Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống ABC Bài 251-300 Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ
-------------------------------------------- Lễ Vọng: Phúc Âm: Ga 7,37-39; "Phát sinh nước hằng sống"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan. Vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, Chúa Giêsu đứng lên giảng lớn tiếng rằng: "Ai khát nước hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như giòng sông". Người nói điều ấy về Chúa Thánh Thần mà các kẻ tin nơi Người sẽ lãnh lấy, vì bởi Chúa Giêsu chưa được tôn vinh. - Ðó là Lời Chúa.
***** Chính ngày: Phúc Âm: Ga 20,19-23: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
“Thiên Chúa là tình yêu” (1 Gioan 4:16). Nhưng Chúa Thánh Thần chính là “tình yêu” của tình yêu ấy. Như vậy khi suy về Chúa Thánh Thần, hình ảnh và cảm nhận rõ ràng nhất, thực tế nhất, và đánh động tâm hồn Kitô hữu chúng ta nhất chính là tình yêu.
Con người là tạo vật duy nhất trên dương thế được chia sẻ cách trọn vẹn và tích cực tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu ấy được biểu lộ và nhận biết qua tình yêu lứa đôi, tình yêu cha mẹ và con cái, tình yêu anh chị em, tình yêu những người cùng một nòi giống, và tình yêu nhân loại. Nhưng trên hết là tình yêu con người qui hướng về Thiên Chúa, Đấng đã chia sẻ tình yêu của Ngài cho chúng ta. Theo tâm lý tình yêu của Form cũng cho rằng đây là tình yêu cao cả nhất, cần thiết nhất, và đầy đủ nhất đối với đời sống tâm lý, tình cảm, và tâm linh con người.
“Đâu có tình yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời.” Có nghĩa là có sự hiện diện của Ngôi Ba Thiên Chúa – Chúa Thánh Thần. Ngược lại, nơi đâu không có tình yêu là vắng bóng Thiên Chúa, là không có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Và nơi mà không có Chúa Thánh Thần, thì nơi đó có quỉ thần, có Satan, có tội lỗi, đau khổ và sự chết.
Mới đây những người Việt Nam ở Nam California lại cảm thấy rùng rợn về một vụ án trong đó một cặp vợ chồng trẻ, đứa con trai 7 tuổi bị giết chết cách dã man tại tư gia, và một bé gái 12 tháng tuổi bị đánh trọng thương nhưng không chết, sống sót và bò lê quanh nhà 3 ngày cho đến khi được phát giác và cứu sống kịp thời. Những hình ảnh này hoặc những hình ảnh về chiến tranh, khủng bố, ám sát, tra tấn, giết người, buôn bán trẻ em, khai thác và lợi dụng tình dục trẻ em vẫn thường thấy xuất hiện trên truyền thanh, truyền hình và báo chí. Tất cả đều nói lên rằng ở những nơi đó, ở nơi tâm hồn những người làm việc đó không có tình yêu. Không có Thánh Thần Chúa trong họ. Họ không phải là “đền thờ Chúa Thánh Thần”, trái lại, là hang trộm cướp, và là những người bị Satan chế ngự.
Con người ngày nay phát minh ra nhiều phương tiện tinh vi đem lại cho cuộc sống nhiều phung phú, khởi sắc và thoải mái hơn. Ngược lại, nó cũng là những phương tiện để con người có thể gây đau khổ cho nhau và dẫn đến hủy diệt hơn. Một điều mà có lẽ ai cũng dễ dàng nhận ra là Thiên Chúa xem như đã vắng mặt trong nhiều sinh hoạt của con người. Tình yêu của Ngài tức Thánh Thần trong những trường hợp ấy, cũng đã bị loại bỏ, bị khai trừ. Tư tưởng này cũng đã được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nói lên khi đứng trước trại giết người Autschwitz của Đức Quốc Xã ở Ba Lan trong chuyến Tông Du Mục Vụ của Ngài cuối tháng 5 vừa qua: “Tại sao Chúa yên lặng?!” trong những tình huống đau khổ của con người như thế này!!!
Làm sao Thiên Chúa hài lòng được trước những hành động và lối sống đồng tính, hôn nhân đồng tính?
Làm sao Ngài vui khi thấy bao nhiêu gia đình bị tan vỡ, bao nhiêu trẻ thơ bị giết chết trong lòng mẹ, hoặc bị lợi dụng, bị bán vào những dịch vụ buôn bán hay phục vụ tình dục?
Làm sao Ngài vui khi thấy từng đoàn lũ những người vô tội bị lùa vào những lò sát sinh tập thể, và hằng triệu triệu thai nhi bị giết chết hằng năm do chính cha mẹ của mình?
Nhưng vì “Thiên Chúa là tình yêu”, nên hoạt động của Thánh Thần vẫn tiếp tục nơi những tâm hồn ấy mặc dù họ chối từ Ngài, xua đuổi Ngài. Chính nơi những sự dữ kia lại là nguyên nhân giúp con người khám phá và tìm ra sự có mặt của Thiên Chúa và tình yêu của Ngài. Con người ngày nay đang đói khát tình yêu. Khao khát sự hiện diện và tình yêu của Ngài.
Thánh Phaolô đã nhìn sự dữ bằng cái nhìn giải thoát khi Ngài cho rằng “mọi sự đều là hồng ân”. Thật vậy, trong khi con người bị đẩy vào tuyệt vọng, cũng chính là lúc con người cảm thấy cần đến tình yêu Thiên Chúa. Và vì thế, chỉ cần con người nhận ra sự thiếu thốn và bất lực của mình, biết mình đang bị tội lỗi và Satan chế ngự, thì lập tức tình thương Thiên Chúa đến để trám vào chỗ thiếu thốn, vô vọng, và đau khổ kia nếu linh hồn biết nhìn lên Ngài, vì Ngài là “tình yêu”.
Tóm lại, để suy về Thánh Thần Thiên Chúa, để nghĩ đến Ngài, và để khám phá ra Ngài, Kitô hữu chúng ta không cần nhiều đến những lý lẽ cao siêu, trừu tượng về Chúa Ba Ngôi, về Chúa Thánh Thần, mà chỉ cần suy nghĩ và khám ra ra tình yêu nơi chính mình, nơi tha nhân:
Tình yêu êm dịu bao nhiêu là Thiên Chúa chúng ta dịu êm bấy nhiêu. Tình yêu ngọt ngào bao nhiêu là Thiên Chúa chúng ta ngọt ngào bấy nhiêu.
Tình yêu đáng yêu, đáng qúi bao nhiêu là Thiên Chúa chúng ta đáng yêu, đáng quí bấy nhiêu.
Tình yêu bao la bao nhiêu là Thiên Chúa chúng ta vỹ đại, tuyệt vời bấy nhiêu.
Và tất cả còn hơn thế nữa, tình yêu Thiên Chúa tuyệt vời, khôn ví như chính Chúa Giêsu đã nói: “Không ai có tình yêu lớn lao hơn kẻ liều mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Gioan 15:13).
Vậy mỗi khi Kitô hữu chúng ta nghĩ về Thiên Chúa và cảm nhận được Ngài cũng là những lúc chúng ta xin Chúa Thánh Thần khởi động trong tâm hồn chúng ta lòng tri ân Thiên Chúa, yêu mến, và thiết tha phụng sự Ngài. Thái độ biết chia sẻ, lắng nghe, tôn trọng và tha thứ đối với anh chị em với một tấm lòng yêu thương, chân thật. Như vậy, là chúng ta chứng thật, xác quyết bằng hành động tình yêu Thiên Chúa, Ngôi Ba Thiên Chúa đang có mặt trong cuộc sống của chính chúng ta. Và như vậy là chúng ta xác nhận bằng hành động và niềm tin; đồng thời cảm nhận tình yêu Thiên Chúa tức là Thánh Thần trong cuộc đời và cộc sống mỗi người chúng ta.
“Thánh Thần khấn xin ngự đến, hồn con đang mong chờ Ngài”. Xin Ngài ngự đến ngôi đền mà Chúa Cha đã tạo dựng, Chúa Con đã cứu chuộc, và chính Ngài là Đấng thánh hóa. Con xin Ngài khai trí khối óc nhỏ bé, đốt nóng trái tim đơn sơ, trau chuốt đôi tay vụng dại, và những khả năng giới hạn của con để nhận ra sự hiện diện của Ngài, để con cảm nhận được Ngài, và để con ra đi làm tin mừng cho tình yêu thương Ngài là chính Thiên Chúa của con: “Ngày lễ Ngũ Tuần, tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát xuất ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần” (Act 2:1-4).
T.s. Trần Quang Huy Khanh -------------------------------
Ít lâu nay có nhiều người đi dự những lớp nhân điện về để ra tay cứu nhân độ thế, chữa bệnh cho thiên hạ. Có người đi St Louis ở Missouri thuê khách sạn chi bộn bạc để dự khóa. Nhiều người đã học tới cấp 4, một số thì đã lên cao hơn đi dự “tổng hội” mãi bên Thái. Lời mở đầu của chương trình quảng cáo là “để bảo vệ và phát triển nền văn hóa nước nhà,” mà đi vào thì lại chỉ thấy hình ảnh những con rắn lửa Kundalini mãi từ Ấn Độ bò sang.
Khảo sát kỹ thì thấy nét chính nằm ở chỗ mô phỏng một phần hệ thống luyện công của xứ Ấn với 7 huyệt đạo (chakra), điều mà khoa tâm lý ngày nay gọi là khai triển tiềm năng bằng niềm tin qua hình ảnh, như chương trình huấn luyện “Khơi Nội Lực” (Unleash the Power Within) của Anthony Robbins. Bảy huyệt đạo trong cơ thể chỉ là biểu tượng để tập trung ý lực, cũng như bảo trái tim là biểu tượng của tình yêu vậy, chứ làm gì có chuyện tình yêu nằm ở huyệt tim. Người Việt mình nói tình yêu từ trong lòng chứ có phải ở tim đâu. Người Tàu thì bảo ở huyệt đan điền, người Nhật thì gọi là huyệt Khí Hải. Nhiều chương trình thời mới cũng khai thác rất kỹ, chôm bộn bạc của thiên hạ.
Con người vốn được ban sẵn một nguồn tiềm lực vô hạn trong lòng mà chưa khai triển. Robbins đã thực tập tự kỷ ám thị khiến niềm tin của những tham dự viên lên cao độ đến nỗi có thể đi chân trần trên phên than hồng. Đó là chuyện thật.
NHÂN ĐIỆN HAY THẦN ĐIỆN?
Thời Chúa Giêsu cũng có nhiều phong trào luyện lực nội tâm, như phái Essenes rủ nhau vào sa mạc tịnh tu, phái Tách Biệt “Pharisêu” thì lo giữ tỉ mỉ từng nét từng chữ lề luật. Chúa Giêsu thì huấn luyện các môn đệ theo lối khác. Dẫn các ông vào tiệc cưới Cana, vào nhà những người tội lỗi như Mát-Thêu, Giakêu; đi trên hè phố thông thường, qua làng mạc, qua cánh đồng lúa chín, dọc theo bờ hồ... Và cuối cùng thì họp nhau trong nhà Ăn Tiệc để từ biệt. Rồi sau khi sống lại cũng bảo các môn đệ tụ lại ở nhà Ăn Tiệc để một lòng một trí luyện lực nội tâm, trong khung cảnh thông thường hằng ngày chứ có phải đi mãi đâu xa. Chính trong bầu khí đó mà Thần Lực của Ngài đã được chuyển xuống đầy lòng các môn đệ qua hình ảnh lửa và khí, như sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại. Ngay sau đó, các ông là những người bình thường được biến đổi một cách lạ lùng, đầy nhiệt lực bung ra đi rao giảng với sức thu phục mấy ngàn người một lúc, làm phép lạ chữa đủ mọi thứ bệnh tật...
Cái gì bí mật vậy? Đó là vì các ngài luyện được thần điện. Mình vẫn tin Chúa là Đấng toàn năng, không gì mà Người không làm được, nhưng trên thực tế mình lại chẳng tin Thần của Chúa đáng là bao! Ai cũng biết rằng tin bao nhiêu thì được bấy nhiêu. Vậy mà liệu được mấy ai tin như vậy?!
Nhóm Nhân Điện đã khéo lợi dụng được phương cách tâm lý luyện niềm tin qua hình ảnh, chẳng hạn như chú tâm vào hình ảnh luồng hỏa hào rắn lửa Kundalini đang bừng lên từ đáy lòng, rồi sau đó đặt tay truyền cho người mình muốn chữa bệnh. Dù sao đây cũng chỉ là phương pháp dùng sức của con người mà tâm lý ngày nay chứng minh được, vì thế gọi là nhân điện. Hiệu năng hết sức tương đối, vì làm sao nhân điện mạnh hơn thần điện được?! Trong ngày Thánh Thần Hiện Xuống, các môn đệ đã chẳng tu luyện bằng hình ảnh lửa và khí là gì? Khi sống lại hiện ra với các môn đệ Chúa cũng làm linh thao là chuyển hơi sức sống thần lực của Người mà nói: “Hãy nhận lấy Thần Sinh Khí.” Cảm nghiệm sinh khí Chúa Thánh Thần qua hơi thở, cảm nghiệm thần lực Chúa qua lửa, là phương cách luyện Thần Điện chứ còn phải đi đâu mà tìm?! Có tin vào thần lực sinh khí toàn năng của Chúa hay không, đó là sự khác biệt. Nhiều người tin vào nhân điện mà ít tin vào thần điện mới lạ. Trong Hội Thánh những năm qua, phong trào Thánh Linh đã áp dụng thần điện thật mãnh liệt và hiệu lực. Nữ tu Briege McKenna đã làm biết bao phép lạ qua Thần Điện Thánh Thể.
TIN VUI LUYỆN THẦN ĐIỆN
Vậy hãy thử thực tập mấy thao luyện sau đây như một nghi thức luyện thần điện, ngay lúc này, rồi tiếp tục thực tập bất cứ lúc nào, ở đâu, kể cả lúc lái xe.
Tìm một nơi yên lặng, ngồi thẳng, cho tâm hồn trở về phút hiện tại, chú ý vào hơi thở để thấy mình đang sống. Hãy thở ra một hơi dài, đẩy ra khỏi mọi lo lắng buồn phiền.
1. Làm một dấu Thánh Giá kép trên trán, trên môi, trên ngực, xin Chúa dùng Thánh Giá để xóa bỏ cái tôi của mình: đầu óc này, môi miệng thân xác này, tâm can này, vốn bị mình tạo ra để giam nhốt giới hạn chính mình. Giờ đây mình được khai mở tất cả, hòa vào một sức sống Thần Lực Sinh Khí vô biên. Đó mới là con người thật của mình.
2. Với tất cả ý thức, mình giơ tay làm một dấu Thánh Giá đơn: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Sau khi nhận lãnh Thánh Thần, Thánh Phêrô đã làm phép lạ chữa bệnh cho một anh què đứng dậy được với dấu này: nhân danh Chúa Giêsu Kitô, anh hãy đứng dậy. Làm với niềm tin tuyệt đối Chúa đang hành động qua mình như cảm nghiệm của Thánh Phaolô: “Tôi sống không còn là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Nhân danh Chúa là Đấng toàn năng thì không gì mà không làm được. Chính Chúa đang làm phép lạ qua mình khi mình chịu để thánh giá xóa bỏ con người riêng của mình đi. Trước khi làm bất cứ việc gì, dù lớn dù nhỏ. Hãy thử thực tập làm dấu với tất cả ý thức và lòng tin như trên, rồi mình sẽ thấy sự khác biệt của công việc.
3. Hình dung một ngọn lửa từ Trời đang xuống trên đầu mình, đi xuống đáy lòng mình và lan tỏa khắp cơ thể; hình dung Chúa đang hiện ra đứng trước mặt và chuyển một luồng hơi thở sinh khí cho mình: bình an cho con, hãy nhận lấy Thánh Thần. Mình mở tâm ra mà lãnh nhận tất cả. Tin bao nhiêu được bấy nhiêu. Đây chẳng phải là nghi thức luyện thần điện là gì? Đúng là một lễ Hiện Xuống mới ngay lúc này. Lửa Trời và Sinh Khí hơi thở Chúa, tất cả sinh lực đất trời đang tuôn tràn vào lòng mình.
Và đọc một kinh rất đơn sơ nhưng với đầy tập trung ý lực vào từng câu từng chữ:
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con. Chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống, sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các thánh tông đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống, yên ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường -------------------------------
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, phụng vụ của Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta lời hứa của Chúa Kitô lúc còn tại thế về Đấng mà Chúa Cha sẽ sai đến sau này, để ở cùng chúng ta, soi trí mở lòng và thánh hóa chúng ta, Đấng ấy chính là Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa.
Ngay từ những trang đầu lịch sử ơn cứu độ đã ghi lại cho chúng ta rằng: “Thần Khí của Chúa bay là trên mặt nước” (Kn 1:2). Đây chính là sự hiện diện của Thần Khí Thiên Chúa trong công cuộc tạo dựng lần thứ nhất, sự hiện diện của làn gió sự sống và sáng tạo.
Trong công c uộc tạo dựng lần thứ hai, tức là công cuộc cứu chuộc loài người của Chúa Kitô, hình ảnh làn gió tươi mát của Chúa Thánh Thần hoạt động một cách mạnh mẽ và rõ nét hơn nữa. Trong ngày Tr uyền Tin cho Đức Trinh Nữ Maria chịu thai Đấng Cứu Thế, khai mào cho kỷ nguyên ơn cứu độ, Thánh Ma# hew đã nhấn mạnh đến tác động siêu nhiên của Chúa Thánh Thần khi viết: “Xảy ra là Trinh Nữ Maria đã có thai do tự Thánh Thần” (Mt 1:18); Thánh Luca thì minh hoạ rõ nét hơn: “Thánh Thần sẽ đến trên người và quyền năng Đấng Tối Cao trên người rợp bóng” (Lc 1:35).
Để chuẩn bị cho sứ vụ công khai cứu chuộc loài người, Thần Khí Chúa đó đã hướng dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay bốn mươi đêm ngày và chịu ma quỉ cám dỗ. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, Thần Khí của Thiên Chúa ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu (Lc 3:22). Hơn nữa, chính Chúa Kitô đã xác nhận rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã xức dầu cho tôi, và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4:18).
Chúa Thánh Thần đã hoạt động như thế trong công cuộc sáng tạo và cứu chuộc, thế thì lẽ nào Chúa Thánh Thần lại không hoạt động trong công việc dẫn đưa chúng ta đạt tới ơn cứu độ mà Chúa Kitô đã sắm sẵn cho chúng ta? Trước khi về trời, Chúa Kitô đã hứa ban Thần Khí của Thiên Chúa, Đấng luôn ở với Ngài và hoạt động nơi Ngài, chính Đấng ấy cũng sẽ đến và hoạt động nơi các tông đồ và trong Giáo hội như vậy: “Nếu Ta ra đi, Ta sẽ sai Ngài đến với các con… Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và nhắc nhớ cho các con tất cả sự thật” (Ga 16:7,13).
Trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã đến như một cơn gió mạnh thổi vào căn nhà nơi các môn đệ và Đức Trinh Nữ Maria đang tụ họp (xem. Cv 2:2 ). Chính ngọn gió của Chúa Thánh Thần đã thổi vào cánh buồm của các tông đồ, như Chúa Kitô đã hứa, và sai các ngài ra đi. Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ngài đã ra đi với một sự hăng say, khôn ngoan và dạn dĩ phi thường. Con số ba ngàn người tin vào Đức Kitô ngay sau bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã nói lên quyền năng và sự hoạt động mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần (xem Cv 2:37-41).
Cảm nghiệm được sự cần thiết của làn gió mát Chúa Thánh Thần, thánh Nữ Edith Stein, đã cầu nguyện trong Lễ Hiện Xuống cuối cùng của đời mình như sau: “Ngài là ai, hỡi ánh sáng dịu hiền, Đấng làm con tràn đầy và soi sáng từng bóng tối của đời con? Ngài dẫn dắt con như bàn tay hiền mẫu và nếu Ngài bỏ rơi con, con chẳng tiến được bước nào. Ngài là không gian bao quanh đời con và khép kín nó trong Ngài. Nếu bị Ngài bỏ rơi, đời con sẽ rơi vào vực thẳm hư vô, nhưng cũng từ vực hư vô đó, Ngài đã nâng con lên ánh sáng.”
Thế thì trong cuộc hành trình vượt biển trần gian này hãy xin làn gió êm dịu và tươi mát của Chúa Thánh Thần đến và thổi vào cánh buồm con thuyền của chúng ta; hãy ngoan ngoãn tỉnh thức và vâng phục sự soi động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta không thể chọn gió bởi nó thuộc về thế lực thiên nhiên, nhưng việc chúng ta phải làm là căng buồm, kiên nhẫn chờ đợi, và lái thuyền nương theo chiều gió.
Sau cùng, trong cuộc vượt biển trần gian này chúng ta hãy hướng theo ánh Sao Mai Maria. Làn gió của Chúa Thánh Thần đã bao phủ cuộc đời Mẹ, không những đưa Mẹ đến bến bình an mà còn đưa cả xác hồn Mẹ về Thiên Đàng, để Mẹ trở nên dấu chỉ hy vọng cho tất cả những ai còn đang trèo chống vất vả. Mẹ sẽ dạy cho chúng ta biết lắng nghe tiếng gió và nương theo chiều gió của Chúa Thánh Thần. Được như thế, thuyền của chúng ta không bị chìm sâu trong lòng biển mênh mông của sự chết, nhưng sẽ được an bình tới bến mong chờ. Lm. Philip M. Đỗ Thanh Cao, CMC -------------------------------
Lễ Ngũ Tuần, một trong những lễ trọng của người Do thái vì nó đánh dấu một kỷ niệm khó quên của dân tộc Israel: Hồi tưởng lại biến cố Giavê Thiên Chúa giải thoát dân Israel khỏi vòng nô lệ của Ai cập. Do đó, đã là con dân của Israel thì cho dù lưu lạc ở chân trời góc biển nào chăng nữa cũng phải cố gắng thu xếp để qui tụ về thánh đô Giêrusalem ít là một lần trong dịp lễ Ngũ Tuần để cùng nhau ôn lại biến cố trọng đại cha ông họ được thoát khỏi bàn tay Pharaô. Và chính trong bối cảnh này mà Chúa Thánh Thần đã chọn để biểu lộ chương trình hoạt động của Ngài qua việc hiện xuống trên các tông đồ và những người tụ họp với các ngài hôm đó.
Bài đọc I diễn tả việc các tông đồ, sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, nói được các thổ âm của những người từ khắp nơi tề tựu về Giêrusalem trong dịp lễ năm đó khiến ai nấy đều sửng sốt bỡ ngỡ: "Nào tất cả những người đang nói đây không phải là người Galilê ư?... nhưng tại sao chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa!?" (Cv 2:11). Đây là một trong những ơn lạ mà Chúa Thánh Thần ân ban và cũng là dấu chỉ sự hiện diện của Ngài: Mọi người đều hiệp nhất và nên một với nhau, bất chấp sự bất đồng ngôn ngữ, chứ không lộn xộn và chia rẽ như trong biến cố tháp Baben ngày xưa.
Thánh Phaolô trong bài đọc II còn nhắc lại một cách mạnh mẽ hơn về ơn hiệp nhất của Chúa Thánh Thần: "Không ai có thể nói 'Đức Giêsu là Chúa' mà lại không do Thánh Thần... Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần" (1 Cr 12:3-4). Đây mới là cao điểm của lễ Vượt Qua Mới mà Chiên Hiến Tế chính là Chúa Giêsu. Sau khi được đầy tràn Thánh Thần, các môn đệ tức khắc biến đổi từ những con người nhút nhát, sợ sệt, hoang mang, lo âu trở nên can đảm phi thường, ngang nhiên rao giảng những kỳ công của Thiên Chúa và công khai làm chứng cho sự Chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu để nhân loại ý thức được tình thương bao la Cha trên trời dành cho họ. Do đó, ở đâu có chia rẽ, bất đồng và sợ sệt, ở đó chắc chắn thiếu vắng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Lịch sử Giáo hội trong suốt hai ngàn năm qua, kể từ ngày lễ Hiện Xuống đầu tiên, đã chứng minh điều đó.
Qua Bí tích Thánh tẩy, mỗi người chúng ta cũng đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, sức mạnh của Chúa Thánh Thần có biến đổi được con người chúng ta hay không còn tùy thuộc ở việc chúng ta có mở lòng ra để nghe theo sự hướng dẫn của Ngài. Do đó, lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống mà chúng ta long trọng mừng kính mỗi năm nhắc nhớ hay mời gọi mỗi người chúng ta cùng nhau khơi lại ngọn lửa Thánh Thần đã được thắp sáng trong ngày Rửa Tội nhưng đang bị che kín bởi bụi thời gian. Cũng như các tông đồ xưa, mỗi người chúng ta cũng được kêu gọi để làm chứng cho cuộc Khổ nạn, Chết và Phục sinh của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống của mình. Có thể chúng ta sẽ không bị đem ra trước toà án và công nghị hoặc bị đánh đòn như các tông đồ xưa khi rao giảng Tin mừng Phục sinh. Và cũng rất có thể chúng ta sẽ không bị truy tố và đe dọa đến mạng sống như Abdul Rahman người Afghanistan hồi tháng 2 vừa rồi, khi ông quyết định từ bỏ Hồi giáo để theo Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, rất lắm khi chúng ta phải chiến đấu không ít để chọn lựa giữa ơn gọi làm người Kitô hữu và lối sống buông thả của xã hội ngày nay. Và giữa những thăng trầm của cuộc sống đó, Chúa Thánh Thần sẽ an ủi, nâng đỡ, và giúp sức để chúng ta vượt qua nếu chúng ta dám mở lòng trí ra để đón nhận và nghe theo sự chỉ dẫn của Ngài.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến để canh tân tâm hồn chúng con. Lạy Mẹ Maria, xin làm cho trí lòng chúng con nên đơn sơ dễ dạy như Mẹ để Chúa Thánh Thần được tự do hoạt động trong chúng con. Amen.
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống phát xuất từ Lễ Pentecost của người Do Thái. Nghĩa là 50 ngày, mà người ta gọi là Lễ Ngũ Tuần. Lễ này được mặc nhiều đặc tính tôn giáo, như để kỷ niệm việc Chúa ban mười giới răn trên núi Sinai.
Những đặc tính của Lễ Pentecost được Giáo Hội canh tân bằng nhiều cách như:
* Ban Hồng Ân của Chúa cho những ai được tuyển chọn. * Giáo Hội Ban Luật Yêu Thương thay cho luật cũ. * Dân Israel được thay thế bằng Dân Thánh mới là Giáo Hội Công Giáo.
A. XIN CANH TÂN BỘ MẶT TRÁI ĐẤT Hôm nay, chúng ta mừng Lễ Chúa Thánh Linh Hiện Xuống, chúng ta đọc lời nguyện: "Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến và xin canh tân bộ mặt thế giới!"
Thế giới chúng ta đang sống được canh tân, cần được đổi mới. Thế giới vật chất càng ngày càng văn minh tiến bộ, càng phát minh ra những máy móc tân kỳ, thì con người lại càng sinh lòng kiêu căng tự phụ, tự tin, tự mãn vào các tài năng và khoa học mà chối bỏ cả Thiên Chúa, phủ nhận quyền năng và công trình sáng tạo của Ngài.
Chính vì lòng kiêu căng vô ơn ấy, mà khiến con người sinh ra mê tín dị đoan, đến nỗi tôn thờ khoa học, coi những vật người ta làm ra như vô địch. Tất cả chỉ tổ trêu cơn nghĩa nộ Thiên Chúa, đáng Chúa trừng phạt. Cần phải được sứ lại.
B. KÊU GỌI CẢI THIỆN
Ngày mà Chúa Thánh Linh hiện xuống, Ngài đã đổ xuống Giáo Hội muôn hồng ân, với bao sự lạ lùng, các tín hữu đã thực hiện biết bao nhiêu phép lạ phi thường, khiến mọi người sửng sốt, thán phục, ăn năn sám hối tội lỗi, trở về với Thiên Chúa.
Ngày nay, mặt đất đã ra ô uế đồi bại, nhưng tình Chúa yêu thương vẫn không nỡ giáng phạt, Ngài đã sai Đức Mẹ đến để ban mệnh lệnh cải thiện, để kêu gọi loài người bỏ đàng lầm lạc mà, trở về cùng Thiên Chúa, để đáng được lãnh nhận ơn tha thứ và hưởng sự bình an hạnh phúc chân thật.
Là con cái Chúa, là con thảo của Mẹ, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi cải thiện của Mẹ, để hướng về với Chúa. Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta: "Các con hãy nhận lãnh Chúa Thánh Linh" (Jn 20:22). Rồi Chúa cũng trao cho chúng ta sứ mạng tông đồ: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con!" (Jn 20:21). Chúng ta hãy đón nhận lấy Chúa Thánh Thần và các ơn Ngài ban, để đổi mới tâm hồn, để canh tân cuộc sống, để trở nên con Chúa, để trở nên nhân chứng giữa muôn, để xứng đáng là con cái Chúa.
Tại thành phố Tokyo, nước Nhật Bản, có một khu phố thật nghèo nàn, dơ bẩn, thương luân, bại lý, khiến nhiều người không thèm để ý đến, ngoại trừ toán cảnh sát an ninh luôn rình rập, vây bắt những kẻ phạm pháp.
Trong lúc mọi người đều xa tránh, thì cô Maria, một nữ sinh y khoa, lại thường hay lui tới. Vì lòng thương mến những con người vô tội, cô đã quyết định đến đây sống với họ. Cô đã đi gõ cửa từng nhà, kêu xin những người hảo tâm, thương giúp họ. Sau một thời gian, "Khu Ổ Chuột" ấy đã biến đổi, những tội ác đã biến dần và, nhiều người đã tìm ra chân lý, trở lại đạo Công Giáo.
Hoạt động được vài năm, thì cô lâm bệnh và qua đời cách thánh thiện. Đức Tổng Giám Mục Giáo Phận Tokyo đã đích thân đến chủ tọa Lễ An Táng và ca ngợi công đức của cô.
Là những bậc làm cha làm mẹ, chúng ta hãy sống từ tâm để biến đổi gia đình chúng ta nên tốt đẹp, nên hạnh phúc.
Là những người con, chúng ta hãy nỗ lực làm việc tông đồ trong chòm xóm, để mọi người cùng được cải tiến, cùng góp công vào việc đổi mới xã hội, cải thiện nhân loại, xây dựng một thế giới tươi đẹp. Hầu xứng đáng trở nên một xã hội thánh thiện của Chúa giữa trần gian.
Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa mở màn cho Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh thế nào thì Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống mở màn cho Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh như vậy. Cho dù Mùa Thường Niên, một thời điểm bị gián đoạn bởi Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, có được chia ra làm hai giai đoạn khác nhau như thế nhưng vẫn có một chủ đề duy nhất. Thật vậy, như trọng tâm của Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô Nhập Thể, cũng như trọng tâm của Mùa Chay và Mùa Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô Vượt Qua thế nào, thì trọng tâm của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh và hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô Chứng Tá. Đúng thế, trong Mùa Thường Niện hậu Giáng Sinh, phụng vụ của Giáo Hội cho thấy Mầu Nhiệm Chúa Kitô Chứng Tá, ở chỗ, chính Người làm chứng về Người là Đấng Thiên Sai nơi dân Do Thái, bằng những lời Người giảng dạy liên quan đến chính mạc khải thần linh siêu việt cùng với việc Người trừ quỉ và chữa lành. Cũng vậy, trong Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, phụng vụ Giáo Hội lại tiếp tục cho thấy Mầu Nhiệm Chúa Kitô Chứng Tá nơi Giáo Hội của Người, một Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo (xem Sắc Lệnh Ad Gentes đoạn 2.1 và 6.6), một Giáo Hội bởi thế đã được Người trước khi về trời sai đi khắp thế giới rao giảng và làm chứng về Người (như được các đoạn cuối cùng của bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm cho Lễ Thăng Thiên đề cập tới), và là một Giáo Hội đã được Người từ Cha sai Thánh Thần đến để Giáo Hội có thể thực sự trở thành chứng nhân sống động cho Người tới tận cùng trái đất (x Acts 1:8), sửa soạn cho việc Người tái giáng trong vinh quang (x Rev 21:2).
Đúng thế, Giáo Hội Chúa Kitô sẽ không thể nào trở thành chứng từ của Người và cho Người, nếu không có Thánh Thần. Bởi vì, muốn làm chứng cho Chúa Kitô, Giáo Hội phải thấu hiểu Chúa Kitô, phải cảm nghiệm được Chúa Kitô, phải hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, phải sống Chúa Kitô, một trạng thái và là một trình độ thần linh chỉ có thể xẩy ra với sự hiện diện của Thần Chân Lý, Đấng mà “khi đến Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật” (Jn 16:13), tức dẫn Giáo Hội đến với Chúa Kitô và gặp được Chúa Kitô “là sự thật” (Jn 14:6), nói cách khác, Ngài sẽ làm cho Giáo Hội thấu triệt sự thật là Chúa Kitô, sống trong sự thật là Chúa Kitô và làm chứng cho sự thật là Chúa Kitô. Ngoài ra, muốn làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng Tử Giá, Đấng bị thế gian ghét bỏ (x Jn 15:19-20), Giáo Hội còn cần phải có một sức mạnh siêu nhiên phi thường nữa. Chúa Thánh Thần chính là “quyền lực từ trên cao” (Lk 24:49), một quyền lực Giáo Hội cần phải được lãnh nhận khi Chúa Thánh Thần hiện xuống rồi sau đó Giáo Hội mới có thể làm chứng cho Người (x Acts 1:8).
Đó là lý do, dù đã được lãnh nhận Thánh Thần do Chúa Kitô phục sinh ban cho để có thể thấu triệt Thánh Kinh và chấp nhận chứng từ cho thấy Người là Đấng Tử Giá đã thực sự sống lại, các vị tông đồ vẫn cần phải chờ cho tới khi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống nữa mới có thể bắt đầu chính thức công khai ra mặt làm chứng cho Đấng đã bị các vị trốn bỏ (x Mk 14:50) và chối bỏ (x Mt 26:69-75): “Các con sẽ lãnh nhận quyền năng khi Thánh Thần xuống trên các con; thế rồi các con sẽ là những chứng nhân của Thày ở Giêrusalem, khắp Giuđêa và Samaria, thậm chí cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8). Phải chăng đó là lý do khi hiện xuống trên từng vị tông đồ, Chúa Thánh Thần đã thần hiển qua hiện tượng “đột nhiên từ bầu trời có tiếng động mạnh như luồng gió thổi mạnh lùa vào đầy nhà” (ám chỉ tác dụng thúc đẩy thần linh nơi tâm hồn con người bất cứ lúc nào – x Jn 3:8), với “những lưỡi như lửa xuất hiện” (ám chỉ sứ vụ truyền đạt sự sống làm nung nấu tâm hồn người nghe, như đã xẩy ra nơi trường hợp hai môn đệ trên đường đi Emmau – x Lk 24:32), “tản ra và đậu trên đầu từng vị” (“trên đầu” chứ không phải ở những chỗ khác nơi thân thể các vị, và “từng vị” chứ không phải chung các vị, vì Thánh Thần như linh hồn thấm nhập vào từng chi thể và chi phối mọi hoạt động của toàn thân).
Biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là biến cố Ngôi Ba Thiên Chúa chính thức xuất hiện trên thế gian, tỏ mình cho thế gian. Thế nhưng, biến cố này chỉ xẩy ra sau biến cố Nhập Thể (bao gồm cả biến cố Giáng Sinh, Vượt Qua và Thăng Thiên) của Ngôi Lời. Nếu so sánh về thời gian thì thời điểm tỏ mình ra của Ba Ngôi Thiên Chúa thì Ngôi Lời có vẻ ngắn nhất. Ngôi Cha tỏ mình ra qua việc Tạo Thành loài người, nhất là qua những việc làm trực tiếp liên quan đến con người, được thực hiện trong suốt Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái, một lịch sử kéo dài từ khi Ngài bắt đầu kêu gọi tổ phụ Abraham của dân tuyển chọn này cho tới khi Chúa Kitô Giáng Sinh theo giòng dõi của họ thì kéo dài khoảng 2000 năm. Ngôi Lời tỏ mình ra sống động nơi một Con Người lịch sử trong vòng vỏn vẹn 33 năm tại mảnh Đất Hứa. Ngôi Thánh Thần chính thức tỏ mình ra từ thời điểm Lễ Ngũ Tuần của dân Do Thái ở Giêrusalem và hiện diện nơi Đền Thờ Giáo Hội, cùng hoạt động trên thế gian qua Giáo Hội và với Giáo Hội Chúa Kitô, chẳng những tới nay đã gần 2000 năm mà còn cho tới khi Chúa Kitô tái giáng.
Tuy nhiên, nếu thời gian hoạt động của Ngôi Thánh Thần từ sau khi Chúa Kitô Thăng Thiên cho tới khi Chúa Kitô Tái Giáng thì có nghĩa là: thứ nhất, Ngôi Lời vẫn còn hiện diện và tỏ mình ra một cách bí tích trong lòng Giáo Hội và một cách sống động nơi công cuộc truyền giáo ngoại tại của Giáo Hội; thứ hai, vai trò của Ngôi Lời và Ngôi Thánh Thần gắn liền với nhau, ở chỗ, nếu Ngôi Lời Nhập Thể là để “tỏ Cha ra” (Jn 1:18) thì Ngôi Thánh Thần đến là để làm chứng Chúa Kitô, để tỏ Chúa Kitô ra; thứ ba, chính vì sứ vụ của mình đến để tỏ Chúa Kitô mà Ngôi Thánh Thần chỉ thực sự và chính thức tỏ hiện sau khi Chúa Kitô Thăng Thiên và được chính Chúa Kitô Thăng Thiên từ Cha sai đến (x Jn 15:26).
Sáng ngày 5 tháng 9 năm 2000, tại Phòng Báo Chí của Tòa Thánh, Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đã cho phổ biến một Bản Tuyên Ngôn mang tựa đề “Chúa Giêsu - Dominus Jesus”, liên quan đến Duy Nhất Tính của Chúa Giêsu Kitô và của Giáo Hội cùng Phổ Quát Tính Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô và của Giáo Hội. Trong bản tuyên ngôn này, Giáo Hội đã minh định mối liên hệ mật thiết giữa sứ vụ của Chúa Kitô và vai trò của Thánh Thần như sau:
“Cũng có những người nêu lên giả thiết cho rằng công cuộc của Chúa Thánh Thần thì bao rộng phổ quát hơn công cuộc của Lời Nhập Thể, Đấng tử giá và phục sinh. Chủ trương này cũng trái với đức tin Công Giáo, một đức tin chủ trương ngược lại, ở chỗ, coi việc nhập thể cứu độ của Lời như là một biến cố của cả Ba Ngôi Thiên Chúa vậy. Theo Tân Ước, mầu nhiệm về Chúa Giêsu, Lời Nhập Thể, làm nên nơi cho Chúa Thánh Thần hiện diện cũng như trở thành nguyên lý cho việc tuôn tràn Thần Linh xuống trên nhân loại, chẳng những vào thời kỳ cứu độ (x Acts 2:32-36; Jn 7:39, 20-22; 1Cor 15:45), mà còn vào cả trước thời gian Người đi vào lịch sử nữa (x 1Cor 10:4; 1Pet 1:10-12)... Chúa Kitô hiện đang hoạt động nơi tâm can nhân loại bằng quyền lực của Thần Linh Người... Chính Thần Linh là Đấng gieo ‘hạt giống lời Chúa’ hiện diện nơi các tập tục và văn hóa khác nhau, làm cho những lãnh vực này hoàn toàn nên trọn trong Chúa Kitô’ (Đức Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 28; về ‘hạt giống Lời Chúa’ cũng xem cả Thánh Justine tử đạo, Hộ Giáo Thứ Hai 8, 1-2; 10, 1-3; 13, 3-6; ed. E.J. Goodspeed, 84; 85; 88-89). Khi công nhận sứ vụ cứu độ trong lịch sử của Thần Linh nơi toàn thể vũ trụ cũng như trong toàn bộ lịch sử nhân loại (cùng nguồn của ĐTC/GPII vừa dẫn, 28-29), Huấn Quyền còn xác nhận: ‘Đây là chính Vị Thần Linh đã hoạt động trong việc nhập thể, trong đời sống, trong cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, cũng là Đấng hoạt động trong cả Giáo Hội nữa. Bởi thế, Ngài không phải là một thứ hoán vị thay cho Chúa Kitô, và Ngài cũng không phải là một thứ khỏa lấp, đôi khi theo người ta nghĩ, giữa Đức Kitô và Ngôi Lời.
Bất cứ những gì Thần Linh làm phát sinh nơi tâm trí con người cũng như nơi lịch sử của các dân tộc, nơi văn hóa và tôn giáo, đều giúp vào việc sửa soạn cho Phúc Âm, và chỉ có thể hiểu được trong mối tương quan với Chúa Kitô là Lời, Đấng đã mặc lấy xác thịt bởi quyền phép Thần Linh, và, vì là một con người toàn vẹn, Người đã cứu độ toàn thể nhân loại và thâu tóm tất cả mọi sự’ (cùng nguồn của ĐTC/GPII vừa dẫn, 29). Tóm lại, hoạt động của Thần Linh không ở ngoài hay song song với hoạt động của Chúa Kitô. Chỉ có một công cuộc cứu độ duy nhất của một Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi, được thể hiện nơi mầu nhiệm nhập thể, nơi cuộc tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa, được hiện thực nhờ việc hợp tác của Thánh Linh, và được vươn tới toàn thể nhân loại cùng toàn thể vũ trụ ở giá trị cứu độ của công cuộc này: ‘Thế nên, không ai có thể được hiệp thông với Thiên Chúa ngoại trừ qua Chúa Kitô và nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần’ (cùng nguồn của ĐTC/GPII vừa dẫn, 5)”. (Tuyên Ngôn, đoạn 12.1, 12..5 và 12.6).
Thật ra, theo Dự Án Cứu Độ, như Lịch Sử Cứu Độ chứng thực, những chứng tích đã được ghi nhận trong Thánh Kinh Cựu Ước, thì để cứu độ cả dân Do Thái lẫn nhân loại, Thiên Chúa chẳng những sai Con Ngài đến trần gian theo huyết tộc Do Thái mà còn tuôn đổ cả Thánh Thần của Ngài xuống trên toàn thể nhân loại nữa. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo đã xác nhận sự kiện hay mạc khải thần linh này như sau: “’Này đây Ta đang thực hiện một điều mới mẻ’ (Is 43:19). Có hai chiều hướng được phát triển, một dẫn đến việc trông đợi Đấng Thiên Sai, và một hướng đến việc loan báo về Thần Trí mới. Cả hai chiều hướng này được đồng qui nơi thành phần Sống Sót nhỏ bé, thành phần bần cùng, những người hy vọng đợi trông ‘niềm an ủi của dân Do Thái’ cùng ‘việc cứu chuộc Giêrusalem’ (x Zeph 2:3; Lk 2:25,38)” (số 711); “Những đặc tính của một Đấng Thiên Sai được đợi trông bắt đầu xuất hiện nơi cuốn ‘Sách Emmanuel’, nhất làở hai câu đầu tiên của đoạn 11 Sách Isaia: ‘Từ gốc Jesse sẽ nẩy ra một chồi… Thần Linh Chúa sẽ ngự trên Người, thần linh khôn ngoan và thông hiểu…’” (số 712); “Những bản văn tiên tri trực tiếp liên quan đến việc sai Thánh Linh đến là những lời Thiên Chúa nói với cõi lòng của dân Ngài bằng một thứ ngôn ngữ hứa hẹn, nhấn mạnh đến vấn đề ‘yêu thương và thủy chung’ (x Ezek 11:19, 36:25-28, 37:1-14; Jer 31:31-34; Joel 3:1-5). Thánh Phêrô tuyên bố những lời tiên tri này đã được nên trọn vào buổi sáng của Ngày Lễ Ngũ Tuần (x Acts 2:17-21). Theo những lời hứa hẹn này thì vào lúc ‘cuối thời’, Thần Linh Chúa sẽ canh tân lòng trí con người, bằng cách ghi khắc lề luật mới nơi họ. Ngài sẽ tập hợp và hòa giải các dân nước bị phân tán và phân rẽ; Ngài sẽ canh tân biến đổi cuộc tạo dựng đầu tiên, và Thiên Chúa sẽ ngự ở đó với con người trong an bình” (số 714).
Tuy nhiên, Thiên Chúa Ngôi Cha sẽ không bao giờ và không thể nào tuôn đổ Thánh Thần của Ngài xuống trên nhân loại nếu trước hết Ngài không sai Con Ngài đến trần gian. Bởi vì, không một tạo vật thuần túy nào, kể cả đệ nhất phẩm thiên thần, hay không một con người thuần túy nào, kể cả Nhân Vật Đệ Nhất Ân Sủng là Trinh Nữ Sinh Con Đầy Ân Phúc Maria, có thể chứa đựng nổi Thánh Thần vô cùng viên mãn của Ngài. Chỉ một mình Con Người Lịch Sử Giêsu Nazarét là Con Thiên Chúa mới có đủ tư cách sở hữu (đúng hơn thừa hưởng) và khả năng dung chứa tất cả Thánh Thần Thiên Chúa mà thôi. Có thể nói Mầu Nhiệm Nhập Thể vừa là đường lối vừa là mục tiêu để Thiên Chúa tuôn đổ Thánh Linh của Ngài xuống trên nhân loại. Đúng thế, ngay từ khi Ngôi Lời Nhập Thể, Ngôi Cha đã tuôn đổ tất cả Thánh Thần của Ngài xuống trên loài người, và Ngôi Thánh Thần, qua chính bản thân Con Người Giêsu Kitô, cụ thể là qua Lời Chúa Kitô nói và việc Chúa Kitô làm, nhất là qua cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, cũng đã bắt đầu tỏ mình ra cho tới tột đỉnh của Ngài vào Ngày Lễ Ngũ Tuần. Phần Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô trong khi tỏ Cha ra Người đồng thời cũng bắt đầu thông ban Thánh Thần nơi Người và của Người ra cho nhân loại nói chung, một tân nhân loại có mầm mống của mình nơi thành phần chứng nhân tiên khởi là các vị tông đồ, thành phần đầu tiên đã được Chúa Kitô thông ban Thánh Thần của Người cho sau khi Người từ trong cõi chết sống lại, để các vị thông đạt cho nhân loại sau đó qua chứng từ, lời rao giảng và phép bí tích (x Jn 20:22-23; Lk 24:45,47). Phải, Chúa Kitô Phục Sinh đã công khai thông ban Thánh Thần tràn đầy nơi thân xác vinh hiển của Người cho những ai tin vào Người (x Jn 7:37-39), để họ chẳng những thấu triệt Đấng Thiên Sai mà còn có thể sống động và trung thực làm chứng cho Người trên thế gian.
Nếu Thánh Thần được Chúa Kitô từ Cha sai đến là để làm chứng cho Người thì ai không có Thánh Thần của Người sẽ không thể nào nhận biết Người và tuyên xưng “Chúa Giêsu là Chúa” (1Cor 12:3). Và trong việc làm chứng cho Chúa Kitô, Thánh Thần làm sáng tỏ ba vấn đề, đó là vấn đề tội lỗi, vấn đề công chính và vấn đề luận phạt (x Jn 16:8).
Trước hết, Thánh Linh sẽ làm sáng tỏ vấn đề tội lỗi liên quan đến thế gian, ở chỗ, Ngài chiếu tỏa Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12) ra qua đời sống chứng nhân của các phần tử Giáo Hội Chúa Kitô, cho thế gian thấy rằng những việc họ “yêu tối tăm hơn ánh sáng” (Jn 3:19) đã làm không hợp với ý muốn trọn hảo của Thiên Chúa (x Acts 17:30), theo tinh thần Phúc Âm Chúa Kitô, bởi thế họ cần phải ăn năn hối cải trở về với sự thật giải phóng (x Jn 8:32) là Chúa Kitô Cứu Thế. Chính vì thế, thành phần môn đệ của Đấng Phục Sinh mới được Người truyền phải rao giảng sự ăn năn thống hối để được ơn tha thứ (x Lk 24:47), cũng như cần phải ban bí tích hòa giải (x Jn 20:23) cho riêng thành phần Kitô hữu lỗi phạm, vì mỗi lần Kitô hữu lỗi phạm là họ, minh nhiên hay mặc nhiên, trực tiếp hay gián tiếp, vô tình hay cố tình, chối bỏ Thày mình như tông đồ Phêrô lầm lạc yếu đuối.
Sau nữa, Thánh Linh còn làm sáng tỏ vấn đề công chính liên quan đến riêng thành phần Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô, ở chỗ, Ngài làm cho họ lớn lên trong Chúa Kitô, làm cho họ cắm rễ sâu trong Chúa Kitô bằng đức tin (x Col 2:7), làm cho họ thấu triệt Chúa Kitô bằng đức tin thuần túy chứ không phải bằng tình cảm hay lý trí, giúp họ sống trọn giáo huấn của Người, để họ đạt đến tầm vóc thành toàn của Người (x Eph 4:13,15).
Sau hết Thánh Linh còn làm sáng tỏ vấn đề luận phạt liên quan đến tên vương chủ thế gian, ở chỗ, Ngài làm cho vương quốc của Chúa Kitô Vượt Qua đã thiết lập trên thế gian phát triển cho tới tầm vóc diễm lệ như tân nương nghênh đón phu quân (x Rev 21:2), một vương quốc được hiện thân nơi Giáo Hội của Người, một Giáo Hội dù được chăn dắt bởi những con người hèn yếu đại diện Người trên trần gian, như giáo sử hiển nhiên cho thấy, song quyền lực hỏa ngục vẫn không thể nào hủy hoại (x Mt 16:18).
Tóm lại, Thánh Thần được sai đến để canh tân bộ mặt trái đất ở chỗ làm cho dung nhan của Con Thiên Chúa Làm Người được ngời sáng trên gương mặt của Giáo Hội là Ánh Sáng Muôn Dân - Lumen Gentium, là Vui Mừng và Hy Vọng - Gaudium et Spes cho thế giới.
Theo Thánh Ký Luca thuât lại là bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần đã lên tiếng chúc khen Mẹ Maria diễm phúc. Thế nhưng, bà chỉ được đầy Chúa Thánh Thần, như Phúc Âm thuật lại, sau khi thai nhi Gioan Tẩy Giả nhẩy mừng trong lòng bà mà thôi. Tuy nhiên, sở dĩ thai nhi Gioan Tẩy Giả có thể nhẩy mừng trong lòng mẹ mình vào lúc được sáu tháng ấy, một biến cố được các thánh cho là ngài được khỏi tội tổ tông ngay lúc bấy giờ, là vì người đang cưu mang thánh nhân nghe thấy lời chào của Mẹ Maria. Như thế không phải là Mẹ Maria ở đâu thì Thánh Thần tràn đầy ở đó hay sao? Và sở dĩ Mẹ tràn đầy Thánh Thần là vì Mẹ đang cưu mang Con Thiên Chúa, tức đang cưu mang chính Đấng đến làm phép rửa Thánh Thần.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL -------------------------------
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” không chỉ là lời của Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh nói với các Tông Đồ xưa mà là lời của Người nói với tất cả các Ki-tô hữu của mọi thời đại, mọi quốc gia. Bất cứ người Ki-tô hữu nào cũng phải nhận lấy Thánh Thần là quà tặng của Chúa Ki-tô Phục Sinh, để sống tư cách là môn đệ Chúa Ki-tô trong các môi trường gia đình, nghề nghiệp và cộng đồng xã hội của mình. Đã đành mỗi Ki-tô hữu đã nhận lấy Chúa Thánh Thần ngày người ấy chịu phép Rửa. Nhưng phải nói là mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng…, các Ki-tô hữu cần phải nhận lấy Thánh Thần của Chúa Ki-tô Phục Sinh, để được đổi mới liên tục và làm chứng cho Niềm Tin của mình.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 2,1-11): Ai nấy đều được tràn ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng.
1 Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, 2 bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. 3 Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. 4 Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.
5 Lúc đó, tại Giê-ru-sa-lem, có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về. 6 Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. 7 Họ sửng sốt, thán phục và nói: "Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? 8 Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? 9 Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, 10 có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; 11 nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa! "
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 12,3a-7.12-13): Chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể.
3 Thưa anh em, không ai có thể nói rằng: "Đức Giê-su là Chúa", nếu người ấy không ở trong Thần Khí. 4 Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. 5 Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. 6 Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. 7 Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.
12 Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. 13 Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 20,19-23): Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa:
1°) Bài đọc 1 (Cv 2,1-11) là bài tường thuật của Sách Công vụ Tông Đồ về biến cố xảy ra trong ngày Lễ Ngũ Tuần là một lễ lớn của người Do Thái, một thời gian sau Lễ Vượt Qua. Biến cố được kể lại là sự “hiện xuống” của Thánh Thần Thiên Chúa trên các môn đệ Chúa Giê-su. Chúa Thánh Thần được nhìn thấy giống như những lưỡi lửa. Chúa Thánh Thần đổ xuống trên từng người và tràn ngập tâm hồn họ khiến những người này nói các thứ tiếng không phải ngôn ngữ của mình mà người nghe (bất kể thuộc ngôn ngữ nào) đều hiểu được điều các tông đồ nói.
2°) Bài đọc 2 (1 Cr 12,3a-7.12-13) là một đoạn của thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô trong đó trước hết Thánh Phao-lô Tông đồ khẳng định tầm quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống của người Ki-tô hữu; kế đến ngài giảng giải về các đặc sủng phong phú và khác nhau mà Chúa Thánh Thần ban cho bất kỳ tín hữu nào cũng nhằm ích lợi chung của Hội Thánh là Thân Mình mầu nhiệm Chúa Ki-tô; và sau cùng ngài kết luận về tính hiệp nhất của cộng đoàn kẻ tin: “Tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.”
3°) Bài Tin Mừng (Ga 20,19-23 ) là tường thuật của Thánh Gio-an Tông đồ về lần hiện ra đầu tiên của Chúa Giê-su Phục Sinh với các môn đệ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần. Trước hết Chúa Giê-su cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn là dấu tích của cuộc Khổ Nạn ba ngày trước đó. Kế tiếp Chúa Giê-su chúc bình an cho các môn đệ và giao cho các ông sứ mạng rao giảng Tin Mừng Cứu Độ mà Người đã nhận từ Thiên Chúa Cha. Và sau cùng Chúa Giê-su ban Thánh Thần và quyền tha tội cho các môn đệ của Ngài.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Thánh Thần của Chúa Giê-su (cũng là Thần Khí của Thiên Chúa) đã được ban cho các tín hữu là môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã chết và phục sinh. Vậy việc quan trọng nhất là chúng ta hãy nhận lấy Thánh Thần như chính Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh mời gọi: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”
Thánh Thần Thiên Chúa sẽ củng cố và đổi mới niềm tin Ki-tô của mỗi người và sẽ gắn kết mọi người thành một cộng đoàn hiệp nhất. Thánh Thần sẽ ban sức mạnh cần thiết để mọi người thực hiện sứ mạng rao giảng, làm chứng cho Tin Mừng và phục vụ con người như chính Chúa Giê-su Ki-tô đã thực hiện và mời gọi các môn đệ làm theo.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, Đấng thực hiện mọi công trình tạo dựng, cứu độ và thánh hóa các tín hữu và ban cho họ tràn đầy ân sủng mà làm vinh danh Thiên Chúa và xây dựng Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Ki-tô Phục Sinh.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là:
(a) chúng ta mở lòng, mở trí, mở linh hồn và cuộc sống của chúng ta để Chúa Thánh Thần ngự vào và tự do hoạt động, bằng hai cách:
(b) Nỗ lực canh tân đời sống, xây dựng sự hiệp thông trong cộng đoàn, dùng những ơn huệ Chúa Thánh Thần đã ban, nhất là những đặc sủng, mà phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa và Hội Thánh.
(c) Thực hiện những gợi ý, soi sáng, thúc đẩy của Chúa Thánh Thần mà chúng ta nhận được, khi chúng ta cầu nguyện, dâng thánh lễ, nghe giảng, đọc Thánh Kinh, tĩnh tâm và tiếp xúc với người nghèo.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ NHÂN LOẠI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người trong thế giới hôm nay để họ nhận ra dấu chỉ của Thiên Chúa trong đời sống cá nhân và xã hội mà tin vào Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa được tràn đầy Thánh Thần mà nói Lời Chúa cho những người xung quanh.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy biết mở lòng mở trí nhận lấy Thánh Thần của Chúa Ki-tô Phục Sinh.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị lãnh đạo trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội, để các vị ấy biết hành sử, cách bao dung và nhân ái, quyền bính của mình mà đem lại sự bình an và hạnh phúc cho mọi người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. -------------------------------
Nói đến Thánh Thần mà không nói đến việc làm; đến công việc của Thánh Thần là một thiếu sót. Công việc chính của Thánh Thần là sáng tạo và đổi mới tâm hồn các tín hữu. Đổi mới và sáng tạo phát xuất từ tâm hồn lan ra bên ngoài như thế toàn thể con người trở thành tạo vật mới trong Đức Kitô Phục Sinh. Họ trở nên con cái sự sống lại, con cái sự sáng, con cái Đức Kitô Phục Sinh nên thừa hưởng sự sống đời đời của Đức Kitô.
Thánh Thần Thiên Chúa không đến để làm thay, làm dùm mà là hướng dẫn, khuyến khích, tác động tâm hồn các tín hữu để họ trở nên tạo vât mới. Hướng dẫn không phải theo ý riêng, muốn sao được vậy, mà là hướng dẫn theo khuôn mẫu Đức Kitô đã vạch ra trong cuộc đời rao giảng của Ngài nơi trần thế. Nói cách khác Lời Chúa là đèn soi giúp con người đổi mới. Thánh Thần Thiên Chúa giúp sưởi ấm tâm hồn, làm chất xúc tác thúc đẩy con người đó mạnh dạn tiến đến đổi mới bằng cách sống thể hiện Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Công việc của Thánh Thần là giúp Kitô hữu trở thành con người mới, không phải chỉ một lần mà đổi mới mỗi ngày trong suốt cuộc đời của họ nơi trần thế. Ngày nào thiếu đổi mới là ngày đó còn thiếu sót. Một ngày thiếu sống Lời Chúa ngày đó việc đổi mới bị đình chỉ, một khi không đổi mới có nghĩa là con người cũ lại tái xuất hiện. Đời sống nội tâm của Kitô hữu không phát triển đều hoà vì tình trạng nay sống Lời Chúa mai không.
Hôm nay Lời Chúa sưởi ấm tâm hồn, ngày mai để nguội lạnh nên đời sống nội tâm lúc nóng, lúc lạnh, lúc tiến, lúc thoái tạo nên tình trạng dậm chân tại chỗ, không tiến cũng chẳng lui đó chính kinh nghiệm nhiều người vấp phải. Việc đổi mới cần làm liên tục, nhẹ nhàng, kiên tâm bền chí mới có kết quả xác thực. Việc đổi mới cần thể hiện mỗi ngày trong cuộc sống và kéo dài trọn đời người bởi Lời Chúa là đèn soi, từ bỏ đèn sẽ bước đi trong đêm tối, trong tối tăm và sẽ bị vấp ngã. Từ bỏ con người cũ để trở thành con người mới. Từ bỏ nếp sống cũ để trở thành con cái Thiên Chúa là điều dễ dàng, dễ thực hiện, nhưng kiên tâm trong việc từ bỏ, trung thành trong việc đổi mới hàng ngày là điều nhiều Kitô hữu không thực hành được vì Lời Chúa chưa thực sự bám rễ sâu trong tâm hồn. Một tâm hồn trưởng thành là tâm hồn thấy thiếu thốn, bất an nếu ngày đó thiếu được đón nhận lời Chúa. Lời Chúa được dùng làm thực phẩm tâm linh hàng ngày. Một ngày nhịn là một ngày đói.
Là con cái Thiên Chúa chúng ta sống trong tình yêu Chúa. Tình yêu Chúa biến chúng ta thành anh chị em trong đại gia đình Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha nhờ tác động của Thánh Thần hướng dẫn. Vì là con nên đồng hưởng chiến thắng vinh quang của Đức Kitô, Đấng sống lại từ cõi chết. Là con Thiên Chúa chúng ta tự hào là không cám dỗ nào mà không thắng được vì chúng ta không chiến thắng đơn độc nhưng nhờ sức mạnh Phục Sinh chúng ta chiến thắng được tất cả các sự dữ, các cám dỗ, vượt qua mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Thánh Thần giúp chúng ta kết hợp với sức mạnh Lời Chúa. Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đi trên con đường lành thánh. Thánh Thần ban sức mạnh Lời Chúa cho chúng ta khi chúng ta kêu cầu tới Ngài. Tất cả những điều trên thực hiện được nhờ vào cuộc tử nạn và sống lại của Đức Kitô. Sức mạnh Phục Sinh chiến thắng tất cả mọi khó khăn, thử thách nơi trần gian kể cả sự chết cũng bất lực trước sức mạnh Phục Sinh.
Một câu chuyện vui kể lại, có anh thanh niên đang học giáo lý dự tòng, khi học kinh Chúa Thánh Thần, anh học mãi mà không thuộc. Khó nhất là nhiều lần cứ lặp đi lặp lại “Chúa Thánh Thần xuống… Chúa Thánh Thần lại xuống….”. Anh sốt ruột nói với bà xơ dạy giáo lý: “Sao không thấy Chúa Thánh Thần lên mà thấy cứ xuống hoài ?” Bà xơ trả lời: “Nếu Chúa Thánh Thần mà lên thì thế giới này sẽ bị hủy diệt còn ghê gớm hơn là bom nguyên tử!”
Kinh Chúa Thánh Thần nhắc lại một biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ: đó là ngày lễ Ngũ Tuần, khi Chúa Thánh Thần đến để canh tân Giáo Hội. Kể từ ngày ấy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện để nâng đỡ và bảo trợ Giáo Hội. Sở dĩ người tín hữu cầu xin Chúa Thánh Thần, vì họ xác tín rằng, mọi hoạt động, nếu muốn thành công, cần có ơn của Chúa Thánh Thần, vì Ngài là Đấng Bảo trợ.
“Thày sẽ sai Đấng Bảo trợ đến với anh em” (x.Ga 16, 7). Chúa Thánh Thần đã đến để quy tụ nhóm các môn đệ đang hoang mang sợ hãi, biến đổi lòng họ và làm cho họ trở thành những nhân chứng trung kiên của Đấng Phục Sinh.
Lịch sử Giáo Hội, nhất là mở miền Bắc Việt Nam, chứng minh sức mạnh kỳ diệu của Chúa Thánh Thần. Trong những năm tháng khó khăn, thiếu vắng linh mục, không có lớp giáo lý, không có những hoạt động tông đồ, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm hoạt động. Ngài tác động nơi những ông trùm, bà quản, văn hóa rất khiêm tốn, nhưng lại mạnh mẽ lạ thường. Lý lẽ của họ rất đơn giản mà mang tính thuyết phục. Kiến thức của họ rất sơ sài mà lại là nền tảng cho một đức tin chắc chắn. Có những cụ ông cụ bà đạo đức thánh thiện truyền lại đức tin cho con cháu chỉ bằng những lời kinh đơn sơ. Nhờ những “chứng nhân đức tin” này mà biết bao ngôi thánh đường được gìn giữ, biết bao cộng đoàn đức tin được duy trì, tồn tại …. . Chúa Thánh Thần hoạt động nơi người tín hữu và ban cho họ sức mạnh, soi sáng cho họ biết những gì cần phải làm. Giáo Hội tồn tại là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, thông qua những con người bình dân và trung tín ấy. Là Đấng Bảo trợ, Chúa Thánh Thần luôn hướng dẫn và làm cho Giáo Hội phát triển.
Và hôm nay, hai mươi thế kỷ sau sự kiện Ngũ Tuần, Ngôi Ba Thiên Chúa vẫn đang từng giờ từng phút bảo trợ Giáo Hội và làm cho Giáo Hội sống. Cũng như Chúa Thánh Thần luôn làm cho vũ trụ được sống, Ngài cũng luôn luôn thông truyền sức sống siêu nhiên cho Giáo Hội “Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất” (Tv 103,29). Nếu một ngày nào đó, không có ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ, Giáo Hội sẽ trở thành xác không hồn. Chính Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội của Chúa Ki-tô lan tỏa một vẻ đẹp diệu kỳ. Vẻ đẹp ấy thể hiện qua tình hiệp nhất giữa các tín hữu, qua sức mạnh của đức tin, qua tính linh thiêng của những nghi thức phụng vụ. Chúa Thánh Thần còn làm cho vẻ đẹp Giáo Hội rạng ngời nơi khuôn mặt và cuộc đời các tín hữu, giúp họ dấn thân hy sinh, kiên vững trung thành sống chết vì Chúa.
Sách Giáo lý của Giáo Hội công giáo đã liệt kê những biểu tượng chỉ Chúa Thánh Thần như: nước, sự xức dầu, lửa, áng mây và ánh sáng, dấu ấn, bàn tay, ngón tay, chim bồ câu. Tất cả những biểu tượng trên diễn tả những nhu cầu cần thiết để con người có thể sống trên trần gian. Thế gian sẽ vắng bóng sự sống nếu không có Chúa Thánh Thần. Cuộc sống con người sẽ mất định hướng nếu không có Chúa Thánh Thần.
Ca Tiếp liên của phụng vụ hôm nay cũng diễn tả những hoạt động đa dạng của Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài luôn thực thi sứ mạng “bảo trợ” trong suốt đời sống con người và đời sống đức tin “Nếu không có Chúa hộ phù, trong con người còn chi thanh khiết?”.
Nhờ sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần mà các tín hữu được liên kết với nhau trong tình hiệp thông. “Tất cả chúng ta đã lãnh nhận cùng một Thần Khí duy nhất là Thánh Thần, nên một cách nào đó chúng ta được kết hợp với nhau và với Thiên Chúa. Mặc dầu chúng ta nhiều người và mặc dầu Đức Ki-tô đã làm cho Thần Khí của chúa Cha và của Người cư ngụ trong mỗi người chúng ta” (thánh Cyrillô thành Alexandria). Bài đọc I và bài đọc II trong Phụng vụ đều diễn tả vai trò của Chúa Thánh Thần là Đấng liên kết mọi tín hữu nên một. Lễ Ngũ Tuần hàn gắn những chia rẽ đổ vỡ của thời Ba-ben trong Cựu ước. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội sống động như một thân thể, gồm nhiều chi thể khác nhau, nhưng cùng chung một sự sống.
Việc nhận lãnh Chúa Thánh Thần giúp người tín hữu thực hiện được biết bao điều kỳ diệu. Khi Chúa Giê-su đã ban Thánh Thần cho các môn đệ, Người cũng ủy thác cho các ông quyền tha tội và cầm buộc và biết bao quyền năng khác, đến nỗi các ông có thể làm được phép lạ, như chính Chúa Giê-su đã làm. Khi chúng ta được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ thực hiện được những “phép lạ” trong cuộc sống, đó là vượt lên sự chết, canh tân đổi mới cuộc đời để sống cuộc sống mới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến canh tân cõi lòng chúng con. Xin soi sáng cho chúng con và mọi người trong thế giới hôm nay, để hết thảy cùng chung tay xây dựng một thế giới an bình hạnh phúc. Amen
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên -------------------------------
Đức Hồng Y Carlo Martini nói: “Kinh nghiệm của Lễ Hiện Xuống (Cv 2,3-13) chính là Tin Mừng truyền thông”.
Truyền thông là làm cho con người có khả năng để nghe để hiểu, có khả năng để loan báo và có khả năng để chuyển thông một sứ điệp. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã khai thông mọi tương giao, phá vỡ bức tường đã bị đóng kín từ sự kiện tháp Babel. Truyền thông Tin Mừng chính là mang tin vui đến cho mọi người.
Năm Thánh 2000, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma, trong bài giảng “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần”, ngài kể về tác động của Chúa Thánh Thần như một ân ban chuyển thông ánh sáng và niềm tin cho anh chị em người Hmong.
“Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta.
Tôi còn nhớ câu chuyện này.
Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmong muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
Anh chị em từ đâu đến?
Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.
Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy? Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.
Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.
Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi luật tân.
Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!”
Đó là đài phát thanh “Chân Lý”.
Một đài phát thanh GH công Giáo, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!
Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần!
Rồi cha lại hỏi nhóm người Hmong: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?
Thưa cha, không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.
Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?
Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30, chúng con ngưng làm việc thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX.” (Chứng Nhân Hy Vọng, trang 235-237).
Hiến chế Tín lý về Mạc khải của CĐ Vaticanô II có nói: “Mạc Khải là việc Thiên Chúa ‘Truyền Thông Chính Mình’ cho nhân loại” (DV 6). Với biến cố Hiện Xuống, việc truyền thông của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Đức Kitô và tiếp tục được nối dài trong Giáo Hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Lễ Hiện Xuống khai mở những “kênh truyền thông” mới. Vì thế, “Giáo Hội Công Giáo nhận thấy mình có bổn phận dùng các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo ơn cứu độ và dạy con người biết sử dụng chúng cho đúng đắn” (Inter Mirifica, số 3). Chúa Thánh Thần là linh hồn Giáo Hội. Ngài tác động và canh tân Giáo Hội thực thi sứ vụ loan Tin Mừng: “Giáo Hội canh tân và thanh tẩy chính mình không bao giờ ngừng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần” (Vui mừng và Hy vọng, 21). Sách Công Vụ Tông Đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy.
Suốt mùa Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hylạp và Rôma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rôma. Giáo Hội đối diện với ba thách đố lớn là Do thái giáo, chính trị Rôma và triết học Hy lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do thái giáo, hội nhập vào triết học Hylạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rôma. Chỉ với những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.
Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh Irênê đã nói: "Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng".
Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stêphanô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giêrusalem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm "Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu".
Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng.
Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam; sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc. Họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh. Những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong mọi biến cố đau thương, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa. Thế nhưng, những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, xa lộ thông tin, kỹ thuật số, toàn cầu hoá...Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ. Xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: "Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do".
Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa.
Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây?
Lời Chúa chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: "Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14, 26).
Khi được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.
Chúa Thánh Thần luôn bảo đảm cho sự nguyên vẹn của mạc khải. Ngài dẫn dắt Giáo Hội ngay giữa những kênh truyền thông mới mẻ của thế giới kỹ thuật số hôm nay. Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa.
Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh, thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet…đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo Hội hướng đến đại dương của “nền văn hóa mới” này.
Thư Chung HĐGMVN 2011 đưa ra định hướng: “Trong tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Việt Nam cần xác tín và sống đúng với căn tính của mình, củng cố sự hiệp thông, phát huy nhiệt tình truyền giáo, để chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Đức Kitô trên đất nước này”. (Số 9).
Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc HĐGMVN đã đưa ra bản “Nhận định một số tình hình tại Việt Nam hiện nay” vào ngày 15/5/2012. Bản Nhận Ðịnh đã lần lượt điểm qua tình hình trong các lãnh vực về nền kinh tế Việt Nam, luật đất đai, môi trường xã hội, pháp luật, chủ quyền quốc gia về biên cương và hải đảo, môi trường sinh thái, vai trò của trí thức, giáo dục và y tế, tôn giáo. Trong mỗi lãnh vực, có nhìn nhận những thành tựu, nhưng chủ yếu là vạch rõ, nhiều lúc bằng những ngôn từ mạnh, các mặt tiêu cực bệnh hoạn đang làm cho đất nước lâm nguy. Một điều có ý nghĩa là bản Nhận Ðịnh đề ngày “15 tháng 5 năm 2012, kỷ niệm 121 năm Thông Ðiệp Rerum Novarum”. Bức thông điệp của Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII được coi như mở đường cho các đường lối, chủ trương và hoạt động xã hội của người Công Giáo từ hơn một thế kỷ nay (Năm ngoái trong Giáo Hội đã có nhiều sinh hoạt để đánh dấu tròn 120 năm ngày công bố thông điệp này; dĩ nhiên Rerum Novarum còn được bổ túc và triển khai liên tục bởi các thông điệp khác sau này, cũng thường được công bố vào các ngày kỷ niệm 15/5, để cập nhật với những biến chuyển của xã hội). Như vậy là khi chọn ngày 15/5 để đưa ra bản Nhận Ðịnh, Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Ðồng Giám Mục đã có ngụ ý kêu gọi Dân Chúa dấn thân phục vụ xã hội ngay trong các lãnh vực mà xã hội chúng ta đang mắc phải những “căn bệnh trầm kha”. (Lm Vũ Khởi Phụng).
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả "nhảy mừng trong lòng mẹ". Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An -------------------------------
Chúa Giê-su sống lại, suốt 40 ngày Ngài hiện ra cho các môn đệ và nói về Nước Thiên Chúa, rồi Ngài được rước về Trời vào ngày thứ năm tại núi Cây Dầu (x Cv 1,3.9.12). Đúng 10 ngày sau, Ngài sai Thánh Thần đến với các môn đệ, như một luồng gió mạnh thổi vào nhà các ông đang hội họp, và dưới hình lưỡi lửa đậu trên đầu các ông. Hôm đó vào ngày Chúa nhật, đúng ngày Lễ Ngũ Tuần của người Do Thái (x Cv 2,1-4). Lễ Ngũ Tuần hay lễ Hiện Xuống là ngày dâng bó lúa đầu mùa, để nhớ đến cuộc vượt qua sông Gio-đan, các tư tế đã đưa Hòm Bia nhúng xuống sông, làm nước rẽ ra cho dân đi qua để chiếm miền đất Chúa hứa. Hôm đó là mùa gặt lúa mạch vào cuối tháng ba đầu tháng tư (x Gs 3,14-15). Lễ này nguyên thủy là Lễ Lều, lễ Tạ Ơn về mùa gặt, sau trở thành lễ Tưởng Niệm long trọng trong thời dân Do Thái đi trong sa mạc 40 năm tiến về miền đất Chúa hứa để lập quốc và xây dựng Đền Thờ kính Chúa.
Trong ngày Đại Lễ này, người Do Thái ở trong lều 7 ngày, lều này làm bằng cành chà là, để tưởng nhớ thời cha ông họ được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, tiến về miền đất Chúa hứa. Trong dịp lễ người Do Thái dâng của đầu mùa là những hoa trái họ thâu hoạch sau 50 ngày, để tạ ơn Chúa vì được thoát ách nô lệ, được lập quốc tại miền đất chảy sữa và mật (x Xh 3,8), và được Chúa chúc lành cho lao động của họ, hầu có của nuôi thân. Nói tóm lại, ba lễ: lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, lễ Lều đều là những Lễ Tạ Ơn:
- Lễ Vượt Qua: Tạ Ơn Chúa đã giải thoát giống dòng Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập (x Xh 13,17t).
- Lễ Ngũ Tuần: Tạ Ơn Chúa, vì nhờ Lời Chúa rẽ nước sông Gio-đan để dân chiếm được miền đất Hứa (x Gs 3).
- Lễ Lều: Tạ Ơn Chúa đã chúc lành cho công ăn việc làm của họ nhờ thi hành Lời Chúa (x Lv 23, 39-43).
Cuối cùng, người Do Thái lại liên kết ý nghĩa lễ Ngũ Tuần này với ân huệ Chúa ban Luật riêng cho dân Do Thái tại núi Sinai. Họ xác tín rằng: Tất cả những ân huệ Chúa ban cho dân để tạ ơn Chúa như thế, là vì họ tuân giữ Luật Chúa ban từ núi Sinai, nên đã được Ngài chúc phúc.
Vậy lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống làm ứng nghiệm ý nghĩa các lễ Lều Trại, lễ Ngũ Tuần, lễ Vượt Qua. Xưa kia Chúa ban Lời Ngài cho riêng dân Do Thái (x Xh 34); nay Chúa Thánh Thần đến ban cho bất cứ ai thuộc mọi dân tộc trên mặt đất biết nghe Lời giáo huấn của Hội Thánh do Chúa Thánh Thần hướng dẫn và soi sáng. Thực vậy:
Xưa Chúa ban Lời cho dân Do Thái ở núi Sinai (x Xh 34) ; nay Chúa ban Lời cho muôn dân từ thánh đô Giêrusalem, do Chúa Thánh Thần làm cho các Tông Đồ loan báo bằng nhiều thứ tiếng tùy theo Thánh Thần ban cho phát ngôn (x Cv 2), để ai nghe, hiểu và tin vào Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất (x Cv 4,12), thì họ được tái sinh làm con Chúa, trở nên của lễ đầu mùa dâng Chúa (x Gc 1,18). Thay thế cho hoa trái đầu mùa của người Do Thái dâng.
Xưa dân Do Thái được Chúa giải thoát khỏi nô lệ Ai Cập, suốt 40 năm họ lang thang trong sa mạc tiến về đất Chúa hứa, nếu họ không được hai bia Lời Chúa giúp họ thắng mọi địch thù, thì họ đã bị nhiều dân tiêu diệt dọc đường, và không thể tiến về đất Hứa để lập quốc; thua xa nay bất cứ dân tộc nào gia nhập Hội Thánh đến dự Lễ, thì được Hội Thánh dùng quyền năng Chúa Thánh Thần ghi tạc Lời, không phải trên hai tấm đá, mà là ghi trên những tấm bia lòng bia thịt (x 2Cr 3,3). Như thế, họ trở thành Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa, được Thánh Thần Chúa đến ngự (x 1Cr 3,16), và Ngài giúp họ vượt thắng mọi sự dữ, đánh gục thần chết, vì đã được tái sinh làm con Thiên Chúa. Đây là ơn huệ lớn lao Chúa chỉ ban riêng cho loài người. Bởi đó muôn loài thụ tạo rên siết quằn quại như sắp sinh nở mà không được. Tuy nhiên ơn cứu độ này vẫn còn trong hy vọng, vào ngày cánh chung Chúa mới thực hiện trọn vẹn, còn bây giờ ta cứ bền tâm đợi chờ. Trong những ngày ta đang trên đường tiến về miền đất Hứa là Quê Trời, mỗi khi ta tham dự Phụng Vụ, nhất là Thánh Lễ, là ta được Chúa Thánh Thần nâng đỡ ta là những kẻ yếu hèn, ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, thì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp hợp đúng ý Thiên Chúa (x Rm 8,227: Bài đọc II). Cho ta được thông hiệp cùng một sự sống của Chúa Giê-su Phục Sinh.
Chân lý trên ngôn sứ Ezekiel đã tiên báo vào thời Thiên Chúa ra tay cứu độ: “Một bãi tha ma đầy dẫy xương khô (sự chết), nhưng có Lời Thiên Chúa hô lên, các xương nhúc nhích xích lại nhau, mọc gân, mọc thịt, mọc da, và Chúa thổi sinh khí vào họ để được hồi sinh. Đó là cả một đạo quân lớn đông vô kể, bởi vì chính Chúa đã mở huyệt cho” (x Ed 37, 1-14: Bài đọc I).
Tất cả những giá trị trên đây, Chúa Giê-su sẽ sai Thánh Thần đến để thực hiện cho chúng ta trong ngày Lễ Ngũ Tuần (lễ Hiện Xuống), đúng như Lời Đức Giê-su nói: “Vào ngày bế mạc tuần lễ Lều (hay lễ Ngũ Tuần, lễ này đã đến ngày cáo chung, đây là ngày long trọng nhất), Đức Giê-su đứng giữa Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng: “Ai khát hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống, như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận” (Ga 7, 37-39a: Tin Mừng).
Thánh Hilario giải thích: “Người đón nhận được Thần Khí Chúa, thì mọi cơ năng linh hồn của họ được hoạt động hữu hiệu: Khi các bộ phận trong thân thể con người không còn được thúc đẩy để hoạt động nữa, thì chúng hóa ra vô ích: chẳng hạn nếu không có ánh sáng, thì mắt cũng vô dụng, cũng như nếu không có tiếng nói hay tiếng động vang lên, thì tai chẳng thi hành được chức năng ; nếu không có mùi hương ngào ngạt tỏa ra, thì mũi chẳng biết chức năng của mình là gì. Sở dĩ như vậy, không phải vì những bộ phận đó thiếu khả năng tự nhiên,nhưng vì không có các yếu tố bên ngoài kích thích, nên chúng không thi hành chức năng được.
“Linh hồn con người cũng thế: tuy có khả năng tự nhiên hiểu biết về Thiên Chúa, nhưng không có ánh sáng hiểu biết, thì linh hồn ra vô dụng, trừ khi được đón nhận hồng ân của Thánh Thần nhờ Đức Tin.
“Còn hồng ân trong Đức Giê-su thì hiển nhiên vẫn là một cho hết mọi người. Vì không nơi nào thiếu hồng ân đó, nên ai muốn lãnh nhận bao nhiêu thì được bấy nhiêu,và ai muốn được nên xứng đáng bao nhiêu, thì ơn đó ở lại nơi người đó bấy nhiêu, đúng như Lời Đức Giê-su nói: “Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. Hồng ân đó ở với chúng ta cho đến tận thế, là nguồn an ủi trong lúc chúng ta đợi chờ, là bảo đảm cho niềm hy vọng của chúng ta và cuộc sống mai hậu nhờ các hoạt động của ơn thiêng, là ánh sáng chiếu rọi tâm trí, là vẻ huy hoàng chiếu giãi trên các tâm hồn”.
Ta hãy cầu nguyện xin Chúa Giê-su: “Lạy Chúa xin gởi Thánh Thần tới và Ngài sẽ biến đổi mặt đất này” (Tv 104/103, 30: Đáp ca). Và còn phải cầu nguyện: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến, cho tâm hồn tín hữu được nhuần thấm muôn ơn, và cháy lửa yêu mến Ngài” (Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Anh em là bức thư của Đức Ki-tô do tay các Tông Đồ soạn ra, không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt. (2Cr 3,3)
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo hội mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Trong Ba Ngôi Thiên Chúa, có lẽ Chúa Thánh Thần là Đấng bị quên lãng hơn cả. Khi cầu nguyện, lời nguyện của hầu hết chúng ta là hướng về Chúa Cha, về Chúa Giêsu, về Đức Mẹ, hay về một vị thánh nào đó, chứ ít khi hướng về Chúa Thánh Thần. Và khi nói về Chúa Thánh Thần, chúng ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm sức (không biết những người đã lãnh nhận bí tích thêm sức còn nhớ hết 7 ơn của Chúa Thánh Thần là 7 ơn nào không nữa). Chúng ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì lớn đến đời sống chúng ta. Nhưng qua giáo lý, chúng ta được biết Chúa Thánh Thần là Ngôi Thứ Ba Thiên Chúa, ngài có vai trò quan trọng trong đời sống của Giáo hội, nhất là trong cuộc đời của mỗi Kitô hữu. Chính ngài là Đấng khai sinh Giáo hội, ngài là nguồn sức sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo hội, là năng lực đổi mới thế giới, không có Ngài thì sẽ không có đạo công giáo và giờ này chúng ta không ngồi đây. Tại sao lại như vậy?
So sánh tâm lý của các tông đồ trong bài Tin Mừng và trong bài đọc I mà chúng ta vừa nghe, ta thấy có sự biến đổi hết sức lạ lùng trong một thời gian hết sức ngắn: chỉ hơn một tháng. Sau khi Chúa Giêsu bị giết, các Tông đồ sợ hãi người Do Thái, sợ đến độ phải ở chung với nhau cho đỡ sợ, và phải đóng kín cửa lại. Thế mà ngay sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông trở nên hết sức dạn dĩ: dám công khai biểu lộ và làm chứng niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô và sự sống lại của Ngài, bất chấp bị bắt bớ, tù đày và cả cái chết lúc nào cũng sẵn sàng đến với các ông. Bị tù nhiều lần, nhưng lần nào cũng như lần nấy, vừa ở tù ra là các ông lại tiếp tục rao giảng Đức Kitô một cách công khai, không lén lút. Chính vì thế, hầu hết các tông đồ đã bị giết một cách thê thảm vì danh Đức Giêsu.
Tâm lý con người ai cũng ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ, ham giàu sợ nghèo, ham vinh sợ nhục. Nhưng tình yêu đối với Thiên Chúa và nhân loại, cùng với ơn biến đổi của Thánh Thần, đã làm các tông đồ vượt lên những nỗi sợ đó, để dám làm những gì lý tưởng và lương tâm mình đòi buộc, các ông đã dám tuyến bố trước mặt người do thái rằng: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.
Chúng ta đang sống trong một thế giới thật văn minh, nhưng cũng tràn đầy những khó khăn phức tạp trong cuộc sống. Muốn cho cuộc sống được thoải mái một chút, thì cả vợ chồng phải đi làm, nhiều khi không còn có giờ để lo cho con cái. Thêm vào đó là những đau khổ phiền muộn trong đời sống gia đình. Nhìn thấy bao nhiêu vấn đề tuổi trẻ đang gặp phải tại nhà trường, nơi bạn bè, nhưng lại không có khả năng và sức lực để giúp đỡ họ. Đối với tuổi trẻ, hằng ngày họ phải đối diện với biết bao nhiêu những cám dỗ, những áp lực của bạn bè. Hơn thế nữa, là Kitô hữu, hằng ngày chúng ta còn cầm chu toàn bổn phận đối với Chúa, để mỗi ngày tiến hơn lên trong tình yêu mến Chúa.
Nhưng làm sao có đủ sự khôn ngoan và sức mạnh để lướt thắng những khó khăn gặp trong đời sống thường ngày. Cũng như các Tông đồ xưa khi chưa được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ngài sống âu lo sợ sệt. Nhưng sau khi lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, được sự bình an Chúa ban, các ngài đã tìm được sức mạnh để chu toàn sứ mạng Chúa trao cho các ngài. Là những Kitô hữu sống trong ơn thánh, chúng ta cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, và Người vẫn luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta. Người vẫn hằng phù trợ, ban ơn, giúp sức cho chúng ta. Ai trong chúng ta lại không một lần được cảm nghiệm ơn phù trợ của Người khi được ơn soi sáng để làm một quyết định quan trọng, để giải quyết một vấn đề khó khăn, hay để làm một việc lành. Chúa Thánh Thần vẫn hằng hoạt động trong ta, điều quan trọng là chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Người không.
Hôm nay Thánh Thần của đấng Phục Sinh đã đến. Ngài mở ra cho các môn đệ chân trời của cuộc sống mới, khiến các ông phải mở tung cánh cửa đang khép kín. Nguyện xin Ngài, cũng ban cho chúng ta ơn can đảm để vượt ra ngoài những sợ hãi nghi nan: sợ tha nhân đến làm phiền, nhờ vả; sợ mất thời gian; sợ phải đổi mới theo đúng tinh thần của phúc âm. Nguyện xin Ngài ban cho chúng ta sự bình an để có thể nở nụ cười, có thể giang tay nối kết với mọi người trong yêu thương chân thành, trong tha thứ và bao dung. Nguyện xin làn gió và ánh lửa của Thánh Thần thanh tẩy con người chúng ta nên khí cụ gieo giắc tin mừng yêu thương và ơn bình an của Chúa đến muôn tâm hồn và đến tận cùng thế giới. Amen.
Lm. Phaolô Nguyễn Nguyên -------------------------------
Trong mỗi dịp sinh nhật, người ta thường đặt những ngọn nến tượng chưng cho mỗi năm tháng cuộc đời. Bên ánh nến lung linh huyền bí, người ta trao gởi những ước nguyện, những ưu tư trăn trở sâu thẳm nhất của cõi lòng mình. Có lần tôi hỏi một em bé mừng sinh nhật rằng: “Em ước điều gì trong ngày sinh nhật của em?”. Em trả lời: “Em ước mơ cha mẹ tha thứ cho nhau và về chung sống trong một mái ấm gia đình”.
Một điều ước thật bình dị và cũng thật thiết thực. Cha mẹ em đã ly dị. Họ không còn yêu thương nhau. Họ chia tay nhau cũng đồng nghĩa chiếc nôi êm ấm của gia đình đã tan nát. Thế nên, em mong ước cho cha mẹ đoàn tụ để xây dựng lại mái ấm gia đình đã đổ vỡ. Một mái ấm đã từng rộn rã tiếng cười và đầy ắp yêu thương mà nay không còn nữa. Một mái ấm mà “ai đi xa” cũng nhớ về mà nay chỉ còn sự tiếc nuối xót xa, vì chồng một nơi, vợ một nơi!
Hôm nay là ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống cũng là ngày khai sinh của Giáo hội. Giáo hội mừng sinh nhật thứ 2012 của mình. Chúng ta ước mơ điều gì? Giáo hội còn những ưu tư, trăn trở nào mà bao nhiêu năm nay vẫn chưa hoàn thành ước nguyện? Phải chăng đó là sự hiệp nhất nên một trong Chúa? Phải chăng đó là bầu khí yêu thương mà sách Tông đồ công vụ đã từng diễn tả: “Họ đồng tâm nhất trí với nhau. Họ coi mọi sự là của chung. Họ cử hành Thánh Thể với việc chia sẻ cơm bánh với nhau để không ai phải thiếu thốn”(Cv 2, 42 – 46).
Thực vậy, hơn 2000 năm đã qua rồi, nỗi niềm khao khát quy tụ thành một đoàn chiên duy nhất của Thầy Chí Thánh Giê-su vẫn còn đó! Ngài khao khát cho ngọn lửa của yêu thương được bùng cháy mọi nơi, được lan toả đến mọi nhà và sưởi ấm mọi con tim đang giá băng! Thế mà lửa yêu thương vẫn còn nguội lạnh nơi nhiều gia đình, nhiều cộng đoàn và xứ đạo!
Hơn hai ngàn năm đã qua, thế mà ngọn lửa hiệp nhất và yêu thương của Chúa Thánh Thần trong ngày lễ ngũ tuần vẫn còn loe loét giữa thế giới mênh mông này. Đức Ky-tô đã bị “chia năm xẻ bảy” bởi Công giáo – Chính Thống – Tin Lành – Anh Giáo. Niềm tin con một Cha trên trời cũng bị phân tán bởi Do Thái Giáo – Hồi giáo và Công Giáo . . . Đây cũng là nỗi niềm khát khao của Đức Thánh Cha Bê-nê-dic-tô khi mà Ngài đặt chân đến những vùng đất được coi là cấm địa của Hồi giáo, của Do Thái giáo. Ngài đang cùng với Thánh Thần đến để tìm lại tiếng nói chung, để xây dựng lại tình hiệp nhất của những người con Một Cha trên trời. Ngài đang thực hiện lại những bước chân hào hùng của các tông đồ khi đầy tràn Chúa Thánh Thần năm xưa. Khi được đón nhận Chúa Thánh Thần, các ngài đã tháo cởi những ràng buộc trong căn phòng đóng kín. Các ngài đi đến với muôn dân. Các ngài dùng ngôn ngữ của Thánh Thần nên ai cũng hiểu. Ai cũng cảm thấy sự gần gũi của Giáo hội. Một ngôn ngữ của tình yêu. Một ngôn ngữ tạo nên sự hiệp nhất thay cho sự chia ly thời Babel năm xưa.
Vâng, Thánh Thần của Đấng Phục sinh đã đến. Ngài đã mở ra cho các môn đệ chân trời mới của cuộc sống, khiến các ông phải mở tung cánh cửa đang khép kín mà đến với muôn dân, mà thổi vào lòng nhân thế tình yêu và sức sống của Chúa. Ngọn gió Thánh Thần đó vẫn tiếp tục mang lại sự đổi mới cho con người hôm nay nếu chúng ta biết mở lòng ra cho ơn Chúa tác động, nếu chúng ta dám quên đi cái tôi của mình để Chúa Thánh Thần hoạt động trong chính cuộc đời chúng ta và biến chúng ta thành sứ giả của yêu thương, của hiệp nhất và bình an.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy ngự đến trong tâm hồn chúng con và nhóm lên ngọn lửa tình yêu Chúa trong lòng chúng con, để chúng ra đi xây dựng tình hiệp nhất và yêu thương cho con người hôm nay. Amen
Trong bài Tin Mừng Ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay, Chúa Giêsu thổi hơi và ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ: “Chúa thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).
Cộng đoàn phụng vụ chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Đạo Công Giáo chúng ta không phải là Đạo chỉ thờ Một Chúa. Đạo Công Giáo chúng ta, chính là Đạo thờ Một Chúa Ba Ngôi: Ngôi Thứ Nhứt là Cha, Ngôi Thứ Hai là Con, Ngôi Thứ Ba là Thánh Thần. Cũng như Ngôi Cha và Ngôi Con, Ngôi Ba Thánh Thần là Thiên Chúa quyền phép vô cùng, hằng có đời đời, ở khắp mọi nơi và thông biết mọi sự.
Khi còn sống trên trần gian nầy, Chúa Giêsu nói cho các tông đồ biết trước một ngày kia, Ngài sẽ không còn ở với họ nữa, nhưng chính Chúa Thánh Thần sẽ thay mặt Ngài, đến ở với họ để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của ngài: “Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16,7) / “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,12-13).
Khi nói với các tông đồ: Nếu Thầy không ra đi thì Chúa Thánh Thần không đến, Chúa Giêsu xem sự đến của Chúa Thánh Thần có giá trị ngang hàng với sự ra đi chịu chết cứu chuộc của Ngài.
Để cho được Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, Chúa Giêsu đã phải trả giá bằng sự tử nạn của mình, bằng ngày Thứ Sáu Tử Nạn của mình. Vì thế, mỗi lần nhìn lên Thánh Giá, Giáo Hội biết rằng đó là giá Chúa Giêsu đã phải trả để mua lấy Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội để Chúa Thánh Thần luôn ở với Giáo Hội cho đến ngày tận thế, hầu soi sáng, an ủi, bảo vệ và ban sức mạnh cho đoàn con của Chúa trong Giáo Hội .
Tác động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội thật kỳ diệu! Chính Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội do Chúa Giêsu lập ra, được sống, được hoạt động, được phát triển, được an toàn. Không lạ gì khi các Giáo Phụ gọi Chúa Thánh Thần là “linh hồn của Giáo Hội”.
Khi chúng ta thấy Chúa Thánh Thần thực hiện được những điều kỳ lạ nơi các tông đồ, chúng ta có thể nói rằng: điều gì Chúa Giêsu chưa làm được, Chúa Thánh Thần làm được khi hiện xuống; việc nào Chúa Giêsu xem ra thất bại, Chúa Thánh Thần khi hiện xuống, làm thành công; nơi nào Chúa Giêsu xem ra không gặt hái được kết quả, nơi đó, khi hiện xuống, Chúa Thánh Thần tỏ ra kiến hiệu.
Chúng ta hãy xem: dù hết sức lo lắng dạy dỗ các tông đồ ba năm, Chúa Giêsu vẫn không làm cho họ hiểu được những gì Ngài muốn họ hiểu: Ngài muốn họ hiểu những điều siêu nhiên, họ lại chỉ hiểu những điều tự nhiên; Ngài muốn họ uống chén đắng với Ngài, họ không chấp nhận; Ngài muốn họ vác thập giá với Ngài, họ từ chối... Nhưng lạ thay, khi Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, họ hiểu được rõ ràng và đầy đủ tất cả những gì Chúa Giêsu đã dạy họ bấy lâu nay, mà họ không hiểu; họ trình bày giáo lý của Thầy mình một cách trung thực; họ giảng dạy Lời Chúa một cách chính xác và hiệu nghiệm. Ngay trong bài giảng đầu tiên, dưới sự hướng dẫn và soi sáng của Chúa Thánh Thần, thánh Phêrô đã sốt sắng và chững chạc trình bày Lời Chúa, làm cho nhiều ngàn người nghe - những người mà cách đây hơn một tháng, đã từng hò reo trước dinh Philatô: “Hãy tha Baraba ! Hãy đóng đinh Giêsu vào thập giá!” - được ơn ăn năn trở lại với Chúa Giêsu ngay lập tức: “Những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (CV 2,41).
Chúng ta hãy xem: Dù là Con Thiên Chúa toàn năng, làm được mọi sự, làm cho bão táp lặng im, làm cho kẻ chết sống lại, Chúa Giêsu vẫn không cải hóa được những tông đồ bồng bột, ích kỷ, nhát đảm, sợ sệt. Biết Thầy mình đã sống lại thật rồi, nhưng mỗi lần họp nhau, họ vẫn đóng của gài then vì sợ. Nhưng khi Chúa Thánh Thần vừa hiện xuống, các tông đồ thực hiện một cách mạnh mẽ lời Thầy mình đã dạy xưa: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10,27).
Khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ không còn im lặng nữa. Dù bị cấm nói về Thầy, họ vẫn mạnh dạn rao giảng: “Họ cho gọi hai ông vào và tuyệt đối cấm hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giêsu nữa. Hai ông Phêrô và Gioan đáp lại: "Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không? Các ông thử xét xem! Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra" (4,18-20).
Khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ nhảy mừng sung sướng mỗi khi vì Thầy mà bị vu cáo, đánh đập, tù đày: “Họ cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,40-41).
Với Chúa Thánh Thần, Giáo Hội trường tồn một cách lạ lùng trong hai ngàn năm qua, và còn trường tồn một cách lạ lùng hơn nữa cho đến tận thế. Vì thế, Giáo Hội Lữ Hành, Giáo Hội Tại Thế, Giáo Hội Giao Chinh luôn luôn sốt sắng cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần đến: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!”
Bắt chước Giáo Hội là Mẹ chúng ta, chúng ta hãy luôn luôn sốt sắng cầu xin Chúa Thánh Thần đến.
Xin Chúa Thánh Thần đến để đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng ta, vì lòng chúng ta lạnh lẽo âm u, đầy những tính ích kỷ, tự ái, ghen tị, hờn giận, báo thù, xua đuổi, chứ chưa có lòng yêu mến Chúa thật nồng nàn, chưa có lòng yêu tha nhân thật chân thành, đại độ và cao thượng.
Xin Chúa Thánh Thần đến để sửa lại mọi sự trong ngoài chúng ta, vì bên trong chúng ta thì nhiều khi lệch lạc, gian dối, quanh co, còn bên ngoài chúng ta thì nhiều khi thiếu ngay chính, thiếu thẳng thắn, thiếu trong sáng, ngay cả trong những việc lành của mình.
Xin Chúa Thánh Thần đến để an ủi chúng ta làm những việc lành, vì con người xác thịt của chúng ta thì tự nhiên biếng nhác, không muốn siêng năng làm các việc lành phước đức, chỉ muốn làm những việc dễ dãi, những việc có lợi lộc vật chất, những việc tội lỗi do bảy mối tội đầu điều khiển.
Đặc biệt, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến để ban Bảy Ơn Đặc Biệt của Ngài cho chúng ta sống đạo đẹp lòng Chúa:Ơn Khôn ngoan, để dạy chúng ta biết những gì vật chất trần gian nầy chỉ là phù vân chóng qua, duy Chúa mới là gia nghiệp đời đời của chúng ta, là hạnh phúc trên hết của chúng ta; Ơn Hiểu Biết, để giúp chúng ta hiểu biết Đạo mình là chân thật và giúp chúng ta hiểu biết giáo lý của Đạo mình; Ơn Thông Minh, để giúp chúng ta học biết đạo lý của Chúa một cách thông suốt và dễ dàng; Ơn Dạy Bảo, để giúp chúng ta giải quyết được những điều khó khăn bối rối trong cuộc sống của mình; Ơn Mạnh Mẽ, để chúng ta chịu đựng được tất cả mọi sự khó khăn trên đời nầy vì lòng yêu mến Chúa; Ơn Đạo Đức, để giúp chúng ta sốt sắng thờ phượng Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa một cách trọn lành; Ơn Kính Sợ, để giúp chúng ta không dám cố ý phạm một điều gì làm mất lòng Chúa.
Mỗi sáng khi bắt đầu một ngày sống, chúng ta hãy có thói quen đạo đức cầu nguyện với Chúa Thánh Thần bằng cách đọc 7 kinh Sáng Danh, xin Chúa Thánh Thần ban Bảy Ơn để được sống một ngày đẹp lòng Chúa.
Mỗi tối trước khi nhắm mắt ngủ để kết thúc một ngày sống, chúng ta hãy có thói quen đạo đức cầu nguyện với Chúa Thánh Thần bằng cách đọc 7 kinh Sáng Danh, xin Chúa Thánh Thần ban Bảy Ơn cho mình sống thêm một đêm đẹp lòng Chúa.
Và trước khi làm bất cứ một công việc gì, chúng ta hãy luôn lặp lại lời cầu nguyện hết sức quan trọng của Giáo Hội: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!”
Sau khi tạo dựng vũ trụ càn khôn cùng muôn vật diệu kỳ trong hoàn vũ, Thiên Chúa vẫn chưa hài lòng với tác phẩm của mình. Người muốn sáng tạo thêm một kiệt tác trổi vượt tất cả những gì Người đã dựng nên.
Thế là Ba Ngôi Thiên Chúa quyết định tạo dựng con người: “Chúng ta hãy sáng tạo con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để chúng làm chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1, 26)
Thiên Chúa lấy bùn đất, nắn thành hình một con người, nhưng hình tượng nầy vẫn còn trơ trơ bất động, vô cảm, vô tri …
Thế rồi Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi của hình tượng nầy và điều kỳ diệu đã xảy ra: khối đất vô hồn mang hình dạng con người đang nằm im lìm bất động bỗng cựa mình đứng lên trở thành người sống: có tư duy, có tình cảm, có tự do, có óc sáng tạo… mang đậm dấu ấn và bản sắc của Thiên Chúa. Thế là Thiên Chúa đã hoàn thành kiệt tác Ađam là nguyên tổ của loài người.
Con người cũ bị băng hoại vì tội lỗi
Nhưng tiếc thay, tội lỗi đã thấm nhập vào thế gian làm băng hoại con người. Kiệt tác của Thiên Chúa đã bị biến chất thảm hại nên Thiên Chúa phải theo đuổi một kế hoạch tạo dựng mới.
Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người khởi đầu công cuộc nầy. Người quy tụ những môn đệ đầu tiên, và dùng những vị nầy làm nhân tố phát sinh một dân mới.
Nhưng sau khi Chúa Giê-su sống lại và lên trời, các môn đệ cảm thấy lạc lõng bơ vơ như đoàn chiên không chủ, như rắn mất đầu. Các ngài sống âm thầm, im hơi lặng tiếng, co cụm trong phòng đóng kín vì sợ người Do-Thái, tựa như Ađam lúc chưa được hơi thở của Thiên Chúa thổi vào. (Ga 20,19)
Con người mới được tác sinh.
Thế rồi “vào chiều ngày hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái, Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!" Và như thuở ban đầu Thiên Chúa thổi hơi vào mũi A-đam để ban cho ông sự sống, thì nay Chúa Giê-su “thổi hơi vào các môn đệ và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”(Gioan 20,19. 22)
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh (bằng tiếng Do-thái cổ), Chúa Thánh Thần được gọi là Ru-ah, nghĩa là Hơi Thở hay Thần Khí.
Thổi hơi vào các môn đệ có nghĩa là Chúa Giê-su truyền ban Thần Khí (= Chúa Thánh Thần) cho các ông.
Như hôm xưa Ađam vươn vai chỗi dậy sau khi đón nhận hơi thở của Thiên Chúa, các môn đệ một khi đã lãnh nhận Hơi Thở ban Thần Khí của Chúa Giê-su cũng được tái sinh, cựa mình chỗi dậy, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như mộ địa giam nhốt mình để đi đến với muôn dân, loan truyền Tin Mừng cứu độ cho toàn thế giới, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống vì Nước Trời...
Thế là nhân loại mới đã được tác sinh từ biến cố trọng đại nầy, khởi từ ngày hôm ấy.
Lạy Chúa Giê-su,
Nếu không có làn hơi của Thiên Chúa thổi vào, A-đam chỉ là một khối đất vô tri bất động và không hề có sự sống.
Nếu không được Chúa thổi hơi ban Thần Khí, các tông đồ xưa cũng chỉ là một nhóm người bạc nhược, ươn hèn.
Và hôm nay, nếu không được đón nhận Thần Khí Chúa ban, chúng con cũng chỉ là những kitô hữu nguội lạnh, thiếu nhiệt thành và luôn đứng bên lề Hội Thánh.
Nguyện xin Chúa thổi hơi ban Thần Khí cho chúng con như đã ban cho các môn đệ năm xưa, để chúng con được đón nhận Sự Sống Mới và kiên quyết lên đường thi hành sứ mạng loan Tin Mừng cho muôn dân.
Sau khi Chúa về trời, một biến cố vô cùng ngoạn mục đã diễn ra và ảnh hưởng tới toàn thể Giáo Hội. Những ngày quây quần bên Mẹ Maria, các tông đồ cầu nguyện đón chờ điều Chúa hứa. Khi Thánh Linh hiện xuống, “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho, mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:4.11) Một cộng đoàn truyền thông đã ra đời !
Giờ đây, chúng ta thử nhìn lại bản chất, cứu cánh, sứ vụ và những phương tiện truyền thông đang thịnh hành ngày nay. Ðã đến lúc cần phải làm cho linh hồn của truyền thông sống lại. Ai có thể thổi Thần Khí vào truyền thông, nếu không phải là Ðức Kitô ? Tại sao ? Câu trả lời có thể tìm thấy trong ngày Chúa ban Thần Khí cho cộng đoàn Tông đồ và Giáo Hội.
NGÔN NGỮ TÌNH YÊU
Lễ Hiện Xuống đúng vào ngày lễ Ngũ Tuần. Trong lịch sử Do thái, Lễ Ngũ Tuần nguyên là một lễ hội của nhà nông. Nhưng vào thời cuối cùng của Cựu Ước, Lễ Ngũ Tuần biến thành lễ kỷ niệm ông Môsê nhận Mười Ðiều Răn trên núi Sinai. Ðây là một trong các lễ lớn nhất, quy tụ nhiều người Do thái từ các xứ thuộc vùng Ðịa Trung Hải về hành hương Giêrusalem. “Chính trong ngày tưởng niệm Thiên Chúa ban lề luật trên núi Xinai, ngày Thiên Chúa ký kết Giao Ước với dân Israel, mà hôm nay Thiên Chúa ban Thần Khí của Người cho ‘Israel của Thiên Chúa,’ (Gl 6:16), nghĩa là Hội Thánh.”[1]
Khi nhận được “Thần Khí Sự Thật,” (Ga 14:17) cộng đoàn tông đồ được giải thoát khỏi sự sợ hãi và hoàn toàn bình an như Chúa Phục Sinh đã hứa (x. Ga 20:19, 21). “Thần Khí Sự Thật” không ngự đến, rồi nằm im bất động. Trái lại, Người sẽ dùng các ngài như một khí cụ đem lại ơn tha thứ và giải thoát cho nhân loại. “Khả năng tha thứ là sức mạnh duy nhất có thể giải quyết hết những mối căng thẳng trong thế giới loài người. Cho dù trái tim chúng ta không dễ dàng vươn tới độ lượng tha thứ, nhưng thái độ dung thứ là bí quyết vô cùng quý giá mà Giáo Hội phải xem là tài sản độc đáo của mình.”[2]
Sự tha thứ nhằm giải thoát con người khỏi chính thân phận yếu đuối và dễ lầm lạc của mình. Nhưng nếu không được “Thần Khí Sự Thật” giải thoát trước, làm sao Giáo Hội có thể giải thoát nhân loại ? Bởi đó, trước tiên cần phải tràn đầy “Thần Khí Sự Thật,” Giáo hội mới có thể thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó trước khi về trời (x. Mt 28:19-20).
Ở đây không bàn đến bí tích giải tội dành cho các thừa tác viên, nhưng chỉ muốn đề cập đến sức mạnh giải thoát của Giáo Hội nói chung trong công cuộc cứu độ nhân loại mà thôi. Dù thuộc bất cứ Giáo Hội nào, một khi đón nhận được “Thần Khí Sự Thật,” ai cũng có thể đem Tin Mừng giải thoát đến cho nhân loại. Ðó là điều cần thiết để thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian, nơi các thần dữ đang hoành hành và giam hãm con người. Nếu không được giải thoát, làm sao con người có thể hưởng “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17) ?
Bởi vậy, ngày “Thần Khí Sự Thật” hiện xuống, tất cả Giáo hội vô cùng hân hoan. Các môn đệ Chúa Kitô biến thành khí cụ đem bình an của Chúa đến toàn thể nhân loại. Chúa ban cho họ khả năng đặc biệt để rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc mọi nền văn hóa và dân tộc. Thật vậy, khi nghe các tông đồ giảng, “ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình.” (Cv 2:6) Tin Mừng đã trở thành tiếng nói chung của toàn thể nhân loại. Bởi thế, “những người được kêu gọi đón nhận đức tin không bị buộc phải từ bỏ ngôn ngữ hay văn hóa của mình để gia nhập Hội Thánh, như các tân tòng Do thái giáo. Trái lại, Thiên Chúa muốn được tôn vinh và chúc tụng bằng mọi thứ ngôn ngữ, mọi nền văn hóa. Như thế mới hiển thị rõ nét sự đa dạng đa năng giữa các chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô (1 Cr 12:12-13) cũng như hiển thị rõ nét công trình của Chúa Giêsu và Thần Khí của Người là quy tụ về một mối những con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi.”[3] Nói khác, Giáo Hội duy nhất nhưng vẫn có những khác biệt. Ðó là công trình kỳ diệu của Thiên Chúa.
Chính vì thế, Giáo hội không sợ sự thật đến từ bất cứ nơi đâu. Khi được gieo tới nền văn hóa nào, hạt giống Tin Mừng luôn gặp những mảnh đất màu mỡ. Dĩ nhiên cũng không thiếu những gai góc và sỏi đá, nhưng không phải vì Tin Mừng xa lạ với các dân tộc. Tin Mừng là ngôn ngữ của tình yêu. Một khi đã đón nhận được Tin Mừng giải thoát, họ sẽ nhận ra sự thật và không sợ phải đối đầu với những lực lượng thần ác đang rắc gieo kinh hãi khắp nơi.
THẦN CHÂN LÝ
Giữa thế giới đang khủng hoảng về tình yêu, con người cần lắng nghe ngôn ngữ sự thật và tình yêu, đó là Tin Mừng. Chỉ có thứ ngôn ngữ này mới có thể quy tụ mọi người và mở ra một hướng giải thoát đích thực cho nhân loại.
Muốn có ích cho nhân loại, truyền thông hôm nay cũng cần đi theo đường hướng đó. Quả thực, trong Ngày Truyền Thông Thế Giới năm nay, ÐGH Bênêđictô XVI nói, sứ mệnh của truyền thông là “Tìm kiếm Sự Thật để Chia sẻ với Người khác. Chủ đề này cho thấy rõ vai trò của truyền thông trong đời sống cá nhân và xã hội.” [4] Nhưng thực tế, truyền thông có tìm kiếm Sự Thật để phục vụ nhu cầu đích thực của con người không ?
Nếu cứ ồn ào chạy theo thị hiếu và lợi nhuận, truyền thông sẽ đánh mất mục tiêu và trở thành một phương tiện phá hoại cuộc sống con người và xã hội. “Thật thế, nói chung, truyền thông không những là những phương tiện quảng bá tư tưởng, nhưng có thể và nên là những phương tiện phục vụ cho một thế giới công bình và liên đới hơn. Tiếc thay, truyền thông đang có nguy cơ biến thành các hệ thống nhằm bắt nhân loại phải làm những việc do những sở thích ngày nay áp chế. Hiện tại người ta đang xử dụng truyền thông cho những mục tiêu ý thức hệ hay để quảng các các sản phẩm tiêu thụ.”[5] Chính vì thế, nhiều quyền lợi chính đáng và cần thiết cho cuộc sống bị lãng quên và sự rạn nứt giữa cộng đồng nhân loại ngày càng mở rộng.
Ðể cứu vãn tình thế, trước hết nên nhớ “tin tức do truyền thông cung cấp phải phục vụ công ích. Xã hội có quyền đòi hỏi tin tức dựa trên sự thật, tự do, công lý và liên đới.”[6] Xem thế, muốn có khả năng làm truyền thông, ngoài phần kỹ thuật, các nhà chuyên môn cần phải có lương tâm và trách nhiệm. Càng chạy theo lợi nhuận hay theo các khuynh hướng xã hội, càng lạc xa chân lý. Không thể nào nói sự thật dưới một cơ chế đàn áp nhân quyền. Khi hoàn toàn nằm trong tay tài phiệt hay độc tài, các phương tiện truyền thông có thể loan truyền sự thật trái với quyền lợi của họ được không ? Kết quả con người lâm vào tình trạng ấu trĩ và xã hội không thể phát triển. “Vấn đề chủ yếu là xem hệ thống thông tin hiện thời có góp phần thăng tiến con người không. Nghĩa là, liệu hệ thống đó có làm cho dân chúng trưởng thành về tinh thần, ý thức hơn về nhân phẩm, trách nhiệm hay cởi mở hơn với tha nhân, đặc biệt với những người nghèo đói và yếu kém nhất không ?”[7] Như thế, rõ ràng con người phải là đối tượng cho truyền thông phục vụ. Nếu gạt con người sang một bên, tất cả cơ chế và phương tiện đều trở thành vô nghĩa và vô ích.
Nơi đâu có con người, truyền thông đều có mặt. “Thực vậy, không có một lãnh vực nào trong đời sống con người, nhất là giữa hiện tượng toàn cầu hóa rộng lớn hôm nay, mà truyền thông không góp phần làm hoàn hảo các mối liên hệ giữa con người và tăng triển các lãnh vực xã hội, kinh tế, chính trị và tôn giáo. Ðặc biệt, vì có tiềm năng giáo dục, các phương tiện truyền thông xã hội có một trách nhiệm đặc biệt trong việc cổ võ lòng tôn trọng gia đình, làm sáng tỏ các ước vọng và quyền lợi, và trình bày tất cả nét đẹp của gia đình.”[8] Phạm vi phục vụ của truyền thông thật rộng lớn.
Như Chúa Kitô, những người làm truyền thông được sai đi để “phục vụ con người và công ích, đào tạo tinh thần con người … tăng trưởng nội tâm con người. Phải nhìn nhận tầm ảnh hưởng của truyền thông trên đời sống cá nhân và xã hội. Hiện nay, càng ngày không những truyền thông hình như đòi diễn tả thực tại, nhưng còn đòi quyết định về thực tại đó, vì có khả năng đề xuất ý kiến. Ví dụ, rõ ràng trong một vài hoàn cảnh, truyền thông được xử dụng không phải để loan truyền tin tức, nhưng để ‘tạo ra’ các biến cố.”[9] Làm sao có thể tin tưởng giới truyền thông vô trách nhiệm như vậy? Truyền thông đã không đóng đúng vai trò, vì quá lệ thuộc vào những lợi nhuận hay bị kềm kẹp trong chế độ độc tài. Khi không dám nói lên sự thật, truyền thông đã đánh mất linh hồn.
“Trong thế giới truyền thông, những khó khăn nội tại của truyền thông thường bị tồi tệ thêm vì ý thức hệ, lòng ham lợi nhuận và kiểm soát chính trị, sự cạnh tranh và xung đột giữa các phe nhóm, và những tai hại về mặt xã hội khác. Các giá trị và các nguyên tắc đạo đức cũng phải áp dụng vào các phương tiện truyền thông. Một nguyên tắc đạo đức căn bản luôn áp dụng trong cả ba lãnh vực truyền thông (sứ điệp, phương pháp và cấu trúc): cá nhân và cộng đoàn con ngươi là cứu cánh và tiêu chuẩn đánh giá việc xử dụng truyền thông. Nguyên tắc thứ hai bổ túc cho nguyên tắc thứ nhất: lợi ích của con người không thể đạt được nếu tách rời khỏi công ích của cộng đoàn họ đang sống.”[10] Khi công ích không được nhắm tới, chắc chắn truyền thông chỉ còn là công cụ để đàn áp con người và bảo vệ chế độ mà thôi.
Truyền thông đang cố sức bịt mắt, bịt tai người dân trước những vấn đề liên quan tới vận mệnh đất nước, như vụ Trường Sa, Hoàng Sa v.v. Thay vì giải thoát, truyền thông cố tình giam hãm con người trong sự sợ hãi và u mê. Kết quả cuộc sống ngày càng ngộp thở. Căng thẳng đủ mặt, nhất là về kinh tế, chính trị, giáo dục, tôn giáo v.v. Hiện nay, qua những phương tiện truyền thông, nhiều người hô hào quên đi những chuyện chính trị để hòa hợp và hòa giải dân tộc. Nhưng chính khi hô hào quên những chuyện chính trị cũng là một lựa chọn chính trị rồi.
Muốn phá vỡ vòng luẩn quẩn ấy, truyền thông cần phải có một thái độ trung thực và tìm lại cho mình một linh hồn. Linh hồn ấy các nhà truyền thông có thể tìm thấy, khi nhìn vào cộng đoàn truyền thông Chúa đã thiết lập trong ngày lễ Ngũ Tuần. Từ đó, họ có thể rút ra những bài học cần thiết cho sứ mệnh đặc biệt của mình giữa cộng đồng nhân loại và dân tộc.
SỨ MỆNH PHỤC SINH
Sau khi Chúa chịu khổ hình, cộng đoàn Tông đồ tan tác. Dù có tụ hội một nơi, tinh thần các ông cũng chưa ổn định và còn đầy sợ hãi (x.Ga 20:19). Sinh khí đã lụn bại. Tinh thần đã chết. Bởi thế, sau khi phục sinh, Chúa đã tìm mọi cách để phục hồi tinh thần của các tông đồ để họ rao truyền sứ điệp Tin Mừng cho muôn dân. Ðó là một cộng đoàn truyền thông đầu tiên Chúa thiết lập để chinh phục các linh hồn.
Ðể có thể lên đường thi hành nhiệm vụ truyền thông Tin Mừng khắp nơi, trước tiên họ cần phải tìm lại được sự bình an trong tâm hồn và xác tín về nội dung Tin Mừng. Bởi đó, sau phục sinh, lần nào hiện ra với các tông đồ, Chúa cũng cầu chúc: “Bình an cho anh em !” (Ga 20:19, 21) Khi đã thắng vượt được sự sợ hãi và xác tín sự kiện Chúa Phục sinh, họ mới có thể đón nhận Thần Khí và sứ mệnh giải thoát nhân loại (x. Ga 20: 19-22). Họ đã hoàn thành sứ mệnh và để lại một mẫu gương truyền thông tuyệt vời cho hậu thế.
Quả thực, muốn thi hành sứ mệnh của mình, truyền thông cũng cần thắng vượt sự sợ hãi và phải xác tín về vai trò của mình giữa nhân loại. Bao lâu còn bị kìm kẹp, truyền thông không thể nói lên điều trung thực. Nếu chỉ là cái loa phóng thanh, truyền thông không có nghĩa gì cả. Truyền thông luôn mang tính con người, chứ không chỉ là bộ máy vô hồn hay chỉ là phương tiện thuần túy. Nếu chỉ là phương tiện, truyền thông dễ biến thành công cụ đàn áp và phá hoại.
Không còn gì phi lý và trơ trẽn hơn loại truyền thông vô hồn như thế. Một sư kiện điển hình vừa xảy ra tại Việt Nam. “Công việc đưa tin buổi lễ rước đuốc Olympics Bắc Kinh tại Sài Gòn ngày 29 tháng Tư vừa qua là một ví dụ về sự kiểm soát báo chí Việt Nam. Gần như không một tờ báo nào của Việt Nam đưa tin về việc rước đuốc. Rồi bỗng nhiên, đến ngày 29 tháng Tư, tất cả các báo cùng đưa tin, với nội dung và mức độ gần như giống hệt nhau. Cũng trong ngày hôm đó, tại Hà Nội, một số người Việt Nam tổ chức biểu tình chống Trung Quốc. Họ bị bắt, bị đánh đập, nhưng không hề thấy báo chí lên tiếng.”[11] Truyền thông như thế còn có nghĩa gì không? Sứ mệnh truyền thông là gì trong chế độ độc tài đảng trị? Truyền thông chỉ còn là công cụ đàn áp chứ không thể giải thoát con người. Truyền thông không phải là tiếng nói của con người nữa!
Ðiểm chung của các nhà độc tài là tìm mọi cách ngăn cản người dân tiếp xúc với những nguồn thông tin khác nhau. Càng bưng bít tin tức, chế độ càng bền vững.
“Tổ chức Freedom House vừa công bố bản phúc trình thường niên về tự do báo chí trên toàn thế giới năm 2007. Nhận định chung là mức độ tự do báo chí toàn cầu giảm dần trong 6 năm liền. Theo phúc trình này, Việt Nam xếp hạng 178 trên 195 quốc gia được khảo sát, và thuộc vào nhóm ‘không có tự do.’ Trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương với 40 quốc gia, Tân Tây Lan được xếp đầu bảng và Bắc Hàn xếp cuối bảng. Việt Nam thuộc nhóm “không có tự do,” đứng hàng thứ 36, ngay trên nước Lào và dưới Brunei.”[12] Không biết căn cứ vào đâu, Việt Nam còn đứng trên một vài nước về tự do báo chí ?! Lạ nhỉ !
Tóm lại, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã đến đem bình an và Thần Khí cho các tông đồ. Tới ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Chúa đã ban cho ông tất cả sức mạnh cần thiết để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Phục sinh. Các tông đồ đã hoàn thành sứ mệnh cao cả và hy sinh cả tính mạng để rao truyền Tin Mừng cho muôn dân. Các ngài đã phải trả một giá rất mắc để lưu lại cho hậu thế tấm gương lớn cho những ai đang lãnh trách nhiệm truyền thông, nhất là truyền thông Lời Chúa trong Giáo hội.
Lạy Chúa, xin ban Thần Khí cho giới truyền thông hôm nay để họ dám nói lên sự thật cho nhân loại được giải thoát và tự do. Amen. ---------------------- [1] Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Kinh Thánh Tân Ước: Lời Chúa Cho Mọi Người, 2005:528. [2] ibid. [3] ibid., 529. [4] http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/communications/ documents/hf_ben-xvi_mes_20080124_42nd-world-communications-day_en.html [5] ibid. [6] Giáo Lý Công Giáo, 2494; x. Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế InterMirifica, 11: AAS 56(1964), 148-9. [7] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 415. [8] http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/communications/ documents/hf_ben-xvi_mes_20080124_42nd-world-communications-day_en.html [9] ibid. [10] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 416. [11] http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Freedom-House-Vietnam-Cracked-Down-On-Dissident-Writers-TGiao-05032008132043.html [12] Ibid.
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP -------------------------------
Hằng năm cứ đến ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống tôi không thể nào không lo ra chia trí khi nghe bài đọc thứ nhất trích sách Tông Đồ Công Vụ với câu kết: “họ đầy rượu rồi” (Cv 2,13). Sách bài đọc do UBPVGK cắt bỏ câu này. Không biết vì sợ bà con giáo dân nghe chướng tai hay thấy kết ở câu đó không hợp hay Sách bài đọc mới bỏ đi tôi không rõ. Tuy nhiên khi nghe đọc câu kết “họ đầy rượu rồi”, và tiếp là “Đó là Lời Chúa” thì tôi giật mình. Không biết giữa tác động của Chúa Thánh Thần và tác động của rượu có những điểm nào giống nhau mà những người lúc bấy giờ lại lầm lẫn như thế? Nào chúng ta thử xem những điểm giống nhau giữa tác động của Chúa Thánh Thần và tác động của thần men.
- Sự can đảm: khi đã có ít ly hay “y lít” vào thì dân nhậu xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Họ sẵn sàng làm những việc mà khi chưa có men chắc hẳn sẽ chần chừ hoặc không dám. Các Tông đồ sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần cũng can đảm phi thường. Các Ngài đã mở toang cánh cửa Nhà Tiệc Ly, lên mái nhà để rao giảng Tin Mừng. Các Ngài không còn nhát đảm, sợ người Do Thái như trước đây.
- Sự lợi khẩu: đúng là “tửu nhập thì ngôn xuất”. Các bợm nhậu khi đã ngà ngà thì tranh nhau nói, thậm chí cả hát hò lớn tiếng. Có người thường khi thì rụt rè, ít lời nhưng đã có chút men thì đâm ra lợi khẩu, nếu có tí máu văn nghệ thì cất tiếng ca rất chi là “bốc”. Không biết cái ông ngư phủ Phêrô bình thường có lợi khẩu đến đâu, thế mà sau khi đã nhận được Thánh Thần ta thấy Ngài quá ư xuất sắc trong việc rao giảng. Kết quả của bài giảng đầu tiên quả đáng kinh ngạc, đó là khoảng 3000 người trở lại (Cv 2,41).
- Sự hoà đồng: Khi đã ngà ngà thì sẽ chẳng còn ông gia hay chàng rể, cả hai có thể choàng vai nhau thân thiết như bạn bè, anh- tôi, chúng mình. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, ta cũng nhận ra điều này: chẳng còn Do Thái hay Hy lạp, chẳng còn nô lệ hay tự do, tất cả đều là anh em cùng một Cha trên trời.
Vẫn có đó nhiều nét tương đồng nếu nhìn bên ngoài giữa tác động của Chúa Thánh Thần và ảnh hưởng của men rượu. Tuy nhiên phải có đó điểm khác nhau để biện phân. Sau đây xin đan cử một vài nét khác nhau căn bản.
- Những biểu hiện đựợc xem là tích cực như can đảm, lợi khẩu hay hoà đồng… thì dưới tác động của men rượu, chúng sẽ chóng qua, trong khi đó nếu dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng sẽ tồn tại lâu dài. Thánh I-Nhã cũng cho ta biết một cách thế để biện phân thần loại tương tự như thế. Có những hiệu quả tốt đẹp, ngay cả sự bình an tâm hồn nhưng nếu là do Thần Dữ thì sẽ chóng qua còn do Thánh Thần tác động thì sẽ bền bĩ, lâu dài.
- Tác động của “ma men” hay của Thần Dữ luôn làm ta hướng về mình, còn tác động của Chúa Thánh Thần thì thúc giục ta hướng về ích chung. Thánh Phaolô Tông Đồ cho ta thấy điều này trong bài đọc thứ hai: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi ngươi một cách, là vì ích chung” (1Cor 12,4-7).
- “Ma men” thường khích động ta làm hay nói những sự chẳng đáng, chẳng nên. Nếu có làm được những sự khó, thì đó là liều lĩnh chứ không phải can đảm, nếu có nói nhiều thì cũng dễ thành ba hoa, khoác lác và nếu có hoà đồng thì cũng chưa chắc là hiệp nhất.
Biết biện phân để nhận ra tác động của Chúa Thánh thần không phải để thoả mãn lý trí nhưng là để:
1. Nhìn nhận sự tự do của Chúa Thánh Thần: “Như gió muốn thổi đâu thì thổi”, Chúa Thánh Thần luôn tự do trong hoạt động của Ngài (Ga 3,8). Dù chưa lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, những người ở Xêdarê cũng đã được đổ tràn Thần Khí: “Những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban thánh thần xuống trên cả các dân ngoại nữa…(Cv 10,45 ). Không một ai được phép độc quyền Thánh Thần. Không một tổ chức nào, kể cả Hội Thánh được phép độc quyền trên Thần Khí Thiên Chúa. Chúng ta cần phải mở rộng con tim, mở rộng tầm nhìn để đón nhận hồng ân và hoa quả của Thánh Thần ngay cả nơi anh em lương dân, khác đạo.
2. Mặc dù Chúa thường ban ơn hiện sủng (grâce d’état) cho chúng ta để chúng ta chu toàn trách vụ được giao phó, tuy nhiên không phải hễ có chức hay có quyền là đương nhiên có đầy ơn Chúa Thánh Thần. Cứ xem quả thì biết cây (x.Lc 6,43-45). Chức vụ ta lãnh nhận như Giám mục, linh mục, quản xứ, bề trên… có sinh hoa trái là phục vụ ích chung hay không? Xin đừng lầm tưởng ích chung ở đây là lợi ích của một tập thể cá biệt như xứ tôi, giáo phận tôi, dòng tu tôi, đảng phái của tôi, thậm chí quốc gia tôi hay Hội Thánh tôi. Mưu cầu công ích là tìm ích lợi của hết mọi người và của con nguời toàn diện đặc biệt ưu tiên cho người nghèo, người bất hạnh, người bị áp bức… (x. Học thuyết xã hội Công giáo-Hội đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hoà Bình -2004 số 165 ; 182).
3. Hãy sống “dễ dạy” với ân sủng Thánh Thần nghĩa là biết nhạy bén trước sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Tiếng gọi của Thánh Thần thường xuất phát từ những nhu cầu chính đáng và cấp thiết của những người bất hạnh, bị bỏ rơi… Các Tông Đồ, môn đệ, các Phó Tế thời Hội Thánh sơ khai đã làm gương cho ta điều này.
4. Đừng dập tắt Thần Khí, đặc biệt nơi những người nhỏ chức, bé quyền, thậm chí nơi những người trái chính kiến với ta, không theo đường hướng của ta (x.Lc 9,50). Hãy có tâm tình của Môsê khi Giosuê, con ông Nun xin ngăn cản Enđat và Mêđat vì hai ông này không vào trong Lều hội ngộ: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ” (Ds 11,29).
5. Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất. Chúa Phục Sinh ban quyền tài thẩm “tháo gỡ-cầm buộc” cho những người có trách nhiệm trong Hội Thánh là để xây dựng và gìn giữ sự hiệp nhất chứ không phải củng cố hay duy trì sự đồng nhất. Hiệp nhất giả thiết có sự khác biệt. Ai muốn duy trì sự đồng nhất thì chắc chắn không thể bảo vệ được sự hiệp nhất.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự xuống! Thánh Thần đã được trao ban. Phải chăng chúng ta nên cầu nguyện: xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần. Vấn đề là ở phía chúng ta.
lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa -------------------------------
Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, kỷ niệm việc Ngài được về trời ngự bên hữu Chúa Cha. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trao ban cho các môn đệ sứ mạng rao giảng Tin mừng cho muôn dân để tiếp nối công việc cứu chuộc của Ngài. Sứ mạng này thật vinh dự nhưng cũng không kém phần khó khăn. Cảm thông được với sự giới hạn của thân phận các Tông đồ và của chúng ta, trước khi về trời, Ngài còn căn dặn các Tông đồ hãy ở lại Giêrusalem chờ đợi điều Ngài đã hứa trước kia:”Hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa... Ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. Lời hứa đó hôm nay đã thành hiện thực với việc Chúa Thánh Thần được ban xuống cho các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần, mà chúng ta vừa nghe trong bài 1 ở sách Công vụ Tông đồ.
Chúa Thánh Thần hiện xuống để ban cho các Tông đồ bảy ơn cả của Ngài. Ngài đến đổi mới mặt địa cầu, thay lòng đổi dạ các Tông đồ để biến các ông thành chứng nhân dũng cảm của Chúa giữa lòng đời. Trong các ơn Chúa Thánh Thần đã ban cho Giáo hội, ta thấy Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất. Ngài là ân huệ của Đấng Phục sinh, và là nguồn sức mạnh nối kết muôn dân và các tín hữu nên một trong cùng một phép Rửa và một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai:”Không ai có thể nói: Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần”.
I. CHÚA THÁNH THẦN ĐƯỢC BAN XUỐNG
1. Lời hứa ban Thánh Thần
Nhìn lại những đoạn Tin mừng theo thánh Gioan được trích trong hai tuần lễ vừa qua, chắc hẳn chúng ta đều nhận ra rằng lời hứa ban Thánh Thần là điều được Đức Giêsu lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Chính Ngài đã khẳng định với các Tông đồ:”Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con”(Ga 16,7).
Và lời hứa ấy đã được thực hiện ngay khi Đức Giêsu sống lại hiện ra với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly vào ngày thứ nhất trong tuần. Sau khi chào thăm các ông, Ngài thở hơi và nói với các ông:”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Như thế, đối với Gioan, việc Đức Giêsu Tử nạn – Phục sinh – Ban Thánh Thần chỉ là một. Chính vì thế, phụng vụ đã chọn đọc bài Tin mừng hôm nay chính thức hai lần trong mùa Phục sinh: một là vào ngày Chúa nhật trong tuần Bát nhật Phục sinh và hôm nay, trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Cũng theo chiều hướng đó, thánh Gioan đã gắn liền cái chết của Đức Giêsu trên thập giá với việc trao ban Thần Khí, thánh sử đã thuật lại giờ ra đi của Đức Giêsu như sau:”Ngài gục đầu xuống và trao ban Thần Khí”(Ga 19,30).
Như vậy, ngày Phục sinh Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho các Tông đồ (Ga 20,21-23), nhưng ngày lễ Hiện xuống, Chúa Thánh Thần đến một cách long trọng và là ngày khai sinh Giáo hội (Cv 2,1-13). Cũng như qua bí tích Rửa tội, chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần rồi, nhưng qua bí tích Thêm sức, chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách long trọng để trở thành người chiến sĩ của Nước Trời vậy.
2. Chúa Thánh Thần được ban xuống
Vào dịp lễ Ngũ tuần, tức là 50 ngày sau lễ Vượt Qua, theo lời dặn của Đức Giêsu, các Tông đồ họp nhau lại tại nhà Tiệc ly để đón nhận Chúa Thánh Thần. Sách Công vụ tông đồ kể lại cho chúng ta những sự lạ đã xẩy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi các môn đệ đang hội họp, có Đức Mẹ ở giữa. Bên trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào nhà, có những lưỡi lửa xuất hiện và đậu trên đầu từng người. Họ được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bõ ngỡ kéo đến bao vây. Sự gì đã xẩy ra ? Phêrô, con người nhát đảm ấy, hôm nay mở tung cửa và bước ra, theo sau là các môn đệ khác. Họ lâng lâng như người say rượu, khiến dân chúng bàn tán, nhưng họ không say rượu mà say Chúa ! Vì hôm nay, ứng nghiệm lời tiên tri Joel đã tiên báo:”Ta sẽ đổ Thánh Thần xuống và chúng sẽ nói tiên tri”. Phêrô giảng bài đầu tiên làm cho 3000 người trở lại. Các Tông đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng rao giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho là nói được tiếng bản xứ của mỗi thính giả từ các nơi đổ về.
II. THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ HIỆP NHẤT
1. Ngày khai sinh Giáo hội
Trước hết, Chúa Thánh Thần, chính là Đấng qui tụ muôn dân nên một trong Giáo hội. Thật vậy, các Tông đồ trước khi nhận lãnh Thánh Thần đã “đóng kín cửa vì sợ người Do thái”. Thế nhưng, sau khi đã nhận được sức mạnh của Thánh Thần, các ngài đã mở tung cửa mạnh dạn bước ra rao giảng cho mọi người Tin mừng về Đấng Phục sinh khiến mọi người đều bỡ ngỡ.
Theo sách Công vụ Tông đồ thuật lại lúc đó, tại Giêrusalem có rất nhiều người thuộc các dân tộc với nhiều tiếng nói khác nhau, từ muôn nơi trở về nhân dịp lễ Vượt Qua, nhưng có một điều lạ là tất cả đều nghe rõ và hiểu điều các Tông đồ loan báo, họ thắc mắc:”Tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mésopotamia, Giuđêa, Pontô, Tiểu á, Phrygia, Pamphilia, Ai cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ tại đây , là Do thái và tòng giáo, là người Crêta và Ảrập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa”.
Khi nêu lên danh sách các dân tộc này, thánh sử Luca đã cho thấy tính phổ quát của Tin mừng cứu độ. Mọi dân nước dù xa xôi như Rôma, mút cùng thế giới theo quan điểm của người Do thái, hay bé nhỏ như Pamphylia, một thành phố rất nhỏ của đế quốc Rôma, cũng phải được nghe loan báo Tin mừng và qui tụ về thành một đoàn chiên duy nhất dưới quyền của một chủ chiên là Đức Kitô. Như thế, Chúa Thánh Thần chính là mối dây liên kết muôn dân nên một, như lời khẳng định của thánh Phaolô trong bài đọc 2:”Vì chưng trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần”.
2. Những ân ban của Chúa Thánh Thần
Khi chịu phép Thêm sức, người tín hữu học về Ngôi Ba Thiên Chúa, về ơn Chúa Thánh Thần và những hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội và trong đời sống người tín hữu. Giáo lý Công giáo dạy có 7 ơn Chúa Thánh Thần là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông thái, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa. Đó là những ơn căn bản cần thiết cho đời sống người Kitô giáo. Còn có những ơn khác nữa như ơn nhẫn nại, chịu đựng, ơn đơn sơ, hồn nhiên... Thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Côrintô giải thích là ơn Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn nơi các tông đồ mà thôi, nhưng còn được tác động trong nhiều cách thế, nơi nhiều người khác nhau.
Trong ngày lễ Hiện xuống hôm nay, chúng ta đặc biệt chú trọng đến ơn mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta là qui tụ mọi dân tộc lại trong một cộng đoàn tức là Giáo hội. Ngài là hồn sống của Giáo hội và của từng người một. Bài tường thuật của sách Công vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu ước.
Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Noe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không qui tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó: tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu ? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 226).
III. TA XÂY DỰNG HỘI THÁNH HIỆP NHẤT
1. Vai trò của mỗi Kitô hữu
Khi được chịu phép rửa tội, chúng ta trở thành một phần tử trong Giáo hội, thành một chi thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Mỗi người phải có một vai trò trong Giáo hội tùy theo khả năng mà Chúa Thánh Thần sắp xếp. Không ai được đứng bên lề Giáo hội.
Ta thấy ơn Chúa Thánh Thần tác động như thế nào trong đời sống của Giáo hội như thánh Phaolô chỉ dạy:”Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa, có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng hoàn thành mọi sự trong mọi người”(1Cr 12,3). Như vậy tất cả các phần tử trong Giáo hội đều đóng những vai trò quan trọng khác nhau và thi hành những phận vụ khác nhau. Ơn Chúa Thánh Thần ban cho mỗi phần tử khác nhau là để hợp nhất các phần tử. Và cái dấu chỉ của việc hoạt động tông đồ nhằm mục đích vinh danh Chúa.
Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm lặng lẽ hoạt động nơi ta và Giáo hội mà ta không thấy. Có người tự hỏi tại sao Chúa Thánh Thần không làm những việc lạ lùng vĩ đại trong thời đại ta đang sống ? Để trả lời, ta cần nhận định là Thiên Chúa vẫn làm những công việc lạ lùng trong thời đại chúng ta đang sống, miễn là ta biết mở rộng tâm hồn và cộng tác với ơn Chúa và để Chúa làm chủ đời sống.
2. Tránh gây sự chia rẽ
Công đồng Vatican II dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần đã làm sáng tỏ trong việc giáo huấn là tất cả mọi phần tử trong Giáo hội đều được gọi để sống đời sống thánh thiện và làm chứng của đức tin. Như vậy thì tất cả mọi người đều được gọi đóng vai trò của mình trong việc hoạt động tông đồ của Giáo hội tùy theo khả năng và phương tiện có thể.
Theo thánh Phaolô, Chúa Thánh Thần là mối dây liên kết mọi thành phần trong Hội thánh, nên mỗi thành phần không đứng riêng rẽ, nhưng liên đới và gắn bó chặt chẽ với nhau như các chi thể trong cùng một thân thể:”Cũng như chỉ có một thân thể, nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy”.
Nhìn vào con người chúng ta, chỉ có một thân thể mà có nhiều chi thể: tai, mắt, mũi, miệng, chân tay... Mỗi chi thể có nhiệm vụ khác nhau. Chi thể nọ cần đến chi thể kia để bổ túc cho nhau và để nhằm lợi ích cho toàn thân. Và cái dụng cụ Chúa dùng trong việc mở mang Nước Chúa không chỉ tùy thuộc vào cái tài khéo, mức độ học vấn, hay địa vị của mỗi người mà thôi, nhưng còn tùy thuộc vào quyền năng của Chúa với sự cộng tác của mỗi người với Chúa. Truyện: Bất đồng ý kiến. Hai người bơi chung một chiếc xuồng trên dòng sông nước ngược. Vì có sự bất đồng ý kiến nên qua một hồi lời qua tiếng lại, anh ngồi phía trước gác dầm không bơi nữa. Anh phía sau lái thấy vậy mới nói:
Này anh, tôi với anh dù có bất đồng ý kiến, nhưng chúng ta cùng đi chung trên một chiếc xuồng, cùng tiến chung về cùng một mục tiêu, anh không thể để mặc tôi bơi một mình như vậy được.
Anh ở trước mũi trả lời tỉnh bơ: Chiếc xuồng có hai phần, lái và mũi. Phần lái thuộc về anh. phần mũi thuộc về tôi. Anh cứ bơi phần anh, phần tôi, tôi bỏ, tôi thả trôi thì mặc tôi.
Anh phía sau tức quá, nhưng cũng ráng bơi, vì nếu bỏ thì chiếc xuồng sẽ trôi ngược và không ai tới đích. Không ngờ chỉ một lúc sau, anh nghe tiếng nước tràn vào phía sau, anh quay lại thì thấy anh chàng kia không còn đủ bình tĩnh nữa, đang đục một lỗ để định nhận chìm xuống. Anh kia hoảng sợ nói: Ơ này, anh có giận tôi thì giận, chứ anh nhận chìm xuồng, tôi không biết bơi đâu đấy nhé.
Anh phía sau thản nhiên nói: Chiếc xuồng có hai phần, phần mũi và phần lái. Phần mũi của anh, còn phần lái của tôi, tôi nhận chìm kệ tôi chứ !
Thế là chẳng mấy chốc cả hai đều chết chìm trong lúc vẫn cứ cố gắng cãi nhau hơn là nỗ lực bơi vào bờ !
3. Sống hiệp nhất yêu thương
Tính cách cộng đoàn của lễ Hiện xuống đòi hỏi phải có đức bác ái huynh đệ: Thánh Thần không đến trên từng cá nhân riêng rẽ, nhưng trong một tập thể được nối kết bằng hiệp nhất yêu thương. Nơi nhóm người họp nhau tại căn phòng, Chúa Thánh Thần muốn nối kết thành cộng đoàn hiệp nhất, cộng đoàn này luôn luôn mở rộng ra khắp thế giới mà vẫn luôn giữ được mối hiệp nhất.
Ngày Hiện xuống này chính là ngày thành lập Hội thánh. Thế nên, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ của mình cùng lãnh nhận Thánh Thần ở Giêrusalem bằng một biểu lộ hiệp nhất. Các môn đệ đã thực hiện sự hiệp nhất này qua việc chung sống yêu thương. Sự chung sống yêu thương này khác hẳn thái độ ghen tỵ vẫn thường xẩy ra trong đời sống công khai của Đức Giêsu. Đây chính là kiểu mẫu bác ái phải có nơi các Kitô hữu khắp mọi nơi.
Truyện: Tha nhân là chính Chúa.
Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn giáo tại chân núi Himalaya. Ông lo âu trình bầy về tình trạng bi đát của tu viện ông.
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân đến từ khắp nơi. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ.
Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây.
Tu sĩ Ấn giáo ôn tồn bảo:
Các tội đã và đang xẩy ra tại cộng đoàn đó là tội vô tình. Và giải thích: Đấng Cứu thế đã cải trang thành một người trong qúi vị, nhưng qúi vị không nhận ra Ngài.
Nhận được câu trả lời giải đáp, vị Bề trên hối hả quay về tu viện. Ông tập họp cộng đoàn lại, và loan báo cho mọi người biết Đấng Cứu thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu thế cải trang vậy ? Nhưng có một điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu thế.
Vậy là từ đó, mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn (D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 287).
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm -------------------------------
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các tín hữu thuộc Giáo Hội Công Giáo kết thúc Mùa Phục Sinh trong niên lịch phụng vụ. Chữ Pentecost trong tiếng Hy Lạp nghĩa là ngày thứ năm mươi và đây cũng là tên gọi tiếng Việt là Lễ Ngũ Tuần. Lễ Ngũ Tuần bắt nguồn từ lễ Năm Mươi của người Do-thái khi xưa tại Sinai. Trong cuộc lữ hành nơi hoang địa cũng như khi đã vào miền đất hứa, dân Do-thái luôn nhớ tưởng niệm ngày Thiên Chúa ban lề luật cho dân Do-thái trên núi Sinai. Đây là ngày thứ năm mươi sau ngày Lễ Vượt Qua và năm mươi ngày sau lễ Chúa Kitô Phục Sinh.
Bắt nguồn từ câu truyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, sau khi dân chúng bị trận lụt Đại Hồng Thủy, họ đã xây tháp Babel để tránh nạn lụt. Họ nói: "Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất."(Stk 11, 4). Với lòng kiêu hãnh bởi sức người đã tạo nên sự phản bội trong tâm hồn. Họ đã bị Chúa phạt để tháp Babel sụp đổ đè chết một số người và gây phân tán khả năng ngôn ngữ không còn hiểu nhau. Sự kiêu ngạo đã tạo nên bức tường phân rẽ và thù ghét bạo hành. Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Babel, vì tại đó, Đức Chúa đã làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất (Stk 11,9).
Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, thánh Luca đã diễn tả biến cố này như là một Giao Ước Sinai mới. Giáo Ước với dân chúng qua ân sủng của Chúa Thánh Thần. Sau khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ và những người thân hữu tụ nhau cầu nguyện không ngừng. Khi mọi người đang họp nhau trong phòng Tiệc ly, nơi Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể, bỗng có làn gió thổi mạnh và xuất hiện các hình lưỡi lửa trên đầu các tông đồ để ban các ơn sủng: Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một (Tđcv 2,3). Các ngài đã lãnh nhận tràn đầy hồng ân của Chúa Thánh Thần, nhất là ơn ngôn ngữ. Các tông đồ đã can đảm xuất hiện trước dân chúng để loan báo tin vui. Các ngài nói tiếng bản xứ của mình, nhưng mọi người từ khắp vùng lân cận đã tụ họp lắng nghe và hiểu rõ lời giảng của các ngài: Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho (Tđcv 2,4).
Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ đã ghi chú những nhóm người đã nghe lời giảng của các tông đồ đến từ nhiều miền khác nhau: Chúng ta đây, có người là dân Parthi, Mêđi, Êlam, Mêsopotamia, Giuđêa, Cappađôcia, Pontô, Tiểu Á, Phrygia, Pamphylia, Ai-cập, Libya, Cyrênê; nào là những người từ Rôma đến đây; nào là người Do-thái và tòng giáo; nào là người đảo Crêta hay người Ảrập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!(Tđcv 2, 9-11). Đây là sự kiện lạ tiên khởi bởi ơn ngôn ngữ qua biểu tượng của lưỡi lửa. Mọi người đã nghe các môn đệ nói tiếng thổ âm của mình. Các tông đồ nói một thứ tiếng nhưng các người được nghe, đều hiểu theo ngôn ngữ của mình. Như vậy, ơn Chúa Thánh Thần đã tác động trong từng tâm hồn để họ đón nhận tin mừng. Họ là những chứng nhân tiên khởi đã tản mát về khắp nơi đem tin mừng cứu độ đến cho nhiều người tại quê hương của họ.
Trong thơ của thánh Phaolô tông đồ gởi cho tín hữu Corintô, ngài xác tín rằng: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung (1Cor 12,7). Mỗi người lãnh nhận ơn sủng và chức vụ riêng, nhưng chỉ có một Chúa Thánh Thần. Có người được ơn khôn ngoan, có kẻ được ơn hiểu biết, có người được ơn làm phép lạ, có vị được ơn chữa bệnh, ơn nói tiên tri, có kẻ được ơn nói tiếng lạ và giải thích tiếng lạ. Tất cả mọi người đều được thanh tẩy để làm nên một Nhiệm Thể Chúa Kitô trong cùng một Chúa Thánh Thần.
Như lời Chúa Giêsu đã hứa với các tông đồ, Chúa sẽ sai Thánh Thần đến để dẫn dắt các ngài đến sự thật trọn hảo: Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến (Ga 16,13). Trải qua hai thiên niên kỷ, trên nền tảng niềm tin của các tông đồ, Giáo Hội Công Giáo vẫn duy trì kiên vững hai nguồn Thánh Kinh và Thánh Truyền cùng các giáo huấn của Giáo hội. Qua các biến cố thăng trầm, chúng ta tin Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục gìn giữ, thánh hóa và canh tân Hội Thánh ở trần gian.
Chúa Thánh Thần có những danh hiệu như Đấng Bảo Trợ, Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi, Thần Chân Lý, Chúa Thánh Linh và Ngôi Ba Thiên Chúa. Những hình ảnh biểu tượng về Chúa Thánh Thần như Nước, Gió, Lửa, Xức dầu, Áng mây, Ánh sáng, Ấn tín, Đặt tay và Chim bồ câu... Có bảy ơn Chúa Thánh Thần, gọi là ơn Bảy Nguồn: Ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn biết lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức và ơn kính sợ. Các ơn sủng của Chúa Thánh Thần giúp chúng hiểu biết sâu xa hơn về chân lý đức tin và can đảm quyết tâm thi hành sống đạo. Không phải chúng ta chỉ ngồi ca hát, khẩn cầu, van xin và ước mong, mà phải vận dụng tất cả các khả năng Chúa ban để sinh lợi trong đời sống hằng ngày. Chúa không ban ơn sủng để chúng ta cất dấu hay làm lợi cho riêng mình, nhưng là mang lại lợi ích chung cho mọi người. Ai lãnh nhận nhiều thì phải cho lại nhiều. Cái gì chúng ta nhận lãnh nhưng, không cũng hãy cho nhưng không: Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10,8).
Đức Chúa Thánh Thần ngự trong những người có ơn thánh hóa và ban các ơn cần thiết giúp ta sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Ai trong chúng ta cũng lãnh nhận ơn Chúa, nhất là ơn sự sống. Chúa Thánh Thần còn ban ơn sủng qua các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Rửa tội, Thêm Sức và Truyền Chức. Các ơn sủng siêu nhiên soi sáng giúp chúng ta bước theo đường lối và làm nhân chứng cho Chúa. Ơn Chúa không tách biệt chúng ta để trở thành một thành phần ưu tuyển nào cả. Chúng ta có thể nhận diện được hoa qủa của ơn Chúa Thánh Thần trong đời sống thường ngày của mỗi người tín hữu. Xem qủa thì biết cây. Còn hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế (Gal 5, 22-23).
Chúng ta phải tôn kính, thờ phượng và cầu xin Chúa Thánh Thần. Vâng theo ơn Người soi sáng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người. Trong mỗi giây phút sống, chúng ta đều cảm nhận được những ơn lạ. Tất cả mọi luân chuyển sinh động trong thân xác và ngoài vũ trụ đều là sự nhiệm mầu ngoài tầm tay kiểm soát của con người. Chúng ta nên phân biệt rõ ràng về vai trò của Chúa Thánh Thần và lòng ước muốn của con người. Cầu xin là việc của chúng ta, còn ban ơn sủng là thuộc về quyền năng Thiên Chúa. Trình thuật của thánh Gioan rất vắn gọn khi viết về Thánh Thần. Ngày thứ trong tuần, Chúa Giêsu đã hiện đến với các tông đồ và phán: “Bình an cho anh em” và Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20, 22).
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta hãy cầu xin Ơn Bảy Nguồn. Để mở lòng đón nhận ơn Chúa Thánh Linh, chúng ta hãy sửa đổi những thói hư tật xấu. Chấm dứt những bê tha mê lầm. Buông bỏ những tị hiềm, ghen ghét và thù oán. Quay trở về với con đường chính thật. Mặc lấy ơn sủng tình yêu của Chúa Thánh Thần. Giống như các tông đồ xưa, chúng ta mạnh dạn bước ra khỏi phòng và ra đi làm nhân chứng. Chúng ta sẽ vui thỏa trong bình an và hoan lạc. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!
Lm. Giuse Trần Việt Hùng -------------------------------
Có một phóng viên đã đặt câu hỏi với một chuyên viên Kinh Thánh như sau: Nếu nhờ khoa học tiến bộ, người ta sáng chế ra được một máy quay phim ngược thời gian. Máy này có thể thu lại tất cả hình ảnh và lời giảng dạy của Chúa Giêsu cách đây hơn 2000 năm. Vậy bộ phim ấy có khả năng thay thế được bốn sách Tin Mừng hay không? Nhà chuyên viên trả lời: Không thể được, bởi vì đức tin không phải do mắt thấy tai nghe, nhưng là do ơn Chúa Thánh Thần tác động.
Thực vậy bọn biệt phái ngày xưa đã từng nhìn thấy Chúa, nghe lời Chúa giảng, chứng kiến những việc Chúa làm thế mà họ không những không tin mà còn thù ghét và cuối cùng đã đóng đinh Chúa vào thập giá. Còn các tông đồ mặc dù đã theo Chúa, nhưng cũng chỉ thực sự có đức tin và dám sống chết cho Ngài sau biến cố tử nạn và phục sinh nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động trong ngày lễ Ngũ Tuần. Vậy Chúa Thánh Thần đã đổi mới các tông đồ, Giáo Hội và người tín hữu như thế nào?
Trước hết Chúa Thánh Thần đổi mới các tông đồ. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và phán: Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu nhắc lại công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa được diễn tả bằng hình ảnh: sau khi nắn đất sét thành người, Ngài đã thở hơi ban sự sống để nó trở thành người sống. Qua việc thở hơi trên các tông đồ, Chúa Giêsu muốn làm một cuộc sáng tạo mới. Ngài ban Chúa Thánh Thần để biến đổi các ông nên những con người mới, có đủ khả năng chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Sách Tông đồ công vụ cho hay trong ngày lễ Ngũ Tuần, người ta thấy một cơn gió lốc ùa vào nhà các tông đồ đang ở và có cái gì giống hình lưỡi của lửa xuất hiện trên đầu mọi người và lập tức các ông được đổi mới. Trước kia các ông u mê dốt nát thì nay các ông được thống suốt giáo lý của Chúa. Trước kia các ông nhát đảm sợ hãi thì nay các ông được can đảm, sẵn sàng rao giảng Tin Mừng, tuyên xưng đức tin và chấp nhận chịu khổ cực và chịu chết vì danh Đức Kitô.
Tiếp đến Chúa Thánh Thần đổi mới Giáo Hội. Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và không ngừng tác động để canh tân Giáo Hội tuỳ theo nhu cầu thời đại, chẳng hạn như Augustinô, Đôminicô, Phanxicô, Ignatio, Têrêsa... nhờ các ngài Giáo Hội vượt qua được những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất. Và gần đây hơn, Công đồng Vatican II cũng được coi là một lễ Hiện Xuống mới vì Công đồng này mà Giáo Hội có dịp nhìn lại mình để lau sạch những tì vết và bụi bặm do lịch sử để lại, đồng thời đổi mới Giáo Hội về nhiều phương diện để nhờ đó đi sát với Tin Mừng mà vẫn thích nghi với một thế giới không ngừng biến động và tiến bộ hơn.
Sau cùng Chúa Thánh Thần đổi mới mỗi người chúng ta. Thực vậy ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục tác động nơi các tín hữu, tuy âm thầm, nhưng không kém phần hậu quả. Vậy chúng ta phải làm gì?
Việc thứ nhất là hãy tạo cho mình một bầu khí thinh lặng nội tâm, tránh đi những lo toan thái quá về vật chất đời thường như cơm áo gạo tiền. Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa trước còn những sự khác, Ngài sẽ ban cho chúng ta sau. Việc thứ hai là phải chăm chỉ lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và tham dự nghi thức bẻ bánh, như hai môn đệ làng Emmaus ngày xưa. Việc thứ ba là phải đồng tâm nhất trí, chuyên tâm cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ trong đó có Đức Mẹ Chúa Giêsu và với những anh em của Ngài. Nhờ đó, mà cuộc đời và bản thân chúng ta mỗi ngày một đổi mới. -------------------------------
Hôm nay Giáo hội long trọng mừng lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trước khi chiệu chết, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy nói thật với các con, Thầy đi thì Thầy sẽ gởi Đấng hay an ủi đến và Ngài sẽ dạy cho chúng con hết mọi sự” (Ga 16, 7-13)
Họ vẫn nhớ những lời ấy, nhưng hôm nay Thầy đi rồi các ông run sợ, sách Công vụ Tông đồ viết: “Các ông lên một phòng cao, cửa đóng then cài vì sợ người Do-thái”. Họ vẫn nhớ lời thầy đã nói: “Ta đến đem lửa xuống trần gian” (Lc 12, 49). Hôm nay Thầy đem lửa thật, họ thấy những lưỡi lửa đổ xuống trên họ và trước đây họ không hiểu thì nay họ hiểu tất cả. Trước đây họ run sợ, đóng cửa then cài thì nay họ không còn sợ và mở toang cửa ra.
Họ lâng lâng như người say rượu, nhưng họ không say rượu mà họ say Chúa, họ tràn đầy Chúa Thánh Thần. Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể ghi nhận hai nhận định:
Thứ nhất, ngày Lễ Hiện Xuống là ngày khai sinh Giáo hội.
Giáo hội là gì? Giáo hội là tập đoàn dân Chúa gồm những vị chủ chiên và đoàn chiên, thì hôm nay Chúa Thánh Thần đã thánh hóa tất cả. Ngài thánh hóa chủ chiên bằng sức mạnh tương trùng, bằng lửa, bằng gió, bằng Lời. Lửa để soi sáng, để nung nấu; Gió để đẩy mạnh; Lời để cải hóa, để chinh phục. Và thật, Chúa Thánh Thần đã đến đổi mới các Tông đồ một cách lạ nhiệm. Từ những người mê muội trở nên những người rất thông minh, từ những người sợ sệt trở nên những vị anh hùng. Tất cả các ông đều chết vì đạo, khởi đầu là Phêrô và sau Phêrô, 39 vị Giáo hoàng tiên khởi đều chết vì đạo. Rồi như trong bài Phúc Âm, Chúa ban cho họ một quyền năng kinh khủng, quyền năng đóng mở cửa Nước Trời: “Các con tha tội cho ai thì kẻ ấy được tha, các con cầm buộc ai người ấy bị cầm buộc”. Nhưng Giáo hội không phải chỉ có chủ chăn mà còn có đoàn chiên, không phải chỉ có giáo sĩ, mà còn có giáo dân thì ngày Hiện Xuống là ngày khai sinh. Phêrô đầy Chúa Thánh Thần đứng ra giảng bài đầu tiên và 3 ngàn người đã trở lại chịu phép Rửa tội. Từ nhóm mười hai, nay 800 triệu, Giáo hội đã khai sinh bởi sức mạnh Thánh Thần.
Ý tưởng thứ hai, lễ Hiện Xuống không những là ngày khai sinh của Giáo hội mà lễ Hiện Xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động mạnh bên trong Giáo hội. Ví dụ Công đồng Vaticanô II là một lễ Hiện Xuống mới, Công đồng đã quyết định một cách bất ngờ và đã canh tân Giáo hội cho phù hợp bước tiến của thế giới ngày nay. Không có Chúa Thánh Thần hoạt động bên trong Giáo hội, chúng ta không khỏi theo định luật thời gian để chia ly, phân tán, tàn tạ từ lâu rồi. Không những Chúa Thánh Thần hoạt động một cách chung, mà Ngài còn hoạt động trong từng người, soi sáng, thúc đẩy mỗi người khi chúng ta cầu nguyện, khi chúng ta hành động.
Mỗi người chúng ta có một trái tim, trái tim là cơ quan đầu não, là một kỳ công bé nhỏ bằng nắm tay, nó có sức điều động cả con người, Tim còn đập chúng ta còn sống, tim hết đập chúng ta chết. -------------------------------
Hôm nay chúng ta tưởng niệm và sống lại biến cố đã xảy ra cách đây hơn 2.000 năm. Nhân ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ, từ những con người nhát đảm, dốt nát, quê mùa, Thánh Thần đã biến đổi các ngài trở thành những con người can đảm và hiểu biết để loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người và Thánh Thần đó đã thành linh hồn của Giáo Hội.
Anh chị em thân mến!
Lịch sử của nhân loại hẳn phải là lịch sử của tìm kiếm và xây dựng sự thống nhất. Khát vọng thống nhất thể hiện qua sự phát sinh và bành trướng của không biết bao nhiêu đế quốc.
Thời xa xưa, chỉ có đế quốc Trung Hoa, đế quốc Babylon, đế quốc La Mã, đế quốc Pháp... Nhưng hợp rồi tan. Có thịnh vượng đến đâu, bành trướng đến đâu thì những đế quốc đó cũng đi đến sự sụp đổ vì họ đã cố gắng xây dựng sự thống nhất không phù hợp với lòng người. Bao lâu con người còn chối bỏ lẫn nhau, bao lâu con người còn khước từ Thiên Chúa thì bấy lâu những cố gắng thực hiện sự thống nhất ấy chỉ mang lại những thảm họa mà thôi.
Ngay từ những trang đầu tiên Kinh Thánh đã nói đến những thảm họa ấy qua câu chuyện xây tháp Babel sau nạn hồng thủy, con cái loài người muốn đoàn kết với nhau để chống lại Thiên Chúa bằng cách xây một ngọn tháp cao tận trời mây, thế nhưng công trình phải bỏ dở bởi vì con người không còn nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ chung nữa. Thống nhất, đoàn kết để khước từ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống thì con người cũng tự chia rẽ nhau, đó là chân lý mà Kinh Thánh muốn phơi bày qua câu chuyện xây tháp Babel.
Anh chị em thân mến!
Qua dòng lịch sử của nhân loại, đã có không biết bao nhiêu tháp Babel được dựng lên để rồi cũng tự ngã đổ. Nhân loại không thể tự mình đạt được sự thống nhất nếu sự thống nhất đó chỉ xây dựng để khước từ Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau. Chỉ có Thiên Chúa mới mang lại sự thống nhất đích thực cho con người.
Sự thống nhất đích thực ấy đã được khai sinh trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, khi Thánh Thần ngự xuống trên các môn đệ của Chúa Kitô, Một trong những dấu chỉ của sự thống nhất ấy là sự kiện con người có thể hiểu nhau vượt lên trên những cá biệt của mình. Các môn đệ của Chúa Giêsu có lẽ đã không nói các tiếng lạ. Đúng hơn, những người ngoại quốc tại Giêrusalem trong ngày hôm đó hiểu được các ngài ngay trong những tiếng nói bản xứ của họ.
Quả thực, Thánh Thần đang thực hiện một sự thống nhất mới cho nhân loại, hay nói đúng hơn một nhân loại mới trong đó người người có thể hiểu nhau, cảm thông với nhau đang được khai sinh, một nhân loại mới trong đó mọi người đã có thể hiểu nhau và cảm thông vơi nhau trong cùng một ngôn ngữ mà chính Thiên Chúa đã ban cho con người và ngôn ngữ mới ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người. Chính nhờ Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ngỏ với con người, đã trở thành con người.
Thánh Gioan tông đồ đã tóm gọn tất cả chân lý ấy trong một câu rất ngắn gọn: "Lời đã hóa thành nhục thể". Lời của Thiên Chúa đã ngỏ cho con người và như thế không còn là một âm thanh xa lạ nhưng đã trở thành xương, thành thịt trong con người và đã hy sinh cho nhân loại bằng một cái chết đau thương nhục nhã nhất. Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người do đó cũng là Tình Yêu. Từ nay chỉ có một thứ ngôn ngữ duy nhất để cho con người xích lại gần nhau, nói chung với nhau, cảm thông với nhau. Ngôn ngữ ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, là tình yêu của Thiên Chúa hóa thân làm người. Đó là ngôn ngữ mà Thánh Thần đã thông ban cho các môn đệ và đám đông dân chúng tại Giêrusalem trong ngày lễ Ngũ Tuần cách đây 2.000 năm. Nhờ Thánh Thần, Lời ấy lại tiếp tục trở thành ngôn ngữ tình yêu để nhờ đó con người có thể xích lại gần nhau, đối thoại với nhau, cảm thông với nhau.
Anh chị em thân mến!
Ngôn ngữ của tình yêu ấy qua Phép Rửa, Chúa Thánh Thần cũng thông ban cho mỗi người Kitô hữu chúng ta. Sự thể đã diễn ra trong ngày lễ Ngũ Tuần cách đây 2.000 năm, cũng đang tái diễn trong từng giây phút trên khắp thế giới. Thật thế, cái khát vọng cao cả nhất trong lòng người, đó là khát vọng hòa bình, ai ai cũng muốn được xích lại gần nhau, nói chuyện cảm thông với nhau và khát vọng ấy chỉ có thể được thỏa mãn khi con người biết nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ duy nhất, đó là ngôn ngữ của Tình Yêu mà thôi.
Bởi phép Chúa Thánh Thần, Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể. Ước gì các tín hữu Kitô cũng biết để cho Chúa Thánh Thần tràn ngập tâm hồn mình, để nhờ Lời của tình yêu Thiên Chúa cũng trở thành xương thịt nơi họ và cuộc sống của họ cũng trở thành ngôn ngữ của cảm thông, của yêu thương, của gặp gỡ và của hiệp nhất nên một vơí nhau trong tư tưởng và trong hành động. -------------------------------
Sách Tông đồ Công vụ kể lại rằng, khi đến Êphêsô, thánh Phaolô đã gặp gỡ một số tín hữu tiên khởi, ngài hỏi họ về Chúa Thánh Thần, thì họ trả lời: Chúng tôi không hề nghe biết có Chúa Thánh Thần. Còn khi đến Athènes, ngài thấy ở một góc phố, có một bàn thờ với hàng chữ: kính thần vô danh.
Với chúng ta cũng vậy, Chúa Thánh Thần là vị Thiên Chúa vô danh, là vị Thiên Chúa thường bị chúng ta quên lãng hơn cả. Chúng ta nói và hiểu biết nhiều điều về Chúa Cha cũng như Chúa Con, nhưng về Chúa Thánh Thần thì chúng ta lại chẳng hiểu biết chi cả. Thế nhưng Chúa Thánh Thần lại nắm giữ một vai trò quan trọng, đặc biệt trong ngày hôm nay, ngày Ngài hiện xuống, khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của Giáo Hội.
Từ thuở ban đầu, khi tạo dựng vũ trụ thì Thánh Thần Chúa đã bay lượn trên nước. Tiếp đến, Ngài luôn hiện diện và hướng dẫn lịch sử nhân loại. Ngài đã thâm nhập vào các tổ phụ, các tiên tri, các vua chúa, các nhà lãnh đạo để xây dựng dân Chúa, mà cao điểm tuyệt vời nhất chính là Đức Kitô.
Thực vậy, Đức Kitô đã được cưu mang bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, trong cung lòng Trinh Nữ Maria, được Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi bờ sông Giócđan. Và hơn thế nữa, luôn được Chúa Thánh Thần cùng bước đi trong mọi giai đoạn của cuộc đời cho đến ngày tử nạn khổ đau và phục sinh vinh quang. Lịch sử cứu rỗi đó còn được tiếp tục qua lịch sử nhân loại, và hôm nay là ngày khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của Giáo Hội, khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ để khai sinh ra Giáo Hội. Chúa Thánh Thần đã thánh hoá các ông bằng lửa, bằng gió và bằng lời.
Thực vậy lửa để soi sáng, gió để thúc đẩy và lời để cảm hoá và chinh phục. Trải qua dòng thời gian, nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ nhìn thấy tác động của Chúa Thánh Thần. Chẳng hạn như khi Ngài soi sáng cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII quyết định khai mở Công đồng Vatican II, vào một thời điểm mà chính Đức Thánh Cha cũng không nghĩ tới. Và theo Đức Thánh Cha diễn tả, thì đó chính là một lễ Hiện Xuống mới.
Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần không phải chỉ tác động trên các nhà lãnh đạo Giáo Hội, mà hơn thế nữa, Ngài còn tác động tên mỗi người chúng ta, trên các phần tử của Giáo Hội.
Chuyến tàu khởi hành từ Calcutta bắt đầu lăn bánh trong đêm tối. Giữa đám hành khách đang lắc lư ngủ gật, có một người đàn bà âm thầm lần hạt, đó là Mẹ. Têrêsa. Mẹ kể lại rằng: như có một sức mạnh xâm nhập vào mẹ và thế là mẹ quyết định lập một dòng tu, hiến thân để phục vụ người nghèo. Mẹ khởi công với ba đồng bạc Ấn Độ, thế nhưng hôm nay, dòng Thừa sai bác ái của mẹ đã tràn lan khắp thế giới. Và như vậy Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong mọi thành phần của Giáo Hội.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài chúng con. -------------------------------
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông.
Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần, vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
***
Chúa Thánh Thần là Đấng nào ?
Cùng với toàn thể Hội Thánh, hôm nay, chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, có lẽ, chúng ta chỉ biết Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa mà thôi. Đối với không ít người Công Giáo, Chúa Thánh Thần như một Đấng xa lạ, thậm chí, Ngài chẳng có ảnh hưởng gì mấy tới đời sống của chúng ta. Nhưng thực ra, Chúa Thánh Thần có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong đời sống của Giáo Hội, mà còn trong cả đời sống của mỗi người chúng ta nữa.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong hoạt động của Hội Thánh
Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, chúng ta đã nhận thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong công cuộc tạo dựng qua hình ảnh: “Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước”, làm tác sinh muôn loài muôn vật. Thần Khí Chúa được ban cho các ngôn sứ, các vua cũng như các vị thủ lãnh, để các ngài thi hành và chu toàn bổn phận của mình trước mặt Thiên Chúa.
Bước sang thời Tân Ước, Chúa Thánh Thần không ngừng hướng dẫn các hoạt động trong cuộc đời Chúa Giêsu, kể từ lúc Ngài thành hình trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria (Vì Chúa Giêsu thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần) cho tới tận đỉnh đồi Golgotha. Sau cùng, Thiên Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Kể từ sau khi Đức Giêsu về trời cho đến hôm nay, Chúa Thánh Thần hằng hoạt động để hướng dẫn Hội Thánh. Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung. Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân. Ngài hiện diện trong các Bí Tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Thế nên, có thể nói rằng: Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu giống như bất cứ một cơ cấu tổ chức xã hội nào khác.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta
Kể từ khi lãnh Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn cuộc đời mỗi người chúng ta. Đặc biệt, qua Bí Tích Thêm Sức, chúng ta nhận được một cách dồi dào bảy ơn Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta trở nên “chiến sĩ Chúa Kitô”, can đảm làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Chúa Thánh Thần còn có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa. Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng…
Không những thế, Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất các Kitô hữu. Câu chuyện tháp Baben xưa, loài người vì kiêu ngạo, muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị chia rẽ và phân tán, thì nay, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ có thể nói mà nhiều người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được; mọi người ở các quốc gia khác nhau cùng tuyên xưng một niềm tin vào Chúa.
***
Trong khi hiện ra với các môn đệ, cùng với việc thở hơi để trao ban Thần Khí, Chúa Giêsu còn ban bình an cho các môn đệ, đang khi các ông lo lắng, phiền muộn. Như vậy, Chúa Thánh Thần còn là nguồn bình an mà Chúa Giêsu trao tặng cho mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận món quà đó, chúng ta cũng được mời gọi trở nên bình an cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những người đang sống trong cảnh khốn cùng; để chớ gì, bất cứ nơi đâu có dấu chân của chúng ta bước tới, nơi đó có sự bình an.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cơ hội nhắc nhở mọi người chúng ta suy nghĩ lại về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Chúa Thánh Thần, dù được cầu khấn mỗi khi chúng ta bắt đầu một công việc, nhưng dường như sự kêu cầu này đã trở nên máy móc, và chúng ta không còn ý thức đến sự hiện diện của Ngài trong đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Chúng ta chưa lắng nghe và vâng theo sự chỉ dạy và hướng dẫn của Ngài. Làm sao để Chúa Thánh Thần có một chỗ đứng quan trọng trong cuộc đời chúng ta?
Thánh Phaolô tông đồ nói: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí” (1Cr 12,4). Như vậy, mỗi thành phần trong Giáo hội đều có những vai trò khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu chung là xây dựng thân thể Hội Thánh. Mỗi người chúng ta hãy duyệt xét lại bản thân mình xem, tôi đã sử dụng những ơn huệ Chúa ban như thế nào? Tôi đã dùng để phục vụ và xây dựng Hội Thánh Chúa, hay sử dụng vào mục đích khác?
Chúa Thánh Thần đã, đang và vẫn còn hoạt động trong Hội Thánh, thế nhưng, đôi lúc, chúng ta chưa nhận ra Ngài là vì như câu chuyện kể trên, chúng ta chưa khao khát Ngài cho đủ, chưa mong muốn Ngài thực sự. Dâng thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ hướng dẫn chúng ta, như xưa, Mẹ đã hướng dẫn các môn đệ trong nhà Tiệc Ly, để chúng ta có thể mở lòng ra, đón nhận một cách dồi dào những nguồn ơn phúc vô biên của Chúa Thánh Thần. Amen. -------------------------------
“Vào ngày 18.5.1996, tôi được thụ phong Linh Mục. Có ai đó nói với tôi rằng, vào dịp này bất cứ điều gì tôi cầu xin đều được lãnh nhận. Vì vậy tôi thưa với Chúa Giêsu, khi tôi nằm sấp trên nền cung thánh: “Lạy Chúa Giêsu, con biết con sẽ là một Linh Mục theo ý nghĩa Bí Tích, nhưng con cũng muốn được rửa trong Thánh Thần theo ý nghĩa Lễ Ngũ Tuần.” Hai ngày sau khi lãnh chức, ngày 20.5.1996, tôi dự một nghi lễ cầu nguyện tại một Giáo Xứ địa phương, và tôi được rửa trong Thánh Thần.
Vào ngày được truyền chức, bạn tôi, Mary Beth, nói rằng em bé người hàng xóm của cô ấy bị bệnh nặng. Và những tháng sau khi chào đời, bé vẫn phải ở trong bệnh viện. Cô ấy xin tôi cầu nguyện cho nó. Tôi đã bỏ dở bữa tiệc và đi đến bệnh viện. Tôi nhớ hình ảnh đủ thứ ống dây cắm vào em bé. Tôi hỏi bố mẹ nó: “Anh chị có tin nếu tôi xức dầu cho em bé, thì nó sẽ được chữa lành không ?” Họ đáp “có”, và tôi đã xức dầu cho nó. Ba ngày sau tôi gọi điện thoại và được biết em bé đã khỏi bệnh cách lạ lùng. Tôi nghĩ đó là biểu tượng cho Bí Tích đầu tiên tôi cử hành là xức dầu cho em bé bị bệnh nặng và nó được bình phục. Từ ngày đó việc cầu nguyện chữa lành là phần quan trọng trong thừa tác vụ của tôi” ( Lm. Stefan P. Starzynski, Tiếp tục tác vụ chữa lành của Chúa Giêsu ).
Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay Chúa Giêsu trao ban Đức Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ qua nghi thức biểu tượng “thổi hơi”. Ngay từ khi nhập thế và nhập thể, Chúa Thánh Thần đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trên từng chặng đường cứu độ.
Nguồn Sống
Chinh từ Thần Khí phát sinh nguồn sống vạn vật. Thần Khi Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. ( St 1, 2 ). Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. ( St 1, 7 )
Đức Mẹ Maria đã thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. ( Mt 1, 18 ). Khi Chúa Giêsu vừa chịu phép rửa bới ông Gioan Tiền Hô, thì Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. ( Mt 3, 16 ). Sau đó, Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ ( Mt 4, 1 )…
Đấng Bảo Trợ
Ngay sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh, Người đã hiện ra và trao ban cho các môn đệ Thần Khí. Nhưng còn thiếu sự cộng tác, thiếu sự chuẩn bị đón nhận, thiếu sự hiệp thông, nên Thần Khí Chúa chưa thật sự tác động trên các ngài. Do vậy, mà cửa vẫn khóa, then vẫn cài chắc chắn, vì các ngài còn mãi hoảng sợ, kinh hãi người Do Thái, tâm hồn vẫn mất bình an và niềm vui.
Chỉ khi các ngài cùng nhau hiệp ý, đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, thì Thần Khí Chúa mới thật sự xuống với các ngài. Tái sinh, đổi mới, cùng bảo trợ các ngài.
Sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh, “vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông, chúc bình an và sai đi rao giàng. Nói xong, người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần…” ( Ga 20, 19 – 22 ).
“Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín…” ( Ga 20, 26 ). Trở về Giêrusalem, các Tông Đồ “đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu” ( Cv 1, 14 ). “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” ( Cv 2, 1 – 4 ).
Sống trong Thần Khí
Các Kitô hữu cũng được Chúa Thánh Thần ngự xuống khi lãnh nhận các phép Bi Tích Rửa Tội và Thêm Sức. Thế nhưng tôi chẳng thấy được tái sinh, được biến đổi và được bảo trợ. Hình như tôi chẳng nhận được Bảy Ơn căn bản của Chúa Thánh Thần: Khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, hiểu biết, đạo đức và kính sợ Chúa. Phải chăng Chúa Thánh Thần bỏ rơi tôi, quên tôi rồi sao ?
Không, chính vì tôi chưa sẵn sàng đón nhận Ngài, chưa trân trọng kính mời Ngài đến thăm. Phải chăng tôi đang bị những nhân khí, âm khí và tà khí hiệp lực, vây hãm chặt chẽ và nặng nề.
Nhân khí là những bản năng, những ham muốn vinh thân phì gia, những đam mê xác thịt. Âm khí là những khuynh hướng thế gian sa đọa. Tà khí là những cám dỗ ma quỷ, kiêu căng, hận thù, ganh ghét, giận dữ. Tất cả chúng biến tôi thành kẻ nô lệ xác thịt, nô lệ xã hội thực dụng và hưởng thụ, nô lệ ma quỷ kiêu căng, chống lại sự thật, sự công chính và sự sống viên mãn.
Tôi trở nên nhạy cảm với thú vui trần gian, xa dần Thần Khí, rồi dửng dưng và chống lại Thần Khí. Tôi đánh mất dần nhận thức tội lỗi. Tôi đương nhiên thuộc về cộng đồng, mà ngôn sứ Isaia đã phải thất vọng thốt lên: “Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng tâm hồn chúng thì xa Ta” ( Is 29. 13 ).
Tôi thường vào mạng internet lùng sục, ngấu nghiến coi những tin tức giật gân, những xì căng đan các thần tượng, những chuyện tình, tiền, tù, tội. Thay vì truy cập vào các trang web nhà đạo, để tìm hiểu, học hỏi Lời Chúa, để suy tư nguyện ngẫm, nâng tâm hồn lên bằng những hạt giống tốt lành, có thể củng cố, phát triển, bồi dưỡng các nhơn Đức Tin, Cậy, Mến, ...
Tôi không có thì giờ hằng ngày đến với kinh nguyện, chầu lễ. Nhưng tôi vẫn thường xuyên vui vẻ thoải mái hằng giờ bên bạn bè đàn đúm. Yên tâm sống đạo bình thường như bao người khác. Riết rồi sống tầm thường và tầm bậy lúc nào chẳng hay.
“Mẹ Têrêsa đã thuật lại kinh nghiệm nội tâm này: “Tôi luôn ý thức tôi không thể làm gì. Vì thế, tôi để mặc cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong tôi và Người muốn làm gì tùy ý. Đó là thành công của tôi”. Nhờ đó, một mình Mẹ đã lập 5 loại dòng tu khác nhau trên thế giới ngay cả ở Liên xô, Rumani, Cuba, Albani... để làm việc truyền giáo.
Ngày lễ hôm nay, xin Chúa Thánh Thần ban cho tất cả chúng con được ơn tái sinh, biến đổi để trở nên con người mới phù hợp với thời đại. Xin Chúa Thánh Thần đến an ủi kẻ âu lo, bệnh tật, tù đày, đau khổ... và đến giúp đỡ cho các thanh niên thiếu nữ và trẻ em biết sống cuộc sống của Chúa Kitô Phục Sinh” ( Đức Hồng Y PX. Nguyễn Văn Thuận, Bài giảng 43: Chúa Thánh Thần, Chúa Nhật 19.5.1991 ).
Xin Mẹ dạy chúng con luôn biết cầu nguyện, khấn xin Chúa Thánh Thần luôn đổ tràn hồng ân trên chúng con. Amen.
“Bình an cho anh em ! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Anh em cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Đoạn Tin Mừng ( Ga 20, 19 – 23 ) của Lễ Hiện Xuống này, được xem như một tuyên ngôn khai sinh một Hội Thánh của Chúa Giêsu mang tên Hội Thánh được sai đi để ban ơn tha thứ, cứu độ. Hội Thánh đã lãnh nhận ơn Bình An qua sự đặt tay của Chúa Giêsu, giờ phải ra đi, và mang Bình An của Chúa Thánh Thần đến với mọi người, để bình an ấy trở nên niềm vui hạnh phúc cho con người, hôm nay và mai sau: Bình an của người được thứ tha và cứu rỗi.
Người được sai đi phải ra đi
Hội Thánh phải ra đi. Đã đến lúc phải hiểu ra đi theo nghĩa trước tiên là “ra khỏi cái vỏ ốc, ra khỏi cái cái tháp ngà Baben của mình, để đi đến với cuộc đời”. Cụ thể hơn là ra khỏi cái tôi, cái ngôi quyền thế chức vị vô ích của mình đi để làm một điều gì có ích cho đời hơn là chễm chệ trên cái tôi ấy mà “mackeno”, sống chết mặc ai. Nếu còn là con người có lương tri hẳn đã phải chạnh lòng trước bao nỗi đau khổ, nhục nhã, hàm oan của bao người. Nếu là một Kitô hữu có niềm tin và lòng yêu mến Thiên Chúa, hẳn càng phải chạnh lòng hơn nữa trước bao nỗi đau thiếu vắng niềm tin, thiếu vắng sự hiện diện của Thiên Chúa trong lòng người, trong xã hội hôm nay. Vâng, phải ra khỏi cái “tôi lô cốt” kia, và đặt mình trong hoàn cảnh sống của người khác, vẫn luôn là một thách đố cho người tín hữu, cho cả Hội Thánh.
Có đi mới có đến
Địa chỉ đến phải là địa chỉ của Thánh Thần hướng dẫn, không phải địa chỉ của sở thích hay ước muốn riêng tư. Bởi vậy mới có câu kinh: “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm”. Không xin sáng soi cho biết “việc thích làm”. Khi đã đến, hẳn không chỉ đến qua loa “xem nơi người ở” mà còn để “ở lại với người”.
Đến để nói những gì ?
Vâng, ra đi để nói Lời của Thiên Chúa, để làm cho Lời Thiên Chúa cư ngụ giữa cõi lòng con người, sinh hoa kết quả là đời sống công chính. Phải làm cho Lời Chúa nhập thể và nhập thế trong lòng người, trong các gia đình, trong xã hội, để nơi ấy, trổ sinh ơn tha thứ, bình an hoan lạc mới là mục đích cuối cùng của Thiên Chúa.
Và phải nói ngôn ngữ nào đây ?
Muốn cho Lời Thiên Chúa được nghe, được đón nhận, hẳn phải nói đúng ngôn ngữ của người mình nói với. Dùng ngôn ngữ bản xứ là Việt, Anh, Nhật hay Trung, thiết tưởng chưa quan trọng bằng sử dụng “ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần” đó là “yêu thương, cảm thông và tha thứ”. Nhờ loại ngôn ngữ này mà những người đau khổ, thấp kém, bình dân, ít học, cá biệt, kể cả người vô thần có quyền lực, có tiền bạc hay kẻ chống lại Thiên Chúa cũng có thể nghe được Lời Thiên Chúa. Trong xã hội ngày nay, Lời của Thiên Chúa sẽ thực sự lạc lỏng, nếu người nói bằng cung cách phán truyền thiếu cảm thông, ra lệnh thiếu yêu thương, xử phạt thiếu khoan dung tha thứ.
Nhìn lại việc thực hành lệnh truyền sai đi, có thể trong chúng ta đã có nhiều thái độ thiếu chân thành với Thánh Thần.
- Tại sao Thánh Thần sai mà không chịu đi ? Lại phải đòi hỏi Thánh Thần sắm đủ phương tiện mới đi được ? Đến khi có phương tiện rồi, thì lại dùng phương tiện đi lạc địa chỉ, không đúng địa chỉ mà Chúa Thánh Thần muốn chúng ta đến !
- Tại sao Thánh Thần bảo mà không chịu làm ? Lại trả treo với Thánh Thần rằng bảo điều gì mình thích làm, thì việc làm mới có hiệu quả ! Có phải là chúng ta đã xem sự khôn ngoan của mình quá lớn chăng ?
- Tại sao lâu lâu lại nghe chuyện nực cười: “Đức Cha không phải là Thánh Thần, tôi đang ở Giáo Xứ này với bao công trình dang dở, không thể thuyên chuyển tôi đi đâu cả”. Hoặc “Con cảm ơn Đức Cha, trâu to sai về cày ruộng nhỏ, con đành chịu”…
Nhìn lại việc đến với người bằng tình yêu thương cảm thông tha thứ, hẳn chúng ta phải xấu hổ vì chúng ta đã bịt tai bịt miệng như bao người tự làm mình câm điếc kia trước bao Sự Dữ hoành hành. Nếu đã đến với người bằng tình yêu thương cảm thông tha thứ, thì thiết tưởng, hãy nghe cho rõ tiếng của những người ăn mày tự do đang gào thét, người hành khất công lý đang gõ cửa, người đói khát nhân quyền đang rên la, kẻ yêu sách chủ quyền đang le lưỡi nghẹn lời dưới gót chân đàn áp, người tù tội oan sai đang rên rỉ đếm ngày tính đêm trong ngục tối u sầu, nghe tiếng những người nghèo đang tranh giành nhau chút gió trời ở những khu ổ chuột oi bức… và nhất là tiếng của những người đau khổ vì tội lỗi, khát khao sống đời công chính.
Tại sao Chúa Thánh Thần bảo yêu mà không yêu được ? Lại phải chọn lựa người mình yêu sao cho có lợi phần mình ? Tạii sao không thể yêu được những người thấp bé, nghèo hèn, không tiền không bạc trong Hội Thánh, trong xã hội ? Tại sao không thể làm bạn được với những tên tội đồ ưa góp ý về cách hành xử thiếu nhân bản của mình khi bản thân mình được ơn “phục vụ” chứ đâu phải là ơn “được phục vụ ?”
Nhìn lại việc đem Lời Tình của Thiên Chúa, Lời bình an và ơn tha thứ đến với con người, có lẽ càng phải đấm ngực nhiều lần hơn nữa. Bởi lẽ chúng ta chưa thực sự muốn ơn bình an và tha thứ đến với mọi người, chưa thực sự muốn làm cho Thiên Chúa được vinh danh, chưa thực sự muốn làm cho tình yêu của Thiên Chúa được đươm hoa kết trái nên vẫn cứ ậm ừ trong một khuôn khổ.
Hôm khánh thành Nhà Thờ Họ Đạo đảo Phú Quý, có người hỏi “Đảo Phú Quý có 160 tín hữu mà xây Nhà Thờ to thế ?” Có câu trả lời: “Phú Quý hiện có 27 ngàn ngư dân. Tôi nghĩ có bao nhiêu con người tin ở Ông Trời, là có bấy nhiêu tín hữu. Bởi nơi đây không chỉ là nơi cầu Trời ban bình an cho ngư dân Công Giáo, mà còn là nơi cầu khẩn của tất cả ngư dân trên biển thành tâm đến với ông Trời”.
Vừa nghe câu nói này vào buổi trưa, thì buổi tối, tôi vui mừng thấy là có rất đông lương dân ( dân tốt lành, lương thiện ) kéo đến thăm Nhà Thờ mới. Họ vào tận bên trong Nhà Thờ. Người rờ chân Mẹ Maria, kẻ nắm tay Thánh Giuse, có người chỉ lên Thánh Giá Chúa Giêsu: “Xem kìa, ông Chúa bị đóng đinh để cứu đời”. Ai dẫn dắt họ, ai mở miệng họ, nếu không phải là Chúa Thánh Thần. Như thế, công trình ở Họ Đạo đảo Phú Quý không phải là cộng tác với Chúa Thánh Thần đấy sao ?
Tại sao không thể mang lời tình yêu thương của Chúa đến với dân nghèo bằng chính việc mình đi đến với họ, mà phải đợi họ đến để cầu khẩn van xin ? Ngay trong Giáo Xứ, có những người bê trễ, biếng nhác, bỏ xưng tội rước lễ lâu năm, sống trong tình trạng rối rắm… tại sao không thể đến với họ an ủi, giúp họ trở lại đời sống bình an mà phải đợi họ đến với mình ?
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã sai Chúa Thánh Thần đến trong trần gian. Xin cho chúng con đón nhận Chúa Thánh Thần và chấp nhận Ngài soi sáng chúng con trên hành trình “ra khỏi cái tôi của mình, đi đến địa chỉ của Ngài hướng dẫn, can đảm nói lời yêu thương bình an và thứ tha của Thiên Chúa cho mọi người”. Amen.
PM. CAO HUY HOÀNG, 17.5.2013 -------------------------------
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba. Ngài được mệnh danh bằng nhiều tước hiệu: Thánh Linh, Thần Khí, Đấng Sáng Tạo, Đấng Canh Tân, Đấng Bảo Trợ, Đấng An Ủi, Thần Chân Lý, Thần Hòa Bình, Thần Công Lý, là Đấng tác động những điều được đề cập trong Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo.
Cuộc đời rất cần có người bảo bọc, che chở, nâng đỡ, hướng dẫn... Ngày nay, muốn bảo đảm phần nào cho cuộc sống, người ta mua nhiều loại bảo hiểm: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm xe cộ, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tài chính… Cuộc sống tâm linh của các Kitô hữu có một loại bảo hiểm đặc biệt: Bảo hiểm linh hồn qua Đấng Bảo Trợ – tức là nhờ Thần Khí Thiên Chúa.
Tuy nhiên, bảo hiểm thế gian là dạng “khoán”, người ta thường nói là “khoán trắng”, còn bảo hiểm tâm linh không thể “khoán” theo kiểu thế gian !
Vậy Thần Khí Thiên Chúa là ai ? Đó là “Thần Khí khôn ngoan và minh mẫn (thông minh ), Thần Khí mưu lược ( lo liệu ) và dũng mãnh ( sức mạnh ), Thần Khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” ( Is 11, 2 – 3 ). Ngôn Sứ Isaia chỉ liệt kê 6 ơn Chúa Thánh Thần. Nhưng người Công Giáo vẫn thường nghe nói có 7 ơn Chúa Thánh Thần. Vậy là sao ? Chúng ta biết rằng số 7 là con số hoàn hảo theo Kinh Thánh, Giáo hội thêm một ơn nữa để cho đủ con số 7, bản dịch Hy Lạp cũng như bản dịch Latin đều thêm một Thần Khí nữa là Thần Khí hiếu nghĩa ( đạo đức ). Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần không chỉ tác động “hạn chế” trong 7 ơn đó. Ngài là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa chỉ có điều lành thánh, thế nên Ngài tác động và là hiện thân trong mọi điều tốt lành.
C:\Documents and Settings\TramThienThu\Desktop\Holy-Spirit.jpgSách Công Vụ cho biết: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một” ( Cv 2, 1 – 3 ). Gió và Lửa đó là Chúa Thánh Thần. Sau khi được tràn đầy ơn Thánh Thần, mọi người bắt đầu nói các thứ tiếng lạ, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Hoạt động của Chúa Thánh Thần thật kỳ diệu !
Ai cũng cần Ơn Thông Minh để có thể xoay xở những lúc gặp khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là những người sáng tác văn, thơ, nhạc, họa… rất cần Đấng Sáng Tạo soi sáng và hướng dẫn chi tiết để có những ý tưởng mới lạ và độc đáo.
Sau đó, tại Giêrusalem có những người Do Thái sùng đạo kéo đến vì thấy “sự lạ”. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục. “Mỗi người nói tiếng bản xứ của mình, nhưng mọi người nghe đều hiểu. Mọi người bảo nhau: “Vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa !” ( Cv 2, 11 ). Nhưng cũng có những người không hiểu ất giáp gì thì lại chế nhạo: “Mấy ông này xỉn quá rồi !” ( Cv 2, 13).
Chúa Giêsu về trời nhưng chúng ta không mồ côi, vì Ngài lại ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Từ đó cũng là thời đại của Chúa Thánh Thần. Ngài không ngừng hoạt động trong mọi người từ ngày được lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy và bảo trợ chúng ta suốt đời này. Chúng ta thường quên Ngài, nhưng Ngài không quên chúng ta và vẫn tác động trong chúng ta suốt đêm ngày. Vì thế, chúng ta hãy tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi !” ( Tv 104, 1a ). Và hãy thân thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả !” ( Tv 104, 1 ).
Không có Chúa, phàm nhân chỉ có nước “bó tay” và cuộc sống bị “trục trặc” ngay, đơn giản nhất nhưng lại quan trọng nhất đó là KHÔNG KHÍ. Một ơn tuyệt vời như vậy mà hầu như chúng ta không hề biết tạ ơn. Thật vậy: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” ( Tv 104, 29 – 30 ). Sinh khí là sinh lực, là Sự Sống, tức là Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong chúng ta.
Vì thế, hãy biết ơn và xưng tụng Thiên Chúa: “Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” ( Tv 104, 31 ). Đồng thời hãy đoan hứa: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” ( Tv 104, 34 ).
Thánh Phaolô chỉ rõ những gì thuận hoặc nghịch với Chúa Thánh Thần: “Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa. Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô” ( Rm 8, 8 – 9 ). Phân định rất rạch ròi, rất chính xác. Và rồi Thánh Phaolô đưa ra phản đề: “Nhưng nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính” ( Rm 8, 10 ). Thật tuyệt vời vì dù thân xác chúng ta có phải chết vì trót lỡ phạm tội thì Chúa Thánh Thần lại làm cho sống. Ơn Tái Sinh cao cả vô cùng !
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” ( Rm 8, 11 ).
Ai cũng là “con nợ” của Thiên Chúa, đặc biệt là với Chúa Thánh Thần. Nhưng món nợ đó không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để rồi sống theo tính xác thịt: “Nếu sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” ( Rm 8, 13 ).
Được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Đó là “món nợ lớn” của mỗi chúng ta. Cũng chính nhờ Thần Khí mà chúng ta được trở nên nghĩa tử, nhờ đó mà chúng ta được vinh dự kêu lên: “Ápba ! Cha ơi !” ( Rm 8, 15 ). Không chỉ vậy, Chúa Thánh Thần còn “chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa, được thừa tự và đồng thừa kế với Đức Kitô” (Rm 8, 16 – 17a ). Thánh Phaolô đưa ra lý do chính đáng: “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” ( Rm 8, 17b ). Nghe chừng đơn giản, nhưng đó cũng chính là điều-kiện-ắt-có-và-đủ để chúng ta có thể dám nhận mình là Kitô hữu, đặc biệt là người Công Giáo.
Trước khi Chúa Giêsu về Trời, nơi Ngài xuất phát, Ngài đã căn dặn các đệ tử: “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó. Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 14 – 16 ). Cùng với Thánh Thể, đó cũng là một bảo chứng cho lời Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 20 ).
Đức Giêsu xác quyết: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” ( Ga 14, 23 – 24 ). Ngài đưa ra một hệ lụy với mức nối kết chặt chẽ quá. Chúng ta nghe nhiều, biết nhiều, và kinh nghiệm cũng nhiều về “chữ” YÊU, điều mà Chúa Giêsu nhắc nhở quá nhiều lần, hầu như chúng ta nghe và biết đến nỗi hóa NHÀM. Thế nhưng mấy ai sống đúng nghĩa chữ YÊU của Chúa Giêsu ? Liệu có phải chúng ta đang KHÔNG CẦN Chúa Thánh Thần tác động ? Hay là Chúa Thánh Thần ĐÃ tác động mà chúng ta KHÔNG MUỐN “xin vâng” ? Chắc hẳn không oan đâu – dù bạn là ai và ở cương vị nào !
Quả thật, Chúa Giêsu đã xác minh: “Các điều đó, Thầy ĐÃ nói với anh em, đang khi còn ở với anh em” ( Ga 14, 25a ). Thầy Giêsu nói nhiều lắm rồi, nói mãi mà chúng ta vẫn chưa thấy “ngứa” tai. Đại Sư Giêsu biết, biết lắm, biết rõ, Ngài cũng rất thấu hiểu và rất cảm thông, thế nên Ngài lại phải tiếp tục hứa: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” ( Ga 14, 25b – 26 ).
Thật may mắn và thật hạnh phúc cho phàm nhân khốn nạn chúng ta. Vấn đề còn lại là chúng ta có CAN ĐẢM vâng lời mà làm theo Ý Ngài hay không, tức là chúng ta có chấp nhận cách tác động của Chúa Thánh Thần hay không. Rất đơn giản nhưng cũng rất phức tạp. Đừng theo ý mình hoặc vinh danh mình, mà hãy noi gương Đức Mẹ “xin vâng” và nhất quyết vì vinh danh Thiên Chúa mà thôi !
Thật thế, chúng ta PHỤC VỤ cũng chưa đúng mức mà !
Lạy Thiên Chúa Ngôi Ba, chúng con xin lỗi vì đã thường xuyên quên Ngài, thế mà Ngài vẫn yêu thương chúng con. Cúi xin Ngài đến canh tân thế gian và biến đổi chúng con trở thành những khí cụ hữu dụng của Thiên Chúa. Xin thương xót mà tha thứ những kiểu “chảnh” của chúng con, lạy Chúa Thánh Thần ! Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Ngày xưa, khi còn bé, tôi thường coi câu chuyện tháp Babel như một giải thích về nguồn gốc các dị biệt của ngôn ngữ loài người. Cũng thì một Thánh Thần, nhưng lúc bấy giờ Người làm cho ngôn ngữ người ta ra lộn xộn, không ai hiểu ý ai. Vậy mà, khi các Tông Đồ ra rao giảng, Người lại làm cho thiên hạ nghe các ngài nói cùng một thứ tiếng của mình khiến ai cũng hiểu dễ dàng.
"Nào tất cả những người đang nói đây không phải là người Galilê ư ? Nhưng tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mêsopotamia, Giuđêa, Cappađôcia, Pôntô, Tiểu Á, Phrygia, Pamphylia, Ai Cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ ở đây, là Do Thái và tòng giáo, là người Crêta và Á Rập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa !" ( Cv 2, 8 – 11 ).
À, thì ra điểm khác biệt là chỗ này: Một đàng là “ca tụng kỳ công của Thiên Chúa”, đàng kia lại “tự hào về công trình của con người” ?
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các ngươi nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá" ( Lc 21, 5 – 6 ).
Những người Do Thái ngày xưa rất tự hào về Đền Thờ Giêrusalem, nơi họ xây dựng để thờ phượng Thiên Chúa. Vậy mà, Chúa Giêsu lại nguyền rủa nó ! Chẳng lẽ Người chỉ muốn người ta thờ phượng Người trong túp lều da dê nhỏ bé chứa hòm bia Thiên Chúa ? Vâng, đúng thế ! Người không màng chuyện chúng ta thờ phượng Người ở đâu, Người chỉ cần chúng ta đến với Người bằng tấm lòng khiêm cung chứ không phải tâm hồn đầy kiêu hãnh.
Thử tưởng tượng cảnh Giáo Xứ nọ đang liên hoan sau lễ khánh thành Nhà Thờ, các cha đang nói lời chúc tụng, khách khứa trầm trồ, Giáo Dân hoan hỉ… Bỗng đâu có một gã “trôi sông lạc chợ” nào đó phán một câu: “Rồi sẽ có ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào”. Chắc không đến nỗi bị ném đá hay nguyền rủa, nhưng sẽ có ban trật tự lôi cổ gã tống ra ngoài, kèm lời miệt thị: “Đồ say rượu !” Y hệt như phần tử cứng lòng ngày xưa nhận định về các Tông Đồ khi các ngài đang rao giảng dưới sự tác động của Thánh Thần: “Họ đầy rượu rồi !”
Vậy đó, tháp Babel vẫn nhập nhòa giữa những Thánh Đường nguy nga tráng lệ, lâẩn khuất giữa hàng chức sắc, bảng lảng trong các hội đoàn… Chỉ cần chút tự phụ của con người làm dinh dưỡng, nó sẽ “lớn nhanh, lớn mạnh, lớn vững chắc” và che khuất tầm nhìn khiến tôi không còn thấy được kỳ công của Thiên Chúa.
Tôi vẫn còn nhớ lời của một đàn anh: “Ngày nay, Xatan không chỉ rủ rê chúng ta đi vũ trường, đi massage… Nó còn rủ ta vào hội đoàn, khích lệ ta xây Nhà Thờ, mồi chài ta tham gia công tác từ thiện… Rồi đến một lúc nào đó, mọi người đã biết đến ta, nó thổi phồng ta, nó làm cho cái “TÔI” của ta lớn lên và ta chỉ còn chăm chắm làm cho sáng danh ta chứ không phải sáng Danh Chúa.”
Biết vậy mà tôi vẫn không sao tránh khỏi ! Tôi cũng giống như những người Do Thái xưa, giấu cái “Babel-tôi” tự mãn vào công trình tôn vinh Thiên Chúa. Tôi muốn mọi người phải tuân phục tôi, phải ủng hộ tôi, phải ngưỡng mộ tôi vì tôi đang phục vụ cho Thiên Chúa, đang xây dựng cơ đồ cho Thiên Chúa, đang kiến tạo vũ trụ mới cho Thiên Chúa.
Kỳ vĩ biết bao, huyền siêu dường nào ! Thực ra, tôi chỉ lo xây dựng và củng cố cái tháp Babel mà tôi hằng ấp ủ trong lòng. Khi vấp phải những bất đồng, những lạnh nhạt; tôi quay ra than trách con người, xã hội, Giáo Hội… Chưa bao giờ tôi chấp nhận chịu phỉ nhổ để Danh Chúa được cả sáng như các Tông Đồ ngày xưa. Mặc kệ những dèm pha “Họ đầy rượu rồi !”, các ông vẫn nói và nói Lời Thánh Linh khiến ai cũng hiểu.
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Chúa Giêsu được sai đi để chịu chống báng, phỉ nhổ, đọa đày và khổ hình Thập Giá. Còn tôi ? Tôi chỉ muốn được sai đi để hưởng vinh quang, để được mang danh là “người của Thiên Chúa” và ai chống báng tôi là chống báng Thiên Chúa. Chính vì tâm trạng đó mà tôi không khi nào cảm thấy bình an. Ngày xưa, các Tông Đồ cũng nơm nớp lo sợ sự chống đối của người Do Thái nên các ông hội họp lại và đóng kín cửa ( hình ảnh này chắc cũng không xa lạ mấy đối với phần đông tín hữu Việt Nam tuổi trung niên trở lên ). Chúa Giêsu biết vậy nên đã mở đầu bằng câu “Bình an cho các con !” trước khi thổi hơi và ban Thánh Thần cho các ông.
Quả vậy, Thánh Thần luôn song hành với niềm bình an. Có bình an mới biết đón nhận Thánh Thần, và ngược lại, ai có Thánh Thần, người ấy có sự bình an mà thế gian không có được. Sự bình an ấy không hệ tại ở cuộc sống sung túc, đầy đủ; không hệ tại ở danh vọng, vinh hoa; không hệ tại ở an ninh bất khả xâm phạm; không hệ tại ở cuộc đời phẳng lặng yên hàn. Sự bình an ấy chỉ hệ tại ở tâm hồn hoàn toàn vâng phục Thánh Ý và luôn tin rằng có Chúa bên ta cho dù đang cơn bỉ cực, đang hồi sầu não hay đang vòng lao lý…
Bây giờ tôi mới hiểu tại sao bài đọc 1 trong Thánh Lễ Vọng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là trình thuật biến cố tháp Babel. Giáo Hội muốn chuẩn bị cho chúng ta dọn tâm hồn để đón nhận Chúa Thánh Thần bằng cách trước tiên phải triệt hạ thành lũy Babel trong lòng, để Thần Linh Chúa ngự xuống và chiếm hữu toàn bộ lòng trí chúng ta. Nhờ đó, bình an từ Trời sẽ tràn ngập mọi tâm hồn biết sẵn sàng để được sai đi thi hành Thánh Ý.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin luôn ở với chúng con và nhắc nhở chúng con luôn hướng tới những kỳ công của Thiên Chúa. Xin giúp chúng con gạt bỏ tháp Babel kiêu hãnh trong lòng mỗi người chúng con để chúng con chỉ sống với một ước vọng là làm vinh danh Chúa giữa thế giới này. Amen.
Ta đã sống, những năm vô tư lự Mộng hồn nhiên trên cả những hồn nhiên Kệ người ta, ai thích thì cứ thích Ta với ta, thôi thế cũng vui rồi…
Chuẩn bị cho tuần đón Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, lòng bỗng chùng lại với thực trạng ngày càng bi đát trong xã hội, nhất là tội ác nạo phá thai. Chợt thấy bâng khuâng, thật khó diễn tả bằng lời. Nếu tính theo tỷ lệ, Việt Nam đã xếp hạng đầu thế giới.
Ngày xưa, chắc các Môn Đệ cũng từng sợ hãi bâng khuâng, sự sợ hãi ấy tồn tại ngay khi tất cả đều đã tin tưởng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, tận mắt thấy Chúa về Trời. Biết thế, nhưng các ngài vẫn sợ hãi, vẫn khép kín và ẩn mình, chỉ đến khi được Thần Khí Chúa tác động thì niềm vui, bình an và tình yêu đã xua tan những cơn sợ hãi để họ hiên ngang cất bước lên đường rao giảng Tin Mừng.
Trong việc Bảo Vệ Sự Sống, sự sợ hãi dường như là một cảm xúc thường trực vây bủa chung quanh. Vượt qua nó thực không hề dễ chút nào. Nó đến từ tất cả mọi phía, ngày và đêm và trong cả cái tôi to tướng của chính mình nữa.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho con:
Ơn Khôn Ngoan: Để phân biệt điều phải, điều trái, để biết rằng đâu là chân lý, đâu là tình yêu mà phục vụ, biết rằng đâu là những cạm bẫy để tránh xa, để đấu tranh không thỏa hiệp với sự dữ. Rất nhiều khi, chỉ vì ngu dốt mà chúng con đã để cho sự dữ chiến thắng, cướp đi mạng sống của bao thai nhi, bao người mẹ.
Ơn Hiểu Biết: Vâng, trong cuộc sống, nhiều lúc chơi vơi, tiếng Chúa gọi con như mơ hồ xa thằm, Ngài gọi con để con trao cho đồng loại, cho những thai nhi này những hy sinh, vậy mà con không sao hiểu hết, vẫn có những lúc vùng vằng như muốn bứt ra khỏi trách nhiệm Chúa trao, thế nên, nhiều ca BVSS vẫn thất bại gây nên những thảm cảnh đau lòng.
Ơn Lo Liệu: Chúa ơi, giữa xã hội này, khó khăn chồng chất, quyền làm người bị bóp nghẹt, đàn áp, bất công, đói nghèo, thất nghiệp, bạo lực, suy vong… tất cả đổ dồn trên đôi vai người dân đen của chúng con. Lo liệu thế nào trong cuộc sống, lo liệu thế nào cho việc BVSS, Chúa ơi ? Cứ lo được cái này lại mất mát cái khác, nhiều khi vì thế mà thành ra nản chí, thành ra sa ngã. Xin cho chúng con được ơn Lo Liệu để chu toàn theo Thánh ý Chúa, để Danh Cha cả sáng trên Trời và cho các thai nhi mà chúng con luôn yêu mến được bảo vệ an toàn.
Ơn Sức Mạnh: Chúa đã biết con yếu đuối thế nào, chỉ một tí trở ngại thôi là con đã sẵn sang phản bội lại sứ vụ của mình, trời hơi mưa một tí, nắng một tí, có khi đã làm cho con mỏi gối chồn chân không cất bước trên con đường BVSS cách này cách nọ. Nhiều ca BVSS đã không kịp cứu, hối tiếc muộn màng lại dày xé lương tri. Nhiều khi chỉ vì vài lời đe noi, khiến con ngậm tăm chẳng dám lên tiếng bênh vực sự quyền sống của đồng loại. Xin Chúa Thánh Thần ban thêm sức mạnh để cho những chiến sĩ BVSS thực sự trở nên mạnh mẽ và vượt qua hoàn cảnh để gieo mầm Văn Hóa Tình Thương.
Ơn Thông Minh: Chúa ơi, ơn này thì đúng là con cần thông minh thật đấy. Người ta toàn là ông này bà nọ, bằng nọ bằng kia, dùng toàn những lời ngụy biện xảo trá để dẫn dắt các bà mẹ phải phá thai, nếu Chúa chẳng ban ơn này thì làm sao con có thể nói ra sự thật, cho mọi người hiểu rằng, Phá thai là giết người, là giết chính con của mình. Cuộc chiến truyền thông bây giờ đa dạng và khốc liệt quá. Xin Chúa thánh hóa cho chúng con, biết phải nói và hành động như Ý Chúa trong mọi lúc, mọi nơi.
Ơn Đạo Đức: Tất cả sẽ bằng con số không nếu chúng con không có ơn đạo đức. Ân sủng này là nguồn cội để sưởi ấm và đốt lên trong con tình yêu BVSS. Con biết rằng, Thần Khí Chúa luôn tuôn để dồi dào trên chúng con, Nhưng đón nhận ân sủng thiêng liêng này phụ thuộc vào chúng con, vì bản tính kiêu ngạo, vì hẹp hòi nên nhiều lúc tưởng rằng, mình đã là một tấm gương sáng chói cho mọi người. Xin hãy dẹp bỏ những tự kiêu trong tâm hồn chúng con để đón nhận ân sủng Đạo Đức trong khiêm nhường. Bởi BVSS là phải đối mặt với sự kiêu ngạo to lớn của con người.
Ơn Kính Sợ: Con muốn nói lên rằng: Con yêu mến Chúa, con chỉ sợ Chúa phiền lòng vì những tội lỗi, thiếu sót của chúng con thôi. Thiên Chúa là Cha, tình yêu của Người cha luôn dạt dào vô cùng vô tận, có đâu lại phải sợ hãi Người. Nhưng sao nhiều lúc nghĩ lại, những hành động của con lại không thèm nghĩ đến Ý Chúa mà chỉ nghĩ đến con, nghĩ đến những danh vọng hư ảo. Nhất là trong việc BVSS, thích nói, thích hành động theo ý mình mà không theo Ý Chúa.
Trên hết, lạy Chúa Thánh Thần. Xin cho chúng con ân sủng của Người để Nguồn Ân Sủng tác động chúng con biến đổi chính bản thân mình, biến đổi trong suy nghĩ và hành động từ những việc làm tầm thường nhất trong gia đình, trong xã hội để chúng con được xứng đáng với danh hiệu “chiến sĩ BVSS của Chúa Kitô”. Amen.
Đaminh PHAN VĂN DŨNG, 19.5.2013 -------------------------------
Nhìn bên ngoài thì đó là một nơi bình yên chim hót. Vì các cửa đều đóng kín im lìm. Những người đang có mặt ở phía bên trong, thì nói năng nhỏ nhẹ, thì thầm. Nhưng thực ra, nơi ấy, đang là nơi của rối loạn và sợ hãi. Mười một Tông Đồ, lòng trí đang rối như tơ vò. Càng gỡ càng rối. Bởi trước mặt là vực thẳm của bơ vơ. Thầy chết, chơ vơ giữa chợ đời, còn lối nào mà đi. Dùng chữ tuyệt vọng ở đây cũng không phải là quá đáng.
Chính lúc đang chìm sâu trong nỗi đau tuyệt vọng ấy thì Chúa hiện đến. “Bình an cho các con”. Biển đen vẫn đang lặng lẽ như tờ, thì sự sống và niềm vui ở đâu bỗng dưng hiện về sung sức. Các ông tươi cười toe toét, vui mừng vì được thấy Chúa. Sinh lực đã được phục hồi; niềm vui đã quay trở lại. Con người đã bắt đầu đứng thẳng được trên đôi chân. Trong niềm tin tưởng. Chúa nhẹ nhàng trao gởi trách nhiệm, và truyền đạt lệnh mới ra đi.
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em. Nói rồi , Ngài thổi hơi vào các ông và nói: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Thánh Thần chính là hơi thở và là sự sống của Thiên Chúa. Ngày xưa, khi tạo dựng nên Adong. Thiên Chúa cũng đã thổi hơi vào lỗ mũi của ông, và Adong đã thành người. Một nhân loại mới được hình thành. Thời gian hiện hữu bằng thân xác của Ngôi Hai đã hết. nhưng sự sống thần linh, Chúa Giêsu đã trao lại cho nhân loại mới này. Như thế, Chúa Thánh Thần, chính là hơi thở, là sự sống và là tình yêu của chính Thiên Chúa.
Chúa sai các ông đi, nhưng không phải cô đơn gối chiếc một mình, mà là Thần Khí của chính Ngài luôn ở trong, để cùng đồng hành với các ông. Vì thế, sự nối kết với Thánh Thần Thiên Chúa, là điều bắt buộc phải duy trì, đối với mọi thành phần sống trong Giáo Hội; tách ra khỏi Thánh Thần, ta sẽ trở thành một xác chết héo khô. Và trong suốt hành trình của lữ thứ, việc vấp ngã của mỗi kiếp người, là điều đau đớn nhưng không thể tránh nổi. Vì thế Chúa Giêsu đã trao quyền tha thứ mọi lầm lỗi ấy cho chức vụ linh mục trong Giáo Hội. Nhưng xin nhớ, đó cũng chỉ là những con người yếu đuối, vì thế, họ có tha được tội, thì cũng không phải là do họ, mà là bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần; sự sống thần linh của Chúa Giêsu. Vì vậy, việc cầu xin với Chúa Thánh Thần trong mọi bước đi, trước mọi việc làm, trước một quyết định, trong mọi khoảnh khắc, là điều mà mỗi người chúng ta đều phải luôn cố gắng hết sức để thi hành.
Gợi ý suy niệm
1- Giờ này, hồn bạn có bình an, hay bất an? 2- Giờ này, Chúa Thánh Thần có ở trong hồn bạn không?
Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên -------------------------------
Trên một sân khấu, cửa màn vẫn đóng kín, để điện thật tối người ta nhẹ nhàng và nhanh nhẹn sắp xếp bàn ghế, các khung cảnh thích hợp cho cung điện của một triều đình. Đến giờ kéo màn, mọi con mắt nhìn lên, chỉ là một sân khấu tối. Bỗng chốc các bóng đèn pha được bật. Ánh sáng ùa vào dọi sáng chói chang. Cung điện nhà vua hiện ra lộng lẫy. Sự thật đã nằm ở đó, nhưng nếu không có ánh sáng, sự thật không được nhận ra.
Suốt ba năm trời, Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ thật nhiều chân lý. Mang chân lý trong người, nhưng không hiểu gì về những chân lý ấy, và vì thế, tâm hồn các ông vẫn còn rỗng tuếch, tầm thường. Trong ngày lễ ngũ tuần, với phong thái lạc lõng bơ vơ. Các môn đệ đang quây quần với nhau, thì bất chợt Chúa Thánh Thần hiện đến, dưới hình gió và lưỡi lửa. Và thế là “từ đó trong tôi bừng nắng hạ”. Nhận được ánh sáng từ Chuá Thánh Thần, thế là tâm trí các ông được giác ngộ. Những chân lý, những sự thật cao sâu, bây giờ được nhận ra và thấu hiểu, lòng các ông đang sóng sánh trong niềm vui bất tận, như gỡ được một tấm màn phủ che trước mắt. Cái nhìn về cuộc đời và những sự kiện bỗng dưng khác hẳn. Cuộc đau thương và cuộc khổ nạn của Chúa, không còn là một nỗi thất vọng xót xa, sầu buồn. Rồi khởi đi từ ánh sáng chói chang ấy, sự thật về con người mình cũng được ra: Mình được Chúa chọn đó là một hạnh phúc vô biên. Vì thế mình phải đứng thẳng lên, vượt qua nỗi sợ hãi đang phủ lấp tâm hồn, để bước ra mà làm chứng cho Thầy.
Luồng ánh sáng từ Chúa Thánh Thần, còn tăng thêm sức mạnh cho các ông. Các ông không ai bảo ai, mỗi người tự đứng dậy, ra mở hết mọi cánh cửa đang đóng. Ngọn lửa tình yêu với Chúa giờ này đang cháy phừng phừng trong lòng. Chẳng có gì có thể làm các ông sợ hãi được nữa. Dẫn đầu là Phêrô, các ông mạnh dạn tiến thẳng ra công trường Giêrusalem nơi đang chật ních những người từ khắp nơi đổ về để dự lễ. Rất mạnh bạo. Phêrô cất tiếng rao giảng về Thầy Giêsu dấu ái. Và lạ lùng. Một bác chài chính gốc, chẳng hề học qua một nghệ thuật nào trước đám đông, thế nào mà vừa nghe xong bài giảng, cả ba ngàn người xin theo đạo.
Đặc biệt hơn nữa, nguồn ơn của Chúa Thánh Thần làm cho cả một đám đông, nói bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, tất cả đều nghe và hiểu bằng tiếng của nước mình. Dù là Phêrô chỉ giảng bằng một tiếng Do Thái. Chúa Thánh Thần đã làm hiệp nhất mọi người nên một, trong một tình yêu và một ngôn ngữ.
Gợi ý suy niệm:
1- Bạn có cầu xin Chúa Thánh Thần trước mỗi công việc? 2- Bạn có tin và kết hợp với Chúa Thánh Thần trong đời sống của bạn không?
Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên -------------------------------
Công đồng Vaticanô II đã trình bày Giáo Hội là như bí tích của sự hiệp nhất. Hay nói cách khác, Giáo Hội chính là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại. Giữa dấu chỉ và thực tại mà nó muốn diễn tả phải có sự tương đồng gần gũi, như nước và ơn thánh tẩy trong bí tích Rửa Tội, như dầu và ơn sức mạnh trong bí tích Thêm Sức. Vì thế, khi nói rằng Giáo Hội là dấu chỉ sự hiệp nhất, thì sự hiệp nhất ấy phải được thể hiện trước hết nơi cộng đoàn Giáo Hội.
Hơn thế nữa, Giáo Hội còn là khí cụ Thiên Chúa dùng để đưa tất cả nhân loại vào trong sự hiệp nhất với Ngài và với nhau. Càng sống trong một thế giới bị xâu xé vì chia rẽ và thù hận, sứ mạng đó càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Vai trò của Giáo Hội như dấu chỉ và khí cụ xây dựng sự hiệp nhất được thể hiện một cách tuyệt vời trong khung cảnh của ngày lễ Hiện Xuống.
Thực vậy, đám đông vây quanh các Tông đồ lúc ấy là những người nói nhiều ngôn ngữ khác nhau. Họ cũng có những lai lịch và gốc gác khác nhau. Có người từ Rôma mà đến. Có người là Do Thái đạo gốc. Có người ngoại quốc theo đạo. Có người ở đảo Krephi, có người ở Ả rập… Thế nhưng, tất cả đã cùng hiệp nhất trong một ngôn ngữ, ngôn ngữ của đức tin, ngôn ngữ ấy loan báo những kỳ công của Thiên Chúa. Họ hiệp nhất với nhau trong và nhờ sự hiệp nhất với Thiên Chúa. Thật khác xa khung cảnh xây tháp Babel thuở nào. Sự hiệp nhất ấy xảy ra ngay trong ngày lễ Hiện Xuống và còn phải được tiếp nối trong suốt chiều dài của lịch sử Giáo Hội.
Thực vậy, ngày hôm nay cũng thế. Chỉ nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mới có thể thực hiện được ý nghĩa là dấu chỉ và khí cụ xây dựng sự hiệp nhất.
Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ một cách cụ thể hơn. Thánh Gioan ghi nhận: Chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì sợ người Do Thái. Người Việt Nam chúng ta diễn tả một tuyệt vời là nhà cửa. Đã làm nhà thì phải có cửa. Và hai chữ nhà cửa thường đi đôi với nhau. Cửa để đóng và để mở. Đóng để có được một không gian riêng tư và bảo đảm an ninh. Nhưng cũng phải có lúc mở, để người ở trong có thể đi ra và người ở ngoài có thể bước vào, tạo nên sự hiệp thông và gặp gỡ.
Thế nhưng, cửa nhà các môn đệ thì lại đóng suốt vì các ông sợ. Chúa Giêsu hiện ra và nói với các ông rằng: Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con. Đã sai thì phải đi, mà muốn đi, thì việc đầu tiên là phải mở cửa ra, phải phá đi những gì ngăn cản sự hiệp thông và gặp gỡ.
Hình ảnh ngôi nhà các môn đệ ở chính là hình ảnh của tâm hồn chúng ta và của Giáo Hội. Để trở thành dấu chỉ và khí cụ xây dựng sự hiệp nhất, thì điều kiện tiên quyết là phải mở ra, nhưng chúng ta lại đóng kín. Phải nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng ban nguồn sức sống mới, chúng ta khả dĩ có đủ can đảm mở ra đón nhận Chúa đến với mình và đến với tha nhân, nghĩa là sống đầy đủ ý nghĩa là dấu chỉ và khí cụ xây dựng sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và sự hiệp nhất với anh em đồng loại. -------------------------------
Lúc đến Êphêsô, Phaolô hỏi một số môn đệ ở đó: "Khi vào đạo, các ông đã nhận lãnh Thánh Thần chưa?". Họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói tới" (Cv 19,1-2).
Chúng ta đã được nghe nói và đã lãnh nhận Thánh Thần, nhưng có thể Ngài vẫn là Đấng xa lạ với ta.
Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp, nhưng nó không làm ta ý thức về sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng đang ở trong ta và sai ta đi làm chứng.
Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, Ngài đã làm một việc quan trọng, đó là mời họ tiếp tục sứ mạng mà Ngài đã bắt đầu.
"Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19).
"Hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15).
Trong Tin Mừng hôm nay, Đấng phục sinh nói với các môn đệ: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21)
Đức Giêsu cho các môn đệ được tham dự vào sứ mạng của mình. Chỉ có một sứ mạng duy nhất là sứ mạng Chúa Giêsu nhận được từ Chúa Cha. Sứ mạng của các môn đệ nối dài sứ mạng duy nhất ấy.
Ai sẽ giúp các ông thực hiện sứ mạng này? Ai sẽ cho các ông sức sống để dám mở toang cánh cửa mà lên đường loan báo Tin Mừng phục sinh?
Sức sống ở nơi hơi thở.
Đức Giêsu phục sinh đã trao hơi thở của mình, hơi thở của sức sống thần linh cho các môn đệ.
Khi được trao ban Thánh Thần, họ trở thành con người mới, sẵn sàng lên đường.
Thánh Thần chẳng ở xa mỗi người chúng ta.
Ngài có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa, và muốn sống Lời Chúa trong đời thường.
Ngài có mặt khi ta gọi tên Chúa Giêsu trên môi (1Cr 12,3), và gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15).
Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng.
Thánh Thần chẳng ở xa Giáo Hội.
Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung.
Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, nhưng Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân.
Ngài hiện diện trong các bí tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để chúng trở nên Mình và Máu Đức Kitô.
Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu đáng ngờ.
Nếu chúng ta mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt, nếu chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân, nếu chúng ta đừng dập tắt tiếng của Ngài, thì chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn có thấy Chúa Thánh Thần soi sáng và nâng đỡ bạn trong cuộc sống hàng ngày không? Ngài có hoạt động trong nhóm của bạn không?
2. Trong thế giới hôm nay, thế giới gồm cỏ lùng và luau, bạn có thấy hoạt động âm thầm nhưng hiệu quả của Chúa Thánh Thần không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin Ngài hãy đến như cơn gió mát thổi vào đời con, thổi vào Giáo Hội, thổi vào thế giới, để đem lại cho chúng con sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự do thanh thoát.
Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong chảy vào đời con, chảy vào Giáo Hội, chảy vào thế giới, để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi, và làm bật dậy những mầm xanh sự sống nơi chúng con.
Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con chiếu sáng Giáo Hội, chiếu sáng thế giới, để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm, nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng, đó là làm cho vũ trụ này rực sáng Tình yêu. -------------------------------
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, có thể nói đây là ngày khai nguyên Giáo Hội, ngày mà cộng đồng các tín hữu đầu tiên được thành lập và ra mắt thế giới. Trong bài này, tôi sẽ nói về vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu Chúa Ki-tô.
Trong đời sống cộng đồng các tín hữu, Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng và cần thiết, tương tự như vai trò của linh hồn đối với các phần mình trong thân xác con người. Thân xác chúng ta có nhiều bộ phận, nhiều thành phần khác nhau: có đầu, mình, chân tay, mắt mũi, miệng. Các thành phần đó hòa hợp, thông cảm với nhau là nhờ có linh hồn bên trong. Khi linh hồn ra khỏi xác thì các phần thân xác tuy vẫn còn, nhưng không thông cảm với nhau nữa. Khi còn linh hồn bên trong nếu chân ta giẵm phải cái gai thì cả thân thể đều thông cảm và hiệp lực để giúp đỡ: mắt nhìn xem gai ở đâu, mình cúi xuống, tay rút gai ra, rửa vết thương và rịt lại cho cầm màu. Khi linh hồn lìa xác nếu ta có chặt cái chân đi thì cái tay cũng bất động và thân thể cũng không cảm thấy đau. Thế rồi, trong ít lâu, các tế bào tan rữa, thit xương trở nên tro bụi, tại sao thế? – Tại vì thiếu hồn sống bên trong, có hồn sống bên trong thì các phần thân thể mới hợp nhất và thông cảm với nhau. Không có hồn sống thì các phần thân thể sẽ bị phân hủy và tách lìa nhau. Vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu cũng tương tự như vậy. Nghĩa là Chúa Thánh Thần là linh hồn sống bên trong làm cho các tín hữu thông cảm và hợp nhất với nhau thành Thân thể Mầu nhiệm của Chúa Ki-tô.
Theo sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại thì ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống, có rất đông người thuộc nhiều dân tộc khác nhau, nhưng đều hiểu tiếng nói của Các Tông đồ như tiếng mẹ đẻ của mình. Thánh Phê-rô thay mặt các Tông đồ giảng về Đức Giê-su chính là Đấng Cứu thế đã chết và sống lại. Khi ấy họ hết sức cảm động, hỏi ông Phê-rô rằng: “Chúng tôi phải làm gì?” – Ông Phê-rô đáp: “Anh chị em hãy thồng hối và chịu phép Rửa tội nhân danh Chúa Ki-tô cho được khỏi tội sau đó anh chị em sẽ được lĩnh ơn Chúa Thánh Thần…”. Những người tin lời ông Phê-rô đã xin chịu phép Rửa tội, ngày đó có độ 3000 người xin theo Đạo. Các người này chăm chỉ nghe các Tông đồ giảng dạy, siêng năng cùng nhau dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện. Các tín hữu sống hiệp nhất và để mọi của cải làm của chung. Họ bán ruộng đất, gia sản lấy tiền phân chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu (Tđcv 2,37-44).
Đấy, vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu cần thiết và quan trọng như vậy. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì chúng ta không thể hiểu nhau, không thể tin nhau và không thể đoàn kết với nhau thực sự và lâu bền được, tại sao thế? – Tại vì mỗi người đều mang trong mình tính ích kỷ và lòng tự ái. Tính ích kỷ là chứng bệnh di truyền, nằm trong mình con người từ lúc sinh ra và nó còn lớn lên với tuổi đời. Một em bé con chưa làm ích gì cho ai đã biết ích kỷ rồi: khi cha mẹ chia quà cho các con, đứa nào cũng tranh phần hơn, khi cha mẹ chia công việc, đứa nào cũng muốn chọn việc nhẹ, đấy là ích kỷ. Lòng tự ái cũng là con sâu mọt đục khoét sự hợp nhất. Kinh nghiệm cho thấy có những người rất nhiệt tình trước công việc chung, nhưng chỉ nhiệt tình khi nào ý kiến của họ được nghe theo, bản thân họ cũng được đề cao, còn khi người khác phê bình hay bác bỏ ý kiến của họ thì họ bất mãn, phá ngang và bỏ dở công việc, tại đâu? – Thưa: Tại lòng tự ái. Ích kỷ là chứng bệnh di truyền, tự ái là con mọt phá hoại sự cảm thông và tình đoàn kết. Cũng một câu nói, một từ ngữ mà người hiểu thế này, người hiểu thế khác, như vậy thì đoàn kết thế nào được? Sống chung với nhau mà hiểu lầm nhau, chia rẽ nhau, thật là bất lợi và nguy hiểm. Không nói gì những đoàn thể lớn như quốc gia quốc tế, ngay một đoàn thể nhỏ như gia đình, vợ chồng mỗi người một ý kiến, mỗi người một tính tình, đời sống chung rất khó chiu, nói ra thì cãi nhau, không nói thì nặng nề, ai cũng thấy khổ nhưng không làm cách nào giải quyết. Nhưng nếu có Chúa Thánh Thần thì người ta sẽ tránh được bao nhiêu chuyện phức tạp gây chia rẽ và người ta sẽ cảm thông đoàn kết với nhau một cách dễ dàng.
Sau đây, ta rút ra mấy bài học thực hành:
1) Ta hãy năng cầu xin Chúa Thánh Thần đem lửa tình thương từ trời xuống, làm bùng cháy lên trong nhân loại, để phá tan những căm thù chia rẽ đang làm xáo trộn khắp nơi trên thế giới.
2) Khi có sự bất bình chia rẽ xẩy ra trong gia đình ta hoặc trong mối quan hệ giữa ta với người khác, ta đừng kêu ca phàn nàn, cũng đừng đổ lỗi cho ai, như vậy chẳng giải quyết được gì, mà càng đào sâu hố ngăn cách. Tốt hơn hết là ta hãy ngửa mặt cầu xin Chúa Thánh Thần, là Thần Hợp Nhất, ngự xuống trong tâm hồn mỗi người để phá tan sự hiểu lầm, hàn gắn mọi chia rẽ đang đe dọa đời sống cộng đồng của chúng ta.
Như vậy sẽ kết quả hơn bất cứ một giải pháp nào. Bởi vì nếu Chúa không xây nhà thì thợ xây cũng vô ích, nếu Chúa không canh thành thì lính canh cũng luống công. Kinh Thánh dạy như vậy.
Để kết luận, tôi kể lại đây câu chuyện biến ngôn của một nhà văn Thụy Điển đại ý như sau: Một hôm, vào một buổi sáng mùa hè, trời quang mây tạnh, các sinh vật, thực vật trong một khu rừng tranh luận với nhau về ý nghĩa đời sống. Một con họa mi mở đầu, lên tiếng nói: Đối với tôi, cuộc sống chỉ là ca hát, có thế thôi. Nói rồi nó ngẩng cao cổ, tung lên bầu trời một giọng hát trong trẻo tuyệt diệu.
Nghe thế, con chuột chũi liền lẩm bẩm: Cuộc sống không phải là ca hát, không, hoàn toàn không, nhưng cuộc sống là liên tục đấu tranh trong hầm tối.
Một chị bướm ngắt lời: Như vậy thì thật vô lý. Nhưng cuộc sống phải là thỏa thích vui chơi bay lượn.
Đến lượt con ong lên tiếng: Chị bướm ơi, chị lầm rồi. Đời sống không phải là vui chơi bay lượn, nhưng là chăm chỉ làm việc.
Một chú kiến vênh râu, tỏ ý tán thành quan điểm của con ong.
Bỗng một con phượng hoàng từ trời nói vọng xuống: Tất cả các chú không ai nói đúng cả. Theo ý tôi thì cuộc sống có ý nghĩa nhất là tự do bay bổng trên mây xanh. Tới đây, các cây trong rừng cũng nhao nhao lên lên tiếng tham gia vào cuộc tranh luận: Một cây thông cao vút, cành lá reo vui trong gió, dưới ánh bình minh , lên tiếng khen ý kiến của con phượng hoàng là đúng: Đời sống là vươn mình lên không trung, coi thường những cái nhỏ nhen sà sà mặt đất. Cây bìm leo liền phản đối và đồng tình với chị kiến, chú ong: Đời sống là cần lao phấn đấu.
Cây hồng thắm và cây huệ trắng thì về phe với cô bướm, đồng thanh nói: Đời sống chỉ là vui chơi bay lượn.
Lúc ấy, một đám mây bay qua, buông rơi mấy hạt mưa xuống đám sinh vật, thực vật, đồng thời phát biểu: Đời sống chỉ là giọt lệ cay đắng và nước mắt.
Một dòng suối chảy ngang qua đó cũng xen vào một câu: Đời sống chỉ là mau qua biến chuyển không ngừng.
Trong lúc mà cuộc tranh luận về ý nghĩa đời sống giữa các sinh vật, thực vật và cả mây trời suối nước lên tới cao điểm, nhưng không đi tới kết thúc, thì chuông nhà thờ lên tiếng ngân vang báo hiệu mừng lễ Hiện Xuống làm cho cuộc tranmh luận đang sôi nổi bỗng im bặt. Tất cả đều nhất trí rằng câu trả lời đúng nhất về ý nghĩa đời sống là sự bình an, vui mừng, sức mạnh và hòa hợp trong Chúa Thánh Thần.
Thưa anh chị em thân mến,
Trên đây chỉ là một câu chuyện biến ngôn, không có thực, nhưng nói lên sự thực này là Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng, vai trò chính yếu trong việc điều hòa vũ trụ vạn vật nói chung và loài người nói riêng. Không có Chúa Thánh Thần thì mọi sự sẽ hỗn độn, mọi loài sẽ bất đồng, loài người sẽ chia rẽ nhau. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến tác tạo mọi sự và làm cho mặt đất này được đổi mới. Amen -------------------------------
Trước khi về Trời, hoàn tất sứ vụ cứu thế của mình, Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho các Tông Đồ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” ( Ga 20, 22 ). Nghĩa cử ấy không chỉ mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi nhưng còn biểu lộ sự hiệp thông trọn vẹn của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó cũng chính là tình yêu thương vô biên Ngài dành cho nhân loại. Mặc dầu đã hoàn tất sứ mạng cứu chuộc bằng chính mạng sống và giá máu của mình, Đức Giêsu về Trời với Thiên Chúa Cha nhưng Ngài không bỏ mặc chúng ta mồ côi, mà còn ban Thánh Thần của Ngài đến với nhân loại.
Thánh Thần Thiên Chúa sẽ tiếp nối sứ mạng cứu chuộc của Đức Giêsu. Đây chính là thời đại của Ngài, để Ngài canh tân, kiện toàn và thánh hóa. Như vậy chúng ta phải thực sự mừng vui, tin tưởng và phó thác vào quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta vui mừng vì có ơn phù trợ của Ngài luôn đồng hành với chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào sức mạnh tuyệt đối của Ngài. Còn gì hạnh phúc hơn, khi nhân loại đang sống trong tình yêu thương che chở của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhất là dưới sự hoạt động của Chúa Thánh Thần Tình Yêu, thì còn gì phải lo lắng nữa.
Điều cần nhất mà nhân loại phải để tâm lưu ý là chúng ta đang sống dưới triều đại của Chúa Thánh Thần, Ngài đang kiện toàn, thánh hóa và canh tân đời sống Giáo Hội. Nếu như đã có Chúa Thánh Thần canh tân hướng dẫn, tại sao chúng ta không tin tưởng và lắng nghe lời Ngài. Nhân loại hay ví Ngôi Ba Thánh Thần là “Thiên Chúa bị lãng quên” là vậy. Dường như trong tiềm thức nhân loại chưa có hoặc không còn nữa tên gọi và sự hiện diện của Ngài.
Nếu chúng ta thực sự tin vào Thiên Chúa, nếu chúng ta thực sự tín thác vào sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta sẽ mạnh dạn tiến bước trên con đường hướng đến tương lai. Hạnh phúc trong ngôi nhà của mình, ở đó có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau.
Chỉ cần tin rằng thế giới chúng ta đang sống, có sự hoạt động của Chúa Thánh Thần, nhân loại sẽ không còn cái nhìn thất vọng bi quan trước những thách đố của thời đại, cùng với bóng tối, sự dữ và thế lực của tội lỗi, sự ác đang vây kín. Đã có Ngôi Ba Thiên Chúa canh tân và thánh hóa, sức mạnh và quyền năng của Ngài bao phủ thế giới. Chỉ cần tin và đáp lại lòng tin bằng tình yêu là đủ.
Nếu ai đó đang cần tình yêu, thì Ngôi Ba Thánh Thần chính là kết tinh của tình yêu Chúa Cha và Chúa Con. Nếu ai đó đang cần sự hiệp thông, thì Thánh Thần chính là mối dây thông hiệp. Nếu ai đó đang cần yêu thương bác ái, thì Thiên Chúa Ngôi Ba chính là tất cả… đủ cho nhân loại hạnh phúc trong tình hiệp nhất Ba Ngôi.
Lạy Chúa, trước khi về Trời Ngài đã hứa ban Thánh Thần cho chúng con và hôm nay Thánh Thần Chúa đã ngự xuống trên khắp địa cầu. Với bảy nguồn ơn Thánh chúng con có thể sống hạnh phúc và yêu thương. Có bao giờ ơn thánh không tuôn đổ đâu, mà chỉ tại bởi thế giới khép kín tâm hồn, đóng chặt cửa lòng, từ chối đón nhận nguồn ơn thánh nên nhân loại mãi mãi vẫn sống trong chiến tranh, hận thù. Những dấu hỏi “Ngài là ai ?” không ngừng được đặt ra.
Xin giúp con, hãy tin thật dù chỉ một lần thôi cũng được, hãy thực sự tin thật vào Thánh Thần Thiên Chúa. Chỉ cần nhận biết rằng Ngài đang hiện diện trong con, giữa nhân loại, con sẽ không còn lo sợ bất cứ điều gì, một chỉ biết sống tin tưởng phó thác và can đảm làm chứng cho Ngài giữa lòng thế giới hôm nay.
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG -------------------------------
Lời cầu nguyện trên đây được Giáo Hội tha thiết dâng lên Thiên Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu để Người đoái thương đổ tràn Thánh Thần xuống trên Giáo Hội và trên mỗi người chúng ta.
Hồi tưởng lại thời điểm "sau khi Chúa Giêsu lên Trời, các Tông Đồ xuống khỏi núi… trở về Giêrusalem… các ông lên lầu gác… Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và bà Maria mẹ Chúa Giêsu, kiên trì cầu nguyện ( x. Cv 1, 12 – 14 ). Chuyện gì đã xãy ra khi họ đang cầu nguyện với nhau vậy ? Chính lúc "tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ Trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho họ nói" ( Cv 2, 4 ).
Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống cách uy phong trên các Tông Đồ; sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới đã bắt đầu như thế. Chính Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho 11 Tông Đồ khi yêu cầu các ngài hãy ở lại chung với nhau để chuẩn bị lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần. Và các ngài họp nhau trong kinh nguyện cùng với Mẹ Maria trong Phòng Tiệc Ly, để chờ biến cố Chúa đã hứa ( x. Cv 1, 14 ). Họ đã làm như Chúa Giêsu truyền, và hết thảy được đầy Chúa Thánh Thần ( x. Cv 2, 4 ).
Thật là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần được sai phái xuống trên các Tông đồ và tất cả những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng ta có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thiên Đàng.
Gioan Taulê ( 1300 – 1361 ), Tu Sĩ Dòng Daminh ở Strasbourg nói: "nơi" mà sách Tông Đồ Công Vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. ( Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần )
Những "Hoa quả của Thần Khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực" ( Gal 5, 22 ).
Phải khẳng định rằng "Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo Hội luôn mãi" ( Ga 14, 16 ). Như lời Chúa Giêsu hứa: "Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo Hội thật phong phú dồi dào ! Ðức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa ( x. Deus Caritas Est, số 33 ).
Khi nói đến tác động của Chúa Thánh Thần trên người rao giảng Tin Mừng, Đức Phanxicô viết: "Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần có nghĩa là những nhà truyền giáo mở lòng ra với tác động của Chúa Thánh Thần mà không sợ hãi. Trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm cho các Tông Ðồ ra khỏi chính mình và biến các ngài thành những người loan báo những việc cao cả của Thiên Chúa, mà mỗi thính giả bắt đầu hiểu theo ngôn ngữ riêng của mình.
Chúa Thánh Thần cũng đổ vào chúng ta sức mạnh để loan báo sự mới mẻ của Tin Mừng với sự mạnh bạo lớn tiếng, ở mọi nơi và mọi lúc, ngay cả những lúc phải lội ngược dòng. Chúng ta hãy cầu khẩn Ngài hôm nay, để được thiết lập một cách vững chắc trên cầu nguyện, vì nếu không có cầu nguyện thì mọi hoạt động có nguy cơ trở thành trống rỗng và rốt cuộc lời rao giảng cũng trở nên không có hồn.
Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành những nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết, bằng một cuộc sống được sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi" ( Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 259 ).
Đức Thánh Cha Phanxicô còn nhấn mạnh: “Chúa Thánh Thần là linh hồn của việc truyền giáo "Khi chúng ta nói rằng một điều gì có một "tinh thần", thì thường ám chỉ một số động lực bên trong tạo ra một sự thúc đẩy, động cơ, khích lệ cùng làm cho các hành động cá nhân và cộng đồng có ý nghĩa.
Một việc truyền giáo đầy Thánh Thần khác xa với một mớ những công tác bị coi như những nhiệm vụ nặng nề mà chúng ta chỉ đơn thuần phải làm, hoặc việc gì bị coi như mâu thuẫn với những xu hướng và ước muốn của chúng ta. Tôi rất ước ao tìm được những lời để cổ võ một mùa rao giảng Tin Mừng nhiệt thành, vui mừng, quảng đại, táo bạo, tràn đầy tình yêu cho đến cùng và một đời sống truyền cảm ! Nhưng tôi biết rằng không có động lực nào có thể đủ nếu không có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy trong lòng chúng ta.
Cuối cùng, truyền giáo với tinh thần là truyền giáo với Chúa Thánh Thần, vì Ngài là linh hồn của việc truyền giáo của Hội Thánh" ( Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 261 ).
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau:
"Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến ! Xin Ngài đến canh tân, lay động và thúc đẩy Hội Thánh mạnh dạn ra khỏi chính mình để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.
Xin Ngài đến đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ ! Amen."
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ -------------------------------
Trước khi chịu khổ nạn, Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” ( Ga 14, 16 - 17a ). Chúa hứa thì chắc chắn Chúa ban, nhưng bổn phận của chúng ta vẫn phải cầu xin: “Veni Sancte Spiritus ! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến !”
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, được tôn xưng với nhiều danh hiệu: Thần Khí Sự Thật, Thánh Linh, Thánh Thần, Linh Khí, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ, Đấng Thánh Hóa, Đấng Canh Tân,... Ngài xuất hiện qua hình chim bồ câu, lửa, nước, và gió.
Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong cuộc đời chúng ta, vì Ngài là Thần Khí Sự Sống. Ngài quan trọng đến nỗi mà Chúa Giêsu đã xác định: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” ( Mc 3, 29; Lc 12, 10 ). Mọi tội đều được tha, nhưng tội phạm tới Chúa Thánh Thần thì mãi mãi không được tha, nghĩa là “mắc tội đời đời”.
Nói tới Chúa Thánh Thần, chúng ta quen nhắc tới “7 ơn Chúa Thánh Thần” – ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Chúa. Cách nói quen thuộc đó do quan niệm của Kinh Thánh cho rằng số 7 là con số kỳ diệu. Chúng ta cũng nói Chúa Thánh Thần có sứ vụ thánh hóa, Ngài luôn tác động trong mỗi người, và chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ( x. 1 Cr 3, 16 ).
Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng trong cuộc đời của mỗi chúng ta, nhưng chúng ta lại thường xuyên quên lãng Ngài. Như lời nhắc nhở, trong các giờ phụng vụ, Giáo Hội luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến và thánh hóa mọi sự ngay từ đầu để có hiệu quả đúng theo Ý Chúa.
Như lời Đức Kitô đã hứa trước khi Ngài về Trời, khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho ( Cv 2, 1 – 4 ). Thật vậy, mỗi người đều có khả năng riêng, người được ơn này, kẻ được ơn khác, không ai giống ai, không ai là bất tài vô dụng. Đó là ơn Chúa Thánh Thần, nhưng ơn đó không phải có để ích kỷ hoặc kiêu căng, mà là để làm vinh danh Thiên Chúa.
Tại Giêrusalem lúc đó có những người Do Thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về, nhưng ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục lắm. Đó là hiện tượng “nói tiếng lạ”, nhưng ai cũng hiểu. Các Tông Đồ chỉ là những người ít học, làm đủ các ngành nghề, chẳng học ngoại ngữ bao giờ, thế mà nay thông minh đột xuất, nói ngoại ngữ như gió, họ thấy nhãn tiền chứ chẳng phải chỉ nghe đồn. Lạ quá chừng !
Các Tông Đồ “nói tiếng lạ” không phải để lòe bịp, khoe khoang hoặc ý đồ gì khác, mà chỉ “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa !” ( Cv 2, 11 ). Thấy và nghe vậy, ai cũng sửng sốt, có những người phân vân vì không hiểu như vậy nghĩa là gì, nhưng cũng có những người lại chế nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi !” ( Cv 2, 13 ).
Ngày nay cũng vậy, khi thấy “sự lạ” hoặc thấy người khác có “cái lạ” ( theo nghĩa tích cực về tâm linh ), có người khâm phục và tạ ơn Chúa, nhưng cũng có người gièm pha, chê trách, ghét bỏ,... Có thể họ không nói ra bằng lời, nhưng động thái của họ đã “bật mí” tâm địa của họ. Đây là phương diện cần lưu ý và cẩn tắc !
Ơn Chúa luôn chan hòa và kỳ diệu, chúng ta cầu nguyện mà không thấy “được như ý” nên chúng ta tưởng Chúa không ban, nhưng thực ra Ngài ban cho chúng ta cái khác có lợi cho chúng ta hơn, vì “Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự” ( 1 Ga 3, 20 ). Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” ( 1 Cr 1, 24 – 25 ). Tất cả đều là hồng ân, do đó mà chúng ta phải biết tạ ơn, tự nhủ và thân thưa: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi ! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả !” ( Tv 104, 1 ). Trí óc phàm nhân chúng ta không thể đủ sức hiểu sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Tác giả Thánh Vịnh xác nhận: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng ! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” ( Tv 104, 24 ). Không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được trò trống gì, thậm chí là chết ngay lập tức. Thiên Chúa là sự sống, Thánh Thần là hơi thở, có Thiên Chúa thì chúng ta nên mới hoàn toàn như “sinh vật lạ”, nhưng chắc chắn rằng thiếu Thiên Chúa thì chúng ta không thể nào sống nổi: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này. Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” ( Tv 104, 29 – 31 ).
Ước gì mỗi chúng ta đều nhận thức sâu sắc và đúng đắn về Thiên Chúa, đồng thời khả dĩ định hướng sống rạch ròi: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” ( Tv 104, 34 ).
Các Tông Đồ là những người nhát đảm, sợ sệt, đã từng bị Thầy Giêsu trách là “kém tin” ( Mt 6, 30; Mt 14, 31; Mt 16, 8; Mt 17, 20; Lc 12, 28 ), nhưng sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên can đảm, mạnh dạn, dám ăn dám nói chứ không “bỏ của chạy lấy người” như trước. Đa số các ông đã tử đạo để minh chứng niềm tin vào Đức Kitô. Một Saolê hung hăng và tàn bạo bắt đạo Chúa đã trở thành một Phaolô “mềm như bún” và nhiệt thành rao truyền Đức Kitô sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Rất nhiều các thánh trong lịch sử Kitô giáo đã cho thấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động và biến đổi các ngài.
Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Côrintô: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, Đức Tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa. Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển” ( 1 Cr 12, 3 – 7 ).
Điều đó chứng tỏ sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã tác động: Người nhút nhát thành can đảm, người yếu đuối thành mạnh mẽ, người dốt nát thành thông minh, người khờ dại thành khôn ngoan,...
Thánh Phaolô căn dặn: “Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí” ( 1 Cr 12, 12 – 13 ).
Vâng, Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng. Chúng ta hãy hiệp ý cầu xin với cả Giáo Hội qua bài Ca Tiếp Liên: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra ! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Ðấng ban ân huệ, Ðấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến !...”
Quả thật, “nếu không có Chúa trợ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội”, vì thế mà chúng ta phải không ngừng “xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường, ban cho ơn bảy nguồn, được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời” ( Ca Tiếp Liên ).
Được như thế thì thật diễm phúc cho chúng ta, vì chúng ta chỉ là phàm nhân cát bụi, tội lỗi ngập đầu. Chúng ta càng diễm phúc hơn vì dù chỉ là những tội nhân khốn kiếp mà được phục hồi cả “bộ ba” là nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền nhờ Máu và Nước cứu độ tuôn trào từ Ngồn Mạch Lòng Thương Xót từ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta được Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta và hứa ban hồng phúc trường sinh với Ngài trên Thiên Quốc, vì chính Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, muốn rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó ( Ga 14, 3 ). Đúng là còn hơn là diễm phúc hoặc đại phúc !
Chúa Giêsu về Trời để dọn chỗ cho chúng ta ( Ga 14, 2 ), vì ích lợi của chúng ta (Ga 16, 7 ), nhưng vì quá đỗi yêu thương chúng ta nên Ngài sợ chúng ta mồ côi ( Ga 14, 18 ), thế nên Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần ở hẳn trong mỗi chúng ta ( Ga 14, 16 ), và lời hứa đó được thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần, sau khi Chúa Giêsu về trời được 10 ngày.
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !” ( Ga 20, 19 ). Một lời chúc tuyệt vời, vì đó là “hơi ấm” mà ai cũng cần, cả trong cuộc sống đời thường và tâm linh. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Không vui sao được vì Thầy đã sống lại đúng như Thầy đã nói trước. Tưởng Thầy chết là “chấm hết”, nào ngờ Thầy vẫn “nguyên si”. Sung sướng quá chừng !
Có lẽ các ông sướng rơn nên chả nói được gì. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em” ( Ga 20, 21 ). Một hệ lụy tất yếu. Sướng thì sướng nhưng phải có trách nhiệm, và không được ích kỷ, nghĩa là phải chia sẻ niềm vui đó cho người khác.
Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” ( Ga 20, 22 – 23 ).
Một lần nữa, Chúa Giêsu lại tiếp tục thể hiện Lòng Thương Xót một cách cụ thể: Bí Tích Hòa giải. Đúng như Ngài đã từng bảo ông Phêrô khi ông hỏi Ngài về mức độ tha thứ: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” ( Mt 18, 22 ).
Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, là Thiên Chúa tình yêu, với Thánh Tâm ngùn ngụt Lửa Yêu, nên Ngài dạy chúng ta bao dung chứ đừng “bung dao”, phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi mình” ( Mt 5, 44 ). Như thế mới thực sự là thực hành Lòng Thương Xót và “mới được trở nên con cái của Chúa Cha” ( Mt 5, 45 ), nếu không thì chúng ta chẳng có công cán chi, chẳng hơn người thu thuế và người ngoại đạo ( Mt 5, 46 – 48 ).
Để có thể hành động đúng như Chúa Giêsu mong muốn thì chúng ta phải thực sự can đảm, muốn can đảm thì phải có ơn Chúa Thánh Thần, muốn có ơn Chúa Thánh Thần thì phải cầu xin: “Veni Sancte Spiritus ! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến !” Thật vậy, không có Thiên Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được ( Ga 15, 5 ).
Chúng ta được sai đi như chiên vào giữa bầy sói, vì thế chúng ta phải “khôn ngoan như rắn và đơn sơ như bồ câu” ( Mt 10, 16 ), tức là cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, Thánh Phêrô đã căn dặn mỗi chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” ( 1 Pr 5, 8 ).
Bồ câu hiền lành và thân thiện với mọi người, là biểu tượng hòa bình ( hoặc bình an ). Lửa có tính “nhiệt” ( nóng, dương ), nước có tính “hàn” ( lạnh, âm ). Âm dương hòa quyện Đất Trời. Gió làm hạ nhiệt. Lửa, gió và nước là những thứ rất mềm, nhưng lại “cứng” hơn mọi thứ khác, và không ai có thể cắt đứt được.
Chúa Thánh Thần cũng vậy, khi Ngài đã hành động thì không một sức mạnh nào có thể cưỡng lại. Ngoài ra, lửa có một đặc điểm khác là càng chia sẻ càng thêm nhiều, chứ không giảm bớt. Thật kỳ diệu !
Lạy Thiên Chúa, xin luôn luôn tuôn đổ nguồn ơn Chúa Thánh Thần để chúng con đủ sức hoàn thiện như Ngài mong muốn, nhờ đó chúng con mới có thể sống dồi dào, sống chứng nhân một cách sống động và hiệu quả. Xin Chúa ban “hơi ấm bình an” để chúng con trở nên khí cụ hòa bình ở mọi nơi và mọi lúc, xin ban Ngọn Lửa Thánh Thần để “thiêu đốt” và “uốn nắn” chúng con theo Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Đại Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò của Ngài là Đấng soi sáng, thánh hóa, đổi mới, Đấng ban sự bình an, niềm vui, can đảm, khôn ngoan, lo liệu, hiểu biết, đạo đức, kính sợ Chúa...
Như vậy, Ngài là hồn sống, hơi thở của Giáo Hội. Không có Ngài, Giáo Hội như mất đi sức sống, sinh động và trở nên trống rống. Đức Thượng Phụ Athenagoras, Giáo Chủ Constantinople đã nói: “Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ. Tin Mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo Hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”.
Để làm sáng tỏ vai trò của Chúa Thánh Thần, các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về Ngài.
Vài trò của Chúa Thánh Thần qua ba bài đọc
Khởi đi từ bài đọc thứ nhất trích trong sách Cv 2, 1 – 11, tác giả cho thấy: đến ngày Lễ Ngũ Tuần, các môn đệ vẫn đang tụ họp quanh Đức Maria để cầu nguyện liên lỉ và chờ mong điều Đức Giêsu đã hứa trước đó. Và đúng như lời Đức Giêsu đã loan báo, Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa để hiện xuống trên Đức Mẹ và các môn đệ. Như một sự tác sinh, lập tức, tất cả được tràn đầy Thánh Thần.
Ngay sau đó, như một đặc ân của Chúa Thánh Thần, các môn đệ từ một người ít học, nhà quê, nhát đảm, sợ sệt, nay trở nên thông thái và nói được những tiếng mới lạ, khiến mọi người đổ về hành hương đền thờ Giêrusalem nhân dịp Lễ Ngũ Tuần đều nghe các môn đệ nói được tiếng bản xứ của mình. Cứ thế, các ông tiếp tục can đảm, hăng say ra đi mọi nơi để loan báo và làm chứng về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại để cứu độ nhân loại.
Sang bài đọc thứ hai, 1 Cr 12, 3b – 7.12 – 13, Thánh Phaolô nhắc đến đặc sủng của Chúa Thánh Thần được ban xuống cho mỗi người tùy theo nhu cầu của họ. Tuy nhiên, sự đa dạng của ơn Chúa Thánh Thần trên mỗi người là khác nhau, nhưng đều chung quy một điểm, đó là hiệp nhất trong đa dạng để phục vụ cho Lời của Đức Giêsu hầu sinh ích cho cộng đoàn tín hữu. Qua bài đọc này, Thánh Phaolô nhắc các tín hữu Côrintô phải luôn hiệp nhất trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, để cùng nhau xây dựng nhiệm thể Đức Kitô trong mầu nhiệm Thân Thể Ngài là Hội Thánh.
Sang bài Tin Mừng, Ga 20, 19 – 23, Thánh Gioan làm toát lên sứ mạng được sai đi rao giảng Tin Mừng của các môn đệ; đồng thời, ngài cũng cho thấy căn nguyên sự sống và hoạt động của các môn đệ là do Chúa Thánh Thần.
Thật thế, sau khi ban bình an cho các ông, ngay lập tức, Đức Giêsu đã trao ban cho các ông Chúa Thánh Thần và kèm theo là quyền tha tội. Tại sao thế ? Thưa ! Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, Đấng đổi mới và nguồn mọi sự bình an. Khi con người nhận được ân sủng của Ngài và khi tội lỗi được tẩy xóa, thì ắt được bình an, chan chứa niềm vui và hy vọng.
Như vậy, ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chính là ngày Giáo Hội được khai sinh, và cũng là ngày Giáo Hội lên đường để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình.
Hiểu như thế, thì ngày lễ hôm nay cũng là ngày Lễ Hiện Xuống nơi mỗi người chúng ta. Bởi vì: nếu xưa kia các môn đệ đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng như thế nào, thì hôm nay, mỗi tín hữu cũng đón nhận cùng một Chúa Thánh Thần và cùng một sứ vụ như các ngài khi xưa. Sứ mạng của Giáo Hội hôm nay
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, tiếp theo, qua Bí Tích Thêm Sức, mỗi người đón nhận Ngài cách dồi dào, phong phú để thi hành chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế cách triệt để hơn trong vai trò là thành phần chi thể trong thân thể mầu nhiệm Giáo Hội, có Đức Giêsu là Đầu.
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, là dịp mời gọi mỗi người chúng ta nêu cao ý thức về sự tinh tuyền, trong trắng của ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để tâm hồn chúng ta trở về tình trạng: “nhân chi sơ, tính bổn thiện”, hầu sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Hôm nay cũng là dịp để chúng ta làm mới lại đặc sủng của Chúa Thánh Thần ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, qua đó, chúng ta hiểu được Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa và can đảm, sẵn sàng loan báo cũng như làm chứng cho Lời Chúa.
Khi đón nhận và lắng nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ loại bỏ được những thứ mà Thánh Phaolô cho là hành động do xác thịt như: "dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy" ( Gl 5, 19 – 21 ). Khi loại trừ được những thứ đó, chúng ta sẽ lãnh nhận được những hoa trái của Chúa Thánh Thần như: "bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ" ( Gl 5, 22 – 23 ).
Đạt được điều đó, mỗi người chúng ta sẽ là khí cụ hữu dụng của Chúa Thánh Thần trên và trong cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội hôm nay.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến vì chúng con cần Ngài. Amen.
Tu Sĩ Jos. Vinc. NGỌC BIỂN -------------------------------
Lạy Chúa Thánh Thần, xin xuống tràn ngập tâm hồn các tín hữu, và xin nhóm lữa tình yêu Chúa trong lòng họ.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, nhưng thật ra, chẳng có nơi nào trong Kinh thánh diển tả rõ ràng hình dáng Chúa Thánh Thần ra sao. Sách Tông đồ công vụ thì nói đến "tiếng gió thổi mạnh" "những lưỡi như thể bằng lữa" "các tông đồ nói nhiều tiếng khác nhau". Bài Phúc âm thì tả, Chúa hiện ra và phán: "bình an cho các con" và "Người thổi hơi " trên các tông đồ. Qua Kinh thánh, có nhiều biểu tượng về Chúa Thánh Thần như: gió - lửa - chim bồ câu - các ơn lành khác nhau ban xuống trên các tông đồ. Vậy mà sự hiện diện của Chúa Thánh Thần rất quan trọng và cần thiết cho Hội thánh. Một vị mục sư Tin lành rất nổi tiếng, khi trở lại công giáo đã nói một câu chí lý: "Hội thánh công giáo dù có nhiều khuyết điểm, thiếu sót, nhưng tôi nhận ra qua đó có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Hội thánh.." Mừng kính Chúa Thánh Thần hôm nay, kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Một vài danh từ chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa:
* Thổi hơi: đây là một cử chỉ chúc phúc. Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ, là để chúc phúc cho họ, cũng để trao ban Thánh Thần và ơn sủng Người cho các ông.
* Hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20, 22): tiếng Hêbrơ dịch là: Ruah; Hi lạp dịch là: Pneuma; la tinh thì dịch là: spiritus: có nghĩa gió, hơi thở - khi dùng từ gió và hơi thở để chỉ về Chúa Thánh Thần, điều đó muốn nói: Chúa Thánh Thần là Đấng có năng lực kỳ diệu như gió, như hơi thở, Đấng trao ban sự sống. Dù Ngài thật thần thiêng, nhưng lại hoạt động mãnh liệt trong nội tâm mọi người cùng với chính Thiên Chúa.
b/. Chúa Thánh Thần là ai? Tại sao người giáo dân ít biết về Chúa Thánh Thần?
* Chúa Thánh Thần là ánh sáng, là ơn khôn ngoan: Chúa Thánh Thần được Kinh thánh gọi là Lời của Thiên Chúa, thì đây, nhờ sự khôn ngoan, nhờ ánh sáng của Thánh Thần, các môn đệ mới hiểu rõ được những lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
* Chúa Thánh Thần là sức mạnh, là ơn can đảm: các môn đệ của Chúa Kitô sau ngày lễ Ngũ tuần đã trở nên can đảm phi thường. Chính Thánh Thần thúc đẩy họ mở bung cửa phòng Tiệc ly, trước đó đóng kín bưng vì sợ người Do thái. Cũng chính Thánh Thần thúc đẩy họ chổi dậy và lên đường đem Tin Mừng sự sống đến cho mọi loài. Gương anh hùng của các Thánh Tử đạo Việt Nam , gương can đảm của các nhà truyền giáo, đã là những tấm gương sáng chói cho chúng ta về ơn sủng và tác động của Thánh Thần.
* Chúa Thánh Thần là Đấng hòa giải của con người: Con người vốn mỏng dòn yếu đuối, nhờ Chúa Thánh Thần, họ biết được đường ngay nẻo chính, biết tự chọn cho mình lối đi, biết sống đúng ơn gọi mà Thiên Chúa mời đến. Nhờ ơn sủng của Thánh Thần, họ can đảm lãnh nhận sứ mạng hòa giải con người với Thiên Chúa theo như lời mời gọi của Đức Kitô: "anh em hãy đi dạy dỗ muôn. Anh em tha tội ai, thì tội người ấy được tha." Bản chất của Thánh Thần chính là hòa giải và hiệp thông, nên khi được Chúa Con sai đến với Hội thánh, Thánh Thần sẽ hoạt động mạnh mẽ trong Hội thánh, trong mọi tâm hồn tín hữu. Chính Thánh Thần đã ban cho các tông đồ và các người kế vị, sức mạnh, khôn ngoan, can đảm, để các ông tiếp tục công việc của Đức Kitô, là lên đường đem Tin mừng hòa giải và hiệp thông cho mọi người trên khắp thế giới...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua 20 thế kỷ, Hội thánh vẫn còn tồn tại, dù bao nhiêu sóng gió, bao nhiêu cuộc bắt bớ muốn tiêu diệt Hội thánh khỏi mặt đất này. Đó chính là bằng chứng Hội thánh Chúa Kitô luôn có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần; ta có tin không? Khi ta tin vào Chúa Thánh Thần, ta có muốn năng chạy tới, cầu nguyện với Người cho ta và cho Hội thánh không? -------------------------------
Để kết thúc 50 ngày của mùa Phục sinh, Giáo hội cho chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Mùa phục sinh là mùa cao điểm trong cả năm Phụng vụ. Bởi lẽ, mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm trọng tâm niềm tin của từng người chúng ta. Đây là mầu nhiệm soi sáng và hướng dẫn đời sống đạo của chúng ta.
Một trong những dấu hiệu chứng tỏ Chúa Giêsu đã thực sự sống lại là sự thay đổi thái độ sống của các Tông đồ. Từ những con người nhút nhát sợ hãi trở thành những con người gan dạ và can đảm lạ thường. Chính Chúa Thánh Thần - nguồn bình an đã làm cho các ông được biến đổi lạ thường như thế.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy mặc dù nơi ở của các Tông đồ đã cử đóng then cài rất kỷ lưỡng nhưng các ông vẫn không hết sợ hãi. Sự sợ hãi này bắt nguồn từ nổi bất an trong chính tâm hồn các ông. Bao nhiêu dự định, bao nhiêu ước vọng và bao nhiêu mơ ước đã tan tành theo mây khói. Tưởng rằng theo Thầy Giêsu thì mình sẽ được làm ông này ông nọ. Để rồi mình được người này người kia kính nể. Nào ngờ đâu, Thầy Giêsu - một Đấng quyền lực đầy mình lại để cho những thủ lãnh Do thái bắt Người cách dễ dàng. Các ông chỉ còn biết sống trong tâm trạng bất an trong thất vọng, chán chường.
Hiểu được tâm trạng của những đệ tử mình, nên câu nói đầu tiên của Chúa Giêsu khi hiện đến với họ là: "Bình an cho các con". Chúa Giêsu không những nói một mà đến hai lần. Cùng lúc ấy, Chúa Giêsu cũng trao ban Chúa Thánh Thần - nguồn bình an cho các ông.
Kể từ đó, các Tông đồ đã trở nên những con người can đảm và hăng hái lạ thường. Ra đi rao giảng Tin mừng bất chấp nguy hiểm và rủi ro. Những người bắt Thầy Giêsu vẫn còn đó chứ. Họ có thể bắt các ông bất cứ lúc nào. Dầu vậy, các ông vẫn không sợ và luôn cảm thấy bình an.
Sống trong tâm trạng bất an là một trong những điều đáng sợ cho mỗi người chúng ta. Chắc hẳn ai cũng mong muốn cho mình được sống bình an. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta lại chạy theo người đời để tìm những bình an giả tạo. Đó là tiền bạc, của cải vật chất hay quyền cao chức trọng. Họ tưởng là nhà cao cửa rộng, kính cổng cao tường, được nhiều người kính nể ... là an toàn rồi. Thế nhưng, nếu nhìn kỷ thì chúng ta phải công nhận là càng có những điều đó thì tâm trạng bất an lại càng có khuynh hướng tăng thêm.
Chúa Giêsu đã nói: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian" (Ga 14, 27). Là người Công giáo, chúng ta thật may mắn vì qua Bí tích Rửa tội và đặc biệt qua Bí tích Thêm sức mỗi người đều được đón nhận Chúa Thánh Thần - nguồn bình an đích thật. Hãy biết trân trọng và gìn giữ. Đồng thời, chúng ta nên luôn biết kêu xin Ngài soi sáng hướng dẫn trong đời sống đạo của mình. -------------------------------
Ghép cành là một trong những kỹ thuật lai tạo cây giống rất được các nhà vườn ưa chuộng vì tốn ít thời gian. Cây giống phát triển nhanh nhờ có gốc cây mẹ đã ổn định. Kỹ thuật này cũng được dùng trong việc trồng hoa kiểng. Cùng một gốc, nhưng cho được nhiều màu hoa, kiểu dáng khác nhau. Điểm chung của các loại ghép nầy là cành ghép phụ thuộc hoàn toàn vào thân cây mẹ. Nếu cây mẹ sinh trưởng tốt thì các cành được ghép vào sẽ lớn nhanh, còn cây mẹ không tốt hay chết đi thì mắt ghép cũng vạ lây.
Đức Giêsu qua 40 ngày ở cùng các môn đệ sau Phục Sinh, Ngài về trời với lệnh truyền cho các môn đệ: "Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19). Nhưng lệnh truyền nầy sẽ trở nên nặng nề cho các môn đệ nếu Đức Giêsu không để lại một sự trợ giúp nào. Vâng, sự trợ giúp đó chính là Chúa Thánh Thần - nguồn lực của mọi hoạt động.
Chúa Thành Thần là Đấng nào chắc ai trong chúng ta cũng biết. Bài chia sẻ nầy tôi chỉ muốn kể với các bạn về kinh nghiệm sống với Chúa Thánh Thần. Đầu tiên, Chúa Thánh Thần nhúng tay vào cuộc đời tôi qua Bí tích Rửa tội: "Chúng ta đều đã chịu phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" (1 Cr 12,13). Nhờ đó mà tôi mới có thể nói lên rằng: "Đức Giêsu là Chúa". Rồi lần lượt tôi nhận các Bí tích khác trong đời, mà Bí tích dồi dào Chúa thánh Thần nhất là Bí tích Thêm sức. Từ đây, tôi đã được đầy tràn sức mạnh để bước vào đời sống của một chứng nhân cho Đức Kitô. Những lần yếu đuối sa ngã, tôi được Thánh Thần thúc đẩy để hoán cải quay về. Bước vào đời, trước những chọn lựa, Thánh Thần lại hướng dẫn dắt dìu. Cuộc sống đầy những khó khăn trăn trở, Thánh Thần lại đến ủi an khích lệ qua tiếng nói của mẹ cha, bạn hữu, thầy cô... Ngày cuối đời trước khi về với Chúa, tôi sẽ được Thánh Thần nâng đỡ, bảo vệ khỏi mất linh hồn trước cám dỗ của ma quỷ. Có thể nói rằng, suốt cuộc đời tôi không có lúc nào vắng bàn tay Thánh Thần.
Thế mà không ít lần tôi đã để vuột mất bàn tay ấy. Tôi cao ngạo nghĩ rằng, bàn tay tôi có thể che được hết bầu trời. Tôi để Thánh Thần qua một bên như người chủ quán "bỏ quên" một kẻ ăn mày không tiền. Tôi sống theo bản năng, theo đam mê, theo sở thích, tôi chấp nhận để tà thần hướng dẫn cuộc đời. Khi thất bại nặng nề, tôi mới giật mình nhìn lại. Chúa ơi! Đời con như lá úa.
Tôi dùng lại hình ảnh cây tháp cành để nói về mối quan hệ giữa chúng ta và Chúa Thánh Thần. Chắc chắn là Chúa Thánh Thần là một gốc mẹ tốt. Từ đó làm nảy sinh ra nhiều cành lá tốt. Vấn đề là chúng ta đã tháp vào gốc mẹ rồi, vậy chúng ta có đồng ý hút lấy nhựa sống để trổ sinh hoa trái không? "Có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ có một Thần Khí" (1 Cr 12,4). Chỉ có một gốc mẹ thôi, nhưng từ đó có nhiều loại hoa đẹp ra đời. Bạn nghĩ sao về điều nầy? Xin bạn đừng bao giờ để Chúa Thánh Thần "chết ngạt" trong đời mình.
Đức Giêsu đã bảo đảm cho hoạt động của chúng ta được thuận lợi qua việc ban Thánh Thần cho ta. "Thầy không để các con mồ côi, Thầy sẽ ban cho các con Đấng Phù Trợ khác, Ngài sẽ ở cùng các con luôn mãi" (Ga 14,16). Ta ra đi không đơn độc, không yếu đuối mà có Thánh Thần cùng đi, có sức mạnh của Thánh Thần. Điều cần phải lo sợ là ta có can đảm dấn thân không? Ta có dám "thí mạng" theo sự hướng dẫn của Thánh Thần không?
Chúa Giêsu đã và đang cần mỗi người chúng ta tiếp bước cuộc hành trình của Người, của các Tông đồ, của các bậc tiền nhân trong cánh đồng thế trần nầy. Bạn không cần phải bận tâm cho rằng mình không đủ sức, việc đó không phù hợp với mình, hay mình còn phải lo việc khác. Thánh Phaolô đã nói là có nhiều việc phục vụ, nhưng chỉ có một Chúa, Thần Khí tỏ mình ra cho mỗi người một cách (x. 1 Cr 12,1-7). Bạn hãy làm việc cho Chúa bằng chính công việc hằng ngày của bạn. Ai làm công nhân hãy làm công nhân cho thật tốt, ai cày ruộng hãy cày ruộng cho thật chăm, ai là thầy dạy hãy dạy với tất cả lương tâm và lòng yêu mến, ai là được mời gọi sống đời thánh hiến thì tích cực sống trong ơn gọi của mình... Chính những việc làm tốt đẹp của bạn sẽ minh chứng cho điều bạn kính tin.
Hãy can đảm, đừng hoang mang, đừng sợ hãi, đã có Thánh Thần. Hãy lên đường cùng Người. -------------------------------
Nguồn tin Đức Gioan XXIII loan báo triệu tập công đồng đã làm cho toàn thế giới ngạc nhiên. Lúc đó hầu như không một ai chờ đoán và nghĩ tới sự kiện đó. Vì triệu tập Công đồng Vaticanô II không phải là một suy nghĩ, sáng kiến của Đức Giáo Hoàng, mà ngài được linh hứng từ Chúa Thánh Thần. Ngài gọi Công đồng này là "Một lễ Hiện Xuống Mới". Vì lúc bấy giờ các cửa ra vào của toà nhà Giáo Hội đã khép kín với thế giới bên ngoài đều được mở tung và hướng ra cho toàn thể nhân loại. Sau Công đồng mọi cái đều được đổi mới và được mở rộng; mỗi dân tộc trên thế giới đều có thể nghe được sứ điệp của Chúa Kitô bằng chính ngôn ngữ riêng của mình. Không những từ những tình cảm nội bộ cũng được đổi mới: các vị giám mục, các giáo chủ chống đối thì nay cũng nhiệt tình hưởng ứng và cộng tác.
Một cuộc đổi mới lạ lùng hơn nữa, chính là biến cố Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ cách đây hơn hai ngàn năm, Ngài đã biến đổi các tông đồ như trở thành một con người mới. Trước kia nhút nhát thì nay nên mạnh mẽ phi thường, trước kia hèn hạ bỏ trốn, thì nay sẵn sàng chịu chết vì Chúa. Trước kia các ngài u mê, chậm hiểu, mặc dù sống với Chúa suốt ba năm trời vẫn không hiểu rõ sứ mệnh của Chúa. Họ cứ lầm tưởng Chúa Giêsu sẽ tổ chức một vương quốc trần gian, và họ sẽ dự phần vinh hiển. Chính vì suy nghĩ sai lầm đó mà họ đã ghen tỵ nhau, tìm cách cầu cạnh nhằm ý đồ để được "ăn trên ngồi trước" trong nước Chúa sẽ lập. Thì nay nhờ Chúa Thánh Thần họ đã hiểu được sứ mạng thiêng liêng của Chúa Giêsu. Hay trước đây nóng nảy bốc đồng thì nay trầm tĩnh lắng nghe. Đặc biệt là các Ngài nói được cả các thứ tiếng lạ.
Cũng thế, các giáo hữu đầu tiên thời giáo hội sơ khai cũng được nhờ ơn Chúa Thánh Thần mà cuộc sống trở nên thánh thiện lạ lùng. Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục che chở và đổ tràn hồng ân xuống trên Giáo Hội và mọi người ở khắp mọi nơi trên thế giới. Chúng ta cũng không thua kém các giáo hữu đầu tiên. Qua các bí tích, nhất là qua bí tích Rửa Tội và bí tích Thêm Sức, Chúa thánh Thần đã đến và hoạt động trong ta; Chúa Thánh Thần thông ban dồi dào sự sống của Thiên Chúa cho ta, biến đổi ta nên người Kitô hữu trưởng thành và mạnh mẽ được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngài còn cho ta biết về giáo lý Chúa Kitô: "Thánh Thần sẽ nhắc nhở chúng ta" và các điều cần thiết để giữ nghĩa cùng Chúa và tiến lên trong đời sống hoàn thiện. Muốn làm được điều đó chúng ta phải sẵn lòng mở cửa tâm hồn mà đón rước Chúa Thánh Thần,lắng tai mà nghe Lời Người dạy bảo, khuyên nhủ, hãy vâng theo đường lối Ngài chỉ dẫn cho chúng ta.
Nếu chúng ta có đủ thiện chí và vâng lời, gió của Chúa Thánh Thần sẽ quét sạch mọi lo âu của trần đời thế tục để tâm hồn chúng ta được thảnh thơi tự do. Và lửa Chúa Thánh Thần sẽ thiêu đốt mọi tì vết trong tâm hồn chúng ta, để chúng ta được trong sạch, tinh tuyền, xứng đáng làm nơi Chúa ngự, lửa Chúa Thánh Thần sẽ thiêu đốt tâm hồn làm cho ta cháy bỏng nhiệt tình truyền giáo.
Trong thế giới ngày nay, tâm hồn con người cũng được biến đổi rất nhiều theo đà tiến của xã hội, nhưng không phải hết nơi họ đều được biến đổi theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, mà lại lao mình theo sự cuốn hút của "Tà Thần" đi vào nền văn minh sự chết, một nền văn minh ngày càng thiếu đi tình người. Nhắc đến đây tôi mới giật mình nhìn lại, hàng ngày mình vẫn hay thường lãng quên Chúa Thánh Thần, không quan tâm đến các ơn của Ngài. Vậy, hôm nay và ngay bây giờ chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ và soi sáng để mỗi ngày tâm hồn ta được biến đổi theo hướng của Ngài. Amen -------------------------------
Nhận xét về quyển sách Tông Vụ Tông đồ, Jerome Crowe đã nói: "Quyển sách thứ 2 của thánh Luca được coi là một loạt những lễ Hiện xuống" (His second volume can be regarded as a series of Pentecosts). Chúa Thánh Thần hiện xuống với các tông đồ (Cv 2, 1-4), hiện xuống với nhóm môn đệ (Cv 4,31), hiện xuống với lương dân (Cv 10, 44), hiện xuống với nhóm môn đệ của Gioan Tẩy giả khi Phaolô đặt tay trên họ (Cv 19,6).
Quả thật, khi đọc sách Công vụ tông đồ, chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước công trình của Chúa Thánh Thần thực hiện cho Giáo hội thời sơ khai. Với biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo hội của Chúa Kitô chính thức được khai sinh, và cũng từ đấy, Giáo hội không ngừng lớn mạnh và lan tràn khắp nơi. Với tác động, hướng dẫn và soi sáng của Chúa Thánh Thần, các tông đồ được biến đổi cách lạ lùng. Có thể nói, các ngài đã đi từ thái cực này đến thái cực kia: từ nhát đảm, sợ hãi đến dũng cảm, hiên ngang; từ quê mùa, dốt nát trở thành trí thức, khôn ngoan và hùng biện tài tình. Đây là một cuộc lột xác của các tông đồ trong Chúa Thánh Thần.
Như vậy, có nhiều người thắc mắc rằng: ngày nay, Chúa Thánh Thần có còn hiện xuống với Giáo hội nữa hay không? Đâu là những tác động và biến đổi của Ngài trên cuộc đời chúng ta?
Là những tín hữu đích thực, chắc chắn chúng ta đã được nghe nói, được giảng dạy về Chúa Thánh Thần, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm sức, nhưng rất có thể Ngài vẫn còn là Đấng quá xa lạ đối với chúng ta. Rất có thể, Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp trong nhiều biến cố xảy ra trong đời sống hằng ngày của chúng ta mà thôi. Bí tích Thêm sức không làm cho chúng ta ý thức về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta và sai chúng ta đi làm chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô.
Đâu rồi những tác động của Chúa Thánh Thần trên cuộc đời của chúng ta? Có lẽ, chúng ta đang chờ đợi Chúa Thánh Thần đến làm những chuyện "kinh thiên động địa" nơi chúng ta hay sai chúng ta đi một cách trực tiếp để làm những chuyện "dời non lấp bể"!
Chúa Thánh Thần không ở xa mỗi người chúng ta đâu. Ngài luôn có mặt khi chúng ta chân thành mở sách thánh để đọc Lời Chúa, rung động trước một đoạn Lời Chúa và muốn sống Lời Chúa trong đời thường. Ngài có mặt khi chúng ta âu ếm gọi tên Chúa Giêsu trên môi miệng chúng ta (1Cr 12,3) hay gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15). Ngài có mặt khi chúng ta quyết tâm hoán cải sau một lỗi lầm hay khi ta muốn tiến lên một bước mới trong đời sống cầu nguyện và đời sống thiêng liêng.
Chúa Thánh Thần là tình yêu trọn hảo của Chúa Cha và Chúa Con. Ai biết sống yêu thương tha thứ, cho đi và hi sinh thì sẽ được tháp nhập vào tình yêu trọn hảo ấy để sống trong sự sống của Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần chẳng ở xa Giáo hội hôm nay. Ngài luôn hiện diện và thổi những luồng sinh khí mới cho Giáo hội. Ngài làm cho Giáo hội được hiệp nhất và bình an bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung. Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo hội, nhưng Ngài cũng có mặt nơi những nhóm giáo dân, như xưa kia, Ngài đã hiện xuống trên các tông đồ, trên nhóm môn đệ và trên cả lương dân vậy. Ngài đang hiện diện trong các Bí tích, trong mỗi Thánh lễ. Ngài thánh hoá bánh rượu để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội; không có Ngài, Giáo hội chỉ là cơ cấu đáng nghi ngờ.
Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần tự do hoạt động trong chúng ta. Hãy mở tung các cánh cửa nơi tâm hồn chúng ta để Chúa Thánh Thần thổi những luồng sinh khí mới vào lòng chúng ta. Chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu khi chúng ta trở nên mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt; khi chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân; khi chúng ta không dập tắt tiếng nói của Ngài nơi cõi lòng của chúng ta.
Chúa Thánh Thần vẫn đang hiện xuống trong mỗi khoảnh khắc của cuộc đời chúng ta. -------------------------------
Khi chúng ta trải qua đêm dài trong tăm tối, trong đêm tối mọi người đều phải lo chuẩn bị mọi sự: cửa nhà lo đóng kín, mọi công việc lo cho yên nơi yên chỗ, kể cả con người chúng ta cũng nằm yên bất động. Trong đêm tối nhiều người còn sống trong sự lo sợ, vì bóng đêm không nhìn thấy được sự vật chung quanh, những nguy hiểm cũng lợi dụng bóng đêm mà đến với con người bất cứ giờ phút nào.
Khi mặt trời bắt đầu ló dạng, mọi sự dường như được chuyển mình. Vạn vật mỉm cười đón ánh nắng mới, một sức sống mới cùng với ánh mặt trời mang dến cho vạn vật. Con người cũng thế, mọi người vui mừng hoạt động trở lại với những công việc mới. Cùng với ánh mặt trời, không ai có thể nằm yên bất động như trong đêm tối, mà mọi người đều đứng lên, mở cửa nhà mình ra và cùng hoạt động với sức sống mà ánh mặt trời mang lại cho họ. Nếu ánh mặt trời đến mà có người còn nằm yên bất động, thì đó là những người vô ích, ngày giờ kết thúc cuộc đời của họ đã đến.
Các Tông Đồ đang sống trong đêm tối của sự lo sợ và cô đơn, các ông vào trong nhà, đóng kín cửa lại. Các ông lo sợ người khác làm hại đến mình, vì các ông vừa chứng kiến cảnh đau thương của thập giá. Cảnh dau thương làm cho các ông sụp đổ hoàn toàn, các ông mất đi những ước mơ và hy vọng vọng bấy lâu nay, trong thời gian mà các ông theo Chúa Giêsu, các ông hy vọng rất nhiều, ước mơ rất nhiều. Nhưng giờ đây mọi sự không còn gì hết. Những lời Chúa Giêsu nói với các ông, dạy bảo, nhắc nhở, tất cả không còn gì hết. Các ông đóng kín cửa, thu mình lại trong nỗi lo sợ. Nhưng Chúa Giêsu lại đến trong lúc các ông đang lo sợ, Ngài vẫn vào nhà trong lúc cửa các ông vẫn đóng kín, ngài mang bình an đến cho những con người đang sống trong bất an. Ngài còn trao cho các ông một sứ mạng quan trọng là đem bình an đến cho những người khác: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con..." Ngài đến như vầng thái dương xuất hiện, không cho các ông ngồi yên trong sự sợ hãi nữa, không cho các ông đóng kín cửa tâm hồn của mình nữa, mà bảo các ông hãy ra đi.
Các ông đã nhận được sức mạnh, đã đứng lên và đã hành động. Các ông đã sống trong ánh sáng, các ông đã can đảm thi hành sứ mạng trong sự đỗi mới của một ngày mới. Đêm tối của các ông qua đi, giờ đây các ông đang sống và hoạt động dưới ánh sáng ban ngày, ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh.
Ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh đã làm cho các Tông Đồ đổi mới. Ánh sáng đó cũng làm cho rất nhiều người được đổi mới qua suốt 2000 năm lịch sử. Nhưng ánh sáng đó có đổi mới được những con người của ngày hôm nay, có đổi mới được mỗi người trong chúng ta không?
Mỗi người để một ít phút thinh lặng, nhìn lại cuốn phim cuộc đời. Trải qua bao nhiêu năm, từ ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội, Bí tích Thêm sức, biết bao hồng ân chúng ta nhận được qua các Bí Tích. Chúng ta mang danh là người công giáo, nhưng chúng ta chỉ là người công giáo trên danh nghĩa hay là một người công giáo thật sự.
Nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta vẫn cứ sống theo những gì mình thích, làm những gì mình muốn làm, nói những gì mình muốn nói, mà bất chấp đến những người chung quanh, không cần biết phản ứng của họ như thế nào, cho dù họ có đau khổ, cho dù họ có kêu than, cho dù họ có van xin, chúng ta cũng không cần biết đến. Chúng ta chỉ ung dung tự tại miễn sao mình được lợi ngày càng nhiều, đường mà chúng ta gọi là danh vọng, ngày càng nâng cao, như thế là đủ. Vậy thì những lần đến nhà thờ, những lời kinh chúng ta đọc hằng ngày, những lời giảng dạy và lệnh truyền của Chúa Giêsu, đối với chúng ta không hiệu quả gì sao? Chúng ta không thể đổi mới để thi hành lệnh Chúa cho tốt được sao? Không lẽ sức mạnh của ánh sáng Phục Sinh không mở được cánh cửa lòng đóng kín của chúng ta được sao?
Nếu chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm hằng ngày trong cuộc sống, nhìn thấy được những điều cần làm và phải làm, cho dù phải vất vả khổ nhọc, chúng ta vẫn không từ chối vì biết đây là điều tốt. Khi đó, chúng ta đang được đỗi mới nhờ ơn Chúa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban sức mạnh của Thánh Thần Chúa sức đổi mới tâm hồn và cuộc sống của mỗi người chúng ta. -------------------------------
Lời hứa ở cùng Hội Thánh cho đến tận thế của Chúa Giêsu được thể hiện cách rõ nét qua vai trai trò tác thánh của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh. Thiên Chúa là duy nhất, nhưng có Ba Ngôi. Ở đâu có sự hiện diện của Một Ngôi Thiên Chúa, thì ở đấy cũng đồng thời có mặt cả Ba Ngôi. Chúa Giêsu về trời, giao lại sứ mạng cứu chuộc các linh hồn cho các Tông đồ và Chúa cũng ban Thánh Thần cho để giúp đỡ, củng cố các ông. Biến chuyễn lạ lùng đã xãy đến cho các Tông đồ khi các ông nhận lấy Chúa Thánh Thần trong Ngày Lễ Ngũ Tuần: "Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Thánh Thần, và bắt đều nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần abn cho họ" (Cv 2,4). Thật ra, Ngày Phục Sinh Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ rồi (x. Ga 20,21-23). Nhưng ngày Lễ Hiện Xuống Chúa Thánh Thần đến một các long trọng và là ngày chính thức khai sinh Hội Thánh mà Chúa Giêsu đã thành lập.
Với sự hiện diện đầy năng lực của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh Chúa không ngừng phát triển.
Thực vậy, lệnh truyền "hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19) xem ra khó thực hiện vì nhiều lý do: các tông đồ là những người ít học, thuộc tầng lớp xã hội thấp, tiếng nói không nặng ký, lại xuất thân từ một đất nước bé nhỏ, ít ai biết đến...
Thế mà, khởi từ Ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trên các ông, Thần Khí Chúa đã thúc đẩy các ông ra đi, tạo những biến chuyễn thời cuộc qua các cuộc bách hại tại xứ Palestine khiến các ông phải đi tứ tán khắp nơi, thêm cơ hội để truyền bá Tin Mừng. Và kể từ đó đến nay trải qua 21 thế kỷ, với biết bao khó khăn, cho đến độ chúng ta có thể nói, mỗi trang sử của Hội Thánh Công Giáo đều được viết bằng máu của các chứng nhân Tin Mừng, Hội Thánh không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ, từ con số 12 tông đồ của buổi ban đầu, đến nay đã có hàng tỷ người Tin vào Đức Giêsu Kitô. Đó chẳng phải là minh chứng hùng hồn cho sự hiện diện của Chúa Kitô trong Hội Thánh? Đó chẳng phải là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần hằng "gìn giữ, hướng dẫn, thánh hoá và canh tân" Hội Thánh cho đến tận thế sao?
Tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh và trong tâm hồn mỗi người, chúng ta dâng lên Chúa lời cảm tạ và cầu xin Chúa thêm ơn đức tin, để chúng ta vững bước theo Chúa trong đời sống hằng ngày. -------------------------------
Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và đồng hành với con người. Ngài hiện diện cách sống động và xuyên suốt trong cuộc đời mỗi người nhưng nhiều khi danh Ngài không được nhắc đến với đầy đủ ý thức của con người. Qua giáo lý ta biết Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa. Đôi khi vô tình ta đóng khung Ngài trong 7 ơn mà ta lãnh nhận trong ngày chịu Bí tích Thêm sức. Trong các giờ kinh cũng thế, ta chỉ kêu cầu danh Ngài lúc khởi sự nhưng về sau thì không khi nào nhắc đến danh Ngài nữa. Nếu như ta chỉ nhớ và kêu cầu Chúa Thánh Thần cách vắn tắt ở đầu giờ kinh hay chỉ giới hạn hoạt động của Chúa Thánh Thần trong một vài Bí tích đó là điều vô cùng thiếu sót.
Chúa Thánh Thần đã xuất hiện ngay từ buổi đầu cuộc tạo dựng. Trong suốt lịch sử dân Chúa, Ngài luôn hiện diện, trong cuộc đời Chúa Giêsu Ngài luôn đồng hành, và nhất là trong hội thánh Ngài luôn hoạt động, dạy dỗ, ủi an, đổi mới con người. Bài Tông Đồ Công Vụ trình bày sự kiện Chúa Thánh Thần xuất hiện cách bất ngờ và biến đổi cuộc sống các tông đồ đến tận gốc rễ. Tiếng gió ùa mạnh vào cả căn nhà, những hình lưỡi lửa lần lượt đậu trên đầu các ông, ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần.
Ngày nay mỏ dầu, mỏ than là nhưng nguồn năng lượng đang cạn dần trên thế giới và sẽ biến mất đi. Nhưng gió và lửa là nguồn năng lượng vật chất vô cùng phong phú, không bao giờ cạn và luôn mới mẻ. Gió và lửa là biểu tượng cho những nguồn sức mạnh tinh thần, là ơn lành của Chúa Thánh Thần trao ban. Chúa Thánh Thần đến để làm mới lại bộ mặt trái đất. Đổi mới tâm hồn con người để họ rao truyền Nước Thiên Chúa. Hoạt động của Ngài liên lĩ không lúc nào gián đoạn, nghỉ ngơi.
Chúa Thánh Thần đổi mới ý chí các tông đồ.
Từ ngày Chúa Giêsu bị bắt và bị giết chết, các tông đồ sống trong sợ hãi. Các ông đã chối thầy và đã trốn chạy. Cửa nhà lúc nào cũng khoá chặt, đóng kín. Chúa Thánh Thần xuất hiện, giờ đây các ông mạnh dạn mở toang cửa phòng, ra đi rao giảng Tin mừng Phục sinh cho hết mọi người. Bị bắt bớ, các ông không sợ. Bị đánh đòn các ông vẫn kiên trung. Sau cùng các ông đã dùng chính máu mình làm chứng cho nhưng lời rao giảng. Chúa Thánh Thần hoạt động thật lạ lùng nơi những con người yếu đuối.
Chúa Thánh Thần đổi mới những toan tính bất chính
Làm môn đệ Chúa Giêsu, các ông đều ấp ủ cho riêng mình những ước mơ trần tục. Theo Chúa để được chức trọng quyền cao, theo Chúa để được ngồi bên tả, bên hữu. Ai cũng muốn là người lớn nhất, quan trọng nhất. Các ông theo thầy mà không yêu mến thầy, trái lại chỉ yêu chính bản thân mình. Từ khi được ơn Chúa Thánh Thần các ông đã không còn tranh giành hơn kém, cao thấp nữa. Từ nay các ông hoạt động cho Thiên Chúa và sẵn sàng chết đi vì yêu mến Chúa. Chúa Thánh Thần đã hướng những ước mơ thấp hèn nơi các ông thành những ước mơ cao thượng. Biến đổi những trái tim chai đá thành trái tim bằng thịt. Biến đổi những trái tim chỉ biết yêu mình giờ đây biết yêu rung động yêu thương người khác.
Chúa Thánh Thần biến đổi trí khôn các tông đồ.
Các ông là những người chài lưới, ít học, một chữ cắn đôi cũng không biết. Suốt những năm theo thầy, các ông được dạy nhiều điều nhưng hiểu thì chẳng bao nhiêu. Chúa Thánh Thần hiện đến, trí khôn các ông như bừng tỉnh sau cơn mê kéo dài. Các ông hiểu biết về Chúa, hiểu biết về giáo lý của Chúa và có thể ra đi giảng dạy cho nhiều người thuộc mọi dân tộc khác nhau. Chúa Thánh Thần cho các ông có khả năng nói nhiều tiếng lạ. Các ông say sưa rao giảng đến nỗi nhiều người bảo "họ đầy rượu rồi". Các ông không say rượu nhưng là đang say Chúa, đang say sưa rao giảng Tin mừng Nước Chúa. Người ta nghĩ các ông điên dại nhưng thực ra các ông đang tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Anh chị em thân mến, Giáo hội được khai sinh từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo hội đã có một trang sử kéo dài đã 20 thế kỷ rồi. Giáo hội vẫn tiếp tục cần những luồng gió mạnh của Chúa Thánh Thần ùa đến, lùa vào để đổi mới mọi sự. Mỗi dịp mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một dịp khai sinh mới của Giáo hội. Qua làn hơi, Chúa Thánh Thần trao ban sự sống cho chúng ta. Qua hình lưỡi lửa Chúa Thánh Thần tẩy xoá tâm hồn ta khỏi mọi tội lỗi. Đồng thời Ngài ban sức mạnh để ta trở nên những chứng nhân của Chúa đến tận cùng trái đất.
Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và biến đổi không ngừng bộ mặt trái đất. Như xưa Ngài biến đổi các tông đồ thế nào, thì hôm nay Chúa Thánh Thần tiếp tục làm cho cuộc sống con người thêm mới bằng cách biến đổi cuộc sống từng người.
Các tông đồ từ chỗ không hiểu biết gì, Chúa Thánh Thần cho các Ngài hiểu biết tất cả. Chúa Thánh Thần cùng sẽ mở trí khôn để ta hiểu biết Lời Chúa, nhận biết thánh ý của Thiên Chúa.
Các tông đồ từ chỗ nhát đảm, sợ sệt, suốt ngày cửa đóng then cài. Khi Chúa Thánh Thần xuất hiện các Ngài đã mở tung cửa và đi rao giảng. Chúa Thánh Thần cũng sẽ thôi thúc ta thi hành điều tốt đẹp cho người khác, mạnh dạn làm chứng cho Chúa ở trần gian.
Các tông đồ từ một trái tim chỉ biết sống cho mình, Chúa Thánh Thần cho các tông đồ một trái tim biết sống cho Chúa và cho người khác. Chúa Thánh Thần đến biến đổi trái tim chúng ta luôn biết yêu thương, gắn kết với hết mọi người trong niềm vui, niềm hy vọng và sự cảm thông.
Anh chị em, cho dù ta muốn hay không muốn, tin hay không tin thì Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong Giáo Hội và biến đổi từng người. Chớ chi ta biết mở mắt tâm hồn để nhận ra bao cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần trong đời mình. Biết mở rộng tâm hồn để sống theo ơn Ngài thôi thúc hầu cuộc sống được Chúa Thánh Thần không ngừng đổi mới trong yêu thương, sẵn sàng làm chứng cho Tin Mừng Nước Chúa ở trần gian.
Trước ngày Chúa Thánh Thần đến, các Tông Đồ sống lẫn trốn trong phòng. Một sứ vụ lớn lao được trao phó cho các ngài nhưng vì các ngài chưa có sức mạnh và ý hướng để thi hành sứ vụ đó. Chỉ sau ngày Thánh Thần đến, các ngài trở nên những con người được biến đổi hoàn toàn. Các ngài bắt đầu rời bỏ những nơi ẩn trốn và bắt đầu trở nên can đảm rao giảng Tin Mừng.
Vậy Thánh Thần đã làm gì trên các ngài? Trong lời hứa ban Thánh Thần, Chúa Giêsu nói với họ: "Khi Thánh Thần đến, các con sẽ nhận được sức mạnh và sẽ làm chứng cho Thầy không phải chỉ ở Giêrusalem, nhưng... đến tận cùng trái đất" (Cv 1,18).
Thiết nghĩ, từ chìa khóa trong lời hứa ấy chính là "sức mạnh". Đây chính là thứ mà các Tông Đồ đang cần nhất. Vì ngay giờ phút đó, các ngài trở nên mạnh mẽ và hoàn toàn loại bỏ được yếu hèn, sợ hãi những mặc cảm... trước đó. Họ đã mạnh mẽ thực hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu các công khai. Sau cùng các ngài đã làm chứng về những gì đã xảy ra nơi Đức Giêsu. Họ cần sự can đảm, cần một ai đó ban sức mạnh cho họ.
Việc trao ban "năng lực" là một trong những từ ngày nay dùng với ẩn ý sâu xa. Điều này hoàn toàn có nguyên nhân chính đáng. Chúng ta thử quan sát một vài cá nhân hay một nhóm người mà ban đầu họ cảm thấy bất lực trước tình huống khó khăn, nhưng thình lình họ trở nên có khả năng để xoay chuyển tình huống ấy khi có một ai đó thêm sức mạnh cho họ. Chúng ta thấy trong một đội bóng đá, người quan trọng và có thể làm thay cho cả đội ấy là người biết khích lệ tinh thần, biết thúc đẩy để đồng đội chơi tích cực hơn. Khi những cầu thủ khác thiếu tự tin thì nhờ lời động viên, khích lệ họ trở nên mạnh mẽ và đầy tự tin, từ đó có thể chơi hay hơn, thậm chí họ có thể chơi hay hơn đến nỗi không thể hay hơn được.
Vậy việc trao ban "năng lực" nghĩa là gì? Trước hết, nó diễn tả việc ban quyền năng hay sức mạnh cho ai đó. Điều này không đúng với hoàn cảnh của các Tông Đồ. Vì không phải khi Thánh Thần đến họ mới được ban quyền năng mà thật ra các ngài đã nhận từ Chúa Giêsu
Trường hợp thứ hai, có nghĩa trao cho ai khả năng để họ có thể làm một việc nào đó. Đây là cách nghĩ thông thường với từ "được ban năng lực" và diễn tả cách chính xác trường hợp các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần.
Khi người ta được năng lực, họ trở nên có khả năng và có ý hướng để thay đổi tình huống. Họ không chờ đợi ai khác để làm thay họ. Họ chấp nhận và tự mình có thể gánh vác trọng trách ấỵ
Chúa Thánh Thần đã ban năng lực cho các Tông Đồ. Ngài đã ngự xuống trên các ngài qua hình thức và gió lửa. Gió và lửa (sức nóng) là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh. Gió có sức mạnh di chuyển, nhổ lên. Lửa có sức mạnh toi luyện và biến đổi.
Sức mạnh mà chúng tượng trưng ở đây chính là sức mạnh của Thiên Chúạ Ở đây, chúng tượng trưng cho sự hiện diện và hành động của Thiên Chúạ Chúa Thánh Thần đến để cung cấp cho các Tông đồ năng lượng, động lực, sự hăng say, sự cam đảm và tình yêu để các ngài có thể đảm nhận sứ vụ mà Chúa Giêsu đã ủy thác. Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp các ông, nhưng Ngài không làm thay cho các ông.
Tuy nhiên, chúng ta không được nghĩ rằng sự biến đổi nơi cácTông đồ xảy đến trong chốc lát. Nhưng nó là cả một quá trình tiệm tiến, là một tiến trình lớn lên. Đôi khi sự lớn lên này có thể diễn ra cách chậm chạp và mang lại đau đớn. Vì chúng ta không dễ để từ bỏ những lối sống cũ, những thói quen cũ, tập quán cũ và những thái độ cũ...
Người ta chỉ có thể thay đổi khi được một ai đó còn biết hy vọng vào họ; khi một ai đó đặt niềm tin nơi họ mà trao cho họ một nhiệm vụ nào đó; khi một ai đó còn quan tâm đến họ. Nhưng vượt trên tất cả là họ chỉ thay đổi khi họ cảm thấy mình được yêu thương. Khi đó, họ sẽ chui ra khỏi cái vỏ mặc cảm và nhận ra được có một sức mạnh đã tiểm ẩn từ lâu trong họ. Chỉ có phép lạ của người biến đổi mới là phép lạ thật sự.
Chúng ta cũng cần một ai đó ban năng lực, đánh thức chúng ta để chúng ta có được động lực trong cuộc sống, để sống đáp lại một cách có trách nhiệm. Điều này có nghĩa là chúng ta phải biến đổi những gì cần được biến đổị Nhưng đặc biệt, chúng ta cần nguồn năng lực để có thể làm chứng cho Chúa Giêsu, cho đức tin Công giáo của chúng ta. Năng lực đã biến đổi các Tông đồ ngày xưa vẫn còn có giá trị đối với chúng ta hôm naỵ Chính Chúa Thánh Thần là động lực và sức mạnh cho tinh thần của chúng ta, sưởi ấm và biến đổi con tim ta trở nên tinh tuyền. (Viết theo Floy McCarthy) -------------------------------
Năm mươi ngày sau Lễ Chúa Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Có khuynh hướng lấy ngày Chúa Giêsu đổ hết máu và nước trong mình ra để cứu độ trần gian làm ngày khai sinh Giáo hội, cũng có khuynh hướng lấy ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống làm ngày khai sinh Giáo hội. Như vậy, Chúa Thánh Thần là Đấng nào và Ngài đã làm gì cho các thụ tạo và cho Giáo hội?
Giở lại những trang đầu của Sách Sáng Thế, chúng ta bắt gặp hình ảnh mà tác giả Sách Sáng Thế trình bày "Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước" (St1,2). Như thế, Thánh Thần hay Thần Khí Thiên Chúa đã tác thành vạn vật ngay từ buổi đầu của công trình tạo dựng.
Trong sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo thì nói: Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ ba bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như Chúa Cha và Chúa Con. Như vậy, không phải là Chúa Thánh Thần chỉ hiện diện trong các thụ tạo từ ngày lễ Ngũ Tuần nhưng Ngài đã hiện diện trong các loài thụ tạo ngay từ buổi ban đầu, nhưng các hiện diện của Ngài thâm sâu và khó nhận biết. Nhưng từ khi được Chúa Giêsu mạc khải thì sự hiện diện của Ngài nổi bậc hơn. Ngài không đến để thay thế Chúa Giêsu nhưng Ngài đến để làm cho sự hiện diện của Chúa Giêsu được thể hiện cách thâm sâu nơi các loài thụ tạo.
Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất trong tình yêu. Như chúng ta nhận biết, Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, Ba Ngôi vị. Tại sao có sự hiệp nhất cao siêu này? Thưa: Ba Ngôi hiệp nhất với nhau trong tình yêu hay nói cách khác là gắn kết nhau trong Chúa Thánh Thần. Chính trong tình yêu và sự hiệp nhất nên một là muôn loài được tạo thành.
Con người khi chưa phạm tội, được hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên họ thương yêu nhau và nên một trong nhau. Nhưng khi họ bị tội lỗi chia cắt thì họ không còn có thể hiệp thông với Thiên Chúa nữa nên họ cũng bị chia cắt với nhau. Sự kiện Ađam - Eva cũng như câu chuyện tháp Babel cho ta thấy rõ sự chia cắt đó.
Đến ngày lễ Ngũ tuần, các tông đồ cũng còn e sợ, còn ngại ngùng. Nhưng khi được Thánh Thần ngự xuống trong họ thì họ hăng hái mở toang cửa loan báo Tin Mừng Đức Giêsu đã chết và sống lại. Bởi không hiệp thông được với Thiên Chúa mà con người không thể xây được tháp Babel thì nay nhờ sự hiệp thông trong Chúa Thánh Thần mà các tông đồ rao giảng tiếng bản địa của các ông mà thính giả thì lại nghe như tiếng bản địa của mình.
Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn hằng hoạt động trong Giáo hội "ở đâu có sự hiệp nhất ở đó có Thánh Thần", Ngài làm cho mọi người có khả năng đón nhận Tin mừng mạc khải như Chúa Giêsu đã nói "Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn" (Ga 16, 12-13).
Nhưng phải làm sao để có thể hoạt động theo Chúa Thánh Thần? Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như là một cơ hội nhắc nhở mỗi người chúng ta về nguyên lý tối hậu của niềm tin "Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống", cho chúng ta năng cầu nguyện với Chúa Thánh Thần xin Ngài hướng dẫn cho chúng ta luôn được hiệp nhất trong Chúa và hiệp nhất trong nhau để Giáo hội mà Chúa Giêsu đã thiết lập mãi là sự hiện diện của tình yêu, sự hiện diện của sự hiệp nhất, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con luôn ý thức được sự hiện diện của Ngài, biết năng nghe tiếng Ngài hằng nói với chúng con trong thâm sâu của tâm hồn và cho chúng con trở nên mềm mại trong sự uốn nắn của Chúa và mỗi ngày chúng con được tiến lên trong đường nhân đức, tiến lên trong tình yêu và tiến lên trong sự hiệp nhất với Chúa và với mọi người. -------------------------------
Trước sự phong phú vô cùng của các bản văn phụng vụ, ta chỉ nên chọn một khía cạnh. Tự giới hạn mình trong lời giải đáp câu hỏi: Thánh Thần được đề cập đến trong phụng vụ lễ Hiện xuống là Đấng nào? Ngài là Thần Khí của Chúa Cha và của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Chúa Cha và Chúa Con yêu nhau từ đời đời bằng một tình yêu tuyệt hảo. Tình yêu ấy có một tên gọi. Đó là một ngôi vị. Đó là Thánh Thần, nghĩa là tình Cha yêu Con và tình Con yêu Cha trong một chuyển động không bao giờ ngừng. Do đó, Chúa Cha và Chúa Con gởi Ngài đến cho nhân loại như là quà tặng cao cả và vĩ đại nhất có thể chia sẻ cho chúng ta. Ngài là Thần Khí sáng tạo. Đối với người Do Thái, Lễ Năm Mươi nhắc nhớ Giao ước của Thiên Chúa trên núi Sinai và việc trao ban Lề Luật cho Môisen và dân Ítraen, giữa cuồng phong và sấm chớp. Thánh Luca đọc lại biến cố ấy như hình ảnh tiên báo về Thần Khí, xưa đã tác tạo dân Ítraen qua giao ước và lề luật, giờ đây tác tạo nên dân kitô hữu. Thật vậy, nhờ Thần Khí mà con người kết nối giao ước mới trong máu của Đức Kitô và sống dưới chế độ lề luật mới, luật tình yêu (Bài đọc 1) Thần Khí mang lại hiệu quả qua nhiều ân ban khác nhau, giống như điều xảy ra nơi cộng đoàn Corintô: ơn làm tông đồ, ơn tiên tri, ơn ngôn ngữ...tất cả đều nhằm ích chung của các kitô hữu (bài đọc 2). Thần khí sẽ mở rộng biên cương địa lý để đến với mọi dân tộc được nêu lên trong sách công vụ và nhất là lớn lên trong lòng mỗi người, tha thứ tội lỗi cho các tâm hồn và mang lại an bình cho tâm hồn (Tin Mừng)
Gợi Ý Mục Vụ
Dĩ nhiên, ngày nay trong Hội Thánh người ta không còn nói về Thánh Thần, như Đấng Xa Lạ nữa (Thánh Thần, Đấng xa lạ, đây là tựa đề một quyển sách xuất bản vào thập niên 50). Sau Công Đồng Vatican 2, Hội Thánh ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần trong cộng đoàn của các tín hữu kitô. Hơn nữa, Hội Thánh còn ý thức đến hoạt động của Thánh Thần lớn mạnh trong môi trường ngoài kitô giáo.
Thật vui mừng khi thấy Chúa Thánh Thần hoạt động trong nhân loại, dưới nhiều hình thái và với nhiều mức độ khác nhau, vì tất cả điều gì tốt, điều gì chân thật, điều gì hoàn hảo, dù ở nơi đâu, cũng đều xuất phát từ nơi Ngài. Trong thời đại chúng ta, có một ít lạm dụng hoặc một ít điều quá khích "nhân danh Thần Khí", cần được lưu ý. Những quan niệm có sự chống đối giữa đặc sủng và cơ chế Hội thánh, giữa hoạt động cùa Thánh thần và sức mạnh của Lời Chúa, đã lỗi thời rồi.
Nhưng có còn sót lại chút nào trong các cộng đoàn của chúng ta không? Phải chăng cơ chế của Hội Thánh và hàng giáo phẩm không bị dễ dàng chống đối nhân danh một vài đặc sủng nào đó? Phải chăng đôi lúc người ta quên rằng ơn làm Tông Đồ, và từ đó cơ chế Hội thánh, là đặc sủng đầu tiên trong các đặc sủng?
Lễ Hiện Xuống cần đến một giải thích thẳng thắn, rõ ràng và đầy đủ về các đặc sủng trong Hội Thánh và về Chúa Thánh Thần như là nguồn mạch mọi ân sủng. Trong phạm vi thừa tác vụ của chúng ta hoặc trong giáo phận của chúng ta, có thể có một sự thái quá hoặc một lạm dụng "nhân danh Thánh Thần": gây chia rẽ vì các đặc sủng khác nhau. Tôi muốn quan tâm đặc biệt đến những đặc sủng trổi vượt được ban cho Hội Thánh ngày nay: các phong trào, các đoàn thể giáo dân, các hiệp hội dòng tu mới, những khởi xướng của những người có ơn "đặc sủng" hoặc những nhóm nhỏ, trong phạm vi hoạt động mục vụ của ta.
Đây là một tình trạng mới trong Hội Thánh, trong các giáo phận, giáo xứ, giữa nhiều phong trào đoàn thể và lẽ đương nhiên sẽ xảy ra những căng thẳng, hiểu lầm và bất cộng tác, và đôi lúc đưa đến chống đối nữa. Đứng trước hiện trạng như thế, nên nhớ rằng mọi đặc sủng phải dẫn đến hiệp nhất và phục vụ thiện hảo cho mỗi người và cho mọi người; tất cả là những chi thể trong cùng một thân thể là Hội Thánh. Lòng mến, hiểu tốt về người khác, cởi mở, sáng suốt, ưu tiên đặc lợi ích chung trên lợi ích cá nhân và đồng cảm với Hội Thánh luôn là những điều cần có. -------------------------------
Nhạc sĩ Phanxicô gởi gắm tâm tình của mình trong bài hát cầu xin Chúa Thánh Thần thật dễ thương: "Hãy chiếu soi lửa hồng vào đêm tối sâu thẳm hồn con, lửa tình yêu, lửa huyền siêu, Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân ..."
Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm bộc lộ: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, canh tân đổi mới đời sống chúng con, tăng sức linh hồn, bồi thêm lửa mến soi sáng trí khôn, hiệp nhất muôn lòng ..."
Không chỉ có thế, linh mục Thành Tâm thêm: "Thánh Thần ! khấn xin ngự đến. Hồn con đang mong chờ Ngài, sưởi lòng những ai lạnh giá, gặp phong ba, không còn tin yêu. Ngài ơi, xin Ngài trông đến, đốt cháy lửa thiêng vô biên, mến thương. Ngài ơi, xin Ngài hãy đến, đến ban bình an.
Lạy Ngài xin đến, dẫn dắt chúng con trên đường. Cầu Ngài liên kết chúng con nhất tâm trong Ngài. Cầu Ngài ban ơn, thêm sức kiên vững không lay. Sống sao nên người con Chúa chứng nhân tình yêu ..."
Nhiều và nhiều bài hát nữa viết về Chúa Thánh Thần, nhưng tất cả chỉ có một điểm chung duy nhất đó là xin Chúa ban cho con người, xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta tình yêu của Chúa.
Tình yêu là cái gì đó thật trừu tượng, thật huyền nhiệm, thật lung linh, thật dễ thương. Nói về tình yêu thật là khó ! Không biết bao nhiêu nhạc sĩ, không biết bao nhiêu thi sĩ, không boết bao nhiêu giấy mực viết về tình nhưng hình như chưa bao giờ làm thoả mãn lòng người. Không có gì có thể diễn đạt được tình yêu ! Tình yêu là cái chi chi thật khó hiểu, chỉ có ai yêu mới có thể biết tình yêu là gì.
Tưởng nhớ đến một chuyện tình đẹp để rồi hằng năm người ta nhớ đến ngày gọi là Ngày Lễ Tình Nhân. Cả thế giới kỷ niệm ngày 14 - 02 để ca tụng, tôn vinh tình yêu nam nữ, tình yêu đôi lứa thì Hội Thánh Công Giáo cũng có cái ngày Tình Yêu. Love's day - ngày tình yêu - vì hôm nay Giáo hội tha thiết van nài, mời Thánh Thần Tình Yêu đến trên mình. Tình yêu mà người ta mừng ngày Valentine chỉ dành riêng cho tình yêu nam nữ. Ngày Tình Yêu hôm nay chúng ta mừng tất cả mọi người không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, tuổi tác, địa vị xã hội, chủng tộc, màu da. Vì lẽ, đã là con người thì cần lắm một tình yêu. Nếu không có tình yêu thì thật là chán, nếu không có tình yêu thì cuộc sống thật nhạt nghẽo và vô vị.
Cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã viết: "Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu, thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời".
Thân phận con người hữu hạn và quả thật là quá vắn vỏi còn tình yêu thì vô cùng. Tình yêu thì cứ trải rộng ra vô biên vô tận với trời, với đất và với người. Như cố nhạc sĩ nói đấy, là người, chúng ta phải bằng mọi cách để nuôi dưỡng tình yêu trong lòng ta. Cuộc đời mà không có tình yêu chắc ngột ngạt và chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Thử nghĩ xem thế giới này mà không còn tình yêu thì không còn lý do gì để tồn tại.
Hôm nay, cử hành lễ tình yêu - Love's day thật là tuyệt vời. Ngày Chúa Giêsu về Trời cũng chính là ngày Ngài ban Thánh Thần Tình Yêu xuống cho chúng ta. Thế nhưng đứng trước Tình Yêu bao la của Thiên Chúa thái độ con người như thế nào ?
Điều mâu thuẩn, điều nghịch lý của cuộc đời, của con người đó là ai ai cũng cần tình yêu, ai ai cũng mong cho mình có tình yêu nhưng thực tế nhìn vào đời sống chúng ta thấy làm sao ? Tình yêu ngày hôm nay nó làm sao đấy ! Nó không còn thật nữa, nó đã bị vẩn đục bởi những thứ tình yêu thực dụng, tình yêu ích kỷ, tình yêu chỉ nghĩ đến bản thân mình. Để rồi từ đó chúng ta thấy con người ngày hôm nay dẫu rằng đời sống tiện nghi, đời sống vật chất có đi lên đấy nhưng mà tình yêu hình như tỷ lệ nghịch với vật chất thì phải. Vật chất càng đi lên thì tình yêu càng đi xuống.
Ngày nay người ta ở trong những căn nhà thật rộng, thật sang trọng, thật tiện nghi nhưng lòng của họ thì khép lại.
Ngày nay phương tiện đi lại dễ hơn trước nhưng rồi người ta lại ít đến thăm viếng, chia ngọt sẻ bùi với nhau hơn.
Ngày nay vật chất nhiều hơn nhưng rồi người ta lại ích kỷ nhiều hơn, cứ khư khư giữ lấy cho bản thân mình chứ không hề biết chia sẻ.
Qua những phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta thấy đau lòng làm sao đấy khi mà người con gái được người mẹ già ở Cần Thơ cho về ở chung nhà khi cô làm ăn thất bại. Sau đó cô gom góp tiền sửa nhà cho mẹ. Mẹ tưởng mừng lắm vì con mình có hiếu nhưng nào ngờ sau khi căn nhà hoàn tất việc sửa chữa thì cũng là lúc mà cô đã đẩy người mẹ ruột của mình ra khỏi căn nhà của bà. Chẳng còn cách nào hơn là ra tòa. Được hay mất nhà không cần biết nhưng tình thương, tấm lòng mẫu tử hình như cũng chẳng còn.
Mới đây, trên con đường Thủ Khoa Huân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh, người ta vẫn thường nói với nhau là con đường có lá me bay bay vào mỗi buổi chiều đã phải chứng kiến sự tan vỡ của một gia đình. Người anh bên Mỹ về, nhờ người em đứng tên mua căn nhà để người anh kinh doanh. Thế nhưng sau một thời gian người anh đi Mỹ về rồi thì người em đã tráo trở không cho anh vào nhà và rồi lại phải ra tòa. Người anh đã đưa ra chứng cứ về thu nhập của mình bên Mỹ để chứng minh anh bỏ tiền ra mua căn nhà ấy và người anh dẫn thêm một người anh về làm chứng. Đau đớn thay trước tòa người em ở Việt Nam đã nói với Tòa rằng người anh dẫn về làm chứng ấy đã chết ! Vụ việc vẫn còn giằng co chưa đến hồi kết. Cũng thế ! Nếu kết rồi thì tình anh em, tình máu mủ cũng chẳng còn.
Thế nhưng, nói gì thì nói, thế giới và con người có muôn màu muôn vẻ của nó. Thế gian này không phải toàn là người chưa tốt, vẫn còn đâu đó những con người chỉ sống vì tình yêu và thậm chí dám chết cho tình yêu.
Cũng chẳng phải là để xông hương, cũng chẳng có huân chương để mà gắn vì mình chẳng là cái gì trên cái cõi đời này nhưng sự thật ta phải nhìn sự thật. Sự thật là đâu đó giữa những mảng đen thiếu vắng tình yêu trong cuộc đời này thì vẫn còn đó những ánh sáng lấp lánh dáng dấp của một tình yêu chân thật, một tình yêu vô vị lợi.
Ai đã từng đi xa lộ thì đều kinh hoàng với tệ nạn đinh tặc.
Có gia đình bà Nguyễn Thị Chí ở khu phố 3, phường Tân Chánh Hiệp, quận 12, gia đình ấy có bảy mẹ con kể cả 3 người con dâu, chẳng ai bảo ai đã đi chế cái máy thu đinh của bọn đinh tặc rải. Họ cứ lặng lẽ đi thu đinh ở quốc lộ 1A, 52, 22. .. Công việc của họ dưới cái nhãn giới bình thường thì chẳng là cái gì cả nhưng nhìn vào chiều sâu, nhìn bên dưới cái hành động đấy quả là một hành động phi thường. Một hành động mà trong đó chất chứa quá lớn cái tình người, cái tình yêu đồng loại. Vì lẽ họ biết rằng nếu họ không dọn đinh thì những người khách đi ngang qua đó chẳng may cán vào thì tai nạn sẽ kinh khủng như thế nào và hậu quả khó mà lường được.
Gia đình đi nhặt đinh này không có đạo, không biết Chúa Thánh Thần là ai nhưng Chúa Thánh Thần biết họ. Chúa Thánh Thần đã đến và Ngài ở lại trong họ, Ngài đốt lên trong lòng họ một ngọn lửa, thắp lên trong họ một tình yêu khiến họ quên mình để giúp anh chị em đồng loại.
Ai đã từng đến các trung tâm nuôi dưỡng người bị phong, khuyết tật, nạn nhân của tệ nạn xã hội thì đều nhận ra một tấm lòng, một tình yêu chân thật của những người phụ trách, của những người nuôi dưỡng.
Xin vị phụ trách Trung Tâm Sida giai đoạn cuối Mai Hòa niệm tình tha thứ khi mà nhắc đến Dì. Phải nói rằng với cái nhiệm vụ cơm ăn ngày ba bữa, thuốc sida uống 2 cử 8 giờ sáng - 8 giờ tối là đã quá tốt cho những bệnh nhân vô gia cư ! Đàng này, mọi lúc, mọi cách có thể được Dì phụ trách đã cho bệnh nhân, cách riêng các em thiếu nhi ở Trung Tâm được hưởng những điều gì tuyệt vời nhất.
Cách đây 2 tuần, Dì dẫn tất cả các em gần 20 chục lớn bé làm một chuyến hành hương Đức Mẹ La Vang. Nghe tin ấy, tôi không tin vào tai mình vì lẽ thường ngày Dì đã quá bận bịu với công việc của Trung Tâm, ấy vậy mà người nữ tử bác ái Thánh Vinh Sơn Phaolô đã vượt qua những hạn chế của con người, của sức khỏe hầu mong làm điều gì đó cho những em bất hạnh. Giữa những tất bật lo toan của cuộc sống nhưng cảm nhận được sự Bình An, Tình Yêu Thiên Chúa, sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần nên vị nữ tu đấy đã chung chia, phân phát những gì mà vị nữ tu nhận được cho những người bất hạnh, kém may mắn.
Thế đấy ! vẫn còn đó sự giằng co giữa tình yêu và lòng ích kỷ, độc ác của con người.
Trước khi về trời, Chúa lo lắng cho các môn đệ, Chúa lo lắng cho mỗi người chúng ta như trong trang Tin mừng theo Thánh Gioan công bố. Tin mừng hôm nay thuật lại Chúa làm hai chuyện: trước hết Chúa Ban Bình An và sau đó ban Thần Khí.
Bình an cũng quan trọng, Thần Khí cũng quan trọng.
Vì sao phải ban bình an ? Vì lẽ con người ta cư xử với nhau thiếu tình yêu. Thiếu tình yêu thì ắt sẽ gây ra bất an. Ta cứ thử nghiệm chính đời của ta ta sẽ thấy. Nếu như ta có tình yêu chân thật với Thiên Chúa, với anh chị em đồng loại thì ta sẽ có một sự bình an thật trong lòng của mình. Khi lòng ta cạn đi ngọn lửa tình yêu thì khi đấy tự nhiên sự bất an sẽ đến.
Bình an của Chúa ban không giống như bình an của thế gian. Bình an là bình an của Chúa, bình an trong tâm hồn chứ không phải bình an khi có dư thừa của cải vật chất. Cũng chính trải nghiệm của từng người, có nhiều của cải vật chất chưa hẳn là có bình an. Nhưng nếu có Chúa thật, có Chúa là gia nghiệp đời mình thì mình sẽ cảm thấy bình an.
Thiếu tình yêu: cần bình an.
Thiếu tình yêu: cần Thần Khí Chúa đến để ban tình yêu.
Cử hành lễ tình yêu hôm nay nhắc nhớ chúng ta rằng không phải giờ này Chúa mới ban Bình an, Chúa mới ban Thánh Thần, Chúa mới ban tình yêu. Nhưng những điều ấy Chúa đã ban từ lâu, cho Hội Thánh Tiên Khởi từ ngày Ngài về Trời.
Như các tông đồ ngày xưa cũng thế ! Khi chưa có bình an của Chúa, khi chưa có Thần Khí của Chúa thì họ chia rẽ, hơn thua, tranh giành nhưng khi Thần Khí xuống trên họ thì cuộc đời của họ hoàn toàn thay đổi. Họ đồng tâm nhất trí, họ hiệp nhất với nhau để cùng nhau tham dự lễ Bẻ Bánh và chia sẻ Tình Yêu mà họ nhận được cho người khác.
Các môn đệ và cộng đoàn Hội Thánh Tiên Khởi đã mở lòng ra để đón nhận Bình An, đón nhận Thánh Thần, đón nhận tình yêu và họ đã mạnh dạn ra đi làm chứng cho Chúa như sách Công vụ Tông đồ chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất. Có Thần Khí, họ lên đường, họ hăng say chia sẻ tình yêu, loan báo tình yêu mà họ vừa đón nhận cho anh chị em đồng loại.
Hôm nay, chúng ta có dịp dừng chân lại, nhìn lại chính bản thân của mỗi người chúng ta, chúng ta mở lòng hay khép lòng lại với Thần Khí của Chúa. Lúc nào Ngài cũng đến cạnh bên lòng của mỗi người chúng ta cho dù chúng ta có bất xứng, có tội lỗi, có hèn yếu đi chăng nữa nhưng còn lại, phần chúng ta, chúng ta như thế nào với Chúa ?
Nguyện xin Chúa Thánh Thần là Đấng đã đến và ở lại với các tông đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Ngài cũng đến và ở lại với mỗi người chúng ta. Nguyện xin Chúa mở toang cửa tâm hồn chúng ta ra để chúng ta đón Chúa vào trong tâm hồn của mình để sau khi có Chúa Thánh Thần, có Tình Yêu, có Bình An của Chúa thì cách hành xử, lời ăn tiếng nói của chúng ta sẽ khác. Khi có Thánh Thần thì trong lòng mỗi người chúng ta bỗng nhiên sẽ phát sinh ra bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.