Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-C Bài 1-50 Chúa nhật Chúa chiên lành

Thứ tư - 08/05/2019 06:55
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-C Bài 1-50 Chúa nhật Chúa chiên lành
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-C Bài 1-50 Chúa nhật Chúa chiên lành
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-C Bài 1-50 Chúa nhật Chúa chiên lành
-------------------------------------
Phúc Âm: Ga 10, 27-30: "Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một". - Ðó là lời Chúa
---------------------------------
PS 4-C1. NGƯỜI MỤC TỬ.. 2
PS 4-C2. HRK/107- NGHE TA.. 4
PS 4-C3. NTGT/133- ĐÀN CHIÊN.. 5
PS 4-C4. CSTM/114- THEO CHÚA.. 7
PS 4-C5. PV/ 261- TẬN HIẾN.. 9
PS 4-C6. SCĐ/272- SUỐI MÁT.. 11
PS 4-C7. SCĐ/275- LINH MỤC.. 13
PS 4-C8. SCĐ/278- ĐÀN CHIÊN.. 14
PS 4-C9. SCĐ/280- CHIÊN TA.. 15
PS 4-C10. Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành. 17
PS 4-C11. ƠN GỌI – Lm. Jos. Phạm thanh Liêm.. 18
PS 4-C12. CHIÊN TA THÌ NGHE TIẾNG TA - Lm. Thu Băng. 20
PS 4-C13. NGHE TIẾNG CHỦ CHĂN - Sr. Theresa Nguyễn. 21
PS 4-C14. MỤC TỬ NHÂN TỪ - Lm. Minh Vận. 22
PS 4-C15. CHỨNG NHÂN MỚI - Trần Quang Huy Khanh. 25
PS 4-C16. QUÊN MÌNH- Phaolô M. Nguyễn Kim Thanh. 27
PS 4-C17. Chúng Theo Tôi 29
PS 4-C18: Chủ nhật ơn thiên triệu - Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội. 31
PS 4-C19: CHÚA CHIÊN LÀNH - Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR.. 34
PS 4-C20: CHÚA CHIÊN LÀNH - Lm JK.. 37
PS 4-C21: CHIÊN TA THÌ NGHE TIẾNG TA - Lm Nguyễn Hùng. 40
PS 4-C22: HIẾN DÂNG BẢN THÂN LÀM BÀN THỜ - Lm Augustine, S.J. 42
PS 4-C23: TIN VUI GỬI NGƯỜI BỊ ĐỨT RỄ - Lm Dũng Lạc Trần Cao Tường. 46
PS 4-C24: CÂU TRUYỆN MẤT HỒN.. 47
PS 4-C25: TIN VUI THỜI ĐIỂM NỐI LẠI DÒNG NHỰA.. 48
PS 4-C26: Chúa Giêsu là mục tử - Lm Trọng Hương. 49
PS 4-C27: CHÚNG TA LÀ DÂN TỘC LÀ ĐOÀN CHIÊN CHÚA.. 50
PS 4-C28: ĐIỀU TÌM KIẾM CỦA MỘT VỊ HOÀNG ĐẾ - Dòng Đồng Công. 51
PS 4-C29: CHIÊN TÔI THÌ NGHE TIẾNG TÔI – VIKINI (viet lại) 53
PS 4-C30: CON CHIÊN.. 55
PS 4-C31: NGHE VÀ THEO CHÚA - NMS/71. 58
PS 4-C32: CHIÊN CỦA CHÚA - P/90. 59
PS 4-C33: CHÚA CHIÊN LÀNH - ASTY/117. 60
PS 4-C34: AI BẢO CHĂN TRÂU LÀ KHỔ ? - Lm. LÊ QUANG UY, DCCT.. 62
PS 4-C35: CHUYỆN: GỌI ĐOÀN CHIÊN TRONG THINH LẶNG.. 65
PS 4-C36: Gieo trong thương đau. 66
PS 4-C37: Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. 72
PS 4-C38: TA LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH.. 74
PS 4-C39: CHÚA GIÊSU BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI 77
PS 4-C40: Bảo hiểm hai lần. 80
PS 4-C41: Chúng tôi quay về dân ngoại 82
PS 4-C42: Chúa Giêsu, Mục tử tốt lành. 85
PS 4-C43: Linh mục: Mục tử và Chiên. 87
PS 4-C44: Chúa chiên lành. 93
PS 4-C45: Ơn gọi phục vụ. 96
PS 4-C46: Mục tử nhân lành. 100
PS 4-C47: Nghe - Biết và Theo Chúa - Vị mục tử Nhân lành. 107
PS 4-C48: Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. 108
PS 4-C49: CHIÊN TÔI THÌ NGHE, BIẾT VÀ THEO TÔI 110
PS 4-C50: Tương quan hai chiều giữa Chúa Giêsu Mục tử & Kitô hữu. 113

------------------------------

 

PS 4-C1. NGƯỜI MỤC TỬ

 

Hình ảnh người mục tử là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái và đã được Kinh: PS 4-C1


Hình ảnh người mục tử là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái và đã được Kinh Thánh sử dụng nhiều lần.

Thực vậy, tiên tri Egiêkien đã mô tả Đấng Thiên Sai với vóc dáng của một người mục tử.  Còn Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đám đông đi theo, Ngài đã thực sự xúc động và nói:

- Ta thương đám dân này, vì họ bơ vơ tất tưởi như đàn chiên không người chăn dắt.

Nhất là qua đoạn tin mừng hôm nay, Ngài đã nhấn mạnh chính Ngài là người mục tử nhân lành.

Theo thói quen lúc bấy giờ, thì khi chiều xuống, những người mục tử lùa đàn chiên của mình tới một nơi chung để nghỉ qua đêm. Nơi này thường có hàng rào bao bọc và một cửa ra vào, để người ta có thể kiểm soát một cách dễ dàng.

Ban đêm, người ta thay phiên nhau canh giữ đàn chiên. Ban sáng, các mục tử đến tìm đàn chiên của mình. Họ đứng ở cửa và lên tiếng kêu. Đàn chiên nghe tiếng họ và bước theo họ.  Các mục tử khác cũng lần lượt làm như vậy và dẫn đàn chiên tới đồng cỏ.

Hình ảnh so sánh thật rõ ràng và trong sáng. Chúa Giêsu là người mục tử nhân lành. Ngài vừa đi đầu, vừa chỉ đường, để dẫn đàn chiên tới đồng cỏ xanh, cũng như tới nguồn suối mát.

Là người tín hữu, chúng ta phải bước theo Ngài, cũng như phải noi gương bắt chước Ngài. Ngài nhận biết mỗi người chúng ta, nhưng đồng thời mỗi người chúng ta cũng phải nhận biết Ngài. Đây không phải chỉ là một sự nhận biết xuất phát từ trí khôn, mà còn phải xuất phát từ trái tim, từ cõi lòng, hay nói cách khác từ tình yêu. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương Ngài.

Tuy nhiên, trong sự so sánh này có một vài điểm khác thường, được  Chúa Giêsu sử dụng để làm nổi bật tình thương của Ngài đối với chúng ta.

Điểm thứ nhất, đó là người mục tử sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói rừng. Nhưng chết để bảo vệ đàn chiên thì quả thật là hơi hiếm. Người mục tử trong phúc âm không phải chỉ bảo vệ sự sống của đàn chiên, mà còn hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Chính nhờ sự hiến mạng sống này, mà chúng ta có được kho tàng ơn cứu độ.

Điểm thứ hai đó là người mục tử gọi tên từng con chiên. Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:

- Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi để các con sinh nhiều hoa trái và để hoa trái các con tồn tại muôn đời.

Là người tín hữu, chúng ta phải ý thức về ơn gọi của mình. Thực vậy, Chúa Giêsu luôn nói với mỗi người chúng ta:

- Hãy theo Ta.

Nhưng đồng thời, Ngài cũng tôn trọng sự tự do của mỗi người. Nếu ngày xưa, Ngài đã mời gọi người phụ nữ Samaria, cũng như đã mời gọi ông Giakêu ra khỏi quãng đời tăm tối và tội lỗi, thì hôm nay, Ngài cũng vẫn âm thầm mời gọi chúng ta sám hối và hoán cải cuộc đời.

Thế nhưng, không phải chúng ta chỉ trả lời Ngài một lần thay cho tất cả. Lời mời gọi của Ngài không ngừng vang vọng suốt dọc cuộc đời chúng ta. Bởi đó,  cuộc đời chính là một cuộc đối thoại liên tục, chính là một sự đáp trả không ngừng trước lời mời gọi ân tình của Chúa.

Điểm thứ ba, đó là người mục tử đi trước và đàn chiên theo sau. Người mục tử không đẩy đàn chiên đi trước, nhưng chính ngài là người đi trước để chỉ đường dẫn lối cho đàn chiên.

Với chúng ta cũng vậy. Điều quan trọng của người Kitô hữu là bước theo Chúa. Mặc dù hôm nay chúng ta không nhìn thấy Chúa nhãn tiền, nhưng tin mừng phúc âm của Ngài chính là những chỉ dẫn cần thiết và bí tích Thánh thể chính là lương thực bổ sức cho chúng ta suốt cuộc hành trình trần gian.

Chúa Giêsu là người mục tử nhân lành. Còn chúng ta, chúng ta có thực sự là những con chiên trong đàn chiên đang sống dưới sự chăn dắt của Ngài hay không ?

----------------------------------

 

PS 4-C2. HRK/107- NGHE TA

 

Tất cả các bài đọc Phụng vụ của Chúa nhật IV Phục sinh hôm nay, hay còn gọi là Chúa nhật: PS 4-C2


Tất cả các bài đọc Phụng vụ của Chúa nhật IV Phục sinh hôm nay, hay còn gọi là Chúa nhật lễ “Chúa Chiên Lành” giới thiệu với chúng ta ơn cứu độ mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua Chúa Kitô, vị mục tử nhân lành đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Ơn cứu rỗi và Tin Mừng giải phóng mà Thiên Chúa cống hiến cho con người qua Chúa Kitô là ơn cứu rỗi toàn vẹn, nó có sức mạnh cứu rỗi con người cả hồn lẫn xác, nghĩa là chữa lành mọi bệnh tật hay khổ đau. Các bệnh tật của con người không chỉ là các sự dữ mà chúng phải xuất trên bình diện sâu thẳm hơn, đó là sự không thỏa mãn được những khát vọng sâu thẳm của con người.

Ơn cứu rỗi Thiên Chúa ban cho con người không phải là thứ giải phóng giả tạo hời hợt bên ngoài. Qua Chúa Kitô, Thiên Chúa nhập thể làm người, Thiên Chúa gieo vào trong nhân loại một mầm sống sự sống mới, một hình ảnh mới về sự sống con người. Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu cho thấy ơn gọi về phẩm giá vô cùng cao quí của con người với những quyền bất khả xâm phạm, như quyền tự do và quyền được kính trọng.

Khi mặc lấy hình hài của con người, Chúa Giêsu  dạy chúng ta biết rằng, mỗi một người dù có nhỏ bé yếu đuối, dù có bệnh hoạn tàn tật, dù có già nua tuổi tác đến đâu đi nữa cũng đều có giá trị cao trọng trước mặt Thiên Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo thành giống hình ảnh của Ngài và mang trong mình hơi thở sự sống Thần linh của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã khai sinh một thế giới có giá trị, trong đó tình yêu thương, sự quí trọng đối với mọi tạo vật, và tình yêu thương quí trọng đối với mỗi người là tạo vật cao vời nhất kéo theo những hậu quả vô cùng quan trọng và cụ thể trong cuộc sống xã hội như trên bình diện chính trị, kinh tế và văn hóa. Chính vì thế nên cảnh con người quen thói bóc lột con người là một thực tại phản nghịch tinh thần yêu thương của Chúa Kitô.

Tin vào Chúa Kitô Phục sinh là con người lãnh nhận được toàn bộ và trọn vẹn ơn cứu độ qua biến đổi cuộc sống trong tâm hồn cũng như trên thể xác. Bởi vì cuộc sống mới mà Chúa Kitô ban cho con người tinh thần toàn vẹn là cuộc sống làm con cái Thiên Chúa.

Thánh Gioan khẳng định rõ sự thật này, tin nhận Cháu Kitô và Tin Mừng yêu thương của Ngài là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, được giống Ngài và bước vào cuộc sống hiệp thông với Ngài. Phẩm giá làm con cái Thiên Chúa ấy đã được Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta qua Bí tích Thánh tẩy, mầm sống mới thần thiêng ấy đã được săn sóc vun xới lớn mãi trong tâm hồn và giữa cuộc sống thường ngày của chúng ta.

Ơn gọi Kitô như thế là trở thành giống Chúa mỗi ngày một hơn cho tới khi chúng ta sẽ được biến đổi và hoàn toàn giống Ngài trong cuộc sống hạnh phúc mai sau bên Chúa, trong cuộc sống của những người được ơn cứu chuộc.

----------------------------------

 

PS 4-C3. NTGT/133- ĐÀN CHIÊN

 

Mục tử và đàn chiên là một đề tài Đức Giêsu ưa thích, vì thế Ngài không bỏ lỡ cơ hội nào để: PS 4-C3


Mục tử và đàn chiên là một đề tài Đức Giêsu ưa thích, vì thế Ngài không bỏ lỡ cơ hội nào để diễn tả thật rõ ràng, thật đậm màu những đặc tính chủ yếu của đề tài đó. Đặc biệt trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nêu rõ đặc tính tốt lành của vị mục tử và đàn chiên của Ngài thì “biết nghe tiếng Chúa” dám “bước theo Ngài" để không bao giờ bị diệt vong nhưng được sống đời đời.

Mỗi ngày, chúng ta được nghe biết bao tiếng ồn ào được phát xuất từ gia đình, từ quán xá và từ những người xung quanh. Những làn sóng này có lúc nghe thật êm dịu, nhưng không thiếu những lúc chúng ta có thể điên lên được; một khi hàng xóm mỗi lúc một “tăng volume” gây náo nhiệt cả hàng xóm. Nếu chúng ta cũng như họ, nếu chúng ta không bằng lòng với họ, tôi hỏi thử chuyện gì sẽ xảy ra ? Nhưng một khi chúng ta nghe tiếng: “Hãy yêu thương nhau như Thầy” thì cách giải quyết của ta sẽ trở nên tốt hơn. Như vậy, giữa những âm thanh cao độ của thế gian, vẫn còn có tiếng thì thầm của Đấng tràn đầy tình thương đã và đang lan tỏa trong suốt cuộc sống của chúng ta.

Tiếng của Chúa chính là tình yêu. Ngài yêu thương ta không phải ta đáng được yêu, nhưng Ngài yêu vì chúng ta cần được yêu. Sống giữa xã hội còn phân biệt sang hèn, tiếng của Chúa được vang lên từ những trái tim của những người nghèo khổ, bị áp bức. Tiếng Chúa hôm nay còn là tiếng kêu của đồng bào, của xã hội loài người đang cần đến nhau để sống, để có cơm ăn, áo mặc, để tạo được hạnh phúc cho nhau. Và tiếng Chúa vẫn còn vang dội từng ngày từng giờ thúc bách mỗi người chúng ta dấn thân theo Chúa trên khắp nẻo đường, yêu thương và phục vụ; yêu thương phục vụ và hy sinh đến chỗ không còn tìm kiếm gì cho riêng mình. Hơn nữa, dám liều mình vì anh em, như mục tử dám liều mình vì đàn chiên.

Giờ đây, nếu chúng ta nghe tiếng Chúa mời gọi, chúng ta sẽ đáp lại lời mời gọi làm sao ?

“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Nghe tiếng Chúa là tin nhận lời của Ngài, bước theo Ngài là dấn thân sống lời Chúa một cách tự do và chủ động. Bước theo Ngài không phải là phó thác hoàn toàn cho Chúa, không phải là trao hết trách nhiệm cho Chúa, và cũng không phải bám víu vào một mớ giáo lý; nhưng là phải thực hành những điều ta lĩnh hội, là thực hành như Ngài đã sống. Sống thực hành là đem lại tình yêu thương dẫn dắt ta trong mọi quan hệ với tha nhân, là mở rộng tâm hồn để tiếp nhận sự thật đến từ Thiên Chúa.

Trước mọi trào lưu tư tưởng mới, và trước mọi cám dỗ tấn công, chúng ta hãy đứng vững vì chúng ta đã được nếm thử cùng nghiệm được rằng Đức Giêsu là đường là sự thật và là sự sống. Như thế, chúng ta sẽ cảm thấy thực sự mình là người người tín hữu Kitô dám bước theo Ngài và có khả năng làm chứng cho Ngài trước thế gian. Lúc đó, hình ảnh mục tử và đàn chiên đạt đến mối tương quan sống động và thân thương giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Kitô và những kẻ theo Ngài. Chiên tốt lại gặp được mục tử lòng lành tốt bụng thì thật là tuyệt vời và còn tuyệt vời hơn khi mục tử hứa cho đoàn chiên “được sự sống đời đời”.

Chiên tôi…. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất. Với hình ảnh đó, lời dạy đó, chúng ta quen gọi Đức Giêsu là Đấng chăn chiên lành, Ngài hướng dẫn đoàn chiên của Ngài, Ngài để tâm chăm sóc từng con chiên trong đàn, Ngài không chỉ dẫn dắt đàn chiên đến đồng cỏ xanh nước mát, mà còn dẫn chúng đến đích điểm là sự sống đời đời với Thiên Chúa là Cha trên trời.

Ngay ở trần gian, Ngài là Đấng chăn chiên lành dám thí mạng vì đàn chiên, Ngài dám chịu mục nát đi như hạt giống gieo vào lòng đất. Như thế, sự sống đời đời Ngài ban cho ta ngay tại thế này chính là cuộc sống yêu thương vô điều kiện. Và từ biến cố Phục sinh, con người đã nên mới so với con người cũ, con người sống sót không còn bị đóng khung sau quyền lợi và giá trị riêng tư của mình, nhưng là một cuộc sống đầy yêu thương và luôn mở rộng ra với mọi người.

Nếu mục tử Giêsu biết chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương đến nỗi nên một với nó và hiến mạng vì nó, thì mỗi người Kitô hữu cũng phải có trách nhiệm liên đới với anh chị em mình trong mọi nỗi niềm và cảnh ngộ của cuộc sống để cùng đưa nhau về nơi sự sống vĩnh cửu mà mục tử Giêsu đã dọn sẵn cho chúng ta.

Hôm nay, cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ, chúng ta cũng được mời gọi sống trọn ơn gọi (tiên tri – tư tế – vương đế) của mình bằng cách lắng nghe và bước theo Thầy Chí Thánh để trở nên những mục tử tốt cho nhau. Nhất là chúng ta cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều mục tử biết sống kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, trung thành với ơn gọi của mình để diễn tả đúng khuôn mặt của Đức Kitô, bằng việc nỗ lực thi hành từng ngày từng phút sống phù hợp với tiếng của Ngài không ngừng vang vọng trong thâm tâm ta: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”.

----------------------------------

 

PS 4-C4. CSTM/114- THEO CHÚA

 

Chúa Giêsu là mục tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng tước vị đó thì đoàn chiên cũng phải: PS 4-C4


Chúa Giêsu là mục tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng tước vị đó thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Vật không có lý trí còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, vật có linh tính, càng phải đền đáp sao cho xứng tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy.

Đâu là bổn phận của con chiên đối với chủ chăn của mình ? Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trả lời câu hỏi ấy và chúng ta ghi nhận được hai bổn phận chính yếu, đó là lắng nghe và bước theo.

Lắng nghe: mỗi buổi sáng, chủ chăn mở cửa chuồng gọi tên từng con chiên và dẫn chúng tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát. Ban chiều, chủ chăn đưa chiên về chuồng và thay phiên nhau canh giữ chúng qua đêm. Vì thế, con chiên muốn được nuôi sống, muốn được bảo đảm an toàn, thì không những phải biết nghe tiếng chủ chăn mà còn phải có can đảm bước theo sự dẫn dắt của chủ chăn nữa.

Chúng ta cũng vậy, là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, việc thứ nhất chúng ta cần phải làm là hãy lắng nghe tiếng Chúa. Chúa đã nói: “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. NHư vậy, dấu hiệu và cũng là điều kiện để trở thành con chiên tốt lành của Chúa là nghe tiếng Ngài.

Mặc dù hôm nay Chúa không phán dạy chúng ta cách tỏ tường như ngày xưa Ngài đã phán dạy dân Do thái và các môn đệ. Thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục nói với chúng ta. Phải, Ngài nói với chúng ta qua tiếng lương tâm, bởi vì lương tâm chính là tiếng nói âm thầm của Chúa, phát xuất từ thẳm sâu cõi lòng, thôi thúc chúng ta làm lành tránh dữ. Hơn nữa, Ngài còn nói với chúng ta qua Tin Mừng, bởi vì với Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho cuộc sống, cũng như những cách thức giúp chúng ta giải quyết những tình huống gặp phải.

Bước theo: lắng nghe tiếng Chúa là điều tương đối dễ, nhưng điều quan trọng là phải dám bước theo Chúa. Người Do thái ngày xưa đã từng được nghe chúa giảng dạy và họ cũng đã từng cảm phục sự khôn ngoan của Chúa, nhưng lại chẳng bao giờ thực hành, để rồi cuối cùng họ đã quay lưng chống lại Chúa. Họ giống như những người ngồi xem xiếc. Đúng thế, người xem xiếc cảm phục kẻ đi trên dây, nhưng nếu bảo họ tiến lên để cùng đi trên dây thì họ lại không dám. Cũng như chàng thanh niên giàu có, cảm phục Chúa và đã đến hỏi Chúa về con đường trọn lành. Thế nhưng khi nghe Chúa bảo: “Con hãy về, bán hết của cải và chia sẻ cho người nghèo, rồi đến theo Ta”, thì chàng đã buồn rầu cúi mặt vì chàng không có đủ can đảm dứt bỏ những níu kéo của tiền bạc, chàng không dám liều, không dám dấn thân để bước theo Chúa.

Như vậy, “nghe tiếng” Chúa không phải là chỉ nhận ra tiếng nói, tiếng gọi của Chúa, mà chủ yếu là tuân theo, là giữ lời Ngài truyền dạy, đặc biệt là giữ các điều răn của Ngài, nhất là điều răn mới, tức là điều răn yêu thương: “Cứ dấu này người ta biết các con là môn đệ Thầy”, là các con thương yêu nhau. Càng yêu thương nhau chúng ta càng chứng tỏ chúng ta là những con chiên tốt lành của Chúa.

Nói rõ hơn, đối với chúng ta, bước theo Chúa có nghĩa là phải cố gắng thực thi những điều ngài truyền dạy, đặc biệt là thực thi giới luật yêu thương, bởi vì giới luật yêu thương chính là cốt lõi của Tin Mừng. Ngày kia, có một linh mục đứng giảng ở ngã ba đường, kêu gọi mọi người đóng góp cho việc từ thiện. Rất nhiều người đã hưởng ứng. Tuy nhiên, có một thanh niên, khoảng 30 tuổi, tiến đến và quì dưới chân vị linh mục, rồi đặt một hòn đá và mấy đồng bạc. Anh nói: “Thưa cha, xin cha hãy nhận lấy của lễ con dâng và xin cha tha tội cho con. Bởi vì lúc đầu con đến đây với ý định dùng hòn đá này để đập bể đầu cha. Nhưng lời Chúa qua sự giảng dạy của cha đã thực sự làm con xúc động và con đã từ bỏ hành vi ám muội của con”.

Chúng ta gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội là mục tử hay chủ chăn. Chúng ta đang sống dưới sự hướng dẫn của các ngài, chúng ta hãy tin tưởng các ngài, vì đức tin bảo cho chúng ta biết: chính Chúa Giêsu, mục tử tốt lành đích thực, đang trực tiếp chăn dắt chúng ta qua những người lãnh đạo trong Giáo Hội, là Đức Giáo Hoàng, giám mục, linh mục. Vì thế, chúng ta có bổn phận nghe theo sự hướng dẫn của các ngài, cộng tác với các ngài, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta, để duy trì và xây dựng đoàn chiên nhỏ bé là gia đình mình, tập thể mình đang sống, đang làm việc và đoàn chiên rộng lớn hơn là Giáo Hội.

Sau hết, hôm nay là ngày Giáo Hội toàn cầu dành để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Chúng ta phải cầu nguyện vì chính Chúa đã dạy: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”. Nếu muốn có nhiều người xung phong vào cánh đồng phì nhiêu, chúng ta phải cầu nguyện, nghĩa là chúng ta luôn cầu xin Chúa gửi tới cho chúng ta nhiều thợ gặt, và nhiều thợ gặt lành nghề, nghĩa là ban ơn soi sáng cho giới trẻ biết nghe tiếng Chúa và các linh hồn kêu gọi họ dấn thân tận hiến cuộc đời cho sứ mạng Chúa Giêsu. Những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ bay lên trước tôn nhan Chúa, Chúa sẽ nhận lời cầu xin của chúng ta, như Chúa đã nói: Ai xin sẽ được, quê hương nào xin nơi ấy được.

Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là mục tử tốt lành. Xin Chúa cho chúng ta cũng là con chiên tốt lành của Chúa, tức là luôn biết lắng nghe tiếng Chúa và sống theo lời Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta nhiều mục tử khôn ngoan, thánh thiện và tài giỏi để tập họp mọi người và dẫn dắt mọi người biết yêu thương nhau để tất cả trở nên một đoàn chiên duy nhất của Chúa.

----------------------------------

 

PS 4-C5. PV/ 261- TẬN HIẾN

 

Đức Giêsu nói “Sẽ không ai cướp được đàn chiên khỏi tay tôi được”. Bằng cách này, Người: PS 4-C5


Đức Giêsu nói “Sẽ không ai cướp được đàn chiên khỏi tay tôi được”. Bằng cách này, Người đang nhấn mạnh rằng đối với Người, đàn chiên quí giá đến thế nào. Nếu có người giúp đỡ, thì không bao giờ có một điều xấu xa nào có thể xảy ra cho bất cứ người nào trong số họ.

Khi kẻ làm thuê trông coi đàn chiên, thì lũ chó sói không gặp rắc rối nào trong việc rình bắt đàn chiên. Ngay khi kẻ làm thuê nhìn thấy một con chó sói đang tiến lại gần, thì hắn ta liền bỏ rơi đàn chiên. Hắn chỉ nghĩ đến một điều duy nhất là cứu thoát người thân của mình mà thôi. Người chủ tốt lành của đàn chiên thì không như vậy. Họ bảo vệ đàn chiên chống lại sự tấn công của lũ sói, thậm chí họ còn sẵn sàng liều mất cả mạng sống của mình nữa.

Thật không may, chúng ta đang sống trong một thế giới mà đàn chiên, đặc biệt là những con cừu, thường bị vồ chụp và vật cho chết. Nhưng đây chính là một thế giới mà trong đó, hơn bao giờ hết, người ta càng cần đến người chủ chiên tốt lành. Ngày nay, tất cả mọi sự đều có khuynh hướng to lớn ra và được tập trung hóa, làm cho việc nhận biết và săn sóc trở nên không dễ dàng gì, bởi vì tất cả mọi sự đều mất đi tính chất của con người. Trong hệ thống này, con người được thuê mướn và củng cố vì hiệu quả công việc, chứ không vì tình yêu và sự quan tâm săn sóc, mà họ có khả năng bày tỏ ra.

Ngày nay, người chủ chiên tốt lành không chắc hẳn là phải đương đầu với một đàn chó sói. Nhưng họ có thể phải đương đầu với một điều gì đó còn tệ hại hơn – một bè lũ tội phạm. Philip Lawrence ở Luân Đôn. Vào một ngày trong tháng 12 năm 1995, ông đã bị đâm ngay bên ngoài trường học của ông, trong khi đang cố gắng bảo vệ một trong số các học sinh đang bị một tên côn đồ tấn công, và ông đã chết vì những vết thương quá nặng. Ông đã được các thính giả của chương trình Thời Đại Ngày Nay ở đài phát thanh BBC bình bầu là Nhân Vật An Tượng nhất trong năm. Ông nhận được 23,130 phiếu bầu, trên cả ông John Major, người sau này làm thủ tướng (18.260 phiếu).

Vợ ông đã nói rằng chồng bà “chắc chắn sẽ cực kỳ bối rối về tất cả điều này. Ông ấy rất khiêm tốn tới mức độ không tán thành chính bản thân mình”. Thật là một điều hay, khi biết rằng người ta vẫn còn nhận ra sự vĩ đại nơi một hành động giống như vậy. Và thật là một điều hay, khi biết rằng có người nào đó có thể làm được một hành động như vậy, và nhìn vào hành động này như là một điều gì đó bình thường và tự nhiên.

Philip Lawrence là một người chủ chiên nhân hậu đối với các học sinh của ông. Ông đã cố gắng tạo ra được một môi trường an toàn trong đó các học sinh có thể được học hỏi và phát triển, để có thể tự hào về bản thân mình. Đối với ông, ông không thể chấp nhận nổi việc cứ để mặc cho một trong số các học sinh của ông bị một tên côn đồ đánh, mà không ra tay ngăn cản.

Philip Lawrence nhắc nhở cho tất cả chúng ta rằng tình yêu đích thực có nghĩa là gì, và tình yêu đó có thể mang giá trị gì. Nếu chỉ yêu thương giới trẻ mà thôi thì chưa đủ, mà chúng còn phải được biết rằng chúng được yêu thương. Điều này không chỉ áp dụng nơi học đường mà còn trong gia đình nữa.

Lawrence đã lấy được sức mạnh và tinh thần nơi đức tin Kitô hữu của ông. Ông đang mô phỏng theo tình yêu của Đức Giêsu, Chúa chiên lành, Đấng đã hiến mạng sống cho đàn chiên. Mạng sống của Người không bị lấy đi, cũng không phải theo lệnh của Chúa Cha. Chính Người đã tự ý trao ban, và trao ban một cách vui lòng. Người tự hiến cho đàn chiên, để mang chúng về đồng cỏ của sự sống đời đời.

Mỗi Kitô hữu được gọi là người mang tình yêu thương và sự chăm sóc. Chúa nhật hôm nay là lễ của những người biết quan tâm đến kẻ khác. Lễ này khuyến khích và nâng đỡ những ai đang cố gắng noi gương Chúa chiên lành, và khêu gợi lương tâm của kẻ chăn thuê.

Những người bước theo đường tình yêu thì tự mở ra khả năng sẽ hạnh phúc hơn những người khác, và cũng đau khổ hơn. Nhưng, như Carlo Carretto nói: “Không có gì là khủng khiếp trên trái đất này nếu điều đó dạy cho chúng ta biết yêu thương”.

----------------------------------

 

PS 4-C6. SCĐ/272- SUỐI MÁT

 

Dương An Điển là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ: PS 4-C6 FB


Dương An Điển là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền nam đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.

Thế mà, 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.

Cuộc đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: “Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc”. Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.

----------------------------

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa ; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương An Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.

Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.

- Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phaolô viết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô”.

- Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.

- Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ, nếp sống cũ, đường lối cũ. Các môn đệ đã bỏ mọi sự, Mađalêna đã bỏ đường tội lỗi, Augustinô đã bỏ đời trụy lạc, để đi theo Người.

Nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa để được những gì ? Đức Kitô đã trả lời: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. Đoàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người không những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn không thể mất được.

Không chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo vệ chúng ta trong bàn tay yêu thương của Người: “Cha Tôi, Đấng đã ban chúng cho Tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Chúa Cha đã trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá nhất, nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy.

Như thế, chúng ta được bảo vệ an toàn tuyệt đối trong cả hai bàn tay, của cả cha lẫn mẹ, còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa.

----------------------------------

 

PS 4-C7. SCĐ/275- LINH MỤC

 

Trong một quyển chuyện đề tựa “Quyền lực và vinh quang”, nhà văn Graham Greene kể lại: PS 4-C7


Trong một quyển chuyện đề tựa “Quyền lực và vinh quang”, nhà văn Graham Greene kể lại câu chuyện sau đây xảy ra tại một nước ở nam Mỹ: Khi ấy một chính phủ ghét đạo lên nắm quyền và ra lệnh trục xuất tất cả các linh mục ra khỏi nước. Linh mục nào còn lén lút ở lại hoạt động thì bị bắt đem xử tử. Đa số các linh mục đã phải tuân lệnh ra khỏi nước, một số nhỏ can đảm ở lại cũng bị xử. Nhưng không ai ngờ là vẫn còn sót lại một linh mục. Ông này ở lại được vì không ai thèm để ý tới ông, bởi vì ông là một linh mục tội lỗi bê bối đã hồi tục. Ông không coi sóc họ đạo nào cả, cũng không lưu ý tới sự thiếu thốn của các con chiên. Hằng ngày ông lang thang đây đó để kiếm tiền và nhậu nhẹt. Về phần giáo dân, trước đây họ vẫn khinh rẻ ông, nhưng trong lúc thiếu linh mục thì họ lại cần đến ông. Người ta xin ông rửa tội, giải tội, dâng thánh lễ và xức dầu.

Ông cũng sẵn sàng nhận với một điều kiện là phải có tiền: rửa tội một em bé là mấy đồng, giải tội một người lớn là mấy đồng, xức dầu một người là mấy đồng, mỗi người dự lễ là mấy đồng… tất cả đều có giá hẳn hoi. Dĩ nhiên, như ai trong chúng ta cũng biết, ông càng làm các bí tích thì càng thêm tội bởi vì ông đang sống trong tình trạng tội lỗi. Nhưng ai ngờ con người tội lỗi ấy lại là phương tiện Chúa dùng để nuôi dưỡng đàn chiên Chúa trong lúc gian nan. Nhờ còn có ông mà giáo dân còn tiếp tục lãnh nhận được các bí tích và duy trì được đức tin của mình. Thế rồi dần dần nhà cầm quyền bắt đầu để ý đến tới những hoạt động của ông và ra lệnh truy nã ông. Ông cũng sợ bị xử tử nên lén vượt biên giới trốn sang xứ khác. Nhưng đang lúc ông sắp qua biên giới thì người ta chạy theo năn nỉ ông trở lại để giúp cho một người hấp hối. Không nỡ để một người chết không có bí tích nên ông linh mục này đã trở lại, và đã bị bắt, rồi bị đem ra pháp trường. Trước lúc bị bắt, ông đã ăn năn xin Chúa thứ tha hết mọi tội lỗi của ông và dâng linh hồn trong tay Chúa, rồi bình thản ngước đầu chờ đợi. Và ông đã trông thấy có một người lẫn trong đám đông đang đưa bàn tay ban phép giải tội cho ông, đó là một linh mục khác vừa trốn về để tiếp tục công việc của ông, công việc của một chủ chăn đối với đàn chiên đang đói khát.

Câu chuyện cảm động trên cho chúng ta thấy hai điều:

Thứ nhất: Linh mục rất cần cho đời sống đạo của giáo dân. Dĩ nhiên tín đồ của tôn giáo nào cũng cần vị lãnh đạo tinh thần của mình, nhưng người công giáo còn cần tới linh mục gấp bội. Có thể nói, cả cuộc đời người công giáo được bàn tay linh mục dẫn dắt nuôi dưỡng: Khi ta vừa mới sinh ra, bàn tay ấy đã đổ nước rửa tội cho ta; lớn lên bàn tay ấy đưa Mình thánh Chúa cho ta rước lễ; khi ta sa ngã phạm tội, bàn tay ấy giơ lên thay quyền Chúa mà tha tội cho ta; khi ta lập gia đình, bàn tay ấy lại giơ lên chúc lành cho cuộc hôn phối của ta; và trước lúc ta nhắm mắt lìa đời, cũng bàn tay ấy xức dầu thánh chuẩn bị cho cuộc hành trình của ta về nhà Chúa. Nếu thiếu bàn tay ấy thì ta sẽ ra sao ? Những người giáo dân trong câu chuyện trên mặc dù coi thường vị linh mục tội lỗi nọ nhưng họ vẫn phải cần tới ông, vẫn van xin năn nỉ ông, bởi vì trong lúc gian truân thiếu thốn ấy, chỉ có ông là có thể ban các bí tích cho họ.

Thứ hai: Linh mục là phương tiện cứu rỗi của Chúa. Chúng ta đã thấy ông linh mục trong câu chuyện trên đã mang ơn Chúa đến cho giáo dân nhiều như thế nào. Mặc dù ông tội lỗi, bất xứng nhưng các bí tích ông cử hành vẫn thành sự. Ông đọc “Này là Mình ta” thì Chúa vẫn ngự vào chiếc bánh trắng; ông nói “Ta tha tội cho con” thì Chúa vẫn ban ơn tẩy sạch mọi tội lỗi trong tâm hồn người xưng tội. Linh mục thực sự là phương tiện Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân.

Hôm nay là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục. Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta cũng chắc ý thức nhu cầu linh mục cấp bách đến thế nào cho Giáo Hội chúng ta: chúng ta đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những đồng lúa chín vàng và bảo “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy cầu nguyện xin chủ ruộng cho thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài”. Chúa biết nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta phải cầu xin thì Chúa mới ban ơn.

Xin cho có nhiều thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa để phục vụ các linh hồn.

----------------------------------

 

PS 4-C8. SCĐ/278- ĐÀN CHIÊN

 

Cảm giác được thuộc về Chúa Giêsu, được Ngài biết và yêu thương, đó là một cảm giác vô: PS 4-C8


Cảm giác được thuộc về Chúa Giêsu, được Ngài biết và yêu thương, đó là một cảm giác vô cùng an ủi. Ai mà không muốn thuộc về đàn chiên của Chúa ! Thế nhưng thế nào là thuộc về đàn chiên Chúa ? Muốn thuộc về đàn chiên Chúa thì phải làm sao ?

- Thứ nhất là phải tin vào Ngài: Chúng ta gia nhập đoàn chiên Chúa và trở thành tín hữu, nghĩa là người tin.

- Nhưng tin chỉ mới là bước thứ nhất. Bước thứ hai là phải nghe tiếng Ngài: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta”. Nghe tiếng Chúa Giêsu nghĩa là chú tâm đến những lời Ngài dạy dỗ.

- Thứ ba là đi theo Ngài: “Chiên của Ta đi theo Ta”. Theo Chúa là thực hành lời Ngài dạy.

Liên hệ giữa chúng ta với Chúa phải là hai chiều. Con chiên phải chọn thuộc về Chúa. Chúa Giêsu không muốn và cũng không thể cứu ta ngược với ý muốn của ta. Nhưng chỉ cần ta thực lòng muốn và cố gắng thuộc về Ngài thì Ngài sẽ chăm sóc ta trong cuộc sống và trong cái chết nữa. Ngài hứa ban cho ta sự sống đời đời: “Ta ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong”.

Nhưng như thế không có nghĩa là hễ thuộc về Chúa thì sẽ được Ngài bảo đảm cho có một cuộc sống dễ chịu ở đời này đâu. Ngược lại là đàng khác. Những kẻ thuộc về Chúa có thể bị bách hại, nhưng ai vẫn trung thành thì sẽ được chia phần vinh quang của Ngài trên trời (bài đọc 2). Gian truân và thử thách là những cơ hội để ta chứng tỏ đức tin và lòng vâng phục Chúa.

Đàn chiên là hình ảnh của nếp sống cộng đoàn. Ngay cả trên bình diện nhân loại thôi thì ai cũng cần có cộng đoàn. Đó là lý do tại sao Chúa muốn những kẻ theo Ngài phải sống trong cộng đoàn. Trong cộng đoàn, chúng ta tìm được sự nâng đỡ, khuyến khích và tình thân. Chúng ta không thể thuộc về Chúa Giêsu mà không thuộc về đoàn chiên của Ngài.

----------------------------------

 

PS 4-C9. SCĐ/280- CHIÊN TA

 

Khoảng giữa thế kỷ 19, thánh Gioan Bosco bắt đầu hoạt động phục vụ những người trẻ nghèo: PS 4-C9


Khoảng giữa thế kỷ 19, thánh Gioan Bosco bắt đầu hoạt động phục vụ những người trẻ nghèo nàn ở thành phố Turinô nước Ý. Họ đã sớm nhận ra ngài thực sự là một người bạn của họ. Họ yêu quí ngài đến nỗi khi ngài lâm trọng bệnh thì họ tha thiết cầu nguyện tưởng như muốn xé rách bầu trời, có người còn xin Chúa cho mình chết thay ngài. Nhờ những lời cầu nguyện ấy, thánh Gioan Boscô đã khỏe lại. Tình cảm trìu mến ấy không thể có được nếu Gioan Bosco và đám trẻ ấy đã không gần gũi nhau, biết nhau và yêu thương nhau.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói “Ta biết chiên của Ta”. Ngài biết chiên Ngài bởi vì Ngài là mục tử tốt lành. Có nhiều mức độ biết: có khi chỉ là biết mặt, biết tên ; có khi biết như một người quen ; có khi biết như một người bạn thân thiết.

Không biết người ta là một điều rất buồn thảm. Nhà văn Do thái Elia Wiesel rất thương cha mình, nhưng người cha ấy đã chết trong trại tù Auschwitz năm 1944. Trong quyển tự thuật, nhà văn ấy tâm sự: “Tôi chưa bao giờ thực sự biết cha tôi. Thực đau lòng mà phải thú nhận như vậy. Tôi đã biết qúa ít về người mà tôi yêu quí nhất đời ấy, người mà chỉ cần nhìn tôi một cái cũng đủ làm cho lòng tôi xao xuyến. Không hiểu những người con khác có gặp phải vấn đề như tôi không. Họ có biết cha họ không phải chỉ là một con người có nét mặt uy quyền, buổi sáng đi làm và buổi chiều trở về mang bánh đặt lên bàn ăn không ?”

E rằng những lời buồn thảm trên đây cũng là tiếng than của rất nhiều đứa con khác. Ngày nay con cái không biết cha mẹ và cha mẹ không biết con cái. Muốn biết thì phải mất nhiều thời giờ và nhiều cố gắng, nhưng nó sẽ mang lại nhiều hoa trái. Còn nếu không biết thì sẽ phải gánh chịu nhiều mất mát. Đời sống trôi qua rất nhanh khiến chúng ta ít biết nhau. Mà không biết nhau thì không thể yêu thương nhau được.

“Biết” là điều rất quan trọng đối với những người chăm sóc (carers). Những người chăm sóc cần biết kẻ mà mình chăm sóc. Bước đầu là biết tên. Nhưng muốn biết thật thì phải biết cả lịch sử cuộc đời họ. Nếu không biết họ đến với ta từ một thế giới như thế nào và sẽ trở về một thế giới như thế nào thì ta chỉ coi họ như một chiếc bóng mà thôi.

Nhưng cái “biết” phải có hai chiều. Chúa Giêsu biết chiên của Ngài và chiên của Ngài cũng biết Ngài. Chúa Giêsu không sợ để cho người ta biết mình. Còn chúng ta đôi khi lại sợ. Chúng ta không muốn người khác đi vào cuộc sống chúng ta, biết chúng ta nghĩ gì, cần gì, đang lo buồn về chuyện gì và đang hy vọng những gì. Có lẽ vì chúng ta sợ người ta biết mình rõ quá rồi sẽ từ chối mình. Từ đó chúng ta chỉ muốn người ta biết chúng ta qua cái vẻ bề ngoài mà chúng ta cố tỏ ra. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể tạo được một tình cảm trìu mến với người khác nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách với họ và không cho họ biết rõ chúng ta ?

Đối với Chúa cũng vậy. Ngài là mục tử tốt lành. Ngài muốn ban cho chúng ta sự sống đời này và cả đời sau nữa. Nhưng phải có tương quan hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình thương của Ngài bằng cách lắng nghe tiếng Ngài và đi theo Ngài.

----------------------------------

 

PS 4-C10. Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành


Chi Tiết Hay

 

Bấy giờ là mùa đông, Đức Giêsu ở trong đền thờ vào dịp kỵ niệm lễ Cung Hiến Đền Thờ. Lễ: PS 4-C10


Bấy giờ là mùa đông, Đức Giêsu ở trong đền thờ vào dịp kỵ niệm lễ Cung Hiến Đền Thờ. Lễ này bắt nguồn từ cuộc nổi dậy chiến thắng của dân Do thái chống lại sự đô hộ của người Syria xảy ra hồi năm 164 trước Tây Lịch. Trong câu 24 của chương này, người Do Thái hỏi Đức Giêsu phải chăng Ngài là Đấng Mêsia, nghiã là Ngài có phải là người sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ hay chăng. Lời giải đáp của Đức Giêsu ở đây không làm cho họ thoả mãn nên họ định ném đá Ngài (c.31).

Người chăn chiên là một danh hiệu thường được dùng cho vua hoặc lãnh tụ của dân vùng Mesopotamia xưa kia và cả Do Thái nữa. Thiên Chúa cũng được gọi là Chủ chiên của dân Do Thái (Sáng Thế 48:15, TV 28:9, vv.)

"Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi" (c.27). Ít người chăn chiên có một chuồng chiên riêng của mình, họ thường chung nhau nhốt chiên vào một chỗ vào buổi tối. Sáng hôm sau, mỗi người đến gọi riêng những con chiên của mình ra.

"Tôi ban cho chúng sự sống đời đời" (c.28). Đức Giêsu là một người chăn chiên đặc biệt. Không những nuôi nấng và biết con chiên của mình, Ngài còn cho chúng sự sống đời đời; không phải chỉ một cuộc sống, nhưng là "cuộc sống dồi dào" (10:10).

"Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha" (c.29). Sức mạnh tuyệt đối này trong Kinh Thánh Cựu Ước dành riêng cho Thượng Đế, như trong câu mọi linh hồn đều ở trong bàn tay Chúa (Khôn Ngoan 3:1) và không ai cướp được chúng khỏi bàn tay Chúa (Isaia 43:13). Vậy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Hơn nữa, Ngài cũng là Thiên Chúa, và cũng có sức mạnh như thế để bảo vệ mọi linh hồn.

"Tôi và Chúa Cha là một" (c.30). Câu văn ngắn này nói một cách rõ ràng sự hiệp nhất trong quyền năng và hành động, và từ đó Giáo Hội đã ban bố tín điều Chúa Ba Ngôi.

Sự hiệp nhất, trong câu 30, cũng nối kết mọi ngưòi lại với nhau: "để họ nên một như chúng ta" (17:11).

Một Điểm Chính

Chúa Ba Ngôi nối kết chúng ta lại trong tình thương và cho chúng ta sự sống dồi dào và vĩnh cửu.

Suy Niệm

Tôi có lắng nghe lời mời gọi của Chúa để có thể theo Ngài và nhờ đó được Ngài nuôi sống?

Nhìn lại cuộc sống của tôi, tôi có nhận ra Chúa đang nuô nấng và dẫn dắt tôi chăng?

Tôi có hiệp nhất được với mọi người, giàu cũng như nghèo, không phân biệt quốc gia? Lý do tại sao?

----------------------------------

 

PS 4-C11. ƠN GỌI – Lm. Jos. Phạm thanh Liêm

 

Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Xin cho nhiều người trẻ: PS 4-C11


Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Xin cho nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời kêu mời của Thiên Chúa, để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người thời đại.

Tôi ban cho chúng sự sống đời đời

“Con chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, và chúng sẽ không hư mất”.

Ơn gọi tu sĩ linh mục chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi”(Mc.3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Ngài trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.

Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài muốn tất cả được cứu độ (1Tm.2, 4). Ngài muốn ban sự sống đời đời cho tất cả mọi người. Sự sống đời đời khởi đầu ngay ở đời này. Nếu con người sống theo tiếng Chúa, theo lương tâm, thì người ấy được bình an. Bình an là điều kiện nền tảng để hạnh phúc.

Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi

“Không ai có thể giựt chúng khỏi tay tôi, vì Cha tôi đã ban chúng cho tôi, và Ngài lớn hơn tất cả, và không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Cha tôi và tôi là một”.

Ơn gọi rất mong manh, và tưởng chừng ai cũng có thể phá huỷ được; nhưng thực sự không như vậy. Không ai có thể huỷ ơn gọi của một người, nếu không phải chính người đó cố tình phá huỷ. Thiên Chúa luôn trung thành, Ngài gọi ai thì Ngài mãi mãi trung thành. Ngài không thay đổi, Ngài không chỉ gọi ai một thời gian rồi thôi không gọi nữa. Nếu Ngài gọi ai, Ngài mãi mãi trung thành. Ơn gọi cũng như tình yêu, như được nối kết ràng buộc bởi “tơ trời” có vẻ rất mong manh nhưng vô cùng chắc chắn.

Ơn gọi không khởi đầu do con người, nên cũng không thể tiếp tục nếu chỉ tự sức con người. Thiên Chúa luôn ở với người Ngài chọn và gọi, để nâng đỡ và bảo vệ người Ngài tuyển chọn. Cụ thể, Thiên Chúa vẫn hay dùng những phương tiện con người, để gọi và bảo vệ những người được Ngài kêu gọi.

Dụng cụ ban ơn cứu độ

Thánh Phao-lô và Barnabas được tuyển chọn để sai đi. Hai ngài đã trở thành phương tiện Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sẵn sàng mở lòng đón nhận Tin Mừng. Cuộc đời của Phaolô rất gian nan, nhưng Phaolô vẫn vui và hạnh phúc. Phaolô đã từng bị ném đá, bị đắm tàu tưởng chết, nhưng Phaolô vẫn kiên vững trong sứ mạng được trao.

Ơn cứu độ của con người, là chính Thiên Chúa. Được Thiên Chúa, nghĩa là, được Thiên Chúa ở cùng, được chia sẻ sự sống với Thiên Chúa, là được ơn cứu độ.

Mỗi người có thể là dụng cụ Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sống xung quanh mình. Xin cho mỗi người nhận ra ơn gọi của mình, để hạnh phúc và trở thành dụng cụ Thiên Chúa dùng để đến với con người hôm nay.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Ơn gọi là gì? Làm sao biết một người có ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?
2. Ơn gọi linh mục, tu sĩ và ơn gọi hôn nhân, ơn gọi nào cao quý hơn? Tại sao?
3. Làm sao để nuôi dưỡng và phát triển ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?

----------------------------------

 

PS 4-C12. CHIÊN TA THÌ NGHE TIẾNG TA - Lm. Thu Băng

 

Bên Ấn Độ, người ta bắt khỉ bằng cách làm một cái hộp gỗ, có một cái lỗ nhỏ vùa đủ để khỉ: PS 4-C12


Bên Ấn Độ, người ta bắt khỉ bằng cách làm một cái hộp gỗ, có một cái lỗ nhỏ vùa đủ để khỉ thọc tạy vào. Nhưng nếu nó nắm một hạt dẻ đựng trong hộp thì nó không thể lấy tay ra được. Do đó khỉ có thể chọn một trong hai việc: Buông hạt dẻ để có thể chạy thoát, hoặc nắm lấy hạt dẻ để bị bắt. Nhưng khỉ thường nắm chắc hạt dẻ, vì nó không thể hiểu được mánh lới người ta gài bẫy để bắt nó.

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng đưa ra một cuộc lựa chọn cho người Do Thái. Họ trách Chúa để họ nghi nan, để họ thắc mắc Chúa có phải là Đấng Thiên Sai không. Chúa không trả lời trực tiếp nhưng dùng thí dụ: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta và chiên Ta là một".

Chúa Giêsu muốn nói cho người Do Thái biết rằng Đức Tin là dấu hiệu của người được Chúa tuyển chọn. Đức Tin ban cho con người khả năng nhận ra tiếng Chúa để mà bước theo. Chiên có đôi mắt nhìn kém, nhìn xa không rõ, nên nó phải đi theo nhau thành đàn và lắng nghe tiếng chủ chăn mà đi, không theo tiếng người lạ.

Ngày nay đức tin nơi con người bị giảm sút, sống trong một xã hội hưởng thụ vật chất, thích hào nhoáng, ưa an nhàn, vui sướng, người ta muốn loại bỏ Thiên Chúa, cũng như con khỉ muốn thủ lợi, bám chặt lấy hạt dẻ mà không muốn buông ra để khỏi bị lụy vào thân. Cái mồi vinh hoa phú quý vẫn có thể chụp bắt bất cứ ai (từ trẻ thơ cho tới người râu tóc bạc phơ), lao mình vào cái chết.

Mùa Phục Sinh là thời gian đón mừng sự sống thần linh, đón mừng người biết nhắm mắt nghe theo tiếng Chúa, biết lựa chọn, biết sống theo sự hướng dẫn của Tin Mừng, của Chúa Kitô tử giá. Tiếng Chúa đang kêu mời chúng ta bỏ đi lối sống hào nhoáng, tham vọng, bỏ đi lối sống ngang trái, vụng trộm, lừa lọc..... và nhiều lối sống khác chúng ta đang có thể mắc phải. Bỏ đi được chúng ta mới có thể bước theo Chúa Kitô và tìm lại được sự sống đời đời và bảo đảm không mất.

Lạy Chúa là Cha chúng con, Cha đã dựng nên chúng con và ban cho ơn sự sống, ơn đức tin, để chúng con tìm hiểu và suy tư về ơn Chúa mà suy phục, mà nghe theo tiếng Chúa. Vậy xin Cha giúp chúng con biết lắng nghe tiếng Ngài. Xin giúp chúng con biết chu toàn kế hoạch mà Cha đã định, để chúng con được sống hạnh phúc bên Cha mãi mãi. Amen. (5.2004).

----------------------------------

 

PS 4-C13. NGHE TIẾNG CHỦ CHĂN - Sr. Theresa Nguyễn

 

Một đàn chiên ngày ngày được chủ chăn dẫn đi ăn trên đồng cỏ xanh tươi, uống nước trong: PS 4-C13


Một đàn chiên ngày ngày được chủ chăn dẫn đi ăn trên đồng cỏ xanh tươi, uống nước trong lành, nằm nghỉ bên bờ suối mát... Chúng thật no đầy, vui thú và bình an... nhờ có chủ chăn khôn ngoan và dũng mạnh. Người vừa là thủ lãnh vừa là bạn đồng hành. Người bênh đỡ đàn chiên chống lại ác thú. Người biết đặc tính, lối sống của từng con chiên. Người thích nghi với hoàn cảnh của chúng, tận tụy yêu thương chúng... Chúng tin tưởng, phó thác cho sự hướng dẫn của người. Chúng nghe tiếng còi người thổi, nhận ra tiếng bước chân người đi, nghe giọng nói của người từ xa, biết ý định và đường lối của người và đi theo người...

Đây là hình ảnh lý tưởng về người mục tử nhân lành mà dân du mục Aram, tổ phụ của Irael, có trong tâm trí về Thiên Chúa. Chúa đã dẫn dắt dân Ngài như vậy. Ngài đã đặt các tiên tri, tổ phụ, thẩm phán, các vua để chăm sóc dân Ngài trong thời Cựu Ước. Sau đó, chính Con Thiên Chúa nhập thể làm người để trực tiếp hướng dẫn dân Ngài. Ngài yêu thương chăm sóc tất cả mọi người. Một cuộc sống mới được xây dựng trên "sự hiểu biết lẫn nhau giữa Chủ chăn và đàn chiên.'' Ngài ban cho người Lời Hằng Sống để ''Ai nghe và tuân giữ Lời Ngài thì được sự sống đời đời.'' Ngài đem về những tâm hồn lạc lối. Ngài đã thí mạng sống vì đàn chiên. Chính tình yêu tuyệt đối Ngài chữa lành vết thương của họ và duy trì, bảo đảm cho họ sự sống đời đời.

Trước khi tận hiến mạng sống mình trên thập giá, Chúa Giêsu đã chọn Phêrô để trao lại chức vụ chủ chăn trong Giáo hội; và Ngài hứa sẽ ở cùng và hoạt động trong Giáo hội cho đến tận thế. Nhất là Ngài gìn giữ Phêrô và các Đức Giáo hoàng kế vị khỏi quyền lực ma quỷ, và thay mặt Ngài dạy dỗ những giáo huấn về đức tin và luân lý.

Các vị chủ chăn là những người trước tiên được Chúa gọi và chọn, và họ tự nguyện đáp lời làm môn đệ Chúa Kitô. Tất cả đều nung nấu trong lòng một đức tin vững mạnh và một tình yêu quyết liệt. Họ từ bỏ thú vui hưởng hạnh phúc gia đình để theo một lý tưởng, một tiếng gọi. Họ luôn lắng nghe Chúa và nối kết tâm hồn, sự sống, và tình yêu của mình với Đức Giêsu, Đấng là thủ lãnh tối cao của các chủ chăn; để sức sống, tình yêu và ý Chúa được chảy tràn trong tim, trong não của họ; để qua họ, Chúa đến với dân Ngài, tiếp tục hướng dẫn họ về nguồn nước trường sinh.

Chúng ta muốn thuộc về đàn chiên của Chúa Giêsu nơi Giáo hội trần thế, để một ngày kia được đưa vào đàn chiên Thiên quốc, nơi thành thánh Giêrusalem trên Trời, chúng ta hãy lắng nghe và sống theo sự hướng dẫn của Chúa và các vị chủ chăn trong Giáo hội. Chúa nói với ta qua Giáo hội, qua Lời Ngài trong Kinh thánh, và trong chính tâm hồn mỗi cá nhân.

Chúng ta hãy biết lắng nghe Chúa nói trong cầu nguyện. Như con chiên nhận biết tiếng chủ chăn thế nào thì khi cầu nguyện chúng ta được mời gọi nhận biết tiếng Chúa Giêsu. Cầu nguyện là bước vào mối tương quan hiệp thông với Thiên Chúa. Nhờ đó ta nghe được rõ và chính xác những gì Ngài nói. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Đức Giáo hoàng và các vị chủ chăn dưới quyền ngài, để các ngài luôn được đầy tràn ơn Chúa mà dẫn dắt chúng ta; hãy giữ mối liên lạc khắng khít yêu thương giữa chủ chăn và đàn chiên. Ta yêu kính Chúa như thế nào, cũng hãy kính yêu và vâng phục các ngài như vậy vì các ngài là đại diện Thiên Chúa; đừng nhìn các ngài bằng con mắt trần tục, nhưng hãy nhìn thấy tình yêu và quyền năng cứu độ của Chúa trong các ngài. Ta hãy xin Chúa ban cho thế giới thêm nhiều chủ chăn, nhiều ơn gọi làm linh mục, tu sĩ... và hãy cộng tác tích cực với sứ mạng của các ngài, để mọi người nghe được tiếng Chúa; giúp các chiên trong đàn đi trong đường lối Chúa, và giúp các chủ chăn đưa những chiên lạc về đàn... Chúa sẽ chc phúc cho những tâm hồn thiện chí và đầy yêu thương, luôn sống trong Lời Ngài.

----------------------------------

 

PS 4-C14. MỤC TỬ NHÂN TỪ - Lm. Minh Vận

 

Trong các hang Toại Đạo tại Roma, ngày nay du khách còn thấy nhiều bức tranh vẽ trên tường: PS 4-C14


Trong các hang Toại Đạo tại Roma, ngày nay du khách còn thấy nhiều bức tranh vẽ trên tường vách về Chúa Kitô và các hình ảnh trong Sách Thánh; nhưng có một hình ảnh thời danh và hấp dẫn nhất, đó là hình ảnh Chúa Kitô, vị mục tử hiền lành, âu yếm khoác con chiên trên vai, với dung mạo nhân từ khả ái.

I. CHÚNG TA LÀ ĐOÀN CHIÊN CHÚA

Trong Cựu Ước, Đức Giavê tự xưng là Mục Tử chăn dắt đoàn chiên Israel; trong Tân Ước, Chúa Kitô cũng tự xưng Ngài là Chúa Chiên Lành với dụ ngôn con chiên lạc. Ngài đã tỏ tình thương yêu đoàn chiên đến hiến mạng sống vì đoàn chiên. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa còn tự xưng mình là cửa chuồng chiên.

Chúng ta là đoàn chiên Chúa, chính Thánh Phêrô Tông Đồ đã khuyên: "Xưa kia anh chị em như những con chiên lạc, giờ đây anh chị em đã trở về cùng vị Mục Tử và Đấng canh giữ linh hồn anh chị em. Chúa Kitô là cửa chuồng chiên, cửa duy nhất và cần thiết". Còn chúng ta là đoàn chiên Chúa. Chúng ta muốn được cứu rỗi, chúng ta phải qua cửa là Chúa Kitô. Chuồng chiên chính là Giáo Hội Công Giáo Chúa Kitô đã thiết lập. Công Đồng Vaticanô II đã dạy: "Giáo Hội là chuồng chiên, mà Chúa Kitô là cửa vào duy nhất và cần thiết. Giáo Hội là Đoàn Chiên mà Chúa Kitô là Mục Tử. Tuy được các mục tử loài người chăn dắt, các chiên ấy luôn được chính Chúa Kitô, Mục Tử Nhân Từ và Thủ Lãnh các mục tử dẫn dắt và nuôi dưỡng, Ngài đã phó mình vì Đoàn Chiên" (G. H. # 5).

II. CHÚA KITÔ, GƯƠNG MẪU ĐOÀN CHIÊN

Thánh Phêrô nhắn nhủ chúng ta: "Chúa Kitô chịu đau khổ vì chúng ta, lưu lại cho chúng ta tấm gương để chúng ta theo vết chân Người". Ngài còn nhấn mạnh hơn: "Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại. Bị hành hạ, Người không ngăm đe. Chính người đã gánh lấy mọi tội lỗi của chúng ta. Để khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta được sống cho sự công chính".

Chúa Kitô là Thủ Lãnh, không như các biệt phái và thầy thông giáo xưa, cũng không như các vị lãnh tụ xã hội ngày nay, họ nói mà không làm; chồng chất những gánh nặng và lề luật khắt khe trên người khác mà chính họ lại không tuân giữ, không thèm động tay vào. Trái lại, Chúa truyền dạy và Chúa đã làm, tự đặt mình như mẫu gương cho chúng ta noi theo bắt chước khi kêu gọi chúng ta: "Thầy đã làm gương để các con bắt chước mà làm như Thầy đã làm". Chúa Kitô, Mục Tử duy nhất của chúng ta muốn chúng ta tuân giữ các giáo huấn và mệnh lệnh của Ngài, như chính Ngài đã tuân giữ các giáo huấn và mệnh lệnh của Chúa Cha. Chúa Kitô với tấm lòng người con thảo hiếu, Ngài đã thưa lên với Chúa Cha khi đến trần gian: "Lạy Cha, này Con xin đến để thực thi thánh ý Cha" (Heb 10:7).

III. ĐÁP LẠI TIẾNG GỌI CHỦ CHĂN

Chúng ta là những con chiên trong Đoàn Chiên của Chúa Kitô, Chúa là Mục Tử, nhưng chúng ta đã biết lắng nghe và thực thi theo thánh ý Chúa, đúng với tư cách là những con chiên ngoan thảo nhận biết và vâng theo tiếng vị Mục Tử chưa? Vì, đã là những con chiên ngoan thảo luôn biết sẵn sàng lắng nghe và đi theo tiếng gọi của Chủ Chăn, như Chúa đã dạy: "Ta nhận biết các chiên của Ta và các chiên của Ta nhận biết Ta".

Chiên phải nghe theo tiếng Chủ Chăn, không nghe theo tiếng người lạ. Nhưng trong thực tế, nhiều người trong chúng ta đã rất khó nghe tiếng Chúa; trái lại, thích nghe theo những luận điệu đường mật của kẻ khác, vì nó hợp với bản tính tự nhiên, mặc dầu trái với lương tâm chân chính của chúng ta, trái với luật Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Có những người còn phàn nàn kêu trách: "Thời buổi văn minh mà, Giáo Hội sao mà khắc khe quá!"

Chiên phải bước theo vết chân và đường lối Chủ Chăn, không đi theo người lạ; trái lại, còn phải trốn tránh chúng nữa. Nếu chúng ta không trốn tránh những người luôn tỏ ra những luận điệu đả kích, những lý thuyết chống đối trái nghịch với các giáo huấn và đường lối của Giáo Hội, bọn họ thường hay bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, một ngày kia chúng ta cũng sẽ bị bọn họ quyến rũ và sẽ mắc mưu của họ. Chúng ta sẽ bị gục ngã theo họ, sẽ mất dần ý thức tội lỗi, để rồi cũng sẽ vùi dập lương tâm, theo con đường trụy lạc như bọn họ.

Kết Luận

Là con cái của Chúa trong Đoàn Chiên Chúa Kitô, chúng ta hãy tự vấn lương tâm: Chúng ta đã luôn biết lắng nghe và thực thi các giáo huấn và mệnh lệnh của Chúa chưa? Thánh ý Chúa luôn được tỏ ra nơi tiếng lương tâm chân chính, nơi chủ ý của các vị đại diện Chúa, nơi luật lệ và các giáo huấn của Giáo Hội, nơi Lời Chúa trong Thánh Kinh.

Lạy Mẹ, Mẹ là Đấng đã được Chúa khen ngợi: "Hạnh phúc hơn nữa cho Mẹ, vì Mẹ đã luôn lắng nghe và thực thi Lời Thiên Chúa". Xin Mẹ giúp chúng con noi theo gương Mẹ, luôn suy niệm và sống Lời Chúa.

----------------------------------

 

PS 4-C15. CHỨNG NHÂN MỚI - Trần Quang Huy Khanh

 

Nghe-Thấy-Theo. Đó là 3 yếu tố quan trọng trong đời sống chứng nhân của người Kitô hữu, đặc: PS 4-C15


Nghe-Thấy-Theo. Đó là 3 yếu tố quan trọng trong đời sống chứng nhân của người Kitô hữu, đặc biệt, là những chứng nhân của thời đại chúng ta đang sống. Người tông đồ hay chứng nhân cho Chúa Giêsu hôm nay nếu thiếu những yếu tố này sẽ trở thành kệch cỡm, giả hình và thiếu hấp dẫn. Đức Gioan Phaolô II đã nhận xét về con người chứng nhân của thời đại này, và theo Ngài, thì thế giới hôm nay không thiếu những nhà giảng thuyết, nhưng thiếu những chứng nhân.

Nhận xét trên đến từ phản ảnh trung thực cuộc đời của Chúa Cứu Thế. Ngài đến trong trần gian, sống giữa đời, ẩn dật và suy niệm đúng 30 năm. Ba mươi năm cầu nguyện và lắng nghe tiếng Chúa Cha. Đó cũng là 30 năm Ngài nhìn thấy Chúa Cha, và Chúa Cha nhìn thấy Ngài: “ChaTa và Ta là một” (Gioan 10:30). Và sau khi đã nghe tiếng Chúa Cha, hiểu được ý của Chúa Cha, Ngài đã lên đường hành đạo. Ba năm rao giảng Tin Mừng, để rồi kết thúc bằng thảm kịch trên Núi Sọ. Nhờ “nghe-thấy-theo”, Chúa Giêsu đã trở thành căn nguyên Ơn Cứu Độ của nhân loại.

Thật vậy, hình ảnh người chứng nhân của thế kỷ chúng ta đang sống hôm nay cũng chính là hình ảnh mà Chúa Giêsu đã gợi ý, và đã được Thánh ký Gioan ghi lại bằng một hình ảnh quen thuộc: Những con chiên trong một đàn chiên. Những con chiên hiền lành đã nghe, thấy, và đi theo người chăn chiên.

Nghe tiếng Chúa. Điều quan trọng nhất của người chứng nhân là phải nghe được tiếng Chúa. Nếu không nghe và nhận ra được tiếng Ngài, chắc chắn chúng ta không biết Ngài là ai, và điều gì Ngài muốn chúng ta làm. Trong tâm lý phát triển, đứa trẻ khi mở mắt chào đời việc đầu tiên là em nghe được tiếng mẹ. Thính giác hoạt động trước giúp đem em lại gần với mẹ. Do nghe được tiếng mẹ, em tìm được sự săn sóc, tìm được hơi ấm và bầu sữa thơm ngon của mẹ. Người Kitô hữu muốn tìm thấy Chúa Giêsu cũng phải biết nghe và nhận ra tiếng Ngài.

Nhưng làm thế nào để nghe và nhận ra tiếng Chúa, một tiếng nói êm ái, dịu dàng và thân thương như tiếng đập của con tim người mẹ hiền, như tiếng thì thầm của đôi tình nhân, và như tiếng gió thoảng của Thần Khí Thiên Chúa thổi qua trong cuộc đời của mỗi người. Đôi lúc tiếng ấy cũng vang vọng đâu đó trong những tiếng nổ long trời, lở đất của bom đạn, của chết chóc và máu lửa. Và cũng đôi lúc, tiếng ấy lại nghe thấy trong những lao đao, bệnh tật, nghèo túng, và những khắc nghiệt của kiếp người. Tóm lại, tiếng Chúa vang vọng khắp đó đây và trong rất nhiều cảnh ngộ của cuộc đời. Làm thế nào để nghe được những tiếng đó. Cầu nguyện, thinh lặng, và khiêm tốn. Chúa Giêsu cũng đã nghe được tiếng Cha của Ngài trong âm thầm và cầu nguyện dưới mái nhà Nagiarét.

Sau khi đã nhận ra tiếng mẹ, bước kế tiếp là em bé nhìn rõ mẹ, phân biệt được mẹ với người lạ. Từ đó, em chỉ hạnh phúc khi nhìn mẹ, ngược lai, em hoảng sợ và khiếp đảm khi nhìn những người khác không phải là mẹ. Người Kitô hữu, sau khi nghe và nhận được tiếng Chúa, họ còn phải nhận diện được Ngài, cũng như ở trong tầm nhìn của Ngài. Họ không được đi xa khỏi tầm nhìn Ngài đến độ Ngài không nhìn ra họ, vì làm như vậy họ sẽ bị lạc đường: “Ta biết chiên Ta và chúng theo Ta” (Gioan 10: 27).

Như hành động nghe tiếng Ngài, người Kitô hữu lúc này phải nhìn được Ngài qua từng nhân vật, từng cảnh vật, và từng biến cố cuộc đời. Họ phải có cái nhìn xuyên thấu bằng cặp mắt đức tin để khám phá ra dung nhan Ngài ẩn hiện chung quanh mình qua những người mình gặp gỡ, để thương yêu, tha thứ và giúp đỡ; cũng như qua những biến cố mà họ phải đối diện trong cuộc sống để không thất đảm, hốt hoảng và mất niềm tin.

Trong vai trò chứng nhân, người Kitô hữu không những chỉ nói về Chúa Giêsu, mà còn phải biết tường tận Ngài là ai, hình dáng, và ngôn ngữ Ngài như thế nào. Vì người chứng nhân của thời đại mới không chỉ nói về Chúa Giêsu, viết về Chúa Giêsu, mà còn sống đúng như những gì mình đã nghe và đã thấy nơi Ngài. Kết quả của đường lối chứng nhân này sẽ thu hút người nghe vì họ tin rằng họ đang nghe những gì mà người nói với họ đã xác tín và hành động như vậy.

“Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Gioan 10: 27). Đặc tính trổi vượt nhất của người chứng nhân là sống và làm chứng cho những gì mình nói. Các Tông Đồ xưa là những người đã thấy, đã nghe, và đã sống những gì các Ngài rao giảng. Họ là những người không những thấy những vết đinh nơi tay chân và vết đâm nơi cạnh sườn Chúa. Hơn thế nữa, như Tôma, họ đã xỏ ngón tay vào những vết đinh, và thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa, để rồi thâm tín và thốt lên: “Lậy Chúa tôi. Lậy Thiên Chúa của tôi” (Gioan 20:28).

Nghe được tiếng Chúa, nhìn thấy Chúa, sống chứng nhân những gì mình đã nghe và đã thấy. Có lẽ trong đời sống Kitô hữu, đây là điều khó khăn nhất nhưng cũng quan trọng nhất. Cũng như trong đời sống chứng nhân, đây là điều thực hành khó nhất nhưng mang lại hoa trái nhất. Vì khi nói về Chúa Giêsu, người nghe phần đông sẽ không hiểu gì và cũng chẳng mường tượng ra Ngài là ai. Nhưng nếu người chứng nhân minh chứng cho họ thấy bằng hành động của mình Chúa Giêsu là ai, lập tức những lời nói của người chứng nhân sẽ có ảnh hưởng rất rõ ràng.

Chúa Giêsu biết Ngài sắp về cùng Chúa Cha. Ngài đã chuẩn bị cho các Tông Đồ, để các ông vào đời và làm chứng cho Tin Mừng Cứu Độ. Ngài biết sứ vụ này không dễ dàng, vì các ông sẽ phải gặp nhiều thử thách đến từ việc cứng lòng tin của con người, nhất là từ những cám dỗ của ma quỉ. Chính vì thế, Ngài đã hiện ra với các ông, và như lần này, Ngài đã dậy các ông về một phương thức truyền giáo thiết thực với tâm lý con người, đó là “nghe-thấy-theo”. Ngài muốn các ông cũng như những ai sau này sẽ làm chứng nhân cho Ngài phải hiểu rằng chính họ là người trước hết phải nghe được tiếng Ngài, biết được Ngài, và nhất là sống với Ngài. Như vậy, từ hôm nay, mỗi khi tôi gặp những khó khăn, những người làm cho tôi khó chịu, và nhất là những bất trắc trong cuộc sống, tôi phải dừng lại ít giây phút để hỏi mình: “Chúa Giêsu đó có phải không? Ngài đang muốn nói với tôi điều gì? Và Ngài muốn tôi làm gì trong vai trò chứng nhân cho Ngài giữa dòng đời hôm nay?”

----------------------------------

 

PS 4-C16. QUÊN MÌNH- Phaolô M. Nguyễn Kim Thanh

 

Hình ảnh người sĩ quan hải quân trong trận chiến chống lại kẻ thù đến xâm chiếm lãnh hải: PS 4-C16


Hình ảnh người sĩ quan hải quân trong trận chiến chống lại kẻ thù đến xâm chiếm lãnh hải của tổ quốc. Xin được kể lại để ca ngợi tấm gương một con người thủ lãnh. Nó còn là gương sống động của người lãnh đạo đã dám hy sinh mạng sống mình vì các binh sĩ thuộc quyền, vì tổ quốc quê hương. Biết trước được rằng chiến hạm của ông sẽ bị chìm trong vài giờ vì trúng đạn pháo của địch. Vị sĩ quan chỉ huy đã lập tức điều động, phân tán binh sĩ xuống phao cứu nạn và thoát hiểm an toàn. Còn riêng mình, ông đã can đảm đứng trên boong tầu ở tư thế chào, mặt hướng về tổ quốc. Chiếc tầu chìm xuống lòng biển kéo theo cả vị chỉ huy hào hùng, bất khuất. Ông đã được chính phủ tri ân và ca tụng trên các phương tiện truyền thông. Cả báo chí quốc tế cũng coi cái chết của ông là một mẫu gương can đảm, hy sinh tuyệt vời.

Qua bí tích rửa tội, người tín hữu thật sự trở thành dân riêng của Thiên Chúa, thành những chiên con thuộc đàn chiên của Ngài. Ngài là chủ của đàn chiên. Ngài lo chăm sóc chiên của Ngài: lo tìm đồng cỏ, canh chừng thú dữ, tiên liệu thời tiết khí hậu cho chiên được khoẻ, để ý đến từng con một. Phân loại để chăm sóc đặc biệt những chiên bị thương, yếu bệnh, biếng ăn…

Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta là một thông hiệp hai chiều đối với đàn chiên hạnh phúc, an bình.

Nhìn lại lịch sử các tổ phụ, chúng ta cũng thấy được các tổ phụ có nhiều chiên, vì các ngài là dân du mục. Môi sê đã chăn chiên cho nhạc phụ suốt 40 năm trời. Tiên tri Amos là một người làm nghề chăn chiên. Ngay chính David cũng được chọn ngay sau đàn chiên của mình. Chính các vị vua Do thái cũng được coi như một mục tử, cai trị, cai quản dân như người chăn chiên. Nhà vua có quyền trên đàn chiên, cùng đồng hành với chiên và yêu thương chúng.

Sau thời gian ký thế ngắn ngủi, Chúa đã đặt cho Phêrô làm chủ, lãnh đạo đàn chiên. Trong cuộc “sát hạch” cả thể với Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không”. Chính lúc Phêrô xác quyết tình yêu, Chúa đã trao quyền mục tử cho Phêrô: “Hãy chăn dắt các chiên con của Ta, và hãy chăn dắt chiên mẹ của Ta”. Ngày nay, quyền đó được truyền lại cho các vị giáo hoàng kế vị và các giám mục. Các linh mục là thừa tác viên của các giám mục. Đó chính là việc huấn luyện chủ chiên cho đàn chiên Chúa.

Nhiều nơi trên thế giới hiện nay đang phải đối mặt với nhiều loại thú hoang dã đang có nguy cơ bị diệt chủng. Chúng đang ở mức báo động đỏ bị xoá sổ bởi việc phá rừng, săn bắt. Cho nên cả thế giới đã lên tiếng và bắt tay vào việc bảo vệ các loài thú quý hiếm. Họ phân công trực rừng để bảo vệ chúng, từ việc cung cấp lương thực đến việc chữa trị bệnh tật. Nhiều địa danh mới được gọi là Thảo cầm viên bảo vệ động vật quý hiếm.

Các tín hữu cũng vẫn luôn có nhiều kẻ thù rình rập. Chúng ta gọi chúng: thế gian, xác thịt, ma quỷ. Bảy mối tội đầu nằm sâu chìm trong mỗi con người, chúng vùng lên bất cứ lúc nào, mọi nơi, mọi lúc. Vũ khí bén nhậy mà ma quỷ dễ chiến thắng chúng ta là chính những: Vui, Giận, Hờn, Sợ, Yêu, Ghét, Muốn. Vậy để cho tâm hồn được bình an, để cho cuộc sống mỗi con chiên công giáo được chủ chăn bảo vệ, không vào tầm nhắm của kẻ thù. Chúng ta cần có những điều thiết cần đối với chủ chiên mình như sau: Tin tưởng, Lắng nghe, Đồng hành.

Người chăn chiên luôn nhận biết chiên của mình. Như vị y tá biết rõ bệnh nhân mà cô săn sóc. Họ trở nên cái bóng của nhau. Không quản ngại thời gian, sức khỏe, sẵn sàng hy sinh, nếu cần cả mạng sống mình nữa. Sự thân thiện, gắn bó, gần gũi cũng là chìa khoá cho sự trung thành giữa chủ và chiên. Không thể có quan hệ mật thiết với người khác được, một khi ta vẫn cứ khăng khăng giữ khoảng cách xa lạ, thiếu thân thiện. Người chăn chiên luôn lấy khuôn mẫu của Đức Kitô để sống: Hiền lành, Nhân từ, Nhẫn nại, Hy sinh.

Để trở nên một chủ chiên đúng hiệu và đúng ý Chúa, đòi hỏi người chủ chiên ấy cần sống và hạ quyết tâm thực hành điều Chúa Giêsu đã nói và đã làm: “Sẽ không ai cướp được đàn chiên khỏi tay tôi được”. Câu nói này phải được khắc ghi đậm nét trong trái tim người mục tử. Hình ảnh hy sinh và xả thân vì thuộc quyền, vì tổ quốc của người sĩ quan hải quân kể trên đã cho chúng ta thấy rõ điều này.

Qua bài tin mừng lễ Chúa Chiên Lành hôm nay, chúng ta thấy được cánh đồng truyền giáo đang thật cần thiết. Đòi hỏi cả chủ lẫn chiên không thể ngồi không mà nhìn các linh hồn bị hư mất, sa chìm. Hãy cùng nhau cứu các linh hồn. Hãy hướng tâm hồn lên Chúa, hãy “uỷ lạo” vào kho thiêng trên trời bằng tất cả những gì có thể để viện trợ, tiếp viện cứu các linh hồn. Người mục tử cũng như chiên trong đàn luôn áp dụng Lời Đức Kitô: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng biết Ta”.

Xin Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Giáo hội, là Mẹ các chủ chiên, Mẹ của nhân loại ban cho hết mọi người chúng ta ơn bền đỗ, trung thành với nhiệm vụ được trao. Để xứng đáng lãnh nhận lời hứa của Con Mẹ vì chúng con biết Chúa, và Chúa biết chúng con.

----------------------------------

 

PS 4-C17. Chúng Theo Tôi


Suy Niệm

 

Hỡi các thiên thần trên trời, các thiên thần ...... Đó là câu kết của một bài văn viết bằng tiếng Pháp: PS 4-C17


"Hỡi các thiên thần trên trời, các thiên thần của Chúa, các thiên thần của bình an và hoan lạc, xin hãy ném cho nhau những bông hồng, bông súng, những bài hát du dương và những nốt nhạc ngát hương; và xin hãy đổ tràn nhân đức, can đảm và hạnh phúc trên những nữ tì của Chúa."

Đó là câu kết của một bài văn viết bằng tiếng Pháp, thấy nằm trong túi áo của Hàn Mạc Tử lúc ông qua đời. Ông đã viết bài này gần ba tuần trước khi mất để ca ngợi lòng tận tụy của các nữ tu Phan sinh đã chăm sóc ông trong những ngày cuối đời ở Quy Hòa.

Màu áo dòng trắng, sự tươi tắn và những lời ca êm dịu đã làm nhẹ nỗi đau của chàng thi sĩ mắc bệnh phong.

Thế giới hôm nay vẫn cần ai đem đến cho nó chút hương thơm của Tuyệt Đối, chút ngọt ngào của Vô Cùng, để thiên đàng chẳng phải là chuyện xa xôi, huyễn hoặc, Thiên Chúa chẳng phải là huyền thoại vu vơ.

Hội Thánh hôm nay vẫn cần đến những người của Chúa: cần bóng linh mục cho những họ lẻ, bị lãng quên, cần bước chân mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng, cần sự trầm mặc của người đắm mình trong chiêm niệm cần bàn tay nhẹ nhàng xoa dịu mọi vết thương, và trên hết cần những trái tim không san sẻ, dám yêu hết mình, dám sống hết tình, hết mình cho Thiên Chúa, hết tình cho mọi người, đặc biệt cho những ai đã đánh mất mọi hy vọng.

Cả nước ta có gần 2,000 linh mục và khoảng 7,000 tu sĩ, một con số khiêm tốn trong đất nước gần 80 triệu dân. Trong Chúa Nhật đặc biệt cầu cho ơn thiên triệu, chúng ta nài xin Chúa hãy gọi nhiều tâm hồn và hãy giúp cho họ nghe được tiếng gọi ấy.

Chiên trong bài Tin Mừng hôm nay để chỉ các Kitô hữu, nhưng cũng có thể hiểu về những người sống đời thánh hiến.

Họ là người được Chúa biết từ trong lòng mẹ, và họ cảm nhận được cái biết đầy yêu thương đó.

Họ là người nghe tiếng của Chúa Giêsu, một giọng nói với tất cả nét đặc trưng quen thuộc.

Tiếng ấy đã nhiều lần vang lên, thân thương và cuốn hút.

Tiếng ấy mời gọi họ lên đường để theo sát Ngài hết sức có thể, một Chúa Giêsu nghèo khó, vâng phục và khiết tịnh.

Họ vui lòng bỏ lại những gì họ quý yêu. Nhờ bỏ lại mà họ được tự do thanh thoát. Nhờ sống nghèo, họ được giải thoát khỏi cái tôi ưa chiếm đoạt. Nhờ vâng phục, họ được ra khỏi cái tôi muốn bành trướng. Nhờ khiết tịnh, họ có thể yêu mọi người đến vô cùng. Như thế ràng buộc của đời tu lại đem đến tự do.

Họ có thể được Chúa âu yếm gọi là chiên của tôi, bởi lẽ họ thuộc về Ngài cách đặc biệt.

Ước gì không ai cướp được họ khỏi tay Chúa!

Gợi Ý Chia Sẻ

Hiện nay có ít bạn trẻ sống ở thành phố muốn dâng mình cho Chúa. Theo ý bạn, cuộc sống xô bồ của thành phố thời kinh tế thị trường có ảnh hưởng gì trên việc chọn lựa này?

Theo ý bạn, làm sao nhận ra Chúa kêu gọi mình sống đời thánh hiến? Bạn có quen nhiều nhà Dòng không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành, đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.

Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.

Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.

Xin cho họ biết quên hạnh phúc và tương lai của mình để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở.

Ước gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức, cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương, thấy được những mất mát của bao người đau khổ, và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.

Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu, sống như Ngài đã sống và tiếp tục làm những gì Ngài đã làm trên trần gian.

Cũng xin Cha gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con, thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội, để tất cả trở thành những môi trường tốt giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha. Amen.

----------------------------------

 

PS 4-C18: Chủ nhật ơn thiên triệu - Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội.


Câu  hỏi  gợi ý:

 

Tại sao Giáo hội lại lấy chủ nhật IV Phục Sinh làm chủ nhật ơn thiên triệu? 2. Chúng ta phải: PS 4-C18


1. Tại sao Giáo hội lại lấy chủ nhật IV Phục Sinh làm chủ nhật ơn thiên triệu?

2. Chúng ta phải làm gì cho các ơn thiên triệu trong Giáo hội hôm nay và ngày mai?

* Suy tư gợi ý:

1. Lý do Giáo hội lấy chủ nhật IV Phục sinh làm chủ nhật của ơn thiên triệu.

Chắc chắn trong cử hành phụng vụ hôm nay, các linh mục sẽ nhắc nhở giáo dân rằng thì là Chủ nhật IV Phục sinh này là chủ nhật của ơn thiên triệu tức là ngày Giáo hội dành cho việc cổ võ, nâng đỡ và cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Ơn thiên triệu được nói đến ở đây là ơn gọi linh mục và tu sĩ, mặc dù người giáo dân cũng có ơn thiên triệu riêng của mình. Tại sao vậy? Thưa tại vì trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay Giáo hội cho đọc đoạn Tin Mừng thuộc chương 10 của Gio-an trong đó Đức Giê-su trình bày các đức tính của Vị Mục Tử Nhân Lành và khẳng định chính Ngài là Vị Mục Tử Nhân Lành ấy! Đức Giê-su đã đi sát với truyền thống Thánh Kinh khi dùng một hình ảnh rất quen thuộc và thân thương với mọi người tín hữu Do Thái là những người sống đời du mục, chăn nuôi dọc theo những cánh đồng cỏ và những con suối, để giới thiệu về Người cho dân. Hình ảnh quen thuộc và thân thương đó là hình ảnh người chăn chiên. Trong Cựu ước Thiên Chúa Gia-vê cũng luôn được dân xưng tụng là Đấng chăn dắt, hướng dẵn, chăm lo cho dân riêng là Ít-ra-en.

Là người Việt Nam, chúng ta khó cảm nhận được những nét tinh tế của hình ảnh người chăn chiên mà Kinh Thánh và Đức Giê-su xử dụng. Nhưng để hiểu ý nghĩa Lễ Tạ ơn hôm nay chúng ta nên biết những nét căn bản của người chăn chiên: Người chăn chiên là người luôn thức dậy sớm, chuẩn bị lương thực gồm bánh và nước và lấy mũ gậy cho mình rồi ra mở cửa chuồng chiên, kêu và lùa chúng ta khỏi chuồng khi trời mới tờ mờ sáng. Người chăn chiên dẫn đàn chiên tiến về một cánh đồng hay một cánh rừng mà người ấy biết chắc là ở đó, có cỏ non, có suối nước và bóng mát cho đàn chiên của mình. Khi đi, thì thường người chăn chiên đi đầu, để đàn chiên theo sau. Người chăn chiên cũng thường có một hai con chó phục vụ hoặc để ngăn chặn những con chiên đi xa lạc đàn hoặc để cảnh báo thú dữ hay kẻ trộm muốn ám hại chiên. Những lúc đàn chiên ăn cỏ hay nghỉ ngơi, người chăn chiên cũng không được rời mắt. Khi bóng chiều đổ xuống, người chăn chiên tập hợp chiên và dẫn chúng về nhà, vẫn đi đầu như buổi sáng, tay cầm gậy, mắt nhìn trước nhìn sau. Nếu có con chiên nào bệnh tật hay mỏi mệt, thì người chăn chiên chăm sóc thuốc thang cho nó một cách đặc biệt và nếu cần thì cõng nó trên vai. Nói tóm lại người chăn chiên đích thực là người hết lòng vì chiên, biết tường tận từng con chiên và sống chết cho đàn chiên của mình. Đó là hình ảnh mà Thiên Chúa và Đức Giê-su muốn dùng để nói với chúng ta rằng Người là Đấng chăm lo, dẫn dắt chúng ta là những kẻ thuộc về Người như những con chiên thuộc về người chăn.

2. Chúng ta phải làm gì cho các ơn thiên triệu trong Giáo hội hôm nay và ngày mai?

- Trong đời sống Giáo hội, các linh mục có một ơn gọi đặc biệt là được Thiên Chúa cho cộng tác với Người trong việc chăm lo, chăn dắt và hướng dẫn người tín hữu là con cái của Chúa và là anh chị em của mình. Các tu sĩ nam nữ có một ơn gọi đặc biệt khác là được mời gọi nên giống Chúa Giê-su Ki-tô trong đời sống vâng phục khó nghèo và trinh khiết. Ơn gọi đặc biệt làm nẩy sinh sứ mạng đặc biệt. Ơn gọi linh mục làm cho người có chức thánh có sứ mạng phục vụ cộng đoàn trong việc thực hiện các hành động có tính Bí Tích của Chúa Giê-su. Ơn gọi tu sĩ làm cho các tu sĩ nam nữ có sứ mạng minh chứng Thiên Chúa là Thực Tại Tuyệt Đối, đáng được người ta hy sinh tất cả để tìm gặp.  Các linh mục và tu sĩ có được ơn gọi và sứ mạng đặc biệt ấy không phải do tài năng hay sự thánh thiện cá nhân của các ngài, mà do Tình Thương của Thiên Chúa đối với đàn chiên là cộng đồng Dân Chúa. Vì thế, các linh mục và tu sĩ phải khiêm nhường và toàn tâm toàn ý với việc chu toàn sứ mạng của mình. Hơn nữa, khi thực thi sứ mạng chăn dắt, các linh mục phải cố gắng trở nên một vị chủ chăn hiền lành, thánh thiện, xả kỷ, vị tha theo gương Chúa Giê-su Ki-tô, vị Mục Tử Nhân Lành. Khi thi hành sứ mạng làm chứng Thiên Chúa là Tuyệt Đối, các tu sĩ phải nỗ lực trở nên giống Thiên Chúa, giống Đức Giê-su Ki-tô mỗi ngày mỗi nhiều hơn, tức phải trở nên trọn lành như Cha ở trên trời là Đấng trọn lành.
- Phía người giáo dân, chúng ta thấy Giáo hội luôn cần những người có các ơn gọi đặc biệt này vì trong chương trình Cứu độ và trong cách hành xử, Thiên Chúa không trực tiếp thực hiện hết mọi công việc, mà Người thường dùng các cộng sự viên giữa hàng ngũ loài người. Nhưng chúng ta đừng quên rằng các linh mục tu sĩ cũng là những con người bằng xương bằng thịt, có giới hạn và yếu đuối như mọi người, rất cần đến sự nâng đỡ, hỗ trợ của chúng ta. Vậy thì chúng ta phải hỗ trợ các linh mục tu sĩ bằng những phương cách nào? Trước hết chúng ta phải trân trọng các ơn gọi linh mục và tu sĩ là những ơn gọi đặc biệt trong Giáo hội và rất cần thiết cho đời sống cộng đoàn. Rồi chúng ta phải chân thành cộng tác với các linh mục và tu sĩ trong các công tác mục vụ nhằm mưu ích cho cộng đoàn và xây dựng Nước Thiên Chúa trong môi trường chung quanh. Tiếp đến chúng ta không được lơ là việc cầu nguyện cho các linh mục và tu sĩ ấy, vì các ngài rất cần ơn sủng của Chúa để chu toàn trách nhiệm mục tử và để mỗi ngày mỗi nên giống Chúa hơn. Ngoài ra nhiều khi chúng ta còn phải hỗ trợ các linh mục và tu sĩ về phương tiện tài chánh mà các ngài cần cho việc chung và chúng ta có khả năng. Sau cùng có khi chúng ta phải giúp các ngài những lời khuyên, phải khiêm tốn và chân tình đóng góp những ý kiến cần thiết. Cuối cùng chúng ta còn phải biết cổ võ ơn gọi linh mục và tu sĩ nơi những người trẻ, bắt đầu từ trong con cái chúng ta. Bằng cách giúp họ nhìn ra các nhu cầu bao la và cấp bách của Giáo hội và thế giới. Bằng cách động viên, khuyến khích họ (chứ không ép buộc) chọn nếp sống quảng đại, vị tha, khiêm nhường, phục vụ là nếp sống có gía trị nhân bản và Ki-tô giáo đích thực.

Nguyện:

* Lạy Thiên Chúa là Chủ cánh đồng, xin Cha ban cho Giáo hội nhiều thợ gặt lành nghề và nhiệt tâm với công việc của mùa gặt. Lạy Thiên Chúa là Chúa Chiên Lành, xin Cha ban cho Giáo hội nhiều chủ chiên hết lòng với đàn chiên.

* Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Mục Tử Nhân Lành, xin Chúa gìn giữ và chúc lành cho các Giám Mục, Linh Mục và Tu Sĩ là những người được chia sẻ sứ mạng chăn chiên của Chúa, cách riêng xin Chúa giữ gìn và chúc lành cho Đức Giám mục giáo phận, cho cha xứ, cha phó chúng con và cho các tu sĩ nam nữ đang phục vụ giáo xứ chúng con.

* Chúng ta có thể cầu nguyện cho các ơn thiên triệu bằng cách hát bài quen thuộc sau đây: “Lạy Chúa xưa Chúa đã phán: Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt…..”

Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội.

----------------------------------

 

PS 4-C19: CHÚA CHIÊN LÀNH - Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR


"Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta" (Ga 10:27).

 

Bao biến cố quan trọng đã liên tiếp diễn ra trong lòng Giáo hội suốt cả Đại Năm Thánh 2000: PS 4-C19


Bao biến cố quan trọng đã liên tiếp diễn ra trong lòng Giáo hội suốt cả Đại Năm Thánh 2000 vừa qua. Từ việc phong chân phước cho Thầy giảng Anrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi của Việt Nam, đến phong hiển thánh cho 120 anh hùng tử đạo Trung hoa; từ sự kiện Đức Thánh Cha công khai sám hối những lỗi lầm của con cái Giáo hội trong quá khứ đến việc ngài đi hành hương thánh địa Palestine; từ Đại hội Giới trẻ, qui tụ trên 2 triệu thanh niên thiếu nữ từ khắp nơi về Rôma, đến việc tiết lộ bí mật thứ ba Fatima... Trong số những biến cố đáng ghi nhận trong Năm Thánh là việc Đức Thánh Cha chuẩn y bản tuyên ngôn Dominus Iesus (Chúa Giêsu) vào ngày 16.06.2000, và sau đó được Toà Thánh công bố vào ngày 05.09.2000.

Bản Tuyên ngôn Dominus Iesus là lời xác tín "Không có ơn cứu độ ngoài Chúa Giêsu." Đây cũng là lời khẳng định tầm mức quan trọng của Giáo hội Công giáo trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Bản tuyên ngôn cảnh giác người tín hữu trước những tư tưởng muốn tương đối hoá tôn giáo, cho rằng mọi tôn giáo đều có giá trị ngang nhau, đều chứa đựng một số yếu tố cứu độ nào đó dù không tôn giáo nào mạc khải trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa cho con người.
Bản tuyên ngôn phủ nhận có sự đối kháng giữa "não trạng thiên về luận lý của phương tây" và "não trạng thiên về biểu tượng của phương đông." Bởi vì hệ luận tất yếu của nó là sự khước từ Công giáo như con đường cứu độ tốt nhất cho dân tộc châu Á.

Đang khi đó, Giáo hội tự khẳng định là "cần thiết cho ơn cứu rỗi của nhân loại." Điều này không có hàm ý "người không có đạo sẽ không được cứu độ." Đúng hơn, ơn cứu độ của Chúa Giêsu, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã liên kết cách nhiệm mầu những người ngoài Công giáo với Giáo hội của Ngài.

Sau khi bản Tuyên ngôn được chính thức công bố, một số phản ứng tiêu cực đã xuất hiện. Có người cho rằng lời lẽ của Dominus Iesus quá trịch thượng khi cho rằng "chỉ nơi Đức Giêsu mới có ơn cứu độ." Có người cho rằng bản Tuyên ngôn như thế sẽ làm cản trở con đường đại kết. Thậm chí có người dám nghĩ Đức Thánh Cha đã không sáng suốt nhận định tình hình trước khi công bố Dominus Iesus. Đây chẳng khác chi thái độ của một số người Do thái sau khi Chúa Giêsu nói về vai trò chủ chiên của mình. Họ tuyên bố: "Hắn bị quỉ ám, và ra điên sảng. Tại sao các ngươi cứ nghe hắn?" (Ga 10:20)

Nhưng rồi, trong ngày tôn phong hiển thánh các anh hùng tử đạo Trung Hoa, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định tính chất độc nhất và ơn cứu độ phổ quát của Chúa Giêsu và Giáo hội qua bài giảng như sau:

"Bằng việc công bố Tuyên ngôn ‘Chúa Giêsu’ mà Ta đã đặc biệt chuẩn y vào thời cao điểm của Năm Thánh, Ta muốn mời gọi tất cả các Kitô hữu hãy cùng canh tân sự tín trung của mình vào Chúa Giêsu trong niềm hân hoan của lòng tin, đồng thời cùng nhau làm nhân chứng cho Đấng, hôm nay cũng như hôm qua, ‘là đường, là sự thật, và là sự sống’ (Ga 14:6).

"Lời tuyên xưng Đức Kitô là Con duy nhất của Thiên Chúa, Đấng đã tỏ cho chúng ta thấy nhan Cha (x. Ga 14:8) không phải là một sự trịch thượng đối với các tôn giáo khác, nhưng là niềm cảm mến tri ân vì Đức Kitô đã tỏ mình cho chúng ta, dù không phải vì công trạng của chúng ta. Nhưng đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta tiếp tục trao tặng những gì đã nhận lãnh và thông truyền cho người khác những gì được tặng ban. Trong ý nghĩa đó, Chân Lý và Tình Yêu chính là Thiên Chúa đã được ban tặng cho mọi người và thuộc về mọi người.

"Cùng với Thánh Tông đồ Phêrô, chúng ta tuyên xưng "Không có ơn cứu độ nơi một người nào khác"(Cvtđ 4:12). Bản Tuyên ngôn Chúa Giêsu, dưới sự hướng dẫn của Công đồng Vaticanô II, nhận định rằng sự tuyên xưng này không có ý loại trừ ơn cứu độ khỏi những ai không phải Kitô hữu, nhưng là chỉ ra cội nguồn ơn ấy nơi Đức Kitô, trong Ngài, con người và Thiên Chúa được hiệp nhất. Thiên Chúa soi sáng cho người ta theo cách thế phù hợp với tình trạng tâm linh và thể chất của họ, giải cứu họ bằng những đường lối mà chỉ có Ngài biết."

"Bản tuyên ngôn phân định rõ ràng những điểm quan yếu của Kitô giáo. Điều này không cản trở sự đối thoại [đại kết] nhưng chỉ ra nền tảng của nó. Bởi vì đối thoại mà không có nền tảng căn bản thì sẽ thoái hoá thành những ngôn từ trống rỗng...
"Nguyện xin Mẹ Maria, Đấng mà Chúa Giêsu trên Thánh giá đã ký thác làm Mẹ nhân loại, trợ giúp chúng ta cùng nhau lớn lên trong niềm tin vào Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, trong niềm hy vọng tất cả sẽ nhận được ơn cứu độ nơi Ngài, và trong tình yêu thương như dấu chỉ của con cái Thiên Chúa."

Hôm nay xem lại một vài văn kiện và những biến cố xảy ra trong Năm Thánh, tôi cảm thấy thấm thía lời nói của Đức Giêsu: "Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Và Ta ban cho chúng sự sống đời đời" (Ga 10:27-28).

Có những con chiên không quen nghe tiếng chủ mình. Không tha thiết tìm hiểu, học hỏi và suy tư. Nó khó chịu khi phải theo chủ. Thích phóng khoáng và tương đối hoá mọi sự. Cứ tưởng không cần theo Chúa, chỉ "ăn ngay ở lành" là tự giải thoát được mình. Nhưng có ăn ngay ở lành nào mà không do tình yêu và lẽ phải tác động. Thế nên, nói cho cùng thì cũng chính nhờ Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu và Chân Lý soi chiếu, mà người ta tìm thấy được "sự sống đời đời."

Hiệp cùng với Đức Thánh Cha, vị mục tử đại diện Chúa Giêsu ở trần gian, xin dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin tha thiết cho bao con chiên đang lầm đường lạc lối, không biết lắng nghe và không chịu bước theo tiếng nói của Giáo hội. Xin cầu cho bao con chiên khác chưa thuộc cùng một ràn, được nên chung một đàn, với một chủ chiên duy nhất là Đức Kitô (Ga 10:16). Xin cho Tin mừng Tình yêu Cứu độ của Ngài được mọi dân nước tin nhận. Để nhờ đó hoa quả hạnh phúc thiên đàng sẽ nở tươi ngay trên trần gian.


----------------------------------

 

PS 4-C20: CHÚA CHIÊN LÀNH - Lm JK


(cầu cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ)

Đọc Lời Chúa

· Cv 13,14.43-52: Phao-lô và Ba-na-ba nói với người Do Thái: «Đúng ra anh em mới là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, nên đã trở nên không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây, chúng tôi quay về phía dân ngoại». Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.

· Kh 7,9.14b-17: Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.

· TIN MỪNG: Ga 10,27-30

Chúa là mục tử luôn yêu thương gắn bó với chiên của mình
Khi ấy, Đức Giê-su nói: «Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một».


Suy niệm

Câu hỏi gợi ý:

 

Yếu tố quan trọng nhất để trở thành mục tử nhân lành là gì? Có phải là tình yêu thật sự đối với: PS 4-C20

1. Yếu tố quan trọng nhất để trở thành mục tử nhân lành là gì? Có phải là tình yêu thật sự đối với đàn chiên không?
2. Người mục tử phải biểu lộ tình yêu của mình đối với đàn chiên thế nào? Đức Giê-su đã yêu thương chiên của mình thế nào?

Suy tư gợi ý:

1. Người mục tử phải thật sự yêu thương đàn chiên
Đọc bài Tin Mừng, ta thấy ngay sự quan hệ tốt đẹp, đầy yêu thương, và gắn bó đến mức sống chết với nhau giữa mục tử và đàn chiên. Quan hệ ấy quả là gương mẫu tuyệt vời cho mọi quan hệ ở trần gian này giữa các vị mục tử và những giáo hữu mà các ngài có trách nhiệm chăm sóc. Quan hệ giữa mục tử và giáo hữu có tốt đẹp hay không tùy thuộc vào cả hai phía, nhưng bình thường thì chủ yếu và tiên khởi vẫn thuộc về phía mục tử.

Đức Giê-su nói: «Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi». Tại sao chiên lại nghe và theo người mục tử, mà không nghe và theo người lạ hay kẻ trộm? Chính vì đàn chiên đã cảm nhận được tình yêu thương đậm đà mà người mục tử dành cho chúng. Để là mục tử đúng nghĩa, điều quan trọng là phải có tình yêu đối với những người mà Thiên Chúa trao trách nhiệm cho mình chăm sóc. Điều này đòi hỏi người mục tử phải yêu mến Thiên Chúa hay Đức Giê-su thật sự và nồng nàn.

Chắc chắn không phải là không có ý nghĩa việc Đức Giê-su, trước khi giao cho Phê-rô trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Ngài, đã phải hỏi ông tới ba lần: «Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thày hơn các anh em này không?». Thật vậy, có yêu Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu, có yêu Đức Giê-su nồng nàn thì mới có đủ tình yêu cần thiết để hy sinh cho đàn chiên như nhu cầu thực tế của đàn chiên đòi buộc. Người mục tử có thật sự yêu thương đàn chiên, thì đàn chiên mới cảm nhận được tình yêu người mục tử dành cho họ, để dựa vào đó họ tin tưởng và nghe theo người mục tử. Người mục tử sẽ chẳng làm được gì ích lợi cho đàn chiên nếu đàn chiên không tin tưởng và không vâng nghe lời người mục tử.

Tóm lại, muốn đàn chiên tin tưởng và nghe theo mình, người mục tử phải thật sự yêu thương đàn chiên.

2. Tình yêu của người mục tử phải được biểu lộ bằng hành động.

Làm sao bổn đạo có thể cảm nhận được tình yêu của mục tử đối với mình, nếu người mục tử không có những hành động cụ thể biểu lộ tình yêu ấy? Đức Giê-su đã đưa ra những hành động cụ thể của Ngài, với tư cách là Mục Tử tốt lành như sau:

– Trước hết là «tôi biết chúng» (Ga 10,27), và có thể «gọi tên từng con» (10,3). Nếu người mục tử yêu thương chiên của mình thật sự, thì sẽ phải chú ý đến nhu cầu của từng con chiên một, để chăm sóc chúng, để đáp ứng đúng nhu cầu của từng con. Tôi biết có những linh mục thường xuyên đi thăm các gia đình trong họ đạo, và biết rõ tên của từng người trong từng gia đình, cùng với hoàn cảnh và nhu cầu của từng người, từng gia đình một. Người bổn đạo sẽ cảm nhận được tình thương của người mục tử ngay khi thấy ông gọi trúng tên mình, biết rõ hoàn cảnh của mình, và đáp ứng kịp thời đúng nhu cầu của mình.

– «Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào» (10,10), «Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi» (10,28). Người mục tử tốt lành luôn quan tâm đến sự sống, hạnh phúc và sự an nguy của đàn chiên, nhất là đời sống tâm linh. Nhưng ông không chỉ quan tâm đến đời sống tâm linh, mà còn quan tâm đến cả đời sống thực tế của đàn chiên. Đức Giê-su luôn luôn quan tâm đến nhu cầu vật chất của dân chúng: chẳng hạn trong phép lạ hóa bánh ra nhiều: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?» (Ga 6,5), hay sau khi làm cho đứa con gái ông Gia-ia (trưởng hội đường) chết sống lại, thì Ngài «bảo họ cho con bé ăn» (Mc 5,43).

– «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Không người mục tử nào ngu dại đến nỗi coi sự sống của đàn chiên quí hơn mạng sống mình, trừ trường hợp đàn chiên ở đây không phải là thú vật, mà là những con người, là hình ảnh Thiên Chúa hay con cái Thiên Chúa, hay nói cách khác là hiện thân của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng đã yêu thương con người đến nỗi đã sẵn sàng hy sinh Con Độc Nhất của mình cho con người (x. Ga 3,16). Người bổn đạo đối với người mục tử không phải chỉ là những con chiên mà là những linh hồn hết sức quí giá, đáng cho người mục tử hy sinh mạng sống mình vì họ. Thái độ này khác hẳn với thái độ của người làm thuê, hay mục tử giải được biểu lộ bằng hành động hiệu, là «khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy (…) không thiết gì đến chiên» (Ga 10,12-13).

3. Những mục tử xấu, giả hiệu

Thánh Kinh không chỉ nói đến những mục tử tốt lành, nhưng còn nói đến những mục tử giả hiệu – mà Đức Giê-su ví như bọn chăn chiên thuê – chỉ biết nghĩ đến mình, nghĩ đến sự an nguy, quyền lợi hay hạnh phúc của mình, chỉ biết rút ra những lợi lộc từ đàn chiên, mà không nghĩ gì đến quyền lợi hay hạnh phúc của đàn chiên. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết: «Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta thất lạc và tan tác (…) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng» (Gr 23,1-2). Ngôn sứ Ê-dê-ki-en viết: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! (…) Sữa chiên thì các ngươi uống, len của chúng thì các ngươi mặc, con nào béo tốt thì các ngươi giết, và chẳng thèm lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương các ngươi không băng bó; chiên bị lạc các ngươi không đưa về; chiên bị mất các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, khiến chúng bị tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm» (Ed 34,2-6). Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Ê-dê-ki-en để nguyền rủa loại mục tử này: «Bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta, nên hỡi các mục tử! Đây Ta chống lại các ngươi. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để các ngươi chăn dắt chiên Ta nữa (…) để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa» (Ed 34,8b-10).

Thời nào cũng có những mục tử nhân lành, vị tha, nhưng chẳng có thời nào lại vắng bóng những mục tử xấu, ích kỷ. Điều đáng tiếc là trong một số giáo hội địa phương, đời sống thoải mái với vật chất đầy đủ và mặc nhiên được trọng vọng của các linh mục, giáo sĩ đã khiến cho khá nhiều người phấn đấu để trở nên linh mục, giáo sĩ vì những động cơ thấp kém. Vì thế, trong những giáo hội ấy, những mục tử nhân lành dám sống chết vì đàn chiên, dám hy sinh cho đàn chiên không nhiều như trong những giáo hội mà người ta được thúc đẩy làm linh mục và giáo sĩ vì những động cơ siêu nhiên hơn. Do đó, những linh mục và giáo sĩ tương lai cần phải luôn luôn quan tâm thanh lọc động cơ thúc đẩy mình theo đuổi đời sống tu trì. Động cơ tốt nhất phải là tình yêu đích thực và nồng nàn đối với Thiên Chúa và tha nhân, muốn cho tất cả mọi người đều được hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, trong Giáo Hội của chúng con, chắc chắn không thiếu những mục tử thánh thiện, luôn yêu thương và sẵn sàng hy sinh tất cả cho đàn chiên. Nhưng chắc chắn cũng có những mục tử chưa yêu thương và hy sinh cho đàn chiên như lòng Chúa mong ước, như nhu cầu của đàn chiên đòi hỏi. Chúa là Mục Tử Gương Mẫu, xin hãy gia tăng số mục tử nhân lành lên, xin hãy làm cho ngọn lửa yêu thương bùng cháy lên trong tâm hồn các mục tử, để Giáo Hội càng ngày càng trở nên tốt đẹp, có khả năng biến cải thế giới và xã hội thành nhân bản hơn, chan hòa tình Chúa tình người hơn. A-men.


----------------------------------

 

PS 4-C21: CHIÊN TA THÌ NGHE TIẾNG TA - Lm Nguyễn Hùng


Jn 10:27-30

 

Tại Ấn Độ người ta bắt khỉ bằng cách làm một hộp gỗ chắc chắn, cắt một lỗ nhỏ vừa đủ cho con: PS 4-C21


Tại Ấn Độ người ta bắt khỉ bằng cách làm một hộp gỗ chắc chắn, cắt một lỗ nhỏ vừa đủ cho con khỉ thò tay vào, nhưng nếu nó nắm trong tay hột "nut" đựng trong hộp, nó không thể lấy tay ra được. Do đó con khỉ có thể chọn một trong hai việc: nó có thể buông hạt "nut" ra và ra đi tự do, hoặc chịu bị bắt. Nhưng con khỉ thường nắm chặt lấy hạt "nut". Khả năng lựa chọn nói lên quyền tự do, tuy nhiên con khỉ không có trí khôn nên không hiểu biết và quí trọng tự do.

Trong tình yêu thương Thiên Chúa đã lựa chọn con người để cho họ được chia sẻ sự sống đời đời. Bối cảnh của đoạn Phúc âm ngắn hôm nay là Chúa đang nói chuyện với người Do Thái trong khi đi dạo tại đền thờ Giêrusalem. Họ trách Chúa Giêsu sao lại để họ nghi nan, thắc mắc Chúa có phải là Đấng Thiên Sai không. Chúa không trả lời trực tiếp cho họ, nhưng nói rằng: "Chiên của ta thì nghe tiếng ta' ta biết chúng và chúng theo ta. Ta ban cho chúng sự sống đời đời' không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay ta. Cha ta, Đấng đã ban chúng cho ta, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Ta và Chúa Cha là một."

Chúa Giêsu muốn nói cho người Do Thái biết đức tin vào Ngài là dấu hiệu của người được Chúa tuyển chọn, là chiên của Ngài. Đức tin ban cho con người khả năng nhận ra tiếng Chúa để bước theo. Loài chiên có đôi mắt rất kém, cận thị nặng, nếu có kính chắc phải dày hơn đế chai. Vì thế nó phải theo nhau thành đoàn, và lắng nghe tiếng người chăn chiên mà theo, không theo tiếng người lạ. Ngày nay đức tin nơi nhiều người Kitô hữu đang bị phai nhạt, giảm sút. Sống trong xã hội hưởng thụ vật chất, ưa tìm an nhàn, vui sướng, người ta muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống để thoải mái chạy theo những ước muốn bất chính tự nhiên của con người. Người ta dùng nhiều lý do để bào chữa cho tội lỗi mình, để khỏi phải thống hối và dứt bỏ cảm giác thoải mái do cuộc sống bất chính đem lại. Con người đang dùng tự do của mình để chối bỏ Thiên Chúa, không muốn lắng nghe tiếng Ngài là Đấng Chăn Chiên tốt lành.

Hậu quả của việc chối bỏ Thiên Chúa dẫn đưa con người đến đâu? Nhìn vào xã hội ngày nay, con người ai cũng tham sống, muốn sống lâu, sống bảo đảm về vật chất, về tinh thần. Thế nhưng cái chết vẫn có thể chụp bắt bất cứ ai, từ em bé sơ sinh, nàng thiếu nữ, chàng thanh niên tuổi xuân phơi phới, cho đến cụ già râu tóc bạc phơ. Biết bao nhiêu thay đổi biến chuyển trong cuộc đời khiến con người điên đảo, hụt hẫng, thất vọng đến lao đầu vào cái chết' chỉ trong một lúc, người giầu có với vợ đẹp con khôn có thể mất đi tất cả những điều đó. Khi chối bỏ Thiên Chúa con người chỉ đi đến chỗ diệt vong, vì chỉ một mình Ngài có đủ bản lãnh ban cho chúng ta cuộc sống đời đời, cuộc sống bảo đảm không bị ai cướp đi mất.

Mùa Phục Sinh là thời gian đón mừng sự sống thần linh, vĩnh cửu mà Chúa Kitô đã đem lại cho con người. Sự sống đó chỉ dành cho những ai lựa chọn nghe theo tiếng Chúa, sống theo sự hướng dẫn của Tin Mừng, của Chúa Kitô chịu tử giá và phục sinh. Tiếng Chúa đang kêu mời chúng ta bỏ đi lối sống gian dối, lừa đảo để được mối lợi vật chất, bỏ đi mối tình ngang trái, vụng trộm chỉ đưa đến bất hạnh, tan nát gia đình, bỏ đi gói thuốc, chai rượu, những đêm thâu bên canh bạc, bỏ đi hận thù, ganh ghét, nói xấu, chửi bới, đánh đập nhau... và còn biết bao điều bất hạnh khác mà chúng ta có thể đang mắc phải. Bỏ đi được những điều đó chúng ta mới có thể bước theo Chúa Kitô và tìm thấy cuộc sống đời đời và bảo đảm không bị mất.


----------------------------------

 

PS 4-C22: HIẾN DÂNG BẢN THÂN LÀM BÀN THỜ - Lm Augustine, S.J


Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

 

Một hôm có người bố đến dự cuộc hội thảo dành riêng cho các bậc làm cha và các giáo viên: PS 4-C22


Một hôm có người bố đến dự cuộc hội thảo dành riêng cho các bậc làm cha và các giáo viên tại một trường trung học ở thành phố Chicago của Hoa Kỳ. Khi nói chuyện với một giáo viên từng dạy con trai ông, người bố bỗng rưng rưng hai hàng lệ. Sau khi lấy lại bình tĩnh, ông ngỏ lời xin lỗi và nói: "Con trai tôi hiện không còn chung sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu quí nó và muốn biết nó hiện học hành ra sao."

Tại sao bị vợ con bỏ.

Ông bố cắt nghĩa lý do tại sao vợ ông và bốn đứa con đã lìa bỏ ông. Ông là một nhà thầu lo việc xây dựng. Có thời gian ông bận rộn làm việc tới 16 tiếng đồng hồ một ngày. Trong hoàn cảnh đó ông ít khi có giờ gặp gỡ vợ con. Và ông buồn bã nói tiếp:

"Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con mọi thứ mà tôi từng mơ ước trao tặng cho họ. Nhưng vì mải mê công việc làm ăn, tôi không quan tâm tới điều mà các con tôi lấy làm cần thiết hơn cả: đó là chúng cần một người cha thường xuyên gần gũi để yêu thương và nâng đỡ chúng."

Người bố trong câu chuyện nói trên đã rưng rưng hai hàng lệ vì chính ông nêu vấn đề đụng chạm tới bề sâu nơi con người ông. Tình yêu đã là động lực khiến ông chọn kết hôn với một người bạn gái. Hai người đã chung sống đời vợ chồng và đã sinh được bốn người con. Nhưng chỉ vì mải mê công việc làm ăn nên ông đã không dành đủ phần quan tâm cần thiết cho vợ con. Kết quả là vợ ông và bốn đứa con đã lìa bỏ ông. Họ không còn ở trong tầm tay ông nữa. Ông đau khổ trước sự mất mát quá lớn. Bởi lẽ những con người ruột thịt của ông mà nay không còn thuộc về ông nữa.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập tới vấn đề nơi bề sâu của con người Đức Giêsu. Người không những cho biết những ai thuộc về Người mà còn cho biết chính Người thuộc về ai?

Khởi sự tác giả Gioan đặt ta vào bối cảnh lễ Cung Hiến Đền Thờ của người Do Thái, trong đó Đức Giêsu cho thấy chính Người là Vị Cứu Tinh Mêsia (Ga 10, 22-31) và là Con Thiên Chúa (cc. 32-39).

Lễ cung hiến Đền Thờ là dịp để người Do Thái mừng chiến thắng vẻ vang do anh em dòng họ Macabê mang lại. Đó là cuộc chiến thắng để rửa nhục cho Israel. Suốt ba năm (167-164 trước CN) quân Syria đã xâm chiếm lãnh thổ dân Thiên Chúa. Họ đã làm cho Đền Thờ ra ô uế bằng cách dựng tượng thần Ba-an ngay trên bàn thờ nơi dân Israel thường dâng của lễ toàn thiêu cho Giavê Thiên Chúa (1Mcb 1, 54; 2Mcb 6, 1-7). Đầy lòng căm phẫn, tướng Giuđa Macabê đã nổi dậy đánh đuổi quân Syria và thiết lập một bàn thờ mới. Bàn thờ này cùng với Đền Thờ đã được tái cung hiến (1Mcb 4, 41-61) với lễ kỷ niệm được cử hành mỗi năm.

Hiến dâng bản thân làm bàn thờ

Điều mà tác giả Gioan ám chỉ là: chính Đức Giêsu hiến dâng bản thân Người làm bàn thờ. Điều đó Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo dạy rất rõ khi nói: Bàn thờ là nơi mà Giáo Hội được quy tụ lại; đó chính là "biểu tượng về Đức Kitô hiện diện giữa cuộc tập họp của những ai tin theo Người: Đức Kitô vừa là lễ vật hy sinh được dâng để ta được giao hoà, đồng thời Người còn là của ăn từ trời cao tự hiến để nuôi ta." (số 1383).

Riêng đoạn Tin Mừng Ga 10, 22-29 cho thấy tột đỉnh của những cuộc tranh cãi giữa Đức Giêsu và người Do Thái. Đây là cuộc tranh cãi chót khiến giới hữu trách Do Thái quyết tâm bắt Đức Giêsu. Màn Tin Mừng này chia làm hai; ở giữa là biến cố người Do Thái toan tính ném đá Đức Giêsu.

C. 22 đặt ta vào bối cảnh của lễ Cung Hiến Đền Thờ vào trung tuần tháng 12, kéo dài 8 ngày.

C. 23 định vị cuộc tranh luận gay cấn diễn ra nơi hàng hiên hình thang khổng lồ bao quanh Đền Thờ Giêrusalem. Hàng hiên này ở phía thung lũng Khê-ron quen gọi là hàng hiên Salomon, có lẽ vì cổ kính nhất nên được kể như do chính vua Salomon xây dựng.

C. 24 nối lại việc Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng Người là Đức Kitô và là Con Người. Những người như chị phụ nữ người Samari (Ga 4, 25-26) hay như anh mù từ thuở mới sinh (Ga 9, 36-37), đều là những cá nhân sẵn sàng đón nhận Đức Giêsu là vị Thiên Sai. Còn ở đây, ngược lại, Đức Giêsu bị bao vây và bị thách đố do những con người đến với ý đồ để bắt bớ Người mà thôi.

C. 25 Đức Giêsu vạch cho người Do Thái thấy nguồn gốc của mọi sự là CHA. Do đó Người đòi hỏi ai nấy phải bày tỏ một niềm tin tuyệt đối bằng cách thuộc về Người để có thể qui về Cha là nguồn gốc của họ.

C. 26 Khi Đức Giêsu của sách Tin Mừng Gioan nói với người Do Thái rằng "các ông không tin tôi vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi," Người ám chỉ về một cộng đoàn hết sức cụ thể, đó là cộng đoàn Kitô hữu dưới sự chăm sóc của Gioan. Cộng đoàn ấy gắn bó mật thiết với Đức Giêsu và được tách biệt khỏi những người không thuộc về Đức Giêsu. Cộng đoàn ấy biết mình sống dưới sự che chở của Đức Giêsu và của CHA Người, cho nên mọi người trong cộng đoàn đều được an tâm vững dạ.

Thuộc về ai

CC. 27-28 đối chiếu cách ăn ở trung tín của các chiên dưới sự lãnh đạo của Đức Giêsu Mục Tử, ngược hẳn lại với thái độ cứng tin của người Do Thái. Ở đây Đức Giêsu nhắc lại "tính cách thuộc về" của các chiên đối với Người: chúng nghe tiếng Người (Ga 10, 3-16); chính Người biết rõ các chiên của Người (cc. 3, 14); chúng theo Người (cc. 10,4) và Người ban cho chúng sự sống đời đời (10, 9-10).

CC. 29-30 cho thấy các chiên được an toàn dưới sự chăm sóc của Đức Giêsu là vị mục tử nhân hậu như Người đã thưa với Cha "Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất" (Ga 17, 12). Cha là Đấng đã ban chúng cho Người. Vì Người và Chúa Cha là một nên không ai cướp được chúng khỏi Người, bởi lẽ Chúa Cha thì lớn hơn tất cả, nên không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.

C. 31-39 cho thấy giữa bối cảnh thù địch của người Do Thái, Đức Giêsu vẫn tiếp tục tự mạc khải và tự hiến mình cho họ và cho mọi người:

- Chính Chúa Cha thánh hiến Người và sai Người đến thế gian (c.36). Thân Thể Đức Kitô phục sinh chính là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình cho loài người (Ga 1, 14). Đó là nơi loài người có thể thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và trong Sự Thật (Ga 4,23-24). Cho nên Đức Kitô mới thực sự là Đền Thờ được cung hiến cho Thiên Chúa một cách hoàn hảo và trọn vẹn.

- Đức Kitô đòi mọi người tin vào các việc Người làm (c.38). Các việc ấy bao gồm toàn bộ công trình cứu độ do Người thực hiện: Người đến là để mạc khải cho nhân loại biết Chúa Cha; nơi Người chính Chúa Cha cũng tự mạc khải (c. 38).

Tất cả được nên một

Vậy bài Tin Mừng hôm nay tuy chỉ là một đoạn văn ngắn nhưng đã là một bước chuẩn bị cho lời cầu xin nơi bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu thưa với Chúa Cha: "Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến" (Ga 17, 19). Và trong bữa Tiệc Ly ấy, Đức Giêsu còn cho biết Người không chỉ cầu xin cho Mười Hai tông đồ mà thôi "nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con, để tất cả nên một, như, lạy CHA, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta." (c. 20-21).

Trở lại với người bố rưng rưng hai hàng lệ trong câu chuyện nói trên. Người bố ấy đau khổ vì vợ ông và bốn con ông là những người ruột thịt của ông mà nay không còn thuộc về ông nữa! Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói tới mối tương quan thâm sâu là mối tương quan khiến cho người này cảm thấy mình thuộc về người kia, nhưng với Đức Giêsu mối tương quan ấy có cơ sở thực là vững vàng:

- Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êdêkien đã từng mô tả Giavê Thiên Chúa là vị Mục Tử lý tưởng: "Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta… Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ bồi dưỡng; con nào mập béo, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng." (Ed 34, 15-16). Trong Tin Mừng của Gioan, chính Đức Giêsu tự mô tả mình là vị Mục Tử lý tưởng đó với điều đặc sắc là: Người biết các chiên của Người để chăm sóc và yêu thương chúng vì chúng thuộc về Người; chính Người ban cho chiên của Người sự sống đời đời (c. 28). Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.

Mối tương quan giữa Đức Kitô và các chiên của Người thực sự vững vàng đến nỗi Người khẳng định rằng "không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (c. 28). Lý do "vì Tôi và Chúa Cha là một" (c. 30) mà Chúa Cha "lớn hơn tất cả" thì còn có ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha đâu!

Một số câu hỏi gợi ý

1. Bạn nghĩ điều gì có thể thực sự an ủi người bố đau khổ trong câu chuyện nói trên: có phải việc ông được biết con ông học hành ra sao nơi học đường? Hay việc ông được chung sống trở lại với vợ con ông? Hay bạn cảm thấy chưa được cung cấp đủ tin tức về người bố đau khổ nói trên? Nhưng dựa theo bài Tin Mừng hôm nay, bạn có thể nói gì với người bố đó nếu bạn được yêu cầu và nếu bạn biết rõ người đó có chung một đức tin Kitô giáo với bạn?

2. Bạn nghĩ gì về câu nói của Chúa Giêsu áp dụng với trường hợp bạn khi Người nói "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời"? (cc.27-28) Điều gì bạn thấy là tâm đắc nhất trong câu nói đó của Chúa Giêsu?


----------------------------------

 

PS 4-C23: TIN VUI GỬI NGƯỜI BỊ ĐỨT RỄ - Lm Dũng Lạc Trần Cao Tường

 

Đầu tháng 4 năm 1997 ở Chicago, vụ một bé gái 9 tuổi người Mỹ đen bị một thanh niên Mỹ: PS 4-C23


Đầu tháng 4 năm 1997 ở Chicago, vụ một bé gái 9 tuổi người Mỹ đen bị một thanh niên Mỹ đen khác hành hạ hết sức tàn ác và man rợ may được khám ra kịp đưa đi nhà thương cứu cấp đã gây chấn động nơi tập thể Mỹ đen. Hóa ra nhiều đứa choai choai Mỹ đen chỉ có mẹ mà không có cha, không có ngày mai, không còn một ý thức tối thiểu về luân lý, mất luôn cả bản tính loài người ở ngay trong xã hội văn minh nhất loài người. Những lãnh tụ nổi tiếng như Jesse Jackson và Louis Farakhan đã đến thăm viếng và dám nói lên tệ trạng của cộng đồng Mỹ đen. Năm 1995, Farakhan đã điều động một cuộc diễn hành một triệu người đàn ông Mỹ đen, kêu gọi lớp người Mỹ gốc Phi Châu hãy dám đối diện với tình trạng đứt rễ của mình và dám bắt đầu ngẩng mặt lên tiến thân chen chân với những sắc dân khác, chứ không chịu cúi đầu thua kém mặc cảm hoài khiến sinh ra tàn tệ như hôm nay.

Phim Gốc Rễ (Roots) từ cuốn truyện của Alex Haley đã tác động người Mỹ đen rất nhiều, và cũng là dịp cho người Mỹ trắng nhận diện tội ác và thái độ kỳ thị bệnh hoạn một thời. Trong phim có đoạn diễn tả truyền thống đặt tên cho con thật cảm động thời cha ông người Mỹ đen còn ở Phi Châu. Người cha bế đứa con vừa sinh ra ngoài sân ban đêm nhìn lên bầu trời đầy sao. Ngước nhìn lên cao, người cha nói với đứa con về mơ ước vào đời, rằng con cố mà vươn lên con nhé, con không thể sống tầm thường lệt bệt ở mặt đất được. Bây giờ nhiều đứa không còn cha thì lấy ai mà chỉ cho thấy ước mơ ngoài việc canh chừng để trao thuốc xì ke và lý tưởng không lớn hơn đôi giầy Nike Air và chiếc quần Zinco rộng thùng thình chẳng giống ai!

Gia tài quí nhất mà cha mẹ có thể để lại cho con là cái gốc và đôi cánh, chứ không nhất thiết là những đồng bạc trong ngân hàng. Đúng là như một thân cây, chỉ có thể tươi tốt đơm bông kết trái khi nối vào được gốc rễ và có hướng lý tưởng vươn tới. Còn gắn được vào gốc rễ thì còn nhựa sống, còn hồn, còn tinh thần.


----------------------------------

 

PS 4-C24: CÂU TRUYỆN MẤT HỒN

 

Trong cuốn Hồn Nước với Lễ Gia Tiên, triết gia Kim Định kể một câu truyện về một người bán: PS 4-C24


Trong cuốn Hồn Nước với Lễ Gia Tiên, triết gia Kim Định kể một câu truyện về một người bán mất hồn mình.

Ở Prague có một sinh viên nghèo đang lâm vào bước quẫn bách quá không biết tìm đâu ra tiền. Quỉ liền hiện đến đề nghị cho anh một món tiền kếch xù với điều kiện là nhường lại tất cả những gì anh có trong phòng. Ngỡ là điều kiện gì chứ cái đó thì anh không cần suy nghĩ vì tất cả cơ đồ của anh chỉ là một cái ghế bố đã thủng với một cái gương mẻ, vài đồ chơi rẻ tiền. Qủi cứ việc mang tất cả đi và để tiền lại đó cho anh. Nhưng trước khi đưa đi qủi bảo anh soi vào gương một cái. Đang khi anh soi thì quỉ làm dấu, bóng anh biến đi và quỉ đem các đồ dông tuốt, để lại tiền cho anh sinh viên no sống cuộc đời đế vương, không thèm chú ý chi tới chuyện xảy ra nữa. Anh chỉ thấy hơi phiền một chút là lúc soi gương cạo mặt, không thấy mặt trong gương nữa. Tuy thế, đó là sự bất tiện nhỏ nhoi không đáng quan ngại, nhất là khi người ta có đủ tiền để thuê người cạo mặt.

Nhưng một ngày kia vì có chuyện bất bình với em rể không sao giàn hòa được nên phải hẹn đánh nhau để phân phải trái. Bố vợ can ngăn hết lời vô ích nên chỉ xin anh đừng có giết em. Điều đó thì anh chịu liền, vì thực bụng chính anh cũng không muốn giết em rể, mà chỉ có ý làm sầy da một chút gọi là đắc thắng, bởi đắc thắng có nghĩa là đắc lý. Vì thế, anh lấy danh dự hứa với bố vợ sẽ không giết em.

Khi ngày quyết đấu tới anh lên xe để đến chỗ hẹn ở bên ngoài thành. Dọc đường xe gẫy bánh, anh phải xuống đi bộ một quãng xa, nên không tới đấu trường kịp giờ. Khi gần tới nơi, anh thấy một người cầm gươm đi lại để đón anh, mặt mày có vẻ giống anh như hệt và đang chùi sạch cây gươm còn nhỏ máu. Thấy thế, anh liền giật mình nhận ra đó chính là cái hồn của anh mà anh đã vô tình bán cho quỉ, và nay có thể là quỉ sai về giết hại em mình. Nghĩ thế anh liền chạy vội đến đấu trường thì quả đúng rồi, xác em rể đã nằm chết xõng xoài, máu tuôn ra lai láng. Anh buồn muốn ngất xỉu: không những vì thương em, nhưng vì còn thẹn với bố vợ là thất hứa... Thật là mọi sự đã xảy ra ngoài ý muốn của anh, chỉ vì một cử chỉ coi như vô thưởng vô phạt: nhường tấm gương soi mặt cho quỉ, mà khiến nên nông nỗi đau thương. Đành rằng đời sống vật chất của anh có lên cao, nhưng nếu nghĩ đến cái xác vô tội của người em nằm trên vũng máu, nghĩ tới cặp mắt cha vợ đầy oán trách kinh hoàng cho anh là đứa hèn nhát nuốt lời thề... thì khó bình tâm ngồi hưởng thụ giàu sang kiếm được bằng giá máu của em...

MỘT NGHIÊN CỨU ĐÁNG CHÚ Ý

Quả thực, khi người trẻ nhìn vào dòng tộc tổ tiên mà mặc cảm muốn đạp đổ vất đi như những chiếc gương mẻ, thì cuộc khủng hoảng bắt đầu. Đó là cuộc rối loạn mà những nhà tâm lý bây giờ gọi là khủng hoảng không biết mình là ai (identity crisis). Đứa trẻ bị đứt rễ sẽ sinh ra đủ mọi hiện tượng hãi hùng làm mồi cho băng đảng, và có thể thành nửa người nửa ngợm nửa đười ươi.

Ngày 30 tháng 4 năm 1995 là dịp 20 năm người Việt xa xứ, tờ The Times-Picayune vùng New Orleans đăng một bài nhận định khá dài về tình trạng giới trẻ Việt trong khung cảnh mới, với tựa đề Xung Đột Văn Hóa (Culture Clash). Bài báo cho biết kết quả một cuộc nghiên cứu về lý do tại sao học sinh Việt vùng New Orleans thành công, lên đại học nhiều. Nhóm Carl Bankston của ban xã hội học đại học Loyola cùng với sự cộng tác của đại học LSU đã cho biết như sau:

1. Vì truyền thống Việt hiếu học, cha mẹ thúc đẩy, sẵn sàng hy sinh cho con chỉ mong con cái vươn lên được. Chính vì thế mà nhiều em cho biết có những lúc muốn đi chơi mà nghĩ thương cha mẹ nên quyết học, mà học thành công thật.

2. Học sinh nào có liên hệ chặt chẽ với cộng đồng Việt, biết đọc và viết tiếng Việt, sinh hoạt tích cực với người Việt, và giữ được những giá trị phong hóa Việt, thì thường là những em giỏi trong trường Mỹ.

3. Học sinh dở trong nhà trường thường thuộc lớp thiểu số, không phải vì các em ấy quá giữ kiểu sắc dân mì nh mà không am hợp xã hội Mỹ, nhưng là vì chúng xa lìa lối sống của sắc dân và cộng đồng mình, nên bị đứt rễ. Mà vì không thuộc về đâu cả nên đâm loạn. Đúng là trở thành vô loài, chẳng giống ai.


---------------------------------------------------------

PS 4-C25: TIN VUI THỜI ĐIỂM NỐI LẠI DÒNG NHỰA

"Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi"
 

Không thể yêu Chúa nếu không biết yêu cha mẹ dòng tộc mình. Sức sống là dòng nhựa chuyển: PS 4-C25


Không thể yêu Chúa nếu không biết yêu cha mẹ dòng tộc mình. Sức sống là dòng nhựa chuyển xuống một cách cụ thể qua những người thân yêu. Chính vì thế mà triết gia Kim Định nói rõ trong Hồn Nước với Lễ Gia Tiên, rằng việc giữ hiếu với cha mẹ tổ tiên là căn bản văn hóa trong triết lý Việt Nam. Vì ở điểm giữa bài vị là chính tổ tiên dòng tộc mình, mà vị tổ tột cùng nguồn sống thì còn ai khác hơn là chính Chúa Trời Đất. Vì thế mà có thể nói dân Việt là dân có Đạo từ trong máu trong tâm. Việt Nam đã trở thành vùng đất phì nhiêu sẵn sàng chờ đón hạt giống Tin Vui của Chúa. Một trong những bằng chứng rõ nhất là trong việc truyền giáo ở các nước Á Đông, không một nước nào đón nhận đạo Chúa nhanh chóng cho bằng Việt Nam ngay từ những ngày đầu tiên truyền đạo đầu thế kỷ 16.

Dịp 30 tháng tư, người Việt nhận diện lại ngày ly hương. Đây cũng là dịp tốt nhất để nhận định hiện trạng của mình: cành cây có thể đang tươi tốt hay đang héo tàn vì bị đứt rễ không còn gắn liền vào đâu nữa nên mất hồn hết nhựa sống. Mình có thể bị ảnh hưởng nặng bởi cá nhân chủ nghĩa của xã hội tiêu thụ này đang chặt mỗi người ra từng mảnh nhỏ riêng rẽ, không còn cảm thấy mình liên hệ tới cộng đồng người mình nữa, và nhất là cũng có thể không còn gắn bó với nguồn sống nội tâm đích thật là chính Chúa. Vì thế mà cuộc sống có lúc cảm thấy vô vị nhạt nhẽo rã rời, chưa kể có những lúc cảm thấy như vô hướng vô loài. Chúa đã nói rõ lý do:

"Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho, chúng con cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, chúng con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy chúng con chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quẳng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy quăng vào lửa cho nó cháy đi" (Gioan 15:4-6).


----------------------------------

 

PS 4-C26: Chúa Giêsu là mục tử - Lm Trọng Hương


A. Hạt giống... –

Ga 10,27-30

 

Đức Giêsu mặc khải thêm một khía cạnh của mầu nhiệm bản thân Ngài: Ngài la mục tử: PS 4-C26


Đức Giêsu mặc khải thêm một khía cạnh của mầu nhiệm bản thân Ngài: Ngài là mục tử: "Chiên tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng được sự sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất"

B.... nẩy mầm.

1. "Con chiên ta thì nghe tiếng ta. Ta biết chúng và chúng theo ta". Phụng vụ đang dạy chúng ta sống dưới dự dẫn dắt của Chúa Giêsu mục tử tốt lành. Muốn thế, ta phải "nghe tiếng" Ngài và "đi theo" Ngài.

2. Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp: không biết. "Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết?" Câu trả lời thật ý nhị: "Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt." (Góp nhặt)

3. "Chúa là mục tử... tôi không sợ chi, tôi không thiếu gì"
Suốt đời tôi, tôi rất sợ chết, cho đến ngày một đứa con tôi về với Chúa. Trong lễ nghi an táng cháu, cha sở kể câu chuyện sau: "Một mục tử dẫn bầy chiên đến bờ sông. Nhìn dòng nước chảy xiết, tự nhiên là bầy cừu sợ hãi. Người mục đồng không làm sao hối thúc chúng qua được. Cuối cùng, ông lựa ra một con cừu non, cùng đi với nó xuống dòng nước và dẫn nó qua bờ bên kia. Khi cừu mẹ thấy con mình ra đi, nó quên cả sợ hãi phóng theo. Và thế là cả bầy cừu nối đuôi nhau theo sự hướng dẫn của người mục tử."
Một mai có phải theo con tôi về với Chúa, tôi chẳng sợ. (Góp nhặt)

4. "Con chiên ta thì nghe tiếng ta. Ta biết chúng và chúng theo ta"

Trong phim "giai điệu hạnh phúc" (The Sound of Music - La Mélodie du Bonheur), cô Marie đã đem tình thương và hạnh phúc đến cho gia đình viên đại úy. Cô đã cảm hoá được những đứa con của ông, chia sẻ và cảm thông với chúng. Cô đến với từng đứa trẻ, hiểu rõ tính nết và cả những khát vọng của chúng. Từ những đứa trẻ ngỗ nghịch và bướng bỉnh, chúng đả trở nên ngoan hiền, dễ thương. Chúng cũng cảm thấy phải yêu thương và nghe lời cô chỉ bảo.

Hình ảnh của cô đã để lại trong tôi một ấn tượng hết sức tốt đẹp về người mục tử. Chúa Giê-su là vị mục tử nhân hậu và tốt lành. Ngài không những biết và biết rõ từng con chiên mà còn yêu thương chăm sóc và hiến mạng sống vì đoàn chiên. Ngài đã sống lại và trở nên nguồn sống của đoàn chiên.

Phần tôi, một con chiên trong đàn, tôi cũng được Ngài yêu thương và chăm sóc vỗ về, nhưng tôi còn biết quá ít về Ngài và chưa theo Ngài trọn vẹn.

Lạy Chúa, xin cho con cảm mến sự ngọt ngào của đồng cỏ xanh và dòng suối mát, để được no thoả trong tình yêu của Ngài. (Epphata)


----------------------------------

 

PS 4-C27: CHÚNG TA LÀ DÂN TỘC LÀ ĐOÀN CHIÊN CHÚA


CHĂN NUÔI - Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân

Cv 13,14,43-52; Kh 7,9.14b-17; Ga 10,27-30

 

Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật "Chúa nhật chiên lành" vì đề tại nổi bật của Thánh: PS 4-C27


Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật "Chúa nhật chiên lành" vì đề tại nổi bật của Thánh lễ nói về Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành biết đoàn chiên của mình và gìn giữ chúng khỏi bị hư mất để sống đời đời (Ga 10:28). Đoàn chiên Người chăn dắt là chính chúng ta, Những kẻ nghe theo Người (Ga 10:27) . "Chúng ta là dân tộc là đoàn chiên Chúa chăn nuôi" (Tv 99:3, Đáp ca). Hình ảnh mục tử với đoàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống du mục của dân Do Thái bấy giờ , nên đã được Chúa Giêsu dùng để diễn tả sứ mạng của chính mình. Người là "Chúa chiên lành": "Người biết từng con và yêu quý đoàn chiên mình" (Ga 10:3,14), "Người sẵn sàng thí mạng của mình vì chiên" (Ga 10:11). Người cho chiên của mình "sự sống dồi dào" (Ga 10:10), "sự sống vĩnh cửu" (Ga 10:28). Người cũng là "cửa chuồng chiên, ai đi ngang qua Người mà vào thì được cứu rỗi" (Ga 10:9). Khi một chiên bị lạc thì Người bỏ 99 con khác lại mà đi tìm nó cho được rồi vác lên vai đem về (Mt 18:12-14). Người ao ước cho tất cả trở thành một đoàn chiên theo một Chúa chiên (Ga 10:16). Đoàn chiên của Chúa Giêsu cũng có những đặc tính riêng biệt: chiên Chúa Giêsu thì không nghe mà còn chạy trốn người lạ (Ga 10:5), chúng chỉ nghe và theo sau Chúa Giêsu mà thôi (Ga 10:4,27). Hơn thế nữa chiên của Chúa Giêsu thì còn "biết rõ Người là ai" (Ga 10:14). Như vậy chúng sẽ không bao giờ "bị diệt vong nhưng được sống đời đời" (Ga 10:28).

Chúng ta sung sướng cảm tạ Chúa đã chọn lựa và săn sóc chúng ta như đoàn chiên quý yêu của Người. Người thương yêu chúng ta cũng hãnh diện và an lòng vì có Chúa là Mục tử nhân hậu như thế. Được Chúa chăn nuôi săn sóc chúng ta không còn thiếu thốn gì. Hình ảnh cuộc sống hạnh phúc ấm no thanh bình đó được diễn tả trong TV 23: "Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Người dẫn tới bên suối nước mát, Người bồi bổ sức tâm hồn. Người dọn cỗ bàn cho ăn, xức dầu thơm trên đầu và rót chén rượu hoan lạc tràn đầy. Dù có phải đi qua trong thung lũng tối đen, tôi cũng không lo ngại gì vì đã có Chúa ở cùng tôi." Cứ thế, ngày này qua ngày khác tiếp nối cho tới khi về thiên đàng muôn kiếp thì thật quả là một cuộc sống hạnh phúc tràn đầy.

Đó cũng là chính là cuộc sống Công Giáo theo Chúa của chúng ta với 7 Bí tích ban ơn Thánh bồi bổ và chữa lành, với 10 giới răn Chúa và 6 giới răn Giáo hội như "cây roi và cái gậy của Người" làm an ủi lòng chúng ta (Tv 23).


----------------------------------

 

PS 4-C28: ĐIỀU TÌM KIẾM CỦA MỘT VỊ HOÀNG ĐẾ - Dòng Đồng Công

 

Vào năm 1974, một số nhân công ở nước Trung Hoa đã vô tình tìm được một kho tàng không: PS 4-C28


Vào năm 1974, một số nhân công ở nước Trung Hoa đã vô tình tìm được một kho tàng không thể tin được Ở một triền núi gần sông Hồng (Yellow River), người ta đã tìm thấy chừng sáu ngàn bức tượng. Các bức tượng to như thật, gồm các chiến sĩ, ngựa và xe ngựa. Tính theo thời gian thì kho tàng này đã được hai ngàn tuổi.

Sau khi nghiên cứu, các nhà khảo cổ cho biết rằng cái lý do tại sao lại có một số lớn các tượng này ở đây là do hoàng đế Chin đã truyền tạc để bảo vệ ngài khỏi quân thù khi ngài qua đời.

Hoàng đế Chin chính là người đã cho xây cất Vạn Lý Trường Thành ở Trung Hoa để đánh đuổi quân xâm chiếm. Nếu trường thành này được di chuyển sang Hoa Kỳ, thì nó sẽ chạy dài từ New York cho đến California.

Khuyết điểm của hoàng đế Chin là ngài rất sợ chết. Ngài đã dùng những năm tháng cuối đời để đi tìm “suối nước hằng sống”. Những pháp sư đã cho hoàng đế biết là ngọn suối nước đó ở trên một hòn đảo ở rất xa ngoài biển. Dĩ nhiên là ngài đã không bao giờ tìm thấy suối nước này.

Bắt đầu từ khi có thời gian, trái tim con người đã có một ý nghĩ chống lại cái tư tưởng chết là hết. Con người hằng mơ ước tìm được một cuộc sống vĩnh viễn. Trong thâm tâm, chúng ta biết rằng cuộc sống đau khổ này chỉ là tạm bợ, là một sự bắt đầu.

Cuộc đời của chúng ta sẽ không đi đến chỗ ‘hết’, nhưng chúng ta được dựng nên cho một lý tưởng cao cả hơn. Chúng ta được dựng nên để được hưởng một đời sống vĩnh cửu. Chúng ta phải sống làm sao tại trần gian này để đạt được cuộc sống vĩnh cửu ở đời sau?

Thánh Phao-lô đã trả lời câu hỏi này của chúng ta rằng, chúng ta phải sống những gì mà Chúa Giê-su đã dạy chúng ta, và noi theo những gì mà Ngài đã làm gương cho chúng ta. Ngài nói: “Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam, mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng. Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi sự, anh em phải có lòng bác ái. Đó là mối dây liên kết tuyệt hảo”.

Đó là những yếu tố thực tế mà cuộc sống đời đời đòi phải có trong cuộc sống của chúng ta ngay lúc này. Chúng ta phải phấn đấu để sống như Chúa Giê-su đã sống, yêu như Chúa đã yêu, cầu nguyện như Ngài đã cầu nguyện và tha thứ như Ngài đã tha thứ, để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà Ngài đã hứa ban.

Đây là điều mà Chúa Giê-su muốn nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng, và chúng theo Ta. Ta cho chúng sự sống vĩnh cửu và chúng sẽ không bao giờ bị hủy diệt”. Điều đó có nghĩa là nếu chúng ta thuộc về Chúa Giê-su, chúng ta sẽ nghe tiếng Ngài và theo Ngài. Nếu chúng ta sống theo những giáo huấn và gương sáng của Ngài, thì Ngài sẽ ban cho chúng ta cuộc sống vĩnh viễn. Đó là tin mừng trong bài Tin Mừng hôm nay: Những ai tin và sống theo Chúa Giê-su sẽ được cuộc sống đời đời.

----------------------------------

 

PS 4-C29: CHIÊN TÔI THÌ NGHE TIẾNG TÔI – VIKINI (viet lại)


“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi”.

 

Bài Tin Mừng mở đầu bằng câu nói có vẻ tầm thường, nhưng thật quan trọng. Để biết quan: PS 4-C12


Bài Tin Mừng mở đầu bằng câu nói có vẻ tầm thường, nhưng thật quan trọng. Để biết quan trọng như thế nào chúng ta thử nghe một câu truyện lịch sử thế giới sau đây:

Đại Văn Hào Lêon Tolstoi nổi tiếng nhất nước Nga đã viết một tác phẩm tựa đề: Chiến Tranh và Hòa Bình, ông mô tả lại những chiến công hiển hách của Đại Đế Napolêon, một thiên tài xưa nay chưa từng có (1769-1821). Hầu như ông đã làm bá chủ Châu Âu, quân của ông bách chiến bách thắng. Chỉ còn chiếm thủ đô nước Nga là xong. Ông kéo năm trăm nghìn quân hùng tướng mạnh, chỉ trong vòng một tháng đã đánh chiếm thủ đô Moscow. Thế là xong. Sĩ quan, binh sĩ của ông reo hò ăn mừng như chiếm được thiên đàng trần gian. Thế là quan quân tha hồ hôi của, vơ vét, thành đoàn quân cướp phá, ăn chơi, hãm hiếp, đánh lộn nhau, làm rối loạn thủ đô huy hoàng của Nga Xô. Napolêon đại đế trước kia ra lệnh như sấm sét, quan quân răm rắp nghe theo. Nay tại thủ đô chiến thắng này, ông ra lệnh không còn ai nghe nữa. Binh hùng tướng giỏi của ông trở thành những con ngựa bất kham, chỉ lo ăn chơi, cướp của, hãm hiếp. Cuối cùng, ông đành bó tay rút khỏi Moscow (Mascova), lật đật chạy trốn về Pháp với hơn ba mươi nghìn quân thân tàn ma dại, chết đói, đến nỗi ngựa cũng không còn để giết mà ăn.

Hơn nửa triệu con chiên hùng dũng tuân lệnh ông, đã bách chiến bách thắng khắp Châu Âu. Khi những con chiên đó lao đầu theo tiền của, ăn chơi, chúng không nghe lệnh ông nữa, chúng đã phải chết rữa xác rải rác trên đường chạy trốn. Nếu chúng biết nghe tiếng ông, thì vinh quang biết mấy !

Khi Đức Giêsu nói: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi”, chắc hẳn Người đã nhìn thấy hàng triệu, hàng tỷ những con chiên của Người đã biết lắng nghe tiếng Người, như  Bài đọc II đã kể: “Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Họ thuộc mọi nước, mọi dân mọi chi tộc và mọi ngôn ngữ, mình mặc áo trắng, tay cầm lá thiên tuế… họ đứng chầu trước ngai Thiên Chúa”. Còn chúng ta có muốn được vào số những con chiên vinh phúc đó không ? Nếu muốn thì phải “chiên tôi thì nghe tiếng tôi”

Thế nào là chiên biết nghe tiếng Chúa Giêsu ? Chúng ta có nhiều lần được thấy những bầy chiên trên những cánh đồng cỏ xanh tươi qua màn ảnh nhỏ. Nhưng đoàn chiên của Chúa không phải là những bầy chiên thụ động như vậy. Nếu chúng ta nghĩ thế, thì thật sai lầm chua chát !

Hình ảnh trong Kinh thánh trái với ý nghĩa sai lầm đó. Ba hành động được Đức Giêsu  đề cao ở đoạn Phúc âm này về con chiên là ba tư cách đầy nhân bản, đó là lắng nghe, biết chí tình và đi theo hết mình.

1- Lắng nghe: Là tư cách chăm chú quan tâm đến người nói, tôn trọng người nói, tỏ ra mình có một mối tương quan thân tình, thân hữu với người nói. Lắng nghe là thiết yếu trong tương giao sống động giữa người với người. Lắng nghe để thông hiểu, thông cảm và hiệp thông với nhau. Người ta nói: Người thông minh là người có tai thông, mắt sáng. Thiên Chúa dựng nên con người có hai tai, hai mắt, một miệng, như vậy là nói ít, nghe nhiều, nhìn cho kỹ. Trong thực tế, khi thảo luận, chúng ta lại “cãi nhau như mổ bò” ; “ông nói gà, bà nói vịt”. Những tệ hại ấy xẩy ra từ thời xây tháp Babel đến giờ. Mỗi người nói một thứ tiếng, chẳng ai hiểu ai, họ chia rẽ nhau, chỉ vì kiêu ngạo đòi lên cao tới trời (St. 11). Cho nên các ngôn sứ không ngừng kêu gọi: “Hãy lắng nghe, hỡi Israel !” (Ds. 6, 4 ; Amos 3, 1; Giêrêmia 7, 2 ; Tv. 24, 3-9) và rất nhiều lần Đức Giêsu  nói: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Lời Chúa thật nhẹ nhàng êm ái nhắc bảo chúng ta: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi”. Đức Chúa Cha cũng kêu gọi: “Đây là Con Ta rất yêu dấu. Hãy nghe lời Người” (Mt. 17, 5). Những lời đó đang rót vào tai chúng ta để chúng ta được đức tin như Thánh Phaolô nói: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm. 10, 17) hay: “Đức tin nhờ nghe: Fides ex auditu” (Ga. 3, 2)

2- Biết chí tình: “Chiên Tôi biết Tôi”. Biết về Đức Giêsu do học hỏi lời Chúa và giáo lý thì chưa đủ. Biết ở đây là biết bằng con tim, bằng tình yêu mến chí thiết bằng lòng ái mộ nồng nàn, bằng những cảm nhận trực giác sâu đậm, bằng những rung động bắt đúng tầng số của trái tim Chúa bốc lửa rực sáng vì yêu con chiên và chết đi vì con chiên. Trái tim con chiên cũng phải bốc lửa bừng bừng yêu mến Chúa chiên nhân lành như vậy, để cả hai nên một như “Tôi và Chúa Cha là một”. Sự biết chí tình chí thiết này thật sự đã được thể hiện với hai Thánh nữ Catarina và Têrêxa Hài đồng Giêsu. Catarina là người mù chữ chỉ học nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu, và trở thành Thánh Tiến sĩ Hội Thánh. Têrêxa cũng chẳng học trường nào, chỉ học nơi tình yêu Chúa Giêsu Hài đồng, đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong làm Tiến sĩ Hột Thánh tháng 08/1997 trong Đại Hội giới trẻ thế giới tại Paris.

3- Chúng theo Tôi: Theo Tôi như Phêrô bỏ chài lưới, vợ con, cha mẹ và mọi sự để theo Thầy, như Mathêu bỏ địa vị, tiền của để theo Chúa, như Madalena bỏ đường tội lỗi bước vào đời sống mới. Đó là đổi đời, từ bỏ nếp sống cũ tiến theo nếp sống mới, một cuộc tái sinh vào đời sống mới, “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi” … và chắc hơn nữa: “Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Như vậy, chúng ta được giữ gìn trong hai đôi tay: Một bên là Cha, một bên là mẹ: Được dẫn dắt trong bình an và bảo đảm tuyệt đối. Thật là một hình ảnh tuyệt vời !

Lạy Chúa, xin cho chúng con được sống trong lòng bàn tay Chúa, bàn tay đã giơ ra cứu chữa bao nhiêu bệnh nhân, bàn tay đã giơ ra cứu vớt Phêrô khỏi chìm trong lòng biển, bàn tay đã cầm lấy bánh, tạ ơn,  bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Này là Mình Thầy”,  bàn tay đã giang ra cho quân dữ đóng đinh. Chính bàn tay đó đang gìn giữ chúng con thật chắc chắn và không ai cướp được chúng con ra khỏi tay Chúa. Chúng con xin tạ ơn Chúa Giêsu và Chúa Cha muôn đời.

----------------------------------

 

PS 4-C30: CON CHIÊN

 

Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo ta. Từ lời phán dạy này, chúng: PS 4-C30


Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo ta.

Từ lời phán dạy này, chúng ta nhận thấy để trở thành con chiên trong đàn chiên của Đức Kitô, vị mục tử tốt lành và nhân hậu, thì có hai bổn phận phải chu toàn, đó là:

- Lắng ghe tiếng Chúa và bước theo Ngài.

Vậy thế nào là lắng nghe tiếng Chúa và thế nào là bước theo Ngài ?

Trước hết, lắng nghe tiếng Chúa có nghĩa là tìm hiểu Lời Chúa đã phán dạy trong Tin mừng, để cho những Lời ấy thấm sâu vào cõi lòng và trở nên những xác tín riêng tư, những tiêu chuẩn hướng dẫn cho cuộc sống của chúng ta.

Trước những biến cố xảy ra cũng như trước những hoàn cảnh cụ thể, chúng ta hãy qui chiếu vào Lời Chúa và hãy tự hỏi xem:

- Chúa muốn tôi phải sống và phải hành động như thế nào ?

Chúng ta hãy bắt chước thánh Phaolô trên đường trên đường đi Đamas.

Lúc bấy giờ thánh nhân bị một luồng ánh sáng quật ngã và nghe như có tiếng nói:

- Saulô, Saulô, sao ngươi bách hại ta.

Thánh nhân bèn hỏi lại:

- Ngài là ai ?

- Ta là Giêsu Nagiarét, người mà ngươi đang tìm bắt.

Bấy giờ thánh nhân đã thưa lên:

- Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ?

Có biết thưa lên như vậy, chúng ta mới mới nhận ra thánh ý Chúa trên vạn nẻo đường đời.

Ngoài ra, lắng nghe tiếng Chúa còn có nghĩa là sống tinh thần cầu nguyện, kết hiệp và gắn bó với Ngài trong thinh lặng. Bởi vì kinh nghiệm cho thấy:

- Chúa chỉ nói với chúng ta trong thinh lặng mà thôi.

Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Samuel ngày xưa. Giữa đêm khuya trong đền thờ, Chúa đã lên tiếng gọi:

- Samuel, Samuel.

Theo lời chỉ dạy của Thày cả Hêli, Samuel đã thưa lên cùng Chúa:

- Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe.

Và Chúa đã tỏ lộ cho Samuel biết thánh ý của Ngài.

Tuy nhiên, lắng nghe tiếng Chúa mà thôi chưa đủ, biết được thánh ý Ngài mà thôi cũng chưa đủ, điều quan trọng đó là chúng ta phải có can đảm bước theo Ngài bằng cách sống Lời Chúa, thực thi những điều Ngài truyền dạy và  chu toàn thánh ý Ngài trong lòng cuộc đời, nhờ đó chúng ta mãi mãi là những con chiên trong đàn chiên của Ngài.

Thế nhưng, việc sống Lời Chúa, thực thi những điều Ngài truyền dạy và chu toàn thánh ý Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta lại không phải là một chuyện dễ dàng, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh rất nhiều, phải cố gắng rất nhiều. Chính vì thế, không thiếu những kẻ  đã bỏ cuộc và đào ngũ.

Chúng ta giống như chàng thanh niên giàu có đến hỏi Chúa Giêsu về con đường trọn lành. Và Chúa đã trả lời:

- Con hãy về, bán tất cả sản nghiệp, làm phúc bố thí cho người nghèo, rồi hãy tới mà theo Ta.

Nghe thế, lập tức chàng buồn sầu cúi mặt bỏ đi vì chàng đã không có đủ can đảm để từ bỏ.

Chúng ta giống như người ngồi xem xiếc, không ngừng vỗ tay thán thưởng những màn đu bay, hay đi thăng bằng trên giây. Thế những khi được mời lên để cùng đu hay cùng đi với người biểu diễn, thì chúng ta lại không có đủ can đảm để làm như vậy, mặc dù biết rằng phía dưới đã có giăng lưới an toàn.

Chúng ta giống như người bơi ngược giòng nước. Nếu không cố gắng bơi thì sẽ chắc chắn sẽ bị dòng nước là những quyến dũ của trần gian, những đam mê dục vọng sai trái, cuốn trôi nhận chìm.

Người ta kể lại vào năm 496 tại thành phố Reims, thánh Giám mục Rêmi đã long trọng ban bí tích Rửa tội cho vua Clovis cùng với đoàn tùy tùng.

Vị thánh giám mục đã tuyên bố:

- Xin nhà vua hãy cúi đầu xuống. Kể từ ngày hôm nay, nhà vua hãy thờ những gì ngày xưa nhà vua đã đốt và hãy đốt những gì ngày xưa nhà vua đã thờ.

Tiếp đến, vị thánh Giám mục đã rửa tội cho nhà vua và ba ngàn binh lính. Từ đó, một nước Pháp Công giáo đã được khai sinh.

Hãy lắng nghe lời Chúa và thực thi những điều Ngài truyền dạy, để nhờ đó chúng ta thực sự là những con chiên luôn bước đi dưới sự chăn dắt của Đức Kitô, vị mục tử tốt lành và nhân hậu.

----------------------------------

 

PS 4-C31: NGHE VÀ THEO CHÚA - NMS/71

 

Icare cùng với cha là Dédale bị giam lỏng ở đảo Crète, không sao vượt biển được, mới tìm cách: PS 4-C31


Icare cùng với cha là Dédale bị giam lỏng ở đảo Crète, không sao vượt biển được, mới tìm cách bay về quê nhà. Thế là hai cha con lấy lông chim cột lại vói nhau, rồi lấy sáp ong chắp vào hai cánh tay thành hai cánh chim mà bay lên trời. Cha bay trước dẫn đường và đặn con cứ bay ở mức độ trung bình không quá thấp cũng không quá cao vì bay thấp hơi nước biển sẽ làm cho cánh nặng mà cao quá thì sức nóng mặt trời sẽ làm sáp tan chảy. Nhưng Icare không nghe lời cha, cao hứng bay mỗi lúc một gần mặt trời hơn khiến sáp nóng chảy làm lông rớt hết và rơi xuống  biển Egée. Đang bay phía trước, người cha thử gọi con, nhưng không tiếng con đáp lại, bèn nhìn xuống biển thấy lông chim và xác con nổi lềnh bềnh. Đau đớn người cha hạ cánh vớt xác con đem chôn và nguyền rủa thuật bay của mình, rồi bỏ hẳn từ đó.

Câu chuyện bay của hai cha con Dédale đã để lại cho hậu thế một bày học quí giá: đó là sự không tin phục và không vâng lời của người con nơi cha mình đã mang lại một hậu quả thảm khốc.

Thật vậy, ở đời tính độc lập tự chủ cộng thêm óc ham tìm tòi sáng tạo là những điều kiện quí giá và cần thiết giúp con người luôn tiến bộ. Nhưng có những lãnh vực, những vấn đề mình chưa nắm vững, chưa am hiểu hơn người khác, mà vì kiêu căng tự mãn, cố chấp ngông cuồng, thì tính tự chủ độc lập của mình sẽ biến thành mù quáng sai lầm chẳng những không lợi cho ai mà còn làm hại bản thân.

Nhất là trong vấn đề tin phục nơi Chúa, nếu mỗi người chúng ta không biết khôn khéo vận dụng tính độc lập tự chủ và óc tìm tòi sáng tạo cách sáng suốt, khiêm tốn mà chỉ thỏa mãn tính kiêu căng hợm hĩnh hay tò mà vô lối thì lối sống đạo của chúng ta sẽ rơi vào tình trạng như người Do thái ngày xưa khi họ chỉ biết chất vấn, tra khảo Chúa hơn là biết lắng nghe, biết nhìn ra lối sống của Chúa để bắt chước.

Vì thế, khi người Do thái và của Gioan hỏi Chúa là ai thì dường như Chúa không muốn trả lời, mà Ngài chỉ bảo họ hãy lắng nghe lời Ngài dạy và hãy nhìn những việc Ngài làm vì chúng đủ khả năng minh chứng Ngài là ai rồi. Nếu họ không tin mà cứ đòi hỏi thêm tức là họ không thuộc đàn chiên của Ngài. Mà chiên đích thực thì không đặt câu hỏi, không phải vì đã biết được giải đáp, mà vì điều đó không cần thiết.

Hôm nay, Chúa cũng kêu mời chúng ta đừng quá ham chất vấn, quá thích tìm tòi phân tích cái mói lạ để rồi giản lực nó thàn cái tầm thường vì như thế là tự đóng kín mình lại, làm mình không còn tiến bộ được. Hãy biết khiêm tốn lắng nghe, biết mình giới hạn, biết rằng Thiên Chúa là Đấng vô hình, đầy kỳ bí làm sao ta hiểu nổi. Chỉ có một con đường khôn ngoan nhất là nghe và theo Chúa mà thôi.

----------------------------------

 

PS 4-C32: CHIÊN CỦA CHÚA - P/90

 

Hoàn Ôn, người đời nhà Tấn, làm quan đến chức Đại Tư Mã, trước đã có vợ là Nam Khang, công: PS 4-C32


Hoàn Ôn, người đời nhà Tấn, làm quan đến chức Đại Tư Mã, trước đã có vợ là Nam Khang, công chúa con gái Vua Minh Đế. Sau Hoàn Ôn sang đánh dẹp được nước Thục, lại lấy con gái của Lý Thế là một nhà quyền quý nước Thục mang về làm thiếp. Lúc về nhà công chúa biết chuyện nổi cơn ghen, liền cầm gươm theo mấy nàng hầu, xâm xâm đến, chực chém chết Lý Thị. Đến nơi, công chúa thấy Lý Thị ngồi trước của sổ chải đầu, tóc rủ chấm đất, dung nhan tư  mạo đoan trang tươi đẹp, Lý Thị thong thả vấn tóc, đến trước công chúa thưa rằng: “Nước tôi mất, nhà tôi tan, tôi quả vô tâm mà đến đây. Được bà chém cho, thật cũng thỏa lòng tôi mong mỏi”. Lý Thị khi nói mặt trông nghiêm chính, ung dung, tiếng nghe êm đềm, thấm thía. Công chúa thấy vậy ném gươm xuống đất, ôm lấy nàng nói rằng: “Này em ơi, chị đây thấy em còn phải yêu, phải thương huống chi là ông xã của chị”. Rồi từ đấy, công chúa rất trọng Lý Thị.

Đối với tình nghĩa vợ chồng, không người đàn bà nào chấp nhận cho chồng lấy vợ lẽ. Bất chợt, người đàn bà biết được người chồng bất trung, thế nào họ cũng ghen tức.

Ớt nào mà ớt chẳng cay

Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng ?

Đàn bà ghen như công chúa Nam Khang ghen Lý Thị là điều dễ hiểu. Nhưng không phải cuộc đánh ghen nào cũng được giải quyết tốt đẹp như trên !

Là người, ai cũng có thể ghen tương đố kỵ với người khác. Câu chuyện người Do thái ghen tương vì thấy hai tông đồ Phaolô và Barnaba thành công trong sứ vụ rao giảng Tin mừng yêu thương của Chúa Giêsu, nên khích bác và xúi giục lớp người quyền thế trục xuất các Ngài, như thuật trong sách Tông đồ Công vụ hôm nay, chứng minh điều đó.

Trước đây cũng chỉ vì ghen tức với Chúa Giêsu, nên giới lãnh đạo mượn tay người La-mã thủ tiêu Chúa. Giờ đây, họ mượn tay người quyền thế để gây sức ép với các tông đồ.

Và cường quyền ở nhiều nơi sẽ còn bắt bớ các tín hữu sống và rao truyền Tin mừng Yêu thương đại đồng của Chúa Giêsu. Cường quyền sẽ còn xúi giục các tín hữu bỏ đoàn chiên. Bổn phận của các mục tử là phải bảo vệ và hướng dẫn đoàn chiên: “Những kẻ Cha Ta đã trao phó cho Ta, Ta không muốn làm mất người nào”.

Bổn phận đoàn chiên phải nghe chủ chiên: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”. Và nếu, vì rao giảng Tin mừng, người tín hữu bị bắt bớ, chịu xỉ nhục, hoặc bị nói xấu đủ điều, hãy vui mừng vì phần thưởng Chúa dành cho thật lớn lao.

Xin Chúa luôn hướng dẫn chúng con, đừng để chúng con xa đoàn chiên Chúa.

----------------------------------

 

PS 4-C33: CHÚA CHIÊN LÀNH - ASTY/117

 

Mục tử tốt” xem ra là một đề tài Đức Giêsu ưa thích, vì thế Ngài không bỏ lỡ cơ hội nào để: PS 4-C17


“Mục tử tốt” xem ra là một đề tài Đức Giêsu ưa thích, vì thế Ngài không bỏ lỡ cơ hội nào để diễn tả thật rõ ràng, tô thật đậm màu những đặc tính chủ yếu của họ. Trong bài Phúc âm dành cho Chúa nhật hôm nay, Chúa Kitô nêu bật đặc tính: mục tử tốt biết các chiên con của mình. Theo ngôn từ của Kinh Thánh thì “biết” đồng nghĩa với “yêu”. Và khi thật sự yêu thì mục tử sẵn sàng “thí mạng sống mình vì đàn chiên”.

Từ khi Đức Giêsu, có thể nói được là đã vẽ lên hình ảnh của một mục tử tốt, có biết bao người quảng đại đã và đang đáp lại tiếng gọi để làm cho hình ảnh và sứ mệnh Chúa Giêsu đã vẽ ra được thực hành.

Qua cuộc sống dấn thân của các linh mục, sứ mệnh của một mục tử tốt dõi theo mẫu gương của Đức Giêsu đã sống và sống mãi trong lòng Giáo Hội. Thí dụ như qua hình ảnh gầy còm, mắt sâu, má hóp, tấm thân chỉ còn da bọc xương của linh mục Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars. Vào những năm cuối đời mỗi ngày cha chỉ dùng vài củ khoai luộc để dành trọn thời gian giúp các hối nhân giao hòa với Thiên Chúa trong tòa giải tội. Hay qua những bước chân không ngại ngùng tách mình ra khỏi hàng ngũ của các tù nhân để chết cho một người bạn tù của cha Maxmilianô Kolber ở trại tập trung của Đức Quốc Xã. Và qua cuộc sống nay đây mai đó của một linh mục người Pháp được người ta thân mật gọi là Père Pièrre: Cha Phêrô, người đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh lưu ý đến số phận của những người nghèo qua lời kêu cứu trên đài phát thanh ngày 1/2/1957, nhân vụ một em bé chết vì lạnh tại khu ngoại ô thành phố Paris, để rồi từ đó lập ra những hội từ thiện Emmaus, dòng hoạt động âm thầm nhưng hữu hiệu để xoa dịu những thương đau của dân nghèo.

Trải qua mọi thời đại và bất cứ chân trời góc bể nào trên mặt đất còn có hàng ngàn, hàng vạn mẫu gương sống thực của bao nhiêu người hiến toàn thân để sống cho lý tưởng thí mạng sống mình cho đoàn chiên vì các Ngài yêu mến con chiên của mình, sẵn sáng dấn thân phục vụ hầu cho đàn chiên của mình được uống nước trường sinh.

Trong Chúa nhật hôm nay, chúng ta được kêu mời dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện cộng với những hy sinh, những hãm mình để khẩn nài Thiên Chúa ban sức mạnh cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ, giúp họ luôn cố gắng ngày một trở nên các mục tử tốt, thể theo lòng mong ước và mẫu gương của Chúa Giêsu.

Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi cầu nguyện để trong cộng đoàn chúng ta có thêm nhiều thanh thiếu niên nam nữ quảng đại đáp lại tiếng Chúa kêu mời sống đời tận hiến.

Từ những thập niên gầy đây, ý nghĩa của Bí tích Rửa tội được đào sâu để nêu bật vai trò của giáo dân trong Giáo Hội và trong lòng xã hội. Khi nhận lãnh Bí tích Rửa tội, mọi Kitô hữu được tham dự vào ba chức vụ của Chúa Giêsu: chức vụ tiên tri, linh mục và vương giả. Vì thế, Chúa nhật hôm nay mọi người chúng ta đều được mời gọi sống trọn ơn gọi của mình bằng cách lắng nghe tiếng Chúa Giêsu, người mục từ tốt lành và dõi theo mẫu gương cùa Ngài để trở nên những mục tử tốt cho nhau.
----------------------------------

 

PS 4-C34: AI BẢO CHĂN TRÂU LÀ KHỔ ? - Lm. LÊ QUANG UY, DCCT


 Ga 10, 27 – 30

 

Rất tiếc là bây giờ chúng ta không còn được nghe lời hát và giai điệu một bài ca dễ thương của: PS 4-C34


Rất tiếc là bây giờ chúng ta không còn được nghe lời hát và giai điệu một bài ca dễ thương của nhạc sĩ Phạm Duy những năm 50 – 60: "Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ..."

Cũng một phần vì đời sống người nông dân hiện nay ở miền Nam bắt đầu không còn cần đến con trâu, mà đã có chiếc máy cày thay thế. Họa chăng phải ra đến vùng quê miền Bắc, chúng ta mới lại thấy hình ảnh quen thuộc của những chú bé mục đồng chăn trâu.

Huống chi dân thành phố như tôi, từ bé đến lớn, chưa hề biết đến chuyện nhà nông, thì con trâu chỉ dừng lại ở khái niệm Chú Sửu mộc mạc đứng thứ nhì trong 12 Con Giáp !

Năm ngoái, tôi có dịp ra phục vụ ở một Xứ Đạo nông thôn miền Bắc một thời gian dài. Thế rồi đến Chúa Nhật thứ 4 mùa Phục Sinh năm Đại Thánh 2000, Lễ Chúa Chiên Lành, tôi được cha sở giao cho giảng lễ cho thiếu nhi Giáo Lý. Đọc trước và suy niệm bài Tin Mừng Ga 10, 11 – 18, tự nhiên tôi liên tưởng một Đức Giê-su là người Việt-nam, ắt Người sẽ rao giảng như thế này: "Tôi chính là Người-Chăn-Trâu-Nhân-Lành... Tôi biết trâu của tôi, và trâu của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đàn... trâu !"

Tôi chạy vội đi tìm chú bé giúp lễ đã khá quen thân với tôi trong những ngày qua và xin "thụ giáo" về nghề chăn trâu của chú. Chiều hôm ấy, trước một đám đông trẻ em dễ đến cả ngàn mái đầu khét lẹt vì cháy nắng, tôi biết tôi sắp giảng cho những đứa bé chăn trâu chính cống và thành thạo.

Ngay lúc ấy, Chúa Thánh Thần mở miệng tôi: "Các con thân mến, cha xin tự giới thiệu: cha cũng là một "Người-Chăn-Trâu", y như các con đang là những chú bé, cô bé chăn trâu ở vùng quê này, mặc dù cha sinh ra ở Sài-gòn, cha chẳng biết chăn trâu như thế nào !" Các em ồ lên cười thích thú và tò mò chờ đợi...

Bài giảng hôm ấy phải nói là thành công ngoài sự tiên liệu. Tôi muốn nói thành công ở đây là thành công về mặt trình bày Lời Chúa đến với đối tượng người nghe là trẻ em vùng nông thôn, lại là nông thôn ở miền Bắc ít được học hành đến nơi đến chốn, Giáo Lý lại chỉ mới ở mức độ Hỏi – Thưa theo sách Bổn cũ kỹ từ mấy chục năm về trước !

Các em dễ dàng đón nhận ngay ý tưởng sâu xa mà gần gũi của Đức Giê-su thông qua những chuyện thường ngày của trẻ chăn trâu: bờ cỏ ngon, mương nước mát, cái sợi chạc được xỏ vào mũi trâu, cái mõ đeo ở cổ trâu và tiếng "Nghé ọ" mà các chú bé giả giọng trâu mẹ để gọi những chú nghé ham vui bỏ đàn, lại còn chuyện chăn trâu thì phải biết giữ trâu không cho phá lúa của người ta, biết dắt trâu đi tắm, biết chọn chỗ cho trâu đầm vào mùa hạn, biết bắt bo, bắt rận và nhổ những con đỉa hút máu trâu...

Cuối bài giảng, khi tôi hỏi: "Trong số các con ở đây, ai muốn lớn lên sẽ trở thành Linh Mục, trở thành Người-Chăn-Trâu của Chúa ?" Có rất nhiều em giơ tay, đặc biệt có cả một... bé gái 8 tuổi mặt mũi dễ thương ngoan ngoãn !

Tôi thầm cầu nguyện cho em mai này sẽ là một nữ tu tận tụy nhiệt thành trong công việc phục vụ khiêm tốn. Tại sao không nhỉ ? Một nữ tu cũng cộng tác vào việc chăn dắt "đàn trâu Việt-nam" với các vị Giám Mục và Linh Mục được quá đi chứ ?

Đến đây, tôi xực nhớ, có lần chính Đức Cha của Giáo Phận khoe với tôi: "Cha có biết không, ngày xưa con cũng đã từng vừa chăn trâu vừa học bài Giáo Lý..." Ước gì tất cả các vị Giám Mục, Linh Mục, và mở rộng ra là cả những bậc làm cha làm mẹ, các thầy cô, các Giáo Lý Viên, các Linh Hoạt Viên, các Huynh Trưởng cũng đều nhận ra mình đã từng là và vẫn còn đang là những "Người-Chăn-Trâu" Việt-nam.

Qua năm nay, năm 2001, tuy tôi đang phục vụ ở Sài-gòn, một thành phố phát triển về mọi mặt mà cũng bết bát về nhiều thứ. Thật sự là chẳng còn tìm đâu ra ngay ở vùng nông thôn ngoại thành, cái bóng dáng lũy tre xanh đầu làng và chú bé mục đồng ngồi nghêu ngao hát đồng dao lục bát trên lưng con trâu bê bết bùn đất, huống chi là ngay giữa nơi đô hội kèn xe nhức óc, bụi bặm và khói xe cay xè cả mắt... Thế nhưng, tôi lại vẫn cứ muốn mượn lại tâm tình, ý tưởng và hình ảnh đậm màu quê hương xa xưa ấy để suy niệm cho Chúa Nhật Chúa Chiên Lành lần này.

Đoạn Tin Mừng Ga 10, 27 – 30, gần như tiếp nối ngay sau đoạn Tin Mừng năm ngoái. Và tôi chỉ cần mạo muội đánh bạo hình dung tiếp bài diễn từ của Đức Giê-su như thế này: "Tôi chính là Người-Chăn-Trâu-Nhân-Lành... Trâu của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho đàn trâu của tôi sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải đói, phải khát và phải chết. Cũng không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban đàn trâu cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Bởi vì tôi và Chúa Cha là một".

Trời ơi, thật cảm động biết bao, khi cùng một lúc tôi nhận ra mình vừa được là một con nghé bé con trong đàn trâu của Chúa, nhìn ở góc độ khác, tôi lại cũng được Chúa chọn làm một chú mục đồng để chăn đàn trâu, đàn nghé thân thương của Chúa. Mà chịu khó tưởng tượng hình dung thêm một tý, dõi mắt nhìn ra gần gần rồi lại xa xa hơn một tý, tôi nhận ra ngoài tôi, còn có bao nhiêu là trẻ mục đồng khác. Mỗi chú mục đồng lại dắt theo một đàn trâu đàn nghé khác.

Có đàn thì đông đúc, có đàn thì lèo tèo. Có con thì béo tốt, có con thì gầy nhom trông mà bắt tội nghiệp. Lại có một số không ít những đàn trâu thiếu vắng người chăn dắt, cứ đứng ngơ ngác nhìn quanh, không biết phải đến đám cỏ nào ăn thì ngon thì tốt, không biết phải tìm đến nguồn nước nào uống cho mát cho lành ? Lại có một vài chú mục đồng nương theo ngọn gió đồng hiu hiu mà nằm ngủ quên bên triền dốc, hoặc mải vui nghich ngợm hò hét với nhau trong trò đá dế thả diều, có mấy chú cởi trần trùng trục còn tranh giành cãi cọ lao xao với nhau rồi lăn ra đường đê bụi đỏ hoặc mặt ruộng trơ gốc rạ mà vật lộn chí tử... Và những lúc như thế, đàn trâu đàn nghé cứ tha hồ mà lang thang chạy rông hoặc nhẩn nha ăn lẹm vào đám hoa màu xen canh của người ta. Chuyện bị mắng vốn te tát là đương nhiên chứ biết sao bây giờ ?

Câu truyện tạm gọi là Ngụ Ngôn của thế kỷ 21 sẽ còn dài nhiều tập. Tôi chẳng dám miên man tưởng tượng nữa, không khéo tôi lại cũng lơ đễnh để cho đàn trâu khó tính mà thân thương của tôi cũng rơi vào tình trạng... tan đàn sẩy nghé thì nguy ! Tôi chỉ ước mơ một điều bé bỏng: tất cả mọi người chúng ta đều nhận ra mình đều chỉ là một đàn nghé khờ khạo ngốc nghếch của một Đấng-Chăn-Trâu hiền khô, tận tụy, tốt bụng, nhưng cũng không kém khôn ngoan quả cảm. Nhận ra như thế rồi, chúng ta sẽ dễ bảo hơn, biết đi đúng cái hướng sẽ dẫn đến một bãi cỏ không có gai và một nguồn nước không bị ô nhiễm. Dễ gì mà ngày hôm nay còn có thể tìm được loại cỏ và thứ nước bình an như thế, vậy mà Đấng ấy biết, Đấng ấy có...

Văng vẳng bên tai tôi là tiếng nói ấm nhẹ của Đấng ấy: "Tôi ban cho đàn trâu của tôi sự sống đời đời..."

----------------------------------

 

PS 4-C35: CHUYỆN: GỌI ĐOÀN CHIÊN TRONG THINH LẶNG


Daily Bread

 

Toàn bộ sư đoàn lính Mỹ trong doanh trại Robert đang chuẩn bị một cuộc diễn binh đón chào: PS 4-C35


Toàn bộ sư đoàn lính Mỹ trong doanh trại Robert đang chuẩn bị một cuộc diễn binh đón chào ông bộ trưởng Quốc Phòng. Nào các cỗ xe tăng chuyển hành ầm ầm, nào các khẩu trọng pháo được kéo đến, rồi tiếng giày lính nện lên mặt đường nhựa của đoàn quân đi nhịp nhàng theo khúc nhạc quân hành hùng tráng...

Cả một khu vực và vùng trời vang động rộn rã, thế mà một đàn chiên vẫn thản nhiên từ từ tiến bước từ thảm cỏ này đến cánh đồng kia, nhích dần đến gần con đường người ta đang duyệt binh... Bộ chỉ huy phát hiện ra đàn chiên liền phái đến một tiểu đội quân cảnh để lùa đàn chiên tránh đi hướng khác. Họ mở còi hụ, la hét om sòm lên, nhưng đàn chiên vẫn nhởn nhơ gặm cỏ. Rồi cả một trung đội vệ binh được tăng cường. Cũng hò hét, hụ còi inh ỏi, nhưng đành chịu, đàn chiên vẫn bình thản thưởng thức món cỏ xanh thiên nhiên hào phóng, mỗi lúc một tiến gần doanh trại hơn.

Đúng lúc ấy, đoàn xe mô-tô dẫn đầu đoàn xe hơi của phái đoàn bộ trưởng đã vào đến cổng trại.Làm sao bây giờ ? Không ai được quyền dùng đá để ném, dùng gậy để đánh đuổi đàn chiên, bởi như thế là chọc giận Hội Bảo Vệ Súc Vật và báo chí khắp nơi.

Toàn bộ đạo quân trang bị hùng hậu như vậy đành phải thúc thủ trước đối thủ quá ư hiền lành này hay sao ? Bỗng, chiếc xe Jeep của thiếu tướng chỉ huy trưởng trại Robert phóng đến, và từ trên xe, Linh Mục Tuyên Úy Michael nhảy xuống, chạy đến nói nhỏ vào tai vị sĩ quan vệ binh. Sau đó, cả trung đội tập hợp ngay, đứng vào vị thế nghiêm. Và thinh lặng bao trùm lên tất cả đạo quân trong phút chốc !

Chính vào lúc hoàn toàn thinh lặng này, người ta mới nghe thấy có tiếng sáo của người mục đồng mãi từ trên một ngọn đồi gần đấy vọng xuống. Thế là cả đàn chiên tức khắc ngoan ngoãn quay gót, cùng nhau lũ lượt chạy lên mỏm đồi giữa những tiếng thở phào nhẹ nhõm của quan quân trong đoàn vệ binh...

Chỉ cần một tiếng sáo mục đồng du dương nhè nhẹ ấy thôi, cũng đủ để kêu gọi cả đàn chiên đi lạc hướng quay trở về, trả lại khung cảnh trang nghiêm cần thiết cho buổi lễ duyệt binh.

Bao nhiêu tiếng hò hét, tiếng còi hụ inh ỏi đều bó tay. Càng nhiều tiếng huyên náo thì đàn chiên lại càng không tài nào nghe được tiếng sáo đơn sơ nhỏ nhẹ của chú bé mục đồng.

Sống trong thế giới hôm nay, chúng ta cũng bị bao vây bởi quá nhiều tiếng động xô bồ và âm thanh hỗn tạp, quá nhiều đến độ chúng ta không còn có thể nghe được tiếng gọi Đức Giê-su, vị Mục Tử Nhân Lành. Chỉ cần thinh lặng, một chút lặng yên thôi, cũng đủ để đàn chiên nghe được tiếng gọi của người chăn dắt.

Phải chi chúng ta cũng có được những khoảnh khắc phút giây trầm lắng quý giá như thế, để rồi nghe được thứ thanh âm của sự tĩnh lặng ( The Sound of Silence ), nghe được lời gọi của Thiên Chúa và nhận ra Người ?

Phải chi chúng ta cũng biết trao tặng cho chính mình mỗi ngày một vài phút cô tịch để đọc Lời Chúa, để nghe và nhận ra tiếng thì thầm của Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta ?

"Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi, và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử" ( Ga 10, 14 – 16 )

DAILY BREAD 16.5.2000

----------------------------------

 

PS 4-C36: Gieo trong thương đau

VietCatholic News (12/05/2003 )

Gieo trong thương đau

(Cảm nhận ơn gọi linh mục nhân lễ Chúa Chiên lành)


 

Như cánh chim tung mình trong bầu trời lộng gió, giả từ quê hương, giả từ gia đình kính yêu: PS 5-C36


Như cánh chim tung mình trong bầu trời lộng gió, giả từ quê hương, giả từ gia đình kính yêu, người linh mục tung mình bằng những bước dài trong cánh đồng truyền giáo. Quả là hình ảnh rất đẹp: Cánh chim chao liệng giữa bầu trời: thơ mộng và đáng yêu.

Thế nhưng cũng khác lắm! Khác một cánh chim tung bay tự do lắm! Khác đến mức không thể so sánh nỗi với hình tượng một cánh chim tung bay.

Nhưng vì sao giống rồi lại khác, đấy không là mâu thuẫn lắm sao?

I. KHÓ KHĂN NGOẠI TẠI

Nghe hai tiếng LINH MỤC, tự nhiên sao thấy nhẹ nhàng, thanh thoát. Hình tượng linh mục lại càng thơ mộng. Thơ mộng vì không mang nỗi âu lo của cuộc mưu sinh đời thường. Thơ mộng vì hình như linh mục có nhiều tự do hơn: cần là cứ đi, không cần là ở nhà, có lẽ không vướng bận một điều gì. Thơ mộng trong tưởng tượng của nhiều người cho đến mức, người ta không cần dè dặt, nhưng có thể buông những lời này bất cứ lúc nào: “Nếu con tôi mà chọn đi tu làm linh mục, tốn bao nhiêu, tôi bất kể”… Còn vô vàn những câu nói đại loại như thế, cứ y như rằng, muốn làm linh mục phải có tiền, và có tiền cho nên linh mục sống thật an nhàn. Nói như thế, hóa ra linh mục không phải là ơn gọi?

Nhưng chất chứa trong vóc dáng thơ mộng ấy là cả một ơn gọi lớn lao, không phải bất cứ ai muốn đều có thể đạt được. Nói như ai đó từng nói: “An trong cái thơ mộng ấy lại chất chứa gánh nặng của trách nhiệm: Trách nhiệm làm Kitô hữu với anh em và làm linh mục cho anh em, có mưa dầm nắng gắt, có mồ hôi nhễ nhại và cũng có cô đơn buốt giá”.

Trách nhiệm của linh mục cũng đầy khó khăn. Bởi không chỉ giới thiệu hạt giống Tin Mừng nhưng phải gieo hạt giống Tin Mừng vào lòng anh chị em. Trách nhiệm càng khó khăn hơn nữa khi phải gìn giữ và nuôi nấng để hạt giống lớn lên và sinh kết quả.

Đàng khác, làm linh mục giữa thời hiện đại, thời mà con người mang nặng thèm khát sở hữu. Bằng mọi giá, dẫu là chà đạp lên cuộc sống, chà đạp lên nhân phẩm của người khác, dẫu là thủ đoạn, là loại trừ đồng loại, miễn sở hữu thật nhiều.

Làm linh mục giữa một thế giới ảnh hưởng của kinh tế thị trường đang thấm vào từng ngỏ ngách của đời sống, biến con người thành cái máy sản xuất, vật chất trở thành ông chủ. Nghĩa là bằng mọi giá, phải nâng cao giá trị sản phẩm, nhằm tiêu thụ dễ dàng, dẫu sức lực của người lao động bỏ ra bất kể là ở mức độ nào. Hóa ra con người phải phục vụ chính sản phẩm mình làm ra, thay vì chúng phải phục vụ mình.

Từ chỗ đề cao vật chất, xem nhẹ giá trị con người, nhân loại cũng lún sâu vào một thứ tâm lý tệ hại: loại bỏ tất cả những gì là thánh thiêng, những gì là giá trị tinh thần, những gì mang chiều sâu nội tâm và khoác vào một thứ chủ nghĩa hưởng thụ, một thứ chủ nghĩa đầy vật chất.

Làm linh mục hôm nay là làm linh mục giữa một thế giới bị bao vây bởi quan niệm lệch lạc về tự do. Nghĩ rằng tự do là thoát khỏi sự ràng buộc của mọi lề luật, dẫu đó là lề luật làm nên giá trị con người, vì thế người ta vong thân. Vì cho rằng để có tự do là phải loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình, người ta bị chới với, bị chao đảo, cuộc đời chỉ là một thứ rỗng tuếch, cuộc sống mất hết ý nghĩa. Càng chìm sâu trong quan niệm tự do buông thả lệch lạc, người ta càng tự chôn mình trong vũng lầy của thế giới tội lỗi. Nhưng tính tự nhiên của con người có bao giờ ở yên. Vì thế càng mất bình an, con người càng vùng vẫy. Nếu vùng vẫy mà không có một định hướng đúng đắn, không vươn lên được, người ta càng lún sâu trong đám bùn đen ấy. Quan niệm tự do như thế, biến con người thành một thứ nô lệ đáng kinh sợ: nô lệ cho chính quan niệm và lối sống tự do lệch lạc phóng túng của mình. Cái bi đát nằm ở chỗ, nô lệ mà không nhận ra mình nô lệ, lại còn ảo tưởng tôi đang tự do!

Làm linh mục giữa thời buổi mà óc thực nghiệm trở thành một bóng ma tác oai, tác oái, nó gieo vào lòng con người thứ tư tưởng, có khi chỉ là mơ tưởng về một thế giới không có Thiên Chúa. Người ta đề cao khoa học và sự phát triển của khoa học như Chúa của mình. Thay thế Thiên Chúa bằng chứng cứ khoa học. Cái đau đớn là khoa học vẫn cứ bó tay trong rất nhiều lãnh vực, không chỉ thuộc về siêu nhiên, không chỉ là tâm thức đức tin, mà bó tay ngay trên chính lãnh vực thực nghiệm của mình.

Loại trừ những gì thuộc về tinh thần, loại trừ các giá trị thiêng liêng, loại trừ mọi giá trị đạo đức đã tích tụ và làm nên giá trị của sự sống con người qua nhiều thế hệ. Người ta quên mất, hay cố tình quên khoa học có nguồn gốc từ đâu, do ai, nếu không phải Thiên Chúa đã xếp đặt mọi trật tự để con người, nhờ đó nhận ra các định luật khoa học? Người ta quên rằng, khi loại trừ Thiên Chúa, loại trừ mọi giá trị thánh thiêng, con đường phát triễn của khoa học, lẽ ra nhắm phục vụ con người, sẽ dễ dàng rơi vào tính bập bênh, lệch lạc. Xa hơn nữa: tự nó quay lại giết hại chính con người, giết hại nhân phẩm con người, điều mà chính lúc này, hơn ai hết, những người Công giáo chân chính nhận ra và có kinh nghiệm. Bởi thế mà Giáo Hội luôn luôn đòi phải trả lại chỗ đứng đúng đắn của con người trong khi phát triển khoa học.

Vô vàn những nếp sống, chủ trương, tư tưởng, chủ nghĩa duy thế tục như thế làm cho người linh mục như mỏi mòn trong công tác truyền giáo của mình. Giữa thời buổi mà người ta nhân danh tính hiện đại, không còn nhìn nhận mọi chân lý truyền thống như thế, người linh mục phải gieo hạt giống Tin Mừng, phải cao rao tinh thần Tám Mối Phúc, cao rao tình yêu, lòng tha thứ, nhân hậu, bao dung…, thì đúng là làm linh mục hôm nay cũng đồng nghĩa với lội ngược dòng.

II. TIẾNG NÓI CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Những khó khăn ấy cũng là điều mà mấy mươi năm trước, Công Đồng Vatican II nói nhiều trong hiến chế Mục vụ. Chẳng hạn: “Chưa bao giờ nhân loại dồi dào của cải, khả năng và quyền lực kinh tế như ngày nay, vậy mà tới nay, một phần rất lớn nhân loại trên thế giới đang quằn quại vì đói ăn và thiếu thốn, rồi không biết bao nhiêu người đang chịu cảnh mù chữ. Chưa bao giờ con người ý thức mãnh liệt được sự tự do như ngày nay, đang khi đó lại thấy sống dậy những hình thức nô lệ mới mẽ về mặt xã hội cũng như tâm lý. Trong lúc đang mãnh liệt cảm thấy sự duy nhất cũng như sự kiện tất cả lệ thuộc nhau trong sự liên đới cần thiết, thì thế giới lại bị lôi kéo kịch liệt theo những chiều hướng tương phản do những lực lượng chống đối nhau; thực vậy, vẫn còn kéo dài mãi tới ngày nay những bất đồng trầm trọng về chính trị, xã hội, kinh tế, chủng tộc và ý thức hệ, và một cuộc chiến diệt vong vẫn còn đe dọa” (MV số 4).

III. KHÓ KHĂN NƠI CHÍNH BẢN THÂN

Ngoài những khó khăn ngoại tại như thế, về lâu, về dài, tâm lý tự nhiên dễ làm linh mục chán nản. Thêm vào đó, do bổn phận, đòi linh mục phải mực thước, phải nêu gương, phải khôn khéo… làm cho bổn phận và thánh chức mà ngày xưa khi còn mới mẽ, người linh mục dễ dàng, có khi còn hăm hỡ đón nhận, nay trở thành gánh nặng.

Chiều dài thời gian làm cho một linh mục coi xứ phải nói Lời Chúa, đến một lúc, cái hay, cái mới ban đầu dần khô cạn, anh chị em tín hữu trở nên nhàm chán. Hai bên cứ phải chịu đựng lẫn nhau, đến với nhau, cùng dâng thánh lễ mà không mấy vui tươi phấn khởi.

Cũng là người như anh chị em mình, linh mục cũng có những ưu tư, khắc khoải, vui buồn của riêng mình. Có những điều có thể bộc lộ với hết mọi người, nhưng cũng có những điều không thể nói cho bất cứ ai. Nếu là niềm vui thì không sao, nhưng gặp phải nỗi buồn mà không ai hiểu, không ai thông cảm, nỗi buồn ấy càng quay quắt, càng quặn thắt như muốn đốt cháy tiêu tan tâm hồn, người linh mục dễ rơi vào nỗi cô đơn buốt giá.

Bên cạnh đó, còn biết bao nhiêu hoàn cảng khác tác động như: bị chống đối, tuổi tác, đau bệnh, sức cùng, lực kiệt… làm linh mục dễ ngã lòng, muốn buông xuôi. Từ đó công tác truyền giảng dễ dẫn đến bế tắc.

Nói cho tường tận, tất cả trở thành vô cảm, lòng người trở nên khô khan. Bản thân linh mục không còn chí khí. Cuối cùng chỉ còn hai tiếng: đầu hàng. Nghĩ như thế là tự chôn vùi cuộc đời linh mục của mình vì thiếu hy vọng. Để xảy ra như thế thì thật là bi đát.

IV. CỨU CÁNH KHÔNG THỂ THIẾU

Đừng quên, những lúc mà công tác rao giảng bế tắc cùng với những rào cản linh mục gặp phải, lại chính là lúc cần thiết đòi linh mục phải mở Thánh Kinh ra, đọc lại Lời Chúa, để nhận ra một sự thật rằng: nỗi bấp bênh của ta hiện nay, đâu phải của riêng ta. Chính Con Thiên Chúa làm người cũng không thoát khỏi, các tổ phụ, các tiên tri ngày xưa đã từng chung số phận. Các thánh tông đồ cũng từng nếm trải nỗi thương đau ô nhục.

Chẳng hạn tổ phụ Abraham được Chúa kêu gọi: “Hãy bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi đến đất Ta sẽ chỉ cho” (St 12, 1). Thế là Abraham ra đi. Đi trong mịt mù. Đi trong tăm tối. Đi mà chẳng biết mình đi đâu. Suốt đời ông mơ ước có một đứa con nối dõi tông đường, vậy mà cũng chẳng có. Đến khi ông cả trăm tuổi, vợ ông cũng cao niên chẳng kém gì, Thiên Chúa mới hứa ban cho ông một đứa con. Một lời hứa như thế thật khó chấp nhận làm sao. Thế như Abraham vẫn tin.

Đến khi đứa con trai duy nhất của ông, đứa con thừa tự, đứa con của lời hứa, đứa con ngọc, đứa con ngà đã lớn khôn, Thiên Chúa lại đòi ông đem đứa con đó đi sát tế cho Người. Có tội ác nào lớn cho bằng tội của một người cha giết con. Có còn lời dạy nào khủng khiếp cho bằng dạy một người cha giết chính đứa con là máu, là mủ, hơn nữa là cả cuộc sống của người cha già nua đã từng rút ruột mình sinh ra. Và còn đâu là một Thiên Chúa yêu thương, một Thiên Chúa gần gũi với con người, hay chỉ là một Thiên Chúa tàn nhẫn và say máu cho đến độ đòi một người cha phải thủ tiêu con của ông làm của lễ tế hiến cho mình. Đúng là một Thiên Chúa độc ác, không còn gì độc ác hơn. Càng suy nghĩ như thế về hình ảnh của Thiên Chúa bao nhiêu, ta càng thấy đức tin của Abraham lớn bấy nhiêu. Cứ bắt đầu bằng tình cảm con người, ta suy diễn, sẽ thấy, Chắc tâm hồn ông chao đảo lắm, lương tâm ông giày vò lắm, cuộc sống của ông chắc mất bình an lắm. Có lẽ nước mắt đã tràn ngập, đã dàn dụa tâm hồn ông. Và có lẽ giọt nước mắt ấy rất âm thầm, vì ông không thể để lộ cho con mình biết được. Làm sao dám cho con biết khi chính ông sẽ giết chết con! Mà tiếng khóc càng âm thầm, tiếng nấc càng nghẹn ứ, nước mắt càng chảy ngược vào hồn nhiều bao nhiêu, thì nỗi đau càng dằn xé, càng tê tái, càng buốt giá bấy nhiêu. Nhất là mỗi khi ông nhìn đôi bàn tay của mình. Ngày nào đôi tay ấy bồng ẳm con, nâng niu con, bây giờ cũng chính đôi tay ấy sẽ thủ tiêu con. Là cha, là mẹ như bao người cha, người mẹ khác, Abraham se thắt lòng mình. Nhưng Abraham đã vượt qua tất cả. Đức tin của ông lớn hơn tất cả. Chính đức tin dạy cho ông biết: Thiên Chúa vẫn yêu thương ông vô cùng. Người vẫn nhìn thấy ông. Người biết rõ lòng ông. Người có cách của Người để trù liệu cho ông những điều tốt đẹp nhất.

Vì tình yêu vô cùng mãnh liệt, vì tình yêu mến Thiên Chúa ngất trời cao, Abraham đã không mất bất cứ một điều gì, dù là nhỏ nhoi nhất. còn hơn bất cứ một người nào trong nhân loại, qua muôn ngàn thế hệ, bằng miệng lưỡi của thiên thần, Thiên Chúa ca tụng ông: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của Ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!… Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển…” (St 22, 12. 16 -18).

Cũng thế, chính ông Môiisen, một nhà giải phóng lừng danh, được Chúa tin tưởng trao cho sứ mạng đưa dân của Người thoát cảnh lầm than nô lệ cho Aicập, cũng đã từng quặn thắt tâm hồn, đã từng than trách với Chúa và muốn chết đi: <B>“Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó đâu?… Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12 tt).

Đến như tiên tri Êlia, trong nỗi khổ của một kẻ chạy trốn vì hoàng hậu Giêgiaben đang tìm giết, dẫu là người rất can đảm cũng đã phải thốt lên: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi!, bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19, 4).

Tiên tri Giêrêmia cũng chung số phận: Vì phải sống và loan báo Lời Chúa, nhà tiên tri bị người đời ghét bỏ, bị những kẻ xấu chống đối dữ dội, và thù hận đến mức có những lúc ông đau khổ một cách tuyện vọng, chỉ còn biết trách móc cái ngày ông sinh ra và than van cho số phận bạc kiếp của mình: “Thật đáng nguyền rủa ngày tôi được sinh ra. Ngày mẹ tôi sinh ra tôi không đáng được chúc lành. Tại sao tôi lại không chết ngay trong lòng mẹ, để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi, và lòng bà cưu mang tôi mãi mãi? Tôi đã lọt lòng mẹ để làm chi? Phải chăng chỉ để thấy toàn gian khổ buồn sầu, và thấy cuộc đời qua đi trong tủi hổ” (Gr 21, 14. 17 - 18).

Và rất nhiều những con người đạo đức, thánh thiện, lẽ ra được tràn đầy hạnh phúc, thì ngược lại, số phận cứ mãi lênh đênh bạc bẽo, đau khổ tột cùng như ông Gióp, tiên tri Giona, Tôbia, Isaia, Amốt… Đến vị tiên tri cuối cùng của Cựu ước là thánh Gioan Tẩy giả cũng đã từng hoang mang đến mức nghi ngờ: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay chúng tôi phải chờ đợi ai khác?” (Mt 11, 3). Cuối đời, vì lẽ sống và sự thật, thánh Gioan cũng không đi ngoài con đường mà những người tiền nhiệm đã đi: nếm trải nỗi đau khổ, tù tội và cái chết bi ai (Mc 6, 17 -29)…

Bởi thế, càng u uất, thất bại và chán nản bao nhiêu, linh mục càng phải suy niệm Thánh Kinh gấp nhiều lần bấy nhiêu. Nơi Lời Mạc khải của Thiên Chúa, linh mục sẽ tìm thấy nguồn an ủi, lời động viên, sức nóng đủ hâm lại nhiệt huyết của mình. Và trên hết, nơi Lời Chúa, linh mục lấy lại sự thánh thiện, lấy lại đức tin, niềm hy vọng và phó thác vào tay Chúa là Đấng luôn quan phòng điều khiển mọi sự.

Hãy nhớ rằng, linh mục chỉ là dụng cụ trong tay Thiên Chúa. Vì thế hãy cứ gieo hạt giống Tin Mừng, gieo khắp nơi, gieo mọi lúc. hãy tin rằng, người gieo hạt giống Lời Chúa nếu chỉ là kẻ bất lực, thì quyền năng Thiên Chúa sẽ mạnh mẽ. Chỉ có Chúa mới làm cho xấu trở nên tốt. Dẫu cho người gieo là chính linh mục có sống trong tội lỗi đi nữa, thì chỉ có Chúa mới có thể rút ra điều tốt từ những gì mà trong con mắt con người chỉ là cái xấu.

Hãy gieo Lời Chúa và hãy tin mãnh liệt rằng, hạt giống Lời Chúa vẫn nảy mầm và mọc lên, dù đêm hay ngày và người gieo ngủ hay thức (Mc 4, 27). Có thể có hạt rơi trên sỏi đá, rơi trên đất khô cằn. Nhưng sẽ có những hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết trái: hạt được một trăm, hạt được sáu mươi, hạt được ba mươi (Mt 13, 8).


Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

----------------------------------

 

PS 4-C37: Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên 


Ga 10,1-10

A. Hạt giống...

 

Đoạn Tin Mừng hôm nay trình bày Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên: - “Ai không qua cửa chuồng: PS 4-C37


Đoạn Tin Mừng hôm nay trình bày Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên:

- “Ai không qua cửa chuồng chiên mà vào thì là quân trộm cướp”: Chúa Giêsu ám chỉ những người biệt phái và luật sĩ. Họ không được Thiên Chúa ủy nhiệm, họ chỉ dành quyền lãnh đạo tôn giáo, không phải để mưu cầu lợi ích cho dân, mà để tìm vinh dự và quyền lợi riêng.

- “Ta là cửa chuồng chiên”: Chúa Giêsu là mục tử đích thực của dân. Ngài đi vào đường hoàng, được người canh gác mở cửa cho, gọi tên từng con chiên, chiên quen tiếng nên đi theo, Ngài dẫn chúng đi ăn...

B.... nẩy mầm.

1. Ngày hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành. Những lời Chúa Giêsu tự mô tả mình là mục tử tốt lành gợi cho chúng ta hai tâm tình:

a/ Vui vì được sống dưới sự dẫn dắt, chăm sóc và che chở của Chúa.

b/ Cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, tu sĩ.

2. Chúa chúng ta không phải là một Thiên Chúa cao vời xa cách, mà là một Thiên Chúa rất gần gũi yêu thương, như một mục tử sống sát với đàn chiên, hiểu biết, yêu thương, chăm sóc từng con chiên một... Giả như tôi có là một con chiên yếu đau, què quặt, Chúa đã biết và vẫn thương tôi, hơn nữa còn chăm sóc tôi đặc biệt hơn những chiên khác. Vì thế tôi nên phó thác sống theo sự dẫn dắt của Ngài.

3. Từ lâu, tôi vẫn cứ ấm ức không hiểu tại sao khi minh họa chân dung mình trong dụ ngôn Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu lúc thì ví mình như Mục tử, lúc lại ví mình như cửa chuồng chiên. Gần đây, một cuốn sách đã giải tỏa cho tôi thắc mắc đó. Sách viết: một du khách đến Palestin, gặp được một mục tử đang làm việc tại một trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh vật biến ảo của cánh rừng. Thấy thế, du khách hỏi: “Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu ?” Người mục tử hỏi lại: “Cửa hả ? Chính tôi là cửa. Ban đem tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi.” Thế đó, đức Giêsu đâu có lẫn lộn khi trình bày chân dung mình: Ngài vừa là mục tử vừa là cửa vào. (Góp nhặt)

4. Người mục tử biết từng con chiên của mình và “gọi tên từng con”: mỗi người chúng ta có những nét riêng về quá khứ, cá tính, khả năng, tội lỗi, nhược điểm... Do những nhược điểm của tôi mà người khác coi thường tôi... Vì không hiểu những nét riêng của tôi mà người khác không thông cảm cho tôi... Nhưng Chúa Giêsu biết rất rõ về tôi, nên Ngài yêu thương tôi, thông cảm cho tôi, và có cách riêng để chăm sóc và hướng dẫn tôi.

“... và chiên nghe tiếng của người đó”: đáp lại, tôi cũng phải “nghe tiếng” Chúa Giêsu và đi theo Ngài với trọn niềm tin yêu phó thác.

5. “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh.”

“Tôi xin chọn Người làm gia nghiệp tôi mãi mãi. Trọn đời tôi trót cả đời tôi, trọn tuổi xuân, dâng cả tình yêu luôn với ước mơ... “ Đối với tôi, đó không chỉ là một bài hát, là những nốt nhạc, những là tâm nguyện, là cuộc đời của một chàng trai đã dám từ bỏ tất cả: tương lai rực rỡ, một người yêu tuyệt vời và cả những cuộc vui cùng bè bạn, để bước theo tiếng Chúa gọi.

Đã bao lần tôi muốn quyết định... những rồi lại thôi. Muốn đặt bước chân mình lên bước chân Người, định đưa tay tôi ra để Người nắm lấy và dẵn tôi đi, nhưng lại hèn nhát rụt tay lại.

Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con, và xin cho con biết đón nhận thánh ý Người.  (Epphata)

6. Mầm khác:

----------------------------------

 

PS 4-C38: TA LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH


Gian 10, 27-30

I. VÀI ĐIỂM CHỦ GIẢI

1. Đức Giêsu, Đấng chăn chiên lành

 

Bản văn Chúa nhật này quá ngắn, cần đưa trở lại văn mạch tổng thể một chút. Vào dịp lễ Lều: PS 4-C38


Bản văn Chúa nhật này quá ngắn, cần đưa trở lại văn mạch tổng thể một chút. Vào dịp lễ Lều, sau khi chữa một người mù bẩm sinh và anh ta bị trục xuất khỏi hội đường, Đức Giêsu tỏ ra là một "'Đấng chăn chiên đích thực", "hiến tặng đời mình cho đàn chiên. " (Ga 10.1 I) .

Giờ đây chúng ta trở lại lễ Cung Hiến, lễ kỷ niệm hằng năm ngày cung hiến đền thờ và bàn thờ thời Giuđa Macabê. Đức Giêsu đi đi lại lại nơi hành lang Salômôn (nơi mà sau khi Chúa về trời, các môn đệ thường tụ họp, Cv 5,12) Những người Do thái – từ ngữ chủ chung các thù địch của Đức Giêsu, trong Tin Mừng Gian – tụ tập chung quang Đức Giêsu (đúng ra là “vây quang Người” 10,22). Tin Mừng ghi: "Lúc đó là mùa đông": (Ga 10,22); nói thế để từ chi tiết, chúng ta dễ nghĩ tới “sự băng giá” của lòng người theo thánh Augustinô sẽ viết sau này: “Nếu ông là Đấng Cứu thế hãy nói huỵch toẹt cho chúng tôi biết đi”

Những người vây quanh không nắm rõ nội dung từ Cứu thế, nên Đức Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi, Người kêu gọi thính giả suy nghĩ về những công việc của một vị Cứu thế, nhất là việc chữa người mù từ bẩm sinh mới đây. A. Marchadour giải thích: “Các phép lạ được coi như những dấu chỉ nhờ đó mà nhận ra Đấng Cứu thế” Rồi, Người tiếp tục đề tài người chăn chiên, hình ảnh truyền thống của Đấng Cứu thế  dòng dõi Đavit; ở đây, Người nhấn mạnh đến những con chiên mà Chúa Cha trao phó cho Người.

2. Làm một với Chúa Cha.

Và bây giờ đề tài cho tới lúc này chưa đề cập tới lần nào: sự thân mật với Chúa Cha: Cha tôi và tôi, chúng tôi là một” Một khẳng định xác lập cội nguồn sứ mệnh của Đức Giêsu. Tình yêu của Chúa Cha, một tình yêu toàn bích bao bọc các con chiên đến nỗi không ai có thể cướp được một con nào. "Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. "

Đối với người Do Thái, nói thế là quá quắt rồi. Phạm thượng! Ai lại dám xưng mình là Cứu thế và lại còn thân mật quá thế với Thiên Chúa. Họ lượm đá để ném Người. Họ nói: “ Ông chỉ là phàm nhân mà lại tự cho mình là Thiên Chúa ".

Tác giả Tin Mừng kết thúc: "Nhưng Người đã thoát khỏi tay họ ". Tác giả như muốn mời chúng ta đọc đoạn này dưới ánh sáng của cuộc tử nạn trên thập giá và sự Phục sinh từ cõi chết. Với ánh sáng ấy, chúng la sẽ khám phá ra Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã hoàn tất tới cùng sứ mệnh của mình bởi tình yêu đối với các con chiên thế nào; trên con đường Sự sống nào, Người muốn đẫn đưa những ai nghe tiếng Người đi theo Người; Mối tình hiệp thông yêu thương nào với Chi Cha mà Người muốn dẫn đưa chúng ta tham dự vào!

II BÀI ĐỌC THÊM: '

1.Theo đức Giêsu

(G.Boucher, trong "Thiên đường tại thế" (Kerampir, 29820 Bohars, trg 38)

Lạy Chúa, chúng con không muốn mình bị đồng hóa với đàn súc vật. Con không thích là một chú chiên chỉ biết đi theo người chăn chiên. Con cũng không muốn kêu be be như con chiên. Con nói điều con nghĩ, đi nơi con thích. Con không muốn bị dắt đi. Ngày nay, chúng con nhấn mạnh đến sự thức tỉnh của lương tâm: mỗi người sẽ chọn lấy hướng đì mà mình muốn. Mong sao  có trong tay phương tiện thực hiện sự lựa chọn của mình.

 Ngày nay, chúng con thích chịu trách nhiệm về số phận mình. Chúng con không muốn trao tấm bảng trắng đời mình cho các nhà lãnh đạo hoặc những người chúng con bầu ra để họ muốn làm gì thì làm. Ngược lại, họ phải trả lời cho chúng con về những việc họ đã làm.

 Nhưng, Chúa lại nói với con rằng: giữa con và Chúa là sự hiệp thông. Mong sao Chúa nói lời soi sáng và hướng dẫn đời con. Chúa thuộc một bình diện hoàn toàn khác.

Nghe Chúa và đi theo con đường Chúa đã vạch ra, con sẽ sống cuộc sống tốt đẹp và trọn vẹn, cho tới nỗi cuộc sống ấy sẽ không ngừng lại khi sự hiện hữu trần thế chấm dứt. Cuộc mạo hiểm mà Chúa dắt con đi sẽ dìm con vào sự sống vĩnh hằng.

Với Chúa, mọi sự sẽ đổi khác. Chúng con không còn nguy cơ sẽ bị huỷ diệt nữa. Không ai tiêu diệt được chúng con. Không gì có thể xâm phạm đến chúng con. Nghe lời Chúa và đi theo con đường Chúa thiết lập là chúng con lên đường với Chúa. Con muốn nói: với Thiên chúa. Với Thiên Chúa của sự sống và của sự vĩnh cửu. Với Thiên Chúa mà Chúa đã gọi là Cha.

2. Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi

(Sứ điệp Của Đức Gian-Phaolô II).

Ngày nay, vẫn còn nhiều nguyên do cản ngăn thiếu niên và các bạn trẻ sống sự thực của tuổi đời mình trong sự gắn bó quảng đại với Đức Kitô. Biết bao bạn trẻ đang đánh mất năng lực phát triển đích thực.

Vậy nên mong đợi gì? Trong thâm tâm mỗi thế hệ ẩn tàng một ước muốn lạo lập một ý nghĩa cho đời mình: hành trình cuộc sống, các bạn trẻ luôn tìm một người biết thảo luận với họ những vấn đề làm họ bức xúc và đồng thời đề ra được những giải pháp, những giá trị, những viễn cảnh đầu tư được sự dũng cảm đương đầu với tương lai.

Điều người ta đòi hỏi hôm nạy là: một Giáo Hội biết trả lời cho sự kỳ vọng của tuổi trẻ. Đức Giêsu mong muốn thảo luận với họ qua thân thể Người là Giáo Hội. Người muốn đề nghị với họ viễn cảnh của một chọn lựa có tính quyết định cuộc đời. Như Người đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus, Giáo Hội ngày nay cũng phải lên đường đồng hành với các bạn trẻ đầy ưu tư, bất mãn và mâu thuẫn,để loan cho họ Tin Mừng kỳ diệu của Đức Kitô phục sinh.

Điều người ta đang cần là một Giáo Hội cho các bạn trẻ, một Giáo Hội nói chuyện được với tâm hồn họ, hâm nóng con tim họ bằng niềm vui của Tin Mừng, bằng sức mạnh Thánh Thể, một Giáo Hội biết đón tiếp và mời gọi những ai đang đi tìm mục đích cuốn hút toàn bộ cuộc sống của họ; một Giáo Hội không sợ đòi hỏi nhiều sau khi đã cho đi không ít; một Giáo Hội không sợ đòi hỏi nơi các bạn trẻ sự nhọc mệt của một cuộc mạo hiểm cao thượng và chân chính, cuộc mạo hiểm bước "theo " Tin Mừng.

----------------------------------

 

PS 4-C39: CHÚA GIÊSU BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI


CHO CÁC CHIÊN CỦA NGÀI

Ga 10,27-30

 

Khác với các phúc âm nhất lãm (Lc 22,66-71 và song song), Gioan không tường thuật vụ án: PS 4-C39


1. Khác với các phúc âm nhất lãm (Lc 22,66-71 và song song), Gioan không tường thuật vụ án Chúa Giêsu trước công nghị Do thái trong cuộc khổ nạn. Vì theo ông, vụ án thực sự đã diễn ra trước khi Chúa Giêsu bị bắt, trong những lần tranh luận với người Do thái, đặc biệt trong cuộc tranh luận hôm nay. Lúc này cũng như trong vụ án chính thức theo pháp luật về sau. Chúa Giêsu bị ép buộc trả lời rõ ràng Người có phải là Đấng Messia không (c.24) và cuối cùng Ngài tự xưng mình là Con TC (x.Lc 22,70) bằng cách tuyên bố rằng Cha Ngài và Ngài ở trong Cha, trong sự hiệp thông trọn vẹn đời sống và việc làm.

Tuy nhiên trước khi tuyên bố dứt khoát điều đó, Chúa Giêsu cảm thấy phải cứ quả quyết không ngừng cho những kẻ đối thoại với Ngài. Đó là điều làm cho người Do thái và “chiên của Ngài” khác biệt nhau. Đối với người Do thái, những lời Ngài nói, phép lạ người làm không đủ thuyết phục họ, vì xét cho cùng họ có dã tâm và không muốn tin. Chính trong bối cảnh đó mà Chúa Giêsu nói đến chiên của Ngài, đối nghịch với sự ngoan ngoãn và ngay thẳng của đàn chiên với tính hiểm ác của người Do thái. Dĩ nhiên Ngài không cần nhiều dấu hiệu bên ngoài như vậy, vì chúng nghe và đi theo chủ chiên. Phần mục tử, Ngài biết chiên mình và đảm bảo cho chúng sự sống đời đời. Trong tay Ngài, đàn chiên được an bình không bị ai đánh cướp.

2. Về câu 29, bản Hy lạp không được chắc chắn lắm. Các thủ bản ở đây chia làm nhiều nhóm. Ta có thể tóm gọn thành hai:

Nhóm thứ nhất chọn câu: ho pâtêr mou ho dedoken moi pântôn meizon estin, dịch từng chữ là “Cha Ta, điều Ngài ban cho Ta thì lớn lao hơn tất cả” (bản Vaticanus, Versions latines, Sinaiticus, Codex Freer và chung chung các giáo phụ Latinh). Câu này có thể hiểu được hai cách: điều mà Chúa Cha ban cho Chúa Con chính là bản tính của Người (Augustin, Thomas, Lnabenhauer...) hay quyền năng của Người (Schanz, Belser...) và đó là điều cao trọng hơn tất cả. Nhưng ai mà dám nghĩ đến việc cất bản tính và quyền năng của Chúa Con khỏi tay Chúa Cha ? Cho nên lối giải thích thứ nhất này khó chấp nhận xét theo văn mạch. Văn mạch nói đến việc ban tặng là ban tặng các chiên (ý kiến chung), vì thế phải hiểu: “Điều mà Chúa Cha ban cho ta (các chiên) là quà tặng quí giá nhất”, như thế ta hiểu đó là lý do khiến Chúa Con phải giữ gìn quà tặng đó, và một khi đã ban cho Con, Chúa Cha cũng luôn lưu tâm đến tặng vật này.

Nhóm thủ bản thứ hai (nhóm K, Codex Coridethi, codex Bezae, và các giáo phụ Hy lạp) chọn câu: ho pâtêr mou hos dedôken moi pantôn meizôn estin, có thể dịch: “Cha Ta, đấng đã ban cho chúng ta, thì lớn hơn tất cả mọi sự”, nghĩa là: Cha Ta, Đấng đã ban cho Ta các chiên, là Đấng cao trọng hơn mọi loài và vì thế...Ngài đặt chúng trong tay Ta mà không ngừng giữ chúng trong tay Ngài. Ở đây, tay có nghĩa là quyền năng, quyền năng chung của hai Đấng. Câu này xem ra thích hợp hơn với văn mạch và đã được số đông tác giả theo (Louis, Bultmann, Barret, BJ, TOB...). Tuy nhiên nó bị chỉ trích là đã được sửa đổi để thêm phần sáng sủa. Nói rằng Chúa Cha lớn lao hơn hết mọi sự là điều hiển nhiên, cần gì nêu lên ở đây. Dầu vậy, câu (b) này ngày nay đã được hầu hết chấp nhận.

Dù sao, điều làm chúng ta chú ý chính là tay của Chúa Con, được đặt ngang hàng với tay Chúa Cha, hay đúng hơn cả hai tay cùng bảo vệ giữ gìn đàn chiên. Chúa Giêsu xem ra tự gán cho mình quyền ban sự sống cho các tâm hồn và giữ gìn chúng trong tay. Nhưng rồi theo thói quen (5,19tt; 6,37;7,16; 8,49; 10,18), Chúa Giêsu vội vàng liên kết Cha Ngài vào công trình của Ngài, vì Cha là nguồn mạch mọi ơn huệ: Chúa Cha giao cho Chúa Con một vật và gìn giữ bằng sức mạnh của mình, cũng như Chúa Con gìn giữ những gì nhận được từ Cha.

3. Lời tuyên bố trong câu 30 ("Cha và Ta là một") về sự hiệp thông mật thiết của Chúa Giêsu với Cha Ngài là một mạc khải quan trọng rõ ràng nhất về thần tính của Ngài và mầu nhiệm sâu xa của TC. Chính trên đỉnh sáng ngời đó mà Chúa Giêsu chấm dứt tranh luận với người Do thái: Ngài có thể mạc khải thêm cho họ điều gì nữa ? Và đó là nghĩa mà người Do thái hiểu khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố như thế, vì lập tức sau đó họ ném đá Ngài “bởi lẽ ông là một người phàm mà dám cho mình là TC”.

Câu 30 này đã nổi tiếng trong lịch sử tranh luận với tà giáo Ariô. Chúa Giêsu không nói: “Ta và Cha Ta, chúng ta là một ngôi vị” (heis) nhưng bảo: “chúng ta là một sự (hen, chose), chúng ta đồng một bản tính và vì thế mà tay Ta (c.28) cũng quyền năng như tay Cha Ta” (c.29). Tất cả thần học gia chống Ariô, từ tertullien đến Augustin đã dùng câu 30 làm công thức thánh kinh nói về việc Chúa Cha và Chúa Con đồng bản tính nhưng khác ngôi vị.

KẾT LUẬN

Ân sủng thần linh cho chúng ta sức mạnh để vượt thắng mọi khó khăn bên ngoài (Rm 8,31-39) bất cứ từ đâu đến, nhưng ân sủng không ép buộc ai cả. Con người có thể từ chối không muốn được cứu rỗi: “TC chỉ từ bỏ những ai xa tránh Ngài trước” (công đồng Triđentinô, DS 1537).

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. “Người Do thái mới vây quanh Chúa Giêsu”. Họ muốn chất vấn Ngài lần nữa vì Ngài làm họ khó chịu. Họ đột nhiên nói với Ngài: “Cho đến bao giờ nữa, ông còn để lòng trí chúng tôi phân vân lưỡng lự ? Nếu quả ông là Đức Kitô, xin nói trắng ra cho chúng tôi”. Chúa Giêsu hẳn làm cho họ bối rối nhiều và có lẽ làm cho họ nghi ngờ. Họ muốn biết thực hư. Ai trong chúng ta không một lần chất vấn Chúa như thế: Ngài là ai đối với tôi hôm nay ? Tìm Ngài chỗ nào ? Trong mọi hỗn loạn thời đại, trong bao cuộc đặt lại vấn đề, Chúa ở đâu ? Đâu là sự thật ? Đúng hơn, khi một vấn đề đặt ra khiến phải chọn lựa chúng ta đã không từng muốn một câu trả lời rõ ràng đó sao ? Thảm kịch chính là chúng ta không biết gì nữa; khiến ngập tràn đến độ làm chúng ta không còn hiểu gì nữa. Đây là một nghịch lý đáng sợ: kiến thức càng tăng thì càng dẫn đến sự vô tri về chân lý. Như những người Do thái, chúng ta muốn biết ai là người kêu gọi chúng ta qua phúc âm, ai là người đảo lộn cuộc hiện hữu của chúng ta và đặt lại vấn đề đời sống chúng ta.

Chúa Giêsu xem ra không trả lời gì cả. Chính công việc Ngài đã thực hiện làm chứng cho Ngài; và nếu người ta không tin Ngài, đó là vì họ không thuộc đàn chiên Ngài, theo Ngài và thuộc về Ngài vì Chúa Cha đã ban họ cho Ngài. Và Ngài nói: “Cha ta và Ta là một”. Phải nói là câu trả lời của Chúa Giêsu làm chúng ta hoang mang. Chúng ta vừa chấp nhận, vừa bất mãn, vừa nghi nan. Câu trả lời đó của Chúa Giêsu gợi lên những âm hưởng sâu xa, đánh động tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên chúng ta không thỏa mãn vì câu ấy đặt ra nhiều vấn đề: làm sao trở thành chiên của Chúa. Đặt vấn nạn này là vì chúng ta không biết câu trả lời; thế mà hình như Chúa Giêsu nói rằng câu hỏi chỉ đặt ra cho những kẻ không thể hiểu câu trả lời. Những phản ứng của chúng ta vừa biểu lộ sự thỏa mãn cũng như bất mãn; điều đó chứng tỏ chúng ta vừa là chiên vừa là người Do thái, và chúng ta vẫn đặt câu hỏi mặc dầu một cách nào đó đã biết câu trả lời.

3. Nên lưu ý nghịch lý này là: những ai đặt câu hỏi thì không thể nghe được câu trả lời; còn những ai nghe được câu trả lời thì không cần đặt câu hỏi. Người Do thái đặt câu hỏi, chúng ta cũng vậy, một phần nào đó trong con người chúng ta chưa thuộc về Chúa cũng muốn hạch hỏi Người. Nếu người Do thái đã có khả năng lắng nghe, thì họ đã gặp được câu trả lời, đã sống câu ấy và không hỏi gì nữa. Đặt vấn nạn như họ làm cho họ không nắm được câu đáp, vì họ chỉ chuẩn bị để phê bình, lượng giá câu trả lời theo các định kiến và hiểu biết của họ. Họ chỉ chấp nhận chân lý bao lâu họ thấy hòa hợp với những gì họ đã biết. Họ không thể chấp nhận Đức Kitô bởi không chịu được một giải đáp khác với giải đáp họ đã có sẵn.

4. Trái lại, các chiên không đặt câu hỏi, không phải vì đã biết được giải đáp, song vì điều đó không cần thiết. Chúng có một não trạng khác. Chúa Giêsu diễn tả chúng bằng hai tiếng: “Chúng nghe và theo”; Ngài nói tiếp: “Ta biết chúng” và “chúng biết ta”. Đàn chiên không cần đặt vấn đề danh tánh Chúa Giêsu. Chúng thuộc về một giống đặc biệt. Cũng như chúng ta vừa thuộc não trạng người Do thái đang cật vấn Chúa, vừa thuộc dòng giống này. Chúa Giêsu diễn tả đàn chiên với vẻ âu yếm: Ngài biết chúng, ban cho chúng sự sống, bảo vệ chúng khỏi những kẻ ám hại. Đàn chiên không thể cắt nghĩa vì sao Ngài làm như vậy, nhưng chúng biết Ngài nên “chúng nghe và đi theo Ngài”. Chúng sẵn sàng lắng nghe, đón nhận cái bí ẩn, đi đến nơi mà Chúa dẫn tới và chấp nhận mọi nghịch cảnh có thể xảy tới.

5. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng quá ham chất vấn, luôn tìm cách phân tích cái mới lạ, giản lược nó thành tầm thường - đó là một cách tự đóng kín mình, làm mình mất khả năng tiến bộ, biến đổi. Hãy biết lắng nghe, biết mình ngu dốt, biết rằng đấng vô danh luôn luôn kỳ lạ, rằng một cách nào đó Chúa luôn là một đấng chúng ta không thể biết rõ, vì chúng ta không thể hiểu được cách tường tận bao lâu còn ở thế gian này. Nhưng để luôn luôn kết hợp mật thiết với Chúa, để sống hạnh phúc thật sự ở cõi trần này, chỉ có một con đường: nghe và theo Chúa.

----------------------------------

 

PS 4-C40: Bảo hiểm hai lần


CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH

Gioan 10: 27-3


 

Khi bị người Do Thái vây quanh để vặn hỏi căn tính của Ngài, Chúa Kitô đã dùng hình ảnh người: PS 4-C40


Khi bị người Do Thái vây quanh để vặn hỏi căn tính của Ngài, Chúa Kitô đã dùng hình ảnh người chăn chiên và đoàn chiên để minh họa một triết lý tuyệt diệu: Thiên Chúa toàn năng yêu thưong, săn sóc tất cả những con chiên trong đoàn do Ngài chăn dắt. Trong bài Tin Mừng hôm nay Ngài khẳng định một cách dứt khoát là chiên của Ngài sẽ không bị hư mất, nhưng còn được ban cho sự sống đời đời, với điều kiện nó nhận được tiếng Ngài, nhận ra tín hiệu từ Ngài và đi theo con đường của Ngài.

Vào năm 1954, khi biến cố lịch sử xảy ra, tại miền Bắc Việt Nam có ba cặp thanh niên nam nữ trốn lên một vùng đồi núi có nhiều hang, động (cách Hà Nội khoảng 100 cây số) để sống. Họ tự lực cánh sinh, hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài, dĩ nhiên họ rất khồ sở, thiếu thốn tất cả từ nhu yếu phẩm đến thuốc men... Cách đây vài năm, nghĩa là gần năm mươi năm sau, người ta thấy xuất hiện một số người thỉnh thoảng đem lương thực xuống miền xuôi đổi lấy những nhu yếu phẫm khác. Họ là con cháu của ba cặp vợ chồng ngày xưa. Họ sinh con đẻ cái, dựng vợ gả chồng, và nay nhân số lên đến gần 100. Điểm nỗi bật đáng nói ở đây: tất cả mọi người đều là Công Giáo, ba cặp đầu tiên có đạo, họ rửa tội cho con cái họ sau khi sinh ra, rồi khi chúng có trí khôn lại dạy bảo về giáo lý, về niềm tin vào Chúa. Hiện nay có mấy người đang theo học các khóa giáo lý Công giáo ở thành phố, để rồi về dạy lại cho thân nhân, bà con của mình vẫn sống trong các hang động.

Tại sao với hoàn cảnh khắc nghiệt, cô lập như thế mà họ vẫn sống, vẫn sinh hoạt bình thường, không hề tuyệt vọng ? Phải chăng “Ta biết chúng, và chúng theo Ta”. Làm sao chúng ta dám phủ nhận điều này. Đúng là Chúa biết rất rõ từng con chiên của Ngài, Chúa biết con chiên mình muốn gì, cần gì. Nếu như Thiên Chúa không quan phòng thì làm sao sáu người trong hoang mang sợ hãi 50 năm về trước, có thể tồn tại, mà lại còn làm tăng đoàn chiên của Chúa lên gần 100 con. Vậy tại sao họ lại được Thiên Chúa chăm sóc, gìn giữ trong bấy nhiêu năm trời ? Đúng là họ đã theo Chúa, đã tin tưởng nơi Ngài, đã rữa tội và dạy giáo lý của đạo cho con cái mình, nên Chúa đã thực hiện lời hứa hôm nay của Ngài.

Thói thường, để bảo đảm cho tài sản, như nhà cửa hoặc xe cộ, người ta thường mua bảo hiểm, như là một bảo đảm để không bị mất trắng tài sản khi có sự cố xảy ra. Ngược lại người mua bảo hiểm phải đóng một số tiền nhất định nào đó cho hãng bảo hiểm. Dĩ nhiên muốn được bảo hiểm từ Thiên Chúa chúng ta cũng phải trả một giá nào đó. Bài Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta rằng cái giá đó là: hãy đặt bản thân chúng ta vào bàn tay của Chúa, Ngài sẽ ban cho chúng ta tất cả cho đến tận cùng, và bảo đảm cho sự sống vĩnh cữu. Ngài hứa như thế, Ngài viện dẫn đến Cha Ngài là Đấng Tuyệt Đối, lớn hơn cả Ngài, cũng bảo đảm cho lời hứa này, chẳng khác nào chúng ta mua bảo hiểm đến hai lần. Như thế không có gì do gì để chúng ta nghi ngờ, hoặc do dự cả.

Tóm lại, trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy Chúa Kitô đã mạc khải một chân lý độc đáo: “Chúng nghe, Ta biết, Chúng theo, Ta cho”. Không có hãng bảo hiểm nào có thể bảo hiểm cho sự cố đừng xẩy ra, thí dụ như xe đừng hư, nhà đừng cháy, người không chết v.v... chỉ có Thiên Chúa mới có thể bảo đảm cho chúng ta không bị thiệt hại do sự dữ tấn công, chỉ có Ngài mới cứu thoát được chúng ta ở đời này và sự sống đời sau. Ba cặp vợ chồng và con cháu họ vẫn sống tốt lành trong tình yêu của Ngài, là một bằng chứng hùng hồn cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta nhớ rằng Ngài là người viết trang lịch sử đầu tiên của nhân loại, và vũ trụ này, thì chính Ngài là Người sẽ viết trang lịch sử cuối cùng với dấu chấm hết. Khi Ngài vì yêu thương nên bị hiến tế trên thập giá, đoàn chiên của Ngài hoảng sợ, chạy tán loạn. Thế rồi khi Ngài từ cõi chết sống lại, Ngài đã tập hợp lại tất cả. Uớc gì mỗi người tín hữu biết sống tín thác vào Thiên Chúa; những cha mẹ trẻ biết sống, cũng như dạy dỗ con cái mình theo đường lối Hội Thánh dạy. Vì khi vào Thiên đàng không cần phải mang theo tài năng, của cải, sức khoẻ, nhưng chúng ta không thể vào Thiên đàng nếu không đi cùng với Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Phaolô Ngô Suốt


----------------------------------

 

PS 4-C41: Chúng tôi quay về dân ngoại


CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH -C / 4th Sunday of Easter

Lời Chúa cho hôm nay: CHÚNG TÔI QUAY VỀ DÂN NGOẠI

* We now turn to the Gentiles *


 

Phaolô và Banaba hướng về phía dân ngọai, gần như cả thành tụ họp nghe Lời Thiên Chúa: PS 4-C41


* BÀI ĐỌC 1: Công vụ 13, 14; 43-52= Phaolô và Banaba hướng về phía dân ngọai, gần như cả thành tụ họp nghe Lời Thiên Chúa./ Paul and Banaba turn to the Gentiles, almost the whole city gathered to hear the word of the Lord.

* BÀI ĐỌC 2: Khải huyền 7, 9; 14-17= Con Chiên đang ngự giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh./ For the Lamb who is the center of the throne will shepherd them, lead to spring of the life-giving water.

* TIN MỪNG(Gospel): Gioan 10, 27-30= Chúa nói: Tôi chính là Mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của Tôi và chiên của tôi biết Tôi. / I am the good shepherd, says the Lord. I know My sheep, and Mine know Me.

A- Bạn và tôi cùng Cảm-Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )

1/ Trong ngày lễ cung hiến đền thờ, người Do Thái vây quanh hỏi, Đức Giêsu cho biết nếu theo Chúa thì: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời.” Là tín hữu tôi chỉ có hình thức mà không thực hành Lời Chúa, như vậy tôi chỉ là chiên giả. Chúa đã biết rõ tôi là người thành thật hay dối trá; tôi có thực sự theo Chúa bằng chính đời sống thánh thiện hay chỉ theo để háo danh, tìm tư lợi mau qua. Chia sẻ những nỗ lực thực hành Lời Chúa của tôi?(Hành đạo)

“My sheep hear My voice, I know them and they follow Me. I give them eternal life…” (Gioan 10, 27-28)

2/ Sách Công vụ kể sau khi nhiêù người nghe ông Phaolô và Banaba giảng, họ đã ghen tức, nên hai ông nói: “Anh em là những người đầu tiên được nghe Lời Thiên Chúa nhưng anh em khước từ…thì chúng tôi quay về phía dân ngoại.” Hôm nay bạn được nghe Lời Chúa rất nhiều tại nhà thờ, trên sách báo, Radio,, Tivi…bạn có ghi nhớ laị trong lòng để thi hành hay không chấp nhận để đuổi theo đam mê, phù phiếm, thì Chúa sẽ cất lấy cho người khác. Những gì đã cản trở bạn không giữ Lời Chúa?(Học đạo)

“The word of God be spoken to you first, but since you reject it…we now turn to the Gentiles.” (Công vụ 13, 46)

3/ Sách Công vụ kể thêm: “Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh Lời Chúa…đều tin theo. Lời Chúa được lan tràn khắp miền ấy.” Khi tôi tin vào Lời Chúa nói là có sự sống đời đời, dân ngoại họ đã thực hành, đón nhận và tin theo Đức Giêsu. Vì thế, tôi bị nhiều người Do thái thời nay ghen ghét, nói xấu, bỏ vạ, chống đối là thường. Những khó khăn nào trong Gia đình và Xã hội tôi đã gặp?(Sống đạo)

“The Gentiles were delighted when they heard this and glorified the Word of the Lord… (Công vụ 13, 48)

4/ Trong cuộc khải hoàn trên Thiên quốc sau này, sách Khải huyền viết: “Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nứơc …tay cầm nhành lá thiên tuế.” Nước ời là của mọi người tin vào Chúa trong ngày vinh thắng sau này, không riêng gì Do thái hay tôi. Điều quan trọng là tôi có Sống Lời Chúa. Bây giờ bạn làm gì để truyền bá Tin Mừng tại nơi đang sống?(Sùng đạo)

“John, had a vision of a great multitude, which no one could count, from every nation, race…holding palm… (Kh 7, 9)

B- Câu Kinh Thánh thúc giục tôi chọn Sống Lời Chúa tuần này: ( The Best God’s Word )

CHIÊN CỦA TÔI THÌ NGHE TIẾNG TÔI, TÔI BIẾT CHÚNG VÀ CHÚNG THEO TÔI

My sheep hear my voice; I know them, and they follow Me (John 10,27)

Vatican II: Công Đồng muốn Lời Chúa được trao gởi đến mọi Kitô hữu thuộc mọi thời đại …(MK#22)

C- Ngay bây giờ tôi làm gì để theo Chúa: ( So what am I doing / For Action )

Tôi chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm Nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành hay một việc cụ thể khác.

D- Bạn và tôi cùng cầu nguyện với Lời Chúa và Sống lời cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action)

Lạy Cha!, Đức Kitô đã nói: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Xin giúp con hăng hái, can đảm và tha thiết vơí việc làm cho moị người đọc, Sống và chia sẻ Lời Chúa tại cộng đoàn.


Lời hay ý đẹp: KHỨƠC TỪ SỰ CỨU RỖI CỦA CHÚA LÀ MỜI GỌI SỰ TIÊU DIỆT

To reject God’s deliverance is to invite destruction

Ptế Nguyễn Định

----------------------------------

 

PS 4-C42: Chúa Giêsu, Mục tử tốt lành


CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C

*Cầu cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ

Ga 10, 27-30


 

Cứ mỗi năm khi bắt đầu cử hành lễ Chúa chăn chiên lành những hình ảnh về những con chiên: PS 4-C42


Cứ mỗi năm khi bắt đầu cử hành lễ Chúa chăn chiên lành những hình ảnh về những con chiên đi từng bầy theo sau một người chăn với cây gậy cầm trên tay luôn gợi lên trong đầu óc của con người hình ảnh của Chúa Giêsu, vị mục tử nhân hậu hết mình vì đoàn chiên. Trong Tin Mừng của thánh Gioan 10, 1-30, đặc biệt các câu 27-30 nói về dụ ngôn Người mục tử tốt lành. Đoạn Tin Mừng này gợi lên trong ta nhiều suy nghĩ:

CHÚA GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN HẬU, TỐT LÀNH:

Đọc Tin Mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan chương 10, chúng ta bắt gặp một chương thần học đích thực về Chúa Giêsu là vị mục tử tốt lành. Tin Mừng nhất lãm cũng cho thấy hình ảnh Người mục tử nằm rải rác trong các chương Tin Mừng. Tuy nhiên, chương 10 của thánh Gioan là một tổng hợp sâu sắc về Chúa Giêsu, Người mục tử tốt, đến nỗi nó bao trùm cả cuốn Tin Mừng của Ngài về ơn cứu độ chứa chan mà Chúa Giêsu mang lại cho nhân loại, cho con người. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì Ngài có trách nhiệm đối với đàn chiên, yêu thương chiên, săn sóc, quan tâm đến từng con chiên một và do đó, giữa chiên với nhau cũng có sự hiểu biết sâu xa. Khác với các chủ chiên giả ( Ga 10, 1-5 ). Các mục tử giả lợi dụng chiên, không sống cho chiên, không biết lưu tâm săn sóc chiên, làm ngơ giả điếc trước tiếng kêu gào, khóc lóc, than van của chiên mình. Chúa Giêsu là mục tử đích thực, Ngài thí mạng sống vì đàn chiên( Ga 10, 15 ).

Chính khi hiến thân cho đoàn chiên, vị mục tử tốt lành đã chứng tỏ rõ ràng được Người là mục tử tốt luôn chăm sóc chiên cách hết sức vô vị lợi. Điều này khác với những kẻ chăn thuê, chăn mướn vì khi thấy chiên gặp hiểm nguy chúng liền bỏ chạy trốn, để mặc cho chiên bị lâm nguy, bị thú vồ, cắn xé và giết chết. Chúa Giêsu không dừng nơi những con chiên Israen, Ngài nói: ” Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về “( Ga 10, 16 ). Sứ mạng của Chúa Giêsu trải rộng khắp nơi, Ngài không loại trừ, không xua đuổi, không bỏ rơi ai. Chúa Giêsu là mục tử cho mọi người trên khắp cùng thế giới.

CHÚA BAN CHO ĐÀN CHIÊN ĐƯỢC SỐNG VÀ SỐNG DỒI DÀO:

Vì là mục tử nhân lành, chiên nhận ra chủ, nghe tiếng chủ gọi, chủ biết chiên và chiên theo chủ. Các chiên của Chúa nghe tiếng Người ( Ga 10, 16 ). Chiên nghe chủ và tuân theo lệnh của chủ. Chiên vâng phục chủ và đi bất cứ nơi nào chủ sai chiên đi, chiên đi theo bước chân của chủ. Chúa Giêsu ban sự sống và sự an toàn cho đàn chiên. Ngài nói:” Sẽ chỉ có một đàn chiên, và một mục tử ( Ga 10, 16 ). Như Chúa Cha và Chúa Con là một. Chúa Giêsu cũng cho nhân loại liên kết trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Đây là hình ảnh của một nhân loại đã được cứu chuộc nhờ sự hiệp nhất chung cục của mầu nhiệm Thiên chúa Ba Ngôi:” Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”( Ga 10, 18 ).

CẦU NGUYỆN CHO ƠN THIÊN TRIỆU LINH MỤC VÀ TU SĨ:

Chúa Giêsu luôn là mẫu gương tuyệt hảo của mọi ơn gọi. Ngài đến để chiên được sống và sống dồi dào.

Theo gương Chúa Giêsu, vị mục tử nhân hậu, các mục tử của Chúa, những người tận hiến đi theo chân Chúa để sống ơn gọi hiến mình cho ơn cứu chuộc chứa chan của Chúa Giêsu luôn phải noi gương vị Thầy nhân hậu tốt lành để sống tất cả cho việc phục vụ mọi người. Những người mục tử và những tâm hồn tận hiến luôn phải cảm nghiệm sâu xa lời của Thầy Chí Thánh Giêsu:” Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”( Ga 10, 11 ).

Xin cho các linh mục và các tu sĩ nam nữ luôn biết noi gương Vị Mục Tử nhân hậu là Chúa Giêsu tốt lành.

Xin cho có nhiều thanh niên nam nữ thiện chí biết tận hiến cuộc đời của mình để phục vụ mọi người như Chúa Giêsu Đấng đến để phục vụ, chứ không để được hầu hạ.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Bạn hiểu sao về Mục Tử đích thực và kẻ chăn thuê, chăn mướn ?

2. Tại sao Chúa Giêsu lại nói Người là Mục Tử nhân lành ?

3. Bạn đã khi nào thấy con chiên chưa ? Bạn hãy thuật lại câu chuyện Người Mục Tử nhân lành.


Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

----------------------------------

 

PS 4-C43: Linh mục: Mục tử và Chiên


CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH

LỄ CHÚA CHIÊN LÀNH


 

Thời gian gần đây, tôi nhận được rất nhiều thư của các bạn trẻ, có khi thư gởi qua bưu điện: PS 4-C43


Thời gian gần đây, tôi nhận được rất nhiều thư của các bạn trẻ, có khi thư gởi qua bưu điện, nhưng đa số là thư điện tử. Hầu hết những lá thư ấy đều chất chứa một tâm sự nào đó, các bạn trẻ muốn chia sẻ với tôi.

Hôm nay nhân dịp lễ Chúa chăn chiên nhân lành, tôi muốn trích ghi lại một vài tâm sự đáng trân trọng ấy của các bạn. Xin các bạn trẻ là tác giả của những bức thư ấy cho phép tôi là việc này.

Trước hết, đó là lá thư của một bạn nam: “…Hôm qua, lúc cha về rồi, chúng con cảm thấy tâm hồn mình thoải mái nhiều… Một phần chúng con buồn, nhưng một phần chúng con vui. Buồn vì chúng con có quá nhiều lầm lỗi, mà đáng lẽ không nên có… Vui vì chúng con có cha…”.

Một lá thư khác tương tự, gởi đi từ Đà Nẵng: “…Con đang là sinh viên. Việc học, việc làm thêm thường làm con căng thẳng. Con thường thức khuya, rất khuya để học. Đôi khi con tự hỏi, không biết mình vất vả như vậy để làm gì? Giá như có thành đạt giữa đời đi nữa thì cũng thế thôi, con người chẳng bao giờ đạt được hạnh phúc mỹ mãn ở thế gian. Kinh nghiệm dạy con rằng, dù có đạt được điều mà lòng mình hằng khao khát đi nữa, thì rồi mình lại ao ước, lại khao khát một điều khác. Mọi giá trị ở đời không làm con thỏa mãn. Bây giờ nghĩ lại, con thầm cảm ơn Chúa đã cho con được biết Chúa, đã ban cho con đức tin, nếu không thì con đã đi về đâu rồi không biết…”.

Và một lá thư khác, tôi không rõ được gởi đi từ đâu, nhưng người gởi tự xưng là một giáo lý viên, cho thấy một niềm trăn trở về đức tin rất chính đáng. Đó cũng là một thử thách mà người bạn của chúng ta phải chịu đựng: “…Con đã cầu nguyện rất nhiều về một điều mà con thấy là cần thiết, rất cần thiết nữa là đàng khác: Lạy Chúa, xin Chúa cho gia đình con được hòa thuận. Xin cho mẹ và anh con đi lễ trở lại, vì mẹ và anh con đã bỏ Chúa rất lâu.

Cha biết không, dù con có khuyên lơn mẹ và anh đến đâu đi nữa, vẫn không được. Lắm lúc còn bị cho là dám dạy khôn người lớn. Con nghĩ, chỉ có lời cầu nguyện và sự siêng năng của con, có thể lôi kéo gia đình con quay trở về với Chúa. Nhưng mãi cho đến bây giờ vẫn chưa có gì sáng sủa. Chúa chưa ban cho con. Con lấy làm lạ quá, vì sao con cầu xin Chúa những điều rất tốt lành mà Chúa lại không nghe lời con. Con không hiểu Chúa có nghe lời con không? Hay Chúa còn muốn thử thách đức tin của con nhiều hơn? Con chỉ sợ mình mệt mỏi, bỏ cuộc, không cố gắng nữa cha ạ…”.

Lại một lá thư khác cũng liên quan đến đức tin: “….Một số người có quan niệm, nếu cha mẹ bỏ đạo thì con cái sẽ không ra gì. Nhưng đối với con thì lại khác. Con luôn cầu xin Chúa thêm sức mạnh cho con, để con có thể vượt qua. Con luôn cầu nguyện để cha mẹ con trở về cùng Chúa. Đó là những lời cầu xin chính yếu nhất của con trong các giờ cầu nguyện.

Chuyện gì thuộc về giáo lý, việc của giáo xứ, các hoạt động trong đạo… con đều muốn tìm hiểu, muốn tham gia, nhưng lại bị ngăn cản, có lúc ngăn cấm. Con rất buồn, không biết tâm sự cùng ai, chỉ biết dâng cho Chúa. Hôm nay con đánh liều gởi cho cha những tâm sự ấy…”.

Vẫn chưa hết những dòng tâm sự khác nhau của các bạn trẻ. Sau đây là nguyên văn trọn một lá thư, tôi muốn gởi đi để xin mọi người thêm lời cầu nguyện. Lá thư viết: “Cha H. ơi. Con buồn quá, mà không muốn nói với ai nên viết thư này đến cha. Cha ơi, hôm nay là ngày con được lãnh lương lần thứ năm. Cha biết không, con đã đi làm được năm tháng. Cứ mỗi lần lãnh lương là gia đình lại có chuyện không vui. Tháng đầu tiên thì ba con lãnh bí tích Xức dầu, rồi sau đó nhập viện. Một tháng sau, ba con được xuất viện. Cả nhà mừng lắm vì tưởng rằng ba đã khỏe hơn, nhưng thực tế thì ngược lại mà đâu ai biết. Sau đó đến tháng lương thứ ba, đúng vào trưa ngày con dự buổi họp các bạn trẻ trong nhóm linh hoạt viên của giáo phận, nơi con đang sống thì ba mất (lúc đó con không có ở nhà, vì còn đang họp). Tháng lương thứ tư thì xây mộ cho ba. Bây giờ là tháng thứ năm, không biết rồi sẽ còn gì nữa không, nhưng con cảm thấy rất buồn.

Thật là khó đón nhận thánh ý Chúa. Dù sao thì ba con cũng đã mất rồi. Ai cũng nói rằng, ba con mất đi đó có lẽ là một điều tốt cho gia đình, vì sẽ bớt phần lo bệnh tình của ba, nhưng làm sao có thể nghĩ như vậy được.

Con chưa bao giờ nghĩ rằng, tụi con sẽ sớm mồ côi ba như vậy. Năm nay con chỉ mới 20 tuổi, còn em út của con thì chưa tròn 5 tuổi. Đôi khi thật không hiểu Chúa thương gia đình con như thế nào nữa, thật không thể hiểu được. Mỗi ngày đi làm con thấy nặng lòng lắm. Bây giờ con mới hiểu được nỗi đau đớn trong lòng nó như thế nào.

Con nhớ ba nhiều lắm. Hình như bất cứ điều gì cũng làm con nhớ đến ba. Mỗi buổi sáng, ba thường kêu con dậy đi lễ. Buổi chiều ba đợi con đi làm về. Ba rất muốn biết chỗ làm của con nhưng chưa kịp. Con không biết phải nói thế nào, phải làm sao để giải tỏa bớt con người của mình. Mọi công việc của con đều diễn ra bình thường, không có gì thay đổi cả. Thậm chí con còn làm nhiều hơn, nói nhiều hơn, cười nhiều hơn và đi nhiều hơn, nhưng đâu vẫn vào đó. Có lẽ để con khóc thật nhiều thì tốt hơn, nhưng con lại chẳng thể khóc được.

Cha ơi, con nghĩ rằng, những ngày đầu vắng ba, con sẽ khó mà vượt qua được. Nhưng con đã vượt qua nó. Còn bây giờ, con không biết phải làm sao cả. Nhiều khi con nghĩ Chúa đã đối xử với tụi con quá tàn nhẫn. Nói là nói như vậy, nhưng cha yên tâm, con sẽ không sao đâu. Mọi chuyện chắc chắn rồi cũng sẽ qua đi mà thôi, mặc dù buồn lắm. Làm sao tránh khỏi điều đó phải không cha.

Nỗi buồn này con chỉ biết nói với cha, dù cha và con chưa hề biết mặt. Vì con không thể nói với người ngoài, chắc chắn họ sẽ không hiểu. Còn nói với người trong nhà, chỉ khơi lại nỗi buồn mà thôi. Cha cầu nguyện cho gia đình con, cha nhé, vì sau khi lo an táng ba con xong, mẹ con cũng đổ bệnh. Mấy lần đi bác sĩ, vẫn chưa biết chắc mẹ bị bệnh gì. Thôi thì một lần nữa lại phó thác cho Chúa phải không cha?

Con chúc cha luôn dồi dào sức khỏe và yên vui trong mọi sự. Nguyện xin bình an của Đấng Phục Sinh ở bên cha”.

Và còn nữa những dòng tâm sự tương tự như thế. Từ những chia sẻ rất thật lòng của các bạn trẻ, tôi thấy mình đúng là LINH MỤC, người mang lại niềm an ủi, xoa diệu sự đau buồn, làm giảm nỗi bất hạnh trong cuộc đời.

Thấy mình là linh mục, tôi càng thấy mình đúng là MỤC TỬ, nơi mà anh chị em có thể trút nỗi sầu bi. Tôi thấy mình là chỗ dựa cho anh chị em khi mệt mỏi, là niềm bình an khi anh chị em cô đơn và tuyệt vọng. Tôi thấy mình chính là dụng cụ Chúa gởi đến trần gian, để qua dụng cụ này, Chúa mãi mãi là Mục Tử chăm sóc anh chị em.

Nhận ra mình là LINH MỤC và MỤC TỬ theo hình ảnh Chúa Kitô, tôi thấy mình thật cao quý, thật lớn lao, thật danh dự, thật vinh quang, thật cần thiết cho đời. Tôi cũng thấy đó là một trách nhiệm nặng nề, vì chính nơi tôi, gương mặt của Chúa Kitô linh mục và mục tử sống mãi trong trần gian, đồng hành với con người.

Trách nhiệm linh mục và mục tử đòi tôi phải thực hiện đúng như Chúa Kitô đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một”.

Từ những lá thư và qua Lời Chúa, tôi có hai suy nghĩ này: Linh mục vừa là người mục tử, nhưng cũng là con chiên.

1. LINH MỤC, NGƯỜI MỤC TỬ:

Nhìn vẻ bề ngoài, thấy các bạn trẻ vô tư, đùa nghịch, thấy họ cứ cười cười nói nói, ta dễ tưởng cuộc sống của họ hạnh phúc và bình an lắm. Không phải thế, tiếp xúc nhiều với giới trẻ, tôi nhận ra, họ cũng mang trong mình biết bao nhiêu ưu tư, biết bao nhiêu nỗi muộn phiền…

Tôi không dám nói mình đã làm được gì cho ai. Nhưng phải thành thật nhìn nhận rằng, chỉ có linh mục mới là người biết nhiều về tâm tư con người. Trong tòa giải tội đã vậy, cuộc sống đời thường cũng được anh chị em chia sẻ những điều rất thật về mình, về một ai đó.

Chỉ có linh mục mới có thể được anh chị em của mình tin tưởng mà trao gởi những tâm tư, mong ước, cả những bí mật trong cuộc đời của họ. Và dường như, chỉ có linh mục mới có thể giúp giải tỏa nhiều nỗi chông chênh, bất an mà anh chị em gặp phải trong một lòng thương mến thật, một nỗi thông cảm thật, và bằng một trái tim chất chứa tình yêu diệu vợi, rất thiêng liêng, ấm áp.

Trái tim mục tử không cho phép linh mục bao che, hoặc làm ngơ trước những lỗi lầm của anh chị em. Một bên là tội lỗi, còn một bên là tội nhân. Tội lỗi thì không được dung túng, bao che. Còn tội nhân lại rất cần sự thông cảm của người mục tử.

Một linh mục yêu mến, săn sóc, đón nhận và thông cảm dù là những yếu đuối, hay ngay cả những quỵ ngã của anh chị em bằng tất cả tình yêu nồng nàn của một trái tim mục tử như thế, người linh mục xứng đáng được gọi là “cha”, tiếng “cha” triều mến mà mọi người phong tặng cho mình.

Anh chị em chính là đàn chiên Chúa Giêsu trao cho người linh mục coi sóc. Nếu Mục Tử Giêsu đã từng nói: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một”, thì mục tử thừa hành chức vụ của Mục Tử Giêsu trao phó, cũng phải nói được như Mục Tử Giêsu. Nghĩa là người linh mục cũng phải cho anh chị em của mình thấy rằng, mình cũng biết chiên. Biết trong đức tin, trong tình yêu, trong các cử hành bí tích, trong những lần thăm viếng, trong sự giảng dạy, trong mọi chiều kích của đời sống, nhằm đưa đàn chiên mình chăm sóc đến với vị Mục Tử Tối cao, đến gần với ơn cứu độ.

Thừa hành chức vị mục tử của mình, người linh mục hãy làm mọi cách, dẫu phải kiệt sức, tàn hơi, dẫu phải hy sinh nhiều về nhiều mặt khác nhau, để cố hết sức, gìn giữ chiên không bao giờ hư mất, không ai, không sự dữ nào hay kẻ thù của linh hồn là tội lỗi có thể cướp mất đàn chiên của mình. Làm được như thế, người linh mục đã dẫn đàn chiên vào hành trình tiến về sự sống đời đời.

Để làm được tất cả những điều đó trong niềm vui, trong đức mến, người linh mục hãy mang lấy tâm tư của Mục Tử Giêsu: “Đàn chiên mà Chúa trao cho tôi thì cao trọng hơn tất cả”. Bởi cao trọng, đàn chiên chính là mục tiêu hàng đầu, nơi đó tôi phục vụ, xã thân, hiến dâng đời mình, sống đức ái, biểu lộ đức tin, thông cảm, tha thứ…

Mang lấy tâm tư của Chúa Giêsu, chính là bí quyết để người linh mục tìm lại căn tính linh mục của mình: Ơn gọi của tôi bởi ai? Vì ai? Cho ai? Nhờ đó, người linh mục có niềm vui và hạnh phúc.

2. LINH MỤC LÀ CON CHIÊN

Trước khi là mục tử, người linh mục đã thuộc về đàn chiên. Dẫu cho hôm nay, có trở thành người chăn dắt đàn chiên được Chúa Kitô tín nhiệm trao phó, người linh mục vẫn là chiên thuộc về Chúa Kitô, như mọi anh chị em của mình. Vì thế, để thi hành chức vụ mục tử cách hoàn hảo, người linh mục đừng coi thường đời sống cầu nguyện, nguyện gẫm, xét mình, đọc Lời Chúa… hằng ngày.

Ý thức mình là chiên của Mục Tử Giêsu, ngoài lòng yêu thương, tận tụy với anh chị em, người linh mục biết nỗ lực từng ngày để sống một đời sống gương mẫu: biết tự chủ, sống lành mạnh, không kiểu cách, không sa hoa, nhưng luôn học lấy lòng khiêm nhường, hiền từ của Mục Tử Giêsu.

Dù là người lãnh đạo tinh thần cho anh chị em, tôi vẫn thấy mình, có những lúc học được rất nhiều những cái hay, cái đẹp từ nơi anh chị em, làm lẽ sống cho mình. Nói cách khác, dù là mục tử cho anh chị em, vẫn không thiếu những lúc cần anh chị em làm mục tử cho mình.

Chẳng hạn, khi hướng dẫn cho các bạn trẻ muốn gia nhập Đại Chủng viện, tôi thấy mình học được nhiều điều hay từ các bạn trẻ ấy. Ví dụ: Thái độ kiên nhẫn khi nhìn thấy các bạn chờ đợi hết năm này sang năm khác để được gọi đúng tên mình. Thái độ phó thác khi không biết trước tương lai của mình có suông sẻ không. Thái độ hy sinh và dấn thân khi mang lý tưởng tu trì trong lòng mình mà phải sống giữa đời, giữa bao nhiêu cám dỗ về tình cảm, về sự thành đạt, về việc làm… Trong số các bạn trẻ ấy, có những người rất nghèo, lại dám hy sinh, dám từ chối những việc làm hái ra tiền để nhằm một mục đích duy nhất là nuôi lý tưởng ơn gọi trong tâm hồn mình…

Tôi còn thấy biết bao nhiêu anh chị khác là mục tử cho tôi. Chẳng hạn những tâm sự sầu buồn, cùng với những ưu tư về đức tin, về cuộc đời, về lẽ sống, cả những bế tắc, những nghi nan vì chưa cảm nhận được tình yêu của Chúa từ trong các lá thư mà tôi đã trích, cũng đủ cho tôi bài học về đức tin, về lòng yêu mến Chúa, yêu thương con người.

Nhất là cảm nhận rõ ràng hơn, chức linh mục của mình thật quý giá, thật đáng yêu. Nó không phải là địa vị để người linh mục ngồi trên đó như ngồi ngai vàng. Càng không bao giờ chức linh mục là một thứ danh vọng, quyền hành, là hướng nhắm cho sự thành công, bảo đảm cho tương lai của mình, để khi đạt được rồi, chỉ còn ngồi đó mà hưởng thụ, tệ hơn, vơ vét mọi vật chất cho mình.

Người linh mục càng không phải là một quan chức, chí ít là một công chức, để như một thằng mỏ ăn công, sáng làm việc có giờ, chiều hết giờ nghỉ việc…

Anh chị em còn là mục tử cho tôi khi tôi nhìn thấy lòng mến, đức tin của họ sao mà lớn quá đỗi. Để từ đó, tôi biết sống đạo đàng hoàng hơn, mực thước hơn. Nhiều người nghèo lắm, nhưng họ đã cương quyết không bước vào con đường gian tham, tội lỗi. Hoặc có những anh chị em rơi vào những hoàng cảnh bi đát, bất hạnh tột cùng, vậy mà họ vẫn cầu nguyện, vẫn tin Chúa.

Nhiều anh chị em khác đã từng sa vào vũng bùn tội lỗi, thậm chí tội ác, nhưng đã vươn lên hết sức can đảm để hoàn lương. Nhiều anh chị kiên quyết nghỉ ngày Chúa nhật, dẫu ngày ấy kiếm nhiều tiền hơn ngày thường. Và vô số những anh chị em khác tham dự thánh lễ mỗi ngày, xưng tội đều đặn, rước lễ thường xuyên… Tất cả những tấm gương ấy đều là bài học cần thiết cho đức tin của tôi. Như vậy những anh chị em ấy chính là mục tử của lòng tôi.

“Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một”.

Tôi là mục tử, nhưng cũng thuộc về đàn chiên. Là mục tử, tôi phải ra sức gìn giữ ơn thánh nơi tâm hồn anh chị em, để họ không hư mất, không bị cướp mất. Là chiên, tôi phải tự mình gìn giữ bản thân mình khỏi mọi sự dữ, để thuộc về Thiên Chúa mãi mãi. Tôi phải là người trước tiên gìn giữa bản thân tôi, để không ai có thể cướp được tôi khỏi tay Cha tôi, là Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ.

Để đạt được tất cả những điều đó, tôi phải biết mình là mục tử, đồng thời là chiên. Là mục tử đại diện cho Mục Tử Giêsu hướng dẫn anh chị em mình. Là chiên, tôi thuộc về Chúa Kitô và cũng thuộc về anh chị em của tôi nữa.


Lm. Vũ Xuân Hạnh

----------------------------------

 

PS 4-C44: Chúa chiên lành


CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C

Bài đọc 1: Cv 13, 14. 43-52
Bài đọc 2: Kh 7, 9. 14b-17
Tin Mừng: Ga 10, 27-30


 

Hôm nay, Chúa Nhật 4 Phục Sinh, còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Với Chúa: PS 4-C44


Hôm nay, Chúa Nhật 4 Phục Sinh, còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Với Chúa Nhật này, phụng vụ Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta, một lần nữa, chiêm ngắm khuôn mặt nhân từ của Đức Kitô, Vị Mục Tử tối cao và đầy lòng nhân hậu của chúng ta. Ngài là Vị Mục Tử đã sẵn sàng hiến thân mình để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào (x. Ga 10, 10). Đồng thời, cũng nhân dịp này, Mẹ Giáo Hội cũng muốn mỗi người chúng ta thêm lời cầu nguyện để Giáo Hội ngày càng có thêm nhiều mục tử biết sống theo mẫu gương của Mục Tử Giêsu.

Để thấy rõ hơn điều này, giờ đây chúng ta cùng đọc lại các bài đọc trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay.

1. NGƯỜI MỤC TỬ TỐT LÀNH:

Có lẽ hình ảnh người mục tử không mấy quen thuộc với chúng ta là những người làm nghề biển, nhưng đây lại là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái, một dân sống bằng nghề chăn nuôi du mục. Những người đi chăn chiên Do Thái có thể cho chiên đi ăn xa cả mấy ngày, có khi kéo dài cả tuần lễ, hay cả tháng mới về nhà. Do đó, giữa người mục tử và đàn chiên có một sự gắn bó rất là thân thiết. Những con chiên có thể nhận ra tiếng của chủ và giữa một bầy chiên đông đảo, những người mục tử cũng vẫn có thể nhận ra đâu là chiên của mình.

Và quả thực trong suốt cuộc sống tại thế của mình, nhất là trong ba năm rao giảng công khai, Đức Giêsu đã thực sự chứng tỏ mình đúng là mục tử tốt lành. Ngài đã không quản mệt nhọc, quên cả ăn uống để rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa cho dân chúng. Ngài tìm đến với những người tội lỗi, bệnh tật… để chữa lành và dẫn họ trở về sum họp với đàn chiên.

Tiếp bước Đức Giêsu, các tông đồ cũng đã cố gắng sống xứng đáng là những người mục tử thay mặt cho Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành. Noi gương Đức Giêsu, trong suốt cuộc sống của mình, các ngài đã hết lòng nói lời của Thiên Chúa cho mọi người. Các tông đồ sẵn sàng nói lời của Thiên Chúa và chỉ nói lời của Thiên Chúa mà thôi, cho dù có gặp khó khăn trở ngại. Sách Công vụ thuật lại: “Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Pergê và đến xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường”. Tại đây, các ngài đã dùng lời Thiên Chúa để khuyên bảo mọi người sống trung thành với ơn nghĩa Chúa. Và khi bị những người Do thái chống đối, các ngài đã ra đi, nhưng vẫn không ngừng nói lời của Thiên Chúa, các ngài nói với họ: “Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa,.. thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại”.

Và chính nhờ lòng nhiệt thành đó của các tông đồ, “nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng”. Sau này, vào cuối cuộc đời của mình, thánh Phaolô cũng đã nhắc bảo Timôthê, người môn đệ thân tín và cũng là người con yêu dấu của mình rằng: “Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiên cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường” (2 Tm 4, 2-4).

Kế đó, người mục tử tốt, là người biết chiên của mình, như khẳng định của Đức Giêsu: “Tôi biết chúng”. Chữ “biết” theo cách nói của Thánh Kinh có một nghĩa rất mạnh. Thánh Kinh thường dùng chữ này để chỉ mối liên hệ thân mật giữa vợ chồng với nhau. Người mục tử biết chiên, nghĩa là biết rõ từng nhu cầu, hoàn cảnh của chiên, biết từng nỗi băn khoăn, lo lắng, trăn trở của chiên, ngõ hầu có thể thông cảm và giúp đỡ để chiên luôn được bình an.

Khi đã biết rõ chiên của mình, người mục tử tốt có thể chăm sóc, và đem lại cho chiên sự sống đời đời như lời tuyên bố của Đức Giêsu: “Tôi cho chúng sự sống đời đời”. Người mục tử tốt sẵn sàng hiến mạng để bảo vệ chiên, giúp chiên thoát khỏi mọi nguy hiểm. Người mục tử tốt sẵn sàng hy sinh sự sống của mình để bảo vệ đàn chiên, đó là điều mà Đức Giêsu đã thực hiện trên thập giá. Với cái chết khổ nhục trên thập giá, Đức Kitô đã đổ máu mình ra để thanh tẩy từng người chúng ta sạch mọi tội lỗi, như lời loan báo của sách Khải huyền: “Họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên”. “Máu của Con Chiên”, chính là máu của Đức Kitô đổ ra trên thập giá.. Đồng thời với cuộc Vượt Qua của mình, Đức Kitô đã trở nên Vua các vua, Chúa các chúa, và trở thành nguồn của sự sống. Ngài sẽ dẫn đưa tất cả những ai theo Ngài đến sự sống đời đời, như chúng ta vừa nghe thánh Gioan loan báo trong bài đọc hai: “Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống”.

Cuối cùng, và cũng là điều quan trọng để nhận ra dấu chỉ của người mục tử đích thực của Thiên Chúa, đó là sự liên kết với Thiên Chúa. Người mục tử tốt là người phải luôn liên kết và nhận sức mạnh và sự sống từ nơi Thiên Chúa như Đức Giêsu từng tuyên bố: “Tôi và Cha tôi là một”. Người mục tử chân chính không làm cho riêng mình hay dẫn chiên đến với mình, nhưng qua mình dẫn chiên đến với Thiên Chúa.

Tóm lại, người mục tử tốt là người luôn nói lời của Thiên Chúa, luôn quan tâm, biết rõ từng con chiên, để chăm sóc và sẵn sàng hy sinh mạng sống để dẫn đưa chúng đến với Thiên Chúa là nguồn sự sống đời đời.

Cùng với việc giới thiệu cho chúng ta dung mạo của vị Mục Tử Nhân Lành, lời Chúa hôm nay còn muốn nhắc bảo từng người chúng ta về bổn phận của mình, trong tư cách là một thành viên trong đàn chiên của Đức Kitô.

2. BỔN PHẬN CỦA CHIÊN:

Nếu như người mục tử nhân lành biết chiên của mình, thì nếu là chiên trong đàn, thì điều tất yếu, chiên cũng phải biết chủ của mình. Và một trong những dấu chỉ cụ thể chứng tỏ một người thuộc về đàn chiên của Đức Kitô, đó là người đó nghe được lời của Đức Giêsu, như lời Ngài nói: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi”. “Nghe” - một chữ xem ra đơn giản, vì không ai trong chúng ta muốn người khác gọi mình là người điếc cả. Nhưng thực sự chúng ta có nghe không, nếu chúng ta không thực hiện điều chúng ta nghe. Vì nghe như thế cũng như không nghe. Chính Chúa cũng đã từng quở trách những người đang nghe Ngài: “chúng có tai mà không nghe, không hiểu” (x. Mt 13, 13-15).

Thật vậy, một trong những dấu chỉ chứng tỏ chiên đã nghe thấy tiếng của chủ là việc chúng đi theo chủ, như lời Đức Giêsu: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Đi theo Đức Giêsu nghĩa là can đảm chấp nhận đi vào con đường hẹp của Tin mừng, con đường của sự công chính, yêu thương và tha thứ, một con đường rất ít người đi vì đòi hỏi nhiều cố gắng, thậm chí còn bị nhiều người chung quanh chê là khờ dại, nhưng chắc chắn sẽ dẫn đến sự sống, còn đường rộng nhiều người đi sẽ đưa tới diệt vong (x. Mt 7, 13-14).

Lắng nghe lời Chúa hôm nay, chớ gì từng người chúng ta luôn ý thức việc lắng nghe, học hỏi và nhất là thực hành lời Chúa dạy ngay trong cuộc sống thường ngày. Sống được như vậy, chúng ta mới đích thực thuộc về đàn chiên của Đức Kitô, nhờ đó, chúng ta mới có được sự sống đời đời. Amen.


Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

----------------------------------

 

PS 4-C45: Ơn gọi phục vụ


CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C

 

Chúa nhật IV Phục Sinh,Lễ Chúa Chiên Lành,ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Chúa: PS 4-C45


Chúa nhật IV Phục Sinh,Lễ Chúa Chiên Lành,ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành chính là mẫu gương tuyệt hảo cho mọi Ơn Gọi Phục Vụ.

1. CHÚA GIÊSU LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Từ Abraham cho đến Môisen, Đavit, biết bao Tổ phụ Do thái đã từng là những người chăn chiên.Từ kinh nghiệm của nghề chăn chiên, họ đứng ra lãnh đạo dân tộc. Quan niệm của họ về Thiên Chúa cũng dựa trên kinh nghiệm đó nên họ gọi Thiên Chúa la Mục tử và coi mình là đoàn chiên của Ngài.

Các Ngôn sứ thường dùng hình ảnh này để nói về tương quan thân tình giữa Thiên Chúa và dân của Người. Nhất là trong Ed 34,Sách Giôna chương cuối và TV 23.

Đặc biệt chương 10 Phúc âm Thánh Gioan: Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, là Cửa chuồng chiên.

Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất đẹp gắn liền với dân du mục. Khác với hình ảnh những đứa trẻ chăn trâu, chăn bò ở làng quê Việt nam, chúng đi sau đàn vật. Người mục tử đi trước đàn chiên, dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, tìm suối mát cho chiên, dẫn về đàn những con chiên lạc, bảo vệ chiên khỏi thú dữ, biết từng con chiên một.

Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, mọi Kitô hữu là đàn chiên của Chúa. Chúa ban cho đàn chiên sự sống cách dồi dào, đó là sự sống đời đời. Mỗi con chiên đều quý giá vô ngần đối với Chúa. Người hy sinh mạng sống vì chiên. Mối tương giao này giống như tương giao Chúa Cha và Chúa Con, dựa trên sự hiểu biết riêng tư về nhau tức là trên tình yêu.

Không những là mục tử Chúa Giêsu còn là Cửa “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Câu trả lời đó khẳng định Chúa Giêsu chính là Cửa Cứu Độ.

Cánh cửa mở ra một chân trời mới: Cánh cửa tương lai; Cánh cửa đại học; Thời mở cửa; Bước qua ngưỡng cửa hy vọng; Cửa Nước Trời. Tại sao Chúa Giêsu là Cửa Cứu Độ ? Bởi vì Ngài là trung gian duy nhất và trọn hảo giữa Thiên Chúa và nhân loại. Ngài có vai trò thủ lãnh trong sự thánh hoá. Ngài thông truyền giáo huấn Thiên Chúa. Ngài đền tội và cầu khẩn cho nhân loại trước mặt Thiên Chúa. Ngài thâu hợp toàn thể nhân loại và vũ trụ cho Thiên Chúa. Khi nhập thể Ngài thông truyền ân sủng Thiên Chúa cho mọi chi thể. Bằng hy lễ cứu độ thập giá trong tâm tình vâng phục yêu mến Chúa Cha, Ngài lập nên công phúc cứu độ loài người. Đức Giêsu phục sinh vinh quang mở đầu cho sự giao hoà giữa Thiên Chúa và nhân loại đưa nhân loại về với Thiên Chúa để dự phần đời sống thần linh cách dồi dào phong phú. Như thế Đức Giêsu là Cửa Cứu Độ duy nhất, là người mở đầu, là Đấng hướng dẫn, thông truyền ân sủng nên Người là Mục tử tốt lành vì đem lại sự sống phong phú và dư đầy cho đàn chiên.

Kitô giáo là đạo đi từ con người tới Thiên Chúa. Đây quả thật là “Đạo bất viễn nhân”, không xa nhưng rất gần gũi với con người. Bởi lẽ đạo ấy đi vào chính giữa lòng đời, đã nhập thể vào chính cuộc đời, làm men, làm muối, làm ánh sáng để biến đổi lòng người, biến đổi trần thế.

Thánh Grêgôriô Cả nói rằng: Chúng ta đi theo Chúa Giêsu là đi theo con đường cứu độ, được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Quả thế, đồng cỏ của những người được chọn là chính thánh nhan Thiên Chúa luôn hiện diện. Khi con người không ngừng chiêm ngưỡng thánh nhan, lòng trí họ được thoã thuê mãi mãi nhờ lương thực ban sự sống. Vậy hãy tìm kiếm đồng cỏ này, hãy làm cho lòng bừng cháy niềm khát khao những kho tàng trên trời.

2. ĐỨC GIÊU VỊ MỤC TỬ HẾT MÌNH PHỤC VỤ ĐOÀN CHIÊN

Cả cuộc đời Đức Giêsu từ khi nhập thể làm người đến tử nạn phục sinh có thể tóm tắt cách đơn giản là phục vụ đoàn chiên vì yêu thương. Đỉnh cao phục vụ là thí mạng vì đoàn chiên. Việc gặp gỡ Người, kết hợp với Người sẽ dần dần biến đổi chúng ta trở nên những người phục vụ. Mỗi người Kitô hữu đều có trách nhiệm phục vụ anh chị em mình trong tư cách tham dự vào trách nhiệm Mục tử của Đức Giêsu.

Trong sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chọn chủ đề Ơn Gọi Phục Vụ. Khởi đi từ Đức Kitô:Người không đến để phục vụ,”nhưng để phục vụ và trao ban mạng sống để cứu chuộc nhiều người” ( Mt 20,28). Người đã rửa chân cho các môn đệ và tuân phục chương trình của Chúa Cha cho đến chết, chết trên thánh giá ( x.Pl 2,8).Vì thế, Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu mới và đặt Người làm Chúa trên trời dưới đất ( x Pl 2,9-11). Đức Thánh Cha xác định:Một cách huyền nhiệm, ơn gọi phục vụ luôn là một ơn gọi thông phần một cách rất riêng tư vào trong sứ vụ cứu độ” ( số 2). ”Ơn gọi linh mục hoặc ơn gọi tu trì, bởi chính bản chất của nó, luôn là những ơn gọi để quãng đại phục vụ Thiên Chúa và người lân cận”(số 3).

Đức Thánh Cha đã từng nói rằng ”Trong thời đại chúng ta, một thời đại tuy đã bị tục hoá, giải thiêng nhưng vẫn được thúc đẩy đi tìm sự thánh thiện; một thời đại rất cần có những vị thánh làm sáng tỏ sự hiện diện đầy yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa. Nhân loại đang cần có những linh mục thánh thiện và những tâm hồn được thánh hiến, họ là những người ngày ngày sống hết mình cho Thiên Chúa, cho tha nhân, họ là những bậc cha mẹ sống chứng nhân ngay trong bầu khí gia đình nhờ ân sủng của bí tích hôn nhân, họ là những người trẻ có kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô và được Người thu hút để hướng dẫn anh chị em đồng loại tới cội nguồn tin mừng”( Sứ điệp ngày thế giới cầu cho ơn thiên triệu lần thứ 36).

Ngài gởi lời mời gọi thiết tha đến các bạn trẻ “ cha hy vọng các con có thể biết cách lắng nghe tiếng Thiên Chúa mời gọi các con phục vụ. Đó là con đường mở ra biết bao hình thức của sứ vụ vì lợi ích của cộng đoàn:từ các tác vụ được phong cho đến các tác vụ khác nhau được thiết lập và được nhìn nhận là những thừa tác vụ, như dạy giáo lý, linh hoạt phụng vụ,giáo dục giới trẻ và những diễn tả khác nhau về đức ái” ( Số 4)

3. AI PHỤC VỤ THẦY, NGƯỜI ẤY PHẢI THEO THẦY

Một xã hội thiếu bóng dáng những người sống đời tận hiến là một xã hội thiếu lòng quãng đại, một xã hội bị khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống. Chính sự có mặt của những người sống đời tận hiến phục vụ như là một nhắc nhở rằng, con người có khả năng sống yêu thương, phục vụ như Đức Kitô và sống quãng đại hy sinh dấn thân cho người khác.

Những người trẻ lớn lên thường lập gia đình, điều đó thật tốt đẹp. Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số người trẻ dâng hiến đời mình cho Chúa, ở bên Chúa cách đặc biệt để được sai đi. Vì thế Đức Thánh Cha nhắn nhủ những người trẻ ”Lời mời gọi của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng ngày hôm nay “Nếu ai phục vụ Thầy,người ấy phải theo Thầy” (Ga 12,26). Đừng e ngại đón nhận lời mời gọi này.Chắc chắn các con sẽ gặp phải những khó khăn hy sinh, nhưng các con sẽ hạnh phúc khi phục vụ, các con sẽ là chứng nhân của niềm vui mà thế gian không thể ban tặng. Các con sẽ là những ngọn lửa sống động của một tình yêu vô biên và vĩnh cửu. Các con sẽ nhận biết những phong phú thiêng liêng của chức vụ linh mục, quà tặng và mầu nhiệm thần linh” (Số 5).

Người sống đời tận hiến chấp nhận hy sinh quyền được lập một tổ ấm. Họ dâng tình yêu lứa đôi cho một tình yêu cao hơn trong ơn gọi tu trì để có thể yêu mãnh liệt và bao la hơn. Đức Thánh Cha khẳng định “Họ không tìm kiếm những lợi lộc vị kỷ,nhưng hiến mình cho kẻ khác, khi cảm nghiệm niềm vui của tính nhưng không qua việc hiến tặng bản thân” (số 4).

Người đi tu là người muốn nên trọn lành,muốn đạt đến đỉnh cao của sự toàn thiện. Đó cũng tựa như người leo núi. Muốn có ánh sáng thì phải lên cao. Để lên cao phải vất vả, nhiều khi phải leo lên những sườn dốc cheo leo. Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo và nhất là sự can đảm. Đời sống tu trì cũng vậy. Nó đòi hỏi một sức khoẻ tinh thần, thể xác, sự khôn ngoan, nhẫn nại, lòng can đảm, sức chịu đựng bền bỉ. Nếu không người ta sẽ sợ hãi chóng mặt, dừng lại và rút lui. Đổi lại, người leo núi được hưởng những niềm vui mà người khác không biết đến. Đó là được ở trong ánh sáng không bao giờ tắt, được chiêm ngưỡng cảnh trời đát bao la hùng vĩ, cảnh mây bay lững lờ tận dưới xa chân mình, càng leo những núi cao càng khám phá ra muôn vàn những đỉnh núi khác.(x.Hoa trong kẻ đá,trang 9, Lm Thiện Cẩm)

4. CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI MẸ

Ơn gọi tu trì là ân huệ đến từ Thiên Chúa. Gia đình là chủng viện đầu tiên, dòng tu đầu tiên ươm mầm ơn gọi phát triển. Các bậc cha mẹ là những người phát hiện và vun trồng cho ơn gọi lớn lên, trổ sinh hoa trái.

Bài Tin mừng hôm nay đặc biệt thích hợp cho các người Mẹ. Giống như người mục tử, giống như Chúa Giêsu, một bà mẹ luôn có mối tương giao gần gũi sâu sắc với đàn con cái.Người Mẹ yêu thương chăm sóc từng đứa con, tuỳ tính tình mỗi đứa để có cach giáo dục thích hợp. Không gì mà người Mẹ không làm để bảo vệ con khỏi nguy hiểm. Bà sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ để tìm kiếm đứa con lầm đường lạc lối trở về.

Ơn gọi tu trì thường do người Mẹ phát hiện và dìu dắt từng bước. Hầu như linh mục nào cũng giống Mẹ và rất kính yêu Mẹ của mình.Tấm lòng người Mẹ bao la như biển cả.Trái tim người Mẹ nhân hậu bao dung như đất trời. Bởi vậy ngày thế giới cầu cho ơn thiên triệu cũng cần dành lời cầu nguyện đặc biệt cho mọi người Mẹ trên thế giới. Xin cho mọi người Mẹ luôn sống vai trò mục tử nhân lành với con cái và luôn biết quãng đại dâng con mình cho Chúa, cho giáo hội trong Ơn Gọi Phục Vụ.


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

----------------------------------

 

PS 4-C46: Mục tử nhân lành


CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C

Ga 10,27-30

I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1) Ý CHÍNH:


 

Đoạn Tin Mừng của Gioan hôm nay là một phần trong đoạn 10, ghi lại những lời của Chúa Giêsu: PS 4-C46


Đoạn Tin Mừng của Gioan hôm nay là một phần trong đoạn 10, ghi lại những lời của Chúa Giêsu tự ví mình là chủ chăn được Chúa Cha sai đến, để thay quyền Cha mà chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ đoàn chiên của Người. Vì Người và Chúa Cha là “Một”.

2) CHÚ THÍCH:

- “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,27-28):

+ Con chiên và Mục Tử: Trong Kinh Thánh, hình ảnh con chiên lại mang ý nghĩa tốt đẹp: Đức Chúa đã trao đàn chiên Ít-raen cho một số người để họ thay Ngài mà chăn dắt (Tv 100,3) như: Môsê và Aharon (x. Tv 77,21), Giôsuê (x. Ds 27,18-21), Đavít (x. Tv 78,70-72). Đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã tự xưng mình là Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11) và duy nhất (x. Ga 10,16).

+ Đức Giêsu con chiên của Thiên Chúa: Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29.36). Người cũng là Con Chiên vẹn toàn, không tỳ vết, đã đổ máu trên cây thập giá để cứu chuộc loài người khỏi tội lỗi (x. 1 Pr 1,19), mà Con Chiên Vượt Qua thời Môsê là hình bóng. Con chiên ấy đã chết thay cho các con trai đầu lòng của người Do thái (x. Xh 12,5-13).

+ Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi: Buổi tối, các mục tử đưa chiên về chuồng nhốt chung với các bầy chiên khác, vì ít người có chuồng riêng. Sáng đến, họ đứng ở cửa chuồng và gọi chiên của mình. Chúng nghe và nhận ra mục tử của chúng và đi theo ra đồng ăn cỏ. Người chủ của chiên thì chăm lo cho từng con chiên của mình, biết rõ tính mỗi con để săn sóc và bảo vệ. Ở đây, khi dùng hình ảnh này để chỉ về Dân Chúa, Đức Giêsu còn nhấn mạnh tới mối liên quan mật thiết thân thương mà có chỗ Kinh Thánh đã so sánh như quan hệ giữa hai vợ chồng (x. St 4,1). Nghe, Biết và Theo là ba hành vi người tín hữu phải có để trở thành môn đệ của Đức Giêsu:

* NGHE: Lắng nghe là một dấu chỉ của sự quan tâm. Trong Kinh Thánh, các ngôn sứ không ngừng mời gọi dân Ítraen lắng nghe ! (Đnl 6,4). Lắng nghe là khởi sự của lòng tin như lời Chúa Cha nhắn nhủ các môn đệ Đức Giêsu: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5 và lời thánh Phaolô: “Đức tin bởi nghe”.

* BIẾT: Trong Kinh Thánh, Biết không có nghĩa là sự hiểu biết về tri thức, nhưng về mặt đời sống. Biết một cái gì tức là có kinh nghiệm cụ thể về cái đó. Biết một người nào chính là có những liên hệ cá nhân thân tình với người đó, giống như giữa hai vợ chồng (x. Lc 1,34). Đức Giêsu biết rõ từng con chiên của Người.

* THEO: Là một hành động tự nguyện dấn thân đi theo và gắn bó mật thiết với một người nào đó. Chẳng hạn: Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên: “Các anh hãy theo tôi…Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (x. Mt 4,19-20). Nơi khác Đức Giêsu nói: “Ai muốn theo tôi, phải bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo” (x. Mc 8,34). Chiên của Đức Giêsu có nhiệm vụ đáp trả lời mời gọi của Người bằng việc đi theo Người, sống theo lời dạy và gương mẫu của Người.

+ Tôi ban cho chúng sự sống đời đời: Đức Giêsu dẫn các tín hữu đi từ những sự kiện hữu hình tới vô hình, từ hiện tại tới tương lai, từ việc chiên được quan tâm nuôi cho sống (x. Ga 10,9) đến chỗ được sống cách dồi dào (x. Ga 10,10) và được sống đời đời (x. Ga 10,28).

+ Không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi: Là người mục tử có trách nhiệm cao và có đầy quyền năng, không bao giờ Đức Giêsu để các con chiên của Người bị giết hại hay bị cướp đoạt. Chỉ có những con chiên tự do từ bỏ Chúa đi hoang. Còn Chúa thì không bao giờ bỏ rơi họ. Người là chủ chiên tốt lành, sẵn sàng đi tìm con chiên lạc đưa về đoàn tụ trong một đàn chiên duy nhất (x. Lc 15,4-7).

- “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi với Chúa Cha là một !” (Ga 10,29-30):

+ Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi: Chúa Cha trao phó đàn chiên cho Chúa Con là Đức Giêsu, như một món quà quí giá nhất. Do đó, đàn chiên ấy cần phải được bảo vệ khỏi bị trộm cướp. Chúa Cha và Chúa Con cùng làm việc bảo vệ giữ gìn đàn chiên này.

+ thì lớn hơn tất cả: Thiên Chúa Cha là Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật, là nguồn mạch mọi ân huệ và sự sống tự nhiên cũng như siêu nhiên. Mọi loài mọi vật đều lệ thuộc và đều qui hướng về Người.

+ Tôi với Chúa Cha là một !: Lời tuyên bố này có ý nói đến sự hiệp thông thân mật giữa Chúa Cha và Chúa Con. Giáo Hội trong Công Đồng Nixêa năm 325 đã dựa trên lời này để tuyên tín: “Chúa Cha và Chúa Con đồng một bản tính Thiên Chúa, nhưng là hai Ngôi Vị khác nhau”, để chống lại lạc thuyết Ariô (thế kỷ thứ IV) không công nhận bản tính Thiên Chúa (Thần tính) nơi Chúa Giêsu.

Chính nhờ Thần tính mà Chúa Giêsu đã có thể ban cho các tín hữu sự sống đời đời, đã tự xưng mình: “Ta là…” giống như Đức Chúa. Đã bị các đầu mục Do thái buộc tội phạm thượng, bị kết án tử hình trên thập giá nhưng đến ngày thứ ba đã chiến thắng tử thần bằng việc phục sinh vinh quang.

II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA

CHỦ ĐỀ MỘT: Đáp lại ơn Chúa kêu gọi

1) LỜI CHÚA: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27).

2) CÂU CHUYỆN: Con vật đầu đàn.

Có một người khách lữ hành kia đi tham quan về vùng núi của xứ Tô-cách-lan (Scotland). Một hôm ông ta dừng chân lại bên một đàn cừu. Bỗng ông ta chú ý đến một con cừu đang được người mục tử chăm sóc đặc biệt. Con vật nằm dài trên mặt đất, còn chủ nó thì vừa vuốt ve vừa dịu dàng nói chuyện với nó, trong lúc tay ông ta không ngừng băng bó một chân của nó đang bị sứng tấy lên. Bấy giờ người khách tiến lại gần hỏi người chăn chiên xem sự thể thế nào. Lúc đầu người chăn cừu khó chịu không chịu trả lời. Nhưng sau đó sự thân mật của người khách đã khiến anh không còn e ngại và hăng hái giải thích như sau:

“Con cừu này có những đức tính tuyệt hảo của một con vật đầu đàn. Khi còn lành mạnh, nó luôn đi đầu đàn cừu. Nó biết cách làm cho những con vật khác phải vâng theo ý nó. Khổ thay, vì quá tự tin nên nó không theo lệnh của tôi mà lại dẫn cả bầy đi theo ý muốn của nó. Tôi đã tìm cách thay nó bằng một con đầu đàn khác dễ bảo hơn, nhưng không thành công. Vì hễ thấy con nào sắp thay chỗ của nó là bị nó đuổi đánh. Do đó tình trạng của đàn cừu bị lâm nguy vì không biết đi theo con vật nào ! Cuối cùng, sau một thời gian suy nghĩ, tôi quyết định phải áp dụng biện pháp khá đau đớn”.

Nói đến đây, người chăn chiên im lặng như để trấn áp cơn xúc động đang dâng tràn trong lòng. Sau đó anh nói tiếp: “Tôi đành phải bẻ gẫy chân trước của nó. Kể từ lúc bị gẫy chân, con vật hoàn toàn phải lệ thuộc vào tôi. Mỗi sáng, tôi vác nó lên vai mà đem ra cánh đồng cỏ. Buổi chiều tôi vác nó đưa về chuồng. Nó không thể tự ăn một mình được vì không tự đứng được. Từ một tháng nay nó ăn ở bên cạnh tôi. Những săn sóc của tôi đã tạo nên một mối liên hệ mật thiết giữa tôi với nó. Bây giờ có lẽ nó đã hiểu rằng: sau khi làm cho nó bị thương, tôi cũng làm đủ cách để chữa lành vết thương của nó. Về phần tôi, tôi biết rằng: Tôi sẽ không thể tìm được trong đàn cừu này một con nào khác biết vâng lời tôi hơn nó. Bây giờ nó sắp khỏi hẳn. Trong vài ngày nữa, khi nó hoàn toàn bình phục, tôi sẽ phục hồi vai trò đầu đàn cho nó như trước”.

3) SUY NIỆM:

+ Đức Giêsu là Mục Tử nhân lành: Giáo Hội của Đức Giêsu được ví như một đàn chiên, do Chúa Cha trao quyền chăn dắt cho Chúa Giêsu là “Con rất yêu dấu của Người” (x. Ga 10,29). Chiên của Đức Giêsu thì nghe tiếng Người, Người biết rõ từng con chiên một, và chúng luôn đi theo Người, vì Người là Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11).

+ Các Mục Tử thời Giáo Hội sơ khai: Đức Giêsu đã trao quyền chăn chiên cho Simon Phêrô (x. Ga 21,15-17), Thổi hơi ban Thần Khí với quyền cầm buộc và tháo cởi cho Nhóm các tông đồ (Ga 20,22-23). Về sau kế vị các Tông Đồ là các Giám Quản hay Giám Mục (x. 1 Tm 3,1-7), các Trợ Tá (x. Tm 3,8-13), Các Kỳ Mục hay Linh Mục (x. Cv 14,23; 20,17; Tt 1,5); Các Phó Tế (x. Cv 6,1-6).

+ Những đức tính của một Mục Tử tốt: Xin cho Giáo Hội có nhiều Mục Tử giống như Đức Giêsu như sau: Một là luôn quan tâm lo lắng cho đoàn chiên “được sống và được sống dồi dào” (x. Ga 10,10); Hai là sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ chiên, chống lại sói dữ đang rình rập giết hại chiên (x. Ga 10,11); Ba là quan tâm biết rõ từng con chiên và được chiên biết rõ và yêu mến (x. Ga 10,14); Bốn là không bỏ rơi bất cứ con chiên nào, nhưng sẵn sàng đi tìm chiên lạc (x. Lc 15,4); Năm là đoàn tụ các con chiên thành một đoàn chiên duy nhất dưới quyền một Mục Tử Tối Cao là Chúa Giêsu (x. Ga 10,16).

+ Phải đáp lại ơn gọi thế nào: Một hôm, em Samuen đang ngủ trong Đền Thờ Đức Chúa, đã nghe tiếng gọi: “Samuen !”. Tưởng thầy cả Eli gọi, em chạy lại bên giường Thầy Cả và thưa rằng: “Dạ con đây, vì Thầy gọi con”. Thầy Cả Eli nói: “Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi”…Lần thứ ba, Thầy Cả Eli dạy Samuen thưa với Chúa như sau: “Lạy Đức Chúa, Xin Ngài phán. Vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe !” sau đó Samuen đã gặp Chúa, và được Đức Chúa cho biết sắp giáng phạt gia đình Thầy Cả Eli vì tội khinh thường lễ phẩm dâng Đức Chúa (x. 1 Sm 2,12-17; 3,1-14). Thời Tân Ước, Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ và các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người (x. Mt 4,20.22). Các ông được Đức Giêsu dạy dỗ cách riêng, được chứng kiến giờ phút đau thương và sự sống lại vinh quang của Người. Được Người sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời và làm chứng nhân cho Người (x.Mt 28,18-20; Lc 24,45-48; Cv 1,8).

4) THẢO LUẬN: Có khi nào bạn muốn đi tu để được làm “ Ông Cha” hay làm “Bà Sơ” chưa ? Nếu được Chúa kêu gọi qua một ai đó, bạn sẽ đáp lại ơn gọi ấy thế nào, noi gương trẻ Samuen và các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu ?

CHỦ ĐỀ HAI: Mục Tử Nhân Lành

1) LỜI CHÚA: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành, Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14):

2) CÂU CHUYỆN: “Giai điệu hạnh phúc”

Trong một cuốn phim tựa đề là “Giai điệu hạnh phúc” (La Mélodie du bonheur - The sound of music), Cô Ma-ry là người dự tu. Cô đang tìm hiểu ơn gọi tại một dòng tu nữ. Bà Bề Trên sai cô làm gia sư cho các đứa con trong một gia đình quí tộc. Ông đại úy chủ nhà giàu có, góa vợ và rất luôn tỏ ra nghiêm khắc khi giáo dục các con. Ông muốn chúng có kỷ luật như trong quân đội. Khi mới đến, cô cũng bị bọn trẻ chọc phá. Nhưng nhờ tình thương của “thầy giáo như mẹ hiền”, kèm theo sự hiểu biết tâm lý cà cách ứng xử mềm dẻo nhưng cương quyết của cô, cùng những bài hát vui tươi lôi cuốn…đã chinh phục được tình cảm của lũ trẻ, biến chúng từ ngỗ nghịch bướng bỉnh, trở nên ngoan ngoãn dễ dạy. Chúng tuyệt đối vâng lời cô giáo mà không cần những hình phạt nghiêm khác như ông đại úy cha chúng đã áp dụng. Cuối cùng cô còn chinh phục được tình cảm của chính ông đại úy chủ nhà, và cả gia đình đã cùng nhau thoát sự ruồng bắt của chính quyền phát xít lúc đó, vượt qua biên giới an toàn để sống một cuộc sống mới.

3) SUY NIỆM:

+ Cô Ma-ry là một hình ảnh trung thực của một mục tử nhân lành. Cũng như Đức Giêsu, cô biết và biết rõ từng đứa con trong gia đình viên đại úy chủ nhà và chăm sóc chúng bằng một tình yêu đích thực: Luôn quan tâm và tìm cách đáp ứng nhu cầu của chúng, không chấp nhất những lỗi lầm của chúng và động viên khen thưởng chúng, trở thành nguồn sống giúp chúng được sống hạnh phúc.

+ Ngày nay, Hội Thánh đang cần nhiều Mục Tử nhân lành noi gương Đức Giêsu. Đó là những Linh Mục tình nguyện phục vụ bà con ở những vùng sâu vùng xa. Hội Thánh cần những tu sĩ kết hợp giữa cầu nguyện và chiêm niệm, cần những bàn tay xoa dịu các vết thương bệnh nhân. Và nhất là cần những trái tim yêu Chúa hết mình, dám sống hết tình cho tha nhân, đặc biệt cho những người đau khổ thất vọng. Cả nước chúng ta hiện có gần 2000 linh mục và 7000 tu sĩ nam nữ, một con số nhỏ bé so với nhu cầu là phục vụ 80 triệu dân

+ Hôm nay, chúng ta cầu nguyện đặc biệt cho Ơn Thiên Triệu. Chúng ta nài xin Chúa kêu gọi thêm nhiều người trẻ quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi, để tận hiến cuộc đời sống theo Đức Giêsu quyết tâm giữ đức Khó nghèo, Vâng phục và Khiết tịnh. Chính nhờ biết từ bỏ mọi sự mà tâm hồn của họ sẽ trở nên thanh thoát. Chính nhờ không chạy theo sự hưởng thụ các tiện nghi vật chất, mà họ sẽ trở nên dấu chỉ môn đệ Đức Kitô. Chính nhờ sự vâng phục thánh ý Chúa qua bề trên, mà họ sẽ tránh được cái tôi tự mãn ích kỷ, muốn bành trướng quyền lực. Chính nhờ đời sống khiết tịnh, mà họ sẽ mở rộng con tim để yêu và đón nhận hết mọi người, nhất là những người đau khổ cả về thể xác cũng như tinh thần.

4) THẢO LUẬN:

a) Ý nghĩa căn bản của đời tu là gì ? - Đáp: Là tận hiến cuộc đời để ngày một nên hoàn thiện theo gương Đức Giêsu, quyết tâm chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng qua các hoạt động phụng sự Thiên Chúa và phục vụ đồng loại.

b) Theo bạn thì câu người đời thường nói: “Thứ nhất là tu tại gia; thứ hai tu chợ thứ ba tu chùa” có ý nghĩa thế nào ? - Đáp: Tu là tu thân, là tu tâm dưỡng tính, là làm cho mình ngày một hoàn thiện hơn. Như vậy đi tu không nhất thiết phải vào trong chùa, vì “chiếc áo không làm nên ông thầy tu”. Chính gia đình và xã hội là môi trường thuận tiện giúp ta tu thân.

c) Trong đạo Công Giáo, thế nào là tu Triều và tu Dòng ? - Đáp: Tu Triều là gia nhập chủng viện để được đào tạo trở thành Phó Tế và Linh Mục. Rồi làm việc mục vụ chăn chiên theo sự điều động của Giám Mục Giáo Phận, trở thành cộng tác viên của ngài phục vụ về ba phương diện là: Ngôn sứ để rao giảng Tin Mừng; Tư tế để cử hành các phép Bí Tích; Vương đế để phục vụ chăm sóc cộng đoàn. Còn tu dòng là xin gia nhập vào một hội dòng đã được Giáo Hội công nhận, được huấn luyện trở thành tu sĩ thành viên của hội dòng, được thánh hiến với ba lời khuyên Phúc Am là: Khó Nghèo, Khiết tịnh và Vâng phục. Các tu sĩ có bổn phận sống chung trong tu viện và làm các việc bác ái xã hội và tông đồ truyền giáo theo ơn đặc sủng của hội dòng.

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU

Lạy Cha là chủ ruộng. Đồng lúa đã chín vàng cần phải được gặt hái. Xin Cha sai những thợ gặt lành nghề đến gặt hái lúa của Cha. Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay những ước mơ hoài bão lớn lao, những lý tưởng cao cả. Xin cho họ biết quên đi hạnh phúc và tương lai của mình, để yêu tha nhân bằng một quả tim rộng mở. Ước gì họ nghe được tiếng kêu của những người bị áp bức, cảm nghiệm được cơn đói khát Lời Chúa và Tình Thương, thấy được những khó khăn của bao người đang đau khổ.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

Trích Hiệp sống Lời Chúa.


Lm Đan Vinh

----------------------------------

 

PS 4-C47: Nghe - Biết và Theo Chúa - Vị mục tử Nhân lành


CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C

Ga 10, 27-30


 

Hôm nay, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu trong vai trò Người Mục tử: PS 4-C47


Hôm nay, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu trong vai trò Người Mục tử chăn dắt đoàn chiên. Người Dothái vẫn luôn thắc mắc về “gốc gác” của Chúa. Chính vì thế, nhân lễ Cung hiến Đền thờ - một nghi lễ tẩy uế Đền thờ và khánh thành bàn thờ mới có từ thời Giuđa Macabê- họ đến gặp Người để chất vấn: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kytô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết”. Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của họ, trái lại, Người nhấn mạnh đến vai trò của người chăn chiên- một hình ảnh truyền thống về Đấng Mêsia của dòng dõi Đavít- đồng thời nhấn mạnh đến những con chiên được Chúa Cha giao cho Người.

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Những ai sống trong nghề mới hiểu được thế nào là sự gắn bó mật thiết giữa chủ chiên và đoàn chiên. Chúa Giêsu không chỉ đúc kết một kinh nghiệm gắn bó giữa người mục tử với đàn chiên, Người còn cho chúng ta thấy chính Thiên Chúa là Mục tử nhân lành và tất cả chúng ta là những con chiên được chở che, được yêu thương dưới cánh tay Người. Thiên Chúa là Đấng chăn chiên đích thực. Người đã dành cho đoàn chiên của mình bằng một tình yêu siêu vời, trong đó tất cả chúng ta dù tội lỗi xấu xa, dù tàn tật đui mù, dù đau khổ bệnh hoạn, dù nghèo nàn lạc hậu hay giàu sang phú quý,… tất cả đều chiếm một vị trí ưu tuyển trong trái tim Người.

“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi”. Nghe ở đây có nghĩa là gì? Trong thực tế, chúng ta thấy chiên là một loài động vật rất “nhạy” với tiếng của chủ. Nơi đồng cỏ, chúng có thể đi tứ tán khắp nơi, xen lẫn với các con chiên khác thuộc những chủ khác nhau để ăn uống, nhưng khi chiều về, chúng luôn nghe theo tiếng nói của chủ chăn để đi theo anh về chuồng mà không lạc sang bầy đàn khác. Cũng vậy, mỗi người chúng ta dù không cùng một giai cấp, màu da, ngôn ngữ, môi trường sống,… nhưng chúng ta đều có chung một tình yêu, một niềm tin vào Thiên Chúa. Chính vì thế, nghe tiếng Chúa là gì nếu không phải là lắng nghe tiếng nói của Người qua Lời Chúa hằng ngày; lắng nghe lời giáo huấn của Giáo hội qua các vị mục tử; lắng nghe tiếng nói của Chúa trong tận sâu thẳm tâm hồn mình,…

Một khi chúng ta lắng nghe tiếng của Chúa, hiểu thấu được thánh ý Người, hiệu quả tiếp theo sẽ là việc chúng ta được Chúa nhận biết. Được Thiên Chúa nhận biết nghĩa là chúng ta sẽ được kết hiệp cách mật thiết với Người. Điều này rất quan trọng. Lý do là vì tự sức mình, con người không thể nào kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa được nếu trước đó không biết lắng nghe và tuân giữ thánh ý Người. Thiên Chúa cho chúng ta được gắn bó cách mật thiết với Người qua người con Chí Ai là Đức Kytô - Đấng đã đến thế gian mặc lấy xác phàm nhân loại và vì yêu thương nhân loại, Ngài đã tự hiến chính mình, trở nên của lễ không chỉ dâng lên cho Chúa Cha mà còn trở nên Mình và Máu nuôi sống nhân trần. Như thế, cách thức mà Thiên Chúa nhận biết chúng ta chính là Người cho chúng ta được gắn kết với Người trong sự hiệp nhất trường tồn và huyền nhiệm.

Lắng nghe tiếng Chúa, được Người nhận biết và chúng ta đi theo Người. Có thể nói được rằng quá trình Nghe - Biết và Đi theo Chúa Kytô, chính là hành trình ơn gọi của mọi Kytô hữu. Thật vậy, chúng ta bước theo Chúa Kytô không chỉ bằng lời giáo huấn mà còn bằng cả cuộc đời hoạt động của Người nữa. Cùng đích của đời sống Chúa Kytô chính là tình yêu và thập giá và Người muốn mỗi người chúng ta bước theo Người trong chính hành trình ấy. Những ai bước đi trong hành trình ấy sẽ thấy rằng đó đây trên con đường đó vẫn còn nhiều chông gai thử thách, có cả máu và nước mắt. Nhưng đó lại là điều làm chúng ta an vui và tin tưởng bởi chính Chúa Kytô - vị Mục tử nhân lành, đã hứa ban cho chúng ta “sự sống đời đời” làm gia nghiệp.

Chúng ta tạ ơn Chúa vì Người đã ân ban cho chúng ta được gia nhập vào đoàn chiên của Chúa. Chúng ta tự hào vì mình thuộc về đoàn chiên mà Người Mục tử nhân lành không ai khác chính là Chúa Kytô. Xin cho mỗi người chúng ta luôn hân hoan bước theo Người trong mọi nơi, mọi lúc trên hành trình lữ thứ này để làm chứng cho tình yêu của Người.


Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

----------------------------------

 

PS 4-C48: Chiên Ta thì nghe tiếng Ta


CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C

Cv 13:14, 43-52; Kh 7:9,14b-17; Ga 10:27-30


 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay: lời nguyện đầu lễ, lời đáp ca, bài đọc hai, câu xướng alleluia, bài: PS 4-C48


Phụng vụ Lời Chúa hôm nay: lời nguyện đầu lễ, lời đáp ca, bài đọc hai, câu xướng alleluia, bài Phúc âm, ca hiệp lễ, lời nguyện hiệp lễ đều mang chung một đề tài: con chiên và người chăn chiên. Nghệ thuật Kitô giáo cổ xưa thường phác họa Chúa Giê-su như là Đấng chăn chiên lành. Cái hình ảnh ấy đã được mô tả trong Cựu ước về Chúa như là ‘Đấng chăn dắt dân Người’. Người Do thái cổ xưa là dân du mục. Vì thế văn chương của họ là những sách Cựu ước cũng thường đề cập đến đời sống du mục. Chính Chúa cũng dùng những hình ảnh về chăn nuôi quen thuộc để dạy ta những chân lý thiêng liêng về đạo giáo. Trong Phúc âm hôm nay, Chúa căn dặn: Chiên ta thì nghe tiếng Ta (Ga 10:27). Tiếng Chúa là Lời Chúa trong Thánh kinh. Lời Chúa trong Thánh kinh gồm cả những lời ngọt ngào êm ái, những lời khích lệ ủi an và những lời trách móc và cảnh giác. Có những lời Chúa trong Thánh kinh mà người ta không muốn nghe. Đối với họ thì đó không phải là tin mừng bởi vì họ phải trả một cái giá mắc mỏ nếu họ muốn chấp nhận Lời Chúa. Tuy nhiên nếu muốn là môn đệ đích thực của Chúa, ta phải lắng nghe toàn bộ Lời Chúa. Ta không thể nghe lời này, mà bỏ lời kia. Ta không thể bịt tay nhắm mắt trước những lời Chúa trách mắng và cảnh tỉnh. Lời Chúa không phải là tiếng nói một chiều nhưng bao hàm việc đáp trả và cộng tác của loài người.

Người ta kể lại câu chuyện về người ngoại quốc kia du lịch sang miền Trung Đông, thấy ba người chăn chiên dẫn đàn chiên của họ đến suối nước. Khi ba đàn chiên bắt đầu tụ lại, người khách du lịch không còn phân biệt chiên nào thuộc đàn nào. Khi ba đàn chiên đã uống nước no nê thoải mái, người chăn chiên thứ nhất bắt đầu gọi đàn chiên của mình, rồi đến người thứ hai, và người thứ ba. Người khách du lịch nghĩ bụng có lẽ mình có thể đánh lừa những con chiên này. Ông ta bèn mượn bộ quần áo của một người chăn chiên bận vào, rồi toan bắt chước giọng của một người chăn chiên để gọi con chiên. Tuy nhiên khi người khách du lịch gọi, không một con chiên nào nhúc nhích. Người ta tưởng chiên là những con vật khù khờ, nhưng trong trường hợp này chiên lại rất khôn. Chiên không theo tiếng người lạ, bởi vì người lạ không biết đàn chiên, không nuôi dưỡng, không bảo vệ đàn chiên khi bị sói rừng tấn công.

Ngày nay ta nghe nhiều lời nói bảo ta điều gì phải tin, điều gì phải từ khước, điều gì phải hồ nghi, điều gì phải làm, điều gì không nên làm, điều gì cần phải được xét lại. Bởi thế ta cần tỉnh táo nhận định xem lời nói nào cần phải được chấp nhận. Ngày nay có một vấn đề trọng yếu nữa - cái vấn đề làm đe doạ sự hiệp nhất trong Giáo hội công giáo. Đó là vấn đề quyền giáo huấn của Giáo hội và lương tâm con người. Nhiều người nại đến lương tâm để không nghe đường lối giáo huấn của Giáo hội. Tuy nhiên có nhiều loại lương tâm: có lương tâm ngặt nghèo, lương tâm chính trực thì cũng có lương tâm cùn nhụt, lương tâm chai đá. Vậy nếu muốn được lương tâm hướng dẫn, ta cần phải luyện cho mình một lương tâm tỉnh táo và trung thực. Nếu muốn sống theo tiếng lương tâm, ta phải nhìn vào Chúa là đường, là sự thật và là sự sống và Chúa nói với ta qua Giáo hội mà Người đã thiết lập.

Trong Phúc âm, Chúa căn dặn ta: Chiên ta thì nghe tiếng ta, ta biết chúng và chúng theo ta (Ga 10:27). Ta biết nghe là một chuyện, còn theo là chuyện khác. Ta có thể nghe lời Chúa, chấp nhận lời Chúa là sự thật, là lời khôn ngoan, nhưng lại không theo, và không tuân giữ. Chúa ví những người nghe lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người xây nhà trên cát, gặp mưa sa, nước lũ, gió cuốn vào nhà, thì nhà sẽ bị sụp đổ, và trở nên đống hoang tàn (Mt 7:27). Khi về trời Chúa đã trao quyền giáo huấn cho Giáo hội qua các tông đồ: Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho anh em (Mt 28:20).

NS Dân Chúa Mỹ Châu
Lm Trần Bình Trọng, USA


----------------------------------

 

PS 4-C49: CHIÊN TÔI THÌ NGHE, BIẾT VÀ THEO TÔI

 

Chúa nhật thứ tư Phục sinh mỗi năm trở lại như là ngày của Mục tử và của ơn gọi, đặc biệt ơn: PS 4-C49


Chúa nhật thứ tư Phục sinh mỗi năm trở lại như là ngày của Mục tử và của ơn gọi, đặc biệt ơn gọi linh mục và tu sĩ. Trong cả ba năm, sách bài đọc Tin Mừng luôn công bố một đoạn lấy từ chương 10 thánh Gioan. Trong đoạn ngắn được phụng vụ hôm nay cắt từ chương đó, tương quan giữa Mục tử Giêsu và đoàn chiên Giáo Hội được xác định dựa trên một loạt động từ và kiểu nói đặc trưng: nghe, biết, theo, ban sự sống đời đời, không diệt vong, không cướp được.

1. Lắng nghe Mục tử và Cha Người

Qua chùm từ ngữ này, được liên kết với nhau bởi một sợi chỉ thiêng liêng sáng ngời, có thể xây dựng câu chuyện toàn bộ về ơn gọi kitô hữu. Ơn gọi này xuất phát từ một tiếng nói vang lên bên ngoài chúng ta: “Những kẻ không tìm Ta, lại được gặp Ta; những kẻ không hỏi Ta, Ta đã xuất hiện cho chúng thấy” (Rm 10,20). Ơn Thiên Chúa đi trước mọi toan tính cá nhân và phá vỡ sự im lặng của tâm thức, y như lời sáng tạo của Người đã phá vỡ sự im lặng của hư vô vậy. Do đó con người phải “lắng nghe”; và chúng ta biết rằng trong ngôn ngữ Kinh Thánh, động từ này chất chứa nhiều âm vang cũng như bao hàm việc gắn bó, vâng phục, chọn lựa sự sống.

Nhưng trước khi lắng nghe Đức Kitô, cần phải nhắm mắt một chút. Như vừa thấy, một giọng nói muốn thấu đến chúng ta. Không những từ bên trên những tiếng động của cuộc đời mà cả từ bên trên những xì xào phù phiếm hay xấu xa của con tim chúng ta.

Ngay trước lời khẳng định đầy âu yếm của mình, “chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”, Đức Giêsu đã có với người Do thái một cuộc trao đổi gay gắt: “Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết! - Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin”. Người đã không nói với những từ mà trong bầu khí đầy xúc cảm của một cuộc tranh luận, rất có thể bị giải thích sai lạc, song đã nói qua mọi hành vi của mình: “Những việc tôi làm làm chứng cho tôi”.

Giờ đây Đức Giêsu nói với chúng ta qua các chữ của Tin Mừng, nhưng cũng tiếp tục nói qua các hành vi và qua chính bản chất Con Thiên Chúa của Người nữa. Chỉ cần mở một cuốn Tin Mừng ra, ai nấy đều có thể thấy và nghe Người, tuy nhiên lắm kẻ vẫn mù quáng và điếc đặc.

Vì có một khó khăn trong vấn đề nghe. Thánh Gioan bảo ta rằng chẳng phải những “dấu chỉ” (các phép lạ) hay các từ ngữ làm chúng ta gắn bó sâu xa với Đức Giêsu. Phải có một kiểu trong sáng của con mắt và lỗ tai, tự do của trí óc, sẵn sàng của quả tim. Đến cùng Người với nhiều ý tưởng làm sẵn, với lắm tâm tình tiêu cực, sẽ có nguy cơ biến độc giả Tin Mừng thành một kẻ nhìn mù quáng và kẻ nghe điếc lác. Chỉ duy những kẻ rất sẵn sàng mới nhận được tác động của con người ấy, mới thật sự nghe được tiếng nói ấy.

Vậy là phải tin để tin? Phải được chinh phục trước? Chúng ta đã suy ngắm mầu nhiệm này bao lần rồi. Chúng ta biết phải chú ý đến độ nào tới ơn lôi kéo đến cùng Đức Kitô và phải tích cực đến độ nào để khai thác ơn ấy. Công việc nội tâm kép này biến ta thành “một con chiên nghe tiếng Người”. Lúc ấy, các dấu chỉ trở nên rõ ràng, và lời Người mở lòng ta đón nhận đức tin. Chúng ta biết nghe Người vì chúng ta “theo Người”.

Khi nghe tiếng Người, chúng ta nghe một tiếng khác, tiếng của Chúa Cha: “Chúa Cha và tôi là một”. Vốn sắp làm cho người Do thái giận dữ (“Họ lấy đá để ném Đức Giêsu”, c.31), khẳng định này đẩy chúng ta vào trong một thái độ lắng nghe đầy kinh ngạc thán phục: khi Đức Giêsu nói, thì chính tiếng nói của Chúa Cha thấu đến chúng ta! Có lẽ chính trong thánh lễ Giáng Sinh mà ta đọc được bản văn đẹp nhất về vấn đề này: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử mà Người đã nhờ để dựng nên vũ trụ” (mở đầu thư Do thái).

Chớ bao giờ quên điều rất chắc chắn này: trong các lời của Đức Giêsu rung lên sự thật của Thiên Chúa và lòng âu yếm của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng có nhiều đòi hỏi đấy chứ? Đúng! song chúng ta có tin Thiên Chúa là tình yêu chăng? Nếu tin thì, vì Đức Giêsu là tiếng nói của tình yêu ấy, ta có thể đón nhận các đòi hỏi ấy như thành phần của cùng sứ điệp tình yêu.

2. Hiểu biết và bước theo

Bấy giờ mới thiết lập một mối hiệp thông thân mật và sâu xa giữa Đức Kitô và môn đệ; mối hiệp thông này được xác định bởi một từ Kinh Thánh quan trọng: “biết”. Sự hiểu biết này bao gồm trí tuệ, trái tim, hành động và ở sâu bên trong con người đến độ trở thành trên miệng Đức Giêsu của Gioan chính định nghĩa về sự sống đời đời: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai là Giêsu Kitô” (17,3). Con người đã nghe, làm cho mình được Thiên Chúa nhận biết và đã nhận biết Thiên Chúa thì “theo” Đức Kitô như Mục tử độc nhất của mình. Việc bước theo này phải là thường nhật và liên tục, kể cả khi ở chân trời thấp thoáng bóng chó sói sẵn sàng cấu xé thịt ta và dày vò hồn ta. Trong giây phút đó xuất hiện trong tâm trí chúng ta hai động từ khác của đoạn về Mục tử: chúng ta sẽ không bao giờ “diệt vong” và chẳng ai có thể “cướp” chúng ta khỏi bàn tay chắc chắn và toàn năng của Đức Kitô được.

Sự an toàn này dựa trên thần tính của Đức Kitô, Đấng vốn “làm một với Chúa Cha”: thật thế, ngay từ trong Cựu Ước đã có tuyên bố về Thiên Chúa rằng “không ai có thể giật cái gì khỏi bàn tay của Người được” (x. Is 43,13). Sự an toàn này được diễn tả rõ ràng bởi Phaolô trong một thánh thi đặt vào cuối thư Rôma chương 8: “Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (8,38-39). Niềm thanh thản này cũng được xác nhận bởi một con người mới thoạt nhìn xem ra như bị nuốt chửng trong miệng sự dữ. Đó là Rosanna Benzi, một phụ nữ bị giam mình ngay từ tuổi trẻ trong buồng phổi thép. Từ nơi đó cô đã làm báo, viết sách, an ủi nhiều người và đã nói lên câu này: “Tôi bằng lòng, tôi hãnh diện vì đã không để mình bị đánh bại. Tôi chẳng có gì tiếc nuối. Tôi lặp lại rằng tôi hạnh phúc vì đã sống 20 năm nay và sẵn sàng sống những năm tháng còn lại cách bình thản. Bình thản và vui tươi!”

Mục tiêu ơn gọi kitô hữu, thật thế, không tối tăm hay bất định nhưng nằm trong câu cuối cùng được Mục tử Giêsu thốt lên: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”. Trong ngôn ngữ Gioan, “sự sống đời đời” không ám chỉ một khoảng thời gian vô tận, một sự bất tử của linh hồn như lời dạy của các triết gia Hy lạp, nhưng trái lại là chính sự sống thần linh, là mối hiệp thông cuộc sống, bình an, hữu thể với chính Thiên Chúa. Lắng nghe Thiên Chúa nơi Đức Giêsu chắc chắn là dấn thân trên những con đường khó khăn nhưng dẫn đến sự sống: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; chúng theo tôi và tôi ban cho chúng sự sống đời đời”.

Việc mô tả cách biểu tượng kinh nghiệm này được thấy trong bài đọc hai hôm nay (Kh 7,9.14-17), bài đọc làm sáng lên trong trí chúng ta một bức tranh hoành tráng. Trong bức tranh đó, đoàn lũ đông đảo các môn đệ thuộc mọi miền, mọi thời và mọi nền văn hóa của hành tinh chúng ta không còn đói khát, không còn bị tổn thương bởi các biến động của thiên nhiên và lịch sử, không còn nếm biết vị đắng của nước mắt, không còn phải uống thuốc độc của thần chết, vì Thiên Chúa đã ban cho mọi tín hữu của Người “nguồn nước trường sinh”.

Đó là lúc hiệp thông trọn hảo với Thiên Chúa, bỏ lại sau mình thời gian trong đó họ đã phải đắm chìm trong máu của thử thách, của đau khổ và của gian truân vì tham dự vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Giờ đây họ khoác lên y phục sáng chói như của thiên thần trong ngày Chúa sống lại (x. Lc 24,4). Từ đây họ ở trong niềm vui và trên họ căng ra chiếc lều đầy sao của bầu trời, hình ảnh Đền thờ thiên quốc hoàn hảo trong đó Thiên Chúa sẽ hiện diện, hiện diện không như một phản ảnh cần chiêm ngắm trong một tấm gương, nhưng tỏ tường, diện đối diện (x. 1Cr 13,12).


Lm Phêrô Phan Văn Lợi

----------------------------------

 

PS 4-C50: Tương quan hai chiều giữa Chúa Giêsu Mục tử & Kitô hữu


VietCatholic News (26/04/2004 )

CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ LỜI CHÚA


 

Chúa nhật 04 Phục Sinh thường được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên lành vì trong thánh lễ, Giáo: PS 4-C50


Chúa nhật 04 Phục Sinh thường được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên lành vì trong thánh lễ, Giáo hội đọc lại chương 10 của Tin Mừng theo thánh Gioan, trong đó Đức Giêsu công khai xác nhận chân dung và vai trò của Người đối với những kẻ tin: Tôi là Mục tử nhân hậu (Bonus Pastor) - Tôi biết chiên của tôi - Tôi hiến mạng sống mình vì chiên - Tôi ban sự sống đời đời cho những người là chiên của tôi, thuộc về tôi. Còn bổn phận của Kitô hữu chúng ta là biết “nghe tiếng” và “theo” Đức Giêsu Kitô là Mục Tử nhân hậu của chúng ta.

II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA

2.1 Bài đọc 1: Cv 13, 14.43-52: (a) Về phần Dẫn Nhập Sách Công Vụ Tông Đồ, trích “Kinh Thánh trọn bộ, Dẫn Nhập Tân Ước”, trang 1841, xin đọc lại trong bài Sống Lời Chúa Chúa Nhật Phục sinh.

(b) Cv 13,14.43-52: là tường thuật của Luca về sự kiện hai ông Phaolô và Banaba rao giảng về Thiên Chúa cho những người dân thành Antiôkhia miền Pixidia. Trong khi dân ngoại háo hức nghe Lời Thiên Chúa và tin theo thì những người Do Thái lại ghen tức với hai ông. Vì ghen tức mà họ dùng nhiều thủ đoạn xấu xa để bôi nhọ, nhục mạ, thậm chí họ còn xách động quí bà và các vị thân hào trong thành ngược đãi và xua đuổi hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Trước thái độ ấy Phaolô và Banaba chẳng những không oán giận mà còn chỉ cho họ thấy điều đáng trách của họ: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố Lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất”.

2.2 Bài đọc 2: Kh 7,9.14b-17 (a) Về mục đích của Sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ, xin đọc lại đoạn trích dẫn từ “Kinh Thánh trọn bộ, Dẫn Nhập Tân Ước, trang 1842” trong bài SLC Chúa nhật 02 Phục sinh.

(b) Kh 7,9.14b-17: Thánh Gioan Tông đồ kể lại thị kiến của mình tức những gì ngài nhìn thấy trong tâm linh, chứ không phải bằng mắt thịt: “Tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm cành lá thiên tuế. Họ là những người đã đến, sau khi đã trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong Máu Con Chiên. Vì thế họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ dẫn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ”

c) Trong đoạn sách Khải huyền trên chúng ta thấy rõ những người được cứu độ gồm đủ mọi thành phần, nguồn gốc, chủng tộc, văn hóa. Họ là những người đã chứng tỏ lòng tin yêu gắn bó của họ với Thiên Chúa và với Chúa Giêsu, bằng hy sinh tử đạo. Vì thế Thiên Chúa ban cho họ phần thưởng hết sức lớn lao và đáng tự hào. Cuộc sống của họ tràn đầy niềm vui và hạnh phúc.

2.3 Bài Tin Mừng: Ga 10,27-30: Là một đoạn thuộc chương 10 của Tin Mừng Gioan, tuy ngắn nhưng chứa một nội dung rất phong phú: (a) Trước hết là lời công bố của Đức Giêsu về mối tương quan gắn bó mật thiết của Người với những ai là chiên của Người, thuộc về Người: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.” (b) Thứ đến là lời công bố về hồng ân cao trọng nhất mà Đức Giêsu ban tặng cho những ai là chiên của Người. Đó là sự sống đời đời hay sự sống vĩnh hằng không bao giờ bị hao mòn hoặc hư mất: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.” (c) Sau cùng là lời mạc khải về Chúa Cha là Đấng cao trọng hơn tất cả, Đấng trao cho Con Một những người thuộc về Người, Đấng làm một với Chúa Con: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một”

III. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA

Trọng tâm của Bài Tin Mừng là mối tương quan hai chiều giữa Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử tốt lành và chúng ta là những người thuộc về Người:

3.1 “Chiên của Tôi thì nghe tiếng tôi; Tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”: Mối tương quan giữa Chúa Giêsu Chủ Chăn và người tín hữu là chiên được diễn tả bằng bốn động từ: nghe tiếng, theo, biết và cho mà trong đó có hai động từ thuộc về Chúa (biết, cho) và hai động từ thuộc về chúng ta (nghe tiếng, theo).

* Về phía Chúa Giêsu Kitô là “biết” và “cho”: Chúa Giêsu biết chúng ta được dựng nên và sinh ra để làm gì. Người biết chúng ta có những xu hướng tốt và xấu như thế nào. Người cũng biết chúng ta lương thiện hay bất lương, dũng cảm hay hèn nhát, trung tín hay phản bội như thế nào. Bất kể chúng ta xấu tốt thế nào, Chúa Giêsu vẫn quảng đại ban cho chúng ta hồng ân lớn lao là sự sống vĩnh hằng, bất diệt, thần linh tức sự sống của chính Người. Về phía Chúa Giêsu còn là “bảo vệ” và “giữ gìn” chúng ta nữa: để không bao giờ chúng ta bị diệt vong và không ai cướp được chúng ta khỏi tay Người. Vậy phận việc của chúng ta trước hết là tin tưởng phó thác vào sự toàn trí toàn năng của Chúa Giêsu để có được lòng khiêm tốn và nhẫn nại và biết nỗ lực nên trọn lành; thứ đến là mở rộng tâm hồn mà đón nhận sự sống đời đời mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta; sau cùng là thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của chúng ta đối với Chúa bằng hành động “lắng nghe” (tiếng Chúa) và bước “theo” (chân) Người.

* Về phía chúng ta là “nghe tiếng” và “theo”. Nếu chúng ta lại thờ ơ với cả việc lắng tai nghe tiếng Chúa thì làm sao chúng ta biết và chia sẻ được những suy nghĩ, tâm tình thâm sâu của Chúa. Còn nếu chúng ta chỉ nghe tiếng Chúa bằng tai thì chưa đủ vì có nhiều điều chỉ nghe bằng tai thì vẫn không nghe thấy. Nghe không chỉ bằng tai mà còn bằng trực giác, bằng dự cảm và bằng cả tâm hồn nữa. Để nghe được tiếng Chúa thì tâm hồn chúng ta phải chìm lắng trong thinh lặng, chẳng những tránh tiếng ồn ào mà còn phải xua đuổi tất cả những ý tưởng kiêu căng, tự mãn, những bận tâm, lo lắng về cuộc sống. Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã nói: “Thiên Chúa chỉ nói trong thinh lặng và điều quan trọng không phải là điều chúng ta nói (với Chúa) mà là điều Chúa muốn nói với chúng ta và qua chúng ta.” Vì thế mà trong đời sống đức tin, những ngày tĩnh tâm, “sa mạc”, những giờ phút sống một mình với Chúa Giêsu, với Thiên Chúa là tối cần thiết, để chúng ta có thể nghe được tiếng Người. Nghe tiếng Chúa là để đi theo Người. Theo Chúa là đi sau Chúa, là bước theo Chúa, là đặt hai bàn chân vào những chỗ mà hai bàn chân Chúa đã đặt vào trước, là đi vào con đường dẫn tới Bêlem, Nadarét và Núi Sọ tức dẫn tới tự hạ, tự hủy ra không và dâng hiến cuộc đời mình cho kẻ khác được sống. Để đi theo Chúa, chúng ta phải vác thập giá, tức phải chấp nhận bỏ mình, hy sinh mất mát và thiệt thòi ở đời này như Chúa Giêsu đã nhấn mạnh nhiều lần: “Ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai sẵn sàng để mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ tìm lại được sự sống ấy” Mạng sống được hiểu là tất cả những gì liên quan tới cuộc sống: sức khỏe, của cải, danh tiếng v.v… Đọc Phúc âm, nếu chú ý, chúng ta sẽ thấy văng vẳng trên mỗi trang giấy hai chữ “hãy nghe” và “hãy theo”: Nếu muốn làm môn đệ Tôi, thì hãy “nghe” Tôi; Nếu muốn làm môn đệ Tôi, thì hãy “theo” Tôi……

3.2 “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” Khi bộc lệ về mình, Chúa Giêsu còn bộc lộ về Cha cho chúng ta nữa: Chúa Cha và Chúa Giêsu là một: một Tình Yêu, một Ước Muốn, một Chương Trình, một Kế hoạch, một Ơn Cứu Độ, một Sự Sống Vĩnh Cửu và Bất Diệt. Nói cách bình dân là Chúa Giêsu là Con đối xử với chúng ta như thế nào, thì Chúa Cha cũng đối xử với chúng ta như thế hoặc ngược lại Chúa Cha đối xử với chúng ta như thế nào, thì Chúa Giêsu là Con cũng đối xử với chúng ta như thế. Không hề có sự khác biệt giữa Chúa Cha và Chúa Con trong mối liên hệ với chúng ta. Vậy thì Chúa Cha cũng biết chúng ta như Chúa Giêsu. Chúa Cha cũng ban sự sống đời đời cho chúng ta như Chúa Giêsu. Chúa Cha cũng bảo vệ và gìn giữ chúng ta như Chúa Giêsu. Chúa Cha cũng mời gọi chúng ta biết nghe tiếng của Người và sống theo Người như Chúa Giêsu. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã chẳng từng nói: “Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em ở trên trời là Đấng trọn lành” đó sao?

IV. CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã bộc lộ cho chúng con biết Chúa là Mục Tử Tốt Lành của chúng con, Chúa yêu thương và ban tặng sự sống đời đời cho chúng con. Chúa cũng đã bộc lộ cho chúng con biết mối tương quan mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chúa mời gọi chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa và sống theo Chúa. Chúng con quyết tâm dùng các phương thế cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, học hỏi Thánh Kinh, Giáo lý và Công đồng Vatican II, dự các buổi tĩnh tâm, dành những phút thinh lặng sống riêng với Chúa, thực hành giáo huấn của Lời Chúa để được sống đời đời với Chúa.


Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

----------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây