Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 5-C Bài 101-150 Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu ------------------------------------ Phúc Âm: Ga 13, 31-33a. 34-35: "Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau".
Ông Phaolô và Ông Banaba đi đó đây để củng cố đức tin của các môn đệ, chỉ định cho họ những kỳ mục. Đồng thời hai ông cũng rao giảng Lời Chúa cho các dân ngoại, lập nên nhiều Hội Thánh Chúa.
* Kh 21, 1-5°
Đây là thị kiến quan trọng nhất của Khải Huyền: trời mới, đất mới và Giêrusalem mới. Công trình sáng tạo cũ biến mất và sự ác bị tiêu diệt hoàn toàn. Thành Thánh Giêrusalem mới chính là Hội Thánh trên trời và làø vương quốc đích thật của Thiên Chúa.
* TIN MỪNG: Ga 13, 31-33a.34-35.
Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói:" Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau."
Ngẫm:
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta có nhận ra được chủ đề chính xuyên suốt qua 3 bài đọc không? 2. Những đặc tính của Hội Thánh Chúa: Duy nhất, Thánh Thiện, Công giáo và Tông Truyền. 3. Sự trường tồn của Hội Thánh. 4. Thành viên Khôi Bình phải sống sao cho xứng đáng là một thành viên của Hội Thánh? * Suy tư gợi ý:
1. Chủ đề chính: Hội Thánh (Nước Thiên Chúa, Nước Trời)
"Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người."(Ga 13, 31). Chúa Giêsu được tôn vinh và Đấng sai Người ắt cũng phải hãnh diện. Chúa Giêsu đã phát biểu câu này khi Giuđa vừa bỏ bàn tiệc ra đi để làm những việc ám muội. Nếu xét theo thứ tự thời gian thì lẽ ra câu này phải được Chúa Giêsu phát biểu sau khi Người Phục Sinh. Vì thế, từ "Giờ đây" ở đây diễn tả biến cố tương lai như một thực thể hiện tại, nghĩa là sự tôn vinh của Đức Giêsu chưa hoàn tất, mà lại được coi như đã xảy ra; xem như sự khổ nạn, sự chết và sống lại của Người đã được hoàn thành.
Được tôn vinh có nghĩa là khải hoàn, là toàn thắng, là sứ mạng đã hoàn thành một cách mỹ mãn. Nhưng sứ mạng của Chúa Giêsu là gì nếu không phải là thành lập Hội Thánh, là tạo dựng Nước Trời? Hội Thánh là gì nếu không phải là một cộng đoàn Thánh Thiện, là một cộng đoàn gồm các thánh, là một nhóm người thánh hoặc có ý muốn trở nên thánh (Tv 49). Vì tội nguyên tổ, con người không thể trở thành thánh được. Chỉ có Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài đã chiến thắng ác thần và tội lỗi, mới có thể tái sinh chúng ta trong Thánh Thần.(x Cv 2, 1-4). Và chỉ có Ngài, Đấng Cứu Rỗi Duy Nhất, mới có thể thành lập Hội Thánh. Hội Thánh có Chúa Kitô là Đầu và tất cả chúng ta là những chi thể của Ngài. ( x Ga 15, 1-8; Rm 12, 4-8; Ep 1, 1-23). Hội Thánh chính là Nhà của Thiên Chúa, là Đền Thờ Mới, là Giêrusalem mới (Bài đọc 2). Hội Thánh luôn mở cửa rộng đón những người thiện chí, dù là dân ngoại. (x Bài đọc 1; 1 Cor 16,9; 2 Cor 2,12; Cl 4,3). Do vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng ý thức lại mầu nhiệm Hội Thánh, một dấu chỉ của Nước Trời mà chúng ta đang là thành viên.
2. Những đăc tính cấu thành của Hội Thánh
"Tôi tin có Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền…"
– Duy nhất: Chỉ có một Hội Thánh do Đức Kitô lập và chính Ngài là Đầu duy nhất của Hội Thánh ấy. (x Cl 1, 9-24). Từ "Duy nhất" ở đây hoàn toàn không có nghĩa vật lý cụ thể, nhưng có nghĩa siêu việt. Do vậy, nó sẽ không mâu thuẩn với từ "Hội Thánh (Giáo Hội) Tây phương, Hội Thánh Á Châu, Hội Thánh địa phương". Thiên Chúa, không như chúng ta, Ngài không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nên Hội Thánh mà Chúa Giêsu sáng lập, đã có tính cách trọn vẹn, hoàn hảo và một lần. Tuy nhiên, chúng ta là những con người sống trong lịch sử, chúng ta có bổn phận tiếp tay với Chúa để xây dựng Hội Thánh. Nên Phaolô và Banaba đã đi khắp đó đây để xây dựng những Hội Thánh địa phương cụ thể khác nhau.
– Thánh thiện: Đây là một hội không mưu đồ nghiệp bá, không chủ trương tiền tài danh vọng, nhưng luôn khuyến khích và động viên nhân sinh biết "Tu" (sửa) để thành thánh, nghĩa là đạt tới sự viên mãn của hạnh phúc trường cửu. Vì vậy, thực chất của Hội này là tốt lành thánh thiện. (x Đn 17, 16-27)
– Công giáo: Cửa Hội Thánh luôn rộng mở để đón tiếp mọi người thiện tâm, không loại trừ, không phân biệt tuổi tác, trình độ, giai cấp, giàu nghèo, sang hèn. Chính vì đặc tính phổ quát này mà mọi người đều có trách nhiệm phải vào, dù bằng cửa chính hay cửa phụ. (x Is 2, 1-5)
– Tông truyền: Hội Thánh được xây dựng trên đức tin của Oâng Phêrô (Ga 21, 15-17) và theo sứ vụ mà các Tông Đồ đã nhận trực tiếp từ Đức Kitô. (Mt 28, 16-20).
Đến đây chúng ta có thể đặt lại câu hỏi: Tại sao Hội Thánh lại trường tồn? 3. Sự trường tồn của Hội Thánh.
Chúng ta tin Hội Thánh trường tồn vì Chúa Giêsu đã tuyên bố:
" …Và quyền lực tử thần cũng không thắng nỗi" (Mt 16, 18b). Chúng ta tin và chúng ta đã tìm được sự bình an do sự xác tín của chúng ta. Đàng khác, trong trường hợp này, chúng ta có thể hiểu được sự trường tồn của Hội Thánh qua sự suy luận thuần tuý của con người. Thật vậy, Hội Thánh ví như một dân tộc có được người cầm đầu tuyệt hảo tên là Giêsu. Thủ tướng Giêsu đã yêu thương dân tộc mình đến độ hy sinh cả cuộc đời, sự nghiệp và mạng sống của mình. Thủ tướng Giêsu luôn mở rộng cửa biên giới cho bất cứ ai muốn trở thành công dân của Oâng. Thủ tướng Giêsu đã có thể yêu thương cả kẻ thù để biến thù thành bạn thì còn ai nỡ tâm tiêu diệt nhà nước Giêsu nữa. Đàng khác, toàn thể dân tộc của Hội Thánh lại tự nguyện tuân giữ Hiến pháp và luật pháp. Mà Hiến pháp và luật pháp này lại là tình yêu thương. Họ phải thương yêu nhau như Oâng Giêsu đã yêu thương và làm gương cho họ. Tất cả là Tình yêu. Mà Tình yêu là hạnh phúc. Nếu có một quốc gia nào trên trần thế này có được một phẩm chất tuyệt vời như thế, ắt quốc gia ấy sẽ trường tồn. Anh chị em Khôi Bình là những công dân của nhà nước Giêsu, chúng ta phải có những ứng xử thế nào? 4. Thái độ của chúng ta đối với Hội Thánh
Trước hết chúng ta phải có lòng yêu mến Hội Thánh và luôn luôn sống theo lập trường của Hội Thánh. Dù Hội Thánh gồm những con người mỏng dòn yếu đuối nhưng luôn được Thánh Linh soi dẫn và nâng đỡ. Hội Thánh hữu hình, đứng đầu là Đức Thánh Cha, đã được ơn bất khả ngộ trong những định tín về Đức Tin và Luân lý. Để chứng tỏ lòng yêu mến Hội Thánh, và để chứng tỏ là một công dân trung thành của Tổ quốc Giêsu, mỗi người chúng ta phải biết yêu thương nhau: "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13,35). Yêu thương để tha thứ, yêu thương để sửa dạy, yêu thương để tìm được an bình và hạnh phúc. Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, nguyên từ ngữ Hội Thánh cũng đủ nói lên sự tốt lành thánh thiện của hiệp hội, của cộng đoàn mà Chúa là đầu tàu. Thế sao đã có quá ít người ham thích gia nhập vào cộng đoàn này? Chắc chắn có phần lỗi ở con, do con không đủ quảng đại để yêu thương anh em như Chúa dạy. Xin cho con từ nay biết rộng mở con tim để đón nhận và thông cảm cho cả những bất toàn của anh em con, Amen. Anrê Nguyễn Hữu Nghĩa.
«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giê-su nói điều này ngay trước khi chịu tử nạn. Tới giờ phải chịu tử nạn, mà Ngài lại nói đó là lúc Ngài được tôn vinh. Điều này cho thấy «tử nạn» và «được tôn vinh» là hai mặt khác nhau của cùng một sự việc. Nói cách khác, tử nạn và phục sinh, hay đau khổ và vinh quang tuy khác nhau và ngược lại nhau, nhưng lại luôn luôn gắn liền với nhau, không thể tách rời nhau, giống như hai mặt của một tờ giấy duy nhất.
Đó là chính là nội dung và ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua: vì đau khổ và vinh quang, tử nạn và phục sinh không thể tách rời nhau, nên muốn đạt được cái này thì phải trải qua cái kia. Không thể phục sinh nếu không chịu tử nạn, không thể hạnh phúc hay vinh quang, nếu không trải qua đau khổ. Đời sống thực tế chứng tỏ rõ ràng điều ấy: Tôi không chịu cực khổ làm ăn, gia đình tôi không thể ấm no hạnh phúc được. Một học sinh không chịu khó nhọc học hành không thể đỗ đạt hay làm nên danh phận gì.
Ý thức được thực tế của mầu nhiệm vượt qua, người kitô-hữu không nên mơ tưởng có được hạnh phúc mà không phải qua đau khổ, hay có được vinh quang mà không phải chịu nhục nhã, hay sẽ phục sinh mà không cần tử nạn. Qui luật thực tế của đời sống không cho phép như thế. Muốn hạnh phúc mà không qua đau khổ, muốn vinh quang mà không chịu nhục nhã, muốn phục sinh mà không cần tử nạn, đều là những cám dỗ cho tất cả mọi người, vì những ước muốn đó thường dẫn đến tội lỗi. Thật vật, tất cả mọi tội lỗi xảy ra trên đời đều xuất phát từ ước muốn không thực tế đó. Kẻ trộm cướp, hối lộ, kẻ giết người, gian dâm, v.v... đều là những kẻ muốn hạnh phúc mà không phải khó nhọc, vất vả. Tới đây, ta nên nhớ lại lời của Đức Giê-su: «Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều người đi lại qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy» (Mt 7,13-14).
b) Trong Đức Giê-su, Thiên Chúa và con người là một
«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giê-su và Thiên Chúa đều được tôn vinh trong cùng một con người (là chính Đức Giê-su), và trong cùng một sự việc (là cuộc tử nạn). Điều này cho thấy Đức Giê-su và Thiên Chúa liên quan với nhau mật thiết đến mức có thể nói Đức Giê-su và Thiên Chúa là hai mặt khác nhau của một thực tại duy nhất: con người Đức Giê-su. Có thể nói Đức Giê-su, một mặt là một con người yếu đuối, bị hạn chế đủ mọi mặt, mặt khác lại chính là một Thiên Chúa mạnh mẽ, vô hạn đủ mọi mặt. Hai mặt ấy tuy ngược hẳn nhau nhưng lại kết hợp và gắn liền với nhau thành một con người duy nhất.
Đức Giê-su chính là mô hình gương mẫu của chúng ta, của mọi người kitô-hữu. Cũng tương tự như Đức Giê-su, một mặt ta mang tính con người, vốn hữu hạn, yếu đuối, dễ trở nên tội lỗi, một mặt ta chính là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hạn, mạnh mẽ, thánh thiện, «được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2 Pr 1,4). Tính chất thần linh trong bản thân của đa số chúng ta có thể còn ở dạng mầm, chưa phát triển. Bổn phận và sứ mạng của người kitô-hữu là phải làm sao để cái mầm thần linh ấy ngày càng phát triển lớn mạnh lên. Ta càng ý thức được tính chất thần linh của mình, và cố gắng sống phù hợp với tính chất ấy, thì tính chất ấy càng có điều kiện phát triển mạnh.
Khi mầm thần linh ấy phát triển trong ta, khiến ta sống, hành động và xử sự như Đức Giê-su, thì ta có thể nói được như Ngài: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Thiên Chúa chỉ được tôn vinh trong bản thân ta, khi chúng ta làm cho mầm thần linh trong ta phát triển lớn mạnh. Mầm thần linh ấy chính là Nước Trời ở trong ta. Đức Giê-su đã từng nói: «Nước Thiên Chúa ở trong anh em» (Lc 17,21). Và trong bản thân chúng ta, Nước ấy, hay cái mầm thần linh ấy, giống như một hạt cải, «là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên lại là thứ lớn nhất. Nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được» (Mt 13,32). Nhưng mầm thần linh ấy chỉ phát triển khi «cái tôi đáng ghét» của ta thật sự nhỏ đi: «Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga2. Yêu thương là điều kiện phát triển tính thần linh trong ta
Mầm thần linh ấy không thể phát triển được trong một con người coi cái tôi của mình là quá lớn. Sự phát triển hình ảnh của Thiên Chúa trong ta và sự trương phình bản ngã của ta là hai sự việc luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau. Càng coi cái tôi của mình là quan trọng, càng đặt nặng cái tôi của mình, thì cái tôi ấy càng lấn át tính chất thần linh, và làm cho nó ngày càng yếu ớt, nhỏ bé đi, và đó chính là nguyên nhân của mọi thứ tội lỗi. Trong tiếng Việt, chữ «tội» được hình thành bởi chữ «tôi» và dấu «nặng»: «tôi nặng tội». Điều ấy không phải là không có ý nghĩa. Tội lỗi được hình thành từ việc coi cái tôi của mình quá nặng. Và sự thánh thiện thì ngược lại, được hình thành từ việc coi nhẹ hay tự hủy cái tôi của mình đi. Đức Giê-su đã từng nói: «Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu không chết đi, nó vẫn chỉ là hạt lúa, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác» (Ga 12, 24). Cái tôi có chết đi, thì sự sống thần linh hay Nước Thiên Chúa trong ta mới phát triển và sinh hoa kết trái.
Yêu thương chính là quên mình, hay ra khỏi cái tôi của mình để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Và đó chính là bản chất của sự thánh thiện, cũng là bản chất của Thiên Chúa, như thánh Gioan đã định nghĩa: «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Nếu ta là hình ảnh của Thiên Chúa, thì cách hành xử của ta phải phản ánh tình yêu. «Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,7-8). Tình yêu chân thật chính là dấu chứng của sự thánh thiện, chứng tỏ có sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nào càng yêu thương và càng hy sinh cho người khác thì càng là người thánh thiện, và càng chứng tỏ có Thiên Chúa ở với mình. 3,30). Mầm thần linh ấy không thể được phát triển nơi một người lúc nào cũng coi cái tôi của mình quá lớn.
Chính vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để chịu tử nạn và về cùng Chúa Cha, Đức Giê-su cho các môn đệ biết cái dấu hiệu quan trọng nhất để có thể căn cứ vào đó mà biết được ai là môn đệ đích thực của Ngài, đó là tình yêu thương đối với mọi người, và nhất là đối với nhau. «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau». Làm dấu thánh giá, đọc kinh, dâng lễ... chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của người kitô-hữu, mà người không phải là kitô-hữu vẫn có thể giả mạo. Còn sự yêu thương - được thể hiện cụ thể bằng hành động - mới là dấu chứng thật sự của người kitô-hữu. Người yêu thương thực sự biết quên mình để hy sinh cho tha nhân vô điều kiện, cho dù chưa rửa tội, thì đã là kitô-hữu đích thực từ bên trong rồi. Còn người mang danh kitô-hữu mà sống ích kỷ, không tình thương, thì chỉ là kitô-hữu hữu danh vô thực mà rhôi (xem Rm 2,12-24).
Cầu nguyện Lạy Chúa, xin biến cải lòng con thành «trời mới đất mới», thành Nước Trời, trong đó luôn luôn tràn ngập tình yêu thương, để mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa - là tình yêu - ở trong con. Nguồn vietcatholic.org
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: lời giải thích của Đức Giêsu về cuộc Vượt Qua của Người ( Ga 13, 31 – 32 ) và lệnh truyền mới của Đức Giêsu cho Hội Thánh ( Ga 13, 33a.34 – 35 ).
1. Lời giải thích của Đức Giêsu về cuộc Vượt Qua của Người ( Ga 13, 31 – 32 )
Giuđa bắt đầu thực hiện âm mưu nộp Đức Giêsu. Khi Giuđa đã đi rồi, Đức Giêsu giải thích bản chất của những thực tại đang diễn ra. Nhìn bề ngoài, Người đang đi vào một cuộc thất bại kinh khủng, nhưng thực chất, cái chết của Người chính là một cuộc bày tỏ vinh quang và tình yêu ở mức tròn đầy: “Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người” ( Ga 13, 31 ). Thực hiện chương trình của Thiên Chúa, Con Người diễn tả tình yêu và vinh quang của Người ở mức độ cao nhất và trọn vẹn nhất. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” ( Ga 1, 14 ). Với tất cả tự do, Đức Giêsu phó nộp mình trong tay kẻ dữ và đón nhận cái chết thảm khốc, vì yêu mến và để cứu độ thế gian.
Cái chết của Người, quả thực, chính là bằng chứng lớn lao và vĩ đại nhất của tình yêu mà Thiên Chúa dành cho loài người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ). Chính theo nghĩa đó, “Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” ( Ga 13, 31 ).
“Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” ( Ga 13, 32 ). Cần đọc lời này của Đức Giêsu trong liên hệ với Ga 12, 28: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha". Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa !”
Tình yêu mà Đức Giêsu bộc lộ trong cuộc thương khó và cái chết của Người, tình yêu đã được thi thố đến mức tận cùng qua hình ảnh máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người, tình yêu ấy sẽ đổ tràn vinh quang của Thiên Chúa nơi chúng ta. Và “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” ( Ga 1, 16 ). Đó chính là cách Thiên Chúa tôn vinh Con Một của Người nơi chính mình. Nói cách khác, chính khi Đức Giêsu sống thân phận hạt lúa bị thối rữa trong lòng đất, lại là lúc xảy đến cuộc Thiên Chúa tôn vinh Người bằng cách đổ tràn trên nhân loại tất cả ơn nghĩa và sự thật: “Đức Giêsu nói: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” ( Ga 12, 23 – 24 ).
Như thế, ở tận cùng của sự ô nhục của thập giá lại là cuộc tôn vinh tuyệt vời của Con Thiên Chúa, cuộc tôn vinh vì tình yêu và ơn cứu độ dành cho thế gian. Nơi tận cùng của cái chết bi thảm lại là điểm khởi đầu của sự sống mới mẻ và viên mãn, bởi vì, nơi sự chết mà Đức Giêsu đang đi vào, “Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” ( Ga 13, 31 – 32 ).
2. Căn tính của cộng đoàn Hội Thánh – cộng đoàn Mêsia ( Ga 13, 33a.34 – 35 )
Chính trong tư thế của Đấng được Thiên Chúa tôn vinh đó, Đức Giêsu nói những lời từ biệt các đồ đệ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” ( Ga 13, 33a.34 – 35 ).
Đức Giêsu sắp rời khỏi thế gian, nhưng các đồ đệ của Người vẫn còn ở trong thế gian ( Ga 13, 1; 17, 11 ). Đức Giêsu thiết lập họ thành cộng đoàn và ban cho họ căn tính riêng biệt của những con người thuộc về cộng đoàn đó. Trước đây, các đồ đệ đã biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia ( 1, 41.45.49 ); và bây giờ, các ông sẽ biết đâu là đặc tính quan trọng bậc nhất của cộng đoàn Mêsia: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” ( Ga 13, 34a ).
Khi nói “điều răn mới”, Đức Giêsu có ý đặt điều răn này đối lập với luật cũ. Luật Môsê được thay thế bằng lệnh truyền tràn đầy ân sủng và sự thật của Đức Giêsu. Sự khác biệt giữa hai giao ước được xác định. “Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” ( Ga 1, 17 ). “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người. Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn” ( Ga 3, 31.34 ). Vinh quang của Thiên Chúa là sự dẫy tràn ân sủng và sự thật ( Ga 1, 14 ), nên đòi hỏi dành cho những người được đưa vào vinh quang ấy cũng phải là tình yêu và chân lý, bởi vì “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” ( Ga 1, 16 ).
Điều đáng chú ý: trong điều răn mới, Đức Giêsu không hề đòi hỏi các đồ đệ phải làm gì cho chính Người hoặc cho Thiên Chúa, mà chỉ đòi hỏi các đồ đệ yêu thương nhau. Thiên Chúa không tập trung chú ý của Người về chính bản thân mình. Tình yêu của Người là tình yêu năng động hướng đến toàn thể vũ trụ và nhân loại. Tình yêu của Người là tình yêu hiến tặng cho nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ).
Khuôn mẫu và tiêu chuẩn của tình yêu mà các đồ đệ phải thi thố là chính Đức Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 13, 34b ).
Đức Giêsu đã từng mời gọi các đồ đệ đồng hóa với Người trong sự sống và trong cái chết của Người: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” ( Ga 6, 53 ). Bây giờ, Người xác định rằng các hành động của Người chính là khuôn mẫu cho cách sống của các độ đệ: điều răn mới chính yếu hệ tại ở chỗ các đồ đệ yêu thương nhau như Người đã yêu thương họ vậy. Đức Giêsu là tiêu chuẩn, là thước đo, là khuôn mẫu, là lý tưởng và là cùng đích tối hậu của tình yêu thương.
Có thể lấy hai hành động mà Đức Giêsu vừa thực hiện làm điểm quy chiếu giúp giải thích thế nào là yêu thương nhau “như Thầy yêu anh em”: sự kiện Đức Giêsu rửa chân cho các đồ đệ ( Ga 13, 1 – 20 ) và thái độ của Người đối với Giuđa, kẻ nộp Người ( Ga 13, 21 – 32 ). Bằng việc rửa chân cho các đồ đệ, Đức Giêsu cho thấy điểm quan trọng trong tình yêu là đón nhận người khác và đặt mình trong tư thế phục vụ người khác bằng cách đem lại cho họ phẩm giá và sự tự do nhờ tình yêu mến. Cách hành xử của Đức Giêsu đối với Giuđa cho thấy tình yêu đó không được giới hạn vào một loại đối tượng nào và không được loại trừ bất cứ ai, nhưng luôn luôn hết mực tôn trọng tự do của người khác một cách đúng đắn.
Lệnh truyền mới của Đức Giêsu được ban cho những người thuộc về Người, tức là những kẻ được Thiên Chúa sinh ra nhờ Thánh Thần ( Ga 1, 13: “Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”; 3, 5 – 6: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí; cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí” ). Do Thiên Chúa sinh ra, những người đó đã đón nhận quyền trở nên con cái Thiên Chúa ( Ga 1, 12 ), và họ sẽ thực sự trở nên con cái Thiên Chúa khi họ yêu thương như chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã yêu thương: chính Người là con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống ( Ga 14, 6 ).
Tình yêu thương giữa các đồ đệ với nhau phải là một thực tại có thể thấy được và có thể được mọi người nhận biết. Vì thế, tình yêu ấy cần phải được diễn tả bằng những hành động thực tế, như Đức Giêsu đã thực hiện. Và đây sẽ là một dấu hiệu đánh dấu dung mạo và phản ánh căn tính của cộng đoàn. Sự kiện các đồ đệ thuộc về Tôn Sư chí thánh ( “anh em là môn đệ của Thầy” ) không phải là một điều lý thuyết, mà là một thực tại cụ thể được diễn tả trong thực tế của cuộc sống tràn đầy yêu thương. Cộng đoàn các đồ đệ của Chúa Giêsu sẽ không “đánh dấu” mình bằng những lý thuyết khôn ngoan độc đáo, cũng không phải bằng những bài diễn thuyết hùng hồn, cũng chẳng phải bằng những lời giảng khuyên tốt lành, cũng không phải bằng những tư tưởng cao xa về Thiên Chúa. Cộng đoàn Hội Thánh thể hiện mình trong khả năng yêu thương đến tận cùng và trong việc xây dựng một xã hội mới của tình yêu thương đến tận cùng ấy. Và đó chính là điều làm cho Chúa Cha được nhận biết giữa thế gian.
Thay cho hòm bia của giao ước cũ, Đức Giêsu muốn thiết lập một không gian và nơi chốn yêu thương trong giao ước mới. Thế gian sẽ nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính tình yêu thương mà các độ đệ của Đức Giêsu thi thố giữa thế gian. Không phải những cơ cấu hoàn chỉnh, không phải những cuộc lễ tưng bừng hay những thứ khác tương tự, sẽ là dấu hiệu để thế gian nhận biết các độ đệ của Đức Giêsu, mà là tình yêu thương như chính Đức Giêsu đã yêu thương. Đó là tiêu chuẩn duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lập để “đánh dấu” dung mạo của cộng đoàn Mêsia.
Khi thiết lập tiêu chí duy nhất để cộng đoàn Hội Thánh được nhận biết giữa thế gian như thế, Đức Giêsu đã loại trừ tất cả những tiêu chí khác. Căn tính của Hội Thánh không được đặt nền trên luật lệ hay phụng tự. Tình yêu thương tha nhân là bằng chứng duy nhất của sự hiện diện đích thực của tình yêu của Thiên Chúa nơi con người. Hội Thánh là mầu nhiệm tình yêu ấy giữa thế gian. Các thành phần của Hội Thánh hiệp thông với nhau trong tình yêu ấy, và cùng nhau làm chứng cho Chúa Kitô bằng cách thực thi tình yêu ấy.
Điều răn trọng nhất trong thời Cựu Ước là “Kính mến Chúa trên hết mọi sự, yêu thương người như mình ta vậy”.
Tôi muốn hiểu hai từ điều răn ấy là Hiến Pháp của Thiên Chúa, của Nước Thiên Chúa, của Hội Thánh và của mỗi tín hữu.
Chúa Giêsu đã bổ sung phần 2 trong bản hiến pháp quan trong ấy mà Người gọi là “Điều Răn Mới” đó là “Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu”. Tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Chúa Giêsu và tình yêu ấy trở nên tiêu chuẩn số một để xác nhận một tình yêu đích thực cho chúng ta.
- Tình yêu ấy bắt nguồn từ lòng khiêm nhượng của Thiên Chúa. Buổi khai giảng một lớp Giáo Lý Khai Tâm, cô giáo lý viên nói: “Học Giáo Lý là học về Thiên Chúa. Vậy có em nào biết Thiên Chúa là ai không ?” Một em nhanh nhảu giơ tay xin trả lời. “Thưa cô, bà nội em kể Thiên Chúa là một vị thần rất lớn, rất cao, rất có quyền, thấy con người đau khổ, nên thương con người quá, bỏ trời xuống đất, làm một em bé…” Cô bất ngờ, hỏi bâng quơ: “Bà nội em già chưa ? Làm nghề gì ?” – “Thưa cô, bà nội em năm nay 75 tuổi rồi. Ngày xưa bán bánh canh, giờ già rồi ở nhà quét sân và đọc kinh thôi ạ !”
Tôi mừng thầm về cách bà nội giới thiệu Thiên Chúa cho cháu: một Thiên Chúa khiêm nhượng. Thiên Chúa quyền năng, cao cả, thượng trí vô cùng sao có thể yêu được con người phàm hèn tội lỗi hay hư mất. Chỉ có khiêm nhượng mới nhìn thấy, lắng nghe, thấu hiểu và bỏ cả trời cao mà xuống đất thấp để chạm vào nỗi đau của con người.
- Tình yêu vì hạnh phúc của người mình yêu: Thiên Chúa là chủ muôn loài muôn vật sao có thể thèm khát chi loài người vốn giống dòng mỏng manh kia lại hay kiêu căng phản bội ? Có ích lợi gì cho Ngài đâu ! Vâng, rõ ràng Thiên Chúa yêu con người, Ngài không mong được thêm gì cho Ngài. Vậy mà, Chúa Giêsu đã làm tất cả những gì có thể cho con người được hạnh phúc đời này và đời sau. Môt tình yêu bất vụ lợi.
- Tình yêu cho đi, tình yêu phục vụ: Một Thiên Chúa mà muôn loài muôn vật phải phủ phục tôn thờ, sao có thể hóa thân thành một con người Giêsu quỳ xuống mà rửa chân cho các Tông Đồ. Ngày ấy, bất ngờ, hẳn là chân các ông thật nhơ nhớp. ( Không như bây giờ, tên các vị được rửa chân Thứ Năm Tuần Thánh đã được báo trước, và chuẩn bị chà rửa chân cho cực kỳ sạch sẽ ). Ngài còn rửa cả chân cho Giuđa. Lòng khiêm nhường của Thiên Chúa mở đường cho Tình Yêu của Ngài là phục vụ, nhất là những người thấp bé, kể cả những người phản bội.
- Tình yêu tự hủy, dâng hiến: Thiên Chúa Cha đứt ruột khi nhìn con mình tan nát tấm thân. Chúa Giêsu chấp nhận đau thương và sẵn lòng chết vì yêu con người, một cái chết kinh khủng nhất, đúng như Người đã nói: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hiến mạng sống vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ). Thân xác và linh hồn một Thiên-Chúa-làm-người ấy đã trở nên lễ hiến dâng đẹp lòng Thiên Chúa Cha, để Chúa Cha tha thứ cho nhân loại.
- Tình yêu đổi mới mọi sự: Sự sống lại của Chúa Giêsu, mở ra một trời mới, đất mới, một tương lai mới, một hạnh phúc mới cho những ai tin và sống như Người đã dạy, yêu như Người đã yêu. Đó là Sự Sống vĩnh cửu trong Ba Ngôi Thiên Chúa mà Thánh Gioan đã thị kiến: “Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới… Thiên Chúa ở với loài người... Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ… Và Đấng ngự trên ngai vàng đã phán rằng: “Này đây, Ta đổi mới mọi sự” ( Kh 21, 1 – 5a ).
- Hãy yêu như Thầy đã yêu: Người Công Giáo chúng tôi tin Chúa Giêsu vì Ngài đã yêu nhân loại hết lòng, trong đó có chúng tôi. Tình Yêu của Ngài là tiêu chuẩn để chúng tôi yêu nhau, và cũng là tiêu chuẩn để chúng tôi đặt niềm tin nơi Ngài. “Kính mến Chúa trên hết mọi sự, và yêu người như Chúa đã yêu” là Hiến Pháp mới của Nước Thiên Chúa, của Hội Thánh, của mỗi gia đình, của mỗi người.
Lời Chúa cũng đang mời gọi mọi dân nước, mọi người hãy yêu theo tiêu chuẩn Tình Yêu Chúa Giêsu: một tình yêu khiêm tốn, dâng hiến, tự hủy, phục vụ, vì hạnh phúc đời này và đời sau. Không ai có thể tin được người không có tình yêu, càng không tin được người có tình yêu vụ lợi.
Hội Thánh của Chúa Kitô bền vững muôn năm muôn đời vì Hội Thánh yêu thương như Giêsu yêu, sống bằng tình yêu thương, một tình yêu đích thực. Vì thế, ai sống trong Hội Thánh mà không sống yêu thương như Chúa yêu là kẻ phá hoại Hội Thánh, không kể thành phần nào. Chức vụ càng cao trong Hội Thánh mà không phản chiếu được tình yêu Thiên Chúa cho mọi người, cho trần gian, thì tội phá hoại Hội Thánh càng nặng hơn.
Chủ nghĩa nào, đảng phái nào cũng ước muốn muôn năm, nhưng rồi tan tành sụp đổ khi hãy còn quá non trẻ, là bởi vì, hoặc chủ nghĩa ấy, đảng phái ấy, không có tình yêu đích thực cho dân, vì dân, hoặc có một thứ tình yêu giả dối, bịp bợm, gian ác, vơ vét. Cần phải chỉnh đốn điều gì để được tồn tại muôn năm ? Chẳng phải là nhắm đến chuyện phát triển mọi mặt bằng một nền tảng là tình yêu đích thực ? Ngược lại, sẽ là suy sụp tàn lụi nếu như cứ tiếp tục cái thế độc quyền cai trị vô cảm và tham lam, vụ lợi của mình ?
Gia đình nào cũng ước mong trăm năm hạnh phúc, nhưng thời nay, tình yêu trong hôn nhân gia đình thành ra cũ rích, nhàm chán, lạnh nhạt, có nguy cơ đổ nát, là vì người ta chưa yêu nhau theo tiêu chuẩn của Tình Yêu Giêsu. Ai cũng phải khiêm tốn làm cho “tình yêu bất vụ lợi, tình yêu tự hạ, tự hủy, dâng hiến” sống lại thật trong lòng mình. Mà muốn cho Tình Yêu đúng nghĩa ấy sống lại, hẳn là phải “hỏa táng” cái thứ tình yêu vụ lợi vị kỷ kia đi !
Tình yêu đôi lứa, tuổi trẻ đang bị ảnh hưởng cách yêu vụ lợi của người lớn nên cứ sa đà vào xu hướng ích kỷ cách điên cuồng, dẫn đến bao nhiêu “vụ án cuồng yêu gây chấn động dư luận” ( xin xem thêm:
Những rối loạn bên trong, những vụ án bên ngoài ấy, đang nói với chúng ta về cách định nghĩa tình yêu ngược lại với cách định nghĩa của Chúa Giêsu: “Hãy yêu như Thầy đã yêu”. Hiện tình ấy cũng thôi thúc những người còn lương tâm hãy chỉnh đốn chính cách sống yêu của mình cho đúng cách.
Lạy Chúa, chúng con nguyện xin cho Hội Thánh Chúa “yêu như Chúa Yêu”, nên chứng tá cho xã hội loài người về một Tình Yêu đích thực. Xin ánh sáng Tình Yêu Chúa chiếu dọi lương tâm con người để con người biết đón nhận “điều răn mới” của Chúa mà thực thi trong xã hội loài người hôm nay. Chúng con tin cung cách “Yêu như Chúa đã yêu” sẽ đổi mới mọi sự nên tốt lành trong thế giới hôm nay. Amen.
Tháng 3 năm 1930, Lm. Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp về nhận Họ Đạo Tắc Sậy. Trong những năm làm cha sở, ngài đi lại, thăm viếng, giúp đỡ, thành lập nhiều Họ Đạo vùng phụ cận như: Bà Ðốc, Cam Bô, An Hải, Ðầu Sấu, Chủ Chí, Khúc Tréo, Ðồng Gò, Rạch Rắn.
Hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương năm 1945 – 1946, chiến tranh loạn lạc, bà con dân chúng di tản, cha Bề Trên Điạ Phận Phêrô Trần Minh Ký ở Bạc Liêu và cả người Pháp cũng kêu gọi ngài hãy tạm lánh mặt, khi nào tình hình yên ổn thì trở về Họ Đạo, nhưng ngài trả lời: "Tôi sống giữa đoàn chiên và nếu có chết cũng giữa đoàn chiên. Tôi không đi đâu hết."
Ngày 12.3.1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 người Giáo Dân tại họ Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt chung với bổn đạo tại lẫm lúa của ông giáo Sự ở Cây Dừa. Do sự tranh chấp giữa các giáo phái, vì bênh vực quyền lợi của Giáo Dân, ngài đã chết thay thế cho những người bị bắt chung.
Ngài mất trong khi thi hành nhiệm vụ chủ chăn. Xác ngài được vớt lên từ một cái ao của ông giáo Sự, với vết chém sau ót ngang mang tai và thân xác trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá.
Thi hài ngài được chôn cất trong phòng thánh Nhà Thờ Khúc Tréo. Ðến năm 1969, hài cốt ngài được di dời về Nhà Thờ Tắc Sậy, nhiệm sở của ngài thi hành chức vụ chủ chăn trong 16 năm. Ngôi nhà mồ của ngài hiện nay, được trùng tu và khánh thành ngày 4.6.1989. Ngài là cha sở thứ nhì của Họ Đạo Tắc Sậy. ( Lm. Nguyển Ngọc Tỏ, Tiểu sử Lm. Fx. Trương Bửu Diệp ).
Trích thuật Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay loan báo Chúa Giêsu ban cho các môn đệ một Điểu Răn Mới. “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” ( Ga 13, 34 – 35 ). Điểm quan trọng nhất là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”
Trong Kinh Thánh, tiếng Hy Lạp có tất cả bốn chữ để diễn tả tình yêu: Eros là tình yêu trai gái; Philio là tình yêu giữa bạn bè; Storge, tình yêu giữa anh chị em trong gia đình; và Agape, là tình yêu trọn vẹn và vô điều kiện.
Tình Yêu Agape được Chúa Giêsu đề cập đến khi hỏi ông Phêrô: “Này anh Simon con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” ( Ga 21, 15 ). Như vậy Tình Yêu Agape trọn vẹn siêu việt trong Điều Răn Mới phải rất đặc biệt.
Yêu một chiều
Tình yêu thông thường như eros, philio, storge thì luôn luôn đòi hỏi hai chiều, âm hưởng giữa hai đối tượng. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Có đáp ứng lại với nhau, mới phát sinh tình cảm yêu thương. Nhưng Tình Yêu Agape trái lại, chỉ duy nhất một chiều, không cần điều kiện vì, do hay nếu, không mong chờ đền đáp, dù rất mong muốn.
Vì là một chiều, Tình Yêu Agape mới có thể vươn xa, ra khỏi bản ngã, cái tôi đáng ghét, ra bên ngoài mối thân thích, họ hàng, bạn bè quen thuộc, đến với kẻ xa lạ, thậm chỉ đến với cả địch thù, chống báng, đối đầu, bất cộng đái thiên.
“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” ( Lc 6, 27 – 28 ).
Không những yêu thương kẻ thù, mà còn chúc lành và cầu nguyện cho kẻ thù nữa. Hoặc cho vay, mà chẳng mong đển trả, khác chi cho không biếu không, nói tắt là Tình Yêu Agape trao tặng vô điều kiện.
“Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Ðấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” ( Lc 6, 35 ).
Yêu là chết đi
Nếu không dẹp đi những cản trở vị kỷ, thì không thể chân thành yêu thương người khác được. Những toan tính vụ lợi cá nhân ngăn chặn bước chân thân tình đến với tha nhân. Lòng tự phụ, kiêu căng, sĩ diện, so đo, đố kỵ, tham lam, ác độc, chỉ hoàn toàn phủ nhận, hạ bệ, chà đạp tha nhân, thay vì đón tiếp vào vòng tay nhân ái. Do vậy, cần chết đi cách sống cũ ích kỷ, bất nhân, từ tâm tưởng, lời nói và hành động, nếu muốn yêu thương theo Chúa Giêsu.
“Những ai thuộc về Đức Kitô thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” ( Gl 5, 24 ).
Cha Phanxicô Xaviê Trưởng Bửu Diệp đã mạnh dạn ra đi theo Chúa, gắn bó với sứ vụ mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến dâng mạng sống cho Tình Yêu Agape trọn vẹn viên mãn.
Yêu là sống cho
Chết đi những thói hư tật xấu, những đam mê phù phiếm, những ham muốn xác thịt, để Tình Yêu Agape có thể phục vụ tha nhân trong sự khiêm hạ và thân tình. Như thế Tình Yêu Agape sống cho tha nhân, cũng như sống cho Chúa, chứ không còn ràng buộc vào sống cho mình, mưu cầu hạnh phúc bản thân.
“Chúng ta có sống là sống theo Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy dù sống dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” ( Rm 14, 8 ).
Với Tình Yêu Agape trọn vẹn của Chúa, sống cho tha nhân trong tinh thần khiêm tốn, biết quên mình phục vụ, như Chúa từng khiêm hạ, quỳ xuống rửa chân các môn đệ.
“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ). Thánh Phaolô đã xác tín mạnh mẽ như thế trong Thư gửi tín hữu Galát.
Các Thánh càng già thì quả tim họ càng trẻ ( Đường Hy Vọng, 177 ).
Đừng để tháng ngày làm quả tim già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: Tình yêu Chúa đổ vào quả tim con ( Đường Hy Vọng, 178 ).
Lạy Chúa Giêsu, xưa Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, xin cho con noi gương Chúa, biết khiêm hạ, bỏ mình và phục vụ trong Tình Yêu dâng hiến trọn vẹn.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con nuôi dưỡng Tình Yêu Agape trọn vẹn của Chúa, để con biết tha thứ, quên hết hằn thù, chúc phúc và cầu nguyện cho những người ám hại con. Amen.
Không một thọ tạo nào sống trên đời này mà không cần yêu thương. Tất cả mọi sinh vật trên mặt đất, không chỉ riêng con người nhưng là muôn loài: muông thú, cây cỏ… Bởi tất cả chúng đều được sinh ra từ tình yêu thương. Vậy mà, thế giới ngày càng đi vào hoang tàn và bị tiêu diệt cũng chính vì thiếu tình yêu thương.
Tại sao vậy ? Tại sao con người không thể sống nếu như không có tình yêu thương nhưng chính họ lại chém giết, sát hại lẫn nhau vì không có tình thương ? Phải chăng vì tình yêu nắm giữ trái tim nhân loại nhưng tiền tài, chức quyền, địa vị... lại điều khiển lý trí con người ? Tình yêu và lý trí, nếu lương tâm không còn làm thẩm phán, thì mọi trật tự bị đảo lộn. Tình yêu lúc này rõ ràng rất cần cho cuộc sống con người nhưng cũng trở nên vô nghĩa.
Đức Giêsu đã khẳng định, “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” ( Ga 13, 35 ). Muốn trở nên môn đệ của Đức Kitô, hay nói cách khác, những ai thuộc về Thiên Chúa thì đều có tình thương yêu. Bởi Ngài là tình yêu.
Thực tế, biết bao nhiêu tín hữu trên trái đất này mang danh Đức Giêsu, khoác trên mình tấm áo Thiên Chúa, tấm áo của người chịu phép Thánh Tẩy, được xức Dầu Thánh để trở thành người của Thiên Chúa nhưng vẫn không có tình yêu thương.
Nói yêu thương rất dễ nhưng sống thương yêu khó vô cùng. Phải trao ban tình yêu thương với kẻ không đáng yêu lại càng khó khăn hơn gấp bội. Đứng trước kẻ hung ác, tàn nhẫn đã gây bao thiệt hại mất mát cho mình mà phải tha thứ thương yêu khác chi cực hình ? Thế nhưng, đã là con Thiên Chúa thì phải thương yêu ! Đó là điều không thể thay đổi được.
Thật ra không phải nhân loại ghét yêu thương nhưng chỉ tại con người lạm dụng tình yêu thương. Thay vì yêu Chúa, yêu mình, yêu tha nhân, con người chỉ yêu bản thân, loại trừ không chỉ tha nhân nhưng ngay cả Thiên Chúa ra khỏi đời sống. Mà sự thật, loại bỏ tha nhân cũng chính là loại trừ Thiên Chúa.
Mấu chốt vấn đề nằm ở tham vọng nhân loại. Ai cũng vì bản thân mà loại trừ tha nhân ra khỏi vòng tròn tình yêu. Khi mật ngọt của yêu thương không còn, trái đắng của đau khổ, sự dữ ào ạt xuất hiện, nước mắt thay tiếng cười, con người rơi vào vòng xoáy của hận thù, ghen ghét.
Làm thế nào đây, làm thế nào để kéo yêu thương trở lại ? Làm thế nào để trả thương yêu về đúng vị trí ban đầu của nó ? Tham vọng của con người đã đẩy tình yêu đi quá xa, rời khỏi trái tim nhân loại, chạy đua theo tham vọng bạc tiền.
Sự ác ngày một xuất hiện với tần số cao, ở đâu yêu thương vắng bóng thì nơi ấy trở thành địa ngục trần gian. Ngay cả trong gia đình nhỏ bé, tương quan giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái cũng bị xáo trộn chỉ vì ích kỷ, ganh ghét. Ai cũng coi cái tôi của mình là nhất, ai cũng đặt mình lên vị trí ưu việt. Và thế là… những thảm kịch, án mạng liên tiếp xảy ra.
Câu chuyện tình yêu, những câu chuyện muôn thuở của nhân loại không bao giờ hết. Người ta ca ngợi hành động cao đẹp về tình yêu rất nhiều nhưng những thảm trạng vì thiếu yêu thương đếm cũng không hết. Thế giới kêu gào yêu thương, người người đứng lên bảo vệ thương yêu… nhưng trái tim nhân loại vẫn thiếu tình yêu, vì không có Thiên Chúa.
Lạy Chúa, nếu dựa vào điều kiện của Ngài, để chứng nhận con thực sự là môn đệ Thiên Chúa, có lẽ con đã bị loại bỏ từ rất lâu lâu rồi. Mặc dầu ý thức rất rõ cần phải thương yêu bác ái nhưng vì ích kỷ, tất cả là vì ích kỷ bản thân, con đã bước ra khỏi trái tim Thiên Chúa để chạy theo tham vọng cuộc sống. Yêu thương khó thật, khi không có Thiên Chúa.
Xin giúp con, giúp con ở lại trong tình yêu của Ngài. Chỉ cần được Thiên Chúa yêu thương, chỉ cần thương yêu như Thiên Chúa, con có thể cởi bỏ mọi gánh nặng tâm hồn vì hận thù, ganh ghét. Những tháng ngày qua đi, con đã làm héo úa bộ mặt Thiên Chúa qua cách sống, cư xử thiếu bác ái của mình.
Xin giúp con, những tháng ngày còn lại, dám sống cho tình thương yêu. Trước hết ngay trong chính gia đình nhỏ bé của mình, những người sống quanh con, những người con gặp gỡ, tiếp xúc. Nếu nói con người được sinh ra không phải để chết đi rồi tan biến như bụi cỏ, nhưng là để ghi lại dấu ấn trong trái tim nhân loại, thì xin cho con được để lại dấu ấn trong trái tim Thiên Chúa vì biết thương yêu !
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thuở ban đầu, chúng ta thấy cha ông chúng ta sống hết lòng yêu thương và đoàn kết với nhau. Các ngài đã lấy Chúa làm trung tâm, làm điểm tựa cho mọi hoạt động. Lấy tinh thần bác ái, yêu thương làm nên bản chất của mình. Vì thế, những người ngoài Công Giáo thời đó không biết tiền nhân của chúng ta theo đạo gì mà lại sống những giá trị cao đẹp như vậy, nên họ nói với nhau: những người này họ sống “Đạo Yêu Nhau”.
Tại sao các tín hữu lại có lối sống như thế ? Lối sống đó bắt nguồn từ đâu ? Thưa, mọi giá trị và ưu phẩm đó khởi đi từ một Đấng đã sống và dạy cho con người bài học “yêu thương”.
1. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu giữa Chúa Cha và loài người
Từ lúc xuống thế, nhập thể để ở với loài người, Đức Giêsu đã sống và đem “Đạo Yêu” đến trần gian. Ngài đã diễn tả nó qua hành động và lối sống của Ngài để làm toát lên khuôn mặt của một Thiên Chúa hết lòng yêu thương con người. Tình yêu ấy được bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ). Đến lượt Đức Giêsu, Ngài cũng sống triệt để sứ mạng đó khi yêu và yêu đến cùng bằng việc chết trên thập giá để hiến mạng vì người mình yêu: “Không có mối tình nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ).
Quả thật: Vì yêu, “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” ( Pl 2, 6 – 8 ).
Vì yêu, Đức Giêsu đã chấp nhận sinh ra nơi máng cỏ bò lừa giữa đêm đông lạnh giá. Chấp nhận bị phiêu bạt nơi đất khách quê người vì vua Hêrôđê bạo chúa tìm cách bắt bớ. Khiêm tốn vâng lời cha mẹ của Ngài là Thánh Giuse và Mẹ Maria.
Vì yêu, Đức Giêsu đã hạ mình để Gioan làm phép rửa thống hối cho Ngài, mặc dù Ngài vô tội; đã ăn chay suốt 40 đêm ngày để làm gương cho mỗi chúng ta; đã rao giảng Tin Mừng khắp đó đây để cho mọi người được ơn cứu độ; luôn cảm thông với người tội lỗi, nâng đỡ kẻ yếu đuối, vỗ về người thất vọng. Ngài đã “chạnh lòng thương” đến đoàn chiên bơ vơ không người chăn dắt; đã nuôi sống họ bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều; đã chữa lành những người ốm đau tật nguyền; đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; đã làm ơn cho kẻ hại mình; đã yêu luôn cả kẻ thù và sẵn sàng tha thứ cho họ.
Vì yêu, Đức Giêsu đã trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể và ở lại mọi ngày với loài người cho đến tận thế. Vì yêu, Ngài đã chấp nhận bị môn đệ thân tín bán đứng, bị Phêrô chối là không biết mình và bị người đời khinh khi nhục mạ. Cuối cùng, đã đón nhận chính cái chết để cứu chuộc loài người.
Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã sống và chết vì yêu. Qua đó, Ngài cũng dạy cho các môn đệ bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ); hãy yêu như Thầy: “Không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ).
“Hãy yêu thương nhau” là gia tài, là di chúc của Đức Giêsu dành cho các môn đệ khi sắp lên đường chịu chết. Lời trăng trối này thật thiêng liêng trong một không gian thánh giữa lúc thầy trò chuẩn bị ly biệt:“Hỡi anh em là những người bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em ít lâu nữa thôi”, vì thế, “anh em hãy yêu thương nhau”.
2. Tại sao lại phải yêu thương nhau ?
Có yêu thương nhau thì mới cùng nhau vượt qua được thử thách khi thấy cảnh Thầy của mình bị bắt, bị trói, bị đánh đập và bị giết chết trần trụi trên thập giá.
Có yêu thương nhau thì mới đón nhận nhau là anh em và không tranh dành chỗ cao thấp trong cuộc đời khi không còn Thầy hiện diện ở giữa nữa.
Có yêu thương nhau thì mới cùng nhau loan truyền và làm chứng về Thầy cho người khác.
Có yêu thương nhau thì mới đến được với người nghèo, người khổ đau, bệnh tật để an ủi họ. Mới dám cùng nhau chấp nhận cái chết để minh chứng cho mọi người biết mình đã tin vào Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Yêu nhau và dám chết cho nhau thì mới là người đáng tin và mọi người mới biết mình tin vào ai. Ngược lại, chỉ yêu nhau trong những lúc vui vẻ, thành công thì chỉ là một thứ tình yêu đầu môi chóp lưỡi.
Lời trăng trối của Đức Giêsu không chỉ là “hãy yêu thương nhau”, mà còn đi một bước xa hơn và mới hơn nữa là “hãy yêu như chính Thầy”. Yêu nhau là tình bằng hữu, nhưng chết cho nhau là một tình yêu cao cả. Yêu như Thầy là dám chết cho người mình yêu. Yêu như Thầy là một tình yêu bằng cả cuộc đời: từ lời nói, hành động và cái chết luôn thống nhất với nhau.
Nếu yêu thương nhau là cốt lõi của Tin Mừng, thì chết cho nhau là đỉnh cao của tình yêu ấy. Khi yêu nhau, ta làm toát lên vẻ đẹp của mình, khơi gợi cho con người niềm hy vọng và xác tín mạnh mẽ vào Đấng đã yêu thương chúng ta trước. Và như thế, “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” ( Ga 13, 35 ). Khi yêu như thế, ta cũng được ở lại trong Chúa và Chúa ở trong ta. Bởi vì, “Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong Tình Yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” ( 1Ga 4, 16 ).
Yêu thương là yếu tính của Đạo chúng ta. Cha ông chúng ta đã sống và làm chứng cho những giá trị cao quý ấy bằng cả mạng sống của mình để minh chứng niềm tin vào Đấng đã yêu và chết cho mình trước. Đấng ấy là chính Đức Giêsu. Hoa trái của các ngài đã toả lan và lưu truyền nơi Giáo Hội. Còn chúng ta, chúng ta đã thực hiện Lời Chúa dạy về Đức Yêu Thương như thế nào ? Xin để lại nơi suy nghĩ của mỗi chúng ta trước mặt Chúa...
Giá như không có tình yêu, thì thế giới âm nhạc trên trái đất này sẽ nghèo đi rất nhiều. Giá như không có tình yêu thì sách, báo, tiểu thuyết, phim ảnh, sẽ khô khan và cũng sẽ ít đi rất nhiều. Giá như không có tình yêu, thì cuộc sống nhân loại sẽ bớt đi đau khổ rất nhiều. Nhưng, nếu như không có tình yêu, thì cuộc sống cũng sẽ lại vô vị, và nhạt nhẽo rất nhiều, và sự phát triển của con người, cũng sẽ bị chậm đi rất nhiều.
Cứ tưởng, Thiên Chúa, cho Con duy nhất dấu yêu của Ngài xuống trần gian, là sẽ đem đến cho con người, một điều gì lạ lùng, mới mẻ, mà con người chưa bao giờ được thấy.
Nhưng không, Ngài đến, chỉ mang theo một điều mà ai cũng biết, ai cũng thích, ai cũng cần, ai cũng ước mơ tìm kiếm: Đó là tình yêu.
Tình yêu thì không bao giờ cũ, lỗi thời, hay già nua. Vì thế, không có gì lạ lùng như tình yêu. Tình yêu mang lại hạnh phúc lớn nhất cho con người. Nhưng cũng gây đau khổ to nhất cho con người. Sao buồn cười vậy? Thưa, vì người ta hiểu sai về tình yêu, người ta lạm dụng về tình yêu. Hôm nay, trong buổi tiệc chia tay sầu buồn nhưng ấm cúng Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta một con đường đi vào tình yêu đích thực. Vào con đường đó người ta sẽ sống vui trong hạnh phúc. “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”. Vậy Thầy đã làm gì để tỏ hiện tình yêu với nhân loại chúng ta? Trả lời cho câu hỏi này, là tìm được câu trả lời cho bản chất của tình yêu.
1- Yêu là hy sinh
Hy sinh có nghĩa là chịu phần thiệt về chính mình. Vì yêu nhân loại, Ngài đã bỏ quên cả vinh quang Thiên Chúa cao sang của mình, để xuống trần trong kiếp sống con người bụi tro biến đổi; hủy bỏ cả quyền năng vô cùng, để chấp nhận trong giới hạn của kiếp tạo vật hư vô. Chấp nhận cái kiếp làm người trong thung lũng nước mắt, với đói, với khát, với nhục nhã, với oan ức thê lương. Vì yêu mà Ngài đã chấp nhận hy sinh cả cái gia tài cao quý là mạng sống, để xin với Chúa Cha, tha thứ cho tội đời dày đặc của con người, cộng với bản tính luôn hay phản bội, và vô ơn.
2- Yêu là bỏ quên, tha thứ.
Trong cơn hấp hối sầu buồn, đớn đau quằn quại, Chúa Giêsu đã ngước mắt lên trời cao: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết”. Kẻ thù, kẻ ác độc hại chết mình, mà Chúa còn cầu xin tha thứ, huống hồ là những người thân quen bạn bè, nếu khi họ có lầm lỗi, lẽ nào ta lại cứng lòng không tha.
3- Yêu là chung thủy
“Và vì yêu thương, Ngài còn muốn yêu họ đến cùng”. Yêu thương đúng nghĩa là thế. Không bao giờ được phép đổi thay. Cái tình yêu đúng nghĩa, phải rộng lượng bao phủ mọi yếu đuối lỗi lầm của người mình yêu. Người phá vỡ hay phản bội, là người không có một tình yêu đúng nghĩa, đích thực.
Gợi ý suy niệm:
1- Theo bạn, tình yêu là gì? Là xác thịt, vẻ đẹp, hay là tiền bạc 2- Bạn có phải là người dễ tha thứ không?
Nếu kiểm điểm lại đời sống, xét mình về những lời nói, những cử chỉ và những việc làm đối với những người chung quanh, chúng ta sẽ thấy mình đã sai lỗi rất nhiều giới luật yêu thương của Chúa. Tôi nghĩ rằng Lời Chúa phán: Ngươi phải yêu thương anh em như chính mình ngươi, sẽ bao gồm tất cả và chi phối mọi liên hệ giữa người với người. Nếu chúng ta hiểu thấu đức bác ái và cố gắng thực hiện, chúng ta sẽ trở nên những người lịch sự, tế nhị và dễ thương.
Yêu thương anh em, nhiều người trong chúng ta cho rằng, lệnh truyền này có tính cách giáo điều, mang nặng tính chất đạo đức, không còn gây được những ấn tượng mạnh mẽ. Trong khi đó, cuộc sống thì biến đổi từng ngày và từng giờ. Người ta chú trọng đến những vẻ hào nhoáng bên ngoài. Những lời nói tuyên truyền. Tất cả làm thành như một lớp sơn, phết trên thanh gỗ mục. Trong khi đó tinh thần bác ái, tinh thần yêu thương vẫn cứ bị quên lãng, và không có một chỗ đứng quan trọng nào trong sinh hoạt thường ngày.
Bên Phi châu, có những bộ lạc, khi gặp nhau người ta chào nhau bằng câu: Tôi nhìn thấy bạn. Câu nói này đối với chúng ta không mang một ý nghĩa gì đặc sắc, nhưng nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy được cả một quan niệm sống của dân bản xứ. Tôi nhìn thấy bạn, có nghĩa là tôi không tập trung cái nhìn ích kỷ trên bản thân tôi, tôi không coi tôi như là cái rốn của vũ trụ, nhưng tôi nhìn thấy bạn, với tất cả địa vị và giá trị của bạn.
Tôn trọng người khác, có lẽ đó là điều mà hiện nay chúng ta còn thiếu sót rất nhiều. Người khác không phải là một hòn đảo để cho tôi thám hiểm, cũng không phải là một trái chanh cho tôi vắt kiệt. Người khác là anh em của tôi, là hình ảnh của Thiên Chúa. Dù họ có xấu xa và tệ bạc đến đâu chăng nữa thì họ cũng đã được cứu chuộc bằng Máu Thánh Đức Kitô, thuộc về gia đình Thiên Chúa cũng như tôi. Trong gia đình này, Thiên Chúa là Cha và chúng ta là anh em với nhau. Nếu nhìn người khác như thế, chúng ta sẽ trở nên người Kitô hữu trưởng thành và sống đạo.
Một người ngoại quốc bước xuống xe điện. Ông ta hỏi thăm về địa chỉ với người mà ông ta gặp đầu tiên. Người ấy đã chỉ vẽ cặn kẽ rồi lại đi theo và xách hành lý cho ông ta tới tận địa chỉ mà ông ta định đến. Tò mò, ông ta bèn hỏi người ấy: Tại sao ông lại làm cho tôi như thế, đang khi tôi chỉ là một kẻ xa lạ. Rất đơn sơ và thành thật, người kia đã trả lời: Vì tôi là người Kitô hữu.
Là người Kitô hữu, chúng ta hãy yêu thương người khác trong Đức Kitô và vì Đức Kitô. Hãy yêu thương người khác, vì tất cả đều là anh em, đều có chung một Cha là Thiên Chúa ở trên trời.
Bài Tin Mừng hôm nay là lời cáo biệt Đức Giêsu nói cho các môn đệ thân yêu trước khi Người ra đi chịu chết, đồng thời cũng là những lời trăn trối thâm tình nhất. Chính trong bối cảnh cụ thể và lịch sử đó mà ‘điều răn mới’ trở thành đặc biệt quan trọng và sâu sắc.
Không hiểu sao: mãi cho tới bây giờ, tôi vẫn chưa hết dị ứng với chữ ‘giới răn’ (commandments). Một từ vựng khác là ‘thập điều’ (Decalogue) xem ra nhẹ nhàng hơn nếu xét theo nguyên ngữ. Đối với người công giáo, cũng không biết từ bao giờ, từ ngữ ‘giới răn’ đã trở thành phổ biến và quen tai. “Điều răn’ có nghĩa là: một qui đinh, một điều buộc phải làm hay cấm không được làm, phát xuất từ một thẩm quyền tối thượng. Đã là điều răn, thì mọi người ai đều ‘phải’ tuân giữ. Người Việt Nam quen với khái niệm: ‘lời răn bảo’ (nên, hãy), với nội dung nhẹ nhàng và khích lệ hơn. Tôi thiết nghĩ là con người đương đại (đặc biệt giới trẻ hôm nay) cũng chuộng nhẹ nhàng khuyên nhủ hơn là răn đe. Hơn nữa, trong các ‘điều răn’ thì, luật buộc phải yêu thương lại có vẻ bất hợp lý hơn hết! Tình yêu không thể bó buộc! vì nó dựa trên tự do và nhận thức; không một ai, kể cả Thiên Chúa, có thể bắt buộc người khác phải yêu mình. Là chúa tể, Ngài chỉ có quyền bắt mọi tạo vật phải thờ lạy, phải kính sợ mình mà thôi! Thế thì ta phải hiểu câu nói của Đức Giêsu thế nào đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”.
Trước hết hãy nhớ rằng: các thính giả của Đức Giêsu trong cái giờ phút biệt ly đó là các môn đệ; mà các ông đều là những người Do Thái gốc (xem Ga 1:47). Các Pha-ri-sêu vẫn thường nói tới ‘điều răn’ (xem Mt 22:34-40), vậy thì việc Đức Giêsu đề cập tới một ‘điều răn mới’ là hoàn toàn hữu hiệu để lôi cuốn đám thính giả Do Thái lắng nghe Người. Chắc hẳn các môn đệ đã khá quen thuộc với các đoạn chương 20, câu 2-17 trong sách Xuất Hành, hoặc chương 5 câu 6-21 sách Đệ Nhị Luật. Các đoạn văn này đều đặt ‘10 giới răn ’ dựa trên thẩm quyền tối thượng của Đức Chúa Gia-vê, Đấng đã giải thoát dân khỏi ách nô lệ bên Ai-Cập và dẫn đưa họ vào đất hứa. Mười điều răn hay thập giới có thể được coi như các điều khoản của giao ước dân Do Thái ký kết với Gia-vê, Đấng giải phóng họ. Tự nó, thập giới là những qui luật rất nhân bản và hợp lý, kể cả ba khoản đầu trực tiếp liên quan tới Đức Chúa, tuy nhiên ta không thể khảng định thập giới đích thực là luật yêu thương! Đúng hơn, đó là luật công bằng, luật sòng phẳng, luật ràng buộc do cam kết của một khế ước giữa hai bên ký kết với nhau. Ngay cả ‘yêu tha nhân như yêu chính mình’ cũng chỉ xuất phát từ đòi hỏi công bằng của Cựu ước: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22:40); chính Đức Giêsu đã khảng định như vậy.
Trong bối cảnh đó thì “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” mới là ‘điều răn’ hoàn toàn mới mẻ, vì nó vượt xa những đòi hỏi công bằng sòng phẳng của một giao kèo xã hội. Nền tảng và nguyên lý của ‘hãy yêu thương này’ chính là con người Đức Giêsu Ki-tô, Đấng đã hiến mình chịu chết trên thập giá… để thực hiện cuộc giải phóng và lập một vương quốc thứ tha. Đó chính là ‘điều răn’ căn bản của giao ước mới, nói theo lối diễn tả của của người Do Thái. Nó phát xuất từ sự khám phá ra, hay nhận thức được: sự trung thành tuyệt đối của một Thiên Chúa cứu độ, nhân ái và giầu lòng xót thương, để rồi tự đáy lòng mỗi người nẩy sinh và phát triển một tình yêu đáp trả quảng đại. Chính vì điều này mà, và trong tâm tình sâu đậm nhất của cuộc tiễn biệt, Đức Giêsu mới chính thức công bố ‘điều răn’ này! Sắp tới đây, các môn đệ sẽ tận mắt chứng kiến tình yêu này bắt đầu trở thành hiện thực: các ông sẽ được chứng kiến một Thiên Chúa yêu đến cùng, yêu tới độ “sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” trên Thập Giá (1 Ga 4:10).
Nếu thế thì đây không còn phải là một ‘điều răn’ chính hiệu nữa, có nghĩa là không phải là một điều gì áp đặt từ bên ngoài. Tình yêu mời gọi tình yêu! Những ai đã chứng kiến tình yêu Thập Giá, đã cảm nghiệm thấy “tình yêu đó là như thế này…” (1 Ga 4:8-11) thì việc ‘buộc’ hay ‘phải’ yêu thương anh em mình chỉ còn là một cách nói. Thực ra chẳng có buộc gì cả: nếu anh biết Thiên Chúa trong Đức Giêsu Ki-tô hiến mình trên thập giá cho anh và biết cách thâm sâu, thì việc yêu người anh em lỗi phạm sẽ là một đòi hỏi nội tại, một công việc của cõi lòng. Ngược lại, nếu anh thấy mình chưa thể yêu thương người anh em, thì đơn giản là vì anh chưa thật sự thấu hiểu Thập Giá, nơi Thiên Chúa đã yêu và hiến mình cho anh bất chấp con người anh đầy tội lỗi. Gioan đã muốn diễn tả như thế trong các chương 4 và 5 của lá thư thứ nhất: hoặc biết về tình yêu xót thương của Thiên Chúa hoặc không thể yêu tha nhân: vì nếu thấu hiểu được lòng Chúa nhân ái xót thương, thì chúng ta ‘phải’, như một định luật hoàn toàn lô-gích hay đúng hơn một chuyển động tất nhiên của cõi lòng, yêu mọi người anh em của mình thôi, cho dầu họ có bất toàn tới mấy. Yêu thương tha thứ cho kẻ thù nghịch sẽ mãi mãi là điều không thể, là một nghịch lý của niềm tin, bao lâu Thập Giá chưa được chúng ta giương cao trong đời sống.
Do đó, nếu tôi chưa thấy mình có thể yêu mến hoặc tha thức cho cận nhân, thì tôi biết đâu là nguyên nhân rồi đó!
Lạy Chúa từ nhân, nếu con chưa thể yêu các anh em con, thì đơn giản là vì con chưa hiểu thấu và cảm nghiệm được: ‘Chúa yêu thương và hiến mình vì con’ tới mức độ nào. Xin cho con biết chiêm ngắm Thập Giá, nhất là khi cử hành Thánh Lễ, để con ngày càng vào sâu hơn trong tình yêu xót thương của Chúa. Chỉ qua cách đó, phải, qua cách duy nhất đó, con mới có thể trở nên một Linh Mục đích thực, biết yêu mến và tự hiến cho đoàn chiên và các anh em con ‘như Chúa đã yêu thương’. Xin hãy giúp con đạt được điều này trong công tác mục vụ hàng ngày của con. Amen.
Truyện kể: Một vị giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Ngài hỏi: Bằng dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo? Không có tiếng trả lời. Rõ ràng, không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị giám mục lặp lại câu hỏi. Và ngài lặp lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu Thánh giá có ý nhắc nhớ cho các người dự tòng một câu trả lời chính xác. Bất chợt một ứng viên trả lời: Đó là tình yêu. Vị giám mục rất ngạc nhiên! Khi sắp mở miệng nói “sai”, ngài bỗng kịp thời ngậm miệng lại. Thánh giá biểu lộ tình yêu. Dấu chỉ của tình yêu là Thánh giá. Đạo Công giáo là đạo của bác ái yêu thương.
Yêu thương nhau như Thầy yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa đã sai chính Con Một yêu dấu xuống thế để cứu độ nhân loại. Chúa Giêsu đã bày tỏ tình yêu Thiên Chúa một cách cụ thể trong đời sống. Tình yêu của Chúa trải rộng trong mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Ngài đã dùng mọi cách gần gũi nhất để tỏ lòng yêu thương. Chúa sinh ra nơi máng cỏ nghèo hèn, chịu chung số phận với những người kiều cư khách lạ, sinh sống nơi làng quê nghèo và hoạt động cách bình dị âm thầm. Chúa Giêsu hoà chung những sinh hoạt hằng ngày với mọi người, đến nỗi người đồng hương chẳng nhận ra Chúa là ai. Họ nghĩ Chúa chỉ là con bác thợ mộc Giuse và mẹ là bà Maria. Thiên Chúa ẩn mình một cách thật khiêm hạ.
Chúa Giêsu đã kiên nhẫn đợi chờ trong thời gian và không gian để thi hành sứ mệnh. Ngài đã hoàn tất mọi lời tiên tri loan báo về Ngài. Chúa đã chịu mọi khổ nhục và chịu chết treo trên cây Thánh giá. Chúa đã sống lại. Mọi uy quyền trên trời dưới đất được trao ban trong tay Ngài. Mọi tư tưởng, lời nói, hành động của Chúa Giêsu là lời nói hành động của Thiên Chúa làm Người. Lời của Ngài là Tin Mừng cứu độ. Trước khi rời khỏi thế gian, Chúa Giêsu đã ưu ái ban truyền cho các Tông đồ: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34). Yêu thương nhau như Thầy yêu chúng con. Một điều răn căn cốt tóm gọm lời dạy của Chúa.
Chúa yêu thương trong mọi cử chỉ, ngôn ngữ và hành động. Những cử chỉ thân thương đối với người nghèo, kẻ bệnh tật, người phung cùi, khuyết tật, kẻ câm điếc, đui mù, quỷ ám và người đau khổ. Những bài giảng nói về đức yêu thương, yêu Chúa yêu người. Yêu thương anh chị em và yêu cả kẻ thù. Lời giảng của Chúa được cụ thể hoá qua các hành động Chúa đã thực hiện. Chúa đã tỏ lòng xót thương người tội lỗi lầm lạc và tha thứ cho những kẻ đã chống đối, nhạo cười và phản bội giết Chúa. Chúa đã chấp nhận mọi xỉ vả nhục nhã chỉ vì yêu. Kìa người ta khạc nhổ vào mặt Chúa. Chúng ta có thể chấp nhận một hành động bị khinh bỉ như thế không? Có khi nào chúng ta bị người ta khạc nhổ vào mặt chưa? Thật gớm!
Chúa Giêsu đã hiến dâng tất cả chỉ vì yêu. Chúa yêu chúng ta vô điều kiện. Chúa yêu chúng ta trước. Chúa mời gọi chúng ta học theo Chúa. Chỉ qua tình yêu, mọi người nhận biết chúng ta là Kitô hữu: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35). Chúng ta hãy tập sống yêu thương từ trong nôi ấm của gia đình trước. Khi hạt giống tình yêu nẩy mầm trong tâm, hoa trái tình yêu sẽ tỏa lan hương thơm ra những người chung quanh. Tất cả hoa trái yêu thương của ngày mai đều ẩn tàng trong những hạt giống tốt được gieo ngày hôm nay. Khi gieo trồng tình yêu thì sớm muộn gì cũng sẽ trổ sinh hoa trái yêu thương. Trong cuộc sống giao tế hằng ngày với tha nhân, chúng ta sẽ hái những gì chúng ta đã gieo. Như một đóa hoa tươi đẹp dần bị héo úa nhưng luôn để lại những hạt giống tốt trên mặt đất.
Nếu trái tim bị khô cằn và đóng khung, chúng ta khó có thể mở cửa đón nhận và cho đi tình yêu. Hạt giống tình yêu phải được vun tưới, chăm bón và tạo cơ hội để triển nở. Khi tình yêu được hòa trộn trong việc làm thì tình yêu sẽ thăng hoa. Và chính chúng ta là người đầu tiên được hưởng nếm hạnh phúc của tình yêu. Chúng ta biết rằng hạnh phúc nhất của cuộc sống này là tin chắc rằng chúng ta đang được yêu thương. Chúa yêu, cha mẹ yêu, vợ chồng yêu, con cái yêu, anh chị em và bằng hữu yêu. Chúng ta vui hưởng hạnh phúc ngay trên đường đi, chứ không phải tìm hạnh phúc ở cuối đường. Thực hành giới răn yêu thương là cốt lõi đưa dẫn chúng ta đến tình yêu và hạnh phúc thật.
Các Tông đồ với trái tim yêu thương đầy nhiệt huyết đã bước vào đời. Các ngài rao truyền tình yêu thập giá và tình yêu hiến dâng của Chúa Kitô. Các ngài gắn bó mật thiết với Chúa và với nhau để củng cố niềm tin yêu. Sách Tông đồ Công vụ tiếp tục ghi lại sứ vụ của các Tông đồ: Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa" (Cv 14,22). Để được chung hưởng hạnh phúc, chúng ta phải trải qua nhiều gian nan thử thách. Thánh giá là biểu tượng của tình yêu và thánh giá cũng là biểu tượng của sự hy sinh. Tình yêu không có hy sinh là tình yêu giả dối. Hy sinh mà không có tình yêu là hy sinh thừa thãi. Tình yêu và hy sinh như đồng tiền hai mặt luôn gắn kết với nhau trọn vẹn.
Bước đầu, cơ cấu tổ chức đời sống của các Kitô hữu đã được hình thành nơi các cộng đoàn. Là một tổ chức tâm linh, các Tông đồ nêu gương ăn chay cầu nguyện và phó thác niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Cậy trông vào ơn thiêng để kiên trì sống đạo, giữ đạo và hành đạo. "Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin" (Cv 14,23). Các thành viên của các cộng đồng nhỏ đã liên kết với nhau trong yêu thương và chia sẻ đời sống bác ái nâng đỡ và phụ giúp nhau sống niềm tin. Giáo Hội của Chúa đã hình thành qua dấu chỉ của sự yêu thương.
Cuộc lữ hành của Giáo Hội trần thế sẽ dẫn dắt mọi người đến Nước Trời, thành thánh Giêrusalem mới. Thánh Gioan khai mở hình ảnh về sự viên mãn: "Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa" (Kh 21,1). Vũ trụ này sẽ qua đi. Chúng ta hiện hữu trong thời gian và không gian. Chúng ta khó có thể tưởng tượng sự thay đổi một trời mới và đất mới thế nào. Kinh nghiệm trong cuộc sống cho chúng ta biết, mọi sự trong vũ trụ đều đang thay đổi. Sự thay đổi rất tiệm tiến về sinh thái. Hằng năm, chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu sự thay đổi ngay trước mắt. Chính chúng ta cũng đang thay đổi cả nội tâm đến ngoại hình. Sự thay đổi làm cho chúng ta nhận biết rằng cuộc sống là vô thường. Chúng ta đừng bám víu vào những giá trị mau qua chóng hết nhưng hướng đến một kết cục hằng hữu đời đời. Đó là Thiên Chúa của tình yêu.
Thiên Chúa bao dung và nhân ái. Thiên Chúa chậm bất bình và đầy ân sủng. Chúng ta đặt niềm tin yêu vào Thiên Chúa, Ngài sẽ giải thoát chúng ta: "Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,4). Đây là niềm hy vọng tuyết đối cho những ai đặt niềm tin nơi Chúa. Hạnh phúc tuyệt vời là chúng ta đang được Thiên Chúa yêu thương. Sống từng giây hạnh phúc, cuộc đời chúng ta sẽ no hưởng hạnh phúc. Khi yêu thương thật lòng, chúng ta sẽ cảm nghiệm được hạnh phúc ngay trong tầm tay.
Lạy Chúa, Chúa là suối nguồn tình yêu, xin tràn đổ tình yêu trong tâm hồn để chúng con được no thỏa. Xin cho chúng con biết đón nhận và cho đi tình yêu như dòng suối mãi tuôn chảy.
Kết thúc đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật V Phục Sinh hôm nay, Chúa Giêsu đã “bỏ nhỏ” với các môn đệ yêu dấu của mình một câu rất ngắn gọn: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau”.
“Môn đệ của Thầy” là gì? “Môn” tức là cửa (“cửa” ở đây được hiểu là cửa trường); “đệ” là em. Như thế, “môn đệ” nghĩa là người học trò được coi như em. Môn đệ của Thầy Giêsu nghĩa là người được học dưới mái trường Giêsu và được Chúa Giêsu coi như là em của Ngài. Được làm em của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là được làm con của Chúa Cha trên trời, được đồng thừa tự với Đức Kitô. Đây quả là một niềm vinh dự lớn lao. Vinh dự quá đi vì một thụ tạo thấp hèn lại được làm người học trò của Giêsu Vị Thầy Chí Thánh, và hơn thế còn được Ngài coi như người anh em của Ngài nữa!
Ở đời, nếu được thụ huấn với một giáo sư, tiến sĩ nào đó danh tiếng lẫy lừng, có lẽ ta sẽ tự hào lắm lắm, và nếu được làm anh em kết nghĩa với một nhân vật nào đó có quyền cao chức trọng nữa, ta lại càng tự hào và càng hãnh diện nhiều hơn. Vậy lẽ nào ta lại không hãnh diện, không tự hào khi được làm người môn đệ của Đức Giêsu Kitô, tức là được làm người học trò và làm người em của Ngài.
Đâu là “dấu” để người ta nhận ra mình là môn đệ của Đức Giêsu? Chắc chắn không phải là bộ đồng phục ta mặc trên người, không phải là chiếc khăn ta quàng trên cổ, cũng không phải là cái huy hiệu ta đeo trên ngực… mà đó chính là tình yêu thương ta có đối với anh em đồng loại: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau”. Có điều, yêu thương thì ai lại không biết; tất cả các nhà hiền triết đều mời gọi đệ tử mình sống yêu thương. Vậy yêu thương mà Chúa Giêsu mời gọi ở đây là yêu thương như thế nào?
Thưa là yêu thương “như” Chúa đã yêu thương. Đây là nét mới trong lời gọi mời yêu thương. “Mới” vì yêu thương ở đây không phải là yêu thương chung chung, nhưng là “yêu như Chúa đã yêu”! Cũng phải thôi, “làm môn đệ” của ai thì phải nỗ lực để trở nên giống người đó. Mà nét đặc trưng nơi Thầy Giêsu Chí Thánh không gì khác là tình yêu thương. Chính vì thế trở nên giống Thầy mình cũng có nghĩa là yêu thương như Thầy mình đã yêu.
Ở đây, Chúa Giêsu không còn lấy bất cứ thứ gì khác để làm điểm quy chiếu cho tình yêu, mà là lấy chính tình yêu của Ngài: “Yêu như Thầy”. Sách Đệ Nhị Luật dạy rằng hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Tin Mừng Thánh Mathêu đi xa hơn một chút, khi trích lại lời sách Lêvi: “Đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu mọi người như yêu chính mình” (Mt 22,39). “Như yêu chính mình” nghĩa là lấy bản thân mình làm điểm quy chiếu cho tình yêu đối với tha nhân. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy, một tình yêu ngoài Chúa, một tình yêu không lấy Chúa làm trọng tâm, thì dù có tốt, dù có lấy bản thân làm quy chiếu, vẫn không hoàn hảo được. Chỉ khi biết yêu như Chúa yêu thì tình yêu mới đạt tới mức trọn hảo. Vậy thì “yêu như Chúa yêu” nghĩa là gì?
“Yêu như Chúa yêu” nghĩa là chấp nhận cúi xuống rửa chân cho anh em, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu. “Yêu như Chúa yêu” nghĩa là tự nguyện hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và trao ban như “bạn hữu thân tình”. “Yêu như Chúa yêu” nghĩa là sẵn sàng “yêu cho đến cùng”, “yêu cho đến chết và chết trên Thập Giá”.
Yêu như thế quả là không dễ chút nào. Yêu người “như yêu chính mình” đã khó. “Yêu như Chúa yêu” còn khó gấp bội. Nó như một thách thức lớn đối với bản tính nhân loại bất toàn của ta. Yêu thương những kẻ yêu thương ta thì không nói làm gì, dễ quá! “Yêu như Chúa yêu” ở đây còn bao hàm cả việc yêu thương ngay những kẻ thù của ta. Tức là phải cầu nguyện, phải chúc phúc, phải làm ơn cho họ nữa.
Rõ ràng, đây không phải là điều dễ, nếu không muốn nói là rất khó. Nhưng khó không có nghĩa là không thể thực hiện được. Nhiều anh chị em của chúng ta đã thực hiện được điều khó ấy một cách anh dũng, thực hiện đến nơi đến chốn, nhờ được thấm nhuần lời Chúa dạy. Và họ đã và đang là những môn đệ chân chính, môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Tôi đang làm môn đệ của ai? Câu trả lời tuỳ thuộc vào việc ta đang sống yêu thương hay chối từ sống yêu thương.
Nếu tôi từ chối sống yêu thương cũng có nghĩa là tôi đang từ chối làm môn đệ của Đức Kitô. Và một khi không còn làm môn đệ của Đức Kitô nữa, rất có thể tôi sẽ tự nguyện đầu quân làm môn đệ cho những thứ “thần” khác.
Tôi có thể là môn đệ của “Al Kaeda”, khi tôi thường xuyên “khủng bố” anh chị em mình. Khủng bố không phải bằng việc đánh bom tự sát, hay bằng các thứ vũ khí này kia, nhưng có thể khủng bố bằng những ánh mắt “mang hình thù viên đạn”; khủng bố bằng những lời nói chua cay gắt gỏng, cộc cằn thô lỗ; hoặc khủng bố bằng những thái độ coi thường khinh khi người khác.
Tôi có thể là môn đệ của thần tài, thần Mamon khi tôi coi trọng của cải vật chất hơn anh em và sẵn sàng ăn thua đủ với anh em khi mình bị thiệt thòi mất mát đôi chút. Có người chỉ vì một mét đất mà đưa anh em ra toà, có người chỉ vì một con gà con vịt mà vác dao vác rựa tới nhà anh em láng giềng của mình để thanh toán. Có người chỉ vì một khoản nợ chưa kịp trả đã thuê giang hồ, thuê xã hội đen tới trấn áp và siết hết đồ đạc trong nhà người khác.
Tôi có thể là môn đệ của “thần lưu linh”, khi sáng xỉn chiều say; bày đủ cớ để uống, để nhậu; uống mọi nơi, nhậu mọi lúc. Mỗi khi uống vào là lời ra, uống vào là gây sự. Gây sự với bà con lối xóm, gây sự với vợ con, với anh chị em trong gia đình; thậm chí còn đập phá đồ đạc, rồi đánh vợ đánh con, khiến cho gia đình lúc nào cũng lục đục, căng thẳng và ngột ngạt như một hoả lò.
Tôi có thể là môn đệ của “thần đỏ đen”, khi sẵn sàng sát phạt anh chị em và vô tâm làm cho anh chị em mình đau khổ, gia đình xào xáo, thậm chí là ly tán. Hết số đề lại đến cá độ, hết cá độ lại sang bài cào hay tiến lên… Đồ đạc trong nhà cứ thế mà đội nón ra đi không một lời giã biệt; vợ con, cha mẹ người thân vì thế mà cũng tê dại cả nhà.
Tôi cũng có thể là môn đệ của của “thần sắc dục”, khi tôi bất trung phản bội với người bạn đời của mình - vợ con, chồng con lăng nhăng, để rồi tự huỷ hoại thanh danh của mình và gia đình mình,…
Tắt một lời, khi không còn là môn đệ của Đức Kitô nữa mà là môn đệ của các thứ “tà thần” trên thì hậu quả tất yếu sẽ là bất hạnh và đau khổ triền miên.
Chớ gì Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta luôn biết ý thức rằng được làm môn đệ của Chúa Kitô là một niềm vinh dự và niềm hạnh phúc lớn lao; nhưng đồng thời cũng là một bổn phận nặng nề, bổn phận phải sống yêu thương, yêu thương anh em nhiều hơn. Tất nhiên, khi yêu thương anh em nhiều hơn thì cuộc sống này sẽ phảng phất hương hoa thiên đàng nhiều hơn. Amen.
GIOAN phác họa bối cảnh của bài Phúc Âm hôm nay: căn nhà Tiệc ly nơi Chúa và các môn đệ dùng bữa cuối cùng. Bầu khí ngột ngạt vì Giuđa con người phản Thầy bán Chúa còn ở đó. Sau khi bị Thầy tế nhị vạch mặt, Giuđa đứng dậy bỏ ra. “Trời đã tối!” Chúa Giêsu như trút được khối nặng; tình thương không còn bị dày vò bởi phản bội, Ngài kêu lên: “Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển với Người”.
Giờ Ngài đã đến. Cả cuộc đời của Chúa đều hướng vọng về giờ này.
Giờ đau thương nhưng cũng là giờ vinh hiển. Giờ tử nạn nhưng cũng là giờ sống lại. Mầu nhiệm Thánh giá và mầu nhiệm khải hoàn vẫn gắn liền với nhau, mà chúng ta cùng tuyên xưng trong mỗi thánh lễ: “Con tuyên xưng Chúa đã chết đi, con tuyên xưng Ngài đã sống lại, con mong đợi Ngài lại đến”.
Trong giờ quan trọng đó, giờ gặp gỡ để biệt ly: “Thầy chỉ còn ở với con ít nữa thôi”, Chúa Giêsu đã bộc lộ tâm hồn và ban cho các môn đệ luật Bác ái thương yêu.
Đây không phải chỉ là một răn giới chung như trong Cựu ước, mà là một lời di chúc: Giáo hội của Ngài phải là một Giáo hội chia sẻ Tình Thương.
Trong đêm Thứ Năm Thánh này, Ngài muốn rằng các môn đệ phải sống tinh thần tập thể mà mối giây liên lạc khăng khít là tình bác ái yêu thương như Ngài đã thương yêu họ. “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con hãy yêu thương nhau”.
Mối tình ấy phản ảnh tình yêu Thiên Chúa, bắt nguồn từ Tình Yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con và tuôn chảy vào chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Càng sống mật thiết với Chúa thì càng biết thương yêu anh em, nhất là những người nghèo khổ.
Mẹ Têrêxa, Ấn độ nói với các tập sinh: “Chúng con đã được rước Chúa trong Thánh Thể, bây giờ hãy đi sờ đụng Chúa trong người nghèo khổ. Chúng ta là những người chiêm nghiệm trong hoạt động. Chúa không đòi chúng ta phải thành công, nhưng phải chung thành, yêu mến” (Messagère de l’Amour de Dieu – Edouard Le Joly).
Đức Bác ái không phải là một lời khuyên mà là một lệnh truyền, hơn nữa là một điều răn mới: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con thì các con cũng hãy yêu thương nhau”. Chúa còn thêm rằng đây là một dấu chỉ: “Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”.
YÊU THƯƠNG anh em là sống tinh túy của Đạo. Có thể rằng trong vài đạo giáo có sự đọc kinh nhiều hơn đạo ta, như Hồi giáo với 5 lần kinh nguyện trong ngày hướng về La Mecca. Có thể có đạo giáo với sự hãm mình phạt xác, diệt dục nhiều hơn ta như Ấn-độ giáo. Nhưng cái đặc điểm Đạo thánh ta phải là Tình Yêu, “nhờ dấu ấy, người ta mới biết chúng con là đồ đệ Thầy”. Giáo hữu tiên khởi đã hiểu và đã thực thi bác ái đến độ mọi người chung quanh đều kêu lên: “Kìa xem họ thương yêu nhau”.
Ngày nay, những người chung quanh ta, những “dân ngoại” của thời đại có quan niệm về chúng ta như vậy không
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con.
Có thể nói: Trong cuộc sống, Tình Yêu vừa là Cùng Đích vừa là Động Lực thúc đẩy con người. Tình Yêu vừa chiếm vị trí quan trọng trong tương giao với người khác, vừa là cách hoà hợp cho con người hạnh phúc trong Thiên Chúa.
- Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban cho chúng con đức tin / tin nhận Chúa trong cuộc đời chúng con. (Xin Chúa thương xót ...)
- Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã đổi mới mọi sự, dọn sẵn trời mới đất mới cho chúng con. (Xin Chúa Kitô thương xót ...)
- Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa muốn kiện toàn tình yêu chúng con nên giống Tình Yêu của Chúa. (Xin Chúa thương xót ...)
GIẢNG
Nói theo Thánh Gioan: "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8b) thì Tình Yêu đã có cùng với Thiên Chúa. Chính từ Tình Yêu của Thiên Chúa và con người được chia sẻ Tình Yêu ấy, nên Tình Yêu cùng đồng hành và đi vào cuộc sống con người. Ông Ađam được Thiên Chúa ban cho quyền làm chủ mọi loài Thiên Chúa đã dựng nên. Thiên Chúa dẫn chúng đến với ông Ađam, để hễ ông đặt tên cho nó là gì thì nó là thế. Nhưng ông Ađam vẫn "không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng" (St 2,20b), đến nỗi Thiên Chúa phải "lấy cái xương sườn" của ông, để tạo sinh bà Evà và dẫn bà đến với ông. Cho đến giây phút này, ông Ađam mới reo vui lên: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!" (2,23a). Tình Yêu đã làm cho cuộc sống gia đình có hương vị. Một thi sĩ viết: "Yêu chẳng phải là chương trình định sẵn, nhưng là phút giây làm sáng cả lòng ta" (De Belloy, câu 23, Danh ngôn Tình Yêu, Nxb Đồng Nai 1995). Không có Tình Yêu, cuộc đời quả là bóng tối. Bởi thế, người Á Đông cũng đã nói: "Tứ hải giai huynh đệ" -bốn bể cùng là anh em, hay "Thương người như thể thương thân", luật Dothái nói: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình" (Lv 19,18b).
Nếu Tình Yêu là vấn đề muôn thuở và mọi người đều được dạy dỗ phải yêu thương, thì tại sao hôm nay Chúa Giêsu lại tuyên bố với các môn đệ: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau" (Ga 13,34a) ? Tình Yêu Chúa Giêsu mới ở điểm nào ? Phải đọc thêm câu nói của Chúa, chúng ta mới có thể thấy được tính chất đó: "Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (13,34b). Người ta nói "tứ hải giai huynh đệ", nhưng dường như người ta chỉ xem như anh em những ai theo phe cánh, ủng hộ ý kiến, cách làm ăn của họ; cùng lắm, vì người đó là đồng hương, đồng liêu, đồng môn ... y như người Do thái chỉ xem là anh em những ai đồng tộc, đồng tôn giáo; cho nên mới có yêu nhau "như chính mình", "thương người như thể thương thân". Nghĩa là tình yêu được ban ra, nhưng thực chất vẫn là quy về chính mình: "bánh ích đi, bánh quy lại". Như vậy, tính chất mới mẻ trong Tình Yêu của Chúa Giêsu không quy về mẫu mực tình ruột thịt hay bản thân mình, nhưng quy về mẫu gương của chính Chúa -"như Thầy đã yêu thương anh em".
Cả cuộc đời Chúa Giêsu đã không ngừng trao ban Tình Yêu. Người yêu thương cho đến cùng: "Không ai có Tình Thương lớn hơn Tình Thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu" (15,13). Người ta có thể chết vì người lành, không ai dám chết vì người tội lỗi. Thế mà Chúa Giêsu đã chết cho mọi người, mà mọi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa! Chúa Giêsu yêu thương là để thể hiện Tình Yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, một Tình Yêu phổ quát, vô vị lợi; một Tình Yêu làm dấu chứng sống động Thiên Chúa đang hiện diện. Bởi đó, Chúa Giêsu cũng mong ước các môn đệ của Người thể hiện Tình Yêu sao cho người khác cảm nhận được Thiên Chúa đang hiện diện bên họ và nhờ đó: "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng thương nhau" (13,35). Như thế tính chất Tình Yêu nơi Chúa Giêsu không chỉ là nhu cầu đáp ứng tình cảm thụ ơn "có qua có lại mới toại lòng nhau", nhưng còn là cách thế để Thiên Chúa bày tỏ quyền năng hiện diện của Người. Con người được Thiên Chúa sinh ra để sống cho Thiên Chúa và sống quy về Thiên Chúa. Nói cách khác: Con người được tạo dựng trong Tình Yêu của Thiên Chúa và được hướng dẫn sống trong Tình Yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc đích thật và tuyệt đối của con người.
Thế nhưng, trong thực tế, cuộc sống không đơn giản! Nhiều khi ngay trong gia đình -nghĩa là giữa những người thân ruột thịt- Tình Yêu vẫn vắng bóng! Tình Yêu vẫn chưa là dấu chứng Thiên Chúa hiện diện! Chúng ta vẫn lấy lẽ "hòn đất ném đi, hòn chì ném lại", người ta đối xử với tôi thế nào, tôi sẽ đối xử lại như vậy, "mắt đền mắt, răng đền răng". Quan hệ cư xử của chúng ta còn mang nặng tính vụ lợi, hơn thua vật chất, chẳng những đã không nói lên được niềm tin vào Thiên Chúa, trái lại còn là lối sống phản chứng, khiến người khác tránh xa Thiên Chúa! Như thế không phải là phá Đạo, là chối Đạo sao ?
"Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em". Đó không chỉ là lời khuyên của Chúa Giêsu với các môn đệ nữa, nhưng còn là lý tưởng mục đích cuộc sống chúng ta; bởi vì chỉ có sống Tình Yêu như Chúa Giêsu là phổ quát, là vô vị lợi, chúng ta mới tìm được và đạt được hạnh phúc đích thật cho chính mình.
Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Thiên Chúa. Xin Người đổ tràn Tình Yêu của Người xuống lòng chúng con, giúp chúng con sống điều răn Yêu Thương mới của Chúa Giêsu cho xứng danh môn đệ Chúa hơn.
Tình yêu là một đề tài muôn thuở, nhất là vào thời buổi kim tiền hôm nay. Tình yêu là một mặt hàng đắt khách. Tình yêu xuất hiện ở mọi nơi, mọi ngõ ngách của cuộc sống. Tình yêu xuất hiện trên báo chí và sách vở, trên phim ảnh và mọi ngành nghệ thuật. Những bài tình ca, những cuốn phim nói về tình yêu. Những cuốn sách, những vần thơ được viết ra để ca ngợi tình yêu… Tất cả đã thu hút con người về với tình yêu. Có vẻ như tình yêu hiện diện ở khắp mọi nơi và chi phối đời sống của mọi con người.
*****
Bạn thân mến! Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến tình yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga.13:34)
“Yêu thương nhau” không những là một lời khuyên mà còn là một lệnh truyền của Chúa Giêsu, là đặc điểm của những người theo Chúa, là sứ mệnh của mỗi người Kitô.
“Yêu thương nhau” là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, yêu những người xem ra có lợi cho mình, yêu theo bản tính ích kỷ của mình. Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người phải yêu nhau như Chúa đã yêu.
“Yêu như Chúa yêu” là phải hy sinh quên mình, phải khiêm nhường phục vụ anh em. Yêu như Chúa yêu là phải yêu cả những người bé nhỏ nghèo hèn, yêu cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa.
“Yêu như Chúa yêu” là phải không ngừng tha thứ, không ngừng làm hoà với nhau.
“Yêu như Chúa yêu” là sự sống của Giáo Hội, là nét cao đẹp của người Kitô. Nét cao đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét cao đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến với Chúa.
"Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ thầy, là các con yêu thương nhau" (Ga.13:35). Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, ta phải yêu như Chúa yêu. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự Ngài nghĩ ra, không phải phát xuất từ chính Ngài, nhưng bắt nguồn từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào, Thày cũng yêu mến anh em như thế”. (Ga.15:9).
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.
Trong giờ hấp hối, khi sắp từ giã những người thân yêu nhất để vĩnh viễn ra đi sang thế giới khác, người hấp hối cố tranh thủ chút thời gian vắn vỏi còn lại và dành chút hơi tàn để căn dặn người thân yêu những điều mà họ cho là quan trọng nhất.
Chúa Giêsu cũng thế. Khi sắp từ giã các môn đệ để chịu khổ nạn và chịu chết, Chúa Giêsu trao cho họ những lời tâm huyết sau cùng: "Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau..."
Chúa Giêsu không muốn các môn đệ Ngài yêu thương nhau hời hợt bề ngoài, nhưng muốn họ yêu thương theo một mức độ lớn lao, nên nói thêm: "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." Rồi Đức Giêsu nhấn mạnh: "Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu nầy để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau."
Như thế, nếu kẻ nào không thương mến tha nhân, thì người đó chưa phải là môn đệ thật của Chúa Giêsu, mà chỉ là người môn đệ giả.
Trên thị trường ngày nay, có vô số đồ giả: vàng giả, tiền giả, thuốc giả, hàng giả xen lẫn với hàng thật. Đối với phần đông dân chúng, thì việc phân biệt đâu là hàng thật, đâu là giả quả là điều rất khó khăn.
Trong đạo thánh Chúa cũng vậy. Có nhiều Kitô hữu giả trà trộn giữa các Kitô hữu thật, muốn phân biệt ai giả ai thật, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thế nên Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta dấu hiệu phân biệt rất chính xác. Dấu hiệu đó là lòng yêu thương. Ngài dạy: "người ta cứ dấu nầy mà nhận biết các con là môn đệ thật của Thầy, là các con yêu thương nhau." Nếu có ai đó xưng mình là môn đệ Chúa Giêsu mà không tôn trọng, không yêu thương người khác, thì chắc chắn người đó là môn đệ giả.
*** * *
Có người chiêm bao thấy mình từ giã cõi trần tiến đến cửa thiên đàng. Được biết thánh Phê-rô canh cửa thiên đàng rất nghiêm ngặt, xét hỏi kỹ càng trước khi cho vào cửa, nên anh ta mang theo đầy đủ những giấy tờ cần thiết.
Trước hết, anh ta xuất trình chứng thư rửa tội, có chữ ký của cha sở và dấu đỏ của giáo xứ, nắm chắc hy vọng rằng với chứng thư nầy thì thánh Phê-rô sẽ mở cửa thiên đàng cho anh ngay. Nào ngờ, thánh nhân lại lắc đầu từ chối. Thế là anh ta lại xuất trình thêm chứng thư thêm sức, rồi chứng thư hôn phối, cả sổ gia đình công giáo nữa. Vậy mà thánh Phê-rô vẫn khước từ.
"Ngài còn đòi gì nữa? Con còn cả tràng chuỗi đây, cả cuốn sách kinh hôm mai đây. Bấy nhiêu không đủ chứng tỏ con là người môn đệ Chúa Giêsu sao?"
Thánh Phê-rô trả lời: "Con phải mang phù hiệu của người Kitô hữu."
"Phù hiệu nào nữa, thưa Ngài?"
"Thế con không nhớ lời Thầy chí thánh phán dạy sao: "người ta chỉ căn cứ vào dấu hiệu (phù hiệu) nầy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng thương mến nhau. Chưa có lòng thương mến nhau thì con chỉ là Kitô hữu giả hiệu."
Qua dụ ngôn phán xét chung, Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy. Trong ngày ấy, muôn dân sẽ được tập họp lại và Chúa sai thiên thần tách biệt họ thành hai. Người lành đứng bên phải còn kẻ dữ bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán với những kẻ bên phải rằng: "Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa" vì... các người đã thương mến chăm sóc các anh em bé nhỏ của Ta.
Rồi Chúa quay sang lên án những người bên trái: "Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó"... vì các ngươi đã không yêu thương chăm sóc các anh em bé mọn của Ta. (Mt 25, 31-46)
Dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy xem xét lại bản thân mình. Biết đâu ngay cả bản thân tôi cũng là môn đệ giả của Chúa Giêsu mà tôi không hề hay biết!
Hãy rà soát lại xem mình đã tôn trọng, chân thành yêu thương và phục vụ những anh chị em chung quanh chưa? Nếu chưa thì chúng ta vẫn còn là những Kitô hữu giả hiệu, chúng ta không thuộc vào số những người môn đệ chân chính và vương quốc thiên đàng không có chỗ cho chúng ta.
Ngạn ngữ Pháp có câu: “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir un peu). Sự ra đi nào cũng để lại những vấn vương và lưu luyến cho người ở lại, nhiều khi còn mang vẻ bi thương và tang tóc nữa. Cuộc ra đi thụ nạn của Chúa Giêsu cũng thế. Chính vì vậy, trong giờ phút ly biệt đầy xốn xang và ngậm ngùi, Chúa Giêsu đã để lại những lời tâm huyết cuối cùng cho các học trò. Những lời dặn dò thân tình ấy được Giáo hội đọc lại cho chúng ta trong phụng vụ hôm nay, giống như một di chúc thiêng liêng. Các nhà chú giải vẫn gọi đó là ‘diễn từ biệt ly’. Trong những lời trăng trối sau cùng ấy, Chúa nói với các môn đệ: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Điều răn mới.
Ai cũng biết, yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người. Ngày xưa triết gia Aristotle đã nói cho các học trò của ông: “Tính ích kỷ và đầu óc hẹp hòi biến con người trở nên như thú vật, nhưng khi con người đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, họ sẽ trở nên như thần thánh”. Nói chung, tôn giáo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, và chẳng tôn giáo nào lại dạy con người làm những chuyện thất đức. Tinh thần ‘Tứ hải giai huynh đệ’ của triết lý Đông phương cũng tương tự như thế. Thế thì, giáo huấn của Chúa Giêsu có gì là mới lạ? và tại sao Chúa lại gọi đây là điều răn mới? Chúng ta phải đi sâu vào tư tưởng thần học của Thánh Gioan mới có thể khám phá ra tính cách mới mẻ và độc đáo của giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu gửi trao như một di chúc thánh thiêng.
Ngay từ thời cựu ước, Đức Chúa Giavê cũng đã ban truyền thập giới trên núi Sinai qua Moisê, và 10 giới răn đó cũng được tóm kết qua 2 điều luật căn bản, đó là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều đó khi trả lời cho vị luật sĩ (Lc 10,27) hay cho vị kinh sư (Mc 12,28) hoặc cho chàng thanh niên giàu có (Mt 19,18-20).
Tuy nhiên các luật sĩ và biệt phái thời xưa chỉ giữ luật một cách máy móc và vụ hình thức. Chúa tuyên bố rằng Ngài đến không để bãi bỏ lề luật, nhưng mặc cho nó một chiều kích mới, đó là chiều kích nội tâm. Giới răn mới mà Chúa nói hôm nay cũng chính là việc thực hành tình yêu, nhưng đi vào cốt lõi căn bản, nhắm đến chiều sâu nội tâm hóa của giới luật yêu thương. Để huấn luyện các học trò hiểu thấu giới răn ấy, Chúa Giêsu lấy chính Ngài làm chuẩn mẫu:“ Anh em hãy yêu thương nhau ‘như’ Thầy đã yêu thương anh em”. Tính cách mới mẻ mà Chúa khởi dẫn chính ở điểm căn bản này.
Kinh nghiệm của Thánh Gioan.
Khi nói về mình, Gioan giới thiệu rất đơn giản bằng thuật ngữ ‘người môn đệ được Chúa yêu mến’. Gioan là người học trò duy nhất được tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly để lắng nghe từng nhịp đập nơi con tim thổn thức của vị Thầy khả ái. Ngài cũng đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria để mục kích trái tim Chúa bị đâm thâu và mở toang ra, tuôn đổ những giọt nước và máu của tình yêu cho đến vô tận. Tất cả những chi tiết này đều là những hình ảnh mà Thánh Gioan ghi lại để biểu thị bài học về tình yêu nơi Chúa Giêsu mà Gioan đã cảm thấu một cách tường tận. Trong Tin mừng thứ tư, thánh ký quảng diễn rất nhiều về tình yêu mà Chúa Giêsu đã diễn bày, nhất là qua hình ảnh người Mục tử nhân lành, biết các con chiên trong đàn, đi tìm kiếm con chiên lạc, và hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Gioan cũng dành ra suốt từ chương 13 đến hết chương 17 để viết lại diễn từ biệt ly, và điểm nhấn quan trọng nhất trong diễn từ chính là nói về tình yêu. Trong diễn từ này, Chúa Giêsu lập đi lập lại điệp khúc tình yêu qua chính mẫu gương của Ngài. “Không có tình yêu nào cao quý bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu”. “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”. “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”… Vì thế trong 3 lá thư Thánh Gioan để lại, đặc biệt trong thư thứ nhất, Ngài đã định nghĩa Thiên Chúa bằng một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,16). Những chân lý về tình yêu, về giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ được nói đến trong bài Tin mừng hôm nay, cũng được lặp lại rất nhiều lần trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan.
Yêu như Thầy đã yêu.
Nhiều người ngoại giáo thường hỏi chúng ta, đạo nào cũng hay, cũng đẹp, thế đạo Công giáo có cái gì đặc sắc mà các anh muốn quảng bá? Thánh Gioan hôm nay đã trả lời thay cho chúng ta.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống yêu thương giống như Ngài đã yêu thương. Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm lý thuyết, nói một đàng làm một nẻo. Cái chết của Chúa Giêsu lột tả trọn vẹn tình yêu mà Ngài muốn diễn bày. Ngài đã đi đến tận cùng của giai điệu yêu thương khi bị treo thân trên Thập giá như một tên tội phạm và quảng diễn rất cụ thể điều Ngài đã nói với các môn sinh: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Trong bữa tiệc ly, Chúa còn cúi xuống rửa chân cho các học trò như một người tôi tớ. Bằng nhiều cách, Chúa đã cố gắng cắt nghĩa giới răn mới mà người muốn truyền thụ lại bằng chính cuộc sống gương mẫu của Ngài.
Kết luận
Thánh Phanxicô Salê, vị Tiến sĩ đức ái, đã viết trong khảo luận về Đức Ái của Ngài: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ, tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái chính là sự hoàn thiện của tình yêu”. Sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chính là con đường dẫn đến hoàn thiện và đó cũng là lộ trình nên thánh mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước. Nhưng chúng ta thực hành giới răn mới đó như thế nào? Một nhà xã hội học đã chua chát nhận xét: “Ngày nay, con người đã rất tiến bộ và thành công vượt bậc. Người ta đã lên được tới mặt trăng, đã nghiên cứu đến tận sao hỏa, đã chế tạo các phi cơ với vận tốc khủng khiếp... Nhưng có một điều rất đơn giản là học cách sống tử tế với vợ mình, mà nhiều người học mãi cũng chẳng xong”.
Nói về tình yêu trên lý thuyết rất dễ, nhưng sống và thực hành theo gương Chúa Giêsu không phải là một chuyện giản đơn. ‘Hãy yêu như Thầy đã yêu’ là bài học mà chúng ta phải nghiền gẫm và phải phấn đấu để thực hành cho đến suốt đời.
Tục ngữ có câu "có gieo có gặt" nhưng thành quả gặt hái tùy thuộc vào loại giống mà chúng ta gieo trồng. Vì "gieo gì gặt ấy". Gieo yêu thương sẽ gặt trong hân hoan và hạnh phúc. Gieo bất công và hận thù sẽ có ngày "gậy ông đập lưng ông". Đó chính là quy luật của cuộc sống. Quy luật của tạo hoá luôn đòi sự công bằng cho con người trong cõi nhân sinh.
Có một người đàn ông cao niên, nhưng lại rất giầu có. Ông trao ban gia tài cho đứa con trai duy nhất, chỉ mong được sống an nhàn tuổi già bên con cháu cho đến hết cuộc đời. Thế nhưng, người con dâu lại không muốn bố chồng ở mãi trong nhà nên bảo chồng phải đưa bố đi nơi khác ở. Người con không muốn mất tình cảm với vợ, nên đã quyết định đưa cha vào viện dưỡng lão, nơi rẻ tiền nhất.
Một tuần sau đó, hai cha con đi bộ đến nơi mà người cha sẽ ở. Đi dược một lúc bỗng nhiên người cha già bật khóc. Lương tâm người con không chịu nỗi, anh nghẹn ngào nói lời xin lỗi cha già. Sau một vài phút, người cha bị hắt hủi nghẹn ngào nói: "con ơi, cha không khóc vì con đưa cha vào nhà dưỡng lão dành cho những người già nua tàn tạ. Cha khóc vì nhớ lại cách đây bốn mươi năm, Cha cũng bước đi trên lối này với ông nội của con, và cũng đưa ông nội con vào viện dưỡng lão tồi tàn này. Cha chỉ gieo gì gặt ấy thôi".
Thực vậy, "Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó". Những gì chúng ta nhận được từ trong cuộc đời này hôm nay và mai sau, hoàn toàn tùy thuộc vào những điều chúng ta đã gieo vãi, vun trồng.
Cùng một môi trường nhưng có người có nhiều bạn bè, và ngược lại có người lại rất nhiều kẻ thù. Có người được yêu thương, giúp đỡ. Có người chỉ nhận được sự khinh bỉ, dửng dưng xem thường. Có người được hàng xóm làng giềng bao bọc. Có người bị anh em loại trừ. Tại sao lại có nghịch lý như vậy? Thưa, đó không phải là nghịch lý mà là lẽ công bằng mà nói theo ngôn ngữ nhà Phật là "quả báo", là hậu quả do chính chúng ta đã gieo trồng trong cuộc sống của chúng ta.
Hôm nay Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy ra đi gieo vãi yêu thương. Chúa cầu mong chúng ta sẽ sinh hoa kết trái. Chính Chúa đã gieo vào lòng chúng ta hạt giống yêu thương. Chúng ta được lớn lên trong tình thương của Chúa. Chúng ta được sống trong sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Chúa còn tuyển chọn chúng ta nên bạn hữu của Chúa. Chúa còn làm tất cả để chúng ta được hạnh phúc. Chúa đã quên cả chính mình để chúng ta được sống. Chúng ta đã lãnh nhận tình yêu thương của Chúa. Dù rằng chúng ta chẳng có công lênh gì. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Thế mà Chúa vẫn cho chúng ta được ở mãi trong tình yêu của Chúa. Chúa chỉ cầu mong chúng ta: "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Yêu như Thầy đã yêu là tiếp tục gieo vãi hạt giống yêu thương của Chúa đến cho muôn người. Hãy thực hành tình yêu của Chúa cho anh chị em chung quanh chúng ta.
Nhưng có mấy ai đã thực sự sống yêu thương mà không có toan tính, hay pha chút kỷ ích nhỏ nhoen? Có mấy ai đã yêu tha nhân như chính mình? Có mấy ai đã vì bạn hữu mà dám quên mình? Có lẽ có, nhưng rất ít.
Nhìn lại những gì đang diễn ra nơi các gia đình, nơi xứ đạo và trên thế giới, dường như những nghĩa cử yêu thương đang thiếu dần, mà thay vào đó là sự ích kỷ bởi chỉ lo cho bản thân. Nét nổi trội của xã hội hôm nay không phải là những nghĩa cử yêu thương cao đẹp mà là bạo lực từ gia đình đến học đường. Ở nơi đâu cũng có bạo lực. Thành phần nào cũng có thể là nạn nhân của bạo lực. Có mấy ai đã tự vấn lương tâm để xem mình đã sống yêu thương cho anh chị em mình như thế nào hay chưa? Có mấy ai đã dám nói lời xin lỗi với gia đình, với cộng đoàn, vì mình mà gia đình, cộng đoàn đang có những xào xáo, bất đồng ý kiến, đố kỵ, ghen tương? Có mấy ai đã thực sự dấn thân xây dựng hoà bình khởi đầu bằng những nghĩa cử bao dung, độ lương với tha nhân?
Nhân loại hôm nay, rất biết ơn những con người biết xây dựng hoà bình từ yêu thương. Năm 1963, tại Washington, 200,000 người lắng nghe Martin Luther King, vị mục sư da đen, người đoạt giải Nobel hòa bình nói chuyện:"Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và của những chủ nô sẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong một nuớc mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công lao...". Ước mơ của ông đã thành hiện thực khi mà cả dân tộc Mỹ chọn một người da đen lên vị trí số 1 của nước Mỹ, đó chính là đương kim tổng thống Barach Obama.
Ước gì mỗi người chúng ta cũng gieo vãi những niềm mơ ước của yêu thương, của tình hiệp nhất cho anh em của mình. Ước gì những ước mơ hoà bình phải được thực hiện ngay từ chính bản thân mỗi người chúng ta khi chúng ta biết nói những lời yêu thương, biết sống trong tình yêu thương tha thứ và vì tha. Xin Chúa giúp chúng ta luôn học bài học yêu thương của Chúa để biết đem ra thực hành trong cuộc sống thường ngày, ngõ hầu góp phần kiến tạo niềm an vui và hạnh phúc cho trần thế hôm nay. Amen.
Thỉnh thoảng ta xem trên truyền hình hay băng DVD về những lễ như: lễ đăng quang của Đức Giáo Hoàng, hay lễ phong vương của vua chúa ngày xưa, mà ngày nay gọi là: lễ nhận chức tổng thống. Tất cả những người được phong vương, phong chức ấy đều hiểu theo nghĩa “Được tôn vinh”. Nghĩa là ngày hân hoan vui mừng vì được tôn lên, được đạt đến đích điểm của quyền cao chức trọng. Và để được sự tôn vinh đó người ta cũng phải trải qua bao lao nhọc, khó khăn, vất vả bởi học hành, bởi dày công tập luyện.
Hôm nay trong bài Tin Mừng của Thánh Gioan cũng nói tới việc ‘tôn vinh’. “Đức Giêsu nói: Giờ đây, Con Người được tôn vinh”. Nhưng việc Đức Giêsu được tôn vinh là qua sự đau khổ, đớn đau bởi: bị phản bội, bị bắt bớ, sĩ nhục, vu oan, cáo vạ, bị đánh đập và bị giết chết một cách ô nhục trên thánh giá. Một sự tôn vinh khác hẳn con người nhân loại được tôn vinh. Sự tôn vinh của Chúa Giê-su là tôn vinh của một Vị Thiên Chúa, mà Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa Giêsu, đồng thời Chúa Giêsu cũng được tôn vinh. Giờ phút Chúa Giê-su được tôn vinh là giờ phút mà Giuđa phản bội bỏ ra đi khỏi phòng hội, cử toạ là Thầy Chí Thánh Giêsu cùng với 11 trò còn lại.
Giờ phút từ giã trần thế, nhất là từ giã những người yêu qúi để đi cho đến cùng của yêu thương, trong bầu khí liêng thiêng và hệ trọng như thế, nên lời căn dặn cũng ở tầm mức không những quan trọng mà còn tha thiết, mong mỏi mọi người thực hành đến nỗi nó trở thành điều răn, lệnh truyền; lệnh truyền mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chính vì điều này mà: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: Là anh em có lòng yêu thương nhau”. ( Ga 13, 34-35).
Điều răn mới ở chổ nào? Đó là: “Yêu như Thầy đã yêu thương anh em”. Khác với giới luật yêu thương cũ: “Yêu thương người ta như chính mình ngươi”. Yêu thương như thế cũng là tốt lắm rồi; vì ai cũng yêu mình, và nếu yêu mình thế nào để yêu người khác được như vậy, qủa là một cuộc cách mạng lớn lắm rồi, thế giới cũng đổi thay lắm rồi; thế mà điều răn Chúa đưa ra còn vượt xa hơn nhiều: vì lấy Thầy Chí Thánh làm chuẩn mực vì: “Anh em gọi Ta là ‘Thầy’ là ‘Chúa’, quả thật là vậy, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã làm gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 13). Đây là điều mới không ai tưởng tượng nổi, một vị Thiên Chúa quyền năng cao cả mà cúi mình xuống phục vụ các môn đệ của mình, kể cả kẻ phản bội mình nữa, Chúa cúi mình xuống phục vụ như một đầy tớ phục vụ ông chủ. Quả thật cuộc đời của Chúa Giê-su là hy sinh phục vụ, phục vụ quên mình, phục vụ bằng liều mình chết bởi tình yêu, với tình yêu và cho tình yêu. Tình yêu (Agapé); tình yêu tuyệt hảo đó là: yêu và yêu cho đến cùng, yêu cho đến nỗi chấp nhận cái chết không những cho người dễ thương, dễ yêu mà còn cho kẻ thù nghịch, bội phản, chống đối mình nữa.
Một tình yêu tuyệt vời, một tình yêu trọn vẹn, một tình yêu mang lại sự sống đời đời nên: tình yêu này trở nên lệnh truyền, trở nên điều răn mới. Và khi đã trở thành lệnh truyền và điều răn thì không phải là chuyện (giỡn chơi), nên dù muốn, dù không thì ai ai cũng phải thực thi, phải tuân giữ, nếu không thì cuộc sống con người đau khổ, cay đắng và trầm luân. Chính vì thế mà Chúa phải đưa ra lệnh truyền; vì Chúa muốn thông chia cuộc sống hạnh phúc và sự sống đời đời cho con người qua sự yêu thương nhau, và chỉ có yêu thương nhau mà thôi; bởi vì khi con người sống ngược lại với sự yêu thương thì con người sẽ loại trừ nhau, thanh toán nhau, và đủ bao thảm hoạ đau thương xẩy ra như chúng ta đang chứng kiến ngày hôm nay; từ cá nhân, gia đình, đến đoàn thể, cộng đoàn, giáo xứ, xã hội, thế giới, đâu đâu cũng có cảnh đau thương xẩy ra và không chừng nhiều người trong chúng ta đang ngồi đây là nạn nhân, là những người đang sống trong cảnh địa ngục trần gian, bởi vì ở đó vắng bóng tình yêu.
Vậy thì, hơn bao giờ hết; từ cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, thế giới muốn có sự hòa bình, muốn có sự bình an đích thực, sống niềm vui và hạnh phúc thì phải tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giê-su: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thầy truyền cho các con một điều răn mới là: các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34). Đây như một định luật không có gì có thể thay thế được, cho dù nhân loại đang cố gắng lấy tiền bạc, tiện nghi, giải trí này, giải trí kia để trám lấp cho tình yêu, và càng sai lầm khi nghỉ rằng những thứ đó thay thế cho tình yêu đích thực, nhưng than ôi! Đó chỉ là những sự chắp vá nhất thời, để rồi sau đó là một sự trống vắng, chán chường, ghê tởm đáng sợ, bởi những đau thương này chồng chất lên đau thương khác không bao giờ dừng lại.
Và giờ đây, hỡi bạn! tôi mời bạn, kể cả tôi nữa, chúng ta hãy yêu thương nhau, cho dù bạn là ai đi chăng nữa. Bạn không phải là người Ki-tô hữu ư? Bạn hãy yêu người khác như chính bạn. Bạn và tôi là những người Ki-tô hữu ư? Chúng ta lại càng phải vượt xa hơn nữa bởi một tình yêu vị tha; yêu như Đức Ki-tô đã yêu và đang mời gọi bạn và tôi bước theo con đường tình yêu đó, có như thế mới cứu vãn được thế giới đang bị băng giá vì thiếu vắng tình yêu sưởi ấm. Và khi chúng ta có được một tình yêu đích thực thì tình yêu đó sẽ dạy cho chúng ta có trăm phương, ngàn cách để làm cho người khác được những sự tốt đẹp. Và đây là lời của thánh Augustino: “Bạn hãy yêu đi đã rồi muốn làm gì thì làm”.
Lạy Chúa, xin tạo cho chúng con một quả tim mới; một quả tim biết yêu thương nhau, yêu như Chúa đã yêu thương chúng con và truyền dạy chúng con. Amen. Halleluia.
Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm về những điều răn của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô truyền ban trước khi Ngài đi về Trời. Quả thật: nếu chúng ta muốn về Trời với Đức Kitô như lời hứa (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải thực hành trong đời sống “Điều răn mới” (Năm C), tất cả những “Chân lý” (Năm A). Và khi mỗi chúng ta áp dụng cách triệt để Tình Yêu và Bác Ái vào đời sống thường ngày, chúng ta sẽ mang lại nhiều hoa quả, trở thành “Vườn nho đích thực” (Năm B). Lúc đó mọi người sẽ cùng nhau: Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công; Người mặc khải đức công chính của Người, cho muôn dân được thấy.
* Bài đọc Phụng vụ năm A
- Tđcv 6, 1-7: Họ chọn 72 người đầy Thánh Thần - Tv 33, 1: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con - 1 Pr 2, 4- 9: Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả - Ga 14, 1-12: Thầy là Đường, là sự thật và là sự sống
* Bài đọc Phụng vụ năm B
- Tđcv 9, 26-31: Ngài thuật lại cho các ông biết trên đường đã thấy Chúa thế nào. - Tv 22, 26: Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời tôi ca ngợi vang lên trong đại hội - 1 Ga 3, 1-2: Đây là giới răn của Người: là chúng ta phải tin và yêu thương nhau - Ga 15, 1-8: Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái
* Bài đọc Phụng vụ năm C
- Tđcv 14, 12-27: Cuộc hành trình của Phaolô và Barnaba - Tv 145, 8: Lạy Chúa, lạy Chúa thiên binh, tôi sẽ chúc tụng danh Chúa đến muôn đời. - Kh 21, 1-5: Thiên Chúa đổi mới mọi sự - Ga 13, 31-35: Điều răn mới
Chúng ta tự hỏi, phải chăng chúng ta dùng những tình cảm tự nhiên để yêu nhau như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái và ngược lại, đồng lớp đồng niên yêu nhau, nam nữ yêu nhau là khác với tình yêu Đức Kitô đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải: Yêu như Thầy đã yêu anh em ?
Vậy, “yêu như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng ? Xem ra chữ “như” có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết: khi nói “Yêu như Thầy đã yêu anh em” là Đức Giêsu nói đến tình yêu của mình đối với các môn đệ với hy sinh và tha thiết: “Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”. Chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Đức Giêsu đã yêu các môn đệ nói riêng, và con người nói chung bằng tình yêu hiến mạng. Nay Ngài đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau đến mức đó. Tình yêu mà Đức Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đa yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy”. Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngững chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu mến Thiên Chúa hết lòng để đáp lại tình yêu Chúa. Sermons sur l'évangile de Jean, no 65 (trad. cf bréviaire 4e jeu. de Pâques). “Thầy ban cho các con một điều răn mới” là thế đấy.
Thánh Augustinô nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu anh em», khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Bởi: “Các bộ phận vì ích chung mà đùm bọc lấy nhau. Cho nên một bộ phận phải đau, thì hết các bộ phận đau chung; một bộ phận được vinh, thì hết các bộ phận vinh chung!” (1Co 12,25-26). Thật vậy, ai nghe điều răn này, hay đúng hơn là ai tuân giữ lời này, họ sẽ được biến đổi trở nên đồng thừa tự với Đức Kitô. Họ yêu thương nhau không đơn giản với bản tính tự nhiêu, nhưng vì họ là “thần” (Jn 10,35) nên tất cả họ yêu nhau và “họ là con Đấng Tối Cao» (Lc 6,35). Họ yêu thương nhau là vì họ được Đức Kitô yêu thương. Sermons sur l'évangile de Jean, no 65 (trad. cf bréviaire 4e jeu. de Pâques). Tình yêu vì Chúa.
Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực: thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v...
Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ. Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình yêu huyết tộc. Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đay đó chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau. Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà... tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.
Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc: “...vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi .
Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa: "Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau", vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng... Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen.
“Hỡi các con bé nhỏ, Ta chỉ còn ở với các ngươi một ít nữa… Ta ban cho các ngươi một điều răn mới: là hãy yêu thương nhau. Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau. Chính điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta: ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến lẫn nhau”(Ga 13:33a-35).
Một câu nhắn nhủ biến thành một lệnh truyền, với bốn lần tiếng gọi yêu thương được nhắc đến, phải là một tâm tình quan yếu được ôm ấp qua bao tháng năm, nay được thổ lộ vì e rằng ngày giờ đã tận.
Một linh mục nhận xét: những gì được trăn trối trong giây phút cuối đời là những tâm tư sâu kín, tha thiết, và chân thành nhất của một con người. Những đứa con thảo hiếu, những môn đệ trung tín, hay các bạn bè tâm giao, không thể không ghi lòng và thi hành những lời nói sau cùng của người thân yêu sắp ra đi.
Đức Giêsu, trước tử nạn, ngay trong buổi biệt ly, đã thố lộ với các môn đệ nỗi niềm sâu kín nhất mà Ngài đã dành trót cuộc đời để phát hoạ và dẫn lối con người: Hãy yêu thương nhau.
Yêu thương chính là dấu chỉ thuộc về Đức Kitô. Mỗi tôn giáo đều có một số hình ảnh tiêu biểu giúp nhận diện tôn giáo mình. Ví dụ, với người Hồi giáo là việc cầu nguyện năm lần mỗi ngày. Với người Ấn giáo là hãm mình phạt xác và kiêng thịt bò. Với anh em Phật giáo có thể là diệt dục hay chay trường. Nhưng riêng những người tin Chúa Kitô, dấu tỏ mình theo Ngài phải là dấu yêu thương.
Yêu thương chính là Đạo Giêsu. Người có Đạo phải là người biết yêu thương. Ai sống yêu thương là đang bước đi trên lối đường của Đạo. Khi chân thành thực thi bác ái, người có Đạo phô diễn rõ nét chân dung vị Sư Phụ của mình: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ Ta: ấy là các ngươi có lòng yêu mến nhau” (Ga 13:35).
Nhưng lòng yêu mến đó không chỉ dừng lại trên căn bản của cảm xúc, đam mê, hay ích lợi riêng tư. Vì yêu như thế chỉ là yêu như tôi muốn chứ không phải yêu như Chúa muốn. Điều mà Đức Giêsu trăn trối trong bữa tiệc ly là hãy yêu nhau như Ngài đã yêu thương. Yêu đến hy sinh, phục vụ, và quảng đại thứ tha như Ngài đã làm gương.
Kể là chuyện bất thường khi đường đường là một bậc thầy mà lại quì xuống rửa chân cho môn đệ. Đây hẳn là một hành động quên mình phục vụ tha nhân. Đức Giêsu muốn dùng chính hành động này để dạy bảo: “Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (Ga 13:34). Thế ra quên mình phục vụ tha nhân là dấu chỉ của tình yêu mà Đức Kitô mong muốn.
Yêu như Đức Kitô đã yêu còn là việc hy sinh tự hiến. William Barclay đã diễn tả trong một bài viết: “Nếu tình yêu là Thập giá thì Chúa Giêsu cũng sẵn sàng tiến tới đó. Lắm khi người ta lầm tưởng tình yêu là những thứ gì hạnh phúc. Phải, đích cùng sẽ là thế. Nhưng tình yêu cũng thường mang lại đau thương và đòi hỏi khổ giá”. Tình yêu đã thúc đẩy Đức Giêsu tiến lên khổ giá để mang lại hạnh phúc và sự sống cho con người.
Yêu như Đức Kitô đã yêu cũng còn đòi hỏi một tấm lòng quảng đại tha thứ. Từ trên thập giá, trong nỗi đau đớn tận cùng, trước bao tiếng la hét cuồng dại, cứ tưởng Đức Giêsu sẽ căm giận và ngăm đe một hình phạt tàn khốc. Thế nhưng người ta lại chỉ nghe được lời khẩn nài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23:34). Lại nữa, với những môn đệ đã từng bỏ rơi hay chối từ Ngài trong lúc cần kíp, Ngài cũng không chấp nhất. Đúng là không có lầm lỗi nào mà tình yêu của Đức Kitô không vươn tới và bao trùm.
Như vậy, để trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô, tôi phải thường xuyên tự vấn mình có đang sống yêu thương như Tin Mừng đòi hỏi chăng? Tình yêu của tôi có chứa đựng một cân lượng nào của phục vụ, hy sinh, hay tha thứ không? Nếu không thì dấu chỉ tôi có Đạo hẳn còn mờ mịt lắm thay! Chắc hẳn biến cố sau đây cũng đáng cho ta ghi nhận khi nói đến yêu thương như Đức Kitô:
Căn nhà của Frank Turner, trong thành phố Dallas bị phóng hoả. Một vài câu nói mang tính chất kỳ thị được viết trên cánh cửa ga-ra. Thiệt hại vật chất vượt quá 50 ngàn đô la. Những tổn thương tinh thần cũng không nhỏ lắm. Thế nhưng lời tâm sự của anh Frank đã làm cho nhiều người ngỡ ngàng: “Là con người, tự nhiên nghĩ đến việc trả thù. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng không phải mọi người da trắng đều xấu, cũng như không phải tất cả mọi người da đen đều tồi… Nếu tôi trả thù thì không chừng tôi lại xúc phạm đến các người lành. Điều tôi mong ước bây giờ là được Thiên Chúa dẫn lối đưa đường.” Frank nhìn nhận rằng chính niềm tin đã giúp anh tránh được thù hận.
Được biết Frank đang tu học để trở thành một thừa tác viên trong hội thánh Thanh Tẩy. Điều này đã khiến anh cương quyết hơn trong việc tha thứ và không nghĩ đến báo thù. Sự kiện bị đốt nhà và những tâm tình của Frank đã được báo chí địa phương Dallas nói đến.
Không biết sau này anh ta có trở thành một thừa tác viên để phục vụ hội thánh của mình không, nhưng tinh thần và thái độ hy sinh tha thứ, không gây hận thù tang thương cho bất cứ ai-vì anh tin vào Đức Giêsu- đã trở nên dấu chứng hùng hồn cho tình yêu và sự hiện hữu của Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.
Có nhiều người tự cho mình là văn minh ưu chủng, đồng thời khinh miệt và huỷ diệt kẻ khác-không chỉ thể xác nhưng còn cả trí tuệ, không chỉ là sự sống thể lý nhưng còn cả phương diện tâm linh. Như thế là phản văn minh. Vì như một tác giả nhận định: “Loài người đã vượt qua những chặng đường văn minh: từ văn minh của lửa, của thời đồ đá, đồ đồng, đến văn minh nông nghiệp, công nghiệp, tin học. Thế nhưng chóp đỉnh của tất cả mọi nền văn minh mà con người đang không ngừng vươn tới từng ngày là văn minh tình yêu. Ai biết yêu thương, người ấy mới thật sự là người văn minh, có văn hoá thật, và là người có sự sống sung mãn.”
Có yêu thương là có sự sống. Càng thương yêu sự sống càng phong phú tràn đầy.
Trước khi bước lên thập giá như một dấu chỉ yêu thương tột đỉnh, Đức Giêsu đã truyền đạt cho con người nền văn minh tình yêu-văn minh sự sống. Nhưng thử hỏi hiện nay tôi đang đạt đến thứ văn minh nào? Đồ đá hay đồ đồng? Sự sống hay sự chết? Tha thứ hay hận thù? Trấn áp hay phục vụ?
Để đạt được cao điểm của văn minh, điều tôi phải thực thi là nhắm thẳng vào Đức Kitô mà tiến bước.
Sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho các Kitô hữu là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV ("Sách về Giờ của Đức Giêsu") và ở trong "Diễn từ cáo biệt thứ nhất" (13,31-14,31): Đức Giêsu nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Người mời gọi các môn đệ đừng hoang mang trước viễn tượng Người ra đi (14,1): Chúa Cha sẽ cử đến một Đấng Bảo Trợ khác để trợ giúp các ông, đó là Thánh Thần (14,16-17). Còn chính Người thì sẽ trở lại với các ông; thế gian không thấy Người, nhưng những ai tin vào Người thì thấy được Đấng ấy (14,18-21). Giuđa đã diễn tả sự kinh ngạc của tất cả các môn đệ: "Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?" (14,22). Ông mơ một cuộc tỏ mình cụ thể, khả giác, của Đức Giêsu; ông chưa hiểu là biến cố Đức Giêsu và Thánh Thần ngự đến chỉ có thể nhận biết trong đức tin.
Thoạt nhìn, dường như câu trả lời của Đức Giêsu (c. 23) không liên hệ đến câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra, câu trả lời đã đi thẳng vào câu hỏi, bởi vì Đức Giêsu loan báo sự hiển lộ mầu nhiệm của Người và lý do khiến thế gian không thấy được sự hiển lộ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (14,23-24); 2) Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (14,25-26); 3) Đức Giêsu ban bình an và ra đi (14,27-29).
3.- Vài điểm chú giải
- lời (23): Đối với một người Sê-mít, "lời" (logos) có tính cụ thể; "lời" diễn tả hữu thể thâm sâu, chính bản thân con người.
- Thánh Thần ... Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều (26): Từ ngữ "Thánh Thần" (to pneuma to hagion) ở trung tính; vậy mà chủ ngữ "Đấng đó" (ekeinos) thay cho "Thánh Thần" (to pneuma to hagion, ho...) lại ở nam tính. Khi viết như thế, tác giả muốn cho thấy rằng Thần Khí còn hơn là một xu hướng hay là một ảnh hưởng; Người là một nhân vật, một Đấng. Có thể nói ekeinos ở nam tính vì thay cho paraklêtos, nhưng gần hơn, vẫn là thay cho to pneuma to hagion, ho...
- sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm anh em nhớ lại (26): Bultmann có lý khi cho rằng, "dạy" và "làm nhớ lại" không phải là hai chức năng khác nhau của Thánh Thần, nhưng là hai phương diện của cùng một chức năng. Như thế, "dạy anh em" và "làm anh em nhớ lại" song đối với nhau.
- bình an (27): Khi ra đi, Đức Giêsu nói shalôm (bình an) với các môn đệ. Nhưng đây không phải là lời chào thông thường, mà là ân ban cứu độ. Đây không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, hay là chấm dứt sự căng thẳng về tâm lý, hay là một cảm giác thư thái. Theo ngôn ngữ Ga, "bình an", "sự thật", "ánh sáng", "sự sống", "niềm vui" là những từ mang nghĩa ẩn dụ để diễn tả các phương diện khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu đã mang từ Chúa Cha đến cho con người. "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy" là một cách khác để nói "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời" (10,28). "Bình an của Thầy" ở đây cũng giống như "niềm vui của Thầy" ở 15,11 và 17,13.
- nếu anh em yêu mến Thầy (ei êgapate, 28): Động từ ở thì vị hoàn (imperfect) để nói về một điều kiện "không có thật", chưa xảy ra [1].
- Chúa Cha cao trọng hơn Thầy (28): Câu này đã là đề tài cho nhiều cuộc tranh luận về Kitô học và về Ba Ngôi. Phái Ariô đã dựa vào câu này để biện minh cho Kitô học của họ, và do đó, để chống lại thần tính của Đức Giêsu. Đã có hai cách giải thích cổ điển: (1) Một nhóm Giáo Phụ (Origiênê, Téctulianô, Athanasiô, Hilariô, Êpiphanê, Grêgôriô Nadien, Gioan Đamát) cho rằng bản văn diễn tả sự phân biệt giữa Chúa Con và Chúa Cha: Con được nhiệm sinh trong khi Cha thì không. Tuy nhiên, cách giải thích này phát xuất từ suy tư tín lý về Kinh Thánh sau này chứ không dựa trên chú giải câu văn. Cho rằng tác giả Ga đã giới thiệu Đức Giêsu nói với các môn đệ về quan hệ nội tại giữa Ba Ngôi là sai niên đại. (2) Một nhóm Giáo Phụ khác (Xyrilô Alêxandria, Ambrôsiô, Âutinh) đã giải thích rằng trong tư cách là con người, Chúa Con Nhập Thể kém hơn Chúa Cha. Lối giải thích này thoạt tiên có vẻ có lý hơn lối giải thích trước, nhưng vẫn nhằm phân biệt các bản tính nơi Đức Giêsu. Và đây là điều không chắc là Ga đã nghĩ tới. Không lẽ Ga lại nghĩ đến một sự phân biệt giữa Đức Giêsu nói như con người và Đức Giêsu nói như Thiên Chúa? Nhất là một cách phân biệt như thế có phù hợp chăng trong Diễn từ cuối cùng, vì ở đây hơn ở bất cứ nơi nào khác, Đức Giêsu, Đấng đang nói, siêu việt lên trên cả thời gian lẫn không gian?
Khi đã bỏ ra ngoài sự can thiệp của khoa tín lý hình thức của thời sau này, chúng ta thấy rất có thể chìa khóa nằm ở 13,16: "Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi". "Cha quan trọng hơn tôi" nghĩa là quan trọng hơn những gì anh em đã thấy nơi tôi. Đức Giêsu chỉ quan trọng do chỗ Người là Đấng "mạc khải" Chúa Cha. Sự phân biệt được đưa vào không đối lập bản tính nhân loại với bản tính thần linh trong Đức Kitô (theo cách giải thích truyền thống), mà là đối lập "cách giới thiệu bản thân Người trong hình thức nhân loại" (trong phẩm cách Mêsia) với ý nghĩa tròn đầy của bản thân Người trong tư cách là Thiên Chúa, đó là mạc khải Chúa Cha. Vậy vấn đề là nhận biết Chúa Cha nơi Đức Giêsu. Khi các môn đệ đã đạt được tới đó, sẽ không còn vấn đề thấp hơn hay cao hơn, bởi vì Chúa Cha và Người chỉ là một.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (23-24)
Đức Giêsu khẳng định rằng người nào yêu mến Người, thì phải "giữ lời" Người, nghĩa là gắn bó với lời loan báo của Người và nhận biết bằng đức tin những gì Người đã yêu cầu (x. 14,15.21.23), và đáp lại bằng trọn cuộc đời dấn thân thực tế và quảng đại. Khi ấy, họ sẽ được đón tiếp Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, bằng chứng cho thấy Người liên kết với Chúa Cha là những việc Người làm (x. 14,10-11). Trong Cựu Ước, dân Israel đi tới chỗ biết Thiên Chúa của họ do họ thấy Ngài che chở kẻ nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất, những ngoại kiều, trẻ mồ côi, và các quả phụ. Nếu Đức Giêsu đang làm những việc tương tự, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đang ở trong Người và Người đang ở trong Thiên Chúa.
Không những các môn đệ đầu tiên, mà bất cứ ai tin vào Người và yêu thương Người, liên kết với Người theo cách này ("giữ lời"), thì đều sẵn sàng đón Chúa Cha và Chúa Con khi các Đấng đến; các Đấng sẽ cư ngụ nơi người ấy và sẽ ở lại bền bỉ với người ấy. Người đã liên tục nhắc lại: "Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy" (16,32; x. 8,29). Điều này đúng cho bất cứ ai yêu thương Đức Giêsu: người ấy không phải cô độc, không bị lạc lõng và bỏ rơi; dù không hữu hình, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên người ấy.
* Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (25-26)
Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa là Thánh Thần sẽ đến (x. 14,16-17); Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu. Đức Giêsu để lại cho các môn đệ lời của Người, sứ điệp của Người. Đây sẽ mãi là những yếu tố đưa các môn đệ đến với Người. Nhưng các môn đệ sẽ không phải dựa vào sức riêng mà hiểu lời Người: họ sẽ được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sự hỗ trợ hữu hiệu của Thánh Thần sẽ được biểu lộ rõ ràng trong việc dạy cho họ hiểu lời của Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ không đưa đến một giáo huấn mới: thật ra toàn thể mạc khải đã được ban nơi Đức Giêsu. Tất cả hoạt động của Thánh Thần sẽ là quy về những gì Đức Giêsu đã nói và giải thích cho các môn đệ. Được Thánh Thần dạy dỗ, các ông sẽ có thể đi theo sát hơn nữa lời của Đức Giêsu và được chuẩn bị đi vào hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con.
* Đức Giêsu ban bình an và ra đi (27-29)
Đức Giêsu không để các môn đệ phải mồ côi (x. 14,18), nghĩa là bỏ rơi các ông, mặc cho các ông sợ hãi, không được hỗ trợ nâng đỡ. Người từ giã và ban sự bình an của Người cho các ông. Người từ giã các môn đệ nhưng ban một sự bình an, một sự đảm bảo và một sự che chở chỉ có thể phát xuất từ Người. Sự bình an này không phải chỉ là một lời nói (một lời chào), cũng không phải là sự bình an mà thế gian ban tặng: một sự bình an giả trá, một sự bình an được đặt trên sự chuyên chế, bạo động và bất công. Sự bình an Đức Giêsu ban chính là ơn cứu độ, là "sự thật", "ánh sáng", "sự sống", "niềm vui", dựa trên việc loan báo do Người thực hiện, dựa trên sự hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con và dựa trên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông ấy đưa lại sự an toàn và che chở. Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đe dọa chúng ta và đứng lên chống lại chúng ta?
Khi đi chịu chết, thật ra Đức Giêsu trở về nhà Cha (x. 13,1); như thế Người đã đạt được mục tiêu của hành trình trần thế của Người. Đối với Người, không có niềm vui nào to lớn hơn là sự hiệp thông trọn vẹn với Cha. Điều này hẳn cũng phải có giá trị cho các môn đệ Người. Sự thông hiệp với Cha và với Con, một sự hiệp thông được ban cho họ ngay từ bây giờ, là nền tảng cho sự bình an của họ. Sự hiệp thông trọn vẹn của Con với Cha, vì là mục tiêu Đức Giêsu đã đạt, là nền tảng chắc chắn nhất cho niềm vui của họ.
+ Kết luận
Mọi sự tùy thuộc vào việc nhìn các sự việc một cách đúng đắn. Nhìn từ bên ngoài, cái chết của Đức Giêsu dường như là tai họa và sự đổ vỡ tan tành thành mây khói. Nhưng ai tuân giữ lời của Người, thì đã không mất sự an toàn do cái chết của Người, mà lại còn được củng cố trong niềm tin vào Người và trong niềm vui vì chiến thắng của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta tất cả những điều này xuyên qua hoạt động của Thánh Thần: chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng ta, dạy bảo và nhắc chúng ta nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cất đi mọi mối bận tâm, sợ hãi và lo lắng bất an, nhất là khi ta sống sự hiệp thông ấy trong đức tin. Bởi vì chỉ Đức Giêsu mới giúp chúng ta đi vào hiệp thông với Chúa Cha, thì cũng chỉ Người mới có thể ban cho chúng ta sự bình an này. Người tín hữu phải luôn luôn biết rằng, ngay cả khi họ bị cái chết dằn vặt, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên họ, chứ không bao giờ bỏ rơi họ trong tình cảnh khốn quẫn. Sự hiệp thông với Đức Giêsu và với Chúa Cha không chỉ bắt đầu khi chúng ta được tiếp đón vào nhà Cha (14,2-3), nhưng là một thực tại đã có bây giờ và sẽ hoàn tất với cuộc hưởng kiến vinh quang.
2. Ngược với việc tuân giữ những luật lệ chi li cách tỉ mỉ và máy móc, không quan hệ gì với con tim của người tín hữu, Đức Giêsu đặt các tương quan của Người với các môn đệ trên nền tảng là các dây liên kết riêng tư trong tình yêu. Muốn thấy Đức Giêsu, muốn sống nhờ Người và với Người, người tín hữu phải "giữ các lời Người" (c. 24). Sự sống này, như Đức Giêsu xác định, lại chính là sự sống của Người và cũng là sự sống mà Người nhận từ Chúa Cha, nhưng cũng có chung với Chúa Cha.
3. Các Kitô hữu hôm nay cũng phải vui mừng cho chính mình: sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho họ là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
4. Cái chết của Đức Giêsu rất có thể có vẻ là chiến thắng của ông hoàng của thế gian này và của các quyền lực bóng tối, là sự khải hoàn của các đối thủ của Người. Nhưng Đức Giêsu không hề bị áp đảo bởi một quyền lực bên ngoài, chống lại ý muốn của Người. Người đã tự ý nhận lấy cái chết của Người, bởi vì Cha đã định đoạt như thế cho Người. Cái chết của Người là một dấu chỉ về tình yêu của Người đối với Cha. -------------------------------------------- [1] M. Zerwick, Biblical Greek *313.
Có con là điều tuyệt vời nhất đối với nhiều phụ nữ. Tuy nhiên, để đứa con chào đời khỏe mạnh, người mẹ đã phải chịu đựng và vượt quá rất nhiều khó khăn thử thách, thậm chí hy sinh cả mạng sống của mình. Tất cả những điều đó đã xảy ra với một bà mẹ Mỹ, người gần như bị chết ngay trên bàn đẻ, nhưng được chính đứa con sơ sinh của mình cứu sống kỳ diệu một tuần sau đó.
Cặp vợ chồng Shelly và Jeremy Cawley đã vô cùng hạnh phúc chờ đón đứa con gái đầu lòng của họ, Rylan chào đời. Giống như bất kỳ gia đình trẻ nào khác, trước đó, họ đã đi mua sắm rất nhiều quần áo và đồ dùng trẻ em, cũng như trang trí nhà cửa để chuẩn bị đón chào thành viên mới.
"Tôi nhớ rất rõ mình nằm trên một cái cáng và được đưa đến phòng mổ. Tôi đã khóc và nói với các bác sĩ rằng, tôi rất sợ mình sẽ không tỉnh dậy sau ca mổ đẻ. Điều kỳ dị là, những lo lắng của tôi đã trở thành hiện thực", bà mẹ trẻ Shelly kể lại những gì mình đã trải qua. Trong ca mổ đẻ cấp cứu sau đó, bé Rylan đã chào đời an toàn và khỏe mạnh. Song, mẹ của em bị một cục máu đông lớn làm tắc nghẹn các động mạch chính, khiến cô rơi vào trạng thái hôn mê ngay trên bàn mổ. Các bác sĩ phát hiện, hai buồng phổi Shelly ứ đọng rất nhiều dịch, gây khó khăn trong việc cung cấp oxy cho não và làm giảm huyết áp của cô. Sản phụ trẻ được cho dùng máy hô hấp nhân tạo để duy trì sự sống, trong khi các bác sĩ tìm mọi cách cứu sống cô.
Sau một tuần hôn mê, chẳng còn mấy hy vọng sống dành cho Shelly. Trong một nỗ lực cuối cùng, trước khi chính thức tuyên bố bà mẹ trẻ đã chết, các bác sĩ đã thực hiện một hành động được cho là mang tính trực giác nhiều hơn khoa học. Họ đặt bé Rylan lên trên ngực Shelly, để hai mẹ con chạm vào da của nhau lần đầu tiên và kích thích để đứa con khóc bên bầu vú mẹ.
Và điều kỳ diệu thực sự đã xảy ra. Shelly bắt đầu bộc lộ các dấu hiệu sự sống. Trước sự kinh ngạc và vui sướng của mọi người, bà mẹ trẻ dần hồi sinh từ cõi chết và hiện đã hồi phục hoàn toàn.
"Tôi nghĩ đây là điều rất đáng kinh ngạc. Một đứa trẻ vô cùng non nớt ( mới 1 tuần tuổi ) lại có thể mang đến ảnh hưởng lớn đến như vậy. Trong lúc vô vọng, các bác sĩ gần như đã không thể làm được gì, nhưng con bé Rylan lại có thể... Tiếng khóc của con có thể đã tiếp cho tôi sinh lực để chiến đấu giành giật sự sống", Shelly bộc bạch. Cô và chồng đã viết một cuốn sách về câu chuyện kỳ lạ của mình với hy vọng sẽ tạo nên cảm hướng cho những người khác vững niềm hy vọng trong cuộc sống. (Tuấn Anh, Bé một tuần tuổi cứu mẹ thoát chết kỳ diệu, theo Diply, USA Today ).
Chính cháu bé Rylan bất ngờ đánh thức tình mẫu tử kỳ diệu, đã cải tử hoàn sinh cho mẹ Shelly. Một dấu chỉ của tình yêu tuyệt vời. Tình yêu nhân trần tuy còn bất toàn, hạn hẹp, mong manh vẫn là thần dược cứu sống. Tuy nhiên, “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, đã mang nặng đẻ đau ? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” ( Is 49, 15 ). Tình Chúa cao siêu, tuyệt diệu, vô biên, vượt trội hơn cả mối tình mẫu tử, còn thương ban cho con người được ân hưởng phúc trường sinh.
Yêu như chính mình
Trong chương 19 sách Lêvi, nêu ra chỉ thị về luân lý, những điều cấm đoán, nhưng nổi bật một điều khẳng định:”Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu tha nhân như chính mình” ( Lv 19, 18 ). Tuy nhiên tình yêu quy chiếu bản thân làm tiêu chuẩn, thường mỏng dòn, thiếu hoàn hảo, khó trường tồn, vì con người vốn yếu đuối, mong manh, dễ thay đổi, mau lung lạc theo thời gian và không gian.
Tình yêu con người bất cập, vì thường lệ thuộc vào tâm trạng bất an, hay bất thường do hoàn cảnh, môi trường tác động, nên dễ dàng biến chuyển, phai màu, thay đổi, sáng nắng chiều mưa.“Yêu nhau chưa ráo mồ hôi, chưa tan buổi chợ, đã rời nhau ra !” ( Ca dao ).
Tình yêu con người bất hạnh, vì thói bái vật, thực dụng, tôn thờ tiền tài, danh vọng, chức tước, quyền lực. Những ảo ảnh phù phiếm không bao giờ đủ, không bao giờ thoả mãn bản năng thú tính và dục vọng bất tận.“Hồi nào nhắn xuống nhắn lên. Bây giờ em đứng một bên anh không nhìn” ( Ca dao ).
Tình yêu con người bất hảo, vì lòng vụ lợi ngăn cản, vây hãm, áp đảo, chế ngự. Muốn được phản hồi, mong được đáp lại, ước được đền ơn đáp nghĩa, thích được trân trọng, quý mến, ái mộ. “Trách người quân tử bạc tình. Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao !” ( Ca dao ).
Tình yêu con người còn bất toàn, vì bị hạn chế bởi vị kỷ. Muốn chiếm hữu, hưởng thụ, lạm dụng, tham lam, vơ vét, tích luỹ vào cái tôi bần tiện, bon chen, hẹp hòi, ganh tương, dối trá, tị hiềm. “Có chả em tình phụ xôi. Có cam phụ quýt, có người phụ ta” ( Ca dao ).
Yêu như Chúa đã yêu
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 13, 34 ). Chúa Giêsu trao cho nhân loại Điều Răn Mới: Anh em hãy yêu thương nhau không như Lề Luật cũ đã ấn định: như chính mình, mà như Thầy đã yêu thương anh em. Đó chính là tình yêu phục vụ, khoan dung, hiến tế.
Xả kỷ, bỏ mình, khiêm tốn, cúi mình, quỳ xuống, hầu hạ rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu muốn công khai biểu lộ và nêu gương sáng ngời tình yêu phục vụ. “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” ( Ga 13, 14-15 ). Không phải chỉ là một gợi ý, mong ước đơn thuần, nhưng chính là một mệnh lệnh rất cấp bách, minh bạch, rõ ràng và thực tế dành cho những ai muốn đi theo Người.
Với môn đệ Giuđa phản bội, Đức Giêsu hết lòng khoan dung, tha thứ, từ ái, nhẹ nhàng, thân thương nhắc nhủ hồi tâm, cảnh tỉnh trước mặt các đồng môn. "Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy" ( Ga 13, 21 ). Nhưng ông Giuđa chẳng hề tỏ ra động lòng, nghĩ lại, trở về. Xót xa, đau buồn, nhẫn nhục, Người đành công khai, thẳng thắn cho mọi người biết đó là ai. "Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy… Giuđa, kẻ nộp Người cũng hỏi: "Rápbi, chẳng lẽ con sao ?" Người trả lời: "Chính anh nói đó !" Nhưng lòng chai dạ đá, Giuđa cứ cố chấp, tiếp tục lún sâu vào tội ác. Người đành tế nhị, ý tứ nhắc riêng: "Anh làm gì thì làm mau đi !" ( Ga 13, 27 ). Dẫu vậy, Người vẫn tỏ ra tiếc thương, không cứu vãn nổi người môn đệ bạc nghĩa, phụ tình.” Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn !” ( Mt 26, 23-25 ).
Với ông Phêrô sẽ xúc phạm thô bạo, Người cũng bình thản tỏ lòng rộng lượng, ưu ái, ân tình, chua xót cảnh báo: "Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư ? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần” ( Ga 13, 38 ).
Khi kẻ thủ ác vừa rời bàn tiệc, Đức Giêsu liền công bố cuộc khổ nạn bắt đầu khởi sự. Người sắp trở nên Con Chiên hiến tế, chuộc tội cho toàn thể nhân loại. Trung thành vâng lời Đức Chúa Cha, Người chịu khổ nhục, chịu đóng đinh, chịu chết trên thập giá. Đó chính là thời điểm Người được tôn vinh trọn vẹn qua Tình Yêu hiến tế “Khi Giuđa đi rồi, Ðức Giêsu nói: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người, Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người,thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” ( Ga 13, 31-32 ).
Yêu là dấu chỉ Kitô hữu
Lời trăn trối cuối vô cùng thấm thía và cảm động của Đức Giêsu đến nay vẫn còn mãi vang vọng trên thế gian: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" ( Ga 13, 35 ). Yêu thương tha nhân như Người để làm chứng nhân sống động cho Đức Kitô. Nhưng yêu như Thầy Giêsu đã yêu chẳng phải dễ dàng thực hành, vì chẳng phải yêu trong chốc lát, tuỳ hứng, tuỳ tiện, mà phải yêu suốt đời, cho đến hơi thở cuối cùng, thật là một thách đố ngặt nghèo cho tất cả Kitô hữu. Hoàn toàn bất khả thi, nếu không có Đức Chúa Thánh Thần yêu thương, ban thêm sức mạnh tình yêu, lửa mến, niềm tin, đức cậy.
“Đừng để tháng ngày làm cho quả tim già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu ngày càng mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: tình yêu Chúa đổ vào quả tim con” (Đường Hy Vọng, số 178 ).
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin giúp chúng con biết bỏ mình, từ bỏ bản thân, khiêm nhu, hiền lành, khoan dung, thứ tha yêu thương phục vụ tha nhân, nhiệt thành sống cho tha nhân. Sẵn sàng chịu hao mòn, chịu tan biến, để bừng lên ngọn lửa mến sưởi ấm tha nhân, đang cơ cực vì thế gian băng giá, lạnh lùng, vô tình.
Kính xin Mẹ Maria luôn cầu bầu, nhắc nhở, răn dạy chúng con biết thiệt sự yêu thương, bác ái, chia sẻ, giúp đỡ mọi người, nhất là những người khốn khổ, đang bị bỏ rơi, khinh miệt, bên lề xã hội, để thế gian nhận ra chúng con chính là môn đệ của Chúa. Amen.
Trong giờ phút linh thiêng khi sắp từ giã những người thân yêu để vĩnh viễn ra đi sang thế giới khác, người hấp hối gắng chút hơi tàn căn dặn người yêu dấu những điều mà họ cho là quan trọng nhất.
Khi sắp từ giã các môn đệ để bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu trao cho họ những lời tâm huyết sau cùng: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau…”
Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau. Chúa Giêsu không muốn các môn đệ yêu thương nhau hời hợt bề ngoài, nhưng muốn họ yêu thương theo một mức độ lớn lao nên Người nhấn mạnh: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu nầy để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.”.
Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Nói đến Công Giáo là người ta nghĩ ngay đến hai từ “bác ái”. Bác ái không nguyên là yêu thương nhau theo kiểu cha ông truyền dạy là “thương người như thể thương thân” mà còn phải yêu thương nhau như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta. Chúa Giêsu đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.
Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người ( x. Ga 3, 35; 5, 20; 17, 24 ). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này ( x. Mt 3, 17; 17, 5 ). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẻ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Người.
Yêu như Thầy đã yêu có nghĩa là:
- Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.
- “Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15, 15a ). Người là Thầy, là Chúa, các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không, Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Người. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết” ( Ga 15, 15b ).
- Thầy hy sinh quên mình, Thầy hạ mình phục vụ anh em. Thầy yêu những người bé nhỏ nghèo hèn, yêu thương cả những người thù ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa và Thầy không ngừng tha thứ, muốn mọi người làm hoà với nhau.
- Cả cuộc đời Chúa Giêsu đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người. Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…
Yêu như Thầy đã yêu làm nên nét đẹp của Tin Mừng. Nét đẹp ấy có sức lôi cuốn mọi người đến cùng Chúa. Tình yêu ấy thật cao đẹp nên Chúa mời gọi: “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu” ( Ga 13, 34 ). Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.
Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại. Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời: “Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” ( R. Tagore ).
Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương, bác ái; chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho.
Trên thị trường ngày nay, có vô số đồ giả: vàng giả, tiền giả, thuốc giả, hàng giả, bằng cấp giả. Giả thật đen xen nhau như cỏ lùng và lúa tốt. Đối với phần đông dân chúng, thì việc phân biệt đâu là thật, đâu là giả quả là điều rất khó khăn.
Trong đạo cũng vậy. Có nhiều Kitô hữu giả trà trộn giữa các Kitô hữu thật, muốn phân biệt ai giả ai thật, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thế nên Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta dấu hiệu phân biệt rất chính xác. Dấu hiệu đó là lòng yêu thương. Chúa dạy: “người ta cứ dấu nầy mà nhận biết các con là môn đệ thật của Thầy, là các con yêu thương nhau.” Nếu có ai đó xưng mình là môn đệ Chúa Giêsu mà không tôn trọng, không yêu thương người khác, thì chắc chắn người đó là môn đệ giả.
Có người chiêm bao thấy mình từ giã cõi trần tiến đến cửa Thiên Đàng. Được biết Thánh Phêrô canh cửa thiên đàng rất nghiêm ngặt, xét hỏi kỹ càng trước khi cho vào, nên anh ta mang theo đầy đủ những giấy tờ cần thiết.
Trước hết, anh ta xuất trình chứng thư Rửa Tội, có chữ ký của cha sở và dấu đỏ của Giáo Xứ, nắm chắc hy vọng rằng với chứng thư nầy thì Thánh Phêrô sẽ mở cửa Thiên Đàng cho anh ngay. Nào ngờ, thánh nhân lại lắc đầu từ chối. Thế là anh ta lại xuất trình thêm chứng thư thêm sức, rồi chứng thư hôn phối, cả sổ Gia Đình Công Giáo nữa. Vậy mà Thánh Phêrô vẫn khước từ. “Ngài còn đòi gì nữa ? Con còn cả tràng chuỗi đây, cả cuốn sách kinh hôm mai đây. Bấy nhiêu không đủ chứng tỏ con là người môn đệ Chúa Giêsu sao ?”
Thánh Phêrô trả lời: “Con phải mang phù hiệu của người Kitô hữu”. “Phù hiệu nào nữa, thưa Ngài ?” “Thế con không nhớ lời Thầy chí thánh phán dạy sao: “Người ta chỉ căn cứ vào dấu hiệu ( phù hiệu ) nầy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng thương mến nhau. Chưa có lòng thương mến nhau thì con chỉ là Kitô hữu giả hiệu.”
Qua dụ ngôn phán xét chung, Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy. Trong ngày ấy, muôn dân sẽ được tập họp lại và Chúa sai thiên thần tách biệt họ thành hai. Người lành đứng bên phải còn kẻ dữ bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán với những kẻ bên phải rằng: “Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa” vì… các người đã thương mến chăm sóc các anh em bé nhỏ của Ta. Rồi Chúa quay sang lên án những người bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia ! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”… vì các ngươi đã không yêu thương chăm sóc các anh em bé mọn của Ta. ( Mt 25, 31-46 ).
Dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy xem xét lại bản thân mình. Biết đâu ngay cả bản thân tôi cũng là môn đệ giả của Chúa Giêsu mà tôi không hề hay biết !
Hãy rà soát lại xem mình đã tôn trọng, chân thành yêu thương và phục vụ những anh chị em chung quanh chưa ? Nếu chưa thì chúng ta vẫn còn là những Kitô hữu giả hiệu, chúng ta không thuộc vào số những người môn đệ chân chính và Vương Quốc Thiên Đàng không có chỗ cho chúng ta.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương “như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta” ( Mt 25, 40 ).
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy thương yêu nhau”. Tình yêu là đề tài muôn thuở. Nhất là vào thời bây giờ, tình yêu được nhắc tới luôn luôn. Tình yêu xuất hiện ở sách vở, báo chí, phim ảnh, ca nhạc, trong mọi ngành nghệ thuật. Có vẻ như tình yêu hiện diện ở khắp nơi và chi phối đời sống nhân loại.
Thế nhưng đồng thời chúng ta cũng thấy một thực tế khác hẳn. Tin tức báo chí hằng ngày cho chúng ta thấy thế giới chúng ta đang sống lại là một thế giới bị xâu xé bởi hận thù, bởi chiến tranh và xung đột. Xung đột giữa các quốc gia vốn là anh em với nhau, xung đột giữa các bộ tộc trong cùng một đất nước, xung đột giữa các tín đồ của những tôn giáo khác nhau. Chưa hết, không thiếu những gia đình giết nhau, đánh đập nhau, coi nhau như kẻ thù. Người ta đối xử với nhau như những con chó sói. Con người bị đe dọa bởi chính con người.
Vậy mà, qua bài Phúc âm hôm nay, các kitô hữu được mời gọi sống yêu mến qua một điều răn: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy thương yêu nhau”. Vậy đây là thứ tình yêu nào mà người khác có thể qua đó nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu.
Trước tiên chúng ta biết rằng tình yêu mà Chúa Giêsu mời gọi là không giống hoàn toàn với tình yêu mà người ta thường ca tụng. Trước hết, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ yêu thương nhau nghĩa là tình yêu thương trước tiên là tình yêu thương giữa những kitô hữu, những người đồng đạo. Đó là tình huynh đệ giữa những kẻ có cùng niềm tin vào Người. Kế đến, điều răn này có tính đòi hỏi hơn, vì dựa trên một tiêu chuẩn cao hơn: không những kitô hữu phải yêu mọi người như chính mình, nhưng họ còn phải yêu thương các kitô hữu khác như Chúa Giêsu đã yêu thương họ, nghĩa là hiến mình phục vụ cho đến chết.
Đây là điều răn này được coi là mới vì nó gắn liền với Giao Ước Mới, Giao Ước được thiết lập trong máu Chúa Giêsu (Lc 22, 20; 1C 11, 25). Đây không phải là điều răn được khắc trên bia đá (Xh 24, 12), nhưng là điều răn được ghi tạc vào tâm hồn các kitô hữu do tác động của Thánh Thần (x. Gr 31, 31-34; Ed 36, 25-28).
Chúa Giêsu đã coi tình yêu thương giữa các kitô hữu là một dấu chỉ để mọi người nhận ra họ là môn đệ đích thực của Người. Nói cách khác, có thể định nghĩa môn đệ là những người biết yêu thương nhau. Điều đó được chứng minh qua Sách Công Vụ “mọi người tín hữu đều coi mọi sự như của chung” (2, 44), họ “đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền Thờ, bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân” (2, 46). Tình yêu thương giữa các kitô hữu đã khiến dân ngoại phải thốt lên: “Xem kìa, họ yêu thương nhau biết chừng nào, họ dám sẵn sàng chết cho nhau!” Những kitô hữu đầu tiên ở Việt Nam cũng đã được gọi là những người theo “đạo yêu thương”, không có tình yêu thương, chẳng ai nhận ra chúng ta là môn đệ Đức Giêsu, Đấng đã yêu thương và yêu thương đến cùng.
Thánh Giêrônimô kể lại một chuyện về thánh Gioan tông đồ. Lúc vị tông đồ đã về già, ngài vẫn không ngừng nhắc nhở các kitô hữu trong cộng đoàn là hãy yêu thương nhau. Người ta phát chán vì thấy ngài cứ nói mãi điều ấy, nên mới hỏi ngài lý do. Ngài trả lời: “Bởi vì đó là điều răn của Chúa. Chỉ cần giữ điều răn này là đủ”. Đó cũng chính là sứ điệp cho chúng ta những Kitô hữu ngày hôm nay. Chính vì thế trong những năm gần đây, Giáo hội thường nói đến một “nền văn hóa tình thương”. Thay vì sống trong nền văn hóa nhấn mạnh đến sự chết, Giáo hội mời gọi chúng ta bước ra khỏi sự man rợ của thú tính, và sống yêu thương và nhìn nhận người khác cũng như mình, bất chấp những khác biệt về chủng tộc, màu da, tôn giáo, quan điểm chính trị hay xã hội… Xây dựng một nền văn hóa dựa trên tình thương, đó là bổn phận cấp bách của kitô hữu hôm nay.
Khi cố gắng xây dựng một văn hóa sự sống, kitô hữu để lộ bản chất của mình ra cho mọi người. Bản chất đó là yêu thương. “Anh chị em hãy yêu thương nhau”. Chúa Giêsu phục sinh vẫn muốn nhắc lại mãi điều răn này cho từng kitô hữu. Tình yêu đó được thực hiện theo gương và theo ý muốn của Chúa Giêsu:
Đó là thứ tình yêu đi bước trước. Chúa Giêsu không chờ người khác đến với mình. Chính Người mời gọi ông Lêvi làm môn đệ, chính Người đã trở nên bạn đồng hành của hai môn đệ chán nản trở về Emmau… và Chúa Giêsu cũng mời chúng ta để lễ vật lại mà đi đến làm hoà với người gây chuyện xích mích với ta (Mt 5, 23-25).
Đó là thứ tình yêu phục vụ. Chúa Giêsu ý thức về sứ mạng phục vụ của mình. Con Người đến là để phục vụ và hiến mạng cho muôn người (Mc 10, 45). Người đã rao giảng Tin Mừng xoa dịu vết thương của người đau khổ. Người mời chúng ta rửa chân cho nhau, nghĩa là phục vụ trong khiêm hạ (Ga 13, 13). Chính Người cũng tự nhận mình chỉ là người hầu bàn cho các khách dự tiệc (Lc 22, 27). Thập giá là đỉnh cao của tình yêu phục vụ. Tình yêu có thể bị khước từ, lăng nhục, nhưng cuối cùng tình yêu sẽ thắng. Thập giá là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh và là nơi tình yêu của Chúa Cha được bày tỏ trọn vẹn cho nhân loại.
Như thế, yêu thương chính là quên mình, ra khỏi cái tôi của mình để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Và đó chính là bản chất của sự thánh thiện, cũng là bản chất của Thiên Chúa, như thánh Gioan đã định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Nếu chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, thì cách hành xử của chúng ta phải phản ánh tình yêu. “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,7-8). Tình yêu chân thật chính là dấu chứng của sự thánh thiện, chứng tỏ có sự hiện diện của Thiên Chúa.
Vì thế, xin Chúa biến cải lòng chúng ta thành nơi tràn ngập tình yêu thương, để mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa là tình yêu ở trong chúng ta.
Mệnh lệnh mới mà Đức Chúa Giê-su truyền cho chúng ta là: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Đây là mệnh lệnh mới trong xã hội sống và làm việc theo luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, nhưng đối với chúng ta thì mệnh lệnh này không mới, bởi vì chúng ta đã thuộc nằm lòng mệnh lệnh này, nhưng nó rất mới cho cách suy nghĩ của chúng ta trong khi thi hành mệnh lệnh yêu thương này của Đức Chúa Giê-su.
Anh em hãy yêu thương nhau là một lệnh truyền của Đức Chúa Giê-su, bởi vì Ngài chính là tình yêu và chính Ngài biết rõ tình yêu sẽ mang lại gì cho chúng ta, nó mang lại sự bình an tâm hồn, phục vụ tha nhân và hòa bình thế giới.
“Anh em hãy yêu thương nhau”, mà tình yêu của Đức Chúa Giê-su chính là tình yêu chết cho người mình yêu, nghĩa là đặt người mình yêu lên trên tất cả cái tôi của mình để sống chết cho người mình yêu, Đức Chúa Giê-su đã yêu thương Chúa Cha và Ngài đã sống đã chết vì ý Cha trên trời; Ngài cũng đã hy sinh đã chết và đã sống lại vì yêu thương chúng ta. Tình yêu này mời gọi mỗi người trong chúng ta hãy tiếp nối để cho tha nhân được nhìn thấy Đức Chúa Ki-tô trong con người của chúng ta.
Có người yêu mà không hy sinh cho người mình yêu, có người hy sinh nhưng không yêu cho nên gia đình chưa có hạnh phúc, thế gian vẫn còn những cảnh bất công xảy ra, vẫn còn chiến tranh hận thù, và con người ta thì chỉ biết yêu mình chứ không đành lòng chia sẻ với người khác.
Yêu thương nhau không có nghĩa là cùng nhau nhìn về một hướng, nhưng hãy nhìn về đối tượng của mình coi họ cần cái gì, họ thiếu cái gì để giúp đỡ khi có thể được, họ đang đau khổ hãy ủi an, họ đang thất vọng hãy đem lại cho họ hy vọng, họ đang chán sống hãy làm cho họ thấy đời thật vui tươi...
Anh chị em thân mến,
Lệnh truyền “Hãy yêu thương nhau” mà Đức Chúa Giê-su ban cho chúng ta không phải là lệnh truyền của ảo tưởng nhưng là của hiện thực, không phải là lệnh truyền được ban ra trong lúc ngẫu hứng, nhưng là trong bầu khí yêu thương tình cảm thầy trò tâm sự, cho nên lệnh truyền này có một sức mạnh đổi mới con người và thế giới.
Giáo xứ chúng ta được mọi người trong giáo phận biết đến bởi vì anh chị em làm việc với nhau có tình đoàn kết, mỗi người biết phát huy tinh thần và khả năng của mình để phục vụ Chúa trong giáo xứ. Những công việc làm của các anh chị em hội Legio đã khiến cho nhiều người thờ ơ với Giáo Hội nay trở về hợp nhất với chúng ta; việc làm của các thầy cô giáo lý viên đã khiến cho con em chúng ta có tinh thần mới trong việc học giáo lý; các thành viên trong ban đại diện rất đoàn kết và làm việc có phương pháp đem lại hiệu quả tốt đẹp cho giáo xứ...
Tất cả những thành quả trên đều bắt nguồn từ lệnh truyền “hãy yêu thương nhau” của Đức Chúa Giê-su Ki-tô, mà mỗi người trong chúng ta đang thực hành trong cuộc sống của mình...
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay thuộc về phân đoạn 1 của Phần ii, “Sách về Giờ của Đức Giêsu” (ch. 13–20).
Sau khi Giuđa bỏ bàn tiệc đi ra (Ga 13,30), có lẽ sau rửa chân và trước khi lập bí tích Thánh Thể, bắt đầu các biến cố đưa tới việc Đức Giêsu bị bắt, bị kết án và bị xử tử thập giá. Ngọn thủy triều của sự từ khước, đã dâng lên dần dần từ lâu, nay đổ ập xuống trên Đức Giêsu. Cứ nhìn từ bên ngoài, Người đã bị hủy diệt tan tành; bản thân Người và công trình của Người đã tiêu tan thành mây khói. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại nói cho các môn đệ biết, dù bề ngoài tình hình ngặt nghèo như thế, chuyện gì thực sự đang xảy và đâu là nhiệm vụ chính yếu của các ông khi các ông không còn thấy Người hiện diện hữu hình giữa các ông nữa. 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Cuộc tôn vinh (13,31-32); 2) [Chuẩn bị] ra đi (13,33[a]); 3) Điều răn Yêu thương (13,34-35). 3.- Vài điểm chú giải
- Con Người đã được tôn vinh (31): Đức Giêsu quá chắc chắn là sẽ tìm được sự sống trong cái chết, và tìm được danh dự trong ô nhục, đến độ Người nói về việc tôn vinh Người như một sự kiện đã được thực hiện: “Con Người đã được tôn vinh (edoxasthê)”. Ta có thể giải thích thì quá khứ aorist tác giả dùng để diễn tả một điều còn thuộc về tương lai như sau: Đức Giêsu tín nhiệm vào tính hữu hiệu của những định đoạt của Cha Người hơn là vào những hậu quả kể từ nay không thể tránh được do cuộc phản bội của Giuđa.
- Con Người (31): Tác giả cố tình dùng danh xưng “Con Người” này. Một đàng danh hiệu này vẫn có ý nghĩa thiên sai của các TMNL, một đàng lại có một nghĩa chính xác hơn khi được tác giả Ga vận dụng: trong 10 đoạn có danh xưng này, luôn luôn do Đức Giêsu nói ra (Ga 1,51; 3,13.14; 5,27; 6,27; 6,53.62; 8,28; 12,23; 13,31 – Bốn câu cuối liên hệ đến thập giá), danh xưng này luôn hàm chứa một gợi ý đến vinh quang đang chờ Ngôi Lời nhập thể, nhằm đáp lại việc Người đã hạ mình là “một người con của loài người”, dù là người con tuyệt vời nhất.
- Thiên Chúa được tôn vinh nơi Con Người (31): Câu này có thể hiểu bốn cách: (a) Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa đang được loài người tôn vinh; (b) Thiên Chúa được Đức Giêsu tôn vinh, chẳng hạn, bằng sự vâng phục của Người; (c) Thiên Chúa đã nhận được danh dự cho mình nơi Đức Giêsu; (d) Thiên Chúa đã mạc khải vinh quang của Ngài ra nơi Đức Giêsu.
Vinh quang luôn hàm ý việc tỏ bày hữu hình sự uy hùng của Thiên Chúa ra nơi các hành vi quyền lực. Cả hai điểm này đều được ghi nhận nơi cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, vì đó là một hành vi thuộc quyền riêng của Người (x. 10,17-18). Tuy nhiên, vì quyền lực của Đức Giêsu cũng đồng thời là quyền lực của Thiên Chúa, ta có thể thấy ý nghĩa đầy đủ của câu này là một tổng hợp nghĩa hai và bốn trên đây. Như thế, nơi Đức Giêsu, trong cái chết của Người trên thập giá, “Thiên Chúa được tôn vinh”, nghĩa là Thiên Chúa được mạc khải ra như là Cha.
- Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình (32): Nếu Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Đức Giêsu (trong cuộc Thương Khó và trong cuộc trở về với Cha Người xuyên qua cái chết; x. 7,39; 12,16.23), đáp lại, Đức Giêsu cũng sẽ được tôn vinh nơi chính Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu tôn vinh Thiên Chúa qua cái chết của Người, thì Thiên Chúa, tác giả của mạc khải, cũng sẽ tôn vinh Đấng Mạc khải, tức Con của Ngài.
- sắp (32): “tức khắc” (euthys). Cuộc Thương Khó, cái chết và Lên trời được coi như một hành vi ngắn ngủi duy nhất (x. “một ít lâu nữa thôi” của c. 33) đưa tới vinh quang tương lai trước nhan Chúa Cha.
- những người con bé nhỏ (teknia; 33): Kiểu gọi này xuất hiện 7 lần trong 1 Ga, nhưng chỉ 1 lần ở đây. Đây là kiểu gọi của Đức Giêsu hay là một sáng tạo của tác giả? Chúng ta không thể trả lời dứt khoát, nhưng biết rằng một vị thầy Do Thái có thể gọi học trò của mình là “con”. Trong Mc (10,24), Đức Giêsu đã gọi các môn đệ là “các con tôi” (tekna, thay vì kiểu giảm nhẹ teknia); còn trong Mt (18,3; 19,14), Đức Giêsu khuyên các môn đệ hãy sống như các em bé.
- một ít lâu nữa thôi (33): Xem Ga 7,33; 12,35;14,19; 16,16. Đây là một công thức Cựu Ước được các ngôn sứ sử dụng để nói bằng giọng lạc quan rằng chỉ còn một thời gian ngắn nữa là ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đến (x. Is 10,25; Gr 51,33).
- điều răn (34): Đề tài “điều răn” thường được đề cập đến trong Bài Diễn từ cuối cùng (6-7 lần) và trong các Thư Gioan (18 lần).
- yêu thương nhau (35): Để nói về tình yêu giữa các môn đệ Đức Giêsu với nhau, tác giả Ga luôn luôn dùng động từ agapaô, “yêu thương” cùng với sự hy sinh, tự hiến. Nhưng trong TM IV, từ này chỉ được dùng 36 lần (so với pisteuô là 98 lần). Do đó, vì từ agapaô được dùng trong TM IV nhiều lần hơn các TMNL (Mc 5 lần; Mt 8 lần và Lc 13 lần), nên tuy có thể gọi TM IV là “Tin Mừng về tình yêu” khi so với các TM ấy, ta vẫn phải ưu tiên gọi TM này là “Tin Mừng về đức tin” khi xét về nội dung. 4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc tôn vinh (31-32)
Sau khi Giuđa ra đi, Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết những điều hệ trọng, một điều vang lên như một tin chiến thắng: “Giờ đây”, đã đến “Giờ” Người đạt tới đích điểm của cuộc đời của Người. Trong tất cả những gì Người đã làm, Đức Giêsu luôn nêu bật dây liên kết giữa Cha và Con, giữa Đấng sai phái và Đấng được sai phái: các lời nói và các việc làm của Con đều đến từ Cha và cho thấy dây liên kết Con với Cha. Điều này cũng đúng cho cuộc Thương Khó và cái chết của Người. Các biến cố này không cho thấy rằng Đức Giêsu bị tách khỏi Cha và bị Cha bỏ rơi, nhưng chúng mạc khải dây liên kết hỗ tương giữa Đức Giêsu và Cha, nay đã đến đỉnh cao. Con tôn vinh Cha và Cha tôn vinh Con. Trong hành vi Đức Giêsu hiến dâng mạng sống cùng với những hậu quả của hành vi này, Cha và Con trở nên hữu hình trong quan hệ hỗ tương giữa hai Đấng với nhau và quan hệ của hai Đấng với loài người. Đây là đặc tính chân thật của cái chết của Đức Giêsu, và ta cần phải nhận ra như thế nhờ đức tin.
Con Người được tôn vinh vào lúc Người hy sinh mạng sống. Không phải bằng lời nói, nhưng xuyên qua biến cố thực hữu và tuyệt đối hệ trọng này, Người tỏ mình ra như là Con được liên kết với Cha bằng một niềm tín thác vô biên. Đối với Người, cái chết này là hành vi quay về với Cha (13,1). Đức Giêsu không bám víu vào điều gì cả, Người ngoan ngoãn phó thác cho Cha, ngay cả vào lúc Người phải đương đầu với cái chết. Ngay vào lúc đó, Người bày tỏ tình yêu vô biên của Người đối với loài người (13,1), như người mục tử nhân lành, không giữ lại gì cho mình, nhưng ban tặng chính mạng sống cho chúng ta. Nhưng nơi Con Người, Chúa Cha cũng được tôn vinh. Xuyên qua hành vi của Con, Thiên Chúa tự mạc khải như là Cha, Đấng đáng được ta tin tưởng, và là Đấng duy nhất ta phải tin tưởng. Và hành vi Đức Giêsu trao hiến mạng sống cho thấy tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với thế gian (3,16). Tiếp hành vi mạc khải của Đức Giêsu là hành vi Thiên Chúa tôn vinh Đức Giêsu. Sau khi chết, Con Thiên Chúa được Cha đón vào đời sống thần linh, trong vinh quang mà Người đã thuộc về trước muôn thuở (17,5). Nhưng Đức Giêsu còn được Cha tôn vinh do Người tỏ mình ra như là Đấng được treo cao trên thập giá, trong sức mạnh cứu độ hữu hiệu của Người. Từ Người, tuôn trào các dòng sông ban nước sinh sống. Người ban Thánh Thần, là sức mạnh đưa đến sự sống đời đời (7,38-39), và lôi kéo mọi người về với Người (12,32). * [Chuẩn bị] ra đi (33[a])
Chỉ vào lúc này, khi sắp từ biệt các môn đệ, Đức Giêsu mới gọi các ông là “các con bé nhỏ”, một giọng điệu phải nói là chan hòa sự ân cần chăm sóc yêu thương như mẹ hiền. Cho tới nay, Người vẫn ở giữa các ông và che chở các ông (17,12); bây giờ Người đi đến cái chết. Như thế, chấm dứt sự hiệp thông của các ông với Người về phương diện hữu hình. Các ông không đi theo Người vào cái chết và vào trong vinh quang ngay lúc này được (x. 13,26; 21,18-19). Người muốn chuẩn bị các ông cho thời gian xa cách bên ngoài. * Điều răn Yêu thương (13,34-35).
Với điều răn “Anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (13,34), Đức Giêsu để lại cho các môn đệ ý muốn cuối cùng và di chúc của Người: Người sẽ nhắc lại thêm hai lần nữa (x. Ga 15,12.17). Người cho các môn đệ thấy một cách thức theo đó Người sẽ tiếp tục hiện diện giữa các ông và Người quy định cách sống của các ông. Các môn đệ phải quy hướng bản thân về tình yêu của Người, là tình yêu mà mỗi ông đã trải nghiệm. Trong tình yêu này, mỗi ông phải là Giêsu cho người khác, phải chấp nhận người khác, giúp đỡ người ấy, quan tâm đến điều thiện hảo của người ấy, như chính Đức Giêsu đã làm. Như thế, các ông sẽ làm cho Đức Giêsu hiện diện cho nhau trong cái đặc điểm tiêu biểu của Người: tình yêu. Các môn đệ được ngỏ lời với như là một cộng đoàn, các ông phải định hướng đời mình theo sự hiệp thông đời sống mà các ông đã có thể có với Đức Giêsu.
Thật ra, trong Cựu Ước, đã có một điều răn được diễn tả tương tự: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,18). Nhưng nếu nói đến kinh nghiệm từ đó phát xuất ra điều răn của Đức Giêsu, cũng là kinh nghiệm nâng đỡ điều răn này, kinh nghiệm giúp đo lường điều răn này, thì phải nói điều răn của Đức Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chỉ các môn đệ của Đức Giêsu mới trải nghiệm tình yêu của Người, và chỉ trong cái chết của Đức Giêsu, tình yêu của Đức Giêsu và tình yêu của Thiên Chúa mới được mạc khải ra trọn vẹn (13,1.31). Trên nền tảng là tình yêu các ông nhận được từ Chúa Cha và Chúa Con, các môn đệ phải yêu thương nhau. Đức Giêsu không ban cho các ông một điều răn thuần túy và đơn giản, nhưng trước tiên cống hiến cho các ông kinh nghiệm về tình yêu của chính Người và tạo ra cho các ông một không gian sống mới, bằng cách ban tặng chính sự sống của Người và mạc khải cho thấy tình yêu của Thiên Chúa. Nếu mở lòng ra với tình yêu và với việc tôn vinh của Đức Giêsu, các môn đệ có thể yêu thương nhau như Người đã yêu thương các ông. Như thế các ông càng chứng tỏ các ông đúng là môn đệ của Người hơn. Nhờ tình yêu hỗ tương giữa các ông với nhau, Đức Giêsu tiếp tục hiện diện giữa các ông, và hướng dẫn các ông sống và cư xử. + Kết luận
Sự hiệp thông hữu hình cho đến nay giữa Đức Giêsu và các môn đệ, bây giờ đến lúc chấm dứt. Chính điểm kết thúc này lại cho thấy rõ ràng Đức Giêsu gắn bó với các môn đệ và yêu thương các ông đến độ nào. Người từ biệt các ông, nhưng không bỏ các ông. Người sẽ ở lại với các ông nhờ tình yêu của các ông đối với nhau, và các ông sẽ tiếp tục gắn bó với Người. Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng yêu thương người khác bởi vì những người ấy xứng đáng với tình yêu của họ, nhưng bởi vì những người ấy cần tình yêu của họ. Tuy nhiên, điều thật sự mới mẻ trong điều răn này là Đức Giêsu là người đầu tiên thành lập một “hội” dựa trên nguyên tắc yêu thương như Người đã yêu thương. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Sau khi Giuđa đi rồi, ở lại phòng tiệc, chỉ còn những người bạn thân tín nhất của Đức Giêsu. Người tâm sự về lẽ sống của Người: Người sống hết mình cho Chúa Cha và cũng hết mình cho các môn đệ. Đây là mẫu gương người mục tử tốt lành. Và đấy cũng là vinh quang của Người, bởi vì trong Kinh Thánh, “vinh quang” có nghĩa là phẩm chất của con người, tầm mức quan trọng, giá trị, sự uy dũng: Người được như thế do Người hoàn toàn chấp nhận thánh ý của Chúa Cha, vì yêu mến Chúa Cha và vì yêu thương loài người. Mỗi Kitô hữu, khi thực hiện chương trình của Thiên Chúa về mình, cũng đạt được “trọng lượng”, tầm quan trọng, giá trị, sự cao cả.
2. Không phải là chỉ với Đức Giêsu, người ta mới được kêu gọi yêu thương nhau. Với sách Lv và Đnl, Dân Chúa đã được kêu gọi yêu thương nhau rồi. Nhưng điều răn yêu thương Đức Giêsu ban, có thể được gọi là “mới”, do chỗ nó mô phỏng cụ thể tình yêu của Đức Giêsu, cũng là tình yêu của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Đức Giêsu. Như thế, khi yêu thương, người Kitô hữu tỏ bày Thiên Chúa ra cho loài người. Và nói ngược lại, nếu không yêu thương nhau, các Kitô hữu đã làm biến dạng gương mặt của Đức Giêsu và của Thiên Chúa.
3. Tình yêu được diễn tả qua động từ agapaô (x. agapê) là tình yêu quảng đại, hàm chứa sự tự hiến, sự hy sinh. Chính Đức Giêsu đã làm chứng về tình yêu này khi Người cúi xuống rửa chân các môn đệ và ra đi chịu chết cho các ông và mọi người. Các Kitô hữu được mời gọi bắt chước Người mà yêu thương như Người. Tình bác ái là sự nối dài trong lòng ta tình yêu của Đức Kitô đối với chúng ta (“như Thầy đã yêu thương anh em”) và tình yêu của chúng ta đối với Đức Kitô (“ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy”).
4. Kể từ nay, Đức Giêsu cư ngụ trong các môn đệ như là tình yêu, Người sẽ yêu thương trong các ông. Người không chỉ ban cho các ông một lời để tuân giữ, nhưng Người ban chính mình. Với việc ban điều răn mới, Đức Giêsu ban chính sự hiện diện của Người. Cũng như bí tích Thánh Thể, điều răn mới chính là sự hiện diện thực hữu của Đức Giêsu.
5. Một điều răn là một sự áp đặt? Hẳn là chúng ta sẽ không nghĩ như thế, khi hiểu rằng điều răn của Đức Giêsu chỉ cho chúng ta cách tìm ra hạnh phúc tại đây và lúc này. Thế giới sẽ ra sao, nếu như tất cả mọi người đều sống theo điều răn này? Hẳn là các gia đình sẽ đoàn tụ; mọi người sống hài hòa với nhau; các cộng đoàn Kitô hữu sẽ thân thiện và vui tươi; xã hội sẽ được biến đổi.
6.Trong bài Tin Mừng hôm nay, thập giá không phải là một dấu hiệu thất bại đối với Đức Giêsu. Ngược lại, nó biểu lộ sự chiến thắng của Thiên Chúa đối với tội lỗi và bóng tối. Chiến thắng đó đã được khởi sự nhưng dưới con mắt của những người quan sát bất cẩn, những gì đang xảy ra cho Đức Giêsu lại có vẻ là sự thất bại. “Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người”. Trong Tin Mừng Gioan, Thiên Chúa luôn được đặt tại vị trí trung tâm, là Nhân Vật chính trong vở kịch. Vì thế, điều sắp xảy đến cho Đức Giêsu sẽ là một mặc khải trọn vẹn về tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế giới. Dầu vậy, những biến cố sẽ xảy đến vẫn cứ là nguyên nhân gây đau khổ và phá vỡ mọi niềm hy vọng của các môn đệ. Đức Giêsu sẽ bị tách ra khỏi họ. Chỉ dẫn của Người trước lúc ra đi là họ phải yêu thương nhau như chính Người đã yêu thương họ; tình yêu thương của họ sẽ là dấu hiệu cho mọi người biết họ là môn đệ của Đức Giêsu.
Những lời trăng trối của các bậc vĩ nhân không bao giờ nhắm những chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh. Đúng hơn, chúng thường là những giáo huấn cốt lõi tóm lược toàn bộ cuộc đời của những vĩ nhân đó. Vì vậy, những lời từ biệt của Đức Giêsu cũng là những lời trọng tâm – đó là điều Người muốn các môn đệ nhớ về Người và tiếp tục thực hiện trong danh Người. Người nói với các môn đệ rằng, cái chết của Người sẽ tỏ lộ cho mọi người biết Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Khi đó, chúng ta phải phản ánh tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta và bằng việc yêu thương nhau, tất cả mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Đức Giêsu (Siciliano).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm --------------------------------------
Một trong giới răn quan trọng, và căn bản nhất của Đạo Công Giáo là giới luật yêu thương. Chúa Giêsu trước khi đi chịu chết để cứu độ nhân loại, cứu chuộc con người, Ngài đã gửi gắm tâm sự cho các môn đệ, trăn trối cho các ông và cho chúng ta một giới răn quí giá mà mỗi người phải đem thực hành trong cuộc sống. Ngài nói một cách chân tình và đầy tình thương:” Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em “( Ga 13, 34 ).
Lời trối trăn của Chúa Giêsu trong nhà Tiệc Ly vẫn là thách đó lớn cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu không nói:” Anh em hãy yêu thương người ngoài “, nhưng Ngài nhấn mạnh:” Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu “. Điều này trở thành giới luật cho những môn đệ của Chúa. Nó vẫn là thúc bách mạnh mẽ để mỗi người chúng ta vươn tiến và trở nên hoàn thiện.Bởi vì, giới răn của Chúa Giêsu trở thành giới luật thật mới mẻ, Ngài đòi hỏi môn đệ phải yêu thương nhau như Chúa yêu. Yêu thương như Chúa yêu là yêu thương tới tận cùng, yêu thương cho tới chết trên Thập giá.
Chúa Giêsu trước khi ban bố giới luật này, Ngài đã rửa chân cho các môn đệ: một cử chỉ hết sức khiêm nhường, thân thương. Cử chỉ của một tên nô lệ hết lòng phục vụ chủ mình. Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ trong đó có cả Giuđa, một môn đệ được Chúa tin tưởng trao chức vụ quản lý cho ông. Chúa muốn ông nhận ra tình thương của Ngài để hoán cải, để thay đổi con người của mình. Chúa Giêsu còn chấm miếng bánh cho Giuđa trong khi ngồi đồng bàn trong bữa Tiệc Ly. Cử chỉ thân thương của Chúa là lời mời gọi cuối cùng để Giuđa hiểu tình thương tha thứ của Ngài, nhưng vô ích, Giuđa vẫn không đổi ý và thay lòng đổi dạ. Giuđa vẫn ra đi làm theo ý định đen tối của mình và Giuđa chuốc lấy cái chết thảm thương…Chúa Giêsu hiểu rõ điều mình sắp thực hiện theo ý Thiên Chúa Cha. Ngài đã yêu họ và nhân loại đến cùng.Ngài đã chấp nhận cái chết tự nguyện trên Thập giá để cứu rôi con người. Ngài yêu thương môn đệ, yêu thương nhân loại trước và rồi Ngài truyền lệnh cho môn đệ yêu thương nhau. Chúng ta phải cảm nhận tình yêu của Chúa thì chúng ta mới có thể yêu thương nhau như Ngài muốn.
Mến Chúa và yêu thương người là đặc điểm của những môn đệ của Chúa. Ông Gandhi là một vĩ nhân và được coi như một vị thánh của dân tộc Ấn Độ.Ông thích đọc Kinh Thánh, có cảm tình với Đạo Công Giáo.Ông thích nghiền gẫm “ Bài giảng trên núi “. Ông nghĩ những người Công giáo sẽ giúp trả lời cho những xung đột đang diễn ra ở Ấn Độ. Một hôm, Ông tìm đến một Nhà Thờ Công Giáo, nhưng người giữ cửa đã ngăn Ông lại không cho vào và nói với Ông:” Hãy đi Nhà thờ dành riêng cho người da đen “. Ông ra đi và từ hôm đó Ông không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, chỉ vì có sự phân biệt màu da nơi nhà thờ…Người giữ cửa nhà thờ đã không thực hành giới luật yêu thương của Chúa. Bởi vì, nếu con người thực lòng yêu thương nhau, mọi thù oán, ghen tương, chia rẽ, hận thù sẽ không còn tồn tại, mọi bất công sẽ được san bằng, nhưng thực tế, con người vẫn chưa thực hành đủ giới luật mới:” Yêu thương “ của Chúa truyền ban.
Vì, con người trên thế giới chưa sống giới luật của Chúa nghiêm túc và tận căn, nên, vẫn còn bất hòa, chia rẽ, thù oán nhau đến nỗi, Chúa đã phải nói:” Cứ dấu này người ta sẽ nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu mến nhau “.Thật tình mà nói, con người trên thế giới còn thích khoe khoang:Thánh giá là nguồn ơn cứu rỗi, tuy nhiên có nhiều người lại đeo Thánh giá để làm đồ trang sức, có nhiều người đi lễ, đi nhà thờ, đọc kinh nhưng vẫn sống thiếu bác ái, thiếu đạo đức, sống bề ngoài. Nhiều nơi vẫn còn chia rẽ giữa Công Giáo và các Tôn Giáo khác, giữa Công Giáo và Tin Lành vv…vv…Người ta chưa đặt giới luật yêu thương làm đích điểm đi tới.Người ta quên đi tất cả chỉ có một Cha chung là Thiên Chúa. Vậy, bao lâu nhân loại trở nên một ràn chiên duy nhất, dưới sự lãnh đạo của Thiên Chúa tối cao ? Bao lâu nhân loại cùng dâng một thánh lễ, cùng dự một Bàn Tiệc Thánh ? Khi thực hiện được điều đó, chắc chắn nhân loại sẽ trở thành anh em thật với nhau, tin nhận Chúa là Mục Tử tốt lành và mọi người đều là chiên trong ràn chiên duy nhất:” Giáo Hội “ của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thương và phục vụ lẫn nhau như Chúa đã đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ, được mọi người phục vụ.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Trước khi đi chịu chết Chúa Giêsu đã làm gì ? 2.Giới luật yêu thương là giới luật nào ? 3.Làm sao người khác có thể nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa ? 4.Muốn sống yêu thương, con người phải làm gì ?
+ Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình: Nếu Đức Giêsu làm cho Chúa Cha được vinh hiển nhờ cái chết của Người trên thập giá, thì Chúa Cha cũng sẽ ban cho Người được vinh hiển bằng cách cho Người sống lại vinh quang.
- C 33a.34-35:
+ Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy: Đức Giêsu giống như người cha trăn trối những lời sau hết cho con cái trước khi chịu chết.
+ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em: Điều răn này mới ở chỗ: thay vì lấy bản thân làm khuôn mẫu để yêu người khác như luật cũ dạy “Yêu đồng loại như chính thân mình” (x. Lv 19,18), Đức Giêsu lại đòi môn đệ phải yêu thương nhau theo khuôn mẫu tình yêu của Người dành cho họ, là hy sinh mạng sống mình vì họ. Thánh Gioan viết: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết được tình yêu là gì: Đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta” (1 Ga 3,16).
+ Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy...: Tình yêu hy sinh như thế sẽ trở thành dấu chỉ đặc biệt để người đời nhận biết ai là môn đệ đích thực của Đức Giêsu.
4. CÂU HỎI:
1) Giuđa có được Đức Giêsu rửa chân và có được tham dự bữa tiệc Thánh Thể hay không? 2) Tại sao sau khi Giuđa rời bàn tiệc, Đức Giêsu lại nói: “Giờ đây Con Người được tôn vinh” ? 3) So sánh với điều răn yêu người của Luật Môsê, điều răn yêu thương lẫn nhau của Đức Giêsu mới ở điểm nào ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Vào năm 1995, một trận động đất với cường độ mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kôbê Nhật Bản. khiến cho nhiều nhà cửa trong thành phố sụp đổ trở thành những đống gạch khổng lồ, gây thiệt hại rất lớn cho thành phố về người và của. Các đội cứu hộ ngày đêm làm việc khẩn trương để lôi ra từ những đống gạch đổ nát nhiều xác chết và người bị thương. Nhưng cũng chính từ tai họa này, người ta đã khám phá ra một câu chuyện rất cảm động về một tình yêu hy sinh quên mình như sau:
Đến ngày thứ hai của cuộc đào bới, thì từ dưới một ngôi nhà đổ nát, người ta đã đào lên được hai mẹ con vẫn còn sống thoi thóp. Đứa con nhỏ mới được vài tháng tuổi đang nằm ngủ yên trong lòng mẹ, đang khi mẹ của em lại bị hôn mê bất tỉnh. Sau khi tỉnh dậy, một nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ trẻ ấy như sau: “Làm thế nào mà hai mẹ con chị có thể sống được đến hai ngày dưới đống gạch đổ nát kia ?”. Chị đáp: “Tuy bị vùi dưới tòa nhà, nhưng rất may chúng tôi đã không bị đè chết. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tôi khóc đòi ăn đang khi tôi chẳng còn giọt sữa nào. Tôi quờ quạng tìm xem có cái gì ăn cho đỡ đói không. Bất ngờ bàn tay tôi chạm vào một con dao sắc trong cái giỏ bên mình. Tôi cầm dao rạch một đường ở ngón cái cho chảy máu, rồi ấn chỗ bị cắt cho con bú máu thay vì sữa mẹ. Sau khi bú ngón tay tôi được mươi phút thì cháu nằm im ngủ. Nhưng rồi lại tiếp tục khóc vì đói. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay và cho cháu bú. Sau đó tôi ngất đi lúc nào không biết cho tới khi cả hai mẹ con được cứu sống”. Nhà báo tiếp tục hỏi: “Thế chị không nghĩ rằng khi làm như thế thì chị sẽ bị mất máu và sẽ bị chết hay sao?” Chị ta trả lời: “Lúc ấy, tôi không nghĩ đến mình, mà chỉ lo cho con tôi có cái gì bú để cho nó được sống!”.
2) TÌNH YÊU KHÔNG ÍCH KỶ NHƯNG LUÔN BIẾT NGHĨ ĐẾN NGƯỜI MÌNH YÊU:
Một ông lão đang đào đất gieo trồng mấy hột đào. Cháu trai của ông thấy vậy liền thắc mắc hỏi: “Ông ơi, tại sao ông lại phải vất vả trồng đào làm chi ? Liệu ông có sống được tới ngày cây đào ra trái hay không ?”. Bấy giờ ông lão mới âu yếm đặt tay lên vai đứa cháu, vừa cười vừa nói: “Này cháu, trái đào chúng ta ăn bây giờ chẳng phải là do người trước đã trồng đó sao ? Chúng ta ăn trái đào do người trước trồng, thì tại sao ta lại không trồng cho người sau được hưởng hả cháu ? Còn nếu ai cũng nghĩ rằng: chỉ khi nào mình được ăn mới trồng, thì liệu bây giờ chúng ta có được ăn những trái đào thơm ngon này không hả cháu ?”
3) YÊU THƯƠNG LÀ QUẢNG ĐẠI CHO ĐI HƠN LÀ NHẬN LÃNH:
Một sinh viên nghèo nọ theo học ngành mỹ thuật, ngày kia ghé thăm phòng vẽ của một danh họa Pháp. Bấy giờ trong phòng vẽ rất vắng lặng. Rồi cậu ta nhìn thấy một lão hành khất đang ngồi ở một góc tối để chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Thấy bộ dạng tiều tụy đáng thương của người hành khất, cậu sinh viên liền động lòng trắc ẩn. Cậu ta mở bóp ra và tìm mãi mới thấy còn một quan tiền và sau đó cậu đã lấy ra tặng cho ông lão nghèo khổ kia. Khi họa sĩ đến làm việc, người hành khất mới hỏi xem cậu sinh viên có lòng quảng đại kia là ai. Dựa theo lời của người hành khất, họa sĩ cho biết: “Thưa đó là một sinh viên nghèo nhưng rất hiếu học”. Chiều hôm đó, cậu sinh viên đã nhận được một món quà gói kín, trên có đề tên người gửi là “Nam tước GIẮC ĐỜ RÓT-SIN” (Jacques De Rothschild). Mở gói quà ra, cậu thật vui mừng khi đếm được tới 10 ngàn quan, kèm theo một bức thư nội dung như sau: “Đây là số tiền lời do một quan tiền mà cậu đã bố thí cho người nghèo vào sáng hôm nay !”. Thì ra người hành khất ngồi chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ chính là một nam tước ham thích hội họa. Ông cũng là một người rất giàu có và tốt bụng.
Cách đây ít lâu, đài truyền hình Thành phố đã chiếu một bộ phim giáo dục rất hay, mang tựa đề là “Giai điệu hạnh phúc” (La Mélodie du bonheur). Câu chuyện về một nữ dự tu tên là MA-RI. Chị được mẹ bề trên sai đi làm gia sư trong một gia đình của viên đại úy góa vợ. Mấy đứa con của viên đại úy lúc đầu tỏ ra ngang bướng khó dạy. Nhưng nhờ thái độ khoan dung vui vẻ cùng với tài năng nhảy múa ca hát, nhất là nhờ một tình thương bao la, với một trái tim biết cảm thông và chia sẻ mà cuối cùng cô giáo Ma-ri đã cảm hóa được các em và biến chúng trở thành những học sinh chăm ngoan và tài giỏi.
5) TÌNH YÊU LÀ ĐIỀU KIỆN TÁI TẠO SỨC SỐNG MỚI CHO CỘNG ĐOÀN:
Một Tu viện trưởng đến thăm một vị ẩn sĩ khôn ngoan, để xin tư vấn về cách điều hành tu viện mà ông đảm trách. Ông cho biết: trước đây tu viện của ông là một trung tâm thu hút rất nhiều khách thập phương đến hành hương cầu nguyện. Nhà nguyện trong tu viện luôn vang tiếng ca hát cầu kinh. Số người đến gõ cửa xin vào tu đông đến nỗi không còn chỗ nhận thêm. Thế nhưng hiện nay tu viện lại rơi vào tình trạng vắng tanh vắng ngắt. Các tu sĩ chỉ còn lèo tèo mười lăm ông già. Ai nấy chỉ biết lo cho bản thân mà không biết nghĩ đến kẻ khác. Nói chung tình trạng tu viện hiện đang xuống cấp trầm trọng. Sau đó, Tu viện trưởng yêu cầu vị ẩn sĩ tư vấn để tìm ra nguyên nhân và phương thế khắc phục. Vị ẩn sĩ sau khi nghe biết tình hình đã góp ý với tu viện trưởng như sau: “Theo thiển ý tôi thì nguyên nhân chủ yếu của tình trạng xuống cấp bi đát kia chính là tội vô tình!” và giải thích thêm: “Đức Giêsu hiện đang cải trang thành một người trong tu viện, nhưng không một ai trong tu viện nhận ra Người”.
Nhận được lời giải đáp, tu viện trưởng trở về tu viện, triệu tập các tu sĩ và cho biết Đức Giêsu hiện đang cải trang thành một người trong nhà. Ai trong cộng đoàn cũng có thể là Đức Giêsu ! Từ ngày đó, các tu sĩ đã đối xử với nhau như đối với Đức Giêsu: họ đã biết quan tâm phục vụ lẫn nhau, tôn trọng nhau và sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm khuyết điểm của nhau. Bầu khí cộng đoàn đã dần dần nồng ấm trở lại. Mọi người đều cảm thấy an vui. Ngày ngày họ chăm chỉ lao động ngòai đồng khiến năm ấy tu viện được mùa nho và lúa mì bội thu. Họ chia sẻ hoa lợi cho dân nghèo. Tấm gương đạo đức của họ ngày càng đồn xa khiến khách hành hương lại lục tục kéo đến nghe giảng dạy và xưng tội. Số tu sĩ ngày một gia tăng. Chính nhờ sống tình yêu thương mà tu viện đã hóa nên sinh động và ngày càng tốt đẹp hơn trước.
3. THẢO LUẬN:
1) Bạn thích câu chuyện nào nhất trong các câu chuyện trên và rút ra cho mình những bài học cụ thể nào về một tình yêu chân chính ? 2) Bạn hãy kể ra những bằng chứng nào cho thấy gia đình, xứ đạo hay hội đoàn của bạn đã sống được giới răn mới yêu thương của Đức Giêsu hôm nay ?
4. SUY NIỆM:
1) THẦY BAN CHO ANH EM MỘT ĐIỀU RĂN MỚI:
Có nhiều dấu hiệu để giúp người khác nhận ra một Kitô hữu như: đeo ảnh, làm dấu thánh giá, treo ảnh Chúa trong nhà... Nhưng dấu hiệu quan trọng nhất Đức Giêsu dạy hôm nay chính là sống tình yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”. Yêu thương nhau cũng chính là một phương thế truyền giáo hữu hiệu như Lời Chúa phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Tiếc thay, hiện nay vẫn còn những bất đồng giữa những người cùng tôn thờ Thiên Chúa và cùng tin Đức Giêsu, nhưng lại chưa hiệp thông được với nhau như Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo, Tin Lành... Thậm chí đã từng xảy ra những mối hận thù và giết hại lẫn nhau giữa những người cùng nhận mình là con của Thiên Chúa như hai cộng đồng Công Giáo và Tin Lành ở Bắc AiLen, hai bộ tộc Hutu và Tútsi ở Ruăngđa. Biết đến bao giờ các tín hữu mới có thể cùng đọc chung một kinh Tin kính, mừng chung các đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh trong cùng một ngày, cùng cử hành một lễ nghi phụng vụ chung ? Thế giới hiện nay giống như một sa mạc khô khan cằn cỗi vì thiếu tình yêu. Ước chi các cộng đoàn Kitô sẽ trở thành những ốc đảo, có cỏ xanh tươi và nước suối trong lành, cuốn hút các con chiên lạc quay về sống trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Thầy và mọi người đều là anh em với nhau, như lời ước nguyện của Người: “Xin cho chúng nên một” (Ga 17,21).
2) HÃY YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẦY:
Đức Giêsu đòi các môn đệ phải yêu thương nhau “như Thầy đã yêu” như sau:
- Hy sinh mạng sống vì người yêu: chịu chết trên cây thập giá để biểu lộ một tình yêu cao quý nhất và để đền tội thay cho mọi người chúng ta như Người đã nói: "Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình".
- Nâng môn đệ lên bạn nghĩa
thiết ngang hàng với Người: "Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu của Thầy". Đức Giêsu là Thầy, là Chúa của các môn đệ, nhưng Người đã coi họ là bạn thể hiện qua việc chia sẻ: "tất cả những gì Thầy đã nghe được nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết".
- Khiêm nhường rửa chân phục vụ môn đệ, cảm thông với những kẻ bất hạnh bằng việc làm phép lạ: cho người mù được sáng mắt, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi như các người thu thuế và gái điếm cùng nhận được ơn thứ tha tội lỗi và sau này còn được vào Nước trời với Người...
- “Yêu cho đến tột cùng”, yêu đến nỗi sẵn sàng hiến thân chịu chết để đền tội thay cho loài người và thiết lập bí tích Thánh Thể để nên của ăn cho chúng ta.
- Tóm lai: Chúa dạy “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu” không phải là thứ tình yêu ích kỷ, chỉ tìm cách chiếm đoạt và lợi dụng người yêu (Êros), nhưng là thứ tình yêu quảng đại vị tha, sẵn sàng hiến thân cho người mình yêu được hạnh phúc (Agapê).
3) CẦN THỰC HÀNH YÊU THƯƠNG NHAU CỤ THỂ THẾ NÀO?:
- Năng gặp nhau: Những người kitô hữu có tình yêu thương sẽ năng tụ họp nhau, thích gặp gỡ trao đổi với nhau. Vào ngày Chúa Nhật, chúng ta sẽ đến nhà thờ để cùng nhau cử hành thánh lễ, sau là để gặp nhau trò chuyện, giải trí và chia sẻ tâm tình với nhau. Yêu nhau nên cầu nguyện điều lành cho nhau. Mong cho nhau được sự may mắn, làm ăn thành đạt, sức khoẻ dồi dào, có lòng đạo đức, mãn nguyện theo ý muốn.
- Yêu nhau và làm những điều lành cho nhau: Có thể đó là sự giúp đỡ khi túng thiếu hay ốm đau, sự chăm sóc sức khoẻ, đời sống tâm linh của nhau, là sự chia sẻ của cải vật chất và tinh thần cho nhau. Giúp nhau củng cố và giáo dục đức tin, giúp hoà giải với nhau, giúp nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, giúp nhau thành đạt trong công ăn việc làm. Dấu hiệu rõ nhất của tình yêu là hy sinh thì giờ, sức khoẻ, tiền bạc, và thậm chí cả sự sống vì nhau.
- Mang Chúa đến cho nhau: Mỗi người kitô hữu khi đã chịu phép rửa đều là đền thờ của Thiên Chúa, trong đó có Chúa Thánh Thần cư ngụ. Điều tốt nhất mà những người có đạo có thể làm là mang đến cho nhau ơn Chúa Thánh Thần. Thánh Thần sẽ làm cho chúng ta gắn bó mật thiết với Thiên Chúa và nên một với nhau.
4) NGƯỜI TA CỨ DẤU NÀY MÀ NHẬN RA ANH EM LÀ MÔN ĐỆ THẦY:
Cụ thể: trong mỗi cộng đoàn, chúng ta cần thể hiện tình yêu thương nhau như sau:
- Mỗi tuần họp mặt để cùng tìm hiểu Lời Chúa và xin Chúa giúp thực hành Lời Chúa. - Quảng đại cho đi mà không cần tính tóan. - Không chấp nhất những lầm lỗi khuyết điểm của nhau. - Luôn bênh vực, làm trạng sư bào chữa lỗi lầm khuyết điểm cho nhau. - Sẵn sàng tha thứ cho những ai đã xúc phạm đến mình. - Quan tâm thăm viếng, phục vụ những người đau liệt, an ủi những cô thân cô thế, viếng xác đọc kinh cho người mới qua đời, an ủi những người gặp tai ương hoạn nạn...
Thể hiện tình yêu thương cách cụ thể chính là một phương thế hữu hiệu để giới thiệu Chúa đến với anh em lương dân, giúp họ sớm nhận biết tin theo Chúa và cùng được hưởng ơn cứu độ là sự sống đời đời với chúng ta.
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊSU. Xin dạy chúng con biết yêu thương và hợp tác với tha nhân trong việc xây dựng Nước Thiên Chúa ngay ở trần gian. Xin cho chúng con biết đến với tha nhân không chút thành kiến, nhưng luôn biết tin tưởng họ. Khi làm việc chung, xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa ở giữa chúng con để bỏ qua những sự kẻ khác xúc phạm đến tự ái của chúng con, cho chúng con tránh thói xấu ích kỷ nhỏ nhen và những thành kiến hẹp hòi về người khác.
- LẠY CHÚA. Ước chi chúng con biết đi bước trước đến với tha nhân. Xin cho chúng con đón nhận được ơn Thánh Thần để sẵn sàng mở rộng đôi tai lắng nghe người khác, mở lòng yêu thương và mở rộng tay để nối vòng tay lớn và chân thành phục vụ. Xin cho Thánh Ý Chúa sớm được thực hiện nhờ sự hiệp nhất của các môn đệ Chúa, khi biết cùng nhau xây dựng một “Trời Mới Đất Mới” công bình và yêu thương, bắt đầu từ gia đình, cộng đoàn rồi xứ đạo và sau cùng đến các dân tộc trên thế giới.
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su đã lợi dụng những giây phút thầy trò thân mật để nói về tình yêu thương lẫn nhau. Người tha thiết nói với các môn đệ những lời nhắn nhủ và trăn trối quan trọng nhất đời: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Người gọi đây là điều răn mới. Điều răn này vô cùng quan trọng, vì nó là “điểm” hoặc dấu hiệu để “mọi người nhận biết anh em là môn đệ Thầy”. Tuy nhiên yêu thương nhau còn có một tầm quan trọng khác, là để tôn vinh Thiên Chúa nữa.
Đúng vậy, có khi nào chúng ta đọc kỹ hơn một chút đoạn Tin Mừng (câu 31-32) ngay trước đó không? Tại sao thánh sử Gio-an lại đặt chi tiết “tôn vinh Thiên Chúa” ngay trước việc Chúa Giê-su ban điều răn mới về yêu thương? Trước hết là chi tiết “Giu-đa ra khỏi phòng tiệc ly”. Giu-đa vừa bước ra khỏi phòng để đi thực hiện mưu đồ phản bội Chúa. Sự kiện Giu-đa phản bội là nguyên nhân gần nhất dẫn đến cuộc Thương khó của Chúa Giê-su. Lập tức Chúa Giê-su nói đến việc Người được tôn vinh và việc Chúa Cha cũng sẽ được tôn vinh. Đối với Chúa Giê-su, bắt đầu cuộc Thương khó chính là bắt đầu cuộc tôn vinh Người, vì Người sẽ “được giương lên cao” trên thập giá để chết mà chuộc tội cho nhân loại. Cũng chính cái chết của Chúa Giê-su lại là cuộc tôn vinh Chúa Cha, vì kế hoạch cứu độ của Chúa Cha đã được thực hiện.
Nhưng làm sao chúng ta hiểu được việc tôn vinh Chúa Giê-su và tôn vinh Chúa Cha lại liên hệ với vấn đề yêu thương? Câu trả lời nằm trong động lực khiến Chúa Cha “trao nộp” Con Một Người và khiến Chúa Con “bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. Phải, chính vì yêu thương nên Chúa Cha và Chúa Con mới quảng đại và hy sinh cho nhân loại chúng ta. Chúa Giê-su đã yêu thương đến cùng, sẵn sàng thí mạng sống mình vì bạn hữu, nên bản thân Người xứng đáng được tôn vinh. Khi Chúa Giê-su vâng phục Chúa Cha và bày tỏ lòng yêu thương của Chúa Cha với nhân loại, thì Người đã dùng cái chết để tôn vinh Chúa Cha rồi! Nói tóm lại, biểu lộ yêu thương là cách để Chúa Giê-su được tôn vinh và là cách để chính Người làm vinh danh Chúa Cha. Cũng thế, Chúa Giê-su muốn chúng ta theo cùng một đường lối yêu thương để tôn vinh Cha của Người. Do đó, sau khi nói đến việc Người tôn vinh Chúa Cha, Chúa Giê-su mới trịnh trọng ban cho các môn đệ “điều răn mới” là yêu thương nhau như là phương thức tuyệt hảo nhất để tôn vinh Chúa Giê-su và tôn vinh Thiên Chúa.
Khi Chúa Giê-su dạy các môn đệ hãy yêu thương nhau “như” Người đã yêu thương họ, thì không phải Chúa chỉ nói đến cách thức và mức độ yêu thương mà thôi, nhưng Người còn muốn họ phải nhắm tới mục đích cao cả của yêu thương, là để tôn vinh Thiên Chúa. Những Ki-tô hữu của cộng đoàn tiên khởi Giê-ru-sa-lem đã yêu thương nhau đến nỗi dân trong thành thán phục và thương mến họ; còn họ, họ lấy chính việc yêu thương nhau để mà “ca tụng Thiên Chúa” (Cv 2:46). Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta thường hiểu việc tôn vinh Thiên Chúa qua những nghi thức phụng vụ trang trọng hoặc những buổi họp mặt cầu nguyện sốt sắng. Không hẳn vậy đâu. Chúng ta thử nghĩ đến tâm tình của một bà mẹ trong ngày con cái họp mặt để mừng ngày Mother’s Day. Một phần nào bà cảm thấy vui vì những món quà và những lời chúc mừng của các con. Nhưng niềm vui và hãnh diện sâu sa hơn cả, đó là khi bà thấy con cháu bà thực sự biết yêu thương đùm bọc nhau. Tâm tình của Thiên Chúa cũng không khác mấy. Từ trời cao, Chúa nhìn xuống và thấy con cái Người sống đích thực là anh chị em con cùng một Cha, thì Người vui lắm. Người vui lòng khi thấy không uổng công sai Con Một xuống trần gian để dạy nhân loại bài học yêu thương. Giống như Người đã nghe dân chúng Giê-ru-sa-lem khen ngợi các Ki-tô hữu của Con Một Người, hôm nay Người cũng sẽ hãnh diện khi thấy chúng ta biết thương yêu nhau. Yêu thương đích thực luôn luôn tìm ra những cách thức mới để tôn vinh Thiên Chúa!
Con người chúng ta ở trần gian này thường đối xử với nhau theo nhiều mức độ khác nhau. Có những người sống với nhau thật tử tế, thật lịch sự, nhưng có những người lại đối xử với nhau không tốt đẹp lắm.Bởi vì thế giới hôm nay đang sống trong nền văn minh sự chết. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi nói lên điều đó,Ngài muốn gióng lên tiếng nói mạnh mẽ : “ Dù con người sống văn minh, kỹ thuật cao nhưng nếu thiếu tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự trung thực mà chỉ chạy theo hưởng thụ, xác thịt tội lỗi thì thực sự con người đã lâm vào cảnh hư đốn, chết chóc vv…”. Chúa Giêsu đã trăn trối cho các môn đệ và cho tất cả mọi người chúng ta một điều răn mới :” Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em “.
Đức Giêsu trăn trối những lời tâm huyết cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta làm cho tất cả mọi người đều phải suy nghĩ.Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương họ. Chúa không nói các môn đệ hãy yêu thương người ngoài, nhưng là yêu thương nhau. Yêu thuong nhau mới là điều quan trọng. Đức Giêsu trước khi công bố giới răn mới này, Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong đó có cả Giuđa. Đây là cử chỉ vô cùng khiêm tốn của một vị Thầy bởi vì việc rửa chân chỉ dành cho đầy tớ. Rồi trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu còn chấm miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa như là một cử chỉ thân thương Chúa dành cho Giuđa tỏ lòng sám hối, nhưng thực tế, Giuđa đã bỏ ra đi trong đêm tối, đồng lõa với ma quỷ…Chúa Giêsu biết rõ số phận đang chờ đợi mình. Người sẽ hiến mạng sống mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha để cứu độ nhân loại, cứu rỗi mỗi người.Đức Giêsu đã yêu ta trước khi truyền lệnh cho ta yêu thương nhau.Khi cảm nghiệm được điều đó ta sẽ nhận ra tình yêu Chúa dành cho ta,nên ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thuong ta.
Vâng, dấu hiệu của Đạo Công Giáo là cây Thánh Giá, làm dấu Thánh Giá trước các bữa ăn vv…Nhưng đó mới là dấu hiệu, biểu hiệu nổi của một người theo Chúa. Điều quan trọng nhất mà người ta nhận được nơi các môn đệ là họ yêu nhau. Thực tế, nơi các môn đệ còn rất nhiều rào cản như ích kỷ, ghen tuông, chia rẽ, hận thù. Những rào cản này, nếu các môn đệ không vượt thắng, họ sẽ chưa trở thành môn đệ trung kiên của Chúa Giêsu. Việc truyền giáo đòi hỏi người môn đệ Chúa phải hiệp nhất, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Nếu không việc loan báo Tin Mừng sẽ không có kết quả.Trên thế giới ngày nay, lời truyền của Đức Giêsu :” Xin cho mọi người hiệp nhất nên một “ vẫn là một vấn nạn nhức nhối đối với mọi người.
Việc yêu thương nhau như Chúa yêu thương ta vẫn chưa được mọi người thực hiện một cách rốt ráo vì con người thích chạy theo những thú vui xác thịt, những sự dễ dãi của vật chất, hưởng thụ, mà quên đi cái cốt lõi của Tin mừng là Tình Yêu. Thánh Gioan đã định nghĩa :” Thiên Chúa là Tình Yêu “. Bởi vậy, yêu là tận hiến, là cho đi. Thiên Chúa vì yêu thương con người, nên đã sai Con Một của Người là Đức Giêsu đến nhân loại để mang ơn cứu độ cho nhân loại, cho mỗi người. Qua cái chết tự nguyện trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã cho nhân loại biết : “ Ngài yêu thương con người tới cùng là tự hiến thân mình trên Thập Giá vì yêu thương con người “. Đúng như Người đã nói :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con biết thực hiện Lời Chúa trong đời sống chúng con.Amen.
+ Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình: Nếu Đức Giê-su làm cho Chúa Cha được vinh hiển nhờ cái chết của Người trên thập giá, thì Chúa Cha cũng sẽ ban cho Người được vinh hiển bằng cách cho Người sống lại vinh quang.
- C 33a.34-35:
+ Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy: Đức Giê-su giống như người cha trăn trối những lời sau hết cho con cái trước khi chết.
+ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em: Điều răn này mới ở chỗ: thay vì lấy bản thân làm khuôn mẫu để yêu người khác như luật cũ dạy “Yêu đồng loại như chính thân mình” (x. Lv 19,18), Đức Giê-su lại đòi môn đệ phải yêu thương nhau theo khuôn mẫu tình yêu của Người dành cho họ, là hy sinh mạng sống mình vì họ. Thánh Gio-an viết: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết được tình yêu là gì: Đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta” (1 Ga 3,16).
+ Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy...: Tình yêu hy sinh như thế sẽ trở thành dấu chỉ đặc biệt để người đời nhận biết ai là môn đệ đích thực của Đức Giê-su.
4. CÂU HỎI:
1) Giu-đa có được Đức Giê-su rửa chân cho không ? 2) Giu-đa có được tham dự bữa tiệc Thánh Thể không ? 3) Tại sao sau khi Giu-đa rời bàn tiệc, Đức Giê-su lại nói: “Giờ đây Con Người được tôn vinh” ? 4) So sánh với điều răn yêu người theo luật Mô-sê, thì điều răn yêu thương của Đức Giê-su mới ở điểm nào? II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Vào năm 1995, một trận động đất với cường độ mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kô-bê Nhật Bản. khiến cho nhiều nhà cửa trong thành phố sụp đổ trở thành những đống gạch khổng lồ, gây thiệt hại rất lớn cho thành phố về người và của. Các đội cứu hộ ngày đêm làm việc khẩn trương để lôi ra từ những đống gạch đổ nát nhiều xác chết và người bị thương. Nhưng cũng chính từ tai họa này, người ta đã khám phá ra một câu chuyện cảm động về một tình yêu hy sinh quên mình như sau:
Đến ngày thứ hai của cuộc đào bới, thì từ dưới một ngôi nhà đổ nát, người ta đã đào lên được hai mẹ con vẫn còn sống thoi thóp. Đứa con nhỏ mới được vài tháng tuổi đang nằm ngủ yên trong lòng mẹ, đang khi mẹ của em lại bị hôn mê bất tỉnh. Sau khi được cứu sống, một nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ trẻ ấy như sau: “Làm thế nào mà hai mẹ con chị có thể sống được đến hai ngày dưới đống gạch đổ nát kia?”. Chị đáp: “Tuy bị vùi dưới tòa nhà, nhưng rất may chúng tôi đã không bị đè chết. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tôi khóc đòi ăn đang khi tôi chẳng còn giọt sữa nào. Tôi quờ quạng tìm xem có cái gì ăn cho đỡ đói không. Bất ngờ bàn tay tôi chạn vào một con dao sắc trong cái giỏ bên mình. Tôi cầm dao rạch một đường ở ngón cái cho chảy máu, rồi ấn ngón tay bị cắt vào miệng con để bú máu thay vì sữa mẹ. Sau khi bú ngón tay của tôi được mươi phút thì cháu nằm im ngủ. Nhưng rồi lại tiếp tục khóc vì đói. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi ngón tay khác và cho cháu bú. Sau đó tôi ngất đi lúc nào không biết cho tới khi cả hai mẹ con được cứu sống”. Nhà báo tiếp tục hỏi: “Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ bị mất máu chết sao?” Chị ta trả lời: “Lúc ấy, tôi không nghĩ đến mình, mà chỉ lo kiếm cái gì cho con bú để nó được sống!”.
- YÊU THƯƠNG KHÔNG ÍCH KỶ NHƯNG LUÔN NGHĨ ĐẾN NGƯỜI YÊU:
Một ông lão đang đào đất gieo trồng mấy hột đào. Cháu trai của ông thấy vậy liền thắc mắc hỏi: “Ông ơi, tại sao ông lại phải vất vả trồng đào làm chi? Liệu ông có sống được tới ngày cây đào ra trái hay không?”. Bấy giờ ông lão mới âu yếm đặt tay lên vai đứa cháu, vừa cười vừa nói: “Này cháu, trái đào chúng ta ăn bây giờ chẳng phải là do người khác sống trước chúng ta đã trồng đó sao ? Chúng ta ăn trái đào do người trước trồng, thì tại sao ta lại không trồng cho người sau được hưởng ? Còn nếu ai cũng nghĩ rằng: chỉ khi nào được ăn mình mới trồng, thì liệu bây giờ chúng ta có được ăn những trái đào này hay không hả cháu?”
- YÊU THƯƠNG LÀ QUẢNG ĐẠI CHO HƠN NHẬN:
Một sinh viên nghèo nọ theo học ngành mỹ thuật, ngày kia ghé thăm phòng vẽ của một danh họa Pháp. Bấy giờ căn phòng thật vắng lặng. Rồi cậu ta thấy có một lão hành khất đang ngồi ở một góc tối để chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Thấy bộ dạng tiều tụy đáng thương của người hành khất, cậu sinh viên kia động lòng trắc ẩn liền mở bóp ra và tìm mãi mới lấy ra được một quan tiền tặng cho ông lão nghèo khổ kia. Khi họa sĩ đến làm việc, người hành khất mới hỏi xem cậu sinh viên có lòng quảng đại kia là ai. Dựa theo lời của người hành khất, họa sĩ đã trả lời: “Thưa đó là một sinh viên nghèo nhưng rất hiếu học”. Chiều hôm đó, cậu sinh viên đã nhận được một món quà gói kín, trên có đề tên người gửi là “Nam tước Giắc đờ Rót-sin” (Jacques De Rothschild). Mở gói quà ra, cậu rất vui mừng đếm được tới 10 ngàn quan, kèm theo một bức thư nội dung như sau: “Đây là số tiền lời do một quan tiền mà cậu đã bố thí cho người nghèo sáng hôm nay!”. Thì ra người hành khất ngồi chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ chính là một nam tước ham thích hội họa. Ông cũng là một người giàu có và tốt bụng.
- TÌNH YÊU CÓ SỨC ĐỔI MỚI NGƯỜI YÊU:
Cách đây ít lâu, đài truyền hình Thành phố đã chiếu một bộ phim giáo dục rất hay, mang tựa đề “Giai điệu hạnh phúc” (La Mélodie du bonheur). Câu chuyện về một cô dự tu tên là Ma-ri. Chị được mẹ bề trên sai đi làm gia sư trong một gia đình của viên đại úy góa vợ. Mấy đứa con của viên đại úy lúc đầu tỏ ra ngang bướng khó dạy. Nhưng nhờ thái độ khoan dung vui vẻ cùng với tài nhảy múa đàn hát, nhất là nhờ một tình thương bao la, cảm thông và chia sẻ… mà cô giáo Ma-ri đã dần dần cảm hóa được lũ học trò tinh nghịch và biến chúng trở thành những học sinh chăm ngoan và tài giỏi.
Một tu viện trưởng đến thăm một vị ẩn sĩ khôn ngoan, để xin tư vấn về cách điều hành tu viện. Ông cho biết: trước đây tu viện của ông là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương đến viếng thăm và cầu nguyện. Nhà nguyện trong tu viện luôn vang tiếng hát cầu kinh của khách thập phương. Số người đến gõ cửa xin vào tu đông đến nỗi không còn chỗ nhận thêm. Thế nhưng hiện nay tu viện lại rơi vào tình trạng vắng tanh vắng ngắt. Các tu sĩ chỉ còn lèo tèo mười lăm người già. Ai nấy chỉ lo cho bản thân mình mà không biết nghĩ đến kẻ khác. Nói chung tình trạng tu viện hiện đã xuống cấp tồi tệ. Sau đó, tu viện trưởng đã yêu cầu vị ẩn sĩ tư vấn để tìm ra nguyên nhân để khắc phục. Vị ẩn sĩ đã góp ý như sau: “Theo thiển ý tôi thì nguyên nhân chủ yếu của tình trạng xuống cấp kia chính là tội vô tình!” và giải thích thêm: “Đức Giê-su hiện đang cải trang thành một người trong tu viện, mà không ai nhận ra Người”.
Nhận được lời giải đáp, tu viện trưởng trở về tu viện triệu tập các tu sĩ và cho biết Đức Giê-su hiện đang cải trang thành một thành viên trong nhà dòng. Ai trong cộng đoàn cũng có thể là Đức Giê-su ! Từ ngày đó, các tu sĩ đã đối xử với nhau như đối với Đức Giê-su: họ đã biết quan tâm phục vụ nhau, tôn trọng nhau và sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm khuyết điểm cho nhau. Bầu khí cộng đoàn dần dần nồng ấm trở lại và mọi người đều thấy an vui. Ngày ngày họ chăm chỉ lao động khiến năm ấy tu viện được một mùa nho và lúa mì bội thu. Họ chia sẻ hoa lợi cho dân nghèo chung quanh. Tấm gương đạo đức của họ đồn xa khiến khách hành hương khắp nơi lại lục tục kéo về tu viện dự lễ, nghe giảng và xưng tội. Số tu sĩ ngày một gia tăng. Chính nhờ thực hành tình yêu thương nhau cụ thể mà tu viện đã từ tình trạng mất sinh khí trở nên sinh động và ngày một nên tốt đẹp hơn.
3. SUY NIỆM:
- THẾ NÀO LÀ MỘT TÌNH YÊU ĐÚNG NGHĨA:
Yêu thương không dừng lại những biểu hiện bên ngoài như: Mắt nhìn đắm đuối, lời nói dịu dàng, cử chỉ âu yếm, tim đập loạn nhịp... Tình yêu đúng nghĩa biểu lộ qua các việc: Luôn nghĩ đến và làm điều tốt cho người mình yêu, quảng đại cho đi mà không tính tóan, không chấp nhất những lầm lỗi và bào chữa lỗi lầm cho người mình yêu, sẵn sàng hy sinh chịu chết cho người yêu.
- YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY:
“Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Đức Giê-su đòi các môn đệ thực hành giới răn mới yêu thương như Người qua các việc làm cụ thể như sau: Rửa chân hầu hạ cho các môn đệ, cảm thông chia sẻ với môn đệ như “bạn hữu thân tình”. “Yêu cho đến cùng” qua việc hiến thân làm của ăn cho môn đệ và sẵn sàng chịu chết đền tội thay cho họ.
Các tín hữu hôm nay cũng được Chúa mời gọi: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu”. Chúng ta chỉ có thể thực hành được giới răn mới này khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa, ý thức giới hạn của mình để xin Chúa giúp, noi gương Người phục vụ anh em, luôn quên mình và hy sinh cho tha nhân ngay cả mạng sống của mình. Tóm lại, tình yêu “như Thầy đã yêu” không phải là thứ tình yêu vị kỷ, chiếm đoạt, lợi dụng người yêu để trục lợi (Éros), nhưng là một tình yêu quảng đại, vị tha, sẵn sàng hiến dâng và luôn hy sinh cho người yêu (Agapè).
- YÊU THƯƠNG LÀ PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO HỮU HIỆU:
Có nhiều dấu hiệu để giúp người khác nhận ra người ki-tô hữu như: đeo ảnh, làm dấu thánh giá, treo ảnh Chúa trong nhà... Nhưng dấu hiệu quan trọng nhất mà Đức Giê-su dạy trong Tin mừng hôm nay chính là sống tình yêu thương. Đây cũng là một phương thế truyền giáo hữu hiệu như Lời Chúa phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Tiếc thay, hiện nay vẫn còn những bất đồng sâu sắc về đức tin giữa những người cùng tôn thờ Thiên Chúa và cùng tin vào Đức Giê-su, nhưng chưa hiệp thông với nhau, còn đang phân hóa thành các tôn giáo như: Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo, Tin Lành... Thậm chí còn có những mối hận thù và giết hại lẫn nhau giữa những người cùng tin vào Chúa Giê-su như hai cộng đồng Công Giáo và Tin Lành ở Bắc Ai-Len, hai bộ tộc Hu-tu và Tút-si ở Ru-ăng-đa… Biết đến bao giờ mọi tín hữu mới có thể cùng đọc chung kinh tin kính, mừng các đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh trong cùng một ngày, cùng cử hành một lễ nghi phụng vụ ? Thế giới hiện nay giống như một sa mạc khô khan cằn cỗi vì thiếu tình yêu. Ước chi các cộng đoàn Ki-tô sẽ trở thành những ốc đảo, có những thảm cỏ xanh tươi và suối nước trong lành, cuốn hút các con chiên lạc quay về sống trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em như lời cầu nguyện của Đức Giê-su: “Xin cho chúng nên một” (Ga 17,21).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, hình ảnh Chúa Giê-su như gương mẫu yêu thương vẫn luôn rõ nét: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Chỉ có một từ “như” thôi mà đã là đề tài cho bao nhiêu bài suy niệm! Nhưng đọc đi đọc lại đoạn thứ nhất của bài Tin Mừng, chúng ta có thể thắc mắc tại sao Phụng vụ Lời Chúa đưa vào một đoạn xem ra không ăn nhập mấy với đề tài “hãy yêu thương” Chúa dạy cho các môn đệ Người.
Trong đoạn này (câu 31-32), Chúa Giê-su nói đến việc tôn vinh: tôn vinh Con Người và tôn vinh Thiên Chúa. Sau khi Giu-đa, hình ảnh của ghen ghét và tham lam, đã “ra khỏi phòng tiệc”, chỉ còn lại Chúa Giê-su và các môn đệ đích thực. Đây là dịp để Chúa Giê-su trải lòng ra với các bạn hữu của Người. Vì là giờ phút quan trọng nên Chúa Giê-su lựa chọn những điều cần nói nhất để tâm sự với họ. Trước hết là sự kiện Con Người được tôn vinh.
“Giờ đây” của Chúa Giê-su đã đến. Người sắp hoàn tất sứ mệnh với cuộc Thương khó, cái chết trên thập giá và sự Phục sinh vinh hiển. Nhưng chính lúc Con Người được giương cao lên khỏi mặt đất, sẽ kéo mọi người lên với Người (Gio-an 12:32). Chúa Giê-su, là Con Người và là Tình Yêu Thiên Chúa nhập thể, được tôn vinh trên thập giá. Thập giá không còn là nỗi tủi nhục nữa, trái lại là phương tiện để tôn vinh Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương nhân loại. Sự kiện Chúa Ki-tô được tôn vinh trên thập giá và sự kiện Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người là hai điều không thể tách biệt. Nếu Chúa Giê-su đã lấy cái chết trên thập giá để tôn vinh Thiên Chúa, thì đổi lại, vì Chúa Giê-su đã hạ mình và vâng lời Thiên Chúa nên “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Phi-líp-phê 2:9). Điều quan trọng nhất trong việc tôn vinh Con Người và tôn vinh Thiên Chúa, đó là động lực tình yêu. Vì yêu thương nhân loại trong Chúa Ki-tô, Thiên Chúa đã tôn vinh Con Người. Để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, Chúa Ki-tô đã bằng lòng chịu chết trên thập giá để tôn vinh Thiên Chúa.
Như vậy, khi kể lại Chúa Giê-su nói về việc tôn vinh Thiên Chúa trước khi Người ban cho các môn đệ một “điều răn mới”, thánh Gio-an cho chúng ta thấy Chúa Giê-su không những là mẫu gương yêu thương qua cách thức yêu thương, mà còn là mẫu gương yêu thương qua mục đích yêu thương nữa, nghĩa là yêu thương để tôn vinh Thiên Chúa. Do đó, đây quả thực là một điều răn mới, mới vì nó cho chúng ta thấy đích tới của yêu thương không dừng lại ở chúng ta, nhưng là vì vinh quang Thiên Chúa và lợi ích của tha nhân.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Tôn vinh tình yêu Thiên Chúa là một đề tài giúp chúng ta hiểu ý nghĩa Mầu nhiệm Phục Sinh. Chúa Giê-su đã chịu đau khổ, chết và sống lại là để tôn vinh tình yêu Thiên Chúa. Giờ đây Người muốn chúng ta bước theo Người trên con đường yêu thương để tôn vinh Thiên Chúa. Trước khi ban điều răn mới, Chúa Giê-su đã long trọng nói đến mục đích của điều răn ấy.
Nhìn lại cuộc sống yêu thương của chúng ta là môn đệ Chúa, chúng ta không khỏi mắc cỡ vì đã quên lời Chúa căn dặn: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”. Không sống yêu thương thì không phải là môn đệ Chúa. Chúng ta không đến nỗi phải yêu thương đến độ “chết trên thập giá” như Chúa. Nhưng chúng ta cũng có những cái chết nho nhỏ trên thập giá hằng ngày. Người chồng hy sinh một chút thì giờ coi TV để vào bếp rửa chén giúp vợ. Đứa con nhịn mua một bộ quần áo kiểu mới để bớt tiền cho cha mẹ. Gia đình đến nhà thờ sớm hơn giờ lễ một chút để cầu nguyện. Dành chút tiền để giúp công cuộc truyền giáo cho anh chị em dân tộc tại Việt Nam… Tất cả đều là những cái chết nho nhỏ trên thập giá nhằm mục đích tôn vinh Thiên Chúa. Nếu Chúa Giê-su đã yêu thương chúng ta là để tôn vinh Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải yêu thương anh chị em để làm cho Cha trên trời được hãnh diện vì có những đứa con biết yêu thương nhau trên mặt đất này. Hy vọng hôm nay chúng ta học thêm được về “điều răn mới” của Chúa Giê-su và đem thực hành trong đời sống hằng ngày!
Tình yêu đối với tha nhân là thước đo của tình yêu đối với Thiên Chúa ĐỌC LỜI CHÚA
• Cv 14,21b-27: (22) «Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa».
• Kh 21,1-5a: (1) Tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển không còn nữa. (2) Tôi thấy Thành Thánh là Giêrusalem mới. (5) Rồi Đấng ngự trên ngai phán: «Này đây Ta đổi mới mọi sự».
• TIN MỪNG: Ga 13,31-33a.34-35
Những lời cáo biệt
(31) Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. (32) Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. (33) Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do thái: «Nơi tôi đi, các người không thể đến được», bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. (34) Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (35) Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau».
1. Tại sao khi sắp lên đường chịu khổ hình, Đức Giêsu lại nói: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh»? Phải chăng chịu khổ hình chính là được tôn vinh? Sao lại ngược đời thế? Hay đó là hai mặt của cùng một thực tại?
2. Tại sao giới răn duy nhất của Đức Giêsu lại chỉ nói đến tình yêu đối với tha nhân, mà không nói gì đến tình yêu đối với Thiên Chúa? Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân có phải là hai tình yêu tách biệt nhau? Hay đó cũng là hai mặt của một tình yêu duy nhất?
3. Có thể yêu Thiên Chúa mà không yêu tha nhân, hay yêu tha nhân mà không yêu Thiên Chúa không? Suy tư gợi ý:
1. Đau khổ và vinh quang là hai mặt của một thực tại duy nhất
Khi sắp phải lên đường chịu khổ hình, Đức Giêsu nói một câu nghe rất là phấn khởi: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh». Như vậy phải chăng chịu đau khổ và được tôn vinh đồng nghĩa với nhau? – Theo quan niệm của người bình thường trong thế gian thì đó là hai điều nghịch nghĩa nhau. Nhưng theo quan niệm của Đức Giêsu thì hai điều nghịch nhau ấy tương tự như hai mặt liền nhau của một tờ giấy duy nhất. Nghĩa là chịu đau khổ và được tôn vinh là hai mặt khác nhau của một thực tại duy nhất, và điều này là nguyên nhân dẫn tới điều kia. Thật vậy, trong Thánh Kinh, đặc biệt trong Tin Mừng, ta thấy có nhiều câu nói lên sự nghịch lý ấy và tương quan chặt chẽ giữa hay mặt nghịch nhau ấy. Chẳng hạn: «Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25); «Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ sống với Người; nếu ta cùng đau khổ với Người, ta sẽ thống trị với Người» (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8); «Gieo trong đau thương sẽ gặt giữa vui mừng; đi khóc lóc u sầu sẽ về giữa muôn lời ca» (Tv 126,5-6).
Trong đời sống thực tế cũng như trong đời sống tâm linh, có vô số thực tại có hai mặt như thế. Trong đó, có một thực tại được Đức Giêsu đề cập đến trong giờ phút chót bên các tông đồ trước khi chia tay các ông để ra đi chịu khổ hình: «Thầy chỉ còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi». Có thể nói đây chính là lời trăn trối hay sứ điệp cuối cùng của Ngài. Vì thế, nó hết sức quan trọng, thậm chí có thể nói nó tóm gọn lại tất cả những gì Ngài nói trong suốt ba năm rao giảng Tin Mừng của Ngài. Lời trăn trối đó chính là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau».
2. Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân là hai mặt của một tình yêu duy nhất
Hai điều quan trọng nhất của Cựu ước được nói tới ở hai quyển sách khác nhau: Đệ Nhị Luật và Lêvi: «Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết dạ, hết sức anh em» (Đnl 6,5) và «Hãy yêu thương đồng loại như chính mình» (Lv 19,18). Từ đó, người Do Thái phân biệt và cũng tách biệt hai thứ tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân. Đức Giêsu cũng xác nhận và tóm gọn toàn bộ Cựu ước vào hai lề luật có vẻ như tách rời nhau ấy: «Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy» (Mt 22,40).
Nhưng trong những lời trăn trối của Đức Giêsu, Ngài chỉ nói tới tình yêu đối với tha nhân như giới răn duy nhất của Ngài. Giới răn ấy không hề nói tới việc yêu mến Thiên Chúa. Như vậy, có phải Ngài đã bỏ đi giới răn yêu mến Thiên Chúa chăng? Ngài coi việc yêu mến Thiên Chúa là không quan trọng sao? Phải chăng Ngài chỉ chú trọng tới con người mà quên Thiên Chúa, Cha của Ngài? – Chắc chắn không phải vậy. Không ai yêu mến Thiên Chúa bằng Ngài, và cũng không ai yêu tha nhân bằng Ngài. Nhưng Ngài nhận thấy hai tình yêu ấy chỉ là hai mặt khác nhau của một tình yêu duy nhất. Không thể có mặt này mà không có mặt kia, và mặt này luôn luôn dính liền với mặt kia. Nghĩa là: tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì mặc nhiên bao hàm tình yêu đối với tha nhân; và ngược lại. Hai tình yêu ấy chỉ có thể phân biệt trên lý thuyết hay theo lý trí, chứ không thể tách biệt trong thực tế của đời sống. Vì thế, ai yêu Thiên Chúa đích thực thì tự nhiên người ấy cũng sẽ yêu thương tha nhân đích thực, và ngược lại. Do đó, ai không yêu mến Thiên Chúa thì tự nhiên người ấy cũng sẽ không yêu tha nhân, và ngược lại.
3. Tại sao Ngài nhấn mạnh yêu người thay vì yêu Thiên Chúa?
Nếu hai giới răn ấy chỉ là một giới răn duy nhất, tại sao Đức Giêsu không diễn tả giới răn ấy bằng tình yêu đối với Thiên Chúa, mà lại diễn tả giới răn ấy bằng tình yêu đối với tha nhân? – Vì:
a) Thiên Chúa thì thiêng liêng, còn tha nhân thì cụ thể
Thiên Chúa thì thiêng liêng, trừu tượng, nên đối với người bình thường, quan niệm và tiếp cận Thiên Chúa là điều khó, yêu Thiên Chúa đích thực – cho đúng nghĩa là yêu – lại càng khó hơn. Còn tha nhân thì cụ thể và lúc nào cũng có sẵn ngay trước mắt, rất dễ quan niệm, rất dễ tiếp cận và cũng dễ yêu thương đúng nghĩa hơn. Thánh Gioan, trong thư thứ nhất của ngài (x.1Ga 4,20), cho rằng tha nhân cụ thể trước mắt như thế mà yêu không được, thì làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa là một thực tại hết sức trừu tượng, khó quan niệm và không thể thấy được? Cũng theo thánh nhân, những ai không yêu tha nhân nhưng lại cứ ngỡ rằng mình yêu Thiên Chúa, thì kẻ ấy là kẻ nói dối, hay nói đúng hơn là kẻ tự lừa dối mình.
b) Con người có thể tự lừa dối mình mà không biết
Với bản tính đã bị băng hoại vì tội lỗi, con người dễ ngụy trang tình yêu ích kỷ đối với bản thân mình bằng những hình thức yêu mến Thiên Chúa ở bề ngoài. Từ đó, con người tự lừa dối chính mình. Thật vậy, nếu chúng ta có đầu óc phản tỉnh mạnh, chúng ta dễ nhận ra tình yêu mà nhiều người tưởng rằng mình đang dành cho Thiên Chúa, trong thực tế chỉ là tình yêu đối với chính bản thân mình. Mình yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa tốt lành, giàu sang, có quyền thi ân cũng như giáng họa trên mình. Vì thế, mình phải đối xử với Thiên Chúa thế nào để có lợi cho mình nhất: nghĩa là để được Thiên Chúa ban ơn, chúc phúc, đồng thời ngăn ngừa và cứu giúp mình khỏi mọi tai họa. Nhiều khi tình yêu của ta đối với Thiên Chúa có phần tương tự như tình yêu của ta đối với những người giàu sang quyền thế, những kẻ có khả năng thi ân giáng họa cho ta. Phân tích cho kỹ thì tình yêu ấy rốt cuộc chỉ là tình yêu đối với chính bản thân mình, nhưng được ngụy trang thành cách đối xử có vẻ yêu quí người giàu sang quyền thế kia. Cách đối xử có vẻ yêu thương ấy có ít nhiều yếu tố «cầu cạnh» trong đó.
c) Sự khôn ngoan và tính sư phạm của Đức Giêsu
Vì thế, Đức Giêsu đã tổng hợp hai giới răn quan trọng nhất có vẻ như tách biệt nhau của Cựu ước thành một giới răn duy nhất. Và theo sự khôn ngoan và tính sư phạm của Ngài, trong hai mặt ấy, Ngài chỉ dùng có một mặt – mặt mà Ngài muốn nhấn mạnh – để diễn tả trọn vẹn giới răn hai mặt ấy. Và mặt ấy là tình yêu đối với tha nhân, chứ không phải tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Phaolô cũng tiếp nối tinh thần này của Đức Giêsu, nên đã viết: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» của Đức Kitô (Rm 13,8.10; x. Gl 6,2); «Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gl 5,14). Như vậy, Đức Giêsu đã biến giới răn yêu Thiên Chúa, một giới răn thật trừu tượng, thành một giới răn hết sức cụ thể, có thể kiểm chứng được dễ dàng, là yêu tha nhân.
Do đó, muốn biết tình yêu của mình đối với Thiên Chúa có thật sự là tình yêu hay không, hay chỉ là hình thức bên ngoài của một tình yêu vị kỷ đối với bản thân mình, thì: theo tinh thần của những câu Kinh Thánh trên, cách bảo đảm nhất là xét xem mình có thật sự yêu thương và hy sinh cho tha nhân không. «Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu anh em mình, người ấy là kẻ nói dối» (1Ga 4,20). Có thể nói: tình yêu đối với tha nhân chính là thước đo, là biểu đồ cụ thể của tình yêu đối với Thiên Chúa. Nói khác đi: «Hãy cho tôi biết anh yêu tha nhân ra sao, tôi sẽ nói cho anh biết anh yêu Thiên Chúa đến mức nào!»
Đó là lý do tại sao mà ngày phán xét, Đức Giêsu không hề xét xem chúng ta đã đối xử với Thiên Chúa thế nào, mà chỉ xét có một điều duy nhất – là chúng ta đã yêu thương và đối xử với tha nhân như thế nào – để biết chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa đến mức nào! (x. Mt 25,31-46). CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con đã nghe không biết bao nhiêu lần câu này Đức Giêsu: «Mỗi lần các ngươi làm điều gì cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta» (Mt 25,40). Nhưng khi gặp những anh em bé nhỏ ấy của Ngài bị đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, ức hiếp, thì con lại làm ngơ, mặc kệ. Nhiều khi con còn nói: họ khổ như vậy thật đáng đời! Con chỉ muốn đối xử thật tốt với chính bản thân Đức Giêsu mà thôi: bằng cách đi lễ rước lễ cho nhiều, mua những bức tượng thật quý giá của Ngài để trưng trên bàn thờ, đọc kinh cho thật dài và sốt sắng… Lạy Cha, con làm như thế có đúng không? Có đẹp lòng Cha không? Xin Cha soi sáng chỉ dẫn cho con.
(Công vụ tông đồ 14,21-27; Khải huyền 21,1-5; Gioan 13,31-35)
Phúc Âm: Ga 13, 31-33a. 34-35 "Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau". Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển. "Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau". Suy Niệm:
Khung cảnh tiệc ly của bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta có cảm tưởng phụng vụ muốn chuẩn bị lễ Chúa lên trời sắp tới. Và bài sách Công vụ được chọn để ăn ý với bài Tin Mừng cũng nói về việc các tông đồ từ giã các giáo đoàn. Nhưng trong Kitô giáo, tin tưởng và bình an tràn ngập cả những trường hợp như thế. Những cuộc ra đi kể trong các bài Kinh Thánh kia còn hứa hẹn và bảo đảm một sự sống mới trong tương lai mà bài sách Khải Huyền hôm nay đã mở ra cho chúng ta thấy. Nếu được phép trình bày lại một cách đơn giản, giáo huấn của Lời Chúa trong thánh lễ này, chúng ta có thể nói:
- Khi ra đi, Chúa đã để lại một lệnh mới.
- Các tông đồ đã thi hành.
- Một viễn tưởng về tương lai đang mở ra trước mắt mọi người.
Tức là chúng ta sẽ lần lượt suy niệm bài Tin Mừng rồi bài sách Công vụ và sau cùng đến bài Khải Huyền. 1. Một Lệnh Mới
Bài Tin Mừng ngắn, nhưng không dễ. Nó có hai phần rõ rệt, tự nhận là lời của Chúa nói với môn đệ trong bữa tiệc ly sau khi Giuđa đã bỏ bàn ăn ra ngoài.
Chúng ta còn nhớ hôm ấy Chúa tổ chức một bữa từ giã các môn đệ trước khi Người ra đi chịu chết. Theo tác giả Gioan, trong bữa ăn biệt ly ấy, Chúa đã rửa chân cho môn đệ; và báo cho họ biết một người trong bọn họ sẽ nộp Người. Lập tức họ xôn xao bàn tán: ai là kẻ phản phúc ấy? Và người nào cũng hỏi Thầy: "Có phải con không?" Giuđa Iscariốt cũng hỏi. Người trả lời: "Phải!" Nhưng không môn đệ nào nghe thấy. Sau đó, Người bảo y: "định làm gì thì làm đi". Thế là y đứng dậy, ra khỏi bàn ăn. Tác giả Gioan viết rằng: Bấy giờ trời tối. Trời tối ở bên ngoài phòng ăn và ở trong lòng Giuđa đang lao mình đi trong bóng tối... chứ ở trong phòng tiệc ánh đèn vẫn làm sáng các khuôn mặt. Và chính lúc ấy, theo lời Gioan kể, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Bây giờ Con Người đã được tôn vinh...
Ðọc vội, chúng ta có thể nghĩ Người nói như vậy để diễn tả một sự nhẹ nhõm của tâm hồn sau khi tên phản bội ra đi khuất mắt. Nhưng đọc lại chúng ta không thấy như thế. Chúng ta cũng có thể nghĩ, với những lời kia Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ về vinh quang thánh giá mà Người sắp được vì tên phản phúc đã đi làm việc của y. Người có thể thấy trước vinh quang ấy đã đến rồi, vì thật ra đối với Người mầu nhiệm thánh giá là một sự đã rồi và Người đã chấp nhận hoàn toàn khi khai mạc "giờ" của Người đã đến với bàn tiệc hôm nay. Nhưng tại sao sau đó Người lại bảo vinh quang ấy sẽ đến và Chúa Cha sẽ tôn vinh Người? Khó khăn này đã khiến các học giả đưa ra một giả thiết mà chắc chúng ta phải coi là thật.
Giả thiết này nghĩ rằng những lời Chúa Giêsu vừa tuyên bố phải được nghe sau phục sinh. Nói đúng hơn đây là những ý tưởng có sau phục sinh, nhưng đã được đem đặt lên trước. Nó không ăn ý lắm với văn mạch. Và người ta phải kết luận, nó đã được nhét vào sau. Người làm công việc này có thể biện minh rằng: đã nói đến việc Giuđa đi nộp Chúa thì phải gợi ngay đến ý tưởng vinh quang để ở đâu có mầu nhiệm tử nạn cũng có mầu nhiệm phục sinh. Chỉ có điều người ấy đã khiêm nhường đến nỗi không dám tạo ra một câu văn mới, mà chỉ dám lấy lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, một câu văn phụng vụ ca tụng Chúa Kitô, đem đặt vào chỗ này.
Nói vắn tắt hơn, những câu đầu bài Tin Mừng hôm nay không phải là những câu Chúa nói trong buổi tiệc ly. Một người đã đem những lời đó vào chỗ này để nói lên niềm tin vào Chúa phục sinh khi thấy Giuđa bỏ bàn ăn ra đi với ý định nộp Người. Và chính vì nội dung phục sinh của những lời này mà phung vụ hôm nay trích đọc cho chúng ta.
Ðức tin của Hội Thánh tuyên xưng ở đây rằng việc Ðức Giêsu chịu nộp, chịu chết đã tôn vinh Thiên Chúa, để thiên hạ thấy Chúa Cha yêu thương loài người đến nỗi đã thí ban Con Một yêu quí của Người để cứu chuộc chúng ta; cũng như để thiên hạ thấy quyền năng của Thiên Chúa sẽ phục sinh Ðức Giêsu Kitô.
Và việc này Thiên Chúa đã làm rồi. Ðức Giêsu đã chết và sống lại. Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Ðức Kitô; đồng thời chính Thiên Chúa cũng đã tôn vinh Ðức Giêsu Kitô trong chính mình Người khi chấp nhận sự vâng phục của Ngài mà đưa Ngài lên trên mọi danh hiệu dù ở trên trời hay ở dưới đất và trong gầm biển. Chính mầu nhiệm tử nạn phục sinh đã tôn vinh Thiên Chúa cũng như đã tôn vinh Ðức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ðức Giêsu Kitô và Ðức Giêsu Kitô đã được tôn vinh trong Thiên Chúa.
Ðó là đức tin của Hội Thánh về mầu nhiệm Phục Sinh. Nhưng chưa hết, vì mới khởi đầu. Vinh quang phục sinh sẽ chỉ tỏ hiện hoàn toàn khi Chúa Giêsu trở lại. Và vì thế bài Tin Mừng hôm nay viết: Ngay đây Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài. Chỉ bấy giờ khi Ngài trở lại trong vinh quang, tất cả vinh quang mà Thiên Chúa ban cho Ngài mới tỏ hiện hết vì bấy giờ sẽ có đầy đủ tạo vật được cứu chuộc để bày tỏ ảnh hưởng mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn phục sinh bao quát, rộng rãi và sâu xa chừng nào. Nhưng từ nay đến ngày ấy, lịch sử luôn có thể cảm nghiệm ngay đây Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài, vì Danh Ngài mỗi ngày được biết tới và được ca tụng. Nhờ đâu và thế nào, thì chúng ta có thể cứ đọc tiếp bài Tin Mừng.
Những lời này đúng là những Lời Chúa nói với bàn tiệc ly, nếu chúng ta căn cứ vào văn mạch. Hôm ấy, Chúa đã rửa chân cho môn đệ. Người con lập phép Thánh Thể. Người tâm sự với môn đệ về tình yêu thương của Người. Bầu khí thật thuận lợi để Người ban "một điều răn mới" vì chúng ta đừng quên Người mới ký một giao ước mới trong chén máu của Người. Giao ước cũ đã có nhiều giới răn. Tất cả đã qua rồi. Bây giờ khởi sự chế độ của giao ước mới, với chỉ một điều răn mà thôi, là "các ngươi hãy yêu mến nhau".
Làm sao có thể gọi là điều răn mới được? Lề luật đã dạy và vẫn dạy như thế. Có thể nói nhiều bậc thánh hiền trong các dân tộc đã chủ trương tứ hải giai huynh đệ. Làm sao Chúa Giêsu có thể bảo luật anh em yêu thương nhau là điều răn mới và là điều răn của Người.
Có người giải nghĩa rằng: Ðiều răn này mới vì đối tượng của nó là mọi người, kể cả kẻ thù. Khá Lắm! Vì thật sự đây là một nét mới và độc đáo. Tuy nhiên lối giải thích ấy cũng chưa đáng tin hoàn toàn. Tự bản chất, nó chưa có khả năng thuyết phục tức khắc. Ðã có người khuyên đọc tiếp Lời Chúa phán hôm ấy, khi Người ban điều răn mới, để thấy tính cách mới mẻ được nêu ngay trong lời nói sau đây: "Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau".
Chắc chắn rồi, Thiên Chúa, và cụ thể là Ðức Giêsu có lối yêu đặc biệt, như không có "Chúa" nào yêu như thế và không có ai đã sống ở trần gian này yêu như Ðức Giêsu Kitô. Nhưng làm sao loài người chúng ta có thẻ bắt chước được những kiểu cách ấy?
Cuối cùng có lẽ chúng ta cứ đọc hết Lời Chúa dạy hôm nay; biết đâu chân lý lại sẽ không sáng lên nơi những lời cuối cùng. Chúa bảo môn đệ: "Chính nơi đây điều này mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta, ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến nhau".
Dường như Chúa đã hứa ban cho tình yêu của môn đệ một dấu hiệu đặc biệt: ấy là khi họ yêu mến nhau thì người ta biết họ là môn đệ của Người. Và nếu vậy, chúng ta có thể nói như sau về điều răn mới của Chúa ban hôm nay. Người đang nói với môn đệ trong bàn tiệc ly, hình ảnh của Nước trời, và Người bảo họ hãy yêu mến nhau. Nhiều lúc khác, Người đã dạy người ta phải yêu thương mọi người, kể cả thù địch.
Ðó là lòng bác ái phổ cập. Ở đây có lẽ Người không nói đến tình thương phổ quát đó. Người nói đến tình yêu mến giữa các môn đệ, giữa những môn đệ, tín hữu của giao ước mới trong máu Người. Họ phải yêu mến nhau bằng một tình yêu mới, tình yêu mà Người đã biểu lộ ra cho họ khi ở với họ. Họ đã thấy, họ đã kinh nghiệm, họ vừa chứng kiến tình yêu ấy "đi đến cùng" là bỏ áo xuống, cầm thau nước đi rửa chân cho họ, tức là bỏ mạng sống mình để họ được sạch và đồng bàn Nước trời với chính Người. Người bảo họ phải yêu mến nhau như vậy, và như vậy là mới; và như vậy thì người ta biết họ là môn đồ của Người. Thế nên Gioan tác giả của bài Tin Mừng hôm nay sẽ lần viết trong thư của người để giải thích về điều răn mới. Người nói: Nơi điều này ta biết được lòng mến: là Ðấng ấy đã thí mạng mình vì ta, và ta, ta cũng phải thí mạng mình vì anh em (1Ga 3,16).
Lòng mến này nhất định mới. Nó không dễ, nên đừng lạm dụng và "đừng yêu mến bằng lời nói, bằng đầu lưỡi, nhưng là bằng việc làm thật sự" (3,18) mà việc làm ở đây không dễ...
Tuy nhiên không ai được ngã lòng. Chúa ra lệnh thì Người ban khả năng, Người đã ban khả năng dồi dào khi tuôn đổ Thánh Thần. Từ ngày đó lòng mến của điều răn mới bốc cháy mọi nơi. Hôm nay chúng ta có thể nhìn thấy nó trong con người các tông đồ của bài sách Công vụ. 2. Thi Hành Lệnh
Phaolô và Barnaba đi giảng tin mừng. Các ông trẩy đi từ Antiôkia là nơi Thánh Thần đã dạy Hội Thánh phải để hai ông đi làm công việc của Chúa. Các ông đi hết thành này đến thành khác, từ đảo này sang đảo kia; lao nhọc, khó khăn, lo lắng, thử thách, xỉ nhục, tù đày, các ông đã chịu và chịu vui vẻ vì danh Chúa và vì yêu mến các linh hồn. Thật sự các ông đã yêu dân ngoại như Chúa đã yêu các ông. Các ông đã thi hành điều răn mới. Và người ta đã nhìn nhận rõ các ông là môn đồ của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã yêu mến môn đồ cho đến cùng nên đã phó nộp mình vì họ.
Không thể bảo đời các tông đồ là sung sướng được. Thế mà vừa chân ướt chân ráo lên khỏi thuyền bè tròng trành sóng gió, các ông đã để giờ khích lệ tâm hồn người ta và khuyên nhủ họ kiên vững trong đức tin. Có thể nói, các ông đối với người ta như Chúa Giêsu đối với các ông ở bàn tiệc ly; Chúa đã quên sự chết của mình để khuyên nhủ môn đồ kiên vững. Các ông cũng đã quên mình và số phận "khổ sở" của mình để khích lệ tâm hồn các môn đồ. "Vì chưng chúng ta phải trải qua nhiều gian khổ mới vào được Nước Thiên Chúa". Các ông nói như vậy không những theo giáo lý của Chúa đã dạy phải đi vào con đường hẹp của mầu nhiệm thánh giá, mà còn theo kinh nghiệm bản thân và hiểu biết của mình. Rồi đây sói sẽ xông vào đàn chiên.
Viễn tượng ấy khiến các tông đồ đặt cho mỗi Hội Thánh một hàng niên trưởng và phó giao họ cho Chúa, Ðấng họ đã tin. Chắc chắn các ngài cũng muốn rằng bậc niên trưởng này sẽ cư xử với anh em như Chúa đã ăn ở với các môn đồ. Họ cũng chẳng phải thi hành điều răn mới và cũng là điều răn duy nhất của Chúa là họ hãy yêu mến lẫn nhau.
Phải chăng chúng tôi đã không vô tình trình bày khiến người ta có thể nghĩ điều răn mới của Chúa chỉ thi hành được trong đời sống tông đồ và nơi những người đứng đầu trong mỗi Hội Thánh? Ít nhất hết thảy chúng ta đều thấy các chức vụ trong Hội Thánh đều để thi hành bác ái, và mọi ơn gọi tông đồ đều lãnh trách nhiệm chứng tỏ lòng yêu mến của Chúa Kitô. Nhưng hết mọi tín hữu không phải là tông đồ sao? Các tông đồ nơi bàn tiệc ly đã là nền tảng của Hội Thánh mới sẽ được xây dựng lên sau ngày Chúa sống lại.
Chúng ta hết thảy đều là những viên đá sống đứng trên nền tảng các tông đồ. Các ngài đã nghe và nhận điều răn mới cho tất cả chúng ta. Và mọi người chúng ta phải thi hành điều răn mới đó. Không ai trong Hội Thánh được dửng dưng với phần rỗi của anh em và bao lâu người ta chưa hy sinh gì cho phần rỗi ấy, người ta chưa thi hành điều răn mới của Chúa và chưa chứng tỏ là môn đệ của Người.
Và điều này bổ túc cho những điều chúng ta đã nói trong Chúa Nhật trước về ơn gọi tông đồ. Và nếu tuần trước chúng ta đã thấy Chúa đặt Phêrô ở chức vụ chăn chiên, thì hôm nay thấy thánh Phaolô đặt hàng niên trưởng ở trong mỗi Hội Thánh, chúng ta phải suy nghĩ về phận sự của mỗi người phải hy sinh cho phần rỗi của anh em để thi hành điều răn mới của Chúa. Ðược như vậy chúng ta mới hy vọng được thấy như Gioan trong bài sách Khải huyền hôm nay. 3. Giêrusalem Mới
Gioan thấy vũ trụ của thời cánh chung. Trời cũ, đất cũ đã qua. Ðặc biệt, biển, nơi ấp ủ những sức mạnh độc dữ, không còn nữa. Thay vào cảnh cũ, đã có một trời mới và một đất mới. Và một Giêrusalem mới đã tự trời xuống, chỉnh tề như một tân nương. Ðó là dân mới của Thiên Chúa, và là Hội Thánh chúng ta. Tất cả đã sẵn sàng chờ đón đức lang quân. Và Người đã đến. Người là Thiên Chúa ở cùng họ. Người sẽ lau sạch nước mắt và khử trừ sự chết... Tất cả những điều cũ đều đã qua; và Chúa phán: Này Ta làm mới mọi sự.
Chắc chắn đây là những điều viết về Nước Trời sau này, nhưng lại căn cứ vào thực tại đã có và đang có. Ðức tin cho chúng ta biết, từ ngày Ðức Giêsu được tôn vinh trong mầu nhiệm chết và sống lại, cũ đã qua và mới đã đến. Giêrusalem cũ đã nhường chỗ cho Giêrusalem mới là Hội Thánh. Và Chúa Giêsu đã hứa ở cùng Hội Thánh hằng ngày cho đến tận thế, nên Người là Thiên Chúa ở cùng Hội Thánh và là Ðức Lang Quân của Hội Thánh. Và Thiên Chúa cũng đang làm mới mọi sự trong Hội Thánh, không phải ở bình diện nào sâu xa và rõ ràng hơn bình diện bác ái.
Thật vậy, người ta có thể thấy Hội Thánh là thế này hay thế kia, tùy theo thời đại và quan điểm của mỗi người. Nhưng luôn luôn và mãi mãi, cơ bản Hội Thánh là cộng đoàn có lòng yêu mến lẫn nhau, không phải bất cứ tình yêu mến nào nhưng là tình yêu mến làm cho mọi người thấy Hội Thánh là cộng đoàn môn đệ của Chúa Kitô và thi hành điều răn mới của Người. Những khi nào lòng yêu mến đó càng nổi, Hội Thánh càng là tân nương trang sức chờ đón đức lang quân...
Những điều này thật đáng suy nghĩ và đem ra thực hành. Có thể nói không lúc nào dễ thi hành hơn lúc này, khi cử hành thánh lễ. Ðây là khung cảnh bàn tiệc ly của Chúa Giêsu ngày xưa, đây là Hội Thánh của các tông đồ, đây là Giêrusalem mới. Chúa Giêsu sẽ tỏ lòng yêu mến môn đệ Người cho đến cùng trong mầu nhiệm ban thịt và máu rửa sạch linh hồn chúng ta. Người trao ban giới răn mới của Người. Người bảo chúng ta đây hãy yêu mến nhau như Người yêu mến. Chúng ta có nhìn vào nhau để nhận thấy nghĩa vụ phải lo cho phần rỗi của nhau thì mới là bác ái với nhau. Và một cái nhìn như vậy sẽ lôi theo bao nghĩa vụ, những nghĩa vụ có thể làm được và phải làm để cho người ta thấy chúng ta có lòng yêu mến của Chúa. Một Giêrusalem mới sẽ ở giữa chúng ta. Giêrusalem mới đó sẽ chiếu ánh sáng cứu độ của Chúa để dần dần cũ qua đi, mới đã đến, trời cũ đất cũ không còn, và một trời mới đất mới đã có đó để tôn vinh thêm cho Chúa Giêsu phục sinh, đợi ngày Người sẽ được Thiên Chúa tôn vinh nữa trong vinh quang bất diệt. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm) --------------------------------------
Khi Giu-đa ra khỏi phòng Tiệc ly, một bầu khí ấm cúng, cảm động và thân mật bao bọc Chúa Giê-su và các Tông đồ. Bầu khí Tiệc ly thật là thích hợp để Chúa Giê-su “tâm sự” với các Tông đồ và nói với họ về một điều vô cùng quan trọng và cần thiết, đó là Tình yêu. Bài Tin Mừng ngắn gọn hôm nay gồm có hai điểm chính: Chúa Giê-su tôn vinh Tình yêu và Người ra lệnh cho các môn đệ Người phải biết sống thương yêu.
a) Trước hết Chúa Giê-su dâng lời ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa. Mà tôn vinh Thiên Chúa cũng chính là tôn vinh Tình yêu được nhìn theo hai khía cạnh: Tình yêu là chính bản thân Thiên Chúa và Tình yêu được thể hiện qua Con Một là Chúa Giê-su Ki-tô.
Chúa Giê-su nhìn giây phút “giờ đây” Người sắp hiến mạng sống mình vì bạn hữu là thời điểm Người được tôn vinh. Cả cuộc đời cho đến lúc chết, lý tưởng của Chúa Giê-su là chứng tỏ cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương họ đến chừng nào (Ga 3:16). Cái chết và phục sinh của Chúa Giê-su đánh dấu chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa và cũng là thời điểm Tình yêu nhập thể được tôn vinh.
Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Do đó, nếu Chúa Giê-su được tôn vinh vì Người là sự biểu hiện tình yêu Thiên Chúa, thì huống chi Thiên Chúa là chính tình yêu nên cũng phải được tôn vinh. Hai cách tôn vinh ấy không thể tách rời như nguyên nhân với hiệu quả, như lửa với hơi ấm hoặc như nguồn nước với thác nước. Chúng ta có biết bao thí dụ để nói lên rằng cả Thiên Chúa lẫn Con Người đểu phải được tôn vinh.
b) Mệnh lệnh của Chúa Giê-su là “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Mệnh lệnh là mới vì nhiều lý do. Mới vì từ xưa đến giờ chẳng có ai ra lệnh một cách gắt gao phải yêu thương nhau. Cha mẹ cũng mới chỉ “khuyên dạy” con cái phải yêu thương nhau. Còn ở đây, Chúa Giê-ru ra mệnh lệnh cho bạn hữu: “Anh em hãy…” Mới vì yêu thương ở đây phải theo mẫu mã cụ thể, không phải yêu thương nói chung chung, mà là phải có cường độ, tiêu chuẩn hẳn hoi. Cường độ và tiêu chuẩn ấy không phải bằng chữ nghĩa hay lời nói, nhưng là bằng đời sống của một người mẫu là Chúa Giê-su.
Tình yêu Chúa dạy chúng ta phải là tình yêu sinh hiệu quả. Hiệu quả cụ thể được nói đến ở đây là: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy”. Chúa muốn nói rằng, khi chúng ta sống yêu thương khiến những người chung quanh nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa, thì đó chính là cách chúng ta làm cho tình yêu của Thiên Chúa được tôn vinh rồi vậy. Sống sứ điệp Tin Mừng
Bài học về tình yêu thường bị coi là bài học “biết rồi, khổ lắm nói mãi”! Tuy nhiên hôm nay Chúa Giê-su giúp chúng ta khám phá tình yêu qua những khía cạnh thật mới mẻ, sống động và thu hút. Người dạy chúng ta biết tôn vinh tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Giê-su và nơi anh chị em. Sống yêu thương là cách tốt nhất để ngợi khen tôn vinh Chúa. Người cũng dạy chúng ta phải thực thi điều răn yêu thương nhau như thế nào. Những lời dạy của Người không có mấy, nhưng lối sống yêu thương của Người thì không bao giờ nói hết được. Tình yêu được đo lường bằng cuộc đời của Chúa Giê-su, từ khi Người xuống thế làm người phàm cho đến lúc thở hơi cuối cùng trên thập giá. Con đường tình yêu bằng suốt cả cuộc đời ấy cũng phải là con đường Chúa mời gọi chúng ta đồng hành với Người và với anh chị em.
Gio 13:31-33. 34-35: 31 Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người.32 Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa tôn vinh Người ngay lập tức.33 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Dothái: “Nơi tôi đi, các người không thể đến được”, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. 34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.35 Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”
Đoạn 13:31-35 nằm trong diễn từ ly biệt 13:1-17:26, và được xem như phần mở đầu của diễn từ. Trước đoạn nầy là việc rửa chân (13:1-5.6-11); giải thích việc rửa chân (13:12-30) và về sự phản bội của Giuđa (13:21-30). Sau nó là loan báo về việc chối bỏ của Phêrô (13:36-38). Đoạn nầy gồm hai phần: - Sự tôn vinh của Chúa Giêsu (13:31-33); - Giới răn mới yêu thương (13:34-35). Sự tôn vinh của Chúa Giêsu (13:31-33).
Có thể phân chia đoạn nhỏ nầy như sau: - Bối cảnh của sự tôn vinh (13:31a); - Sự tôn vinh trong tương quan với Thiên Chúa (13:31b-32); - Sự tôn vinh trong tương quan với các môn đệ (13:33).
Sau khi Giuđa ra đi trong đêm tối (13:30), Chúa Giêsu nói đến việc tôn vinh của Người. Hai sự kiện nầy liên hệ mật thiết với nhau qua chỉ dẫn thời gian “Khi Giuđa đi rồi…”, “…bấy giờ”. Trong đoạn ngắn chỉ hai câu, động từ “tôn vinh” được dùng đến 5 lần. “Tôn vinh” là làm cho thấy thực tại chân thật và sáng ngời của một người. Thể thụ động của động từ “được tôn vinh” muốn nói chính Thiên Chúa là tác nhân. “Thiên Chúa” [3x] và “Con Người” tác động qua lại trong việc tôn vinh: Con Người được Thiên Chúa tôn vinh; đồng thời, Thiên Chúa tôn vinh chính Người trong Người Con ấy (8:54). Chúa Giêsu dùng danh xưng “Con Người” (13:31) để ám chỉ cái chết trên thập giá của Người (x. 1:15; 3:14; 6;27;.53; 8:28; 12:23), như là cách thế của sự tôn vinh. Khi tôn vinh lẫn nhau, Chúa Cha và Chúa Con làm cho con người nhận ra bằng đức tin vinh quang đích thực của các Ngài. Sau cùng, Thiên Chúa muốn tôn vinh Người “ngay lập tức” (13:32c). Ngài quyết định giờ “tôn vinh” của Chúa Giêsu qua sự chết và sống lại. Động từ “ra đi” mang ý nghĩa thực hiện cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà các môn đệ không thể đi theo Người ngay bây giờ (13:33; x. 13:37). Vậy, “tôn vinh” là giờ về lại với Đấng đã sai Người đi (7:33-34). Giới răn mới yêu thương (13:34-35)
Sau khi cho các môn đệ biết Người chỉ còn ở lại với họ “một ít lâu”, Người ban cho họ giới răn mới yêu thương như là một cách thế Người tiếp tục hiện diện giữa họ. Hầu hết các động từ “yêu thương” đều ở thì hiện tại. Điều nầy cho thấy giới răn “yêu thương” áp dụng cho mọi thời. So sánh với giới răn “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19:18; x. Mc 12:23; Lc 10:27), đây là giới răn “mới”, vì nó được xây dựng trong tương quan với tình yêu của Chúa Giêsu. Người là gương mẫu, là nguồn mạch và động lực cho các môn đệ yêu thương nhau. Chỉ môn đệ nào cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Giêsu đối với Thiên Chúa và với họ, được thực hiện trong cái chết (x. 13:1.31), người ấy mới có thể yêu thương như Người, “như Tôi đã yêu thương anh em”. Và trên nền tảng tình thương nhận được từ Thiên Chúa và Chúa Giêsu, họ yêu thương người khác. Cách yêu thương của người môn đệ có thể biểu lộ được khuôn mặt của Chúa Giêsu và nguồn gốc của người môn đệ ấy. Như thế, Chúa Giêsu có thể liên kết và hiện diện với người môn đệ bao lâu họ còn yêu thương như Người.
Chúa Giêsu sắp ra đi để tôn vinh Thiên Chúa, nhưng Người không bỏ họ. Người lưu lại với họ qua mối yêu thương nhau. Yêu thương như Người cũng chính là sự hiện diện của Người.
(Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến) --------------------------------------
Đạo của Chúa Giêsu là đạo tình thương. Người Do Thái nhất là những thượng tế, Pharisiêu và những vị lãnh đạo tôn giáo lúc đó nói nhiều nhưng lại chẳng thực hiện điều họ nói. Họ nói yêu thương nhưng trên môi miệng. Họ tạo ra nhiều điều luật tỏ vẻ để tôn kính Chúa và yêu đồng loại. Kỳ thực, họ chỉ chất lên vai người khác những gánh nặng nhưng thực chất họ chẳng thực hiện điều gì cả. Chúa Giêsu khác hẳn các vị có chức có quyền trong đạo Do Thái. Người đến ban cho nhân loại một giới răn mới:” Hãy yêu như Thầy yêu “. Đạo tình thương là như thế. Yêu như Chúa yêu. Đó là giới răn Chúa trao cho các môn đệ và nhân loại.
BỐI CẢNH CỦA ĐẠO TÌNH THƯƠNG:
Thánh Gioan trong trích đoạn Tin Mừng này mô tả bữa tiệc cuối cùng Chúa Giêsu và các môn đệ cử hành trong căn nhà Tiệc ly. Giuđa Iscarốt còn hiện diện ở đó. Bầu khí căn phòng ngột ngạt, buồn thảm khi kẻ phản bội đang có mặt ở đó. Chúa đã vô cùng tế nhị vạch mặt kẻ phản bội, lừa Thầy, phản bạn, bán Thầy. Giuđa nhận ra điều đó, y đứng dậy đi ra:” Trời đã tối”. Giuđa đi ra trong bóng tối, đồng loã với tội lỗi, với ma quỉ. Chúa Giêsu như trút được gánh nặng, tình thương Người trao ban cho các môn đệ, giờ đây không còn bị dầy vò bởi kẻ phản bội, Người kêu lên:” Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người”( Ga 13, 31 ). Cả cuộc đời của Chúa Giêsu hướng về giờ này. Đây là giờ cứu rỗi. Giờ của thập giá. Giờ của vinh hiển. Giờ của ánh sáng và giờ của bóng tối. Giờ của vinh quang vì Chúa chiến thắng tử thần. Do đó, Chúa bộc bạch tất cả nỗi niềm của mình và trao ban cho các môn đệ luật tình yêu. Ngài nói với các môn đệ:”Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi”( Ga 13, 33 ). Giới luật yêu thương mà Chúa trối lại cho các môn đệ và nhân loại là một lời di chúc thiêng liêng. Yêu người sẽ gặp Chúa và yêu Chúa sẽ gặp người. Hội Thánh của Chúa ở trần gian phải là Hội Thánh:” Yêu như Thầy yêu”.
HÃY YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU:
Lời trăn trối của Chúa Giêsu trong nhà Tiệc Ly năm xưa phải là kim chỉ nam cho mọi người Kitô hữu muôn thời. Chúa muốn lời di chúc của Chúa trong ngày thứ năm thánh phải giúp các môn đệ khăng khít sống hòa hợp, hiệp nhất với nhau và tình bác ái yêu thương phải là mối giây ràng buộc mọi người. Cử chỉ rửa chân cho các môn đệ mà Chúa thực hiện trong bữa ăn cuối cùng là bài học khiêm nhượng, yêu thương sâu thẳm Chúa làm gương cho các môn đệ. Bí Tích Thánh Thể, Ngài thiết lập trong nhà Tiệc Ly năm xưa nói lên tình yêu vô bờ của Chúa đối với nhân loại. Đức bác ái yêu thương dẫn các môn đệ và nhân loại liên kết trong tiệc Thánh Thể gợi lên hình ảnh tình thương vô biên của Chúa:” Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”( Ga 13, 34 ). Các môn đệ và Kitô hữu càng sống mật thiết với Chúa, càng thấy mình gần gũi anh em, đặc biệt những người nghèo, những người ốm đau tật nguyền vv…Chúa đã chẳng nói:” Hãy cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ rách rưới mặc, kẻ tù đầy thăm viếng”. Khi làm những hành động ấy, những cử chỉ ấy là làm cho chính Chúa sao! Gương Đức Cha Gioan Cassaigne giữa những người cùi ở Di Linh, những linh mục truyền giáo ở giữa những người Dân Tộc thiểu số nghèo hèn, gương Mẹ Têrêsa Calcutta giữa những người hấp hối vv…Tất cả những cử chỉ, những nghĩa cử cao quí ấy là thực hiện đạo tình thương của Chúa giữa thế giới đầy hận thù và tranh chấp. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã thực hiện đức bác ái yêu thương, đến nỗi ai nhìn vào họ cũng phải ngạc nhiên thốt lên đầy cảm phục:” Kìa xem họ yêu thương nhau biết bao”.” Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến” (Cv 2, 4 ). Thiết tưởng, người Kitô hữu trong Giáo Hội hôm nay cũng phải sống sao để bộ mặt yêu thương của Chúa luôn được rõ nét, nổi bật và như cộng đoàn tín hữu tiên khởi:” Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”( Cv 2, 47 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết yêu thương nhau như Thầy đã yêu( Ga 13, 34 ). Amen.
Mẹ là biểu tượng cao quí nhất của tình yêu. Không thực tại tình yêu nào sống động bằng tìnhMẹ. Mẹ qui tụ tất cả những nét hấp dẫn nhất và quen thuộc nhất cho đời con vươn lên. Hấp dẫn vì đầy tính sáng tạo và mới mẻ. Quen thuộc vì Mẹ đầy ắp tình yêu nồng nàn và thắm thiết nhất, vượt lên trên tất cả những mệt mỏi của thời gian. Nhưng tình mẹ chỉ diễn tả một phần nét sâu sắc tình yêu Đức Giêsu muốn nói đến hôm nay: Tình Yêu Thiên Chúa. NHỮNG CHIỀU KÍCH TÌNH YÊU.
Tình yêu mầu nhiệm như chính Thiên Chúa. Đức Giêsu đã mạc khải tất cả những nét kỳ diệu trong tình yêu Thiên Chúa. Giữa những giới hạn cuộc đời, tình yêu vẫn tìm được những nét vươn lên tới vô cùng. Đó là điều đã được cảm nghiệm trong thực tế đêm tiệc ly. Giuđa có thể được coi là biểu tượng của lòng hận thù và phản bội. “Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc ly,” (Ga 13:31) tức ra khỏi cộng đồng tình yêu, “Đức Giêsu nói: ‘Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.’” (Ga 13:31) Một biến cố bất lợi như thế đã nhanh chóng biến thành một cơ hội để Thiên Chúa mạc khải mầu nhiệm tình yêu. Mở đầu và kết thúc Tin Mừng hôm nay là hai cực đối nghịch của tình yêu. Tình huống có thể trở thành một thách đố hay một cơ hội để tình yêu vươn lên tới mức có thể tôn vinh Thiên Chúa.
Tất cả vũ trụ được tạo dựng để tôn vinh Thiên Chúa. Công cuộc tạo dựng phức tạp và khó khăn chừng nào ! Nhưng mục đích cũng chỉ là tôn vinh Thiên Chúa. Tất cả vũ trụ mới đủ sức nói lên vinh quang Thiên Chúa một phần nào. Thế mà hôm nay nhân dịp một môn đệ phản bội rời phòng tiệc để thực hiện mưu đồ đen tối, Đức Giêsu lại biến thành một cơ may cho ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi. Cái nhìn của Người lúc nào cũng thấy ánh sáng dù ngay giữa đêm tối. Thật kỳ diệu ! Chữ “tôn vinh” được nhắc tới năm lần, chứng tỏ vinh quang Thiên Chúa sẽ tỏ rạng gấp ngàn lần qua cái chết của Đức Giêsu. Người chết để chứng tỏ tình yêu tuyệt vời đối với Chúa Cha. Tình yêu này đã đem lại vinh quang vô cùng lớn lao cho Thiên Chúa. Và vinh quang Người nhận được cũng có một giá trị vĩnh cửu và vô cùng vì phát xuất từ Thiên Chúa. Quả thế, “nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.” (Ga 13:32) Tình yêu quả thực là một sức mạnh đem lại vinh quang cho Thiên Chúa hơn cả ngàn vũ trụ này.
Chính vì thế, Đức Giêsu mới cho thấy tất cả nét hấp dẫn cực kỳ của tình yêu khi mạc khải: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau.” (Ga 13:34) Chỉ tình yêu mới có khả năng canh tân mọi sự. Nhưng điều răn thương yêu không mới như Đức Giêsu nói. Chắc chắn Chúa biết sách Lêvi dã truyền người Do thái phải thương yêu nhau. Ơû đây điều răn cũng hướng về các Kitô hữu khác, theo nghĩa chặt tương tự (Ga 13:34) Vậy tại sao Chúa dám quả quyết đó là một điều răn mới ? Mới vì đó là “lệnh truyền chính yếu của một giao ước mới, một giao ước thiết lập tương quan giữa Thiên Chúa và dân Người xoay quanh quả tim mới (Gr 31:31-34)” (Fahey 1994:342). Mới vì khả năng yêu không nằm trong con tim giới hạn của con người, nhưng là trái tim vô biên của Thiên Chúa. Nói khác, chính Thánh Linh sẽ bảo đảm chắc chắn tình yêu có thể thực hiện được trong tương quan hôm nay từ tầm mức cá nhân tới cộng đoàn. Hơn nữa, tình yêu có một động lực và nền tảng mới là chính Đức Giêsu, đã hiến thân chịu chết cho các môn đệ và những người theo Chúa.
Hơn nữa, tình yêu còn có một chiều kích và nồng độ mới. Từ nay, tình yêu không chỉ đóng khung trong giới hạn chủng tộc hay quốc gia. Tình yêu cũng không giới hạn trong khuôn khổ những người cùng một tín ngưỡng hay chính kiến. Nhưng tình yêu mở tung tới một chiều kích vũ trụ, vượt ra ngoài những biên giới vật chất. Đúng hơn, tình yêu có chiều kích bằng Thiên Chúa, “vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8) Thực tế, tình yêu đã hóa thân thành xác phàm nơi Đức Giêsu. Nhìn vào con người và cuộc đời Người, chúng ta có thể thẩm định tất cả chiều kích và mức độ tình yêu. Từ nay tình yêu không chỉ là “yêu thương tha nhân như chính mình”, nhưng là “yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13:34) Thầy yêu thương chúng ta hơn chính mình. Thầy yêu thương một cách vô điều kiện và vô cùng quảng đại trong cái chết cực kỳ dã man trên khổ giá cho mọi người, kể cả những người hành hình.
Chính trong nét tình yêu vĩ đại đó, Đức Giêsu mạc khải tình yêu như một sức mạnh đem lại vinh quang Thiên Chúa. Chẳng phải công trình hay sự nghiệp, chẳng phải lời nói hay giáo thuyết hay ngay cả việc tử đạo nào đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Nhưng chỉ tình yêu mới diễn tả trọn vẹn vinh quang Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu và Đức Giêsu mang lại cho Chúa Cha. Vinh quang vượt trên thời gian và bao trùm mọi thời gian, mặc dầu được mạc khải trong thời gian. Làm sao tình yêu có khả năng kéo vĩnh hằng vào thời gian như thế ? Tình cách hiện tại đã được nói đến ngay khi Đức Giêsu mở miệng: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh . . .” (Ga 13:31) “Quá khứ, hiện tại và tương lai được tái thanh lọc dưới ánh sáng thời gian đang đến. Bởi vậy, trong câu Ga 13:31, Đức Giêsu loan báo trước thời cánh chung đang đến.” (NIB 1995:732) Thời cánh chung sẽ đến với hình ảnh Con Người ngự đến trong vinh quang, Con người từ nơi Chúa Cha xuống thế và lại trở về cùng Chúa Cha. Trong hai nhịp lên xuống đó, tình yêu vẫn là nhịp đập của con tim Giêsu lúc nào cũng lắng nghe và vâng theo Thánh ý Chúa Cha. Thật vậy, “đối với Đức Giêsu, tuân giữ giới răn Thiên Chúa là thể hiện tình yêu của Người đối với Thiên Chúa trong lời nói và việc làm (x.Ga 12:49-50).” (NIB 1995:732) Nói khác, chính tình yêu đã liên kết chặt chẽ Người với Thiên Chúa. Người cũng muốn tình yêu trở thành sức mạnh đưa người tín hữu vào tương quan Thiên Chúa. Thực thế, “nhờ hành động tình yêu, tín hữu được liên kết với Thiên Chúa.” (NIB 1995:732) Tương quan đó bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa và Đức Giêsu. Điểm độc đáo của giới răn mới chính là tình yêu ghi dấu tương quan giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu. Chính vì thế, Người mới cho thấy ngôn ngữ quốc tế trong tiếng nói tình yêu: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13:35)
Nhưng từ tương quan con người, làm sao con người có thể nhận ra tương quan Thiên Chúa nơi Đức Giêsu ? Vì tự bản chất tình yêu hướng về và mời gọi tình yêu. Không có dấu chỉ nào rõ hơn về tình yêu Thiên Chúa bằng chính tình yêu nơi những con người tin vào Đức Giêsu. Tiếng nói con tim có thể đạt tới mọi thụ tạo, chứ không riêng con người. Khi đã đạt tới sự hòa hợp mọi thụ tạo và hòa giải xã hội con người hoàn toàn với Thiên Chúa, tình yêu có sức cải biến mọi tương quan con người và mọi cơ chế xã hội trên mọi bình diện. Chỉ trong Nước Chúa mới đạt tới đối tượng của niềm hi vọng lớn lao đó. Nhưng ngay trên trần gian, Giáo hội có thể là nơi phác họa phần nào hình ảnh lý tưởng Nước Thiên Chúa, vì trong Giáo hội “không ai là người ngoại quốc” (ĐGH Gioan Phaolô II, VietCatholic 5/3/2001) Mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề cơ chế quân chủ, nhưng Giáo hội đã cải biến guồng máy để có thể trở thành nơi đón tiếp mọi người không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa. Một sức qui tụ lớn lao như thế chắc chắn không phải hoàn toàn do khả năng con người. Nhưng với Thánh Linh, con người có thể thực hiện giấc mơ của Đức Giêsu thổ lộ với Chúa Cha “để họ nên một như chúng ta là một.” (Ga 17:22) Đó là khởi sự “trời mới đất mới” ngay trên trần gian. ĐỔI MỚI MỌI SỰ.
Đã đến lúc Thiên Chúa “đổi mới mọi sự.” (Kh 21:5a) Nhưng Người sẽ đổi mới mọi sự bằng cách nào, nếu không khỡi sự từ tình yêu ? Tình yêu có khả năng “lau sạch nước mắt” (Kh 21:4), chôn vùi tử thần (x. 1 Cr 15:55), chấm dứt cảnh “tang tóc, kêu than và đau khổ.” (Kh 21:4) Quả thực, Thiên Chúa “đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,” (1 Cr 15:57) hiện thân sức mạnh tình yêu Thiên Chúa đang hoạt động trong Giáo hội, một cộng đoàn do Chúa thiết lập. Cộng đoàn đó là hệ quả tất nhiên của tình yêu Thiên Chúa. Bởi đó, cộng đoàn mới có khả năng trở thành dấu chỉ của tình yêu đó.
Nhưng thực tế, không phải lúc nào cũng lý tưởng như Chúa Giêsu mơ ước. Đã có nhiều phản chứng ngay trong Giáo hội. Trong lịch sử có nhiều hậu duệ “Giuđa ra khỏi phòng tiệc ly.” (Ga 13:31) Giáo hội nào cũng nhân danh Chúa để tỏ những dấu hiệu ngược với “lòng thương yêu thương nhau.” (Ga 13:35) Người ta đã quá tính toán theo cung cách người lớn, chứ không phải là “những người con bé nhỏ của Thầy” (Ga 13:33a) để có thể lắng nghe Thầy và nghe nhau. Mỗi Giáo hội đều cố thêu dệt hình ảnh Đức Giêsu theo lối nhìn của mình, rồi tự hào chỉ có cái nhìn của mình là chính xác nhất. Mỗi Giáo hội đều có những bảng phong thần riêng. Cái gì cũng gọi là thánh. Ngay cả việc chém giết cũng gọi là thánh chiến. Nếu không có cuộc thăm viếng Hy lạp vừa qua của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, có lẽ chúng ta vẫn còn mơ ngủ với những bước oai hùng của những vị “thánh” trong cuộc “thánh chiến” cách đây tám thế kỷ. Quả thực, theo ĐGH Gioan Phaolô II, Giáo hội cần trải qua một cuộc “thanh tẩy ký ức” để có thể thực hiện giới răn mới của Chúa. Quá khứ nặng nề không thể xóa nhòa trong tâm trí những anh em Chính Thống Đông Phương về việc những anh em Kitô hữu Latinh đã tàn phá thê thảm kinh đô Constantinople, thành trì của anh em Kitô Hữu Đông Phương. Những anh em đó đã ra đi giải phóng thánh địa Giêrusalem, bảo đảm tự do cho việc hành hương đất thánh. Nhưng rồi họ quay trở lại tàn sát anh em cùng một niềm tin với mình. Sự kiện đó làm cho những anh em Công giáo đau đớn sâu xa. Đó là những lời thú nhận khiêm tốn chính thức Đức Thánh Cha đã phát biểu khi đến thăm Hi lạp ngày 4/5/2001. Chắc hẳn những anh em Chính Thống không khỏi xúc động trước thái độ can đảm đó của vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo.
Những tâm tình chân thành đó vô cùng cần thiết để đặt nền tảng cho cuộc đại kết giữa những anh em Kitô giáo. Chúa Thánh Linh đang làm việc để xóa bỏ quá khứ đau thương và hàn gắn những rạn nứt từ bao thế kỷ. Trong lịch sử, anh em Chính thống đã vô cùng cay đắng trước những thái độ ngạo mạn và tàn phá của những anh em Công giáo. Cay đắng đến nỗi anh em Chính thống thà sống dưới sự cai trị của Hồi giáo hơn là chung sống với Công giáo ! Có bao giờ chúng ta có thể hiểu thấu những chiều kích đau thương đó từ trong cùng một cộng đoàn những người tin nơi Đức Giêsu ?! Thực tế, “chứng từ Giáo hội trên thế giới luôn bị tổn thương và suy yếu vì sự ghen ghét và thiếu yêu thương trong những tiếp xúc giữa các Kitô hữu với nhau. Nhiều lúc yêu kẻ thù còn dễ hơn, vì có thể không phải tiếp xúc với họ hằng ngày.” ( NIB 1995:734)
Thực tế thật bi đát ! Làm sao có thể chuyển từ nhận định sang hành động để hàn gắn những vết thương đó ? Thực ra chẳng có con đường nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô. Người không dừng lại ở lý thuyết. Nhưng ngay cả khi đau khổ nhất vì chính người đệ tử thương mến phản bội, Người vẫn tìm thấy con đường tôn vinh Thiên Chúa. Người ta đã tìm vinh danh mình quá nhiều. Vinh quang con người đã che lấp cả vinh quang Thiên Chúa. Đó là nguyên nhân tại sao có những đổ vỡ giữa các Giáo hội. Trong khi Đức Giêsu xác quyết: “Tôi không tìm vinh quang cho mình. Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả,û” (Ga 8:50, 54) thì các môn đệ của Chúa lại loay hoay với những tính toán làm cho vinh quang của mình ngày càng sáng hơn anh em. Hơn lúc nào cần đọc lại kinh Lạy Cha: “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển !” (Mt 6:9) để tìm được sự hiệp nhất vô cùng cần thiết cho chứng từ hôm nay !
Lm. Đỗ Vân Lực, OP --------------------------------------
Qua những bài Tin Mừng các Chúa Nhật Phục Sinh, hình ảnh Giáo Hội mỗi ngày một phong phú thêm, từ hình ảnh giản dị Giáo Hội là sự tụ họp của Chúa Giê-su Phục Sinh và các môn đệ trong nhà đóng cửa cài then hay bên bờ Biển Hồ, cho đến hình ảnh bầy chiên dưới sự chăn dắt bảo đảm của Đấng Chăn Chiên nhân lành. Vai trò của những người lãnh đạo trong Giáo Hội phải rập theo khuôn mẫu của Chúa Giê-su, Đấng Chăn Chiên nhân lành. Hôm nay, bài Tin Mừng hướng về mọi phần tử trong Giáo Hội ở bất cứ tầng lớp nào, kêu gọi họ phải thực thi điều cần thiết nhất và cũng là bản chất của Giáo Hội: “Hãy yêu thương nhau”. Vậy yêu thương quan trọng như thế nào trong Giáo Hội? 1) Điều răn mới: hãy yêu thương nhau
Trước hết ta hãy trở lại thời điểm Chúa Giê-su nói điều này: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Đó là những lời cáo biệt trong bữa Tiệc Ly, trước khi Chúa Giê-su bước vào cuộc Tử Nạn. Hoặc nói khác đi, đây là những lời của một người sắp lìa đời trối lại cho những người thân yêu. Do đó, những lời nói lúc này phải là những lời cần thiết nhất và quan trọng nhất: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Đúng vậy, Chúa Giê-su phải đợi đến cuối đời Người để ban cho các môn đệ một điều răn mới. Tại sao Người không ban cho họ ngay lúc đầu, khi kêu gọi họ làm môn đệ Người? Bởi vì Người muốn họ nhìn lại ba năm ngắn ngủi họ đã được sống bên Người, nghe Người giảng, nhìn những việc Người làm, chứng kiến lối sống của Người và nhất là sẽ cảm nghiệm ý nghĩa cái chết sắp tới của Người, để tất cả sẽ giúp họ xác tín được tính cách mới mẻ của điều răn “như Thầy đã yêu thương anh em”. Mẫu gương yêu thương của Chúa Giê-su là mẫu gương yêu thương của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một (Ga 3:16) và tình yêu của Chúa Giê-su hy sinh mạng sống vì bạn hữu (Ga 15:13) cũng chỉ là một. Giờ đây Chúa Giê-su đưa các môn đệ vào con đường yêu thương của Chúa Cha và của chính Người. Như vậy, tính cách mới mẻ của điều răn yêu thương không chỉ dừng lại ở gương mẫu của Chúa Giê-su, mà thực sự còn đưa ta đến gương mẫu của Thiên Chúa, hoặc đúng hơn đem ta đến với chính Thiên Chúa là Tình Yêu. Cái vòng tròn tình yêu giữa Thiên Chúa, Chúa Giê-su và nhân loại cùng với sức sống yêu thương lưu thông giữa những giao điểm ấy đã đem lại sự mới mẻ cho điều răn yêu thương. 2) Sống yêu thương nói lên căn tính của Giáo Hội
Trong chủ đề về Giáo Hội của những bài Tin Mừng các Chúa Nhật Phục Sinh kéo dài, điều răn mới yêu thương nhau của Chúa Giê-su nhắc nhở ta về căn tính của Giáo Hội. Yêu thương là dấu chỉ nói lên căn tính người môn đệ Chúa, nhưng đồng thời cũng nói lên sự hiện diện đích thực của Giáo Hội. Giáo Hội là sự tụ họp các môn đệ Chúa Giê-su. Nhưng nếu các môn đệ ấy không sống yêu thương thì họ đâu còn là môn đệ Chúa và như vậy Giáo Hội cũng không thể được người ta nhận biết nữa. Chúa Giê-su căn dặn môn đệ: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35). Theo lời ấy, cộng đoàn tín hữu đầu tiên đã sống tình yêu thương, “hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Cv 2:44-45). Kết quả do việc họ sống dấu chỉ làm môn đệ Chúa là “họ được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2:47). Như vậy, sống yêu thương để giúp những người chưa biết Chúa nhận ra được căn tính của Giáo Hội, đó là một cách truyền giáo thích hợp cho mọi Ki-tô hữu và mang lại kết quả to lớn nhất. Trái lại, gieo rắc hận thù chia rẽ hoặc chửi bới phê bình một cách vô trách nhiệm chỉ khiến cho người ta nhìn Giáo Hội như một cộng đồng xôi thịt, tranh giành ảnh hưởng mà thôi. 3) Sống yêu thương là tôn vinh Thiên Chúa
Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su biểu lộ tột điểm tình yêu của Thiên Chúa. Người chịu chết là để nói lên tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Giờ đây, ngay trước giờ ra đi chịu tử nạn, Chúa Giê-su đã nhìn thấy chiến thắng của tình yêu, tức là chiến thắng của Người đối với tội lỗi và đem lại sự sống mới cho nhân loại. Người vui mừng chia sẻ chiến thắng này với các môn đệ khi Người nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13:31). Có lẽ ta khó hiểu được tâm tình của Chúa Giê-su trong lúc Người mở đầu những lời cáo biệt như trên. Nhưng nếu ta biết rằng sự chết và sống lại của Chúa Giê-su đã chiến thắng một kẻ thù mạnh mẽ và nguy hiểm nhất của nhân loại là sự chết và tội lỗi, thì ta mới nhận ra được sức mạnh vô địch của tình yêu và chiến thắng vô cùng oanh liệt của tình yêu. Khí giới Chúa Giê-su sử dụng để đánh bại tội lỗi và sự chết không phải là súng đạn gươm giáo, mà là tình yêu, tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của chính Người.
Chúa Giê-su đã làm cho Thiên Chúa được tôn vinh bằng cách yêu thương nhân loại đến độ bằng lòng chịu chết trên thập giá. Quả thực Người đã dạy ta một bài học hết sức thực tế và hoàn toàn ở trong khả năng của ta. Mỗi người đều có khả năng và cơ hội để yêu thương người khác, do đó đều có khả năng và cơ hội để tôn vinh Thiên Chúa. Nhưng vấn đề là ta có sử dụng khả năng và nắm lấy cơ hội để tôn vinh Thiên Chúa hay không. 4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tại sao tôi thường thấy khó nhận ra được điều răn yêu thương là “điều răn mới”? Tại tôi cứ nghe lập đi lập lại điều này trong các bài giảng? Hay tại tôi chưa khám phá ra sự mới mẻ của điều răn trong cách sống của Chúa Giê-su?
Xét lại cách truyền giáo bằng sống yêu thương, tôi đã giúp cho người khác nhận biết Giáo Hội hay tôi đã làm cho họ tránh xa Giáo Hội? Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.” - Mẹ Tê-rê-xa Calcutta (Trích RABBOUNI, lời nguyện 68)
Yêu thương là dấu chỉ cho người ta nhận biết các môn đệ của Chúa. Vì thế có thể nói khuyết điểm lớn nhất của người tín hữu là không yêu thương.
Trong Thánh lễ này, mỗi người chúng ta hãy nhớ lại xem có những người nào mà chúng ta không muốn yêu thương. Hãy dâng những người ấy lên Chúa, và xin Chúa giúp chúng ta yêu thương họ.
II. Gợi ý sám hối
Vì chúng con còn ghét một số người, xin Chúa tha tội chúng con.
Vì chúng con vui mừng khi thấy những người chúng con ghét phải chịu đau khổ, xin Chúa tha tội chúng con.
Vì chúng con không cố gắng hòa giải với những người va chạm với chúng con, xin Chúa tha tội chúng con.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cv 14,21-27)
Mặc dù là những nhà truyền giáo, nhưng Phaolô và Barnaba không chỉ lo rao giảng Tin Mừng cho những nơi mới. Thỉnh thoảng hai vị làm một chuyến thăm mục vụ ở những giáo đoàn cũ. Việc này ngày nay được gọi là "tái truyền giáo".
Tái truyền giáo của hai vị gồm: (1) Củng cố tinh thần kitô hữu; (2) Củng cố cơ cấu nhân sự ở những giáo đoàn ấy.
2. Tin Mừng (Ga 13,31-35)
Đoạn Tin Mừng này là một phần của bữa tiệc ly. Có 2 chi tiết đáng lưu ý:
1. Giây phút Giuđa ra đi là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thực hiện ý muốn Chúa Cha.
2. Trước lúc bước vào con đường thập giá, Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ điều răn mới của Ngài: "Chúng con hãy yêu thương nhau... Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con có lòng yêu thương nhau". 3. Bài đọc II (Kh 21,1-5)
Thị kiến về thành Giêrusalem mới:
Thành này từ trời xuống Là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại Trong thành Giêrusalem mới này, sẽ không còn sự chết, tang tóc và khổ đau.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Yêu thương kiểu mới
Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện Thánh nữ Maria Goretti. Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp: Vừa đẹp người vừa đẹp nết. Nhưng gia đình thì nghèo: Không có nhà riêng để ở, phải ở chung nhà với gia đình của anh chàng Alexandre. Hàng ngày mẹ và các anh của Goretti ra đồng làm ruộng, Goretti ở nhà lo việc nội trợ và giữ em. Anh chàng Alexandre từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti cùng mình trao đổi những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối. Một hôm Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết Goretti ở nhà một mình nên lấy cớ đau bụng để trở về nhà. Về đến nhà Alexandre giả bộ nhờ Goretti vào phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái ngây thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đi vào. Alexandre lại một lần nữa đề nghị chuyện ân ái. Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho lý trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào mình Goretti và chạy trốn. Sau đó anh của Goretti sinh nghi từ ruộng trở về thấy em gái mình sắp chết, anh thề sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh hãy tha cho hắn. Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt giam. Một đêm kia anh thấy Goretti hiện ra với mình và tặng cho mình những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ. Từ đó Alexandre ăn năn sửa mình, nên được khoan hồng trả tự do trước khi hạn tù chấm dứt. Alexandre còn được vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.
Có thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình. Nhưng trong chuyện ấy có hai thứ tình: tình của Alexandre đối với Goretti là một thứ tình yêu thấp hèn,: còn tình yêu của Goretti đối với Alexandre là một thứ tình yêu cao đẹp. Nếu dùng từ ngữ của bài Tin Mừng hôm nay, thì tình yêu của Alexandre là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu của Foretti là thứ tình yêu kiểu mới.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy yêu thương nhau. Thực ra tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể từ khi có mặt con người trên trái đất này thì cũng đã có tình yêu. Cho nên nếu Chúa Giêsu chỉ bảo người ta thương yêu nhau như người ta đã từng yêu thương nhau từ trước tới giờ thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa và vô ích. Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì Chúa không dạy người ta thương yêu nhau kiểu cũ, mà là thương yêu nhau kiểu mới.
Thế nào là yêu thương kiểu cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới?
Tự nhiên là con người biết thương và biết ghét,: thương người vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ. Sách Lêvi trong bộ Cựu Ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn: đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu thương kiểu khá mới. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa: không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất.
Kiểu yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã yêu. Vậy Chúa đã yêu như thế nào? Có vài chi tiết trong bài phúc âm giúp ta hiểu rõ hơn cách yêu thương của Chúa:
Chi tiết thứ nhất là câu "Khi Giuđa đi rồi": Giuđa đi để thực hiện âm mưu bội phản bán Thầy. Lúc đó lẽ ra Chúa phải chua chát cho tình nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa yêu thương.
Chi tiết thứ hai là câu "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy": nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa.
Qua những chi tiết trên, ta hiểu được rằng yêu thương như Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu, yêu thương chính cái điều mà người thường không thể yêu, và yêu thương những người mà người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa.
Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ Maria Goretti. Yêu thương của Alexandre là yêu thương kiểu cũ, bởi vì Alexandre chỉ yêu thương theo sự thúc đẩy của bản tính, của tính dục. Khi tình dục không được thỏa mãn thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti. Còn yêu thương kiểu Goretti là yêu thương kiểu mới: yêu thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính lúc đau đớn sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt Alexandre.
Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn "Thầy ban cho chúng con một giới răn mới".
Chúng ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao? Có một tác giả kia khi viết bài suy gẫm về bài phúc âm này, đã đề nghị một số việc như sau:
là làm hòa với những kẻ ghét mình là cầu nguyện cho kẻ ghét mình là làm tươi hồng môi trường sống của mình bằng những việc phục vụ và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.
Thiết tưởng đó là những việc rất cụ thể mà chúng ta phải cố gắng làm để thực hiện tình yêu thương kiểu mới mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
* 2. Như thầy đã yêu (Ga 13,31-33a. 34-35)
Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương.
Trong các tai họa vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất.
Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới tòa nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống: Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.
Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn người mẹ:
- Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy?
Chị đáp:
- Tuy bị chôn vùi dưới tòa nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. Sau đó, tôi không còn biết gì nữa?
- Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao?
- Tôi không hề nghĩ đến cai chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cánh nào cho con tôi được sống.
*****
Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34).
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như "Bạn hữu thân tình".
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là "Yêu cho đến cùng", yêu cho đến chết và chết trên thập giá.
Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu "Như Thầy đã yêu".
Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta.
Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta dám quên mình, "bắt chước" Thầy, cúi xuống trước anh em.
Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng "mức độ" như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em.
Như vậy, yêu "Như Thầy đã yêu" không phải là tình yêu vị kỷ (Eros) yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác.
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.
Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35).
*****
Lạy Chúa. nếu đồng phục của người Ki tô hữu là yêu thương thì xin cho chúng con luôn tỏa sáng trong cuộc sống những lời nói yêu thương, những nghĩa cử nhân hậu, những hành động xả thân cho anh em, để xứng đáng làm môn đệ Đấng đã yêu thương chúng con cho đến cùng.
Xin cho suối nguồn tình yêu của Chúa tuôn chảy vào tâm hồn chúng con, không đọng lại như nước ao tù nhưng luôn là dòng chảy tình yêu đến với mọi người, để khắp thế giới tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
* 3. Yêu thương người ruột thịt
Khi đề cập đến giới luật yêu thương, người ta thường nói tới việc yêu thương những người tội lỗi, những người nghèo, những kẻ thù v.v. Thế nhưng có một hạng người cần yêu thương hơn mà na ta hay quên, đó là chính những người ruột thịt.
Có một người đã viết lên những lời cầu nguyện như thế này: "Chúa ơi, tình chị em con rộng rãi bao la như chiếc lá me, như cái bánh cam buổi chiều. Buồn quá Chúa ơi. Giờ này con mới thấy rõ bộ mặt thật não nề!" Lời cầu nguyện này cũng là một tâm sự, một nhận xét, một thú nhận thật là chua chát. Có những người theo lẽ tự nhiên thì rất dễ thương nhau, nhưng trong thực tế thì lại rất ghét nhau. Đó là những người ruột thịt sống chung với nhau hằng ngày!
Khi còn nhỏ, anh chị em ruộït thịt một nhà sống với ngay thật là thân thiết yêu thương: ăn chung, chơi chung, đi học chung, ngủ chung... Cuộc sống thật thoải mái, nhưng tới khi những anh chị em này đã lớn, mỗi người đã có nghề nghiệp riêng, tiền bạc riêng, quyền lợi riêng, gia đình riêng thì tình nghĩa lợt lạt dần, có khi còn thù ghét nhau nữa. Có một người kia thành thật nhìn nhận rằng: "Người mà tôi thù ghét nhất, đó là... chị tôi!". Đó là một thực tế, thực tế không phải chỉ đối với một vài người nào đó, mà có lẽ đối với rất nhiều người.
Người ta đã đưa ra nhiều lý do để giải thích cái thực tế phủ phàng đó, như tại tuổi hai người xung khắc nhau, như tại cha mẹ cư xử không đồng đều với con cái. v.v. Tuy nhiên, những lý do đó không đúng, có thể còn mê tín dị đoan nữa. Lý do thật của tình trạng anh chị em ruột thịt không thương nhau lại thù ghét nhau là: Ganh ghét và thụ động.
Thứ nhất: ganh ghét. Hai anh em trong Thánh Kinh đã thù ghét nhau là Cain và Abilê. Và lý do thì rõ ràng là ganh ghét: Cain đã ganh với Abilê vì cậu em này chăm chỉ hơn mình nên làm ăn thành công hơn, hiếu thảo hơn mình nên được lòng cha mẹ hơn, đạo đức hơn mình nên được Chúa ban ơn nhiều hơn. Tình trạng bất hoà giữa nhiều anh chị em ruột thịt cũng cùng một lý do đó. Vì nó học giỏi hơn, vì nó đẹp hơn, vì nó có tiền hơn, vì nó được người ta thương mến hơn... khiến tôi bực bội khó chịu và từ đó hay kiếm chuyện gây gỗ. Ganh ghét là lý do chính. Tuy nhiên cần phải lưu ý đến khía cạnh tâm lý này: bởi vì chúng ta đều biết ganh ghét là một tính xấu cho nên ít ai chịu nhận mình có tính ganh ghét cả. Trong khi phân tích tình trạng bất hoà giữa anh chị em, ai ai cũng dễ dàng và mau mắn nhận rằng anh chị em đã ganh ghét mình, nhưng rất ít người chịu nhận mình ganh ghét anh chị em.
Lý do thứ hai là thụ động. Thụ động muốn nói đây không có nghĩa là mình không làm gì cả. Thực tế người ta rất tích cực và làm rất nhiều, nào là chê bai, nào là chửi bới, nào là nói xấu, nào là phá ngầm... Thụ động muốn nói đây là không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Nói khác đi, mình muốn hưởng mà không chịu làm. Sống chung trong nhà, mình chỉ lo cho mình chứ không lo cho ai cả rồi khi thấy anh chị em không giúp đỡ mình, không ủi an mình, không nâng đỡ mình thì mình tức tối bực bội và kiếm chuyện gây gỗ. Ở đây cũng có một nhận xét này chúng ta cần lưu ý: là người nào hay quên mình để lo lắng cho anh chị em thì người đó rất ít thắc mắc, ít đặt vấn đề. Ngược lại kẻ nào chỉ thụ động chờ anh chị em lo lắng phục vụ mình thì kẻ ấy lại thường khó chịu, cự nự, gây chuyện nhiều nhất.
Trên đây là hai lý do giải thích tình trạng anh chị em ruột thịt bất hoà với nhau: một là tính ganh ghét, hai là tính thụ động chỉ đòi người ta lo cho mình trong khi mình không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Thấy được hai lý do đó thì đương nhiên ta thấy được giải pháp của vấn đề. Làm thế nào để anh chị em ruột thịt thương yêu nhau? Thưa ai cũng phải biết nâng đỡ nhau. Tục ngữ ta có câu "Chị ngã em nâng". Đó là những anh chị em thương yêu nhau thật sự. Còn những anh chị em không thương yêu nhau thì "Chị ngã, em dửng dưng đứng nhìn, hoặc tệ hơn nữa chị ngã mà em khoái chí!
Nhưng cụ thể, nâng đỡ như thế nào?
- Trước hết là nâng đỡ khi thành công. Nhưng khi thành công thì cần gì nâng đỡ? Ta dễ nghĩ như vậy. Nhưng thực tế lại không như vậy. Bởi vì ai trong chúng ta cũng có sẵn tính ganh ghét mặc dù mình không muốn nhìn nhận. Sự thành công của người khác có thể gợi lên trong ta cái tính ganh ghét nằm sẵn đó. Cho nên khi anh chị em ta thành công mà ta biết nâng đỡ bằng cách chia vui, chúc mừng, khích lệ thì đương nhiên là ta đã loại bỏ không cho tính ganh ghét trỗi dậy.
- Sự nâng đỡ càng cần thiết hơn khi anh chị em mình thất bại. Người thất bại thì dĩ nhiên phải đau buồn. Đau buồn thì cần người an ủi, đỡ nâng. Cần mà không gặp thì cô đơn chua xót. Nếu đã không gặp được nâng đỡ mà lại còn thấy anh chị em vui mừng hỉ hả vì thất bại của mình thì chẳng những cô đơn chua xót mà còn thêm đắng cay, hận thù. Có một người lâm vào tình cảnh đắng cay như thế đã than: "Lúc này tôi hoàn toàn cô độc. Buồn một mình, khổ một mình, khóc một mình. Tôi chỉ thấy có một vật có thiện cảm với tôi, đó là con chó của tôi. Chỉ có thế thôi". Cái tâm trạng chán chường cay đắng vì thiếu nâng đỡ ấy dễ đưa người ta tới chỗ sa sút tinh thần, như có người nhận xét: Ít có người đã tự tử vì không chịu nỗi những đau đớn thân xác. Nhưng hầu hết các người tự tử vì không chịu nỗi đau khổ trong tâm hồn. Và có những người trong anh chị em chúng ta trong lúc buồn nản đã không tự tử phần xác, nhưng đã tự tử phần hồn. Tự tử phần hồn là gì? Là sa đọa, là bất cần, là nổi loạn làm cho gia đình tan nát, làm cho tình nghĩa anh chị em ruột thịt đổ vỡ.
Một vị thánh đã nói "Yêu thương phải bắt đầu từ những người thân rồi mới lan xa tới những người khác". Những người thân mà chúng ta đề cập nãy giờ chính là anh chị em ruột thịt của mình.
* 4. "Cứ dấu này mà người ta nhận biết..."
Người kia trồng một cây ăn trái trong rừng. Thoạt đầu cái cây này nhỏ xíu, tưởng như mất hút trong khu rừng giữa những cây to lớn. Nhưng nó hết sức cố gắng vươn lên nên một thời gian sau nó cũng cao và cũng lớn không thua kém gì các cây khác. Một hôm ông chủ của nó vào rừng thăm nó. Ông rất ngạc nhiên thấy nó cao lớn như thế. Ông trầm trồ khen ngợi:
- Thật không ngờ mi lớn nhanh như thế. Tuyệt vời quá!
Nhưng cái cây khiêm tốn đáp lại:
- Chưa tuyệt vời đâu thưa ông chủ. Tôi thấy mình còn rất nhiều khuyết điểm. Thân tôi còn nhiều chỗ xù xì, lồi lõm...
- Nhưng những cái đó không quan trọng. Ta chẳng quan tâm. Chỉ có điều này khiến ta chưa vừa lòng.
- Thưa ông chủ, tôi không hiểu. Tôi đã lớn lên, chẳng kém gì những cây thông, cây sồi.
Ông chủ giải thích:
- Nhưng mi không phải là loại cây cần có lá có cành thật lớn. Mi là cây ăn trái. Trái chính là điểm đặc biệt quý giá nơi mi. Thế mà mi chưa sinh ra dược trái nào cả!
Người ta sẽ nhận biết cây nào thuộc loại cây ăn trái nếu người ta thấy nó có trái. Cũng thế, người ta sẽ nhận biết ai là môn đệ Chúa Giêsu nếu người ta thấy họ yêu thương nhau.
Nhiều kitô hữu cố gắng làm đủ mọi chuyện, chỉ trừ chuyện yêu thương nhau!
Nhìn thấy Mẹ Têrêsa đang chăm sóc cho một người bị ghẻ lở đầy mình, một nhà báo nói: "Tôi không thể làm được việc đó cho dù có trả cho tôi một triệu đôla". Mẹ Têrêsa đáp: "Chính tôi cũng không làm nổi việc ấy với số tiền đó. Nhưng tôi làm vì yêu Chúa" (FM)
* 5. Sức mạnh của yêu thương
Kể về kinh nghiệm lúc ở trại tập trung Auschwitz, Elie Wiesel nói: những người cai tù Đức cố gắng làm cho các tù nhân quên hết bà con và bạn bè, để chỉ nghĩ tới bản thân và chỉ lo cho nhu cầu bản thân mà thôi. Họ nói rằng đó là cách để sống còn. Nhưng Wiesel thấy ngược lại: người nào chỉ biết sống cho mình thì cơ may sống sót rất ít, trái lại người nào còn nghĩ tới gia đình, bạn bè, thân thuộc, hay còn nuôi một lý tưởng thì cơ may sống sót nhiều hơn. Chính những ý tưởng yêu thương ấy đã giúp họ sống.
Tính vị kỷ khép cửa lòng ta lại và thu hẹp thế giới của ta, giam hãm ta. Nó dựng lên những rào cản, thậm chí những bức tường ngăn cách ta với tha nhân. Điều giải thoát ta khỏi sự giam hãm ấy chính là tình yêu thương thực sự và sâu đậm của ta đối với người khác.
Tình yêu luôn đòi hỏi chúng ta phải cho đi điều tốt nhất và tình yêu cũng mang điều tốt nhất lại cho ta. Khi được yêu, ta có được can đảm và nghị lực phi thường. Khi yêu cũng thế. Nhiều khi tình yêu còn làm được những điều như phép lạ. Elizabeth Kubler Ross viết: "Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm cho cõi lòng, tăng cường nghị lực cho tinh thần và cung cấp niềm đam mê cho cuộc sống".
Nếu không có tình yêu thì người ta sẽ ra sao? Thưa người ta sẽ sống rất nghèo nàn. Còn người yêu thương thì sống rất phong phú.
Mục đích cuộc đời là gì nếu không phải là yêu? Tự do không bị trói buộc trong tính vị kỷ và có khả năng yêu thương tha nhân, đó chính là sống.
Một bác sĩ đã chứng kiến nhiều người hấp hối cho biết: lúc sắp chết, người ta không nghĩ đến mình đã đậu được những bằng cấp gì, đã chiếm được địa vị nào trong xã hội, hay đã kiến được bao nhiêu tiền... Điều duy nhất những người ấy nghĩ đến, đó là những người họ yêu và những người yêu họ. (FM)
* 6. Những loại tình yêu
Ngày nay chúng ta hiểu biết nhiều hơn thời xưa về sự phức tạp của bản tính loài người, và về những động cơ khác nhau đàng sau những việc chúng ta làm.
Yêu thương chẳng hạn. Thật không đơn giản, mà có tới ít ra 5 loại:
Thứ nhất là tình yêu vụ lợi: ta yêu thương người nào đó vì người đó có lợi cho ta. Nhưng đây không phải là tình yêu mà là vị kỷ. Tôi yêu điều gì đó nơi bạn chứ tôi không yêu bạn.
Thứ hai là tình yêu lãng mạn: chúng ta có tình cảm với người nào đó bởi vì người ấy làm cho mình thích. Đây cũng không phải là tình yêu mà chỉ là đam mê. Ta tưởng mình yêu người đó nhưng thực chất là ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu lãng mạn không bền vững. Bởi đó nhiều cặp vợ chồng bị thất bại.
Thứ ba là tình yêu "dân chủ", dựa trên sự bình đẳng trước pháp luật. Ta tôn trọng người khác vì họ cũng là công dân như ta. Ta nhìn nhận những quyền tự do của họ để họ cũng nhìn nhận những quyền tự do của ta. Sở dĩ ta làm điều gì tốt cho họ là vì để họ cũng làm điều tốt cho ta.
Thứ tư là tình yêu nhân bản: đây là yêu người cách chung. Điểm yếu của loại tình yêu này là trừu tượng chứ ít khi cụ thể: tôi yêu người, nhưng tôi không gắn bó với người nào cả.
Thứ năm là tình yêu kitô, nghĩa là yêu như Đức Kitô đã yêu. Đây là tình yêu vô vụ lợi, yêu khi chẳng có gì lợi cho mình. Tình yêu này tồn tại vững bền bất chấp thù nghịch và bắt bớ. Tình yêu này thể hiện qua phục vụ và hy sinh. Chúng ta chỉ có thể yêu đến mức độ thứ năm này nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Ta thường hiểu yêu theo nghĩa thụ động hơn là chủ động. Nói cách khác, ta mong "được người yêu" hơn là "yêu người". Vì nghĩ thế nên ta dồn mọi cố gắng để thành công, để giàu có, để có sức quyến rũ... Kết quả là chẳng được tình yêu thực sự nào cả, vì người khác chỉ yêu cái thành công, cái giàu có và cái quyến rũ của ta chứ không phải yêu ta. Trái lại nếu ta "yêu người" thì người sẽ yêu ta vì chính con người của ta.
Có 3 tình trạng yêu thương:
(1) Không yêu và không được yêu: tình trạng này giống như hỏa ngục ngay ở đời này;
(2) Yêu mà không được yêu lại: tình trạng này tuy đau khổ nhưng khá hơn tình trạng thứ nhất;
(3) Yêu và được yêu: đây chính là tình trạng hạnh phúc của Chúa Giêsu:"Như Cha Thầy đã yêu thương Thầy, Thầy cũng yêu thương các con".
Tình yêu là một sự chọn lựa, vì không ai ép được tình yêu. Nhưng từ chối không yêu tức là bắt đầu chết. Điều tồi tệ nhất trong các điều tồi tệ là một cuộc sống lạnh lẽo vô tình. (FM)
* 7. Chuyện minh họa
Có hai anh em nhà kia: người anh tên Stephen 12 tuổi có một chân què; người em tên Mark 10 tuổi cả hai chân đều mạnh khoẻ. Nhiều khi Stephen ganh tị với em, thậm chí còn muốn em mình què còn mình thì đủ hai chân mạnh khoẻ.
Một đêm kia Stephen nằm mơ thấy mình lạc vào một khu rừng và gặp một bà phù thuỷ. Bà này ban cho cậu một điều ước, ước gì được nấy. Stephen chẳng chút do dự ước ngay: "Ước gì tôi có đôi chân mạnh khoẻ". Bà phù thuỷ liền mang Stephan từ khu rừng trở lại nhà cậu. Khi ấy Mark em cậu đang ngủ. Bà phù thuỷ giở tấm mền của Mark ra. Stephen hỏi:
- Bà làm gì thế?
Phù thuỷ đáp:
- Ta sắp giải phẫu, lấy đôi chân của em cậu sang cho cậu và rồi lấy đôi chân của cậu cho nó.
- Không thể được.
- Có sao đâu, khi tỉnh dậy em cậu sẽ chẳng biết gì hết. Nó cứ tưởng là từ trước tới nay nó vẫn có một chiếc chân què.
Stephen thoáng nghĩ đến tương lai. Cậu thấy mình chạy giỡn thoải mái với đôi chân lành. Cậu rất sung sướng. Nhưng khi nhìn lại phía sau thì thấy Mark khổ sở chạy theo với một cái chân khập khiễng thì Cậu không chịu được. Khi ấy cậu nói với bà phù thuỷ: "Tôi không muốn có đôi chân lành lặn nữa."
Giật mình thức dậy, Stephan nhìn xuống đôi chân của mình, rồi nhìn sang đôi chân của em. Thấy mọi sự vẫn như cũ, cậu mỉm cười sung sướng. Từ đó trở đi, không khi nào cậu còn ganh tị với em nữa.
Stephan muốn sung sướng, nhưng không phải bằng cái giá là sự đau khổ của em mình. Hạnh phúc thật chỉ được xây dựng bằng một tình yêu không vị kỷ. Yêu thương ai là dặt người ấy lên hàng đầu. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, di chúc của Chúa Giêsu gồm tóm trong một câu: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Với quyết tâm sống theo điều răn mới của Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin:
1. Hội thánh có một bí quyết hết sức hữu hiệu để phản đối sự độc ác của con người / đó là bác ái yêu thương / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết cố gắng tận dụng bí quyết này trong đời sống chứng nhân của mình.
2. Hiện nay / chiến tranh / hận thù / khủng bố / kỳ thị chủng tộc / gây ra biết bao tang tóc cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Thánh thần Tình yêu tác động đến lòng trí con người hôm nay / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau hơn.
3. Lòng bác ái thì nhẫn nhục / hiền hậu / không ghen tương / không vênh vang / không tự đắc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu / biết sống theo lời dạy của thánh Phaolô tông đồ.
4. Lòng bác ái tha thứ tất cả / tin tưởng tất cả / hy vọng tất cả / chịu đựng tất cả / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / cố gắng thực hiện lời khuyên nhủ của vị tông đồ dân ngoại.
Chủ tế: Lạy Chúa, thánh Phaolô đã dạy chúng con: Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn điều răn mến Chúa yêu người. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là con của cùng một Cha trên trời. Chúng ta hãy xin Cha giúp chúng ta biết yêu thương nhau như những người anh chị em ruột thịt.
VII. Giải tán
Anh chị em hãy ghi nhớ lời Chúa dạy hôm nay: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau".
Tình thương giữa người với người không bao giờ là một đề tài xa lạ hay lỗi thời từ ngàn xưa cho đến thời nay. Bao lâu và ở bất cứ nời nào có con người hiện diện thì ở đó cần có tình yêu. Điều ấy như một điều tất phải có để con người có thể tồn tại và phát triển. Tất cả văn hoá của các dân tộc, giáo huấn của các tiền nhân dù là công giáo hay ngoài công giáo đều không thể thiếu giáo luật yêu thương. Bởi đó không chỉ là điều lệ tự nhiên của con người mà còn là giáo huấn của trời, của Chúa. Và Đức Giêsu đã cho giới luật yêu thương ấy một ý nghĩa tuyệt vời hơn nữa. "Cứ dấu này mà người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em hãy yêu thương nhau" (Ga 13, 35).
Chúa Giêsu xuống thế làm người, người ta đã nghĩ rằng Ngài sẽ dạy những giáo lý cao siêu huyền bí, cho con người thực hành những chuyện cao vời hơn chính tầng mây để đạt được cuộc sống vĩnh cữu. Thế mà thực tế lại hoàn toàn trái ngược. Ngài lại dạy một giáo lý hết sức quen thuộc mà ai cũng đã biết rõ, thuộc nằm lòng từ thuở còn trong nôi. Hãy yêu thương nhau. Đó thực ra là điều Thiên Chúa đã phú bẩm trong lương tâm tất cả nhân loại này. "Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" dạy về điều gì thì ai ai cũng hiểu. Ngay bên Trung Hoa với một nền văn hoá đậm bản sắc Phong kiến thì cũng không thiếu những luật lệ như Kiêm Ái của Mặc tử. Yêu người như yêu mình, yêu bằng hành động cụ thể. Đức Phật bên Ấn Độ thì dạy phải có lòng từ bi. Và cũng với lòng từ bi ấy mà Ngài đã lên đường tìm cho đồng bào mình con đường đến hạnh phúc. Như thế, cho đến khi giáo lý yêu thương của Đức Giêsu ra đời thì điều ấy đã được nói đến rất lâu rồi. Đến Đức Giêsu cũng không dạy điều gì khác hơn. Có khác là Ngài đã dám thí mạng sống mình cho người mình yêu (Ga 15,13). Tức là giá trị và ý nghĩa của hành vi yêu thương ấy. Một tình yêu nhưng không và hiến dâng.
Bài học yêu thương ai cũng nhớ, cũng thuộc, cũng có thể trình bày rõ ràng, rành mạch. Nhưng xem ra nhân loại này vẫn còn đầy dẫy những đau thương và thách đố do chính con người tạo ra cho đồng loại mình. Nguyên nhân chính là bởi con người đã không thể yêu như Chúa yêu. Vì khi làm như thế, con người sẽ bị mất mát, bị đau thương và có khi phải chết nữa. Con người mở rộng trí khôn để đón nhận giáo huấn nhưng lại đóng cửa trái tim và bàn tay nên giáo huấn ấy không thành hiện thực. Lịch sử loài người cho thấy con người ngày càng tách biệt nhau. Nếu Thời công xã nguyên thuỷ con người sống thành "bầy đàn", mọi sự là của chung, thì thời hiện đại "mạnh ai nấy sống".
Rồi khi con người tiến dần đến thềm văn minh thì cũng là lúc con người tiến dần đến ranh giới của chia cắt. Phân chia quốc gia, lãnh thổ, dân tộc, gia đình, rồi đến sự phân chi tài sản, giàu nghèo, thân phận. Đó là số phận của cái gọi là văn minh hiện đại. Tình yêu như mờ nhạt dưới bảo táp của giá cả, của miếng ăn, áo mặc, danh dự, uy quyền. Ai dám "liều yêu" thì coi như kẻ lập dị, không biết thời thế. Đức Giêsu đến để làm sống lại nền văn minh tình thương ấy. Ngài đã tự huỷ, bỏ mình để gắn kết, để hiệp thông. Ngài đã làm gương cho chúng ta về một đời sống yêu thương trọn hảo. "Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng hãy rửa chân cho nhau" (Ga 13,14). Khi sống giới luật yêu thương thì không những chúng ta đã hoàn thành cái nhiệm vụ của con người với con người mà chúng ta còn được cứu độ. "Phúc cho ai biết thương xót thì họ sẽ được Thiên Chúa thương xót" (Mt 5,7). Lẽ ra chúng ta không được cái phần thưởng ấy vì đó là nhiệm vụ chúng ta phải làm, phải thực hiện. Nhưng Thiên Chúa đã cho hành vi tự nhiên ấy một phần thưởng thì quả thật hành vi ấy phải rất cao trọng và lớn lao. Khi yêu thương thì chúng ta chu toàn lề luật của Thiên Chúa (x. Rm 13,18).
Người ta thích nói về tình yêu nhưng ngại sống cho tình yêu. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau, biết dám vì người khác mà hy sinh bản thân mình để chúng con cũng xứng đáng được gọi là môn đệ của Chúa.
Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội (Tin Mừng cho cả 3 năm A, B, C) mời gọi chúng ta đọc và suy niệm về những điều răn của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô truyền ban trước khi Ngài đi về Trời. Quả thật: nếu chúng ta muốn về Trời với Đức Kitô như lời hứa (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải thực hành trong đời sống “Điều răn mới” (Năm C), tất cả những “Chân lý” (Năm A). Và khi mỗi chúng ta áp dụng cách triệt để Tình Yêu và Bác Ái vào đời sống thường ngày, chúng ta sẽ mang lại nhiều hoa quả, trở thành “Vườn nho đích thực” (Năm B). Lúc đó mọi người sẽ cùng nhau: Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công; Người mặc khải đức công chính của Người, cho muôn dân được thấy.
* Bài đọc Phụng vụ năm A
- Tđcv 6, 1-7: Họ chọn 72 người đầy Thánh Thần - Tv 33, 1: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con - 1 Pr 2, 4- 9: Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả - Ga 14, 1-12: Thầy là Đường, là sự thật và là sự sống
* Bài đọc Phụng vụ năm B
- Tđcv 9, 26-31: Ngài thuật lại cho các ông biết trên đường đã thấy Chúa thế nào. - Tv 22, 26: Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời tôi ca ngợi vang lên trong đại hội - 1 Ga 3, 1-2: Đây là giới răn của Người: là chúng ta phải tin và yêu thương nhau - Ga 15, 1-8: Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái
* Bài đọc Phụng vụ năm C
- Tđcv 14, 12-27: Cuộc hành trình của Phaolô và Barnaba - Tv 145, 8: Lạy Chúa, lạy Chúa thiên binh, tôi sẽ chúc tụng danh Chúa đến muôn đời. - Kh 21, 1-5: Thiên Chúa đổi mới mọi sự - Ga 13, 31-35: Điều răn mới
Chúng ta tự hỏi, phải chăng chúng ta dùng những tình cảm tự nhiên để yêu nhau như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái và ngược lại, đồng lớp đồng niên yêu nhau, nam nữ yêu nhau là khác với tình yêu Đức Kitô đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải: Yêu như Thầy đã yêu anh em?
Vậy, “yêu như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng? Xem ra chữ “như” có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết: khi nói “Yêu như Thầy đã yêu anh em” là Đức Giêsu nói đến tình yêu của mình đối với các môn đệ với hy sinh và tha thiết: “Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”. Chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Đức Giêsu đã yêu các môn đệ nói riêng, và con người nói chung bằng tình yêu hiến mạng. Nay Ngài đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau đến mức đó. Tình yêu mà Đức Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đa yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy”. Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngững chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu mến Thiên Chúa hết lòng để đáp lại tình yêu Chúa. Sermons sur l'évangile de Jean, no 65 (trad. cf bréviaire 4e jeu. de Pâques). “Thầy ban cho các con một điều răn mới” là thế đấy.
Thánh Augustinô nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu anh em», khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Bởi: “Các bộ phận vì ích chung mà đùm bọc lấy nhau. Cho nên một bộ phận phải đau, thì hết các bộ phận đau chung; một bộ phận được vinh, thì hết các bộ phận vinh chung!” (1Co 12,25-26). Thật vậy, ai nghe điều răn này, hay đúng hơn là ai tuân giữ lời này, họ sẽ được biến đổi trở nên đồng thừa tự với Đức Kitô. Họ yêu thương nhau không đơn giản với bản tính tự nhiêu, nhưng vì họ là “thần” (Jn 10,35) nên tất cả họ yêu nhau và “họ là con Đấng Tối Cao» (Lc 6,35). Họ yêu thương nhau là vì họ được Đức Kitô yêu thương. Sermons sur l'évangile de Jean, no 65 (trad. cf bréviaire 4e jeu. de Pâques). Tình yêu vì Chúa.
Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực: thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v...
Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ. Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình yêu huyết tộc. Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đay đó chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau. Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà... tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.
Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc: “...vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi.
Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa: "Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau", vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng... Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen.
“Hỡi các con bé nhỏ, Ta chỉ còn ở với các ngươi một ít nữa… Ta ban cho các ngươi một điều răn mới: là hãy yêu thương nhau. Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau. Chính điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta: ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến lẫn nhau”(Ga 13:33a-35).
Một câu nhắn nhủ biến thành một lệnh truyền, với bốn lần tiếng gọi yêu thương được nhắc đến, phải là một tâm tình quan yếu được ôm ấp qua bao tháng năm, nay được thổ lộ vì e rằng ngày giờ đã tận.
Một linh mục nhận xét: những gì được trăn trối trong giây phút cuối đời là những tâm tư sâu kín, tha thiết, và chân thành nhất của một con người. Những đứa con thảo hiếu, những môn đệ trung tín, hay các bạn bè tâm giao, không thể không ghi lòng và thi hành những lời nói sau cùng của người thân yêu sắp ra đi.
Đức Giêsu, trước tử nạn, ngay trong buổi biệt ly, đã thố lộ với các môn đệ nỗi niềm sâu kín nhất mà Ngài đã dành trót cuộc đời để phát hoạ và dẫn lối con người: Hãy yêu thương nhau.
Yêu thương chính là dấu chỉ thuộc về Đức Kitô. Mỗi tôn giáo đều có một số hình ảnh tiêu biểu giúp nhận diện tôn giáo mình. Ví dụ, với người Hồi giáo là việc cầu nguyện năm lần mỗi ngày. Với người Ấn giáo là hãm mình phạt xác và kiêng thịt bò. Với anh em Phật giáo có thể là diệt dục hay chay trường. Nhưng riêng những người tin Chúa Kitô, dấu tỏ mình theo Ngài phải là dấu yêu thương.
Yêu thương chính là Đạo Giêsu. Người có Đạo phải là người biết yêu thương. Ai sống yêu thương là đang bước đi trên lối đường của Đạo. Khi chân thành thực thi bác ái, người có Đạo phô diễn rõ nét chân dung vị Sư Phụ của mình: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ Ta: ấy là các ngươi có lòng yêu mến nhau” (Ga 13:35).
Nhưng lòng yêu mến đó không chỉ dừng lại trên căn bản của cảm xúc, đam mê, hay ích lợi riêng tư. Vì yêu như thế chỉ là yêu như tôi muốn chứ không phải yêu như Chúa muốn. Điều mà Đức Giêsu trăn trối trong bữa tiệc ly là hãy yêu nhau như Ngài đã yêu thương. Yêu đến hy sinh, phục vụ, và quảng đại thứ tha như Ngài đã làm gương.
Kể là chuyện bất thường khi đường đường là một bậc thầy mà lại quì xuống rửa chân cho môn đệ. Đây hẳn là một hành động quên mình phục vụ tha nhân. Đức Giêsu muốn dùng chính hành động này để dạy bảo: “Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (Ga 13:34). Thế ra quên mình phục vụ tha nhân là dấu chỉ của tình yêu mà Đức Kitô mong muốn.
Yêu như Đức Kitô đã yêu còn là việc hy sinh tự hiến. William Barclay đã diễn tả trong một bài viết: “Nếu tình yêu là Thập giá thì Chúa Giêsu cũng sẵn sàng tiến tới đó. Lắm khi người ta lầm tưởng tình yêu là những thứ gì hạnh phúc. Phải, đích cùng sẽ là thế. Nhưng tình yêu cũng thường mang lại đau thương và đòi hỏi khổ giá”. Tình yêu đã thúc đẩy Đức Giêsu tiến lên khổ giá để mang lại hạnh phúc và sự sống cho con người.
Yêu như Đức Kitô đã yêu cũng còn đòi hỏi một tấm lòng quảng đại tha thứ. Từ trên thập giá, trong nỗi đau đớn tận cùng, trước bao tiếng la hét cuồng dại, cứ tưởng Đức Giêsu sẽ căm giận và ngăm đe một hình phạt tàn khốc. Thế nhưng người ta lại chỉ nghe được lời khẩn nài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23:34). Lại nữa, với những môn đệ đã từng bỏ rơi hay chối từ Ngài trong lúc cần kíp, Ngài cũng không chấp nhất. Đúng là không có lầm lỗi nào mà tình yêu của Đức Kitô không vươn tới và bao trùm.
Như vậy, để trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô, tôi phải thường xuyên tự vấn mình có đang sống yêu thương như Tin Mừng đòi hỏi chăng? Tình yêu của tôi có chứa đựng một cân lượng nào của phục vụ, hy sinh, hay tha thứ không? Nếu không thì dấu chỉ tôi có Đạo hẳn còn mờ mịt lắm thay! Chắc hẳn biến cố sau đây cũng đáng cho ta ghi nhận khi nói đến yêu thương như Đức Kitô:
Căn nhà của Frank Turner, trong thành phố Dallas bị phóng hoả. Một vài câu nói mang tính chất kỳ thị được viết trên cánh cửa ga-ra. Thiệt hại vật chất vượt quá 50 ngàn đô la. Những tổn thương tinh thần cũng không nhỏ lắm. Thế nhưng lời tâm sự của anh Frank đã làm cho nhiều người ngỡ ngàng: “Là con người, tự nhiên nghĩ đến việc trả thù. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng không phải mọi người da trắng đều xấu, cũng như không phải tất cả mọi người da đen đều tồi… Nếu tôi trả thù thì không chừng tôi lại xúc phạm đến các người lành. Điều tôi mong ước bây giờ là được Thiên Chúa dẫn lối đưa đường.” Frank nhìn nhận rằng chính niềm tin đã giúp anh tránh được thù hận.
Được biết Frank đang tu học để trở thành một thừa tác viên trong hội thánh Thanh Tẩy. Điều này đã khiến anh cương quyết hơn trong việc tha thứ và không nghĩ đến báo thù. Sự kiện bị đốt nhà và những tâm tình của Frank đã được báo chí địa phương Dallas nói đến.
Không biết sau này anh ta có trở thành một thừa tác viên để phục vụ hội thánh của mình không, nhưng tinh thần và thái độ hy sinh tha thứ, không gây hận thù tang thương cho bất cứ ai-vì anh tin vào Đức Giêsu- đã trở nên dấu chứng hùng hồn cho tình yêu và sự hiện hữu của Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.
Có nhiều người tự cho mình là văn minh ưu chủng, đồng thời khinh miệt và huỷ diệt kẻ khác-không chỉ thể xác nhưng còn cả trí tuệ, không chỉ là sự sống thể lý nhưng còn cả phương diện tâm linh. Như thế là phản văn minh. Vì như một tác giả nhận định: “Loài người đã vượt qua những chặng đường văn minh: từ văn minh của lửa, của thời đồ đá, đồ đồng, đến văn minh nông nghiệp, công nghiệp, tin học. Thế nhưng chóp đỉnh của tất cả mọi nền văn minh mà con người đang không ngừng vươn tới từng ngày là văn minh tình yêu. Ai biết yêu thương, người ấy mới thật sự là người văn minh, có văn hoá thật, và là người có sự sống sung mãn.”
Có yêu thương là có sự sống. Càng thương yêu sự sống càng phong phú tràn đầy.
Trước khi bước lên thập giá như một dấu chỉ yêu thương tột đỉnh, Đức Giêsu đã truyền đạt cho con người nền văn minh tình yêu-văn minh sự sống. Nhưng thử hỏi hiện nay tôi đang đạt đến thứ văn minh nào? Đồ đá hay đồ đồng? Sự sống hay sự chết? Tha thứ hay hận thù? Trấn áp hay phục vụ?
Để đạt được cao điểm của văn minh, điều tôi phải thực thi là nhắm thẳng vào Đức Kitô mà tiến bước.
Hôm nay cha muốn dùng một ít phút này để nói với chúng con về hai chữ yêu thương
Chúng con đã biết yêu chưa? Tình yêu màu gì chúng con? Cha đố chúng con tình to như thế nào đấy? Tình yêu có thơm không chúng con?
Đúng là tình yêu không có màu sắc, không có mùi vị, không có to hay nhỏ…nhưng có ai dám bảo là không có tình yêu không? Ai dám nói là không có tình yêu giơ tay lên cho cha xem nào.
Đúng là không ai dám bảo không có tình yêu.
Tình yêu là một cái gì đó rất thật, nhưng người ta không dùng giác quan để thấy được tình yêu. Người ta chỉ có thể thấy được tình yêu qua "Dấu chỉ" của nó.
Chúng con hãy tập làm quen với từ này. Từ dấu chỉ rất quan trọng. Cha cho chúng con một thí dụ: khi chúng con nhìn thấy trên trời có thật nhiều mây, chúng con bảo trời sắp có mưa. Vậy "Mây là dấu chỉ trời sắp có mưa". Chúng con thấy một người mẹ nghèo thật nghèo đang ẵm một đứa con trên tay và đang chăm chút đú từng muỗm bột cho con, chúng con thấy đó là "Dấu chỉ" của tình….tình gì chúng con .. tình mẹ hay gọi cho nó văn chương hơn…gọi là tình mẫu tử.
Trong Tin Mừng Chúa có kể một dụ ngôn: dụ ngôn người Samaritanô nhân lành mà ai cũng biết. Dụ ngôn kể rằng: có một người kia đi từ Giêrusalem xuống Giêricô. Dọc đường ông bị sa vào ổ cướp. Chúng lột hết quần áo và đánh ông nhừ tử, rồi bỏ mặc người ấy dở sống dở chết mà đi
Tình cờ có một thầy cả đi qua, trông thấy người ấy nhưng ông tránh qua một bên mà đi.
Sau đó đến một ông thầy Levi.
Sau có một người Samaria cũng đi qua lối đó. Ông thấy, ông động lòng thương. Ông lấy dầu, lấy rượu xoa bóp vết thương cho người bị nạn rồi ông đặt người đó lên lưng lừa của mình chở vào quán trọ.
Hôm sau ông trao cho người chủ quán 2 quan tiền và nói: “Xin săn sóc người này, có tốn kém hơn bao nhiêu thì lúc về tôi sẽ trả thêm”
Trong 3 người đó, ai là người biết yêu thương kẻ bị cướp chúng con?
- Người Samaritanô.
- Rất trúng. Cha khen chúng con đã có con mắt yêu thương.
Phần cha, mỗi lần đọc lại câu chuyện này, cha cảm thấy mình phải xét mình lại.
Thầy cả là người chuyên giúp người ta giữ luật của Chúa, nhưng luật căn bản là bác ái yêu thương thì ông lại không giữ.
Thầy Lêvi thuộc hạng người có thế giá, chăm lo việc đạo, nhưng điều răn chính của đạo là luật yêu thương thì ông lại không thực hành.
Còn người Samarianô này là người dân ngoại thường bị những người Do thái khinh bỉ và cấm không nên tiếp xúc với họ, thì lại biết yêu người.
Ông không yêu bằng môi miệng nhưng ông yêu bằng hy sinh, bằng việc làm.
Ông đã mất nhiều thời giờ và tiền bạc cho người bị nạn chẳng có họ hàng quen biết gì vối ông. Đó là tình yêu thực sự.
2. Bây giờ chúng con hãy nghe Chúa dạy: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34).
Yêu như Chúa yêu là làm sao?
Cha thấy trước khi nói điều này Chúa đã làm ba việc;
Thứ nhất Chúa cởi áo quì xuống rửa chân cho các môn đệ.
Thứ đến Chúa lập Bí tích Thánh thể.
Cuối cùng Chúa chịu chết trên cây Thánh giá.
Với ba việc đó, Chúa muốn bảo yêu như Chúa là phải phục vụ, phục vụ quên mình. Yêu như Chúa là phải biết cho đi, cho đi như Chúa ban chính mình qua bí tích Thánh thể.
Yêu như Chúa là phải sẵn sàng hy sinh, hy sinh như Chúa hy sinh trên thập giá.
Chúa bảo: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến thân vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13).
Một hôm có người đến kể cho cho công chúa Eugenie về những việc đang làm cho người đó rất buồn. Công chúa sẵn sàng lắng tai nghe. Sau đó người ấy nói cho công chúa biết về những người dân nghèo khổ trong thành không được ai săn sóc gì cả. Khi họ đau, họ bị bỏ mặc cho đến chết và cái họ cần bây giớ là một nhà thương.
Công chúa Eugenie nghe thấy thế thì bỡ ngỡ lắm. Công chúa đi thẳng xuống thành phố và thấy đúng như vậy.
Lập tức về nhà, bà bán tất cả các nữ trang bà có để lấy tiền và xây ngay một nhà thương. Không bao lâu nhà thương đã được hoàn thành.
Một hôm bà vào thăm nhà thương. Bà vào thăm và thấy mọi người bị bệnh được chăm sóc rất tử tế. Khi tới một giường của một bệnh nhân đàn ông nghèo khó. Vừa nhìn thấy bà, người này bật khóc thành tiếng và nói:
- Công chúa bán tư trang để xây nhà thương này... tôi xin hết lòng biết ơn công chúa.
Nói xong ông khóc to hơn. Công chúa mỉm cười, quay lại nói với đoàn tùy tùng:
- Ta đã cho đi các đồ nữ trang và bây giờ ta lại tìm thấy. Nước mắt của người này đáng giá hơn tất cả những vàng ngọc châu báu của ta.
Yêu thương là như thế chúng con.
Cha kể cho chúng con câu chuyện thứ hai:
Vào thời các nhà tu hành còn sống trong rừng, trong sa mạc Ai Cập ... có một nhóm các thầy ẩn tu sống với nhau... mỗi người một chỗ, ăn chay cầu nguyện.
Một hôm có một người đưa đến biếu thày Giuse một chùm nho rất ngon. Thầy Giuse đọc bài Tin Mừng thấy Chúa bảo phải thương yêu nhau... nên thầy đem chùm nho này biếu một thày ẩn tu khác ở không xa chỗ thầy bao nhiêu.
Sau thầy này thấy có một thày ẩn tu già hơn mình nên thầy đem biếu thầy ẩn tu già này chùm nho vùa nhận được.
Sau đó cứ như thế, chùm nho được chuyển từ thầy này đến thầy khác cho đến hết mọi thầy trong rừng... và cuối cùng chùm nho lại trở về với thày Giuse.
Đó cha kể cho chúng con 2 câu truyện để chúng con biết yêu trong việc làm là yêu như thế nào.
Cha nhắc lại cho chúng con một câu cha đọc trong một cuốn sách của một đức cha:
"Yêu là biết cho đi Cho đi nhiều là dấu chỉ yêu nhiều Cho đi ít là dấu chỉ yêu ít Cho tất cả là dấu chỉ của một tình yêu không bờ không bến" Chúc chúng con biết sống yêu thương như Chúa.
Bối cảnh của bài Tin mừng hôm nay là bữa ăn cuối cùng của Thầy Giêsu với nhóm Mười hai, trước khi Người bước vào cuộc thương khó, quen gọi là Bữa Tiệc Ly, cử hành vào tối thứ năm Tuần Thánh. Câu chuyện của giây phút từ ly thật đặc biệt. Ai đã từng có những giây phút chia tay với người thân thuộc trước khi họ giã từ thế giới này, hay bước đi đến một vùng đất mới xa lạ như: đi định cư ở nước ngòai, đi xây dựng quê hương mới, đều ít nhiều có những cảm nghiệm tạ từ như trong bài Tin Mừng hôm nay diễn tả. Đức Kitô muốn trải hết nỗi lòng với các môn đồ, những người đã theo Người dong duổi 3 năm trời trên bước đường rao giảng. Từng ăn, từng ngủ, từng dạy dỗ, huấn luyện các ông, Người hiểu rõ tính tình từng người. Nóng tính như Phêrô, Giacô bê. Nhẹ nhàng như Gioan. Bộc trực như TôMa, ranh mãnh như Giuđa… Và hôm nay đây, giờ này, có người đang tâm phản Thầy, những tưởng Thầy mình không biết. Đức Giêsu muốn tỏ bày cho các ông tấm lòng yêu thương của Người với các ông: ”Hỡi anh em, là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi…”. Biết học trò mình không phải đã một lòng một ý với nhau, mỗi người vẫn giữ ý riêng của mình, đó là bon chen, tranh giành, là đố kỵ, là nóng nảy, luôn đòi tính chuyện hơn thua. Chúa đã nhỏ nhẹ: ”Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em“, Người nhấn mạnh “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy là: Anh em có lòng yêu thương nhau“.
Lạy Chúa, Ngày hôm nay nói đến hai từ yêu thương xem ra có vẻ rất dễ dàng. Đi lễ nghe các Linh mục rao giảng về luật yêu thương ai cũng rành. Vợ chồng hẳn phải yêu thương nhau, cha mẹ dĩ nhiên phải yêu thương con cái và ngược lại. Bạn bè tất phải hiểu nhau mới kết thân, đó là yêu thương. Thế nhưng Phúc Âm Chúa để lại cho chúng con lại không dễ chút nào: “Yêu thương như Thầy đã yêu thương“. Hãy yêu thương cả kẻ thù, yêu thương người bách hại mình, người không hợp với mình. Yêu thương là dám nhận phần thua thiệt về mình, thậm chí hy sinh cho người mình yêu đã đành, nhưng còn cả người xa lạ, người đi trên đường gặp nạn, con có dám?
Làm sao con có thể chịu đựng người khác vu oan giá họa, chửi rủa con khi con vô tội. Làm sao con có thể tha thứ cho người công khai xúc phạm đến con trước mặt người đời. Làm sao con có thể để bụng đói về không, để trao phần ăn của mình cho những người không quen biết. Làm sao con dám…
Xin cho con luôn biết nhận ra di chúc tình yêu Chúa để lại. Nếu con thực thi được, đó chính là con đang làm chứng để mọi người nhận biết con là môn đệ Chúa. Lúc nào đó Đạo Chúa được mọi người chưa tin nhận ra đích thực đó là “Đạo Yêu thương” . Khi ấy” ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Lạy Chúa xin ban ơn trợ lực cho con biết yêu thương, như Chúa đã yêu thương. AMEN.
Lời Chúa của các Chúa nhật Phục sinh vừa qua lần lượt nhấn mạnh cho chúng ta về niềm tin vào màu nhiệm Chúa Phục sinh và làm thế nào để có thể đón nhận được màu nhiệm phục sinh, kế đó là mời gọi chúng ta gắn bó hiệp thông và yêu mến Giáo Hội và ý thức mình là con chiên trong đoàn chiên của Chúa, thì hôm nay Lời Chúa nhấn mạnh cho chúng ta về đời sống của người tín hữu, đó là đời sống yêu thương bác ái, và mỗi người khi sống yêu thương bác ái đó là chúng ta tôn vinh danh Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay đưa chúng ta trở lại bầu khí của ngày thứ Năm Tuần Thánh, ghi lại những lời tâm tình của Chúa Giêsu tại nhà tiệc ly quen gọi là những lời từ biệt sau cùng của Chúa. Tác giả Tin Mừng đã rất lưu ý đến tâm trạng của Chúa Giêsu, lúc này, Giuda đã rời khỏi phòng tiệc, để rắp tâm thực hiện ý đồ của mình là trao nộp Đức Giêsu cho người Do Thái, Chúa Giêsu đã biết rất rõ ý định của Giuda, cùng với hành động phản bội của Y, Chúa Giêsu đã thấy giờ của Ngài đã đến, đó là giờ Thiên Chúa đã muốn tôn vinh Con của Ngài là Đức Giêsu, là giờ Đức Giêsu thể hiện sự vâng phục Thiên Chúa Cha, cho đến nỗi bằng lòng chịu chết cái chết thập giá để cứu chuộc nhân loại, đồng thời cũng là giờ Thiên Chúa Cha được tôn vinh qua chính con người và sự vâng phục của Đức Giêsu.
Tác giả Tin Mừng đã nhìn thấy một viễn tượng mới đã được mở ra bắt đầu từ giờ này, một viễn tượng mà cả thế giới, và muôn loài muôn vật sẽ nhận ra Thiên Chúa và tình thương của Ngài, nhận ra quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa qua cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Tác giả Tin mừng cũng nhìn thấy muôn dân muôn nước sẽ được quy tụ nên một, nhờ cái chết của Đức Giêsu, mọi dân nước sẽ được hòa giải cùng Thiên Chúa Cha, và sẽ được đón nhận vào gia đình của Thiên Chúa, và như thế thì Thiên Chúa cha sẽ được tôn vinh qua sự yêu mến và vâng phục của Chúa Giêsu và của mọi loài thọ tạo.
Trong giờ phút thân thương của tình thày trò này, Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ bằng những lời hết sức yêu thương: Anh em là những người con bé nhỏ của Thày.Thày ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Nhờ đức Giêsu Kitô, chúng ta được đón nhận và thực sự trở nên con Thiên Chúa và đồng thời chúng ta trở nên anh em ruột thịt với nhau. Chính vì thế, điều mà Chúa Giêsu muốn mỗi chúng ta là: hãy yêu thương nhau. Với lệnh truyền này thì việc yêu thương nhau không còn là một việc dựa trên tình cảm hay sở thích, mà nó trở thành một giới răn ràng buộc tất cả mỗi người môn đệ của Chúa.
Bên cạnh đó Chúa không muốn chúng ta chỉ yêu thương trên môi trên miệng, Nhưng Chúa muốn chúng ta yêu thương nhau bằng tình yêu của Chúa và giống như Chúa: Hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em. Yêu như Chúa đã yêu, tức là yêu bằng một tình yêu hiến thân quên mình, yêu không tính toán thiệt hơn, yêu đến trao tặng tất cả, kể cả mạng sống cho người mình yêu; Yêu như Chúa yêu là dám gạt bỏ tính tự ái tự cao để chấp nhận cúi xuống phục vụ và rửa chân cho anh em, và Cứ dấu này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thày là anh em hãy yêu thương nhau. Như thế, không cần phải nói bằng lời, vì chính qua hành động yêu thương mọi người sẽ nhận biết chúng ta là con cái Thiên Chúa, và qua chúng ta mọi người sẽ tôn vinh Danh Chúa. Có thể nói cách khác rằng, khi mỗi môn đệ của Chúa Giêsu sống yêu thương nhau và hành động vì yêu thương là chúng ta đang tôn vinh Thiên Chúa, vì Thiên Chúa của chúng ta là thiên Chúa tình yêu, và vì con người đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài nên khi càng yêu thương chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa.
Chính nhờ đời sống yêu thương và phục vụ mà các Kitô hữu đầu tiên được gọi là những cộng đoàn yêu thương nhau, như bài đọc một kể lại, các tín hữu thời sơ khai đã sống đức tin bằng việc chuyên cần học hỏi và lắng nghe giáo huấn của các tông đồ, đồng thời chia sẻ cho nhau trong tình huynh đệ không ai lấy của gì làm của riêng, tất cả những gì họ có đều được đưa đến cho các tông đồ để các Ngài phân phát cho người nghèo, vì thế trong cộng đoàn không ai phải túng thiếu. Cũng từ đời sống bác ái và yêu thương như thế, đã có ảnh hưởng rất lớn trên các dân ngoại, và vì vậy số người tin vào Danh Thiên Chúa và gia nhập Giáo Hội ngày càng gia tăng. Các tông đồ đã nhận ra rằng Thiên Chúa vẫn đang hiện diện và làm việc với các ông trên mọi nẻo đường truyền giáo, và Thiên Chúa đã mở cánh cửa đức tin cho mọi dân được bước vào trong nhà của Thiên Chúa.
Cánh cửa đức tin mà Thiên Chúa đã mở ra cho muôn dân cũng còn là cánh cửa đưa vào một đời sống mới, một thế giới mới như thị kiến mà Gioan đã thấy: Tôi đã thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đa qua đi… tôi đã thấy thành thánh Giêrusalem mới từ trời mà xuống. Thế giới mới này là thế giới của Thiên Chúa và của những người được Thiên Chúa tuyển chọn, chính Thiên Chúa sẽ cắm lều và cư ngụ với con người, Ngài sẽ cất đi mọi đau khổ tủi nhục, mọi u sầu và chết chóc của kiếp con người, vì chính Thiên Chúa là Đấng đổi mới mọi sự, Ngài sẽ biến đổi những người tin vào Ngài nên những con người mới, sống theo luật mới đó là luật yêu thương, luật của tin Mừng.
Thưa quý OBACE, chúng ta đã sống và đã làm gì để tôn vinh Danh Chúa ? Người ta thường nói Cha mẹ sẽ được vẻ vang vinh dự nơi con cái, chúng ta là con cái Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ và quan phòng, Ngài hằng lo liệu để chúng ta có được như ngày hôm nay, từng hơi thở, từng nhịp sống đều do bởi tình yêu của Chúa, do đó chúng ta sẽ phải trở thành những người con biết sống và làm rạng danh cho Cha của chúng ta ở trên trời.
Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta cách sống để làm vinh danh Thiên Chúa, đó là sống và thực hành giới răn yêu thương của Chúa Giêsu đã dạy: Thày ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Chúa Giêsu muốn chúng ta sống và thực hành sự mới mẻ của giới răn yêu thương, hay nói cách khác Chúa muốn chúng ta làm mới lại tình yêu thương theo tinh thần của Chúa. Có thể với thời gian vì đã quá quen nói về giới răn yêu thương, song có khi chúng ta lại quên thực hành tình yêu thương đối với nhau, nhiều người đã để cho tình yêu của mình đối với gia đình, với người thân, với những người chung quanh trở nên cũ kỹ sáo rỗng trên môi trên miệng. Hãy làm mới lại tình yêu thương đối với nhau, hãy bắt đầu bằng việc thay đổi cách nhìn về nhau, hãy nhìn nhau bằng một cái nhìn trân trọng và nhận ra nhau là con cái là hình ảnh của Thiên Chúa, hãy thay đổi cách nói cách cư xử với nhau trong gia đình trong giáo xứ, hãy nói với nhau bằng những lời chân thành và có tính xây dựng, hãy loại bỏ những kiểu nói châm chọc có tính gây chia rẽ và gây tổn thương cho nhau.
Kế đến là hãy thực hành tình yêu thương một cách cụ thể bằng sự quảng đại phục vụ anh chị em, bằng việc dám cống hiến thời giờ và sức lực, khả năng của mình vì lợi ích của anh em và cộng đoàn, hãy dám bước ra khỏi giới hạn ngôi nhà của mình để có thể nhìn thấy những nhu cầu anh em xung quanh, hãy bước đến với anh chị em bằng một tinh thần mới, một thái độ mới để có thể chia sẻ và phục vụ, nâng đỡ và ủi an, và yêu thương theo giới răn mới là còn phải biết quảng đại mở rộng tấm lòng, mở rộng đôi tay để cho đi và chia sẻ, cho đi không chỉ những của mình dư thừa, mà còn dám cho đi cả những cái mình đang cần, đó mới là bác ái theo giới răn mới của Chúa.
Lời Chúa đang mời gọi các bạn trẻ sống theo giới răn mới, yêu theo cái nhìn mới. Nhiều bạn trẻ ngày nay đang có một cái nhìn lầm lẫn giữa tình yêu và tình dục, lao vào tình dục mà lại tưởng đó là tình yêu, chính vì thế mà nhiều người đã rơi vào sai lầm đáng tiếc, biến cuộc đời và thân xác mình chỉ để thỏa mãn những dục vọng của thân xác. Hãy loại bỏ cái nhìn sai lạc để mang lấy một cái nhìn mới mẻ của tình yêu thương, theo giới răn của Chúa, yêu thương trong sự tôn trọng nhau, muốn và làm điều tốt cho nhau.
Xin Chúa giúp mỗi người biết sống đến cùng giời răn yêu thương, để qua đời sống yêu thương, chúng ta tôn vinh Danh Chúa. Amen.
Người ta thường nói: “Tình yêu xưa như trái đất”, nghĩa là Tình yêu có từ khi trái đất hình thành. Trái đất xưa bao nhiêu, thì tình yêu cũng lâu đời bấy nhiêu. Như thế, tình yêu cũ kỹ lắm rồi. Nhưng có một điều mà chúng ta phải lấy làm lạ, đó là dù đã có biết bao tác phẩm văn chương, thi ca và cả những câu ca dao tục ngữ bình dân nói về tình yêu, ca ngợi tình yêu, biết bao bài hát diễn tả vẻ đẹp của tình yêu, vậy mà, khi được hỏi: “Tình yêu là gì?”, thì hầu như không có ai trả lời được. Như nhận xét rất thật của nhà thơ Xuân Diệu: “Mấy ai định nghĩa được tình yêu?”. Và bởi vì “mấy ai định nghĩa được tình yêu?”, nên mới có những thứ tình yêu giả hiệu, méo mó, lệch lạc do ngộ nhận, hẹp hòi và thấp hèn trong cuộc sống.
Cho nên, hôm nay, trong bài tin mừng chúng ta vừa nghe, khi ban cho chúng ta một giới răn mới, Chúa Giêsu không có ý đưa ra một thứ tình yêu mới, cho bằng mời gọi chúng ta cùng với Ngài nhìn lại giới luật yêu thương. Nói cách khác, cùng với Ngài đổi mới tình yêu trong con tim của mình. Nếu từ trước tới nay, chúng ta vẫn được dạy phải yêu thương bà con, họ hàng, chúng ta vẫn được thấy người ta yêu thương nhau vì tài năng, vẻ đẹp, vì hợp tính tình. Có người thương nhau đơn giản chỉ vì một cái nhìn một miếng đất, một ngôi nhà, hay tệ hơn vì xấp tiền, vì một chiếc xe, … Thì hôm nay, yêu thương được Chúa gọi là giới răn mới vì nó không đặt trên khuôn mẫu của người đời, mà trên hình mẫu Chúa Giêsu, khuôn mẫu của tình yêu kytô giáo là “yêu thương như Thầy đã yêu”… có nghĩa là cứ nhìn vào cách sống, cách yêu của Chúa mà bắt chước. Cảm nghiệm được tâm tư của Thầy mình, ý thức được tầm quan trọng trong lời trối trăn, và chắc hẳn đã có những kinh nghiệm trong việc thực thi giới răn bác ái yêu thương. Thánh Gioan mạnh dạn tuyên bố: “Nếu chúng ta thương yêu nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta", bởi vì “Ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình thì người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương anh em mình mà họ trông thấy, làm sao họ có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng họ không trông thấy". Cho nên: "Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình". Thánh Phaolô tóm tắt: "Ai yêu thương, người đó chu toàn luật Chúa".
Là những người Công Giáo, chúng ta cố gắng chu toàn việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật, xưng tội rước lễ mùa Phục Sinh, lâu lâu đóng góp chút thời giờ và tiền bạc cho giáo xứ; và chúng ta cho như vậy là đủ. Nhưng hôm nay, qua những lời trăn trối của Chúa, chúng ta có một cái nhìn mới mẻ hơn, chính xác hơn, dù biết rằng các công việc đó là cần thiết và có thể là những dấu chỉ tốt của một Kitô hữu, nhưng chúng không phải là những điều cốt yếu và căn bản. Tình bác ái yêu thương mới thực sự là căn bản cốt yếu. Chính tình bác ái yêu thương được thực hiện theo cách thức và tâm tình của Chúa Giêsu mới biến đổi chúng ta thành môn đệ của Ngài.
Yêu như Chúa Giêsu yêu. Đó là sống thân tình với phường tội lỗi, là cúi xuống nơi các bệnh nhân, nơi trẻ em, với những kẻ thấp hèn, không một xu dính túi. Yêu như Chúa Giêsu yêu, không phải là thứ tình yêu nhẹ dạ, dễ dãi, buông thả, yêu xong rồi khóc vì biết mình đã yêu nhầm người họ sở tên khanh, hay thứ tình yêu có thể cân đo, trao đổi hay mất đi chỉ vì đồng tiền bát gạo. Nhưng là một cho đi, một trao tặng để lấp đầy những hố thẳm của tham lam, ham muốn, của ích kỷ, thấp hèn vốn là hiểm họa hủy diệt sự sống của con người. Để đem lại điều tốt đẹp cho nhau, để giúp nhau lớn lên trong ơn gọi nên người và nên con Chúa.
Ước gì qua lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta hãy học và hãy yêu bằng tình yêu Giêsu, để loại trừ những thứ tình chớm nhoáng, mang trá. Yêu bằng tình yêu Giêsu để làm mới tình yêu nhân loại. Yêu bằng tình yêu Giêsu để tình yêu nhân loại được thánh hóa, và được dự phần vào vĩnh cửu. Amen.
Vì ưu tư tìm cách củng cố Đức tin, chúng ta đề ra nhiều phương pháp, tổ chức nhiều lớp học hỏi..vv.. Nhiều đến nỗi chúng ta quên rằng tất cả những cái đó chỉ là phụ thuộc. Sứ mạng thiết yếu của chúng ta chính là làm cho mọi người thấy được Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa và hướng về Người. Chỉ có Tình yêu mới có thể là dấu chỉ hướng về Chúa và giúp người ta nhận biết Người.
Sách Công vụ 14,21b-17
Từng bước từng bước, Tin mừng khởi từ Giê ru sa lem bành trướng ra thế giới. Những người dân ngọai cũng đã tiếp nhận đức tin. Nhiều cộng đoàn mới được tổ chức dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ở Antiôkia, điểm khởi đầu của Sứ mạng truyền giáo, người ta cảm tạ Chúa vì sự lan truyền mạnh mẽ của Tin Mừng.
Thánh Vịnh 144
Chúng ta hãy ý thức rằng các cộng đòan rải rác trong khắp các châu lục cùng với chúng ta cất tiếng hát mừng ca tụng các kì công của Chúa, Thiên Chúa của Hoàn vũ.
Sách Khải Huyền 21,1-5a
Thánh Gioan tác giả cho thấy cuộc chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa. Cuối cùng, Thiên Chúa có thể hoàn tất Công trình của Người: việc Tạo dựng một Thành đô tỏa sáng, trong đó Dân ưu tuyển sẽ gặp Thiên Chúa của mình. Ở mút cùng của Lịch sử, Người sẽ cho một thế giới hoàn hảo phát sinh. Còn Hội Thánh ngày nay chỉ là một bản phát họa. Thiên Chúa sẽ đổi mới mọi sự.
Tin mừng Ga 13,31-35
NGỮ CẢNH
Đoạn 13 mở đầu phần chóp đỉnh trong Tin Mừng Gioan, được gọi là « Giờ của Chúa Giê su », bao gồm 3 phần: trình thuật về bửa ăn cuối cùng của Chúa Giê su với các môn đệ (13-17); trình thuật Thương khó (18-19), và trình thuật Phục sinh (20-21). Bài Tin mừng của chúng ta nằm trong đoạn 13,31-14,31 ghi lại những lời từ biệt của Chúa Giê su ngỏ với các môn đệ. Nó gồm những câu mở đầu (31-35) có thể được khảo sát như là một đơn vị văn chương độc lập, tự nó có ý nghĩa, kết thúc bằng lời mời gọi ra đi (14,31), có thể được xem như là kết luận cho phần thứ nhất.
Nội dung thuật lại lời Chúa Giê su nói về ý nghĩa sự ra đi của Ngài, và di sản Ngài để lại.
TÌM HIỂU
Giờ: khi Giu đa đi khỏi, bắt đầu biến cố Khổ Nạn. Trong lời tuyên bố long trọng của Chúa Giê su, cô động toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh. Và tại đây, Gioan đã nhìn thấy ngay sự tôn vinh của Chúa Giê su.
Được tôn vinh: x. 12,28. Vinh quang vốn là ưu phẩm của Thiên Chúa sẽ bừng sáng trong sự phục sinh, phản chiếu trên Chúa Giê su ngay cả trong cái chết. Việc Chúa Giê su tự phó mình cho Thiên Chúa Cha đã mang lại vinh quang cho Người; còn Thiên Chúa Cha, để đáp lại, sẽ tôn vinh nhân tính của Ngài trong sự phục sinh. Vậy cuộc khổ nạn sẽ mạc khải cho các môn đệ biết Chúa Giê su là ai, và đâu là mối tương quan với Thiên Chúa. Trong khi con người tự xa lìa Thiên Chúa vì tội lỗi, thì Thiên Chúa sẽ đem nó về với Người tràn đầy vinh quang.
Con bé nhỏ: từ trong tiếng Hi lạp chỉ được dùng ở đây trong sách Tin Mừng, có giá trị như một từ giảm nghĩa để chỉ sự thân mật. Chúng ta gặp thấy nhiều lần trong thư thứ nhất thánh Gioan (2,1.12.28).
Thầy cũng nói: (x. 7,33-36; 8,21). Người Do thái sẽ tìm cách giết Chúa Giê su nhưng sẽ không thể đạt tới Ngài trong vinh quang của Chúa Cha. Trái lại, các môn đệ tìm kiếm ngài một cách vô ích trong mầu nhiệm sự chết, nhưng họ sẽ tìm thấy ngài sống lại.
Một điều răn mới: Điều răn của Chúa Giêsu là mới, không theo nghĩa là chưa bao giờ hiện hữu, nhưng theo nghĩa chưa từng thấy, không bao giờ chấm dứt, không có giới hạn. Không còn là vấn đề chỉ yêu người lân cận như chính mình nữa (Lv 19,18; Mc 12,31), nhưng là yêu như Chúa Giêsu đã yêu.
Mọi người sẽ nhận biết: Hội Thánh có sứ mạng là trở nên một mạc khải về Chúa Giê su. Ngang qua đức ái của các phần tử của mình, Hội Thánh sẽ cho thấy mình giống với Ngài, và do đó, sự kết hợp với Chúa Giêsu (x. 17,21).
SỨ ĐIỆP
Bài tin mừng hôm nay nhắc chúng ta điều răn quan trọng nhất là tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân.
Chúa Giêsu dự bữa ăn tối cuối cùng với nhóm Mười Hai, hôm trước ngày chịu chết. Ngài vừa thiết lập bí tích Thánh Thể là bữa ăn Vượt qua của ngài. Ngài cũng vừa rửa chân cho các môn đệ, kể cả Giu đa, sắp sửa phản bội Ngài. Trước khi vượt qua thế gian để về cùng Cha, Ngài muốn để lại cho họ một gương mẫu tuyệt vời về lòng khiêm nhường và phục vụ.
Chúa Giê su vừa loan báo rằng một trong các môn đệ sẽ phản bội Ngài. Đó là người mà Ngài trao cho một miếng bánh. Sự phản bội nầy khởi động một tiến trình sẽ dẫn Chúa Giê su đến cuộc Khổ nạn cho đến chết trên thập giá. Đàng khác, chính Ngài cảnh giác và loan báo cho các môn đệ biết tình thế sẽ đảo ngược: “Bây giờ, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Ngài”. Dù không được các môn đệ hiểu, nhưng Lời ấy của Chúa Giêsu là nền tảng. Thật thế, sự tôn vinh chính là sự tỏ hiện rõ ràng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân lọai, qua cái chết và sự Phục sinh của Ngài
Chính trong mạch văn long trọng ấy mà Chúa Giêsu trao cho các môn đệ điều răn của Ngài: “Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau. Và Ngài xác định rằng đó là một điều răn mới. Điều răn ấy cũng đã hiện diện trong các tôn giáo khác. Người ta cũng đã dạy yêu thương người khác và cả thù địch. Cả Thánh Kinh Cựu Ước cũng đã nói đến điều răn yêu thương Thiên Chúa và tha nhân, và được triển khai bằng muôn ngàn điều luật và qui định phụ thuộc khác. Lấy cớ yêu mến Thiên Chúa, người ta đã quên anh em mình.
Điều làm cho điều răn ấy nên mới mẻ chính là việc Chúa Giê su đã đặt nó lên hàng đầu. Tình yêu tha nhân trở thành một điều răn giống với tình yêu Thiên Chúa. Chúa Giê su gán cho nó tầm quan trọng đặc biệt trong giáo huấn của Ngài. Ngài coi tình yêu hai mặt ấy như là sự hoàn tất giáo huấn của Ngài, là điểm đến hoàn tất mọi lề luật. Hơn nữa, tha nhân mà ta phải yêu mến không chỉ là những người đồng đạo như ta, mà là tất cả mọi người, được coi như anh em, vì là con cùng một Cha trên trời.
Sự mới mẻ căn bản của điều răn yêu thương, đó chính là yêu thương theo cách của Chúa Giê su, với cùng một lòng khiêm nhu và tinh thần phục vụ như Ngài. Người môn đệ Chúa Giê su không được quên lời Ngài dặn: không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng mình cho kẻ mình yêu thương (Ga 15,13). Vì thế, yêu thương như Chúa Giê su, chính là thí mạng cho người mình yêu thương. Dấn thân không thôi chưa đủ, cần phải đón nhận tình yêu ấy như một quà tặng từ Ngài. Do đó, chúng ta phải cầu xin, vì nếu không, thì giới răn yêu thương trở thành một sứ mạng không thể thực hiện được.
Ngày hôm nay, Chúa Giê su mang lại cho chúng ta một điều chỉnh vô cùng cần thiết. Ngài nói với chúng ta rằng tình yêu ấy là một dấu chỉ giúp người khác nhận ra người ki tô hữu. Dấu chỉ cho thế gian biết rằng chúng ta là môn đệ của Ngài chính là tình yêu mà chúng ta dành cho nhau. Nếu không có điều đó, chúng ta sẽ đưa ra một hình ảnh méo mó về đức tin và Hội Thánh của chúng ta. Đời sống của chúng ta sẽ trở thành một phản chứng.
Tình yêu mà Chúa đang chờ đợi chúng ta, phải có tính phổ quát. Nó nhắm đến tất cả mọi người trên thế gian. Một tình yêu không lọai trừ ai. Yêu thương mọi người không làm cho chúng ta quên những người ở gần chúng ta nhất, cùng chia ngọt sẻ bùi với chúng ta, những người mà chúng ta có nhiệm vụ đồng hành, che chở và đem lại hạnh phúc. Dấn thân cộng tác và làm việc trong những hiệp hội bác ái phục vụ người nghèo nhất, chống lại bất công xã hội, đó là một cách thức tuyệt vời đáp lại đòi hỏi của Đức Ki tô.
Người ki tô hữu phải yêu thương nhau đó là một điều tuyệt đối quan trọng. Một cộng đòan không hợp nhất chỉ đưa ra một chúng tá tầm thường. Trong những trường hợp ấy, sứ điệp tin mừng không được thể hiện. Chỉ có những người ki tô hữu nào yêu thương nhau như Đức Ki tô yêu thương họ mới có thể tỏa sáng tin mừng. Chính tình yêu đó sẽ cho thế gian thấy rằng chúng ta là môn đệ của Đức Ki tô. Vấn đề không phải là trình diễn cho người ta thấy, mà là tiếp nhận chính Chúa Giê su.
Khi cử hành tiệc Tạ ơn và thông hiệp với Thân thể duy nhất của Đức Ki tô, chúng ta cầu xin cho Đức Ái được rạng ngời trong chúng ta và giữa chúng ta. Chỉ với điều kiện đó chúng ta mới có thể làm chứng cho Nước Chúa mà Ngài đến để thiết lập. Chúng ta đến kín múc tận nguồn để rồi ra đi vào sứ vụ đầy sức mạnh và tin tưởng. Xin Chúa ban cho chúng ta sự can đảm cần thiết để từ lời đi đến hành động. Đừng bao giờ quên rằng chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Bài đọc một nói về điều gì?
THƯA: Bài đọc một kể lại lúc kết thúc cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phao lô và Barnaba. Trên đường trở về, Phao lô và Barnaba củng cố đức tin những người tín hữu, tổ chức cộng đoàn mà các ngài vừa mới thành lập. Đặc biệt, các ngài đặt hàng niên trưởng làm lãnh đạo giáo đoàn. Khi về đến Antiôkia, hai ông vui mừng kể lại những việc mà Thiên Chúa đã làm để mở cửa Giáo Hội cho các dân ngoại.
2. HỎI: Hàng niên trưởng ấy được tổ chức như thế nào?
THƯA: Hàng niên trưởng không được cộng đoàn bầu lên, nhưng được các tông đồ chọn lựa, và dường như có cấu trúc như Hội thánh ở Giê ru sa lem (Cv 11,30; 15,2, 5, 22; 1,18)
3. HỎI: Tại sao bài đọc nhấn mạnh đến việc ăn chay cầu nguyện (c23)?
THƯA: Sau khi thiết lập hàng kì mục cho các giáo đoàn, Thánh Phao lô cũng không quên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cầu nguyện và ăn chay, vì một người tông đồ không cầu nguyện thì không thể rao giảng Đức Ki tô được.
4. HỎI: “Hai ông phó thác những người đó cho Chúa” có nghĩa gì?
THƯA: Các ông phó thác các kì mục cho Chúa vì các ông hiểu rằng, sứ mạng mà các ông thi hành không phải là công việc riêng của mình nhưng là ơn Thiên Chúa ban, vì thế các Ngài phó thác cho Thiên Chúa các kì mục mà các Ngài vừa đặt trên các công đoàn mới.
5. HỎI: Tại sao thánh Lu ca nhấn mạnh:“Những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông”?
THƯA: Vì Ngài muốn nhấn mạnh rằng: sứ mạng mà Thiên Chúa giao cho người tín hữu là không phải của riêng Thiên Chúa, hay của riêng con người, nhưng là công việc chung: Thiên Chúa sẽ không ngừng hỗ trợ, nâng đỡ, củng cố những người Ngài đã chọn.
6. HỎI: “Cánh cửa đức tin” là gì?
THƯA: “Cánh cửa đức tin” là hình ảnh cũng được Thánh Phao lô dùng trong thự 1 Cr 16,9 và 2 Cr 2,12. Ở đây nó chỉ việc Thiên Chúa cho người ngoại tiếp cận ơn cứu rỗi ngang qua việc rao giảng của các tong đồ.
7. HỎI: Bối cảnh của bài tin mừng như thế nào?
THƯA: Bài tin mừng được trích từ lời nói chuyện của Chúa Giê su trong bữa ăn cuối cùng với các tông đồ. Ngài nói những lời nầy sau khi đã tiên báo người môn đệ phản bội Ngài và trước khi rời phòng tiệc để vào vườn Giết sẽ ma ni.
8. HỎI: “Vinh quang” là gì?
THƯA: Trong Kinh thánh, vinh quang (tiếng Híp pri là kabôd chỉ trọng lượng, giá trị, tầm quang trọng; Hi lạp là doxa chỉ uy tín) chỉ phẩm cách, uy tín, thế lực, ảnh hưởng và quyền năng của nhân vật nào đó.
9. HỎI: Tôn vinh là gì?
THƯA: Tôn vinh diễn tả mối tương quan hỗ tương qua những cách thế khác nhau giữa Chúa Cha và Chúa Giê su trong cuộc sống trần thế của Ngài. Do đó Chúa Giê su được tôn vinh có nghĩa là nhờ vâng phục Thiên Chúa Cha trong cái chết Vượt qua trên Thập giá, Ngài đã nhận được vinh quang Thiên Chúa Cha dành cho Ngài.
10. HỎI: Chúa Giê su tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng cách nào?
THƯA: Chúa Giê su tôn vinh Cha bằng cách trung thành thực hiện công trình cứu thế mà đỉnh cao là thập giá (17,4). Ngài tìm kiếm vinh quang cho Đấng đã sai Ngài đến (7,18) qua các phảp lạ (11,4.40). Và sau khi về cùng Cha, trong suốt thời gian Giáo Hội, Chúa Giê su tiếp tục tôn vinh Cha bằng cách ban sự sống cho những người mà Cha giao phó cho Ngài (17,2).
11. HỎI: Tại sao khi Giu đa đi ra, Chúa Giê su nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh”?
THƯA: Việc Giu đa phản bội Chúa Giê su luôn được xem như là khai mào cuộc Khổ nạn đưa đến cái chết Thập giá mang lại ơn cứu độ cho loài người. Do đó, việc Giu đa bội phản theo một ý nghĩa nào đó, đã làm cho Thiên Chúa và Chúa Giê su được vinh hiển.
12. HỎI: “Con người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người”?
THƯA: Qua những cách diễn tả khác nhau về vinh quang, Chúa Giê su muốn nói đến tương quan qua lại giữa Cha và Con, hoặc, sự kết hiệp nền tảng của Ngài với Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” hoặc: “Thầy và Cha, chúng ta là một” (10,30). Nói rằng “Con Người được tôn vình và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Ngài” chính là nói rằng Con là phản ảnh của Cha.
13. HỎI: Tại sao giờ khổ nạn là lúc Chúa Giê su hoàn thành ơn gọi phản ánh Thiên Chúa Cha?
THƯA: Chính giờ phút đó là giờ vinh quang của Chúa Giê su, là lúc Ngài mạc khải cho thế gian biết tình yêu của Cha cao cả như thế nào.
14. HỎI: Tại sao giờ Khổ nạn, Chúa Giê su mạc khải cho mọi người biết tình yêu của Thiên Chúa Cha?
THƯA: Bởi vì trong giờ Khổ nạn, dù bị phản bội, bị mọi người rời xa và bách hại, mà Ngài vẫn kiên trì chịu đựng, yêu thương, tha thứ. Qua thái độ đó, Ngài mạc khải cho thế gian biết thế nào là tình yêu của Cha, một tình vô tận, không biên giới.
15. HỎI: Tại sao Chúa Giê su lại gọi các môn đồ là những “người con bé nhỏ của Thầy”?
THƯA: Thỉnh thoảng các Thầy Do thái gọi môn đệ của mình là “các con”và Chúa Giê su có lần cũng gọi các môn đệ là “các con” như trong Mc 10,24. Điều nầy cũng dễ hiểu vì Chúa Giê su thường khuyên bảo các môn đệ Ngài hãy sống như trẻ nhỏ (Mt 18,3; 19,4).
16. HỎI: Tại sao gọi là điều răn mới?
THƯA: Chúa Giê su không sáng tạo ra điều răn yêu thương, vì đó là điều đã có trong giáo huấn các thầy Rabbi đương thời. Yếu tố mới là yêu thương như Ngài, không chỉ theo cách của Ngài, nghĩa là đến độ sẵn sàng hiến cuộc sống mình, mà còn hơn thế nữa, là thực sự yêu thương như Ngài, nghĩa là hoàn toàn được hướng dẫn bởi Thần khí của Ngài.
17. HỎI: Giáo Hội sơ khai có sống yêu thương như lời Chúa Giê su dạy không?
THƯA: Có. Lịch sử Giáo Hội sơ khai là lời chú giải tuyệt hảo về lời dạy ấy. Sách Công vụ mô tả: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung” (2,44). Tertulianô cũng kể lại những gì người ta nói về họ: “Kìa xem họ thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng sống cho nhau chừng nào!” (Apolog. 39; Pl 1,53a).
Để đứng về phía chân lý , thánh Gioan nhắc nhở: “ Chúng ta phải yêu thương nhau, không phải bằng lời nói, nhưng bằng việc làm và trong sự thật.” Chỉ có điều không tưởng của đức ái mới có thể thay đổi thế giới, mới biến đổi hận thù thành tình yêu, chiến tranh thành hòa bình.
Chỉ khi thực hiện điều “Anh em hãy thương yêu nhau, như Người đã thương yêu chúng ta” (Ga 13, 34) mới có thể tạo nên một mẫu con người và một mẫu xã hội được đánh giá là biết thực thi tình huynh đệ.
Đức ái không được định nghĩa bằng nhưng từ ngữ tình cảm. Ngôn ngữ của đức ái “không phải là ngôn ngữ của sự yếu đuối, nhưng là của sự làm chủ và của sức mạnh.
Tình yêu - đức ái là vấn đề đức tin, cũng là dấu hiệu rõ ràng, tất yếu và cần thiết của sự thuộc về Đức Kitô Phục sinh, là bài diễn văn truyền giáo thứ nhất, là sự hiện diện đầu tiên có thể cảm nhận được về Đức Kitô
"Sự khai hóa tình yêu là cái mầm trồng trong đất Giáo Hội, “điểm đầu cầu của Vương quốc,” với điều kiện là các Kitô hữu phải học tập ở đó, và kinh nghiệm về đức ái trước hết với nhau, rồi với hết mọi người"(Fabien Deleclos)