với tình cách đại trà và lâu dài cũng có thể là đáng trách vì chưa trân trọng hoa trái của ơn cứu độ.
Thánh Luca tường thuật về sự kiện Chúa lên trời: Các Tông đồ trở về lòng đầy hân hoan đi rao giảng Tin Mừng. Các Ngài hân hoan vì cảm nghiệm luôn có Thầy Chí Thánh ở với mình. Đức Kitô Phục Sinh luôn đồng hành với ta, đặc biệt bằng Thánh thần Người ban tặng. Chúa đang sống với chúng ta trên con đường gặp gỡ, yêu thương tha nhân của chúng ta. Tuy nhiên con đường ấy không phải lúc nào cũng êm ả, thuận buồm xuôi gió. Tình yêu đích thật luôn gắn liền với thập giá. Một lần nữa ta hãy nghe lời của Đức Kitô sai bảo chúng ta như xưa với các Tông Đồ: “Thầy sai anh em đi như con chiên ở giữa sói rừng. Vậy anh em hãy sống khôn ngoan như rắn và đơn sơ như chim bồ câu” (Mt 10,15). Hãy sống yêu thương bằng cả con tim và khối óc, hết cả tấm lòng và hết cả sức lực, bằng cả tình cảm rất con người với mọi tính toán cân nhắc đồng thời bằng cả đức tin và niềm cậy trông. Đừng sợ, vì Chúa Kitô Phục Sinh đã chiến thắng thế gian.
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
-----------------------------
Ga 20,1-9
Hôm nay Chúa nhật mừng Chúa Phục sinh.
Ngay từ sáng sớm, bà Maria Mađalena đã đến mồ Chúa. Thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ. Bà lại tưởng người ta lấy mất xác của Thầy.
Sau giấc ngủ đêm dài, chúng ta thức dậy, "sống lại" một ngày mới. Thế mà nhiều khi chúng ta lại cứ bị ám ảnh bởi đêm tối của quá khứ, cứ để cho đêm tối che phủ đời mình mà chưa nhận ra một buổi sáng đẹp tươi.
Ngay từ sáng sớm, hai môn đệ Ðức Giêsu đến mồ, hy vọng tìm gặp Thầy. Các vị vào trong và chỉ thấy những chứng tích còn lại: khăn liệm, dây băng… Các vị biết Chúa đã sống lại.
Các vị đã tin.
Ðời sống là một cuộc tìm gặp Chúa. Ðôi khi Chúa như "ở xa", nhưng chứng tích của Ngài vẫn còn đó. Vẫn có quanh ta những chứng tích của lòng bác ái, của lòng vị tha, của thái độ bao dung… và chúng mời gọi ta tin vào Chúa Phục sinh.
Ngay từ sáng sớm, hai môn đệ chạy đến mồ. Một vị trẻ trung và nhanh chân đến trước; một vị già nua chậm chạp hơn. Rồi kẻ đến sau lại vào trước; người đến trước lại vào sau. Nhưng cả hai đều "đã thấy và đã tin".
Chúng ta thường phê phán người khác dựa theo quan điểm của mình; từ đó, chúng ta loại trừ nhau, chống đối nhau. Nhưng Chúa mời gọi mỗi người theo hoàn cảnh riêng, và tất cả những ai thiện chí đều có thể gặp được Ngài cũng như gặp được nhau.
Ngôi mộ trống, sự chết đã biến đi rồi. Sự chết cùng những "con cái" của nó: bi quan, chán nản, hời hợt, đố kỵ… Ðức Giêsu đã sống lại; thật là một buổi sáng mới đẹp tươi !
Ðời sống chúng ta mỗi ngày đang phục sinh cùng với Ðức Kitô; không có điều gì có thể ngăn cản được tình yêu, lòng khao khát điều thiện, sự đoàn kết… bởi vì sự thiện đã chiến thắng cái ác, sự sống đã tiêu diệt thần chết…
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con hiểu: Chúa đã Phục sinh!
Chúa đã Phục sinh trong cuộc đời của con,
Giữa những gian lao vất vả của người nghèo;
Giữa những đau khổ của anh chị em con;
Giữa sự cô đơn của cõi lòng bao người…
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con hiểu: Chúa đã Phục sinh!
Và thế giới này có quyền reo vang lên
một niềm hy vọng vô bờ.
Lm. An Phong, OP
-----------------------------
Lm. Giuse Đỗ Văn Lực, OP
Ga 20,1-9
Tình yêu đem lại muôn vàn kỳ thú và những cái nhìn mới lạ. Chỉ những người đang yêu mới thấy được những vấn đề mà người ngoại cuộc không thể thấy được. Tình yêu là một cuộc sáng tạo vô cùng phong phú. Chính tình yêu đã dẫn Ðức Kitô vào con đường kỳ lạ tới sự sống ngang qua cái chết. Ðó là một cuộc mạo hiểm lớn lao. Ðức Kitô đã liều mạng để giựt thoát sự sống ra khỏi tay tử thần. Cuộc hi sinh vô tiền khoáng hậu đó đã đạt được kết quả thật bất ngờ. Người đã phục sinh ! Ðức Giêsu phục sinh đã trở thành đối tượng của niềm tin Kitô giáo ngay từ thuở sơ khai. Ðó là điều kiện căn bản và vô cùng khẩn thiết cho những ai muốn được cứu độ.
GẶP GỠ
Ơn cứu độ đã đầu tiên đến với các môn đệ, nhưng dưới nhiều cách thức và nhịp độ khác nhau. Cùng quan sát một sự kiện, nhưng có người đọc được ý nghĩa. Chẳng hạn "người môn đệ yêu dấu". Người phải đợi tới khi Ðức Giêsu xuất hiện mới bừng tỉnh. Chẳng hạn Maria Mađalêna. Chị Maria vẫn luẩn quẩn với tư tưởng: "Chẳng biết họ để Người ở đâu ?" (Ga 20:2). Sau khi đã quan sát "thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mồ", chị liền chạy về báo tin cho các tông đồ "Phêrô và người môn đệ Ðức Giêsu thương mến" (Ga 20:1). Chị hoàn toàn dừng lại ở sự kiện, chứ chưa đọc được ý nghĩa đằng sau sự kiện. Phải chăng vì chị hoảng hốt hay tại chị không phải là môn đệ được hân hạnh ghé vào ngực Chúa ? Chỉ có con tim mới đọc được những dấu hiệu của con tim. "Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến" đã đọc ngay được ý nghĩa đó. "Ông đã thấy và đã tin" (Ga 20:8).
Niềm tin đã phát xuất từ con tim ! Ông đã tin vì đã nhận ra những dấu chỉ từ nơi mồ trống và những băng vải liệm xác Chúa "không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi" (Ga 20:7). Những dấu chỉ đó cũng đủ để ông vượt lên trên sự kiện, đi sâu vào mầu nhiệm Phục sinh, vì "theo Kinh Thánh, Ðức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết" (Ga 20:9). Thực ra, "chẳng có đoạn Kinh Thánh Cựu Ước nào nói về việc Ðức Giêsu Phục Sinh. Phải đợi tới khi Ðức Giêsu hoàn toàn được tôn vinh, các môn đệ mới có thể "nhớ" và hiểu được ý nghĩa của những biến cố đã xảy ra" (The Jerome Biblical Commentary 1990:983). Nói khác, "Kitô hữu đã đọc lại Thánh Kinh trong ánh sáng Phục Sinh. Ðó là đoạn nói về người đầy tớ Chúa (Is 53:1-12) và các đoạn khác đọc dưới ánh sáng mới"(Tv 16:10; Hs 6:2) (Faley 1994:290).
Ông Gioan "tiêu biểu cho người Kitô hữu không bao giờ bị dao động và luôn trung tín. Vai trò của ông có tính cách thần học hơn là lịch sử" (Faley 1994:289). Bởi đấy, mặc dù ông phải nhường bước cho Phêrô vì địa vị cao trọng hơn, nhưng tình yêu vẫn đem lại cho ông vinh dự là người đầu tiên tin vào Ðức Giêsu Phục Sinh (c.8). Tình yêu luôn mở ra một lối đi ưu việt cho những ai tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh tình yêu Thiên Chúa. Bởi thế suốt đời thánh Gioan luôn nói về tình yêu. Ông có cả một xác tín lớn lao và kinh nghiệm tuyệt vời về sức mạnh đó.
Niềm tin Phục sinh không kiếm được bằng chứng nơi nấm mồ mở rộng hay những tấm khăn trắng toát, nhưng nơi những lần Ðức Giêsu hiện ra với các môn (1Cr 15:3-8). Những lần đó đã củng cố niềm tin và thắt chặt tình yêu Thày trò. Chính cử chỉ đượm tình yêu đã mạc khải cho hai môn đệ làng Emmaus (Lc 24:13) về sự thật Phục Sinh. Một tiếng gọi đầy thân thương của Thày cũng khiến chị Maria Mađalêna bừng tỉnh trước thực tại Phục sinh (Ga 20:16).
Niềm tin Phục sinh đó không phải là một ảo ảnh hay viễn mộng nội tại. Bằng chứng Ðức Giêsu Phục sinh đã hiện ra và ăn uống với các môn đệ. Các ngài làm chứng "Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại" (Cv 10:40-41). Nghĩa là có một sự liên tục trong thân xác Ðức Giêsu trước và sau khi phục sinh.Chính Người đã trả lại cho các môn đệ một bầu khí thân tình và đầy hứng khởi. Trong tất cả những giờ phút cùng ăn cùng uống đó, Thày trò đã trao đổi biết bao tâm tình yêu mến.Càng trao đổi, các môn đệ càng thấm sâu mầu nhiệm tình yêu Phục Sinh.
Phục sinh quả thực là mầu nhiệm tình yêu. Muốn thấy rõ Chúa Phục Sinh, đòi phải có động lực tình yêu mãnh liệt. Hơn nữa, muốn làm chứng về Ðức Giêsu Phục sinh, phải là những chứng nhân Phục Sinh. Những chứng nhân Phục Sinh là "một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên" (1Cr 5:6b). Men tình yêu vô cùng cần thiết cho bột trần gian. Ðó là sức mạnh nhân chứng, vì "ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13:35). Nói cho cùng, chứng nhân của Ðức Giêsu là chứng nhân về mầu nhiệm Phục Sinh, vì "nếu Ðức Kitô không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15:14). Phục Sinh là một đề tài căn bản và cực kỳ quan trọng trong niềm tin Kitô giáo. Nói khác, "tất cả mọi góc cạnh của lời rao giảng và niềm tin Kitô giáo chỉ có ý nghĩa khi quy về đối tượng trung tâm là Ðức Kitô Phục Sinh" (KTTƯ 1995:701).
TÌM LẠI LẼ SỐNG
Mỗi Chúa Nhật tín hữu qui tụ để mừng mầu nhiệm Phục Sinh, một mầu nhiệm có sức đem lại lẽ sống cho một thế giới băng hoại. Ngày nay sự sống đang bị chà đạp vì những vi phạm nhân quyền, những vụ bắn giết, khủng bố, phá thai v.v. Con người cần tìm ra lẽ sống cho chính mình và tái khám phá giá trị con người để biết tôn trọng người khác."Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Sự sống con người tự nội tại có giá trị và tự bản chất phải được coi là một cứu cánh chứ không thuần túy là một phương tiện để đạt tới một mục đích nào khác" (McCartney 1994:8). Bởi thế, tiêu diệt sự sống con người là xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa. Không thể nhân danh bất cứ danh nghĩa nào để tiêu hủy mạng sống. Chẳng hạn, làm sao chấp nhận được lập luận của những người chủ trương và ủng hộ việc phá thai dựa trên lý do bảo vệ quyền riêng tư cá nhân ? Không ai là một ốc đảo. Sống là luôn luôn sống với. "Khi quyết định phá hay không phá thai, trước tiên người phụ nữ làm một hành động liên quan tới chính mạng sống của thai nhi, tới cha của đứa bé, tới gia đình, họ hàng thân thuộc, tới giáo dục và chức nghiệp. Bởi vậy quyết định đó tự bản chất là một quyết định có chiều kích xã hội chứ không thể là một việc riêng tư chút nào" (McCartney 1994:5).
Ðức Giêsu Phục Sinh mạc khải cho mọi người thấy sự sống là một giá trị không gì có thể thay so sánh được. Chính Chúa đã đi vào cõi chết và chỗi dậy để đẩy con người lên trên những cái nhìn tầm thường. Những cái nhìn này muốn đánh giá con người dưới những điều kiện vật chất, muốn biến con người thành phương tiện thực hiện những mưu đồ chính trị, kinh tế v.v. Con người phải hi sinh cho những giá trị kém con người. Chính trị, kinh tế trở thành cứu cánh, trong khi tự bản chất đó chỉ là phương tiện.
Chính vì chủ trương bảo vệ mạng sống con người, sự hiện diện của Vatican tại Liên Hiệp Quốc đã bị đặt thành vấn đề. Ðã có cuộc vận động để trục xuất Vatican ra khỏi chiếc ghế quan sát viên tại diễn đàn có tầm cỡ thế giới đó. Giáo Hội hiện diện như một kỳ đà cản mũi trước những dự án kiểm soát dân số thế giới của những nước tư bản. Khắp nơi trên quê hương Việt Nam hôm nay cũng đang cổ động hạn chế sinh sản tối đa bằng đủ mọi +phương tiện. Biểu ngữ "mỗi gia đình chỉ có hai con" dán đầy đường phố và làng quê. Từ xưa, khi thế giới mới vỏn vẹn ít trăm triệu, người ta đã la hoảng về nạn nhân mãn. Nếu những người thời đó còn sống, chắc chắn họ không thể tưởng tượng nổi nhân loại có thể tồn tại và phát triển vượt bực như bây giờ. Sự sống vẫn luôn là một huyền nhiệm, huyền nhiệm như chính sự sống của Ðức Giêsu, Ðấng đã Phục Sinh để trả lại cho con người ý nghĩa sâu xa nhất và giá trị lớn lao nhất của cuộc sống. Chính vì sông mầu nhiệm Phục sinh sâu xa, Giáo hội mới biết quý trọng sự sống.
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
-----------------------------
Ga 20,1-9
Buổi sáng vội vã
Vào buổi sáng ngày lễ Vượt Qua này, theo các trình thuật Tin Mừng, dường như mọi người đều ở trong tâm trạng bồn chồn, có vẻ rất vội vã. Ngay từ sáng sớm, đã có nhiều người tìm đến một ngôi mộ, mỗi người có hoàn cảnh và mục đích riêng.
Theo Tin Mừng Máccô, "sáng tinh sương, ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc ...", các phụ nữ đã chứng kiến việc an táng Ðức Giêsu vào ngày thứ sáu, đã ra mộ, mang theo dầu thơm để ướp xác Ðức Giêsu ... Sau đấy, khi đã nhìn thấy ngôi mộ trống, và gặp một nhân vật lạ, các bà đã rời nơi ấy, "cắm đầu chạy, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía".
Còn theo Tin Mừng Gio-an, cô Maria Mác-đa-la ra thăm mộ và "thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ". Mấy ngày trước đây, cô đã trải qua những giờ phút đầy phiền muộn khi chứng kiến Vị Thầy yêu quý của mình chịu chết và được an táng trong mộ. Lúc này, cô cảm thấy sợ hãi: cô nghĩ rằng ai đó đã lấy cắp thi thể của Ðức Giêsu và đem đi mất. Trong đầu cô xuất hiện một mối hoài nghi: Ðức Giêsu đã là nạn nhân của lòng thù ghét, phải chăng Người còn bị truy đuổi ngay cả khi đã nằm trong mộ ? Thế là cô chạy về báo tin cho những người bạn của Ðấng đã từng giải thoát cho cô.
Nghe lời thuật lại của cô Maria Mác-đa-la, hai ông Phêrô và Gio-an liền đi ra mộ. Cả hai người đều chạy. Tới mộ, các ông đã nhìn thấy "những băng vải, và khăn che đầu Ðức Giêsu, được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi". Trước bằng chứng này, các ông gạt bỏ giả thuyết thi thể Ðức Giêsu bị đánh cắp.
Nhưng trong khi ông Phêrô còn phân vân, chưa hiểu được sự kiện xảy ra có ý nghĩa gì, thì người môn đệ Ðức Giêsu yêu quý đã hiểu rõ: ông nhận ra rằng không có chuyện đánh cắp thi thể Ðức Giêsu. Qua các tấm khăn được xếp lại và để riêng, ông đọc thấy những dấu chỉ về một cuộc Phục Sinh đích thực ; sự sống đã đánh bại vương quốc tử thần. Chỉ có tình yêu mới đem lại cho người môn đệ ấy cặp mắt sáng ngời, biết nhìn ra mầu nhiệm giấu ẩn đằng sau những sự kiện. Nhờ tình yêu ấy, ông đã nhìn và đã tin, đồng thời khám phá ý nghĩa trọn vẹn của con người Giêsu - Ðấng đang sống.
Trở lại chuyện với cô Maria Mác-đa-la, cũng do tình yêu thúc đẩy, cô đã tìm đến mộ mà than khóc. Nhờ đó, cô là người đầu tiên được gặp gỡ Ðức Giêsu Phục Sinh, và sau đó trở thành người đầu tiên loan báo Tin Mừng Phục Sinh.
Quả là một buổi sáng nhiều vội vã, dồn dập sự kiện quanh một ngôi mộ. Nhiều người đã tìm đến ngôi mộ, và rồi lại từ đó ra đi, bắt đầu một hành trình mới, tin tưởng hơn, hăng hái hơn.
Phục Sinh, một hứng khởi kỳ diệu
Nếu không có Phục Sinh thì cuộc đời Ðức Giêsu đã chấm dứt với một thất bại rõ ràng: chết trên thập giá, những người bạn thân tín bỏ trốn hết.
Tuy nhiên, vấn đề được nêu lên là làm sao có thể giải thích được cái chết ấy là khởi đầu cho một hứng khởi kỳ diệu là niềm tin Kitô giáo ? Trong thế kỷ đầu, mặc dù những cuộc bách hại khốc liệt diễn ra khắp nơi, nhưng Ðức Giêsu đã được biết đến, được yêu mến, được tiếp nối và thờ kính ở khắp vùng ven Ðịa Trung Hải và cả những miền lân cận.
Về vấn nạn này, các tông đồ và các môn đệ đã giải thích: "Ðức Kitô đã sống lại. Chúng tôi xin làm chứng." Cụ thể như trường hợp ông Gio-an: "ông đã thấy và đã tin". Khởi đầu từ những yếu tố khác nhau như ngôi mộ trống và những lần Ðức Giêsu hiện ra, tất cả trở nên sáng tỏ trước mắt ông: ông nhớ lại những điều Ðức Giêsu nói, những việc Người làm, và ông tin. Nhờ ánh sáng của Thần Khí, ông cảm nghiệm được rằng: Ðức Giêsu đã chỗi dậy, Người đang sống.
Với tất cả các tông đồ khác cũng vậy. Các ông xác tín vào mầu nhiệm Phục Sinh và xác tín này làm thay đổi cuộc đời các ông: thái độ sợ hãi được nhường chỗ cho thái độ can đảm trong lòng tin. Các ông sẵn sàng làm chứng về Ðức Giêsu Phục Sinh dù phải hy sinh tính mạng. Cũng nhờ xác tín đó, nhờ thái độ can đảm và kiên quyết, các ông đã lôi kéo cả một đám người, mỗi ngày một đông hơn, Do-thái lẫn dân ngoại, đi theo các ông và cùng tin như các ông. Sau đó, đến lượt mình, những người này cũng quả quyết Ðức Giêsu đã sống lại, Người là Chúa.
Thật thế, sự chỗi dậy từ cõi chết là đỉnh cao trong cuộc đời Ðức Giêsu, giúp cho các tông đồ thấy rõ cuộc đời và con người Ðức Giêsu. Ðối với các ông, những lời Người nói, những việc Người làm, lời Người cầu nguyện, nhất là cái chết của Người, tất cả đều có ý nghĩa thâm sâu và phong phú. Sự Phục Sinh này đã mở mắt các ông, cho các ông nhận ra Ðức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, Người là ánh sáng trần gian.
Do đó, cái chết của Người trên thập giá có ý nghĩa đặc biệt: đó không phải là dấu chứng về thất bại, nhưng là chứng tá tuyệt vời về tình yêu. "Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu" (Ga 15,13). Trước mắt các ông, Ðức Giêsu thật là Ðấng Cứu Thế.
Mở đường hướng tới tương lai
Cuộc Phục Sinh của Ðức Giêsu cũng soi chiếu cuộc đời chúng ta và lôi kéo chúng ta. Ðức Giêsu, Ðấng đã trải qua cái chết, chính Người là Thiên Chúa, đồng thời cũng vẫn là một người như chúng ta, là anh em của chúng ta. Lễ Phục Sinh đem lại cho chúng ta biết bao hứng khởi để cố gắng bênh vực con người, để mỗi người cũng được phục sinh như Ðức Kitô.
Quả thế, lễ Phục Sinh cho thấy tất cả mọi khía cạnh trong câu nói của Ðức Giêsu: "Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở trong tình thương của Thầy ... hãy yêu thương nhau ..."
Những việc Ðức Giêsu làm, những lời Người nói giúp chúng ta nhìn cuộc đời theo một cách thức mới ; chính Người là Thầy, nhưng lại sống trong thân phận một tôi tớ. Người đã nói: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó ... ai hiền hoà ... xây dựng hoà bình ..." và Người đã sống đến cùng. Chính Thiên Chúa nói trong Ðức Giêsu Kitô và thúc đẩy chúng ta bước theo Người, hành động như Người.
Lễ Phục Sinh còn mở ra cho chúng ta những cánh cửa hướng tới tương lai. Phục Sinh, đó là vượt qua. Ðức Giêsu là người đầu tiên vượt qua để làm cho chúng ta cũng vượt qua với Người. Phục Sinh, đó là cánh cửa hướng đến sự sống không bao giờ tận: từ nay cuộc đời trần thế của chúng ta đã có một chiều kích mới, chiều kích vĩnh cửu.
Với Ðức Giêsu Phục Sinh, không có con đường nào là con đường cùng, không lối ra ; cái chết không còn phải là rào cản ; tội lỗi có thể được thứ tha và tội nhân có thể được giải thoát. Chúng ta luôn có thể lên đường lại, và không bao giờ thất vọng về chính mình cũng như người khác, bởi vì từ nay, Ðức Giêsu đã làm nảy sinh tình yêu, khởi đầu từ những hận thù đỗ xuống trên chính Người.
"Này Maria,
hãy mau tìm các môn đệ của Thầy,
hãy cất tiếng hát đem lại bình an
cho những người bạn của Thầy đang sợ hãi,
để họ thức dậy và đến gặp Thầy,
để họ thắp lên những ngọn đuốc.
Này các Tông Ðổ,
hãy xua đi mọi ưu sầu phiền muộn,
vì Thầy đã chỗi dậy và đem lại sự sống
cho loài người đang tuyệt vọng ..."(theo Romanos le Melode)
Lm. Giuse Nguyễn cao Luật, OP
-----------------------------
CHÚA NHẬT PHỤC SINH NĂM B (12.04.2009)
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Đức Cố Giáo Hoàng Phao-lô VI đã nói một câu đáng mọi người chúng ta phải ghi nhớ và suy đi niệm lại trong lòng: “Người thời nay tin vào chứng nhân hơn thầy dậy và nếu họ có tin vào thấy dậy thì bởi vì thầy dậy đó là chứng nhân.” Lời nói trên đưa chúng ta trở về thuở ban đầu của Ki-tô giáo, với bài giảng của Thánh Phê-rô, Tông Đồ Trưởng, tại nhà ông Cô-nê-li-ô: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giê-ru-sa-lem này….” (Cv 10, 39).
Hội Thánh Công Giáo đã phát triển qua hơn 20 thế kỷ và sẽ tiếp tục phát triển là nhờ -một phần quan trọng- vào việc các Ki-tô hữu sống sứ mạng làm chứng. Làm chứng cho Đấng xuất thân từ Na-da-rét, đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế. Nhưng Đấng ấy đã bị người ta giết chết nhưng sau ba ngày Người đã được Thiên Chúa Cha phục sinh: Đó là Đức Ki-tô Giê-su!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc 1: Cv 10, 34a.37-43: Chúng tôi đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại.
(34a) Bấy giờ tại nhà ông Cô-nê-li-ô, ông Phê-rô lên tiếng nói: (37) “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gio-an rao giảng. (38) Quý vị biết rõ: Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người. (39) Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. (40) Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, (41) không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. (42) Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. (43) Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội."
2.2 Bài đọc 2: Cl 3,1-4: Anh em hãy tìm những gì thuộc thượng giới, nơi Ki-tô đang ngự.
(1) Thưa anh em, anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. (2) Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. (3) Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. (4) Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.
2.3 Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9: Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
(3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (6) Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
III. TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Nội dung Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
3.1.1 Trong bài đọc 1 (Cv 10, 34a.37-43), Thánh Phê-rô, Tông đồ Trưởng, làm chứng về Chúa Ki-tô Phục Sinh. Cách nói của Thánh Phê-rô thật đơn sơ, dễ hiểu giống như ngài kể chuyện, vừa sống động vừa đậm nét chứng từ cá nhân của ngài. Vắn gọn trong mấy lời, Thánh Phê-rô đã tóm tắt một cách đầy đủ, cả cuộc đời của Đức Ki-tô Giê-su: từ xuất xứ đến cách sống, cách chết cũng như sự kiện phục sinh và cả việc Người giao sứ mạng rao giảng và làm chứng cho các môn đệ. Đó là cốt lõi của Niềm Tin Ki-tô giáo chúng ta.
3.1.2 Trong bài đọc 2 (Cl 3,1-4), Thánh Phao-lô Tông đồ Dân Ngoại, lưu ý các tín hữu Cô-lô-xê phải sống thế nào cho phù hợp với hiện trạng và tư cách Ki-tô hữu của mìmh. Các tín hữu đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy là họ đã “cùng chết” và “được cùng trỗi dậy” với Đức Ki-tô. Vì thế họ phải tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, tức những gì thuộc về Chúa Ki-tô. Trước và sau khi được dội nước trên đầu (hay được dìm trong nước) là hai cách sống hoàn toàn khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Trước khi được thánh tẩy là sống theo tinh thần, tiêu chuẩn và các giá trị của trần gian. Sau khi được thánh tẩy là sống theo tinh thần, tiêu chuẩn và các giá trị của Chúa Ki-tô.
3.1.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 20,1-9), Thánh Gio-an Tông Đồ kể lại SỰ KIỆN xẩy ra vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày thứ ba sau khi Đức Giê-su chết trên thập giá và được chôn cất trong ngôi mộ thuộc sở hữu của ông Giô-xép người thành A-ri-ma-thê. Hai người phụ nữ cùng có tên là Ma-ri-a ra thăm mộ vào sáng sớm, thì thấy ngôi mộ trống và xác Đức Giê-su không còn ở đó nữa. Các bà báo tin ngay cho các Tông Đồ. Ông Phê-rô và ông Gio-an cùng chạy đến mồ và cũng thấy như vậy.
Ngôi mộ trống chưa đủ chứng minh rằng Đức Giê-su đã “phục sinh từ cõi chết” mà mới xác định là thân xác Người không còn ở đó nữa. Nhưng với Tông đồ Gio-an thì chỉ bấy nhiêu cũng đủ rồi! Còn đối với những người khác thì sẽ có những bằng chứng hiển nhiên và đủ sức thuyết phục về sự kiện Đức Giê-su Na-da-rét đã trỗi dậy từ cõi chết. Đó là sự kiện Đức Giê-su Ki-tô phục sinh hiện ra với rất nhiều người thời bấy giờ.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh Chúa Nhật Phục Sinh là:
Đức Giê-su Na-da-rét đã được Thiên Chúa Cha toàn năng cho trỗi dậy từ cõi chết và cho xuất hiện tỏ tường trước mắt nhiều người.
Các Tông Đồ đã làm chứng về sự kiện đặc biệt ấy và các ngài đã lấy mạng sống mình làm bảo chứng cho lời tuyên xưng và rao giảng của mình.
Còn chúng ta là các Ki-tô hữu thì được mời gọi tin vào sự kiện Phục Sinh và làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh như Thánh Phê-rô đã dõng dạc tuyên bố: “CÒN CHÚNG TÔI ĐÂY XIN LÀM CHỨNG (Cv 10,39)!”
IV. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là mỗi người / mỗi cộng đoàn Ki-tô tăng cường lòng tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh và nhiệt thành làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh của Người, qua các việc làm cụ thể như sau:
a. tăng cường mối liên hệ mật thiết và riêng tư với Chúa Ki-tô Phục Sinh,
b. sống theo giáo huấn, mệnh lệnh và lời khuyên của Chúa Ki-tô Phục Sinh,
c. làm chứng về Mầu Nhiệm Nhập Thể (Người là Thiên Chúa thật và là người thật) và Vượt Qua của Người (Người đã chết trên thập giá và ba ngày sau đã trỗi dậy từ cõi chết) bằng cách xem thường những gì thuộc về trần gian và tìm kiếm những gì thuộc về Thiên Chúa tức những giá trị trường cửu.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ NHÂN LOẠI
5.1 “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm... và việc Người đã bị người ta treo lên cây gỗ mà giết đi, nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường.” Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Cha vì Cha đã giao sứ mạng làm chứng về Chúa Ki-tô Phục Sinh cho các Tông Đồ và Hội Thánh. Chúng con nguyện xin Cha cho Hội Thánh, cách riêng cho Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI và các Giám Mục, linh mục, phó tế và tu sĩ nam nữ, chu toàn trách nhiệm làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh bằng lời nói, hành động và đời sống của mình.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 "Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.” Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Cha vì Cha đã ban Con Một Cha, làm gương mẫu cho chúng con biết phải sống như thế nào với Cha và với tha nhân. Xin Cha ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con tin mạnh mẽ vào sự hiện diện và hành động của Chúa Ki-tô, Đấng vẫn luôn sống bên/trong chúng con!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 "Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm và hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa." Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì qua bí tích Thánh Tẩy, Cha đã cho chúng con tham dự vào cái chết và sự phục sinh của Chúa Ki-tô Giê-su. Xin Cha ban cho chúng con sự khôn ngoan và sức mạnh Thần Khí để chúng con chỉ tìm kiếm những giá trị bất diệt của thượng giới.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết." Lạy Thiên Chúa là là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã mạc khải ý định và chương trình cứu độ nhân loại của Cha trong Kinh Thánh. Xin Cha ban cho các tín hữu ơn yêu mến và thực hành Lời Chúa, nhờ việc học hỏi và khám phá kho tàng mạc khải vô cùng phong phú trong các Sách Thánh.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
-----------------------------
Trong thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người làng Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống lại đã gây nên nhiều thái độ khác nhau: Tin và không tin, chấp nhận và chống đối. Chúng ta cùng nhau phân tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng ta, cũng như soi sáng cho chúng ta tin vào Đức Kitô Phục sinh hơn.
Trước hết tin là phải chấp nhận có một thế giới khác vượt ngoài tầm tay và suy tưởng của chúng ta. Trong thời đại khoa học này, chúng ta dễ bị cám dỗ, chỉ tin vào những gì thấy được và hợp lý mà thôi.
Chính vì thế một bác sĩ giải phẫu đã tuyên bố:
- Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng thấy linh hồn ở đâu.
Hay như một phi hành gia sau lần bay quanh mặt trăng ba vòng cũng tuyên bố:
- Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy Chúa nào ở trên trời cả.
Tôma cũng đòi phải thọc chính tay mình vào cạnh sườn Chúa thì ông mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi mình là trung tâm điểm và bắt Thiên Chúa phải thế này thế nọ thì chúng ta mới tin.
Tiếp đến, tin vào Chúa Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều. Hai người yêu nhau dù có tâm sự tính toán kỹ với nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn phải dám liều. Biết ngày mai sẽ ra như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt làm chi.
Chẳng bao giờ con người có thể hiểu hết về Thiên Chúa cũng như về thế giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay sống lại, đồng thời Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu sau khi chết.
Cũng như Tôma, chúng ta chỉ được nghe nói lại. Ngài là Đấng vô hình và dường như luôn vắng bóng và im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta. Tin như vậy không phải là dám liều, dán trao cả cuộc đời và con người chúng ta vào tay Đấng vô hình đó sao. Với Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp tục từ bỏ những dự định riêng tư để bước theo Ngài.
Sau cùng, tin đòi phải chiến đấu. Đức tin không đem lại sự yên ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá hủy con người cũ trong chúng ta. Bởi đó chúng ta phải chiến đấu với chính mình. Con người vẫn có khuynh hướng ôm chắc lấy những gì có sẵn, không muốn đánh mất thế giới họ đã tạo ra như của cải, mạng sống.
Tin vào Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc sống về đời sau Chúa hứa. Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại giá trị tất cả những gì chúng ta đang có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi đức tin còn đòi chúng ta phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ, nếu của cải, mạng sống ngăn cản Tin Mừng. Nếu không chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như vậy, chúng ta sẽ bị kéo ghì và ở lại mãi trong thế giới vật chất…
Hơn nữa, đó cũng chính là não trạng chung của những người chung quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể chẳng có Tin Mừng Phục sinh. Sống ngược với não trạng trần thế ấy đòi chúng ta phải có một ý chí phấn đấu và mạnh mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có cảm giác lạc lõng và bơ vơ, không giống ai và bị thiệt thòi ở đời này.
Sống đức tin và đón nhận niềm vui của Đấng đã sống lại là điều khó khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ đặt lại vấn đề đức tin, linh hồn, đời sau, giống như người Do Thái ngày xưa luôn muốn trở lại với kiếp nô lệ nhưng no nê, bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng và đòi hỏi.
Hãy vững niềm tin vì Chúa đã sống lại, Ngài ở với chúng ta luôn mãi.
-----------------------------
(Ga 20,1-9)
“Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).
Hai hôm sau ngày Chúa Giê-su chịu chết và được táng xác trong huyệt đá, trời vừa hửng sáng, Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đi ra thăm mộ Chúa Giê-su và thấy tảng đá đậy cửa mộ đã bị lăn đi, còn mộ thì trống không.
Bà chạy về báo tin cho ông Si-mon Phê-rô và người được mệnh danh là “môn đệ Chúa Giê-su thương mến”. Cả ba cùng hối hả chạy ra mộ.
Họ đã cùng chứng kiến cảnh ngôi mộ trống không, khăn liệm xếp lại gọn gàng. Nhưng trong thâm tâm, mỗi người lại có những suy nghĩ khác nhau:
Bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na cứ đinh ninh rằng xác Chúa Giê-su đã bị đánh cắp (Ga 20,13-15).
Ông Phê-rô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự việc đã xảy ra (Lc 24,12).
Còn “người môn đệ Chúa Giê-su thương mến” thì tin chắc rằng Chúa Giê-su đã sống lại như lời Ngài đã tiên báo (Ga 20,9).
Cùng một sự kiện, nhưng lại có nhiều thái độ đức tin khác nhau.
Điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống của mỗi Ki-tô hữu.
****
Sống đức tin là biết nhìn tất cả mọi việc theo quan điểm của Thiên Chúa và trong ý hướng của Thiên Chúa.
Sống đức tin là xác tín rằng Thiên Chúa đang thực hiện chương trình của Ngài xuyên qua mọi biến cố trong cuộc đời.
Nhưng làm thế nào để biết được ý Chúa?
Cách thế duy nhất và hữu hiệu nhất là sống bằng chính Lời của Ngài.
Lời Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta biết rõ ý Chúa, sẽ giúp chúng ta củng cố, phát triển và kiện toàn đức tin.
***
Chúa Ki-tô đã sống lại, chỉ còn ngôi mộ trống không.
Trong cuộc sống, chẳng thiếu gì lúc chúng ta gặp thấy ngôi mộ trống này.
Đó là những lúc chúng ta kiếm tìm một dấu chứng để củng cố lòng tin đang bị lung lay của mình.
Nhưng thay vì một chứng cớ rõ ràng, Chúa Ki-tô lại chỉ đưa ra cho chúng ta một biến cố tạo nghi vấn.
Thay vì trả lời, Ngài lại bắt chúng ta tự đặt ra câu hỏi cho chính mình:
“Như thế nghĩa là gì?”
Quả thật lắm lúc chúng ta đã bối rối phân vân trước câu hỏi bỏ ngỏ ấy.
“Chúa muốn nói gì?”
Thật khó mà xác tín được!
***
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta trả lời câu hỏi ấy:
Cũng như cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su đã được tiên báo trong Kinh Thánh, sứ mạng của mỗi người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa tỏ lộ bằng cách này hay cách khác trong chính cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa cũng đã mở sẵn cho chúng ta một tương lai bằng cách chuẩn bị cho chúng ta những bước đường trong quá khứ.
Xuyên qua những hỗn độn trong cuộc sống, Thiên Chúa đã tỏ ý của Ngài cho chúng ta bằng những biến cố bỏ ngỏ, những “ngôi mộ trống” mà Ngài đặt trước mắt chúng ta.
Muốn biết được những “ngôi mộ trống” ấy muốn nói gì, chúng ta phải duyệt xét lại quãng đời đã qua của mình, để nắm bắt những dữ kiện chính và xếp đặt chúng lại dưới ánh sáng của Tin Mừng.
Với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ nhận ra được thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
****
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã sống cuộc sống trần gian, đã chịu chết và đã sống lại để mở ra cho nhân loại đường về cõi trường sinh.
Con tin chắc một điều là Chúa cũng muốn con sống, chết và sống lại như thế.
Nhưng để được sống lại như Chúa, con phải theo con đường nào để hiến tế bản thân con?
Đâu là đỉnh núi Sọ của con?
Xin Chúa dạy con biết nhìn để thấy được điều Chúa muốn con thi hành.
Và xin Chúa trợ giúp để con đủ nghị lực hoàn thành điều Chúa muốn.
Những lúc Chúa cho con xem thấy “ngôi mộ trống”, thì xin Chúa cũng cho con luôn nhớ rằng Chúa đã phục sinh. A-men!
Trầm Tĩnh Nguyện
-----------------------------
Cách Thánh Gioan tường thuật lại cuộc Khổ Nạn và Thương Khó của Chúa Giêsu làm cho những ai đọc Phúc Âm của ngài đã có thể tiên đoán được mầu nhiệm Phục Sinh. Mầu nhiệm Phục Sinh chúng ta có thể tiên đoán trước được trong các cử chỉ Chúa Giêsu đối đầu lại trong lúc Người bị bắt, trong phiên toà trước Thượng Hội Đồng và trong lúc Người bị hành hạ. Cách diển tả đó nói lên những gì Chúa Giêsu đang hành xử là hoàn thành các điều đã được tuyên bố trước trong Thánh Kinh, làm cho người đọc Phúc Âm nhận ra được đó là mầu nhiệm mà Thiên Chúa làm cho thể hiện, không phải chỉ được kết thúc bằng cái chết Con của Người, mà mầu nhiệm dĩ nhiên phải được làm cho sáng tỏ ra bằng cuộc chiến thắng khải hoàn cho cuộc sống hoàn hảo và vĩnh viễn.
Với ý nghĩa đó, người đọc Phúc Âm theo Thánh Gioan phải bị bỏ rơi một mình, không được chuẩn bị để đón nhận những gì ngài sẽ bắt đầu thuật lại bằng câu nói: "Sáng sớm ngày thứ nhứt trong tuần..." ( Ga 20, 1a, dịch theo nguyên ngữ: ngày thứ nhứt sau ngày sabát ). Cách nói bất thường vừa kể, xác định thời điểm của biến cố sắp được kể lại, làm cho chúng ta nhớ lại cách diễn tả trong sách Sáng Thế: "Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhứt" ( St 1, 5 ), ( theo bản dịch Hy Lạp LXX: heméra ).
Như vậy người đọc Phúc Âm như chúng ta được Thánh Gioan làm cho liên tưởng đến đây là biến cố khởi đầu cho một công trình sáng tạo mới của Thiên Chúa hay có lẽ đúng hơn, đây là đây là ngày cuối của chương trình sáng tạo, được khởi đầu từ sách Sáng Thế.
Điều làm cho chúng ta ngạc nhiên là tất cả biến cố đều xảy ra bên mồ Chúa Giêsu ( Ga 20, 1 – 9 ), nơi mà đối với con người chúng ta nói lên sụ chiến thắng của cái chết, nhưng trái lại thái độ của các nhân vật chính – Maria Magđala, Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến – tất cả đều xác tín rằng đây là cuộc chiến thắng khải hoàn vĩnh viễn không thể đảo ngược được.
1. Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ
Nhân vật đầu tiên xuất hiện trong bối cảnh được đề cập là bà Maria Magđala, nhân vật mà chúng ta chưa bao giờ được nghe đề cập đến trong Phúc Âm theo Thánh Gioan, ngay cả con người tội lỗi của bà cũng không được nói đến. Đúng hơn có lẽ Thánh Gioan cho rằng bà là người rất quen thuộc trong cộng đồng các môn đệ lúc đó và đó là điều có thể giải thích được mối tương quan đặc biệt mà Chúa Giêsu dành cho bà.
Về việc bà "đi đến mộ Chúa Giêsu", chúng ta có thể có được một giả thuyết: đó là bà được thúc đẩy bởi lòng thương nhớ vị Thầy của mình, mà chính cái chết càng làm cho bà càng cảm thấy thiếu thốn, mất đi. Ngoài ra danh từ dùng để chỉ ngôi mộ, trong bản Hy Lạp: "meméion", có ý nghĩa nói lên là nơi để "tưởng nhớ đến, hay kỷ niệm".
Tuy được tình cảm thương nhớ thúc đẩy, nhưng bà chưa có được ánh sáng Đức Tin để đón chờ biến cố Phục Sinh. Bởi đó, không phải vô tình mà Thánh Gioan trong khi xác định thời điểm của buổi sáng sớm – tức là đã có ánh sáng ló dạng rồi – nơi con người bà Maria Magđala vẫn còn tăm tối.
Tình trạng chưa có Đức Tin của bà, đối với Thánh Gioan, cũng là tình trạng còn tăm tối chưa có Đức Tin của nhân loại, nãn chí tuyệt vọng trước cái chết, "...lúc trời còn tối, bà Maria Magđala đi đến mộ..." Biến cố thay đổi nơi Maria Magđala trong tương lai là kết quả của đoạn hành trình nội tâm, không phải do suy tư đắn đo mà có, mà do cuộc hội kiến với Đấng Hằng Sống.
Trong tạm thời, đi đến mộ và thấy ngôi mộ trống dẫn bà đến một câu kết luận duy nhứt: "Người ta đã đem xác Chúa đi khỏi mộ" ( Ga 20, 2 ). Ngôi mộ trống không làm cho bà hồi hộp với trực giác đây là một tin tức trọng đại, trái lại làm cho bà càng trở nên tuyệt vọng hơn: từ nay trở đi không còn có được đến cả một xác chết để có thể ngồi khóc bên cạnh cho đỡ lòng thương nhớ. Điều đó cắt nghĩa tại sao bà liền chạy về báo cho Simon Phêrô và người môn đệ kia: điều xảy ra vừa kể là điều quá quan trọng nên không thể chậm trễ được.
Tuy vậy, có một cái gì đó đối ngược trong câu nói của bà: bởi lẽ một đàng bà nói đến việc Chúa Giêsu bị "người ta đã đem ra khỏi mộ", nhưng đàng khác bà không ý thức được rằng Chúa có quyền tất cả trên mọi sự và đối với mọi người, và không ai có thể chạm đến Người.
Điều vừa kể cho thấy trong tâm hồn bà vẫn còn bóng tối bao phủ, vẫn còn đang tìm cách lấn áp ánh sáng Đức Tin. Và bóng tối đó cũng vẫn còn đang bao phủ các môn đệ khác: “Sáng sớm ngày thứ nhứt trong tuần, lúc trời còn tối..."
2. Cả hai người cùng chạy
Được bà Maria Magđala báo cho biết, hai người trong Nhóm Mười Hai cũng chạy ra mộ. Thánh Gioan không cho chúng ta biết tại sao những người còn lại trong Nhóm Mười Hai không cùng chạy ra với hai ông. Có lẽ Thánh Gioan tác giả Phúc Âm có ý cho biết lúc đó Nhóm Mười Hai đang bắt đầu tan rã, điều mà Chúa Giêsu cũng đã báo trước cho các ông, như là hậu quả của cái chết của Người: "Này đến giờ – và giờ ấy đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình" ( Ga 16, 32 ).
Dù sao thì ba nhân vật đang hối hả di chuyển cũng biểu tượng được cho cộng đồng các môn đệ: bà Maria Magđala là hình ảnh phái nữ, hai môn đệ tượng trưng cho các môn đệ phái nam. Một trong hai môn đệ, ông Phêrô – theo cách hiểu của truyền thống và cũng theo cách giải thích của nhiều nhà chú giải – là đại diện cho uy quyền được của cơ chế trong Giáo Hội được Chúa Giêsu thiết định.
"Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến" tượng trưng cho quyền năng "philia", tức là sức mạnh của Tình Thương, không phải tình thương với ý nghĩa chung chung, thông thường, cảm tình, mà là tình thương cá nhân và được quy hướng về Chúa Giêsu: "cảm tình, philia" không phải với ý nghĩa ở mức thấp hơn "tình yêu" ( agápe ), một khi được chủ thể hóa một cách thân tình hơn.
Về căn tính của người môn đệ vừa kể, trong Phúc Âm theo Thánh Gioan, chúng ta hơi khó xác định. Người môn đệ đó có thể là một trong hai người di theo Chúa Giêsu ngay từ lúc đầu, nhưng vẫn còn là người vô danh. Từ chương 13 trở đi, nghĩa là từ sau trở đi, người môn đệ "được Chúa Giêsu thương mến", nghĩa là từ lúc người môn đệ dựa đầu vào ngực Chúa Giêsu, để nói lên tình thương của mình đối với Người, qua việc nhận thức được thái độ yêu thương của Chúa Giêsu là thái độ phục vụ của Người.
Chính thái độ thương yêu đó của Chúa Giêsu làm nảy sinh ra người môn đệ "dựa đầu vào ngực" Người. Người môn đệ vô danh đó được xác định rõ căn tính của mình, đó là căn tính của người khám phá được tình thương Chúa Giêsu đối với mình, "được Chúa Giêsu thương mến ". Từ tình thương được cảm nhận đó, người môn đệ có thể tiếp tục để mở rộng tâm hồn mình, tin vào Chúa Phục Sinh.
Trở lại hình ảnh của Phêrô, động tác chạy ra mộ của Phêrô của ngài là động tác ngược lại bị chị gác cổng ngăn chận lại không cho vào dinh của vị thượng tế Caipha ( Ga 18, 16 ), nói lên nơi Phêrô còn tồn giữ lại cảm tình đối với vị Thầy mà ông đã chối bỏ trước đó. Tuy vậy Thánh Gioan tác giả Phúc Âm không cho chúng ta thấy được dấu vết gì về một niềm hy vọng chiến thắng trên sự chết, đưa ngài đến Đức Tin, tin vào những gì Chúa Giêsu đã tiên báo về sự sống lại và về đời sống, là sự thật.
Có lẽ chính vì đó cũng làm cho cách cử động của Phêrô chậm chạp hơn, đến mộ trễ hơn người môn đệ kia, dường như có ý nghĩa nói lên Phêrô vẫn còn bị sức nặng của lòng cứng tin làm cản trở. Và cũng vì đó mà khi Phêrô vào trong mộ, thấy các khăn vãi được xếp lại và đặt ở một vị trí riêng biệt, ngài vẫn chưa hiểu, ngài chưa được mở rộng tâm hồn mình ra cho ánh sáng Đức Tin.
3. Băng vải và khăn che đầu
Những gì Phêrô nhận thấy được trong mộ Chúa Giêsu là những điều đơn sơ, nhưng bất thường: "Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi" ( Ga 20, 6 – 7 ).
Các chi tiết gần tương tợ như những gì đã được đề cập, gần giống như trong cách an táng anh Ladarô, nhưng cũng khác biệt, nếu không muốn nói là đối ngược lại. Ở ngôi mộ của anh Ladarô, viên đá lấp cửa vẫn còn đóng kín ở cửa, bởi đó Chúa Giêsu ra lệnh cho các thân nhân anh tháo gở ra, trong khi đó thì ở ngôi mộ Chúa Giêsu, viên đá lấp cửa đã được lăn đi, bởi đó bà Maria Magđala mới khám phá ngôi mộ trống và cho rằng "người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Kế đến nhìn vào bên trong ngôi mộ Chúa Giêsu, không phải các tã vải ( othónia ), như loại tã lót dùng cho trẻ con, như trường hợp dùng an táng cho Ladaro, mà là các "khăn vải". Kế đến, "khăn che đầu đã được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi", điều đó cũng đã không có trong trường hợp Ladarô, khi anh được Chúa Giêsu gọi, anh hấp tấp tuột bỏ tất cả để trỗi dậy từ cõi chết, vứt lung tung xuống đất ngay nơi ấy.
Các diễn tả sự khác biệt giữa ngôi mộ Ladarô và của Chúa Giêsu có một ý nghĩa cao đẹp và muốn nói lên rằng sự sống lại của Chúa Giêsu không phải chỉ đơn giản là cuộc hồi sinh của một xác chết. Sự sống lại của Chúa Giêsu được đặt trên một bình diện cao cả hơn là cuộc sống sinh vật bình thường. Nhưng ý nghĩa mà Thánh Gioan muốn nói đó, khó mà chúng ta có thể lãnh hội hết được các chi tiết, nhưng ý nghĩa tổng quát của văn mạch thật rõ ràng: "Các băng vải cuộn lại và khăn che đầu được xếp để riêng ra" cho thấy đây không phải là cảnh tượng của một cuộc cướp xác, đem xác đi, mà còn là một cái gì đó hơn nữa, nhưng cái gì đó, đối với Phêrô vẫn còn là điều bí ẩn, chưa biết giải thích sao.
Trong thực tế, nếu Đức Tin của Phêrô được mở ra, Phêrô sẽ nhận ra mầu nhiệm Thiên Chúa đã tác động trong ngôi mộ đó và tin rằng thân xác của Chúa Kitô đã được giải thoát ( trong ý nghĩa thụ động thần học, passif théologique ) khỏi những khăn vải ràng buộc của sự chết và diện mạo của người không còn cần phải bị che giấu bởi biểu tượng của sự chết, như là khăn che đầu đối với xác chết của con người.
4. Khởi đầu Lòng Tin Phục Sinh
Phản ứng của "người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến" khác biệt hơn. Trước tiên lấy sức chạy cho mau tới mộ cho thấy ngài được một mãnh lực lôi kéo mình, bắt lấy mình, cũng cùng một phương thức mà tình thương đã chạm đến mình và chinh phục mình. Nhưng đàng khác, sự kiện người môn đệ đó nhường cho Phêrô vào trước, trong văn bản Phúc Âm, cử chỉ nhận biết như là dấu chứng tình thương không có nghĩa là chối bỏ quyền lực được định chế và phận vụ được tổ chức là điều cần thiết cho cộng đồng, phận vụ độc đáo mà chúng ta có thể biết được nơi Phêrô.
Tuy nhiên tình thương làm cho con người vượt thắng được các trở lực, mà nếu không được tình thương định hướng và hướng dẫn, không có cách gì có thể vượt thắng được. Bởi đó "người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến", vì để cho mình được tình thương của Chúa Giêsu chiếm lấy, không để cho mình bị cái chết hiển nhiên của Người làm mình phải dừng chân như là trở lực không thể vượt qua.
Ông cũng thấy những gì Phêrô đã thấy, nhưng là cái nhìn và hiểu rõ được ý nghĩa sâu thẳm hơn những gì thực thể vật chất cung hiến cho. Ông biết thấu triệt được, đi sâu vào mầu nhiệm. Nơi con người của ông, khởi đầu của một Đức Tin được bắt đầu, tin vào mầu nhiệm mà Thiên Chúa đã tác động nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã chiến thắng tử thần.
"Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến" không chỉ giới hạn, dừng lại tiếp nhận những dấu chỉ vật chất có liên quan đến cái chết của Chúa Giêsu và hiện diện trong ngôi mộ, mà đã biết nhận ra các dấu chỉ hướng dẫn đến một thực tại cao xa hơn, trổi vượt hơn, thực thể thượng đỉnh. Ông bắt đầu mở rộng cửa tâm hồn để hiểu được đồ án của Thiên Chúa, được mạc khải ra nơi Chúa Giêsu.
Dĩ nhiên Thánh Gioan tác giả Phúc Âm không có ý nói Đức Tin vừa được nảy sinh trong tâm hồn "người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến" đã là Đức Tin hoàn hảo, có khả năng làm nhân chứng, như những gì sẽ xảy ra trên biển hồ Tiberiade, khi ông là người đầu tiên nhận ra Chúa ( Kýrios ): "Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: " Chúa đó !" Vừa nghe "Chúa đó", ông Phêrô vội khoát áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển" ( Ga 21, 7 ).
Chính tình thương đã làm cho ông trực giác và hiểu được những gì sâu thẳm, mà người khác không hiểu được. Bởi đó các nhà chú giải dịch nguyên bản Phúc Âm thành: "Ông đã thấy và tin" ( Ga 20, 8b ). Và đó là sự khác biệt giữa "người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến" và ông Phêrô.
Trong khi Phêrô dường như bị chận đứng lại trước cái chết nhãn tiền của Chúa Giêsu, thì Gioan, người môn đệ được Chúa Giêsu thương yêu, lại được tình thương thúc đẩy và hướng dẫn, biết đọc một cách đúng đắn ý nghĩa các dấu chứng nơi mộ, và cũng vì đó mà sẵn sàng nhận biết đó là những dấu chỉ nói lên những gì mới mẻ Thiên Chúa mặc khải cho. Như vậy, ông chấp nhận nơi đó một cách chính đáng một mầu nhiệm đã được biết rồi, nhưng phần lớn còn phải thấu hiểu sâu đậm hơn nữa.
Bởi đó Thánh Gioan cho chúng ta biết ở phần cuối cùng của đoạn tường thuật biến cố ra viếng mộ hôm nay là các nhân vật liên hệ được đề cập lại "trở về nhà" ( x. Ga 20, 10 ), đúng hơn theo nguyên ngữ của văn bản là "họ trở về với chính mình" ). Cuộc diện kiến Đức Tin, mặc dầu là Đức Tin chân chính, vẫn chưa làm cho các ông xác tín đủ để có thể loan báo tin vui cho người khác.
5. Hai ông chưa hiểu Thánh Kinh
Các dấu chỉ hay các dấu hướng dẫn về cuộc sống lại của Chúa Giêsu nơi ngôi mộ chưa đủ để làm cho nảy sinh ra Đức Tin, để nâng đở các môn đệ bước đi trên con đường Đức Tin của mình, mà cần phải có Thánh Kinh, làm cho biến cố được dễ hiểu hơn, bằng cách đặt những gì đã xảy ra vào trong đồ án mạc khải của Thiên Chúa và loại trừ những định hướng sai lạc về thực thể của Chúa Phục Sinh và về sự Phục Sinh của Người.
Đàng khác, Thánh Kinh vẫn luôn luôn ở bên tầm tay của mọi thời đại, trong khi đó thì các dấu chứng nơi ngôi mộ là những dấu chứng rổi sẽ qua đi. Đọc Thánh Kinh dưới ánh sáng Đức Tin, người môn đệ Chúa Giêsu khám phá ra thực tại Phục Sinh không có gì xa lạ với với việc Thiên Chúa mặc khải chính Người cho nhân loại, không có gì xa lạ với việc người tự hiến tặng mình để cứu chuộc nhân loại.
Dĩ nhiên không phải chúng ta tìm ra trong Thánh Kinh một vài câu nào đó nhân chứng cho niềm hy vọng Phục Sinh, đó chỉ là điều phụ thuộc, cho bằng biết được dung nhan Thiên Chúa mà Thánh Kinh cho chúng ta biết được, là dung nhan của một Thiên Chúa không bất lực trước cái chết. Bởi lẽ nếu như vậy, Người không trung thành với những gì Người đã hứa cho những ai tin vào Người, mà là dung nhan của Thiên Chúa toàn năng và trung tín, chắc chắn không thể cho phép sự chết có quyền thế nói lên tiếng nói cuối cùng.
Và đó cũng chính là cách thức Chúa Giêsu đọc Thánh Kinh như là những dòng chữ nhân chứng của sự sống lại, khi Người tranh luận với nhóm Sadducei về việc kẻ chết sống lại: "Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn ai lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên Trời... Người phán: "Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống" ( Mc 12, 25. 26 – 27 ).
Cho đến lúc có cuộc chạy đến mộ, "người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến" chưa biết được biến cố Chúa Giêsu dưới ánh sáng Thánh Kinh, nhưng giờ đây, từ lúc thấy được những gì ông đã thấy trong mộ, trong nội tâm của ông con đường để hiểu được Thánh Kinh bắt đầu được mở rộng.
Con đường đó sẽ dẫn ông đảm nhận trọng trách làm nhân chứng, trọng trách mà của Gioan Tẩy Giả được Phúc Âm Thánh Gioan xác nhận ngay ở phần mở đầu: "Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng và làm chứng cho ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin" ( Ga 1, 6 – 7 ).
Trong ánh sáng Phục Sinh, người môn đệ, người tín hữu Chúa Ki Tô, có thể suy nghĩ lại về mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, và sẽ khám phá ra rằng nơi cạnh sườn bị đâm thâu, từ đó chảy tuôn xuống máu và nước, là sự mặc khải hoàn hảo chân lý của Thiên Chúa.
NGUYỄN HỌC TẬP, Cơ Sở Thánh Gioan Tẩy Giả
-----------------------------
“TÌNH ĐÃ CHẾT, CÓ MONG GÌ SỐNG LẠI”
Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
( Dẫn nhập thơ Trần Dạ Từ )
Tình nhà thơ nay đà chết. Nào những mong tình sống lại. Lòng nhà Đạo dù khi xưa tuy có chết, nhưng nay đà sống lại cùng Chúa, với Chúa. Với cộng đoàn thân thương có chứng nhân. Nhân chứng hôm nay hân hoan mừng Chúa sống lại. Vui vầy. Rộng khắp.
Mừng Sống Lại, ta không chỉ loanh quanh việc gợi nhớ. Nhớ giây phút Chúa sống lại, đánh động tâm can đồ đệ thôi. Nhớ Phục Sinh là nhớ rằng Ơn Cứu Độ đã ảnh hưởng lên cuộc sống và niềm tin của con dân. Nhớ Phục Sinh còn là nhớ lời gọi mời đổi mới. Đổi tận gốc rễ, như đồ đệ Chúa đã làm, thời tiên khởi. Nhớ Phục Sinh không chỉ là tin tưởng và loan báo việc Chúa sống lại, nhưng còn phải tác động lên điều mình tin. Lên tình thương yêu. Rao giảng.
Bài đọc 1, Thánh Phêrô nói đến kinh nghiệm mà Thánh nhân muốn sẻ san với cộng đoàn đang nghe giảng. Là môn đồ gần cận, Thánh nhân san sẻ với mọi người kinh nghiệm về giảng rao. Nhờ có kinh nghiệm rao giảng, Thánh nhân biết xác đáng rằng Đức Giêsu đã chết trên thập giá, nay đang sống với các Thánh trong niềm vui đầy tràn. Và các Thánh san sẻ niềm vui ấy với mọi người. Để ai nấy cùng vui như Ngài, với Ngài.
Bài đọc 2, Thánh Phaolô – một Pharisêu cương nghị – từng bức bách con dân của Chúa, cũng có kinh nghiệm về sự sống lại, với riêng mình. Và, thánh nhân đã hồi hướng trở về. Về cùng Chúa, ngay trên đường bách hại, ở Đamát. Hồi hướng trở về, Thánh Phaolô đem dân con Chúa về với cộng đoàn tình thương.
Qua kinh nghiệm, Phaolô Thánh nhân đích thân thay đổi cuộc sống. Bằng vào kinh nghiệm sống lại, Thánh nhân đã có thị kiến mới về mọi sự. Đặc biệt về cuộc sống của Đức Giêsu. Về thông điệp Ngài đem đến. Cuối cùng, Thánh nhân đã sử dụng trọn vẹn năng lực của mình để phục vụ. Phục vụ, theo cùng một cung cách khi trước, hầu giúp đỡ mọi người biết yêu thương và dấn bước theo chân Chúa.
Trình thuật hôm nay, kể về “Mộ trống” như dấu hiệu Chúa về lại với cuộc sống, bình thường. Và Thánh sử kể về sự kiện Maria Magđala và đồ đệ Chúa đến mộ phần, chứng kiến và tin vào Chúa Phục Sinh. Tin, là tin vào Tin Mừng, như đã viết: “Hai ông chưa hiểu rằng theo Kinh Thánh ( tức Cựu Ước ): Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” ( Ga 20, 9 ). Tin và hiểu, như hai vị Tông Đồ trên đường Emmau, cũng được giải thích, để hiểu rõ. Tin và hiểu, là biết chấp nhận một sự thật: Chúa chấp nhận khổ đau và sống lại, quả đúng như điều được ghi trong Cựu Ước.
Suy cho cùng, ta cũng hiểu: Phục Sinh không chỉ đơn thuần là phục hồi sinh lực cho cơ thể Chúa. Phục Sinh không đơn thuần là chuyện tai nghe mắt thấy. Thấy như đã thấy việc Chúa bị đóng đinh, một sự kiện lịch sử. Mà Phục Sinh, chính là sự kiện của niềm tin. Đức Chúa Phục Sinh nay sống lại để đi vào cung cách mới của Sự Sống.
Các văn bản sau ngày Chúa Phục Sinh, cho thấy: Ngài không được các Tông Đồ gần cận nhận thức trước. Ngài ở bất cứ những nơi mà đồ đệ Ngài đi đến. Chúa Phục Sinh phải được hiểu là Ngài mang nơi Mình Ngài một hình thức tân tạo, mang cung cách hoàn toàn mới mẻ, để hiện hữu ở với ta. Và cung cách mới ấy chính là cộng đoàn dân con. Là Thân Mình hiện thân nơi Nước Trời, ở trần gian. Là tương quan dân con của Đức Chúa.
Đọc tiếp trình thuật, ta sẽ thấy: Thánh Phêrô và “môn đồ được Chúa thương” đích thân chứng kiến Chúa sống lại, đã chạy về kể cho bạn bè nghe những điều mình “tai nghe mắt thấy”. Riêng Maria Magđala, người đàn bà đầy lỗi phạm khi trước, nay đã dâng trọn đời mình để Chúa dẫn dắt. Chính nhờ thế, Thầy Chí Ái đã vui lòng ở lại với chị, với mọi người. Với Maria Magđala, mặc khải “Chúa sống lại” là sự kiện: có thiên thần hiện diện, tức do Chúa. Và khi ngước mắt quay nhìn, chị thấy Chúa nhưng không nhận ra. Đó là điều khiến chị bật thành tiếng khóc trong mừng vui. Vui vì biết rằng Chúa Sống Lại đã hiện ra với chị. Với người đời. Thế mà chị cứ ngỡ Ngài là “người làm vườn”.
“Người làm vườn”, lời Tin Mừng được Thánh Gioan nhiều lần nhắc đến. Vườn là chốn địa đàng, nhị vị tiên tổ từng ngã phạm ( St 2, 23 ). Vườn là nơi chôn Chúa, chốn cứu chuộc ( Ga 19, 41 ). Vườn là khu lưu giữ chiên đàn Chúa đã nói đến ( Ga 10, 1 – 5 ). Tựu trung, Chúa Phục Sinh từng gọi tên Maria Magđala để mặc khải, hay gọi tên chiên con đều ở đây, trong vườn.
“Thôi đừng giữ Thầy lại”, điều này chứng tỏ: dân con Đạo Chúa cứ đeo đuổi bám víu vào con người “cũ” của Đức Chúa. Trên thực tế, Đức Giêsu nay đã về với Cha, trong quang vinh. Về với Cha, Ngài hứa sẽ trở lại, nhưng theo cung cách khác. Bằng một thực thể mới mẻ, khác lạ. Và ta chỉ gặp Ngài, nơi những người được coi là đồ đệ. Người liên kết làm một Thân Mình Chúa, một Hội Thánh Chúa, ở ngay địa phương, nơi mình đang sống.
“Tôi đã thấy Chúa !”, lời kể của Maria Magđala, người đàn bà từng phạm lỗi rất nặng theo luật Do Thái, cũng là của phụ nữ, những người có vị thế rất thấp trong xã hội. Nhưng với Tin Mừng, chị lại được ưu tiên cao. Ưu tiên được biết trước nhất, chuyện Chúa sống lại. Đó chính là mục đích cũng như ý nghĩa của sứ vụ rao báo Tin Mừng. Rao báo không chỉ là chuyển giao triết lý của Lòng Tin, mà còn là san sẻ cho nhau những kinh nghiệm mình chứng kiến.
Kinh nghiệm được gặp và được thấy Chúa trong cuộc đời của chính mình. Rồi sau đó, mời gọi mọi người cùng làm như thế. Mừng kính Chúa Phục Sinh, ta cũng được gọi mời cùng một cung cách như thế. Gọi và mời, như Phêrô Thánh nhân, Maria Magđala và đồ đệ khác, theo một kiểu. Một kiểu cách như bài đọc hôm nay cho thấy.
Đọc thư Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô, ta đều thấy: lời mời gọi Phục Sinh là một gọi mời hồi hướng trở về, tận căn rễ. Là thanh lọc tự bản thân, của mỗi người. Khi cử hành lễ Vượt Qua, người Do Thái có thói quen bỏ đi thứ bánh lên men mà họ vẫn có. Thay vào đó, là bánh không men vừa mới cất. Người ta đổ đi là vì qua tiến trình lên men tạo nên bánh, men được coi là nhân tố đã gây... lũng đoạn bột. Vì thế, Thánh Phaolô khuyên ta nên mừng lễ Vượt Qua, “đừng với men cũ, là men gian tà, ác độc; nhưng, với Bánh không men của lòng tin tuyền, và chân thật.” ( 1Cr 5, 6 )
Về lại bài đọc 1, từ sách Công Vụ Tông Đồ, Thánh Phêrô nhấn mạnh đến tầm vóc quan trọng của đồ đệ Chúa. Quan trọng ở chỗ, ta không chỉ rút kinh nghiệm từng trải và vui hưởng niềm vui Đức Chúa là Thầy Chí Thánh nay đã Phục Sinh mà thôi, nhưng còn phải sẻ san kinh nghiệm và niềm vui ấy cho nhiều người càng tốt. Đó là điều ta nên làm. Nên làm, vì nếu chỉ liên hoan Phục Sinh, thì mới có nửa phần. Mà với người Đạo Chúa, Phục Sinh là đại lễ diễn ra hằng ngày, là ngày vui Chúa Sống lại, ta san sẻ với hết mọi người, vào mọi ngày.
Lời Thánh Phêrô “còn chúng tôi đây xin làm chứng”, là làm chứng về những việc Chúa đã làm. Về việc Chúa bị bắt, hãm hại và giết đi. Về “Thiên Chúa đã làm cho Người trổi dậy” và chúng ta, là “những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người” ( Cv 10, 40 – 41 ), vẫn là điều ta vẫn làm mỗi khi tham dự Tiệc Thánh Thể. Dự Tiệc Thánh, ta vẫn ăn và vẫn uống Thân Mình Đức Chúa Phục Sinh quang vinh.
Vậy thì, thông điệp ta có được từ lễ Chúa Phục Sinh là thế nào ? Ta có đáp ứng đòi hỏi làm con dân Đức Chúa, hay chỉ ngồi đó tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật như người dưng ? Bởi thông điệp của Chúa là thông điệp gửi mỗi người chúng ta. Gửi để ta ra đi mà rao báo Tin Mừng Ngài đã Phục Sinh. Rao và báo cho cho con dân Ngài biết Thiên Chúa đã chọn Đức Giêsu đến với ta, không phải để lên án kẻ sống với người chết. Nhưng để mọi người tin vào Ngài, sẽ được tha thứ mọi lỗi lầm, ngang qua Ngài.
Trong hân hoan đón nhận lệnh truyền của Chúa, ta cứ vui lên ma ca hát. Hát rằng: “Người đi trong kinh hãi, trong cô đơn, nhưng đi tới, nhưng đi vươn, đi ra ngoài, đi ra ngoài màn đêm…” ( Phạm Duy – Dạ Hành ) Ra đi, mang lệnh truyền của Chúa, sẽ không ra đi trong kinh hãi. Sợ sệt. Nhưng vươn lên mà tiến bước. Tiến ra ngoài màn đêm, nơi còn nhiều người biết Chúa sống lại từ cõi chết, rất hãi sợ.
Lm. PHAN ĐỖ THỤC LINH, MAI TÁ diễn dịch
-----------------------------
Có một chàng sinh viên, vừa thất bại trong việc học hành, lại vừa thất bại trong tình yêu của mình. Buồn chán, tối hôm đó, chàng đi lang thang ngoài bãi biển. Chàng ngồi nơi mỏm đá nhìn những ngọn sóng xô vào bờ dưới ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau buồn dần dần chìm lắng. Tất cả dường như đã qua đi. Chàng biết rằng: mặt trời lại sắp sửa mọc lên ở phương đông. Và khi mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón nhận được một nguồn sinh lực mới. Mọi dự tính ồ ạt trở về để rồi chàng đã quyết định một cách hăng say: sẽ bắt đầu lại tất cả.
Từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào biến cố Phục sinh mà chúng ta mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Phục sinh có nghĩa là cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Giêsu đang biến đổi thảm cảnh cuộc đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh quang đầy mới mẻ.
Đây cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ. Thực vậy, trước buổi chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ đã tìm thấy một hướng đi, một ý nghĩa cho cuộc sống, các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và đã đặt mọi ước mơ vào Ngài.
Thế nhưng với cái chết của Ngài trên thập giá, thì mọi hy vọng, mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng tối buông xuống, thì cuộc đời các ông dường như cũng bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh. Mọi sự thế là đã chấm dứt. Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã trở về với làng xưa và nghề cũ, như hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố Phục sinh đã xảy ra và làm đảo lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức Kitô đã sống lại.
Kể từ lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh bắt đầu hoạt dộng và biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt vọng, các ông trở thành một binh đoàn thừa sai gan dạ. Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường loan báo Tin mừng Phục sinh cho muôn dân.
Bất cứ nơi nào các ông rao giảng, thì quyền năng của Đấng Phục sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã từng hoạt động trong chính các ông. Và những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước cho hy vọng. Hận thù đã nhường bước cho thương yêu. Đau khổ đã nhường bước cho niềm vui. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì để hưởng được những sự kỳ diệu ấy?
Trước hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy mở rộng cõi lòng cho Đức Kitô để Ngài thực hiện nơi chúng ta những điều Ngài đã thực hiện cho các môn đệ và cho những người nghe lời các ông giảng dạy.
Tiếp đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai đó khước từ, đồng thời hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta tin tưởng trở lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị ai đó phản bội, cũng như hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta nhìn thấy niềm hy vọng của chúng ta bị lung lay và tàn lụi.
Sau cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta lau khô những giọt nước mắt, tìm thấy nguồn sinh lực mới, sau khi đã thất bại, đã khổ đau. Đó là ý nghĩa, là Tin mừng mà Đức Kitô Phục sinh đem lại cho chúng ta.
-----------------------------
NGÔI MỘ TRỐNG (16,1-8)
Khi đọc lại trình thuật này, một lần nữa ta cảm thấy đang đọc một bản tường thuật trực tiếp về một người đang sống. Như ta đã thấy, rõ ràng Maccô không phải là một phóng viên chuyên nghiệp, dù văn phong của ông rất sôi động, những tường thuật của ông không mang dáng vẻ gì là trực tiếp cả. Bằng những nét cụ thể, ông muốn truyền thông cho cộng đoàn Kitô hữu một kinh nghiệm về niềm tin sâu xa và chín chắn: đó là một quá trình 40 năm suy niệm (từ năm 30-70). Từ những nhận định này, ta phải hết sức lưu ý đến sứ điệp Maccô muốn nhắn gửi trong trình thuật này, qua những chi tiết ông viết lại.
Sau ngày Sabbat, mọi sự trở lại bình thường (c.1). Bối cảnh thời gian là chiều tối thứ bảy, khi những ngôi sao đầu tiên bắt đầu xuất hiện trên nền trời, báo hiệu ngày lễ nghỉ thánh đã hết. Trước khi trời tối hẳn, các cửa hiệu đều mở cửa bán hàng lại. Người Do Thái có tính lo. Chính vì vậy mà ba phụ nữ chứng kiến Chúa Giêsu chịu chết (15,40) đã lo lắng đi mua dầu thơm để tẩm xác Chúa Giêsu (công việc đáng lẽ phải được làm hôm trước đó). Đây không phải là ướp xác đúng nghĩa theo cách thức người Ai Cập, nhưng chỉ là xức hương liệu lên thi thể theo tập tục người Do Thái (Ga 19,40). Bằng lối tương phản mà Maccô rất sở trường, bóng tối của sự chết (15,33-34) được đặt song song với ánh sáng của một ngày mới (c.2). Ở đây tác giả Tin Mừng đã quy tụ mọi biểu hiệu tượng trưng cho việc khai sinh một thời đại mới. Nó ám chỉ rõ rệt đến buổi sáng đầu tiên của cuộc Sáng thế (St 1,3-5): đó là khởi nguyên cho một thế giới mới vừa xuất hiên. “Ngày thứ nhất trong tuần”, sau ngày hưu lễ Sabbat của người Do Thái, nay sẽ trở thành “ngày Chúa nhật”, dies dominica, “ngày của Chúa” Phục Sinh.
Buổi bình mình mới này xuất hiện trước cả các phụ nữ, những bà vẫn canh cánh mối bận tâm là phải đến cho bằng được để tỏ lòng với Người đã chết hôm trước. Câu hỏi các bà đặt ra khá vô duyên và muộn màng (c.3); hẳn các bà đã biết rằng cần hai hoặc ba người đàn ông mới vần nổi tảng đá rất nặng ra khỏi cửa mồ. Nhưng ở đây tác giả lại không hề chú trọng đến tâm lý nhân vật. Mối lo lắng của các bà là nhằm làm nổi bật nỗi ngạc nhiên xảy ra sau đó: các bà phát giác ra rằng tảng đá mà các bà lo lắng không thể lăn nổi nay đã được vần ra rồi (c.4). “Một bàn tay vô hình” mạnh mẽ phi thường đã thực hiện việc này. Trong văn bản Hy Lạp, người ta đọc thấy câu này: “Hòn đá đã bị lăn đi”.
Lối dùng theo thể thụ động này diễn tả hành động của chính Thiên Chúa, tuy không nói rõ tên Ngài ra (x.Mt 28,2): Thiên thần của Chúa, đấng thay thế Ngài, đã lăn tảng đá. Sự kiện cửa mồ được mở ra mới chỉ là điều ngạc nhiên đầu tiên. Một sự thể đáng ngạc nhiên khác quan trọng hơn nhiều, đang chờ đợi các bà: các bà nhìn thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc toàn đồ trắng (c.5a). Cảnh tượng này làm cho độc giả ngày nay phải suy nghĩ. Việc một kẻ ăn mặc như thế, ngồi ở đấy, nơi chôn kẻ chết có ý nghĩa gì? Người ta nghĩ ngay đến chàng trai trẻ khi Chúa Giêsu bị bắt, đã quăng tấm vải choàng đi hầu dễ bề tẩu thoát (tấm vải=vải liệm chăng?) (14,51-52). Hơn nữa, người thanh niên “ngồi bên phải”… Đó là vị trí danh dự như người Kitô hữu hằng coi Chúa Giêsu vinh quang “ngự bên hữu” Chúa Cha (x.16-19b). Sau cùng, “mặc áo trắng” cũng như khi Chúa Giêsu biến hình các môn đệ thấy Ngài cũng mặc như vậy (9,3). Hầu như mọi sự kiện này đều khiến ta nghĩ rằng chính Chúa Giêsu “xuất hiện”! Nhưng tác giả Tin Mừng không cho là như thế. Và truyền thống Tin Mừng ở trình thuật này lại cho rằng đó là một hoặc hai Thiên thần (Mt 28,2b-3; Lc 24,4; Ga 20,12). Thiên thần là “sứ giả” của Thiên Chúa, là đấng thay thế Thiên Chúa vô hình. Sự xuất hiện của Thiên thần ở đây có nghĩa rằng sứ điệp các vị loan báo không phải là của loài người, mà đến từ Thiên Chúa. Thực vậy, người thanh niên loan báo Tin Mừng vượt khỏi trí khôn loài người (c.6b). Sứ điệp này mang một sắc thái hết sức mâu thuẫn: kẻ bị đóng đinh nay đã Phục Sinh. Kẻ bị chết đi, chết tàn nhẫn bằng khổ hình thập giá nay đã trở về cõi sống: Ngài là Đấng Hằng Sống! Đây chính là sứ điệp “Vượt Qua” mà các Tông đồ đã loan báo cho muôn dân (. Cv 2,22-36; 3,12-20 v.v…). Sự bối rối của các phụ nữ biểu lộ mối xúc động tôn giáo sâu xa khi đứng trước cõi siêu nhiên. Từ ngữ “hoảng sợ” (c.5) rất mãnh liệt và chỉ riêng Maccô dùng. Maccô luôn nhấn mạnh đến vực thẳm cách biệt giữa nhân loại và Thiên Chúa (x. 1,27; 9,15; 10,24a).
Tin Mừng về Chúa Giêsu chiến thắng sự chết phải được công bố. Bởi vậy các bà được khuyên nhủ phải thông báo cho các môn đệ, nhất là Phêrô (c.7). Mọi Tông đồ đều được nhắn bảo tập trung về Galilê, ở đó Đấng Phục Sinh sẽ gặp lại họ và Ngài sẽ tới đó trước họ. Thế nghĩa là gì? Miền Galilê ở mãi phía bắc Palestin, là nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ của mình (1,14-15), nơi Ngài dong duổi khá lâu trước khi lên Giêrusalem (9,30). Tác giả đã nhận định Galilê là môi trường điển hình cho việc tương giao Do Thái ngoại giáo, tượng trưng sự cởi mở đối với toàn thế giới. Bởi thế các môn đệ được mời gọi nhóm họp lại sau lưng Đức Giêsu Phục Sinh để chuẩn bị cho một sứ mạng rao truyền mới.
Như vậy các phụ nữ là những người được ký thác cho một chương trình tuyệt vời: phục hồi Tin Mừng với một sức mạnh mới mẻ.
Ta biết thêm gì nữa? Các bà chạy trốn, lòng đầy sợ hãi, mà chẳng thông báo cho ai cả (c.8). Thái độ này khiến ta ngỡ ngàng. Và càng làm độc giả phải suy nghĩ đắn đo hơn khi biết rằng Maccô đã kết thúc tác phẩm của mình ở đây (ở câu 8). Các nhà chuyên môn đều đồng ý như thế. Phần nối tiếp sau đó (16,9-20), đoạn kết, không phải là văn phong của Maccô. Đó chỉ là một bản “phụ lục” thêm vào tác phẩm để tránh cho nó khỏi bị kết thúc đột ngột, đồng thời mang lại một chung cục có hậu hơn.
Bởi vậy ta cần tìm hiểu tại sao Tin Mừng Maccô nguyên thủy lại kết thúc với việc các phụ nữ sợ hãi, bỏ trốn và câm lặng như thế. Trước hết, nỗi lo sợ. Văn bản Tin Mừng ghi rằng các bà “run lẩy bẩy, hết hồn hết vía”. Maccô bao giờ cũng trung thành từ đầu tới cuối khi nói đến khía cạnh này trong tác phẩm: khi chứng kiến các biểu lộ của Thiên Chúa con người bị hoảng loạn cực độ. Đó là trường hợp của đám đông dân chúng (2,12), của các môn đệ khi họ chứng kiến phép lạ của Thầy mình (5,42b; 6,50). Do vậy lẽ nào các phụ nữ lại không hoảng sợ và run rẩy khi được loan báo về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu?
Kế đến là sự im lặng. Việc các phụ nữ không nói gì với ai cả còn chướng hơn việc họ đã nhận lãnh một sứ điệp phải truyền đạt (c.7). Và nếu quả thực các bà không truyền đạt lại –như các tác giả Tin Mừng cũng công nhận (Mt 28,8; Lc 24,9; Ga 20,2-18) ắt hẳn các Tông đồ cũng không thể biết gì cả… rồi chúng ta cũng vậy! Không biết gì! Nhưng ngay cả thái độ im lặng của các bà cũng đã ăn sâu vào máu thịt của Maccô. Ta thấy rằng các lời mặc khải mầu nhiệm Chúa Giêsu đã nhiều phen khiến bạn hữu Ngài hoàn toàn không hiểu gì. (Họ không dám hỏi lại Ngài 9,32). Do đó không lạ gì thái độ sợ hãi và câm lặng của các phụ nữ khi nhận được tin quá sức tưởng tượng rằng Đấng bị đóng đinh nay đã sống lại. Tin Mừng “Chúa Kitô đã Phục Sinh” bao giờ cũng là một tin khó rao truyền nhất, bởi lẽ hoàn toàn ngược với lý trí.
Đoạn cuối này của Tin Mừng Maccô hẳn làm cho ta phải kinh ngạc. Ta phải hết sức lưu ý chuyện cửa mồ được “mở ra” và sứ điệp của Thiên Chúa giao cho ta chỉ được đón nhận với một đức tin trần trụi như thế này: chứng minh là “kinh nghiệm sống” của những kẻ đã theo Thầy trong cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Ngài.
-----------------------------
CHÚA GIÊSU SỐNG LẠI (Ga 20,1-9)
Những lần hiện ra (20,1-29)
Các chương 20 và 21 thuật lại bốn lần Chúa Giêsu hiện ra khi Người sống lại: hiện ra với bà Maria Macđala (cc. 14-18), với các môn đệ mà không có ông Tôma (cc.19-23), với các môn đệ có ông Tôma trong tuần sau đó (cc. 19-23), với các môn đệ bên bờ Biển Hồ (chương 21 là chương mới được thêm vào Tin Mừng sau này). Một phần của nội dung trần thuật này đều thống nhất ở cả bốn Tin Mừng (ngôi mộ trống, hiện ra với các bà và với các Tông đồ). Thế nhưng Gioan, quả có sẵn trong tay các nguồn văn giống như các Tin Mừng Nhất Lãm, đã khôi phục lại cách rất khéo léo. Đặc biệt ông đã cá nhân hóa các kinh nghiệm về đức tin sau Phục Sinh, bằng cách quy kết các kinh nghiệm này cho những cá nhân riêng biệt, cũng như đánh dấu riêng các hình thức tin rất khác biệt: môn đệ được Chúa Giêsu thương mến tin mà không cần thấy (20,8); bà Maria Macđala chỉ nhận biết Chúa Giêsu khi Người gọi tên bà (20,16); các môn đệ thấy Người và tin vào Người (20,20); còn ông Tôma không muốn tin mà không thấy trước và sờ được Người.
Đối với Gioan, cuộc Thương Khó và cái chết là Giờ được tôn vinh. Sự sống lại của Chúa Giêsu và những lần Chúa Giêsu hiện ra trong vinh quang quả là quan trọng, vì chúng đến thánh hóa toàn bộ quá trình của Chúa Giêsu, suy diễn từ buổi sơ khai bắt đầu từ sự sống lại sau cùng: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó; họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (2,22). Ngoài ra, chúng còn chuẩn bị thời kỳ của Giáo Hội khi Chúa Giêsu lên cùng Chúa Cha.
Bà Maria Macđala, ông Simon Phêrô và người Môn Đệ Kia (cc. 1-18)
Tiểu đoạn 1-18 được xây dựng chung quanh bốn nhân vật: bà Maria Macđala, ông Phêrô và người môn đệ kia và Chúa Giêsu. Sự việc diễn ra gần bên mộ, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Bà Maria Macđala mở đầu và kết thúc bài trần thuật với hai sứ điệp dành cho các môn đệ, thoạt đầu đưa tin Chúa bị đem đi khỏi mộ (c.2), sau đó loan báo sự Phục Sinh (c.18). Có nhiều cảnh tượng khác nhau; đoạn dành cho bà Maria Macđala bị việc đi thăm mộ của hai môn đệ làm gián đoạn. Tuy vậy độ cao bi thảm hiện rõ trong những lần liên tiếp chạy đi chạy lại ngôi mộ: Bà Maria “thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (c.2); người môn đệ kia “thấy những băng vải (vải liệm theo bản dịch phụng vụ) còn ở đó”. Ông Phêrô thấy “băng vải và khăn che đầu” (c.7). Cuối cùng người môn đệ kia “thấy và tin” (c.8). qua các dấu chỉ càng lúc càng rõ nét, độc giả được chuẩn bị đi từ các dấu lạ tiến đến mặc khải về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.
NGÔI MỘ TRỐNG (cc.1-2)
Gioan có trước mặt trình thuật liên quan đến nhiều phụ nữ (chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu). Các Tin Mừng Nhất Lãm ghi nhận có hai bà (Mt 28,1), ba bà (Mc 16,1) hoặc nhiều hơn nữa (Lc 24,10). Gioan chọn xây dựng bài trần thuật của mình chung quanh một mình bà Maria Macđala. Việc bà đi đến mộ không nhằm mục đích thực dụng, bởi vì việc tẩm thuốc thơm đã được hai người đàn ông thực hiện vào áp ngày Sabát. Bà đến mộ trong tư thế thân thương và hiếu hạnh nhằm làm chậm đi sự chia cách với Chúa Giêsu và kéo dài tang lễ (như đã xảy ra trong Ga 11,31). Tình huống nhắc đến đêm tối (của sự chết) và một bước khởi đầu (ngày thứ nhất). Tảng đá đã bị lăn khỏi mộ. Giống như các thánh sử khác, Gioan phòng giữ mầu nhiệm về sự can thiệp của Thiên Chúa diễn ra mà không có nhân chứng, trước khi bà Maria đến. Cuộc gặp gỡ giữa bà Maria và Chúa Giêsu bị chậm lại vì được xen vào việc bà Maria chạy về gặp hai môn đệ.
HAI MÔN ĐỆ (cc.3-10)
Ông Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu thương mến, cả hai đều có mặt ngay từ khởi đầu cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong một sự hết sức gần gũi với Người, đau thương cho ông Phêrô vì đã chối Thầy, trung thành nơi người môn đệ kia. Tích cực trong cuộc Thương Khó, hai ông còn tích cực hơn nữa trong việc khám phá mầu nhiệm Phục Sinh. Có sự chênh lệch giữa hai người cũng như có sự trổi vượt trong đức tin của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, bởi lẽ môn đệ kia chạy tới mộ nhanh hơn (dấu chỉ sự vồn và ân cần lớn hơn chăng?), sau đó “ông thấy và tin”: dụng ngữ rõ ràng diễn đạt quá trình từ “thấy” đến sự gắn bó trọn vẹn với Chúa Giêsu Phục Sinh. Cảnh tượng đồ liệm hoặc trật tự các đồ này được sắp xếp chứng tỏ rằng thi hài của Chúa Giêsu không bị đánh cắp, mà Chúa Giêsu đã bỏ đi, để lại khăn so có thứ tự nếp nang và đặt đúng vị trí Người mặc. Khác với anh Ladarô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải, Chúa Giêsu không còn cần đến khăn vải nữa vì lẽ Người lìa bỏ thế giới loài người. Gioan không hề nói gì đến đức tin của ông Phêrô (Lc 24,12 nhấn mạnh ông Phêrô rất đỗi ngạc nhiên khi thấy những khăn liệm). Cho đến lúc ấy Kinh Thánh chưa hoàn toàn thuyết phục, tiếp nhận sự chứng nhận của nhiều dấu chỉ dồn dập trên đường của các môn đệ. Họ trở về nhà, nơi mà bà Maria Macđala sẽ mang Tin Mừng đến cho họ. Không tranh luận, không cạnh tranh ngoài mặt, cả hai môn đệ ra khỏi bài trần thuật cùng với sự trổi vượt thích đáng cho mỗi người: ông Phêrô được gia nhập trước tiên, trở nên cho Giáo Hội sơ khai một chứng nhân không thể chối cãi được. Còn người môn đệ kia trổi vượt hơn ông bởi sự gắn bó với Đức Kitô. Mối tương quan phức tạp giữa hai môn đệ này sẽ được minh giải nơi chương 21.
-----------------------------
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây có thể là một dụ ngôn về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết để mở lối cho con người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường được, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẫn trốn được Thiên Chúa, nhưng khi một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là con người được sống. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo duổi và chờ đợi con người.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn ngài trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: “Người ta đã lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ kiểm chứng. Hai ông thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã thấy và đã tin: “Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật rồi”.
Thưa anh chị em,
Tất cả khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng nếu chỉ có ngôi mộ trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu chuyện chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó có nội dung, và nội dung ở đây là: “Ngài không còn ở trong mộ nữa, vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Từ ngôi mộ ấy đã bật lên sự sống. Đó là niềm tin của chúng ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục, nhưng caí chết và từ bỏ liên tục. Đừng sợ những ngôi mộ. Đừng sợ chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị tảng đá to che chặt đời mình. Ước gì mọi ngôi mộ của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa Giêsu: bị mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự sẽ vẫn như cũ: sự sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết liễu bằng cái chết như một trái thúi rơi nát dưới gốc cây? Con người có nghĩa là gì, nếu mọi cố gắng đạt hạnh phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của hạnh phúc, của những hạnh phúc luôn bị cái chết đe dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú sét ái tình sẽ tắt nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống mà giả quên sự chết hiện diện khắp nơi, phải chăng là một trò chơi không xứng với một con người? Trò chơi của cuộc sống ấy sẽ phi lý và thất vọng, nếu Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát và cái chết của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr 15,12tt)
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Ngài đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển giòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quan cùng với Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau khổ, tội lỗi và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá khứ, hiện tại và tương lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn một tội nào, không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến thắng của Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa Kitô đã vĩnh viễn hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được Phục Sinh trong Chúa Kitô và sau này sẽ được Phục Sinh như Ngài, nên chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ không còn phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Không còn gì là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân, liều mạng vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm ngày mai, nhằm bên kia thế giới, nhằm thiên đàng đã được hứa ban. Phục Sinh cũng nhằm và còn nhằm hôm nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ Vượt Qua của chúng ta trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày bằng cách sống cho tình yêu, chết vì tình yêu: yêu Chúa, yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng bào, đó phải là chương trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta ở cõi đời này: chương trình Phục Sinh.
-----------------------------
Trên lãnh vực bình giải uyên bác, bốn thiên ký sự của bốn Phúc Âm cùng thuật về sự Chúa sống lại, những ký ức ấy mới đây là đề tài cho nhiều công trình nghiên cứu, những tập nghiên cứu hay nhất đều đưa đến một sự khơi sâu đức tin. Tường trình ở đây về công cuộc nghiên cứu đó, là một việc không làm được. Ý định của Giáo Hội khi dạy đọc Phúc Âm trong phần phụng vụ thánh lễ là để xếp đặt một sự gặp gỡ sống động giữa tín hữu và Chúa Giêsu. Thế mà Phúc Âm cốt để loan báo trước hết là cho người nghèo. Vì vậy chúng ta sẽ cố gắng có được một não trạng của kẻ nghèo khó để đọc những thiên ký sự về Chúa sống lại. Sự nghèo khó, nói đến ở đây, không có nghĩa là ngu dốt hoặc ngây ngô khờ dại. Nghèo, nghĩa là dẹp bỏ hết những cái gì kềnh càng vướng vít của sự giàu có, dù là giàu có về kiến thức, để ao ước của cải quý trọng nhất là sự gặp gỡ Đức Kitô sống động. Chúng ta hãy vượt lên trên những phân tích, giả thuyết v,v… tuy không dám chê những công trình đó. Bằng một vận dụng đức tin, chúng ta hãy đi tìm Chúa. Nhiều khi chúng ta có ấn tượng rằng chúng ta đã đóng đinh Chúa, hoặc đã để mất Chúa… Không bao giờ lòng tin của chúng ta lại “thật” hơn khi thấy mộ Chúa trống rỗng –Khi ta chấp nhận Tin Mừng trọng đại: Chúa Giêsu sống, Người hòa giải chúng ta, Người làm cho chúng ta sống.
Trong ký sự của thánh Maccô, chúng ta thấy mấy bà từ mờ sáng đi thăm mộ Chúa. Họ có ý định đến làm cho xong việc xức thơm thi hài Chúa. Họ chẳng nghĩ gì khác ngoài cuộc bận tâm đó. Các bà tự hỏi ai sẽ vần dùm tảng đá đậy cửa mồ. Nhưng mặc dù băn khoăn, họ vẫn tiến bước, tâm hồn bị thúc đẩy bởi lòng trung thành với Chúa. Thế mà, sửng sốt làm sao, họ tới nơi thì thấy tảng đá đã được ai vần sang một bên rồi. Họ đành liều, bước vào phòng ngoài của ngôi mộ, thấy một thanh niên cất tiếng nói với họ. Người đó cho biết Chúa Giêsu không còn là một người chết, nay Chúa đã sống lại. Từ ký sự của thánh Maccô, chúng ta rút ra được suy niệm gì bổ ích cho lòng tin của chúng ta?
1) Câu chuyện mấy bà đi tảo mộ Chúa rất có ý nghĩa cho một trong những giai đoạn của đức tin. Hành vi tin, lúc bắt đầu, là một sự cất bước không đắn đo suy tính, đi tìm một Đấng mà người ta không biết được toàn thể mầu nhiệm. Các bà chưa được biết mầu nhiệm Chúa Giêsu. Đối với họ, Chúa là Thày. Cái chết thê thảm của Thày làm cho họ chìm trong đau khổ và hoang mang quá đỗi. Nhưng linh tính khiến họ cảm thấy giữa Thày và họ chưa hết, vẫn còn liên hệ dù chỉ là việc đến mộ hoàn tất viếc xức thơm thi thể Thày đầy thương tích sau cuộc khổ hình. Thăm mộ đem lại gì cho họ? Đem lại một sự hoang mang ghê gớm hơn nữa, họ chỉ thấy một khoảng trống. Họ khiếp sợ đến nỗi không thốt lên lời. Chỉ mãi sau này các bà mới tin. Có bao giờ chúng ta tự nhiên đến với Đức Kitô mà vẫn có ấn tượng về một sự trống rỗng mênh mông? Khoảng chân không đó cần thiết cho hành vi tin của chúng ta được thuần khiết. Chúng ta làm điều hợp lý khi nghe theo nội tâm thúc giục chúng ta tìm đến Đức Kitô.
2) Họ thấy tảng đá đã được vần sang một bên. Theo não trạng những Kitô hữu tiên khởi gốc Do Thái, đó là mộtsự kiện có ý nghĩa. Có nghĩa là thần chết đã bị đánh bại. Mộ được mở ra, tức là người chết không còn thuộc về cõi âm ty, nơi mà người Do Thái tưởng tượng những kẻ quá cố cư ngụ. Trong đời sống đức tin của chúng ta cũng vậy. Nếu có những lần chúng ta có ấn tượng về một khoảng trống rỗng mở ra trong cõi huyền vi chính vì những lúc đó trong một góc sâu tâm khảm chúng ta một sự sống lại đang chuẩn bị. Chúng ta chưa nắm được cái hiển nhiên –nhưng Chúa không muốn bị gò bó trong những hạn chế của chúng ta về tư tưởng, ước vọng, về cung cách sống đời Kitô hữu- Chúa vần sang một bên tảng đá nó đóng kín tâm trí chúng ta và Chúa chuẩn bị chúng ta sống lại cho một đời sống cuồng nhiệt hơn, thật hơn.
-----------------------------
ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA CÓ THEO KỊP HÀNH TRÌNH CỦA NHÂN LOẠI KHÔNG?
(Đoạn suy niệm sau đây được đề nghị dùng ngày lễ Phục Sinh, trong lễ chiều. Tuy nhiên không cấm dùng trong các lễ sáng).
Sự việc Chúa hiện ra với các môn đệ thành Emau, chỉ có thánh Luca mới thuật. Các thánh chép sử khác không nói đến. Tuy nhiên trong Phúc Âm theo thánh Maccô, chương 16, câu 12, có một sự kiện “hiển nhiên” (theo nhận xét của cha Lagrange) đó là biến cố Emmau, và có thể đó là tóm lược ký sự của thánh Luca. Tất nhiên có những lần hiện ra khác mà các thánh chép sử không ghi lại. Mỗi vị chọn lọc trong những nguồn tài liệu truyền khẩu hoặc thành văn, và ưu tiên chọn những sự kiện nào cùng hướng với những mối quan tâm của mình.
Với những lần Chúa hiện ra, chúng ta ra ngoài phạm vi lịch sử thuần túy nhân loại để bước vào lĩnh vực làm chứng cho một hành động của tc. Thực tại mà người ta kiểm soát được trong điểm này là: có những vị đã đứng lên làm chứng rằng các vị đó đã tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu sống sau khi xảy ra một sự kiện được người đương thời kiểm nhận, đó là sự việc Chúa chết trên thập giá. Tất cả những chứng từ các vị nêu ra khiến cho trên bình diện lịch sử, chúng ta có những lý do cực kỳ vững mạnh để tin các vị. Sở dĩ những lý do ấy, nhìn bằng mắt khoa học, thì không có tính cách ép buộc phải tin – là bởi vì Chúa đã muốn dành một chỗ đứng cho ân sủng đức tin. Điều trực tiếp thu hút sự chú tâm của chúng ta ở đây, trong nội giới đức tin chúng ta, chính là nội dụng của chứng từ.
1) Trước kia, các môn đệ tưởng mình hiểu rõ Chúa. Này đây một nỗi thất vọng mênh mang đã phá tan niềm trông cậy họ có được nhờ vì hiểu Chúa. Thật ra, họ không thật sự hiểu Người. Thế mà xảy ra một biến cố tuyệt đối bất ngờ. Chúa hiện ra với họ. Lúc đó, xuyên qua sự nhận ra Thày, họ thấy nổi lên trong lòng một cung cách mới để hiểu Chúa. Để tiện so sánh chúng ta có thể gợi lại lần sinh ra và lần tái sinh của chúng ta. Sau lần sinh ra, kế tiếp là thực nghiệm về cái chết –sự sống lại của chúng ta sẽ là lần tái sinh để sống sự sống viên mãn. Cũng vậy các môn đệ sau lần “hiểu biết” đầu tiên và thiếu sót về Chúa, tiếp đến thực nghiệm về thất vọng, họ “tái hiểu biết” Chúa Giêsu trong một lần gặp gỡ sâu sắc hơn. Họ bắt đầu thực sự hiểu biết Chúa.
Có một điều gì nổi lên trong họ những dịp tiếp xúc đầu tiên với Thày, những tháng ngày Người sống trong thể xác. Điều họ tưởng là bị tiêu hủy rồi, giờ đây lại nổi dạy, được khuếch đại và thanh lọc trong cuộc gặp gỡ sâu sắc với Chúa sống lại. Câu chuyện Emmau dĩ nhiên là phi thường. Tuy nhiên một câu chuyện khác ở cấp độ thấp hơn thế chẳng đã thôi thúc chúng ta dùng đức tin để thực nghiệm những khoảnh khắc mà sự khuất bóng người thân yêu làm cho ta thất vọng, sau đó, trong một vài trường hợp, là sự sống lại làm ta lóa mắt?
2) Về những ký sự thuật việc Chúa Phục Sinh, chúng ta trích dẫn sau đây một đoàn giáo huấn của hàng giáo phẩm hữu quyền, vì nó hợp thời:
“Nhờ những đoạn Phúc Âm đó, tôi có thể ngày nay trở nên giống các môn đệ Emmau, để hiệp thông với Chúa bằng lời nói và lương thực. Chúa Giêsu trên thập giá là hình ảnh “tình yêu bị đóng đinh” Chúa dạy tôi hãy nhận ra Người trong anh em đang đau khổ, xấu số, bị bách hại bởi công lý người đời. Chúa dạy tôi phấn đấu để tăng tình thương và công lý trong thế gian mà Chúa đã đến để cứu rỗi bằng thập giá và Phục Sinh của Người” (Đức Cha Weber, tập san “Tài liệu tham khảo Công giáo” số ngày 19-12-1971).
Sống hiệp thông với Chúa Giêsu chết và sống lại trong ta, chúng ta có thể đồng hành xứng đáng với nhân loại trong hành trình đi tìm hy vọng, và đem đến cho nhân loại Tin Mừng: Chúa Giêsu sống và làm cho chúng ta sống.
-----------------------------
“Alleluia! Alleluia!”
Một thời ở miền Nam này người ta đã xôn xao bàn tán về chuyện một người lính. Sau một trận đánh lớn, gia đình được giấy báo anh đã chết mất xác. Thân nhân anh đón nhận tin buồn này với tâm trạng hoảng hốt, buồn sầu. Một tang lễ lớn được cử hành với mọi thủ tục. Ba tháng sau người lính đột ngột trở về. Anh chưa chết, anh chỉ thất lạc và đã được anh em dân tộc nuôi dưỡng. Nay anh trở về. Vợ con và thân nhân anh phải mừng vui đến mức nào!
Niềm vui của các môn đệ và bạn hữu Chúa Giêsu trước Tin Mừng Chúa sống lại còn lớn lao hơn nhiều. Bao nhiêu người đi theo Chúa nghe những lời hay đẹp và mới lạ của Chúa, đặt cả tin tưởng và hy vọng vào Chúa, nhưng Chúa đã chết, chết đau khổ và nhục nhã. Mọi người được chứng kiến cái chết của Chúa, và đã an táng Chúa trong mộ được ba ngày.
Hôm nay là ngày đầu tuần. Mấy bà thân thuộc của Chúa đưa thuốc thơm ra mồ xức xác Chúa, biểu lộ cảm tình với người quá cố. Các bà vừa đi vừa lo không biết ai sẽ vần tảng đá lớn che cửa mồ ra giúp mình, nhưng khi tới nơi, các bà thấy tảng đá đã lăn ra một bên, mồ mở trống. Có một thanh niên mặc áo trắng ngồi bên phải mồ, khiến các bà hoảng sợ.
Thánh Marcô luôn chú tâm tới sự kiện. Ông diễn tả sự việc xảy ra mà không chú giải thêm gì. Ta thấy người thanh niên mặc đồ trắng, và màu trắng là màu ánh sáng, màu vinh quang. Một trang sử mới đã lật qua. Không còn mờ tối, không còn dấu ẩn. Chúng ta nghĩ tới cuộc tỏ hiện của Chúa trên núi Tabo xưa. Trong sách Khải huyền, màu trắng luôn biểu tượng cho cảnh vật trên trời. Đó cũng là điều kiện tâm hồn ta phải có để được tham dự vào vinh quang Phục Sinh của Chúa. Nhưng các bà đã hoảng sợ. Nỗi kinh sợ là dấu tỏ ra mình đang đối diện Thiên Chúa. trước khung cảnh khác lạ, hoặc đôi khi một niềm vui lớn quá cũng làm người ta hoảng sợ.
Người thanh niên bảo các bà: “Các bà đi tìm Giêsu Nagiaret, người bị đóng đinh phải không? Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Các bà hãy đi nói cho các môn đệ hay tin này”. Tin Mừng Chúa sống lại. Chúa đã ra khỏi mồ, mọi người phải ra đi báo Tin Mừng cho anh em. Tin Chúa sống lại cho tới nay vẫn là một mạc khải. Chúng ta còn nhớ chuyện Maria Mađala gặp Chúa Phục Sinh đã tưởng đó là bác làm vườn. Còn hai môn đệ trên đường Emau, vừa đi vừa nói chuyện với Chúa lâu giờ mà vẫn không nhận ra Người. Muốn nhận ra Chúa cần phải có tâm hồn xứng hợp sẵn sàng đón nhận Chúa. Phải được dọn dẹp bằng chính ân sủng trước khi được tiếp xúc với Chúa.
Thái độ các bà trong chuyện đã cho ta hiểu điều đó. Chúng ta đừng nghĩ mình có thể tìm ra những sự kiện rõ ràng trong Tin Mừng của Chúa. Tin Mừng luôn là một tia sáng từ trời. Chỉ những ai thành tâm, thiện ý, sẵn sàng đón nhận với tâm tình khiêm tốn mới có thể hưởng nhờ ơn Cứu độ.
Xin Chúa ban ánh sáng đức tin cho những người đang thành tâm tìm kiếm Chúa. AMEN. ALLELUIA!
-----------------------------
HÃY NÓI VỚI PHÊRÔ
Mọi người không có thì giờ lo liệu việc chăm sóc cuối cùng thi hài của Chúa Giêsu. Vì ngày Sabát đến nên các phụ nữ muốn ướp dầu thơm cho xác Chúa đã không thể làm theo ý muốn. Ngay khi hết ngày Sabát, từ sáng sớm, các bà bắt tay ngay vào công việc buồn thảm đó. Các bà chỉ lo lắng một điều là mộ không có cửa. Chữ cửa được nêu lên ở đây có nghĩa là một khe hở, ngay trước khe hở đó có một cái rãnh ngang, người ta đặt một tảng đá tròn, to bằng cái bánh xe bò tại đường rãnh đó và các phụ nữ này biết họ không đủ sức để lăn một khối đá to như thế ra khỏi mộ. Nhưng khi họ đến nơi, tảng đá đã bị lăn ra, và có một sứ giả thông báo cho họ những tin tức khó tin là Chúa Giêsu sống lại.
Có một điều chắc chắn là nếu Chúa Giêsu đã không từ kẻ chết sống lại thì chúng ta chẳng bao giờ được nghe nói về Ngài. Ý định của các phụ nữ này là đến để lo liệu lần chót cho thi hài người chết. Thái độ của các môn đệ Chúa là mọi sự đã kết thúc, hết sức bi thảm. Cho nên chứng cớ mạnh mẽ nhất cho sự sống lại của Chúa Giêsu là sự hiện hữu của Hội Thánh. Chẳng có điều gì có thể thay đổi những người nam, người nữ đang buồn rầu, tuyệt vọng trở thành những con người rạng rỡ niềm vui, và có sự can đảm bùng cháy trong lòng. Phục Sinh là sự kiện trung tâm cho toàn thể đức tin, chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu cho nên cũng có các hệ quả trực tiếp theo sau.
1/ Chúa Giêsu không phải chỉ là một nhân vật trong sách vở. Ngài là một sự hiện diện sống động. Nếu chúng ta chỉ nghiên cứu về Chúa Giêsu như nghiên cứu đời sống của bất kỳ một nhân vật vĩ đại trong lịch sử, điều đó vẫn chưa đủ. Có thể bắt đầu như vậy, nhưng đến kết cục, chúng ta phải gặp Ngài.
2/ Chúa Giêsu không phải là một kỷ niệm, Ngài là một hiện diện. Kỷ niệm thân thương nhất cũng phai tàn. Người Hy Lạp có một từ để mô tả thời gian, có nghĩa là thời gian xoá sạch mọi sự. Nếu Chúa Giêsu không phải là một hiện diện sống mãi với chúng ta, thì thời gian chắc đã xoá nhoà kỷ niệm về Ngài khỏi ký ức của nhân loại từ lâu rồi. Chúa Giêsu không phải là một nhân vật để chúng ta đem ra bàn cãi, thảo luận. Ngài là một con người mà chúng ta có thể gặp mặt.
3/ Đời sống Kitô hữu không phải là đời sống của một người biết về Chúa Giêsu, nhưng là đời sống của người biết rõ Chúa Giêsu. Chúng ta biết về nữ hoàng Elizabeth, về thủ tưởng Winston Churchill hay về tổng thống Eisenhower, nhưng có rất ít người được biết chính họ. Nhà học giả lỗi lạc nhất thế giới, người biết đủ mọi sự về Chúa Giêsu vẫn kém xa một Kitô hữu đơn sơ hơn hết nhưng biết Ngài.
4/ Có một phẩm chất bất tận về đức tin. Đức tin không hề đứng yên một chỗ. Vì Chúa Giêsu của chúng ta là Chúa hằng sống nên người ta luôn chờ đợi nhiều điều lạ lùng, nhiều chân lý mới mẻ được khám phá thêm mãi.
Nhưng điểm quý báu nhất trong đoạn sách này là mấy chữ không thấy chép trong các sách Phúc Âm khác. Vị sứ giả bảo: “Hãy về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng…”. Thông điệp này sẽ làm cho lòng Phêrô phấn khởi biết bao. Có lẽ lúc ấy, ông đang bị giày vò vì nhớ lại sự bất trung của mình, thình lình có một thông điệp đặc biệt được gửi đến cho ông. Trong tất cả các môn đệ, chắc ông là người tiếp nhận thông điệp ấy bằng thái độ đặc biệt nhất. Đặc điểm của Chúa Giêsu là không hề nghĩ đến sự sai quấy của Phêrô đối với Ngài mà chỉ nghĩ đến sự hối hận đang giày vò ông. Chúa Giêsu quan tâm nhiều đến việc an ủi một tội nhân đang ăn năn thống hối hơn là việc trừng phạt tội lỗi. Có người nói: “Điều cao quý nhất nơi Chúa Giêsu là cách Ngài tin cậy chúng ta ngay tại bãi chiến trường mà chúng ta đã bị đánh bại”.
-----------------------------
Mỗi năm, chúng ta mừng Lễ Phục Sinh bằng cách lắng nghe sứ điệp của mỗi thánh sử. Năm nay, sau Bài thương khó theo thánh Maccô, chúng ta đọc tiếp trình thuật về biến cố “Phục sinh theo Thánh Maccô" trong Đêm canh thức này, trình thuật của Maccô hết sức ngắn gọn, chỉ gồm có tám câu.
Vừa hết ngày Sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria, mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để ướp xác Đức Giêsu.
Chúng ta đã ghi nhận vai trò quan trọng của các "người nữ". Theo Maccô, chỉ có các bà mới dám đi với Đức Giêsu tiến đến cái chết của Người trên đồi Golgotha... còn tất cả các nam môn đệ đều đã bỏ trốn (Mc 14,50-15,50).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu trung thành hơn. Xin Chúa đừng để chúng con bỏ rơi những người chúng con yêu thương.
Tôi ngắm nhìn những "phụ nữ tẩm xác", tay bê nặng những bình dầu thơm, trời còn mờ sáng đang tiến thẳng tới một nghĩa địa. Các bà này chỉ lo lắng một điều: làm sao tẩm dầu thơm cho một xác chết, kết thúc bước đường phiêu lưu của "Đức Giêsu Nagiaret"... thể hiện những bổn phận yêu thương cuối cùng đối với một người thân yêu quá cố, bổ sung cho việc an táng một tử tội khả quan hơn, bởi vì buổi chiều ngày hành quyết người ta không có đủ giờ chôn cất đàng hoàng.
Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
Đó là một buổi sáng. Một buổi sáng vùng Địa Trung Hải. Trời mát, không khí tươi dịu trên con đường dẫn đến các bà bước tới, lòng đau đớn với biết bao kỷ niệm. Chung quanh các bà, chim chóc đã bắt đầu ca hót. Xuyên qua các cành cây đang trổ những đọt mầm xanh non, mặt trời nhô lên ở chân trời.
Một buổi sáng mới khởi sự Halleluia, Halleluia...
Vâng, bắt đầu một tuần lễ mới, một thế giới mới, một cuộc tạo thành rưới, một kỷ niệm mới.
Các bà vừa đi vừa bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây:" Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
Chi tiết cụ thể này rất quan trọng. Cả bốn thánh sử đều đã ghi nhận. "Tảng đá đã được lăn ra". Nhưng chỉ mình Maccô ghi nhận thêm, tảng đá đó lớn lắm? Chi tiết lịch sử này có thực, hoàn toàn phù hợp với kiểu cách mộ phần thời bấy giờ. Nhưng đối với Maccô cũng như đối với chúng ta ngày nay, thì đó là chi tiết tượng trưng đầy ý nghĩa: một bức tường thực sự ngăn cách con người với sự Phục sinh... được coi như một sự kiện không thể có được... ”Ai có thể cất gỡ được chướng ngại này?". Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể hủy bỏ được sức nặng ghê gớm của cái chết đang đè nặng trên nhân loại.
Vào trong mộ các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng.
Trình thuật của Maccô, có vẻ giản đơn hơn trình thuật của Matthêu, vì không nói đến "thiên thần", đến “đất rung chuyển" đến tia chớp sáng"... nhưng chỉ đề cập đến một "người thanh niên". Maccô có ý giữ nét giản dị như thế: ông chỉ mượn một hình ảnh tối thiểu trong ngôn ngữ khải huyền thông dụng, để tránh những kiểu "tả vẽ" về biến cố Phục sinh. Ông cố khẳng định nguyên sự kiện đó. Nhưng ta biết rằng màu "trắng" luôn là dấu chỉ: đó là màu của ánh sáng, nghịch với bóng tối... đó là màu của vinh quang, màu của các vật thể trên trời. Vào ngày Biến Hình, cũng chính Maccô đã nói đến "một thứ trắng tinh không có một thợ nào trần gian giăt trắng được như vậy" (Mc 9,3). Trong sách Khải Huyền của Gioan, màu "trắng" luôn tượng trưng cho thế giới trên trời (Kh 2,17; 4,14-19; Ed 9,2; Đnl 7,9; Is 1,18; Kh 7,14-19,1-14).
Các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: "Đừng hoảng sợ!".
Tất cả những trình thuật về Truyền tin (loan báo một sứ điệp của Chúa) trong Kinh Thánh đều ghi lại chi tiết này. Những gì thuộc về Thiên Chúa thường gây bối rối cho lý trí của con người và tạo nên một thú vị ngạc nhiên, sợ hãi thiêng thánh. Ở đây Maccô sử dụng một từ quen thuộc với ông (exéthambêthêsan = có nghĩa là các bà bối rối, hồn siêu phách lạc). Cũng như không người “Caphacnaum đã kinh ngạc" trước sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu (Mc 1,27 xem thêm Mc 10,24-32 và 14,33).
Nhưng nếu sự đột xuất của Đấng hoàn toàn khác lạ thường gây bối rối, thì sự hiện diện của Người lại trấn an và làm ta bình tâm ngay. Thiên Chúa không đích thực là Đấng chỉ nhằm hù dọa chúng ta. Người vẫn thường nói: “Các ngươi đừng sợ".
Thế nên, ta cần lưu ý, Maccô không thuật lại sự hiện ra đúng nghĩa của Đức Giêsu... Nhưng chỉ ghi một "Lời" mạc khải, qua một thiên sứ, nói lên “đức tin", một trong những điểm của "kinh Tín Kính" ta vẫn đọc.
Các bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa.
Người bị đóng đinh vì chúng tôi dưới thời Phongxiô Philatô, Ngày thứ ba, Người đã sống lại"
Đó là lời tuyên xưng Đức tin của các Kitô hữu tiên khởi (Cv 2,23; 3,15; 4,10; 10,39; 13,28-30) Đó cũng là đức tin của chúng ta.
Trình thuật của Maccô nhấn mạnh những khía cạnh cụ thể, như thế muốn nói với chúng ta rằng, đó cũng chính là Đức Giêsu, "người Nagiaret", kẻ "bị đóng đinh", Đức Giêsu của lịch sử.
Kẻ bị đóng đinh đã thức dậy.
Kẻ bị đóng đinh đã phục sinh
Người không còn ở đây nữa! Vậy Người ở đâu?
Chỗ đã đặt Người đây này, xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô như thế này: "Người sẽ đến Galilê trước các ông".
Rõ ràng, Maccô không muốn chúng ta quan tâm đến “ngôi mộ" nữa, Thiên Chúa cũng không muốn con người để ý đến "mồ táng" đó. Cả Đức Giêsu cũng thế, trước khi chết, Người đã nói chính lời đó: "Sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em" (Mc 14,28). Chàng "thanh niên mặc áo trắng ngồi bên hữu phải chăng là chính mình Đức Giêsu, một Giêsu mới, Đức Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha? Đức Giêsu mà người ta mới tiếp xúc đầu tiên, với con mắt trần gian, không còn nhận ra nữa; ta hãy nhớ lại trường hợp của Mácđala, tại khu vườn; bà cứ tưởng Người là người làm vườn" cũng như hai môn đệ làng Emmau, ‘con mắt họ đã bị đóng lại’
Hãy đi! Hãy ra đi! Đừng dừng lại tại ngôi mộ đó. Đừng ở lại Giêrusalem.
Hãy đi về phía trước, nói Đức Giêsu đang sống động nơi Người đã đến trước anh em, nơi Người đã hẹn gặp anh em tại Galilê! Trên miền đất của anh em, những người xứ Galilê, trong đời sống hiện thực thường ngày. Đối với Maccô, Galilê là tên của vùng đất đó, có một ý nghĩa tượng trưng rất lớn. Ong đã nhắc đến tên đó 12 lần trong Tin Mừng của ông. Chính tại đó mà cuộc đời Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao. Cũng tại đó lần đầu tiên Tin Mừng của Thiên Chúa đã vang lên. Chính Đức Giêsu đã biểu lộ những dấu lạ đầu tiên quyền năng của Người tại đó. Và cũng là nơi qui tụ nhiều đám đông.
Giờ đây, thời của Galilê lại bắt đầu, thời quy tụ một dân tộc mới chung quanh Phêrô, thời của những "dấu chỉ" mới, thời của Tin Mừng: Giáo Hội khởi sự... và giáo hội chính là nơi hiện diện của Đấng “không còn ở đây nữa, nghĩa là không còn ở trong mồ mà người ta đã chôn táng Người". Đó là một lệnh lên đường.
Nào, hãy lên đường. Đừng ở lại đây làm gì! Hãy đi nói với Phêrô. Hãy trở lại Galilê.
Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông.
Ở đây không giải thích theo phạm vi triết học và lý luận. Các tông đồ cũng như chúng ta, được mời gọi tin theo một lời nói, và dấn thân trong một hành động hiện thực: Góp phần cho việc tập hợp những người tin Đức Giêsu chung quanh Phêrô, và thi hành những gì Đức Giêsu đã báo trước khi Người còn sống.
Đối với Maccô, tin vào việc sống lại, trước hết không phải là vấn đề gây nhức óc cho trí hiểu, nhưng là thái độ cùng với anh em mình dấn thân vào một cuộc sống mới, theo một Lời báo trước!
Vừa ra khỏi mộ, các bà liền cắm đầu chạy.
Các bà đã đến mộ cốt là làm được một việc, thế nhưng các bà lại phải đi mà không thể thi hành được điều đó. Các bà mang dầu thơm về. Các bà vội rời gót khỏi nơi đó.
Các bà run lẩy bẩy, hết hồn vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá.
Đây là những lời cuối cùng của đoạn Tin Mừng Lễ Phục Sinh.
“Run lẩy bẩy" (tromos) và “ngây ngất xuất thần" (extasis). Làm sao có thể diễn tả hay hơn sự đột nhập bất ngờ và gây đảo lộn của Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người? Xuyên suốt Tin Mừng của mình, Maccô đã nhấn mạnh đến "bí mật" che giấu căn tính đích thực của Đức Giêsu Nagiaret: mỗi lần có kẻ nào nói quá sớm Người là "Con Thiên Chúa", Đức Giêsu đều buộc họ phải im lặng. Câu kết này của Maccô giữ trọn ý nghĩa. Chúng ta hãy trân trọng nó? Các người nữ "im lặng" và "chẳng nói gì với ai": Nói thế nào được khi con người Đức Giêsu đã vượt thoát khỏi mọi nắm giữ và trở nên một mầu nhiệm không còn thuộc phạm vi nhân loại, luôn gây bối rối.
Tất cả những ai muốn kiếm tìm trong những trình thuật trên, một sự "hiển nhiên tuyệt đối” một sự "ổn định hoàn toàn", thì sẽ gặp thất vọng. Chính Maccô muốn dẫn chúng ta vào sự im lặng của Đức tin và thái độ tôn thờ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa cao cả hơn mọi tưởng tượng của chúng con.
-----------------------------
ĐỨC GIÊSU NAGIARÉT BỊ ĐÓNG ĐINH, NGƯỜI ĐÃ CHỖI DẬY RỒI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1) Bên kia bóng tối, ánh sáng ngày mới đang bừng lên
Anh sao mai xuất hiện đã đánh dấu ngày Sabát, ngày lễ nghỉ thánh, chính thức chấm dứt. Cuộc sống đã sớm trở lại với nhịp sống bình thường, các tiệm buôn đã mở cửa. Bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê - ba bà này "đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi người còn ở Galilê" (15,41), đã có mặt khi Đức Giêsu bị đóng đinh (15,40), và khi Người được chôn cất -đã có thể đi mua dầu thơm "để ướp xác Đức Giêsu", mà chắc không phải là theo cách thức người Ai cập, nhưng theo tục lệ của người Do thái: ướp xác bằng dầu thơm.
"Các bà ra mộ”, đến chỗ hẹn của cái chết. Nhưng bằng những hình ảnh biểu tượng khác nhau: "Sáng tinh sương”, "lúc mặt trời hé mọc" trình thuật đã báo trước một cuộc tạo dựng mới rồi. Bóng tối của sự chết sắp bị đẩy lui nhường chỗ cho ánh sáng của một ngày mới, cho một khởi sự mới của vũ trụ; đó là "ngày đầu tuần" của một công trình tạo dựng mới, ngày ấy chẳng bao lâu nữa sẽ được gọi là Chúa nhật, tiếng latinh là "dies dominica”, Ngày Chúa phục sinh.
Dọc đường đến mộ, khi nghĩ đến tảng đá lớn chắn cửa mồ, các bà cảm thấy lo âu. Nỗi lo âu ấy là chuyện rất bình thường, vả chăng còn là khá muộn màng: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây”, bởi vì các bà biết rằng "tảng đá ấy lớn lắm" chỉ với sức lực của hai hoặc ba người đàn ông mới có thể lăn nổi tảng đá ấy. Tảng đá càng lớn, thì càng gây ngạc nhiên lớn hơn cho các bà sau này.
- Các bà ngạc nhiên trước hết vì "thấy tảng đá đã lăn ra một bên rồi”, điều không thể nào làm được đối với các bà. Các nhà chú giải muốn lưu ý ta về một chi tiết có tính khá soi sáng là: nguyên bản bằng tiếng Hy lạp dùng câu này ở thể thụ động (tảng đá đã được lăn ra một bên) nhằm "ám chỉ đó là hành động của Thiên Chúa mà không cần phải nói ra, còn sách bài đọc, thì rất tiếc là đã dịch câu đó ở thể bất định: "người ta đã lăn tảng đá rồi" (J.Hervieux, "L'evangile de Marc", Centurion, trang 233).
Rồi tiếp đến là một ngạc nhiên khác: "vào trong mồ, các bà thấy một người thanh niên (tiếng Hy lạp là "neaniskos") ngồi bên phải, mặc áo trắng”. Người ta nghĩ ngay đến "người thanh niên" (neanikos) được mô tả trong cảnh Chúa bị bắt; người thanh niên ấy chỉ khoác vỏn vẹn một "tấm vải gai" (tiếng Hy lạp là "sindona" có nghĩa là tấm vải liệm). Khi họ túm lấy anh, anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng. Đây là cách dùng biểu tượng để diễn tả việc Đức Giêsu phục sinh thoát khỏi tay những kẻ thù tưởng là đã bắt được Người và giam hãm Người trong cái chết (Maccô 14,50, J.Hervieux, O.C. trang 216-217).
+ "Người thanh niên" trong trình thuật "ngồi bên phải” đó là địa vị danh dự mà các Kitô hữu vốn dành cho Đức Kitô vinh hiển: "Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha”
+ Người thanh niên ấy mặc áo trắng, giống như Đức Giêsu biến hình sáng láng trên núi, ít lâu sau khi loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ nhất (9,3).
J.Hervieux nêu ý trước, rồi P.E Boismard cũng đồng tình: tất cả gần như khơi gợi một sự "xuất hiện" của Đức Giêsu. Còn tác giả Maccô thì không nói ra điều này. (O.C. trang 234).
2. Bên kia nỗi sợ hãi là hướng mở ra với sứ mạng
Theo cách diễn tả sinh động của trình thuật, người thanh niên ấy không phải ở đó để làm gì. Nhưng là để nói lên một lời, để loan báo một Tin Vui, một Tin Mừng: "Các bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bi đóng đinh, chứ gì? người thanh niên ấy nói với ba phụ nữ. Người đã chỗi dậy rồi”.
Sứ điệp phục sinh chứa đựng trong mấy lời sau đây: "Đức Giêsu Nadarét mà các bà đã đi theo trong thời gian Người rao giảng ở Galilê, và đã thấy người chết tất tưởi trên thập giá, Đấng ấy nay đã sống lại: Người là Đấng-Hằng-Sống! Cũng chính sứ điệp ấy mà các tông đồ sẽ loan báo cho muôn dân sau này" (cf. Cv 2,22-36; 3,12-20; vv...).
Trước đây, ở phần đầu sách Tin Mừng Maccô (Phúc âm Chúa nhật V thường niên) ta được biết: sau một ngày bận rộn ở Caphácnaum, Đức Giêsu thức dậy sớm, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Các môn đệ kéo nhau đi tìm Chúa. Khi gặp Người, các ông được bảo đi đến một ‘nơi khác’: "Thôi, chúng ta đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở những nơi đó nữa”. Còn ở đây, ở phần kết của sách Tin Mừng Maccô, khi ngày mới đang lên, các môn đệ cũng lại nhận được sứ điệp, qua trung gian các phụ nữ, để đi đến một nơi khác: Người không còn ở đây nữa... Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông nơi hẹn gặp này, nơi Người sẽ "đến trước" các ông ấy chính là miền Galilê, nơi tiêu biểu cho sự chung sống lẫn lộn giữa người Do thái và dân ngoại. Đức Giêsu đã chọn Galilê để khởi đầu sứ mạng rao giảng của mình (1, 14-15), nên nơi đây, trở thành biểu tượng cho việc khai mở sứ mạng phổ quát vậy. J. Hervieux kết luận: "Các môn đệ được mời gọi tập họp lại đàng sau Đức Giêsu phục sinh, để khởi sự một cuộc lên đường mới ra đi truyền giáo" (O.C trang 234).
- Được mời gọi đem tin này đến cho "các môn đệ Người và Phêrô”, khi vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, "run lẩy bẩy”. "Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá”? Trình thuật về biến cố Phục sinh kết thúc với những lời trên, và sách Tin Mừng Maccô cũng kết thúc một cách chân chất như vậy.
Tại sao có sự sợ hãi như vậy? Tại sao lại yên lặng chẳng nói gì như thế Chắc hẳn là do sự xúc động mãnh liệt và bất ngờ trước lời loan báo quá lạ lùng về việc phục sinh của Đấng bị đóng đinh. Nhưng nỗi sợ hãi không thốt lên lời này không thể ngăn cản các bà ra đi truyền lại sứ điệp, cũng như không thể ngăn cản các tông đồ rao truyền sứ điệp ấy cho đến tận cùng trái đất.
Theo P. Eboismard gợi ý, thì "Maccô coi các độc giả Tin Mừng của ngài là những người có đủ trí thông minh để hiểu, vậy thì ngài muốn truyền lại cho họ sứ điệp nào? Trong phần đầu sách Tin Mừng của ngài, thánh Maccô đã không ngần ngại mà còn lấy làm hứng thú nhấn mạnh đến sự ngớ ngẩn của các môn đệ vì các ông không sao hiểu biết được chân tính đích thực của Đức Giêsu. Ngay cả trường hợp ông Phêrô bất thình lình tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống cũng vậy. Đó chỉ là do Chúa tỏ cho ông biết mà thôi (...). Trong phần thứ hai của Tin Mừng cũng vậy, hết thảy các môn đệ không trừ một ai, kể cả ba người phụ nữ được coi như trung tín nhất, đều hoảng sợ và bỏ trốn cả (...). Thế nhưng các độc giả Tin Mừng của Maccô hẳn phải nhận thấy điều này, là sứ điệp của Đức Kitô được truyền lại cách trung thực "cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8) do chính những con người yếu đuối và khiếp nhược kia. Chính quyền năng của Thiên Chúa (hay của Đức Kitô phục sinh) đã phải tràn ngập tâm hồn các môn đệ để thông ban cho họ ơn can đảm và hiểu biết mà trước đây họ khiêm khuyết một cách thảm hại. Đó chính là sự lạ của Hội Thánh lúc mới khai sinh mà thánh Luca sẽ thuật lại trong sách Công vụ Tông đồ. Còn Maccô thì để cho độc giả của mình tự hiểu, giống như ngài đã để cho độc giả tự hiểu rằng, nếu thánh Phêrô đã có thể nhận ra Đức Giêsu là Đấng Kitô thì chính là nhờ một sự can thiệp của Thiên Chúa vậy. (Xem "Jésus, un homme de Nazareth", Cerf, 1996, trang 176).
-----------------------------
GẶP NGƯỜI SỐNG NƠI MỘ ĐỨC GIÊSU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Từ ngôi mộ “trống”
Sau ngày Sabát, đó là "ngày thứ nhất trong tuần”, kiểu nói đó gợi ý rằng thế giới đã khởi sự bước vào một thời điểm mới. Maria Mácđala, người phụ nữ đã đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, "đi đến mộ từ sáng sớm”. Chỉ có một mình bà đi tới mộ chứ không phải là ba bà như được kể lại trong Tin Mừng Maccô (Tin Mừng lễ Vọng Phục Sinh). Bà tới đó không phải vì ý muốn xức dầu thi hài, bởi lẽ việc chôn cất "theo tục lệ của người Do Thái (19,40), đã hoàn tất, nhưng theo X. Léon-Dufour, có lẽ "chỉ vì con tim thúc đẩy thôi" ("Đọc Tin Mừng Gioan", quyển IV, Seuil, trang 203).
Vừa nhận thấy "tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà vội chạy về báo tin cho các môn đệ: từ ngôi mộ mở toang, bà kết luận là thi hài Chúa đã được đưa đi; từ "tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà kết luận là "người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”? Bóng tối bao trùm bà Mácđala đã được gợi ý ngay từ đầu trình thuật: "Lúc trời còn tối”.
2) Đến dấu chỉ của ngôi mộ trống.
Phêrô là người được thánh sử nêu tên trước, nên dù chạy chậm hơn môn đệ kia, ông vẫn là người thứ nhất bước vào trong mộ và "nhìn thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại, xếp riêng ra một nơi. Như vậy là giả thuyết Maria Mácđala đưa ra không vững nữa, vì "kẻ trộm sẽ chẳng lợi gì mà lấy băng vải, cuộn lại rồi đặt riêng ra một nơi" (Thánh Gioan Kim Khẩu). Nhưng ngoài nhận xét trên đây, người ta không thấy tác giả Gioan nói gì về phản ứng của Phêrô. Còn Luca thì viết: "Ông rất đỗi ngạc nhiên" (24,12). Trái lại, "Người môn đệ kia, người được Đức Giêsu thương mến”, tuy chạy tới mộ trước Phêrô, và vội cúi xuống để nhìn vào trong, nhưng lại nhường cho Phêrô tiến vào trước, chính người môn đệ ấy bằng trực giác của tình yêu, lại đang nhìn thấy trong cảnh mồ trống và cảnh các khăn vải sắp xếp ngăn nắp kia dấu chỉ của một Thực Tại Khác mà chỉ lòng tin mới cảm nhận được: "Ông đã thấy và ông đã tin”. Theo ông, không phải người ta đã lấy trộm xác Đức Giêsu; mà chính là quyền lực của sự sống dứt khoát tước hết quyền của sự chết.
X. Léon tự hỏi: "người môn đệ kia đã thấy gì? Hẳn không phải là ông đã nhìn thấy Đấng phục sinh. Về phương diện này, ông cũng giống như người có lòng lin được cho là có phúc vì đã không thấy mà tin (20,29). Người có lòng tin thì chỉ dựa vào chứng từ của các môn đệ đầu tiên, còn Người-môn-đệ ấy thì tin khi nhìn thấy những dấu vết để lại trong mồ. Dù rằng chưa gặp gỡ tiếp xúc với Đấng-Phục-sinh, ông đã có khả năng vượt qua vực thẳm ngăn cách: tuy không thấy xác ở đó, nhưng vải liệm đã là dấu chỉ giá trị đối với ông. Trước hết, việc các khăn vải được xếp đã ngăn nắp đã loại bỏ giả thuyết cho rằng người ta đã lấy cắp thi hài, điều mà có lẽ Phêrô đã kết luận. Sau nữa, tình yêu vốn đầy ắp con tim đã giúp cho người môn đệ ấy có được ánh sáng. Đối với ông, theo J.P. Duplantier nhận định, ngôi mộ không trống cũng chẳng đầy, nhưng nó đã trở thánh một ngôn ngữ? Nhớ chú tâm lắng nghe ngôn ngữ ấy người môn đệ kia hiểu rằng Đức Kitô đã chiến thắng điều mà không ai tránh khỏi, nói cách khác, Đức Giêsu đã toàn thắng sự chết (Sđd, trang 212).
Phần Giáo Hội sơ khai, sau khi đã có kinh nghiệm về Đấng Phục Sinh, sẽ còn phải đọc lại Thánh Kinh để soi sáng và nung đúc lòng tin cho mình. Vì "quả thực, cho tới lúc ấy - bản trình thuật kết luận - các môn đệ vẫn chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, thì Đức Kitô phải sống lại từ cõi chết”.
BÀI ĐỌC THÊM
“Hiện diện của tình yêu”
(H. Vulliez, trong "Dieu si proche. Năm B". Desclée de Brouwer trang 51).
Maria Mácđala chạy tới mồ và thấy mộ trống. Chỉ có băng vải và khăn liệm là lên tiếng nói rằng: xác đã để ở đó. Bây giờ thì không còn nữa! Chỉ có những điểm mốc cho biết là trước đây đã có một hiện diện - Maria Mácđala đứng trước một khoảng trống mênh mông. Những gì bà nhìn thấy lúc này thật khủng khiếp. Điều gì đã xảy ra? Còn đâu những lời hứa Người sẽ sống lại?
Lễ Phục sinh khởi đầu trước ngôi mộ trống. Ta không thể tin rằng Người-đang-sống. Sống một cách khác, nếu không trải qua khoảng trống này: đoạn tuyệt với sai lầm, từ bỏ mình hoàn toàn, vượt qua khoảng cách thăm thẳm do những sự đời này tạo nên, và cái chết. Phải vượt qua khoảng trống chóng mặt này, phải cảm thấy khao khát một Hiện-diện tuyệt đối. Mới có thể nói cho lòng mình và cho người khác rằng: Đức Giêsu, Người-bị-đóng- đinh vẫn đang sống. Thật là kỳ diệu và tuyệt vời khi được nhìn thấy bình minh sự sống mới ló dạng sau lúc vượt qua cái không trống rỗng này, và cũng thật là kỳ diệu và tuyệt vời khi băng qua vực thẳm tối tăm của cái chết người ta lại thấy mình sống trong ánh sáng chan hoà của đời đống phục sinh.
Đức Giêsu vắng mặt về thể lý là điều cần thiết để ta gặp gỡ Người Hiện Diện cách khác. Nhờ Người, đời sống thần linh lại được khơi con người. Sự Hiện Diện của Tình yêu là men làm dậy lên một nhân loại mới.
(Tiếp theo PS1-abc 2001-300) N 3
-----------------------------