Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 4-C Bài 101-150 Chúa nhật Chúa chiên lành ------------------------------------- Phúc Âm: Ga 10, 27-30: "Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời".
Cùng với Giáo hội hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 4 Phục sinh của năm Phụng vụ 2010. Như chúng ta đã biết, vào mỗi Chúa nhật thứ 4 Phục sinh hằng năm Giáo hội tôn vinh Chúa Giêsu với tên gọi: mục tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã tự xưng mình là mục tử nhân lành - mục tử hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời" (Ga 10, 27 - 28a).
Chúa Giêsu đến trần gian này để hoàn tất chương trình cứu độ con người. Ðó là ơn gọi đặc biệt mà Chúa Giêsu được đón nhận từ Thiên Chúa Cha. Và Người đã hoàn tất ơn gọi ấy thật tuyệt vời.
Chúa nhật hôm nay cũng là ngày mà cả Giáo hội cầu nguyện cho có nhiều bạn trẻ dám đáp lại ơn kêu gọi của Chúa để sống đời sống tu trì. Sống ơn gọi tu trì hầu tận hiến trọn vẹn cho Chúa và cho anh chị em mình.
Nói đến ơn gọi tu trì thì dường như ngày nay nhiều bạn trẻ Công giáo cảm thấy sợ. Có lẽ họ sợ là vì họ chưa dám sống tích cực ơn gọi chung. Ơn gọi chung ấy chính là ơn gọi làm người và ơn gọi làm người con Thiên Chúa. Khi ý thức để sống trọn vẹn được 2 ơn gọi căn bản này, các bạn trẻ sẽ dễ dàng đón nhận ơn gọi sống đời tu trì. Chính môi trường gia đình là những người đầu tiên gieo mầm sống ơn gọi này.
Ðời sống chứng tá khơi dậy các ơn gọi. Ðây là chủ đề của Sứ điệp ơn gọi năm nay của Ðức Thánh Cha Bênêđictô. Trong sứ điệp này ngài đề cập đến ba việc cần làm để trở thành chứng tá khơi dậy các ơn gọi nhất là ơn gọi tu trì.
Ðời sống cầu nguyện là chứng tá đầu tiên. Ðó là một gia đình thường xuyên nhắc nhở nhau đi dâng Thánh lễ nhất là Thánh lễ Chúa nhật. Cũng vậy, trong gia đình ấy mỗi người nhắc nhở nhau đọc kinh hôm kinh mai chung.
Một đời sống tin tưởng và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa là khía cạnh thứ hai trong việc làm chứng tá khơi dậy các ơn gọi. Với tất cả biến cố vui buồn trong cuộc sống luôn biết tìm ra và đón nhận thánh ý Thiên Chúa một cách vui vẻ.
Khía cạnh thứ ba không kém phần quan trọng là biết sống hiệp thông với mọi người. Tự bản chất con người được dựng nên để sống chung, sống cùng, sống với và sống cho người khác. Cho nên, người nào muốn trở thành người thật sự cần sống tốt những điều này.
Mặc dầu, trên đây là những điều căn bản trong việc làm chứng tá khơi dậy các ơn gọi nhất là ơn gọi tu trì nhưng thiết nghĩ đây cũng là điều hết sức cần thiết cho mỗi người tín hữu. Bởi vì, cho dù có đi tu hay không mỗi người chúng ta đều được kêu mời sống trọn vẹn ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa.
"Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi".
Một em bé chín tuổi nhận định về bà ngoại của mình như sau: Bà ngoại là bà cụ không có em bé: PS 4-C102
Một em bé chín tuổi nhận định về bà ngoại của mình như sau:
Bà ngoại là bà cụ không có em bé nên bà thích chăm sóc những em bé nhà hàng xóm. Bà ngoại già nên không chơi "hết ga" được, bà chỉ loanh quanh con ngựa gỗ, nhưng bà có nhiều xu lẽ lắm.
Bà ngoại thường béo tròn, nhưng bà vẫn cột được giây giày cho trẻ con. Bà chẳng khôn lanh mấy...chỉ biết trả lời những câu hỏi như: Tại sao chó ghét mèo, hoặc tại sao khi Chúa đến thì không được làm đám cưới nữa. Bà ngoại nói rất sõi, không bị ngọng. Lúc đọc truyện cho tụi cháu, bà không bỏ chữ, và không đọc một câu truyện tới hai lần. Ai cũng nên cố gắng có một bà ngoại, nhất là những người không có TV. Bởi vì bà ngoại là người lớn duy nhất dành hết thời giờ cho con nít.
Bà ngoại... tuyệt vời như vậy thôi chứ con đòi gì nữa?
Chúa nhật IV phục sinh là Chúa nhật dành để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Phụng vụ lời Chúa trong ngày này thường trình bày một Đức Giêsu như mục tử tận tình chăm sóc đoàn chiên của mình. Ngài tìm cho chiên những đồng có tốt, những suối nước trong. Ngài bão vệ chiên khỏi những nguy hiểm của kẻ thù. Lũ chiên con Ngài ẩm trong lòng. Bầy chiên mẹ thì tận tình chăn dắt. Con nào bệnh thì ngài băng bó. Con nào lạc thì tìm kiếm đưa về. Chiên của Ngài thì an toàn và không phải lo lắng vì đã có Ngài nâng đỡ và chăm lo mọi sự.
Hình ảnh con chiên được chăm sóc nơi trần gian cho chúng ta một hy cọng về một đoàn chiên được hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng với chủ chăn của mình. Sách khải huyền đã minh xác nhận điều ấy. "Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì con Chiên ngự giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh" (Kh 7,16 -17). Đó là hình ảnh của một đoàn người đã chiến thắng, đã vượt qua đau khổ, đã giặt áo mình trong máu con chiên.
Đức Giêsu không chỉ như mục tử trần gian chăm sóc phần thể xác nhưng còn là mộ Đức Chúa coi sóc cả phần linh hồn. Một Chủ Chăn hoàn hảo đến mức khi chiên của mình không may rơi vào chỗ khó khăn. Ngài đã ra tay cứu chữa và con hơn thế nữa Ngài đã hiến thân mình làm giá đền thay cho lỗi lầm của đoàn chiên, là chúng ta. Đức Giêsu còn là Con Chiên. Chính Ngài đã trở nên của ăn cho chính đàn chiên của mình. Ngài đã chết để chúng ta khỏi chết, Ngài đã phục sinh để chúng được sống. Và Ngài đã để lại vị trí chăn dắt đoàn chiên đó cho các tông đồ, các giám mục và linh mục.
Người lớn không cần bà ngoại. Chiên trưởng thành không cần chủ chăn. Thiếu người chăn dắt thì chiên vẫn sống, không có bà ngoại thì người lớn cũng lớn. Đúng rồi. Bà ngoại đâu có thể làm gì khác hơn là chơi với con nít, nhưng nếu một ngày không còn bà ngoại nữa thì không chỉ có con nít buồn. Một ngày không có chủ chăn thì chiên sẽ bơ vơ và đối mặt với nguy hiềm nhiều hơn. Bà ngoại vẫn ở đó, chủ chăn vẫn âm làm cái công việc chăm nom của mình, còn bạn có cần những người ấy không thì chỉ có bạn biết mà thôi.
Lạy Chúa, giữa thế sự nhiều tiến triển như hôm nay chúng con vẫn cần những chủ chăn tốt để được ngài cho nghỉ ngơi và bổ sức. Giữa cuộc trần đầy tội lỗi, khó khăn như hiện tại đây chúng con vẫn cần chững chủ chăn thánh thiện để làm chứng nhân cho tình yêu Chúa và để kéo trần gian trở lại hoà bình, yêu thương. Xin Chúa cho có thêm nhiều người trẻ sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân cho đoàn chiên Chúa bằng một tình yêu trong sáng, thánh thiện.
Chúa nhật thứ IV Phục Sinh hôm nay được gọi là Chúa nhật Đấng Chăn Chiên nhân lành. Vì thế,: PS 4-C103
Chúa nhật thứ IV Phục Sinh hôm nay được gọi là Chúa nhật Đấng Chăn Chiên nhân lành. Vì thế, Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh chủ đề chính là mục tử và đoàn chiên. Mục tử, tức là người chăn chiên, là hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái. Vì vậy, suốt thời Cựu ước, hình ảnh người chăn chiên trở thành một biểu tượng phong phú và sống động nhất, được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Họ như một đoàn chiên riêng của Thiên Chúa, được Người nuôi nấng, chăn dắt, săn sóc một cách đặc biệt. Và bây giờ, Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh đó cho chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chúng ta. Chúng ta thấy Chúa dùng hai hình ảnh: người chăn chiên mướn và người chăn chiên tốt lành, để so sánh và diễn tả cho mọi người biết Ngài là người chăn chiên thật, là một mục tử tốt lành.
Thế nào là một mục tử tốt lành? Chúng ta có thể tóm tắt trong hai điều: đó là người mục tử biết các con chiên của mình và ân cần săn sóc chúng. Chúa Giêsu là một chủ chăn tốt lành vì Ngài có đầy đủ hai yếu tố đó. Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành của chúng ta vì Ngài biết chúng ta. Một người chăn chiên chuyên nghiệp biết số chiên trong bầy có bao nhiêu con. Biết từng con một, biết ngày sinh tháng đẻ, biết con nào tới đợt xén lông hay gây giống. Họ có tên gọi cho từng con, biết bệnh tật từng con để chữa trị: con nào hay bị lạnh, con nào làm biếng ăn, con nào hay đi tách ra khỏi bầy, con nào khó tính,... hơn nữa, có khi họ còn chụp hình, còn ghi sổ từng con mỗi năm và cân ký hàng tháng để coi con nào lên ký, con nào xuống ký. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh đó áp dụng cho Ngài như Ngài đã tuyên bố: " Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi" ( Ga 10, 27). Thực vậy, Ngài biết từng con chiên, Ngài biết chúng ta là những con người, là những tín hữu, là những người có tính tình thế nào, tình trạng ra sao.
Ngài biết chúng ta còn hơn chúng ta biết mình nữa. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo, ai là con chiên ghẻ, lười biếng, khô khan, phản bội. Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết. Để rồi từ đó, Chúa Giêsu trở nên một chủ chăn tốt lành đích thực của chúng ta, Ngài ân cần săn sóc cho chúng ta, Ngài hằng ở bên để săn sóc từng người chúng ta nữa, và Ngài còn basự sống đời đời cho chúng ta nữa.
Chúa Giêsu nói mình là Mục Tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng đáng với tước vị đó, thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Một con vật như con chiên không có lý trí còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, chúng ta có linh tính, thì chúng ta càng phải đền đáp sao cho xứng với tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy. Vậy bổn phận của chúng ta là gì ? Chúng ta phải suy tôn Chúa là chủ chăn chúng ta bằng lòng tin tưởng và yêu mến. Nhưng suy tôn không phải chỉ ngoài miệng mà phải suy tôn Chúa trong đời sống, trong công ăn việc làm, trong sự đối xử với người chung quanh, trong việc làm chứng nhân cho Chúa. Rồi chúng ta phải tín nhiệm vào Ngài, như con cái tín nhiệm cha mẹ, như bạn bè tin tưởng nhau, như người công nhân tín nhiệm vào nơi chổ mình lao động, thì chúng ta càng phải biết tín nhiệm vào Chúa nhiều hơn. Sau cùng, chúng ta phải biết lắng nghe Lời Chúa và sống theo Lời Chúa, đó là điều chắc chắn vị Chủ chiên sẽ hài lòng, bởi vì ai mà chẳng vui khi thấy người thuộc quyền mình biết vâng nghe theo lời của mình.
Tất cả những điều trên đây chúng ta đều biết cả, nhưng biết mà không đem ra thực hành thì thực là uổng công vô ích. Nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta không chối Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta hay quên Ngài. Giữ đạo Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta quá lo lắng đến tiền bạc, đến vật chất, đến nỗi chúng ta xao lãng các bổn phận thiêng liêng: không đi lễ, làm biếng rước lễ, không chịu đọc kinh hôm kinh mai cầu nguyện với Chúa ; rồi cũng bao lần trong đời sống, do cách ăn ở, do cách cư xử của chúng ta thiếu công bình, thiếu bác ái, thiếu yêu thương, không làm chứng cho Chúa trước những người chung quanh.... Chúng ta xin Chúa cho chúng ta can đảm sửa chữa những khuyết điểm, đó là cốt yếu của Lời Chúa dạy hôm nay, là sống tốt trong đoàn chiên của Chúa, cầu xin Chúa cho chúng ta cũng trở nên những con chiên ngoan, biết lắng nghe, vâng phục và cộng tác với Hội Thánh mà cụ thể là những vị chủ chăn của mình một cách tích cực, đầy tình thân ái trong Chúa Kitô.
Mặt khác, năm nay là Năm Thánh cầu nguyện cho các linh mục, là con chiên, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị Mục Tử của Chúa, sống hết mình vì đoàn chiên, chu toàn trách nhiệm trong tình yêu và lòng thành tín của Chúa Giêsu; Ngoài ra, hôm nay cũng là ngày Hội Thánh dành để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu linh mục và tu sĩ. Ngày nay, có nhiều tâm hồn trẻ muốn dâng mình cho Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho Hội Thánh nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời mời gọi bước theo Chúa, dâng mình cho Chúa, hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ dân thánh Chúa. Là Cha mẹ trong gia đình, chúng ta hãy quảng đại dâng con cho Chúa, khuyên bảo và nhắc nhở cho con cháu mạnh dạn đi tu để làm Tông Đồ, làm sáng danh Chúa... Xin Chúa cho chúng con có những vị Mục Tử như lòng Chúa mong muốn.
Lạy Chúa, xin làm cho chúng con trở nên những con chiên ngoan tốt lành của Chúa. Amen.
Trong một cuốn phim tựa đề là "Giai điệu hạnh phúc" (La mélodie du bonheur), cô ma-ry là một: PS 4-C104
Trong một cuốn phim tựa đề là "Giai điệu hạnh phúc" (La mélodie du bonheur), cô ma-ry là một người đang đi tìm hiểu ơn gọi tại một tu viện nữ. Một hôm bà bề trên sai cô đi làm gia sư trong một gia đình quí tộc. Ông đại uý chủ nhà là người giàu có, góa vợ và luôn tỏ ra nghiêm khắc trong cách giáo dục con cái. Ông muốn chúng có tinh thần kỷ luật giống như một người lính trong quân đội. Khi mới đến nhận việc, cô Ma-ry đã bị bọn trẻ cố tình trêu chọc. Nhưng nhờ tình thương của một thầy giáo, kèm theo sự hiểu biết tâm lý và cách ứng xử mềm dẻo nhưng cương quyết, cùng những bài hát vui tươi và vũ điệu lôi cuốn của cô... Cuối cùng cô đã hòan tòan chinh phục được tình cảm của lũ trẻ, biến chúng trở nên những trẻ em ngoan ngoãn dễ dạy. Chúng luôn vâng lời cô giáo, không cần cô phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc theo kiểu cha của chúng. Cuối cùng cô còn chinh phục được tình cảm của chính ông đại uý chủ nhà. Câu chuyện kết thúc bằng việc cả gia đình ông đại úy đã khôn ngoan thoát khỏi sự ruồng bắt của chính quyền phát xít Đức lúc đó. Họ cùng nhau vượt qua biên giới an toàn để bước vào một cuộc sống mới đầy yêu thương và hạnh phúc.
3. SUY NIỆM:
1) ĐÂU LÀ MỤC TỬ THỰC SỰ ?
Mục tử thực sự là người chủ chiên, có tình yêu thương đòan chiên noi gương Chúa Giê-su Vị Mục Tử Tối Cao, thể hiện qua các hành động cụ thể như sau:
-Hiểu biết và cảm thông: Đức Giê-su đã nói về tình thương của Người dành cho đàn chiên như sau: "Tôi biết chúng" (Ga 10,27), "gọi tên từng con" (10,3). Ngày nay các mục tử cũng chỉ có thể chứng tỏ tình yêu đối với đòan chiên qua việc đi thăm các gia đình trong giáo xứ, biết rõ hoàn cảnh và nhu cầu của từng người, từng gia đình. Người tín hữu sẽ cảm nhận được tình thương của vị mục tử khi thấy ngài hiểu rõ gia cảnh của mình, và ra tay giúp đỡ.
-Sẵn sàng đáp ứng nhu cầu: Đức Gie-su phán: "Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào" (10,10), "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (10,28). Các mục tử hôm nay cũng phải quan tâm đến hòan cảnh sống và sự an nguy của đàn chiên cả về đức tin lẫn công việc làm ăn, noi gương Đức Giê-su đã nói với các môn đệ rằng: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" (Ga 6,5), hay Người đã dặn người nhà: "Bảo họ cho con bé ăn" (Mc 5,43).
-Hiến thân phục vụ: Đức Giê-su phán: "Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11); "Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Đối với mục tử, các tín hữu là những linh hồn quí giá, xứng đáng cho vị mục tử hy sinh mạng sống vì họ. Thái độ này khác xa thái độ của người làm thuê, hay mục tử giả hiệu: "Khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy (...) không thiết gì đến chiên" (Ga 10,12-13).
2) ĐÂU LÀ MỤC TỬ GIẢ HIỆU ?
- Thánh Kinh không những nói đến những mục tử tốt lành, mà còn đề cập đến những mục tử giả hiệu, mà sau này Đức Giê-su đã gọi họ là bọn chăn thuê. Họ là những người chỉ biết nghĩ đến bản thân, nghĩ đến sự an nguy, quyền lợi hay hạnh phúc của riêng mình, chỉ biết bòn rút lợi lộc từ đàn chiên, mà không quan tâm đến quyền lợi và hạnh phúc của đàn chiên được trao cho mình chăm sóc:
- Ngôn sứ GIÊ-RÊ-MI-A viết: "Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta thất lạc và tan tác (...) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng" (Gr 23,1-2).
- Ngôn sứ Ê-DÊ-KI-EN thỉ viết: "Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! (...) Sữa chiên thì các ngươi uống, len của chúng thì các ngươi mặc, con nào béo tốt thì các ngươi giết, và chẳng thèm lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương các ngươi không băng bó; chiên bị lạc các ngươi không đưa về; chiên bị mất các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, khiến chúng bị tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm" (Ed 34,2-6).
- Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ Ê-DÊ-KI-EN để nguyền rủa loại mục tử bất xứng này như sau: "Bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta, nên hỡi các mục tử! Đây Ta chống lại các ngươi. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để các ngươi chăn dắt chiên Ta nữa (...) để chiên của Ta sẽ không còn làm mồi cho chúng nữa" (Ed 34,8b-10).
3) SỨ VỤ CỦA CÁC MỤC TỬ HÔM NAY:
- Mục tử là người được Chúa Giê-su chọn để cho thông phần vào sứ vụ mục tử của Người: Chúa Giê-su phán: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại..." (Ga. 15,16). Mục tử chỉ có thể làm tốt nhiệm vụ nuôi dưỡng chăn dắt đòan chiên nếu biết cộng tác với Mục Tử Giêsu bằng sự chuyên cần cầu nguyện: "Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5). Cần phải có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết, để được thanh luyện tội lỗi và được trao quyền chăn dắt đòan chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17).
- Hai là phải được chính Chúa Giê-su trao sứ vụ chăm sóc nuôi dưỡng đòan chiên: Như Đức Giê-su đã được Thiên Chúa xức dầu thiêng liêng tại sống Gio-đan để tấn phong làm Đấng Mê-si-a thi hành ba sứ vụ là ngôn sứ, tư tế và vương đế, thì các mục tử hôm nay cũng nhận được tác vụ qua việc xức dầu và đặt tay của Giám Mục trong bí tích truyền chức thánh, cũng có bổn phận chu tòan sứ vụ chăn dắt nuôi dưỡng thánh hóa đoàn chiên Chúa trao bằng ba của ăn là Lời Chúa, Thánh Thể và Thánh Ý Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su dạy: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4); "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời" (Ga 6,51); "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga 4,34).
- Ba là nhận được Thần Khí để chu tòan sứ vụ được sai đi: Tin mừng Gio-an thuật lại việc Chúa Phục Sinh trao ban Thần Khí và sứ vụ như sau: "Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em". Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,21-23). Chúa Giê-su cũng trao sứ vụ cho các Tông đồ trước khi lên trời: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chua Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28,19-20); "Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).
4) CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?:
Chúa Nhật Chúa Chiên Lành nhắc nhở các tín hữu chúng ta ý thức con đường đức tin và Mục Tử dẫn đường là Đức Giê-su. Hôm nay Đức Giê-su vẫn "ở với Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20b) qua các mục tử được Chúa kêu gọi, huấn luyện và và trao sứ vụ chăm sóc đòan chiên.
Hôm nay là dịp để các tín hữu ý thức cầu nguyện cho các mục tử của mình, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ và quảng đại cộng tác với các mục tử cả về tinh thần lẫn vật chất. Đồng thời hôm nay cũng là dịp để các mục tử ý thức về ơn gọi và sứ vụ của mình để duyệt xét lại về ý ngay lành và về cung cách phục vụ khiêm tốn, về cách ứng xử bác ái đối với đòan chiên được Chúa trao cho mình chăm sóc.
Chúng ta cùng nhau cầu xin cho ơn gọi ngày càng phát triển, cho các thanh thiếu niên biết quảng đại đáp lại tiếng Chúa kêu gọi, và xin cho các mục tử đang phục vụ đòan chiên được ơn trung thành với sứ vụ mục tử đã lãnh nhận.
Ngày nay, Hội thánh rất cần có thêm nhiều mục tử nhân lành noi gương Mục Tử Giê-su. Đó là những vị mục tử có lòng yêu mến Chúa thực sự, luôn nêu gương sáng khiêm nhường bác ái và phục vụ tha nhân cách vô vụ lợi, nhất là phục vụ những người nghèo hèn, bệnh tật và bị bỏ rơi.
Hội thánh cũng cần những tu sĩ biết kết hợp giữa hai bổn phận chiêm niệm và họat động, cần những bàn tay nhân ái của các nữ tu để xoa dịu các vết thương thể xác cũng như tinh thần, và nhất là cần những trái tim yêu Chúa hết mình, dám hy sinh mọi sự để phục vụ, đặc biệt người đau khổ tội lỗi hoặc mang tâm trạng chán chường thất vọng. Hiện nay cả nước chúng ta mới có được khỏang2000 linh mục và 7000 tu sĩ nam nữ, một con số nhỏ bé so với nhu cầu của 82 triệu dân.
4. THẢO LUẬN:
1) Thế nào là ơn kêu gọi ? Bạn sẽ đáp trả thế nào khi dược Chúa kêu gọi dâng mình phục vụ Chúa trong bậc sống tu trì ?
2) Những ai đang sống bậc hôn nhân có thể đáp lại ơn gọi của Chúa thế nào ?
Bài Tin mừng hôm nay là một trong những mâu thuẫn giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo tôn giáo: PS 4-C105
Bài Tin mừng hôm nay là một trong những mâu thuẫn giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo tôn giáo. Đoạn Tin Mừng trước, Người tự nhận mình là Mục Tử Tốt (10,11-14). Người nói Người có thể hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Nhiều người nghe Đức Giêsu nói thế đã cho rằng Người bị "quỷ ám và điên khùng rồi" (Ga 10,20). Nhưng những người khác lại bảo "người bị quỷ ám đâu có nói được như vậy ! Chẳng lẽ quỷ có thể mở mắt cho người mù được sao?" (10,21).
Đôi khi người ta nói rằng "nếu tôi sống vào thời Đức Giêsu, xem và nghe thấy Người nói thì lòng tin của tôi đã vững mạnh hơn bây giờ nhiều." Nhưng lòng tin có vẻ như không phải là thái độ đáp trả tự động đối với những người đã thấy và đã nghe Đức Giêsu giảng. Thực ra, đối với nhiều người nghe Đức Giêsu, thì lời và hành động của Người lại gây lên sự chống đối.
Trong bối cảnh của nhiều cuộc xung đột khác, Đức Giêsu mạnh mẽ và can đảm nhận mình là Mục Tử Tốt. Nhưng những kẻ chống đối không nhận ra nơi Người sự mạc khải của Thiên Chúa. Tuy nhiên, một số đã nhận ra, và bài Tin Mừng hôm nay đã cho thấy rõ họ đã tin như thế nào - Thiên Chúa đã chọn họ và dẫn họ đến với Đức Giêsu ("Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi..."). Đây là một sứ điệp mạnh mẽ về hành động của ân sủng. Chính Thiên Chúa chọn chúng ta chứ chúng ta đã không chọn Ngài. Nhưng những ai được chọn thì có trách nhiệm, như chiên của người Mục Tử, lắng nghe và đáp lại những gì chúng ta nghe được nơi Người.
Bài Tin Mừng hôm nay trích từ chương 10, nói đến những việc xảy ra vào dịp lễ cung hiến Đền thờ, vào mùa đông. Đây là thời điểm khá gần với đại lễ của người Do Thái, cơ hội cho những người có lòng tin ăn mừng biến cố Macabê chiến thắng quân Syri vào khoảng năm 160 trước Chúa Giáng sinh. Dân Syri đã xúc phạm Đền Thờ nên Macabê đã nổi dậy giành lại và thánh hiến Đền Thờ. Vì thế, đại lễ này khơi dậy lòng yêu nước cũng như niềm hy vọng sẽ một lần nữa được tự do; lần này là thoát khỏi bàn tay cai trị hà khắc của người Rôma. Vào dịp lễ Cung Hiến Đền Thờ thì tinh thần của dân lại được khơi dậy một niềm hy vọng về Đấng Mêssia mà Thiên Chúa hứa gởi đến cho dân.
Trong Cựu Ước và Tân Ước, chúng ta có thể thấy nhiều lần đề cập đến chiên và mục tử. Chiên có giá trị kinh tế ở xứ Palestin, vì thế cả dân ở thôn quê lẫn thành thị đều có thể nuôi chiên, ít là như một nghề phụ. Mục đồng thường sống khá khổ cực và thường xuyên phải đi xa nhà để chăn dẫn đàn chiên. Họ cũng phải đối mặt với khó khăn nguy hiểm do thú dữ và cả những tên trộm. Mục đồng phải giữ đàn chiên ở chung với nhau, vì chúng thường dễ đi lạc, và còn phải dẫn chúng đến nguồn nước cho chúng uống và đến đồng cỏ cho chúng ăn.
Vì thế chúng ta thấy được tầm quan trọng của sứ điệp Đức Giêsu đã nói cho thính giả của Người trước đó, khi Người nói mình là Mục Tử Tốt. Trong bối cảnh Lễ Cung Hiến Đền Thờ, Đức Giêsu vẽ lên hình ảnh của người mục tử để mô tả Người như Đấng có thể dẫn dắt, bảo vệ và nuôi dưỡng dân của Người - những con chiên biết lắng nghe và đi theo tiếng gọi của Người. Trong Cựu Ước, Đức Chúa được mô tả như là Mục Tử (xc. Êdêkien 34 và Thánh vịnh 23) có thể chăm sóc đàn chiên, vì mục tử được chọn đã sa ngã trầm trọng. Vì thế, khi tự xưng mình là Mục Tử Tốt thì Đức Giêsu cũng đã tự xác nhận căn tính Thiên Chúa của Người, khi Người nói: "Tôi và Chúa Cha là một."
Những ai đón nhận Đức Giêsu và lời của Người thì cũng nhận được những gì Thiên Chúa ban qua Người ("Tôi sẽ ban cho chúng sự sống đời đời và muôn đời chúng sẽ không phải diệt vong."). Những kẻ chống đối Đức Giêsu hiểu rất rõ những gì Người muốn nói, vì trong đoạn tiếp theo, sau bài Tin Mừng hôm nay, có nói rằng: "Họ lấy đá để ném Đức Giêsu." (câu 31)
Đức Giêsu khiến dân chúng ngạc nhiên, Người không phải là đấng Mêssia như họ mong muốn. Người đã không tập hợp quân đội để lật đổ quân La Mã. Người cũng đã chẳng sống theo kiểu một người công chính mà những người chống lại Người đòi hỏi nơi một người được Thiên Chúa sai đến. Vậy thì điều gì chứng minh được những lời Người đã nói: "Tôi và Chúa Cha là một"? Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu đã không thực hiện dấu lạ chỉ để thuyết phục những kẻ thách thức uy quyền của Người. Dân chúng phải đặt niềm tin tưởng nơi Người và đón nhận sứ điệp của Người. Điều này thật khó thực hiện đối với những người đương thời của Người, những người mong chờ một đấng Mêssia kiểu khác.
Tin là một chủ đề quan trọng trong Tin Mừng Gioan, và đó không phải những gì người ta có thể bị lôi kéo bởi những chứng cứ hùng hồn hay dấu lạ vĩ đại. Đó là món quà Thiên Chúa phú bẩm trong chúng ta để có thể khơi lên một thái độ tin tưởng vào Đức Giêsu và khiến chúng ta rập khuôn cuộc đời mình theo những lời dạy của Người - dù lúc thuận lợi hay không thuận lợi. Chiên của Đức Giêsu thì nghe tiếng Người và đi theo Người dẫu chúng ta có phải bước đi trong "thung lũng âm u" (Tv23,4).
Vấn đề thời gian không thể khiến niềm tin vào Đức Giêsu dễ dàng hơn chút nào. Niềm tin của chúng ta chịu thử thách khi mọi thứ trở nên tồi tệ - trong cuộc sống riêng của chúng ta, trên thế giới, nhất là trong Hội thánh của chúng ta ngày nay. Như những người đương thời với Đức Giêsu, chúng ta cũng cần một dấu để tin. Đôi khi chúng ta không nhận được bất kỳ dấu chỉ nào, không một lời đáp trả cho những điều khấn xin, không một lối thoát nào khỏi một tình cảnh khó khăn. Nhưng chúng ta luôn được đòi hỏi phải tin tưởng vào lời Đức Giêsu - để chúng ta được an toàn trong "tay Chúa Cha".
Vì vẫn còn là mùa Phục sinh nên chúng ta vẫn mong sứ điệp Tin Mừng của những Chúa Nhật này có cảm giác vui tươi. Thế mà suốt mùa Phục sinh này Đức Giêsu lại nói với chúng ta giữa những mâu thuẫn và chống đối. Chúng ta sẽ nhìn lại những biến cố trong cuộc đời Đức Giêsu, và trong ánh sáng của niềm tin phục sinh của chúng ta, chúng ta đang thể hiện ý nghĩa lời của Người trong cuộc sống của chúng ta - cuộc sống mà vẫn còn đầy những mâu thuẫn và chống đối. Hôm nay, chúng ta nghe Người mời gọi chúng ta tin tưởng nơi Người, Mục Tử, ngay cả khi người khác hay những biến cố của cuộc sống đe dọa đức tin của chúng ta.
Có thể xem như bài Tin Mừng hôm nay đã được chọn trong mùa phục sinh này vì có nói đến sự sống đời đời. Đức Kitô Phục sinh ban cho chúng ta sự sống của Người ("Tôi ban cho chúng sự sống đời đời"). Thời Đức Giêsu, không phải tất cả mọi người Do Thái đều tin vào sự sống đời sau. Nhóm Sađốc không tin, còn nhóm Pharisêu, những người tin vào sự bất tử của linh hồn, thì lại tin (Cv 23,6-9).
Nhưng trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu không chỉ ban sự sống đời đời cho một số người nào đó trong tương lai, nhưng cho những ai, như Người nói, "ai nghe lời Tôi" (5,24) - và sự sống ấy có ngay lúc này. Như Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samaria ở giếng nước rằng thứ nước Người ban sẽ mang đến sự sống đời đời (4,14). Người cũng nói: ai ăn bánh sự sống của Người cũng sẽ "có sự sống đời đời" (6,40.47). Sự sống Đức Giêsu ban thì đang hoạt động trong những người tin. Đó là sự sống mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta (12,50). Vì thế, Đức Giêsu ban cho chúng ta thật "dồi dào" (10,10).
Ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi khám phá sự sống mà chúng ta đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội để tái sinh và dưỡng nuôi sự sống ấy trong chúng ta. Khi chúng ta tiếp tục lắng nghe Đức Giêsu và lời của Người, cũng như đón nhận Người trong Bí tích Thánh Thể, thì sự sống của Người lớn mạnh trong chúng ta. Cuộc sống của chúng ta trong "thế gian" (trong Tin Mừng Gioan "thế gian" là một phần thế giới chống lại đức Kitô) có thể làm chúng ta kiệt lực. Chúng ta không chống nổi những chọn lựa đe dọa đến sự sống của Đức Kitô trong chúng ta, nhưng Đức Giêsu ban cho những ai đón nhận lời của Người một sự sống mà thế gian không thể hủy diệt. Hỏi rằng ai hay sức mạnh nào có thể ban cho chúng ta sự sống như thế? Chúng ta đã chẳng đặt cược đời mình vào những lời hứa hão huyền và những thứ nhất thời để chỉ có thể khám phá ra rằng, tất cả sự sống chúng ta có được từ những thứ đó chỉ là quá tạm bợ đó sao?
Như Đức Giêsu đã hứa và chính việc cử hành Thánh Thể này nhắc nhớ chúng ta, chúng ta hiện đang chia sẻ tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con - Chúng ta có sự sống đời đời.
Đức Kitô vừa là Đấng tạo dựng vũ trụ vừa là Chúa Chiên Lành. Đấng tạo dựng có quyền trên tạo: PS 4-C106
Đức Kitô vừa là Đấng tạo dựng vũ trụ vừa là Chúa Chiên Lành. Đấng tạo dựng có quyền trên tạo vật và quyền ban sự sống. Mục tử nhân lành lắng nghe, chăm sóc, yêu mến đàn chiên và sẵn sàng bảo vệ chiên. Không con nào bị ngược đãi hay bị hại.
Lắng nghe
Chúa Chiên Lành luôn lắng nghe tiếng chiên kêu cầu. Biết chúng bằng cách nhận biết tiếng chiên kêu. Nhờ lắng nghe mà rõ nhu cầu từng của chiên. Không phải một lần mà nghe đi nghe lại cho đến khi nhớ được giọng từng con. Chính Chúa Chiên Lành xác định với các tông đồ như thế.
Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi;
Tôi biết chúng và chúng theo Tôi.
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời,
không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi. Gioan 10,27
Chúa Chiên lắng nghe tiếng chiên qua lời cầu của cộng đoàn dân Chúa, nghe rõ tiếng kêu cầu của từng chiên con. Nhận biết nhu cầu từng cá nhân. Chiên con dâng Chủ chiên lời tạ ơn lúc vui mạnh, thành công cũng như khi tràn trề hy vọng.
Chiên con phát tiếng kêu cứu nghẹn ngào. Dâng lời van nài đứt đoạn, nức nở nói không nên lời. Tiếng uất nghẹn, rên xiết khi đương đầu với hoạn nạn, buồn tủi, cô đơn. Lúc ngồi lặng câm mắt nhìn thập tự, hồi tưởng đau khổ Chúa chịu, liên tưởng đau khổ, bệnh tật đời mình, phó thác nỗi lòng, tâm sự, niềm đau người thân quen. Lời cầu dâng lên Chúa liên lỉ ngày đêm, hết ngày này đến tháng nọ, đời này qua thế hệ kia, liên tục. Chúa Nhân Lành là Đấng đêm ngày lắng nghe đoàn con kêu cứu, nài van.
Chúa chăn nuôi tôi
Chúng ta nghe tiếng Chúa nhiều ít, bao nhiêu, tự mình mình biết. Tự mình mình hay. Điều chắc chắn là tiếng chiên con gọi Chúa Chiên lắng nghe, đáp lại theo nhu cầu từng con. Chúa Chiên nghe biết, nhận ra tiếng kêu cứu. Không mệt mỏi nghe tiếng chiên kêu cầu và còn dậy cách cầu xin.
Khi cầu nguyện các con đừng nhiều lời Mat 6,5
Thần khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính thần khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả Roma 8,26.
Tiếng nấc
Gần đây màng lưới truyền thông khắp nơi lên tiếng dùm tiếng nấc nghẹn ngào của chiên con. Nạn nhân của chủ chiên chọn thái độ im lặng.
Kêu, chủ chiên không cứu.
Than, chủ chiên không nghe.
Gọi, chủ chiên không đáp.
Kêu oan, bảo ráng nhịn.
Nỉ non khóc than, bảo ích chi
Nhờ dóng tiếng, ngoảnh mặt làm ngơ.
Chủ chiên chọn thái độ im lặng mong yên thân.
Lầm tưởng
Vô số mục tử địa phương học từ Chúa Chiên trở thành những kẻ lắng nghe tuyệt vời, tận tình giúp đỡ, chăm sóc chiên con ốm đau, bệnh hoạn, vỗ về con cô đơn, cảm thông chiên sầu khổ. Các vị này noi gương các thánh tông đồ xưa, vui mừng được chịu đau khổ, tù đầy vì Đức Kitô Phục Sinh. Các ông nói với thủ lãnh Do Thái
Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm. Cv 5,29.
Mục tử lặng thinh, chọn thái độ im lặng được truyền thông ca tụng. Đừng quên truyền thông sống nhờ quần chúng. Hôm nay im lặng là khôn ngoan. Khi được tự do ăn nói, truyền thông sẵn sàng miệt thị thái độ câm nín. Không phải họ thay đổi lập trường. Nhiệm vụ chính của truyền thông là đưa tin. Quần chúng nguyền rủa im lặng. Báo đưa tin. Đa số chỉ trích, khích bác im lặng. TV loan tin. Đừng lầm tưởng chọn im lặng hưởng an bình. Đúng, hưởng bình an trong chốc lát. Tương lai về đâu chưa xác quyết. Cứ nhìn Giáo Hội hoàn vũ đủ biết. Thập niên 60 chọn im lặng. Thập niên 90 bắt đầu chống đỡ, tiếng sấm vang làm sống lại sự việc 30 năm trước. Vuốt mặt không kịp. Chủ chiên im lặng hôm nay, hãy chuẩn bị nhận hậu quả phê bình, chỉ trích, vác chiếu hầu toà trong tương lai. Người ta sẵn sàng kiện từ mồ mả kiện lên.
Nạn nhân
Hỡi những nạn nhân thống khổ vì tiếng kêu cứu bị lãng quên. Nên nhớ Chúa Chiên Lành không bao giờ quên ai. Ngài có quyền ban sự sống trường sinh. Ngài không nhẹ tay hay tha thứ cho kẻ làm hại, gây đau khổ hay ngược đãi chiên con. Chiên con van nài chủ chiên lên tiếng. Họ chọn thái độ lặng câm. Xin đừng quên cầu nguyện cho họ. Xin cho họ ơn can đảm, kiên trì vì Danh Chúa như các tông đồ xưa.
Lòng hân hoan bởi được coi là là xứng đáng chịu khổ nhục vì Danh Đức Giêsu. Cv. 5,41
Phaolô nhiều phen ra tù, vào khám, đòn vọt, đói khát, bị ném đá, đắm tầu, bị cướp, dân ngoại vu cáo và kẻ giả danh làm khốn. 2 cor 11,25
Đức Kitô Phục Sinh chiến thắng khải hoàn. Một ngày nào đó những câm nín hôm nay sẽ bùng phát.
Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ. Không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng Mat 10,26-27
Trong thiệp báo tin Maria Cristina Cella Mocellin qua đời không mang màu đen tang chế nhưng: PS 4-C107
Trong thiệp báo tin Maria Cristina Cella Mocellin qua đời không mang màu đen tang chế nhưng được viền màu xanh hy vọng của cây cỏ tươi. Chính giữa nổi bật cánh hoa hồng, đọng những giọt sương mai lóng lánh. Bên trong là di ảnh của Cristina, tươi trẻ, duyên dáng và lộng lẫy trong chiếc áo ngày cưới. Bên dưới bức ảnh là lời nguyện trích từ nhật ký của Cristina lúc còn thiếu nữ: Lạy Cha, xin dâng Cha niềm vui của con như ca khúc chúc tụng Cha, trái tim con như căn nhà tiếp đón Cha và cuộc đời con để Cha thực hiện điều Cha muốn.
Và. . cuộc đời Cristina kết thúc vào năm 26 tuổi. Chiếc bướu ung thư ác tính nơi tử cung mắc phải năm 18 tuổi, tưởng đã chữa lành, nào ngờ tái xuất hiện. Nàng đã có hai con một trai một gái. Cristina đang đợi đứa con thứ ba. Khi vị bác sĩ báo hung tin: "Cristina, tôi rất tiếc phải cho bà biết chứng ung thư quái ác tái xuất hiện", Cristina im lặng một giây. Lấy lại bình tĩnh nàng nhìn thẳng vào mắt vị bác sĩ và nói:
- Tôi đang có thai. Tôi đang mang thai, bác sĩ ạ!
Vị bác sĩ hiểu ngay. Ông không dám đề nghị với nàng lối trị liệu hóa học, vì như thế có nghĩa là giết chết bào thai!
Maria Cristina sinh hạ Riccardo vào tháng 8 năm 1994. Ngay sau đó, nàng bắt đầu các phương pháp trị liệu hóa học, nhưng quá trễ, bướu ung thư đã ăn sâu nơi nội tạng. Người mẹ trẻ anh dũng êm ái trút hơi thở cuối cùng ngày 22-10-1995, để lại 3 con thơ.
Đây là một cái chết đẹp. Chết cho con được sống. Chết để gìn giữ một sinh linh bé bỏng đã được Thiên Chúa phú bẩm nơi cung lòng của người mẹ. Chắc chắn mai sau khi lớn lên, đứa bé đã được mẹ chết thay đó, sẽ hết lòng cảm ơn mẹ. Nhờ mẹ đã hy sinh tính mạng mình, mà người con được bước vào cuộc đời.
Có thể nói sự kiện người mẹ trẻ Cristina dám chết cho con được sống, đã hoạ lại hình ảnh rất đẹp của Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành. Người mục tử biết từng con chiên, lo lắng cho từng con chiên, chăm sóc cho từng con chiên, sẵn sàng chết cho đàn chiên. Chính Chúa đã từng nói: "Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong". Thật là hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta, vì Chúa biết từng người chúng ta. Chúa lưu tâm đến từng hoàn cảnh của chúng ta. Chúa còn bao bọc chở che chúng ta bằng biết bao ơn lành hồn xác. Sống dưới sự chăm sóc của Chúa, chúng ta không chỉ hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh phúc cả đời sau, miễn là chúng ta biết nghe tiếng Chúa và bước đi trong đường lối của Chúa.
Tình thương của người mục tử không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc dưỡng nuôi chúng ta, mà con dám thí mạng sống mình vì chúng ta. Cái chết trên thập tự giá là bằng chứng hùng hồn cho một tình yêu lớn lao đến nỗi dám chết để đổi lại sự sống cho chúng ta. Ngài còn đi đến đỉnh cao của sự dâng hiến trọn vẹn là trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta. Với tấm bánh đơn sơ nhỏ bé, Chúa muốn hoà tan trong chúng ta để chúng ta được ở lại trong Chúa, và nên một trong Chúa. Qua đó, Chúa cũng muốn mượn lấy bản tính nhân loại của chúng ta, để Ngài lại có thể tiếp tục yêu thương và phục vụ cho đàn chiên được sống ấm no và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay rất cần những tấm lòng dám hy sinh cho nhau, dám vì lợi ích của tha nhân mà quên mình phục vụ, mà quảng đại trao ban. Thế giới sẽ cằn cỗi và hoang tàn nếu không còn những con người dám hy sinh đời mình để phục vụ anh em. Nhưng rất mừng, vì cuộc đời vẫn còn đó biết bao tấm lòng luôn quên mình phục vụ một cách quảng đại và vô vị lợi như mẹ Têrêsa thành Calcutta. Cuộc đời vẫn còn đó, những con người biết tôn trọng sự sống của con cái mà quên đi tính mạng mình như người mẹ trẻ Cristina. Cuộc đời vẫn còn đó, những con người đã từ khước niềm vui trong bậc sống vợ chồng, để dâng hiến phục vụ cho tin mừng Nước Trời trong bậc sống linh mục, tu sĩ. Vâng, có lẽ cuộc đời hôm nay vẫn tươi đẹp vì biết bao người cha, người mẹ, chấp nhận một nắng hai sương, lặn lội nơi ruộng vườn và ngược xuôi nơi bến chợ để lo cho từng cuộc đời những người con. Và còn đó biết bao người, tuy không danh phận giữa đời, nhưng sẵn lòng làm bất cứ điều gì, miễn là đem lại niềm vui cho anh em. Và còn rất nhiều những cuộc đời rất âm thầm đang vẽ lại hình ảnh người mục tử nhân lành, khiêm tốn cúi mình băng bó những vết thương đau của đồng loại bằng tình thương và phục vụ một cách quảng đầy hy sinh.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm nhiều vị mục tử tốt lành để chăm sóc đàn chiên của Chúa. Những mục tử biết hoạ lại khuôn mẫu của vị mục tử nhân lành luôn sống hết mình vì đàn chiên, luôn tận tuỵ chăm sóc đàn chiên của Chúa. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen
Hình ảnh Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành, ăn rễ sâu trong đời sống đức tin đạo Công: PS 4-C108
Hình ảnh Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành, ăn rễ sâu trong đời sống đức tin đạo Công giáo từ thời Giáo Hội sơ khai thuở ban đầu.
Hình ảnh này là kim chỉ nam cùng là mẫu gương cho đời sống Giáo hội Chúa Giêsu ở trần gian từ xưa nay.
Hình ảnh này không chỉ là một hình ảnh đẹp thơ mộng, đầy văn chương thi vị, nhưng là hình ảnh sống động chứa chan tình yêu thương trong tương quan liên đới người chăn chiên lo cho đàn chiên.
Đức giáo hoàng Benedictô 16. trong tác phẩm " Giêsu thành Nadarét", mà ngài vừa mới viết xong, và cho xuất bản dịp mừng sinh nhật thứ tám mươi ngày 16.04.2007 vừa qua, đã diễn tả hình ảnh này vừa theo lối văn chương suy tư thần học, vừa tâm tình đức tin và vừa theo phương pháp phân tích khoa học.
„ Chúng ta trở lại chương 10. Phúc âm Thánh Gioan nói về người Chăn chiên: „ Thầy là người chăn chiên nhân lành". Bài tường thuật lịch sử này vẽ lên rõ nét hình ảnh người chăn chiên, cùng ẩn chứa bốn động lực căn bản.
- Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành hứa ban: sự sống đầy đủ dồi dào. Sự sống đầy đủ dồi dào như mỗi người mong đợi. Nhưng điều đó là gì vậy? Đâu là nội dung của sự sống đó? Nơi nào ta có thể tìm kiếm được sự sống đó? Khi nào và như thế nào chúng ta có „ sự sống đầy đủ dồi dào"? Nếu chúng ta cứ sống như người con hoang đàng, chúng ta có bỏ lỡ món qùa tặng của Thiên Chúa không? Nếu chúng ta sống như kẻ ăn trộm, như kẻ cướp - tất cả chỉ cho mình, thì sao?
Chúa Giêsu hứa, Ngài sẽ chỉ dẫn lối cho các con chiên tìm tới„đồng cỏ ", nơi đó có thức ăn, có nguồn nước cho đời sống. Thánh Vịnh 23 nói với chúng ta: „Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành...Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc. ..
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời," ( Tv 23, 2.5f)
Tiên tri Edêkien cũng diễn tả: „ Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en" ( Ez 34,14)
Nhưng tất cả những điều đó có ý nghĩa gì? Chúng ta biết, những con chiên sống bằng gì; con người sống bằng gì?
Các Tổ phụ cha ông ngày xưa đã dùng hình ảnh trong vùng cao nguyên núi đồi bên đất nước Israel có những cánh đồng cỏ ở nơi cao, nơi đó có bóng râm che rợp, có nước, làm hình ảnh của Lời Thiên Chúa cho sự sống trong Kinh Thánh. Và nếu hình ảnh đó không hợp với ý nghĩa lịch sử, như trong bài diễn tả, các ngài cũng đã nhìn đúng, nhất là Chúa Giêsu đã tự hiểu về mình đúng như thế. Con người sống bằng sự chân thật, bằng được yêu thương, bằng được yêu thương trong sự chân thật. Con người cần một Thiên Chúa gần gũi bên cạnh họ, một Thiên Chúa cho ý nghĩa đời sống, một Thiên Chúa hướng dẫn đường đời sống.
Tất nhiên, con người cần cơm bánh, cần của ăn thức uống cho thân xác. Nhưng họ cần điều gì thâm sâu hơn, nhất là Lời, tình yêu và chính Thiên Chúa. Ai trao cho người nào điều đó, người đó trao tặng „ sự sống dồi dào". Như thế mang đến sức mạnh, qua đó người làm cho đời sống trên mặt đất đầy đủ ý nghĩa.
- Động lực thứ hai của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành thể hiện qua biến chuyển mới: Người chăn chiên nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên" (10,11). Thánh gía chiếm trung tâm điểm của đời sống người chăn chiên nhân lành không phải như hành động của sức mạnh ép buộc, nhưng là sự tự hy sinh hiến thân: „ Ta hiến mạng sống mình để lấy lại. Mạng sống của Ta không ai lấy đi được, nhưng chính ta tự ý hy sinh mạng sống."( 10,17)
Trong Bí tich Thánh Thể, Chúa Giêsu đã biến đổi hành động sức mạnh ép buộc bị đóng đinh trên thánh gía thành cử chỉ tự hiến thân hy sinh cho người khác.
- Động lực thứ ba của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành biểu hiện qua sự biết nhau giữa người chăn chiên và đàn chiên: „...người chăn chiên gọi các con chiên của mình, anh ta biết tên từng con chiên và dẫn chúng ra ngoài. Các con chiên theo anh ta, chúng quen biết tiếng của người chăn dắt chúng. ( 10,3).
Người chăn chiên biết các chiên mình thuộc về mình, và các con chiên biết mình thuộc về người chăn chiên. Người chăn chiên sở hữu các con chiên không phải như bất cứ đồ vật cần dùng nào. Chúng thuộc về anh ta vì anh ta biết chúng. Điều này biểu hiện mối liên quan mật thiết sâu thẳm hơn là sở hữu một món đồ vật.
Con cái không là vật sở hữu của cha mẹ; vợ chồng không là sở hữu của một người khác. Nhưng họ thuộc về nhau theo chiều tâm linh sâu thẳm hơn là sở hữu làm chủ một khúc gỗ, một miếng đất. Con cái thuộc về cha mẹ, nhưng dẫu vậy chúng vẫn là thụ tạo tự do của Thiên Chúa tạo dựng. Đời sống mỗi người con có một sứ mệnh riêng, có một điều mới riêng, có một bản vị riêng trước mặt Thiên Chúa.
Con cái cha mẹ thuộc về nhau không phải như vật sở hữu, nhưng có trách nhiệm với nhau. Họ thuộc về nhau trong tự do và trong tình yêu thương cho nhau.
- Động lực thứ tư của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành biểu hiện qua sự hiệp nhất nên một " Ta còn có những chiên khác không thuộc về đàn này. Ta cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một mục tử. ( 10,16).
Chúa Giêsu, sau khi sống lại, sai các Tông đồ đi rao giảng không chỉ nghĩ đến những con chiên lạc đàn ở Israel, nhưng đến tất cả mọi người: „ Anh em là nhân chứng cho Thầy ở Giêrusalem, toàn miền Giudea, Samaria và tới tận cùng biên cương trái đất" ( Cv 1,8)
Lý do sâu thẳm của sứ mạng sai đi rao giảng tập trung ở điểm: Chỉ có một đàn chiên.. Ngôi Lời ( Logos) đã thành người qua Chúa Giêsu, là người chăn chiên của hết mọi người. Tất cả mọi người được tạo thành do Lời của Thiên Chúa. Cho dù họ có tản mát khắp nơi, nhưng vẫn là một phát xuất từ nơi Thiên Chúa và rồi lại quy tụ về nơi Ngài. Trong Ngôi Lời ( Logos) loài người có thể quy tụ trở nên một, đấng là người chăn chiên đích thực, đấng đã làm người hy sinh hiến mạng sống, và đã trao tặng sự sống dồi dào.
Hình ảnh người chăn chiên từ thời xa xưa, vào thế kỷ thứ 3 đã ăn sâu đậm nét vào đời sống Kitô giáo. Hình ảnh này thân thương quen thuộc trong đời sống ở thành thị lẫn thôn quê. Kitô giáo đã tìm thấy hình ảnh này nơi Thánh vịnh 23: Chúa là mục tử. Nơi Ngài tôi không còn thiếu gì. Người dẫn tôi ra đồng cỏ xanh tươi. Người dẫn tôi đi qua thung lũng tối tăm hiểm nguy...".
Nơi Chúa Giêsu Kitô họ nhận ra hình ảnh người chăn chiên nhân lành, người trong đời sống đã trải qua những thung lũng tối tăm. Người chăn chiên đó đã trải qua đêm đen tối sự chết, người chăn chiên biết đường đi qua đêm tối sự chết, không bỏ ai một mình đơn cô, nhưng dẫn đưa đến đồng cỏ sự sống xanh tươi, nơi có ánh sáng bình an..
Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô cũng không quên dụ ngôn người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. Khi tìm thấy, anh ta vác bế nó trên vai đưa trở về nhà. Với các Giáo phụ hai hình ảnh này đan bện vào nhau: người chăn chiên lên đường đi tìm con chiên lạc đàn là chính Ngôi Lời, và con chiên lạc bồng bế trên vai đưa về nhà là loài người, mà Ngài đón nhận.
Qua nhập thể làm người và qua cái chết trên thánh gía, Chúa Giêsu đã bồng ẵm con chiên lạc - là loài người, trở về nhà. Ngôi Lời đã thành người. Ngài là người chăn chiên và bồng bế con chiên, cùng là người theo sát cuộc sống con người trần gian qua mạo gai và sa mạc đời sống. Nhờ được Ngài chấp nhận bồng ẵm chúng ta trở về nhà. Ngài đã hy sinh mạng sống cho chúng ta. Ngài chính là sự sống."
( Joseph Ratzinger- Benedickt XVI., Jesus von Nazareth, I., 2007 Verlag Herder, Freiburg im Bresgau, 8. Kapitel - Der Hirte, S. 317 - 331)
Trong khuôn khổ trang Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, sẽ giúp chúng ta xác định rất rõ về sứ mạng: PS 4-C109
Trong khuôn khổ trang Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, sẽ giúp chúng ta xác định rất rõ về sứ mạng của Đức Giêsu tại trần gian, trong tư cách là Mục Tử. Vâng Chúa ở cùng chúng ta không gì khác hơn là ban cho chúng ta sự sống đời đời ( x. Ga10,3-28).
Sự sống là lý do duy nhất để Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành đến với con người. Đọc xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng, chúng ta rất dễ cảm nhận về vai trò Mục Tử của Đức Giêsu tại trần gian:
1/ Đức Giêsu, Vị Mục Tử phục vụ sự sống:
Chúng ta là đoàn chiên của Chúa, nên dù cuộc sống có lầm than vất vả, Chúa luôn nâng đỡ và chạnh lòng thương chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta. Hai phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều đó là bằng chứng nói lên tình thương của Đức Giêsu Mục Tử đối với đoàn chiên của Ngài:
Lần thứ nhất, khi nhìn thấy đoàn người đông đảo theo mình, Đức Giêsu chạnh lòng thương họ. Và với năm cái bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá ra nhiều để nuôi hơn năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con ăn no nê và dư thừa mười hai giỏ đầy (x,Mt14,13-21).
Lần thứ hai, lại một đám đông người theo Chúa không có gì ăn. Chúa đã chạnh lòng thương, vì đã ba ngày họ sống trong cảnh đói khát cũng vì theo Chúa. Rồi từ bảy chiếc bánh và vài con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã hoá ra nhiều để cung cấp cho khoảng bốn ngàn người ăn no nê và con dư thừa được bảy giỏ (x,Mc 8,1-10).
Như vậy, với hai phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì đó cũng là lý do rất chính đáng để chúng ta cảm phục con tim yêu thương của Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Ngài đến để yêu thương chăm sóc từng con chiên, để phục vụ sự sống cho đoàn chiên. Nhờ vậy đoàn chiên của Chúa sẽ được sống và tăng trưởng. Thế nhưng Đức Giêsu còn là Vị Mục Tử phục hồi sự sống cho đoàn chiên của mình
2/ Đức Giêsu Vị Mục Tử phục hồi sự sống cho đoàn chiên:
Trong đoàn chiên của Chúa không phải ai cũng khoẻ mạnh, không phải ai cũng dồi dào sức sống. Ngược lại có những chiên đau yếu bệnh tật, Đức Giêsu Mục Tử rất cảm thông, nâng đỡ và quan tâm đối với những hoàn cảnh riêng biệt này, nhờ đó sự sống của những chiên này sẽ được phục hồi nguyên vẹn.
Trong thời gian công khai rao giảng Tin Mừng, thì cũng là thời gian Chúa Giêsu cứu chữa để phục hồi những chiên đau yếu: Ai câm điếc thì Chúa chữa cho nói và nghe được, ai mù loà thì Ngài cho sáng mắt, ai què quặt thì Chúa chữa để có những bước đi vững mạnh. Và bất cứ chứng bệnh gì, nếu ai gặp được Chúa với tất cả lòng tin, Ngài sẽ đặt tay chữa lành ngay tức khắc (x, Lc 4,40-41).
Đức Giêsu, Vị Mục Tử không những Ngài phục hồi sự sống nơi thân xác của từng con chiên, nhưng Ngài còn phục hồi sự sống tâm linh cho các chiên của mình: Đức Giêsu đã từng trục xuất ma quỷ ra khỏi những ai mà chúng đã ám hại. Ngài rất nhiều lần tha thứ tội lỗi cho những người mà cuộc sống quá khứ của họ đã bóp nghẹt sự tăng trưởng đời sống tâm linh, nhờ đó mà họ sẽ có đời sống mới trong Ngài. Kinh nghiệm từ lần đầu tiên gặp gỡ Đức Giêsu Mục Tử của Matthêu, Giakêu, hay người phụ nữ tội lỗi đã xức dầu thơm cho Chúa khi Ngài dùng bữa tại nhà một người thuộc nhóm Pharisêu..., thì đó cũng là thời gian in đậm dấu ấn lòng nhân từ của Đức Giêsu nơi những con người này. Dấu ấn nhân từ ấy đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống quá khứ của họ, từ đây họ sẽ vươn lên một cuộc sống tương lai theo thánh ý Chúa, sau khi đã được Chúa phục hồi sự sống bằng ơn tha thứ.
Khởi đầu từ hình ảnh Vị Mục Tử phục vụ sự sống, rồi Vị Mục Tử ấy còn là người phục hồi sự sống cho đoàn chiên. Bao nhiêu việc làm ấy, người Mục Tử mang tên là Giêsu vẫn chưa hài lòng với sứ vụ yêu thương phục vụ trong thế gian. Vì đỉnh cao sứ vụ Mục Tử của Đức Giêsu là khi Ngài tự trao ban sự sống của mình cho đoàn chiên.
3/ Đức Giêsu, Vị Mục Tử trao ban sự sống:
Đức Giêsu đã nói:" Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga10,11). Như vậy, Đức Giêsu đến trần gian không phải tìm sự sống cho mình, nhưng Ngài tìm sự sống cho đoàn chiên. Sự sống Chúa Giêsu tìm cho đoàn chiên không phải là sự sống tầm thường hay tạm bợ, cũng không phải là sự sống giả tạo hay thiếu phẩm chất. Sự sống mà Chúa Giêsu tìm cho đoàn chiên đó là sự sống muôn đời. Đó chính là lý do mà Chúa đến với chúng ta.
Vì thế trong Bữa Tiệc Ly trước khi chịu chết, Đức Giêsu Mục Tử đã trao ban chính sự sống của Ngài cho chúng ta, dưới hình bánh và hình rượu. Khi Chúa cầm tấm bành và cầm chén rượu nho trên tay và nói: Này là mình Thầy ... Này là chén máu Thầy..., thì đó chính là giây phút Ngài trao ban cho chúng ta chính sự sống của Ngài, Ngài đặt sự sống của chúng ta trên bản thân Ngài, Ngài đã trở nên người tôi tớ để phục vụ sự sống cho chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ được sống dồi dào. Sống dồi dào đó là cuộc sống phải được nuôi dưỡng bằng chính Máu Thịt của chính Đức Giêsu Mục Tử hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Vì Chúa đã nói: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống laị vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống" (Ga 6,54-55).
Chiêm ngưỡng hình ảnh của Đức Giêsu Mục Tử, thì đó cũng là mời gọi chúng ta hãy sống những tâm tình như Ngài.
4/ Sống sứ vụ mục tử của Đức Giêsu:
Chúa Giêsu Mục Tử luôn đứng về sự sống, luôn bênh vực sự sống, luôn bảo vệ sự sống. Ngài mời gọi chúng ta là những người có Tôn giáo, những người có Đức tin cũng theo Ngài trên mọi nẻo đường để bênh vực sự sống. Vì Chúa không hề muốn đau khổ và sự chết, Chúa không bao giờ muốn gieo cái chết ở khắp mọi nơi: Như những ai lấy danh Thiên Chúa, danh Tôn giáo để khủng bố nổ bom tự sát làm chết 180 người vô tội, như tại Iraq vào trung tuần tháng tư vừa qua. Chúa cũng không bao giờ muốn vì sự kỳ thị Tôn giáo mà một số người Hồi giáo đã cắt cổ ba người làm việc ở một nhà in Kitô giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 19/4/2007. hay tại Pakistan,hay quân Hồi giáo Hizbul đã chặt đầu anh Manzoor Ahmad Chad 33 tuổi, sau đó chúng đã để đầu anh trong một Đền thờ Hồi giáo vào ngày 14/4/2007 vừa qua...
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúa luôn mong ước con người hãy lấy tình yêu mà đối sử với nhau. Chúa luôn mong ước con người hãy noi gương Chúa gieo nền văn minh sự sống trên mọi nẻo đường của cuộc đời, Chúa luôn mong ước con người hãy sống sứ vụ mục tử của Ngài là bảo vệ sự sống cho nhau.
Như vậy, khi chúng ta biết hy sinh chính mình để chạnh lòng thương nâng đỡ những người đói khát, những người đau yếu, biết cảm thông với những yếu hèn của người khác. Thì đó chính là lúc chúng ta đang sống sứ vụ mục tử của Đức Giêsu.
Và khi chúng ta biết bảo vệ và bênh vực Giáo Huấn về sự sống của Giáo Hội, biết thực hành nghiêm túc và tránh xa những gì làm tổn thương và nguy hại đến Giáo Huấn ấy, thì đó cũng là lúc chúng ta đang trở thành chứng nhân biết bảo vệ sự sống cho nhau. Vì sự sống con người là do Chúa ban, chính Chúa làm chủ sự sống ấy. Con người không được phép dùng sự tự do của mình để huỷ diệt sự sống, để gieo rắc nền văn minh sự chết trong môi trường mình đang sống.
Lạy Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin cho đời sống chúng con luôn chiếu toả hình ảnh Người Mục Tử của Chúa, luôn biết xây dựng và gieo rắc nền văn minh sự sống khởi sự từ chính cá nhân, trong gia đình và trong cộng đồng nhân loại chúng con. Amen
Mỗi thời đại và mỗi sắc dân có những hình ảnh tượng trưng riêng. Mỗi nhà văn hay mỗi vị giảng: PS 4-C110
Mỗi thời đại và mỗi sắc dân có những hình ảnh tượng trưng riêng. Mỗi nhà văn hay mỗi vị giảng thuyết là đứa con của thời đại và của dân tộc mình đang sống, vì thế trong văn chương và trong ngôn từ của họ, họ xử dụng chính hình ảnh đó. Do đó, để hiểu được ngôn từ và các bản văn của họ, chúng ta cần phải tìm hiểu các hình ảnh tượng trưng đó: Các hình ảnh đó muốn nói lên ý nghĩa gì ? Những gì được dấu ẩn phía sau những hình ảnh đó ?
Bởi vậy, nếu trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu đã nói đến hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, Người đã xử dụng chính những hình ảnh quen thuộc và thân thương đối với những khán thính giả của Người lúc bấy giờ ở các miền quê Pa-lét-ti-na, tương tự như cánh đồng lúa, con trâu hay chiếc cày đối với người Việt nam chúng ta. Ðây là những hình ảnh hoàn toàn tùy thuộc vào thời gian và không gian lúc bấy giờ. Nhưng nội dung các ý nghĩa mà Ðức Giêsu muốn trình bày qua các hình ảnh đó thì lại có giá trị vượt mọi biên giới của thời gian và không gian. Qua những hình ảnh đó thánh sử Gioan muốn nói lên bản sắc đích thực của cộng đoàn Kitô giao, tức sự hiệp nhất giữa Ðức Giêsu và cộng đoàn các tín hữu.
Thật vậy, trong khi đối chất với những người phê bình và những đối thủ của Người, Ðức Giêsu đã dùng tới hình ảnh người mục tử và đoàn vật, để nói lên tính chất gắn bó mật thiết giữa Người và các tín hữu, những « con chiên » thuộc về « đàn chiên » của Người và do Người chăn sóc. Một câu hỏi đã từng làm bận tâm vị thánh sử và cộng đoàn Kitô hữu là: Tại sao nhiều người Do-thái chối từ Ðức Giêsu và không tin nhận giáo lý của Người, mặc dù Người đã ngày đêm đi khắp mọi miền đất nước của họ để rao giảng Tin Mừng Cứu Ðộ cho họ, thương yêu và chữa lành mọi bệnh tật cho họ, cũng như Người đã không ngần ngại làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống họ ? Thánh sử Gioan chỉ tìm thấy một câu trả lời duy nhất, là: Bởi vì họ không muốn ! Bởi vì họ không chịu thoát ra khỏi cái bóng đen của chính mình và không chịu tin vào lời rao giảng và các việc làm của Người, những việc làm đã mặc khải cho họ biết Người là Ðấng nào.
Ðối với những người Do-thái đã từ chối không muốn tin nhận Người, Ðức Giêsu đã trình bày cho họ thấy được thái độ của các con chiên của Người: Chúng luôn biết nghe và đón nhận tiếng Người, nghĩa là chúng tin vào Người. Dĩ nhiên đức tin chân chính và sâu xa không dừng lại nơi sự tuyên xưng bằng môi miệng suông mà thôi, nhưng nó được chứng mình qua thái độ sống cụ thể: Luôn sẵn sàng cùng Ðức Kitô đồng hành trên con đường của Người !
Nhưng đức tin đó không hề là con đường một chiều thuộc về phía người tin, nhưng nó kiến tạo một tương quan hoàn toàn mới mẻ giữa Ðức Giêsu và các tín hữu của Người: Người lo lắng chăm sóc họ, Người biết rõ họ, Người tin tưởng họ và gắn bó mật thiết với họ. Người ban cho họ cuộc sống hạnh phúc trên nơi vĩnh cửu. Và những gì Người ban, Người cũng che chở bảo vệ như thể một kho báu vậy !
Ở đây, Ðức Giêsu hoàn toàn phó thác mọi sự nơi Cha Người, Ðấng ở trên Trời. Người và Chúa Cha là một ! Do đó, tất cả những gì Ðức Giêsu nói và hành động, Người đều nói và hành động với uy quyền của Thiên Chúa Cha ! Ðiều đó càng làm cho những lời rao giảng của Ðức Giêsu mang một giá trị tuyệt đối. Vì thế ai tin nhận Người, thì có thể chắc chắn được rằng mình cũng được chính Thiên Chúa công nhận và chấp nhận. Ngược lại, ai chối từ Ðức Giêsu, thì đương nhiên cũng « nói không » cùng chính Thiên Chúa. Như thế, vấn đề được đặt ra ở đây là sự cứu rỗi hay sự bất hạnh, sự sống hay sự tiêu diệt. Ðó là quan điểm của thánh sử Gioan về cộng đoàn Kitô giáo.
Vậy, ngày nay dựa theo quan điểm đó chúng ta có nhận thấy mình là cộng đoàn Kitô hữu nữa hay không ?
Ðức tin không phải là con đường một chiều. Ðức tin tạo nên sự thông hiệp với Ðức Kitô và với nhau. Phải chăng điều đó cũng là một thực tại trong cộng đoàn Ðức Kitô nơi chúng ta đang sống ? Phải chăng trong giáo xứ chúng ta thường đã mong đợi quá nhiều nơi những người khác, như nơi: Cha Quản Xứ, ban hành giáo xứ, các hội đoàn, các giáo lý viên, v.v..., nói tắt: nơi « những người có trách nhiệm » ? Còn đâu là sự đóng góp và sự dấn thân của mỗi người trong chúng ta cho cộng đoàn ? Chúng ta có sống đức tin của mình một cách đầy xác tín, hầu có thể trở nên nhân chứng cho Ðức Kitô giữa lòng đời hay không? Chúng ta có sống đức tin của mình sao cho người khác phải lưu ý và tìm hiểu tại sao chúng ta tin và chúng ta tin ai không ?
Qua Phép Rửa và nhờ đức tin tất cả chúng ta thuộc về một đại gia đình, gia đình Ðức Kitô. Nhưng gia đình này chỉ có thể tồn tại được nhờ vào sự cùng đồng trách nhiệm, sự tha thứ và lòng yêu thương trọn vẹn. Vì như Chúa đã phán: « qua đó thế gian sẽ nhận biết rằng, các con là môn đệ của Thầy » (Ga 13,35). Amen
Hình ảnh Chúa Giêsu như người mục tử chăn dắt đoàn chiên của Chúa Cha là một trong những hình ảnh PS 4-C111
Hình ảnh Chúa Giêsu như người mục tử chăn dắt đoàn chiên của Chúa Cha là một trong những hình ảnh tuyệt đẹp chúng ta có về Người. Và chúng ta phải nên đồng hình đồng dạng với Người. Đây là cách thức Người đã diễn tả chính Người và sứ vụ của Người.
Chúa Giêsu không phải là kẻ chăn thuê. Kẻ chăn thuê, vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Chúa Giêsu là vị Mục Tử nhân lành. Chiên thuộc về Người, và Người sẵn sàng chết vì chiên.
Chúa Giêsu đã thực hiện lời hứa tuyệt hảo nhất cho những ai thuộc về Người. Người nói không ai trong họ sẽ bị hư mất. Không ai cướp được chiên trong đàn chiên Người chăm sóc mà Chúa Cha đã giao phó. Chiên nào thuộc về Người sẽ được an toàn bởi vì quyền năng của Cha ở trong Người (Người và Cha Người là một). Và Người sẽ dẫn đưa họ tới đồng cỏ xanh của sự sống vĩnh cửu. Cảm giác thuộc về Chúa Giêsu, được Người biết và được Người yêu mến là sự an ủi rất lớn và vững tâm. Ai là kẻ, không muốn thuộc về đàn chiên của Người ? Nhưng làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta thực sự thuộc về đàn chiên của Người ? Đòi hỏi chúng ta phải có những bổn phận nào ? Cơ bản có ba điều.
Điều kiện trên hết và cần thiết cơ bản đó là tin vào Người. Chúng ta nhập vào đàn chiên bởi việc chúng ta trở nên những người tin. Nhưng đức tin chỉ là khởi điểm. Điều kiện thứ hai là lắng nghe tiếng Người: "Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta." Lắng nghe tiếng Người là chú ý đến lời giảng dạy của Người. Và điều kiện thứ ba là bước đi theo Người: "Chiên Tôi thì theo Tôi." Theo Người là làm theo lời của Người. Đây là những điều tóm tắt chúng ta phải nhớ. Thật sự hết sức đơn giản.
Rõ ràng mối tương quan có được phải là mối tương quan hai chiều. Chiên có sự lựa chọn thuộc về ai. Chúa Giêsu không thể cứu con người khi con người không muốn. Nhưng thật là nguồn an ủi tuyệt vời khi chúng ta nhận thức rằng nếu chúng ta ước muốn chân thành và cố gắng để được thuộc về Người (bước theo Người và thực hiện điều Người dạy), Người sẽ chăm sóc ta khi sống cũng như khi chết. Người hứa ban cho ta sự sống đời đời. Chúng ta đặt hy vọng của chứng ta vào lời Người: tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong."
Thuộc về Chúa Giêsu, không có nghĩa là sẽ bảo đảm cho chúng ta sống trên trần gian này một cách dễ dàng. Điều trái ngược thì thích hợp hơn với tình huống này. Những ai thuộc về Chúa Giêsu thì sẽ bị thế gian ngược đãi, nhưng những ai kiên vững trong niềm tin xuyên qua những thứ thách, sẽ được chia sẻ vinh quang với Người trên trời (bài đọc 2). Thử thách và đau khổ là cơ hội để chứng tỏ đức tin và lòng vâng phục của ta với Thiên Chúa.
Đàn chiên là hình ảnh của cộng đoàn. Ngay cả trên phương diện con người, chúng ta phải ý thức sâu xa sự cần thiết của cộng đoàn. Chúa Giêsu biết rõ điều này. Đó là lý do tại sao Người muốn những ai theo Người phải sống cộng đoàn. Trong cộng đoàn, chúng ta nhận được sự nâng đỡ lẫn nhau, sự khích lệ động viên, và tình bạn. Chúng ta không thuộc về Chúa Giêsu, chúng ta cũng không thuộc về đàn chiên của Người. Đặc ân thuộc về không phải là điều bantặng cho một số người được tuyển chọn, nhưng là cho tất cả mọi người, Do Thái và dân ngoại (bài đọc 1).
Đọc bài Tin Mừng, ta thấy ngay sự quan hệ tốt đẹp, đầy yêu thương, và gắn bó đến mức sống chết: PS 4-C112
Đọc bài Tin Mừng, ta thấy ngay sự quan hệ tốt đẹp, đầy yêu thương, và gắn bó đến mức sống chết với nhau giữa mục tử và đàn chiên. Quan hệ ấy quả là gương mẫu tuyệt vời cho mọi quan hệ ở trần gian này giữa các vị mục tử và những giáo hữu mà các ngài có trách nhiệm chăm sóc. Quan hệ giữa mục tử và giáo hữu có tốt đẹp hay không tùy thuộc vào cả hai phía, nhưng bình thường thì chủ yếu và tiên khởi vẫn thuộc về phía mục tử.
Đức Giê-su nói: «Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi». Tại sao chiên lại nghe và theo người mục tử, mà không nghe và theo người lạ hay kẻ trộm? Chính vì đàn chiên đã cảm nhận được tình yêu thương đậm đà mà người mục tử dành cho chúng. Để là mục tử đúng nghĩa, điều quan trọng là phải có tình yêu đối với những người mà Thiên Chúa trao trách nhiệm cho mình chăm sóc. Điều này đòi hỏi người mục tử phải yêu mến Thiên Chúa hay Đức Giê-su thật sự và nồng nàn.
Chắc chắn không phải là không có ý nghĩa việc Đức Giê-su, trước khi giao cho Phê-rô trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Ngài, đã phải hỏi ông tới ba lần: «Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thày hơn các anh em này không?». Thật vậy, có yêu Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu, có yêu Đức Giê-su nồng nàn thì mới có đủ tình yêu cần thiết để hy sinh cho đàn chiên như nhu cầu thực tế của đàn chiên đòi buộc. Người mục tử có thật sự yêu thương đàn chiên, thì đàn chiên mới cảm nhận được tình yêu người mục tử dành cho họ, để dựa vào đó họ tin tưởng và nghe theo người mục tử. Người mục tử sẽ chẳng làm được gì ích lợi cho đàn chiên nếu đàn chiên không tin tưởng và không vâng nghe lời người mục tử.
Tóm lại, muốn đàn chiên tin tưởng và nghe theo mình, người mục tử phải thật sự yêu thương đàn chiên.
2. Tình yêu của người mục tử phải được biểu lộ bằng hành động.
Làm sao bổn đạo có thể cảm nhận được tình yêu của mục tử đối với mình, nếu người mục tử không có những hành động cụ thể biểu lộ tình yêu ấy? Đức Giê-su đã đưa ra những hành động cụ thể của Ngài, với tư cách là Mục Tử tốt lành như sau:
- Trước hết là «tôi biết chúng» (Ga 10,27), và có thể «gọi tên từng con» (10,3). Nếu người mục tử yêu thương chiên của mình thật sự, thì sẽ phải chú ý đến nhu cầu của từng con chiên một, để chăm sóc chúng, để đáp ứng đúng nhu cầu của từng con. Tôi biết có những linh mục thường xuyên đi thăm các gia đình trong họ đạo, và biết rõ tên của từng người trong từng gia đình, cùng với hoàn cảnh và nhu cầu của từng người, từng gia đình một. Người bổn đạo sẽ cảm nhận được tình thương của người mục tử ngay khi thấy ông gọi trúng tên mình, biết rõ hoàn cảnh của mình, và đáp ứng kịp thời đúng nhu cầu của mình.
- «Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào» (10,10), «Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi» (10,28). Người mục tử tốt lành luôn quan tâm đến sự sống, hạnh phúc và sự an nguy của đàn chiên, nhất là đời sống tâm linh. Nhưng ông không chỉ quan tâm đến đời sống tâm linh, mà còn quan tâm đến cả đời sống thực tế của đàn chiên. Đức Giê-su luôn luôn quan tâm đến nhu cầu vật chất của dân chúng: chẳng hạn trong phép lạ hóa bánh ra nhiều: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?» (Ga 6,5), hay sau khi làm cho đứa con gái ông Gia-ia (trưởng hội đường) chết sống lại, thì Ngài «bảo họ cho con bé ăn» (Mc 5,43).
- «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Không người mục tử nào ngu dại đến nỗi coi sự sống của đàn chiên quí hơn mạng sống mình, trừ trường hợp đàn chiên ở đây không phải là thú vật, mà là những con người, là hình ảnh Thiên Chúa hay con cái Thiên Chúa, hay nói cách khác là hiện thân của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng đã yêu thương con người đến nỗi đã sẵn sàng hy sinh Con Độc Nhất của mình cho con người (x. Ga 3,16). Người bổn đạo đối với người mục tử không phải chỉ là những con chiên mà là những linh hồn hết sức quí giá, đáng cho người mục tử hy sinh mạng sống mình vì họ. Thái độ này khác hẳn với thái độ của người làm thuê, hay mục tử giải được biểu lộ bằng hành động hiệu, là «khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy (...) không thiết gì đến chiên» (Ga 10,12-13).
3. Những mục tử xấu, giả hiệu
Thánh Kinh không chỉ nói đến những mục tử tốt lành, nhưng còn nói đến những mục tử giả hiệu - mà Đức Giê-su ví như bọn chăn chiên thuê - chỉ biết nghĩ đến mình, nghĩ đến sự an nguy, quyền lợi hay hạnh phúc của mình, chỉ biết rút ra những lợi lộc từ đàn chiên, mà không nghĩ gì đến quyền lợi hay hạnh phúc của đàn chiên. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết: «Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta thất lạc và tan tác (...) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng» (Gr 23,1-2). Ngôn sứ Ê-dê-ki-en viết: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! (...) Sữa chiên thì các ngươi uống, len của chúng thì các ngươi mặc, con nào béo tốt thì các ngươi giết, và chẳng thèm lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương các ngươi không băng bó; chiên bị lạc các ngươi không đưa về; chiên bị mất các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, khiến chúng bị tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm» (Ed 34,2-6). Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Ê-dê-ki-en để nguyền rủa loại mục tử này: «Bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta, nên hỡi các mục tử! Đây Ta chống lại các ngươi. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để các ngươi chăn dắt chiên Ta nữa (...) để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa» (Ed 34,8b-10).
Thời nào cũng có những mục tử nhân lành, vị tha, nhưng chẳng có thời nào lại vắng bóng những mục tử xấu, ích kỷ. Điều đáng tiếc là trong một số giáo hội địa phương, đời sống thoải mái với vật chất đầy đủ và mặc nhiên được trọng vọng của các linh mục, giáo sĩ đã khiến cho khá nhiều người phấn đấu để trở nên linh mục, giáo sĩ vì những động cơ thấp kém. Vì thế, trong những giáo hội ấy, những mục tử nhân lành dám sống chết vì đàn chiên, dám hy sinh cho đàn chiên không nhiều như trong những giáo hội mà người ta được thúc đẩy làm linh mục và giáo sĩ vì những động cơ siêu nhiên hơn. Do đó, những linh mục và giáo sĩ tương lai cần phải luôn luôn quan tâm thanh lọc động cơ thúc đẩy mình theo đuổi đời sống tu trì. Động cơ tốt nhất phải là tình yêu đích thực và nồng nàn đối với Thiên Chúa và tha nhân, muốn cho tất cả mọi người đều được hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, trong Giáo Hội của chúng con, chắc chắn không thiếu những mục tử thánh thiện, luôn yêu thương và sẵn sàng hy sinh tất cả cho đàn chiên. Nhưng chắc chắn cũng có những mục tử chưa yêu thương và hy sinh cho đàn chiên như lòng Chúa mong ước, như nhu cầu của đàn chiên đòi hỏi. Chúa là Mục Tử Gương Mẫu, xin hãy gia tăng số mục tử nhân lành lên, xin hãy làm cho ngọn lửa yêu thương bùng cháy lên trong tâm hồn các mục tử, để Giáo Hội càng ngày càng trở nên tốt đẹp, có khả năng biến cải thế giới và xã hội thành nhân bản hơn, chan hòa tình Chúa tình người hơn. A-men.
Vào năm 1943, xảy ra vụ năm người lính Đức bị phục kích và bị sát hại gần thành phố Chani: PS 4-C113
Vào năm 1943, xảy ra vụ năm người lính Đức bị phục kích và bị sát hại gần thành phố Chani, miền bắc nước Ý. Và thế là viên chỉ huy Đức Quốc Xã liền ra lệnh bắt 50 người thế giá nhất của thành phố đem đi xử bắn để dạy cho dân thành một bài học.
Đức Cha chánh và Đức Cha phó đã cố gắng can thiệp nhưng không hiệu quả gì. Tất cả 50 người đều bị trói, bị bịt mắt và xếp thành hàng dài. Thế rồi giây phút đen tối nhất đã đến. Tiếng còi hụ vang lên báo hiệu nhắm súng. Đức Cha chánh xin viên chỉ huy một đặc ân cuối cùng là được ôm hôn từng người sắp bị hành quyết. Ngài tìm cơ hội cho các nạn nhân được xưng tội để giao hoà với Chúa. May mắn thay, lời thỉnh cầu này được chấp nhận.
Nhưng cũng thật lạ lùng, bởi vì sau đó hai vị giám mục đã không trở về chỗ cũ, trái lại các ngài đã đứng vào hàng ngũ những người bị xử bắn. Đức Cha chánh đã lên tiếng nói với viên chỉ huy: Không phải chỉ có 50 người, nhưng tất cả là 52 người chúng tôi. Ông còn quyết định bắn chúng tôi, thì xin hãy ra lệnh. Xin Thiên Chúa tha thứ cho ông.
Vừa dứt lời, bỗng từ bầu khí nặng nề của chết chóc vang lên tiếng reo hò, bởi vì các khẩu súng đang nhắm bắn đều hạ xuống. Thế là cả chủ chăn lẫn đoàn chiên đều thoát khỏi những viên đạn của tự thần. Hôm đó từ pháp trường ra về, mục tử cũng như đoàn chiên đều sung sướng hát lời thánh vịnh: Khi Chúa dẫn từ nhân Sion trở về, ta tưởng như giấc mơ...
Hình ảnh hai vị giám mục đứng giữa những người bị xử bắn làm cho chúng ta nhớ tới Đức Kitô, vị mục tử nhân lành của chúng ta. Thực vậy, Ngài là Đấng thánh thiện và quyền năng, Ngài đã xuống thế làm người để trở thành một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hơn htế nữa, Ngài còn đồng hoá mình với chúng ta, là những kẻ tội lỗi. Không những thế, Ngài còn hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta khỏi án phạt của tội lỗi, như lời thánh Phaolô viết: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi. Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Còn chúng ta thì sao?
Là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta cần phải lắng nghe và bước theo sự dẫn dắt của vị mục tử như lời Ngài đã phán: Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta.
Hãy thực thi những điều Chúa truyền dạy, để nhờ đó chúng ta thực sự là những con chiên trong đoàn chiên của vị mục tử nhân lành là chính Đức Kitô.
Người chăn dắt Israel, là một thuật ngữ quen dùng trong văn hoá người Do Thái, biểu tượng: PS 4-C114
Người chăn dắt Israel, là một thuật ngữ quen dùng trong văn hoá người Do Thái, biểu tượng là người gìn giữ hoà bình, người của cõi thiêng mà đến.
Trong ngôn ngữ biểu tượng người chăn dắt là người đã từng trải bằng những kinh nghiệm của mình, người trực giác nhìn thấy phía trước, dự đoán được tương lai gần những điều sắp đến. Người chăn dẫn cũng là người biết canh chừng, theo chức năng đó người chăn dắt luôn trau dồi thêm những tình huống cảnh giác. Người chăn dắt có nhiệm vụ bảo đảm an toàn cho đoàn chiên của mình, anh ta là người biết nhìn trời, dự đoán qua trăng sao, tai lắng nghe và phân biệt được tiếng thú dữ và tiếng chiên lạc đàn thuộc bầy của minh. Chính anh ta là người không có chỗ dừng chân, không có một nơi gối đầu định cư, số phận anh ta tuỳ thuộc vào số phận của đoàn chiên. Đối với đoàn chiên, anh ta là đôi mắt là sự am hiểu thay cho đàn chiên, biết từng con chiên và bảo vệ từng con chiên trong đàn.
Sứ vụ của người chăn chiên đòi hỏi phải là người khôn ngoan, hiền hậu, có trái tim nhân từ thương cảm. Con chiên nào đau bệnh, anh chữa trị, con nào lạc lối, anh tìm đưa về, con nào bước đi yếu ớt, anh cõng trên vai. Những con chiên khoẻ mạnh anh ta vỗ về... Từ những hình ảnh nhân hậu đó, người chăn chiên còn là biểu tượng của sự bình an cho đàn chiên. Người ta muốn bắt chiên, trước hết phải giết hại người chủ chiên.
Theo truyền thống Do Thái Cain đại diện cho người theo văn hoá du mục, Abel đại diện cho nền văn hoá định cư. Người định cư rất quý mến người du mục, và thường ân cần tiếp đón họ. Theo khía cạnh nhìn của người định cư, người chăn chiên là người không thuộc về đất, người chăn chiên có một giá trị thiêng liêng và cao quý.
Nền văn minh Assyrie và Babylone, biểu tượng người chăn chiên gắn liền với ý nghĩa vũ trụ. Danh hiệu người chăn chiên được gán cho thần mặt trăng Tammuz, là người chăn dắt các tinh tú, vị thần của thực vật, chết đi và sống lại. Theo chu kỳ mặt trăng tuần tự sinh ra và rồi mất đi, cũng một chu kỳ liên tiếp được làm đi lập lại mỗi khi chiều về, buổi tối ập đến, người chăn cừu lại lùa đàn chiên vào nơi gìn giữ và sáng mai lại thả ra. Người chăn dắt trong đêm ngủ mê của đoàn chiên vẫn là người lắng nghe, người cầu nguyện cho sự an toàn của đàn chiên. Với hình ảnh đó, người chăn chiên là người trung gian giữa Đấng Tối Cao và thọ tạo.
Người mục tử hôm nay là những nhà lãnh đạo, những nhà doanh nghiệp, những vị lãnh đạo công ty, xí nghiệp. Với đôi mắt tinh tường nhìn về phía trước, dự báo được những gì trong tương lai, chuẩn bị cho những con người dưới quyền đủ khả năng chống đỡ vượt qua thử thách. Những nhà lãnh đạo biết lo cho những người thuộc quyền cũng như cho dân được ấm no hạnh phúc. Bình an của đàn chiên là niềm vui cho người mục tử. Nhà lãnh đạo không những chỉ sáng suốt mà còn là người chăm lo hạnh phúc cho đàn chiên, là người quy tụ chứ không phải để gây chia rẽ chống đối, là người vì đàn chiên của mình mà hy sinh hạnh phúc cá nhân chứ không phải là người chỉ biết xen lông, giết thịt những con chiên béo, thu lợi nhuận từ đàn chiên để làm giàu cho cá nhân người mục tử. Người mục tử có những đức tính cần thiết và cần có cả đời sống cầu nguyện, vì người mục tử là người nối trời với đất, người lãnh trách nhiệm tinh thần cho đàn chiên của mình, vừa thăng hoa đời sống bằng vật chất vừa làm no thoả đời sống tinh thần cho đoàn chiên, bảo đảm cho đoàn chiên một tương lai chắc chắn. Người mục tử nếu là người không tín ngưỡng, không niềm tin tôn giáo là nhưng nhà lãnh đạo thiếu sót trong bổn phận của mình và có thể làm thiệt hại cho đoàn chiên.
Người mục tử cũng là các gia trưởng trong gia đình, người quy tụ đoàn con của mình chứ không là người gây chia rẽ. Người đảm bảo cho mọi thành viên trong gia đình có những nhu cầu thiết yếu để ăn học và trưởng thành về các đức tính cũng như niềm tin. Nhiệm vụ người gia trưởng xem ra khá nặng nề, chính vì vậy, họ cũng cần có đời sống cấu nguyện để được thêm sức mạnh gánh vác việc đời và gia đình. Các thành viên trong gia đình là những gì Thiên Chúa trao cho để thi hành sứ mạng hướng dẫn của người mục tử.
Người mục tử là những người cai quản các cộng đoàn cần gắn bó với vị mục tử nhân lành là Chúa Giêsu, bởi vì sứ vụ lãnh nhận từ nơi Chúa Giêsu. Cộng đoàn được trao phó để người mục tử hướng cộng đoàn đó thực thi ý định yêu thương của Thiên Chúa. Người mục tử này đóng vai trò quan trọng để xây dựng cộng đoàn mình lãnh nhận được hiệp nhất, nơi chia sẻ tình thương, sống trong bác ái và làm chứng về Tin Mừng Phục Sinh.
Xin ban cho chúng con những người mục tử như Ý Chúa.
Trong các loài thú thì chiên cừu là con vật hiền lành nhất và cũng yếu đuối nhất. Những loài: PS 4-C115
Trong các loài thú thì chiên cừu là con vật hiền lành nhất và cũng yếu đuối nhất. Những loài mãnh thú như sư tử, hổ báo... là những con thú hung tợn, có nanh, có vuốt lại có sức mạnh và sự lanh lẹ phi thường nên có thể dễ dàng quật ngã những loài thú yếu đuối hơn và biến những con thú nầy thành mồi ngon cho chúng.
Có những loài thú khác tuy không mạnh mẽ, hùng dũng bằng sư tử, hổ báo... nhưng ít ra cũng có nanh, có vuốt, có sừng, có quai hàm mạnh mẽ... để săn bắt, vồ xé những con thú khác, hay ít ra cũng để tự bảo vệ mình, như con trâu có sừng để báng; con ngựa, con bò có chân để đá, con dê có đầu cứng như đá để húc, để tự bảo vệ mình khỏi bị địch thủ tấn công.
Chỉ riêng có loài cừu, loài chiên là hiền lành yếu đuối, chẳng có sừng để báng, chẳng có móng vuốt để tấn công, chẳng có răng nanh để cắn xé, chẳng có sức mạnh hay sự lanh lẹ để đối lại địch thù. Đã vậy, khi bị tấn công, nó cũng không có cánh để bay lên ngọn cây cao thoát thân như loài chim, không thể chui xuống hang ẩn trú như loài chuột, cũng chẳng có thể cao chạy xa bay lánh thoát địch thù như loài hươu nai...
Ngoài ra, nó cũng không thể cậy dựa vào những bạn cừu khác, vì những con cừu kia cũng yếu đuối, cũng hiền lành, cũng vô phương tự bảo vệ mình như nó. Cả hàng trăm con cừu không hơn một con chó sói! Thế là nó dành đứng chịu trận cho kẻ thù vồ xé, giết hại, tàn sát... Thật tội nghiệp, thật đáng thương! May ra chỉ có người chăn chiên mới là người duy nhất có thể bảo vệ và cứu nguy cho nó, giúp nó sống còn.
* * *
Xét về một số phương diện, con người chúng ta tuy cao cả nhưng cũng rất yếu đuối, lại phải thường xuyên đương đầu với thù trong giặc ngoài rất độc hại, chẳng khác gì con chiên hiền lành đối mặt với cả bầy ác thú.
Kẻ thù bên trong chúng ta chính là những xu hướng xấu nằm trong huyết mạch mỗi người. Đó là óc kiêu căng, là lòng tham vô đáy, là tính ích kỷ, là những ham muốn xấu xa, những khao khát tội lỗi... vẫn luôn nằm vùng, luôn ẩn trú trong ruột gan, trong tim óc con người và có thể chỗi dậy bất cứ lúc nào để xui khiến, thúc đẩy người ta làm điều xằng bậy, xô đẩy con người vào con đường gian ác tội lỗi. Mấy ai dám bảo rằng mình đủ sức chiến thắng những kẻ nội thù nầy. Napoléon là một vị tướng lừng danh trong lịch sử nhân loại, đã lập nên nhiều chiến công oanh liệt vang dội châu Âu... vẫn phải thú nhận rằng: "chiến thắng cả châu Âu không khó bằng chiến thắng chính bản thân mình".
Còn kẻ thù bên ngoài chúng ta thì không kể xiết. Có vô vàn cạm bẫy rải rác khắp nơi có thể làm cho con người sa đoạ bất cứ lúc nào. Vô số phim ảnh khiêu dâm và bạo lực đang xô đẩy thanh thiếu niên vào con đường sa đoạ. Đếm không xuể sách báo, văn hoá đồi truỵ dưới đủ mọi hình thức... đang huỷ diệt tâm hồn cao đẹp của con người. Các tụ điểm ăn chơi đồi bại mọc lên như nấm khắp mọi nơi. Rượu bia, ma tuý và rất nhiều hình thức kinh doanh xác thịt con người rộ lên khắp chốn... Đó là những chiêu thức rất hiểm độc được tung ra để huỷ diệt phẩm chất con người, nô dịch con người.
Đối mặt với thù trong giặc ngoài rất nguy hại như thế, chúng ta là những con người vốn mang xác thịt hư hèn yếu đuối, khác nào những chiên non... làm sao chống cự nổi?
Trong mặt trận nầy, chúng ta không thể hoàn toàn trông cậy người khác, vì họ cũng yếu đuối như chúng ta, họ cũng là chiên hiền như chúng ta. Cả trăm con chiên cũng không thắng được một con sói. Người duy nhất có thể bảo vệ chiên là người chăn chiên. Còn Đấng duy nhất có thể bảo vệ chúng ta chính là Đấng chăn chiên lành, là Chúa Giêsu.
Hạnh phúc cho chúng ta vì có Chủ Chiên nhân lành bảo vệ.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cam kết bảo vệ chúng ta là chiên của Ngài: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi."
Để được sống đời đời, để khỏi bị diệt vong, chúng ta phải tuân theo hai điều kiện do Ngài đưa ra:
Một là vâng nghe Chúa Giêsu: "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi".
Nghe tiếng Chúa Giêsu tức là để cho lời của Ngài soi dẫn, để khỏi sai đường lạc lối.
Hai là bước theo Chúa Giêsu: "Tôi biết chúng và chúng theo Tôi".
Bước theo Chúa Giêsu là đi theo con đường mà Ngài đã đi, chủ yếu là vâng theo thánh ý Chúa Cha như Ngài đã nêu gương.
Nguyện xin Chúa Giêsu giúp chúng ta ý thức thân phận chiên non yếu đuối của mình để chúng ta đặt trọn vẹn niềm cậy trông nơi Ngài, vâng nghe tiếng Ngài và bước theo vết chân Ngài để khỏi bị diệt vong ở đời nầy và được hưởng sự sống đời đời do Ngài tặng ban.
Là người ai cũng khao khát được sống và sống đời đời. Không ai nghĩ rằng mình sinh ra – chết PS 4-C116
Là người ai cũng khao khát được sống và sống đời đời. Không ai nghĩ rằng mình sinh ra – chết rồi hết một kiếp người. Con người dù có niềm tin hay không cũng đều khao khát được sống lâu và sống trường sinh.
Nhưng xem ra con người luôn bất lực trước cái chết. Con người phải nhắm mắt xuôi tay chiều theo số phận. Cho dù người có tiền, có quyền thế nhưng họ vẫn không bao giờ thỏa mãn nỗi khao khát sống trường sinh của mình. Nỗi khao khát đó được thể hiện qua nhiều thế hệ con người ra đi tìm một thứ gọi là linh dược trường sinh.
Có lẽ, ai trong chúng ta cũng từng biết đến Tần Thủy Hoàng nước Trung Hoa. Theo sử sách: vào Năm 221 trước công nguyên, Tần Doanh Chính diệt xong lục quốc, thống nhất toàn cõi Trung Hoa, xưng là Tần Thủy Hoàng đế, có ý muốn truyền ngôi đến vạn đời.
Tần Thủy Hoàng tin thần tiên, dùng bọn phương sĩ, muốn tìm thuốc trường sinh đặng sống lâu, vui hưởng hạnh phúc. Bấy giờ có một người nước Tề tên là Từ Phúc tâu rằng ở biển Đông có ba ngọn núi do thần tiên cai quản là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu, ở đấy có thuốc trường sinh bất tử. Thủy Hoàng mừng lắm, bèn cấp nhiều thuyền lớn, một ngàn đồng nam đồng nữ và lương thực tiền bạc dồi dào để Từ Phúc vượt biển tìm thuốc trường sinh.
Nhưng Từ Phúc đi đã lâu mà không thấy về, chẳng rõ đã chết chìm ngoài biển hay không tìm được thuốc nên không dám về. Ông và đoàn tùy tùng đã ra đi mang theo hoài bão khao khát trường sinh của Tần Thủy Hoàng và của con người qua mọi thời đại.
Thực ra, ước muốn trường sinh bất lão không phải là một ước muốn xấu xa. Con người khao khát được sống mãi để yêu, để làm việc, để giúp đỡ người khác, để sáng tạo… Đây là ước muốn thật bình thường của con người. Thế nên, con người qua mọi thời đại đã không ngừng theo đuổi những phương cách khác nhau để thoát khỏi vòng quay “sinh lão bệnh tử”. Nhưng từ xưa đến nay, con người mới chỉ kéo dài sự sống thêm vài chục tuổi mà không ngăn được sự chết.
Thực ra, có một Đấng đã chiến thắng thần chết. Một Đấng đã trỗi dạy từ cõi chết. Ngài đã sống từ đời đời và cho đến muôn đời. Ngài chính là Đức Ky-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Ngài đã sinh ra trong thân phận con người. Ngài đã chia sẻ những thăng trầm của đời người. Ngài đã rao giảng về Nước Trời. Một vương quốc hằng sống. Ngài mời gọi con người tham gia vào vương quốc đó trong tư cách con dân của Nước Trời. Chỉ mình Ngài mới có thể làm thoả mãn khao khát sống trường sinh nơi con người mà thôi.
Cuộc sống trần gian là một hành trình tiến về Nước Trời. Hôm nay, Ngài mời gọi con người biết lắng nghe tiếng Người và đi theo Người như con chiên biết nghe tiếng chủ chiên. Khi con người biết nghe tiếng Ngài và bước đi theo Ngài, Ngài sẽ cho họ được tham dự sự sống đời đời với Ngài. Ngài sẽ dẫn con người đến bến bờ hạnh phúc nơi không con khổ đau, oan trái và hận thù, chết chóc. Nơi đó, con người được sống sung mãn trong hạnh phúc với Chúa là Đấng hằng sống.
Tiếng của Ngài luôn mời gọi con người làm điều lành tránh điều dữ. Tiếng của Ngài cũng mời gọi con người sống trong tình bác ái yêu thương. Sự bác ái không chỉ dừng lại ở việc yêu người yêu mình mà còn yêu cả kẻ thù. Tình yêu thương không dừng lại việc không làm tổn thương đến ai mà còn biết giúp đỡ, chia sẻ với nhau trong vui buồn cuộc đời. Có như thế, chúng ta mới được tham dự sống sống đời đời với Chúa.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm nhiều vị mục tử tốt lành để chăm sóc đàn chiên của Chúa. Những mục tử biết hoạ lại khuôn mẫu của vị mục tử nhân lành luôn sống hết mình vì đàn chiên, luôn tận tuỵ chăm sóc đàn chiên của Chúa. Những mục tử biết say mê nói Lời Thiên Chúa để dẫn dắt dân Chúa đi trong chân lý vẹn tuyền. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.
Chúa Giêsu gọi nhũng ai tin vào Ngài là những con chiên. Đặc tính căn bản nhất của con chiên: PS 4-C117
Chúa Giêsu gọi nhũng ai tin vào Ngài là những con chiên. Đặc tính căn bản nhất của con chiên là hiền lành. Và mục đích sống của nó là hiến dâng lông của mình để phủ ấm cho đời. Thịt của nó, là để nuôi sống con người, và nhất là để làm hiến lễ dâng lên cho Thiên Chúa. Được làm chiên của Chúa là hạnh phúc to lớn. Nhưng làm thế nào, để được gọi là con chiên của Thiên Chúa? Theo như Chúa Giêsu, để là một con chiên đích thực, thì đòi 3 điều kiện sau đây:
1- Chiên tôi thì nghe tiếng tôi.
Chữ nghe đây, không có nghĩa là chỉ nghe bằng tai, mà nghe bằng việc làm. Bảo một đứa con không biết nghe lời cha mẹ, là một đứa con hư, luôn lười biếng, hư hỏng, ngông cuồng. Nghe lời Chúa, tức là luôn biết tìm hiểu ý của Ngài, để mà thi hành.
Nhưng như vậy, thì bước đầu tiên phải làm, đó là luôn biết tìm đọc và suy ngẫm lời dạy của Chúa đã. Ngoài những giới răn mà con chiên nào cũng phải nằm lòng, thì những lời dạy khác, đi sâu vào từng hoàn cảnh, với những chỉ nam rõ rệt, với những lời dạy chí lý khôn ngoan, là điều mà mỗi con chiên phải tìm đọc mỗi ngày. Tìm đọc rồi, thấy được ý Chúa rồi, thì bước tiếp theo quan trọng là phải thi hành theo thánh ý đó. Rất nhiều khi thánh ý đó lại đi ngược với suy nghĩ của ta. Nhưng ta vẫn phải cố gắng làm theo. Vì ý Chúa, bao giờ cũng khôn ngoan hơn ý của ta. Giữa chợ đời sôi sục và nhiễu nhương như xã hội ngày nay, thì việc lắng nghe lời của Chúa, tuy dù là rất quan trọng, nhưng cũng thật là vô cùng khó khăn.
Trong xã hội xô bồ như ngày hôm nay, rất đông con chiên, đã bị dòng đời vật chất cuốn trôi. Trôi mất cả màu trắng con chiên, trôi mất linh hồn từ lâu rồi, mà cứ ngỡ mình là con chiên.
2- Tôi biết chúng
Hãy nhớ cho, chính Chúa đã gọi tên ta, mà cho ta vào được đoàn chiên của Ngài. Đôi mắt Ngài theo dõi chúng ta trong mọi phút giây. Vì thế, là con chiên, là ta luôn sống trong niềm cậy trông vào Ngài. Lúc nào ta cũng trông thấy đôi mắt của Ngài nhìn ta. Ta luôn sống trong lạc quan, không quá lo lắng. Sống với niềm tin yêu, ta sẽ thấy đời ta thênh thang nhẹ nhàng.
3- Và chúng theo Ta
Chưa bao giờ, mà các tiên tri giả lại xuất hiện nhiều như ngày hôm nay. Các chân lý giả được treo cao khắp chốn. Vì thế, nếu không tỉnh táo, thì chuyện lạc đường là điều tất nhiên. Từ Sài Gòn đến miền quê, vô vàn những giáo phái xuất hiện: dụ dỗ, mời mọc… Cho nên để có thể đi theo Chúa, đôi mắt phải luôn luôn nhìn và vị tiên tri chính thức được Chúa sai đến trong giáo hội, và nhất là, hãy luôn nắm chặt tay nhau. Sợ lắm, những con chó sói, sẽ tung chiêu chia rẽ. Và thế là, từng con chiên sẽ bị xơi tái.
Gợi ý suy niệm:
1- Rất thành thực, bạn có còn là chiên không? 2- Là chiên, vậy mỗi ngày bạn có cố gắng để tìm lời dạy của Chúa không? Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
Quan đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy đặc tính của người mục tử tốt lành PS 4-C118
Quan đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy đặc tính của người mục tử tốt lành là biết các con chiên của mình. Và theo ngôn từ của Kinh Thánh, biết đồng nghĩa với yêu. Khi thực sự yêu thì người mục tử sống trọn một đặc tính khác cũng được Chúa Giêsu nêu lên, đó là hiến mạng sống mình cho đoàn chiên.
Trải qua dòng thời gian, có biết bao nhiêu người đã quảng đại đáp trả tiếng gọi của Chúa là làm cho hình ảnh và sứ mạng của người mục tử tốt lành được thực hiện qua chính cuộc sống dấn thân và phục vụ của họ.
Chẳng hạm một Vianney với thân hình còm cõi, đã dành trọn thời giờ để giao hoà các tội nhân với Chúa nơi toà giải tội. Một Maximilien Kolbe đã tình nguyện chết thay cho một bạn tù trong trại tập trung của Đức quốc xã thời đệ nhị thế chiến. Một cha Phêrô, người sáng lập ra cộng đoàn Emmau, nhằm hoạt động âm thầm nhưng hữu hiệu để xoa dịu những vết thương đau đớn của những kẻ nghèo túng.
Ngày nay tại một vài giáo phận miền Bắc, chỉ còn vài ba linh mục già nua. Vì tình trạng thiếu hụt linh mục trầm trọng, các ngài chưa thể và chưa đành đi nghỉ hưu. Và vì không còn đủ sức để đi đứng, nên phải nằm trên cáng cho giáo dân khiêng đi cử hành các bí tích và dâng thánh lễ từ làng này sang làng kia, cách nhau mấy chục cây số.
Ở mọi nơi và trong mọi lúc vẫn có hàng ngàn những mẫu gương của biết bao nhiêu người đã dâng hiến toàn thân để sống cho lý tưởng hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Chính vì thế trong thánh lễ hôm nay, Giáo Hội kêu mời chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện tha thiết cùng với những hy sinh hãm mình để xin Thiên Chúa ban thêm sức mạnh cho các linh mục và tu sĩ, để họ trở thành những vị mục tử tốt lành theo mẫu gương của Đức Kitô.
Đồng thời chúng ta cũng được mời gọi cầu nguyện để nhiều thanh niên nam nữ quảng đại đáp trả lời Chúa mời gọi để bước vào cuộc sống dâng hiến. Và riêng mỗi người chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa và bước theo Người, bằng cách thực thi những điều Người truyền dạy, để nhờ đó, chúng ta xứng đáng là những con chiên bước đi dưới sự dẫn dắt của vị mục tử tốt lành là chính Đức Kitô.
Trong cuộc viếng thăm lịch sử của Đức Gioan-Phaolô II dành cho Hội đường Do-thái tại Lamã, Đức PS 4-C119
Trong cuộc viếng thăm lịch sử của Đức Gioan-Phaolô II dành cho Hội đường Do-thái tại Lamã, Đức Thánh Cha đã gọi các thành viên Do-thái giáo là “những anh em cổ xưa của chúng tôi”.
Thật vậy, Đạo thánh chúng ta xuất thân từ Do-thái giáo như trong Bài đọc I, Sách Công vụ Tông đồ kể lại. Tại Hội đường Antiochia, Phaolô và Banabê tuyên bố: “Chúng tôi phải giảng lời Thiên Chúa cho qúi vị trước tiên, nhưng vì qúi vị từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại”. Phía dân ngoại là đạo mới, là Giáo hội, là chúng ta hết thảy. Đạo mới thoạt xuất từ đạo cũ, đạo Do-thái, “những anh em cỗ xưa của chúng ta”.
Để ám chỉ Đạo mới, Chúa Giêsu dùng nhiều hình ảnh. Nào là hình ảnh chiếc lưới không rách. Nào là tòa nhà xây trên tảng đá kiên cố, mưa sa bão táp vẫn không lay chuyển. Nào là cánh đồng trong đó có lúa tốt mọc lên bên cạnh cỏ lùng (Mt 13, 24-30). Nào là một đoàn chiên dưới sự hướng dẫn của một chủ chiên (Gio 10, 1-10).
Đây là hình ảnh mà Chúa dùng rất nhiều lần.
Chúa phán: “Ta là Đấng chăn chiên nhân lành” (Gio 10, 11).
“Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta, Ta cho chúng sự sống đời đời”. Chúa khẳng định và nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm trên cả Dân Chúa. Ngài cầm trong tay vận mệnh của mọi người và đưa họ đến cùng đích. Từ đầu trong Giáo hội, hình ảnh Chúa Chiên lành là biểu tượng của Chúa được khắc ghi trên bờ tường hang Toại Đạo, được phổ biến trong kinh nguyện.
Chúa là Đấng Chăn Chiên thì chúng ta, đoàn chiên của Chúa phải làm gì? Bằng một câu vắn vỏi, Chúa mô tả bổn phận chính yếu.
Chúa phán: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta”. BIẾT, NGHE và THEO là ba động từ nói lên ba việc cần thiết để trở nên chiên của Chúa.
BIẾT là phải tiềm hiểu, học hỏi, suy niệm, vô tri bất mộ.
NGHE là lắng tai đón nhận lời Chúa qua Thánh Kinh, lời giảng dạy của Giáo hội, ơn soi sáng.
THEO là thực thi, là sống Đạo, là đem Đạo vào đời.
Tóm tắt, là phải có một cuộc “trở lại”.
Năm 496, tại Thành Reims, Thánh Giám mục Remi long trọng ban phép Thanh tẩy cho Vua Clovis. Thánh Giám mục tuyên bố: “Ngươi hãy cúi đầu xuống. Hãy thờ những gì xưa ngươi đã đốt và nay hãy đốt những gì ngươi đã thờ”, rồi ban phép Rửa tội cho nhà Vua, xức dầu theo hình Thánh Giá. 3000 binh sĩ của Clovis cũng được Thanh tẩy. Nước Pháp Công giáo đã khai sinh.
Lạy Chúa, Chúa là Mục Tử, xin dẫn con lần theo chính lộ, con không sợ lạc hướng. Có Chúa với con cùng tiến bước, đi giữa suối mát cỏ xanh, con không thiếu gì.
Khi ấy, ở Giêrusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. Đưc PS 4-C120
Khi ấy, ở Giêrusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. Đưc Giêsu đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hang Salomon. Người Do thái vây quanh Đức Giêsu và nói: “ Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết”. Chúa Giêsu đáp: “ Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin vì các ông không thuộc đàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” ( Ga. 10: 27-30).
Chúa Giêsu tự xưng mình là “cửa cho chiên ra vào”; ai qua cửa ấy mà vào thì được cứu, sẽ gặp được đồng cỏ xanh tươi. Ngài cũng tự xưng mình là Mục Tử Nhân Lành“ hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên”; Vị Mục Tử Nhân lành ấy đến thế gian để chiên được sống và sống dồi dào: “ Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” ( Ga. 10: 27-30).
Ngài biết rõ từng con chiên một. Ngoài việc không để một con chiên nào thuộc đàn chiên của Ngài bị lạc mất, Ngài còn lo kiếm tìm những con chiên chưa thuộc về đàn chiên của mình để đưa chúng về thành một đàn chiên duy nhất: “ Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” ( Ga. 10: 16)
Khác với người chăn chiên thuê phó mặc “ sống chết mặc bay” hay ba chân bốn cẳng vội vàng chạy trốn khi thấy sói rừng xuất hiện… người chăn chiên đích thực là một người mục tử nhân hậu, thương mến đàn chiên, tận tình chăm sóc, bảo vệ đàn chiên, thỏa mãn mọi nhu cầu cần thiết, luôn sát cạnh với chúng hằng ngày, và sẵn sàng thí mạng sống mình vì đàn chiên.
Là Mục Tử nhân lành, Chúa Giêsu biết chiên của Ngài. Ngài biết thân phận con người yếu đuối, biết con người phải chịu tình trạng nô lệ tội lỗi và biết con người cần tình thương, cần sự cứu thoát khỏi sự huỷ diệt…Ngài biết chúng ta rõ ràng hơn chúng ta tưởng, vì Ngài là Đấng tạo dựng nên chúng ta.
Thiên Chúa biết rõ những khó khăn vất vả, những yếu đuối vấp ngã, những bệnh tật khổ đau, những ê chề thất vọng của chúng ta… Và Người luôn ở bên chúng ta để an ủi vỗ về, để nuôi dưỡng bổ sức.
Tương quan giữa Thiên Chúa và con người không phải là tương quan chủ- tớ, nhưng là tương quan giữa cha- con, giữa yêu thương và được yêu thương.
Chúa Giêsu Kitô mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa nhân hậu, đầy tình thương, luôn sát cạnh, đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Người luôn quan phòng và yêu thương con cái của mình: “Tôi biết chúng và chúng theo tôi”.
“Tôi biết chúng.” Chuyện đó không thành vấn đề; bởi vì Ngài là Đấng tạo dựng nên chúng ta. Ngài biết rất rõ những tâm tư , nguyện vọng của chúng ta. Vấn đề là chiên biết người chăn của mình như thế nào để nghe tiếng người chăn chiên mà đi theo; đồng thời chính con chiên cũng phải tự biết đến thân phận của mình.
Nghe, thấy giúp con người nhận biết sự việc đúng hay sai. Từ nhận thức qua việc nghe và thấy, đưa đến niềm tin; và từ niềm tin dẫn đến việc chấp nhận đi theo.
Tất cả nhân loại là thuộc đàn chiên của Thiên Chúa; và những chiên thuộc đàn chiên của Thiên Chúa là những con chiên “nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi”.
Có những người không thấy, không nghe, nên họ không biết không tin và không theo thì đã đành; nhưng có những người đã thấy, đã nghe, đã biết nhưng không phải biết bằng con mắt đức tin mà bằng lý luận nhân bản: làm sao một chàng thanh niên, con ông Giuse thợ mộc lại có thể tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô! Vì thế họ không tin và không đi theo.
Những người Do thái đã có một niềm tin vào một Đấng Tối Cao nào đó, nhưng họ lại không chấp nhận có một Đấng nào đó nhân danh Thiên Chúa đã đến với họ. Họ đã nghe, đã thấy những việc và những lời Chúa Giêsu giảng dạy đúng như lời các ngôn sứ đã loan báo; nhưng họ vẵn bán tín bán nghi; họ không tin: “ Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết”. Và Chúa Giêsu đã lên án họ:“ Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin vì các ông không thuộc đàn chiên của tôi.”
Hoặc cũng có những con chiên đã nghe, biết, theo, nhưng lại muốn giữ độc quyền cho mình việc hiểu biết, không muốn chia sẽ cho người chưa biết:“ Có nhiều người Do thái và tòng giáo theo các ngài, được các ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa”; nhưng nghe, biết mà không theo hay theo ý riêng mình, hẹp hòi trong nhận thức, ghen tức với người khác, độc quyền tôn giáo: “ Đến ngày Sabbát sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do thái thấy đám đông dân chúng thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy”. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: “ Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại…..
Có những người chỉ nghe, nhưng biết người chăn chiên của mình bằng niềm tin và họ đã đi theo. Đó là những người được Chúa chúc phúc: “ Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Khi lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, chúng ta đã trở thành con chiên của Thiên Chúa, chúng ta thuộc về một đàn chiên là Giáo Hội như Thánh Phêrô đã noi trong thư thứ 1 ( 1 Pr 2: 25): « Xưa kia, anh em như những con chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em.» Lắng nghe, thực thi Lời Chúa, tuân giữ những điều Giáo Hội truyền dạy là chúng ta nghe biết tiếng của người chăn chiên, là đi theo sự hướng dẫn của đức tin, đức cậy và đức mến. Vì « Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, vì danh dự của Người. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi. Cây roi và cây gậy của Người, đó là điền an ủi lòng tôi.» ( Tv 22: 3-4)
Điểm tựa và niềm hy vọng cho cuộc sống chúng ta là lời Chúa đã xác quyết: Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” ( Ga. 10: 27-30)
Sống theo đàn, nghe biết tiếng người chăn chiên, theo sau người chăn chiên, tránh xa tiếng kêu gọi của người lạ là sống trong lòng Giáo Hội, sống theo Tin Mừng, là chết đi cho con người tội lỗi để theo chân người chăn chiên đi vào Cửa Chuồng Chiên là Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại.
Nỗi trăn trở của Vi Mục tử Nhân lành là:“ Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” ( Ga. 10: 16).
Người chăn chiên biết từng con chiên và ngược lại, từng con chiên biết người chăn chiên. Làm sao để biết chủ chăn của mình? Qua Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng, chúng ta biết người chăn chiên ấy; và chúng ta sẽ biết rõ người chăn chiên ấy hơn khi chúng ta biết sống gần gủi và thân mật hơn với các chiên khác trong cùng đàn chiên.
“Tôi là Gioan đã xem thấy một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên, họ mặc áo trắng dài, tay cầm là vạn tuế, Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền thánh Chúa, Đấng ngự trên ngai vàng đặt giữa họ. Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ” ( Kh. 7:9,14-17)
Viễn cảnh mà thánh Gioan đã chứng kiến sẽ được thực hiện khi “ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử”. Tất cả nên một!
Tin tưởng, phó thác vào tình thương của Chúa khiến chúng ta an lòng. [Mục Lục]
Chúa nhật thứ IV Phục Sinh theo truyền thống được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành vì Tin Mừng PS 4-C121
Chúa nhật thứ IV Phục Sinh theo truyền thống được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành vì Tin Mừng Chúa nhật này mời gọi chúng ta suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên. Đức Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước theo Ngài, mà ngay cả những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân mình để bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở vể. Ngài mong ước các linh mục với Ơn Ngài trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên Ngài giao cho đến đồng cỏ Nước Trời. Chúa nhật Chúa Chiên Lành cũng là một Chúa nhật đặc biệt đối với các mục tử là những linh mục đặt mình vào vị trí của Đức Giêsu Mục Tử nhân lành duy nhất. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục thân yêu: nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài! Chúng ta cũng cầu nguyện cho Giáo hội Việt Nam có thêm nhiều linh mục lành thánh. Ý chỉ này cũng thật khẩn thiết cho Giáo hội hoàn vũ. Lời ca nhập lễ: Tình thương Chúa chan hòa mặt đất, Lời Chúa sáng tạo chín tầng trời. Allêluia.
* Bài đọc Phụng vụ năm A
– Tđcv 2, 14; 36-41: Phêrô kêu gọi dân Israel ăn năn sám hối
– 1 Pr 2, 20-25: Đức Kitô là Đấng canh giữ linh hồn chúng ta
– Ga 10, 1-10: Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành và là cửa chuồng chiên
* Bài đọc Phụng vụ năm B
– Tđcv 4, 8-12: Ngoài Đức Kitô, không có Ơn Cứu Độ
– Tv 118, 1: Phiến đá bị thợ xây loại bỏ đã biến nên tảng đá góc tường
– 1 Ga 3, 1-2: Trong Tình Yêu của Người, Người làm cho chúng ta trở nên nghĩa tử của Người
– Ga 10, 11-18: Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
* Bài đọc Phụng vụ năm C
– Tđcv 13, 14; 43-52: Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại
– Tv 100, 1: Ngài dẫn chúng ta đi trên đường ngay nẻo chính
– Kh 7, 9;14-17: Niềm vui muôn đời dành cho những kẻ được cứu chuộc
– Ga 10, 27-30: Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
Cả một chương dài (Ga 10, 1-40) thánh sử Gioan trình bầy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và là Vị Mục Tử Nhân Lành. Phụng vụ năm- C chỉ lấy có 4 câu (Ga 10, 27-30), cũng đủ làm nổi bật Đức Giêsu là Mục Tử Tốt Lành, Ngài là Con Thiên Chúa, và cũng chính là Thiên Chúa(c.30), Ngài đến để thí mạng sống mình vì đàn chiền, cho chiên được sống dồi dào (c.28), qui tụ tất cả về một đàn chiên duy nhất, Ngài cũng mời gọi chúng ta bắt chước Ngài.
Đức Giêsu là Mục Tử Tốt Lành, Ngài là Con Thiên Chúa, và cũng chính là Thiên Chúa (c.30).
Ngài tốt lành như Ngài nói: “Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào” (c. 10). Chúa Giêsu Kitô phân biệt hai loại mục tử, một loại người chăn chiên tốt là người can đảm lấy thân mình đương đầu chống lại sói dữ để bảo vệ đàn chiên. Đây là điểm khác biệt với lính đánh thuê. Kẻ chăn thuê chỉ quan tâm chút ít cho con chiên của mình, vì lợi ích riêng cá nhân mà quên đi đàn chiên. Loại mục tử này gây hại cho đàn chiên, vì họ tìm cách ăn cắp các con chiên để làm thịt, không đánh mất chính mình, không từ chối kẻ trộm và không quan tâm đến đàn chiên được giao, vì họ là người chăn thuê. Khi người Do Thái tìm cách giết Đức Giêsu, Ngài đã không ngừng rao giảng, không bỏ rơi các môn đệ, nhưng Ngài bảo vệ họ cách tuyệt đối, chịu chết cho họ. Đây là lý do tại sao Ngài nói: “. Ta là mục tử tốt lành, Ta thí mạng sống Ta vì đàn chiên.” Chúa Giêsu lặp đi lặp lại câu trên để chứng tỏ mình không phải là một kẻ mạo danh. Ngài phán:”Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi “. Những gì Đức Giêsu nói, “Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi.” Các tông đồ cũng nói như vậy: “Thiên Chúa đã không từ bỏ dân của Ngài mà Ngài biết.” (…) Môi-se nói: “Chúa biết những người của mình.” (Ds 15, 5). Đức Giêsu biết từng con chiên một: “Như Cha biết Ta và Ta biết Cha ” (c. 15).
Có những kiến thức, kỹ năng, Ngài và con chiên không bằng nhau. Cũng có thể có kiến thức bình đẳng chăng? Bởi vì Ngài nói: “Như Cha biết Ta, Ta biết Cha” (c. 15). Thực tế, Chúa Cứu Thế đã muốn chứng minh rằng: “Như Cha biết Ta và Ta biết Cha” . Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói: “Không ai biết Con trừ ra Cha, và những người Con muốn mạc khải cho”.
“Tôi nhận được lệnh này từ Cha của Tôi.” Chúng ta tự hỏi: Lệnh gì? Lệnh chết cho thế giới. “Đây là lý do tại sao Cha yêu Tôi”, điều này cho thấy một ý chí tự do, loại bỏ bất kỳ dấu hiệu của sự đối kháng, ngay cả khi Ngài nói rằng, Ngài đã nhận được lệnh của Cha Ngài, nghĩa là không có gì khác Ngài làm đẹp lòng Chúa Cha hơn . Nên khi người Do Thái thách thức: “Nó đã cứu những ai khác, chứ vô phương cứu lấy mình! Nó là Vua Isarel! Bây giờ hãy xuống khỏi thập giá, và ta sẽ tin vào nó! (Mt 27, 42). Nhưng chính vì Ngài là Con Thiên Chúa, nên Ngài đã không xuống.
Trở lại câu: “Tôi đã nhận được lệnh này từ Cha Tôi”, có người nghĩ rằng công việc này không phải là tự nguyện, và rằng Chúa Giêsu đã bị buộc phải chết. Đức Giêsu nói trước đó: ” Không ai cất mạng sống Ta được; nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta; Ta có quyền thí mạng sống Ta. Và cũng có quyền lấy lại; đó là lệnh truyền Ta đã lĩnh nơi Cha Ta”. (c.18). Đức Giêsu chính là Thiên Chúa.
Ngài đến để thí mạng sống mình vì đàn chiên, cho chiên được sống dồi dào (c.28), Trước đó, Chúa Giêsu cũng nói: “Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm gặp được đồng cỏ ” (Ga 10, 9). Người ấy sẽ vào từ đức tin và ra qua đức tin, và người ấy sẽ gặp được đồng cỏ xanh tươi dẫn đưa đến dự tiệc vui muôn đời.
Đàn chiên của người chăn hiền lành nên tìm được một đồng cỏ xanh tươi, vì tất cả đàn chiên đi theo người chăn với lòng duy nhất là được dẫn đến ăn cỏ trong đồng cỏ xanh tươi. Còn người chăn chiên với niềm vui thiên đàng sâu thẳm là gì, há chẳng phải là đến được đồng cỏ xanh không bao giờ tàn úa đó hay sao? Người chăn chiên chính là Thiên Chúa, Ngài luôn hiện diện: người ta chiêm ngắm Ngài, khiến tâm hồn thỏa thuê như khách vừa dự tiệc…
Vậy, chúng ta hãy tìm đến vị mục tử này, chúng ta sẽ thấy niềm vui thiên quốc được cử hành ở trên trời. Niềm vui ấy mời gọi ta… Hãy thức tỉnh tâm hồn! Ước gì đức tin của chúng ta sưởi ấm điều chúng ta tin, và ước muốn của chúng ta hun đúc những điều cao thượng. Yêu chính là lên đường. Không để lại bất cứ điều gì làm giảm đi niềm vui nội tâm. Đừng để mình rơi vào những quyến rũ bởi sự thành công tâng bốc. Ngu ngốc nhất là người du lịch, khi nhìn thấy những cảnh quan đẹp, quên ngay mục đích của chuyến đi của mình.
Ngài qui tụ tất cả về một đàn chiên duy nhất
Đây là lý do tại sao Đấng Cứu Thế đến nói: “Ta còn những chiên khác nữa, không thuộc đàn này; các con chiên ấy, Ta cũng cần phải chăn dắt, và chúng sẽ nghe tiếng Ta; và sẽ thành một đàn chiên, một chủ chiên. (16) “. “Cũng phải” Chúa Giêsu Kitô sử dụng thuật ngữ này, không để đánh dấu một điều cần thiết, nhưng để chứng minh rằng điều Ngài nói sẽ xảy đến. Ngài được sai đến trước hết với nhà Israle. Nên theo lời Thánh Phaolô: “Cắt bì chẳng là gì cả, mà không cắt bì cũng chẳng là gì cả, (có là gì ấy là) giữ các lệnh truyền của Thiên Chúa. ” (I Cor VII., 19.) “Và Tôi cũng phải mang về đàn.” Chúa Giêsu Kitô muốn nói rằng, tất cả Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do trộn lẫn với nhau. Sau đó Ngài tuyên bố họ là tất cả đều thống nhất, “Và sẽ thành một đàn chiên, một chủ chiên”. Thánh Phaolô cũng nói: “ngõ hầu trong Ngài, Ngài tạo dựng hai loại người ấy nên một người mới; đem lại bình an” (Eph. II, 15.)
Hãy theo gương Chúa Kitô Mục Tử
Hướng đến ngày thế giới cầu cho ơn kêu gọi. Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết rằng: “Ngày nay vẫn vậy, sống trong cộng đồng các môn đệ là Giáo Hội, Chúa Giêsu Kitô kêu gọi đi theo Người”. Ngài cũng đặc biệt mời giới trẻ “hãy trau dồi nét hấp dẫn các giá trị, các mục tiêu nâng cao, các chọn lựa triệt để, để có thể phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu”. Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại “Hãy đến! Hãy theo ta”. Theo Chúa Giêsu “có nghĩa là nhấn chìm ý muốn của chính mình vào thánh ý Chúa Giêsu, dành ưu tiên cho thánh ý Người và đặt Chúa Giêsu ở vị trí đầu so với tất cả những gì làm nên cuộc sống chúng ta: gia đình, công việc, những lợi ích ca nhân và bản thân”.
Xin cho giới trẻ hôm nay đang ở giữa biết bao những gợi ý nông cạn và phù phiếm, biết chuyên tâm trau dồi nét hấp dẫn đối với các giá trị, các mục tiêu cao thượng,những chọn lựa triệt để, hầu phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu. Đáp trả quảng đại và mau lẹ tiếng Chúa Kitô kêu gọi đi theo Người sát sao hơn nữa, đặc biệt với các thế hệ mới.
Mở lại sách Samuel chúng ta bắt gặp nói đến việc Chúa gọi Samuel đi làm ngôn sứ cho Chúa. Khi PS 4-C122
Mở lại sách Samuel chúng ta bắt gặp nói đến việc Chúa gọi Samuel đi làm ngôn sứ cho Chúa. Khi nhận ra tiếng Chúa, Samuel đã mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa xin hãy nói, con nghe đây!” (Sm 3, 3-10; 19).
Trải qua dòng chảy lịch sử cứu độ, Thiên Chúa thường gọi một số người để làm các công việc đặc biệt Chúa trao phó. Trong Cựu Ước, Chúa gọi Abraham, Môsê, Davit, các tiên tri v.v… Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã gọi 12 tông đồ. Đó là những ơn gọi đặc biệt, và việc Chúa gọi và chọn ai cũng là một việc nhiệm mầu của Chúa. Chúa gọi và chọn người Chúa muốn. Tuy nhiên, Chúa vẫn tôn trọng tự do của mỗi người; tùy theo mỗi người có quảng đại đáp lại tiếng Chúa gọi hay không (Mt 19,16…), Trong Gioan 1, 35-42 nói đến việc Chúa gọi hai anh em ông Anrê và Phêrô. Hai ông đã lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Ngài.
Các thánh sử của Phúc Âm Nhất Lãm đều kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi thánh Matthêu xảy ra ngay sau khi Chúa chữa người bất toại tại Capharnaum. Khoảng một ngày sau phép lạ ấy, Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, có đám đông dân chúng đi theo Người. Chúa đến đó từ một thành phố cảng nhỏ nằm giáp miền đất Perea, trên bờ bên kia sông Giođan. Trên đường, Chúa đi ngang qua bàn thu thuế của Matthêu.
Matthêu khi ấy đang làm việc trong ngành thuế vụ của vua Hêrôđê. Mặc dù không phải là một quan chức chính thức, nhưng ngài đã mua quyền được thu thuế. Chức vụ thu thuế không được người Do Thái kính nể, thậm chí còn bị nhiều người khinh bỉ. Tuy nhiên, đó lại là một chức vụ rất hấp dẫn, vì đem lại của cải giàu sang. Người thu thuế dường như có địa vị cao trong xã hội, vì khi Matthêu khoản đãi Chúa Giêsu trong nhà, có rất đông người thu thuế và những người khác đến đồng bàn.
Chúa kêu gọi Matthêu làm môn đệ khi Người đi ngang qua bàn thu thuế của ông. Matthêu đã chỗi dậy và đi theo Người. Sự đáp ứng của Matthêu rất mau mắn và quảng đại. Có lẽ ngài đã nhiều lần được gặp Thầy Chí Thánh, và chỉ chờ đợi cơ hội quan trọng này mà thôi. Ngài đã không chần chừ trong việc từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Chỉ một mình Thiên Chúa biết tại sao Người lại tuyển chọn Matthêu, và cũng chỉ một mình thánh nhân mới có thể cho chúng ta biết ngài đã nhận thấy điểm gì nơi Chúa Giêsu đến nỗi đã lập tức rời bàn thu thuế để đi theo Người. Thánh Gioan Kim Khẩu nói, Chúng ta thấy vì sự vâng phục mau mắn và trọn vẹn mà Matthêu đã tức khắc từ bỏ tất cả tài sản thế gian để đi theo Chúa khi được kêu mời đúng lúc.
Ngày hôm nay, một lần nữa chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi hãy nghe tiếng Chúa và đi theo tiếng Chúa gọi: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một”.
Chúng ta soi chiếu trang Tin Mừng hôm nay vào mạch văn trong chương 10 của Thánh Sử Gioan: Chúa Giêsu mạc khải chính mình là “mục tử nhân lành“ cho đàn chiên cũng như Đức Giavê xưa đối với Dân Ítrael. Chúa Giêsu lúc đó đang “đi đi lại lại“ trong Đền Thờ ở Giêrusalem, tại hành lang Salomôn, vào dịp lễ Cung Hiến Đền Thờ. Người Do Thái vây quanh Chúa Giêsu và chất vấn Ngài: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu Ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết“. (Ga 10, 24).
Đáp lại, Chúa Giêsu trả lời: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi“ (Ga 10, 25-26). Quả thực, những người Do Thái là Dân Chúa đã tuyển chọn, chẳng những đã không tin, mà họ còn “lấy đá ném Ngài“ vì cho rằng Chúa Giêsu nói phạm thượng: “Ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa“ (Ga 10, 33).
Như vậy, tâm tình cốt lõi của mạc khải của trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, chính là việc Chúa Giêsu muốn mạc khải Chúa Cha và tuyên xưng mình là Con Thiên Chúa. Chúa Cha là Đấng trao ban đoàn chiên cho Chúa Con. Hình ảnh mục tử hướng dẫn đoàn chiên bắt rễ sâu trong kinh nghiệm “dân du mục Aram“ trong Cự#u Ước: mục tử vừa là thủ lãnh vừa là bạn đồng hành của đoàn chiên. Đức Chúa Giavê bảo vệ đoàn chiên với quyền phép và tình thương để không ai có thể cướp chiên ra khỏi tay Ngài. Đó là lịch sử cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng cho thấy mối liên hệ vô cùng mật thiết giữa Ngài và Chúa Cha: “Tôi và Chúa Cha là một“, hiệp nhất trong bản tính, trong uy quyền, trong hành động. Cũng vì lời mạc khải này mà Chúa Giêsu không những bị dân Do Thái ném đá, cho là “phạm thượng“, mà sau này còn đóng đinh Ngài trên thập giá.
Dần dần, qua mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa Cha chính là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch tình yêu… và Đức Kitô chính là Đấng Messia. Đức Chúa Giavê trao phó cho các tôi tớ ngài là các Tổ Phụ, các Quan Án, các Ngôn Sứ, các Vua Chúa… thay quyền Chúa chăn dắt Dân Chúa. Nhưng những chủ chăn Ítrael đã tỏ ra bất tài, bất trung với sứ mệnh của họ, bỏ bê đàn chiên, chỉ lo danh lợi dục cho mình, phản loạn không tuân giữ Giao Ước với Thiên Chúa. Nên, vào thời của Tân Ước, Đức Chúa Giavê trao phó đoàn chiên cho Đấng Messia, Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi.
Nhiều lần trong Tin Mừng, Đức Kitô đã mạc khải Ngài là vị Chủ Chăn nhân lành, Đấng Trung Gian độc nhất, là “cửa cho chiên ra vào“ (Ga 10, 7) và “gặp được đồng cỏ“ (Ga 10, 9). Đức Kitô trao ban chính mình cho đoàn chiên với tư cách là “Chúa chiên nhân lành“: Ngài không những biết từng con chiên, dẫn chiên đi vào “đồng cỏ xanh tươi“, luôn đi đầu đàn, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đoàn chiên khỏi nanh vuốt sói dữ, mà còn hy sinh mạng sống mình cho từng con chiên (Ga 10, 15. 17). Một cuộc sống mới và một mối liên hệ mới được vĩnh viễn thiết lập: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi“.
Chúa Giêsu Kitô đến bên từng người chúng ta – cho dù chúng ta đang sống trong độ tuổi hoặc hoàn cảnh nào – và ánh nhìn của Chúa tiếp xúc với ánh mắt chúng ta một cách cá biệt. Người mời gọi chúng ta bước theo. Trong hầu hết các trường hợp, Chúa để chúng ta lại giữa trần gian, công việc, và gia đình. Hãy suy nghĩ về điều Chúa Thánh Thần đã phán, và hãy để bạn biết sợ hãi và tri ân: ‘Elegit nos ante mundi constitutionem’ – Người đã tuyển chọn chúng ta trước khi tạo dựng thế gian, ‘ut essemus sancta, in conspectu eius!’ – để chúng ta nên thánh thiện trước mặt Người.
Thiên Chúa đã nói với chúng ta nhiều lần và bằng nhiều cách thế khác nhau. Ngài nói với chúng ta qua Kinh Thánh, Ngài cũng nói với chúng ta qua Giáo Hội, những lời giảng dạy của Đức Thánh Cha, các giám mục và linh mục, những người có bổn phận săn sóc và dạy dỗ chúng ta. Thiên Chúa cũng nói với chúng ta qua tha nhân và qua những dấu chỉ của thời đại cùng những sự vật và hiện tượng đang diễn tiến trong dòng lịch sử. Và Thiên Chúa cũng thực sự nói với chúng ta khi chúng ta cầu nguyện. Sống trong tương quan thân tình với Ngài, đó là lý do chúng ta phải chuyên cần cầu nguyện trong hoàn cảnh, mọi nơi và mọi lúc để học biết được điều Thiên Chúa đã nói với mỗi người chúng ta
Chuyện quan trọng là chúng ta có lắng nghe tiếng Chúa gọi hay không mà thôi.
Lắng nghe trước hết là đón nhận được thánh ý Thiên Chúa, rồi thể hiện ra bằng cuộc sống thường nhật của chúng ta. Thánh ý Thiên Chúa khi đó sẽ điều khiển tư tưởng, ý nghĩ, tâm hồn, lời nói và hành động của chúng ta để chúng ta trở thành những người bạn tốt của anh chị em.
Lắng nghe tiếng Chúa là yêu thương. Tất cả những ai lắng nghe Chúa Giêsu đều là những người đã được đào luyện trong tình yêu. Lắng nghe là yêu thương. Tuy cũng đã cật vấn Chúa Giêsu khi Ngài thân thưa với Chúa Cha: “Làm sao con có thể cho đi chính mình con một cách quảng đại trong tình yêu nhờ đó ý Cha được hoàn trọn trong cuộc sống của con?”
Như thế, lắng nghe cũng là một dạng thức của tình yêu bác ái, tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu đó cũng chính là sự thánh thiện của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu. Yêu Chúa trọn vẹn và yêu như Chúa yêu, để trở nên món quà đáng yêu đối với Chúa và với mọi người. Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta một lý tưởng cao đẹp như thế nên tất cả những gì chúng ta phải làm là gì nếu không phải là tin tưởng vào Ngài, lắng nghe Ngài và tình yêu Ngài. Chúng ta cũng chẳng còn sợ điều chi bởi vì Chúa luôn yêu thương chúng ta. Chúng ta tin rằng chỉ có một con đường dẫn đến tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và với tạo vật là lắng nghe Thiên Chúa và mến yêu Ngài. Mong rằng lắng nghe tiếng Chúa là khát vọng nuôi dưỡng chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế.
Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bossco bắt đầu làm việc cho giới trẻ nghèo khổ và bị lâm PS 4-C123
Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bossco bắt đầu làm việc cho giới trẻ nghèo khổ và bị lâm nguy tại thành phố Turin ở Ý. Chẳng bao lâu, các thanh niên nhận ra rằng nơi ngài, đến nỗi một lần kia, khi ngài lâm bệnh nặng, họ đã hết lòng cùng nhau cầu nguyện sốt sắng, và một số người còn muốn được thay thế vào chỗ của ngài, bằng cách tận hiến cả cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Sau sự kiện đó Thánh Gioan Bosco đã được hồi phục. Mối tương quan này không thể tồn tại được, trừ phi có sự gần gũi, và sự gần gũi lôi kéo theo sự nhận biết và được nhận biết.
Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành nói “Tôi biết các chiên của tôi”. Người biết các chiên của Người một cách chính xác, bởi vì Người là Chúa Chiên Lành. Có nhiều mức độ nhận biết khác nhau. Chúng ta quen biết một số người chỉ qua khuôn mặt hoặc danh tính. Còn đối với những người khác, chúng ta chỉ mới quen biết sơ giao mà thôi. Và có người chúng ta quen biết với tư cách là bạn bè.
Có một điều đáng buồn trong việc không nhận biết con người. Elie Wiesel, một văn sĩ người Do Thái, rất gắn bó với cha của ông, người đã bị chết tại Aushwitz vào năm 1944. Tuy nhiên, khi viết cuốn tự thuật, ông nói:
“Tôi chưa biết bao giờ thực sự nhận biết cha tôi. Thật đau lòng khi phải thừa nhận rằng tôi biết rất ít về con người mà tôi yêu thương nhất trên đời, một con người mà chỉ cần một tia nhìn, cũng có thể lay động tâm hồn tôi. Tôi thắc mắc không biết những người con trai khác có cùng một vấn đề giống như tôi không. Liệu họ có nhận biết cha họ như là một con người nào khác với một khuôn mặt đầy uy quyền, cứ mỗi buổi sáng đều rời khỏi nhà, và trở về nhà vào buổi tối, để nuôi sống cả gia đình chăng?”.
Tôi e rằng đó là một tiếng than phổ biến. Con cái không biết gì về cha mẹ của họ; cha mẹ không biết gì về con cái. Để nhận biết về nhau, cần phải dành ra thì giờ và công sức, những điều này sẽ mang lại thành quả vĩ đại. Khi thiếu mất sự nhận biết này, thì sẽ để lại hậu quả là sự mất mát lớn lao. Cuộc sống trôi qua vô cùng nhanh chóng. Chúng ta biết về nhau một cách nghèo nàn. Bạn không thể yêu thương một người nào đó mà bạn không hề quen biết.
Sự nhận biết đặc biệt quan trọng đối với những người làm công việc săn sóc người khác. Người săn sóc cần phải nhận biết những người làm công việc săn sóc người khác. Người săn sóc cần phải nhận biết những người mà họ săn sóc. Biết tên của những người đó là một bước khởi đầu tốt. Nhưng để thực sự biết về họ, thì phải biết về lịch sử cuộc sống của họ. Những người được săn sóc sẽ không hơn gì những chiếc bóng đối với người săn sóc, trừ phi người săn sóc biết được một số điều về thế giới mà từ đó người được săn sóc xuất phát.
Lối nhận biết mà chúng ta đang nói đến đòi hỏi phải có thì giờ, sự kiên nhẫn và hy sinh. Nhưng sự nhận biết này được bù đắp bằng phần thưởng lớn lao. Bất chấp chúng ta không ưa một cá nhân nào đó như thế nào, nhưng một khi đã biết về lịch sử cuộc đời của người đó, thì thái độ của chúng ta đối với họ sẽ mềm mỏng hơn.
Tuy nhiên, sự nhận biết này phải là một công việc có hai đường lối. Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành, biết những con chiên của Người một cách thiết thân. Nhưng họ cũng biết Người: “Những kẻ thuộc về tôi thì biết tôi”. Đức Giêsu không ngại ngùng trong việc để cho mình được nhận biết. Nhưng đôi khi, chúng ta lại có cảm giác đó. Chúng ta không muốn để người khác đi vào cuộc đời của mình. Sẽ không có ai biết được những cảm giác, nhu cầu, nỗi đau và niềm hy vọng thực sự của chúng ta là gì.
Có lẽ nỗi sợ hãi bị khước từ làm cho chúng ta tự co rút mình lại. Chúng ta sợ rằng nếu người ta thực sự biết được con người bất toàn của mình, thì họ sẽ khước từ chúng ta. Hậu quả là người khác sẽ nhận biết về chúng ta theo như hình ảnh mà chúng ta có ý tưởng về mình, hơn là đúng với con người của chúng ta. Sẽ thật là điều đáng buồn, khi chúng ta phải sống và chết đi, mà chưa bao giờ được người khác biết đến một cách sâu xa, chưa bao giờ được kể ra câu chuyện cuộc đời mình.
Làm sao chúng ta có thể tạo thành một mối quan hệ với người khác được, nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách đối với họ, do đó, chúng ta đã ngăn cản không để cho họ nhận biết mình? Nếu họ cũng giữ một khoảng cách đối với chúng ta, và nếu điều đó để lại hậu quả là họ không tin tưởng hoặc sợ hãi chúng ta, thì liệu chúng ta có trách cứ họ không?
Đức Giêsu chính là Chúa Chiên Lành đối với chúng ta. Người mong muốn chúng ta có được sự sống ở nơi đây và có sự sống đời đời sau này. Nhưng đây phải là một công việc hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình yêu của Người. Con Chiên trung thành thì phải biết lắng nghe tiếng nói của chủ chiên và đi theo họ. Chúng ta phải nhận biết Chúa, lắng nghe và thực hành lời của Người.
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức PS 4-C124
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Người cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”(Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Cầu nguyện:
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.
Giáo Hội đã được Chúa Kitô thiết lập như một nhiệm thể. Người là Đầu, còn tín hữu là thân mình. PS 4-C125
Giáo Hội đã được Chúa Kitô thiết lập như một nhiệm thể. Người là Đầu, còn tín hữu là thân mình. Nhiệm thể Giáo Hội Chúa cũng cần sống động và phát triển, để sứ vụ cứu thế của Chúa Kitô được hoàn tất ngày cánh chung. Cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục, tu sĩ là một hoạt động cần thiết để Giáo Hội có những cán bộ nhiệt tâm, tiếp tay Chúa hoàn thành sứ vụ.
— Lạy Chúa, Chúa đã truyền dạy các Tông Đồ phải công bố Lời Chúa và trở thành ánh sáng, đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất. (Xin Chúa thương xót chúng con).
— Lạy Chúa, nhờ Máu Thánh Chúa đổ ra, đã cứu chúng con khỏi cơn thử thách lớn lao và đã giặt sạch chúng con trong chính Máu Thánh của Chúa. (Xin Chúa Kitô thương xót chúng con).
— Lạy Chúa, Chúa hiểu biết chúng con và sẵn sàng ban cho chúng con sự sống đời đời. (Xin Chúa thương xót chúng con).
* Xin Thiên Chúa toàn năng …
GIẢNG
Ở đời, chúng ta ủng hộ thuận theo hay phản kháng bỏ rơi ai, là do tâm tình chúng ta thiện cảm hay ác cảm với người đó. Bởi vậy, có những khi cùng sự việc, nhưng người thì chống đối, người thì thuận theo. Hai Thánh Phaolô và Banaba tập hợp dân chúng, giảng dạy Lời Chúa, khuyên bảo họ kiên trì bền vững trong ơn nghĩa Chúa, thì được nhiều người mộ mến, nhưng cũng không thiếu những người Do thái ganh tỵ phản kháng, xách động người khác chống đối.
Tại sao người thuận theo, người phản kháng khi cùng được nghe Lời Chúa? Phải chăng những người thuận theo là những người cảm nhận Lời Chúa mà các Tông Đồ rao giảng phù hợp lòng mình; còn những người chống đối là vì khó chấp nhận những điều các Tông Đồ đã nói? Vậy những điều các Tông Đồ rao giảng có phù hợp chân lý hay không? Sách Công Vụ Tông Đồ đã ghi lại lời hai Thánh Phaolô và Banaba nói với những người chống đối: “Chúa đã truyền dạy cho chúng tôi thế này: Ta đặt ngươi làm ánh sáng nuôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất” (Cv 13,47). Như thế các lời hai Thánh Tông Đồ rao giảng là có mục đích hướng dẫn người ta đến sự thật và ơn nghĩa của Thiên Chúa. Các ngài đã được Chúa đặt để làm Tông Đồ, làm cán bộ cộng tác với Chúa Giêsu đem ơn cứu độ đến cho người khác. Những người chưa từng nhận biết Thiên Chúa, nay được nghe và hiểu biết về Tình Thương của Người thì lòng tràn đầy niềm vui, hân hoan đón nhận -nghĩa là những con người biết để hoặc khiêm tốn nhận biết lòng mình trống rỗng, hân hoan đón nhận món quà tặng của Thiên Chúa qua các Tông Đồ. Còn những ai tự phụ mình đã nắm vững chân lý của Thiên Chúa, thì cảm thấy lòng mình đã no đầy, không muốn đón nhận thêm; họ cảm thấy dị ứng với ơn của Thiên Chúa và họ đã không ngần ngại từ chối Người.
Qua bí tích truyền chức, qua lời mời gọi sống tinh thần Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn kêu gọi những người sẵn sàng dấn thân phục vụ, cộng tác với Người trao ban Tình Thương và ơn cứu độ của Chúa cho những người khác. Họ không hoạt động một mình vì có Chúa hằng ở cùng họ, như lời Chúa đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20b). Hơn thế nữa, Người còn đồng hoá Người với những người hoạt động cho Người: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (10,40). Bởi vậy nghe các Tông Đồ, nghe những người hoạt động cho Chúa, là nghe chính Chúa: “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi; Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Ga 10,27). Theo Chúa thì Chúa cho hưởng “sự sống đời đời”, “không bao giờ phải diệt vong” (10,28).
Như Chúa Giêsu, như các Tông Đồ ngày xưa đã từng bị bắt bớ, giết chết, thì ngày nay, bất kỳ thời đại nào và ở đâu, những người hoạt động cho Chúa cũng dễ gặp những chống đối, nghi kỵ và ngược đãi. Nhiều người sợ hãi không dám dấn thân theo Chúa, hoặc đang theo Chúa, nhưng gặp chống đối, ngược đãi, đã vội ẩn mình hay muốn rút lui. Chúng ta cầu nguyện cho có nhiều người cảm nhận sâu xa Tình Thương của Chúa và cảm thấy ơn cứu độ của Chúa thật quý giá, để dù cho có bị ngược đãi, họ vẫn nhận được “tràn đầy hoan lạc và ơn Chúa Thánh Thần” (Cv 13,52), hầu can đảm tiếp tục dấn thân phục vụ cho Tình Thương và ơn cứu độ của Chúa; đồng thời, chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho nhiều người sớm biết để lòng mình trống rỗng hầu dễ dàng đón nhận Tình Thương và ơn cứu độ của Chúa đổ xuống cho.
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết PS 4-C126
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài.
Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành với những nét đặc trưng sau đây:
– Vị Mục Tử Tốt Lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Ngài quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì, họ cần gì, họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào.
– Vị Mục Tử Tốt Lành luôn đi đầu, đi trước, hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Mục Tử Tốt Lành đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát có cỏ xanh, cho chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Mục Tử Tốt Lành dám hy sinh mạng sống vì chiên.
– Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để yêu thương, chăm sóc, quy tụ mọi con chiên. Ngài biết tên từng con chiên như Cha Ngài biết Ngài (Ga 10,14-15). Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn đi (Ga 10,3). Mục Tử sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên: “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là vị Mục Tử Tốt Lành, vị chủ chăn không bao giờ hèn nhát thấy sói tấn công chiên mà bỏ trốn, nhưng Ngài luôn cứu vớt, tập họp, chăn dắt (Ga 10,9.16).
Chúa Giêsu còn cho thấy tính tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Gọi lần thứ 50 viết: “Các ơn gọi linh mục và tu sĩ được phát sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, và nhờ vào cuộc trao đổi chân thành riêng tư với Ngài, người ta đi đến chỗ đón nhận ý muốn của Ngài. Do đó, cần phải lớn lên trong kinh nghiệm đức tin, nghĩa là tăng trưởng sâu xa mối liên hệ mật thiết với Chúa Giêsu, bằng cách lắng nghe tiếng nói của Ngài được vọng lên trong nơi sâu thẳm của lòng mình. Tiến trình này giúp chúng ta đón nhận lời mời gọi của Chúa, có thể phát sinh nơi cộng đoàn Kitô hữu biết sống đức tin cách mãnh liệt, quảng đại làm chứng cho Tin Mừng, nhiệt thành truyền giáo đến độ quên mình vì Nước Thiên Chúa, siêng năng nhận lãnh các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và chuyên chăm cầu nguyện”.
Đức Hồng Y Yvan Dias, Tổng trưởng Thánh bộ Phúc âm hóa các Dân tộc, đại diện Đức Thánh Cha đã chủ toạ bế mạc Năm Thánh 2010 tại Thánh địa Lavang.
Sau đại lễ, ĐHY Ivan Dias đã gặp gỡ các Giám Mục Việt Nam trong một tiếng đồng hồ để chia sẻ về tình hình cũng như gởi gắm sứ điệp. Về sứ điệp, ngài mời gọi tất cả Giám mục chia sẻ lại cho các linh mục, chủng sinh của mình về 3 chữ D rất cần thiết trong đời sống của người thuộc về Giáo Hội. 3 Chữ D là: Doctrine, Discipline, Dévotion.
Doctrine, về giáo thuyết. Mỗi Linh mục hôm nay được mời gọi nắm vững giáo lý Giáo hội Công giáo, giáo huấn Giáo hội, học thuyết xã hội của GHCG, bởi vì nếu không nắm vững những hướng đi trong đó, thì trong cách ứng xử một Linh mục ở tại giáo xứ nhiều khi có những cái chưa chuẩn mực và nếu như cả một Giáo hội mà lại không nắm vững về Doctrine này thì rất nguy hiểm, sẽ đưa Giáo hội đến chỗ không cứu vãn được. Tại sao Tòa Thánh phải lên tiếng về Giáo hội Trung Quốc? Câu trả lời cho biết vì yếu về giáo thuyết. Nếu hiểu Giáo hội không thể tự lực tự cường được thì người ta sẽ có chọn lựa khác. Chẳng phải nói đâu xa, trường hợp của GHVN ngày nay cũng cho thấy thấp thoáng nguy cơ. Hết rồi thời đối đầu, đã bước sang thời đối thoại. Nhưng đối thoại như thế nào để mình vẫn là GHCG, đó lại là cả một tuyến mở ra cho suy nghĩ và vì vậy quan trọng là nắm vững giáo thuyết để có những quyết định phù hợp.
Discipline, về kỷ luật. Đây là một vấn đề thường gây khủng khoảng cho các Giáo hội phương Tây. Vấn đề Linh mục lạm dụng tình dục là do việc không tuân thủ kỷ luật của Giáo hội, để đến khi bùng nổ ra thì không vớt vát được. Hiện nay ở nhiều địa phận của Hoa Kỳ đã phải bán hết cơ sở của mình đi để trang trải cho việc xao lãng kỷ luật của một thời. Đây là một vấn đề đau lòng. Do đó, tuân thủ kỷ luật đời sống Linh mục là một cách để giúp Linh mục một đàng thánh hóa bản thân và đàng khác tránh tất cả những hậu quả tai hại. Thời mới bước chân vào Chủng viện, chắc chắn các chủng sinh đều thuộc lòng câu: Ai sống theo kỷ luật là sống theo ý Chúa, và sau này trên bước đường lớn hơn, Linh mục vẫn thường được nghe nhắc nhở: hãy giữ luật thì luật sẽ giữ cho mình, sẽ bảo vệ mình. Cho nên chữ Discipline mời gọi mỗi người trong hướng đi đời Linh mục cũng gắn bó với luật lệ của Giáo hội cách khít khao.
Dévotion, lòng đạo đức sốt sắng. Ở đây theo như lời chú giải của ĐHY Dias, thì nó gắn liền với những phong trào đạo đức, có một thời tưởng như bị bỏ rơi vì đi liền với lòng đạo đức bình dân của đại chúng. Thí dụ: tràng hạt Mân Côi, có một thời người ta rẻ rúng cho là loại kinh dành cho phụ nữ, người nhàn rỗi, người già… nhưng sau này người ta cảm nghiệm được sức mạnh của kinh Mân Côi, nhất là sức mạnh hoán cải, sức mạnh thánh thiêng giúp người ta tiến xa trên đường nên thánh. Những cái thuộc loại Dévotion thì thường gắn liền với những hình thức văn hóa. Ví dụ: hành hương coi như chuyện đi chơi, nhưng ở đó cũng là một thứ Dévotion mời gọi Linh mục không nên xem thường. Tất nhiên không thể loại trừ những hình thức Dévotion truyền thống tôn sùng Thánh Tâm, Chầu Thánh Thể, hay là những hình thức khác nhau dành cho các Thánh. Một Linh mục mà rẻ rúng những hình thức đạo đức bình dân thì coi chừng, tưởng là mình ở trên đỉnh cao trí thức, biết đâu lúc nào đó mình rớt xuống vực mà không hay. Lần hạt Mân Côi, đó là một lời kinh tháp tùng Linh mục trên mọi bước đường, trong mọi hoàn cảnh, đó là lời kinh còn lại duy nhất sau khi đã quên đi tất cả. Gắn bó với một sự đạo đức như thế cũng là một cách giúp cho đời Linh mục được vươn lên, được thăng tiến. (x. Huấn từ khai mạc Tĩnh tâm Linh Mục Giáo Phận Phan Thiết, ngày 10.1.2011, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống).
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
Trở nên mục tử tốt lành nhờ biết trau dồi giáo thuyết Kinh Thánh (Doctrine), sốt sắng trong lời cầu nguyện gắn bó với Chúa Giêsu (Dévotion) và có tinh thần kỷ luật trong đời sống tu trì (Discipline).
Mục tử tốt lành là phải luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên,yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Ơn gọi Linh mục Tu sĩ chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi”(Mc 3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Chúa trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.
Giáo dân cần Linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ, như học sinh cần thầy cô giáo, như một người bạn sẵn sàng cảm thông chia sẻ vui buồn trong đời sống và như người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục được trở nên những mục tử như Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tốt Lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đàn chiên.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục có những đức tính tốt của những Mục Tử tốt Lành mà Thánh Kinh đã mô tả:
– Yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn: “Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40, 11).
– Yêu quý từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc” (Mt 18, 12-13).
– Lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ” (Ed 34, 14).
– Làm cho chiên được sống no ấm, hạnh phúc: “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23, 1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: “Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (23, 4).
– Tinh thần trách nhiệm đối với đàn chiên rất cao: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng” (Ed 34, 16).
– Cứu thoát, giải phóng đàn chiên: “Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên” (Dc 9, 16).
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử Tốt Lành, xin ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa để góp phần vào công cuộc Tân Phúc Âm hoá và thông truyền đức tin Kitô giáo trong thời đại hôm nay Amen.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27)
Nhận được tin báo Thống soái sẽ ghé thăm đơn vị và dân chúng trong vùng, người chỉ huy đội vệ PS 4-C127
Nhận được tin báo Thống soái sẽ ghé thăm đơn vị và dân chúng trong vùng, người chỉ huy đội vệ binh tức tốc triệu tập thuộc cấp chuẩn bị nghênh đón. Một trong những việc chuẩn bị là dọn đường và mở đường.
Thật không may cho đội vệ binh, khi xe của Thống soái gần tới, bỗng dưng một đàn cừu (chiên) độ khoảng vài trăm con đổ xô lên đường. Con đường độc đạo giờ đây bị đàn cừu (chiên) chiếm lĩnh. Người chỉ huy ra lệnh cho thuộc cấp:
– Bằng mọi giá anh em hãy lùa đàn cừu (chiên) rời khỏi mặt đường.
Đội vệ binh dùng đủ mọi cách, kể cả việc dùng súng bắn chỉ thiên để lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường nhưng vô vọng!
Xe của Thống soái ngày càng tiến gần, người chỉ huy đội vệ binh càng hối thúc thuộc cấp của mình, nhưng dường như đàn cừu không màng chi tới những lo lắng của người chỉ huy và đội vệ binh, chúng vẫn nhởn nhơ vui đùa! Xe của Thống soái dừng lại trước đàn cừu. Người đội trưởng đội vệ binh lúng túng chưa biết xử sự ra sao.
Bỗng từ xa tiếng sáo du dương trầm bổng cất lên. Không cần đuổi, chẳng nhọc công, đàn cừu (chiên) hướng tầm nhìn và ùa chạy về phía tiếng sáo. Hân hoan và vui mừng, chúng quây quần bên người mục đồng nhỏ bé đang đứng trên gò đất cao.
Đội trưởng đội vệ binh và thuộc cấp thở phào nhẹ nhõm, họ ngỡ ngàng, thán phục người mục đồng. Vị Thống soái mỉm cười và đoàn xe của ông ta từ từ tiến.
Qua câu chuyện trên, khi người mục đồng cất tiếng sáo du dương, trầm bổng để quy tụ đàn chiên về quanh mình đã làm cho những người trong đội vệ binh thán phục và ngỡ ngàng. Có thể nói, cho dẫu người mục đồng ấy có tài quy tụ đàn chiên bằng ngôn ngữ của sáo, nhưng chắc chắn một điều, người mục đống không thể nào giúp cho đàn chiên thoát khỏi cái chết bởi cái giới hạn của chúng, hoặc bảo vệ đàn chiên an toàn gặp phải hổ dữ hay kẻ trộm mạnh sức hơn mình. Giờ đây dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần ta chiêm ngắ, và noi gương Người Mục Đồng là chính Đức Giêsu Kitô Phục Sinh qua Kinh Thánh.
Như ta đã biết, chiên và nghề chăn chiên là hình ảnh thực tế và gần gũi đối với người Do Thái. Vào thời Cựu Ước, chiên là con vật được dùng vào nghi lễ tạ ơn, hiến tế dâng lên cho Đức Chúa, chiên cũng là thú nuôi đem lại lợi ích cho con người, lông chiên được dùng để kiến tạo nên những tấm khăn, cái áo… Người chăn chiên thường được gọi là mục đồng. Họ là những người chăm sóc đàn chiên, họ thường ở với chiên dẫn đàn chiên đến đồng cỏ, suối nước và bảo vệ đàn chiên khỏi những sói dữ và kẻ trộm. Nghề chăn chiên rất cực và đôi khi phải va chạm với những hiểm nguy để bảo vệ đàn chiên. Vì thế, Kinh Thánh dùng hình ảnh người chăn chiên và đàn chiên để diễn tả mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người nhân loại.
Trước Chúa Giêsu sinh ra trên dưới 800 năm, Ngôn sứ Êdêkien đã tiên báo: “Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình… Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta… Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng… Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt đàn chiên…” (Ed 34,11-23)
Trong thư gửi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã viết: “Thiên Chúa là nguồn mạch bình an đã đưa Đức Giêsu, Chúa chúng ta ra khỏi cái chết. Đức Giêsu là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu…” (Dt 13,20)
Trình thuật sách Khải Huyền giới thiệu Đức Giêsu là Con Chiên và cũng là thủ lãnh của đàn chiên (x. Kh 7,9-17). Tin Mừng theo Thánh sử Gioan đã trình thuật lời minh định của Đức Giêsu: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong…” (Ga 10,27)
Vâng! Đức Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành. Nhiệm vụ chính yếu Ngài: Chăn dắt, chăm sóc và vỗ về đàn chiên bằng lời nói, hành động; Ngài thân hành đi tìm những con chiên lạc, băng bó và chữa lành những con chiên bị ốm đau và thương tích. Không những thế, Ngài còn chấp nhận hy sinh, chấp nhận chết đi để cho đàn chiên được cứu và được sống muôn đời. Trước khi bước vào cuộc Tử Nạn Phục Sinh và về trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành đã hiến chính mình làm thần lương, thần dược nuôi sống và chữa lành đàn chiên, qua việc Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể vào chiều Thứ Năm trước Lễ Vượt Qua.
Hướng về Đức Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, trước tiên, ta cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đón nhận ta vào đàn chiên của Ngài, ta cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài ban tặng cho ta Vị Mục Tử Nhân Lành luôn hướng dẫn, dưỡng nuôi ta trong từng phút giây của cuộc sống. Đặc biệt, Ngài hằng bảo vệ ta thoát khỏi nanh vuốt của sói dữ tham mồi, dẫn ta tới đồng cỏ xanh non; đưa ta tới dòng suối mát trong. Không những thế, Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu ấy còn chấp nhận sống khó nghèo, chấp gian khó, khổ đau và cả cái chết để chuộc những lỗi lầm của ta khi vì dại khờ mà ta rời bỏ đàn chiên đi tìm những đồng cỏ lạ, đồng cỏ đưa ta tới sự hủy diệt cả thân xác lẫn linh hồn. Qua cái chết, Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu đã Phục Sinh khải hoàn. Nhờ sự Phục sinh của Ngài mà ta được thông phần vào đời sống bất diệt của Thiên Chúa.
Trong ngày Lễ Chúa Chiên Lành, ta được Giáo Hội mời gọi cầu nguyện cho ơn thiên triệu, cầu nguyện cho hàng linh mục và tu sĩ. Đây là một công việc rất thiết thực và rất có ý nghĩa. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đang thiếu hụt trầm trọng ơn gọi trở thành linh mục, tu sĩ… nhiều nơi đang rất cần sự hiện diện của mục tử và tu sĩ để rao giảng Lời Chúa và cử hành các bí tích, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa, những buôn sóc anh em dân tộc thiểu số… Cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát, ta hiệp lời cùng với Giáo Hội cầu xin Chúa ban tặng nhiều thợ gặt lành nghề như lời mời gọi của Đức Giêsu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, anh em hãy xin Cha sai thợ gặt ra gặt lúa đem về.” (Mt 9,37-38)
Hoà cùng với Giáo Hội trong ngày Lễ Chúa Chiên Lành, ta đồng cất cao lời cảm tạ Thiên Chúa, trong tâm tình tạ ơn ấy, ta cũng được mời gọi hướng lòng về các vị mục tử, tu sĩ nam nữ và những tâm hồn thiện nguyện với tấm lòng trân quý và cám ơn vì các ngài đã và đang chăm sóc ta trong đời sống đức tin, đời sống cầu nguyện như lời mời gọi của Thánh Phaolô: “Thưa anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý trọng những ai đang vất vả vì anh em, để lãnh đạo anh em nhân danh Chúa và khuyên bảo anh em.” (1 Tx 5,12)
Khi nói về hình ảnh và vai trò của người mục tử, ta thường liên tưởng và coi đó là nhiệm vụ của hàng linh mục xa hơn nữa là của tu sĩ nam nữ. Theo ngôn ngữ của Thánh Phêrô, vai trò, nhiệm vụ mục tử được Chúa ân ban cho hết tất cả những ai thuộc dân thánh như lời ngài viết cho các giáo đoàn thời Giáo Hội sơ khai: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi an hem ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sánh diệu huyền…” (1 Pr 2,9)
Có thể nói, qua Cuộc Tử nạn và Phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu, ta được thông phần vào đời sống, công việc của Thiên Chúa. Vì thế, Đức Giêsu là Mục Tử, Ngài cũng trao ban cho ta chức vụ mục tử sau khi ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, ta được dìm vào ân sủng của Chúa Thánh Thần. Qua ân sủng và chức vụ mục tử ấy, ta có bổn phận, trách nhiệm chăn dắt, chăm sóc và bảo vệ đàn chiên là gia đình, cộng đoàn… Không chỉ là chu toàn bổn phận, trách nhiệm của người mục tử, nhưng qua nhiệm vụ ta được mời gọi trở thành ánh sáng dọi chiếu Tin Mừng cho thế gian theo lệnh truyền Đức Giêsu: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 13,47)
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng Nhân Ái, nhưng cũng rất công minh. Vì thế, khi có ân thưởng thì cũng có luận phạt, còn đó lời cảnh báo, lời hạch tội của Thiên Chúa, Đấng đã ưu ái trao ban cho ta chức vụ mục tử, qua miệng Ngôn sứ Êdêkien: “Đức Chúa là Chúa thượng phán thế này: Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiến đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của ta tán loạn và biến thành mồi cho mọi dã thú. Vì thế hỡi các mục tử, hãy nghe lời Đức Chúa. Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên của Ta. Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta…” (Ed 34,1-10)
Để giúp ta trở thành người mục tử như lòng Chúa ước mong, người mục tử luôn biết quảng đại, hy sinh và hiến thân mình cho đàn chiên, thiết tưởng, không có con đường nào khác ngoài con đường ta chạy đến với Đức Giêsu, Vị Mục Tử Tối Cao, vì Ngài đã phán: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến đây Ta sẽ nâng đỡ, bổ sức cho các con. Các con hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11,28)
Lạy Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành! Con cảm tạ Chúa đã chăm sóc con và gia đình con, ngay cả khi con rời bỏ Chúa để đi tìm những đồng cỏ nơi thế gian, thế mà Chúa vẫn yêu thương đưa dẫn con trở về và trao ban cho con chức vụ mục tử. Xin Chúa dạy và giúp con chu toàn bổn phận mục tử mà Chúa đã trao ban. Xin giúp đời con biến thành những tiếng sáo du dương, trầm bổng để quy tụ đàn chiên mà Chúa trao cho con là người dẫn dắt. Amen.
-------------------------------------
PS 4-C128: Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Trong lĩnh vực Y học ngày nay, người ta phát hiện về khả năng nghe biết của thai nhi ngay từ khi PS 4-C128
Trong lĩnh vực Y học ngày nay, người ta phát hiện về khả năng nghe biết của thai nhi ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ.
Có những thí nghiệm gần đây cho thấy: một bà mẹ mang thai, hai vợ chồng đặt tên cho con của mình ngay từ khi siêu âm và biết nó là con trai hay con gái. Khi đã đặt tên cho con, ông bố hằng ngày trước khi đi làm hoặc đi đâu về đều gọi tên của bé. Rồi một ngày nọ, họ cho rất nhiều người đàn ông đi qua và cất tiếng gọi. Bé vẫn nằm im trong dạ mẹ. Nhưng đến lượt bố của em, ông cất tiếng gọi, vừa dứt lời, em đã ọ ẹ và chân tay vẫy đạp trong bụng mẹ. Quả thật là một điều kỳ diệu. Thật vậy, cũng tương tự, ngày nay, người ta muốn cho con của mình sau này làm gì thì các bà mẹ gợi hứng cho chúng ngay từ khi bé còn trong bụng mình bằng những hình ảnh hay hành động hoặc thính giác của bà mẹ hằng ngày.
Hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành được khởi đi từ thời Cựu Ước: “Đức Giavê là Mục Tử tôi. Tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đem. Tôi cũng không hề lo sợ.” (Tv 23,1-4) Thiên Chúa trở thành Mục Tử của dân Israel. Người yêu thương và chăn dắt dân của Người. Hình ảnh người mục tử cũng được trao phó cho các vị lãnh đạo thời bấy giờ, nhưng thật đáng buồn vì các vua chúa thời đó đã làm cho dân phải đau đớn vì họ không sống đúng vai trò mục tử của mình mà lại còn đi ngược lại. Điều này đã được Tiên tri Ezekiel quở trách thật nặng nề: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên… Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng.” (Ez 34,2-4.9-10.23)
Sang thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tôi là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi.”
Vào thời Chúa Giêsu, người ta thường hay nuôi chiên. Mỗi đàn chiên thì đều có mục tử, tức người chăn chiên. Người chăn chiên thường dẫn chiên đi ăn trong hoang địa. Tối về, họ lùa chiên vào nơi quy định. Tuy nhiên, cũng có thể nhiều đàn chiên ở cùng một chỗ, vì thế có sự lẫn lộn; nên chủ đàn chiên nào thì có ký hiệu riêng của mình, và khi họ cất tiếng thì tất cả các chiên của họ sẽ đi theo. Người mục tử tốt là người biết chiên của mình, biết rõ từng con một, để chăm lo cho chúng. Người mục tử tốt cũng là người biết dẫn chiên của mình đến những vùng cỏ non, có nhiều nước, để cho chiên thoả thuê ăn uống hầu được to béo, khoẻ mạnh.
Chúa Giêsu đã tự nhận mình chính là Mục Tử Nhân Lành. “Ngài đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Khác hẳn với hình ảnh mục tử trong Cựu Ước nơi các vị vua.
Thật không có gì đau khổ cho bằng trong cuộc sống ta không được ai biết đến. Và cũng thật bất hạnh khi trong các mối tương quan ta không được ai tôn trọng và tin tưởng nữa. Thấu hiểu được điều đó, Chúa Giêsu đã dùng động từ “biết” để diễn tả một mối tương quan thân mật giữa chủ chiên và đàn chiên. “Biết” theo nghĩa Kinh Thánh không chỉ là một sinh hoạt thuần tuý tri thức hay văn hoá, mà “biết ở đây còn là sự gắn bó và yêu thương”. Chúa Giêsu biết từng con chiên đồng nghĩa với việc Ngài yêu thương từng con chiên một. Ngài cũng biết tên của từng con và gọi chúng khi cần, ấy là Ngài đang đi vào sự hiện hữu của từng con chiên, và ngược lại. Với Ngài, từng con chiên là một hiện hữu duy nhất trước mặt Ngài. Vì thế, Ngài luôn coi trọng từng con một, đến nỗi Ngài nói: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp chúng khỏi tay Chúa Cha; Tôi và Cha tôi là một.” Thật hạnh phúc cho chúng ta vì có được Vị Mục Tử tuyệt vời là chính Chúa Giêsu.
Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật IV Phục Sinh để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu linh mục và tu sĩ.
Tại sao phải cầu nguyện cho mục tử? Thưa vì các ngài cũng chính là mục tử trong Giáo Hội, thay mặt Chúa để dẫn dắt dân của Người. Chúng ta cầu nguyện cho các ngài hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, biết từng con chiên để: chăm lo cho từng con chiên. Con chiên nào bị thương thì băng bó, con nào bị ốm thì lo thuốc thang, con nào đi lạc thì tìm về, con nào có nguy cơ bị thú dữ ăn thịt thì bảo vệ, con nào bị bắt thì liều mạng để cứu chúng. Được như thế, các ngài quả là mục tử nhân lành, đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Các ngài là những mục tử như lòng Chúa và Giáo Hội mong ước.
Ngoài việc cầu nguyện cho các linh mục và tu sĩ, Giáo Hội đặc biệt hướng về các bạn trẻ. Các bạn là tương lai của xã hội và là niềm hy vọng của Giáo Hội. Giáo Hội đang trông chờ ở nơi các bạn. Giáo Hội cũng hy vọng các bạn sẽ trở thành những linh mục và tu sĩ tốt lành hoạ lại chân dung của Vị Mục Tử Tối cao là Chúa Giêsu.
Quả thật, hơn bao giờ hết, chúng ta đang sống trong một xã hội có biết bao lựa chọn, và đôi khi có những chỉ dẫn hay thông tin cũng như quả quyết sai lầm. Hoặc nói theo ngôn ngữ hình tượng: “Chân lý nửa vời”. Trong một xã hội như thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp, một chân lý tuyệt đối, để phục vụ con người ngày hôm nay, nhằm đem lại cho họ niềm hy vọng. Nhưng điều quan trọng là làm sao để các bạn nhận ra được tiếng Chúa gọi và chọn các bạn vào trong vườn nho Giáo Hội để phục vụ trong vai trò là mục tử của Chúa? Thưa Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi 2013 đã vạch ra cho các bạn, ngài viết: “Ơn gọi linh mục và tu sĩ được nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, từ một cuộc đối thoại chân thành và đầy tin tưởng với Ngài, nhờ đó đi vào trong ý muốn của Ngài. Do đó, điều cần thiết là phải lớn lên trong kinh nghiệm về đức tin, được hiểu như là một mối liên hệ sâu xa với Đức Giêsu, như là một sự lắng nghe nội tâm đối với tiếng nói của Ngài vốn âm vang trong sâu thẳm cõi lòng chúng ta.” Đúng vậy, muốn hiểu được ai thì phải biết và có kinh nghiệm về người đó. Có thế, ta mới dễ nhận ra và đi theo ý của người mà mình yêu mến.
Trong thế giới đang sôi động về mọi mặt, nhưng lời mời gọi “hãy theo Thầy” vẫn được vang vọng nơi mỗi chúng ta ngay trong những cuồng nhiệt của cuộc sống. Lời bài hát, mà chúng ta vẫn thường nghe trong mỗi dịp lễ Chúa Chiên Lành hay trong các dịp lễ về Tận hiến của tác giả Nguyễn Duy Vi: “Chúa là Mục Tử, Người dẫn lối chỉ đường cho con đi, đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ tươi rợn đồng xanh, con no thoả không bao giờ khát nữa, cánh tay Người đưa, gậy người dẫn yên lòng”, gợi lại cho chúng ta hình ảnh của Vị Mục Tử Nhân Lành, cũng như giúp chúng ta thêm xác tín vào Vị Mục Tử Nhân Lành; đồng thời cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhạy bén, can đảm để phác hoạ chân dung Vị Mục Tử Nhân Lành, là chính Chúa Giêsu, ngay trong chính cuộc đời chúng ta.
Để kết thúc bài suy niệm này, tưởng cũng nên mượn lời của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhắn gửi các bạn trẻ:
“Các bạn trẻ thân mến, dẫu các con đang phải đối diện với biết bao nhiêu lựa chọn hời hợt và chóng qua, cha hy vọng các con vẫn có thể nuôi dưỡng khao khát về điều gì có giá trị đích thực với những mục đích cao cả, những lựa chọn triệt để trong việc phục vụ tha nhân và bắt chước Đức Kitô. Các con đừng sợ bước theo Đức Giêsu và bước đi trên những con đường có tính đòi hỏi, can đảm sống đức ái và quảng đại dấn thân. Trên hành trình này, các con sẽ hạnh phúc để phục vụ và làm chứng về một niềm vui mà thế giới không thể trao ban, các con sẽ là những ngọn lửa sống động về một tình yêu vô hạn và vĩnh cửu, và các con sẽ học để “sẵn sàng đưa ra câu trả lời cho niềm hy vọng nơi các con” (1 Pr 3,15).”
Chiều nay tôi có việc đến thăm một gia đình sống trong khu “ổ chuột”, con đường giao thông PS 4-C129
Chiều nay tôi có việc đến thăm một gia đình sống trong khu “ổ chuột”, con đường giao thông trong khu vực quanh co bí hiểm, lối di chuyển chỉ vừa hơn một chiếc xe hai bánh, khi hai xe đối đầu thì một xe phải dừng lại nghiêng một bên để nhường xe kia đi qua, tiếng máy xe nổ vang do dội âm từ hai bức tường đối diện. Bề bộn trên con hẻm là những vũng nước, những chai lọ và những rác rưởi lặt vặt. Dân cư sống trong khu vực đến từ nhiều nơi có thể gọi là "giang hồ tứ chiếng" (bốn bề sông nước), dĩ nhiên khu vực ấy chỉ dành cho những người nghèo, đáp ứng những khả năng và nhu cầu tối thiểu của người nhập cư vào thành phố.
Bất ngờ khi tôi ngồi ngoài hiên ngôi nhà tôi muốn thăm, một người đàn ông đến gần ngỏ ý muốn gặp, tôi không xa lạ gì anh vì đã đôi ba lần gặp nhau, nhưng trong những dịp ấy tôi chưa bao giờ nói chuyện với anh, tôi có biết đôi chút về anh qua những người quen khác, sau này tôi biết thêm qua mạng Facebook nhờ những hoạt động của anh. Xuất thân từ giới giang hồ của thành phố, anh sống đời dọc ngang, dĩ nhiên là trong giới anh chị, anh có nhiều thành tích và gan lì khi đối đầu với cảnh sát. Bất ngờ cách đây hai năm, anh tập tành chơi Facebook, mạng thông tin đã nhanh chóng biến đổi anh, những tấm gương sống hy sinh trên Facebook, những câu chuyện về những người sẵn sàng dấn thân được kể trên Facebook, những sự thật phũ phàng trong xã hội ở “thượng tầng kiến trúc”, tất cả đã tác động lên anh, từ một tay anh chị, anh trở thành người thao thức và trăn trở với tình thương, sự thật và công bằng. Anh đã tâm sự với một người bạn rằng anh muốn theo đạo Công Giáo vì khi dấn thân xã hội anh tìm được điểm tựa đáng tin cậy.
Câu chuyện anh nói với tôi chiều nay làm tôi băn khoăn suy nghĩ. Trong một lần đi về một vùng quê miền Bắc, anh gặp một em bé bị hư thận, nhà rất nghèo, căn bệnh đe dọa tính mạng của em, anh cưu mang em bé này vào thành phố. Các xét nghiệm y khoa cho thấy anh và em bé này có những tương đồng để có thể cho và nhận thận của nhau, anh quyết định hiến một trái thận cho cháu. Anh nói với tôi rằng anh quá nghèo nên kêu gọi bạn bè của anh mỗi người giúp một tay chi trả chi phí cho ca ghép thận, anh không xin tôi tiền nhưng anh xin tôi cầu nguyện và nâng đỡ, ủng hộ anh trong việc này, anh bảo với tôi rằng: "Con chỉ cần cha ủng hộ và nâng đỡ con là con đủ sức mạnh rồi !"
Chiều hôm qua khi tập thể dục ở Nhà Dòng, tôi tận dụng chút thời gian ngắn ngủi theo dõi bộ phim “Vết Sẹo”, khúc phim kể về nỗi đau của một bà vợ trẻ miền quê, chị khám phá ra quả thận mà chị hiến cho chồng đã bị anh ta giả vờ đau thận, đánh lừa vợ để chuyển cho người tình của anh ta ! Còn chiều nay thì tôi lại gặp một người nghèo hiến thận vì tình thương vô vị lợi.
Tôi băn khoăn suy nghĩ vì một người nghèo nhưng giàu lòng nhân ái, dám hy sinh cả mạng sống mình vì tình thương, dám sống lòng thương xót một cách cụ thể.
Trong lá thư Mùa Chay 2016, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với chúng ta rằng “Chỉ khi chúng ta cảm nhận được Lòng Thương Xót của Chúa, chúng ta mới có khả năng sống lòng nhân ái với nhau”.
Vậy có thể nói được rằng, khi một người vì danh Chúa mà dám sống lòng nhân ái với người khác, đó là con người đã chạm được chính Lòng Thương Xót của Ngài. Hoặc có thể nói là người Kitô hữu mà không sống lòng nhân ái với anh em, thì đó là dấu chỉ con người ấy chưa chạm được vào Lòng Thương Xót của Chúa.
Có lắm khi tôi đã sống vỏ bọc đạo đức, thi hành nhiệm vụ của một cán bộ công chức ngành tôn giáo, hoạt động chu toàn nhiệm vụ cần mẫn, nhưng không bao giờ cho đi cái của mình, mà chỉ nhiệt thành cho người khác cái mà mình “lạc quyên” được, rồi tâm đắc thanh thản với những thành tích hoạt động, và vênh vang với địa vị chiếu trên…
Lạy Chúa, xin biến đổi chính mình con, lạy Chúa giàu lòng thương xót.
Ảnh hưởng là sự tác động được / bị thay đổi bởi người khác đối với cách suy nghĩ, hành động, lối PS 4-C130
Ảnh hưởng là sự tác động được / bị thay đổi bởi người khác đối với cách suy nghĩ, hành động, lối sống, văn phong,... Ảnh hưởng là áp lực có thể tốt hoặc xấu. Áp lực đồng đẳng là động thái của chúng ta đang được / bị thay đổi bởi bạn bè. Người ta ảnh hưởng bởi nhiều thứ: văn hóa, xã hội, chính trị, tôn giáo, môi trường, kiến thức,...
Người Việt có cách nói ám chỉ sự ảnh hưởng: “Rau nào sâu nấy” hoặc “thầy nào trò đó”. Tầm ảnh hưởng có thể do ý thức hoặc vô thức, thậm chí nó có thể dần dần hình thành tính cách của một con người.
Về sự ảnh hưởng, thần học gia và triết gia Albert Schweitzer ( 1875-1965, người Đức gốc Pháp ) nhận định: “Gương mẫu không phải là điều chính yếu gây ảnh hưởng lên người khác, mà nó là điều duy nhất”. Còn tâm lý gia kiêm triết gia William James ( 1842-1910, người Mỹ ) nhận xét: “Chính thái độ của chúng ta khi bắt đầu một việc khó khăn sẽ ảnh hưởng kết quả thành công nhiều hơn bất cứ điều gì khác”. Quả thật, sự ảnh hưởng rất quan trọng !
Trình thuật Cv 13, 14. 43-52 cho biết rằng… Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ông vào hội đường. Tan buổi họp, có nhiều người Do Thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.
Ngày sabát sau, gần như cả thành tụ họp nghe Lời Thiên Chúa. Thấy những đám đông như vậy, người Do Thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Bấy giờ ông Phaolô và Barnaba mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất”.
Lý do rất rõ ràng. Được nhận mà không muốn nhận. Tất nhiên hậu quả khôn lường, nhưng đó là quyền tự chọn của mỗi người mà thôi. Thiên Chúa không bao giồ ép buộc ai. Và đúng như Chúa Giêsu đã từng cảnh báo: “Ai ĐÃ CÓ thì ĐƯỢC CHO THÊM và sẽ CÓ DƯ THỪA; còn ai KHÔNG CÓ thì ngay CÁI ĐANG CÓ cũng sẽ BỊ LẤY ĐI” ( Mt 25, 29 ).
Sau khi nghe hai ông Phaolô và Barnaba nói rạch ròi như vậy, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời đều tin theo. Và Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
Lòng ghen tức thật đáng sợ ! Tại sao người ta ghen tức ? Cũng như con gà tức nhau tiếng gáy, người ta ghen tức với người khác vì thấy mình lép vế, bất tài, vô dụng,… Giàu sang thì bị đía, nghèo khó thì bị khinh; ngu si thì bị khinh, thông mình thì bị ghét. Chỉ có người giỏi mới chấp nhận cái giỏi của người khác. Chúa Giêsu cũng đã có những bỏ đi nơi khác vì người ta không chấp nhận sự hiện diện của Ngài.
Và rồi chính người Do Thái đã sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do Thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và Barnaba, rồi còn trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Thật là nhỏ nhen và nham hiểm ! Thấy không ổn, hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Icôniô.
Người Việt cũng có câu: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Người ta không thích mình thì tránh cho xa kẻo họ “ngứa mắt”, chứ thật ra họ chẳng có gì mà chúng ta phải sợ. Cũng là cách tránh dịp tội cho đôi bên. Họ đáng khinh và đáng trách, nhưng đó là quyền tự chọn của họ. William Makepeace Thackeray ( 1811-1863, tiểu thuyết gia người Anh ) phân tích: “Gieo hành vi thì gặt thói quen, gieo thói quen thì gặt tính cách, gieo tính cách thì gặt số phận”. Một chuỗi hệ lụy rất lô-gích. Chính sự tự do có thể tạo số phận của chúng ta, có thể tốt hoặc xấu – cả đời sống xã hội và đời sống tâm linh.
Cuộc sống con người là những chuỗi hồng ân, liên kết qua từng nhịp thở. Ngay cả đau khổ cũng là hồng ân. Vâng, hồng ân Chúa không ngừng ảnh hưởng tới sự sống của mọi thụ tạo. Vì thế, chúng ta không thể không biết dâng lời tạ ơn. Thật vậy, với cảm nghiệm sâu sắc, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ, vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo. Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế, chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt” ( Tv 100, 2-3 ).
Lý do vừa mặc nhiên vừa mình nhiên: “Bởi vì Chúa nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín” ( Tv 100, 5 ). Điều này cũng được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh ( 1Sbn 16, 34; Tv 106, 1; Tv 107, 1; Tv 118, 1-4; Tv 118, 29 ), nhiều nhất là Tv 136 ( các câu 1-3 và 26 ). Đó là mầu nhiệm về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chính Đức Maria cũng đã thốt lên qua bài thánh ca Magnificat: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” ( Lc 1, 50 ). Ai trong chúng ta cũng luôn chịu ảnh hưởng bởi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Cuộc sống của Kitô hữu không mơ hồ, mà có mục đích rõ ràng: Sống lại và về Nhà Cha trên trời. Đó là điều kỳ diệu của cuộc vượt qua khải hoàn mà hiện nay chúng ta không thể tưởng tượng như thế nào. Tuy nhiên, trình thuật Kh 7, 9. 14b-17 “hé mở” cho chúng ta biết về cuộc khải hoàn trên Thiên Quốc.
Thị nhân Gioan kể lại: “Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế”. Những người này rất đẹp và hạnh phúc. Nhưng họ là ai ? Họ là những người mà chúng ta gọi là các thánh.
Thánh Gioan cho biết thêm: “Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ KHÔNG CÒN phải đói, phải khát, KHÔNG CÒN bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ LAU SẠCH nước mắt họ”. Cả “cách giặt” và “chất tẩy” đều kỳ diệu, không hề có trên thế gian vật chất hữu hình này, nhưng lại thực sự có trong thế giới tâm linh và vô hình. Và hàng ngày, mỗi chúng ta cũng vẫn phải “giặt” chính mình trong Bửu Huyết của Đức Kitô Giêsu.
Nói đến chiên thì cũng phải nói tới chủ chiên. Chúa Giêsu là Đệ Nhất Con Chiên và cũng là Đệ Nhất Chủ Chiên – Vị Mục Tử Nhân Lành ( Ga 10, 11 ), đồng thời Ngài cũng là Cửa Chuồng Chiên ( Ga 10, 7-9 ). Trình thuật Ga 10, 27-33 cho chúng ta biết về mối quan tâm của Mục Tử Nhân Lành dành cho Đoàn Chiên.
Chúa Giêsu là Người Chăn Chiên đích thực nên nặng “mùi chiên”. Đó là sự ảnh hưởng tất yếu giửa chủ và chiên. Thật vậy, mấy bà bán cá làm sao tránh được mùi cá ? Hoặc mấy người chăn heo lẽ nào không ám mùi heo ? Một sự ảnh hưởng rất tự nhiên, không thể không có. Mùi chiên ở đây mang nghĩa bóng. Trong khi đại đa số chiên là dân nghèo – nhất là tại Việt Nam, thế thì tại sao chủ chiên không có “mùi nghèo” của chiên ? Chủ chiên có “mùi” của chiên béo thì chủ chiên đó là thật hay giả, quen hay lạ ? Câu hỏi dễ ẹc mà lại rất khó ( hoặc ngại ) trả lời !
Nhưng chính Chúa Giêsu đã trả lời qua câu nói xác định: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” ( Ga 10, 27-30 ). Vâng, MỘT chứ không HAI hoặc MỘT RƯỠI. Quá rõ ràng, chắc chắn không cần nói gì thêm nữa!
Thuận ngôn nghịch nhĩ. Lời thật mất lòng. Nghe Chúa Giêsu nói vậy, người Do Thái lại lấy đá để ném Ngài. Nhưng Ngài vẫn thẳng thắn bảo họ: “Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi ?” Người Do Thái đáp: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” ( Ga 10, 33 ). Đúng là những con người có tâm địa xấu xa, dốt mà chảnh, ngu mà ra vẻ ta đây giỏi, dại mà tưởng là khôn. Người ta còn nói đến mình là còn thương mình, người ta không thèm nói tới mình thì “hết nước nói” rồi. Nguy hiểm quá !
Về “mùi chiên”, đó phải là mùi thật, mùi tự nhiên, không thể là mùi nhân tạo. Ngày nay, người ta có thể chế biến đủ loại hương liệu để tạo mùi giả, liệu mùi chiên có bị “chế biến” hay không ?
Chiên cũng đa dạng, lắm kiểu, nhiều loại: mập – ốm, cao – thấp, trắng – đen, sang – hèn, giàu – nghèo,… Nhiều người luôn tâng bốc, nịnh hót, luồn cúi,... “ra cái vẻ” đạo đức và ngoan ngoãn. Nên cảnh giác !
Khi nói đến danh từ “con chiên”, người ta có ý nói là “ngoan đạo”, nhưng cũng có nghĩa tiêu cực là “vâng lời mù quáng”. Anh ngữ có danh từ SHEEPLE /SHēpəl/ – được ghép bởi chữ Sheep ( chiên, cừu ) và People ( người ), ý nói về người dễ tin lời người khác, dễ bị dụ. Danh từ này được sử dụng từ năm 1945. Theo Thánh Tiến Sĩ Thomas Aquinas, Đức Tin cần có cả trí tuệ lẫn ý chí. Tin như vậy là sáng suốt chứ không mù quáng, ảnh hưởng đúng đắn.
Lạy Thiên Chúa, xin soi sáng và giúp con nhận thức đúng đắn, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, trong cuộc sống đời thường và tâm linh. Xin thương xót và bảo vệ hệ miễn nhiễm tâm linh để con không bị ảnh hưởng bởi những sự xấu, nhưng chỉ chịu sự ảnh hưởng của Ngài mà thôi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Sau năm 1954, noi theo gương vị Mục Tử Nhân Lành, cha già Phêrô Doãn Quang Ngọc ( 1902–1995 ) PS 4-C131
Sau năm 1954, noi theo gương vị Mục Tử Nhân Lành, cha già Phêrô Doãn Quang Ngọc ( 1902–1995 ) đã thốt lên: “Vì yêu Giáo Dân mà tôi ở lại miền Bắc.” Sau hiệp định Genève, các Linh Mục ở lại miền Bắc lúc đó, phải chấp nhận cảnh đấu tố, giam cầm. Cha Ngọc bị giam mấy tháng ở chuồng trâu của một người lương dân xóm Hồng Sơn, xã Sơn Cương, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Rồi bị đấu tố ở Chiêu Ứng, sau đó còn bị điệu đi Đồng Xa, Đại An, Trù Mật để cho chính những người đã được cha già cưu mang, vu oan cáo vạ ! Thế nhưng sau vụ đấu tố đó, những Giáo Dân này vẫn được cha già yêu thương, tin dùng và nâng đỡ. Có người hỏi: “Sao cha vẫn dùng họ ?” Ngài trả lời: “Họ nhẹ dạ, họ mắc mưu, chấp làm gì !”
Một số cha trẻ di cư vào Nam, một số cha già được Chúa gọi về dần, các Chủng Viện bị đóng cửa, các Giáo Xứ dần dần vắng bóng chủ chăn. Cha già Phêrô Doãn Quang Ngọc là cha xứ Chiêu Ứng, nhưng đồng thời phải coi sóc Giáo Dân tận Lào Cai, Sapa, cách xa ba bốn trăm cây số, trong khi phương tiện đi lại chỉ là một chiếc xe đạp Super Globe. Vào những năm cuối đời, dù đã tám chín mươi tuổi, cha Phêrô vẫn còn phải coi sóc thêm những Giáo Xứ như Phi Đình, Trù Mật, Vân Thê,… trên mười ngàn Giáo Dân.
Coi sóc nhiều như vậy, cha già không những đến dâng lễ, ban các Bí Tích, mà còn lo xây dựng Đức Tin và cơ sở vật chất nữa. Tất cả những nơi cha già coi sóc đều được chính ngài đứng lớp, ôn thi kinh bổn, giáo lý, mỗi năm hai kỳ vào dịp Lễ Phục Sinh và Lễ Các Thánh.
Các hội đoàn như Hội Nghĩa Binh Thánh Thể, Hội Mân Côi, Hội Thánh Phêrô, Hội Thánh Antôn,... do ngài thành lập vẫn sinh hoạt đều đặn. Riêng nơi cha già trông coi, các cuộc rước hoa, rước Thánh Thể vẫn tổ chức rất long trọng. Các nơi thờ tự trong địa bàn cha già coi sóc vẫn được sửa chữa, nâng cấp hoặc xây mới, trong khi tại các xứ khác bị phá hủy, hoặc không được tu sửa.
Với tinh thần quảng đại, tha thứ và yêu thương phục vụ, cha già Phêrô còn tích cực hỗ trợ nhiều nơi xây dựng trường sở rộng rãi cho con em học văn hóa, như trường phổ thông cơ sở Sơn Cương, trường Ninh Dân thuộc huyện Thanh Ba, trường Văn Lung thuộc thị xã Phú Thọ. Những gia đình nghèo khổ luôn được cha quan tâm: cha giúp họ tiền đong gạo, cha không nhận bổng lễ khi họ đến xin lễ. Suốt đời cha không sắm cho mình một vật gì sang trọng; cha thường nói: “Chúa Giêsu sống nghèo, tôi cũng sống nghèo; Chúa Giêsu bênh vực người nghèo, tôi cũng đi với người nghèo.”
Nói đến tinh thần kỷ luật của cha già là phải nói đến việc giữ giờ giấc: giờ ăn, giờ nghỉ, giờ làm việc trí óc, giờ lao động chân tay, giờ dâng lễ, giờ cầu nguyện; sáng, trưa, tối, mùa hè oi bức cũng như mùa đông giá lạnh, không khi nào cha sai giờ. Điều đáng khâm phục là khi ngài báo giờ lễ ở một nơi nào, dù xa xôi ( như Đồng Xa, Trù Mật ) mà không thể đi xe được vì thời tiết quá xấu, ngài quàng áo mưa, chống gậy đi bộ cho kịp giờ đã định. Và cũng có thể nói, trừ những tháng bị giam giữ năm 1954, ngài đã không bỏ một Thánh Lễ nào. Sáng ngày 28 tháng 11 năm 1995, ngài dâng Thánh Lễ cuối cùng, sau đó thấy mệt, tuy được các y bác sĩ điều trị, nhưng tối hôm đó ngài đã an nghỉ trong Chúa. ( Giáo Phận Hưng Hoá ).
Linh Mục Phêrô Doãn Quang Ngọc thấm nhuần thiên chức, đã can đảm sống cho, sống vì và sống với đoàn chiên, để tận tuỵ chăn dắt và chăm lo các bổn đạo. Chúng ta thành tâm biết ơn và cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng một chủ chăn tốt lành. Đồng thời ca ngợi, tôn vinh Lòng Chúa Thương Xót, đã ưu ái Dân Người.
Trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh hôm nay, Chúa Chiên Lành tha thiết mời gọi tất cả con chiên khắp nơi trung kiên đi theo. Người biết rõ từng khuôn mặt, tên tuổi, cũng như tính tốt lẫn thói hư tật xấu của từng con chiên. Dầu bạc nhược, bệnh hoạn, yếu đuối, tất cả cũng đều được Người ân cần an ủi, băng bó, vỗ về, phục hồi và ban sự sống, nếu biết nghe và theo Người.
Chiên nghe và theo
"Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta.” Nghe Lời Chúa là môt diễm phúc, một ơn phước, không phải ai cũng được hân hạnh được lãnh nhận, dẫu quyền cao chức trọng mấy đi nữa cũng chẳng được biệt đãi, như thói đời. “Vì chưng Ta bảo các ngươi, nhiều tiên tri và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều các ngươi thấy, nghe điều các ngươi nghe, mà đã không được nghe" ( Lc 10, 24 ).
Hơn nữa, nghe lời Chúa còn là một đặc ân cứu rỗi.“Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Ðấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” ( Ga 5, 24 ). Bởi vì Lời Đức Giêsu bắt nguồn từ chính Thiên Chúa Cha. “Tôi còn có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Ðấng đã sai tôi là Ðấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói" ( Ga 8, 26 ).
Nghe Lời Chúa và theo Chúa chính là thực hành những điều Người dạy, mới thuộc về Thiên Chúa, về đàn chiên Người chăn dắt và chăm sóc. “Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa" ( Ga 8, 47 ). Đức Giêsu còn tái khẳng định một vĩnh phúc, một niềm hy vọng vĩ đại cho con người. “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết" ( Ga 8, 51 ).
Chủ Chăn nói và biết
“Chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.” Lời Chúa luôn mời gọi từng người, từng ngày, từng phút giây trong đời. Phúc thay cho ai luôn biết tỉnh thức, lắng nghe và đáp lại Lời Chúa.
Không bao giờ cạnh tranh, chen lấn, đua đòi, kèn cựa, trong cơn bão truyền thông hiện đại, Lời Chúa thường chỉ âm thầm, lặng lẽ văng vẳng trong thinh lặng, trong cõi cô tịch hiu quạnh, trong hoang mạc vắng vẻ, trong đêm thâu trầm lắng canh thức. Như thầm thì qua lương tâm, khuyên nhủ qua những vị chủ chăn nhân lành, nhắc bảo qua các đấng sinh thành đạo đức, tâm tình chia sẻ qua những thân bằng quyến thuộc khôn ngoan theo Chúa. Nhưng công khai, tỏ tường và trường cửu hơn cả, Lời Chúa rất minh bạch, rõ ràng, rạng ngời, sáng chói trong Kinh Thánh, Tông truyền và giáo huấn Hội Thánh. Lời Chúa vốn là sự thật, là chân lý bất biến, bất diệt, mãi hợp lý, hợp thời mọi lúc mọi nơi. “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói sẽ không bao giờ qua đi !" ( Mc 13, 31 ).
Qua suốt ba mươi ba năm nhập thể, Đức Giêsu đã trải qua hầu hết gian nan, khốn khổ, cực nhọc của kiếp người. Nhất là qua cuộc khổ nạn và chịu chết tức tưởi trên thập giá, Người đã cảm thông, thấu hiểu được tất cả nỗi khổ đau của nhân loại, nỗi cùng cực của người công chính, đạo đức, nhân ái, tử tế. Người chẳng còn lạ gì thói giả hình, thói điêu ngoa, ngậm máu phun người, thói kiêu căng, hãnh tiến, háo danh, hống hách, thói tráo trở, háo lợi, bất nghĩa, bất tín, bất trung, vì chính Người từng là nạn nhân. Nên Người luôn mời gọi những tâm hồn gian khổ, đày đoạ, hãy đến với người an ủi, che chở và cứu rỗi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gồng gánh nặng nề. Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các con sẽ được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” ( Mt 11, 28-30 ).
Hơn nữa, Chủ Chăn Nhân Lành còn quan tâm, chăm sóc, còn hiểu thấu đáo đến từng con chiên. Dù lạc mất một con chiên, Người cũng đành bỏ lại chín mươi chín con ngoài đồng hoang, mà ráo riết, vội vã, đi tìm về cho bằng được. Tìm được rồi, Chủ Chăn hoan hỷ, mừng rỡ mời láng giềng đến chung vui. “Cũng vậy, trên trời sẽ có vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải ăn năn !" ( Lc 15, 5-7 ).
Chủ Chăn bảo vệ và ban Sự Sống
“Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” Chủ Chăn còn là cửa chính, nẻo ngay, đường duy nhất dẫn đến ơn cứu độ. Con chiên vâng lời, nghe theo sẽ no thoả trong đồng cỏ xanh tươi. Người luôn chăm sóc, bảo vệ khỏi mãnh thú hung ác, bạo tàn, vì “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.” Người đã thực hiện đúng như lời đã hứa: Chịu khổ nạn và chịu chết để chuộc tội nhân loại, cho con người khỏi bị án phạt, mà được sống viên mãn.
“Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy”. Những người chăn thuê, mạo danh chủ chiên, hay sói đội lốt chiên, lòng dạ ác độc, chẳng khác kẻ trộm cướp, chỉ vì lợi danh, đến lạm dụng, xén lông, làm thịt, chia rẽ, nghi kỵ, phân hoá, làm tan tác cả đàn chiên. “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên".
“Lãnh đạo phải trở nên mọi sự cho mọi người, trong bất cứ trường hợp nào, chấp nhận mọi thứ công việc, nhọc mệt, chống đối và khi cần phải hy sinh cả mạng sống con để mưu ích cho đoàn thể, nhưng đừng bao giờ làm giảm sút sự lo lắng cho chính linh hồn con.” ( Đường Hy Vọng, số 881 ).
Lạy Chúa Giêsu, Vị Chủ Chăn Nhân Lành, xin luôn mãi gọi tên chúng con, luôn thức tỉnh chúng con khỏi sa chước cám dỗ hoang đàng, khỏi những phù phiếm lợi danh thế gian, khỏi thói vị kỷ, chiều chuộng, dễ dãi, o bế thân xác yếu đuối. Xin dẫn dắt, giúp đỡ, khích lệ chúng con dấn thân, vác thập giá hằng ngày, kiên trung theo Chúa trên đường hy vọng đầy chông gai thách thức.
Xin Mẹ Maria rất thánh thương ban cho chúng con những vị Chủ Chăn Nhân Lành, đến yêu thương dạy dỗ, hướng dẫn, chăm sóc, che chở chúng con được bình an và được sống viên mãn. Amen.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, ta dâng Thánh Lễ này để cầu nguyện cho ơn gọi. Ta thành PS 4-C132
Hôm nay, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, ta dâng Thánh Lễ này để cầu nguyện cho ơn gọi. Ta thành khẩn nguyện xin Thiên Chúa sai thêm thợ đến đồng lúa và vườn nho của Người. Thật vậy, rất nhiều nơi thiếu linh mục tu sĩ và thiếu một cách trầm trọng.
Đứng trước nạn thiếu hụt này có hại cho ta chứ không riêng gì người ở nơi ấy, vì toàn thể Giáo Hội chỉ là một thân thể mầu nhiệm và một bộ phận đau yếu phải được mọi bộ phận khác thông cảm và giúp đỡ vì lợi ích chung của toàn thể. Ta phải xin Chúa ban thêm ơn cho giới trẻ ở những nơi đang thiếu linh mục, tu sĩ được nghe biết tiếng gọi của Chúa và của các linh hồn để dấn thân tận hiến đời mình cho sứ mạng cứu thế.
Để được như vậy, ta còn cần phải cầu nguyện sốt sắng hơn nữa để các linh mục, tu sĩ nhiệt thành sống đúng với ơn gọi của mình và làm tốt mọi phận sự Chúa trao phó. Trong thực tế cuộc sống, ta không hiểu được những phấn đấu gay go và khó khăn mà linh mục tu sĩ luôn phải cố gắng trong ơn gọi. Tu sĩ linh mục cần được trợ lực bằng lời cầu nguyện và giúp đỡ cụ thể để vững vàng và nhiệt tình chu toàn sứ mạng. Những thành công của họ sẽ làm vẻ vang cho Hội Thánh và chúng ta, nên chúng ta phải hợp ý với Chúa Giêsu mà cầu nguyện để họ ra đi và mang lại nhiều hoa quả và những hoa quả tồn tại muôn đời.
Là cha là mẹ, ta có nghĩa vụ soi sáng, hướng dẫn con cái ta ngay từ nhỏ đã biết nghĩ đến ơn gọi Phục vụ. Và cùng với những ý nghĩ cũng như lời nguyện trên, ta lắng đọc tâm hồn nghe Lời Chúa hôm nay để hiểu rõ tương quan giữa mục tử và chiên, để giúp mục tử làm tốt ơn gọi của mình và để chiên biết phải cư xử thế nào cho tốt.
Ta đang sống trong tuần lễ mừng kính Chúa Chiên lành. Trình thuật Tin mừng hôm nay từ câu 27 – 30 là trình thuật Tin mừng của Chúa nhật Chúa Chiên lành.
Trong bài Tin mừng, chúng ta thấy người Do Thái đang mong mỏi một Đấng Messia – Đấng sẽ giải phóng họ khỏi ách nô lệ của Đế quốc La Mã; Đấng sẽ mang quyền lực và vinh quang cho dân tộc họ, sẽ làm cho danh họ được rạng rỡ khắp hoàn cầu. Và ông Giê-su kia làm họ thắc mắc: Ông ta giảng dạy như Đấng có uy quyền; Ông ta làm được nhiều điều lạ lùng chữa bệnh, trừ quỷ, thậm chí cho cả người chết sống lại….
Thế nhưng ông ta không có vẻ gì là một chính trị gia, một nhà cách mạng cầm đầu giải phóng dân tộc cả! Vì thế cho nên họ thắc mắc “Ông có phải là Đấng Kitô chăng?” hay ‘Ông làm gì đi chứ!’ Vì thế mà họ trở thành không tin và cứng tin, vì Đức Giêsu không là Messia theo như ý nghĩ mong chờ của họ; Ngài có vẻ là người hòa hoãn, thậm chí lại hay lỗi luật lệ của họ, đặc biệt luật ngày sabát, làm bạn cùng phường thu thuế cùng quân tội lỗi.
Chúa Giêsu biết rõ lòng họ, nhưng câu trả lời của Ngài là: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi ; tôi biết chúng và chúng theo tôi.”
Thật vậy, Chúa Giêsu đích thực là một Messia, nhưng không phải một Messia dùng quyền để thống trị, đàn áp, loại trừ, vì nếu như thế thì Ngài cũng chỉ là một bạo Chúa như những bạo Chúa khác mà thôi; trái lại Ngài là một Đấng chăn chiên nhân lành – một ‘Messia nhân lành’ chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên; những việc làm của Ngài nhân danh Chúa Cha tỏ lộ cho con người biết một Thiên Chúa ‘bao dung, huệ ái, trọn bề nhân nghĩa và giàu lòng thương xót’.
Trong đời sống đức tin, cũng như người Do Thái, nhiều khi chúng ta mong muốn điều này điều kia theo ý mình hơn là ý Chúa; chúng ta lấy lòng ích kỷ của mình để đo lòng Thiên Chúa, nên chúng ta chưa nhận ra được tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho chúng ta cũng như tất cả mọi người “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”(Mt 5, 45b) và có biết bao nhiêu việc lạ lùng, kỳ diệu Chúa làm trong vũ trụ, trong cuộc đời mình mà mình vẫn cứng tin.
Điều này cho thấy rằng có lẽ chúng ta chưa là con chiên của Chúa. Bởi vì chiên của Chúa thì biết “nghe tiếng Chúa”; chúng ta chưa ở trong tương quan tình yêu với Thiên Chúa để có thể nhận ra tiếng nói của Ngài qua Lời Chúa, qua những lời dạy dỗ nhắc bảo của những người có trách nhiệm, qua hoàn cảnh và các sự kiện, biến cố trong cuộc đời – chúng ta chưa ‘biết’ Chúa, (cái ‘biết’ theo nghĩa kinh thánh diễn tả tình yêu thân mật vợ chồng), và chưa theo Chúa.
Và thật sự, nếu chúng ta thuộc đàn chiên của Chúa, nghĩa là chúng ta biết tín thác cuộc đời trong tay Chúa, thì chúng ta sẽ được thừa hưởng lời hứa của Ngài: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời ; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một." Và thật sự, đây là một lời hứa đầy an ủi.
Nếu ta biết sống phó thác cuộc đời cho Chúa như con chiên hoàn toàn lệ thuộc vào chủ chiên, chúng ta sẽ không lo sợ phải hư mất và “không ai cướp được”chúng ta khỏi tay Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha. Được lời hứa bảo vệ từ Thiên Chúa, chúng ta còn sợ gì?
Nhưng rồi nhìn lại thực tế cuộc đời chúng ta rất kém tin, yếu tin, và cứng tin vào Thiên Chúa. Chúng ta tin vào những thế lực của tiền bạc, của cải, danh vọng, địa vị những cái vốn dĩ rất mong manh và chóng qua nên cuộc đời cứ mãi còn băn khoăn, lo lắng và bất an, thiếu hạnh phúc. Không có tiền thì ta lo làm sao cho có được tiền; có được tiền rồi thì lo làm sao để giữ được tiền và có được nhiều hơn…. Làm tôi tiền bạc, chúng ta quên Thiên Chúa; vì Chúa Giê-su đã xác định: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6, 24)
Ta lại xin Chúa cho ta luôn thích và hăng say lắng nghe Lời Chúa, lãnh nhận bí tích và tham gia vào đời sống Hội Thánh để mọi dân mọi nước làm thành một đoàn chiên với một Chúa chiên là Ðức Giêsu Kitô ta.
Bước vào Chúa nhật thứ IV Phục Sinh, chúng ta có dịp đọc lại dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành”. PS 4-C133
Bước vào Chúa nhật thứ IV Phục Sinh, chúng ta có dịp đọc lại dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành”. Phụng vụ mỗi năm trình bày cho chúng ta một khía cạnh. Năm nay, với vỏn vẹn 4 câu (Ga 10, 27-30), cũng đủ làm nổi bật Chúa Giêsu là Mục Tử tốt lành, thí mạng sống mình vì đàn chiên, Người đến để cho chiên được sống dồi dào (c.28), qui tụ tất cả về một đàn chiên duy nhất, Người là Con Thiên Chúa, và cũng chính là Thiên Chúa (c.30).
Chúa là Mục Tử
“Mục tử” là hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của dân du mục vùng Trung Đông, được Chúa Giêsu dùng để diễn tả tương quan “dễ thương” giữa Người và chúng ta. Dân Cựu Ước thường gọi Chúa là mục tử của mình (St 49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v ...), vì khởi đầu lịch sử thánh, dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước tiên là Abraham từ Ur đến Canđê, thứ đến là Môsê, kẻ chăn cừu, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.
Chúa là mục tử đích thực của dân Israel kể từ khi Chúa chọn họ làm dân riêng và hứa không để dân bị phân tán như đàn chiên không người chăn dắt. Chính Chúa chăn dắt dân Chúa: “Này đây Ta chăm sóc chiên Ta” (x. Ed 34). Trách nhiệm mục tử này được trao cho các vị lãnh đạo dân Chúa.
Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
Chúa Giêsu tự xưng “là mục tử tốt lành” (Ga 10, 11). Trong hang toại đạo, người ta tìm thấy hình ảnh Chúa Giêsu với vẻ dịu dàng, trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đàn của chúng để cùng chia sẻ một đồng cỏ xanh tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử và tự ví mình như thế, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn sẵn sàng, “thí mạng sống vì chiên” (Ga 10, 11). Chúa biết chiên, nên hy sinh mạng sống:“Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta” (Ga 10, 27 - 28).
Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu nguyện rằng: “Vì chúng, Con xin hiến thánh mình Con, ngõ hầu chúng được tác thánh cách chân thật” (Ga 17, 19). Khi tự do vâng phục ý muốn Chúa Cha, tự hiến tế mình trên Thập Giá, Người trở thành “Mục tử nhân lành hiến mạng sống vì đoàn chiên” (Ga 10,11). Đúng là Chiên con cứu chuộc đàn chiên mẹ (x. Ca tiếp liên lễ PS ). Bằng tình yêu trao ban, hy sinh và tận hiến, Người hiến tế chính mình làm của ăn của uống cho chúng ta. Đó là lý do hôm nay chúng ta mừng kính Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành vào Chúa nhật thứ IV sau Đại lễ Phục Sinh, nên Chúa nhật này được gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành.
Mục tử tốt lành vác chiên trên vai, ôm chúng vào lòng như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa Giêsu cũng làm như thế: hàng ngày, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống và các bí tích của Hội Thánh, giang cánh ta trên thập giá để thâu họp “con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11,52), đón nhận chúng ta vào lòng nhân ái của Người. Thật là hình ảnh tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài.
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi: tôi có phải là chiên của Chúa không? Nếu phải thì tôi có nghe tiếng Chúa không ? Chúa nói: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta” (Ga 10, 27). Tiếng ở đây chính là Lời Chúa. Tiếng để chúng ta nhận biết Chúa, như Maria Mađalêna đã nhận ra Chúa khi đi viếng mộ Chúa.
Chúng ta có biết Chúa không và nếu biết thì biết thế nào ? “Biết” ở đây, không có nghĩa là “biết” nhờ đức tin, nhưng là “biết” nhờ đức mến. “Biết” được diễn tả qua việc làm, như thánh Gioan viết: “Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2, 4).
Vậy ai nghe, biết và chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với các công dân Nước Trời.
Cầu cho các mục tử
Trong Sứ điệp ngày thế giới cầu cho ơn gọi 2016, Đức Phanxicô viết: “Vào ngày được dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi này, tôi kêu gọi tất cả anh chị em Kitô Hữu hãy ý thức trách nhiệm của mình đối với việc chăm sóc và biện phân các ơn gọi”.
Đức Phanxicô khẳng định, người chăn chiên phải có “mùi chiên”, thì đoàn chiên mới nhận ra. Ngài muốn các mục tử trong Năm Thánh này không được để cho mình thất vọng: “Điều con người ngày nay cần nhất là những chứng từ của chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa, để sưởi ấm con tim, đánh thức niềm hy vọng, và lôi kéo người ta đến với điều thiện” (Trích bài giảng 07/07/2013).
Bằng hình ảnh đó, ngài khuyên các bề trên đừng nhằm đào tạo chỉ dựa trên kỷ luật và giáo thuyết: “Đào tạo là công việc của người thợ thủ công, chứ không phải của người cảnh sát. Chúng ta phải đào tạo những tâm hồn, bằng không, chúng ta đang sản xuất ra những quái vật nho nhỏ. Rồi những quái vật nho nhỏ này lại đào tạo dân Thiên Chúa. Điều đó làm tôi rợn tóc gáy” (Adnkronos, 03/01/2013).
Ngài chỉ trích những cơ cấu Giáo hội ít có khả năng đón tiếp, và những giáo xứ co mình lại trong việc ban phát các bí tích. Theo ngài: “Tòa giải tội không phải là một phòng tra tấn nhưng là nơi của lòng Chúa thương xót…”( Trích Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, 47). Linh mục không phải là một công chức, cũng không phải là người sở hữu những gì của Thiên Chúa, họ chỉ là những máng chuyển mà thôi.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử thân yêu: nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài ! Chúng ta cũng cầu nguyện cho Giáo hội có thêm nhiều linh mục lành thánh.
Lạy Mẹ Maria, mẫu gương ơn gọi của chúng con, Mẹ đã không sợ hãi khi thưa tiếng “xin vâng” trước lời mời gọi của Thiên Chúa, xin đồng hành và dẫn dắt chúng con bước theo con Mẹ. Amen.
. Antôn Nguyễn Văn Độ -------------------------------------
Hình ảnh đàn chiên đi trên những cánh đồng cỏ ranh xì để ăn cỏ và đi tới những dòng suối trong lanh PS 4-C134
Hình ảnh đàn chiên đi trên những cánh đồng cỏ ranh xì để ăn cỏ và đi tới những dòng suối trong lanh để uống là hình ảnh diễn ra hằng ngày ở nước Do Thái, nơi dân chúng nhiều nhà sống bằng nghề nuôi cừu, nuôi chiên. Bức ảnh gây ấn tượng nhất đối với chúng tôi là bức hình vẽ Chúa Giêsu vác một con chiên trên vai và đi theo Ngài là cả một đàn chiên gồm con lớn con bé, chiên đực, chiên cái vv…Bức hình ấy xưa kia, Cha xứ đã treo trong phong khách Nhà xứ và chính bức tranh vẽ ấy đã gây óc tò mò và ấn tượng cho nhiều chú giúp lễ…
Lúc còn là chú giúp lễ, tôi thường vào nhà khách của Nhà xứ để ngắm một số những tranh vẽ mà Cha xứ của chúng tôi, một vị Cha xứ có óc nghệ thuật, nhưng lại là vị Cha rất hiền lành và khiêm nhường. Do đó, các chú giúp lễ chúng tôi không ngại ngùng, không sợ sệt lui tới Nhà xứ, giúp đỡ được Cha xứ hay Nhà xứ việc gì thì chúng tôi sẵn sàng làm. Bức tranh gây ấn tượng và tò mò cho tôi là bức tranh vẽ Chúa Giêsu vác chiên trên trên vai. Chúng tôi đã hỏi Cha xứ, Ngài cắt nghĩa cho chúng tôi rằng:” Chúa là Mục tử nhân lành, vác chiên trên vai và đi theo sau Ngài là cả bầy chiên “. Mục tử là Chúa Giêsu. Chiên là Kitô hữu, người có Chúa, thuộc về Chúa. Người Mục tử hiền lành sẽ dẫn đưa và bảo vệ chiên là người tín hữu bằng chính mạng sống của Ngài. Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân hậu sẽ dẫn đưa chiên của mình
trên những cánh đồng cỏ xanh tươi để chiên tha hồ ăn no nê và sau đó Ngài sẽ dẫn chiên tới uống nước nơi những dòng suối mát như Thánh Vịnh 22 đã viết:” Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi…”. Đức Kitô, Mục tử nhân lành ru chiên mình dưới bóng Cây Sự Sống là Cây Thập giá cứu rỗi Ngài dùng để dẫn đưa con người vào Nước Trời.
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người Mục tử hiền lành đang vác chiên, chăm sóc chiên và hướng dẫn chiên để nói về chính mình. Chiên nghe tiếng chủ và không nghe tiếng kẻ lạ hay kẻ trộm cướp ( Ga 10, 27 ). Chiên nghe tiếng Người vì chiên cảm nhận được tình thương sâu đậm mà Chúa Giêsu dành cho con người, dành cho mỗi người. Thật vậy, Chúa là Mục tử tốt lành, Ngài mời gọi mọi người lắng nghe tiếng của Ngài vì chỉ tiếng của Ngài mới đáng tin cậy, vì Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Tiếng Chúa sẽ quy tụ, hướng dẫn, bảo vệ mọi người chúng ta, dẫn chúng ta tới Thiên Chúa.
Cha xứ đã giải thích cho chúng tôi hay:” Chiên “ là Tín hữu, là Kitô hữu, là Con Thiên Chúa. Cha của Chúa Giêsu đã sai Con một duy nhất của Ngài là chính Ngài đến thế gian để cứu độ thế gian. Do đó, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người, Ngài luôn yêu thương và hướng dẫn, bảo vệ con người. Chúa Giêsu đã lập ra chức linh mục thừa tác để thay mặt Người chăm sóc các tín hữu đang trong cuộc hành trình đức tin hướng về Nước Trời.
Hôm nay, ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu, chúng ta hãy nghe lời Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp nhân ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi lần Thứ 53:” …Ai đã tận hiến cuộc đời mình cho Chúa thì luôn sẵn sàng để phục vụ Giáo Hội ở bất cứ nơi đâu Giáo Hội cần “ và “ Trong những người tham dự vào các hoạt động mục vụ, các linh mục là những người đặc biệt quan trọng. Trong sứ vụ của họ, họ hoàn thiện những lời của Chúa Giêsu đã nói:” Tôi là cửa chuồng chiên…Tôi là Mục tử tốt lành” (Ga 10,7.11 ). Việc chăm sóc mục vụ ơn gọi là một phần cơ bản của sứ vụ của các linh mục.Các linh mục đồng hành với những ai đang biện phân về ơn gọi của họ, cũng như những ai đã tận hiến cuộc đời của mình để phục vụ Thiên Chúa và của cộng đoàn.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho Giáo Hội có nhiều Mục tử tốt lành theo lòng Chúa mong ước và cũng xin cho mọi người tín hữu biết lắng nghe tiếng nói của các chủ chiên, để càng ngày càng yêu mến Giáo Hội. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Mục tử tốt lành khác với người làm thuê như thế nào ? 2.Chiên ở đây có nghĩa là gì ? 3.Chiên tôi thì nghe tiếng tôi nói lên điều gì ? 4.Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi là ngày gì ? 5.Vai trò các linh mục trong việc đào tạo ơn gọi ?
Nói đến mục tử và đàn chiên, hẳn người Công Giáo không còn cảm thấy xa lạ về khái niệm và cách PS 4-C135 Dalat
Nói đến mục tử và đàn chiên, hẳn người Công Giáo không còn cảm thấy xa lạ về khái niệm và cách gọi. Tuy nhiên, để hiểu và biết cách thấu đáo, có lẽ chưa được chính xác, thiết thực cả về vai trò mục tử lẫn bổn phận của con chiên! Vì thế, Giáo Hội mỗi năm một lần, dành riêng Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh, để mời gọi mọi thành phần ý thức về sứ vụ của mình trong vai trò và nhiệm vụ riêng biệt, ngõ hầu làm toát lên những nét tiêu biểu của vai trò mục tử và đàn chiên.
Để làm sáng tỏ bản chất thiêng thánh, chúng ta cần khởi đi và bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, vị Mục Tử Tối Cao, nhất là vai trò, sứ vụ Mục Tử nơi Thầy Giêsu.
Thiên Chúa là Mục Tử của dân Người
Hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành, đầy lòng thương xót được khởi đi từ thời Cựu Ước, qua việc Thiên Chúa luôn chăm sóc, giữ gìn và bảo vệ dân của Người. Thánh Vịnh 23 đã thốt lên niền vinh dự và an tâm khi được Thiên Chúa bảo vệ: “Đức Giavê là Mục Tử tôi. Tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đem. Tôi cũng không hề lo sợ” (x. Tv 23,1-6). Qua sự cảm nghiệm trên, tác giả Thánh Vịnh cho thấy: Giavê Thiên Chúa trở thành Mục Tử của dân Israel, Người yêu thương và chăn dắt dân của Người.
Hình ảnh và sứ mạng của người mục tử cũng được trao phó cho các vị lãnh đạo thời bấy giờ, để họ thay quền Thiên Chúa, lo quản trị, nhắc nhở và nêu gương sáng cho dân.
Tuy nhiên, thật đáng buồn vì các mục tử thời đó đã làm cho dân phải đau đớn vì họ không sống đúng vai trò của mình! Điều này đã được Tiên tri Ezekiel quở trách thật nặng nề: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên... Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng... Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi... Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng” (x. Ez 34,2-4.9-10.23).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu đã trở thành hiện thân Mục Tử mà Cựu Ước đã tiên báo. Nhưng về cung cách thì hoàn toàn khác. Vì thế, chính Ngài đã tuyên bố: “Tôi là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (x. Ga 10, 27); “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10, 10), chứ không như những mục tử chỉ biết lo cho mình mà không đoái hoài đến đàn chiên đã được trao phó.
Quả thật, suốt cuộc đời, Đức Giêsu luôn chú tâm đến việc dạy dỗ, chữa lành, băng bó những con chiên đau ốm, ghẻ lở; dẫn về những con chiên đi lạc; phục hồi những con mất nhân cách; và cuối cùng, hiến tế chính mình cho chiên, để chúng được sống trong niềm vui và hạnh phúc viên mãn. Qua sự hiến dâng như thế, Đức Giêsu đã trao ban chính sự sống thần linh, tức là sự sống đời đời cho chiên của mình (x. Ga 10,28).
Như vậy, nơi cuộc đời và sứ vụ, Đức Giêsu đã phản ánh rõ nét Lòng Thương Xót của chính Thiên Chúa ngang qua lòng dạ nhân từ, bao dung và tha thứ của Ngài.
Kết thúc cuộc đời tại thế, Đức Giêsu đã trao phó vai trò mục tử cho các Tông đồ và những người kế vị. Để hành vi thương xót của Thiên Chúa ngang qua đời sống và cung cách của các vị trung gian được tiếp tục tiếp diễn cho đến ngày mọi người đều có một Chủ Chiên duy nhất là chính Thiên Chúa và tất cả đều là anh em trong một đàn chiên.
Sứ vụ, vai trò của các mục tử trong Giáo Hội
Khi nói đến vai trò mục tử trong Giáo Hội, chúng ta nghĩ ngay đến các giám mục, linh mục, phó tế... Các ngài được lãnh nhận sứ vụ này ngang qua Giáo Hội, để ra đi thi hành bổn phận mà Thầy Giêsu đã làm khi xưa.
Sứ mạng ấy chính là quyền lãnh đạo, giáo huấn và thánh hóa. Tuy nhiên, gương sáng và sự dấn thân sống hết mình vì đàn chiên là điều được đề cao đến nỗi nếu không có chiều kích này, thì việc lãnh đạo, giáo huấn và thánh hóa trở nên một thể chế thuần tục không hơn không kém!
Khi đề cập đến sứ vụ mục tử, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh: các mục tử ngày nay không chỉ lo lắng thuần túy về cơ cấu, nhưng còn phải “ngửi thấy mùi chiên”; và “phải mang mùi chiên đó vào mình”. Thật vậy, nếu không “ngửi” và mang “mùi” của chiên nơi mình, có lẽ ranh giới giữa mục tử và kẻ chăn thuê hay cướp bóc chỉ cách nhau gang tấc! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó những vị mục tử luôn nóng nảy, dọa nạt vô cớ; cư xử phân loại; sống theo hiệu ứng đám đông; hay chỉ biết chăm chút mũ mão cân đai cho chính bản thân, lo củng cố địa vị và uy tín ngang qua những công trình sang trọng hay những buổi lễ hội... Khi lựa chọn như thế, ấy là lúc những mục tử đang có xu hướng “ngoại tình” với những “mục đích rẻ tiền” mà quên đi sứ vụ cao trọng!
Nguyên nhân dẫn đến thảm trạng đau buồn này chính là không tin phục và chẳng sống theo mẫu gương Thầy Giêsu; luôn để cho lòng tự nãm, kiêu căng, vụ lợi, ích kỷ, hèn nhát, thiếu tình thương chỉ đạo, nên chỉ biết lo cho bản thân mà không màng chi đến sứ vụ!
Nếu là mục tử thuộc về Thầy Giêsu, noi gương Đấng Giàu Lòng Thương Xót, thì lòng dạ các ngài sẽ không yên khi còn đó biết bao con người khắc khoải, đói khát, bần cùng, tỗi lỗi... đang ngày đêm kêu van thống, để chỉ mong sao những bước chân của những mục tử dám đi ra “bên lề”, tiến vào những vùng “ngoại biên” để cứu giúp họ, ngõ hầu những con chiên đen đủi, bất hạnh này được bàn tay nhân ái của những mục tử nhân lành chạm vào tâm hồn họ, để tâm hồn chiên lạc và khổ đau được nóng và sáng lên nhờ cảm nghiệm được sự an bình thư thái...
Làm được điều đó, các vị mục tử mới thực sự là người thay mặt Chúa để trả lời và mang lại cho con người hôm nay niềm hy vọng mà xã hội trần thế không làm được.
Kitô Hữu là con chiên trong đàn chiên của Chúa
Còn với chúng ta, trong ngày lễ hôm nay, mỗi người hãy thực sự nhìn lại tư cách chiên của mình, để thấy được tình trạng tâm hồn trong tương quan với Vị Mục Tử Giêsu, Đấng mà chúng ta thật vinh dự khi được trở thành con chiên của Ngài ngày lãnh Bí tích Rửa Tội.
Vì thế, với tư cách là thành phần trong đàn chiên của Chúa, điều kiện tiên quyết, đó là phải tin tưởng và phó thác cuộc đời, vận mệnh, hiện tại và tương lai cho Vị Mục Tử Tối Cao, để được núp dưới cây gậy mục tử nhân lành của Ngài.
Thứ đến là: lắng nghe Lời của Ngài, để: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta" (Ga 10,27), ngõ hầu Lời Chúa trở thành nguồn suối mát, đồng cỏ xanh nuôi sống tâm hồn chúng ta.
Tiếp theo là đi theo, gắn bó mật thiết như hình với bóng, để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong tâm tư, hành động, lời nói.
Cuối cùng, sống chứng nhân lòng thương xót của Thiên Chúa cho anh chị em, nhất là ngang qua nghĩa cử, lòng nhân ái của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, xin cho các chủ chăn trong Giáo Hội hôm nay biết phản chiếu lòng thương xót của Chúa cách trung thực. Xin cho chúng con trở thành con chiên ngoan hiền để tận hưởng nguồn hoan lạc của đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mắt dưới bóng cánh và cây gậy mục tử của Chúa. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 10:27-30)
Mối tương quan sống động là tương quan được biểu lộ qua những hành động của một tình yêu. Các PS 4-C136
Mối tương quan sống động là tương quan được biểu lộ qua những hành động của một tình yêu. Các động từ của tình yêu thì nhiều vô kể. Bài Tin Mừng hôm nay diễn tả một mối tương quan hết sức lạ lùng đã được Chúa Giê-su sử dụng để nói lên mối liên hệ giữa Chúa và chúng ta: tương quan giữa chiên và mục tử. Vậy các hành động của tình yêu giữa mục tử và chiên là những hành động nào trong bài Tin Mừng rất ngắn gọn này?
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”. Tiếng nói luôn có một nét đặc biệt, nhờ đó chúng ta phân biệt được người này với người khác. Nếu là tiếng của người chúng ta yêu thương, thì dù ở giữa đám đông cả ngàn người, chúng ta vẫn có thể nhận ra được khi người ấy lên tiếng. Con người đã vậy, mà ngay đến loài vật cũng có thể phân biệt được. Thí dụ, một con chó có thể phân biệt được tiếng xe khi chúng ta về gần tới nhà, chứ đừng nói tới chính tiếng nói của chúng ta. Vì thế, chiên có thể nghe và nhận ra tiếng của mục tử là chuyện bình thường.
Nhưng nghe có nhiều mức độ. Đáp lại việc chiên nhận ra mình, mục tử cũng có thể nhận ra tiếng của từng con chiên một. Biết đâu anh ta còn đặt cho mỗi con chiên một biệt danh để tỏ lòng quyến luyến! Do đó, mục tử và chiên có thể tiến tới một mức độ tương quan sâu xa hơn, đó là “tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Biết và theo là hai hành vi hỗ tương. Càng biết thì càng gắn bó và theo sát hơn. Chính vì thế, trong suốt Tuần II Linh Thao, thánh I-nhã Loyôla luôn khuyên ta mỗi khi suy gẫm hãy xin cho được biết Chúa nhiều hơn, để yêu mến Người nồng nàn hơn và theo Người sát hơn.
“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”. Tương quan tình yêu là cho và nhận. Người ta chọn lựa những gì quý giá nhất để cho và trân trọng những gì mình nhận được. Vậy Chúa Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, còn điều nào quý hơn là sự sống đời đời để ban cho chúng ta? Chúa là Đấng hằng sống, nên Người cũng muốn chúng ta được sống đời đời, để chúng ta được ở bên Người vĩnh viễn. Ở bên Chúa đời đời cũng đồng nghĩa với không bao giờ phải diệt vong và không thể bị cướp đi khỏi tay Chúa.
Tuy nhiên, ai sẽ bảo đảm cho mối tương quan mật thiết giữa mục tử và đàn chiên được vững bền và không bao giờ bị mai một? Đừng lo! Chúa Giê-su đã bảo đảm với chúng ta: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả”. Chúa khẳng định với chúng ta chân lý ấy, là không có sức mạnh nào mạnh hơn Chúa Cha, là Chúa Cha luôn trung thành trong lời hứa bảo vệ chúng ta. Khi nói Chúa Cha lớn hơn tất cả là Chúa Giê-su muốn chỉ cho chúng ta thấy quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa Cha khiến muôn loài muôn vật trên trời, dưới đất hay ngoài biển cả, đều phải phục tùng Người (Thánh Vịnh 103:19-22).
Sau cùng, Chúa Giê-su mở rộng chân trời của mối tương quan mục tử-đàn chiên, khi Người khẳng định: “Tôi và Chúa Cha là một”. Nói thế, Chúa Giê-su đã nhắc nhở ta về sự hiện diện không thể thiếu của Chúa Cha trong mối tương quan ấy. Người và Chúa Cha là một, nên Người yêu thương chúng ta tức là Chúa Cha yêu thương chúng ta. Người chăm sóc chúng ta tức là Cha trên trời chăm sóc chúng ta. Cảm tạ Chúa Giê-su đã mở ra chân trời mới cho mối tương quan giữa chúng ta với Người!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Được làm con chiên của Chúa và sống trong tình yêu của Vị Mục Tử Nhân Lành là một hồng ân quá lớn lao chúng ta không sao đền đáp nổi. Mà tại sao phải đền đáp? Chúa chỉ cần chúng ta đáp lại bằng tình yêu nhỏ bé của chúng ta thôi. Giống như những tín hữu tại An-ti-ô-ki-a, chúng ta hãy đáp lại tình yêu Chúa bằng cách “gắn bó với ơn Thiên Chúa”. Nói khác đi, ta chỉ cần sống sao cho xứng đáng là con Thiên Chúa, vì Người đã kêu gọi chúng ta qua Chúa Giê-su và ban cho chúng ta lời hứa sự sống đời đời. Cách thực tế nhất để gắn bó với ơn Thiên Chúa, là ta hãy thực hiện những hành động của mối tương quan mục tử và chiên: lắng nghe Chúa và bước theo Người. Người sẽ dẫn chúng ta đến sự sống đời đời!
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 10:27-30)
Bài Tin Mừng hôm nay vỏn vẹn có bốn câu, diễn tả một khía cạnh hết sức độc đáo về mối tương PS 4-C137
Bài Tin Mừng hôm nay vỏn vẹn có bốn câu, diễn tả một khía cạnh hết sức độc đáo về mối tương quan giữa mục tử nhân lành và con chiên: Mục Tử Nhân Lành ban cho con chiên sự sống đời đời và bảo đảm không ai cướp được chiên khỏi tay mình.
Trước hết, đọc Tin Mừng Gio-an, chúng ta thấy những điều Chúa Giê-su khẳng định vừa kể trên không nằm trong mạch văn của diễn từ về vị Mục Tử nhân lành, nhưng trong một dịp sau đó khi Người xưng mình là Thiên Chúa để trả lời những người Do-thái muốn biết rõ Người là Đấng nào. Tuy ở trong hai tình huống khác nhau, nhưng ý tưởng của Chúa Giê-su lại là một, tức là về quan hệ giữa Người và chúng ta: đối với chúng ta, Chúa Giê-su vừa là vị Mục Tử nhân lành vừa là Thiên Chúa.
Thực vậy, ngoài Thiên Chúa ra, ai có thể ban cho chúng ta sự sống đời đời để không bao giờ chúng ta phải diệt vong, và ai có quyền năng để bảo vệ chúng ta không khi nào bị cướp đi? Khi kết luận với những chân lý này, Chúa Giê-su đã nói lên mục đích của tất cả những gì vị Mục Tử nhân lành đã làm cho chiên của mình: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (10:10). Được sống và sống dồi dào (sống đời đời) là mục đích duy nhất Chúa Giê-su muốn nhắm tới. Chúng ta thử nhìn lại từ đầu diễn từ của Chúa Giê-su để nhận ra mục đích trên.
Chúa Giê-su gọi tên từng con chiên và dẫn chúng ra. Những hành động gọi tên và dẫn đi diễn tả tình yêu thương đặc biệt Chúa dành cho từng người chúng ta. Mỗi người chúng ta đã gắn liền với sự sống của chính Chúa qua việc Người “gọi tên” chúng ta. Người chăm sóc cho sự sống của những ai thuộc về Người, cho nên Người mới “dẫn” chúng ta để chúng ta khỏi gặp nguy hiểm.
Chúa Giê-su là cửa chuồng chiên. Cửa chuồng chiên rất quan trọng đối với sự sống của con chiên. Cửa mở ra ban ngày để chiên được dẫn đi tới đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát. Cửa đóng vào ban đêm để ngăn ngừa dã thú, kẻ trộm và kẻ cướp, hầu bảo vệ sự sống của con chiên. Nhưng cũng chính cửa ấy là để “ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu”, tức Chúa Giê-su là cửa cứu độ để chúng ta qua đó mà bước vào cuộc sống đời đời.
Chúa Giê-su hy sinh mạng sống mình cho chiên. Điều này đã được thực hiện khi Người chết trên thập giá để đem chúng ta từ cõi chết do tội lỗi đến sự sống mới của con cái Thiên Chúa. Việc hy sinh mạng sống này là tự nguyện, vì động lực hy sinh là do tình yêu Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúa Giê-su không bỏ chạy khi gặp “sói” của đau khổ, cực hình và cái chết tủi nhục trên thập giá, trái lại, Người đã quảng đại hiến thân và can đảm chấp nhận, để cướp chúng ta ra khỏi móng vuốt của tội lỗi và tử thần.
Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Rõ ràng đây là mục đích của việc vị Mục Tử nhân lành đến trần gian. Bằng mọi giá, Người muốn đưa chúng ta về với Chúa Cha, để thực hiện kế hoạch yêu thương của Chúa Cha, là “không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Nói lòng vòng rồi cuối cùng chúng ta vẫn được dẫn về tâm điểm của sứ điệp Tin Mừng, tức là chân lý “Thiên Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gio-an 3:16).
Sống sứ điệp Tin Mừng
Tình yêu Thiên Chúa đã được biểu lộ qua hình ảnh Mục Tử nhân lành là Chúa Giê-su. Có lẽ chúng ta hầu hết gặp khó khăn khi suy ngắm tình yêu của Thiên Chúa, một đề tài xem ra quá trừu tượng và lý thuyết. Nhưng Chúa Giê-su đã cho chúng ta một bí quyết: Tôi và Chúa Cha là một! Như vậy, hình ảnh và sự chăm sóc của Mục Tử nhân lành là Chúa Giê-su đã cụ thể hóa tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta đã được Người ban cho sự sống. Chúng ta được Người giúp sống sự sống ấy dồi dào. Nhất là chúng ta được bảo đảm sẽ được sống đời đời và không gì có thể cướp chúng ta khỏi tay Người. Chỉ còn một điều chúng ta phải làm, là hãy “nghe” tiếng Người và “theo” sự dẫn dắt của Người!
Tôi vừa đi Đà Nẵng dự lễ an táng của một linh mục, một mục tử. Vị linh mục vừa mới qua đời đã noi ĐàNẵng
Tôi vừa đi Đà Nẵng dự lễ an táng của một linh mục, một mục tử.
Vị linh mục vừa mới qua đời đã noi gương Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành. Ngài biết những tiếng kêu than đau khổ của con chiên, và ra sức bảo vệ đàn chiên khỏi bị những bàn tay độc ác cướp giật.
Một linh mục đạo đức và khôn ngoan. Biêt bao đời Đức cha muốn đặt ngài làm cha sở Nhà Thờ Chính Tòa, làm cha Tổng Đại Diện. Ngài đều từ chối, để được ở với những giáo xứ nhà quê, những giáo xứ nghèo.
Cả một khu vực rộng lớn chỉ có một mình ngài. Ngài chịu khó sắp xếp để hằng tuần các nơi đều có thánh lễ. Đoàn chiên có Lời Chúa và Bánh hằng sống.
Không những để doàn chiên có Lời Chúa và có Bánh hắng sống, mà còn có niềm vui để vượt qua những đau thương thử thách. Vì như chúng ta biết sau năm 1975, khu vực Miền Trung gặp nhiều thử thách. Nhiều giáo dân đã phải vào Nam để sinh sống, để giũ đức tin. Giáo phận Xuân Lộc đông đúc giáo dân, thêm nhiều giáo xứ là nhờ giáo dân Miền Trung trốn vào lánh nạn.
Nhiều nhà thờ không còn những giáo dân có máu mặt, không còn những thanh niên nam nữ trẻ tuổi. Ca đoàn không còn người, hội đoàn không còn hội viên.
Ngày Tết hay ngày lễ, nhìn đoàn người đón xe về ăn Tết, về mừng lễ, chúng ta mới thấy được giáo hội Miền Trung giầu thử thách, nhưng nghèo tiền của, nghèo nhân sự.
Sau năm 1975, biết bao nhà thờ ở nhiều nơi bị trưng thu làm nhà kho, làm trường học. Khu vực của vị linh mục mới qua đời cũng chịu tình trạng đó, song ngài cũng cố gắng để sửa sang lại 13 nhà thờ.
Ngài còn biết chia sẻ. Sau năm 1975, tôi được sai về một xứ đạo bị bỏ hoang cả 11 năm, từ 1964 đến 1975. Nhà thờ và nhà xứ là đống gạch vụn, một đám cỏ hoang. Ngài đã giúp tôi xây dựng lại.
Từ năm 1972, mùa hè đỏ lửa, đến mãi năm 2009, 37 năm sống chết với đoàn chiên. Năm 2009, 75 tuổi, tuổi về hưu, Đức cha cũng chưa cho về. Ngài xin về ở một nhà thờ nhỏ ở tận cùng ranh giới của giáo phận. Ngài sửa lại nhà thờ, sửa lại nhà xứ.
Sau 4 năm sửa sang tạm xong, năm 2013, ngài làm đơn xin về hưu, thì Chúa gọi ngài về.
Khi ngài nằm xuống, nhìn những người giáo dân từ trên núi xuống, từ dưới biển lên, từ đồng bằng đến, vây quanh thi thể ngài; không chỉ khóc mà còn gào khóc, như những đứa con mất cha mất mẹ. Thế mới hiểu được thế nào là người mục tử nhân lành, và người giáo dân cần những mục tử nhân lành biết bao !
BTM: BTM thánh lễ hôm nay đã diển tả cuộc đời mục tử của Chúa Giêsu: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng nghe tiếng tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 7-28).
Bđ1: Bđ1 hôm nay, sách Công Vụ Tông Đồ, đã kể cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên của thánh Phaolô. Thánh Phaolô cùng với thánh Banaba từ Antiokhia ở nước Syri vượt đại dương tới đảo Chypre, tức là quê hương của thánh Banaba. Rồi từ đảo Chypre, hai ngài lấy tầu tới Pec-ghê, từ Pecghê tới Antiôkhia của miền Tiểu Á, nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Tại Antiôkhia hai ngài bị người Do thái chống đối và bị trục xuất. Nhưng hai ngài không nản chí, vẫn đi tiếp tới Icôniô, tới Đéc-bê. Cuối cùng quay trở lại Antiôkhia của Syri. Dầu vất vả và chống đối, bđ1 kết thúc: “Các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần” (Cv 13,52).
Bđ2: Có lẽ Chúa đã thấy ngài chu toàn nhiệm vụ mục tử, Chúa gọi ngài về để hưởng phúc, như thánh Gioan trong bđ2, sách Khải Huyền, hôm nay mô tả: “Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm lá thiên tuế. Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo của mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,9.14).
Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, ơn gọi tu sĩ, ơn gọi thợ làm vườn nho cho Chúa. Chúng ta biết vườn nho của Chúa càng ngày càng ít thợ. Chúng ta xin Chúa thổi Thánh Thần Chúa vào từng gia đình, từng tâm hồn, để có người, có gia đình đáp lại tiếng Chúa gọi, và có nhiều người nhiệt thành làm việc cho vườn nho của Chúa.
Hôm nay là chúa nhật 4 phục sinh. Bài Phúc âm là dụ ngôn “Người Mục Tử Nhân Lành”. Chúa Giêsu PS 4-C139
Hôm nay là chúa nhật 4 phục sinh. Bài Phúc âm là dụ ngôn “Người Mục Tử Nhân Lành”. Chúa Giêsu là người mục tử nhân lành, yêu thương đàn chiên. Chính ý nghĩa ấy, mà Giáo hội lấy chúa nhật hôm nay làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi, cho ơn gọi linh mục và tu sĩ, để Giáo hội có hiều linh mục và tu sĩ coi sóc các đàn chiên.
Thánh giáo hòang Piô X, khi được làm giám mục, ngài về quê thăm mẹ. Ngài đưa bàn tay ra như khoe chiếc nhẫn giám mục. Ngài nói : “Mẹ coi chiếc nhẫn giám mục của con đẹp không ?”. Bà mẹ đưa mắt nhìn chiếc nhẫn giám mục của con, sau đó bà đưa bàn tay nhăn nheo của tuổi già của bà ra và bà nói : “Chiếc nhẫn giám mục của con đẹp lắm. Nhưng con sẽ không có chiếc nhẫn đẹp đó, nếu không có chiếc nhẫn cưới của mẹ đây !”
Câu chuyện rất đon sơ, nhưng chứa đựng một chân lý rất sâu sắc. Chân lý đó được nhà văn Pháp Réné Bazin diễn tả vắn tắt như sau : “Có những người mẹ có tâm hồn linh mục và các bà thường truyền tâm hồn linh mục ấy cho con cái.” Đúng vậy, không thể có linh mục tu sĩ, nếu cha mẹ không có tâm hồn linh mục tu sĩ.
Ai trong chúng ta cũng biết thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Cha mẹ ngài là ông Louis Martin và bà Marie Gúerin. Ông muốn đi tu. Ông trèo lên núi gõ cửa tu viện Bernard. Ở được ít ngày cha bề trên cho về, vì cha thấy ông Louis kém tiếng Latinh. Bà Marie Gúerin cũng đến gõ cửa nữ tu viện Vinh sơn Phaolô. Bà chẳng được ở một ngày. Bà bề trên vừa thấy bà đã nói bà không có ơn gọi, vì bà bệnh tật ốm yếu Bà ra về, lòng thầm ước nguyện : “Lạy Chúa, con không đáng làm bạn trăm năm với Chúa. Con xin vui lòng làm bạn với người trần mà Chúa muốn. Xin Chúa ban cho con sinh được nhiều con. Con sẽ hiến dâng cho Chúa hết trong đời tu.”
Hai ông bà làm lễ cưới tại nhà thờ Đức Bà Alecon, vào ngày 13-8-1858, gần ngày lể Đức Mẹ lên trời. Đêm đó, ông Louis thỏ thẻ bên tai bà Marie : “Này em, con chúng mình sinh ra sẽ thể hiện ước mơ mà hai chúng mình ngày trước đã mơ ước mà không thành.” Bà vui sướng rưng rưng nước mắt, không ngờ cả hai cùng một nguyện ước. Hai ông bà sinh được 9 người con : 7 gái và 2 trai, nhưng chết 4 còn 5. Cả 5 cô gái đều đi tu.
Trong chuyến viếng thăm nước Pháp. Ngày 5-10-1986 Đức giáo hòang Gioan-Phaolô II đã tới Lyon để phong chân phước cho cha Chevrier. Khi mang thai cha, mẹ cha luôn luôn cầu nguyện cho cha trở thành linh mục. Cứ mỗi ngày thứ bảy, bà đều leo lên núi, đến Đền Đức Mẹ, dâng đúa con trong bụng cho Đức Mẹ. Bà cẩn thận đến nỗi sọan một lời nguyện để mỗi thứ bảy lên Đền cầu khẩn Đức Mẹ :
Lạy Đức nữ đồng trinh Maria Mẹ rất là thánh thiện Con của con cũng là con của Mẹ Con trao phó con con cho Mẹ Nếu sau này nó khohg làm tôi Mẹ hết lòng Xin Mẹ thương đưa con con về với Mẹ Ngay sau khi nó được rủa tội.”
Trong lịch Công giáo, Chúa nhật IV Phục sinh hôm nay gọi là “Chúa nhật Chúa chiên lành”. Lời PS 4-C140
Trong lịch Công giáo, Chúa nhật IV Phục sinh hôm nay gọi là “Chúa nhật Chúa chiên lành”. Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay sẽ cho chúng ta biết Chúa thật là vị mục tử nhân lành.
Bài Tin Mừng : Bài TM của thánh lễ là dụ ngôn “Vị mục tử nhân lành”. Trước khi kể dụ ngôn này, thánh Gioan đã kể phép lạ Chúa Giêsu chữa anh mù từ thuở mới sinh. Các nhà lãnh đạo Do thái đã không tin là Chúa Giêsu chữa lành. Thậm chí đã tra vấn anh và cả cha mẹ anh, vậy mà họ vẫn không tin. Khi nghe anh mù tin nhận Chúa thì họ trục xuất anh khỏi cộng đoàn Do thái, khỏi đàn chiên của họ. Nghe nói những nhà lãnh đạo Do thái trục xuất anh, Chúa Giêsu đã đến gặp anh, và nhận anh vào đàn chiên của Người (Ga 9,1-40).
Khi kể dụ ngôn “Người chăn chiên nhân lành”, sau phép lạ chữa anh mù, thánh Gioan muốn nói rằng : các nhà lãnh đạo Do thái không phải là người chăn chiên thật. Họ chỉ là kẻ trộm : “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy” (10,10, chỉ là kẻ làm thuê : “Người làm thuê, không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên” (10,12-13).
Còn Chúa Giêsu mới là mục tử nhân lành đích thực. Người biết chiên của Người : “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (10,14), Người chăm lo và hy sinh cho chiên : “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,15), Người còn đem các chiên khác về đàn : “Tôi còn những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về” (10,16).
Thánh Gioan còn cho biết : Chúa Giêsu chữa anh mù và nói dụ ngôn “Người chăn chiên nhân lành” vào dịp lễ Cung Hiến Đền Thờ Giêrusalem. Lễ này được mừng vào giữa tháng 12, mùa đông. Lễ kéo dài 9 ngày. Gốc tích ngày lễ là năm 164 trước Chúa giáng sinh, sau khi đánh đuổi được quân xâm lược của vua An-ti-ô-cô nước Sy-ri ra khỏi nước, anh em ông Giuđa Mác-ca-bê đã thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem. Sách Máccabê kể : “Bấy giờ ông Giuđa và các anh em nói : ‘Này kẻ thù của chúng ta đã bị đập tan, chúng ta hãy lên thanh tẩy và cung hiến Nơi Thánh” (1Mcb 4,36).
Trong lễ này người ta đọc đoạn sách ngôn sứ Êdêkien, đoạn sách hạch tội các mục tử nhà It-ra-en : “Khốn cho các mục tử Ítraen, những kẻ chỉ biết lo cho mình…Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Eâd 34,2-3). Rồi Chúa nói : “Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta. Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên…Chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta…Con nào bị mất Ta sẽ đi tìm, con nào đi lạc Ta sẽ đưa về, con nào bị thương Ta sẽ băng bó, con nào bệnh tật Ta sẽ làm cho mạnh…Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử chăn dắt chúng” (Ed 34,10.16.23).
Chúa Giêsu chính là vị mục tử Thiên Chúa cho xuất hiện. Chúa Giêsu nói : “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi” (10,29). Chẳng những Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến, mà còn là Thiên Chúa : “Tôi và Chúa Cha là một” (10,30). Chính vì vậy, tình liên đới giữa Chúa Giêsu và các con chiên không chỉ ở trên bình diện con người với con người, mà còn ở trên bình diện Thiên Chúa với con người : “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha” (10,14-15).
Bài đoc 2 : Nhờ lòng nhân lành của Chúa chiên Giêsu, hy sinh mạng sống cho đoàn chiên, mà nhân loại nhận được ơn cứu độ. Bđ 2 trong sách Khải huyền viết : “Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên (Kh 7,9). Biết bao con chiên đã được : “Giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (7,14). “Họ đứng trước ngai”, tức là họ được chỗi dậy, được phục sinh. “Họ mặc áo trắng” tức là họ được sạch tội. “Tay cầm nhành lá thiên tuế”, tức là họ đã chiến thắng “khi trải qua cơn thử thách lớn lao”.
Bài đọc 1 : Ơn cứu độ của Chúa chiên Giêsu thể hiện rõ ràng trong cuộc đời thánh Phaolô. Từ một người bắt đạo trở thành người giảng đạo, từ một con chiên xa đàn trở thành chủ đàn chiên. Thật đúng như Thiên Chúa đã nói : “Con nào bị mất Ta sẽ đi tìm, con nào đi lạc Ta sẽ đưa về, con nào bị thương Ta sẽ băng bó, con nào bệnh tật Ta sẽ làm cho mạnh…Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử chăn dắt chúng”.
Bđ1 hôm nay, sách Công Vụ Tông Đồ đã kể cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên của thánh Phaolô. Thánh Phaolô cùng với thánh Banaba từ Antiokhia ở nước Syri vượt đại dương tới đảo Chypre, tức là quê hương của thánh Banaba. Rồi từ đảo Chypre, hai ngài lấy tầu tới Pec-ghê, từ Pecghê tới Antiôkhia của miền Tiểu Á, ở nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Tại Antiôkhia hai ngài bị người Do thái chống đối và bị trục xuất. Nhưng hai ngài không nản chí, vẫn đi tiếp tới Icôniô, tới Đéc-bê. Cuối cùng quay trở lại Antiôkhia của Syri. Dầu vất vả và bị chống đối, bđ1 kết thúc : “Các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần” (Cv 13,52).
Thánh Phaolô, thánh Banaba cũng như các thánh tông đồ khác, đã noi gương Chúa, là những vị mục tử nhân lành, hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.
Các vị mục tử Việt Nam thời Giáo hội khai sinh cũng thế. Các ngài vừa nhiệt tâm vì Nhà Chúa, vừa hy sinh cho đoàn chiên, như thánh linh mục Philipphê Phan Văn Minh, quê Cái Mơn, Vĩnh Long. Sau khi được Đức cha Cuenot Thể phong chức linh mục tại Gia Hựu, Qui Nhơn, cha về Miền Nam coi sóc các họ đạo ở Tiền Giang và Hậu Giang. Ngày 26-2-1853, đang trú ẩn ở nhà ông trùm Lựu tại họ đạo Mặc Bắc, cha bị bắt. Lúc đầu họ mới bắt được ông trùm Lựu, chưa bắt được cha. Nhưng vì sợ có hại cho gia đình ông trùm, cha đã ra đầu thú. Họ trói và bắt cha đeo gông giải về Vĩnh Long. Sau 4 tháng tù đày, ngày 3-7-1853 cha bị chém đầu tại Cái Sơn Bé, bên giòng sông Long Hồ.
Hôm nay, Giáo hội cũng muốn mọi người cầu nguyện cho chúng tôi, những linh mục. Chúng tôi cần lời cầu nguyện của anh chị em, chỉ vì chúng tôi cũng yếu đuối và có nhiều nết xấu, làm buồn lòng Chúa và làm khổ đàn chiên. Mỗi ngày thứ năm, vào cuối lễ, nghe anh chị em hát cầu cho các linh mục, tôi xúc động về lòng qúi mến linh mục của anh chị em, đồng thời cũng hổ thẹn vì đời sống linh mục bất xứng của mình.
Hôm nay, chúng ta cũng cầu nguyện cho có nhiều thanh thiếu niên, quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa, để coi sóc đoàn chiên Chúa. Hãy tưởng tượng một đàn chiên không có người chăn dắt. Biết bao là tai hại. Lúa chín đầy đồng. Xin Chúa sai nhiều thợ đến gặt lúa.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Chiên tôi thì nghe tiếng tôi”. Bài Tin Mừng mở đầu bằng câu nói có vẻ tầm thường, nhưng thật PS 4-C141
“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi”. Bài Tin Mừng mở đầu bằng câu nói có vẻ tầm thường, nhưng thật quan trọng. Để biết quan trọng như thế nào chúng ta thử nghe một câu truyện lịch sử thế giới sau đây:
Đại Văn Hào Lêon Tolstoi nổi tiếng nhất nước Nga đã viết một tác phẩm tựa đề: Chiến Tranh và Hòa Bình, ông mô tả lại những chiến công hiển hách của Đại Đế Napolêon, một thiên tài xưa nay chưa từng có (1769-1821). Hầu như ông đã làm bá chủ Châu Âu, quân của ông bách chiến bách thắng. Chỉ còn chiếm thủ đô nước Nga là xong. Ông kéo năm trăm nghìn quân hùng tướng mạnh, chỉ trong vòng một tháng đã đánh chiếm thủ đô Moscow. Thế là xong. Sĩ quan, binh sĩ của ông reo hò ăn mừng như chiếm được thiên đàng trần gian. Thế là quan quân tha hồ hôi của, vơ vét, thành đoàn quân cướp phá, ăn chơi, hãm hiếp, đánh lộn nhau, làm rối loạn thủ đô huy hoàng của Nga Xô. Napolêon đại đế trước kia ra lệnh như sấm sét, quan quân răm rắp nghe theo. Nay tại thủ đô chiến thắng này, ông ra lệnh không còn ai nghe nữa. Binh hùng tướng giỏi của ông trở thành những con ngựa bất kham, chỉ lo ăn chơi, cướp của, hãm hiếp. Cuối cùng, ông đành bó tay rút khỏi Moscow (Mascova), lật đật chạy trốn về Pháp với hơn ba mươi nghìn quân thân tàn ma dại, chết đói, đến nỗi ngựa cũng không còn để giết mà ăn.
Hơn nửa triệu con chiên hùng dũng tuân lệnh ông, đã bách chiến bách thắng khắp Châu Âu. Khi những con chiên đó lao đầu theo tiền của, ăn chơi, chúng không nghe lệnh ông nữa, chúng đã phải chết rữa xác rải rác trên đường chạy trốn. Nếu chúng biết nghe tiếng ông, thì vinh quang biết mấy!
Khi Đức Giêsu nói: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi”, chắc hẳn Người đã nhìn thấy hàng triệu, hàng tỷ những con chiên của Người đã biết lắng nghe tiếng Người, như Bài đọc II đã kể: “Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Họ thuộc mọi nước, mọi dân mọi chi tộc và mọi ngôn ngữ, mình mặc áo trắng, tay cầm lá thiên tuế… họ đứng chầu trước ngai Thiên Chúa”. Còn chúng ta có muốn được vào số những con chiên vinh phúc đó không? Nếu muốn thì phải “chiên tôi thì nghe tiếng tôi”
Thế nào là chiên biết nghe tiếng Chúa Giêsu? Chúng ta có nhiều lần được thấy những bầy chiên trên những cánh đồng cỏ xanh tươi qua màn ảnh nhỏ. Nhưng đoàn chiên của Chúa không phải là những bầy chiên thụ động như vậy. Nếu chúng ta nghĩ thế, thì thật sai lầm chua chát!
Hình ảnh trong Kinh thánh trái với ý nghĩa sai lầm đó. Ba hành động được Đức Giêsu đề cao ở đoạn Phúc âm này về con chiên là ba tư cách đầy nhân bản, đó là lắng nghe, biết chí tình và đi theo hết mình.
1- Lắng nghe: Là tư cách chăm chú quan tâm đến người nói, tôn trọng người nói, tỏ ra mình có một mối tương quan thân tình, thân hữu với người nói. Lắng nghe là thiết yếu trong tương giao sống động giữa người với người. Lắng nghe để thông hiểu, thông cảm và hiệp thông với nhau. Người ta nói: Người thông minh là người có tai thông, mắt sáng. Thiên Chúa dựng nên con người có hai tai, hai mắt, một miệng, như vậy là nói ít, nghe nhiều, nhìn cho kỹ. Trong thực tế, khi thảo luận, chúng ta lại “cãi nhau như mổ bò”; “ông nói gà, bà nói vịt”. Những tệ hại ấy xẩy ra từ thời xây tháp Babel đến giờ. Mỗi người nói một thứ tiếng, chẳng ai hiểu ai, họ chia rẽ nhau, chỉ vì kiêu ngạo đòi lên cao tới trời (St. 11). Cho nên các ngôn sứ không ngừng kêu gọi: “Hãy lắng nghe, hỡi Israel!” (Ds. 6, 4; Amos 3, 1; Giêrêmia 7, 2; Tv. 24, 3-9) và rất nhiều lần Đức Giêsu nói: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Lời Chúa thật nhẹ nhàng êm ái nhắc bảo chúng ta: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi”. Đức Chúa Cha cũng kêu gọi: “Đây là Con Ta rất yêu dấu. Hãy nghe lời Người” (Mt. 17, 5). Những lời đó đang rót vào tai chúng ta để chúng ta được đức tin như Thánh Phaolô nói: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm. 10, 17) hay: “Đức tin nhờ nghe: Fides ex auditu” (Ga. 3, 2)
2- Biết chí tình: “Chiên Tôi biết Tôi”. Biết về Đức Giêsu do học hỏi lời Chúa và giáo lý thì chưa đủ. Biết ở đây là biết bằng con tim, bằng tình yêu mến chí thiết bằng lòng ái mộ nồng nàn, bằng những cảm nhận trực giác sâu đậm, bằng những rung động bắt đúng tầng số của trái tim Chúa bốc lửa rực sáng vì yêu con chiên và chết đi vì con chiên. Trái tim con chiên cũng phải bốc lửa bừng bừng yêu mến Chúa chiên nhân lành như vậy, để cả hai nên một như “Tôi và Chúa Cha là một”. Sự biết chí tình chí thiết này thật sự đã được thể hiện với hai Thánh nữ Catarina và Têrêxa Hài đồng Giêsu. Catarina là người mù chữ chỉ học nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu, và trở thành Thánh Tiến sĩ Hội Thánh. Têrêxa cũng chẳng học trường nào, chỉ học nơi tình yêu Chúa Giêsu Hài đồng, đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong làm Tiến sĩ Hột Thánh tháng 08/1997 trong Đại Hội giới trẻ thế giới tại Paris.
3- Chúng theo Tôi: Theo Tôi như Phêrô bỏ chài lưới, vợ con, cha mẹ và mọi sự để theo Thầy, như Mathêu bỏ địa vị, tiền của để theo Chúa, như Madalena bỏ đường tội lỗi bước vào đời sống mới. Đó là đổi đời, từ bỏ nếp sống cũ tiến theo nếp sống mới, một cuộc tái sinh vào đời sống mới, “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi” … và chắc hơn nữa: “Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Như vậy, chúng ta được giữ gìn trong hai đôi tay: Một bên là Cha, một bên là mẹ: Được dẫn dắt trong bình an và bảo đảm tuyệt đối. Thật là một hình ảnh tuyệt vời!
Lạy Chúa, xin cho chúng con được sống trong lòng bàn tay Chúa, bàn tay đã giơ ra cứu chữa bao nhiêu bệnh nhân, bàn tay đã giơ ra cứu vớt Phêrô khỏi chìm trong lòng biển, bàn tay đã cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Này là Mình Thầy”, bàn tay đã giang ra cho quân dữ đóng đinh. Chính bàn tay đó đang gìn giữ chúng con thật chắc chắn và không ai cướp được chúng con ra khỏi tay Chúa. Chúng con xin tạ ơn Chúa Giêsu và Chúa Cha muôn đời.
Lời Chúa hôm nay trình bày Chúa Giêsu là người mục tử tốt lành: Ngài biết rõ từng người chúng ta PS 4-C142
Lời Chúa hôm nay trình bày Chúa Giêsu là người mục tử tốt lành: Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài thí mạng sống vì chúng ta, và Ngài dẫn chúng ta tới sự sống thật. Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta trở thành chiên của Ngài, không phải những con chiên bướng bỉnh mà là những con chiên biết chủ mình là ai, biết tiếng chủ và ngoan ngoãn bước theo sự dẫn dắt của chủ.
II. Gợi ý sám hối
Chúa Giêsu muốn dẫn chúng ta tới sự sống thật, còn chúng ta nhiều khi từ chối không nghe theo sự hướng dẫn của Ngài.
Chúa Giêsu biết rất rõ từng người chúng ta và yêu thương chúng ta vô cùng, thế mà lắm khi chúng ta hồ nghi tình thương của Chúa.
Chúa Giêsu đã chịu biết bao đau khổ vì chúng ta, còn chúng ta nhiều khi gặp đau khổ thì nản lòng như kẻ không có đức tin.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cv 13,14.43-52)
Việc truyền giáo của Phaolô và Barnaba tại Antiôkhia miền Pixiđia:
- Theo thói quen, Phaolô rao giảng Tin Mừng cho người Do Thái trước tiên.
- Nhưng vì họ từ chối, nên Phaolô quay sang rao giảng cho dân ngoại.
- Dân ngoại đã hân hoan đón nhận Tin Mừng và tôn vinh Thiên Chúa.
2. Đáp ca (Tv 99)
Câu quan trọng nhất trong Tv này, và cũng là câu được dùng làp câu đáp, là: "Chúng ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt".
3. Tin Mừng (Ga 10,27-30)
Chúa Giêsu mặc khải thêm một khía cạnh của mầu nhiệm bản thân Ngài: Ngài là mục tử: "Chiên tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng được sự sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất"
4. Bài đọc II (Kh 7,9.14-17)
Thị kiến của Gioan tông đồ về dân thánh Chúa:
- Họ rất đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ
- Họ đứng trước ngai Con Chiên
- Con Chiên sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đồng cỏ xanh, dòng suối mát (Ga 10,27-30)
Dương Ân Điển là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền Nam đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà, 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ vàø Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: "Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc". Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.
"Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi" (Ga 10,27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trát tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
- Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh thánh, nơi giáo huấn của Giáo hội, và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phao lô viết: "Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô" (Rm 10,17).
- Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
- Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ, nếp sống cũ, đường lối cũ. Các môn đệ đã bỏ mọi sự, Mađalêna đã bỏ đường tội lỗi, Augúttinô đã bỏ đời trụy lạc, để đi theo Người.
Nghe Chúa, Biết Chúa và Theo Chúa để được những gì? Đức Ki tô đã trả lời: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (Ga 10,28). Đoàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người không những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn không thể mất được.
Không chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo vệ chúng ta trong bàn tay yêu thương của Người: "Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha" (Ga 10,29). Chúa Cha đã trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá nhất, nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy. Như thế, chúng ta được bảo vệ an toàn tuyệt đối trong cả hai bàn tay, của cả cha lẫn mẹ, còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa!
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên nhỏ bé đơn sơ để chúng con được nằm gọn trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Giữa một thế giới ồn ào vì tranh giành quyền lực, của cải, xin cho chúng con lắng nghe được tiếng Chúa.
Giữa một thế giới chỉ biết tôn thờ vật chất, xin cho chúng con hiểu biết Chúa thật sâu xa để yêu mến Người thiết tha.
Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo danh lợi thú, xin cho chúng con luôn đi theo Chúa là chủ chiên nhân lành của cuộc đời chúng con mà thôi. Amen. (Thiên Phúc)
* 2. Ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục
Trong một quyển chuyện đề tựa "Quyền lực và vinh quang", nhà văn Graham Greene kể lại câu chuyện sau đây xảy ra tại một nước ở Nam Mỹ: Khi ấy một chính phủ ghét đạo lên nắm quyền và ra lệnh trục xuất tất cả các linh mục ra khỏi nước. Linh mục nào còn lén lút ở lại hoạt động thì bị bắt đem xử tử. Đa số các linh mục đã phải tuân lệnh ra khỏi nước, một số nhỏ can đảm ở lại thì cũng bị xử. Nhưng không ai ngờ là vẫn còn sót lại một linh mục. Ông này ở lại được vì không ai thèm để ý tới ông, bởi vì ông là một linh mục tội lỗi bê bối đã hồi tục. Ông không coi sóc họ đạo nào cả, cũng không lưu ý tới sự thiếu thốn của các con chiên. Hằng ngày ông lang thang đây đó để kiếm tiền và nhậu nhẹt. Về phần giáo dân, trước đây họ vẫn khinh rẻ ông, nhưng trong lúc thiếu linh mục thì họ lại cần tới ông. Người ta xin ông rửa tội, giải tội, dâng thánh lễ và xức dầu.
Ông cũng sẵn sàng nhận với một điều kiện là phải có tiền: rửa tội một em bé là mấy đồng, giải tội một người là mấy đồng, xức dầu một người là mấy đồng, mỗi người dự lễ là mấy đồng... tất cả đều có giá hẳn hoi. Dĩ nhiên, như ai trong chúng ta cũng biết, ông càng làm các bí tích thì càng thêm tội bởi vì ông đang sống trong tình trạng tội lỗi. Nhưng ai ngờ con người tội lỗi ấy lại là phương tiện Chúa dùng để nuôi dưỡng đàn chiên Chúa trong lúc gian nan. Nhờ còn có ông mà giáo dân còn tiếp tục lãnh nhận được các bí tích và duy trì được đức tin của mình. Thế rồi dần dần nhà cầm quyền bắt đầu để ý đến tới những hoạt động của ông và ra lệnh truy nã ông. Ông cũng sợ bị xử tử nên lén vượt biên giới trốn sang xứ khác. Nhưng đang lúc ông sắp qua biên giới thì người ta chạy theo năn nỉ ông trở lại để giúp cho một người hấp hối. Không nỡ để một người chết không có bí tích nên ông linh mục này đã trở lại, và đã bị bắt, rồi bị đem ra pháp trường. Trước lúc bị bắn, ông đã ăn năn xin Chúa thứ tha hết mọi tội lỗi của ông và dâng linh hồn trong tay Chúa, rồi bình thản ngước đầu chờ đợi. Và ông đã trông thấy có một người lẫn trong đám đông đang đưa tay ban phép giải tội cho ông, đó là một linh mục khác vừa trốn về để tiếp tục công việc của ông, công việc của một chủ chăn đối với đàn chiên đang đói khát.
Câu chuyện cảm động trên cho chúng ta thấy hai điều:
Thứ nhất: linh mục rất cần cho đời sống đạo của giáo dân. Dĩ nhiên tín đồ của tôn giáo nào cũng cần vị lãnh đạo tinh thần của mình, nhưng người công giáo còn cần tới linh mục gấp bội. Có thể nói, cả cuộc đời người công giáo được bàn tay linh mục dẫn dắt nuôi dưỡng: Khi ta vừa mới sinh ra, bàn tay ấy đã đổ nước rửa tội cho ta; lớn lên bàn tay ấy đưa Mình Thánh Chúa cho ta rước lễ; khi ta sa ngã phạm tội, bàn tay ấy giơ lên thay quyền Chúa mà tha tội cho ta; khi ta lập gia đình, bàn tay ấy lại giơ lên chúc lành cho cuộc hôn phối của ta; và trước lúc ta nhắm mắt lìa đời, cũng bàn tay ấy xức dầu thánh chuẩn bị cho cuộc hành trình của ta về nhà Chúa. Nếu thiếu bàn tay ấy thì ta sẽ ra sao? Những người giáo dân trong câu chuyện trên mặc dù coi thường vị linh mục tội lỗi nọ nhưng họ vẫn phải cần tới ông, vẫn van xin năn nỉ ông, bởi vì trong lúc gian truân thiếu thôn ấy, chỉ có ông là có thể ban các bí tích cho họ.
Thứ hai: Linh mục là phương tiện cứu rỗi của Chúa. Chúng ta đã thấy ông linh mục trong chuyện trên đã mang ơn Chúa đến cho giáo dân nhiều như thế nào. Mặc dù ông tội lỗi, bất xứng nhưng các bí tích ông cử hành vẫn thành sự. Ông đọc " Này là Mình Ta" thì Chúa vẫn ngự vào chiếc bánh trắng; ông nói "Ta tha tội cho con" thì Chúa vẫn ban ơn tẩy sạch mọi tội lỗi trong tâm hồn người xưng tội. Linh mục thực là phương tiện Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân..
Hôm nay là ngày Giáo hội cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục. Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta chắc cũng ý thức nhu cầu linh mục cấp bách đến thế nào cho Giáo Hội chúng ta: chúng ta đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những đồng lúa chín vàng và bảo "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy cầu nguyện xin chủ ruộng cho thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài". Chúa biết nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta phải cầu xin thì Chúa mới ban ơn. Xin gì?
Xin cho có nhiều thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa để phục vụ các linh hồn.
Xin cho những người đang theo tiếng gọi của Chúa hôm nay, tức là các chủng sinh, các em dự tư, được bền tâm vững chí. Dù hoàn cảnh có nhiều khó khăn, nhưng Chúa đã nói "Ai bền đỗ tới cùng thì sẽ được rỗi".
Xin cho các linh mục của chúng ta được xứng đáng là những phương tiện tốt Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân, nghĩa là xin cho các ngài được thánh thiện và bình an chăm lo việc đạo đức cho giáo dân.
* 3. Bài giảng của Thánh Cyrillô thành Alexandria (+ 444)
Dấu hiệu phân biệt ai là con chiên của Đức Kitô, ấy là thái độ sẵn sàng lắng nghe và vâng phục, trong khi dấu hiệu cho biết những con chiên lạ là sự cứng đầu.
"Lắng nghe" là chấp nhận điều được nói. Những người "lắng nghe" như thế thì "được Thiên Chúa biết", nghĩa là kết hợp với Thiên Chúa.
Thực ra chẳng ai mà Thiên Chúa không biết. Vì thế khi Đức Kitô nói "Ta biết các chiên Ta" thì có nghĩa là "Ta sẽ đón nhận chúng và cho chúng kết hợp với Ta bằng một sự hợp nhất huyền nhiệm và trường tồn".
Đức Kitô còn nói: "Các chiên của Ta thì đi theo Ta". Thực vậy, nhờ ơn thánh, các tín hữu đi theo những bước chân của Đức Kitô. Họ không tuân giữ những quy định của Lề luật, vì thực ra đó chỉ là hình bóng. Đúng ra là họ đi theo những giới răn của Đức Kitô và nhờ đó vươn mình lên tới tầm cao của ơn gọi làm con Thiên Chúa. Khi Đức Kitô lên trời, họ cũng được lên theo.
"Ta ban cho chúng sự sống đời đời": đừng hiểu sự sống này chỉ là chuỗi ngày nối tiếp nhau mà chúng ta dù là người tốt hay xấu cũng đều sở hữu sau khi sống lại, nhưng phải hiểu đây là sống trong niềm vui. Ta cũng có thể hiểu "sự sống" này theo nghĩa bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô tháp nhập chúng ta vào chính sự sống của Ngài, các tín hữu được thông phần vào chính xác thịt Ngài, như lời Ngài nói: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời" (Ga 6,54)
* 4. Thuộc về đàn chiên của Chúa
Cảm giác được thuộc về Chúa Giêsu, được Ngài biết và yêu thương, đó là một cảm giác vô cùng an ủi. Ai mà không muốn thuộc về đàn chiên của Chúa! Thế nhưng thế nào là thuộc về đàn chiên Chúa? Muốn thuộc về đàn chiên Chúa thì phải làm sao?
Thứ nhất là phải tin vào Ngài: chúng ta gia nhập đoàn chiên Chúa và trở thành tín hữu, nghĩa là người tin.
Nhưng tin chỉ mới là bước thứ nhất. Bước thứ hai là phải nghe tiếng Ngài: "Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta". Nghe tiếng Chúa Giêsu nghĩa là chú tâm đến những lời Ngài dạy dỗ.
Thứ ba là đi theo Ngài: "Chiên của Ta đi theo Ta". Theo Chúa là thực hành lời Ngài dạy.
Liên hệ giữa chúng ta với Chúa phải là hai chiều. Con chiên phải chọn thuộc về Chúa. Chúa Giêsu không muốn và cũng không thể cứu ta ngược với ý muốn của ta. Nhưng chỉ cần ta thực lòng muốn và cố gắng thuộc về Ngài thì Ngài sẽ chăm sóc ta trong cuộc sống và trong cái chết nữa. Ngài hứa ban cho ta sự sống đời đời: "Ta ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong".
Nhưng như thế không có nghĩa là hễ thuộc về Chúa thì sẽ được Ngài bảo đảm cho có một cuộc sống dễ chịu ở đời này đâu. Ngược lại là đàng khác. Những kẻ thuộc về Chúa có thể bị bách hại, nhưng ai vẫn trung thành thì sẽ được chia phần vinh quang của Ngài trên trời (bài đọc 2). Gian truân và thử thách là những cơ hội để ta chứng tỏ đức tin và lòng vâng phục Chúa.
Đàn chiên là hình ảnh của nếp sống cộng đoàn. Ngay cả trên bình diện nhân loại thôi thì ai cũng cần có cộng đoàn. Đó là lý do tại sao Chúa muốn những kẻ theo Ngài phải sống trong cộng đoàn. Trong cộng đoàn, chúng ta tìm được sự nâng đỡ, khuyến khích và tình thân. Chúng ta không thể thuộc về Chúa Giêsu mà không thuộc về đoàn chiên của Ngài. (FM)
* 5. "Ta biết chiên của Ta"
Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bosco bắt đầu hoạt động phục vụ những người trẻ nghèo nàn ở thành phố Turinô nước Ý. Họ đã sớm nhận ra ngài thực sự là một người bạn của họ. Họ yêu quý ngài đến nỗi khi ngài lâm trọng bệnh thì họ tha thiết cầu nguyện tưởng như muốn xé rách bầu trời, có người còn xin Chúa cho mình chết thay ngài. Nhờ những lời cầu nguyện ấy, Thánh Gioan Boscô đã khoẻ lại. Tình cảm trìu mến ấy không thể có được nếu Gioan Bosco và đám trẻ ấy đã không gần gũi nhau, biết nhau và yêu thương nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói "Ta biết chiên của Ta". Ngài biết chiên Ngài bởi vì Ngài là mục tử tốt lành. Có nhiều mức độ biết: có khi chỉ là biết mặt, biết tên; có khi biết như một người quen; có khi biết như một người bạn thân thiết.
Không biết người ta là một điều rất buồn thảm. Nhà văn Do Thái Elia Wiesel rất thương cha mình, nhưng người cha ấy đã chết trong trại tù Auschwitz năm 1944. Trong quyển tự thuật, nhà văn ấy tâm sự: "Tôi chưa bao giờ thực sự biết cha tôi. Thực đau lòng mà phải thú nhận như vậy. Tôi đã biết quá ít về người mà tôi yêu quý nhất đời ấy, người mà chỉ cần nhìn tôi một cái cũng đủ làm cho lòng tôi xao xuyến. Không hiểu những người con khác có gặp phải vấn đề như tôi không. Họ có biết cha họ không phải chỉ là một con người có nét mặt uy quyền, buổi sáng đi làm và buổi chiều trở về mang bánh đặt lên bàn ăn không?"
E rằng những lời buồn thảm trên đây cũng là tiếng than của rất nhiều đứa con khác. Ngày nay con cái không biết cha mẹ và cha mẹ không biết con cái. Muốn biết thì phải mất nhiều thời giờ và nhiều cố gắng, nhưng nó sẽ mang lại nhiều hoa trái. Còn nếu không biết thì sẽ phải gánh chịu nhiều mất mát. Đời sống trôi qua rất nhanh khiến chúng ta ít biết nhau. Mà không biết nhau thì không thể yêu thương nhau được.
"Biết" là điều rất quan trọng đối với những người-chăm-sóc (carers). Những người-chăm-sóc cần biết kẻ mà mình chăm sóc. Bước đầu là biết tên. Nhưng muốn biết thật thì phải biết cả lịch sử cuộc đời họ. Nếu không biết họ đến với ta từ một thế giới như thế nào và sẽ trở về một thế giới như thế nào thì ta chỉ coi họ như một chiếc bóng mà thôi.
Nhưng cái "biết" phải có hai chiều. Chúa Giêsu biết chiên của Ngài và chiên của Ngài cũng biết Ngài. Chúa Giêsu không sợ để cho người ta biết mình. Còn chúng ta đôi khi lại sợ. Chúng ta không muốn người khác đi vào cuộc sống chúng ta, biết chúng ta nghĩ gì, cần gì, đang lo buồn về chuyện gì và đang hy vọng những gì. Có lẽ vì chúng ta sợ người ta biết mình rõ quá rồi sẽ từ chối mình. Từ đó chúng ta chỉ muốn người ta biết chúng ta qua cái vẻ bề ngoài mà chúng ta cố tỏ ra. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể tạo được một tình cảm trìu mến với người khác nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách với họ và không cho họ biết rõ chúng ta?
Đối với Chúa cũng vậy. Ngài là mục tử tốt lành. Ngài muốn ban cho chúng ta sự sống đời này và cả đời sau nữa. Nhưng phải có tương quan hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình thương của Ngài bằng cách lắng nghe tiếng Ngài và đi theo Ngài. (FM)
* 6. Chuyện minh họa
Trong một cuộc họp, có hai người được mời đọc Thánh Vịnh 22 "Chúa là mục tử của tôi".
Người thứ nhất là một diễn viên nhà nghề nhưng không có đức tin. Anh phát âm rất chuẩn, giọng rõ ràng, ngắt câu hợp ý. Nghe anh đọc xong ai cũng vỗ tay.
Người thứ hai là một tín hữu xác tín về đức tin. Anh phát âm không chuẩn lắm, anh còn đọc hơi nhanh nữa. Nhưng giọng anh rất tình cảm. Ai nghe anh đọc cũng đều xúc động.
Khi hai người đọc xong, người diễn viên đến bắt tay người tín hữu và khen: "Xin chúc mừng. Anh đã đọc rất hay". Người tín hữu đáp: "Không, anh mới là người đọc hay, còn tôi thì tệ quá."
Người diễn viên phân tích: "Chắc chắn là anh đọc hay hơn tôi mà. Một điều rất hiển nhiên là: Tôi thì biết Thánh Vịnh 22, còn anh thì biết Người Mục Tử."
Chúng ta hãy để ý: Tác giả Thánh vịnh 22 không nói "Chúa là một mục tử", cũng không nói "Chúa là vị Mục tử", nhưng nói "Chúa là Mục Tử của tôi". Người tín hữu kia đã đọc Thánh vịnh 22 bằng cảm nghiệm sống của mình, cho nên anh đã làm cho người khác xúc động.
* 7. Ơn gọi yêu thương
Vết thương sâu nhất là vết thương lòng: đó là cảm giác rằng mình không được yêu, rằng mình chẳng quý giá gì đối với ai cả.
Ngày nay nhiều người bị thương trong lòng. Mỗi người chúng ta đều có thể chữa lành vết thương cho họ.
Chúng ta có tay để làm có trí để hiểu và nhất là có tim để yêu thương.
Chúa nhật hôm nay cũng là ngày ơn gọi. Mà mọi ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã sống lại vinh hiển và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Chúng ta cùng chúc tụng Người và dâng lời cầu xin:
1. Chúa đã đón nhận niềm tin yêu của thánh Phêrô / và trao cho người nhiệm vụ dẫn dắt đoàn chiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Đức Thánh Cha đương kim / cũng được niềm tin yêu như vậy.
2. Chúa Giêsu là Vị Mục tử nhân hậu / đã chết để cho đoàn chiên được sống dồi dào / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử của chúng ta / cũng sẵn lòng hy sinh tất cả cho đoàn chiên Chúa đã trao ban.
3. Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban cho Giáo hội Việt nam có được nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ / để đoàn chiên Chúa không bao giờ thiếu người chăm sóc dưỡng nuôi.
4. Việc đào tạo linh mục tương lai cho các giáo phận / đòi hỏi phải đầu tư lâu dài và tốn kém / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết hết lòng cộng tác vào công việc cao quý này / bằng lời cầu nguyện và bằng việc quảng đại giúp đỡ Chủng Viện.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương, Chúa đã chết để cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho chúng con cũng biết đền đáp phần nào tình thương của Chúa bằng chính đời sống bác ái yêu thương của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Kinh tiền tụng: nên dùng Kinh tiền tụng phục sinh số 2, vì có nói tới cuộc sống mới.
- Trước kinh Lạy Cha: Hiện giờ chúng ta rất giống với một đoàn chiên đang quy tụ quanh chủ chiên là Chúa Giêsu bên bàn tiệc Thánh thể. Chúng ta hãy hợp ý với Ngài dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
VII. Giải tán
Anh chị em đã biết Chúa Giêsu là mục tử dẫn dắt đời mình, cho dù có khi xem ra Ngài đang dẫn chúng ta qua thung lũng tối tăm, nhưng điếm tới cuối cùng sẽ là đồng cỏ xanh tươi, suối ngọt và bóng mát. Vậy anh chị em hãy ra về trong niềm vui mừng phó thác trọn vẹn cho Chúa Giêsu dẫn dắt.
Ai cũng biết điếc là khổ. Người điếc bị người ta coi khinh và còn xem họ như những người chuyên PS 4-C143
Ai cũng biết điếc là khổ. Người điếc bị người ta coi khinh và còn xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Điều đáng buồn là người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc.
Có một lần tôi đi xức dầu bệnh nhân, sau khi nói chuyện, tôi hỏi bà cụ có muốn xức dầu không? Bà liền nói: con đâu có đau đầu đâu! Hóa ra bà bị điếc tưởng tôi nói bà có đau đầu không?
Điều đáng buồn là người điếc lại cho không biết mình bị điếc nên vẫn vô tư sống.
Có một người đàn ông đi gặp bác sĩ để kể về người vợ của mình. “Tôi cho rằng vợ tôi bị điếc, cô ấy chả nghe thấy tôi nói gì mà toàn khiến tôi phải nhắc lại”.
Người bác sĩ trả lời: “Được rồi, bây giờ anh cứ về nhà. Tối nay đứng cách vợ 6 m và nói một điều gì đó. Nếu bà nhà không trả lời, đứng lại gần 2 m nữa và nhắc lại. Cứ tiếp tục như thế để xem mức độ ngễnh ngãng của bà ấy nặng đến mức nào”.
Người chồng trở về nhà và thực hiện đúng theo chỉ dẫn. Ông đứng cách vợ 6 m khi bà đang thái thịt trong bếp và hỏi: “Cưng à, tối nay mình ăn gì vậy?”. Ông không nghe thấy câu trả lời. Ông đứng gần lại 2 m nữa và hỏi lại. Vẫn không có câu trả lời. Ông đứng gần thêm 2 m. Vẫn chẳng thấy gì. Cuối cùng, ông tiến sát lại sau vợ và hỏi: “Em yêu, tối nay mình ăn gì?”.
Cô vợ bực mình quát: “Đây là lần thứ 4 rồi nhá – thịt bò hầm!”.
Ai cũng biết điếc là khổ. Điếc là cách ly với thế giới bên ngoài. Điếc là khổ mình và phiền toái với người bên cạnh. Thế mà, cuộc đời vẫn còn đó những kẻ giả điếc làm ngơ. Họ cố tình bịt tai để khỏi nghe tiếng đồng loại kể cả tiếng Thiên Chúa. Họ giả điếc để sống theo ý mình. Họ cố tình gạt ra ngoài tiếng nói của lương tâm, của sự thật và chân lý. Họ bất chấp lề luật. Họ bỏ ngoài tai lời khuyên dạy của Thiên Chúa và tha nhân. Con người của kẻ giả điếc là tự tách mình ra khỏi cộng đồng xã hội để sống theo ý riêng.
Hôm nay, Chúa bảo “chiên Ta thì nghe tiếng Ta”. Chúa mời gọi chúng ta là con Chúa hãy sống theo giáo huấn của Chúa. Hãy bước đi theo đường lối của Ngài. Bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài để được bảo vệ, chở che. Ngài sẽ bảo vệ chúng ta như mục tử bảo vệ đàn chiên khỏi sự tấn công của sói dữ. Ngài sẽ dẫn chúng ta đến đồng cỏ xanh tươi bên dòng suối mát là ân sủng của Ngài luôn đong đầy trên cuộc đời chúng ta. Bước đi theo Ngài thì sẽ không đói, không khát bao giờ.
Lời mời gọi: “chiên Ta thì nghe tiếng Ta” còn là tiếng mời gọi con người làm điều lành tránh điều dữ. Ngài tha thiết kêu mời con người sống trong tình bác ái yêu thương. Sự bác ái không chỉ dừng lại ở việc yêu người yêu mình mà còn yêu cả kẻ thù. Tình yêu thương không dừng lại việc không làm tổn thương đến ai mà còn biết giúp đỡ, chia sẻ với nhau trong vui buồn cuộc đời.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin cho giới trẻ hôm nay nghe được tiếng Chúa kêu mời giữa biết bao ồn ào của cuộc đời. Xin cho họ không chỉ lắng nghe được tiếng nói của sự thật, của chân lý giữa xã hội đầy lừa đảo bon chen mà còn dấn thân bước đi theo tiếng Chúa kêu mời. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.
Chúa đưa ra tiêu chuẩn: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi (xem Gioan 10,27-30). Những người sống PS 4-C144
Chúa đưa ra tiêu chuẩn: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi (xem Gioan 10,27-30).
Những người sống nghề chăn nuôi và ruộng vườn như dân Do thái, họ hiểu ngay lời Chúa vừa nói. Người chăn bầy chiên mấy trăm con, chỉ cần lên tiếng kêu, các con chiên đang ăn cỏ lẫn lộn với bao nhiêu con khác thuộc nhiều bầy khác liền ngoan ngoãn chạy tới người chăn. Ai nuôi chó giữ nhà cũng có kinh nghiệm này: chủ lên tiếng kêu, chó nhảy tới hoặc đang sủa, chủ đe, chó im ngay.
Chiên nghe tiếng chủ vì chiên phân biệt được tiếng của chủ với tiếng người khác, vì chiên quen tiếng chủ, vì chiên thuộc về chủ. Nếu không phải chiên của chủ thì không nghe tiếng chủ. Người thuộc về Chúa thì nghe tiếng Chúa, không thuộc về Chúa thì không nghe tiếng Chúa.
Người Do Thái hỏi Chúa: Mãi đến bây giờ chúng tôi còn phân vân về ông, ông là ai xin nói ngay cho chúng tôi biết. Hỏi như vậy tỏ ra họ chưa thuộc đoàn chiên Chúa vì “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”, nhận ra Chúa ngay, đâu cần phải hỏi. Hỏi như vậy, h? tỏ ra là kẻ xa lạ, người xa lạ đến để tìm hiểu. Nhiều lần, người Do thái hỏi Chúa là ai và Chúa dd? ngh? họ cứ nhìn vào việc làm, lời nói của Chúa mà biết. Lần này, Chúa trả lời mạnh hơn: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tức là nghe tôi nói, thấy việc tôi làm thì nhận ra tôi rồi, không phải để tôi nói tôi là ai.
Trong đời sống, có lúc gặp nguy nan, ta kêu cầu Chúa mà không được, thấy Chúa cứ yên lặng, ta đâm ra nghi ngờ Chúa, hỏi Chúa là ai? Một câu hỏi tố cáo ta, hình như ta muốn bước khỏi đàn chiên, hình như Chúa không phải là chủ chăn của ta.
Theo Chúa vì đời sống sung túc, vì gặp nhiều may mắn xem như là ơn của Chúa ban riêng cho mình thật chẳng có gì bảo đảm, vì Chúa chỉ bảo đảm: Tôi cho chúng được sống đời đời và không ai có thể cướp chúng khỏi tay tôi. Hai bảo đảm săn sóc và ban sự sống đời đời thuộc lãnh vực tâm linh, còn những điều ta lo lắng, băn khoăn trong đời sống trần gian, Cha v?n gip nhung ta phải tự giải quyết lấy. Lời Chúa soi sáng hướng dẫn, ơn Chúa phù giúp ta để ta giải quyết, lo lấy, làm sao cho phù hợp Thánh ý Chúa. Chúa phù trợ mà ta không cảm thấy nhưng chắc chắn là Chúa luôn nhìn thấy ta, theo dõi ta từng bước.
Để đảm bảo cho lời nói “ban cho đàn chiên sự sống đời đời”, cũng phải hiểu phải có đời sống trần gian chứ, Chúa Kitô nại tới Chúa Cha: đoàn chiên của Chúa Cha và Chúa Cha trao cho Chúa Kitô. Chắc chắn không có một quyền nào lấy đoàn chiên khỏi tay Chúa Cha, nhưng khi đoàn chiên trao cho Chúa Kitô, đoàn chiên có thể mất không? – Không thế mất vì Chúa Kitô có quyền như Chúa Cha, vì thế Chúa Kitô tuyên bố: Tôi và Cha tôi là một.
Chúng ta cảm tạ Chúa khi nghe bài Phúc âm này vì chúng ta thuộc đoàn chiên Chúa, tức là chúng ta đã nghe tiếng Chúa và nhận ra Chúa là chủ chăn của chúng ta. Bao lâu còn nghe tiếng Chúa thì chúng ta còn là chiên của Chúa. Nếu không nghe tiếng Chúa từc là không sống theo lời Chúa nữa, thì lúc đó chúng ta tự ý tách mình khỏi đoàn chiên của Chúa, ta sẽ “đánh mất sự sống đời đời” và cả ý nghĩa đời sống trần gian nữa. Bài Phúc âm vừa làm ta vui vừa bắt ta phải sống theo tiếng Chúa dạy.
Linh mục Mike Judge, tên thật là Robert Emmet Judge, là một trong số đông lính cứu hỏa đã PS 4-C145
Linh mục Mike Judge, tên thật là Robert Emmet Judge, là một trong số đông lính cứu hỏa đã hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ ngày 11.9.2001, lúc tòa nhà tháp đôi Trung tâm Thương mại New York bị những chiếc máy bay của những kẻ khủng bố tấn công.
Là tu sĩ dòng Phanxicô, kể từ sau khi chịu chức linh mục ngày 25.2.1961 lúc 28 tuổi, linh mục Mike Judge đã được mời gọi trong nhiều trọng trách khác nhau ở New York. Dù trọng trách nào, dù khó khăn cách mấy, cha đều ra sức chu toàn nhiệm vụ cách hoàn hảo. Người ta thấy cha thường xuyên giúp đỡ những người khốn khó, những người thiếu nơi ăn chốn ở, những di dân, những người bệnh tật, những người gặp nạn… Cả những người nghiện ngập cũng được cha yêu thương đón nhận…
Tuy phải bận bịu với bao việc bác ái hằng ngày, cha vẫn không quên cầu nguyện, hăng say thực hành tất cả các nghĩa vụ thiêng liêng của một linh mục để thánh hóa bản thân. Cha gắn bó với Chúa bằng một tấm lòng tận tụy, chu đáo tuân giữ luật dòng, và tận hiến mình hoàn toàn trong sự vâng phục Bề trên. Những ai đã từng tiếp xúc, chuyện trò với cha, đều cảm nhận cha là người khiêm tốn, dễ gần gũi. Người ta cũng nhận thấy, nơi cha toát ra một sự thánh thiện và lòng yêu mến Chúa mà không phải ai cũng có thể có…
Năm 1992, cha được chỉ định làm tuyên úy cho lính cứu hỏa New York. Cha đã dành nhiều thời giờ đến với từng người lính cứu hỏa và gia đình họ, không phải chỉ như một vị tuyên úy; nhưng còn như người bạn và ân nhân của họ; giúp đỡ họ bất cứ lúc nào khi họ cần đến cha với tất cả tình yêu thương.
Sáng ngày 11.9.2001, ngay khi những chiếc máy bay đâm vào tòa Tháp Đôi, cha đã cùng hàng trăm lính cứu hỏa chạy vào tòa nhà đang cháy và sắp sụp đổ, để cứu các nạn nhân, để giải tội, để ban bí tích xức dầu và các nghi thức cuối cùng cho lính cứu hỏa và những người Công Giáo đang hấp hối. Nhưng khi cha đang thi hành trách vụ, thì tòa nhà sụp đổ, gạch đá đập xuống đầu cha. Cha đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ Thánh Chức của mình.
Dù biết rằng, việc xông vào tòa nhà đang bị cháy là nguy hiểm vô cùng, nhưng vì trên ba ngàn con người còn kẹt lại trong tòa nhà, đã khiến cha và nhiều lính cứu hỏa bất chấp mạng sống mình, đặt nhiệm vụ cứu người bị nạn lên hàng ưu tiên. Thế nên mấy trăm lính cứu hoả và linh mục Judge vẫn anh dũng lao vào bên trong toà Tháp Đôi…
Như Chúa Giêsu khẳng định: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta… Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”. Và để bảo vệ đàn chiên mà Chúa Cha trao cho mình, Chúa Giêsu quyết bảo vệ đến cùng. Người đã chọn lựa: thà hy sinh chính mình, hy sinh cả mạng sống, miễn sao đàn chiên không bao giờ hư mất, không bao giờ rời khỏi tay mình. Tình yêu tuyệt đối dành cho trần thế, đã đưa Chúa Giêsu đi đến hiến dâng cuộc đời, hiến dâng mạng sống. Chính trong sự hiến dâng như của lễ đền tội thay cho cả trần thế, hiến lễ của Chúa Giêsu đã được Chúa Cha đón nhận. Chúa Cha đã làm cho cuộc hiến dâng của Chúa Giêsu nên hiệu lực cứu độ, mang lại kết quả cứu độ mãnh liệt, đời đời, cho từng con người trong trần thế không trừ ai. Hiệu lực cứu độ ấy đã được Chúa Cha làm cho dồi dào và trào tràn đến nỗi không có bất cứ điều gì có thể sánh bằng. Nhờ hiệu lực cứu độ này, Chúa Cha đã tha thứ và luôn ban ơn để bảo vệ và gìn giữ tất cả chúng ta là đoàn chiên mà Chúa Giêsu luôn yêu quý. Cũng chính trong hiệu lực cứu độ do chính mình gây nên và được Chúa Cha đón nhận, Chúa Giêsu hoàn tất và hiện thực hóa điều mà Người đã từng tuyên bố, đó là bảo vệ chúng ta trọn vẹn đến nỗi: “Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”.
Tình yêu mà Chúa Kitô yêu con người luôn hiện hữu trong cha Mike Judge. “Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”. Dù chủ nghĩa khủng bố và tội ác khủng bố, dù ngọn lửa hiễm độc, dù tòa nhà cao ngất kia có thể nhẫn tâm chôn vùi hàng ngàn con người, nhưng cha quyết không để người bị nạn trong căn nhà kia chết mà thiếu vắng ơn Chúa, thiếu vắng hình bóng của linh mục. Vì thế, giữa những đớn đau tàn khốc, cha quyết xông vào để cứu sống linh hồn con người. Cha đã thực hiện chính hành động cứu sống ơn cứu độ của con người như Chúa Giêsu, để dù các nạn nhân có chết thân xác, linh hồn họ vẫn lãnh nhận trọn vẹn ơn cứu độ. Chính cha, trong giờ phút lâm nguy, đã noi gương Chúa Kitô, quyết không để bất cứ thế lực nào “có thể cướp được” linh hồn con người…
Tình yêu dành cho Chúa Giêsu và tình yêu đối với con người biến cha trở thành người hành động. Tình yêu ấy lôi cuốn cha đến nỗi cha không còn nghĩ cho mình mà chỉ nghĩ đến những con người mắc nạn và những con người đang thi hành nhiệm vụ trong tòa nhà ngùn ngụt lửa. Tình yêu ấy dẫn cha đến trước vực thẳm nguy hiểm nhưng vẫn băng mình cho sứ vụ tròn đầy. Tình yêu ấy chính là sức mạnh giúp cha hiểu rằng Chúa Giêsu đang chờ đợi cha nơi những con người đau khổ đang trên bờ sự chết. Tình yêu ấy thúc bách cha xả thân cứu người như chính Chúa Giêsu hy sinh cho trần thế.
Cái chết trong nhiệm vụ và cho Thánh Chức của cha đã nói cho chúng ta: Linh mục Mike Judge là mục tử tốt lành. Tấm gương bình an đón nhận hiểm nguy và sự chết của cha đáng để các mục tử noi theo. Cha chết, nhưng gương hy sinh ấy sống mãi trong lòng dân Mỹ và nhiều người thiện chí trên khắp thế giới…
Trong ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu, chúng ta cầu nguyện cho tất cả những ai sống đời ơn gọi nói chung, và cầu nguyện cho các linh mục nói riêng, phải là người khôn ngoan, hiền hậu, có trái tim nhân từ, biết thương cảm, biết hy sinh quên mình, nhất là biết lao mình trong mọi nơi, mọi lúc, bất chấp bản thân để hy sinh vì ơn cứu độ của mọi người.
Chúng ta cũng luôn cầu xin cho các mục tử hết lòng thao thức và sống chết cho sứ mạng, để nếu có ai kém cõi trong đức tin, ngài biết nâng đỡ, nhũ khuyên; ai khổ đau gặp được nơi ngài sự cảm thông chia sớt; ai đau bệnh, yếu đuối, ngài ân cần hỏi han; ai lạc lối, hay xa rời đức tin, ngài tìm cách đưa về sống hiệp thông cùng Hội Thánh; ai lỗi lầm, ngài bao dung tha thứ; ai đã chuyên chăm trong đời sống đạo đức, ngài tiếp tục nâng đỡ để đức tin của họ ngày càng mạnh mẽ hơn…
Qua tất cả những nhiệm vụ vừa cao trọng, vừa vất vả bên trên mà người mục tử không bao giờ được phép lơ là, nhưng luôn nỗ lực thực hiện, người mục tử sẽ xứng đáng là biểu tượng của sự bình an cho đoàn chiên mà Chúa trao cho mình.
Người ta muốn bắt chiên, trước hết phải giết hại người chủ của đoàn chiên. Bình an của đoàn chiên là niềm vui cho người mục tử. Vì thế, trên hết mọi sự, chúng ta cầu nguyện cho các mục tử chẳng những luôn biết cầu nguyện, mà họ còn biết đặt trọn tâm đời mình trên đời sống gắn bó với Chúa Giêsu. Có như thế, người mục tử mới có thể vui hy sinh, vui chấp nhận nghịch cảnh, vui bền đổ phục vụ, vui xả thân, nhất là vui xả thân trong mọi hoàn cảnh, dù có thể bị mất mạng sống mình…
Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử, nhờ gắn kết với Chúa Giêsu, xứng đáng trở thành người nối trời với đất, nối thiên đàng với trần thế, nối Thiên Chúa với lòng con người… Có như thế, các mục tử mới có thể và thực sự là mục tử mang hình ảnh và là họa ảnh của Chúa Giêsu Mục Tử…
Tấm gương tốt lành của linh mục Mike Judge, hay của nhiều linh mục tương tự như thế, phải là bài học nằm lòng cho các mục tử của Chúa. Chúng ta cầu nguyện nhiều hơn nữa, để nhờ ơn Chúa, các linh mục không tìm an thân cho bản thân, nhưng luôn vì uy danh Chúa Giêsu, vì lợi ích của Hội Thánh, vì lợi ích của linh hồn con người, vì lợi ích chung của toàn xã hội mà hiến thân phụng sự Chúa, phục vụ con người.
Xin cho các mục tử trong Hội Thánh luôn kiên tâm, để họ có thể tuyên bố bằng chính lời của Chúa Giêsu: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta… Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”.
Đã thành thông lệ từ nhiều năm, mỗi dịp mùa Chay đến, Ban Mục vụ Giới trẻ giáo phận chúng tôi PS 4-C146
Đã thành thông lệ từ nhiều năm, mỗi dịp mùa Chay đến, Ban Mục vụ Giới trẻ giáo phận chúng tôi bao gồm một số linh mục đang coi xứ và linh mục dòng, và nhiều tu sĩ nam nữ, dành tất cả các ngày thứ bảy và Chúa nhật trong mùa Chay, lên đường đến các giáo hạt trong giáo phận quy tụ các bạn trẻ, giúp các bạn tĩnh tâm, học hỏi Sứ điệp mùa Chay…
Còn nhớ năm 2010, Ban Mục vụ còn giúp các bạn tìm hiểu năm Thánh 2010. Ngoài ra, nhằm định hướng cho các bạn về đời sống luân lý theo ý Hội Thánh, nhiều đề tài “thời sự” được trình bày như: “Có được phép sống thử?”, “Sống thử: Lợi hay hại?”, “Tình dục: quà tặng hay nguy cơ?”…
Nhìn các linh mục bộn bề công tác, nhất là bao nhiêu việc phải sắp xếp, phải chu toàn trong những ngày Đầu tuần (theo Thánh Kinh, Chúa nhật là ngày Đầu tuần), các ngài phải làm sao hoàn thành bổn phận với giáo dân trong giáo xứ, nhưng cũng không bỏ cơ hội giúp các bạn trẻ tĩnh tâm để dọn tâm hồn mừng mầu nhiệm Vượt qua. Đa số các bạn trẻ phải đi làm suốt ngày, các buổi tĩnh tâm đều phải diễn ra từ xế chiều đến đêm. Vì thế, có hôm kết thúc buổi tĩnh tâm, vì địa bàn giáo phận quá rộng, các linh mục chia tay các bạn trẻ, về đến nhà, đồng hồ đã điểm một, hai giờ đêm…
Có lần đến nơi quy định để tổ chức tĩnh tâm, nhìn qua nhìn lại chỉ thấy có 25 bạn trẻ của cả giáo hạt đi dự tĩnh tâm (số những người trong ban tổ chức đông hơn số người tham dự tĩnh tâm), chúng tôi cứ ngỡ thất bại, cứ ngỡ các linh mục sẽ chán nản, bỏ cuộc. Nhưng không, ai đó đã lên tiếng động viên: “Dù chỉ có hai người đi tĩnh tâm, cũng sẽ giảng như giảng cho 200 người. Dù chỉ có 200 người, cũng sẽ giảng như giảng cho 2.000 người”. Thế rồi tất cả lại bắt tay vào việc với 25 người dự tĩnh tâm cũng bằng ấy “quy mô” y như… đang có 2.500 người vậy… Đúng thôi, một tâm hồn tội lỗi trở về với Chúa còn quý, huống hồ 25 con người đang khao khát yêu mến Chúa!
Theo chân Ban Mục vụ Giới trẻ trong nhiều năm, tôi càng thấy yêu các bạn trẻ, càng kính phục sự hy sinh tận tụy của các linh mục trong Ban. Để đánh thức đức tin, đánh thức niềm yêu mến Chúa, yêu mến Hội Thánh, và để kêu gọi lòng ăn năn tội, để gọi về tâm hồn thánh thiện nhằm chuẩn bị lễ Vượt qua của Chúa, Ban Mục vụ Giới trẻ Phú Cường đã không kêu gọi suông, nhưng đã hành động thiết thực.
Không dám coi những việc làm bên trên là tất cả nghĩa cử của người mục tử, bởi làm mục tử thật sự như Chúa muốn còn khác hơn nhiều, còn được đòi hỏi lớn hơn nhiều. Nhưng ít ra, đó cũng là một phấn đấu đẹp gợi hứng cho mỗi chúng ta có thể ý thức, có thể tự nhủ mình phải phấn đấu, cố gắng vươn lên từng ngày, từng ngày một.
Hôm nay, lễ Chúa Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho ơn gọi tu trì, chúng ta cùng nhìn lại hình ảnh đẹp của Ban Mục vụ Giới trẻ mà hun đúc cho bản thân tinh thần cầu nguyện: Xin cho Hội Thánh Chúa ngày càng có nhiều người ham thích dấn thân cho ơn gọi tu trì không phải để hưởng thụ, nhưng là biết xả thân vì cơ đồ của Chúa Kitô và vì mọi con người trần thế.
Hơn hết, chúng ta nguyện xin cho các linh mục, biết thăng tiến và làm đẹp ơn gọi quý báu mà Chúa ban cho mình bằng tất cả mọi nỗ lực dù phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận thử thách.
Bởi tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu hy sinh. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục, một khi mang trong mình chính tình yêu hy sinh của Chúa Giêsu, và ấp ủ trong đời mục tử của mình hình ảnh Chúa Giêsu, người linh mục cũng phải biết yêu, phải biết hy sinh như Chúa, để không chỉ khắc họa lại hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử trong đời hiến dâng của mình, mà chính qua sự hiến dâng, linh mục còn cho thấy, linh mục chính là hiện thân của Chúa Giêsu nơi trần thế.
Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục luôn có một tình yêu tận hiến đến cùng cho Thiên Chúa và cho con người. Một tình yêu tận hiến đến cùng sẽ giúp linh mục không còn gì hối tiếc vì đã không hết mình cho sứ vụ. Tình yêu tận hiến đến cùng phải là nhân đức hàng đầu của người linh mục. Bởi nếu không có tình yêu tận hiến ấy, mỗi ngày trong đời sống của linh mục trôi qua sẽ nặng nề, buồn tẻ, mệt mỏi… Nhất là khi phải đối diện với những thách đố, nếu không sẵn sàng tận hiến đến cùng bằng một tình yêu trong sứ vụ, vì sứ vụ, người linh mục dễ chán nản, buông xuôi. Nếu đời sống của linh mục mà không còn ham thích chiến đấu, không còn vươn lên cho lý tưởng, không còn tha thiết với sứ mệnh Chúa trao, đồng nghĩa với việc, linh mục sẽ là gánh nặng cho giáo dân, gây thiện hại cho Hội Thánh Chúa, và xúc phạm đến chính hồng ân mà Chúa trao ban cho người linh mục.
Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục, để các ngài chỉ biết tìm niềm vui trong sự hiến dâng, trong mọi công tác thánh hóa các linh hồn, trong sự say mê phục vụ người nghèo, phục vụ người bất hạnh. Bởi nếu các linh mục mà không tìm niềm vui trong sứ mạng của mình, không thấy mình hạnh phúc trong vai trò phục vụ, thì không còn gì nguy hiểm bằng. Bởi như sự bù trừ, nếu một người không tìm thấy hạnh phúc ở chỗ này, anh ta sẽ tìm hạnh phúc ở chỗ khác. Nếu linh mục không nhận ra sứ vụ của mình là chân lý để đạt tới hạnh phúc thật, cám dỗ về một lý tưởng khác, một đam mê khác, một hình ảnh khác, một con đường khác… sẽ có cơ hội len lỏi vào đời sống các linh mục. Như thế, sự đổ vỡ tấn công các ngài chỉ còn là yếu tố thời gian. Như vậy, đời linh mục sẽ không còn đau đớn nào bằng, Hội Thánh sẽ không còn nỗi buồn nào bằng, cộng đoàn nơi linh mục đang sống sẽ không còn ê chề nào bằng… Vì thế, chúng ta nguyện xin Chúa giúp các linh mục chỉ yêu Chúa và yêu hình ảnh của Chúa nơi con người mà Chúa ban cho họ trong một trái tim không bao giờ san sẻ…
Cách riêng với giáo phận của tôi, tôi thấy các linh mục trong Ban Mục vụ Giới trẻ, tuy chưa nhiều, tuy chưa lớn, nhưng việc làm của các ngài phục vụ đời sống tâm linh của các bạn trẻ, cách nào đó, đã có thể có tiếng vang. Ước mong các ngài sẽ kiên trì tiếp tục công việc của mình không ngại khó, không ngại khổ, ngày càng phát huy hơn, tiến triển hơn, sáng tạo hơn để lôi kéo các bạn trẻ về với Chúa, yêu mến Chúa. Biết đâu nhờ tấm gương hy sinh của các ngài, nhiều bạn trẻ sẽ can đảm dấn thân cho Chúa, sống đời ơn gọi.
Ngắm nhìn từng linh mục trong linh mục đoàn của giáo phận tôi, với mọi hăng say, mọi lao tác mà các ngài thể hiện, tôi tin rằng, ơn Chúa đang tuôn đổ dồi dào cho giáo phận. Bởi đó, tôi cũng tin rằng, nhờ từng anh em linh mục chúng tôi nỗ lực sống từng ngày trong thánh chức mộc cách thiết thực, và luôn không bằng lòng, không thỏa mãn với sự dâng hiến mà mình đã trao đi để xây dựng Nước Chúa tại giáo phận nhà, sự phát triển về đời sống thánh thiện sẽ còn tiến xa hơn, tiến mạnh hơn cho chính bản thân người linh mục, và cho tất cả mọi anh chị em mà linh mục có trách nhiệm phục vụ...
Tôi vẫn thấy, mùa xuân, hoa vẫn nở rực rở, khoe đủ màu, đủ loại trong cánh rừng, trong những vườn ươm trồng, trong từng ngỏ, trong từng nhà… trên quê hương tôi. Tôi vẫn thầm so sánh, hy vọng và ước mong: ơn Chúa qua tay anh em linh mục chúng tôi, thực sự nở rực trên khắp cùng mọi nơi trong Hội Thánh nói chung và trong chính giáo phận này. Tôi vẫn tin, với ơn Chúa thắm tươi đậm đà trên khắp Hội Thánh, mùa xuân Hội Thánh mãi mãi không bao giờ tàn phai, dẫu tiết trời có thể sang đông, sang hạ!...
Để mùa xuân nở rộ trong Hội Thánh, không thể thiếu vắng hồng ân linh mục. Vì thế, linh mục không nỗ lực cộng tác để hồng ân của Chúa lớn lên từng ngày, đồng nghĩa với việc linh mục giết chết mùa xuân Hội Thánh…!
Ngày ấy, khi lớp chúng tôi có gần một nửa lớp chịu chức linh mục, linh mục Nguyễn Duy, (lúc PS 4-C147
Ngày ấy, khi lớp chúng tôi có gần một nửa lớp chịu chức linh mục, linh mục Nguyễn Duy, (lúc đó cũng đang là chủng sinh, dù thuộc lớp đàn anh, nhưng được phân bổ vào lớp chúng tôi để hợp thức hóa và bổ túc chương trình học), đã cảm tác bài hát “Nhân loại vẫn cần” để tặng cả lớp.
Bài hát ấy, tôi vẫn nhớ, vẫn hát. Mỗi lúc nhớ thầy, nhớ trường, nhớ bạn, hoặc mệt mỏi vì rong ruổi trong suốt dọc dài con đường phục vụ, tôi đã nhiều lần hát đi hát lại, để vừa cầu nguyện cho mình, cho thầy, cho anh em, cho sứ vụ của từng người trong lớp chúng tôi, cho cả những gương mặt thân yêu của cộng đoàn mà mình sống và làm việc hôm nay, vừa tìm cách củng cố sức lực do năm tháng đã không ít hao mòn.
Đối với riêng tôi, bài hát ấy hay, nó gợi lại trong tôi cả khung trời kỷ niệm, đồng thời giúp tôi hiên ngang nhìn về phía trước mà thực hiện chính sứ mạng của Chúa Kitô, được Chúa Kitô trao cho mình... Cứ thế, mà tôi hát: “Nhân loại vẫn cần người biết sống ơn gọi của Chúa. Nhân loại vẫn cần người làm chứng tình Chúa yêu thương. Nhân loại vẫn cần người mục tử dẫn đường chỉ lối, cùng đoàn chiên đêm ngày đi tới, về nhà Cha mến yêu muôn đời... Nhân loại vẫn cần người đi tiếp con đường của Chúa. Nhân loại vẫn cần người dám sống cuộc sống Giêsu. Nhân loại vẫn cần người nhiệt tâm trong đời ngôn sứ, chỉ truyền rao những lời của Chúa để trần gian sống trong sự thật... Nên Chúa đã sai từng người chúng con, những linh mục bước đến cùng thế giới. để đáp ứng những khát vọng khắp nơi. Để tô thắm những ước mơ con người. Nghe tiếng Chúa nay từng người chúng con quyết lên đường loan Tin Mừng Cứu Rỗi. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con được nên thánh trong cuộc đời chứng nhân…”
Trong những ngày này, chuẩn bị mừng lễ Chúa Chiên lành, ngày Hội Thánh cầu nguyện và cổ võ cách đặt biệt đối với ơn gọi tận hiến, tôi càng ý thức hơn vai trò và trách nhiệm mục tử của mình. Sau mỗi thánh lễ sáng xong, tôi đóng cửa phòng rồi cứ thế mà cất lên cung điệu Nhân loại vẫn cần… để cầu nguyện, để tạ ơn Chúa, để đánh thức mình hãy nên mục tử nhân lành.
Sau bài hát, tôi lại đọc đi đọc lại bài Tin Mừng theo thánh Gioan để nguyện gẫm: “Chúa Giêsu nói với người Dothái rằng: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 27-30). Ước mong một điều chính đáng rằng, ngày nào tôi còn thi hành chức vụ mục tử, và Hội Thánh còn tiếp tục tin tưởng trao cho tôi sứ mạng mục tử, ngày ấy, tôi vẫn cứ xông vào trận chiến với thế gian, với tội lỗi và với mọi cơn cám dỗ trong đời một cách không mệt mỏi để làm cho từng con chiên của Chúa Kitô thực sự yêu mến Chúa Kitô, nghe Lời Chúa Kitô. Nhờ đó họ không bị diệt vong, không bị bất cứ thế lực nào của sự dữ cướp khỏi ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và lãnh nhận sự sống đời đời mà Chúa Kitô ban cho họ.
Để hoàn thành xuất sắc vai trò mục tử như Mục Tử Giêsu, một hình ảnh mục tử mà mãi mãi nhân loại vẫn cần, vẫn tha thiết trông chờ, vẫn hoài hy vọng, tôi nghiệm ra rằng, trước hết mình phải là chiên xuất sắc của Mục Tử Giêsu. Một khi đã là chiên tốt, chắc chắn, tôi cũng sẽ là mục tử tốt như Chúa Giêsu.
1. Cùng anh chị em, linh mục là thành phần của đoàn chiên Chúa
Trước khi là mục tử, người linh mục đã thuộc về đàn chiên. Biết mình là chiên, cũng mang thân phận con người đầy khiếm khuyết, có khi đã nhiều lần, do chủ quan, do mải ngụp lặn trong biển đời nhiều sóng dữ, đã để xảy ra nhiều thương tật cho đời sống tâm linh của bản thân.
Biết mình là chiên như mọi con chiên trong đoàn chiên của Chúa, người linh mục luôn luôn học lấy lòng khiêm nhường, hiền từ như Mục Tử Giêsu. Cùng là người như mọi anh chị em của mình, người linh mục không bao giờ được phép coi thường những điều kiện căn bản để vươn lên trong ơn thánh Chúa như: cầu nguyện, nguyện gẫm, xét mình, đọc Lời Chúa, viếng Thánh Thể, thường xuyên lãnh bí tích hòa giải…
Người linh mục càng phải ra sức cộng tác với ơn Chúa để sống một đời sống gương mẫu, mực thước, tự chủ, biết sống lành mạnh, không xa hoa, không tìm danh lợi, không mưu cầu cách ích kỷ sự giàu có cho bản thân… nhưng luôn biết từ chối tất cả mọi nguy hiểm có thể đánh đổi ơn gọi của mình là thứ quý giá trên hết mọi thứ quý giá.
Ngoài ra, dù là mục tử, người linh mục sẽ không ít lần bắt gặp những mẫu gương rất tốt nơi anh chị em mà mình có thể học lấy. Chẳng hạn, nhiều anh chị em quyết không bước vào con đường gian tham, tội lỗi, dù rất nghèo. Hoặc nhiều người đau khổ đến cùng cực, nhưng đức tin vẫn lung linh cháy sáng. Nhiều anh chị em tham gia phục vụ người nghèo, phụ vụ nhà thờ, phục vụ cộng đoàn hết sức miệt mài, nhiệt tâm y như việc họ làm là làm cho chính gia đình, cho chính bản thân của họ vậy… Tất cả những hình ảnh ấy, càng làm cho người linh mục khám phá ra một chân lý rất bình thường, nhưng rất đỗi quang trọng: Dù là mục tử, người linh mục vẫn là thành phần của đoàn chiên Chúa. Nhận ra mình cũng là chiên như anh chị em, người linh mục sẽ không bao giờ dám coi chức linh mục của mình là quan chức, là hướng nhắm của sự thành công, để khi đạt được rồi, sẽ hưởng thụ, tệ hơn, vơ vét mọi thứ cho cá nhân mình…
Tắt một lời, khi biết rèn giũa cho hình ảnh “chiên” nơi mình càng đẹp, càng sáng, thì khi làm mục tử, người linh mục cũng sẽ là mục tử tốt lành mang lấy và phản chiếu hình ảnh tốt lành của Mục Tử Giêsu.
2. Là mục tử của đoàn chiên Chúa
Rất nhiều lần, và ngay chính lúc này, tôi cảm nhận rõ ràng, thánh chức linh mục mà Chúa ban cho mình quý giá vô cùng. Bởi nó là danh dự, là sự điểm tô lộng lẫy cho chính người linh mục đã vậy, quan trọng hơn, nó chính là sự cần thiết của đời sống tâm linh con người. Chức linh mục vẽ thêm vào cuộc đời, vốn vàng thao lẫn lộn, những nét tươi mới của tin yêu, của niềm an úi, của hy vọng. Bởi không có ai khác nhưng linh mục, đã gắn bó với từng anh chị em mà Hội Thánh trao cho mình, gắn bó suốt đời mình để phục vụ, để hiến thân.
Chính linh mục mới là người biết rõ, biết nhiều về tâm tư con người. Cả trong tòa giải tội, lẫn ngoài đời thường, không biết bao nhiêu lần người linh mục chia sẻ những tâm tư, những bức xúc, những bí mật rất thật về chính bản thân của anh chị em. Dường như chỉ có linh mục mới có thể giải tỏa nhiều chông chênh, ngang trái mà anh chị em gặp phải trong một lòng thương mến thật, thông cảm thật. Anh chị em đến với linh mục bằng một niềm tin tưởng thật, vì thế họ cũng sẽ nhận được từ người linh mục một trái tim rung cảm thật, nhằm tiếp thêm ngọn lửa của sức mạnh chịu đựng, tiếp thêm sức nóng xóa tan băng giá của cả một đời đầy dông bão.
Vì trót cả cuộc đời của những người mang lấy đức tin, là cả cuộc đời mang dấu ấn của thánh chức linh mục. Bởi không ai khác, nhưng là chính bàn tay linh mục, trong bí tích rửa tội, đã đưa một con người từ thưở bé thơ vào cộng đoàn Hội Thánh để làm Con Thiên Chúa. Dù trong anh chị em, có người không nhìn nhận, thậm chí chống đối cá nhân linh mục này, linh mục khác, thì anh chị em cũng không thể chối từ ảnh hưởng của thánh chức linh mục trên cuộc đời mình. Chỉ nhờ linh mục, anh chị em được lãnh nhận ân sủng từ kho tàng bí tích mà Chúa trao cho Hội Thánh. Những khi anh chị em muốn tìm lại bình an nội tâm sau những lần ngã quỵ vì cám dỗ, vì tội lỗi, cũng chính linh mục nhân danh Chúa ban ơn Thánh Thần tha thứ cho anh chị em. Đến tuổi trưởng thành, cũng nhờ chính bàn tay linh mục, mà mỗi một người chính thức bước vào đời sống gia đình cách hợp pháp. Có thể nói, trong bí tích hôn phối, người linh mục đã liên tục sinh ra các gia đình mới cho Hội Thánh. Hay suốt cả một đời làm Kitô hữu của mình, từng anh chi em đã không thể đếm hết bao nhiêu lần đã cậy nhờ thánh chức linh mục, và chính bản thân người linh mục mà lãnh nhận hết hồng ân này đến hồng ân khác, hết hy tế thánh lễ này đến hy tế thánh lễ khác, hết lời giảng dạy này đến lời giảng dạy khác… Và giây phút quan trọng nhất, nhưng cũng kinh hoàng nhất, đáng sợ nhất của đời người là giây phút sắp lìa đời, thì sự hiện diện lần cuối cùng của linh mục lại ấm áp, thiêng liêng, ý nghĩa vô cùng. Nó mang lại niềm an ủi, mang lại sự xoa dịu nỗi sợ hãi, xoa dịu cơn đau đớn không thể tả để anh chị em thanh thản lìa đời. Và cuối cùng, cũng chính bàn tay linh mục đưa lên ban phép lành lần cuối thay lời từ biệt trao gởi anh chị em về với Đấng Hằng Hữu, Đấng mà từ đó, đã làm phát sinh sự sống của không biết bao nhiêu sinh linh trong cõi đời này.
Như vậy, linh mục rất cần vai trò làm chiên cùng với đoàn chiên của Chúa. Làm con chiên như anh chị em, người linh mục sẽ hiểu nhiều hơn, sẽ dễ thông cảm hơn với từng mảnh đời, từng hoàn cảnh của anh chị em. Là chiên của Chúa, thấu hiểu nỗi lòng của đoàn chiên, để khi đứng trong vai trò mục tử, người linh mục sẽ dẫn đưa anh chị em của mình đến sự sống, một sự sống hoàn thiện, sự sống dồi dào…
Đúng là nhân loại vẫn cần, mãi mãi cần những mục tử của Chúa, những mục tử thay thế Chúa săng sóc đoàn chiên Chúa. Nhân loại vẫn cần những con người dám hiến thân vì người khác giữa cuộc đời mênh mông và biến động. Nhân loại cần lắm những bàn tay nâng đỡ lòng người, cần lắm những con người luôn luôn thao thức vì hạnh phúc của loài người, cần lắm những bóng mát làm dịu cơn khát tình yêu, xua đi nỗi buồn chán, lấp đầy những khoảng trống cô đơn của con người. Nhân loại vẫn cần vô cùng những tấm lòng từ ái, những con người của ơn hòa bình, những dấu chỉ của niềm hy vọng, những hiện thân của hạnh phúc trường cửu, mà chính người mục tử ghi dấu, để mỗi anh chị em luôn cảm nhận tình yêu, luôn tìm ra một chỗ dựa mỗi khi cần, luôn thấy mình được an ủi vỗ về khi đau đớn…
Nhân loại vẫn cần, cần lắm những linh mục thánh thiện, những linh mục nhân lành. Bởi họ chính là những mục tử như lòng mong ước…
Chúng ta, những người dấn thân trong ơn gọi tu trì của Hội Thánh Chúa Kitô. Vì thế, tất cả PS 4-C148
Chúng ta, những người dấn thân trong ơn gọi tu trì của Hội Thánh Chúa Kitô. Vì thế, tất cả chúng ta hãy luôn để lòng mình thấm thía lời Chúa Giêsu: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. Nhất là những ai đang mang trọng trách lãnh đạo đoàn chiên của Chúa trong vai trò của một mục tử, chúng ta càng phải cầu nguyện để các chính mình luôn luôn ý thức như Chúa Giêsu đã ý thức: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”.
Đó chính là những lời tâm sự của Chúa Giêsu. Một khi các mục tử nơi trần thế, được Chúa Giêsu ủy quyền để lãnh đạo đoàn chiên của Người, các mục tử phải là những người trước tiên cưu mang, uống lấy, luôn tâm niệm, luôn say trong lời của Chúa Giêsu. Nhờ đó, khi các ngài hành động trong vai trò một người lãnh đạo nơi đoàn chiên của Chúa, các ngài sẽ thực sự hành động trong tư thế của Chúa Giêsu. Để chính khi thừa lệnh Chúa, theo ý Hội Thánh, cử hành bí tích, cử hành thánh lễ, cử hành quyền giảng dạy, các mục tử cử hành cách hết sức sốt sắng, đầy tinh thần trách nhiệm, nhằm mang lại nhiều hiệu quả nhất cho đời sống tâm linh cũng như đời sống vật chất, linh hồn cũng như thể xác của tất cả nhưng ai mà các ngài dấn thân phục vụ.
Chúng ta luôn ý thức và xin Chúa cho mình được trở thành những nhà lãnh đạo kiên trung trong đức tin, bền bỉ trong đức cậy, mạnh mẽ trong đức mến. Nêu cao tấm gương tận tụy hy sinh, phục vụ quên mình, sống thánh thiện, thực hành đức bác ái mục tử…
Các mục tử của Chúa hãy là những người rập khuôn cuộc đời Chúa Giêsu. Các ngài hoàn toàn đi theo dấu chân Chúa Giêsu không bao giờ ngơi nghỉ. Các ngài ý thức từng giây phút rằng, chính các ngài chứ không phải ai khác, là họa ảnh của Chúa Giêsu hôm nay, nơi trần thế này, để làm sao, mọi người khi nhìn thấy mục tử của họ là chính lúc họ an tâm rằng, Chúa Giêsu đang hiện diện nơi vị mục tử ấy. Tắt một lời, các mục tử hãy sống suốt đời của mình như Chúa Giêsu đã sống.
Phải sống như Chúa Giêsu, các mục tử của Chúa mới có thể tự hào mà nói rằng, đàn chiên Chúa trao cho tôi đã lắng nghe tiếng tôi, đã theo tôi.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử mới có thể biết chiên của mình, biết từng nỗi ưu tư, khắc khoải của họ; biết họ đang là người bị loại trừ hay đón nhận mà nâng đỡ họ; biết họ lâm cơn thử thách hay bình an mà trao cho họ lời động viên khích lệ; biết từng cách sống nguội lạnh hay sốt sắng mà hướng dẫn họ…
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử là người đưa tay chỉ đường về trời cho đàn chiên không lạc lối. Khi đó, các mục tử mới thật sự là những người ban cho đàn chiên sự sống đời đời.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử ra sức bảo vệ đàn chiên và bảo vệ tới cùng, để đàn chiên không bao giờ phải diệt vong, để không ai, không quyền lực tội lỗi, quyền lực sự xấu nào có thể cướp được đàn chiên khỏi tay mình.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử sẽ phải ghi khắc không bao giờ quên rằng, tôi có làm gì, có lãnh đạo như thế nào, thì sự thật vẫn là: đàn chiên không phải của riêng tôi. Tôi không sở hữu theo ý mình để rồi muốn làm gì thì làm, nhưng là “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi”. Người “lớn hơn tất cả”. Tôi chỉ là đầy tớ của Người, chỉ làm theo ý Người mà thôi. “Cha tôi” mới là Đấng có quyền. Người thi hành quyền của Người trong tình yêu tuyệt đối.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử sẽ hết sức khiêm nhường phó thác trọng trách của mình, phó thác đàn chiên Chúa trao cho mình trong sự cầu nguyện chìm đắm không bao giờ được phép quên sót. Các mục tử phải luôn luôn thi hành quyền mục tử trong niềm tin tưởng lớn lao rằng, đàn chiên ấy là của “Cha tôi”. Các ngài phải thi hành quyền làm mục tử đến cùng, dù có phải mỏi mòn, bạc nhược, bị hiểu lầm, đuối sức… Phải thi hành đến lúc không còn có thể thi hành được nữa mới thôi. Các mục tử hãy biết rằng, mình chỉ là con người. “Cha tôi” mới là Đấng làm nên tất cả, điều khiển tất cả. Các mục tử hãy tin vững vàng rằng, “Cha tôi” sẽ ban ơn cho tôi, sẽ ban ơn cho đàn chiên mà tôi nhận trách nhiệm coi sóc để không bao giờ có ai có thể cướp được đàn chiên khỏi tay Cha tôi.
Ngoài tâm tình cầu nguyện dành cho các mục tử đang đại diện Chúa nơi trần thế, ta không quên cầu nguyện cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng Chúa gọi, nhất là có đủ can đảm để theo tiếng gọi đó bằng một đời dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân, phụ vụ người nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật, cô đơn, già yếu… Chúng ta cầu nguyện cho các bạn trẻ khắc ghi lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mà nung đốt lòng mình niềm mơ ước sống đời tận hiến: “Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời” (Sứ điệp ngày Quốc tế Ơn gọi năm 2000).
Lạy Chúa, xin gìn giữ các linh mục, các tu sĩ là những người Chúa đã gọi và tuyển chọn, để họ luôn yêu mến Chúa và yêu mến con người, nhờ đó hành động, suy nghĩ, đời sống của họ ngày càng nên giống Chúa Giêsu Con Chúa, là Mục Tử Nhân Lành của chúng con.
Xin Chúa sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ, để các bạn quản đại đáp lại tiếng gọi của Chúa, yêu mến đời sống của Chúa Giêsu và hiến thân như Người. Nhờ đó, họ có thể tiếp tục làm tất cả những gì Người đã làm nơi trần gian. Amen.
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe nói nhiều về ơn gọi. Nhiều lúc chúng ta thắc PS 4-C149
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe nói nhiều về ơn gọi. Nhiều lúc chúng ta thắc mắc vì không hiểu được tại sao có người đi tu; tại sao Chúa lại chọn những con người này. Vì ơn gọi rất huyền nhiệm, nên nhiều bạn trẻ muốn đi tu hay tìm hiểu ơn gọi nhưng không chắc chắn rằng mình có ơn gọi hay được Chúa gọi không? Nhân dịp Ngày Quốc Tế Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu, chúng ta tìm hiểu về chủ đề này.
1. Ơn thiên triệu là gì?
Trước hết chúng ta thử hỏi: ơn thiên triệu hay ơn gọi là gì?
Thông thường khi nói tới ơn thiên triệu, ta nghĩ ngay tới ơn Chúa gọi ai đó đi tu làm linh mục, thầy dòng, hoặc nữ tu, còn giáo dân không đi tu, họ ở giữa thế gian, nên không có ơn thiên triệu. Chúng ta cần phải xét lại các hiểu đó.
Từ ngữ “Thiên Triệu” dịch từ tiếng Vocatio trong tiếng Latinh do động từ vocare có nghĩa là kêu gọi, mời gọi.
Khi dùng trong lãnh vực tôn giáo, vocatio thường dùng để chỉ lời kêu gọi của Thiên Chúa gọi người này, kẻ kia làm việc gì theo ý Ngài, nên ta dịch từ ngữ Vocatio là ơn thiên triệu.
Jacque Guillet định nghĩa: “Ơn gọi là tiếng Thiên Chúa mời gọi kẻ Ngài đã chọn ủy thác làm một công việc đặc biệt trong kế hoạch cứu rỗi loài người và trong vận mệnh của dân Ngài” (trong Vocabulaire de theologie biblique, 1970). Định nghĩa này thu hẹp “lời Thiên Chúa kêu gọi” trong những trường hợp riêng biệt để đảm nhận công việc đặc biệt trong dân Chúa.
Công Đồng Vaticano II hiểu ơn thiên triệu theo nghĩa rộng: Có nghĩa là tất cả mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi, đều có ơn thiên triệu: làm người và làm Con Chúa, tất cả đều được mời gọi nên thánh. Công Đồng xác định đây là ơn gọi phổ quát, một ơn gọi mà tất cả mọi kitô hữu đều được mời gọi hướng tới. Trong văn kiện Lumen Gentium số 40 Công Đồng nói rằng: “Tất cả mọi người tín hữu dù ở cấp bậc đều được mời gọi đạt tới sự thánh thiện”. Chính vì vậy, không chỉ có giám mục, linh mục và tu sỹ, cả giáo dân, tất cả đều được mời gọi đạt tới sự hoàn thiện (LG 39). Cũng theo Công Đồng này, trong Giáo Hội có nhiều hình thức của đời sống: ơn gọi linh mục, tu sĩ, giáo dân. Đây là những hình thức đời sống để nên thánh hay để đạt tới sự hoàn thiện kitô giáo.
Nhưng hiểu theo nghĩa nào, cuối cùng ta phải nhìn nhận: Ơn thiên triệu luôn có hai phía hay hai yếu tố đi liền với nhau: Thiên Chúa gọi và con người đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Theo cái nhìn đó, ơn gọi là sáng kiến của Thiên Chúa: Thiên Chúa dự định, Thiên Chúa chuẩn bị, Thiên Chúa ban ơn, Thiên Chúa thúc đẩy. Con người đáp trả cách tự do, chọn lựa, từ bỏ và bước theo Chúa, sống cho Chúa, hiến thân cho Chúa.
2. Ơn gọi vừa là hồng ân vừa là chọn lựa dứt khoát
Ơn gọi hay đi tu là một hồng ân mầu nhiệm của Thiên Chúa, vừa là một sự chọn lựa riêng của mỗi người. Chúng ta tìm hiểu những câu chuyện ơn gọi nỗi bật trong Cựu Ước và Tân Ước.
Câu chuyện ơn gọi của Abraham là một điển hình. Chúa gọi Abraham để ông trở thành tổ phụ của một Dân riêng và “Cha của những kẻ tin”. Thiên Chúa chọn Abraham trong dòng dõi Sem, người ‘sinh ra từ Ur’ (St 11,10-31) và dẫn đưa ông bằng những con đường đến vùng đất mà ông không hề biết (Dt 11,8). Ông đã ra đi theo tiếng gọi đó, dù không biết đi về đâu, nhưng ông biết chắc một điều là có Chúa dẫn đường. Ông đã phó thác cho Chúa hướng dẫn.
Ơn gọi của Giêrêmia cũng rất huyền nhiệm: Chúa nói: “Trước khi ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã thánh hiến ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc”. Giêrêmia đáp lại: A, a, a lạy Thiên Chúa là Thiên Chúa, tôi đâu có biết ăn nói, vì tôi còn là con nít”. Chúa lại phán: ngươi đừng nói ngươi là con nít... ngươi đừng sợ họ, vì ta sẽ ở với ngươi để bảo vệ ngươi” (x. Gr 1,4-10).
Tin Mừng tường thuật về việc Chúa chọn các tông đồ cách lạ lùng:
Chúa Giêsu chọn và mời gọi các môn đệ đầu tiên như Phêrô, Gioan và Giacôbê: “Hãy theo Ta. Ta sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 3,20). Họ từ bỏ và mau mắn đáp trả theo Chúa. Họ là ai? Họ là những người đánh cá, bình dân, quê mùa, không có học vấn cao, bằng cấp, có địa vị… nhưng họ đã đáp trả lời mời gọi đó một cách hăng hái và từ bỏ tất cả để theo Chúa. Họ đã được Chúa biến đổi và làm cho trở thành những “kẻ lưới người như lưới cá”.
Trường hợp ơn gọi của Matthêu cũng gây nhiều ngạc nhiên: ông là một người thu thuế, nhưng khi nghe tiếng Chúa gọi: “Hãy theo ta! Ông trả lời tức thì và quảng đại, bỏ tất cả, ông đứng dậy, đi theo Người (Lc 5,28). Tất cả đều được Chúa mời gọi và tất cả đã đáp trả và từ bỏ để theo Chúa.
Như thế, ơn gọi vừa rất huyền nhiệm vì Thiên Chúa gọi ai Ngài muốn, gọi vào thời điểm nào và ở nơi nào đều tùy ý Ngài (x. Mc 3,13). Nhưng ơn gọi cũng là một chọn lựa liên lĩ, đòi hỏi nhiều hy sinh và từ bỏ của những ai mà Thiên Chúa muốn gọi. Vì thế, nếu nhìn ơn gọi như là một hồng ân của Thiên Chúa, việc đi tu hay theo Chúa không phải hệ tại nơi khả năng và tài cán của con người, nhưng hệ tại nơi lòng muốn và ân sủng của Thiên Chúa. Nếu nhìn ơn gọi như là chọn lựa, đi tu bao gồm sự hy sinh, từ bỏ để dấn thân cho Thiên Chúa và cho tha nhân.
3. Những dấu chỉ của ơn gọi
Rất khó trả lời một cách chắc chắn rằng bạn có ơn gọi tu trì hay không. Nhưng dựa trên những dấu chỉ mà mình có để phân định ơn gọi và để vững tin tiến bước.
Nếu Thiên Chúa đang kêu mời bạn đi tu, chắc chắn ngài sẽ ban cho bạn những phẩm chất cần thiết để trở thành linh mục hoặc tu sỹ.
Có hai dấu hiệu cho thấy một người có ơn gọi tiến tới đời sống linh mục: đó là có ý hướng ngay lành và những phẩm chất sự phù hợp.
Ý hướng ngay lành:
Ý hướng ngay lành liên quan tới ơn gọi linh mục hoặc thánh hiến bao gồm những nội dung sau đây: Khát khao phụng sự Chúa Kitô vì tình yêu mến chính Ngài và có lòng yêu mến Giáo Hội, yêu mến giáo huấn Giáo Hội, yêu mến đời sống đạo đức, có tinh thần hy sinh chịu khó; khát khao đi tu để phục vụ người khác và muốn dẫn đưa các linh hồn về cho Chúa. Đó là dấu hiệu cho thấy ý hướng ngay lành. Trái với ý hướng ngay là ý hướng lệch lạc: đi tu vì những động cơ nhân loại như để mưu cầu danh dự, tìm đặc ân đặc quyền, thích được trọng vọng và để thoát đời…
Những phẩm chất phù hợp:
Dấu hiệu thứ hai của ơn gọi tu trì là có những phẩm chất phù hợp đó là phẩm chất đạo đức, trí thức, thể lý, tâm sinh lý và hoàn cảnh gia đình.
Trước hết là khả năng về đạo đức: ai muốn đi tu trước hết phải là người có khả năng sống đời sống nội tâm hay tâm linh. Phẩm chất này bao hàm không chỉ khả năng sống khiết tịnh suốt đời mà còn bao hàm các nhân đức khác nữa như khiêm tốn, vâng phục, tự chủ, nhân hậu, quảng đại, vị tha, cẩn trọng, yêu mến sự thật, thẳng thắn, có lòng đạo hạnh, có đời sống luân lý tốt… Tóm lại: là người có lòng yêu mến Chúa và tha nhân.
Khả năng tri thức: đi tu phải có những phẩm chất trí năng cần thiết để thi hành sứ vụ tông đồ.
Phẩm chất về thể lý và tâm sinh lý: đi tu phải là người khỏe mạnh và bình thường về thể lý và tâm lý. Đây là phẩm chất cần thiết để hoàn thành các bổn phận của người theo Chúa. Ứng sinh phải không bị vướng mắc những bệnh nan ý, rối loạn thần kinh và rối loạn chức năng vốn là biểu hiện của một tình trạng “lệch lạc” hoặc bệnh hoạn về tâm lý trong phán đoán, thái độ và hành động.
Sự phù hợp về gia đình – Ứng viên phải xuất phát từ một gia đình có cha mẹ đàng hoàng, có tiếng tốt. Khi xem xét để trao tác vụ linh mục, yếu tố danh thơm tiếng tốt của ứng viên trong cộng đồng cần phải được cân nhắc như giáo luật đòi hỏi. Một ứng viên xuất thân từ một hoàn cảnh gia đình phù hợp thì sẽ là sự thuận lời cho đời sống và sứ vụ linh mục sau này.
Vì thế, trong quá trình tìm hiểu ơn gọi, ứng sinh cần phân định kỹ lưỡng về ơn gọi và những khả năng của mình để chọn lựa và sống ơn gọi tu trì. Cùng với cầu nguyện, biện phân ơn gọi là một công việc quan trọng trong quá trình tìm hiểu và đào tạo.
4. Những đòi hỏi của Giáo Hội đối với ứng sinh linh mục
Mọi ơn gọi Kitô hữu đều đến từ Thiên Chúa, đó là ơn huệ của Thiên Chúa. Tuy nhiên ơn gọi ấy không bao giờ được ban bên ngoài và tách biệt khỏi Giáo Hội, nhưng luôn luôn ở trong Giáo Hội và qua Giáo Hội. Giáo Hội được Chúa giao phó cho nhiệm vụ tuyển chọn và đào tạo ơn gọi.
Giáo Hội - “người sinh ra và giáo dục các ơn gọi” - có nhiệm vụ phân định ơn gọi và sự phù hợp của các ứng sinh vào tác vụ linh mục. Thật vậy, tiếng gọi bên trong của Thánh Thần cần được Giám mục giáo phận và những người có trách nhiệm nhìn nhận xem có phải là tiếng gọi chân thực không.
Chính vì vậy, Giáo Luật 1983 đòi hỏi: Điều 241,1: “Giám mục giáo phận chỉ nên thâu nhận vào Đại Chủng Viện những người nào, xét theo các đức tính nhân bản và luân lý, đạo hạnh và trí tuệ, sức khỏe thể lý và tâm lý cùng ý muốn ngay thẳng của họ, được coi là có đủ khả năng hiến trọn đời cho các tác vụ thánh”.
Ngoài ra, Giáo luật còn yêu cầu cả những đức tính nhân bản, thể lý tâm lý phù hợp với đòi hỏi của thiên chức linh mục:
Điều 1029: “Dựa theo sự phán đoán khôn ngoan của Giám mục riêng hoặc Bề Trên cao cấp có thẩm quyền và sau mọi cân nhắc kỹ lưỡng, chỉ nên cho tiến chức những người có đức tin tinh tuyền, chí hướng ngay thẳng, kiến thức đầy đủ, danh thơm tiếng tốt, tác phong đoan chính, nhân đức đã được thử luyện và những đức tính khác về thể lý và tâm lý tương ứng với chức thánh sẽ lãnh nhận”.
Kết luận:
Giáo Hội hoàn vũ đang đối diện với cơn khủng khoảng về ơn gọi tu trì. Nếu nhìn ơn gọi tu trì là quà tặng của Thiên Chúa, thì mỗi người kitô hữu cần phải cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi như lời Chúa Giêsu dạy: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến” (Lc 10,2).
Nếu hiểu ơn gọi đồng thời là sự đáp trả của con người, thì mỗi người chúng ta cần có ý thức và cộng tác để vun trồng các mầm ơn gọi trong gia đình và trong giáo xứ. Mỗi người cần biết cổ võ ơn gọi và nâng đỡ các chương trình mục vụ ơn gọi trong Giáo Hội để càng ngày Giáo Hội có nhiều người trẻ dám quảng đại dấn thân cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ có 4 câu nhưng cũng đủ nói lên những đặc tính của vị Mục Tử Giêsu PS 4-C150
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ có 4 câu nhưng cũng đủ nói lên những đặc tính của vị Mục Tử Giêsu. Đồng thời cũng đề cập những bổn phận căn bản của we là đàn chiên của Người.
Chúa GiêSu ví mình là chủ chiên, Người là Mục Tử nhân lành - không những biết từng tên, mà còn biết từng nhu cầu của con chiên. Người thấu hiểu, cảm thông với từng hoàn cảnh vất vả, đau khổ của con người nên Người giúp đỡ kịp thời, ủi an, chăm sóc bằng tất cả con tim yêu thương, chan chứa tình người của người Mục Tử nhân lành. Người yêu thương mỗi và từng người bởi vì mỗi người we đều có 1 vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Do đó, là chiên của Chúa thì chúng ta có bổn phận nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
Chúa Giêsu nói: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi".
Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng trong lương tâm mình.
Biết Chúa ko chỉ là học hỏi, suy niệm bằng trí mà còn là hiểu biết sâu xa, yêu mến tận tình bằng tim, tâm. Chính Tình yêu mới làm cho we nhận biết Chúa một cách đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và gắn bó cuộc đời mình vào Mục Tử GiêSu. Theo Chúa đòi hỏi chúng ta từ bỏ - con người cũ, nếp sống cũ, để sống con người mới, đi theo, làm theo ý Người.
Quả vậy, ngày nay, cuộc sống chúng ta quá nhiều tiếng ồn ào, đầy dẫy hấp dẫn lôi cuốn nhưng người Kitô hữu phải phân biệt đâu là tiếng Chúa để bước theo và làm theo ý Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy: chúng ta nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống là một điều không dễ! không dễ vì Lời Chúa thì nhẹ nhàng và êm ái, Lời Chúa mời gọi chúng ta đi theo Chúa, vào con đường hẹp, con đường của từ bỏ, chông gai thập giá, của lời mời gọi Phục vụ và hy sinh....nhưng con đường này dẫn đến sự sống vì có Mục Tử GiêSu dẫn đường, nuôi dưỡng, bảo vệ.
Ngược lại, lời của trần gian, của ma quỉ thì ồn òa, náo nhiệt, hấp dẫn lôi cuốn lấn át lời nhẹ nhàng của Chúa và hơn thế nữa lời của trần gian, của ma quỉ còn mở ra một đại lộ thênh thang của tham vọng, hưởng thụ, ích kỷ, địa vị, vinh hoa phú quý,...
Tiền tài, danh vọng, lạc thú thế gian là những mục tử giả sẽ dẫn chúng ta đến những cánh đồng hoang có nhiều thú dữ đó là cuộc sống buông thả, hưởng thụ, tội lỗi và cuối cùng dẫn đến chỗ chết.
Người Kitô hữu nghe Chúa, Biết Chúa và Theo Chúa để được những gì? Chúa GiêSu đã trả lời: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (Ga 10,28). Đàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì được tới đồng cỏ xanh, dòng suối mát. Chúng ta theo Mục Tử GiêSu được bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng để lớn lên bằng Lời Chúa, ân sủng và các bí tích của Người. Mục Tử GiêSu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của Người, ban cho chúng ta sự sống đời đời, Người bảo đảm hạnh phúc vĩnh cửu cho những ai một lòng theo Người. Giám mục, Linh mục là những người được tham dự vào chức vụ chăm sóc đàn chiên của Chúa.
Phần chúng ta, ai trong chúng ta cũng muốn vị chủ chăn của mình thánh thiện đạo đức, biết quan tâm yêu thương chăm sóc từng người trong họ đạo của mình. Ai trong chúng ta cũng muốn cha sở của mình biết từng hoàn cảnh từng con chiên trong họ đạo để cảm thông, nâng đỡ, chia sẻ; dốc hết sức lực để toàn tâm lo những nhu cầu tinh thần, bí tích cho cộng đoàn của mình...Vậy chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị chủ chăn biết noi gương bắt chước Mục Tử GiêSu nhân lành, khôn ngoan, thánh thiện, cần mẫn và sẵn sàng hy sinh, phục vụ cho đàn chiên, họ đạo chúng ta...
Chúa nhật hôm nay là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn thiên triệu lm, tu sĩ. Theo thống kê năm 2010 cả nước có gần 4.000 linh mục và khoảng 12.500 tu sĩ, một con số khiêm tốn trong đất nước trên 80 triệu. Không cần nói nhiều, chúng ta ý thức nhu cầu cấp bách là Giáo Hội đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa Giêsu bảo các môn đệ: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến đồng lúa".
Chúng ta xin cho có nhiều người trẻ, trong đó những thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa, đi tu làm linh mục, tu sĩ, thầy, dì phước,... để Phục vụ Thiên Chúa và các linh hồn. Còn quý Phụ huynh thuộc họ đạo Bình Minh quý mến! xin quý Cha mẹ, hãy quảng đại dâng con cho Chúa để nó đi tu giúp Chúa, giúp đời, giúp phần rỗi các linh hồn. Nếu thấy con mình muốn đi tu, xin quý Phụ huynh hãy bảo vệ ơn gọi đi tu, rồi dẫn nó đến gặp cha sở để cha tìm cách giúp nó đi tu. Chúng ta xác tín một điều: "Chúa không chịu thua lòng quảng đại của Phụ huynh hy sinh dâng con cho Chúa đâu."
Để kết luận, là con chiên của Mục Tử Giêsu, chúng ta biết Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, hãy cảm tạ Chúa, nghe tiếng, bước theo và gắn bó cuộc đời của mình với Mục Tử GiêSu, để được Chúa chăm sóc, dưỡng nuôi & bảo vệ. Đồng thời, cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều Mục Tử giống Mục Tử Giêsu.