Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-C Bài 51-100 Chúa nhật Chúa chiên lành

Thứ tư - 08/05/2019 06:58
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-C Bài 51-100 Chúa nhật Chúa chiên lành
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-C Bài 51-100 Chúa nhật Chúa chiên lành
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-C Bài 51-100 Chúa nhật Chúa chiên lành
------------------------------------------
Phúc Âm: Ga 10, 27-30: "Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một". - Ðó là lời Chúa
---------------------------------
PS 4-C51: VÔ SỐ MỤC TỬ.. 2
PS 4-C52: CHIÊN VÀ CHỦ CHIÊN CỦA THIÊN CHÚA. 4
PS 4-C53: CHỦ CHĂN LẮNG NGHE. 6
PS 4-C54: Ta biết chiên của Ta. 8
PS 4-C55: CHUYỆN BA NGƯỜI TÍN HỮU.. 10
PS 4-C56: MỘT NHÃN GIỚI LẠC QUAN.. 13
PS 4-C57: CÂU CHUYỆN TÌNH - Mark Link S.J. 16
PS 4-C58: EM BIẾT TIN AI BÂY GIỜ ?! 18
PS 4-C59: MỤC TỬ NHÂN LÀNH YÊU ĐÀN CHIÊN.. 22
PS 4-C60: Chuyện: “CHIÊN TÔI THÌ NGHE TIẾNG TÔI”. 26
PS 4-C61: Cầu nguyện cho ơn thiên triệu. 27
PS 4-C62: CHÚA CHIÊN LÀNH THÌ SỐNG CHẾT VÌ CHIÊN.. 29
PS 4-C63: Chúa chiên lành. 34
PS 4-C64: Vị chủ chăn nhân lành. 36
PS 4-C65: Hoà hợp tiền định. 38
PS 4-C66: Hiệp nhất: yêu thương và vâng lời trọn vẹn. 39
PS 4-C67: LẮNG NGHE VÀ BƯỚC THEO.. 43
PS 4-C68: Mục tử. 46
PS 4-C69: Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. 47
PS 4-C70: Chúa Chiên Lành - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt Web. 51
PS 4-C71: Con chiên của Chúa Giêsu. 53
PS 4-C72: Chú giải của Noel Quesson. 56
PS 4-C73: Suy niệm của nhóm Nha Trang. 60
PS 4-C74: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH.. 64
PS 4-C75: BẮT ĐẦU TỪ TÌNH YÊU.. 65
PS 4-C76: MỤC TỬ NHÂN LÀNH.. 67
PS 4-C77: MỤC TỬ TỐT LÀNH.. 69
PS 4-C78: CHÚA LÀ MỤC TỬ.. 71
PS 4-C79: CHIÊN TA THÌ NGHE TIẾNG TA.. 73
PS 4-C80: TIN MỪNG CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH (Năm C) 74
PS 4-C81: LỜI KÊU CẦU CỦA CON CHIÊN.. 78
PS 4-C82: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA.. 80
PS 4-C83: ĐÂU LÀ MỤC TỬ ĐÍCH THẬT ?. 83
PS 4-C84: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH.. 90
PS 4-C85: CHÚA NHẬT CHÚA CHĂN CHIÊN LÀNH.. 92
PS 4-C86: Cánh đồng truyền giáo bát ngát cho đến mút cùng trái đất 94
PS 4-C87: Chúa Nhật IV Phục Sinh, C.. 100
PS 4-C88: Tôi Biết Chúng. 102
PS 4-C89: CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH.. 104
PS 4-C90:  TIẾNG GỌI THÂN THƯƠNG. 106
PS 4-C91: Chúa Nhật IV Phục Sinh. 110
PS 4-C92: CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH.. 114
PS 4-C93: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH.. 118
PS 4-C94: CHÚA CHIÊN LÀNH.. 122
PS 4-C95: CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C.. 123
PS 4-C96: CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH.. 126
PS 4-C97: NGHE VÀ BƯỚC THEO MỤC TỬ GIÊSU.. 128
PS 4-C98: MỤC TỬ NHÂN LÀNH.. 130
PS 4-C99: CHÚA CHIÊN LÀNH. 132
PS 4-C100: CHA MẸ TRONG VAI TRÒ MỤC TỬ.. 133

----------------------------------

 

PS 4-C51: VÔ SỐ MỤC TỬ


Chúa nhật thứ tư phục sinh.

 

Chúa nhật này được Giáo hội gọi nó là "Chúa nhật cầu cho ơn gọi khi nghe Chúa Kitô đã tự: PS 4-C51


Chúa nhật này được Giáo hội gọi nó là "Chúa nhật cầu cho ơn gọi khi nghe Chúa Kitô đã tự giới thiệu như là Mục Tử tốt lành, chúng ta được mời gọi nghĩ đến tất cả những ai, trong Giáo hội, nhận và thực thi một ơn gọi nối dài ơn gọi của Chúa Kitô.

Ơn gọi ? Những tiếng quen thuộc, nhưng từ vài chục năm nay ý nghĩa của chúng đã thay đổi nhiều. Ngày xưa người ta dùng cụm từ ấy khi nói về ơn gọi của linh mục, tu sĩ nam nữ. Ngày nay, chúng ta dùng để áp dụng cho tất cả những ai đã chịu phép rửa. Ngày rửa tội, mỗi kitô hữu được xức dầu Thánh để trở thành chi thể của Chúa Kitô: một thành viên được giáo sứ vụ làm việc trong môi trường của mình để thể hiện sứ vụ của Chúa Kitô. Ngài đã loan báo Tin mừng khắp nơi và nơi nào Ngài đã đi qua Ngài đã ban những dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa cho những người thiện chí. Các chi thể của Chúa Kitô phải hành động như Ngài. Chính vì vậy mà họ được rửa tội. Chúng ta có lý mà nhấn mạnh đến tầm quan trọng đối với mỗi người chúng ta trong việc góp phần bé nhỏ của mình - và nếu được phần lớn lao của mình - để làm cho người ta biết Chúa Kitô và sứ điệp của Ngài, để làm cho Giáo hội trở thành một cơ thể sống động mạnh mẽ. Loan truyền Tin mừng và thực sự giúp những người thời đại chúng ta khám phá ra Chúa Kitô phải chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của họ.

Tất cả chúng ta, cách này hay cách khác đều phải trả lẽ về trách nhiệm của mình. Chúng ta phải cố gắng truyền đạt cho kẻ khác niềm tin mà chúng ta đã nhận được. Chúng ta phải bắt chước Chúa Kitô, phải là những mục tử như Ngài. Đây là một ơn gọi chung. .

Mục tử là ai ? Mục tử cần những đức tính nào ? Chúng ta có thể trả lời cho những câu hỏi này bằng lời khẳng định của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.

"Tôi biết các chiên tôi '

Chúa Giêsu nói: "Tôi là mục tử tốt lành" . Rồi Ngài thêm: "Tôi biết chiên của tôi". Vậy đức tính đầu tiên của người mục tử là biết những người mà mình ngỏ lời với. Vào thời đại chúng ta, không dễ mà biết rõ được người khác. Chúng ta sống vội vã. Rất thường chúng ta đi bên cạnh nhiều người mà không hề để ý đến họ. Chúa Giêsu biết cách dừng lại, chuyện trò. Ngài dành cho ta tất cả thì giờ cần thiết. Ngài để cho họ nói. Ngài biết lắng nghe họ. Sẽ không bao giờ là một mục tử tốt lành, nếu không dành thì giờ để quen biết những kẻ mình lui tới.

"Tôi ban cho chúng sự sống đời dời"

Chúa Giêsu còn nói: "Tôi ban cho chiên của tôi sự sống đời đời". Tức là: Tôi cho chúng tiếp xúc với Thiên Chúa là cha của tôi, tôi hướng chúng về cõi vô biên, tôi cho chúng thấy rằng khi gắn bó với tôi và tuân theo giáo huấn của tôi là chúng tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta quá thường sống mà cứ đăm đăm nhìn vào trần thế. Là mục tử tốt lành, khi giúp anh em mình sống ở trần thế nhưng không quên rằng còn có một thiên đàng. Là mục tử tốt lành khi dạy cho anh em mình bước đi trên trần thế mà vẫn hướng về nơi vĩnh cửu.

"Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi '?

Chúa Giêsu cũng nói: "Không ai cướp được chiên ta khỏi tay tôi". Ngài tự giới thiệu là người bênh vực những ai Chúa Cha đã giao phó cho Ngài, như người sán sàng chịu khổ và đấu tranh để che chở những kẻ mình thương yêu. Và Ngài khẳng định rằng ai ở trong tay Thiên Chúa thì có thể thắng hết mọi sự. Người ấy có thể thắng mọi sự bởi vì Thiên Chúa che chở họ và bởi vì Ngài thông ban cho họ sức mạnh của Ngài. Vậy người nào cố gắng làm cho những kẻ quanh mình hiểu rằng họ ở trong tay Thiên Chúa, và cùng với Ngài, họ có thể băng qua sóng gió mà không bị thất bại hủy diệt, người ấy sẽ là mục tử tốt lành như Chúa Kitô.

Kết luận.

Đôi khi chúng ta lo lắng: Các linh mục ngày càng già yếu và càng ít đi? Cả các tu sĩ nam nữ nữa? Hầu như không còn ơn gọi? Điều gì sẽ xảy ra cho Giáo hội, trong mười, mười lăm năm nữa? Khó trả lời. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là bởi vì thời buổi khó khăn nên chúng ta hết thảy đều được mời gọi sống quảng đại hơn nữa. Bởi vì các mục tử, như chúng ta đã biết, ngày càng hiếm, vậy ta phải tự hỏi xem Thiên Chúa có đòi hỏi nhiều hơn nơi mỗi người chúng ta không. Và nên xét xem bằng cách nào, mỗi người trong môi trường sống của mình, chúng ta có thể là những mục tử tốt lành. Ơn gọi này không chỉ là một ơn gọi cho người khác thôi ; nó còn là ơn gọi cho chúng ta nữa.

JEAN-YVES GARNEAU

----------------------------------

 

PS 4-C52: CHIÊN VÀ CHỦ CHIÊN CỦA THIÊN CHÚA.

 

Chúa nhật này gọi là Chúa Nhật của "Ơn Thiên Triệu" là nhằm mục đính quy tụ loài người thành: PS 4-C52


Chúa nhật này gọi là Chúa Nhật của "Ơn Thiên Triệu" là nhằm mục đính quy tụ loài người thành một "đoàn chiên của Thiên Chúa". Để trở thành một đoàn chiên, phải có những chiên biết nghe tiếng chủ chiên, và phải có chủ chiên liều mạng cho bầy chiên được sống cách dồi dào. Vì vậy, mỗi người Kitô hữu vừa phải là chiên ngoan của Thiên Chúa, vừa phải là mục tử của mọi người như Đức Kitô đối với mình.

I. Chiên ngoan của mục tử Giêsu:

1. Để trở thành chiên ngoan của Mục tử Giêsu họ phải:

a/ Biết nghe Lời Chúa như lời Đức Giêsu nói: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta" (Ga 10,27), họ được tái sinh bởi Lời Chúa (Ga 10,18), chứ không phải họ được sinh ra bởi máu thịt các Thánh.

Bài đọc 1 đã xác định điều ấy: Bất cứ ai - Do Thái (dòng giống các Đấng thánh như Abraham, Giacóp...) hay dân ngoại, được ví như loài chó (xem Mt 15,21t) mà biết nghe Lời Chúa qua các chủ chăn của Hội thánh, thì họ đều là chiên của Thiên Chúa. Trái lại, ai chống đối, cho dù là dòng giống của Abraham, thì cũng bị loại ra khỏi đoàn chiên của Thiên Chúa (xem bài đọc 1).

b/ Biết thanh tẩy mình trong phục vụ của Hội thánh:

Thánh Gioan đã nhìn ra giá trị này nên ông viết: "Một đoàn ngũ đông đảo không biết cơ man nào mà kể, họ thuộc mọi dân, mọi tiếng nói, họ mặc áo trắng tinh nhờ giặt bằng máu Chiên Con, họ phụng sự đêm ngày trong điện thờ của Chúa, Chiên Con đứng giữa ngai sẽ chăn dắt họ, dẫn đưa họ tới nguồn mạch sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ" (xem bài đọc 2).

c/ Biết gắn bó và theo Thiên Chúa như vợ chồng gắn bó với nhau và cùng đồng hành, như lời của Thiên Chúa nói: "Ta biết chúng và chúng theo Ta" (Ga 10,27b).

"Biết" trong Thánh Kinh là đời sống vợ chồng với nhau (xem St 4,1;Lc 1,34).

"Theo Giêsu" là đi đường khổ giá với Ngài (Mt 10).

Người như thế mới xứng đáng thuộc về chiên của Thiên Chúa, được Ngài cứu độ, cụ thể:

Bài đọc 1: Phaolô và Barnaba vì nhiệt tình rao giảng Lời Chúa mà bị bọn Do Thái bách hại, loại trừ (Cv 13,44.50).

Bài đọc 2: Gioan được nhìn thấy những người được Chúa cứu độ: "Một đoàn lũ đông đảo mặc áo trắng tinh, tay cầm cành lá vạn tuế, họ là những người từ cuộc bách hại lớn lao đến" (Kh 7,14).

2/ Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành chăm sóc chiên của Ngài:

Ngài ban cho ta sự sống đời đời (Ga 10,28): dấu hiệu sự sống đời đời: dù bị bách hại vì Chúa, lòng vẫn hân hoan như Phaolô và Barnaba (xem bài đọc 1). Dù họ đã chết cách nào, thì vào ngày cách chung, xác hồn họ được sống lại, họ không còn đói khát, không còn nóng bức, Đức Giêsu dẫn họ đến nguồn mạch sự sống, Thiên Chúa lau sạch nước mắt cho họ (Kh 7,16-17).

Không sự dữ nào diệt được mạng sống của Thiên Chúa (Ga 10, 28b); xác họ có thể bị giết, nhưng hồn họ không thể bị tiêu diệt, vì có Đức Giêsu Phục Sinh giữ gìn họ (Mt 10,28-30).

Không quyền lực nàod ựt ta ra khỏi Đức Giêsu (Xem Ga 10,28b): Dù ta còn bất xứng như vợ của ông Ôsê, Đức Giêsu còn thương ta hơn Ôsê đối với cô vợ dâm đãng ngoại tình: "Phen này ta sẽ lột trần cái đĩ già của vợ ta trước mặt các gã tình lang, để không có anh chàng nào giựt nó khỏi tay ta" (Os. 2,12).

Bởi vì cả vũ trụ trên trời dưới đất Cha trên trời đã trao vào tay Chúa Giêsu (Mt 28,18), nhưng không có sự gì quý hơn người mà Chúa Cha đã tách họ ra khỏi thế gian mà ban cho Đức Giêsu (xem Gioan 17,6). Do đó, Đức Giêsu nói: "Cha, Đấng ban chúng cho ta, thì lớn lao hơn tất cả mọi sự, nên không ai giựt chúng khỏi tay Ta và Cha Ta được" (Ga 10 ,29).

Hình ảnh "Chiên ở trong tay Ta và tay Cha Ta" cho ta nhớ đến Tv 138 (139), 5-10: "Chúa chặn con trước (tay Ta), Ngài ngừa con sau (tay Cha). Bàn tay của Ngài (con và Cha) đặt trên con mãi, và tay hữu Ngài (tay quyền năng và yêu thương) nắm lấy thân con".

II. Mỗi Kitô hữu phải trở nên mục tử đối với người khác như mục tử Giêsu đối với mình:

Phao lô đã làm gương cho chúng ta trong nhiệm vụ này, như ông đã thể hiện trong bài đọc 1: Phaolô hết lòng lo cho mọi người biết Lời Chúa, được thuộc về Chúa Giêsu Kitô, dù ông bị ngược đãi, ông vẫn cầu nguyện phó thác họ cho Chúa. Đó là hình ảnh ông rũ bụ chân ra đi -một cử chỉ của người Do Thái từ đất dân ngoại về quê hương- coi họ như dân ngoại là phó thác họ cho Chúa. Vì Đức Giêsu còn ở trần thế, Ngài rất ưu ái với dân ngoại, mặc dù với cách sống như thể Ngài bị người Do thái chống đối Ngài! (xem Mt 4,15; Mt 8,5t; Mt 15,21t).

Khi Phaolô khi bị bắt, ông rất thương những người còn ở lại, ông nói: "Tôi xin phó thác anh em cho lời ân sủng của Thiên Chúa, lời có sức ban phần cơ nghiệp cho anh em, do đó, tôi không dấu anh em điều gì, tôi không thiếu sót việc rao giảng, mọi người ôm lấy Phaolô và oà lên khóc, vì họ sẽ không còn được thấy Phaolô! (xem Cv 20,25-38).

Chính đời sống mục tử gương mẫu của Phaolô tốt như thế,nên ông hân hoan nói với các tín hữu: "Anh em hãy bắt chướng tôi như tôi đối với Đức Kitô" (1 Cr 11,1).

----------------------------------

 

PS 4-C53: CHỦ CHĂN LẮNG NGHE.

 

Một lần viêng Luân Đôn, Đức ông Ratti, sau này là Giáo hoàng Piô XI, hỏi đường cảnh: PS 4-C53


Một lần viêng Luân Đôn, Đức ông Ratti, sau này là Giáo hoàng Piô XI, hỏi đường cảnh sát để tới nhà thờ chánh tòa Westminster. Người sảnh sát mở tấm bản đồ cũ rồi tô viết chì con đường phải đi. Ít phút sau người cảnh sát đuổi theo vị giáo hoàng tương lai, gần đứt hơi, ông nói: “Tôi đã chỉ đường sai, thay vì quẹo tay trái tôi lại vẽ tay mặt”. Sau này Đức Thánh Cha khôi hài nhắc lại “Người cảnh sát Luân đôn đã săn đuổi Người”.

Đây là một trường hợp vị chủ chăn lắng nghe con chiên. Chúng ta biết rằng rất cần con chiên lắng nghe tiếng chủ chăn, vị đại diện Chúa Kitô trên trần gian - Đức Thánh cha, các giám mục và các linh mục. Nhưng nhưng cũng rất quan trọng vị chủ chăn thiêng liêng lắng nghe tiếng con chiên của mình – Một vị chủ chăn đích thực phải nói được rằng: “Tôi nghe tiếng chiên của tôi”.

Chúa Giêsu lắng nghe con chiên trong thời đại của Người. Người mù kêu lên: “Lạy Chúa, xin cho con được thấy”. Chúa Giêsu đã cho anh thấy ánh sáng. Mẹ của Người nói nhỏ: “Họ hết rượu rồi”. Chúa Giêsu ban rượu cho tiệc cưới Cana. Viên sĩ quan Roma kêu xin: “Con tôi bị bệnh”. Chúa Giêsu chữa lành em bé. Các trông đồ nói với Chúa: “Họ không có gì ăn”. Chúa Giêsu đã cho năm ngàn người ăn no. Người cũng lắng nghe kẻ trộm trên thập giá và hứa cho anh nước trời.

Cảm tạ Chúa. Các vị lãnh đạo gia đình Chúa đang lắng nghe càng ngày càng nhiều những tiếng kêu đau khổ, đói khát, bất công, chiến tranh và nghi kỵ.

Để đáp lại những rtiếg kêu cứu ấy, giáo dân của Hội Thánh phải góp ý, phải trợ giúp và thực hiện. Hãy nói với chúng tôi phải làm thế nào để giúp người thiếu thốn trên thế giới, rồi giúp chúng tôi thực hiện.

Còn một lãnh vực nữa, con chiên không những được phép nói, mà còn phải nói lên và vị chủ chăn phải lắng nghe. Đó là lãnh vực truyền bá đức tin, đem Chúa Kitô đến với thế giới, việc quản lý tài nguyên vật chất của Giáo hội, việc liên lạc với những con chiên ngoài đoàn chiên của Chúa Kitô. Các vị chủ chăn không những phải lắng nghe, mà còn khích lệ các bạn nói lên như công đồng Vaticanô II đã làm.

Xin gợi ý: khi bạn phát biểu với tư cách cá nhân hay đoàn thể, gãy cố gắng phát biểu một cách kính cẩn, thận trọng và thanh lịch. Bạn chỉ phát biểu ý kiến sau khi đã suy nghĩ và cầu nguyện. bạn có thể cho chúng tôi những sáng kiến hay như viên cảnh sát tả cho vị giáo hoàng tương lai. Nhưng bạn cũng phải thay đổi ý kiến khi cần như  viên cảnh sát ấy – không sao – hãy nói lên.

Trong thánh lễ, Chúa Kitô vị chủ chăn tối cao nói với chúng ta qua các bài đọc. Rồi chúng ta nói với Chúa, chủ chăn nói, con chiên nghe. Con chiên nói, chủ chăn nghe.

Xin Chúa chúc lành  bạn. Amen.

----------------------------------

 

PS 4-C54: Ta biết chiên của Ta


Dẫn vào Thánh lễ và sám hối

 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu – Đấng Chăn Chiên Lành nói với chúng ta: "Ta: PS 4-C54


Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu – Đấng Chăn Chiên Lành nói với chúng ta: "Ta biết chiên của Ta. Chúng lắng nghe tiếng Ta và bước đi theo Ta." Chúng ta hãy hồi tâm trong giây lát về những lầm lỗi của ta trong việc đáp trả tình yêu và sự chăm sóc của Chúa Giêsu – Đấng Chăn Chiên Lành đã dành cho ta.

Lạy Chúa Giêsu, Ngài gọi chúng con trở nên dân của Ngài, là đoàn chiên của Ngài.

Chúa giúp chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa và bước đi theo Chúa.

Chúa dẫn đưa chúng con đến đồng cỏ xanh của sự sống đời đời .

Dẫn vào các bài đọc

Bài đọc 1: Cv 13,4.43-52

Phaolô và Banaba rao giảng Tin Mừng trước tiên cho người Do Thái nhưng họ đã khước từ, sau đó các ngài rao giảng cho dân ngoại, họ đã đón nhận với niềm vui.

Bài đọc: 2: Kh 7,9. 14- 1 7

Bài đọc cho thấy hình ảnh của những người sẽ đến, sau khi trải qua các thời kỳ bị ngược đãi, nay được chia sẻ vinh quang trên trời với Đức Kitô.

Tin Mừng: Ga 10,27-30

Chúa Giêsu - Đấng Chăn Chiên Lành sẽ không để cho bất cứ ai cướp đi từ đàn chiên Người săn sóc, mà Chúa Cha đã trao cho Người.

Bài giảng 3

THUỘC VỀ ĐÀN CHIÊN CỦA CHÚA

Hình ảnh Chúa Giêsu như người mục tử chăn dắt đoàn chiên của Chúa Cha là một trong những hình ảnh tuyệt đẹp chúng ta có về Người. Và chúng ta phải nên đồng hình đồng dạng với Người. Đây là cách thức Người đã diễn tả chính Người và sứ vụ của Người.

Chúa Giêsu không phải là kẻ chăn thuê. Kẻ chăn thuê, vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Chúa Giêsu là vị Mục Tử nhân lành. Chiên thuộc về Người, và Người sẵn sàng chết vì chiên.

Chúa Giêsu đã thực hiện lời hứa tuyệt hảo nhất cho những ai thuộc về Người. Người nói không ai trong họ sẽ bị hư mất. Không ai cướp được chiên trong đàn chiên Người chăm sóc mà Chúa Cha đã giao phó. Chiên nào thuộc về Người sẽ được an toàn bởi vì quyền năng của Cha ở trong Người (Người và Cha Người là một). Và Người sẽ dẫn đưa họ tới đồng cỏ xanh của sự sống vĩnh cửu. Cảm giác thuộc về Chúa Giêsu, được Người biết và được Người yêu mến là sự an ủi rất lớn và vững tâm. Ai là kẻ, không muốn thuộc về đàn chiên của Người ? Nhưng làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta thực sự thuộc về đàn chiên của Người ? Đòi hỏi chúng ta phải có những bổn phận nào ? Cơ bản có ba điều.

Điều kiện trên hết và cần thiết cơ bản đó là tin vào Người. Chúng ta nhập vào đàn chiên bởi việc chúng ta trở nên những người tin. Nhưng đức tin chỉ là khởi điểm. Điều kiện thứ hai là lắng nghe tiếng Người: "Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta." Lắng nghe tiếng Người là chú ý đến lời giảng dạy của Người. Và điều kiện thứ ba là bước đi theo Người: "Chiên Tôi thì theo Tôi." Theo Người là làm theo lời của Người. Đây là những điều tóm tắt chúng ta phải nhớ. Thật sự hết sức đơn giản.

Rõ ràng mối tương quan có được phải là mối tương quan hai chiều. Chiên có sự lựa chọn thuộc về ai. Chúa Giêsu không thể cứu con người khi con người không muốn. Nhưng thật là nguồn an ủi tuyệt vời khi chúng ta nhận thức rằng nếu chúng ta ước muốn chân thành và cố gắng để được thuộc về Người (bước theo Người và thực hiện điều Người dạy), Người sẽ chăm sóc ta khi sống cũng như khi chết. Người hứa ban cho ta sự sống đời đời. Chúng ta đặt hy vọng của chứng ta vào lời Người: tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong."

Thuộc về Chúa Giêsu, không có nghĩa là sẽ bảo đảm cho chúng ta sống trên trần gian này một cách dễ dàng. Điều trái ngược thì thích hợp hơn với tình huống này. Những ai thuộc về Chúa Giêsu thì sẽ bị thế gian ngược đãi, nhưng những ai kiên vững trong niềm tin xuyên qua những thứ thách, sẽ được chia sẻ vinh quang với Người trên trời (bài đọc 2). Thử thách và đau khổ là cơ hội để chứng tỏ đức tin và lòng vâng phục của ta với Thiên Chúa.

Đàn chiên là hình ảnh của cộng đoàn. Ngay cả trên phương diện con người, chúng ta phải ý thức sâu xa sự cần thiết của cộng đoàn. Chúa Giêsu biết rõ điều này. Đó là lý do tại sao Người muốn những ai theo Người phải sống cộng đoàn. Trong cộng đoàn, chúng ta nhận được sự nâng đỡ lẫn nhau, sự khích lệ động viên, và tình bạn. Chúng ta không thuộc về Chúa Giêsu, chúng ta cũng không thuộc về đàn chiên của Người. Đặc ân thuộc về không phải là điều bantặng cho một số người được tuyển chọn, nhưng là cho tất cả mọi người, Do Thái và dân ngoại (bài đọc 1).

LÔI NGUYỆN CHUNG

Chủ tế: Chúng ta hãy Đấng những nhu cầu của chúng ta lên Chúa - Đấng hằng trung tín qua bao thế hệ và tình yêu Người bền vững muôn năm.

Xướng: Cầu cho Đức Thánh Cha và các Đức Giám Mục: để các ngài trung thành và yêu men chăm sóc đoàn chiên Đức Kitô đã trao phó.

Xướng: Cầu cho các bác sĩ, y tá và tất cả những ai có trách nhiệm chăm sóc bệnh nhân: đề Chúa đổ tràn xuống trên họ sức mạnh và tình yêu quảng đại.

Xướng: Cầu cho ơn gọi linh mục và tu sĩ: để Chúa thúc đẩy những người nam và nữ hiến Đấng cuộc đời để chăm sóc cho đàn chiên Chúa.

Xướng: Cầu cho những người đang hiện diện nơi đây, để mỗi người chúng ta, trong hoàn cảnh sống cụ thể của mình, biết quan tâm chăm sóc cho anh chị em quanh ta.

Chủ tế: Lạy Cha trên trời, xin ban xuống cho chúng con những điều mà chúng con vừa thân thưa với Cha, để chúng con tin tường với trọn con tim và thực hành trong cuộc sống cua chúng con. Chúng con cầu xin ...

----------------------------------

 

PS 4-C55: CHUYỆN BA NGƯỜI TÍN HỮU

 

Người ta kể chuyện có ba tín hữu nọ một người nghèo, một ông thì giàu và một tên bất lương đều chết: PS 4-C55


Người ta kể chuyện có ba tín hữu nọ một người nghèo, một ông thì giàu và một tên bất lương đều chết trong cùng một ngày và phải ra trước toà Chúa phán xét. Thiên Chúa hỏi anh nhà nghèo: Vì lý do gì mà anh không lo tìm hiểu và tuân giữ Lời Chúa ? " Anh nhà nghèo thưa: Lạy Chúa, vì con nghèo quá nên phải đầu tắt mắt tối lo kiếm gạo nuôi thân, không còn giờ cho sự gì cả ". Thiên Chúa trả lời: "Ông  Hy lem nghèo hơn anh rất nhiều. Thế thà có một chút tiền là ông ấy để dành một nửa đóng tiền học luật Chúa và khi nào không có tiền trả lộ phi, thì ông nhịn đói đứng ngoài cửa sổ trường học nghe lỏm Rabbi giảng dạy Lời Chúa. Thiên Chúa quay sang hỏi ông nhà giàu: "Còn ngươi tại sao ngươi không tìm học hỏi và tuân giữ luật Chúa ". Ông thưa: "Dạ tại vì con phải lo công việc quản trị tiền bạc của cải và các dịch vụ làm ăn liên tiếp, còn giờ đâu mà học hỏi chuyện gì ". Thiên Chúa phán: ngươi đâu có giàu bằng Salazoi, y có đến 100 chiếc tàu buôn đủ mọi thứ hàng hoá và rất bận rộn với công việc kinh doanh, nhưng  Salazoi vẫn tìm ra thời giờ để học  hỏi luật Chúa ". Sau cùng, Thiênt Chúa hỏi người bất lương: "Còn ngươi hỡi kẻ gian ác, tại sao ngươi lại đã không học lề luật Chúa? ". Tên nọ tìm cách chữa lỗi: ' Lạy Chúa, con bị các đam mê lôi cuốn quá nên không còn nghĩ đến gì khác nữa." Thiên Chúa bảo anh ta " Ngươi đâu có bị người ta cám dỗ và say mê như Giuse khi sông bên Ai Cập xưa kia, ngày đêm bị vợ của quan Phutipha níu kéo cám dỗ phạm tội với bà ta mà vẫn chống trả tới cùng ". Thế là cả ba người đều phải án phạt sống xa rời Thiên Chúa và chôn vùi trong nơi khổ ải.

Là Kitô hữu ai trong chúng ta cũng đều có bổn phận học hiểu, lặng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Đây là một bổn phận thiêng liêng vô cùng quan trọng, vì nó định đoạt cho phần rỗi của chúng ta. Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã không đề nghị với con người điều gì khác, ngoài bổn phận tìm hiểu Thiên Chúa. Đó là điểm thần học nổi bật trong sứ điệp của các bài đọc Chúa nhật hôm nay.

"Hư mất" là động từ chìa khoá thần học giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của tường thuật Chúa Giêsu Kitô mục tử nhân lành, như thánh Gioan ghi trong chương 20,27-30. Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh, từ "hư mất" ám chỉ biến cố con người thất bại hoàn toàn trong cuộc sống ơn gọi làm người và làm con cái Chúa của mình, phải chết đời đời và xa rời Thiên Chúa vĩnh viễn. Là thụ tạo phát sinh từ bàn tay tạo dựng nhân hiền của Thiên Chúa, con người được đặt định trở về với đôi bàn tay yêu thương ấy, nhưng con người đã phá đổ chương trình ấy của Thiên Chúa khi phạm tội, khước từ Thiên Chúa và tự tôn mình lên địa vị của Chúa. Vì thế, Thiên Chúa mới phải sửa chữa lại bằng cách cho Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người và giao cho Chúa Giêsu một chương trình cứu độ cần phải hiện thực qua cuộc sống và Lời giảng dạy của Người. Chúa Giêsu đến trần gian chính là để tìm những gì đã hư mất. Đôi bàn tay của Ngài cũng là đôi bàn tay của Thiên húa. Chương trình cứu độ Ngài hiện thực qua Tin Mừng Nước Trời cũng chính là chương trình của Thiên Chúa.

Hình ảnh về mục tử nhân lành, diễn tả sứ mạng cứu độ ấy của Chúa Giêsu đối với nhân loại và không ai có thể đánh cắp, giựt mất đoàn chiên tín hữu khỏi bàn tay của Ngài. Tường thuật Chúa Giêsu mục tử nhân lành bao gồm một số động tử diễn tả các bổn phận của chủ chăn và bổn phận của tín hữu. Nếu biến chúng thành hai cột song song, chúng ta thấy có tới bốn động từ diễn tả bổn phận của chủ chăn đó là: "nói, hiểu biết, hiến mạng sống và giữ gìn". Trong khi đó thì chỉ có hai động từ diễn tả bổn phận tín hữu là "lặng nghe và đi theo ".

Bổn phận đầu tiên của vị chủ chăn là nói, nghĩa là giảng dạy, huấn luyện, đào tạo, khuyên nhủ, kêu mời, đề nghị, góp ỷ kiến. Đây là động từ bao gồm tất cả mọi sinh hoạt rao giảng Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Từ việc tổ chức những khoá tĩnh tâm, huấn luyện đào tạo mọi thành phần nhân lực mục vụ của cộng đoàn địa phương cho tới việc dùng các phương tiện và kỹ thuật truyền thông xã hội, báo chí, sách vỡ, tài liệu, phim ảnh, băng hình, đại phát thanh và truyền hình... để phổ biến, để rao truyền Lời Chúa, phát triển lòng tin của tín hưu. Nói, chớ không phải là nóng nảy bần gắt, la hét và mắng chửi, trù ẻo theo nghĩa này. Nói là cả một nghệ thuật gồm nhiều phẩm chất nội dung và kiến thức mà vị chủ chăn cần phải thường xuyên học hiểu và trao đổi tập quyền mỗi ngày. Từng giọng điệu và kiểu cách cho tới các cử chỉ, từ ngữ vô hình ảnh làm sao để giọng nói được ôn tồn, thông cảm và truyền cảm. Hình ảnh được đơn sơ, sáng sủa, rõ ràng, nhưng ý nghĩa súc tích và thích hợp hầu có thể chuyển đạt sứ điệp Tin Mừng của Chúa đến cho tín hữu một cách hữu hiệu hơn, xác tín và sâu xa hơn. Làm thế nào để lời vị chủ chăn rao giảng luôn làm giàu cho người nghe, thắp sáng lên trong tâm hồn họ tia lửa tinh thần, nung nấu đốt cháy con tim họ, và thúc đẩy họ tiến đến gần Thiên Chúa .

Bổn phận thứ hai của vị chủ chăn tức là các Giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân lãnh đạo cộng đoàn là hiểu biết. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, hiểu biết có nghĩa là bước vào trong tương quan hiệp thông với tha nhân. Vì thế, vị chủ chăn phải là người có liên hệ huynh đệ nhân bản với tín hữu. Biết chú ý đến sự khác biệt, không lẫn lộn tinh thần hiệp nhất với sự đồng nhất, máy móc một chiều; không lẫn lộn cuộc sống với cảnh chạy việc; không lẫn lộn trật tự với cảnh rậm rạp, vô hồn. Nhưng để có thể hiểu biết tín hữu, vị chủ chăn cần phải biết tiếp xúc với, nhất là can phải biết lắng nghe họ nói. Biết cố gắng nhìn mọi người với con tim của mình, sẵn sàng học hỏi nơi tín hữu của mình. Mà tín hữu có thể cho các chủ chăn biết bao nhiêu là bài học quí giá trên mọi bình diện cuộc sống, từ các đức tính xã hội, nhân bản, cho đến các nhân đưc Kitô là tin, cậy, mến và sự thánh thiện.

Bổn phận thứ ba của vị chủ chăn là hiến mạng sống mình cho cộng đoàn tín hữu, chết cho họ và vì họ. Nói đúng ra, trừ các trường hợp bắt đạo bình thường thì các vị chủ chăn ít phải chết vì tín hữu. Nhưng điều mà Thiên Chúa và mọi tín hữu đều mong chờ là các chủ chăn sống hoàn toàn và trọn vẹn cho cộng đoàn, dành trọn khả năng, sức lực, thời giờ, mọi của cải và toàn cuộc sống mình cho tín hữu. Biết noi gương Chúa Giêsu kiên nhẫn, quảng đại, sống chết với tín hữu. Chia sẻ mọi vui buồn, âu lo của họ và trở thành người anh em đại đồng cho mọi người, nghĩa là vị chủ chăn không sống cho mình mà sống cho Chúa và cho cộng đoàn.

Bổn phận thứ tư của vị chủ chăn là giữ gìn tín hữu khỏi bị sói dữ cắn xé, để họ không xa Chúa, rời bỏ Giáo Hội và mất đức tin. Trong thế giới ngày nay nhiều khi rất khó nhận diện ra sói dữ, nhưng muốn bảo vệ cộng đoàn, vị chủ chăn phải để lợi ích thiêng liêng và hạnh phúc của tín hữu lên trên hết các việc thường ngày, chớ không phải các lợi lộc riêng tư, danh dự của mình, hay thứ gì khác.

Về phần các tín hữu, bổn phận thứ nhất là biết lắng nghe, nghĩa là để cho Lời Chúa thấm sâu vào lòng mình và quyết định sống theo những gì Chúa nói, thực hành giáo huấn của Chúa trong mọi hoàn cảnh sống thường ngày. Thái độ vâng lời ấy phải được thể hiện ra trong việc cộng tác tham gia, đóng góp vào các sinh hoạt của cộng đoàn, tuỳ theo các tài khéo và khả năng vật chất cũng như tinh thần của mình. Làm sao để cải tiến cộng đoàn để biến nó trở thành một môi trường sống động, tươi vui, tràn đầy yêu thương bác ái, tương trợ lẫn nhau như trong cộng đoàn Kitô tiên khởi thời các thánh tông đồ. Cộng tác tham gia và đóng góp chứ không phải đứng ngoài chỉ trích phê bình, chửi rủa hay phá đám. Bởi vì nếu nghe Lời Chúa mà không tích cực hoán cải và thay đổi nếp sống cá nhân, gia đình, cộng đoàn và xã hội, thì đó là khước từ Chúa, từ chối Lời Ngài và chối bỏ lòng tin của mình.

Bổn phận thứ hai của các tín hữu là đi theo, bước theo chân Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, để tiến về cuộc sống vĩnh cửu, để tiến..về đất Hứa. Do đó hành trình của Kitô hữu phải là một hành trình tươi vui phấn khởi, cuộc sống của Kitô hữu phải là một cuộc sống sinh động nhiều sáng kiến, nhiều đóng góp. Khi ý thức rõ ràng được mục đích đời mình, Kitô hữu mới sẵn sàng dấn thân hy sinh và kiên trì trong những lúc gặp chướng ngại, thử thách khó khăn và cám dỗ. Với ý thức đó, vâng lời có nghĩa là hiểu biết trách nhiệm cao độ mình phải có đối với các chủ chăn và các anh chị em khác trong cộng đoàn. Thông cảm những khó khăn, những yếu đuối, khả năng hạn hẹp của họ với cố gắng xây dựng bù đắp cho nhau.

----------------------------------

 

PS 4-C56: MỘT NHÃN GIỚI LẠC QUAN

 

Tất cả các bài đọc hôm nay mở cho chúng ta một nhãn giới lạc quan. Với niềm tin tưởng vào sức: PS 4-C56


Tất cả các bài đọc hôm nay mở cho chúng ta một nhãn giới lạc quan. Với niềm tin tưởng vào sức mạnh Phục sinh của Chúa Giêsu, sự sống lại của Chúa Giêsu biến đổi cả vũ trụ không phải như chiếc đữa thần, mà là do sự cố gắng liên lỉ và kiên trì, và sự hoán cải đầy đủ ý nghĩa trọn vẹn với ý chí hiểu biết và ý chí cương quyết. Cho nên sự sống lại của Chúa Giêsu không tiêu diệt tức khắc đau khổ và sự chết nơi con người, nhưng ban cho con người tiềm năng biến đổi sự sống thân xác phàm trần hay chết này.

Bài đọc thứ nhất bao hàm ý nghĩa sự sống lại của Chúa thay đổi hoàn toàn các tông đồ, từ những con người yếu đuối hèn nhát, các ngài đã trở nên mạnh mẽ can đảm. Nhất là khi các ngài ý thức được sứ mạng của mình, các ngài đã tuyên bố dõng dạc rõ ràng với tất cả thành tâm thiện chí của những người nhận rõ bổn phận của mình rằng: Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi. "Ta đã đặt các ngươi làm ánh sáng muôn dân để người nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất". Như thế với Chúa Giêsu Phục sinh, nhãn giới các tông đồ cũng thay đổi. Ơn cứu độ không phải chỉ giới hạn nơi vương quốc Do Thái hay với người Do Thái mà thôi, nhưng ơn cứu độ đó bao trùm tất cả mọi người sinh ra trên trần gian này. Dầu vậy, bài đọc sách Tông đồ Công vụ cũng cho chúng ta thấy ngay từ buổi đầu của Giáo hội, không phải tất cả mọi người đều chấp nhận Tin Mừng. Nhưng tất cả những ai chấp nhận như sách Tông đồ Công vụ kể đều hân hoan trong lòng và ca tụng Thiên Chúa.

Bài đọc thứ hai cho chúng ta thấy cùng một diễn biến đó và Chúa Giêsu Phục sinh đã biến đổi hoàn toàn những kẻ theo Người, từ đau khổ nơi trần gian đến vinh quang Phục sinh trường cửu. Dầu bao nhiêu người không chấp nhận, dầu bao nhiêu thể chế đàn áp, bách hại, nhất định tiêu diệt những người tin vào Chúa Giêsu Phục sinh nhưng họ đã không làm gì được. Trong bài sách Khải Huyền, thánh Gioan cho thấy một đám đông không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi tiếng nói mặc áo trắng dài, tay cầm nhành vạn tuế đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên. Lòng trung thành của Thiên Chúa đã giúp được họ vượt qua tất cả, nhất là khi họ biết kết hợp những đau khổ của mình với hy lễ thập giá của Chúa Kitô, mà sách Khải Huyền đã dùng hình ảnh họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên. Khi Con Chiên vô tội đã bị sát tế và được Phục sinh vinh quang, thì những chứng nhân trung thành đến cùng trong đau khổ thử thách đó, cũng được sống lại nhờ máu của Con Chiên.. Đám đông vô số không thể đếm được, hợp lại thành một cộng đoàn thiên quốc và mọi đau khổ đã chất dứt. Con Chiên đã trở thành thủ lãnh và là sức sống của đoàn.

Vai trò của Con Chiên thủ lãnh đó, Chúa Giêsu đã nói rõ trong bài Phúc âm: "Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất".Với hình ảnh đó, với lời dạy đó chúng ta quen Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên lành, Người hướng dẫn đoàn chiên của Ngài, Ngài để tâm săn sóc từng con chiên trong đàn. Các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng thấy nơi Đức Kitô, Người mục tử nhân lành, Đấng hướng dẫn tất cả chúng ta những con chiên của Người về cùng Thiên Chúa. Như thế vị mục tử này, không những dẫn con chiên của mình đến đồng cỏ xanh nước mát, mà còn dẫn đến đích điểm tận cùng là sự sống đời đời với Thiên Chúa là Cha trên trời. Và cùng đích đó không phải chỉ đạt được sau cuộc sống ở đời này mà thôi. Chúa Giêsu đã bảo: "Ta thí mạng sống Ta vì đoàn chiên để cho đoàn chiên luôn luôn được sống, được bao đảm an toàn" Trên trần gian, Người đã thí mạng sống của mình ngay cả đời này, thì các chiên của Người cũng phải được hưởng sự sống sung mãn ngay ở đời này. Đời sống trường cửu là đời sống phải được bắt đầu ở đây, bây giờ ngay trong cuộc sống này. Đời sống đó chúng ta cảm nghiệm được bằng cách chúng ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, tiếng gọi của Thiên Chúa, tình yêu thương của Người trong những biến cố, những con người mà chúng ta gặp hằng ngầy trong đời sống của mình và cố gắng bước theo Chúa trong đường lối của Người với hết lòng tin tưởng.

Tin tưởng nơi Thiên Chúa cả những lúc chúng ta không hiểu được tại sao Thiên Chúa để điều nọ việc kia xảy ra. Hảy vững tin rằng ngày nào đó, khi mọi sự đã ổn đinh, chúng ta sẽ hiểu được những gì ngày nay chúng ta đang khắc khoải chịu đựng mà không hiểu được tại sao. Nhìn Đấng chiên lành Giêsu, con người phải cảm nhận được hạnh phúc của mình vì đã có được Đấng từ trời xuống thế để dẫn dắt chúng ta về trời. Người đã biết được, Người đã hiểu chúng ta cần gì cho cuộc hành trình trên con đường về quê trời đó. Chúng ta hãy tin tưởng bước theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu, vị Chủ chăn duy nhất, Con một Thiên Chúa nhập thể làm người đó.

Và trong cuộc hành trình về cùng Thiên Chúa Cha này, chúng ta cùng đi với các anh chị em chúng ta trong Giáo Hội, chúng ta cùng nhận ơn các phép bí tích, được thông ban qua công cụ của Giáo Hội do chính Chúa Giêsu đã lập. Vì thế Chúa nhật này cũng là ngày của Giáo Hội cầu nguyện cho các giáo sĩ cũng như tu sĩ. Chúng ta cầu nguyện cho tất cả những người hiến đời mình để phục vụ Thiên Chúa và đoàn chiên Chúa, Giáo Hội. Và nhất là cầu nguyện xin Chúa ban ơn khuyến khích những người trẻ, biết đáp lại một cách ngay lành và quảng đại ơn gọi của Chúa để phục vụ những anh chị em khác, giúp mọi người nghe và hiểu được lời mời gọi của vị chủ chăn đuy nhất trên con đường tiến đến sự sống đời đời

Hơn nữa mỗi người nhất là giáo dân chúng ta phải biết quảng đại, hy sinh phục vụ dân Chúa trong cộng đoàn họ đạo chúng ta bằng những lời xây dựng yêu thương, khuyến khích nhau, bằng những đóng góp kẻ công người của để phục vụ cộng đoàn của mình. Tóm lại, mỗi người phải luôn ý thức rằng mọi việc trong họ đạo không phải chỉ là việc của linh mục, mà là của tất cả mọi người. Qua sự cộng tác với nhau, mỗi người trong khả năng và nhiệm vụ của mình cùng nhau phụng sự cộng đồng dân Chúa dưới sự hướng dẫn của linh mục chủ chăn hữu hình, đại diện chủ chăn duy nhất là Đức Kitô.

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi ý thức rằng Giáo Hội cách này hoặc cách khác luôn cần nhờ sự cộng tác cụ thể của tôi, để giúp cho cộng đoàn Kitô hữu nơi tôi cư ngụ sốt sắng hơn, linh hoạt hơn và sống có trách nhiệm hơn. Những điều kiện tôi cần có để thực hiện việc cộng tác đó là biết và yêu mến Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người, sẵn sàng hy sinh thời giờ của mình cho họ đạo, sẵn sàng đem tài năng Chúa ban để phục vụ anh chị em mình và nhất là ước muốn chia sẻ niềm tin và hy vọng của mình cho người khác. Thực hiện được sự hy sinh phục vụ đó, chúng ta sẽ cảm thấy được niềm vui và đời sống sẽ được sung mãn.

----------------------------------

 

PS 4-C57: CÂU CHUYỆN TÌNH - Mark Link S.J.


CÂU CHUYỆN TÌNH

Mark Link S.J.

Bài đọc; Cv 13 ; 14, 43-52; Kh 7 ; 14-17: Ga 10: 27-30

Chủ đề:

Thiên Chúa mời gọi chúng ta học biết và yêu mến Ngài để mãi mãi được sống hạnh phúc bên Ngài.

 

Cách đây nhiều năm, có một bộ phim được rất nhiều người hâm mộ tựa đề là Laura (nàng Laura).: PS 4-C57


Cách đây nhiều năm, có một bộ phim được rất nhiều người hâm mộ tựa đề là Laura (nàng Laura). Thỉnh thoảng phim ấy lại được chiếu lại trên màn ảnh truyền hình. Chuyện phim kể về một thám tử trẻ nọ được mời đi điều tra vụ thảm sát một phụ nữ xinh đẹp tên là Laura. Chuyện xảy ra là một đêm nọ, có kẻ đột nhập vào căn hộ của Laura, rút súng và bắn một phát đạn vào mặt cô khiến cô bị tử thương. Những ngày kế tiếp sau đó, chàng thám tử trẻ tuổi dồn hết thời gian lục xét căn hộ Laura. Chàng xem xét tỉ mỉ tất cả mọi thứ liên quan đến cô như áo quần, sách vở, tập nhạc, hình ảnh và còn đọc cả những thư từ, nhật ký riêng của cô hầu tìm ra mấu chốt liên quan đến vụ thảm sát. Thế rồi, một điều thật lạ lùng đã xảy ra, chàng thám tử từ từ bị hình ảnh Laura hoàn toàn xâm chiếm, chàng cảm thấy xúc động và bỗng dưng say đắm nàng. Dĩ nhiên chàng cũng nhận ra mình đang yêu một người phụ nữ đã chết. Thế rồi một đêm nọ, đang lúc chàng ngồi trong căn hộ của Laura gắng sức tìm giải pháp để điều tra cho ra, thì bỗng dưng chàng nghe có tiếng chìa khóa tra vào ổ. Rồi cánh cửa mở ra, chàng thám tử không thể tin nổi mắt mình. Laura đang đứng ở đó Nàng vội lên tiếng hỏi: “Anh làm gì trong căn hộ tôi thế?” Chàng liền cắt nghĩa cho nàng mọi sự  việc đã xảy ra… Để rút ngắn câu chuyện, tôi xin tóm lược như sau. Laura đã đi về miền quê tìm nơi hoàn toàn yên tĩnh để nghỉ ngơi ít ngày. Trong suốt thời gian ấy, cô chẳng nghe máy truyền thanh cũng chẳng đọc báo chí nên đã chẳng hay biết gì về cái chết của mình. Té ra là người phụ nữ bị giết nọ là một kẻ nào đó đã sử dụng căn hộ của cô trong thời gian cô vắng mặt, cuốn phim đã kết thúc với cảnh Laura và chàng thám tử yêu nhau, lấy nhau và sau đó sống với nhau hạnh phúc suốt đời.

Cuốn phim trên đây gồm ba phần: Phần nhất diễn lại cảnh chàng thám tử nghiên cứu, lục xét căn hộ của Laura để rồi si mê nàng. Phần hai diễn tả lúc Laura tình cờ xuất hiện trên ngưỡng cửa căn hộ và chàng thám tử nhận ra nàng. Phần ba diễn tả cảnh chàng thám tử tán tỉnh Laura sau đó thành hôn với nàng. Chuyện phim gồm ba phần ấy giống hệt kế hoạch Thiên Chúa vạch ra cho mỗi người chúng ta. Trong đó phần một là Chúa tạo dựng chúng ta trên thế gian này, để chúng ta học hỏi, tìm hiểu về Ngài, giống như chàng thám tử nọ được phái đến căn hộ của Laura để nghiên cứu về cô ấy. Tiếp đó, phần hai, Thiên Chúa biểu lộ chính mình qua Chúa Giêsu, Đấng đã đến trần gian để chúng ta có thể nhận ra Ngài, giống như Laura vừa bước vào căn hộ thì được chàng thám tử nhận ra ngay. Và phần cuối của kế hoạch Chúa dành cho chúng ta là chúng ta yêu mến và sống hạnh phúc mãi mãi với Ngài, giống như chàng thám tử nọ say đắm Laura và được cùng nàng trăm năm hạnh phúc.

Chuyện phim về nàng Laura và bản lược đồ tóm tắt kế hoạch của Thiên Chúa trên sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn bài Phúc Âm hôm nay. Bài Phúc Âm hôm nay phản ảnh ba phần y hệt như trên. Trước hết, Chúa đã cho dân Ngài tuyển chọn được sống trong bầu không khí Cựu ước để họ có cơ hội tìm hiểu về Ngài. Tiếp đó, vào thời gian thuận tiện, Ngài đã tự biểu lộ chính mình trong lịch sử qua con người của Đức Giêsu Kitô. Và cuối cùng, những kẻ nhận biết Đức Giêsu là Chúa thì nghe tiếng Ngài, bước theo Ngài, và lãnh nhận nơi Ngài sự sống vĩnh cửu. Đây chính là điều Chúa Giêsu tuyên bố trong Phúc Âm hôm nay liên quan đến những kẻ nhận biết Ngài “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta… và bước theo Ta. Ta sẽ cho họ sự sống đời đời”. Bởi vì “Cha Ta và Ta là Một”.

Chúng ta sẽ áp dụng tất cả những điều đó vào cuộc sống như thế nào?

Để trả lời, chúng ta hãy trở lại với chàng thám tử trong phim. Chàng đã nghiên cứu căn hộ của Laura kỹ lưỡng, tỉ mỉ biết bao!  Chàng không bỏ sót một chi tiết nào có thể giúp chàng hiểu biết thêm về nàng, vì thế, chàng bỗng say mê nàng dù chưa bao giờ gặp mặt. Đó chính là điều mỗi người chúng ta phải làm tại thế giới này. Chúng ta phải tìm hiểu cho tường tận mọi bí mật, mọi vẻ đẹp, và cả những khổ đau của thế giới này để rồi yêu mến Thiên Chúa dù chưa lần nào gặp mặt Ngài. Đồng thời chúng ta phải tìm hiểu cặn kẽ mọi điều liên quan đến Chúa Giêsu Kitô, vì nơi Ngài chúng ta gặp được Thiên Chúa mặt đối mặt y hệt chàng thám tử nọ đã gặp được Laura nơi cửa căn hộ nàng. Hẳn chúng ta không quên lời Đức Giêsu đã nói; “Ai thấy Ta là Thấy Cha Ta” (Ga 14:9) Và cuối cùng, chúng ta phải hết lòng phó thác đời mình cho Chúa Giêsu để được sống vĩnh cửu, và sau đó được sống hạnh phúc mãi mãi bên Ngài, giống như chàng thám tử dâng tặng cuộc đời cho Laura, kết hôn với nàng và sau đó họ sống mãi mãi hạnh phúc bên nhau. Nói cách khác, Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta tìm hiểu, học hỏi về Chúa qua mọi vật Ngài đã tạo dựng ở trần gian này. Chúng là những gì then chốt cho ta biết về Chúa giống như áo quần sách vở của Laura là những yếu tố giúp chàng thám tử biết rõ con người nàng.

Bài Phúc Âm cũng mời gọi chúng ta tìm hiểu học hỏi về Chúa Giêsu để say mê và bước theo Ngài hầu được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi, giống như chàng thám tử nọ đã say đắm, kết hôn với Laura, và sau đó hai người sống đầm ấm bên nhau mãi mãi.

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện:

Lạy Chúa là Cha chúng con, Cha đã tạo dựng chúng con và ban cho chúng con sự sống. Cha đã đặt chúng con vào trần gian xinh đẹp mầu nhiệm này để chúng con tìm hiểu, suy tư và học hỏi về Cha. Nhưng bình thường chúng con đã chẳng chịu làm như thế. Vẻ kiều diễm của trần gian thường mê hoặc chúng con rời xa Cha hơn là lôi chúng con đến với Cha. Tuy vậy, Cha vẫn không từ bỏ chúng con, Cha đã kêu gọi, đã hô hào, khiến chúng con phải mở tai ra. Cha đã toả chiếu vinh quang của Cha để chúng con phải mở mắt ra. Và bỗng nhiên chúng con bắt đầu nghe được tiếng Cha trong từng hơi thở, trong mỗi bài ca, chúng con bắt đầu nhìn thấy bóng hình Cha lấp lánh nơi mỗi vì sao, nơi từng bông lá, và vào một ngày kia không thể nào quên, chúng con được nghe tiếng Cha và nhìn thấy dung nhan Cha nơi Chúa Giêsu Con Cha.

Vậy xin Cha giúp chúng con lắng nghe lời Chúa Giêsu, bước đi theo Ngài, để được Ngài ban sự sống vĩnh cửu. Xin Cha giúp chúng con chu toàn kế hoạch Cha đã định cho chúng con, để chúng con được sống hạnh phúc bên Cha mãi mãi.

----------------------------------

 

PS 4-C58: EM BIẾT TIN AI BÂY GIỜ ?!


 (Ga 10:27-30)

 

Sau khi thoát khỏi chiến tranh lạnh kéo dài hàng bao thập niên, nhân loại tưởng sẽ bước vào: PS 4-C58


Sau khi thoát khỏi chiến tranh lạnh kéo dài hàng bao thập niên, nhân loại tưởng sẽ bước vào một thế kỷ mới đầy hạnh phúc.  Nhưng rõ ràng thế giới không bao giờ hòa bình.  Cuộc xung đột ý thức hệ chưa chấm dứt, thì cuộc đối đầu về tôn giáo diễn ra ác liệt.  Tình hình thế giới hôm nay  khó tìm một giải đáp.  Con người tự hào về sự hiểu biết quá nhiều và một chiều về tôn giáo của mình.  Niềm tin quá mạnh đến độ cuồng tín đã đẩy cả xã hội và con người vào lò lửa chiến tranh như tại Trung Ðông hiện nay.

Ðàng khác, nhân loại đang trải qua cuộc khủng hoảng về gia đình, xã hội, luân lý, đạo đức v.v.  Con người đang mất hướng chỉ vì quá chú tâm vào những phương tiện sống hơn là chính sự sống.  Nguyên do vì càng ngày con người càng ít biết về tôn giáo, nguồn cung cấp lẽ sống. Theo thống kê, ngay tại nước nổi tiếng Công giáo một thời như Ái Nhĩ Lan, có tới 95 phần trăm người lớn không hề biết về Ðiều Răn Thứ Nhất trong Mười Ðiều Răn.[1]  Kiến thức một chiều hay không có kiến thức về tôn giáo đều dẫn nhân loại đến chỗ chết. Nhiều người như bị lạc hướng hay bị xé rách giữa những giằng co của bao chủ thuyết và niềm tin.   

“Em biết tin ai bây giờ ?” 

Giữa cảnh hoang mang đó, Ðức Giêsu lên tiếng mạnh mẽ: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành.  Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10:11)  Thực tế, Chúa có xứng đáng với danh hiệu đó không ?  Người có đủ khả năng dẫn con người ra khỏi vòng luẩn quẩn của kiếp người không ?

Ngoài Ðức Kitô, con người không thể kiếm được con đường cứu thoát nào khác. Thực vậy, muốn đạt đến ơn cứu độ, con người cần phải biết Thiên Chúa và Thánh ý Người như đã mạc khải trong thánh sử.  Bởi đấy, trước hết, Chúa Giêsu phải bày tỏ cụ thể thánh ý Thiên Chúa, tức những huấn chỉ và lời hứa, cho con người (x. Ga 17:3; Dt 1:1-5).  Chỉ mình Người mới có thể biết và làm cho người khác biết thánh ý huyền nhiệm của Thiên Chúa Cha vĩnh hằng (x. Mt 1:27).  Ðức Kitô đầy quyền năng trong lời giảng dạy.  Người cho nhân loại biết muốn được cứu rỗi, cần phải tin và nhận biết Người là Ngôi Lời Thiên Chúa. 

Ngôi Lời đến trần gian để rao giảng Nước Thiên Chúa và kêu gọi mọi người sám hối.  Không sám hối, không thể nhận biết Người là vua.  Người sinh xuống trần gian để đem sức mạnh sự thật giải thoát nhân loại (x. Ga 18:37).  Như thế, Người xứng đáng là một Mục Tử đầy uy quyền, khôn ngoan và quả cảm.  Bởi thế, trước cuộc đời đầy thách đố và hiểm nguy, Người không tìm an nhàn thư thái hay yên ổn cho bản thân.  Người cũng không hy sinh đoàn chiên để đạt mục tiêu riêng.  Trái lại, Người sẵn sàng liều mạng để cứu sống đoàn chiên.  Người không thể ngồi yên khoanh tay nhìn sói dữ cắn xé đoàn chiên.  Sự hy sinh bất vụ lợi đó là tiêu chuẩn đánh giá người mục tử đích thực.  Người không thể sống theo nước đôi.  Vừa muốn danh dự và uy quyền của một mục tử vừa muốn toàn mạng, chứ không phải đối đầu với đàn sói, làm sao có thể có một thứ mục tử dễ dàng đến thế !  Không !  Người dứt khoát đem tất cả sức mạnh bảo vệ đoàn chiên, dù phải trả bất cứ giá nào !  Chính vì thế, Người trở thành trung tâm thu hút và sức mạnh quy tụ đoàn chiên.  Tình yêu đã khiến Người hy sinh tất cả cho hạnh phúc và sự sống đoàn chiên. 

Sở dĩ dám hy sinh tất cả cho đoàn chiên, vì Người ý thức rất rõ về trọng trách Chúa Cha giao phó đoàn chiên cho mình.  Nếu con người chẳng có một giá trị nào, tại sao Chúa Cha lại giao phó cho Chúa Con ?  Tại sao Chúa Con lại đón nhận như một tặng phẩm quý giá hay như một bửu bối ?   Người hiểu biết rất rõ về giá trị của từng con chiên và của cả đoàn chiên: “Tôi biết chúng.” (Ga 10:27)   Sự hiểu biết đó không phải là một kiến thức khô cứng hay một lý thuyết vô hồn.  Trái lại, đó là sự hiểu biết toàn vẹn bao hàm tình yêu và đưa đến sự hy sinh hoàn toàn. 

Chỉ có Mục Tử như thế mới làm cho đoàn chiên cảm phục và quây quần chung quanh để lắng nghe và đi theo (x. Ga 10:27) mà thôi.  Không sống chết với đoàn chiên, dĩ nhiên không thể được mến chuộng đến như thế.  Mục tử không biết hy sinh đến quên mình, đoàn chiên không thể gắn bó.  Bởi đấy, khi không can đảm bảo vệ đoàn chiên, mục tử sẽ mở đường cho chó sói cắn xé và phân tán đoàn chiên.  Vị Mục Tử tối cao luôn đi sát đoàn chiên để hướng dẫn và chỉ bảo đoàn chiên giữa những ồn ào và nanh vuốt của bầy sói.  Ðó là lý do tại sao Chúa dám cả quyết: “Không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.” (Ga 10:28)

Làm cách nào Chúa có thể bảo đảm như thế ?  Chúa đã dùng phương thế gì ?  Chúa đã bảo vệ đoàn chiên “bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa, (và) lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ.” (2 Cr 6:7)  Như thế, nếu Chúa cứ im lặng,  đoàn chiên sẽ lắng nghe cái gì và làm sao đi theo Người ?  Trước những bất công là vũ khí của loài sói dữ, chỉ có Lời Chúa và sự công chính mới đương đầu nổi.  Thánh Linh chính là sức mạnh Thiên Chúa giúp Người chiến đấu chống lại kẻ thù.  Nhờ chiến đấu can trường, không những Người có thể cứu đoàn chiên, mà còn làm cho “sự sống đời đời” (Ga 10:28) như mạch suối chảy dào dạt trong con chiên nữa.

Càng chiến đấu chống lang sói để bảo vệ đoàn chiên, Người càng mạc khải rõ căn tính và sứ mệnh của mình.  Không phải vô tình Người đứng ra lấy thân cản trở sói lang để cứu đoàn chiên.  Nếu không được Chúa Cha ủy thác và sai phái, Người không bao giờ đảm lãnh trách vụ đó.  Có thể nói Chúa Cha đang ôm trọn đoàn chiên trong vòng tay của Người là Ðức Giêsu.  Còn thành trì nào vững chắc hơn ? 

Trong vòng tay đầy yêu thương đó, Chúa Cha quy tụ muôn tín hữu “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ.” (Kh 7:9)  Chỉ đức tin mới có sức mạnh vượt qua mọi giới hạn tự nhiên mà thôi.  “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Ðức Kitô.” (Rm 10:17)  Chính vì thế, lời Chúa có sức mạnh quy tụ muôn dân và lôi cuốn họ theo Người .  Nếu không có Lời, Chúa sẽ trở thành xa lạ đối với đoàn chiên và đoàn chiên cũng không biết nhau nữa.  Nói khác, chính Lời khiến đoàn chiên thuộc về Chúa và thuộc lẫn nhau.  Theo thánh Augustinô, “tâm hồn thuộc về Chúa Giêsu Kitô, thì nghe tiếng Chúa, hiểu Lời Chúa: người lạ không nghe thấy gì cả.”[2][1]  Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần nghe tiếng Chúa để biết cách hành xử kịp thời và thích hợp.

Vậy đứng trước tình hình GHVN hôm nay, chúng ta phải có thái độ nào ?  Tuần vừa qua, mọi người đều thấy những vị lãnh đạo GHVN không còn giữ im lặng trước vụ linh mục Nguyễn Văn Lý nữa.  Có Vị cao cấp trong HDGMVN cho biết phải đợi tới tháng 10.2007 mới có thể biết thái độ của HÐGMVN.  Vấn đề còn tùy thuộc vào sự góp ý của TGM Huế nữa.[3]  Lạ thật !  Chẳng lẽ cơ chế GHVN nặng nề đến thế ư ?   Trả lời như thế chỉ là một cách tránh né vấn đề và thoái thác trách nhiệm mà thôi.  Thái độ của các GMVN khác hẳn với các gm Nam Hàn.  Trước vụ thảm sát tại đại học Virgina Tech.vừa qua, chẳng lẽ HÐGM Nam Hàn phải đợi đến kỳ họp thường niên mới phản ứng à !  Ngay lập tức, ÐHY Nicholas Cheong Jin-suk, TGM thủ đô Seoul Nam Hàn, đã lên tiếng và phân ưu với các gia đình nạn nhân.  Cả Hội Ðồng Liên Tôn Nam Hàn cũng có một thái độ tương tự.

Trong một cuộc phỏng vấn của VietCatholic, trước vấn đề của linh mục Nguyễn văn Lý, giám mục Chủ tịch HDGMVN cho biết linh mục không được làm chính trị đảng phái, vì sẽ gây chia rẽ.  Giám mục còn như trách móc cha Lý không vâng lời tgm Huế trong công việc chính trị.  Nếu đúng thế, tại sao các giám mục cho phép hay khuyến khích các linh mục tham gia Mặt trận Tổ Quốc và quốc hội ?  Ðó có phải là sinh hoạt chính trị không ?  Nếu có, tại sao không cấm ?  Các giám mục Việt nam đã theo tiêu chuẩn nào để phân biệt giữa việc làm của cha Lý và các linh mục đó ?  Các ngài đã theo  tiêu chuẩn kép.  Các ngài chỉ bắt nạt những linh mục yếu thế, nhưng không dám đụng đến  các linh mục quốc doanh, vì sợ đàng sau các linh mục này còn có cả một lực lượng đang đe dọa mạng sống các ngài.  Thế mới biết các ngài “khôn ngoan” thật ! 

Nếu quả thực có từ chối vâng lời tgm Huế trong cộng việc chính trị, cha Lý  không hoàn toàn xúc phạm đến quyền bính đâu.  Cha Lý cố ý nghe theo lời ÐGH Gioan Phaolô II sau đây: “Đừng hiểu chính trị theo nghĩa hẹp ! Giáo Hội có bổn phận phải rao giảng Tin Mừng, mà trong Tin Mừng có con người, tức là có nhân quyền, nhân phẩm, tự do và lương tâm cùng tất cả những gì thuộc về con người. Nếu tất cả những cái đó có một giá trị chính trị thì tôi làm chính trị, vì tôi bênh vực con người.”[4] ÐGH Gioan Phaolô II đã phải lấy cả cuộc đời để chứng minh nhận định sâu sắc đó.  Không bao giờ có thể quên tấm gương  cao cả và dũng đảm của vị giáo hoàng khả kính !

Chính khi bị bịt miệng là lúc cha Lý nói nhiều và nói to hơn hết ! Cả thế giới nghe thấy tiếng cha !  Thực sự, người ta không mong đợi các GMVN hãy nói thay cha.  Nhưng người ta kỳ vọng các GMVN cùng cha tranh đấu cho nhân quyền tại Việt nam.  Trước nhiều vấn đề, nhất là vấn đề nhân quyền, các ngài luôn chọn giải pháp dễ dãi, phù hợp với thái độ cầu an của mình !

Xin các vị lãnh đạo GHVN nhớ lại lời cảnh giác sau đây của Hội Ðồng Giám Mục Á Châu: “Trước hết chính trị phải trở thành một hoạt động chung, toàn thể dân Chúa được mời gọi dấn thân vào hoạt động chính trị ấy, vì Phúc Âm đòi hỏi Kitô hữu đưa Phúc Âm và những giá trị Nước Trời- là tình thương và công bình- xâm nhập vào những lãnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, và xã hội của Châu Á. Ai tuyệt đối khước từ đòi hỏi thay đổi chính trị ở Châu Á, ắt là một cách nào đó, cũng phủ nhận căn tính Kitô của mình.”[5]   Cơ hội đang đến với các GMVN !  

Vì không hiểu biết nhiều về giáo lý và giáo luật, giáo dân Việt nam chỉ biết vâng lời tối mặt các đấng bề trên mà thôi.  Nhiều giám mục và linh mục hành xử như những “ông trời con.”  Cha phán là Chúa phán.  Giám mục tưởng chừng vô ngộ hơn cả giáo hoàng !  Rõ ràng vì thiếu hiểu biết về giáo lý, giáo dân Việt nam không thể trở thành những công dân có ảnh hưởng và hoạt động hữu hiệu.  Sự thiếu hiểu biết về giáo lý nguy hiểm hơn các hình thức vô tri khác, vì tôn giáo có  một vai trò quan trọng trong văn hóa và như là một sức mạnh trên thế giới.[6]  Nhưng mấy ai dám nhận mình thiếu hiểu biết như thế ? ! 

Phản ứng theo sự thiếu hiểu biết lại càng nguy hiểm cho Giáo hội. 

Lạy Chúa, xin cứu vãn GHVN !  Xin cho các vị lãnh đạo GHVN trở thành những mục tử can đảm bênh vực và hướng dẫn đoàn chiên Chúa. Amen.

----------------------------------

 

PS 4-C59: MỤC TỬ NHÂN LÀNH YÊU ĐÀN CHIÊN


 BẰNG TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC

CÂU HỎI GỢI Ý:

 

Tại sao chiên của Mục Tử Giê-su lại nghe Ngài và theo Ngài ? Điều gì hấp dẫn dân chúng đến: PS 4-C59


1. Tại sao chiên của Mục Tử Giê-su lại nghe Ngài và theo Ngài ? Điều gì hấp dẫn dân chúng đến với Ngài, và tuân theo những lời dạy dỗ của Ngài ?

2. Điều gì khiến cho Mục Tử Giê-su có thể “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” ? Tại sao kẻ chăn thuê “khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy” ?

3. Tình yêu chân thật là gì ? Có thứ tình yêu nào không chân thật không ? Nghĩa là hành động thì có vẻ là yêu, nhưng do một động lực vị kỷ chứ không không do tình yêu thúc đẩy ?

4. Mục Tử có phải là một nghề nghiệp không ? Người Mục Tử nào coi việc làm Mục Tử của mình như một thứ nghề nghiệp, có thể hy sinh cho đàn chiên không ? Tại sao ?

SUY TƯ GỢI Ý:

1. MỤC TỬ NHÂN LÀNH THẬT SỰ YÊU THƯƠNG CHIÊN CỦA MÌNH

Tại sao chiên của Đức Giê-su lại nghe và theo Ngài ? – Thông thường, dân chúng chỉ nghe theo, ủng hộ và thậm chí dấn thân cho những ai thật lòng yêu thương họ, sẵn sàng hy sinh cho họ. Đó cũng chính là thái độ và tấm lòng của Đức Giê-su đối với dân chúng. Rất nhiều lần, lời nói và việc làm của Ngài chứng tỏ lòng yêu thương chân thành và bao la của Ngài đối với mọi người, nhất với những người nghèo, bệnh tật, tội lỗi, và đang đau khổ.

– Thánh Kinh dùng từ “chạnh lòng thương” để nói lên lòng thương xót của Ngài khi thấy dân chúng bị đau khổ, lầm than: “Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” ( Mt 9, 36 ); “Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ” ( 14, 14 ); “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường” ( 15, 32 ).

– Không chỉ “chạnh lòng thương” như một cảm xúc xuông, mà cảm xúc ấy luôn luôn đi đến hành động cứu giúp thật sự. Thấy người khốn khổ, đói khát, bệnh tật... Ngài luôn ra tay cứu giúp vô điều kiện: nào là chữa bệnh, làm người chết sống lại, trừ quỷ ám, nào là hóa bánh ra nhiều để giải đói cho hàng ngàn người, nào là cứu người bị kết án vì ngoại tình, giao tiếp với người tội lỗi để hoán cải họ, làm cho họ cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, v.v... Sách Tông Đồ Công Vụ viết: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó” ( Cv 10,38 ).

Điều quan trọng của người Mục Tử là phải có cái tâm yêu thương thật sự và bao la. Khi đã thật sự yêu thương thì tình yêu sẽ thúc đẩy người Mục Tử làm những gì cần thiết cho tha nhân. Và chỉ những hành động được thúc đẩy bởi tình yêu mới có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tất cả những hành động có vẻ yêu thương – như bố thí, chữa bệnh, giúp đỡ... – nếu không xuất phát từ tình yêu thì đều không có giá trị trước Thiên Chúa.

2. TÌNH YÊU CHÂN THẬT CỦA ĐỨC GIÊ-SU ĐỐI VỚI ĐÀN CHIÊN

Điều khiến cho một Mục Tử trở thành Mục Tử nhân lành chính là tình yêu chân thành và bao la đối với quần chúng, được biểu lộ bằng hành động thật sự.

Tình yêu của Đức Giê-su đối với đàn chiên của Ngài là một tình yêu chân thật, nghĩa là một tình yêu dám xả thân, dám “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” ( Ga 10, 11.15 ), “để cho chiên được sống và sống dồi dào” ( 10, 10 ). Nếu không có tình yêu chân thật, người Mục Tử sẽ có thái độ: “Khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” ( 10,12 ).

Tình yêu chân thật không phải là tình yêu ngoài môi miệng. Nếu người Mục Tử chỉ rao giảng về tình yêu, cho dù rất hay, kêu gọi mọi người yêu thương và hy sinh cho nhau, nhưng chính mình lại không thật sự yêu thương quần chúng, không dám hy sinh, chịu đau khổ, mất mát, thiệt thòi, thậm chí liều mạng vì họ, thì không phải là Mục Tử nhân lành.

Tình yêu chân thật không phải là thứ tình yêu biểu dương. Những người ham danh, muốn được mọi người ca tụng là đạo đức, là thương người, cũng có những hành động có vẻ đầy yêu thương, như bố thí, giúp đỡ, hy sinh... Nhưng nếu họ chỉ làm những hành động tốt đẹp ấy vì động lực vị kỷ thì đó không phải là yêu thương.

Tình yêu chân thật không phải là thứ tình yêu chức năng. Nhiều người phải tỏ ra yêu thương, ân cần, săn sóc người khác, là vì nghề nghiệp hay chức vụ họ đòi buộc. Họ có thể là cán sự xã hội, bác sĩ, y tá, thầy dạy học, đại lý bảo hiểm, Linh Mục, Mục Sư, Thượng Tọa... là những nghề cao quí đòi hỏi những lý tưởng cao thượng. Thái độ và hành vi yêu thương của họ có thể xuất phát từ tình yêu chân thực, mà cũng có thể do nghề nghiệp hay chức vụ đòi buộc. Nếu những hành động tốt đẹp ấy chỉ được thúc đẩy thực hiện do nghề nghiệp hay chức vụ đòi buộc, thì đây là thứ tình yêu mang tính nghề nghiệp ( professional love ) hay chức năng ( functional love ). Tình yêu loại này cũng là tốt, nhưng chưa phải là thứ tình yêu chân thật của người Mục Tử nhân lành.

Một thí dụ điển hình về tình yêu chức năng: Một phụ nữ “vượt biên” nọ kể cho tôi câu chuyện của cô như sau: Khi cô từ trại tỵ nạn đến nước mà cô định cư, có một bà cán sự xã hội được công ty của bà phái đến đến thăm cô, tìm hiểu nhu cầu của cô để họ giúp đỡ. Bà ấy nói năng với cô rất vui vẻ, niềm nở, tỏ ra sẵn sàng giúp đỡ cô trong bất kỳ trường hợp nào cô cần đến. Bà yêu cầu cô khi nào cần thì cứ gọi điện đến sở cho bà, trong giờ làm việc ( giờ hành chánh ). Cô ấy liền nghĩ mình may mắn quá, sao lại có người tốt với mình như vậy ?! Nhưng tuần lễ sau, khi đi lễ Chúa Nhật, lễ xong, cô thấy bà ở cuối nhà thờ đang chuẩn bị ra về. Cô bèn chạy đến với bà lòng mừng khấp khởi như gặp người ân nhân. Nhưng tại đây, thái độ của bà hoàn toàn khác hẳn: mặt bà lạnh như tiền, có vẻ như chưa hề gặp cô bao giờ và không muốn nói chuyện với cô. Cô chưng hửng và lòng đầy thắc mắc, hụt hẫng. Về sau cô khám phá ra rằng bà chỉ tỏ ra niềm nở và đầy lòng tốt với cô trong giờ hành chánh, khi bà làm công tác cán sự xã hội của bà mà thôi. Công việc của bà đòi hỏi bà phải làm như vậy: nếu không, bà sẽ không đạt hiệu quả trong công việc, và bà sẽ bị công ty của bà sa thải.

3. MỤC TỬ KHÔNG PHẢI LÀ MỘT NGHỀ NGHIỆP, MÀ LÀ THIÊN CHỨC CỦA TÌNH YÊU

Khi kêu gọi Phê-rô làm Mục Tử để chăn dắt đàn chiên, Đức Giê-su hỏi Phê-rô đến 3 lần cùng một câu hỏi: “Này Si-môn, con Gio-an, anh có yêu mến Thầy ( hơn các anh em này ) không ?” ( x. Ga 21, 15-19 ). Điều đó có nghĩa gì ? – Có nghĩa là: để làm Mục Tử, điều thiết yếu nhất phải có là tình yêu chân thành và tha thiết đối với Đức Giê-su. Mà đối với Đức Giê-su, yêu Ngài có nghĩa là yêu mọi người, đặc biệt những người nghèo hèn, khốn khổ, bị áp bức ( x. Mt 25, 40.45 ). Như vậy, tình yêu là điều kiện tiên quyết phải có để làm Mục Tử. Có tình yêu đã rồi mới làm Mục Tử được, và tình yêu ấy là tình yêu “tiên thiên”. Chứ không phải là làm Mục Tử trước rồi mới tìm cách biểu lộ tình yêu sao cho phù hợp với thiên chức của mình. Tình yêu “hậu thiên” này không phải là tình yêu đích thực, mà chỉ là thứ “tình yêu chức năng” hay “tình yêu nghề nghiệp” mà thôi. Với thứ tình yêu này, người ta chỉ có thể yêu khi người ta còn giữ nghề nghiệp ấy, chức vụ ấy. Khi không còn thực thi nghề nghiệp hay chức vụ ấy, thì tình yêu cũng tan biến theo.

Một trong những dấu hiệu rất dễ thấy của thứ tình yêu này là người ta chỉ phục vụ tha nhân một cách giới hạn trong lãnh vực mà chức vụ của họ chính thức đòi hỏi mà thôi. Họ thường không muốn phục vụ ngoài giới hạn đó. Chẳng hạn: chỉ phục vụ trong giờ hành chánh, trong những ngày làm việc, không phục vụ ngoài những ngày hay giờ làm việc. Nếu chức vụ họ chủ yếu là phục vụ về tinh thần, thì họ sẽ không màng tới việc phục vụ về mặt thể chất, cho dẫu đối tượng của họ cần được phục vụ mặt đó. Những Mục Tử có tình yêu loại này không thể hy sinh “vượt mức” cho đàn chiên, nhất là trong lãnh vực an ninh, sức khỏe, đòi hỏi họ phải liều ( “vượt mức” ở đây chỉ có nghĩa là quá mức hay quá nhiều đối với họ ). Họ sẽ tìm đủ mọi cách khôn ngoan để tránh né những lãnh vực ấy.

Hiện nay, điều rất đáng tiếc trong Giáo Hội, là có những Mục Tử coi việc làm Mục Tử như một thứ nghề nghiệp: một thứ nghề danh giá, có thu nhập cao, có địa vị, có quyền hành, mà không đòi hỏi nhiều tài năng, nhiều công sức... Vì thế, “nghề nghiệp” này nhiều khi thu hút những người không có tình yêu và khả năng. Do đó, khi chính thức trở thành “Mục Tử”, họ không thể là một “Mục Tử nhân lành”, không thể hy sinh vì đàn chiên như Đức Giê-su mong muốn và đòi hỏi được. Những Mục Tử loại này khiến người ta nghĩ tới hình ảnh “kẻ chăn thuê” mà “đàn chiên không thuộc về anh”, nên “khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” ( Ga 10, 12 ).

Cầu mong cho trong Giáo Hội, số Mục Tử chân chính nhiều hơn những người hành nghề Mục Tử. Vì bổn phận Mục Tử trên nguyên tắc rất nặng nề, đòi hỏi người Mục Tử rất nhiều tình yêu, năng lực, tinh thần hy sinh... mới có thể chu toàn được. Chỉ những Mục Tử này mới làm Giáo Hội thăng tiến, và hoàn thành được sứ mạng mà Đức Giê-su trao cho Giáo Hội.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, xin hãy thương ban cho Giáo Hội của Cha những Mục Tử đích thật, những Mục Tử có tình yêu thật sự, những Mục Tử dám hy sinh và sống chết với đàn chiên của mình. Xin hãy ban sức mạnh và củng cố tình yêu nơi tất cả các Mục Tử của Cha, để Giáo Hội, nhờ ơn Cha, có đủ sức biến cải xã hội và thế giới nên tốt đẹp hơn.

Gs. NGUYỄN CHÍNH KẾT

----------------------------------

 

PS 4-C60: Chuyện: “CHIÊN TÔI THÌ NGHE TIẾNG TÔI”

 

Tại một bệnh viện phụ sản thủ đô Paris nước Pháp, người ta chuẩn bị cho một cuộc thử nghiệm: PS 4-C60


Tại một bệnh viện phụ sản thủ đô Paris nước Pháp, người ta chuẩn bị cho một cuộc thử nghiệm, bằng cách mời gọi một bà mẹ đặt tên trước cho đứa bé trai 5 tháng tuổi còn trong bào thai. Đứa bé được chọn tên là Nicolas. Trong suốt mấy tháng trời, ngày nào bà mẹ cũng gọi tên con, trò chuyện với đứa bé trong bụng.

Đến ngày sinh, đứa bé được cho cách ly, nằm riêng trong một cái nôi. Người ta chọn thêm 3 người phụ nữ có âm giọng tương tự như bà mẹ đẻ của em bé. Tất cả ngồi trong căn phòng, cách em bé đang ngủ say một khoảng bằng nhau. Thế rồi, lần lượt, ba phụ nữ kia gọi tên Nicolas nhiều lần cách quãng nhau, chú bé vẫn tỉnh bơ như không. Đến đúng bà mẹ đẻ lên tiếng: “Nicolas !”, cậu nhỏ liền cựa quậy, rồi mở mắt, rồi khóc ré lên đòi được gặp mẹ.

Cuộc thí nghiệm được lập lại nhiều lần, kết quả đều y như thế ! Hơi mẹ, sữa mẹ, và nhất là tiếng mẹ đã khiến cho đứa con nhận ngay ra sự hiện diện của mẹ mình. “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” ( Ga 10, 27 )

AN-PHONG, theo bộ phim LE BÉBÉ EST UNE PERSONNE. Trích Nối Lửa Cho Đời số 6

----------------------------------

 

PS 4-C61: Cầu nguyện cho ơn thiên triệu


CHỦ NHẬT 4 PHỤC SINH (Năm C)

(Ngày cầu cho Ơn Thiên Triệu)

Tin mừng: Ga 10, 27-30.

Anh chị em thân mến,


 

Hôm nay chủ nhật 4 phục sinh, Giáo Hội dành riêng chủ nhật này để cầu nguyện cho ơn thiên: PS 4-C61


Hôm nay chủ nhật 4 phục sinh, Giáo Hội dành riêng chủ nhật này để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ, để ngày càng có thêm nhiều người hiến dâng cuộc sống của mình để phục vụ Thiên Chúa trong ơn gọi của mình, trong niềm xác tín vào ơn gọi linh mục mà tôi đã lãnh nhận từ nơi Giáo Hội, tôi xin chia sẻ với anh chị em ba điểm này:

1. Ơn thiên triệu là một sáng kiến của Thiên Chúa.

Thiên Chúa, Đấng vì yêu thương nhân loại mà có những sáng kiến độc đáo trổi vượt để cứu chuộc nhân loại, trong đó có sáng kiến: kêu gọi một số người sống đời tận hiến để thay mặt Ngài dâng lễ hiến tế và tha tội, phục vụ tha nhân và loan truyền Phúc Âm cho mọi người, đó chính là các linh mục, tu sĩ nam nữ và những người tự nguyện sống trong các cộng đoàn tu hội đời được Giáo Hội chấp thuận.

Ơn Thiên Triệu tự nó đã nói lên được lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với nhân loại tội lỗi, bởi tự bản chất của nó là mời gọi là triệu tập con người ta đi theo lời mời gọi của Ngài để trở nên một dụng cụ mới hơn, đắc lực hơn trong công tác rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc. Sáng kiến này được Chúa Giêsu thực hiện đầu tiên khi Ngài kêu gọi các tông đồ đi theo Ngài để tiếp tục sứ mạng cứu chuộc của Ngài ở trần gian, và hơn hai ngàn năm nay Thiên Chúa -qua Giáo Hội- vẫn tiếp tục mời gọi những tâm hồn thiện chí biết quên mình để phục vụ và yêu thương Ngài nơi tha nhân, chính ơn gọi này đã làm cho nhân loại ngày càng tốt tươi hơn, gần gủi với nhau hơn và thấy rõ được tình yêu Thiên Chúa hơn qua đời sống tận hiến của các linh mục và các tu sĩ nam nữ trong Giáo Hội.

Bởi vì Ơn Thiên Triệu là một sáng kiến độc đáo của Thiên Chúa, nên chỉ có Thiên Chúa mới độc quyền kêu mời và tuyển chọn ai thì theo ý muốn của Ngài mà thôi, và như thế thì thật vinh dự cho người được chọn vậy...

2. Linh mục là món quà Thiên Chúa ban cho thế gian.

Chúa Giêsu -Đấng cứu độ trần gian- đã vì yêu thương nhân loại mà thiết lập chức linh mục -bí tích Truyền Chức Thánh- để qua bí tích này, nhân loại đón nhận vô vàn ân sủng của Thiên Chúa ban cho qua các linh mục, và chính nhờ bí tích này mà Chúa Giêsu -qua bí tích Thánh Thể- đã trở nên của ăn của uống nuôi dưỡng linh hồn những người tin vào Ngài. Đây là một hồng ân và là một món quà vô giá mà chỉ có Thiên Chúa mới hào phóng ban tặng cho nhân loại mà thôi, bởi vì không một cá nhân, tổ chức nhân loại nào được có quyền tự mình làm linh mục hoặc đặt người trong tổ chức của mình làm linh mục nếu không hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo và Đức Giáo Hoàng tại La Mã.

Các tín hữu Công Giáo càng ý thức mình là người Kitô hữu thì càng đề cao vai trò của các linh mục trong đời sống thiêng liêng của mình, bởi vì từ khi sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời, người Kitô hữu đã được hưởng biết bao ơn lành của Thiên Chúa từ tay các linh mục, đó chính là hồng ân và là quà tặng của Thiên Chúa ban cho họ, chính qua bí tích Truyền Chức Thánh mà linh mục trở nên Chúa Kitô thứ hai để tiếp tục sứ mạng và công việc của Chúa Kitô tại trần gian này là dâng lễ hiến tế, tha tội và thông ban ân sủng của Thiên Chúa cho người giáo dân.

Không có linh mục thì không có thánh lễ, không có thánh lễ thì không có tiệc thánh Mình và Máu Chúa Kitô, tức là không có hy tế dâng lên Chúa Cha để xin Ngài ban ơn và tha tội cho nhân loại tội lỗi, do đó mà giáo dân cần phải yêu mến, trân trọng và gìn giữ món quà quý giá mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại, đó là các linh mục của Chúa Kitô.

3. Cầu nguyện, hy sinh và yêu thương các linh mục, tu sĩ nam nữ.

Anh chị em thân mến,

Có giáo dân khóc vì có một số linh mục không làm tròn bổn phận cao quý của mình, có một vài giáo dân bực mình vì có một số linh mục cũng như các tu sĩ nam nữ chưa thực sự dấn thân vì Tin Mừng và vì tha nhân, có những người chống đối và chỉ trích cách sống của một số linh mục không giống với những gì mà họ đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa và Giáo Hội...

Trách cứ, buồn phiền, chỉ trích của chúng ta với các linh mục là do những bức xúc mà có, nhưng nếu chỉ trích mà không cầu nguyện, buồn phiền mà không yêu mến, trách cứ mà không tha thứ thì -xét cho cùng- cũng chẳng cải thiện được gì, mà có khi còn mở đường cho người khác chống đối các linh mục và Giáo Hội của chúng ta.

Trong ngày cầu nguyện cho Ơn Thiên Triệu hôm nay, tôi xin mời anh chị em trong giáo xứ của mình tăng gia lời cầu nguyện và làm các việc hy sinh để cầu nguyện cho các linh mục và các tu sĩ nam nữ trong Giáo Hội, bởi vì chỉ có cầu nguyện, hy sinh và yêu thương là những phương thế chữa lành cũng như sức mạnh giúp cho các linh mục và các tu sĩ nam nữ đi trọn con đường tận hiến của mình mà thôi...

Xin Thiên Chúa và Mẹ Maria -Mẹ của các linh mục- chúc lành cho tất cả chúng ta.

Bài giảng chủ nhật cầu cho Ơn Thiên Triệu tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.


----------------------------------

 

PS 4-C62: CHÚA CHIÊN LÀNH THÌ SỐNG CHẾT VÌ CHIÊN


 [CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH NĂM C (29.04.2007)]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Tôi nghĩ rằng nhiều người Công giáo và không Công giáo Việt Nam chẳng xa lạ gì với cha Phanxicô PS 4-C62


Tôi nghĩ rằng nhiều người Công giáo và không Công giáo Việt Nam chẳng xa lạ gì với cha Phanxicô Trương Bủu Diệp và địa danh Tắc Sậy. Nhiều người lương giáo tìm đến với cha ở đây để cầu ơn, vì dân gian đồn thổi rằng cha Bủu Diệp “thiêng” lắm! Nhưng theo tôi thì điều quan trọng hơn mà cha Bửu Diệp - vị linh mục nhà quê, gốc xứ đạo Cồn Phước thuộc vùng sông nước Cửu Long - để lại cho hậu thế là tấm gương chết vì con chiên. Vì thế mà chúng ta có quyền nhắc đến cha Bủu Diệp trong phần “DẪN VÀO PHỤNG VỤ” của Chúa nhật IV Phục Sinh, được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành và được Hội Thánh dành riêng cho việc cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Hơn bao giờ hết, Hội Thánh đang gặp phải hai vấn đề khó khăn liên quan tới tình trạng thiếu ơn gọi linh mục tu sĩ một cách trầm trọng ở một số địa phương (quantity) và tình trạng đời sống tu trì sa sút về phẩm chất ở một số địa phương khác (quality).

II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.

(1) Bài đọc 1: Cv 13, 14.43-52:  Này đây, chúng tôi quay về phía dân ngoại.

                     14 Ngày ấy hai ông Phao-lô và Bác-na-ba rời Péc-ghê tiếp tục đi An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a. Ngày sa-bát, hai ông vào hội đường ngồi tham dự.

                     43 Tan buổi họp, có nhiều người Do Thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa. 44 Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. 45 Thấy những đám đông như vậy, người Do Thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông. 46 Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. 47 Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất."

                     48 Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. 49 Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy. 50 Nhưng người Do Thái sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do Thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. 51 Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. 52 Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.

(2) Bài đọc 2: Kh 7,9.14b-17: Con Chiên sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh

                    9 Tôi là Gio-an, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. 15 Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. 16 Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. 17 Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ."

(3) Bài Tin Mừng: Ga 10,27-30: Tôi ban sự sống đời đời cho chiên của tôi.

                   27 Khi ấy Chúa Giê-su nói với người Do Thái rằng: chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. 28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. 29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. 30 Tôi và Chúa Cha là một."

2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?    

(1) Bài đọc 1 (Cv 13, 14.43-52) là đoạn Sách Tông Đồ Công Vụ miêu tả hoạt động tông đồ của Phao-lô và Bác-na-ba tại An-ti-ô-khi-a. Lúc đầu hai Tông Đồ rao giảng Tin Mừng cho cả người Do Thái lẫn dân ngoại. Nhưng vì người Do Thái không muốn đón nhận lời rao giảng của các ngài, nên Thiên Chúa soi sáng cho các ngài hướng về dân ngoại…

Trong đoạn sách Cv 13, 14.43-52 trên chúng ta thấy tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa vượt trên ranh giới địa dư và chủng tộc. Ơn cứu độ là ơn phổ quát; tin mừng cứu độ là dành cho hết mọi người, mọi dân tộc. Ít-ra-en là dân riêng của Chúa, nhưng kế hoạch của Chúa là thiết lập một Ít-ra-en mới, quy tụ mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ, mọi sắc tộc.  Các tông đồ Phao-lô và Bác-na-ba… là công cụ  Chúa dùng để thiết lập Ít-ra-en mới này!

(2) Bài đọc 2 (Kh 7, 9.14b-17) là thị kiến của Tông Đồ Gio-an về các thành phần trong Vương Quốc của Thiên Chúa, gồm đủ mọi hạng người, mọi sắc dân, mọi chủng tộc, qui tụ xung quanh Con Chiên. Tất cả mọi thành phần ấy đã chứng thực lòng tin và tình yêu đối với Con Chiên là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết để cứu rỗi họ và đưa họ vào Vương Quốc của Thiên Chúa Tình Thương.

Trong đoạn thư Kh 7,9.14b-17 trên, chúng ta cũng thấy nổi bật hình ảnh của Chiên Thiên Chúa, Đấng đã hy sinh mạng sống để quy tụ nhân loại, sau khi đã thanh tẩy và thánh hóa mọi người, bằng máu và bằng ơn sủng.

(3) Bài Tin Mừng (Ga 10,27-30) là những lời của chính Chúa Giê-su nói về mối tương quan thân tình và gắn bó mật thiết giữa người và những người thuộc về Người. Trong Thánh Kinh hình ảnh người chăn chiên suốt đời tận tụy hy sinh vì đàn chiên là một hình ảnh rất đẹp, vừa gần gũi  vừa sâu sắc ý nghĩa.

                   Qua Bài Phúc Âm Ga 10,27-30 chúng ta không thấy tấm lòng và hành động yêu thương của Chúa Giê-su Ki-tô dành cho những người đi theo Chúa. Quả Người là Chúa Chiên Lành và các tín hữu là chiên của Chúa.

2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?    

                   Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay được tóm gọn trong hai vế:
                   * Vế thứ nhất là mỗi người nỗ lực sống tư cách là chiên của Chúa để được Chúa chăm sóc phần hồn phần xác như lời Chúa đã dạy: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi."
                   * Vế thứ hai là mỗi người cố gắng luyện tập cho có tấm lòng và cách thức chăn chiên của Chúa Giê-su Ki-tô, để chăm sóc những người mà Chúa giao cho chúng ta là vợ/chồng, cha mẹ/con cái/anh chị em, nhân viên/hội viên/giáo dân, người nghèo/ tàng tật/neo đơn….

III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình trong hai khía cạnh sau:

3.1 Tôi có nỗ lực sống đầy đủ tư cách và vinh dự là chiên của Chúa không? Tôi có biết Chúa và có nghe tiếng Chúa không? Tôi có đón nhận sự sống đời đời mà Chúa muốn ban cho tôi không?   

3.2 Tôi có cố gắng học cùng Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa Chiên Lành để có một tấm lòng yêu thương và biết cách chăm sóc những người Chúa giao cho tôi  phục vụ và yêu thương không?

IV. CẦU NGUYỆN  (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)

                   4.1 “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một."

Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh, Chúa đã ban cho chúng con ơn được làm chiên của Chúa, được Chúa yêu thương, chăm sóc và bảo vệ.

Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.

Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn sống tin cậy phó thác và ngoan ngoãn phục tùng đối với Chúa là Chúa Chiên Lành của chúng con !

          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

4.2 “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.”

Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh, Chúa đã ban cho chúng con ơn được làm chiên của Chúa, được Chúa yêu thương, chăm sóc và bảo vệ. 

Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.

Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn biết Chúa, ơn lắng nghe Lời Chúa và ơn đi theo Chúa để chúng con trở nên những con chiên khỏe mạnh, béo tốt.        

          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

4.3 “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.”

Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh, Chúa đã ban cho chúng con ơn được làm chiên của Chúa, được Chúa yêu thương, chăm sóc và bảo vệ. 

Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.

Chúng con xin Chúa ban cho chúng con sự sống đời đời mà Con Chúa đã đem đến cho chúng con nhờ cuộc Khổ Nạn Thập Giá và Phục Sinh vinh quang của Người.
 
          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

4.4 “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.”

Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh, Chúa đã ban cho chúng con ơn được làm chiên của Chúa, được Chúa yêu thương, chăm sóc và bảo vệ.

Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.

Chúng con xin Chúa ban cho các chủ chăn trong Hội Thánh là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục và các Linh Mục, một đời sống thánh thiện, siêu thoát của cải, chức quyền, danh vọng và luôn hy sinh quên mình cho đàn chiên của Chúa.

          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

4.5 “Này đây, chúng tôi quay về phía dân ngoại.”

Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh, Chúa đã ban cho Phao-lô và Bác-na-ba sứ mạng đem Tin Mừng cho dân ngoại.

Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.

Chúng con xin Chúa ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều tâm hồn nhiệt thành là các linh mục, tu sĩ, tông đồ giáo dân và chính chúng con đây, để “dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo” nhờ lời rao giàng và chứng tá kiên cường của chúng con!       

          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. 
Sàigòn ngày 17.04.2007.

----------------------------------

 

PS 4-C63: Chúa chiên lành

 

Có một ông bố đã tâm sự với một giáo viên, đã từng dạy học cho các con ông như sau: Mặc: PS 4-C63


Có một ông bố đã tâm sự với một giáo viên, đã từng dạy học cho các con ông như sau: Mặc dù các con tôi không còn chung sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu thương chúng và muốm biết chúng học hành ra sao ? Ngoài ra ông cũng còn cho hay hoàn cảnh gia đình ông: Ông là một nhà thầu lo việc xây dựng. Suốt ngày ông bận rộn với công việc của mình, đến nỗi không còn thời giờ để gặp gỡ và sống với vợ con. Ông nói: Tôi rất ước ao sắm sửa mọi thứ cho vợ và các con tôi. Nhưng vì mải mê với công việc làm ăn, tôi không còn để tâm tới một điều mà vợ và các con tôi cần thiết và quan tâm hơn cả, đó là họ cần một người chồng, một người cha thường xuyên gần gũi để yêu thương và giúp đỡ họ. Kết quả là người vợ và bốn đứa con của ông đã lìa bỏ ông. Sự việc này đã làm cho ông rất đau buồn và chua xót. Ông khổ đau trước một sự mất mát quá lớn, bởi lẽ những người ruột thịt thân thương nhất, không còn thuộc về ông, không còn ở trong tầm tay của ông nữa.

       Từ mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay với hình ảnh về người mục tử. Thực vậy, hình ảnh người mục tử là hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái, bởi vì một số người trong họ đã sống bằng nghề chăn nuôi súc vật. Đồng thời người Do Thái cũng đã mượn hình ảnh này để diễn tả về sự chăm sóc của Thiên Chúa. Tiên tri Êgiêkien trong Cựu ước đã từng so sánh Thiên Chúa là người mục tử tuyệt vời khi nói: Chính Ta sẽ chăn dắt chiên Ta. Con nào bị mất Ta sẽ tìm kiếm. Con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về. Con nào bị thương, Ta sẽ băng bó. Con nào bệnh tật, Ta sẽ bồi dưỡng. Con nào béo tốt và khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng.

       Trong Phúc âm, Chúa Giêsu cũng đã sánh ví mình như là một vị mục tử lý tưởng với nét đặc sắc: Ngài biết các chiên của Ngài để chăm sóc và yêu thương vì chúng thuộc về Ngài. Chính Ngài đã ban cho chúng sự sống đời đời.

       Người cha trong câu chuyện vì miệt mài với sinh kế, nên đã bỏ bê vợ và các con. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài là mục tử và chúng ta là những con chiên của Ngài. Ngài đã đến và sống giữa chúng ta, để chia sẻ những vui buồn và cực nhọc. Ngài sẵn sàng lên đường để tìm kiếm những con chiên bị lạc mất. Và hơn thế nữa, Ngài đã chịu chết trên thập gíá, đã hy sinh mạng sống mình vì yêu thương chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi án phạt của tội lỗi. Đồng thời, Ngài muốn xác quyết với chúng ta rằng: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.

       Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta phải làm gì để đáp trả sự chăm sóc đầy yêu thương mà Ngài đã dành cho chúng ta. Tôi xin thưa: rất đơn giản, đó là chúng ta hãy bước đi dưới sự dẫn dắt của Ngài, hay thực thi những điều Ngài truyền dạy. Có như vậy chúng ta mới trở nên những con chiên đích thực của Ngài, như Ngài đã phán: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Để rồi, ước vọng cuối cùng của Ngài sẽ được thực hiện, đó là chỉ có một đoàn chiên và một chủ chiên.

---------------------------------

 

PS 4-C64: Vị chủ chăn nhân lành

 

Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chăn Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho các ơn: PS 4-C64


Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chăn Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho các ơn gọi linh mục, tu sĩ nam nữ. Bài Phúc Âm nhắc chúng ta nhớ lại mối tương quan giữa Chúa Giêsu và mỗi tín hữu. Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên tốt lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên.

Cuốn phim về cuộc đời ông Bach Adams, trình bày cho chúng ta thấy một phần nhân cách phi thường, khác thường đến độ bị kẻ khác xét như một người điên. Đó là nhân cách của ông Bach Adams: ông khám phá ra chiều kích nhân bản tương quan giữa người với người trong việc chữa trị bệnh nhân. Bệnh nhân sẽ bình phục mau chóng hơn khi mối tương quan giữa bác sĩ và đương sự được tốt đẹp. Thái độ của ông Bach Adams rất khác biệt với thái độ cứng nhắc, vô tâm, vô tình của bác sĩ tâm thần không màng nghe người bệnh. Thái độ của ông Bach Adams bị thử thách khi người mang ơn những trợ giúp nhân đạo của ông không những không biết ơn mà còn hành động tàn bạo giết chết người yêu của ông. Adams cảm thấy sự hy sinh của mình bị xúc phạm, bị lợi dụng và muốn bỏ cuộc. Tác giả cuốn phim cho chúng ta thấy rằng chỉ khi nào Adams chấp nhận hy sinh, cho đi tất cả, thực sự cho đi tất cả, thì ông mới trung thành được với sứ mạng. Đây có thể nói là một cách sống thí mạng cho kẻ khác, cách sống của vị chủ chăn chiên hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.

Lòng quảng đại suông không bị thử thách, không quảng đại hy sinh, không phải thí mạng cho kẻ khác thì chưa phải là lòng quảng đại của vị chăn chiên nhân lành. Ngày ơn thiên triệu, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã từng mời gọi các bạn trẻ hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi theo Chúa, đây không phải là thứ lòng quảng đại lãng mạn, quá lý tưởng, không được thể hiện ra bên ngoài bằng hành động hy sinh cụ thể. Và do đó sẽ không kiên trung kéo dài lâu, gặp khó khăn sẽ dễ dàng nản lòng. Hy sinh là định luật để được trưởng thành và vững mạnh.

Một ngày kia, Chúa Giêsu đã hiện ra cho thánh Giêrônimô và hỏi:

- Này Giêrônimô, hôm nay con có gì để dâng cho Ta không?

Thánh Giêrônimô đáp:

- Con dâng cho Chúa tất cả những bộ sách con đã viết và nhất là bộ Kinh Thánh con vừa mới dịch xong.

Chúa Giêsu mỉm cười chấp nhận nhưng chưa hoàn toàn thỏa mãn, Ngài hỏi thêm:

- Con còn có gì nữa để dâng cho Ta không?

Thánh Giêrônimô không chút do dự trả lời:

- Con dâng cho Chúa tất cả những hy sinh, khổ cực con gặp thường ngày từ trước tới giờ. Con dâng cho Chúa trọn cả cuộc đời tu trì của con đây.

Chúa Giêsu chấp nhận nhưng vẫn chưa mãn nguyện, Ngài lại hỏi lần thứ ba:

- Con còn có gì để dâng cho Ta nữa không?

Lần này, thánh Giêrônimô tỏ vẻ phân vân và nhỏ nhẹ thưa cùng Chúa:

- Thì con đã dâng cho Chúa tất cả rồi, còn gì tốt đẹp nữa đâu mà con có thể dâng cho Chúa được.

Chúa Giêsu nhìn Giêrônimô với đôi mắt nhân từ, tràn đầy yêu thương và phán:

- Giêrônimô, tại sao con không dâng cho Ta những tội lỗi, những tật xấu của con? Con giữ nó làm gì? Ta đã xuống thế, chịu chết trên thập giá là để đền tội lỗi con mà.

Thánh Giêrônimô dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi của mình.

Câu chuyện này phần nào diễn tả tất cả tâm hồn tràn đầy yêu thương của Chúa đối với mỗi người chúng ta. Ngài biết rõ chúng ta như chủ chăn biết rõ từng con chiên. Ngài đến với mỗi người chúng ta và đặt ra cùng một câu hỏi: "Con có gì dâng cho Ta hôm nay không?", ngoài những gì tốt đẹp nhất mà sức hèn con người có thể thực hiện để dâng cho Chúa, chúng ta còn được Chúa âu yếm mời gọi đừng sợ, hãy dâng cho Chúa cả những tội lỗi của mình. Chúa yêu thương chúng ta, thật khác với mọi lãnh tụ trần gian, chỉ muốn thuộc hạ dâng cho mình điều tốt. Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên nhân lành, vì Chúa là Chúa, nên muốn chúng ta dâng cho Ngài những điều tốt lẫn những điều xấu, vì Ngài có đủ quyền năng để biến đổi những điều xấu, thanh tẩy những tội lỗi chúng ta nếu chúng ta muốn.

Hình ảnh vị chủ chăn nhân lành nhắc nhở chúng ta nhớ lại tình thương yêu, bảo vệ và hướng dẫn của Chúa. Hãy dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi của chúng ta. "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta". Chúng ta hãy đến dâng cho Chúa tất cả cuộc sống của mình, tất cả những điều tốt đẹp, kể cả những điều xấu, những tội lỗi để cho ân sủng Chúa thanh tẩy mỗi người chúng ta mỗi ngày được nên tốt đẹp hơn.

---------------------------------

 

PS 4-C65: Hoà hợp tiền định

 

Đang là mùa đông, người ta mừng lễ cung hiến ở Giêrusalem. Chúa Giêsu đi lại trong đền thờ: PS 4-C65


Đang là mùa đông, người ta mừng lễ cung hiến ở Giêrusalem. Chúa Giêsu đi lại trong đền thờ. Một nhóm người Do thái vây quanh, yêu cầu Chúa nói trắng ra về thân thế Người. Người có đúng là Đấng Messia hay không? Thật vậy, Thầy đã công khai nói xa xôi cho người ta hiểu Thầy chính là Đấng Messia. Có những người đơn sơ, không rắc rối, có thiện chí, đã hiểu được về bí mật thân thế Chúa và tin vào Chúa, chẳng hạn người phụ nữ Samaria và kẻ mù bẩm sinh. Người ta cảm thấy những kẻ chất vấn Chúa nhiều phần thắc mắc khó chịu về Chúa, hơn là sẵn lòng nghe Chúa với một tâm hồn cởi mở. Chúa muốn cho những kẻ nặng óc thành kiến phải bỡ ngỡ. Chúa không theo lối suy diễn của họ. Vì lẽ họ cho rằng hệ thống suy diễn của mình không thể sai lầm, ông Giêsu này nhất định sẽ lộ hình tích, chính ông sẽ đưa ra một lời khai đúng cách, lúc đó họ sẽ có quyền ném đá ông. Chúa Giêsu không do dự. Người đưa ra câu đáp trên hai bình diện: tâm tình thích hợp để dễ dàng tiếp nhận chân lý và Kinh Thánh với một giá trị không thể bác bỏ (Lời Chúa viện dẫn Kinh Thánh tiếp ngay sau đoạn Phúc Âm hôm nay). Hai câu hỏi được đặt ra:

1) Tại sao người Do thái ngoan cố chối bỏ Chúa Giêsu? Chúa bắt đầu bằng cách mời gọi họ thấy gì thì hãy tin thế, bởi những việc Người làm nhân danh Cha Người đều làm chứng cho Người. Tuy nhiên, Chúa nói tiếp ngay, nếu họ bác bỏ bằng chứng ấy, chính vì cớ tâm hồn họ không phù hợp với sứ điệp của Chúa. Họ đã nhất quyết lối xét đoán sự việc của họ là tốt. Thế mới biết con mắt người ta nhìn thực tại theo khuynh hướng của mình. Nếu thực tại không phù hợp với hệ thống suy diễn của mình, người ta cho rằng chính thực tại là sai. Nhận định này có giá trị sâu sắc đối với hành vi tin. Để thực hiện một hành vi tin, trước hết con người phải chấp nhận để cho ân huệ chuẩn bị tâm hồn cách bí nhiệm. Nhưng nhận định này cũng có giá trị đối với phẩm chất của hành vi tin. Nhiều người tự nhận mình tin vào Chúa Giêsu. Nhưng tin vào Chúa Giêsu nào? Dưới khía cạnh triết lý, xã hội, chính trị, v.v… nào? Luôn luôn chúng ta có lý để băn khoăn không biết con mắt chúng ta có đủ trong sáng không để nhìn Chúa Giêsu Kitô?

2) Ý nghĩa câu: “Không ai giựt chúng khỏi tay Ta được!” là gì? Câu đó có nghĩa: không một quyền năng ngoại giới nào có thể giật người Kitô hữu rời khỏi tay Chúa Kitô. Sự trợ giúp của Chúa sẽ mạnh vô cùng để thắng những khó khăn ngoại giới. Tuy nhiên tại sao có những vụ bất trung bất nghĩa, có cả những vụ bỏ đạo, chối Chúa nữa? Sở dĩ như vậy vì quyền năng vô biên của Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do tư tưởng của con người. Khi một Kitô hữu xa lìa Chúa, không phải vì Chúa bỏ kẻ ấy, mà chính vì kẻ ấy bỏ Chúa. Cả trong trường hợp đó, Chúa Kitô không rút lại niềm thương yêu của Chúa. Chúng ta hãy nhớ lại dụ ngôn con chiên lạc. Tới đây chúng ta đối diện với một vực thẳm bí nhiệm thứ hai. Không những tâm hồn có thể từ chối phù hợp với hành vi tin, mà còn có thể huỷ diệt niềm tin của mình sau khi đã dâng hiến. Chúng ta không được choáng váng trước bí nhiệm ấy, mà phải tăng cường cảnh giác trong niềm trung tín. Nói đơn giản hơn, chúng ta hãy tin chắc rằng, đáp ứng thiện chí hằng ngày của chúng ta, Chúa nắm vững chúng ta trong tình yêu của Người.

---------------------------------

 

PS 4-C66: Hiệp nhất: yêu thương và vâng lời trọn vẹn

 

Hai tháng đã trôi qua sau khi Chúa Giêsu chữa lành người mù và giảng dạy vào dịp Lễ Lều. Sau: PS 4-C66


Hai tháng đã trôi qua sau khi Chúa Giêsu chữa lành người mù và giảng dạy vào dịp Lễ Lều. Sau đó Ngài trở lại Galilê, nhưng giờ đây Ngài trở lại thủ đô để dự một quốc lễ gọi là lễ kỷ niệm việc tẩy uế Đền Thờ sau khi bị vua Syria là Antiochus dày xéo.

Chúa Giêsu đang đứng ở hành lang phía đông của Đền Thờ gọi là hành lang Salomon, để tránh mưa và lạnh của tháng chạp. Kẻ thù vây quanh Ngài và yêu cầu Ngài nói thẳng ra Ngài có phải là Đấng Messia hay không. Chắc chắn ẩn phía sau câu hỏi này có hai thái độ khác nhau. Một số người thật sự muốn biết rõ, họ đang nóng lòng trông chờ. Ý niệm của họ về Đấng Messia có thể không giống ý niệm của Chúa Giêsu, nhưng họ đang nóng lòng muốn biết, phải chăng cuối cùng thì Đấng Giải Phóng hứa cho họ từ lâu đã đến. Nhưng với một số khác, câu hỏi đó là một cái bẫy họ giăng ra. Họ gài bẫy, để khi Chúa Giêsu đưa ra một câu trả lời mà họ có thể bóp méo được, rồi tố cáo Ngài về tội lộng ngôn và toà án của họ có thể buộc tội, hoặc để tố cáo Ngài về tội phản loạn mà quan tổng trấn Rôma có thể kết án.

Chúa Giêsu đáp, Ngài đã cho họ biết về Ngài là ai rồi, và quả thật Ngài đã không dùng nhiều lời để nói ra điều đó, vì như Gioan kể lại, hai lời tự xưng quan trọng của Chúa đều được đưa ra trong chỗ riêng tư. Với người đàn bà ở giếng Giacóp, Ngài tiết lộ chính Ngài là Đấng Messia; với người mù bẩm sinh, Ngài tự xưng là Con Thiên Chúa. Nhưng có một số lời tự xưng không cần phải nói ra, nhất là với đám thính giả đủ trình độ hiểu được vấn đề. Có hai điều về Chúa Giêsu khiến lời tự xưng của Ngài trở nên rõ ràng không thể nghi ngờ được, cho dù có nói ra bằng lời hay không. Trước hết ‘việc làm’ của Ngài, đó là giấc mơ về thời đại hoàng kim của Isaia: “Bấy giờ, mắt những kẻ mù sẽ sáng, tai kẻ điếc sẽ thông; bấy giờ kẻ què sẽ nhảy như nai, lưỡi kẻ câm sẽ hát”. Đó chính là điều Chúa Giêsu đang làm. Mỗi phép lạ của Ngài đều là một lời công bố lớn tiếng về kỷ nguyên của Thiên Chúa đã bắt đầu, Đấng Messia đã đến. Thứ hai, những ‘lời’ Ngài phán dạy, Môse đã báo trước rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi dậy một nhà tiên tri mà mọi người phải nghe theo. Giọng nói đầy uy quyền của Chúa Giêsu, cách thức Ngài bác bỏ thật dễ dàng những điều khoản của bộ luật cũ kỹ, thay vào đó bằng những lời giáo huấn của Ngài, là một lời xác nhận chính Thiên Chúa đang nói trong Ngài, Ngài là tiếng nói của Thiên Chúa nhập thể và đến với loài người. Bất kỳ ai đã nghe Chúa Giêsu, đã theo dõi hành động của Ngài, đều không cần thêm một lời tự xưng nào của Ngài nữa. Những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu là một lời tự xưng liên tục, Ngài là Đấng được xức dầu (Messia) của Thiên Chúa.

Nhưng một số đông người Do thái không chấp nhận lời tự xưng đó. Tại Palestine, chiên quen biết tiếng gọi đặc biệt của người chăn và đáp lại chúng thuộc về người chăn và quen biết tiếng người chăn. Nhưng số người Do thái này không thuộc về bầy chiên của Chúa Giêsu. Trong Phúc Âm của thánh Gioan, ẩn phía sau mọi điều đó là một giáo lý về tiền định. Mọi việc luôn luôn xảy ra như Thiên Chúa đã định cho chúng xảy ra. Thánh Gioan đã bảo số người Do thái này đã bị định trước là sẽ không đi theo và không đáp ứng lời kêu gọi của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, toàn thể Tân Ước đã giữ cân bằng hai ý niệm trái ngược này: mọi việc xảy ra đều nằm trong chủ đích của Thiên Chúa, thế nhưng mọi việc này xảy ra theo cách mà ý chí tự do của con người phải chịu trách nhiệm. Số người Do thái này đã tự khiến mình rơi vào chỗ bị định trước là không chịu tin nhận Chúa Giêsu. Dưới cái nhìn của thánh Gioan, điều đó vẫn không làm cho họ hết chịu trách nhiệm về thái độ không tin.

Một số khác đã tin nhận Chúa Giêsu, và Ngài hứa ban cho họ ba điều:

1) Ngài hứa ban cho họ sự sống viên mãn

Ngài hứa cho họ được nếm trước sự sống, vốn là sự sống của Thiên Chúa. Ngài hứa nếu họ chịu tin Ngài làm Chủ, làm Chúa, nếu họ trở thành bầy chiên của Ngài, thì mọi điều nhỏ nhen trong cuộc sống trần gian này sẽ qua đi, và họ sẽ nếm biết vẻ huy hoàng rực rỡ từ cuộc sống của Thiên Chúa.

2) Ngài hứa ban cho họ sự sống không bao giờ chấm dứt.

Họ sẽ chẳng chết mất bao giờ. Sự chết thể xác không là chấm dứt mà là bắt đầu. Họ sẽ chẳng bao giờ bị diệt vong hay đi vào cõi u minh, nhưng họ sẽ biết rõ vinh quang của sự sống bất diệt.

3) Ngài hứa cho họ sự sống an toàn.

Chẳng có gì giật họ khỏi tay Chúa được. Điều đó không có nghĩa là họ sẽ không bị đau buồn, khổ nạn và chết, nhưng trong giờ phút đau đớn và tối tăm hơn hết, họ vẫn luôn ý thức được có đôi cánh tay đời đời ở gần, nâng đỡ, bao bọc họ. Ngay cả khi thế giới bị nghiền nát tan tành vì đại hoạ, họ vẫn được sự thanh thản của Thiên Chúa.

Cùng với lời tự xưng phi thường của Chúa Giêsu, chúng ta thấy lòng tin cậy phi thường của Ngài nơi Chúa Cha. Chúa Giêsu vừa nói về chiên và bầy chiên của Ngài, Ngài khẳng định chẳng ai cướp nổi chiên khỏi tay Ngài, Ngài là người chăn bảo vệ cho chiên được an toàn vĩnh viễn. Thoạt nhìn, nếu Ngài dừng lại ở đó, thì dường như Chúa Giêsu đặt lòng tin cậy trọn vẹn vào quyền năng bảo vệ của chính Ngài. Nhưng chúng ta được thấy mặt thứ hai của vấn đề: chính Chúa Cha đã ban chiên cho Ngài, cả Ngài lẫn chiên đều ở trong tay Cha. Chúa Giêsu tin chắc vào chính mình, bởi vì Ngài tin chắc vào Thiên Chúa. Thái độ của Chúa Giêsu đối với đời sống không phải là sự tự tin, nhưng là tin cậy Thiên Chúa. Chúa Giêsu không trông cậy vào chính năng lực của Ngài, mà trông cậy nơi quyền năng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu tin quyết vào sự an toàn tuyệt đối và sự chiến thắng tối hậu, không phải vì Ngài đã thu hết quyền năng về cho chính mình, nhưng vì Ngài đã trao phó tất cả quyền phép cho Thiên Chúa.

Bây giờ chúng ta suy đến lời tự xưng của Chúa Giêsu: “Ta với Cha là một”. Nói như thế, Ngài ngụ ý gì? Đây là một huyền nhiệm tuyệt đối hay chúng ta có thể hiểu được chút gì chăng? Nhờ Kinh Thánh giải nghĩa câu này, chúng ta thấy rất đơn giản đến nỗi người đơn sơ chất phác nhất cũng có thể lĩnh hội được. Chúa Giêsu muốn nói gì khi bảo rằng Ngài với Chúa Cha chỉ là một? Trong lời Chúa Giêsu cầu nguyện cho những kẻ thuộc về Ngài trước khi đi chịu chết: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ chúng nhờ Danh Cha, mà Cha đã ban cho Con, ngõ hầu chúng nên một như Chúng Ta” (Ga 17,11). Qua câu này, chúng ta thấy quan niệm của Chúa Giêsu về sự hiệp nhất giữa Kitô hữu với Kitô hữu, cũng giống như sự hiệp nhất giữa Ngài với Thiên Chúa. Ngài đã dùng khá nhiều lời để nói lên điều đó và tiếp: “Con không chỉ cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho những kẻ nhờ lời chúng mà sẽ tin vào Con, để hết thảy chúng nên một, cũng như, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong Chúng ta, và thế gian tin là Cha đã sai Con. Phần Con, Con đã ban cho chúng vinh quang Cha đã ban cho Con để chúng nên một như Chúng Ta là một”. (Ga 17,20-22). Chúa Giêsu đã nói thật đơn giản, thật rõ ràng, không ai có thể hiểu lầm được; cứu cánh của đời sống Kitô hữu, ấy là tất cả các Kitô hữu đều trở nên một, như Ngài với Chúa Cha là một vậy.

Vậy sự hiệp nhất phải có giữa các Kitô hữu là gì? Điều gì khiến cho Kitô hữu này hiệp nhất với Kitô hữu khác? Bí quyết của mối hiệp nhất đó là tình thương: “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới: là hãy yêu mến nhau. Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (Ga 13,34). Kitô hữu hiệp làm một, vì thương yêu nhau. Cũng vậy, Chúa Giêsu làm một với Chúa Cha, vì Ngài yêu thương Chúa Cha. Nhưng chúng ta phải đi xa hơn: điều gì là bằng chứng bảo đảm duy nhất cho tình yêu thương? Xin hãy nghe lời Chúa Giêsu phán: “Ai có các lịnh truyền của Ta và giữ lấy, người ấy mới là kẻ yêu mến Ta, mà ai yêu mến Ta, thì được Cha Ta yêu mến, và Ta sẽ yêu mến nó và sẽ tỏ mình ra cho nó". “Ai mến Ta, thì sẽ giữ lời Ta, và Cha Ta sẽ yêu mến nó, và Chúng Ta sẽ đến với nó, và sẽ đặt chỗ ở nơi mình nó. Ai không mến Ta, thì không giữ các lời của Ta. Mà lời các ngươi nghe đây không phải là của Ta, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Ta” (Ga 14, 21.23-24). “Như Cha đã yêu mến Ta, Ta đã yêu mến các ngươi. Hãy lưu lại trong lòng yêu mến của Ta. Nếu các ngươi giữ các lịnh truyền của Ta, Các ngươi sẽ lưu lại trong lòng yêu mến của Ta, cũng như Ta đã giữ các lịnh truyền của Cha Ta, và lưu lại trong lòng yêu mến của Người” (Ga 15,9-10).

Đây là yếu tính của vấn đề: dây ràng buộc sự hiệp nhất là tình yêu thương, bằng chứng của tình yêu thương là sự vâng lời. Kitô hữu hợp nhất với nhau khi càng bị ràng buộc bởi sợi dây yêu thương và cùng vâng lời Chúa Cứu Thế. Chúa Giêsu là một với Chúa Cha, vì Ngài vâng lời và yêu thương Chúa Cha một cách chưa hề có ai vâng lời và yêu thương như vậy. Sự hiệp nhất cùng Thiên Chúa của Ngài là sự hiệp nhất trong tình yêu thương tuyệt đối, phát xuất từ sự vâng lời trọn vẹn.

Khi Chúa Giêsu nói: “Ta với Cha là một”, Ngài không nói theo nghĩa trừu tượng, siêu hình, mà Ngài nói theo nghĩa mối liên quan giữa các cá nhân, giữa con người với nhau. Ngài nói theo kiểu hiểu đồng một lòng một ý. Hiệp nhất của Chúa Giêsu với Chúa Cha là do hai sự kiện song hành là: tình yêu trọn vẹn và vâng lời trọn vẹn. Ngài là một với Chúa Cha vì yêu thương Chúa Cha trọn vẹn và vâng lời Chúa Cha trọn vẹn. Ngài đã đến thế gian này để chúng ta nên giống như Ngài.

---------------------------------

 

PS 4-C67: LẮNG NGHE VÀ BƯỚC THEO

 

Hình ảnh Chúa Giê-su trong tư cách là Chúa Chiên Lành đối với đàn chiên của Chúa Cha la: PS 4-C67


Hình ảnh Chúa Giê-su trong tư cách là Chúa Chiên Lành đối với đàn chiên của Chúa Cha là một trong những hình ảnh đẹp đẽ nhất, mà ta có về Người. Người đã mượn hình ảnh rất thân quen của dân Do Thái về người chăn chiên để nói về Người là Đấng Chăn Chiên Tốt Lành. Đối với người Do Thái, con chiên là con vật rất gần gũi với họ, khi Chúa Giê-su nói đến người chăn chiên và con chiên thì họ hiểu liền. Con chiên có những đặc điểm mà các con vật khác không có: con chiên là con vật hiền lành và nó có khả năng nhận ra tiếng của chủ nó và người đi chăn chiên thì đi đằng trước còn chiên thì theo phía sau.

Chúa Giê-su đã thực hiện những lời hứa tuyệt vời nhất đối với những ai thuộc về người. Người nói rằng không một ai trong số họ sẽ bị hư mất. Không ai sẽ phải ở ngoài sự quan tâm chăm sóc, mà Chúa Cha đã tin tưởng giao phó cho Người. Đàn chiên thuộc về Người sẽ được an toàn bên Người, bởi vì năng quyền của Chúa Cha ở với Người, bởi vì Người không phải là kẻ làm thuê mà là Mục Tử Nhân Lành sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình để bảo vệ đàn chiên, để cho chiên được sống và sống dồi dào. Người sẽ hướng dẫn họ đến với đồng cỏ của Sự Sống đời đời.

Chúng ta là những con chiên trong đàn chiên của Chúa. Mỗi buổi sáng, chủ chăn mở cửa chuồng chiên, ân cần gọi tên từng con và dẫn tất cả đến đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát. Ban chiều, chủ chăn đưa chiên về chuồng và tận tụy canh giữ chúng qua đêm. Vì thế, con chiên muốn được nuôi sống, muốn được bảo vệ an toàn, thì bản thân nó không những phải biết nghe tiếng chủ chăn gọi mà còn phải có can đảm bước theo sự dẫn dắt của chủ chăn nữa.

Chúa Giê-su nói rằng: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” ( Ga 10, 27 – 28 ). Điều ấy ngày hôm nay Chúa Giê-su cũng đang nói với mỗi người chúng ta. Quý ông bà và anh chị em sẽ lãnh nhận được Sự Sống đời đời, với điều kiện quý ông bà và anh chị em nghe tiếng Chúa và đi theo Người. Đi theo Chúa Giê-su không có nghĩa là chúng ta được bảo đảm thoát khỏi mọi khó khăn và có được một cuộc sống dễ dàng ở nơi đây, trên trái đất này. Theo Chúa là chúng ta lội ngược dòng đời, là đi con đường hẹp, là từ bỏ chính mình và vác thập giá mỗi ngày.

Chúa đang nói với chúng ta qua Giáo Hội, qua các giờ Kinh Nguyện, qua Thánh Lễ, qua các Bí Tích, qua những người mà chúng ta gặp gỡ... Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể nghe được tiếng Chúa, khi chúng đi tham dự Thanh Lễ Chúa Nhật thì đi trễ về sớm, lại không ngồi đúng chỗ quy định, cứ thích đứng ở lề đường, ngoài khuôn viên Nhà Thờ...

Chúng ta nghe tiếng Chúa làm sao được khi đời sống chúng ta không gắn kết với các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Hòa Giải ? Làm sao chúng ta nghe được tiếng Chúa, khi chúng ta luôn luôn bận rộn với việc kiếm tiền, củng cố địa vị và danh lợi đến nỗi nó chiếm hết thời gian, làm cho ta không còn khoảnh khắc nào để đến với Chúa, thậm chí sẵn sàng bỏ cả Lễ Chúa Nhật để lo kiếm tiền ? Làm sao ta nghe được tiếng Chúa, khi quanh ta có quá nhiều tiếng ồn ào náo động của thế gian và lòng trí ta chất chứa đầy những thông tin vô bổ, chất chứa đầy những hình ảnh tuyên truyền quảng cáo và hưởng thụ giải trí...

Chúa Giê-su là Mục Tử Nhân Lành, người mời gọi chúng ta hãy noi gương bắt chước Người, ngõ hầu chúng ta cũng được trở nên những mục tử nhân lành cho thế giới hôm nay, một thế giới đang sống trong nền văn minh của sự chết. Chúng ta hãy là những mục tử nhân lành trong suy nghĩ, lời nói, ứng xử và việc làm. Đâu phải chỉ có hàng Giáo Sĩ và Tu Sĩ mới có ơn gọi, mà mỗi người Giáo Dân chúng ta cũng đều có ơn gọi riêng giữa đời, vậy mỗi người cũng hãy chu toàn ơn gọi và công việc của mình một cách tốt nhất.

Hỡi những ai là người có trách nhiệm cầm cân nẩy mực, có trách nhiệm lãnh đạo quốc gia, hãy là những mục tử nhân lành dẫn đưa đoàn dân của mình đi ngang qua mọi thăng trầm của thế giới, để họ được an cư lạc nghiệp, được sống trong hòa bình, và nhất là được hưởng tự do tôn giáo, sống đúng phẩm giá con người.

Hỡi những ai là y tá hay bác sĩ, hãy sống đúng lời thề của mình, “lương y như từ mẫu”, đừng vì lợi nhuận mà bán rẻ lương tâm, đừng dửng dưng và vô tâm trước nỗi đau của người khác; hãy là những mục tử nhân lành qua việc tận tình chăm sóc cho bệnh nhân.

Hỡi những ai là giáo viên, đừng chạy theo thành tích, đừng chạy theo lợi nhuận nữa, hãy là những mục tử nhân lành qua việc tận tâm tận lực giáo dục các học trò của mình thành những người hữu ích cho cuộc sống hôm nay, hãy giáo dục chúng về các đức tính cá nhân và xã hội: Cần, kiệm, liêm, chính, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín; công, dung, ngôn, hạnh...

Hỡi những ai là ông bà, cha mẹ, đừng tìm lợi ích cho chính mình nữa, đừng ngoại tình, ly dị, đừng rượu chè, cờ bạc bê tha nữa, hãy là mục tử nhân lành qua việc tần tảo hy sinh cho nhau và cho con cháu, hãy dạy dỗ con cháu của mình về Chúa, về đạo lý làm người trong xã hội và về cách sống đạo trong Hội Thánh.

Hôm nay là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Giáo Hội mời gọi chúng ta cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu Linh Mục và Tu Sĩ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhiều bạn trẻ biết quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa qua việc hiến thân trong đời sống tu trì và phục vụ.

Để có những ơn gọi cho Giáo Hội, để có những thợ gặt cho cánh đồng truyền giáo, thì Chủng Viện đào tạo ơn gọi trước tiên phải là gia đình, gia đình phải là cái nôi nuôi dưỡng ơn gọi. Vậy những người làm bố làm mẹ phải làm gì đây ?

Thứ nhất là bố mẹ phải sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa ban. Gia đình chỉ có một hoặc hai con thì bố mẹ khó mà cho con mình đi tu, bản thân những đứa con ấy cũng khó mà ao ước dấn thân.

Thứ hai là bố mẹ phải nêu gương sáng ở đời sống hằng ngày qua đời sống đạo như: siêng năng cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật và các Bi Tích, sống chứng tá Tin Mừng ngay giữa đời thường.

Thứ ba là giáo dục con cái về toàn diện mà cụ thể nhất là: Giáo dục tôn giáo để con cái mình có Lòng Tin vững chắc; giáo dục về ngôn từ văn hóa để con cái mình biết nói năng và cư xử lễ độ; giáo dục sức khỏe để con cái biết tôn trọng thân xác là Đền Thờ Chúa Thánh Thần; giáo dục các đức tính nhân bản xã hội để con cái biết quan tâm đến người khác chứ không sống ích kỷ chỉ tìm lợi ích cho riêng mình; giáo dục giới tính để con cái mình có cái nhìn đúng đắn về giới tính và đó cũng là chìa khóa giúp chúng quân bình về tâm sinh lý là điều cần thiết cho mọi thành công trên đường đời; giáo dục tương lai để con cái mình xác tín và trung thành với ý hướng và ơn gọi của mình...

Chúng ta tuyên xưng Chúa Giê-su là Mục Tử Nhân Lành. Xin Chúa cho chúng ta cũng là con chiên tốt lành của Chúa, tức là luôn biết lắng nghe tiếng Chúa và sống theo lời mời gọi của Chúa. Xin chúa ban cho chúng ta nhiều mục tử khôn ngoan, thánh thiện và tài giỏi để tập họp mọi người và dẫn dắt mọi người biết yêu thương nhau, hầu tất cả sẽ trở nên một đàn chiên duy nhất của chúa.

Xin Chúa Giê-su là Mục Tử Nhân Lành chúc lành và thánh hóa mọi dự định và quyết tâm của chúng con, để những gì chúng con nói trên môi miệng, tin tưởng trong lòng cũng sẽ là những thực hành trong cuộc sống. Amen.

Lm. HOÀNG XÔ BĂNG, DCCT

---------------------------------

 

PS 4-C68: Mục tử

 

Thế giới ngày nay không ngừng biến đổi, làm cho chúng ta, những người già, dường như: PS 4-C68


Thế giới ngày nay không ngừng biến đổi, làm cho chúng ta, những người già, dường như choáng váng, không theo nổi. Chúng ta thương tiếc cho một dĩ vãng vàng son, ở đó trật tự và tương lai được bảo đảm.

Thế nhưng, thương tiếc mà làm chi, vì cái dĩ vãng đâu còn nữa. Không có gì là bền vững vì cuộc sống không ngừng đổi thay. Cái hôm nay tồn tại, thì ngay mãi sẽ bị thay thế, từ những kiểu thời trang cho đến những hiệp ước, từ những loại xe cộ cho đến những thữ vữ khí, từ những lập trường cho đến những phương thuốc trị liệu… Thế giới như quay cuồng, đầy những phân rẽ và bất đồng trong dư luận, trong đảng phái, cũng như trong chính tâm hồn mình.

Con người như chao đảo, ngả bên này, nghiêng bên kia. Nghe truyền thanh, xem truyền hình, đọc báo chí, chúng ta cảm thấy như người đang nói với chúng ta là có lý. Nhưng cái có lý ấy chẳng kéo dài được bao lâu, bởi vì khi kẻ đối lập với ông ta lên tiếng, chúng ta lại cảm thấy phần có lý ấy lại chuyển sang phe đối lập. Vì thế, chúng ta khó có thể tìm thấy chân lý, khó có thể nhận ra sự thật.

Giữa những cái trái ngược nhau như vậy, lời Chúa hôm nay vang lên, như muốn xác định cho chúng ta một lập trường dứt khoát và chắc chắn: Ta là mục tử nhân lành. Lời xác quyết này thắp lên trong chúng ta một tia sáng hy vọng, đồng thời tỏ cho chúng ta thấy một góc cạnh mới về Thiên Chúa.

Ta biết các chiên Ta. Phải, Ngài biết chúng ta không như viên kỹ sư biết một chiếc máy. Ngài biết chúng ta không như thầy cô giáo biết những người học trò. Trái lại, Ngài biết chúng ta như một người bạn biết một người bạn, và sẵn sàng hy sinh cho nhau: Ta hiến mạng sống mình đàn chiên.

Hình ảnh người mục tử nhân lành phải là hình ảnh của một người chủ chăn luôn canh giữ chuồng chiên, để đoàn chiên được an toàn. Người mục tử ấy luôn sống giữa bày chiên và luôn chăm sóc đến các con chiên, sẵn sàng chiến đấu chống lại sói dữ, không quản ngại vất vả, để lên đường tìm kiếm những con chiên lạc.

Trái tim của con người thời nay dường như đã trở nên chai đá và băng giá. Họ ít lưu tâm đến những người chung quanh. Trong vũ trụ bao la này, con người chỉ là một số không. Chẳng ai hỏi han đến chúng ta và khi chúng ta lên tiêng nói, thì cũng chẳng ai buồn nghe. Chỉ mình Đức Ki tô, vị mục tử nhân lành, luôn tồn tại giữa những đổi thay. Ngài biết chúng ta và hằng chăm sóc cho chúng ta.

Vào những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã trải qua những năm tháng dài bị bắt bớ và cấm cách. Các tín hữu luôn bị đe doạ và gặp phải muôn vàn khó khăn, thế nhưng dưới những hang toại đạo, hình ảnh được vẽ nhiều nhất trên những bức tường, đó là hình ảnh người mục tử nhân lành. Chính hình ảnh này đã đem lại cho họ niềm ai ủi và khích lệ.

Con người thời nay đặt niềm tin tưởng của mình vào những bài diễn văn của các chính khách, nhưng rồi đến một lúc nào đó, họ nhận ra những trò bịp bợm trong lãnh vực chính trị và những mánh khoé trong phạm vi tuyên truyền, để mà bóp méo sự thật. Bấy giờ, họ cay đắng cảm thấy mình bị lừa gạt.

Còn chúng ta thì khác. Chúng ta đã đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa Giêsu. Ngài là Đấng trung thành, không phải chỉ nói suông, không phải chỉ hứa cuội, mà Ngài còn thực hiện, còn hành động. Vì thế, trải qua hơn hai ngàn năm, hình ảnh người mục tử nhân lành vẫn còn là một hình ảnh sống động và thời sự, bời vì Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta và đã chết thay cho chúng ta trên thập giá.

Hãy tin tưởng và yêu mến Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, để rồi bản thân và cuộc đời chúng ta sẽ được bình an dưới sự dẫn dắt và chăm sóc của Ngài.

---------------------------------

 

PS 4-C69: Chiên Ta thì nghe tiếng Ta

 

Người ta kể lại câu chuyện sau đây: Có ba tín hữu nọ, một ông nhà nghèo, một ông nhà giàu: PS 4-C69


Người ta kể lại câu chuyện sau đây: Có ba tín hữu nọ, một ông nhà nghèo, một ông nhà giàu và người thứ ba là kẻ bất lương đều chết trong một giờ và sau đó phải ra tòa Chúa phán xét.

Thiên Chúa hỏi ông nhà nghèo:

- Vì lý do gì mà ngươi không lo tìm hiểu và tuân giữ Lời Chúa ghi trong sách Koran.

Anh nhà nghèo gãi tai và thưa:

- Dạ! Lạy Chúa, vì con nghèo quá, nên phải đầu tắt mặt tối lo kiếm gạo nuôi thân, không còn gì cả.

Chúa trả lời:

- Ông Hellen đã nghèo hơn ngươi rất nhiều thế mà có được chút tiền là ông để dành một nửa để học luật Chúa và khi nào không có tiền trả lệ phí thì ông nhịn đói, đứng ngoài trường học nghe lóm Rabbi Eliaza giảng giải Lời Chúa.

Và Thiên Chúa quay sang hỏi ông nhà giàu:

- Còn ngươi. Tại sao con lại không tìm học hỏi và tuân giữ luật Chúa?

Ông nhà giàu thưa:

- Dạ, tại vì con phải lo công việc quản trị của cải, tiền bạc và các dịch vụ làm ăn. Bận bịu tíu tít, còn giờ đâu mà học hỏi sự gì?

Thiên Chúa phán:

- Ngươi đâu có giàu có bằng thầy Rabbi Eliaza, ông ấy có một trăm chiếc tàu buôn bán đủ mọi thứ hàng hóa và rất bận rộn với công việc kinh doanh, nhưng Rabbi Eliaza vẫn tìm ra giờ để học hỏi luật Chúa.

Sau cùng, Chúa hỏi tên bất lương:

- Còn ngươi, kẻ gian ác. Tại sao ngươi đã không học hỏi luật Chúa?

Tên bất lương tìm cách chữa lỗi:

- Lạy Chúa, con bị các đam mê lôi cuốn quá, nên không còn nghĩ đến gì khác nữa.

Thiên Chúa bảo hắn:

- Ngươi đâu có bị người ta cám dỗ và say mê như Giuse khi sống bên Ai Cập xưa kia. Ngày đêm bị vợ quan tổng quản Putipha níu kéo, rủ rê cám dỗ phạm tội với bà ta mà vẫn chống trả tới cùng.

Thế là cả ba người đều phải án phạt sống xa rời Thiên Chúa và chôn vùi trong nơi khổ ải của âm ty, âm phủ.

Anh chị em thân mến!

Là người Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều có bổn phận học hỏi, lắng nghe và tuần giữ Lời Chúa. Đây là một bổn phận thiêng liêng vô cùng quan trọng. Vì nó làm cho phần rỗi chúng ta được bảo đảm.

Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã không đề nghị với con người điều gì khác ngoài bổn phận lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Đó là điểm thần học nổi bật trong sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay. Đây là chìa khóa thần học giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của trình thuật Chúa Giêsu Kitô, Người Mục Tử nhân lành như thánh Gioan ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.

Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, từ "hư mất" ám chỉ tội lỗi, con người thất bại hoàn toàn trong cuộc sống ơn gọi làm người và làm con cái Thiên Chúa của mình, phải chết đời đời và xa rời Thiên Chúa vĩnh viễn. Là thụ tạo được phát minh từ bàn tay nhân hiền của Thiên Chúa, con người được đặt định trở về với bàn tay yêu thương ấy, nhưng con người đã phá đổ chương trình ấy của Thiên Chúa khi phạm tội khước từ Thiên Chúa và tự tôn mình lên địa vị của Thiên Chúa.

Vì thế, Thiên Chúa mới phải sửa chữa lại bằng cách cho Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người và giao cho Chúa Giêsu chương trình cứu độ cần phải hiện thực qua cuộc sống và lời giảng dạy của Ngài. Chúa Giêsu đến trần gian chính là để kiếm tìm những gì đã hư mất. Đôi bàn tay của Ngài cũng là đôi bàn tay của Thiên Chúa. Chương tình cứu độ của Ngài thực hiện qua Tin Mừng cứu độ. Nước Trời cũng chính là chương trình của Thiên Chúa.

Hình ảnh người mục tử nhân lành diễn tả sứ mệnh ấy của Chúa Giêsu đối với nhân loại và không ai có thể giật mất đoàn chiên tín hữu khỏi bàn tay của Ngài.

Trình thuật Chúa Giêsu là vị mục tử nhân lành gồm một số động từ diễn tả các bổn phận của chủ chăn và bổn phận của tín hữu. Nếu viết chúng thành hai cột song song, chúng ta thấy có tới bốn động từ diễn tả bổn phận của chủ chăn. Đó là nói, hiểu biết, hiến mạng sống và gìn giữ. Trong khi đó chỉ có hai động từ diễn tả bổn phận của tín hữu là lắng nghe và đi theo. Bổn phận đầu tiên của vị chủ chăn là nói, nghĩa là giảng dạy, huấn luyện, đào tạo, khuyên nhủ, kêu mời, đề nghị, góp ý kiến. Đây là động từ bao gồm tất cả mọi sinh hoạt rao giảng của Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Từ việc tổ chức các khóa tĩnh tâm, huấn luyện, đào tạo mọi thành phần nhân lực mục vụ của cộng đoàn địa phương cho tới việc dùng các phương tiện và kỹ thuật truyền thông xã hội, báo chí, sách vở, tài liệu, phim ảnh, băng hình, truyền hình... để phổ biến, rao truyền Lời Chúa và phát triển lòng tin của tín hữu.

"Nói" chứ không phải là nóng nảy, bẳn gắt, la hét và mắng chửi tín hữu. Trong nghĩa này, "nói" là cả một nghệ thuật gồm nhiều tập luyện mỗi ngày, từ giọng điệu và kiểu cách cho tới các cử chỉ, từ ngữ và hình ảnh làm sao để giọng nói được ôn tồn, đầm ấm, và truyền cảm, hình ảnh được đơn sơ sáng sủa, rõ ràng, xúc tích và thích hợp hầu có thể truyền đạt Tin Mừng của Chúa đến cho tín hữu một cách hữu hiệu, xác tín và sâu xa hơn. Làm thế nào để vị chủ chăn rao giảng luôn làm giàu cho người nghe, thắp sáng lên trong tâm hồn lòng họ ngọn lửa tinh thần, nung nấu đốt cháy con tim họ và thúc đẩy họ tiến gần Thiên Chúa.

Bổn phận thứ hai của vị chủ chăn, tức là các Giám Mục, nam nữ Tu Sĩ và Giáo Dân lãnh đạo cộng đoàn là hiểu biết. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, hiểu biết có nghĩa là bước vào trong tương quan hiệp thông với tha nhân. Hơn ai hết, vị chủ chăn phải là người có các liên hệ huynh đệ nhân bản với tín hữu, biết chú ý đến sự khác biệt, không lẫn lộn tinh thần hiệp nhất với sự đồng nhất máy móc một chiều, không lẫn lộn cuộc sống với cảnh chạy việc, không lẫn lộn trật tự với cảnh rộn ràng vô hồn. Nhưng để có thể hiểu biết tín hữu, vị chủ chăn cần phải tiếp xúc và nhất là biết lắng nghe họ nói, biết cố gắng nhìn mọi người với con tim của mình, sẵn sàng học hỏi nơi tín hữu của mình. Các tín hữu có thể cho các vị chủ chăn biết bao nhiêu là bài học quí giá trên mọi bình diện cuộc sống, từ các đức tính xã hội, nhân bản cho đến các nhân đức Kitô, lòng tin, cậy, mến và sự thánh thiện.

Bổn phận thứ ba của chủ chăn là hiến mạng sống mình cho cộng đoàn tín hữu, chết cho họ và vì họ. Nói đúng ra, trừ các trường hợp bắt đạo bình thường thì chủ chăn ít khi phải chết vì tín hữu. Những điều mà Thiên Chúa và mọi tín hữu đều mong chờ là các chủ chăn sống hoàn toàn và trọn vẹn cho cộng đoàn, dành trọn khả năng, sức lực, thời giờ, của cải và toàn cuộc sống của mình cho tha nhân. Biết noi gương Chúa Giêsu kiên nhẫn, quảng đại, sống sát với tín hữu.Chia sẻ mọi vui buồn âu lo của họ và trở thành anh em đại đồng của mọi người. Nghĩa là vị chủ chăn không sống cho mình mà sống cho Chúa và cho cộng đoàn.

Bổn phận thứ tư của chủ chăn là giữ gìn để tín hữu khỏi bị sói dữ cắn xé để họ không xa Chúa, rời bỏ Giáo Hội, và mất đức tin. Trong thế giới ngày nay, nhiều khi rất khó nhận diện ra sói dữ, nhưng muốn bảo vệ cộng đoàn, vị chủ chăn phải để lợi ích thiêng liêng mà các linh hồn và hạnh phúc của tín hữu lên trên hết trong mọi sinh hoạt thường ngày chứ không phải các lợi lộc riêng tư, danh dự của mình hay thứ gì khác.

Về phần các tín hữu bổn phận thứ nhất là biết lắng nghe để cho Lời Chúa thấm sâu vào lòng mình và quyết định sống theo những gì Chúa nói, thực hành mọi giáo huấn của Chúa trong mọi hoàn cảnh sống thường ngày. Thái độ vâng lời ấy phải thể hiện ra trong việc cộng tác, tham gia, đóng góp vào các sinh hoạt của cộng đoàn tùy các tài khéo và bằng khả năng vật chất cũng như tinh thần của mình làm sao để cải tiến cộng đoàn, để biến nó thành một môi trường sinh động tươi vui, tràn đầy yêu thương, bác ái tương trợ lẫn nhau như trong cộng đoàn Kitô tiên khởi thời các thánh tông đồ. Cộng đoàn tham gia và đóng góp chứ không phải đứng ngoài chỉ trích, phê bình chửi rủa hay phá đám. Bởi vì nếu nghe Lời Chúa mà không hoán cải và thay đổi nếp sống cá nhân, gia đình cộng đoàn và xã hội tức là khước từ Chúa; từ chối Lời Ngài là chối bỏ lòng tin của mình.

Bổn phận thứ hai của tín hữu là đi theo, bước theo Chúa Kitô Phục Sinh để tiến về cuộc sống vĩnh cửu, để tiến về Đất Hứa. Do đó, hành trình của Kitô hữu phải là hành trình tươi vui, phấn khởi. Cuộc sống của Kitô hữu phải là cuộc sống sinh động, nhiều sáng kiến nhiều đóng góp. Khi đóng góp rõ ràng được mục đích của mình, Kitô hữu mới sẵn sàng hiến thân hy sinh và kiên trì trong những lúc gặp chướng ngại, thử thách, khó khăn và cám dỗ. Với ý thức đó, vâng lời có nghĩa là hiểu biết trách nhiệm cao độ mình phải có đối với các chủ chăn và các anh em khác trong cộng đoàn, thông cảm những khó khăn, những yếu đuối và khả năng hạn hẹp của họ và cố gắng xây dựng bù đắp cho nhau.

---------------------------------

 

PS 4-C70: Chúa Chiên Lành - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt Web

 

Hình ảnh chiên cừu dễ gây ngộ nhận vì người ta cho rằng chiên cừu chẳng biết làm gì hơn: PS 4-C70  FB


Hình ảnh chiên cừu dễ gây ngộ nhận vì người ta cho rằng chiên cừu chẳng biết làm gì hơn là ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng con chiên trong bài Tin Mừng ta vừa nghe hoàn toàn không có tính cách thụ động như thế. Trái lại phải tích cực, chủ động. Sự tích cực chủ động của đoàn chiên được Chúa Giêsu diễn tả bằng những từ “nghe” và “theo”: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”.
Nghe. Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người. Nhưng nghe được Lời của Thiên Chúa không phải dễ.

Không dễ, vì Lời Thiên Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như tiếng vỗ của một bàn tay. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ lại ồn ào như một ngày hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.

Không dễ, vì Lời Thiên Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của từ bỏ mình, dẫn ta lên một ngọn đồi gai góc của thập giá hy sinh và thách thức ta phục vụ đến hy sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến dìm mình trong đại dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quý trên đời.

Vì thế, để nghe được Lời Chúa, ta phải có một đôi tai thật bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.

Theo. Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với người khác.

Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ. Mức độ thứ nhất: Thích nhìn, nghe người mình yêu. Mức độ thứ hai: Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình đều có bóng dáng của người yêu. Mức độ cuối cùng: Chia sẻ tất cả những gì mình có, kể cả cuộc sống vì người yêu.

Như thế, theo tức là yêu thương ở cao độ. Con chiên đi theo Chúa như thế phải hoàn toàn chủ động và nhất là thiết lập một quan hệ mật thiết với Chúa là Chủ đoàn chiên. Hành động của Chúa chiên tốt lành được Chúa Giêsu tóm gọn trong hai động từ: “biết” và “cho”.

Biết. Người chăn chiên tốt lành biết rõ từng con chiên. Ông biết tên từng con. Ông biết tình trạng sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư? Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà, sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá. Ta tuyệt vọng vì cuộc đời không lối thoát ư? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen tối trong vườn Giếtsimani và trên thập giá. Ta cô đơn vì bị mọi người xa lánh ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ tội đồ nô lệ.

Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người, nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.

Cho. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả đoàn chiên món quà quý giá nhất là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của chính bản thân Ngài. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn chiên sẽ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ chiên trở thành một cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp với nhau trong một tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.

Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống đang mở ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời sống tâm linh chúng ta. Những giá trị bị đảo lộn. Những con chiên đang bị lôi kéo rời xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống xô đẩy chúng ta ra khỏi cộng đoàn khiến nhiều người trở thành những con chiên bơ vơ không người chăn dắt. Trong một hoàn cảnh mới mẻ như thế, chúng ta rất cần có những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của đoàn chiên và thực sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều người trẻ biết đáp lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để phục vụ anh chị em trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục của chúng ta trở thành những mục tử tốt lành noi guơn Vị Mục Tử duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Lạy Chúa là là Mục Tử chăn giữ đời con, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Đã bao giờ bạn nghe được tiếng Chúa nói trong sâu thẳm tâm hồn bạn chưa?
2. Có lần nào bạn cảm nghiệm được sự ngọt ngào được sống thân mật với Chúa chưa?
3. Bạn cũng là Mục Tử của gia đình bạn, xóm bạn ở, sở nơi bạn làm việc. Bạn có là Mục Tử tốt lành không?

---------------------------------

 

PS 4-C71: Con chiên của Chúa Giêsu


(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Anh chị em thân mến,

 

Chúng ta vẫn quen gọi các giám mục, các linh mục là các mục tử hay chủ chăn, và anh chị em: PS 4-C71


Chúng ta vẫn quen gọi các giám mục, các linh mục là các mục tử hay chủ chăn, và anh chị em giáo dân cũng vẫn quen nhận mình là “con chiên”. Kiểu nói nầy bắt nguồn từ trong Kinh Thánh. Ngay từ thời Cựu Ước, tiên tri Êzêkiel đã dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên để báo trước rằng: chính Chúa sẽ đến chăn dắt dân Israel như mục tử chăn dắt đàn chiên, thay thế hết các người lãnh đạo dân từ trước đến nay. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã xưng mình là mục tử và là mục tử tốt lành, đích thực, khác với những kẻ chăn thuê, những mục tử già.

Tin Mừng hôm nay vắn tắt có bốn câu nói về “con chiên” nhiều hơn là chủ chiên, tức là nói về “người giáo dân” hơn là hàng giáo sĩ. Người giáo dân là con chiên của Chúa Giêsu, là người biết “nghe tiếng Chúa”, dám “bước theo Chúa” để không bao giờ phải hư mất, nhưng “được sống đời đời”.

Trước đây, anh chị em có nghe nói mình là “con chiên của các cha” thì lấy làm thường tình, chẳng thắc mắc gì. Nhưng ngày nay, hình ảnh con chiên dễ làm cho người ta hiểu lầm và mặc cảm cho là hạ phẩm giá con người giáo dân - người ta là con người mà coi như con vật - coi giáo dân còn ấu trĩ và thụ động trong Giáo Hội.

Cách đây mấy chục năm, Đức Hồng Y Gasquet trong một cuốn sách nói về người giáo dân, có kể câu chuyện như sau: Một người sắp theo đạo hỏi linh mục về vai trò của giáo dân trong Giáo Hội như thế nào? Linh mục trả lời: “Giáo dân có hai vai trò: một là quỳ gối trước bàn thờ, hai là ngồi quay mặt về tòa giảng”. Và Đức Hồng Y Gasquet hóm hỉnh viết thêm: “Người ta quên mất một vai trò thứ ba, đó là móc ví tiền ra”.

Câu chuyện trên phản ảnh một quan niệm lệch lạc về địa vị giáo dân. Vai trò của người giáo dân bị giản lược vào mấy việc: xem lễ, nghe giảng và góp tiền vào nhà thờ! Ngày nay, Công Đồng Vatican II đã quan niệm Giáo Hội trước tiên là “Cộng đồng Dân Chúa”. Giáo Hội trước hết là giáo dân chứ không phải Giáo hoàng, Giám mục hay Linh mục. Ngày nay, giáo dân phải đứng hàng đầu trong Giáo Hội. Nói như thế không có nghĩa là giáo dân điều khiển tất cả, nhưng có nghĩa là giáo dân phải lãnh phần trách nhiệm sống đạo chủ động của mình, như những người trưởng thành giữa xã hội ngày nay.

Sống đạo trong xã hội “dân chủ tập thể” hôm nay dĩ nhiên giáo dân vẫn phải là những “con chiên” của Chúa, hiền lành yêu thương, đừng hung bạo ác ôn, nhưng cũng phải từ bỏ thái độ ấu trĩ, vô trách nhiệm và thụ động. Chúng ta muốn làm những con người tín hữu đứng hàng đầu, những con người có tinh thần trách nhiệm, dám nhận lãnh sứ mạng, dám sống bổn phận của mình cách chủ động. Với điều kiện đó, chúng ta mới “nghe tiếng Chúa” và “bước theo Chúa” cách đúng đắn và phù hợp với những đòi hỏi của xã hội ngày nay. “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Chúng theo Ta, và Ta ban cho chúng sự sống đời đời. Không ai giựt chúng khỏi tay Ta được”. Nghe tiếng Chúa là tin nhận Lời của Chúa và bước theo Chúa là dấn thân sống Lời Chúa một cách tự do và chủ động. Nghe và theo Chúa là sống gắn bó thiết thân với Chúa. Bởi vậy, nghe và theo Chúa Kitô tức là bước vào cuộc sống bất diệt ngay từ đời nầy.

Tiếng Chúa hôm nay đang vang lên từ quả tim của từng con người nghèo khổ, bị áp bức, bị bóc lột. Tiếng Chúa hôm nay là tiếng kêu của đồng bào, của cả đất nước, của cả xã hội loài người đang cần nhau để sống, để có cơm ăn áo mặc đầy đủ, để tạo được hạnh phúc chung. Tiếng Chúa đang vang dội từng ngày, từng giờ mời gọi thúc bách chúng ta xung phong đi đầu, dấn thân theo Chúa trên mọi nẻo đường yêu thương, phục vụ, hy sinh. Yêu thương, phục vụ đến chỗ không còn tìm kiếm gì cho riêng mình, không giữ lấy gì cho riêng mình và đến chỗ dám liều chết cho anh em được sống, như chủ chiên dám liều mạng sống vì đàn chiên.

Làm con chiên nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa là như thế. Làm người có đạo hôm nay dám sống đạo thật là như thế. Nghe tiếng Chúa và dám bước theo Chúa trong xã hội chúng ta hôm nay phải như thế, và như thế nhất định chúng ta sẽ được sống đời đời, không một sức lực nào có thể cướp giựt chúng ta khỏi tay Thiên Chúa.

Anh chị em thân mến,

Chúa nhật hôm nay với chủ đề mục tử và đàn chiên được Giáo Hội chọn làm Ngày Thế Giới cầu nguyện cho ơn gọi Giáo sĩ và Tu sĩ. Giáo Hội đang thiếu các mục tử và nhất là các mục tử tốt lành. Tiếng báo động nầy đang vang đến tai chúng ta hôm nay ở nơi nầy, trên đất nước chúng ta. Hiệp ý với toàn thể Giáo Hội hoàn cầu, chúng ta hãy cầu xin cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của Chúa và nhất là có đủ can đảm để bước theo tiếng gọi đó bằng cuộc sống dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật, cô đơn, già yếu…

Sự hy sinh hầu như tuổi trẻ có thừa, nhưng cần rất nhiều yếu tố xã hội góp phần để tuổi trẻ thực hiện quyết định hy sinh quảng đại của mình: cha mẹ, gia đình, và giáo xứ có đóng góp phần đào tạo ơn gọi thì ơn gọi mới nẩy nở và mới được bảo đảm. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu đã viết: “Tôi nói với bậc cha mẹ, dựa vào lòng tin, rằng họ có thể nếm hưởng niềm vui của ân sủng sẽ vào nhà họ, khi một con trai hay con gái của họ được Chúa gọi để phục vụ Ngài… Đặc biệt, tôi hướng về giới trẻ của thời nay và tôi nói với họ: Hãy để cho Đấng Vĩnh Cửu quyến rũ các bạn, và tôi lập lại lời Ngôn sứ Giêrêmia (20,7): “Ngài đã làm cho tôi say mê, lạy Chúa… Ngài đã chinh phục tôi và Ngài đã mạnh hơn tôi”… “Hãy để Đức Kitô quyến rũ bạn. Hãy để gương Ngài lôi cuốn các bạn. Hãy để tình yêu của Thánh Thần yêu mến các bạn… Hãy say mê Đức Kitô để sống cuộc đời của Ngài, hầu nhân loại có sự sống trong ánh sáng Tin Mừng…”. Đức Thánh Cha còn nhấn mạnh: “Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời”.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha giao phó giới trẻ cho Đức Trinh Nữ Maria, đặc biệt các thanh thiếu niên đã được gọi bước theo Chúa Giêsu. Mẹ biết rõ tất cả những khó khăn, chiến đấu và trở ngại các bạn trẻ phải trải qua. Xin Mẹ giúp các bạn trẻ biết nói lên câu: “Xin Vâng” đáp trả tiếng gọi của Chúa, như Mẹ đã thưa khi được Sứ thần truyền tin.

---------------------------------

 

PS 4-C72: Chú giải của Noel Quesson


Tôi là…

 

Cần phải đặc biệt chú ý tới hai từ trên mà Đức Giêsu đã không ngần ngại sử dụng nhiều lần: PS 4-C72


Cần phải đặc biệt chú ý tới hai từ trên mà Đức Giêsu đã không ngần ngại sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 4,26; 7,29; 8,58; 13,19; 14,20; 17,24; 18,5) Ta cũng biết rằng, hai từ đó gợi lên kiểu viết "bốn chữ cái không phát âm được là "Tên mầu nhiệm" mà chính Thiên Chúa đã tự mạc khải cho Môsê trong sa mạc Sinai.

YHVH được chuyển dịch thành YaHVeH và đọc là “Adonai", "Đức Chúa”.

Hơn nữa, qua nhiều câu trích dẫn như dưới đây, Tin Mừng theo thánh Gioan đã sử dụng tới ba mươi lần hai từ trên "Tôi là...", kèm theo một phẩm tính:

- "Tôi là Bánh hằng sống" (Ga 6,35-42,48-51).
- “Tôi là ánh sáng thế gian" (Ga 8.12-9,5).
- "Tôi là Sự sống lại và là sự Sống" (Ga 11,25).
-"Tôi là Cây nho thật" (Ga 15,l-5).
-"Tôi là Cửa cho chiên ra vào" (Ga 10,7-9).
-“Tôi là Mục tử nhân lành" (Ga 10,11-14).

Theo các nhà chú giải Kinh Thánh đúng đắn, những kiểu nói trên muốn diễn tả hữu thể thần linh của Đức Giêsu. Thánh Gioan đã viết: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm" (Ga l,14).

Tôi là Mục tử nhân lành (người chăn chiên đích thực).

Ở đây, Đức Giêsu không chỉ sử dụng một hình ảnh đẹp dân gian và đồng quê, nhưng trước hết đó là một kiểu nói Kinh Thánh vô cùng phong phú. Trong khắp vùng Đông Phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử chăn dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó khi giải thoát dân riêng khỏi Ai Cập: "Người lùa dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng như đàn cừu ngang qua sa mạc" (Tv 78,52). Đavit, một trong những nhà lãnh đạo chính trị đầu tiên của Israel, là một cậu chăn chiên tại Bêlem (1 S 17,34-35). Ông Vua lý tưởng của tương lai, Đức Mêxia, Đavit mới, cũng được loan báo như một “Mục tử”: "Ta sẽ chỗi dậy một mục tử duy nhất, Ngài sẽ chăn dắt chúng. Đó là Đavit, tôi tớ của Ta" (Ed 34,23).

Mọi thính giả của Đức Giêsu, cũng như chính Người, đều hiểu rõ những trích dẫn Kinh Thánh trên, đặc biệt là chương 34 nổi tiếng của ngôn sứ Êdêkien, diễn tả khá dài những mục tử xấu ác (các vua thời đó) không quan tâm chăm sóc đoàn chiên của họ trước khi quả quyết rằng, Thiên Chúa Giavê phán thế này: Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom chúng. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng tán loạn. Ta sẽ chăn nuôi chúng nơi bãi cỏ tốt. Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của Ta, sấm của Đức Chúa Giavê. Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm" (Ed 34,1-31).

Như thế, rõ ràng của Đức Giêsu cũng không thể lầm về địa vị đó. Họ rất hiểu ý định của Chúa: "Nhiều người trong nhóm họ nói: ông ấy điên khùng rồi? 'Kẻ khác bảo: ông nói phạm thượng, ông là người phàm mà lại tự cho mình, là Thiên Chúa" (Ga 10,20-33). Chính vì thế, họ lấy đá để ném Đức Giêsu.

Có lẽ chúng ta nên cầu nguyện lâu hơn dựa vào hình ảnh "Mục tử" biểu trưng này, chẳng hạn dùng Thánh Vịnh 22: "Chúa là Mục tử chắn dắt tôi, Tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tưới, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi đến dòng nước trong lành, và bổ sức cho tôi”.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang dẫn con đi. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang chăm sóc. Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu mến con. Và cầu nguyện như thế, không phải là một kiểu cầu nguyện chủ quan, nặng tình cảm và trống rỗng: Chúng ta sẽ nhận ra, Đức Giêsu còn tiếp tục gọi lên cho ta nội dung cầu nguyện phong phú hơn.

Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi.

Ngày nay, hình ảnh con cừu, hình ảnh đoàn vật dễ mang một nghĩa xấu: Đừng có u lì như lũ cừu? Đừng có tinh thần. đoàn vật? Thực sự, hình ảnh của Kinh Thánh mang ý nghĩa ngược lại. Ở đây, ba động từ được Đức Giêsu nói lên, là những động từ tác động rất phù hợp với con người: nghe, biết, theo.

“Nghe": đó là một trong những thái độ cốt yếu, trong tương quan giữa hai người. Biết lắng nghe, là dấu chỉ của tình yêu đích thực. Biết bao lần, ngay trong một nhóm người, ngay lúc tụ họp chung quanh một bàn tròn, ngay trong một cuộc trao đổi mệnh danh là đối thoại, thế mà thực sự ta, chưa biết lắng nghe. Trong Kinh Thánh, các ngôn sứ không ngừng mời gọi Israel biết lắng nghe. "Hỡi Israel, hãy nghe đây?" (Đnl 6,4; Am 3,1; Tv 29,3-9). Lắng nghe, đó là khởi sự của lòng tin. Thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như Ngôi Lời, Lời Thiên Chúa mà Chúa Cha muốn ngỏ cùng thế gian. "Đây là Con yêu dấu của Ta. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người" (Mt 17,5).

“Theo": đó là một hành động không có gì là thụ động cả, nhưng diễn tả một thái độ tự do: dính kết toàn thân một người nào đó vào thân phận một kẻ khác. Theo nghĩa là gắn bó với... Đức Giêsu mời gọi: "Hãy theo tôi" (Ga l,42).

“Biết”: trong Kinh Thánh, từ này trước hết không mang một ý nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết người nào đó một cách đích thực, đến nỗi đoán được cả tâm tính họ. Sự tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thân xác... là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng (St 4,l).

Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.

Đây đúng là một cộng đồng sinh mệnh giữa Mục tử và đoàn chiên, giữa Đức Giêsu và "những kẻ nghe tiếng Người và theo Người". Đúng là một sự liên kết vĩnh viễn.

Lạy Chúa, khi cầu nguyện, con cố tưởng tượng ra, thực sự con đang ở trong "bàn tay Chúa". Bàn tay mà Chúa đã giơ ra cho người bệnh để cứu chữa họ. Bàn tay Chúa đã chìa ra cho Phêrô lúc ông chìm sâu dưới lòng biển. Bàn tay đã cầm Bánh hằng sống, vào chiều Thứ Năm Thánh. Bàn tay mà Chúa đã dang rộng trên thập giá tại đồi Gôngôtha. Bàn tay bị thương tích do đinh đâm thấu qua, mà Chúa đã minh chứng với Tôma. Trong bàn tay đó, Chúa đã nắm chặt lấy con và không ai có thể cướp được con! Lạy Chúa Giêsu xin tạ ơn Chúa.

Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.

Như thế, chúng ta được cả "hai bàn tay" giữ gìn.

Như một bé thơ được cả cha mẹ giữ gìn, và hướng dẫn trong an toàn tuyệt đối, hình ảnh đó đẹp biết bao!

Lạy Chúa, con muốn dùng hình ảnh trên để cầu nguyện cùng Chúa. 'Lạy Chúa Giêsu và Chúa Cha, xin giữ gìn những người con thương mến trong bàn tay của Chúa.

Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra rằng, đó không phải là cảnh sắc màu mè diễn tả những "mục tử hiền lành" và các chú cừu con lông xoăn". Người mục tử Đông phương là một người du mục đáng gườm, một thứ lính chiến, có khả năng bảo vệ đoàn vật mình khỏi thú dữ... gấu hay sư tử đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (1 S 17,34-35).

Đức Giêsu, khi Người nói những lời đó, đã nghĩ đến cuộc giao chiến khốc liệt mà Người sẽ phải đường đầu trong cuộc Thụ khổ để đối phương "không cướp được" một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ chăn thuê, thường chạy trốn trước sói dữ, Đức Giêsu sẽ phó nộp và đành mất mạng sống mình vì chiên của Người (Ga 10,12-15).

Cùng với Đức Giêsu, tôi có khả năng, chiến đấu để cứu sống anh em tôi không?

Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.

Thế nhưng, lạy Chúa, làm sao giải thích được những hiện tượng bỏ hàng ngũ, bất trung thường thấy chung quanh chúng con, hay ngay trong đời sống chúng con?

Đó là mầu nhiệm của tự do! Nhưng một điều chúng ta cần biết, đó là không khi nào Chúa buông bỏ! Chỉ có con người rời bỏ bàn tay Chúa. Và ngay khi con người rời bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại. "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?" (Lc 15,4-7). Vậy chúng ta đã tự tạo hình ảnh sai lầm nào về Thiên Chúa, để nghĩ rằng Người có thể kết án những tội nhân? Chớ gì chúng ta cần cố gắng ít phạm tội đối với Thiên Chúa yêu thương!

Tôi và Chúa Cha là một.

Các chiên của Đức Giêsu, Người nói chúng đã được Chúa Cha, Thiên Chúa trao phó cho Người. Nhưng chúng vẫn luôn ở trong bàn tay của Thiên Chúa.

Những kiểu nói như trên đã dẫn chúng ta bước vào một vực thẳm choáng váng, khi đứng trước con người Giêsu Nadarét: trong con người thực sự đã được sinh ra từ một phụ nữ, đã lớn lên, sắp phải đổ máu và bị giết đi, lại chính là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng và hành động. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa tự mạc khải trong tình thân hữu với con người. "Tôi và Chúa Cha là một”. Các Công đồng sẽ phải nỗ lực xác định và đưa ra những quan niệm, nhưng sẽ không khi nào có được một kiểu nói giúp ta hiểu được mầu nhiệm của con người Giêsu. Tất cả những gì đã nói, trong công thức trên, chỉ có thể phải "lắng nghe" trong đức tin: "Chúa Cha và tôi, chúng tôi là một... Thiên Chúa và tôi, Giêsu, chúng tôi là một"

Đó là lý do Đức Giêsu dám quả quyết, Người “ban sự sống đời đời".
Đó là lý do, như chính Thiên Chúa, Người có thể tuyên bố: "Tôi là...".

Đó là lý do Người đã bị buộc tội là một kẻ phạm thượng, bị người đời đóng đinh, nhưng được Thiên Chúa “minh chính hóa", bằng cách cho Người từ cõi chết sống lại.

---------------------------------

 

PS 4-C73: Suy niệm của nhóm Nha Trang


“Ta ban cho các chiên ta được sống đời đời”.

I. Ý CHÍNH:

 

Bài Tin Mừng hômnay ghi lại lời tuyên bố quan trọng của Chúa Giêsu về việc Người tự xưng: PS 4-C73


Bài Tin Mừng hômnay ghi lại lời tuyên bố quan trọng của Chúa Giêsu về việc Người tự xưng đồng bản tính với Thiên Chúa Cha để trả lời cho những người Do Thái đến tranh luận với Người về chính nguồn gốc của Người.

II. SUY NIỆM:

Chúa Giêsu đang ở Giêrusalem trong dịp lễ cung hiến đền thờ. Tại đây xảy ra cuộc tranh luận với người Do Thái về vấn đề người có phải là Đấng Thiên Sai không và cuối cùng Người đã tự xưng mình là Con Thiên Chúa (Lc 22,70) bằng cách tuyên bố rằng Cha Người ở trong Người và Người ở trong Cha trong sự hiệp thông trọn vẹn đời sống và việc làm (Lc 10,22-41).

Bài Tin Mừng hôm nay là một phần trích trong cuộc tranh luận và ghi lại lời Chúa Giêsu quả quyết Người đồng bản tính với Chúa Cha.

1. “Chúa Giêsu nói rằng: chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi”

Trước khi trả lời dứt khoát, Người đồng bản tính với Chúa Cha, Chúa Giêsu tuyên bố sự khác biệt nhau giữa người Do Thái và “Chiên của Người”, tức là những kẻ tin theo Người. Đối với những người Do Thái, những lời Người nói và những việc Người làm là các phép lạ, không đủ thuyết phục họ, vì xét cho cùng họ có dã tâm và không muốn tin. Ngược lại, chiên của Người là những người biết ngoan ngoãn đón nhận. Vì họ không cần đến nhiều dấu lạ bên ngoài để làm điều kiện cho việc đi theo Người.

Động từ “nghe” ở đây bao hàm ý nghĩa tin tưởng và đón nhận. Nghe Chúa Giêsu là tin tưởng và đón nhận Ngài.

2. “Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”:

a) Tiếng “biết” ở đây bao hàm ý nghĩa chủ động, tức là do sáng kiến từ Thiên Chúa.

• Thiên Chúa biết Abraham (St 18,19) biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa tuyển chọn và chăm sóc Abraham.

• Thiên Chúa biết dân Người “Trong các dân tộc trên hoàn cầu Ta chỉ biết duy một mình có ngươi thôi” (Am 3,2). Ở đây có ý nói Chúa Giêsu tuyển chọn và chăm sóc các chiên của Người.

b) Chúng theo Tôi: Tiếng “theo” ở đây bao hàm ý nghĩa liên đới trong sự lệ thuộc. Theo ai là dõi theo bước chân người đó là bước theo sát bước chân người đó. Ở đây có ý nói các chiên dõi theo Chúa Giêsu để rập theo khuôn mẫu sống của Người. Hay nói cách khác theo Chúa là đáp trả lời mời gọi của Chúa.

3. “Ta cho chúng được sống đời đời…”:

Con chiên đi theo chủ chăn thì sẽ được dẫn đến dẫn đến đồng cỏ xanh tươi bảo đảm cho sự sống. Cũng vậy, những ai thực sự đi theo Chúa, tức là để Chúa dẫn dắt, thì sẽ được bảo đảm đưa đến sự sống đời đời.

Sự sống này, một đàng không thể mất được vì đã được chính Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống bảo đảm, đàng khác cũng không bị ai cướp đi được, vì một khi đã được Chúa chăn dắt thì không còn sợ vấn đề Người không đủ khả năng chăm sóc và bảo vệ cho đàn chiên nữa.

Ở đây muốn nói khi đi theo Chúa Giêsu thì sẽ được Người ban sự sống đời đời và được Người đảm bảo sự sống ấy cách chắc chắn không thể mất được.

4. “Điều mà Chúa Cha ban cho Tôi”

Chúa Cha trao ban cho Chúa Giêsu những con chiên, chúng được coi như là những món quà tặng quý giá nhất. Vì tính cách quý giá như thế nên Chúa Giêsu phải giữ gìn món quà tặng đó như Chúa Cha đã gìn giữ vậy. Ở đây cho chúng ta thấy Chúa Cha và Chúa Con cùng làm việc bảo vệ gìn giữ đàn chiên. Và như vậy Chúa Giêsu liên kết Cha Người vào công trình của Người vì Cha Người là nguồn mạch mọi ơn huệ.

5. “Tôi và Cha Tôi là một”

Lời tuyên bố này có ý nói đến sự hiệp thông thân mật của Chúa Giêsu với Chúa Cha, và đây là một mạc khải quan trọng rõ ràng nhất về thần tính của Chúa Giêsu và mầu nhiệm sâu sa của Thiên Chúa.

Cũng cần lưu ý rằng các Thần học gia từ Tertulien đến Augustinô đã dùng lời tuyên bố này của Chúa Giêsu làm nền tảng cho việc chứng minh Chúa Cha và Chúa Con đồng bản tính nhưng khác ngôi vị, để chống lại lạc thuyết Ariô vốn phủ nhận thần tính của Chúa Giêsu.

III. ÁP DỤNG:

A. Áp dụng theo Tin Mừng:

Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng này trong mùa Phục sinh để nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Giêsu sau khi Phục Sinh, vẫn còn chăm sóc đàn chiên của Người và Giáo Hội, và vì vậy chúng ta phải xác tín vào vai trò hoạt động của Chúa Giêsu trong Giáo Hội và trong từng con chiên là các Kitô hữu.

B. Áp dụng thực hành:

a. Nhìn vào Chúa Giêsu:

1. Xem việc người làm:

- Chúa Giêsu đã lấy hình ảnh con chiên để ví người Kitô hữu và mục tử là chính Người để dạy cho chúng ta về sự chăm sóc của Người đối với mỗi người chúng ta. Noi gương Chúa Giêsu chúng ta phải chăm sóc nhau, nhất là những người có trách nhiệm liên đới tới tha nhân như người mục tử chăm sóc đàn chiên và lưu tâm từng con chiên.

- Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về thiên tính của Người, để dạy cho chúng ta biết những công việc của Người làm là công việc của Thiên Chúa. Noi gương Chúa Giêsu chúng ta phải biểu lộ ý hướng ngay lành trong công việc chúng ta làm để gây nên niềm tin tưởng cho tha nhân.

2. Nghe lời Chúa nói:

- Chiên Tôi nghe tiếng Tôi: là con chiên đích thực của Chúa thì phải biết nghe Chúa bằng cách tin và đón nhận lời Chúa vào cuộc sống của mình.

- “Tôi biết chúng…”: Chúa chăm sóc những ai sống theo Người. Những ai biết chăm chỉ dõi theo Chúa bằng sự suy niệm, cầu nguyện để sống mỗi ngày một hoàn thiện “như Cha của các con ở trên trời là Đấng hoàn thiện” thì sẽ được bảo đảm sự sống đời đời.

- “Không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi”: Nhờ ân sủng của Chúa, chúng ta sẽ vượt thắng được mọi gian nan thử thách và không việc gì có thể tách rời ta ra khỏi Chúa được.

- “Cha Tôi và Tôi là một”: Chúa Giêsu mạc khải cho ta về sự hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con. Vì vậy ai hiệp thông với Chúa Giêsu qua các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể thì cũng được hiệp thông với Thiên Chúa. Thật là diễm phúc cho những ai biết ý thức sự hiệp thông với Thiên Chúa mỗi khi nhận lãnh Bí tích, nhất là khi rước lễ.

---------------------------------

 

PS 4-C74: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH


(Cầu cho ơn Thiên Triệu) Ga 10, 27 - 30.

Anh chị em thân mến.

 

Nếu có dịp quang sát những trẻ nhỏ, chúng ta sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: PS 4-C74


Nếu có dịp quang sát những trẻ nhỏ, chúng ta sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Những trẻ của thời đại, dường như càng ngày chúng càng thông minh hơn những thế hệ trước. Từ việc học hành, cách ứng xử, và khả năng biến báo. Đó là những trẻ mà khả năng trí tuệ đã được phát triển. Còn những trẻ rất nhỏ thì sao?

Chúng ta sẽ càng ngạc nhiên hơn khi quang sát. Chúng chưa biết gì, chưa nhìn thấy được nhiều, cũng chưa phân biệt được rõ ràng về bất cứ điều gì. Thế mà khi chúng khó chịu và dùng vũ khí tối hậu của mình là tiếng khóc, thì không ai có thể ngăng được. Chỉ có người mẹ của chúng, khi bà xuất hiện, cho dù không lên tiếng, bà chỉ cần chạm đến, đứa bé sẽ có phản ứng khác ngay, cái phản ứng mà không ai có thể tạo ra cho nó được.

Đứa bé luôn nhận ra người mẹ của mình. Nó cảm nhận rằng: đây là nơi nó được an toàn, được thương yêu, được sống và được bảo vệ. Nó vui mừng khi được ở trong vòng tay của người mẹ. Nó vui mừng khi nhận ra mẹ. Nó cũng có phản ứng khi phải rời xa mẹ, nhất là khi xa vắng người mẹ lâu giờ, nó càng có phản ứng mạnh hơn. Đó là một tâm tình thiêng liêng không ai có thể giải thích được, cái tâm tình gắn liền với con người không thể tách rời được.

"Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng theo Tôi."

Chúa Giêsu dùng hình ảnh Chủ Chăn và đàn chiên để diển tả tâm tình của Ngài với con người. Ngài yêu thương và bảo vệ cho đàn chiên. Ngài chăm sóc, gìn giữ cho đàn chiên được an toàn. Ngài lo cho đàn chiên được sống, không những bằng của ăn mà còn cả tình yêu thương bao la. Ngài dùng cả mạng sống mình để bảo vệ cho đàn chiên. Ngài không ngần ngại bất cứ một việc gì khi thấy đàn chiên có lợi. Tình yêu thương của Ngài đối với đàn chiên không thể hiểu được. Ngài muốn những con chiên trong đàn nghe tiếng Ngài gọi để được sống. Ngài muốn những con chiên ở trong sự bảo vệ của Ngài để được an toàn.

Đàn chiên của ngài có những con chiên ngoan, luôn biết lắng nghe để được bảo vệ, thương yêu chăm sóc và có cuộc sống tốt đẹp. Nhưng cũng có những con chiên, đang ở trong đàn, đang được bảo vệ bằng tình yêu thương, đang được nuôi sống, nhưng nó không còn khả năng lắng nghe. Những con chiên đó đang muốn tìm một cuộc sống đặt biệt hơn những con chiên khác. Nó cũng đang lắng nghe, nhưng không phải tiếng của chủ mà tiếng nói tự nơi đâu. Nó đang sống trong đàn mà dường như không thể hòa hợp với đàn.

Nó gây phiền phức, chèn ép và đè bẹp những con chiên bên cạnh mà vẫn nghĩ rằng mình đang giúp đỡ. Vì nó không còn khả năng lắng nghe, nó chỉ biết làm, không phải theo ý chủ, nhưng theo một tiếng nói nào đó. Nó không còn vui mừng khi nhận ra chủ nữa, vì nó không còn nhận ra được tình yêu thương của chủ, nên nó không còn thấy được an toàn trong tay chủ. Nó tìm sự an toàn nơi một người nào khác, nơi một tiếng nói nào khác, ở ngoài người chủ đã từng thương yêu chăm sóc nó.

Mỗi người trong chúng ta là một con chiên trong đàn của Chúa. Chúng ta có là một con chiên ngoan, như đứa trẻ vui mừng khi nhận ra mẹ. Chúng ta có nhận ra và lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta trong từng trường hợp của cuộc sống? Chúng ta có cảm thấy được an toàn trong lòng bàn tay Chúa? Hay giờ đây chúng ta đang đi tìm sự an toàn ở một nơi nào đó? Mỗi người để ra một phút suy tư để xem chúng ta đang là chiên ngoan biết lắng nghe, hay là chúng ta không còn khả năng lắng nghe tiếng Chúa mà chỉ lắng nghe một tiếng nói nào đó.

Trong đời sống hằng ngày, nếu có Chúa bên cạnh, chúng ta có dám nói những lời mà mình đã từng nói hay không? Chúng ta có dám làm những việc mà mình đã từng làm hay không? Chúng ta đang sống theo tiếng của Vị Chủ Chăn hay đang theo tiếng nói nào, tiếng nói của riêng mình hay của một ai khác? Trả lời được những câu trên chúng ta sẽ biết được mình là một con chiên như thế nào.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho mỗi người luôn là một chiên ngoan trong đàn, để chúng ta xứng đáng là một người con được ấp ủ trong tay mẹ hiền.

---------------------------------

 

PS 4-C75: BẮT ĐẦU TỪ TÌNH YÊU


Ga 10, 27 - 30.

“Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Gn 21, 17)

 

Một buổi sáng đẹp trời, người ta bổng thấy một đàn cừu đang ăn cỏ phía công viên; rồi chúng: PS 4-C75


Một buổi sáng đẹp trời, người ta bổng thấy một đàn cừu đang ăn cỏ phía công viên; rồi chúng tiến lại phía trại lính. Từ xa mấy trăm mét, anh lính gác đã phát hiện…Lát sau, Chỉ còn mấy chục mét nữa là tới bờ rào, bên trong là bãi mìn, nơi cấm xâm nhập. Anh quát lên lớn tiếng. Không ăn thua gì! Đàn cừu cứ ung dung tiến tới. Anh lấy đất đá chọi tới; không được…lại không thấy ai là người chăn đàn cừu cả. Anh đánh kẻng báo động. Sĩ quan trực lập tức chạy ra. Anh hỏi: có nên nổ súng để đe dọa? Ông này cũng phân vân, cuối cùng không đồng ý: vì sẽ có hại nhiều hơn… Làm sao đây? Mấy chục binh lính đã thành hàng phía trước đàn cừu. Chúng vẫn ung dung tiến tới, băng qua họ, đi theo con đầu đàn…15 phút, rồi 20 phút trôi qua! Bất thần có tiếng sáo nổi lên. Tự dưng con đầu đàn ngẩng lên nghe tiếng sáo và đi ngược về phía đó. Cả bầy cừu lập tức đổi hướng đi theo con đầu đàn, theo tiếng sáo… Thì ra chú bé chăn cừu vì mê chơi đã để bầy cừu đi lạc. Chỉ cần nghe tiếng sáo quen thuộc của chú, cả bầy đi theo ngay…Bầy cừu đã nghe tiếng chủ nó …

a. * chiên: còn gọi là cừu, trừu, là loại gia súc hiền lành nhất và có lợi cho người nuôi nhất. Người ta nuôi chiên để xén lông, làm len dệt vải, lấy sữa, mỡ và thịt. Người Do thái không ngạc nhiên khi thấy Chúa dùng hình ảnh này, vì nghề chăn chiên là nghề chính, rất quen thuộc với họ.

* động từ biết: không chỉ đơn thuần là biết, phân biệt với người, với vật khác. Biết còn là tin, đặt niềm tin nơi người đó. Chiên biết chủ chăn, vì chiên tin nơi chủ của mình.

b. Dựa vào kinh nghiệm của mục tử ở Trung Đông, người ta thấy Chúa muốn trình bày mối tương quan đặc biệt giữa mục tử và đàn chiên như sau:

- Chiên luôn đi theo chủ chăn: Người chăn chiên luôn đi trước đàn chiên, vì chúng muốn được hướng dẫn và che chở. Việc chăn bò, hay con vật khác, người chăn đi đàng sau để lùa chúng đi tới…. Chúa Giêsu dùng hình ảnh: “mục tử chăn chiên” để chỉ về mình. Chúa là mục tử, là chủ chăn tốt lành, sẵn sàng hi sinh mạng sống mình để lo cho đàn chiên.

- Chiên nghe tiếng chủ chăn: Ngày hôm nay bên nước Do thái, người ta vẫn còn thấy hình ảnh đàn chiên như Chúa diễn tả. Vào lúc chiều xuống, khi đàn chiên chuẩn bị về chuồng, các chủ chăn đưa chiên đến uống nước ở một dòng suối nào đó. Nhiều bầy chiên khác nhau của nhiều chủ chăn, có thể trà trộn nhau tại nơi uống nước. Chủ chiên không sợ chiên lạc. Khi ra về, chỉ cần một hồi còi, một tiếng sáo…con chiên tự động biết đàn của mình mà tách ra theo đàn mình để về chuồng: Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. (Gn 10, 27)

chiên rất thân thiện với chủ chăn: người ta nói rằng khi chiên đang nằm ngủ trong đàn, chủ chăn có thể đi lại hoặc bước qua mình con chiên, chúng vẫn không thức giấc. Ngược lại một người lạ mặt mà làm như thế, con chiên sẽ hốt hoảng và gây kinh hoàng cho chúng. Điều này muốn nói, chủ chăn và đàn chiên phải rất gần gủi, thân thiện với nhau. Chủ chăn và đàn chiên của mình thân thiện đến mức có thể phân biệt và hiểu tiếng kêu của từng con chiên: vui mừng hoặc đau thương. Chủ chăn còn biết tên gọi và tính tình từng con chiên: Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống đời đời… (Gn 10, 27-28)

c. Gợi ý sống và chia sẻ: là người Kitô hữu, là con chiên của Chúa Kitô, dĩ nhiên Thiên Chúa Người Mục Tử Nhân Lành biết chúng ta rất rõ. Còn chúng ta là con chiên thì chúng ta đã biết được Chủ Chăn mình như thế nào và đến mức độ nào? Hay là ta chưa biết gì cả?

---------------------------------

 

PS 4-C76: MỤC TỬ NHÂN LÀNH


Ga 10, 27 - 30.

 

Đọc đoạn Tin Mừng hôm nay Ga10, 27-30 cùng với việc hôm nay mừng lễ Chúa Chiên Lành: PS 4-C76


Đọc đoạn Tin Mừng hôm nay Ga10, 27-30 cùng với việc hôm nay mừng lễ Chúa Chiên Lành làm cho tôi nhớ lại hình ảnh Chúa Chiên Lành được các nhà tạc tượng dựng nên ở đây đó. Đó là một hình ảnh Đức Kitô mục tử, tay cầm gậy, tay nâng đỡ con chiên được Ngài vác trên vai. Một hình ảnh mục tử thật đẹp. Tay cầm gậy để bảo vệ đàn chiên khỏi lang sói, khỏi bị thú dữ tấn công cũng như có thể đưa đàn chiên của mình đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đến những dòng nước mát trong lành cho dù xa xôi. Tay còn lại nâng đỡ con chiên, nâng đỡ chứ không kiềm chặt, đã đặt chiên trên vai lại còn nâng đỡ ưu ái yêu thương chiên của mình “Ta là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên” (Ga10, 11). Có thể con chiên được vác trên vai là con chiên lạc. Đáng lý theo thường tình thì con chiên lạc sẽ bị rượt đuổi, thúc ép để mau trở về đàn. Nhưng với mục tử Giêsu thì tìm gặp con chiên lạc thì ân cần vác chiên trên vai, nâng đỡ đưa về đàn. Không ép buộc nhưng nâng đỡ để chiên tự do cảm nhận được tình yêu mà trở về đàn.

Trở lại đoạn Tin Mừng hôm nay, chỉ trong một câu Chúa Giêsu đã làm nổi bật quan hệ của Ngài với chiên của Ngài “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Chúa Giêsu chính là vị mục tử thật và chiên của Ngài chính là mỗi người chúng ta. Trong câu nói của Chúa Giêsu có ba động từ được đưa ra làm nổi bật mối liên hệ giữa mục tử và đàn chiên

Biết: theo Kinh Thánh chữ biết có ý nghĩa sâu xa rộng lớn. Biết có nghĩa là yêu mến, là thuộc trọn về đối tượng, là gắn bó nên một với đối tượng. Chúa Giêsu biết chiên của mình nghĩa là Ngài yêu thương, nên một với mọi Kitô hữu. Ngài trao hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho đoàn chiên.

Phía đoàn chiên thì nghe và đi theo. Nghe là biết chấp nhận, tin tưởng hoàn toàn và thật lòng yêu mến.

Đi theo: Là thái độ dứt khoát chọn lựa Thiên Chúa, dứt khoát là chiên của mục tử Giêsu, dứt khoát sống theo lời người. Mối tương quan của Chúa Giêsu mục tử và đoàn chiên hệ tại duy nhất trong tình yêu. Một tình yêu xuất phát từ chính Thiên Chúa. Nghe và đi theo là đòi hỏi của Chúa Giêsu dành cho những ai muốn là chiên của Ngài. Cái “biết?” của Chúa Giêsu đối với mỗi người chúng ta là cái biết cá vị, không phải biết cách chung chung hay biết như những con số, nhưng là một cái biết từng người một trong mối liên hệ với Ngài.

Ở Châu Phi, có một bộ lạc khá kỳ lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có một người hỏi người dân bản địa có bao nhiêu con cừu. Anh đáp không biết. Vậy nếu lỡ mất một hai con thì làm sao anh biết được? Câu trả lời rất ý nhị “Không phải tôi mất một con số mà là tôi mất một bộ mặt…”phải có tình yêu thương nồng nàn gắn bó lắm với đoàn chiên mới cảm nhận được từng khuôn mặt của từng con một. Chúa Giêsu mục tử Ngài không xem chúng ta như những con số nhưng là từng con người một.

Hôm nay mừng lễ Chúa Chiên Lành, chúng ta hãy cầu xin cho các vị mục tử là những người đại diện cho Chúa Giêsu mục tử biết nêu gương Thầy mình là vị Mục Tử Nhân Lành hy sinh cho đoàn chiên. Xin Chúa cho các ngài luôn để tâm học hỏi, suy niệm để luôn gắn bó, để múc được nguồn sống nơi Chúa Giêsu mục tử mà trao lại sự sống ấy cho đoàn chiên mà các ngài có nhiệm vụ dẫn dắt. Xin cho các Ngài cũng biết yêu thương đoàn chiên mà các ngài được trao phó để thể hiện được khuôn mặt Đức Giêsu mục tử nơi đoàn chiên mình.

Còn mọi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi để trở nên con chiên của Chúa. Chúng ta cũng phải biết nghe và đi theo Ngài. Nghe và đi theo với một lòng tin tưởng sâu xa. Tin rằng Chúa luôn yêu thương và dẫn dắt chúng ta đến đồng cỏ xanh tươi mang lại sự sống đời đời. Hơn nữa mỗi người Kitô hữu chúng ta còn có nhiệm vụ cầu nguyện để cho có nhiều người dám chấp nhận từ bỏ, chấp nhận hy sinh để trở nên người đại diện cho Chúa Giêsu mục tử đích thực.

Hãy gắn bó với Chúa Giêsu mục tử qua Giáo hội của Ngài để mỗi ngày chúng ta càng trở nên những người Kitô hữu đích thực.

---------------------------------

 

PS 4-C77: MỤC TỬ TỐT LÀNH


Ga 10, 27 – 30

 

Hình ảnh vị mục tử nhân lành được tiên tri Edêkiel mô tả trong Thánh Kinh như sau: “Ta sẽ: PS 4-C77


Hình ảnh vị mục tử nhân lành được tiên tri Edêkiel mô tả trong Thánh Kinh như sau: “Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta và sẽ chăm nom đến chúng. Ta sẽ tìm kiếm con chiên lạc mất; băng bó vết thương cuả con chiên bị thương tích, săn sóc những con chiên đau yếu… Ta sẽ cho chỗi dậy một mục tử duy nhất. Đó là Đavít tôi tớ Ta. Chính Ngài sẽ chăn dắt chúng, sẽ là mục tử của chúng” (Ed 34, 2-23).
Những điều Edêkiel mô tả trên đây được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, vị Mục Tử tối cao. Chúa Giêsu thuộc dòng dõi Vua Đavít, người xuất hiện để đem lại bình an hạnh phúc cho nhân loại, trong ngày Người sinh ra các thiên thần đã ca hát “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”; khi sống lại và hiện ra với các môn đệ Chuá luôn ban “bình an” cho các ông. Trong những năm giảng dạy, Chúa Giêsu giới thiệu: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”.

Quả thực, Chúa không chỉ giảng dạy, kêu gọi người Do thái “công chính” mà còn đến với dân ngoại, đến với người tội lỗi. Chúa đến với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (Ga 4, 7-30) để hướng chị đến Nước Hằng Sống, uống vào sẽ không còn khát nữa. Người Do thái tỏ thái độ khinh bỉ và thù nghịch đối với người Samari, coi họ là một dân hỗn tạp về chủng tộc, rối đạo và ly giáo, còn Chúa Giêsu thì đến với họ để quy tụ họ lại trong đàn chiên của Chúa.

Chúa đến nhà dùng bữa và kêu gọi Matthêu (Mt 9, 10-13) và Giakêu (Lc 19, 1-10), người Do thái không tiếp xúc với người thu thuế tội lỗi như Matthêu và Giakêu, vì sợ mắc ô uế và bị giới lãnh đạo khiển trách. Chúa Giêsu đến với họ, vì Ngài đến để “tìm kiếm và cứu những gì đã mất”. (Lc 19, 10)

Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh và cứu sống những người Do thái mà còn cho người ngoại nữa. Chúa Giêsu đã từng chữa bệnh và cứu sống người đầy tớ thân tín của viên đại đội trưởng người Rôma (Lc 7, 1-10), Chúa Giêsu còn chữa lành cho đứa con gái bị quỷ ám của người đàn bà ngoại giáo người Canaan (Mt 15, 21-28).

Là Mục Tử tốt lành Chúa Giêsu đã rảo qua mọi nẻo đường, để tìm kiếm con chiên đã mất, để băng bó và chữa lành những con chiên bị thương, đau yếu như lời mô tả của tiên tri Edêkiel. Tương quan giữa mục tử và con chiên là tương quan vô cùng thân thiết Ta biết chúng và chúng nghe tiếng Ta; tiếng nói, âm giọng của mỗi người mỗi khác, nhưng đối với những người thân quen, ta chỉ nghe tiếng nói thôi, không cần thấy ngươì, thì ta đã biết là ai rồi. Các bạn trẻ và những người yêu nhạc, chỉ cần nghe tiếng hát thôi, không cần thấy người, thì đã biết là ca sĩ nào hát rồi. Đó là do mối thân quen, hay một sự quan tâm đặc biệt, hoặc tiếp xúc thường xuyên mà ta có được, để dễ dàng nhận ra tiếng nói của họ.

Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, không những có một tương quan vô cùng thân thiết với con chiên mà còn “thí mạng sống vì đoàn chiên”, để bảo vệ đoàn chiên khỏi nguy hiểm. Mạng sống của người mục tử thì cao quý hơn mạng sống của con chiên, vậy mà người mục tử phải thí mạng sống quý giá của mình để đoàn chiên được an lành; chỉ có một tình yêu mạnh mẽ mới có thể làm được như thế, chỉ có một lòng yêu mến chân thành mới có thể làm được như thế! Lòng thương xót của Chúa quá bao la, Ngài không để hư mất những gì Ngài đã làm nên, cho dù nó nhỏ nhoi bé mọn thế nào. Điều đó được diễn tả trong câu chuyện mà Chúa Giêsu nói với người Do thái: “người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia lại ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? Tìm được rồi, người ấy mừng rở vác chiên lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó” (Lc 15, 4-6). Hoặc “người đàn bà nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? Tìm được rồi bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã mất”. (Lc 15, 8-9)

Thật vô lý đối với chúng ta phải không ? bỏ chín mươi chín để tìm một, vất vả tìm được một đồng, sau đó lại tổ chức tiệc mừng, (chắc cũng phải mất mấy đồng !) Đúng là chẳng biết tính toán gì cả ? Nhưng nỗi lòng của Chúa là thế đó: Ngài luôn động lòng trắc ẩn, tiếc xót, Ngài không đành lòng để trượt mất một linh hồn nào cả, không hề tính toán thiệt hơn, miễn sao tìm lại được vì “giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15, 10). Nỗi của Chúa là thế đó, Mục tử nhân lành là thế đó !

Chúa Giêsu là vị mục tử tối cao, Ngài cũng cho xuất hiện trong Hội Thánh nhiều vị mục tử để chăm sóc đoàn chiên của Chúa. Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục, các Linh mục được gọi là các mục tử có nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên được giao phó cho mình. Nhìn rộng hơn một chút những ai được trao phó cho một nhiệm vụ nào đó, để chăm sóc cho một nhóm người nào đó cũng được coi là mục tử. Như vậy mọi người chúng ta đều được tham gia vào sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu. Người cha, người mẹ trong gia đình, những thầy cô giáo cũng có nhiệm vụ chăm sóc, dạy dỗ và trở nên mục tử cho những người mình có nhiệm vụ phục vụ.

Chúa Giêsu là Mục tử duy nhất tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ là phụ tá, giúp chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Những ai đã được trao nhiệm vụ hãy tận tâm, tận lực chu toàn theo gương vị mục tử tối cao, dám thí mạng sống để đoàn chiên được an lành và tăng trưởng mọi mặt. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn cần các bạn trẻ dấn thân để trở thành mục tử chăm sóc đoàn chiên trong Hội Thánh.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử trong Hội Thánh và cho tất cả những người làm cha mẹ trong gia đình, cho các thầy cô giáo, để mọi người chu toàn tốt nhiệm vụ của mình. Đồng thời chúng ta cũng cầu xin Chúa cho có thêm nhiều vị mục tử tốt lành, biết tận tụy chăm lo cho đoàn chiên của Chúa cách vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành. Amen.

---------------------------------

 

PS 4-C78: CHÚA LÀ MỤC TỬ


Ga 10, 27 - 30

 

Đức Giêsu dùng hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do thái thời đó - chủ chiên và đàn chiên: PS 4-C78


1. Đức Giêsu dùng hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do thái thời đó - chủ chiên và đàn chiên – để nói lên mối tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa, Đức Giêsu đối với dân Người. Chủ chiên đích thực luôn yêu thương, lo lắng cho chiên, nhưng từng con chiên cũng như đàn chiên muốn phát triển tốt thì phải lắng nghe và đáp lại sự hướng dẫn của chủ. Chiên cho dù có khôn như thế nào đi nữa, nhưng cũng chỉ là một loài vật, vậy mà còn biết nghe theo tiếng chủ, còn chúng ta là con chiên, đàn chiên của Chúa thì sao ?

2. Thiên Chúa vì yêu thương nên Ngài không những tạo dựng mà còn luôn yêu thương chăm sóc các loài mà Ngài đã dựng nên, đặc biệt là loài người.

Thời Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tổ phụ, các ngôn sứ để dạy bảo, dẫn dắt dân của Ngài. Chắc hẳn chúng ta còn nhớ hình ảnh Môsê, như một tiên biểu, thay Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái thoát khỏi cảnh nô lệ Ai Cập tiến về Đất Hứa. Hình ảnh của Môsê như một chủ chiên hướng dẫn một đàn chiên đi một quảng đường khá dài đến nơi an toàn. Thiên Chúa luôn đáp ứng nhu cầu chính đáng của dân Do thái, khi họ đói Ngài ban cho có manna, khát có nước uống… Vì thế Thánh Vịnh 23 thật là hữu lý khi cất lên

“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu tốn gì, Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ…” (TV 23, 1-2)

Thời Tân Ước, Đức Giêsu quả thật là Mục tử nhân lành, cả cuộc đời của Người đã nhằm phục vụ cho đàn chiên: giảng dạy, chữa mọi bệnh tật xác-hồn. Cuối cùng đã hiến cả mạng sống mình cho đàn chiên (Ga 10,11-15), Người hy sinh tính mạng để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Xưa, Môsê lãnh đạo dân riêng của Thiên Chúa tiến về Đất Hứa, nhưng đất nầy vẫn còn thuộc phương diện trần thế, còn Đức Giêsu, Môsê mới, dẫn đưa dân mới, là Hội Thánh, qua Hội Thánh, muôn dân nước được mời gọi tiến về quê hương đích thực là Nước Trời.

Vì Đức Giêsu biết mình phải trở về cùng Thiên Chúa Cha, nên Ngài đã uỷ thác sứ mạng của mình cho các tông đồ, các môn đệ và những người kế vị các ngài. Để việc chăn đắt đàn chiên Chúa được tiếp tục thực hiện cho đến tận thế (Lc 22,19). Như vậy, cũng như thời đã qua, hôm nay và mãi cho đến ngày tận thế Hội Thánh vẫn rất cần đến những người dấn thân trong ơn gọi linh mục, tu sĩ để phục vụ Chúa, Giáo hội và tha nhân. Vì thế, Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ.

3. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Chiên muốn được an toàn, được phát triển tốt thì không những phải lắng nghe tiếng chủ mà còn phải thực hiện theo sự hướng dẫn của chủ. Lời Chúa dạy là lời chân thật dẫn đưa từng người trong chúng ta, chiên của Chúa, đến hạnh phúc thật:”Phúc cho ai biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11,28). Thế nhưng có khi chúng ta nghe nhưng không giữ lời Chúa, có khi nghe cách thụ động, có khi không muốn nghe… mà Chúa đã dùng “Dụ ngôn Người Gieo Giống” (x. Mt 13, 1-23 và song song) để nói lên điều đó. Chủ chiên đích thực nào cũng thương từng con chiên, cũng vậy Chúa không bao giờ muốn tách chúng ta ra khỏi tình thương của Người, thế nhưng khi chúng ta không lắng nghe và thực thi lời Chúa, tức là chúng ta tự tách mình ra khỏi đàn chiên của Người.

Có những kẻ xấu, giả điệu bộ, giọng nói rất khéo giống như chủ chiên để lôi kéo chiên đi theo không phải để chăm sóc mà hại chiên. Điều nầy làm cho chúng ta suy nghĩ đến những cạm bẫy mà người Kitô hữu dễ mắc phải trước những bã vinh hoa phú quý tạm bợ làm cho chúng ta mất sự sống đời đời. Rất có thể chính ta đang bước theo chủ chiên giả đó mà chúng ta không hay, đó là quyến rủ của thế gian, ma quỷ, xác thịt.

4. Làm sao biết được ý của chủ chiên thật là Thiên Chúa, Đức Giêsu để thực thi và tránh được những lời ngọt ngào, nhưng đem lại chết chóc, của những chủ chiên giả hiệu? Mặc dù chúng ta không được nghe cách trực tiếp tiếng nói của Thiên Chúa, của Đức Giêsu như dân Do thái hay các tông đồ, các môn đệ xưa. Nhưng vị Mục Tử nhân lành, vẫn không ngừng hướng dẫn để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Tiếng Chúa vẫn được nói với chúng ta qua tiếng lương tâm ngay lành, qua Muời Điều Răn, qua Lời Chúa trong Tin Mừng, qua những vị có trách nhiệm trong Hội Thánh, qua lời nhắc nhở của anh chị em…

Mỗi người chúng ta không chỉ nghe tiếng Chúa suông, mà hãy quyết tâm tuân giữ, thực thi để trở thành con chiên ngoan của Chúa; gia đình chúng ta, tập thể chúng ta cố gắng là đàn chiên tốt của Chúa; có như vậy đàn chiên rộng lớn hơn của Chúa là Họ Đạo, là Giáo Hội mới có thể tốt được.

Chúng ta cũng đừng quên cầu nguyện ngày càng có nhiều linh mục, tu sĩ theo gương Đức Giêsu vị Mục Tử nhân lành, để góp phần phục vụ đàn chiên của Chúa. Amen.

---------------------------------

 

PS 4-C79: CHIÊN TA THÌ NGHE TIẾNG TA


(Ga.10:27)

CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH

 

Chúa ơi!  Con nào có hay “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ con suốt cả cuộc đời”. PS 4-C79


Chúa ơi!  Con nào có hay “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ con suốt cả cuộc đời”. Con đâu biết rằng “ Con được ở trong nhà của Chúa, những ngày tháng, những năm dài triền miên”. Với “côn trượng Ngài bảo vệ”, Ngài đưa con đi qua thung lũng âm u của cuộc đời. Những ngày tháng đi hoang, những năm tháng lạc lối của niềm tin… Ngài dẫn đưa con về đường ngay nẻo chính. Ngài mang con tới dòng nước trong lành, và bổ sức cho con…

Chúa ơi! Lời Chúa hôm nay nhắc nhở con: “Chiên ta thì nghe tiếng ta” (Ga.10:27) . Nhưng con nào có nghe được tiếng Chúa. Tiếng Chúa qúa nhẹ nhàng, nhẹ nhàng như lời thì thầm của gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương. Tiếng Chúa bị che lấp bởi muôn ngàn tiếng ồn ào khác luôn vang vọng bên tai con: Tiếng của vật chất tiền bạc; tiếng của địa vị danh vọng; tiếng của đam mê dục vọng…Con không nghe được tiếng Chúa vì con không ở trong đàn chiên của Chúa?  Hay vì con vẫn ở trong đàn chiên của Chúa nhưng không hề “biết” Chúa? Cái “biết” thâm sâu và gần gũi mà con không có để nhận ra tiếng kêu mời của Người Mục Tử Nhân Lành.

“Ta biết chúng và chúng biết ta” (Ga.10:27).  Cái “biết” thâm sâu đó không phát xuất từ kiến thức của cái đầu, nhưng phải đến từ lòng tin yêu cảm mến của con tim. Cái “biết” thâm sâu đó làm con quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình với Chúa, giúp con từ bỏ chính mình để đi theo Chúa. Cái “biết” thâm sâu đó sẽ làm con vững dạ an tâm, sẽ giúp con không sợ gì nguy khốn, sẽ mang con đến cuộc sống sung mãn và hạnh phúc trong đàn chiên của Ngài.

Chúa ơi! Lời Chúa hôm nay mời gọi con “trở nên một với Chúa” giống như “Ta với Cha là một” (Ga.10:30). Con băn khoăn với lời mời gọi của Ngài, vì không biết làm sao để con được “trở nên một” với Chúa? Làm thế nào để con được “đồng hình đồng dạng” với Ngài?  Và làm thế nào để con được trở nên “giống” Ngài mỗi ngày mỗi hơn? Lòng con cũng luôn nghi ngại với những câu hỏi: - Con sẽ được gì khi con trở nên một với Chúa? – Con sẽ ra sao khi con được đồng hình đồng dạng với Ngài?  Lời Chúa hôm nay đã cho con câu trả lời thỏa đáng: “Ta ban cho chúng sự sống đời đời. Chúng không bao giờ phải diệt vong” (Ga.10.28)  

Chúa ơi! Lời Chúa hôm nay hé mở cho con: “Ta chính là Mục Tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10:11).  Không ai cướp được đoàn chiên khỏi tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên.

Chúa ơi! Chúa là là Mục Tử chăn giữ đời con, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa và bước đi theo Ngài.  Xin cho con biết noi gương bắt chước Chúa để trở nên mục tử nhân lành trong gia đình con, trong xóm làng mà con đang sinh sống, và trong cho cộng đoàn giáo xứ con đang sinh hoạt. Amen.

---------------------------------

 

PS 4-C80: TIN MỪNG CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH (Năm C)


Ga 10, 27-30

THUÊ BAO QUÝ KHÁCH GỌI, HIỆN KHÔNG LIÊN LẠC ĐƯỢC

 

Tháng tư – chính xác là quảng thời gian từ 21.03 đến 20.04 - là tháng của nữ thần Atêna, nữ: PS 4-C80


Tháng tư – chính xác là quảng thời gian từ 21.03 đến 20.04 - là tháng của nữ thần Atêna, nữ thần của chiến tranh và chiến thắng, đồng thời cũng là nữ thần của trí tuệ, trí thức và nghệ thuật. Người ta nói: những ai sinh vào quãng thời gian này đều được nữ thần Atêna ban cho những phẩm chất như: thông minh, hăng hái, ham thích kiến thức, có năng khiếu nghệ thuật, tinh thông các loại kỹ năng và kỹ xảo nghề nghiệp. Con cháu nữ thần – dân Hy Lạp - lại không có may mắn ấy: quốc khố rỗng tuênh, nợ nần chồng chất, kinh tế trì trệ, thất nghiệp lan tràn, Hy Lạp đang trên bờ vực thẳm khủng hoảng. Cuối cùng, để tránh vết dầu loang và làm nghĩa vụ đối với một quốc gia thành viên, cũng để giữ uy tín, Liên Minh Châu Âu phải đưa ra một khoản tiền khổng lồ 30 tỷ euros cứu trợ Hy Lạp. Nhưng xem ra không mấy người tin rằng số tiền nầy có thể vực dậy một quốc gia bị bệnh trầm kha như là Hy Lạp, mà nguyên nhân của khủng hoảng không phải do cơn bão khủng hoảng tài chính toàn cầu mấy năm nay, cho bằng do yếu kém trong điều hành kinh tế tài chính. Nhưng người dân Hy Lạp lại thấy niềm tin và hy vọng phục hồi,phát triển đất nước từ 20 euros của hai chú bé.

 Ngày 10.04.2010, đài báo trong và ngoài nước đưa một mẫu tin nhỏ,nhưng đã gây xúc động mãnh liệt không chỉ đất nước Hy Lạp, mà cả toàn thế giới: hai anh em cháu bé Georg 8 và 6 tuổi đã mổ heo nhựa và đem toàn bộ 20 euros tiết kiệm tặng cho chính phủ Hy Lạp. Câu nói đơn sơ,chân thành của hai cháu bé có lẽ khiến nhiều người dân Hy Lạp phải nhìn lại suy nghĩ và hành động của họ trước tổ quốc lâm nguy:”Chúng em không muốn tổ quốc mình bị đem bán”, bởi chúnh phủ quả đã có phương án bán đi vài hòn đảo để trả nợ. Nhiều đốm lửa ích kỷ, vung tay quá trán trong mua sắm và sống xa hoa đế vương của những công dân giàu có vô tâm vô tình trước cảnh suy sụp khốn đốn của đất nước và đồng bào, cộng với yếu kém điều hành quản lý, đã dẫn tới “hoả hoạn” có khả năng thiêu rụi ngôi nhà Hy Lạp. Đốm lửa do hai cháu bé thắp lên, - thay vì bi quan ngồi nguyền rủa bóng tối -  trở thành ngọn lửa bùng cháy, soi sáng cả đất nước và mấy chục triệu dân, mấy chục triệu con tim dân chúng Hy lạp, sáng hơn muôn vạn lần ngọn đuốc Olpympic Athènes 2004 – mà chi phí tổ chức lên đến 20 tỷ đô la -  , vốn là một trong nhiều nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng nợ nần ngày nay cho đất nước  thứ 10 gia nhập EU năm 1981 và là nước nghèo nhất trong khối nầy.Trường ca Odyssée khó mà cất lên được, khi còn những người dân Hy Lạp thiếu tình người, không chút lòng yêu nước thương nòi hoặc mất hết tự ái dân tộc, như cố tỷ phú Onassis và đám hậu duệ sống xa hoa trác táng của ông.

 Lần nữa xin phép gợi lại câu danh ngôn của cố tổng thống Mỹ Kennedy: “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn. Đúng hơn hãy hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc”. Không biết từ bao giờ, với rất nhiều Kitô hữu - nếu không muốn nói là đa số - có cùng não trạng với người dân Mỹ vào thời hưng thịnh của nước Mỹ: mọi sự đều ỷ vào nhà nước. Song nếu so sánh với dân Mỹ, thì Kitô hữu còn kém xa, vì sự “ỷ lại”, đòi hỏi và hưởng thụ của họ còn có cơ sở: họ đóng thuế đầy đủ,kể cả “thuế nhà thờ”; trong khi Kitô lại chỉ vin vào một lời Kinh Thánh: “Chuá là đấng chăn dắt tôi, tôi còn thiếu thốn gì” (x. TV 22). Kitô hữu không có gì đóng góp,không có gì thế chấp. Chúng ta trách những người con Cựu Ước bất tín,vô ơn bội nghĩa, chỉ muốn lợi dụng Thiên Chúa cho những mục tiêu vụ lợi: đè bẹp và tiêu diệt quân thù. Không nói ra, nhưng chúng ta không quên mối thù “khinh sư diệt tổ” đã giết chết Chúa Giêsu của họ. Hết chê trách người Do Thái, những người con của Tân Ước “chiếu tướng” dân ngoại, những người vô thần, những người khác niềm tin hoặc khác tuyên tín với chúng ta, quên đi rằng họ chính là đối tượng, mà chúng ta nhận mệnh mệnh yêu mến và đem Tin Mừng Lòng Xót Thương của Chúa đến cho. Chúng ta đòi hỏi nơi Chúa, nơi Giáo Hội phải thế nầy,phải thế khác, mà quên rằng để Giáo Hội nên được “thế nầy, thế khác”, thì đó là trách nhiệm của mỗi Kitô hữu. Nemo dat quod non habet: không ai cho điều gì mình không có. Sự canh tân và biến đổi Giáo Hội khởi đầu nơi cuộc sống mỗi Kitô hữu.

 Người Trung Quốc có câu: “ Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Người Việt Nam nôm na dễ  hiểu hơn: “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Việc xây dựng và bảo vệ Giáo Hội không của riêng ai. Rất nhiều tín hữu Công giáo mặc nhiên gán hoặc trút cho Đức giáo hoàng và các giám mục,linh mục nhiệm vụ canh giữ,chiến đấu và xây dựng Hội Thánh, còn bản thân thì khi cần sẽ ‘đóng góp’ lời cầu nguyện. Hãy nhìn lại phản ứng của không ít tín hữu Công giáo thời gian qua, khi Giáo Hội và Đức Thánh Cha phải hứng chịu những cuộc tấn công điên rồ, xuyên tạc và đầy ác ý, chủ yếu nhằm hạ uy tín và bôi nhọ thanh danh của Giáo Hội và của Vị Chủ Chăn hoàn vũ: có những người chưa hề nghe nói đến; có những người nghe câu được câu mất, vì không được thông tin và giải thích; có những người lấy làm xấu hổ vì những tội ác ghê tởm do nhiều linh mục phạm. Đã có nhiều Kitô hữu mất đức tin. Đã có những cảnh “ các chức sắc Giáo Hội ” trống đánh xuôi,kèn thổi ngược”, đã không giúp gì cho Đức Thánh Cha, lại còn làm cho Người thêm vất vả chống đỡ. Đã có những Kitô hữu thuộc đủ phẩm trật “té nước theo mưa”, công kích Đức Thánh Cha và Giáo Hội. Không có gì làm cho Satan và những thế lực vô thần xấu xa vui sướng hơn,là cảnh tượng chúng gây ra được trong những năm gần đây và nhất là trong thời gian vừa qua. Giáo Hội và Đức Thánh Cha quay về hướng con cái, để xin lên tiếng bênh vực chân lý:

THUÊ BAO [GIÁO HỘI GỌI] - những người đã nhận lãnh Bí Tích Thánh Tẩy – NGOÀI VÙNG PHỦ SÓNG. Ngoài một số không nhiều các giới chức cao cấp Giáo Hội, thì phản ứng vô cùng thận trọng của hàng giáo phẩm và hàng giáo sĩ, có lẽ khiến Đức Thánh Cha chua xót hơn cả những đòn thù của Satan và các thế lực truyền thông xấu xa. Các Vị không hoàn toàn tin Giám Mục Rôma. Các Vị muốn nắm vững thông tin về nhiều thời kỳ phục vụ Giáo Hội của linh mục,rồi giám mục,hồng y Joseph Ratzinger và Giáo Hoàng Biển-Đức XVI, trước khi đưa ra quyết định ủng hộ hay im lặng (nghĩa là đồng tình với Satan và những kẻ thù Giáo Hội): Các Vị cần thì giờ thẩm định tư cách, đạo đức,ứng xử của Vị Cha Chung. May mà chưa giống như Hans  Kung “đấu tố” 10 “tội” của Đức Gioan-Phalô II. Giáo Hội và Đức Thánh Cha lên tiếng kêu gọi THỐNG HỐI, cầu nguyện, xin tha thứ và xin chữa lành. Không ít người nghĩ là Đức giáo tông thật sự đã có tội! Đáp lại, từ khắp nơi, ngoài sự im lặng rơn người, sự im lặng của một chiến trường khi ngớt tiếng súng, sự im lặng của bải tha ma vào giờ hạ huyệt, của cảnh tượng thê lương mà Victor Hugo mô tả trong bài hơ bất hủ “Waterloo”, người ta như vẳng nghe: THUÊ BAO QUÝ KHÁCH GỌI, HIỆN KHÔNG LIÊN LẠC ĐƯỢC. Không biết đến bao giờ thì tín hữu Công giáo sẽ mở máy và trả lời, hoặc chí ít thì cũng nghe đọc tin nhắn.

 Chúa “hơi bị” lạc quan đấy! Từ khi Chúa nói:  “ Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga 10,27), phỏng có được bao nhiêu phần trăm thật sự nghe tiếng Chúa và đi theo Chúa? Chúa như tổng đài, không ngừng gửi đi tin nhắn yêu thương,hiệp nhất đến tất cả mọi tín hữu, mong muốn ban ơn cứu độ và nhiều ơn phúc lành cho hết mọi người, - không chỉ là những chiêu “khuyến mãi” -  nhưng đáp lại, đa phần chỉ là sự lãnh đạm, vô ơn, như khán giả bàng quan đứng nhìn các bên giao đấu. Giáo Hội Chúa hay Đức Thánh Cha có u đầu mẻ trán hoặc bị thương tích nặng nề, thậm chí có bị hạ đo ván, thì giống như cách nói vẫn thường nghe:”mackeno” (mặc kệ nó). Cùng lắm cũng chỉ làm cử chỉ bùi ngùi thương hại. Và dù Chúa có “redial” nhiều lần, liên tục, suốt đời, thì con e rằng Chúa chỉ làm người ta khó chịu, vì bị quấy rầy, và vẫn chỉ xót xa nghe câu máy móc: “Thuê bao qúy khách gọi,hiện không liên lạc được. Xin vui lòng gọi lại”. Mọi con đường đều dẫn về Roma. Không phải mọi con đường đều dẫn về Nước Chúa - Giáo Hội và Thiên Quốc!

 Ngạn ngữ Châu Phi có câu: một cây bị đổ gây tiếng ồn hơn cả khu rừng đang mọc. Cây mọc tốt tươi sẽ làm cho khu rừng Giáo Hội xanh đẹp,phủ bóng mát cho thế gian, lấp kín sự ngã đổ cay đắng của một số cây lớn, cho dù tiếng ồn và vết hằn những cây mục nát nầy, lúc gãy đổ có gây ra đến đâu. Niềm tin ấy, hy vọng ấy, xin Chúa Mục Tử Nhân Lành củng cố trong lòng Dân Chúa. Không phải “sau cơn mưa trời sẽ sáng”, mà ánh sáng vẫn huy hoàng rực rỡ ngay trong phong ba bão táp, xua tan bóng tối tội lỗi và sự dữ: Ánh Sáng Phục Sinh.

ĐƯỜNG TÌNH CHÚA DẪN CON ĐI 46

-------------------------------------

 

PS 4-C81: LỜI KÊU CẦU CỦA CON CHIÊN

 

Một con chiên nhỏ ham vui, lạc đàn.  Nó muốn quay về nhưng bí lối, quên đường.  Bản tính loài: PS 4-C81


          Một con chiên nhỏ ham vui, lạc đàn.  Nó muốn quay về nhưng bí lối, quên đường.  Bản tính loài chiên Tạo Hóa cho hiền lành, nhưng chậm chạp, khù khờ.  Nó không có sự khôn ngoan của loài chó biết vẫy đuôi vui mừng khi chủ gọi, vỗ đầu.  Nó không biết để dấu trên đường đi nên khi lạc lối không nhớ nẻo về.  Bởi đó, chiên cần người chăn.

          Giữa núi đồi bao la, con chiên nhỏ không biết làm gì khác hơn là lớn tiếng kêu vang, hy vọng người chăn chiên nghe thấy, rồi tìm đến, mang nó về đàn.  Nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng của cỏ cây, đồi núi.  Nó mệt lả, ngất đi.  Bỗng nó nghe tiếng chó sủa, tiếng gậy roi đập vào các lùm bụi từ xa. Người chăn chiên đang tìm nó!  Nó vốn sợ chó, sợ đòn gậy.  Nó cũng không còn sức để lớân tiếng kêu cầu.  Nó khiếp sợ, thiếp đi.  Người chăn chiên đi qua, vô tình không hay biết.  Khi tỉnh lại, nó nghe tiếng chó và gậy roi đã đi xa.  Trước mặt nó là hố sâu, thung lũng.  Sau lưng là vách đá trơ trơ.  Ngày mai, người chăn chiên sẽ trở lại kiếm nó?  Hay nó đã được ghi là mất tích?  Ngày mai biết nó còn sống không?  Trời cao có thấu?  Tuyệt vọng... Phó mặc!  Nó lầm lũi bước đi... Về đâu?

           Chó và gậy là hai vật không thể thiếu đối với người chăn chiên, hai dụng cụ hành nghề tất yếu, hai phụ tá đắc lực.  Đối với người mục tử nhân lành, gậy dùng để chỉ đường dẫn chiên đến những đồng cỏ xanh, suối nước mát; và khi cần, gậy trở thành khí cụ dùng để bảo vệ đàn chiên chống lại loài lang sói đang rình rập chờ vồ mồi.  Nhưng đối với người chăn thuê, gậy tượng trưng cho quyền hành chỉ huy, ra lịnh, chủ yếu là phương tiện trừng phạt những con chiên lạc đàn.  Chó giúp kiềm giữ chiên đi theo hàng ngũ.  Khi thấy con chiên nào muốn rời đàn đi riêng, chó sủa lên để báo hiệu cho người chăn và đồng thời cũng để làm chiên lạc hoảng sợ quay về, nhất là những con chiên thích chạy nhảy tung tăng, hoặc mải mê ngắm nhìn trời cao, hoặc đang khao khát muốn tìm một dòng nước mát trong lành hơn.

          Thời xưa, đối với dân Do Thái, con chiên là một tài sản đáng kể, được chủ tận tình chăm sóc sớm hôm.  Khi một con chiên đi lạc, người chăn chiên không quản công khó nhọc đi tìm kiếm khắp nơi suốt ngày, tìm mãi cho đến khi gặp lại mới thôi.  Liên hệ giữa người và vật là liên hệ yêu thương gắn bó. "Ta biết con chiên Ta và con chiên Ta biết Ta" (Yn 10:14).  Người chăn chiên biết rõ đặc tính từng con một và chiên cũng dễ dàng nhận ra tiếng chủ chăn của mình.  Ngày nay, cuộc sống đã đổi thay, người chủ chăn có bao nhiêu việc phải lo liệu, tính toán, bao nhiêu thứ ưu tiên hàng đầu, ngổn ngang trăm mối... Con chiên lạc không còn là đối tượng đáng để ý quan tâm.  Liên hệ giữa người với người là liên hệ khế ước, hợp đồng, liên hệ kinh tế, tài chánh, liên hệ bổn phận và quyền lợi, nói khác đi, liên hệ theo lối tiền trao cháo múc!  Con chiên thường không còn nhận ra tiếng người chăn, và chủ chăn cũng không biết con chiên mình, trừ những con chiên béo mập, ngoan ngoãn, vâng lời, biết làm bùa làm phép...

***********

Vậy,  “Lạy Chúa Yê-su, xin hãy đến, hãy tìm kiếm tôi tớ Chúa, tìm kiếm chiên lạc của Chúa.

          Hỡi Mục Tử, xin tìm kiếm, như Yu-se đã tìm kiếm những con chiên của ông...

          Chiên của Chúa còn lạc đường, bao lâu Chúa còn trì hoãn, còn dừng chân lại trên núi non.  Xin Chúa hãy để lại 99 con chiên và lên đường tìm một con đang lạc lối.

          Xin hãy đến và đừng mang theo chó.  Hãy đến và đừng đem theo những người làm thuê thô lỗ.  Hãy đến, và đừng dẫn theo người chăn thuê không biết đi qua cửa chính.  Hãy đến, không mang theo người trợ giúp, không người trung gian, vì từ lâu con vẫn đang chờ đợi Chúa đến.

          Con biết rằng Chúa sắp đến, nếu thực là con đã không quên giới lệnh của Ngài.  Hãy đến mà đừng mang gậy gộc, trái lại, với tình yêu thương và thái độ từ nhân khoan thứ."

(Lời kinh của thánh Ambrôsiô, trích Chứng Nhân Hy Vọng, FX. Nguyễn Văn Thuận, Regina 2000, tr. 50).

          Xin Chúa Thánh Thần xuống, không phải chỉ bây giờ và sau này, nhưng mãi mãi và luôn luôn, để canh tân Giáo Hội Chúa từng ngày, từng giờ, từng mỗi phút giây.

          Xin Chúa Thánh Thần xuống để thêm sức mạnh cho các mục tử của Chúa sống trung thành với lời khấn hứa khó nghèo, thanh sạch, và thấu hiểu "điều răn mới" để đàn chiên luôn nhìn thấy hình ảnh của Chúa yêu thương nơi vị chủ chăn của mình.

          Xin Chúa Thánh Thần xuống để hoán cải và đổi mới mỗi người chúng con, để chúng con luôn xứng đáng với tình yêu của Chúa Yê-su Cứu Thế.

          Chúa ơi, xin hãy đến!  Bao nhiêu con chiên đang mong chờ Ngài!

Nguyễn Bửu Đồng

-------------------------------------

 

PS 4-C82: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA


(Gioan 10,27-30 – CN IV PS  - C)

1.- Ngữ cảnh

 

Trong phân đoạn thứ ba (từ ch. 5) của phần Phần i của TM Ga (“Sách các Dấu lạ” [ch. 2–15]): PS 4-C82


Trong phân đoạn thứ ba (từ ch. 5) của phần Phần i của TM Ga (“Sách các Dấu lạ” [ch. 2–15]), tác giả tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu (các công việc, các dấu lạ và các cuộc tranh luận của Người) trong khung cảnh các đại lễ của Do Thái giáo: ngày sa-bát, lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, lễ Lều. Với chương 10, chúng ta đến đại lễ cuối cùng là lễ Cung Hiến. Trong ch. 10 này, có hai câu hỏi căn bản được nêu lên: Đức Giêsu có phải là Đấng Mêsia chăng (c. 24)? Người có tự cho mình là Thiên Chúa không (c. 33)? Mỗi câu hỏi nhận được một câu trả lời dài gần như nhau (cc. 25-30; cc. 34-38) và đều kết thúc bằng đề tài khẳng định Đức Giêsu với Thiên Chúa (Cha của Người) là một (c. 30; c. 38).    

Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay thuộc về câu trả lời thứ nhất. 

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Đoàn chiên và Đức Giêsu (10,27-28);
2) Đoàn chiên và Chúa Cha (10,29);
3) Đức Giêsu và Chúa Cha là một (10,30).

3.- Vài điểm chú giải

- chiên của tôi (27): Đức Giêsu có thể nói là các chiên thuộc về Người bởi vì Chúa Cha đã ban các con người cho Người (x. Ga 6,37.44.65; 17,6-7).

- Tôi và Chúa Cha là một (30): Bản văn này đã gây ra nhiều tranh cãi. Đức Giêsu không nói: Tôi và Chúa Cha là “một người” (heis, ở nam tính) duy nhất, nhưng là “một điều/sự” (hen, ở trung tính) duy nhất. Người muốn nói rằng Người và Chúa Cha cùng một bản tính; chính vì thế tay Người (c. 28) cũng mạnh mẽ như tay Chúa Cha (c. 29). Các nhà thần học không thuộc phái Ariô[1][1] đã coi c. 30 này là công thức Kinh Thánh nói về bản tính như nhau và ngôi vị khác nhau giữa Chúa Cha và Chúa Con.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đoàn chiên và Đức Giêsu (27-28)

Điểm nhắc đến đoàn chiên ở cc. 26-27 gợi lại cc. 1-21 và như thế đóng khung hai phần của ch. 10. Bằng cách quy chiếu về dụ ngôn Người mục tử tốt lành (10,1-18), Đức Giêsu mô tả tương quan giữa Người và những kẻ thuộc về Người. Nhưng cũng như ở cc. 7-10 và 11-16, cc. 27-28 không lưu ý nhiều đến đoàn chiên mà lưu ý đến người mục tử. Người Do Thái không nghe tiếng Người mục tử và không đi theo bởi vì họ không phải là chiên của đoàn. Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói rằng nếu họ không đi theo Đức Giêsu, thì không phải là bởi vì Người không phải là mục tử, nhưng bởi vì họ không phải là chiên. Muốn nghe được tiếng Đức Giêsu, người ta phải thuộc về Thiên Chúa (x. 8,47), phải “đứng về phía sự thật” (18,37).

Câu 28 gợi đến ý tưởng của c. 12 là có những con sói đến để tàn sát đoàn chiên. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Vị Mục tử kiểu mẫu sẽ bảo vệ đoàn chiên mà Chúa Cha đã ban cho Người.

* Đoàn chiên và Chúa Cha (29)
Tiếp đó, Đức Giêsu nhắc lại quyền tối tượng của Chúa Cha trên loài người. Câu 29 này gợi ý đến các tư tưởng của Cựu Ước nói rằng các linh hồn ở trong tay Thiên Chúa (Kn 3,1) và không ai có thể giựt họ khỏi tay Thiên Chúa (Is 43,13). Câu 28 và 29 nói về Đức Giêsu và về Chúa Cha theo cùng một cách: không một ai có thể cướp được các chiên khỏi tay hai Đấng. Điều này đưa chúng ta tới chỗ hiểu được c. 30.    

* Đức Giêsu và Chúa Cha là một (30)
          Sự duy nhất giữa Đức Giêsu và Chúa Cha là một sự duy nhất về quyền lực và công việc. Chúng ta có ở đây như một tổng hợp của tác giả Gioan về quan hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con: Con phát xuất từ Cha (8,42); tuy nhiên, Cha là Đấng sai phái Con, luôn ở với Con (8,29). Cha yêu thương Con (3,35); Con biết Cha thật thâm sâu (8,55; 10,15). Trong sứ mạng trên trần gian, Con chỉ có thể làm những gì đã thấy Cha làm (5,19), chỉ có thể xét xử và phán quyết như đã nghe từ Cha (5,30). Con được Cha dạy dỗ (8,28) và đã nhận được từ Cha mọi quyền xét xử (5,22) và có sự sống và ban sự sống (cc. 21.26; 6,57). Con làm theo ý của Cha (4,34; 6,38) và đã nhận được một lệnh truyền từ Cha liên hệ đến cái chết và sự sống lại của Người (10,18).

          Nhưng chúng ta lưu ý là các quan hệ này giữa Chúa Cha và Chúa Con được mô tả theo hướng các tương giao của Chúa Con với loài người. Bởi vì như Chúa Cha và Chúa Con là một, hai Đấng nối kết loài người với nhau thành một (x. 17,11). Chính sự duy nhất này, đã được thông ban cho các tín hữu, khiến không một ai có thể cướp các tín hữu khỏi Chúa Cha hay Chúa Con.       

+ Kết luận

          Đức Giêsu quả là Đấng Mêsia, nhưng không phải là một Mêsia trần thế, đầy vẻ huy hoàng và quyền lực, nhưng Người là Vị Mục tử đến ban một sự hiệp thông riêng tư bền vững với Người. Nhưng sự hiệp thông của Người với các môn đệ phát xuất từ Chúa Cha và ở dưới sự che chở của Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã ký thác các môn đệ cho Đức Giêsu; họ được an toàn trong tay Chúa Cha. Không một ai mạnh mẽ hơn Thiên Chúa Cha. Đức Giêsu, Mục tử tốt lành, được nâng đỡ bởi tình yêu của Chúa Cha. Sự hợp nhất của Người với các môn đệ Người được bảo vệ bởi bàn tay mạnh mẽ của chính Người và bàn tay mạnh mẽ của Chúa Cha. Đức Giêsu và Chúa Cha là một trong các ý hướng và trong hành động.   

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đức Giêsu là Mục tử tốt lành. Nhưng chính do điểm này, chúng ta hiểu là Người sẽ không làm gì cho các chiên theo cách ép buộc hoặc ngược ý muốn của họ. Đức Giêsu luôn trợ giúp hữu hiệu, nhưng người ta chỉ nhận được sự trợ giúp đó nếu mở lòng ra với Người. Người cũng có thể đi tìm kẻ khép lại với Người, để đưa kẻ ấy về với Người; đó là cách Người cư xử với các kẻ thù. Nhưng để có một sự hợp nhất đích thực, hai bên phải hướng về nhau, nhìn nhận nhau và trân trọng nhau. Chúng ta đi vào hiệp thông với Vị mục tử tốt lành nếu chúng ta nghe tiếng Người và đi theo Người, nếu chúng ta tin tưởng vào sự hướng dẫn của Người và tin rằng Người chỉ cho chúng ta con đường ngay thẳng và ban cho chúng ta sự sống viên mãn.    

2. Đức Giêsu khẳng định rằng không ai có thể hứa cho kẻ khác điều Người hứa, dù có thương yêu kẻ ấy đến đâu: sự sống đời đời, sự bảo vệ khỏi mọi sự dữ, sự hiệp thông bền vững muôn đời. Chúng ta chỉ có thể bảo vệ kẻ khác nếu người này còn sống; đối với Đức Giêsu thì ngược lại, Người không bị giới hạn bởi cái chết. Mục tiêu và đỉnh cao của cuộc đời Đức Giêsu, Mục tử tốt lành, là ban cho chúng ta sự sống đời đời. Nếu Người che chở chúng ta, chúng ta không thể nào bị diệt vong; sự che chở của Người bảo đảm hơn mọi quyền lực trần gian. “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,39).     

3. Hôm nay là ngày cầu xin ơn thiên triệu, xin Thiên Chúa ban cho có những mục tử  mới. Chắc chắn chúng ta nài xin Thiên Chúa ban cho có thêm các mục tử tốt lành “như lòng Chúa mong ước” (Gr 3,15), theo gương Đức Giêsu, Vị Mục tử tốt lành. Nhưng cũng cần phải cầu nguyện cho các mục tử đang làm việc trên khắp cánh đồng của Thiên Chúa cũng biết khép mình vào kiểu sống của Đức Giêsu; đồng thời cũng xin Người ban cho có các con chiên biết nghe và đi theo tiếng của Vị Mục tử tốt lành, mà các mục tử đang truyền đạt. Mục tử cần nhớ rằng đoàn chiên được Chúa Cha ký thác cho mình để đưa họ đến sự sống đời đời; con chiên cần nhớ rằng mục tử được gửi đến để làm việc theo chương trình của Chúa Cha.

4. Mục tử cũng như con chiên đều cần suy ngẫm về quan hệ giữa Đức Giêsu và Chúa Cha. Khi đó mục tử và con chiên sẽ hiểu rằng có một thứ độc lập trong nếp sống và trong lối suy tư đưa tới diệt vong, và cũng có một mối quan hệ lệ thuộc, một sự hợp nhất, đưa tới sự phong phú và sự sống dồi dào. 

LM PX Vũ Phan Long, ofm

-------------------------------------

 

PS 4-C83: ĐÂU LÀ MỤC TỬ ĐÍCH THẬT ?


CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH C

Cv 13,14.43-52 ; Kh 7,9.14b-17 ; Ga 10,27-30

HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 10,27-30

(27) “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. (28) Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. (29) “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. (30) Tôi với Chúa Cha là một !”.

2. Ý CHÍNH:

 

Tin mừng của Gio-an hôm nay ghi lại những lời tâm sự của Chúa Giê-su với các môn đệ. Người: PS 4-C83


Tin mừng của Gio-an hôm nay ghi lại những lời tâm sự của Chúa Giê-su với các môn đệ. Người đã tự ví mình là Mục Tử nhân lành, được Chúa Cha sai đến để thay quyền Cha mà chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ đoàn chiên đã được trao cho Người. Người và Chúa Cha là Một.

3. CHÚ THÍCH:

- C 27-28:

+ Con chiên và Mục Tử: Trong Thánh kinh, hình ảnh con chiên mang một ý nghĩa tốt đẹp: Đức Chúa đã trao đàn chiên Ít-ra-en cho một số mục tử chăn dắt (Tv 100,3) như: Mô-sê, A-ha-ron (x. Tv 77,21), Giô-suê (x. Ds 27,18-21), Đa-vít (x.Tv 78,70-72)... Đến thời Tân ước, Chúa Giê-su đã tự xưng mình là Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11) và duy nhất của Thiên Chúa (x.Ga 10,16). Người lại trao quyền mục tử ấy cho các Tông đồ, giám mục, linh mục... để các vị này thay Người tiếp tục chăn dắt dân Ít-ra-en Mới là Hội thánh.

+ Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi: Vào mỗi buổi tối, các mục tử thường đưa chiên về một cái chuồng lớn để nhốt chung với các bầy chiên khác. Sáng đến, mục tử đứng ở cửa chuồng gọi chiên của mình ra. Chiên sẽ nhận ra tiếng của mục tử và đi theo ông ra đồng ăn cỏ. Các mục tử thực sự là chủ của đoàn chiên thì sẽ thể hiện sứ tốt lành bằng việc quan tâm chăm sóc cho chiên của mình, biết rõ tính nết của mỗi con để săn sóc và bảo vệ chúng cách hữu hiệu.
Ba thái độ mà các tín hữu cần phải thực hành để trở thành chiên ngoan của Mục Tử giê-su là Nghe, Biết và Theo Người như sau:

* NGHE: Lắng nghe là khởi đầu của đức tin như Chúa Cha đã nhắn nhủ các môn đệ của Đức Giê-su: “Các ngươi hãy vâng nghe Lời Người” (Mt 17,5) và thánh Phao-lô đã khẳng định: “Đức tin là bởi nghe” (Rm 10,17).

* BIẾT: Biết ở đây không phải là biết về tri thức, nhưng là về đời sống. Biết điều gì tức là có kinh nghiệm cụ thể về điều ấy. Biết một người nào là có liên hệ thân tình với người đó, như liên hệ giữa hai vợ chồng (x. Lc 1,34). Cũng vậy, Đức Giêsu biết rõ từng con chiên của Người.

* THEO: Chiên của Đức Giê-su có nhiệm vụ phải đáp trả lời mời gọi của Người bằng việc dứt khóat đi theo, quyết tâm vâng nghe lời dạy và sống theo gương lành của Người.

+ Tôi ban cho chúng sự sống đời đời: Đức Giê-su dẫn các tín hữu đi từ việc được nuôi sống (x. Ga 10,9) đến chỗ được sống dồi dào (x. Ga 10,10) và sống muôn đời (x. Ga 10,28).

+ Không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi: Là mục tử có trách nhiệm và đầy quyền năng, không bao giờ Đức Giê-su để chiên của Người bị giết hại hay bị cướp đoạt. Chỉ có chiên tự bỏ đàn để đi hoang. Còn Chúa thì không bao giờ bỏ mặc đòan chiên của Ngừơi. Người chính là Mục Tử tốt lành, sẵn sàng đi tìm các chiên lạc để đưa về đoàn tụ trong một đoàn chiên duy nhất (x. Lc 15,4-7).

- C 29-30:

+ Tôi với Chúa Cha là một!: Lời tuyên bố này nói đến sự hiệp thông thân mật giữa Chúa Cha và Chúa Con. Công đồng Ni-xê-a năm 325 đã dựa trên lời này để tuyên tín: “Chúa Cha và Chúa con đồng một bản tính Thiên Chúa, nhưng là hai Ngôi vị khác nhau”, để chống lại lạc thuyết A-ri-ô (thế kỷ thứ IV) không công nhận Thần Tính của Chúa Giê-su. Chính nhờ mang bản tính Thiên Chúa mà Chúa Giê-su đã hứa ban cho các tín hữu được sự sống đời đời. Người cũng nhiều lần tự xưng: “Ta là..”.giống như Đức Chúa khi xưa. Sau cùng Người đã bị tử hình thập giá và ngày thứ ba đã từ cõi chết sống lại để phục hồi sự sống cho lòai người chúng ta.

4. CÂU HỎI:
1) Hãy kể tên một số vị Mục tử thời Cựu ước đã được Thiên Chúa trao quyền mục tử để thay Người chăn dắt đòan chiên là dân Ít-ra-en.
2) Ba thái độ mà các con chiên ngoan của Mục tử Giê-su phải có là gì ?
3) Chúa Giê-su hứa ban những quyền lợi gì cho các con chiên của Người ?
4) Công đồng Ni-xê-a đã dựa vào đâu để tuyên bố tín điều về Thần Tính của Chúa Giê-su chống lại lạc thuyết A-ri-ô ?

SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Tôi chính là Mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14).

2. CÂU CHUYỆN: “GIAI ĐIỆU HẠNH PHÚC”

Trong một cuốn phim tựa đề là “Giai điệu hạnh phúc” (La mélodie du bonheur), cô ma-ry là một người đang đi tìm hiểu ơn gọi tại một tu viện nữ. Một hôm bà bề trên sai cô đi làm gia sư trong một gia đình quí tộc. Ông đại uý chủ nhà là người giàu có, góa vợ và luôn tỏ ra nghiêm khắc trong cách giáo dục con cái. Ông muốn chúng có tinh thần kỷ luật giống như một người lính trong quân đội. Khi mới đến nhận việc, cô Ma-ry đã bị bọn trẻ cố tình trêu chọc. Nhưng nhờ tình thương của một thầy giáo, kèm theo sự hiểu biết tâm lý và cách ứng xử mềm dẻo nhưng cương quyết, cùng những bài hát vui tươi và vũ điệu lôi cuốn của cô... Cuối cùng cô đã hòan tòan chinh phục được tình cảm của lũ trẻ, biến chúng trở nên những trẻ em ngoan ngoãn dễ dạy. Chúng luôn vâng lời cô giáo, không cần cô phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc theo kiểu cha của chúng. Cuối cùng cô còn chinh phục được tình cảm của chính ông đại uý chủ nhà. Câu chuyện kết thúc bằng việc cả gia đình ông đại úy đã khôn ngoan thoát khỏi sự ruồng bắt của chính quyền phát xít Đức lúc đó. Họ cùng nhau vượt qua biên giới an toàn để bước vào một cuộc sống mới đầy yêu thương và hạnh phúc.

3. SUY NIỆM:

1) ĐÂU LÀ MỤC TỬ THỰC SỰ ?

Mục tử thực sự là người chủ chiên, có tình yêu thương đòan chiên noi gương Chúa Giê-su Vị Mục Tử Tối Cao, thể hiện qua các hành động cụ thể như sau: 

-Hiểu biết và cảm thông: Đức Giê-su đã nói về tình thương của Người dành cho đàn chiên như sau: “Tôi biết chúng” (Ga 10,27), “gọi tên từng con” (10,3). Ngày nay các mục tử cũng chỉ có thể chứng tỏ tình yêu đối với đòan chiên qua việc đi thăm các gia đình trong giáo xứ, biết rõ hoàn cảnh và nhu cầu của từng người, từng gia đình. Người tín hữu sẽ cảm nhận được tình thương của vị mục tử khi thấy ngài hiểu rõ gia cảnh của mình, và ra tay giúp đỡ. 

-Sẵn sàng đáp ứng nhu cầu: Đức Gie-su phán: “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (10,10), “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (10,28). Các mục tử hôm nay cũng phải quan tâm đến hòan cảnh sống và sự an nguy của đàn chiên cả về đức tin lẫn công việc làm ăn, noi gương Đức Giê-su đã nói với các môn đệ rằng: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5), hay Người đã dặn người nhà: “Bảo họ cho con bé ăn” (Mc 5,43). 

-Hiến thân phục vụ: Đức Giê-su phán: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11); “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đối với mục tử, các tín hữu là những linh hồn quí giá, xứng đáng cho vị mục tử hy sinh mạng sống vì họ. Thái độ này khác xa thái độ của người làm thuê, hay mục tử giả hiệu: “Khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy (…) không thiết gì đến chiên” (Ga 10,12-13). 

2) ĐÂU LÀ MỤC TỬ GIẢ HIỆU ? 

- Thánh Kinh không những nói đến những mục tử tốt lành, mà còn đề cập đến những mục tử giả hiệu, mà sau này Đức Giê-su đã gọi họ là bọn chăn thuê. Họ là những người chỉ biết nghĩ đến bản thân, nghĩ đến sự an nguy, quyền lợi hay hạnh phúc của riêng mình, chỉ biết bòn rút lợi lộc từ đàn chiên, mà không quan tâm đến quyền lợi và hạnh phúc của đàn chiên được trao cho mình chăm sóc:

- Ngôn sứ GIÊ-RÊ-MI-A viết: “Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta thất lạc và tan tác (…) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng” (Gr 23,1-2).

- Ngôn sứ Ê-DÊ-KI-EN thỉ viết: “Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! (…) Sữa chiên thì các ngươi uống, len của chúng thì các ngươi mặc, con nào béo tốt thì các ngươi giết, và chẳng thèm lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương các ngươi không băng bó; chiên bị lạc các ngươi không đưa về; chiên bị mất các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, khiến chúng bị tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,2-6).

- Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ Ê-DÊ-KI-EN để nguyền rủa loại mục tử bất xứng này như sau: “Bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta, nên hỡi các mục tử! Đây Ta chống lại các ngươi. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để các ngươi chăn dắt chiên Ta nữa (…) để chiên của Ta sẽ không còn làm mồi cho chúng nữa” (Ed 34,8b-10). 

3) SỨ VỤ CỦA CÁC MỤC TỬ HÔM NAY:

- Mục tử là người được Chúa Giê-su chọn để cho thông phần vào sứ vụ mục tử của Người: Chúa Giê-su phán: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại…” (Ga. 15,16). Mục tử chỉ có thể làm tốt nhiệm vụ nuôi dưỡng chăn dắt đòan chiên nếu biết cộng tác với Mục Tử Giêsu bằng sự chuyên cần cầu nguyện: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Cần phải có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết, để được thanh luyện tội lỗi và được trao quyền chăn dắt đòan chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17).

- Hai là phải được chính Chúa Giê-su trao sứ vụ chăm sóc nuôi dưỡng đòan chiên: Như Đức Giê-su đã được Thiên Chúa xức dầu thiêng liêng tại sống Gio-đan để tấn phong làm Đấng Mê-si-a thi hành ba sứ vụ là ngôn sứ, tư tế và vương đế,  thì các mục tử hôm nay cũng nhận được tác vụ qua việc xức dầu và đặt tay của Giám Mục trong bí tích truyền chức thánh, cũng có bổn phận chu tòan sứ vụ chăn dắt nuôi dưỡng thánh hóa đoàn chiên Chúa trao bằng ba của ăn là Lời Chúa, Thánh Thể và Thánh Ý Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su dạy: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4); "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời" (Ga 6,51); "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga 4,34).

- Ba là nhận được Thần Khí để chu tòan sứ vụ được sai đi: Tin mừng Gio-an thuật lại việc Chúa Phục Sinh trao ban Thần Khí và sứ vụ như sau: “Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,21-23). Chúa Giê-su cũng trao sứ vụ cho các Tông đồ trước khi lên trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chua Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20); “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

4) CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?:

Chúa Nhật Chúa Chiên Lành nhắc nhở các tín hữu chúng ta ý thức con đường đức tin và Mục Tử dẫn đường là Đức Giê-su. Hôm nay Đức Giê-su vẫn “ở với Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20b)  qua các mục tử được Chúa kêu gọi, huấn luyện và  và trao sứ vụ chăm sóc đòan chiên.

Hôm nay là dịp để các tín hữu ý thức cầu nguyện cho các mục tử của mình, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ và quảng đại cộng tác với các mục tử cả về tinh thần lẫn vật chất. Đồng thời hôm nay cũng là dịp để các mục tử ý thức về ơn gọi và sứ vụ của mình để duyệt xét lại về ý ngay lành và về cung cách phục vụ khiêm tốn, về cách ứng xử bác ái đối với đòan chiên được Chúa trao cho mình chăm sóc.

Chúng ta cùng nhau cầu xin cho ơn gọi ngày càng phát triển, cho các thanh thiếu niên biết quảng đại đáp lại tiếng Chúa kêu gọi, và xin cho các mục tử đang phục vụ đòan chiên được ơn trung thành với sứ vụ mục tử đã lãnh nhận.

Ngày nay, Hội thánh rất cần có thêm nhiều mục tử nhân lành noi gương Mục Tử Giê-su. Đó là những vị mục tử có lòng yêu mến Chúa thực sự, luôn nêu gương sáng khiêm nhường bác ái và phục vụ tha nhân cách vô vụ lợi, nhất là phục vụ những người nghèo hèn, bệnh tật và bị bỏ rơi.

Hội thánh cũng cần những tu sĩ biết kết hợp giữa hai bổn phận chiêm niệm và họat động, cần những bàn tay nhân ái của các nữ tu để xoa dịu các vết thương thể xác cũng như tinh thần, và nhất là cần những trái tim yêu Chúa hết mình, dám hy sinh mọi sự để phục vụ, đặc biệt người đau khổ tội lỗi hoặc mang tâm trạng chán chường thất vọng. Hiện nay cả nước chúng ta mới có được khỏang2000 linh mục và 7000 tu sĩ nam nữ, một con số nhỏ bé so với nhu cầu của 82 triệu dân.

4. THẢO LUẬN:

1) Thế nào là ơn kêu gọi ? Bạn sẽ đáp trả thế nào khi dược Chúa kêu gọi dâng mình phục vụ Chúa trong bậc sống tu trì ?

2) Những ai đang sống bậc hôn nhân có thể đáp lại ơn gọi của Chúa thế nào ?

5. NGUYỆN CẦU

- LẠY CHA LÀ CHỦ RUỘNG. Đồng lúa đã tới lúc chín vàng cần được gặt hái. Xin Cha sai thêm những thợ gặt lành nghề đến thu họach đồng lúa của Cha. Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay những ước mơ và hoài bão lớn lao cùng những lý tưởng cao cả. Xin cho họ biết yêu thương tha nhân bằng một con tim rộng mở của Chúa Giê-su. Ước gì họ nghe được tiếng kêu của những người đang bị áp bức, cảm nghiệm được cơn đói Lời Chúa và khát tình thương của những kẻ bất hạnh, thấy được những nỗi khó khăn của biết bao người đang bị đau khổ tinh thần và đói cơm bánh vật chất.. để sẵn sàng phục vụ họ với hết khả năng của mình.

- LẠY CHA. Ngay từ hôm nay, xin cho mỗi chúng con biết đáp lại lời mời gọi của Cha, bằng cách chuẩn bị sẵn hành trang là những kiến thức vững chắc về giáo lý và Lời Chúa, là sự nhiệt tình chia sẻ Tin mừng cho tha nhân. Nhờ đó chúng con có thể chu tòan sứ vụ Cha trao phó, và tích cực góp phần làm cho Nước Cha mau trị đến.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau.com

-------------------------------------

 

PS 4-C84: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH


( CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH. NGÀY CẦU NGUYỆN CHO ƠN THIÊN TRIỆU )

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ga 10, 27-30

 

Xưa ở nước Do Thái, người ta vẫn thấy người chăn chiên dẫn đàn chiên của mình đi ăn cỏ và uống: PS 4-C84


Xưa ở nước Do Thái, người ta vẫn thấy người chăn chiên dẫn đàn chiên của mình đi ăn cỏ và uống nước nơi những đồi cỏ xanh rì, nơi những suối nước trong lành.Hình ảnh ấy ở Việt Nam ít có, nhưng ở Paléttina, hình ảnh ấy là hình ảnh rất thân quen. Người chăn và đàn chiên có một sự gắn bó mật thiết.Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh này để ví mình là người chăn chiên, Người là Mục tử nhân lành biết từng con chiên và chiên cũng biết Người.

Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng Mục tử tốt lành thì khác với người chăn thuê. Bởi vì:” Chiên tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Mục tử nhân lành hy sinh vì đàn chiên khi chúng bị sói tấn công. Còn kẻ chăn thuê sẽ bỏ chạy khi có thú dữ tấn công đàn chiên, làm cho đàn chiên bị tan tác. Giáo Hội là đàn chiên. Chúa là Mục tử. Giữa Chúa Giêsu và đàn chiên nghĩa là Giáo Hội luôn có sự gắn bó thẳm sâu vì giữa chủ và chiên có sự hiểu biết nhau sâu xa như Chúa Cha biết Chúa Con và ngược lại. Đây là sự hiểu biết hai chiều. Chủ và chiên nhận ra nhau dễ dàng vì quen tiếng của nhau. Giữa chủ và chiên có sự tôn trọng sâu xa. Chủ chiên đến cho chiên sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ). Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành. Do đó, sau khi Chúa chết và phục sinh, Ngài đã trao quyền lãnh đạo Hội Thánh và chăn dắt đàn chiên cho Phêrô. Đây là sứ mạng cao cả. Chúa trao phó cho Phêrô và các Tông đồ thay mặt Chúa chăn dắt và chăm sóc đàn chiên của Ngài. Sứ mạng của thánh Phêrô và các Tông đồ phát xuất từ tình yêu. Chúa là Tình Yêu. Nên, sứ mạng của thánh Phêrô và các Tông đồ phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa. Thánh Phêrô và các Tông đồ yêu mến Chúa, nên cũng yêu mến đàn chiên là Giáo Hội, Chúa đã tin tưởng trao phó cho các Ngài.

Chúa là Mục tử tối cao, Mục tử gương mẫu như tác giả Thánh Vịnh hát lên:”Đức Chúa là Mục tử của tôi, tôi không hề thiếu chi…Dù phải đi qua thung lũng tối đen, tôi cũng không hề lo sợ “ ( Tv 23, 1-4 ). Chúa Giêsu là vị Mục tử mà ngôn sứ Ézékiel tiên báo. Giống như Đavít, người Mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con chiên yếu đuối, lạc lõng, bơ vơ, chữa lành những con bị bệnh hoạn, tật nguyền, yếu đau và đi tìm những con chiên lạc. Chúa Giêsu còn hơn thế đó nhiều, Ngài gánh tội cho trần gian, hiến thân chịu chết trên Thập giá để cứu độ nhân loại. Ngài sống lại khải hoàn và chia xẻ đời mới với đàn chiên của Ngài.

Thánh Phêrô đã minh chứng điều này trong bài Sách Công vụ tông đồ rằng chính nhờ quyền năng của Đức Kitô phục sinh mà người tàn tật được chữa lành. Thánh nhân kêu gọi mọi người hãy tin vào Chúa phục sinh để được chữa lành phần hồn cũng như người tàn tật được Chúa chữa lành về thể xác. Đây cũng là điều, thánh Gioan đã nói:” Nhờ Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha đã làm cho chúng ta trở nên con cái riêng của Người “.

Vâng, đáp trả lại tình thương vô biên của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy cảm tạ tri ân Chúa bởi vì nhờ cái chết và sự sống lại của Người, chúng ta được Chúa phục sinh ban sự sống vĩnh cửu. Sự sống mà chỉ có Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô mới có thể trao ban cho chúng ta được.

Chúa Giêsu Phục sinh vẫn luôn ở trong ta, hoạt động trong mỗi người chúng ta để để tiếp tục cứu rỗi chúng ta. Thánh Gioan đã viết: “ Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con cái Chúa, nhưng vẫn chưa biết rõ chúng ta sẽ trở nên thế nào, tuy nhiên chúng ta biết rằng khi Đức Kitô hiện ra, chúng ta sẽ nên giống như Ngài, bởi vì Ngài thế nào chúng ta cũng nhìn thấy Ngài như vậy “.

Chúa Giêsu Phục sinh vẫn luôn cư ngụ giữa chúng ta và tiếp tục thông ban sự sống phục sinh của Ngài cho chúng ta.

Hôm nay, Giáo Hội dành riêng ngày lễ Chúa chiên lành để cầu nguyện cho ơn gọi tu sĩ nam nữ và linh mục. Chúng ta cầu xin cho có nhiều tâm hồn nam nữ quảng đại dấn thân cho Chúa trong Hội Thánh, nơi các Dòng tu, các Tu hội vì “ Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt “.

Lạy Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành xin ban thêm đức tin cho chúng con để càng ngày chúng con càng yêu mến và tôn thờ Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1.Tại sao Chúa Giêsu lại ví mình là Mục tử tốt lành ?
2.Ở Việt Nam, các bạn có thấy hình ảnh người chăn cừu không ?
3.Mục tử tốt lành là Mục tử thế nào ?
4.Tại sao lại phải cầu nguyện cho có nhiều ơn gọi ?

-------------------------------------

 

PS 4-C85: CHÚA NHẬT CHÚA CHĂN CHIÊN LÀNH


CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH, năm C

Ga 10, 27-30

 

Chúa Giêsu sinh trưởng nơi đất nước Do thái, Ngài chịu ảnh hưởng văn hóa, quan niệm tôn giáo: PS 4-C85


   Chúa Giêsu sinh trưởng nơi đất nước Do thái, Ngài chịu ảnh hưởng văn hóa, quan niệm tôn giáo Do thái, nên Ngài đã dùng ngôn ngữ, hình ảnh, tập tục và cả những truyền thống, những khái niệm về tôn giáo của người Do thái để giới thiệu với nhân loại, với mọi người

Người chủ chăn đích thực và loan báo sứ điệp cứu độ loài người. Người chủ chăn đích thực Đức Kitô đề cập là ai và sứ điệp cứu độ đó như thế nào ?

  “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi “ ( Ga, 27 ) và “ Ta chính là chủ chiên tốt lành “ ( Ga, 11 ). Bài Tin Mừng chúng ta đọc trong thánh lễ sáng nay của thánh Gioan chương 10, 27-30 nói lên ý nghĩa sâu xa và quan trọng nhất của toàn bộ chương 10: Chúa Giêsu mạc khải cho người Do thái Ngài là hiện thân của Thiên Chúa Cha, Ngài đến để chăn dắt đàn chiên mình và mọi người phải qua Ngài mới tới được với Cha của Ngài. Ngài chính là chủ chăn tốt lành và đích thực, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình vì đàn chiên. Ngài không chỉ hy sinh cho người Do thái mà còn hiến mạng sống mình cho mọi người, cho toàn thể nhân loại ( Ga, 14-16 ). Chiên của Chúa thì biết Chúa, nghe Chúa và theo Chúa. Biết Chúa là kết hiệp cả thân xác và tâm hồn với Ngài. Nghe Chúa là có một mối thâm giao với Chúa và tin vào Chúa. Theo Chúa là một thái độ hoàn toàn tự do và tự nguyện dấn thân. Đức Kitô đã nói:” Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi “ ( Ga 10, 28 ). Sứ điệp cứu rỗi này  được thánh Gioan ghi chép, thánh Matthêu, Luca và Marcô cũng đã ghi chép và khẳng định nhiều lần.

   Hình ảnh người chăn chiên dẫn đàn chiên đi ăn trên các đồi cỏ, hoặc các cánh đồng cỏ xanh, tới các dòng suối mát trong lành rất bình thường trong xã hội Do thái. Bởi vì,người Do thái thích chăn chiên, chăn cừu, nhiều chủ trại đã sống về nghề chăn chiên. Tại Việt Nam, tôi vẫn còn nhớ hình ảnh của một số người chăn cừu, chăn chiên ở Phan Rang. Họ dẫn từng bầy cừu, bầy chiên đi kiếm cỏ xanh và tìm các dòng suối cho đàn chiên, đàn cừu uống nước.Hình ảnh ấy làm tôi liên tưởng tới một bức tranh vẽ Chúa Giêsu đang vác con chiên trên vai và theo Ngài là cả một bầy chiên đông vô kể. Hình ảnh này nói lên tình thương của Chúa Giêsu đối với mọi người. Ngài thương hết mọi người. Mỗi người đều có một chỗ đứng trong trái tim của Ngài. Ngài không gọi ai cách không không. Tất cả đều được Ngài gọi tên một cách rất trìu mến. Bí Tích Thánh Thể Ngài để lại cho nhân loại là bằng chứng rõ ràng nhất nói lên tình thương vô bờ của Ngài. Khi chịu đóng đinh trên thập giá, Chúa Giêsu hoàn thành Giao ước cũ đã ký trên núi Sinai ( Xh 24, 4-8 ) và Ngài cũng thiết lập Giao ước mà các ngôn sứ đã tiên báo nay ứng nghiệm nơi chính Ngài ( Is 42, 6; 49; 6, 53,12… ).

   Chúa là chủ chăn tốt lành luôn biết rất rõ tên từng con trong đàn chiên của mình. Ngài biết và hiểu rõ nhu cầu của từng con chiên. Chúa yêu mến từng con chiên, không bao giờ để chiên bị thất vọng. Và Ngài luôn đáp ứng những ước vọng của con người là sống và sống dồi dào. Đây là sứ điệp cứu độ mà Chúa Giêsu đã bầy tỏ:” Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian quá đỗi, nên mới ban Con Một của mình, để ai tin vào Người sẽ khỏi hư đi, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa không sai Con mình đến để lên án thế gian, nhưng là để thế gian được Người cứu độ “ ( Ga 3, 16-17 ).

Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và tu sĩ. Trên thế giới còn thiếu nhiều mục tử để chăn dắt đàn chiên, nghĩa là các giáo sở, giáo xứ và ơn gọi tu sĩ nam nữ vẫn luôn cần thiết để góp phần xây dựng Giáo Hội của Chúa.Chúng ta  cầu nguyện để cho có nhiều bạn trẻ nam và nữ quảng đại dấn thân đi theo Chúa để trở nên những mục tử, những tu sĩ như lòng Chúa mong ước. Ơn gọi Linh mục và ơn gọi tu sĩ luôn cần thiết trong mọi thời đại bởi vì có bao nhiêu chăng nữa, thế giới luôn luôn không đủ các Linh mục để lo lắng cho đàn chiên trong các giáo điểm, các giáo sở, giáo xứ. Năm nay đang là năm thánh Linh mục, chúng ta hãy cầu nguyện để các Linh mục trở nên những mục tử như lòng Chúa ước mong. Các Linh mục phải là những người sống và phục vụ, yêu thương như Thầy đã yêu ( Ga 13, 34 ).

     Xin Chúa ban cho thế giới và đặc biệt trong đất nước Việt Nam luôn có nhiều tâm hồn quảng đại hy sinh, dấn thân phục vụ Chúa với tất cả tâm hồn, với tất cả lòng nhiệt thành, yêu thương của mình. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

-------------------------------------

 

PS 4-C86: Cánh đồng truyền giáo bát ngát cho đến mút cùng trái đất


Chúa Nhật 4 Phục Sinh, Năm C

 (Công vụ tông đồ 13,14.43-52; Khải huyền 7,9.14b-17; Luca 10,27-30)

 Phúc Âm: Ga 10, 27-30

"Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời".

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một".
 
Suy Niệm:

 

Hôm nay Hội Thánh chúng ta trên toàn thế giới cử hành ngày ơn Thiên triệu. Chúng ta thành khẩn: PS 4-C86:


Hôm nay Hội Thánh chúng ta trên toàn thế giới cử hành ngày ơn Thiên triệu. Chúng ta thành khẩn cầu xin Thiên Chúa sai thêm thợ đến đồng lúa và vườn nho của Người. Không phải ở nơi nào cũng đã đủ số tông đồ đâu. Rất nhiều nơi thiếu linh mục tu sĩ và thiếu một cách trầm trọng. Và nạn thiếu hụt này có hại cho cả chúng ta chứ không riêng gì người ở nơi ấy, vì toàn thể Giáo Hội chỉ là một thân thể mầu nhiệm và một bộ phận đau yếu phải được mọi bộ phận khác thông cảm và giúp đỡ vì lợi ích chung của toàn thể. Chúng ta phải xin Chúa ban thêm ơn cho giới trẻ ở những nơi đang thiếu linh mục, tu sĩ được nghe biết tiếng gọi của Chúa và của các linh hồn để dấn thân tận hiến đời mình cho sứ mạng cứu thế.

Chúng ta còn cần phải cầu nguyện sốt sắng hơn nữa để các linh mục, tu sĩ nhiệt thành sống đúng với ơn gọi của mình và làm tốt mọi phận sự Chúa trao phó. Có lẽ chúng ta không hiểu được những phấn đấu gay go và khó khăn mà linh mục tu sĩ luôn phải cố gắng trong ơn gọi của mình đâu. Họ cần được trợ lực bằng lời cầu nguyện và giúp đỡ cụ thể để vững vàng và nhiệt tình chu toàn sứ mạng. Những thành công của họ sẽ làm vẻ vang cho Hội Thánh và chúng ta, nên chúng ta phải hợp ý với Chúa Giêsu mà cầu nguyện để họ ra đi và mang lại nhiều hoa quả và những hoa quả tồn tại muôn đời.

Chúng ta có nghĩa vụ soi sáng, hướng dẫn con cái chúng ta ngay từ nhỏ đã biết nghĩ đến ơn gọi Phục vụ. Và cho được làm tốt những công tác trên đây, chúng ta cần nghe lại Lời Chúa hôm nay để hiểu rõ tương quan giữa mục tử và chiên, để giúp mục tử làm tốt ơn gọi của mình và để chiên biết phải cư xử thế nào cho tốt.
 
1. Tương Quan Giữa Mục Tử Và Chiên

Chúng ta vẫn gọi các người lãnh đạo trong Hội Thánh chúng ta là mục tử hay là chủ chăn. Kiểu nói này đã bắt nguồn sâu xa trong Kinh Thánh. Ngay thời Cựu Ước Chúa đã dùng miệng tiên tri Êzêchien (34), để báo trước, lúc thời sung mãn đến, chính Chúa sẽ đến chăn dắt Israen như mục tử săn sóc chiên, thay thế hết hàng đầu mục lãnh đạo dân từ trước tới nay. Và khi Ðức Giêsu đến, Người tự xưng mình là mục tử và là mục tử tốt. Chẳng ai đáng danh xưng này, vì họ toàn là những kẻ chăn thuê. Mà kẻ chăn thuê khác với mục tử ở điểm căn bản này là đang khi họ sống nhờ chiên thì người mục tử lại sống cho chiên và chết cho chiên nữa. Thế nên nói thật ra, ở trong Hội Thánh chỉ có một mục tử mà thôi. Chính Chúa Kitô chăn dắt Hội Thánh của Người, không phải là nhờ nhưng là nơi các người đã được chọn làm tông đồ, tức là được sai đi để làm các công việc của Người.

Chúng ta cần hiểu rõ điều này, đặc biệt trong ngày ơn Thiên Triệu hôm nay. Chúng ta đừng dừng con mắt lại nơi những con người đang làm phận sự chăn chiên. Chính họ không phải là mục tử. Vị mục tử tốt lành, chân thật của chúng ta là Chúa của họ và cũng là Chúa của chúng ta. Chúng ta phải nhìn lên Ðức Giêsu Kitô để thấy Người là mục tử tốt. Duy mình Người có khả năng chăn nuôi các linh hồn và Hội Thánh. Nói rằng Người săn sóc chiên của Người nhờ các vị tông đồ mà chúng ta thường gọi là đại diện cho Người, cũng không hoàn toàn đúng. Nói như vậy cũng còn là theo quan niệm loài người. Ðức tin bảo chúng ta biết rằng, chính Chúa Giêsu đang trực tiếp chăn chiên nơi các người lãnh đạo ở trong Hội Thánh. Chính Người nói Lời Chúa cho chiên, chính Người dọn bàn tiệc bí tích cho chiên, chính Người hướng dẫn và ban sứ mạng cho chiên sống đời bác ái. Cái nhìn đức tin này dạy chúng ta phải suy nghĩ lại quan hệ giữa mục tử và chiên kẻo chúng ta có thể hiểu lầm về vai trò các linh mục và giám mục, đòi hỏi những sự không nên đòi hỏi, và từ chối những sự lẽ ra phải đón nhận. Và để làm công việc này, bài Tin Mừng hôm nay rất quý hóa.

Chúa Giêsu phán: Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta và Ta biết chúng; chúng theo Ta và Ta ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng bị diệt vong vì không ai giựt chúng khỏi tay Ta được.

Chúng ta hãy đọc các câu văn trên như vậy để thấy rõ các tương quan giữa chiên và mục tử. Trước hết, chiên thì nghe tiếng mục tử và mục tử sẽ biết chiên. Ðiều này chỉ có thể xảy ra được, nếu mục tử đã cất tiếng để chiên có thể nghe thấy. Do đó, quan hệ giữa mục tử và chiên phát xuất từ việc rao giảng Lời Chúa. Người sai tông đồ đi rao giảng để như Người nói: Ai nghe chúng con là nghe Ta. Chính Người đang nói trong Hội Thánh nơi lời giảng của các Tông đồ được sai đi. Và lời Người ban đức tin làm cho người ta trở thành tín hữu và môn đệ "sáng sáng có tai môn đệ để nghe Lời Chúa". Tương quan giữa mục tử và chiên tiên vàn là tương quan giữa người nói và người nghe, không phải nói và nghe lời loài người, nhưng là Lời Thiên Chúa có sức cứu độ linh hồn người ta. Người ta phải nói và nghe thế nào để nhờ đấy mục tử biết chiên.

Từ ngữ "biết" này thật thâm thúy. Trong Cựu Ước nó có thể ám chỉ việc nam nữ và vợ chồng biết nhau. Nó gợi lên ý tưởng mục tử từng biết con chiên để săn sóc mỗi con cho thích hợp, để chiên cảm thấy lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa đã đến với mình và đang hồi sinh mình. Thật ra chính Lời Chúa làm công việc này chứ không phải người rao giảng. Khi Lời Chúa được đón nhận vào lòng tin yêu sâu xa, thì linh hồn được Chúa biết và tiếng của Chúa lưu lại nơi linh hồn sẽ phân rẽ tâm can con người theo sự biết của mình và cải tạo đổi mới linh hồn khiến người ta càng ngày càng biết Chúa và yêu Chúa. Người rao giảng sẽ làm việc cho con chiên theo chiều hướng ấy.

Và nếu chiên theo mục tử, chấp nhận đi vào đường lối của mục tử như Lời Chúa cho thấy và như mầu nhiệm thập giá Ðức Kitô đã vạch, thì mục tử là chính Chúa Kitô sẽ ban cho chiên được sự sống đời đời, mà các bí tích của Hội Thánh đang phân phát một cách dồi dào.

Do đó, sau khi lo rao giảng Lời Chúa, các người có nhiệm vụ chăn chiên, phải trao ban các mầu nhiệm thánh để con chiên được sống đời đời. Và công việc này không dễ đâu, vì không phải tự nhiên con chiên biết lãnh nhận các bí tích như sự sống trường sinh. Phải có một mục vụ sâu xa và kiên trì. Phải có nhiều sự sống thánh thiện trong các cử hành phụng vụ. Giáo dân muốn giúp đỡ các linh mục và làm cho sinh hoạt của Hội Thánh càng ngày càng thêm phong phú, thì còn phải cố gắng nhiều hơn nữa để cùng các linh mục chuẩn bị, tổ chức cử hành, lãnh nhận các bí tích một cách sống động và sung mãn hơn. Nhờ vậy đoàn chiên mới dồi dào sự sống đời đời.

Và khi mọi người đã làm như thế, nghĩa là đã làm cho Lời Chúa và các bí tích thật sự sinh động trong Hội Thánh, thì Chúa nói: không bao giờ chiên bị diệt vong vì không ai giựt chúng khỏi tay Ta được. Ðã đành Satan như sư tử rình mò cắn xé chiên và chiên luôn như ở giữa sói rừng, đã đành sự sống đời đời là Lời Chúa và các ơn bí tích trong tâm hồn là những kho tàng đựng trong bình sành lọ đất là xác thịt tội lỗi yếu hèn của chúng ta, nhưng sức mạnh nào có thể lôi chiên ra khỏi tay Chúa để tiêu diệt chiên. Chính Người đã so sánh giữa mục tử tốt và kẻ chăn thuê. Người mục tử sẽ thí mạng cho chiên. Ðức Kitô đã chết cho chiên của Người. Người đã cầm giữ được chìa khóa của sự chết và âm phủ vì sự phục sinh của Người đã toàn thắng, kẻ thù cuối cùng của loài người là sự chết, nên kẻ tin Người sẽ được sống, và dù có chết cũng sẽ sống lại. Satan không giựt được kẻ ấy khỏi tay Người đâu.

Và điều này cho phép chúng ta nghĩ đến phận sự thứ ba của những người đang có nhiệm vụ chăn chiên. Họ phải điều khiển dân Chúa sau khi đã rao giảng Lời Chúa và cử hành các bí tích. Công việc điều khiển này không nặng về mặt tiêu cực, giữ chiên khỏi bị xâu xé sao? Cai trị trong Hội Thánh chỉ là phục vụ. Và phục vụ trong Hội Thánh là giữ chiên luôn được điều kiện lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận các bí tích trường sinh. Mọi tổ chức đều quy về những việc này. Và chỉ có như thế người ta mới thấy rõ ở trong Hội Thánh chính Chúa là mục tử; còn các Tông đồ môn đệ của Người chỉ là những đầy tớ phải làm nhiều nhưng phải thú nhận là vô dụng.
Chúng ta không thể bảo đó là ơn gọi dễ dàng được. Thế nên phải có ơn Chúa giới trẻ mới biết lắng nghe và đáp trả tiếng gọi làm tông đồ. Và càng phải có nhiều ơn Chúa giúp đỡ hơn nữa, các tông đồ mới bền chí nhiệt thành chu toàn phận sự. Chúng ta phải cầu nguyện nhiều là vì thế, để có nhiều thanh thiếu niên dâng hiến đời mình cho Chúa và để các người đã dâng hiến luôn xứng đáng với ơn gọi đã nhận được. Ước gì Hội Thánh chúng ta luôn có nhiều tông đồ như Barnaba và Phaolô mà bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay đã thuật chuyện.

2. Nhiệm Vụ Tông Ðồ

Hai ông được Thánh Thần đặc cử đi truyền giáo ở những vùng xa xôi (13,2). Cả Hội Thánh biết việc này, vì hôm đó mọi người đang thờ phượng và ăn chay thì Thánh Thần đã dạy như vậy. Và người ta đã đặt tay trên đầu các ngài và tiễn các ngài đi, để các ngài thật sự là tông đồ, tức là được sai đi. Mà quả thật các ngài đi mãi không ngừng, cho đến khi đạt tới biên giới của thế giới thời bấy giờ là Rôma. Các ngài nhắc nhở cho mọi người được gọi làm tông đồ luôn nhớ Lời Chúa căn dặn trước khi về trời: Các con hãy đi đến tận cùng trái đất và đến với hết mọi tạo vật, rao giảng Tin Mừng cho họ, để làm cho tất cả trở nên môn đệ của Thầy.

Barnaba và Phaolô đã ra đi, hết thành này sang thành khác, hết đảo này đến đảo kia. Tới đâu các ngài cũng lợi dụng ngày Hưu lễ có người Do Thái hội họp, để rao giảng về Chúa Giêsu Kitô. Ở đây, chúng ta thấy người Do Thái không đón nhận Lời khiến các tông đồ phải phủi bụi chân ra đi khỏi xã hội của họ và đi đến với lương dân, thực hiện lời sách Isaia đã viết: Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân.

Không phải các Tông đồ hiểu câu đó về mình đâu. Lời ấy chỉ áp dụng cho Ðức Giêsu như Simêon đã nhìn thấy. Nhưng chính Người đã gọi các tông đồ và sai họ đi. Họ đi đây là vì Người và để làm công việc của Người. Chính Người đến với lương dân nơi con người của các tông đồ.

Tuy nhiên có phải vì vậy mà từ này người Do Thái bị bỏ rơi không? Chắc chắn khi kể lại câu chuyện hôm nay, tác giả Luca muốn đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử truyền giáo. Người vẫn chú ý đến dân ngoại. Và khi mở đầu cuốn sách Tin Mừng của Người bằng những câu chuyện xảy ra ở Galilê, thánh Luca đã có ý cho chúng ta thấy công việc của Chúa khởi sự ở Galilê dân ngoại. Và Người đã chẳng bỏ qua một dịp nào để nhấn mạnh rằng: Ðức Giêsu khi còn tại thế đã nhiều lần tiếp xúc và ban ơn cho dân ngoại. Nhưng hôm nay khi để các tông đồ nói: "Này chúng tôi quay sang dân ngoại", Luca muốn công cuộc truyền giáo cho lương dân từ nay bước sang giai đoạn mới, quyết liệt hơn.

Câu chuyện có vẻ làm cho người ta hiểu rằng vì người Do Thái khước từ Lời Chúa, nên các tông đồ mới quay sang dân ngoại. Việc truyền giáo cho lương dân dường như được xúc tiến vì thái độ phủ nhận của người Do Thái... Thật ra không phải như vậy. Như trên đã nói: ngay từ đầu Ðức Giêsu đã được chào mừng là ánh sáng muôn dân. Các tông đồ không kỳ thị hạng người nào và chính Chúa Thánh Thần đã chấp nhận cả gia đình Cornêliô là dân ngoại đang khi họ nghe lời Phêrô giảng. Nhưng dần dần Thiên Chúa đã dùng hoàn cảnh này hoàn cảnh kia để các tông đồ nhớ lại những lời tiên tri đã viết trước, tức là kế hoạch sâu nhiệm của Thiên Chúa.

Những lời ấy viết rằng: vào lúc cánh chung, tức là vào thời đại Ðấng Cứu Thế, Israen và Giêrusalem sẽ mở đường cứu độ cho muôn nước và có trách nhiệm phổ cập. Những lời ấy đã được Chúa Giêsu tóm tắt lại trong câu Người bảo môn đệ phải trở thành chứng nhân cho Người khởi sự từ Giêrusalem nhưng cho đến mút cùng trái đất.

Nói cách khác, Lời Chúa tự bản chất muốn được đem gieo ở mọi nơi; các tông đồ là những người được sai đi; đoàn chiên Chúa có trách nhiệm đem hết mọi chiên lạc về...

Nhiệm vụ tông đồ là nhiệm vụ truyền giáo. Trong ngày cầu nguyện cho ơn gọi tông đồ, chúng ta phải nhìn ra cánh đồng truyền giáo bát ngát cho đến mút cùng trái đất. Bấy giờ chúng ta mới thấy thiếu các tông đồ đến mức nào và các tông đồ mới hiểu mình chưa làm được một phần nhỏ của ơn gọi. Phải có thêm những Barnaba và Phaolô. Phải tăng thêm nhiều ý thức và ưu tư truyền giáo trong tâm hồn mọi người trong ngày hôm nay. Phải làm cho mọi người thấy bề rộng của vấn đề...

Và cả bề sâu nữa, theo bài sách Khải Huyền trong thánh lễ này.
 
3. Trách Nhiệm Dân Chúa

Thánh Gioan lại được nhìn thấy một cảnh tượng lạ lùng ở trên trời: một đoàn lũ đông đảo không biết cơ man nào mà kể thuộc đủ mọi sắc dân và ngôn ngữ, mình mặc áo chùng trắng tinh, tay cầm tàu lá vạn tuế, đang lớn tiếng tung hô Thiên Chúa và Chiên Con. Ðó là quang cảnh mai ngày ở trên thiên quốc. Ðó là Hội Thánh toàn thắng mà Hội Thánh lữ thứ trần gian đang sửa soạn và cưu mang.

Do đó sẽ có lợi cho suy niệm của chúng ta hôm nay, nếu nhờ lời tác giả sách Khải Huyền viết, chúng ta tìm hiểu về dân Chúa và Hội Thánh đang ở trần gian. Cộng đoàn dân Chúa và Hội Thánh hiện nay, không bao gồm đủ mọi sắc dân và ngôn ngữ sao? Còn về áo trắng tinh và cành vạn tuế, chúng ta hãy theo lời thánh Gioan mà hiểu. Chính người đã được cắt nghĩa cho biết: đó là dấu hiệu của sự thắng trận và đời sống sạch tội.

Quả vậy, đám dân hạnh phúc kia đã từ cuộc quẫn bách lớn lao mà đến. Kiểu nói này ám chỉ các thử thách của thời kỳ cánh chung và đặc biệt là thử thách giữ vững niềm tin khỏi bị các tiên tri giả mê hoặc. Thế mà thời đại cánh chung đã khởi sự từ ngày Ðức Giêsu ra đời và đặc biệt từ khi Người được tôn vinh trên thánh giá để trở thành người xét xử kẻ sống và kẻ chết. Từ ngày đó, đức tin đều là những người thắng trận thế gian, như lời Gioan viết: chiến thắng của chúng ta chính là đức tin. Và ai tin vào ơn cứu độ của Chúa nhất định không phải hổ ngươi.

Còn áo trắng của các thánh, tác giả nói đó là những cái áo đã được đem giặt trong Máu Chiên Con. Làm sao giặt trong máu lại có thể trắng được, nếu chúng ta không hiểu theo ý nghĩa thiêng liêng? Chính nhờ máu Chúa Kitô đổ ra trên thập giá, đã có Nước Thánh Thần chảy ra ban ơn tha tội trong nước thanh tẩy. Chúng ta hết thảy được sạch tội nhờ Máu Chúa Giêsu đã rửa chúng ta trong bí tích Tử nạn Phục sinh của Người.

Vậy, giữ vững đức tin nhờ nghe Lời Chúa như nắm cành vạn tuế trong tay, và được tâm hồn sạch tội như vận áo chùng trắng tinh nhờ lãnh nhận các ơn bí tích, chúng ta được đoàn tụ trong một Hội Thánh như dưới một mái nhà, một mái Ðền Thờ. Chúng ta không còn đói khát nữa, vì lời sách Khải Huyền viết, Chiên Con sẽ chăn dắt chúng ta, luôn đưa chúng ta đến nguồn mạch sự sống, làm chứng chính Chúa Kitô là mục tử của Hội Thánh như chúng ta đã nói. Và chắc chắn cuối cùng Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt chúng ta khỏi cuộc đời trần gian nhiều đau thương này để đưa Hội Thánh lữ khách trần gian trở nên Hội Thánh hạnh phúc trên trời.

Giờ đây chúng ta đang làm thành Hội Thánh ở dưới đất. Ngay giờ phút này Hội Thánh ấy đang ở giữa chúng ta.

Ở đây có lời Chúa, có bí tích của mọi bí tích là bí tích Thánh Thể, có hàng linh mục dẫn dắt chúng ta, có đủ phương tiện để chúng ta được thêm đức tin, được lòng trong sạch, được no nê lương thực trường sinh, để chúng ta tiến về Thiên quốc.

Chúng ta hãy cảm tạ tung hô Chúa. Chúng ta cầu xin luôn luôn có tông đồ làm việc cho chúng ta, cho các tông đồ ấy thánh, cho chúng ta luôn thích nghe Lời Chúa, lãnh nhận bí tích và tham gia vào đời sống Hội Thánh để mọi dân mọi nước làm thành một đoàn chiên với một Chúa chiên là Ðức Giêsu Kitô chúng ta.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
 
-------------------------------------

 

PS 4-C87: Chúa Nhật IV Phục Sinh, C


2010

Lắng nghe sứ điệp Tin Mừng  (Gio-an 10:27-30)

 

Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật IV Phục Sinh để trình bày hình ảnh đẹp nhất về Chúa Giê-su: PS 4-C87


          Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật IV Phục Sinh để trình bày hình ảnh đẹp nhất về Chúa Giê-su:  Đấng Chăn Chiên nhân lành.  Đẹp đến nỗi các Ki-tô hữu thời đầu của lịch sử Giáo Hội hầu như chỉ muốn giữ độc nhất hình ảnh đó thôi, cho nên tại các nơi thờ phượng, ngay cả trong những hang toại đạo, người ta luôn gặp phía bên trên bàn thờ hình ảnh Chúa Giê-su đang đi sau một đàn chiên, công kênh một con chiên trên vai.

          Hình ảnh đẹp như thế lại được diễn tả vỏn vẹn bằng bốn câu (27-30) trong chương 10 sách Tin Mừng Gio-an.  Diễn tả ngắn gọn, nhưng lại súc tích biết bao!  Mỗi câu là một ý, một đề tài phong phú.  Câu 27 nói về quan hệ mật thiết giữa Đấng Chăn Chiên và các con chiên.  Câu 28 nhắc đến nghĩa vụ của Đấng Chăn Chiên.  Câu 29 đề cập tới sự quan tâm và tình yêu của Chúa Cha dành cho cả Đấng Chăn Chiên lẫn các con chiên.  Câu 30 là kết luận về mục đích của sứ vụ chăn chiên:  đưa mọi người về hiệp nhất trong Thiên Chúa là Tình Yêu.  Vậy chúng ta thử suy nghĩ sâu xa hơn một chút về sứ điệp Tin Mừng hôm nay.

          Trước hết là quan hệ giữa Chúa Giê-su, Đấng Chăn Chiên nhân lành và các con chiên là chúng ta.  Quan hệ ấy được nói lên qua ba hành vi:  nghe, biết và theo.  Chúng ta lắng nghe tiếng Chúa Giê-su qua Kinh Thánh, Giáo Hội và những người có ý tốt xây dựng cho đời sống chúng ta.  Chúa biết chúng ta, nghĩa là Người không chỉ biết bằng trí óc mà biết bằng trái tim, vì Người luôn yêu thương chúng ta cho đến cuối cùng.  Chúng ta theo Chúa Giê-su, giống như các môn đệ mọi thời mọi nơi, theo bằng cách để cho lời giảng và lối sống của Chúa biến đổi con người chúng ta trở nên giống như Chúa.

          Thứ đến, nghĩa vụ của Đấng Chăn Chiên là làm mọi sự có ích cho con chiên.  Đó là Đấng Chăn Chiên gánh trên vai quyền năng, danh dự và vinh hiển của Thiên Chúa, cho nên Người có thể làm những điều nhân loại không thể:  Người ban cho chúng ta sự sống đời đời, giữ chúng ta trong cánh tay che chở của Người và không để kẻ thù là ma quỷ tiêu diệt chúng ta.

          Tiếp theo, quan hệ giữa Đấng Chăn Chiên và các con chiên không chỉ dừng lại ở hai đối tác, mà còn liên kết với đối tác thứ ba và cũng là đối tác quan trọng nhất, tức là Thiên Chúa Cha.  Vai trò của Thiên Chúa Cha là tối thượng và nguồn mạch.  Người là chính Tình Yêu, cho nên từ Tình Yêu này phát sinh mọi sự tốt lành.  Người là tình yêu tạo dựng, nhưng cũng chính Người là tình yêu cứu độ, yêu nhân loại đến nỗi sai Con Một là Chúa Giê-su Ki-tô đến dạy dỗ chúng ta và còn chết vì chúng ta nữa.

          Cuối cùng, tột đỉnh của sứ vụ chăn chiên là đến với Tình Yêu.  Chúa Giê-su và Chúa Cha là một.  Nhưng chính sự hiệp nhất Cha-Con-Thánh Thần là lời mời gọi tất cả chúng ta hãy trở nên một với Thiên Chúa.  Sống trong sự hiệp nhất của Thiên Chúa, Chúa Giê-su là người con đầu lòng của nhân loại mới đang tiếp tục dẫn dắt chúng ta về đồng cỏ xanh tươi đời đời.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Đoạn Tin Mừng Gio-an thật dễ hiểu, sâu sắc và cảm động nữa.  Càng xác tín vào sứ vụ chăn chiên của Chúa Giê-su và vào tình yêu cùng với sự chăm sóc của Người, chúng ta càng ý thức cuộc đời mình thật có ý nghĩa.  Chúng ta không phải đi lang thang như cừu không có người chăn.  Chúng ta không phải cô đơn buồn bã vì thiếu vắng tình yêu.  Tất cả là vì chúng ta có Chúa Giê-su là Đấng Chăn Chiên nhân lành biết chúng ta.  Chúng ta chỉ cần lắng nghe tiếng Người và theo Người là đủ!

Lm. Dominic TTL

-------------------------------------

 

PS 4-C88: Tôi Biết Chúng


Chúa Nhật IV Phục Sinh C

Gio 10:27-30: 27 Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. 28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. 29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. 30 Tôi và Chúa Cha là một.”

 

Đoạn 10:27-30 là câu trả lời cho người Do thái về câu hỏi họ đặt ra với Chúa Giêsu: “Ông còn để lòng: PS 4-C88


Đoạn 10:27-30 là câu trả lời cho người Do thái về câu hỏi họ đặt ra với Chúa Giêsu: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết” (10:24). Đoạn nầy nằm trong cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với người Do thái trong đền thờ vào dịp lễ Cung Hiến (10:22-40tt), sau khi Người nói về chính mình trong chân dung của vị Mục Tử tốt lành (10:1-21).

Yêu cầu của người Do thái là muốn Chúa Giêsu nói cách minh bạch về căn tính của Người, vì trong phần đầu Người đã dùng những hình ảnh ẩn dụ “Cửa Chuồng Chiên” để trình bày về chính mình, và họ đã không hiểu (10:1-6). Tiếp đến, khi Người trình bày về hình ảnh “Người Mục Tử nhân lành”, họ lại càng không hiểu và cho Người “bị quỷ ám và điên khùng” (10:20). Bởi đó, trong phần hai của chương 10 nầy, họ đặt câu hỏi trực tiếp là Người có phải là Đấng Kitô hay không. Để trả lời, trước tiên Người cho thấy Người là Con đối với Chúa Cha, và mọi việc và lời nói của Người đều “nhân danh Chúa Cha” (10:25). Sau đó, Người nói thẳng với họ lý do tại sao họ không thể hiểu và tin vào Người là vì “họ không thuộc đàn chiên của Người” (10:26). Trong mạch văn nầy, chúng ta tìm hiểu thêm những câu kế tiếp.

Bất chấp lời yêu cầu của người Do thái, Chúa Giêsu tiếp tục nói với họ bằng ẩn dụ (paroimia, x. 10:6), cho đến khi Người công khai nói với họ là Người sẽ không dùng cách nói nầy nữa (x. 16:25.29). Trong đoạn ngắn gồm 4 câu nầy, Chúa Giêsu nhắc lại những điều cốt yếu về con người và vai trò của Đấng Kitô, đã nói trong phần trước của chương 10. Đặc điểm của đoạn nầy là đại danh từ ngôi thứ nhất “của Tôi”: “chiên Tôi”, “nghe tiếng Tôi”, “đi theo Tôi” (10:27; x. 10:3.4), “tay tôi” (10:28), “Cha Tôi” (10:29). Câu 10:27 nói đến tương quan giữa Chúa Giêsu và đàn chiên của Người: - về phía đàn chiên: “chiên của Tôi”, “nghe tiếng Tôi”, “đi theo Tôi”; - về phía Chúa Giêsu: “Tôi biết chúng” (x. 10:14). Chủ đề “nghe” và “nghe tiếng Tôi” (10:3.8.16), như là thước đo để nhận biết thuộc về đàn chiên của Chúa, được nêu ra lại với ngụ ý là người Do thái không biết Chúa Giêsu là ai (10:6.38), vì họ không lắng nghe tiếng Người (10:20); nên cũng không thuộc về Người.

Câu 10:28 nói đến việc ban sự sống đời đời cho đàn chiên; qua đó qui chiếu cách gián tiếp về “kẻ trộm”. Sự sống ở đây không được đặt trong tương quan so sánh với sự tiêu diệt và hủy hoại do kẻ trộm mang đến (x. 10:10). Nó được định nghĩa là “sự sống đời đời”, mà con người có được nếu tin vào Chúa Giêsu (3:15.16; 6:40.47.54), tin vào công việc của Người, Đấng đã sai Người (5;24) và vào lời của Người (6:68). Ai không tin thì không có sự sống nầy (3:36). Ba điều Chúa Giêsu ban bằng cách nói trực tiếp “Tôi cho/ban”, đó là “sự sống đời đời” (10:28), “điều răn mới” (13:34) và “bình an của Tôi” (14:27). Sự bảo vệ đàn chiên được diễn tả qua hình ảnh ẩn dụ “tay của Tôi”. Động từ “harpazō” qui chiếu về việc “bắt lấy” của con sói, do người chăn thuê bỏ chạy (x. 10:12). Mục đích của sự che chở là để họ “khỏi mất đời đời” (6:39; 10:28; 17:11-12). Sự che chở nầy được đặt trong quyền năng của Chúa Cha “khỏi tay Cha” (10:29). Họ thuộc về Cha vì Cha đã ban cho Con (6:37; 17:6); nên Con bảo vệ họ.

          Câu 10:30, chóp đỉnh của đoạn nầy “Tôi và Cha, chúng tôi là một”. Theo mạch văn sự hiệp nhất nầy được hiểu là trong hành động. Sâu xa hơn, đó là phải là sự hiệp nhất được nói đến trong 1:1, “Từ đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi lời ở với Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (x. 20:28). Trong chương 10 nầy, Chúa Giêsu được trình bày như chính là hiện thân của Thiên Chúa. Người đến để chăn dắt dân Israel như đã hứa, “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng.” (Giê 23: 3-4tt; x. Ez 34:11-16.23; 37:24; Zc 11 và 13). Bởi đó, Người xác quyết về tương quan mật thiết giữa Người và Thiên Chúa để làm chứng cho người Do thái biết Thiên Chúa đang chăn dắt họ trong Người, như: “Cha biết Tôi…” (10:15), “Cha Tôi yêu Tôi…” (10:17), “…Tôi nhận từ Cha Tôi” (10:18), ”...Tôi làm nhân danh Cha Tôi...” (10:25), ”Tôi và Cha, chúng tôi là một” (10:30; xem thêm 10:36.37.38). Vậy, Chúa Giêsu đã nói và làm chứng về con người và việc mục tử của Người. Người Do thái đã thấy và nghe, nhưng họ vẫn không tin Người đến từ Thiên Chúa.

Chúa Giêsu nên một với Cha của Người trong việc chăn dắt và ban sự sống cho dân Người. Nghe tiếng Người và đi theo Người, chúng ta cũng được nên một với Người trong Chúa Cha.

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

-------------------------------------

 

PS 4-C89: CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH


CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH, năm C

Ga 10, 27-30

 

Hình ảnh người chăn chiên, dẫn đàn chiên đi từ đồi này tới đồi nọ, tìm những cánh đồng cỏ xanh: PS 4-C89


Hình ảnh người chăn chiên, dẫn đàn chiên đi từ đồi này tới đồi nọ, tìm những cánh đồng cỏ xanh tươi bên những suối mát luôn thôi thúc con người hướng về một Vị Mục Tử nhân hiền:” Đức Kitô “. Ở Việt Nam, chúng ta ít thấy những đàn chiên, đàn cừu được người chăn đưa tới những cánh đồng cỏ, những hồ nước trong lành để chiên cừu ăn cỏ và uống nước thỏa thê. Tuy nhiên, qua nhiều bức tranh, chúng ta thấy hình ảnh người mục tử nhân lành vác chiên trên vai hoặc đang chăn, đang dẫn đàn chiên tới những cáh đồng cỏ xanh tươi, vượt đồi, vượt núi, gây nhiều ấn tượng khó phai cho những người chiêm ngắm tranh ảnh đó. Chúa nhật thứ IV phục sinh gợi lên rõ nét vai trò của vị mục tử nhân hiền là Đức Kitô:” Chiên  của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi”( Ga 10, 27 ).

CHIÊN CỦA TÔI THÌ NGHE TIẾNG TÔI:

Một lần đi Nha Trang, xe tôi dừng ở Phan Rang, trên một cánh đồng, tôi thấy có một bầy chiên đang kíếm ăn trên một cánh đồng, đàng trước bầy chiên, một người chăn đang cầm một cây gậy để hướng chúng. Tôi ngắm nghía bầy chiên và lấy máy chụp hình ghi lại vài bức ảnh lưu niệm. Sau này, lâu lâu, tôi lật giở Album và nhìn ngắm những bức hình ấy. Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay thuật lại Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người biết rõ từng con chiên và con chiên cũng biết rõ Người. Thực ra, Thiên Chúa yêu thương từng con chiên nghĩa là từng người chúng ta bằng một tình yêu riêng biệt, Người không yêu chúng ta bằng một tình yêu chung chung, nhưng Người thương yêu mỗi người bằng con tim, bằng tình yêu vô biên của Người:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống cho người mình thương mến”( Ga 15, 13 ). Mỗi người, mỗi con người đều có một chỗ đứng trong trái tim của Người. Như đàn chiên đi ăn cỏ, uống nước luôn lắng nghe tiếng của chủ chiên dẫn dắt, hướng dẫn. Những con chiền cuối đàn và giữa đàn luôn chăm chú đi theo con đầu đàn. Chúng ta là chiên của Chúa, chúng ta nghe tiếng Chúa, biết Chúa và theo Chúa. Nghe Chúa là nghe lời Chúa nói trong Kinh Thánh, qua Giáo Lý, qua các lời giáo huấn của Hội Thánh và tiếng nói thiêng liêng tự tận cõi lòng của con người. Nghe Chúa là tạo nên mối giây thân tình mật thiết với Chúa, và tin vào Người. Biết Chúa không có nghĩa là biết qua loa, sơ sơ, bên ngòai nhưng là đi vào cõi lòng, đi vào mối thâm sâu tình yêu của Người. Theo Chúa là bước đi con đường của Người, là từ bỏ con người cũ, mặc lấy Đức Kitô.

NGHE CHÚA, BIẾT CHÚA VÀ THEO CHÚA ĐỂ ĐƯỢC NHỮNG GÌ ?:

Như bầy chiên đi trên những đồi núi đến những cánh đồng cỏ xanh tươi, đến những suối nước mát trong lành để ăn cỏ, uống nước và nghỉ ngơi. Tất cả những con chiên trong đàn đều lắng nghe tiếng chủ chăn dắt, biết rõ lệnh của chủ và đi theo sự hướng dẫn của chủ. Thiên Chúa là vị mục tử duy nhất, nhân hậu đã trả lời cho những ai muốn đi theo Người:” Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”( Ga 10, 28 ). Vâng, đòan chiên đi theo chủ chiên, chắc chắn những đồng cỏ xanh và những dòng suối mát trong lành sẽ là đích điểm để chiên đi tới, vì vị mục tử Giêsu, chủ chiên duy nhất đã tự giới thiệu:”Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” . Chúa Giêsu ban cho nhân lọai, ban cho con người, ban cho mỗi người sự sống vĩnh hằng, nhưng còn bảo đảm sự sống ấy không ai có thể giựt mất được.

Chúa Con là Chúa Giêsu ban cho ta sự sống đời nhưng cả Chúa Cha cũng bảo đảm, giữ gìn chúng ta trong bàn tay và con tim yêu thương của Người:” Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một”( Ga 10, 29-30 ).Chúa Cha và Chúa Con luôn bảo vệ, giữ gìn và che chở chúng ta.

MỖI NGƯỜI CHÚNG TA ĐƯỢC MỜI GỌI YÊU MẾN CHỦ CHIÊN:

Thiên Chúa là Cha tình thương đã trao cho Con của Ngài là Đức Giêsu đòan chiên yêu quý. Chúa Giêsu đã yêu thương đòan chiên của mình như Chúa Cha đã yêu thương từng con chiên. Bổn phận của mỗi người chúng ta là phải yêu mến, tôn kính và hiếu thảo với Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giáo Hòang, các Giám Mục, các Linh Mục là những vị lãnh đạo tôn giáo Chúa trao ban sứ mạng coi sóc đòan chiên của Chúa dưới trần gian này. Chúng ta phải hết lòng tôn kính, mến yêu và cầu nguyện cho các Ngài. Đặc biệt các Cha Sở và Cha phó là những vị mục tử trực tiếp coi sóc đòan chiên của Giáo Xứ. Các Ngài luôn muốn đòan chiên và từng con chiên của mình được ăn uống no nê để có sức phục vụ và sống tốt đẹp làm tôi Chúa. Chúng ta phải hết lòng yêu mến, hiếu thảo, giúp đỡ các Ngài và cầu nguyện cho các Ngài.

Hình ảnh Chúa chiên nhân từ vác con chiên lạc trên vai đang khi những con chiên khác ngoan ngõan bước theo chân Người, luôn là mẫu gương sống động giúp ta tiến trên đường đức tin, dẫn ta tới những đồng cỏ xanh rì và những dòng suối mát trong lành là Quê Trời mai sau. Chúng ta sốt sắng cầu nguyện xin Chúa ban cho có nhiều thanh niên, nam nữ quảng đại dấn thân tận hiến cho Chúa trong sư ùmạng mục tử coi sóc đàn chiên và sứ mạng làm chứng cho Chúa trong đời sống tu dòng. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

-------------------------------------

 

PS 4-C90:  TIẾNG GỌI THÂN THƯƠNG.


Chúa Nhật 4C Phục Sinh.

 

Làm sao tìm được hướng đi giữa trăm ngàn nẻo đường hôm nay ?   Tìm đâu ra người mục tử có: PS 4-C90:


Làm sao tìm được hướng đi giữa trăm ngàn nẻo đường hôm nay ?   Tìm đâu ra người mục tử có khả năng giúp quần chúng đi đúng hướng ?    Bao nhiêu hiểm nguy đang chờ đón bước chân đoàn chiên.  Nhưng đoàn chiên vẫn không sợ.   Tại sao ?

GIỮA HAI BÀN TAY.  

Đoàn chiên không sợ vì đã đón nhận được tất cả lòng yêu thương trìu mến và bảo đảm vững chắc nhất.   Chính Mục tử bảo đảm: “Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.   Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.” (Ga 10:28,29)   Được hai bàn tay uy quyền đó nâng đỡ, hỏi ai có thể làm chi được đoàn chiên ?   Đúng là người tin theo Chúa được “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa.”  Đó là hai thành trì vững chắc nhất che chở đoàn chiên khỏi những giông tố trần gian.   Sở dĩ họ có thể lọt vào khoảng giữa hai bàn tay uy quyền đó, vì Chúa Giêsu quả quyết: “Cha Tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả.” (Ga 10:29)      Con chiên thuộc về vị Mục tử vì đã nằm trong kế hoạch vĩnh hằng của Thiên Chúa.  Uy quyền Chúa bao trùm cả vũ trụ.   Phán quyết của Người tuyệt đối.  Bởi vậy, không một nỗi lo sợ nào có thể lọt vào trong trái tim con chiên.  

Đoàn chiên thuộc quyền sở hữu của Chủ chiên, là gia tài Chúa Cha trao phó vào tay Chúa Con.  Chính con chiên là tặng phẩm quí báu nhất Chúa Cha trao vào tay Chúa Con.   Một trong những dấu chỉ cho thấy Chủ chiên hoàn toàn làm chủ và kiểm soát được đoàn chiên, đó là “tôi biết chúng.” (Ga 10:27)    Người làm chủ không phải để thống trị, nhưng để bảo vệ, chăm sóc, yêu thương và đùm bọc đoàn chiên.   Khác hẳn các mục tử Ítraen, “những người chỉ biết lo cho mình, mà không chăn dắt đàn chiên của Ta,” (Ed 34:9)  Đức Giêsu luôn lấy uy quyền toàn năng nâng đỡ đoàn chiên.   Vì hiểu biết, nên Chúa sẽ vận dụng tối đa quyền năng để ngăn ngừa đoàn chiên khỏi mọi đau khổ,ø sự dữ và hiểm nguy đang vây bủa chung quanh.  

Nguy hiểm trước tiên cần phải ngăn ngừa đó là những tiếng gầm gừ của thú dữ, hay những lời đầy quyến rũ đang cố lấn át tiếng gọi thân thương của Chúa.  Có những tiên tri giả nhái tiếng Chúa y hệt, làm sao con chiên có thể phân biệt được ?   Nhưng Đức Giêsu quả quyết: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi.” (Ga 10:27)   Sở dĩ không nghe được tiếng Chúa, vì họ “không thuộc về đoàn chiên của tôi.” (Ga 10:26)   Thuộc về đoàn chiên của Chúa nghĩa là tin theo Chúa.  Quả thực, không có niềm tin, không thể thấy được như Chúa.  Không tin, cũng không thể giải thích được tại sao có nhiều người ăn ngay ở lành suốt đời nhưng vẫn gặp toàn đau khổ, tai họa và nghèo đói.  

Trên đời không ai “hiền lành và khiêm nhường” như Đức Giêsu.   Với con mắt bình thường, người ta cũng thấy không ai đau khổ và xui xẻo như Chúa.  Chết oan ức vì những phán quyết bất công trong khi cuộc đời đang lên như gió.  Chắc chắn Đức Giêsu phải được Chúa Cha yêu thương đặc biệt hơn mọi người, vì chính Chúa Cha đã xác nhận: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn.” (Lc 9:35)  Cứ sự thường Người phải được bảo vệ chặt chẽ khỏi mọi đau khổ và hiểm nguy.   Thế nhưng, Người đã đón nhận cái chết tất tưởi trên thập giá giữa bao lời chế nhạo, khinh chê và chửi rủa.   Cái chết của Người không phải là một bằng chứng bất lực của tình yêu Thiên Chúa.   Thực vậy, Thiên Chúa đã chứng tỏ quyền năng vô hạn nơi cuộc phục sinh của Đức Giêsu.   Phục sinh chính là đối tượng của lòng tin chứ không phải của khoa học.  Nói khác, chỉ có niềm tin mới thấy được quyền năng Thiên Chúa nơi những nghịch lý cuộc đời hôm nay.   Có tin, mới có thể phóng tầm nhìn xa hơn cõi đời này, để thấy việc theo Chúa hôm nay là hợp lý, vì Chúa quả quyết: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong.” (Ga 10:28)   Phục sinh chính là một bảo đảm cho cuộc sống đích thực. 

Không phải đợi tới sau khi chết, cuộc sống đời đời mới xuất hiện.  Ngay từ bây giờ, Thiên Chúa “đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác phải chết của anh em được sự sống mới.” (Rm 8:11)  Sự sống mới đó chính là sự phục sinh do Đức Giêsu thực hiện nơi những ai đặt trót niềm tin vào Người.   Thực vậy, Đức Giêsu chia sẻ một quyền bính với Chúa Cha, khi quả quyết: “Tôi vàChúa Cha là một.” (Ga 10:30)  “Lời này hé mở một sự hợp nhất rộng hơn và sâu xa hơn (x.8:29; 10:38; 14:10; 17:11,21,22,23)” (TKTƯ 1995:440)   Ở đây Đức Giêsu quả quyết  “Người chia sẻ trọn vẹn công việc của Thiên Chúa.  Thiên Chúa chia sẻ quyền hành Thiên Chúa với Đức Giêsu trên sự chết, sự sống và phán xét thời cánh chung.” (NIB 1995:677)  Nếu Chúa Cha đã có thể dùng Thần Khí phục sinh Chúa Con, chắc chắn Chúa Con cũng có thể phục sinh những người tin vào Chúa bằng chính Thần khí đó.  Đó là một bằng chứng “người tín hữu cũng được thông phần vào vinh quang mà Đức Giêsu có do Chúa Cha sau cái chết của Người.  Họ cũng trở thành nơi vinh quang của Đức Kitô tỏ hiện.” (TKTƯ 1995:472)   Đó là lý do tại sao, các thánh tử đạo vẫn reo vang niềm vui phục sinh giữa rừng gươm giáo gậy gộc.  

Tất cả đều bắt nguồn từ mạc khải: “ Chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.” (Ga 17:23)  Tình yêu được chia sẻ trọn vẹn và chan hòa đến các tín hữu.  Nhưng ai sẽ là tín hữu ?   Phải chăng là con cháu Abraham như  Thiên Chúa tiền định ?  Ông Phaolô đã nói thật với người Do thái, những người vẫn tự hào là con cái Abraham: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại.” (Cv 13:46)   Thế là từ nay, những người cứ tưởng được tiền định lại bị lọt sổ.   Còn những người tưởng bị lên án, lại được Thiên Chúa xót thương.   Thực ra, tất cả không ra ngoài đường lối quan phòng đầy yêu thương của Chúa.   Thánh Phaolô xác tín: “vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.” (Cv 13:47)   Biên giới Nước Chúa không đóng khung trong dân tộc Do thái, nhưng mở rộng tới khắp tứ phương thiên hạ.  Việc truyền giáo cho dân ngoại đã phát triển rất nhanh nhờ người Do thái khước từ Tin Mừng (Rm 11:11tt).   Họ “ngược đãi ông Phaolô và ông Banaba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ.” (Cv 13:50)    Nhờ rảnh tay với đồng bào, vị Tông Đồ dân ngoại đã dồn hết nỗ lực cho muôn dân.  Đúng hơn, “nhờ Thánh Linh hướng dẫn Giáo hội, lệnh truyền của chính Đức Giêsu (Cv 1:8) và sứ mệnh tiền định của Phaolô đã được hoàn thành (9:15)” (Faley 1994:326)   Chính vì thế, thay vì buồn tủi vì sự ngược đãi của anh em, “các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.” (Cv 13:52)   Nhờ đó, các ông mới đủ nghị lực và hăng say đến với dân ngoại.   Từ nay Dân Chúa “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ.” (Kh 7:9)   Dù vậy, Nước Chúa không bị lệ thuộc bất cứ nền văn hóa hay dân tộc nào.

PHỤC VỤ CON NGƯỜI.

Làm sao có thể phục vụ nhân loại trong một chiều kích lớn lao đó ?  Mọi người sống trên mặt đất đều là con của đất.   Nhưng thử hỏi mẹ đất có được đôi bàn tay như Thiên Chúa nâng đỡ con người không ?   Noi gương Thày chí thánh, Giáo hội không ngừng tìm cách làm cho đôi bàn tay Mẹ đất cũng có một vẻ đẹp giống như bàn tay Cha trên trời.  Vì con người cũng là hình ảnh của Cha trên trời, là con Thiên Chúa như Đức Giêsu.   Bởi thế, con người là một tặng phẩm cao quí đáng được cả bàn tay Thiên Chúa lẫn mẹ đất chăm sóc.  Sống giữa trăm ngàn khổ đau, con người cần phải được cứu độ, để những giá trị cao cả không bị vùi lấp đi với thời gian. Muốn thế, một mình Giáo hội không đủ khả năng.   Bởi vậy, Giáo hội không ngừng kêu gọi mọi người thiện chí hợp tác để đem lại cho thế giới một nền hòa bình và ấm no thực sự.

Nỗ lực đó đòi nhiều thời gian và phải bắt đầu từ sự kiên trì giáo dục con người.   Góp phần đào tạo con người, “nhà trường Công giáo nên là ‘những cộng đồng đức tin và phúc âm hóa năng động.’  Vào thời các bạn trẻ phải đối diện với một tương lai bất định vì sự toàn cầu hóa, văn hóa đảo lộn, chủ thuyết luân lý tương đối, và sự sụp đổ đời sống gia đình, nền giáo dục Công giáo nên cung cấp cho học sinh một cơ hội ‘đạt đến sự trưởng thành về nhân bản, luân lý, và thiêng liêng.  Nhờ được trang bị đặc tính kiên cường đó, chính các học sinh có thể trở thành những người tham gia tích cực vào việc tạo nên một thế giới công lý và hòa bình hơn.’” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 30/04/2001)   Không có một cái nhìn trung thực về con người không thể đào tạo con người theo chiều hướng tốt đẹp đó.   Thực vậy, nếu bị tha hóa vì những nhu cầu kinh tế và chính trị, làm sao con người có thể thấy được giá trị đích thực nằm sâu trong nhân tính và hoạt động nhân loại ? Ngay từ nhỏ nếu không được đào luyện theo hướng trung thực nhằm phục vụ nhân loại hữu hiệu hơn, làm sao con người có khả năng nhìn thấy nhu cầu lớn lao của người khác ?  Nếu được đào luyện trong một văn hóa cứng ngắc và chật hẹp, chắc chắn con người không thể thấy hết những chiều kích đích thực của con người.   Do đó, một cái nhìn hạn hẹp có thể giết chết con người và phá hủy xã hội.

Nhưng nếu đẩy con người lên mức toàn cầu hóa mà cũng chỉ giới hạn trong những phát triển kinh tế và kỹ nghệ, con người vẫn không thể phục vụ đúng mức.   Chỉ lo tới việc phát triển những giá trị thị trường, tất nhiên chính con người có thể bị quên lãng.   Chỉ phục vụ phương tiện, còn cứu cánh là con người lại bị bỏ rơi hay chà đạp.   Bởi đấy, “tiến trình toàn cầu hóa phải được ‘kiểm soát’ để kìm hãm những lạm dụng.  Việc toàn cầu hóa không thể trở thành một hình thức tân thuộc địa.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 27/04/2001)   Nhân loại đã quá đau khổ vì những chính sách thuộc địa đầy tham vọng trong quá khứ.   Không thể để bóng ma đó lại đè bẹp tương lai nhân loại.   Nói khác, việc toàn cầu hóa có thể loại trừ những nước kém mở mang và dành ưu đãi cho những nước phát triển.  Cộng đồng nhân loại cũng như cộng đồng dân Chúa không thể dành ưu đãi cho bất cứ hạng người nào.  Mọi người đều bình đẳng vì đều được Thiên Chúa yêu thương.

Muốn đạt được mức tiến bộ thực sự trong việc toàn cầu hóa, mọi người phải lấy con người làm gốc.   Muốn thế, “các nhà lãnh đạo phải ‘đặc biệt chú ý tới những hàm ẩn luân lý’ trong tiến trình toàn cầu hóa.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 27/04/2001)  Nếu không, tất cả tương quan xã hội đều qui về các yếu tố kinh tế.   Nói khác, “thị trường đã áp đặt lối suy nghĩ và hành động của nó, và ghi dấu bậc thang giá trị của nó trên cách cư xử.  Những người tùy thuộc vào đó thường thấy thị trường như một nạn lụt phá hoại, đe dọa những qui luật xã hội và văn hóa đã hướng dẫn họ trong cuộc sống. ” (ĐGH Gioan Phaolô II, VietCatholic 1/5/2001)   

Tuy thế, việc toàn cầu hóa “ngày càng gia tăng việc hủy bỏ những rào cản di dân, chuyển vốn và hàng hóa.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 27/04/2001)    Chỉ cần một chút ý thức và kiểm soát, việc toàn cầu hóa có thể trở nên hoàn hảo và ích lợi cho nhân loại.  Tự bản chất “việc toàn cầu hóa không tốt không xấu.   Nó sẽ trở thành cái gì tùy nhân loại” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 27/04/2001)  có biết xây dựng  việc toàn cầu hóa trên nguyên tắc tôn trọng con người và những khác biệt văn hóa giữa các dân tộc hay không.  Phải chăng toàn cầu hóa là cơ hội lớn Chúa mở ra cho Giáo hội đến với muôn dân như thánh Phaolô xưa ?   Giáo hội cần phải mở tung nhãn giới để lợi dụng cơ hội phục vụ nhân loại ngày càng hữu hiệu hơn.   Biết đâu trên bước đường toàn cầu hóa, nhiều con chiên sẽ có cơ hội “nghe tiếng Chúa” và “theo Chúa” để hưởng tất cả những êm dịu của bàn tay Thiên Chúa toàn năng !   Phải chăng đây là lúc Thiên Chúa “sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng,” (Ed 34:13) để vui hưởng cảnh hòa bình ?!

Lm. Giuse Đỗ vân Lực, OP

-------------------------------------

 

PS 4-C91: Chúa Nhật IV Phục Sinh


(Gio-an 10: 27-30)

 

Trong lịch sử Giáo Hội sơ khai, hình ảnh Chúa Giê-su, Đấng Chăn Chiên nhân lành, có ý nghĩa sâu xa: PS 4-C91


          Trong lịch sử Giáo Hội sơ khai, hình ảnh Chúa Giê-su, Đấng Chăn Chiên nhân lành, có ý nghĩa sâu xa và ơn trợ giúp cho Ki-tô hữu trong cơn bách hại.  Thánh đường nào cũng có hình tượng Chúa Giê-su vác trên vai một con chiên hoặc cầm gậy mục tử đi trước một đàn chiên.  Ngay cả trong hang toại đạo dưới lòng đất người ta cũng gặp hình ảnh này.  Như thế, ta tin rằng chủ đề Mục Tử nhân lành phải là rất quan trọng và đã được Tin Mừng Gio-an khai triển trong suốt chương 10.  Tuy nhiên, hình ảnh Chúa Chiên nhân lành không chỉ quan trọng thời xưa ở Rô-ma, mà còn quan trọng ở mọi nơi mọi thời nữa.  Bài Tin Mừng hôm nay trích dẫn vỏn vẹn bốn câu, nhưng cũng quá đủ để ta chiêm ngưỡng hình ảnh Chúa Giê-su, Mục Tử nhân lành, và suy nghĩ về quan hệ mật thiết giữa Chúa với ta.

1)  Ta là đoàn chiên của Chúa Ki-tô

          Trong Tin Mừng Gio-an, từ “người Do-thái” thường được hiểu là những kẻ thù của Chúa Giê-su.  Trả lời những “người Do-thái” không tin vào sứ mệnh của Chúa, Chúa Giê-su khẳng định:  “Các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi”.  Vậy ai là những kẻ thuộc về đoàn chiên của Người?  Với một mô tả thật ngắn gọn, Chúa Giê-su đã nói lên ba đặc tính cần thiết để ta có thể nhận diện ai là kẻ thuộc về đoàn chiên của Người:  đó là những ai nghe tiếng Chúa, được Chúa biết và theo Chúa.

          Nghe, biết và theo là những yếu tố căn bản tạo thành một quan hệ gắn bó giữa người chăn chiên và đàn chiên.  Chúa Giê-su lấy ngay kinh nghiệm ấy để áp dụng cho Người và đoàn chiên của Người.  Nghe ở đây không thể hiểu đơn thuần là một hành vi của thính giác, nhưng nó đã vượt lên một cấp độ cao hơn, diễn đạt một thái độ.  Nói khác đi, ta hiểu “nghe” nghĩa là hành động lắng nghe, hoặc hơn thế nữa, là thái độ vâng phục.  Tiếng Chúa hay lời Chúa là những điều Người giảng dạy được ghi lại trong Kinh Thánh.  Do đó con chiên lắng nghe tiếng Chúa tức là con chiên đón nhận và thực hành giáo huấn của Người.

          Nếu nghe là khởi đầu cho một quan hệ, thì biết sẽ đưa ta lên một mức độ cao hơn trong quan hệ ấy.  Ta đã quá quen thuộc với từ “biết” trong Kinh Thánh.  Nó không chỉ diễn tả hành vi của lý trí, nhưng sâu xa hơn, nó muốn nói đến một cái biết bằng trái tim, một quan hệ tình cảm hoặc một quan hệ vợ chồng (Lc 1:34).  Chúa Giê-su “biết” con chiên của Người có nghĩa là Người xác nhận và sống quan hệ mật thiết giữa Người với đoàn chiên.  Trong cái biết ấy, Ki-tô hữu không chỉ biết về Chúa Giê-su và giáo lý của Người, nhưng còn phải để cho con người Chúa Giê-su, lối sống và giáo lý của Người thay đổi họ, Ki-tô hóa họ để họ trở nên đồng hình đồng dạng với Người.

          Chúa nói đến đặc điểm thứ ba của đoàn chiên thuộc về Người:  “Chúng theo tôi”.  Ta không hiểu “theo” theo nghĩa đen của một đàn chiên ào ào bước theo người chăn chiên, nhưng là đi trên con đường vị Mục Tử nhân lành đang dẫn ta về quê hương đích thực là “đồng cỏ xanh, dòng suối mát”  (Tv 23) trên trời.  Ở đây, theo là cả một vấn đề khó khăn, vì con đường của Chúa là con đường hẹp, ít người muốn chọn lựa (Mt 7:13-14).  Hơn nữa, theo còn mang một ý nghĩa đòi hỏi phải “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8:34).  Thánh I-nhã thành Loyola đã thực sự hiểu được quan hệ “nghe, biết và theo” Chúa trong cảm nghiệm Linh Thao ngài để lại.  Các bài cầu nguyện trong Tuần thứ hai và thứ ba nhắm vào việc lắng nghe và quan sát Chúa Giê-su để biết Người rõ hơn, để yêu mến Người nồng nàn hơn và để theo Người trung thành hơn.

2)  Sự sống đích thực của ta được bảo đảm 

          Một người chăn chiên tốt luôn là bảo đảm chắc chắn cho sự an toàn của con chiên.  Người ấy sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo vệ đàn chiên.  Nhưng đó cũng chỉ thuộc phạm vi sự sống tự nhiên.  Còn Chúa Giê-su, Đấng Chăn Chiên nhân lành sẽ bảo đảm sự sống đời đời là sự sống đích thực cho ta.  Tình yêu đến “hy sinh mạng sống vì bạn hữu” của Người là nguồn gốc sự sống mới của ta, vì Người đã hy sinh mạng sống mình trên thập giá để ta được sống đời sống làm con cái Thiên Chúa.  Người đã trở nên “bánh bởi trời” để “đem lại sự sống cho thế gian” để “ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:33.51).

          Chúa Giê-su đã thách thức mọi quyền lực thế gian và ma quỷ trước bảo đảm của Người về sự sống đích thực của ta.  Ma quỷ lúc nào cũng như “sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” các con chiên của Chúa Giê-su.  Nhưng thánh Phê-rô khuyên nhủ ta hãy trông cậy Chúa:  “Mọi âu lo hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1 Pr 5:7-8).  Chắc chắn, Đấng Chăn Chiên nhân lành sẽ không để cho ma quỷ cướp ta khỏi tay Người và Người sẽ đưa ta về hưởng phúc trường sinh.

          Chúa còn cho ta biết thêm một bảo đảm khác, đó là quan hệ của Người với Chúa Cha.  Chính Chúa Giê-su đã thắng ma quỷ và tội lỗi để “cướp” ta ra khỏi móng vuốt của chúng và đưa ta về làm con cái Thiên Chúa, làm “một đàn em đông đúc” của Người (Rm 8:29).  Vậy nếu “Tôi (Chúa Giê-su) và Chúa Cha là một” (Ga 10:30), mà ta là em của Chúa Giê-su, thì ai có thể cướp được sự sống đích thực của ta nữa?

3)  Đấng Chăn Chiên nhân lành và đoàn chiên không chỉ đơn thuần là một hình ảnh đẹp

          Bức tranh hoặc tượng Đấng Chăn Chiên nhân lành luôn là một hình ảnh đẹp mọi thời.  Nhưng ta đừng quên ảnh tượng chỉ là phương tiện dùng để nói lên một thực tại.  Ki-tô hữu thời Giáo Hội sơ khai lấy hình ảnh đó để nâng đỡ mình trước bách hại và cố gắng sống như một cộng đoàn yêu thương gương mẫu.  Hôm nay, hình ảnh ấy vẫn còn và thật dễ dàng tìm thấy.  Nhưng sống thực tại một đoàn chiên theo một Chúa chiên thì có vẻ như khó khăn hơn cả ngày xưa.  Thay vì “nghe, biết và theo” thì người ta bịt tai lại trước những giáo huấn của Giáo Hội, kêu gọi người khác thù ghét và chống báng Giáo Hội.  Ngày nay có thật nhiều vị mục tử nhân lành đang bước theo chân Chúa Giê-su, chịu sỉ nhục và đóng đinh trên internet và những phương tiện truyền thông khác.  Nếu thực sự ta xưng mình là con chiên của Chúa Giê-su, ta hãy nhìn lại những đặc điểm mình phải có, để nhận thức lại mối quan hệ giữa ta với Đấng Chăn Chiên nhân lành mà xây dựng Giáo Hội ở trần gian, đồng hành với anh chị em môn đệ Chúa và tiến về quê hương đích thực của ta.

4)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Chúa Giê-su nói gì về căn tính của tôi hoặc quan hệ giữa tôi với Người qua hình ảnh Đấng Chăn Chiên nhân lành?  Tôi cảm nhận được những gì qua lời lẽ của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay?

          Với hình ảnh Chúa Giê-su Đấng Chăn Chiên nhân lành, tôi nhìn Giáo Hội nói chung và cộng đoàn giáo xứ nói riêng như thế nào?  Tôi phải làm gì để giúp cho hình ảnh ấy được đẹp mãi?

          Tôi thử xét lại quan hệ giữa tôi với Chúa Giê-su, Đấng chăn dắt tôi.  Tôi “nghe, biết và theo” Người như thế nào?

Cầu nguyện

          “Lạy Chúa Giê-su,
          xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
          Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương,
          để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.
          Xin cho Hội Thánh
          không ngừng lớn lên như hạt lúa.
          Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
          đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
          Ước gì Hội Thánh trở nên men
          được vùi sẵn trong khối bột loài người
          để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
          Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
          để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
          Xin cho Hội Thánh
          trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
          nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
          Cuối cùng xin cho chúng con
          biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
          nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
          Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
          nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên.  A-men.”
                             (Trích RABBOUNI, lời nguyện 61)

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

-------------------------------------

 

PS 4-C92: CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH


 (Lm. Anphong Trần Ðức Phương)

NGÀY CẪU NGUYỆN ĐẶC BIỆT CHO CÁC CHỦ CHĂN TRONG GÍAO HỘI.
NGÀY CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI  (World Day of Prayer for Vocation).
KINH CẦU NGUYỆN CHO  CÁC LINH MỤC ĐỤƠC ƠN THÁNH HÓA.
KINH CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI (Vocation Prayer).

 

Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh, thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Câu xướng trước: PS 4-C92


 Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh, thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Câu xướng trước Phúc Âm cuả các năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm Thánh Gioan (10,14): “Ta là Mục tử nhân lành, Ta biết chiên của Ta, và chiên của Ta  biết Ta!” Các bài Phúc Âm năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm của Thánh Gioan:10, 1-10 (Năm A); 10,11-18 (Năm B); 10, 27-30 (Năm C).

Trong các bài Tin Mừng trên đây, Chúa Giêsu xác định Ngừoi chính là cửa của đoàn chiên, và  cũng chính là người chăn chiên nhân lành. Chỉ những chủ chiên nào đi theo cửa của Ngừơi (theo đường lối của Người) mới là chủ chiên thật (Gioan 10,2).

Suy nghĩ về Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Cha M. D. Phillippe, O.P. viết những lời suy niệm sau đây:

“Mọi công việc trong cuộc đời truyền giáo của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn Nhân Lành, đều đơn  giản là những công việc của tình thương xót đối với đoàn chiên, đối với mọi người. Tuy nhiên, chính nơi cơn “hấp hối” tại vườn  “Cây Dầu” và trên Thánh Giá mà chúng ta cảm nghiệm được trọn vẹn Lòng Thương Xót của Chúa.

“Mọi khổ đau của những người tội lỗi, mọi hậu quả của tội lỗi, Chúa Kitô đều vui lòng mang lấy vào mình. Không một khổ đau nào của nhân loại xa lạ với Chúa Kitô. Người thấu suốt tất cả và mang lấy tất cả vào trong thâm sâu của trái tim Người. Người đã sống những giây phút thật căng thẳng mà không ai có thể cảm nghiệm được. Người mang lấy tất cả vì tình yêu vô biên đối với mọi người chúng ta. Tình thương xót của Chúa thật huyền diệu và đi đến tuyệt đỉnh!

“Là vị Mục Tử nhân lành, Chúa Kitô biết những điều Người phải làm. Người biết từng con chiên với những yếu đuối và những nhu cầu của từng con chiên. Người biết rằng để trở nên một Mục Tử nhân lành theo đúng ý nghĩa, người chủ chăn phải yêu mạng sống của con chiên hơn mạng sống của mình; phải muốn đặt mình vào hạng những người tội lỗi, vào hạng những người bị ruồng bỏ để có thể cứu vớt mọi người; phải dám ‘tự hủy ra không’ để có thể chấp nhận mọi bất hạnh, khinh chê, và bị coi như tầm thường hơn hết mọi người!

Khổ hình Thập Giá với ý nghĩa đặc biệt trọn vẹn của khổ đau để cứu chuộc, đã tỏ cho chúng ta thấy rõ tình thương xót vô biên của Chúa. Không từ chối gì cả, Người đã chấp nhận mọi khổ đau, mọi nhục nhã, mọi gánh nặng tới mức không còn có thể chịu đựng hơn được nữa. Như vậy, lòng Thương Xót của Chúa không phải chỉ ở chỗ tìm đến để giúp đỡ những người yếu đuối , mà còn ở chỗ, như một người mẹ, cúi mình xuống tận những kẻ đã sa ngã và cúi xuống sâu hơn họ để cứu vớt họ và nâng họ lên (chứ không phải kéo họ lên ; Người đã vác con chiên lạc lên vai và đưa về đoàn,  đưa  về lại cuộc sống).

Tự hạ mình xuống sâu thẳm,  Chúa Kitô đã muốn bị coi như kẻ đáng tội hơn cả Babara (Mat-theu 27,16...), như một kẻ tội phạm công khai, như một kẻ nói phạm thượng, như một kẻ thù của lề luật Moise, kẻ không chịu giữ ngày Sabat, một kẻ nguy hiểm quấy phá dân chúng. Hơn nữa, Chúa Kitô còn muốn trở nên như một đồ vật mà người ta che mắt không dám nhìn, đến nỗi khi đã chết rồi còn bị người ta đâm vào cạnh sườn thấu tới trái tim.

“Như vậy, Tình thương xót của Chúa là một thực thể bao quát tất cả con người , không một chi thể nào trong thân thể của Người  không bị thương tích, và linh hồn Người cảm thấy buồn sầu đến chết đi trong cơn hấp hối (Mat-thêu 26,38).

Hy lễ thập giá thật là một sự tôn thờ tuyệt đỉnh và cũng biểu lộ tình Chúa thương xót đến tuyệt đỉnh. Nơi trái tim của Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá vừa mang sự Thờ Phượng (Chúa Cha), vừa mang tình thương xót nhân loại như anh em để giúp đỡ họ, an ủi họ, chuộc lấy mọi tội lỗi của họ và đem lại cho họ nguồn sống mới.” (Dịch theo bản tiếng Anh, trong Magnificat, April 2005, Fourth Sunday of Easter; những chữ ở ngoặc đơn là chú thích của người dịch).

Ðọc những dòng trên đây, chúng ta càng hiểu biết sâu xa hơn tình thương xót cuả Chúa Giêsu, Ðấng Chăn chiên nhân lành, đối với đoàn chiên như thế nào, đến nỗi đã chấp nhận mọi khổ đau đến cùng cực và đổ đến giọt máu cuối cùng cho đoàn chiên của Chúa! Và khi không còn sống ở trần gian nữa, Người vẫn tiếp tục “nuôi sống đoàn con” bằng chính Mình và Máu Thánh Người hiện diện thật sự trong Hình Bánh và Hình Rượu (Bí tích Thánh Thể), và thánh hóa đoàn chiên bằng các “phép Bí tích nhiệm mầu.”

Thực sự, qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn ở với Giáo Hội “ mọi ngày cho đến tận thế!”( Mattheu 28,20) Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn chính điều hành Giáo Hội và qua các thời đại Chúa luôn luôn dẫn dắt đoàn chiên Chúa nhờ sự lãnh đạo của các vị chủ chăn Chúa chọn. Chúa đã chọn Thánh Phêrô và các Thánh Tông đồ và thành lập Giáo Hội Chúa kể từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Ngài và thánh hóa các Ngài. Từ đó, qua từng thế kỷ, Chúa vẫn tiếp tục gọi và chọn một số người để làm Chủ chiên chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.

Chúa chọn ai?

“Chúa chọn những người mà Chúa muốn (Matco 3,13 ) và trao cho những nhiệm vụ theo Thánh ý Chúa: Người thì làm Tông đồ, người thì làm Ngôn sứ, người thì chuyên rao giảng Tin mừng, người chuyên lo việc quản trị và giảng dạy... (Thơ Epheso 4,11). Không ai có quyền đặt mình vào địa vị trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều do Chúa chọn và cắt đặt .

“Nhưng tại sao Chúa chọn con?”

Vào những ngày sắp chịu chức Linh Mục, theo sự hướng dẫn của Cha Linh hướng và Cha Giảng Phòng (giảng tĩnh tâm để chuẩn bị chịu chức Linh mục) tôi thường cầu nguyện và nói thầm với Chúa: “Tại sao Chúa chọn con?”... Rồi vào ngày Lễ Truyền Chức cũng như dịp Lễ “Mở Tay” (Lễ Tạ Ơn) tôi thật cảm động khi nghe ca đoàn hát: “Không phải vì con Chúa chọn con! Nhưng vì bí nhiệm tình yêu Chúa!.

Vâng, “không phải vì con Chúa chọn con” nhưng Chúa chọn “những ai mà Chúa muốn” (Matcô 3,13), sau khi Chúa đã lên núi một mình để cầu nguyện suốt đêm (Luca 6,12 ). Ðó thật là một sự kỳ diệu của Ơn Gọi theo Thánh Ý Chúa. Chúa gọi Phêrô dù Ông đã “chối Chúa tới ba lần dù Chúa đã cảnh cáo Ông trước!” và lại còn đặt Ông làm Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa đã chọn Phaolô ngay trên con đường Ông đi tìm bắt và bách hại đoàn chiên non trẻ của Chúa! Và suốt đời Ông vẫn phải mang những “yếu đuối” của mình ‘Ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối!’... (2 Cor. 11,29 ) Mọi người được Chúa gọi và chọn đều cảm thấy mình bất xứng và thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó”  như Ðức Ðương Kim Giáo Hoàng Benedicto XVI, khi được bầu chọn lên ngôi Giáo Hoàng, trong “Lời Tâm Tình Ðầu Tiên của Ngài” cũng chia sẻ kinh nghiệm đó: “Tôi cảm thấy bất xứng và... thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó...” nhưng “Ơn Chúa đủ cho tôi!”  (2Cor. 12,9…); nên Ðức Giáo Hoàng cũng nói tiếp: “Tôi cảm thấy như bàn tay quyền năng của Thiên Chúa nắm chặt lấy tay tôi. Tôi như nhìn thấy ánh mắt tươi cười của Chúa và lắng nghe Chúa nói với tôi đặc biệt vào lúc này: “Con đừng sợ!”. Với tâm tình đó, những người được chọn đều khiêm tốn như Mẹ Maria để thưa lời “Xin Vâng!”.

Như vậy, chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu đã “lên núi thức suốt đêm để cầu nguyện” (Luca 6,12) trước khi chọn các Tông đồ. Hơn nữa trong đêm trước khi tự trao mình để chịu cuộc khổ nạn để cứu chuộc nhân loại, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa  đã cúi mình xuống để rửa chân cho các Tông đồ để dạy cho các Ông  bài hoc phục vụ trong khiêm tốn  và Chúa đã tâm tình và căn dặn các tông đồ nhiều điều mà Phúc Âm theo Thánh Gioan đã ghi lại suốt các đoạn 13, 14, 15; còn toàn đoạn 17 ghi lại những lời Chúa Giêsu cầu nguyện thiết tha với Ðức Chúa Cha cho các Tông đồ đang hiện diện, cũng như cho các Chủ chăn qua mọi thời đại; đặc biệt trong câu “Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian; nhưng xin gìn giữ họ khỏi mọi sự dữ!” (Gioan, 17,15).

Trong thời gian giúp các giáo xứ Hoa Kỳ, khi gặp gỡ Giáo dân, thường có những người sau khi chào hỏi đã nói với tôi một cách thân tình “Thank you Father for being a priest!” (Cám ơn Cha đã là một Linh Mục!”. Chúng ta thường có lòng yêu mến và hằng cầu nguyện cho các chủ chăn trong Giáo hội; nhưng đặc biệt trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh và lời cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng cũng như cho các chủ chăn trong toàn thể Giáo Hội, cách riêng các chủ chăn Chúa sai đến làm việc giữa chúng ta.

Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh cũng là Ngày Thế Giới đặc biệt cầu nguyện cho Ơn Gọi (World Day of Prayer for Vocations): Trong Thánh lễ cũng như trong các kinh nguyện, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho có nhiều người được Chúa gọi và chọn để trở nên các nhà Truyền giáo và Chủ Chăn để rao giảng và chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.Chúng ta cũng  cầu xin với  Mẹ Maria, Mẹ Hàng Gíao Sĩ, chuyển cầu cho chúng ta.

KINH  CẦU  CHO  CÁC  LINH  MỤC.

   Lạy Chúa Giêsu/ là linh mục cao trọng, là Đấng tế lễ đời đời. Bởi lòng quá yêu dấu loài người là anh em của Chúa, nên Chúa đã mở kho tàng Trái Tin cực thánh Chúa, mà lập ra chức vị linh mục, thì nay chúng tôi cũng xin Chúa khấn đổ vào lòng các linh mục / nhửng dòng nước trường sinh / bởi lòng thương yêu vô cùng Trái Tim Chúa.

       Xin Chúa sống trong mình các linh mục/ và dùng các Ngài, mà ban phát ơn lành của lòng thương xót Chúa. Xin Chúa hành động với các linh mục, và dùng các Ngài/ mà hành động trong thế gian.

 Lại xin Chúa làm cho các linh mục được hoàn toàn giống Chúa, mà trung thành bắt chước các nhân đức cao trọng của Chúa, để nhân danh Chúa/ và nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần, các Đấng ấy nhiệt thành/ làm những việc xưa Chúa đã làm/ mà cứu người ta cho được rỗi.

 Lạy Đấng Cứu Chuộc loài người! Xin Chúa nhìn xem biết bao nhiêu kẻ /đang nằm trong bóng tối tăm lầm lạc. Xin Chúa xem đến vô số giáo hữu theo đường tội lỗi/ hòng sa xuống vực sâu.

 Xin Chúa trông đến biết bao người bần cùng đói khát, những người dốt nát mê muội, và nhửng kẻ yếu đuối nhát hèn/ đang rên rỉ than khóc/ vì không có linh mục coi sóc, giữ gìn.

 Xin Chúa dùng các linh mục mà ở lại với chúng con. Xin Chúa sống trong mình các linh mục, và dùng các Ngài mà hành động, và trở lại dưới thế gian này/ mà dạy dỗ, tha thứ, yên ủi, tế lễ/ và kết hợp mối tình yêu mến, ràng buộc lòng Chúa với loài người chúng con cho đến trọn đời. Amen

KINH CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI

Lạy Thiên Chúa chí ái, Giáo Hội Chúa đã được Chúa thương ban cho những linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ, các thành viên tu hội đời, các tông đồ giáo dân / luôn tận hiến để  hằng ngày đem Chúa đến cho mọi ngừơi trên  khắp thế giới . Xin Chúa giúp các vị đó  luôn kiên cường  trong sứ vụ. Xin Chúa cũng kêu gọi thêm nhiều người  cùng tham gia trong công cuộc phục vụ dân Chúa . Amen.

-------------------------------------

 

PS 4-C93: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH


(Gio-an 10: 27-30)

 

Bài Tin Mừng Chúa Nhật III đã giúp ta nhìn ngắm những hành động yêu thương của Chúa Giê: PS 4-C93


          Bài Tin Mừng Chúa Nhật III đã giúp ta nhìn ngắm những hành động yêu thương của Chúa Giê-su phục sinh, vị Mục Tử nhân lành, chăm sóc cho đoàn môn đệ đang cần lấy lại sức lực và tin tưởng khi Người hiện ra với họ bên bờ hồ Ti-bê-ri-a.  Nhưng hôm nay, trả lời cho những người Do-thái thắc mắc về chân tính của Người, chính Chúa Giê-su đã khẳng định với họ Người là Mục Tử nhân lành và câu trả lời của Người đưa nhân loại tới một thực tại làm cho ta cảm thấy được an ủi vô cùng, tức là lòng yêu thương và chăm sóc của Thiên Chúa dành cho ta luôn vững bền.  Đồng thời Chúa Giê-su cũng hé mở cho ta thấy chân lý về quan hệ mật thiết giữa Người với Chúa Cha:  “Tôi và Chúa Cha là một.”  Vậy Chúa Giê-su sẽ nói gì với ta qua sứ vụ của Người là chăm sóc đàn chiên Chúa Cha đã trao phó cho Người?

 a)  Quan hệ giữa mục tử với chiên

          Trước đây trong bài diễn từ về vị Mục Tử nhân lành (Ga 10:1-18), Chúa Giê-su đã nói đến tác phong của Mục Tử nhân lành, mà cao điểm là “tự ý hy sinh mạng sống mình” cho đoàn chiên.  Nhưng sau đó, khi trả lời chất vấn của người Do-thái về chân tính của Người, Chúa Giê-su lại cho họ thấy một hình ảnh sống động về Giáo Hội đang trên đà phát triển trong quan hệ ba chiều:  Chúa Cha – vị Mục Tử nhân lành là Chúa Giê-su – và đàn chiên là các tín hữu.

          Có lẽ nhắc lại một chút hoàn cảnh lịch sử sẽ giúp ta hiểu rõ hơn tại sao Chúa Giê-su lại cứng rắn nói về Giáo Hội của Người như thế.  Trong Tin Mừng Gio-an, những từ  “người Do-thái” được hiểu là kẻ thù của Chúa Giê-su và Giáo Hội Người.  Ghi lại hình ảnh “người Do-thái vây quanh Đức Giê-su” (Ga 10:24), thánh Gio-an muốn ngầm nói lên hoàn cảnh khó khăn của Giáo Hội trước sự kiện Do-thái giáo khai trừ Ki-tô hữu và đuổi họ ra khỏi cộng đồng Do-thái, hoặc cố gắng lôi kéo Ki-tô hữu trở về với họ (“ăn trộm” chiên của Chúa Giê-su).  Do đó, khi lập lại những lời đanh thép của Chúa Giê-su, Gio-an muốn nói với các tín hữu rằng họ có Chúa Giê-su là vị Mục Tử nhân lành, nên họ cứ vững tâm và hãy đặt tất cả lòng tin nơi Người và sống mối quan hệ mật thiết với Người.

          Mối quan hệ mật thiết ấy bắt nguồn từ Chúa Cha, Đấng đã ban Giáo Hội cho Chúa Giê-su.  Xưa chính Người đã trao đàn chiên là dân Người tuyển chọn vào tay Đa-vít tôi tớ Người thế nào (2 Sm 5:2), thì nay Người cũng trao Hội Thánh là Dân Mới của Người cho Chúa Giê-su dẫn dắt như vậy.  Nhiều lần Chúa Giê-su đã xác nhận:  “Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:39; xem 17:1-12; 18:9).  Động lực khiến Chúa Cha ban cho Chúa Giê-su tất cả, đó là do lòng yêu mến (Ga 3:35).  Vì đàn chiên là quà tặng do Chúa Cha ban, nên nó có giá trị cao cả và bởi đó Chúa Giê-su đã trân trọng yêu mến giữ gìn để không ai cướp được chúng khỏi tay Người.  Đàn chiên ấy được Chúa Cha ban cho một mình Chúa Giê-su mà thôi, chứ không ban cho ai khác (tức là những nhà lãnh đạo Do-thái giáo).  Nói tóm lại, mối quan hệ giữa Chúa Cha, Chúa Giê-su và Giáo Hội là mối quan hệ yêu thương, lấy yêu thương làm động lực để trao ban, để gìn giữ, để tôn vinh và cuối cùng để “ở lại” trong nhau.

 b)  Niềm hãnh diện của vị Mục Tử

          Ta cảm nhận như nhìn thấy hình ảnh vị Mục Tử chỉ tay vào đàn chiên của mình và thách thức nói với kẻ thù:  “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.  Tôi ban cho chúng sự sống đời đời;  không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10:27-28).  Chắc chắn những lời tuyên bố này vô cùng cần thiết cho Giáo Hội đang bị kẻ thù vây quanh và bách hại.  Những lời đầy an ủi và khích lệ này sẽ giúp cho Ki-tô hữu thêm phấn khởi mà theo Chúa và không khiếp đảm trước đe dọa của kẻ thù.  Vị Mục Tử của ta hãnh diện vì ta là những Ki-tô hữu đích thực.  Nghe tiếng, biết và theo là những động tác chính của một mối quan hệ.  Không chỉ nghe bằng đôi tai, nhưng nghe với tất cả trái tim.  Không chỉ biết bằng óc não, nhưng là “biết cả đường đi lối về”, cái biết sống động được biểu lộ qua những trao đổi yêu thương.  Không chỉ theo khi nào có lợi và thích, nhưng là theo mà đánh đổi mọi sự, theo mà dám liều mất mạng sống (Mc 8:34-35).

          Chính vị Mục Tử của ta đã làm gương mẫu cho lối sống quan hệ yêu thương ấy.  Người đã chết cho ta, chỉ vì Người nhắm đến tương lai của ta là sự sống đời đời.  Để giúp cho ta được sống đời đời, Người phải chấp nhận cái chết.  Người hãnh diện vì ta được bảo đảm có sự sống vĩnh cửu và sẽ không bao giờ bị diệt vong.

 c)  Đáp lại tình thương của vị Mục Tử

          “Tôi và Chúa Cha là một.”  Lời tuyên bố không chỉ nói về bản tính Thiên Chúa của Chúa Giê-su, mà còn cho ta biết những gì Người làm cho chúng ta với tính cách là Thiên Chúa.  Người Do-thái nghe những lời ấy liền phản ứng mãnh liệt:  họ lấy đá để ném Chúa Giê-su cho chết.  Nhưng Người tránh đi.  Còn đối với ta, những lời ấy lại rất an ủi và hiện thực, vì tình Thiên Chúa yêu ta không còn trừu tượng nữa, nhưng đã được cảm nghiệm qua con người bằng xương thịt của Chúa Giê-su, y hệt như ta cảm nghiệm được tình yêu thương nơi cha mẹ hoặc nơi những người yêu thương ta.

          “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.”  Đón nhận tình thương của vị Mục Tử là đón nhận sự sống, trái lại, “kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết” (1 Ga 3:14).  Nhưng nếu ta không sống trong mối quan hệ với Người thì ta không thể đón nhận tình thương của Người.  Sống mối quan hệ với Chúa, ta sẽ “nghe, biết và theo” Người.  Nghe Người nói với ta qua Kinh Thánh và trong cầu nguyện.  Biết Người khi ta nhận thức Người yêu ta và ta cố gắng đáp lại tình yêu của Người.  Theo Người khi ta gắn bó với lối sống của Người và chống lại tất cả những cám dỗ lôi kéo ta xa Người.

          Giáo Hội là môi trường thuận tiện nhất để ta sống mối quan hệ yêu thương, đối với vị Mục Tử cũng như đối với những con chiên khác.  Hình ảnh Giáo Hội không thể bị phai nhòa vì khía cạnh loài người.  Nhưng niềm hãnh diện của vị Mục Tử nhân lành đã trở nên nguồn khích lệ nâng đỡ Giáo Hội và các tín hữu mỗi ngày một trở nên tinh tuyền hơn, để lời cầu nguyện của vị Mục Tử được thể hiện:  “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.”

 d)  Suy nghĩ và cầu nguyện

 Sống trong lòng Giáo Hội từ lâu rồi, nhưng tôi có thực sự ý thức vai trò của Chúa Giê-su là vị Mục Tử nhân lành không?  Hay hình ảnh tôi có về Giáo Hội cũng giống như một tổ chức trần gian với những bầu bán, tranh dành chức vị, đến để khoe khoang...?

          Giả như Chúa Giê-su chỉ vào tôi và nói:  “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi...”, tôi sẽ cảm thấy như thế nào?  Có thực sự như Chúa nói không?  Và tôi có là sự hãnh diện của Người không?  Tôi phải xét lại quan hệ với Người như thế nào và làm sao cho quan hệ ấy tốt đẹp hơn?

          Tôi sẽ biểu lộ với Người tâm tình nào trước việc Người tự ý hy sinh mạng sống cho tôi?

 Cầu nguyện:

          “Lạy Chúa Giê-su, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
          Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương,
          để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.
          Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.
          Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
          đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
          Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người
          để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
          Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
          để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
          Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
          nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
          Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
          nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
          Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
          nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên.  A-men.”
                                      (Trích RABBOUNI, lời nguyện 61)

 Lm. Đaminh Trần Đình  Nhi
30-4-2004

-------------------------------------

 

PS 4-C94: CHÚA CHIÊN LÀNH


Ga 10, 27 – 30

 

Sự ồn hối hả, ồn ào, náo nhiệt... của thế giới ngày nay đã làm cho con người khó nhận ra tiếng nói: PS 4-C94


Sự ồn hối hả, ồn ào, náo nhiệt... của thế giới ngày nay đã làm cho con người khó nhận ra tiếng nói của nhau. Người Kitô hữu chúng ta sẽ không dễ nhận ra tiếng Chúa nếu chúng ta cứ mãi chìm sâu trong vòng xoáy của cuộc đời. Vậy làm thế nào để chúng ta nhận ra tiếng Chúa nói với ta trong đời sống hằng ngày?

Nội dung Chúa nhật hôm nay, Giáo hội dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn Thiên triệu, cầu nguyện cho có nhiều bạn trẻ luôn biết mở rộng lòng mình để lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa gọi sống đời dâng hiến. Đồng thời, chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho các vị mục tử trong Giáo hội luôn sống thánh thiện và nhiệt thành với sứ vụ của mình.

Trong bài PÂ hôm nay, CG đã nói: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi...". Vâng! Chúng ta được gọi là Kitô hữu, là đoàn chiên của Chúa khi chúng ta đã được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Nếu chúng ta xưng mình là Kitô hữu thì chúng ta phải lắng nghe lời dạy dỗ của CG là Vị Mục Tử Nhân Lành. Chúng ta sẽ được nghe tiếng Chúa qua:

+ Thánh lễ: Trong Thánh lễ với các bài đọc Kinh Thánh và lời giảng huấn của linh mục, chúng ta sẽ dễ dàng được nghe lời Chúa dạy.

+ Tha nhân: Chúa kêu gọi chúng ta sống bác ái khi Chúa gởi những người nghèo đói, bệnh tật... đến với chúng ta; Chúa kêu gọi chúng ta hãy tha thứ, hãy yêu thương những người thường chống đối, chỉ trích, ghen ghét chúng ta; Chúa kêu gọi chúng ta hãy an ủi, mang niềm vui đến những người đang buồn chán, thất vọng...

+ Lương tâm: Chúa kêu gọi chúng ta hãy sống theo lương tâm ngay thẳng: đừng vì lợi lộc cá nhân mà gian dối trong mọi công việc mình đang làm để rồi nhiều người khác phảin chịu đau đớn do những việc xấu chúng ta đã gây ra.

* Câu chuyện về 2 thanh niên thôn quê và thành thị...

Kết luận

Tóm lại, qua bài PÂ hôm nay, Chúa mời gọi mọi người chúng ta hãy lắng đọng tâm hồn hướng về Chúa vì khi hướng về Chúa thì chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa được.

Đặc biệt, chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho con em chúng ta và những người trẻ trong Giáo hội luôn biết mở rộng lòng mình đáp lại lời mời gọi của Chúa, làm môn đệ của Chúa trong đời sống tu trì.

Chúng ta cũng đừng quên cầu nguyện cho Cha sở chúng ta luôn được khỏe mạnh để chăm lo cho họ đạo ngày một thăng tiến hơn. Amen

-------------------------------------

 

PS 4-C95: CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C


Ga 10, 27 – 30

 

Thiên Chúa yêu thương dân Người. Bài phúc âm hôm nay cho thấy điều đó. Tình thương của Thiên: PS 4-C95


Thiên Chúa yêu thương dân Người. Bài phúc âm hôm nay cho thấy điều đó. Tình thương của Thiên Chúa được thể hiện cụ thể nơi Đức Giêsu. Ngài yêu thương và chăm sóc từng con người như hình ảnh người chủ chiên chăm sóc từng con chiên. Để đón nhận tình thương của Ngài, chúng ta hãy biết nghe và bước theo Vị Mục Tử Giêsu.

Những trang đầu tiên trong Thánh kinh cho thấy Thiên Chúa vì yêu thương nên đã dựng nên con người. Vậy mà Con người đầu tiên đã phản bội lại tình thương ấy. Họ đã đi theo con đường mình, đã quay lại với tiếng gọi yêu thương. Con người thất bại hoàn toàn trong cuộc sống ơn gọi làm người và làm con cái Chúa của mình, phải chết đời đời. Là thụ tạo phát sinh từ bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa, con người được đặt định trở về với đôi bàn tay yêu thương ấy, nhưng con người đã phá đổ chương trình ấy khi phạm tội, khước từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Ngài yêu thương đến cùng, Ngài sửa chữa lại bằng cách cho Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người và trao cho Đức Giêsu một sứ mạng, một chương trình cứu độ cần phải hiện thực qua cuộc sống, lời giảng dạy, sự chăm sóc ân cần và cuối cùng của tình yêu là chịu chết trên thập giá "thí mạng sống" mình vì đàn chiên.

Vì thế, Chúa Giêsu chính là vị mục tử tốt lành, yêu thương và tận tuỵ chăm sóc đàn chiên. Chính Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời (Ga 10, 28) và không ai có thể đánh cắp, giựt mất đàn chiên tín hữu khỏi bàn tay của Ngài. Do đó về phần mình, là những con chiên, là công dân của Chúa, chúng ta hãy "nghe tiếng Chúa" và "bước theo Chúa" vì "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta". Chiên con phải biết lắng nghe chủ chiên Giêsu. Nghe tiếng Giêsu là tin nhận Lời của Ngài và bước theo Ngài, can đảm dấn thân sống Lời Chúa một cách tự do và chủ động, sống gắn bó thiết thân với Chúa, để cho Lời Chúa thấm sâu vào lòng mình và quyết định sống theo những gì Ngài muốn, thực hành giáo huấn của Chúa trong hoàn cảnh sống hằng ngày. Thái độ vâng nghe lời ấy được thể hiện trong sự cộng tác, đóng góp vào các sinh hoạt của họ đạo, làm cho họ đạo trở thành một môi trường đầy yêu thương bác ái, tương trợ lẫn nhau như trong cộng đoàn Kitô tiên khởi thời các thánh tông đồ. Như thế, tiếng Chúa đang vang dội từng ngày, từng giờ. Nó thúc bách chúng ta hăng hái, nhiệt tình, dấn thân theo Chúa trên mọi nẻo đường yêu thương, phục vụ, hy sinh. Yêu thương, phục vụ đến chỗ không còn tìm gì cho riêng mình, không giữ lấy gì cho riêng mà cho lợi ích người khác.

Do đó, làm con chiên nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa là như thế. Làm người có đạo hôm nay dám sống đạo thật là như thế. Nghe tiếng Chúa và dám bước theo Chúa trong xã hội chúng ta hôm nay phải như thế, và như thế nhất định chúng ta sẽ được sống đời đời, không một sức lực nào có thể cướp giựt chúng ta khỏi tay Thiên Chúa.

Tuy nhiên, theo Chúa đòi người chúng ta phải gắn bó và ràng buộc cuộc đời mình vào Chúa. Điều này đòi chúng ta phải từ bỏ chính mình, phải có một con tim yêu thương và một mối quan hệ mật thiết với Chúa để chúng ta đừng đi lạc xa khỏi đoàn chiên và vị chủ chăn tốt lành. Đôi khi cuộc sống xô bồ và những lời ngọt ngào của thế gian dễ làm chúng ta rời bỏ đàn chiên. Chúng ta muốn đi xa khỏi tầm nhìn của Chúa đến độ Người không nhìn ra chúng ta. Không còn muốn nghe lời của chủ chiên. Vì không còn thấy Chúa lắng nghe, không còn chăm sóc chúng ta nên chúng ta dễ cất bước theo tiếng gọi ngọt ngào của thế gian. Thế nhưng, Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành vẫn yêu thương và tìm kiếm cũng như tha thứ cho chúng ta. Ngài biết rõ từng tên, từng nhu cầu của mỗi người chúng ta. Không chỉ biết, người còn cảm thông với từng hoàn cảnh của chúng ta. Người biết tận đáy lòng chúng ta, nên Người có thể chăm sóc, ủi an từng người chúng ta.

Hơn thế nữa, Người còn cho chúng ta một món quà quí giá là sự sống đời đời, sự sống của chính bản thân Người. Người đã dùng chính sự sống mình mà chuộc lấy và bảo vệ đàn chiên là chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy sẵn sàng để cho Người chăm sóc, lo lắng cho chúng ta.

Chúa nhật IV Phục sinh hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cho các giáo sĩ và tu sĩ. Chúng ta cầu nguyện cho tất cả những người hiến đời mình để phục vụ Thiên Chúa và đoàn chiên Chúa, Giáo Hội. Và nhất là cầu nguyện xin Chúa ban ơn khuyến khích những người trẻ, biết đáp lại một cách ngay lành và quảng đại ơn gọi của Chúa để phục vụ những anh chị em khác, giúp mọi người nghe và hiểu được lời mời gọi của vị chủ chăn duy nhất trên con đường tiến đến sự sống đời đời. Giáo Hội đang thiếu các mục tử và nhất là các mục tử tốt lành, chúng ta hãy cầu xin cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của Chúa và nhất là có đủ can đảm để bước theo tiếng gọi đó bằng cuộc sống dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân... Sự hy sinh hầu như tuổi trẻ có thừa, nhưng cần rất nhiều yếu tố xã hội góp phần để tuổi trẻ thực hiện quyết định hy sinh, quảng đại của mình: cha mẹ, gia đình, và họ đạo có đóng góp phần đào tạo ơn gọi thì ơn gọi mới nảy nở và mới được đảm bảo. Trong sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: "Tôi nói với bậc cha mẹ, dựa vào lòng tin, rằng họ có thể nếm hưởng niềm vui của ân sủng sẽ vào nhà họ, khi một con trai hay con gái của họ được Chúa gọi để phục vụ Ngài...

Đặc biệt, tôi hướng về giới trẻ của ngày nay và tôi nói với họ: Hãy dể cho Đấng Vĩnh Cửu quyến rủ các bạn, và tôi lập lại lời ngôn sứ Giêrêmia (20,7): "Ngài đã làm cho tôi say mê, lạy Chúa...Ngài đã chinh phục tôi và Ngài đã mạnh hơn tôi"..."Hãy để Đức Kitô quyến rủ các bạn. Hãy để gương Ngài lôi cuốn các bạn. Hãy để tình yêu của Thánh Thần yêu mến các bạn...Hãy say mê Đức Kitô để sống cuộc đời của Ngài, hầu nhân loại có sự sống trong ánh sáng Tin Mừng...". Ngài còn nhấn mạnh: "Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời". Cuối cùng, Ngài giao phó giới trẻ cho Đức Trinh Nữ Maria, đặc biệt các thanh thiếu niên đã được gọi bước theo Chúa Giêsu. Mẹ biết rõ tất cả những khó khăn, chiến đấu và trở ngại các bạn trẻ phải trải qua. Xin Mẹ giúp các bạn trẻ biết nói lên câu: "Xin Vâng" đáp trả tiếng gọi của Chúa, như mẹ đã thưa khi được Sứ thần truyền tin.

Còn phần chúng ta, mỗi người nhất là giáo dân chúng ta phải biết quảng đại, hy sinh phục vụ dân Chúa trong cộng đoàn họ đạo chúng ta bằng những lời xây dựng yêu thương, bằng những đóng góp kẻ công người của để phục vụ cộng đoàn của mình. Tóm lại, mỗi người phải luôn ý thức rằng mọi việc trong họ đạo không phải chỉ là việc của linh mục, mà là của tất cả mọi người. Chúng ta hãy lắng nghe và bước theo chân Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, để tiến về cuộc sống vĩnh cửu trong sự tươi vui phấn khởi, sẵn sàng dấn thân hy sinh và chia sẻ những khó khăn cho anh chị em đồng loại.

Lạy Chúa Giêsu là Mục tử tối cao, cám ơn Chúa đã yêu thương, tận tình chăm sóc chu đáo cho chúng con là đàn chiên Chúa, tận tình đến nỗi đã hy sinh mạng sống mình chết cho đàn chiên để chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho nhiều người can đảm bước theo Chúa để được nhận làm tông đồ truyền bá tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng con biết lắng nghe và bước theo Chúa một cách dứt khoát để không phụ tình Chúa đã yêu thương mà cứu chuộc chúng con. Amen.

-------------------------------------

 

PS 4-C96: CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH


Ga 10, 27 – 30

 

Các em vừa nghe đọc Tin Mừng của thánh Gioan, nhưng bây giờ, thầy chỉ chọn một câu để chia sẻ: PS 4-C96


Các em vừa nghe đọc Tin Mừng của thánh Gioan, nhưng bây giờ, thầy chỉ chọn một câu để chia sẻ với các em thôi. Và để các em nhớ và thuộc câu này, thầy mời gọi các em cùng đọc với thầy: "Con chiên ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta".

1. Trong câu LC các em vừa đọc, thánh Gioan có nhắc đến tên một con vật, con đó là con gì? TL: Chiên. Các em biết, hôm nay là Chúa Nhật IV Phục sinh, còn có tên gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chúa dùng hình ảnh quen thuộc của người Do Thái là con chiên và người chăn chiên để nói lên Chúa luôn yêu thương và quan tâm chăm sóc các em trong cuộc sống hằng ngày. Chúa thì thương lo cho mình, còn mình là thiếu nhi phải đáp lại thế nào đây?

Trong câu Lời Chúa các em vừa đọc, Chúa dạy mình đáp lại bằng cách nghe và theo Chúa, theo thầy, cụ thể qua việc đến nhà thờ học giáo lý mỗi Chúa Nhật.

2. Ở đây, các em học giáo lý lúc mấy giờ, thứ mấy? Học giáo lý chính là theo Chúa và nghe Chúa. Thế nhưng, đang lúc các em học giáo lý, có những bạn khác không nghe theo tiếng gọi của Chúa mà theo những tiếng khác để đi chơi game, đi đá banh, đi đám cưới với bố mẹ, đi siêu thị với người thân ... Còn cũng có những em tốt hơn chút, cũng đi học giáo lý, nhưng lúc dì hay giáo lý viên cắt nghĩa giáo lý, em đánh cờ carô với bạn, em thọt léc bạn bên cạnh, em ngồi ngủ, hoặc lo ra nghĩ chuyện đâu đâu đó. Đó là những hành động cho thấy em hỏng muốn nghe tiếng Chúa.

Các em thân mến! Lý do các em không muốn đi học giáo lý và chơi giỡn trong giờ giáo lý vì mình chưa thấy sự quan trọng của việc học giáo lý. Thầy nói cho em biết học giáo lý quan trọng thế nào qua bài cám ơn của một em rước lễ lần đầu ở họ đạo thầy: " Sau khi rước lễ lần đầu xong, một em thiếu nhi đứng giữa nhà thờ đọc bài cám ơn, rất đông người trong nhà thờ đang lắng nghe, sau khi cám ơn Cha sở, các giáo lý viên, em bắt đầu cám ơn cha mẹ em: Kính thưa cha mẹ, cha mẹ thương con nhiều, con không biết cha thương con đến mức nào nhưng con hiểu được tình thương bao la của mẹ qua những lần trời mưa to,mẹ vẫn mặc áo mưa, chạy xe đạp chở con đến nhà thờ để học giáo lý. Trong những bước đi đầu đời của con đến với Chúa, mẹ đã ân cần quan tâm đưa đón, thì con tin rằng mẹ sẽ là chỗ dựa đức tin vững chắc cho cuộc đời của con sau này". Và khi em đọc đến đó, người ta thấy nhiều giọt nước mắt đang lăn dài trên má của các bà mẹ tham dự lễ ngày hôm đó.

Các em thiếu nhi thân mến, không cần nói nhiều, trời mưa mà mẹ vẫn chở em đi học giáo lý cho thấy việc học giáo lý cần hơn, quan trọng hơn việc chơi game, đi đá banh, đi siêu thị, đi học thêm. Vì học giáo lý làø nghe tiếng Chúa, là đi theo Chúa mà.

Kính thưa OBACE! Trời mưa, một bà mẹ nhà quê chở con đi học giáo lý, OBACE thấy có dại dột quá không? Dại hay không thì chưa biết nhưng bà hiểu được đúng đắn rằng dù con là do mình sinh ra nhưng thực sự nó là con cái Thiên Chúa, nó phải cần được học giáo lý để biết cha nó là ai và học giáo lý để biết sống làm sao mai này về hưởng phước với cha nó. Đến giờ con học giáo lý, nó đòi đi học thêm, mình là cha là mẹ chiều nó, sợ nó học thua các bạn. Sau này, nó có thể thành tài đó, nhưng nó không biết cách làm con Chúa, không biết cách sống đạo cho tử tế, mất phần rỗi linh hồn, trách nhiệm nó, bậc làm cha làm mẹ phải trả lẽ trước mặt Chúa. Còn ngược lại, nếu mình biết quan tâm cho con cái đi học giáo lý đàng hoàng, nó học biết mến Chúa yêu người, nó biết hiếu thảo với cha mẹ, người được hưởng nhờ đầu tiên là OBACE. Do vậy, để đáp lại LC hôm nay giúp trẻ nghe và theo Chúa, Xin OBACE dù bận việc đến đâu cũng phải cố gắng sắp xếp đưa con mình đến nhà thờ học giáo lý. Rồi quan tâm xem nó có đi học hay trốn học đi chơi. Nó đi học về, hỏi xem nó học được những gì. Dặn nó học bài, kêu nó trả bài cho mình nghe. OBACE tưởng đâu chuyện mình lo cho con đầy đủ cái ăn, cái mặc, chuyện học ở trường là làm tròn bổn phận làm cha làm mẹ, chưa đâu, đó chỉ là làm cái chuyện phụ. Lo cho con cái học giáo lý biết Chúa, để nó sau này sống tốt mới là bổn phận chính yếu Chúa muốn các bậc cha mẹ cộng tác với Ngài.

Kính thưa OBACE! Hôm nay là ngày Giáo Hội dành đặc biệt cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ. OBACE mong ước cho con mình trở thành linh mục, tu sĩ thì xin từ bây giờ, lúc con còn nhỏ, hãy cầu nguyện cho nó. Và hãy cố ý dâng cho Chúa mơ ước này ngay lúc OBACE chở nó đi học giáo lý đó. Đang lúc chúng ta chở con đi học giáo lý cũng là lúc chúng ta đang ươm mầm ơn gọi cho con đó thưa OBACE. Amen.

-------------------------------------

 

PS 4-C97: NGHE VÀ BƯỚC THEO MỤC TỬ GIÊSU


Ga 10, 27 – 30

 

Bài TM hôm nay chỉ có 4 câu nhưng cũng đủ nói lên những đặc tính của vị Mục Tử GiêSu. Đồng thời: PS 4-C97


Bài TM hôm nay chỉ có 4 câu nhưng cũng đủ nói lên những đặc tính của vị Mục Tử GiêSu. Đồng thời cũng đề cập những bổn phận căn bản của we là đàn chiên của Người.

Chúa GiêSu ví mình là chủ chiên, Người là Mục Tử nhân lành - không những biết từng tên, mà còn biết từng nhu cầu của con chiên. Người thấu hiểu, cảm thông với từng hoàn cảnh vất vả, đau khổ của con người nên Người giúp đỡ kịp thời, ủi an, chăm sóc bằng tất cả con tim yêu thương, chan chứa tình người của người Mục Tử nhân lành. Người yêu thương mỗi và từng người bởi vì mỗi người we đều có 1 vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Do đó, là chiên của Chúa thì chúng ta có bổn phận nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.

Chúa GiêSu nói: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi".

Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng trong lương tâm mình.

Biết Chúa ko chỉ là học hỏi, suy niệm bằng trí mà còn là hiểu biết sâu xa, yêu mến tận tình bằng tim, tâm. Chính Tình yêu mới làm cho we nhận biết Chúa một cách đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.

Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và gắn bó cuộc đời mình vào Mục Tử GiêSu. Theo Chúa đòi hỏi chúng ta từ bỏ - con người cũ, nếp sống cũ, để sống con người mới, đi theo, làm theo ý Người.

Quả vậy, ngày nay, cuộc sống chúng ta quá nhiều tiếng ồn ào, đầy dẫy hấp dẫn lôi cuốn nhưng người Kitô hữu phải phân biệt đâu là tiếng Chúa để bước theo và làm theo ý Chúa.

Kinh nghiệm cho thấy: chúng ta nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống là một điều không dễ! không dễ vì Lời Chúa thì nhẹ nhàng và êm ái, Lời Chúa mời gọi chúng ta đi theo Chúa, vào con đường hẹp, con đường của từ bỏ, chông gai thập giá, của lời mời gọi Phục vụ và hy sinh....nhưng con đường này dẫn đến sự sống vì có Mục Tử GiêSu dẫn đường, nuôi dưỡng, bảo vệ.

Ngược lại, lời của trần gian, của ma quỉ thì ồn òa, náo nhiệt, hấp dẫn lôi cuốn lấn át lời nhẹ nhàng của Chúa và hơn thế nữa lời của trần gian, của ma quỉ còn mở ra một đại lộ thênh thang của tham vọng, hưởng thụ, ích kỷ, địa vị, vinh hoa phú quý, ...

Tiền tài, danh vọng, lạc thú thế gian là những mục tử giả sẽ dẫn chúng ta đến những cánh đồng hoang có nhiều thú dữ đó là cuộc sống buông thả, hưởng thụ, tội lỗi và cuối cùng dẫn đến chỗ chết.

Người Kitô hữu nghe Chúa, Biết Chúa và Theo Chúa để được những gì? Chúa GiêSu đã trả lời: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (Ga 10,28). Đàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì được tới đồng cỏ xanh, dòng suối mát. Chúng ta theo Mục Tử GiêSu được bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng để lớn lên bằng Lời Chúa, ân sủng và các bí tích của Người. Mục Tử GiêSu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của Người, ban cho chúng ta sự sống đời đời, Người bảo đảm hạnh phúc vĩnh cửu cho những ai một lòng theo Người. Giám mục, Linh mục là những người được tham dự vào chức vụ chăm sóc đàn chiên của Chúa.

Phần chúng ta, ai trong chúng ta cũng muốn vị chủ chăn của mình thánh thiện đạo đức, biết quan tâm yêu thương chăm sóc từng người trong họ đạo của mình. Ai trong chúng ta cũng muốn cha sở của mình biết từng hoàn cảnh từng con chiên trong họ đạo để cảm thông, nâng đỡ, chia sẻ; dốc hết sức lực để toàn tâm lo những nhu cầu tinh thần, bí tích cho cộng đoàn của mình...Vậy chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị chủ chăn biết noi gương bắt chước Mục Tử GiêSu nhân lành, khôn ngoan, thánh thiện, cần mẫn và sẵn sàng hy sinh, phục vụ cho đàn chiên, họ đạo chúng ta...

Chúa nhật hôm nay là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn thiên triệu lm, tu sĩ. Theo thống kê năm 2010 cả nước có gần 4.000 linh mục và khoảng 12.500 tu sĩ, một con số khiêm tốn trong đất nước trên 80 triệu. Không cần nói nhiều, chúng ta ý thức nhu cầu cấp bách là Giáo Hội đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa GiêSu bảo các môn đệ: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến đồng lúa".

Chúng ta xin cho có nhiều người trẻ, trong đó những thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa, đi tu làm lm, tu sĩ, thầy, dì phước,...để Phục vụ Thiên Chúa và các linh hồn. Còn quý Phụ huynh thuộc họ đạo Bình Minh quý mến! xin quý Cha mẹ, hãy quảng đại dâng con cho Chúa để nó đi tu giúp Chúa, giúp đời, giúp phần rỗi các linh hồn. Nếu thấy con mình muốn đi tu, xin quý Phụ huynh hãy bảo vệ ơn gọi đi tu, rồi dẫn nó đến gặp cha sở để cha tìm cách giúp nó đi tu. Chúng ta xác tín một điều: "Chúa không chịu thua lòng quảng đại của Phụ huynh hy sinh dâng con cho Chúa đâu."

Để kết luận, là con chiên của Mục Tử GiêSu, chúng ta biết Chúa GiêSu yêu thương chúng ta, hãy cảm tạ Chúa, nghe tiếng, bước theo và gắn bó cuộc đời của mình với Mục Tử GiêSu, để được Chúa chăm sóc, dưỡng nuôi & bảo vệ. Đồng thời, cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều Mục Tử giống Mục Tử GiêSu.

-------------------------------------

 

PS 4-C98: MỤC TỬ NHÂN LÀNH


Ga 10, 27 – 30

Ông bà, cô bác, anh chị em và toàn thể các bạn trẻ rất thân mến!

 

Hôm nay là Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh cũng gọi là Chúa Nhật Chúa chiên lành. Giáo Hội muốn: PS 4-C98


Hôm nay là Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh cũng gọi là Chúa Nhật Chúa chiên lành. Giáo Hội muốn trình bày cho chúng ta Chúa Giêsu là vị mục tử, vị chủ chăn tốt lành, vì Ngài luôn tận tình, tận tụy chăm sóc đoàn chiên Chúa.Chúa Giêsu luôn yêu thương, nâng đỡ mọi người đặc biệt là những người nghèo đói, bệnh tật,đau yếu,tội lỗi.

Nhân đây con xin nói vài chi tiết về nghề mục tử, nghề chủ chăn trong bối cảnh nước Do Thái thời đó. Đa phần người Do Thái sống bằng nghề chăn nuôi, du mục. Nghề chăn nuôi phải di chuyển theo đàn gia súc đến những đồng cỏ, những suối nước. Người chủ chăn tốt lành bảo vệnhững con chiên, con dê của mình trên các sườn đồi, sườn núi.Vì nhiều người chăn nuôi như vậy, nên các chủ chăn thường có một âm thanh đặc biệt, một tiếng gọi riêng để tựu tập chiên dê của mình. Chúng ta cũng có thể tưởng tượng hình ảnh của người chăn vịt ở quê hương chúng ta. Vì lẽ này,Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh cụ thể để cho mọi người dễ hiểu: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi". Chúng ta cũng biết đó, trong cảnh hoang sơ của núi rừng, người mục tử chăn giữ đàn chiên thường phải chống đuổi những thú dữ để bảo vệ đàn chiên của mình.Người mục tử nhân lành rất yêu thương đàn chiên, dám chịu cực khổ, tận tụy hy sinh vì đàn chiên, bảo vệ cho đàn chiên được vẹn toàn.

Chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, Ngài quả là vị chủ chăn, vị mục tử tốt lành, Ngài quả thật là Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Chúa Giêsu vốn dĩ là Ngôi Hai Thiên Chúa, mà đã yêu thương con người. Ngài xuống trần gian để thông phần sự đau khổ của con người, chuộc tội cho con người, chịu chết để cứu chuộc con người. Nhìn vào sự tận tụy, sự hy sinh của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được Ngài đúng là vị Mục Tử Nhân Lành, dám hy sinh, dám chết cho đoàn chiên là con người tội lỗi của chúng ta.

Sau cuộc khổ nạn và Phục Sinh, Người còn muốn cho con người được thông phần với sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa trên nước thiên đàng. Chúng ta rất vui mừng và hạnh phúc vì biết rằng Thiên Chúa yêu thương ta như vậy. Chúng ta hãy là những con chiên ngoan hiền,bằng đời sống đức tin vững vàng, bằng đời sống tốt lành của chúng ta với những người trong gia đình, trong hàng xóm của chúng ta.

Hội Thánh mời gọi chúng ta ý thức vai trò và sứ vụ của người mục tử,người môn đệ của Chúa Kitô. Ngày hôm nay, chúng ta cũng nhận ra hình ảnh của vị mục tử đang dõi bước theo thầy Chí Thánh Giêsu qua các vị linh mục, vị tu sĩ hiền lành, đạo đức và biết tận tụy yêu thương và chăm sóc về tinh thần và vật chất cho mọi người chúng ta. Thiên Chúa muốn cho Hội Thánh luôn có nhiều vị mục tử tốt lành để tiếp tục công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu. Thiên Chúa luôn kêu mời những bậc ông bà, cha mẹ biết hy sinh dâng con cháu của mình, nếu nhận ra chúng có ơn thiên triệu, để làm tu sĩ, làm linh mục cho Chúa. Các bạn trẻ cũng hãy cầu nguyện với Chúa, xem Chúa có gọi mình trong ơn gọi tu trì hay không? Bởi vì đời sống con người chỉ trọn hảo khi thực thi đúng thánh ý Chúa.Cụ thể hơn, nếu bạn nào sau khi cầu nguyện với Chúa, mà cảm nhận được tiếng gọi của Chúa thì hãy trình với quý Cha, quý Dì hướng dẫn ơn gọi mình để các bạn có thể bước theo Chúa Giêsu trong đời sống tận hiến,hầu thông phần với Chúa Giêsu là vị Mục Tử Nhân Lành. Amen.

-------------------------------------

 

PS 4-C99: CHÚA CHIÊN LÀNH.


Ga 10,27-30

 

Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết ..... Còn Chúa Giêsu thì không có chiên cũng không: PS 4-C99


Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng sự sống đời đời.

(Lấy từ dụ ngôn: mỗi sáng người mục tử cất tiếng gọi, chiên nghe tiếng, biết tiếng chủ chăn mình và đi theo để được dẩn tới đồng cỏ xanh và suối nước mát, được ăn uống no nê và được sự sống dồi dào).

Còn Chúa Giêsu thì không có chiên cũng không hề chăn chiên. Người được Chúa Cha sai làm Đấng cứu độ của cả loài người như là chăm sóc đoàn chiên ( theo hình ảnh văn hoá do thái). Người đã phục vụ và hiến mạng sống để có ơn cứu dộ cho nhiều người. Người đã chịu chết để làm chứng cho sự thật, không thỏa hiệp với thế gian. Người đã nêu gương can trường không lui bước trước bất cứ đe dọa nào.

Chúa Giêsu là Mục Tử tốt. Cũng phải có đoàn chiên tốt. Và đây là một trong những giới hạn của ơn cứu độ phổ quát mà theo nhiều người là 'phổ quát' thì phải cứu được hết không một ai bị loại trừ. Chiên tôi thì:

1/ Nghe tiếng tôi: Biết và vâng theo. Phải học Lời Chúa mới biết tiếng Chúa Giêsu và biết chính Chúa Giêsu và còn phải vâng theo nữa. Có người có học biết giỏi lắm, có bằng tiếng sỉ Kinh Thánh mà không vâng theo giống như người do thái xưa.

2/ Tôi biết chúng: ám chỉ người do thái xưa. Chúa Giêsu biết họ không có thiện ý, không tin, đeo theo xin dấu lạ. Chúa Giêsu biết rỏ ai là tín hữu ai không. Không phải cứ xưng nầy nọ là được.

3/ Theo tôi: điều kiện rỏ ràng, theo hay không theo. Theo thì được bảo vệ ( không ai cướp chúng khỏi tay tôi vì tôi và Cha tôi là một mà Cha là lớn hơn hết.
4/ Theo thì 'tôi ban cho chúng sự sống đời đời' cũng có nghĩa là không theo thì không ban, không có, không được cứu độ.

Giáo Hội kêu gọi: dùng ngày hôm nay để đặt biệt quan tâm tới giáo sỉ và tu sỉ.

1/ Cầu nguyện: Trước hết cậy nhờ vào ơn Chúa. Nhưng có một số việc tích cực đang chờ đợi chúng ta để công việc của Chúa Chiên Lành được kết quả.

2/ Hợp tác với các Mục tử đang công tác nhất là với các vị gặp nhiều khó khăn trong công tác mục vụ của mình, đừng để các ngài bị cô đơn, giúp đở khi các ngài cần giúp đở, nếu chúng ta muốn có nhiều mục tử tốt như lòng Chúa Giêsu mong ước.

3/ Các cha mẹ biết hướng dẩn con mình và dám hy sinh cho con dù là con một dâng mình theo ơn Chúa gọi làm linh mục hay tu sỉ. Không phải Chúa ban ít ơn gọi mà là ít người chịu sẳn sàng hy sinh đáp lại ơn Chúa gọi và sự chờ mong của Chúa.

4/ Điều tích cực hơn hết là mọi người hãy ý thức mà ham học Lời Chúa vì đây là chìa khoá vạn năng giải quyết tất cả mọi vấn đề vì muốn biết tiếng Chúa để nghe và theo thì phải học. Không học thì không biết làm sao nghe và theo được.

Trào lưu thế tục hoá làm cho con người hiện tại chạy theo hưởng thụ những cái mà thế giới văn minh cung cắp cho họ, không còn nhiều người thích đi tu nữa, có đi tu thì cũng muốn đem tinh thần thế tục hưởng thụ vật chất vào nhà tu. Khủng hoảng cả về số và luợng tu sỉ và linh mục ngày càng trầm trọng. Chúng ta cầu nguyện nhưng cũng đừng quên tích cực góp phần của mỗi người chúng ta tùy thiện chí và khả năng của mỗi người thì mới hy vọng có thêm nhiều mục tử tốt như lòng Chúa Giêsu mong ước.

Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta nhiều mục tử NHÂNDŨNG.

-------------------------------------

 

PS 4-C100: CHA MẸ TRONG VAI TRÒ MỤC TỬ


Ga 10, 27-30

 

Thánh Gioan đã trình bày cho chúng ta thấy hình ảnh người mục tử, một người mục tử biết từng con: PS 4-C100


Thánh Gioan đã trình bày cho chúng ta thấy hình ảnh người mục tử, một người mục tử biết từng con chiên của mình, sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên và làm cho chiên không bao giờ phải diệt vong nhưng được sống dồi dào.

Khi dùng hình ảnh người mục tử sẵn sàng hy sinh đời mình cho đoàn chiên, Chúa Giêsu muốn nói cho chúng ta biết chính Ngài là mục tử nhân lành, hiến trọn đời mình cho chúng ta là đoàn chiên của Ngài. Thông thường khi nghe nói tới hai chữ mục tử, chúng ta thường nghĩ đến nhiệm vụ của các Giám Mục và các Linh Mục. Nhưng hôm nay, tôi muốn nói cho moi người biết thêm một thành phần khác cũng được chia sẻ sứ vụ mục tử nữa, đó là những người chúng ta, là những bậc làm cha làm mẹ trong gia đình, phải là mục tử nhân lành, hết tình thương yêu lo lắng chăm sóc cho đoàn chiên là những đứa con của mình.

Ở VN và nhất là ở ĐBSCL hình ảnh người mục tử chăn chiên rất là xa lạ với chúng ta, nhưng có lẽ hình ảnh người chăn vịt lại gần gũi và quen thuộc với chúng ta hơn. Người chăn vịt thì lúc nào cũng tìm những nơi có mồi như là cá, tép, ốc, cua.... để đưa vịt tới đó. Chưa hết đâu, người chăn vịt còn phải giữ làm sao đừng để cho vịt bị cáo chồn hay kẻ trộm bắt, rồi còn phải giữ làm sao đừng để cho vịt đi phá lúa hay là phá những ao của người ta. Khi có con vịt nào lạc bầy thì phải đi tìm, khi con nào phạm mồi, ăn phải mồi độc thì phải biết cứu chữa, làm thuốc để giã chất độc mà cứu con vịt đó.

Người chăn vịt là thế, còn chúng ta là những người được Chúa trao phó cho một đàn chiên, hay là một bầy vịt, đó là những đứa con của chúng ta, chúng ta phải chăn giữ chúng như thế nào để chúng có được một cuộc sống tốt đẹp? Hay chúng ta cho chúng ăn những gì để chúng có được một cuộc sống có ý nghĩa?

Bây giờ câu "Trời sinh voi sinh cỏ" không còn thích hợp nữa mà người ta đã nhận ra rằng: sinh con thì dễ, nuôi con thì khó, và dạy con nên người lại càng khó hơn.

Khi sinh con ra, chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn cho con mình được ăn no mặc ấm, ai trong chúng ta lại không thao thức và lo lắng khi con mình bệnh hoạn, rồi khi chúng tới tuổi khôn, ai lại không muốn cho con mình đi học. Chính vì thế, khi sinh ra một đứa con, tôi tin chắc rằng mỗi người đã ý thức việc nuôi dưỡng chúng về phần xác, nhưng còn việc giáo dục thì sao? Trong tinh thần đó, tôi xin nêu lên hai điều cần thiết trong việc giáo dục con cái, và đó như là hai món ăn không thể thiếu trong việc chăn giữ đoàn chiên mà Chúa trao phó cho các bậc cha mẹ.

Món ăn thứ nhất là món ăn nhân bản: là những bậc Cha Mẹ, chúng ta phải giáo dục cho con mình có một số nhân đức căn bản của đạo làm người như: công bằng, trung thực, lịch sự, biết tôn trọng người lớn...

Ca Dao nói rằng: "dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới ve"à. Vì tâm trí của những đứa trẻ giống như một tờ giấy trắng, nếu chúng ta vẽ vào đó hình ảnh nào thì hình ảnh đó sẽ tồn tại mãi trong cuộc đời của chúng, vì thế, nếu vẽ vào đó những đường thẳng, thì xã hội sẽ vẽ vào đó những đường cong, nếu chúng ta không vẽ vào đó những hình ảnh tốt đẹp, thì xã hội sẽ vẽ vào đó những hình ảnh xấu xa ghê sợ. Nếu không vẽ vào đó những đức tính của đạo làm người như lịch sự, công bằng, yêu thương, thành thực... thì xã hội và bạn bè sẽ vẽ vào đó những ích kỷ, những thói hư tật xấu. Vì thế, ngay lúc con mình còn nhỏ mà lưu ý dạy cho chúng những điều này, thì khi chúng lớn lên, chúng sẽ trở thành một con người thực sự, một con người biết yêu thương, biết tôn trọng người khác.

Nhưng làm sao giáo dục con mình có những đức tính nhân bản này, trong khi chúng ta lại không có, làm sao dạy chúng yêu thương người khác khi cha mẹ cứ cự cãi nhau hoài, làm sao dạy chúng trung thực khi cha mẹ lại là kẻ gian lận, làm sao dạy chúng đừng chơi cờ bạc khi cha mẹ lại cờ bạc... cho nên việc giáo dục con mình, đòi hỏi cha mẹ phải có một cuộc sống tốt để làm gương cho chúng.

Và món ăn thứ hai là món ăn đức tin: Khi nhìn thấy những cây kiểng với đủ dáng đủ kiểu, có cây cong bên này, có cây quẹo bên kia rất đẹp. Những cây đó không phải tự nhiên được như vậy, nó phải được cắt tỉa và uốn ngay lúc còn nhỏ. Khi mới đâm tược thì phải lấy dây chì uốn những tược đó theo những kiễu mà mình muốn, cho tới khi cái tược đó già đi thì mới mở dây chì ra, và lúc đó cái cây sẽ giữ nguyên cái dáng kiễu mà mình uốn nó.

Cũng vậy, khi sinh con ra, chúng ta phải định dạng cho chúng một cái dáng về đức tin, nghĩa là cha mẹ phải quyết định cho chúng ngã về bên nào, ngã về đức tin công giáo hay ngã theo chủ nghĩa vô thần, ngã theo đạo công giáo hay những đạo khác. Là những người cha người mẹ công giáo, chúng ta phải cho con mình ngã về đức tin công giáo, chứ không thể ngã theo chủ nghĩa vô thần hay một niềm tin nào khác được. Chính vì thế, khi sinh con ra, cha mẹ phải liệu làm sao cho con mình được rửa tội gia nhập vào đạo công giáo, để chúng có được một đức tin công giáo càng sớm càng tốt.
Như vậy, mỗi người chúng ta chính là người mục tử có bổn phận lo cho đoàn chiên là con cái mình. Có muốn cho những đứa con của mình trở thành những người tốt hay không? Chúng ta là những bậc cha mẹ hãy nhớ lại những lời hứa khi lãnh nhận bí tích hôn phối, khi đứng trước mặt Chúa và hội thánh, chúng ta đã hứa, là sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và hội thánh, nhưng chúng ta có thực hiện lời hứa đó không? Thực hiện tới mức độ nào?
Ước gì tất cả chúng ta là những bậc làm cha mẹ, chúng ta biết ý thức bổn phận và trách nhiệm của mình đối với con cái, để từ đó giáo dục con em mình trở nên một người tốt và trở nên một kitô hữu tốt, nhờ đó, chúng được hạnh phúc ngay ở đời này và ngày sau được hưởng hạnh phúc trên thiên đàng. Amen.

-----------------------------------------

[1][1] Ariô (256-336) là linh mục ở Alexandria. Ông cho rằng Đức Giêsu là thọ tạo cao cả nhất, nhưng không phải là Thiên Chúa. Ông đã bị kết án tại Công đồng Nixê năm 325.

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây