Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 6-C Bài 101-150 Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy

Thứ bảy - 25/05/2019 09:55
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 6-C Bài 101-150 Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 6-C Bài 101-150 Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 6-C Bài 101-150 Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy
------------------------------------
Phúc Âm: Ga 14, 23-29: "Thánh Thần sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin". - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------
PS 6-C101: Thầy Đi Về Cùng Cha. 2
PS 6-C102: TƯƠNG LAI ĐẦY HỨA HẸN. 4
PS 6-C103: Chúa Nhật VI Phục Sinh. 8
PS 6-C104: SỰ CÓ MẶT CỦA ĐẤNG VẮNG MẶT.. 12
PS 6-C105: Hãy nhạy bén với sự chỉ dạy của Thánh Thần. 14
PS 6-C106: CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH, C.. 18
PS 6-C107: CHỦ NHẬT 6 PHỤC SINH.. 22
PS 6-C108: THÁNH THẦN SẼ DẠY ANH EM MỌI ĐIỀU.. 26
PS 6-C109: QUÀ TẶNG CỦA CHÚA.. 30
PS 6-C110: CỨ YÊU, ĐỪNG SỢ ! 32
PS 6-C111: MIỆT MÀI THỰC THI  LỜI CHÚA.. 35
PS 6-C112: YÊU MẾN AI ? GIỮ LỜI AI ?. 37
PS 6-C113: Ý NGHĨA THẬT CỦA CHỮ YÊU.. 40
PS 6-C114: Yêu thương. 42
PS 6-C115:  Thánh Thần, nguyên lý của bình an. 43
PS 6-C116: Chúa ở bên tôi. 47
PS 6-C117:  Tại sao lại tỏ mình ra cho con?. 49
PS 6-C118:  Bình an Chúa ban. 51
PS 6-C119:  Bình an - Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 54
PS 6-C120:  Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 56
PS 6-C121: Giáo Hội Nhà Tạm Chúa Ngự - Cố Lm Hồng Phúc. 59
PS 6-C122: Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu. 61
PS 6-C123:  Bình an đích thực của Chúa. 63
PS 6-C124: Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 66
PS 6-C125:  Đức Giêsu luôn luôn hiện diện. 69
PS 6-C126:  BÌNH AN THIÊN QUỐC.. 74
PS 6-C127:  HÀNH ĐỘNG THEO TÌNH YÊU.. 77
PS 6-C128:  AI YÊU MẾN THẦY THÌ SẼ GIỮ LỜI THẦY.. 81
PS 6-C129: CHÚA THÁNH THẦN TIẾP NỐI CON ĐƯỜNG THƯƠNG XÓT.. 83
PS 6-C130  CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH.. 86
PS 6-C131  Chúa Nhật 6 Phục Sinh. 88
PS 6-C132:  Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 90
PS 6-C133:  Phúc cho ai lắng nghe và giữ lời Chúa. 101
PS 6-C134: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 6 PHỤC SINH C.. 105
PS 6-C135: Thiên Chúa là tình yêu. 108
PS 6-C136: “NHƯ THẦY ĐÃ YÊU”. 110
PS 6-C137: Thầy gọi các con là: BẠN.. 114
PS 6-C138: Yêu như Thầy yêu. 116
PS 6-C139: CHÍNH THẦY ĐÃ CHỌN.. 119
PS 6-C140: BÌNH AN CỦA CHÚA GIÊSU.. 120
PS 6-C141: HÒA BÌNH LÀ HỒNG ÂN CỦA THIÊN CHÚA.. 123
PS 6-C142: Thay ban Bình an cho anh em.. 125
PS 6-C143: SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH C.. 128
PS 6-C144: YÊU MẾN VÀ GIỮ LUẬT CHỈ LÀ MỘT.. 129
PS 6-C145: Đền thờ cao quý nhất 133
PS 6-C146: Suy niệm chú giải Lời Chúa CN VI Phục Sinh (C) 135
PS 6-C147: BÌNH AN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH ! 144
PS 6-C148: Ai yêu mến Thầy. 151
PS 6-C149: “Thầy để lại bình an cho anh em”. 152
PS 6-C150: Chúa Nhật VI Phục Sinh Năm C.. 155

-----------------------------

 

PS 6-C101: Thầy Đi Về Cùng Cha


Chúa Nhật VI Phục Sinh C

Gio 14:23-29: 23 Đức Giê-su đáp: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em.26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. 27 Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.28 Anh em đã nghe Thầy bảo: "Thầy ra đi và đến cùng anh em". Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.29 Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.

 

Chương 14 là diễn từ ly biệt, trong đó Chúa Giêsu nói đến việc ra đi của Người và những điều phải: PS 6-C101


Chương 14 là diễn từ ly biệt, trong đó Chúa Giêsu nói đến việc ra đi của Người và những điều phải có nơi môn đệ của Người: - Lời mở đầu của diễn từ (14:1-4); - Chúa ra đi và các môn đệ kết hiệp với Người qua đức tin (14:5-14); - Chúa trở lại và các môn đệ kết hiệp với Người qua tình yêu (14:15-24); - Kết thúc diễn từ (14:25-31). Như thế, đoạn tin mừng 14:23-29 gồm hai phần thuộc hai phân đoạn kế tiếp nhau. Chúng liên hệ với nhau rất chặt chẽ.

Những câu 14:23-24. Đặc điểm của hai câu nầy là ở dạng điều kiện và phân từ, mà cốt lõi là “tình yêu”, “tuân giữ lời”, và lời hứa phần thưởng cho những ai thực hiện điều kiện nầy. Trong câu khẳng định 14:23, “Lời” mà người môn đệ tuân giữ để thể hiện tình yêu đối với Chúa Giêsu chính là “giới răn” (14:15:21[4x]; 15:10). Ngược lại, không tuân giữ “lời” là không yêu mến Người (14:24). Việc yêu mến và tuân giữ giới răn của Thiên Chúa đã được nói nhiều trong Cựu ước. Thiên Chúa hứa chúc phúc và trung tín với ai yêu mến Người và tuân giữ giới răn của Người (x. Xh 20:6; Đnl 5:10; 7:9; 10:12; 11:1.13.22; 19:9; 30:6.16.20).

Chúa Giêsu làm một lời hứa sau mỗi câu điều kiện về việc tuân giữ giới răn của Người (14:15.21.23). Sau lần thứ nhất là hứa ban Đấng An ủi (14:16); rồi đến lời hứa tỏ mình ra (14:21); sau cùng là lời hứa Chúa Cha cùng với Người đến cư ngụ trong người tuân giữ lời (14:23). Như thế, đây là lời hứa tam, gồm Chúa Thánh Thần - Chúa Con - Chúa Cha. Lời hứa sau cùng là cho họ ở lại trong tình yêu của Người; cũng là ở lại trong tình yêu của Chúa Cha (15:10). Về lời hứa “làm nơi cư ngụ” (14:23), ở đầu chương Chúa Giêsu đã nói đến việc ra đi của Người để chuẩn bị chỗ trên trời cho các môn đệ (14:2). Tuy nhiên ở cuối chương, Người nói đến chỗ ở của Thiên Chúa giữa các môn đệ (14:23).

Những câu 14:25-29. Đây là bản tóm những chủ đề đã được bàn đến trong suốt cả chương 14: lời hứa ban Thánh Thần (14:16tt lấy lại trong 14:26); sợ hãi (14:1 trong 14:27); đi và trở lại (14:2tt, 14:5-14; 14:15-24 trong 14:28); tình yêu (14:15.21.23tt trong 28) và đức tin (14:1.10-12 trong 14:29). Ở đây xuất hiện những chủ đề mới: niềm vui (14:28) và bình an (14:27). Chúa Giêsu lại loan báo sự ra đi của Người (14:25), và việc ban Thánh Thần. Chúa Cha sẽ sai Thánh Thần, Đấng An ủi đến để dạy dỗ cho họ tất cả những gì Người đã nói với họ. Trước đây, Thánh Thần được gọi là Thần Chân Lý (14:16-17). Ở đây, vai trò của Người được nói rõ ra. Người không độc lập với Chúa Giêsu và dạy thêm điều gì mới, mà chỉ nhắc lại “lời” của Người.

Lời ban Thánh Thần kèm theo bình an và niềm vui (14:27-29). Đây là những ơn của sự sống lại (x. 20:19.21.26). Chúa Giêsu biết các môn đệ đang lo âu trước cái chết được tiên báo của Người. Nên Người cho họ biết là họ không bị bỏ rơi. Ngoài Thánh Thần sẽ được gởi đến với họ, họ còn được ban bình an và niềm vui. Bình an của Người sẽ giúp họ khỏi xao xuyến vì Người ra đi. Trái lại, sự ra đi của Người phải là lý do để họ được niềm vui lớn lao. Sự “ra đi” và “về cùng Cha” của Người (14:28) là tiến trình chết và sống lại theo ý muốn của Chúa Cha (10:18). Đây là dấu hiệu tình yêu Chúa Giêsu tỏ ra đối với Cha của Người. Người yêu thương và vâng phục ý của Cha định cho Người, vì Cha thì cao trọng hơn Người. “Về cùng Cha” cũng là đi vào trong sự thông hiệp hoàn hảo với Cha. Như thế, về lại với Đấng mà từ đó Người đã đến trần gian (1:9) là niềm vui của Người. Đó cũng phải là niềm vui của các môn đệ, vì trong sự kiện nầy họ nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Bởi đó, những điều Chúa nói ra để cho họ tin Người là ai (14:29).

Chúa Giêsu phải ra đi và về cùng Chúa Cha. Tuy nhiên các môn đệ vẫn ở trong tình yêu, bình an, niềm vui và Thánh Thần của Người khi họ tuân giữ lời của Người.

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

----------------------------

 

PS 6-C102: TƯƠNG LAI ĐẦY HỨA HẸN.


Chúa Nhật 6C Phục sinh.

 

Nhiều nỗi lo sợ đang đe dọa nhân loại.   Không có gì bảo đảm cho cuộc sống đầy những bấp bênh: PS 6-C102


Nhiều nỗi lo sợ đang đe dọa nhân loại.   Không có gì bảo đảm cho cuộc sống đầy những bấp bênh này !   Con người cảm thấy bơ vơ và bất lực trước sức mạnh áp đảo của vũ trụ.  Làm sao tìm thấy sự bình an đích thực bảo đảm cho cuộc sống ?  Đức Giêsu sẽ mạc khải tất cả sự thật về nguồn mạch vàsức mạnh đem lại sự bình an cho chúng ta.

BIỆT LY.

Giờ phút biệt ly trong vòng thân mật và cảm động giữa thày trò Đức Giêsu.  Chính “ông Giuđa, không phải Giuđa Ítcariôt, nói với Đức Giêsu: ‘Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian ?’” (Ga 14:22)   Chính trong vòng thân mật đó, Đức Giêsu sẽ mạc khải tương quan sâu xa nhất giữa Ba Ngôi, đồng thời cho thấy rõ bản chất tương quan giữa Người và các môn đệ cũng như tất cả những bảo đảm vững chắc cho một tương lai đầy ân sủng và bình an.

Bảo đảm vững chắc đó có thể tìm thấy trong “tài nguyên phong phú do hình thức và bản chất chương Ga 14 cung cấp cho đời sống và đức tin Giáo hội đương thời.  Hình thức cho ta một ngôn từ vững tin vào niềm hi vọng đáp trả nỗi sợ hãi con người.   Bản chất, tức là sự hiện diện của Thiên Chúa không chịu nhường bước trước bất cứ ưu sầu nào, có thể cho giáo hội sức mạnh và niềm hi vọng mới để sống xứng đáng là dân Thiên Chúa.” (NIB 1995:754)   Quả thực, Đức Giêsu đã lên tiếng trấn an môn đệ trước giây phút chia tay: “Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14:27)   Lý do vì “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.” (Ga 14:27) Bình an của Thầy chan hòa niềm vui.   “Bình an là một hồng ân nằm ngay trung tâm những niềm hi vọng cánh chung Ítraen (ví dụ, Is 52:7; 54:10; Ed 37:26-28; Dr 9:10) và ngày nay có thể đạt tới trong Đức Giêsu,” (NIB 1995:754) nhờ cái chết và sự phục sinh của Người.

Bình an còn được bảo đảm nhờ Lời Chúa ngày càng in sâu vào lòng môn đệ.   Quả thực, “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14:26)   Càng hiểu thấu Lời Chúa, càng thấy vững lòng trước những thử thách. Vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đừng con đi” (Tv 119:105) giữa cảnh giông tố và tăm tối trần gian.   Sở dĩ Lời Chúa trở thành sức mạnh vô biên vì có một nguồn gốc rất sâu xa.  Thật vậy, “lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.” (Ga 14:24)   Lời phát ra từ một thượng trí vô cùng khôn ngoan, làm sao không bảo đảm cho ta có một cuộc sống bình an và hạnh phúc ?   Làm sao những lời ngon ngọt trần gian có thể sánh ví với Lời Hằng sống ?  Lời Chúa không phải như gió thoảng bay.   Nhưng cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều hợp lực xây dựng nên Lời Chúa.   Chúa Cha là nguyên ủy phát sinh Lời.   Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho các môn đệ hiểu thấu và thực hành Lời Chúa.   Đức Giêsu là người phát ngôn của Chúa Cha.   Nhưng để kêu gọi con người chú tâm đến việc tuân giữ Lời, Người đã trực tiếp đề cập với môn đệ: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.” (Ga 14:23)  Tất cả tùy thuộc tự do con người, một tự do dẫn tới định mệnh !   Thiên Chúa không muốn thúc ép ai, dù điều đó rõ ràng có lợi cho con người.   Nhưng nếu con người nhất quyết dấn thân vào con đường tình yêu với Thiên Chúa, họ sẽ đi một bước thật dài trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc. 

Quả thực hạnh phúc là cứu cánh đời người.  Không tìm được hạnh phúc, con người sẽ đánh mất ý nghĩa cuộc sống và mọi giá trị sẽ băng hoại.  Trái lại, khi tìm được hạnh phúc, con tim sẽ chan chứa niềm vui.   Khi nào con người tìm được hạnh phúc, nếu không phải là lúc yêu và được yêu.   Chính khi chúng ta yêu mến Đức Giêsu là lúc chúng ta được Chúa Cha yêu mến (x. Ga 14 23)   Con tim sẽ rực cháy lửa tình yêu và sẽ trở thành nơi trú ngụ của Thiên Chúa: “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14:23)   Con tim tuy nhỏ bé, nhưng đã trở thành mái ấm của cả Ba Ngôi.   Còn hạnh phúc nào tuyệt vời hơn !   Khi đã trở thành nơi trao đổi tình yêu với Thiên Chúa, chính con tim sẽ đập nhịp đập của con tim Thiên Chúa.   Chính Thiên Chúa sẽ sinh hoạt và yêu thương nhau trong con tim nhỏ bé đó.   Thế là một cuộc trao đổi lạ lùng diễn ra tận nơi sâu thẳm nhất trong con người.   Từ đó hạnh phúc trào dâng và niềm vui bùng vỡ.

Niềm vui dâng cao nhất khi tới giờ Đức Giêsu từ biệt trần gian để về cùng Chúa Cha. Cuộc từ giã đó chắc chắn sẽ gây đau khổ cho các môn đệ, vì các ông không tưởng tượng nổi có ngày thầy trò xa nhau vĩnh viễn sớm như thế.   Nhưng Đức Giêsu không muốn các ông bị bức tường vật chất cản trở không cho nhìn xa hơn.  Bởi thế, Người hướng các ông đến một chân trời mới lạ, một tương lai huy hoàng: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.” (Ga 14:28)   Cao trọng hơn vì Chúa Cha đã sai Thầy đến cứu độ trần gian.  Sứ mệnh đã hoàn thành vẻ vang nhờ sự suy phục tuyệt đối mệnh lệnh Chúa Cha.   Bởi vậy, giờ đây về với Chúa Cha là Người trở về điểm xuất phát.  Đúng hơn, Người lên lãnh nhận triều thiên vinh quang và quyền lực tuyệt đối trên khắp vũ trụ.  Người sẽ được rước vào một kinh thành đầy ánh sáng, một nơi “có vinh quang Thiên Chúa tỏa rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi.” (Kh 21:23)  Ngày vinh quang đó Người đã nóng lòng chờ đợi từ lâu.   Không trở lại với Chúa Cha, sứ mệnh của Người chưa hoàn tất.  Nếu yêu mến Chúa thực sự, các môn đệ cũng phải chia sẻ niềm vui lớn lao đó với Thầy chí thánh.  Vui mừng vì từ bên hữu ngai Thiên Chúa, Đức Giêsu sẽ sai Thánh Linh đến làm cho trí khôn các tràn ngập sự khôn ngoan và hiểu biết cần thiết để tiếp tục sứ mệnh cứu độ trần gian.   Nhờ đó các ông nhìn thấy rõ vấn đề cấp thiết của nhân loại và chiều kích lớn lao của hồng ân Thiên Chúa.   Hơn nữa, Thánh Linh còn đốt cháy tâm can để các ông có đủ can đảm tuyên xưng danh Chúa trước muôn dân và ra đi đến tận cùng bờ cõi trái đất.

Giáo hội đã được khai sinh trong ngọn lửa Thánh Linh và trong lúc “Đức Giêsu muốn cho các môn đệ vượt trên khoảnh khắc hiện tại để phóng tầm nhìn vào tương lai dựa trên nền tảng vững chắc là sự phục sinh và hồng ân Thánh Linh.  Người hiến cho họ một cái nhìn về tương lai dệt bằng những lời Thiên Chúa hứa, một tương lai đầy ắp sự hiện diện của Thiên Chúa – qua tình yêu của họ đối với nhau và qua việc Thiên Chúa, Chúa Giêsu và Thánh Linh cư ngụ trong tâm hồn họ.” (NIB 1995:753)   Tất cả đều tùy thuộc đức tin vào Thiên Chúa.   Đức tin khiến ta cảm nghiệm tình yêu Ba Ngôi vô cùng sống động và phong phú trong tâm hồn những người đi vào tương quan với Đức Giêsu qua những lời “của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.” (Ga 14:24)

SỨC SỐNG GIÁO HỘI.

Chính lời Chúa đã đem lại sức sống cho Giáo hội sơ khai và Thánh Linh đã giữ cho Giáo hội luôn hiệp nhất.   Ngay từ đầu Giáo hội đã trải qua một thử thách tưởng chừng không vượt qua nổi. Thực vậy, chẳng biết căn cứ vào đâu, “những người từ miền Giuđê đến Antiôkhia dạy anh em rằng: ‘Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê, thì anh em không thể được cứu độ.’” (Cv 15:1)   Nếu không có Thánh Linh hướng dẫn, chắc chắn Giáo hội đã bị chia đôi ngay từ đầu.   Nhưng nhờ Thánh Linh, tất cả đã “đồng tâm nhất trí” (Cv 15:25) qua một công thức lừng danh: “Thánh Linh và chúng tôi đã quyết định.” (Cv 15:28)  Những quyết định của Giáo hội tiên khởi đã là khuôn mẫu cho đường lối Giáo hội mai sau.  Chính Thánh Linh đã giúp Giáo hội vượt qua những thử thách và mâu thuẫn đe dọa đến sự sống còn của Giáo hội.

Không những thế, Thánh Linh còn luôn gợi lên những sáng kiến và thúc đẩy những đổi mới trong Giáo hội.   Gần đây nhất, Công đồng Vatican II đãchứng tỏ cho mọi người thấy Thánh Linh vẫn còn hoạt động trong Giáo hội.  Chiều hướng mới đã mở ra để Giáo hội nhìn vào thế giới và thế giới nhìn vào Giáo hội.   Những tương quan muôn mặt đã đem lại nhiều hứa hẹn cho sự hiệp nhất giữa những người cùng tin Chúa Kitô.   Cả thế giới ngày càng hiểu Giáo hội hơn trong chiều hướng mới này.   Những người thiện chí cũng tìm được những phương thức mới hợp tác với Giáo hội trong việc xóa bỏ bất công và nghèo đói trên thế giới. Các tôn giáo bạn đã có thể cầu nguyện chung với Giáo hội trong chiều hướng đối thoại liên tôn.

Nhưng trên hết là cuộc đối thoại đại kết giữa các giáo hội Kitô.  Việc hiệp nhất Giáo hội không thể là kết quả sau những tranh cãi về giáo lý.   Không thể tìm ra sự thật qua những cuộc tranh cãi đó.   Trái lại, “lòng yêu mến sự thật phải là chiều kích sâu xa nhất trong cuộc tìm kiếm sự hiệp nhất Kitô hữu hoàn toàn mà mọi người đang mong đợi.” (ĐGH Gioan Phaolô II, L’Osservatore Romano, 2/5/2001)   Cuộc tranh cãi không bắt nguồn từ lòng yêu sự thật, nhưng từ lòng tự ái và thành kiến lịch sử sẽ chỉ khơi sâu thêm khoảng cách giữa các giáo hội.   Thực tế, “trên hết, nhờ ơn Chúa giúp, việc đại kết lớn nhất về sự thánh thiện chắc chắn sẽ đem lại những kết quả dồi dào.” (Tông thư Novo millennio ineunte, L’Osservatore Romano, 2/5/2001)   Bởi vậy, Chúa luôn kêu mời chúng ta hãy ở lại trong tình yêu của Chúa để tất cả được hun nóng và tan chảy trong khuôn mẫu tuyệt vời là Đức Giêsu.   Chúng ta chỉ có thể hiệp nhất khi lắng nghe và “giữ lời Thầy.” (Ga 14:23)    Lời Thầy luôn thúc đẩy chúng ta thương yêu nhau.  “Tình yêu không vênh vang, không tự đắc, nhưng vui khi thấy điều chân thật.   Tình yêu tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả.” (1 Cr 13:4,7)    Trong cuộc viếng thăm Hi lạp đầu tháng 5/2001, ĐGH Gioan Phaolô II đã dõi theo bước chân thánh Phaolô để thể hiện tình yêu thương đó đối với những anh em cùng một niềm tin.   Chính thái độ khiêm cung thú nhận tội lỗi Giáo hội Công giáo “đã xô đổ những rào cản tâm lý không cho các nhà lãnh đạo Chính thống dấn thân vào cuộc đối thoại đại kết”, và “mở đường cho cuộc đối thoại giữa Tòa Thánh và Giáo hội Chính thống Hi lạp.” (Lm Georges Cottier, O.P, CWNews 17/5/2001)   Sở dĩ có được tiếng nói chân thành và can đảm đó, vì ĐGH ý thức “đối thoại đại kết có thể là một cơ hội để hiểu biết nhau hơn và trao đổi những hồng ân thiêng liêng.” (L’Osservatore Romano 2/5/2001)  

Nhưng trong bầu khí căng thẳng tại Hi lạp vừa rồi, nếu Đức Thánh Cha đã hôn đất, tại sao Người không cúi xuống rửa và hôn chân vì Thượng phụ Chính thống Giáo để tỏ lòng sám hối ăn năn và lòng mến yêu Giáo hội anh em ?   Làm như thế, Người chỉ “làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:15) mà thôi.  Hơn nữa, có làm như thế, Người mới thực thi mệnh lệnh của Chúa: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.” (Ga 13:14)   Đó chỉ là một biểu tượng tình yêu, nhưng lại là một hành động vô cùng cần thiết và ý nghĩa.   Nếu một cử chỉ khiêm cung đó đã xảy ra, chắc chắn cả thế giới sẽõ rúng động !

Một tương lai đang mở ra cho Giáo hội và nhân loại.  Niềm hi vọng tràn ngập vì lời Thiên Chúa hứa lấp đầy con tim bằng một tình yêu mãnh liệt của Chúa Cha và Chúa Con. Khối óc căng ra tới chiều kích vô biên, vì Thánh Thần “sẽ dạy dỗ anh em mọi điều.” (Ga 14:26)  Không còn sợ hãi và lo âu.   Trái lại bình an sẽ bao phủ khắp nơi khi người môn đệ “vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha.” (Ga 14:28) để làm cho lời hứa bình an thành sự thật.   Tất cả đều nhằm giúp “anh em tin,” (Ga 14:29) và “yêu mến Thầy,” (Ga 14:23) để có thể “giữ lời Thầy,” (Ga 14:23) và đi vào tương quan sâu xa với Thiên Chúa: “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14:23)   Không còn tổ ấm nào ấm hơn !   Trong tổ ấm đó, con người tránh được mọi phong ba bão táp và hướng thẳng về một tương lai “chói lọi vinh quang Thiên Chúa.” (Kh 21:11)

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

----------------------------

 

PS 6-C103: Chúa Nhật VI Phục Sinh


(Gio-an 14:23-29)

 

Chúa Giê-su quả thực là chu đáo như một bà mẹ lo lắng đủ điều cho đàn con trước khi bà đi xa: PS 6-C103


          Chúa Giê-su quả thực là chu đáo như một bà mẹ lo lắng đủ điều cho đàn con trước khi bà đi xa.  Trong bữa Tiệc Ly, Chúa đã căn dặn các môn đệ những điều cấp thiết nhất, luôn luôn với  tấm lòng tràn ngập yêu thương.  Những mặc khải quan trọng nhất cũng được tỏ ra vào lúc này, như mối quan hệ yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa với nhau và với nhân loại.  Tin Mừng Gio-an đã dành trọn chương 14 để quảng diễn mặc khải ấy.  Sau khi đưa các môn đệ vào quỹ đạo yêu thương, Chúa Giê-su mới yên tâm bước vào cuộc Thương Khó đang đón chờ Người:  “Nào đứng dậy!  Ta đi khỏi đây!” (Ga 14:31).  Chúa Giê-su bắt đầu cuộc Xuất Hành với động lực duy nhất là tình yêu.

1)  “Thầy ra đi và đến cùng anh em”

          Cuộc Xuất Hành yêu thương có khởi điểm của nó.  Chúa Giê-su đã khởi đi từ trái tim của Thiên Chúa, một Thiên Chúa “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” cho nhân loại (Ga 3:16).  Mỗi cuộc xuất hành đều phải trả một giá đắt.  Ông Áp-ram rời thành Ur ra đi tìm đất Thiên Chúa hứa, phải để lại tài sản và thanh thế suốt vùng Lưỡng hà địa.  Dân Do-thái khi rời bỏ Ai-cập đi đến Đất Hứa đã phải bỏ lại mọi sản nghiệp, nhà cửa và cả những luyến tiếc mảnh đất cha ông họ đã nhận làm quê hương từ mấy trăm năm.  Cuộc ra đi của Chúa Giê-su còn đắt giá hơn không biết bao nhiêu mà kể.  Người đã bỏ cõi trời để đến “cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).  Hành trang và phương tiện cho cuộc ra đi của Con Thiên Chúa không phải là y phục, của ăn thức uống và xa mã của nhân loại, cũng không phải là quyền năng và vinh hiển của Thiên Chúa, nhưng Người chỉ mang theo Trái Tim của Thiên Chúa và Người “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:7).  Cuộc ra đi của Áp-ram hay dân Do-thái dầu sao cũng bị giới hạn trong thời gian và không gian.  Nhưng cuộc ra đi của Đức Ki-tô là từ vô biên và vô hạn đến thu mình trong không gian hữu hạn là Bê-lem, Do-thái và thời gian thuở hoàng đế Au-gút-tô và tổng trấn Qui-ri-ni-ô.  Nói một cách bình dân, Chúa Giê-su từ trời đến với nhân loại.

          Tuy nhiên, cuộc Xuất Hành của Chúa Giê-su không chỉ là con đường một chiều từ Thiên Chúa đến với nhân loại, mà là hai chiều, đem Thiên Chúa đến cho nhân loại và đem nhân loại về với Thiên Chúa.  Vai trò trung gian của Chúa Giê-su nối liền đường giây Thiên Chúa – con người, để chuyển tải sự sống và tình yêu của Thiên Chúa cho con người và để làm “lời” của Thiên Chúa nói với con người.  Người đến để ta được sống dồi dào (Ga 10:10) bằng Lời của Thiên Chúa, vì “ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.  Và LỜI anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14:24).  Lời là nội dung những gì Thiên Chúa muốn nói với nhân loại.  Nội dung ấy gồm có Giao Ước Mới và Lề Luật Mới mà Thiên Chúa muốn ban cho ta qua Đức Ki-tô.  Để ta biết đón nhận và sống Lời, Thiên Chúa Cha đã ban cho ta một Thầy Dạy, tức Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần.  “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:26).

Trước giờ Thương Khó, cuộc Xuất Hành từ thế gian về lại với Thiên Chúa, Chúa Giê-su muốn chia sẻ niềm vui với các môn đệ.  Chỉ trong tình yêu, họ mới có thể hiểu được ý nghĩa đích thực cuộc ra đi của Thầy.  “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28).

2)  Bình an là hoa trái của tình yêu

          Trước cuộc ra đi quá đột ngột của Chúa Giê-su, các môn đệ thực sự xao xuyến sợ hãi.  Không sức mạnh nào có thể giữ ta được vững vàng trước xao xuyến sợ hãi, ngoại trừ tình yêu.  Tình yêu mạnh hơn sự chết và Chúa Giê-su đã nhiều lần tỏ cho môn đệ biết Thiên Chúa Cha và Người đã yêu thương họ như thế nào.  Do đó họ không còn phải sợ hãi điều gì.  Nhưng đó chỉ là sự bình an thuộc lãnh vực tự nhiên.  Nếu là thứ bình an này thì con người cũng giúp nhau có được.  Thí dụ đứa con nhỏ tập đi chỉ sợ té, nhưng những lời yêu thương vỗ về của mẹ nó giúp nó bình an, can đảm tập đi tiếp.

          Còn bình an Chúa Giê-su và chỉ có Chúa Giê-su mới ban cho ta được thì thuộc lãnh vực siêu nhiên và là một khía cạnh diễn tả ơn cứu độ.  Đúng vậy, bình an là không còn thao thức trăn trở về thân phận của ta nữa, nhưng đã được thỏa mãn khát mong “như con nai bên dòng nước” (Thánh vịnh) hoặc như “tâm hồn được an nghỉ trong Chúa” (thánh Âu-tinh).  Ngoài Chúa Giê-su ra, không ai có thể giải phóng ta khỏi nanh vuốt của tử thần và sự dữ.  Nói khác đi, ngoài Chúa Giê-su ra, không ai có thể ban cho ta sự bình an của ơn cứu độ, vì chỉ mình Người mới là Đấng cứu độ ta.

3)  Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh rao giảng Lời và gieo rắc Bình an của Chúa Giê-su

          Vẫn trong chủ đề về Giáo Hội, ta tự hỏi Giáo Hội phải làm gì để tiếp tục cuộc Xuất Hành của Chúa Giê-su trong thế giới?  Chúa Giê-su nói về cuộc Xuất Hành của Người, cho các môn đệ biết Người đã hoàn tất:  “Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14:31).  Nghĩa là vì yêu mến Chúa Cha, Chúa Giê-su đã vui lòng “xuống thế làm người và chịu chết chuộc tội cho thiên hạ”.  Nhưng Người lại muốn dành phần cộng tác cho Giáo Hội và cho các môn đệ.  Họ sẽ là những người cùng đồng hành với Người để “về cùng Chúa Cha”.  Hóa ra trong cuộc Xuất Hành, Chúa Giê-su đã phải đi gấp đôi, còn ta chỉ phải đi một nửa đường cùng với Người tiến về nhà Cha!  Chúa Giê-su bảo các môn đệ:  “Nào đứng dậy!  Ta đi khỏi đây!” (Ga 14:31).

          Đó là lệnh lên đường cho cuộc Xuất Hành về quê thật của ta.  Ta phải đứng dậy, đừng để cho những quyến rũ trần thế kéo ghì ta xuống.  Ta đã bị tội nguyên tổ làm cho ta không ngóc đầu đứng thẳng lên được, nhưng Đức Ki-tô đã phục hồi cho ta sự công chính hoặc quyền đứng thẳng (ius + stare = justification) trước mặt Thiên Chúa.  Quê hương đích thực của ta không phải ở trần gian này, do đó “ta đi khỏi đây!” theo gót Chúa Giê-su mà “đến cùng Chúa Cha” (Ga 14:28).

          Đáp lại lệnh truyền của Chúa Giê-su, Giáo Hội không ngừng rao giảng Tin Mừng cứu độ và cố gắng đem bình an đích thực của Chúa Giê-su đến cho nhân loại.  Lời Chúa được rao giảng khắp nơi, từ nhà thờ do các linh mục trong thánh lễ cho tới nơi sinh sống làm việc và giao tế của Ki-tô hữu.  Mọi người đều phải ý thức tham gia vào cuộc Xuất Hành của Chúa Giê-su, cũng là cuộc Xuất Hành của Giáo Hội và toàn thể nhân loại, sống Lời Chúa và sống yêu thương theo gương Người, yêu mến Thiên Chúa và anh chị em, để tất cả đều được vui hưởng bình an vĩnh cửu.

4)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Tôi thường thầm thĩ khi cầu nguyện:  Lạy Chúa, con yêu mến Chúa!  Nhưng thực ra lời cầu nguyện ấy có nghĩa gì?  Nó có phản ảnh lời Chúa Giê-su nói ở đây không?  “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”.

          Có khi nào tôi thực sự thấy xao xuyến và sợ hãi khi nghĩ về phần rỗi của tôi không?  Tại sao?  Tại tôi không “xuất hành” với Chúa Ki-tô?  Không thực sự xác tín Chúa Ki-tô là Đấng Cứu Độ?

          Tôi đã làm gì để rao giảng Tin Mừng cho những người chung quanh và nhất là cho những người làm cùng sở làm hoặc sống cùng xóm?

Cầu nguyện

          “Lạy Cha,
          Cha muốn cho mọi người được cứu độ
          và nhận biết chân lý,
          chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giê-su, Con Cha.
          Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
          chưa nhận biết Đức Giê-su,
          họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
          Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
          khát vọng truyền giáo,
          khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
          niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
          và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giê-su cho thế giới.
          Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
          trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng.
          Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên,
          giúp họ quen biết Đức Giê-su và tin vào Ngài,
          qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
          Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái.  A-men.”

 (Trích RABBOUNI, lời nguyện 69)

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

----------------------------

 

PS 6-C104: SỰ CÓ MẶT CỦA ĐẤNG VẮNG MẶT


CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH, năm C

Ga 14, 23-29

 

Xem ra như có một cái gì nghịch lý khi nói sự hiện diện của kẻ vắng mặt. Đó là cái trớ trêu của: PS 6-C104


Xem ra như có một cái gì nghịch lý khi nói sự hiện diện của kẻ vắng mặt. Đó là cái trớ trêu của cuộc đời con người, nhưng lại hết sức thật đối với Đấng thiêng liêng, Đấng vô hình mà lại lúc nào cũng có mặt ở giữa con người, ở giữa mọi người. Người Kitô hữu muốn đứng vững, muốn trung tín với Thiên Chúa, chắc chắn phải trải qua nhiều gian nan thử thách, nhiều cam go, nhiều gian khổ mới có thể vững tiến trên đường tâm linh, trên con đường đạo đức và linh thánh. Tuy nhiên, cuộc hành trình của người Kitô hữu sẽ không bao giờ đơn độc, sẽ không bao giờ lẻ loi vì lúc nào Thiên Chúa cũng ở bên cạnh chúng ta dù rằng chúng ta không bao giờ thấy Người…

LỜI HỨA CỦA CHÚA GIÊSU:

Chúng ta còn nhớ lúc sắp sửa chia lìa các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Chúa luôn trấn an các ông, Chúa hứa dù Ngài vắng mặt, Ngài vẫn luôn có mặt với các ông và ban bình an cho các ông. Vâng, Chúa luôn hiện diện giữa các môn đệ trong cuộc hành trình đức tin của các ông. Trong cuộc hành trình đó, nhiều lúc các ông gặp những giông tố, bão to, gió lớn như trên biển cả hôm nào, Chúa có mặt ngay để các ông yên tâm, vững tay chèo, vững tay lái. Cuộc hành trình đức tin của các môn đệ quả có nhiều đau khổ, lắm gian nan, nhiều nguy khó. Chúa luôn luôn có mặt để củng cố lòng tin cho các ông. Sự có mặt của kẻ vắng mặt. Đặc biệt của những kẻ thân thương, của những đôi tình nhân và của con cái xa cha mẹ. Đó là cảm nghiệm của những kẻ yêu thương nhau, mến nhau, sống nghĩa thiết với nhau. Từ ngày Đức Giêsu sống lại, Người trở nên con người của mọi nơi, mọi lúc, mọi thời đại. Chúa Giêsu hiện diện trong những kẻ yêu mến Người:” Ai yêu mến Thầy…Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”( Ga 14, 23 ). Chúa có mặt nơi những ai thực thi lời của Chúa:” Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy”( Ga 14, 24 ). Chúa hiện diên không chỉ đơn độc nhưng hiện diện với Chúa Cha và Thánh Thần. Do đó, chúng ta gọi tất cả những gì liên quan đến mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa là đời sống trong Thánh Thần, đời sống thần thiêng hay thiêng liêng:” Thánh Thần sẽ dậy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”( Ga 14, 26 ).

LỜI HỨA BAN THÁNH THẦN LÀM CHO HỘI THÁNH LUÔN SỐNG HỢP THỜI ĐẠI:

Thánh Thần phát sinh từ Ngôi Cha vì Ngôi Cha là nguồn phát sinh duy nhất, nhưng Ngôi Con tức Chúa Giêsu thì ban Thánh Thần là chính Thần Khí của Người. Do đó, Hội Thánh của Chúa được Chúa Thánh Thần soi sáng, đặc biệt vào ngày lễ Hiện Xuống, Giáo Hội sơ khai đã được đầy tràn Chúa Thánh Thần, đã hiểu rõ lời Chúa trong Kinh Thánh, đã nhờ tác động của Chúa Thánh Thần trình bầy những vấn đề cách khúc triết, gẫy gọn và dễ hiểu, đồng thời bén nhạy giải quyết những vấn đề mới mẻ hợp cho từng thời đại. Ngay, ngày lễ Hiện Xuống, thánh Phêrô đã đầy ứ Thánh Thần, đứng lên giải thích lời Chúa và giới thiệu Chúa Kitô phục sinh, chính vì thế, đã có hơn 3.000 người trở lại một lúc. Thánh Thần cũng liên kết mọi dân tộc để họ hiểu tiếng nói của nhau, khác với sự chia rẽ khi xây tháp Babel.

Hội Thánh Chúa luôn sống động nhờ Chúa Thánh Thần. Nên, từ ngày Hiện Xuống tới nay đã có nhiều Công Đồng được triệu tập dưới sự thúc đẩy, bảo trợ và soi sáng của Chúa Thánh Thần để xem xét lại cách sống đạo, những điều cần sửa đổi, bổ túc và đổi mới hầu Giáo Hội luôn sống lại ngày Lễ Hiện Xuống mới.

GIỮ LỜI CHÚA VÀ THỰC THI LỜI CHÚA LUÔN CÓ SỰ BÌNH AN:

Ai  yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy ( Ga 14, 23 ), thực thi lời Thầy thì “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.Anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi”( Ga 14, 27 ).  Trước khi về trời, Chúa phục sinh đã hứa với các môn đệ sẽ ban Thánh Thần. Chúa hiểu tâm trạng của các môn đệ, Chúa hứa luôn ở với các ông, Chúa hiện diện cách đặc biệt qua lời của Ngài, qua các ơn huệ của Ngài, và nhất là qua Chúa Thánh Thần. Chính vì thế, Chúa bảo các môn đệ đừng lo âu xao xuyến, đừng run sợ, đừng âu lo sợ hãi, nhưng hãy sống bình an, vì Chúa phục sinh chính là sự bình an.

Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần cho chúng con như Chúa đã đổ tràn Thánh Thần trên các môn đệ ngày lễ Hiện Xuống. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

----------------------------

 

PS 6-C105: Hãy nhạy bén với sự chỉ dạy của Thánh Thần


Chúa Nhật thứ 6 Phục Sinh

(16-5-2004)

ĐỌC LỜI CHÚA

·        Cv 15,1-2.22-29: (1) Những người Giuđê cho rằng: «Nếu không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê, thì không thể được cứu độ». (28) (Nhưng) Thánh Thần và chúng tôi (=các tông đồ) đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: (29) là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi».

·        Kh 21,10-14.22-23: (22) Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. (23) Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi.

 ·       TIN MỪNG: Ga 14,23-29

Thánh Thần sẽ đến

 (23) Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ: «Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. (24) Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. (25) Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. (26) Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

 (27) «Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. (28) Anh em đã nghe Thầy bảo: «Thầy ra đi và đến cùng anh em». Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. (29) Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin».

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

 

 Cách Thánh Thần hướng dẫn và dạy dỗ các tông đồ có giống cách của Đức Giêsu không? Giống: PS 6-C105


1.      Cách Thánh Thần hướng dẫn và dạy dỗ các tông đồ có giống cách của Đức Giêsu không? Giống và khác nhau chỗ nào? Thánh Thần truyền đạt cho con người bằng cách nào?

2.      Ta phải quan niệm và có thái độ nào để có thể nhận được sứ điệp của Thánh Thần, và đáp ứng được những gì Ngài muốn thực hiện nơi ta?

Suy tư gợi ý:

1.      Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần

Sau khi sống lại, Đức Giêsu không ở lại trần gian với các tông đồ để tiếp tục dạy dỗ các ông, mà về trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đấng tiếp nối Ngài để tiếp tục dạy dỗ các ông và cả Giáo Hội là Thánh Thần. Nhưng Thánh Thần không hiện diện bằng thân xác, không nói thành lời để có thể nghe được bằng tai như Đức Giêsu. Thánh Thần hiện diện và hướng dẫn con người bằng thần khí, tức tinh thần. Ngài là Thần Khí của Thiên Chúa. Thần Khí ấy – tức Thánh Thần – tác động trên thần khí của ta, nói với ta từ bên trong, để ta hiểu biết về Thiên Chúa và kế hoạch hay thánh ý của Ngài, để ta kết hiệp với Ngài, và để ta có sức mạnh hầu thi hành theo đường lối của Ngài. Do đó, chúng ta phải biết thích ứng với cách hiện diện mới, cách hướng dẫn hay dạy dỗ mới mẻ của Thánh Thần, khác với cách hiện diện và dạy dỗ rất cụ thể qua thể chất của Đức Giêsu.

2.      Vai trò quan trọng và khó khăn của Thánh Thần

Đức Giêsu chỉ hiện diện tại trần gian 33 năm, nhưng chỉ thu nhận tông đồ và dạy dỗ họ, chỉ rao giảng Tin Mừng trong 3 năm. Công việc cứu chuộc không phải tới đó là hết, mà còn kéo dài suốt dòng lịch sử mấy ngàn năm của nhân loại. Phần việc còn lại này do Thánh Thần đảm trách. Ngài phải điều khiển lịch sử Giáo Hội, thánh hóa các tâm hồn, soi sáng họ để họ hiểu được tình yêu, tinh thần, ý muốn và kế hoạch của Thiên Chúa.

Công việc này rất khó khăn vì Ngài không ra mặt một cách hữu hình, không dùng uy quyền để điều khiển bằng những mệnh lệnh rõ ràng như một vị vua trần gian. Mà Ngài chỉ tác động vào tinh thần của con người, linh hứng, soi sáng, ban sức mạnh bên trong để chính con người thực hiện. Một khó khăn khác là Ngài luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Ngài không ép buộc con người, nên con người có thể từ chối lời mời gọi của Ngài, thậm chí có thể hành động ngược lại ý muốn của Ngài. Ngoài ra, Ngài còn phải điều khiển Giáo Hội trong một thế giới luôn luôn thay đổi và biến động đủ kiểu. Để hành động sáng suốt đem lại hiệu quả, Ngài phải «tùy cơ ứng biến», phải thay đổi cách thức tùy tình huống, không thể chấp cứng theo một nguyên tắc, một đường lối duy nhất.

3.      Một vài nguyên tắc để nắm bắt sự hướng dẫn của Thánh Thần

Chúng ta đã biết tầm quan trọng và những khó khăn lớn lao của Thánh Thần trong công việc thánh hóa nhân loại và điều khiển Giáo Hội và thế giới. Chúng ta cũng đã biết phương cách hoạt động của Ngài. Vì thế, chúng ta cần phải tích cực cộng tác vào công việc của Ngài. Muốn thế, chúng ta cần nắm vững một vài nguyên tắc để nắm bắt được sự dạy dỗ và hướng dẫn của Thánh Thần.

a) Thánh Thần là Đấng đổi mới

Con người thay đổi theo thời gian. Càng ngày con người càng tiến bộ về mọi mặt: não trạng, tâm lý, kiến thức, tâm linh, quan niệm, cách suy tư, v. v… Do đó, muốn dạy dỗ con người, Thánh Thần phải hành động giống như một ông thầy, phải thích ứng với trình độ và cá tính của mỗi lớp tuổi của học sinh, để chúng phát triển một cách thích hợp. Không thể dạy ở đại học cùng một cung cách hay phương pháp như khi dạy ở cấp 3. Và dạy ở cấp 2 không thể giống như ở cấp 1 được. Như vậy, Thánh Thần phải thay đổi cách hướng dẫn và dạy dỗ con người tùy theo thời đại, tùy theo tình huống rất đa dạng của con người. Do đó, con người hay Giáo Hội cần phải nhạy bén mới có thể theo kịp sự hướng dẫn của Thánh Thần.

b)      Đừng coi những gì đã được công thức hóa là tuyệt đối và bất biến

Thông thường, con người có khuynh hướng tâm lý là rút kinh nghiệm rồi đúc kết kinh nghiệm ấy thành công thức, và coi công thức ấy như chân lý bất biến, vĩnh cửu. Đấy là sự khôn ngoan của con người: người nào càng đúc kết được nhiều kinh nghiệm, nghĩa là càng công thức hóa được nhiều kinh nghiệm ấy để ghi nhớ và truyền đạt, thì càng được coi là khôn ngoan. Nhưng rất nhiều kinh nghiệm được đúc kết chỉ có giá trị trong thời gian, có thể trong nhiều thế kỷ. Nghĩa là chúng rất đúng, có giá trị và đem lại lợi ích trong một thời gian, nhưng tới một thời gian nào đó, khi cục diện hay hoàn cảnh của thế giới thay đổi, thì một số quan niệm và kinh nghiệm cũ không còn phù hợp nữa. Trong hoàn cảnh mới đã thay đổi ấy, nếu cứ quan niệm theo kiểu cũ và áp dụng kinh nghiệm cũ do cổ nhân đúc kết, thì có thể sẽ không đạt được kết quả mong muốn, thậm chí có thể gây tai hại.

Chẳng hạn trong lãnh vực khoa học, người xưa đúc kết những kinh nghiệm khoa học thành định luật như định luật hóa học Lavoisier về bảo toàn nguyên tố. Định luật này được coi là đúng một cách tuyệt đối cho đến khi con người khám phá ra nguyên tử của chất này có thể biến đổi thành nguyên tử chất khác trong một phản ứng hay một chuỗi phản ứng hóa học. Trong toán học, định đề Euclide được coi như chân lý không biến đổi cho tới khi con người khám phá và bước vào không gian vi vật lý (micro-physique) của các nguyên tử và không gian đại vật lý (macro-physique) của các thiên thể. Trong những không gian mới mẻ này, định đề Euclide không còn áp dụng đúng được nữa. Trong lãnh vực thường thức, nhiều kinh nghiệm được người xưa đúc kết thành công thức, không còn đúng trong một thế giới đang được toàn cầu hóa, mạng lưới hóa, điện tử hóa…

Về vấn đề này, trong lãnh vực tâm linh, Thánh Phaolô nói: «Chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống» (2Cr 3,6). Trong câu Kinh Thánh này, «chữ viết» có thể được hiểu là những luật lệ thành văn, những kinh nghiệm, những suy tư chín chắn được coi là đúng, được công thức hóa và được coi là chân lý bất biến, có giá trị vĩnh cửu. Vì coi luật lệ hay những công thức ấy là chân lý vĩnh cửu, nên con người ỷ y vào chúng, dựa vào chúng mà hành động, không còn quan tâm tới tiếng nói thầm kín và khó nhận ra của Thần Khí ở trong tâm mình nữa. Khi hoàn cảnh đã thay đổi, những luật lệ hay công thức ấy không còn phù hợp nữa, thì việc áp dụng những luật lệ hay công thức ấy trở thành sai lầm và tai hại. Những luật lệ hay công thức ấy chỉ có giá trị trong một thời gian, và không phù hợp được với từng tình huống của con người hay của Giáo Hội. Vì thế, con người hay Giáo Hội cần phải lắng nghe Thánh Thần, và nhạy bén với những cách biểu lộ của Thánh Thần hơn là dựa vào những luật lệ công thức được coi là vĩnh cửu ấy.

4.      Kinh nghiệm rút từ Kinh Thánh:

Cách đây 2000 năm, người Do Thái tưởng rằng luật Môsê với phép cắt bì là luật của Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi, và sẽ được áp dụng cho con người đến muôn đời. Nhưng trong thực tế, luật này chỉ được áp dụng từ thời Môsê đến thời các tông đồ – tức khoảng 1300 năm – thì không còn được áp dụng nữa. Bài đọc 1 trong sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay cho thấy: Người Kitô hữu gốc Do Thái nói rằng các Kitô hữu gốc ngoại giáo phải chịu phép cắt bì và tuân theo luật Môsê thì mới được cứu rỗi. Nhưng các tông đồ đã hội ý với nhau – dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần – quyết định chẳng phải chỉ thay đổi một vài điều, mà bãi bỏ luật Môsê. Và kể từ đó, như chúng ta thấy hiện nay, Giáo Hội không hề buộc các Kitô hữu phải tuân giữ luật Môsê.

Luật Môsê là luật của Thiên Chúa cho con người, thế mà còn bị bãi bỏ sau chỉ 1300 năm áp dụng, lẽ nào những luật do con người lập ra lại không thể thay đổi? Luật của con người có cao trọng và có giá trị lâu dài hơn luật của Thiên Chúa không? Chính vì ỷ vào lề luật, tức «chữ viết», mà các tư tế và kinh sư thời Đức Giêsu đã chống lại Thánh Thần và đã giết Đức Giêsu và các tông đồ. Chúng ta nên suy nghĩ sự kiện này để rút kinh nghiệm cho mình trong việc bảo thủ những «chữ viết», tức những luật lệ hay cách giải thích về Thiên Chúa của con người mà ta tưởng rằng không thể thay đổi được!

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Cha đã ban Thánh Thần để hướng dẫn chúng con nên thánh. Xin giúp chúng con biết nhạy bén với cách chỉ dạy của Thánh Thần. Đừng để chúng con mắc phải những sai lầm của các tư tế và kinh sư Do Thái xưa, tưởng rằng luật Môsê có giá trị tuyệt đối mà ỷ vào luật ấy nên đã không nghe được tiếng của Thánh Thần. Vì thế, họ đã phạm phải những sai lầm trầm trọng. Xin cho chúng con tránh được những lầm lỗi của họ.

Joan Nguyễn Chính Kết

----------------------------

 

PS 6-C106: CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH, C


(Gio-an 14: 23-29)

 

Giáo Hội lớn mạnh do tình yêu, tình yêu giữa vị Mục Tử nhân lành với đàn chiên và tình yêu giữa: PS 6-C106


          Giáo Hội lớn mạnh do tình yêu, tình yêu giữa vị Mục Tử nhân lành với đàn chiên và tình yêu giữa các tín hữu với nhau.  Nhưng không thể nói đến tình yêu mà lại không nói đến vai trò của Chúa Thánh Thần.  Chúa Thánh Thần là tình yêu sống động chuyển thông giữa Chúa Cha và Chúa Con thế nào, thì Người cũng giữ vai trò làm cho Giáo Hội được sống động và phát triển nhờ sự thông chuyển tình yêu giữa Thiên Chúa, Đức Ki-tô và các Ki-tô hữu như vậy.  Không có cách diễn tả nào thật ý nghĩa và thực tế về sinh hoạt của tình yêu trong Giáo Hội hơn là cách Chúa Giê-su đã diễn tả qua những lời cáo biệt Người nói với các môn đệ trước khi chịu cuộc Thương khó.  Tham gia vào sinh hoạt yêu thương này gồm có Chúa Cha, Chúa Giê-su, Chúa Thánh Thần và Ki-tô hữu.  Những động tác biểu lộ yêu thương được thể hiện nhịp nhàng, đáp trả qua những động từ “giữ lời, đến, ở lại, sai đến, dạy, nhớ lại, để lại bình an, đừng xao xuyến, đừng sợ hãi, vui mừng, và sau hết là tin.”  Vậy ta có thể nhìn ngắm sinh hoạt yêu thương ấy dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
 
a)  Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương ta

          Yêu ai là đến và ở lại với họ.  Dĩ nhiên ngoài cách hiện diện thể xác, ta có nhiều cách đến và ở lại với nhau, thí dụ bằng thư từ, bằng điện thoại, bằng e-mail...  Ta đến với người khác, nhưng nhiều khi lại không thể ở lại với họ, vì bận rộn hoặc vì ta chưa yêu mến đủ.  Còn Thiên Chúa, Người yêu ta như thế nào?  Người muốn đích thân đến với ta qua Con Một Người là Chúa Giê-su Ki-tô và ở lại với ta cho đến tận thế qua sự hiện diện bí tích của Chúa Ki-tô trong Giáo Hội.  Sinh hoạt yêu thương Ba Ngôi dành cho ta là sự cộng tác tích cực giữa Cha, Con và Thánh Thần để thực hiện một kế hoạch yêu thương nhiệm mầu (Ep 1:9).

          Khởi đầu cho sinh hoạt yêu thương, Thiên Chúa đã đi trước và đến với ta.  Người không đến theo cách Người đã đến với dân Do-thái trong sấm sét tại Si-nai, vì người ta sẽ hãi sợ và không dám đến gần.  Cho nên Người đã đến một cách khiêm tốn, quá bình thường đến độ loài người không tin nổi.  Đó là Người đến qua Chúa Giê-su, Con Một Người.  Người đã “sai” Con Yêu Dấu đến, mặc lấy thân phận người phàm hèn mọn (Pl 2:7).  Đến với nhân loại, Chúa Giê-su, Tình Yêu Nhập Thể, đã hoạt động yêu thương dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần như ta luôn đọc thấy trong sách Tin Mừng.  Thánh Thần đã “xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.  Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18-19).  Được Thánh Thần xức dầu, Chúa Giê-su lên đường thi hành sứ mệnh mặc khải tình yêu Thiên Chúa, “đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:38).  Thánh Thần là tình yêu và động lực làm cho sinh hoạt yêu thương của Thiên Chúa với trần gian được thể hiện trọn vẹn và tiếp tục trong Giáo Hội.

          Sau khi Chúa Giê-su về trời ngự bên hữu Chúa Cha, Người vẫn “ở lại” với trần gian.  Lúc sống trên trần gian, Người đã dùng sự hiện diện thể xác để tỏ ra tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại.  Trước khi về trời, Người đã xin Chúa Cha sai Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần đến.  Giáo Hội là thời gian của Thần Khí Đức Ki-tô hoạt động.  Thánh Thần sẽ tiếp tục công việc của Chúa Giê-su là “dạy dỗ, làm nhớ lại và để lại bình an” cho Giáo Hội.  Hoa trái “bình an” của Thánh Thần sẽ giúp cho mọi Ki-tô hữu trong Giáo Hội khỏi bị “xao xuyến và sợ hãi”, nhất là hoàn toàn đặt lòng tin vào Chúa Giê-su.

          Đó là diễn tiến sinh hoạt yêu thương của Thiên Chúa dành cho ta.  Nhưng ta biết lấy gì đền đáp lượng yêu thương vô bờ của Thiên Chúa?  Chúa Giê-su cho ta câu trả lời:
 
b)  “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”

          Chỉ có một điều kiện đơn giản như vậy sao?  Giữ lời Thầy!  Chúa Giê-su đã khẳng định:  không phải mọi kẻ “thưa, nói” là được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ những ai “thi hành” ý muốn của Thiên Chúa (Mt 7:21).  Thi hành ý muốn của Thiên Chúa cũng chính là “giữ lời Thầy.”  Yêu mến không bao giờ thụ động, nhưng biểu lộ qua hành động.  Chúa Giê-su dạy ta đáp lại tình yêu của Thiên Chúa bằng cách chấp nhận sống giáo huấn của Người.

          Khi ta đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, không phải ta sẽ làm một mình, mà cả Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ giúp ta.  Chúa Cha “nói” với ta qua Chúa Giê-su (Dt 1:2).  Chúa Thánh Thần “dạy” ta mọi điều và giúp ta “nhớ lại” những gì Chúa Giê-su nói với ta.  Ba Ngôi Thiên Chúa cư xử với ta tựa như cha mẹ, dạy dỗ và nhắc nhở ta.  Bổn phận của ta là cứ làm, cứ sống những gì các Ngài dạy.  Kết quả của lối sống ấy là lòng ta luôn được bình an, không còn xao xuyến và sợ hãi trước bất cứ nghịch cảnh nào.

          Việc ta đáp lại tình yêu Thiên Chúa sẽ được cổ võ và nâng đỡ do Chúa Thánh Thần.  Chúa Giê-su đã nói lên vai trò ấy của Chúa Thánh Thần khi Người gọi Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ.  Thánh Thần đã hoàn tất nơi các môn đệ Chúa Giê-su việc chuẩn bị để các ông thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng.  “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13:7), đó là nhờ Thánh Thần đã làm cho họ “nhớ lại” những điều Chúa dạy và những việc Người làm.  Chúa Giê-su cũng cho Thánh Thần đến trên mỗi Ki-tô hữu qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, để họ có thể “giữ lời Thầy, được bình an, không xao xuyến, không sợ hãi và tin vào Chúa Ki-tô.”
 
c)  Chúa Thánh Thần và cuộc tạo dựng mới

          Giáo Hội là môi trường để Thiên Chúa thực hiện một cuộc tạo dựng mới.  “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, và đổi mới bộ mặt trái đất” là lời nguyện thiết tha của Giáo Hội.  Thánh Thần giúp ta sống như “con cái sự sáng”, như những kẻ “được chỗi dậy với Đức Ki-tô trong sự sống mới.”  Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Rô-ma đã dành chương 8 để nói về lối sống theo Thần Khí, lối sống của những người con được gọi Thiên Chúa là “Áp-ba!  Cha ơi!”  Sống như vậy là ta đang cộng tác vào cuộc tạo dựng mới của Thiên Chúa Cha, thụ hưởng chức phận đồng thừa kế với Đức Ki-tô và thể hiện việc đổi mới bộ mặt trái đất.  Tóm lại, ta luôn luôn để cho Thần Khí hướng dẫn ta đáp lại những yêu thương Ba Ngôi Thiên Chúa đang sinh hoạt với Giáo Hội và với ta.
 
d)  Suy nghĩ và cầu nguyện
 
          Sống mầu nhiệm Phục Sinh là cốt tủy của đời sống Ki-tô hữu, tức là sống đời sống mới theo Thần Khí để đáp lại tình yêu Thiên Chúa.  Vậy đâu là đời sống mới của tôi?  Tôi ý thức thế nào về đời sống mới ấy, hay chỉ sống như một Ki-tô hữu “có tiếng mà không có miếng”?

          Có khi nào tôi suy nghĩ về tình Chúa yêu tôi như một kế hoạch gồm những việc làm cụ thể Người thực hiện cho trần gian, cho Giáo Hội và cho cá nhân tôi không?  Tôi thử nhìn kế hoạch ấy riêng cho hoàn cảnh tôi xem như thế nào?  Đó có phải là sinh hoạt yêu thương sống động giữa Chúa với tôi, hay chỉ là tình yêu đơn phương của Chúa đã không được tôi đáp trả?

          Tôi “nhớ lại” được những gì về giáo huấn của Chúa Giê-su?

          Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội và trong mỗi Ki-tô hữu.  Tôi có cộng tác với Người để “đổi mới bộ mặt trái đất” không?  Thử nhận định một vài “đổi mới” tôi đã tham gia với Người.
 
Cầu nguyện:

          “Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu,
          xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống;
          để con sống vì tình yêu Thiên Chúa,
          để con yêu vì cuộc sống muôn loài.
          Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý
          và biết ghét những điều đê tiện, cấu xa.
          Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu,
          và dám chết vì những điều mình ghét.
          Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống
          để mỗi giây phút sống
          con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương.
          Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu
          để từng giây phút yêu,
          con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.
          Cuối cùng, xin cho conbiết hòa nhập cả hai nên một:
          để sống là yêu và yêu là sống,
          vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống
          cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu.  A-men.”
                             (Trích RABBOUNI, lời nguyện 41)

 Đaminh Trần Đình Nhi
14/5/04

----------------------------

 

PS 6-C107: CHỦ NHẬT 6 PHỤC SINH


(20-5-2001)

 Đọc Lời Chúa

 · Cv 15,1-2,22-29: Có những người từ miền Giu-đê đến dạy anh em rằng: «Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ» (…) (Các tông đồ viết trả lời:) «Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những gì cần thiết phải giữ».

 · Kh 21,10-14.22-23: Trong thành, tôi không thấy có đền thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa toàn năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng cần mặt trời, mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa tỏa rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi.

 TIN MỪNG: Ga 14,23-29

 Những lời cuối cùng của Đức Giê-su

 Khi ấy, Đức Giê-su nói: «Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em, nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần của Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

 Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: "Thầy ra đi và đến cùng anh em". Nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em sẽ vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra anh em tin».

 Suy niệm

 Câu hỏi gợi ý:

 

Chúa nói: «Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy». Ba chữ «giữ lời Thầy» ở đây có ý nghĩa gì? Có: PS 6-C107


1. Chúa nói: «Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy». Ba chữ «giữ lời Thầy» ở đây có ý nghĩa gì? Có phải là sống yêu thương, sống tình nghĩa không?

2. Cốt tủy của Ki-tô giáo là gì? Có phải là đọc kinh dâng lễ và lo lãnh nhận các bí tích hàng ngày, hàng tuần hay hàng tháng không?

3. Chúa nói: «Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy». «Người ấy» đây cụ thể là người thế nào? Có Chúa ở với mình thì ích lợi gì?
 
Suy tư gợi ý:

 1. Yêu mến Đức Giê-su bằng cách sống tinh thần của Ngài

 Đức Giê-su đến thế gian là để cứu nhân loại. Nhưng công cuộc cứu rỗi nhân loại gồm hai mặt: một mặt là do tình yêu và sáng kiến của Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện, một mặt là do sự hưởng ứng và cộng tác của con người. Thiếu một mặt, việc cứu chuộc không thể thành tựu được: «Có Trời mà cũng có ta» (Kiều). Phần của Thiên Chúa là bày tỏ tình yêu của Ngài đối với nhân loại qua việc Đức Giê-su đến để dạy dỗ và chịu chết hầu minh chứng tình yêu Thiên Chúa. Phần con người là đáp lại tình yêu Thiên Chúa bằng cách tin vào Đức Giê-su và tuân giữ lời Ngài. Tuân giữ lời Ngài, một cách cụ thể chính là yêu thương mọi người không trừ ai. Vì «Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình» (1 Ga 4,21), ai thật sự yêu mến Thiên Chúa, tất nhiên sẽ thể hiện tình yêu ấy ra qua việc yêu thương và hy sinh cho những người sống chung quanh mình. Không thể có người yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu thương anh em mình: «Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1 Ga 4,20)

 Tuân giữ lời Đức Giê-su, hay sống tinh thần yêu thương của Ngài, đó chính là đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, mà cũng là góp phần trước hết vào việc cứu rỗi chính bản thân mình, và sau đó là cứu rỗi tha nhân, trong đó có gia đình, xã hội, Giáo Hội và thế giới. Nếu mọi người đều sống tinh thần yêu thương nhau, thì các tập thể ở trần gian (gia đình, xã hội, Giáo Hội và thế giới) sẽ trở thành Nước Trời, trong đó mọi người đều hạnh phúc. Thế giới hiện nay còn biết bao nhiêu đau khổ, cuộc sống chung trong nhiều tập thể – nhỏ cũng như lớn – chẳng khác gì hỏa ngục, vì trong đó quá nhiều người ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình, không biết yêu thương nhau, nghĩ đến nhau, chia sẻ cho nhau, hy sinh cho nhau.

 Biết rằng yêu thương nhau thì sẽ làm cho các tập thể được hạnh phúc, nhưng làm sao để thực hiện điều đó, nếu không có những người tiên phong và cổ võ tinh thần yêu thương ấy? Ai sẽ là những người tiên phong, nêu gương và cổ võ nếu không phải là người kitô-hữu, môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng luôn luôn kêu gọi mọi người yêu thương nhau? «Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau» (Ga 13,35).

 2. Cốt tủy của Ki-tô giáo

 Đức Giê-su dùng tình yêu để cứu nhân loại, và cũng kêu gọi mọi người hãy dùng tình yêu để tự cứu lấy mình và cứu người khác nữa. Đó là một trong những cốt tủy của Ki-tô giáo. Vì thế, Đức Giê-su nói: «Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy (…) Ai không mến Thầy thì không giữ lời Thầy», mà lời của Ngài chủ yếu là kêu gọi mọi người yêu thương nhau. Chúng ta cần phải nắm vững cốt tủy này để thực hiện cho bằng được. Không giữ cốt tủy này mà chỉ thực hiện những việc đạo đức bên ngoài thì chính là lấy chính làm phụ, lấy phụ làm chính. Đức Giê-su đã từng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi» (Mt 7,21). Chính vì không nắm vững điều cốt tủy mà chỉ chú ý tới cái phụ tùy, tưởng đó là chính yếu, nên «trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: "Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỉ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?" (toàn là những việc đạo đức phi thường cả!) Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: "Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác"» (Mt 7,22-23).

 Việc tuân giữ lời Chúa, thực hiện ý muốn của Thiên Chúa, tức sống tinh thần yêu thương của Đức Giê-su, chính là điều cần thiết nhất, nền tảng nhất của Ki-tô giáo. Đức Giê-su quả quyết điều ấy là nền tảng như sau: «Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví như người khôn xây nhà trên đá (…) Còn những kẻ nghe mà không đem ra thực hành thì ví như người ngu dại xây nhà trên cát (…)» (Mt 7,24-27). Như vậy, ta thấy Ki-tô giáo là một đạo hành động thực tế chứ không phải là một mớ lý thuyết phải biết hay phải học, trong đó chủ yếu là biến Tin Mừng hay tình thương thành hành động đích thực, để làm cho môi trường mình sống trở nên tốt đẹp, hạnh phúc, là Nước Trời tại thế.

 Nhiều người kitô-hữu có tâm lý này: khi làm tròn những bổn phận đạo đức hằng ngày mà họ tập làm từ hồi nhỏ (đi lễ mỗi Chúa Nhật, đọc kinh sớm tối hoặc đi lễ mỗi ngày, làm dấu đọc kinh trước mỗi bữa ăn, xưng tội mỗi tháng, lâu lâu xin lễ cho ông bà cha mẹ đã khuất, v.v… ) thì họ cảm thấy an tâm rằng họ đã giữ trọn lề luật của Chúa và vì thế, họ tự cho mình là người đạo đức. Những việc ấy đều là những việc tốt lành không nên bỏ, nhưng đó không phải là cốt yếu của Ki-tô giáo. Cốt tủy của Ki-tô giáo là phong cách sống đầy yêu thương của ta đối với mọi người, đặc biệt những người chung quanh, và đặc biệt hơn nữa với những người thân cận, gần gũi mình nhất. Nếu cuộc sống của mình không biểu hiện được tình nghĩa, lòng yêu thương, được xây dựng trên nền tảng công bằng, thì tất cả những việc đạo đức (đi lễ, đọc kinh, v.v…) là hoàn toàn vô ích. Chẳng những vô ích mà nó còn có hại ở chỗ nó ru ngủ ta, làm cho ta tưởng rằng mình đạo đức, và hài lòng với lối sống đó, thậm chí có thể làm ta nghĩ mình đạo đức hơn người và lên mặt phán đoán người khác. Đang khi điều cốt tủy nhất của Ki-tô giáo là sống tình thương thì ta không thực hiện.

 3. Có sống yêu thương thì mới có Chúa ở trong ta

 Đức Giê-su nói: «Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy». Những ai giữ lời Đức Giê-su, nghĩa là sống tinh thần yêu thương của Ngài, thì được Thiên Chúa yêu thương và ở cùng. Ai sống yêu thương mọi người thì có Thiên Chúa ở trong người ấy. Và ai có Chúa là nguồn tình yêu ở trong mình, thì sẽ càng thể hiện tình yêu ấy cụ thể hơn đối với mọi người.

 Mọi người kitô-hữu đều có chung một lý tưởng là nên thánh, tức nên giống Thiên Chúa là Đấng Thánh và cũng là Tình Yêu. Người thánh thiện là người luôn kết hiệp với Thiên Chúa, luôn có Chúa ở cùng. Thiên Chúa là tình yêu, nên Ngài thích hiện một cách đậm đặc và đặc biệt nơi những tâm hồn biết yêu thương. Vì thế, thánh thiện một phần rất lớn đồng nghĩa với yêu thương, theo đó, người yêu thương nhiều là người thánh thiện nhiều. Không ai thánh thiện mà lại ít yêu thương. Ít yêu thương hay không có khả năng yêu thương, nghĩa là ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình, đến quyền lợi và hạnh phúc của mình, thì đó chính là tội lỗi. «Tội» trong tiếng Việt là «tôi nặng», nghĩa là: bản chất của tội lỗi là do đặt quá nặng cái tôi của mình, không biết nghĩ đến người khác.

 Như vậy, sự thánh thiện hay dấu hiệu cho thấy Chúa có ở với ta hay không là ở trong chính cách cư xử thường ngày của ta đối với những người chung quanh, với những người thân cận ta nhất có tình thương hay không. Nếu những người chung quanh ta cảm nhận được ta là người sống có tình có nghĩa, có trên có dưới, có trước có sau, thì đó là dấu chứng có Chúa ở với ta, và sự thánh thiện nằm ở chỗ đó. Còn nếu họ không cảm nhận được điều đó, thì ta phải coi chừng kẻo tất cả những việc «đạo đức» ta làm đều chỉ là «giả đạo đức» nhằm «lấy vải thưa che mắt thánh» mà thôi. Một việc chỉ được gọi là đạo đức hay thánh thiện đích thực khi nó thấm nhuần tình yêu đích thực ở bên trong. Nếu không được thúc đẩy bởi tình yêu, thì không việc làm nào là thánh thiện hay đạo đức cả dù là cầu nguyện, dâng lễ, ăn chay, bố thí, giúp đỡ, v.v…

 Cầu nguyện

 Lạy Chúa, xin cho con hiểu được cốt tủy của Ki-tô giáo là yêu thương, để con luôn cố gắng thực hiện sự yêu thương ấy trong đời sống hằng ngày của con: trước hết với những người thân yêu gần gũi con nhất, những người trong gia đình, sau là bạn bè, hàng xóm, những người trong làng trong ấp, và sau cùng là tất cả mọi người không trừ ai, kể cả những người tự nhiên con không ưa, hay những người không ưa con. Xin cho con cụ thể hóa tình yêu ấy ra bằng hành động thật sự, là sẵn sàng chấp nhận hy sinh, thiệt thòi, đau khổ, mất mát, mất công, mất của vì hạnh phúc của những người mà Chúa muốn con yêu thương.

 Joan Nguyễn Chính Kết

----------------------------

 

PS 6-C108: THÁNH THẦN SẼ DẠY ANH EM MỌI ĐIỀU

 

Vào Chúa Nhật cuối cùng trước Lễ Chúa Giêsu lên Trời, chúng ta lắng nghe những lời nhắn: PS 6-C108


Vào Chúa Nhật cuối cùng trước Lễ Chúa Giêsu lên Trời, chúng ta lắng nghe những lời nhắn nhủ rất quan trọng của Chúa Giêsu trong Ga 14, 23 – 26:

“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy” ( c. 23a )

Lời của Chúa Giêsu là lời tình yêu đối với nhân loại, và lời đó được diễn tả trong những điều răn của Người. Tình yêu đối với Đức Giêsu nhất thiết phải đưa người đồ đệ của Chúa đến hành động thực hiện những điều răn đó. Đây là hai thực tại gắn liền với nhau đến độ không thể tách rời được. Đức Giêsu đã nhiều lần nhấn mạnh: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” ( 14, 15 ); “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” ( 14, 21 ). Người tuân giữ các điều răn của Đức Giêsu là người đón nhận Người, ứng đáp lại tình yêu của Người, để cho tình yêu của Người sinh hoa kết trái nơi đời mình.

“Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (c. 23bc ).

Chúa Cha và Đức Giêsu là một. Chúa Cha và Đức Giêsu sẽ đến và ở lại nơi người đồ đệ giữ lời Đức Giêsu, làm nên một cuộc sống viên mãn trong sự kết hợp sâu xa của gia đình thần linh.

Đức Giêsu đã từng nói với các đồ đệ: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” ( 14, 2 – 3 ). Bây giờ Người lặp lại cũng một nội dung ấy nhưng với cách nói khác. Ở 14, 2 – 3, Người đi dọn chỗ cho các đồ đệ trong nhà Cha Người, tức là Người thiết lập cho các đồ đệ tư cách là con cái của Thiên Chúa.

Ở 14, 23, Chúa Cha và Chúa Giêsu sẽ đến và ở lại với người yêu mến Chúa Giêsu, tức là cho người đồ đệ Đức Giêsu được đi vào và sống trong tình yêu mà Chúa Cha dành cho Chúa Giêsu và ngược lại, bởi vì tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu luôn luôn chỉ là tương quan tình yêu tuyệt đối: “Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” ( 3, 35 ); “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại” ( 10, 17 ).

Ai thực hiện lời tình yêu của Đức Giêsu thì trở nên con Thiên Chúa ( 1, 12: “Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” ), nên sẽ được thông chia tình yêu giữa Đức Giêsu và Chúa Cha. Và khi đó, như Đức Giêsu nói: “Anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” ( 14, 20 ).

Một trong những yếu tố đặc trưng của cuộc xuất hành Cựu Ước là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Thiên Chúa ở với dân trong Lều Hội Ngộ. Trong cuộc xuất hành mới, mỗi thành viên của cộng đoàn Hội Thánh đều sẽ là nơi Thiên Chúa ngự; và như thế, toàn thể Hội Thánh sẽ là sự thể hiện vinh quang Thiên Chúa, như chính Đức Giêsu thưa với Chúa Cha: “Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một” ( 17, 22 ).

“Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” ( c. 24 ).

Đức Giêsu đồng nhất lời của Người với lời của Chúa Cha. Chúng ta có thể gặp thấy trong Ga nhiều lời khẳng định tương tự: “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi” ( 7, 16 ); “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi” ( 12, 49 – 50; x. 8, 28.40 ).

“Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” ( cc. 25 – 26 ).

Sẽ đến lúc Đức Giêsu rời xa các đồ đệ. Khi còn ở với họ, Người tỏ cho họ biết về chương trình của Thiên Chúa trên nhân loại. Người đã dạy dỗ họ nhiều điều. Họ sẽ phải đào sâu và thực hiện những điều đó. Nhưng sự đào sâu và thực hiện ấy không phải là kết quả của những nỗ lực suy tư và hiểu biết nhân loại, song là nhờ Thánh Thần. Chính Thánh Thần sẽ dạy họ mọi điều và sẽ làm cho họ nhớ tất cả những gì Chúa Giêsu đã bày tỏ cho họ. Thánh Thần sẽ hoạt động để xây dựng cộng đoàn các đồ đệ. Rất nhiều khía cạnh của cuộc đời và sứ điệp của Chúa Kitô mà các đồ đệ chưa hiểu thấu ( x. 12, 16 ). Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, sẽ giúp họ.

Thần Khí của Thiên Chúa được xác định rõ ở đây là Thánh Thần. hạn từ này mang một nghĩa kép, vừa chỉ phẩm chất vừa chỉ hoạt động của Thần Khí. Thần Khí là thánh và Đấng tác thánh. Người đến từ Thiên Chúa nên Người hoàn toàn khác biệt với mọi thực tại phàm nhân: Người là Thánh. Người thuộc về cảnh vực thần linh. Nhưng đồng thời, Người cũng là Đấng làm nên sự tách biệt, tức là Người là Đấng hiến thánh, Đấng tác thánh. Đó là khía cạnh thứ hai trong ý nghĩa của hạn từ Thánh Thần. Người tách biệt con người khỏi tối tăm, khỏi thế gian sa đọa, đưa họ vào vùng ánh sáng và vào cõi sống là thế giới của Thiên Chúa.

Thần Khí của Thiên Chúa cũng được xác định là một thực tại năng động và bản vị. Ngài là Đấng Bảo Trợ do Chúa Cha sai đến. Ngài sẽ dạy các đồ đệ mọi điều. Hoạt động của Ngài sẽ trải dài trong thời gian. Nhưng Ngài không nói tự mình, mà là nhắc nhở và làm cho các đồ đệ Đức Giêsu hiểu thấu những gì mà Đức Giêsu đã dạy họ ( 14, 26 ). Ngài sẽ làm chứng cho Đức Giêsu ( 15, 26: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy” ). Người sẽ cáo tội thế gian: “Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử” ( 16, 8 ). Người sẽ đưa các đồ đệ đến sự thật toàn vẹn: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” ( 16, 13 ).

Thánh Thần được Chúa Cha sai đến “nhân danh Chúa Giêsu” và phân biệt với Chúa Giêsu. Ngài được gọi là Đấng Bảo Trợ khác và việc Ngài được sai đến là kết quả của lời cầu nguyện của chính Đức Giêsu: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” ( 14, 16 – 17 ).

Gợi ý suy niệm

( 1 ) Đoạn văn mà chúng ta vừa đọc đã được tác giả Gioan ghi lại như câu trả lời của Đức Giêsu cho câu hỏi của ông Giuđa: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian ?” ( c. 22 ). Đức Giêsu không trực tiếp trả lời cho câu hỏi đó, nhưng một cách gián tiếp, Người cho chúng ta thấy Thiên Chúa Cha và chính bản thân Người hiện diện và tỏ mình giữa thế gian như thế nào: Thiên Chúa đến cư ngụ nơi những ai yêu mến Người, tiếp đón Người và thi hành lời của Người. Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình cho thế gian nhờ những kẻ yêu mến Người.

Rất nhiều người cảm thấy Thiên Chúa vắng mặt và tỏ ra khó chịu vì sự im lặng của Người. Thế giới vẫn chất vấn chúng ta: Thiên Chúa của ngươi đâu ? Và chúng ta phải trả lời cho câu hỏi đó. Đức Giêsu không phải là một xác chết. Ngài đang sống và đang đi vào giữa lịch sử qua và nhờ những đồ đệ tuân giữ lời Ngài và yêu mến Ngài: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” ( c. 23 ).

( 2 ) Đức Giêsu quả quyết: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” ( c. 26 ). Thánh Thần giúp Hội Thánh dần dần hiểu thấu đáo hơn và sâu xa hơn những điều chính Chúa Giêsu đã truyền dạy và mạc khải. Vì thế, dưới ảnh hưởng của Thánh Thần, Hội Thánh và mỗi người tín hữu luôn được mời gọi làm mới mình.

Nhiều người ngạc nhiên và thậm chí bực tức vì Hội Thánh “thay đổi”. Chúa Thánh Thần không chấm dứt hoạt động ở một thời điểm nào đó cách đây vài thế kỷ. Người vẫn đang làm cho Hội Thánh hiểu và sống ngay trong hôm nay sứ điệp cứu độ và yêu thương của Đức Giêsu. Hội Thánh vẫn còn nhiều điều phải hiểu biết, phải khám phá, phải thực thi. Điều đó càng đúng hơn nữa đối với từng người trong chúng ta.

Lm. Giuse NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT

----------------------------

 

PS 6-C109: QUÀ TẶNG CỦA CHÚA

 

Sau khi chiến tranh lạnh vừa kết thúc ( 1991 ), thế giới chưa kịp hưởng thái bình được bao lâu, thì: PS 6-C109


Sau khi chiến tranh lạnh vừa kết thúc ( 1991 ), thế giới chưa kịp hưởng thái bình được bao lâu, thì sự kiện ngày 9.11.2001 trên đất Mỹ, đánh dấu thảm họa khủng bố bắt đầu lan tràn trên toàn cầu. Phập phồng mối lo sợ sự dữ không hề thuyên giảm, mà càng ngày càng dồn dập lan nhanh khắp nơi.

Mới đây, ngày 15.4.2013 xảy ra vụ khủng bố tại đích đến của cuộc thi Marathon Boston, khiến dân chúng Hoa Kỳ càng thêm kinh hoàng. Trong khi đó, cả thế giới còn đang lo lắng chiến tranh hạt nhân, đe dọa châm ngòi bất cứ lúc nào từ Bắc Triều Tiên.

Như thế nền hòa bình, sự bình an của thế gian chỉ tạm bợ, bấp bênh và rất phù du. Còn sự bình an trong tâm hồn mỗi người cũng phù phiếm và bất định không kém.

Hôm nay qua Tin Mừng theo Thánh Gioan, Chúa Giêsu lại trao ban sự bình an. “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” ( Ga 14, 27 ).

Bất an

Ngay từ khi Adam và Eva phạm tội, con người bắt đầu nếm mùi sợ hãi, bất an. Cả hai hoảng sợ, trốn tránh, xấu hổ, khi Thiên Chúa tìm đến họ nâng đỡ, an ủi. Sự bất an kéo đến xâm chiếm con người, khi mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người bị phá vỡ bởi tội lỗi. Thành ra con người mới cảm thấy bơ vơ, lạc lõng giữa môi trường dù quen hay lạ.

Hệ lụy tiếp theo, con người cảm thấy bất an với chính đồng loại, khi Thiên Chúa không còn hiện diện trong cuộc sống, không còn là nơi nương tựa. Sự tham lam, giận ghét, ghen tuông, thù hận, theo cái ác phát triển như như cỏ dại, như gai góc, như thú dữ xuất hiện ngay trong Vườn Địa Đàng, sau khi xảy ra tội nguyên tổ. Cain đã lạnh lùng giết chết Aben, em ruột. Các cuộc xung đột giết chóc phát sinh vô tận giữa các bộ lạc, sắc tộc và dân tộc, liên miên suốt chiều dài lịch sử nhân loại.

Trong thâm tâm mỗi người, sự lo lắng bất an luôn đi cùng suốt cuộc đời, từ khi chào đời đến khi xuôi tay, nhắm mắt. Con người luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước phong ba, bão táp, nghịch cảnh.

Khi Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, món quà đầu tiên Người gửi đến nhân loại chính là hai chữ bình an: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm !” ( Lc 2, 14 )

Bình an

Chỉ con người thiện tâm, trở về với Nguồn Cội là Thiên Chúa, mới có thể đón nhận sự bình an, tặng phẩm Giáng Sinh cao quý. Sám hối trở lại, hàn gắn mối giao hòa với Thiên Chúa, từ bỏ tội lỗi, những đam mê xác thịt, những quyến rũ trần thế, những tham, sân, si, nghi, mạn, ác, con người mới xứng đáng đón nhận hồng ân bình an.

Điều tiên quyết khi đã trở về theo Chúa, chính là bỏ mình, bỏ tất cả con người cũ tội lỗi, chấp nhận đau thương, thánh giá Chúa gửi đến, sống theo Lời Hằng Sống, chấp nhận lội ngược dòng, chịu sỉ nhục và bắt bớ, nhục hình.

Ông Phêrô đã toan trốn khỏi thành Roma để khỏi chịu khổ nạn, thấy Chúa Giêsu đi ngược trở vào thành. Ông kinh ngạc liền hỏi: “Quo Vadis ?” ( Thầy đi đâu vậy ? ) Chúa đáp: “Romam Vado iterum crucifigi." ( Thầy đến Roma để chịu đóng đinh lần nữa ). Nghe vậy, ông Phêrô bèn hối lỗi, giác ngộ, trở vào thành an tâm tiếp tục sứ vụ, để cuối cùng được phúc tử vì đạo, bằng cách chịu đóng đinh ngược. Nhờ đồng hành cùng Chúa, ông Phêrô mới cảm thấy bình an, dù đứng trước ngay thách đố sinh tử. ( Henryk Sienkiewicz, Quo Vadis ).

Khi đã thành tín giao hòa cùng Chúa, con người mới có thể giao hòa với tha nhân, với anh em mọi người, quen biết cũng như xa lạ, thân thiết cũng như thù địch, mà tâm hồn vẫn bình an, thanh thản, vô ưu. Do vậy, các thánh nhân mới can đảm và bình thản chịu nhục hình cho đến hơi thở cuối cùng.

Tái củng cố mối liên kết với Chúa, con người mới có thể thân thiện với muôn thọ tạo, với môi trường. Mới tôn trọng, gìn giữ môi trường xanh, sạch và đẹp. Mới thân thiết, yêu quý các loại động vật hoang dã. Đáp lại, môi trường không bị hủy diệt, tận diệt, không bị biến đổi khí hậu, không bị ô nhiễm, hay sa mạc hóa, mà trở nên Vườn Địa Đàng, hành tinh xanh đáng sống và đáng yêu.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa,
Để con đem yêu thương vào nơi oán thù,
Đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
Đem an hòa vào nơi tranh chấp,
Đem chân lý vào chốn lỗi lầm;
Đề con đem tin kính vào nơi nghi nan,
Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng;
Đề con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
Đem niềm vui đến chốn u sầu.
( Lm. Kim Long, Kinh Hòa Bình ).


Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Thánh Gia, để con nhận được quà tặng bình an viên mãn của Chúa trao ban.

AM. TRẦN BÌNH AN

----------------------------

 

PS 6-C110: CỨ YÊU, ĐỪNG SỢ !

 

Tình yêu như một điệp khúc, luôn được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại, có thể có người cảm thấy nhàm: PS 6-C110


Tình yêu như một điệp khúc, luôn được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại, có thể có người cảm thấy nhàm vì nghe hoài, nghe mãi, nghe suốt Năm Phụng Vụ, thậm chí nghe hằng ngày. Nghe mãi, thế mà chúng ta vẫn chẳng thực hiện được bao nhiêu, dù Thánh Gioan bảo: “Các điều răn của Người có nặng nề gì đâu” ( 1Ga 5, 3 ). Quả thật, Đạo Chúa chỉ là một chữ Yêu, rất ngắn gọn và đơn giản, ấy thế mà lại nhiêu khê, nhưng dù sao tình yêu vẫn luôn vĩ đại !

Thánh Angela Merici nói: “Muốn biết một người có nên giống Chúa Giêsu không thì phải coi họ sẽ chấp nhận sự khinh mạn sỉ nhục như thế nào”. Chúa Giêsu vẫn yêu cuồng si dù biết chúng ta phụ tình Ngài. Yêu là thế đó. Yêu không chỉ “chết trong lòng một ít” mà phải te tua và tơi tả, và “chết thật”. Chán lắm ! Nhưng vẫn có những người thích… chán. Hầu như người đời không thể hiểu chữ “yêu” kiểu này !

Đại văn hào Victor Hugo đã từng xác định: “Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu”. Kỳ lạ vô cùng. Chỉ ai đã từng yêu hết lòng thì mới khả dĩ hiểu được phần nào!

Sách Công Vụ cho biết có những người từ miền Giuđê đến dạy thế này: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê thì anh em không thể được cứu độ” (Cv 15, 1 ). Ông Phaolô và ông Banaba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Banaba và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục để bàn về vấn đề đang tranh luận này.

Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antiôkhia với ông Phaolô và ông Banaba. Đó là ông Giuđa ( biệt danh là Basaba ) và ông Xila, những người có uy tín trong Hội Thánh. Họ trao cho phái đoàn bức thư này: “Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Banaba và ông Phaolô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giuđa và ông Xila đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh” ( Cv 13, 24 – 29 ).

Phải cẩn trọng vì lời nói có thể làm hại người khác: “Nhất ngôn xuất, tứ mã nan truy”. Tác hại khôn lường vì cái lưỡi! Chắc hẳn chúng ta cũng đã biết điều này: “Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật”. Luật phục vụ con người chứ con người không phục vụ luật. Có con người rồi mới phát sinh luật. Luật cũng cần thiết để giúp con người hoàn thiện, nhưng theo luật phải vì yêu mến thật lòng, chứ chỉ khư khư giữ luật vì luật mà không vì yêu mến thì hóa vô ích. Thánh Augustinô đã nói: “Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì cũng được”. Người nào dám yêu thì không hề sợ bất cứ điều gì, kể cả cái chết, vì tình yêu còn mạnh hơn cả Tử Thần.

Yêu là đường của Chúa, yêu là luật của Chúa, yêu là chân lý của Chúa, yêu là niềm khao khát của Chúa, yêu là ước muốn vĩnh hằng của Chúa. Ai cũng phải không ngừng cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” ( Tv 67, 2 – 3 ). Đồng thời còn phải chân thành mong muốn: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” ( Tv 67, 5 – 6 ).

Ước vọng đó là niềm khao khát khôn nguôi của những người tin vào Thiên Chúa, và cầu chúc cho nhau điều tốt lành nhất: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta ! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người !” ( Tv 67, 8 ).

Thánh trẻ Gioan là Tông Đồ của Tình Yêu, vì yêu mà ngài dám đứng dưới chân Thập Giá, được Chúa Giêsu trao phó Đức Mẹ. Thánh nhân kể về thị kiến: “Đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ítraen. Phía Đông có ba cửa, phía Bắc có ba cửa, phía Nam có ba cửa và phía Tây có ba cửa. Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên  đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên” ( Kh 21, 10 – 21 ).

Thánh Gioan cho biết thêm: “Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi” ( Kh 21, 22 – 23 ). Thị kiến quá lạ lùng. Nhưng đó là những điều Chúa hứa ban cho những ai dám yêu Ngài hết lòng, hết sức, và hết trí khôn.

Một hôm, Tông Đồ Giuđa ( gọi là Giuđa Nhiệt thành hoặc Tađêô, không phải Giuđa Ítcariốt ) hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian ?” ( Ga 14, 22 ). Nghe hỏi vậy, Đức Giêsu đáp ngay: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” ( Ga 14, 23 – 24 ). Một loạt các mối liên kết của tình yêu, như một đa giác có các cạnh và các góc không thể tách rời nhau – kể cả các đường trung tuyến hoặc đường cao. Một hệ lụy tất yếu !

Chúa Giêsu căn dặn các đệ tử: “Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” ( Ga 14, 25 – 26 ). Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần, vì Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống. Đó là tặng phẩm vô giá mà Chúa Giêsu muốn dành cho mỗi chúng ta.

Chúa Giêsu hứa hẹn và động viên: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” ( Ga 14, 27 ). Chúa Giêsu nói thêm: “Thầy ra đi và đến cùng anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin” ( Ga 14, 28 – 29 ).

Chúa Giêsu dạy chúng ta hai điều quan trọng. Thứ nhất về tình yêu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 13, 34; Ga 15, 12 ), như Thánh Phaolô cũng khuyến cáo điều tương tự: “Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” ( Rm 13, 8 ); thứ nhì về lòng can đảm: “Đừng sợ !” ( Mt 10, 26; Mt 10, 28; Mt 10, 31; Mt 14, 27; Mt 17, 7; Mt 28, 5; Mt 28, 10; Mc 5, 36; Mc 6, 50; Lc 1, 13 và 30; Lc 2, 10; Lc 5, 10; Lc 12, 4; Lc 12, 7; Lc 12, 32; Lc 21, 9; Ga 6, 20; Kh 1, 17 – 18 ). Hai điều này liên quan lẫn nhau, Yêu thì phải can đảm, nghĩa là không sợ, còn nếu sợ thì không thể yêu.

Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng con biết can đảm để có thể sống trọn tình yêu thương như Con Chúa. Xin Tình-Yêu-Chúa-Kitô-chịu-đóng-đinh biến đổi cuộc sống của mỗi chúng con nên hoàn thiện nhờ Hồng ân của Chúa Thánh Thần, để chúng con xứng đáng là những Kitô hữu đích thực. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

----------------------------

 

PS 6-C111: MIỆT MÀI THỰC THI  LỜI CHÚA

 

Thế giới không ngừng ca ngợi những hành động của tình yêu. Đó là những hành động cao cả: PS 6-C111


Thế giới không ngừng ca ngợi những hành động của tình yêu. Đó là những hành động cao cả của người mẹ, người cha hy sinh tính mạng để cứu con mình. Hành động dũng cảm của người vợ, người chồng cam chịu mọi nghịch cảnh để chăm sóc yêu thương lẫn nhau… Tình yêu đích thực bao giờ cũng sản sinh hành động đẹp và nghĩa cử cao cả ấy luôn được thế giới ghi nhận, nhân loại ủng hộ.

Khi yêu ai, người ta luôn cố gắng làm vừa lòng người mình yêu hoặc họa lại, tô điểm bản thân ngày càng nên giống khuôn mẫu người yêu lý tưởng. Đó là hành động tự nguyện, mang tính tích cực không hề gò ép, nếu là tình yêu chân thành, đích thực.

Con người đã thế, Thiên Chúa lại càng hơn vậy. Nếu miệng bạn tuyên xưng tình yêu trung thành với Thiên Chúa, tất yếu bạn phải tuân giữ giới luật của Người. Yêu chỉ để mà yêu, yêu chỉ bằng môi miệng, tình yêu ấy dễ dàng, đơn giản quá, ai cũng có thể làm được. Nhưng nói yêu một, phải hành động lại mười, tình yêu được minh chứng bằng hành động cụ thể, đó mới là tình yêu thực, không hề giả tạo.

Đức Giêsu đã khẳng định: “Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” ( Ga 14, 23 ). Yêu Thiên Chúa thì dễ nhưng thực hiện Lời của Ngài thì khó vô cùng. Vì Thiên Chúa là Đấng toàn năng, vô tội, tinh tuyền và chí thánh. Con người là thụ tạo thấp hèn, mỏng dòn, dễ sa ngã, mau phạm tội… làm thế nào để có thể giữ được lời Thiên Chúa cách trung thành cơ chứ ?

Không phải nhân loại không yêu Thiên Chúa, nhưng chỉ là yêu chưa trọn vẹn, cho nên khó có thể thực thi Lời của Ngài. Nhất là đối với những ai, coi trọng bản thân, tiền của, chức tước, địa vị, sự nghiệp… hơn Thiên Chúa thì lại càng khó thực thi giới luật của Ngài, nói gì đến việc bác ái với người xung quanh.

Sống cho mình đã khó, làm thỏa mãn mọi khát vọng của bản thân đã vô cùng huống gì nói đến việc làm vừa lòng Thiên Chúa ! Chỉ những ai hoàn toàn không còn nghĩ đến bản thân, chỉ những ai hết lòng tôn thờ Thiên Chúa và kính tôn Ngài mới có thể giữ trọn được lề luật. Nhưng thực tế, có lẽ đó là điều không thể, vì chưng người phàm, mấy ai được gọi là công chính ?

Tại sao vậy ? Tại sao Lời Thiên Chúa lại khó khăn đến như thế ? Vì đó chính là Lời của tình yêu thương đích thực. Tình yêu của người dám thí mạng sống vì người mình yêu thương. Tình yêu của sự trao ban và tự hủy, tình yêu nhưng không, vô vị lợi. Sở dĩ mọi giới luật Thiên Chúa trở nên gánh nặng là vì thiếu tình yêu và lòng mến, thiếu sự quên mình, hy sinh. Nhân loại lúc nào cũng chỉ biết chăm bẵm cho lợi ích cá nhân. Nhu cầu cá nhân là nhu cầu được đặt lên hàng ưu tiên của con người trong thế giới đương đại. Một định lý tất yếu mà Đức Giêsu đã khuyến cáo: “Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy” ( Ga 14, 24 ). Không có tình yêu là không có tất cả !

Biết rõ con người không thể tự mình vượt qua mọi nghịch cảnh và cám dỗ, Thiên Chúa luôn yêu thương tha thứ và quan phòng, chăm sóc. Ngài không hề bỏ mặc con người đối diện với bóng tối và sự dữ, nhưng luôn phù trì, che chở. Thánh Thần tình yêu của Ngài luôn kề cận để bảo ban, dạy dỗ. Tình yêu và bình an của Thiên Chúa luôn đồng hành với nhân loại trên mọi nẻo đường trần gian. Một thứ bình an và tình yêu vĩnh cửu, không phải mau qua, chóng tàn, hay thay đổi như con người thường dành tặng cho nhau.

Lạy Chúa, phải làm sao đây để con có thể sống Lời Thiên Chúa, Lời thực thi giới luật yêu thương và tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự. Dường như Lời ấy khó quá, cao siêu quá, vượt quá khả năng của con. Hay bởi con ích kỉ, chỉ biết đến thỏa mãn dục vọng cá nhân mà bỏ quên Thiên Chúa và tha nhân.

Xin giúp con biết lựa chọn khôn ngoan giữa muôn vàn trạng huống cuộc đời. Chọn lựa Thiên Chúa và can đảm sống tình yêu với Ngài qua từng hành động, lời nói, cử chỉ bác ái yêu thương.

Xin giúp con, trong khi miệt mài bôn ba lo toan cuộc sống cũng hãy biết miệt mài chuyên chăm thực thi Lời Ngài. Mọi sự thế gian này rồi cũng sẽ qua đi, dầu nhanh dầu chậm cũng tan tác như bụi cỏ, nhưng tình yêu Thiên Chúa vẫn luôn đọng mãi, ở đó, trong cung lòng con…

M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG

----------------------------

 

PS 6-C112: YÊU MẾN AI ? GIỮ LỜI AI ?


"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14, 23 ).

 

Hẳn là Chúa Giêsu quá rõ về lòng dạ hay đổi thay của con người chúng ta: hôm nay nói yêu, ngày: PS 6-C112


Hẳn là Chúa Giêsu quá rõ về lòng dạ hay đổi thay của con người chúng ta: hôm nay nói yêu, ngày mai nói ghét; hôm nay theo Người, mai lại bỏ Người mà đi; hôm nay hứa thề, mai rồi nuốt trôi lời thề hứa… nên Ngài đã báo tin vui có Chúa Thánh Thần nâng đỡ chúng ta để bảo đảm cho một tương quan thật  hoàn hảo giữa chúng ta với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Chính Chúa Thánh Thần sẽ làm sống lại mọi Lời Đức Giêsu đã nói và hướng dẫn mỗi chúng ta thực hành cách trọn vẹn để ai giữ Lời Chúa Giêsu dạy sẽ được Thiên Chúa Cha yêu mến. Tâm hồn của người ấy trở nên cung vàng điện ngọc dành cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.

Yêu mến, lắng nghe và làm theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần là sống như Lời Chúa dạy để đón nhận “Thiên Chúa ở cùng”, để ở cùng Thiên Chúa, đó chính là chìa khóa của sự bình an thật.

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” ( Ga 14, 27 ).

Chúng ta đang sống những ngày đầy xao xuyến, kinh sợ

Thế giới văn minh hơn nhưng bất an hơn. Ngay trong xã hội gần nhất với chúng ta, chỗ nào cũng bất an cả.

Cha mẹ không an tâm khi học sinh đến trường để tiếp thu một nền giáo dục không Thiên Chúa.

Học sinh đến trường không an tâm vì nhà mình không đủ điều kiện chạy điểm.

Bệnh nhân đến bệnh viện cũng chẳng an tâm về đức hạnh của y bác sĩ thời đại vô thần.

Người đi chợ không an tâm về thực phẩm, rau quả càng múp càng tươi càng sợ vì chúng được sản xuất với ý đồ trong ngoài toa rập cho người ăn phải chết để tiêu diệt một dân tộc.

Các mặt hàng được sản xuất ở những nước chống Thiên Chúa càng đáng kinh sợ hơn.

Không dám tin sản phẩm nào an toàn, không dám tin chỗ nào có an ninh, không dám tin đất nước nào có hòa bình và kể cả việc không dám tin gia đình nào có bình an hạnh phúc trong một xã hội loài người đầy gian dối.

Vâng, làm sao khỏi xao xuyến khi cuộc sống đang có những nghịch lý thật lố bịch: 

- Một đất nước mang tiếng là hòa bình nhưng hầu như ai cũng biết đó chỉ là hòa bình ảo trước nguy cơ mất nước, hoặc tất cả đã trong một kế hoạch… bán nước !
- Nhà cửa rộng ra lớn ra nhưng mái ấm hạnh phúc gia đình thì hẹp lại, teo tóp đến mức có khi là mất trắng !

- Điều kiện sống có khá hơn nhưng lòng quảng đại thì kém lại. Ngày xưa chia củ khoai sùng, bây giờ quên bạn bần cùng ngày xưa ! Xưa người đi bộ, xa mấy cũng gần, nay xe bảy chỗ, gần mấy cũng xa !

- Phương tiện truyền thông rất hiện đại, nhưng để ca tụng Thiên Chúa thì ít, để loan truyền công lý, bảo vệ nhân quyền, loan truyền một nền văn minh thuộc về thượng giới thì bị cấm đoán nhưng để cổ xúy cho một cuộc sống hưởng thụ, duy vật chất quá tầm thường thì tràn lan, nhiễu nhương.

- Nhà Thờ rách nát thì đông người tham dự Thánh Lễ, đến khi xây cất mới khang trang thì ai nấy ở nhà xem tivi, nhậu nhẹt.

- Nhiều lễ nghi tôn giáo tổ chức “hoánh tráng” theo kiểu lễ hội ở đời nhưng Đức Tin của con người thì bán tín bán nghi hoặc chỉ nhất thời trong lễ hội, ra đến đường, về đến nhà là bay biến tiêu tan !

Tìm nguồn Bình An thật

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” ( Ga 14, 27 ).

Lời Chúa hôm nay hứa ban bình an thật cho ai thành tâm yêu mến Chúa và sống theo Lời Chúa dạy.

Không thể có một xã hội bình an, một đất nước bình an, một gia đình bình an nếu không có những con người bình an.

Nếu hơn 8 triệu tín hữu ở Việt Nam này ai cũng sống với bình an thật của Chúa là “nghe và tuân giữ lời Chúa”, thì hẳn là một tín hiệu đáng mừng biết bao cho gia đình cho đất nước. Tiếc quá, con số tín hữu chỉ là 8 triệu, trong số đó, con số “nghe và giữ Lời Chúa” thật sự liệu có nhiều hơn con số “nghe và giữ lời” của những người chống lại Thiên Chúa không ? Khi được hỏi bạn “có yêu mến, nghe và thực hành lời của những người chống Chúa” ha không thì hẳn bạn sẽ trả lời ngay rằng: tôi không hề. Vậy, nếu hỏi lại, bạn có “yêu mến, nghe và thực hành Lời Chúa” hay không thì bạn sẽ trả lời ra sao ?

Âm mưu thâm độc của Satan là làm cho mỗi chúng ta đổi chủ, đổi Chúa hồi nào không biết, đổi bình an thật lấy bình an giả lúc nào không hay, đổi hạnh phúc thật lấy hạnh phúc ảo cách êm ái nhẹ nhàng hồi nào không biết ! Lời của Satan không được phép rao giảng tại Nhà Thờ nhưng nó lại được tuyên truyền quảng cáo nơi cuộc sống muôn màu hấp dẫn trước mắt chúng ta. Lời của của thế lực chống lại Nước Chúa không hề được công bố nơi Nhà Thờ nhưng lại được rêu rao cổ võ nơi những giá trị của quyền lực, của kinh tế, của giáo dục, rằng bất cần Thiên Chúa, con người cũng vẫn đạt hạnh phúc no đầy !

Không có lúc nào là muộn màng. Hãy sớm ngộ ra chúng ta đang bị cuốn vào cái bình an hạnh phúc hư ảo trong một xã hội dối trá, xã hội được hướng dẫn bởi Satan. Hãy thức tỉnh, trở về “yêu mến, nghe và giữ lời Chúa dạy” theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Yêu mến Chúa trên hết mọi sự hấp dẫn ở thế gian, nghe và chu toàn lệ luật Chúa dạy, đó là chìa khóa bình an cho mỗi người, cho gia đình, cho đất nước, và cho cả thế giới.

Nguyện xin Chúa cho chúng con biết đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để biết Bình An thật của chúng con chỉ có được khi chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự và chu toàn lề luật Chúa nơi trần gian hôm nay.

PM. CAO HUY HOÀNG, 3.5.2013

----------------------------

 

PS 6-C113: Ý NGHĨA THẬT CỦA CHỮ YÊU


CHÚA NHẬT VI PHỤC SNH

Ga 14,23-29

 

Một người đàn ông trung niên khô đạo. Vào mỗi sáng Chúa nhật, ông ta vẫn thường chở vợ đi lễ. Bao: PS 6-C113


          Một người đàn ông trung niên khô đạo. Vào mỗi sáng Chúa nhật, ông ta vẫn thường chở vợ đi lễ. Bao giờ cũng chờ vợ vào nhà thờ rồi anh ta lúi húi kiếm một góc nào đó để ngồi. Cũng gọi là đi lễ vậy mà. Cha phó bước ra mời anh ta vào. Anh ta đứng dậy, vừa dập tắt điếu thuốc, vừa bước vào, vừa nói: “Đứng ở ngoài cũng vẫn là người có đạo!”. Bị bất ngờ trước câu nói ấy, vả nữa cũng chẳng có thời gian lý giải, cha phó bực mình: “không vào thì về”. Câu nói của Cha phó khiến người đàn ông ấy giật mình, ông ta ngoái cổ lại, tròn mắt nhìn cha phó. Ông ta giật mình là phải rồi, bởi ông ta không biết suy nghĩ của mình là sai lầm. Ông ta cứ nghĩ như nhiều người vẫn nghĩ: “Theo đạo chỉ có nghĩa là mình đã rửa tội, đã rước lễ lần đầu, và mỗi tuần bỏ mấy chục phút đến quanh quẩn ở khuôn viên nhà thờ, thế là có đạo rồi, yên ổn lương tâm rồi. Không nhớ một tiêu chuẩn quan trọng mà Chúa Giêsu đưa ra hôm nay: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ giới răn của Thầy” .

          Như thế cái cốt lõi, để làm nên đạo của Chúa: “LÀ TÌNH YÊU”. Đạo của Chúa không chỉ là các nghi lễ, các bí tích, các giới răn nhưng là lòng yêu mến. Các nghi lễ, bí tích, giới răn kia, đó là sự thể hiện tình yêu trong trái tim. Và sự thực hành các điều trên, là để chứng tỏ tình yêu nồng nàn đối với Ngài. Vì vậy mỗi ngày ta đến với Chúa, là để cho tình ta với Chúa, ngày càng nồng thắm hơn. Ai yêu mến Thầy. Đó là thước đo, là tiêu chuẩn của người tín hữu: Tình Yêu.

           “Thì sẽ giữ”. Chữ giữ ngắn ngủi, nhưng biên cương của nó rộng rãi vô cùng. Nó bao gồm hết mọi sinh hoạt của Giáo Hội. Từ những điều phải tin đến những điều phải giữ, đến những bí tích phải chịu, và cả những ước nguyện phải xin. Mọi sự phải làm bằng tất cả trái tim, tất cả tấm lòng. Vì yêu mà giữ. Vì yêu mà đi lễ, vì yêu mà xây dựng nhà thờ, vì yêu mà làm việc bác ái, vì yêu mà lãnh nhận chức vụ, vì yêu mà tổ chức, vì bất cứ lý do gì, mà không vì yêu , thì tất cả đều trở nên vô nghĩa.

          Như thế tình yêu là bắt đầu và là tất cả. Nhưng tình yêu không là một thực tại nằm chết trong trái tim. Nó phải được thể hiện ra bên ngoài bằng việc làm. Việc làm là các thể hiện ra bên ngoài, nhưng nó chỉ có ý nghĩa khi làm vì tình yêu. Người đàn ông kia đi lễ có vì tình yêu Chúa tí nào đâu, thế sao có quyền tự nhận mình là người có đạo.

          Gợi ý suy niệm:

1- Chúa có chỗ đứng quan trọng nào trong tâm hồn bạn?
2- Vì sao mỗi Chúa nhật bạn lại đi lễ?

 Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên

----------------------------

 

PS 6-C114: Yêu thương


Các con hãy yêu thương nhau.

 

Một con vật bị chết hay một món đồ bị mất, chúng ta lấy làm tiếc chứ không ai lấy làm thương. Tiếng PS 6-C114 Lượng


Một con vật bị chết hay một món đồ bị mất, chúng ta lấy làm tiếc chứ không ai lấy làm thương. Tiếng thương là tiếng được dành riêng cho con người. Sở dĩ con người ta dễ thương là vì đã được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Nhưng hình ảnh ấy đã bị tội nguyên tổ làm cho đáng ghét. Dẫu vậy Thiên Chúa vẫn nhìn thấy nhân loại dễ thương, cho nên đã sai Con Một Ngài xuống thế để cùng ăn, cùng ở, cùng làm với họ và sau cùng đã đổ máu ra để cứu chuộc họ.

Như vậy Thiên Chúa đã trút tình yêu của Ngài vào chúng ta, và Ngài mới thấy chúng ta dễ thương. Phần chúng ta cũng thế, nếu biết trút tình thương vào những người chung quanh, chúng ta sẽ thấy họ dễ thương. Nói như vậy không có nghĩa là phải bóp bụng mà thương bằng một tình thương bất đắc dĩ, một tình thương giả tạo, chỉ có bề mặt mà không có bề sâu, hờ hững và gượng ép. Không phải là như thế. Nếu không thành thực với mình, thương mà đầy thành kiến, thương mà đầy ngờ vực, thì làm sao tránh khỏi những cảnh chướng tai gai mắt.

Nếu chúng ta cứ đinh ninh rằng: xã hội chỉ toàn những kẻ trộm cặp, thì quả nhiên chúng ta sẽ gặp phải nhiều người bất lương. Trái lại nếu chúng ta cho rằng những người láng giềng là những người tử tế, hiền lành, thì chúng ta sẽ gặp được những kẻ dễ thương.

Ông Diogène nghĩ rằng chung quanh mình chỉ toàn những kẻ dễ ghét, vì thế ông đã đốt đuốc đi giữa ban ngày để tìm người mà cũng chẳng thấy được ai dễ thương cả. Trái lại Đức Kitô quan niệm rằng trong thiên hạ ai cũng dễ thương, nên dù đi qua giữa vùng đất thù địch Samaria, Người cũng không gặp thấy ai dễ ghét. Vì thế, bộ mặt xã hội chung quanh, phần lớn do lập trường, do tâm trạng của tôi như lời Thánh Kinh: Gieo gió thì gặt bão, gieo ghen ghét thì sẽ gặt thù hằn, gieo tình yêu thì sẽ gặt được mến thương.

Người sống bên cạnh chúng ta dễ thương hay dễ ghét, phần lớn là do nơi hình ảnh chúng ta sẵn có đối với họ. Rồi một khi đã quan niệm họ khó thương và dễ ghét, tự nhiên chúng ta sẽ tìm cách trốn tránh. Thế nhưng cách cư xử và thái độ thương yêu của chúng ta lại có một ảnh hưởng rất lớn, vì góp phần xây dựng cuộc đời cho họ, để họ thêm can đảm, thêm hứng khởi, thêm lạc quan. Một luật tâm lý rất tầm thường đó là ai cũng muốn được lý tưởng hoá trong tâm hồn kẻ khác. Bởi vì nếu người ta cho tôi là tốt, là đứng đắn, là thánh thiện, tự nhiên tôi cảm thấy có một bàn tay vô hình thúc đẩy tôi cố gắng hầu trả lời cho dư luận thơm đẹp kia.

Nếu Chúa Giêsu không nhìn Phêrô cách âu yếm thì người môn đệ thất trung ấy làm gì có thể hồi tâm tỉnh ngộ được. Nếu Chúa Giêsu thiếu dịu hiền và kiên nhẫn đối với Mađalena, thì làm sao cô gái giang hồ ấy đã có thể đứng dậy ra khỏi cảnh bùn nhơ tội lỗi.

Tóm lược những điều vừa trình bày, chúng ta đi tới một kết luật: Điều lạ lùng không thể nào hiểu nổi, đó là Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi đã cúi xuống làm một người giống như chúng ta, biết đói biết khát, biết cười biết khóc, biết đau khổ biết buồn phiền, biết tủi nhục biết cảm xúc như tôi và vì tôi.

Nếu chúng ta hiểu được phần nào tại sao Thiên Chúa Đấng hạnh phúc vô cùng lại đem lòng thương tôi, dù tôi là kẻ rất khó thương, thì tôi sẽ không còn thấy cực nhọc khi phải tuân mệnh lệnh Chúa mà cư xử dễ thương với đồng loại nữa.

----------------------------

 

PS 6-C115:  Thánh Thần, nguyên lý của bình an


(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)

 

Phụng vụ hôm nay hướng tâm hồn chúng ta mừng lễ Chúa lên trời vào tuần tới, bởi vì việc Chúa PS 6-C115


Phụng vụ hôm nay hướng tâm hồn chúng ta mừng lễ Chúa lên trời vào tuần tới, bởi vì việc Chúa về trời là tột đỉnh của mầu nhiệm Sống lại và đi vào vinh quang với Chúa Cha. Các bài đọc trong phụng vụ phản ánh thực trạng xảy ra nơi các tông đồ cách đây 2000 năm. Trong giây phút ly biệt đầy xốn xang, Chúa đã trấn an các học trò mình không phải bằng liệu pháp tâm lý, nhưng Ngài hứa ban Thánh Thần, là nguyên lý của bình an đích thực. Ngài khuyến mời các ông hãy tuân theo những chỉ dạy của Thần khí để có được bình an thực sự trong tâm hồn.

Thầy để lại bình an cho anh em.

Chắc chắn đây không phải là một lời chúc mang tính khách sáo, nhưng là một động thái Đức Giêsu đã thể hiện giữa các môn sinh của mình. Trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội vẫn cầu nguyện xin Chúa Giêsu ban bình an xuống trên toàn thể Hội thánh giống như ngày xưa Ngài đã phú trao bình an cho các tông đồ trước khi đi thụ nạn. Nhưng sự bình an Chúa nói ở đây là bình an như thế nào?

Người ta vẫn thường nói: “Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh”. Cũng vậy, bình an mà Chúa Giêsu ban tặng đòi hỏi các học trò phải quyết liệt đi vào cuộc chiến đầy gian nan, đó chính là cuộc chiến đấu thiêng liêng. Trong cuộc chiến gian khổ ấy, chúng ta phải chấp nhận chết để được sống, phải đi vào mầu nhiệm tự hủy để được tái sinh trong đời sống mới. Vì thế, Chúa đã nói: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không theo kiểu thế gian (c.27). Hòa bình theo cách thế gian chỉ dựa vào sức mạnh của vũ khí và tiềm lực quân sự, còn bình an mà Chúa Giêsu đem đến phát nguồn từ chính Thánh Thần. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô cũng viết: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).

Trong lần tiếp ông Gorbachop và bà Raissa vào năm 1989, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã trao tặng ông Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ một cuốn Kinh thánh, bên ngoài đề hàng chữ ‘Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Đồng thời, Đức Thánh Cha cũng trao tặng bà Raissa một cỗ tràng hạt với câu cắt nghĩa ‘Nữ Vương ban sự bình an’. Ngài muốn ngụ ý nói rằng, chỉ qua Đức Giêsu chúng ta mới tìm ra con đường của sự thật dẫn đến sự sống, đồng thời bình an thật sự đến với loài người không phải dựa trên vũ khí, tiền bạc hay sức mạnh quân sự. Chúa Giêsu ban bình an cho các học trò của Ngài không theo kiểu cách thế gian. Ngài mời gọi họ hãy rộng mở tâm hồn để Thần khí tác động và luôn sẵn sàng đi vào cuộc chiến nội tâm, đặc biệt khi đứng trước viễn ảnh đen tối của Thập giá.

Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.

“Đừng sợ”. Đây là điệp khúc được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần. “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác nhưng không làm gì được linh hồn anh em”. “Đừng sợ, ta đã thắng thế gian”... Đây không phải là một lời trấn an mang dạng thức tâm lý, vì Chúa Giêsu không bao giờ đóng vai một nhà tâm lý học đối với các môn sinh của mình. Ngài mời gọi các môn đệ can đảm đối diện trước viễn ảnh Thập giá và cái chết. Những lời Chúa nói trong Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh bữa tiệc ly trước khi đi thụ nạn. Trong bài diễn từ rất dài ấy, Chúa nhắc đi nhắc lại về nguyên lý của tình yêu, là yếu tố giúp ta thắng vượt mọi sợ hãi. Thánh Phaolô cũng đã viết: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Tình yêu sẽ giúp chúng ta thực sự lưu lại trong Chúa, Đấng hằng sống, và chính Chúa Giêsu đã mời gọi: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu Thầy” (Ga 15,9) bằng cách tuân giữ những điều Thầy truyền dạy”(c.10). Cũng thế, ngày hôm nay, Chúa cũng khẳng định rằng yêu mến Chúa chính là tuân giữ lời của Ngài (Ga 14,23).

Sợ hãi là kinh nghiệm mà chúng ta vẫn thường hay có. Người trẻ sợ tuổi già mau đến. Thanh niên khỏe mạnh sợ lúc bệnh tật hay ốm đau. Đôi trai gái yêu nhau say đắm sợ những giây phút ân ái mặn nồng vụt tan biến. Người giàu sợ sẽ đến ngày khách kiệt... Nói chung, có muôn vàn lý do để phải sợ hãi. Khi đối diện trước cái chết, chính Chúa Giêsu cũng sợ. Sự sợ hãi dâng lên tột độ đến mức mồ hôi và máu toát ra. Ngài đã lớn tiếng và rơi lệ cầu xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7), vì Ngài lo sợ, nỗi sợ theo bản tính tự nhiên của con người. Ngài sợ, vì tội lỗi của cả trần gian đang đè nặng trên đôi vai Ngài và cuối cùng dẫn đến cái chết nghiệt ngã. Nhưng khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu đã trở thành nguyên lý cho chúng ta về sự bình an để thoát vượt sợ hãi. Khi hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đến giữa lúc các ông đang ngồi co rúm lại vì sợ sệt. Chúa thổi hơi vào các ông, ban Thánh Thần và trao chúc bình an. Thánh Gioan nêu ra tất cả những chi tiết này để liên kết sự bình an với ân điển của Thần khí, hầu giúp chúng ta thoát vượt sợ hãi. Ngài còn cho các môn đệ thấy những dấu chứng về cuộc khổ nạn nơi thân xác Ngài, và đó cũng là vết tích gây nên sự sợ hãi nơi các tông đồ trước đây.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị đã khởi đầu triều đại Giáo hoàng của Ngài với thông điệp ‘Đừng sợ’. Bước vào năm thánh 2000, Ngài nhắc lại lời hiệu triệu ấy và mời gọi chúng ta, đặc biệt các bạn trẻ: “Đừng sợ. Các con hãy mở tâm hồn để cho Chúa Giêsu chiếm ngự” (Open door to Christ).

Vì thế, thoát khỏi sợ hãi không phải là một liệu pháp mang tính tâm lý, nhưng là một thái độ của đức tin, cắm sâu niềm tin vào mầu nhiệm Đức Giêsu đấng đã chết và đã sống lại.

Thành thánh Giêrusalem, quê hương của bình an đích thực.

Không phải vô tình mà Giáo hội chọn bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay trích trong sách khải huyền, đan kết với sứ điệp Chúa nói trong Tin mừng Gioan. Chúng ta được mời gọi hướng về quê hương vĩnh cửu, là thành thánh Giêrusalem trên trời, nơi chốn của bình an viên mãn. ‘Thành thánh chói lọi vinh quang Thiên Chúa và Con Chiên chính là ngọn đuốc chiếu soi thành’. Có lẽ chúng ta nghĩ rằng quê hương mai sau của chúng ta là một thực tại rất xa vời so với cuộc sống hiện sinh của ngày hôm nay. Không phải thế. Có một bài hát với ca từ rất ý nghĩa: ‘ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay’. Thành Thánh Giêrusalem mai sau đã được bắt đầu ngay từ ngày hôm nay, nếu chúng ta biết sống sung mãn trong tình yêu, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu.

Đây không phải là nguyên tắc của lý thuyết xa vời vợi, nhưng đời sống đức tin của chúng ta phải được thể hiện cụ thể, bằng cách đi sâu vào sự kết hợp thân tình với Chúa Giêsu qua việc cầu nguyện mỗi ngày. Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta, người sẽ được tôn phong Hiển thánh vào ngày 4 tháng 9 năm nay, là một chuyên gia trong việc thực hành bác ái, đặc biệt đối với những người cùng khổ và bị bỏ rơi. Nhưng chúng ta đừng quên rằng Mẹ luôn nhấn mạnh và khuyên mời các con cái mình chuyên chăm cầu nguyện mỗi ngày. Trong cầu nguyện kết hiệp với Chúa, Mẹ đã nghe được tiếng Chúa Giêsu thét gào trên Thập giá: “Ta khát”. Khởi từ đời sống cầu nguyện, Mẹ đã hăng say lao vào những công việc bề bộn để phục vụ. Điều chính yếu không phải là chúng ta đã làm được những gì, nhưng quan trọng nhất, chúng ta đang là ai, chúng ta có thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu và có thường xuyên cầu nguyện để lưu lại trong tình yêu với Chúa hay không.

Kết luận

Chúa nói hôm nay: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch để có được bình an. Chân lý này cũng được Thánh Phanxicô Salê quảng diễn khi Ngài nói với chúng ta: “Ama et fac quod vis”, bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm.
 
 

----------------------------

 

PS 6-C116: Chúa ở bên tôi.

 

Có một người kia chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một khu vườn, ông PS 6-C116


Có một người kia chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một khu vườn, ông ta nhìn thấy chiếc kén của một loài bướm lạ. Ông ta liền ngắt cành cây và mang chiếc kén về nhà. Ít ngày sau, ông ta thấy có nhúc nhích bên trong, nhưng con bướm vẫn chưa phá được chiếc kén để bay ra ngoài. Ngày thứ hai và ngày thứ ba ông ta đều ghi nhận được như vậy, dường như không có tí tiền triển nào. Thế là ông lấy mũi dao rạch chiếc kén cho chú bướm bò ra. Thế nhưng, ông rất thất vọng vì chú bướm chỉ sống được có một lúc rồi lăn đùng ra mà chết. Về sau, một nhà sinh vật học đã cắt nghĩa cho ông hay: Thiên Chúa đã sắp xếp để con bướm phải đấu tranh mới thoát ra được khỏi chiếc kén của mình, vì nhờ đấu tranh gian khổ nó mới được phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.

Nhà sưu tầm bướm tưởng rằng dùng lưỡi dao rạch chiếc kén thì sẽ giúp cho chú bướm được thuận lợi hơn, nào ngờ làm như thế ông ta đã huỷ diệt khả năng phát triển và sinh tồn của chú bướm.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào cuộc sống hằng ngày. Thực vậy có những lúc chúng ta cảm thấy như gánh nặng cuộc đời với những khổ đau và bất hạnh đè xuống trên đôi vai nhỏ bé của chúng ta. Còn Thiên Chúa chúng ta tin yêu thì lại vắng bóng hay lánh mặt.

Chẳng hạn: trước đây chúng ta đã từng cảm nghiệm được sự bình an và hạnh phúc mỗi lần cầu nguyện, thế mà bây giờ chúng ta lại chán ngán. Hoặc lúc trước, chúng ta đã từng cảm thấy đức tin thật mạnh mẽ, khả dĩ có thể dời núi chuyển non, thế mà giờ đây, dường như nó không nhắc nổi một viên sỏi nhỏ. Chúng ta cảm thấy Chúa như bỏ rơi và không còn yêu thương chúng ta nữa.

Thực ra Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta, nhưng Ngài cũng biết rằng đã đến lúc chúng ta cần khởi đầu một giai đoạn mới để được trở nên trưởng thành. Chẳng hạn như đã đến lúc chúng ta phải nhận ra rằng việc cầu nguyện không hệ tại những cảm xúc riêng tư. Và trong những lúc tâm hồn bị chai cứng thì chúng ta lại càng phải cầu nguyện và lời cầu nguyện trong một hoàn cảnh như thế lại thường là lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất. Chính Chúa cũng đã xác quyết qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.

Đã đến lúc chúng ta phải hiểu rằng đức tin không chỉ là một cảm giác mà là một dâng hiến, một phó thác, một xin vâng với Chúa. Chúng ta chẳng khác gì chú bướm trong câu chuyện vừa nghe. Thiên Chúa muốn chúng ta phải đấu tranh gian khổ để nhờ đó chúng ta được tiến triển về phương diện thiêng liêng. Vào một thời điểm nào đó, chúng ta phải cố gắng, phải nỗ lực trong gian nan cực khổ. Trong những giây phút đen tối ấy, Chúa vẫn ở bên chúng ta, nâng đỡ chúng ta để đức tin của chúng ta được trở nên vững mạnh và tinh ròng hơn.
 
 

----------------------------

 

PS 6-C117:  Tại sao lại tỏ mình ra cho con?


(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

 

Trong bài diễn từ tiễn biệt rất dài (từ cuối chương 13 cho tới hết chương 17 của Phúc âm Gioan) PS 6-C117


Trong bài diễn từ tiễn biệt rất dài (từ cuối chương 13 cho tới hết chương 17 của Phúc âm Gioan) Đức Giêsu đã mất nhiều công sức để chấn an các môn đệ Người; chắc hẳn lúc đó các ông đang trong rơi vào tình trạng rất bồn chồn lo lắng, tương tự như một nhóm học sinh gần tới ngày ra trường phải ôn thi: các ông mong ghi nhớ hết mọi lời Thầy dạy, nhớ tới từng chi tiết, nhưng lại có nguy cơ quên mất điểu hệ trọng chính yếu nhất; và điều chính yếu đó không phải là những bài học từ chương về các điều Thầy dạy dỗ, nhưng là bộc lộ bản chất đích thực của Thầy Giêsu – Lời tối hậu của Thiên Chúa. Việc bộc lộ này rõ ràng chỉ dành cho các môn đệ là những người thâm tín đã theo Thầy suốt bằng ấy năm: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Nếu nắm bắt được nội dung lời trăn trối này, chúng ta sẽ có cơ may thấu hiểu được cái cỗi lõi của niềm tin Ki-tô hữu chăng?

Nắm giữ Lời là điều tối quan trọng trong việc duy trì tương quan với Thầy Giêsu, kể cả khi Người đã ra đi: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”. Lời đó chắc chắn không chỉ đơn thuần là các bài thuyết giảng mà Người đã từng tuyên giáo trên khắp các nẻo đường xứ Ga-li-lê và Giu-đê trong ròng rã ba năm trời; trong số đó có những bài thật ý nhị và độc đáo, chẳng hạn bài bàn về các mối phúc hay các câu chuyện dụ ngôn…; thế nhưng, cho dầu có tuân giữ được mọi lời Ráp-bi Giêsu giảng dạy đi nữa, thì điều đó cũng đâu có thể làm cho “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Lời đây hẳn là một điều gì rất đặc biệt mà Người đã từng khảng định: “không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. Lời mà Người nhân danh Chúa Cha đến trần gian để nói lên cho bằng được, và chỉ có thể nói cho các môn đệ thâm tín nhất là những kẻ đã tin theo Người mà thôi.

Tuy nhiên Lời này sẽ không hề dễ hiểu, ngay cả đối với các môn đệ! Hồi đó, cho tới lúc Thầy Giêsu sắp ra đi, các môn đệ vẫn luôn cảm thấy khó chấp nhận bài học này: mỗi lần Thầy Giêsu đề cập tới sự tự hiến Thập Giá và đau khổ mà Người sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem, không một ai trong số họ không lớn tiếng phản đối, can ngăn. Nhất là khi Người khảng định: ai nhìn thấy Thầy tự hiến là nhìn thấy Chúa Cha, nhìn thấy vinh quang đích thực của Cha… thì không một môn đệ nào có thể hiểu nổi (xem Ga 14:8-11). Đức Giêsu biết rất rõ điều đó; cần phải có một can thiệp đặc biệt, can thiệp của Thần Khí; các môn đệ cần tới một đấng Bảo Trợ, Đấng “sẽ được sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Phải, để hiểu được Lời của Giêsu Thập Giá, hiểu được Tình Yêu tự hiến và cứu đô của Thiên Chúa, dứt khoát cần tới sự can thiệp của Thánh Thần. Người thường thì chỉ có thể hiểu được các lời khuyên dạy, các câu chuyện dụ ngôn, các lời dạy dỗ đầy khôn ngoan từ miệng Ráp-bi Giêsu phán ra, nhưng để hiểu chính con người và hành động của Giêsu Ki-tô là Lời của Thiên Chúa, nhất là khi Lời đó được vang lên, không phải trên bục giảng mà là trên Thập Giá, thì trí khôn con người, cho dầu có xuất chúng tới mấy đi nữa (kể cả bộ óc kỳ tài như Albert Einstein chẳng hạn), cũng không thể nào nắm bắt được.

Ồ, thật vậy sao? Ngay cả một Linh mục lớn tuổi như tôi mà vẫn cứ đinh ninh rằng: để hiểu và giữ lời Chúa thì chỉ cần một chút thông minh, một chút thiện chí; và thông minh - thiện chí cũng là điều tôi vẫn thường lớn tiếng đòi kêu gọi anh chị em tín hữu phải có. Có lẽ chính vì thế mà, cho tới giờ này, tôi có thấu hiểu gì về Lời Tình Yêu - Thập Giá đâu… và các giáo hữu nghe tôi giảng có lẽ cũng chẳng hiểu được gì hơn! Tôi chăm chú suy tư, lo đọn bài giảng hơn là dành thời giờ cầu nguyện, lo trình bày cho khôn khéo hơn là tin tưởng vào tác động của Đấng Bảo Trợ đang ngự trong tâm hồn các tín hữu; trên tòa giảng, tôi lo tạo ấn tượng trên các thính giả của mình, hơn là tìm cách đóng trên họ dấu ấn của Thần Khí.

Và dấu ấn của Lời đó trong Thần Khí thì thật rõ ràng: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi… Thầy để lại bình an cho anh em… Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Lời Thầy Giêsu – Lời Thiên Chúa xót thương không bao giờ là lời đe dọa; Lời đó không tạo áp lực ép buộc, cũng chẳng tạo căng thẳng lo âu! Lời Thầy Giêsu sẽ luôn lan tỏa an bình, thư thái cho cả những tâm hồn đã phạm phải những tội tầy trời nhất; “Ta không kết án, hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa!” Nếu vậy, tôi - một linh mục của Đức Ki-tô có thật sự mang Lời bình an này tới tâm hồn mọi tín hữu, nhất là những tâm hồn chìm đắm trong tội lỗi đang rất cần tới Lời an ủi hơn bất cứ điều gì khác? Và để làm được điều đó: không một ai khác có thể giúp tôi, hơn là Thánh Thần, Đấng ủi an.

Lạy Chúa Giêsu là Lời đích thực của Thiên Chúa Cha giầu lòng xót thương, xin đổ Thần Khí xuống trên con, để con hiểu được Lời Tình Yêu, nhất là mỗi khi con cử hành Thánh Lễ. Nếu chính con chưa một lần hiểu và giữ được Lời Tình Yêu đích thực, nhất là qua biểu lộ của Thánh Thể - Thập Giá, thì làm sao con có thể mở miệng loan truyền Lời Chúa cho anh chị em tín hữu? Có thể con đã giảng lời Giêsu quá nhiều, nhưng đã giảng Lời-Chúa quá ít. Xin chỉnh đốn tình trạng thiếu xót trầm trọng này nơi con! Xin đổ tràn ngập tâm hồn con thứ bình an độc đáo của Chúa, phát xuất từ cảm nghiệm bản thân về lòng Chúa Xót Thương, để con - linh mục của Chúa cũng có thể loan báo và thông truyền Tin Mừng đầy an ủi này cho mọi người, nhất là cho các tội nhân bất hạnh và bị đọa đầy. Amen.

----------------------------

 

PS 6-C118:  Bình an Chúa ban


(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)

 

Vào trung tuần tháng 11 năm 2000, đang khi các giám mục Công giáo Hoa kỳ tiến hành cuộc PS 6-C118


Vào trung tuần tháng 11 năm 2000, đang khi các giám mục Công giáo Hoa kỳ tiến hành cuộc họp thường niên, một số các nhà hoạt động bênh vực “quyền lợi” của những người đồng tính luyến ái đã đột nhập và phản đối ồn ào, chống lại những giáo huấn của giáo hội liên quan đến “quyền lợi” của những người đồng tính.

Được biết trong cuộc họp lần này, các giám mục Hoa kỳ đã đưa ra bản tuyên ngôn về hôn nhân, kêu gọi một sự tín trung hơn trong giao ước hôn nhân giữa nam và nữ. Bản tuyên ngôn xác định rõ ràng hôn phối là sự kết hiệp thánh thiện giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Không thể chấp nhận chuyện những người cùng phái lấy nhau.

Đã có khoảng 200 người tụ tập biểu tình đòi giáo hội chấm dứt tình trạng “khủng bố tinh thần” chống lại những người đồng tính hay đổi phái. Sau đó có khoảng 100 người biểu tình bị bắt giữ vì đã có hành vi bạo động quá đáng. Một số người trong tổ chức “Dignity and Soul Force” cho rằng Giáo hội không đi đúng đường lối Phúc âm khi không mang lại an bình cho tâm hồn người ta, lại còn tạo nên bầu khí phân cách đối với người đồng tính.

Đức Cha Joseph A. Galante, Giám mục Phó của địa phận Dallas đã trả lời những người trong tổ chức Dignity and Soul Force rằng: “Phúc âm vẫn là Phúc âm. Trong đó luôn có thách đố, nhưng chắc chắn không có việc khơi mào bạo động hay thù hận đối với ai. Tuy nhiên có những người dùng Thánh kinh như để phục vụ cho mục đích riêng của mình chứ không phải để trung tín bước theo ý nghĩa xác thực của Tin Mừng.”

Hoa trái của Tin Mừng là bình an, thứ bình an do Thiên Chúa ban tặng chứ không phải đến từ thế gian. Có nhiều người lầm tưởng bình an là những cảm giác yên hàn, mọi chuyện xuôi đẹp, không có chông gai, chiến tranh, thập giá. Đây không phải là thứ bình an đích thực. Nó tuỳ thuộc vào ngoại cảnh. Nó không phải là thứ bình an mà Đức Giêsu đã hứa ban cho các môn đệ trong bữa tiệc ly. Bình an Chúa ban luôn có bóng hình thập giá.

Danh ngôn thế giới có câu “Nemo dat quod non habet” – Không ai cho kẻ khác điều mình không có. Vậy thì làm sao Đức Giêsu lại có thể có được an bình để trao ban cho các môn đệ khi mà trước mắt Ngài là những đau thương và ngăm đe của khổ hình thập giá, cùng với muôn sự ruồng bỏ dể duôi của bao người?

Có lẽ chỉ khi nhìn vào Đức Giêsu trong thời điểm đối diện với những gian nan thử thách, chiến đấu cam go, người ta mới thấy rõ hơn sự bình an sâu thẳm mà Ngài để lại cho các môn đệ như món gia bảo cuối đời. Đây là thứ bình an nội tại, một thứ bình an được kết tinh nhờ sự hiệp thông với Thiên Chúa Cha, thế nên, dù bóng cao thập giá có mịt mùng thì hồn Ngài vẫn là nguồn sáng cho nhân loại.

Một khi có được sự hiệp thông với Thiên Chúa thì dù gặp thành công hay thất bại, may mắn hay rủi ro, giàu có hay khó nghèo, chống đối hay ủng hộ, đều không làm người ta xao xuyến, nhát đảm, hoặc bất an. Còn khi bước sai lệch nẻo đường đến với Thiên Chúa thì dù muôn sự tưởng như thuận buồm xuôi gió hay an nhàn vô sự, tâm hồn vẫn mãi bất an cho đến khi tìm lại được ơn giao hoà.

“Ta để lại bình an cho các ngươi; Ta ban bình an cho các ngươi” (Ga 14:27a). Hẳn là Chúa Giêsu muốn nói đến sự bình an mà Ngài sẽ mang lại cho con người qua mầu nhiệm thập giá. Bởi vì bấy lâu nay, kể từ ngày Adong Eva sa ngã, nhân loại mãi sống trong tội, chạy theo những đam mê thế tục, để cho những tên giặc xác thịt khuấy động và làm bất an tâm hồn. Nay qua cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu mà an bình được ban xuống cho nhân loại. Chiếc cầu giao hoà giữa trời cao với đất thấp được lập nên nhờ thập giá.

Biết bao bạo động, chiến tranh sảy ra đều phát xuất từ những dục tình xấu xa nơi tâm hồn người ta. Muốn dẹp chiến tranh bạo động trước hết phải học chế ngự những mầm mống nổi loạn của trí lòng. Muốn chế ngự được những mầm mống đó không thể không có sự trợ lực của hy sinh, khổ giá. Nhưng điều kỳ lạ mà Tin Mừng Đức Kitô mang cho con người lại là chính khi đón nhận khổ giá thì bình an và sự sống lại phát sinh dồi dào.

Những lời sau đây trích trong sách “Gương Chúa Giêsu” đáng để chúng ta suy gẫm giữa bao vinh nhục, thăng trầm của cuộc sống:

Đời hứa bình an cho những ai phụng sự đời. Nhưng thứ bình an nền tảng ở tiền tài, sắc dục, kiêu ngạo… đã đánh lừa những người theo đuổi nó, và nó đã tiêu tan đi như giấc mộng đẹp.

Trái lại, bình an thực nền tảng ở một lương tâm thanh thản. Nó hệ tại biết kìm hãm ước muốn, biết tự thoát, khiêm nhường, hơn là thoả mãn dục vọng, ăn trên ngồi trốc.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ Bình an của Chúa, thứ bình an mà người đời không thể cho được, để chúng con được thư thả mà phụng thờ Chúa và được hạnh phúc an nghỉ trong Chúa cho đến muôn đời.

Thành tâm tuân giữ luật Chúa, bước theo Đức Kitô như Ngài đang “tiến đến với Cha” (Ga 14:28), dù bước tiến đó đầy chông gai, thử thách, và đau đớn xác thân, chắc một điều: an bình, niềm vui, và sự sống chính là phần thưởng cho những người môn đệ tín trung.
 
 

----------------------------

 

PS 6-C119:  Bình an - Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Truyện kể về bác nông dân nối cầu hoà bình: Ngày nào bác cũng phải khàn cả tiếng để đuổi đám PS 6-C119


Truyện kể về bác nông dân nối cầu hoà bình: Ngày nào bác cũng phải khàn cả tiếng để đuổi đám gà của những người hàng xóm. Gà chui qua hàng rào và bới nát cả vườn tược của bác. Bác xin những người láng giềng nhốt gà lại, thế nhưng không ai thèm chú ý đến lời yêu cầu của bác. Là một người ưa chuộng hoà bình, bác không muốn ăn miếng trả miếng. Bác liền nghĩ ra một giải pháp độc đáo: Bác đi mua trứng gà bỏ vào giỏ và cứ vài ngày, bác lại mang trứng gà sang cho những người láng giềng và nói rằng đám gà của họ đã đẻ trong vườn của bác. Bác làm thế 3 lần và kết quả diễn ra nhanh chóng. Những người láng giềng vội rào dậu cẩn thận để giữ gà ở nhà đẻ trứng. Chỉ mất một ít trứng gà mà bác đã tránh được những tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm.

Thị phi ở đời thật khó lường, đôi khi có bé thì xé ra to. Cách tốt nhất là cùng nhau xây dựng hoà bình. Mọi người sẽ có một cuộc sống an lạc, vui tươi và hạnh phúc. Các cộng đoàn tín hữu thời sơ khai cũng gặp rất nhiều những vấn đề nan giải. Một số người thủ cựu với óc hẹp hòi thường gây xáo trộn bằng cách rỉ tai và loan truyền những lời thất thiệt gây nghi ngờ: Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang (Cv 15,24). Trong giai đoạn tranh tối tranh sáng giữa lề luật của đạo cũ và đạo mới đã làm cho nhiều tâm hồn bất an. Vì có nhiều người sống đạo chỉ cậy dựa vào những hình thức bên ngoài và chu toàn những khoản luật không đi đôi với đời sống nội tâm nên đã gặp nhiều xao xuyến.

Đại diện Giáo Hội đã gửi Phaolô, Barnaba, Giuđa, Sila và những vị có uy tín đến với các anh chị em thuộc dân ngoại ở Antiokia, Syria và Cilicia để khuyên dạy và gởi lời chào thăm của các Tông đồ và Kỳ lão. Các Tông đồ không muốn đặt gánh nặng nào khác lên vai những người đã tòng giáo. Một số điều cần thiết nên thực hiện: Là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh (Cv 15,29). Các Tông đồ đã quyết định không thực hành việc cắt bì cho những tân tòng gia nhập Giáo Hội. Vì theo truyền thống của người Dothái, mọi con trai đều được cắt bì theo luật Môsê.

Chúa Giêsu đã vượt qua từ cõi chết tới sự sống lại. Đường vào đạo của Chúa Giêsu khởi đi từ trái tim yêu thương. Vâng giữ lệnh truyền của Thầy là yêu mến Thầy. Tình yêu là hạt nhân sống đạo. Thánh Augustinô viết rằng: Cứ yêu đi, rồi làm. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu chọn lựa: Ơn gọi của con là tình yêu. Mẹ Têrêxa thành Calcutta lập dòng Thừa sai Bác ái. Mẹ Têrêxa đã phát biểu: Qua dòng máu, tôi là người Albania. Bởi quyền công dân, tôi là người Ấn Độ. Với niềm tin, tôi là một nữ tu Công giáo. Từ trái tim, tôi hoàn toàn thuộc về Thánh tâm của Chúa Giêsu. Thánh Tâm của Chúa đầy lửa mến và lòng xót thương. Đức Giêsu nói: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy (Ga 14, 23). Tình yêu là tất cả. Chúa Giêsu đã sống và đã chết cho tình yêu để tình yêu sống mãi.

Mỗi lần hiện ra cùng các Tông đồ, Chúa Giêsu luôn cầu chúc bình an. Sự bình an đích thực trong tâm hồn: Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi (Ga 14,27). Khi Chúa Giêsu giáng trần, các thiên thần đã đồng thanh ca hát rằng: Bình an dưới thế cho người thiện tâm. Ai trong chúng ta cũng mong muốn có sự an lạc và yên vui trong cuộc sống. Muốn tìm sự an vui thanh thản, chúng ta cần buông bỏ những ràng buộc kéo lôi và tranh chấp vô ích. Nếu chúng ta có tâm thiện, chúng ta sẽ chuyển hóa mọi điều tiêu cực trở thành tích cực. Giống như khi đeo kính, nếu chúng ta mang kính sáng thì sẽ thấy mọi sự vật rõ ràng trong sáng. Khi đeo kính màu hay kính râm, chúng ta sẽ nhìn thấy khung cảnh chung quanh đổi mầu và mờ ảo. Cũng vậy khi lòng chúng ta áy náy và buồn phiền, tâm của chúng ta sẽ bị xao xuyến và lo lắng. Tâm trong thì lòng thành.

Sự bình an của Chúa ở trong những mảnh hồn có thiện tâm. Thiện tâm hay tâm thiện là phải có tâm từ, tâm bi, tâm hỉ và tâm xả. Tâm từ có khả năng đối trị lòng tham và sự giận hờn. Tâm từ là đem niềm vui cho người khác một cách vô điều kiện. Tâm bi là xoa dịu những nỗi đau và nỗi khổ của con người. Chia sẻ và cảm thông những nỗi bất hạnh của người khác. Thấy người đau, chúng ta cảm thông nỗi đau. Tâm hỉ, đối lại là tâm tị hiềm và ganh ghét. Tâm chúng ta luôn hoan hỉ với việc làm tốt của người khác. Thấy người khác công thành danh đạt, thì chúng ta chúc mừng. Thấy người khác siêng năng, tinh tấn, tốt lành và may mắn, chúng ta chung vui hoan hỉ. Tâm xả, đối trị lại với tâm kỳ thị và cố chấp của mỗi con người. Chúng ta sống thảnh thơi, nhàn hạ, cởi mở và không vướng lụy vào điều gì khác.

Khi thời gian đã mãn, Chúa Giêsu phải rời thế gian để về cùng Chúa Cha. Chúa Giêsu đã hiện diện cùng các môn đệ và Giáo Hội một cách khác. Đấng Bảo Trợ sẽ đến để dạy chúng ta mọi điều. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về Ngôi Ba Thiên Chúa. Nhờ các ơn sủng trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tiếp tục cuộc lữ hành trần thế: Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14,26). Chúng ta biết Giáo Hội là một tổ chức có cơ cấu như một xã hội, nhưng lại có sứ vụ linh thánh (divine mission). Giáo Hội tập trung sứ mệnh cao cả là rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần vẫn luôn hoạt động trong Giáo Hội qua mọi biến cố. Ngày tháng qua, chúng ta đã chứng kiến những luồng gió tươi mát qua sự kiện từ chức của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI và bầu chọn Đức tân Giáo hoàng Phanxicô. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã bày tỏ với các yồng y: Các ngài phải gắn bó niềm tin chặt chẽ với tận gộc rễ của Tin Mừng và xa tránh những cám dỗ của thời hiện đại. Trái lại, Giáo Hội có nguy cơ trở nên nhóm bác ái khác mà không có sứ vụ thánh. Đức Giáo hoàng nói: Chúng ta có thể bước tới mọi nơi mà chúng ta muốn và có thể xây dựng mọi thứ, nhưng nếu chúng ta không loan báo Chúa Giêsu Kitô, có vài điều sai lạc. Chúng ta trở nên một tổ chức thương cảm phi chính phủ và không còn là Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa Kitô. Chính Chúa Kitô mới là trung tâm điểm đời sống của các Kitô hữu và Giáo Hội trong mọi nơi và mọi thời.

Thánh Gioan trong Sách Khải Huyền, đã thị kiến vinh quang quê hương vĩnh cửu nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa: Rồi đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giêrusalem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống (Kh 21,10-11). Để cùng chung hưởng hạnh phúc với Chúa Kitô Phục Sinh, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhở chúng ta: Ai không cầu nguyện với Thiên Chúa, người đó cầu nguyện với thần dữ. Khi chúng ta không tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, là chúng ta tuyên xưng thế giới của ma quỷ và thần dữ. Chỉ có Chúa là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa và chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao. Chúng ta cùng đặt niềm tin yêu và hy vọng vào Chiên Thiên Chúa vì Ngài là nguyên thuỷ và cùng đích của tất cả vũ trụ muôn loài: Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi (Kh 21,23).

Lạy Chúa, tình yêu Chúa bao la ngập tràn, xin nguồn ân sủng Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở nên tổ ấm của tình yêu. Xin cho chúng con được ngụp lặn trong biển tình bình an, để chúng con luôn mến Chúa và yêu người. Amen.

----------------------------

 

PS 6-C120:  Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ


Muốn Được Bình An, Hãy Yêu Mến Và Tuân Giữ Lời Chúa

 

Khi đến “giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha” (Ga 13,1), với trọn tình PS 6-C120


Khi đến “giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha” (Ga 13,1), với trọn tình Thầy trò, Người đã dành cho các môn đệ những lời tâm huyết, cụ thể như truyền cho các môn đệ một Điều răn mới (x. Ga 15,12). Mới là vì Chúa Giêsu là người đầu tiên thực hiện bằng việc tự hiến nộp mình cho thế nhân. Mới là vì yêu đến thí mạng vì người mình yêu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13-14). Mới là vì tình yêu hướng đến người khác, khiến họ ra khỏi chính mình, đi đến với tha nhân. Kế đến Người bảo họ: “các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34), vì đây là dấu chỉ để người ta “nhận biết các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13,35).

Vẫn trong bầu khí tâm sự với các môn đệ, Chúa phán bảo họ rằng: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14,23). Thật không đơn giản, lời di chúc này có ý nói: các con yêu mến Thầy thế là đủ, vì nếu yêu mến tức khắc lời Thầy sẽ được tuân giữ, có nghĩa là: khi yêu mến Chúa Giêsu, các môn đệ sẽ tuân giữ lời Chúa truyền, cụ thể là thực hành các giới răn Chúa để lại. Có thể hiểu cách khác: nếu các con yêu mến Thầy, điều đó chứng tỏ rằng các con tôn trọng lời Thầy truyền, tôn trọng các lời Thầy là thể hiện lòng mến Thầy nên tuân giữ.

Một điều sẽ xẩy đến cho những ai tuân giữ lời Chúa Giêsu là sẽ được Chúa Cha và chính Người yêu mến, đồng thời chọn làm nơi ở như lời Chúa nói: “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”, nghĩa là người ấy là đền thờ Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa sẽ ở với người ấy. Thánh Tông Đồ Phaolô nói rõ: “Được Chúa Giêsu ngự trong lòng anh em nhờ bởi lòng tin” (Eph 3,17). Do vậy không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bằng lòng đến ở nhà những người tin, yêu mến và tuân giữ lời Chúa. Đó là lý do tại sao, sau khi hoàn tất các công việc Chúa phán: “Đây là nơi Ta nghỉ ngơi đời đời mãi mãi, Ta sẽ ngự tại đó vì Ta muốn!” (Tv 131,14)...

Tiếp theo, Người mạc khải cho các ông về Chúa Thánh Thần: “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14,26). Đồng thời hứa ban bình an cho các ông. “Bình an” là quà tặng cao quý của Thầy để lại cho các học trò trước lúc ra đi. Đó cũng là “Bình an” sau khi sống lại Chúa Giêsu sẽ tặng cho các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ hãi. “Bình an” là điều các ông đang cần đến hơn bao giờ hết. Bình an do Chúa tặng ban khác với bình an do thế gian ban tặng. “Bình an” của Chúa Giêsu ban không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, đây là thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng các môn đệ về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ. Chúa Giêsu chính là nội dung của bình an; hiểu cách khác: Người chính là nguồn bình an, Người ban cho các ông chính bình an của Người, bình an nội tâm, bình an tuyệt đối, bình an vượt xa lối hiểu của con người.

Chúa Giêsu trấn an các ông: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14,26). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi của Thầy Chí Thánh, các môn đệ cảm thấy cô đơn, lo sợ và bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, sợ phải sống cô đơn, và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông: “Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con” (Ga 14,2).

Chúng ta lắng nghe những lời của Chúa Giêsu: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 26). Thử hỏi, cuộc sống của chúng ta sẽ ra như sao, nếu không có Chúa, nếu không thực hành và liên lỉ sống đức tin, củng cố bởi Đức Cậy, hướng về Trời Cao, nơi con người có thể gặp Chúa Kitô?

Vậy, đừng xao xuyến lo âu vì những bất ổn của địa cầu, của tình anh em hữu nghị đổi thay, hay con người thay lòng đổi dạ. Hãy phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa, như trẻ thơ trong vòng tay của mẹ. Vì thế giới này là tạm bợ, con người là thay đổi, không phải là chổ nương thân. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn vui tột đỉnh của tâm hồn.

Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của bình an, thanh thản và niềm vui. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống chúng ta còn lo sợ hãi gì? Tại sao không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu, Cha chúng ta và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta? Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khó nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói với các tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, thầy ban bình an của thầy cho các con…”. Xin đoái thương ban cho chúng con ơn hiệp nhất và bình an theo ý Chúa muốn, để ngay ở đời này chúng con đã được nếm hưởng hạnh phúc bất diệt Chúa giành cho chúng con nhờ sự chết và phục sinh của Chúa. Amen.
 
 

----------------------------

 

PS 6-C121: Giáo Hội Nhà Tạm Chúa Ngự - Cố Lm Hồng Phúc

 

Lời Chúa đề cập đến giáo lý về Hội thánh. Hội thánh là tập đoàn của những người đã chịu phép PS 6-C121


Lời Chúa đề cập đến giáo lý về Hội thánh. Hội thánh là tập đoàn của những người đã chịu phép Rửa tội dưới sự điều khiển và hướng dẫn của Đức Giáo hoàng và hàng Giáo phẩm. Đã là một tập đoàn thì gồm có nhiều người và có nhiều người thì có nhiều ý kiến nhiều khi trái nghịch nhau, chống đối nhau.

Giáo hội tiên khởi gồm hai thành phần: thành phần từ đạo Do-thái trở lại, và thành phần dân ngoại vừa đón nhận Tin Mừng.

Thành phần Do-thái muốn áp đảo bắt phải giữ tập tục Do-thái trong khi “dân ngoại” chỉ muốn biết Chúa Kitô. Thoạt đầu tiên, các nhà lãnh đạo cũng băn khoăn trước vấn đề gai góc. Làm sao giải quyết? Giáo hội đã dùng đến quyền tối thượng của mình.

Tại Giêrusalem năm 49, Giáo hội mở Công đồng gồm các Tông đồ, các bô lão và đại diện các cộng đoàn. Ý thức quyền cao cả - “Chúng tôi và Thánh Thần”,Giáo hội công bố bản quyết nghị về sự tự do thiêng liêng. Thể thức ấy còn tiếp diễn đến hôm nay qua dòng lịch sử, với 22 Công đồng chung.

Sở dĩ Giáo hội giải quyết những khó khăn, dị đồng lúc ban đầu cũng như qua các thời đại như vậy, vì Giáo hội được thừa hưởng lời hứa của Chúa Giêsu, Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần, “Đấng Phù-Trợ”đến.

Trong bài Phúc Âm, Gioan ghi lại lời minh hứa: “Đấng Phù trợ là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói cho các con”.

Chúa Giêsu đã nói tất cả rồi. Nghiêng mình trên sứ điệp mạc khải, Giáo hội hằng suy tư nghiền ngẫm Lời Chúa. Trải qua các thời đại, dưới sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo hội càng hiểu rõ Tin Mừng hơn và đem áp dụng vào đời sống; căn cứ vào đó để giải quyết những vấn đề mới mẻ do thời đại đặt ra.

Khi Gioan, vị Tông đồ cuối cùng qua đời thì nguồn mạc khải cũng chấm dứt. Phải chăng từ đó, Lời Chúa ghi chép trong Thánh Kinh, rao giảng và truyền đạt qua Thánh truyền, đã đứng nguyên một chỗ? Và chúng ta chỉ được nghe những lời giải thích cũ kỹ xa xưa. Không. “Thánh Thần mà Cha sai đến nhân danh Thầy sẽ dạy các con mọi điều”. Lời Chúa được ghi chép trong Thánh Kinh, được rao giảng qua Thánh truyền, là sự sống và là sự sống thì có cử động, có tiến triển. Lời Chúa được thấu triệt hơn và trình bày một cách sáng tỏ hơn.

Chúa Giêsu còn dạy cho chúng ta một Tin Mừng đặt biệt là mỗi cá nhân cũng như Giáo hội là “nhà tạm” của Chúa ngự. Đó là một đặc sủng và đặc sủng ấy chính là Thiên Chúa. Chúa phán: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Nguyên bản viết: “Chúng ta sẽ đến cắm trại” trong người ấy. Nghĩa là linh hồn đã được sạch tội và thánh hóa bởi ơn thánh thì được Con Thiên Chúa Ba Ngôi-“CHÚNG TA”-sẽ lập cư trong họ, trong một cuộc sống mật thiết như cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi vậy.

Chơn phước Elisabeth Chúa Ba Ngôi là một nữ tu dòng kín ở Dijon, được tôn phong ngày 24-2-1984, đã sống mầu nhiệm tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn. Chị viết: “Chớ gì tôi được sống mãi trong cái gian phòng nhỏ bé mà Chúa đã xây dựng từ lâu trong đáy hồn tôi. Ở trong tôi được nhìn thấy Chúa, được cảm nghiệm có Chúa ở bên”. Đó cũng là một gương mẫu cho chúng ta.

“Lạy Chúa Ba Ngôi lòng con thờ phượng
Xin cho con quên mãi chính mình đi
Để chìm trong Chúa, rồi không biệt ly
Bất động và êm như vào vĩnh viễn…
Cho hồn con an bình, nơi lưu luyến
Thành Thiên đàng chỗ an nghỉ tình yêu…”
(Elisabeth de la Trinité)
 
 

----------------------------

 

PS 6-C122: Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu


NHẬP LỄ

 

Với thời gian, biết bao nền văn minh xán lạn, bao nhà cai trị khét tiếng, nay còn đâu!? Thế nhưng PS 6-C122


Với thời gian, biết bao nền văn minh xán lạn, bao nhà cai trị khét tiếng, nay còn đâu!? Thế nhưng Giáo Hội Chúa chỉ khởi đầu với 12 con người yếu đuối, hèn kém, cộng thêm biết bao bắt bớ, thử thách cam go, lại càng ngày càng phát triển, càng đông người tin theo và càng có uy tín đối với mọi người. Động lực đó từ đâu, nếu không phải từ sức mạnh và quyền năng dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho Giáo Hội?

- Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng con, để chúng con được sống tự do. (Xin Chúa thương xót... )

- Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên Thành Thánh đáng quý đáng trọng. (Xin Chúa Kitô... )

- Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần, để dạy dỗ và nhắc nhở chúng con. (Xin Chúa thương xót... )

GIẢNG

Nhiều người đã lấy làm lạ không hiểu tại sao, cho đến giờ phút này, Giáo Hội Chúa vẫn có thể tồn tại và phát triển; càng ngày càng phát triển, cho dù ngay từ bản thân Đức Giêsu, Giáo Hội Chúa đã bị bách hại, bị người đời tính toán tiêu diệt. Thử thách như theo gót phát triển của Giáo Hội: Thời kỳ đầu ở Giêrusalem, khởi sự với cuộc tử đạo của Thánh Têphanô, Thánh Giacôbê và các Thánh Tông Đồ khác, đến nỗi Giáo Hội phải phân tán khắp nơi; 300 năm cấm đạo ở Rôma và các Giáo Hội địa phương cũng chịu cùng cảnh ngộ. Giáo Hội có mặt ở đâu là bị bách hại ở đó; ngay tại Việt Nam, thời chế độ phong kiến, Giáo Hội cũng phải chịu hơn trăm năm ruồng rẫy, bắt bớ, hàng trăm ngàn người hy sinh vì Chúa. Bên ngoài Giáo Hội bị bách hại đã vậy, bên trong Giáo Hội cũng không kém phần thử thách: Nhiều người thế giá sống tội lỗi; nội bộ chia rẽ, nhiều giáo phái nổi lên gieo những điều sai lạc và làm ly tán Giáo Hội. Thế nhưng, Giáo Hội vẫn đứng vững trước các thử thách; ngày càng có nhiều người tin nhận, gia nhập Giáo Hội bằng con đường này hay con đường khác. Tất nhiên, chúng ta không lấy số lượng làm mục đích phát triển Giáo Hội, nhưng việc phát triển số lượng đó vẫn cho chúng ta thấy một sức sống mãnh liệt đang tiềm tàng hoạt động trong Giáo Hội. Sức sống đó là gì và ở đâu?

Thời Giáo Hội sơ khởi, nhiều tín hữu từ Giêrusalem -tất nhiên gốc là Dothái giáo, đã thấm nhiễm tinh thần, luật lệ và các buổi phụng vụ Dothái- đến Antiôkia buộc các Kitô hữu gốc lương dân phải thi hành các luật lệ của ông Môsê, theo thói quen của Dothái giáo, làm các tín hữu tân tòng hoang mang, vì chẳng lẽ ơn cứu độ của Chúa Giêsu không giá trị bằng luật lệ của Cựu Ước? Nhiều cuộc tranh cãi đã nổ ra. Nhưng những bất đồng ý kiến, nếu không được hoà giải, sẽ đưa tới việc phân hoá Giáo Hội. Kinh nghiệm cho biết: Những đảng phái, phe nhóm do con người thiết lập, sẽ dễ dàng phân hoá, bất đồng ý kiến và phản bội nhau chỉ vì quyền lợi vật chất, địa vị, danh vọng trần thế như vậy. Rất may là các Tông Đồ đã gặp gỡ nhau, triệu tập công đồng đầu tiên trong Giáo Hội. Nhờ ngày phục sinh được Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ đã nhận ra vai trò và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội: "Thánh Thần và chúng tôi quyết định..." (Cv 15,28). Chúa Thánh Thần đứng trước các Tông Đồ và chủ động việc hướng dẫn giúp đỡ các Tông Đồ. Chính nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã tránh được tình trạng đổ vỡ và ngày càng hiểu sâu hơn giáo huấn của Chúa Giêsu, như chính Chúa Giêsu đã nói: "Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần, Chúa Cha sẽ phái đến nhân Danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14,26). Tất cả mọi sinh hoạt trong Giáo Hội đều có bàn tay can thiệp của Chúa Thánh Thần. Chính vì vậy, đứng trước những nguy cơ mà Giáo Hội phải đương đầu, nếu sống trong đức tin, chúng ta sẽ luôn luôn khám phá ra được những dấu ấn hoạt động của Thánh Thần Thiên Chúa và bao giờ chúng ta cũng cảm nhận được bình an, đúng như lời Chúa hứa: "Thầy để lại bình an cho anh em" (14,27).

Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban Chúa Thánh Thần của Người cho Giáo Hội. Chưa ai thấy Chúa Thánh Thần, nhưng qua những hiệu quả công việc của Người, chúng ta cảm nhận được Người luôn sống trong Giáo Hội. Chúa Giêsu đã từng nói với ông Nicôđêmô về hoạt động của Chúa Thánh Thần: "Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu" (3,8). Chúa Thánh Thần luôn hoạt động theo tự do của Người. Qua những sinh hoạt và tính tồn tại, phát triển của Giáo Hội, bất chấp các thế lực chống đối, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta khám phá ra Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong Giáo Hội và qua Giáo Hội, Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong cuộc sống mỗi người, để ta luôn cảm nghiệm được bình an của Chúa.
 
 

----------------------------

 

PS 6-C123:  Bình an đích thực của Chúa


(Suy niệm của Lm. Jos. Vinc. Ngọc Biển)

 

Trong cuộc sống, mỗi lần gặp nhau, chúng ta thường hay hỏi: "anh hay chị có bình an không?" PS 6-C123


Trong cuộc sống, mỗi lần gặp nhau, chúng ta thường hay hỏi: "anh hay chị có bình an không?" Hay trước khi ra về, người ta cũng thường hay chúc nhau "về bình an nhé"... Khi lên đường khởi đầu một chuyến hành trình nào đó, ta cũng mong sao chuyến lữ hành của mình được bình an.

Ngày xưa, người Sêmít cũng có thói quen chào người sắp đi rằng: "ông; bà...hãy đi bình an" (x. 1 Sm 1,17; 20,42; 29,7). Ngày nay, người Arập cũng còn chào như vậy. Còn người Do thái thì rút gọn hơn khi nói: "Bình an" mà thôi.

Như vậy, hai chữ "bình an" là điều mà mọi người đều mong muốn. Tuy nhiên, mỗi người hiểu về bình an dưới những lăng kính khác nhau. Các tôn giáo cũng mặc cho nó một ý nghĩa riêng biệt theo giáo lý của tôn phái mình. Bình an mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ không phải là thứ bình an như người đời vẫn hiểu: "Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng"(Ga 14,27).

Vậy bình an theo kiểu thế gian ban tặng là gì? Và bình an của Đức Giêsu trao ban là sao? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu:

1. Bình an theo lối hiểu của con người

Trong kinh nghiệm tự nhiên của con người, đói khát, mất quyền lực, thất bại, bất an hay sự chết là điều làm cho con người luôn sợ hãi và mất bình an. Đỉnh cao của nỗi sợ đó chính là sợ mất sự sống. Chính vì vậy, người ta đều mong muốn được an vui và hạnh phúc, tức là ơn bình an. Tuy nhiên, bình an mà Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ là một thứ bình an đặc biệt. Đặc biệt vì không phải theo kiểu người đời, mà theo thánh ý Chúa.

Hằng ngày, chúng ta vẫn thường thấy tại các công trường hay những nơi xây dựng, người ta căng những băng rôn có nội dung như: "an toàn là trên hết"; "an toàn là bạn – tai nạn là thù". Qua những biểu ngữ đó, người ta mong sao cho công việc lao động, xây dựng của họ được an toàn. Ở đây, bình an chính là không xảy ra tai nạn trong khi lao động.

Khi tham gia giao thông, chúng ta, ai ai cũng đều mong muốn không bị đụng xe, cướp giật, mong đi đến nơi về đến chốn an toàn. Ở đây, bình an là không có chuyện bất trắc xảy đến.

Rồi, trong cuộc sống, lúc còn trẻ, ai cũng mong muốn được đáp ứng những nhu cầu về tiền bạc, quần áo... khi lớn lên một chút thì mong được thi cử đỗ đạt, nghề nghệp ổn định, lấy vợ gả chồng được vừa ý. Khi đã ngoài 50 tuổi, ai chẳng muốn con cái ngoan hiền, ổn định. Và, khi đã đến tuổi xế bóng, cái tuổi chân yếu tay mềm, "thất thập cổ lai hy" thì lại mong con cái hiếu thảo, không phải tất bật lo toan những chuyện như: cơm - áo - gạo - tiền nữa. Cuối cùng, cuộc đời an nhàn thư thái là điều mà ai trong chúng ta lại không mơ về nó?.

2. Bình an của Đức Giêsu

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật lại cho chúng ta về phần cuối của cuộc diễn từ ly biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Trong lúc chuẩn bị Thầy trò chia tay nhau để Ngài lên đường chịu chết, chuộc tội cho thiên hạ. Vì thế, Đức Giêsu đã để lại cho các ông một gia sản quý giá hơn hết mọi thứ, đó chính là sự bình an. Ngài không nói: "Anh em hãy ở lại bình an", mà nói: "Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy".

Bình an của Đức Giêsu trao tặng cho các môn đệ không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, mà còn đi xa hơn để đạt được thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng người ta về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ.

Đức Giêsu chính nội dung của bình an; hay nói cách khác: Ngài chính là nguồn bình an, Ngài ban cho các ông chính bình an của Ngài.

3. Sống đặc tính ơn bình an

Khi Đức Giêsu trao ban bình an cho các môn đệ, Ngài cũng muốn mời gọi mỗi người chúng ta sống đặc tính của ơn bình an. Đặc tính đó là đón nhận chính nguồn ơn cứu độ và đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là nguồn cội của bình an.

Sống trong đặc tính ơn bình an của Chúa còn là ở lại trong sự quan phòng của Ngài: "...Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc [...] Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không?..." (Mt 6, 25-29).

Tiếp theo, đặc tính của ơn bình an mang tính siêu việt, quy hướng về Quê Trời: "Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được" (Mt 6, 19-21).

Cuối cùng, đặc tính này mời gọi chúng ta yêu thương nhau. Khi đã có Chúa là nguồn bình an. Có Chúa là tất cả, chúng ta cũng phải biết yêu thương nhau và sống đức công bằng. Hành vi này đã được Dakêu cảm nghiệm và diễn tả thật sâu sắc. Chuyện kể rằng: một hôm, Đức Giêsu vào thăm nhà một người thu thuế tên là Dakêu. Ngài ở lại đó dùng bữa chung với gia đình ông. Sự hiện diện của Ngài làm ông rất cảm động. Những cử chỉ của Đức Giêsu được kể là một sự chúc bình an cho gia đình ông. Được ơn bình an đó, ông Dakêu tự nhiên không những cảm mến Đức Giêsu, mà còn cảm thấy có trách nhiệm yêu thương đồng bào mình. Để cụ thể hoá lòng thương yêu đó, ông thưa với Đức Giêsu rằng: "Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi xin phân phát cho người nghèo. Và nếu tôi đã làm hại ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn" (Lc 19,8).

Như vậy, bình an mà Đức Giêsu ban tặng cho các môn đệ chính là bình an nội tâm. Bình an tuyệt đối. Bình an vượt xa lối hiểu của con người.

Đón nhận sự bình an của Chúa cũng chính là đón nhận chính Chúa, bởi vì Chúa là nguồn bình an (x. Ga 4,8,16; Rm 16,20).

Sống đặc tính của ơn bình an cũng chính là đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và tin tưởng phó thác vào Ngài. Và, khi đã có Chúa trong cuộc đời thì cũng phải biết đem Chúa đến cho người khác bằng những cử chỉ yêu thương, thân thiện và sống đức công bằng.

Mong sao lời chào chúc bình an trong mỗi thánh lễ: "Bình an của Chúa ở cùng anh chị em" luôn ngự trị trong tâm hồn mỗi chúng ta, để tâm hồn chúng ta luôn được bình an và được hưởng ơn cứu độ.

Lạy Chúa, Chúa là nguồn bình an, xin ban bình an của Chúa xuống trên chúng con như xưa kia Chúa đã trao ban cho các môn đệ. Xin cho con được sống ơn bình an đó một cách sâu xa, để tận sâu thẳm tâm hồn, chúng con an vui hạnh phúc vì có bình an của Chúa ở cùng. Amen.
 
 

----------------------------

 

PS 6-C124: Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ


Đấng Phù Trợ là Thánh Thần…, sẽ nhắc nhở cho các con

 

Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Chúa chúng ta chuẩn bị về Trời (Lễ Thăng Thiên). Phụng vụ Lời PS 6-C124


Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Chúa chúng ta chuẩn bị về Trời (Lễ Thăng Thiên). Phụng vụ Lời Chúa gợi lên cho chúng ta nhớ lại những lời tâm sự cuối cùng của Chúa và mời gọi chúng ta không được "xuyến xao và sợ hãi" (Năm C). Nhưng, bằng lời cầu nguyện hãy phó thác cho Chúa Giêsu và nhờ Ngài mang về Trời dâng lên Đức Chúa Cha cho chúng ta. Những lời trăng trối của Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta để ý đến cách đồng truyền giáo: "Lúa chín đầy đồng", vì là lệnh truyền của Chúa Nhân Lành, nên cần phải được tôn trọng. Truyền thống phụng vụ này, được thánh Mamert đưa vào từ năm 470 tại thung lũng Rhône, và mở rộng tới tận Gaule, đúng thời điểm diễn ra Công Đồng đầu tiên tại Orléans. Theo Truyền thống, trong khoảng thời gian Chúa về Trời, các tín hữu công giáo sẽ tuân giữ việc giữ chay, (nghĩa là từ thứ Hái, Ba, Tư tuần này) họ sẽ ăn chay để chuẩn bị cử hành Lễ Chúa về Trời. Ở nông thôn, các linh mục sẽ chúc phúc cho ruộng đồng và hoa màu. Lời Ca nhập lễ: Hãy vui mừng loan báo cho mọi người được nghe. Rao truyền đi đến tận cùng cõi đất rằng: Chúa đã giải phóng dân Người. Hallêluia.

* Bài đọc Phụng vụ năm A

- Tđcv 8, 5-17: Rao giảng Tin Mừng cho dân thành Samaria
- Tv 66, 1: Toàn trái đất, hãy reo mừng Thiên Chúa
- 1 Pr 3, 15-18: Anh em hãy là những chứng nhân về niềm hy vọng của chúng ta ở giữa thế gian
- Ga 14, 15-21: Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi

* Bài đọc Phụng vụ năm B

- Tđcv 10, 25-26; 34-35; 44-48: Những người dân ngoại đầu tiên chịu Phép rửa tội
- Tv 98, 1: Chúa đã biểu dương Quyền Năng của Ngài trươc mặt chư dân
- 1 Ga 4, 7-10: Tất cả những ai yêu thương đều là con cái Thiên Chúa
- Ga 15, 9-17: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em

* Bài đọc Phụng vụ năm C

- Tđcv 15,1-2; 22-29: Giáo hội quyết định đón nhận dân ngoại
- Tv 67, 2: Thân lạy Chúa, ước gì chư dân ca tụng Ngài Dieu!
- Kh 21, 10-14; 22-23: Con Chiên là ánh sáng cho dân Chúa
- Ga 14, 23-29: Lời hứa sai Chúa Thánh Thần đến

"Đấng Phù Trợ là Thánh Thần..., sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con"

Chúa Giêsu Kitô, Đấng "phó thác Thần khí" trên cây thập giá (Ga 19, 30) đã thực hiện như lời Ngài đã hứa trước khi chịu khổ nạn. Vì Ngài là là Chiên Thiên Chúa và là Con của loài người, đã hiện đến với các môn đệ "thổi hơi” trên họ và nói với họ: "Hãy chịu lấy Thánh Thần. (Ga 20, 22 )... thế là Chúa Thánh Thần đến làm cho họ tràn ngập niềm vui, làm cho họ đang buồn sầu trở nên vui, đúng như lời Ngài nói là biến những "sự ưu phiền của các ngươi sẽ trở thành niềm vui. " (x. Ga 16:20).

Và nhất là khi loan báo diễn từ li biệt sắp xảy đến: Chúa Kitô phục sinh như khai mở một cuộc sáng tạo mới, gửi Chúa Thánh Thần đến trên các môn đệ. Khi hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại. Qua các vết thương chịu đóng đinh, Chúa Giêsu đã trao ban cho họ Thần Khí: " Ngài cho họ thấy tay chân và cạnh sườn Ngài. Các môn đồ mừng rỡ, vì được thấy Chúa. (Ga 20:20). Đó là chứng tích của những vết thương, Ngài nói với họ: "Hãy chịu lấy Thánh Thần. (c. 22).

Vì thế, có một liên kết chặt chẽ được thiết lập giữa việc sai Chúa Con và cử Chúa Thánh Thần đến. Việc cử Chúa Thánh Thần (sau nguyên tội) không thể xảy ra mà không có thập giá và sự sống lại, đúng như lời Ngài nói: "Song Ta nói thật với các ngươi: Ta ra đi, thì ích lợi hơn cho các ngươi; vì nếu Ta không ra đi, thì Đấng Bào Chữa không đến với các ngươi. Còn nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến với các ngươi. "(Ga 16, 7). Sứ mạng của Chúa Con trong một nghĩa nào đó, được thực hiện trọn vẹn trong sự cứu chuộc và sứ mạng của Chúa Thánh Thần phát xuất từ công trình cứu chuộc: "Vì thế mà Ta đã nói: Ngài lấy của Ta mà thông báo cho các ngươi". (Ga 16,15). Ơn cứu chuộc được thực hiện hoàn toàn do Chúa Con là Đấng được xức dầu đã đến trong thế gian và hoạt động bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, khi dâng mình chính thân mình làm của lễ hy sinh trên thập giá. Và sự cứu chuộc không ngừng được hoàn tất trong trái tim và trong lòng nhân loại - trong lịch sử của thế giới – nhờ Chúa Thánh Thần là "Đấng Bầu Chữa khác" (Ga 14,16).

Năm nay kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Vatican II, năm mà Giáo hội nhấn mạnh đến truyền giáo. Tưởng chúng ta cũng nhớ lại Công Đồng Giêrusalem, một Công đồng quyết định cho việc truyền giáo mà sách Tông Đồ Công Vụ kể lại biến cố được gọi là "Công Đồng Giêrusalem". Tại Phòng Tiệc Ly ở Giêrusalem; nơi Công Đồng đầu tiên, công đồng mở cửa cho những anh chị em ngoài do thái giáo ( TĐCV 15, 11- 29). Cuộc họp đầu tiên đó của các Tông Đồ và những vị Trưởng Lão đã được triệu tập để giải quyết một vấn đề quan trọng. Đối với các tín hữu thuộc nhóm Pharisêu xác tín rằng những người ngoài do thái giáo trở lại kitô giáo, phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật Môisen, thì hai thánh Phaolô và Barnaba mạnh mẽ bênh vực lập trường rằng ơn cứu rỗi không đến từ những việc của Lề Luật, nhưng từ đức tin vào Chúa Kitô.

Nhờ những can thiệp được linh ứng của Thánh Phêrô và Thánh Giacôbê, lập trường của Thánh Phaolô và thánh Barnaba, được chấp nhận; và kể từ ngày đó, Giáo Hội "ra khơi", sẵn sàng đem Tin Mừng đến cho tất cả mọi dân tộc và mọi nền văn hóa. Sức hoạt động tông đồ do Chúa Thánh Thần soi sáng vào khởi đầu, đã không bị tàn lụn và được tiếp tục cho đến hôm nay. Ước muốn duy nhất và bổn phận của các tín hữu là ước muốn rao giảng cho tất cả mọi người biết Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc của con người.

Bước vào tháng Năm là quãng thời gian Giáo hội dành để kính Đức Trinh Nữ Maria, Bông Hoa xinh đẹp nhất trong các thụ tạo, là cánh hồng xuất hiện vào thời sung mãn, khi mà Thiên Chúa sai Con của Ngài đến trần gian thì đã ban cho nó một mùa xuân mới. Mẹ là nhân vật chính yếu, âm thần và khiêm tốn. Mẹ là trái tim thiêng liêng của Giáo hội, bởi vì sự hiện diện của Mẹ ở giữa các môn đệ là ký ức sống động của Chúa Giêsu và bảo chứng cho hồng ân của Thánh Linh. Chúng ta hãy đem hết tình con thảo mà dâng kính Mẹ, xin Mẹ đoái thương đồng hành cùng con cái nơi dương thế. Amen.
 
 

----------------------------

 

PS 6-C125:  Đức Giêsu luôn luôn hiện diện


(Chú giải và suy niệm của Lm PX. Vũ Phan Long)

 

Sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho các Kitô hữu là họ cũng sẽ đạt tới đó, PS 6-C125


Sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho các Kitô hữu là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.

1.- Ngữ cảnh

Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV ("Sách về Giờ của Đức Giêsu") và ở trong "Diễn từ cáo biệt thứ nhất" (13,31-14,31): Đức Giêsu nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Người mời gọi các môn đệ đừng hoang mang trước viễn tượng Người ra đi (14,1): Chúa Cha sẽ cử đến một Đấng Bảo Trợ khác để trợ giúp các ông, đó là Thánh Thần (14,16-17). Còn chính Người thì sẽ trở lại với các ông; thế gian không thấy Người, nhưng những ai tin vào Người thì thấy được Đấng ấy (14,18-21). Giuđa đã diễn tả sự kinh ngạc của tất cả các môn đệ: "Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?" (14,22). Ông mơ một cuộc tỏ mình cụ thể, khả giác, của Đức Giêsu; ông chưa hiểu là biến cố Đức Giêsu và Thánh Thần ngự đến chỉ có thể nhận biết trong đức tin.

Thoạt nhìn, dường như câu trả lời của Đức Giêsu (c. 23) không liên hệ đến câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra, câu trả lời đã đi thẳng vào câu hỏi, bởi vì Đức Giêsu loan báo sự hiển lộ mầu nhiệm của Người và lý do khiến thế gian không thấy được sự hiển lộ này.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (14,23-24);
2) Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (14,25-26);
3) Đức Giêsu ban bình an và ra đi (14,27-29).

3.- Vài điểm chú giải

- lời (23): Đối với một người Sê-mít, "lời" (logos) có tính cụ thể; "lời" diễn tả hữu thể thâm sâu, chính bản thân con người.

- Thánh Thần... Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều (26): Từ ngữ "Thánh Thần" (to pneuma to hagion) ở trung tính; vậy mà chủ ngữ "Đấng đó" (ekeinos) thay cho "Thánh Thần" (to pneuma to hagion, ho...) lại ở nam tính. Khi viết như thế, tác giả muốn cho thấy rằng Thần Khí còn hơn là một xu hướng hay là một ảnh hưởng; Người là một nhân vật, một Đấng. Có thể nói ekeinos ở nam tính vì thay cho paraklêtos, nhưng gần hơn, vẫn là thay cho to pneuma to hagion, ho...

- sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm anh em nhớ lại (26): Bultmann có lý khi cho rằng, "dạy" và "làm nhớ lại" không phải là hai chức năng khác nhau của Thánh Thần, nhưng là hai phương diện của cùng một chức năng. Như thế, "dạy anh em" và "làm anh em nhớ lại" song đối với nhau.

- bình an (27): Khi ra đi, Đức Giêsu nói shalôm (bình an) với các môn đệ. Nhưng đây không phải là lời chào thông thường, mà là ân ban cứu độ. Đây không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, hay là chấm dứt sự căng thẳng về tâm lý, hay là một cảm giác thư thái. Theo ngôn ngữ Ga, "bình an", "sự thật", "ánh sáng", "sự sống", "niềm vui" là những từ mang nghĩa ẩn dụ để diễn tả các phương diện khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu đã mang từ Chúa Cha đến cho con người. "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy" là một cách khác để nói "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời" (10,28). "Bình an của Thầy" ở đây cũng giống như "niềm vui của Thầy" ở 15,11 và 17,13.

- nếu anh em yêu mến Thầy (ei êgapate, 28): Động từ ở thì vị hoàn (imperfect) để nói về một điều kiện "không có thật", chưa xảy ra[1].

- Chúa Cha cao trọng hơn Thầy (28): Câu này đã là đề tài cho nhiều cuộc tranh luận về Kitô học và về Ba Ngôi. Phái Ariô đã dựa vào câu này để biện minh cho Kitô học của họ, và do đó, để chống lại thần tính của Đức Giêsu. Đã có hai cách giải thích cổ điển: (1) Một nhóm Giáo Phụ (Origiênê, Téctulianô, Athanasiô, Hilariô, Êpiphanê, Grêgôriô Nadien, Gioan Đamát) cho rằng bản văn diễn tả sự phân biệt giữa Chúa Con và Chúa Cha: Con được nhiệm sinh trong khi Cha thì không. Tuy nhiên, cách giải thích này phát xuất từ suy tư tín lý về Kinh Thánh sau này chứ không dựa trên chú giải câu văn. Cho rằng tác giả Ga đã giới thiệu Đức Giêsu nói với các môn đệ về quan hệ nội tại giữa Ba Ngôi là sai niên đại. (2) Một nhóm Giáo Phụ khác (Xyrilô Alêxandria, Ambrôsiô, Âutinh) đã giải thích rằng trong tư cách là con người, Chúa Con Nhập Thể kém hơn Chúa Cha. Lối giải thích này thoạt tiên có vẻ có lý hơn lối giải thích trước, nhưng vẫn nhằm phân biệt các bản tính nơi Đức Giêsu. Và đây là điều không chắc là Ga đã nghĩ tới. Không lẽ Ga lại nghĩ đến một sự phân biệt giữa Đức Giêsu nói như con người và Đức Giêsu nói như Thiên Chúa? Nhất là một cách phân biệt như thế có phù hợp chăng trong Diễn từ cuối cùng, vì ở đây hơn ở bất cứ nơi nào khác, Đức Giêsu, Đấng đang nói, siêu việt lên trên cả thời gian lẫn không gian?

Khi đã bỏ ra ngoài sự can thiệp của khoa tín lý hình thức của thời sau này, chúng ta thấy rất có thể chìa khóa nằm ở 13,16: "Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi". "Cha quan trọng hơn tôi" nghĩa là quan trọng hơn những gì anh em đã thấy nơi tôi. Đức Giêsu chỉ quan trọng do chỗ Người là Đấng "mạc khải" Chúa Cha. Sự phân biệt được đưa vào không đối lập bản tính nhân loại với bản tính thần linh trong Đức Kitô (theo cách giải thích truyền thống), mà là đối lập "cách giới thiệu bản thân Người trong hình thức nhân loại" (trong phẩm cách Mêsia) với ý nghĩa tròn đầy của bản thân Người trong tư cách là Thiên Chúa, đó là mạc khải Chúa Cha. Vậy vấn đề là nhận biết Chúa Cha nơi Đức Giêsu. Khi các môn đệ đã đạt được tới đó, sẽ không còn vấn đề thấp hơn hay cao hơn, bởi vì Chúa Cha và Người chỉ là một.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (23-24)

Đức Giêsu khẳng định rằng người nào yêu mến Người, thì phải "giữ lời" Người, nghĩa là gắn bó với lời loan báo của Người và nhận biết bằng đức tin những gì Người đã yêu cầu (x. 14,15.21.23), và đáp lại bằng trọn cuộc đời dấn thân thực tế và quảng đại. Khi ấy, họ sẽ được đón tiếp Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, bằng chứng cho thấy Người liên kết với Chúa Cha là những việc Người làm (x. 14,10-11). Trong Cựu Ước, dân Israel đi tới chỗ biết Thiên Chúa của họ do họ thấy Ngài che chở kẻ nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất, những ngoại kiều, trẻ mồ côi, và các quả phụ. Nếu Đức Giêsu đang làm những việc tương tự, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đang ở trong Người và Người đang ở trong Thiên Chúa.

Không những các môn đệ đầu tiên, mà bất cứ ai tin vào Người và yêu thương Người, liên kết với Người theo cách này ("giữ lời"), thì đều sẵn sàng đón Chúa Cha và Chúa Con khi các Đấng đến; các Đấng sẽ cư ngụ nơi người ấy và sẽ ở lại bền bỉ với người ấy. Người đã liên tục nhắc lại: "Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy" (16,32; x. 8,29). Điều này đúng cho bất cứ ai yêu thương Đức Giêsu: người ấy không phải cô độc, không bị lạc lõng và bỏ rơi; dù không hữu hình, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên người ấy.

* Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (25-26)

Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa là Thánh Thần sẽ đến (x. 14,16-17); Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu. Đức Giêsu để lại cho các môn đệ lời của Người, sứ điệp của Người. Đây sẽ mãi là những yếu tố đưa các môn đệ đến với Người. Nhưng các môn đệ sẽ không phải dựa vào sức riêng mà hiểu lời Người: họ sẽ được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sự hỗ trợ hữu hiệu của Thánh Thần sẽ được biểu lộ rõ ràng trong việc dạy cho họ hiểu lời của Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ không đưa đến một giáo huấn mới: thật ra toàn thể mạc khải đã được ban nơi Đức Giêsu. Tất cả hoạt động của Thánh Thần sẽ là quy về những gì Đức Giêsu đã nói và giải thích cho các môn đệ. Được Thánh Thần dạy dỗ, các ông sẽ có thể đi theo sát hơn nữa lời của Đức Giêsu và được chuẩn bị đi vào hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con.

* Đức Giêsu ban bình an và ra đi (27-29)

Đức Giêsu không để các môn đệ phải mồ côi (x. 14,18), nghĩa là bỏ rơi các ông, mặc cho các ông sợ hãi, không được hỗ trợ nâng đỡ. Người từ giã và ban sự bình an của Người cho các ông. Người từ giã các môn đệ nhưng ban một sự bình an, một sự đảm bảo và một sự che chở chỉ có thể phát xuất từ Người. Sự bình an này không phải chỉ là một lời nói (một lời chào), cũng không phải là sự bình an mà thế gian ban tặng: một sự bình an giả trá, một sự bình an được đặt trên sự chuyên chế, bạo động và bất công. Sự bình an Đức Giêsu ban chính là ơn cứu độ, là "sự thật", "ánh sáng", "sự sống", "niềm vui", dựa trên việc loan báo do Người thực hiện, dựa trên sự hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con và dựa trên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông ấy đưa lại sự an toàn và che chở. Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đe dọa chúng ta và đứng lên chống lại chúng ta?

Khi đi chịu chết, thật ra Đức Giêsu trở về nhà Cha (x. 13,1); như thế Người đã đạt được mục tiêu của hành trình trần thế của Người. Đối với Người, không có niềm vui nào to lớn hơn là sự hiệp thông trọn vẹn với Cha. Điều này hẳn cũng phải có giá trị cho các môn đệ Người. Sự thông hiệp với Cha và với Con, một sự hiệp thông được ban cho họ ngay từ bây giờ, là nền tảng cho sự bình an của họ. Sự hiệp thông trọn vẹn của Con với Cha, vì là mục tiêu Đức Giêsu đã đạt, là nền tảng chắc chắn nhất cho niềm vui của họ.

+ Kết luận

Mọi sự tùy thuộc vào việc nhìn các sự việc một cách đúng đắn. Nhìn từ bên ngoài, cái chết của Đức Giêsu dường như là tai họa và sự đổ vỡ tan tành thành mây khói. Nhưng ai tuân giữ lời của Người, thì đã không mất sự an toàn do cái chết của Người, mà lại còn được củng cố trong niềm tin vào Người và trong niềm vui vì chiến thắng của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta tất cả những điều này xuyên qua hoạt động của Thánh Thần: chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng ta, dạy bảo và nhắc chúng ta nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cất đi mọi mối bận tâm, sợ hãi và lo lắng bất an, nhất là khi ta sống sự hiệp thông ấy trong đức tin. Bởi vì chỉ Đức Giêsu mới giúp chúng ta đi vào hiệp thông với Chúa Cha, thì cũng chỉ Người mới có thể ban cho chúng ta sự bình an này. Người tín hữu phải luôn luôn biết rằng, ngay cả khi họ bị cái chết dằn vặt, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên họ, chứ không bao giờ bỏ rơi họ trong tình cảnh khốn quẫn. Sự hiệp thông với Đức Giêsu và với Chúa Cha không chỉ bắt đầu khi chúng ta được tiếp đón vào nhà Cha (14,2-3), nhưng là một thực tại đã có bây giờ và sẽ hoàn tất với cuộc hưởng kiến vinh quang.

2. Ngược với việc tuân giữ những luật lệ chi li cách tỉ mỉ và máy móc, không quan hệ gì với con tim của người tín hữu, Đức Giêsu đặt các tương quan của Người với các môn đệ trên nền tảng là các dây liên kết riêng tư trong tình yêu. Muốn thấy Đức Giêsu, muốn sống nhờ Người và với Người, người tín hữu phải "giữ các lời Người" (c. 24). Sự sống này, như Đức Giêsu xác định, lại chính là sự sống của Người và cũng là sự sống mà Người nhận từ Chúa Cha, nhưng cũng có chung với Chúa Cha.

3. Các Kitô hữu hôm nay cũng phải vui mừng cho chính mình: sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho họ là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.

4. Cái chết của Đức Giêsu rất có thể có vẻ là chiến thắng của ông hoàng của thế gian này và của các quyền lực bóng tối, là sự khải hoàn của các đối thủ của Người. Nhưng Đức Giêsu không hề bị áp đảo bởi một quyền lực bên ngoài, chống lại ý muốn của Người. Người đã tự ý nhận lấy cái chết của Người, bởi vì Cha đã định đoạt như thế cho Người. Cái chết của Người là một dấu chỉ về tình yêu của Người đối với Cha.
--------------------------------------------
[1] M. Zerwick, Biblical Greek.313.
 
 

----------------------------

 

PS 6-C126:  BÌNH AN THIÊN QUỐC

 

Cô Nguyễn Thanh Thúy sinh năm 1957, đến từ Lâm Đồng, dự thi Tìm kiếm tài năng Việt Nam PS 6-C126 Dalat


Cô Nguyễn Thanh Thúy sinh năm 1957, đến từ Lâm Đồng, dự thi Tìm kiếm tài năng Việt Nam bằng ca khúc "Riêng một góc trời" của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên. Hình ảnh cô với trang phục đơn sơ, ngồi đánh đàn guitar trên sân khấu lộng lẫy của Vietnam’s Got Talent 2016, khiến giám khảo Trấn Thành bấm nút chọn cô, vì muốn tìm hiểu về người đàn bà hát có gương mặt khắc khổ này.

Khi Trấn Thành hỏi: “Cô đang làm công việc gì ?” Cô Thúy đáp: “Dạ ! Thí sinh vừa làm vườn, vừa là thầy thuốc chuyên ấn huyệt, bấm huyệt giúp những trẻ bại liệt đi đứng được, từ thiện hoàn toàn. Dù hoàn cảnh của thí sinh còn gặp nhiều khó khăn, ở trên đồi, không có điện, không có nước xài, nhưng vẫn quyết cứu trẻ khuyết tật. Ở trên đồi, hai chị em gái còn độc thân. Thí sinh thì 60 tuổi, em gái 50 tuổi, ở chung trên một cái đồi hoang vắng. Không có điện để mình biết thông tin này nọ kia đâu, nhưng mà có một vị ở Sàigòn, vị đó giờ là kỹ sư – thân nhân của trẻ khuyết tật mà trước đây thí sinh từng ấn huyệt. Thân nhân của trẻ gọi điện thoại lên hỏi: “Cô Thúy ơi ! Cô Thúy có muốn dự thi hay không ?” Thế là thí sinh nói: “Cô muốn lắm, nhưng mà cô chỉ có cây đàn guitar mới được người ta tặng thôi ! Khi biết tin được mời lên thi, 2g, 3g sáng rọi đèn pin, soi từng bước từng bước đi xuống đồi, để đến quốc lộ 20 đón xe khách đi lên trên đây. Mà phải đi chậm chậm, mang ở sau một một cái ba lô quần áo rồi cái cây đàn guitar. Vừa đi vừa niệm Phật là đừng trơn té, vì lớn tuổi rồi, trơn té là gãy xương thôi, mà gãy xương thì không dự thi được.” Bằng Kiều hỏi: “Cô cho con hỏi lý do nào mà cô lại đi thi được không ạ ?”

Cô Nguyễn Thanh Thúy đáp: “Thi để hy vọng được lãnh một phần thưởng nho nhỏ nào đó thôi. Chứ mình không hy vọng mình sẽ đạt phần thưởng nhiều tiền, lớn tiền đâu. Có thể mình có chút tiền để xây một cái bể chứa nước mưa, vì trên đồi đào hai cái giếng, mà không có nước. Rồi mua một cái bình ắc-quy nho nhỏ, rồi mình thắp đèn ở trong nhà, thắp đèn trên bàn Phật”.

Giám khảo Trấn Thành hỏi: “Ở trên đó ( Lâm Đồng ) có ai giúp đỡ cô không ?” Cô Nguyễn Thanh Thúy kể: “Thỉnh thoảng những người giàu ở Sàigòn hay gởi quà từ thiện. Quà trong đó có gạo, bột ngọt hay là dầu ăn, hay đường vậy đó. Chùa thấy thương, thì chùa gọi điện qua để nhận. Nhận thì thí sinh là người vác gạo lên vai nè, rồi xách đi 4, 5 cây số đi lên dốc trên đồi. Tại vì em gái thì 50 tuổi vẫn còn độc thân, hai chị em độc thân từ nhỏ đến lớn, nhưng mà em gái thì không dám ra ngoài, vì có một lần bị côn đồ ở trên đồi sàm sỡ. Đi xuống đồi thì phải đi ngang một đoạn đường vắng, nên em gái không dám đi. Thành ra thí sinh phải là người đi !”

Trấn Thành thốt lên: “Cuộc sống của cô cơ cực quá !” Cô Nguyễn Thanh Thúy: “Không sao đâu, không sao đâu ! Cứ bình tĩnh sống !” Cả Trấn Thành và Bằng Kiều đều hết sức tâm đắc và ấn tượng với cách “bình tĩnh sống” của cô Thúy… Cả ba giám khảo đều quyết định cho cô Nguyễn Thanh Thúy vào vòng sau. Trấn Thành gửi gắm: “Chúc cô luôn yêu đời như vậy và hãy luôn luôn bình tĩnh sống.” ( Thu Nguyệt, Không sao đâu bình tĩnh sống, Tuoitre.com ).

Nghe những lời bộc bạch chân chất, đơn sơ của chị Nguyễn Thanh Thuý, ba vị giám khảo đều chạnh lòng trước những ước vọng, mong muốn cụ thể, nhỏ nhoi, thường tình, chẳng hề dám đũa mộc chòi mâm son, cao sang, dư giả. Chỉ mong sắm được bể chứa nước sinh hoạt và một cái bình ắc quy thắp sáng. Thế thôi !

“Không sao đâu, không sao đâu ! Cứ bình tĩnh sống !” Câu nói của chị biểu lộ một tâm hồn an nhiên tự tại, bình an và hạnh phúc. Chẳng đố kỵ, cũng chẳng ganh đua, bon chen với đời. Lấy việc từ thiện, bấm huyệt, chữa trị miễn phí trẻ em khuyết tật, làm nguồn vui trong cuộc đời ẩn dật, khiêm tốn. Mặc dầu chị chưa là Kitô hữu, nhưng đã sống trọn vẹn tinh thần Kitô chân chính. Xả kỷ vị tha, cứ mãi cho đi, để chỉ nhận lại tình thương của các cháu bé bại liệt.

Bình an nhờ vâng Lời Chúa

"Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy,” Thương ai thì nghe theo và thực hiện ước muốn người yêu. Dĩ nhiên, sẽ làm ngược lại nếu không thương yêu. Vì vậy, Đức Giêsu đã đúc kết một điều kiện duy nhất để theo Người, để yêu Người. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.” ( Mc 8, 34 ). Vì vâng lời Người, yêu mến Người, ông Simon Phêrô và các bạn chài đã dám từ bỏ bản thân, từ bỏ mọi sự, công danh sự nghiệp, mà theo Người. Hay các ông Dakêu, ông Mátthêu cũng đã mau mắn bỏ cả tiền bạc, thu nhập, chức tước, danh lợi, quyền lực, mà hăng hái đi theo Người.

Vật chất của cải, ham muốn, hưởng thụ, cám dỗ thế gian, phù phiếm sa hoa, ảo ảnh, đều là những chướng ngại vật, những rào cản đến với Chúa. Hơn nữa, tìm kiếm và chiếm đoạt những thứ đó còn làm hao tâm tổn sức, tạo nên những cơn khủng hoảng nghiêm trọng, những nỗi stress dày vò liên tục suốt cả cuộc đời.

Đắm chìm trong vũng lầy phàm trần nhơ nhuốc đó, lạc lối trong mê lộ huyền ảo, vô tận đó, làm sao thoát khỏi kiếp nô lệ cho phù vân ? Làm sao thanh thoả được tâm hồn ? Làm sao được bình an? Hơn nữa, còn thì giờ nào, cơ hội nào nghĩ đến Chúa và tha nhân ?

“Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai. Người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc” ( Lc 6, 47-48 ). Thực hành Lời Chúa là nhận được bình an, yên vui, vì Lời Chúa che chở, bảo vệ, chống đỡ khỏi lũ lụt, bão táp, khỏi những thách đố nguy hiểm.

“Chúng ta có nguy cơ làm nô lệ cho đầu óc tiền tài và kinh tế, là thứ làm giáng cấp từ “cái-là” ( being ) sang “cái-có” ( having ).” Đó lời Đức Giáo Tông Biển Đức XVI cánh báo trong diễn văn Benedict XVI trước các vị lãnh đạo nhà nước Liban, các chức sắc tôn giáo, các đại biểu thuộc các tổ chức thế giới, toàn thể nhân dân Liban cũng như cho những ai quan tâm đến việc kiến tạo hòa bình, ngày 14.9.2012.

Bình an nhờ Chúa ngự đến

Bình an là nhờ hiệp thông chặt chẽ với Thiên Chúa. Đức Giêsu hằng kết hợp với Đức Chúa Cha qua việc cầu nguyện liên tục. Vì thế, Người luôn giữ được bình tĩnh khi ứng xử với những kẻ dữ, toán tính ám hại. Bình an của Đức Giêsu kết tinh từ sự vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, vì Người được dưỡng nuôi bằng chính Thánh Ý: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” ( Ga 4, 34 ). Nay Người thương ban bình an của Người cho các môn đệ, những người tình nguyện theo Chúa, cùng vâng theo Thánh Ý.

“Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy.” Nhờ hồng ân Đức Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu trở nên đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Đền thờ hiệp nhất trong tình yêu sẽ ban bình an cho người tôn thờ, tin yêu, trông cậy, như Đức Giêsu đã thương yêu cầu chúc: Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.

Bình an còn nhờ tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa.Sống kết hiệp thân mật với Đức Giêsu, nghiêm nhặt tuân giữ cùng trung thành thực hành Lời Chúa, tín hữu Kitô mới thật sự được bình an, hoan lạc và sinh hoa thơm trái ngọt nhân đức. “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi” ( Ga 15, 5 ).

Bình an nhờ Thánh Thần khai sáng

Bình an còn tiếp tục ở lại với Kitô hữu, khi được Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, khai tâm trước những vấn nạn, bế tắc, nan giải trong cơn lốc cuộc đời biến động.“Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con.”

Đức Chúa Thánh Thần luôn sẵn sàng giải mã Lời Chúa theo đúng Thánh Ý. Ngài sẽ khai thông, hoá giải tất cả bế tắc, dẫu khó khăn, bất khả thi với nhiều người, với cả cộng đoàn. Điển hình như bất đồng về việc tuân giữ Lề Luật Do Thái với người tân tòng. “Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết, thịt thú chết ngạt và gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó là anh em làm phải. Chúc anh em vạn an" ( Cv 15, 28-29 ). Nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Linh chiếu dọi, các cộng đoàn Antiôkhia, Syrie và Cilicia đều đồng tâm chấp thuận và bình an bội phần.

“Thưa: "Vâng" là dễ, nhưng hãy xem Chúa Giêsu theo tiếng gọi cho đến chết trên thánh giá. Hãy bỏ mình, vác thánh giá mỗi ngày và đóng đinh mình trên thánh giá ấy.” ( Đường Hy Vọng, số 73 )

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, khấn xin thương xót luôn mở tai, mở lòng chúng con lắng nghe Lời Chúa và tích cực đem áp dụng vào đời. Xin Người biến đổi, cảm hoá, thánh hoá chúng con, xứng đáng trở nên đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi ngự đến. Xin ban Đức Chúa Thánh Thần đến khai tâm chúng con, thấm nhuần sâu sắc Lời Chúa, cùng hoàn toàn xin vâng Thánh Ý Chúa, để chúng con xứng đáng hưởng sự bình an của Chúa.

Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu, dìu dắt, giúp đỡ chúng con biết từ bỏ bản thân, luôn vác thập giá theo chân Chúa, mãi theo Chúa cho đến trọn đời. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

----------------------------

 

PS 6-C127:  HÀNH ĐỘNG THEO TÌNH YÊU

 

Chúa Nhật tuần trước, Phúc Âm kể về những lời tâm huyết của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ: PS 6-C127


Chúa Nhật tuần trước, Phúc Âm kể về những lời tâm huyết của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Phúc Âm tuần này tiếp nối những lời tâm huyết ấy: "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Chúa Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các môn đệ và ban bình an cho các ông: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Sự hiện diện của người vắng mặt. Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những người yêu nhau mới nhận ra mà thôi.

Sau khi Phục Sinh khải hoàn, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại. Chúa hiện diện trong những ai yêu mến Ngài: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy”. Chúa hiện diện trong những ai thực hành và giữ lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. Ngài hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Ngài: "Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ.... Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến... Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con".

1. "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy"

Người Kitô hữu là người có Đức Kitô nhờ đi theo và yêu mến Ngài. Ai không yêu mến, không đi theo thì không có Ngài, nên không phải là Kitô hữu đích thực. Khi yêu mến Chúa ta sống trong Ngài: "Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em". Người ta chỉ sống trong nhau vì nhau cho nhau khi người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Kitô và được Đức Kitô sống trong ta khi ta yêu mến Ngài. Yêu mến là giữ lời Ngài: "Nếu các con giữ lệnh truyền của Ta thì các con sẽ lưu lại trong lòng mến của Ta" ( Ga 15, 10 ).

Nhưng làm sao yêu mến Ngài được khi mà ta không hề thấy Ngài cách hữu hình, không nghe Ngài nói trực tiếp, không động chạm đến Ngài ? Chúa cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy". Điều răn của Chúa là gì ? Chúa xác định rõ ràng điều răn cốt yếu: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau" ( Ga 12, 34 ). Chúa cũng xác định luôn cả mức độ yêu: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".

Như vậy, câu nói "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy" có nghĩa là "Nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau". Ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa. Nói cách khác, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa.

Thánh Gioan đã diễn giải điều này: "Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" ( 1Ga 4, 20 ).

2. “Anh em có lòng yêu thương nhau”

Những lời tâm huyết của Chúa Giêsu được Thánh Gioan ghi chép lại trong hai chương 13 và 14, cuối cùng Chúa đúc kết trong một lời khuyên ân cần: "Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy". Lời trọng tâm của chương 13 và 14 là: "Chúng con hãy yêu thương nhau”. Tình yêu cụ thể đối với đồng loại là tính chất đặc trưng nhất của những người theo Chúa Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Chúa. Ai không có đặc trưng ấy thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là thứ môn đệ "hữu danh vô thực", giả hiệu mà thôi.

Thánh Gioan sau khi nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Thầy Chí Thánh đã nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Ngài, là sống sự sống của Ngài. Tình yêu đó là một tình yêu sáng suốt của lý trí, thể hiện nơi những việc làm cụ thể là yêu thương nhau.

Từ nay, để gặp gỡ Chúa, để yêu mến Chúa, để sống với Chúa, cần phải có Đức Tin và Tình Yêu. Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào Sự Sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào Sự Sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong Sự Sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi, và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta như lời Chúa Giêsu nói: "Ngày đó, anh em sẽ biết Thầy ở trong Cha Thầy, Thầy ở trong anh em và anh em ở trong Thầy. Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ cho người ấy biết Thầy".

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không ?

Vị tu sĩ đáp: có chứ.

Người thanh niên hỏi: Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được ?

Vị tu sĩ đáp: Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.

Người thanh niên hỏi: Nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được ?

Vị tu sĩ đáp: Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi: Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này ?

Vị tu sĩ đáp: Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.

Những người yêu mến Chúa là những người biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Trong truyện Thánh Tử Đạo Martinô Thọ có chép: "Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác... Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng xẻ cơm cho họ". Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Ngài quả là người yêu mến Chúa thật và đã đáng Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời.

Lạy Chúa, con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn. Amen.

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

----------------------------

 

PS 6-C128:  AI YÊU MẾN THẦY THÌ SẼ GIỮ LỜI THẦY


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH, năm C

Ga 14, 23-29

 

Thường khi ta yêu ai, mến thương ai, ta luôn giữ hình ảnh, kỷ niệm và đặc biệt những lời nói PS 6-C128


Thường khi ta yêu ai, mến thương ai, ta luôn giữ hình ảnh, kỷ niệm và đặc biệt những lời nói thân thương mà người ta yêu đã tâm sự, đã nói với ta.Đối với Chúa Giêsu, Ngài cũng luôn muốn các môn đệ và những người Ngài thương mến, giữ trong tâm hồn của mình những điều Ngài đã tâm sự, đã nói với họ. Do đó, khi sắp chia tay các môn đệ để về với Cha, Chúa Giêsu Phục Sinh đã loan báo cách tha thiết với các môn đệ và nhân loại là Ngài ở lại:”
 
Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy,
Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy.
Chúng Ta sẽ đến với người ấy,
và sẽ ở lại với người ấy “ ( Ga 14, 23 ).

Trước khi về với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ hãy giữ lời của Ngài và Ngài hứa sẽ ban Thánh Thần đến, Đấng đó sẽ dạy các môn đệ mọi điều, và sẽ nhắc nhở các ông mọi điều Ngài đã nói với các ông ( Ga 14, 26 ).Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ rằng “ Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy “. Yêu mến là luôn giữ lấy những điều người mình thương đã dạy, đã nói với mình.Chúa Giêsu phục sinh không nói với các môn đệ phải ở lại trần gian để làm những việc lớn lao, kỳ diệu. Nhưng là giữ lấy lời của Thầy. Giữ lấy lời của Thầy là chứng tỏ lòng thương mến của mình đối với Chúa tình yêu.Chúa Phục Sinh đã dặn dò các môn đệ giữ và thực thi giới răn yêu thương.

Luật yêu thương là mối giây liên kết các môn đệ với nhau và với anh chị em đồng loại. Chính Đấng Bảo Trợ sẽ thổi sức mạnh vào các ông để các ông hiểu rõ tình yêu Chúa đã dành cho các ông và cho nhân loại, cho mọi người. Bởi vì, tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu tự hiến chết trên Thập giá để cứu độ mọi người. Ngài đã nói và đã thực hiện điều đó tới cùng:” Không có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).Thánh Thần sẽ nhắc nhớ các môn đệ và mỗi người về tình yêu Thiên Chúa đã ban cho họ, nên, chúng ta cũng phải tỏa sáng tình yêu cho người khác.Yêu Chúa là sống giới răn Chúa, giữ trọn lề luật yêu thương mà Chúa đã truyền cho nhân loại. Yêu là đem lại sự hòa thuận, sự an bình cho người khác.Yêu là kiến tạo sự hiệp nhất, là làm những việc bác ái yêu thương, xoa dịu đau thương cho con người. Chúa Giêsu đã để lại sự bình an cho con người.Sự bình an cũng có nghĩa là sự hiện diện của Chúa phục sinh giữa con người. Yêu mến Chúa là để Chúa ngự trị trong lòng của mình. Do đó, mỗi lần ta rước lễ là mỗi lần ta gặp được chính Chúa đang ngự trong lòng của ta. Mỗi lần chúng ta để tâm hồn lắng đọng, chúng ta sẽ gặp được Chúa đang đối thoại với ta. Yêu mến Chúa không phải là chuyện dễ vì Ngài ở xa ta, nếu ta không có đức tin, ta sẽ không thể nhận ra Ngài được.

Giữ lời của Chúa cũng vô cùng khó khăn nếu chúng ta không có đức khiêm nhường, không có niềm tin sâu xa vào Chúa, vào Giáo Hội, chúng ta cũng dễ để cho lời của Ngài bay xa ta…Tuy nhiên, chúng ta được an ủi, được vững dạ cậy trông vì Chúa sống lại đã hứa với các môn đệ và chúng ta” Thánh Thần sẽ giúp chúng ta vững mạnh để hiểu và tuân giữ lời Chúa dạy “. Thật lạ kỳ và linh thánh, yêu mến Chúa và giữ lời Chúa thì  Chúa Cha và chính Chúa Giêsu sẽ đến và ở trong người ấy. Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu đã cầu nguyện để mọi người hiệp nhất nên một “ như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha “. Yêu mến và giữ lời của Chúa, thì Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ đến, biến đổi tâm hồn con người để con người luôn thuộc trọn về Chúa.

Chúa Giêsu đã nói” Không phải các con đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con “ ( Ga 15, 16 ). Chúa Giêsu nói điều này với chúng ta để biểu lộ tình yêu có tính cách hiệp thông, gắn bó thân tình. Lời của Giêsu nói khi xưa với các môn đệ, cũng là lời Ngài đang nói với chúng ta hôm nay. Chúa chọn con người, nghĩa là cho chúng ta được làm con Chúa qua bí tích rửa tội, nên chúng ta phải “ yêu mến Chúa và tuân giữ lời của Chúa “. Đây là sự đáp trả tình yêu đối với tình yêu.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói” Nhờ Chúa Thánh Thần, quả vậy, Chúa Cha và Chúa Con đến và thiết lập một nơi ở trong linh hồn ấy. Trong sự hiệp thông của ân sủng với Chúa Ba Ngôi “ không gian của sự sống “, con người được mở rộng ra, được nâng lên mức siêu nhiên của đời sống Thiên Chúa. Con người sống trong Thiên Chúa và nhờ Thiên Chúa Nó sống “ theo Thần Khí “ và “ khao khát những gì là thiêng liêng “.
Lạy Chúa Giêsu, lời Chúa dặn dò với các môn đệ xưa trước khi Chúa đi về cùng Chúa Cha vẫn vang vọng nơi tai mỗi người ở muôn thời, muôn thế hệ:” yêu mến Chúa phải giữ lời của Chúa “, nhờ đó Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ đến và cư ngụ nơi tâm hồn của người ấy. Amen.
 
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ

1.Chúa đã dặn dò, trăn trối với các môn đệ điều gì trước khi Ngài về trời ?
2.Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy nghĩa là sao ?
3.Ai đã chọn các môn đệ ?
4.Tình yêu đáp trả tình yêu nghĩa là gì ?
5.Đấng bảo trợ là ai vậy ?

----------------------------

 

PS 6-C129: CHÚA THÁNH THẦN TIẾP NỐI CON ĐƯỜNG THƯƠNG XÓT


CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH, C

(Cv 15,1-29; Kh 21,10-23; Ga 14,23-29)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiếp nối tuần trước trong bối cảnh bữa Tiệc Ly và nó nằm trong PS 6-C129


Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiếp nối tuần trước trong bối cảnh bữa Tiệc Ly và nó nằm trong diễn từ ly biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ.

Trong diễn từ này, Đức Giêsu loan báo cuộc ra đi của Ngài bằng con đường thương xót theo ý Chúa Cha qua cái chết trên thập giá cho các môn đệ. Tuy nhiên, lời loan báo này đã làm cho các ông xao xuyến, hoang mang vì mất đi điểm tựa.

Nhưng, Đức Giêsu, nhân cơ hội này, đã giúp cho các ông hiểu rõ hơn về một cuộc hiện diện khác, cuộc hiện diện thần linh, nhiệm mầu.

 Để cho sự hiện diện này được khăng khít, người môn đệ phải đi trên con đường của Thầy đã đi. Phải chung nhịp đập xót thương với Thầy. Chìa khóa để đi vào sự hiệp thông trọn vẹn ấy chính là yêu mến và tuân giữ Lời của Ngài.

Đây là con đường tình yêu của Thầy và trò. Đây cũng là đường thương xót để đến với tha nhân. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp nối con đường xót thương ấy qua việc bào chữa, an ủi và trong vai trò khai trí mở lòng, nhằm giúp các ông hiểu tường tận những Lời Đức Giêsu đã dạy, để họ cũng thi hành cùng một hành vi xót thương đến với tha nhân như chính bản thân đã cảm nghiệm.

1.  Tuân giữ Lời và thi hành là yêu mến cách trọn vẹn

Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan đã khéo léo trình bày tâm trạng hỗn độn, hoang mang, sợ hãi của các môn đệ khi nghe tin Thầy của họ sắp sửa ra đi để chịu chết. Họ lo sợ bởi tính  háo thắng, ham danh, muốn được ưu đãi, trọng thị, mong được hưởng những đặc quyền, đặc lợi theo kiểu trần gian.... những lý tưởng đó sắp bị tan thành mây khói.

Đến đây, chúng ta hiểu thêm một điều nữa, đó là: vì những lựa chọn rất tầm thường đó chỉ đạo tâm tưởng của các môn đệ, nên những điều Thầy của họ giảng cũng như những việc Ngài làm... đã không ăn nhập gì với mục đích cũng như chẳng giúp các ông nhận ra sứ vụ Thiên Sai, đầy thương xót của Đấng Cứu Thế!

Thấu hiểu tâm trạng và diễn biến tâm lý nơi các học trò, nhất là nỗi hãi vì sự liên lụy đến cái chết của mình, nên Đức Giêsu đã trấn an: “Đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14,27). Ngay sau đó, Ngài đưa ra một chỉ dẫn để giữa các ông và Ngài có một mối thông hiệp cách chặt chẽ: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy” (Ga 14,5). Việc tuân giữ và thi hành Lời của Thầy, ấy là thước đo chính xác và cụ thể nhất lòng yêu mến của các ông đối với Ngài. Đồng thời, khi tuân giữ Lời của Thầy, các ông sẽ hướng đích cuộc đời mình dưới cái nhìn sứ vụ. Như thế, giữa trăm chiều thử thách trông gai, và ngay cả cái chết, các ông vẫn vui mừng và sẵn sàng thốt lên: “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và:“Đối với tôi sống là sống cho Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Hơn nữa, khi yêu mến và giữ lời của Thầy, họ sẽ được hưởng trọn vẹn lòng thương xót, đến độ không còn gì có thể so sánh bằng, bởi nơi tình yêu ấy, có sự hiện diện và xót thương của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,23).

2.  Chúa Thánh Thần tiếp nối con đường thương xót

Để cuộc đời và sứ vụ của các môn đệ sang một trang mới, nên ngoài việc Đức Giêsu chỉ cho các ông tuân giữ Lời của Ngài, thì việc loan báo về Chúa Thánh Thần trong vai trò là Đấng An Ủi, Bào Chữa... là điều hết sức quan trọng.

Vì thế, Đức Giêsu đã nói với các ông:  “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con”(Ga 16,7).

Khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm cho sự hiện diện của Thầy trò trong trạng thái “cách mặt, nhưng gần lòng”, bởi vì: “Đấng Bào Chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều  Thầy đã nói với các con” (Ga 14,26).

 Thật vậy, như đã nói: nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là tiếp nối đường thương xót của Đức Giêsu trong vai trò dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã loan báo lúc tại thế. Khi  nhắc cho các ông điều Đức Giêsu đã nói không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách hiểu của Thánh Kinh là: khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố phục sinh. Qua việc tiên báo này, Đức Giêsu sẽ hiện diện trong Lời của Ngài cách cụ thể qua vai trò Trung Gian của Chúa Thánh Thần. Vì thế, mặc dù ra đi, nhưng lòng lại gần lòng hơn bao giờ hết, và các môn đệ không bao giờ bị cảnh mồ côi đơn chiếc, vì: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (x. Ga 14,18).

Để đảm bảo lời hứa, nhất là giúp cho các môn đệ được can đảm, trung thành đi đến cùng con đường thương xót mà Đức Giêsu muốn các ông tiếp bước trong lòng mến, nên Đức Giêsu hứa ban cho các ông sự bình an riêng của Ngài. Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có và mới ban tặng cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14,27).

Lời dạy và những ân ban của Đức Giêsu cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là lời mời gọi và nhắc nhớ mỗi người chúng ta trong tư cách là người môn đệ của Đức Giêsu trong Giáo Hội của Ngài.

3.  Sứ điệp Lời Chúa

Sống trong một xã hội đang bị đe dọa đủ thứ, nhất là sự xáo trộn về giá trị đạo đức trong mọi lãnh vực...! Ơn bình an đích thực dường như vắng bóng trong xã hội. Có lẽ con người không còn đủ niềm tin vào thực tại cuộc sống, bởi lẽ, sự “tử tế” gần như là một cái gì đó xa xỉ nếu không muốn nói là người ta không thích nhắc đến, bởi khi nhắc đến, họ sợ cái “bụng” bị đói!

Trong một môi trường “ô nhiễm” do nạn thượng tôn “ông chủ bụng” mà trà đạp lên sự “tử tế” như vậy, nhiều người muốn sống đàng hoàng cũng khó, bởi vì: “Thật thà, thẳng thắn thì thường thua thiệt”; “Gian tham lọc lừa lại lên lương”. Người ta coi: “Chân Lý và chân giò bằng nhau”; “Lương Tâm, lương thực và lương tháng cùng giá trị”!

Từ thực trạng trên, người nghèo trở thành đối tượng nhắm đến cho những nhu cầu bất chính nơi một số “Chủ nhân ông”. Từ đó gây nên sự bất an trong xã hội.

Nguyên nhân chính yếu đó là: họ đã không có lòng thương xót, đã tách Lời Chúa ra khỏi cuộc sống. Quan điểm: “Kính nhi viễn tri”; hay: “Mũ ni che tai” đối với Lời Chúa là điều mà nhiều người trong chúng ta chọn lựa.

Vì thế, họ sợ phải sống theo Lời Chúa dạy.  Không dám đối diện với sự thật và lòng xót thương. Khước từ cũng như trối bỏ chân lý, nên không dám sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Luôn trung thành tuân giữ và yêu mến Lời Chúa. Đem Lời Chúa vào cuộc sống. Để Lời Chúa trở thành “khuôn vàng thước ngọc”; là “kim chỉ nam”, đem lại sự hợp nhất, yêu thương, tha thứ, biến đổi, nhất là sự bình an. Đây cũng là dấu chỉ của người đang đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa.

 Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và làm cho tâm hồn chúng con nóng lên ngọn lửa yêu mến Chúa. Amen.

----------------------------

 

PS 6-C130  CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH


Hoạt động của Chúa Thánh Thần và Giáo Hội sơ khai

 Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Gio-an 14:23-29)

 

Công trình cứu độ của Chúa Giê-su sắp bước sang một giai đoạn mới:  giai đoạn của Chúa Thánh PS 6-C130 


Công trình cứu độ của Chúa Giê-su sắp bước sang một giai đoạn mới:  giai đoạn của Chúa Thánh Thần.  Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su đã dặn dò các môn đệ về vai trò của Chúa Thánh Thần.  Người nói với họ về Chúa Thánh Thần sẽ hoạt động “nhân danh Người”.  Song song với những lời dạy của Chúa Giê-su về Chúa Thánh Thần, Giáo Hội sơ khai cũng để lại một sự kiện muôn đời đáng ghi nhớ.  Đó là Công Đồng Giê-ru-sa-lem, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, được nhóm họp do các tông đồ và những đại biểu của giáo hội An-ti-ô-ki-a, nhằm giải quyết một trở ngại có thể gây khó khăn cho những anh chị em dân ngoại muốn gia nhập Giáo Hội Chúa Ki-tô.

          Trước khi nói về Chúa Thánh Thần, Chúa Giê-su đề cập tới một điều tối quan trọng là lòng yêu mến.  Tình yêu là động lực của mọi hành động.  Vì yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ cho con người, rồi lại cứu chuộc con người và đưa họ về hòa giải với mình.  Chúa Giê-su cũng nói đến vai trò của tình yêu ở đây, nhưng Người áp dụng vào việc “giữ lời Thầy”.  Người khẳng định:  “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”.  Yêu mến không phải là lời nói suông, nhưng phải được biểu lộ qua hành động.  Mà hành động Chúa muốn thấy nơi các môn đệ chính là phải giữ lời Người, là sống những gì Người dạy bảo họ và cũng là những gì Chúa Cha đã dạy họ nhờ miệng Chúa Giê-su. 

Nhưng làm sao họ nhớ hết được những điều Chúa đã dạy?  Họ không cần lo lắng, vì đây chính là công tác của Đấng Bảo Trợ, Chúa Thánh Thần:  “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”.  Thật là kỳ diệu!  Ba năm trời đi theo Chúa, các môn đệ đã được nghe Người giảng dạy dân chúng, chưa kể những lúc chỉ có thầy trò với nhau, họ đã được Chúa giải thích cặn kẽ.  Tuy nhiên, họ vẫn chưa hoàn toàn thay đổi được não trạng thế gian, nên lối sống và suy nghĩ của họ vẫn chưa được Ki-tô hóa là bao nhiêu.  Giờ đây, Chúa Thánh Thần sắp được sai đến với họ.  Người là Đấng “thay đổi bộ mặt địa cầu”, nên Người cũng sẽ thay đổi não trạng của họ và thay cho họ một quả tim “mới” (Ê-dê-ki-en 36:25-26).  Chúa Thánh Thần làm như thế chẳng khác nào Người giúp cho họ “nhớ lại mọi điều” Chúa Giê-su đã nói với họ trước kia.  Một điều khác nữa Chúa Thánh Thần làm cho các môn đệ Chúa Giê-su là đem lại cho họ “hoa quả của Thần Khí” (Ga-lát 5:22).  Ơn bình an là một trong những hoa quả họ cần đến nhất trong khi phải đối phó với “xao xuyến và sợ hãi”.

          Thánh Thần đã hoạt động trong những cá nhân các vị tông đồ thế nào, thì Người tiếp tục hoạt động trong Giáo Hội sơ khai như vậy.  Ngoài những bách hại từ bên ngoài ra, Giáo Hội còn phải đối phó với những khó khăn nội bộ.  Giáo hội An-ti-ô-ki-a gặp cơn khủng hoảng khi có một số người từ Giu-đê đến gây hoang mang, vì họ dạy rằng Ki-tô hữu gốc dân ngoại sẽ không được cứu độ nếu không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê.  Thế là các vị lãnh đạo giáo hội An-ti-ô-ki-a là Phao-lô và Ba-na-ba phải nhờ tới Giáo Hội trung ương Giê-ru-sa-lem can thiệp.  Các vị lãnh đạo Giáo Hội họp lại.  Sau những phần phát biểu, công đồng Giê-ru-sa-lem đi tới quyết định được đúc kết trong một bức thư gửi giáo hội An-ti-ô-ki-a.  Lời cốt lõi của bức thư chính là khẳng định vai trò của Thánh Thần:  “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”  Điều này cho thấy các vị lãnh đạo đã làm việc dưới sự soi sáng và hiện diện của Thánh Thần, cho nên không phải chỉ các ngài quyết định, mà là “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định”.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Chúng ta đang sống trong triều đại của Chúa Thánh Thần.  Tuy hoạt động của Người không được biểu lộ giống như sách Công vụ Tông đồ đã kể lại cho chúng ta biết về Giáo Hội sơ khai, nhưng hoạt động của Người vẫn không thay đổi.  Là Tình Yêu liên kết Chúa Cha với Chúa Con, Chúa Thánh Thần cũng liên kết chúng ta với Thiên Chúa Ba Ngôi.  Chúa Thánh Thần đã giúp cho Chúa Giê-su sống như con người mẫu mực hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa và như Con Yêu Dấu của Chúa Cha thế nào, thì Người cũng vẫn tiếp tục giúp đỡ mỗi người chúng ta sống như con cái xứng đáng của Thiên Chúa Ba Ngôi như vậy! 

                Lm. Đa-minh Trần đình Nhi    

----------------------------

 

PS 6-C131  Chúa Nhật 6 Phục Sinh


 20-5-2001

 Thánh ca và lời nguyện mở đầu

 Kinh Thánh: Công Vụ Tông Đồ 15: 1-2; 22-29

 

 Sự phát triển nào cũng phải trải qua những khó khăn. Công cuộc truyền giáo của Giáo Hội sơ khai PS 6-C131  


Sự phát triển nào cũng phải trải qua những khó khăn. Công cuộc truyền giáo của Giáo Hội sơ khai đang trên đà tiến mạnh. Những khó khăn cá nhân thì những nhà truyền giáo đã thắng vượt. Chống đối, trục xuất, tù đày, đòn vọt không làm nản lòng Phao-lô và các cộng sự viên của ngài. Nhưng những khó khăn của tập thể lại mang những chiều kích khác và việc giải quyết nhiều khi ở ngoài tầm tay của các ngài. Đoạn sách Công Vụ Tông Đồ Chúa nhật hôm nay trình bày tầm vóc trầm trọng của khó khăn tập thể ấy khiến cho các vị lãnh đạo Giáo Hội là các tông đồ phải họp nhau lại để cùng tìm một giải quyết thỏa đáng. Bài đọc cũng muốn nói lên Chúa Thánh Thần hoạt động đặc biệt như thế nào để dẫn dắt Giáo Hội vượt qua sóng gió trong thời điểm ấy.

 Cuộc họp quan trọng đầu tiên của Giáo Hội thường được mệnh danh là Công đồng chung Giê-ru-sa-lem.

 Thời gian: sau hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phao-lô và Ba-na-ba.

 Địa điểm: Giê-ru-sa-lem.

 Nội dung: Vấn đề anh em lương dân trở lại Ki-tô giáo có phải chịu phép cắt bì theo tục lệ Do-thái không? Đây cũng là vấn đề liên quan tới tương lai của Giáo Hội.

Mặc dù Phao-lô và các tông đồ đã lập đi lập lại trong các bài giảng của các ngài rằng nhờ tin vào Chúa Ki-tô mà người ta được cứu rỗi chứ không phải vì giữ trọn Lề luật Mô-sê. Một số người Do-thái tuy đã trở lại Ki-tô giáo, nhưng vẫn không muốn dứt khoát với Do-thái giáo. Cho nên một số người này đã từ Giê-ru-sa-lem đến An-ti-ô-khi-a hô hào những anh em tân tòng phải giữ luật Mô-sê, nghĩa là phải chịu phép cắt bì. Việc làm ngày có thể là hành động cuồng tín, có thể là do những người Pha-ri-sêu xúi bẩy. Nhưng chắc chắn việc tuyên truyền này có thể gây hậu quả tai hại, cho nên giáo hội An-ti-ô-khi-a quyết định cử hai ông Phao-lô, Ba-na-ba và một vài người nữa lên Giê-ru-sa-lem trình bày vấn đề trong Công đồng chung và lấy quyết định của các tông đồ. Chương 15 sách Công Vụ mô tả rất sống động sinh hoạt của Công đồng Giê-ru-sa-lem, với những bàn cãi, diễn từ, thảo nghị quyết, thông báo và thi hành quyết định, cuối cùng là dư âm tốt đẹp của Công đồng.

 Biến cố triệu tập Công đồng Giê-ru-sa-lem cho chúng ta cơ hội nhận biết bàn tay quan phòng của vị Mục Tử Nhân lành hoạt động qua các tông đồ của Người và sự dẫn dắt tuyệt diệu của Chúa Thánh Thần. Những mục tử của Giáo Hội nhìn vào tấm gương của Thầy để lo lắng cho đoàn chiên. Phao-lô và Ba-na-ba đã tích cực bênh vực các anh chị em tân tòng thuộc gốc dân ngoại. Diễn từ của Phê-rô và Gia-cô-bê nói lên lòng quảng đại của Thiên Chúa mà các ông lấy làm khuôn mẫu để Giáo Hội ân cần tiếp nhận anh em dân ngoại.

 Nhưng linh hồn của Công đồng là Chúa Thánh Thần. Tất cả những diễn tiến và bàn thảo trong đại hội đều là kết quả của việc đổi mới Người đã khởi sự trong ngày Hiện Xuống. Cho nên nghị quyết đã ghi lại một câu thời danh và vô cùng ý nghĩa: "Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định..." Câu này trước hết cho thấy các tông đồ xác tín sự hiện diện và ảnh hưởng tích cực của Chúa Thánh Thần trong đại hội nói riêng và trong việc lèo lái con thuyền Giáo Hội nói chung.

 Tại sao Giáo Hội đã chọn biến cố này cho Phụng vụ Lời Chúa mùa Phục Sinh? Để trả lời, có lẽ chúng ta phải nhìn lại cấu trúc Phụng vụ Lời Chúa mùa Phục Sinh như một chủ đề duy nhất và liên tục. Các bài trích Công Vụ Tông đồ mô tả Giáo Hội như là hoa trái của Phục Sinh và Thánh Thần. "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12: 24). Qua từng Chúa Nhật chúng ta chiêm ngưỡng Giáo Hội qua những góc cạnh khác nhau, để cuối cùng có một hình ảnh tổng hợp trung thực về Giáo Hội. Nhưng mục đích của việc sắp đặt các bài đọc ấy không dừng lại ở đề tài Giáo Hội, mà còn đưa chúng ta tới chiêm ngưỡng kế tiếp: Chúa Thánh Thần. Qua lịch sử Giáo Hội, chúng ta nhận biết hoạt động của Đức Ki-tô Phục Sinh dưới một cách thức mới, đó là hoạt động qua Thánh Thần của Người. Như thế chúng ta có thể nói: các bài đọc Công Vụ Tông Đồ đang dẫn chúng ta đi từ biến cố Phục Sinh đến biến cố Hiện Xuống.
 
Câu hỏi gợi ý chia sẻ

 Dựa vào các bài đọc trích CVTĐ từ Chúa nhật Phục Sinh đến lễ Hiện Xuống, tôi có thể làm một dàn bài về chủ đề "Giáo Hội" như thế nào?

 Kinh nghiệm Công đồng Giê-ru-sa-lem đem lại cho tôi những bài học gì? Cũng như Công đồng đã tôn trọng văn hóa và luật pháp của anh em Ki-tô hữu gốc lương dân, tôi có biết tôn trọng lối sống, lối suy nghĩ, những ý kiến, chia sẻ... của người khác không? Tôi có coi đây là nguyên tắc quan trọng cho việc truyền giáo không? Có bao giờ tôi "tranh luận" với người khác hoặc người đạo khác không? Nếu có, nhìn lại thái độ của mình tôi thấy thế nào?

 Trong thư gửi cho tín hữu An-ti-ô-khi-a, các tông đồ gọi hai ông Ba-na-ba và Phao-lô là "những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta", một cách tuyên dương và kính trọng hai ông. Cử chỉ ưu ái này dạy tôi và nhóm bài học gì?

 Cầu nguyện kết thúc

 Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm có thể hát "Xin hiệp nhất chúng con..."

 Lm. Trần Đình Nhi

----------------------------

 

PS 6-C132:  Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái


Chủ Ðề: Ơn ban của Chúa Giêsu phục sinh: Đấng Phù Trợ, Bình an. tình yêu.

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

 

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta sẽ nghe những lời Chúa Giêsu nói trước khi Ngài ra đi PS 6-C132


Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta sẽ nghe những lời Chúa Giêsu nói trước khi Ngài ra đi chịu chết. Ngài bảo chúng ta hãy tuân giữ những huấn lệnh của Ngài. Ngài hứa ban Thánh Thần cho chúng ta và ban bình an cho chúng ta.

Đó chính là những lời trăn trối của Chúa, những điều Ngài tha thiết nhất. Chúng ta hãy chăm chỉ lắng nghe và cố gắng thực hiện.

II. Gợi ý sám hối

Chúa đã nói "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy". Chúng ta chưa yêu mến Chúa thật vì chúng ta không tuân giữ Lời Chúa.

Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Nhưng chúng ta nhiều khi không sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Chúa đã ban bình an cho chúng ta. Nhưng chúng ta nhiều khi không sống bình an hòa thuận với nhau.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Cv 15,1-29)

Đang khi Phaolô và Barnaba truyền giáo cho dân ngoại, thì những người Do Thái từ Giêrusalem đến buộc dân ngoại tòng giáo phải cắt bì và tuân giữ lề luật của Môsê. Hai vị truyền giáo không đồng ý nên trình vấn đề lên Hội Thánh.

Hội Thánh đã họp hội nghị ở Giêrusalem và ra quyết định: "Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm".

2. Tin Mừng (Ga 14,23-29)

Có thể coi đoạn Tin Mừng này là một bài giáo lý về Chúa Ba Ngôi: Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nhắc tới cả 3 ngôi Thiên Chúa: "Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ.... Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến... Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con".

Như thế, giáo lý cơ bản về Ba Ngôi là:

Chúa Cha là Đấng sai Chúa Con đến với loài người

Chúa Con vâng lời Chúa Cha đến với loài người để dạy loài người những lệnh truyền

Chúa Thánh Thần lại được Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, để dạy loài người hiểu sâu hơn những lệnh truyền của Chúa Con.
Thái độ con người phải có đối với Ba Ngôi:

Yêu mến Chúa Con nên tuân giữ những điều Ngài dạy.
Chúa Thánh Thần sẽ giúp đỡ họ làm điều đó

Kết quả: Ba Ngôi sẽ "yêu mến", "tỏ mình ra" và "ở trong" người ấy.

3. Bài đọc II (Kh 21,10-23)

Một thị kiến khác về Thành Giêrusalem mới:

Thành từ trên trời ngự xuống
Rất xinh đẹp và tươi sáng

Thành không có đền thờ vì chính Thiên Chúa là đền thờ của thành; thành cũng không có mặt trời và mặt trăng vì chính Thiên Chúa là ánh sáng của thành.

IV. Gợi ý giảng

1. Bình an

Trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: "Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai người là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an".

Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong. nhà vua nói: "Bức họa này rất đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ quá". Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: "Đây đâu phải là một cảnh bình an". Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: "Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem". Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà nảy giờ ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: "Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời". Và nhà vua đã đặt tác giả của nó là người họa sĩ hạng nhất của triều đình.

Chúa Giêsu đã nói: "Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con không theo kiểu thế gian. Lòng các con đừng xao xuyến, các con đừng sợ hãi." Những lời này Ngài nói giữa bữa Tiệc ly. Phải chăng đây là một thời điểm không thích hợp để nói về bình an, vì khi ấy hoàn cảnh bên ngoài rất là xáo trộn? Không, trái lại rất thích hợp. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.

Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.

Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Đó chính là thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng được. (FM)

2. Hiện diện của kẻ vắng mặt (Ga 14,23-29)

Có một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông đã gặp tổ kén lạ. Ông liền bứt cành cây đem kén bướm về nhà. Ít ngày sau, ông thấy nhúc nhích bên trong kén, nhưng con bướm vẫn chưa phá kén bay ra.

Hôm sau, kén lại nhúc nhích, nhưng chẳng có gì khác lạ. Lần thứ ba, vẫn thấy như trước, ông liền lấy dao rạch kén, thế là con bướm bò ra ngoài. Tuy nhiên, bướm không tăng trưởng và chẳng bao lâu thì chết.

Sau này, ông được người bạn là nhà sinh vật học cắt nghĩa như sau: Thiên nhiên đã xếp đặt cho con bướm phải đấu tranh mới thoát ra khỏi cái kén, vì nhờ đấu tranh gian khổ mà nó có thể phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.

*****

Muốn làm cánh bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, bướm phải làm kiếp sâu lặng lẽ, cô tịch trong vỏ kén lặng lờ, khuất nẻo. Muốn làm con bướm bay trong bầu trời xanh ngắt, bướm phải là con sâu đen đủi xấu xa, vặn vẹo đau đớn trong tổ kén đợi chờ.

Để trở nên những tín hữu Kitô vững mạnh, tăng triển về đường thiêng liêng, chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ để tiến triển về mặt tâm linh, chúng ta cũng phải vượt qua đấu tranh thử thách. Nhưng trong những thời điểm ấy, Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta, cho dù chúng ta không nhìn thấy Người.

Lúc sắp sửa ra đi, để trấn an các tông đồ, Chúa Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Người vẫn luôn hiện diện giữa các ông và ban bình an cho các Ông. Sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những kẻ yêu nhau mới nhận ra mà thôi. Từ sau biến cố Phục Sinh, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại.

Người hiện diện trong những kẻ yêu mến Người: "Ai yêu mến thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy" (Ga 14,23).

Người hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy" (Ga 23,24).

Người hiện diện không chỉ đơn độc, nhưng là hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người.

Nếu Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người; và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Chúa Giêsu và Chúa Cha.

Vì thế, Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha: "Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14,26).

Với lời hứa này, kể từ ngày lễ Hiện Xuống đầu tiên, Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn Giáo hội hiểu thấu triệt Lời Chúa trong Kinh Thánh, để trình bày một cách sáng tỏ hơn, và để giải quyết những vấn đề mới mẻ cho từng thời đại. Vì thế mà các Công đồng liên tiếp được triệu tập dưới sự bảo trợ của Thánh Thần.

*****

Lạy Chúa Ba Ngôi, xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người trong lòng chúng con, trong lòng Giáo hội, và trong lòng thế giới:

Để chúng con luôn yêu mến và tuân giữ Lời Người.

Để chúng con được soi sáng và hướng dẫn bởi Thánh Thần.

Và để chúng con được canh tân và tái tạo mỗi ngày trong Thiên Chúa Tình Yêu. Amen. (Thiên Phúc)

3. "Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy"

Sau khi tha thiết nói với các môn đệ những lời thân tình nhất xuất phát từ đáy lòng trong một bài nói chuyện dài mà thánh Gioan đã chép lại suốt trong hai chương 13 và 14, Chúa Giêsu đúc kết lại trong một lời khuyên ân cần: "Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy". Giữ lời Chúa là giữ lời nào? Thưa là giữ chính cái điều mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt hai chương 13 và 14 này "Chúng con hãy yêu thương nhau.

Thế nhưng, yêu thương thì có gì là khó đâu mà Chúa phải dạy, phải nhắc và phải nhấn mạnh như là một giới răn mới của Chúa, một lời trối trăn cuối cùng trước khi Ngài ra đi chịu chết? Bởi vì tự trong bản tính, con người có sẵn nhu cầu tình cảm muốn yêu thương: mới sinh ra tự nhiên đức bé thèm khát tình thương của cha mẹ, lớn lên người thanh niên nam nữ tự nhiên muốn yêu thương một người nào đó, và suốt đời ai cũng muốn sống trong tình yêu thương cho đến chết. Yêu thương là việc tự nhiên, là quá dễ dàng, cần gì Chúa Giêsu phải dạy dỗ?

Chúng ta đừng coi thường Lời Chúa, mà phải phân biệt rõ những mức độ yêu thương, và tìm hiểu xem Chúa muốn ta yêu thương như thế nào.

- Yêu thương có khi là một điều quá dễ: Người ta sung sướng khi yêu thương, người ta ham thích yêu thương, người ta thèm khát yêu thương và người ta làm đủ cách để được yêu thương. Thí dụ như một đức bé mồ côi thèm khát tình yêu thương của cha mẹ; hay một người tuổi trẻ thèm khát tình yêu thương của một người tình. Sở dĩ yêu thương mà thích, mà sung sướng là vì yêu thương ở mức độ này có nghĩa là đón nhận: nhận được những sự chăm sóc, chiều chuộng, vuốt ve, âu yếm.

- Yêu thương có khi là một điều hơi khó, người ta phải hơi cố gắng mới yêu thương được. thí dụ tôi thương một người bạn. Người bạn đó mượn tôi một số tiền hay nhờ tôi làm giúp một công việc khó khăn. Tôi hơi tiếc, hơi ngại nhưng vì yêu thương bạn mà tôi cố gắng đưa tiền, cố gắng chịu cực để giúp bạn. Yêu thương ở mức độ này có nghĩa là chi đi, cho đi một phần của những gì mà tôi quý chuộng.

- Và sau cùng, yêu thương có khi là một điều hết sức khó, vì yêu thương mà người ta phải đau khổ, phải hy sinh thật nhiều. Thí dụ nàng Kiều vì thương cha già sắp lâm vòng tù tội mà phải bán mình để chuộc cha. Yêu thương ở mức độ này có nghĩa là phải cho đi hoàn toàn, cho đi tất cả.

Tóm lại có ba mức độ yêu thương:

Yêu thương rất dễ khi được đón nhận.
Yêu thương hơi khó khi phải cho đi một phần những gì mình quý giá.
Và yêu thương hết sức khó khi phải cho đi hoàn toàn, hy sinh tất cả.

Khi trối "chúng con hãy yêu thương nhau", Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu thương ở mức độ thứ ba này.

Chúa nói "nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy". Mà Lời của Thầy là "chúng con hãy yêu thương nhau", yêu thương ở múc độ cao nhất là dám cho đi tất cả, hy sinh hoàn toàn. Chúng ta có vâng giữ Lời Chúa để tỏ ra chúng ta yêu mến Chúa hay không?

Trước hết trong gia đình, giữa vợ chồng với nhau. Ôn lại cuộc sống gia đình, hẵn nhiều vợ chồng người thấy rằng đã có một thời vợ chồng đã yêu thương nhau say đắm, hầu như lúc nào cũng quấn quít bên nhau. Đó là thời kỳ đầu tiên, yêu thương là quá dễ vì khi đó yêu thương là đón nhận, nhận những nét duyên dáng, nhận những cảm xúc bồng bột mà tuổi trẻ đang thèm khát. Sau đó tới một thời vợ chồng không còn quá say đắm nhau nữa mà phải đối diện với thực tế của cuộc sống gia đình: phải làm lụng cực nhọc, phải chịu đựng những tính ý khác biệt của nhau... Khi đó thì đã thấy hơi cực, hơi khó rồi. Nhưng vì thương vợ thương chồng mà họ cố gắng chịu cực, chịu khó. Tình yêu như thế là đã lên đến mức độ hai: yêu thương là cho đi. Thế nhưng có một số vợ chồng càng về già càng chán ngán nhau: vợ thì bệnh hoạn quanh năm suốt tháng, chồng thì lẩm cẩm khó tính hay chửi bới cộc cằn. Sống chung với một người như thế chẳng còn thấy một chút thú vị mà chỉ toàn bổn phận, cực nhọc, khổ sầu. Cuộc sống lúc này đang mời gọi những vợ chồng ấy đưa tình yêu thương của mình lên mức độ thứ ba, mức độ cao nhất, là mức độ cho đi hoàn toàn, hy sinh tất cả. Hãy cố gắng hy sinh cho nhau thì mới là yêu thương thật, mới là làm theo lời Chúa dạy "chúng con hãy yêu thương nhau".

Bây giờ chúng ta hãy nhìn đến liên hệ của mình với những người khác. Thì cũng thế: có những người mình yêu thương thật dễ, đó là những người có lợi cho mình, hay giúp đỡ mình, hay an ủi mình. yêu thương những người này dễ vì yêu thương là đón nhận. Có những người khác yêu thương họ mình thấy có khi dễ có khi khó vì họ có khi làm mình vui có khi khiến mình buồn, nhưng mình vẫn cố gắng thương họ được, vì yêu thương họ mình vừa được đón nhận mà vừa phải cho đi. Nhưng có những người chẳng mang lại cho mình lợi lộc gì cả mà chỉ toàn làm cho mình cực lòng, mất mát, khổ đau, thí dụ như những người nghèo, những người bệnh, những người tội lỗi, những kẻ thù... Nhưng xin được lưu ý rằng chính đây là những người Chúa muốn ta yêu thương, Chúa muốn ta hy sinh, Chúa muốn ta cho đi hoàn toàn. Chúa đã nói " nếu chúng con chỉ yêu thương những kẻ mến chuộng mình thì nào có công gì? Những người thu thuế há không làm như thế sao?

Yêu thương mới xem ra thì quá dễ. Hay nói đúng hơn yêu thương theo khuynh hướng tự nhiên thì quá dễ, vì theo tự nhiên người ta chỉ yêu thương khi được đón nhận, chỉ yêu thương những ai có lợi cho mình.

Nhưng yêu thương cho đúng nghĩa, yêu thương đúng như ý Chúa muốn thì lại hết sức khó, vì đòi hỏi ta phải cho đi, phải hy sinh, đòi ta phải yêu thương cả những người không có lợi cho ta mà còn làm khổ ta.

Nhưng đó là mức độ yêu thương cao nhất, có yêu thương được như vậy thì mới là làm theo Lời Chúa. có làm theo Lời Chúa thì mới là yêu mến Chúa thật.

Xin Chúa giúp chúng ta biết cho đi, biết hy sinh để thực sự yêu thương như Chúa muốn trong tương quan giữa vợ chồng con cái trong gia đình, cũng như trong tương quan giữa chúng ta với mọi người khác.

4. Để cho đi

Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ hai Ngài sắp ra đi. Chẳng lạ gì khi các ông buồn. Họ không muốn Ngài ra đi. Họ muốn giữ Ngài lại mãi bên họ. Thật không dễ chịu chút nào khi một người thân yêu ra đi. Cũng không dễ chịu gì khi để mất đi một món đồ hay một con vật mà mình yêu thích.

Một cậu bé nhìn thấy một chú chim non rơi từ chiếc tổ trên cành xuống nằm trên mặt đất. Cậu lượm nó lên, sưởi ấm nó. Một lát sau chú chim tỉnh dậy. Nhưng thay vì đặt chú chim trở về tổ, cậu đem nó để trong một chiếc lồng. Hằng ngày cậu mang cho nó rất nhiều thức ăn và nước. Chú chim ngày càng khoẻ mạnh. Nó bắt đầu bay và hót. Cậu bé rất thích. Nhưng một hôm chú chim cứ đập cánh xành xạch vào thành chiếc lồng. Cậu bé không hiểu nên hỏi cha mình. Người cha giải thích:

- Tại vì nó không hạnh phúc đó.

Cậu bé cãi lại:

- Con đã đặt vào lồng cho nó tất cả những gì nó cần rồi kia mà.

- Nhưng vẫn còn thiếu cái điều mà chim yêu quý nhất.

- Điều gì?

- Đó là tự do.

- Bộ cha muốn con thả cho nó đi sao?

- Đúng thế.

- Nhưng con không thể cho nó đi. Nó đâu có biết là bên ngoài chiếc lồng này có rất nhiều hiểm nguy đang rình rập nó.

- Nhưng con phải chấp nhận như thế.

Cậu bé nài nỉ:

- Cha ơi, con thương nó lắm.

- Nếu con thương nó thì con phải để cho nó đi.

Cậu bé đành mở cửa lồng cho chú chim bay đi. Lòng cậu rất buồn. Nhưng chú chim vừa ra khỏi lồng đã cất tiếng hót líu lo, tỏ vẻ như trước đây chưa bao giờ vui vẻ và hạnh phúc như thế. Khi đó cậu bé không buồn nữa mà cảm thấy vui lây.

Các tông đồ không muốn Chúa Giêsu ra đi. Nhưng như thế là các ông không biết nghĩ cho Chúa mà chỉ nghĩ cho mình. Chúa Giêsu biết thế nên mới nói: "Nếu các con yêu mến Thầy thì các con hẳn vui mừng vì Thầy về cùng Cha Thầy". Về cùng Cha, đó là mục tiêu cả đời của Chúa Giêsu.

Tình yêu chiếm hữu thì rất thông thường. Nhiều cha mẹ cũng thương con kiểu đó. Họ đã ban sự sống cho chúng, nhưng họ không để cho chúng phát triển sự sống của chúng theo cách của chúng. Nhiều cặp vợ chồng cũng vậy. Họ cứ muốn người vợ hay người chồng của mình sống theo cách sống của mình.

Tình yêu chiếm hữu gây ra rất nhiều đau khổ. Còn tình yêu không chiếm hữu thì phát sinh nhiều điều kỳ diệu cho cả hai phía, chẳng hạn: đổi mới, lớn lên, phát triển v.v.

Phải biết để cho những người hoặc những gì mình yêu thích ra đi. Làm như thế quả là mất mát đấy. Nhưng mất cái hiện tại để được cái tương lai, mất điều mình yêu quý mà sẽ được điều đáng quý hơn. Bởi vậy, trước khi ra đi, Chúa Giêsu đã nói: "Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy nếu Thầy không ra đi thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con" (Ga 16,17) (FM)

5. Bình an nội tâm

Có người cứ nuôi mãi thù hận nên trong lòng không có bình an. Ngược lại, người có bình an trong lòng thì cuộc sống vui vẻ hạnh phúc.

James và John là hai người láng giềng của nhau. Ruộng của họ nằm sát bên nhau. Năm đó thời tiết khô hạn nên việc cày bừa rất vất vả. James rất khó chịu. Anh cứ lấy roi quất lia quất lịa lên con ngựa đang kéo cày. Nhưng càng bị quất thì con ngựa càng tỏ ra bướng bỉnh. James biết rằng lúa mì trong mảnh ruộng người hàng xóm cao hơn lúa của anh. Mỗi khi nhìn sang mảnh ruộng ấy, anh có cảm tưởng là anh chàng hàng xóm đang nhạo cười mình.

John thì trái lại. Dù cũng vất vả nhọc nhằn, nhưng anh luôn bình thản và cứ kiên trì trong công việc. Thỉnh thoảng anh ngừng lại cho con ngựa được nghỉ ngơi. Anh nhìn sang ruộng của James và thấy rất tệ. Anh muốn sang giúp lắm nhưng biết rằng anh kia sẽ không bao giờ chịu. Thôi thì đành để James làm một mình vậy.

Điều khác biệt giữa hai người láng giềng này không phải ở tình hình bên ngoài mà ở tình trạng nội tâm. Chúng ta nhìn thế giới và tha nhân không phải như cái họ là, mà như cái ta là. Vì tâm hồn của John vui vẻ nên anh nhìn đời một cách lạc quan. James thì trái lại, bởi nội tâm bất an nên nhìn cái gì bên ngoài cũng khó chịu. (FM)

6. Chuyện minh họa

Ngày 8.10.1952, một vụ án xảy ra tại Bavière, một thiếu nữ 18 tuổi tên là Emma bị thảm sát cách tất tưởi. Chuyến xe lửa vừa tới nhà ga, các chị em đồng hành ngạc nhiên vì không thấy Emma đâu, nên báo cho "Ông Xếp" nhà ga hay tin. Thế là lập tức các nhân viên hỏa xa chia nhau đi tìm kiếm doc theo đường xe lửa suốt hai tiếng đồng hồ mới phác giác ra xác Emma đang nằm xõng xượt trong vũng máu, chân tay bị chặt cụt.. Xếp ga mở cuộc điều tra. Tất cả mọi người hành khách bị thẩm vấn đều trả lời là không biết gì cả. Trong số đó có một chàng thanh niên 24 tuổi. Khi được hỏi thì anh trả lời ấp úng là không biết gì cả. Nhưng vì có vẻ ngây ngô thành thật nên người ta cũng bỏ qua.

Hai tuần sau, chàng trai này đến gõ cửa Tu viện các Cha dòng Bênêđitô xin nhập Dòng. Anh được nhận. Sau hai năm thử luyện thấy không có gì ngăn trở, Bề Trên nhận anh vào Tập viện. Khoảng tháng 10, trước ngày vào Tập viện, anh đến chỗ đường sắt nơi đã tìm thấy xác Emma nằm trong vũng máu. Anh quỳ chắp tay cầu nguyện. Ngày hôm sau, lúc sáng sớm tinh sương, anh tới mồ Emma, người mà chính anh đã giết chết. Anh đã la lên trong tiếng khóc nức nở: "Tôi không chịu được nữa". Rồi anh đi tự nộp mình cho cảnh sát và thú tất cả tội lỗi của anh. Cái tội mà người ta đã quên đi vì không điều tra manh mối gì. Anh thú nhận là anh đã xô Emma xuống và đâm chết vì nghe cô ta nói là cô ta không biết đến anh nữa. Vì thế nên anh đã nổi cơn điên nên đã hành động độc ác như thế.

Câu truyện trên cho chúng ta thấy, dù bốn bức tường kín nơi Tu Viện cũng không trấn an được tiếng lương tâm ray rứt, không làm cho người thanh niên phạm tội ác được bình an tâm hồn, cho dầu không một ai hay biết tội lỗi của anh ta.

Vậy muốn được bình an hạnh phúc thật, con người cần phải có tâm hồn trong sạch, sống trong ơn nghĩa Chúa. Tâm hồn biết hối cải, biết sống nhân từ, biết yêu thương và tha thứ, như chính Chúa đã làm gương và dạy chúng ta noi theo bắt chước. (Lm Minh Vận, CMC. Trích Vietcatholic ngày 2.5.2003)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thánh thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn và nâng đỡ đời sống đức tin của người Kitô hữu. Vì thế, chúng ta cùng khẩn cầu Thiên Chúa ban Thánh thần cho chúng ta:

1. Con thuyền Hội thánh không bao giờ chìm dù gặp phong ba bão táp liên miên / là nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh thần / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần luôn gìn giữ các vị mục tử / để các ngài lèo lái con thuyền Hội thánh đến bình an.

2. Phúc thay ai xây dựng hòa bình / vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết chân thành cộng tác với mọi người thành tâm thiện chí / để mưu tìm hòa bình cho thế giới hôm nay.

3. Chúa Giêsu nói: / Thầy để lại bình an cho anh em / Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính Thầy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp khủng hoảng trong cuộc sống / tìm được sự bình an thanh thản nơi tâm hồn / nhờ tín thác vào Chúa.

4. Chúa Giêsu nói: / Ai yêu mến Thầy / thì sẽ giữ lời Thầy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn hết lòng tuân giữ mọi Lề Luật của Chúa / để tỏ lòng yêu mến Người.

Chủ tế: Lạy Chúa, xin ban Thánh thần là nguồn mạch tình yêu xuống cho chúng con, để Người giúp chúng con luôn sống bác ái yêu thương như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin

VI. Trong Thánh Lễ

- Sau kinh Lạy Cha: Đọc chậm rãi và tâm tình lời nguyện "Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói với các tông đồ rằng Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con..."

VII. Giải tán

Chúa Giêsu đã nói: "Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con "Chúc anh chị em ra về bình an.

----------------------------

 

PS 6-C133:  Phúc cho ai lắng nghe và giữ lời Chúa


(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Tháng Năm về, một tháng trong năm với tên gọi thật thơ mộng, thật tươi vui: Tháng Hoa. Mỗi PS 6-C133


Tháng Năm về, một tháng trong năm với tên gọi thật thơ mộng, thật tươi vui: Tháng Hoa. Mỗi độ tháng Hoa, các Nhà thờ rộn rã mùa dâng hoa kính Đức Mẹ. Phụng vụ Mùa Hoa tưng bừng nhộn nhịp với nhiều thể loại phong phú Rước hoa và Dâng hoa tuỳ mỗi tập quán mỗi đặc trưng văn hoá địa phương.

Nói tới hoa là nghĩ về một kỳ công của Thiên Chúa. Hoa muôn màu muôn sắc, hoa tươi xinh, hoa thơm ngào ngạt. Hoa tô thắm vũ trụ nên xinh tươi. Hoa mời gọi ong bướm đến hút mật. Hoa khoe sắc thắm, nhoẻn cười với con người. Lời của hoa thật diệu huyền giữa thiên nhiên. Hoa hòa vào lòng người dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.

Hoa đã trở thành một người bạn thật thân thiết với con người. Khi vui người ta tặng hoa để chúc mừng nhau. Khi buồn người ta cũng trao gởi lẵng hoa như trao gởi tấm lòng đồng cảm thân thương. Hoa khích lệ lòng người. Hoa hướng con người nhớ tới Đấng tạo hoá đã xoay vần vũ trụ bốn mùa xinh tươi. Hoa mơn man lòng người đau khổ. Hoa khích lệ những ai thất bại. Hoa chúc mừng những ai chiến thắng. Hoa ca vang kỳ công kiệt tác của Thiên Chúa. Đôi khi chỉ một cánh hoa đủ trào dâng lòng mến của Thánh Têrêxa Hài Đồng. Nhiều lần một dàn hoa làm tâm hồn Thánh Phanxicô ngây ngất tình Chúa.

Lắng nghe tiếng nói huyền diệu của hoa, Thánh Bênađô biết được tâm trạng của hoa. Chẳng hạn, Hoa Hồng giàu lòng yêu mến. Hoa Huệ biểu tượng đức Khiết trinh, Hoa Tím là duyên đức đoan trang khiêm tốn. Thánh nhân ca ngợi các nhân đức Đức Mẹ qua ý nghĩa các loài hoa. Hoa Hồng đức mến, Hoa Huệ đức Khiết trinh, Hoa Tím đức Khiêm nhường. Đức Mẹ là Hoa Huệ khiết trinh. Đức Mẹ là Hoa Hồng yêu mến. Hương thanh khiết và tình yêu của Mẹ đã làm cho mùa xuân trần gian được hồi sinh. Ơn cứu độ được ban tặng cho trần đời nhờ hoa lòng của Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa.

Sứ Thần Gabriel đã cung kính thưa với Mẹ rằng: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!" (Lc 1,28). "Đấng đầy ơn phước" là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Đấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, "tình thương nhập thể của Thiên Chúa" (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).

Chúa nhật thứ hai trong Tháng Năm là ngày Hiền Mẫu, Mother's Day. Xin chúc mừng và tôn vinh tất cả những người nữ nhận từ Thiên Chúa thiên chức làm Mẹ. Xin tạ ơn Chúa. Xin tạ ơn người Mẹ của chúng con, dù sống hoặc đã về bên Chúa.

Mỗi người chúng ta đều có một người mẹ. Tình yêu của mẹ bao la hơn biển cả, cao vời hơn các tầng mây, vĩ đại hơn những rặng núi, mênh mông vô tận. Một văn sĩ đã viết: "Thơ viết về mẹ bao giờ cũng đạt, nhạc viết về mẹ bao giờ cũng hay, tranh vẽ về mẹ bao giờ cũng tuyệt, cũng đẹp. Bởi hiển nhiên, mẹ là nguồn xúc cảm sâu xa, vô tận và nhiệm mầu nhất trong mọi nguồn sáng tạo". Tình yêu của mẹ là một nguồn cảm hứng không bao giờ cạn vơi, là những tư tưởng vô tận của các thi sĩ, văn sĩ và nghệ sĩ.

Tình mẹ thương con bao la như trời như biển. Nói đến tình mẹ, không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu vần thơ, bao nhiêu câu hò, điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.

"Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào."

Với giai điệu mượt mà, sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết thành một bài hát tuyệt vời ca ngợi tình mẹ. Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả... Tình mẹ mãi mãi là như thế, dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu tình mẹ cũng vẫn cứ mãi mãi là như thế.

Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người cũng nhận lấy tình mẫu tử trân quý ấy. Mẹ Maria đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình suốt hành trình cứu độ.

Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy rằng: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy". Yêu mến và giữ lời Đức Kitô, mỗi tín hữu được đón nhận sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong tình yêu này, thiên đàng chớm nở. Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng mỗi người. Thiên đàng ấm áp nơi tâm hồn những ai biết yêu Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài. Các bí tích đều nhằm mục đích làm cho tình yêu giữa mỗi người với Đức Kitô được lớn lên.

Đức Maria là mẫu gương yêu mến và tuân giữ Lời Chúa. Tin Mừng (Lc 11,27-28) kể câu chuyện: Một người phụ nữ nghe Chúa giảng dạy, bà nghe say mê. Với tính nhạy cảm của một người nữ, bà cảm nghiệm niềm hạnh phúc của người mẹ có một người con tuyệt vời như Chúa Giêsu. Giữa đám đông, bà bày tỏ niềm thán phục Chúa, bà tán dương Mẹ Maria là "người mẹ có phúc đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm". Đáp lại lời tán dương ấy, Chúa nói đến hạnh phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa: "Bà ơi, đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa".

Người phụ nữ kia đã tán dương Đức Mẹ là có phúc vì Mẹ có các vinh dự làm Mẹ của một người con tài ba kỳ diệu là Chúa Giêsu. Đây mới chỉ là vinh dự trần gian. Mẹ Maria còn có một hạnh phúc lớn lao hơn là "nghe và giữ lời Thiên Chúa". Khi biết lắng nghe, đón nhận và giữ lời Thiên Chúa thì thiên đàng đã ở trong người ấy, vinh phúc đời đời ở trong người ấy, Thiên Chúa ở trong người ấy. Đó là vinh phúc của Mẹ Maria.

Bởi đó, Chúa nói với người phụ nữ kia, không chỉ dừng lại nơi lời khen Mẹ Maria có phúc vì đã có vinh dự cứu mang, nuôi dưỡng một người con tuyệt vời, mà cần hướng đến ý nghĩa cao cả hơn. Phúc thay cho ai biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc cao quý nhất của Đức Mẹ.

Đức Mẹ nghe và giữ lời Thiên Chúa như thế nào? Đây là bài học chúng ta cần học hỏi trong Năm Tin.

Vào ngày Thiên Thần Gabriel đến truyền tin, Đức Mẹ đã đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng. Mẹ cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ suy nghĩ và trao đổi. Mẹ biết đây là thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ đáp trả lời "Xin Vâng". Mẹ đã lắng nghe, Mẹ đã tin và chấp nhận dấn thân. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Mẹ. Chính Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa đang đến với nhân loại và trở nên Emmanuel.Lời đó đang đến gõ cửa lòng ta hằng ngày. Chúa mong ta cưu mang Ngài, sống với Ngài, thực hiện lời Ngài. Hôm nay Chúa Phục Sinh đang ở với chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể, qua Lời Ngài mà Giáo Hội đang rao giảng.

Ngày kia, Chúa đang rao giảng, có người tin cho Chúa biết: "có Mẹ và anh em Thầy đang chờ gặp Thầy". Chúa nói ngay với họ: "ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi? Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi, là mẹ tôi". Lại một lần nữa Chúa nói lời với hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là tán dương Mẹ Maria là người diễm phúc luôn lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Ý nghĩa thứ hai, Chúa mời gọi mọi người trở nên những người thân thuộc của gia đình mới, gia đình thiêng liêng của Ngài, bằng cách lắng nghe, tin yêu và tuân giữ lời Thiên Chúa.

Có lẽ, chúng ta đã nghe Lời Chúa nhiều, ít là hằng tuần, nhưng đã thực hiện lời Chúa thế nào? Chúng ta có thói quen đọc Lời Chúa trong gia đình không?

Mục tiêu hàng đầu của đời sống tín hữu là biết lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa, là đem Lời Chúa ra thực hành hằng ngày. Trước mọi biến cố xảy đến, Đức Mẹ đều coi là thánh ý Thiên Chúa nên Mẹ ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng để xin vâng thánh ý Chúa.

Tại tiệc cưới Cana, Mẹ xin Chúa giúp đỡ gia đình tân hôn đang hết rượu. Với một lời đề nghị tế nhị: "Con ơi, họ hết rượu rồi". Chúa đáp lại như một lời từ chối: "Thưa bà, việc đó liên can chi đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến". Mẹ tin nơi tình thương của Chúa. Chúa sẽ làm những gì tốt nhất, đẹp nhất cho con người. Vì thế, Mẹ dặn dò người giúp vịêc: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo".

Trong cuộc thương khó của Chúa, Mẹ đau đớn và luôn vâng theo thánh ý Chúa. Dưới chân thập giá, Mẹ hịêp thông trọn vẹn trong lễ tế hiến dâng với con.

Hỡi các bà mẹ, cuộc đời của người mẹ nào cũng đầy cam go, truân chuyên vất vả. Gian truân hơn bất cứ bà mẹ nào trong chúng ta đây. Nhưng Mẹ Maria đã vượt qua tất cả trong niềm tin yêu vào Lời Chúa. Mẹ luôn tín thác vào tình thương của Ngài. Hãy vững tin vào Lời Chúa. Hãy để Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống sẽ tốt đẹp mỗi ngày.

Mỗi dịp tháng Năm về, mỗi lần thưởng thức hương hoa, ta hãy hướng theo nhân Đức Mẹ, xin Mẹ tỏa hương thiên đàng của người, ấp ủ ta biến thành những đóa hoa tươi thắm của Mẹ. Mỗi khi hái hoa dâng tiến Đức Mẹ, ta hãy mượn hương sắc và lời huyền diệu của hoa để ca tụng và khấn xin. Dâng Hoa Hồng, xin Mẹ cho ta được yêu mến Mẹ nhiều hơn. Dâng Hoa Huệ, ta ca ngợi đức khiết trinh của Mẹ. Xin Mẹ lấy hương huệ trinh nguyên của hồn Mẹ ướp hồn ta nên trong trắng.

Những ngày Tháng Năm này, nếu thiếu những bông hoa hữu hình, ta hãy hái hoa hồng thiêng là kinh Mân Côi để dâng lên Mẹ. Nhưng thế nào đi nữa, nguyện ước trái tim chúng ta hãy biến thành một dàn hoa kết đủ những hương hoa thơm ngát nhân đức dâng kính Mẹ.

Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ. Chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của bậc thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Hãy luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu. Đức Mẹ hằng yêu thương phù trợ mỗi người chúng ta.

Xin dâng lên Mẹ những sắc hoa của cuộc đời chúng con. Ước gì cuộc đời chúng con luôn là những bông hoa tươi thắm dâng tặng cho đời xuân sắc, lan toả hương thơm bác ái trong môi trường sống của chúng con. Amen.

----------------------------

 

PS 6-C134: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 6 PHỤC SINH C


Thiếu nhi chúng con yêu quí,

 

Chúng con vừa được nghe một bài Tin Mừng nữa của Chúa Giêsu nói về luật yêu thương của Ngài PS 6-C134


Chúng con vừa được nghe một bài Tin Mừng nữa của Chúa Giêsu nói về luật yêu thương của Ngài.

1. Tuần trước cha đã nói với chúng con về hai tiếng yêu thương. Chắc chúng con còn nhớ những lời Chúa nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”. Khi nói như thế Chúa, thứ hỏi Chúa muốn ám chỉ điều gì chúng con? Chúa muốn nói rằng người ta có thể phân biệt được ai là người thuộc về Chúa và ai là người không thuộc về Chúa. Người thuộc về Chúa là người biết yêu thương còn người không thuộc về Chúa là những không biết đến hai tiếng yêu thương. Như vậy điều chính yếu cho thấy những người thuộc về Chúa không phải là những người có mầu da, tiếng nói hay phong tục thói quen tốt nhưng là những người có trái tim.  Có trái tim có nghĩa là những người biết yêu thương. Chúng con có thấy trên mấy cái áo người ta hay in hình trái tim không. Cha thì dụ bằng tiếng Anh nhé. T+trái tim+Việtnam. Cha đố chúng con câu đó là gì nào? Thưa là tôi yêu Việt Nam.

Và hôm nay, chúng con được nghe Chúa nói thêm: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Khi nói như thế Chúa Giê-su muốn nói điều gì?

Chúa muốn bảo rằng để Chúa biết ai là người yêu mến Chúa thật và ai là người không yêu Chúa thì cứ xem người đó có giữ Lời Chúa hay không. Cũng như chúng con yêu mến Cha mẹ thì chúng con giữ lời vâng lời cha mẹ vậy. Còn yêu mến Chúa thỉ phải giữ Lời Chúa.

“Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy"  Như vậy việc giữ Lời Chúa làm cho mọi người trở thành người yêu mến Chúa. Và đây là lời hứa của Chúa dành cho những người yêu mến Chúa: "Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Thật là những lời hứa hết sức đặc biệt và cảm động. Được Thiên Chúa yêu mến, còn gì hạnh phúc hơn. Rồi còn được Chúa đến và ở trong. Chúng con thử nghĩ xem có ai trên đời làm được điều đó không? Cha tưởng chỉ có Chúa mới có thể làm được.

2. Nhưng làm thế nào để biết được người nào yêu và người nào không yêu mến Chúa? Dễ lắm! Chúng con hãy nghe lời thánh Gioan bảo:  "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy được (1Ga 4,20). Như vậy chúng con thấy yêu người là dấu chỉ (lại dấu chỉ nữa) yêu mến Thiên Chúa. Mà yêu người thì có đễ không chúng con?

Cha kể cho chúng con câu chuyện này:  Chuyện được đăng ở trên báo Tuổi trẻ ngày 28-12-2005. Tác giả kể lại câu chuyện này đặt cho nó một tựa đề là "Bà cụ lẩm cẩm"

Chuyện như sau: Ở khu tập thể nọ có rất nhiều người ở nhưng không ai lạ gì bà Ba. Mỗi sáng bà hay ngồi ở chiếc ghế đá trước cổng khu tập thể nhìn người này đưa con đi học, người khác đi chợ hoặc vội vàng đến công sở. Chiều, ai trở về cũng thấy bà vẫn ngồi chỗ ấy, bắt chuyện, hỏi thăm.

Nghe đâu trước đây bà đã từng lập gia đình. Nhưng chỉ vài năm sau người chồng bạc mệnh của bà đã mãi mãi ra đi trong một lần đánh cá ngoài khơi. Bà ở vậy từ đó đến giờ.

Nga là thư ký cho một tổng giám đốc người nước ngoài cũng ở trong khu tập thể đó. Cũng như bao người khác ở khu tập thể, Nga rất ít thời gian nên chưa bao giờ dừng lại để nói chuyện với bà. Bà có thói quen cứ mỗi lần thấy một người quen là bà luôn chào hỏi. Bà cũng rất muốn làm quen với mọi người. Có lần Bà đã muốn bắt chuyện với Nga nhưng việc đó làm Nga khó chịu và coi đó như là việc lẩm cẩm của một bà già!

Một lần kia khi Nga phải đi công tác xa, đi từ lúc trời chưa sáng. Oái oăm thay hôm đó do ngủ quên Nga vội vàng ào ra khỏi nhà mà quên khóa cửa. Gần cả ngày công tác trôi qua, Nga rụng rời tay chân khi nghĩ đến số tiền dành dụm được bấy lâu và số nữ trang cất trong tủ; rồi tivi, đầu đĩa, máy nghe nhạc...

Ruột gan Nga như lửa đốt trên đường về. Phải chi Nga biết số điện thoại của một vài người trong khu tập thể để hỏi thăm tình hình. Ờ, mà nếu biết, làm gì mình biết bụng dạ người ta...

Chiều tối vừa về tới nhà, Nga vội vàng lao vào nhà. Một bóng người nhỏ nhắn ngồi trước băng đá: đó là bà Ba. Thấy Nga, bà nói gì đó nhưng... mặc kệ, Nga vờ như không nghe thấy. Lúc này đây mớ tài sản của Nga trong nhà có còn hay không mới là điều quan trọng nhất.

Nga sững người đứng nhìn căn phòng đã khóa chặt cửa của mình, ghé mắt lại gần, xem kỹ: căn phòng được khóa bằng một ổ khóa lạ. Chưa biết thế nào thì bà Ba lom khom bước tới, trên tay cầm chìa khóa đưa cho Nga. Thì ra sáng dậy bà không thấy Nga đâu mà cửa lại mở toang. Biết Nga quên khóa cửa nên bà đã dùng khóa của mình khóa lại giúp. Bà ngồi đợi Nga đến khuya vì sợ cô về không vào được nhà.

Đêm đó Nga như thức trắng nghĩ về một bài học về sự quan tâm, chia sẻ trong cuộc sống - bài học từ một bà cụ “lẩm cẩm và lạc hậu” như cô đã từng nghĩ.

Đây có phải là yêu thương không chúng con?

Yêu thương là đừng để mình trở thành một người xa lạ, vô tâm, vô cảm với những người chung quanh mình. Nhưng hãy trở thành những người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Cha nhớ có lần nhà Bác học Albert Einstein đã nói: "Một cuộc sống vì một cuộc sống khác mới là một cuộc sống xứng đáng."

Còn mẹ thánh Têrêsa thì bảo: "Bạn hãy là biểu lộ lòng nhân ái của Thiên Chúa ra ngay  trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình."

Cha chúc chúng con làm được như thế. Amen.

----------------------------

 

PS 6-C135: Thiên Chúa là tình yêu

 

Tình yêu luôn không có giới hạn, vượt lên trên tất cả những gì là tinh túy của con người và của PS 6-C135


Tình yêu luôn không có giới hạn, vượt lên trên tất cả những gì là tinh túy của con người và của mọi tôn giáo. Tình yêu là ân sủng miễn phí và toàn diện. Nếu lý luận theo kiểu con người thì không thể hiểu được. Nhưng đó lại là con đường Nước Trời. Điều mới mẻ căn bản này là do Chúa Kito Phục sinh. Đó cũng là con đường chúng ta phải đi để được vào nước Trời.

Đối với người Do-thái, mỗi anh lính Roma là một kẻ thù. Đại úy Cornelio trong bài đọc I hôm nay bị coi là một kẻ thù và khó được đón nhận như một kito hữu. Nhưng Chúa Thánh Thần đã phá tung tất cả những rào cản. Giáo Hôi tại Giêrusalem lúc đó đã hành động như vậy: Thánh Phêro đứng đầu Giáo hội đã nói với đại úy Cornelio: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận”.

Thánh Gioan trong bài đọc II giải thích kỹ về tình yêu Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Giêsu Kito. Tình yêu này cũng là một sự đảo lộn tương quan thuần túy con người. Tình yêu là tất cả những gì mà Thiên Chúa là.

Bài Tin Mừng hôm nay là một phần của bài diễn văn Chúa Giêsu nói với các môn đệ sau bữa tiệc ly. Những lời nói này như là lời di chúc cuối cùng của Đấng đã ban sự sống của mình để cứu độ chúng ta, để chúng ta trở nên anh em với nhau và trở nên con Thiên Chúa.

Tất cả những lời nói đó đều tóm gọn lại trong tình yêu.

- Chính trong hành động tình yêu mà từ đời đời Thiên Chúa đã muốn tạo dựng nhân loại và cho con người ở trong một mảnh đất tuyệt vời. Mảnh đất đó chúng ta quen gọi là Vườn địa đàng.

- Để thể hiện tình yêu gần gũi nhất, Thiên Chúa đã sai Con của Người xuống ở với chúng ta và nói với chúng ta về tình yêu của Người là như thế.

Vào lúc từ bỏ thế gian này, Chúa Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ chân lý vĩ đại về Tình yêu và lặp lại cho chúng ta biết rằng giới răn của Người, chính là Tình Yêu.

Một điều kỳ diệu khác trong công trình tạo dựng, đó là Thiên Chúa đã ban cho con người một con tim biết yêu. Và vì có khả năng biết yêu đó, con người cảm thấy sung sướng sống trên trái đất này. Chúa Giêsu biết Người sẽ sống lại và đang sống trên trái đất này trong mỗi người chúng ta. Vì thế, Người mặc khải cho chúng ta biết rằng giới răn của Người chính là chúng ta hãy yêu thương nhau. Người đã nói: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em”!. Người cũng chờ đợi chúng ta mang lại hoa trái cho Ngài, mà hoa trái ấy chính là chúng ta hãy yêu thương nhau.

Để có được tình yêu như vậy, là một điều rất khó. Vì thế, chúng ta phải cầu xin Thánh Thần Tình yêu để Người dạy chúng ta yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa và vì thế tình yêu của chúng ta phải có được sức mạnh từ Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là mối liên lết tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chúng ta hãy xin Người ban cho chúng ta bí quyết của tình Yêu đích thực. Chúng ta không bao giờ biết yêu cho đủ.

Tình yêu luôn tìm cách để thỏa mãn. Chúng ta có thể làm cách nào để làm cho Thiên Chúa thỏa mãn về tình yêu của Người, nếu Người không nói với chúng ta cách yêu. Mà cách yêu duy nhất đó là chúng ta hãy yêu thương nhau như Chúa yêu!

Khi tình yêu là đích thực và sâu xa, thì không bao giờ tin rằng đã đủ. Chính các thánh là những người đi trước chúng ta đã có kinh nghiệm này. Từ ĐỦ không có trong tình yêu.

Thánh Augustino đã nói: “Hãy yêu và hãy làm tất cả những gì bạn muốn”, vì ngài biết rằng, nếu yêu, thì sẽ khám phá ra tất cả những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta trong bài tin mừng hôm nay, không gì khác hơn là YÊU như chính Người đã yêu chúng ta. Người đã ban cho chúng ta sự sống của Người và Người cũng yêu cầu chúng ta trao ban sự sống của chúng ta cho người khác.

Tình yêu đòi hỏi sự có mặt của người mình yêu.  Và vì thế, Chúa Giêsu hứa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta tin vào Lời của Người. Nhưng hỏi rằng:

- Chúng ta có mặt với Người hằng ngày không?
- Chúng ta có nghĩ tới Người trong một ngày sống không?
- Chúng ta có hành động vì Người không?
- Chúng ta có nhận ra Người nơi mỗi anh chi em sống chung quanh chúng ta không?

Lạy Chúa, chúng con lẫn lộn tình yêu với tình cảm và chúng con lúng túng khi không còn gì nữa. Nhưng Chúa, Chúa muốn nâng tình yêu của chúng con lên cao hơn. Chúa truyền cho chúng con hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu chúng con: trao ban sự sống của Chúa trên thập giá cho chúng con. Yêu không phải là cuộc trao đổi mà mỗi người đều có lợi…Yêu là cho đi tất cả, cho đi cả chính mình.

Vì cho đi tất cả như thế, chính Chúa  đến yêu trong chúng con và chúng con lãnh nhận được gấp trăm. Chúa ban cho chúng con được tham dự vào sự vui mừng của Chúa, được trở nên bạn hữu Chúa, những người mà Chúa không từ chối gì vì họ cũng không từ chối Chúa điều gì…

Chớ gì sức mạnh tình yêu Chúa trong chúng con làm nổ tung biên giới trái tim chúng con để mở ra cho một tình yêu phổ quát đối với  mọi tâm hồn trên trái đất này. Amen!

 Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa

----------------------------

 

PS 6-C136: “NHƯ THẦY ĐÃ YÊU”

 

Các bài đọc phụng vụ hôm nay hướng về chủ đề: “Yêu thương”. Thánh Phêrô nhìn nhận Cornêliô PS 6-C136


Các bài đọc phụng vụ hôm nay hướng về chủ đề: “Yêu thương”.

Thánh Phêrô nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức và thực hành yêu thương. Cornêliô rất kính sợ Thiên Chúa và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn tới (Cv 10,4) và được Thánh Thần ngự đến, sau đó Phêrô đã làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô (Cv 10, 44.48).

Trong bài đọc hai, Thánh Gioan mời gọi: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-9).

Bài Tin Mừng tiếp nối Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về dụ ngôn cây nho và cành. Nhựa sống luân chuyển nuôi dưỡng cây nho và cành sinh ra hoa trái. Tình yêu từ cội nguồn Thiên Chúa chính là nguồn sống phong phú nuôi dưỡng và làm phát triển người tín hữu. Có ở lại trong tình yêu của Chúa mới sinh hoa kết trái: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”.

Chúa Giêsu ban điều răn mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34; x. Mt 8,26-27 // Mc 4,39-41 // Lc 8,24-25; Mt 28,19-20; Mc 1,25-27 // Lc 4,35-36; Mc 5,43 // Lc 8,56; Mc 9,25; Ga 15,12.17).

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa vẫn dạy phải yêu thương những người thân cận như chính mình. Những người thân cận là ai? Đó những người quen biết trong họ hàng, khu xóm, những người không thân nhưng có quan hệ với mình. Nói chung là những người mình quen biết trong cuộc sống.

Chúa Giêsu mở rộng tầm nhìn cho những người theo đạo cũ. Khái niệm người thân cận được minh họa qua câu chuyện người Samaritanô trên đường Giêricô xưa. Vì người bị cướp, bị đánh đập không phải là người đồng đạo, không phải là người quen biết, nên những luật sĩ, tư tế bỏ đi, không coi họ là người thân cận. Còn người Samaritanô là người ngoại, nhưng lại xem nạn nhân giữa đường như người thân cận với mình. Cái “mới” là ở chỗ đó. Yêu thương như Thầy đã yêu thương là yêu thương không loại trừ ai, không tính đến là lương hay giáo, quen hay không quen. Yêu thương cả những người nghịch lại với mình, chứ không phải chỉ chọn lựa yêu thương những người hợp với mình...”.

Chúa Giêsu gọi là điều răn mới và nhấn mạnh nơi chữ như ”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.

Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài (x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x.Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẻ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy. (số 20).

Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?

Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.

“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”. Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.

Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…

Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người ! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức ”như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời:”Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore)

Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho chúng ta được “ở lại trong tình yêu của Chúa”.

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?.

Vị tu sĩ đáp: có chứ.

Người thanh niên hỏi: Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được ?

Vị tu sĩ đáp: Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.

Người thanh niên hỏi: nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?

Vị tu sĩ đáp: Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi:Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?.

Vị tu sĩ đáp: Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.

”Anh em hãy yêu thương nhau”, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất, thiết thực nhất để nhận ra ai là người thuộc về Chúa: ”Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương ”như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “ Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.

 Lm Giuse Nguyễn Hữu An

----------------------------

 

PS 6-C137: Thầy gọi các con là: BẠN


( Ga 15, 9 - 17 )

 

Hôm nay chúng ta cử hành Chúa nhật thứ VI Phục Sinh trước lễ Chúa Giêsu lên trời và lễ PS 6-C137


Hôm nay chúng ta cử hành Chúa nhật thứ VI Phục Sinh trước lễ Chúa Giêsu lên trời và lễ Chúa Thánh Thần hiền xuống. Trong các Chúa nhật trước, Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ mình là Mục Tử Nhân Lành, là cây nho thật, chúng ta là cành phải kết hợp với cây. Nhưng hôm nay, Người cho chúng ta thấy một Trái Tim rung động đầy tình yêu.

1) Tình yêu không biên giới

Trong Trái Tim này tất nhiên chúng ta chỉ thấy tình yêu. Tình Yêu là mầu nhiệm thẳm sâu nhất của Thiên Chúa, vì Ngài là Tình Yêu. Tình yêu là trung tâm của đức tin Kitô giáo. Các bản văn của Gioan (1 Ga 4,7 - 10; Ga 15,9 - 17) mạc khải rõ: “Thiên Chúa là tình yêu ; ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16) người ấy sẽ sinh trái.

Từ tạo dựng đến cứu chuộc, Thiên Chúa làm tất cả vì tình yêu. Chúa đợi chờ chúng ta đáp trả bằng tình yêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thày” (Ga 15,9).

Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta làm một cuộc xuất hành nội tâm tình yêu đi từ chính mình qua con người của mình bằng cầu nguyện với trái tim lắng nghe, vứt bỏ sau lưng những gì không cần thiết khiến chúng ta mất đi điều tối cần là: Thiên Chúa và tình yêu của Người.

Chúa Giêsu thật là có lý khi dạy chúng ta: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (x. Ga 15,12.17). Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Con Thiên Chúa đã trở nên mẫu mực, nguyên tắc, nguồn suối và thước đo, để chúng ta yêu: "Như Thầy đã yêu mến các con".

Một trong những hoa trái của tình yêu là niềm vui: “Thầy nói với các con điều ấy để niềm vui của Thầy ở trong các con” (Ga 15,11). Nếu cuộc sống chúng ta không chiếu tỏa được niềm vui của đức tin, nếu chúng ta để cho những phiền toái choáng ngợp lòng chúng ta khiến chúng ta không nhận ra Chúa đang ở đó, là vì chúng ta không biết Chúa Giêsu cho đủ, chưa yêu “như Chúa”.

Tình yêu của Thiên Chúa là không biến giới. Người đã trao ban mạng sống mình cho các bạn hữu. Dù bạn hữu không hiểu Chúa, và trong lúc định đoạt nhất đã bỏ rơi, phản bội và khước từ Người. Ðiều này nói với chúng ta rằng Người yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Ngài: Chúa Giêsu yêu thương chúng ta như thế đó!

2) Tên mới của các môn đệ là: BẠN

Thiên Chúa là người chủ động. Người khẳng định: “Chính Thầy đã chọn các con” (Ga 15,16). Chúng ta luôn bị cám dỗ để tin rằng chúng ta đã chọn Chúa, nhưng trong thực tế, chúng ta chỉ là người đáp lại tiếng Chúa gọi. Người đã chọn chúng ta một cách nhưng không để trở nên “Bạn”: “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa (…) Thầy gọi các con là bạn” (Ga 15,15).

Ban đầu, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Ađam như một người bạn nói với bạn mình. Đức Kitô, Ađam mới, đã lấy lại và không chỉ gọi chúng ta là bạn nhưng là bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta yêu: “Như Thầy đã yêu các con”. Trong tình yêu của Chúa Giêsu, chiều kích nhưng không là nền tảng và tình yêu của chúng ta phải có. Yêu như Chúa là phải yêu nhưng không. Tình yêu của Chúa không có sở hữu. Đấng Cứu Thế mời gọi chúng ta: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta làm cuộc xuất hành tình yêu hướng về người khác. Dâng tặng tình yêu thương cho anh em và đáp lại tình yêu của Chúa để trở nên BẠN.

3) Tình yêu hỗ tương: tình bạn

Nói đến tình bạn, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự có đi có lại trong tình yêu. Vậy, trong nghĩa nào thì tình bạn khác với tình yêu? Tình bạn là một tình yêu hỗ tương. Theo thánh Augustinô, tình bạn là có đi có lại, nhưng không có tính toán vì không có sự giả vờ trong tình bạn thật.

Sự tương hỗ Kitô giáo được sinh ra từ sự nhưng không, không có nghĩa là “dịch vụ chưa thanh toán, hay làm mà không cần lý do”, nhưng được thi hành với lý do cao cả: tình yêu được sinh ra bởi đức tin.

Tình yêu Kitô giáo là sự đảo nghịch, nhưng không đối xứng: cho và nhận không cùng đẳng cấp. Tin Mừng về sự có đi có lại không đơn giản chỉ là một sự đổi chác. Nếu chúng ta chỉ yêu đến mức trao đổi, đây không phải là tình yêu đích thực. Và nếu chỉ vì chúng ta cho mà chúng ta được yêu, thì đây không phải là ta được yêu thực sự. Chỉ những ai hiểu được sự nhưng không tự nhiên này, mới có thể hiểu được Thiên Chúa và chính mình. Con người với hình ảnh giống Thiên Chúa, được tạo dựng và trao ban nhưng không. Đây là cách còn người tìm thấy sự thật của chính mình và thể hiện bản thể mình là giống “hình ảnh của Thiên Chúa”.

Đặc tính của mối liên hệ tình bạn này tối thiểu có ba điều: hoàn toàn hiến thân (“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”) (Ga 15,13); Tín nhiệm  (“Ta đã giao phó cho các con tất cả những gì Ta đã nghe được từ nơi Cha Ta”); lựa chọn ơn gọi là tiền định nhưng không (“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”) (Ga 15,16).

Tất cả có thể tóm gọn trong từ: “YÊU”. Người Thầy nhân lành yêu cầu chúng ta làm việc bác ái như là một điều răn duy nhất có thể. Không có bác ái, tất cả đều không không vậy. Thực tế, Đức ái phải dẫn con người tới các nhân đức khác để làm cho con người tốt.

Là những người thừa hưởng sự ưu đãi này, các môn đệ được “nâng lên” làm BẠN của Thiên Chúa: “Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” Nó có nghĩa gì? Rất đơn giản, có nghĩa là chúng được Chúa Kitô yêu mến và nếu tình yêu là một cuộc xuất hành ra khỏi chính mình, chúng ta phải ra khỏi chính mình và đặt mình vào trong Trái Tim Chúa và sau đó tự hỏi Chúa yêu thương chúng ta thế nào và Chúa đợi gì, chúng ta làm như Chúa: yêu mến người khác như Chúa yêu mến chúng ta. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

----------------------------

 

PS 6-C138: Yêu như Thầy yêu


(Ga 15, 9 - 17)

 

Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ lại lệnh Chúa Giêsu truyền PS 6-C138


Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ lại lệnh Chúa Giêsu truyền trước khi về Trời. Quả thật: nếu chúng ta muốn về Trời với Chúa như lời hứa "Thầy đi dọn chỗ cho các con" (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải vâng theo lệnh Chúa truyền là "các con hãy yêu mến nhau" (Ga 15, 12).

Tôi tự hỏi, phải chăng con người dùng những tình cảm tự nhiên để yêu như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, đồng lớp đồng niên mến thương nhau, hay hai người nam nữ yêu nhau là chưa đủ hay là khác với tình yêu Chúa Giêsu đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải: Yêu như Thầy đã yêu ?

Vậy, "yêu như Thầy đã yêu" là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng ? Xem ra chữ "như" có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết: khi nói "yêu như Thầy đã yêu mến các con" là Chúa Giêsu nói đến tình yêu thí mạng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga 14, 13). Quả thật, chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con là bạn hữu" (Ga 14, 14). Chúa đã yêu các môn đệ nói riêng và con người nói chung bằng tình yêu thí mạng. Nay Người đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau như Chúa yêu. Tình yêu mà Chúa Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha: "Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu các con" (Ga 14, 9). Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngừng chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Vậy đâu là bằng chứng để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa ? Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời, "Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người" (Ga 15, 10). Yêu như Thầy yêu là thế đấy.

Thánh Augustinô nói tiếp: "Yêu như Thầy đã yêu các con", khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Thánh Gioan Tông Đồ viết: "Thiên Chúa là Tình Yêu… hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa… Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa" (1 Ga 4, 7 - 8). Gioan quả quyết: "Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta" (1 Ga 4, 10).

Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực: thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v...

Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ? Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình yêu huyết tộc.

Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đó đây chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau.

Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.

Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc: "…vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy".  Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi.

Chúng ta vẫn thường nghe nói: "gia đình là Giáo hội thu nhỏ", thế nên, gia đình cũng phải mang lấy những đặc tính mà Chúa Giêsu muốn là: "yêu thương và hợp nhất, thực thi lời Chúa, cử hành phụng vụ và loan truyền tin mừng".

Gia đình kia có một cô con gái, tính tình đào hoa, phóng khoáng. Sau lần tiếp bạn ngày đầu năm, mẹ cô nói với cô:  Này con, con yêu ai thì yêu, lấy anh nào thì lấy một thôi, chứ tết này mẹ thấy nhiều anh quá, bố mẹ chẳng biết anh nào là rể tương lai nữa. Cô trả lời: ồ, bố mẹ hay thật, Chúa chẳng dạy chúng ta là yêu hết mọi người sao ?

Chuyện khác: Có một chàng thanh niên, gõ cửa một nhà dòng để xin vào tu. Cha bề trên nhìn chàng, khẽ mỉm cười và hỏi:

Thế con đã yêu ai chưa? Chàng thanh niên đỏ mặt, ấp úng trả lời: Dạ thưa cha, chưa ạ.

Cha bề trên lại mỉn cười và bảo: Thế thì con hãy về, học yêu thương trước, rồi mới tới tu học sau.

Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa: "Thầy truyền cho các con" ( Ga 14, 12 ), vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.

Xin Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn suối tình yêu liên kết chúng con nên một trong tình yêu Chúa. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

----------------------------

 

PS 6-C139: CHÍNH THẦY ĐÃ CHỌN


Cv 10,25-26.34-35.44-48; 1Ga 4,7-10; Ga 15, 9-17

 

Những lúc Thầy trò bên nhau nghe sao mà chứa chan tình yêu, gần nhau hơn bao giờ hết, Thầy PS 6-C139


Những lúc Thầy trò bên nhau nghe sao mà chứa chan tình yêu, gần nhau hơn bao giờ hết, Thầy nói những lời yêu thương, Thầy tỏ bày nỗi lòng, thao thức của Thầy, Thầy dặn đi dặn lại phải yêu thương như Thầy đã yêu. Thầy lấy chính tình Thầy ra làm khuôn mẫu, các môn đệ như muốn hớp lấy những lời vàng ngọc từ miệng Thầy lúc ấy. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn… anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Tình Thầy thân thương đến độ trò chẳng dám mơ, coi trò như bạn vô cùng thân thương. Thầy hy sinh cả mạng sống vì yêu. “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” Cũng bởi vì yêu thương nên Thầy đã “chọn anh em”, cho dù Thầy biết rõ từng người, xấu đẹp từ bên trong, nông nổi nhất thời, tham tiền hám danh, hèn nhát, nhẹ dạ, thất tín và phản bội Thầy nữa… “ Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại…” Người được Thầy nhắm, được Thầy “thương mến” mà chọn mặt gửi… lòng yêu thì hãy mau mắn vâng nghe và làm theo Ý Thầy, dù không hiểu thấu sự gì. Ngoan ngoãn vâng theo Ý Thầy mà ra đi sẽ sinh được hoa trái thơm ngon, tốt đẹp vững bền.

Thầy Giêsu ơi! ngày nay mỗi khi chúng con được “chọn và gọi” ra đi làm theo Thánh ý, chúng con nhìn sức riêng mình mà sợ hãi chối đay đảy, hoặc “khiêm nhường” nhận mình u mê dại dột, dốt nát, bất tài, thiếu sức khỏe, khả năng, thời giờ… Chúng con chưa hiểu chính Thầy đã chọn, thuận theo Ý Thầy mà ra đi sẽ được Thầy dẫn dắt và làm trổ sinh hoa trái tốt đẹp vững bền. Dù chúng con bất xứng bên trong cách nào chỉ mình Thầy biết, Thầy vẫn yêu thương tín nhiệm. Theo Thầy bước đi, cuộc đời bé nhỏ hèn mọn sẽ trở nên đáng sống và làm cho thế giới tươi đẹp hẳn lên.

“Không phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài đã chọn con. Không phải con đã yêu Ngài, nhưng chính Ngài đã yêu con. Ngài đã yêu con Chúa ơi! Ngài đã yêu con trước khi con biết yêu Ngài và trước khi con biết đáp lời: Lạy Thiên Chúa! con đây!”

 Én Nhỏ

----------------------------

 

PS 6-C140: BÌNH AN CỦA CHÚA GIÊSU


Ga 14:23-29

 

Bình An là món qùa quý báu nhất, Chúa Giêsu đã ban cho các Tông Đồ và những người tin theo PS 6-C140


Bình An là món qùa quý báu nhất, Chúa Giêsu đã ban cho các Tông Đồ và những người tin theo Chúa. Tâm hồn bình an thì luôn thanh thản, an hòa và vui tươi. Sự bình an đích thực chính là ân sủng của Chúa. Chúa chính là nguồn ơn bình an. Ngay khi Chúa giáng trần, các thiên thần đã đồng thanh ca hát: "vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương."(Lc 2,14).

Rồi khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu căn dặn các ông: "vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "bình an cho nhà này". Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy, bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em" (Lc 10,5-6)

Và sau khi sống lại, mỗi lần hiện đến với các Tông Đồ, Chúa đều chúc bình an. Thánh Luca ghi lại: "các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "bình an cho anh em! "(Lc 24,36). Rồi "tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "bình an cho anh em."(Ga 20,26).

Chính vì vậy trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14, 27).

Theo phong tục Do Thái, khi từ giã nhau, người ta thường chào nhau bằng “bình an” (shalom), nhưng ở đây sự bình an của Đức Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào thông thường, vì thế gian chỉ có thể cầu chúc bình an chứ không thể ban bình an, còn Đức Giêsu chính Người ban bình an của Người.

Bình An, ở đây không phải chỉ là vắng bóng bạo hành, không có chiến tranh, xung đột giữa các dân tộc và quốc gia mà chính là sức khỏe, sự thịnh vượng, hạnh phúc sung mãn và ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này, vì đó là phúc lộc cứu độ tuyệt vời nhất: “lúc đó, sự công chính nở rộ và bình an lớn lao tới khi mặt trăng khuất bóng “ (Tv 72, 7).

Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến một sự bình an bên trong của con tim, sự bình an của con người với chính mình và với Thiên Chúa.

"Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. "(Ga 14, 27).

Trong cuốn sách Go Down to the Potter’s House của Donagh O'Shea, ông có một câu chuyện về một ông vua có hai hoạ sĩ trong triều là hai đối thủ gay gắt. Một ngày nọ, nhà vua nói: “trẫm quyết định một lần cho xong để biết ai trong hai là hoạ sĩ giỏi nhất. Hai khanh phải vẽ cùng một đề tài và như vậy, trẫm sẽ ở giữa để phán quyết. Và đề tài là sự bình an”.

Hai hoạ sĩ đồng ý, và một tuần sau trở lại với các bức tranh của họ. Hoạ sĩ thứ nhất giới thiệu bức tranh của mình. Nó cho thấy một phong cảnh thơ mộng với những ngọn đồi trập trùng bên nhau và một mặt hồ không gợn sóng. Toàn bộ phong cảnh nói lên sự hài hòa, bình an và tĩnh lặng. Nhưng khi nhìn vào bức tranh, quay lại nói với hoạ sĩ, “bức tranh của khanh đẹp thật, nhưng nó làm ta buồn ngủ”.

Kế đó, hoạ sĩ thứ hai đã trình bày công trình của mình. Nó cho thấy một thác nước chảy ầm ầm. Lối vẽ hiện thực làm cho người ta như nghe thấy tiếng gầm của thác nước khi va vào các tảng đá ở bên dưới hàng trăm thước.

Nhà vua tức giận nói: “nhưng đây không phải là một cảnh bình an như trẫm đã ra lệnh”. Hoạ sĩ không đáp lại nhưng xin nhà vua tiếp tục xem. Sau ít phút, nhà vua nhận ra một chi tiết quan trọng: ở giữa các tảng đá bên dưới thác nước, có một bụi cây mọc lên với một tổ chim trên cành. Khi nhìn kỹ, nhà vua thấy có một con chim trong tổ: một con se sẻ đang ấp trứng, đôi mắt lim dim. Nó đang chờ các con nó được sinh ra, một hình ảnh bình an thật hoàn hảo.

Nhà vua rất thích thú khi nhìn ra điều đó. Quay lại người hoạ sĩ thứ hai, ngài nói: “trẫm rất thích bức tranh khanh đã chuyển tải một điều rất quan trọng về bình an, đó là có thể sống trong bình an cả khi ở giữa cảnh ồn ào hỗn loạn của cuộc sống”.

Đức Giêsu đã nói về sự Bình An của Chúa: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”.

Bình An ở đây là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu đã ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Vì thế, Người có thể nói về sự bình an cả khi các kẻ thù đang siết chặt vòng vây xung quanh Người và ngay cả gần kề cái chết.

Bình An, không xao xuyến không sợ hãi chính là sự tín thác vào Thiên Chúa. Đó là điều mà người ta có thể có cả khi ở giữa sự xáo trộn, xung đột và những vấn đề chưa giải quyết được. Đó chính là sự Bình An mà Chúa muốn nói với các môn đệ và cũng là nói với chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi”(Ga 14, 27).

Quả thật “Bình An” là một trong những từ đẹp nhất và giàu ý nghĩa nhất trong ngôn ngữ Kitô giáo. Bình An gồm hai khía cạnh tích cực và tiêu cực: không có xáo trộn và có một tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và con người. Bình an giữa con người với con người được bảo đảm nhờ công nghiệp Đức Kitô quy tụ mọi tín hữu thành gia đình của Thiên Chúa, và vào trong mối tương quan hài hòa với tha nhân.

Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, là Đấng Trung Gian của sự Bình An này, nên Người có thể gọi đó là sự Bình An của riêng mình: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em.” Không phải là thứ bình an giả tạo mà nhiều lần các ngôn sứ đã cảnh báo và Đức Giêsu đã từ chối đem xuống trên mặt đất nhưng là Bình An đích thực của Thiên Chúa, mà để ban cho thế gian, Đức Giêsu đã phải hy sinh chính mạng sống của mình.

Hiệu quả của ơn Bình An này là: các môn đệ không còn xao xuyến nữa, dù trước viễn tượng Đức Giêsu sẽ khuất dạng, hay trước nhiệm vụ đang chờ, chính họ sẽ là những người đem Tin Mừng cứu độ vào giữa lòng thế giới. Đây là lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ và cũng là lời Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay. Amen.

Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ

----------------------------

 

PS 6-C141: HÒA BÌNH LÀ HỒNG ÂN CỦA THIÊN CHÚA


Cv 15,1-2.22-29; Kh 21,10-14.22-23; Ga 14,23-29

 

Hồi tháng 2 năm 1991 sau khi quân đội đồng minh đổ bộ lên Kouweit được ba ngày, thế giới PS 6-C141


Hồi tháng 2 năm 1991 sau khi quân đội đồng minh đổ bộ lên Kouweit được ba ngày, thế giới đã thở phào một cái nhẹ nhõm vì mối đe dọa một cuộc chiến tranh nguyên tử đã qua đi và nền hòa bình đã trở lại với thế giới. Hiểu như thế thì hòa bình hay bình an là không có chiến tranh. Nhưng không có chiến tranh chưa chắc là đã có hòa bình.

Sau thế chiến thứ hai, thế giới đã chia làm hai phe: Tư bản và Cộng sản. Trong khoảng từ năm 1945 đến năm 1990 không có một cuộc chiến tranh nào với tính cách qui mô giữa hai phe Tư bản và Cộng sản. Vậy mà thế giới vẫn nơm nớp lo sợ một cuộc chiến tranh. Lý do là vì cả hai phe đều chạy đua vũ trang. Tình trạng đó được gọi bằng một cái tên là "chiến tranh lạnh". Năm 1989 sau khi khối Cộng sản sụp đổ ở Đông Âu, người ta đã họp nhau lại tại Paris để tuyên bố cuộc chiến tranh lạnh đã kết thúc.

Như vậy trong gần một nửa thế kỷ, tuy thế giới không có một cuộc chiến tranh nào trên qui mô lớn, nhưng con người vẫn phải sống trong sự bất an. Mới đây (ngày 8/5/1995) thế giới vừa mừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng Phát-xít Đức và kết thúc thế chiến thứ hai. Nhưng người ta lại lo sợ trước chủ nghĩa "Phát-xít mới", trước nạn khủng bố lan tràn và các cuộc xung đột chủng tộc… Người ta nói nhân loại đang sống trong một nền "hòa bình nóng!"

Thưa anh chị em,

Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta hòa bình của Ngài từ gần hai ngàn năm nay rồi. Vậy mà tại sao loài người lại không được sống trong hòa bình?

"Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng".

Chúa Giêsu đã coi sự bình an như một ân huệ Ngài để lại. Ngài ban bình an của Ngài cho các môn đệ. Ngài không cầu chúc, nhưng Ngài để lại, Ngài ban tặng bình an. Ngài không ban như người ta, vì người ta không thể ban cho ai bình an, chỉ có thể cầu chúc, ước muốn được bình an mà thôi.

Vậy thì bình an của Chúa Kitô là gì? Bình an của Chúa Kitô không phải là tình trạng yên ổn không bị khuấy động vì chống đối, vì chiến tranh. Bình an ở đây là sự sống trọn đầy, là ân huệ gồm tóm mọi ân huệ của thời đại Chúa Cứu Thế. Chính vì vậy, bình an nầy gắn liền với Chúa Giêsu và sự hiện diện của Ngài: "Chúa Giêsu là sự bình an của chúng ta" (Ep 2,14). Sự bình an mà Chúa Giêsu trối lại hay là chia sẻ cho chúng ta là sự bình an mà Ngài thực sự có được và nghiệm thấy một cách trọn vẹn, khi Ngài đã chiến thắng được sợ hãi đứng trước tử thần. Đó là sự bình an của Đấng đã yêu thương đến cùng (Ga 13,1), nghĩa là đến chấp nhận hy sinh mạng sống cho những kẻ mình yêu thương (Ga 15,13). Nói khác đi, đó là bình an mà Chúa Giêsu đã có thể chia sẻ cho chúng ta, sau khi Ngài đã thực sự chia sẻ chính thân mình Ngài cho chúng ta.

Thánh Phaolô gọi sự bình an đó là "bình an của thập giá" "Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời" (Cl 1,24). Bình an của thập giá là bình an mà Chúa Giêsu đã phải trả bằng chính giá máu của Ngài để giao hòa nhân loại với Ngài và nhân loại với nhau. Nói khác đi, Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình để xóa bỏ tội lỗi nhân loại, đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét, khiến cho nhân loại từ nay được hòa giải với Thiên Chúa và trở nên một thân thể duy nhất. Bởi vậy mà Chúa Giêsu xứng đáng được gọi là "Bình an của chúng ta" (Ep 2,14-18).

Anh chị em thân mến,

Bình an là khát vọng của mọi người, ở mọi nơi và mọi thời. Nhưng thực ra có lẽ chưa bao giờ nhân loại được hưởng một sự bình an toàn diện và phổ quát. Người ta có thể dập tắt ngọn lửa chiến tranh, có thể áp đặt một nền hòa bình, ký kết những bản hòa ước. Nhưng không ai có thể hiểu thấu lòng người, để có thể đem lại được sự bình an vào tận cõi sâu thẳm bên trong; bởi vì ít có ai có được bình an thực sự trong lòng mình để có thể chia sẻ cho người khác. Con người chỉ có thể xây dựng hòa bình bên ngoài, nhưng không có khả năng chế ngự, điều khiển được những đợt sóng ngầm vẫn luôn sôi sục ở đáy lòng mỗi cá nhân. Bởi vậy, hòa bình trên thế giới từ trước đến nay thường chỉ là những nền hòa bình giả tạo, mong manh, tạm thời. Dĩ nhiên có được hòa bình đó vẫn còn tốt hơn là không.

Người kitô hữu phải là những người tác tạo hòa bình, những người làm chứng cho hòa bình trong thế giới bằng cuộc sống không bạo lực và bằng cuộc sống đồng tâm nhất trí với nhau. Điều kiện cần thiết là phải tin vào Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời được Cha sai đến loan báo Tin Mừng bình an (Cv 10,36), phải tuân giữ Lời Chúa, và như vậy là để có sự hiện diện của Chúa trong chúng ta, như Chúa Giêsu đã tỏ cho biết: "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến ở trong người ấy" (Ga 14,23). Có Chúa hiện diện trong chúng ta, chúng ta sẽ không còn lý do nào để phải lo lắng, sợ hãi. Sợ hãi, lo lắng, chứng tỏ một tâm hồn xao xuyến, chưa được ổn định, chưa được bình an.

Muốn xây dựng hòa bình của Chúa, chúng ta phải là những con người hiếu hòa và đã được ổn định trong tâm hồn. Nếu chúng ta còn để cho dục vọng làm chủ mình; nếu chúng ta còn khư khư bám vào sự sống mình một cách ích kỷ; nếu chúng ta còn có những của cải sợ mất mát, hoặc phải bảo vệ để hưởng thụ; nếu chúng ta còn muốn thống trị kẻ khác, làm sao chúng ta có thể gieo rắc bình an và xây dựng được hòa bình? Muốn xây dựng hòa bình ở bình diện lớn, thiết tưởng phải bắt đầu từ những bình diện nhỏ, vừa tầm tay, từ cá nhân, trong gia đình, đến xã hội, đất nước và toàn thế giới.

Cuối cùng, phải chăng Thánh lễ là một lời cổ vũ mạnh mẽ cho hòa bình và là một sự thúc đẩy người kitô hữu dấn thân xây dựng hòa bình? Khi chúng ta chia sẻ bình an của Chúa cho anh chị em, chúng ta cam kết sống an hòa, yêu thương và dấn thân đem lại hòa bình, an vui, hạnh phúc cho mọi người. Và lời chúc cuối lễ của vị chủ tế là chúc anh chị em ra đi với sự bình an của Chúa Kitô, ra đi mang theo một cái gì đó của Nước Thiên Chúa cho mình và cho kẻ khác.

 LM Phanxicô Xaviê Lê Văn Nhạc

----------------------------

 

PS 6-C142: Thay ban Bình an cho anh em

 

Với “diễn từ ly biệt” khi sắp sửa chia tay các môn đệ, Chúa Giêsu đã cố gắng hết sức trấn an PS 6-C142


Với “diễn từ ly biệt” khi sắp sửa chia tay các môn đệ, Chúa Giêsu đã cố gắng hết sức trấn an các môn đệ Người. Chắc hẳn lúc này đây các ông đang trong tình trạng rất bồn chồn và sợ hãi khi sắp phải chia tay Thầy. Người ta thường bảo “Xa mặt cách lòng”, nếu tình cảm con người ta dành cho nhau không đủ lớn thì rồi sẽ phai dần theo thời gian. Do vậy, Chúa Giêsu muốn các môn đệ và tất cả Kitô hữu chúng ta yêu mến Chúa không phải chỉ bằng lời đầu môi chót lưỡi nhưng bằng những hành động cụ thể, những quyết tâm thực hiện thấy rõ: đó là tuân giữ những lời Chúa: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy”.

Lời Chúa dạy là gì? Thưa “điều Thầy truyền dạy các con là: ‘Hãy yêu thương nhau’.” Và kết quả của người thực thi giới răn Chúa sẽ được Chúa Cha yêu mến người ấy, và “Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Khi Chúa chia tay các môn đệ mà các ông vẫn sống giữ luật Chúa như Người đang ở bên thì rồi người đó sẽ được cả Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ hiện diện, đồng hành và là ở trong con người đó. Chính khi ấy, Ðấng Phù Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Chúa Giêsu, Đấng ấy sẽ chỉ dạy các môn đệ thấu rõ mọi điều, sẽ nhắc nhở cho họ về tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với họ trong tương quan thầy trò.

Khoảng cách về thể lý không còn ý nghĩa khi trong lòng chúng ta luôn có người mình yêu. Đó là cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật khi trong lòng người đó luôn có đầy hình ảnh của người kia. Đó là một sự hiện diện đong đầy. Vâng, sau biến cố Phục Sinh, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại. Để rồi Người ra đi rồi trở lại với môn đệ của Người bằng nhiều hình thức:

- Bằng sự Phục Sinh để chuẩn bị cho ta sự sống đời đời.

- Bằng cách đến trong ngày phán xét để đem ta vào vào trong sự sống đời đời.

- Bằng phép Thánh Thể mỗi lần ta tham dự Thánh lễ và rước Chúa vào lòng để nuôi dưỡng sự sống phần hồn thiêng liêng.

- Bằng ơn thánh để tăng trưởng sức sống thiêng liêng cho tâm hồn ta.

- Bằng cách can thiệp vào dòng lịch sử cuộc đời ta để tỏ bày sự quan phòng của Chúa khi ta đặt niềm tin tưởng ở nơi Chúa là Đấng cùng đích cuộc đời mình.

Chính khi có Chúa ở cùng, con người ta luôn có được sự bình an, ngay cả trước những lựa chọn mang tính quyết định. Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Bình an có Chúa ở cùng không phải là sự bình an nhàn nhã theo thế gian, nhưng là sự bình an dám đương đầu với song gió, khó khăn, vất vả giữa xã hội hôm nay.

Vào tháng 4 năm 2014, vụ tai nạn chìm phà Sewol, Hàn Quốc làm chấn động không chỉ đất nước xứ Kim Chi mà cả thế giới. Thế nhưng, bên cạnh đó cũng có những con người sống mãi với thời gian.

Jung Chawoong, nam sinh 17 tuổi tạo nên một câu chuyện cảm động đầy nước mắt khi đóng vai anh hùng, xả thân cứu bạn bè trong tai nạn chìm phà. Theo lời kể của những người thoát nạn, vào lúc nguy ngập, Jung Chawoong đã đưa áo phao của mình cho một người bạn đang chìm, thậm chí chàng trai trẻ còn lao xuống nước để cứu những người khác. Tại nạn chìm phà xảy ra hôm 17/4, đúng vào ngày sinh nhật của Jung Chawoong. Hành động cao đẹp, hi sinh vì người khác của chàng trai trẻ được lan truyền trên mạng Hàn Quốc. Cộng đồng vô cùng tiếc thương và cảm phục chàng nam sinh anh hùng.

Khá nhiều trong số những người sống sót trên chuyến phà Sewol năm 2014 sẽ luôn nhớ về một vị thần hộ mệnh trong hình hài nhỏ bé của một cô gái tên Park Jiyoung. Jiyoung là một trong số các thuyền viên trên chuyến phà Sewol, là người đã không màng đến tính mạng của chính bản thân mình mà chỉ cố gắng để giúp càng nhiều hành khách có thể thoát ra khỏi chiếc phà càng tốt. Giữa lúc mọi người hoảng loạn, Nữ thuyền viên 22 tuổi bình tĩnh và dung cảm hướng dẫn các hành khách mặc áo phao và đi đến cửa thoát hiểm. Ngay cả khi nước đã ngập ngang ngực cô vẫn kiên quyết ở lại cứu cho bằng được càng nhiều người càng tốt. Theo lời kể của một người thoát chết, Park Ji Young nói rằng cô sẽ chỉ mặc áo phao khi các hành khách có đủ áo mặc. Cô tuyên bố mình và thủ thủy đoàn sẽ là những người cuối cùng rời khỏi tàu. Nhưng rồi cô chỉ không thực hiện được lời hứa cuối cùng với các hành khách cuối cùng, đó là cùng thoát ra ngoài với họ. Park Jiyoung, biểu tượng đẹp cho sự kiện thảm khốc năm 2014 ấy.

Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta sẽ thấy có một điều hết sức tự nhiên, đó là khi yêu mến ai, chúng ta thường cố gắng bằng mọi cách để làm vui lòng người đó, cố gắng nhanh chóng thực hiện mọi ý muốn của người đó và điều đó luôn làm cho mình cảm thấy bình an. Cũng thế, càng yêu mến Thiên Chúa nhiều, chúng ta sẽ càng cố gắng thực hiện những điều Ngài muốn, càng cố gắng tuân giữ giới răn Ngài dạy, đó là “yêu thương” anh chị em mình, yêu thương cả những người đang làm khổ mình, đang có cái nhìn phiếm diện về mình, khi ấy chúng ta mới có bình an của Chúa cách thực sự. Hiểu được như vậy, thì chúng ta cũng hiểu được việc yêu thương không loại trừ là chúng ta sống trong bình an Chúa ban tặng khi chúng ta biết tuân giữ lời Chúa. Đó chính là dấu chỉ rõ ràng nhất để chúng ta chứng tỏ lòng yêu mến của mình đối với Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con bình an và tin tưởng khi thực thi giới răn Yêu thương mà Chúa dạy để đón nhận tất cả anh chị em con, vì chính Chúa đã yêu thương con trước, ngay khi con còn là một tội nhân, là người chưa đáng yêu trước mặt Chúa. Amen.

Lm. Alfonso

----------------------------

 

PS 6-C143: SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH C


NGÀY 26/052019

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan (14: 23-29)

23 Đức Giê-su đáp: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em.26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.27 Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.28 Anh em đã nghe Thầy bảo: "Thầy ra đi và đến cùng anh em". Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.29 Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.

Suy niệm

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14, 27).

 

Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong diễn từ biệt ly có một ý nghĩa hết sức quan trọng cho PS 6-C143


Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong diễn từ biệt ly có một ý nghĩa hết sức quan trọng cho các ông. Những hành động và lời tiên báo của Chúa Giêsu trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ như: quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, loan báo việc Giuđa sẽ bán nộp Người, việc thầy trò sắp chia ly, v.v. làm cho các ông cảm thấy bối rối và thậm chí sợ hãi. Chính lúc này, Chúa Giêsu đã củng cố niềm tin và động viên để các môn đệ không nản lòng mà vững bước theo Người. Chúa ban bình an cho các môn đệ của mình - Bình an mà chỉ có những người môn đệ trung tín, yêu mến Thầy Giêsu mới có được.

Cuộc sống của mỗi người chúng ta không ít lần cũng phải đối diện với những nỗi sợ hãi và bối rối. Chúng ta sợ hãi khi chứng kiến sự lan tràn của sự dữ và cái ác trong thế giới này; chúng ta bối rối khi gặp phải những biến cố, sự kiện trong gia đình, nơi những người thân quen hay trong chính cuộc sống cá nhân của mình, v.v. Những lúc như thế, hãy lắng nghe lời của Chúa Giêsu, hãy cảm nhận sự quan phòng yêu thương của Người và hãy đón nhận ơn bình an mà Người ban cho mỗi người chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban Thánh Thần Chúa xuống trên chúng con, để chúng con luôn biết yêu mến và tuân giữ Lời Chúa, ngõ hầu chúng con luôn được sống bình an giữa cuộc đời đầy những biến cố thăng trầm này, và mai sau được cùng Chúa hưởng vinh phúc trong nhà Cha trên trời. Amen
.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường

----------------------------

 

PS 6-C144: YÊU MẾN VÀ GIỮ LUẬT CHỈ LÀ MỘT


Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

Thứ bảy - 25/05/2019 08:49  37

 

Có bao giờ chúng ta nghe hai bạn trẻ nam nữ, yêu nhau mà nói với nhau câu này chưa: “Nếu anh PS 6-C144


Có bao giờ chúng ta nghe hai bạn trẻ nam nữ, yêu nhau mà nói với nhau câu này chưa: “Nếu anh yêu em, anh hãy tuân giữ một số điều luật này nè... 1. đúng hẹn, 2. đi thẳng không ngó ai,  3. không lai rai vượt quá ranh giới, 4. không chơi thuốc lắc…”. Chắc là chưa, mặc dầu hai người vẫn làm như vậy khi thương nhau. Không nói nhưng vẫn làm.

Còn Chúa Giêsu thì nói và dạy rõ ràng: "Nếu ai yêu mến Thầy thì phải giữ lời của Thầy" (Ga 14,23). “Lời” tức là luật, là giới răn.  Lời dạy nghe ra không êm tai mấy, bởi vì tình yêu gợi cho ta cảm giác êm đềm, dịu ngọt, tình yêu làm cho đời ta vui tươi thoải mái ; trong khi đó giới răn, luật lệ lại gây cho ta một cảm giác gò bó, trói buộc và mất tự do. Vậy mà Chúa Giêsu lại ghép việc tuân giữ giới răn vào chuyện yêu thương như một điều kiện không thể thiếu. "Nếu anh em yêu mến Thầy thì phải giữ các giới răn của Thầy." Điều này xem ra không ổn. Nhưng,

1. Yêu và giữ Luật là một. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ ta lại thấy lời dạy của Chúa Giêsu lại hợp tình hợp lý và không có gì là không ổn cả. Có thể nói: yêu mến và việc tuân giữ các lề luật chỉ là một dòng chảy duy nhất và rất tự nhiên. Tuân giữ các điều luật chỉ là sự thể hiện ra bên ngoài tình yêu ở bên trong. Ví dụ:

- Vâng phục cha mẹ (giữ “luật” cha mẹ đề ra) là cách diễn tả rất tự nhiên của lòng hiếu thảo và yêu mến mà con cái dành cho cha mẹ. Yêu mến là vâng lời.

- Chấp nhận mưa nắng dãi dầu để kiếm cơm cho con cho cái. Chấp nhận gian khổ để chu toàn trách nhiệm trong gia đình… là một tỏ bày tình yêu của những bậc làm cha mẹ dành cho kẻ hậu sinh. Có gì là gò bó, mất tự do đâu. Yêu con là hy sinh, là chịu khổ.

- Rồi hai cô cậu đã lấy nhau, quyết “giữ luật” không ngoại tình, không phản bội… chỉ là một đòi hỏi đương nhiên của tình yêu vợ chồng.

- Và trở về với ví dụ đầu, ta thấy, nếu chàng trai kia yêu nàng con gái nọ, thì họ giữ hàng tá quy luật vẫn chẳng thấy gì là nặng nhọc cả. Đúng hẹn ư ? Anh sẵn sàng. Để tránh kẹt xe, anh sẽ đi sớm.

Khi thương nhau thật sẽ rất đúng giờ. Đến giờ nàng phải về rồi, kẻo cổng đóng, mẹ mong, chàng thương nàng thật, thì “thả” nàng ra, dìu nàng về. “Em chỉ gặp được anh đến 9 giờ tối thôi nghe.” OK ngay. 9 giờ đúng, đụng ngõ nhà em.

Còn cái khoản luật ra đường không ngó ai, thì chàng nếu thương nàng thật sẽ trả lời thật hay: Không ngó đụng xe thì sao, nhưng em yên tâm, anh ngó ai anh cũng chỉ thấy mắt em trong người đó thôi. (có thể đôi mắt mang hình viên đạn nên sợ quá chẳng dám ngó ai) hoặc mượn lời ca của Hoàng thi Thơ trong bài Khi tình yêu đến mà nói rằng: ôi con mắt con mắt ta buồn cười, một người ta thấy thôi. Dù đông người, chỉ mình em anh thấy.

Rồi khi thực sự thương nhau, thì tôn trọng nhau và tôn trọng luật “ranh giới.” Tới đâu thì dừng lại. Đến đâu thì xì tốp. Chàng thì thường muốn vượt ranh. Nàng sợ chàng bỏ, nên gì cũng chiều. Nhưng coi chừng đó chỉ là đường một chiều: chiều lợi dụng chứ không phải đường hai chiều, chiều tình yêu. Yêu là có những luật của nó.

Ngày nay chính tại Mỹ có phong trào mang tên “True Love Waits,” Tình yêu chân thật thì biết chờ đợi. Số là một mục sư Baptist bị shock (sửng sờ) khi 2 em gái 16 tuổi cảm thấy xấu hổ vì mình đã đôi tám rồi mà vẫn còn trắng trinh. Thay vì hãnh diện thì lại mắc cỡ ! Mục sư này lập nên phong trào cổ võ việc giữ gìn kiêng cữ cho tới ngày thành hôn. Phong trào lớn mạnh ngoài mong đợi, nhưng mục sư không ngạc nhiên, bởi mục sư nói: rất nhiều bạn trẻ muốn như thế. Và khi họ muốn như thế và làm như vậy là họ đang ở trong thành phần đa số chứ không phải thiểu số đâu. Hãy hãnh diện vì mình trong sạch: proud to be pure.

Người Việt-Nam chúng ta có tâm trạng thuận lợi hơn để giữ điều đó. Cái đáng giá ngàn vàng đó đáng giá thật chứ không phải xưa rồi Diễm ơi đâu ! Các bạn gái đã có lần nào nghe lập luận này chưa, nó cũng rất thường xảy ra: Cô dễ dãi với tôi thì chắc gì cô không dễ dàng với người khác. Cô chiều tôi chắc gì cô không nhường người khác…

Tình yêu chân thật là có luật lệ của nó. Vì thế yêu nhau và giữ luật lệ của tình yêu không có gì là mâu thuẫn, chỉ là một thôi. Yêu bên trong, diễn tả ra bên ngoài bằng những luật lệ của nó. Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lề luật của Thầy.

Có nhiều chàng con trai yêu nàng con gái nào đó thì sẵn sàng giữ luật “cấm hút thuốc” cách rất triệt để dễ dàng. “Trước đây tôi hút thuốc dữ lắm, nhưng khi quen bà ấy, bà ấy không muốn, tôi bỏ ngay !” Yêu là tuân giữ lề luật. Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lề luật của Thầy.

2. Yêu giúp dễ giữ Luật. Đề tài của bài giảng hôm nay là tình yêu và lề luật không hề mâu thuẫn, nhưng chỉ là là một dòng chảy của con suối tình yêu. Và chính tình yêu chân chính này giúp sức tăng lực cho mình giữ luật.

Cuốn phim có tựa đề: "Đời Vẫn Đẹp" do Roberto đạo diễn và thủ diễn đã xứng dáng được giải Oscar năm 2000. Cuốn phim diễn lại câu chuyện của một người Do Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ đã bị Đức Quốc Xã đưa vào trại tập trung. Nhờ tài khôi hài và tình yêu thương, ông đã giữ vững tinh thần cho mình và cho đứa con còn nhỏ cho tới khi quân đội Đồng Minh đến giải thoát.

Nhân vật chính là một bác sĩ chuyên gia tâm lý. Trong những năm lưu tù, ông khám phá được một chân lý quan trọng cho cuộc sống của con người. Chân lý đó là trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đau thương nhất của con người, con người vẫn có thể tồn lại, nếu họ có niềm tin và tình yêu.

Bác sĩ đã quan sát những phản ứng khác nhau nơi các bạn tù của ông: Có những người trước khi vào tù được mọi người trọng vọng ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc lộ nguyên hình là những kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc cỏn con: như một mẩu bánh, một ngụm nước. Một số khác thoạt tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế nhưng liền sau đó tuyệt vọng và ngã gục chỉ trong vài ngày bị bỏ đói. Trái lại, cũng không thiếu những người ít được kẻ khác chú ý đến, lại âm thầm vượt qua, chịu đựng cho đến cùng và còn sống.

Trong kinh nghiệm bản thân, bác sĩ cho biết chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống trong tận đáy hoả ngục của các trại tập trung đó. Mặc dù không biết vợ mình bị giam giữ ở đâu, còn sống hay đã chết rồi, nhưng tình yêu đối với vợ đã giúp người bác sĩ này vượt qua tất cả. Ông đã chia sẻ cảm nghiệm đó như sau:

Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu, khỏi những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của tôi. Cho dẫu người ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ ngưng chiêm ngắm hình ảnh của nàng, hay ngưng thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Khi tôi cảm nghiệm được hình ảnh của vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh tôi, thì chính tình yêu đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho tôi chịu đựng mọi nghịch cảnh và tồn lại cho đến ngày được giải cứu khỏi trại tập trung.

Văn hào St Exupéry của Pháp, trong cuốn “Chuyến bay đêm” (vol de nuit) thuật lại một phi công bay trong bóng tối tại sa mạc, và máy bay rơi xuống bãi cát. Cát êm, không chết. Chỉ bị thương. Phi công bò đi tìm đường về làng xóm. Nhưng trong sa mạc nào biết hướng bò. Mệt lả, đói khát, anh muốn buông xuôi, chết cho rồi. Nhưng anh chợt nghĩ: Nếu ở nhà vợ con tôi, người thân tôi đang chờ đợi giây phút tôi trở về, thì tôi là thằng hèn nếu tôi không cố trỗi dậy và cất bước. Chính tình yêu thúc đẩy ta đi còn mạnh hơn là đồ ăn thức uống, viên tăng lực, loon “bò húc” bò cụng.

            Thánh Phaolô diễn tả thật đẹp chính tình yêu chứ không gì khác làm cho chúng ta gắn bó với Đấng ta yêu mến: Rm 8:35-39

Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ? Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.

“Yêu thì giữ luật” và “yêu giúp giữ luật” đó là 2 điểm ta rút ra qua bài Tin Mừng hôm nay vậy.

Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

----------------------------

 

PS 6-C145: Đền thờ cao quý nhất


Suy niệm CN VI PS C. - Lm. Inhaxio Trần Ngà

Thứ tư - 22/05/2019 10:33  63

(Suy niệm Tin mừng Gio-an (14, 23-29) trích đọc vào Chúa nhật 6 Phục sinh)

 

Nếu hôm nay, có tin đồn Chúa Giê-su hay Đức Mẹ hiện ra tại nơi nào đó thì có hàng ngàn, hàng PS 6-C145


Nếu hôm nay, có tin đồn Chúa Giê-su hay Đức Mẹ hiện ra tại nơi nào đó thì có hàng ngàn, hàng vạn và thậm chí hàng triệu người công giáo đổ xô tìm đến để cầu nguyện, để xin ơn… bất kể ngày đêm, mưa nắng, xa xôi khó nhọc và không ngại tốn kém.

Tuy nhiên, điều oái oăm là có một nơi chắc chắn không những chỉ có Chúa Giê-su mà còn có cả Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đang hiện ra, đang ngự trị… nơi này gần lắm, thiêng lắm… nhưng chỉ được rất ít người tìm đến.

Đó là nơi nào vậy?

Chúng ta sẽ biết đó là nơi nào, khi lắng nghe lời dạy của Chúa Giê-su sau đây:

"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23). Ngoài ra, thánh Phao-lô cũng nói: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?”(1Cr 6,19).

Thế thì tâm hồn người tín hữu yêu mến và tuân giữ lời Chúa Giê-su là nơi linh thiêng vì có Chúa hiện ra, có Chúa ngự trị. Vậy thì nơi đây đúng là đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa, là nơi thánh, là chốn linh thiêng… Thế mà sao không có mấy người đến cầu nguyện, đến hành hương, khấn vái?

Xưa kia, thánh Augustino cũng khắc khoải đi tìm Chúa suốt ba mươi năm đầu đời. Ngài miệt mài tìm Chúa trong văn chương, trong triết lý, trong những học thuyết sai lầm và cả trong những đam mê thế tục… nhưng chẳng gặp được nên cảm thấy khắc khoải buồn sầu. Mãi đến tuổi ba mươi, ngài mới được ánh sáng chân lý chiếu soi và được đón nhận Chúa. Bấy giờ ngài cảm thấy an bình hạnh phúc nhưng đồng thời cũng lấy làm hối tiếc vì biết Chúa quá muộn: "Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng. Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài".

“Chúa ở trong con, còn con thì đi tìm Chúa bên ngoài!” Thật là trớ trêu và trái khoáy, giống như ta đang để chùm chìa khoá trong túi mà lại lục lọi tìm kiếm khắp nơi.

Cũng như thánh Augustinô xưa, nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta lại đi tìm Chúa bên ngoài, đang khi Chúa vẫn ở trong chúng ta.

Vậy thì từ nay, chúng ta đừng quên tìm Chúa, gặp gỡ Chúa ngay trong tâm hồn chúng ta, vì tâm hồn ta đúng là đền thờ của Thiên Chúa như Chúa Giê-su dạy:

"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23) và lời thánh Phao-lô: “Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?”(1Cr 6,19).

Đền thờ này rất cao trọng vì được chính Thiên Chúa thiết kế và thi công, được dựng nên theo hình ảnh của Ngài.

Đền thờ nầy rất cao cả vì được Chúa Giê-su đổ máu ra mà cứu chuộc. Không đền thờ vật chất nào được diễm phúc như thế.

Đền thờ nầy rất linh thiêng vì được Chúa Giê-su hiến thánh bằng Bí tích Thánh tẩy, được nên một với Chúa Giê-su nhờ Bí tích Thánh thể…

Và mai đây, ngôi đền thờ nầy sẽ được đưa lên cõi thiên đàng vinh hiển, trong khi những đền thờ bằng vật chất nguy nga đồ sộ và nổi tiếng trên mặt đất nầy, cho dù được xây bằng đá quý, dù được nạm ngọc dát vàng… sẽ tàn lụi với thời gian.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con biết quý trọng thân xác chúng con là ngôi đền thờ uy linh cao cả có Ba Ngôi Thiên Chúa hằng ngự trị.

Xin cho chúng con biết thanh tẩy đền thờ đáng quý trọng nầy nếu nó bị ra nhơ uế vì tội lỗi và thói hư.

Xin cho con biết tôn tạo, nâng cấp đền thờ nầy bằng các nhân đức và phẩm chất cao đẹp.

Và nhất là xin cho chúng con hằng đến gặp gỡ và kết hợp với Chúa đang hiện diện trong đền thờ tâm hồn chúng con.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

----------------------------

 

PS 6-C146: Suy niệm chú giải Lời Chúa CN VI Phục Sinh (C)


- Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Thứ hai - 20/05/2019 09:22  103

 

Vì lễ Ngũ Tuần sắp đến nên Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Phục Sinh này đề cập đến Chúa PS 6-C146


Vì lễ Ngũ Tuần sắp đến nên Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Phục Sinh này đề cập đến Chúa Thánh Thần. Bài Đọc I và Tin Mừng trực tiếp đề cập đến Chúa Thánh Thần trong khi Bài Đọc II chỉ gợi ý.

Cv 15: 1-2, 22-29

Trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca tường thuật tầm quan trọng của Công Đồng Giê-ru-sa-lem khi phải giải quyết những mối quan hệ giữa người Ki-tô hữu gốc Do thái và người Ki-tô hữu gốc lương dân. Biểu thức kết luận nghị quyết của Công Đồng thật đáng chú ý: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”.

Kh 21: 10-14, 22-23

Thị kiến được miêu tả trong sách Khải Huyền là thị kiến về Giáo Hội thời Thiên Sai và thời các Tông Đồ, không cần Đền Thờ nữa, vì Giáo Hội là Giáo Hội của Đấng Phục Sinh. Những tín hữu đích thật phụng thờ Thiên Chúa trong “thần khí và sự thật”.

Ga 14: 23-29

Tin Mừng được trích từ Diễn Từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su. Khi sắp từ giả các môn đệ, Chúa Giê-su hứa xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến với họ. Ngài sẽ là Đấng Bảo Trợ của họ.

BÀI ĐỌC I (Cv 15: 1-2, 22-29)

Chương 15 sách Công Vụ thuật lại một giai đoạn mang tính quyết định trong lịch sử Giáo Hội. Giai đoạn này được đặt trước một hiện tượng mang chiều kích rộng lớn bao la: nhiều lương dân đón nhận Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội mỗi ngày mỗi thêm đông. Hiện tượng này gây nên một phản ứng mãnh liệt từ phía vài người Ki-tô hữu gốc Do thái: phải chăng Giáo Hội bị làn sóng những người Ki-tô hữu gốc Hy-lạp, Xy-ri-a và Síp tràn ngập, và biến mất khỏi bối cảnh văn hóa Do thái từ đó Giáo Hội được khai sinh?

Cuộc tranh luận, khởi đi từ An-ti-ô-khi-a, được trình lên các Tông Đồ và Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Một công nghị được triệu tập vào năm 49 và thường được gọi là “Công Đồng Giê-ru-sa-lem”. Bản văn trích dẫn hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất giới thiệu hoàn cảnh nẩy sinh Công Đồng Giê-ru-sa-lem (15: 1-2) và phần thứ hai tường thuật những nghi quyết của “Công Đồng” được trình bày theo hình thức Thư Chung (15: 22-29). Giữa hai phần này diễn tiến những cuộc tranh luận mà đoạn trích dẫn hôm nay không thể đưa vào đây, vì độ dài của nó, do khuôn khổ của một bài đọc Chúa Nhật. Để hiểu rõ hơn những nghị quyết tối hậu của Công Đồng, đối tượng của đoạn trích hôm nay, chúng ta phải tóm lược những tranh luận này. Công Đồng Giê-ru-sa-lem được định vị ở giữa sách Công Vụ, như đánh dấu khúc quanh của Giáo Hội: khởi đi từ giây phút này, Giáo Hội “chuyển sang lương dân”, hay ít ra “mở rộng đường cho lương dân đón nhận đức tin” (Bài Đọc I Chúa Nhật vừa qua).

1.Hoàn cảnh nảy sinh Công Đồng Giê-ru-sa-lem (15: 1-2)

Chung chung người ta ghi nhận vào năm 49 xảy ra một cuộc tranh luận tại An-ti-ô-khi-a mà thánh Lu-ca đặt ngay liền sau cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất, và đa số các nhà chuyên môn đồng hóa cuộc tranh luận này với cuộc tranh luận mà thánh Phao-lô kể ra trong thư gởi tín hữu Ga-lát (Gl 2: 1-10).

Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba không những đối đầu với những người Do thái cứng lòng tin trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất của mình, nhưng hai ngài còn phải tranh luận với những Ki-tô hữu gốc Do thái xuất thân từ phái Pha-ri-sêu, từ Giê-ru-sa-lem đến An-ti-ô-khi-a nữa. Những người Ki-tô hữu này đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân:  “Nếu anh em không chịu phép cắt bì, thì anh em không thể được cứu độ” (Cv 15: 1), nghĩa là phải trở thành Do thái giáo qua phép cắt bì rồi mới được phép trở thành Ki-tô hữu qua phép rửa. Theo họ, niềm tin vào Chúa Giê-su không thay thế Luật Mô-sê, đơn giản đức tin được thêm vào Luật Mô-sê.

Người ta hiểu những lời tuyên bố như thế gây hoang mang như thế nào trong các cộng đoàn kết nạp nhiều người Ki-tô hữu gốc lương dân mà không thông qua phép cắt bì, những người mà các nhà truyền giáo vừa mới tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc Phúc Âm hóa thế giới dân ngoại. Hơn nữa, luật không cho phép đồng bàn với người không cắt bì. Vậy làm thế nào có thể đồng bàn với các Ki-tô hữu không cắt bì khi tham dự nghi lễ Bẻ Bánh (bàn tiệc Thánh Thể)? Vào thời ấy lễ Bẻ Bánh được tổ chức như một bữa ăn đích thật.

Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba “chống đối ra mặt và tranh luận khá gay go với những người đó”. Cuối cùng, cộng đoàn An-ti-ô-khi-a “bèn quyết định cử ông Phao-lô và ông Ba-na-ba và vài người trong nhóm họ đi Giê-ru-sa-lem”. Thật đáng chú ý, những người Ki-tô hữu gốc lương dân này nhận ra quyền tối thượng của Hội Thánh Giê-ru-sa-lem và muốn đệ trình vấn đề của mình lên “các Tông Đồ và các kỳ mục”. Thánh Ép-ra-em nhận định: “Nếu không có sự đồng ý của các Tông Đồ, không ai tự ý thay đổi bất cứ điều gì mà các ngài chưa cho phép... Thánh Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem để giải quyết việc loại bỏ Lề Luật và phép cắt bì trước sự hiện diện của các môn đệ: nếu các Tông Đồ không ủng hộ thì thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba không thể nào loại bỏ chúng” (Armenian Commentary, ad loc.).

2.Những tranh luận tại Công Đồng Giê-ru-sa-lem (15: 5-21):

Trong Công Đồng Giê-ru-sa-lem, thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô tranh luận gay gắt với những người chủ trương Do thái hóa Ki-tô giáo. Hai ngài đã hiểu rằng vấn đề thật sự không đơn giản là phép cắt bì, nhưng thậm chí tương lai của Giáo Hội bị đặt ra trước một sự chọn lựa then chốt: hoặc hy sinh những Ki-tô hữu gốc lương dân vì tuân giữ nghiêm nhặt những quy định Do thái giáo, hay hy sinh những Ki-tô hữu gốc Do thái chủ trương nghiêm nhặt vì Giáo Hội mở rộng cửa đón nhận lương dân.

A-Diến từ của thánh Phê-rô (15: 7-12)

Thánh Phê-rô, thủ lãnh các Tông Đồ và Giáo Hội, lên tiếng đầu tiên. Dựa trên kinh nghiệm ở Xê-da-rê ở đó thánh nhân đã chứng kiến việc Chúa Thánh Thần xuống trên các lương dân (viên đại đội trưởng Rô-ma và gia quyến của ông), thánh Phê-rô công bố, theo biểu thức rất Phao-lô rồi, rằng ơn cứu độ do đức tin, cùng với ân sủng Chúa Giê-su. Vì thế, không nên “quàng vào cổ” những người Ki-tô hữu gốc lương dân này “một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi”. Cái ách này đó là luật Mô-sê cùng với tất cả những quy định của luật. Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba thuật lại những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện giữa lương dân trong cuộc hành trình truyền giáo của họ.

B-Diễn từ của thánh Gia-cô-bê (15: 13-21)

Tiếp đó, thánh Gia-cô-bê, thủ lãnh cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, hoàn toàn tán thành với thánh Phê-rô trên “nội dung” của vấn đề, nhưng đề nghị một sự dàn xếp trong những hình thức để những Ki-tô hữu gốc Do thái không cảm thấy mình bị thiệt thòi. Lời đề nghị của thánh Gia-cô-bê được gợi hứng từ các truyền thống hiếu khách đã được tuân giữ bao đời trong dân Ít-ra-en. Lề Luật truyền phải tiếp đón những ngoại kiều và những người nhập cư và ca ngợi lòng bao dung đối với những người này; bù lại, Luật yêu cầu những ngoại kiều và nhập cư được ân cần tiếp đón như thế phải tôn kính ngày sa-bát và tuân giữ vài quy định liên quan đến việc cưới hỏi và thức ăn. Thánh Gia-cô-bê lấy lại những quy định truyền thống hiếu khách này, nhưng giảm thiểu hết mức chỉ giữ lại bốn điều cấm: những Ki-tô hữu gốc lương dân không được ăn của cúng, ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết (đây là những điều mà người Ki-tô hữu gốc Do thái ghê tỡm nên không muốn đồng bàn với người Ki-tô hữu gốc lương dân). Sau cùng cấm gian dâm mà bất cứ nền văn hóa nào cũng lên án.

Như vậy các Ki-tô hữu gốc lương dân cảm thấy an lòng, vì Công Đồng không còn kể ra việc cắt bì như điều kiện tiên quyết nữa, nhưng chỉ đòi hỏi họ phải kiêng cử vài thức ăn để có thể đồng bàn với anh chị em Ki-tô hữu gốc Do thái. Về phía những Ki-tô hữu gốc Do thái, họ dễ dàng nhận ra ở nơi những kiêng cử này thật ra truyền thống đã đòi buộc những ngoại kiều sống ở Ít-ra-en phải tuân giữ. Bù lại, họ phải rộng mở tấm lòng đón tiếp tất cả những người Ki-tô hữu gốc lương dân, những anh chị em có chung niềm tin với họ.

Qua sự nhượng bộ đòi hỏi cả hai phía, thánh Gia-cô-bê hy vọng rằng nhờ đó Hội Thánh giữ được mối giao hảo hài hòa trong cuộc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và những Ki-tô hữu gốc lương dân, khi cả hai đều tôn trọng bản sắc văn hóa của nhau. Đây cũng là nguyên tắc chung cho các nhà truyền giáo sau này đến với các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau.

3.Thư Chung (15: 22-29)

Công Đồng nhất trí gởi Thư Chung cho các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc lương dân tại An-ti-ô-khi-a, miền Xy-ri và Ki-li-ki-a để trấn an họ. Thư Chung này chứa đựng những nghị quyết của Công Đồng theo thể loại thư tín vào thời đó khi bắt đầu: “Anh em Tông Đồ và kỳ mục chúng tôi gửi lời chào anh em gốc dân ngoại tại An-ti-ô-khi-a, tại miền Xy-ri và Ki-li-ki-a” (15: 23) và kết thúc: “Chúc anh em an mạnh” (15: 29). Thư Chung được trao gởi cho hai trong số các ngôn sứ có uy tín nhất trong Hội Thánh, ông Giu-đa và ông Xi-la.

Công Đồng trước tiên khiển trách những Ki-tô hữu Giu-đê, chỉ vì sáng kiến của riêng mình, gây nên tình trạng hoang mang trong cộng đoàn An-ti-ô-khi-a (15: 24); tiếp đó, ca ngợi lòng nhiệt thành tông đồ của thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba (15: 25-26), đây là cách thức công nhận đề tài về ơn cứu độ nhờ đức tin chứ không nhờ phép cắt bì. Hai ông Giu-đa và Xi-la được cử đi trình bày trực tiếp những nghị quyết của Công Đồng, nhưng chính Phẩm Trật Giáo Hội trình bày và công bố sắc lệnh khắp các miền có nhiều anh chị em Ki-tô hữu gốc lương dân.

Cuối cùng, Công Đồng kết thúc với lời quả quyết rằng: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”. Biểu thức này rất quý sẽ được những người kế vị thánh Phê-rô lập lại. Qua biểu thức này, Công Đồng ý thức rằng chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn những nghị quyết của các ngài và phân tích cho đến cùng chính Thiên Chúa đã quyết định vấn đề. Đồng thời, các Tông Đồ khẳng định quyền tối thượng của các ngài trong Hội Thánh. Quyền này các ngài nhận từ Đức Giê-su và được Thánh Thần trợ lực. Khi khẳng định rằng không áp đặt bất kỳ gánh nặng nào trên những Ki-tô hữu gốc lương dân, Công Đồng tuyên bố rằng người Ki-tô hữu gốc lương dân không bị đòi buộc cắt bì và tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng chỉ đòi buộc họ tuân giữ vài lệnh cấm chủ yếu liên quan đến thức ăn. Đường lối khôn ngoan của Công Đồng làm hài lòng cả những Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn những Ki-tô hữu gốc lương dân.

Tưởng nên nhắc lại rằng vấn đề thức ăn còn trầm trọng hơn vấn đề cắt bì, vì có liên quan đến việc đồng bàn. Những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn còn tuân giữ những điều cấm kỵ của Luật Mô-sê, họ không thể chia sẻ bữa ăn với những Ki-tô hữu gốc lương dân. Ở An-ti-ô-khi-a, hai cộng đoàn dùng bữa tách riêng ra. Vì thế, những quyết định của thánh Gia-cô-bê nhắm đến giải quyết vấn đề này, việc cùng ăn cùng uống với nhau là một yếu tố quan trọng để tạo nên một sự hiệp nhất giữa những Ki-tô hữu có những nguồn gốc khác nhau, nhất là cùng nhau tham dự lễ Bẻ Bánh.

BÀI ĐỌC II (Kh 21: 10-14, 22-23)

Chương 21 này, chương áp chót của sách Khải Huyền, tường thuật hai thị kiến. Thị kiến thứ nhất, chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật trước, miêu tả Giáo Hội khải hoàn, được sánh ví với một hôn thê điểm trang lộng lẫy chuẩn bị đón phu quân của mình là Đức Ki-tô trong một giao ước mới, hoàn hảo và vĩnh viễn.

Thị kiến thứ hai, chúng ta đọc hôm nay, miêu tả Giáo Hội của các Tông Đồ, nhưng nhấn mạnh rằng đây cũng là một Giáo Hội: Giáo Hội xuống từ trời, vì Giáo Hội này phát xuất từ Thiên Chúa và chói lọi ánh vinh quang Thiên Chúa. Những đặc tính của Giáo Hội này được gợi lên bởi nhiều hình ảnh nối tiếp, khá dễ dàng giải mã.

1.Một ngọn núi cao hùng vĩ:

“Trong một thị kiến, tôi là Gioan, tôi được thiên thần đem lên một ngọn núi cao hùng vĩ”. Trong Cựu Ước, thành thánh Giê-ru-sa-lem thời thiên sai được các ngôn sứ định vị trên một ngọn núi cao, biểu tượng của sự siêu việt như Is 2: 2: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên vững vượt đỉnh các non cao, vươn mình lên trên hết mọi ngọn đồi”; hay Ed 17: 22: “Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non; chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi”.

2.Giáo Hội chói lọi ánh vinh quang Thiên Chúa:

 Khía cạnh bên ngoài nổi bật nhất của Thành Thánh, chính là sự chói lọi ánh vinh quang Thiên Chúa. Trước đây cũng chính với viên đá quý chiếu sáng mà ngai Thiên Chúa được gợi lên: “Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vòng trông giống như ngọc bích” (Kh 4: 3). Ở thị kiến này, vinh quang của Thành Thánh được sánh ví với sự chiếu sáng của viên đá quí tuyệt vời, như vân thạch lưu ly. Điều này muốn nói lên sự thánh thiện của Giáo Hội và chỉ ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, điều này sẽ được củng cố ở câu sau cùng: “Thành chẳng cần đến mặt trời mặt trăng chiếu sáng: đã có vinh quang Thiên Chúa tỏa rạng, và Con Chiên là ngọn đuốc chiếu soi”.

3.Những đặc tính của Giáo Hội:

Việc miêu tả thánh thánh Giê-ru-sa-lem được gợi hứng từ ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Trong cảnh lưu đày ở Ba-by-lon, sau khi biết tin thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ bị phá hủy, ngôn sứ hình dung ra việc tái thiết thành thánh Giê-ru-sa-lem trong tâm trí của mình: thành sẽ hoàn hảo, nó sẽ vuông vức… (Ed 48). Thánh Gioan cũng miêu tả thành Giê-ru-sa-lem của các Tông Đồ vào lúc thành thánh không còn nữa, thành cũng như Đền Thờ đã bị quân đội Rô-ma tiêu hủy vào năm 70 sau Công Nguyên. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem đích thật từ nay là Giáo Hội. Giáo Hội này thì “phổ quát”: mở ra cho hết mọi dân nước, nó có các cửa ở bốn phương trời. Giáo Hội này là của các Tông Đồ: nền móng của nó có ghi tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên.

Giáo Hội này là dấu chỉ “sự hiện diện của Thiên Chúa” ở giữa lòng nhân loại (x. Ed 48: 35). Thiên Chúa hiện diện mà không còn cần đến Đền Thờ bằng đá, do tay người phàm xây dựng. Giáo Hội là Giáo Hội của Đấng Phục Sinh; đền thờ Thiên Chúa là “thân thể của Đức Ki-tô”. Thiên Chúa trực tiếp ngự giữa nhân loại. Đức Giê-su đã nói với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các ngươi thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem… những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4: 19-24).

Giáo Hội này còn là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa vì có “Con chiên là ngọn đuốc chiếu soi” như sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a: “Ánh sáng ban ngày của ngươi không còn là mặt trời nữa, và ban đêm, ngươi chẳng cần đến ánh trăng soi: Đức Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi ngươi, ánh huy hoàng của ngươi là Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 60: 19).

Viễn cảnh là thời cánh chung như phần cuối của sách Khải Huyền này, nhưng nó không chỉ là thời cánh chung. Đừng mất đi tầm nhìn về ý định của tác giả: khích lệ những Ki-tô hữu trong cơn thử thách. Sự hiện diện của Thiên Chúa đem lại sự yên lòng cho Giáo Hội chiến đấu. Đức Ki-tô – Con Chiên – đang sống ở bên cạnh các tín hữu của Ngài, trong các bí tích và qua ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.

TIN MỪNG (Ga 14: 23-29)

Chúng ta tiếp tục đọc và suy niệm Diễn Từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su với các môn đệ Ngài trong bữa Tiệc Ly. Chúa Giê-su sắp rời bỏ các ông mà ra đi, vì thế các ông xao xuyến và buồn phiền. Chúa Giê-su trấn an các ông khi loan báo cho các ông biết rằng sự hiện diện hữu hình của Ngài sẽ được nối tiếp với sự hiện diện vô hình của Ngài ở nơi sự hiện của Chúa Thánh Thần: Ngài là Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong đời sống nội tâm của các môn đệ; Ngài là Bậc Tôn Sư nội tâm khai lòng mở trí cho các môn đệ hiểu biết sâu xa về Chúa Giê-su; và Ngài là bình an và niềm vui mà Chúa Giê-su trao ban cho các môn đệ.

Thần học trong bản văn trích dẫn hôm nay rất đậm đặc vì mở ra cho thấy tác động ân sủng trong đời sống nội tâm của người Ki-tô hữu; cũng rất đậm đặc không kém vì ở đây tình yêu được nêu đích danh lần đầu tiên là căn nguyên của sự trung thành với Lời và là con đường dẫn đến Chúa Cha; còn đậm đặc hơn nữa khi gợi lên những hoa trái thần khí mà sự hiện diện của Thiên Chúa ở cùng các môn đệ đem lại cho họ ngay chính trong cuộc sống tại thế này.

1.Chúa Thánh Thần, Tình Yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong đời sống nội tâm của các môn đệ (14: 22-24):

Câu hỏi của ông Giu-đa: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (14: 22) giúp Chúa Giê-su khai triển sâu xa hơn chủ đề về Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị trong lòng của các môn đệ. Chỉ người nào bày tỏ tấm lòng yêu mến của mình đối với Chúa Giê-su bằng cách tuân giữ các điều răn của Ngài, người ấy sẽ được Chúa Cha yêu mến và “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (14: 23). Động từ “ở lại”, một trong những động từ chủ đạo của Tin Mừng Gioan, nhấn mạnh sự hiện diện thường hằng của Thiên Chúa trong đời sống “nội tâm” của người Ki-tô hữu. Như vậy, lòng mến mà Đức Giê-su đề cao tạo nên một chuyển động kép: bên ngoài thực hành những huấn lệnh Tin Mừng, bên trong tăng cường mối quan hệ với Đức Giê-su. Lúc đó người tín hữu mới có thể nghiệm được Chúa Cha và Chúa Con đồng hiện diện trong lòng mình. Đó là vai trò của Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con và hiệp thông tình yêu của các môn đệ với Tình Yêu Thiên Chúa: “Thật vậy, không thể đạt đến một sự hiểu biết trung thực nào về Mặc Khải Ki-tô giáo nếu không có tác động của  Đấng Bảo Trợ. Lý do là vì sự hiệp thông nơi Thiên Chúa luôn luôn hàm chứa mối quan hệ giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (“Verbum Domini”, 50).

2-Chúa Thánh Thần, “Bậc Tôn Sư” nội tâm khai lòng mở trí cho các môn đệ (14: 25-26)

Chúa Thánh Thần còn là “Bậc Tôn Sư” nội tâm khai lòng mở trí cho các môn đệ hiểu Chúa Giê-su: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14: 26). Với tư cách là Bậc Tôn Sư, Chúa Thánh Thần nhắc lại và khai lòng mở trí cho các ông để các ông hiểu cách thấu đáo những lời Chúa Giê-su đã nói và những việc Chúa Giê-su đã làm. Chính ở nơi vai trò này mà chúng ta tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần bảo vệ Giáo Hội khỏi sai lạc và gìn giữ Giáo Hội luôn luôn gắn bó một lòng một ý với Chúa Giê-su. Rõ ràng, các môn đệ sẽ phải cần đến sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần trong biến cố Hiện Xuống mới có thể nắm bắt được chiều sâu của sứ điệp này.

Ở đây, chúng ta chạm đến tuyệt đỉnh của Mặc Khải: Chúa Con mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa là Cha đầy lòng yêu thương, Đấng mà Chúa Con giữ mối quan hệ Phụ Tử độc nhất vô nhị. Ấy vậy, điều đáng chú ý chính là trong Tin Mừng Gioan, hễ khi nào Chúa Giê-su nêu lên mối quan hệ giữa Cha và Con, Ngài đều liên kết mối quan hệ này vào trong những viễn cảnh liên quan đến nhân loại (14: 20, 21, 23). Điều nầy muốn nói rằng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa, thay vì khép kín trong chính mình, tất yếu hướng về thụ tạo. Tất cả những gì Chúa Con lãnh nhận từ Chúa Cha, chính là để ban cho chúng ta, đó là “những của tốt lành” theo thánh Mát-thêu (7: 11), tức là “Thánh Thần” theo thánh Lu-ca (11: 13).

Vì thế, không gì phải ngạc nhiên khi thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô xem sự hiện hữu của Thánh Thần là “Ân Ban” trong chính mầu nhiệm Thiên Chúa, bởi vì Ngài là “Tình Yêu tận hiến cho nhau” trong mầu nhiệm Ba Ngôi: “Thánh Thần, theo Kinh Thánh, không chỉ là Thần Khí của Chúa Cha, cũng không chỉ là Thần Khí của Chúa Con, nhưng là của cả hai; chính vì thế Thánh Thần dạy cho chúng ta tình yêu chung nơi Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu mà qua đó hai Ngôi Vị yêu mến lẫn nhau” (De Trinitate XV, 17, 27). Với tư cách là Tình Yêu hiệp nhất trong Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần mà chúng ta lãnh nhận sẽ là nguyên lý hiệp nhất chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, như lời dạy của thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô: “Chính vì Ngài (Thánh Thần) là sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con nên các Đấng (Chúa Cha và Chúa Con) muốn chúng ta được hiệp thông với nhau và với các Ngài, nghĩa là bằng Thánh Thần, Đấng là Thiên Chúa và là Thiên Ân… Quả vậy, chính trong Thánh Thần mà chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa và tìm thấy nơi Người niềm hoan lạc… Nhờ Thánh Thần mà Dân Thiên Chúa được quy tụ lại trong hiệp nhất” (Sermon 71, 12, 18; 12, 19; 17, 28; 20, 33). Thánh Tô-ma lấy lại tư tưởng này và dành cho Chúa Thánh Thần một vai trò đặc biệt với hai danh xưng: “Tình Yêu” và “Ân Ban”. Theo thánh Tiến Sĩ Tô-ma, trong lịch sử Cứu Độ, chức năng của Chúa Thánh Thần là nối kết tất cả, đưa tất cả vào Tình Yêu Vĩnh Hằng, tức là sự Hiệp Thông Ba Ngôi.

Đức Gioan Phao-lô II nói về Chúa Thánh Thần là Tình Yêu Thiên Chúa trong Hiến Tế Thập Giá của Chúa Giê-su như sau: “Chúa Thánh Thần được mặc khải và hiện diện trong mầu nhiệm Thập Giá như là tình yêu hoạt động trong thâm sâu mầu nhiệm Thập Giá, chính Ngài là nguồn sức mạnh cứu độ của thập giá Đức Ki-tô, là ân huệ trao ban sức sống mới. Trong tột cùng đau khổ trên thập giá, Thánh Thần tình yêu đến với Chúa Giê-su và rồi từ trên thập giá, Chúa Giê-su đã trao ban Thánh Thần tình yêu đó” (“Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội và thế giới”).

3.Chúa Thánh Thần, bình an và niềm vui Chúa Giê-su trao ban cho các môn đệ (14: 27-29):

Sau khi đảm bảo tối hậu với ân ban Chúa Thánh Thần, Chúa Giê-su hứa Ngài để lại cho các môn đệ sự bình an của Ngài, hay lời từ biệt (“shalom”) của Ngài: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (14: 27a). Thật là mâu thuẩn biết bao, “bình an” được công bố bởi một người sắp phải đối mặt với những xao xuyến tận mức. Tuy nhiên, Chúa Giê-su xác định bình an mà Ngài ban cho các môn đệ không theo kiểu thế gian (14: 27b), nhưng là bình an của Ngài, đó là sự bình an được đảm bảo ở nơi việc trao ban Chúa Thánh Thần vào buổi chiều Phục Sinh khi mà Chúa Giê-su nói: “Bình an cho anh em. Hãy đón nhận Chúa Thánh Thần” (Ga 20: 21-22). Đây là bình an nội tâm, xuất phát từ tình sâu nghĩa nặng của Ngài với Cha Ngài. Chính từ mối tâm giao này mà Chúa Giê-su trao ban bình an cho các môn đệ Ngài, bình an mà Ngài đã đạt được sau khi đã vâng phục tận mức tình yêu của Chúa Cha đối với nhân loại cho đến bằng lòng chịu chết để trở nên nguồn sống cho nhân loại. Vì thế, sự bình an này không thể làm cho các môn đệ xao xuyến khi Chúa Giê-su trở về với Chúa Cha, bởi vì chỉ sau khi Ngài trở về Chúa Cha, tức việc Ngài được tôn vinh, lúc đó Ngài mới có thể trao ban cho các môn đệ sự bình an đích thật của Thiên Chúa, tức là Chúa Thánh Thần. Đây là lời chứng gây xúc động nhất, như lời của thánh Phao-lô trong thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê: “bình an của Thiên Chúa vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4: 7).

Vì thế, Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha” (14: 28b). Đây cũng thật nghịch lý biết mấy, niềm vui mà Ngài mời gọi các môn đệ Ngài, những người sắp phải tuyệt vọng tận mức khi chứng kiến cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, lại là niềm vui được định vị ở trung tâm lập luận: vui vì sau khi Chúa Giê-su trở về cùng Chúa Cha, Ngài sẽ hiện diện với các môn đệ theo cách thế hiện diện mới của Ngài trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, một sự hiện diện mật thiết đến độ không một không gian và thời gian nào có thể ngăn cản Ngài hiện diện với các môn đệ.

Nhưng Chúa Giê-su biết rõ rằng vào lúc này niềm vui hiện ở ngoài tầm tay của các môn đệ Ngài; vì thế để khích lệ họ, Ngài lập lại lời hứa Ngài sẽ trở lại: “Anh em đã nghe Thầy bảo: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’”. Ngài sẽ nhắc lại lời hứa này một ít lâu sau đó: “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em; không ai lấy mất được” (Ga 16: 22). 

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

----------------------------

 

PS 6-C147: BÌNH AN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH !

 

Bình an Chúa ban là một trật tự đặt dưới quyền bính tối cao, đầy nhân ái. Thực vậy, khi ông PS 6-C147


Bình an Chúa ban là một trật tự đặt dưới quyền bính tối cao, đầy nhân ái.

Thực vậy, khi ông A-đam và bà E-và không muốn đặt mình dưới quyền Thiên Chúa toàn năng và nhân ái, thì đời sống của họ mất bình an: “Gai góc mọc lên, họ sợ hãi mỗi khi nghe tiếng Chúa, nên trốn chạy !” (x St 3,10.18)

             Đức tin Công Giáo dạy rằng trên đời này không ai mạnh và nhân ái bằng Chúa Giê-su Phục Sinh, vì cả quyền bính đạo (Do thái giáo) và đời (đế quốc Roma) hợp với quyền lực ma qủy muốn chôn vùi Ngài xuống lòng đất (x Lc 4,13). Nhưng Ngài đã sống lại để trở thành nguyên nhân cứu độ duy nhất cho cả cho tất cả những ai nhờ danh của Ngài (x Cv 4,12). Mà chỉ có Ngài mới đem bình an đích thực cho ai muốn ở dưới bàn tay che chở của Ngài, một bình an khác hẳn với mọi thứ bình an của thế gian.

             Ta hãy so sánh bình an của thế gian ban với bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh ban.

1- Khi thủ lãnh loài người ở cùng ta
1* Khi Chúa ở cùng ta.

2- Dựa trên sức mạnh chính trị, vũ khí, kinh tế.
2* Dựa trên sự toàn năng của Thiên Chúa và lòng nhân ái của Ngài.

3- Diệt đối kháng.
3* Biến dữ ra lành.

4- Gía trị nhất thời ở đời này.
4* Gía trị vượt thời gian, tồn tại đời đời.

5- Chỉ nhằm cho thân xác ta được bình an.
5* Luôn luôn cho  tâm hồn ta được bình an
            
Như thế lý do bình an đích thực Chúa ban cho ta trước nhất phải là Chúa ở cùng ta. Thành ngữ “Chúa ở cùng ta” chỉ có trong Tin Mừng Nhất Lãm (x Mt 28,20 ; Lc 1,28 ; Mc 16,20). Trong Tin Mừng Gioan không có thành ngữ này. Nhưng ông Gioan ghi lại Lời Đức Giê-su: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23: Tin Mừng). Lời này Đức Giê-su muốn nhấn mạnh: ai yêu mến Chúa thật để được Chúa ở cùng, người ấy phải nghe và thực hành Lời Chúa. Nhất là thực hành hai di chúc Đức Giê-su để lại:

-         Khi rửa chân cho các môn đệ, Ngài nói: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13,34).

-         Lúc lập Bí tích Thánh Thể, Đức Giê-su tha thiết nói: “Này là mình Thầy, anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11,24). Đây là “lễ Vượt Qua của Thầy, mà Thầy hằng ước ao ăn với anh em” (x Lc 22,15).

 1/ THỰC HÀNH DI CHÚC THỨ NHẤT:

Yêu mến đồng loại như Chúa yêu ta (x Ga 13,34). Cụ thể là loan báo Tin Mừng cho hết mọi loại người, không phân biệt Do-thái hay dân ngoại, ai tin Chúa Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất, thì ban Thánh Tẩy cho họ, lúc đó ta phải coi mọi người là anh em con một Cha trên trời. thời Giáo Hội sơ khai, có lần mất bình an, trong cộng đoàn cãi lộn nhau chỉ vì còn phân biệt Do-thái và dân ngoại. Kể cả các môn đệ Đức Giê-su, lúc đầu cũng chỉ rao giảng Tin Mừng cho dân Do-thái và ban Thánh Tẩy cho giới cắt bì. Nhưng giới này có nhiều người khước từ, ông Phao-lô là người đầu tiên rao giảng cho dân ngoại, ông thấy dân ngoại đón nghe Lời Chúa cách quảng đại hơn dân Do-thái, ông đã ban Thánh Tẩy cho họ, dù họ chưa cắt bì. Sự việc này càng gây bất hòa trong cộng đoàn. Nhưng nhờ ơn Chúa soi sáng cho ông Phê-rô qua thị kiến ông thấy lúc đang cầu nguyện: một chiếc khăn túm bốn góc từ trời xà xuống trước mặt ông, trong đó có nhiều con vật dơ, Chúa bảo ông cứ giết mà ăn (x Cv 11). Lúc đó ông hiểu rằng Chúa muốn ông cứ rao giảng Lời Chúa cho dân ngoại, và nếu họ tin vào Chúa thì không cần phải cắt bì mà ban Thánh Tẩy cho họ ngay. Việc này các Tông Đồ đã ra quyết định trong Công Đồng chung ở Giê-ru-sa-lem, và đưa thư đọc cho những người Do-thái ở Antiokia nghe: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác, ngoài những điều cần thiết này là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn máu, không được gian dâm” (Cv 15,1-2.12-29: Bài đọc I).

Vậy các Tông Đồ không tự ý bỏ Luật cắt  bì, mà do  Thánh Thần hướng dẫn các ngài. Còn việc kiêng đồ cúng, không ăn máu huyết, lúc ấy còn giữ, vì nó không ngăn cản việc ban Thánh Tẩy, và có ban Bí tích Thánh Tẩy cho dân ngoại,  mới xứng lời cầu của ta: “Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67/66,4: Đáp ca). Và như thế là Hội Thánh đã ban bình an của Chúa Phục Sinh cho hết mọi loại người trên thế giới. Nhất là cộng đoàn dân Chúa thời Giáo Hội sơ khai được hiệp nhất trong một đức tin này, sống bình an không còn bất hòa như trước.

2/ ĐỂ THỰC HÀNH DI CHÚC THỨ HAI:

“Này là mình Thầy, anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11,24). Đây là “lễ Vượt Qua của Thầy, mà Thầy hằng ước ao ăn với anh em” (x Lc 22,15).
Có năm chứng từ dựa vào  mạc khải dạy chúng ta cách thực hành Di Chúc thứ hai này

a- Xưa Adam, Eva mất bình an vì ăn quả cấm (x St 3,3.6). Nay ta muốn được bình an, ta phải đến dự tiệc Thánh Thể để ăn “Quả lòng Bà” (x Lc 1,42- Bản dịch NTT), chính là ăn Chúa Giê-su Phục Sinh, Con Mẹ Maria.

b- Chúa Giê-su Phục Sinh không ban bình an cho những người gặp Ngài ở cửa mộ như bà Maria Madalena (x Ga 20,11-18), như  hai môn đệ về làng Emmau (x Lc 24,13-24), như các Tông Đồ đi đánh cá về (x Ga 21, 1-19). Mà Ngài chỉ ban bình an cho cộng đoàn những người Ngài tuyển chọn đang hội họp nhau trong đêm Chúa nhật (x Ga 20,19.21.26), đó là cộng đoàn tiên khởi đang dâng Lễ.

c- Chỉ khi ta đến dự Lễ, ta mới được cả Ba Ngôi Thiên Chúa ở cùng, dù ta thấy Linh mục dâng Lễ, nhưng ta phải tin là Chúa Giê-su dâng Lễ (x 1Cr 11,24-25). Trong Thánh Lễ, Linh mục nói chính là Chúa Giê-su nói (x Dt 1,1-2), Linh mục làm chính là Chúa Giê-su làm như Chúa Cha, vì Ngài đã nói:

    * “Con không làm điều gì tự mình, nhưng mọi sự đều đã thấy Cha làm, điều gì Cha làm Con làm như thế” (Ga 5,19).

    * “Cha Thầy dạy Thầy sao, Thầy nói như vậy (Ga 12,50).

    * “Cha Thầy truyền dạy Thầy thế nào, Thầy làm đúng như Lời Cha dạy” (Ga 14,31).

    * “Mọi sự của Con đều là của Cha, và của Cha cũng là của Con” (Ga 17,10).

    * “Chúa Thánh Thần làm Thầy vinh hiển, vì Ngài lấy của Thầy mà ban cho anh em”  (Ga 16,14).

    * “Chúa Thánh Thần là Đấng Chúa Cha sai đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy anh em mọi sự và sẽ nhắc nhở cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).

    * “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9).

    * “Thầy và Cha Thầy là một” (Ga 10,30).          

Vậy khi ta được Ba Ngôi Thiên Chúa ở cùng, Ngài trao cho ta một sứ mệnh vượt khả năng, và Ngài giúp ta thành công hơn lòng mong ước. Cụ thể như ông Mô-sê là kẻ đang trốn tránh quyền lực đế quốc Ai-cập, thế mà Chúa bảo ông về nói với vua Ai-cập để ông dẫn dân Do-thái thoát nô lệ Ai-cập về đất Chúa hứa, và ông đã dẫn dân ra đi bình an, chỉ vì Chúa đã nói với ông: “Ta ở cùng ngươi” (Xh 3,12t) ; cũng như Đức Ma-ri-a chỉ là cô gái nhà quê Nazareth không sống đời vợ chồng, vậy mà Đức Ma-ri-a được sinh Con Thiên Chúa vào đời để cứu nhân loại, chỉ vì thiên thần nói với Đức Ma-ri-a: “Chúa ở cùng Bà” (x Lc 1,28). Và vì Chúa luôn ở cùng Mẹ, nên Mẹ vẫn bình an đứng nhìn Con chết treo trên thập giá, nhờ Mẹ đã đặt tin tưởng nơi Chúa (x Ga 19,25t).

d- Sau Tử Nạn, Chúa Giêsu về Trời cùng Chúa Cha, mọi gối đều phải quỳ bái lạy và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa và làm vinh hiển Thiên Chúa Cha (x Pl 2,9-11).

Do đó, khi ta dự Lễ lúc Linh mục đọc lời truyền phép Mình và Máu Chúa Ki-tô, mọi người phải quỳ xuống bái lạy và tuyên xưng Chúa Giê-su đã chết và sống lại, Ngài là Thiên Chúa, mọi người sau khi dự Lễ về phải loan truyền Tin Mừng Đức Ki-tô Giê-su đã chết và sống lại cho đến ngày cánh chung Ngài trở lại. Như thế ta tin rằng, Chúa Giê-su trên Trời đang hiện diện trên bàn thờ, nơi đây ta được lãnh nhận bình an của Ngài, qua ba lần chủ tế chúc bình an cho cộng đoàn trong mỗi Thánh Lễ.

e- Chúa Giê-su Phục Sinh không đến với toàn dân, mà

    * Ngài chỉ đến với những người đã từng ăn từng uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại (x Cv 10,41). Đây là những người làm cho Chúa Giê-su được thỏa mãn, vì Ngài khao khát ăn lễ Vượt Qua của Ngài (Thánh Lễ) với những người Ngài tuyển chọn (x Lc 22,15).

    * Ngài cũng chỉ đến với những người đã từng theo Ngài từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem (x  Cv 13,31). Đó là những người đi chung đường truyền giáo với Ngài, khởi đi từ Ga-li-lê tiến về Giê-ru-sa-lem (bị giết), đây là hiến tế mới thay cho hiến tế chiên cừu của Do-thái giáo. Mà ai đi chung đường truyền giáo với Chúa Giê-su, chính là đi loan báo Tin Mừng, thì luôn luôn phát sinh sự bình an cho người đón nhận, bằng không sự bình an trở lại với người rao giảng (x Mt 10,13)

Vậy lúc Linh mục dâng Lễ là ta tin cả Ba Ngôi Thiên Chúa dạy và làm (x Dt 1,2), đó là lúc Chúa tỏ cho ta biết trọn vẹn về Ngài, Ngài là Đấng sung mãn mọi điều thiện hảo, nên Ngài ban cho chúng ta hết ơn này đến ơn khác (x Ga 1,16).

Vì thế ông Philiphê nói: “Xin Thầy tỏ cho chúng con được thấy Chúa Cha, như thế là chúng con được mãn nguyện” (Ga 14,8).

Vậy qua Bí tích Thánh Thể, ta được kết hợp với Chúa Giê-su Phục Sinh, việc làm của ta mới là việc của Thiên Chúa có giá trị vĩnh cửu, không ai có thể phá hủy, kẻ nào phá sẽ chuốc họa vào thân (x Cv 5,39). Nếu ta không kết hợp với Chúa Giê-su để làm việc, thì việc đó chỉ là việc loài người, trước sau sẽ ra tro bụi, không có giá trị cứu độ (x Cv 5,38).

Phải xác tín rằng ta được Chúa Ba Ngôi ở cùng khi dự Lễ, ta trở thành người cao cả hơn ông Gioan Tẩy Giả, dù ông là người cao cả nhất trong những người do người nữ sinh ra (x Mt 11,11). Bởi vì ta đã được nên một trong Chúa Giê-su đang vinh hiển ngự bên hữu Cha trên trời. Đức Giê-su cho ta biết rằng khi Ngài chưa về cùng Chúa Cha, Ngài còn trên dương thế, Ngài tự hạ mình như một phàm nhân (x Pl 2, 6-9), thì Ngài không cao trọng bằng Chúa Cha (x Ga 14,28: Tin Mừng). Nhưng khi Chúa Giê-su Phục Sinh về với Cha trên Trời, thì Ngài vừa là “Đền Thờ của Thánh Thánh Giê-ru-sa-lem trên Trời, vừa là đèn soi chiếu trên Thành Thánh, chói lọi vinh quang Thiên Chúa, Thành này có tường rộng và cao, với 12 cửa do 12 Thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên 12 chi tộc con cái Israel. Phía đông có ba cửa, phía bắc có ba cửa, phía nam có ba cửa, và phía tây có ba cửa. Tường thành xây trên 12 nền móng, trên đó có tên 12 Tông Đồ của Con Chiên” (Kh 21, 10-14.22-23: Bài đọc II).

            Nói tắt: Chúa Giê-su Phục Sinh là Đấng Cứu Độ duy nhất của Thân mình Ngài là Hội Thánh.

 Truyện kể:

    Thượng tọa Thích Nhất Hạnh – một vị sư có tài giảng thuyết rất nổi tiếng ở hải ngoại. Trong một lần thuyết pháp ông đã kể câu chuyện sau:

   Ngày nọ, đức Phật bận việc trong nhà, sai đệ tử là Annada gác cổng, để đề phòng quỷ sứ đến quấy rầy. Thình lình ác thần Mara xuất hiện, muốn gặp đức Phật, đệ tử Annada mắng:

- Đồ khốn kiếp, đức Phật đã đập cho ngươi những đòn chí tử ở gốc cây bồ đề mà ngươi vẫn chưa tởn sao, lại không biết xấu hổ còn đến đây làm gì, cút đi! Đức Phật thù ghét ngươi lắm !

            Thần dữ Mara cười sặc sụa và nói:

            - Té ra sư phụ ngươi vẫn còn nuôi lòng thù ghét à ?!

            Annada biết mình nói lỡ miệng, vì có bao giờ đức Phật nói thù ghét ai đâu, nên Annada đuối lý, vội vào tâu với đức Phật:

            - Thưa Thầy, tên khốn kiếp Mara muốn được gặp Thầy.

            Annada thầm nghĩ thế nào Thầy mình cũng từ chối khéo: Ta đang bận việc không tiếp ai được. Nhưng thật ngạc nhiên, Ngài lại tỏ ra hớn hở như gặp một vị thượng khách. Ngài mau mắn đón Mara vào với đầy vẻ cung kính và hỏi:

            - Sao bạn, kỳ này làm ăn có khá không?

            Nhưng Mara không thèm trả lời. Đức Phật bảo Annada pha trà mời khách, Annada tỏ vẻ không vui, nhưng vì vâng lời Thầy, anh không dám cãi lại.

            Khi mang trà ra mời khách, Manada nghe Mara than với đức Phật:

            - Làm ăn khá thế nào được! Lúc nào tôi cũng muốn phát điên lên: nói thì phải nói dối, làm thì phải làm ác cho kẻ khác, lại còn nghe đầy tớ tôi cứ hay bàn chuyện nhân ái, tha thứ, yêu thương…! Tôi chỉ muốn được thoát ra khỏi kiếp  này, để thành Phật như ông!

            Nghe Mara nói thế, đức Phật tỏ ra rất cảm thông, Ngài nói:

            - Bạn tưởng tôi là Phật sướng lắm sao? Các đồ đệ của tôi lợi dụng tôi xây chùa, tạc hình tôi cho chúng sinh đến cúng bái, khuyến khích chúng sinh dâng nhiều lễ vật: nào gà, nào xôi…, ôi thì đủ thứ… nhưng nào tôi có ăn đâu. Chúng đem về nhà chúng hết! Rõ ràng chúng lợi dụng tôi để làm giàu! Còn tôi phải ngửi khói nhang cứ bay thọc vào mặt, vào mũi, nên da tôi giống da bò thui, mũi tôi như hai ống khói, miệng tôi thì khói bám thâm đen!!

            Nghe tôi nói thế, bạn còn muốn làm Phật nữa không?!

            Rõ ràng quỷ đã mất bình an, mà cả đến đức Phật cũng than thở không được an lòng.

   Nhưng chỉ duy những ai đến với Chúa Giê-su, mới được Ngài thực hiện lời đã hứa: “Thầy để lại bình an cho anh em, bình an của Thầy ban không như thế gian ban,  lòng anh em đừng xao xuyến !”   (Ga 14,27).

 THUỘC LÒNG.

             Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. (Ga 14,27)
 
http://phaolomoi.net
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh

----------------------------

 

PS 6-C148: Ai yêu mến Thầy


Lời Chúa: Đức Giêsu nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14,23)

Suy niệm:

 

Giờ phút Chúa Giêsu từ biệt các môn đệ để đi vào cuộc Thương Khó thật bùi ngùi cảm động. Những PS 6-C148


Giờ phút Chúa Giêsu từ biệt các môn đệ để đi vào cuộc Thương Khó thật bùi ngùi cảm động. Những lời căn dặn đầy yêu thương, những lời trăn trối thật chí tình: “Yêu mến Thầy,… giữ lời Thầy… Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại…” Chúa Giêsu muốn kết hợp gắn bó với các môn đệ như “Cha Thầy và Thầy là một.” Để tiếp tục ở lại dù có phải ra đi, Chúa Giêsu có giải pháp “sai Đấng Bảo Trợ” để “giúp anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Chúa cũng yêu cầu các môn đệ, những người được Chúa yêu, đừng nói suông mà hành động cụ thể: “Ai yêu mến Thầy thì vâng giữ lời Thầy,” như thế “Cha Thầy và Thầy” mới có thể “đến và ở lại”.

Mời Bạn: Thầy Giêsu cũng gởi đến với chúng ta những lời tâm tình đó. “Tình yêu đáp đền tình yêu,” Chúa muốn chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài. Chúng ta cũng phải dám sống, dám chết với vị Thiên Chúa của mình đã dám chết vì yêu thương chúng ta. Để sống trong tương quan với Chúa, bạn cố “giữ đạo” như một việc bó buộc mà bạn chỉ làm cho vừa đủ, hay bạn sống với Chúa với tâm tình của người con thảo, với tính cách của người bạn thân ?

Sống Lời Chúa: Làm một việc tốt tự nguyện (việc hy sinh, bác ái, hay việc đạo đức…) để bày tỏ tình yêu của mình với Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha hiền của chúng con, chúng con nguyện sống với Chúa trong tâm tình người con thảo, “lấy tình yêu đáp lại tình yêu, lấy sự sống đáp đền sự sống, để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến hết hơi, cho đến trọn đời”. (Chân phước Anrê Phú Yên)

(Trích từ: www.5phutloichua.net)

----------------------------

 

PS 6-C149: “Thầy để lại bình an cho anh em”


SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH, NĂM C, CỦA LM GIUSE NGUYỄN VĂN NAM

April 25, 2016    Suy Niệm Lời Chúa, Tiêu Điểm 1,124 Views

 (Cv 15, 1-29; Kh 21, 10-23; Ga 14, 23-29)

Tin mừng Gioan Ga 14, 23-29:

Khi ấy Đức Giêsu nói rằng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin”.

Suy niệm:

 

Bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay trong bối cảnh vào đêm trước ngày Chúa Giêsu chịu chết. Ngài PS 6-C149


Bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay trong bối cảnh vào đêm trước ngày Chúa Giêsu chịu chết. Ngài nhìn thấy sự sợ hãi âu lo, buồn sầu và bất an trên khuôn mặt các tông đồ. Ngài nhìn thấy một viễn tượng đầy gian nan khó khăn và nguy hiểm đang chờ đón họ, khi họ bước vào một thế giới đầy thù nghịch để loan báo Tin mừng cứu độ cho muôn dân. Đức Giêsu đã an ủi, khích lệ các tông đồ bằng những lời thân tình: “Anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi”.

Nội dung bài Tin mừng gồm 3 điểm chính:

– Lòng yêu mến đối với Đức Giêsu được biểu lộ qua việc tuân giữ các lời giáo huấn của Chúa. Tình mến này có tính tương tác với Ba Ngôi Thiên Chúa: Yêu mến Đức Giêsu là yêu mến Chúa Cha, Chúa Thánh Thần. Ba ngôi sẽ ngự nơi tâm hồn những ai tuân giữ lời Thiên Chúa. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy…”.

– Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ sẽ dạy dỗ, hướng dẫn và làm cho các tông đồ thấu hiểu giáo lý của Chúa Giêsu.

– Bình an của Đức Kitô sẽ đến với các tông đồ:

“Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.

Chúng ta suy niệm và tìm hiểu sự bình an của Đức Giêsu hứa ban cho các tông đồ và cho mỗi người chúng ta.

Bình an tiếng Do thái là Shalom, ân huệ, phúc lộc lớn lao mà ai cũng mong ước, là khát vọng của con người. Ai cũng muốn được an vui hạnh phúc. Khi đi xa người ta thường chúc nhau “thượng lộ bình an” đi xa về mà không bị tai nạn, người ta bảo tôi về nhà bình an. Người ta mua bảo hiểm nhân mạng, bảo hiểm y tế, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm xe… Tất cả đều nói lên khát vọng của con người là muốn an lành, bình an, hạnh phúc trong cuộc sống gia đình cũng như xã hội.

Đức Giêsu phân biệt hai loại bình an:

– Bình an theo lối thế gian là đời sống thoải mái, mạnh khỏe, giàu sang, phú quý, ổn định cuộc sống… Hòa bình là vắng bóng chiến  tranh, không có giặc giã.

– Bình an của Chúa Giêsu ban là sự an lành trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác. Bình an là tình trạng thoải mái, an vui của một tâm hồn sống trong tương quan hài hòa với Chúa và với anh em! Đó là sự bình an đích thực. Sự bình an đặt nền tảng trên tình thương và sự công chính. Thực tế cho thấy không thể có bình an cho kẻ dữ, người gian ác, tội lỗi, người bất lương. Lương tâm họ luôn bị cắn rứt, dày vò như kẻ sát nhân, chẳng hạn như trường hợp Cain giết Abel.

– Có những người luôn sống bình an giữa bao thăng trầm sóng gió của cuộc đời như ông Gióp có sự bình an, khi ông gặp gian khổ, tai họa trong đời “Chúa cho, Chúa lại lấy đi, xin chúc tụng Chúa. Mình biết đón nhận những ơn lành của Chúa, tại sao những điều dữ lại không biết đón nhận”.

– Thánh Phaolô, thánh Phêrô bị bắt bớ, tra tấn, tù đầy… Các ngài luôn có sự bình an trong tâm hồn “Chúng tôi vui mừng vì được chịu bách hại vì danh Đức Giêsu Kitô”.

– Các Thánh Tử Đạo Việt Nam rất hạnh phúc và an bình khi bị đưa ra pháp trường hành hình. Các ngài còn ao ước được chết tử vì đạo để được về thiên đàng như thánh Phêrô Cao đã cầu nguyện: “Xin cho con chịu đau khổ vì danh Đức Giêsu Kitô, được đón nhận nghành lá tử đạo để về tới thiên đàng”. Như thế, bình an trong tâm hồn là hệ quả của việc chiếm hữu Nước Trời” (Tv 85, 11; 119; 165).

Trong triều đình nhà vua kia, có hai họa sĩ tài ba, nhưng luôn đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết dứt khoát ai trong hai là người giỏi nhất”. Vậy hai người vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài là “bình an”. Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại đem theo bức họa của mình trình lên đức vua.

Bức họa của người thứ nhất vẽ một quang cảnh thơ mộng: đồi núi nhấp nhô bao quanh một hồ nước rộng lớn, mặt nước phẳng lặng, không gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thoát, thoải mái. Xem xong, nhà vua nói: “Bức họa đẹp nhưng nó làm ta buồn ngủ quá”.

Bức họa của người thứ hai là một thác nước. Hình ảnh rất sinh động như nghe được tiếng thác nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói:

– Đây, đâu phải cảnh bình an.

– Xin bệ hạ nhìn kỹ chút nữa

Vua khám phá thấy một cành cây nép mình sau thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nủa mở. Chim mẹ bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này, nó đã chuyển tải được ý tưởng độc đáo về bình an”. Sống bình an giữa những xáo trộn của cuộc đời. Vua đã tôn vinh họa sĩ này là họa sĩ tài giỏi nhất triều đình.

Chỉ có sự bình an đích thực khi con người sống tương quan hài hòa với Chúa và anh em trong tình mến chân thành và tuân theo lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Chỉ có tình yêu thương mới đem lại bình an thực sự cho con người.

Lm Giuse Nguyễn Văn Nam

----------------------------

 

PS 6-C150: Chúa Nhật VI Phục Sinh Năm C


( Ga 14, 23-29 )

 

Khi ngồi vào bàn cùng các môn đệ vào chiều thứ năm Tuần Thánh, biết trước những gì sẽ PS 6-C150


Khi ngồi vào bàn cùng các môn đệ vào chiều thứ năm Tuần Thánh, biết trước những gì sẽ xảy đến, và bữa tiệc nầy là bữa tiệc ly biệt, Chúa Giêsu đã tâm sự với những người thân yêu về việc ngài sẽ ra đi. Ra đi, nhưng ngài vẫn hiện diện giữa các ông. Một sự hiện diện vô hình; tuy không trông thấy, nhưng lại rất gần gũi; tuy có vẻ xa cách, nhưng lại rất thân tình, yêu mến.

Thực vậy, rõ ràng là các môn đệ sẽ không còn nhìn thấy ngài nữa. Họ phải sống mà không có sự hiện diện hữu hình của ngài. Từ nay trở đi, các ông đừng có vội vàng tin tưởng những ngưới lớn tiếng tự cho mình là Đức Kitô tái nhập thể, bởi vì ngài ra đi thực sự.

Rõ ràng là các môn đệ cảm nghiệm được sự thiếu vắng ngài thực sụ. Các ông mong muốn lại được nhìn thấy ngài, chiêm ngưỡng trong đôi mắt ngài tất cả tình yêu của Thiên Chúa Cha. Nhưng đó là chuyện của đời sau.

Rõ ràng là Chúa ra đi thực sự. Ngài nhường chỗ cho các môn đệ. Những gì mà các ông phải làm, ngài sẽ không đến làm thay các ông. Ngài tín nhiệm các ông, và tôn trọng sự tự lập của mỗi người trong các ông. Là người đầu tiên trong cộng đoàn nhân loại trở về cùng Thiên Chúa Cha, ngài vạch mở con đường, chuẩn bị chỗ ở vĩnh viễn cho các môn đệ. Rồi ngài sẽ trở lại đưa dẫn tất cả vào Nước Trời trong niềm vui bất tận, vô biên. Lúc bấy giờ, tất cả sẽ vui hưởng hạnh phúc với ngài.

Ngài ra đi, thế nhưng, đồng thời rõ ràng là ngài vẫn ở lại bên cạnh các môn đệ. Một sự có mặt vô hình, nhưng rất sâu sắc, do tình yêu. Ngài hiện diện trong tâm hồn những ai tin tưởng và đón tiếp ngài. Nói khác đi, ngài luôn luôn có mặt với những ai yêu mến ngài. Tình yêu không bao giờ ép buộc, không bao giờ cưỡng chế, ngăn cách. Đó là một kinh nghiệm mà chúng ta vẫn thường thấy trong tình yêu nhân loại đời thường. Luôn luôn có một thứ hiện diện huyền nhiệm, rất nội tâm, của một con người được yêu mến, mặc dù “vắng mặt” một cách thể lý. Những ai làm cha làm mẹ, làm con cái trong gia đình, là bạn hữu, là người yêu, là vợ chồng của nhau… chắc chắn đã cảm nghiệm được sự hiện diện rất thân thương nầy, cho dù phải xa cách nhau nghìn trùng, dịu vợi. Như thế, khi than phiền về sự vắng mặt và sự thinh lặng của Thiên Chúa, biết đâu đó lại là dấu chỉ cho thấy, chúng ta thiếu tình yêu đối với ngài ?-

Đồng thời, Chúa còn hiện diện đối với những ai trung thành với Lời Chúa. Đó là cách hiện diện vô hình thứ hai của Chúa. Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy điều đó là rất thực. Bởi vì, làm thế nào mà những người yêu thương nhau thực sự lại không lắng nghe nhau, không có đối thoại, không có hiệp thông với nhau. Không có gì tồi tệ hơn khi không biết nghe nhau, khi không biết nói với nhau. Vì thế, một trong những mấu chốt chính yếu  của đời sống người kitô hữu, chính là việc suy gẫm Lời Chúa, như là một thứ bí tích, một dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Chúng ta không thể gặp gỡ Chúa Giêsu bằng xương, bằng thịt, không có thể tiếp xúc đụng chạm bằng giác quan. Thế nhưng, đối với những ai yêu mến ngài, thì rõ ràng là có thể học biết tư tưởng của ngài được viết trong Phúc Am, có thể hiệp thông với những công trình của ngài, khi láng nghe tiếng ngài nói trong Tin Mừng.

Thiết tưởng cũng nên nhớ rằng, Chúa Giêsu không chỉ nói những lời để được tiếp thu một cách trí thức suông, nhưng là những lời mà chúng ta sống trung thành, nghĩa là những lời được đem ra thực hành, những lời một khi được sống cụ thể sẽ làm cho người khác nhận ra sự hiện diện của ngài. Mà trung thành với Lời của Chúa, cụ thể là tuân giữ điều răn mới là: “các con hãy yêu thương yêu nhau như chính Thầy đã yêu thương các con”. Nói khác đi, dấu chỉ đầu tiên về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người, chính là tình yêu huynh đệ cụ thể, thiết thực và hiệu quả. Như thế, Chúa vẫn hiện diện một cách sống động qua Hội Thánh, qua những ai luôn biết thực hành Lời Chúa.

Ngoài ra, Chúa còn hiện diện một cách vô hình qua bí tích Mình Máu Thánh Chúa. Với lời truyền phép, dưới hình bánh và hình rượu, Chúa Giêsu thực sự ở giữa chúng ta, làm lương thực nâng đỡ, bổ dưỡng trên đường về Nước Trời. Đó là một sự hiện diện biểu tượng, nhưng rất thực, rất cụ thể cho con người chúng ta.

Hơn nữa, Chúa Giêsu còn hiện diện nơi những con người cùng sống với chúng ta trong cuộc sống, nhất là những người nghèo khó, túng thiếu, đau khổ, bất hạnh. Những người đói khát, bé mọn, bệnh hoạn đau ốm, tù đày, cô đơn, bị bách hại, bỏ rơi, loại trừ… tất cả đều là hiện thân của Chúa. Đối xử với họ như thế nào, là đối xử với Chúa như thế ấy.

** Chúa Giêsu đã ra đi, nhưng Chúa Giêsu vẫn còn ở lại. Bởi vì ngài yêu thương chúng ta. Tình yêu thương thì tự do, và người ta chỉ yêu thương thật sự khi có tự do. Ngài ẩn mặt đi. Ngài giữ một khoảng cách để chúng ta có thể tìm kiếm ngài một cách tự do, để chúng ta có thể yêu mến ngài mà không bị ép buộc, gò bó. Nhưng đồng thời, ngài vẫn ở gần chúng ta, bên cạnh chúng ta, trong chúng ta. Một sự hiện diện vô hình. Bởi vì tình yêu không bao giờ chấp nhận một sự vắng mặt thực thụ, dứt khoát và vĩnh viễn.

Vấn đề là chúng ta có nhận ra được sự hiện diện thân thương của ngài trong cuộc đời chúng ta hay không, để có thể sẵn sàng đón nhận những ơn lành của ngài. Tất cả đều tùy thuộc vào tình yêu của chúng ta đối với ngài.

----------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây