Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-C Bài 151-200 Chúa nhật Chúa chiên lành -------------------------------------- Phúc Âm: Ga 10, 27-30: "Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời".
Hằng năm, cứ vào Chúa nhật 4 Mùa Phục sinh, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa PS 4-C151
Hằng năm, cứ vào Chúa nhật 4 Mùa Phục sinh, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu trong vai trò Người Mục tử chăn dắt đoàn chiên. Hôm nay, hình ảnh Người mục tử biết từng con chiên, lo lắng và chăm sóc cho từng con chiên được khắc hoạ rõ nét qua chính lời Chúa nói trong tin mừng chúng ta vừa nghe: “Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi”. Thật là hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta, vì Chúa biết từng người chúng ta. Chúa lưu tâm đến từng hoàn cảnh của chúng ta. Chúa còn bao bọc chở che chúng ta bằng biết bao ơn lành hồn xác. Sống dưới sự chăm sóc của Chúa, chúng ta không chỉ hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh phúc cả đời sau: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong”.
Nếu mục tử Giêsu biết chiên của Ngài, yêu thương chiên đến nỗi nên một với nó và hiến mạng vì nó, thì mỗi người Kitô hữu cũng phải có trách nhiệm liên đới với anh chị em mình trong mọi nỗi niềm và cảnh ngộ của cuộc sống. Bởi mỗi người chúng ta qua bí tích rửa tội, đều lãnh nhận sứ mạng mục tử của Chúa trong nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình.
Vì thế, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Là cha mẹ, chúng ta hãy quyết tâm trở nên mục tử Giêsu cho con cái. Hãy biết đến con cái bằng trái tim để cảm thông và yêu thương. Chúng ta sẵn sàng đổ bao mồ hôi nước mắt để nuôi con lớn lên trong thân xác, trong tri thức, nhưng mấy cha mẹ thực sự dám hiến cả đời sống để con cái lớn lên trong tình mến Chúa yêu người. Chúng ta hãy nhớ điều này: Đức tin và tình mến Chúa yêu người không thể đến với con cái chỉ bằng lời nói, nhưng bằng chính cuộc sống của cha mẹ từng ngày dám sống theo Lời Chúa, dám hiến mình vì hạnh phúc của gia đình, dám đặt nỗi khao khát tìm Chúa trên mọi giá trị khác như tiền bạc, thú vui thì cha mẹ mới có thể làm cho con cái thấm nhuần lòng tin yêu Chúa và tình mến tha nhân. Cách sống ấy không chỉ làm nên cái đẹp của đời những đứa con mà còn làm rạng ngời cuộc đời của chính cha mẹ và còn có khả năng khơi dậy ơn gọi dâng hiến nơi tâm hồn con cái. Đó là lúc cha mẹ đang dành cho con cái tình yêu của Mục tử Giêsu.
Là thầy cô, chúng ta hãy trở nên những mục tử của học trò khi biết yêu thương và hết lòng truyền đạt cho học trò không chỉ những tri thức, mà còn giúp các em sống thực như những con người lương thiện, tử tế, nhân ái bằng chính gương quên mình phục vụ, yêu thương chăm sóc từng học trò trong tình yêu của mục tử Giêsu. Có lẽ thật lý tưởng. Nhưng nếu chúng ta không nuôi một lý tưởng cao đẹp như thế trong tâm hồn thì làm sao chúng ta có được một cuộc sống đẹp trong đời thường. Nếu chúng ta không nuôi một ước mơ lớn trong con tim của mình, làm sao chúng ta có được một tấm lòng vàng. Ước gì có nhiều thầy cô Công giáo, quên đi cái bệnh thành tích của xã hội hôm nay, để ôm ấp khát vọng dẫn dắt các em đi vào con đường lương thiện, xả kỷ và yêu thương.
Là các bạn trẻ, đặc biệt các công nhân, chúng ta hãy nâng đỡ bạn mình trong công việc, trong khó khăn, trong đơn côi vì xa gia đình. Hãy thúc đẩy nhau sống đức tin, dẫn nhau đến với Chúa ngày Chúa nhật, tham gia những sinh hoạt của giáo xứ. Trong tình yêu, với nạn sống thử trước hôn nhân, hãy can đảm gìn giữ nhau trong sáng theo luân lý Kitô, hãy giúp nhau vun đắp những đức tính cần thiết cho gia đình tương lai của mình. Đó là cách chúng ta trở thành những mục tử Giêsu của nhau.
Ước gì qua thánh lễ này, xin Chúa cho chúng ta biết noi gương bắt chước Chúa để trở nên mục tử nhân lành trong gia đình, trong xứ đạo, trong khu xóm, trong môi trường mà chúng ta đang làm việc và sinh sống, để cuối cùng tất cả được sống trong cùng một đàn chiên duy nhất của mục tử Giêsu.
Chúa nhật hôm nay cũng được Giáo hội chọn làm Ngày Thế Giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu sĩ. Hiệp ý với toàn thể Giáo hội, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo hội có nhiều mục tử nhân lành hết lòng dấn thân phục vụ vì đoàn chiên. Chúng ta hướng đến các bạn trẻ và cầu nguyện cho họ quảng đại đáp lại lời mời mọi của Chúa để dấn thân và phục vụ Chúa trên con đường dâng hiến. Xin cho các bậc cha mẹ ý thức và biết xây dựng gia đình mình thành cộng đoàn cầu nguyện và yêu thương, để trở thành vườn ươm ơn gọi cho thế giới hôm nay. Amen.
Theo một tư liệu mới được tìm thấy, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, nhà soạn nhạc người Anh PS 4-C152
Theo một tư liệu mới được tìm thấy, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, nhà soạn nhạc người Anh nổi tiếng Gustav Holst (1874-1934) thường chơi kèn trombone, khi từ London trở về nhà ở Cheltenham. Lúc đó Holst đang là sinh viên của Trường Âm nhạc Hoàng gia Anh và do quá nghèo, không có tiền mua vé tàu hỏa, nên phải đi bộ về nhà. Ông thường tập kèn mỗi khi đi qua cánh đồng, vì nghĩ rằng nơi đó vắng vẻ, không làm phiền tới ai.
Có lần Holst mải mê “biểu diễn” trên một quả đồi ở Cotswold trong vài tiếng và bị một nông dân tìm tới mắng mỏ, rằng tiếng kèn “như còi tàu hỏa” đã làm con cừu của ông ta đẻ non. (Internet)
Cừu, hay chiên (Ovis aries) là một trong những loài gia súc được con người thuần hóa sớm nhất để lấy lông, thịt, sữa, mỡ và da. Đàn cừu trên thế giới hiện nay là trên 1 tỷ con. Cừu là loại dễ tính, có thể ăn các loại cỏ khô cằn, ưa khí hậu khô, không chịu ẩm ướt.
Bài Tin Mừng thánh Gioan hôm nay chỉ gói gọn trong ba câu thật ngắn ngủi, súc tích, sâu sắc và thấm thía. Chúa Giêsu là Mục tử chăm sóc đàn chiên dân Chúa.
Vốn hiền lành, dịu dàng, nên chiên hay bị thú dữ đe dọa, nhất là chó sói hung bạo. Vì vậy, thính giác loài chiên rất phát triển để củng cố bản năng sinh tồn. Do đó, con chiên có thể nghe được nhiều cách khác nhau.
Con chiên nghe mùi
Hương vị đặc trưng của đoàn chiên giúp con chiên dễ nhận ra nhau. Đồng thời cũng dễ dàng nhận ra chủ chăn thân thương, gần gũi qua mùi cố hữu đó. Dĩ nhiên chủ chăn phải thực sự sống cùng, sống với và sống cho đoàn chiên, thì mới nồng nàn đượm mùi chiên. Huấn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với các linh mục tại Đền Thờ Thánh Phêrô, hôm Lễ Dầu, Thứ Năm Tuần Thánh 28/3/2013, cũng nhấn mạnh: “Cha mời gọi các con điều này: Các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên!”
Mùi chiên của người mục tử nhân lành tỏa ra từ thái độ, lời nói, hành động chan chứa tình cảm trìu mến. Phong cách, suy tưởng, tình cảm và quan điểm của chủ chăn đều bộc lộ trực tiếp, hay gián tiếp mỗi khi gần gũi đàn chiên. Nếu là kẻ chăn thuê thì chỉ tanh tưởi mùi bạc, ngầy ngậy bơ sữa bổng lộc chức tước. Nếu là kẻ chăn giả mạo thì nồng nặc tà khí man trá, lạnh lẽo, lưu manh. Con chiên tuy hiền lành, nhưng rất bén nhạy đánh hơi xem mùi thân thuộc, hay lạ, dễ dàng tìm ra chủ chăn chính đáng nhân lành hay kẻ chăn thuê, hoặc giả mạo.
Chúa Giêsu còn ân cần nhắc nhở, cảnh báo: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, không thiết gì đến chiên.” (Ga 10, 12-13)
Con chiên nghe thấy
Không chỉ nghe mùi, con chiên còn nghe thấy chủ chănâu yếm gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng đã nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ. (Ga 10, 3-5) Như thế, con chiên còn nhận biết chủ chăn qua nếp ứng xử, qua sự chăm sóc tận tụy, vì chủ chăn biết rõ tên tuổi, cá tính, sức khỏe, nhu cầu và tâm trạng từng con chiên.
Chứng kiến sự tận tâm, hy sinh, con chiên mới gắn bó, yêu thương chủ chăn. Mà không nỡ đi theo người lạ, kẻ gian hay người làm thuê. Nếu con chiên lỡ ham vui, đi hoang lạc bầy, thì chủ chăn nhân lành cũng vẫn bỏ 99 con chiên ở lại, để đi tìm cho bằng được một con chiên bị lạc.
Vì thuộc về chủ chăn nhân lành, con chiên cảm nhận được sự ưu ái cụ thể, như xua đuổi sói dữ, băng bó, chữa lành thương tích, ôm ấp vác lên vai, dẫn dắt về tận chuồng trại nghỉ ngơi, dưỡng sức.
Con chiên nghe tiếng
Không chỉ ban ngày, mà ngay đêm khuya thanh vắng, con chiên vẫn văng vẳng nghe tiếng chủ chăn tâm tình, dỗ dành, vuốt ve, an ủi, căn dặn, dạy dỗ. Thậm chí còn hy sinh vì đoàn chiên.” Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (Ga 10, 14-15)
Đắm mình trong suy tư, cầu nguyện, con chiên có thể nghe tiếng Chủ Chăn nhân lành qua Lời Chúa, qua Thánh Kinh, và các dấu chỉ chung quanh. Đây chính là động thái tích cực của con chiên để hiểu và nghe theo Chủ Chăn. Một sự hợp tác cần thiết phải có, để con chiên nghe được tiếng chủ chăn bảo vệ, hướng dẫn đến dồng cỏ xanh non, suối mát dịu ngọt.
Con chiên luôn cần tỉnh thức đế lắng nghe Chủ Chăn gọi. Như xưa kia ngôn sứ Samuen đang ngủ, nghe tiếng gọi của Thiên Chúa ba lần, nhưng đã không nhận ra, cho đến khi được thầy tư tế Êli hướng dẫn. (I Sm 3:1-10).
Người đưa tôi tời dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính,
vì danh dự của Người. Lạy Chúa,
dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Người bảo vệ, con vững dạ an tâm.(Tv 23)
Lạy Chúa, chúng con xin Chúa chúc lành đặc biệt cho các vị lãnh đạo của Giáo Hội Chúa. Xin giúp chúng con bỏ qua những lỗi lầm của họ để nhận ra con người thực của họ: là các dấu chỉ sống động về sự hiện diện của Chúa giữa chúng con. (Lm. Mark Link, SJ)
Lạy Mẹ Maria, xin cho con luôn nhớ Mục Tử Nhân Lành đã hy sinh chịu chết vì đoàn chiên. Xin Mẹ cho con nhận ra tình thương cao cả và nhắc nhủ con luôn sống xứng đáng với tư cách con chiên của Người.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thủa ban đầu, chúng ta thấy cha ông mình đã sống PS 4-C153
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thủa ban đầu, chúng ta thấy cha ông mình đã sống hết lòng yêu thương và đoàn kết với nhau. Vì thế, những người ngoài Công Giáo thời đó không biết tiền nhân của chúng ta theo đạo gì mà lại sống những giá trị cao đẹp như vậy, nên họ nói với nhau: những người này họ sống “Đạo Yêu Nhau”.
Tại sao các tín hữu lại có lối sống như thế? Lối sống đó bắt nguồn từ đâu? Thưa! Các ngài đã lấy Chúa làm trung tâm, làm điểm tựa cho mọi hoạt động. Lấy tinh thần bác ái, yêu thương làm nên bản chất của mình. Mọi giá trị và ưu phẩm đó khởi đi từ một Đấng đã sống và dạy cho con người bài học “yêu thương”, Đấng đó chính là Đức Giêsu.
1. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu
Khởi đi và bắt nguồn từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa Cha, vì thế, người: “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Đến lượt Đức Giêsu, Ngài cũng sống triệt để sứ mạng đó khi yêu và yêu đến cùng. Ở điểm này, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã diễn tả hành vi thương xót của Đức Giêsu như sau:“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-8).
Thế nên, cả cuộc đời của Đức Giêsu chỉ có một nỗi thao thức, đó là “chạnh lòng thương” đến những người bất hạnh. Luôn cảm thông với người tội lỗi, nâng đỡ kẻ yếu đuối, vỗ về người thất vọng. Xót thương đến đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, nên đã nuôi sống họ bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ngài không đành lòng khi nhìn thấy những người ốm đau bênh tật, nên sẵn lòng ra tay chữa lành. Ngài còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; làm ơn cho kẻ hại mình; yêu luôn cả kẻ thù và sẵn sàng tha thứ cho họ. Không những thế, Đức Giêsu còn trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể và ở lại mọi ngày với loài người cho đến tận thế. Đỉnh cao của mầu nhiệm thương xót này chính là cái chết trên thập giá để hiến mạng vì người mình yêu: “Không có mối tình nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13).
Đồng thời, do lòng xót thương thúc đẩy, Đức Giêsu không ngừng lên tiếng phản đối những kẻ không chút thương xót và gây nên những hậu quả bi đát cho những người thấp cổ bé họng, khiến họ phải lao tâm khổ tứ, quằn quại trong khổ nhục đắng cay...
Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã sống và chết vì yêu. Qua đó, Ngài cũng dạy cho các môn đệ bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Lệnh truyền: “Hãy yêu thương nhau” là di chúc của Đức Giêsu dành cho các môn đệ khi sắp lên đường chịu chết. Còn yêu “như Thầy đã yêu” là căn cốt của tình yêu, là một lối yêu mới, khác với lối yêu cũ của thời Cựu Ước.
2. Điểm mới của giới luật yêu thương
Khi khuyên bảo các môn đệ: “Hãy yêu thương nhau”, Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở khái niệm trừu tượng, chung chung, mà Ngài nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu”. “Yêu Như Thầy”, chính là điều khác biệt với những kiểu yêu trước đó, và “Yêu như Thầy” đã làm nên điểm mới của giới luật yêu thương nơi người môn đệ Đức Giêsu.
Nếu thời Cựu Ước, người ta yêu nhau theo lẽ công bằng, tức là được phép trả thù khi có người làm hại mình: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, hay đi xa hơn một chút thì cũng chỉ là yêu mọi người như yêu chính mình.
Nhưng với lời mời gọi: “Yêu như Thầy”, Đức Giêsu muốn đột phá và đi đến tận căn của tình yêu.
Chữ “như” ở đây không phải là liên từ để so sánh hai vế, mà nó có một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là mở ra nguồn gốc của tình yêu. “Yêu như Thầy”, tức là lấy khuôn mẫu tình yêu giữa Đức Giêsu với Chúa Cha và giữa Ngài với các môn đệ, để các ông cũng yêu nhau và yêu mọi người như chính mình đã chứng kiến và được yêu.
Vậy “yêu như Thầy đã yêu” là gì?
Thưa, đó là hạ mình như một người tôi tớ. Tự hủy mình ra không và từ bỏ cái tôi ích kỷ. Yêu với một tình yêu phát xuất từ lòng dạ xót thương chứ không phải một thứ tình yêu vụ lợi, thực dụng, chụp giật. Yêu với một thái độ cảm thông, phục vụ chứ không phải bố thí, ban phát, thương hại. “Yêu như Thầy” là không chấp nhất, coi người làm hại mình là bạn và sẵn lòng tha thứ tất cả. Đỉnh cao của tình yêu này chính là chết thay cho người khác, đây chính là một tình yêu cao cả.
Với tất cả những nét đặc thù trên đã làm nên điểm mới của luật yêu thương mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay.
3. Sống và thi hành giới luật yêu thương
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học mới về tình yêu; đồng thời cũng chỉ ra cho chúng ta thấy điểm khởi nguồn và phát xuất tình yêu, đó là lòng thương xót.
Lời mời gọi: “Hãy yêu như Thầy” mà Đức Giêsu trăng trối cho các môn đệ thì cũng là tâm tư mà Ngài muốn gửi đến cho mỗi người chúng ta.
Vì vậy, hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu và tập sống tinh thần yêu thương ấy ngang qua một nghĩa cử xót thương cụ thể với những người mà chúng ta hay gọi là kẻ thù của mình. Bởi vì yêu được kẻ thù, ấy là chúng ta đang thực thi cốt lõi của tình yêu, là phản ảnh lòng dạ thương xót của Thiên Chúa cho anh chị em của mình cách rõ nét nhất.
Tuy nhiên, muốn thực hiện được điều đó, trước tiên, chúng ta phải thay đổi quan điểm và tên gọi cho phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Khi dùng từ kẻ thù, ấy là lối nói có tính tiêu cực, và vô hình chung, ta coi đối phương là kẻ mà chắc chắn phải tiêu diệt! Vì thế, muốn yêu kẻ thù, chúng ta nhất định phải thay đổi cách gọi, quan điểm và lối nhìn.
Thứ đến, khi người anh chị em chúng ta xúc phạm đến ta, hãy coi nhẹ lỗi của họ, đừng thổi phồng như bong bóng. Nhiều khi cần phải đặt mình vào hoàn cảnh của người anh em để dễ thông cảm cho hành vi của họ hơn. Nhìn thấy lỗi của anh em gây ra cho mình, ngay lập tức, cẩn trọng và hồi tâm suy nghĩ: có bao giờ cũng cùng lỗi đó, mình đã gây ra cho người khác không? Đôi khi lỗi của mình nặng hơn chăng? Hay điều mà người anh em đang gây ra cho mình có lẽ đúng! Nếu đúng, tại sao không biết cám ơn, nếu sai, sao phải hận thù cho khổ tâm!
Tiếp theo, noi gương Đức Giêsu trên thập giá, không ngớt cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ hại mình. Vì thế, khi gặp phải những người hại ta, hãy cầu nguyện cho họ. Xin cho họ và ta được bình an. Hành vi này thật cao quý, vì hơn bao giờ hết, trong tận cùng của khổ đau, chúng ta lại thật hạnh phúc vì đang được diễm phúc tham dự vào công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa cách cụ thể.
Cuối cùng, khi bị hiểu lầm, vu khống, phân biệt, thậm chí bách hại bằng tư tưởng, miệng lưỡi hay đòn vọt và chết chóc, ta hãy vui mừng, bởi lẽ, đó là lúc ta được tôn vinh vì đang được hiệp thông với Đức Giêsu chịu đóng đinh.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót, xin Chúa ban cho chúng con được ở lại trong tình yêu của Chúa và luôn biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu và thương xót chúng con. Amen.
Chúa Nhật thứ tư trong mùa Phục sinh được dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh PS 4-C154
Chúa Nhật thứ tư trong mùa Phục sinh được dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ. Những người dấn thân trọn vẹn theo Chúa trong bậc sống và sứ mạng riêng biệt để phục vụ anh chị em đồng loại theo gương Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành. Người mục tử tốt lành chăm sóc và nuôi dưỡng đàn chiên của mình, dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi và dòng nước mát lạnh. Còn hơn thế nữa, Đức Giêsu Mục Tử đến với con người để yêu thương, săn sóc, chữa lành và hy sinh mạng sống để nhân loại được sự sống đời đời.
Đặc tính của con chiên là nghe tiếng người chủ chăn và đi theo. Mỗi người chăn chiên có cách gọi riêng đối với đàn chiên của mình và chiên có thể phân biệt tiếng gọi thật hay giả để biết ai là chủ chăn đích thật. Đến với con người, Đức Giêsu cũng nói lên đặc tính của những ai đi theo Ngài: “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời.” Ơn gọi dâng hiến là việc nghe và đáp lại tiếng Chúa gọi cách cá vị và thiết thân. Thiên Chúa ngỏ lời theo cách rất riêng và từng người đáp và bước đi trên hành trình của mình.
Ơn gọi dâng hiến thật đặc biệt vì khởi đi từ sáng kiến của Chúa. Nhưng ơn gọi ấy cần được con người ấp ủ và nuôi dưỡng để có thể triển nở và sinh hoa kết trái. Tiếng Chúa gọi như hạt giống được gieo vào lòng đất, cần một khoảng đất đủ màu mỡ để trổ sinh. Ơn gọi theo Chúa cần được lắng nghe, bén rễ từ ngay trong mảnh đất gia đình. Và với công lao vui trồng, mầm ơn gọi ấy có cơ hội nảy nở thành cây to, sinh hoa và kết trái dồi dào.
Ngày lễ Chúa Chiên Lành, chúng ta được Giáo Hội mời gọi cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Đây là một công việc rất thiết thực và rất có ý nghĩa, nhất là với xã hội ngày hôm nay, một xã hội tôn sùng chủ nghĩa hiện sinh, hưởng thụ…Sự bành trướng của những lối sống này đã đưa đến hiện tượng khan hiếm ơn gọi trở thành linh mục, tu sĩ…Còn đó những cộng đoàn thiếu vắng các vị mục tử cử hành các bí tích, hướng dẫn, chia sẻ Lời Chúa, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa. Rất nhiều nơi thiếu vắng tình thương của Chúa qua bàn tay chăm sóc của các tu sĩ nam nữ, những tâm hồn thiện nguyện. Cầu nguyện cho ơn gọi thiên triệu linh mục cũng là lúc ta xem lại mảnh đất đời mình, nơi gia đình, giáo hội và xã hội. Chắc chắn Chúa vẫn tiếp tục những tiếng gọi, nhưng liệu chúng ta còn để ý lắng nghe? Những mầm ơn gọi tiếp tục được gieo trồng, nhưng liệu mảnh đất hôm nay còn đủ màu mỡ để ơn gọi ấy sinh trưởng vững mạnh?
Chiêm ngắm Vị Mục Tử Nhân Lành, chúng ta cầu nguyện để Giáo Hội có thêm nhiều vị chủ chăn theo gương Chúa Giêsu hiền hậu và khiêm nhường trong lòng, hết lòng chăm lo nuôi dưỡng đàn chiên Chúa để Giáo Hội trở thành gia đình yêu thương, hiệp nhất tràn đầy ơn Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn gửi đến trên đồng lúa mênh mông của thế gian này những vị thợ gặt tuyệt vời, là những vị linh mục tôi tớ Chúa. Họ đã không quản ngại những khó khăn và vất vả. Họ mang đến cho con người sự phục vụ âm thầm và những ơn lành. Nơi các vị linh mục thánh thiện, chúng ta nhận ra chính Chúa đang hiện diện với chúng ta với một tình yêu thương ấm áp. Chúng ta hãy xin Chúa tiếp tục ban ơn và gìn giữ các linh mục, để họ có thể đương đầu với tất cả những cám dỗ, và luôn giữ mãi chữ tín trung với Ngài luôn mãi trong suốt cuộc đời này. Chúng ta cũng xin Chúa ban thêm nhiều bạn trẻ quảng đại theo Chúa và phục vụ anh chị em đồng loại để vòng tay yêu thương của Chúa nối dài và mở rộng luôn mãi.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu Mục Tử, cảm tạ Chúa đã đến với chúng con, như người mục tử nhân lành, để đàn chiên Chúa được no đầy và được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Xin Chúa thánh hoá hàng linh mục tu sĩ và ban tặng những ơn cần thiết, để các ngài trở nên những mục tử tốt lành, theo mẫu gương của Chúa.
Xin Chúa tiếp tục khơi lên trong tâm hồn bạn trẻ, ước ao và nhiệt huyết phục vụ Chúa, trong bậc sống dâng hiến tu trì, để mỗi ngày có thêm nhiều người theo Chúa, quảng đại dâng hiến và hăng say phục vụ tất cả anh chị em đồng loại. Xin Chúa chúc lành cho mái ấm gia đình chúng con, để gia đình chúng con trở thành trường ươm mầm và nuôi dưỡng ơn gọi dâng hiến. Xin Chúa giúp các gia đình, biết noi gương gia đình Nazaret xưa, sống yêu thương và lắng nghe tiếng Chúa trong mọi biến cố thường ngày, để mọi người nơi gia đình, trở nên nhân tố tốt lành cho ơn gọi nảy sinh và lớn mạnh. Amen.
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói về người mục tử và đàn PS 4-C155
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói về người mục tử và đàn chiên.
Mục tử là người như thế nào vậy chúng con?
- Mục tử là người chăn chiên.
Gọi người chăn chiên là mục tử cho nó sang. Cũng giống như người ta gọi con của vua là hoàng tử vậy. Con gái của vua thì gọi là….. là…là………công chúa. Công chúa của vua và bạn Lan Phương đây có khác gì nhau không chúng con?
- Chẳng khác gì nhau cả vì đều là con gái cả.
Ở nhà có khi nào những người con gái chúng con được cha mẹ gọi là công chúa hay không?
- Dạ có.
Bây giờ chúng con hãy nghe Chúa nói: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi".
1. Trước hết Chúa bảo: "Chiên tôi thì nghe iếng tôi"
Con chiên thì nghe tiếng của người chăn chiên. Đây là đức tính rất tốt của một con chiên.
Cha kể cho chúng con câu chuyện này: Một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syrie, thấy có ba người chăn chiên dẫn bầy chiên của mình ăn cỏ chung một chỗ với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:
- Men ah! Men ah! (Theo tiếng Ả rập có nghĩa là "Hãy theo ta! Hãy theo ta!")
Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy chung và đi theo người ấy lên đồi.
Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.
Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:
- Xin anh vui lòng cho tôi mượn đồ đạc của anh để tôi kêu như anh kêu, xem các con chiên này có nghe theo tôi hay không.
Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu:"Men ah! Men ah!", nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:
- Thế chiên không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh thôi sao?
Người chăn Syrie trả lời:
- Ồ! có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai.
Đó chúng con thấy chiên ngoan và khoẻ mạnh thì lúc nào cũng nghe theo tiếng của người chăn chiên như là người chủ của mình.
2. Tiếp theo Chúa bảo: "Tôi biết chúng"
Tiếng "Biết" ở đây trong Tin Mừng của thánh Gioan là: "Yêu thương"
Mục tử tốt lành thì luôn yêu thương cả đàn chiên và từng con chiên của mình. Yêu thương là luôn lo lắng và bảo vệ đàn chiên, không bao giờ để cho một con chiên nào bị nguy hiểm.
Một người đi du lịch qua xứ Palestine. Người hướng dẫn cho ông ta biết rằng, tại xứ này, đúng như Đức Chúa Giêsu đã dạy trong Gioan 10: "Người chăn đi trước dẫn chiên và chiên đi theo sau người chăn, chớ không bao giờ người chăn đi sau bầy chiên."
Một ngày nọ, ông thấy một người đang đi ở phía sau lùa bầy chiên đi tới. Lạ quá vì ông thấy không đúng như những gì ông được chỉ dẫn, nhất là không đúng với Kinh thánh Gioan đoạn 10 mà ông đã đọc. Ông liền chạy đến hỏi người chăn chiên:
- Anh ơi! Tôi được biết là ngươi chăn ở xứ này khi chăn chiên thì đi trước, chiên theo sau. Tại sao anh chăn chiên mà ở phía sau lùa chiên đi tới như thế?
Người lùa chiên trả lời:
- Ông nói đúng lắm! Người chăn phải đi trước, chiên theo sau. Nhưng tôi đâu phải là người chăn chiên, tôi đang lùa chiên đi làm thịt đấy!
3. Và cuối cùng Chúa bảo: "Và chúng theo tôi"
Chiên thì nghe tiếng chủ chiên. Nghe rồi còn phải đi theo nữa. Nghe mà không đi theo thì cũng chẳng khác gì khi cha mẹ bảo chúng con làm việc gì giúp cha mẹ, chúng con ngoan ngoãn thưa "Vâng" nhưng sau đó chúng con chăng làm gì. Như vậy có tốt không chúng con? Chắc là không! Phải không?
Và bây giờ cha hỏi chúng con: Chúng ta có thể làm gì để được gọi là theo Chúa.
Cha kể cho chúng con câu chuyện này:
Sau những tháng năm làm đầy tớ cho một gia đình quí tộc, cô Sophie Berdanska phải thất nghiệp, đói rách, tang thương. Một ngày kia, gia đình ông Hersten, một gia đình Do thái thuê cô về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên, khi biết được cô Sophie là người công giáo, ông chủ đặt điều kiện là không được “giảng đạo” cho con cái của ông.
Cô Sophie nhận lời. Chiều hôm ấy lúc còn lại một mình trong phòng, cô lấy một miếng giấy nhỏ viết một dòng chữ, xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương do cha cô để lại rồi đeo vào cổ.
Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi cô cho coi chiếc huy chương đó nhưng cô nhất định không cho: “Bí mật của đời cô mà”.
Dưới sự chăm sóc của cô Sophia, những đứa trẻ trong gia đình Hersten càng ngày càng trở nên dễ thương, ngoan ngoãn.
Cuộc sống đang yên bình thì bỗng một hôm, tai họa dồn dập xảy ra.
Bé Naim đau nặng – cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Cô Sophia tình nguyện ở lại đêm ngày chăm sóc em, rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng bây giờ nặng thêm – Tuy nhiên cô Sophia vẫn bình tĩnh tận tình phụ trách vui vẻ cho đến khi 3 đứa nhỏ trở lại bình thường .
Nhưng vì quá lao lực... sau đó cô Sophie ngã bệnh và từ trần.
Hai năm sau, một buổi sáng người ta thấy cả gia đình ông Hensten dậy sớm và cùng nhau đi đến một nhà thờ để dự lễ. Hỏi ra mới biết gia đình đó đi dự lễ giỗ năm thứ 2 của cô Sophia.
Rồi họ kể lại truyện “Tại sao họ trở lại”
Sau khi cô Sophie mất, tình cờ người ta mở chiếc huy chương của Sophie còn để lại – lúc đầu không ai để ý – mở ra thì thấy trong đó có một mảnh giấy trong đó có ghi:
“Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi Tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”
Cả gia đình Hensten .. cảm phục ... Xin học đạo và rửa tội. Đó chúng con thấy: Một tâm gương của một người theo Chúa.
Cha ước mong chúng con cũng biết sống thật tốt. Sống như vậy là theo Chúa rồi. Amen.
Khoảng giữa thế kỷ XIX, thánh Gioan Bosco bắt đầu công việc của ngài với những bạn trẻ nghèo PS 4-C156
Khoảng giữa thế kỷ XIX, thánh Gioan Bosco bắt đầu công việc của ngài với những bạn trẻ nghèo và du côn sống ở thành phố Turin nước Ý. Các bạn trẻ chẳng bao lâu nhận ra rằng Gioan Bosco là người bạn thật sự của chúng. Chúng rất yêu ngài, có lần ngài trở bệnh nặng, chúng kêu gào lên trời với lời cầu nguyện, một số trẻ đến mức sẵn sàng Đấng hiến cuộc sống của chúng thay cho cha Bosco. Nhờ đó mà cha Gioan Bosco đã bình phục. Mối dây ràng buộc tốt đẹp này không thể tồn tại nếu không có sự gần gũi thân mật, và sự gần gũi thân mật này đòi hỏi phải biết và được biết.
Chúa Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành, nói: "Ta biết chiên của Ta." Người biết rõ chiên của Người bởi vì Người là chủ chiên tốt. Có nhiều mức độ trong sự biết. Có những người chúng ta chỉ biết mặt và tên của họ. Những người khác chúng ta quen biết sơ sài. Có những người khác nữa chúng ta biết họ như những người bạn.
Thật đáng buồn khi không biết người nào đó. Elie Wiesel, một nhà văn Do Thái, rất gắn bó với cha của ông - người đã chết tại Auschwitz năm 1944. Tuy nhiên, khi viết tự truyện, ông công bố:
Tôi thực sự chẳng biết gì về cha tôi. Thật đau thương khi thú nhận điều đó. Tôi biết rất ít về một người mà tôi yêu mến nhất trên trần gian này, người mà chỉ cần một thoáng nhìn có thể lay động tôi. Tôi tự hỏi những người con khác có gặp vấn đề như tôi đây không. Họ có biết gì hơn về cha của họ, hay chỉ biết đó là một nhân vật độc đoán rời nhà vào buổi sáng và trở về vào chiều tối, kiếm miếng ăn cho gia đình?
Tôi e ngại rằng đây là dư luận chung. Con cái không biết về cha mẹ của chúng, cha mẹ không biết con cái của họ. Để biết, đòi hỏi phải có thời gian và sự cố gắng, nhưng lại sinh nhiều hoa trái. Khi sự nhận thức này không có thì thành quả cũng mất đi rất nhiều. Đời sống qua đi rất nhanh. Chúng ta phải biết rõ mỗi một người khác. Chúng ta không thể yêu một người mà chúng ta chưa biết họ.
Hiểu biết là chi tiết quan trọng đối với người chăm sóc. Chăm sóc cho ai thì mình phải biết rõ về người mà mình chăm sóc. Biết tên của họ chỉ là một việc tốt khởi đầu. Nhưng để thực sự biết về họ thì phải biết tiểu sử cuộc đời của họ.
Loại hiểu biết mà chúng ta đang nói đến đòi hỏi thời gian, sự kiên nhẫn và hy sinh. Nhưng hết sức bổ ích. Không có vấn đề sao chúng ta lại có thể không thích một cá nhân nào đó, một khi chúng ta biết quá khứ của họ, thái độ của. chúng ta về họ sẽ nhẹ nhàng hơn.
Tuy nhiên sự hiểu biết này phải có tương quan hai chiều. Chúa Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành biết rõ chiên của Người. Nhưng chiên cũng biết Người: "Chiên Ta biết Ta." Chúa Giêsu không e sợ khi người ta biết rõ về chính Người. Còn chúng ta đôi khi chúng ta lại lo sợ. Chúng ta từ chối để người khác can dự vào cuộc sống của ta. Không ai được biết những cảm nghĩ, nhu cầu, vết thương và niềm hy vọng thực sự của chúng ta là gì.
Có thể nỗi sợ hãi bị loại bỏ đã kiềm chế chúng ta. Chúng ta sợ rằng khi người khác biết sự thật về ta là một con người không hoàn hảo, họ sẽ loại trừ ta. Hậu quả là chúng ta chỉ biết hình ảnh mà chúng ta tưởng tượng ra hơn là chính con người thật của ta. Thật đáng buồn khi sống và chết không bao giờ được biết rõ, không bao giờ được nói về chính cuộc đời thật của ta.
Làm sao chúng ta có thể thắt chặt mối tương quan với người khác nếu chúng ta còn giữ khoảng cách với họ, ngăn cản họ nhận biết về ta ? Chúng ta có thể khiển trách họ nếu họ quá giữ khoảng cách với ta, và hậu quả đưa đến là họ sẽ không tin cậy hoặc e ngại ta ?
Chúa Giêsu là Đấng Chăn Chiên Lành. Ngài muốn chúng ta có cuộc sống hiện tại và sự sống đời đời mai sau. Nhưng đó phải có tương quan hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình yêu của Người. Những con chiên trung thành lắng nghe tiếng và đi theo người chăn chiên. Chúng ta phải biết Chúa, lắng nghe tiếng Chúa và làm theo lời Người.
Nếu chúng ta có con tim của người mục tử nhân lành, bất cứ nơi đâu chúng ta hiện diện, chúng ta đều tìm thấy lối thoát cho tình yêu của chúng ta. Quan tâm là trở nên gần gũi với mọi người, như Chúa Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành hằng gần gũi ta.
Chúa Giêsu nói: "Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi , Chúa Giêsu nhấn mạnh, đối với Người PS 4-C157
Chúa Giêsu nói: "Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi , Chúa Giêsu nhấn mạnh, đối với Người, đàn chiên thật quý giá biết là chừng nào. Người sẽ giúp đỡ để không điều gì xấu xảy ra với bất cứ một ai trong chúng.
Sói chẳng khó khăn gì để cướp chiên khi người chăn thuê chăm sóc đàn chiên. Ngay khi kẻ chăn thuê thấy sói xuất hiện, hắn đã bỏ rơi đàn chiên. Suy nghĩ duy nhất của hắn là tránh cho hắn khỏi bị thương tích. Không như người chăn chiên tốt. Người chăn chiên tốt bảo vệ đàn chiên, chống lại với sói dữ, cho dẫu phải mất mạng sống.
Chúng ta sống trong một thế giới thật đáng thương, những con chiên, và đặc biệt những con cừu non, thường bị tha đi mất và làm kiệt sức cho đến chết. Nhưng đó là thế giới mà nơi đó hơn bao giờ hết đang cần người chăn chiên tốt. Ngày nay, mọi thứ nhắm đến số lượng lớn và tập trung. Điều này không làm cho việc hiểu biết và sự chăm nom dễ dàng, vì mọi thứ đều quá khép kín. Trong loại hệ thống này, người ta chỉ là kẻ làm thuê và đề cao hiệu quả, không còn chỗ cho tình yêu và sự chăm sóc mà người ta có khả năng bày tỏ.
Ngày nay, người chăn chiên tốt không nghĩ đến việc đối mặt với bầy sói. Nhưng người ấy phải đổi diện với những thứ còn tệ hơn - đoàn lũ những tội phạm. Philip Lawrence là hiệu trưởng của trường học công giáo St. Geogre ở Luân Đôn. Vào một ngày tháng 12 năm 1995, ông bị đâm bên ngoài trường học trong khi ông cố gắng bảo vệ một trong số học sinh của ông bị một băng tấn công, và ông đã chết vì vết thương. Ông đã được các thính giả của đài BBC đề cử là người nổi tiếng trong năm.
Philip Lawrence là người chăn chiên tốt với các học sinh của ông. Ông đã cố gắng thiết lập môi trường an toàn cho các em được học và lớn lên với niềm tự hào về chính bản thân của chúng. ông không thể hình dung một học sinh nào đó của ông bị bọn tội phạm tấn công mà ông không can thiệp vào để bảo vệ em. Philip Lawrence là lời nhắc nhở chúng ta tình yêu đích thực là gì, và cái giá của nó. Điều đó vẫn chưa đủ đề yêu thương bọn trẻ, bọn trẻ phải biết rằng chúng được yêu thương. Lời thỉnh cầu này không chỉ dành cho nhà trường mà còn cho các gia đình.
Lawrence đã biểu lộ sức mạnh và niềm cảm hứng từ đức tin người Kitô hữu. Ông đã mô phỏng tình yêu của Chúa Giêsu - Đấng Chăn Chiên Lành, đã hiến Đấng mạng sống cho đàn chiên. Cuộc sống của Chúa Giêsu không ai lấy đi được Ngài đã hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Người hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Người đã làm những điều đó để đưa chúng ta đến đồng cỏ của sự sống đời đời.
Mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để yêu thương và chăm sóc cho con người . Chúa nhật hôm nay là ngày lễ của những người chăm sóc. Nó mang lại sự khích lệ và nâng đỡ cho tất cả những ai đang cố gắng hoạ theo hình ảnh của Đức Giêsu, đấng Chăn Chiên Lành, và cũng là lời nhắc nhở với những kẻ chăn thuê.
Những ai bước đi trên con đường yêu thương sẽ mở ra cho họ khả năng của một niềm hạnh phúc vô biên mà họ chưa từng nghĩ tưởng đến, và kèm theo đó là nỗi đau.
Thường khi nói đến Chúa chiên lành chúng ta dễ thấy hình ảnh Chúa vác con chiên trên vai. Nhưng PS 4-C158
Thường khi nói đến Chúa chiên lành chúng ta dễ thấy hình ảnh Chúa vác con chiên trên vai. Nhưng nhìn Logo năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa 2016 thì khác, Chúa Giêsu không vác chiên mà vác nhân loại trên vai là Ađam, nhưng đôi mắt của Vị Mục Tử hoàn toàn giống như đôi mắt của con người. Chúa Kitô nhìn với con mắt của Adam và Adam nhìn với con mắt của Chúa Kitô và như thế, Chúa Giêsu biết con chiên và con chiên biết Chúa, “Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”.
Qủa thế, Chúa Giêsu nói “Ta là mục tử nhân lành, Ta biết các chiên tôi và chiên tôi biết tôi”. Nghe đến chữ “biết”, chúng ta nghĩ ngay đến cái biết do trí khôn, không chỉ có thế, mà “biết” ở đây còn là cái biết do chính con người và cuộc sống của người mình biết. Ví dụ bác sĩ biết bệnh nhân khác với cái biết của người mẹ về người con đang đau ốm. Đó là cái biết của lòng thương xót, của trái tim người mẹ rung cảm cho nên sẵn sàng thức khuya dậy sớm, chịu đựng bao khó khăn để chăm sóc mong con mau lành bệnh. Vì vậy, cái biết của Chúa Giêsu không chỉ biết do tri thức mà cả tấm lòng và cả một tình yêu thương xót cao vời vì thế hôm nay Ngài khẳng định: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một".
Thực vậy, Chúa Giêsu không chỉ biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư? Chúa Giêsu đến cảm thông với ta vì Ngài cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu đến sẻ chia với ta vì Ngài cũng đã sinh ra không nhà không cửa, sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá không có chỗ chôn. Ta tuyệt vọng vì cuộc đời bệnh tật đau khổ không lối thoát ư? Chúa Giêsu an ủi đỡ nâng ta vì Ngài đã trải qua những giờ phút đen tối và đau khổ thân xác tột cùng của kiếp người trong vườn Giếtsimani, trong đêm bị bắt đánh đòn, vác thập giá và đóng đinh trên thập giá. Ta cô đơn vì bị mọi người kì thị xa lánh vì nghèo, bệnh tật ư? Chúa Giêsu đồng hành với ta vì Ngài cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư? Chúa Giêsu đến đồng lao cộng khổ với ta vì Ngà đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ có tội. Tóm lại, Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người, mọi nỗi khổ đau của kiếp nhân sinh nên Ngài hằng thương xót chăm sóc và an ủi từng người chúng ta trong mọi hoàn cảnh, nên Ngài quả quyết rằng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu làm mục tử, mà mục tử cho Chúa không chỉ là Giám mục, Linh mục, tu sĩ mà tất cả mọi người chúng ta. Mục tử đó còn là: cha mẹ, thầy cô, anh chị trong tình liên đới với Chúa, Giáo hội và nhân loại. Vì chưng, Sách giáo Lý Hội Thánh dạy rằng: “Ơn gọi của nhân loại là biểu lộ hình ảnh của Thiên Chúa và được biến đổi thành hình ảnh Con Một của Chúa Cha. Ơn gọi này mang một hình thức cá vị, bởi vì mỗi người đều kêu gọi tiến vào vinh phúc thần linh; ơn gọi này cũng liên quan đến tổng thể cộng đồng nhân loại” (số 1877).
Cho nên, ơn gọi mục tử trong mỗi bậc sống là hồng ân Chúa ban mà mình phải sống và gắn bó suốt đời để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi” (Mc 3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng hoàn cảnh, biến cố của sống, để nên một với Ngài trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi và sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao, bất chấp những gì xảy ra vì Thiên Chúa thương xót con người, Ngài muốn tất cả được cứu độ (1Tm 2, 4), và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho tất cả mọi người. Sự sống đời đời khởi đầu ngay ở đời này. Nếu con người sống theo tiếng Chúa, Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội, theo lương tâm, người ấy đúng là mục tử đích thực. Cho nên, Chúa mời gọi tất cả làm mục tử cho Chúa chứ không phải chỉ là những người đi tu tận hiến cho Chúa hay những người lành lặn, mạnh khỏe bình thường, còn người bệnh, kẻ khuyết tật thì miễn trừ. Vì chưng, khi chịu Phép Rửa Tội, Chúa trao cho mỗi người chúng ta sứ mạng mục tử đó là: ngôn sứ, tư tế và vương đế. Ngôn sứ là người nói Lời của Chúa, tư tế chẳng phải là người tế lễ cho Chúa đó sao và vương đế là mục tử của lòng thương xót, là biết thương xót như Chúa Giêsu là Vua thương xót biết từng người trong nhân loại và không để ai phải hư mất.
Để là mục tử tốt, chúng mình phải sống đúng Lời Chúa, sống đúng cung cách yêu thương, phục vụ của Chúa và thương xót mọi con chiên như Chúa thương xót chúng ta, như thế chúng ta mới thực sự đang thi hành lệnh truyền Chúa đã tin tưởng ủy thác cho chúng ta trong bài đọc 1 rằng: “Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng cho muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tật cùng cõi đất” (Cv 13,47). Vậy, nếu mục tử là người lãnh đạo thì phải khiêm tốn phục vụ như Chúa, “Thầy là Chúa là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,12-15). Mục tử là cha mẹ thì “đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,4). Là con cái thì “hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-2). Và cuối cùng là mụt tử với nhau trong cuộc sống thì chúng ta hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau (Ep 4,2-3).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho con biết Chúa, xin cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa và để cho Lời Chúa thấm sâu vào lòng và quyết tâm sống và noi theo gương Chúa trong mọi hoàn cảnh sống thường ngày của đời sống là: sống quảng đại. Biết phụng sự Chúa cho xứng đáng. Biết cho đi mà không cần tính toán. Biết chiến đấu mà không sợ thương tích. Biết tha thứ, thương xót và phục vụ mọi người không mong chờ một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết làm rạng danh Thiên Chúa và mưu ích cho anh chị em. Allêluia.
Logo năm Thánh lòng thương xót Chúa nêu bật sự việc Vị Mục Tử nhân lành đi sâu vào thân PS 4-C159
Logo năm Thánh lòng thương xót Chúa nêu bật sự việc Vị Mục Tử nhân lành đi sâu vào thân thể con người, với tình thương yêu đến độ thay đổi cuộc sống của con người. Vị Mục Tử Nhân Lành đó chính là Chúa Giêsu, với lòng thương xót tột độ, vác nhân loại trên vai là Ađam, nhưng đôi mắt của Vị Mục Tử hoàn toàn giống như đôi mắt của con người. Chúa Kitô nhìn với con mắt của Adam và Adam nhìn với con mắt của Chúa Kitô và như thế, Chúa Giêsu biết con chiên và con chiên biết Chúa, “Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”.
Quả thế, Chúa Giêsu nói “Ta là mục tử nhân lành, Ta biết các chiên tôi và chiên tôi biết tôi”. Nghe đến chữ “biết”, chúng ta nghĩ ngay đến cái biết do trí khôn, không chỉ có thế, mà “biết” ở đây còn là cái biết do chính con người và cuộc sống của người mình biết. Ví dụ bác sĩ biết bệnh nhân khác với cái biết của người mẹ về người con đang đau ốm. Đó là cái biết của lòng thương xót, của trái tim người mẹ rung cảm cho nên sẵn sàng thức khuya dậy sớm, chịu đựng bao khó khăn để chăm sóc mong con mau lành bệnh. Vì vậy, cái biết của Chúa Giêsu không chỉ biết do tri thức mà cả tấm lòng và cả một tình yêu thương xót cao vời vì chưng hôm nay Ngài khẳng định: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một".
Thực vậy, Chúa Giêsu không chỉ biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư? Chúa Giêsu cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà không cửa, sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá không có chỗ chôn. Ta tuyệt vọng vì cuộc đời bệnh tật đau khổ không lối thoát ư? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen tối và đau khổ thân xác tột cùng của kiếp người trong vườn Giếtsimani, trong đêm bị bắt đánh đòn, vác thập giá và đóng đinh giang tay trên thập giá. Ta cô đơn vì bị mọi người kị thị xa lánh vì nghèo, bệnh tật ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ có tội. Tóm lại, Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người, mọi nỗi khổ đau của kiếp nhân sinh nên Ngài hằng thương xót chăm sóc và an ủi từng người chúng ta trong mọi hoàn cảnh, vì Ngài quả quyết rằng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu làm mục tử, mà mục tử cho Chúa không chỉ là Giám mục, Linh mục, tu sĩ mà tất cả mọi người chúng ta. Mục tử đó còn là: cha mẹ, thầy cô, anh chị trong tình liên đới với Chúa, Giáo hội và nhân loại. Vì chưng, Sách giáo Lý Hội Thánh dạy rằng: “Ơn gọi của nhân loại là biểu lộ hình ảnh của Thiên Chúa và được biến đổi thành hình ảnh Con Một của Chúa Cha. Ơn gọi này mang một hình thức cá vị, bởi vì mỗi người đều kêu gọi tiến vào vinh phúc thần linh; ơn gọi này cũng liên quan đến tổng thể cộng đồng nhân loại” (số 1877).
Cho nên, ơn gọi mục tử trong mỗi bậc sống là hồng ân Chúa ban mà mình phải sống và gắn bó suốt đời để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi” (Mc 3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng hoàn cảnh, biến cố của sống, để nên một với Ngài trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi và sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra vì Thiên Chúa thương xót con người, Ngài muốn tất cả được cứu độ (1Tm 2, 4), và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho tất cả mọi người. Sự sống đời đời khởi đầu ngay ở đời này. Nếu con người sống theo tiếng Chúa, Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội, theo lương tâm, người ấy đúng là mục tử đích thực. Cho nên, Chúa mời gọi tất cả làm mục tử cho Chúa chứ không phải chỉ là những người đi tu tận hiến cho Chúa hay những người lành lặn, mạnh khỏe bình thường, còn người bệnh, kẻ khuyết tật thì miễn trừ. Vì chưng, khi chịu Phép Rửa Tội, Chúa trao cho mỗi người chúng ta sứ mạng mục tử đó là: ngôn sứ, tư tế và vương đế. Ngôn sứ là người nói Lời của Chúa, tư tế chẳng phải là người tế lễ cho Chúa đó sao và vương đế là mục tử của lòng thương xót, là biết thương xót như Chúa Giêsu là Vua thương xót biết từng người trong nhân loại và không để ai phải hư mất.
Tin mừng hôm nay mời gọi tất cả mọi người chia sẻ chức năng mục tử của Chúa Giêsu. Để là mục tử tốt, chúng mình phải sống đúng Lời Chúa, sống đúng cung cách yêu thương, phục vụ của Chúa và thương xót mọi con chiên như Chúa thương xót chúng ta, như thế chúng ta mới thực sự đang thi hành lệnh truyền Chúa đã tin tưởng ủy thác cho chúng ta trong bài đọc 1 rằng: “Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng cho muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tật cùng cõi đất” (Cv 13,47). Vậy, nếu mục tử là người lãnh đạo thì phải khiêm tốn phục vụ như Chúa, “Thầy là Chúa là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12-15). Mục tử là cha mẹ thì “đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,4). Là con cái thì “hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-2). Và cuối cùng là mụt tử với nhau trong cuộc sống thì chúng ta hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau (Ep 4,2-3).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho con biết Chúa, xin cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa và để cho Lời Chúa thấm sâu vào lòng và quyết tâm sống và noi theo gương mục tử của Chúa trong mọi hoàn cảnh sống thường ngày của đời sống là: sống quảng đại. Biết phụng sự Chúa cho xứng đáng. Biết cho đi mà không cần tính toán. Biết chiến đấu mà không sợ thương tích. Biết tha thứ, thương xót và phục vụ mọi người không mong chờ một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết làm rạng danh Thiên Chúa và mưu ích cho anh chị em. Allêluia.
Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành”. Cv 13: PS 4-C160
Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành”.
Cv 13: 14, 43-52
Khi thi hành công việc truyền giáo ở An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba, như những mục tử nhân lành, công bố ơn cứu độ phổ quát cho muôn người.
Kh 7: 9, 14-17
Thị kiến mà sách Khải Huyền mô tả chính xác là thị kiến về đoàn người được tuyển chọn đông đảo khôn kể xiết đứng chầu quanh ngai Thiên Chúa. Con Chiên đang ngự ở giữa họ “sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh”.
Ga 10: 27-30
Đức Giê-su khẳng định Ngài là vị Mục Tử Thiên Chúa, liên đới với đoàn chiên của Ngài. Chính Ngài cho họ được sống và sống dồi dào trong sự hiệp nhất mật thiết với Chúa Cha.
BÀI ĐỌC I (Cv 13: 14, 43-52)
Phần thứ nhất sách Công Vụ Tông đồ (ch. 1-12), mà chúng ta đã đọc nhiều đoạn trích dẫn trong nhiều Chúa Nhật trước, nêu bật dung mạo Tông Đồ Phê-rô. Trong phần này, thánh Phê-rô loan báo Tin Mừng chủ yếu cho dân Ít-ra-en, ngoại trừ viên đại đội trưởng Rô-ma, ông Co-nê-li-ô và gia quyến của ông, những người Ki-tô hữu đầu tiên được chấp nhận vào Giáo Hội qua phép Rửa chứ không qua phép cắt bì.
Phần thứ hai sách Công Vụ Tông Đồ (ch. 13-28) nêu bật dung mạo thánh Phao-lô, thánh nhân thực hiện sự đột phá lớn lao trong công việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới lương dân. Bản văn chúng ta đọc hôm nay được trích dẫn từ bài trình thuật về cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất của thánh Phao-lô. Bản văn này chứa đựng lời tuyên ngôn nổi tiếng của thánh Phao-lô: trước việc dân Ít-ra-en từ khước, thánh nhân quyết định quay về lương dân (13: 46-47).
1. Thánh Ba-na-ba:
Trong những năm tháng khó khăn sau cuộc hoán cải của mình, thánh Phao-lô may mắn gặp được thánh Ba-na-ba. Thánh Ba-na-ba xuất thân từ đảo Síp, nhưng đã đến định cư lập nghiệp ở Giê-ru-sa-lem. Khi trở thành Ki-tô hữu, thánh nhân đã bán hết sản nghiệp của mình và đặt dưới chân các Tông Đồ. Tên thật của thánh nhân là Giô-xếp, nhưng người ta đặt cho thánh nhân biệt danh Ba-na-ba, nghĩa là “con của sự an ủi”. Quả thật, thánh nhân xứng đáng với biệt danh này trong cách hành xử của thánh nhân đối với thánh Phao-lô. Khi thánh Phao-lô lần đầu tiên đến Giê-ru-sa-lem sau biến cố trên đường Đa-mát, kẻ bách hại đạo trước đây được tiếp đón với thái độ dè dặt. Thánh Ba-na-ba biết nhận ra cuộc hoán cải chân thành của thánh Phao-lô và đứng ra bảo lãnh cho thánh nhân trước các Tông Đồ.
Nhiều năm sau đó, thánh Ba-na-ba được cử đến An-ti-ô-khi-a, thành phố lớn chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp, ở đó nhiều người Do thái cũng như lương dân theo đạo càng lúc càng đông (An-ti-ô-khi-a là thành phố đầu tiên có cộng đoàn Ki-tô hữu gốc lương dân). Trước công việc lớn lao, thánh Ba-na-ba nảy sinh sáng kiến đi tìm thánh Phao-lô lúc này ở Tác-xô. Cả hai cùng làm việc ở An-ti-ô-khi-a trong vòng một năm, chắc chắn vào năm 43-44. Đoạn, được Thánh Thần đề xuất, cộng đoàn An-ti-ô-khi-a cử thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô đi truyền giáo (Cv 13: 1-3).
Thánh Ba-na-ba dẫn thánh Phao-lô đến đảo Síp, quê quán của mình. Nhưng chẳng bao lâu sau vai trò của hai người đảo ngược. Thật là có ý nghĩa biết bao, sau cuộc truyền giáo ở đảo Síp, thánh Lu-ca không còn viết Sao-lô nhưng Phao-lô, và không còn đặt ngài ở hàng thứ hai; từ đây thánh Lu-ca viết “ông Phao-lô và ông Ba-na-ba”.
2. Thành An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a:
Từ đảo Síp, hai ông đáp tàu đến miền duyên hãi phía nam thuộc miền Tiểu Á. Đoạn hai ông vượt đèo leo núi đến thành phố An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a ở độ cao 1200 mét. Để đến đó, hai ông phải băng qua đoạn đường 160 cây số, bằng cách vượt qua dảy núi Taurus, do bởi những con đường quanh co hiểm trở có nhiều khe suối, trong một miền đầy sào huyệt của quân trộm cướp. Chắc chắn thánh Phao-lô ám chỉ đến cuộc hành trình gian khổ này trong thư thứ hai gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, trong đó thánh nhân gợi lên mọi nỗi gian truân mà ngài đã kinh qua (2Cr 11: 26).
3. Cộng đồng Do thái:
Thành phố An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a là một trong những thủ phủ Rô-ma thuộc Á Châu và được hưởng quy chế thành phố tự do với những kiến trúc đô thị theo kiểu Rô-ma. Nằm trên trục giao thông, thành phố An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a đã có một nền thương mại phát triển thịnh vượng. Ở đây có một cộng đồng Do thái định cư lập nghiệp và có ảnh hưởng tôn giáo trên cư dân ở đây: có nhiều lương dân nhận ra Thiên Chúa Ít-ra-en là Thiên Chúa độc nhất, tôn kính Ngài, cầu nguyện với Ngài và tham dự vào những công việc từ thiện của cộng đồng; những người này được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Những lương dân này sẽ là đám thính giả đông đảo của thánh Phao-lô ở hội đường An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a này.
4. Sứ điệp mang tính lịch sử:
Vào một ngày sa-bát, trong hội đường, lời rao giảng đầu tiên của thánh Phao-lô gây nên lòng mộ mến của nhiều người Do thái cũng như nhiều lương dân kính sợ Thiên Chúa. Vào ngày sa-bát sau đó, những lương dân kính sợ Thiên Chúa này kéo theo một phần lớn dân thành vào trong hội đường để nghe thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba thuyết giáo. Thấy thế, những người Do thái “sinh lòng ghen tức, họ nhục mạ và phản đối những lời của thánh Phao-lô”. Đây là lần đầu tiên người Do thái chống đối thánh Phao-lô. Sẽ có những chống đối khác nữa. Từ lúc này, thánh Phao-lô nhận ra dấu hiệu nghiêm trọng này. Đây là lần đầu tiên thánh nhân nói đến sự từ khước của dân Do thái, mà hệ luận tất yếu là lương dân gia nhập Ki-tô giáo.
Thánh Phao-lô công bố chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng khi nhắc nhớ giáo huấn của các ngôn sứ và áp dụng cho chính mình ơn gọi của Người Tôi Trung: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất”. Khi nghe sứ điệp của thánh Phao-lô, “lương dân vui mừng suy tôn Lời Thiên Chúa và tất cả những ai đã được Thiên Chúa tiền định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo”. Thánh Lu-ca sử dụng diễn ngữ xuất xứ từ văn chương kinh sư, theo đó người ta thường hay nói “được tiền định cho hưởng cuộc sống mai sau”. Diễn ngữ này không muốn nói đến số phận được tiền định, nhưng nhấn mạnh cuộc sống mai hậu này là ân ban của Thiên Chúa dành cho những ai tin vào Chúa Giê-su.
5. Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba bị trục xuất:
Chắc chắn, thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba lưu lại ở An-ti-ô-khi-a nhiều tháng. Trong thuộc địa Rô-ma này, những người Do thái không có quyền điều hành; họ phải vận động những nhân vật trung gian: sách động những phụ nữ thượng lưu đã theo Do thái giáo, và những người có quyền thế trong thành, xúi dục họ trục xuất hai vị truyền giáo ra khỏi lãnh thổ của họ. Sau khi bị trục xuất, hai ông “liền giũ bụi chân”, cử chỉ nói lên đoạn tuyệt và quy trách nhiệm cho các đối thủ này. Thánh Lu-ca nhấn mạnh một lần nữa mối phúc của những người bị bách hại: “Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và ơn Thánh Thần”.
BÀI ĐỌC II (Kh 7: 9, 14-17)
Chúng ta tiếp tục đọc sách Khải Huyền của thánh Gioan. Đoạn trích dẫn hôm nay rất phù hợp với Tin Mừng, trong đó Đức Giê-su công bố Ngài là Mục Tử đích thật. Thị kiến mô tả Con Chiên là Đức Ki-tô ở giữa những người được tuyển chọn như Người Mục Tử ân cần trao ban sự sống đời đời cho đoàn chiên của mình.
Chương 7 sách Khải Huyền chứa đựng hai thị kiến liên tiếp nhau: thị kiến thứ nhất về Giáo Hội chiến đấu, trong đó các Ki-tô hữu được đóng ấn ơn cứu độ trước khi đương đầu với những nỗi gian truân; thị kiến thứ hai là đối tượng của bản văn chúng ta.
1. Một đoàn người thật đông không tài nào đếm được:
Trong khi xuất thần, thánh Gioan được đưa lên trời ở đó diễn ra một phụng vụ vĩ đại tôn vinh Thiên Chúa và Con Chiên. Đoàn người được tuyển chọn thật đông không tài nào đếm được như dòng dõi mà Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham. Ơn cứu độ phổ quát được các ngôn sứ loan báo, được Con Chiên đạt được nhờ hiến dâng mạng sống mình “cho muôn người”, được đám đông “thuộc mọi nước, mọi dân, mọi chi tộc và mọi ngôn ngữ” chứng thực. “Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế”: “Họ đứng”: dấu chỉ của sự sống và sự sống lại, “mình mặc áo trắng”: dấu chỉ của sự vô tội, và “tay cầm nhành lá thiên tuế”: dấu chỉ của sự khải hoàn.
2. Cơn thử thách lớn lao:
Một trong các Kỳ Mục giải thích: “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao”. Theo từ ngữ của các sách khải huyền, “cuộc thử thách lớn lao” chỉ những nỗi gian truân của thời cánh chung. Trước đây, Đức Giê-su đã gợi lên điều này khi Ngài nói với các môn đệ: “khi ấy sẽ có cơn gian nan khốn khổ đến mức từ thuở khai thiên lập địa cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra như vậy nữa” (Mt 24: 21).
Viễn cảnh của các sách khải huyền chủ yếu là cánh chung, nhưng được “lồng vào nhau” giữa hiện tại và tương lai. Các ngôn sứ nói về kỷ nguyên thiên sai theo cùng những từ ngữ như thế nào thì họ mô tả kỷ nguyên cánh chung theo cùng một cách thức như vậy. Sách Khải Huyền của thánh Gioan ngỏ lời với những người Ki-tô hữu bị bách hại đang đối mặt với cái chết vì đạo. Như chúng ta đã nói, sách này là một tác phẩm “được mã hóa”, theo đó ngôn từ hàm chứa hai cách đọc. Cuộc thử thách lớn lao ám chỉ đến cái chết khủng khiếp đang chờ đợi họ và những nhành lá thiên tuế mà họ đang cầm trong tay muốn nói cuộc khải hoàn của họ sắp đến gần: họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên vì họ đã dự phần vào cuộc Tử Nạn của Ngài bằng cách chấp nhận đổ máu mình để làm chứng cho Ngài.
3. Thờ phượng muôn đời:
“Họ đứng chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người”. Chương 7 sách Khải Huyền tham dự trước các chương 20-22, các chương này mô tả thành đô Giê-ru-sa-lem trên trời. Thế nên, trong thành đô Giê-ru-sa-lem mới, không còn có Đền Thờ “vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành” (Kh 21: 22). Đây là một trong những phương thức của tác giả là dùng những biểu tượng Cựu Ước để diễn tả những thực tại mới: Đền Thờ là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, dấu chỉ bất toàn này rồi sẽ biến mất. Từ đó, Thiên Chúa đích thân vĩnh viễn hiện diện giữa dân Ngài và họ chúc tụng Ngài luôn mãi.
4. Thiên Chúa ở cùng chúng ta:
Kinh Thánh được ứng nghiệm theo từng lời: con người được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa, Người chấm dứt mọi nỗi truân chuyên của họ: “Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh”. Câu này rõ ràng trích dẫn gần như nguyên văn của Is 49: 10, nhưng thật đáng cho chúng ta lưu ý, tác giả sách Khải Huyền đã thay thế “Đấng” quy chiếu đến Đức Chúa trong bản văn Is 49: 10 bằng “Con Chiên” chỉ Đức Ki-tô. Con Chiên là nguồn gốc niềm hoan lạc của họ và Con Chiên này “sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh”.
Bản văn Khải Huyền này cũng được đọc lại vào ngày lễ Chư Thánh để nhắc nhớ niềm hy vọng lớn lao của người Ki-tô hữu.
TIN MỪNG (Ga 10: 27-30)
Vào Phụng Vụ Năm C này, chúng ta đọc phần thứ ba và phần sau cùng của dụ ngôn “Người Mục Tử Nhân Lành” theo Tin Mừng Gioan.
1. Bối cảnh:
Phần sau cùng này rõ ràng được tách riêng ra khỏi những khai triển trước đó: hoàn cảnh, thời gian, nơi chốn không như trước nữa. Quả thật, những câu 22-24 định vị dụ ngôn này vào trong bối cảnh của cuộc tranh luận giữa Đức Giê-su và những người Pha-ri-sêu: “Khi ấy, ở Giê-ru-sa-lem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. Đức Giê-su đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Sa-lô-mon. Người Do thái vây quanh Đức Giê-su và nói: ‘Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết”.
Ấy vậy, vào lúc cử hành lễ Cung Hiến Đền Thờ, trong phụng vụ người ta đọc chương 34 của ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Trong chương 34 này, Thiên Chúa truyền lệnh cho vị ngôn sứ tuyên sấm hạch tội những mục tử chăn dắt Ít-ra-en, vì họ chỉ biết lo cho lợi ích của mình mà không quan tâm gì đến cảnh sống cùng khổ của đoàn chiên Người: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đoàn chiên còn lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên bị lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc” (Ed 34: 1-6). Vì thế, vị ngôn sứ loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đích thân chăm sóc đoàn chiên của Người: “Đức Chúa phán thế này: ‘Đây chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta…Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi…Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó…” (Ed 34: 11-16).
Những người đối thoại với Đức Giê-su đã nghe nhắc lại sứ điệp của vị ngôn sứ. Để trả lời câu hỏi của họ: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết”, Đức Giê-su tự đồng hóa mình với vị Mục Tử Thiên Chúa này mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã hứa. Lời công bố này khiến họ phẩn uất đến mức muốn ném đá Ngài như đoạn tiếp theo cho thấy.
2. “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi”:
“Chiên Tôi thì nghe tiếng tôi”: Đây là thái độ của các môn đệ Ngài. Đức Giê-su đối lập thái độ này với thái độ của những đối thủ Ngài. Trước đây, Ngài đã nói cho họ: “Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa” (8: 47). Qua lời này, Đức Giê-su công bố một cách rõ ràng rằng Ngài chính là Lời Thiên Chúa hiện thân.
3. “Tôi biết chúng và chúng theo tôi”:
Trước đây, Đức Giê-su đã khai triển sâu xa về sự hiểu biết hổ tương giữa người chăn chiên và đoàn chiên; động từ “biết” theo Kinh Thánh hàm chứa chuyển động của cả trí tuệ lẫn con tim; sự hiểu biết này dẫn đến niềm tin tưởng phó thác: “Tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Xuyên suốt Tin Mừng, động từ “theo” định nghĩa thái độ căn bản của người môn đệ, gắn bó với con người Đức Ki-tô.
4. “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”:
Ở đây chúng ta chạm đến cao điểm của dụ ngôn, vang dội biến cố Phục Sinh. Đức Giê-su có thể thông truyền cho con người sự sống thần linh của Ngài vì Ngài sắp hiến dâng mạng sống mình cho đoàn chiên của Ngài: “Không bao giờ chúng phải diệt vong”. Không quyền lực nào có thể phân ly mối quan hệ hiệp nhất giữa người chăn chiên và đoàn chiên, vì mối giây liên kết này được thiết lập trên sự hiệp nhất của Đức Giê-su với Cha Ngài: “Tôi và Chúa Cha là một”. Trong Tin Mừng Gioan, nhiều lần Đức Giê-su khẳng định một lòng một dạ giữa Ngài và Cha Ngài. Đây là mặc khải quan trọng và rõ ràng nhất về Thần Tính của Chúa Giê-su và mầu nhiệm sâu xa của Thiên Chúa. Đây cũng là câu trả lời cho bè A-ri-ô về việc chối bỏ Thần Tính của Đức Giê-su. Cũng dựa trên lời này, Công Đồng Ni-xê-a năm 325 tuyên tín: Chúa Cha và Chúa Con đồng bản tính.
Chiều kích Giáo Hội của dụ ngôn thì rõ ràng. Những người Ki-tô hữu là đoàn chiên, họ gặp thấy ở nơi Đức Ki-tô ơn cứu độ của mình và sự sống thần linh phong phú. Qua Ngài, họ hiệp nhất dứt khoát vĩnh viễn với Chúa Cha. Phải đọc lại chầm chậm dụ ngôn và để cho lòng mình thấm đẩm tâm tình trìu mến yêu thương của Thiên Chúa mà dụ ngôn này làm chứng.
Tin mừng Ga 10:27-30 Mục tử nhân lành thì «hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên», «tôi biết chiên của tôi. Trong Thánh Kinh có rất nhiều câu mô tả những đức tính tốt của những mục tử nhân lành, mà chính Thiên Chúa là mô hình gương mẫu nhất.
SUY NIỆM TIN MỪNG
Ngày nay, tại Palestine, cũng có thể còn thấy cảnh chăn chiên mà Chúa Giêsu đã từng chứng kiến PS 4-C161
Ngày nay, tại Palestine, cũng có thể còn thấy cảnh chăn chiên mà Chúa Giêsu đã từng chứng kiến cách đây hơn 2000 năm. Cảnh những người mục tử Bedouin mang những đàn chiên trở về nhà từ nhiều cánh đồng sau một ngày đi ăn cỏ. Thường vào lúc hoàng hôn, các đàn chiên cùng kéo về qui tụ ở một chỗ để uống nước. Chúng trà trộn lẫn lộn với nhau từ tám hay chín đàn nhỏ trở thành một bầy chiên lớn. Mặc dù lẫn lộn chung với nhau nhưng những chủ chăn không hề lo sợ chiên lạc bầy.
Đến giờ ra về, mỗi chủ chiên thổi lên một tiếng gọi riêng biệt – một tiếng còi, tiếng tiêu, tiếng sáo, hay tù và – thì những con chiên trong đàn sẽ tự động rời khỏi đám đông theo đàn của mình mà về chuồng. Chúng tự biết chúng thuộc về đàn nào, chúng nghe tiếng gọi của người chủ chăn và đi theo: “chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”(Ga 10,27)
1. Mục tử tốt và xấu trong trong Thánh Kinh
1.1.Mục tử nhân lành
Mục tử nhân lành thì «hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên», «tôi biết chiên của tôi. Trong Thánh Kinh có rất nhiều câu mô tả những đức tính tốt của những mục tử nhân lành, mà chính Thiên Chúa là mô hình gương mẫu nhất:
- Yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn: «Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt» (Is 40,11).
- Làm chiên sống no ấm, hạnh phúc: «Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì» (Tv 23,1); «Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm» (23,4).
- Tinh thần trách nhiệm rất cao: «con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng» (Ed 34,16).
Tóm lại, người mục tử tốt thật sự yêu thương đàn chiên, sẵn sàng hy sinh cho sự an toàn và hạnh phúc của đàn chiên. Thậm chí như Đức Giêsu, người mục tử tuyệt vời nhất, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình: coi sự sống còn của đàn chiên quý hơn cả sự sống của mình.
1.2.Mục tử xấu
Kẻ chăn chiên thuê hay mục tử xấu thì «không thiết gì đến chiên», «khi thấy sói đến liền bỏ chiên mà chạy: sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn». Thánh Kinh cũng có nhiều câu mô tả hạng mục tử này với những đặc tính:
- Vô trách nhiệm: «con chiên nào mất, nó chẳng quan tâm; con thất lạc, nó chẳng đi tìm; con bị thương, nó không chạy chữa; con mạnh khoẻ, nó chẳng dưỡng nuôi» (Dc 11,16a); «chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm» (Ed 34,4)
- Chỉ nghĩ tới hưởng thụ, sẵn sàng bóc lột: «sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại không lo chăn dắt» (Ed 34,3). Thậm chí bóc lột đến tận xương tủy: «con nào béo thì chúng ăn thịt, rồi lóc luôn cả móng» (Dc 11,16b)
- Tác hại vô cùng đến đàn chiên: «các ngươi đã làm cho đàn chiên của Ta phải tan tác» (Gr 23,2).
Tóm lại, mục tử xấu coi đàn chiên chỉ là phương tiện, bắt chúng phải hy sinh phục vụ cho lợi ích riêng tư của mình, không một chút tình thương đối với chúng.
2. Hãy trở nên những mục tử nhân lành
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu tự xưng mình là «mục tử nhân lành», luôn yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên. Chúng ta thường giới hạn ý nghĩa của từ «mục tử», đến nỗi chỉ áp dụng cho những người lãnh đạo tôn giáo. Thật ra, tất cả những ai đảm trách việc lãnh đạo, từ một gia đình đến một quốc gia, từ một xứ đạo, đến một giáo phận, hay Giáo Hội toàn cầu, một cách nào đó, đều có thể gọi là mục tử. Ước chi mọi mục tử đều biết thật sự yêu thương đàn chiên của mình. Ước chi mọi cha mẹ đều yêu thương con cái, mọi cha xứ đều sẵn sàng hy sinh phục vụ giáo dân, mọi giám mục đều hết lòng chăm sóc các linh mục và giáo dân dưới quyền mình! Ước chi mọi vị lãnh đạo xã hội và đất nước biết quên những quyền lợi riêng tư để nghĩ đến lợi ích chung của nhân dân.Amen.
NGÀY CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI LINH MỤC VÀ TU SĨ
Hôm nay là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta chắc cũng ý thức nhu cầu linh mục cấp bách đến thế nào cho Giáo Hội: chúng ta đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những đồng lúa chín vàng và bảo “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy xin chủ ruộng cho thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài”. Chúa biết nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta phải cầu xin thì Chúa mới ban ơn. Xin gì?
Xin cho có nhiều thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa để phục vụ các linh hồn. Và xin cho những người đang theo tiếng gọi của Chúa hôm nay, tức là các chủng sinh, các tu sĩ nam nữ, các em dự tu, được bền tâm vững chí vì cuộc sống tu trì không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, nhiều khi phải lâm vào những hoàn cảnh tăm tối. Cụ thể ở đây xin chia sẻ bước đường ơn gọi của cha Gioan Maria Vianey
1. Thời thơ ấu của Gioan Maria Vianey
Gioan Maria Vianey sinh 08/05/1786 tại Dardilly, cách Lyon khoảng mười cây số. Vianey là con thứ tư trong số bảy anh chị em. Vianey được sống trong bầu khí gia đình đạo đức. Theo cha Alfred Monnin, một người thân quen với gia đình, viết về cha mẹ của Vianey như sau: “Matteo Vianey và Marie Beluse, cha mẹ của thánh nhân, là những người giàu tình cảm và có đời sống Kitô giáo xác tín. Marie, rất dịu hiền, giàu tình cảm, nhẹ nhàng trong lời nói và rất đáng yêu. Người cha thì tính cách mạnh mẽ, cương quyết và trung thực”.
Khi lên mười ba tuổi, Vianey được cha mẹ gởi đến hai người dì ở Ecully (cách đó khoảng sáu cây số), để chuẩn bị giáo lý cho việc xưng tội và rước lễ lần đầu. Tại đây, các dì cũng dạy cậu viết và đọc tiếng Pháp, vì Vianey chỉ biết tiếng địa phương.
Vào mùa hè năm 1799, Vianey được rước lễ lần đầu cùng với mười lăm đứa trẻ khác. Thánh lễ được cha Groboz tổ chức kín đáo trong một căn phòng riêng ở Ecully. Trong thời gian này, ở nước Pháp xảy ra phong trào chống đối Giáo Hội. Nhà thờ bị đóng cửa, các linh mục bị bắt bớ, tất cả nghi thức Kitô giáo đều bị cấm đoán.
2. Bước đường ơn gọi
Cha Balley, cha sở giáo xứ Ecully, nhận thấy nơi Vianey một tâm hồn đơn sơ và thánh thiện. Ngài đồng ý nhận Vianey làm học trò và hứa giúp cậu hướng tới đời sống linh mục. Vào mùa thu năm 1806, Vianey đến ở với các dì của mình, để được học với cha Balley. Sau khi tiếp xúc và nói chuyện với Vianey, ngài nói: “tôi sẽ nhận cậu này, nếu cần phải hy sinh vì Vianey lúc này đã hai mươi tuổi.
Vianey học tiếng Pháp và La Tinh với cha Balley. Học lực của Vianey trung bình nhưng cậu rất chăm chỉ và chịu khó. Vì đã từng là giáo tập của dòng thánh Agustinô trong nhiều năm, nên cha Balley có nhiều kinh nghiệm hướng dẫn các ứng sinh. Ngài nhận thấy nơi Vianey có một đời sống thiêng liêng rất sâu lắng, mặc dù cậu học trò của mình không xuất sắc về trí tuệ.
3. Việc học của Vianey bị gián đoạn vào năm 1809 vì cậu phải nhập ngũ
Vào thời này, đã xảy ra chiến tranh xảy ra giữa các nước ở Châu Âu. Nhất là giữa Pháp và Tòa Thánh. Napoleon xâm chiếm vương quốc của Đức Thánh Cha. Người trẻ được kêu gọi lên đường nhập ngũ để phục vụ cho chiến tranh. Nhiều người Công Giáo đứng trước sự bối rối của lương tâm: trung thành với Đức Thánh Cha hay hoàng đế Napoleon? Có rất nhiều lính đã đào ngũ.
Vừa mới nhập ngũ, Vianey ngã bệnh và trải qua mười lăm ngày ở bệnh viện Hôtel-Dieu của Lyon. Sau khi hồi phục, Vianey lên đường đi Roanne để nhập đoàn với những người lính khác. Nhưng tại đây, Vianey lại ngã bệnh và phải ở tại bệnh viện nhiều ngày. Trong thời gian này Vianey gặp một người bạn, tên là Guy quê ở Saint-Priest-la-Prugne. Người bạn này khuyên Vianey rời bỏ việc phục vụ quân ngũ để đến cư ngụ tại Noes. Tại đây, cậu được gia đình bà Claudia Fayot đón nhận và che giấu. Vianey giúp dạy học cho những người con trong gia đình này.
Vào tháng 05 năm 1810, bà Claudia Fayot đi Dardilly để tìm hiểu tin tức về gia đình của Vianey. Bố của Vianey rất giận về việc đào ngũ của cậu, bởi ông phải đóng tiền phạt cho chính phủ. Bà Claudia Fayot cũng gặp cha Balley, ngài nói với bà: “Gioan Vianey không thể nào trở nên người lính mà phải là một linh mục”.
4. Tiếp tục bước đường ơn gọi
Sau mười bốn tháng sống tại gia đình bà Claudia Fayot, vào tháng 03 năm 1811, Vianey trở vể thăm gia đình và rồi cậu đến sống với cha Balley. Ba tháng sau đó, cha Balley giới thiệu Vianey cho đức giám mục Lyon như ứng sinh linh mục. Ngày 01/11/1811, Vianey chính thức vào chủng viện.
5. Bị loại khỏi chủng viện
Ở chủng viện, đời sống đạo đức, cũng như đức tính tốt lành của Vianey được các chủng sinh biết đến. Ở đây, các môn học được dạy bằng tiếng La Tinh. Điều này vượt quá khả năng của Vianey. Khi Vianey trình diện để làm bài thi vào tháng hai năm 1814 bị điểm zêrô! Không những chỉ bị loại mà còn bị các ngài phê là không thể làm ứng viên linh mục. Việc đó như một sự suy sụp, thật tội nghiệp.
6. Niềm vui trở lại
Cha Balley đến gặp các cha giáo chủng viện, ngài nói: xin anh em hãy nhận một cậu bé bắt đầu đi học muộn, anh em đừng yêu cầu nơi cậu ấy như yêu cầu nơi các bạn trẻ khác. Ngài dạy thần học cho Vianey bằng tiếng Pháp và tìm phương pháp phù hợp với khả năng của Vianey. Ngài đã thuyết phục được các vị ấy, nhất là cha tổng đại diện, cho làm thử một bài thi môn luân lý. Lần này cuộc thi diễn tiến khá tốt. Các ngài cho thầy nhận các chức nhỏ, và năm sau làm linh mục.
7. Con đường ơn gọi vẫn còn gian nan
Sau khi được thụ phong linh mục cũng chẳng mấy sáng sủa. Một số vị trong Giáo Hội nói với cha Balley: cha đã làm cho Vianey được thụ phong linh mục, vậy cha hãy giữ lại trong giáo xứ Ecully của cha. Ô, cha Balley trả lời, thế thì tốt thôi. Và ngài đã nhận cha Vianey về xứ để làm cha phó của ngài trong ba năm. Là hai vị thánh, hai cha thi nhau làm việc hãm mình đền tội. Dân chúng thán phục và nói: ở giữa đây chúng tôi có những người quá giỏi!
8. Nhận sứ vụ tại giáo xứ Ars
Rồi cha Balley, cha sở giáo xứ Ecully qua đời. Một ủy ban đại diện giáo dân trong xứ Ecully lập tức lên gặp cha tổng đại diện: xin để cha Vianey ở lại với chúng con, xin để ngài lại cho chúng con, chúng con rất hài lòng, là một linh mục tuyệt vời. Một hồng ân chẳng bao giờ dám nghĩ tới nhưng Bề Trên lại đề nghị Vianey về giáo xứ Ars. Một giáo xứ với hai trăm năm mươi người, năm trăm phật lăng lợi tức hằng năm, thêm hai mươi lăm cho việc thờ phượng, không gì chắc chắn, khí hậu xấu bởi vì nhiều ao hồ, chống giáo sĩ, không nghệ thuật hay chỉ một phần nào đó thôi, không tôn giáo. Nhà thờ thuôn dài, hẹp, tối tăm. Tháp chuông đã bị quân cách mạng phá đổ: chỉ còn giàn giá với một quả chuông đã bị rạn nứt. Thật là một thảm họa! Nhưng là một vị thánh nên ngài đã vâng lời và lên đường thi hành sứ vụ.
9. Đời sống tại giáo xứ Ars
Ngày 13/02/1818, cha Vianey đến nhận nhiệm sở mới. Cha sống rất đạm bạc. Lối sống đạo đức và giản dị của cha đã chiếm được lòng yêu mến của giáo dân. Ngài chia sẻ với người nghèo những gì mình có. Ngài dành nhiều giờ trong ngày để cầu nguyện, ngồi giải tội và thăm viếng giáo dân.
Một người trong giáo xứ đã làm chứng: “ngài cho họ tất cả những gì mình có”. Ngài bán nhiều đồ vật kỷ niệm để giúp người nghèo. Ngài nói: “người nghèo là những người bạn của Thiên Chúa” “Nếu các con có nhiều, thì hãy cho nhiều; nếu các con có ít, thì hãy cho ít; nhưng hãy cho đi với tấm lòng và niềm vui”.
Cha Vianey làm thay đổi đời sống của giáo xứ và giáo dân bằng đời sống nhân đức và yêu thương. Ngài thốt lên: “thật là hạnh phúc khi thấy một Kitô hữu yêu Chúa và yêu tha nhân!” Caterina Lasagne nói về cha Vianey: “đức bác ái của ngài không chỉ giới hạn ở những người đến xin ngài giúp đỡ; ngài còn mang tiền, bánh mì, lúa mì đến tận nhà của những ai túng thiếu”
Từ năm 1830 trở đi, rất nhiều người tuốn đến Ars để được lắng nghe cha Vianey giảng, bởi vì ngài giảng rất thực tế và đánh động tâm hồn người nghe. Nhất là, họ đến với ngài để được lãnh nhận bí tích hòa giải. Một làng Ars nhỏ bé nay trở thành trung tâm đón nhận rất nhiều người đến. Các cửa tiệm buôn bán ở Ars in hình và tượng của cha Vianey để bán cho các khách hành hương. Mọi người khi tiếp xúc với cha Vianey, họ đều công nhận sự thánh thiện của vị linh mục. Nhiều người nhận được ơn thay đổi trong đời sống thiêng liêng từ cha Vianey, nhưng ngài luôn khiêm tốn đáp lại: “Thiên Chúa nhân lành đã chọn tôi để trở nên một công cụ của ân sủng cho những hối nhân, bởi vì tôi là một linh mục đáng thương và dốt nát nhất trong số các linh mục”.
10. Chấp nhận thử thách, không ca thán
Vianey không bao giờ nghĩ: A, các ngài đã đuổi tôi ra khỏi chủng viện, cũng đã không trao cho tôi giáo xứ Ecully, bây giờ tôi nổi tiếng, thì các ngài lại đến quanh tôi! Vianey luôn tỏ lòng kinh trọng đối với ba giám mục của ngài: không bao giờ có ai nghe ngài than phiền về những chuyện này. Những chuyện nhỏ, nhưng anh em thấy đó, ngay cả đối với cha phó kia... ngài luôn tế nhị! Nhân đức, sự thánh thiện của cha sở họ đạo Ars không nằm trong những việc ăn chay của cha, nhưng trong những việc nhỏ bé: tòa giám mục không hiểu, tòa giám mục chống lại, đức giám mục nên tốt hơn chỉ vì bây giờ ai cũng nói ngài là thánh; trước đó không ai đánh giá ngài như vậy. Từ những chuyện này mà ngài đã làm thánh.
11. Cha Gioan Maria Vianey tạ thế và được phong thánh
Trong năm 1859, sức khỏe của cha Vianey yếu dần. Ngài lãnh nhận bí tích xức dầu và Thánh Thể trong nước mắt: “cha khóc khi nghĩ đến Thiên Chúa, Ngài quả là tốt lành khi đến viếng thăm chúng ta vào những giây phút cuối cùng”. Từ giường bệnh, ngài giơ tay chúc lành cho rất đông giáo dân đang tụ tập cầu nguyện bên trong và bên ngoài nhà thờ.
Ngày 04/08/1859, cha Vianey trở về nhà Cha trên trời. Caterina Lasagne viết lại giây phút cuối cùng của cha Vianey trong nhật ký: “cuộc đời hy sinh của người tôi tớ Chúa đã ra đi”.
Đức Thánh Cha Piô XI đã nâng cha Gioan Maria Vianey lên bậc hiển thánh vào ngày 31/05/1925.
Tin mừng Ga 10: 27-30: Hình ảnh vị mục tử nhân lành ấy được Chúa Giêsu ví chính Người là mục tử nhân lành, rất yêu thương đàn chiên, dám chịu cực khổ, tận tụy hy sinh vì đàn chiên, bảo vệ cho đàn chiên được vẹn toàn.
Suy niệm:
Hiệp thông với toàn thể Giáo hội, hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ IV Phục sinh, còn PS 4-C162
Hiệp thông với toàn thể Giáo hội, hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ IV Phục sinh, còn được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, cầu cho ơn Thiên Triệu Linh mục và tu sĩ nam nữ. Chúng ta cầu xin cho Giáo hội có được một số người đáp lại tiếng Chúa để sống đời sống tu trì, chăm sóc đoàn chiên Chúa, tận hiến cho Chúa và phục vụ các tâm hồn.
Chiên cừu là một trong những loài gia súc được con người thuần hóa sớm nhất để chăn nuôi lấy thịt, sữa, mỡ, da. Lông chiên còn được dùng để làm nên những tấm khăn, chiếc áo ấm. Trong văn hóa phượng tự Do Thái, người ta dùng chiên cừu vào nghi lễ tạ ơn, hiến tế dâng lên cho Thiên Chúa. Và bởi vì đất nước Do Thái khô cằn, người mục tử, mục đồng chăn dắt đàn vật chiên cừu trên những cánh đồng rày đây mai đó, gắn kết với chúng ngày cũng như đêm. Ban ngày mục tử kiếm những cánh đồng cỏ và nước suối trong cho chiên, ban đêm canh giữ chiên khỏi sói rừng và những kẻ cắp. Nơi nào hết cỏ, mục tử di chuyển đàn chiên đến những cánh đồng khác. Và vì có nhiều mục tử chăn các đàn chiên mình gần nhau, nên chủ chiên cũng ra hiệu bằng một âm thanh đặc biệt để gọi các con chiên của mình. Chiên rất thính tai, chỉ nhận ra tiếng chủ của mình mà đi theo. Nếu như nghề chăn trâu, chăn vịt phải lùa đàn gia súc gia cầm của mình đi, thì nghề chăn chiên có phần hơi khác, người mục tử đi đâu, đàn chiên sẽ theo đó.
Hình ảnh vị mục tử nhân lành ấy được Chúa Giêsu ví chính Người là mục tử nhân lành, rất yêu thương đàn chiên, dám chịu cực khổ, tận tụy hy sinh vì đàn chiên, bảo vệ cho đàn chiên được vẹn toàn. Người cũng cho biết: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta”.
Hôm nay là ngày cầu cho Ơn Thiên Triệu, chúng ta cùng cầu xin Chúa cho có những người trẻ lắng nghe, đáp lại tiếng Chúa để dấn theo Chúa cách đặt biệt hơn. Muốn như thế, chúng ta xin ơn cho có những người trẻ biết lắng nghe để nhận ra tiếng Chúa kêu gọi “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta”. Nghe là một tương quan hai chiều. Biết lắng nghe tiếng Chúa là điều quan trọng nhất của việc bước theo Chúa. Nếu không nghe và nhận ra được tiếng Chúa, chắc chắn chúng ta không biết Người là ai, và Người muốn chúng ta làm gì. Cũng như trong tâm lý học, một đứa trẻ khi mở mắt chào đời, việc đầu tiên là em nghe được tiếng mẹ để tìm được sự săn sóc, hơi ấm và bầu sữa thơm ngon của mẹ. Người Kitô hữu muốn tìm thấy Chúa Giêsu cũng phải tập nghe và nhận ra tiếng Người. Sau khi đã nhận ra tiếng mẹ, bước kế tiếp là dần biết mẹ cũng như mẹ đã biết em. “Biết” trong Kinh Thánh trước hết không mang một ý nghĩa tri thức nhưng chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết một cách đích thực. Khi đã nghe, biết rồi mới có thể bước theo. Đây là một hành động diễn tả một thái độ tự do, gắn bó với lời Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy theo Ta”.
Như trong Bài đọc I kể về việc thánh Phaolô và Barnaba loan báo Tin Mừng tại Antiôkhia miền Pixiđia. Ban đầu, Phaolô rao giảng Tin Mừng cho người Do Thái. Nhưng vì họ từ chối, nên hai ngài quay sang rao giảng cho dân ngoại. Dân ngoại đã hân hoan đón nhận Tin Mừng. Tin Mừng ấy là việc chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể đem lại cho con người sự hiệp thông muôn đời, sự bảo vệ khỏi mọi sự dữ, và sự sống đời đời mà không một ai có thể cho kẻ khác điều Người hứa, dù có thương yêu kẻ ấy đến đâu đi nữa.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đang thiếu hụt trầm trọng ơn gọi trở thành linh mục, tu sĩ. Nói đến ơn gọi tu trì thì dường như ngày nay nhiều bạn trẻ Công giáo cảm thấy ngại vì họ có biết bao nhiêu dự tính cho tương lai, những hoạch định cho hướng đi riêng của mình. Vì thế, Giáo hội mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu linh mục và tu sĩ, đây là một việc rất thiết thực và có ý nghĩa để có nhiều bạn trẻ luôn biết mở rộng lòng mình, lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa gọi sống đời dâng hiến, dấn thân cho Chúa và cho các linh hồn. Đồng thời, chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho các vị mục tử đang chăm sóc giáo xứ, chăm lo cho đời sống thiêng liêng của chúng ta cũng như những nhà truyền giáo trong Giáo hội. Xin cho các mục tử luôn sống thánh thiện và nhiệt thành với sứ vụ của mình trên cánh đồng truyền giáo.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày cầu xin Ơn Thiên Triệu, chúng con nài xin Thiên Chúa ban cho có thêm các mục tử tốt lành “như lòng Chúa mong ước” (Gr 3,15), theo gương Thầy Giêsu Chí Thánh. Xin cho những người sống ơn gọi Dâng hiến luôn có một tình yêu đến cùng cho Thiên Chúa và cho con người cách vô vị lợi giúp các mục tử không còn gì hối tiếc vì đã hết mình cho sứ vụ. Bởi nếu không có tình yêu tận hiến ấy, mỗi ngày trong đời sống của người tu trì trôi qua sẽ nặng nề, buồn tẻ, mệt mỏi… nhất là khi phải đối diện với những thách đố. Đồng thời xin Người ban cho đoàn chiên biết nghe và đáp lại tiếng của vị mục tử được Chúa giao coi sóc đoàn chiên để cộng tác với các ngài, giúp cho đời sống đạo đức của các tín hữu được dồi dào phong phú. Amen.
Giữa một thế giới mà người ta đang tranh giành nhau những vị trí cao nhất ở mọi lãnh vực và PS 4-C163
Giữa một thế giới mà người ta đang tranh giành nhau những vị trí cao nhất ở mọi lãnh vực và cố gắng bảo vệ vị trí của mình bằng mọi cách, liệu nói đến ơn gọi của người mục tử lãnh đạo là phục vụ, là đầy tớ như Lời Chúa Giêsu mời gọi phải chăng là lỗi thời, là khó thực hiện?
Đối với người Kitô hữu và đời sống trong Giáo hội, vai trò của người mục tử hay người lãnh đạo cộng đoàn đã được chính Chúa Giêsu đề ra đường lối như kim chỉ nam và là luật: "Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.” (Lc 22, 26) Bài học này đã được Chúa căn dặn các môn đệ thân tín khi thấy các ông tranh cãi xem ai là người lớn nhất. Dĩ nhiên, với não trạng bình thường của con người, chắc hẳn các môn đệ cũng nghĩ đến quyền lợi, đến chỗ ngồi và vị trí lớn nhỏ bên cạnh Chúa. Thế nhưng, lời dặn dò và gương của Thầy thật rõ "Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 27c)
Nhìn vào đời sống của các giáo xứ và các cộng đoàn...Ta nhận thấy và cảm phục biết bao nhiêu mục tử, bề trên đã dấn thân, hiến thân và sống triệt để tinh thần mục tử của Thầy Giêsu. Những chức vị trong cộng đoàn mà các ngài nắm giữ như là một sứ mệnh phục vụ mà Chúa đặt để và là luân phiên để bổ túc cho nhau, giúp nhau thi hành theo ân sủng của Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người. Các ngài cũng ý thức "Quan nhất thời, dân mới vạn đại" nên khiêm tốn phục vụ và sống hết mình với tinh thần trách nhiệm cũng như không phụ tình yêu thương của Chúa và lòng tín nhiệm của tập thể. Do đó các ngài càng yêu mến đoàn chiên mình phục vụ và sống tự khiêm tự hạ triệt để "Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Chúa." (Hc 3, 18) Nhiều lắm những mẫu gương phục vụ và trở nên tôi tớ của anh chị em mình. Cụ thể hiện nay có nhiều Linh mục, Tu sĩ... hiến mình phục vụ anh em tại Irak hay vùng Trung Đông như lời ĐHY Thimothy M.Dolan kể cho chúng ta về cha Bashar, đang thi hành nhiệm vụ chăm sóc trại tị nạn: "ban đầu cha ngủ trên một tấm nệm ngoài trời khi có gần 100.000 người đổ đến Erbil sau vụ tấn công..., vị linh mục đã để cho các tín hữu ngủ trong lều." ĐHY nói, "Đó là mẫu gương cho đời linh mục, đó là Chúa Giêsu, ở lại với dân ta mọi lúc." Và đây thực sự là những mục tử ở giữa đoàn chiên, mang lấy mọi đau khổ khó khăn của chiên. Không đặc quyền, đặc lợi, là người lãnh đạo nhưng mang tinh thần và bản chất là đầy tớ và đây là những nhà lãnh đạo hay mục tử mà chúng ta cần, Giáo hội mong muốn.
Chắc chắn mẫu gương cho những mục tử và những ơn gọi dấn thân phục vụ vẫn mãi mãi là Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian như người tôi tớ và không nhất quyết duy trì địa vị Thiên Chúa của mình (x. Pl 2,6- 8) Những gì Chúa Kitô sống, thánh Phaolô cũng khuyên chúng ta, có lẽ nhất là người mục tử cần có tâm tình như chính Chúa, quên lợi ích cá nhân, chỉ tìm lợi ích cho người khác(x. Pl 2, 4-5). Một khi người mục tử ý thức rõ ơn gọi và chức vụ của mình là ân huệ nhưng không, chỉ do Chúa thương ban, chắc hẳn người ấy sẽ cảm thấy quí trọng ân huệ này và biết ơn Thiên Chúa cách sâu xa. Khi đã cảm nhận tất cả là hồng ân, người ta chỉ còn tìm cách đền đáp. Tình yêu đáp đền tình yêu, người ấy sẽ một lòng một dạ dấn thân phục vụ chỉ vì yêu thương và vì danh Đấng đã chọn gọi và ban cho mình ân huệ làm mục tử hay người đứng đầu cộng đoàn. Có lẽ không người mục tử nào lại quên hình ảnh Thầy và Chúa của mình cúi xuống rửa chân cho môn đệ và nhắn nhủ "Anh em gọi Thầy là 'Thầy' là 'Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật Thầy là Thầy là Chúa. Vậy nếu Thầy là Chúa là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau...” (Ga 13, 13-15)
Thế nhưng, thực tế cuộc sống, chúng ta cũng chứng kiến và đau lòng thấy đó đây còn nhiều mục tử dường như đã quên lời Đấng tuyển chọn mình. Vì cuộc sống, công việc hay vì bị cuốn hút vào vòng xoáy của thế gian, nhiều lắm các mục tử đã đi theo lối sống mà như Ngôn sứ Êzêkiel đã hạch tội mục tử Israel: "Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? ...Chiên đau yếu các ngươi lại không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc...” ( Ed 34, 2c- 6)
Có lẽ thuở ban đầu khi lãnh sứ vụ mục tử hay trách nhiệm cộng đoàn, người ta cũng mang trong mình cái lý tưởng là "phục vụ". Nhưng thực tế, quyền bính của người lãnh đạo như chiếm trọn con người. Họ viện đủ lý do để bảo vệ cho quyền và lợi nên ơn gọi phục vụ giờ lại giúp họ trở nên "được phục vụ". Luật của Thầy Giêsu "Phục vụ anh em, làm đầy tớ mọi người" (x. Mc 10, 43-44) sao xa vời và khó quá khi các mục tử và những bề trên cộng đoàn đã chỉ còn " lấy quyền mà cai quản dân". Sẵn sàng áp đặt mọi luật lệ hay giờ giấc theo quyền lợi của mục tử mà bất chấp chiên vất vả khó nhọc với cuộc sống thế nào! Con chiên trong giáo xứ hay anh chị em trong cộng đoàn chắc gì dám đòi hỏi mục tử làm đầy tớ, huống chi là hiến mạng sống. Bởi với giáo dân hay bề dưới, dù sao vẫn luôn kính trọng và tuân phục lắm lắm với các mục tử và người lãnh đạo mình. Có chăng là họ rất cần lòng quan tâm, tình yêu thương thể hiện cách cụ thể trong lắng nghe, mà điều này nơi các mục tử lại....quá thiếu! Bởi 'Cha' mà, nên lời cha phán là phán chứ sao góp lời góp ý được, huống hồ có sự khó đến chia sẻ mà cha lắng nghe cho! Khi không lắng nghe, làm sao hiểu, thông cảm, đồng cảm và sẻ chia, nâng đỡ, yêu thương cho được? Thiên Chúa của chúng ta giải thoát bần dân kêu khổ, bảo vệ nâng đỡ cô nhi quả phụ... Còn mục tử hiện thân của Người bây giờ thì sao?
Người mục tử hay người lãnh đạo cộng đoàn nếu đem so sánh với người cha người mẹ trong gia đình thì chắc hẳn người ta chỉ ước mong sao chủ chăn của họ là một người cha tốt lành hay bề trên của họ là một người mẹ tốt hết lòng yêu thương và hy sinh cho đàn em. Cha mẹ tốt trong gia đình cũng sẽ sống như một đầy tớ, chỉ phục vụ vì yêu con cái và dù con ngoan hay hư cũng hết mực yêu thương dạy bảo, quan tâm chăm sóc. Không phụ thuộc vào kiến thức hay tài năng, kỹ năng mà là tâm lòng phục vụ. Chính vì thế cha mẹ là chủ và là lãnh đạo mà con cái sẽ hết lòng yêu mến cảm phục. Nhìn thấy như vậy và ước mong là thế, nhưng quả thực với cuộc sống bị cuốn hút bởi sự cạnh tranh ganh đua trong nhiều lãnh vực để đạt thành tích hay đỉnh cao. Người ta chuộng quyền lực và vị trí hơn là phục vụ và trở nên đầy tớ. Và nhân đức khiêm nhường phục vụ cũng bị bỏ xa! Thế nên, có được những mục tử hết lòng yêu thương phục vụ đoàn chiên là điều mà Giáo hội và mỗi cộng đoàn cần và rất cần. Xin cho tất cả chúng ta và cách riêng những ai đã, đang và sẽ lãnh nhận ân huệ là mục tử lãnh đạo giáo xứ hay cộng đoàn, thấm nhuần được bài học của Chúa Giêsu "Trở nên đầy tớ của môn đệ." Vì ơn gọi của mục tử là để yêu thương, phục vụ và tất cả khả năng, chức vụ mà Thiên Chúa ban như là phương tiện để phục vụ phần rỗi và ơn cứu độ nhân loại.
Nguyện xin Chúa Giêsu Mục Tử trở nên mẫu gương cho mỗi chúng con hôm nay, để rồi chúng con có thể dấn thân phục vụ trong mọi hoàn cảnh, mọi hành động như đầy tớ chỉ vì tình yêu.
Chúa Giêsu đã khẳng định Người là Mục Tử và tất cả chúng ta, những người theo Chúa là đoàn PS 4-C164:
Chúa Giêsu đã khẳng định Người là Mục Tử và tất cả chúng ta, những người theo Chúa là đoàn chiên của Chúa. Đây không chỉ như một hình ảnh mà là một thực tại mà chúng ta cần sống và tôn kính. Chúa Giêsu Kitô mãi mãi là mục tử chăn dắt chúng ta. Người hiện diện cách thiết thực trong thế giới và cụ thể ở trong Giáo hội. Cũng có thể nói Giáo hội là sự hiện diện của Chúa Kitô mục tử, bởi vì Giáo hội là thân thể của Chúa. Chính vì thế, ở trong Giáo hội và qua Giáo hội mà Chúa Kitô mục tử trở nên hiện diện sống động. Với bài Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta nghe, những động từ mà Chúa nhấn mạnh "Nghe, Biết, Theo" sẽ là kim chỉ nam của mục tử và chiên mà chính Chúa Giêsu đã thực hiện và Người muốn nhắn nhủ với chúng ta hôm nay.
- Nghe: "Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta." Chúa Giêsu là Lời đã trở nên người phàm. Người là Lời của Thiên Chúa, Lời Hằng Sống đem lại bình an và hạnh phúc cho con người. Chúa luôn mời gọi chúng ta lắng nghe tiếng của Người được bày tỏ trong Tin Mừng, qua những giáo huấn của Giáo hội, nơi tâm hồn chúng ta và trong những biến cố của cuộc đời ta. Cách cụ thể ta được nghe Lời Chúa trong mỗi Thánh Lễ, nghe tiếng Chúa nói với ta trong kinh nguyện và trong cầu nguyện riêng. Chúa Giêsu, mục tử tốt lành luôn lên đường tìm kiếm chiên. Tiếng của Người hướng dẫn chúng ta và Lời của Người nuôi dưỡng chúng ta. Chúng ta không thể sống thiếu Lời Chúa, bởi vì "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4,4)
Là chiên của Chúa, chúng ta hãy luôn biết khát Lời của Chúa và biết để Lời Chúa trở thành lương thực hằng ngày của ta. Muốn nghe được Lời của Chúa, chúng ta cần có một tâm hồn mở rộng sẵn sàng đón nhận, có một đôi tai nhạy bén và một con tim tha thiết mến yêu Lời Chúa. Có thể nói ta cần lắng nghe tiếng Chúa bằng con tim, vì chỉ khi nối kết với trái tim của Chúa, ta mới có thể thấu hiểu được Lời Chúa dạy bảo và đem ra thực hành trong cuộc sống cụ thể của ta. Như thế, Lời Chúa mới trở thành ánh sáng, là sức sống của ta, ta mới biết sống theo ý Chúa, sống đẹp lòng Chúa và Lời Chúa mới sinh hoa kết trái dồi dào trong đời ta.
- Biết: "Ta biết chúng." Người ta nói "Vô tri bất mộ." - không biết thì sẽ không thể yêu. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Người biết rõ chúng ta từng người một. Biết không chỉ dáng vẻ bên ngoài mà là biết tận thâm sâu cõi lòng chúng ta. Người biết ta cách cá nhân bởi Người dựng nên chúng ta. Người đã mang vào mình mọi khốn cùng đau đớn của kiếp người chúng ta. Vì thế, Người biết rõ thân phận của ta và hiểu thấu từng nỗi khó cảnh khổ của chúng ta. Từ cái biết, Người gắn kết chúng ta trong tình yêu của Người và như vậy, Chúa biết chúng ta cũng là Chúa yêu thương chúng ta. Hơn thế nữa, Mục tử Giêsu còn ban cho chiên sự sống đời đời và sự sống ấy là sự sống của chính Người, vì Người đã hy sinh mạng sống cho chiên khi khẳng định "Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên." (Ga 10,11) Điều ngạc nhiên là bình thường mục tử chết thì không thể bảo vệ chiên được nữa. Nhưng với Mục Tử Giêsu Phục Sinh thì qua cái chết của Người, Người đã cứu sống chiên của Người.
Chính vì thế, chúng ta hãy đặt trọn niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu, Mục Tử yêu thương luôn chăm sóc và hướng dẫn chúng ta trong mọi nơi chốn và hoàn cảnh. Dù ta có gặp bao sóng gió truân chuyên hay ngàn khó nguy gian khổ thì Chúa vẫn ở bên ta, ủi an nâng đỡ và ban sức sống trợ giúp chúng ta "Dù qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm." (Tv 22, 4)
- Theo: "và chúng theo Ta." Một khi đã lắng nghe tiếng Chúa, ta sẽ hiểu được ý muốn của Chúa. Như những môn đệ đầu tiên khi nghe Chúa cất lời "Các anh hãy theo tôi” (Mt 4,19), chắc chắn các ông đã hiểu rõ điều Người muốn các ông là "Theo Người". Theo là rời bỏ nơi chốn cũ của mình, lối sống riêng của mình để chia sẻ cuộc sống mới với Đấng gọi ta; là gắn bó, ràng buộc đời mình với đời của Đấng mà ta theo, yêu mến và thuộc trọn về Người cả hồn xác. Chúa Giêsu, Mục Tử đầy xót thương đã gọi chúng ta, yêu thương che chở từng người chúng ta. Chúa mong mỗi Kitô hữu theo Chúa cũng biết gắn kết đời mình với Chúa, thiết lập một tương giao mật thiết với Chúa và sống trong Chúa để cuộc sống của chúng ta thực sự thuộc về Người.
Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành và là Chúa của chúng ta đã mời gọi ta theo Người và sống trong tình yêu của Người. Chúa ban cho ta Lời Chúa và Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn, ban sức mạnh thể xác và ban cho ta sự sống đời đời vì Người khẳng định "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6,51) Chúng ta không phải hư mất và không ai có thể cướp ta ra khỏi tay Người. Đó là một bảo đảm của Chúa cho chúng ta. Liệu chúng ta có can trường theo Chúa và kiên trì thưa với Chúa như thánh Phêrô "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6,68)
Hôm nay, ngày cầu cho Ơn Thiên Triệu Linh mục và Tu sĩ. Mỗi Kitô hữu chúng ta là chiên, nhưng ta cũng được gọi trở nên mục tử trong chức vụ thừa tác hay trong bậc sống của mỗi người. Chúng ta hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Và ta hãy tha thiết cầu nguyện cho các bạn trẻ quảng đại lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa gọi. Đồng thời xin Chúa Chiên Lành ban cho Giáo hội thêm nhiều mục tử, nhất là có những mục tử sáng suốt để giúp cho đoàn chiên lắng nghe tiếng Chúa và hiểu Tin Mừng của Chúa. Cầu cho có những mục tử "Biết mang mùi chiên, mang lấy vào mình những khốn khổ của chiên", can đảm thấy và dám nói, dám hiến thân cho đoàn chiên và cho Giáo Hội. Như thế, Giáo hội sẽ mãi là hiện thân của Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, biết chiên, yêu chiên và hiến mình vì chiên. Để rồi còn nhiều chiên lạc, chiên chưa thuộc đàn được lôi cuốn trở về sống hạnh phúc trong cùng một đoàn chiên của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin thương xót chúng con! Amen.
Đang là mùa đông, người ta mừng lễ Cung hiến ở Giêrusalem. Đức Giêsu đi lại trong Đền Thờ PS 4-C165
Đang là mùa đông, người ta mừng lễ Cung hiến ở Giêrusalem. Đức Giêsu đi lại trong Đền Thờ. Một nhóm người Do Thái vây quanh, và yêu cầu Chúa nói trắng ra về thân thế Người. Người có đúng là Đấng Mêsia không? Thật vậy, Thày đã công nhiên nói xa xôi cho người ta hiểu Thày chính là Đấng Mêsia. Có những người đơn sơ, không rắc rối, có thiện chí, đã hiểu được về bí mật thân thế Chúa và tin vào Chúa, chẳng hạn người phụ nữ Samaria và kẻ mù bẩm sinh. Người ta cảm thấy những kẻ chất vấn Chúa nhiều phần thắc mắc khó chịu về Chúa, hơn là sẵn lòng nghe Chúa với một tâm hồn cởi mở. Chúa muốn cho những kẻ nặng óc thành kiến phải bỡ ngợ. Chúa không theo lối suy diễn của họ. Vì lẽ họ cho rằng hệ thống suy diễn của mình không thể sai lầm, ông Giêsu này nhất định sẽ lộ hình tích, chính ông đưa ra một lời khai đúng cách, lúc đó họ sẽ có quyền ném đá ông. Đức Giêsu không do dự. Người đưa ra câu đáp trên hai bình diện: tâm tình thích hợp để dễ dàng tiếp nhận chân lý và Kinh Thánh với một giá trị không thể bác bỏ (Lời Chúa viện dẫn Kinh Thánh tiếp ngay sau đoạn Phúc Âm hôm nay). Hai câu hỏi được đặt ra; 1) Tại sao người Do Thái ngoan cố chối bỏ Đức Giêsu? Chúa bắt đầu bằng cách mời gọi họ thấy gì thì tin thế, bởi những việc Người làm nhân danh Cha Người đều làm chứng cho Ngài. Tuy nhiên Chúa nói tiếp ngay, nếu họ bác bỏ bằng chứng ấy, chính vì cớ tâm hồn họ không phù hợp với sứ điệp của Chúa. Họ đã nhất quyết lối xét đoán sự việc của họ là tốt. Thế mới con mắt người ta nhìn thực tại theo khuynh hướng của mình. Nếu thực tại không phù hợp với hệ thống suy diễn của mình, người ta cho rằng chính thực tại là sai. Nhận định này có giá trị sâu sắc đối hành vi tin. Để thực hiện một hành vi tin, trước hết con người phải chấp nhận để cho ân huệ chuẩn bị tâm hồn cách bí nhiệm. Nhưng nhận định này cũng có giá trị đối với phẩm chất của hành vi tin. Nhiều người tự nhận mình tin vào Đức Giêsu Kitô. Nhưng tin vào Đức Kitô nào? Dưới khía cạnh triết lý, xã hội, chính trị, v.v… nào? Luôn luôn chúng ta có lý để băn khoăn không biết con mắt chúng ta có đủ trong sáng không để nhìn Đức Giêsu Kitô?
2) Ý nghĩa câu: không ai giật chúng khỏi tay Ta được là gì? Câu đó có nghĩa: không một quyền năng ngoại giới nào có thể giật người Kitô hữu rời khỏi tay Đức Kitô. Sự trợ giúp của Chúa sẽ mạnh mẽ vô cùng để thắng những khó khăn ngoại giới. Tuy nhiên tại sao có những vụ bất trung bất nghĩa, có cả những vụ bỏ đạo chối Chúa nữa? Sở dĩ như vậy vì quyền năng vô biên của Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do tư tưởng của con người. Khi một Kitô hữu xa lìa Chúa, không phải vì Chúa bỏ kẻ ấy, mà chính vì kẻ ấy bỏ Chúa. Cả trong trường hợp đó, Chúa Kitô không rút lại niềm thương yêu của Chúa. Chúng ta hạy nhớ dụ ngôn cho chiên lạc. Tới đây chúng ta đối diện với một vực thẳm bí nhiệm thứ hai. Không những tâm hồn có thể từ chối phù hợp với hành vi tin, mà còn có thể huỷ diệt niềm tin của mình sau khi đã dâng hiến. Chúng ta không được choáng váng trước bí nhiệm ấy, mà phải tăng cường cảnh giác trong niềm trung tín. Nói đơn giản hơn, chúng ta hãy tin chắc rằng, đáp ứng thiện chí hằng ngày của chúng ta, Chúa nắm vững chúng ta trong tình yêu của Người.
Hằng năm vào Chúa Nhật IV, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục PS 4-C166
Hằng năm vào Chúa Nhật IV, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sỹ. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta suy niệm về gương Mục Tử Nhân Lành Giêsu. Đồng thời, chúng ta hãy xét lại bổn phận của chúng ta là đàn chiên đối với vị Mục Tử của mình và một cách nào đó chúng ta cũng là mục tử đối với những người khác.
1. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành
Tại đất nước Do Thái, chủ chiên và đàn chiên luôn gắn bó mật thiết với nhau. Chủ chiên đi trước, đàn chiên theo sau. Đàn chiên bao giờ cũng nghe theo tiếng của chủ chiên. Chủ chiên biết từng con chiên: Chiên nào mạnh khoẻ, chiên nào đau yếu. Chiên càng đau yếu thì chủ chiên càng quan tâm chăm sóc. Hình ảnh người mục tử bỏ chín mươi chín con khác để đi tìm con chiên lạc nói lên điều đó (x. Lc 15, 4-7).
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự nhận mình là chủ chiên. Ngài biết rõ từng con chiên là mỗi người chúng ta “Ta biết chúng và chúng theo Ta”. Cách biết của Ngài khác với cách biết bình thường của con người. Cách biết của Ngài giống như Thánh vịnh 139 diễn tả: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả” (Tv 139, 1-2). Ngài biết chúng ta như biết Na-tha-na-en trước khi ông đến trình diện với Ngài: “Ông Na-tha-na-en hỏi Người: "Làm sao Ngài lại biết tôi? " Đức Giê-su trả lời: "Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi" (Ga 1, 48). Ngài biết chúng ta, như Ngài biết người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm khi bà đụng vào gấu áo của Ngài (x. Mc 5, 24-35). Ngài biết chúng ta, như Ngài biết ông Giakêu khi ông đang ngồi trên cây sung (x. Lc 19, 1-10). Ngài biết cả những suy nghĩ của chúng ta dù chúng ta chưa nói ra, như Ngài biết những tư tưởng của các kinh sư (x. Mc 2, 1-12).
Ngài biết để tha thứ, biết để cứu chữa, biết để chỉ dạy và thậm chí Ngài biết để quở trách những khi cần. Thật vậy, Ngài đã tha thứ tội lỗi cho Giakêu, Mathêu. Ngài cứu chữa cho người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm. Ngài quở trách những người kinh sư để giúp họ trở về nẻo chính đường ngay. Ngài chỉ dạy cho ông Na-tha-na-en làm cách nào để được cứu rỗi. Ngài đã quan tâm con người cả phần hồn lẫn phần xác. Hình ảnh Con Chiên mà sách Khải Huyền đề cập đến, chính là hình ảnh của chính Ngài. Ngài chăn dắt và dẫn đưa chúng ta tới nguồn nước trường sinh (x. Kh 7,17). Ngài hứa ban cho chúng ta sự sống đời đời (x. Ga 10,28). Ngài chính là Vị Mục Tử Nhân Lành. Ngài biết chúng ta và Ngài quan tâm săn sóc chúng ta.
2. Chúng ta là đàn chiên của Chúa
Mỗi người chúng ta chính thức trở thành chiên của Chúa khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Chiên của Chúa thì phải đi theo Chúa. Chiên của Chúa thì phải lắng nghe tiếng Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta”. Tiếng của Ngài ở đâu? Tiếng của Ngài được thể hiện qua: Kinh Thánh; huấn quyền của Giáo Hội; đời sống cầu nguyện; qua việc thực thi những điều mình đã thề hứa khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.
Chúng ta không nghe tiếng Chúa khi chúng ta phạm tội trọng, lỗi phạm lời thề hứa khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta không nghe tiếng Chúa khi chúng ta không tuân phục Đức Giáo Hoàng và các huấn lệnh của Giáo Hội. Chúng ta không nghe tiếng Chúa khi chúng ta ghen ghét đố kỵ với anh chị em mình, không muốn cho anh chị em mình nên tốt hơn. Đó là thái độ của những người Do thía mà chúng ta nghe sách Công Vụ Tông Đồ kể lại trong bài đọc I: khi có nhiều người theo và nghe lời giảng dạy của ông Baraba và ông Phaolô, thì những người Do thái ghen tức, họ phản đối và nhục mạ ông Phaolô. Thậm chí họ tìm cách ngược đại và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Khi họ từ chối lời rao giảng của hai ông, thì hai ông đem Lời Chúa đến rao giảng cho dân ngoại. Thánh Phaolô nói: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất”.
Nếu chúng ta nghe tiếng Chúa thì thuộc về đàn chiên của Chúa, ngược lại chúng ta sẽ không còn là đàn chiên của Chúa nữa mà chính là kẻ thù của Chúa. Trong ngày phán xét chung, Chúa Giêsu là vị thẩm phán sẽ tách biệt loài người thành hai: Bên phải là chiên, bên trái là dê. Chiên là những người lành. Dê là những kẻ dữ (x Mt 25, 31-46). Ngay bây giờ chúng ta đang là chiên hay là dê ? Hy vọng chúng ta là những con chiên ngoan hiền của Chúa.
3. Mỗi chúng ta là mục tử đối với những người khác
Chúa là mục tử của mỗi người chúng ta. Nhưng mỗi người chúng ta cũng là những mục tử của những người khác khi thông dự vào mục tử Giêsu: Đức Giáo Hoàng là mục tử của Giáo Hội; Đức Giám Mục chính toà là mục tử của các tín hữu trong Giáo Phận Ngài coi sóc; Cha xứ là mục tử của các tín hữu trong giáo xứ của mình; Thầy cô giáo lý viên là mục tử của học sinh; Cha mẹ mà mục tử của con cái…Hãy trở thành những mục tử nhân lành, mục tử như lòng Chúa mong muốn. Bậc làm cha làm mẹ hãy quan tâm nhiều hơn tới con cái. Tôi đọc được câu chuyện sau đây trên mạng internet. Nếu cha mẹ nào nghe được nội dung câu chuyện này, chắc chắn cũng phải nghĩ lại thái độ của mình để quan tâm con cái nhiều hơn. Câu chuyện với tựa đề: “Con ước được làm một chiếc điện thoại di động!” Chuyện kể rằng: Sau bữa tối, một cô giáo tiểu học bắt đầu chấm bài cho học sinh. Chồng cô ngồi bên cạnh, dán mắt vào màn hình điện thoại di động, cố gắng phá vỡ kỷ lục trò Candy Crush Saga anh đã dày công nghiên cứu cả tháng trời. Bỗng nhiên, bầu không khí yên lặng bị phá vỡ bởi tiếng sụt sịt của người vợ. Thấy mắt cô đang rơm rớm, anh vội quay sang vợ hỏi nhỏ: “Này em, sao tự dưng lại khóc? Có chuyện gì à?”
Người vợ thổn thức trong nước mắt: “Hôm qua em giao bài tập làm văn cho tụi nhỏ lớp 1, viết về chủ đề “Điều ước của con”…”
“Anh hiểu rồi, nhưng vì sao em khóc?” – Người chồng tiếp tục gặng hỏi trong khi mắt vẫn không rời khỏi trò chơi đang đến hồi gay cấn.
“Bài văn cuối cùng này đã làm em khóc”.
Không giấu nổi sự tò mò, anh chồng bèn ngẩng mặt lên hỏi đầy ái ngại: “Bài văn của một đứa trẻ con cũng khiến em khóc được sao?”
“Anh nghe này…” – Người vợ chậm rãi đọc, nước mắt vẫn không ngừng rơi.
“Ước mơ của con là trở thành một chiếc điện thoại di động. Bố mẹ con yêu điện thoại di động lắm. Đến mức con cảm thấy bố mẹ quan tâm đến điện thoại còn hơn quan tâm đến con. Khi bố đi làm về, dù rất mệt mỏi nhưng bố vẫn chỉ ngồi bấm điện thoại di động chứ chẳng nhớ gì đến con. Khi bận bịu việc gì quan trọng, nếu bất chợt có chuông điện thoại reo, bố mẹ sẽ ngay lập tức cầm máy nghe. Thế nhưng lúc con khóc thì bố mẹ lại chẳng sốt sắng đến thế. Bố mẹ thích chơi trò chơi trên điện thoại di động chứ chẳng muốn chơi cùng con. Khi nói chuyện với ai đó trên điện thoại, bố mẹ cũng chẳng bao giờ thèm nghe con nói gì, cho dù con có chuyện rất quan trọng muốn chia sẻ. Vì thế, con chỉ ước được làm một chiếc điện thoại di động”.
Sững lại vài giây khi nghe xong bài văn, người chồng rụt rè hỏi vợ: “Trò nào viết bài này vậy em?”
Ngước cặp mắt dâng đầy nước mắt lên nhìn chồng, cô nghẹn ngào: “Con trai của chúng ta”.
Không cần phân tích, chúng ta cũng hiểu được bài học mà câu chuyện muốn dạy chúng ta. Hãy giảm bớt hoặc gạt bỏ những thứ bên lề như điện thoại, internet hay trò chơi trực tuyến…Để dành thời gian quan tâm, chăm sóc những người thuộc về chúng ta nhiều hơn. Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sỹ. Chúng ta không những xin Chúa cho Giáo Hội ngày càng có nhiều bạn trẻ biết quảng đại dâng hiến đời mình trong ơn gọi linh mục và tu sỹ, mà còn phải cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục, tu sỹ biết chu toàn bổn phận của mình và noi gương vị Mục Tử Giêsu để trở nên những mục tử nhân lành, những thừa sai của Lòng Thương Xót.
Lạy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Vì chúng con, Chúa đã phải hy sinh mạng sống. Xin cho mỗi người chúng con trở nên những con chiên ngoan hiền của Chúa. Khi phải đóng vai mục tử, xin cho cũng con cũng bắt chước mục tử Giêsu để hy sinh, quan tâm và yêu thương những người khác như Chúa. Amen.
Tin mừng Ga 10: 27-30 Chúa nhật thứ 4 Phục sinh hôm là, được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành PS 4-C167
Tin mừng Ga 10: 27-30 Chúa nhật thứ 4 Phục sinh hôm là, được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Là Chúa nhật mà toàn thể giáo hội hương về việc cầu nguyện cho các linh mục, giám mục luôn biết sống theo gương Chúa Giêsu vị mục tử nhân lành đối với đàn chiên được ủy thác cho mình.
Chúa nhật thứ 4 Phục sinh hôm là, được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Là Chúa nhật mà toàn thể giáo hội hương về việc cầu nguyện cho các linh mục, giám mục luôn biết sống theo gương Chúa Giêsu vị mục tử nhân lành đối với đàn chiên được ủy thác cho mình. Đồng thời Chúa nhật hôm nay còn là ngày quốc tế ơn gọi lần thứ 56. Đức thánh cha Phanxicô mời gọi chúng ta cầu nguyện cho nhiều bạn trẻ biết can đảm đáp lại lời mời gọi của Chúa “khám phá kế hoạch yêu thương của Ngài dành cho cuộc sống của chúng ta; và xin Ngài ban cho chúng ta lòng can đảm bước đi trên con đường mà ngay từ đầu, Ngài đã chọn cho mỗi người chúng ta”. Nhân dịp nàu xin chia sẻ cùng quý bạ bà điều sau đây. Điều thứ nhất:Chúa vẫn muốn và cần chúng ta quảng đại đáp lại tiệng gọi mời của Chúa để được sống hạnh phúc. Điều thứ hai là: Mọi ơn gọi đều là một ân ban, cần phải biết trân quí và quảng đại đáp trả. Điều thứ ba: cần biết tin thác vào Chúa, để bảo vệ ơn gọi của mình.
Trước hết, chúng ta hãy luôn nhớ rằng “Chúa vẫn muốn và cần chúng ta quảng đại đáp lại tiệng gọi mời của Chúa để được sống hạnh phúc”. Đây chính là trọng tâm của Tin mừng hôm nay: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta”. Chúa luôn gọi mời chúng ta, và mong muốn chúng ta lắng nghe và đến với Chúa. Thế nhưng, giữa cuộc sống hiện đại của thời 4G, chúng ta lại phải đón nhận biết bao tiếng gọi mời và lôi kéo khác nữa. có sự lôi kéo của hưởng thụ vật chất. Có sự lội kéo của những sản phẩm thuộc đời mới hơn, nhiều chức cức năng hơn, kiến chúng ta mãi mế chạy theo và rượt đuổi không ngừng. Có sự lôi kéo của hình ảnh quảng cáo, của thời trang của sách báo, khiến chúng ta chẳng làm chủ được cái nhìn và đi đến chỗ phạm tội… Để chống lại những lô kéo bên ngoài này, chúng ta cần phải có một nội lực mạnh hơn ở bên trong. Đó chính là ơn Chúa. Nếu chúng ta biết lắng nghe và để cho Chúa kéo và không cưỡng lại thì chắc chăn Chúa sẽ kéo chúng ta về với Chúa. Chúng ta sẽ cảm nên được sự chăm sóc ngọt ngào của Vị mục tử nhân lành dành cho chúng ta. Ta sẽ được sống và sống hạnh phúc dồi dào.
Điều thứ hai: Mọi ơn gọi đều là một ân ban, cần phải biết trân quí và quảng đại đáp trả. Chúng ta vẫn thương nghe nói về ơn thiên triệu, đó là ơn gọi từ trời, đó là tiếng gọi của Chúa từ trời cao gọi mời chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta trở nên những tu sĩ, linh mục, giám mục ngang qua đời sống dâng hiến. Thế nhưng, ơn gọi đăc biệt này lại khởi đi và đặt nền trên ơn gợi căn bản của đời sống Kitô hữu là ơn gọi làm con Chúa. Do đó, khi lãnh nhận bí tích rửa tội, tất cả chúng ta đều lãnh nhận một món quà cao quí. Món quà cao quí ấy là “chúng ta là những người con yêu dấu của Chúa, được tập hợp trong đại gia đình Giáo hội. Nơi đó, đời sống Kitô hữu được sinh ra và phát triển. Giáo hội, là mẹ của chúng ta, Giáo hội đưa chúng ta đến cuộc sống mới và dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô. Vì vậy, chúng ta phải yêu thương người Mẹ này, ngay cả khi ta nhìn thấy khuôn mặt của Giáo hội bị tàn phá bởi những yếu đuối, tội lỗi của con người, và chúng ta phải giúp Giáo hội trở nên xinh đẹp và rạng rỡ hơn để Giáo hội có thể làm chứng cho tình yêu của Chúa trong thế giới này. Vì thế, Thiên Chúa mong muốn cuộc sống của chúng ta không trở nên vô vị và có thể đoán trước. Ngài không muốn cuộc sống của ta bị giam cầm trong những thói quen hàng ngày, hoặc không phản ứng trước những quyết định ý nghĩa. Chúa không muốn chúng ta sống ngày này qua ngày khác, mà cứ nghĩ rằng mình chẳng có gì đáng để phấn đấu. Rồi dần dà, chúng ta đánh mất ước muốn đi trên những con đường mới mẻ và thú vị. Mỗi ơn gọi là một lời gọi không được đứng trên bờ với mảnh lưới trong tay, nhưng là đi theo Chúa Giêsu trên con đường mà Ngài vạch ra cho chúng ta, vì hạnh phúc của ta và vì lợi ích của những người xung quanh.
Điều thứ ba: cần biết tín thác vào Chúa, để bảo vệ ơn gọi của mình.
Chúng ta thường biết rằng, mọi ơn gọi trong đời sống dâng hiến đều khỏi sự trong niềm vui, trong sự hấp dẫn lôi kéo của Chúa ngang qua cuộc đời của các linh mục, tu sĩ nam nữ khi họ về tạ ơn trong ngày chịu chức hay khân dòng, hoặc vì những lối sống quả cảm của họ…. Thế nhưng, khi bước vào cuộc sống ơn gọi, chúng ta mới thấy những thách thức, những khó khăn phải đối điện, phải vượt qua. Chúa muốn chúng ta phải quyết định dứt khoát khi đi theo Chúa là để làm công việc của Chúa hơn là làm công việc theo ý riêng ta. Một quyết định như thế đòi hỏi phải để lại mọi thứ ở phía sau để theo Chúa, để dâng hiến mình cho Thiên Chúa và chia sẻ sứ mạng của Ngài. Nhiều loại giằng co nội tâm có thể cản trở ta đưa ra quyết định này, đặc biệt là trong bối cảnh tục hóa lan tràn; nơi đó dường như không còn chỗ cho Thiên Chúa và Tin Mừng. Những nơi ấy dễ phát sinh ra chán nản và người ta thường rơi vào tình trạng “hy vọng èo uột”. Tuy nhiên, không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui của người dâng hiến đời mình cho Chúa! Đừng điếc lác trước tiếng gọi của Chúa! Nếu Ngài gọi chúng con đi vào con đường này, xin đừng buông xuôi mái chèo, nhưng hãy tín thác nơi Chúa. Đừng ngục ngã trước sợ hãi, vốn là điều làm chúng ta tê liệt trước những tầm cao lớn lao mà Chúa chỉ cho chúng ta. Chúng con hãy luôn nhớ rằng với những ai bỏ thuyền lưới lại đằng sau mà đi theo Giêsu, Thiên Chúa hứa ban niềm vui về một cuộc sống mới có thể lấp đầy tâm hồn chúng ta, và làm cho hành trình của của ta thêm sống động.
Vào Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi này, chúng ta hãy tham gia cầu nguyện và cầu xin Thiên Chúa giúp chúng ta khám phá kế hoạch yêu thương của Ngài dành cho cuộc sống của chúng ta; và xin Ngài ban cho chúng ta lòng can đảm bước đi trên con đường mà ngay từ đầu, Ngài đã chọn cho mỗi người chúng ta. Amen.
Đoạn Tin Mừng thánh Gioan hôm nay là phần cuối của chương 10 nói về Đấng Chăn Chiên Nhân PS 4-C168
Đoạn Tin Mừng thánh Gioan hôm nay là phần cuối của chương 10 nói về Đấng Chăn Chiên Nhân Lành. Phần đầu đã được trích để suy niệm vào năm A và năm B.
Trước khi là Mục Tử nhân lành, Chúa Giêsu là “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu như thế với các môn đệ của ông. Ngài gánh tội trần gian vì thế Ngài phải tan xương nát thịt vì chúng ta. Nhưng Ngài đã sống lại. Thánh Gioan Tông đồ đã nhìn thấy Ngài như “Con Chiên đã bị giết, nhưng đã sống lại, nay xứng đáng lãnh nhận phú quí và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang và muôn lời cung chúc”.
Là Con Chiên Thiên Chúa, gánh tội trần gian, Ngài xứng đáng là Mục Tử nhân lành, vì đã cứu vớt chúng ta và biến chúng ta thành “một dân thánh”. Ngài đã nói với thánh Gioan: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời”.
Chúng ta là đàn chiên Ngài chăn dắt, “Ngài dẫn chúng ta vào những đồng cỏ xanh tươi”… Ngài nuôi chúng ta bằng lúa mì tinh hảo, bằng rượu mới dầu tươi”. Chúng ta chỉ cần “nghe tiếng Ngài, theo Ngài” vì Ngài biết chúng ta, Ngài gọi chúng ta từng người một và hướng dẫn chúng ta.
“Nghe tiếng Ngài” . Nghe ở đây phải hiểu là “nghe và tuân hành”:“Ai yêu mến Ta, người ấy giữ lời của Ta”.
Nghe theo Ngài, chúng ta không còn lo sợ. Ngài là “Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Chỉ cần vững tin.
Chúng ta có một Mục Tử toàn năng, chúng ta sẽ không chao đảo, dù chung quanh chúng ta chỉ là đe dọa, bão tố và gian ác.
Chúng ta đang sống trong một thế giới đang sụp đổ, không còn biết hướng đi, không còn gì vững chắc. Chân trời của thế giới càng ngày càng ảm đạm thê lương. Con người hôm nay với những tiến bộ khoa học đáng tán dương, càng trở nên nô lệ của những phát minh tân kỳ của mình. Con người hôm nay muốn tự làm chủ vận mạng của mình, để đi về đâu? Đi đến tận diệt. Vì họ không có mục tử. Thảm họa của con người hôm nay là không biết mình đi về đâu. Vật chất, khoa học, được biến thành thần tượng, thì con người chỉ là một tên nô lệ bị gắn vào cổ máy của khoa học để rồi bị nghiền nát tan tành.
Càng hiểu thế giới hôm nay, chúng ta càng phải tạ ơn Chúa vì chúng ta không bị bán làm nô lệ cho vật chất, cho khoa học, vì chúng ta có một mục tử nhân lành đã cứu thoát chúng và đang chăm sóc đàn chiên của Ngài. Mục tử của chúng ta là Sự Sống. Ngài đã nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”. Đó là bảo đảm, là tương lai của chúng ta. Dù thế giới này có đảo điên, chúng ta vẫn không sợ sệt: “Dù qua thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn”.
Ngài biết chúng ta từng người một.
Từ “biết” ở đây phải hiểu theo nghĩa Do Thái: biết là yêu, biết theo nghĩa vợ chồng yêu nhau.
Chúa Giêsu biết chiên của mình, nghĩa là yêu thương chiên của Ngài “và yêu thương đến tận cùng”.
Ngài biết rõ “khi tôi ngồi và khi tôi đứng”, vì thế chúng ta hoàn toàn có thể tin vào quyền năng của Ngài, phó thác cuộc sống chúng ta trong tay Ngài. Theo Ngài, chúng ta được bảo đảm về mọi mặt, mặc dù chúng ta phải đối mặt với cuộc sống đầy gian khổ. Những người yếu tin mới sợ sệt lo âu, than phiền, và bất mãn. Một người tin vững vẫn lạc quan, vì họ sẽ “không bao giờ bị diệt vong, sẽ không bị cướp mất khỏi tay Ngài”.
Chúng ta đã tin chưa? Đó là vấn đề.
Cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo hội những mục tử hết sức tuyệt vời, đầy niềm tin, sáng suốt để lèo lái Giáo hội trong thời gian khó khăn hôm nay.
Đức Gioan 23, vừa nhận nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên Giáo hội gần ba tháng, đã can đảm triệu tập Công đồng Vatican II, một việc vượt xa khả năng của một cụ già 78 tuổi. Ngài vui tươi lạc quan. Ngài biết rõ tình hình Giáo hội và thế giới lúc bấy giờ. Thế giới thời bấy giờ (1962) đang trong thời chiến tranh lạnh. Hai khối lớn trên thế giới đang đối đầu với nhau: Tư bản và Cộng sản. Ngài vẫn vui tươi tiến bước.
Điều đó chứng tỏ một niềm tin vững mạnh không gì lay chuyển. Ngài đã mở một con đường mới cho Giáo hội đi vào thế giới đang đố kỵ kịch liệt với Giáo hội.
Đức Phaolô VI tiếp tục công trình đang dang dở: Công đồng Vatican II, và đã đưa Công Đồng đến hoàn thành và đi vào thực hành. Củng cố và canh tân Giáo hội theo đường lối của Vatican II. Ngài đã sáng suốt hướng dẫn Giáo hội hậu Công Đồng với một sự khôn ngoan lạ thường, với một sự cương nghị đáng phục. Ngài đã giúp Giáo hội vượt qua bao nhiêu khó khăn, qua bao nhiêu khủng hoảng sau Công đồng.
Đức chân phước Gioan-Phaolô II, với hơn hai mươi lăm năm trong cương vị giáo hoàng đã đưa Giáo hội vào con đường canh tân sâu rộng. Ngài sẵn sàng đối mặt với mọi vấn đề xã hội, chính trị, tôn giáo…
Lời nói đầu tiên của Ngài sau khi lãnh trọng trách Mục Tử đàn chiên Giáo hội là: “Đừng sợ!”
Ngài chứng tỏ là một con người có niềm tin sắt đá, và sáng suốt. Cuộc đời của Ngài là một dấn thân trọn vẹn cho Giáo hội và cho nhân loại. Có thể nói, Ngài đã canh tân sâu rộng và làm cho khuôn mặt Giáo hội trong sáng hơn trong cuối thế kỷ hai mươi.
Đức Bênêđictô XVI gặp rất nhiều khó khăn trong nội bộ Giáo hội: các linh mục suy đồi, và nhiều chống đối quan trọng khác. Ngài đã củng cố niềm tin của Giáo hội trong suốt thời gian làm Giáo Hoàng.
Đức tân Giáo Hoàng Phanxicô của chúng ta nhận trách vụ Mục Tử trong một bối cảnh cam go. Ngài vẫn mỉm cười với mọi khó khăn đang chờ đợi Ngài. Ngài tỏ ra lạc quan nhìn thế giới hỗn độn này với niềm tin thanh thản. Ngài biết rõ hơn ai hết tình trạng bi đát của thế giới hôm nay. Ngài chứng tỏ niềm tin can đảm của Ngài bằng một nếp sống đơn thường, giản dị, đầy thân ái.
Chúng ta hãy vui mừng tạ ơn Chúa vì Chúa đã dẫn dắt Giáo hội qua mọi thử thách trần gian nhờ những Mục Tử đầy niềm tin trong sáng và can đảm.
Chúng ta vững tin vì Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi… Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Chúng ta được bảo đảm như thế, hãy hiên ngang tiến bước giữa trần gian không tin tưởng và lắm khi là nghịch thù, loan truyền tình thương của Chúa với sự thanh thản vui tươi của những Kitô hữu đầu tiên, những anh em gương mẫu của chúng ta.
Chúng ta hiên ngang vì Chúa của chúng ta đã sống lại và là Thiên Chúa toàn năng: “Tôi với Chúa Cha là một”.
Mục tử nhân lành của chúng ta vẫn “ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế” và hằng ngày vẫn lấy Thịt mình nuôi chúng ta, củng cố niềm tin của chúng ta.
Còn gì hạnh phúc bằng khi biết rằng Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu và Ngài là của chúng ta và trọn vẹn là của chúng ta!
KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ
Chúa Nhật IV PS Giáo hội dành kính đặc biệt Chúa Giêsu Mục tử nhân lành, đồng thời là Ngày PS 4-C169
Chúa Nhật IV PS Giáo hội dành kính đặc biệt Chúa Giêsu Mục tử nhân lành, đồng thời là Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn Thiên triệu Lm và Tu sĩ.
Đức Giêsu mặc khải thêm một khía cạnh của mầu nhiệm bản thân Ngài: Ngài là Mục tử: “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng được sự sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất”
Chúa Giêsu khẳng định chính Người là Mục tử nhân lành, qua các các đặc tính tốt cụ thể:
i. Thí mạng sống vì chiên;
ii. Biết các con chiên và được các con chiên biết;
iii. Muốn quy tụ những con chiên khác ở ngoài vào đàn chiên mình, để rồi sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên.
Giêsu Mục tử Nhân lành, hằng ngày cho đến tận thế vẫn lấy chính Thịt và Máu Mình- là Bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng đàn chiên là giáo hội là chúng ta.
Quả thế, Biến cố Tử nạn- Phục sinh vừa qua minh chứng hùng hồn, rõ nhất, Chúa Giêsu Chúa Giêsu Mục tử nhân từ. Người hy sinh mạng sống vì đàn chiên; và đàn chiên đã tan tác sau các chết thảm khốc của Người thì khi Phục sinh, Người quy tụ mọi người về chung đàn duy nhất trong bình an, hiệp nhất yêu thương. Đàn chiên hiệp nhất ấy, Người chính thức trao cho các Tông đồ, đứng đầu thánh Phêrô thay mặt Người dẫn dắt. Giáo hội Tông truyền của chúng ta, Đức Giáo hoàng, các Đức Giám mục tiếp tục kế vị thánh Phêrô và các Tông đồ, tiếp tục trở nên các Mục tử nhân từ theo Chúa Giêsu dẫn dắt Giáo hội cho đến ngày tận thế.
Chúa Giêsu là Mục Tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Các Giám mục- Linh mục nhờ Bí tích Truyền chức thánh, được Thánh Thần thánh hiến là Đầu và là Mục tử, ‘được mời gọi nối dài sự hiện diện của Chúa Giêsu’ (x. Tông huấn PDV s.15). Các ngài Mục vụ nhân danh Chúa Giêsu, theo gương Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu Mục tử nhân lành, Người yêu chiên, hy sinh mạng sống vì đàn chiên, Người biết rõ từng chiên, yêu thương chăm sóc từng chiên. Người thao thức và kêu mời chúng ta cộng tác sứ vụ Mục tử của Người: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử”.
Quả thật nhờ Bí tích Rửa Tội, Chúa Thánh Thần đã thánh hiến chúng ta thuộc về Chúa, được tham dự vào 3 sứ vụ Cứu Thế cụ thể của Chúa Giêsu: Sứ vụ Tư tế- Ngôn sứ và vương giả. Sứ vụ vương giả của người Kitô hữu cho thấy rõ hơn việc tham dự vào vai trò Chúa Giêsu Mục tử.
Tham dự vào sứ vụ Mục tử của Chúa Giêsu, qua chức năng Vương giả, mỗi chúng ta nhờ ơn Chúa chiến thắng ách thống trị tội lỗi nơi ta bằng một đời sống từ bỏ và thánh thiện, làm chủ chính mình, chủ vật chất. Cộng tác với ơn Chúa, tích cực “góp sức làm cho các thể chế và cảnh sống gây nên dịp tội trở nên lành mạnh” là đang thực thi quyền vương giả (x.GH 36).
Gia đình được gọi là Giáo hội tại gia. Mỗi người đều có gia đình, có con cháu. Tham dự vai trò Mục tử, ông bà cha mẹ có trách nhiệm nêu gương và hướng dẫn chúng nên thánh, góp phân xây dựng gia đình nên thánh.
Và chúng ta chỉ làm tốt vai trò vương giả; đời sống Đức tin tăng triển chỉ khi chúng ta biết nghe theo Lời Chúa. Chúng ta thuộc hàng chiên tốt, đích thực là chiên của Chúa Giêsu cũng hệ tại ở việc ta nghe theo tiếng Chúa.
Tin Mừng hôm nay, Chúa tuyên bố: ‘Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi’
Như thế, chiên tốt thì biết nghe tiếng Chúa và chỉ nghe theo tiếng Chúa.
Thánh Gioan tông đồ nói: người biết Chúa Giêsu thì phải tuân giữ điều răn của Người, nói biết Chúa mà không sống theo điều Người dạy là kẻ nói láo (x 1Ga 2, 4-5).
Mà kẻ nói dối, gây chia rẽ thì không phải con Chúa, không phải là chiên, chỉ đội lốt chiên (chiên giả).
Thuộc hàng Chiên tốt, ta không thể không quan tâm đến các nhu cầu của Giáo hội, thăng tiến Giáo xứ, cách riêng biết cầu nguyện và tích cực chia sẻ cho ơn gọi tận hiến của Giáo hội ngày càng tiến triển.
Trong Tông huấn ‘Amoris laetitia”- Niềm vui Yêu thương của Đức Thánh Cha Phanxico (Tông huấn hậu Thượng HĐGM thế giới, công bố 8.4.2016) nói về đời sống gia đình. Tông huấn cho thấy rõ những giá trị tốt đẹp- cao quý của Tình yêu Hôn nhân, nhất là Hôn nhân Bí tích mà Thiên Chúa đã thiết định để đảm bảo gia đình Hạnh phúc dẫu gia đình đang trực diện nhiều thách đố thời cuộc.
Đức Thánh Cha lưu ý cách riêng việc củng cố giáo dục con cái. Cha mẹ không chỉ nêu gương sống, kiên nhẫn mà trong giáo dục cần tôn trọng con cái, tránh áp đặt…
Có một đoạn đặc biệt ý nghĩa,có tính chất sư phạm cơ bản trong đó, theo ĐGH Phanxicô ‘Thái độ bị ám ảnh không có tính chất giáo dục và không thể có một sự kiểm soát tất cả những hoàn cảnh trong đó một người con có thể trải qua (…). Nếu một người làm cha mẹ bị ám ảnh muốn biết con mình đang ở đâu và kiểm soát mọi sự di chuyển của con, thì chỉ tìm cách thống trị không gian của đứa con mà thôi. Làm như thế họ không giáo dục con, không làm cho nó vững mạnh, không chuẩn bị con đương đầu với những thách đố. Điều quan trọng chính yếu là tạo nên nơi con cái, một cách yêu thương, những tiến trình trưởng thành tự do, chuẩn bị, tăng trưởng toàn diện, vun trồng sự tự lập đích thực” (s.260)
Lạy Chúa Chúa Giêsu Mục tử nhân hiền, nhờ ơn Chúa và trong Giáo hội Tông truyền xin giúp chúng con mỗi ngày mỗi sống xứng đáng là con Thiên Chúa, tích cực tham dự tác vụ ‘Mục tử’ của Chúa qua việc nêu gương sống Thánh thiện, quan tâm đến giáo dục con cái.
Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng....... (Lấy từ dụ ngôn: mỗi sáng người mục PS 4-C170
Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng sự sống đời đời.
(Lấy từ dụ ngôn: mỗi sáng người mục tử cất tiếng gọi, chiên nghe tiếng, biết tiếng chủ chăn mình và đi theo để được dẩn tới đồng cỏ xanh và suối nước mát, được ăn uống no nê và được sự sống dồi dào).
Còn Chúa Giêsu thì không có chiên cũng không hề chăn chiên. Người được Chúa Cha sai làm Đấng cứu độ của cả loài người như là chăm sóc đoàn chiên (theo hình ảnh văn hoá do thái). Người đã phục vụ và hiến mạng sống để có ơn cứu dộ cho nhiều người. Người đã chịu chết để làm chứng cho sự thật, không thỏa hiệp với thế gian. Người đã nêu gương can trường không lui bước trước bất cứ đe dọa nào.
Chúa Giêsu là Mục Tử tốt. Cũng phải có đoàn chiên tốt. Và đây là một trong những giới hạn của ơn cứu độ phổ quát mà theo nhiều người là 'phổ quát' thì phải cứu được hết không một ai bị loại trừ. Chiên tôi thì:
1/ Nghe tiếng tôi: Biết và vâng theo. Phải học Lời Chúa mới biết tiếng Chúa Giêsu và biết chính Chúa Giêsu và còn phải vâng theo nữa. Có người có học biết giỏi lắm, có bằng tiếng sỉ Kinh Thánh mà không vâng theo giống như người do thái xưa.
2/ Tôi biết chúng: ám chỉ người do thái xưa. Chúa Giêsu biết họ không có thiện ý, không tin, đeo theo xin dấu lạ. Chúa Giêsu biết rỏ ai là tín hữu ai không. Không phải cứ xưng nầy nọ là được.
3/ Theo tôi: điều kiện rỏ ràng, theo hay không theo. Theo thì được bảo vệ (không ai cướp chúng khỏi tay tôi vì tôi và Cha tôi là một mà Cha là lớn hơn hết.
4/ Theo thì 'tôi ban cho chúng sự sống đời đời' cũng có nghĩa là không theo thì không ban, không có, không được cứu độ.
Giáo Hội kêu gọi: dùng ngày hôm nay để đặt biệt quan tâm tới giáo sĩ và tu sĩ.
1/ Cầu nguyện: Trước hết cậy nhờ vào ơn Chúa. Nhưng có một số việc tích cực đang chờ đợi chúng ta để công việc của Chúa Chiên Lành được kết quả.
2/ Hợp tác với các Mục tử đang công tác nhất là với các vị gặp nhiều khó khăn trong công tác mục vụ của mình, đừng để các ngài bị cô đơn, giúp đở khi các ngài cần giúp đở, nếu chúng ta muốn có nhiều mục tử tốt như lòng Chúa Giêsu mong ước.
3/ Các cha mẹ biết hướng dẩn con mình và dám hy sinh cho con dù là con một dâng mình theo ơn Chúa gọi làm linh mục hay tu sỉ. Không phải Chúa ban ít ơn gọi mà là ít người chịu sẳn sàng hy sinh đáp lại ơn Chúa gọi và sự chờ mong của Chúa.
4/ Điều tích cực hơn hết là mọi người hãy ý thức mà ham học Lời Chúa vì đây là chìa khoá vạn năng giải quyết tất cả mọi vấn đề vì muốn biết tiếng Chúa để nghe và theo thì phải học. Không học thì không biết làm sao nghe và theo được.
Trào lưu thế tục hoá làm cho con người hiện tại chạy theo hưởng thụ những cái mà thế giới văn minh cung cắp cho họ, không còn nhiều người thích đi tu nữa, có đi tu thì cũng muốn đem tinh thần thế tục hưởng thụ vật chất vào nhà tu. Khủng hoảng cả về số và luợng tu sỉ và linh mục ngày càng trầm trọng. Chúng ta cầu nguyện nhưng cũng đừng quên tích cực góp phần của mỗi người chúng ta tùy thiện chí và khả năng của mỗi người thì mới hy vọng có thêm nhiều mục tử tốt như lòng Chúa Giêsu mong ước.
Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta nhiều mục tử NHÂN DŨNG.
Trước khi Đức Yêsu Phục Sinh hiện ra cho các chị phụ nữ, không ai dám tin Ngài sống lại kể PS 4-C171
Trước khi Đức Yêsu Phục Sinh hiện ra cho các chị phụ nữ, không ai dám tin Ngài sống lại kể cả các tông đồ. Các tông đồ chỉ tin Chúa Phục Sinh vào buổi chiều ngày thứ nhất ngày Ngài sống lại (Ga.20, 19-24), còn ông Thomas chỉ tin Đức Yêsu phục sinh sau khi Chúa Phục Sinh hiện ra cho ông tám ngày sau đó (Ga.20, 25-29).
Trước khi Ngài phục sinh, khi còn sống đời dương thế, người ta tưởng Ngài là một vị tiên tri, tối đa là Đấng Kitô Vua. Còn những lời Ngài mặc khải về chân tướng của Ngài thì chẳng ai hiểu, chẳng hạn “Ta và Cha là một” (Ga.10, 30). Khi nghe Ngài nói câu này, người Do Thái lấy đá ném Đức Yêsu: “chúng tôi ném đá ông không phải vì việc tốt ông làm, nhưng vì một lời phạm thượng, ông là người phàm mà dám cho mình là Thiên Chúa” (Ga.10, 33).
Sau biến cố Đức Yêsu Phục Sinh, các tông đồ nhớ lại những điều Đức Yêsu đã nói. Các ông nhận ra Đức Yêsu còn hơn là một vị tiên tri, còn hơn là một Kitô Vua. Ngài là Đấng mà Ngài đã từng mặc khải: Ngài và Cha là một (Ga.10, 30), Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5.7). Tất cả các Tin Mừng đều được viết sau biến cố Đức Yêsu chết phục sinh. Sau khi Đức Yêsu chết phục sinh, các tông đồ rao giảng Đức Yêsu Phục Sinh; các Kitô hữu tiên khởi tin vào Đức Yêsu, họ đã hỏi về Đức Yêsu nơi các tông đồ. Những chuyện kể về Đức Yêsu được truyền tụng, và những bản ghi lại chuyện về Đức Yêsu do các tông đồ kể được hình thành. Các sách Tin Mừng đã dùng chất liệu là những chuyện kể truyền khẩu và thành văn để viết sách Tin Mừng. Toàn bộ Tân Ước đều được viết dưới ánh sáng biến cố tử nạn phục sinh. Những lời mặc khải của Đức Yêsu về chân tướng của Ngài, chỉ được hiểu và viết lại sau khi Đức Yêsu đã chết và phục sinh, khi các tông đồ và các Kitô hữu tiên khởi nhận ra Đức Yêsu còn hơn là một con người.
Đức Yêsu là một con người hoàn toàn, và còn hơn là một con người. Ngài là một với Thiên Chúa, Ngài ngang hàng với Thiên Chúa cùng với Thánh Thần. “Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, Con, và Thánh Thần” (Mt.28, 19) là niềm tin của các Kitô hữu tiên khởi. Tin Mừng Gioan đã hiểu Đức Yêsu là Lời nhập thể (Ga.1, 14). Bài thánh ca trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Philíp cho thấy niêm tin của Kitô hữu sơ khai: Đức Yêsu phận là phận Thiên Chúa nhưng đã tự hủy mình (Pl.2, 6).
Niềm tin vào Đức Yêsu Phục Sinh biến đổi cuộc đời của Phaolô. Tin vào Đức Yêsu Phục Sinh quả là tin mừng đối với Phaolô và đối với mọi người, nên Phaolô và Barnaba đã được thôi thúc để rong ruổi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Phục Sinh. Cho dù gặp khó khăn, bị chống đối, vất vả gian nan, nguy hiểm đến tính mạng, Phaolô vẫn kiên trì rao giảng Tin Mừng. Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Nếu Đức Yêsu chỉ là một con người, cho dù là tài trí và trổi vượt, thì cũng không đáng để Phaolô phải bôn ba và hy sinh tính mạng để rao giảng. Rao giảng tin mừng, là hành vi giúp con người được cứu độ. Chính vì thế Tin Mừng Đức Yêsu đã thúc bách Phaolô rao giảng. Kể từ khi biết Đức Yêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Yêsu Kitô Chúa tôi, vì Ngài tôi đành mất tất cả để được Yêsu.
Hôm nay là Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh, Giáo Hội theo truyền thống cầu nguyện cho ơn thiên triệu làm linh mục tu sĩ. Ngày nay, Thiên Chúa vẫn cần có nhiều người quảng đại xả thân để lo cho dân Chúa trên khắp thế giới. Ngài vẫn kêu gọi con người cộng tác với Ngài, để giúp con người nhận ra Đức Yêsu là tình yêu của Thiên Chúa cho con người, để họ có thể sống bình an hạnh phúc.
Những người thuộc về Đức Yêsu, và đặc biệt là những người sống đời dâng hiến, là những người được Ngài yêu thương một cách đặc biệt. “Đức Yêsu biết đã đến giờ Ngài phải bỏ thế gian mà đến cùng Thiên Chúa Cha, đã yêu mến những kẻ thuộc về Người còn ở thế gian, thì Ngài yêu thương họ đến cùng”. Sau khi Phục Sinh, Đức Yêsu đã quan tâm săn sóc các tông đồ, đặc biệt khi họ đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì, Ngài đã hiện diện bên bờ hồ để chuẩn bị bữa sáng cho họ. Lời Chúa hôm nay cũng cho những người thuộc về Chúa rất được an ủi: “chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” (Ga.10, 27-29).
Thánh Phaolô diễn tả cùng một thái độ xác tín mình được Thiên Chúa thương, đến độ Ngài nói: “cho dù sự sống sự chết, thiên thần thiên phủ, hiện tại tương lai, không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô” (Rm.8, 38-39). Những người được Thiên Chúa yêu thương được bảo đảm sống trong tình yêu của Ngài. Không ai có thể làm gì được họ,ngay cả khi người ta giết họ, thì họ vẫn luôn được ở trong tình yêu của Thiên Chúa.
Đi theo Chúa, không có nghĩa rằng không có thập giá trên đường; tuy nhiên, những người sống đời dâng hiến là những người dõi bước theo sát Đức Yêsu, chấp nhận vác thập giá mình để đi theo Đức Yêsu. Họ được mời gọi để sống mầu nhiệm tử nạn và phục sinh. Mỗi ngày họ được mời gọi để chết cho mình, với những ý riêng và hy sinh từ bỏ, để họ cũng được hưởng niềm vui phục sinh của Chúa. Nếu họ chưa triển nở và hạnh phúc, e rằng họ đã quên chưa bước theo thầy chí thánh, bằng tự hủy từ bỏ mỗi ngày.
Những người được Thiên Chúa gọi, là để sống với Ngài và để được Ngài sai đi rao giảng. Sống với Đức Yêsu, học theo cách sống của Ngài, để rồi trở thành người mang tin vui bình an tới cho mọi người. Chúng ta cầu nguyện để những người được Thiên Chúa kêu mời quảng đại đáp trả lời Ngài, trở nên những nhà truyền giảng tin mừng, cũng như trở nên những mục tử lo phục vụ dân Chúa. Xin cho những người sống đời sống dâng hiến được sống triển nở và hạnh phúc, để đời sống của họ là lời chứng Thiên Chúa hiện diện và yêu thương.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao các tông đồ tin Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể? 2. Tin Đức Yêsu là Thiên Chúa, con người được gì? 3. Theo bạn, làm sao để có nhiều bạn trẻ đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, trở nên mục tử nhân hậu như Ngài hằng ao ước?
Người Kitô hữu chúng ta có đủ lý do để xúc động và tạ ơn Chúa, vì được thuộc về đoàn chiên của PS 4-C172
TMĐP- Người Kitô hữu chúng ta có đủ lý do để xúc động và tạ ơn Chúa, vì được thuộc về đoàn chiên của Đức Giêsu.
Tin Mừng chúa nhật này rất ngắn so với Tin Mừng của những chúa nhật khác, nhưng tràn đầy tâm huyết của Đức Giêsu và làm xúc động tâm hồn người Kitô hữu khi nghe Đức Giêsu tâm sự: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về”, và “chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,16. 27-28).
Quả thực, không có người chăn chiên nào tuyệt vời như Đức Giêsu, “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 11), Đấng “đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).
Trước hết, Ngài là Mục Tử của “đoàn chiên nhân loại”, vì toàn thể nhân loại là đối tượng của ơn cứu độ, bởi Chúa Cha đã không chỉ yêu một sắc dân, một quốc gia hay một thành phần được tuyển chọn nào đó, nhưng “yêu cả thế gian” và sứ vụ của Con Một Ngài là cứu cả nhân loại không phân biệt, loại trừ người nào (x. Ga 3,16-17).
Sách Tông Đồ Công Vụ đã làm chứng tính phổ qúat của đoàn chiên Đức Giêsu, qua công việc truyền giáo cho dân ngoại của hai ông Phaolô và Banaba, và trước “lòng ghen tức, phản đối” của những người Do Thái (x. Cv 13,45), hai ông đã mạnh dạn lên tiếng: Đáng lẽ “anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại”. Và kết qủa là “dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa …. Và Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy” (Cv 13, 46.48.49).
Thánh Gioan tông đồ trong sách Khải Huyền cũng cho chúng ta thấy hình ảnh phổ qúat của Giáo Hội Đức Giêsu: “Kìa một đòan người thật đông, không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta” (Kh 7,9-10).
Thực vậy, Đức Giêsu mơ ước “sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16), và Mục Tử duy nhất ấy chính là Ngài, và đoàn chiên Ngià chăn dắt là toàn thể nhân loại của mọi thời, ở mọi nơi.
Là Mục Tử nhân lành, Ngài biết từng con chiên vì yêu chúng. Cũng vì biết được Mục Tử tha thiết yêu thương và tận tụy chăm sóc mà chiên lắng nghe và đi theo Mục Tử, như Đức Giêsu khẳng định: “Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10,5).
Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu thiết lập một tương quan “yêu thương, tín nhiệm tuyệt đối “giữa Mục Tử và đoàn chiên, vì chỉ có tình yêu tuyệt đối tín nhiệm, tình yêu không vẩn đục bất cứ nghi ngờ, tính toán, so đo nào giữa Mục Tử và đoàn chiên, thì Mục Tử mới có thể sẵn sàng chết cho đoàn chiên được sống, và chiên mới có thể tin tưởng lắng nghe và đi theo Mục Tử đến cùng.
Vâng, người Kitô hữu chúng ta có đủ lý do để xúc động và tạ ơn Chúa, vì được thuộc về đoàn chiên của Đức Giêsu, bởi xưa kia, chúng ta vốn là dân ngoại; chúng ta có đủ lý chứng để đón nhận trọn vẹn niềm vui được kết hợp mật thiết trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, vì Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành của chúng ta đã qủa quyết: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,29); chúng ta có đủ lý lẽ để hy vọng được “sống và sống dồi dào” (Ga 10,10), vì chính Đức Giêsu, vị Mục Tử giàu lòng thương xót đã hứa với đoàn chiên của Ngài: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28). Và hạnh phúc đích thực, không bao giờ phôi phai, vơi cạn, tàn úa của chúng ta là được mãi ở trong đoàn chiên của Đức Giêsu, là Mục Tử nhân lành và Thiên Chúa cứu độ giầu lòng thương xót.
Kinh Thánh Cựu ước thường trình bày Thiên Chúa như Đấng quy tụ muôn dân, vì Ngài là Đấng Sáng PS 4-C173
Kinh Thánh Cựu ước thường trình bày Thiên Chúa như Đấng quy tụ muôn dân, vì Ngài là Đấng Sáng tạo muôn loài muôn vật. Ngài dựng nên con người và không ngừng chăm sóc như một người Cha. Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại, một gia đình bao gồm nhiều sắc tộc và ngôn ngữ, nhiều sắc thái văn hóa khác nhau, nhưng tất cả đều là anh em một nhà.
Thiên Chúa vừa là Cha, vừa là Mẹ đối với con người. Là Cha, Ngài hướng dẫn nhân loại với cánh tay mạnh mẽ uy quyền. Là Mẹ, Ngài bao bọc chở che với tình thương yêu dịu dàng. Chúa đã nói qua ngôn sứ Isaia: “Israel nói: ‘Chúa quên tôi rồi! Nào người mẹ có thể quên con mình được chăng? Nếu như có người mẹ nào quên con đi nữa, thì Ta cũng sẽ không quên ngươi!”. Tình thương yêu bao bọc của Chúa cũng giống như gà mẹ ấp ủ gà con, che chở con trước cuộc tấn công của sự dữ.
Giáo lý Công giáo dạy: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo. Hôm nay, Ngài vẫn đang tiếp nối công trình sáng tạo đó bằng sự quan phòng yêu thương dìu dắt che chở giữ gìn. Nếu Ngài không chăm sóc và giữ gìn, vũ trụ này sẽ trở về thời hỗn mang, giống như tình trạng trước khi Chúa thực hiện công trình sáng tạo. Người tín hữu luôn nhận ra sự quan phòng yêu thương đó, để tôn vinh, cảm tạ và cầu xin Chúa ban cho mọi ơn lành, đồng thời họ cố gắng để tuân giữ những gì Chúa dạy.
Thiên Chúa là Đấng quy tụ muôn dân, điều đó được diễn tả qua hình ảnh một mục tử. Các ngôn sứ, đặc biệt là ngôn sứ Edêkien và Giêrêmia, nhấn mạnh tới hình ảnh này. Mục tử và đoàn chiên, sói dữ và người chăn thuê, đồng cỏ và suối mát… đó là những điều rất quen thuộc đối với bất kỳ người Do Thái nào. Qua giáo huấn của các ngôn sứ, chính Thiên Chúa nhận mình là một mục tử. Ngài săn sóc đoàn chiên, nhất là đối với các con chiên ốm đau hoạn nạn.
Sau khi đã long trọng mừng lễ Phục Sinh, Phụng vụ Chúa nhật thứ bốn diễn tả Đấng Phục sinh như một mục tử. Vị mục tử ấy đã quên mình vì chiên, đã hy sinh mạng sống mình để đàn chiên được cứu rỗi. Tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, Chúa Giêsu sử dụng hình ảnh mục tử và đàn chiên, khi Người khẳng định: “Tôi là Mục tử nhân lành”. Trong tiếng Hy Lạp, “Mục tử nhân lành” cũng có nghĩa “Mục tử đích thực”. Nơi Đức Giêsu, có đủ những đức tính tốt của một mục tử, nhất là sự hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Khi Chúa Giêsu bị bắt trong vườn Cây Dầu, trước một đám đông lính tráng hằm hằm sát khí, Người nói với họ: “Vậy nếu các anh tìm tôi, thì hãy để cho những người này đi”. Tác giả Tin mừng còn thêm lời chú giải: ‘Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói: ‘Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai’ (Ga 18, 8-9). Đây chính là nét đẹp của một mục tử đích thực.
Cái chết của Chúa Giêsu đã quy tụ muôn dân. Đó cũng là điều Thượng tế Caipha đã nói. Dưới cái nhìn của tác giả Gioan, câu nói của thày Thượng tế mang tính tiên tri (x.Ga 11,51). Qua cái chết của Người, Thiên Chúa sẽ quy tụ mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối. Điều ấy đã được thực hiện ngày hôm nay, khi Tin Mừng Phục sinh được loan báo cho toàn thế giới. Cây thập giá như cánh tay dang rộng ôm lấy vũ trụ, nơi đó con mọi người thuộc mọi sắc tộc khác nhau.
Chúa Giêsu là Mục tử. Những ai tin Chúa sẽ trở nên con chiên trong đàn chiên của Người. Ngay từ thuở ban đầu, các tông đồ nghĩ rằng chỉ có người Do Thái mới có thể trở lại làm Kitô hữu. Với thời gian, các ông hiểu rằng Tin Mừng Phục sinh không chỉ dành cho dân tuyển lựa, vì Đức Giêsu là ánh sáng muôn dân, và ơn cứu độ nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Người được ban cho mọi dân tộc. Mặc dù các tông đồ gặp nhiều chống đối từ phía người Do Thái, các ông vẫn vững một niềm tin, mạnh dạn can đảm rao giảng Đức Giêsu Phục sinh, nhờ vậy mà cộng đoàn những người tin Chúa phát triển nhanh chóng. Chính sự ngăn cản của người Do Thái đã gợi hứng cho các Tông đồ vượt ra ngoài ranh giới Do Thái và đến với dân ngoại. Hai ông Phêrô và Barnaba khẳng định: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại”.
Khi so sánh cộng đoàn Giáo Hội với đàn chiên, Chúa Giêsu mong muốn quy tụ chúng ta trong tình hiệp nhất. Người cũng muốn chúng ta lắng nghe giáo huấn của Người. Giáo huấn của Người đem cho chúng ta hạnh phúc, như mục tử dẫn đưa đàn chiên tới đồng cỏ xanh, suốt mát lành. Người cũng là Đường, là Sự thật và là Sự sống đem lại hạnh phúc đời này và đời sau cho những ai tin vào Người.
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Ngài đã đến và ở giữa những mảnh đời cùng khổ. Suốt PS 4-C174
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Ngài đã đến và ở giữa những mảnh đời cùng khổ. Suốt cuộc đời dương gian Ngài luôn sống với người nghèo và thi ân giáng phúc cho những người khổ đau. Đâylà mầu nhiệm Thiên Chúa ẩn mình. Ngài ẩn mình ngay trong đêm tối của cuộc đời, nhất là những cuộc đời bịlãng quên, bịcoi rẻ, bịđánh giá thấp, bịvùi dập và có khi bịloại trừ. R. Tagore đã cảm nhận điều đó nhưsau:
“Chỗ này là thảm hoa, nhưng Người không bước vào. Người lại đứng nơi kia, bên những người nghèo khó. Nơi này là chỗ cao, muôn người nghiêng kính chào. Nhưng Người đứng nơi kia, bên hàng hạ nhân khốn cùng. Người ở với người nông dân đang cày bừa. Người ở với người công nhân đang đập đá. Người đang đổ mồi hôi dưới nắng mưa từng ngày. Và chân bùn tay lấm trong tấm áo tả tơi.”[1]
Hôm nay Chúa Giê-su ví tình thương của Ngài như tình thương của người mục tử. Người mục tử biết từng con chiên, lo lắng cho từng con chiên, chăm sóc cho từng con chiên, sẵn sàng chết cho đàn chiên. Chính Chúa đã từng nói: “Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong”. Thật là hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta, vì Chúa biết từng người chúng ta. Chúa lưu tâm đến từng hoàn cảnh của chúng ta. Chúa còn bao bọc chở che chúng ta bằng biết bao ơn lành hồn xác. Sống dưới sự chăm sóc của Chúa, chúng ta không chỉ hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh phúc cả đời sau, miễn là chúng ta biết nghe tiếng Chúa và bước đi trong đường lối của Chúa.
Tình thương của người mục tử không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc dưỡng nuôi chúng ta, mà con dám thí mạng sống mình vì chúng ta. Cái chết trên thập tự giá là bằng chứng hùng hồn cho một tình yêu lớn lao đến nỗi dám chết để đổi lại sự sống cho chúng ta. Ngài còn đi đến đỉnh cao của sự dâng hiến trọn vẹn là trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta. Với tấm bánh đơn sơ nhỏ bé, Chúa muốn hoà tan trong chúng ta để chúng ta được ở lại trong Chúa, và nên một trong Chúa. Qua đó, Chúa cũng muốn mượn lấy bản tính nhân loại của chúng ta, để Ngài lại có thể tiếp tục yêu thương và phục vụ cho đàn chiên được sống ấm no và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay rất cần những tấm lòng dám hy sinh cho nhau, dám vì lợi ích của tha nhân mà quên mình phục vụ, mà quảng đại trao ban. Thếgiới hôm nay rất cần những nhà lãnh đạo biết đứng về phía người nghèo để lắng nghe nhu cầu của họ hơn là với những tầm nhìn vĩ mô mà xa rời thực tế. Phần đông con người hôm nay cần cái ăn cái mặc hơn là trung tâm tráng lệ phồn vinh. Phần đông con người ngày nay cần được chăm học học hành, y tế chất lượng nhưng xem ra người nghèo vẫn bị bỏ rơi, vẫn thiếu thốn mọi nhu cầu cuộc sống.
Giađình hôm nay cũng rất cần những người cha, người mẹ biết quên đi niềm vui của bản thân để quan tâm lo lắng cho con cái. Nếu cha mẹ biết lưu tâm tới từng đứa con, biết canh chừng cho con khỏi sự dữ đang bủa vây thì chắc chắn con cái sẽ sống khoẻ mạnh và an vui.
Cámơn Chúacuộc đời hômnay vẫn còn đó, những con người đã từ khước niềm vui trong bậc sống vợ chồng, để dâng hiến phục vụ cho tin mừng Nước Trời trong bậc sống linh mục, tu sĩ. Cámơn Chúa, vìcuộc đời hôm nay vẫn tươi đẹp vì biết bao người cha, người mẹ, chấp nhận một nắng hai sương, lặn lội nơi ruộng vườn và ngược xuôi nơi bến chợ để lo cho từng cuộc đời những người con. Và còn đó biết bao người, tuy không danh phận giữa đời, nhưng sẵn lòng làm bất cứ điều gì, miễn là đem lại niềm vui cho anh em. Và còn rất nhiều những cuộc đời rất âm thầm đang vẽ lại hình ảnh người mục tử nhân lành, khiêm tốn cúi mình băng bó những vết thương đau của đồng loại bằng tình thương và phục vụ một cách quảng đầy hy sinh.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm nhiều vị mục tử tốt lành để chăm sóc đàn chiên của Chúa. Những mục tử biết hoạ lại khuôn mẫu của vị mục tử nhân lành luôn sống hết mình vì đàn chiên, luôn tận tuỵ chăm sóc đàn chiên của Chúa. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.
Ta là mục tử tốt lành, Dẫn chiên tới suối, trong xanh ngọt ngào. Đồng tươi cỏ mọc non cao, Bên PS 4-C175
Ta là mục tử tốt lành, Dẫn chiên tới suối, trong xanh ngọt ngào. Đồng tươi cỏ mọc non cao, Bên dòng suối mát, tuôn trào ước mong. No đầy chan chứa phỉ lòng, Đàn chiên theo bước, vào trong cánh đồng. Lắng tai nghe ngóng ngắm trông, Mắt nhìn hướng tới, chủ ông dẫn về. Thỏa tình no đủ ê chề, Tuân theo ý chủ, mọi bề đẹp thay. Đàn chiên mục tử hôm nay, Giê-su chăm sóc, đôi tay chữa lành. Con nào yếu bệnh hoành hành, Dù chiên hung dữ, cũng dành trông nom. Chiên nào mập béo gầy còm, Yêu thương chữa trị, ngó dòm xót xa. Không ai cướp khỏi tay Ta, Cũng không hư mất, rời xa khỏi đàn. Chúa Chiên đi trước dẫn đàng, Quy về một mối, thiên đàng ngày sau.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh người chăn chiên để diễn tả sự quan tâm và lòng yêu thương chăm sóc của Chúa đối với con dân của Ngài. Chúa Giêsu tự giới thiệu Ngài là Mục tử tốt lành. Mục tử yêu thương và chăm nom từng con chiên. Chúa Giêsu phán: Chiên Tôi, thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Chúa đặc biệt yêu thương những con chiên bệnh hoạn, ghẻ lở và xa lạc. Chúa qui tụ chúng thành đoàn chiên và chăm dẵm chúng. Ngài đi trước, chúng theo sau, dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi.
Chúa Giêsu biết tên từng con chiên và những nhu cầu riêng của nó. Ở Phi Châu, có một bộ lạc, người ta không bao giờ đếm. Họ không biết tí gì về toán học. Có người hỏi người dân bản xứ: Nhà ông có bao nhiêu con chiên. Ông đáp: Tôi không biết. Vậy nếu lỡ mất một hay hai con, làm sao ông biết. Câu trả lời thật ý nghĩa. Ông nói: Không phải tôi mất một con số mà là mất một hình dáng, một bộ mặt. Mất một khuôn mặt dễ thương.
Mỗi người có một nét riêng tư. Trong Giáo Xứ hay Cộng đoàn, khi chúng ta thấy vắng bóng người nào, chúng ta không mất một hay hai người bỏ nhà thờ. Chúng ta mất chính khuôn mặt hiện diện hàng tuần nơi hàng ghế này. Là mục tử tốt lành, Chúa biết tính tình và sở thích của từng con chiên. Nếu một người mục tử tìm hiểu được nhu cầu cuộc sống của từng tâm hồn và sẵn sàng giúp đỡ. Người mục tử tốt lành dám xả thân mình vì đoàn chiên.
Người mục tử tốt là người dám tiến thân đi trước làm gương mẫu cho mọi người. Truyện kể: Một người mục tử dẫn bày chiên đến bờ suối, nhìn dòng nước chảy, tự nhiên cả bày sợ hãi. Người mục tử không làm sao thôi thúc chúng qua suối được. Cuối cùng, ông bế một con cừu non, cùng đi với nó xuống dòng nước và dẫn qua bờ bên kia. Khi cừu mẹ thấy con mình ra đi, nó quên cả sợ hãi và phóng theo. Thế là cả đàn cừu nối đuôi nhau theo sự hướng dẫn của người mục tử.
Chúa Giêsu chọn một hình ảnh tuyệt đẹp để diễn tả cộng đoàn dân Chúa. Hình ảnh người mục tử tốt lành đi trước, đàn chiên theo sau. Ơn gọi làm tông đồ nơi mỗi người như Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ Nam Nữ, các Gia trưởng, các Hiền mẫu, các Phụ huynh và các Thầy Cô là những người có trách nhiệm hướng dẫn, dậy dỗ, coi sóc và nuôi dưỡng đàn chiên. Chúng ta phải là những người mẫu mực, tốt lành và yêu thương con cái trong mọi hoàn cảnh dù xấu, dù tốt. Đó chính là hình ảnh người mục tử tốt lành.
Ngày nay, chúng ta đang sống một cuộc sống hưởng thụ. Cuộc sống đó làm cho chúng ta dần PS 4-C176
Ngày nay, chúng ta đang sống một cuộc sống hưởng thụ. Cuộc sống đó làm cho chúng ta dần mất đi sự tin tưởng vào tình yêu thương của người khác dành cho mình. Nơi Chúa Giêsu, người Thầy tuyệt vời và là vị mục tử nhân lành hằng trung tín yêu thương đoàn chiên của mình. Ngài sẽ không bỏ rơi một con chiên nào dù nó có ra sao.
Chúa Giêsu vị mục tử nhân lành, Ngài biết rõ từng con chiên, gọi tên từng con và âu yếm chăm sóc nó. Con chiên ấy là mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu nói với người Do thái rằng: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,27-28). Có vị mục tử nào yêu đoàn chiên đến nỗi trao ban tất cả và làm mọi cách để bảo vệ đoàn chiên của mình? Đến cả mạng sống mình, Ngài cũng chẳng hối tiếc. Ngài không giữ lại cho riêng mình điều gì. Ngài dùng chính tình yêu thập giá để yêu thương chăm sóc bao bọc từng con chiên. Tình yêu đó đem lại cho từng con chiên sự sống đời đời. Để được sự sống của Chúa Phục Sinh, con chiên phải làm gì?.
Mỗi người chúng ta cần nhận biết rằng, chúng ta thật hạnh phúc khi thuộc về đoàn chiên của Chúa. Chúng ta đã được Chúa ban đức tin để nghe Lời Chúa, nhận ra Ngài là vị mục tử nhân lành. Ngài biết rõ mỗi người chúng ta cần gì và sẵn sàng trao ban mọi sự. Có lúc nào chúng ta nghe tiếng Ngài và đi theo Ngài trong sự thật không? Ngài biết chúng ta và yêu chúng ta, chúng ta có thật sự biết và yêu Ngài không? Chúng ta có đang thuộc về đoàn chiên của Ngài không? Ngài hằng tìm kiếm, hy vọng và chờ đợi các con chiên lạc trở về. Ngài là vị mục tử đích thực, đầy bao dung với đoàn chiên của mình. Đứng trước tình yêu của Ngài, mỗi người chúng ta hãy mau mắn đáp trả bằng cách lắng nghe Lời Chúa, đón nhận tình yêu Ngài qua việc siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày và bước theo Ngài là dấn thân phục vụ mọi người xung quanh. Để tình yêu của Ngài nơi chúng ta được lan tỏa không ngừng.
Lạy Chúa, Chúa là vị mục tử nhân lành, xin cho mỗi người chúng con luôn thuộc về đoàn chiên của Chúa, biết từ bỏ những gì không thích hợp với con chiên của Chúa. Nhờ đó, chúng con mới xứng đáng được hưởng sự sống đời đời. Amen.
Cuộc sống dường như vẫn luôn mang trong mình cái dáng vẻ ồn ào và vội vã của nó. Thời gian PS 4-C177
Cuộc sống dường như vẫn luôn mang trong mình cái dáng vẻ ồn ào và vội vã của nó. Thời gian trôi nhanh hơn hay nhịp sống của con người vội vã hơn? Trong bầu khí đó, làm sao ta nghe được tiếng Chúa?.
Chúa Giêsu đã nói với người Do thái rằng: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi…” (Ga 10,27). Là người Kitô hữu, hạnh phúc của ta là được thuộc về đoàn chiên của Chúa. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, chính Người sẽ chăn dắt và giữ gìn ta, cho ta được sống và sống dồi dào. Qua Giáo hội, ta được đón nhận đức tin, nhờ đó ta được nhận biết Chúa là cha giàu lòng thương xót. Ta được mời gọi sống yêu thương. Chính Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Điều Thầy truyền dậy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17). Tiếng Chúa đã nhiều lần vang lên trong lòng ta, thúc bách ta sống đức tin và đức ái cách cụ thể. Tiếng Chúa cũng mời gọi ta cách tha thiết rằng: “Hãy theo Thầy” Chẳng phải ta đã quảng đại dâng mình cho Chúa nhưng chính hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa đã thương chọn ta từ trước. Chính Chúa đã chọn ta trước và mỗi ngày ta cũng lập lại lời này: “Con cũng xin chọn Ngài, lạy Chúa.” Chúa đã yêu ta trước và ta cũng thưa lên cùng Chúa như một người con thơ: “Con cũng yêu Ngài, lạy Chúa”. Tình yêu là dấu để tỏ cho thế gian biết ta thuộc về đoàn chiên của Chúa. Không phải lời ta nói nhưng chính sức sống tràn đầy yêu thương nơi ta mới là một thông điệp rõ ràng hơn cả.
Thế giới hôm nay còn có nhiều người chưa nhận biết Chúa. Nhiều người đang trải qua nhiều đau khổ và thất vọng. Họ cần một bàn tay xoa dịu mọi vết thương, cần được dẫn đến con đường của hy vọng. Thiên Chúalà Đấng trung tín, ai tin cậy nơi Chúa sẽ không bao giờ phải thất vọng. Thiên Chúa đã muốn cho con người được hạnh phúc. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao phó đoàn chiên của Chúa cho tông đồ Phêrô. Qua bao thế kỷ, Giáo hội vẫn không ngừng nhận lãnh sứ mạng Thiên Chúa trao phó và luôn mời gọi con cái mình quảng đại đáp trả tiếng của Chúa. Để lắng nghe được lời mời gọi của Chúa, ta phải giữ được sự thinh lặng cần thiết trong tâm hồn. Chúa thường thì thầm trong tâm hồn ta, Chúa cũng nói qua người này, người kia, giữa biến cố trong đời. Có khi, Chúa lại dùng ta làm một dấu chỉ của tình thương Chúa cho người khác.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa là mục tử nhân lành. Chúa chăm sóc con và chọn con bước đi trên con đường ơn gọi, con đường ngược dòng. Có Chúa dẫn lối, giữ gìn con không còn lo gì. Xin giúp con biết liên tục đáp trả lời mời gọi của Chúa bằng một trái tim mở rộng và luôn lắng tai để vâng phục Chúa. Amen.
Xưa nay chúng ta thường hiểu những người đi tu làm linh mục hay Tu Sĩ Nam Nữ trong các Hội PS 4-C178
Xưa nay chúng ta thường hiểu những người đi tu làm linh mục hay Tu Sĩ Nam Nữ trong các Hội Dòng là những người có ơn Kêu Gọi hay được Chúa kêu gọi tuyển chọn.
Vậy Ơn kêu gọi là gì?
Bây giờ nếu có ai hỏi, phải cắt nghĩa ơn kêu gọi như thế nào cho những người Trẻ hiểu rõ, có lẽ không có một định nghĩa giống như một công thức trắng đen rõ ràng nào.
Vì ơn kêu gọi không phải là một đơn từ, một bài viết ra cho người đọc, người xem chấp nhận hay không chấp nhận. Nhưng Ơn kêu gọi là tiếng mời gọi âm thầm hầu như linh thiêng vang lên từ trong tâm hồn mỗi người.
Nếu có ai hỏi, thế tiếng mời gọi đó vang vọng phát ra âm thanh trong tâm hồn con người như thế nào và vào lúc nào?
Điều này cũng không có thể nói diễn tả ra đơn giản bằng ngôn ngữ hay chữ viết con số được. Vì tiếng mời gọi vang vọng trong tâm hồn không thành tiếng nghe được bằng thính gíac của đôi tai. Nhưng cảm nghiệm nhận ra được trong trái tim tâm hồn.
Phải, tiếng mời gọi truyền đi qua cảm nhận trong làn rung động của trái tim, hay từ tầng thần kinh cảm gíac. Và tiếng mời gọi đó xảy đến bất chợt không theo một thời gian nhất định nào.
Như thế, có thể hiểu là ơn kêu gọi vang lên rồi cứ thế triển nở khắc ghi trong tâm hồn người đó mãi mãi sao?
Không hẳn là như thế đâu. Vì như hạt giống gieo vãi xuống đất, có hạt gặp nền đất tốt, có nước, có ánh sáng mặt trời chiếu xuống cùng được chăm sóc vun xới, sẽ mọc lên thành cây sinh hoa kết trái tươi tốt. Trái lại, nếu thiếu những điều kiện căn bản đó, hạt giống sẽ mai một chết lịm dần đi.
Với tiếng mời gọi cũng tương tự như thế. Những điều kiện ngoại cảnh về môi trường giáo dục đào tạo, môi trường đời sống gia đình, nếp sống văn hóa lành mạnh, cùng nếp sống đạo đức giúp tiếng mời gọi phát triển lớn lên thành ơn kêu gọi phát triển đứng vững giữa dòng đời sống.
Trong dân gian có suy tư: Ánh sáng mặt trời chiếu tỏa hơi nóng nồng ấm. Còn gío thổi thì mang đến hơi lạnh. Vì thế bầu khí sinh sống, sự vun xới chăm sóc nếp sống đạo đức nơi gia đình, nơi xứ đạo tựa như ánh sáng mặt trời chiếu tỏa hơi nóng cần thiết cho mầm ơn kêu Gọi nảy sinh phát triển.
Ơn kêu gọi cần phải được vun trồng chăm sóc theo hướng tinh thần cùng đào tạo vươn tới Thiên Chúa, là Đấng kêu gọi, và hướng tới căn bản đời sống tình người, không chỉ cho hôm qua hôm nay mà còn phải liên tục mãi cho ngày mai.
Ngày xưa trong thời Cựu ước, Thiên Chúa kêu gọi cá nhân từng người, như Thánh Tiên tri Maisen, Thánh tiên tri Isaia, Edechiel làm sứ gỉa loan báo ý muốn của Ngài cho mọi con người.
Chúa Giêsu đến, Ngài kêu gọi hoặc từng người, như các Thánh Tông đồ Phero, Phaolo, Andre, Toma, Giacobe…là những người tin đi theo làm chứng nhân sứ gỉa cho phúc âm Chúa giữa dòng đời sống xã hội. Trải qua dòng thời gian luôn có những người, những Bạn Trẻ lớn lên đã cảm thấy có tiếng thôi thúc trong tận tâm hồn về một đời sống trong nhà Dòng, trong Chủng viện ở các Giáo phận về đời sống dấn thân cho việc làm chứng rao truyền tình yêu Nước Chúa ở trần gian trong lòng Giáo Hội. Đó là tiếng Chúa kêu gọi thôi thúc trái tim tâm hồn họ.
Hằng năm vào ngày Chúa Nhật 4. mùa phục sinh, còn gọi là Chúa Nhật Chúa chiên lành, năm nay vào ngày 17.04.2016, là ngày cầu nguyện cho ơn kêu Gọi Linh mục, Tu sỹ Nam Nữ trong các Hội Dòng trong lòng Giáo Hội Công Giáo.
Hãng xưởng, nhà máy sản xuất cần những thợ nhân công làm việc, nhưng họ cần hơn những vị kỹ sư hoạch định thiết kế công việc chế tạo. Cũng tương tự như vậy trong đời sống Giáo Hội. Lẽ dĩ nhiên, không dám cùng không được phép nói hay nghĩ cho rằng người tín hữu Chúa Kitô là những người thợ làm việc còn các Linh mục tu sỹ là những kỹ sư…
Không, không, không đâu. Mọi người trong Giáo Hội Chúa đều là những tín hữu Chúa Kitô như nhau. Nhưng mỗi người có bổn phận trách vụ khác nhau trong cánh đồng vườn nho của Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Vì thế trong lòng Giáo Hội có những ơn Gọi khác nhau. Và Ơn kêu gọi cũng như đời sống của con người là con đường sống trải dài từ hôm qua sang ngày mai.
„ Ơn gọi được nảy sinh ngay trong lòng Giáo Hội. Từ khoảnh khắc một ơn gọi bắt đầu trở nên rõ ràng, ơn gọi ấy cần phải có “cảm thức” về Giáo Hội. Không ai được kêu gọi để dành riêng cho một vùng riêng biệt, hay cho một nhóm hoặc một phong trào nhưng là dành cho Giáo Hội và thế giới…
Ơn gọi lớn lên trong lòng Giáo Hội. Trong quá trình đào tạo, cáo ứng viên với những ơn gọi khác nhau cần học hỏi kiến thức về cộng đoàn Giáo Hội, vượt qua những giới hạn lúc đầu. Để khi kết thúc, họ nên cùng nhau thực hiện những trải nghiệm tông đồ với những thành viên khác của cộng đoàn, chẳng hạn như: cùng theo một khóa giáo lý, trao đổi các thông điệp Giáo Hội, gặp gỡ liên hội dòng, chia sẻ trải nghiệm việc truyền giáo tại các vùng ngoại vi, chia sẻ đời sống tu viện, khám phá nguy cơ đưa đến cám dỗ; liên hệ với các vị thừa sai để đào sâu hơn về sứ vụ đến với muôn dân; và trong cộng đoàn các linh mục giáo phận, để đi sâu vào kinh nghiệm đời sống mục vụ giáo xứ và giáo phận. Đối với những ai đã sẵn sàng cho việc đào tạo, cộng đoàn Giáo Hội luôn là môi trường đào tạo cơ bản.“ Đức Giáo Hoàng Phanxico, Sứ điệp ngày Thế Giới Ơn Gọi 2016: “Ơn gọi được sinh ra trong lòng Giáo Hội“
Dân tộc Do thái thời Cựu ước phần đông là dân du mục, cuộc đời họ gắn liền với đàn vật và PS 4-C179
Dân tộc Do thái thời Cựu ước phần đông là dân du mục, cuộc đời họ gắn liền với đàn vật và đồng cỏ. Cho nên khi Đức Giêsu rao giảng Tin mừng, Ngài dùng những hình ảnh trong đời thường, để minh họa cho dân chúng dễ hiểu những chân lý Tin mừng.
Tin mừng hôm nay gợi lên hình ảnh người mục tử và đàn chiên, để nói lên mối tương quan cao đẹp giữa mục tử Giêsu nhân lành và chúng ta là đàn chiên của Ngài. Người mục tử nhân lành cần hiểu biết chiên của mình.
Đức Giêsu nói: “Ta biết các chiên Ta…” (Ga 10, 27). Nhưng để hiểu biết, trước hết mục tử Giêsu phải từ bỏ trời cao xuống đất thấp để ở cùng, ở với chiên của mình.
Ngài hoà mình với dòng người tội lỗi nơi bờ sông Gio-đan, để xin Gioan cử hành phép rửa (Mt 3, 13-16). Ngài đồng bàn ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi (Lc 19,7). Ngài nâng ly rượu chúc mừng đôi tân hôn trong tiệc cưới Cana (Ga 2, 1-11). Ngài khóc thương Ladarô bạc mệnh (Ga 11,35). Ngài cứu chữa những kẻ bệnh tật, vui đùa với các trẻ thơ… Nói tóm lại, tất cả mọi người đều có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim Mục tử Giêsu.
Do đó, Ngài thấu rõ tâm tư, tình cảm của chúng ta nữa. Ngài biết những thành công thất bại, những lo lắng buồn phiền của chúng ta. Ngài biết những bệnh tật mà chúng ta đang chịu. Ngài biết những ưu tư chúng ta đang mang trong tâm hồn.
Người mục tử nhân lành còn chăm sóc từng con chiên của mình.
Thánh vịnh 23 phác họa chân dung Mục tử Giêsu nhân lành tận tình nuôi dưỡng đàn chiên cách chu đáo, chẳng để chiên phải thiếu thốn điều gì.
Tới nguồn nước chỗ nghỉ ngơi, Ngài hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Ngài lo bồi dưỡng” (Tv 23, 1-3).
Lời tiên báo của ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã ứng nghiệm từng chữ nơi Mục tử Giêsu: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào lạc mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ chữa cho lành” (Edekien 34, 15-16).
Người mục tử nhân lành có ánh mắt quan tâm. Quan là nhìn, tâm là tim: là nhìn bằng con tim. Đức Giêsu nhìn chúng ta bằng trái tim mục tử. “Ngài chạnh lòng thương khi thấy dân chúng đi theo Ngài vất vưởng như đàn chiên không người chăn dắt” (Mc 6, 34).
Ngài chạnh lòng thương khi thấy dân chúng đói lã, nên hoá bánh ra nhiều cho họ ăn uống thoả thuê” (Mt 15, 32). “Ngài chạnh lòng thương trước bệnh tật của con người, nên ra tay chữa lành nhiều người” (Mt 14,14). Ngài chạnh lòng thương trước nỗi mất mát đau buồn của bà goá thành Na-im, vì con trai của bà đã chết, Ngài đến chạm quan tài để hồi sinh cho đứa con của bà” (Lc 7, 13-15).
Cuối cùng, người mục tử nhân lành hi sinh tính mạng vì đàn chiên. Chúa nói: “Tôi là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hi sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). Thật vậy, “Ngài tự hiến mạng sống vì chúng ta”(Ga 10,18).
Các mục tử trên đời này nuôi chiên để làm kinh tế. Người ta xén lông, xẻ thịt hoặc bán chiên lấy tiền; còn Mục tử Giêsu thì lại hiến mình chịu chết để chiên được sống: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào” (Ga. 10, 10).
Ngài chấp nhận trao ban chính mình làm lương thực nuôi sống đàn chiên đang lầm than đói khát: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, sẽ không phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga. 6, 35).
Anh chị em thân mến,
Tại Đền thờ Thánh Phêrô, sáng thứ Năm Tuần Thánh năm 2013, ĐTC Phanxicô, nhắn nhủ các Linh mục như sau: “Tôi xin anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi chiên của mình”.
Đức Thánh Cha gợi lên một hình ảnh thật ấn tượng: mục tử phải lấm mùi chiên. Nghĩa là người chăn chiên sống gần gũi, gắn bó với đàn chiên, lo lắng chăm sóc, bảo vệ đàn chiên của mình đến nỗi mùi chiên đã ngấm vào, không những áo quần mà cả da thịt nữa.
Thế thì, không chỉ Đức thánh cha, các giám mục, linh mục mới là những mục tử, mà là tất cả chúng ta đều được mời gọi theo gương Mục tử Giêsu.
Vì thế, trong giáo xứ, cha xứ phải là người mục tử sẵn sàng xả thân phục vụ giáo dân trong xứ đạo của mình.
Trong gia đình, cha mẹ cần có tấm lòng mục tử biết dành thời giờ, yêu thương chăm sóc, tận tình lo lắng cho con cái.
Nơi trường học, thầy cô giáo cần có tấm lòng mục tử, biết tận tâm, tận tình giáo dục học trò, trở thành những con người tốt cho xã hội và Giáo hội.
Ở bệnh viện, những y tá, bác sĩ cần có tấm lòng mục tử, “lương y như từ mẫu”, hết lòng chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân.
Đồng thời, hôm nay thường gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành, Giáo hội dành cầu nguyện cho ơn thiên triệu.
Xin Chúa thương ban cho Giáo hội có nhiều thanh niên nam nữ, biết quảng đại đáp lại tiếng Chúa, để trở thành những mục tử nhân lành, theo gương vị Mục Tử Tối Cao, là hiểu biết tâm tư nguyện vọng của chiên mình, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hi sinh bản thân vì lợi ích cho đàn chiên. Amen.
Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống. Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên. Đó là điều minh định PS 4-C180
Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên
Đó là điều minh định của Mục Tử Nhân Lành Giêsu được Thánh sử Gioan cho biết trong Ga 10:11-12.
Người ta có nhiều cách ví von để kết luận về một hệ lụy tất yếu nào đó: cha nào con nấy, thầy nào trò nấy, rau nào sâu nấy. Còn Chúa Giêsu xác định: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai” (x. Mt 7:16; Mt 12:33; Lc 6:44). Xem quả có thể biết cây. Nhận định của Chúa Giêsu có thể áp dụng vào mọi trường hợp trong cuộc sống.
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, là Chúa Chiên Lành. Đã từng có những người noi gương Thầy Chí Thánh – như Thánh Gioan Maria Vianney (sinh ngày 8-5-1786, qua đời ngày 4-8-1859), cha sở xứ Ars (Pháp), đúng là một mục tử đích thực, là linh mục như Chúa muốn, sống khắc khổ vì lợi ích của các linh hồn. Ngay tại Việt Nam cũng đã có các gương sáng “nặng mùi chiên” như ĐGM Jean Cassaigne (gọi thân thương là “Cha Sanh”, người Pháp, 1895-1973) chấp nhận chết với các bệnh nhân phong Di Linh (Dalat), LM F.X. Trương Bửu Diệp (1897-1946) không ngại chết thay cho đoàn chiên (Gx Khúc Tréo, ngày nay có trung tâm hành hương Tắc Sậy). Chúa Giêsu muốn các linh mục phải thực sự sống PHỤC VỤ chứ KHÔNG HƯỞNG THỤ (Mt 20:26-28; Mt 23:11; Mc 10:43-45). Cả Thiên Chúa và Giáo Hội đều mong ước có những linh mục thánh như vậy. Lòng dân tỏ lộ ý trời.
Hình ảnh con chiên rất quen thuộc với người Do Thái – kiểu như với người Việt là con trâu, con bò, con heo. Đàn chiên nào cũng phải có chủ, và bất kỳ đàn súc vật nào cũng vậy, huống chi là một tổ chức, do đó mà một tổ chức hoặc một nhóm người nào thì cũng có người “chống mũi chịu sào”, thậm chí dù đó chỉ là nhóm ba người: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên” (Trong ba người cùng đi, chắc chắn có một người là thầy; nghĩa bóng là người hướng dẫn, ý nói về tầm quan trọng của tập thể). Thật vậy, dù là tam giác hay đa giác, các cạnh và các góc đều có mối liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời – dù là cạnh hay góc.
Kinh Thánh cho biết vào một ngày Sabát, hai ông Phaolô và Banaba vào hội đường ngồi tham dự. Tan buổi họp, có nhiều người Do Thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ân sủng của Thiên Chúa.
Theo sách Công Vụ cho biết, ngày Sabát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. Một sự kiện rất lạ lùng. Thế nên khi thấy đám đông như vậy, người Do Thái SINH LÒNG GHEN TỨC, họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Nhưng ông Phaolô và ông Banaba vẫn mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em KHƯỚC TỪ lời ấy, và TỰ COI MÌNH KHÔNG XỨNG ĐÁNG hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv 13:46-47). Thiên Chúa ban cho mỗi người được quyền tự do chọn lựa chứ không ép buộc. Tự nguyện có giá trị hơn miễn cưỡng.
Hai ông nói lời rất giản dị nhưng rõ ràng và chính xác, lời đó đã đủ sức “chạm” vào tận đáy lòng họ. Dân ngoại nghe lời đó và họ vui mừng tôn vinh Lời Chúa, rồi tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời cũng đều tin theo. Thế là Lời Chúa đã lan tràn khắp miền ấy. Sự thật mãi là sự thật, chân lý là vĩnh cửu, không ai có thể thay đổi chân lý hoặc xuyên tạc sự thật.
Tuy nhiên, những người Do Thái đã sách động nhóm phụ nữ thượng lưu theo đạo Do Thái, cùng với các thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và ông Banaba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Chuyện đời là thế, sự đời thường là vậy. Thấy họ cứng lòng, hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần. Sự thật minh nhiên về những gì Chúa đã hứa.
Niềm vui không thể che giấu, thế nên Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ, vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo. Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế, chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt” (Tv 100:1-3). Nhận ơn thì phải biết ơn, trong cuộc sống đời thường cũng vậy. Chúng ta phải biết tạ ơn vì “Chúa nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín” (Tv 100:5). Hoàn toàn hợp lý!
Chắc chắn bất kỳ ai cũng không thể xuyên tạc sự thật, có cố ý bóp méo sự thật thì cuối cùng cũng bị người ta phát hiện. Thánh Gioan Tông Đồ kể lại thị kiến có thật chứ không bịa đặt: Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế (Kh 7:9). Thánh nhân trả lời: “Thưa Ngài, Ngài biết đó”. Vị ấy bảo: “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7:14). Một cách giặt kỳ lạ: Giặt bằng máu – chứ không giặt bằng nước.
Có những điều bình thường mà kỳ diệu – và cũng có những điều tưởng lạ mà lại rất bình thường. Thánh Inhaxio Loyola cho biết: “Nếu Thiên Chúa gởi cho bạn nhiều đau khổ, đó là dấu Ngài có kế hoạch lớn dành cho bạn, và chắc chắn Ngài muốn làm cho bạn nên thánh”. Như vậy, gian truân và đau khổ là “điểm son” chứ không là nỗi bất hạnh như phàm nhân lầm tưởng. Thật vậy, đại văn hào Victor Hugo có cách nhận định chí lý: “Đau khổ như hoa quả, Chúa không khiến nó sinh ra trên những cành quá yếu ớt mà không chịu nổi”. Chắc chắn KHÔNG TRẢI QUA ĐAU KHỔ thì người ta KHÔNG CÓ KINH NGHIỆM và KHÓ TRỞ THÀNH NHÂN TÀI. Còn Albert Hubbard nói: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời! Đó là DẤU HIỆU chắc chắn cho thấy bạn ĐANG SỐNG”. Có đau khổ thì mới đáng sống, thật kỳ lạ quá chừng!
Chúa Giêsu trải qua đau khổ mới tới vinh quang, và Ngài mệnh danh là Người Tôi Tớ Đau Khổ. Chính sự đau khổ tôi luyện người ta thêm vững mạnh và can đảm. Một dạng “mềm” hơn nhưng cần thiết: Thất bại là mẹ thành công. Vì thế, chính những người đã trải qua gian truân thử thách kia mới “được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh, và chính Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ” (Kh 7:15-17). Đó là quy trình hợp lý của công bình và công lý, vì Thiên Chúa là Đấng chí minh, chí công, chí thiện, và chí thánh!
Chắc hẳn ai cũng biết rằng trong các mối quan hệ, dù là mối quan hệ nào, cũng có hệ lụy đặc trưng. Riêng về hệ lụy chủ và chiên, chính Chúa Giêsu đã minh định: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10:27-28). Mục Tử Giêsu sống vì, sống cho, và sống với đàn chiên. Ngài không thể an tâm khi lạc mất một con chiên.
Thật thú vị với cách nói của công ty bảo hiểm Prudential: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”. Trong châm ngôn của công ty này là “sự lắng nghe” (có chú ý) chứ không đơn thuần là “sự nghe” (không chú ý hoặc tình cờ). Hai động thái “lắng nghe” và “thấu hiểu” cũng có phần khác nhau, phải cố gắng mà “nối kết” chúng với nhau thành một động thái. Bởi vì nếu chỉ “lắng nghe” mà không “thấu hiểu” thì cũng vô ích. Người ta cũng không thể cố gắng “thấu hiểu” mà không chịu “lắng nghe”. Hai động thái liên quan lẫn nhau, hầu như không thể tách rời – tuy hai mà một.
Tương tự, nếu chủ và chiên không chịu nghe nhau, chủ tự nói tự nghe, và chiên cũng vậy, thì đó chỉ là các hoạt động một chiều, như hai đường thẳng song song không thể gặp nhau hoặc không thể đồng quy, tất nhiên không thể nào hiểu nhau được. Cũng vậy, chủ cứ độc đoán, chỉ muốn dùng “quyền” mà “hành” người khác thì thật nguy hiểm, đó chỉ là “thợ chiên” chứ không phải “chủ chiên”. Thật chí lý khi Việt ngữ có danh từ kép: Quyền hành. Thế thì thật thâm thúy!
Chỉ có chủ chiên thật mới dám xả thân vì đoàn chiên, chắc chắn chủ chiên giả hoặc thợ chiên thì chẳng bao giờ dám làm vậy – mà họ cũng chẳng muốn thế đâu. Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành nên Ngài mạnh mẽ xác định: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha LÀ MỘT” (Ga 10:29-30). Gương Mục Tử Giêsu sáng chói, nhưng vấn đề là chúng ta có thật lòng soi và có thấy gì hay không.
Lạy Mục Tử Giêsu Nhân Lành, xin ban cho nhiều người dấn thân mở Nước Chúa, xin giúp chúng con luôn biết lắng nghe và thấu hiểu nhau, xin tẩy rửa chúng con trong Máu và Nước từ Thánh Tâm Ngài, xin hoàn thiện chúng con trong từng khoảnh khắc của cuộc sống, qua từng nhịp thở, nhờ tác động của Thánh Linh. Chúng con tin kính Ngài là Thánh Tử Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Chúa nhật thứ tư mùa Phục sinh của ba chu kỳ niên lịch phụng vụ được mệnh danh là Chúa nhật PS 4-C181
Chúa nhật thứ tư mùa Phục sinh của ba chu kỳ niên lịch phụng vụ được mệnh danh là Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Nghệ thuật Kitô giáo thuở xưa thường phác họa Đức Giêsu như Đấng Chăn Chiên Lành. Hình ảnh người chăn chiên đã được mô tả trong Cựu ước về Thiên Chúa như là Đấng chăn dắt dân Người (Tv 22). Người Do thái cổ xưa là dân du mục, vì thế văn chương của họ là những sách Cựu ước cũng thường đề cập đến đời sống chăn nuôi, du mục. Chính Đức Giêsu cũng dùng những hình ảnh về chăn nuôi quen thuộc để dạy ta những chân lý thiêng liêng về đạo giáo.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã xưng mình là Chủ Chăn. Ngài có đàn chiên để chăn dắt. Đàn chiên của Ngài có những đặc tính như Ngài đã tuyên bố :”Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”(Ga 10,27). Đàn chiên của Ngài có những đặc tính khác với đàn chiên của những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái lúc bấy giờ. Những đặc tính đàn chiên của Ngài là : biết lắng nghe chủ chăn, nhận biết chủ chăn và bước theo chủ chăn.
Đức Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành, không trực tiếp điều khiển đoàn chiên dưới thế này, Ngài dùng các vị đại diện trong Giáo hội là Đức Giáo hoàng, các giám mục và các Linh mục mà hướng dẫn thay cho Ngài. Chính Ngài đã khẳng định với các Tông đồ :”Ai nghe các con là nghe Thầy, ai khước từ các con là khước từ Thầy”(Lc 10,16). Vì thế, nếu chúng ta đã gọi các vị lãnh đạo trong Giáo hội là chủ chăn, chúng ta có trách nhiệm phải yêu mến, thành tâm lắng nghe sự hướng dẫn của các ngài để đến với Chúa, và nhờ đó, sẽ được dẫn tới cuộc sống đời đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 13,14.43-52.
Một khúc quanh quyết định cuộc đời Tông đồ của thánh Phaolô. Trước tiên Phaolô và Barnabê loan báo Tin mừng cho người Do thái tại Antiochia miền Pysidia, nhưng rồi các ngài đã phải sớm chấm dứt việc rao giảng vì người Do thái tỏ ra “ghen tức” khi thấy một số đông dân ngoại cũng quan tâm đến Tin mừng (Cv 13,45).
Hai vị Tông đồ quyết định rời hội đường và dứt khoát đến với dân ngoại, không quên nhắc lại lời tiên tri về sứ mạng toàn cầu của Người Tôi Tớ đau khổ (Cv 13,47)
Do vậy, dân ngoại đã hân hoan đón nhận Tin mừng và tôn vinh Thiên Chúa. Lời Chúa được lan tràn ra khắp miền ấy.
+ Bài đọc 2 : Kh 7,9.14b-17.
Trong một cuộc thị kiến, thánh Gioan tông đồ đã thấy một đoàn người thật đông đảo. Họ là dân Thiên Chúa đã khải hoàn. Đoàn người đông đảo này :
– Họ rất đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ. – Họ đứng trước ngai Con Chiên, Đấng đã cứu độ muôn dân qua cái chết của Ngài. – Con Chiên sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.
+ Bài Tin mừng : Ga 10, 27-30.
Đức Giêsu tự giới thiệu mình là một vị Mục tử, một vị Mục tử tuyệt vời. Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài bảo vệ và sẽ đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Vấn đề là : chúng ta có tin tưởng bước theo Ngài không ?
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
I. ĐỨC GIÊSU LÀ MỤC TỬ.
Bối cảnh. Bài Tin mừng hôm nay rất ngắn, được trích ra từ cuộc tranh luận với người Do thái trong dịp Lễ Lều, nhân dịp kỷ niệm ngày thanh tẩy Đền thờ thời Maccabêô.
Đức Giêsu đang ở Giêrusalem trong dịp lễ này. Tại đây xẩy ra cuộc tranh luận với người Do thái về vấn đề Người có phải là Đấng Thiên Sai không, và cuối cùng Người đã xưng mình là Con Thiên Chúa bằng cách tuyên bố rằng : Cha Người ở trong Người và Người ở trong Cha trong sự hiệp thông trọn vẹn đồi sống và việc làm (Lc 10,22-41).
Bài Tin mừng hôm nay là một phần trích trong cuộc tranh luận và ghi lại lời Đức Giêsu quả quyết Người đồng bản tính với Chúa Cha.
Trước khi trả lời dứt khoát Người đồng bản tính với Chúa Cha, Đức Giêsu tuyên bố sự khác biệt nhau giữa người Do thái và “chiên của Người”, tức là những kẻ tin theo Người.
Đối với người Do thái, những lời Người nói và những việc Người làm là các phép lạ, không đủ thuyết phục họ, vì xét cho cùng họ có dã tâm và không muốn tin. Ngược lại, chiên của Người là những người biết ngoan ngoãn đón nhận, vì họ không cần đến nhiều dấu lạ bên ngoài để làm điều kiện cho việc đi theo Người.
Như vậy, Đức Giêsu khẳng định Người là Mục tử và Người có đàn chiên để chăn dắt và Người đưa họ đến cuộc sống đời đời mà không ai có thể cướp khỏi tay Người được.
Hình ảnh người chăn chiên trong Cựu ước. Hình ảnh người chăn chiên không chỉ là một hình ảnh đẹp ở vùng thôn quê mà nó còn có ở trong Thánh Kinh. Trong khắp vùng Đông phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử chăn dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó khi giải thoát dân riêng khỏi Ai cập :”Người lùa dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng như đàn cừu ngang qua sa mạc” (Tv 78,52).
Đavít, một trong những nhà lãnh đạo chính trị đầu tiên của Israel, là một cậu chăn chiên tại Belem (1S 17,34-35). Ôâng Vua lý tưởng của tương lai, Đức Messia, Đavít mới, cũng được loan báo như một “Mục tử” : “Ta sẽ chỗi dậy một mục tử duy nhất, Người sẽ chăn dắt chúng. Đó là Đavít, tôi tớ của Ta” (Ed 34,23).
Chăn nuôi súc vật từng bầy là nghề chính của dân Do thái. Các tổ phụ vĩ đại của họ từ Abraham, Isaác, Giacob, Maisen, Đavít… đều là mục tử.
Do đó, người Do thái đã diễn tả về Thiên Chúa như là một mục tử nhân hậu, luôn hết tình yêu thương đàn chiên (Tv 22; Gr 31,10; Ed 24,11-16). Và Đức Giêsu đã tự mạc khải như là một Mục tử tuyệt với (Ga 10,11-14). Rồi đi xa hơn nữa, Người đã bầy tỏ cho nhân loại biết chính Người là Thiên Chúa (Ga 10,27-30).
II. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA MỤC TỬ.
Những đặc tính của vị Mục tử được tóm gọn trong câu nói của Đức Giêsu :”Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”(Ga 10,27). Ở đây, ba động từ được Đức Giêsu nói lên, là những động từ tác động rất phù hợp với con người : nghe, biết và theo.
Chiên nghe tiếng người chủ chăn. Ngày nay, tại Palestine, cũng còn có thể chứng kiến được cảnh chăn chiên mà Chúa Giêsu đã từng chứng kiến 2000 năm qua. Cảnh những người mục tử Bedouin mang những đàn chiên của họ trở về nhà từ những cánh đồng cỏ khác nhau sau một ngày đi ăn cỏ. Thường vào lúc hoàng hôn, các đàn chiên khác nhau cùng kéo về qui tụ ở một chỗ uống nước. Chúng trà trộn lẫn lộn với nhau tù 8 hay 9 đàn nhỏ trở thành một bầy chiên lớn. Mặc dù lẫn lộn chung với nhau nhưng những chủ chăn không hề lo sợ chiên bị lạc. Đến giờ ra về, mỗi chủ chiên thổi lên một tiếng gọi riêng biệt – một tiếng còi, tiếng tiêu, tiếng sáo, hay tù và – thì những con chiên trong đàn sẽ tự động rời khỏi đám đông theo đàn của mình mà về chuồng. Chúng tự biết chúng thuộc về đàn nào, chúng nghe tiếng gọi của người chủ chăn và đi theo. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”(Ga 10,27) (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 171).
Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo hội, và những ơn soi sáng nơi tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phaolô viết :”Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,17) hay “Đức tin nhờ nghe : Fides ex auditu (Ga 3,2).
Chiên và chủ chiên biết nhau.
Chiên rất thân thiện với chủ chăn. Khi đàn chiên đang nằm ngủ êm đềm, người chủ chiên có thể bước đi ngay giữa đàn chiên mà không gây rối loạn hay gây mất ngủ cho con nào cả. Trong khi đó chỉ một bước chân của người lạ mặt xâm nhập vào chuồng chiên đang lúc chiên nằm ngủ cũng đủ gây kinh hoàng và hoảng hốt cho cả đàn chiên. Dường như chiên đã coi người chủ chăn như một thành phần rất thân thuộc của chúng. Và sự liên hệ mật thiết phát triển dần dần đến độ chủ chăn có thể phân biệt và hiểu tiếng kêu của từng con chiên, tiếng kêu đau thương hay tiếng kêu hoan lạc. Chiên nghe lệnh của người chủ chăn để biết khi nào đi kiếm ăn hay lúc nào lên đường trở về nhà. Ngoài ra, người chủ chăn còn biết cả tên gọi và đặc tính của từng con chiên nữa.
“Biết” trong Kinh Thánh, từ ngữ này trước hết không mang một ý nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết người nào đó một cách đích thực, đến nỗi đoán được cả tâm tính họ. Sự thân mật, sự hiểu biết lẫn nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thể xác… là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng (St 4,1).
Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà là hiểu biết sâu xa, yêu thân tình đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực, đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
Sự biết chí tình chí thiết này thực sự đã được thể hiện với hai thánh nữ Catarina và Têrêsa Hài đồng Giêsu. Catarina là người mù chữ chỉ học nơi Thánh tâm Chúa Giêsu và trở thành tiến sĩ Hội thánh. Têrêsa cũng chẳng học trường nào, chỉ học nơi tình yêu Chúa Giêsu Hài đồng, đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong làm tiến sĩ Hội thánh tháng 08/1997 trong đại hội giới trẻ tại Paris.
Chiên thì theo chủ chăn.
Những người chăn bò thường đi sau đàn bò dùng roi quất lên mình bò để lùa chúng đi thành đàn với nhau. Đối với chiên thì hoàn toàn khác hẳn. Người mục tử luôn đi trước để hướng dẫn đàn chiên theo sau. Nếu người chăn chiên đi đàng sau đàn chiên giống như chăn bò, chiên sẽ chạy tán loạn vì không biết đường đi. Chúng muốân được hướng dẫn, được bảo vệ và che chở.
“Theo” đó là một hành động không có gì là thụ động cả, nhưng diễn tả một thái độ tự do : đính kết toàn thân một người nào đó vào thân phận một kẻ khác. Theo nghĩa là gắn bó với Đức Giêsu mời gọi :”Hãy theo Ta”(Ga 1,42).
Đi đâu cho thiếp đi cùng, Đói no thiếp chịu, lạnh lùng tiếp cam.
Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng là từ bỏ như Phêrô bỏ chài lưới, vợ con, cha mẹ và mọi sự để theo Thầy; như Matthêu bỏ địa vị, tiền của để theo Chúa; như Mađalena bỏ đường tội lỗi bước vào đời sống mới. Đó là đổi đời, từ bỏ nếp sống cũ, một cuộc tái sinh vào đời sống mới.
III. TÂM TÌNH VỊ CHỦ CHĂN.
Tận hiến cho đoàn chiên. Người chủ chăn rất tha thiết với đàn chiên, họ coi đàn chiên như một phần trong thân thể mình. Họ không yên tâm khi một con chiên đi lạc. Họ không đành lòng bỏ con chiên bị thương mà không băng bó. Họ đã sẵn sàng vác cho chiên trên vai khi không đi được hoặc khi bị đi lạc.
Khi kẻ làm thuê trông coi con chiên, thì lũ cho sói không gặp rắc rối nào trong việc rình bắt đàn chiên. Ngay khi kẻ làm thuê nhìn thấy một con chó sói đang tiến lại gần, thì hắn ta liền bỏ rơi đàn chiên. Hắn chỉ nghĩ đến một điều duy nhất là cứu thoát bản thân mình mà thôi. Người chủ tốt của đàn chiên không làm như vậy. Họ bảo vệ đàn chiên chống lại sự tấn công của chó sói, thậm chí họ còn sẵn sàng liều mất mạng sống của mình nữa.
Đức Giêsu, Chúa chiên nhân lành, Đấng đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Mạng sống của Người không bị lấy đi, cũng không phải theo lệnh Chúa Cha. Chính Người đã tự ý trao ban, và trao ban một cách vui lòng. Người tự hiến cho đoàn chiên để mang chúng về đồng cỏ của sự sống đời đời. Hình ảnh cha thánh Đamien, tông đồ người hủi, đã nói lên tình thần tận hiến cho đàn chiên, những con người phong cùi xấu số bị bỏ rơi.
Chiến đấu bảo vệ đàn chiên.
Người mục tử Đông phương là một người du mục đáng gờm, một thứ lính chiến, có khả năng bảo vệ đàn vật mình khỏi thú dữ… gấu hay sư tử đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (1S 17,34-35).
Đavít kể lại cho vua Saulê trước khi giết được tướng Goliat của quân Philitinh :”Hồi tôi tớ bệ hạ chăân chiên cho thân phụ, hễ sư tử hay gấu đực tha con chiên nào, tôi liền rượt bắt, đánh nó và cướp con chiên khỏi miệng nó. Nếu nó cự lại, tôi liền nắm lấy râu đánh và giết nó tức khắc. Tôi tớ bệ hạ đã giết sư tử cũng như gấu đực thì cũng sẽ thanh toán tên Philitinh không cắt bì này như vậy vì nó đã dám nhục mạ đạo quân của Thiên Chúa hằng sống”( 1Sm 17tt).
Đavít đã nêu gương hy sinh, vật nhau với sư tử, với gấu đực, để cướp lại một con chiên bị đem đi. Đavít vì tha thiết với bầy chiên, nên không ngần ngại đánh nhau với sư tử và gấu đen để cướp lại chiên. Đức Giêsu khi nói :”Không ai cướp được chúng” đã nghĩ đến cuộc giao chiến khốc liệt mà Người phải đương đầu trong cuộc khổ nạn, để đối phương “không cướp được” một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ chăn thuê, thường chạy trốn trước sói sữ, Đức Giêsu sẽ phó nộp và đành mất mang sống mình vì chiên của Người (Ga 10,12-15).
Không bỏ rơi đàn chiên.
Người chăn chiên rất tha thiết với đàn chiên, lo lắng cho đàn chiên hết mình, không bao giờ để một con chiên nào bị bỏ rơi. Dụ ngôn con chiên lạc đã chứng tỏ điều đó :”Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chíùn con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất”(Lc 15,4-7).
Chung quanh chúng ta hay ngay trong đời sống chúng ta có những hiện tượng rời bỏ hàng ngũ, bất trung thường xẩy ra, thì chúng ta nghĩ thế nào ? Thưa đó là những hiện tượng tự nhiên vì đó là mầu nhiệm của tự do. Nhưng một điều chúng ta cần biết đó là không khi nào Chúa ruồng bỏ ! Chỉ có con người rời bỏ bàn tay Chua. Và ngay khi con người rời bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại : dụ ngôn đứa con hoang đàng đã chứng tỏ điều đó (x. Lc 15).
Ban cho chiên sự sống đời đời.
Con chiên đi theo chủ chăn thì sẽ được dẫn đến đồng cỏ xanh tươi đảm bảo sự sống. Cũng vậy, nhưng ai thực sự đi theo Chúa, tức là để Chúa dẫn dắt, thì sẽ được bảo đảm đưa đến sự sống đời đời.
Sự sống này, một đàng không thể mất được, vì đã được chính Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sựï Sống bảo đảm. Đàng khác, cũng không bị ai cướp đi được, vì một khi đã được Chúa dẫn dắt thì không còn sợ vấn đề Người không đủ khả năng chăm sóc và bảo vệ sự sống của đàn chiên nữa.
Trong một bài giảng, thánh Cyrillô thành Alexandria đã giải nghĩa câu “Ta ban cho chúng sự sống đời đời” như sau :”Đừng hiểu sự sống này chỉ là chuỗi ngày nối tiếp nhau mà chúng ta dù là người tốt hay xấu cũng đều sở hữu sau khi sống lại, nhưng phải hiểu đây là sống trong niềm vui. Ta cũng có thể hiểu “sự sống” này theo nghĩa bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô tháp nhập chúng ta vào chính sự sống của Người, các tín hữu được thông phần vào chính xác thịt Người, như lời Người phán :”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời”(Ga 6,54).
IV. NHIỆM VỤ CỦA ĐOÀN CHIÊN
Chúa Giêsu không thể trực tiếp hướng dẫn mọi Kitô hữu, nhưng Người đã dùng các vị đại diên là hàng giáo phẩm và giáo sĩ để thay quyền Chúa mà hướng dẫn. Vì Chúa đã nói với các tông đồ :”Ai nghe các con là nghe Ta”(Lc 10,16).
Chúng ta hãy đọc một đoạn mà công đồng Vatican II nói về các Linh mục :”Thi hành chức vụ của Chúa Kitô là Đầu và là Chủ chăn theo phận vụ mình, các Linh mục nhân danh Giám mục tụ họp gia đình Thiên Chua ùnhư một cộng đoàn huynh đệ duy nhất, và nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần các ngài dẫn đưa họ đến cùng Chúa Cha. Để thi hành thừa tác vụ này cũng như các thừa tác vụ khác, các Linh mục được trao ban quyền thiêng liêng để kiến thiết Giáo hội. Trong việc kiến thiết này, các Linh mục phải theo gương Chúa Kitô mà đối xử rất nhân đạo với hết mọi người…(Sắc lệnh về Linh mục, số 4)
Chúng ta thường gọi những người lãnh đạo trong Giáo hội là mục tử hay chủ chăn. Chúng ta đang sống dưới sự hướng dẫn của các ngài, chúng ta hãy tin tưởng các ngài, vì đức tin bảo cho chúng ta biết : Chính Chúa Giêsu, Mục tử tốt lành đích thực, đang trực tiếp chăn dắt chúng ta qua những người lãnh đạo trong Giáo hội, là Đức Giáo hoàng, các Giám mục, Linh mục. Vì thế, chúng ta có bổn phận nghe theo sự hướng dẫn của các ngài, công tác với các ngài, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta, để duy trì và xây dựng đoàn chiên nhỏ bé là gia đình mình, tập thể mình đang sống, đang làm việc và đoàn chiên rộng lớn hơn là Giáo hội.
Một lần nữa chúng ta hãy lặp lại lời Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ :”Ai nghe các con là nghe Thầy, ai khước từ các con là khước từ Thầy”(Lc 10,16). Qua câu Kinh Thánh này, chúng ta có thể khẳng định rằng vâng nghe các vị lãnh đạo trong Giáo hội là vâng nghe Chúa, và như vậy, đây là một nhiệm vụ không tthể thiếu được, vì như người ta nói :
Cá không ăn muối cá ươn, Con cãi cha mẹ trăm đường con hư. (Ca dao)
Bài Tin Mừng hôm nay rất vắn, chỉ gồm có 3 câu, thế nhưng chỉ với ba câu đó chúng ta thấy PS 4-C182
Bài Tin Mừng hôm nay rất vắn, chỉ gồm có 3 câu, thế nhưng chỉ với ba câu đó chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đã đủ để phác họa nên một bức chân dung thật sống động về mối tương quan giữa Chúa và những kẻ tin vào Người. Chúa Giêsu tự coi mình như một mục tử và những kẻ tin vào Người như những con chiên cùng sống trong một ràn chiên của Chúa.
1. Người mục tử Chúa muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay là người như thế nào?
Chúa cũng chỉ sử dụng có hai từ: biết và cho và cũng chỉ với hai từ đó Chúa đã cho chúng ta thấy chân dung một người mục tử tốt là người như thế nào.
* Tôi biết chiên của tôi.
Người chăn chiên tốt lành biết rõ từng con chiên. Ông biết tên từng con. Ông biết tình trạng sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta.
Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư ? Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội.
Ta cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư ? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà, sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá.
Ta tuyệt vọng vì cuộc đời không lối thoát ư ? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen tối trong vườn Giết-si-ma-ni và trên thánh giá.
Ta cô đơn vì bị mọi người xa lánh ư ? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người.
Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư ? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ tội đồ nô lệ.
Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người, nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.
* Tôi cho chúng được sống đời đời.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả đoàn chiên món quà quí giá nhất là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của chính bản thân Người. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn chiên sẽ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ chiên trở thành một cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp với nhau trong một tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.
Đó là chân dung người mục tử theo ý của Chúa.
2. Còn đâu là hình ảnh con chiên trong ràn của Chúa là hình ảnh như thế nào?.
Chúa cũng chỉ sử dụng có hai từ để diễn tả: “nghe” và “theo”
* Trước hết “Chiên cuả tôi nghe tiếng Tôi.”
Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người.
Nhưng nghe được Lời của Thiên Chúa không phải dễ.
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như một hơi thở. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỉ lại ồn ào như một ngày hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của sự từ bỏ chính mình, dẫn ta lên ngọn đồi gai góc của thập giá hi sinh và thách thức ta phục vụ đến hi sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỉ mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến chỗ dìm mình trong đại dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quí trên đời.
Vì thế, để nghe được Lời Chúa, ta phải có một đôi tai thật thính, thật bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.
* Ta biết chúng và chúng theo Ta”.
Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với người khác.
Chiên thì phải theo Chủ.
Có một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syrie, thấy ba người chăn chiên dẫn bầy của mình đi ăn chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:
– Men ah! Men ah ! (Theo tiếng Ả rập có nghĩa là “Hãy theo ta! Hãy theo ta !”)
Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy chung và đi theo người ấy lên đồi.
Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.
Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:
– Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để tôi kêu như mấy người kia kêu, xem các con chiên của anh có theo tôi hay không.
Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu :”Men ah ! Men ah !”, nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi :
– Thế chiên của anh không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh thôi sao?
Người chăn Syrie trả lời :
– Ồ! có chứ! Nhưng đó là vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai.
Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ.
Mức độ thứ nhất : Thích nhìn, nghe người mình yêu.
Mức độ thứ hai : Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình đều có bóng dáng của người yêu.
Mức độ cuối cùng : Chia sẻ tất cả những gì mình có, kể cả cuộc sống của mình vì người mình yêu.
Như thế, theo tức là yêu thương ở mức độ cao. Con chiên đi theo Chúa phải hoàn toàn chủ động và nhất là phải thiết lập một quan hệ mật thiết với Chúa là Chủ của mình.
Vâng! Kính thưa anh chị em
Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống đang mở ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời sống tâm linh chúng ta. Nhiều giá trị đang bị đảo lộn. Nhiều con chiên đang bị lôi kéo rời xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống đang xô đẩy chúng ta ra khỏi cộng đoàn khiến nhiều người trở thành những con chiên bơ vơ không người chăn dắt. Trong một hoàn cảnh mới mẻ như thế, chúng ta rất cần có những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của đoàn chiên và thực sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều người trẻ biết đáp lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để phục vụ mọi người trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục của chúng ta trở thành những mục tử tốt lành noi gương Vị Mục Tử duy nhất là Chúa Giê su Kitô, Chúa chúng ta. Amen.
Tuần trước Phúc Âm thuật lại, ba lần Phêrô công khai tuyên xưng ông mến Đức Kitô hết sức PS 4-C183
Tuần trước Phúc Âm thuật lại, ba lần Phêrô công khai tuyên xưng ông mến Đức Kitô hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn. Sau mỗi lần tuyên xưng như thế, Đức Kitô trao cho ông trọng trách, chăm sóc và bảo vệ đàn chiên Chúa. Tuần này Phúc âm chú trọng đến sự liên hệ mật thiết giữa chủ chiên và đàn chiên. ‘Chiên ta thì nghe tiếng ta, ta biết chúng và chúng theo ta Gn 10,27. Chiên nghe được tiếng chủ gọi nói lên sự liên hệ mật thiết giữa chủ chiên và đàn chiên. Nghe và biết, diễn tả sự liên hệ thường xuyên, và tiếng gọi kia, không phải là tiếng ai xa lạ, mà là tiếng gọi quen thuộc. Tiếng quen thuộc chủ chiên kêu gọi, không phải gọi chơi, mà gọi với mục đích. Qua bí tích rửa tội, Kitô hữu đáp trả tiếng chủ chiên mời gọi, và chủ chiên còn tiếp tục mời gọi. Chúng ta cầu nguyện để luôn trung thành với lời đáp trả, ta lãnh nhận khi chịu phép rửa, và tiếp tục tuyên xưng đức tin mỗi khi chúng ta cùng nhau đọc kinh Tin Kính, tuyên xưng trung thành với đức tin Chúa ban.
Chương đầu sách Sáng Thế Kí tường thuật sau mỗi ngày sáng tạo, Thiên Chúa thấy mọi sự tốt đẹp. Điều này cho thấy những gì Chúa tạo dựng đều tốt đẹp (STK 1,10). Chúng ta chọn nghe tiếng Chúa bằng cách chọn những gì tốt đẹp, đáng yêu, đáng quí và hỗ trợ, bảo vệ cũng như ban sự sống. Chọn như thế là chọn sống theo í Chúa. Khi Lời Chúa bám rễ, ăn sâu vào trong tim ta, ta sẽ chọn điều tốt lành, tránh điều xấu, và ngay cả phấn đấu để sự xấu không thể ảnh hưởng đến quyết định liên quan đến cuộc sống của chính mình, và cuộc sống của anh em. Sóng cả và giòng nước xoáy có thể làm lung lay mỏ neo con thuyền. Giữ cho ‘con thuyền’ đức tin không bị trôi theo giòng nước, Kitô hữu cần lắng nghe và đáp trả tiếng kêu gọi của chủ chiên. Đức Kitô lắng nghe tiếng Chúa Cha và kết hợp với Chúa Cha. Tông đồ lắng nghe tiếng Đức Kitô và kết hợp mật thiết với Đức Kitô. Kitô hữu lắng nghe và kết hợp với Đức Kitô qua lắng nghe tiếng kêu gọi của các tông đồ, và những vị các ngài tuyển chọn và sai đi. Qua đó Kitô hữu kết hợp với Chúa Cha, bởi chính Đức Kitô trao quyền cho thánh Phêrô coi sóc Giáo Hội, do Ngài sáng lập nơi trần thế. Giáo Hội do chính Đức Kitô sáng lập, đặt căn bản trên đức tin của các tông đồ mà Đức Kitô là đá tảng. Ngày nay đáp trả theo tiếng kêu gọi của Giáo Hội chính là tự chọn thuộc vào thành phần thiểu số, nhất là khi tiếng gọi đó không được đám đông hưởng ứng, và thường bị truyền thông phê bình, phân tích tỉ mỉ, chỉ trích theo quan điểm của đa số. Chỉ những Kitô hữu thường xuyên lắng nghe tiếng chủ chiên mời gọi mới đủ can đảm chấp nhận, và đáp trả tiếng mời gọi trên. Đáp trả lời mời gọi trên là dấu chỉ người đó thuộc về Đức Kitô; lắng nghe các tiếng khác chính là từ chối, hoặc tự tách mình khỏi dân riêng Chúa. Tuỳ theo mức độ đáp trả mà người ta nhận ra bạn là người tin theo Đức Kitô đến mức nào? Tin theo Đức Kitô, Kitô hữu nhận được sự sống trường sinh, nhận ân sủng và tình thương Chúa, và bảo đảm nơi ở nơi Thiên quốc Gn 10,27. Đáp trả lại tiếng chủ chiên chính là từ chối lời mời gọi khác nơi xã hội. Tiếng Đức Kitô mời gọi không phải là tiếng nói thường, mà là lời mời gọi của Đức Kitô Phục Sinh, Đấng sống lại từ cõi chết, đánh tan thần chết và ban sự sống đó cho những ai bước theo con đường Ngài mời gọi Gn 11,25-26.
Sự sống trường sinh là quà tặng miễn phí cho những ai tuyên xưng Đức Kitô Phục Sinh. Người đó thuộc về Đức Kitô, nhận được ân sủng và bình an Phục Sinh. Sự sống trường sinh là hiện thực, và có được bởi không thế lực nào có thể thắng được tình yêu của Đức Kitô. Đức Kitô ban ơn trường sinh, và đồng thời cũng ban cho ta quyền tự do lựa chọn: Hoặc tin và bước đi theo Ngài, hoặc tin và bước theo í nguyện riêng mình. Kitô hữu đi theo Đức Kitô nhận được Thánh Thần Chúa, hướng dẫn chỉ đường. Đi theo í riêng, một mình, cô đơn, trên trường đời, bởi từ chối ơn lành Chúa ban.
Trong Sứ điệp Ngày Thế Giới Ơn Gọi 2015, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô viết: “Chúa nhật thứ PS 4-C184
Trong Sứ điệp Ngày Thế Giới Ơn Gọi 2015, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô viết: “Chúa nhật thứ 4 mùa Phục Sinh trình bày cho chúng ta hình ảnh vị Mục Tử nhân lành biết rõ các chiên của mình, kêu gọi, nuôi dưỡng và dẫn dắt chúng. Trong Chúa Nhật này, từ hơn 50 năm nay, chúng ta cử hành Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi. Mỗi lần Ngày này đều nhắc nhớ chúng ta về tầm quan trọng của việc cầu nguyện, để, – như Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ, – “xin chủ mùa gặt sai nhiều thợ đến làm việc trong mùa gặt của Người” (Lc 10, 2)… Như thế, lắng nghe và theo tiếng Chúa Ki-tô Vị Mục Tử nhân lành, để cho mình được Chúa thu hút và dẫn dắt, dâng hiến chính cuộc sống của mình cho Chúa, có nghĩa là để cho Chúa Thánh Linh dẫn đưa chúng ta vào trong năng động truyền giáo, khơi dậy nơi chúng ta ước muốn và lòng can đảm vui mừng hiến dâng cuộc sống chúng ta, dành cuộc sống để phục vụ chính nghĩa Nước Thiên Chúa.”
Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/PS-C – Ga 10, 27-30) trình thuật câu chuyện một đám người Do Thái cố tình dồn Đức Giê-su vào một thế kẹt để họ dễ dàng lên án Người. Lúc đầu chỉ là câu hỏi như kiểu nêu thắc mắc đòi được giải đáp (“Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin ông nói công khai cho chúng tôi biết.” – Ga 10, 24). Trước đó, khi nghe Đức Ki-tô nói: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 14-15), thì đám người Do Thái này đã nói: “Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm gì?” (Ga 10, 20). Đức Giê-su quá hiểu mục đích của đám người này không phải muốn được giải tỏa thắc mắc, để họ có thể tin vào Đức Giê-su chính thực là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật; mà thực sự họ chỉ muốn nhân cơ hội kết án Người là phạm thượng, rồi ném đá Người (Ga 10, 31-33).
Vì thế, khi trả lời họ, Đức Ki-tô đã nhấn mạnh: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.” (Ga 10, 25-26). Sau khi xác định đám người Do Thái không thuộc đoàn chiên của mình, Đức Giê-su lại tiếp tục nói về đoàn chiên mà Người thương mến: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chua Cha là một.” (Ga 10, 27-30). Người đã lấy hình ảnh rất dễ thương của đàn chiên để chỉ những môn đệ và những kẻ tin theo Lời Người; đồng thời Người cũng xác định chính Người là Đấng chăm lo chăn dắt đàn chiên đó – Người chính là vị Chúa Chiên nhân lành.
Hiểu sâu vào vấn đề, thì vị Mục Tử nhân lành ấy được Chúa Cha sai đi chăn dắt đoàn chiên về đường linh thiêng, nên còn gọi là linh mục, và chính Đức Ki-tô là Linh Mục Thượng Phẩm, Linh Mục Duy Nhất như Tông huấn Ki-tô Hữu Giáo Dân (Ch. I, số 14) đã viết: “Thánh Au-gus-ti-nô viết: ‘Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục Duy Nhất’ (De Civitate Dei – XX, 10).” Về lý thuyết thì tất cả mọi Ki-tô hữu đều là linh mục (tư tế cộng đồng), nhưng thực tế để có thể điều hành hoạt động của Giáo hội, thì lại rất cần có hàng ngũ những người trực tiếp thừa kế (tư tế thừa tác) sứ vụ của Linh Mục Duy Nhất Giê-su Ki-tô, thông qua Bí tích Truyền Chức (“Danh từ “hàng Linh Mục” đươc chọn với mục đích để chỉ định toàn thể hàng ngũ Linh Mục. Chúa Giê-su đã cho toàn thể Dân Chúa tham dự vào chức linh mục của Người nhưng Người còn muốn thiết lập những “thừa tác viên” của Người, những người này nhờ bí tích Truyền Chức được quyền dâng thánh lễ, quyền tha tội và thực hành chức vụ linh mục nhân danh Chúa Ki-tô.” – Sắc lệnh “Chức vụ và đời sống các linh mục”, số 2).
Hai chức vụ “tư tế thừa tác” và “tư tế cộng đồng” quan hệ khăng khít với nhau, chức vụ này vừa là tiền đề vừa là kết quả của chức vụ kia và ngược lại. Lý do cũng dễ hiểu: không thể có những phần tử lãnh nhận chức vụ tư tế thừa tác nếu không có hàng ngũ tư tế cộng đồng, ngược lai hàng ngũ tư tế cộng đồng muốn không bị khủng hoảng để đi đến tan rã, cũng rất cần thiết phải có người trông coi, chăm sóc, đó là những tư tế thừa tác. Nói cụ thể hơn, không có Giáo dân (đoàn chiên của Chúa) thì không thể có Linh mục, mà không có Linh mục thì đoàn chiên sẽ bị tan vỡ ngay. Tư tế cộng đồng (Giáo dân) hay tư tế thừa tác (Linh mục) thì cũng đều là con người, mà nói về con người thì “nhân vô thập toàn”, không một cá nhân nào được thập phần hoàn hảo, có ưu điểm thì cũng có khuyết điểm, đó cũng là lẽ tất nhiên.
Trong đoàn chiên của Chúa có rất nhiều những con chiên ngoan hiền dễ thương, biết vâng nghe lời chủ, thì cũng không thiếu những con chiên lạc đàn, chạy theo bầy sói dữ, thậm chí còn quay lại chống trả và giết hại cả chủ chăn (mục tử). Cũng vậy, trong hàng ngũ mục tử – những thừa tác viên kế nghịêp Mục tử nhân lành Giê-su Ki-tô – có rất nhiều những mục tử xứng đáng với vai trò và trách vụ của mình đã được chính Đức Ki-tô trao phó trong bữa Tiệc Ly (“Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en.” – Lc 22, 29-30); nhưng cũng vẫn còn những mục tử bất trung, phạm những lỗi lầm nghiêm trọng, như “Thư của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đic-tô XVI gởi các linh mục nhằm thiết lập năm linh mục” ngày 16/6/2009, viết : “Bất hạnh thay, cũng tồn tại những hoàn cảnh, không bao giờ lấy làm tiếc đủ, mà chính Giáo Hội phải chịu vì sự bất trung của một số thừa tác viên của mình. Và đối với thế giới, đó là một cái cớ gương mù và khước từ.” (xin coi thêm “Thư đề ngày 20/3/2010 của ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI gửi Giáo Hội Ai-len” v/v một số linh mục xâm phạm tình dục trẻ em).
Nói chung, hàng ngũ mục tử cũng như hàng ngũ con chiên đều không thoát khỏi cảnh có những mục tử xấu, những con chiên ghẻ làm gương mù và khước từ ân sủng của Thiên Chúa. Người tín hữu không quá lạc quan để cho rằng đoàn chiên của Chúa cũng như những vị mục tử thừa kế sứ vụ của Đức Giê-su Ki-tô, tất cả đều tốt lành, hoàn hảo; nhưng đồng thời cũng không quá bi quan để cho rằng tất cả đều xấu. Vâng, “Trong Giáo Hội luôn có một ý thức mới mẻ và phấn khởi về sự cao cả của ân huệ của Thiên Chúa, được cụ thể hóa nơi những hình ảnh sáng ngời của những mục tử quảng đại, những tu sĩ rực cháy tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn, những vị linh hướng sáng suốt và kiên nhẫn.” (xc. “Thư thiết lập Năm Linh Muc 2009”).
Bài Tin Mừng CN tuần trước (CN.III/PS-C) trình thuật về phép lạ “Mẻ cá lớn” có một chi tiết rất đáng lưu ý, đó là: Sau phép lạ, Đức Giê-su hỏi thánh Phê-rô ba lần liền “Simon, con ông Gio-an, con có yêu mến Thầy không?” Ba lần chỉ với một câu hỏi, khi nghe Phê-rô trả lời câu đầu tiên thì Đức Giê-su nói “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy” (Ga 21, 15). Điều này cho thấy Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô với tư cách mục tử hãy chăm sóc đàn chiên con. Nếu đã có “chiên con” (giáo dân). thì tất nhiên phải có “chiên mẹ” (linh mục), nên hai lần sau, Đức Giê-su chỉ nói ngắn gọn: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21, 17). Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô trông coi cả đoàn chiên (trong đó có chiên mẹ và chiên con), tức là trông coi cả Giáo hội như Người Mục Tử Nhân Lành đã làm (“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.” – Is 40, 11).
Có lẽ vì trong ràn chiên Giáo hội có cả chiên mẹ (linh mục) và chiên con (giáo dân) nên giáo dân Việt Nam thường dùng tiếng “cha” để gọi các linh mục; mặc dù Chúa dạy không được gọi ai bằng cha hay bằng thầy, vì chỉ có một người Cha duy nhất ở trên trời, và chỉ có một người Thầy duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô (Mt 23, 8-10). Với tiếng cha thân thương dành cho các linh mục như vậy, giáo dân VN luôn mong mỏi các linh mục hãy coi đoàn chiên như con cái, đồng thời hãy coi mình có bổn phận và trách nhiệm của bậc cha mẹ, mà chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên. Tuy nhiên, từ cái ưu điểm ấy, cũng nảy sinh những hạn chế. Đó là giáo dân vì gọi linh mục là cha, nên mang một mặc cảm tự ti, luôn e dè – thậm chí sợ hãi – mà không dám gần gũi, cộng tác, sẻ chia trong sứ vụ chung; đồng thời về phía linh mục, cũng có một số tự cao, tự đại coi mình là “cha thiên hạ”, không thèm lắng nghe ý kiến từ giáo dân, thậm chí còn coi mình là nhân vật “bất khả xâm phạm, bất khả thay thế” nữa. Số người ấy (từ cả hai phía giáo dân và linh mục) tuy không nhiều, nhưng không phải là không có.
Tóm lại, “Lắng nghe và đón nhận tiếng gọi Chúa không phải là một vấn đề riêng tư và duy nội tâm, có thể bị lẫn lộn với cảm xúc nhất thời; trái lại đó là một dấn thân cụ thể, thực tế và trọn vẹn, bao trùm trọn cuộc sống của chúng ta, đặt cuộc sống ấy phục vụ cho việc xây dựng Nước Chúa trên trái đất này. Vì thế, ơn gọi Ki-tô, được ăn rễ sâu nơi sự chiêm ngắm trái tim của Chúa Cha, đồng thời thúc đẩy dấn thân liên đới giải thoát những người anh chị em, nhất là những người nghèo khổ nhất. Người môn đệ của Chúa Giê-su có con tim rộng mở đối với chân trời vô tận của Chúa và sống thân mật với Chúa, không bao giờ họ trốn chạy cuộc sống và thế giới, nhưng trái lại, “họ sống theo tình hiệp thông truyền giáo” (E.G. 23).” (Sứ điệp của ĐTC Phan-xi-cô nhân ngày Thế giới cầu cho Ơn Gọi – 26/4/2015).
Ý thức được vấn đề, người Ki-tô hữu hãy cầu xin cho mọi thành phần của Giáo hội sống đúng và sống trọn vẹn vai trò của mình: Ai được chọn làm mục tử thì luôn luôn phải là người mục tử tốt lành theo gương Mục Tử Nhân Lành Giê-su Ki-tô; còn đoàn chiên con phải luôn biết đoàn kết thương yêu nhau, cùng nghe theo tiếng nói đích thực của vị Mục Tử Nhân Lành Giê-su thông qua các mục tử trong ràn chiên Giáo hội, để ai nấy đều được sống và sống dồi dào Tình Yêu của Chúa Chiên Lành Giêsu-Kitô. Chỉ có như thế mới đổi mới được cuộc đời, “giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ” như lời dạy của ĐTC Phan-xi-cô trong bài Giáo Lý thứ hai về Năm Đức Tin (ngày 10/4/2013): “Là một Ki-tô hữu không chỉ là tuân giữ các giới răn, nhưng có nghĩa là sống trong Đức Ki-tô, suy nghĩ như Người, hành động như Người, yêu như Người; có nghĩa là để Người làm chủ cuộc đời chúng ta và thay đổi nó, biến đổi nó, để giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ và tội lỗi.” Ước được như vậy. Amen.
Hằng năm cứ đến ngày Lễ Chúa Chiên Lành (Chúa Nhật IV Phục Sinh), cả Giáo Hội hướng đến PS 4-C185
Hằng năm cứ đến ngày Lễ Chúa Chiên Lành (Chúa Nhật IV Phục Sinh), cả Giáo Hội hướng đến việc cổ võ ơn thiên triệu trong bậc tu trì nói chung và cách riêng ơn gọi làm linh mục. Có thể luận suy rằng khi người ta yêu sách phẩm hạnh cần có của một bậc sống thì mặc nhiên người ta khẳng định sự cao quý và cần thiết của bậc sống ấy.
Một sự thật dễ thấy, đó là khi đề cập đến mặt tích cực và khi đó là một trong những nhân đức hay lý tưởng thì người ta dễ đón nhận và cũng dễ tự bằng lòng khi thấy mình chưa đạt đến. Một trong những luận lý để tự châm chước đó là phận người còn nhiều hạn chế, thiếu sót vì như lời người xưa: “nhân vô thập toàn”. Trái lại khi nói đến điều tiêu cực, hay mặt trái của vấn đề thì người ta khó đón nhận, vì ai ai cũng vấn vương chút sĩ diện, chút tự ái nào đó. Dù vậy, qua những lời của chính Chúa Kitô, chúng ta cũng cần xem xét đôi điều để phân biệt mục tử với người chăn thuê.
Đã nói là phân biệt hai thực thể nào đó thì chắc chắn giữa chúng phải có nét tương đồng khiến người ta dễ lầm lẫn. Vì thế, trước hết chúng ta cùng xem xét một vài nét xem ra tương đồng giữa người chăn thuê và vị mục tử:
1.Qua cửa ràn chiên: Cả hai, vị mục tử và kẻ chăn thuê đều đường đường chính chính qua cửa ràn chiên mà vào và ra chứ không leo tường hay chui rào. Có thể nói rằng dù được tấn phong giám mục thành sự, được truyền chức linh mục thành sự, dù có sắc phong, có văn thư bổ nhiệm hợp pháp…thì cũng chưa hẳn đã là mục tử chính hiệu.
2.Biết chiên: Dù rằng khó có thể có cái “biết” theo nghĩa Kinh Thánh đó là đồng thân, chung phận, nhưng người chăn thuê cũng biết con chiên một cách nào đó khả dĩ đáng gọi là biết theo nhãn quan nhân loại.
3.Chiên nghe tiếng và đi theo mục tử cũng như kẻ chăn thuê: Ít ai phản đối sự thật này, vì người chăn thuê không phải là người lạ hay là kẻ trộm (x.Ga 10,5;8). Ngoại trừ một số ít chiên “cá biệt” hoặc bị gán nhãn mác là “chống giáo sĩ”, thì có thể nói là đại đa số giáo dân Công Giáo, cách riêng giáo dân Công Giáo Việt Nam đều ngoan, theo nghĩa là biết vâng nghe lời các đấng bậc.
4.Người chăn thuê và mục tử đều dẫn chiên đến đồng cỏ và nguồn nước: Rất có thể chiên không được hưởng dùng các loại cỏ xanh tươi hay dòng nước mát trong cách tốt nhất, nhưng người chăn thuê vẫn không quên bổn phận cung cấp thức ăn và nước uống cho đàn chiên. Phải chăng đã và đang có đó nhiều vị giảng dạy, cử hành các Bí tích, làm mục vụ… mà còn thiếu tấm lòng mục tử?
Tiếp đến chúng ta cùng nhận diện những điểm khác biệt giữa người chăn thuê và vị mục tử. Đây là nội dung muốn chia sẻ. Hy vọng rằng khi trực kiến với hình ảnh mang tính phản diện thì chúng ta dễ giật mình hơn, không chỉ với những người đang trong phận vụ mục tử mà còn với cả những người trong danh phận con chiên.
1.Làm chỉ vì tiền: Mục đích nhắm của bất cứ người làm thuê nào, nếu thực sự là làm thuê, thì đều vì tiền công. Người chăn thuê cũng có thể có tấm lòng với đàn chiên, nhưng ưu tiên số một vẫn là tiền công, dù là công nhật, công tháng, công năm hoặc hưởng lương theo sản phẩm.
2.Làm hết giờ hơn là làm hết việc: Trong thân phận người làm thuê thì người ta rất mong đến giờ tan sở. Giả như người làm thuê nếu có làm hết việc thì ít khi hết lòng. Nếu người làm thuê làm ăn lương theo sản phẩm thì có đó chuyện làm hết sức, nhưng làm cách công tâm và hết tình thì chưa hẳn có. Trái lại, nếu đúng là mục tử thì có thể nhiều khi làm không hết việc, thậm chí có khi không được việc trước mắt, nhưng luôn thực thi hết lòng.
3.Không quan tâm đến chiên ngoài đàn: Đây là một điều tất yếu đương nhiên. Đã là làm thuê thì ít có ai thích dài tay với những việc xem ra không quá đòi buộc phải làm hoặc có xao nhãng hay không làm cũng chẳng bị trừ lương. Đã là mục tử thì không thể quên lời của Thầy chí thánh, Giêsu: “Ta còn nhiều chiên ở ngoài đàn…”
4.Không bao giờ sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì chiên: Cần thú nhận rằng chẳng có ai dại gì tự nguyện bị thiệt thân vì những gì không thuộc về mình. Khi thấy sói đến người chăn thuê sẵn sàng bỏ chiên để giữ lấy mạng sống mình (x.Ga 10,12). Chuyện hiến dâng mạng sống vì chiên xem ra chẳng hề có trong tâm trí của người chăn thuê. Trái lại, đây là điểm không thể thiếu để thẩm định ai mới là mục tử.
Đọc lịch sử Giáo Hội và với chút luận suy thì chúng ta có thể khẳng định rằng đã và có thể đang có đó “kẻ trộm, kẻ cướp” trong vai mục tử. Thế nhưng đó chỉ là số rất nhỏ và rồi đoàn tín hữu cũng có thể dễ dàng phát hiện hạng người đến chỉ nhằm giết hại đàn chiên, hoặc nếu họ có ngụy trang cách khéo léo thì “cây kim lâu ngày trong bọc cũng sẽ lộ ra”. Trái lại sự nhập nhằng đen trắng giữa mục tử với kẻ chăn thuê thì hầu như rất khó nhận diện cả với đàn chiên và có thể với cả các đấng bậc trong vai vị mục tử.
Với bốn điểm đồng và bốn điểm dị, thầm mong khi phân biệt mục tử với người chăn thuê, chúng ta thêm xác tín rằng ngoài việc cần thiết cầu nguyện liên lỉ cho các mục tử trong Giáo Hội, thì đang còn đó nhiều việc đáng làm và nên làm. Cũng hy vọng rằng một số mục tử nào đó trong Giáo Hội, dù chưa hẳn xứng danh mục tử tốt lành nhưng không phải là những người chăn thuê. Và mong sao không hề có những kẻ chăn thuê đang mang danh mục tử.
Dù rằng ngay cả bậc thánh nhân được liệt vào hàng các Thánh mục tử thì không một ai thực sự là mục tử chính danh chính phận. Chỉ một mình Chúa Giêsu mới đích thực là mục tử. Dù là bậc cao trọng và đạo hạnh trong Hội Thánh thì vẫn tồn tại hai tính phần mục tử và chăn thuê nơi các đấng bậc. Mong sao phần tính chăn thuê chỉ là phần chiếm tỷ lệ rất nhỏ nơi con người và đời sống các ngài. Nếu phần tính chăn thuê đang là 30-50% hay quá bán thì quả là đáng quan ngại. Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn đoàn chiên của Người sống và hành xử như “đoàn cừu của Panurge”, mà là như đoàn dân Thiên Chúa trưởng thành, đầy ý thức và tinh thần trách nhiệm, luôn tích cực cộng tác với ơn Chúa để dệt xây những mục tử tốt lành như lòng Chúa ước mong.
Trong cả ba năm Phụng vụ, vào Chúa Nhật IV Phục Sinh chúng ta được nghe bài Tin Mừng Gioan PS 4-C186
Trong cả ba năm Phụng vụ, vào Chúa Nhật IV Phục Sinh chúng ta được nghe bài Tin Mừng Gioan về người mục tử nhân lành. Ở Chúa Nhật vừa rồi, Lời Chúa giúp chúng ta suy niệm về người đánh cá; Tin Mừng Chúa Nhật giới thiệu với chúng ta về người mục tử. Đây là hai hình ảnh quan trọng như nhau để diễn tả về sứ vụ cứu độ trong Tin Mừng. Hình ảnh thứ nhất có tước hiệu “những kẻ chài lưới người,” và hình ảnh thứ hai có tước hiệu là “mục tử của các linh hồn.” Cả hai danh hiệu đều được áp dụng cho các Tông Đồ.
1- Chân dung người mục tử
Phần lớn miền Giuđêa là vùng cao nguyên với đất cằn cỗi và sỏi đá, chỉ phù hợp cho việc chăn nuôi hơn là trồng trọt. Những cánh đồng cỏ xanh thì rất khan hiếm nên đoàn chiên phải luôn di chuyển từ nơi này tới nơi khác; không có những thành lũy bảo vệ và vì thế, người mục tử phải luôn hiện diện với đàn chiên. Một du khách của thế kỷ trước đã để lại cho chúng ta một bức chân dung về người mục tử ở Palestina như sau: “Khi bạn thấy người mục tử xuất hiện trên một đồng cỏ, ông không ngủ, nhưng quan sát từ xa, với dáng phong trần sương gió, tựa mình trên chiếc gậy, chăm chú theo dõi đoàn chiên di chuyển, bạn hiểu tại sao người mục tử có tầm quan trọng như thế trong lịch sử của Ítraen. Vì thế, họ dành tước hiệu này cho vị vua của họ và chính Đức Kitô đã dùng tước hiệu này như biểu tượng để diễn tả về hy sinh chính mình.”
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được trình bày như là Mục tử của dân Người: “Chúa là mục tử của tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 23,1). “Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95,7). Trong sách tiên tri Isaia, Đấng Mêsia tương lai cũng được miêu tả với hình ảnh của người mục tử: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11).
Trong Tân Ước, hình ảnh lý tưởng về người mục tử này được ứng nghiệm một cách đầy đủ nơi Chúa Kitô. Người là Mục Tử nhân lành, đã dong duổi đi tìm những con chiên lạc; Người động lòng thương xót con người bởi vì Người thấy họ như “đàn chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36); Người gọi các môn đệ của Người là “đàn chiên bé nhỏ” (Lc 12,32). Thánh Phêrô gọi Chúa Giêsu là “Mục Tử của linh hồn chúng ta” (1 Pr 2,25) và Thư gửi Tín hữu Do Thái nói về Người như là “Mục Tử cao cả của đoàn chiên” (Dt 13,20).
2- Nét tiêu biểu của vị Mục Tử nhân lành
Tin Mừng Chúa Nhật này làm nổi bật những nét tiêu biểu của Chúa Giêsu, Mục Tử nhân lành. Nét tiêu biểu thứ nhất đó là sự hiểu biết lẫn nhau giữa người mục tử và đoàn chiên: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Trong một số nước ở Châu Âu, chiên được nuôi và phát triển một cách chính yếu vì để cung cấp thịt; ở Ítraen, trước hết chúng được nuôi để lấy lông và sữa. Vì lý do này, chúng được nuôi giữ nhiều năm trong đoàn chiên của người mục tử. Nên ông biết rõ đặc điểm mỗi con và đặt cho chúng những danh xưng rất thân tình.
Điều mà Chúa Giêsu muốn nói qua hình ảnh này là rất rõ. Người biết các môn đệ của Người (như Thiên Chúa biết hết mọi người). Người biết rõ tên của họ. Đối với Kinh Thánh, biết tên gọi cũng có nghĩa là biết rõ bản chất sâu xa nhất của họ. Người yêu thương họ với một tình yêu cá vị và với tình yêu đó, Người đối xử mỗi người như họ là duy nhất, hiện hữu, không ai thay thế đối với Người. Chỉ có Chúa Kitô mới biết rõ mỗi người môn đệ Chúa thế nào và mỗi người môn đệ đó chính là chúng ta.
Đoạn Tin Mừng còn nói với chúng ta điều gì đó nữa về người Mục Tử tốt lành. Người hiến mình cho và vì đoàn chiên, không ai có thể cướp chúng khỏi tay Người. Những con vật hoang dã – những con sói và loài báo – và những tên cướp là cơn ác mộng đối với những mục tử ở Ítraen. Trong những nơi hoang liêu như thế, chúng luôn là mối đe dọa thường xuyên. Đó là những khoảnh khắc cho thấy sự khác biệt giữa mục tử đích thực và người chăn thuê. Người mục tử đích thực là người chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên khỏi sự tấn công của lũ sói, dẫu phải đối diện với nguy cơ phải bỏ mạng; còn người chăn thuê là người chỉ làm việc vì tiền công, không phải vì lòng yêu mến đoàn chiên, và thường họ chẳng có yêu mến gì đoàn chiên.
Khi đối diện với những nguy hiểm, người chăn thuê đào tẩu và bỏ đoàn chiên ở lại với lũ sói hoặc lũ cướp; còn người mục tử đích thực thì dám can đảm đối diện với nguy hiểm để bảo vệ và cứu vớt đoàn chiên. Điều này diễn tả lý do tại sao Phụng vụ đề nghị chúng ta chọn đọc đoạn Tin Mừng về người Mục Tử nhân lành trong Mùa Phục Sinh, thời điểm mà Chúa Kitô minh chứng Người là Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đoàn chiên qua cuộc Tử nạn trên Thập giá và Phục sinh vinh hiển.
3- Chúng ta là đoàn chiên của Người
Khi suy ngắm hình ảnh Chúa là Mục tử tốt lành, một câu hỏi đặt ra trong tâm trí chúng ta: Tại sao Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến thế? Đây cũng là câu hỏi mà tác giả Thánh Vịnh đã từng thắc mắc: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8,4-5). Con người chỉ là cát bụi mong manh: “Thật con người chỉ như hơi thở, thấp thoáng trên đường tựa bóng câu” (Tv 39,6-7). Nhưng con người được Thiên Chúa tạo dựng rất cao cả: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,6-7).
Triết gia Blaise Pascal đã diễn tả sự tương phản giữa sự khốn cùng và vĩ đại của con người: “Con người chỉ là một cây sậy, một cây yếu ớt nhất trong thiên nhiên, nhưng là một cây sậy biết suy tư” (Tư Tưởng 347). Con người trổi vượt hơn mọi loài vì con người giống hình ảnh Thiên Chúa và được Người yêu thương một cách đặc biệt.
Như thế, Đấng Phục Sinh chính là vị Mục Tử nhân lành, Người yêu thương, chăm sóc và lo lắng cho chúng ta như Mục tử chăm sóc đoàn chiên của mình.
Để kết thúc, chúng ta tâm nguyện với lời ca của Thánh Vịnh: “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23). Amen!
Các Bài đọc Lời Chúa hôm nay đều nhấn mạnh đến sự đông đảo của cộng đoàn Giáo Hội, tức PS 4-C187
Các Bài đọc Lời Chúa hôm nay đều nhấn mạnh đến sự đông đảo của cộng đoàn Giáo Hội, tức là những người tin vào Chúa Giêsu và được thanh tẩy nhân danh Người. Chúa Giêsu Phục sinh hiện diện trong Giáo Hội. Người là sức sống của Giáo Hội và nhờ Người, cộng đoàn tin Chúa càng ngày càng gia tăng nhanh chóng. Khởi đi từ mười hai người dân chài ở bờ biển hồ Galilêa, Tin Mừng đã được rao giảng ở Giêrusalem, rồi toàn đế quốc Rôma và đến hôm nay, Tin Mừng được loan báo đến mọi quốc gia và mọi nền văn hóa. Tác giả sách Công vụ Tông đồ (Bài đọc I) ghi lại thời đầu của công cuộc truyền giáo với sự gia tăng nhanh chóng những người tin Chúa, mặc dù có sự ngăn cản từ phía một số người Do Thái. Chính sự ngăn cản này đã gợi hứng cho các Tông đồ vượt ra ngoài ranh giới Do Thái và đến với dân ngoại. Các ông được soi sáng bởi lời ngôn sứ Isaia: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ đến tận cùng trái đất”. Ánh sáng trần gian là Chúa Giêsu, như chính Người đã tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không còn đi trong tối tăm”. Phụng vụ đêm vọng Phục sinh đã long trọng tôn vinh Đức Giêsu là ánh sáng qua nghi thức làm phép lửa. Ánh sáng ấy bừng lên giữa cõi thâm u của sự chết, để mở tung nấm mồ và đem niềm hy vọng cho trần gian. “Ánh sáng muôn dân – Lumen Gentium”, đó cũng là tựa đề của Hiến chế tín lý về Giáo Hội của Công đồng Vaticanô II. Qua hiến chế này, Giáo Hội nguyện tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu, hiện diện giữa thế giới như ánh sáng để dẫn đưa con người nhận biết chân lý, dẫn đưa những người lầm lạc trở về chính lộ. Giáo Hội là hiện thân của Đức Giêsu. Ngay từ buổi sơ khai, cộng đoàn tín hữu đã ý thức được sứ mạng loan báo Đức Giêsu là Ánh Sáng trần gian. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, Giáo Hội vẫn trung thành với sứ mạng đó, mặc dầu phải hy sinh biết bao mạng sống, như trường hợp các thánh tử đạo. Các ngài đã trải qua đau khổ lớn lao, và làm nên sức mạnh của Giáo Hội (Bài đọc II). Ngày hôm nay, Giáo Hội vẫn tiếp tục tỏa lan ánh sáng chân lý trong mọi nền văn hóa và mọi môi trường mà Giáo Hội hiện diện. Khi chiêm ngưỡng sức sống và sự phát triển kỳ diệu của đàn chiên, tức là cộng đoàn những người tin Chúa, chúng ta tôn vinh Đức Giêsu là Mục Tử, là người dẫn dắt và chăm sóc các tín hữu. Chính Chúa đã khẳng định: “Ta là Mục tử tốt lành” (Ga 10,14). Hình ảnh người mục tử và đàn chiên rất thân thuộc và phổ biến trong đời sống của người Do Thái. Đàn chiên nói lên sự hợp nhất, tuân phục, liên kết với chủ chiên và nghe theo tiếng của mục tử. Mặc dù đàn chiên đông đảo như thế, vị mục tử vẫn biết rõ từng con chiên, biết cá tính, nhu cầu sở thích để chăm sóc và điều khiển. Không con chiên nào bị mục tử bỏ rơi, vì mỗi con đều đáng qúy, đáng trân trọng. Khi so sánh cộng đoàn Giáo Hội với đàn chiên, Chúa Giêsu mong muốn quy tụ chúng ta trong tình hiệp nhất. Người cũng muốn chúng ta lắng nghe giáo huấn của Người. Giáo huấn của Người đem cho chúng ta hạnh phúc, như mục tử dẫn đưa đàn chiên tới đồng cỏ xanh, suối mát lành. Người cũng là Đường, là Sự thật và là Sự sống đem lại hạnh phúc đời này và đời sau cho những ai tin vào Người. Để thực sự là con chiên trong đàn chiên Giáo Hội, mỗi tín hữu cần lắng nghe tiếng Chúa và hiệp thông với anh chị em mình. Những con chiên tách ra khỏi đàn sẽ bị lạc lối. Những tín hữu không hiệp thông với anh chị em mình sẽ bị lẻ loi như những ốc đảo khép kín xa lạ. Gắn bó với Giáo Hội sẽ tạo sức mạnh thiêng liêng và sẽ làm tỏa lan ánh sáng của Đấng đã phục sinh từ những kẻ chết. Chính Người đang hiện diện giữa chúng ta để ban cho chúng ta sức sống dồi dào.
Ngày nay, người ta có nhiều vật nuôi, thú cưng trong nhà và người ta mất rất nhiều thời gian để PS 4-C188
Ngày nay, người ta có nhiều vật nuôi, thú cưng trong nhà và người ta mất rất nhiều thời gian để chăm sóc cho chúng. Tuy nhiên, họ chăm sóc những vật nuôi, thú cưng vì người ta thích nó, hay vì nó đẹp, hoặc khôn, hoặc nó trung thành với chủ. Ngày xưa theo văn hóa Do Thái, người mục tử chăn chiên yêu mến con chiên như yêu chính đứa con của mình. Con chiên không chỉ là vật nuôi gắn liền với cuộc sống du mục, mà còn là tài sản, là bạn, là thành viên trong các gia đình, được yêu mến và chăm sóc như cha mẹ chăm sóc cho con. Con chiên là giống vật hiền lành, mến chủ, nó cũng là con vật dễ bị tấn công và bị tổn thương, vì thế, người chăn chiên luôn là người bảo vệ chiên của mình.
Một vài nét về văn hóa Do Thái như thế để chúng ta có thể dễ hiểu ý nghĩa của ngày lễ hôm nay, Thiên Chúa được so sánh là Mục Tử Xót Thương. Mục tử là hình ảnh rất gần gũi đối với người Do Thái. Tuy nhiên, khi so sánh : Ta là mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn cho thấy Ngài thực sự là người dẫn dắt đoàn chiên và Ngài trổi vượt hơn hẳn các người chăn chiên khác.
Ngay từ xa xưa, các tiên tri, đặc biệt là Isaia, đã dùng hình ảnh mục tử và đàn chiên để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và Israel. Israel là đàn chiên và Thiên Chúa là mục tử của họ. Thiên Chúa đã tuyển chọn Israel từ giữa muôn dân, Ngài quy tụ họ thành một dân, được thánh hiến dành riêng cho Thiên Chúa. Thiên Chúa như người mục tử vô cùng vất vả vì đàn chiên là Israel : Khi Israel tản lạc bởi chiến tranh, Thiên Chúa đã quy tụ họ về, khi họ bị đau khổ, đàn áp bởi cuộc sống làm nô lệ, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát. Khi họ sai đường lạc lối, Thiên Chúa đã uốn nắn, dạy dỗ và chỉ cho họ cách sống đẹp lòng Chúa. Trong hành trình sa mạc, Thiên Chúa như người mục tử lo từng miếng ăn giấc ngủ, nguồn nước cho Israel để nuôi sống họ. Khi họ xa đàn, lạc lối, Thiên Chúa sửa dạy, nhưng rồi lại xót thương tha thứ.
Đến thời đã định, Thiên Chúa đã cho Con của Ngài là Chúa Giêsu đến để cùng sống với đàn chiên là Israel. Chúa Giêsu đã thể hiện vai trò là một mục tử hết lòng xót thương chăm sóc cho đoàn chiên và sẵn sàng hiến thân để bảo vệ đoàn chiên của Chúa. Chúa Giêsu đã mang trong mình một trái tim chạnh thương : Ngài chạnh lòng khi thấy đám đông dân chúng đói khổ, bơ vơ như những con chiên không có người chăn ; Ngài đã quên ăn quên nghỉ để tiếp tục giảng dạy cho họ, chỉ cho họ biết phải sống sao cho xứng đáng ; Ngài làm phép lạ hóa bánh để nuôi sống họ vì sợ họ đói lả dọc đường.
Chúa Giêsu cho thấy, những thượng tế là những người thiếu trách nhiệm chăm lo đời sống đức tin cho dân Chúa. Chúa Giêsu là một mục tử có lương tâm và trách nhiệm với đoàn chiên mà Thiên Chúa Cha đã trao cho Người. Ngài nghiêm khắc không chấp nhận tội lỗi, nhưng lại hết sức nhân từ yêu thương, thông cảm và tha thứ cho tội nhân. Ngài sẵn sàng cúi xuống để phục vụ, để nâng những con người yếu đuối hèn kém lên. Ngài đem đến cho chiên của Ngài sự an ủi vổ về, cũng như hướng dẫn họ sống theo đúng giời răn lề luật của Thiên Chúa. Ngài thương yêu đoàn chiên của Ngài đến nỗi hiến trao chính con người và mạng sống cho nhân loại.
Trước cuộc thương khó, Vị Mục tử Giêsu đã hiến ban thịt máu mình làm của ăn, của uống nuôi dưỡng đoàn chiên. Trong cuộc khổ hình thập giá, Ngài đã hiến ban đến giọt máu và nước cuối cùng để cứu thoát con người khỏi tay ma quỷ và thần chết. Ngài đã trải qua một cuộc chiến cam go với sự chết và đã chiến thắng bằng cuộc phục sinh vinh quang, đã đem lại sự sống đời đời cho đoàn chiên. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn quả quyết : Không bao giờ Ngài để cho chiên của Ngài phải bị diệt vong và không một sức mạnh nào có thể cướp được chúng khỏi tay Ngài, khỏi tình yêu thương của Ngài.
Chúa Giêsu đã chấp nhận hy sinh cả mạng sống để giành lấy đoàn chiên khỏi tay ma quỷ và sự chết, bởi vì đoàn chiên nhân loại là “tài sản, là gia nghiệp” của Thiên Chúa và còn là quà tặng mà Thiên Chúa Cha đã ban cho Ngài. Vì thế, bằng mọi cách, Chúa Giêsu đã yêu thương và bảo vệ đoàn chiên khỏi mọi sự tấn công của ma quỷ và thế gian : Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Chúa Giêsu còn khẳng đình : Tôi và Chúa Cha là một. Điều này không chỉ là mạc khải về bản tính Thiên Chúa nơi Ngài, mà còn cho thấy sức mạnh vô song của Thiên Chúa đã dùng để bảo vệ đoàn chiên nhân loại của Ngài.
Không chỉ nói về vai trò và tình yêu thương của mục tử, Chúa Giêsu cũng nói đến trách nhiệm và bổn phận của mỗi con chiên : Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Như vậy, để xứng đáng trở thành con chiên của Chúa, chúng ta phải nghe được tiếng nói của vị Mục Tử Giêsu. Chúng ta chỉ thực sự là chiên của Chúa Giêsu khi chúng ta nghe được tiếng của Ngài. Nghe không chỉ là đón nhận âm thanh, mà là đón nhận lời dạy và giáo huấn của Ngài, là bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài. Chỉ khi bước theo sự dẫn dắt của Mục Tử Giêsu, chúng ta mới không bị lạc đường, không gặp nguy hiểm và mới có thể bước vào đồng cỏ Nước Trời.
Tiêu chuẩn để làm chiên của Chúa Giêsu là Tôi biết chúng và chúng theo tôi, tức là phải để cho Chúa biết mình và mình biết Chúa. Để Chúa biết mình là để Ngài thấu tỏ tâm hồn, cuộc sống và mọi hành động của mình. Nói cách khác, tức là sống, làm việc và hành động đưới cái nhìn của Chúa, trong sự hiện diện của Chúa. Chúa nhìn thấu tâm hồn, ý nghĩ và hành động mỗi người, không có gì có thể che được mắt Ngài. Vì thế, muốn làm chiên của Chúa, cần phải sống và cư xử với nhau một cách ngay thẳng, không gian dối, đúng với tư cách là con của Chúa, là những người đã được Chúa cứu chuộc. Đồng thời, chính mình cũng phải biết Chúa, tức là biết Chúa là ai, Chúa muốn tôi làm gì, Chúa có vị trí nào trong đời tôi và tôi có vị trí nào trong bàn tay Chúa ?
Sau cùng, để thực sự là chiên của Chúa thì phải bước theo Chúa. Chiên phải bước theo người chăn, học trò phải theo thầy, con cái phải theo lời chỉ dạy của cha mẹ. Mục tử Giêsu cũng muốn chúng ta có thái độ như thế. Bước theo Chúa là bước đi trong sự bảo vệ, theo sự dẫn dắt của Chúa, và bước đi cùng với các anh chị em khác. Bước theo Chúa là theo sát con đường Chúa đi, là con đường yêu thương phục vụ, dám hy sinh, cho dù phải đánh đổi mạng sống, không thể rẽ ngang, cũng đừng tách đàn, đừng nấn ná cũng đừng la cà. Theo Chúa còn là tuân theo lời chỉ dạy của Chúa, qua việc sống các mối phúc của Tin Mừng, là dám sống yêu thương đến tận cùng và dám bước vào con đường thập giá với Chúa vì yêu thương anh em.
Các tông đồ là những con chiên đầu tiên của Chúa đã sống những tiêu chuẩn của Mục Tử Giêsu. Một khi các ông đã đón nhận được đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh, được cùng sống với Ngài, học nơi Ngài, biết về Ngài, giờ đây, các ông trở thành những người nói về Mục Tử Giêsu cho mọi người. Chúa Giêsu không mãi hiện diện bằng thể xác với đoàn chiên nhân loại của Ngài, ngài đã muốn có nhiều các cộng tác viên để tiếp tục chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên nhân loại. Các tông đồ đã ý thức và đã lãnh nhận sứ mạng này từ nơi Chúa Giêsu, để đến lượt các ông, theo gương mục tử Giêsu, các ông hết mình chăm lo cho đoàn chiên của Chúa.
Với ơn của Bí tích rửa tội, chúng ta vừa là chiên của Mục tử Giêsu, đồng thời cũng được tham dự vào vai trò là mục tử của Ngài. Là chiên của Chúa, xin cho chúng ta luôn nhận ra tình yêu thương của Mục tử Giêsu để ta sống gắn bó với Ngài, tin tưởng vào Ngài dù khi vui hay khi gặp thử thách. Xin cho chúng ta luôn để tâm lắng nghe và làm theo tiếng Chúa nói với mình. Chúa nói với mỗi người qua Lời của Chúa và qua việc cử hành phụng vụ mỗi ngày. Xin cho chúng ta biết chăm chỉ học hỏi để biết Chúa nhiều hơn và cũng dám mở lòng, sống khiêm tốn để cho Chúa biết cuộc sống và con người chúng ta. Chúa biết chúng ta yếu đuối cần đến lòng thương xót của Ngài. Xin cho chúng ta luôn để cho Chúa yêu thương và trung thành theo Chúa dù có phải trải qua những lúc đen tối và thử thách nhất. Amen.
Trong Giáo Hội có rất nhiều vị mục tử thánh thiện và gương mẫu, đáng để chúng ta học hỏi và PS 4-C189
Trong Giáo Hội có rất nhiều vị mục tử thánh thiện và gương mẫu, đáng để chúng ta học hỏi và noi theo. Nhưng, mẫu gương tuyệt hảo nhất chính là nơi Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành, Đấng mà Giáo hội hôm nay mời gọi chúng ta quy chiếu vào. Giáo hội dành riêng ngày Chúa nhật tuần 4 mùa Phục sinh với các bài đọc Lời Chúa để chúng ta học hỏi nơi Đức Giêsu, nguyên mẫu mục tử của tất cả mọi người.
Tình yêu mục tử nơi Chúa Giêsu được hiển thị rõ nét qua ba chiều kích : Vị mục tử biết chiên của mình, vị mục tử lặn lội đi kiếm tìm con chiên lạc, và vị mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.
Mục tử nhân lành ‘biết’ các chiên của mình
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói về đặc nét này. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Đây không phải là cái biết của tri thức, nhưng đó là thái độ biết chiên được biểu tỏ bằng sự hiệp thông sâu xa. Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về việc Ngài biết Chúa Cha và thi hành những công việc mà Chúa Cha trao phó (Ga7,29; Ga 8,19; Ga 9,55,…). Cũng tương tự như thế, Ngài mời gọi các học trò của mình bắt chước Ngài, hãy ‘biết’ các con chiên, giống như Ngài, vị Mục tử nhân lành luôn luôn biết các con chiên thuộc đàn mình.
Để diễn bày thái độ ‘biết’ chiên, Đức Giêsu đã đi vào trần gian, chia thân sẻ phận với chúng ta. Ngài vui với người vui, khóc với người khóc. Ngài đi dự tiệc cưới tại Cana để chung chia niềm vui đối với đôi uyên ương trẻ. Ngài thổn thức trước cái chết của đứa con trai bà góa thành Naim. Ngài rơi lệ khi đứng trước ngôi mộ của Lazarô, người bạn thân thiết. Đức Giêsu là Thiên Chúa rất Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là một con người rất con người, gần gũi với cuộc sống đời thường, sống giống hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Trong một bài giảng mùa chay vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khuyến mời các vị mục tử đừng bao giờ ‘mỏi mệt’ để biết các con chiên của mình. Ngài vẫn hay đến thăm các nhà tù, đã từng cúi xuống rửa chân cho các thiếu niên phạm pháp, đã ngồi ăn uống với những người vô gia cư… Điều Đức Thánh Cha thực hiện, không phải là một học thuyết mới lạ mang tính cách mạng, nhưng Ngài chỉ muốn sao chép lại cách sống của Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành, biết các con chiên của mình.
Mục tử nhân lành đi kiếm tìm con chiên bị lạc
Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Ba dụ ngôn mà Thánh Luca viết lại trong chương 15 diễn bày chân dung cứu thế và lòng thương xót của một vị mục tử đích thực. Đó là dụ ngôn về người đàn bà đi tiềm kiếm đồng bạc bị mất, dụ ngôn người chăn chiên lặn lội tìm kiếm con chiên đi lạc, và nhất là dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về trong sự vui mừng tột độ của người Cha. Chúa đã chọn cái chết bi thương trên Thập giá để diễn bày lòng thương xót và sự tha thứ vô điều kiện cho các tội nhân. Phán quyết của Đức Giêsu, một vị quan tòa đầy lòng thương xót khi Ngài nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình, cũng là phán quyết Chúa ngỏ trao tới từng người chúng ta, là những tội nhân đáng phải chết : “Tôi không kết án chị đâu. Hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Trong một bài giảng tại Missouri bên Hoa kỳ, Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã dí dỏm nói rằng Đức Giêsu là một học sinh rất dốt toán. Ngài coi con số 1 lớn hơn con số 10. Ngài cũng là một kinh tế gia khá tồi, vì dám liều bỏ lại 99 con chiên để vất vả đi tìm kiếm một con đang bị lạc. Ngài cũng là một kẻ đãng trí, chẳng nhớ gì hết. Ngài không nhớ cô gái đang ngồi khóc bên chân Ngài là một cô gái điếm khét tiếng, cũng quên mất tên tử tù bị treo thân bên cạnh Ngài là một tay gian phi nguy hiểm với một quá khứ đặc kín tội ác… Bởi vì, Chúa Giêsu luôn mãi là một Mục tử nhân lành, và Ngài mắc phải một căn bệnh kinh niên, đó là bệnh hay quên. Căn bệnh lú lẫn và dễ quên của Ngài thật đáng yêu biết bao.
Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên
Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến để chúng được sống và sống dồi dào.” Thánh giáo phụ Irênê cũng đã viết : “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”. Để chúng ta được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết khủng khiếp giống như một tên tử tội đốn mạt nhất. Ngài đã nói: “Cha tôi đã làm việc, và tôi cũng luôn làm việc”. Công việc của Ngài là hy sinh mạng sống để đem lại sự sống cho con người, phục hồi cho ta phẩm giá cao quý được làm con Thiên Chúa. Thánh Phanxicô Salê đã nói: “Điều linh thánh nhất trong tất cả mọi điều linh thánh là làm việc cho thiện ích các linh hồn (divinissimum divinorum est opere ad lucrum animorum)”. Điều linh thánh ấy, Đức Giêsu đã thực hiện trong 3 năm rao giảng và cao điểm cuối cùng là Ngài chấp nhận cái chết oan ức trên Thập giá để cho chúng ta được sống. Ngài trở nên nguyên mẫu cho tất cả chúng ta, vì Ngài là Mục tử hoàn hảo, đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.
Kết luận
Một vị linh mục trẻ đã chia sẻ tâm sự của mình trên mạng như sau: “Tôi có một người bạn và cũng là một người anh rất thân thương. Ngài là một linh mục, lớn tuổi hơn tôi, và hình ảnh của vị linh mục đó luôn in đậm dấu ấn trong cuộc đời tôi. Ngài được bề trên sai về coi sóc một giáo xứ mới thành lập, và Ngài cũng là Cha xứ đầu tiên của giáo xứ đó. Giáo dân rất quý mến Ngài, vì Ngài hiền lành, luôn sống yêu thương và chan hòa với mọi người. Ngài đặc biệt quan tâm tới những người nghèo, những người bệnh tật, những cụ già neo đơn và đặc biệt Ngài quý mến các trẻ em. Nhưng có một số vị trong ban hành giáo lại không thích Ngài. Lúc đầu họ ngấm ngầm chống đối, rồi dần dần ra mặt phản kháng công khai. Có điều kỳ lạ, là giáo dân trong giáo xứ cho dầu kính phục Ngài, nhưng đã bị ban trùm lôi kéo và dần dần quay lại chống Ngài. Một kết cục rất đau buồn đã xảy ra, là đến một ngày đã sắp xếp, cả xứ kéo vào nhà thờ đập chết Cha xứ mà trước đây họ rất nể phục. Người ta báo cho chính quyền, họ cũng làm ngơ và ra vẻ như họ cũng đồng thuận. Bà cố của Cha nghe tin rất đau khổ, tâm hồn tan nát như chết lặng. Nhưng bà cố vẫn không bao giờ than trách và chẳng tỏ dấu buồn bực hay trách cứ một ai. Dần dần, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Từ khắp nơi, người ta kéo đến giáo xứ để tưởng nhớ đến Ngài và cầu nguyện trước di ảnh của Ngài như một đấng Thánh.
Người ta mới thắc mắc và hỏi: “Thế Cha xứ đó tên là gì, và ở đâu. Chúng tôi cũng muốn đến viếng và học hỏi nơi cuộc sống của Ngài”. Vị linh mục trẻ kia mới trả lời: “Ngài ở rất gần đây và cũng chẳng xa xôi gì. Tên Ngài quen thuộc lắm. Vị Cha xứ đáng kính đó tên là Giêsu”.
Giêsu chính là vị Mục tử khả ái, người Mục tử nhân lành. Ngài trở nên khuôn mẫu tuyệt hảo nhất cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh mục tử và chiên, vốn quen thuộc trong môi trường dân tộc Do thái PS 4-C190
Chúa Giêsu dùng hình ảnh mục tử và chiên, vốn quen thuộc trong môi trường dân tộc Do thái để diễn tả mối tương quan khắng khít giữa Thiên Chúa và nhân loại, giữa linh mục và tín hữu. Mục tử yêu thương chiên, nhất là những chiên đau, chiên gầy, săn sóc chúng; chiên lạc, mục tử không bỏ thí, nhưng đi tìm cho bằng được, thậm chí bỏ 99 con trong hoang địa để đi tìm cho bằng được, tìm được rồi thì vác lên vai đưa về đàn; Mục tử dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến giòng suối mát để chiên ăn uống thỏa thuê, nằm nghỉ; Mục tử thức đêm canh chừng chiên khỏi sói dữ lẻn vào bắt mất, thậm chí chống cự lại sói dữ, và hy sinh tính mạng cho chiên. Mục tử biết tên từng con chiên, và chiên cũng biết mục tử, nghe tiếng gọi và đi theo; Mục tử có khi đi đầu dẫn đường cho chiên, có khi đi sau để bảo vệ chiên, có khi đi giữa để qui tụ chiên. Thật là một hình ảnh đẹp, thi vị, làm đề tài cho bao nhiêu ca khúc, thi phú, họa phẩm, điêu khắc.
Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử, chúng ta đọc : “Đây là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó : Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu – Mục Tử Nhân Lành đã nêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội.
Sống hết tình với anh em
Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ… Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng : cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết mà còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm : “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18).
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm giáo hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng đức Phanxicô đã can đảm chấp nhận. Ba năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội !
Với chủ trương “Giáo hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si’ kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình. Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi ! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của ĐTC Phanxicô đã khiến nhiều giám mục và linh mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.
“Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” (Đức Phaolô VI). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.
Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài : tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình. Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3 T (tình, tiền, tửu), 3 Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa. Những người nói trên đây là đối tượng của đức ái mục tử, được chính Chúa Giêsu công bố tại hội đường Nadarét năm xưa, khi khởi đầu sứ vụ : “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, và ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta, an ủi mọi kẻ ưu phiền, đem cho các kẻ buồn phiền ở Sion triều thiên thay tro bụi, dầu vui mừng thay tang chế, áo hân hoan thay tâm hồn sầu muộn” (Is 61,1-3).(x. “Đức ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan Thiết 2016, Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).
Cầu nguyện nhiều cho dân chúng
Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.
Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21). Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17). Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42). Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28 ; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13 ; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc 18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)… Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4 ; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.
Hy sinh tính mạng vì anh em mình
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. ĐTC nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng giáo dân, trên vai và trong trái tim mình” (Vũ văn An : Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013). Linh mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Trong Sứ điệp ơn gọi năm nay, ĐTC Phanxicô nói về các “Ơn gọi được sinh ra từ Dân Chúa và là quà tặng của Lòng Thương Xót Chúa. Giáo Hội là đền thờ của lòng thương xót, và là “mảnh đất” cho mọi ơn gọi được nuôi trồng, trưởng thành và sinh hoa kết trái…Các ơn gọi được trổ sinh từ Giáo Hội…Ơn gọi lớn lên trong Giáo Hội…Ơn gọi được nuôi dưỡng bởi Giáo Hội…Trong số những người tham dự vào các hoạt động mục vụ, các linh mục là những người đặc biệt quan trọng. Trong sứ vụ của họ, họ hoàn hiện những lời của Chúa Giêsu đã nói: “Ta là cửa chuồng chiên;Tôi là mục tử tốt lành”. Việc chăm sóc mục vụ ơn gọi là một phần cơ bản của sứ vụ của các linh mục. Các linh mục đồng hành với những ai đang biện phận về ơn gọi của họ, cũng như những ai đã tận hiến cuộc đời của mình để phục vụ Thiên Chúa và của cộng đoàn.
Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.
Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.
Có rất nhiều con đường để đi tới thành công, có không ít người gặt hái thành quả từ mồ hôi nước PS 4-C191
Có rất nhiều con đường để đi tới thành công, có không ít người gặt hái thành quả từ mồ hôi nước mắt, nhưng công sức tiền của, hoặc ý chí quyết tâm cũng chỉ là mờ nhạt, nếu chúng ta chưa đặt để tình yêu vào trong mơ ước hạnh phúc đó. Tình yêu có phải là viên thuốc bổ, là vi-ta-min, tăng cường sức đề kháng trước những khó khăn trên bước đường đời ? Có chăng, biết chăm chỉ làm ăn thì không nghèo, có chương trình kế hoạch thì không rối rắm, có tình yêu và sự chuẩn bị trước công việc sẽ không thấy bận rộn ?
Nên một trong tình yêu vợ chồng, người ta có thể đọc được qua câu thành ngữ : thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn. Nên một trong tương quan yêu thương, chúng ta cũng có câu tục ngữ : dao năng liếc thì sáng, người năng chào thì thân. Nên một tình yêu được Chúa Giêsu nói tới hôm nay, phảng phất hương vị của đoàn chiên mà vị mục tử chăm sóc thật chu đáo: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. Hình ảnh mục tử và chiên phản ánh một tình yêu không giới hạn, người chăn chiên sẽ ra sức bảo vệ, không để sói tấn công, không để con nào lạc lối. Chiên theo chủ, nhận ra tiếng chủ, và yêu thương không nghi ngờ là dấu hiệu để chiên không bao giờ hư mất.
Chúa Giêsu cho chúng ta một cảm nhận “nghe và theo”, chính là đặc tính nên một giữa tình yêu của chủ chăn và đàn chiên. Nghe bằng trái tim, theo trọn vẹn cả xác hồn, dù hình ảnh chủ chiên có mờ nhạt so với khoảng không tự do của thói xấu đang thu vén danh vọng vật chất. Nghe mục tử Giêsu và theo mục tử Giêsu, thời nào cũng là vấn nạn khó hiểu, bởi tiếng ồn “thụ hưởng” làm cản trở bộ lọc của trí lòng con người. Nếu thiếu tình yêu, ai có thể phân biệt được thật giả, tốt xấu, ai có thể nghe và theo chủ chiên, cũng không thể đủ tin chắc chắn vào người mục tử sẽ đưa đến bến bờ hạnh phúc.
Để nói lên tình nghĩa huynh đệ rất cần nơi cuộc sống này, người xưa bằng nhiều suy tư rất chí lý nhằm chia sẻ cho các thế hệ : anh em như thể tay chân; rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần. Tình yêu thương cũng không thể dừng lại ở phạm vi gia đình, cần phải được sẻ chia xa hơn nữa : nhiễu điều phủ lấy giá gương; người trong một nước phải thương nhau cùng. Lập trường yêu thương của Chúa Giêsu hôm nay hẳn vẫn đang làm nên sự tự tin : “…Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời”. Mục tử Giêsu còn gợi lên “Lời và hành động” làm nên một tình yêu với đàn chiên mà không ai có thể cướp phá được. Sức mạnh của tình yêu ấy, vẫn đang vang lên : “Tôi và Cha Tôi là Một”.
Nên một tình yêu không phải để tận hưởng đặc quyền đặc lợi, mà còn nhằm phản ánh được tính hiệp thông chặt chẽ giữa chiên và chủ chiên. Có nghe có hiểu, có theo chủ, chiên mới đến được đồng cỏ xanh tươi, và đàn chiên không bao giờ phải hư mất. Được ở trong gia đình giáo hội, ở trong gia đình giáo xứ, là một ơn gọi nên thánh. Kinh nghiệm của đấng bậc sinh thành của bản thân, vẫn là một chuỗi dài những giới hạn, bất xứng, trước tình yêu Giêsu vị mục tử nhân lành. Mục tử Giêsu biết chúng ta không như người kỹ sư biết về cấu trúc của chiếc máy, Ngài hiểu đàn chiên của Ngài không phải như kẻ trên người dưới, nhưng là thân tình gắn bó trong tình bạn bè, huynh đệ.
Sống trên đời, tất cả mọi người đều phải ý thức mình là ai mới tồn tại được, chẳng ai sống được mà không có tình người, đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết. Chiên lạc lối thì sói ăn, người theo Chúa hời hợt, hẳn sẽ rơi vào hố sâu của sự dữ và chết chóc. Cha ông chúng ta cho thấy sự nguy hiểm khi sống xa sự thật về tình yêu : cái vòng danh lợi cong cong; kẻ hòng ra khỏi người mong bước vào. (ca dao). Có những vấp ngã tự ta đứng dậy được, nhưng có những thứ sai lạc cần đến sức mạnh của cộng đoàn yêu thương trợ giúp, ta mới đứng lên được.
Đời cha cho chí đời con, có muốn so tròn thì phải so vuông. Vâng, tiền nhân luôn để lại nhiều lời răn dạy bổ ích cho hạnh phúc tương lai của con cháu. Người chăn chiên có thể biết con chiên ốm yếu, đau bệnh, và Ngài có thể vác chúng lên vai, nhưng chủ chiên không thể ép buộc chúng nghe, hiểu, thế nào là tình yêu của người mục tử dám thí mạng để bảo vệ chiên. Nên một tình yêu không phải chỉ hiểu theo nghĩa tình vợ chồng, mà chính là nhận ra Vị Mục tử Giêsu đang dẫn dắt, chở che. Mỗi con chiên đều là đối tượng của tình yêu, là môn đệ, là người bạn thân tình trong Đấng phục sinh. Amen.
Hồng y Tổng giám mục Dolan của giáo phận New York đã kể lại một câu chuyện sau đây. Khi PS 4-C192
Hồng y Tổng giám mục Dolan của giáo phận New York đã kể lại một câu chuyện sau đây. Khi ngài còn là một chủng sinh học ở Rô-ma đã gặp Giám mục Sheen, một người rất nổi danh về giảng dạy qua phương tiện truyền hình và ra-di-ô vào những thập niên từ 1930 đến 50, vừa đi ra cửa sau buổi tiếp kiến với Đức thánh cha Phao-lô Đệ lục. Đám đông dân chúng bao quanh ngài và hỏi Đức thánh cha đã nói gì với ngài. Mặt ngài hơi bừng đỏ và trả lời Đức thánh cha nói với tôi: “Thưa Giám mục Sheen, ngài có một chỗ rất cao trên Thiên đàng.” Một người trong đám đông đã hỏi ngài trả lời với Đức thánh cha như thế nào. Ngài mỉm cười trả lời tôi nói với Đức thánh cha “Kính thưa Đức thánh cha, nếu Đức thánh cha không ngại thì xin Đức thánh cha tuyên bố câu nói này với tính cách “không thể sai lầm!” (Infallible statement)
Ông bà anh chị em thân mến. Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người Ki-tô chúng ta, đặc biệt là những người hiện diện trong Thánh lễ hôm nay, muốn có một “sự bảo đảm không sai lầm” có đời sống vĩnh cửu, được lên Thiên đàng. Nhưng nếu đó là một niềm tin vững chắc và là một ao ước chân thành, thì chúng ta có cố gắng hết sức mình để đạt được mục đích đó không? Chúng ta tìm đâu ra phương cách, đường lối hay chúng ta phải sống như thế nào để được thành công? Ít nhất ra, chúng ta có một sự bảo đảm vững chắc, là nếu chúng ta trung thành đi theo đường lối của Người Mục Tử Tốt Lành là Chúa Giê-su dẫn dắt và chỉ bảo, chúng ta sẽ không lo lắng về điều đó.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su nói cho chúng ta biết Người là Mục Tử của chúng ta, và chúng ta là đàn chiên của Người. Chúa nói: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta.” Trong một đoạn Tin mừng khác, Chúa Giêsu đã khẳng định với chúng ta “Ý của Thiên Chúa Cha là tất cả những ai thấy và tin vào Con Thiên Chúa, thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” Trong Tin mừng của thánh Gioan, khi dạy về Bánh Trường sinh, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Ta là bánh hằng sống, là bánh ban xuống bởi trời, ai ăn bánh này sẽ được sự sống đời đời.”
Ông bà anh chị em thân mến. Điều này nêu lên một câu hỏi hết sức quan trọng như tôi đã nêu ở trên là nếu cuộc sống đời đời và Thiên đàng là điều chúng ta tin và luôn cầu xin, cũng như đó là dự định của Thiên Chúa cho chúng ta, thì điều đó ảnh hưởng gì và như thế nào vào cuộc sống hiện tại của chúng ta hôm nay? Hay nói một cách khác, chúng ta phải sống như thế nào để được “bảo đảm không thể sai lầm” được phục sinh, có cuộc sống vĩnh cửu trên Thiên đàng? Câu hỏi này làm cho tôi liên tưởng đến lời thánh Phaolô nói trong thư Cô-lô-sê: “Chúng ta phải sống như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta sống, đó là sống như Người đã sống.” Để diễn tả một cách thực tế, Thánh Phaolô dạy chúng ta: “Anh chị em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh chị em, những điều xấu xa, tham lam và gian dối. Hãy từ bỏ giận dữ, độc ác, thóa mạ, ăn nói thô tục.” Và ngài khuyên chúng ta “Anh chị em hãy mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đấng tạo hóa, biết thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và tha thứ. Hãy có đức bác ái là mối dây nối kết tuyệt hảo.” Đây là những điều khuyên dạy và phải có những ảnh hưởng trong đời sống hiện tại của tất cả mọi người chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta phải cố gắng sống như Chúa Giêsu và phải trở nên đồng dạng với Người Mục Tử Tốt Lành để được phục sinh vinh hiển, để chiếm được đời sống vĩnh cửu mà Người đã hứa với chúng ta. Và đó cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong Tin mừng hôm nay “Chiên Ta thì nghe tiếng ta, Ta biết chúng, và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất.” Chúng ta phải có một sự liên hệ mật thiết với Chúa bằng đời sống cầu nguyện, bác ái yêu thương, quảng đại, bằng đời sống chứng nhân và Tin mừng của Người.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa nhật Chúa Chiên Lành luôn gợi lại cho tôi về một người đến gặp tôi mấy năm về trước. Người đó rất âu lo và buồn sầu về cuộc sống cá nhân và gia đình của mình. Bà đã thố lộ cho biết hình ảnh Người Mục Tử Tốt Lành của Chúa Giê-su là hình ảnh bà rất mến chuộng, và là nguồn an ủi của bà. Hình ảnh đó luôn giúp đỡ bà cảm thấy an toàn và an tâm mỗi khi bà nghĩ tới. Thật vậy, Chúa Giê-su yêu thương mỗi người chúng ta và khẳng định rằng mỗi người chúng ta rất đặc biệt và cao trọng đối với Người. Người Mục Tử Tốt Lành xác định cho chúng ta biết Người sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đàn chiên của mình, và Người đã sống lại để chia sẻ với chúng ta vinh quang phục sinh với Người. Đó cũng là hình ảnh cho chúng ta biết trong bài đọc 2 hôm nay, về “một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên. Và Con Chiên sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống.” Chúng ta cảm nghiệm được câu cuối cùng của bài đọc 2 cho chúng ta niềm hân hoan vui mừng “Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ.”
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa nhật Chúa Chiên Lành hôm nay cũng là Chúa nhật cầu nguyện cho Ơn Thiên Triệu. Chúng ta nhìn ngắm lại hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tốt Lành, để cảm tạ lòng yêu thương, hy sinh và nhân từ của Người. Đồng thời cầu nguyện cho Giáo hội luôn có nhiều bạn trẻ nhận ra tiếng gọi của Chúa, biết hy sinh trở thành linh mục và tu sĩ tốt lành như Chúa Giêsu, để chăn dắt đoàn chiên của Chúa nơi trần gian. Khi nói đến Ơn Thiên Triệu, người ta thường nghĩ ngay đến ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ nam nữ, đó là ý cầu nguyện trong tuần này. Nhưng hai chữ “thiên triệu” nói chung có nghĩa là Chúa kêu gọi. Vì vậy Chúa kêu gọi tất cả mọi người nhận biết, tin và yêu mến Chúa, trở nên những nhân chứng đích thực cho Chúa, bằng lời nói, hành động và cuộc sống. Chúa ban cho tất cả chúng ta nhiều ơn lành hồn xác để chúng ta luôn trung thành, và làm chứng cho tình yêu của Người, dẫn dắt người khác đến, tin và yêu mến Chúa.
“Nhận được tin báo vị Thống soái sẽ ghé thăm đơn vị, người chỉ huy đội vệ binh tức tốc triệu tập thuộc cấp chuẩn bị nghênh đón. Một trong những việc chuẩn bị là mở đường. Thật không may cho đội vệ binh, khi xe của Thống soái gần tới, bỗng dưng một đàn cừu độ khoảng vài trăm con đổ xô lên đường. Con đường độc đạo giờ đây bị đàn cừu chiếm lĩnh. Người chỉ huy ra lệnh cho thuộc cấp:Bằng mọi giá anh em hãy lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường.
Đội vệ binh dùng đủ mọi cách, kể cả việc dùng súng bắn chỉ thiên để lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường, nhưng vô vọng!
Xe của Thống soái ngày càng tiến gần, người chỉ huy đội vệ binh càng hối thúc thuộc cấp của mình, nhưng dường như đàn cừu không màng chi tới những lo lắng của người chỉ huy và đội vệ binh, chúng vẫn nhởn nhơ vui đùa! Xe của Thống soái dừng lại trước đàn cừu. Người đội trưởng đội vệ binh lúng túng chưa biết xử sự ra sao.
Bỗng từ xa tiếng sáo du dương trầm bổng cất lên. Không cần đuổi, chẳng nhọc công, đàn cừu hướng tầm nhìn và ùa chạy về phía tiếng sáo. Hân hoan và vui mừng, chúng quây quần bên người mục đồng nhỏ bé đang đứng trên gò đất cao.
Đội trưởng đội vệ binh và thuộc cấp thở phào nhẹ nhõm, họ ngỡ ngàng, thán phục người mục đồng. Vị Thống soái mỉm cười và đoàn xe của ông ta từ từ tiến”.
Đàn cừu chỉ nghe tiếng của chủ nó chứ không nghe theo tiếng lạ.
“Tôi biết chúng”
Đức Giêsu là vị mục tử biết từng con chiên một. Con nào mập, ốm; con nào khỏe mạnh, bệnh tật; con nào lành lặn, ghẻ chốc… để Ngài chăm sóc chúng theo từng hoàn cảnh của chúng, chứ không phải theo tính bầy đàn.
Cái “biết” trong đời sống đức tin không phải là cảm xúc của giác quan, nhưng là đi vào mối hiệp thông sâu xa với Chúa. Cái “biết” quan trọng nhất của Kitô hữu là biết rằng không ai yêu chúng ta bằng Thiên Chúa, không ai lo lắng cho chúng ta bằng Ngài, không ai có thể đưa chúng ta đến hạnh phúc đích thực ngoài một mình Ngài. Từ đó đi vào trong ước muốn của Ngài và thực hành những ước muốn đó.
Để có thể “biết” Chúa một cách sâu xa như vậy, chúng ta phải tập gần gũi Ngài. Dĩ nhiên Chúa luôn ở bên ta, nhưng vấn đề là ta ít nhận ra. Vì vậy phải có những giây phút dành riêng cho Ngài. Đó là những giờ cầu nguyện sớm tối, những lúc buồn chán, cô đơn, thất vọng… Hãy nói cho Chúa biết mọi cảnh huống cuộc đời chúng ta.
Đặc biệt hơn trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, Giáo hội cho chúng ta có nhiều dịp để gần gũi với Chúa qua những giờ đọc kinh Lòng Thương Xót, những giờ Chầu Thành Thể, những buổi cử hành sám hối và thánh lễ Kính Lòng Thương Xót… Tất cả đều là cơ hội để chúng ta gần gũi với Chúa để tăng thêm tình yêu thương và nhận biết Thiên Chúa.
Theo Chúa
Theo Chúa nghĩa là Chúa đi đâu, ta đi đó; Chúa làm gì, ta làm nấy; Chúa sống làm sao, ta sống làm vậy… Theo Chúa là tập mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn.
Khởi đầu của việc trở nên giống Chúa là biết chấp nhận thánh ý của Ngài. Ngài sẽ đưa ta đến những nơi Ngài muốn chứ không phải ta muốn; Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta làm những công việc của Ngài chứ không phải công việc của ta… Thế cho nên theo Chúa là không phàn nàn, trách trút bất cứ hoàn cảnh nào; không ngán ngại bất cứ một công việc và một trách nhiệm nào…
Đời sống đức tin của chúng ta là nghe, biết và bước theo Đức Giêsu như những con chiên biết nghe và bước theo mục tử của mình vì nó biết mục tử sẽ đưa nó đến đồng cỏ xanh và suối nước trong.
Khi Mục Tử cất tiếng gọi là Ngài đang bày tỏ lòng thương xót của Ngài. Khi con chiên nghe tiếng gọi đó và bước theo là lúc nó được hưởng lòng thương xót.
Xin ánh sáng của Đấng Phục Sinh giúp mỗi người chúng con vượt qua những tiếng gọi hưởng thụ của thế gian để nghe được tiếng gọi yêu thương của Thầy Giêsu. Xin cho chúng con biết mạnh dạn từ khước những quyến rũ của trần thế để có thể bước theo Thầy Giêsu trên con đường dấn thân phục vụ mọi người trong mọi hoàn cảnh.
Xin cầu nguyện đặc biệt cho các bạn trẻ biết đáp trả lại lời mời gọi của vị Mục tử nhân lành để bước theo Thầy Giêsu và trở nên giống Ngài trong đời sống dâng hiến trọn vẹn. Amen.
Phúc âm Gio-an triển khai đề tài Mục Tử nhân lành trong bầu khí căng thẳng của cuộc tranh luận PS 4-C194
Phúc âm Gio-an triển khai đề tài Mục Tử nhân lành trong bầu khí căng thẳng của cuộc tranh luận giữa Đức Giê-su và những người lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, đặc biệt các người thuộc nhóm Pha-ri-sêu. Sau những khảng định về khác biệt căn bản giữa mục tử làm thuê và mục tử chân chính (Ga 10:1-18), Đức Giê-su long trọng công bố các yếu tố chính yếu trong tương quan giữa Người với các kẻ tin vào Người, giữa vị Mục Tử tốt lành với các chiên được trao cho Người chăn dắt. Chúng ta cùng suy niệm từng điểm một:
Về người Mục Tử:
– “Tôi biết chúng”. Rất ít ai đề cập sâu rộng tới cái ‘biết’ của Người Mục Tử nhân lành đối với chiên của mình. Người không chỉ biết số lượng (100 con), 99 con ở lại trong dàn và 01 con đi lạc. Người biết từng con chiên của mình trong tất cả tốt xấu, mạnh yếu, những thiện chí và ác ý, những nỗ lực và sa ngã… Người rành về chiên, có lẽ, còn hơn cả chính chiên biết về mình. Nhưng sự ‘biết’ này khác xa một giám thị soi mói, một cảnh sát rình rập, một quan tòa xét xử. Nó giống như cái biết của một bà mẹ âu yếm đối với đứa con dại khờ của mình, cái biết của người cha trước các thất bại của đứa trẻ ngây ngô. Đó chính là cái ‘biết’ của người Mục Tử nhân lành chăm sóc và tự hiến cho từng con chiên của mình.
– “Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi… Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Lời khảng định của Mục Tử thật tuyệt đối; nó có nghĩa là, ‘tôi sẽ dùng hết sức mình để giữ chiên lại, để bảo vệ chiên’. Và Người không làm điều này chỉ vì mình mà thôi, mà còn làm nhân danh Chúa Cha, với tất cả uy quyền của Cha. Người không dùng thừng chắc để cột chiên lại, không xây chuồng, gài then để canh phòng, không rào cao, dậu dày để ngăn chặn. Người dùng chính tình yêu thương tha thứ và nhân ái để bao bọc. Dây cột, rào dậu duy nhất của Người là hiến mình trên Thập Giá. Và đó cũng chính là uy quyền của Chúa Cha, vì “Tôi và Chúa Cha là một”.
– “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời… không bao giờ chúng phải diệt vong”. Công việc và kết quả hoàn toàn nằm trong tay Mục Tử. Người chủ động và quyết đoán tất cả. Người đảm bảo và tuyệt đối quyết tâm chu toàn như một ủy thác tối hậu từ Cha: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả…”
Về phía chiên:
– Hình như không đòi một điều kiện tương xứng nào, ngoại trừ “ Chiên nghe tiếng… chiên theo tôi”.
Người ta vẫn thường giải thích, ‘nghe và theo’ chính là chấp nhận và thi hành những điều Chúa và Hội Thánh dạy bảo. Nói như thế vì người ta hay hình dung Mục Tử như một nhà thuyết giảng luân lý, đạo đức, đứng trên bục dạy dỗ…, và chiên là những tín hữu ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe. Không, dứt khoát không phải vậy! Mục tử nhân lành không coi dạy dỗ là nhiệm vụ chính: Giê-su là (Ngôi) Lời trước hết trong chính bản thể của mình, trong đời sống và cái chết của mỉnh. Chiên chỉ thật sự nghe tiếng Người khi chiêm ngắm Người trên thập giá và sống lại! lúc đó chiên nghe thấy và nhận ra Lời tình yêu nhân ái của một Thiên Chúa cứu độ giầu lòng xót thương. Qua việc lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chiên quyết bước đi trong niềm tin vào Lời tình yêu giáng thế. Và cứ thế suốt đời tiến bước theo vị Mục Tử nhân hậu đã tự hiến trên Thập Giá. Rồi chỉ cần có thế, là chiên được bảo đảm sự sống đời đời và không bao giờ phải diệt vong; dẫu có tội lỗi và bất toàn tới đâu; nhưng nếu đã tin nghe Lời nhân lành và quyết tâm bước theo Mục Tử tự hiến nhân hậu, chiên sẽ được Người vác lên vai và đưa về ràn (thậm chí không cần bước đi). Phải chăng Ki-tô hữu trước nhất phải là những chiên như thế?
Cách nói này của Đức Giê-su quả đã gây sốc cho các Pha-ri-sêu, những đôi tai và con tim chỉ biết có mẫu mục tử do Mô-sê phác họa (rất ngay chính và cương trực của Cựu ước, nhưng chẳng có nét gì là từ nhân như diện mạo đấng Mê-si-a được các ngôn sứ loan báo sau này). Thế nhưng xem ra cách nói này vẫn còn tiếp tục gây sốc cho cả nhiều mục tử (linh mục) của Giáo Hội hôm nay, đặc biệt trong chính cái công việc mà các ngài vẫn thường gọi với cái tên rất cao đẹp ‘mục vụ’, là chăm sóc các linh hồn như người Mục Tử nhân lành.
Lạy Chúa Giê-su, Mục Tử duy nhất nhân lành của tự hiến Thập Giá và Phục Sinh, xin cho con – Alter Christus của Chúa – có được một chút nét nhân lành và tự hiến quá độc đáo của Mục Tử chí thánh. Xin cho con giảm bớt tính mô phạm trong đời mục vụ, và biết gia tăng nơi mình sự tự hiến và lòng xót thương, để các chiên có thể nhận ra nơi con đôi chút hình bóng của Mục Tử Giê-su nhân lành và tự hiến. A-men.
Để loan báo Chúa Phục sinh, trước hết các Tông đồ tìm đến những người Do Thái, với hy vọng PS 4-C195
Để loan báo Chúa Phục sinh, trước hết các Tông đồ tìm đến những người Do Thái, với hy vọng họ sẽ dễ dàng nhận ra Đức Kitô là Đấng Thiên sai mà họ mong đợi. Quả thật là có nhiều người Do Thái tin vào lời chứng của các tông đồ. Tuy vậy, có nhiều người lại chống đối và tìm cách gây khó dễ cho việc giảng dạy của các ông.
Tác giả sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về việc các Tông đồ rao giảng tại miền Antiôkia và Pixiđia, cách xa Giêrusalem. Sau khi nghe các ông rao giảng, vào ngày Sa-bát, người đến nghe đông theo cách diễn tả của tác giả là “gần như cả thành tụ họp nghe Lời Thiên Chúa”. Tin mừng về Chúa phục sinh đã lan rộng và cộng đoàn tín hữu phát triển nhanh chóng. Trước những hành động ngăn cản và quấy rối của người Do Thái, hai Tông đồ Phaolô và Barnaba đã có một quyết định quan trọng: đó là các ông đi đến với dân ngoại. Đây là một hướng đi mới, đồng thời cũng diễn tả tính hoàn vũ của ơn cứu độ được thực hiện qua Đức Giêsu thành Nadarét.
Quả vậy, Đức Giêsu không chỉ cứu độ người Do Thái, như nhiều người ngộ nhận. Người là Đấng Thiên Sai, là Ánh sáng của muôn dân như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo. Người đến để quy tụ muôn người về một mối. Tác giả Tin mừng thứ bốn đã hiểu điều này qua câu nói của thượng tế Caipha: “Điều đó ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ cho dân (Do Thái) mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát khắp nơi về một mối” (Ga 11,51-52).
Việc quy tụ muôn người được diễn tả qua hình ảnh chủ chiên và đàn chiên. “Tôi là mục tử tốt lành. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”. Đức Giêsu đã diễn tả cộng đoàn những người tin vào Người, giống như một đàn chiên, mà Người chính là Mục tử của đàn chiên ấy. Mục tử và đàn chiên là hình ảnh rất quen thuộc ở đất nước Do Thái, thời xưa cũng như ngày nay. Đây cũng là cách so sánh đơn sơ dễ hiểu đối với người bình dân.
Như người mục tử hy sinh sự sống mình để bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói dữ và của quân trộm cướp, Đức Giêsu hy sinh mạng sống mình để đem lại sự sống cho đàn chiên. Người đã tuyên bố: “Khi nào tôi được giương cao khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người đến với tôi”. Cái chết và sự phục sinh của Chúa là điểm quy tụ muôn dân. Hai mươi thế kỷ sau biến cố ấy, danh Đức Giêsu được loan truyền khắp thế giới, nơi mọi quốc gia và mọi vùng lãnh thổ. Đấng chịu đóng đinh đã quy tụ muôn dân. Đấng đã sống lại đang chuyển tải cho các tín hữu sự sống và niềm vui. Ai đến với Chúa sẽ tìm thấy hạnh phúc, vì Chúa là Mục tử dẫn đưa chúng ta đến bến bờ hạnh phúc, như mục tử dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và suối nước mát lành.
Khía cạnh hoàn vũ của ơn Cứu độ còn được diễn tả qua thị kiến của thánh Gioan tông đồ. Vị thánh này đã ghi lại trong sách Khải Huyền: “Tôi thấy một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ”. Đức tin Kitô giáo đã làm thay đổi quan niệm về ơn Cứu độ nơi người Do Thái, mở ra một nhãn quan mới. Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại. Ngài muốn cho mọi người được hạnh phúc và được cứu rỗi.
Nhờ bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu được kết nạp vào đàn chiên của Chúa, tôn nhận Đức Giêsu là lý tưởng cuộc đời, là Đấng dẫn dắt và chở che. Như người mục tử dẫn dắt và chăm sóc đàn chiên thế nào, Đức Giêsu cũng dẫn dắt và chăm sóc người tín hữu như vậy. Những ai xác tín vào lòng nhân hậu và tình thương của Chúa, sẽ được Người xót thương và sẽ tìm thấy bình an hạnh phúc.
Chúa nhật hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn Thiên triệu. Chúng ta vẫn có thói quen gọi những người sống bậc tu trì là “được Chúa gọi – Thiên triệu”. Xin cho nhiều bạn trẻ biết lắng nghe tiếng Chúa để quảng đại đáp lại lời Người. Chúa gọi chúng ta nhiều cách. Có thể qua cha mẹ, qua bạn bè hoặc qua một sự kiện nào đó đánh động tâm hồn. Khi cầu nguyện, phân định và nhận ra ý Chúa, chúng ta sẽ trung tín theo Người, và như thế, chúng ta sẽ trở nên thành viên của đàn chiên có Chúa Giêsu là Mục tử.
Bài Tin Mừng hôm nay là phần kết luận của diễn từ ‘Chúa Chiên Lành’ trong Tin Mừng theo Thánh PS 4-C196
Bài Tin Mừng hôm nay là phần kết luận của diễn từ ‘Chúa Chiên Lành’ trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an. Trong phần này, Chúa Giê-su mô tả mối quan hệ của Chúa với chúng ta bằng chính kinh nghiệm Người hằng có với Chúa Cha.
Người đã dùng một cách nói thật bình dân mô tả mối quan hệ giữa người chăn chiên và chiên của mình. Đối với người Do Thái, họ hiểu ngay cách mô tả của Chúa, bởi vì hình ảnh Chúa dùng xuất phát từ cuộc sống hàng ngày của những người sống cùng thời với Chúa Giê-su. Mọi người đều biết về mối quan hệ của những người chăn chiên và chiên. Người nói: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng bị diệt vong và không ai cướp được chúng ra khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng giao chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai có thể cướp chúng khỏi tay Người. Tôi và Chúa Cha là một.”
Hình ảnh ‘người chăn chiên’ đã được các ngôn sứ của thời cựu ước dùng để ám chỉ đến các vị lãnh đạo của dân Do Thái. Cụ thể, ngôn sứ Ezekiel xuất hiện trong thời dân bị lưu đầy bên Babylon. Trong bối cảnh lịch sử như thế, khi mà dân Do thái đã mất tất cả: văn hóa, quê hương, đền thờ... Ngôn sứ đã khơi lên niềm hy vọng cho dân bằng cách trình bầy Thiên Chúa là Người chăn chiên tốt lành, là Mục tử nhân hậu, là Đấng dẫn đường để dẫn dắt đoàn chiên, tìm chỗ cho chiên ăn, dẫn lại về ràn các con chiên lạc đường và cứu chiên thoát khỏi các cạm bẫy, các hiểm nguy của các thợ săn và thú dữ. (Ed 34: 11 – 16) Từ đó mỗi khi nói đến người chăn chiên thì dân Do Thái hình dung ra hình ảnh của một vị Thiên Chúa luôn yêu thương và quan tâm đến họ.
Trước hết, chúng ta cần đồng ý với nhau rằng qua cuộc sống và sứ vụ, Đức Giê-su đã chứng thực điều Người đã phán dậy hôm nay, chính Đức Giê-su là người chăn chiên tốt lành và thiện hảo. Người biết rõ nhu cầu, sở thích, ưu điểm, khuyết điểm và các thương tích của từng con chiên. Người đã hy sinh chính mạng sống mình để bảo vệ và ban cho các con chiên trong ràn sự sống. Đối với Đức Giê-su thì tất cả mọi người không cần phân biệt chủng tộc hay mầu da, tự do hay nô lệ, tín ngưỡng hay lối sống, nam hay nữ, giầu sang hay nghèo hèn… Tất cả đều thuộc về ràn chiên mà Chúa Cha đã trao cho Người để chăm nom. Trong Chúa không có sự tách biệt. Tất cả đều bình đẳng, không ai hơn ai kém. Mọi người đều có giá trị thật quan trọng trong con tim của Người chăn chiên tốt lành là Đức Giê-su Kitô.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” là một xác định thật quan trọng nói lên mối tương quan giữa Đức Giê-su và các con chiên. Người không lý giải hay biện minh. Người đã phán như một Đấng có uy quyền. Trong mối dây tương quan giữa Chúa Cha và mình, Đức Giê-su đã xác định một cách thật mạnh mẽ: Tôi là Người Chăn Chiên Tốt, Tôi biết chiên tôi, chúng biết và nghe tiếng Người. Đây không là vấn đề để tranh luận hay bàn cãi. Ai tiếp nhận thì điều mà Chúa phán hôm nay nghiễm nhiên trở thành sự thật và của mình.
Nghe tiếng Chúa, hôm nay, có nghĩa là nhận ra tiếng Chúa trong mối dây thân mật dưạ trên tương quan của Tình Yêu, của gắn bó và hiệp thông. Thậm chí đến mức độ, trong mối tương quan này họ không cần nói, cũng chẳng cần nghe… mọi âm thanh dường như cần dừng lại để cho cảm xúc của Tình Yêu và Lòng Mến dâng trào và ngâp tràn trong giây phút hai người biết nhau, như “Tôi biết chúng và chúng biết tôi.”
Dựa vào những suy tư của dân Do thái, hoàn cảnh thực tế của nghề chăn chiên và nhất là các kinh nghiệm về sự sống mà Chúa Giêsu đã trao ban cho các tín hữu thời giáo hội sơ khai, tác giả của Tin mừng thứ tư đã trình bầy Chúa Giêsu không chỉ là người chăn chiên; nhưng là Đấng chăn chiên tốt lành, đã hy sinh mạng sống để đem tất cả con chiên, dù lạc ràn hay không, về lại ràn và ban cho chúng sự sống đời đời và không một ai có quyền tước mất sự sống này được. Và ai ở trong ràn chiên của Người thì không bao giờ bị diệt vong.
Anh chị em thân mến,
Tin mừng hôm nay nhấn mạnh đến nhiệm vụ của người chăn chiên là trao ban và lo cho sự sống của chiên. Yếu tố này nhắc nhở tôi nhớ lại ý mà Hội Thánh mời gọi chúng ta cầu nguyện và cổ võ cho ơn gọi trong Chúa Nhật hôm nay. Và theo tôi, một trong những ơn gọi cao quí nhất đó là ơn gọi làm mẹ. Mẹ ở đây không phải là nhiệm vụ dành riêng cho các phụ nữ mà thôi. Nhưng trong vai trò lãnh đạo, hình ảnh của Đấng Chăn Chiên được thể hiện qua cách cư xử của các bà mẹ. Vì thế tinh thần, phẩm chất và bản năng của người mẹ cần thiết vô cùng cho những ai được gọi trong vai trò lãnh đạo để phục vụ.
Giờ đây chúng ta dành vài phút chia sẻ vài cảm nghĩ, đôi dòng suy tư về ơn gọi của những người mẹ Việt Nam cũng như tất cả các bà mẹ trên toàn thế giới.
Người ta thường nói mẹ là hình ảnh của tình yêu. Nhưng theo thiển ý của tôi thì mẹ chính là tình yêu, là sức sống, là hạnh phúc và là nơi nương tựa của đoàn con. Mẹ đã không vì mẹ mà sống, nhưng cuộc sống của các Người là vì chồng và cho con cái. Mẹ hy sinh và chấp nhận mọi khó khăn để bầy tỏ tình yêu của mẹ.
Tình yêu của những người mẹ như dòng suối chảy một chiều: cho đi mà không đòi lấy lại. Chúng ta thường được nghe rằng: “nước mắt chảy xuôi.” Thật vậy, cho dù con cái đã khôn lớn và vì vô tình hay cố ý mà một số người con đã không cư xử tốt với mẹ, thì mẹ vẫn yêu thương các con; vì tình yêu là lẽ sống của mẹ.
Khi nói mẹ là sự sống thì tôi nhớ lại sự kiện đã xẩy ra bên Nhật. Câu chuyện đó như sau. Vào năm 1995, sau vụ động đất tại Thành Phố Kô-bê, người ta đào bới và khám phá dưới đống gạch vụn của một tòa nhà đã đổ nát là hai mẹ con. Người mẹ, tuy còn sống nhưng đã bất tỉnh; còn đứa cháu gái đang cố gắng ngậm chặt ngón tay của người mẹ và cố hút nguồn sống bằng máu phát xuất từ thân thể của mẹ cháu.
Sau khi phục hồi sức khỏe cho hai mẹ con. Người ta nghe bà mẹ kể lại rằng. Tuy bị chôn vùi ở dưới đống gạch đổ nát của tòa cao ốc. Nhưng hai mẹ con chúng tôi quả thật đã gặp vận may. Có một cái đà thay vì đổ xuống đập vào chúng tôi thì lại bị ngăn lại bởi bức tường và trở thành vật chắn giúp hai mẹ con chúng tôi không bị đè chết. Sau đó, đứa con vài tháng tuổi của chị đói quá khóc thét lên. Bà mẹ không biết phải làm gì! Dòng sữa thì khô quặn vì đã mất mấy ngày họ đâu có gì để ăn và để uống. Bà mẹ mò mẫm trong bóng tối và tay bà đã chạm vào một vật sắc và nhọn. Với bản năng yêu thương của một người mẹ, bà không kịp suy nghĩ, lập tức dùng ngay vật nhọn đó cắt vào ngón tay của mình và đặt vào miệng cháu. Cứ thế mỗi lần con của bà khóc thét lên là một vết cắt của yêu thương được xuất phát từ thân thể của bà. Cứ thế cho đến khi bà ngất đi vì bât tỉnh và không hề biết những chuyện xẩy ra sau này.
Người ta hỏi bà là khi cắt da thịt mình để lấy máu thay sữa cho con, bà không sợ chết sao? Bà trả lời rằng với bản năng của người mẹ, tôi không có thời gian để suy nghĩ. Sự sống của con tôi là tất cả những gì mà tôi có thể làm được; cho dù giờ này biết làm thế rồi chết, tôi vẫn làm.
Anh chị em thân mến,
Giống như lòng của mẹ, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho con được sống, Chúa Giêsu - người Mục Tử Nhân Lành và Từ Bi- luôn để mắt đến chúng ta. Người đã hy sinh mạng sống để cho chúng ta được sống, một cuộc sống sung mãn và tràn đầy. Người đã không bị thần chết tiêu diệt. Trái lại, Người đã vượt qua sự chết để được Phục sinh và luôn ở bên cạnh chúng ta. Người không bao giờ rời mắt khỏi chúng ta. Niềm tin thâm sâu của chúng ta là, nhờ vào sự hiện diện âu yếm của Người, chúng ta sẽ bình an đạt tới đích trong sự bao bọc của Thiên Chúa.
Như vậy, bản năng và ơn gọi mà Thiên Chúa đã mời mẹ chúng ta lãnh nhận thật cao quí. Vì thế, để hoàn thành sứ mạng này, mẹ chúng ta có một cuộc sống tuy giản dị và âm thầm nhưng lại vô cùng kiên trung. Mẹ đặt trọn niềm tin và sự cậy trông nơi Đấng đã mời gọi mẹ. Mẹ đáp nhận bằng cả con tim yêu thương của mẹ để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ thật đáng tôn vinh như những vị anh hùng vô danh mà chúng ta thường tưởng nhớ, hoặc như những vị thánh âm thầm mà không cần tuyên phong. Cuộc sống của các Người như những lời mời gọi, như những động lực giúp chúng ta tiếp tục sứ mạng làm chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa.
Vậy, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một người mẹ, đã ban cho nhân loại ‘ơn gọi làm mẹ’. Ước gì những ai được mời gọi thừa kế quyền lãnh đạo của Chúa Giê-su, hãy có con tim của người mẹ, luôn yêu thương và sống trọn vẹn cho những ai mà Chúa ban cho họ chăm sóc. Amen. Happy Mother’s day!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10:27-30).
****************
Đây là một đoạn văn cực kỳ ngắn chỉ ra mối tương quan thiết yếu giữa Chúa Giêsu Kitô phục sinh PS 4-C197
Đây là một đoạn văn cực kỳ ngắn chỉ ra mối tương quan thiết yếu giữa Chúa Giêsu Kitô phục sinh, người chủ chăn đích thật và các con chiên của mình, cũng như với Chúa Cha. Sự hiểu biết về đoạn Tin mừng này trong khung cảnh phụng vụ của Mùa Phục sinh phải gom góp hết những suy niệm chúng ta đã và còn đang sống từ Chúa nhật thứ nhất đầu mùa Phục Sinh cho đến bây giờ, bởi vì chúng ta chỉ có thể hiểu những gì đang được nói với chúng ta, đặc biệt khởi đi từ bối cảnh những suy niệm mà chúng ta đã thấm nhuần. Chúa Phục Sinh là một Tin Mừng đáng kinh ngạc vì nó cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu Kitô, đã dọn đường để căn tính của chúng ta được thay đổi và đổi mới hoàn toàn. Thánh Phaolô diễn đạt như thế này: “Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4). Đoạn văn Tin mừng Chúa nhật thứ tư mùa Phục Sinh hôm nay mở ra một phương thức hiện hữu mới, vốn đã hiện hữu rồi nhưng bây giờ được bộc lộ đầy đủ hơn: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.” Đoạn Tin mừng này giống một lối đi hẹp cần vượt qua, như trong một ngọn núi, một thung lũng hướng tới một thung lũng khác ở sườn dốc bên kia. Người dân vùng núi thường mang đến trải nghiệm này cho những khách du lịch thích đi bộ trên núi và làm cho những người này rất ngạc nhiên sau khi băng qua một con đèo, và chỉ trong vài mét, họ có thể bước vào một khung trời hoàn toàn mới.
Chúa Giêsu, chịu khổ hình, bị đóng đinh, chết trên thập giá, nhưng rồi trỗi dậy và đã sống lại, đã vượt qua thử thách tuyệt đối, từ đó Ngài chiến thắng trở lại, tái lập lời hứa của Thiên Chúa với Đavít:
“Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn, đã thề cùng Đavít, nghĩa bộc Ta, rằng: dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời, ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ” (Tv 89:44). Ngài đã mang lại cho chúng ta sự bình an, niềm vui và một mời gọi chúng ta làm chứng: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở,các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:19-21).
Hôm nay, một cách cụ thể, Ngài gọi tên từng con chiên của Ngài: “chiên nghe tiếng của mục tử; mục tử gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra” (Ga 10:3). Chiên là những người đã bắt đầu theo Ngài, và Ngài mở ra một con đường cho cuộc đời của họ, nơi Ngài đã hứa sẽ ở với họ: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20) vì Ngài đã nhập thể vào đời sống loài người, trong sự yêu thương, sự bảo vệ nhân từ và ân cần của Chúa Cha… Do đó, Ngài mặc khải mình là sự sống vĩnh cửu, ban ơn hòa giải cho những người tin theo Ngài. Nhờ đó, họ trờ thành đàn chiên lãnh nhận sự sống phát sinh từ chính Ngài trong cuộc sống hằng ngày: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong,” Ngài là Vị Mục tử nhân lành đã chiến thắng trước cái chết, tuyệt vọng, ghen tị, tự dâng mình để ca ngợi Thiên Chúa là Cha của Ngài, vì: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10:30) “như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:15).
Đó là viễn cảnh của mùa Phục sinh này, mỗi người được gọi đích danh để, theo lời Chúa đã hứa với mình, trở thành chi thể của giáo hội đang được cấu thành. Khi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Kitô, tin rằng Ngài đã chết vì tội lỗi của chúng ta và trỗi dậy từ ngôi mồ, thì Chúa Thánh Thần kết hợp chúng ta với Chúa Giêsu. Chúng ta được kết nối với Ngài theo cách mà Thánh Phaolô có thể nói rằng tội lỗi của chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Ngài và con người cũ đã chết cùng với Chúa Giêsu: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Chúa Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3:3 ). Tương tự như vậy, chúng ta được kết hợp với Chúa Kitô trong sự phục sinh của Ngài và chúng ta đã được sống lại với Ngài: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Chúa Kitô” (Cl 3:1).
Không có gì tốt lành hơn đối với tôi là tin rằng Chúa Kitô Phục sinh kết hợp tôi vào sự sống của Ngài, dẫn tôi đi trên con đường của Ngài, bây giờ cũng là con đường của tôi, và cũng là con đường của tất cả những người khác, được nuôi dưỡng chung bằng sự sống của Chúa Kitô Phục sinh, Đấng là một với Thiên Chúa, trong một đàn chiên chia sẻ sự hiệp thông trong cùng sứ mệnh này của Chúa Giêsu, của tôi, của những người khác: sứ mệnh trao ban sự sống trong yêu thương, chăm sóc tận tình... Tôi bước đi, dù bên ngoài có vẻ một mình, nhưng thực ra lại đi cùng tất cả những người khác... Tôi trở thành một dấu hiệu của sự phục sinh khiến tôi sống động từ bên trong, liên kết với những gì sâu kín nhất, bí mật nhất của con người tôi, nơi đó Chúa Cha và Chúa Con hiện diện cùng dấu ấn và bẩy nguồn ơn của Chúa Thánh Thần. Tôi không còn tìm kiếm gì khác ngoài sự hiện diện này, một sự hiện diện chan chứa tình yêu thương chăm sóc ân cần của Chúa Cha qua Chúa Con. Cuộc sống của tôi không có kế hoạch nào khác ngoài việc đón nhận sự hiện diện đó hơn bao giờ hết, và loan truyền tình yêu thương đó liên tục, ngày càng nhiều hơn nữa, như lời Ngài khuyến khích: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:1-3).
Sự an toàn hoàn toàn của đàn chiên
Nét đặc trưng của những con chiên tin vào Chúa Giêsu là họ lắng nghe tiếng nói của Ngài và làm theo lời Ngài, vốn là vị Mục tử Nhân Lành. Chúa Giêsu chăm sóc họ, Ngài ban cho họ sự sống đời đời, Ngài cũng nuôi họ. Biết rằng họ sẽ phải đối mặt với nhiều nguy hiểm, Ngài muốn củng cố đức tin của họ bằng cách bảo đảm sự bảo vệ tuyệt đối cho họ: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” (Ga 10:28-29). Quả thật ai có thể giật khỏi tay Chúa Cha những kẻ mà Chúa Con đã trả giá bằng máu của Ngài để chuộc về? “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:35.38-39). Thật là an toàn,thật là đảm bảo, thật là chắc chắn biết bao!
Tất cả đều được gọi
Hôm nay là Chúa nhật Ơn gọi. Điều đầu tiên chúng ta cần nói trong ngày này là mỗi người ở đây đều có một ơn gọi, mỗi người ở đây đã và đang được Chúa kêu gọi qua Chúa Thánh Thần để dâng những món quà đặc biệt của họ cho những người còn lại trong cộng đoàn. Vậy ơn gọi của tôi là gì? Món quà đặc biệt của tôi là gì? Tôi đang đóng góp gì cho đời sống của giáo xứ này - bên trong Giáo hội và bên ngoài Giáo xứ?
Tất nhiên, hôm nay chúng ta đang được yêu cầu cầu nguyện cách đặc biệt cho những loại ơn gọi đặc biệt rất cần thiết cho đời sống của Giáo Hội. Chúng ta cần những vị mục tử chăm lo mục vụ cho các cộng đoàn giáo xứ của chúng ta mà chỗ này chỗ nọ chúng ta chưa có đủ. Chúng ta cần chứng tá đặc biệt mà Giáo hội đưa ra qua đời sống độc thân, khó nghèo và vâng lời.
Chúng ta cầu nguyện cho có nhiều ơn gọi như vậy hơn nữa, vì Chúa Thánh Thần chắc chắn đang kêu gọi những ai cần thiết để phục vụ Giáo hội. Vì thế chúng ta cần cầu nguyện cho những người vốn đang được kêu gọi sẽ trả lời lời mời gọi của Chúa Giêsu.
Cầu nguyện cho người khác
Đồng thời, trong khi chúng ta nhiệt thành cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và đời sống tu trì và quảng đại đóng góp cho các chủng viện, dòng tu, có một nguy cơ thực sự là chúng ta chỉ cầu nguyện cho ơn gọi của người khác, cho các bậc cha mẹ khác quảng đại cho phép con cái của họ vào chủng viện hoặc tu viện.
Không chỉ nhu thế, Chúa nhật Ơn gọi là dành cho tất cả chúng ta ở đây. Mỗi người cần suy ngẫm về lời kêu gọi cụ thể của mình là gì và tôi có thể đáp lại lời kêu gọi đó như thế nào vì sự tốt lành của toàn thể cộng đoàn giáo xứ. Thứ hai, tôi cần giúp đỡ và không trở thành chướng ngại vật đối với người khác trong việc đáp lại lời kêu gọi hoặc ân huệ cụ thể mà Thiên Chúa đang ban cho họ qua Thánh Thần của Ngài.
Đôi khi chúng ta nói về một “cuộc khủng hoảng ơn gọi”. Thực ra, theo nghĩa là mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi, đều có ơn gọi, thì không có cuộc khủng hoảng nào về ơn gọi. Nếu có thì đó là một cuộc khủng hoảng quá nhiều người không nhận thức được ơn gọi của mình hoặc nếu nhận thức được, thì họ không đáp ứng với ơn gọi đó. Hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho mỗi người chúng ta ở đây được nhạy bén với sự hướng dẫn của Thánh Thần trong cuộc sống của chúng ta và chúng ta có thể quảng đại đáp lại những lời kêu gọi mà Ngài đang kêu gọi chúng ta.
Nếu tất cả chúng ta đều tích cực hưởng ứng lời kêu gọi đó thì chúng ta sẽ là một cộng đoàn tuyệt vời như Cẩm Nang Thượng Hội Đồng Giám Mục về Tính Hiệp Hành đề cập:
“Toàn thể Dân Chúa qua Bí tích Rửa tội chia sẻ cùng một phẩm giá và ơn gọi. Nhờ Bí tích Rửa tội, tất cả chúng ta đều được mời gọi tham gia tích cực vào đời sống của Hội Thánh. Trong các giáo xứ, các cộng đồng Kitô hữu nhỏ, các phong trào giáo dân, các cộng đoàn tu trì, và các hình thức hiệp thông khác, nam nữ, trẻ già, tất cả chúng ta được mời gọi lắng nghe nhau để nhận ra sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Ngài đến để hướng dẫn những nỗ lực nhân loại của chúng ta, thổi sinh khí vào Hội thánh và dẫn chúng ta vào sự hiệp thông sâu xa hơn cho sứ mạng của chúng ta trong thế giới. Khi Hội thánh dấn bước trên con đường hiệp hành này, chúng ta phải cố gắng đi sâu vào kinh nghiệm thực sự lắng nghe và biện phân, trên bước đường trở thành Hội Thánh mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta trở thành.” [*]
Mục tử thì phải có đàn súc vật – chiên, dê, trâu, bò, ngựa,… nếu không thì không là mục tử. Cũng PS 4-C198
Mục tử thì phải có đàn súc vật – chiên, dê, trâu, bò, ngựa,… nếu không thì không là mục tử. Cũng vậy, đàn súc vật phải có người chăn, nếu không thì chúng phá phách, tranh chấp hoặc lạc nhau. Chủ chiên phải làm cho đàn chiên sống bình yên, không thể bỏ bê, mặc kệ, bất cần, vô trách nhiệm hoặc gặp chăng hay chớ. Nếu vậy thì chỉ là “thợ chiên” – kẻ chăn thuê.
Một tấm gương mục tử đáng noi theo là Thánh Phêrô Tarentaise (1102-1175, lễ ngày 8 tháng 5). Ngài là Tu viện trưởng dòng Xitô. Năm 1142, ngài được bổ nhiệm làm TGM GP Tarentaise thay thế giám mục bị cách chức vì thoái hóa. Ngài nhiệt tâm làm nhiệm vụ, cải cách giáo phận, thay thế các giáo sĩ buông thả, và đến với dân nghèo. Ngài thường xuyên đến các vùng sơn cước trong giáo phận.
Sau khoảng 10 năm làm giám mục, ngài “biến mất” một năm và sống ẩn dật tại một tu viện ở Thụy Sĩ. Ngài bị phát hiện và lại đành trở về làm giám mục. Ngài rất chú trọng tới người nghèo. Đức giáo hoàng phái ngài đi giải hòa với vua nước Pháp và nước Anh nhưng không thành công. Ngài qua đời trên đường trở về Tòa Giám Mục.
Chắc chắn chủ PHẢI biết tính vật nuôi, dù vật nuôi KHÔNG hiểu ý chủ. Đó là nói về vật nuôi, còn về nghĩa bóng thì cũng tương tự, dù có khác một chút. Mục tử và đàn chiên đều là con người, mà con người thì rất phức tạp và đa dạng. Nhưng chắc chắn có sự ảnh hưởng lẫn nhau, như người Việt thường nói: “Rau nào sâu nấy” hoặc “thầy nào trò đó.” Dù ít hay nhiều cũng có mức ảnh hưởng lẫn nhau.
Ở đâu thì âu đấy, môi trường sống mỗi nơi mỗi khác, người ta phải thích nghi để hài hòa cuộc sống. Sự ảnh hưởng là sự tác động thay đổi bởi người khác đối với cách suy nghĩ, hành động, lối sống, phong cách,... kể cả tính khí. Sự ảnh hưởng là một dạng áp lực – có thể tốt hoặc xấu. Áp lực đồng đẳng là động thái của chúng ta thay đổi bởi bạn bè. Người ta ảnh hưởng bởi nhiều thứ: Văn hóa, xã hội, chính trị, tôn giáo, môi trường, kiến thức,... Sự ảnh hưởng có thể do ý thức hoặc vô thức, thậm chí nó có thể dần dần hình thành tính cách của một con người.
Khi đề cập “con chiên,” người ta có ý nói là “ngoan đạo,” nhưng cũng có nghĩa tiêu cực là “vâng lời mù quáng.” Anh ngữ có danh từ SHEEPLE /SHēpəl/ – được ghép bởi chữ Sheep (chiên, cừu) và People (người), ý nói về người nhẹ dạ cả tin, dễ bị dụ, bị lừa. Danh từ Sheeple được sử dụng từ năm 1945.
Thánh LM TS Thomas Aquino xác định rằng “đức tin cần có cả trí tuệ và ý chí.” Tin như vậy mới là sáng suốt, không mù quáng, và cũng có nghĩa là chịu ảnh hưởng một cách đúng đắn chứ không hùa theo hoặc miễn cưỡng. Albert Schweitzer (1875-1965, thần học gia kiêm triết gia, người Đức gốc Pháp) nói về sự ảnh hưởng: “GƯƠNG MẪU không phải là điều chính yếu gây ảnh hưởng lên người khác, mà nó là ĐIỀU DUY NHẤT.” Còn William James (1842-1910, thần học gia kiêm triết gia, người Mỹ) nhận xét: “Chính THÁI ĐỘ của chúng ta khi bắt đầu một việc khó khăn sẽ ảnh hưởng kết quả thành công nhiều hơn bất cứ điều gì khác.”
Quả thật, sự ảnh hưởng rất quan trọng trong cuộc sống. Trình thuật Cv 13:14. 43-52 cho biết: Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày sabát, các ông vào hội đường. Tan buổi họp, có nhiều người Do Thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.
Đến ngày sabát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. Thấy những đám đông như vậy, người Do Thái SINH LÒNG GHEN TỨC, họ PHẢN ĐỐI những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Bấy giờ ông Phaolô và Barnaba MẠNH DẠN lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em KHƯỚC TỪ lời ấy, và TỰ COI MÌNH KHÔNG XỨNG ĐÁNG HƯỞNG SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.” Lý do rất rõ ràng. Được nhận mà không muốn nhận.
Lẽ tất nhiên là hậu quả khôn lường, nhưng đó là quyền tự chọn của mỗi người. Thiên Chúa không ép buộc ai, không muốn ai miễn cưỡng. Chính Chúa Giêsu đã từng cảnh báo: “Ai ĐÃ CÓ thì ĐƯỢC CHO THÊM và sẽ CÓ DƯ THỪA; còn ai KHÔNG CÓ thì ngay CÁI ĐANG CÓ cũng sẽ BỊ LẤY ĐI.” (Mt 25:29) Sau khi nghe hai ông Phaolô và Barnaba nói, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời đều tin theo. Và rồi khắp miền ấy, Lời Chúa được loan truyền rộng rãi.
Cuộc sống cho thấy thật đáng sợ với lòng ghen tức! Nhưng tại sao người ta ghen tức? Con gà tức nhau tiếng gáy, người ta ghen tức với người khác vì thấy mình lép vế, bất tài, vô dụng,… Giàu có thì bị ngó, nghèo khó thì bị khinh, thông mình thì bị đì, ngu si thì bị triệt. Kiểu nào cũng mệt. Quả thật, chỉ có người giỏi mới công nhận tài năng của người khác. Chúa Giêsu cũng đã có những lúc phải bỏ đi nơi khác vì người ta không chấp nhận Ngài và tìm cách hại Ngài.
Những kẻ sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do Thái là chính những người Do Thái. Các thân hào trong thành xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và Barnaba, rồi còn trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Thật hèn hạ, nhỏ nhen và nham hiểm. Thấy không ổn, hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Icôniô. “Tránh voi chẳng xấu mặt nào.” (Tục ngữ VN)
Thật vậy, khi người ta không thích mình thì cứ tránh cho xa kẻo họ “ngứa mắt,” chứ thật ra họ chẳng có gì mà phải sợ. Không thèm cãi với người thích cãi không phải là mình thua, mà là chứng tỏ mình không hèn như họ. Đó cũng là cách tránh dịp tội cho cả đôi bên. Họ đáng khinh và đáng trách, nhưng đó là quyền tự chọn của họ. William Makepeace Thackeray (1811-1863, tiểu thuyết gia người Anh) phân tích: “Gieo hành vi thì gặt thói quen, gieo thói quen thì gặt tính cách, gieo tính cách thì gặt số phận.” Một chuỗi hệ lụy rất lô-gích.
Chính sự tự do có thể tạo số phận của chúng ta, có thể tốt hoặc xấu – cả đời sống xã hội và đời sống tâm linh. Qua từng nhịp thở, cuộc sống con người là những chuỗi hồng ân. Ngay cả đau khổ cũng là hồng ân. Vâng, hồng ân Chúa không ngừng ảnh hưởng tới sự sống của mọi thụ tạo. Vì thế, chúng ta không thể không biết dâng lời tạ ơn. Thật vậy, với cảm nghiệm sâu sắc, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ, vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo. Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế, chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt.” (Tv 100:2-3)
Tại sao phải tạ ơn? Lý do vừa mặc nhiên vừa mình nhiên: “Bởi vì Chúa nhân hậu, MUÔN NGÀN ĐỜI CHÚA VẪN TRỌN TÌNH THƯƠNG, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín.” (Tv 100:5) Điều này cũng được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh, (1 Sb 16:34; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4, 29; Tv 118:29) nhiều nhất là trong Tv 136 – với 26 lần. Đó là mầu nhiệm về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Và Đức Maria cũng đã thốt lên qua bài thánh ca Magnificat: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1:50) Ai trong chúng ta cũng chịu ảnh hưởng bởi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, từ lúc sinh ra tới lúc nhắm mắt xuôi tay.
Cuộc sống của Kitô hữu không mơ hồ, mà có mục đích rõ ràng: Sống lại và về Nhà Cha trên trời. Đó là điều kỳ diệu của cuộc vượt qua khải hoàn mà hiện nay chúng ta không thể tưởng tượng như thế nào. Tuy nhiên, trình thuật Kh 7:9, 14b-17 “hé mở” cho chúng ta biết về cuộc khải hoàn trên Thiên Quốc. Thị nhân Gioan cho biết: “Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế.” Những người này rất đẹp và hạnh phúc. Nhưng họ là ai? Họ là những người mà chúng ta gọi là các thánh, nhưng người bình thường nhưng đã sống phi thường.
Và rồi Thánh Gioan kể: “Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi TRẢI QUA CƠN THỬ THÁCH LỚN LAO. Họ đã GIẶT SẠCH và TẨY TRẮNG áo mình trong MÁU CON CHIÊN. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ KHÔNG CÒN phải đói, phải khát, KHÔNG CÒN bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ LAU SẠCH nước mắt họ.”
Thật lạ lùng, cả “cách giặt” và “chất tẩy” đều kỳ diệu, không hề có trên thế gian này, nhưng thực sự có trong thế giới tâm linh và vô hình. Hằng ngày, mỗi chúng ta cũng vẫn phải “giặt” chính mình trong Bửu Huyết của Đức Kitô Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất. Mọi vết bẩn đều có thể được tẩy sạch và trở nên tinh tuyền.
Mối liên quan không thể tách rời là đàn chiên và chủ chiên. Chúa Giêsu là Đệ Nhất Con Chiên và cũng là Đệ Nhất Chủ Chiên – Vị Mục Tử Nhân Lành, (Ga 10:11) đồng thời Ngài cũng là Cửa Chuồng Chiên. (Ga 10:7-9) Trình thuật Ga 10:27-33 cho chúng ta biết rõ ràng về mối quan tâm của Mục Tử Nhân Lành dành cho Đoàn Chiên như thế nào.
Nghề gì có mùi đó. Mùi hôi tanh có giá trị hơn mùi thơm tho. Việt ngữ gọi là “mồ hôi” thật chí lý. Chính cái mùi khó ngửi đó chứng tỏ công lao vất vả của cha mẹ vì con cái, các mối quan hệ khác cũng vậy. Chúa Giêsu là Người Chăn Chiên đích thực nên nặng “mùi chiên.” Đó là sự ảnh hưởng tất yếu giữa chủ và chiên. Thật vậy, mấy bà bán cá làm sao tránh được mùi cá? Hoặc mấy người chăn heo lẽ nào không ám mùi heo? Một sự ảnh hưởng rất tự nhiên, không thể không có.
Tất nhiên mùi chiên ở đây mang nghĩa bóng. Chúng ta biết rằng, đại đa số chiên là dân nghèo – nhất là tại Việt Nam, thế thì tại sao chủ chiên không có “mùi nghèo” của chiên? Chủ chiên có “mùi” của chiên béo thì chủ chiên đó có thật, có quen, có đáng tôn trọng? Câu hỏi rất dễ ẹc trả lời rất khó!
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã trả lời qua câu nói xác định: “Chiên của tôi thì NGHE tiếng tôi, tôi BIẾT chúng và chúng THEO tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10:27-30) Quá rõ ràng với ba động từ: Nghe, Biết, Theo.
Lời thật dễ mất lòng. Thuận ngôn gây nghịch nhĩ. Nghe Chúa Giêsu nói vậy, người Do Thái lấy đá để ném Ngài. Mặc kệ, Ngài vẫn thẳng thắn: “Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi?” Người Do Thái nói: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.” (Ga 10:33) Đúng là những con người có tâm địa xấu xa, dốt mà chảnh, ngu mà ra vẻ giỏi, dại mà tưởng khôn. Người ta còn nói đến mình là còn thương mình, người ta không thèm nói tới mình thì “hết nước nói” rồi. Rất đáng quan ngại!
Chắc chắn “mùi chiên” phải là mùi thật, mùi tự nhiên, không thể là mùi nhân tạo. Ngày nay, người ta có thể chế biến đủ loại hương liệu để tạo mùi giả, liệu mùi chiên có bị “chế biến” hay không? Tất nhiên chiên cũng đa dạng, lắm kiểu, nhiều loại: mập – ốm, cao – thấp, trắng – đen, sang – hèn, giàu – nghèo,… Nhiều người luôn tâng bốc, nịnh hót, luồn cúi,... “ra cái vẻ” đạo đức và ngoan ngoãn. Dù là chiên hay chủ cũng đều có vấn đề, luôn phải xét mình mà chấn chỉnh kịp thời.
Ngày nay có những vấn đề rất đáng quan ngại: linh mục theo nhóm trừ quỷ, gia nhập Anh giáo, mời giám mục Anh giáo sang Việt Nam truyền chức, tự ý bỏ xứ,… Phải chăng đã đến lúc cận kề thời điểm tận thế, cho nên ma quỷ thâm nhập vào mọi ngõ ngách, nhất là dùng giáo sĩ để phá rối Giáo Hội?
Lạy Thiên Chúa, xin bảo vệ Giáo Hội, xin ban Thần Khí, ban ơn soi sáng và giúp chúng con phân định đúng đắn trước khi quyết định – từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, cả đời thường và tâm linh. Xin Ngài gia ân tăng lực, củng cố hệ miễn nhiễm tâm linh để tín nhân can đảm tránh sự dữ, luôn sống tiết độ và tỉnh thức, vì “ma quỷ như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5:8) Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Một hôm, cha Gio-an Bosco, vị thánh lo cho giới trẻ, bị một tên cướp chận đường trong rừng. Hắn PS 4-C199
Một hôm, cha Gio-an Bosco, vị thánh lo cho giới trẻ, bị một tên cướp chận đường trong rừng. Hắn hô lên: “Đưa tiền đây, không thì chết!” Vị thánh trả lời: “Tiền à? Tôi không có! Còn sống hay chết thì do Chúa định!” Tên cướp bực mình la lên: “Nói tào lao! Nếu mày không đưa tiền, tao sẽ giết mày ngay lập tức!” Lúc đó, thánh nhân mới nhận ra tên chận đường: đó là học viên giáo lý của ngài tại nhà tù Turin (Italia). Ngài nói: “Tonio đó phải không? Con đã dốc lòng như thế ư? Ta đặt tin tưởng nơi con nhiều hơn thế nữa mà!” Nhận ra người đối diện, tên cướp xin lỗi: “Ô! Nếu biết là cha thì con đã để cha đi qua rồi!” - Đâu có đủ! Phải đổi đời. Con đang thách thức Thiên Chúa đấy! Nếu không gấp rút trở lại, có thể con chẳng đủ thì giờ ăn năn sám hối lúc chết đâu” - “Con hứa sẽ ăn năn” - “Thế thì lo xưng tội! Khi nào thì con đi xưng?” - Ít hôm nữa” - “Không! Phải xưng tội ngay bây giờ”. Lập tức cha Bosco ngồi xuống trên mô đất, giải tội cho hắn. Và sau khi đã đem hắn trở lại làm hòa cùng Chúa, ngài âu yếm ôm hắn vào lòng, cho hắn số ít tiền ngài mang theo với mẫu ảnh Đức Mẹ, và xin hắn theo mình đến tận cửa thành. Tên cướp sau đó đã đổi đời, trở nên một con người rất lương thiện.
1. Lắng nghe và bước theo Mục tử
Thánh Gio-an Bosco đúng là một mục tử. Nhờ biết rõ chiên mình cũng như nhờ nó đã biết lắng nghe, ngài đã đem nó về lại cuộc sống đích thực. Cha quả đã theo gương vị Mục tử nhân lành được trình bày trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Đoạn này -theo nhiều chuyên gia phụng vụ- lẽ ra nên khai mở với một câu thật ra nằm xa trước đó (c. 11): “Mục tử nhân lành, chính là Ta” (cách dịch sát của linh mục Nguyễn Thế Thuấn). Một khẳng định mới nghe có vẻ bình thường. Thật ra, phải chú ý đến kiểu nói “Chính là Ta” này. Đây là một cụm từ đặc biệt, được Đức Giê-su sử dụng với nhiều bạo dạn và trong nhiều trường hợp, nơi Tin Mừng thánh Gio-an (Ga 4,26; 6,20; 7,29; 8,57; 13,19; 14,3.20, 17,24; 18,5.6). Theo các nhà chú giải, ba từ đó gợi nhớ “Tứ tự khôn tả”, “Bốn chữ không thể đọc lên”, “Danh tính nhiệm mầu” mà Thiên Chúa đã tự gọi mình trước mặt Mô-sê trên núi Sinai: YHWH, phiên thành YaHWeH (hay Yahvé, Jéhovah, Jéhova, Gia-vê: “Chính là Ta”, “Ta Hằng Hữu”, “Ta có sao Ta có vậy”…) và được đọc trại là “Adonai”, “Đức Chúa” [*]. Ngoài các trích dẫn khá nhiều trên đây, Tin Mừng Gio-an còn sử dụng cụm từ “Chính là Ta” này 13 lần nữa, với một hạn định từ kèm theo (Ga 6,35.41.48.51; 8,12; 9,5; 11,25; 15,1.5; 10,7.9; 10,11.14). Theo các nhà chú giải nghiêm túc, các kiểu nói này gợi lên bản tính thần linh của Đức Giê-su, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga 1,14).
“Mục tử nhân lành, chính là Ta”. Ở đây, Đức Giê-su không chỉ sử dụng một hình ảnh dân gian và thôn dã, nhưng trước hết là một thành ngữ Thánh Kinh có ý nghĩa đậm đặc. Trong tất cả phương Đông cổ, vua chúa vẫn thường tự xưng là mục tử của của dân nước mình. Chính Giavê cũng đã nhận vai trò này nhân cuộc giải phóng khỏi Ai-cập: “Còn dân Chúa, Người dẫn đi như thể đàn cừu, đem họ vào sa mạc chẳng khác bầy chiên” (Tv 78,52). Ông vua lý tưởng của tương lai, Đấng Mê-si-a, Đa-vít mới, cũng được loan báo như một “mục tử”: “Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng, đó là Đa-vít, tôi tớ của Ta” (Ed 34,23).
Mọi thính giả của Đức Giê-su cũng như chính Người đều có trong đầu óc các câu Thánh Kinh vừa nói, đặc biệt là chương 34 thời danh của Ê-dê-ki-en, chương mô tả dài dòng các mục tử xấu (vua chúa đương thời) bỏ bê chiên mình, trước khi khẳng định rằng Thiên Chúa sẽ đích thân đến thay thế họ: “Có lời Đức Chúa phán rằng: Ta đích thân đến tìm kiếm đàn chiên của Ta để săn sóc chúng… Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác… Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi… Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng. Con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về…” (Ed 34,1-31). Rõ ràng Đức Giê-su đòi hỏi chính địa vị của Thiên Chúa! Kể ra thính giả của Người đã không lầm. Họ rất hiểu tham vọng ấy: “Nhiều người nói: ông ấy điên khùng rồi! Kẻ khác bảo: ông nói phạm thượng: vì ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10,20.33). Và vì vậy họ lấy đá ném Người.
Chúng ta nên chiêm niệm hình ảnh biểu tượng “mục tử” này, bằng cách sử dụng Thánh vịnh 22 chẳng hạn: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi…”. Đức Giê-su cũng lặp lại y như thế, trong cung giọng người mục tử: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi… tôi cho chúng được sống dồi dào”. Tuy nhiên, hình ảnh chiên cừu ngày nay dễ mang một nghĩa xấu, với những kiểu nói “Đừng như con cừu thụ động! Chớ im lặng như thể bầy cừu!” Trong thực tế, hình ảnh Thánh Kinh có ý nghĩa hoàn toàn trái ngược. Vì cả ba từ được Đức Giê-su thốt lên ở đây là những từ hoạt động, mang tính cá nhân rất cao: nghe, biết, theo.
1/ “Nghe”: Một thái độ chủ yếu trong mối tương quan giữa hai hữu thể. Biết nghe là dấu chỉ của tình yêu chân thực. Biết bao lần, dẫu nơi một nhóm, dẫu quanh một bàn, dẫu trong cái gọi là đối thoại, chúng ta đã chẳng thật sự biết nghe. Các ngôn sứ Cựu Ước đã không ngớt mời gọi Ít-ra-en thực hiện điều này: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en!” (Đnl 6,4; Am 3,1; Gr 7,2; Tv 29,3.9). Lắng nghe, đó là khởi sự tin tưởng. Thánh Gio-an đã trình bày Đức Giê-su như Lời được Chúa Cha ngỏ với thế gian: “Này là Con chí ái của Ta, hãy nghe lời Người” (Mt 17,5).
2/ “Theo”: Cũng là một hành vi chẳng có gì thụ động, nhưng biểu lộ một thái độ tự do: gắn bó tất cả bản thân mình vào bản thân của một người. Theo nghĩa là quyến luyến: “Hãy theo tôi!” Đức Giê-su từng bảo vậy (Ga 1,43). 3/ “Biết!” Trong Thánh Kinh, từ này trước tiên chẳng có nghĩa tri thức. Chính tình yêu giúp ta biết ai đó thật sự, đến độ thông suốt. Đây là kiểu thân mật (kết hiệp tâm hồn thể xác, hiểu biết kính trọng sâu xa...) ghi dấu tình yêu vợ chồng (x. St 4,1).
2. Được sống vĩnh cửu và mãi an toàn
“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và chẳng ai cướp chúng khỏi tay tôi được”. Đây là việc cùng chung số phận giữa mục tử với chiên, giữa Đức Giê-su với “những ai nghe tiếng Người và bước theo Người”. Một sự kết hiệp vĩnh viễn! Một cuộc sống thần linh (sự sống của Đấng Đời Đời) có được ngay từ hôm nay và sẽ kéo dài bất tận! Một sự an toàn mãi mãi “trong bàn tay Chúa”. Nhưng đâu chỉ có thế. Còn một bàn tay khác nữa: “...và cũng không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Vậy là chúng ta được “hai bàn tay” nắm lấy! Như một đứa bé có ba một bên, má một bên, dẫn dắt cách tuyệt đối an toàn. Hình ảnh thật đẹp! Tuy nhiên, chúng ta cũng đoán ra được bối cảnh không màu mè ủy mị kiểu “mục tử hiền lành” và “cừu non dễ thương”. Người chăn chiên Đông phương là một tay mục tử dũng mạnh, một thứ chiến binh có khả năng bảo vệ chiên khỏi gấu hay sư tử đến bắt một con khỏi đàn (1 Sm 17,34-35). Khi nói những lời này, Đức Giê-su nghĩ đến cuộc chiến đấu bi thảm Người sắp thực hiện trong cuộc khổ nạn, để Địch thủ “khỏi cướp được” một trong các con chiên khỏi tay Người. Ngược với kẻ chăn thuê chạy trốn trước chó sói, Đức Giê-su sẽ hiến mạng và mất mạng vì chiên (Ga 10,12-15).
“Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi... Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha...” Nhưng lạy Chúa, thế thì làm sao giải thích được những thiếu sót, những bất trung nhận thấy quanh chúng con và trong cuộc sống chúng con? Đó là mầu nhiệm sự tự do của con người! Tuy nhiên, chúng ta nay biết một chuyện, đó là chẳng bao giờ Thiên Chúa bỏ rơi con người mà chỉ có con người bỏ rơi Thiên Chúa. Nhưng ngay cả sau khi con người thả tay, Thiên Chúa vẫn tìm cách tiếp xúc lại. “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?” (Lc 15,4). Hoặc giả như chúng ta định đổi hướng, lên đường trở về với Chúa, thì khi vừa xoay mình, thì đã thấy Người chình ình trước mặt! Thành thử chúng ta đã tạo cho mình một hình ảnh sai lạc khi nghĩ rằng Người có thể kết án các tội nhân. Nhưng cũng nên cố gắng ít phạm tội đối với vị Thiên Chúa tình yêu ấy. Một nền luân lý đầy trách nhiệm!
Cuối cùng, sỡ dĩ Đức Giê-su nói chiên đã được Thiên Chúa Cha ban cho Người, song dù vậy chúng vẫn ở trong tay Cha, đó là vì “Tôi với Chúa Cha là một”. Kiểu nói này đưa chúng ta đi sâu vào một thứ vực thẳm chóng mặt, vào mầu nhiệm bản thân Đức Giê-su thành Na-da-rét: trong con người đích thực này, sinh bởi một phụ nữ, đã lớn lên, sẽ đổ máu và chịu chết... chính Thiên Chúa đang hiện diện, nói năng và hành động. Đức Giê-su, đó là Thiên Chúa đã tự mạc khải vì tình thương con người. “Chúa Cha và tôi là một!” Các Công đồng sẽ cố gắng xác định điều này. Nhưng sẽ chẳng có công thức nào giúp ta hiểu được mầu nhiệm bản thân Đức Giê-su hơn công thức vừa thấy mà ta phải “nghe” trong đức tin: “Chúa Cha và tôi là một... Thiên Chúa và tôi, Giê-su, chúng tôi là một…”
Vì thế tại sao Đức Giê-su dám nói mình “ban sự sống đời đời”… Vì thế tại sao, như Thiên Chúa, Người có thể phán: “Ta Hằng Hữu” (= “Chính là Ta”). Vì thế tại sao Người đã bị kết án là một tên phạm thượng phải bị đóng đinh, nhưng Thiên Chúa đã “chứng thực” bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết…
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi ------------------ [*] Dominus/Seigneur/Lord. Từ năm 2001, Giáo Hội yêu cầu chỉ dùng từ “Đức Chúa” trong các bản dịch Kinh thánh và bản văn Phụng vụ, tránh chữ “Yahvé”, “Gia-vê”, kẻo bất kính.
Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, là ngày Giáo Hội mời gọi mọi người cầu nguyện cho các vị mục PS 4-C200
Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, là ngày Giáo Hội mời gọi mọi người cầu nguyện cho các vị mục tử trong Giáo Hội, để các ngài được trở nên giống như Vị Mục Tử Nhân Lành dám hy sinh mạng sống vì đoàn chiên (Ga 10:11). Hôm nay, tôi xin chia sẻ với bạn ba khó khăn trong việc mục vụ của các linh mục tại các giáo xứ. Qua ba khó khăn này, tôi ước mong bạn sẽ cảm thông với các Giám Mục và các Linh Mục, những người đã được chia sẻ chức vụ Mục Tử với Đức Kitô. Và tôi cũng hy vọng bạn sẽ thấy, trở nên một vị mục tử hiền lành, và nhân hậu như Chúa Giêsu Kitô thì không dễ một chút nào cả!
Khó khăn thứ nhất. Có những người chẳng ghi danh để gia nhập vào giáo xứ Mỹ hay giáo xứ Việt Nam, và cũng chẳng đi lễ ở nhà thờ Việt Nam. Đùng một cái vào xin các cha xứ giấy chứng nhận là giáo dân của giáo xứ, đang sống độc thân, có đi lễ giữ đạo hẳn hoi. Bạn nghĩ thử xem, trong trường hợp như vậy, linh mục chánh xứ có dễ dàng làm một vị mục tử nhân lành hay không? Không viết thư chứng nhận như lời yêu cầu, thì vị linh mục đó sẽ bị coi là khó tính khó nết, và chắc chắn là sẽ bị ... đóng đinh! Còn viết theo như được yêu cầu, thì các cha sẽ phạm tội gian dối, vì người đó đâu phải là giáo dân của các cha.
Khó khăn thứ hai. Anh A vào xin cha sở của anh làm đám cưới gấp, vì bạn gái của anh đã lỡ có thai. Cha sở từ chối vì thấy anh A và người bạn gái không có sự tự do để kết hôn với nhau, họ cưới nhau chỉ vì đã lỡ có thai, vì không muốn cha mẹ bị mất mặt với bà con lối xóm. Cha sở khuyên anh chị về sinh con xong, sau đó suy nghĩ cho kỹ rồi quay lại làm thủ tục làm đám cưới trong nhà thờ. Anh A ậm ừ ra về, sau đó chẳng hiểu bằng cách nào đó, mà khi qua nhà thờ Mỹ, ông cha sở ở xứ Mỹ đồng ý làm đám cưới gâp cho anh A. Thế là cha sở của anh A bị mang tiếng là không có lòng nhân hậu, không biết thông cảm cho tội nhân như ông cha sở ở bên xứ Mỹ.
Khó khăn thứ ba, là về vấn đề ngồi tòa giải tội. Bắt đầu từ Chúa Nhật trước mùa Chay, cha sở đã thông báo ở trong tờ Thông Tin, trên website, trên FaceBook, và gửi email đến từng gia đình rằng trong suốt 40 ngày mùa chay, ngoại trừ ngày Chúa Nhật, các cha sẽ ngồi tòa Giải Tội mỗi ngày. Nhưng 5 phút trước khi dâng thánh lễ thứ Năm tuần Thánh, có một người đến nói với cha sở rằng: "Cha cho con xưng tội, vì con bận đi làm, hôm nay con mới rảnh!"
Bạn nghĩ thử xem, trong ba trường hợp trên, các linh mục có dễ dàng trở thành những mục tử nhân lành như Chúa Giê-su được không? Dễ chết liền!
Hôm nay là Chúa Nhật Lễ Chúa Chiên Lành, xin bạn hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có thêm được những mục tử nhân lành, luôn noi gương bắt chước Chúa Kitô, dám hy sinh quên mình, và tận tụy chăm sóc cho đoàn chiên mà Chúa giao phó. Nhưng để các linh mục có thể trở nên những mục tử nhân lành như Chúa Giê-su, xin bạn hãy giúp cho các linh mục hai việc sau đây:
• THỨ NHẤT: Ghi danh vào các giáo xứ, để trở thành một thành viên của Giáo Xứ nơi bạn cư trú. Xin bạn cũng hãy tham gia vào các hội đoàn trong Giáo Xứ, và cộng tác với Giáo Xứ về mọi mặt. Quảng đại và rộng rãi đóng góp công sức, tài năng, và tiền bạc cho việc xây dựng, bảo trì, tu sửa và phát triển Giáo Xứ của bạn. Mình là người Công Giáo mà cứ đi CHÙA như vậy thì kỳ quá.
- Khi trở thành thành viên của Giáo Xứ, khi tham gia các hội đoàn, thì cha xứ mới biết bạn, bạn sẽ được Giáo Xứ cầu nguyện trong các thánh lễ, khi đau yếu sẽ có người thăm viếng, khi chết có người tới đọc kinh, viếng xác, và tiễn đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng.
- Khi gia đình có đám tang hay đám cưới, hay khi cần xin cha sở cấp giấy giới thiệu lập gia đình, làm cha mẹ đỡ đầu hay ra tòa, hoặc xin đi học ở các trường đại học ...cha sở sẽ có tư liệu để viết cho bạn.
• THỨ HAI: Đừng bao giờ trách móc, phao tin, hay lên án hoặc buộc cho các linh mục những tiếng xấu, ví dụ như quan liêu, khó khăn, gây khó dễ, thiếu lòng thương xót, nhẫn tâm…khi các ngài vì tiếng nói lương tâm, vì phải tuân theo những khoản Giáo Luật…nên từ chối không làm theo ý của bạn.
Bạn tin tôi đi! Nếu bạn và mọi người trong các xứ đạo siêng năng cầu nguyện, nâng đỡ các linh mục, và thực hiện được hai công việc mà tôi mới đề nghị ở trên, thì Giáo Hội sẽ có thêm nhiều Giám Mục và nhiều linh mục trở nên giống như vị Mục Tử Nhân Lành là chính Đức Giêsu Kitô, biết hy sinh, tận tụy chăm sóc cho đoàn chiên của Chúa giao phó cho họ.
Hôm nay cũng là ngày Hiền Mẫu, xin Chúa qua bàn tay nhân ái của Mẹ Maria, chúc lành, ban bình an, và sức khỏe cho tất cả các bà mẹ. Mong rằng các bà mẹ sẽ nhận được thật nhiều niềm vui, và cảm nhận được tình yêu của con cái dành cho các bà trong ngày Lễ Hiền Mẫu và trong những ngày tháng sắp tới. Happy Mother’s Day!