Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 6-C Bài 51-100 Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy

Thứ ba - 21/05/2019 10:07
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 6-C Bài 51-100 Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 6-C Bài 51-100 Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 6-C Bài 51-100 Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy
------------------------------------
Phúc Âm: Ga 14, 23-29: "Thánh Thần sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin". - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------
PS 6-C51. Thầy để lại bình an cho anh em.. 2
PS 6-C52. Các môn đệ không hiểu Đức Giêsu. 5
PS 6-C53. Nếu không có Chúa Thánh Thần. 8
PS 6-C54. Sứ mạng hoà giải 11
PS 6-C55. Hoa quả của Thánh Thần. 13
PS 6-C56. TƯƠNG QUAN TÌNH YÊU.. 17
PS 6-C57. Dung mạo người Kitô hữu. 22
PS 6-C58. Ân huệ Chúa không quan niệm được. 23
PS 6-C59. Những điều Chúa hứa ban. 25
PS 6-C60. Nếu. 27
PS 6-C61. CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH.. 28
PS 6-C62. NGUỒN BÌNH AN.. 30
PS 6-C63. BÌNH AN PHỤC SINH.. 32
PS 6-C64. NGÔN HÀNH HỢP NHẤT.. 33
PS 6-C65. BÌNH AN CỦA THIÊN CHÚA BAN.. 35
PS 6-C66. Trong và ngoài tình yêu - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt  Web. 37
PS 6-C67. Hoà bình, hồng ân của Thiên Chúa. 39
PS 6-C68. Ơn bình an. 41
PS 6-C69. ĐỂ NGƯỜI RA ĐI 43
PS 6-C70. Chú giải của Noel Quesson. 46
PS 6-C71. Suy niệm của nhóm Nha Trang. 50
PS 6-C72. TÍN ĐỒ VÀ TỘI ĐỒ.. 54
PS 6-C73. ĐẾN VÀ Ở LẠI 58
PS 6-C74. Đừng sợ. 59
PS 6-C75. HÃY GIỮ LỜI THẦY.. 64
PS 6-C76. LOÉ SÁNG THẦN NHẬP. 66
PS 6-C77. Đền thờ cao quý nhất – Lm Ignatio Trần Ngà. 70
PS 6-C78. Phúc cho ai biết xây dựng hoà bình. 72
PS 6-C79. Sự bình an. 73
PS 6-C80: Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU CHÚA.. 74
PS 6-C81: YÊU MẾN THÌ GIỮ LỜI 77
PS 6-C82: SỐNG TRONG SỰ HƯỚNG DẪN CỦA CHÚA.. 79
PS 6-C83: BÌNH AN.. 80
PS 6-C84: CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH C. 82
PS 6-C85: VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN.. 84
PS 6-C86: SÁNG KIẾN.. 88
PS 6-C87: CHÚA GIÊSU PHỤC SINH SẼ VỀ VỚI CHÚA CHA... 89
PS 6-C88: BÌNH AN CỦA CHÚA.. 91
PS 6-C89: HÃY QUAY LƯNG LẠI VỚI CÁC GIÁ TRỊ HƯ ẢO.. 93
PS 6-C90: ÂN SỦNG CHÚA.. 97
PS 6-C91: YÊU LỜI và GIỮ LỜI 100
PS 6-C92: CHÚA GIÊ SU PHỤC SINH VẪN LUÔN HIỆN DIỆN.. 104
PS 6-C93: CUỘC SỐNG MỚI 105
PS 6-C94: THẦN KHÍ CHÚA NGỰ XUỐNG TRÊN TÔI 107
PS 6-C95: ĐỨC GIE6SU LUÔN HIỆN DIỆN.. 111
PS 6-C96: VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN.. 116
PS 6-C97: Yêu mến và bình an. 121
PS 6-C98: Thiên Chúa đã đến cư ngụ nơi những kẻ yêu mến Người 123
PS 6-C99: BÌNH AN TRONG CHÚA.. 130
PS 6-C100:  Chúa Nhật VI Phục Sinh, C.. 132

---------------------------------

 

PS 6-C51. Thầy để lại bình an cho anh em


Dẫn vào Thánh lễ và sám hối

 

Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình: PS 6-C51


Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy." Chúng ta không thể trao ban bình an cho người khác nếu chính chúng ta không có. Chúa giàu có thể trao ban bình an cho người khác được vì chính nơi Người đã có sự bình an. Thiên Chúa sẽ ban tặng cho chúng ta chính bình an của Người.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa giúp chúng con sống bình an với Chúa.
Chúa giúp chúng con sống bình an với chính bản thân con.
Chúa giúp chúng con sống bình an với anh chị em.

Dẫn vào các bài đọc

Bài đọc 1: Cv 15, 1-2.22-29

Vấn đề lớn tranh cãi trong Giáo Hội sơ khai đó là làm sao lề luật và truyền thống Môsê lại quàng trên cổ những người không phải Do Thái nay cải đạo. Bài đọc này nói cho chúng ta biết vấn đề này được giải quyết như thế nào.

Bà i đọc 2: Kh 21 , 10-14.22-23

Chúng ta được cho thấy một bức tranh hoành tráng của thành Giêrusalem mới, Giáo Hội trên trời trong tương lai, khi Vương quốc Thiên Chúa ngự đến trong tất cả vinh quang.

Tin Mừng: Ga 14,23-29

Chúng ta nghe một phần khác trong diễn từ chia tay của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly. Phần này thật trối vượt vì những suy nghĩ vào lúc sắp ra đi của Người.

Bài giảng 1   roi

ÂN SỦNG BÌNH AN

Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi." Đây là những lời đầy yêu thương nhất trong Tin Mừng. Tiếng Do Thái "bình an" là "shalom", một từ sử dụng rất nhiều trong Kinh Thánh. Từ này rất giàu về nội dung, mà trong tiếng Anh, từ "peace" chỉ chứa đựng có một phần ý nghĩa của nó. Tổng quát, nó chứa đựng ý nghĩa của một thế giới trọn vẹn, một hoàn cảnh trong đó không thiếu thốn gì cả Tình trạng hạnh phúc hoàn hảo, điều mà từ này biểu thị chỉ thuộc về Thiên Chúa. Khi người nào sở hữu được bình an, người đó có sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa.

Các ngôn sứ giả tiên đoán bình an khi chẳng có sự bình an. Ngược lại, Chúa Giêsu thỉnh thoảng nhắc đến "xáo trộn của sự bình an". Nhưng bình an mà Chúa Giêsu làm xáo trộn lại là thứ bình an giả tạo. Bình an không chỉ cốt ở thành công và hạnh phúc. Bản chất cấu thành của sự bình an đó là sự ngay thẳng đạo đức. Bởi thế, nơi nào không có công chính, thì chằng có bình an đích thực. Vì thế, không có bình an ở nơi sự dữ. '

Bình an không phải chỉ là không có chiến tranh hoặc chia rẽ. Cũng không phải chỉ đơn giản là sự hoà thuận. Bình an đích thực không giống như sự thanh bình. Thanh bình chỉ là dáng vẻ bề ngoài. Bình an là bản chất bên trong. Bình an là tình trạng thanh thản trong tâm hồn, và được biểu lộ ra qua những việc thiện hảo trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em. Bình an trong một ý thức trọn vẹn, một sự bình an mà trối vượt mọi suy nghĩ của con người, không thể được thiết lập chỉ bằng với những nỗ lực của con người. Đó là một ân sủng của Thiên Chúa.

Thiên Chúa mong muốn sự bình an trên những người phụng sự Người. Thiên Chúa nói bình an với dân của Người. Trong Kinh Thánh, từ "shalom" được nhân rộng như một lời chào thông thường. Nhưng còn hơn thế nữa. Đó là một kinh nghiệm về những lời chúc tốt đẹp. Bình an chỉ là một trong những món quà lớn nhất mà chúng ta có thể trao tặng cho người khác. Nhưng chúng ta không thể trao tặng cái là chúng ta không có, cũng như không ta chẳng thể bố thí cho người ăn xin nếu túi ta trống rỗng. Và chúng ta cũng ldlông thể ban tặng bình an cho những người không muốn hoặc không có khả năng nhận nó. Chúng ta có thể tạo nên môi trường cho bình an được bén rễ, nhưng chúng ta không thể áp đặt bình an trên đó.

Chúa Giêsu có thể trao ban bình an cho các môn đệ của Người, bởi vì chính nơi Người đã có sự bình an: "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy Bình an đó là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Vì Chúa Giêsu là sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa, Ngài có thể ban tặng chúng ta ân sủng bình an. Người Kitô hữu có ơn gọi trao ban bình an. Nhưng thường, than ôi, thay vì trao ban bình an cho người khác, chúng ta bắt họ phải chịu đựng nhùng xáo động và bất hạnh của chính chúng ta.

Khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại, Người đã không khiển trách họ hoặc ngay cả rầy la vì những thiếu sót đối với Người. Thay vào đó, Người đã phá vỡ những cánh cửa đóng chặt vì sợ hãi và nghi ngờ và nói nhũng lời mà trong lúc tuyệt vọng họ cần được nghe. Chúa Giêsu nói: "Bình an cho anh em." Và với ý nghĩa của những lời nói yêu thương này, Người đã biến đổi nỗi thất vọng thành hy vọng, nỗi buồn thành niềm vui nơi các môn đệ.

Phúc cho chúng ta nếu chúng ta đuốc hưởng nếm bình an của Chúa Giêsu - bình an mà vượt qua mọi sự hiểu biết, bình an mà thế giới này không thể trao tặng, bình an mà không ai có thể lấy mất đi khỏi chúng ta, bình an mà có thể tồn tại giữa một thế giới phiền muộn, và ngay cả giữa những vấn đề bế tắc. Bình an là ân sủng Chúa ban tặng cho chúng ta, nhưng đó cũng là quà tặng của ta trao ban cho anh chị em.

LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Chúng ta hãy cầu xin để những nẻo đường của Chúa được thế giới nhận biết và mọi dân tộc có được kinh nghiệm sự cứu giúp cua Người.
Xướng: Cho các Kitô hữu trở nên những người thiết lập hòa bình.
Xướng: Cho các nhà lãnh đạo trên thế giới: để Chúa hướng dẫn bước chân của họ vào con đường hòa bình.
Xướng: Cho các bậc cha mẹ, một khi đã trao ban sự sống cho con cái, thì cũng biết tôn trọng sự chọn lựa ơn gọi trong cuộc đời của chúng.
Xướng: Cho những ai đang lo âu hoặc sợ hãi: để họ có thề biết được rằng bình an đến từ thái độ tin cậy vào Thiên Chúa.
Xướng: Cho những người chúng con yêu mến mà nay đã qua đời, được yên nghỉ bình an trong Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự thanh thản để đón nhận tất cả những điều mà chúng con không thể thay đối được, can đảm thay đổi những điều . mà chúng con có thể, và khôn ngoan để nhận biết tình trạng khác nhau. Chúng con cầu xin ...

----------------------------

 

PS 6-C52. Các môn đệ không hiểu Đức Giêsu


Nghe:

Cv 15,1-2.22-29:

Có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê, thì anh em không thể được cứu độ”. Ong Phalô và ông Banaba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Banaba và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông Đồ và kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này…….

Bấy giờ các Tông Đồ, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antiokhia với ông Phao,lô và Banaba… Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau”

Anh em Tông Đồ và kỳ mục chúng tôi gửi lời chào anh em gốc dân ngoại tại Antiôkhia, tại miền Syri và Kilikia. Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi ủy nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là Banaba và ông Phaolô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giuđa và ông Xila đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt trên vai anh em một gánh nặng naò khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, không ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh”

* TIN MỪNG: Ga 14,23-29

Đức Giêsu đáp: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xẩy ra, để khi xẩy ra anh em tin.

Ngẫm:

Câu  hỏi  gợi ý:

 

Các môn đệ nghe Đức Giêsu “giống như vịt nghe sấm”  Để hiểu được Đức Giêsu…. Hậu quả khôn:


Các môn đệ nghe Đức Giêsu “giống như vịt nghe sấm”
Để hiểu được Đức Giêsu….
Hậu quả khôn lường của Tình Yêu.

* Suy tư gợi ý:

Các môn đệ nghe Đức Giêsu “giống như vịt nghe sấm”

Khi đọc lại những lời từ biệt đầy ân tình của Đức Giêsu nói với các môn đệ,  chúng ta có cảm tưởng những lời nói ấy rơi vào trong khoảng không: không một âm vang, không một tiếng dội. Các môn đệ như đang sống trong một thế giới khác, với những bận tâm khác. Tâm hồn họ đang để đâu đâu. Lòng trí họ ở thật xa những gì Đức Giêsu muốn truyền đạt! Họ nghe Đức Giêsu nói chẳng khác gì “vịt nghe sấm”, tức nghe mà không hiểu gì hết, bởi vì lời nói của Thầy không hề lọt vào tai họ!

Để hiểu được Đức Giêsu…..:

Các môn đệ không hiểu Đức Giêsu cũng là chuyện bình thường và dễ hiểu thôi! Bởi vì cùng lắm các ngài chỉ có thể hiểu được rằng: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người cho thế gian, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng đưộc sống muôn đời” (Ga 3,16). Chứ làm sao mà các có thể hiểu nổi Tình Yêu của Đức Giêsu lại “điên rồ” đến như vầy:

“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8)

Chúng ta hẳn còn nhớ Phêrô đã can ngăn Thầy như thế nào khi Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó! Mà không chỉ có một mình Phêrô cản ngăn mà tất cả Nhóm Mười Hai đều không muốn hiểu và không muốn chấp  nhận chọn lựa của Thầy! Chỉ sau khi đã đón nhận Thánh Thần, các ngài mới hiểu được Tình Yêu của Thiên Chúa bao la và sâu thẳm như thế nào.

Vì thế, để chúng ta hiểu được Đức Giêsu & Thiên Chúa Cha yêu thương ta như thế nào, chúng ta cần phải có ánh sáng và ân sủng của Thánh Thần.

Hậu quả khôn lường của Tình Yêu:

Vì yêu nhân loại Thiên Chúa đã ban Con Một Ngài là Đức Giêsu cho trần gian. Vì yêu nhân loại Đức Giêsu đã chấp nhận làm người, và còn hơn thế nữa, đã chấp nhận con đường thập giá, tự hạ và tự hủy. Vì yêu mỗi người chúng ta Đức Giêsu và Cha Người sẵn sàng đến “dựng lều” trong chúng ta, nghĩa là Thiên Chúa không chỉ sống cùng chúng ta (Emmanuel) mà sống trong chúng ta. Vì yêu chúng ta Thiên Chúa đã quan phòng cho chúng ta gặp được Linh Đạo Khôi Bình….cho chúng ta có một gia đình thiêng liêng yêu thương, nâng đỡ chúng ta, trên con đường nên thánh.

Nếu chúng ta thực sự yêu mến Đức Giêsu, yêu mến Thiên Chúa chúng ta sẽ giữ Lời Ngài và sẽ được Ngài và Chúa Cha yêu mến. Giữ Lời là lắng nghe, thực thi và rao giảng Lời. Nghe/Sống/RaoGiảng Lời là tiêu chuẩn, là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa!

Nếu chúng ta thực sự yêu thương tha nhân, yêu thương những người sống chung quanh chúng ta, những người cần đến chúng ta thì chúng ta sẽ coi họ là đối tượng để chúng ta ”yêu thương và phục vụ”. Thiên Chúa đã đồng hóa với chúng ta thì chúng ta cũng được mời gọi đồng hóa mình với tha nhân. Cách đồng hóa hoàn hảo nhất là đặt mình vào thế phục vụ và yêu thương như Chúa đã yêu thương và phục vụ chúng ta.

Là thành viên của Gia Đình Khôi Bình, chúng ta được mời gọi thể hiện lòng kính Chúa và yêu người theo cách riêng của Linh Đạo: Siêng năng đọc, suy niệm, học hỏi và chia sẻ Lời Chúa. Đoàn kết yêu thương và phục vụ anh chị em trong cùng gia đình như những người thân….Tình Yêu sẽ biến đổi chúng ta. Tình yêu sẽ biến đổi gia đình riêng và Gia Đình Khôi Bình. Tình Yêu sẽ biến đổi thế giới! Và chỉ có Tình Yêu mới có sức biến đổi ấy, chứ không phải quyền lực, vũ khí hay tiền bạc!

Nguyện:

Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng con cảm tạ Cha vì Cha đã ban Đức Giêsu cho chúng con. Nhờ Người chúng con hiểu và đón nhận được Tình Yêu của Cha. Nhờ Người chúng con tìm được con đường hạnh phúc thật. Nhờ Người và nhờ Thánh Linh của Cha, chúng con có thể yêu thương anh chị em thuộc gia đình Khôi Bình và tha nhân đồng loại.

Xin Cha ban cho chúng con một lòng gắn bó với việc lắng nghe, sống và rao giảng Lời Chúa, để chúng con luôn có Cha và Đức Giêsu trong tâm hồn và trong cuộc đời của chúng con. Amen.

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

----------------------------

 

PS 6-C53. Nếu không có Chúa Thánh Thần

 

Nếu không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ xa vời, Chúa Kitô sẽ chỉ là một nhân vật của: PS 6-C53


Nếu không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ xa vời, Chúa Kitô sẽ chỉ là một nhân vật của quá khứ, Phúc âm sẽ chỉ là một văn bản chết, Giáo Hội sẽ chỉ là một tổ chức trần gian tầm thường, giáo quyền sẽ như bất cứ quyền bính nào khác, việc truyền giáo sẽ chỉ là một công tác tuyên truyền, Phụng vụ sẽ chỉ là một mớ nghi thức cổ xưa lỗi thời và cuộc sống theo luân lý sẽ chỉ là kiểu cách hành động của nô lệ.

Nhưng trong Chúa Thánh Thần, vũ trụ trở thành cao quý vì Nước Chúa khai sinh, Chúa Kitô Phục sinh hiện diện, Phúc âm trao ban sức mạnh và sự sống Giáo Hội thể hiện sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, giáo quyền trở thành dụng cụ phục vụ, Phụng vụ là lễ nghi tưởng niệm, và diễn tả trước cuộc sống mai sau và hành động của con người được trở thành thần thánh.

Tư tưởng trên đây của Đức cố Thượng phụ Athenagoras Giáo chủ Giáo Hội Chính Thống Contantinople có thể giúp chúng ta hiểu sứ điệp thần học của các bài đọc Phụng vụ hôm nay. Đó là Chúa Thánh Thần là Đấng trợ lực và hướng dẫn cuộc sống Giáo Hội. Chương 15 sách Tông đồ Công vụ là một trang sử đáng ghi nhớ của Giáo Hội Kitô tiên khởi, bởi vì nó cho chúng ta thay một số vấn đề quan trọng của cộng đoàn và kiểu cách Giáo hội đã giải quyết các vấn đề.

Trước hết là vấn đề liên quan tới chiều kích đại đồng trong khác biệt của cộng đoàn dân Chúa. Các tín hữu thuộc cộng đoàn Kitô tiên khởi gồm những người gốc Do Thái, cũng như không Do Thái thuộc các dân tộc khác, trong đó có người Hy Lạp là hoa trái công tác rao truyền Tin Mừng của Phaolô và Barnaba. Trung thành với sứ mạng Chúa Kitô Phục sinh đã giao phó cho các vị trước khi về trời, các tông đồ ra đi loan báo Tin Mong Nước Trời cho các dân tộc khác. Vấn đề hội nhập Tin Mừng Nước Trời vào nền văn hoá Hy Lạp, đã được Phaolô và Barnaba thực thi ngay từ đầu tại Antiôkia cũng như các nơi khác.

Tuy nhiên, trong việc người tín hữu gốc Do Thái từ Giêrusalem đến Antiôkia, họ đã rao giảng một nguyên tắc trái với tinh thần của Tin Mừng. này. Bởi vì họ chủ trương bắt buộc những người không Do thái khi trở thành Kitô hữu, cũng phải tuân giữ các luật lệ của Môisê, tập tục của người Do Thái như phép cắt bì chẳng hạn. Vấn đề đã gây tranh luận sôi nổi, đến nỗi công đoàn của Antiôkia về Giêrusalem tham khảo ý kiến giải lãnh đạo và tín hữu của giáo đoàn này. Và công đồng đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội được triệu tập tại Giêrusalem. Sau khi nghe phái đoàn Antiôkia trình bày và cong với họ duyệt xét thảo luận vấn đề trong bầu khí cầu nguyện, dưới ánh sáng vô sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã lấy quyết định viết thư trả lời trao gởi phái đoàn đem thư tới các giáo đoàn vong Tiểu Á. Công đồng quyết định rằng trong giáo huấn của Chúa Giêsu đã có tất cả mọi nhân tố nòng cốt diễn tả bản chất cuộc sống và lòng tin Kitô rồi. Đó là hoán cải tâm lòng và trung thành với giáo huấn Tin Mừng của Chúa Giêsu. Công đồng chung chỉ khuyên các tín hữu giữ ba điều sau đây: Thứ nhất không ăn thịt ô uế cúng bái cho các thần ngoại, thứ hai kiêng máu các súc vật chết ngạt và thứ ba không sống dâm loạn.

Đây là luật đã có trong sách Lê vi đoạn 27 và 28. Theo quan niệm của Do Thái giáo, máu tượng trưng cho nguyên lý sự sống mà chỉ có Thiên Chúa là người có quyền trên sự sống thôi, nên tín hữu không được ăn hay uống máu. Dâm loạn còn ám chỉ hôn nhân của những người cong họ máu trong gia đình. Kiểu cách giải quyết các vấn đề trên đây của Giáo hội Kitô tiên khởi phản ánh tinh thần công đoàn trong Giáo hội. Giáo đoàn Antiôkia cũng như giáo đoàn Giêrusalem không uỷ thác cho một nhóm chuyên viên giải quyết vân đề, mà đã hội họp với nhau và trực tiếp lòng nghệ trình bày vấn đề, các ý kiến thuận nghịch và bàn luận dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Và cong với nhau quyết định cong nghĩa là Chúa Thánh Thần trợ lực giới hữu trách, trợ lực Đức Giáo Hoàng và các vị có nhiệm vụ quyết định. Điều này cho thấy phương cách đúng đắn giúp giải quyết các xung khắc, các bất đồng ý kiến trong cộng đoàn Giáo Hội, không phải là thái độ cả vú lấp miệng em, dùng quyền bính mà ra lệnh hay hô hào hiệp nhất. Nhưng trước hết là đẹp bỏ tất cả mọi sợ hãi, mọi ích kỷ, mọi chủ trương cá nhân hay bè phái, mọi thái độ cuồng tín áp đặt không nhân nhượng và chống đối nhau, để ngồi lại đối thoại, bàn thảo, khách quan duyệt xét vấn đề trong tinh thần cầu nguyện với tấm lông huynh đệ chân thành, trong sáng, vô vị lợi và trong thái độ khiêm tốn thẳm sâu.

Trong Phúc âm thánh Gioan 14,25-29, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết sống lòng tin trọn vẹn để nên thánh và xáy dựng cộng đoàn Giáo Hội là thân thể mau nhiệm của Ngài trên trần gian này. Đó là nhân đức sống yêu thương kết hiệp với Chúa Giêsu và qua Ngài, yêu thương kết hiệp với Thiên Chúa Cha cũng như quân hành giáo huấn Tin Mừng. Trong phúc âm thánh Gioan, tuân giữ Lời Chúa Giêsu là kiểu nói diễn tả con đường tu đức của Kitô hữu. Qua lời nói và cách làm của Chúa Giêsu, Kitô hữu biết đào đến sự mặc khải Thiên Chúa, trên con đường tu đức ấy họ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn dạy bảo, chỉ vẽ. Con đường tu đức của thánh Gioan không phải là một lời kêu gọi khô khan hay luân lý, đạo đức hình thức, tuân giữ các giáo huấn của Chúa một cách máy móc. Mà là lời kêu mời chúng ta mở rộng tâm lòng cho Thiên Chúa, là Đấng hiện diện trong trần gian này qua lời nói và con người của Chúa Giêsu.

Mở rộng tâm lòng cho Chúa là một nỗ lực đòi hỏi nhiều khiêm tốn, can đảm từ bỏ và chiến đấu với chính con người của chúng ta, chiến đấu với các tội lỗi tính hư nết xấu, đam mê và khuynh hướng chạy theo sự dữ ăn sâu trong là lòng chúng ta. Con đường tu đức tuân giữ lời Chúa Giêsu là con dốc rất cao, nhưng trên đỉnh con dốc đó, là niềm an bình Thiên Chúa ban cho Kitô hữu. Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh, an bình ám chỉ sự quan tâm của Thiên Chúa mà Đấng Cứu Thế đem đến trần gian trao ban cho con người, trong mọi chiều kích của cuộc sống. Và trong truyền thống Kinh Thánh, người Do Thái quan niệm các sự kiện ấy trong chiều kích vật chất cụ thể như được đất đai, thành thị, làng mạc, an ninh , trật tự, quân sự. Nhưng trong Phúc âm niềm an bình mà Thiên Chúa ban, diễn tả toàn vẹn sự mặc khải của Chúa Thánh Thần, ơn Tin Mừng với các mối phúc thật, với kinh Lạy Cha và chính con người của Chúa Giêsu, Đấng đã chịu chết đề trao ban sự sống cho chúng ta. Niềm an bình ấy không trong hợp với thế giới này là thế giới tội lỗi chỉ khước từ Thiên Chúa. Niềm an bình của Thiên Chúa không giống như thứ an bình bề ngoài giả tạo của các chế độ chính trị, ý thức hệ trần gian. Các chính quyền trần gian ngưng chiến và ký các thoả hiệp vì không còn sức để chém giết và ăn tươi nuốt sống nhau nữa, chớ không phải chỉ muốn cho dân nước và thế giới được an sinh thái bình thật sự.

Niềm an bình Thiên Chúa ban xác thực đã loại trừ khỏi tâm lòng con người mọi thái độ hung hăng, hiếu chiến, mọi thèm muốn bất chính, để làm nẩy sinh ra tình yêu thương, tình bạn hữu chân thành vô vị lợi, lòng nhân từ tha thứ và sự công chính. Niềm an bình của Thiên Chúa là hột giống làm phát sinh ra trời mới đất mới, như đã được trong chương 21 sách Khải Huyền tả. Thành thánh Giêrusalem thiên quốc, hình ảnh Nước Trời, hình ảnh của Giáo Hội vẹn toàn đã được thánh hoá, biến đổi trong thời cánh chung mô tả ở đây là hoa trái của ơn cứu độ. Trong đó tín hữu chúng cần một thử môi giới giả tạo, kể cả đền thánh và ánh sáng mặt trời, mặt trăng, bởi vì chính vinh quang Thiên Chúa sẽ là ánh sáng chiếu soi họ. Nhưng trước khi đạt tới điểm thành toàn ấy, Giáo Hội lữ hành ở trần gian này cần được mọi thành phần dân Chúa góp sức xây dựng vun trồng và đổi mới. Chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mạng đó, nếu biết rộng mở cánh cửa tâm lòng cho ơn an bình của Chúa giải toả, Tin Mừng của Chúa Giêsu mỗi ngày trong cuộc sống để cho Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn và hoạt động như Ngài muốn.

----------------------------

 

PS 6-C54. Sứ mạng hoà giải

 

Cuộc chính biến vừa qua tại Thái Lan đã là cho thế giới chú ý đến vài trò của nhà vua nước: PS 6-C54


Cuộc chính biến vừa qua tại Thái Lan đã là cho thế giới chú ý đến vài trò của nhà vua nước này. Một trong những hình ảnh đáng chú ý và cảm động nhất trong tuần vừa qua, đó hẳn là cảnh tượng Suchinđa và đối thủ của ông là tướng Chamlong, cả hai cong ra trước mặt quốc vương phủ phục và lắng nghe những lời khuyên nhủ của ông. Những lời lẽ của một ông vua được toàn dân yêu mến và vâng phục, đã có sức thuyết phục được tướng Suchinđa từ bỏ con đường tham vọng của ông. Cơn khủng hoảng tại Thái Lan hình như đã kết thúc, mọi người ca ngợi sự dàn xếp của quốc vương Thái Lan. Trong lịch sử Thái Lan, quốc vương vẫn được xem là nguyên lý hiệp nhất của đất nước. Theo truyền thống, trước khi lên ngôi, các vua Thái Lan đã phải tu luyện cho đủ 10 điều đức hạnh của đạo Phật về khoan nhượng và vị tha. Họ phải trở thành người mà dân Thái Lan gọi là vua của mọi giai cấp, mọi nhóm xã hội và mọi chủng tộc.

Hình ảnh của quốc vương vua Thái Lan trên đây hẳn sẽ mời gọi chúng ta suy nghĩ về sứ mạng hoà bình, sứ mạng hoà giải của người Kitô hữu chúng ta. Lời Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay có thể tóm gọn tất cả chủ đề của Lời Chúa cho ngày Chúa nhật hôm nay: "Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầ ban bình an cho các con không như thế gian ban tặng". Chúa Giêsu không chỉ trao ban cho chúng ta một quà tặng, mà Ngài còn ký thác cho chúng ta một sứ mạng, đó là sứ mạng xây dựng hoà bình. Ngôn ngữ Việt Nam của chúng ta có lẽ đủ thâm thuý để diễn tả điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta. Thật thế, hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới chỉ có một danh từ để chỉ hoà bình trong khi đó, thì ngôn ngữ Việt Nam của chúng ta có hai từ đó nói về ý niệm này.

Chúng ta nói bình an đặc chỉ một trạng thái của tâm hồn. Chúng ta dùng hai chữ hoà bình để nói tới tương quan giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia hoặc trên qui mô thế giới. Chúa Giêsu đã phân biệt hai bình diện ấy của hoà bình, Ngài nói với chúng ta rằng: Bình an mà Ngài ban tặng cho chúng ta không phải là thứ hoà bình mà thế giới vẫn thường nói đến. Khi nói hoà bình thế giới chỉ nói đến một trật tự không có chiến tranh, không có tiếng súng, không có xung khắc. Một tiếng hoà bình như thế lắm lúc giả tạo và chóng qua. Đằng sau một thứ trật tự như thế còn có biết bao nhiêu sôi sục của tham vọng, của tho hận, của đố kỵ, của đe doạ chỉ chờ đợi để bong nổ. Chiến cuộc nằm giữa hai khối đông-tây đã chấm dứt, thế nhưng thế giới đã thật sự hưởng được hoà bình chưa?

Bình an hay hoà bình đích thực mà Chúa Giêsu hứa ban cho chúng ta thiết yếu là sự bình an trong tâm hồn. Chỉ khi nào con người có sự bình an đích thực trong tâm hồn, thì con người mới có thể xây dựng hoà bình với người khác. Bình an nội tâm là điều kiện tiên quyết để xây dựng hoà bình. Bao lâu tâm hồn chúng ta vẫn còn cưu mang hận tho, tham lam ích kỷ, đố kỵ ghen ghét thì bấy lâu bình an không thể cô trong chúng ta và hoà bình với người xung quanh, dầu bất cứ ở qui mô nào cũng không bao giờ có bình an hay hoà bình đích thực. Là một công trình xây dựng, không ngừng đòi hỏi hy sinh và phấn đấu trong chính nội tâm của mỗi người, nó đòi hỏi con người phải chiến đấu để không vượt những nhỏ nhen ích kỷ của mình, để trung thành với những cam kết của mình, để ra khỏi chính mình và đến với tha nhân nhiều hơn. Bình an hay hoà bình đích thực thiết yếu là một quà tặng của Chúa, quà tặng ấy cũng chính là Chúa. Chúa tự trao ban cho chúng ta khi tâm hồn con người đọc Chúa chiếm trọn, khi tầm hồn con người được tràn ngấp chính Chúa, khi con người chọn Chúa làm gia nghiệp của mình, thì lúc đó con người sẽ có sự bình an đích thật.

Hiểu như thế, thì sứ mạng xây dựng hoà bình của người Kitô hữu chúng ta chính là chia sẽ quà tặng ấy với mọi người xung quanh. Trong một xã hội mất định hướng, thì người Kitô hữu thực thi sứ mạng hoà bình của mình bằng một đức tin kiên định và được thể hiện bằng những việc làm cụ thể trong một xã hội băng hoại vì giành giựt ích kỷ. Người tín hữu thực thi sứ mạng hoà bình bằng chính cuộc sống vị tha, quảng đại quên mình. Trong một xã hội mà con người không biết mình đang đi về đâu, thì người Kitô hữu thực thi sứ mạng hoà bình bằng một niềm tín thác kiên vững vào tình yêu của Thiên Chúa.

Nguyện xin Đức Ki lô nguyên lý của hoà bình, ban cho chúng con bình an đích thực của Ngài để chúng ta đáng được chúc phúc là những người xây dựng hoà bình.

----------------------------

 

PS 6-C55. Hoa quả của Thánh Thần


VietCatholic News (14/05/2004 )

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH.C

(Ga 14, 23-29)

Thưa quý vị.


 

Trong đời sống gia đình, thể nào cũng có một ngày trọng đại. Ngày công bố nội dung tờ di chúc: PS 6-C55


Trong đời sống gia đình, thể nào cũng có một ngày trọng đại. Ngày công bố nội dung tờ di chúc, cha mẹ đã già cả, chẳng còn sống được bao lâu, thường để lại ý muốn của mình cho con cháu về vấn đề tài sản; ngõ hầu sau khi qua đời thì mọi sự được rõ ràng, khỏi xảy ra tranh chấp. Lúc ấy các con phải có mặt, cha mẹ chia phần cho từng đứa và giải thích lý do tại sao các ngài làm như vậy. Trong trường hợp gia đình hoà thuận, yêu thương thì có lẽ người chị cả sẽ nói: “Thưa bố mẹ, con và chồng con làm ăn khấm khá rồi, có công ăn việc làm đều đặn và tương lai ổn định. Chúng con nhất trí nhường phần gia tài của tụi con cho gia đình của cậu em. Vợ cậu bất toại. Con cái lại còn nhỏ, chưa giúp đỡ được chuyện chi, gia đình nheo nhóc. Tụi con xin cha mẹ chấp thuận”. Tuy nhiên, nếu gia đình chia rẽ và ghen ghét nhau, hoặc trong quá trình sống cha mẹ không giáo dục con cái tốt, để chúng đặt của cải lên trên hết, thì bức tranh khác hẳn, sẽ có những cuộc cãi cọ tranh giành: Tại sao tụi nó được phần hơn tụi con, trong khi chúng con phụ giúp bố mẹ nhiều hơn, vợ chồng nó suốt ngày lười biếng, ăn bám, phá hoại và lêu lổng. Chúng có yêu bố mẹ đâu?” Tin Mừng hôm nay mô tả Chúa Giêsu và các môn đệ ở hoàn cảnh tương tự trong bữa tiệc ly, tuy rằng là duy nhất. Đối với Chúa Giêsu, Ngài biết rõ cuộc đời dương thế chấm dứt, các môn đệ cũng linh cảm điều chi quan trọng sắp xảy ra; cho nên bao lâu còn sống, ngồi ăn với các môn đệ, Ngài tuyên bố “di chúc” và “chứng từ” cuối cùng của đời mình. Ngài sẽ để lại cho họ những trăn chối, ngăn ngừa chia rẽ và đổ vỡ. Ngài chỉ đạo cho họ phải làm chi sau khi Ngài ra đi, để họ vẫn sống trung thành như các tông đồ của Ngài. Ngài sẽ phân chia “tài sản thiêng liêng” cho họ. Nhưng liệu có ai được hơn, ai phải chịu phần kém? Ai sẽ được ưu ái, ai sẽ ra rìa? Ngài để lại điều chi có khả năng tồn tại vinh hiển chứ không phải chỉ là ký ức chóng qua, mai một trong vài thế hệ? Hẳn quý vị đã đoán ra giải pháp của Ngài! Giải pháp đó xứng với sự khôn ngoan thượng trí của Đức Chúa Trời. Nếu chưa tôi xin mách bảo. Ngài trối lại chính bản thân Ngài sống động trong Thần Khí: “Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Như vậy, cùng với sách Công Vụ Tông Đồ, Phúc Âm hôm nay nhắc nhở chúng ta di chúc của Chúa Giêsu là Thần Khí. Tài sản này không nằm ở lãnh vực vật chất mà hoàn toàn thiêng liêng, không thế hệ tín hữu nào có thể tiêu phí, tẩu tán hoặc làm hao mòn. Thần Khí luôn hiện hữu trong Hội Thánh, trong từng linh hồn sống động và tươi trẻ. Chúa Giêsu gọi Thần Khí ấy là Đấng bảo trợ. Như vậy kho tàng của cải của Giáo Hội không phải là vàng bạc đá quý mà là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn ở với Hội Thánh và gần gũi Hội Thánh. Trong mọi hoàn cảnh, những tình huống khó khăn, Hội Thánh có thể cậy dựa vào Chúa Thánh Thần. Ngài là sức mạnh, bênh vực mọi tín hữu, nói cách khác, Chúa Thánh Linh luôn đồng minh với chúng ta, về phe với chúng ta chống lại sa tan, thế gian và xác thịt. Chẳng có di chúc nào cao quý và vững chắc hơn. Nếu hiểu ra, ắt hẳn các tông đồ lòng đầy vui mừng và vững tin. Chẳng những các tông đồ mà chúng ta ngày nay cũng vậy, miễn là giữ được điều kiện của Chúa.

Điều kiện đó là tuân giữ lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Lòng yêu mến này không phải là tình cảm dạt dào chóng qua. Nó sẽ bay thành hơi khói khi gian nan tới hay dục vọng thấp hèn tấn công; nhưng là quyết tâm mạnh mẽ và vững bền sống theo những điều Chúa dạy, ghi khắc vào linh hồn những gương sáng của Ngài. Do đó tuân giữ lời Ngài là dấu chỉ cụ thể chúng ta mến yêu Ngài. Lời nói suông chẳng có ý nghĩa gì, việc làm mới chứng tỏ chúng ta yêu Ngài đích thực. Tuy nhiên tự sức mình các tông đồ, các tín hữu, không thể thực hành những điều Chúa truyền dạy: Tha thứ cho kẻ thù, vả má bên trái đưa luôn má bên phải, cho kẻ đói ăn và kẻ khát uống, chống lại những bất công đến cùng đâu phải là chuyện dễ, mà lại phải làm liên tục, đòi hỏi can trường và kiên nhẫn. Chúng ta cần đến sự trợ lực của Chúa Thánh Thần. Cho nên khi tuyên bố chứng từ di chúc của mình, Đức Giêsu đã để lại một đảm bảo là chúng ta sẽ trung thành thực hiện lời Ngài. Chúng ta kinh nghiệm sâu xa đời sống mới trong linh hồn mình nhờ Thần Khí; Ngài chăm lo trước sự an lành của mỗi linh hồn và toàn thể cộng đoàn Hội Thánh bằng một thứ “an bình” mà loài người không thể ban được. Đó là Chúa Thánh Linh, ngõ hầu mọi người sống xứng đáng danh hiệu tín hữu của Chúa Kitô trong một thế giới luôn thay đổi, bất an và bạo loạn.

Khi suy niệm bài đọc Tin Mừng này, chúng ta nên để ý đến công việc của Chúa Thánh Thần: “Đấng bảo trợ là Chúa Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại những gì Thầy đã nói với anh em”. Với nhiệm vụ là Đấng bảo trợ, Thần Khí sẽ ngự giữa Giáo Hội như Chúa Giêsu đã luôn hiện diện với các tông đồ. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ gởi Thánh Thần xuống trên mỗi tín hữu, cho nên chúng ta chẳng cần thực hiện những kỳ tích để lãnh nhận Ngài. Chỉ phải sống trong danh Đức Kitô và Thần Khí sẽ nối kết chúng ta với Ngài. Đúng theo lời Chúa Giêsu, Thánh Linh sẽ dạy dỗ Hội Thánh, biến Hội Thánh thành hiền thê trong trắng và thánh thiện. Đó là lời an ủi khích lệ các tông đồ, những người nhát đảm và hay lãng quên. Họ cần Thánh Thần giúp đỡ để áp dụng Lời Chúa trong các hoàn cảnh mới.

Nhưng điểm nhấn của Tin Mừng hôm nay là Thần Khí hiện diện trong cộng đoàn. Khám phá Thần Khí trong từng cá nhân chưa đủ, phải là toàn thể cộng đoàn. Bởi lẽ Ngài hướng dẫn và nuôi dưỡng Hội Thánh. Đức tin không chỉ có nghĩa cá nhân mà còn phải liên quan đến cộng đồng, đặt nền tảng trên đức tin Hội Thánh. Giữa tôi và cộng đoàn phải có sự liên hệ hữu cơ, giáo lý Vaticanô II dạy: “Tôi tin, chúng tôi tin”. Mối liên hệ này rõ nét ngay từ buổi đầu của Hội Thánh. Công đồng Giêrusalem đã giải quyết vấn đề dân ngoại trở lại bằng một hợp ý chung: “Vì thế chúng tôi đồng tâm nhất trí quyết định…” nghĩa là Hội Thánh đã bàn bạc và hành động dân chủ, không áp đặt ý kiến riêng tư lên trên cộng đoàn. Vấn đề, nếu hiểu ra, thì rất quan trọng và ảnh hưởng sinh tử đến Giáo Hội non trẻ. Hai tông đồ Phaolô và Barnaba rao giảng tại miền cận đông, nhiều người dân ngoại như Hy Lạp, La Mã, Capađôcia, Pontô đã nghe theo lẽ phải và trở lại tôn thờ Thiên Chúa của dân Israel, tôn thờ Đức Giêsu cứu thế. Họ khát khao được Ngài hướng dẫn và cứu độ. Câu hỏi nảy sinh là họ có phải giữ luật Môsê không? Cụ thể là luật cắt bì và kiêng ăn. Các tín hữu gốc Do Thái từ Giuđêa (có lẽ là cựu biệt phái) xuống Antiôkhia nói là có: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê, thì anh em không thể được cứu độ”.


Họ theo đúng não trạng và lương tâm của dân tộc mình, Kinh Thánh đã dạy rõ ràng như thế, từ chối là đi trệch con đường Thiên Chúa muốn. Người Do Thái ngoan đạo không bao giờ dám làm. Ngược lại Phaolô và Barnaba cho rằng không cần, chỉ tin vào Chúa Giêsu, sự chết và sống lại của Ngài là đủ để được ơn cứu độ. Câu chuyện thật khó khăn, không như chúng ta nghĩ ngày nay. Nếu giữ luật Môsê để được cứu độ thì cuộc nhập thể, khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu bằng thừa. Mặt khác, nếu không phải giữ thì đạo Do Thái bị phá sản, các giao ước Thiên Chúa lập ra với tổ phụ xem ra không còn giá trị. Tiến thoái lưỡng nan, quay phía nào cũng gặp bế tắc. Nhưng Giáo Hội tiên khởi đã được Chúa Thánh Linh chỉ dẫn nên đã đưa ra sáng kiến phù hợp với chân lý và lẽ phải: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác, ngoài những điều cần thiết này là kiêng ăn đồ đã cúng ngẫu tượng, không ăn tiết canh, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”. Đúng là một sự nhất trí và can đảm lạ lùng. Ơn Chúa Thánh Linh đã ban cho cộng đoàn tông đồ quyền bính chỉ đạo sáng suốt tài tình. Quyền bính đi theo đường lối của Thiên Chúa mà không làm xáo trộn lương tâm các tín hữu; ngược lại, ban cho họ sự thánh thiện và bình an. Suốt dòng lịch sử, Giáo Hội luôn có nhu cầu về những quyết định loại này và sự đáp trả hữu hiệu. Tuy nhiên chỉ dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh, chúng ta mới được hưởng những ân huệ ấy mà thôi.

Ngay sau khi hứa ban Thần Khí, Chúa Giêsu để lại điều quan trọng bậc nhất cho các tông đồ: Bình an của Ngài: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian”. Chính nhờ ân huệ bình an này mà Hội Thánh tiên khởi đã hành động hàn gắn những chia rẽ, bất hoà ngay khi manh nha và tiếp tục công việc mang bình an Chúa Giêsu đến cho toàn thế giới. Nếu như cộng đoàn tuyên xưng đức tin vào Hoàng Tử Bình An mà còn đầy bất hoà, chia rẽ và chống đối thì làm thế nào rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu cho nhân loại? Cho nên Giáo Hội phải giải quyết ngay những khó khăn nội bộ thì mới có hy vọng thuyết phục thiên hạ tin kính Chúa Giêsu. Một nguyên tắc luôn được ghi nhớ: Ơn thánh của Thiên Chúa không bao giờ mang tính chia rẽ, nó luôn đoàn kết và nhất trí. Chỉ sa tan và tội lỗi mới gây bất hoà. Cho nên ở đâu có chia rẽ ở đấy có bóng dáng tội lỗi. Điều này đúng trong gia đình, cộng đồng, xã hội và toàn thế giới: Chém giết, chiến tranh không đến từ tình thương Thiên Chúa, mà từ bụng dạ xấu xa của con người. Chúa Giêsu ban Thần Khí cho Hội Thánh là để biến đổi các tín hữu thành sứ giả hoà bình. Sứ giả trong lòng Giáo Hội và trên thế giới. Có rất nhiều bất ổn trong các Giáo Hội tiên khởi. Nó còn kéo dài mãi cho đến ngày nay. Nhưng Hội Thánh còn tồn tại được là nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn. Giữa các tín hữu luôn nảy sinh nhiều sức mạnh hiệp nhất và bình an. Thánh Luca mô tả Chúa Thánh Linh là nguyên lý của sự hiệp nhất đó. Ngài thu thập mọi màu da, tiếng nói, sắc tộc vào lòng Giáo Hội, nhưng vẫn duy nhất trong đức tin.


Theo dòng thời gian, Giáo Hội có nhiều nền văn hoá, phong tục, ý kiến, nhưng hoàn cảnh không cho phép phá vỡ sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu đã tha thiết xin cùng Chúa Cha trước khi Ngài chịu chết. Lễ Chúa Thánh Thần đã gần kề, giáo xứ chúng ta cũng bắt đầu cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Những chia rẽ quá khứ đã gây nhiều thiệt hại, phải rút kinh nghiệm cho tương lai. Thần Khí của Chúa chính yếu mang tính tông đồ. Khi lãnh nhận Ngài, chúng ta cũng lãnh nhận sứ vụ của Ngài. Chúng ta lãnh nhận bình an Chúa Kitô thì cũng phải gieo rắc bình an cho thế giới. Tín hữu phải là kẻ kiến tạo hoà bình, khởi sự từ bản thân, họ hàng và giáo xứ. Chúa Thánh Thần ngự trên cộng đoàn các tông đồ không phải một lần rồi thôi, nhưng ở lại và hoạt động với các ông; để làm cho Chúa Giêsu luôn hiện diện và thúc đẩy chúng ta đem ơn Phục sinh cho thế gian. Như vậy ngay lúc này Thánh Thần vẫn đang ở giữa Giáo Hội như xưa Chúa Giêsu ngự giữa các tông đồ. Khi Chúa ban bình an cho các ông thì Ngài cũng nhắc nhớ Ngài sẽ trở lại. Thực sự Ngài đã giữ lời hứa và trở lại bằng Thần Khí. Cho nên Ngài luôn có mặt giữa Hội Thánh, chỉ có trở ngại là chúng ta hay quên.

Nếu như Phúc Âm dạy dỗ chúng ta điều chi thì đều bảo đảm rằng, Thần Khí sẽ ở với chúng ta, giúp đỡ chúng ta đi theo đúng đường lối Chúa Giêsu. Các tác giả đều viết Tin Mừng sau lễ Hiện Xuống. Cho nên, tâm hồn của họ tràn đầy Thánh Linh, họ mô tả cuộc đời Chúa Cứu Thế đúng như Thánh Linh soi sáng. Nước Thiên Chúa mà họ truyền lại các thế hệ tín hữu là chữa lành bệnh tật, tha thứ xúc phạm, rao giảng hoà bình, dạy dỗ thánh ý Thiên Chúa. Lúc này đây cũng dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh, chúng ta có bổn phận tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu và Thần Khí cũng vẫn sẵn sàng giúp đỡ thi hành nhiệm vụ đó. Cho nên: “Lạy Chúa Thánh Linh, xin ngự đến”. Amen. Halleluia.


Lm. Jude Siciliano, OP.

----------------------------

 

PS 6-C56. TƯƠNG QUAN TÌNH YÊU


 [CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH NĂM C (13.05.2007)]

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Chưa có một điều tra, nghiên cứu và thống kê nào cho biết trong số 6-7 triệu giáo dân Việt Nam, có: PS 6-C56


Chưa có một điều tra, nghiên cứu và thống kê nào cho biết trong số 6-7 triệu giáo dân Việt Nam, có bao nhiêu người hiểu được rằng điều cốt yếu nhất của Ki-tô giáo là tương quan tình yêu của mỗi người và của mỗi cộng đoàn tín hữu với Thiên Chúa. Về phía Thiên Chúa, vì yêu thương con người nói chung và các Ki-tô hữu chúng ta nói riêng, Người đã thực hiện bao nhiêu là kỳ tích! Vì thế điều Chúa Giê-su mong muốn là chúng ta nhận ra điều ấy và đáp lại tình yêu của Thiên Chúa một cách ý thức và quảng đại.

II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.

(1) Bài đọc 1: Cv 15, 1-2.22-29:  Thánh Thần và chúng tôi quyết định: Không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết.

               1 Hồi ấy có những người từ miền Giu-đê đến dạy anh em rằng: "Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ." 2 Ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.

                 22 Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba. Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín trong Hội Thánh. 23 Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau:

                 24 Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. 25 Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, 26 những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. 27 Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: 28 Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: 29 là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh."

(2) Bài đọc 2: Kh 21,10-14.22-23: Thiên thần chỉ cho tôi thấy Thành Thánh từ trời mà xuống

             10 Tôi là Gio-an, đang khi tôi xuất thần, thì một thiên thần đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, 11 chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. 12 Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ít-ra-en. 13 Phía đông có ba cửa, phía bắc ba cửa, phía nam ba cửa và phía tây ba cửa. 14 Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên.

                22 Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. 23 Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi.

(3) Bài Tin Mừng: Ga 14,23-29: Thánh Thần sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

           23 Khi ấy Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. 25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. 26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

           27 Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. 28 Anh em đã nghe Thầy bảo: "Thầy ra đi và đến cùng anh em". Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. 29 Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.

2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?

(1) Bài đọc 1 (Cv 15, 1-2.22-29) là đoạn Sách Tông Đồ Công Vụ kể lại bối cảnh của Công đồng chung đầu tiên của Ki-tô giáo. Đây là một khúc quanh lịch sử có tính sống còn của Đạo. Vấn đề đặt ra lúc đó là: những người dân ngoại gia nhập Ki-tô giáo có cần phải chịu phép cắt bì như những người Do Thái không? Có hai quan điểm trong các cộng đoàn: một số người cho rằng bất cứ một người dân ngoại nào đều phải được cắt bì như những người Do Thái khi muốn gia nhập Ki-tô giáo. Tông Đồ Phao-lô và Bác-na-ba và nhiều người khác thì cho rằng không cần phải làm thế, vì lịch sử đã bước vào thời đại của Tân Ước rồi. Các ngài mạnh dạn đấu tranh cho quan điểm này và Công đồng Giê-ru-sa-lem đã cùng quan điểm với các ngài nên công bố “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết”.

Trong đoạn sách Cv 15, 1-2.22-29 trên chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện và hành động hiệu quả của Thánh Thần Thiên Chúa trong cộng đoàn Ki-tô giáo non trẻ. Trong cộng đoàn ấy, như bao cộng đoàn khác trong lịch sử Giáo hội, nổi lên hai quan điểm, hai lập trường đối nghịch nhau: một bảo thủ, một tiến bộ; một nghiêm ngặt, một cởi mở; một vị luật, một vì tình yêu. Và Thánh Thần Thiên Chúa đã ủng hộ quan điểm tiến bộ, cởi mở và vì tình yêu: những người tân tòng không phải là người Do Thái không phải chịu phép cắt bì mà chỉ chịu Phép Thánh Tẩy (Phép Rửa) là đủ rồi!

(2) Bài đọc 2 (Kh 21,10-14.22-23) là thị kiến của Tông Đồ Gio-an về Thánh Thánh Giê-ru-sa-lem là biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem được xây dựng trên nền tảng các Tông Đồ và mở rộng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en tức cho hết mọi dân tộc trên trái đất này. Trung tâm của Thành Thánh không còn là Đền Thờ (do tay con người làm nên) nữa, mà là chính Thiên Chúa và Con Chiên là Chúa Giê-su Ki-tô.

Trong đoạn Sách Kh 21,10-14.22-23 trên, chúng ta thấy nổi bật tấm lòng và hành động yêu thương của Thiên Chúa đối với con người nơi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem là nơi Thiên Chúa ngự trị và ở cùng nhân loại. Một cách nào đó Thành Thánh Giê-ru-sa-lem chính là mỗi ‘cộng đoàn’ và mỗi ‘tâm hồn’ các kẻ tin theo Chúa và giữ các lời của Chúa Giê-su.

(3) Bài Tin Mừng (Ga 14,23-29) là những lời dặn dò mà Chúa Giê-su nói với các môn đệ trước giờ chia tay. Chúa Giê-su nhấn mạnh đến mối tương quan Tình Yêu mà Người muốn các môn đệ phải có, vì đó là nền tảng của tất cả, là chìa khóa mở vào thế giới của Thiên Chúa là Tình Yêu: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ  yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”

                   Qua Bài Phúc Âm Ga 14,23-29 chúng ta thấy được động lực cũng là lý do tại sao chúng ta được dậy phải tuân giữ các lời dặn dò, các giới răn của Thầy và cũng là Chúa của chúng ta: Đó là Tình Yêu.

2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?    
          Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay được tóm gọn trong lời nhắn nhủ của Chúa Giê-su: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ  yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”

III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi phải xét mình, xem 

* Đối với Thiên Chúa và với Chúa Giê-su tôi đã có tương quan tình yêu hay chỉ là tương quan sợ hãi  và hững hờ?

* Cụ thể, tôi có làm tất cả mọi công việc của người cha/mẹ, chồng/vợ, của con cái  (trong gia đình), của người giáo dân (trong giáo xứ, giáo hội) và công dân (ngoài xã hội) với tấm lòng và tâm tình yêu thương không?

IV. CẦU NGUYỆN  (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)

                   4.1 “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định”.

Lạy Thiên Chúa Sáng Tạo và Cứu Độ,

Chúa đã dùng các Tông Đồ để rao giảng Tin Mừng Nước Trời và xây dựng Hội Thánh Chúa ở khắp mọi nơi.

Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.

Chúng con xin Chúa ban cho các vị Lãnh Đạo Hội Thánh luôn sống mật thiết  với  Thánh Thần Thiên Chúa để mọi quyết định của các ngài đều được thực hiện dưới sự soi sáng hướng dẫn của Thánh Thần Chân Lý!

          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
                   4.2 “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”.

Lạy Thiên Chúa là Chúa Tể Trời Đất và Lịch Sử,

Chúa đã ban cho chúng con “Đấng Bảo Trợ” để Người dậy chúng con mọi điều và sẽ làm cho chúng con nhớ lại mọi điều mà Thầy đã nói với chúng con trong Phúc Âm.  

Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.

Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn biết mở lòng, mở trí, mở tai, mở mắt để chúng con đón nhận những hồng ân dồi dào của Thánh Thần và sống dưới sự hướng dẫn của Người.

          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”.

Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu Sáng Tạo và Cứu Độ,
Chúa đã muốn thiết lập mối tương quan tình yêu với nhân loại nói chung và với chúng con nói riêng, trong Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Chúa.
Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.
Chúng con xin Chúa ban cho chúng con một đời sống kết hợp yêu thương, thân tình, gắn bó với Chúa và với Con Một Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết để cứu chuộc chúng con.             
         
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. 
Sàigòn Lễ Thánh Giu-se Thợ 01.05.2007.

----------------------------

 

PS 6-C57. Dung mạo người Kitô hữu

 

Trong ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm lời dặn dò cuối cùng: PS 6-C57


Trong ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm lời dặn dò cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá rồi sống lại, và trở về cùng Thiên Chúa Cha. Đoạn Phúc Âm của Chúa Nhật thứ 6 Phục Sinh được trích từ Phúc Âm theo thánh Gioan chương 14,23-29 là những lời căn dặn mô tả dung mạo người Kitô qua mọi thời đại. Người Kitô trước hết phải là người sống vì tình yêu Chúa Kitô, là kẻ yêu mến Chúa Kitô. Và vì tình yêu này không phải là một lời nói suông nhưng cần được diễn tả cụ thể bằng hành động, bằng việc tuân giữ những lời Chúa dạy, những mệnh lệnh, mà mệnh lệnh cao cả nhất gồm tóm mọi mệnh lệnh là mệnh lệnh sống tình yêu: "Như Thầy đã yêu thương các con, các con hãy biết yêu thương nhau". Tình yêu thương là khởi đầu cho cuộc sống con người trên phương diện tự nhiên cũng như trên phương diện siêu nhiên. Vì yêu thương, Chúa đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Chúa đã cứu chuộc con người. Thừa hưởng một thân phận yếu đuối bất toàn, con người khó thực hiện mệnh lệnh tình thương.

Qua bao thế hệ, bao ngàn năm, đạo tình thương được loan truyền, thế mà thế giới ngày nay, với những hận thù, căng thẳng, vẫn còn xa với văn minh tình thương. Nền văn minh của hận thù, của sự trả thù, ghen ghét và lạm dụng lẫn nhau, xem ra càng ngày càng lan rộng, xem ra như chương trình của Thiên Chúa bị thất bại. Nhưng thái độ tốt của người Kitô có lẽ không phải là thái độ phán đoán chương trình hành động của Thiên Chúa mà là thái độ phó thác và cộng tác với ơn Chúa, với chương trình của Ngài. Người Kitô, khi yêu mến Chúa nồng nhiệt chắc chắn sẽ không cô đơn, nhưng có Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn: "Ta và Cha Ta, chúng ta sẽ đến ngự trong kẻ ấy". Đó là đặc điểm thứ hai của dung mạo người Kitô.

Ngày xưa, trong cuộc Xuất Hành khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa đến cư ngụ với dân Ngài đã chọn. Dân Chúa rất quí trọng sự hiện diện này. Sau thời lưu đày, tiên tri Dacaria loan báo đến một thời Thiên Chúa tới cư ngụ một cách đặc biệt với dân Ngài. Qua cách nói xác quyết của Chúa Giêsu, các tông đồ ngày xưa đã hiểu và chúng ta ngày hôm nay cũng vậy, chúng ta hiểu là thời mới đó đã đến. Thiên Chúa đã không cư ngụ giữa dân mà còn cư ngụ trong tâm hồn mọi tín hữu, trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn các tín hữu yêu mến Ngài là một hồng ân rất quí và cũng rất dễ bị mất, mỗi lần chúng ta sống phản nghịch với mệnh lệnh yêu thương của Chúa. Vì thế, Chúa đã có lần dùng một hình ảnh khác, hình ảnh cây nho và ngành nho, vừa cảnh tỉnh, vừa kêu gọi các tông đồ hãy cố gắng sống kết hiệp với Ngài:

 "Thầy là cây nho, các con là ngành nho. Ngành nào kết hợp với thân cây sẽ trổ sinh nhiều hoa trái. Những ngành sinh hoa trái còn được Thiên Chúa cắt xén để sinh hoa trái nhiều hơn nữa". Việc Thiên Chúa cắt xén có thể hiểu như là tác động của Thiên Chúa huấn luyện hướng dẫn cuộc đời của mỗi người Kitô. Sự trưởng thành đời sống thiêng liêng không phải là một sự trưởng thành tự nhiên, như cành cây tự động lớn lên, nhưng là một sự triển nở được hướng dẫn cắt xén theo chương trình của người thợ xén, theo ý định của Thiên Chúa cho mỗi người. Không ai biết Thiên Chúa muốn cắt xén điều gì nơi cuộc đời mỗi người. Tốt hơn hết là chúng ta hãy dễ dãi, hãy sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa được mặc khải từ từ cho chúng ta qua tác động của Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu hứa ban xuống cho mỗi tín hữu, đó là đặc điểm thứ ba của dung mạo người Kitô. Là kẻ sống vâng phục theo Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi và mặc khải sự thật. Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta đến sự thật và làm cho chúng ta hiểu được sự thật mỗi ngày một trọn vẹn hơn.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được đầy đủ ơn Chúa Thánh Thần và lòng can đảm để thực hiện mệnh lệnh tình thương của Chúa mọi nơi và mọi lúc.

----------------------------

 

PS 6-C58. Ân huệ Chúa không quan niệm được

 

Đoạn Phúc Âm của thánh Gioan đặt chúng ta vào vị trí vượt khỏi tất cả những quan niệm loài: PS 6-C58


Đoạn Phúc Âm của thánh Gioan đặt chúng ta vào vị trí vượt khỏi tất cả những quan niệm loài người về Thiên Chúa. Lý trí con người chỉ có thể quan niệm về Thiên Chúa theo hai cách. Hoặc Thiên Chúa là vị thần vô định biểu lộ thần uy trong những sức mạnh vật chất như bão táp, mặt trời, v.v… và con người bày đặt ra nhiều cách thờ phụng. Hoặc quan niệm Thiên Chúa là Thượng Đế vượt trên mọi hiểu biết mà loài người có được, là Đấng Tối Cao của những nhà hiền triết, quá cao siêu, quá huyền bí, con người vĩnh viễn không thể lý hội được. Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa là AI. Chúa nói với chúng ta những điều trí khôn loài người không bao giờ có thể nghĩ tới. Thiên Chúa là sự Tuyệt Đối, nhưng Người là Cha, Người can thiệp nhiều nhất như một sự hiện diện thân thiết và hay thương. Kẻ nào yêu mến Đức Giêsu Kitô, Đấng mặc khải về Thiên Chúa, nếu kẻ ấy giữ lời, nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tuân giữ những điều Chúa dạy, kẻ ấy trở nên ngai toà Chúa ngự. Thiên Chúa đến với kẻ ấy. Đối với kẻ ấy, Thiên Chúa từ nay không chỉ là một quyền năng vô biên sáng tạo, Thiên Chúa phát động tình yêu tương giao giữa Người với kẻ ấy. Thiên Chúa đến với con người, nghĩa là Thiên Chúa thức tỉnh lương tri con người về hai điều. Thiên Chúa nói: ‘Con người kia, ngươi có một bản ngã, Ta là Thiên Chúa, có bản ngã riêng biệt, một Thiên Chúa có Ba Ngôi Vị: Cha, Con và Thánh Thần. Giữa ngươi là một con người và Ta là Thiên Chúa, có một sự trao đổi sống động về hiểu biết và ân huệ, tức là có sự trao đổi tình yêu’. Điều ấy phải được Đức Giêsu Kitô mặc khải, chẳng có trí khôn nào của nhân loại ý niệm được.

Để chấp nhận một mặc khải trọng đại như vậy, một điều dạy dỗ từ ngoại giới có đủ không? Chúng ta thấy ngay rằng không đủ. Đức Giêsu nói với các tông đồ: “Ta đã nói với các ngươi lúc còn lưu lại giữa các ngươi, nhưng Thánh Thần sẽ dạy các ngươi mọi sự…”. Các tông đồ chung sống với Đức Giêsu nhiều năm tháng. Các ông thừa thời giờ để thấm đượm giáo huấn khi nghe Người giảng dạy và quan sát cách cư xử của Người. Các ông có được một sự hiểu biết do tri thức, ở tầm các ông, nhưng sự hiểu biết do hành vi tin thì chưa có. Thật ra, điều sau đây có thể đối với chúng ta là không ngờ được: ‘Trong bữa tiệc ly các tông đồ chưa có được niềm tin đích thực và Đức Giêsu. Muốn cho các ông có được hành vi tin ấy, thì phải có biến cố phục sinh, phải có Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Chúng ta tự chất vấn:

1) Sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa là gì? Nếu ngày nay chúng ta không dễ theo cám dỗ thờ thần tượng, có thể chúng ta dễ ngã vào một thứ chủ nghĩa tri thức thúc giục chúng ta đại khái xếp Thiên Chúa vào một ý thức hệ thuộc trật tự triết lý, chính trị, xã hội, v.v… hoặc đơn giản thuộc trật tự thực tiễn giữa những tiện nghi phàm tục của chúng ta. Chúng ta có tìm biết Thiên Chúa như Đức Giêsu Kitô mặc khải cho chúng ta, một Thượng Đế thân thiết ở giữa cuộc đời chúng ta không?

2) Chúng ta có chú ý đến Chúa Thánh Thần không? Năng đọc, năng nghe Phúc Âm không đủ giúp chúng ta biết Đức Giêsu Kitô. Chúng ta phải chú ý trong thâm tâm, một cách ngay thẳng, để nhận lấy giáo huấn của Ngôi Ba Thiên Chúa. Một phương thế tốt để làm công việc đó là khi gặp một đoạn Phúc Âm cho chúng ta thấy một chân lý, chúng ta hãy cố gắng ứng dụng tức khắc. Hành động này cũng phải kể là sự thành thật ngay thẳng trong tình yêu.

----------------------------

 

PS 6-C59. Những điều Chúa hứa ban

 

Để trả lời cho câu hỏi tại sao Chúa Cứu Thế lại tỏ mình ra cho các môn đệ mà không tỏ mình cho: PS 6-C59


Để trả lời cho câu hỏi tại sao Chúa Cứu Thế lại tỏ mình ra cho các môn đệ mà không tỏ mình cho thế gian, thì Chúa Giêsu đã trả lời rằng: sự tỏ mình mà Ngài nói đây là tỏ mình thuộc linh, điều kiện của nó là phải vâng phục, mà kết quả là sự ngự trị của Cha và Con nơi những người có niềm tin. Rồi Chúa Giêsu lại quả quyết với các môn đệ rằng: Đấng An Ủi – mà ở đây Chúa nói rõ là Chúa Thánh Thần sẽ dạy họ mọi sự và giúp họ nhớ lại lời Thầy. Kèm theo những lời hứa ấy, Chúa để lại cho các môn đệ một gia tài lấy từ kho tàng kinh nghiệm sống của Ngài đó là sự bình an. Dầu đã có lời hứa về sự trở lại cách thuộc linh của Ngài, Chúa Giêsu biết các môn đệ của Ngài phải chịu đau khổ khi thấy Ngài từ giã họ bằng con đường sự chết, bởi vậy Ngài cho họ biết sự ra đi của Ngài là cần thiết cho sự trở lại thuộc linh, rằng chính việc Ngài báo trước cái chết sẽ củng cố đức tin của họ sau này.

Đoạn Kinh Thánh đề cập đến các di vật của Chúa Giêsu cho các môn đệ.

1) Chúa nói về Chúa Thánh Thần với hai điều liên hệ cơ bản.

a/ Chúa Thánh Thần sẽ dạy chúng ta mọi sự.

Các môn đệ phải tiếp tục học với Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ dẫn chúng ta ngày càng đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Kitô. Trong đời sống chẳng bao giờ chúng ta có thể nói được mình đã biết chân lý. Trong đức tin Kitô chẳng hề có lý do bào chữa cho việc đóng chặt tâm trí mình lại. Nếu Kitô hữu nào cảm thấy mình chẳng còn gì để học hỏi nữa thì người đó chưa từng hiểu giáo lý về Chúa Thánh Thần.

b/ Chúa Thánh Thần nhắc lại cho chúng ta những gì Chúa Giêsu đã nói. Điều này có hai ngụ ý:

- Trong các vấn đề đức tin, Chúa Thánh Thần thường xuyên đưa chúng ta về với những gì Chúa Giêsu đã phán dạy. Chúng ta có bổn phận phải suy nghĩ, nhưng mọi kết luận phải được thử nghiệm bởi Lời Chúa. Chúng ta không cần khám phá ra chân lý vì Chúa Giêsu đã dạy chân lý cho chúng ta. Nhưng chúng ta cần khám phá ra ý nghĩa của chân lý, của những điều Chúa Giêsu từng phán dạy. Chúa Thánh Thần cứu chúng ta khỏi những tư tưởng ngạo mạn và khỏi sự suy nghĩ sai lầm.

- Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta biết cư xử đúng. Gần như tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm riêng trong đời sống mình. Khi bị cám dỗ làm điều sai và chúng ta sắp thực hiện, trong trí chúng ta xuất hiện một lời giảng dạy của Chúa Giêsu, một câu Kinh Thánh, một hình ảnh của Chúa Giêsu, Đức Mẹ, một câu nói của ai đó mà chúng ta yêu mến, ngưỡng mộ hay được học khi còn ấu thơ. Trong giờ phút nguy hiểm, những điều đó bỗng loé lên trong trí chúng ta. Đó là việc làm của Chúa Thánh Thần.

2) Chúa nói về sự bình an

Trong Kinh Thánh chữ ‘bình an’ không có nghĩa là không có rắc rối, hoạn nạn. Sự bình an bao gồm tất cả những gì đem đến điều tốt lành nhất cho chúng ta. Sự bình an mà thế gian cho là thứ bình an do không gặp nạn, rắc rối, bình an do tránh né, trốn chạy không dám đương đầu với thực tế. Nhưng sự bình an mà Chúa Giêsu ban cho là sự bình an chiến thắng. Không một kinh nghiệm nào của cuộc sống trần gian này có thể cướp lấy sự bình an của chúng ta. Không có nỗi buồn rầu, nguy hiểm, khổ đau nào có thể làm giảm sự bình an. Sự bình an Chúa ban cho hoàn toàn độc lập với hoàn cảnh bên ngoài.

3) Chúa nói về nơi Ngài sẽ đến

Chúa Giêsu đang trở về cùng Cha, Ngài bảo rằng nếu các môn đệ thực sự yêu Ngài, họ phải vui mừng về điều đó. Ngài sắp được giải thoát khỏi những ràng buộc của đời này, sắp nhận lại địa vị vinh hiển của Ngài. Nếu chúng ta nắm giữ được chân lý này của đức tin Kitô giáo thì chúng ta sẽ vui mừng – thay vì buồn phiền – khi có người thân yêu của chúng ta về với Chúa. Nghĩa là chúng ta sẽ không cảm thấy đau đớn mất mát khi họ qua đời. Nhưng ngay cả trong lúc buồn rầu, cô đơn, chúng ta cũng vui mừng vì sau những hoạn nạn, thử thách trần gian, người mà chúng ta yêu mến đã ra đi để được ở với Thiên Chúa, hưởng một cuộc sống tốt hơn. Đừng bao giờ buồn rầu vì cớ họ đã được nghỉ ngơi, nhưng phải nhớ rằng họ đã đi vào cõi phước hạnh chứ không phải vào cõi tiêu diệt.

4) Chúa cũng đề cập đến cuộc chiến đấu của Ngài

Thập giá là cuộc chiến cuối cùng của Chúa Giêsu đối với các thế lực của tội ác. Chúa không sợ thập giá. Ngài biết thế lực của tội ác không có quyền tối hậu trên Ngài. Ngài tiến đến thập giá với sự chắc chắn chiến thắng chứ không thất bại. Thập giá là bằng chứng sự vâng phục của Ngài đối với thánh ý Chúa Cha, là con đường Ngài trở về với Chúa Cha.

----------------------------

 

PS 6-C60. Nếu

 

Thánh Gioan nói những lời dịu dàng bằng cách trước hết là chạm nhẹ vào một điều mặc khải: PS 6-C60


Thánh Gioan nói những lời dịu dàng bằng cách trước hết là chạm nhẹ vào một điều mặc khải, sau đó hít thở điều mặc khải và trở lại uống nguồn nước mặc khải đó. Ngài đã làm như thế vì đức tin mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Nếu các ngươi biết ta, nếu các ngươi thấy ta, nếu các ngươi tin ta”. Và bây giờ là vì tình yêu: “Nếu các ngươi yêu ta… Nếu kẻ nào yêu ta…”

Đó là những chuyện lớn, trong tầm tay. Nhưng mỗi lần đều bị che chắn bằng một chữ “Nếu” to tướng.

- Nếu ai yêu ta, kẻ ấy giữ lời ta và Cha ta sẽ yêu mến người ấy, và chúng ta sẽ ở cùng người ấy.

Các từ này đưa chúng ta lên đỉnh cao và vào trong sự dịu dàng, nhưng sáu từ gắn chặt chúng ta với thực tế và chúng ta không nghe những từ đó: “Người ấy sẽ giữ lời Thầy”.

Giữ lời hay giữ các giới răn, không phải là một loạt những điều tùy nghi trong nhiệt tình tình yêu của chúng ta hướng về Chúa Kitô. Đây thậm chí không phải là một điều logic: nếu tôi yêu mến Chúa Kitô, tôi phải tuân giữ các giới răn của Ngài. Tiếng “nếu” liên kết chặt chẽ hơn lòng chúng ta yêu mến Chúa Giêsu với cách ăn ở của chúng ta trong cuộc sống: tôi chỉ yêu thương khi tôi vâng lời Ngài, bởi vì tình yêu thực sự, cụ thể của tôi chính là điều mà tôi làm.

Những thất bại của chúng ta có nguồn gốc tại đây: từ chối hiểu rằng tình yêu không phải là một từ, một giấc mơ, cũng như một nhịp đập của trái tim, mà là một cách cư xử.

Khi người ta suy niệm với thánh Gioan, cách ăn ở này rất rõ ràng: “Chúng ta phải yêu thương những người anh em của chúng ta”. Yêu thương với một tình yêu như tình yêu của Chúa Giêsu. Tình yêu được kín múc và được sống trong mối quan hệ với Chúa Cha. Cách cư xử huynh đệ của chúng ta nối dài điều chúng ta sống trong Ba Ngôi.

Đó là mối dây bền chặt nối kết lòng ước ao mến Chúa thực sự với điều mà chúng ta làm cụ thể từ sáng đến chiều với trí khôn và bàn tay của chúng ta và trong những cuộc gặp gỡ huynh đệ. Nếu nơi tất cả những điều đó mà không có tình yêu, thì chúng ta đừng nói đến lòng yêu mến Thiên Chúa. “Chính khi ngươi yêu thương những người anh em của mình, là ngươi yêu thương ta”, Chúa Giêsu nói như thế.

Trong ánh sáng đó, bài đọc hôm nay, được rút ra từ câu 15-29, nói với chúng ta rằng vẻ vắng mặt bề ngoài của Thiên Chúa có thể là một kinh nghiệm hiện diện liên tục như thế nào.

Đây là một sự hiện diện của Ba Ngôi, ngay từ đầu chúng ta đã nghe âm sắc này: “Nếu các con yêu mến Thầy, Thầy sẽ nài xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho các con”. Trong khi gia tăng những kinh nghiệm tình thương yêu huynh đệ, chúng ta kinh nghiệm được sự ngọt ngào cùng với Chúa Giêsu sống kinh nghiệm làm Con của Ngài, trong giòng tình yêu mầu nhiệm mà chúng ta gọi là Thánh Thần.

Nhưng tất cả những điều đó chỉ có thể mang lại một cảm tưởng không thực, hoặc sự vắng mặt thực tế quá tàn bạo nếu chúng ta khăng khăng không tìm kiếm thực tế của sự hiện diện trong thực tế của cách cư xử của chúng ta. Mỗi lần chúng ta muốn suy niệm mối quan hệ của chúng ta với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy bắt đầu bằng cách quan hệ với các anh em của chúng ta cho tốt đã. Đây là những quan hệ đảm bảo cho chúng ta thực sự đến gần Chúa. Người ta chỉ có thể kinh nghiệm về sự hiện diện trong kinh nghiệm về giới răn yêu thương mà thôi.

----------------------------

 

PS 6-C61. CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH


Ga. 14, 23-29

Anh chị em thân mến.

 

Mỗi ngày và mỗi ngày, cứ đến giờ quy định, trước các cổng trường mẫu giáo, nhà trẻ và các: PS 6-C61


Mỗi ngày và mỗi ngày, cứ đến giờ quy định, trước các cổng trường mẫu giáo, nhà trẻ và các trường cấp I, có rất nhiều xe chờ đón bên ngoài. Dù trời mưa hay nắng, những người chờ đợi nầy không bao giờ lỗi hẹn. Càng lạ lùng hơn nữa, nếu trời mưa bất chợt, thì những tài xế nầy sẳn sàn để cho cơn mưa hành hạ mình, còn người được rước luôn được bảo vệ hết sức có thể.

Những chiếc xe chờ đón đó là ai? Thưa đó là những người cha, người mẹ của những đứa con đang học trong những ngôi trường mà họ chờ đợi trước cổng. Vì yêu thương mà cứ mỗi ngày họ lại đúng hẹn, cho dù bận rộn nhiều công việc, nhưng với đứa con thân yêu của mình, họ vẫn giữ đúng hẹn. Chỉ vì yêu thương họ mới có thể trung thành được như thế, họ mới có thể giữ đúng lời hứa đến như thế.

" Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy. . . kẻ không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy."

Chúa Giêsu đã nói lên những lời tâm phúc với các môn đệ của mình. Nhìn thấy các ông buồn rầu lo sợ, Ngài trấn an các ông, Ngài chỉ đòi hỏi các ông về lòng yêu thương. Dấu chỉ để chứng tỏ tình yêu là vâng giữ lời của Ngài. Tình yêu thương không chỉ là những lời nói suông, nhưng phải được biểu lộ bằng hành động.

Các môn đệ đã vâng giữ lời, đã chứng tỏ được lòng yêu mến qua cuộc sống, qua con người của các ông. Giờ đây các ông được sống trọn vẹn trong tình yêu mà các ông đã chúng tỏ qua việc tuân giữ lời.

Trải qua hơn 2000 năm lịch sử. Giờ đây Chúa Giêsu cũng nói với những người môn đệ của ngày hôm nay, những người đang ngồi trong nhà thờ, những người đang lắng nghe những lời nói của Tình Yêu.

"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy."

Nếu giờ nầy có ai chất vấn chúng ta về tình yêu, chúng ta sẽ trả lời sao đây? Có lẽ chúng ta cũng dám tự hào rằng mình yêu mến Chúa. Nhưng coi chừng, chúng ta yêu mến Chúa chỉ bằng môi miệng, còn tâm hồn thì ở tận đâu. Chúng ta ngở rằng Thiên Chúa của mình ở trong nhà thờ, bị nhốt trong nhà tạm. Chúng ta chỉ nhìn thấy Chúa trong kinh nguyện, trong những giờ phút mà chúng ta gọi là việc đạo đức. Ngoài những việc đó ra, chúng ta cứ mặc tình thoải mái, muốn sống sao thì sống.

"Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy."

Chúng ta ngở rằng với những lời kinh, những lúc ngồi trong nhà thờ lâu giờ, như thế gọi là yêu mến Chúa, còn ngoài ra cuộc sống dường như không có Chúa bên cạnh. Như vậy chúng ta giữ lời Chúa như thế nào để chứng tỏ tình yêu của mình? Chúng ta có còn biết Lời Chúa là Lời như thế nào hay không? Lời Chúa là LỜI YÊU THƯƠNG. Chúa dạy chúng ta yêu thương. Nhưng yêu thương không phải chỉ là những lời nói suông. Yêu thương phải được thể hiện qua hành động, qua việc vâng giữ Lời Chúa.

Nếu chúng ta yêu mến, nếu giữ Lời Chúa thì chúng ta sẽ tận tâm hơn trong công việc hằng ngày, tận tâm hơn với trách nhiệm mà mình được trao cho.

Nếu chúng ta yêu mến và giữ Lời Chúa, chúng ta sẽ không còn thấy những người chung quanh như gánh nặng trên vai của mình nữa.

Nếu chúng ta yêu mến Chúa không chỉ bằng lời nói suông, thì đôi tay chúng ta sẽ hành động, không quảng ngại những khó khăn trắc trở. Khi đó tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta hành động giống như người cha, người mẹ không ngại mưa nắng khó khăn, sẳn sàn bảo vệ tình yêu của mình đối với đứa con thân yêu. Nếu chúng ta hành động được như thế, là chúng ta yêu mến Chúa qua cách đối xử với người anh em. Đó là đã vâng giữ lời Chúa và chúng ta sẽ được Thiên Chúa ở cùng.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết vâng giữ lời Chúa bằng hành động yêu thương.

----------------------------

 

 PS 6-C62. NGUỒN BÌNH AN


Ga. 14, 23-29

 

Trong cuộc sống chúng ta thường thấy cảnh này, khi có những sự rắc rối nào đó liên quan đến: PS 6-C62


Trong cuộc sống chúng ta thường thấy cảnh này, khi có những sự rắc rối nào đó liên quan đến ai đó mà họ không muốn liên luỵ nên họ lắc đầu liên tục và bảo rằng “ Xin cho tôi hai chữ bình an ” . Họ muốn an phận, họ không muốn day vào những rắc rối. Thế thì bình an có phải là không chút gợn sóng, không chút khoấy động, không có phản ứng chống đối .. .

Đoạn Tin Mừng chúng ta được đọc hôm nay Chúa Giêsu hứa “ Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng ” . Như thế bình an của Chúa Giêsu có gì đó rất khác với bình an của thế gian. Vậy bình an của Chúa Kitô là gì? Bình an của Chúa Kitô không phải là một tình trạng yên ôn không bị khuâý động, không bị chống đối. Bình an của Chúa Kitô là được sống tròn đầy do sự hiện diện của Chúa Kitô “ Chúa Kitô là sự bình an của chúng ta ” ( Ep2, 14). Sự bình an này đã được Chúa Kitô diễn tả trong cuộc sống của Ngài và đặc biệt trong cuộc thương khó. Chúa Giêsu bước vào vườn Ghêtsêmani với sự sợ hãi hoang mang đến độ Ngài xin Cha cho khỏi uống chén đắng là cuộc thương khó.

Nhưng khi nhận ra ý định của Chúa Cha cũng như tình yêu của Chúa Cha thì Ngài đã bình an bước vào cuộc thương khó với niềm tin tưởng cậy trông. Như thế sự hiện diện của Chúa Kitô chính là nguồn đem lại bình an cho chúng ta. Các môn đệ vất vả suốt đêm chèo chống vì ngược gió như khi Chúa Giêsu ngự đến thì sóng biển yên lặng và đưa các ông đến bến bình an. Chúng ta cũng có thể thấy điều này dễ dàng nơi các trẻ em tập đi. Muốn cho em bé đi được thì bé phải tập đi. Mẹ của bé sẽ ở cách xa và chuẩn bị đỡ lấy bé nếu bé ngã còn người kia thì buông bé ra để bé đi đến với mẹ. Mặc dù bé đi rất loạng choạng nhưng bé vẫn muốn đi vì bé biết rằng mẹ bé luôn sẵn sàng đỡ lấy bé khi bé té ngã. Như thế sự bình an của chúng ta nhận được phải là sự bình an trong mọi lúc, phải là sự tin tưởng trọn vẹn nơi Chúa. Chúa luôn dõi bước ngay bên chúng ta, sẵn sàng nâng đỡ chúng ta khi chúng ta gặp gian lao thử thách.

”Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Yêu ai là muốn nên giống người đó và làm đẹp lòng người đó. Với thước đo này ta có thể đo được lòng mến của chúng ta đối với Thiên Chúa. Ta có giữ lời của Thiên Chúa chưa? Ta có thực sự muốn nên giống Chúa chưa? Tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa không hệ tại ở những cảm xúc tự nhiên hay những câu nói suông nhưng là hệ tại ở việc sống Lời Chúa. Sống Lời Chúa là thực thi lòng mến, biết yêu mến tha nhân, thể hiện tình yêu của Thiên Chúa nơi những ngươi chung quanh.

Người Kitô hữu phải là người có sự bình an thật vì hoạ lại hình ảnh của Chúa Kitô nơi trần thế khi thực thi lời Chúa dạy. Như thế, nhiệm vụ của người Kitô hữu là phải làm lan toả sự bình an ấy nơi những người chung quanh, cho xã hội cho thế giới. Bình an là khát vọng của mỗi con người nhưng chưa thể thực hiện được vì nỗi sợ hãi lo âu, lo cho chính mình, cho dân tộc mình, cho đất nước mình nên còn hoài những cuộc chiến những cuộc xâm lăng. Người Kitô hữu phải là những người tái tạo hoà bình, phải là những người làm chứng cho hoà bình trong thế giới bằng cuộc sống không bạo lực, bằng cách sống đồng tâm nhất trí với nhau. Nhưng muốn được như thế mỗi người chúng ta phải là những con người thực sự bình an trong tâm hồn. Nếu chúng ta còn khư khư bám víu cuộc sống mình cách ích kỷ, nếu chúng ta còn sợ mất mát của cải, chúng ta còn muốn hưởng thụ, còn muốn thống trị kẻ khác… thì làm sao chúng ta có thể xây dựng hoà bình cho được.

Hãy tin tưởng vào Chúa, có Chúa hiện diện thì còn lý do gì nữa để chúng ta lo lắng sợ hãi. Như đứa con vững tin ngon giấc trong vòng tay người mẹ thì chúng ta cũng hãy phó thác mọi sự cho Chúa. Cho dù khó khăn, cho dù chống đối, cho dù bất ổn nhưng hãy tin rằng Chúa luôn có cách của Chúa để mang lại những điều thiện ích cho chúng ta.

Có Chúa hiện diện thì ta còn lo lắng sự gì nữa. Chúa thật là nguồn bình an.

----------------------------

 

PS 6-C63. BÌNH AN PHỤC SINH


Ga. 14, 23-29

 

Suy nghĩ về tình trạng tai nạn giao thông trong nước, một người đã viết trên báo Tuổi trẻ số ra: PS 6-C63


Suy nghĩ về tình trạng tai nạn giao thông trong nước, một người đã viết trên báo Tuổi trẻ số ra ngày thứ hai 16. 04. 2007 như sau: “ Dư luận chưa hết bàng hoàng trước vụ xe tải cán chết bốn học sinh ở Tuy An, Phú Yên, nay lại thêm một xe tải khác cán chết ba học sinh ở Ninh Hòa, Khánh Hòa. Những thông tin chết chóc do tai nạn giao thông làm nhói lòng người. Người dân luôn nơm nớp lo sợ từng ngày về sự an nguy của mình, của người thân trước hiểm họa xe cộ còn kinh hoàng hơn cả chiến tranh bởi không biết đâu là mặt trận, chiến trường, mỗi con đường đều có thể là bờ vực của tử thần... ” .

Trên đây là tâm trạng bất an trong chỉ một lĩnh vực trong muôn vàn lĩnh vực khác trong cuộc sống hiện nay. Dường như xã hội càng tiến bộ bao nhiêu thì con người lại càng làm cho nhau thêm bất an lo sợ. Như thế có sự bình an đích thực không?

Để giải đáp cho câu hỏi này hôm nay Chúa Giêsu đã nói đến trong bài Tin mừng: “ Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi ” (Ga 14, 27). Nói cách vắn gọn là trong Chúa Giêsu Phục sinh ta mới có được sự bình an đích thực và vững chắc.

Chúng ta nhớ sau khi Chúa Giêsu bị bắt và bị đóng đinh thì chính các Tông đồ là những người mất bình an hơn ai hết. Bấy giờ họ chỉ biết vào phòng đóng kín cửa mà vẫn chưa hết lo sợ. Đến nỗi khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến thì các ông lại tưởng là ma (Lc 24, 37). Thế nhưng sau khi các ông đón nhận được sự bình an của Chúa Giêsu Phục sinh thì các ông không còn lo sợ nữa. Các ông đã được hoàn toàn đổi mới. Các ông đã trở nên những người can đảm và mạnh mẽ lạ thường. Các ông đã chia nhau mỗi người mỗi ngả mà đi loan báo Tin mừng Phục sinh. Các ông đã dám đánh đổi cả mạng sống của mình để bảo vệ Tin mừng trọng đại ấy.

Ngược lại, những Thượng tế và những kỳ mục là những người mất bình an sau khi Chúa Giêsu Phục sinh. Thánh Mathêu ghi lại sau khi họ được báo tin Chúa Giêsu đã sống lại: “Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo: Các anh hãy nói như thế này: ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự. Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay” (Mt 28, 12 - 15). Vì không được sự bình an trong Chúa Giêsu Phục sinh nên những người này đã tìm cách che giấu sự thật này. Nhưng làm sao có thể che giấu cho được điều này.

Mỗi khi Thánh lễ kết thúc, Chủ tế luôn chúc chúng ta “ra đi bình an”. Vì Giáo hội tin là qua Thánh lễ chúng ta đã gặp và đón nhận được Chúa Giêsu Phục sinh trong Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa. Do đó, chắc chắn chúng ta sẽ được bình an đích thực. Giáo hội cũng mong muốn mỗi tín hữu sau khi tham dự Thánh lễ về cũng biết đem bình an ấy cho gia đình và mọi người xung quanh. Cũng vậy, khi lãnh nhận Bí tích Hòa giải Linh mục thay mặt Thiên Chúa ban ơn bình an cho chúng ta. Chúng ta có tin và ý thức được điều ấy chưa?

Bình an đích thực là khi chúng ta biết làm theo lời Chúa và Giáo hội dạy. Khi chúng ta biết nghe lời Chúa và Giáo hội chắc chắn chúng ta sẽ có hạnh phúc thật sự. Đó là khao khát tận cõi lòng của mỗi người chúng ta.

Ngoài ra chúng ta hãy nhớ, những sự bình an theo kiểu thế gian chỉ là tạm bợ, mau thay đổi. Thậm chí, có khi lại là giả tạo.

Xin Chúa Giêsu Phục sinh ban cho mỗi người chúng ta biết chạy đến với Người để đón nhận bình an đích thực.

----------------------------

 

PS 6-C64. NGÔN HÀNH HỢP NHẤT


Ga. 14, 23-29

“Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy…” (Gn 14, 24)

 

Mẹ Têrêsa cùng các chị em nữ tu Bác ái đang chăm sóc một người đàn ông gần chết, nằm bên cống: PS 6-C64


Mẹ Têrêsa cùng các chị em nữ tu Bác ái đang chăm sóc một người đàn ông gần chết, nằm bên cống rãnh; ông ta rất hôi thúi, ruồi bọ bu quanh…. Một người đi ngang thấy cảnh tượng đó, nôn ọe ra vừa nói: Có ai đó trả cho tôi 1 triệu đô la, tôi cũng không làm việc này… Mẹ Têrêsa nghe, trả lời cho anh ta: “tôi cũng vậy!” Cho 1 triệu đô la cả mẹ và chị em, ai cũng không làm được, nhưng với tình yêu hi sinh, tình yêu Đức Kitô, họ có thể làm được mọi sự…. Chính vì thế mà Đức Kitô đã nói: Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy… Kính mời anh chị em cùng suy niệm chủ đề này ngày chúa nhật hôm nay.

a. ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở trong người ấy… Lời Chúa hứa rõ ràng cho ai nghe và giữ lời Chúa, là Chúa sẽ đến ở với họ. Nếu chúng ta hiểu Thiên Chúa chính là nguồn của mọi hạnh phúc, thì khi được Chúa đến ở cùng, ta sẽ còn mơ ước điều gì khác? Vì Chúa chính là nguồn hạnh của ta mà thôi. Hai cô cậu yêu nhau chân thật, dù chưa lấy được nhau, họ không có mơ ước nào khác là được yêu nhau; dù rằng tình yêu trần gian rất bất toàn, rất dễ đổ vỡ…Rồi Chúa lại hứa cho ai yêu mến Chúa: chính là được kết hợp thân mật với Chúa Cha, với Chúa Kitô; sự kết hợp này không phải chỉởơ cuộc sống mai sau trên nước Trời mà ngay khi còn ở dưới đất này. Chúa dùng từ “sẽ đến” và “ở lại” với người đó. Còn từ nào cụ thể nói lên sự kết hợp mật thiết này? Hai cô cậu khi yêu nhau chân thật, không phải là mong muốn lúc nào cũng ở bên nhau sao? Mà ở bên nhau là gì, nếu không phải là kết hợp mật thiết với nhau?

b. Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy… Câu nói này người Công Giáo chúng ta thuộc nằm lòng. Lời Chúa đã vang vọng 20 tk rồi cho mọi kitô hữu….dù vậy, chúng ta thử nhìn có rất nhiều người nói mình yêu Chúa, nhưng họ không giữ và cũng không muốn giữ lời Chúa dạy, không làm theo Ý Chúa. Thử nhìn các Giáo hội bên Âu Châu, như bên Pháp, Ba Lan: hầu hết đều được rửa tội, nhưng lớn lên hầu hết họ không đến nhà thờ, không lãnh các Bí tích. Khi được nhắc nhở, họ lại tự biện minh cho mình rằng: “giữ đạo ở trong tâm hồn là được rồi”. Thực ra có được không? Câu trả lời là một câu hỏi lại: Nếu ta nói ta thương vợ con mình, mà mấy năm trời không gần vợ, gần con, điều này có thể chấp nhận được không? Việc gẫư đạo cũng tương tợ thế…

Bây giờ ta thử nghiêm túc nhìn lại cách sống đạo của người Việt Nam ; thực ra có hơn Âu Châu không? Thưa có, vì người ta vẫn đi lễ đông nghẹt; các nhà thờ VN hầu như không đủ chỗ. Như thế thì rất tốy, rất sốt sắng. Nhưng thật sự giữ đạo trong cuộc sống hằng ngày, sống Lời Chúa thì chưa. Thực tế cho thấy có nhiều người có đạo, nhưng vẫn còn tham lam, ganh tị, bè phái, không bao dung, tha thứ… Có những người không thể nhịn nhục, tha thứ cho vợ cho chồng mình; có những người Công giáo, nhưng tâm địa ác độc... Số này giữ đạo vì lợi lộc cá nhân, vì muốn yên lương tâm, vì nhu cầu xã hội, để được chồng ,được vợ. Lời Chúa nói không đủ đánh động họ, cái chết của Chúa trên thánh giá không dễ gì lôi kéo họ, vì họ qúa xem trọng lợi lộc trần gian, làm sao Chúa Thánh Thần có thể tác động họ khi chính bản thân họ không có quyết tâm.

c. Gợi ý sống và chia sẻ: Ta giữ đạo cho đến hôm nay có khi đã mấy mươi năm rồi, vậy mà ta có yêu mến Chúa chưa? Và vì yêu mến Chúa, ta có sẵn sàng làm mọi sự theo ý Người không?

----------------------------

 

PS 6-C65. BÌNH AN CỦA THIÊN CHÚA BAN


Ga. 14, 23-29

 

Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an ...........đó là câu hát của Thiên Thần mừng ngày Chúa: PS 6-C65


1. “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14), đó là câu hát của Thiên Thần mừng ngày Chúa xuống trần. Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, khi Đức Giêsu sắp trở về với Chúa Cha, Người cũng nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27). Qủa thực, Đức Giêsu đến để mãi mãi đem bình an cho loài người, nhất là những kẻ tin vào Người. Nhưng bình an của Chúa ban là gì? Làm sao chúng ta có được bình an đó?

2. Thật ra, người Do Thái khi gặp hay từ giã nhau thường chào “Shalom” (bình an). Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cũng hay có thói quen chúc nhau như thế. Nhưng ở đây, lời Đức Giêsu nói với các môn đệ không chỉ là một lời chúc hay là một lời từ giã thông thường, mà còn là một sự trao ban bình an thật sự: ” Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không không theo kiểu thế gian”. Bình an, đó là món quà vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua Đức Kitô, nhờ Thánh Thần của Người. Bình an nầy được trao ban từ Thiên Chúa Ba Ngôi.

3. Một cách thông thường, khi nói về bình an, ta thường nghĩ đó là những điều kiện cần thiết cho cuộc sống hạnh phúc, nó có thể mang tính vật chất (nhiều tiền bạc, tiện nghi, sung túc…) hay một sự an toàn về thể lý (không có chiến tranh, chết chóc…) cũng như tâm lý (yên ổn về tinh thần…). Nhưng thứ bình an này sẽ chóng qua và con người khó mà đạt tới một sự thoả mãn thật sự vì ngay khi đi tìm bình an thì trong đó đã có sự cạnh tranh rồi, như ta vẫn nghe nói: “Muốn có hoà bình hãy chuẩn bị chiến tranh”, tức phải lo phòng thủ kẻo đối phương tấn công. Hơn thế nữa vì tham vọng không giới hạn của con người làm khổ cho chính mình, người giàu thì muốn giàu thêm, đã tiện nghi thì càng muốn hơn nữa…!

Trong khi đó, sự bình an của Chúa vượt trên thứ bình an thông thường, bởi nó không hệ tại ở bình diện vật chất, thể lý hay bình diện tâm lý, mà hệ tại ởviệc nhận ra chân lý, nhận ra sự thật và sống theo chân lý, sự thật đó. Theo thánh Gioan, sự Thật là gì, thưa đó chính là Thiên Chúa, là Đức Giêsu (x.Ga 14,6) và những gì xuất phát từ Ngài (x.Ga 3,21; 4,24 ; 8,40…). Khi chúng ta tin nhận sự hiện diện của ThiênChúa trong cuộc đời mình, khi chúng ta luôn sống trong sự gắn bó với Chúa và thực thi thánh ý của Ngài, thì lòng chúng ta chẳng còn xao xuyến, chẳng còn lo toan dù trước những thăng trầm của cuộc sống. Cho dù không dư dả gì, cho dù cái chết có kề cận… bởi vì hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng.

4. Các môn đệ khi đã nhận được bình an của Đức Kitô Phục Sinh ban qua Thánh Thần của Người đã mạnh dạn ra đi rao giảng Tin Mừng, rao giảng sự thật, bất chấp mọi khó khăn, chống đối, tù đày. Phải chăng các ngài đã có sự bình an trong Chúa ? Giữ vững truyền thống các môn đệ xưa, các thế hệ Kitô hữu nối tiếp nhau, nhờ hồng ân bình an của Chúa, không ngừng loan báo Tin Mừng, dấn thân phục vụ tha nhân cho dù thuận lợi hay không ?

Câu chuyện có thật sau đây mà tôi đọc được trong một bài chia sẻ, xin ghi lại để chúng ta cùng suy nghĩ thế nào là bình an thật do Chúa ban: Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi cha Vania thi hành nghĩa vụ linh mục, ngài đã gục ngã dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:“Cha mẹ yêu dấu ! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách...”

Đời sống tốt đẹp của người Kitô hữu là một trong những biểu hiện rất rõ nét cho sự hiện diện và bình an của Chúa.

5. Nhưng làm thế nào để có được bình an đích thực nầy ? Bí quyết này Đức Giêsu cũng chỉ rõ cho chúng ta ngay từ đầu bài Tin Mừng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy ”. Vậy, cách cụ thể hơn, muốn được bình an của Thiên Chúa, thì hãy sống theo lương tâm ngay lành. Hãy vâng nghe lời Chúa dạy qua Kinh thánh. Hãy tuân phục ý Chúa thể hiện qua những biến cố Chúa gởi đến trong đời ta. Cũng đừng quên nghe tiếng Chúa nói qua sự hướng dẫn của Giáo Hội, qua lời góp ý chân tình của anh chị em mình…

6. Ước vì nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa và trung thành giữ lời Ngài, mà mỗi người chúng ta có được bình an sâu thẳm trong tâm hồn, dù đời sống Kitô hữu có thể gặp nhiều hy sinh, gian nan, thử thách. Hãy nghĩ xem, trong khi thế gian dám đánh đổi bao công sức, tiền bạc cho hạnh phúc, bình an chóng qua; thì người Kitô hữu càng có lý do hơn để hy sinh cho hạnh phúc, bình an đích thực, bền vững nơi Thiên Chúa cho chính mình và cho tha nhân.

-----------------------------------

 

PS 6-C66. Trong và ngoài tình yêu - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt  Web

 

Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên tai gây nên những thiệt: PS 6-C66 FB


Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên tai gây nên những thiệt hại trầm trọng về vật chất và tinh thần. Nhưng cũng chính trong thiên tai đã xuất hiện những nét đẹp của tình người.

Qua báo đài, tôi đã thấy nhiều Đức Giám mục, Linh mục mặc quần soọc áo may-ô chèo thuyền đi thăm viếng, khích lệ các nạn nhân. Nhiều cao tăng hoà thượng vận động tín đồ Phật tử tham gia công tác cứu trợ. Nhiều nữ tu đứng ra tổ chức công việc cứu trợ có khoa học và hiệu quả. Nhiều nhà thờ, nhà chùa, tu viện trở thành nơi tiếp đón các gia đình lâm nạn. Biết bao bộ đội, công an xả thân, liều lĩnh vượt qua sóng to gió lớn để cứu hộ các nạn nhân. Cả nước hướng về những nơi hoạn nạn đã đành. Cả những anh chị em ở nước ngoài cũng đau đớn khi khúc ruột trong nước đau đớn. Nên Việt kiều ở nước ngoài cũng đã vận động quyên góp, tổ chức những đoàn cứu trợ về thăm viếng và uỷ lạo các nạn nhân bão lụt. Nhiều cơ quan thiện nguyện nước ngoài cũng nhập cuộc. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, ngôn ngữ, khuynh hướng chính trị, giai cấp đang quy tụ lại để khắc phục thảm hoạ. Toàn cầu hoá với sự bùng nổ thông tin đang làm cho các nước xích lại gần nhau. Gần gũi không chỉ về không gian, nhưng nhất là về tấm lòng. Mọi người liên đới với nhau trong việc chống lại cái ác và cùng nhau đề cao sự thiện, lòng nhân ái. Đó là dấu chỉ cho thấy Lời Chúa đang được thực hiện.

Tuần trước kh Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”, Người đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng bằng tình yêu.

Hôm nay, khi nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”, Chúa Giêsu đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giêsu không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.

Rồi xã hội sẽ chẳng còn phân biệt hữu thần với vô thần. Nhưng sẽ chỉ có một phân biệt duy nhất: hữu tâm và vô tâm. Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân. Người vô thần mà có trái tim nhân ái thì đã thuộc về Chúa. Hữu thần mà tâm hồn tàn nhẫn độc ác thì đã bị loại trừ ra khỏi Nước Chúa rồi.

Nhìn như thế, Nước Chúa thực là rộng lắm. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Giêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Giêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có Đền Thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quý toả ánh sáng tới khắp muôn dân.

Trong số những người có trái tim, xây dựng nên thành Giêrusalem mới ấy, tôi thấy có nhiều người trong anh chị em. Trong những năm qua số người tham gia công tác từ thiện bác ái ngày càng đông. Người âm thầm, kẻ công khai. Người góp của, kẻ dâng công. Tôi thấy rõ là anh chị em đang phấn đấu để ở trong tình yêu. Tôi thấy rõ là anh chị em đang rèn luyện để trở nên người hữu tâm.

Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Giêrusalem mới cho tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Chỉ đi lễ, đi đọc kinh thôi, đã đủ làm công dân trong Nước Trời chưa? Bạn có quan tâm giúp đỡ những người kém may mắn chung quanh bạn không?
2. Bạn có phấn đấu để hãm dẹp tính ích kỷ, chia rẽ và phát triển tình yêu thương tha thứ trong tâm hồn bạn không?
3. Bạn nghĩ gì về những người ngoại đạo tốt? Họ có phải là con Chúa không?
4. Trong và ngoài Giáo Hội. Trong và ngoài tinh thần. Bạn quan tâm tới điều nào hơn?

-------------------------------------

 

PS 6-C67. Hoà bình, hồng ân của Thiên Chúa


(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Tháng 2 năm 1991 sau khi quân đội đồng minh đổ bộ lên Kouweit được ba ngày, thế giới đã: PS 6-C67


Tháng 2 năm 1991 sau khi quân đội đồng minh đổ bộ lên Kouweit được ba ngày, thế giới đã thở phào một cái nhẹ nhõm vì mối đe dọa của một cuộc chiến tranh nguyên tử đã qua đi và nền hòa bình đã trở lại với thế giới. Hiểu như thế thì hòa bình hay bình an là không có chiến tranh. Nhưng không có chiến tranh chưa chắc là đã có hòa bình.

Sau thế chiến thứ hai, thế giới đã chia làm hai phe: Tư Bản và Cộng Sản. Trong khoảng từ năm 1945 đến năm 1990 không có một cuộc chiến tranh nào với tính cách quy mô giữa hai phe Tư Bản và Cộng Sản. Vậy mà thế giới vẫn nơm nớp lo sợ một cuộc chiến tranh. Lý do là vì cả hai phe đều chạy đua vũ trang. Tình trạng đó được gọi bằng một cái tên là “chiến tranh lạnh”. Năm 1989 sau khi khối Cộng Sản sụp đổ ở Đông Âu, người ta đã họp nhau lại tại Paris để tuyên bố cuộc chiến tranh lạnh đã kết thúc.

Như vậy trong gần một nửa thế kỷ, tuy thế giới không có một cuộc chiến tranh nào trên quy môn lớn, nhưng con người vẫn phải sống trong sự bất an. Mới đây (ngày 8/5/1995) thế giới vừa mừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít Đức và kết thúc thế chiến thứ hai. Nhưng người ta lại lo sợ trước chủ nghĩa “Phát xít mới”, trước nạn khủng bố lan tràn và các cuộc xung đột chủng tộc… Người ta nói nhân loại đang sống trong một nền “hòa bình nóng”!

Thưa anh chị em, Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta hòa bình của Ngài từ gần hai ngàn năm nay rồi. Vậy mà tại sao loài người lại không được sống trong hòa bình?

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng”.

Chúa Giêsu đã coi sự bình an như một ân huệ Ngài để lại. Ngài ban bình an của Ngài cho các môn đệ. Ngài không cầu chúc, nhưng Ngài để lại, Ngài ban tặng bình an. Ngài không ban như người ta, vì người ta không thể ban cho ai bình an, chỉ có thể cầu chúc, ước muốn được bình an mà thôi.

Vậy thì bình an của Chúa Kitô là gì? Bình an của Chúa Kitô không phải là tình trạng yêu ổn không bị khuấy động vì chống đối, vì chiến tranh. Bình an ở đây là sự sống trọn đầy, là ân huệ gồm tóm mọi ân huệ của thời đại Chúa Cứu Thế. Chính vì vậy, bình an nầy gắn liền vớ Chúa Giêsu và sự hiện diện của Ngài: “Chúa Giêsu là sự bình an của chúng ta” (Ep 2.14). Sự bình an mà Chúa Giêsu trối lại hay là chia sẻ cho chúng ta là sự bình an mà Ngài thực sự có được và nghiệm thấy một cách trọn vẹn, khi Ngài đã chiến thắng được sợ hãi đứng trước tử thần. Đó là sự bình an của Đấng đã yêu thương đến cùng (Ga 13,1), nghĩa là chấp nhận hy sinh mạng sống cho những kẻ mình yêu thương (Ga 15,13). Nói khác đi, đó là bình an mà Chúa Giêsu đã có thể chia sẻ cho chúng ta, sau khi Ngài đã thực sự chia sẻ chính thân mình Ngài cho chúng ta.

Thánh Phaolô gọi sự bình an đó là “bình an của thập giá”: “Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trởi” (Cl 1,24). Bình an của thập giá là bình an mà Chúa Giêsu đã phải trả bằng chính máu của Ngài để giao hòa nhân loại với Ngài và nhân loại với nhau. Nói khác đi, Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình để xóa bỏ tội lỗi nhân loại, đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét, khiến cho nhân loại từ nay được hòa giải với Thiên Chúa và trở nên một thân thể duy nhất. Bởi vậy mà Chúa Giêsu xứng đáng được gọi là “Bình an của chúng ta” (Ep 2,14-18).

Anh chị em thân mến,

Bình an là khát vọng của mọi người, ở mọi nơi và mọi thời. Nhưng thực ra có lẽ chưa bao giờ nhân loại được hường một sự bình an toàn diện và phổ quát. Người ta có thể dập tắt ngọn lửa chiến tranh, có thể áp đặt một nền hòa bình, ký kết những bản hòa ước. Nhưng không ai có thể hiểu thấu lòng người để có thể đem lại được sự bình an vào tận cõi sâu thẳm bên trong; bởi vì ít có ai có được bình an thực sự trong lòng mình để có thể chia sẻ cho người khác. Con người chỉ có thể xây dựng hòa bình bên ngoài, nhưng không có khả năng chế ngự, điều khiển được những đợt sóng ngầm vẫn luôn sôi sục trong đáy lòng của mỗi cá nhân. Bởi vậy, hòa bình trên thế giới từ trước đến nay thường chỉ là những nền hòa bình giả tạo, mong manh, tạm thời. Dĩ nhiên có được hòa bình đó vẫn còn tốt hơn là không.

Người Kitô hữu phải là những người tác tạo và tái tạo hào bình, những người làm chứng cho hoàn bình trong thế giới bằng cuộc sống không bạo lực và bằng cách sống đồng tâm nhất trí với nhau. Điều kiện cần thiết là phải tin vào Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời được Cha sai đến loan báo Tin Mừng bình an (Cv 10,36), phải tuân giữ Lời Chúa, và như vậy chúng ta sẽ có được sự hiện diện của Chúa trong chúng ta, như Chúa Giêsu đã tỏ cho biết: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến ở trong người ấy” (Ga 14,23). Có Chúa hiện diện trong chúng ta, chúng ta sẽ không còn lý do nào để phải lo lắng, sợ hãi. Sợ hãi, lo lắng, chứng tỏ một tâm hồn xao xuyến, chưa được ổn định, chưa được bình an và là một tâm hồn không có Chúa ngự trị.

Muốn xây dựng hòa bình của Chúa, chúng ta phải là những con người hiếu hòa, đã được ổn định và bình an trong tâm hồn. Nếu chúng ta còn để cho dục vọng làm chủ mình; nếu chúng ta còn khư khư bám víu sự sống mình một cách ích kỷ; nếu chúng ta còn có sợ mất mát những của cải, hoặc phải bảo vệ chúng để hưởng thụ; nếu chúng ta còn muốn thống trị kẻ khác, làm sao chúng ta có thể gieo rắc bình an và xây dựng được hòa bình? Muốn xây dựng hòa bình ở bình diện lớn, thiết tưởng phải bắt đầu từ những bình diện nhỏ, vừa tầm tay, từ cá nhân, trong gia đình, đến xã hội, đất nước và lan tỏa đến toàn thế giới.

Cuối cùng, phải chăng Thánh lễ là một lời cổ vũ mạnh mẽ cho hòa bình và là một sự thúc đẩy người Kitô hữu dấn thân xây dựng hòa bình? Khi chúng ta chia sẻ bình an của Chúa cho anh chị em, chúng ta cam kết sống an hòa, yêu thương và dấn thân đem lại hòa bình, an vui, hạnh phúc cho mọi người. Và lời chúc cuối lễ của vị chủ tế là chúc anh chị em ra đi với sự bình an của Chúa Kitô, ra đi mang theo một cái gì đó của Nước Thiên Chúa cho mình và cho kẻ khác.

----------------------------

 

PS 6-C68. Ơn bình an


Suy Niệm 1. BÌNH AN Ở GIỮA SỰ RỐI LOẠN

 

Trong cuốn sách Go Down to the Potter’s House của Donagh O’Shea, ông có một câu chuyện: PS 6-C68


Trong cuốn sách Go Down to the Potter’s House của Donagh O’Shea, ông có một câu chuyện về một ông vua có hai hoạ sĩ trong triều là hai đối thủ gay gắt. Một ngày nọ, nhà vua nói: “Trẫm quyết định một lần này cho xong để biết ai trong hai khanh là hoạ sĩ giỏi nhất. Hai khanh phải vẽ cùng một đề tài và như vậy, trẫm sẽ ở giữa để phán xét. Và đề tài là bình an”.

Hai người hoạ sĩ đồng ý, và một tuần sau trở lại với các bức tranh của họ.

Hoạ sĩ thứ nhất giới thiệu bức tranh của mình. Nó cho thấy một phong cảnh thơ mộng với những ngọn đồi đều đặn kề bên nhau và một mặt hồ không gợn sóng. Toàn bộ phong cảnh nói lên sự hài lòng, bình an, tĩnh lặng. Tuy nhiên, khi nhà vua nhìn vào bức tranh, ngài không thể giữ cho mình khỏi ngáp. Rồi quay lại hoạ sĩ, ngài nói; “Bức tranh của khanh đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ”.

Kế đó, hoạ sĩ thứ hai đã trình bày công trình của mình. Nó cho thấy một thác nước chảy ầm ầm. Lối vẽ hiện thực làm cho người ta như nghe thấy tiếng gầm của nước khi va vào các tảng đá ở bên dưới hàng trăm thước.

“Nhưng đây không phải là một cảnh bình an như trẫm đã ra lệnh”, nhà vua tức giận nói. Hoạ sĩ không đáp lại nhưng xin nhà vua tiếp tục xem. Rồi nhà vua nhận ra một chi tiết mà trước đó ngài không để ý: ở giữa các tảng đá bên dưới thác nước, có một bụi cây mọc lên với một tổ chim trên cành. Khi nhìn kỹ, nhà vua thấy có một con chim trong tổ: một con se sẻ đang ấp trứng, đôi mắt lim dim. Nó đang chờ các con nó được sinh ra, một hình ảnh bình an hoàn hảo.

Nhà vua rất thích thú khi nhìn vào điều đó. Quay lại người hoạ sĩ thứ hai, ngài nói: “Trẫm rất thích bức tranh khanh đã chuyển tải một điều rất quan trọng về bình an, đó là có thể sống trong bình an cả khi ở giữa cảnh ồn ào hỗn loạn của đời sống”.

Đức Giêsu đã nói về sự bình an trong suốt bữa Tiệc Ly. Người nói với các tông đồ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”.

Quả là một thời điểm lạ lùng để nói về sự bình an vì mọi sự đang rối loạn ở xung quanh Người. Làm thế nào mà lúc đó Người có thể nói về sự bình an? Bởi lẽ bình an là hiệp thông với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu đã ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Vì thế, Người có thể nói về sự bình an cả khi các kẻ thù đang siết chặt vòng vây xung quanh Người và cái chết đang ở một góc tối nào đó.

Bình an không giống như sự yên tĩnh. Yên tĩnh thuộc về ngoại giới. Bình an chủ yếu thuộc về nội giới. Bình an là một tình trạng của sự tĩnh lặng nội tâm và chỉ rõ những mối quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa và với những người khác. Một thành phần chủ yếu của bình an là sự chính trực. Vì thế đối với kẻ xấu, không có sự bình an.

Bình an là kết quả của việc người ta tín thác vào Thiên Chúa và khi ước muốn làm vui lòng Người là việc quan trọng nhất trong đời sống của người ấy. Đó là điều mà người ta có thể có cả khi ở giữa sự xáo trộn, xung đột và những vấn đề chưa giải quyết được.

Đức Giêsu ban bình an của Người cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho anh em”. Bình an mà Người ban cho chúng ta không phải là thứ bình an để chúng ta trốn tránh thực tại. Nó là một điều rất thâm sâu và độc lập với những hoàn cảnh bên ngoài. Bình an ấy vượt qua mọi sự hiểu biết, bình an mà thế gian này không thể ban cho và không một ai có thể lấy mất của chúng ta.

----------------------------

 

PS 6-C69. ĐỂ NGƯỜI RA ĐI


Suy Niệm 2. ĐỂ NGƯỜI RA ĐI

 

Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói về sự ra đi của Người. Không bị bất ngờ, các Tông đồ chìm: PS 6-C69


Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói về sự ra đi của Người. Không bị bất ngờ, các Tông đồ chìm sâu vào sự đau buồn trước viễn cảnh mất Người. Họ không muốn Người đi, họ muốn giữ Người lại. Bạn không dễ dàng chấp nhận Người mà bạn yêu thương ra đi. Ngay cả một đồ vật hoặc một con thú cưng của bạn cũng thế.

Một ngày nọ, một cậu trai trẻ thấy một con chim nhỏ run lẩy bẩy nằm dài trên mặt đất, bên dưới một cái tổ. Cảm thấy xót xa trong lòng vì chim, cậu đem chim và nhà và đặt gần lò sưởi, ở đó chim từ từ hồi sinh. Tuy nhiên, thay vì trả chim về tổ, cậu làm một cái lồng cho chim. Trong lồng, cậu cho chim nhiều thức ăn, nước uống và hơi ấm.

Chim nhỏ mau lớn và bắt đầu bay quanh lồng. Kế đó, nó bắt đầu hót. Cậu trai run lên vì sung sướng. Nhưng một ngày kia nó bắt đầu đập cánh vào cạnh lồng. Cậu liền hỏi ông cậu điều đó có nghĩa gì.

“Nó không hạnh phúc”, ông cậu đáp.

“Cháu không hiểu”, cậu trai hỏi: “Nó không có mọi thứ nó cần trong lồng hay sao?”.

“Mọi thứ ngoại trừ một điều mà chim nào cũng mong ước?”.

“Điều đó là điều gì?”

“Tự do” ông cậu đáp.

“Ông muốn nói là cháu phải cho nó tự do, nó muốn rời bỏ cháu”.

“Nó chỉ muốn được tự do, vì thế nó mới có thể giống như những con chim khác”.

“Nhưng làm sao cháu có thể để nó đi?” Cậu khẩn khoản. “Nó không biết gì về những nguy hiểm đang chờ nó trong thế gian. Nó có thể bị giết chết hoặc chết đói”.

“Đó là một sự liều lĩnh mà cháu phải có”.

“Nhưng cháu yêu nó nhiều đến nỗi cháu không thể để nó đi”.

“Nếu cháu thật sự yêu nó, cháu phải để nó đi”.

Cậu bé trở nên thinh lặng. Nó nhìn con chim và con chim vẫn tiếp tục vỗ cánh vào lồng. Và với mỗi cái đập cánh, nó dường như muốn nói: “Trả tự do cho tôi! Trả tự do cho tôi!”. Không thể chịu nổi nữa, cậu quyết định để chim đi.

Khi nó bay ra ngoài cửa số, nó mang theo nó một mảnh hồn của cậu. Cậu nhìn theo qua cửa sốt mở rộng một lúc lâu. Rồi thình lình, cậu nghe tiếng chim hót ở một cây gần đó. Tiếng hót này dường như vui tươi và ngọt ngào hơn trước đây. Và đây là lần đầu tiên trong nhiều tháng, cậu cảm thấy tự do: hạnh phúc và bình an.

Các tông đồ không muốn để Đức Giêsu ra đi. Nhưng khi làm thế, họ không nghĩ đến Người mà nghĩ đến họ. Người đã nói với họ như thế. Người nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14,28). Đối với Đức Giêsu, trở về với Chúa Cha là mục đích của đời sống Người. Cố giữ Người ở lại là tỏ ra không yêu mến Người.

Tình yêu chiếm hữu rất thường gặp. Một số cha mẹ có tinh thần chiếm hữu rất mạnh trong tình yêu đối với con cái họ. Đã ban cho con cái họ đời sống, họ từ khước để cho chúng sống đời sống ấy theo cách của chúng. Sự việc tương tự cũng xảy ra trong một số cuộc hôn nhân. Người ta không sẵn lòng để cho người phối ngẫu có đời sống riêng của họ.

Tình yêu chiếm hữu gây ra nhiều đau khổ và thiệt hại. Mặt khác tình yêu không chiếm hữu làm nên điều kỳ diệu cho cả đôi bên.

Sự trưởng thành, tiến bộ, thay đổi đòi hỏi một sự để cho đi, một sự buông bỏ điều gì đó mà chúng ta đang có và coi là thân thiết. Nhưng sự buông bỏ ấy là để đạt được một điều mới mẻ và tốt đẹp hơn.

Khi rời xa các Tông đồ, Đức Giêsu xác nhận rằng Người không bỏ rơi họ. Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16,7). Và Người làm đúng như lời Người đã nói. Khi chúng ta sẵn lòng để Người khác ra đi, người ấy có thể rời xa chúng ta mà không làm cho chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi. Và chúng ta cởi mở lòng mình để đón nhận một điều mới mẻ mà nếu không ra đi người ấy sẽ không đem lại cho chúng ta.

CÂU CHUYỆN KHÁC

Một số người thường hay tức giận trong lòng và kết quả là họ thiếu sự bình an trong trí óc và sự thanh thản trong linh hồn. Nhưng có những người khác có được sự bình an nội tâm và họ làm cho đời sống của họ khác hẳn.

Hai người láng giềng, James và John cày đất trên hai cánh đồng sát liền nhau. Mặt trời chói chang trên họ và trên mặt đất cứng, nhiều đá sỏi. James có tính khí hắc ám. Ông quất roi da vào lưng con ngựa. Tuy nhiên, sự đánh đập ấy càng làm cho con ngựa thêm ương ngạnh và không chịu hợp tác với chủ của nó. James tin chắc rằng lúa mì của người láng giềng sẽ mọc cao hơn của ông. Và cứ mỗi lần ông nhìn qua người láng giềng, ông có cảm tưởng rằng ông này đang cười nhạo ông.

Trái lại, John có tính khí trầm tĩnh. Ông im lặng làm việc và làm tốt, mặc dù cực nhọc và đau đớn. Thỉnh thoảng, ông dừng lại cho ngựa được nghỉ ngơi. Ông nhìn qua người láng giềng và thầy rằng ông này ở tình trạng rất dao động, ông muốn giúp đỡ người láng giềng, nhưng ông biết rằng khi ông tất bật như thế thì tốt hơn nên để ông ta làm một mình.

Sự khác nhau giữa hai người láng giềng không do những điều kiện bên ngoài của đời sống họ mà do tình trạng bên trong của tâm trí họ. Chúng ta nhìn thế giới và người khác, không được như bản chất của họ nhưng theo bản chất của chúng ta: suy bụng ta ra bụng người. John vui sống với sự bình an và thanh thản nội tâm. Còn James sống trong tình trạng rối loạn nội tâm. Không có trở ngại nào lớn hơn trong mối quan hệ tốt đẹp với người khác bằng việc mình khó chịu với chính mình.

Đức Giêsu đến để mang lại cho chúng ta sự sống và giải phóng chúng ta khỏi chính mình. Người trấn an những nỗi sợ hãi của chúng ta, và chữa lành những lo âu cùng thù hận của chúng ta, nhờ thế Người làm chúng ta có thể nhìn thế giới với một tấm lòng bình thản và một tâm hồn rộng mở.

----------------------------

 

PS 6-C70. Chú giải của Noel Quesson

 

Chúng ta tiếp tục suy niệm “diễn từ giã biệt” của Đức Giêsu vào chiều Thứ Năm Thánh. Đoạn: PS 6-C70


Chúng ta tiếp tục suy niệm “diễn từ giã biệt” của Đức Giêsu vào chiều Thứ Năm Thánh. Đoạn văn mà chúng ta sắp đọc được Gioan giới thiệu như câu trả lời của Đức Giêsu trước câu hỏi của Giuđa: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Toàn thể văn chương Do Thái thời Đức Kitô đều minh chứng cho ta thấy, những người động thời với Người luôn ngóng đợi một Đấng Mêsia mạnh về chính trị, có thể chiến thắng cách hiển nhiên mọi quân thù và cưỡng bức các đối thủ phải phục lụy. Đó cũng là nỗi mong chờ của các tông đồ. Và chúng ta cũng không lường ước mong như thế nào?

Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.

Đó là cách biểu lộ duy nhất mà Thiên Chúa đã quyết định thể hiện: người đến cư ngụ giữa những kẻ tiếp đón Người và tin tưởng nơi Người. Nói cách khác, Người chỉ được người ta nhận ra Người “hiện diện”, nhờ những kẻ yêu mến Người. Tình yêu không cưỡng chế ai, không thúc ép ai.

Cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật nào đó của một người, tuy “vắng mặt” về thể lý, chúng ta cũng có thể nhận ra trong khung tình yêu nhân loại, nếu chúng là chân thực: bất giác chúng ta sẽ nhận thấy đang khi nói, trong một cuộc đối thoại nội tâm, với người yêu, với bạn hữu, con cái, hôn phu, người chồng.

Đó là sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có kẻ yêu thương mới nhận ra.

Chúng ta vẫn thường phàn nàn về sự vắng mặt của Thiên Chúa, về thái độ im lặng của Người. Người tín hữu luôn đụng chạm với lời thách đố của kẻ vô thần: “Thiên Chúa của bạn ở đâu?” (Tv 42,4). Nhưng ngày nay, câu chất vấn đó có chiều hướng đi tới một chối từ Giáo hội, phủ nhận nếp sống cộng đoàn của Giáo hội: người ta cảm phục Đức Giêsu như một mô hình của nhân loại; người ta không chống đối Người điều gì; nhưng người ta gạt Người sang một bên, như thể không có Người, bằng cách khỏa lấp qua một lời tuyên bố quá dễ dãi: “Tôi tin nhưng không hành đạo”. Do đó, rõ ràng là có một ranh giới thực sự giữa “người môn đệ đích thực của Đức Giêsu với mọi người khác, dù họ rất có cảm tình với nhân vật Giêsu Nadarét. Đức Giêsu mạnh dạn quả quyết rằng, Người không chỉ là một kẻ chết, dù là tuyệt vời, của lịch sử xa xưa, cũng không chỉ là mẫu người đẹp mà sứ điệp có thể làm người ta phải suy nghĩ. Nhưng Người là một con người đang sống đang hoạt động, hôm nay vẫn còn hiển nhiên. Nhờ sự Phục sinh, Đức Giêsu Nadarét, con người lịch sử, đã bước vào thế giới xác định của Thiên Chúa: điều đó minh chúng. Người cũng trở nên kẻ đồng thời với mọi người.

“Đức Kitô của bạn ở đâu?”.

Chính Đức Giêsu trả lời: Đức Giêsu của bạn, chưa khi nào chúng tôi đã gặp thấy.

Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.

Đức Giêsu quả quyết, từ giờ trở đi Người đang hiện diện nhờ những kẻ yêu mến Người, nhờ các tín hữu đích thực mà Người đang cư ngụ trong họ.

Khi Đức Giêsu tuyên bố những lời đó, quả thực chỉ còn ít giờ nữa là Người sẽ phải chết. Người là Đền thờ mới, được dựng lại nội trong ba ngày (Ga 2,19-22), Đền thờ mà ở đó người Do Thái thường cảm thấy một sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ở đây, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Người dám quả quyết rằng, kể từ lúc Người ra đi, thì sự hiện diện không diễn tả thành lời này, chắc chắn bị che giấu, nhưng sẽ được bảo chứng nhờ các Kitô hữu.

Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.

Giữa những người yêu thương nhau, cần có sự lắng nghe, đối thoại, nói năng, trao đổi. Trong tình yêu của chúng ta, không cố gì tệ hại hơn là “không biết lắng nghe”, không chịu nói năng.

Ở đây Đức Giêsu mạc khải cho ta một trong những chìa khóa mở tới đời sống Kitô hữu đích thực: Suy niệm Lời Chúa, như một dấu chỉ của sự Hiện Diện. Đó là một sự kiện. Chúng ta không có sự hiện diện thể lý hữu hình của Đức Giêsu, nhưng đối với kẻ yêu mến Người, thì thật là kỳ diệu, họ đã nhận được tư tưởng, lời nói của Người. Chúng ta cần ghi nhận, Đức Giêsu không chỉ nói đến một lời được đón nhận trong tâm trí, mà là một lời ta phải tuân giữ một lời phải đưa ra thực hành, một lời nhờ luôn “sống động” sẽ giúp kẻ ban lời cũng thực sự hiện diện. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh, sống động... có thể được “nhận biết” cách cụ thể (điều đó hẳn là thế được!) trong đời sống của các môn đệ đích thực.

Cũng như Đức Giêsu Nadarét là nơi thể hiện sự hiện diện và lời của Chúa Cha (“Lời anh em nghe thấy không phải là của Thầy”), cũng vậy từ giờ trở đi, các Kitô hữu, Giáo hội chính là nơi đó. Thật là trách nhiệm lớn lao.

Các điều đó Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải là một “sự vật” nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.

Thánh Thần không thêm gì cho Đức Giêsu, cũng như Đức Giêsu không thêm gì cho Chúa Cha. Đó là ba, nhưng chỉ một! Không có “ba Thiên Chúa”. Thiên Chúa là một. Người Israel vẫn nói như thế. Và Hồi giáo sẽ lặp lại như vậy. Dù có những khác biệt không tránh khỏi trong ngôn ngữ diễn tả, nhưng Kitô hữu không thể nói ngược lại đức tin cốt yếu trên đây. Chúa Cha, chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình của Người. Đức Giêsu, cũng chính là Thiên Chúa, đã hiện diện, nói năng và hành động để cứu chuộc con người. Thánh Thần, cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Đức Giêsu và Chúa Cha.

Thánh Thần... Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy.

Chúng ta chiêm ngắm trong tâm hồn họa phẩm Chúa Ba Ngôi do Rublev vẽ một cách tuyệt đẹp, hiện được lưu giữ trong bảo tàng viện Trétiakov tại Mát-cơ-va và người ta từ thắp nới trên thế giới thường đến tham quan. Ba Ngôi vị đều có cánh, thông hiệp với nhau rất mật thiết, chung quanh một cái bàn kỳ diệu, làm nên một trong vòng tròn duy nhất và hoàn hảo, do ba đường chu vi của chúng tạo nên Chúa Cha, “vượt trên tất cả”, hiện diện sau chiếc bàn, đang ngắm nhìn đắm đuối Người Con dấu của mình, ngồi ở bên hữu và thông ban tất cả. Chúa Con, mặc áo màu da người hồng đỏ, đang để cho màu xanh của thiên tính Chúa Cha xuyên qua lấp lánh cũng nhìn đắm đuối Thánh Thần và thông ban tất cả. Nhưng mầu nhiệm của mối hiệp thông yêu thương giữa Ba Ngôi không dừng lại ở đó. Ôi, kỳ diệu thay! Trong Thánh Thần, vòng tròn tự mở ra, vì chính Thánh Thần đang ngắm nhìn và chỉ ngón tay về phía trái đất để thông ban cho trái đất tất cả. Chúa Ba Ngôi, đó là mỗi tình yêu thương mật thiết vĩnh cửu giữa ba mà chỉ là một: Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ở trong Chúa Cha, trong cùng một Thánh Thần. Do đó, Đức Giêsu đã đến dẫn đưa các môn đệ của Người vào trong “gia đình” đó nhờ Thánh Thần.

Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều. Và làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Theo Đức Giêsu, Thánh Thần là Đấng sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của 'Thiên Chúa cho nhân loại, khi giúp cho con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó là chính Đức Giêsu, Ngôi lời của Chúa Cha. Thánh Thần sẽ dạy dỗ và làm cho nhớ lại... Chính các Tông đồ tuy đã sống nhiều tháng năm với Đức Giêsu, cũng chưa có một đức tin đích thực nơi Người, vào lúc Người ra đi. Gioan thú nhận rằng, sau này ông mới nắm bắt được những gì Đức Giêsu đã nói (Ga 2, 17-22; 13, 6-19). Khi Đức Giêsu ra đi, trong một ý nghĩa nào đó, thì chưa có gì là hoàn tất, là cố định. Chính Thánh Thần sẽ giúp Giáo hội dần dần hiểu biết “điều đã được mạc khải”. Một số người nghiêm khắc đã vội ngạc nhiên vì Giáo hội “thay đổi”. như họ phản đối. Nhưng rõ ràng đối với Đức Giêsu,. Giáo hội còn phải thay đổi nhiều hơn do ảnh hưởng của Thánh Thấn. “Thánh Thần sẽ dạy anh em và sẽ làm cho anh em nhớ lại..”.

Phần lớn những Lời của Đức Giêsu chỉ được bày tỏ khi được suy gẫm và cầu nguyện trong ký ức của Giáo Hội trong nhiều thế kỷ. Mọi tín điều kinh Tin kính đã có một quá trình lịch sử và chỉ được định tín sau một thời gian dài để cho chín muồi. Và tình trạng đó vẫn còn tiếp tục. Chúng ta có thực sự tin Thánh Thần hiện diện trong Giáo hội không? Tại sao Thánh Thần lời có thể ngừng hoạt động ở thế kỷ thứ III hay thế kỷ XV? tại Công đồng Ni-xê hay tại Công đồng Trentô? Ngày nay, hiển nhiên Thánh Thần vẫn đang làm việc. Đức Giêsu đã nói: “Thầy ở với anh em cho đến tận thế”. Giáo hội vẫn còn nhiều điều phải hiểu biết, phải khám phá, phải sống động. Và điều, đúng thực sự với Giáo hội, cách tổng quát, với lịch sử của mình trong thời gian vẫn còn đúng thực, cách riêng biệt, với mỗi người chúng ta: Thánh Thần còn phải giúp tôi khám phá ra nhiều điều! Trong tôi vẫn có một khả năng lãng quên không thể tưởng. Như thế, khi lời Tin Mừng được chiếu sáng cho tôi, được Thánh Thần tác động vật soi sáng, tôi đừng chần chờ thực hành và tuân giữ lời đó để sớm hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa và con người.

Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng, Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”.

Bình an! Shalom! Đó là lời chào chúc quen dùng tại Israel. Nhưng ở đây, đó là lời chào chúc Phục sinh của Đức Giêsu sống lại: bình an phát xuất từ sự hiện diện của Đấng được coi là Vắng Mặt, nhưng Đấng đó không ngừng trở lại đối với những kẻ yêu mến Người... Một thứ bình an mà thế gian không thể nào nhận ra được, vì thế gian không nhận ra sự hiện diện đầy an ủi đó.

Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự việc ấy xảy ra.

Trong khi thi hành sứ vụ tại trần gian, Đức Giêsu chỉ có thể hiện diện với tất cả những giới hạn của không gian và thời gian: đó là những giới hạn của “thân phận con người”. Đức Giêsu nhận biết điều đó: “Vì là con người, nên Thầy thấp kém hơn Chúa Cha!”. Một kiểu nói cần phải hiểu cho đúng, vì nó không phủ nhận những kiểu nói khác nhằm quả quyết Đức Giêsu ngang hàng với Chúa Cha. Chính các tông đồ cũng không hiểu biết gì vào chiều hôm đó.
Lạy Thánh Thần, xin hãy đến!

----------------------------

 

PS 6-C71. Suy niệm của nhóm Nha Trang


“Thánh Thần sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.

I. Ý CHÍNH:

 

Bài Tin Mừng hôm nay được trích trong bài Chúa Giêsu từ biệt các Tông Đồ. vì lúc sắp ra đi, để trấn: PS 6-C71


Bài Tin Mừng hôm nay được trích trong bài Chúa Giêsu từ biệt các Tông Đồ. vì lúc sắp ra đi, để trấn an các Tông Đồ, Chúa Giêsu đã hứa, dầu ra đi, người cũng vẫn hiện diện và hứa ban bình an cho các ông.

II. SUY NIỆM:

1. “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy”

“Chúa Giêsu không muốn thứ tình yêu trừu tượng hoặc thuần tình cảm, Người chủ trương một tình yêu bằng việc làm là tuângiữ các giới răn Người đã truyền.
“Cha Người sẽ yêu mến người ấy”: tình yêu ở đây là một tương quan có tính cách hỗ tương: Yêu mến Thiên Chúa thì có tương quan cá nhân với Người.

“Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”: kiểu nói “đến”và “ở” không có ý diễn tả một nơi chốn cho bằng có ý nhấn mạnh đến một thực tại có thật và chắc chắn của tình yêuBa Ngôi Thiên Chúa đối với những ai yêu mến Người bằng cách thực hành các giới răn của Người.

2. “Kẻ không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy”

Ở đây có ý nhắc lại dưới hình thức tương phản để nhấn mạnh tính cách thực hành tình yêu đối với Thiên Chúa.

3. “Lời các con nghe không phải là của Thầy”

Ở đây Chúa Giêsu có ý chứng minh việc giữ lời Chúa là yêu mến Chúa vì lời đó không phải là lời bình thường của người phàm nhưng là lời của chính Thiên Chúa, Đấng đã sai Chúa Giêsu, ngôi lời nhập thể (Ga 1,1) xuống thế gian để cứu chuộc loài người.

4. Ở đây Chúa Giêsu có ý chứng minh việc giữ lời Chúa

Khi còn ở thế gian Chúa Giêsu đã ban bố những lời của Thiên Chúa cho loài người.

5. “Nhưng đấng phù trợ là Thánh Thần”

Nay Chúa Giêsu ra đi, sự lưu truyền của Thiên Chúa trong Giáo Hội không phải là một sự tồn kho bất động, bởi vì chính Chúa Thánh Thần, đấng mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Chúa Giêsu, làm nên sự lưu truyền này bằng cách dạy dỗ và nhắc nhở cho Giáo Hội tất cả những gì Chúa Giêsu đã ban bố khi còn ở thế gian.

Chúa Giêsu đã loan báo (Ga 14,16) là sẽ xin Cha sai Thánh Thần, đấng bào chữa đến với các Tông Đồ. người cũng thêm là cha sẽ sai đến nhân danh Người. cả hai cách nói có tính cách tương đương và tạo nên một trong những công thức chính xác Chúa ba ngôi hiện diện trong người tínm hữu, có cùng một mục đích là làm cho họ nhận biết lời của Thiên Chúa và cho họ tham dự vào mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa.

6. “Thầy để lại bình an cho các con”:

Theo phong tục Do Thái, khi từ giã nhau, người ta thường chào nhau bằng lời “bình an”, nhưng ở đây sự bình an của Chúa Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào từ biệt thông thường vì thế gian chỉ có thể chúc bình an chứ không tự mình ban bình an được, còn Chúa Giêsu chính Người ban bình an riêng của Người.

Sự bình an này, bình an của Chúa Phục Sinh (Ga 20,29;21,26) hệ tại chiếm hữu sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa, một sự hiện diện dưới hình thức mà thế gian không trông thấy, nhưng những ai tin vào Người mới thấy được (Ga 14,18-21). Ơ đây cho thấy sự hiện diện đích thực nhưng vô hình của Chúa Giêsu Phục Sinh trong Giáo Hội.

7. “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi”:

chính việc tin nhận sự hiện diện đích thực nhưng vô hình của Chúa Giêsu Phục Sinh trong Giáo Hội sẽ bảo đảm sự bình an cho các Tông Đồ và đồng thời giúp các ông thoát khỏi mọi chướng ngại trong đời sống Tông Đồ tại trần thế này.

8. “Thầy đi rồi sẽ trở lại với các con”:

“Thầy đi: Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết.

Thầy trở lại: Chúa Giêsu trở lại bằng nhiều trạng thái khác nhau:

+ Bằng sự sống lại là việc xảy ra rất gần.
+ Đến trong ngày tận thế còn xa vời.
+ Đến trong thời gian bằng cách mầu nhiệm trong các tâm hồn.
+ Đến trong Thánh Thể.
+ Đến bằng sự can thiệp vào dòng lịch sử.

9. “Nếu các con yêu mến Thầy thì các con sẽ vui sướng”:

Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha, là Đấng đã sai Người là Đấng cao trọng hơn Người.

Kiểu nói “Cao trọng hơn” có ý nhắm đến ngôi lời nhập thể, xét theo phương diện bản tính loài người nơi Chúa Giêsu, thì Chúa Cha trọng hơn Chúa Giêsu. vì thế nói trở về với Chúa Cha là nói bản tính loài người của Chúa Giêsu được cất nhắc lên và được tôn vinh. Nếu các môn đệ hiểu được như vậy thì sự ra đi của Chúa Giêsu là niềm vui cho các ông.

10. “Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra”:

Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ về việc người ra đi chịu chết để khi việc xảy ra thì các ông không nản lòng. Hơn nữa, được vững dạ, vì biết rằng tất cả mọi sự đó đã được trù liệu trong chương trình của Thiên Chúa, và như thế người sẽ được vinh hiển hơn và chính các môn đệ nhờ đó sẽ được ích lợi hơn.

III. ÁP DỤNG:

A/ Áp dụng theo Tin Mừng:

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta nhận ra rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đã từ bỏ đời sống trần thế là đời sống đã làm cho người có thể được nhận biết một cách khả giác, nhưng khi người được nâng lên trong vinh quang Thiên Chúa hiệp nhất các mầu nhiệm với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần thì người đã vượt qua mọi giới hạn hẹp hòi của không gian và thời gian để nhờ đó người luôn luôn hiện diện cách vô hình đối với những ai tìm kiếm người với niềm tin.

B/ Áp dụng thực hành:

Nghe lời Chúa nói:

1/ Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy: Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu mến Chúa không bằng tâm tình trừu tượng nhưng bằng việc làm cụ thể là tuân giữ những lời Chúa truyền dạy. Thực hành lời Chúa trong đời sống hằng ngày là cách tỏ lòng yêu mến Chúa thật tình.

2/ “Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy” càng yêu mến Chúa bằng cách thực hành lời Chúa thì càng được Chúa ban nhiều ơn vì có Chúa ở cùng Cha chúng ta. Kinh nghiệm cho thấy càng kiên trì trong việc thực hành lời Chúa thì càng dễ nhận ra ý Chúa và hoạt động của Chúa trong mỗi sự việc và trong mỗi biến cố trong đời sống.

3/ Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con: lời Chúa được lưu tồn trong thánh kinh. Chính Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và nhắc nhở cho chúng ta về lời của Chúa mỗi khi chúng ta tiếp xúc với lời Chúa trong thánh kinh. Vậy muốn hiểu lời Chúa để thực thi chúng ta phải được Giáo Hội, dụng cụ hoạt động của Chúa Thánh Thần hướng dẫn, và phải cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng bằng lời cầu nguyện trước khi đọc, học và suy niệm lời Chúa.

4/ Thầy để lại bình an cho các con: chính Chúa Giêsu là sự bình an cho chúng ta. Vì vậy chúng ta sẽ được bình an thật, khi chúng ta biết tin nhận sự hiện diện của Chúa trong quyền năng, sự quan phòng và tình thương của Người.

5/ Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi: niềm tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta tìm lại được an bình trong xáo trộn của cuộc ồng và tăng thêm can đảm để vượt qua những gian lao thử thách trên đường đời.

6/ Thầy đi rồi Thầy trở lại với các con: Chúa trở lại với chúng ta bằng nhiều hình thức:

Bằng sự sống lại để chuẩn bị sự sống đời đời cho chúng ta.
Bằng cách đến trong ngày phán xét để đem chúng ta vào vào trong sự sống đời đời.
Bằng phép Thánh Thể để nuôi dưỡng sự sống đời đời cho chúng ta (Sự sống thiêng liêng phần hồn).
Bằng ơn thánh để tăng trưởng sức sống thiêng liêng cho tâmhồn chúng ta.
Bằng cách can thiệp vào dòng lịch sử để tỏ bày quyền năng và sự quan phòng của Chúa hầu gây nền niềm tin cho ta.

7/ “Giờ đây Thầy nói với các con trước”:

Lời Chúa sẽ giúp chúng ta giải thoát mọi vấn đề xảy ra nơi bản thân, ngoài xã hội và trong thiên nhiên.

----------------------------

 

PS 6-C72. TÍN ĐỒ VÀ TỘI ĐỒ

 

Từ ngữ “tội đồ” có lẽ được nhắc đến nhiều nhất trong một phạm trù vốn chẳng dính dáng gì: PS 6-C72


Từ ngữ “tội đồ” có lẽ được nhắc đến nhiều nhất trong một phạm trù vốn chẳng dính dáng gì đến đạo đức,giáo lý: bóng đá!  Nhưng ngày nay người ta lại coi bóng đá như một thứ tôn giáo” (túc cầu giáo), cho nên hình ảnh và thành ngữ “tội đồ” được dùng khi nói về một cầu thủ chẳng may làm cho đội bóng của mình phải bị phơi áo, do màn đá phản vào lưới nhà hoặc không thắng nỗi thủ thành đối phương trong một cú làm bàn ăn chắc mười mươi, mà giới chuyên môn hay gọi là “đá ra ngoài còn khó hơn đá vào trong”. Sẽ là ‘tội đồ” ghê gớm hơn,khi đó là đội tuyển quốc gia. Khó ai quên được vụ cầu thủ Andrés Escobar Saldarriaga,hậu vệ đội tuyển quốc gia Colombia, bị sát hại ngay trong kỳ World Cup 1994,chỉ vì anh đã đá phản lưới nhà,dẫn tới việc Bolivia bị loại ngay từ vòng đấu bảng,gây thiệt hại cho những ông trùm cá độ (vốn đinh ninh đội Columbia sẽ thắng đội Mỹ. Kết quả đội tuyển Colombia đã thua 1 -2)

 Trong những ngày cuối tháng tư nầy, truyền hình Việt-Nam cho phát bộ phim dài 13 tập “Việt Nam - Cuộc chiến 10.000 ngày” (tập cuối vào ngày 30.04) của Michael Maclear,người Canada. Xuất hiện như để trần tình là những gương mặt chính trị của những ngày cuối cùng đầy biến động nầy: tổng thống Nguyễn-Văn-Thiệu, phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ,tổng thống Dương Văn Minh, ông đại sứ Mỹ Graham Martin. Nhưng nỗi bật hơn hết vẫn là cảnh “đem con bỏ chợ” rồi phủ áo ra đi của đồng minh Hoa Kỳ, rồi (trong tập 13) ánh mắt của dân Mỹ đối với 2,8 triệu cựu chiến binh Mỹ từ Việt Nam: im lặng, nặng nề và u ám với “hội chứng Việt Nam”. Tất cả đều tìm lý do để tự thanh minh cho mình. Không ai nhận mình là tội đồ, nghĩa là không ai thấy mình có trách nhiệm trong việc làm sụp đổ giang sơn, mà họ đã dùng để tranh chấp quyền lực,tiền tài,danh vọng.  

Có một người muôn đời bị coi là giáo gian và tội đồ: Giu-dà. Phúc âm nói quá ít về người môn đệ nầy, ngoài chức quản lý những khoản tiền người ta biếu tặng cho nhóm hoặc một vài nét chấm phá như là ăn miếng bánh Chúa Giêsu đưa cho và “Satan nhập vào y” hoặc lời nói giả nhân giả nghĩa khi thấy một phụ nữ dùng cả chai dầu quý xức chân Chúa Giêsu và việc y điều đình giá bán Thầy mình,để cuối cùng phải tự vẫn. Nhưng cái làm cho Giu-dà trở nên tội đồ và tự xét hết đường quay lại, ấy là “nụ hôn” trứ danh của y tại Vườn Cây Dầu (mà hoạ sĩ Gustave Doré diễn tả rất hay trong bức hoạ ‘nụ hôn của Giu-dà” - 1866).Sau nầy xuất hiện “Phúc Âm Giu-dà” như muốn thanh minh rằng Giudà không phải là tội đồ, bằng việc khai thác ý tưởng rằng anh ta [Giu-dà] đã tố cáo Đức Kitô theo yêu cầu của Người, để Người có thể cứu rỗi nhân loại. Cái chết của Giu-dà không vì đức tin,không vì Chúa Giêsu, mà chỉ vì sĩ diện cá nhân, hối hận nhưng không hối lỗi, vì thế Giu-dà cũng không nhận mình là “tội đồ”.  

Chỉ có Chúa Giêsu là “tội đồ” dưới mắt các thủ lãnh Do Thái: Người đã “đá phản lưới nhà”,nghĩa là không còn ngoan ngoãn nghe theo họ, vâng theo những giải thích và quy tắc họ đặt ra dưới danh nghĩa “Môsê và các tiên tri”. Chúa Giêsu đã “làm phản” khi vi phạm luật Sa-bát và nhất là tội phạm thượng gọi Thiên Chúa là Cha mình và tự cho mình quyền tha tội lỗi. Người lại còn hành động vượt quá giới hạn người trần, khi cho nhiều người đã chết được sống lại. Không thể không chết. Vòng vây khép chặt dần và Canvê chỉ là nơi thi hành bản án. 

Chỉ có Giáo Hội là “tội đồ” dưới mắt hoả ngục và các thế lực xấu xa vô thần. Giáo Hội nắm giữ kho tàng Bí Tích có quyền lực và sức mạnh vô biên,làm tiêu tan mọi âm mưu của hỏa ngục đối với loài người, loài thụ tạo được Thien Chúa vô cùng yêu thương và sẵn sàng tha thứ tội lỗi, ‘cho dù có đỏ như điều” (Is 1,18). Thiên Chúa lại còn ‘bày’ ra những sáng kiến “động trời” như là sai cả Ngôi Hai xuống làm người,làm bạn, không chỉ để cứu chuộc,mà còn muốn phục hồi địa vị làm con cho nhân loại, trong khi chúng – Satan và bè lũ - chỉ vì một ý tưởng ngông cuồng ,mà không được dung tha và phải chịu trầm luân muôn đời. Giáo Hội không thể được bình an hưởng những hạnh phúc,may mắn đến thế và phải làm cho mọi người xa lánh, rời bỏ hoặc không thể đến được với Giáo Hội, vì không tin tưởng hoặc vì mất niềm tin nơi Giáo Hội. Với các thế lực xấu xa vô thần, Giáo Hội Công giáo luôn là “kỳ đà cản mũi”, phê phán, vận động mọi người chống lại những suy nghĩ,lời nói và hành động của chúng,mà mục tiêu cuối cùng là tiền bạc và qyèn lực, có từ bóc lột, tội ác,bạo lực,để phục vụ đời sống xa hoa,và dâm ô trụy lạc của chúng. Mọi cản trở việc làm của chúng đều phải bị gạt bỏ,tiêu diệt. Giáo Hội Công giáo ,vì thế, là kẻ thù số một. Đối nghịch với “văn hoá sự chết” (ngừa tránh thai,nạo phá thai, an tử, ly dị, buôn bán phụ nữ trẻ em, tạo những lò lửa chiến tranh, khủng bố,...), những nguồn lợi khổng lồ của chúng, Giáo Hội Công giáo đã xây dựng “văn hoá sự sống” và ‘văn minh tình thương”, đã làm tiêu tan mọi mưu đồ xấu xa. Và những sóng gió liên miên mà còn thuyền Giáo Hội đã,đang và sẽ trải qua, chỉ là “đòn thù” của Satan.  

Từ khai sinh cho đến tận thế, Giáo Hội đừng mong có ngày bình yên. Số phận Giáo Hội hoàn vũ vốn dĩ như thế. Số phận Giáo Hội Việt Nam cũng đừng ảo tưởng sẽ khấm khá,an bình và xuôi chảy hơn. Nhưng nỗi đau càng thêm day dứt, khi vì nhẹ dạ, mà chính con cái gây ra vết thương rồi đem muối xát vào! Từ sau 1975, nhiều giáo dân,linh mục bị xếp vào hạng “giáo gian”. “Phong trào xếp hạng” ấy dần dà lan tới các giám mục và những ngày tháng qua, không ít người đã công khai mạ lỵ các Đấng Kế Vị Tông Đồ một cách tùy tiện, vô đạo, với những suy đoán vô căn cứ ,hay đúng hơn, đã nghe theo những vu cáo,suy diễn chủ quan và quá khích của những người không còn nghi ngờ gì nữa muốn huỷ hoại Giáo Hội Việt Nam,hay chí ít cũng gây cảnh tan hoang, chia rẻ, nghi kỵ giữa mọi thành phần tín hữu. Những kẻ thù ghét Công giáo,thù ghét Giáo Hội Việt Nam nầy, đã khôn khéo “chính trị hoá” mọi góc nhìn, mọi khía cạnh tôn giáo và may mắn nhận được sự đồng tình của không ít tín hữu Công giáo, trong đó có nhiều linh mục, tu sĩ và giới trí thức. Các tín hữu nầy cần có một ai đó “chết thay cho mọi người”(x. Ga 11,50): một giáo dân thì chẳng bỏ bèn gì;một linh mục cũng còn quá ít. Phải là một giám mục thì mới tạm đủ để họ trút mọi dồn nén,ức chế từ nhiều nguyên do. Một giám mục làm “tội đồ”: quá hay! Sau giám mục sẽ là ai đây? - Tất nhiên là Giáo Hội Việt Nam. Những tín hữu Việt Nam vẫn trung thành với các giám mục, nhất là những giám mục ‘tội đồ”, cũng là “tội đồ”. Và lập luận đáng sợ sẽ là: kẻ thù của kẻ thù ta,là bạn ta. Trơ trẽn và nực cười thay:  những ‘tín hữu” rắp tâm phá hoại Giáo Hội Việt Nam nầy còn tự phong cho mình là “chiến sĩ đức tin”, những người “tâm huyết với tiền đồ” của Giáo Hội. Chỉ có Satan là ‘ngư ông đắc lợi”: chẳng tốn chút công sức nào, mới chỉ một vài động thái cơ bản, đã gây ra được cảnh “nồi da xáo thịt” trong Giáo Hội Việt-Nam. Satan đã thu nhận được không ít “tội đồ’ làm “tín đồ” của y! 

Ở vào giai đoạn “bi hài” nầy, khi mà “sư nói sư phải,vãi nói vãi hay”, thì đâu là tiêu chí để xét và tự xét, để nếu không tự biết mình đang làm cái trò “vạch áo cho người xem lưng”, thì cũng biết ý thức hậu quả tai hại từ những lời nói, những rỉ tai tuyên truyền, mà chỉ đám vô công rỗi nghề, trà dư tửu hậu mới đem “buôn chuyện” như hàng tôm hàng cá, huống hồ chỉ “nghe nói”, chỉ bằng suy đoán, suy diễn, mà dám hài tội,đấu tố hết vị giám mục nầy,đến vị giám mục khác, và tiếp tay cho những hạng trí thứ vô liêm sĩ,vô đạo, ác ý, đi dèm pha, mạ lỵ,vu cáo giám mục? Lươn bò để nhớt lại: ai sẽ thanh minh cho những giám mục mà họ lăng mạ, vu cáo? Sau nầy khi sự thật đã ra trắng đen, chỉ cần ghé một toà giải tội bất kỳ nào đó, là sạch sẽ ư? Cho dù những gì nói ra,viết ra có một phần hay nhiều phần sự thật, thì “nhiệt tâm Nhà Chúa”(!) ấy có bù được muôn một những tan hoang, đổ nát và thiệt hại họ gây ra chăng? Tiêu chí để chúng ta tự lượng giá về lời nói và hành vi trong Giáo Hội (cụ thể ở đây là Giáo Hội Việt Nam) là ba “điều ước” mà Chúa Giêsu muốn Kitô hữu thi hành: yêu thương (tuần vừa qua) – bình an (tuần nầy) – và hiệp nhất (tuần sau - lễ Chúa Thăng Thiên). Ba “điều ước” nầy chỉ có thể có được, khi chúng ta nghe và làm theo Thần Chân Lý,Đấng Bảo Trợ, mà Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Giêsu. Tình yêu và sự hiệp nhất của Ba ngôi  đem đến bình an, cũng chính là những gì Chúa Giêsu muốn cho Giáo Hội. Làm sao có được yêu thương, bình an và hiệp nhất trong Giáo Hội, khi “cây muốn lặng,mà gió chẳng dừng”, khi mà chúng ta chưa thoả cơn điên quậy phá lung tung? Khi mà chúng ta chưa thôi ý muốn tận mắt thấy Giáo Hội Việt Nam dãy duạ, hấp hối? Chúng ta đang biến mình thành “tội đồ”.”Giơ chân đạp mũi nhọn thì khốn cho ngươi” (x. CV 9,3). Cha ông ta vẫn dạy: Làm đầy tớ người khôn , hơn làm thầy người dại! Hay là chúng ta đang tôn Satan làm người khôn,làm tôn sư? «Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?» (Gc 4,12).  

Tôi là ai mà còn trần gian thế? (Bên đời hiu quạnh - Trịnh Công Sơn): bao nhiêu năm học đạo, sống đạo (những người viết được bài thì đâu phải hạng vô học,tầm thường), ngày ngày đọc, nghe giảng (thậm chí còn giảng) Lời Chúa, làm sao lại xem nhẹ đức tin,sự cứu rỗi của mình và của anh em đồng đạo như thế! Hãy nghe Thánh Phaolô nhắc nhủ:  "Đừng dập tắt Thần Khí"; "Đừng làm phiền lòng Thánh Thần" (1 Tx 5,19 ; Ep 4,30). 

Bất luận vì lý do gì và vì động cơ nào, đừng bao giờ tự biến mình từ  tín đồ thành “tội đồ”!

ĐƯỜNG TÌNH CHÚA DẪN CON ĐI 48

----------------------------

 

PS 6-C73. ĐẾN VÀ Ở LẠI

 

Khi được hỏi Đức Giêsu hiện diện ở đâu? Ta thường nghĩ ngay tới nhà thờ, nhà nguyện, nhà: PS 6-C73


Khi được hỏi Đức Giêsu hiện diện ở đâu? Ta thường nghĩ ngay tới nhà thờ, nhà nguyện, nhà tạm ..v..v.. Tiếc thay nhiều khi ta dừng lại ở đó và ít khi nghĩ đến một cách hiện diện khác. Đức Giêsu không phải chỉ là ở với, ở bên, ở trước mặt, mà còn là ở trong con người yếu đuối của ta.  Ta ít khi nghĩ như vậy, vì ta không dám tin vào hồng ân quá đỗi tuyệt vời này.

***

Bạn thân mến! 

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại rằng: Chính vào lúc sắp chia tay các môn đệ để về với Chúa Cha, Đức Giêsu đã nhắn nhủ các môn đệ rằng: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” (Ga.14:23)

Vì yêu mến Đức Giêsu, tôi sẽ được vinh hạnh  đón nhận Ngài. Ngài “đến” và “ở lại” trong tôi. Vì yêu mến tôi, Đức Giêsu đã đến thăm tôi và cư ngụ trong lòng tôi. Trong tình yêu hai chiều này, thiên đàng chớm nở. Thiên đàng thật gần, không ở đâu xa xôi, thiên đàng ở ngay trong lòng tôi.

Trong cuộc sống bận rộn hằng ngày, tôi rất cần những giây phút sống trong thinh lặng để suy tư kiểm điểm, để hồi tâm tưởng nhớ, và để tự hỏi chính lòng mình:

“Thiên Chúa ở nơi đâu? Ngài có hiện diện trong lòng tôi không? Tôi có cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài không? Có bao giờ tôi thờ lạy một Thiên Chúa đang hiện diện trong lòng tôi không?”

Kitô hữu không chỉ là bạn hữu của Đức Kitô, mà còn là người có Đức Kitô nơi cung lòng của mình. Thân xác của người Kitô phải là đền thờ, là cung thánh, là nhà tạm cho Ngài ngự trị, và nhất là phải “trở nên một” với Ngài trong tình yêu.

Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ở ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu.  Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa, và là người yêu mến Thiên Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa, và không hề yêu mến Thiên Chúa.

Có Chúa hiện diện trong lòng ta, ta không còn lo lắng sợ hãi nữa. Có Chúa ở cùng, ta an tâm vững chí. Trên con đường đời, ta không lẻ loi một mình, vì có Chúa ở cùng, vì hồng ân của Ngài như mưa rào luôn tuôn đổ xuống trên ta, vì sức mạnh của Ngài luôn gìn giữ và che chở ta.  Mỗi nẻo đường đời ta đi, ta ôm trong lòng tình yêu của Chúa: Tình yêu của người dám hy sinh mạng sống của mình cho người mình yêu.

***

Lạy Chúa!
Ngài đã đến và cư ngụ trong lòng con. Xin cho con chỉ biết quy hướng vào Ngài. 
Ngài đã đến và ở lại trong lòng con. Xin cho con biết chìm sâu trong Ngài.
Khi con đã gặp Ngài, không còn là con và Ngài nữa. 
Vì con chẳng là gì, và vì Ngài là tất cả của đời con. Amen

Tổng Hợp Từ R. Veritas
(BĐ1:Acts 15:1-2,22-29- BĐ2:Rev.21:10-14,22-23 – PÂ:Ga.14:23-29)

----------------------------

 

PS 6-C74. Đừng sợ

 

Giáo Hội Việt Nam ngay cả trong thời kỳ 300 bắt đạo cũng không trải qua những khủng hoảng: PS 6-C74


Giáo Hội Việt Nam ngay cả trong thời kỳ 300 bắt đạo cũng không trải qua những khủng hoảng trầm trọng như thời gian gần đây. Hoang mang và lo sợ. Nghi kỵ và phân rẽ. Chung quy cũng vì hai cụm từ “quốc doanh” và “thuần hóa”.

Đối với nhiều Kitô hữu, nhiều linh mục, nhiều giám mục Huỳnh Công Minh như một thứ “giáo hoàng đen” có thực quyền điều hành Giáo Hội Việt Nam ,cũng như Lưu Bách Niên là một thứ “giáo hoàng đen” của Trung Hoa. Thực tế Huỳnh Công Minh và Lưu Bách Niên như thế nào thì không ai rõ lắm, nhưng quả tình bóng dáng, và hơi hướm những người nay đang làm cho nhiều người yếu bóng vía phải sợ hãi và thấy choáng váng.

Rất may, lời Chúa của Chúa Nhật tuần này đã làm cho chúng ta được an ủi và thêm tin tưởng: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Gioan 14: 27).

Chỉ một câu Phúc Âm này cũng đủ để chúng ta, những Kitô hữu nhiệt thành và yêu mến Chúa Giêsu cảm thấy được an ủi, và bình thản trên hành trình đức tin và đời sống đạo. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã trưng dẫn lời Chúa Giêsu “đừng sợ” để làm phương châm và hướng đi cho triều đại giáo hoàng của ngài, và lịch sử đã minh chứng rằng, ngài đã thành công vì đã tin và sống với lời của Thiên Chúa. Thật vậy, con thuyền Giáo Hội do ngài hướng dẫn đã phải băng qua những vùng biển có đá ngầm, những dòng nước xoáy mạnh, và những trận cuồng phong thật ghê gớm. Nhưng vì không sợ, không tháo lui; và nhất là có Chúa ở trên thuyền, cuối cùng ngài đã dẫn đưa con thuyền Giáo Hội vượt qua những hiểm nguy ấy trước khi trao tay lái lại cho vị kế nhiệm mình, để vui mừng về với Chúa, đấng đã gọi và chọn ngài.

Một số sóng to, gió lớn chúng ta có thể nhìn thấy. Nhưng một số sóng ngầm, đá ngầm tuy rất nguy hiểm, nhưng chúng ta lại không nhìn thấy.

Cộng Sản vô thần. Tôn giáo cực đoan. Thần học giải phóng. Duy vật cực đoan. Ly di. Phá thai. Đồng tính. Hôn nhân đồng tính. Chuyển đổi phái tính. Những chủ thuyết và trào lưu sống này được coi như những cơn sóng dữ đã và đang nhắm vào con thuyền Giáo Hội.

Ngoài ra, phong trào linh mục đồng tính. Linh mục có vợ. Linh mục phụ nữ. Giáo sỹ lạm dụng tình dục. Giáo hội quốc doanh. Tu sĩ quốc doanh. Thiếu trưởng thành về tôn giáo. Sống đạo tình cảm. Tất cả được coi như những đợt sóng ngầm, những tảng đá ngầm có khả năng đục thủng, và phá hủy con thuyền Giáo Hội mãnh liệt hơn cả những cơn sóng dữ ở trên.

TẢNG ĐÁ NGẦM QUỐC DOANH

Con thuyền Giáo Hội Việt Nam, gần đây cũng đang va vào tảng đá ngầm “quốc doanh”, mà hậu quả là tạo nên những chao đảo và rạn nứt.

Từ lâu, tín hữu Việt Nam vẫn biết rằng có tảng đá ngầm “quốc doanh” đâu đó trên hải trình của con thuyền Giáo Hội Việt Nam. Nhưng nay thì tảng đá này đang từ từ lộ diện, khiến cho nhiều người trên con tầu này run sợ và hoảng hốt.

Hốt hoảng và hoang mang khi thấy hàng loạt tu sĩ nam nữ, linh mục, tu sĩ nam nữ, nhất là các giám mục, tổng giám mục, và hồng y ồ ạt xuất ngoại. Kết quả là những rạn nứt trầm trọng.

Rạn nứt từ phía các giám mục, từ phía các linh mục, tu sĩ nam nữ, và giáo dân. Rạn nứt đối với những người bên quê nhà, và rạn nứt giữa những người Công Giáo Việt Nam đang sống tại hải ngoại, khiến nhiều người bi quan đã cho rằng Giáo Hội Việt Nam đã bị “thuần hóa”. Hình ảnh đang làm nhiều người chú ý trong bối cảnh hiện nay là hành động của nhóm “linh mục quốc doanh”, mà tên tuổi nổi vượt nhất là Huỳnh Công Minh.

Nhưng đó chỉ là những phần nổi của tảng băng chìm này, bên dưới nó là như thế nào thì không ai biết, chỉ có Chúa biết. Tuy nhiên, bằng với cái nhìn có tính cách nhân loại, thì đây là một sự thiếu lãnh đạo trầm trọng. Dường như Chúa Giêsu, nhà lãnh đạo tối cao và duy nhất của Giáo Hội Hoàn Vũ, của Giáo Hội Việt Nam đang bị lu mờ, khi một số những thành phần hướng đạo dân Chúa tự để mình bị cuốn hút vào những cái bên ngoài, và bị thu hút bởi sức quyến dũ của trần thế.

Một giám mục gần đây trong một thánh lễ tại một cộng đoàn ở Orange County đã không ngần ngại nói rõ mục đích xuất ngoại ăn xin của ngài. Mà lý do xuất ngoại ăn xin này là vì thấy “đấng nọ đấng kia sau khi xuất ngoại đã có khả năng làm được việc này, việc nọ.” Và cũng theo lời giám mục này, thì từ khi nhậm chức giám mục, và sau 3 năm suy nghĩ, thì lần này đã “can đảm” bị gậy, mũ áo đi ăn xin.

Giám mục ăn xin, còn tổng giám mục và hồng y thì “tha phương cầu thực”. Chuyến nhật du của Tổng Giám Mục Saigon chưa hết tai tiếng, gần đây lại phái đoàn linh mục Saigon thăm mục vụ Giáo Hội Trung Quốc từ 23 đến 28 tháng 4 năm 2007. Sao mà Tổng Giáo Phận Saigon nó có nhiều điều gây lấn cấn và tranh cãi thế. Hay lại cũng tại Huỳnh Công Minh.

Xuất ngoại qua Pháp, qua Mỹ bị lật tẩy, bị phê bình, bây giờ lại quay sang “viếng thăm mục vụ” Nhật và Trung Quốc.

Thật khó để biện minh được cái chủ ý trong sáng và thánh thiện của hành động mục vụ như vậy trong tình trạng xã hội hiện nay của Việt Nam. Phải chăng đó chỉ là một trận tuyến khác, nhằm gây hoang mang, khủng hoảng và phân tán thêm vào những cái vốn đã gây hoang mang, và chia rẽ hiện nay trong Giáo Hội Việt Nam. Trong khi các con chiên, bổn đạo đói nghèo, xác xơ, bị đem bán làm nô lệ tình dục qua các nước lân bang. Trong khi hàng triệu vụ phá thai và băng hoại luân lý của giới trẻ Việt Nam đang cần thăm viếng mục vụ, các người có trách nhiệm lại mũ áo, gậy gộc xềnh xang sang thăm viếng các nước lân bang. Thật là khó hiểu, và cũng thật là điều gây ra nhiều tranh cãi.

Viết đến đây tôi nghĩ lại câu chuyện của linh mục chính xứ của tôi tại Việt Nam, và câu chuyện này khiến tôi suy nghĩ và cảm phục. Sau khi đi tù cải tạo về, linh mục chính xứ hiện nay của xứ đạo tôi được cử về nhận xứ. Việc đầu tiên của linh mục chính xứ này làm là bán đi toàn bộ gỗ, gạch, sắt, thép, mà linh mục chính xứ trước đã mua để chuẩn bị phá và xây lại thánh đường mới. Linh mục tân chính xứ này đã gặp phản kháng của một số giáo dân, nhưng ngài vẫn cương quyết thực hiện điều ngài suy nghĩ với lý luận hết sức thực tế và theo đúng tinh thần Phúc Âm. Ngài đã giải thích hành động của mình là thánh đường tương đối còn tốt, không cần phải phá bỏ. Lại nữa, trong xứ còn có nhiều giáo dân nghèo khổ, túng thiếu cần được nâng đỡ và an ủi. Tuy nhiên, để tránh những chống phá của một số quá khích, ngài đã dùng một ít tiền bán vật dụng tu bổ lại gian cung thánh.

ĐỪNG SỢ:

Câu hỏi được đặt ra ở đây là trước hiện tượng suy thoái lãnh đạo. Trước sức công phá của hỏa ngục như vậy, liệu chúng ta, những Kitô hũu có lý do sợ hãi, nao núng và chia rẽ không?

Tôi cho là không. Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: “Thầy sẽ xây Giáo Hội thầy trên đá này, mà dù cửa hỏa ngục dấy lên cũng không phá nổi” (Mt 16:18). Hỏa ngục dấy lên còn chưa phá được huống hồ một mình Hùynh Công Minh, Trương Bá Cần, Thiện Cẩm, ...hay ngay cả giám mục Nguyễn Văn Sang...

“Cửa hỏa ngục dấy lên cũng không phá được”, huống hồ chỉ mấy anh cán ngố ngồi ở Bắc Bộ Phủ, ở Ba Đình Hà Nội. Một trăm năm trước khi có bọn họ đã có Giáo Hội và con thuyền Giáo Hội vẫn tiến tới. Một trăm năm sau ngày bọn họ qua đi, Giáo Hội ấy cũng vẫn tồn tại. Bởi vì Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa, và do chính ngài lập nên và hướng dẫn.

Tôi cũng không tin rằng “Giáo Hội Việt Nam đã bị thuần hóa”, dù linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã thề độc rằng, đó là những lời của giám mục quá cố Nguyễn Quang Tuyến đã tâm sự với ông.

Nhiều khi do tâm lý hoảng hốt và sợ hãi của chính chúng ta đã làm cho chúng ta sợ hãi. Hoặc thái độ cực đoan, quá khích của một số trong chúng ta để gây hoang mang, chia rẽ. Có thể người Cộng Sản đã nắm bắt được tâm lý này. Những giáo phẩm và giáo sỹ sợ “mất mặt”, sợ “không được trọng kính”, và sợ “bị công khai lý lịch”. Còn tín hữu thì sợ “mất linh hồn”, sợ “mang tội chống cha, chống Chúa”, nên họ đã dùng tâm lý hoang mang, sợ hãi ấy để làm cho chúng ta tưởng rằng Giáo Hội Việt Nam đã hoàn toàn thuần hóa, rằng những người Cộng Sản Việt Nam đang điều hành Giáo Hội chứ không phải là Thần Linh Thiên Chúa, không phải là chính Chúa.

Hơn 300 năm cấm đạo, hằng trăm ngàn Kitô hữu đã anh dũng đổ máu đào vì đạo Chúa. 2000 năm lịch sử, Giáo Hội của Chúa đã trải qua mấy phen cấm cách và bắt bớ. Nhưng tất cả những thế lực thù hận đã qua đi, chỉ còn lại Giáo Hội là vẫn trường tồn. Trong Giáo Hội, nếu có một người gục ngã, thì cũng có ngàn người đứng lên bảo vệ niềm tin và sự thánh thiện của Giáo Hội.

Cựu #Tổng Thống Hoa Kỳ Frankin D. Roosevelt đã nói một câu rất ý nghĩa: “Không có gì đáng sợ bằng chính sự sợ hãi”. Có lẽ ông đã hiểu được ý nghĩa lời mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Đừng sợ”. Và đây cũng là lời kêu gọi mà Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dùng để mở đầu triều đại giáo hoàng của ngài. Ngài đã dùng lời này để nói với những người đang ngưỡng vọng về ngài như một người làm đầu Giáo Hội: “Đừng sợ”.

Thật ra, như vừa trình bày trên, chính cái hoang mang, lo lắng ấy đang làm bóng hào quang Cộng Sản, hào quang “quốc doanh”, nhưng sự thật bọn họ cũng chỉ là những thứ chết nhát, ít ai trong họ dám nhìn vào sự thật. Và chính bọn họ cũng đang hù dọa lẫn nhau bằng sợ hãi. Để rồi làm tăng thêm sự sợ hãi trên Giáo Hội.

PHẢI LÀM GÌ

Có lẽ các giám mục Việt Nam và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng cần phải điều chỉnh lại quan niệm sợ hãi này nơi chính mình và nơi giáo dân. Thật ra những cơn sóng quốc doanh, những thủ đoạn bắt bí, và chèn ép cũng đang từ từ lộ diện. Sức công phá của nó có thể được coi là mãnh liệt, nhưng sự phá hủy tận cùng không phải là ở những cái mà chúng ta nhìn thấy. Nó tiềm ẩn và nằm sâu lắng trong quan niệm, tâm lý và lối sống đạo của người Công Giáo Việt Nam. Phải làm sao vượt ra ngoài những lề thói cảm tình, và sống đạo hình thức. Phải làm sao không nhìn nhà thờ, mà nhìn vào đền thờ của Chúa Thánh Thần là linh hồn và giá trị đạo đức thật của mỗi người. Không phải chỉ vâng lời các linh mục, giám mục một cách máy móc, mà là một sự tôn tính thật tình, có ý tưởng và quan niệm trưởng thành. Những cái này sẽ làm cho sức mạnh tâm linh và làm bừng lên một sức sống trưởng thành có sức phá tan sự sợ hãi, và đem vào cuộc sống tâm linh mỗi người một sức sống mới.

Hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, và giáo dân, tất cả đều là con cái Chúa. Tất cả đều là hành xử theo ơn gọi cá biệt và buộc phải tôn trọng và nhìn nhận những giá trị riêng biệt của nhau. Tất cả đều cần đến nhau, bổ túc cho nhau, và cùng nhau đồng hành tiến về nhà Cha. Không ai bị trị, và cũng không ai cai trị. Không ai tự cho mình độc quyền thánh thiện, độc quyền hiểu và sống lời Chúa, mà tất cả đều được tác động và khởi hứng từ Thần Linh Chúa.

Sống đạo như vậy, thì linh mục, và giám mục không cần phải băn khoăn đến tòa giám mục rộng hay nhỏ, đẹp hay không đẹp, và do đó, nhu cầu sửa sang, xây cất không phải là điều cốt yếu. Mà đã không cần thiết thì cũng không cần phải đi “ăn xin”. Linh mục cũng không cần phải quan tâm đến việc phá nhà thờ và xây lại. Không có nhu cầu xây cất, thì cũng không có nhu cầu xuất ngoại. Và như vậy, Cộng Sản cũng không làm khó mình, hay “ban” cho mình điều gì. Và khi không cần phải xin, thì cũng không sợ bị bắt bẻ.

Tóm lại, lời Chúa hôm nay khiến Kitô hữu chúng ta cần phải xét lại cuộc sống và lối nhìn của mình. Mỗi người, mỗi thành phần cần phải “đấm ngực” ăn năn, và sửa đổi. Đừng để sự sợ hãi làm chúng ta hoang mang, nghi ngờ, và chia rẽ nhau. Và nhất là đừng cho bọn Cộng Sản cái quyền sinh sát Giáo Hội để rồi sợ hãi bọn chúng. Thật ra chúng ta chỉ sợ mình không sống trúng và sống thân mật với Chúa và giáo lý của ngài mà thôi.

T.s. Trần Quang Huy Khanh

----------------------------

 

PS 6-C75. HÃY GIỮ LỜI THẦY

 

Trong một lần đi thăm trung tâm xã hội Campuchia cách đây gần chục năm, chúng tôi có đến: PS 6-C75


Trong một lần đi thăm trung tâm xã hội Campuchia cách đây gần chục năm, chúng tôi có đến một nơi chăm sóc các anh chị em đang mang căn bệnh thể kỷ thời kỳ chót. Không khí ảm đạm, những cái nhìn vô vọng về một nơi xa xăm, nhưng tôi bắt gặp nhiều ánh mắt, những ánh mắt long lanh đan xen giữa hy vọng và sự sợ hãi. Chúng tôi ngỏ lời hỏi thăm vì biết rất nhiều người ở đó là người Việt Nam. Có một anh đã thì thào và ghi lại cho tôi một địa chỉ xin hãy chuyển tên và lời xin lỗi đến người thân ở phía Bắc, vì anh không có thể thư về cho họ được nữa, và anh hiểu trung tâm này sẽ là nơi anh yên nghỉ. Anh như năn nỉ tôi hãy nhớ đừng quên. Khi sửa soạn rời khỏi trung tâm, những ánh mắt đó lại như van lơn, mong muốn chúng tôi đừng đi và mong muốn chúng tôi đừng quên những gì họ đã ký gởi. Chắc đến nay nắm tro tàn của anh đã im lặng nơi lòng đất lạ, nhưng những hình ảnh và những lời ký thác của anh vẫn vấn vương đâu đó trong ký ức của tôi.

Là Kitô hữu từ thuở bé tới giờ, chắc chắn đã nhiều lần chúng ta nghe những lời tâm tình ký gởi của Chúa Giêsu đã tín nhiệm giao cho chúng ta, những lời tâm huyết mà chính Ngài đã xác nhận, không nhẹ ký vì nó chuyển tải một kho tàng thiêng liêng. Những lời Ngài nói không chỉ là của Ngài mà là của Cha, Đấng đã sai Ngài và chính trong tình yêu thông hiệp của Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và làm chúng ta hiểu. Vậy giữ lời Thầy là những điều nào, vì ba muơi ba năm Chúa đã ở nơi dương gian này, nhiều điều Chúa đã nói, thật là nhiêu khê, nhưng chắc chắn điều Chúa truyền dạy không gì khác hơn là để mọi người nhận ra Thiên Chúa là Cha nhân từ, Thánh Thần Chúa là tình yêu, Ngài là Đấng cứu chuộc, mọi người là anh em, và phải đi đến hệ luận thực hành là kính mến Chúa, yêu thương người, như Ngài đã yêu thương họ đến cùng, thì Ngài cũng mong muốn chính những người đã được Ngài yêu mến hãy đáp trả lại cho Ngài giống i như thế.

Câu chuyện Tin Mừng tuần này kể lại trong bầu khí của một giai đoạn quyết liệt mà chính Ngài quyết tâm thực hiện cho đến cùng. Sẽ có cuộc chia ly người đi kẻ ở lại, một cuộc ra đi về với Cha, điều mà các môn đệ không hề nghĩ đến vì các ông vẫn tưởng Ngài đến thế gian này là để thống trị chứ không phải là đến để rồi chết hay đi đâu cả, trong khi Chúa không hề che dấu điều gì về sứ vụ của mình. Chính vì vậy để tránh kiểu ông nói gà bà nói vịt, bằng những lời chân tình, Ngài bày tỏ sứ vụ của mình qua hình ảnh như Ngài ở trong Cha và Chúa Thánh Thần, để mọi người thấy Thiên Chúa luôn ở trong tình yêu, và là nguyên lý cho mọi người đi đến. Phải đi trong tình yêu, nghĩa là đi trong Chúa chúng ta mới đạt đến cùng đích cuộc sống. Giữa sự thánh thiêng và phàm nhân luôn có một khoảng cách nhất định, tuy nhiên chính ơn cứu chuộc của Đức Kitô làm cho khoảng cách này được nối kết, xoá bỏ. Nhưng vì con người vẫn còn ở dưới thế, cuộc hành trình đi lên của chúng ta vẫn nhiều chông gai. Chúa thấu hiểu điều đó nên Ngài đã ban bình an, một nguồn bình an thật, làm cho chúng ta dù có chao đảo nhưng không nghiêng đổ, dù có sợ sệt nhưng không hãi hùng, dù có hay quên nhưng vẫn nhớ tuân giữ lời Ngài và thực thi lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy” vẫn vang vọng trong đời sống Kitô hữu của chúng ta, tuy nhiên nhiều khi chính trong chúng ta có cái khập khiễng có thể yêu Chúa nhưng không bao giờ giữ lời Chúa, hoặc giữ lời Chúa dạy nhưng lại không yêu mến Chúa.

Các số liệu thống kê của giáo hội tại Âu châu phần nào cũng cho chúng ta thấy tình trạng này, đó chính là bài học để chúng ta xét mình về việc sống đạo. Chuyện đã có bên Tây cũng là chuyện của chúng ta, nếu chúng ta nghiêm túc xem xét lại, và thử rảo quanh bên ngoài các nhà thờ Công giáo vào ngày Chúa nhật. Chuyện gì đang xảy ra, thái độ không nghiêm túc của rất nhiều người đi tham dự đang bôi đen đi hình ảnh đẹp thờ phượng của Kitô hữu, đó là chưa kể đến việc sống đạo trong đời thường, những xung khắc vẫn xảy ra nơi cộng đoàn xứ đạo và nhiều người chỉ giữ đạo vào những mùa vui, lễ hội, chưa kể đến những phát triển xã hội sẽ có những khoảng trống trong niềm tin, thoái thác những ràng buộc để tự do hơn. Chuyện yêu mến Thầy và giữ lời Thầy sao nó nặng nề, sao nó rắc rối, cái mà chúng ta cảm thấy nguy đó khi những lối sống này đang trở thành thói quen xấu và đang có những sự lây lan, liều thuốc nào đó để ngăn chăn, vắc xin nào tăng sức đề kháng, tất cả đã có nơi chúng ta, chả lẽ chúng ta chấp nhận bệnh khi chúng ta có cả một vườn thuốc đặc trị !

Ánh mắt của Chúa khi trao cho người phụ nữ ngoại tình, không kết tội mà nói: “Con hãy về đi và đừng phạm tội” sao nhân từ quá. Chúa nhìn Phêrô khi Phêrô vừa bai bải chối Thầy, làm Phêrô đấm ngực khóc than sám hối. Mới thoáng qua chúng ta nghĩ cách đơn giản rằng Chúa yêu họ cách riêng, nhưng thực ra sau ánh mắt là bài học: con hãy giữ lời Thầy đừng phạm tội, đừng cao ngạo. Cái ánh mắt của anh thanh niên trong trung tâm xã hội kia, chỉ mong tôi giữ lời và thực hiện hộ cho anh điều mà anh muốn làm, hôm nay vì đau bệnh không thể làm được nữa, nó tha thiết làm ray rứt chính chúng tôi, hôm nay không phải bằng ánh mắt, mà bằng chính lời của Chúa đang thân tình nói với chúng tôi rằng: “Ai yêu mến Thầy, hãy giữ lời Thầy” chả lẽ không đủ đánh động tôi và mọi người nghiêm chỉnh thực thi sao?

Lm. Nguyễn Đức Trung

----------------------------

 

PS 6-C76. LOÉ SÁNG THẦN NHẬP

 

Ma ám hay quỉ nhập là những chuyện có thật, gây biết bao sợ hãi và hủy hoại. Bây giờ người ta: PS 6-C76


Ma ám hay quỉ nhập là những chuyện có thật, gây biết bao sợ hãi và hủy hoại. Bây giờ người ta mới biết tìm hiểu hiện tượng thần nhập, những phút giây lóe sáng khám phá ra những kỳ lạ trong những gì thật tầm thường, những sáng tác thiên tài về văn thơ và nghệ thuật, những khoảnh khắc hút hồn đi vào chiều kích mới của cuộc sống.

THỜI ĐIỂM CHƯƠNG TRÌNH AVATAR

Avatar là một chương trình thực nghiệm về tâm lý liên hệ tới tâm linh khá nổi tiếng, bắt đầu từ Mỹ và đã lan rộng đến nhiều nước trên thế giới. Avatar có nghĩa là "Thần Nhập". Harry Palmer đã khởi xướng chương trình bằng một khảo sát khá hy hữu.

Một hôm vợ ông là Avra về nhà thấy mọi đồ đạc trong phòng khách bị đưa đi đâu hết. Thay vào đó là một thùng lớn nặng 1500 cân, gọi là "thùng mất cảm giác" (sensory deprivation tank). Đây là một loại thùng được chế tạo đặc biệt với kích thước bằng một tấm ván ép 4'x4'x8', chứa nước muối mặn tới độ thân mình có thể nổi lên trên, không còn lệ thuộc trọng lực. Nhiệt độ nước muối là 94 độ F, tương đương với độ da người; nghĩa là không còn cảm thấy nóng hay lạnh nữa. Thùng kín mít nên tối đến mức không thể thấy gì nữa dù mở hay nhắm mắt, và không một âm thanh nào bên ngoài lọt vào trong được.

Với đồ ăn thức uống sẵn sàng và những gì cần thiết, Harry Palmer đã vào trong thùng này tám tuần. Trong tám tuần này ông không còn biết bất cứ gì xẩy ra bên ngoài, và cũng không còn một cảm giác nào bên trong. Thân xác mất sức nặng, không còn nhìn thấy gì, không còn nghe thấy gì.

Một trong những khám phá đầu tiên trong "thùng mất cảm giác" là khi không còn tiếp thu sự việc bằng cảm giác, thì tâm trí vẫn tỉnh táo. Như trôi trong một đại dương mênh mông, ông không phân biệt mình đang tỉnh hay đang mơ, thực tế hay tưởng tượng? Đang suy tư hay tự nhiên xẩy ra vậy? Mình đang ở đâu, đang ở trong thân xác hay ở ngoài thân xác? Thân xác nào? Phải bắt đầu từ chỗ nào, bắt đầu cái gì? Mình là ai? Ai đang nói với mình? Có hai cái tôi sao? Ai nói với ai? Mình đang nổi trong thùng mất cảm giác hay đang bơi lội trong tâm tư?

Và cứ thế mà trong vòng hai tháng không còn cảm giác, Harry Palmer khám phá ra một điều hết sức đơn giản, bằng thực nghiệm chứ không còn bằng hiểu biết nữa: sự hiện hữu của mình không tùy thuộc bất cứ gì. Nói cách khác: không gì trên đời này làm cho mình buồn hay vui, khổ hay sướng, nếu không phải là chính mình quyết định muốn thế và tin thế. Mình vẫn là mình khi không còn cảm giác về bất cứ ngoại cảnh nào, như tiền bạc, nhà cửa, liên hệ v.v. Và phút lóe sáng bắt đầu với hình ảnh thấy mình đang là một bọt nước trôi trên đại dương Tri Thức toàn mãn vô biên không thể diễn tả được. Đó là chính Đấng Toàn Tri vẫn luôn hiện hữu và làm nền tảng cho mọi hiện hữu khác. Người gần ta hơn chính ta. Mình đang bơi lội trong dòng tình yêu này mà không nhận ra.

Bọt nước mà tách lìa đại dương thì chỉ tự hủy hoại thôi. Như vậy không còn có vấn đề tin đạo hay không. Và đúng là bọt nước "tin tưởng" vào đại duơng vô biên là một ân huệ. Chả lẽ mình cứ tự vây hãm thành cái ao nước tù hôi hám đầy muỗi bọ mà không mở ra để cho nước mênh mông của đại dương thấm nhập thay thế. Những khoảnh khắc bừng tỉnh nhận ra như thế quí hóa biết chừng nào. Đó là phút giác ngộ, phút lóe sáng, phá đổ được bờ ngăn cách để thần nhập hay nhập thần thì cũng thế.

PHÚT LÓE SÁNG CỦA TIỂU ĐỆ CARRETTO

Thầy tiểu đệ Carlo Carretto đã từng sống nhiều năm trong sa mạc Sahara và kể lại những cảm nghiệm hút hồn và tròn đầy về cõi trống diệu vợi này. Có lần thầy tìm đến một cái hang thanh vắng ở địa điểm Ouarourout gần Béni-Abbès để tĩnh niệm trong một thời gian. Chung quanh khu vực đó không có một bóng dáng ai ngoài chú bé Ali Assani người Ả rập đang chăn chiên, vì đó là một ốc đảo có cỏ và nước. Thình lình bão cát nổi lên. Bão sa mạc dễ sợ lắm. Cát thổi tàn bạo và làm mù tối không còn biết đường nào mà chạy. Đàn chiên của chú bé Ali hốt hoảng sợ hãi tột cùng. Còn Ali thì không còn biết chạy đâu vì nhà cách xa 12 cây số. Cuối cùng chú nghĩ ngay ra cái hang mà thầy Carlo đang tĩnh niệm. Thế là Ali lùa chiên đại vào trong hang chen lấn cả Thầy Carlo.

Lần đầu tiên trong đời, thày Carlo có kinh nghiệm nằm giữa đám chiên hôi hám nhưng rất tội nghiệp. Chúng nó sợ hãi quá nên bám sát Ali và thầy, giống như người chết đuối cố ghì chặt người đang cứu mình.

Và đêm đó, Thầy Carlo không cần phải suy niệm về Chúa nữa. Thầy chỉ cần nhìn kỹ những sự việc đang xảy ra mà lấy làm lạ lùng, giống như Đức Maria đã luôn kinh ngạc với những chuyện trước mắt. Thầy thấy chú bé Ali mệt quá nằm ngủ gối đầu lên lưng một con chiên, và gác chân lên hai con khác. Bên ngoài trời mưa bão sớm chớp vần vũ kinh hoàng, mà bên trong hang đám chiên nằm ngủ thật yên hàn bên cạnh chú bé Ali. Mùi lông chiên và mùi phân chiên nồng nặc xông lên phả với hơi thở đầy mùi cỏ từ dạ dầy của cả một bầy chiên bốc lên. Lúc đầu thật khó chịu. Nhưng riết rồi thấy thân quen dễ chịu. Có vẻ nồng ấm là đàng khác. Cảnh xẩy ra thật cảm động diễn tả đúng tâm tình thánh vịnh 23 Chúa là Mục Tử.

Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
Tôi chẳng thiếu thốn gì...
Dầu qua lũng âm u,
Tôi sợ gì nguy khốn,
Vì có Chúa ở cùng,
Côn trượng Ngài bảo vệ,
Con vững dạ an tâm.


Cũng lần đầu tiên Thầy nhận ra ý nghĩa trọn vẹn của một cái hang chiên khác là Bê Lem, Vì Bê Lem có nghĩa là Ruộng Bánh. Mà bánh bây giờ chính là Mình Thánh Chúa mà suốt thời gian tĩnh niệm trong sa mạc một mình thầy được phép đeo trên cổ đựng trong một cái bình nhỏ. Đó là niềm vui an bình nhất của Thầy trong nơi vắng lặng hoang vu và xa cách này. Mắt thầy bỗng dưng mở sáng kinh ngạc: Chúa đang hiện ra, đang có mặt ở đây, lúc này, qua những gì thật tầm thường. Phép lạ xẩy ra thật bất ngờ. Vẫn có đó, vẫn đeo đó. Nhưng bây giờ mới sực phát giác nhận ra. Đó là phút giác ngộ, giây lóe sáng. Archimede ngày xưa đang tắm biển bỗng nhận ra sức hút của trái đất mà tìm ra định lý của trọng lực. Cũng là những gì rất thường. Thế mà Archimede đã sung sướng đến độ chẳng còn biết giữ ý tứ gì nữa, ông nhẩy chồm lên bờ mà chạy vào phố la lên: Eureka! Bà con cô bác ơi, tôi đã tìm thấy!

TIN VUI CẢM NHẬN PHÚT THẦN NHẬP

Chẳng cần phải đi thực nhiệm công phu như Harry Palmer mới khai sáng được chương trình Avatar. Đám chiên cũng biết thế nào là Avatar. Đang khi bên ngoài trời giông bão khủng khiếp mà đám chiên vẫn nằm ngủ yên hàn trong hang, vì chúng đã có Ali bảo vệ lắng lo, chúng thấm nhập được tình thương của Ali. Loài chiên này xem ra khôn ngoan hơn nhiều sinh vật khác trên mặt đất gọi là loài người, vì chúng chạy theo người biết thương chúng và có thể lo lắng cho chúng được. Thầy tiểu đệ Carlo Carretto vẫn cảm thấy tình thân an bình giữa những đơn lẻ hầu như tuyệt đối của sa mạc hoang vu xa cách, vì nhận ra Chúa Tình Thương đang hiện diện với mình. Phút lóe sáng này thật đơn giản, tinh ròng.

Con mắt thấy được phút lóe sáng này vẫn gọi là con mắt đức tin. Chúa Giêsu đã nói rõ: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở trong người ấy... Thầy để lại bình an bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi." (Gioan 14:23, 27)

PHÚT TỊNH TÂM

Trong mỗi thánh lễ trước khi rước lễ, lời cầu nguyện của mỗi người cùng với cả hội thánh luôn nhắc lại lời xác quyết trên: Thầy để lại bình an cho chúng con, Thầy ban bình an của Thầy cho chúng con. Bình an đã được ban sẵn qua Thánh Thể, như thầy Carlo Carretto đã thấy được trong phút giây lóe sáng. Đây chính là khoảnh khắc thần nhập, Avatar, chứ còn phải mất công tìm mãi ở đâu?!

Vì vui riêng, Người đã làm tôi bất tận.
Thân này thuyền nhỏ mong manh đã bao lần người tát cạn
rồi lại đổ đầy cuộc sống mát tươi mãi mãi.
(Tagore, Lời Dâng #1)


Thou hast made me endless, such is thy pleasure.
This frail vessel thou emptiest again and again,
and fillest it ever with fresh life.
(Tagore, Gitanjali #1)


Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường

----------------------------

 

PS 6-C77. Đền thờ cao quý nhất – Lm Ignatio Trần Ngà.


(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

 

Một hôm, đang lúc đùa vui với các thiên thần, Thiên Chúa ra cho họ câu đố vui có thưởng. Ngài: PS 6-C77


Một hôm, đang lúc đùa vui với các thiên thần, Thiên Chúa ra cho họ câu đố vui có thưởng. Ngài nói: "Ta muốn chơi trò chơi cút bắt với loài người. Các con nghĩ xem đâu là nơi ẩn trốn tốt nhất mà con người khó tìm ra Ta được?"

Thế là các thiên thần tranh nhau trả lời. Vị thì nói là Chúa hãy ẩn trốn ở đáy biển khơi, khó tìm lắm! Vị khác lại nói là Chúa hãy ẩn mình trên những đỉnh núi cao, chẳng ai leo tới đó được! Vị thì nói là Chúa hãy ẩn khuất giữa những lớp mây trời, loài người không ai nghĩ tới..." Thế nhưng Chúa chỉ cười và cuối cùng, Ngài nói: "Sai bét hết. Chỗ ẩn nấp tốt nhất Ta có thể chọn để loài người không phát hiện được Ta, đó là ngay trong tâm hồn của họ!" (phỏng theo Cha Anthony de Mello)

Ngày xưa thánh Augustino cũng khắc khoải đi tìm Chúa suốt ba mươi năm đầu đời. Ngài miệt mài tìm Chúa trong văn chương, trong triết lý, trong những học thuyết sai lầm và cả trong những đam mê thế tục... nhưng chẳng gặp được nên cảm thấy khắc khoải buồn sầu. Mãi đến tuổi ba mươi, ngài mới được ánh sáng chân lý chiếu soi và được đón nhận Chúa. Bấy giờ ngài cảm thấy an bình hạnh phúc nhưng đồng thời cũng lấy làm hối tiếc vì biết Chúa quá muộn: "Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng. Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài".

Chúa ở trong con, còn con thì đi tìm Chúa bên ngoài! Thật là trớ trêu và trái khoáy, giống như ta đang để chùm chìa khoá trong túi mà lại lục lọi tìm kiếm khắp nơi.

Cũng như thánh Augustinô xưa, nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta lại đi tìm Chúa bên ngoài đang khi Chúa vẫn ở trong chúng ta.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy ta biết có Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong chúng ta: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23); lại có cả Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ cũng luôn hiện diện trong ta cùng với Chúa Cha và Chúa Con: "Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại những gì Thầy đã nói với anh em"

Thế là thân xác hèn mọn của chúng ta đã được nâng lên hàng vương cung thánh đường thiêng liêng cao trọng vì đã được Ba Ngôi Thiên Chúa chọn lựa làm nơi cư ngụ của Ngài.

Đây là ngôi đền thờ thật cao cả, thật quý giá, cao vượt hơn hết mọi đền thờ khác trên thế gian.

Đem đền thờ bản thân người Kitô hữu so sánh với các đền thờ nổi tiếng do bàn tay con người xây dựng ngót hai ngàn năm qua, thì những đền thờ vật chất kia triệu lần thua kém.

Đền thờ nầy rất cao cả vì đây là đền thờ sống, được chính Thiên Chúa thiết kế và thi công, được dựng nên theo hình ảnh của Ngài; còn những đền thờ kia chỉ là gạch đá vô tri.

Đền thờ nầy rất cao cả vì được Chúa Giê-su đổ máu ra mà cứu chuộc. Không đền thờ vật chất nào được diễm phúc như thế.

Đền thờ nầy rất cao cả vì được Chúa Giê-su hiến thánh bằng bí tích rửa tội, được Chúa Thánh Thần xức dầu qua bí tích thêm sức...

Và mai đây, ngôi đền thờ nầy sẽ được đưa lên cõi thiên đàng vinh hiển, trong khi những đền thờ bằng vật chất nguy nga đồ sộ và nổi tiếng trên mặt đất nầy, cho dù được xây bằng đá quý, được nạm bằng vàng ngọc kim cương sẽ tàn lụi với thời gian.

Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho con biết quý trọng thân xác con là ngôi đền thờ uy linh cao cả có Ba Ngôi Thiên Chúa hằng ngự trị.

Xin cho con biết thanh tẩy đền thờ đáng quý trọng nầy nếu nó bị ra nhơ uế vì tội lỗi và thói hư.

Xin cho con biết tôn tạo, nâng cấp đền thờ nầy bằng các nhân đức và phẩm chất cao đẹp.

Và nhất là xin cho con hằng biết đến gặp gỡ và kết hợp với Chúa đang hiện diện trong ngôi đền thờ là chính bản thân con. Amen.

----------------------------

 

PS 6-C78. Phúc cho ai biết xây dựng hoà bình


(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos Tạ Duy Tuyền)

 

Con người từ tạo thiên lập địa luôn mang hoài bão xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng: PS 6-C78

Con người từ tạo thiên lập địa luôn mang hoài bão xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng. Một thế giới không còn khổ đau, không còn đói nghèo. Người người biết lấy tình yêu để xoá bỏ những nghi kỵ, hiểu lầm, và biết nắm lấy tay nhau để dìu nhau đi tới. Đó là ước mơ thật chính đáng. Thế mà, đã bao nghìn năm vẫn mãi mong chờ trong vô vọng. Ngược dòng lịch sử, người ta chỉ thấy những dấu ấn thời gian đã qua là những đau thương, mất mát. Đói khổ và hận thù đã làm cho quá khứ đượm mầu tang chế, chia ly. Thế giới có mấy khi bình yên? Con người có mấy khi hạnh phúc? Kiếp người chỉ đong đầy những lo sợ và bất an!

Với sự tiến bộ của văn minh nhân loại, người ta tưởng rằng: khi con người thoát ra khỏi lối sống hoang dã lạc hậu, sẽ làm cho thế giới an bình và lành mạnh hơn. Thế nhưng, nói theo kiểu Nguyễn Du "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Chiến tranh Trung Đông vẫn kéo dài. Chiến tranh vì quyền lực vẫn sôi bỏng hằng ngày, hằng giờ. Khủng bố, bạo loạn vẫn lan tràn khiến hàng ngàn người phải chết oan uổng, đã đẩy hàng triệu người sống trong cảnh đói khổ bần cùng. Xem ra sự văn minh đã làm cho con người vong thân đôi khi đánh mất tính người. Mới đây, cả nước đều xôn xao vì tài xế xe container đã cán đi cán lại trên một thân xác cô bé 17 tuổi đến 3 lần. Một cô giáo mần non tại Hà Nội, chỉ vì bị giáng chức đã bỏ thuốc diệt chuột vào đồ ăn để đầu độc học sinh khiến cho hơn 20 học sinh phải nhập viện cấp cứu. Mỗi ngày khi khám xét các nơi nhạy cảm như vũ trường, quán Karaoke, các tiệm hớt tóc . . .; người ta đã bắt được biết bao cậu ấm, cô chiêu đã bỏ trường bỏ lớp để tìm niềm vui điên loạn trong ma tuý và mại dâm. Cuộc sống vẫn nhan nhản những lừa đảo, tham ô. Vì đồng tiền bát gạo người ta vẫn chà đạp lên nhau và làm hại lẫn nhau.

Nhìn vào những gì đang diễn ra cho chúng ta thấy, dường như thế giới chỉ có hai loại người. Một loại chỉ lo đối phó với chiến tranh, với đói nghèo. Một loại chỉ lo ăn chơi, thác loạn. Kẻ không có tiền thì lo có tiền bằng muôn nghìn cách, kể cả bằng thủ đoạn gian dối, lừa bịp, bằng chiến tranh, bạo động. Kẻ có tiền lại tìm thoả mãn cho nhu cầu hưởng thụ bằng ăn chơi sa đoạ mà người ta gọi là thư giản giải trí. Có mấy ai đang toàn tâm toàn lực để xây dựng thế giới an bình và thịnh vượng? Có lẽ có, những một vài cánh én chưa đủ mang lại mùa xuân nên thế giới vẫn đầy bất an và sầu khổ!

Hôm nay Chúa Giêsu đề nghị một phương án xây dựng an bình và thịnh vượng. Phương án này khởi đi từ chính bản thân từng người. Từng người phải biết sống trong sự hoà hợp với Thiên Chúa. "Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy" để biết sống theo gương Thầy luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Từng người phải biết nói không với sự xấu. Từng người phải biết nghe theo tiếng nói sự thật. Sống theo sự thật sẽ giúp cho con người có một tâm hồn an bình. Nói không với sự xấu sẽ giúp cho con người sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Và sống trong sự kết hợp với Thiên Chúa, con người sẽ sống hoà hợp với nhau, vì tất cả đều là anh em cùng một cha trên trời.

Thực vậy, nhiều người dám làm những chuyện đồi bại, hãm hãi lẫn nhau, sống gian dối lừa đảo, vì họ không còn tin có sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ không tin có Thiên Chúa nên họ không tin có sự thưởng phạt đời sau. Họ không tin có Thiên Chúa nên không còn nghe được tiếng nói của sự thật, tiếng nói của lương tâm ngay lành. Điều đó đã dẫn tới một đời sống tham lam, lừa đảo. Một đời sống tha hoá đến vô nhân đạo. Họ sẵn sàng chà đạp đồng loại để tìm vinh quang cho bản thân. Họ sẵn sàng lợi dụng đồng loại để kiếm tiến bằng những chuyện phi nhân, thất đức. Thế nhưng, cuộc đời họ cũng không có an bình và hạnh phúc. Họ đi tìm an bình và hạnh phúc trong những của cải thế gian, nhưng thế gian và ma qủy không bao giờ làm cho họ thoả mãn. Họ sẽ không có một đời sống an bình nếu không đi theo chân lý và sự thật.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đường, là sự thật và là sự sống dẫn dắt chúng ta đi trong đường ngay nẻo chính. Xin dẵn dắt chúng ta sống theo sự thật và đi đến sự sống trường sinh. Nguyện xin Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ luôn gìn giữ hồn xác chúng ta khỏi mọi sự dữ và luôn nhắc nhở chúng ta sống theo chân lý và sự thật. Amen.

----------------------------

 

PS 6-C79. Sự bình an

 

Một số người thường hay tức giận trong lòng và kết quả là họ thiếu sự bình an trong trí óc và sự: PS 6-C79


Một số người thường hay tức giận trong lòng và kết quả là họ thiếu sự bình an trong trí óc và sự thanh thản trong linh hồn. Nhưng có những người khác có được sự bình an nội tâm và họ làm cho đời sống của họ khác hẳn.

Hai người láng giềng, James và John cày đất trên hai cánh đồng sát liền nhau. Mặt trời chói chang trên họ và trên mặt đất cứng, nhiều đá sỏi. James có tính khí hắc ám. Ông quất roi da vào lưng con ngựa. Tuy nhiên, sự đánh đập ấy càng làm cho con ngựa thêm ương ngạnh và không chịu hợp tác với chủ của nó. James tin chắc rằng lúa mì của người láng giềng sẽ mọc cao hơn của ông. Và cứ mỗi lần ông nhìn qua người láng giềng, ông có cảm tưởng rằng ông này đang cười nhạo ông.

Trái lại, John có tính khí trầm tĩnh. Ông im lặng làm việc và làm tốt, mặc dù cực nhọc và đau đớn. Thỉnh thoảng, ông dừng lại cho ngựa được nghỉ ngơi. Ông nhìn qua người láng giềng và thầy rằng ông này ở tình trạng rất dao động, ông muốn giúp đỡ người láng giềng, nhưng ông biết rằng khi ông tất bật như thế thì tốt hơn nên để ông ta làm một mình.

Sự khác nhau giữa hai người láng giềng không do những điều kiện bên ngoài của đời sống họ mà do tình trạng bên trong của tâm trí họ. Chúng ta nhìn thế giới và người khác, không được như bản chất của họ nhưng theo bản chất của chúng ta: suy bụng ta ra bụng người. John vui sống với sự bình an và thanh thản nội tâm. Còn James sống trong tình trạng rối loạn nội tâm. Không có trở ngại nào lớn hơn trong mối quan hệ tốt đẹp với người khác bằng việc mình khó chịu với chính mình.

Đức Giêsu đến để mang lại cho chúng ta sự sống và giải phóng chúng ta khỏi chính mình. Người trấn an những nỗi sợ hãi của chúng ta, và chữa lành những lo âu cùng thù hận của chúng ta, nhờ thế Người làm chúng ta có thể nhìn thế giới với một tấm lòng bình thản và một tâm hồn rộng mở.

----------------------------

 

PS 6-C80: Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU CHÚA


Ga 14, 23 – 29

"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy".

 

Trong cuộc sống, người ta thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ của lòng yêu: PS 6-C80


Trong cuộc sống, người ta thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ của lòng yêu mến. Chỉ cần nhìn thấy những người mẹ hy sinh nhịn đói, chịu khó để lo cho con cái được ấm no, được ăn học thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể, mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Vì thế, Thánh Augustinô còn nói: "Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ".

Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động thật cụ thể. Dấu chỉ đó Đức Giêsu muốn chúng ta chính là sự vâng giữ lời của Người, cụ thể là chúng ta đã nghe: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy...". Yêu mến Chúa, là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm theo điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải hành động yêu thương thật sự cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. 

Trong Cựu ước, tác giả sách Thánh vịnh 119 viết rằng: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi" (Tv 119, 105). Thật vậy, Lời Chúa là chân lý, là ánh sáng, là sự thật, bởi vì, Lời Chúa chứa đựng đạo lý và chứa đựng thánh ý của Thiên Chúa. Vì thế ở lại trong Lời Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa và sống theo ý Chúa.

Con người chỉ là một tạo vật được Thiên Chúa dựng nên. Một tạo vật chỉ có giá trị khi thực hiện theo ý của người tạo ra nó. Đời sống con người chỉ có ý nghĩa khi sống theo ý muốn của Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình. Đó là sống theo bản vẽ mà Thiên Chúa đã thiết kế cho cuộc đời của mỗi người. Chính vậy, con người chỉ đạt được tự do đích thực là đón nhận ý Chúa và thi hành ý Chúa mỗi ngày. Chạy theo ý riêng của mình đồng nghĩa với việc đánh mất ý nghĩa của cuộc đời mình.

Lời Chúa cho mỗi người chúng ta biết sự thật về chính bản thân mình, biết sự thật và cùng đích về con người và cùng đích của cuộc đời. Biết sự thật về mình là biết những giới hạn yếu đuối, biết về thân phận nô lệ tội lỗi của mình để rồi hoán cải và trở nên hoàn thiện như "Cha trên trời là Đấng hoàn thiện". Biết sự thật về con người là biết mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, ý nghĩa và cùng đích của đời mình là con người được dựng nên để sống cho Thiên Chúa, phụng sự Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa. Biết sự thật còn là biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống trần gian để giải thoát con người khỏi tội lỗi, cho con người được tham dự vào sự sống thân linh của Thiên Chúa. Nhận biết Đức Giêu là Thiên Chúa để đến với Ngài, tin Ngài và đi theo Ngài.

Ở lại trong Lời Chúa là sự kiện tiên quyết xác định ý nghĩa cuộc sống của người thuộc về Chúa. Lẽ sống của người theo Chúa, của người môn đệ Chúa cần phải biết ý Chúa, thi hành ý Chúa như người "đầy tớ làm theo ý người chủ của mình". Đó là người lắng nghe tiếng Chúa và nhận biết ý Chúa trong những sự kiện, những biến cố. Đó là tìm kiếm sự thật ẩn tàng trong Lời Chúa, suy gẫm những gì Chúa nói và nhận ra ý nghĩa của Lời Chúa được sáng tỏ trong cuộc sống hằng ngày. Như thế, việc nghe Lời Chúa và thi  hành ý Chúa mới thông hiểu được sự thật và sống trong tự do.

Vì vậy, sống theo ý Chúa thì con người không còn sợ hãi, vì khi làm bất cứ việc gì thì có Chúa cùng thực hiện, khi chọn Chúa là chủ của mình, chúng ta không còn bị dính bén bởi những tạo vật, không bị nô lệ bởi những đam mê bất chính. Sống theo ý Chúa còn là mình để chọn Chúa. Đó là bỏ đi cái tôi ích kỷ sống yêu thương, bỏ đi cái tôi danh vọng để khiêm tốn để chấp nhận mình và đón nhận người khác, bỏ đi cái tôi hưởng thụ để hy sinh để phục vụ. Hơn nữa, sống theo ý Chúa thì không sợ những dư luận của người đời, không bị chi phối bởi khen chê, được mất, sướng khổ và sống chết.

Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta sẽ thấy có một điều hết sức tự nhiên, đó là khi yêu mến ai, chúng ta thường cố gắng bằng mọi cách để làm vui lòng người đó. Và một trong những cách chúng ta thường thực hiện để làm vui lòng người mình yêu mến, đó là cố gắng nhanh chóng thực hiện mọi ý muốn của người đó. Cứ quan sát các một đôi bạn trẻ đang yêu nhau, chúng ta thấy họ luôn muốn làm đẹp lòng nhau, họ luôn để ý đến nhau, chỉ cần phát hiện một ánh mắt, một cái nhíu mày, một cử chỉ, hay một ý muốn nào đó của người này, thì lập tức người kia sẽ cố gắng thực hiện cho bằng được. Như vậy, một đứa con không thể nói rằng nó yêu cha mến mẹ, mà nó cứ luôn làm cho cha mẹ nó buồn, luôn làm những điều mà cha mẹ nó không muốn; cũng không thể có một người chồng luôn miệng nói với vợ rằng anh yêu em, mà ngày nào cũng đánh vợ, rượu chè say sưa;  cũng không thể có một người vợ nói với chồng là em yêu anh, rồi hằng ngày cứ bỏ bê nhà cửa, bỏ chồng con... Quả thật, những người như vậy nói yêu mà chẳng có hành động yêu một chút nào hết.

Hiểu được như vậy, thì chúng ta cũng hiểu được việc tuân giữ lời Chúa của chúng ta chính là dấu chỉ rõ ràng nhất, để chúng ta chứng tỏ lòng yêu mến của mình đối với Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa nhiều, chúng ta sẽ càng cố gắng thực hiện những điều Ngài muốn. Hơn nữa, khi yêu mến và giữ lời, chúng ta còn được vinh dự đón tiếp cả Ba Ngôi đến ngự trong tâm hồn của chúng ta nữa: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy". Và nếu có cả Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong chúng ta, thì mỗi người chúng ta thật sự xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, một đền thờ thánh thiện, tốt đẹp, và là một đền thờ yêu thương luôn thể hiện tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người.

Chúng ta hãy can đảm sống theo lời dạy của Chúa với tất cả niềm tín thác, niềm cậy trông, tình yêu mến.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa chính là con đường vì Chúa dẫn đưa con đến với Thiên Chúa. Chúa là sự thật vì Chúa chỉ cho con biết Thiên Chúa và thánh ý của Thiên Chúa. Chúa là sự sống vì Chúa giải thoát con khỏi tội lỗi và ban cho con sự sống viên mãn. Xin cho chúng con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa, biết nghe tiếng Chúa và ở lại trong Lời của Chúa để mỗi ngày con được sống trong sự thật và ở trong tình yêu Thiên Chúa. Amen.

----------------------------

 

PS 6-C81: YÊU MẾN THÌ GIỮ LỜI


Ga 14, 23 – 29

 

Trong truyện cổ Việt Nam, có kể lại chuyện của một gia đình kia có một bà mẹ rất nghèo, do chồng: PS 6-C81


Trong truyện cổ Việt Nam, có kể lại chuyện của một gia đình kia có một bà mẹ rất nghèo, do chồng mất sớm nên bà phải tần tảo khó nhọc để nuôi dạy con, hằng ngày bà phải đi tìm ao vớt bèo về nuôi lợn, vậy mà bà cho con được đi học rất tử tế, lại còn dạy con phải có phép tắc với mọi người, không được ăn cắp của ai, cũng không được tham lam của người khác. Năm đó, con bà đi thi đỗ được trạng nguyên, dân làng đón quan trạng và mở tiệc ăn mừng, còn bà thì thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Hôm rước quan trạng về làng, bà cũng đi vớt bèo, ai gọi bà cũng không chịu bước lên, thế là quan trạng phải nhảy đùng xuống ao vớt bèo tiếp mẹ cho đủ một bao bèo rồi bà mới chịu lên. Nhiều người thấy vậy thì nói rằng: Có một người mẹ như thế, thì con mới nên người được. Một năm sau, quan trạng mau về biếu mẹ một chiếc áo dài gấm thật đẹp, bà mẹ không vừa lòng, lấy lửa đốt chiếc áo dài gấm đó trước mặt quan và nói: Mới làm quan, có tiền đâu mà mua áo, chắc là nhận tiền hối lộ của ai rồi, mới làm quan mà còn như vậy, nếu làm quan lâu thì sẽ làm khổ cho dân biết chừng nào nữa, Thế là từ đó, vị quan kia luôn nhớ lời mẹ, sống một đời làm quan thật trong sạch, và về sau ông được vua cho làm tể tướng.

Qua câu chuyện cổ trên đây, chúng ta thấy vị quan nhờ thương mến mẹ mình, nên ông luôn nhớ và sống theo lời mẹ ông dạy, nên nhờ đó mà việc thành tựu của ông trong cuộc sống mỗi ngày được tốt hơn, mỗi ngày được thành công hơn, và ông đã đạt được một chức vụ cao trọng nhất trong cuộc đời của ông. Tôi thấy câu chuyện này có thể minh hoạ cho chúng ta hiểu thêm về câu nói của CG trong bài TM hôm nay: "Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ lời Thầy".

Yêu mến Chúa, có nghĩa là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm những điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải cụ thể các việc làm đó bằng những cử chỉ thật sự, bằng những hành động yêu thương thật sự trong cuộc sống thường ngày của mỗi người. Vậy thì các hành động yêu thương đó được biểu lộ ra trong cuộc sống mỗi người như thế nào?

Thông thường trong cuộc sống, chúng ta hay sử dụng lời nói để diễn tả những suy nghĩ, những tâm tư tình cảm của mình đối với người khác. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, lời nói cũng không thể diễn tả cách trọn vẹn được mọi suy nghĩ của chúng ta. Do đó, chúng ta lại dùng những điệu bộ bên ngoài như nét mặt, ánh mắt, như những cảm xúc vui buồn ... để diễn tả những điều chúng ta muốn nói. Chẳng hạn như chúng ta thường biểu lộ niềm vui bằng tiếng cười, biểu lộ nỗi buồn bằng tiếng khóc ... Chính vì thế khi nghe thấy những tiếng khóc, tiếng cười cho dù người đó không nói ra, thì người khác cũng phần nào hiểu được nỗi lòng của người thốt ra những tiếng đó.

Đối với tình yêu thương cũng vậy, người ta không thể dùng những con số, hay những kiểu nói ước lượng, như kiểu nói: "Tôi yêu anh chừng một tạ hay một tấn", hoặc là nói: "Tôi mến anh dài 50 hay 100 cây số" được. Nhưng khi muốn diễn tả tình yêu thương, người đó thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ yêu mến của mình. Chỉ cần nhìn cảnh những người cha người mẹ sẵn sàng thức khuya, dậy sớm, tảo tần buôn gánh bán bưng để lo cho con cái được ấm no, được ăn học, được thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Thánh Augustinô còn nói: "Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ".

Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động cụ thể. Dấu chỉ đó chính là sự vâng giữ lời của ĐG, cụ thể là chúng ta nghe trong bài Tin Mừng: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy"

Nhìn lại gương Chúa Giêsu, chúng ta đã thấy Ngài vì yêu mến Chúa Cha, nên Ngài đã làm trọn thánh ý của Chúa Cha, cho dù Ngài phải chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá, thì xin Chúa cũng cho mỗi người chúng ta luôn biết noi theo gương của Chúa, để mỗi khi chúng ta thốt lên Chúa ơi, con yêu mến Chúa thì chúng ta cũng sẽ làm trọn theo những điều Chúa dạy, để cuộc sống của mỗi người chúng ta luôn là một cuộc sống bình an trong tay Chúa, và cũng là một cuộc sống vui tươi trong vòng tay yêu thương thân ái của tất cả mọi người. Amen.

----------------------------

 

PS 6-C82: SỐNG TRONG SỰ HƯỚNG DẪN CỦA CHÚA


Ga 14, 23-29

 

Một người Ấn giáo và một người Công giáo trẻ tuổi cùng tham dự cuộc hội thảo về bài giảng trên núi: PS 6-C82


Một người Ấn giáo và một người Công giáo trẻ tuổi cùng tham dự cuộc hội thảo về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Họ nhanh chóng trở thành bạn tốt. Ngày nọ, người Ấn giáo nói với người Công giáo: tôi biết bài giảng này của Chúa Giêsu ảnh hưởng đến Gandhi và cuộc sống của ông ta thế nào, nhưng tôi nghĩ bài giảng đó quá cao với hạng bình dân. Người Công giáo không vội trả lời nhưng đề nghị tìm nơi thanh vắng và cả hai cùng làm dấu thánh giá cầu nguyện với Chúa. Kết quả, người Ấn giáo đã tìm ra câu trả lời cho tình huống khó xử của anh: Đạo lý thật sự rất cao nhưng có Chúa Thánh Thần hiện diện, hướng dẫn, soi sáng và nhắc bảo chúng ta biết phải làm gì cho đúng lời Chúa dạy.

Thật vậy, nhờ có Chúa Thánh Thần soi dẫn mà Giáo hội tồn tại và phát triển giữa muôn vàn thử thách. Giáo hội vượt qua mọi gian lao nhờ vâng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Trong thời Giáo Hội sơ khai, cuộc tranh luận về việc giữ luật Môsê khá gay cấn. Người kitô hữu không biết có phải giữ luật cắt bì và tập tục của người Do thái hay không? Nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà các Tông đồ quyết định miễn luật cắt bì và tập tục của Do Thái. Chúa Thánh Thần giúp cho mọi người hiểu rằng: ơn cứu độ phát xuất từ Chúa Giêsu chứ không do việc giữ luật Do thái. Chỉ cần giữ những lời Chúa Giêsu thì sẽ được sống. Và lời quan trọng nhất Chúa trối lại cho chúng ta là: các con hãy yêu thương nhau. Điều cần thiết nhất là giữ giới răn yêu thương. Yêu thương là chu toàn mọi lề luật:"ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy".

Nếu chúng ta yêu mến Chúa Giêsu thì chúng ta muốn làm đẹp ý Ngài, vâng giữ lời ngài. Kitô hữu giữ luật theo tinh thần mới, khác với cách giữ luật của nhiều người Do thái: giữ cho đủ hình thức vì sợ bị phạt, giữ luật vị luật. Chúa Giêsu là tình yêu, dạy chúng ta giữ luật tình yêu và yêu thương là con đường dẫn chúng ta về tới nhà Cha.

Ai yêu mến Chúa thì tuân giữ Lời Chúa. Đối với một người con có hiếu thì luôn sẵn sàng vâng lời cha mẹ, vì người đó yêu mến, kính trọng cha mẹ mình. Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Chúng ta biết Chúa thông minh và rất yêu thương chúng ta, luôn dạy chúng ta làm điều đúng, điều tốt thì lẽ nào chúng ta lại lưỡng lự, từ chối việc thực thi ý Ngài. Nếu chúng ta yêu mến Chúa thì hãy tuân giữ Lời Chúa. Và phần thưởng Chúa ban cho chúng ta là vô cùng quí giá. Đó là cho chúng ta được cư ngụ nơi thành Giêrusalem mới mà sách khải huyền mô tả:

Thành thánh này không phải do tay người phàm dựng nên nhưng từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của nó toả ra như đã quí, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành không cần mặt trời mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó và đèn của nó chính là Con Chiên (x. Kh 21, 22). Thân phận con người vốn là thụ tạo nhỏ bé thấp hèn, không xứng đáng nhưng lại được Chúa yêu thương cách đặc biệt. Chúa muốn nâng con người lên và nhận lấy địa vị cao trọng: làm con Thiên Chúa. Điều này vượt qua sự mong đợi của loài người nhưng đó lại là phần thưởng Thiên Chúa dành cho những ai vâng giữ lời Người. Thiên Chúa biết đó là phần thưởng rất cao quí, đem lại hạnh phúc vô biên cho loài người nên Ngài sẵn sàng chịu khổ nhọc, xuống thế làm người và cố gắng diễn tả tình thương và ý định tốt lành của Thiên Chúa cho con người hiểu và được ơn cứu độ. Ngài đã làm tất cả những gì cần làm cho loài người được hạnh phúc. Vấn đề là ai biết chạy đến Chúa với tâm hồn đơn sơ, khiêm hạ, vâng phục thì sẽ được ban ơn dồi dào. Còn kẻ cứng lòng, chống đối, kiêu căng thì sẽ không được Chúa làm gia nghiệp và mai sau sẽ phải khóc lóc nghiến răng.

Chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta nói rằng mình yêu mến Chúa, thì chúng ta hãy giữ lời Thầy Chí Thánh với lòng chân thành, yêu mến Chúa. Mai đây, Chúa sẽ trở lại dẫn chúng ta vào Thiên Đàng đời đời.

----------------------------

 

PS 6-C83: BÌNH AN


Ga 14, 23-29

"Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy".

 

Bạo lực nói chung vốn là một điều bất hợp pháp song nó vẫn tồn tại trong xã hội của con người. Bạo: PS 6-C83


Bạo lực nói chung vốn là một điều bất hợp pháp song nó vẫn tồn tại trong xã hội của con người. Bạo lực gia đình, bạo hành trẻ em vẫn còn đang làm nhức nhối lương tâm của những người có trách nhiệm. Trong khi chưa ai tìm được cách gì để giải quyết triệt để những vấn nạn đó thì hôm nay lại nỗi lên một thứ bạo lực mới - bạo lực trong học đường. Một thế hệ tương lai đang bị đe doạ trước những làn sóng bạo hành. Bây giờ, nhiều phụ huynh không còn biết phải gửi con đi học nơi đâu vì môi trường học đường không còn là nơi trong lành nữa. Ngay cả thầy cố giáo mà cũng nôm nốp lo sợ. Bởi dạy giỗ lơ mơ thì cũng bị ăn đòn bởi chính học trò của mình.

Thế giới ngày càng văn minh. Con người càng ngày càng hưởng được nhiều những ích lợi của những công trình khoa học. Thế nhưng, xem chừng con người lại càng khốn đốn hơn trong chính thế giới văn minh, tiện nghi của mình. Thế giới ngày càng bất ổn. Chiến tranh tuy được dàn xếp một cách cẩn thận nhưng đau thương vẫn diễn ra hàng ngày với tính chất khốc liệt không thua gì chiến tranh. Đó là hậu quả của những cuộc khủng bố, tranh chấp, biểu tình, thiếu lương thực, và của cả một môi trường tự nhiên bị tàn phá. Chính con người đang gây ra những đau thương cho chính đồng loại của mình. Bình an xem ra là một xa xỉ cho nhiều dân tộc và quốc gia. Mà nguyên nhân sâu xa của vấn nạn này là chính do con người với lối sống ích kỷ, hưởng thụ mà quên tinh thần chia sẻ và trách nhiệm. Con người chỉ muốn an định, cố thủ cho riêng bản thân mình. Theo quan niệm càng tích trữ càng nhiều thì càng đảm bảo an toàn. Nghĩ thế nên con người đua nhau tranh dành. Và càng tranh dành thì bình an đâu không có mà thấy chỉ thêm nhiều bất ổn mà thôi.

Con người không thể đem lại bình an cho nhau được. Con người chỉ có thể chúc cho nhau bình an mà thôi. Như chuyện con người không thể tạo ra dòng điện mà chỉ góp phần để thu lấy nguồn điện đã có sẵn trong tự nhiên. Bình an được nói ở đây không là chuyện chúng ta thoát ra khỏi những khó khăn, rắc rối, cũng không là một sự nhàn hạ, an thân mặc cho cuộc đời đang biến chuyển, không là sự an toàn của một thiếu nữ trong bốn bức tường của ngôi nhà mình. Nhưng ở đây là bình an đến từ Đức Giêsu - bình an thật. Một sự bình an không có đau khổ, rắc rối nào có thể cướp được. Đây mới là bình an thật mà chúng ta phải tìm kiếm. Nếu như ở trên là một thứ bình an ngoại tại, mong thoát ra khỏi những bất ổn thì ở đây là bình an nội tại cho dù đang sống trong những bất ổn. Đây là sự bình an chỉ có nơi Đức Giêsu - Đấng đã chiến thắng đau khổ và sự chết. Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha.

Chúng ta được bình an vì chúng ta chiếm hữu được Thiên Chúa. Thật sự nhận ra sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Việc này đòi hỏi chúng ta phải có niềm tin và mắt "thịt" này không thể nhìn thấy được. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận sự bình an bên ngoài nhưng chúng ta trước hết phải tìm cái bình an nội tâm. Để từ nền tảng này ta thánh hoá những hoàn cảnh bên ngoài mà có được bình an ngoại tại nữa.

Càng ngày con người càng cảmt hấy bất an. Vì con người không đón nhận được bình an của Chúa. Con người đã loại trừ Thiên Chúa. Con người nghĩ rằng tự bản thân mình có thể tạo dựng được sự an định lâu dài nhờ những khả năng và thành tựu đạt được. Con người đã quên đi cái bình an nền tảng. Bao lâu con người chưa nhận ra được sự hiện hữu của Thiên Chúa thì bấy lâu con người chưa có bình an đích thực. Và hơn thế nữa, chúng ta không chỉ được mời gọi hưởng bình an của Chúa mà chúng ta còn được kêu gọi cộng tác kiến tạo bình an và đem bình an cho người khác.

----------------------------

 

PS 6-C84: CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH C.


Ga 14, 23-29

Đức Giê-su nói: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy".

 

Thông thường trong cuộc sống, chúng ta hay sử dụng lời nói để diễn tả những suy nghĩ, những tâm: PS 6-C84


Thông thường trong cuộc sống, chúng ta hay sử dụng lời nói để diễn tả những suy nghĩ, những tâm tư tình cảm của mình đối với người khác. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, lời nói cũng không thể diễn tả cách trọn vẹn được suy nghĩ của chúng ta. Do đó, chúng ta lại dùng những cử chỉ khác như nét mặt, ánh mắt,... để diễn tả những điều chúng ta muốn nói. Chẳng hạn như chúng ta thường biểu lộ niềm vui bằng tiếng cười, biểu lộ nỗi buồn bằng tiếng khóc, hay biểu lộ nỗi mệt nhọc bằng những tiếng thở than...Chính vì thế khi nghe thấy những tiếng khóc, tiếng cười, tiếng than thở đó, thì cho dù người đó không nói ra, thì người khác cũng phần nào hiểu được nỗi lòng của người thốt ra những tiếng đó. Đối với tình yêu cũng vậy, người ta không thể dùng những con số, hay những kiểu nói ước lượng, như kiểu nói "Tôi yêu anh chừng một ký, hay một tấn", hoặc là nói: "Tôi mến anh dài 100 cây số" được. Nhưng khi muốn diễn tả tình yêu, người ta thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ yêu mến của mình. Chỉ cần nhìn cảnh những người cha sẵn sàng thức khuya, dậy sớm ra đồng làm viêc; nhìn thấy những người mẹ chấp nhận hy sinh nhịn đói, chịu khó để lo cho con cái được ấm no, được ăn học, được thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể, mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Vì thế, Thánh Augustinô còn nói: "Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ".

Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động thật cụ thể. Dấu chỉ đó Chúa Giêsu muốn chúng ta chính là sự vâng giữ lời của Người, cụ thể là chúng ta đã nghe trong bài Tin mừng: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy...". Yêu mến Chúa, là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm theo điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải hành động yêu thương thật sự cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta sẽ thấy có một điều hết sức tự nhiên, đó là khi yêu mến ai, chúng ta thường cố gắng bằng mọi cách để làm vui lòng người đó. Và một trong những cách chúng ta thường thực hiện để làm vui lòng người mình yêu mến, đó là cố gắng nhanh chóng thực hiện mọi ý muốn của người đó. Cứ quan sát các một đôi bạn trẻ đang yêu nhau, chúng ta thấy họ luôn muốn làm đẹp lòng nhau, họ luôn để ý đến nhau, chỉ cần phát hiện một ánh mắt, một cái nhíu mày, một cử chỉ, hay một ý muốn nào đó của người này, thì lập tức người kia sẽ cố gắng thực hiện cho bằng được. Như vậy, một đứa con không thể nói rằng nó yêu cha mến mẹ, mà nó cứ luôn làm cho cha mẹ nó buồn, luôn làm những điều mà cha mẹ nó không muốn; cũng không thể có một người chồng luôn miệng nói với vợ rằng anh yêu em, mà ngày nào cũng đánh vợ, rồi chửi mắng vợ, rượu chè say sưa, nhục mạ vợ mình; cũng không thể có một người vợ nói với chồng là em yêu anh, rồi hằng ngày cứ bỏ bê nhà cửa, bỏ chồng, bỏ con, rồi đi nói xấu chồng, còn muốn bỏ chồng nữa. Hay là trong anh chị em chúng ta, không thể có người nói: tôi mến anh chị lắm, tôi thông cảm với anh chị lắm, tôi ngưỡng mộ anh chị lắm, rồi sau đó đi nói xấu, chê bai, khinh dễ, người đó được. Quả thật, những người như vậy nói yêu mà chẳng có hành động yêu một chút nào hết.

Hiểu được như vậy, thì chúng ta cũng hiểu được việc tuân giữ lời Chúa của chúng ta chính là dấu chỉ rõ ràng nhất, để chúng ta chứng tỏ lòng yêu mến của mình đối với Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa nhiều, chúng ta sẽ càng cố gắng thực hiện những điều Ngài muốn. Một lần nữa, chúng ta nghe lại lời khẳng định của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay là: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy". Thế nên, yêu mến và giữ lời, thì chúng ta đã và đang thực hiện rồi đó, nhưng làm như thế thì Chúa còn ban cho chúng ta một ân huệ đặc biệt nữa, đó là: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy". Như vậy, chúng ta còn được Chúa Cha yêu mến vì chúng ta đã tuân giữ lời Đức Giêsu, và không chỉ được Chúa Cha yêu mến, chúng ta còn được vinh dự đón tiếp cả Ba Ngôi đến ngự trong tâm hồn của chúng ta nữa. Và nếu có cả Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong chúng ta, thì mỗi người chúng ta thật sự xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, một đền thờ thánh thiện, tốt đẹp, và là một đền thờ yêu thương luôn thể hiện tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người.

Lắng nghe lời Chúa trong bối cảnh của xã hội hôm nay, một xã hội thực dụng, đánh giá mọi sự dựa theo những giá trị vật chất trước mắt, chắc chắn là không dễ dàng gì. Tuy nhiên, để xứng đáng là người môn đệ của Chúa, và nhất là để minh chứng lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng hãy mau mắn tuân giữ các lời dạy của Chúa bằng cả tấm lòng của mình. Chúng ta hãy can đảm sống theo lời dạy của Chúa với tất cả niềm tín thác, niềm cậy trông, tình yêu mến.

Nhìn lại gương Chúa Giêsu, chúng ta đã thấy Ngài vì yêu mến Chúa Cha, và vì yêu thương nhân loại nên Ngài đã thi hành thánh ý của Chúa Cha, cho dù Ngài phải chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá.

Để thực thi Lời Chúa dạy hôm nay, tôi đề nghị những việc thực hành cụ thể như sau:

1. Đọc kinh hôm mai là một bổn phận thờ phượng Chúa. Nó còn là một truyền thống đạo đức tốt đẹp trong các gia đình Công Giáo. Tuy nhiên ngày nay, trong xã hội phát triển, đời sống con người được nâng cao thì đồng thời cũng tạo ra những lỗ hổng về đạo đức: chẳng hạn như mỗi người tìm cho mình một cách giải trí riêng vào ban tối đến, và do đó, có nhiều gia đình đã bỏ mất truyền thống đọc kinh ban hôm, truyền thống đạo đức tốt đẹp này. Có hình ảnh nào đẹp cho bằng mỗi buổi tối cha mẹ và con cái quây quần bên bàn thờ trong gia đình để đọc kinh thờ phượng Chúa, cùng đọc một đoạn Phúc Âm để cả gia đình cùng nghe và cùng sống Lời Chúa, cùng cầu nguyện chung với nhau.

2. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy biết sống yêu thương bác ái, tha thứ cho nhau. Chúng ta biết cảm thông và nâng đỡ những người nguội lạnh, chúng ta biết thăm viếng, an ủi những gia đình đang gặp hoạn nạn, đau yếu. Và nhất là chúng ta biết cầu nguyện cho những gia đình chung quanh chúng ta, nhất là những gia đình đang gặp hoạn nạn, đang gặp khó khăn.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết noi theo gương của Chúa, để mỗi khi chúng ta thốt lên Chúa ơi, con yêu mến Chúa thì chúng ta cũng sẽ làm trọn theo những điều Chúa dạy, để cuộc sống của mỗi người chúng ta luôn là một cuộc sống bình an trong tay Chúa, và cũng là một cuộc sống vui tươi trong vòng tay yêu thương thân ái của tất cả mọi người. Amen.

----------------------------

 

PS 6-C85: VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN


Ga 14, 23-29

1.LỜI CHÚA: "Thầy đi thì ích lợi cho anh em" (Ga 16,7).

2.CÂU CHUYỆN:

 

ME-RI-ƠN OÉT (Marion West) là một bé gái 4 tuổi. Ngày nào ............. Tin Mừng CN hôm nay ghi PS 6-C85


ME-RI-ƠN OÉT (Marion West) là một bé gái 4 tuổi. Ngày nào bé cũng vui mừng nhảy nhót khi thấy mẹ từ chỗ làm tới đón về nhà ăn trưa. Vì bận phải đi làm việc gần nhà nên từ sáng sớm, mẹ cô bé đã đem con nhờ người hàng xóm tốt bụng trông giúp. Rồi đến trưa bà tranh thủ ra khỏi chỗ làm để đi đón con, và hai mẹ con hối hả trở về nhà cùng ăn trưa và vui đùa bên nhau. Rồi đến một giờ chiều, bà lại phải từ giã bé để đến chỗ làm tiếp tục công việc. Sau đó, bé ME-RI-ƠN thường buồn tủi ngồi im lặng hàng giờ đồng hồ. Thế rồi, theo lời khuyên của chuyên gia tâm lý, một ngày kia, mẹ bé đã thôi không về nhà vào mỗi buổi trưa đón bé nữa. Trưa hôm ấy, bé ME-RI-ƠN buồn rầu không thiết ăn uống. Em cứ thắc mắc tại sao mẹ lại không về nhà ăn trưa và chơi đùa với em ? Nhưng rồi lâu ngày bé quen dần và trở lại vui vẻ như trước. Nhiều năm sau đó, ME-RI-ƠN mới được mẹ kể cho biết bấy giờ hàng ngày bà vẫn trở về nhà, nhưng không ghé đón cô. Bà thường ngồi bên cửa sổ nhà bếp vừa ăn trưa vừa nhìn con vui chơi với các bạn bên nhà hàng xóm. Bà ao ước được chạy lại ôm ấp cô cho thỏa lòng. Nhưng vì muốn cho con trưởng thành, bà đành nén lòng lại, để con quen dần với sự vắng mặt của bà mà phát triển tâm lý bình thường như bao trẻ khác. Giờ đây khi đã khôn lớn, ME-RI-ƠN mới hiểu lý do tại sao mẹ cô lại làm như thế, và cô lại càng biết ơn mẹ nhiều hơn.

3.SUY NIỆM:

Tin Mừng CN hôm nay ghi lại lời Chúa Giê-su tâm sự với các môn đệ  trong bữa Tiệc Ly trước khi Người lìa bỏ các ông ra đi chịu khổ nạn và gồm hai điểm chính như sau:

1) Đức Giê-su hứa ban Thánh Thần: Khi nghe Đức Giê-su tiên báo việc Người sắp ra đi chịu khổ nạn rồi mới được Chúa Cha tôn vinh (x Mc 10,33-34), các môn đệ rất đỗi buồn phiền chán nản. Đức Giê-su đã phải an ủi khích lệ các ông khi cho biết việc Người ra đi là để dọn chỗ rồi sau đó Thầy trò lại sẽ lại được đòan tụ với nhau, nên lẽ ra các ông phải vui mừng vì Người được Chúa Cha tôn vinh. Hơn nữa các ông sẽ không bị mồ côi vì Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến an ủi và phù giúp các ông chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời. Quả thật sau khi Chúa Giê-su thăng thiên, các môn đệ không còn thấy Người hiện ra nữa. Nhưng Chúa Thánh Thần đã được sai đến vào lễ Ngũ Tuần đến thay Người giúp các ông chu tòan sứ vụ loan Tin Mừng như Người đã hứa: "Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 26).

2) Vai trò của Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần giống như một Thầy giáo phụ đạo, sẽ soi sáng và giúp các môn đệ hiểu rõ lời Đức Giê-su dạy và giúp các ông chu tòan sứ vụ làm chứng nhân tình thương của Người đến tận cùng trái đất (x Ga 15,26-27).

3) Ích lợi của việc Đức Giê-su ra đi: Sau khi hoàn tất công việc được Chúa Cha trao phó, Đức Giê-su đã trao lại sứ vụ cứu độ trần gian cho Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần. Dù rất yêu thương các môn đệ và luôn muốn ở bên các ông, nhưng Đức Giê-su vẫn quyết tâm ra đi, vì điều đó mang lại lợi ích thực sự cho các ông. Nó vừa giúp các ông trưởng thành về đức tin hơn, lại vừa giúp họ đón nhận được đầy ơn Thánh Thần để chu tòan sứ vụ được sai đi (x Ga 20,22-23), loan báo Tin Mừng và dạy dỗ người ta (x Mt 28,19-20), làm chứng nhân cho tình thương của Thầy Giê-su "cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).

4) Ứng dụng vào thực tế: Câu chuyện của bé ME-RI-ƠN nói trên phù hợp với ý nghĩa bài Tin mừng hôm nay. Điều thích hợp và hữu ích đối với cô bé bốn tuổi ME-RI-ƠN và các môn đệ của Đức Giê-su, cũng hữu ích cho các tín hữu chúng ta hôm nay. Có những lúc, chúng ta có cảm tưởng như bị Thiên Chúa bỏ rơi: Khi ta chán nản, không còn thiết tha với việc cầu nguyện hằng ngày, với việu chầu trước Nhà Tạm thờ Chúa Giê-su Thánh Thể... Có những lúc đức tin của chúng ta trở nên yếu đuối khác hẳn với sự mạnh mẽ trước đó. Cũng có khi chúng ta không còn hứng thú với các sinh hoạt đòan hội như đi họp, đi làm công tác thăm viếng, quét dọn vệ sinh nhà Chúa, đi tập hát phục vụ trong thánh lễ... Chúng ta có cảm tưởng như bị Thiên Chúa bỏ rơi giống như Đức Giê-su hấp hối trên thập giá đã phải thốt lên: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. Sao Ngài bỏ rơi con?" (Mc 15,34). Tuy nhiên điều đó lại trở thỳanh cơ hội giúp chúng ta trưởng thành về đức tin, tập yêu Chúa cách quảng đại vô điều kiện, vững tin cậy vào Chúa, tin rằng Chúa để xảy ra tình trạng đó là nhằm thử thách đức tin của chúng ta. Chúa sẽ ban thêm sức mạnh giúp chúng ta vượt qua thử thách. Điều cần phải làm là vững tin vào tình thương của Chúa và chờ đợi chắc chắn Chúa sẽ ban nhiều hồng ân giúp đỡ ta như lời Chúa đã quả quyết với thánh Phaolô được ngài ghi lại như sau: "Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy d0ược biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi" (2 Cr 12,9).

5) Kết luận: Chúa Giê-su luôn yêu thương chúng ta. Người muốn hiện diện ở bên để chăm sóc chúng ta là đòan chiên của Người. Nhưng Người biết rằng: Nếu Người lánh mặt đi thì sẽ có lợi cho chúng ta hơn. Người biết đã đến lúc chúng ta cần phải lớn lên về tâm linh, giống như Chúa Giê-su thấy đã đến lúc phải lìa bỏ các môn đệ để đem lại lợi ích cho các ông. Đây cũng là cơ hội để chúng ta nhận ra rằng: việc cầu nguyện có giá trị không hệ tại ở chỗ cảm thấy xúc động nhiều ít,nhưng là lúc tâm hồn chúng ta bị khô cứng như đá, không cảm thấy sốt sắng gì cả. Nhưng đó lại là lời cầu nguyện có giá trị nhất về đức tin. Qua đó, chúng ta hiểu rằng: Đức tin chân chính là một tâm tình dâng hiến, là một thái độ phó thác cậy trông vào Chúa quan phòng, là một lời thưa "xin vâng" thánh ý Chúa Cha như Chúa Giê-su và Đức Ma-ri-a đã trải qua để nêu gương cho chúng ta học tập (x. Mt 26,39; Lc 1,38). Do đó khi dự lễ hay chầu Mình Thánh Chúa, chúng ta không cảm thấy Chúa hiện diện thực sự trong tấm bánh miến, nhưng chúng ta "hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì". Bấy giờ đức tin của chúng ta sẽ được Chúa chúc phúc, như lời Chúa Phục Sinh đã nói với ông Tô-ma: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29).

4.THẢO LUẬN:

1- Khi gặp cơn khủng hoảng về đức tin (chán ngại cầu nguyện, lười biếng làm các việc đạo đức bác ái...bạn sẽ vượt qua khủng hoảng ấy bằng cách nào?

2- Bạn sẽ làm gì để lời chúc bình an cuối lễ được ứng nghiệm trong đời sống thường ngày ?

5.NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa đã hứa rằng: sau khi Chúa ra đi thì Đấng Bảo Trợ khác là Thánh Thần sẽ được Chúa Cha sai đến, để tiếp tục dạy dỗ và làm cho các môn đệ nhớ lại mọi điều Chúa đã truyền dạy trước đó. Chính Thánh Thần sẽ giúp Hội thánh, trong đó có mỗi người chúng con thêm lòng yêu mến Chúa để thực hành được giới răn quan trọng nhất là "mến Chúa yêu người".

- LẠY CHÚA, cho tới bây giờ hầu như chúng con mới chỉ yêu thương tha nhân bằng sự cầu nguyện, bằng lời nói hơn việc làm. Xin Chúa sai Thánh Thần đến canh tân lòng trí chúng con. Xin cho chúng con ý thức tình yêu phải được thể hiện bằng sự năng nghĩ đến người mình yêu, quên mình và hy sinh phục vụ người bên cạnh, quảng đại chia sẻ giúp đỡ người nghèo có đủ cơm ăn áo mặc, người bệnh có đủ thuốc men chữa bệnh, người đau khổ tìm được sự cảm thông an ủi, người lạc đường được Chúa dẫn đưa về nẻo chính đường ngay.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH www.hiephoithanhmau

----------------------------

 

PS 6-C86: SÁNG KIẾN

Ga 14, 23-29

Lm Vũđình Tường

 

Không phải tất cả các sáng kiến đều sáng cả đâu. Có những tư tưởng gọi là sáng nhưng bản chất của nó: PS 6-C86


Không phải tất cả các sáng kiến đều sáng cả đâu. Có những tư tưởng gọi là sáng nhưng bản chất của nó tối mò. Sáng kiến mang bản chất tối có thế nói đùa là độ sáng của nó lớn vừa đủ soi sáng cái kiến.

Tư tưởng mới phát sinh mỗi ngày. Có những thay đổi chỉ bùng lên một thời rồi chìm vào quên lãng, lại cũng có những thay đổi vững chắc biến đổi xã hội. Thay đổi phát sinh bởi hoàn cảnh mới đòi giải quyết vấn đề mới phát sinh mà truyền thống cũ không đáp ứng thoả đáng hay tệ hại hơn là truyền thống cấm đoán vì trái nghịch với truyền thống. Thay đổi ảnh hưởng mạnh đến xã hội, làm thay đổi lối suy nghĩ, cách đối xử, cách điều hành công việc. Lối ăn, cách uống từ nhà, ngoài ngõ đều ảnh hưởng bởi những sáng kiến. Những thay đổi này ảnh hưởng đến việc đề nghị xét lại cách thực hành và tinh thần sống đạo truyền thống. Khi những đề nghị thay đổi không được chấp thuận sẽ xảy ra tình trạng đơn giản là phê bình, lớn hơn là bất mãn và tệ hại là sinh bè, lập nhóm, tạo phe, gây phái. Điều này dẫn đến việc chia rẽ trong cộng đoàn dân Chúa. Nhóm hỗ trợ thay đổi tự nhận là cấp tiến phê bình chỉ trích nhóm bảo thủ. Họ tự nhận là tân tiến, thích ứng với thời cuộc và chỉ trích Giáo Hội là chậm tiến, bảo thủ, không theo kịp đổi thay của thời đại. Còn một nhóm nữa đứng giữa thầm lặng, không ủng hộ cấp iến, cũng không chê bảo thủ, truyền thống, sao cũng được và sẵn sàng chấp nhận thay đổi cho thích hợp với hoàn cảnh.

Sáng kiến dẫn đến thay đổi cần khuyến khích, cổ võ nếu sáng kiến đó bảo vệ sự sống, cổ võ tình yêu chân chính và tinh thần phục vụ vô vị lợi vì những điều này hợp với giáo huấn của Đức Kitô truyền dậy. Truyền thống dù cũ mấy cũng là truyền thống có giá trị và tốt đẹp khi truyền thống cổ võ bảo vệ sự linh thánh của con người và hợp với điều Đức Kitô truyền dậy về luật yêu thương và phục vụ. Sáng kiến, đề nghị xem ra sáng sủa, nghe hợp lí, thích ứng với hoàn cảnh cần phải cẩn trọng khi đón nhận vì đằng sau những lí thuyết xem ra hợp lí, ăn khách, thức thời nhưng không chừng có ẩn dấu mầm mống làm hại sự sống để mưu ích riêng cho thiểu số, phe đảng. Sáng kiến trên lí thuyết dựa vào sự sống, phục vụ để đòi thay đổi nhưng thực tế, trong thực hành, không trực tiếp bảo vệ sự sống, không chân thành cổ võ tình yêu chân chính và không thành tâm thiết tha phục vụ tha nhân vô vị lợi đều trái giáo huấn của Đức Kitô. Mọi đề nghị, tư tưởng cho là cao siêu hơn giáo huấn của Đức Kitô đều ngầm chứa tinh thần kiêu ngạo. Những gì thuộc về kiêu ngạo không thể đến từ Thiên Chúa yêu thương vì bản chất của yêu thương là khiêm nhường phục vụ.

Giáo huấn của Đức Kitô không bao giờ lỗi thời vì giáo huấn của Ngài vượt lên trên thời gian. Vì tư tưởng của Ngài đến từ Thiên Chúa hằng sống cộng với hướng dẫn của Thánh Thần Chúa nên giáo huấn của Ngài luôn mới với mọi thời đại, thích hợp với mọi truyền thống và hợp với mọi dân tộc. Nếu cần đổi thay cho thích hợp với giáo luật yêu thương thì đối tượng đổi thay là truyền thống, là phong tục, là tập quán địa phương cần thay đổi cho trong sáng hơn, thích hợp với luật yêu thương tha thứ và phục vụ.

Câu chuyện thầy giáo yêu cầu học sinh viết luận về giáo huấn của Đức Kitô liên quan đến bảo vệ đời sống, cổ võ yêu thương chân thành và phục vụ tha thiết. Trong đó có lời phê bình cho thấy không phải mọi thay đổi đều tốt; cũng như không phải mọi truyền thống đều dở.

Bài văn của em có nhiều tư tưởng hay và nhiều tư tưởng mới. Không may tư tưởng mới thì không hay và tư tưởng hay thì không mới.

Chúng ta cần thay đổi cho thích hợp với hoàn cảnh, với tiến bộ khoa học nhưng căn bản phải đặt trên giáo huấn của Đức Kitô về phương diện bảo vệ sự linh thánh của cuộc sống, yêu thương chân chính và chân thành phục vụ tha nhân vô vị lợi. Thay đổi trái nghịch giáo huấn của Đức Kitô là không yêu mến Ngài

Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy Gioan 14,23.


----------------------------

 

PS 6-C87: CHÚA GIÊSU PHỤC SINH SẼ VỀ VỚI CHÚA CHA...


Ga 14, 23-29

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

Chúa Giêsu phục sinh ở lại với các môn đệ một thời gian để củng cố lòng tin của các Ngài, đồng: PS 6-C87


Chúa Giêsu phục sinh ở lại với các môn đệ một thời gian để củng cố lòng tin của các Ngài, đồng thời cũng là đức tin của Hội Thánh sơ khởi. Chúa phục sinh vẫn cố gắng làm cho các môn đệ hiểu những gì sắp xảy ra và những gì sẽ đến sau đó. Tuy nhiên,đây không phải là một điều dễ dàng. Bởi vì các môn đệ hiểu một đàng, Chúa loan báo điều trái ngược với các Ngài...

Chương 14 của Thánh Gioan ở đây không phải là một diễn từ, diễn văn nhưng thực sự là những lời hết sức thân mật, tâm huyết giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Đây là những lời tâm sự, cuộc trò truyện hết sức ân tình. Các môn đệ luôn có quan niệm Chúa Giêsu là vua và các Ngài được tham dự, được chia chác các chỗ ngồi trong Vương Quốc của Ngài. Chúa Giêsu lại loan báo Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ, chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Đây là một quan niệm, một quan điểm hoàn toàn trái ngược với ý nghĩ của các môn đệ, các tông đồ. Các môn đệ lúc đó, chẳng hạn như Thánh Phêrô cản ngăn việc Chúa, Toma xin Chúa chỉ đường vì các Ngài không biết đường làm sao mà đi vv...Ông Giuđa lại cho chúng ta thấy sự mù mịt của các tông đồ hồi ấy:" Thưa Thầy tại sao Thầy lại cho chúng con mà không tỏ cho thế gian thấy ". Đúng là sương mù dày đặc bủa vây và khép kín các tông đồ. Tại sao Chúa Giêsu lại chỉ âm thầm với một nhóm các tông đồ mà không xuất hiện cách hoành tráng, uy nghi lẫm liệt như khi vào thành Giêrusalem. Tại sao Chúa Giêsu lại tâm sự, tâm tình hay nói cách khác hết sức tâm huyết với các tông đồ...Đọc lại Tin Mừng, chúng ta nhận thấy vào ngày Lễ Lều là ngày lễ lớn, lễ trọng của người Do Thái, anh em, họ hàng của Chúa Giêsu đã nói với Ngài:" Ông bỏ đây mà sang miền Giuđê đi, để cả môn đệ của ông cũng nhìn thấy những việc Ông làm, vì không ai muốn người ta biết đến mà lại hoạt động, làm việc cách âm thầm.Một khi Ông làm được như thế thì hãy tỏ mình ra cho thế gian " ( Ga 7, 4 ).

Thật ra, Chúa Giêsu đã rất nhẹ nhàng và thâm trầm nói cho mọi người biết:" Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy ". Ngài không nói ai theo Thầy thì phải làm những việc cao siêu, lạ lùng, đánh Đông dẹp Bắc vv...Nhưng là giữ lời Thầy. Đàng trước chữ giữ là chữ " nếu ". Nếu ai yêu mến Thầy thì tất nhiên phải giữ lời của Thầy. Chữ nếu liên kết chặt chẽ lòng con người với cách ăn nết ở của con người đối với Chúa. Hậu quả của việc giữ lời Chúa thì " Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy ". Chúa Cha và Chúa Con sẽ đến và ở trong người ấy. Đó là một sự kỳ diệu, lạ lùng.Bởi vì, trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu luôn tha thiết cho mọi người yêu thương nhau như Ngài yêu thương và tha thiết cho mọi người nên một.Những lời tâm huyết của Chúa Giêsu, các tông đồ chưa hiểu ngay đâu. Các môn đệ Chúa phải chờ Chúa Thánh Thần xuống, những lời của Chúa các Ngài mới hiểu được cách rõ ràng, từng câu từng chữ, từng ly từng tý và những lời này trở nên nguồn mạch sự sống mới cho các môn đệ. Ngày nay, người Kitô hữu nào tin vào những lời của Chúa đã nói với các môn đệ xưa, cũng được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, tác động và Chúa Ba Ngôi sẽ đến, ngự trị, biến đổi tâm hồn của họ.

Xin được mượn lời của Jean-René Fracheboud để kết luận bài suy niệm này:" Chúa ban cho chúng ta Thần khí của Ngài, Đấng hé lộ dần dần trong lịch sử , một lời tự do hầu cho chúng ta khai phá những con đường Tin Mừng. Đã bao nhiêu lần, một mình hay với cả cộng đoàn, chúng ta đã có thể có kinh nghiệm về một lời Kinh Thánh bất chợt làm sáng tỏ một phần cuộc sống của chúng ta, một lời cho chúng ta sức mạnh và sự mạnh dạn để lấy một quyết định quan trọng, một lời mang lại cho chúng ta sự bình an nội tâm lớn lao trong những hoàn cảnh khó khăn...Chúng ta chạm ngón tay vào một thứ gì đó lấp lánh, thứ làm cho chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Kitô giữa chúng ta, trong chúng ta. Như thế chúng ta sẽ cảm nhận được sự thật sâu sắc và tính hiện tại của Lời Chúa Giêsu:" Nếu ai yêu mến Thầy...,Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, chúng ta sẽ đến và ở lại trong người ấy ".


----------------------------

 

PS 6-C88: BÌNH AN CỦA CHÚA


Ga 14, 23-29

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

 

Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 14, 23-29) nằm trong bối cảnh của nỗi bất an, lo sợ. Đây là thời gian: PS 6-C88


Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 14, 23-29) nằm trong bối cảnh của nỗi bất an, lo sợ. Đây là thời gian diễn ra bữa tiệc biệt ly của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người. Chúa Giêsu chuẩn bị bước vào cuộc tử nạn. Chúa cũng đã nhìn thấy sự hoang mang, dao động hiện trên khuôn mặt của những người theo Chúa. Giữa lúc sợ hãi và u sầu bao trùm tâm tư mọi người hiện diện, thì lời an ủi của Chúa lại là lời chúc bình an: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi".

"Bình an của Thầy" ư? Bình an của Thầy là bình an như thế nào? Sao lại "không như thế gian ban tặng"? Đã gọi là bình an sao còn phân biệt "của Thầy", "của thế gian"? Thốt lên lời trao ban bình an giữa lúc bất an nhất, xáo trộn nhất, hình như lời Chúa Giêsu trở thành lời không thích hợp trong lúc ấy?

Trước khi tiếp tục suy nghĩ, chúng ta cần khẳng định dứt khoát rằng, Lời Chúa là Lời chân lý. Vì thế, bình an mà Người trao ban là chính bình an của Đấng Cứu Độ ban tặng người trần thế.

Trong Thánh Kinh, bình an (salom) không có nghĩa là thoát ly khỏi mọi đớn đau, lo sợ. Nói đến bình an, chúng ta hay nghĩ, đó là cuộc sống thoải mái, không đụng chạm rắc rối hay đối đầu với đau khổ. Bình an mà Chúa muốn nói không như thế. Đúng hơn, đó là bình an mà thế gian phải tìm tòi. Thực tế, bình an của thế gian thường là thứ bình an do tránh né đương đầu với khó khăn, do chạy trốn những bất ổn mua lấy sự yên thân hơn là tạo được một tâm hồn bình an. Bình an đó không bền vững, nhưng chóng vánh. Chỉ có bình an thật sự trong tâm hồn mới là bình an cần thiết cho cuộc đời chúng ta. Bình an mà Chúa ban cho chúng ta là bình an chiến thắng của nội tâm con người. Nó là kết quả của bao nhiêu cam go, dằn vặt, chấp nhận, và chịu đựng mới có thể có được. Một khi đã có được tâm hồn bình an, không có bất cứ một hoàn cảnh nào của cuộc sống trần thế có thể cướp mất được. Bình an của tâm hồn hoàn toàn độc lập với mọi hoàn cảnh bên ngoài. Giữa lúc môn đệ rơi vào bi quan nhất, giữa lúc các ông sắp phải đối diện với những mất mát tận cùng, Chúa ban ơn bình an của tâm hồn để các ông đủ can đảm mà chiến thắng. Ơn bình an này cần thiết biết bao nhiêu cho đoàn môn đệ của Chúa. "Bình an của Thầy" là như thế. Bình an ấy không thể nào thế gian có thể có được để mà ban tặng.

Chính cái chết thập giá của Chúa nói lên tất cả ý nghĩa nội tâm của một tâm hồn bình an. Cái chết ấy bày ra trước mắt ta một nghịch lý thật lớn: Bởi nhìn bên ngoài, Chúa bị hành hạ, bị đánh đập, bị lột trần, bị đóng đinh, bị sỉ nhục cách tàn bạo và cái chết đang treo trước mắt..., làm sao một con người như thế lại có bình an? Còn những kẻ hả hê, những kẻ chủ mưu của tội ác giết người, những kẻ xem ra chiến thắng vì đã hoàn tất cuộc loại trừ dành cho Giêsu, chắc chắn phải là những kẻ cảm thấy bình an hơn ai hết? Bởi loại trừ được Giêsu, là loại trừ thành công một con người đã làm cho họ mất ăn, mất ngủ bao nhiêu năm tháng. Loại trừ Giêsu là loại trừ thành công một con người đã lấy mất ảnh hưởng của họ nơi dân chúng vì phép lạ, vì giáo lý, vì lời giảng dạy, vì lối sống... của Người.

Nhưng đó là cái nhìn bên ngoài. Suy niệm thật thấu đáo về cái chết của Chúa Giêsu, ta thấy hoàn toàn ngược lại. Chính kẻ tấn công Chúa mới không một chút bình an. Họ liên tục sợ dân chúng gây áp lực, gây khó dễ, vì họ giết một người mà toàn dân mến mộ. Họ phải nhiều lần nặn đầu óc để tìm kế sách gài bẫy, sát hại Chúa Giêsu. Đến khi họ trút tất cả nỗi căm thù lên bàn tay vấy máu của mình để hoàn tất cuộc sát hại rồi, họ vẫn cứ hoang mang vì đã giết chết một người vô tội. Họ càng hoang mang vì đã giết chết Đấng đã từng xưng mình là Con Thiên Chúa. Nhiều người trong họ đã phải buộc miệng thốt lên: "Người này thật là Con Thiên Chúa".

Còn Chúa Giêsu, dù bị giết chết ô nhục, vẫn là người chan chứa bình an trong tâm hồn. Bình an của Chúa là bình an của Đấng đã hoàn thành thánh ý Chúa Cha. Chúa đã chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự dữ và trao ban ơn cứu độ cho trần gian. Chúa biết rõ, Chúa chết vì ai, chết cho ai, ích lợi do cái chết của Người mang lại cho trần thế lớn như thế nào. Chúa biết rõ, cái chết của Chúa không vô nghĩa. Cái chết ấy sẽ là cái chết làm vang lên tiếng yêu thương trên khắp trần thế qua mọi thế hệ. Tâm hồn Chúa bình an cho đến độ, trên thập giá đớn đau, giữa đám đông hầm hầm sát khí, Chúa vẫn cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Chúa thanh thản trối phú thánh Gioan cho Đức Mẹ, bình tĩnh trao linh hồn trong tay Chúa Cha và nhẹ nhàn nói lời hoàn tất rồi trút hơi thở trong bình an sâu lắng. Bình an trong nội tâm của Chúa Giêsu là bình an của sự tự nguyện hiến dâng mạng sống mình: "Không ai cất mạng sống Ta được nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta, Ta có quyền thí mạng sống Ta và Ta cũng có quyền lấy lại, đó là lệnh truyền Ta đã lĩnh nơi Cha Ta" (Ga 10, 18).

Chính Chúa là nguồn bình an. Vì thế, Người cũng là Đấng ban phát bình an. Chúa biết các môn đệ yếu đuối, mỏng dòn. Chúa biết các môn đệ sẽ vấp ngã vì Chúa. Chúa biết các ông cần bình an của Chúa. Trong giờ phút thử thách nhất của các môn đệ, Chúa ban bình an của Chúa cho các ông, giúp các ông vững vàng mạnh mẽ mà vượt qua. Lãnh lấy bình an của Chúa, các môn đệ dần dà củng cố đời sống của mình. Nhất là sau khi Chúa về trời, các ông đã can đảm thật sự, trưởng thành thật sự. Các ông bất chấp mọi bắt bớ, mọi thù hận và giết chóc. Các ông lao mình về phía trước, để nên giống Chúa Giêsu, các ông trở thành nguồn bình an và trao ban bình an tâm hồn cho con người trên khắp thế giới.

Chúng ta cũng hãy tiếp nối bước chân các tông đồ, lãnh nhận bình an của Chúa, để tâm hồn mãi mãi thuộc về Chúa. Khi đã có một tâm hồn bình an, chúng ta cũng sẽ trở thành nguồn bình an cho muôn người như Chúa và như các tông đồ.


----------------------------

 

PS 6-C89: HÃY QUAY LƯNG LẠI VỚI CÁC GIÁ TRỊ HƯ ẢO


VÀ CÁC QUYỀN LỰC GIẢ TRÁ

Ga 14, 23-29

Lm. Jude Siciliano, OP

 

Chúng ta đang ở vào đoạn gần cuối Sách Khải Huyền. Tuần tới chúng ta sẽ nghe các câu kết của sách: PS 6-C89


Chúng ta đang ở vào đoạn gần cuối Sách Khải Huyền. Tuần tới chúng ta sẽ nghe các câu kết của sách. Những tuần qua, tác giả Gio-an đã trò chuyện với chúng ta từ nơi ngài bị phát lưu ở đảo Pát-mô. Vì đã không chịu thần phục La-mã và vì từ chối gọi Xê-da là "Chúa" nên Ngài đã bị đày đến đó. Ngài ra đi, để lại anh chị em Ki-tô hữu của mình cũng đang chịu bách hại (1,9). Thế nên chẳng có gì lạ khi các thắc mắc được đặt ra: Tại sao Thiên Chúa lại có thể để cho những người tốt lành như thế phải chịu đau khổ cơ chứ? Tại sao kẻ dữ thịnh đạt hoài? Ai sẽ giành chiến thắng chung cuộc, Thiên Chúa hay các địch thủ của Người? Gio-an đã viết sách Khải Huyền hầu giúp trả lời cho các vấn nạn thách thức niềm tin ấy. Các vấn nạn này không chỉ rộ lên ở thời xưa, nhưng cũng là các vấn nạn đặt ra cho chúng ta nữa.

Sách Khải Huyền cho thấy, Gio-an đã cố gắng an ủi những giáo hội bị bách hại. Các giáo hội này mới có thể hiểu được các tư tưởng bí nhiệm ngập tràn trong Sách, còn những kẻ bách hại họ thì không. Viết cho các giáo hội gặp cảnh khổ đau, Gio-an đã khuyến khích họ kiên trì và hy vọng. Cơn bách hại vẫn còn đe dọa các Ki-tô hữu đó đây trong thế giới hôm nay và cũng vậy sách Khải Huyền có thể đem lại cho họ niềm an ủi và hy vọng. Sách khải huyền cũng ngỏ lời động viên đến giáo hội đương đại của chúng ta nữa, vì chúng ta cũng đang chịu dày vò vì những thương tích bên trong. Các thương tích này xuất phát từ nỗi đớn đau nhục nhằn có nguyên do bởi những vụ scandal mà chúng ta đang hứng chịu tại nhiều giáo phận rải rác khắp nơi trên thế giới. Những gì sách Khải Huyền soi sáng cũng có thể củng cố lòng quyết tâm của chúng ta trong lúc đương đầu với trào lưu phi tín ngưỡng và thái độ dửng dưng của thế giới quanh ta.

Sách Khải Huyền là một mảng thuộc văn chương khải huyền. Khải Huyền có nghĩa là "vén màn; tỏ lộ ra" và Khải Huyền là một cố gắng để "mạc khải" ý nghĩa lịch sử cho những ai đang trải bước qua những giờ phút kinh hoàng thống khổ. Sách Khải Huyền không phải là lời tiên báo chính xác về các biến cố tai ương trong tương lai, như những người bảo thủ bám vào nghĩa đen của sách Khải Huyền chủ trương. Đừng quên, Đức Giê-su đã nói với chúng ta rằng, chúng ta không thể biết được ngày giờ chính xác Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử vũ hoàn (Mc 13,32).

Sách Khải Huyền khởi đi từ ngai Thiên Chúa trên trời (1,12tt), tức là nơi lịch sử nhân loại đã khởi đi và sẽ tiến về. Gio-an thuật lại các thị kiến mà ngài đã chứng kiến về cuộc chiến giữa thiện và ác. Qua lối văn được mật mã hóa, Ngài có ý nói về La-mã (Con Thú) và Xê-da (Chương 13-17). Ngài cho đó là các địch thù của Thiên Chúa, như thể chính chúng là tất cả các quyền lực dưới đất đang hòng thay thế đường lối của Thiên Chúa. "Con Thú" là bất kỳ quyền lực nào phát sinh sự dữ; ấy là thù địch của Thiên Chúa qua mỗi thế hệ và cũng đã thu được nhiều thuộc hạ, tức những ai xiêu lòng trước cám dỗ của nó.

Xin nhớ cho rằng, sách Khải Huyền là một "mạc khải" giúp chúng ta thấy được những nỗi khổ đau trong quá khứ và hiện tại của chúng ta bằng cặp mắt đức tin, tin vào sự thiện hảo, lòng yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa như khiên che thuẫn đỡ. Khải Huyền cũng nói về tương lai với những lời quả quyết chứ không phải là những lời tiên báo chính xác. Gio-an nhắc nhớ chúng ta rằng, trong khi chúng ta không có quyền định đoạt tương lai, thì Thiên Chúa lại thực hiện điều ấy.

Căn cứ vào dấu chứng hiện tại, đúng là khó để biết được ai sẽ giành chiến thắng chung cuộc, Thiên Chúa hay Con Thú. Giữa cảnh đọa đầy sầu thảm, Gio-an đã viết lên một thư liệu chất chứa niềm tin khả thị ở tương lai để bênh đỡ tinh thần của các Ki-tô hữu đang sầu đau suy kiệt. Ngài bảo đảm với chúng ta rằng, rồi đây trong tương lai, Đức Ki-tô sẽ lại đến. Thoạt đầu, chúng ta đã thấy Người như Con Chiên bị giết (5,12), nhưng khi Người lại đến, chúng ta sẽ trông thấy Người trong vinh quang của Người. Người sẽ đến trong uy quyền, cỡi trên con ngựa trắng của Người, và Người sẽ được gọi là "Đấng Trung Thành và Chân Thật" và "Vua các vua, Chúa các chúa" (19,11-16). Sẽ có một cuộc chung thẩm khi mọi người tề tựu trước nhan Thiên Chúa, đấy là nơi người lành kẻ dữ chịu xét xử. Những ai được ghi tên trong Sách Sự Sống của Con Chiên (20,12) thì sẽ lãnh nhận phần thưởng dành cho họ.

Bây giờ chúng ta đến với trích đoạn Khải Huyền dành cho Chúa Nhật này. Câu chuyện đang tiến đến hồi kết và làm nổi bật sứ điệp hy vọng của sách Khải Huyền. Như chúng ta đã nghe trong tuần rồi, Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt chúng ta và xua trừ sự chết. Sẽ không còn kêu than nữa và mọi sự được đổi mới. Giờ đây chúng ta được trao ban thị kiến về Thiên Chúa và Con Chiên hằng lưu ngụ ngay giữa chúng ta, ấy cũng là chủ điểm giáo lý về niềm tin vào Thiên Chúa nhập thể của chúng ta. (Đề tài này cũng được tìm thấy trong Hr 11-12). Nơi thành Giê-ru-sa-lem trên trời, Thiên Chúa sẽ hoàn tất điều Người đã khởi sự và chúng ta sẽ hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và anh chị em chúng ta. Trời mới đất mới sẽ xuất hiện và Giê-ru-sa-lem mới sẽ từ trời mà xuống như Ê-dê-ki-en đã thị kiến (Ed 40,2). Nơi thành ấy, Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta và sẽ ủi an tất cả những ai đau khổ. Như Gio-an nói trong câu 22,5: "Sẽ không còn đêm tối nữa, họ không cần ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu soi trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời."

Con Chiên, Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, Người đã đổ máu trên thập giá, cũng sẽ hiện diện nơi Giê-ru-sa-lem mới. Chúng ta không thể tự cứu mình khỏi vòng tội lụy, và chúng ta cũng chẳng thể đơn thương độc mã mà đánh bại sự dữ nơi thế gian này. Thế nhưng điều chúng ta không thể đạt được với khả năng riêng của chúng ta, thì Thiên Chúa đã thực hiện cho chúng ta. Chúng ta là những người thụ lãnh ân sủng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chiến thắng khải hoàn và đã xóa bỏ tội lỗi của chúng ta.

Chuỗi ngày hết sức thống khổ cùng muôn vàn thử thách không chỉ xảy ra trong thời của Gio-an, mà vẫn còn kéo dài cho đến hôm nay. Gio-an đã kết thúc "mạc khải" của ngài với một thị kiến nảy sinh niềm hy vọng về những gì rồi đây sẽ thành hiện thực cho chúng ta. Không ai đòi chúng ta phải làm sáng tỏ hết thảy các biểu tượng trong sách Khải Huyền. Các biểu tượng ấy sẽ rất lý thú khi tìm hiểu trong những lúc rỗi rãi! Tuy nhiên ẩn tàng ở phần cuối quyển sách về các thị kiến này lại là những lời chất vấn chúng ta trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta có tin vào phần kết của câu chuyện này là, nhờ Thiên Chúa, sự thiện sẽ chế ngự điều ác hay không? Ngay cả khi dấu chứng về cuộc khải hoàn đang đến hiện rất ảm đạm, liệu chúng ta có thể giữ lấy niềm hy vọng của chúng ta nơi Thiên Chúa không nào? Sách Khải Huyền cũng là một lời mời gọi đáp trả lại những điều chúng ta đã nghe và đã đón nhận trong cuộc sống mỗi chúng ta. Trong Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta có được kinh nghiệm cá nhân về một tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cuộc đời chúng ta sẽ là một kiểu mạc khải về niềm hy vọng? Chúng ta sẽ làm chứng cho những người khác qua những cách xử sự, qua lời nói và việc làm của chúng ta chứ?

Bất chấp những gì đang diễn ra hiện thời, liệu chúng ta có thể tin vào những gì Gioan mô tả cho chúng ta, liệu chúng ta có thể tin vào Thiên Chúa là Đấng sẽ thâu về chiến thắng chung cuộc hay không? Sách Khải Huyền nhấn mạnh đến lòng thành tín yêu thương của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Giêsu tự nguyện chịu khổ hình vì chúng ta, là Con Chiên hiền lành bị đem đi giết. Tình yêu của Thiên Chúa là điều dành cho chúng ta bây giờ và sẽ là điều dành cho chúng ta trong tương lai nữa.

Sách Khải Huyền được viết theo truyền thống các văn phẩm khải huyền trong Cựu Ước, như sách Đa-ni-en chẳng hạn. Sách mạc khải một câu chuyện nhất quán về Thiên Chúa từ viễn cảnh của cả truyền thống Do-thái giáo lẫn Ki-tô giáo. Tại Giê-ru-sa-lem xưa, không có lầu đài nào thánh thiêng hơn Đền Thờ, tức trung tâm tôn giáo của Ít-ra-en. Thế nhưng trong sách Khải Huyền, Gio-an cho chúng ta biết rằng, "Trong thành, tôi không thấy có đền thờ." Gio-an đã thấy Giê-ru-sa-lem mới có hình thể lập phương, biểu trưng cho sự toàn hảo. Tự thân thành ấy có thể mang hình dáng như Đền Thờ Cực Thánh. Tại Giê-ru-sa-lem mới, Thiên Chúa sẽ tỏ hiện trước toàn dân một cách trực diện và có thể tiếp cận được, đấy là lời hứa mà Đức Giê-su đã nói với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng, "Này người phụ nữ, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem" (Ga 4,21).

Sách Khải Huyền một mặt tiếp bước chân ta kiên vững nơi những trận chiến hiện thời để sống đời sống Ki-tô hữu, mặt khác sách cũng tập trung hướng nhìn của chúng ta về những gì sẽ đến. Vẻ ngoài của thế gian là các quyền lực ngạo nghễ sẽ bị đánh bại cho dù hiện giờ chúng đang dương oai. Rồi đây, chúng ta sẽ cùng nhau cư ngụ trong bình an với Thiên Chúa ở giữa chúng ta. Thiên Chúa chẳng những sẽ không còn chỉ ở trong khuôn viên Đền Thờ, nhưng còn hiện diện với tất cả những ai lưu ngụ trong thành thánh. Có một câu ngạn ngữ vẫn thường nhắc nhớ chúng ta: chiếc áo không làm nên thầy tu, các lầu đài chẳng làm nên nhà thờ. Giáo Hội của chúng ta nhận Đức Giê-su như tâm điểm, là đầu và là "ngọn đèn" tỏa rạng (21,23) mà hiện nay hay trong tương lai chúng ta đều cần đến.

Gioan mời gọi chúng ta quay lưng lại với các giá trị ảo và các quyền lực giả trá của thế gian, thay vào đó chúng ta hướng về Thành Thánh mới là nơi Thiên Chúa ngự. Nếu chúng ta tin vào thị kiến của Gioan cũng như tin một ngày nào đó thị kiến ấy sẽ thành toàn, thì (ngoài Chúa và giáo hội người thiết lập ra) làm sao chúng ta có thể chọn điều gì khác hay ai khác được nữa cơ chứ? Gio-an đã xé toạc bức màn ra cho chúng ta và chúng ta có thể ngắm nhìn nơi cực thánh với tâm điểm là Thiên Chúa, Người cũng là trọng tâm đời sống của chúng ta nữa. Amen.

Anh Em HV Đaminh chuyển ngữ


----------------------------

 

PS 6-C90: ÂN SỦNG CHÚA


Ga 14, 23-29

Lm Vũđình Tường

 

Phúc âm thánh Gioan minh xác Chúa Cha yêu mến thế gian đến nỗi sai Con Một yêu dấu của Ngài: PS 6-C90


Phúc âm thánh Gioan minh xác Chúa Cha yêu mến thế gian đến nỗi sai Con Một yêu dấu của Ngài xuống thế gian để những ai tin vào Người Con thì được sự sống muôn đời. Đức Kitô xuống thế thực hiện ý Chúa Cha để tỏ tình yêu, lòng mến của Ngài với Chúa Cha. Con đường yêu mến Thiên Chúa là con đường vâng phục, giữ lời Chúa dậy

Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy c.23

Nên một


Bởi vì Chúa Cha yêu mến thế gian, những gì Chúa Cha yêu mến, Đức Kitô cũng yêu mến. Những gì Chúa Cha muốn cứu độ, thánh hoá, Đức Kitô cũng muốn cứu độ và thánh hoá.

Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy Gn 5,19

Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết Gn 6,38-39

Có thể nói tình yêu Chúa Cha và tình yêu Đức Kitô dành cho nhân loại là một. Cả hai khối tình Chúa Cha - Chúa Con được thể hiện trọn hảo nơi Đức Kitô. Tình thương Đức Kitô thể hiện toàn thiện đến nỗi vượt quá trí hiểu nhân loại. Thể hiện trên thập giá, cho đi chính sự sống mình.

Nên một còn được hiểu theo một nghĩa khác nữa. Đức Kitô ban cho Kitô hữu chính sự sống Ngài và cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần chia sẻ mọi tình huống an vui, sầu khổ trong cuộc sống của các Kitô hữu.

Ngoài Đức Kitô ra còn có cả Chúa Cha và Thánh Thần Chúa cùng cư ngụ trong tâm hồn Kitô hữu. Đây là quà tặng vô cùng trọng đại vì mỗi Kitô hữu trở thành đền thờ Thiên Chúa và đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa. Dù Kitô hữu không xứng đáng nhưng Thiên Chúa không ngại miễn là Kitô hữu tự nguyện vâng lời và chân thành tâm đón nhận lời Thiên Chúa


Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy  Gn 14,23

Nơi đâu Thiên Chúa ngự trị nơi đó tràn đầy ân sủng và bình an. Nơi đâu Thiên Chúa ngự trị nơi đó tràn đầy tình thương.

Ơn Thánh Thần


Khi yêu người ta luôn làm những gì tốt đẹp nhất cho người mình yêu và còn làm nhiều hơn cả điều người yêu mong muốn. Đó chính là mối tình Đức Kitô thể hiện với Chúa Cha. Chính nhờ mối tình này mà Kitô hữu nhận được vô vàn ơn đặc biệt, lạ lùng.

Ơn lạ đầu tiên chính là ơn Chúa Thánh Thần. Đức Kitô hứa ban Thánh Thần xuống để tiếp tục công việc hướng dẫn Kitô hữu. Thánh Thần hay Đấng Bảo Trợ đến không phải để thay thế Đức Kitô mà chính là để nối tiếp công việc Đức Kitô đã rao giảng. Thánh Thần làm công việc hướng dẫn, mặc khải những điều Đức Kitô dậy. Thánh Thần đóng vai thầy dậy trong mọi hoàn cảnh và không dậy điều gì mới nhưng chỉ dậy những gì Đức Kitô đã rao giảng

Thánh Thần sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy ra Gn 16,13

Như thế Thánh Thần sẽ làm sống lại lời Đức Kitô rao giảng và giải thích ý nghĩa lời Đức Kitô rao giảng. Từ chối đón nhận hướng dẫn của Thánh Thần là từ chối sự thật toàn vẹn. Thế giới chưa hết đau khổ vì từ chối hướng dẫn của Thần Chân Lí Đức Kitô sai đến.

Ơn bình an


Quà tặng thứ hai Đức Kitô tặng cho Kitô hữu là ơn bình an. Ơn bình an đặc biệt mà thế giới không thể có. Ơn đó phát xuất tự trong tâm hồn, bình an nội tâm, bắt đầu từ con tim yêu mến nồng nàn. Ơn bình an có sức mạnh giúp ta đón nhận ơn thống hối, tái nối kết tình bạn đứt đoạn và ban ơn chữa lành qua bí tích hoà giải và thứ tha.

Ơn bình an, Thần Khí Chúa và Chúa Ba Ngôi là những món quà đặc biệt, vô giá Đức Kitô ban cho nhân loại. Những ai đón nhận quà tặng Thiên Chúa trao ban trở thành Kitô hữu, dân riêng của Thiên Chúa.

Kitô hữu đón nhận quà tặng quí giá với tâm tình biết ơn, cảm mến với lòng tạ ơn, trìu mến sẽ tìm được bình an nội tâm và hưởng ơn cứu độ Chúa ban. Ơn đó đến từ Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ngoài ra Kitô hữu còn vui mừng đón nhận một đặc sủng khác nữa đó là vui mừng chào đón Đức Kitô đến lần thứ hai trong vinh quang, đầy uy nghi. Lời nhắn nhủ này gói trọn trong lời hứa ra đi và trở lại của Đức Kitô khi Ngài nói lời giã biệt Gn 14, 3

Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó

Nhờ sức mạnh của lòng tin Kitô hữu mong chờ và xác tín ngày Chúa đến trong vinh quang. Ngày tất cả các Kitô hữu đoàn tụ trên thiên quốc.


----------------------------

 

PS 6-C91: YÊU LỜI và GIỮ LỜI


Ga 14, 23-29

Lm. Anmai, CSsR

 

Là con người, ai cũng vậy, khi người thân mình đi xa thì thường để lại cho những người còn ở lại: PS 6-C91


Là con người, ai cũng vậy, khi người thân mình đi xa thì thường để lại cho những người còn ở lại những lời trối trăn, những lời căn dặn. Những lời ấy càng có ý nghĩa, càng sâu sắc hơn khi người đó chính là người thương của mình, người mà mình yêu quý nhất.

Trong tâm tình đó, hôm nay, chúng ta được nghe Thánh Gioan thuật lại tâm tình hay nói đúng hơn là những lời trối trăn của Chúa Giêsu. Nơi Thánh Gioan, phải nói là có một tình cảm hết sức tuyệt vời với Thầy. Thánh Gioan đã ghi lại toàn bộ "diễn từ biệt ly". Diễn từ biệt ly gói ghém tâm tình của Thầy Chí Thánh Giêsu.

Trong tâm tình ấy, Chúa muốn các môn đệ Chúa Giêsu phải sống yêu thương như thế nào đối với nhau (13,34) ? đối với Chúa Giêsu (14,15) ? Tại sao "yêu thương" được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại tới 4 lần (cc 15.21.23.24) ?

Các môn đệ phải sống yêu thương với nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ (13,34); họ phải yêu thương Chúa Giêsu bằng cách tuân giữ các giới răn của Ngài (14,15). Chúa Giêsu 4 lần nhắc tới yêu thương vì đây là điều răn quan trọng nhất và tiêu biểu nhất của Ngài.

Trong câu 31, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta thế nào ? Gương yêu thương của Chúa Giêsu: làm đúng như ý Chúa Cha.

Với kinh nghiệm hết sức thực tế trong lịch sử cứu độ, qua lịch sử cứu độ chúng ta thấy phảng phất hình ảnh của những con người không tuân hành thánh ý của Chúa Cha.

Khởi đầu Thánh Kinh, ta sẽ bắt gặp hình ảnh của người phụ nữ hết sức quen thuộc. Người nữ ấy có tên là Eva, bà là mẹ của chúng sinh. Mẹ của chúng sinh ấy nhưng bà có đủ ba đức tính để làm nên tội lỗi: thích ăn, nhẹ dạ và... tò mò. Trái Cấm ngon và kỳ diệu lắm! Đã là con người, ai chẳng muốn được ăn ngon? Và nếu như cái sự ăn đó sẽ đem đến cái vĩ hoàng tương tự như Thiên Chúa thì lại càng đáng để thử. Thích thử để biết cũng là một thuộc tính của cả loài người...

Vì muốn bằng Thiên Chúa nên Eva đã giơ tay hái trái cấm. Không chỉ mình mình ăn nhưng Evà còn "mời" chồng mình ăn nữa.

Kế tiếp, chắc chúng ta khó quên hình ảnh của một vị vua lừng danh đó là vua Đavít. Đavít: một kẻ phản bội, một kẻ dối trá, một người phạm tội ngoại tình, một tay giết người. Phạm tội ngoại tình với Bát Sêva. Đavít đã:


Giết Urigia chồng của Bát Sêva
Bất tuân lệnh Chúa khi thực hiện việc kiểm tra dân số
Không có thái độ cương quyết với các người con của mình
Cũng có người này người kia đến nhắc nhở nhưng Đavít đã bỏ ngoài tai những lời răn đe ấy. Vì bỏ ngoài tai lời của Thiên Chúa nên Đavít đã phạm tội.

Sang đến Tân Ước, chúng ta làm sao quên được hình ảnh của bà mẹ ông Giacôbê và Gioan. Đi theo Thầy, sống gần Thầy đấy nhưng mà lại xin chỗ nhất chỗ nhì.

Thánh Phêrô bi đát cũng chẳng kém. Khi Thầy báo trước con đường khổ nạn lên Giêrusalem thì lại cản Thầy. Kinh khủng hơn nữa là đã chối Thầy bây bẩy vì không nhớ lời Thầy dặn trong bàn tiệc. Thật sự ra cũng nhớ lời Thầy ấy nhưng mà yếu đuối, nhưng mà bị ngăn cản bởi con người mỏng dòn nên Phêrô đã chối Thầy.

Lược qua những hình ảnh, những con người hết sức thực tế trong cuộc sống, trong Thánh Kinh đã vì bất tuân, đã vì không nghe lời Chúa nên đã sa ngã, đã phạm tội.

Lời Chúa hết sức cần thiết cho cuộc đời mỗi người. Các thánh tông đồ tuy yếu đuối, tuy vấp ngã ấy nhưng sau khi có ơn Thánh của Chúa Phục Sinh cuộc đời của các tông đồ đã thay đổi. Các môn đệ đã mạnh dạn lên đường rao giảng Tin mừng. Không chỉ rao giảng một cách bình thường nhưng các ông rao giảng một cách mạnh mẽ: Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ. Các ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ.

Không dừng lại ở chuyện gay go mà các ông còn quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận trong dân. Sau đó các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba. Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín trong Hội Thánh. Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau:

"Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh."

Các tông đồ đã gửi đến cho họ những người cống hiến cuộc đời vì danh Chúa Giêsu. Những tông đồ này trước đây cũng nhát đảm nhưng chắc có lẽ nhớ lại lời của Thầy trong bàn Tiệc Ly chiều thứ Năm Thánh nên các ông can đảm để loan báo Tin mừng.

Lời của Thầy ắt hẳn vẫn còn văng vẳng bên tai của các tông đồ: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.

Đó là cách biểu lộ duy nhất mà Thiên Chúa đã quyết định thể hiện: người đến cư ngụ giữa những kẻ tiếp đón Người và tin tưởng nơi Người. Nói cách khác, Người chỉ được người ta nhận ra Người "hiện diện", nhờ những kẻ yêu mến Người... Tình yêu không cưỡng chế ai, không thúc ép ai.

Cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật nào đó của một người, tuy "vắng mặt" về thể lý, chúng ta cũng có thể nhận ra trong nhung tình yêu nhân loại ta, nếu chúng là chân thực: bất giác chúng ta sẽ nhận thấy đang khi nói, trong một cuộc đối thoại nội tâm, với người yêu, với bạn hữu, con cái, hôn phu, người chồng.

Đó là sự hiện diện của kẻ vắng mặt ! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có kẻ yêu thương mới nhận ra.
Chúng ta vẫn thường phàn nàn về sự vắng mặt của Thiên Chúa, về thái độ im lặng của Người. Người tín hữu luôn đụng chạm với lời thách đố của kẻ vô thần: . .."Thiên Chúa của bạn ở đâu ?" (Tv 42,4). Nhưng ngày nay, câu chất vấn đó có chiều hướng đi tới một chối từ Giáo hội, phủ nhận nếp sống cộng đoàn của Giáo hội: người ta cảm phục Chúa Giêsu như một mô hình của nhân loại... người ta không chống đối Người điều gì.. . nhưng người ta gạt Người sang một bên, như thể không có Người. . . bằng cách khỏa lấp qua một lời tuyên bố quá dễ dãi: "Tôi tin nhưng không hành đạo". Do đó, rõ ràng là có một ranh giới thực sự giữa "người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu với mọi người khác, dù họ rất có cảm tình với nhân vật Giêsu Nadarét. Chúa Giêsu mạnh dạn quả quyết rằng, Người không chỉ là một kẻ chết, dù là tuyệt vời, của lịch sử xa xưa... cũng không chỉ là mẫu người đẹp mà sứ điệp có thể làm người ta phải suy nghĩ... Nhưng Người là một con người đang sống đang hoạt động, hôm nay vẫn còn hiển nhiên. Nhờ sự Phục sinh, Đức Giêsu Nadarét, con người lịch sử, đã bước vào thế giới xác định của Thiên Chúa: điều đó minh chúng. Người cũng trở nên kẻ đồng thời với mọi người.

Chúa Giêsu còn nói thêm: Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Chúa Giêsu quả quyết, từ giờ trở đi Người đang hiện diện nhờ những kẻ yêu mến Người, nhờ các tín hữu đích thực mà Người đang cư ngụ trong họ.

Khi Chúa Giêsu tuyên bố những lời đó, quả thực chỉ còn ít giờ nữa là Người sẽ phải chết. Người là Đền thờ mới, được dựng lại nội trong ba ngày (Ga 2,19-22), Đền thờ mà ở đó người Do Thái thường cảm thấy một sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu còn đi xa hơn. Người dám quả quyết rằng, kể từ' lúc Người ra đi, thì sự hiện diện không diễn tả thành lời này, chắc chắn bị che giấu, nhưng sẽ được bảo chứng nhờ các Kitô hữu.

Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.

Giữa những người yêu thương nhau, cần có sự lắng nghe, đối thoại, nói năng, trao đổi. Trong tình yêu của chúng ta, không cố gì tệ hại hơn là "không biết lắng nghe", không chịu nói năng. Ở đây Chúa Giêsu mạc khải cho ta một trong những chìa khóa mở tới đời sống Kitô hữu đích thực: Suy niệm Lời Chúa, như một dấu chỉ của sự Hiện Diện. Đó là một sự kiện. Chúng ta không có sự hiện diện thể lý hữu hình của Chúa Giêsu, nhưng đối với kẻ yêu mến Người, thì thật là kỳ diệu, họ đã nhận được tư tưởng, lời nói của Người. Chúng ta cần ghi nhận, Chúa Giêsu không chỉ nói đến một lời được đón nhận trong tâm trí, mà là một lời ta phải tuân giữ một lời phải đưa ra thực hành, một lời nhờ luôn "sống động" sẽ giúp kẻ ban lời cũng thực sự hiện diện. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh, sống động. .. có thể được "nhận biết" cách cụ thể (điều đó hẳn là thế được !) trong đời sống của các môn đệ đích thực.

Cũng như Đức Giêsu Nadarét là nơi thể hiện sự hiện diện và lời của Chúa Cha ("Lời anh em nghe thấy không phải là của Thầy"), cũng vậy từ giờ trở đi, các Kitô hữu, Giáo hội chính là nơi đó. Thật là trách nhiệm lớn lao.

Nghe và giữ lời Chúa hay không là quyền tự do của mỗi kitô hữu.


----------------------------

 

PS 6-C92: CHÚA GIÊ SU PHỤC SINH VẪN LUÔN HIỆN DIỆN


Ga 14, 23-29

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

Chưa có ai sống tâm tình tuyệt vời như Chúa Giêsu. Ngài đã phục sinh và luôn có mặt với các môn đệ: PS 6-C92


Chưa có ai sống tâm tình tuyệt vời như Chúa Giêsu. Ngài đã phục sinh và luôn có mặt với các môn đệ, các tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông.

Để chuẩn bị cho cuộc ra đi về với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã dạy bảo các môn đệ nhiều điều. Chúa nhật tuần trước, Ngài đã truyền cho các môn đệ một điều răn mới: " Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em ". Và tiếp nối lệnh truyền ấy, Chúa giải thích về lòng yêu mến đó. Lòng yêu mến của các môn đệ, của con người đối với nhau mà còn đối với Chúa nữa: " Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy "...

Các môn đệ đã được Chúa phục sinh an ủi, củng cố lòng tin và đặt niềm hy vọng. Trước khi về Trời, Ngài hứa với các ông, dù vắng mặt, nhưng Ngài vẫn luôn có mặt và tiếp tục ban bình an cho các ông. Chúa hiện diện dù rằng các môn đệ không nhìn thấy Thầy, nhưng quả thật đây là cảm nghiệm của những con người yêu thương nhau thiệt tình, yêu thương nhau tha thiết. Chúa sẽ vắng mặt nhưng Ngài luôn hiện diện trong những kẻ yêu mến Ngài: " Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy " ( Ga 14, 23 ). Bởi vì, trước khi với Chúa Cha, Chúa phục sinh đã nói: " Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con ". Nhận được bình an của Chúa, Ngài trấn an các ông:" Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi ". Chúa có mặt trong những con người biết giữ Lời của Ngài và thực thi Lời của Ngài: " Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy...Và Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy...Và là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy "( Ga 23, 24 ).

Giữ Lời Thầy là bảo vệ được trật tự Chúa đã thiết lập và tâm hồn sẽ không hề bị nao núng, xao xuyến, hoang mang, thất vọng. Chúa phục sinh không chỉ có mặt một mình nhưng sự bình an mà Ngài trao tặng còn là sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi trong lòng các môn đệ và những tâm hồn thành tâm thiện chí. Đây là sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Chính Thánh Thần sẽ thông truyền, hướng dẫn, soi sáng để con người nhận ra Chúa Cha và Chúa Giêsu đang có mặt trong đời sống của mình.Con người sống Lời của Chúa sẽ nhận được sự bình an của Chúa. Do đó, bài đọc I cho chúng ta thấy: " Đạo do Chúa thiết lập sẽ phá vỡ cái vỏ chật hẹp của Đạo Do Thái, một Đạo không phù hợp với ơn cứu độ phổ quát do Chúa Kitô mang lại cho nhân loại ", nên Hội Thánh được đặt trên nền móng 12 tông đồ như sách Khải Huyền bài đọc II vừa trình bầy.

Lời hứa của Chúa phục sinh đã luôn được thực hiện trong Giáo Hội muôn thời. Thánh Thần của Chúa luôn soi sáng và hướng dẫn Giáo Hội lắng nghe và thực thi Lời của Chúa trong Thánh Kinh. Giáo Hội của Chúa luôn có sự an bình dù luôn phải trải qua những gian nan, thử thách trong cuộc hành trình đức tin.

Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến và gửi Thánh Thần xuống để chúng con biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa hầu thực sự mỗi người chúng con có được sự bình an Chúa hứa ban. Amen.


----------------------------

 

PS 6-C93: CUỘC SỐNG MỚI


Ga 14, 23-29

LM Nguyễn Hữu Thy

 

Chu kỳ phụng vụ Mùa Phục Sinh sắp chấm dứt. Hàng năm nó đã mang lại cho tất cả chúng ta những: PS 6-C93


Chu kỳ phụng vụ Mùa Phục Sinh sắp chấm dứt. Hàng năm nó đã mang lại cho tất cả chúng ta những suy niệm khẩn thiết về đức tin vào Ðức Giêsu và về tình yêu của Người, một tình yêu đã biểu lộ tính chất nhân bản qua cái chết của Người, nhưng đồng thời cũng bộc lộ uy quyền của Thiên Chúa qua cuộc Phục Sinh khải hoàn của Người ! Từ những suy niệm đó, cuộc sống của chúng ta một khi đã được gắn liền với Ðức Giêsu, thì luôn phải đạt tới cứu cánh của nó.

Thứ nhất: « Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy.... Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời các con nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Ðấng đã sai Thầy ! » Ðó là điều đầu tiên trong chương trình hành động của một cuộc sống được gắn liền với Ðức Giêsu !


Giữ lời Ðức Giêsu có nghĩa là thâm tín rằng Thiên Chúa đã ban bố huấn thị của Người qua Ðức Giêsu; điều đó muốn nói rằng chúng ta không xếp đặt vũ trụ và cuộc sống theo sở thích, theo kế hoạch, theo mơ ước hay theo sự sợ hãi của mình; bởi vì Thiên Chúa đã thiết đặt một chuẩn độ rõ ràng trong Ðức Giêsu !

Giữ lời Ðức Giêsu có nghĩa là nhất thiết phải thực sự nhận biết huấn thị đó của Thiên Chúa. Dĩ nhiên điều đó không ý nói là nhất thiết phải đi rao truyền mọi lời của Người khắp nơi, nhưng là phải nhận thức được mục đích nền tảng của lời Người nói và của hành động Người làm qua việc lắng nghe Tin Mừng, tức: Tin nhận và yêu mến Thiên Chúa ! Tiếp đến, chấp nhận và yêu thương người đồng loại; và không chỉ chấp nhận điều đó trên lý thuyết thuần túy mà thôi, nhưng phải hiện thực chúng một cách cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, đối với Thiên Chúa và tha nhân, và trung thành thực hiện cho đến cùng !
Thứ hai: « Ðấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi lời Thầy đã nói với các con ! » Ðó là điều thứ hai trong chương trình của Thiên Chúa: Biết đón nhận Thánh Thần Ðức Giêsu !

Ðón nhận Thánh Thần Ðức Giêsu có nghĩa là phải nhất thiết sống theo tinh thần các giáo huấn của Người. Nói cách khác, Thánh Thần ngự đến không chỉ để trợ giúp chúng ta chiếm giữ được tinh thần các giáo huấn của Ðức Giêsu như chuẩn độ đúng đắn, nhưng còn là sức mạnh đỡ nâng chúng ta thực thi các giáo huấn đó trong cuộc sống cụ thể. Vậy, chúng ta hãy để cho sức mạnh đó được tự do hoạt động trong cuộc sống của mình, và điều đó không có nghĩa gì hơn là chúng ta phải luyện tập cho mình tinh thần yêu thương, sự hy sinh xã kỷ của Ðức Giêsu; luyện tập biết chấp nhận kẻ khác, chứ không phải tìm mọi cách tự khẳng định chính mình; luyện tập biết cho đi, chứ không phải tìm cách chiếm đoạt mọi sự cho chính mình; luyện tập biết can đảm và trung thành với tinh thần xã kỷ đó, cả khi bị hiểu lầm, bị thiệt thòi về danh dự hay nguy hiểm đến tính mạng.

Thứ ba: « Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy. Thầy ban cho các con sự bình an, không theo kiểu thế gian ban. Các con đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi!" Ðó là điều thứ ba của chương trình, là: Có được sự bình an của Ðức Giêsu trong tâm hồn!

Nhưng có được sự bình an của Ðức Giêsu, có nghĩa là hội được đủ điều kiện để có thể sống thực sự đúng với nhân vị của mình mà Thiên Chúa đã ban cho. Ðó không phải là sự bình an mà thế gian có thể cho được; đó không phải là một sự hoan lạc ích kỷ, khiến cho chúng ta không còn nhìn thấy được những cơ cực thiếu thốn của đồng loại; đó không phải là một sự giải hòa có thể mặc cả được, tức tìm một sự quân bình khả dĩ cho sự bất hòa. Sự bình an của Ðức Giêsu là sự an ninh chắc chắn, được phát xuất từ sự ý thức sâu xa: "Phải làm lành lánh dữ", kể cả khi chúng ta phải hy sinh tính mạng, vì thâm tín được rằng, Thiên Chúa sẽ đền bù lại cho chúng ta gấp trăm sự mất mát !

Có được sự bình an của Ðức Giêsu, có nghĩa là có điều kiện để từ sự anh ninh đó, kiến tạo sự bình an thực sự. Bởi vì chỉ có sự ý thức chắc chắn được rằng người ta phải sống công chính trước mặt Thiên Chúa, thì mới có can đảm để chấp nhận tất cả; thì người ta mới thông cảm hiểu biết nhau và mới loại bỏ mọi căng thẳng và va chạm, phát xuất bởi những tư duy ích kỷ và thiển cận, chỉ muốn bảo vệ quan điểm và ước vọng của mình trước đồng loại, cũng như chỉ muốn bảo đảm sự sống còn của mình !

Những lời Chúa phán cùng chúng ta hôm nay là sự hướng dẫn cho một cuộc sống theo gương Ðức Giêsu. Ðó là một chương trình sống tuyệt hảo, dẫn chúng ta đạt tới sự sống chân thật và hạnh phúc vĩnh cửu! Ðó là:


Giữ lời Ðức Giêsu.
Tiếp nhận Thánh Thần Ðức Giêsu.
Có được sự bình an của Ðức Giêsu trong mình.

Thật là cả một sự khác biệt to lớn với những chương trình thuần túy nhân loại, mà trong đó chúng ta chỉ nhắm tới những lợi lộc ích kỷ tư riêng của mình!

Chương trình của Thiên Chúa, là: Trong Ðức Giêsu, chúng ta có thể đạt tới một cuộc sống hạnh phúc chân thật. Chương trình đó có thể đổi mới vũ trụ. Chắc hẳn tất cả chúng ta đều nhất trí với chương trình đó?


----------------------------

 

PS 6-C94: THẦN KHÍ CHÚA NGỰ XUỐNG TRÊN TÔI


Ga 14, 23-29

Lm. Jude Siciliano, OP.

 

Theo thói thường, rời bỏ nơi chốn mình quen sống với người thân, bạn bè, làng giềng là khó, tưởng: PS 6-C94


Theo thói thường, rời bỏ nơi chốn mình quen sống với người thân, bạn bè, làng giềng là khó, tưởng chừng như cắt đứt một quãng đời, cắt đi một khúc ruột, trừ phi chúng ta ra đi vì hận thù, vì khó khăn kinh tế, chính trị. Sự kiện này khiến chúng ta thông cảm với những người di cư, lỡ bước. Những bài hát "tha hương" lúc nào cũng buồn da diết. Một bà lão gần đây nói với tôi: "Con ghét cay ghét đắng nói câu "tạm biệt". Con thấy khó nói lắm." Giọng của bà xem ra độc nhất, gần như chỉ mình bà cảm được điều ấy. Thực tế thì hàng triệu người trên hành tinh này hàng ngày phải chịu cảnh ly hương. Dầu vậy, tâm lý bình thường thì chẳng ai yêu thích nói tạm biệt. Người ta thường nhìn trước vào những giây phút đó với lo sợ và buồn rầu, trừ phi vì tan vỡ gia đình, mất việc, hận thù. Chúng ta biết rằng mình đang bỏ lại đằng sau một thế giới quen thuộc, một quãng đường êm đềm để bước vào tương lai bất định. Chúng ta đã đầu tư quá nhiều tiền bạc, tình cảm, taì năng vào nơi chốn cũ, làm sao dứt áo ra đi? Vì thế thật đau xót khi phải vĩnh biệt!

Để bù lại mất mát to lớn và tự yên ủi mình, chúng ta thường nói" see you again". Tôi sẽ thăm ông bà, các bạn khi có thể, tôi sẽ điện cho anh, cho em, cho bố mẹ... và hàng trăm biểu hiện hứa hẹn khác, mặc dù biết đó là những lời hứa khó thực hiện. Những linh hồn yếu mềm, đa cảm thường để cho nước mắt tự do rơi, khóc cho vơi nhẹ nỗi lòng.

Chúng ta hiểu được tâm trạng của Chúa Giêsu và các môn đệ trong bữa tối vĩnh biệt hôm nay. Chúng ta đang ở quãng giữa của diễn từ cuối cùng (từ chương 13-17). Những chi Chúa nói với họ thật đau xót và đầy tâm huyết. Nếu người ta có chút lương tâm chẳng thể không thông cảm với hoàn cảnh. Thực tế tính nặng nề và nghiêm trọng bao trùm toàn thể căn phòng trên lầu, nơi họ ăn bữa vượt qua cũng là bữa vĩnh biệt để chia tay. Chúa Giêsu phải hết sức bình tĩnh để an ủi các môn đệ, những người mà Ngài thương yêu đến cùng: "Thày bảo thật anh em, Thày ra đi và lại đến cùng anh em" hoặc "Thày không bỏ anh em mồ côi, Thày sẽ trở lại cùng anh em." Hoặc "Thày ra đi để dọn chỗ cho anh em, trong nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở"... và còn nhiều lời tương tự giống như tâm lý tôi vừa miêu tả ở trên, và còn hơn thế nữa vì giây phút này là giây phút quyết liệt. Đúng như khi chia tay, chúng ta thường cố gắng an ủi người ở lại, hứa hẹn với họ đủ điều tốt đẹp, nghĩa là vẫn luôn luôn tiếp xúc, luôn luôn hiện diện. Chúng ta làm hết sức mình để không mất đi những người yêu mến.

Trong suốt 5 chương sách, thánh Gioan đã mô tả tình cảnh biệt ly của Chúa Giêsu. Chúa cố gắng hết sức để an ủi các ông, hò hẹn với các ông rằng luôn tiếp xúc với các ông (stay in touch) bằng cách sai Chúa Thánh Thần ngự xuống: "Đấng bảo trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thày, Đấng ấy sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại những điều Thầy đã nói với anh em." Chúa có quyền năng để làm trọn lời hứa, nhưng các ông không thể tưởng tượng nổi. Liệu ngày nay chúng ta hiểu nổi và tin tưởng vào Lời Chúa? Vì Ngài cũng nói với chúng ta như vậy trước khi về trời? Thiết nghĩ khó lắm, vì nếu chúng ta thông minh hơn các tông đồ, hẳn đã sống khác, chứ không ươn lười, tầm thường như hiện trạng: nhung lụa, tiện nghi, danh vọng, tiền bạc, miệng lưỡi. Bằng những lời hứa này, Chúa Giêsu không muốn chúng ta chỉ dựa vào ký ức về Ngài, về những lời dạy dỗ của Ngài. Vì Ngài biết các tông đồ chỉ là phàm nhân, và chúng ta cũng vậy, nên trí nhớ sẽ phải nhạt đi, có khi quên bẵng qua dòng chảy thời gian, nhất là lúc gặp khó khăn thử thách, cho nên Ngài gửi Thánh Thần xuống, để đảm bảo mọi sự cho chính xác. Không hiểu ngày nay, người ta sáng kiến nhiều cách hiểu Kinh Thánh, nhiều cách sống Phúc Âm bất chấp lời dạy dỗ của Giáo Hội, thì có phải là do Thánh Thần? Vì Thánh Thần chủ yếu ngự nơi Hội Thánh, nhất là nơi các Công Đồng! Thí dụ thần học giải phóng, thần học phi châu, á châu, giai cấp...Ngày nay người ta đòi quyền làm thần học theo ý mình. Lời hứa của Chúa Giêsu còn mang ý nghĩa nào không?

Lời từ giã của Chúa Giêsu mang ý nghĩa đặc biệt: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thày ban cho anh em bình an của Thày. Thày ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi." Ngài không nói: vui lên, mọi sự không đến nỗi tệ lắm đâu, mà nói Thày để lại bình an cho anh em. Thực tế, tình hình sẽ trở nên cay đắng cho Ngài và cho các môn đệ. Ngài sẽ bị bắt và bị giết, các môn đệ sẽ tan tác, trốn tránh. Nhưng Ngài ban cho họ bình an giữa những hỗn loạn đó và chúng ta ngày nay giữa chiến tranh, hận thù, tranh chấp kinh tế, chính trị, ý thức hệ, tôn giáo, luân lý. Liệu chúng ta có giữ được bình an, hay xao xuyến, sợ hãi vì thời cuộc? Bình an Chúa ban không phải bình an của thế gian. Nó là bình an trong tâm hồn. Bình an của một linh hồn thanh sạch, thánh thiện chứ không phải bình an vật chất hay trí tuệ. Bình an vật chất hệ tại cơm no, áo ấm, giàu sang, phú quý, an toàn kinh tế, xã hội, những thứ mà thế gian tìm kiếm, nhưng mau qua và chóng đổ vỡ. Bình an trí tuệ hệ tại thoả mãn óc tò mò, hiểu biết khoa học, chân lý. Bình an này cũng không bền vững và có giới hạn. Bình an Chúa ban không có giới hạn và bền vững mãi mãi, dầu thế giới có đổi thay và xáo trộn. Nó hệ tại một tâm hồn trong trắng sạch tội, sống bạn hữu với Thiên Chúa. Bình an làm thoả mãn hoàn toàn vì bền vững vĩnh viễn. Đó là thứ bình an của Chúa Thánh Linh trong Đức Giêsu Kitô. Bình an thế gian ban đổ vỡ khi tình hình trở nên tồi tệ, rã rời và thế giới không thể nâng đỡ lòng trí tín hữu. Sợ hãi vây bọc, tai hoạ vẫn đe doạ. Bình an của Chúa Giêsu khác hẳn. Ngài sẽ trở lại với họ, Thánh Thần sẽ kiện cường họ để đối mặt với bất cứ đe doạ nào của thế gian, ma quỷ và xác thịt, làm họ kiên vững trong lòng yêu mến, ngay cả khi đối diện với những cái chết đau đớn. Điều này đã được chứng minh suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội với biết bao vị anh hùng tử đạo. Thật là một thứ bình an chân chính và đáng khát khao.

Vậy chúng ta biết rõ ngày nay, thế giới đang cần thứ bình an nào! Chúng ta không mua được thứ bình an này như mua sắm vũ khí, bom đạn, hoả tiễn tầm xa-tầm gần, xe tăng, chiến thuyền hay trên các bàn hội nghị quốc gia, quốc tế. Chỉ Thần Khí Chúa Kitô mới ban tặng được. Cho nên chúng ta cần những nhà lãnh đạo tài ba biết kính sợ Thiên Chúa. Những người hướng dẫn thiên liêng đạo đức như Giaon XXIII, Gioan Phaolô II, Têrêsa thành Calcutta. Chúng ta cần những Gandhi Mahatma, những Edmond Tutu, Luther King Jr, những Rosa Park bất chấp chiến tranh hàng ngày ở Dafur, Afgahnistan, Iraq.

Chúng ta cần thần khí chữa lành để hàn gắn các rạn nứt trong Giáo Hội, Thần khí dạy chúng ta biết yêu thương như Chúa Giêsu yêu, chứ không phải như mỗi người tưởng tượng, biện minh. Chúng ta cần Thần khí ban hoà bình hoà giải trong các giáo xứ, các khu xóm đang tan nát vì tranh tụng, ghen tương, kiêu ngạo, khiêm nhường giả vờ. Chúng ta cần Thần khí đổi mới niềm tin của chúng ta vào Chúa Cứu Thế như hoàng tử hoà bình và cái nhìn về những kẻ kiến tạo bình an trên thế giới, những kẻ từ chối bạo lực để giải quyêt các xung đột quốc tế, quốc gia. Những kẻ thường bị chế giễu là nhu nhược, không tưởng trong hệ thống chính trị hiện nay.

Đúng vậy, bài đọc sách Khải Huyền xem ra đầy mơ mộng khi mô tả Giêrusalem mới. Người Lamã đã phá huỷ Gierusalem cũ khoảng năm 70 Cn. Gierusalem mới không giống như vậy nữa, giả hình, độc ác, lầm lạc, đóng đinh cả Thượng Đế. Mà là một Gierusalem hoàn toàn thánh thiện, có Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, đến nỗi ở đâu hai, ba người tụ họp nhân danh Chúa thì Ngài ở đó. Trong diễn từ hôm nay, Chúa Giêsu tuyên bố tương tự: "Thày và Cha Thày sẽ ngự giữa họ." Dĩ nhiên Gierusalem mới này sẽ được nhận biết bằng tình yêu giữa các cộng đoàn dân cư và là dấu chỉ Chúa đang hiện diện với họ. Mỗi tín hữu, người yêu của Thiên Chúa là ngôi đền của Người: "Những ai yêu mến Thày thì sẽ giữ lời Thày. Cha thày sẽ yêu mến kẻ ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy."

Khi nào thì Chúa Giêsu trở lại? Các tín hữu đang chịu bách hại thường hỏi như vậy. Họ mòn mỏi trông đợi Ngài trở lại để giải phóng họ khỏi tình trạng đen tối hiện tại. Cũng vậy nhiều linh hồn đau khổ từng đặt câu hỏi tương tự. Nhưng chẳng ai biết câu trả lời. Tuy nhiên lời giã từ của Chúa bảo đảm rằng Ngài sẽ trở lại và đã thực hiện đúng như vậy, khi sai Chúa Thánh Thần xuống trên các tông đồ và Giáo Hội tiên khởi. Thần Khí này, mà Chúa gọi là Đấng Bảo Trợ, Ủi an, chính là sự hiện diện của Chúa giữa các tín hữu, để giúp chúng ta thấu hiểu lời Ngài, và đòi hỏi chúng ta phải hành xử ra sao! Phiền là chúng ta thường không nghe theo sự thúc đẩy của Thần Khí, mà thích làm theo ý muốn, rao giảng gian dối, lừa đảo thiên hạ, đến nỗi thánh Phaolô phải thốt lên: "Không hiểu thần khí nào đã thúc giục anh em!" Chúa Giêsu hứa Thiên Chúa Cha sẽ gửi Thần Khí xuống. Và như Ngài đối với các tông đồ thế nào, thì Thần Khí sẽ đối với Hội Thánh như vậy. Cho nên người ta lắng nghe Hội Thánh là lắng nghe Chúa Giêsu, vâng lời Hội Thánh là vâng lời Chúa Kitô. Chúa Giêsu chỉ dẫn phải yêu mến nhau thế nào, thì Thần Khí sẽ làm đúng như vậy, ban khả năng để yêu mến nhau. Những lời Chúa dạy dỗ có nguy cơ bị hiểu sai hoặc lãng quên, thì Thần khí sẽ mở lòng cho họ nhớ lại, cứ như vậy cho đến tận cùng thời gian, qua các thế hệ tín hữu. Cho nên giáo lý của Hội Thánh là tinh tuyền, tông truyền và phổ thông.

Do đó, mặc dù chúng ta chẳng còn được trông thấy Chúa thể lý kiểu như các tông đồ quanh bàn tiệc ly, chứng kiến Ngài rửa chân cho các ông, lắng nghe bài diễn từ cuối cùng và lời hứa bảo đảm. Nhưng giã từ của Ngài là thực sự. Tuy Ngài không còn hiện diện nữa, nhưng chúng ta phải tin Ngài vẫn ở với Hội Thánh bằng hình thức khác, lúc ấy các ông không nghĩ ra được và ngày nay chúng ta vẫn còn nghi ngờ. Ngài ở với nhân loại qua Chúa Thánh Thần, tặng phẩm của Thiên Chúa Cha, đúng như lời Chúa phán. Nếu chúng ta đặt tin tưởng vào sự hiện diện của Thần Khí, thì sẽ được Ngài hướng dẫn, dạy bảo. Linh hồn sẽ được bình an bất chấp những hỗn loạn của thế gian. Giáo Hội sẽ vững chắc trên con đường thánh thiện. Nói dễ hơn làm. Bình an này chúng ta không tạo nên được do tài năng riêng của mình mà hoàn toàn cậy nhờ vào Thiên Chúa. Người ta có thể gọi đó là tặng phẩm mà cũng có thể đặt tên là gia sản của Đức Kitô, Đấng chẳng bao giờ muốn rời bỏ nhân loại. Liệu lúc này chúng ta có sẵn sàng mở rộng lòng mình đón nhận Thần Khí Chúa? Nói thì dễ nhưng làm khó lắm! Bao nhiêu linh hồn nói rồi đấy, nhưng chẳng mấy ai làm! Nếu thực sự làm thì người ta chẳng còn tầm thường như hiện trạng. Chúng ta cầu xin Thánh Thể uốn nắn tâm trí mình trong thánh lễ này, ngõ hầu giúp chúng ta thực sự sống đức tin cho đến lễ Năm Mươi.

Chúa phục sinh thực sự hiện diện với chúng ta hôm nay trên bàn thờ, giống như Ngài hiện diện xưa trong bữa tiệc ly, chỉ có khác ở thể thức. Bữa ăn chúng ta chia sẻ chính là Mình Máu Ngài. Mình Máu ấy cũng giữ chúng ta ở lại trong lời hứa. Thánh Thần sẽ ban cho mỗi người ký ức sống động về Chúa Giêsu, về lời hứa của Ngài. Không phải ký ức đã qua từ lâu lắm, nhưng là Chúa Giêsu hiên diện, hướng dẫn, ủi an mọi người cho kiếp sống muôn thủa. Amen, Alleluia.


----------------------------

 

PS 6-C95: ĐỨC GIE6SU LUÔN HIỆN DIỆN


 (Gioan 14,23-29 – CN VI PS - C)

1.- Ngữ cảnh

 

Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV (“Sách về Giờ của Đức Giêsu”) và ở trong “Diễn từ cáo: PS 6-C95


Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV (“Sách về Giờ của Đức Giêsu”) và ở trong “Diễn từ cáo biệt thứ nhất” (13,31-14,31): Đức Giêsu nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Người mời gọi các môn đệ đừng hoang mang trước viễn tượng Người ra đi (14,1): Chúa Cha sẽ cử đến một Đấng Bảo Trợ khác để trợ giúp các ông, đó là Thánh Thần (14,16-17). Còn chính Người thì sẽ trở lại với các ông; thế gian không thấy Người, nhưng những ai tin vào Người thì thấy được Đấng ấy (14,18-21). Giuđa đã diễn tả sự kinh ngạc của tất cả các môn đệ: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (14,22). Ông mơ một cuộc tỏ mình cụ thể, khả giác, của Đức Giêsu; ông chưa hiểu là biến cố Đức Giêsu và Thánh Thần ngự đến chỉ có thể nhận biết trong đức tin.

Thoạt nhìn, dường như câu trả lời của Đức Giêsu (c. 23) không liên hệ đến câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra, câu trả lời đã đi thẳng vào câu hỏi, bởi vì Đức Giêsu loan báo sự hiển lộ mầu nhiệm của Người và lý do khiến thế gian không thấy được sự hiển lộ này.    

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (14,23-24);
2) Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (14,25-26);
3) Đức Giêsu ban bình an và ra đi (14,27-29). 

3.- Vài điểm chú giải

- lời (23): Đối với một người Sê-mít, “lời” (logos) có tính cụ thể; “lời” diễn tả hữu thể thâm sâu, chính bản thân con người. 

- Thánh Thần … Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều (26): Từ ngữ “Thánh Thần” (to pneuma to hagion) ở trung tính; vậy mà chủ ngữ “Đấng đó” (ekeinos) thay cho “Thánh Thần” (to pneuma to hagion, ho...) lại ở nam tính. Khi viết như thế, tác giả muốn cho thấy rằng Thần Khí còn hơn là một xu hướng hay là một ảnh hưởng; Người là một nhân vật, một Đấng. Có thể nói ekeinos ở nam tính vì thay cho paraklêtos, nhưng gần hơn, vẫn là thay cho to pneuma to hagion, ho...

- sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm anh em nhớ lại (26): Bultmann có lý khi cho rằng, “dạy” và “làm nhớ lại” không phải là hai chức năng khác nhau của Thánh Thần, nhưng là hai phương diện của cùng một chức năng. Như thế, “dạy anh em” và “làm anh em nhớ lại” song đối với nhau.   

- bình an (27): Khi ra đi, Đức Giêsu nói shalôm (bình an) với các môn đệ. Nhưng đây không phải là lời chào thông thường, mà là ân ban cứu độ. Đây không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, hay là chấm dứt sự căng thẳng về tâm lý, hay là một cảm giác thư thái. Theo ngôn ngữ Ga, “bình an”, “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui” là những từ mang nghĩa ẩn dụ để diễn tả các phương diện khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu đã mang từ Chúa Cha đến cho con người. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” là một cách khác để nói “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” (10,28). “Bình an của Thầy” ở đây cũng giống như “niềm vui của Thầy” ở 15,11 và 17,13.

- nếu anh em yêu mến Thầy (ei êgapate, 28): Động từ ở thì vị hoàn (imperfect) để nói về một điều kiện “không có thật”, chưa xảy ra[1][1].

- Chúa Cha cao trọng hơn Thầy (28): Câu này đã là đề tài cho nhiều cuộc tranh luận về Kitô học và về Ba Ngôi. Phái Ariô đã dựa vào câu này để biện minh cho Kitô học của họ, và do đó, để chống lại thần tính của Đức Giêsu. Đã có hai cách giải thích cổ điển: (1) Một nhóm Giáo Phụ (Origiênê, Téctulianô, Athanasiô, Hilariô, Êpiphanê, Grêgôriô Nadien, Gioan Đamát) cho rằng bản văn diễn tả sự phân biệt giữa Chúa Con và Chúa Cha: Con được nhiệm sinh trong khi Cha thì không. Tuy nhiên, cách giải thích này phát xuất từ suy tư tín lý về Kinh Thánh sau này chứ không dựa trên chú giải câu văn. Cho rằng tác giả Ga đã giới thiệu Đức Giêsu nói với các môn đệ về quan hệ nội tại giữa Ba Ngôi là sai niên đại. (2) Một nhóm Giáo Phụ khác (Xyrilô Alêxandria, Ambrôsiô, Âutinh) đã giải thích rằng trong tư cách là con người, Chúa Con Nhập Thể kém hơn Chúa Cha. Lối giải thích này thoạt tiên có vẻ có lý hơn lối giải thích trước, nhưng vẫn nhằm phân biệt các bản tính nơi Đức Giêsu. Và đây là điều không chắc là Ga đã nghĩ tới. Không lẽ Ga lại nghĩ đến một sự phân biệt giữa Đức Giêsu nói như con người và Đức Giêsu nói như Thiên Chúa? Nhất là một cách phân biệt như thế có phù hợp chăng trong Diễn từ cuối cùng, vì ở đây hơn ở bất cứ nơi nào khác, Đức Giêsu, Đấng đang nói, siêu việt lên trên cả thời gian lẫn không gian?

          Khi đã bỏ ra ngoài sự can thiệp của khoa tín lý hình thức của thời sau này, chúng ta thấy rất có thể chìa khóa nằm ở 13,16: “Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi”. “Cha quan trọng hơn tôi” nghĩa là quan trọng hơn những gì anh em đã thấy nơi tôi. Đức Giêsu chỉ quan trọng do chỗ Người là Đấng “mạc khải” Chúa Cha. Sự phân biệt được đưa vào không đối lập bản tính nhân loại với bản tính thần linh trong Đức Kitô (theo cách giải thích truyền thống), mà là đối lập “cách giới thiệu bản thân Người trong hình thức nhân loại” (trong phẩm cách Mêsia) với ý nghĩa tròn đầy của bản thân Người trong tư cách là Thiên Chúa, đó là mạc khải Chúa Cha. Vậy vấn đề là nhận biết Chúa Cha nơi Đức Giêsu. Khi các môn đệ đã đạt được tới đó, sẽ không còn vấn đề thấp hơn hay cao hơn, bởi vì Chúa Cha và Người chỉ là một.                

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (23-24)

          Đức Giêsu khẳng định rằng người nào yêu mến Người, thì phải “giữ lời” Người, nghĩa là gắn bó với lời loan báo của Người và nhận biết bằng đức tin những gì Người đã yêu cầu (x. 14,15.21.23), và đáp lại bằng trọn cuộc đời dấn thân thực tế và quảng đại. Khi ấy, họ sẽ được đón tiếp Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, bằng chứng cho thấy Người liên kết với Chúa Cha là những việc Người làm (x. 14,10-11). Trong Cựu Ước, dân Israel đi tới chỗ biết Thiên Chúa của họ do họ thấy Ngài che chở kẻ nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất, những ngoại kiều, trẻ mồ côi, và các quả phụ. Nếu Đức Giêsu đang làm những việc tương tự, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đang ở trong Người và Người đang ở trong Thiên Chúa.

Không những các môn đệ đầu tiên, mà bất cứ ai tin vào Người và yêu thương Người, liên kết với Người theo cách này (“giữ lời”), thì đều sẵn sàng đón Chúa Cha và Chúa Con khi các Đấng đến; các Đấng sẽ cư ngụ nơi người ấy và sẽ ở lại bền bỉ với người ấy. Người đã liên tục nhắc lại: “Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (16,32; x. 8,29). Điều này đúng cho bất cứ ai yêu thương Đức Giêsu: người ấy không phải cô độc, không bị lạc lõng và bỏ rơi; dù không hữu hình, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên người ấy.     

* Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (25-26)

          Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa là Thánh Thần sẽ đến (x. 14,16-17); Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu. Đức Giêsu để lại cho các môn đệ lời của Người, sứ điệp của Người. Đây sẽ mãi là những yếu tố đưa các môn đệ đến với Người. Nhưng các môn đệ sẽ không phải dựa vào sức riêng mà hiểu lời Người: họ sẽ được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sự hỗ trợ hữu hiệu của Thánh Thần sẽ được biểu lộ rõ ràng trong việc dạy cho họ hiểu lời của Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ không đưa đến một giáo huấn mới: thật ra toàn thể mạc khải đã được ban nơi Đức Giêsu. Tất cả hoạt động của Thánh Thần sẽ là quy về những gì Đức Giêsu đã nói và giải thích cho các môn đệ. Được Thánh Thần dạy dỗ, các ông sẽ có thể đi theo sát hơn nữa lời của Đức Giêsu và được chuẩn bị đi vào hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con.

* Đức Giêsu ban bình an và ra đi (27-29) 

Đức Giêsu không để các môn đệ phải mồ côi (x. 14,18), nghĩa là bỏ rơi các ông, mặc cho các ông sợ hãi, không được hỗ trợ nâng đỡ. Người từ giã và ban sự bình an của Người cho các ông. Người từ giã các môn đệ nhưng ban một sự bình an, một sự đảm bảo và một sự che chở chỉ có thể phát xuất từ Người. Sự bình an này không phải chỉ là một lời nói (một lời chào), cũng không phải là sự bình an mà thế gian ban tặng: một sự bình an giả trá, một sự bình an được đặt trên sự chuyên chế, bạo động và bất công. Sự bình an Đức Giêsu ban chính là ơn cứu độ, là “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui”, dựa trên việc loan báo do Người thực hiện, dựa trên sự hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con và dựa trên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông ấy đưa lại sự an toàn và che chở. Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đe dọa chúng ta và đứng lên chống lại chúng ta?   

Khi đi chịu chết, thật ra Đức Giêsu trở về nhà Cha (x. 13,1); như thế Người đã đạt được mục tiêu của hành trình trần thế của Người. Đối với Người, không có niềm vui nào to lớn hơn là sự hiệp thông trọn vẹn với Cha. Điều này hẳn cũng phải có giá trị cho các môn đệ Người. Sự thông hiệp với Cha và với Con, một sự hiệp thông được ban cho họ ngay từ bây giờ, là nền tảng cho sự bình an của họ. Sự hiệp thông trọn vẹn của Con với Cha, vì là mục tiêu Đức Giêsu đã đạt, là nền tảng chắc chắn nhất cho niềm vui của họ.

+ Kết luận

          Mọi sự tùy thuộc vào việc nhìn các sự việc một cách đúng đắn. Nhìn từ bên ngoài, cái chết của Đức Giêsu dường như là tai họa và sự đổ vỡ tan tành thành mây khói. Nhưng ai tuân giữ lời của Người, thì đã không mất sự an toàn do cái chết của Người, mà lại còn được củng cố trong niềm tin vào Người và trong niềm vui vì chiến thắng của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta tất cả những điều này xuyên qua hoạt động của Thánh Thần: chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng ta, dạy bảo và nhắc chúng ta nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cất đi mọi mối bận tâm, sợ hãi và lo lắng bất an, nhất là khi ta sống sự hiệp thông ấy trong đức tin. Bởi vì chỉ Đức Giêsu mới giúp chúng ta đi vào hiệp thông với Chúa Cha, thì cũng chỉ Người mới có thể ban cho chúng ta sự bình an này. Người tín hữu phải luôn luôn biết rằng, ngay cả khi họ bị cái chết dằn vặt, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên họ, chứ không bao giờ bỏ rơi họ trong tình cảnh khốn quẫn. Sự hiệp thông với Đức Giêsu và với Chúa Cha không chỉ bắt đầu khi chúng ta được tiếp đón vào nhà Cha (14,2-3), nhưng là một thực tại đã có bây giờ và sẽ hoàn tất với cuộc hưởng kiến vinh quang.

2. Ngược với việc tuân giữ những luật lệ chi li cách tỉ mỉ và máy móc, không quan hệ gì với con tim của người tín hữu, Đức Giêsu đặt các tương quan của Người với các môn đệ trên nền tảng là các dây liên kết riêng tư trong tình yêu. Muốn thấy Đức Giêsu, muốn sống nhờ Người và với Người, người tín hữu phải “giữ các lời Người” (c. 24). Sự sống này, như Đức Giêsu xác định, lại chính là sự sống của Người và cũng là sự sống mà Người nhận từ Chúa Cha, nhưng cũng có chung với Chúa Cha.  

3. Các Kitô hữu hôm nay cũng phải vui mừng cho chính mình: sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho họ là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.

4. Cái chết của Đức Giêsu rất có thể có vẻ là chiến thắng của ông hoàng của thế gian này và của các quyền lực bóng tối, là sự khải hoàn của các đối thủ của Người. Nhưng Đức Giêsu không hề bị áp đảo bởi một quyền lực bên ngoài, chống lại ý muốn của Người. Người đã tự ý nhận lấy cái chết của Người, bởi vì Cha đã định đoạt như thế cho Người. Cái chết của Người là một dấu chỉ về tình yêu của Người đối với Cha.

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

----------------------------

 

PS 6-C96: VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN


CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH C

Cv 15,1-2.22-29 ; Kh 21,10-14.22-23 ; Ga 14,23-29

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 14,23-29

(23) Đức Giê-su đáp: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. (24) Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. (25) Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. (26) Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. (27) Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. (28) Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. (29) Bây giờ, Thầy nói với anh em, trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự việc ấy xảy ra”.

2. Ý CHÍNH:

 

Bài Tin mừng hôm nay trích trong bài từ biệt các Tông đồ của Đức Giê-su tại Nhà Tiệc Ly và gồm hai: PS 6-C96


Bài Tin mừng hôm nay trích trong bài từ biệt các Tông đồ của Đức Giê-su tại Nhà Tiệc Ly và gồm hai điểm chính như sau:

- THỂ HIỆN LÒNG MẾN: Đức Giê-su đòi các Tông đồ phải chứng tỏ lòng yêu mến Người bằng cách tuân giữ Lời Người truyền dạy, nhờ đó họ sẽ được kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi và sẽ nhận được ơn Thánh Thần trợ giúp.

- HỨA BAN BÌNH AN VÀ NIỀM VUI: Đức Giê-su cũng hứa sẽ ban bình an của Người cho các Tông đồ. Bình an thực sự và ngay trong tâm hồn. Nhờ đó, các ông sẽ không còn bối rối sợ hãi khi gặp phải những cơn bách hại xảy ra. Vì Người hứa sẽ ở lại với các ông luôn mãi.

3. CHÚ THÍCH:

- C 23-24:

+Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy: Đức Giê-su đòi các môn đệ phải chứng tỏ lòng yêu mến Người bằng hành động cụ thể chứ không bằng lời nói hay tình cảm suông. Hành động chứng tỏ lòng yêu mến là tuân giữ giới răn Người truyền.

+Cha Thầy và Thầy: Cha Thầy và Thầy ám chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi, vì Chúa Thánh Thần chính là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất ra.

- C 25-26:

+Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy: Đức Giê-su loan báo sẽ xin Chúa Cha sai Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ đến với các Tông đồ để Người sẽ ở lại với các ông luôn mãi (x. Ga 14,16).

+Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em: Sứ mệnh của Thánh Thần là dạy cho các môn đệ tất cả những gì Đức Giê-su đã bày tỏ nhưng lúc đó các ông chưa thể lãnh hội được hết ý nghĩa (x. Ga 13,7).

- C 27-29:

+Thầy để lại bình an cho anh em: Người Do thái thường chào nhau bằng lời chúc “Bình an”. Sự bình an này đồng nghĩa với không có chiến tranh... Còn sự bình an của Chúa Giê-su ban ở đây thuộc lãnh vực đức tin siêu nhiên. có nghĩa là được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết và được hưởng ơn cứu độ.

+Bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy: Xét về bản tính Thiên Chúa thì Đức Giê-su ngang bằng Chúa Cha. Nhưng xét về tư cách Đấng Thiên Sai, thì Đức Giê-su là “Ngôi Lời đã hóa nên người phàm”(Ga 1,14) nên không thể cao trọng bằng Thiên Chúa là Đấng đã sai Người (x Ga 14,28b). Thánh Phao-lô đã nói về điều này như sau: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu...” (Pl 2,6-11).

4. CÂU HỎI:

1) Đức Giê-su đòi môn đệ làm gì để chứng tỏ lòng yêu mến đối với Người ?
2) Ai yêu mến Người thì sẽ được Thiên Chúa ban thưởng thế nào ?
3) Đức Giê-su hứa ban Chúa Thánh Thần đến nhằm mục đích gì ?
4) Sự bình an do Đức Giê-su hứa ban giống hay khác với lời chào chúc bình an của người Do thái ?
5) Tại sao Đức Giê-su lại nói: ”Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” đang khi giáo lý dạy ba Ngôi Thiên Chúa bằng nhau và không Ngôi nào lớn hơn!

II. SỐNG LỜI CHÚA:

1.LỜI CHÚA: “Thầy đi thì ích lợi cho anh em” (Ga 16,7).

2.CÂU CHUYỆN:

ME-RI-ƠN OÉT (Marion West) là một bé gái 4 tuổi. Ngày nào bé cũng vui mừng nhảy nhót khi thấy mẹ từ chỗ làm tới đón về nhà ăn trưa. Vì bận phải đi làm việc gần nhà nên từ sáng sớm, mẹ cô bé đã đem con nhờ người hàng xóm tốt bụng trông giúp. Rồi đến trưa bà tranh thủ ra khỏi chỗ làm để đi đón con, và hai mẹ con hối hả trở về nhà cùng ăn trưa và vui đùa bên nhau. Rồi đến một giờ chiều, bà lại phải từ giã bé để đến chỗ làm tiếp tục công việc. Sau đó, bé ME-RI-ƠN thường buồn tủi ngồi im lặng hàng giờ đồng hồ. Thế rồi, theo lời khuyên của chuyên gia tâm lý, một ngày kia, mẹ bé đã thôi không về nhà vào mỗi buổi trưa đón bé nữa. Trưa hôm ấy, bé ME-RI-ƠN buồn rầu không thiết ăn uống. Em cứ thắc mắc tại sao mẹ lại không về nhà ăn trưa và chơi đùa với em ? Nhưng rồi lâu ngày bé quen dần và trở lại vui vẻ như trước. Nhiều năm sau đó, ME-RI-ƠN mới được mẹ kể cho biết bấy giờ hàng ngày bà vẫn trở về nhà, nhưng không ghé đón cô. Bà thường ngồi bên cửa sổ nhà bếp vừa ăn trưa vừa nhìn con vui chơi với các bạn bên nhà hàng xóm. Bà ao ước được chạy lại ôm ấp cô cho thỏa lòng. Nhưng vì muốn cho con trưởng thành, bà đành nén lòng lại, để con quen dần với sự vắng mặt của bà mà phát triển tâm lý bình thường như bao trẻ khác. Giờ đây khi đã khôn lớn, ME-RI-ƠN mới hiểu lý do tại sao mẹ cô lại làm như thế, và cô lại càng biết ơn mẹ nhiều hơn.

3.SUY NIỆM:

Tin Mừng CN hôm nay ghi lại lời Chúa Giê-su tâm sự với các môn đệ  trong bữa Tiệc Ly trước khi Người lìa bỏ các ông ra đi chịu khổ nạn và gồm hai điểm chính như sau:

1) Đức Giê-su hứa ban Thánh Thần: Khi nghe Đức Giê-su tiên báo việc Người sắp ra đi chịu khổ nạn rồi mới được Chúa Cha tôn vinh (x Mc 10,33-34), các môn đệ rất đỗi buồn phiền chán nản. Đức Giê-su đã phải an ủi khích lệ các ông khi cho biết việc Người ra đi là để dọn chỗ rồi sau đó Thầy trò lại sẽ lại được đòan tụ với nhau, nên lẽ ra các ông phải vui mừng vì Người được Chúa Cha tôn vinh. Hơn nữa các ông sẽ không bị mồ côi vì Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến an ủi và phù giúp các ông chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời. Quả thật sau khi Chúa Giê-su thăng thiên, các môn đệ không còn thấy Người hiện ra nữa. Nhưng Chúa Thánh Thần đã được sai đến vào lễ Ngũ Tuần đến thay Người giúp các ông chu tòan sứ vụ loan Tin Mừng như Người đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 26).

2) Vai trò của Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần giống như một Thầy giáo phụ đạo, sẽ soi sáng và giúp các môn đệ hiểu rõ lời Đức Giê-su dạy và giúp các ông chu tòan sứ vụ làm chứng nhân tình thương của Người đến tận cùng trái đất (x Ga 15,26-27).

3) Ích lợi của việc Đức Giê-su ra đi: Sau khi hoàn tất công việc được Chúa Cha trao phó, Đức Giê-su đã trao lại sứ vụ cứu độ trần gian cho Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần. Dù rất yêu thương các môn đệ và luôn muốn ở bên các ông, nhưng Đức Giê-su vẫn quyết tâm ra đi, vì điều đó mang lại lợi ích thực sự cho các ông. Nó vừa giúp các ông trưởng thành về đức tin hơn, lại vừa giúp họ đón nhận được đầy ơn Thánh Thần để chu tòan sứ vụ được sai đi (x Ga 20,22-23), loan báo Tin Mừng và dạy dỗ người ta (x Mt 28,19-20), làm chứng nhân cho tình thương của Thầy Giê-su “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

4) Ứng dụng vào thực tế: Câu chuyện của bé ME-RI-ƠN nói trên phù hợp với ý nghĩa bài Tin mừng hôm nay. Điều thích hợp và hữu ích đối với cô bé bốn tuổi ME-RI-ƠN và các môn đệ của Đức Giê-su, cũng hữu ích cho các tín hữu chúng ta hôm nay. Có những lúc, chúng ta có cảm tưởng như bị Thiên Chúa bỏ rơi: Khi ta chán nản, không còn thiết tha với việc cầu nguyện hằng ngày, với việu chầu trước Nhà Tạm thờ Chúa Giê-su Thánh Thể... Có những lúc đức tin của chúng ta trở nên yếu đuối khác hẳn với sự mạnh mẽ trước đó. Cũng có khi chúng ta không còn hứng thú với các sinh hoạt đòan hội như đi họp, đi làm công tác thăm viếng, quét dọn vệ sinh nhà Chúa, đi tập hát phục vụ trong thánh lễ... Chúng ta có cảm tưởng như bị Thiên Chúa bỏ rơi giống như Đức Giê-su hấp hối trên thập giá đã phải thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. Sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34). Tuy nhiên điều đó lại trở thỳanh cơ hội giúp chúng ta trưởng thành về đức tin, tập yêu Chúa cách quảng đại vô điều kiện, vững tin cậy vào Chúa, tin rằng Chúa để xảy ra tình trạng đó là nhằm thử thách đức tin của chúng ta. Chúa sẽ ban thêm sức mạnh giúp chúng ta vượt qua thử thách. Điều cần phải làm là vững tin vào tình thương của Chúa và chờ đợi chắc chắn Chúa sẽ ban nhiều hồng ân giúp đỡ ta như lời Chúa đã quả quyết với thánh Phaolô được ngài ghi lại như sau: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy d0ược biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12,9).

5) Kết luận: Chúa Giê-su luôn yêu thương chúng ta. Người muốn hiện diện ở bên để chăm sóc chúng ta là đòan chiên của Người. Nhưng Người biết rằng: Nếu Người lánh mặt đi thì sẽ có lợi cho chúng ta hơn. Người biết đã đến lúc chúng ta cần phải lớn lên về tâm linh, giống như Chúa Giê-su thấy đã đến lúc phải lìa bỏ các môn đệ để đem lại lợi ích cho các ông. Đây cũng là cơ hội để chúng ta nhận ra rằng: việc cầu nguyện có giá trị không hệ tại ở chỗ cảm thấy xúc động nhiều ít,nhưng là lúc tâm hồn chúng ta bị khô cứng như đá, không cảm thấy sốt sắng gì cả. Nhưng đó lại là lời cầu nguyện có giá trị nhất về đức tin. Qua đó, chúng ta hiểu rằng: Đức tin chân chính là một tâm tình dâng hiến, là một thái độ phó thác cậy trông vào Chúa quan phòng, là một lời thưa “xin vâng” thánh ý Chúa Cha như Chúa Giê-su và Đức Ma-ri-a đã trải qua để nêu gương cho chúng ta học tập (x. Mt 26,39; Lc 1,38). Do đó khi dự lễ hay chầu Mình Thánh Chúa, chúng ta không cảm thấy Chúa hiện diện thực sự trong tấm bánh miến, nhưng chúng ta “hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì”. Bấy giờ đức tin của chúng ta sẽ được Chúa chúc phúc, như lời Chúa Phục Sinh đã nói với ông Tô-ma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).

4.THẢO LUẬN:

1- Khi gặp cơn khủng hoảng về đức tin (chán ngại cầu nguyện, lười biếng làm các việc đạo đức bác ái...bạn sẽ vượt qua khủng hoảng ấy bằng cách nào?

2- Bạn sẽ làm gì để lời chúc bình an cuối lễ được ứng nghiệm trong đời sống thường ngày ?

5.NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa đã hứa rằng: sau khi Chúa ra đi thì Đấng Bảo Trợ khác là Thánh Thần sẽ được Chúa Cha sai đến, để tiếp tục dạy dỗ và làm cho các môn đệ nhớ lại mọi điều Chúa đã truyền dạy trước đó. Chính Thánh Thần sẽ giúp Hội thánh, trong đó có mỗi người chúng con thêm lòng yêu mến Chúa để thực hành được giới răn quan trọng nhất là “mến Chúa yêu người”.

- LẠY CHÚA, cho tới bây giờ hầu như chúng con mới chỉ yêu thương tha nhân bằng sự cầu nguyện, bằng lời nói hơn việc làm. Xin Chúa sai Thánh Thần đến canh tân lòng trí chúng con. Xin cho chúng con ý thức tình yêu phải được thể hiện bằng sự năng nghĩ đến người mình yêu, quên mình và hy sinh phục vụ người bên cạnh, quảng đại chia sẻ giúp đỡ người nghèo có đủ cơm ăn áo mặc, người bệnh có đủ thuốc men chữa bệnh, người đau khổ tìm được sự cảm thông an ủi, người lạc đường được Chúa dẫn đưa về nẻo chính đường ngay.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau

----------------------------

 

PS 6-C97: Yêu mến và bình an


CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Gio-an 14:23-29)

 

Gia sản người thân để lại cho chúng ta không chỉ là nhà cửa tiền bạc hay những đồ quý giá, nhưng: PS 6-C97


Gia sản người thân để lại cho chúng ta không chỉ là nhà cửa tiền bạc hay những đồ quý giá, nhưng còn là những giá trị tinh thần và đạo đức nữa.  Vậy trước khi bước vào cuộc Thương khó và cái chết thập giá, Chúa Giê-su đã lưu lại cho môn đệ Người một di sản “không như thế gian ban tặng”, đó là ân huệ tình yêu và bình an.  Đây là ân sủng phát sinh từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được Chúa Giê-su lập đi lập lại trong diễn từ của Người vào bữa Tiệc Ly.

          Để hiểu được ân huệ tình yêu và bình an ấy, trước hết chúng ta hãy nhìn vào tâm trạng của các môn đệ Chúa trong những ngày cuối cùng cuộc đời trần thế của Người.  Các ông hoang mang lo lắng, không biết khi nào là lúc thể hiện những điều Chúa tiên báo về cuộc khổ nạn.  Sự hiện diện của Chúa Giê-su giữa các ông là sự hiện diện của tình yêu và bình an.  Những năm tháng theo Thầy, các ông đã cảm nghiệm được tình yêu đích thực qua những “chạnh lòng thương” Thầy biểu lộ đối với đám đông dân chúng đói khát, đối với những người đau yếu về cả thể xác lẫn linh hồn.  Các ông đã cảm nghiệm được sự bình an thể lý khi có Chúa trên chiếc thuyền đang gặp sóng gió, hoặc khi Người bênh vực các ông lúc bị nhóm Pha-ri-sêu lên án.  Nhưng các ông cũng nhận ra được sự bình an tâm hồn khi chứng kiến những người tội lỗi đã được tha thứ và ra đi trong cuộc sống mới.

          Hiểu nỗi lo lắng băn khoăn ấy, Chúa Giê-su nói với các ông trước hết về tình yêu, vì tình yêu vừa là nguồn suối vừa là bảo đảm cho sự bình an đích thực.  Tình yêu Thiên Chúa là thực tại Thánh Thần phát sinh từ Chúa Cha và Chúa Con, tràn xuống chúng ta qua việc tạo dựng, kế hoạch cứu độ và những ân sủng của Thiên Chúa.  Để đáp lại tình yêu Thiên Chúa, chúng ta có một cách tốt nhất và cụ thể nhất, đó là “giữ lời Thầy”, sống những điều Chúa Giê-su dạy chúng ta.  Bản chất con người chúng ta hay lãng quên, hoặc cố ý quên, nên vai trò của Chúa Thánh Thần là “dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”.  Một khi vòng tròn tình yêu luân chuyển giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và chúng ta dưới tác động của Chúa Thánh Thần, thì sẽ phát sinh một sự bình an “theo kiểu Thiên Chúa”, phá tan mọi “xao xuyến và sợ hãi” của một tâm hồn thiếu vắng tình yêu.  Theo kiểu thế gian, ra đi là “chết nửa cuộc đời”, là tan nát cõi lòng… Còn theo kiểu Thiên Chúa, việc ra đi của Chúa Giê-su, tức là Người từ trời ra đi và đến cùng chúng ta (Nhập Thể), rồi đi về cùng Chúa Cha (Thương Khó và Phục Sinh), lại là lý do để chúng ta vui mừng, vì đó là sứ mệnh để Người biến đổi thân phận tội lỗi chúng ta thành những người con yêu dấu của Thiên Chúa.  Đến đây có lẽ chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giê-su lại nhấn mạnh đến tình yêu trước khi nói đến bình an Người ban cho chúng ta.  Tóm lại, ở trong tình yêu đích thực là tìm được bình an đích thực vậy.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Trong cuộc sống, có khi nào chúng ta cảm thấy xao xuyến và sợ hãi là vì mình không thể yêu thương hoặc không được yêu thương không?  Trong lao tù cải tạo không biết ngày nào được trở về, người chồng hay người con sở dĩ vượt thắng được những đau khổ thể xác cũng như những xao xuyến sợ hãi tâm hồn là vì biết rằng vợ mình hay cha mẹ mình ở nhà vẫn hết lòng yêu thương mình qua những chuyến thăm nuôi.  Bình an là hoa trái của tình yêu đích thực.  Cũng vậy, Ki-tô hữu đến với bí tích Hòa giải, để tìm về tình yêu Thiên Chúa và sống trong lòng thương xót tha thứ của Người, sẽ cảm nghiệm được thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng.

          Suy niệm về Mầu nhiệm Phục Sinh trong những ngày cuối của Mùa Phục Sinh, chúng ta không thể không chiêm ngưỡng và sống những di sản Chúa Giê-su để lại cho chúng ta.  Tình yêu là hoạt động của Thiên Chúa và bình an là hoa trái hoạt động ấy đem lại cho chúng ta.  Chúa mời gọi chúng ta:  càng đáp lại tình yêu của Người bằng cách sống lời Người bao nhiêu thì chúng ta càng được bình an tâm hồn bấy nhiêu.  Đồng thời con đường yêu thương ấy cũng đưa chúng ta tới bình an vĩnh cửu khi chúng ta được kết hiệp hoàn toàn với tình yêu Thiên Chúa trên thiên đàng mai sau.

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

----------------------------

 

PS 6-C98: Thiên Chúa đã đến cư ngụ nơi những kẻ yêu mến Người


Chúa Nhật 6 Phục Sinh Năm C

 (Công vụ tông đồ 15,1-29; Khải huyền 21,10-23; Gioan 14,23-29)

 Phúc Âm: Ga 14, 23-29

"Thánh Thần sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con".

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin".
 
Suy Niệm:

 

Theo những lời đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đang dặn dò môn đồ những: PS 6-C98


Theo những lời đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đang dặn dò môn đồ những lời cuối cùng trước khi Người ra đi chịu chết. Bầu khí này hợp để hướng lòng chúng ta về ngày lễ Chúa lên trời cử hành trong Chúa nhật sau. Nhưng những lời từ biệt cũng là những cảm tình Chúa để lại mãi mãi nơi Hội Thánh, và nói về Hội Thánh. Hội Thánh đã đón nhận những lời này để trao ban lại cho chúng ta để mọi thế hệ Kitô hữu thi hành ý Chúa mà xây dựng Nước Trời.

Bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy Hội Thánh đón nhận Lời Chúa như thế nào; rồi bài sách Công vụ, các Tông đồ sẽ chứng tỏ nhiệt tình của Hội Thánh, thi hành Lời Chúa; và cuối cùng bài Khải huyền sẽ mở ra cho chúng ta được chiêm ngưỡng trước vinh quang của Nước Trời, tức là Hội Thánh sau này nơi Thiên Quốc.
 
1. Hội Thánh Ðón Nhận Lời Chúa

Tác giả Gioan đã để Chúa Giêsu ngồi nói chuyện lâu với các tông đồ nơi bàn tiệc ly. Ông muốn dùng khung cảnh ấy để câu chuyện được thắm thiết. Mỗi lời môn đệ hỏi là một dịp để Chúa Giêsu dốc hết bầu tâm sự của Người. Ðoạn Tin Mừng hôm nay là Lời Chúa đáp lại câu hỏi của tông đồ Giuđa - không phải là Iscariốt đâu. Nghe Chúa nói: "Ai yêu mến Người thì Người sẽ tỏ mình ra cho người ấy", ông Giuđa liền hỏi: "Tại sao Người sẽ tỏ mình ra cho chúng tôi, chứ không cho thế gian?" Ông đã phát biểu tâm tư của hết mọi anh em, và có thể nói, của mọi người.

Thật vậy, người ta không chờ Ðức Giêsu là Cứu Thế sao? Riêng các môn đệ, họ đi theo Người không phải vì tin rằng Người sẽ tỏ vinh quang của Người ra và họ sẽ được xếp hàng hai bên tả hữu Người sao? Theo quan niệm của mọi người, Ðấng Cứu Thế phải được hiển vinh. Người sẽ lên cao trong xã hội và lấy uy quyền, đức độ của mình mà tái lập sự công chính ở trần gian. Thế mà bây giờ Ðức Giêsu lại bảo Người sẽ chỉ tỏ mình ra cho những kẻ mến Người và giữ lệnh Người. Số người này ít quá. Sau ba năm Người làm việc, số người đó đang ngồi cả ở đây chung quanh bàn Tiệc Ly. Cũng có một số môn đệ khác, đông hơn không có mặt ở đây. Nhưng cũng chưa chắc họ sẽ theo Người mãi mãi. Con số 12 ở đây là chắc hơn cả, ấy là chưa kể lúc này chỉ còn 11, vì tên phản phúc nộp Thầy đã ra đi rồi. Vậy nếu Chúa chỉ tỏ mình cho nhóm 12 này thì vinh quang Ðấng Cứu Thế sẽ như thế nào? Chúng ta phải hiểu thế nào về vai trò Cứu Thế của Ðức Giêsu? Người có phải là Cứu Thế không? Hay là chúng ta phải thay đổi quan niệm cứu thế xưa nay của mình? Câu hỏi của tông đồ Giuđa rất quan trọng. Và chắc chắn ai ai cũng chăm chú chờ đợi câu trả lời.

Chúa Giêsu đã lên tiếng. Người lặp lại ý đã nói: Ai mến Người thì sẽ giữ Lời Người và Cha Người sẽ yêu mến kẻ ấy. Rồi Người tiếp - và đây là lời Người đáp lại câu hỏi của môn đệ: "Chúng ta sẽ đến với nó và sẽ đặt chỗ ở nơi mình nó."

Những ai nhớ Kinh Thánh hẳn đã thấy Chúa trả lời rất đầy đủ và gẫy gọn. Nhưng sợ các tông đồ không thể hiểu hết ý của Người. Thế nên Người còn thêm một ý tưởng tiêu cực để giúp họ dễ hiểu hơn. Người nói: "Ai không mến Ta thì không giữ lời Ta". Và lẽ ra Người đã phải nói thêm: "Và chúng ta sẽ không đến với nó và sẽ không đặt chỗ ở nơi mình nó". để các tông đồ thấy rằng: quả thật Chúa sẽ chỉ tỏ mình ra cho những kẻ mến Người và giữ lời Người mà thôi. Còn kẻ không mến Người và không giữ lời Người sẽ không được Người tỏ mình ra. Là vì lời Người nói không phải của Người nhưng là của Ðấng đã sai Người là Chúa Cha. Nếu người ta từ khước Lời Thiên Chúa thì làm sao Chúa Cha và Người có thể tỏ mình ra cho họ?

Nhưng dù ý Chúa đã khá rõ như vậy, các Tông đồ vẫn chưa thể hiểu hết. Và có lẽ chính chúng ta cũng vậy. Chúng ta hết thảy cần được giải thích thêm. Và đây là công việc của Chúa Thánh Thần mà hôm nay Chúa Giêsu hứa sẽ đến với các tông đồ và nhắc nhở dạy dỗ họ biết mọi sự và hiểu mọi lời Chúa nói. Chúng ta không nên thắc mắc nhiều vì sao Chúa Giêsu đã không làm cho môn đệ hiểu hết và hiểu ngay tức khắc sự thật mà Người muốn nói với họ. Mầu nhiệm của Người cốt yếu nằm trong việc Người tử nạn phục sinh. Việc này chưa xảy đến thì các sự thật về Người khó mà tỏ hiện hoàn toàn được. Trái lại, sau khi đã tham dự việc Người chịu chết và sống lại, người ta mới có khả năng hiểu mọi chân lý cứu độ mà Người thông tri cho họ.

Vậy nhờ ánh sáng của mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh chúng ta bây giờ mới lãnh hội được ý nghĩa sâu xa của Lời Chúa đáp lại câu hỏi của tông đồ Giuđa. Ông này muốn biết vì sao Chúa chỉ tỏ mình ra cho môn đệ, chứ không cho thế gian. Ông quan niệm Nước của Chúa phải đến theo ý nghĩa xác thịt. Ông cũng như mọi người cứ tưởng rằng Ðấng Cứu Thế sẽ làm Vua thiên hạ ở đời này... Ðang khi đọc lại lời các tiên tri và theo dõi giáo huấn của Chúa Giêsu từ ngày Người ra đi giảng đạo, chúng ta phải công nhận quan niệm như vậy không đúng tí nào. Ngay từ đầu, khi Chúa gọi các tổ phụ, Người vẫn bảo đảm rằng Người ở với họ. Và đó là dấu hiệu họ được tuyển chọn. Lúc nhờ Môisê tập họp con cái Israen lại thành dân riêng, Người cũng khẳng định sẽ ở với họ nếu họ giữ giao ước của Người. Vẫn biết Người đã ban cho họ những dấu hiệu làm chứng Người ở với họ, như Lều Giao Ước, Hòm Bia Thánh v.v... Nhưng đó chỉ là dấu hiệu và một vài dấu hiệu thôi. Sự hiện diện của Người còn rõ rệt trong nhiều dấu hiệu khác và đặc biệt trong cách Người dẫn dắt lịch sử Israen, như mục tử chăn dắt đàn chiên. Dân Chúa nhận biết Người ở với họ khi Người ra tay cứu họ khỏi kẻ thù hơn là tựa vào những dấu hiệu bề ngoài như Hòm Bia Thánh hay là Lều Giao Ước. Chắc chắn khi thấy Chúa lấy hình lửa, khói vào đầy đền thờ mới xây, Salomon đã cảm tạ Chúa vô vàn vì Người là Ðấng mà cả trời đất không chứa nổi, đã khấng đến ở với dân Người trong đền thờ...

Nhưng rồi Êzêchien đã thấy khói lửa ở đền thờ bốc lên, và đi theo đoàn người lưu đày... Những người có khuynh hướng xác thịt vẫn ước mong được thấy có ngày đền thờ được tái thiết, Chúa lại đến ở với dân trong đền thờ mới... Nhưng những người có tâm hồn cao thượng và ý nghĩ tiến bộ đã nghe lời Giêrêmia và các tiên tri để trông đợi ngày Giao Ước mới được ký kết ngay trong tâm hồn người ta và Thần khí của Chúa sẽ được đổ xuống trên tôi tớ nam nữ của Chúa, chứng tỏ Ðấng Emmanuen, Ðấng Thiên Chúa ở cùng chúng tôi sẽ không ở nơi các đền thờ bằng đá, gạch nhưng cần nhất là nơi tâm hồn dân Chúa...

Ðức Giêsu từ ngày ra giảng đạo không ngớt hướng tâm trí mọi người theo hướng ấy. Và hôm nay Người khẳng định với môn đệ: Ai mến Người sẽ giữ lệnh Người, kẻ ấy sẽ được Thiên Chúa yêu mến; và Cha Người với Người sẽ đến cư ngụ nơi mình họ. Dĩ nhiên Người không thể đến cư ngụ với thân thể Người đang mang khi ngồi nói với họ đây. Nhưng khi Người đã được tôn vinh nơi Thiên Chúa trong mầu nhiệm Phục sinh, Người sẽ ở trong vinh quang Chúa Cha và bấy giờ cùng Chúa Cha đến ở trong tâm hồn những kẻ yêu mến Người và giữ lệnh Người. Còn những kẻ không tin và giữ Lời Người thì tự họ đã đặt cản trở cho Thiên Chúa đến ở với họ. Và dấu chỉ rõ ràng việc Người sẽ tỏ mình ra cho những kẻ giữ lệnh Người là việc Thánh Thần sẽ được ban xuống cho họ, nhân danh Chúa Giêsu Kitô.

Tất cả những điều này xảy ra. Ðức Giêsu đã ra đi biến đổi thân xác của mình. Sau đó Người đã trở lại tỏ mình ra cho môn đệ, chứ không cho thế gian. Rồi cũng chỉ có các môn đệ được lãnh nhận Thánh Thần, khiến thiên hạ phải công nhận Thiên Chúa đang ở với các môn đệ của Người...

Tuy nhiên, như đã nói, khi ở bàn tiệc ly, các tông đồ chưa được thấy những việc này. Họ chưa hiểu được lời của Chúa. Họ lại sắp sửa vấp phải thử thách của mầu nhiệm thập giá. Chúa Giêsu thương họ. Người phải an ủi, nên đã nói thêm với họ: "Ta để lại bình an cho các ngươi". Ðây không phải là sự bình an theo nghĩa thế gian. Cũng không phải là sự bình an theo như người Do Thái hiểu khi chào nhau để cầu xin cho nhau được sự độ trì của Thiên Chúa. Nhưng đây là sự bình an của chính Chúa Giêsu, sự bình an Người "mua sắm" được trong mầu nhiệm thánh giá, để giảng hòa tội nhân với Thiên Chúa, để đưa tội nhân vào thân thể mầu nhiệm của Người cho họ được ơn tha thứ tội lỗi và trở nên Con Thiên Chúa, để họ được Thiên Chúa làm Ðấng ở cùng họ.

Do đó, cho dù chưa đi chịu chết và sống lại, và chưa làm cho môn đệ trở nên đền thờ Thiên Chúa ngay được, Ðức Giêsu khi để lại sự bình yên cho họ, đã như bảo đảm cho họ sẽ được Thiên Chúa ở cùng, để khi gặp thử thách thập giá, họ có thể vững tâm. Họ không có gì phải sợ vì rồi đây Chúa sẽ trở lại và tỏ mình ra cho họ chứ không cho thế gian. Hơn nữa họ còn phải vui mừng vì việc Người ra đi. Xét về bản tính nhân loại, Người vẫn ở dưới Chúa Cha và việc Người về với Chúa Cha chỉ có lợi cho Người và cho họ. Người về để được lại vinh quang mà Người vẫn có nơi Chúa Cha để cùng Chúa Cha trở lại với họ trong vinh quang ấy, khiến cộng đoàn của họ sẽ không như hiện giờ nữa nhưng sẽ đổi mới và vinh quang khác thường.

Và những điều này thật sự đã xảy ra. Sau khi Chúa Giêsu sống lại và ban Thánh Thần xuống, cộng đoàn môn đệ đã mau biến dạng. Mọi người phải kinh ngạc, và ai nấy phải nhận là Thiên Chúa đã đến ở cùng cộng đoàn những người yêu mến Chúa và giữ lệnh Người. Chúng ta hãy nhìn xem cộng đoàn ấy sinh hoạt trong bài sách công vụ hôm nay.
 
2. Chúa Ở Cùng Hội Thánh

Bài sách chỉ giữ lại đoạn đầu và đoạn cuối câu chuyện. Chúng ta biết có chuyện một số người từ Giuđê xuống Antiôkia. Họ cũng là Kitô hữu nhưng trước đây ở trong Do Thái giáo và giữ Luật Môisê. Ðến Antiôkia họ gặp các tín hữu mới, đã trở lại từ lương dân. Những người này chỉ mến Chúa và giữ lệnh Người truyền chứ không để ý đến những bó buộc của luật Môisê, đặc biệt luật cắt bì. Thấy vậy, những anh em ở Giuđê đến không chịu. Họ bảo phải cắt bì và giữ luật Môisê. Họ phản đối Barnaba và Phaolô trong vấn đề này, vì chính hai ông từ đầu, đã không biết dạy lương dân khi tòng giáo phải giữ luật Môisê. Và họ làm cho cả miền đất ngoại cũ này xôn xao, mất bình an. Thế là giáo dân ở Antiôkia, phải cử Phaolô và Barnaba lên Giêrusalem với mấy anh em để gặp gỡ các bậc lãnh đạo Hội Thánh ở Giuđê.

Ðến nơi, người ta càng thấy vấn đề nghiêm trọng. Hội Thánh ở Giuđê cũng rất xôn xao, trước cả Antiôkia nhiều. Người ta bàn tán rất nhiều về việc Phaolô và Barnaba không bắt lương dân tòng giáo, phải chịu cắt bì và giữ luật Môisê. Những người chống đối thái độ "dễ dàng" này dường như muốn bám víu uy tín của tông đồ Giacôbê đang lãnh đạo Hội Thánh ở Giêrusalem. Nhưng Phaolô và Barnaba biết ai là người có uy quyền thật sự. Các ông đến với Phêrô xin vị tông đồ trưởng này kể lại cho mọi người rõ Chúa Thánh Thần đã dạy dỗ ông thế nào. Và ông đã lên tiếng thuật lại việc đã xảy ra tại nhà Cornêliô. Nhiều người lương dân đang nghe ông giảng thì đã nhận ra được Thánh Thần hiện xuống, khiến Phêrô dạy phải rửa tội ngay cho họ mà không cần bó buộc phải cắt bì.

Nghe Phêrô làm chứng như vậy, Giacôbê đã lên tiếng ôn hòa hơn và làm cho Hội Thánh chấp nhận giải pháp hôm nay. Hội Thánh phủ nhận việc làm của những anh em đã từ Giuđê đến gây xáo trộn ở Antiôkia: họ đã làm việc tự ý chứ không có ủy nhiệm. Bù lại, Hội Thánh nhất trí cử lại một phái đoàn đến lập lại bình an. Hội Thánh cũng lấy lại uy tín cho Phaolô và Barnaba là những anh em kính mến đã tận hiến đời mình cho công cuộc của Chúa. Nhất là Hội Thánh ban như nói rõ: "Thánh Thần và chúng tôi quyết định không chất thêm gánh nặng nào cho anh em (lương dân trở lại), trừ vài điều cần kíp này..." nhưng không có vấn đề cắt bì nói riêng và luật Môisê nói chung.

Ðó là thắng lợi cho Phaolô và Barnaba; sự vui mừng của anh em ở Antiôkia đã không nhỏ. Nhưng đó là những điều nhất thời. Kết quả lâu dài và tồn tại là chính sự bình an mà Hội Thánh đã đạt được ở hết mọi nơi, tại Giuđê cũng như ở Antiôkia. Sự bình an này thật sâu rộng và phải nói là bởi trời. Nó đem lại sự nhất trí nơi các tông đồ; nó xiết chặt. Hội Thánh Mẹ với các Hội Thánh con; nó làm cho Hội Thánh Mẹ thấy Chúa đang ban cho mình được các dân tộc; nó khiến các dân mới ý thức vinh dự đồng thừa tự trong Ðức Kitô. Rõ ràng đây là việc của Thánh Thần. Chính Người đã thắng khi làm cho mọi người hiểu ý của Người đã tỏ ra tại nhà Cornêliô. Người đã đem môn đệ của Chúa vào sự thật và đã nhắc nhở, soi sáng để họ hiểu mọi lời Chúa đã nói. Thế nên không phải vô lý mà các môn đệ của Chúa đã để tên Chúa Thánh Thần ngay ở văn kiện đầu tiên của Công đồng thứ nhất của Dân Chúa. Và điều này nói lên rằng: Thiên Chúa ở cùng Hội Thánh. Người không thụ động trong Hội Thánh nhưng luôn sinh hoạt với Hội Thánh, làm cho Lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay thành sự thật ở trước mắt mọi người: Hễ ai yêu mến Chúa và giữ lệnh Người thì Cha Người và Người sẽ đến ở nơi mình họ... Người sẽ ban Thánh Thần đến, dạy dỗ họ và cho họ được bình an, sự bình an đặc biệt của Người mà thế gian không có cũng chẳng ban được.

Những điều này khiến chúng ta vững vàng đi với Hội Thánh. Và cùng Hội Thánh hướng về tương lai mà sách Khải Huyền hôm nay mô tả.
 
3. Hội Thánh Là Giêrusalem Mới

Tác giả Gioan đã trỏ cho thấy Tân nương, hiền thê của Chiên Con. Quang cảnh xảy ra trên một ngọn núi hùng vĩ và cao chót vót. Không phải là núi Sion nữa để cho thấy cũ đã qua, mới đã đến. Và Giêrusalem hiền thê của Chiên Con chưa có sẳn ở đó, nhưng rồi đã từ trời xuống, để ai nấy đều biết đây là tạo dựng mới hoàn toàn, phát xuất từ nơi Thiên Chúa. Hơn nữa nó còn chói lại vinh quang của Người và ánh sáng của nó tỏa ra rất là linh diệu, không bút nào tả xiết. Tác giả Gioan đã viết những điều như thế để chúng ta đừng ngộ nhận, tưởng rằng thiên quốc và đời sống hạnh phúc mai này chỉ nối dài những điều mắt thấy tai nghe ở đời này. Không, mọi sự đều mới hẳn và đến từ Thiên Chúa.

Tuy nhiên, Giêrusalem thiên quốc vẫn liên hệ mật thiết với Hội Thánh dưới đất, vì kìa Gioan thấy nó có tường cự đại, trổ 12 cổng có khắc tên 12 chi tộc con cái Israen, để chứng tỏ dân cũ đã đóng vai trò lịch sử của nó là mở đường cho thiên hạ đi vào Nước Trời. Chúng ta không nên tưởng 12 thiên thần đứng ở 12 cổng có nhiệm vụ canh gác... Thời gian lựa chọn đã qua rồi. Họ đứng đó để tiếp rước và để nói lên vinh dự của con cái Thiên Chúa từ nay được ở với các thiên thần. Và như lời Kinh Thánh đã hứa, những kẻ ở bên đông, bên tây, bên nam và bên bắc sẽ đến dự tiệc Nước Trời, nên ở đây sau khi nói đến 12 cổng, tác giả Gioan đã ghi rõ mỗi phía đều có 3 cổng. Ông lập lại ý tưởng đã viết chỉ để nhấn mạnh rằng mọi lời hứa đều đã thực hiện. Và tuy rằng 12 cổng đều mang tên 12 họ con cái Israen, tất cả tường thành đều xây trên nền móng 12 tông đồ của Chiên Con, để nói lên sự mật thiết giữa dân mới và dân cũ, dân mới đã duy trì dân cũ, cũng như bây giờ cả hai dân đã được Thiên Chúa đổi mới hoàn toàn để làm thành Giêrusalem mới xuống tự trời cao, tự nơi Thiên Chúa.

Ðiều đáng để ý nhất trong Giêrusalem mới này là không có điện thờ nữa cũng như không có mặt trời, mặt trăng nữa; Vì Thiên Chúa toàn năng và Chiên Con nay là điện thờ của thành và vinh quang của các Ngài là ánh sáng chiếu soi Giêrusalem mới. Những điều này thật ý nghĩa, vì như vậy rõ ràng đã thực hiện Lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: Cha Người và Người sẽ đến cư ngụ nơi cộng đoàn môn đệ của Người và Hội Thánh của Người có Thiên Chúa ở cùng họ.

Do đó, chúng ta có thể kết luận về giáo huấn của ba bài Kinh Thánh hôm nay rằng: nhờ mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã đến cư ngụ nơi những kẻ yêu mến Người và giữ lệnh Người. Cộng đoàn những kẻ ấy trở nên Ðiện thờ mới của Thiên Chúa ở trần gian để Người là Thiên Chúa ở cùng họ mọi ngày trong đời sống. Bây giờ cộng đoàn ấy đang mở cửa để dân ngoại mọi nơi tuôn đến đợi khi thời gian sung mãn, tất cả những gì chúng ta đang thấy nơi Hội Thánh trần gian sẽ được siêu thăng. Vinh quang của Chiên Con và của Thiên Chúa sẽ đổi mới Hội Thánh và biến Hội Thánh nên Tân nương trang sức rực rỡ của Chiên Con. Người ta sẽ thấy Thiên Chúa hiện thân ở cùng Hội Thánh mãi mãi và vô tận. Và lời Chúa nói với môn đệ ở bàn tiệc ly sẽ được thực hiện hoàn toàn nơi Giêrusalem thiên quốc.

Cho đến ngày ấy, mỗi khi cử hành thánh lễ lời của Chúa lại được hiện tại hóa. Tất cả những ai sốt sắng tham dự mầu nhiệm tử nạn phục sinh sẽ được Chúa ngự đến nơi tâm hồn. Người ta trở thành Kitô hữu nhiều hơn và trở nên con cái Thiên Chúa hoàn toàn hơn. Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong họ, và Chúa Thánh Thần hoạt động với họ. Họ và cộng đoàn giáo xứ của họ phải mở cửa đón nhận mọi người từ đông tây nam bắc để Thiên Chúa ở cùng mọi người, để mọi người dần dần được vinh quang đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô chiếu soi và làm cho trong sáng đợi ngày tất cả trở nên Giêrusalem thiên quốc bình an và hạnh phúc.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

----------------------------

 

PS 6-C99: BÌNH AN TRONG CHÚA


(CHÚA NHẬT VI, MÙA PHỤC SINH, NĂM C)

(Linh Mục Anphong Trần Đức Phương)

 

 Chúng ta sắp sửa mừng Lễ Chúa Giêsu Lên Trời và tiếp theo là Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: PS 6-C99


Chúng ta sắp sửa mừng Lễ Chúa Giêsu Lên Trời và tiếp theo là Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Chúa Nhật hôm nay nói đến sự Bình An thật của Chúa ban cho những tâm hồn biết sống trong tình yêu Chúa và đem tình yêu Chúa đến cho mọi người, nhất là những người đang gặp những hoàn cảnh đau khổ, túng thiếu cần sự giúp đỡ của chúng ta. Bình An thật của Chúa cũng là hiệu qủa của ơn Chúa Thánh Thần ban cho những tâm hồn sống an hòa với mọi người.

  Bài Đọc I (Công Vụ Tông Đồ 15: 1-2, 22-29) nói đến cuộc họp ở Giêrusalem giữa các Tông Đồ và một số đại biểu giáo dân gốc Do Thái và Ngoài Do Thái để bàn về vấn đề rất quan trọng là những người ngoài Do Thái khi gia nhập Giáo Hội có buộc phải giữ luật Do Thái, đặc biệt là luật Cắt Bì hay không. Cuộc Họp này coi như một Công Đồng Chung đầu tiên trong Giáo Hội và đã đi đến nghị quyết với lời mở đầu: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định…” những người ngoài Do Thái không buộc phải cắt bì và một số các luật lệ khác của Do Thái Giáo.

  Bài Đọc II (Khải Huyền 21: 10-14, 22-23) diễn tả về sự huy hoàng của ‘Thành Thánh Giêrusalem mới’ tức là Giáo Hội Chúa, những cổng thành luôn được mở ra để đón nhận mọi người thuộc mọi dân tộc đến gia nhập Giáo Hội; vì thế, Giáo Hội có tính cách phổ quát mở rộng cho mọi người. (Trong tiếng Hy Lap chữ Katholikos có nghĩa là ‘phổ quát’ chung cho mọi người. Tiếng Việt Nam gọi là ‘Công Giáo’, tiếng Anh là ‘Catholic’, tiếng Pháp là ‘Catholique’)

  Bài Phúc Âm (Gioan 14: 23-29) tiếp tục ghi lại những lời tâm huyết Chúa Giêsu nói với các Tông đồ trong bữa ăn cuối cùng (Tiệc Ly). Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ hãy giữ các điều Chúa đã giảng dạy, và giảng dạy lại cho mọi người. Ai giữ lời Chúa thì thuộc về Chúa. Chúa Giêsu cũng nói trước là Chúa Cha sẽ ban Chúa Thánh Thần đến để soi sáng cho các Tông đồ hiểu đầy đủ hơn và vâng giữ các điều Chúa Giêsu đã giảng dạy cho các ông. Chúa Giêsu chúc Bình An cho các ông. Đây là sự Bình An thật trong tâm hồn, Bình An bền vững khi có Chúa ở cùng, khác với sự bình an chóng qua của thế gian.

  Nếu chúng ta để ý, chúng ta sẽ thấy mỗi khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ, Chúa đều nói: “Chúc Bình An cho các con!”, và trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu xác định sự Bình An Chúa ban không phải là sự Bình An tạm thời của thế gian khi được mọi sự như ý, nhưng là sự Bình An thật, sự Bình An bền vững trong tâm hồn có Chúa ngự. Sự Bình An thật trong Chúa giúp chúng ta luôn biết sống tin tưởng và phó thác mọi sự trong tay Chúa, dù khi được mọi sự như ý hay khi gặp những khó khăn, nghịch cảnh, hay những bách hại vì Đức Tin. Đó cũng là sự Bình An thật  trong tâm hồn mà chúng ta cảm nghiệm được khi chúng ta sống trong sạch, sống theo các giới răn của Chúa và hòa hợp yêu thương mọi người trong tình yêu Chúa.

  Trong mọi Thánh Lễ, sau khi hướng tâm hồn lên với Chúa là Cha để cùng cầu nguyện chung “Kinh Lạy Cha”, và sau khi đọc lời kinh cầu nguyện bình an cho mọi người và cho Giáo Hội, vị chủ tế chúc: “Bình An của Chúa hằng ở cùng anh chị em!” và chúng ta đều chúc bình an cho nhau để tỏ lòng yêu mến và hòa hợp với nhau, trước khi chúng ta lên rước Mình và Máu Thánh Chúa.

  Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho Hòa Bình thật sự của Chúa luôn ở trong tâm hồn chúng ta , trong gia đình chúng ta, trong Giáo Hội và toàn thế giới. Xin cho mọi người chúng ta luôn cố gắng để trở nên những “khí cụ bình an của Chúa” cùng chung tay xây dựng sự hòa hiệp yêu thương ở mọi nơi chúng ta hiện diện trong cuộc sống hằng ngày.

  Chúa Nhật hôm nay cũng là ngày Tôn Vinh các Bà Mẹ (Mother’s Day), chúng ta hãy cùng chung lời cầu nguyện cho các Bà Mẹ: Xin cho các Bà Mẹ còn đang sống giữa chúng ta luôn được muôn ơn lành của Chúa, được con cháu yêu thương phụng dưỡng; xin cho các Bà Mẹ đã qua đời được thưởng công bội hậu trên nước Chúa.

----------------------------

 

PS 6-C100:  Chúa Nhật VI Phục Sinh, C


2010

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Gio-an 14:23-29)

 

Trong đoạn tâm sự Chúa Giê-su nói với các Tông đồ hôm nay, chúng ta nhận ra hai điểm chính tuy: PS 6-C100


          Trong đoạn tâm sự Chúa Giê-su nói với các Tông đồ hôm nay, chúng ta nhận ra hai điểm chính tuy khác nhau nhưng lại liên hệ mật thiết với nhau, đó là việc tuân giữ lời Chúa và bình an Chúa ban.  Chúng ta hiểu Chúa muốn dạy rằng nếu chúng ta làm theo lời Chúa dạy thì chúng ta sẽ được bình an.  Vậy làm sao lại có sự liên hệ ấy?

          Chúa Giê-su là Ngôi Lời, tức Lời của Thiên Chúa.  Trước đây, Lời Thiên Chúa được ban cho nhân loại qua những trung gian là các ngôn sứ, nhưng từ khi Ngôi Lời xuống thế làm người, Thiên Chúa nói trực tiếp với chúng ta bằng tiếng nói và đời sống của một người phàm là Chúa Giê-su Ki-tô (Dt 1:1).  Do đó việc tuân giữ Lời Chúa không chỉ là làm theo sách luật dạy, nhưng còn là làm theo gương mẫu và lối sống của Chúa Giê-su.  Trước đây, liên hệ giữa kẻ tuân giữ và Lời Chúa được duy trì trong thái độ sợ hãi hoặc mong đợi được thưởng công.  Nhưng nay mối liên hệ giữa kẻ tuân giữ và Lời Chúa nhập thể được xây dựng trên lòng yêu mến.  Não trạng giữ luật Mô-sê là làm theo bề ngoài và nặng phần trình diễn.  Còn não trạng giữ luật Chúa theo lời dạy và gương mẫu của Chúa Giê-su là não trạng tuân giữ vì yêu mến.  Do đó việc giữ luật là một sinh hoạt mới mẻ, tức là sống mối quan hệ với Chúa Giê-su, là chúng ta ở lại trong Chúa và Chúa ở lại trong chúng ta.  Mối quan hệ yêu thương này đích thực là dấu chỉ nói lên Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong chúng ta.  Một khi Chúa Thánh Thần là tình yêu thúc giục chúng ta tuân giữ lời Chúa, thì chính Thánh Thần sẽ dạy chúng ta mọi điều và giúp chúng ta nhớ lại mọi điều Chúa Giê-su dạy chúng ta.  Dạy và nhớ là hai điều căn bản của việc tuân giữ lời Chúa.  Chúa dạy và chúng ta nhớ.  Như cha mẹ, Chúa chỉ dạy để giúp chúng ta nên người.  Còn chúng ta nhớ để chúng ta thực hành.

          Nếu xác tín việc tuân giữ lời Chúa là sống mối quan hệ giữa chúng ta với Chúa Giê-su, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu tại sao bình an là kết quả của việc tuân giữ ấy.  Điều làm chúng ta mất đi bình an không phải là không còn những tranh chấp, tị hiềm hoặc khổ đau, nhưng là vì những mối quan hệ của chúng ta đang bị tổn thương.  Một đứa con phạm lỗi biết là mình đang làm trái lời cha mẹ dạy nên chính nó cảm thấy không yên ổn, hoặc vì sợ bị trừng phạt, hoặc vì sợ cha mẹ không vui.  Đã lần nào chúng ta lái xe vô ý vượt đèn đỏ hay bảng stop chưa?  Mặc dù cảnh sát thực sự không có mặt lúc đó, thế mà chúng ta vẫn không an tâm, thỉnh thoảng nhìn vào kiếng chiếu hậu xem có xe cảnh sát nào theo và bật đèn chớp lên không!  Đúng là tâm trạng mất bình an!  Cũng thế, nếu còn giữ mối quan hệ với Chúa, mỗi khi chúng ta phạm tội là mỗi lần chúng ta mất bình an.  Ngược lại, khi mối quan hệ với Chúa diễn tiến tốt đẹp, chúng ta luôn cảm thấy hạnh phúc vì không có gì làm chúng ta phải lo lắng hay hãi sợ cả, mà chỉ thấy từ nơi Chúa chúng ta cảm nghiệm được bình an lạ lùng, không như kiểu bình an của người đời.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Chúa Giê-su bảo các môn đệ đừng xao xuyến và đừng sợ hãi.  Người nói điều này đang khi Người nghĩ đến giờ phút cuộc Thương khó đã gần kề và sẽ ảnh hưởng trên các môn đệ.  Người kêu gọi họ hãy liên kết với Người và Người sẽ giúp họ thắng vượt mọi khó khăn và đứng vững giữa thử thách.  Hôm nay Chúa vẫn nói cùng những lời hứa ấy với chúng ta và cũng trong cùng hoàn cảnh khó khăn thử thách.  Cũng như các môn đệ Chúa ngày xưa, chúng ta hãy lấy tình yêu làm động lực tuân giữ lời Chúa và chắc chắn sẽ được sống trong bình an của Người.

Lm. Dominic TTL

--------------------------------------

[1][1] M. Zerwick, Biblical Greek  §313.

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây