Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 5-C Bài 51-100 Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu

Thứ ba - 14/05/2019 11:25
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 5-C Bài 51-100 Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 5-C Bài 51-100 Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 5-C Bài 51-100 Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
------------------------------------
Phúc Âm: Ga 13, 31-33a. 34-35: "Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.
"Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau". - Ðó là lời Chúa.
---------------------------------------
PS 5-C51. Chuyện: TÌNH YÊU CỦA CHÚ CHÓ SHIRO.. 2
PS 5-C52. Cái mới của tình yêu. 3
PS 5-C53. Tình yêu mời gọi tình yêu. 6
PS 5-C54. CHÌA KHÓA MỞ VÀO TRỜI MỚI ĐẤT MỚI 10
PS 5-C55. Ai là gương mẫu của chúng ta?. 15
PS 5-C56. Như Thầy đã yêu. 16
PS 5-C57.Yêu thương và giúp đỡ. 19
PS 5-C58. Vinh quang thập giá. 20
PS 5-C59. Yêu người 23
PS 5-C60. CHÚA NHẬT V PHỤC SINH.. 24
PS 5-C61. Giới răn mới – Lm. Trần thanh Sơn. 26
PS 5-C62.  Sacerdos.org. 29
PS 5-C63. YÊU.. 31
PS 5-C64. HÃY YÊU THƯƠNG NHAU.. 33
PS 5-C65.  CỐ LÊN,KƯM SUN.. 35
PS 5-C66. Yêu thương. 39
PS 5-C67. Yêu người như Chúa - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt Web. 40
PS 5-C68. Ai yêu thương đều là Kitô hữu. 42
PS 5-C69. Chú giải của Noel Quesson. 45
PS 5-C70. Suy niệm của nhóm Nha Trang. 50
PS 5-C71. YÊU EM ANH ĐỂ TRONG LÒNG …... 53
PS 5-C72. ĐÀO TẠO TÔNG ĐỒ.. 59
PS 5-C73. NẾU CHỮ “HY SINH” CÓ Ở ĐỜI 62
PS 5-C74. NHƯ THẦY ĐÃ YÊU.. 65
PS 5-C75. Điều răn mới 68
PS 5-C76. VÒNG TRẦU CỦA MẸ.. 70
PS 5-C77. Yêu thương anh em.. 75
PS 5-C78.Giới răn yêu thương – R. Veritas. 76
PS 5-C79. Giới răn yêu thương. 79
PS 5-C80. SỰ PHONG PHÚ CỦA YÊU THƯƠNG.. 81
PS 5-C81: YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY YÊU.. 84
PS 5-C82:  NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC.. 86
PS 5-C83: GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG (Thiếu nhi) 88
PS 5-C84: CHÚA NHẬT V PHỤC SINH.. 90
PS 5-C85: DI CHÚC CỦA ĐỨC GIÊSU.. 91
PS 5-C86: LUẬT YÊU THƯƠNG.. 93
PS 5-C87: YÊU NHƯ THẦY ÐÃ YÊU.. 94
PS 5-C88: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG.. 96
PS 5-C89: LUẬT CŨ NGHĨA MỚI 97
PS 5-C90: YÊU ÂM THẦM... 99
PS 5-C91: ĐIỀU RĂN MỚI 100
PS 5-C92: YÊU THƯƠNG LÀ PHỤC VỤ.. 102
PS 5-C93: YÊU THƯƠNG NHAU.. 107
PS 5-C94: VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU.. 108
PS 5-C95: CỘNG ĐOÀN CỦA NHỮNG NGƯỜI YÊU NHAU.. 112
PS 5-C96: TÔN VINH.. 116
PS 5-C97: YÊU THƯƠNG ĐÍCH THỰC.. 118
PS 5-C98: DẤU CHỈ MÔN ĐỆ CHÚA KITÔ.. 120
PS 5-C99: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI 122
PS 5-C100: ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỨC ÁI 125

-----------------------------

 

PS 5-C51. Chuyện: TÌNH YÊU CỦA CHÚ CHÓ SHIRO


TÌNH YÊU CỦA CHÚ CHÓ SHIRO

 

Đây là một câu chuyện có thật về loài chó mà chính con người biết được thì không khỏi phải: PS 5-C51


Đây là một câu chuyện có thật về loài chó mà chính con người biết được thì không khỏi phải ngẫm nghĩ và xét mình về tình yêu chung thủy. Gia đình ông Nakamura sống trên một hòn đảo nhỏ ở Nhật. Con chó nhỏ tên Shiro của ông bỗng nhiên mất tích, ông tìm kiếm khắp nơi mà vẫn không thấy. Hôm sau, vừa mở cửa, ông lại thấy con Shiro đang đứng đó run rẩy vì lạnh...

Cứ thế, Shiro thường xuyên biến mất vào lúc sáng sớm và chỉ trở về nhà rất khuya, lần nào cũng ướt sũng nước biển. Một buổi sáng, ông Nakamura thắc mắc lắm nên để ý theo dõi và thấy Shiro chạy dọc theo bờ biển rồi bắt đầu xuống nước, bơi ra vùng biển tương đối cạn. Ông Nakamura lấy thuyền và chèo theo. Được 2 dặm thì Shiro thấy mệt, nó leo lên một hòn đá để nghỉ. Mấy phút sau, Shiro lại bơi tiếp.

Được khoảng 3 tiếng thì nó đến được một hòn đảo nhỏ mang tên Zamami. Nó lên bờ, giũ nước rồi vào thị trấn, tìm đến một căn nhà. Một con chó khác đã chờ sẵn trước cửa, cả hai tỏ ra vui mừng và chúng nhảy nhót nô đùa với nhau. Ông Nakamura hỏi thăm thì được biết đó chính là con chó tên Marilyn, bạn gái của Shiro ! Thì ra gia đình ông trước đây đã từng sống tại hòn đảo Zamami này trước khi dời đi. Chú chó Shiro vẫn mãi nhớ về Marilyn nên không bao giờ lỗi hẹn bơi về hòn đảo cũ cách xa 2 dặm rưỡi đường biển để thăm bạn gái của nó.

Shiro trở nên nổi tiếng. Trong suốt kỳ nghỉ hè, có đến gần 3.000 du khách đến đảo Zamami và ngồi chờ ở bờ biển, họ reo lên khi thấy từ ngoài khơi nhấp nhô cái đầu của một chú chó nhỏ đang bơi đến. Họ muốn được tận mắt nhìn thấy đôi bạn chung tình Shiro – Marilyn.

Theo MORE TRUE STORIES, trích NỐI LỬA CHO ĐỜI số 8

-----------------------------

 

PS 5-C52. Cái mới của tình yêu


VietCatholic News (06/05/2004 )

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH


 

Tôi được đánh động rất nhiều bởi lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho: PS 5-C52


Tôi được đánh động rất nhiều bởi lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau”. Tôi được đánh động vì lời ấy hàm chứa tất cả sự cao sâu, cả một lẽ sống lớn lao mà chính Người đã sống.

Nói đến tình yêu, người ta nghĩ ngay đến tình yêu đôi lứa. Không có thứ tình nào được người ta quảng bá, say mê, đau đớn, vui mừng, khóc lóc, cả đến bi thương, lắm lúc mang đầy vẻ hận thù như sự yêu đương trai gái. Cứ tìm trong kho tàng văn chương, ta sẽ thấy. Tình yêu đôi lứa phổ biến từ ngàn xưa, trải rộng từ trong ca dao, tục ngữ đến thơ ca, âm nhạc, văn học, đủ mọi ngành mỹ thuật, mỹ nghệ, báo chí, sách vỡ…

Nhưng tình yêu mà người ta vẫn thấy trong thực tế và trong văn chương ấy phải phân biệt thành nhiều loại “yêu” khác nhau thì mới chính xác. Đó là:

Tình như lửa cháy: Người ta đến với nhau nhanh như ngọn lửa làm cháy một tờ giấy. Chỉ cần gặp nhau, hẹn hò, khoác tay nhau dù chỉ một lần, thế là yêu. Yêu nhanh như ngọn lửa cháy, vì thế lửa tàng thì tình cũng rụi.

Tình theo cảm giác: Ta bắt gặp nhiều ở lứa tuổi mới lớn dạng yêu đương này. Đó là một thứ yêu đương cuồng nhiệt đến mức như điên dại, nhưng không hề có một chiều sâu nào, mà chỉ là ham thích theo bản năng. Một thứ yêu cảm giác như thế chỉ có thể dừng lại ở chỗ va chạm xác thịt, hôn hít, âu yếm…

Tình nhục dục: Nói cho đúng, là một thứ chiếm đoạt để thỏa mãn nhục dục. Đến với nhau, chưa kịp biết tên nhau, trong đầu đã sinh lòng ham muốn chiếm đoạt thân xác của nhau. Tìm cách đưa người mình mới quen lọt vào vòng u tối của đam mê xác thịt bằng những lời ngon ngọt, bằng tất cả ngón nghề dụ dỗ của một kẻ nặng lòng ham hố.

Tình trung gian: Không phải hôn nhân nhờ may mối, Nhưng nhờ một “chất xúc tác” nào đó, nghĩa là người ta không nhắm đến tình yêu, người yêu cho bằng nhắm cái mà đối phương đang có. Người ta còn gọi kiểu trung gian này bằng nhiều tên như: tình đô la; tình Việt Kiều; tình vọng ngoại; tình đào mỏ… Nói tóm lại, đó là… tình vật chất.

Tình “cưỡi ngựa xem hoa”: Giới trẻ ngày nay thích sống thử. Lúc nào thích thì ở. Đến lúc chán, vứt áo ra đi. Đó là một loại “tình” không hề yêu. Không bao giờ có chuyện sống thử mà gọi là tình yêu. Kẻ nào bước vào hôn nhân mà chỉ là thử nghiệm, chắc chắn suốt đời, chẳng bao giờ trung thành với ai, trách nhiệm với cái gì. Vì đối với họ, tất cả chỉ là thử. Tình như thế, đúng là như người ta “cưỡi ngựa xem hoa”.

Những loại tình trên, gọi là tình cho… “oách”, thật ra, đó chỉ là những biến dạng, là lạm dụng ý nghĩa của hai chữ tình yêu. Ta phải coi đó một là thứ gian trá, là lừa đảo, làm băng hoại đời sống cộng đồng, là những kiểu tình chớp nhoáng, đáng phản đối.

Chúa Kitô đòi các môn đệ của Người hãy loại bỏ tất cả những thứ tình mang trá bên trên. Người môn đệ của Chúa hãy yêu bằng tình yêu cao cả, tình yêu hiến thân và hiến dâng. Đó là một thứ tình mà Chúa gọi là “điều răn mới”.

Vậy điều răn yêu thương mà Chúa gọi là mới, thì mới ở chỗ nào?

Mới, vì chính bản thân người dạy cũng là thước đo của tình yêu chúng ta. Có ai trong cuộc đời này dám nói: “Hãy yêu như tôi đã yêu”. Chỉ có mỗi một mình Chúa Giêsu dám khẳng định điều đó mà thôi. Mới, là bởi tình yêu ấy đưa ta tới một chân trời kỳ diệu, huy hoàng vàlớn lao: người trần thế, ngang qua tình yêu, tham dự vào vĩnh cửu, sống chính sự sống của Thiên Chúa. Mới, bởi không có bất cứ tình yêu nào, ngoài tình yêu của Chúa, cho ta nếm hưởng hạnh phúc sung mãn và ơn cứu độ đời đời.

Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu tha thiết, một tình yêu mặn nồng, một tình yêu đã xóa hết mọi khoảng cách, dù cho những khoảng cách đó rất lớn: Thiên Chúa - con người; Đấng tạo hóa - thụ tạo.

Chúa đã yêu, tình yêu đã đưa Người đến sự từ bỏ và hiến dâng trọn vẹn. Bằng một tình yêu đã xóa mọi khoảng cách, Chúa Kitô chấp nhận chia sẻ đến cùng kiếp người mong manh, yếu đuối của ta. Người đã lặn sâu trong kiếp người nhỏ bé ấy, để tất cả những gì làm nên sự sống của một con người cũng trở thành của chính Chúa Kitô.

Hoàn toàn trút bỏ, Chúa Kitô dạy ta bài học của sự từ bỏ là chấp nhận hiến dâng cuộc đời mình làm giá cứu chuộc chính mình và anh em quanh mình.

Bởi vậy, nếu Chúa đã chọn tình yêu làm lẽ sống cho mình, để qua tình yêu ấy, Chúa đã hạ mình từ trời cao hóa nên người dương thế, đã chấp nhận hiến dâng mạng sống, trao bao chính bản thân và cuộc đời như một quà tặng, thì môn đệ của Chúa là chính chúng ta, cũng được mời gọi xóa mình vì yêu. Có như thế, chúng ta mới thật là kẻ biết “yêu như Thầy”.

Vì thế, một khi đã chọn Thầy Giêsu làm mẫu mực và chuẩn mực để bước theo, tất cả những gì Thầy đã sống phải là lẽ sống, là hướng nhắm để đi tới của người môn đệ.

“Hãy yêu như Thầy đã yêu”. Chúa đã yêu như thế nào để tình yêu ấy trở thành chuẩn mực cho ta, đến lược mình, Ta phải yêu thế ấy để gọi là “yêu như Chúa yêu”.

Bạn ạ, Kitô giáo có nhiều dấu chỉ: thánh giá, nhà thờ, ảnh tượng… Nhưng chỉ có một dấu chỉ hữu hiệu để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, đó là: tình yêu của mình với anh chị em. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy vẫn không có gì mới, vẫn chỉ là: cảm thông, tha thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại… Nhưng cái cũ ấy lại được rọi chiếu từ tình yêu của Chúa Kitô, hiến dâng như Chúa Kitô, tha thiết, và đặt trọn tâm tình không một chút mảy may chấp nhất, thành kiến, vụ lợi…, đó là cái mới trong tình yêu của ta.

Vậy hãy học và hãy yêu bằng tình yêu Giêsu, để loại trừ những thứ tình chớm nhoáng, mang trá. Yêu bằng tình yêu Giêsu để làm mới tình yêu nhân loại. Yêu bằng tình yêu Giêsu để tình yêu nhân loại được thánh hóa, và được dự phần vào vĩnh cửu.


Lm. Vũ Xuân Hạnh

-----------------------------

 

PS 5-C53. Tình yêu mời gọi tình yêu


VietCatholic News (07/05/2004 )

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH. C

(Ga 13,31-35)

Thưa quý vị,


 

Tuần này tôi chuyển sang suy niệm hai bài đọc đầu của thánh lễ chúa nhật. Bởi lẽ đã lâu tôi: PS 5-C53


Tuần này tôi chuyển sang suy niệm hai bài đọc đầu của thánh lễ chúa nhật. Bởi lẽ đã lâu tôi xao nhãng chúng, một việc làm đáng trách, bởi chúng cũng là những nguồn phong phú cho việc rao giảng, nhất là vào mùa Phục Sinh này. Đa phần các nhà giảng thuyết đi thẳng vào bài Phúc Âm, bỏ qua các bài đọc đầu. Chính tôi cũng hay làm việc đó, như vậy là khuyết điểm, bài đọc nào cũng đáng chúng ta để tâm suy niệm, bởi vì đều là Lời Chúa cả. Bài đọc nào cũng cống hiến những đường lối lành thánh để hoàn thiện con người thiêng liêng. Tập trung vào một số bài, bỏ qua số khác e rằng thiếu sót nặng. Lần này tôi cố gắng suy niệm cả hai, nhưng chưa biết rõ bài nào sẽ thu hút tâm trí tôi nhiều hơn. Xin cứ để Chúa Thánh Linh soi sáng.

Từ Chúa Nhật phục sinh tới nay, bài đọc 1 vẫn trích sách Tông Đồ Công Vụ, việc này còn được kéo dài cho đến hết lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Vào chính ngày lễ Ngũ Tuần phụng vụ sẽ đọc đoạn mở đầu của cuốn sách và chúng ta sẽ được nghe kể về biến cố Chúa Thánh Linh ngự xuống trên các tông đồ trong nhà Tiệc Ly. Bài đọc của các chúa nhật hiện thời là về hiệu quả của biến cố ấy. Phải chăng có sự đảo lộn gây bối rối? Thực ra không đúng như thế. Mục tiêu của sự đảo lộn này là để các tín hữu ngày nay nóng lòng chờ đợi Chúa Thánh Linh, bởi lẽ họ đã được nghe kể về hiệu quả của Ngài trên Giáo Hội tiên khởi. Sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ bung ra rao giảng danh Chúa Giêsu, họ làm nhiều dấu lạ, thu hút đông đảo tín hữu. Hội Thánh lớn mạnh trong khắp miền Tiểu Á, lan rộng sang Phi Châu, La Mã, Ấn Độ. Ngày nay, Hội Thánh cũng khao khát kết quả đó, nên đã dọn lòng giáo dân bằng những bản văn Công Vụ, ngõ hầu khích lệ suy tư và hành động. Nói cách khác chúng ta sửa soạn đón nhận Chúa Thánh Thần bằng việc nhớ lại các ân huệ của Ngài trong thời buổi sơ khai của Hội Thánh. Điều Ngài đã thực hiện thuở xưa thì nay Ngài cũng vẫn làm. Chúng ta có nhạy bén với ơn Ngài hay không? Vậy thì các bài đọc Công Vụ trước lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là vì lợi ích đức tin, cá nhân cũng như cộng đoàn.

Bài đọc hôm nay kể lại việc tông đồ Phaolô và Barnaba trở lại xứ Lystra, Icôniô và Antiôkhia. Hành trình giống như một cuộc du lịch, tương tự chúng ta nói đi Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu… Nhưng các độc giả lúc ấy không nghĩ như vậy. Họ nhớ rằng ba thành phố ấy đã từng tẩy chay hai nhà truyền giáo, không chấp nhận giáo lý của các ngài. Vậy việc trở lại thật khó khăn và nguy hiểm. Câu chuyện như thế này: Đầu tiên Phaolô và Barnaba rao giảng về danh Chúa Giêsu ở Antiôkhia, Lystra và Icôniô. Các ngài rất thành công, thuyết phục được nhiều linh hồn chấp nhận Chúa Giêsu. Nhưng rồi các lãnh đạo tôn giáo, các thầy bùa ngải bị mất quyền lợi, các kẻ vô đạo thách thức các Tông Đồ. Họ xúi giục dân chúng chống lại các ngài, đuổi các ngài ra khỏi Antiôkhia và dự tính giết chết tại Icôniô, ở Lystra thánh Phaolô chữa lành cho một người què, dân thành hồ hởi và bị khích động cao độ. Nhưng các lãnh đạo hội đường từ Antiôkhia và Icôniô kéo xuống xúi giục dân chúng ném đá ông. Tưởng ông đã chết, họ bỏ về (Cv 14,19). Thiên Chúa đã cứu chữa Phaolô và cho ông hồi phục.

Tưởng như thế là đã đủ cho hai truyền giáo rồi. Các ngài nên trở về nghề nghiệp cũ như Phêrô và các tông đồ hai tuần lễ trước đây (tuần 3). Họ quên hết chuyện cũ và lại làm nghề đánh cá. Nhưng không, sách Công Vụ kể tiếp: “Ông Phaolô và ông Barnaba trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkhia”. Thì ra họ đã đổi khác từ khi nhận lãnh ơn Chúa Thánh Linh. Hai ông nói: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào nước Thiên Chúa”. Nhờ Chúa Thánh Thần, các vị rao giảng trong Hội Thánh tiên khởi, đầy nghị lực, can đảm, quyết tâm và phấn khởi. Không những họ, dường như toàn thể Giáo Hội sơ khai đều có tinh thần như vậy. Cho nên đây là một gương sáng truyền giáo cho chúng ta hôm nay. Chúng ta phải tỏ rõ Chúa Thánh Linh đang hoạt động giữa gia đình, làng xóm, xã hội và thế giới. Không phải bằng những sinh hoạt ồn ào, nhưng bằng cầu nguyện sốt sắng và tâm hồn bình an. Chúa Thánh Linh sẽ soi sáng những chọn lựa hoạt động của chúng ta. Bởi lẽ sự ồn ào có thể chỉ là sự khoả lấp của một linh hồn bất an hay trống rỗng. Chúng ta cầu xin cho Giáo Hội địa phương luôn được tinh thần mới mẻ của Chúa Thánh Thần trong các sinh hoạt của mình, hầu khai mở những con đường thích hợp cho nước Thiên Chúa.

Xin Thánh Linh Chúa ngự đến, đổi mới Hội Thánh, đổi mới địa cầu, chữa lành các vết thương gây nên do hàng giáo sĩ và tu sĩ bất xứng. Xin ngự đến và ban ơn gấp đôi cho những kẻ rao giảng Lời Chúa, ngõ hầu họ có khả năng nói lên Lời ban sự sống và kiện cường những tấm lòng còn nghi nan. Ban cho chúng con các nhà lãnh đạo khôn ngoan và can đảm như các tông đồ thuở xưa. Họ không sợ hãi trở về nơi nguy hiểm và đầy đau thương để gieo vãi sự thật cứu độ. Họ sẽ khích lệ chúng con trong sứ vụ Chúa và Hội Thánh đã trao. Cũng như các tín hữu tiên khởi, chúng con đầy yếu đuối, mỏng giòn, đối mặt với muôn vàn hiểm nguy từ bên trong và từ bên ngoài. Xin khơi dậy ơn thanh tẩy mà chúng con vừa tuyên hứa lại trong đêm phục sinh, để chúng con nhiệt thành phụng thờ Chúa, lắng nghe theo tiếng Chúa bằng đời sống: “Lúc thuận tiện cũng như khi không thuận tiện”.

Các bài đọc Công Vụ luôn nêu lên sự kiện: Chúng ta không phải là những tín đồ đơn độc mà luôn có bạn đồng hành, tức các tín hữu nhiệt thành sốt sắng hơn. Cho nên không được phép thất vọng hay tự kiêu. Thất vọng vì cô đơn hay tự kiêu, phong mình là giáo dân hạng nhất. Thánh Phaolô và Barnaba đã cùng nhau hoạt động vì Phúc Âm Chúa. Họ thành lập các giáo đoàn và trở lại viếng thăm, khi có nhu cầu, bất chấp khó khăn và hiểm nguy. Khi trở lại các cứ điểm gốc như Antiôkhia, Giêrusalem, họ đã tường trình cho Hội Thánh địa phương những hoạt động của mình ở các nơi khác, chia sẻ với giáo dân những gian nan khốn khó, cũng như vui mừng mà các ông đã gặp trên con đường truyền giáo. Hết thảy mọi người đều được thông tin và an ủi. Do đó chúng ta hôm nay cũng nên bắt chước: Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về cộng đồng giáo xứ, về anh em, bạn bè quen thuộc thường gặp, về những khuôn mặt lạ di dân, về những gia đình mới nhập đạo, tóm lại, về mọi thành phần trong giáo xứ. Chúng ta cũng kể cho nhau nghe về công ăn việc làm, về những kinh nghiệm tông đồ. Nhiều người là chức việc của cộng đồng, kẻ khác thì không, nhưng vẫn quan tâm công việc chung. Khi có khả năng, chúng ta giúp đỡ người kém may mắn hơn, nhưng nhiều lúc chúng ta lãnh nhận sự giúp đỡ của giáo xứ. Chúng ta được an ủi khi gặp buồn sầu, nâng đỡ khi khó nghèo, được khích lệ do gương sáng của đồng đạo, cầu nguyện và xức dầu khi đau ốm, hoan hỷ và vui mừng khi rửa tội hoặc hôn phối cho con cái. Nghĩa là chúng ta luôn có tinh thần liên đới trong Đức Kitô, biết rằng nhiều linh hồn khác cùng đi con đường tiến về Thiên Chúa và phục vụ thế giới. Trong bí tích Thánh Thể, chúng ta nhận được chính Chúa Giêsu hằng sống. Thần Khí của Ngài tiếp tục khai sinh Hội Thánh mới trên toàn cõi địa cầu, mặc dù đôi khi rất khó khăn và nhọc nhằn. Giáo dân Việt Nam cũng là thành phần của Hội Thánh, cho nên cũng lãnh nhận số phận chung. Kiên trì sẽ vượt thắng tất cả, mọi khó khăn rồi sẽ đến ngày tan rã như kết thúc sách Công Vụ tiên báo.

Bài đọc 2 của các chúa nhật mùa này trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan. Đoạn trích hôm nay thường được phụng vụ nhắc lại luôn. Nó mô tả trật tự cũ của thế giới sẽ qua đi. Sẽ có trời mới đất mới. Nghĩa là niềm hy vọng phục sinh của các tín hữu sẽ đến ngày thành toàn viên mãn. Thời đại mới không còn xa lắm. Xin nhớ, cuốn sách được viết ra để an ủi Hội Thánh non trẻ đang bị bách hại. Và như vậy sự dữ sẽ bị đập tan, sự lành sẽ toàn thắng, đau khổ sẽ chấm dứt, tội lỗi không còn nữa, thần chết sẽ bị loại trừ. Chẳng có Tin Mừng nào đẹp hơn hy vọng của người tín hữu, hy vọng ấy sẽ được chính Thiên Chúa làm cho vuông tròn: “Đấng trên ngai phán: này đây Ta đổi mới mọi sự”. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi thành công và toàn thắng, Ngài làm cho ước vọng lành thánh của các tín hữu trở nên hiện thực: Thành thánh Giêrusalem mới từ nơi Thiên Chúa mà đến, tức từ tư tưởng Thiên Chúa. Đó là mẹ Hội Thánh và Chiên Con là đèn soi của thành. Nói cách khác Chúa Giêsu chính là vinh quang và thánh thiện của Giáo Hội. Khi cử hành thánh lễ, sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể là việc thể hiện của lời Kinh Thánh này. Nói tóm lại Chúa Giêsu phục sinh là trời mới đất mới của mọi tín hữu.

Hồi còn nhỏ, mỗi khi đến mùa bóng chày (baseball) tôi lại háo hức về tính mới mẻ của nó. Nguyên nhìn trái banh mới, mùi da mới phát xuất từ chiếc hộp đựng banh, là tôi cảm thấy chiến thắng. Trường học đóng cửa, học sinh nghỉ hè. Ao ước của tôi là trở thành cầu thủ lừng danh. Tôi chẳng bao giờ đạt tới mục tiêu đó, nhưng mỗi mùa banh tới thì lòng tôi lại đầy hy vọng. Đó là điều bài đọc 2 hôm nay khơi dậy cho mỗi tín hữu. Tuy nhiên hy vọng của chúng ta không phải là giấc mơ này nhưng là hiện thực. Chúa Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, chúng ta đặt tin tưởng vào Ngài và Thiên Chúa sẽ cho chúng ta hưởng trời mới đất mới. Một ngày nào đó thế gian sẽ được chứng kiến: “Trời cũ đất cũ sẽ biến mất và biển không còn nữa, nhường chỗ cho Giêrusalem mới có Thiên Chúa ngự trị. Không còn sự chết, không còn khóc than, tang tóc vì những điều cũ đã qua đi”.

Vài lời về bài Tin Mừng. Khi Giuđa rời phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu tự do tín thác tâm sự và nỗi lòng mình cho các Tông Đồ. Trước đó, vì có mặt tên phản bội Ngài không làm được. Chúa nói đến ba điều: 1. Vinh quang của Ngài trong cuộc khổ nạn. 2. Đau buồn vì các cuộc chia ly. 3. Điều răn mới. Ngài dùng cụm từ “con người” là dụng đến cốt yếu của mầu nhiệm bản thân Ngài. Ngài được vinh quang và Chúa Cha được hiển vinh, không phải bằng binh hùng tướng mạnh, mà qua sự vâng lời hy sinh, chịu khổ nạn và chết trên thập giá, để mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Vinh quang này khởi sự khi Giuđa ra khỏi phòng và đi vào đêm tối. Tư tưởng của Chúa Giêsu và suy niệm của thánh Gioan đi thẳng đến nội dung với vài lời ngắn gọn. Xin nhớ câu chuyện xảy ra trước lễ Vượt Qua, cho nên vinh quang Thiên Chúa đã được thiết lập ngay chính nơi bản thân Chúa Giêsu. Điểm thứ hai: Đau buồn vì chia ly. Ở đây có hai cuộc xa cách:


Cái chết và sự thăng thiên của Ngài. Ngài uý lạo các môn đệ, gọi các ông bằng tên thân thương: “Hỡi những người con bé nhỏ của Thầy”. Ngài an ủi và hứa sẽ không để họ mồ côi, Ngài sẽ hiện diện bằng thể thức khác, thể thức thiêng liêng nhưng cũng rất thực như khi Ngài còn ở với họ. Họ sẽ được tự do chiêm ngưỡng vinh quang của Ngài cùng với Chúa Cha. Điểm thứ ba có phần khó hiểu hơn. Làm sao Chúa có thể truyền khiến một ý tưởng, một hành động nội tại như yêu, ghét, sợ sệt, mừng vui,…? Người ta chỉ có thể ra lệnh về các việc bề ngoài như quét nhà, nấu nước hay đi đây đi đó mà thôi. Đúng ra, Chúa nhắn nhủ các môn đệ nhìn vào bản tính chân thật của mình mà hành động. Chúng ta uống khi khát và ăn khi đói. Lúc Ngài còn ở với họ thì sự hiện diện của Ngài khiến họ yêu thương nhau. Bây giờ Ngài ra đi, họ vẫn cần đoàn kết để tưởng nhớ đến Ngài. Tình bác ái ở đây là dấu chỉ chân chính họ yêu mến Ngài. Nó là sự nối dài tình yêu của họ đối với Ngài. Họ sẽ trung thành khi biết yêu thương nhau. Nếu muốn kiếm tìm Ngài thì chính trong tha nhân, họ sẽ thấy Ngài cụ thể và sống động. Đây là điều mới mẻ trong lệnh truyền của Chúa Giêsu. Mới ở động lực yêu thương (tình yêu Chúa Kitô) và mới trong nguyên lý (tình yêu Thiên Chúa đổ vào lòng tín hữu do Chúa Thánh Thần). Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn cảm nghiệm tình yêu ấy. Thế là đủ cho chúng con rồi. Amen. Halleluia.

Lm. Jude Siciliano, OP.

-----------------------------

 

PS 5-C54. CHÌA KHÓA MỞ VÀO TRỜI MỚI ĐẤT MỚI


 [CHÚA NHẬT V PHỤC SINH NĂM C (06.05.2007)]

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Từ ngàn năm xưa, người La Mã đã có phương câu: “Homo homini lupus” nghĩa là “người là: PS 5-C54


          Từ ngàn năm xưa, người La Mã đã có phương câu: “Homo homini lupus” nghĩa là “người là sói của người”. Nhìn vào thực tế, ở  tầm mức quốc tế, quốc gia rộng lớn cũng như ở tầm mức cá nhân nhỏ bé, chúng ta thấy người ta tìm hết mọi cách để chèn ép, giẫm đạp lên nhau, bóc lột nhau hết sức có thể, tranh giành của cải, quyền lực như những người khùng điên. Phải chăng vì thế mà  khi nghe nói tới “trời mới, đất mới” thì đại đa số giáo dân đều nghĩ rằng hoặc đó là “chuyện ảo tưởng”, hoặc là “chuyện đời sau” chứ ở trên thế gian này, làm sao có chuyện “trời mới, đất mới”.

          Nhưng Lời Chúa rành rành ra đó, không ai có thể chối cãi được: “Tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa” Lời Chúa còn khẳng định “Này đây Ta đổi mới mọi sự". Thiên Chúa “đổi mới mọi sự” nhờ/bằng cuộc sống và cái chết của Chúa Giê-su Ki-tô. Nhưng Thiên Chúa cũng “đổi mới mọi sự” nhờ/bằng con người và cuộc sống của chúng ta. Chìa khóa mà Chúa Giê-su trao để chúng ta cùng với Thiên Chúa “đổi mới mọi sự” là:

          “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.  Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau!”

II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.

(1) Bài đọc 1: Cv 14, 21b-27:  Hai Tông đồ tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông.

               21 Hồi ấy, sau khi đã loan Tin Mừng cho thành Đéc-bê và nhận khá nhiều người làm môn đệ, ông Phao-lô Ba-na-ba trở lại Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a. 22 Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa." 23 Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.

               24 Hai ông đi qua miền Pi-xi-đi-a mà đến miền Pam-phy-li-a, 25 rao giảng lời Chúa tại Péc-ghê, rồi xuống Át-ta-li-a. 26 Từ đó hai ông vượt biển về An-ti-ô-khi-a, là nơi trước đây các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành.

             27 Khi tới nơi, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin.

(2) Bài đọc 2: Kh 21,1-5: Thiên Chúa lau sạch nước mắt họ.

         1 Tôi là Gio-an, bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. 2 Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. 3 Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: "Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. 4 Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất."

           5 Đấng ngự trên ngai phán: "Này đây Ta đổi mới mọi sự." Rồi Người phán: "Ngươi hãy viết: Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật."

(3) Bài Tin Mừng: Ga 13,31-33a.34-35: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau.

              31 Khi Giu-đa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giê-su nói: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. 32 Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.

               33 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do-thái: "Nơi tôi đi, các người không thể đến được", bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. 34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 35 Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau."

2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?

(1) Bài đọc 1 (Cv 14, 21b-27) là đoạn Sách Tông Đồ Công Vụ miêu tả hoạt động của hai Tông Đồ Phao-lô và Bác-na-ba tại nhiều nơi như Đéc-bê, Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a, Pi-xi-đi-a, Pam-phy-li-a v.v… Ở các nơi mà hai Tông Đồ hoạt động thì công việc chính của các ngài là xây dựng các cộng đoàn môn đệ tức các cộng đoàn nhìn nhận Chúa Giê-su là Chúa, tôn thờ Gia-vê là Thiên Chúa Duy Nhất và là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô. Những thành viên của các cộng đoàn môn đệ ấy sống điều răn mới mà Chúa Giê-su đã ban cho họ tức sống tình yêu thương huynh đệ với nhau, coi nhau như anh em một nhà!

Trong đoạn sách Cv 14, 21b-27 trên chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện và hành động hiệu quả của Thiên Chúa trong các tâm hồn và các cộng đoàn. Nếu không có Thiên Chúa hiện diện và hành động mạnh mẽ và hữu hiệu nơi các tâm hồn và trong các cộng đoàn thì các Tông Đồ Phao-lô và Ba-na-ba chẳng làm được gì, và các tín hữu vẫn chỉ là những cá nhân riêng lẻ, rời rạc và ích kỷ. 

(2) Bài đọc 2 (Kh 21,1-5) là thị kiến của Tông Đồ Gio-an về Vương Quốc của Thiên Chúa giữa loài người. Vương Quốc ấy được gọi là trời mới đất mới, vì mọi sự, mọi người đã được chính Thiên Chúa đổi mới bằng sức mạnh của Thánh Thần. Vương Quốc ấy đến từ Thiên Chúa và được biểu trưng bằng hình ảnh huy hoàng của Thành thánh Giê-ru-sa-lem. Chính hình ảnh này cũng được nhân cách hóa thành một con người vừa đẹp đẽ vừa dễ  thương là “cô dâu” chuẩn bị đón chàng rể.

Trong đoạn Sách Kh 21,1-5 trên, chúng ta thấy nổi bật tấm lòng và hành động  yêu thương của Thiên Chúa đối với con người: "Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất".

(3) Bài Tin Mừng (Ga 13,31-33a.34-35) là những lời dặn dò mà Chúa Giê-su nói với các môn đệ trước giờ chia tay. Đặc biệt là Chúa Giê-su ban cho các môn đệ điều răn mới của Người là tình yêu thương huynh đệ. Vì những lời dặn dò và điều răn mới được trao ban trong một khoảnh khắc đặc biệt thì các môn đệ càng phải nhớ kỹ và thực thi nghiêm chỉnh!

          Qua Bài Phúc Âm Ga 13,31-33a.34-35 chúng ta có được những lời di chúc, những lời trăn trối của Thầy và Chúa Giê-su Ki-tô của chúng ta: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau!”

2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?    

          Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay được tóm gọn trong lời nhắn nhủ và di chúc của Chúa Giê-su:

          “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau!”

III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi phải xét mình về tình yêu thương huynh đệ mà tôi đang sống với  những người trong cùng một nhà, một hội đoàn, một giáo xứ, một dòng tu, một giáo phận, một giáo hội:

* Tôi có thât sự yêu thương, kính trọng những người thuộc cùng một nhà, một hội đoàn, một giáo xứ, một dòng tu, một giáo phận, một giáo hội của tôi không?

* Tình yêu thương huynh đệ Ki-tô hữu của tôi đang ở mức độ nào trong tâm hồn và đời sống của tôi?

* Tình yêu thương huynh đệ Ki-tô hữu của tôi có đủ mạnh mẽ và dễ nhận ra để khiến người khác nhận ra tôi là môn đệ của Chúa Ki-tô không?

          (Để kiểm chứng tình yêu thương huynh đệ Ki-tô hữu của tôi:  tôi thử làm một bài thực tập đơn sơ và  thách thức này: tôi ghi ra trên giấy TÊN của tất cả những người mà tôi sẵn sàng hy sinh tất cả (thời giờ, của cải, tài năng, chức quyền…) vì họ. Tôi thử đếm xem được mấy người?)

IV. CẦU NGUYỆN  (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)

4.1 “Tông đồ Phao-lô và Ba-na-ba tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin.”

Lạy Thiên Chúa là Thiên Chúa Sáng Tạo và Cứu Độ,
Chúa đã dùng các Tông Đồ để rao giảng Tin Mừng Nước Trời và xây dựng Hội Thánh của Chúa ở khắp mọi nơi.
Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.
Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn làm tông đồ và xin Chúa cùng làm việc với chúng con trên mọi cánh đồng truyền giáo mà Chúa sai chúng con tới!

Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

4.2 “ Tôi là Gio-an, bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa”

Lạy Thiên Chúa là Chúa Tể Trời Đất và Lịch Sử,
Chúa đã ban cho chúng con “trời mới đất mới” không chỉ trong tương lai mà ngay trong hiện tại.  
Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.
Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn được biến đổi nên tạo vật mới, từ tâm hồn, tư tưởng cho đến lời nói và hành động, để chúng con được là công dân xứng đáng của “trời mới đất mới”.        
          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

4.3 “Tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: "Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất."
Lạy Thiên Chúa là Đấng Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng con.

Chúa đã ban cho chúng con ơn được ở cùng Chúa, được sống trong nhà Chúa, được làm dân của Chúa, được Chúa lau sạch nước mắt…. 
Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.
Chúng con xin Chúa ban cho chúng con một nhận thức sâu sắc về hạnh phúc mà Chúa đã ban cho chúng con, để chúng con biết sống và thể hiện tấm lòng tri ân cảm tạ bằng những hành động hiếu thảo đẹp lòng Chúa.             
          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

          4.4  Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau."

Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh,
Chúa đã ban cho chúng con Con Một Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô để chúng con dược Người yêu thương và được ban điều răn mới.
Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa.
Chúng con xin Chúa ban cho chúng con đức bác ái yêu thương huynh đệ để chúng con sống với nhau như những người anh chị em ruột thịt, để mọi người nhận ra chúng con là môn đệ của Chúa Giê-su Con Chúa và để chúng con có chìa khóa mở vào “trời mới đất mới” mà Chúa dành cho chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. 
Sàigòn ngày 24.04.2007.

-----------------------------

 

PS 5-C55. Ai là gương mẫu của chúng ta?

 

Giuđa đi khỏi, bầu khí phòng tiệc trở lại đầm ấm. Chúa đối thoại thân thiết với các môn đệ. Người: PS 5-C55


Giuđa đi khỏi, bầu khí phòng tiệc trở lại đầm ấm. Chúa đối thoại thân thiết với các môn đệ. Người nói ra những điều Người đang suy nghĩ. Sắp tới giờ Người được tôn vinh. Lời nói Chúa phát xuất từ thâm tâm và muốn động tới thâm tâm các môn đệ. Đối với Chúa, tôn vinh nghĩa là, sau khi hoàn tất sứ mạng, Người sẽ tỏ rõ phẩm vị của Người là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu chuộc nhân loại. Chịu khổ nạn và sống lại, hành vi tuyệt đỉnh ấy của sứ mạng đang tiến đến gần, do đó có câu: Thiên Chúa sắp tôn vinh Con Người. Mầu nhiệm sự sống qua cõi chết, vinh quang qua ô nhục và sống lại, sắp hoàn tất. Mầu nhiệm đó kết thúc ở sự biểu dương đời sống Thiên Chúa trong Con Người, không những vì được Thiên Chúa thêm sức sống, mà chính vì Người là Con Thiên Chúa. Từ ngữ ‘các con bé nhỏ’ Chúa dùng để nói với các môn đệ biểu lộ niềm thương mến của một người Cha. Chúa nghĩ đến nỗi buồn sầu sắp tới của các môn đệ, nỗi hoang mang của họ trước cuộc thương khó. Chúa dạy họ hãy sát cánh đương đầu với thử thách, và lệnh truyền của Người là thương yêu nhau bằng một tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Chúng ta nêu hai câu hỏi:

1) Lệnh truyền của Chúa mới lạ ở điểm nào?

Trong Cựu Ước đã có huấn lệnh thương yêu tha nhân như chính mình (Lv 19,18). Lề luật tuy không minh thị đặt người ngoại chủng ra ngoài, nhưng trực tiếp nhắm vào những thành phần khác trong dân Chúa, coi họ là tha nhân. Mặt khác, sự giải thích của người đồng thời với Chúa Giêsu về huấn lệnh trên, nói đúng ra, nặng phần tiêu cực, người ta phải tránh gây thiệt hại cho tha nhân để khỏi bị tha nhân ăn miếng trả miếng. Chúa Giêsu nhắc lại huấn lệnh, trả lại cho huấn lệnh giá trị tích cực. Người đi xa hơn lề luật, dạy người ta phải thương yêu cả những kẻ thù nghịch. Và điểm hoàn toàn mới lạ, chính là gương Chúa Giêsu sắp nêu cao về tình yêu của Người bằng cách chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chính những kẻ giết Người. Gương mẫu ấy phải soi sáng tình yêu của người Kitô hữu.

2) Lệnh truyền của Chúa thực hiện theo cách nào?

Lời đáp nằm trong chỉ dẫn: “như Ta đã thương yêu các con”. Tình yêu của Chúa Kitô đối với nhân loại phát xuất từ đâu? “Như Cha đã yêu Ta, Ta cũng đã yêu các con” (15,9). Tình yêu của Chúa Kitô đối với nhân loại bắt nguồn từ Chúa Cha. Tình yêu của chúng ta đối với tha nhân bắt nguồn từ Chúa Kitô, và chung cục bắt nguồn từ Thiên Chúa. Người ta chỉ thật sự thương yêu nếu tình yêu phát xuất từ nguồn mạch. Giả sử nguồn mạch bị giới hạn, ví dụ nguồn mạch là trái tim con người cho dẫu trong sạch chăng nữa, tình yêu tất bị giới hạn. Nếu nguồn mạch là Thiên Chúa, là trái tim Chúa Kitô, thì tình yêu trở nên bất tận. Hơn nữa, trong Chúa Kitô, không một tình yêu nào làm giảm tình yêu khác. Yêu thế gian bằng tình yêu của Thiên Chúa giúp người ta yêu thiên đàng, và yêu thiên đàng không ngăn cấm yêu thế gian, trái lại là đàng khác. Nếu tình yêu của chúng ta phát xuất từ Thánh Tâm Chúa, tình yêu ấy có thể hiển hiện như một thực tại thần hoá, nghĩa là dẫn đưa con người đến đích của niềm khát vọng.

-----------------------------

 

PS 5-C56. Như Thầy đã yêu

 

Năm 1995 xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có tại Kôbê, nước Nhật. Cả một thành phố PS 5-C56


Năm 1995 xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có tại Kôbê, nước Nhật. Cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương.

Trong các tai hoạ vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất.

Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới toà nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống. Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.

Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn người mẹ:

- Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy?

Chị đáp:

- Tuy bị chôn vùi dưới toà nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. Sau đó, tôi không còn biết gì nữa!

- Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao?

- Tôi không hề nghĩ đến cái chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cách nào cho con tôi được sống.

Tình yêu hy sinh quên mình. Tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Chúa Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34)

Yêu “như Thầy đã yêu” chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.

Yêu “như Thầy đã yêu” chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như “bạn hữu thân tình”.

Yêu “như Thầy đã yêu” chính là “Yêu cho đến cùng”, yêu cho đến chết và chết trên thập giá.

Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu “Như Thầy đã yêu”.

Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta.

Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta dám quên mình, ‘bắt chước’ Thầy, cúi xuống trước anh em.

Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng “mức độ” như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em.

Như vậy, yêu “Như Thầy đã yêu” không phải là tình yêu vị kỷ (Eros); yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác.

Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.

Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Lạy Chúa, nếu “đồng phục của người Kitô hữu là yêu thương” thì xin cho chúng con luôn toả sáng trong cuộc sống những lời nói yêu thương, những nghĩa cử nhân hậu, những hành động xả thân cho anh em, để xứng đáng làm môn đệ Đấng đã yêu thương chúng con cho đến cùng.

Xin cho suối nguồn tình yêu của Chúa tuôn chảy vào tâm hồn chúng con, không đọng lại như nước ao tù, nhưng luôn là dòng chảy tình yêu đến với mọi người, để khắp thế giới tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.

-----------------------------

 

PS 5-C57.Yêu thương và giúp đỡ

 

Thày truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Một bác nông dân nghèo: PS 5-C57


Thày truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Một bác nông dân nghèo túng ngồi trước cửa nhà và than thở vì không biết phải tìm đâu ra tiền để nuôi sống gia đình. Đang lúc rầu rĩ như vậy, thì có một người lạ mặt đi qua, trên tay cầm một con ngỗng. Người khách lạ trao con ngỗng cho bác và nói: bác hãy chăm sóc con ngỗng này, nó sẽ đền đáp cho bác gấp bội. Nói xong người khách lạ bỏ đi. Bác nông dân mang con ngỗng vào nhà và cho nó ăn uống đầy đủ. Bác cũng làm cho nó một cái chuồng nho nhỏ và xinh xinh.

Sáng hôm sau, vừa thức dạy, bác liền đến thăm con ngỗng. Bác nhìn vào trong chuồng và thấy một quả trứng vàng. Bác nhặt lấy quả trứng rồi đem đi bán. Liên tiếp trong một tuần lễ, ngày nào bác cũng nhặt được một quả trứng vàng. Không bao lâu, bác đã mua sắm đầy đủ những thứ cần thiết cho gia đình. Đồng thời bác cũng chăm sóc cho con ngỗng một cách chu đáo.

Thế nhưng, càng có tiền thì lòng tham của bác càng gia tăng. Bác không muốn ngày nào cũng phải đi nhặt quả trứng vàng nữa. Bác muốn tức khắc tất cả kho tàng chứa đựng ở trong bụng con ngỗng. Nghĩ thế cho nên bác mới giết con vật, mổ bụng nó ra, nhưng hỡi ôi, con vật thì đã chết và trong bụng nó cũng chẳng có lấy một quả trứng vàng nào. Giữa lúc bác đang buồn nản và tuyệt vọng, thì người khách lạ xuất hiện. Nhìn thấy cảnh tượng trên, người ấy bèn nói: Tôi đã bảo với bác rằng, nếu bác chịu khó chăm sóc cho con ngỗng của tôi, thì nó sẽ  đền đáp gấp bội cho bác. Bây giờ bác đã giết nó thì bác sẽ mất đi tất cả.

Trong một bài hát mang tựa đề: Hãy hy sinh để được thêm một ngày trên cõi phúc, có lời ca như sau: Đừng làm lơ khi băng qua đường giữa lúc người nghèo khổ đang cầu xin được giúp đỡ. Hãy lắng nghe lời khẩn khoản của một bà già nghèo đói. Bởi vì giúp cho bà là bạn sẽ được sống thêm một ngày trên cõi phúc.

Một bản nhạc khác cũng đã nhấn mạnh đến tình yêu thương như sau: Cha ông chúng ta đã dạy chúng ta thế nào là sống bác ái, là sống chia sẻ, nhưng có ai trong chúng ta đã nhớ thực hiện những điều dạy bảo ấy.

Câu chuyện và những bài hát trên làm cho chúng ta nhớ tới hoạt cảnh của ngày phán xét, ngày ấy chúng ta sẽ bị Chúa tra hỏi về điều gì nếu không phải là về những hành động bác ái chúng ta đã làm hay đã không làm cho người khác. Rồi từ đó, số phận đời đời của chúng ta sẽ được ấn định. Vì thế, cốt lõi của cuộc sống là tình bác ái, việc cần phải làm ngay là thực thi giới luật yêu thương, như lời Chúa Giêsu đã nói với chúng ta qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Thày truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau.

Bộ đồng phục của người Kytô hữu đâu có phải là màu áo này màu áo nọ, đâu có phải là những hình thức đạo đức bên ngoài, mà là tình bác ái: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau. Trở lại với câu chuyện lúc ban đầu: con ngỗng chỉ đẻ được quả trứng vàng, nếu nó được chăm sóc. Còn nếu giết nó đi, loại trừ nó đi, thì nó sẽ trả lại cho chúng ta sự nghèo túng và cô đơn. Đối với người khác cũng vậy, như mộ bài hát đã diễn tả: Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai. Nói cách khác, những chăm sóc và giúp đỡ anh em sẽ đem lại cho chúng ta những quả trứng vàng trong ngày sau hết.

-----------------------------

 

 PS 5-C58. Vinh quang thập giá

 

Một lời hết sức tự nhiên trong lời từ giã là phải nói về sự ra đi của mình. Chúa Giêsu đã làm: PS 5-C58


Một lời hết sức tự nhiên trong lời từ giã là phải nói về sự ra đi của mình. Chúa Giêsu đã làm như thế đối với các môn đệ của mình. Tuy nhiên Chúa báo trước cuộc đi xa này bằng từ ngữ rất khó hiểu đối với các môn đệ: Ngài sẽ được “vinh hiển” và cũng làm vinh hiển Cha qua cái chết và sự sống lại. Ngài tỏ bày vinh quang theo bốn phương diện:

1) Vinh quang của Chúa Giêsu đã đến, vinh quang đó là thập giá.

Sự căng thẳng đã qua đi, mọi nghi ngờ còn lại đều được cất đi. Giuđa đã ra đi và thập giá chắc chắn phải đến. Vinh quang của Chúa Giêsu là thập giá. Ở đây chúng ta đang đối diện với thực tế của cuộc đời. Vinh quang rạng rỡ nhất trong đời sống là vinh quang đến từ sự hy sinh.

Có hai thanh niên rất yêu thích hội hoạ. Họ kết thân với nhau, vừa làm việc, vừa học vẽ. Một thời gian sau, không có đủ tiền cho cả hai cùng học. Họ quyết định một người lao động để nuôi người kia học cho tới khi thành tài, rồi đến lượt người này đi học. An-béc-sơ học trước, qua bao năm tháng miệt mài, khổ công, An-béc-sơ trở thành một hoạ sĩ nổi danh và anh đem bán những bức tranh lấy tiền nuôi bạn học vẽ, nhưng dầu đã cố gắng hết sức, anh bạn của An-béc-sơ không sao vẽ nổi. Đôi bàn tay anh lao động đã trở nên thô cứng, không thể điều khiển bút vẽ được nữa. Khi biết sự thật ấy, An-béc-sơ khóc, ôm bạn nói: “Đôi bàn tay chai sần của anh đã giúp phần vào những bức vẽ của tôi. Nếu không có đôi bàn tay anh, những bức tranh này không bao giờ thành hình cả”. Hãy cho phép tôi hoạ lại đôi bàn tay của anh”.

Bức tranh ấy, với một đôi bàn tay lao động, đã trở thành tác phẩm nổi tiếng của nền hội hoạ thế giới, hiện nay đang được trưng bày tại một viện bảo tàng ở Mỹ.

Trong y học, người ta không nhớ những thầy thuốc làm giàu do nghề nghiệp, nhưng nhớ những người đã hy sinh mạng sống để chữa lành nỗi đau đớn của con người. Tại một hội nghị chuyên đề về bệnh cùi được tổ chức tại Cairô, thủ đô Ai Cập, có một y sĩ trẻ người thành Alexandria được người ta để ý, anh chăm chú nghe các bài thuyết trình của các chuyên gia, nhưng có một điều lạ là anh luôn ngồi tách rời với đám đông, trong một góc nhỏ. Không ai biết anh dùng bữa ở đâu. Anh cũng không giao thiệp với bất cứ một thành viên nào của hội nghị. Vào phiên họp cuối cùng anh lên tiếng. Khi anh tóm kết bài tham luận, một sự im lặng như chết bao trùm cả phòng họp; nhiều người bật tiếng khóc. Anh nói gì? Anh tuyên bố rằng anh đã tự nguyện để nhiễm bệnh cùi, để có thể tự anh quan sát diễn biến của cái bệnh kinh khủng này. Anh cho thấy những vết trắng và nâu ở cánh tay anh, một triệu chứng không thể chối cãi của sự nhiễm trùng, và rồi anh mô tả tất cả những gì anh đã cảm thấy, cùng hiệu quả tất cả các thuốc anh đã dùng. Anh biết rằng anh không thể tránh được cái chết từ từ và đau đớn, nhưng anh sẵn sàng chịu đựng tất cả để giúp phần vào sự tiến bộ của khoa học, hầu đẩy lui những hiểm nguy cho các người mắc bệnh. Loài người chỉ biết cúi đầu khâm phục trước sự hy sinh của những người tự nguyện chấp nhận cái chết để cứu đồng loại.

Trong mọi cuộc chiến tranh, vinh quang tuyệt đỉnh không thuộc về những người sống sót mà thuộc về những người đã bỏ thây nơi chiến trường. Bài học đơn giản của lịch sử là những người chịu hy sinh lớn thì nhận được vinh quang cao cả. Nhân loại quên đi những người thành công nhưng chẳng bao giờ quên ơn những người dám hy sinh. Họ bước đi trong các vết chân của Chúa Kitô.

“Khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì người lương thiện, thế mà Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi”(Rm 5,6-8).

2) Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa được tôn vinh

Chính sự vâng phục của Chúa Giêsu đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Chỉ có một cách để chứng minh lòng kính yêu, ngưỡng mộ và tin cậy một lãnh tụ là vâng phục vị lãnh tụ ấy, vâng phục cho đến cuối cùng, dầu phải nếm mùi đắng cay. Cách thế duy nhất để một người con có thể đem lại vinh dự cho cha mẹ ấy là vâng phục cha mẹ. Chúa Giêsu đã đem vinh quang tối cao cho Thiên Chúa, vì Ngài tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa, dầu phải đi đến Núi Sọ.

3) Trong Chúa Giêsu, Chúa Cha tự tôn vinh chính Ngài.

Có một tư tưởng lạ lùng, ấy là vinh quang tối cao của Thiên Chúa lại do sự nhập thể và thập giá của Chúa Giêsu. Chẳng có vinh quang nào như vinh quang của việc được yêu thương. Nếu Thiên Chúa cứ giữ sự xa cách, uy nghiêm, bình thản, không xúc động trước bất cứ sự sầu khổ, đau đớn nào thì người ta có thể sợ hãi Ngài, có thể chiêm ngưỡng Ngài, nhưng họ sẽ chẳng bao giờ yêu mến Ngài. Định luật hy sinh không chỉ là một định luật của thời gian, nhưng là của cả trời và đất. Chính trong sự nhập thể và thập giá của Chúa Giêsu, vinh quang tối cao của Thiên Chúa được tỏ ra. Chúa Giêsu là vinh hiển của Thiên Chúa. Vinh hiển của Thiên Chúa không biểu lộ trong sự nghiền nát con người, xô đẩy họ xuống địa vị thấp hèn, nhưng còn biểu lộ trong sự phục vụ, thương yêu con người, và chết thay cho con người. Vinh hiển của Chúa không phải là vinh hiển của quyền lực đánh đổ, nhưng là vinh hiển của tình yêu chịu khổ.

4) Thiên Chúa sẽ tôn vinh Chúa Giêsu.

Đây là một mặt khác của vấn đề. Hiện giờ thập giá là vinh quang của Chúa Giêsu, nhưng kế đến còn nhiều hơn thế nữa, sự phục sinh, sự thăng thiên, sự toàn thắng vẻ vang cuối cùng của Chúa Cứu Thế là điều Tân Ước muốn nói tới khi đề cập đến việc trở lại trong vinh quang của Ngài. Tại thập giá, Chúa Giêsu được vinh quang riêng cho Ngài, nhưng sẽ đến ngày, một ngày chắc chắn, lúc vinh quang của Chúa Giêsu được tỏ bày cho thế giới và toàn thể vũ trụ. Sự tôn cao Chúa Giêsu phải tiếp theo sự sỉ nhục Ngài đã chịu, việc Ngài lên ngôi phải theo sau việc Ngài chịu đóng đinh. Chiếc mũ gai phải biến thành vương miện vinh hiển. Chiến dịch là chiến dịch của thập giá, nhưng nhà Vua sẽ bước vào chiến thắng khải hoàn mà cả thế gian đều trông thấy.

-----------------------------

 

PS 5-C59. Yêu người

 

Pierre-Yves, 16 tuổi, nói với tôi: “Thật là tuyệt với một tôn giáo chỉ yêu cầu một điều duy nhất ma: PS 5-C59


Pierre-Yves, 16 tuổi, nói với tôi: “Thật là tuyệt với một tôn giáo chỉ yêu cầu một điều duy nhất mà thôi, đó là yêu thương, Chúa Giêsu chỉ đưa ra cho chúng ta một điều răn mà thôi, Ngài thật là tuyệt vời”. Một thoáng im lặng và rồi cậu nhìn tôi hỏi: “Cha có thực hành điều răn của Chúa Giêsu không?”

Tôi đã trả lời điều mà có thể các bạn sẽ trả lời: “Tôi đang cố gắng”. Tất cả chúng ta đều nuôi dưỡng giấc mơ kín đáo đó là một ngày kia chúng ta sẽ thực sự sống một cuộc sống yêu thương huynh đệ. Chúng ta sẽ yêu X. dầu anh ấy như thế nào, thậm chí yêu chị Y. sau khi chị ấy đã làm điều tồi cho chúng ta.

Chúng ta cảm thấy rõ ràng chính đó là sự chọn lựa của tình yêu, không chùn chân khi điều ấy trở nên khó khăn. Cho đến một sự chọn lựa sắt thép: bất cứ giá nào, thậm chí khó khăn, tôi sẽ không để cho quyết định yêu thương của tôi tan thành mây khói.

Chúng ta sẽ không luôn luôn thành công, nhưng chúng ta có thể đạt đến việc không bao giờ đưa ra những lý do để tuyên bố bỏ cuộc, không bao giờ quyết định rằng trong hoàn cảnh ấy, đối với người ấy, chúng ta không yêu thương họ. Chính tính cách vô điều kiện của tình yêu như là quy luật sống tuyệt đối không thể xâm phạm được này làm cho chúng ta trở thành người Kitô hữu. Chúa Giêsu nói: “Cứ dấu này mà người ta sẽ nhận ra các con là môn đệ Thầy”. Cứ dấu này, chứ không phải có nhiều dấu đâu.

Đồng ý… cho đến lúc xảy ra với anh X. hay chị Y. một điều gì đó làm cho chúng ta nói: “Chà, thật không thể yêu thương họ được. Chúa không thể yêu cầu tôi làm một điều như thế!”

Ngài yêu cầu. Điều có thể được hoặc điều không thể được. Nếu chúng ta không tin rằng chúng ta được kêu gọi làm điều không thể được, thì chúng ta hãy đóng sách Tin Mừng lại.

Bí mật lớn của Tin Mừng không phải là nói với chúng ta: “Các ngươi hãy yêu thương nhau”, chính là nói với chúng ta rằng chúng ta có thể yêu thương nhau bởi vì chúng ta là những người được cứu độ. Được Chúa Giêsu Kitô cứu độ có nghĩa là có thể yêu thương như Ngài. Do đó yêu thương anh X. và thậm chí chị Y.

Thay vì lải nhải “chúng ta hãy yêu thương nhau”, chúng ta dám đương đầu với khó khăn hiện tại: “Tại sao tôi đang ghét anh X.?”.

Tôi biết rõ rằng đôi khi chúng ta có những lý lẽ hùng hồn để bỏ rơi hoặc ghét một người nào đó. Nhưng sự chọn lựa yêu thương của chúng ta phải đi đến cùng sự điên rồ, sự điên rồ nặng nhất của Tin Mừng, yêu thương ngay cả trong sự xung đột, đến độ không nói xấu về kẻ thù, không ước ao sự dữ cho kẻ thù, mong muốn điều tốt cho kẻ thù (vâng, thật là điên rồ), ngay cả nếu chúng ta phải đương đầu với kẻ thù.

Bởi vì đây không phải là việc tự cứu mình trước một cuộc xung đột có thể có. Những Kitô hữu không đấu tranh chống lại cái gì cả trong thế giới như thế đó thì họ là những người ích kỷ và có thể là những người nhát đảm chứ không phải là môn đệ Chúa Kitô. Chúng ta được kêu gọi yêu thương trong các cuộc xung đột và điều này có thể đi đến chỗ gây ra xung đột nhân danh công bằng; công bằng là một trong những khuôn mặt lớn của tình yêu.

Chúng ta cũng được kêu gọi yêu thương những người nhiều chuyện, những người mà chúng ta xét là không thể yêu thương được, và có thể đúng đấy, nhưng điều đó không loại bỏ lời yêu cầu của Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương!”. Chính vì lời yêu cầu này mà chúng ta liều mạng vào một số giây phút nào đó. Nếu có ai đang đọc điều này hiểu rằng mình được yêu cầu bước vào một bước kinh khủng, hết sức điên rồ, thì người ấy hãy cầu nguyện và tiến bước, người ấy cứ lê bước: không bao giờ người ấy gần Chúa Kitô hơn lúc này.

-----------------------------

 

PS 5-C60. CHÚA NHẬT V PHỤC SINH


Ga 13,31-33a.34 – 35

Anh chị em thân mến.

 

Trong thời buổi kinh tế thị trường, vấn đề quảng cáo đang là một vấn đề hết sức cần thiết. Từ: PS-C60


Trong thời buổi kinh tế thị trường, vấn đề quảng cáo đang là một vấn đề hết sức cần thiết. Từ những phương tiện truyền thanh, truyền hình, báo chí. Trên đường đi, nơi nào có thể được là chúng ta nhìn thấy những biễn quảng cáo. Cuối cùng trên sản phẩm, với những nhãn hiệu và những dòng chữ ca ngợi hiệu năng của sản phẩm. Có những sản phẩm còn có dòng chữ: đề phòng giã mạo. Không biết đó có phải là hàng chính phẩm hay không, nhưng vẫn có dòng chữ như thế. Người tiêu dùng bị lẫn lộn trong những thứ giã và thật, vì nhìn vào nhãn hiệu, có khi phân biệt được, có khi đành phải chịu thua, chừng nào đụng đến thực tế thì đành ôm hận.

"Để mọi người nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau."

Chúa Giêsu cho những môn đệ của Ngài mang một nhãn hiệu, để mọi người nhìn thấy là hàng chính phẩm, là môn đệ thật: đó là Yêu thương. Tình yêu thương không thể giã tạo được. Cũng không phải chỉ là cái mã bên ngoài. Nhưng là cái từ bên trong tâm hồn đã có, mới thể hiện ra bên ngoài cho mọi người nhìn thấy. Tình yêu thương cũng không phải để cho mọi người nhìn thấy mà thôi, nhưng còn là một giới răn, một mệnh lệnh.

Yêu thương như Thầy yêu. Thầy yêu thương không tính toán, cho đi không cần đòi lại, cho đi cả mạng sống vì người mình yêu. Nhãn hiệu Thầy ban như một dấu ấn, ai không mang được nhãn hiệu thì chỉ còn cách ra đi trong đêm tối như Giuda đã ra đi, chính vì ông ra đi nên không nghe được mệnh lệnh và giới răn mà Thầy đã truyền.

"Mọi người nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau." Lời nói đó Chúa Giêsu cũng nói với từng người trong chúng ta, là những người của thời đại ngày hôm nay, những người đang ngồi trong nhà thờ, đang lắng nghe. Chúa Giêsu cũng cho mỗi người một nhãn hiệu người môn đệ, một nhãn hiệu thật sự có chất lượng từ bên trong mới bộc phát ra ngoài, chứ không phải là thứ hàng không chất lượng.

Mỗi người trong chúng ta thử nhìn lại chính mình xem, với nhãn hiệu người Công Giáo, người Môn Đệ Chúa Giêsu mà chúng ta được mang, có đúng với phẩm chất của con người hiện tại của mình không? Hay chúng ta chỉ là cái thùng trống rỗng, có mã bên ngoài, nhưng thực chất bên trong thì hòan toàn trái lại. Không lẽ giống như Giuda, chúng ta đã ra đi trong giờ phút quyết định, giờ phút mà mệnh lệnh Yêu Thương được ban hành, chúng ta không thể lắng nghe, vì bận với những toan tính riêng tư.

Mọi người nhìn vào chúng ta, nhìn thấy cách sống, những lời nói, thái độ đối xử và những toan tính, họ có thể nói được: Đó là nhãn hiệu của tình yêu, đó là người môn đệ của Chúa Giêsu không?

Nếu chúng ta biết dùng tình yêu, để nói lên những lời chân thật phát xuất từ con tim biết yêu thương.

Nếu chúng ta biết bỏ đi những tranh chấp, những đố kỵ chỉ vì một chút tự ái, để biết bỏ đi những hành vi không tốt đẹp, những tham lam bất chính, những cơn phẩn nộ không đúng chỗ vì con tim yêu thương thật sự.

Nếu chúng ta nhìn thấy được nhu cầu của anh em chung quanh đang cần: một cái nhìn yêu thương thông cảm, một nụ cười khích lệ, một câu nói động viên, một hành động giúp đở phát xuất từ con tim chân chính.

Với tất cả những chữ Nếu đó mà chúng ta thực hành được, đó là chúng ta đã mang nhãn hiệu của người môn đệ, nhãn hiệu yêu thương.

Và nếu tại sao chúng ta đã mang nhãn hiệu yêu thương mà chúng ta còn tìm cách để hạ bệ nhau, chiếm đoạt của nhau, chiếm giữ những điều không phải của mình. Nếu đã mang nhãn hiệu yêu thương, sao còn tìm cách để hại nhau bằng những lời nói, những hành động và cả những mưu mô toan tính. Như vậy là chúng ta đã đi con đường của Giuda, đã ra đi trong giờ phút quang trọng, ra đi trong đêm tối, không biết lắng nghe. Như vậy chúng ta chỉ là một thứ hàng không chất lượng, không đúng với nhãn hiệu bên ngoài. Như vậy, chúng ta là giã tạo, giã hình hay sao?

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người được xứng đáng là người môn đệ thật sự của Chúa, được thể hiện bằng chính cuộc sống của lòng yêu thương chân thành.

-----------------------------

 

PS 5-C61. Giới răn mới – Lm. Trần thanh Sơn

 

Khi Tin mừng được rao giảng lần đầu tiên tại Việt Nam, thì lúc bấy giờ, ở nước ta đang thịnh: PS 5-C61


Khi Tin mừng được rao giảng lần đầu tiên tại Việt Nam, thì lúc bấy giờ, ở nước ta đang thịnh hành ba tôn giáo lớn là: Khổng - Lão - Phật, còn đạo mới mà các cha Thừa Sai rao giảng, mọi người không biết tên là đạo gì. Do đó, họ chỉ còn có một cách là “xem mặt đặt tên”, nghĩa là nhìn vào cách sống của những người theo đạo để đặt tên cho đạo mới này. Và sau một thời gian quan sát đời sống của các kitô hữu, anh chị em lương dân đã đặt cho đạo chúng ta một tên gọi thật dễ thương: “Đạo yêu nhau” (1).

Như thế, ngay từ thuở ban đầu, tinh thần bác ái, chia sẻ của các tín hữu là một dấu chỉ quan trọng để mọi người nhận ra họ là môn đệ của Đức Kitô. Và đây cũng chính là giới răn mới mà Đức Giêsu để lại cho mỗi người chúng ta.

1. GIỚI RĂN MỚI:

Để thấy rõ hơn đặc điểm của giới răn mới mà Đức Giêsu vừa để lại cho chúng ta, chúng ta cần xem lại bối cảnh của bài Tin mừng hôm nay. Bài Tin mừng này được viết trước cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, tiếp liền sau bữa tiệc cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Lúc đó, Đức Giêsu biết là sắp tới giờ Ngài phải ra đi để hoàn tất chương trình cứu độ của Chúa Cha, nên sau bữa ăn tối, Ngài đã cởi áo, ngồi xuống rửa chân cho từng môn đệ. Sau khi đã rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu nói với các ông: “Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau”.

Đức Giêsu đã ban cho các tông đồ và qua các tông đồ, Đức Giêsu đã ban cho chúng ta một giới răn yêu thương mà Ngài gọi là giới răn mới. Thế nhưng, tình yêu, một điều thật là quen thuộc với tất cả chúng ta, người ta vẫn hay nói tới tình yêu, và nhiều tôn giáo, nhiều vĩ nhân cũng dạy cho môn đệ của mình yêu thương nhau. Thế thì đâu là điểm mới trong giới răn của Đức Giêsu?

Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy điểm mới mà Đức Giêsu muốn nói đến không nằm ở chữ “yêu”, vì Ngài đã từng nói: “nếu các ngươi mến yêu những kẻ yêu mến các ngươi, thì các ngươi có công gì? Há những người thu thuế cũng không làm thế sao?” (Mt 5, 46), nhưng cái mới ở đây nằm ở chữ “như”, Đức Giêsu nói: “Như Thầy đã yêu thương các con, các con cũng hãy yêu thương nhau”.

Yêu như Đức Giêsu đã yêu, trước hết là một tình yêu rộng mở cho hết mọi người, kể cả kẻ thù, như cảm nghiệm của thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay lúc chúng ta còn là tội nhân” (Rm 5, 8b). Đức Kitô đã chết cho chúng ta ngay lúc chúng ta còn là tội nhân, nghĩa là ngay lúc chúng ta đang ở trong tình trạng thù địch với Thiên Chúa, Đức Giêsu đã hạ mình đi bước trước đến để giao hoà chúng ta với Thiên Chúa.

Yêu như Đức Giêsu đã yêu, còn là một tình yêu dám hy sinh tính mạng mình vì người mình yêu. Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, chúng ta biết rằng trước khi ban cho các môn đệ giới răn mới này, thì trước đó, ngay trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể để lại chính Mình và Máu Người làm của ăn cho chúng ta. Kế đó, Ngài lại còn dùng chính Máu của mình để lập nên một giao ước mới thanh tẩy tất cả tội lỗi của chúng ta. Mặc dù là thân vô tội, nhưng vì yêu thương chúng ta, Đức Giêsu đã chấp nhận trở nên con chiên hiền lành bị đem đi sát tế vì tất cả tội lỗi của chúng ta (x. Ga 1, 29). Cảm nghiệm được tình yêu nhưng không, hải hà đó của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, mượn lời tác giả Thánh vịnh, Giáo Hội đã cất tiếng ngợi ca: “Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa”.

Tắt một lời, cái mới trong giới răn yêu thương của Đức Giêsu không nằm ở nguyên một chữ “yêu”, nhưng nằm ở chữ “như”. Yêu như Ngài đã yêu chúng ta, đó là một tình yêu dành cho hết mọi người, hoàn toàn vị tha, luôn hướng về người mình yêu, một tình yêu không tính toán thiệt hơn, một tình yêu chỉ có cho đi mà không hề đòi lại, một tình yêu không hề có giới hạn.

Và cùng với việc ban cho chúng ta giới răn mới, Đức Giêsu còn khẳng định: “Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”. Như thế, việc chúng ta sống yêu thương như Chúa đã yêu, không còn là một giới răn, chúng ta muốn tuân giữ hay không tuỳ ý, nhưng đã trở nên một dấu chỉ cho mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu.

2. SỐNG GIỚI RĂN MỚI:

Xác tín rằng: yêu theo mẫu gương của Đức Giêsu là dấu chứng của người môn đệ, nên các tông đồ và các tín hữu thuở ban đầu đã nhiệt thành sống yêu thương nhau. Sách Công vụ tông đồ thuật lại: “Ngày ngày họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền thờ, bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân, lòng hân hoan, dạ đơn thành, trong lời ngợi ken Thiên Chúa, trong sự mến phục của toàn dân”. Nhờ đó “số những kẻ được cứu rỗi cứ mỗi ngày được Chúa ban thêm mà nên một cùng nhau” (Cv 2, 46-47). Cũng chính tình yêu đó thúc đẩy bước chân của các tông đồ lên đường đến với anh chị em của mình. Các ngài đã không quản ngại mọi khó khăn, vất vả, nhọc nhằn, nhưng quên mình để đem Tin mừng Phục Sinh đến cho tất cả mọi người. Bài sách Công vụ tông đồ chúng ta vừa nghe cho biết, hai thánh Phaolô và Barnaba đã chẳng quản đường xá xa xôi, cùng với các mối nguy hiểm rình chờ, các ngài đã ngược xuôi từ Lystra, Icôniô, Antiôkia, rồi lại sang Pisiđia, đến Pamphylia, rồi lại trở về Antiôkia để rao giảng và củng cố niềm tin cho cộng đoàn các tín hữu.

Như thế, yêu như Chúa Giêsu đã yêu không phải là một điều dễ dàng đối với bản tính nhân loại ích kỷ đã bị dục vọng của tội lỗi khống chế của từng người chúng ta. Do đó, thánh Phaolô và Barnaba đã nhắc bảo chúng ta rằng: “Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa”. Vâng, tình yêu như Đức Giêsu đã yêu, đòi mỗi người chúng ta một sự hy sinh, trả giá, đó là những hy sinh không chỉ về vật chất, nhưng còn cả thời gian quý báu, thậm chí cả mạng sống của chúng ta nữa.

Nhưng cho dù nó có khó đến đâu đi chăng nữa, thì đó cũng phải là đích điểm mà mỗi người chúng ta cần nhắm tới, để rồi một khi mỗi người chúng ta sống yêu thương như thế, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ chúng ta sẽ thay đổi, như lời thánh Gioan tiên báo trong sách Khải huyền: “Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới. Vì trời cũ và đất cũ đã qua đi, và biển cũng không còn nữa”. Thật vậy, bất cứ ở đâu, nếu trong một gia đình, hay một cộng đoàn mà mỗi người đều yêu thương nhau bằng tình yêu của Đức Giêsu, thì chính nơi đó sẽ có sự hiện diện của chính Thiên Chúa, như lời sách Khải huyền mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Đây là nơi Thiên Chúa ở với loài người, và chính Thiên Chúa sẽ ở với họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ”. Vâng, có tình yêu của Thiên Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ không còn khóc lóc, không còn kêu la, không còn đau khổ và nhất là không còn phải sợ hãi sự chết nữa.

Chớ gì mỗi người chúng ta luôn biết sống yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu chúng ta, để rồi nhờ cuộc sống yêu thương ấy, ngày hôm nay mọi người lại có thể một lần nữa, gọi đạo của chúng ta là “Đạo yêu nhau”. Amen.

CHÚ THÍCH

1. Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh, Lịch sử Giáo Hội Việt Nam, tập 2, Đại Chủng Viện thánh Giuse, 1994, trang 268.

-----------------------------

 

PS 5-C62.  Sacerdos.org


Chủ điểm của các Bài đọc

 

Trong Bài đọc thứ nhất Phao-lô và Bác-na-ba không e ngại cảnh báo những cộng đoàn Kitô hữu: PS 5-C62


Trong Bài đọc thứ nhất Phao-lô và Bác-na-ba không e ngại cảnh báo những cộng đoàn Kitô hữu mới được thành lập về những nỗi gian truân và thử thách mà họ sẽ phải nếm chịu để trung thành với Chúa Kitô. Bài đọc hai khơi dậy lòng khao khát của chúng ta đối với Nước Trời, hướng cái nhìn cậy trông của chúng ta về  Thành Giê-ru-sa-lem mới, nơi Thiên Chúa sẽ “ đổi mới mọi sự ”. Trong bài Phúc Âm, Chúa Giê-su ban cho các Tông đồ giới răn mới và báo trước cho các ông biết Người sẽ ra đi để dọn chỗ cho các ông.

Nội dung sứ điệp

Đau khổ là phần số của cuộc sống này. Đau khổ là một kinh nghiệm phổ quát. Tùy mức độ khác nhau, tất cả chúng ta đều trải qua những giờ phút khó khăn trong cuộc lữ hành đầy cực nhọc vất vả này. Chúa Kitô là vị đầu tiên trong lịch sử nhân lọai đem lại cho đau khổ một ý nghĩa. Trong Người chúng ta hiểu được tại sao đau khổ. Những khó khăn và thử thách là dịp để ta nên thánh. Phản kháng hay than trách thường không làm cho đau khổ nhẹ bớt. Mỉm cười, cậy trông, hướng lòng về trời cao chắc chắn sẽ làm cho tình thế đổi khác.

Bạn không thể sống trong quá khứ. Quá khứ đã đi qua và không bao giờ trở lại. Dù các sử gia đã cố gắng làm sống lại quá khứ,  bạn chẳng bao giờ có thể nắm bắt được lịch sử như nó từng đã xảy ra. Thái độ của người Kitô hữu đối với những hối hận thuộc về quá khứ là thống hối. Chúng ta có thể van xin ơn tha thứ. Thiên Chúa và tha nhân có thể tha thứ cho chúng ta. Bí tích Hòa giải là liều thuốc hiệu nghiệm nhất để chữa trị những lỗi lầm đã qua.

Tương lai thì chưa đến. Ngày mai chẳng bao giờ đến. Khi có mặt ở đây, nó không còn là ngày mai nữa. Chúng ta dự tính tương lai nhưng đừng quên rằng Thiên Chúa đã có một chương trình cho mỗi người chúng ta. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Chúng ta có thể miệt mài theo đuổi những thành công giả tạo (Thomas Kempis). Không có thất bại nào lớn hơn là lơ là, chểnh mảng với hiện tại. Hãy làm ngay những gì bây giờ bạn có thể. Ngày mai có những nỗi khổ của ngày mai, ta đừng chất thêm gánh nặng cho nó. Không có kẻ biếng nhác nào cảm nhận được hạnh phúc đích thực.

Những gợi ý mục vụ

Có thể hoãn các nết xấu lại. Ta nhắc các bạn trẻ đừng vội lao vào các thói tiêu cực của thời nay. Cần tự nhủ “ hãy đợi đấy!” Dẫu đã đến ngưỡng tứ tuần, bạn còn  cả một nửa chặng đường trước mặt. Còn nhiều thời gian để sửa đổi những thói xấu đã hình thành trong con người bạn. Lỗi lầm có khi do hiếu kì, do bồng bột, do non nớt. Coi chừng tuổi trẻ mà đã sa vào những chứng tật để suốt cuộc đời còn lại phải ăn năn hối hận. Một khi đã trưởng thành và hiểu biết đủ, bạn sẽ  đủ tự do để chọn lựa, ít nhất thì cũng không sợ bị lường gạt. Dẫu thế cũng phải luôn nhớ rằng cuộc sống này chỉ là hình bóng của vĩnh cửu. Vĩnh cửu hiện hữu trong Thiên Chúa. Bạn có thể chọn lựa để vui hưởng tràn đầy hay phải đau buồn mãi mãi.

Hãy mở rộng các tiêu chuẩn, cho dẫu tiêu chuẩn có là không tiêu chuẩn nào.Tiêu chuẩn hoạt động như một nồi xúp de. No củng cố các năng lực, loại bỏ và tiêu hủy các tạp chất. Qua những lỗ nhỏ, những bụi bẩn bị thải ra, những lực mới được nạp vào. Cũng vậy, các tập quán và suy nghĩ của chúng ta có thể sai lầm, ta cần nạp vào những cái tốt để loại trừ những cái xấu.

-----------------------------

 

PS 5-C63. YÊU


Ga 13,31-33a.34 – 35

 

Cách đây khá lâu tôi có xem trên Tivi có đoạn quảng cáo thứ gì mà loạn xà ngầu rượt đuổi lung: PS 5-C63


Cách đây khá lâu tôi có xem trên Tivi có đoạn quảng cáo thứ gì mà loạn xà ngầu rượt đuổi lung tung, sau đó mọi người trong phòng cùng nâng bia Tiger lên chúc mừng. Tôi thấy lạ lắm nhưng cũng chẳng thèm để ý đến bao nhiêu vì là quảng cáo mà. Nhưng mới đây đọc báo Tuổi trẻ lại nhận ra những cảnh quảng cáo này nhưng được dựng lại trên báo. Thì ra đơn giản là bọn xấu muốn tấn công anh Max một người trọng hội bia Tiger. Anh Max chạy lòng vòng thành phố New York sau đó anh vào một cái phòng trong đó mọi người có thích một dấu và họ nhận ra ai dấu hiệu đó là “tín đồ” của bia Tiger. Sau cùng là câu Slogan nổi lên “Tiger rạng danh trên toàn thế giới”.

Tôi không phải là nhân viên của bia Tiger để quảng cáo cho loại bia này nhưng với dấu thích trên tay làm cho tôi liên tưởng đến công việc của Phêrô nơi cửa thiên đàng như chúng ta thường nói. Muốn vào nước thiên đàng chắc chắn phải có một dấu hiệu nào đó để chứng tỏ mình là công dân của nước Chúa. Dấu hiệu đó không thể là gì khác ngoài dấu chỉ yêu thương. Và vơí dấu này người ta biết mình là “ tín đồ ” của nước Chúa. Nhưng yêu thương là yêu thương như thế nào? Bài Tin Mừng mà Phụng vụ cho đọc hôm nay cho thấy lý tưởng của tình yêu thương chính là tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. “ Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người nếu Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình ” . Tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu rộng mở, trao hiến trọn vẹn hết cho nhau. Thiên Chúa phải là Thiên Chúa Ba Ngôi bởi nếu một Ngôi hay hai Ngôi thì là tình yêu khép kín, vị kỷ. Trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi mở rộng để Thiên Chúa tác thành trời đất và thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho mọi loài. Trong cuộc sống dương thế của Chúa Giêsu chúng ta có thể thấy được sự hiệp nhất trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Giêsu khi làm phép lạhoá bánh ra nhiều cho năm ngàn người ăn thánh Gioan ghi lại như thế này “Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn rồi phân phát…” ta thấy Ngài không xin nhưng Ngài thực hiện theo ý Cha và Ngài tạ ơn Cha.

Còn chúng ta, chúng ta được Chúa Giêsu dạy hãy yêu thương nhau. Nhưng tại sao ở đây Chúa Giêsu lại nói “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”. Mới là mới ở chỗ nào? Mới là cách quy chiếu mới, cách thể hiện mới. Trong Cựu Ước đã có dạy yêu thương nhưng quy chiếu về chính mình “hãy yêu thương tha nhân như chính mình”. Còn hôm nay Chúa Giêsu dạy “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Rõ ràng có một chuẩn mực mới. Yêu như Chúa yêu là yêu hết tình, yêu đến độ hy sinh tính mạng cho người mình yêu. Ở đây có hai phía chủ thể yêu và người được yêu. Chúng ta là người được Chúa yêu và theo như thánh Phaolô nói Người yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân, chúng ta chẳng có đáng yêu chút nào mà Chúa lại yêu hết tình, yêu hết mình vì chúng ta. Cho nên tình yêu thật không hệ tại nơi người được yêu có đáng yêu hay không, có đáp lại tình yêu hay không mà khi yêu là yêu trọn vẹn như nhà tư tưởng, mục sư Steve Goodier nói như thế này trong cuốn sách Đơn Thuốc Bình An Cho Tâm Hồn “Tình yêu đích thực không đòi hỏi người kia yêu mình như mình đã yêu”.

Trong tình yêu nam nữ chắc anh chị em cũng đã có lần kinh qua kinh nghiệm này. Yêu là yêu thế thôi, không thể chỉ cho người khác biết rằng tôi yêu em hay tôi yêu anh vì cái gì mà là trọn vẹn, cái gì nơi người yêu của mình cũng đáng yêu. Yêu như Chúa yêu là yêu thật, yêu có sự hao mòn đi nơi chính mình. Nếu chưa có từ bỏ, chưa mất mát, chưa hy sinh thì thường khi là chưa phải là yêu thương thật. Nhìn vào các gia đình ta có thể dể dàng nhận ra điều này. Cha mẹ sẳn sàng hy sinh ăn đầu tôm xương cá để cho con được ăn miếng ngon, cha mẹ sẳn sàng mặc áo vá, áo cũ để cho con cái có được những bộ đồ đúng mốt nhưng với sự hy sinh đó cha mẹ chúng ta không cảm thấy đó là sự mất mát, không cảm thấy thiệt thòi nhưng đó là một điều phải làm, nên làm và hạnh phúc vì được hy sinh cho con. Chỉ vì cha mẹ yêu con. Rộng lớn hơn một chút, trong xã hội của chúng ta cũng có rất nhiều người đã thể hiện tình yêu một cách vô vị lợi. Ví dụ như chị Huỳnh Tiểu Hương mà cách nay khá lâu trong chương trình gặp gỡ cuối tuần của đài Thành Phố Hồ Chí Minh mà tôi có dịp được xem. Chị là một đứa bé bị bỏ rơi, bị bán cho các động mại dâm ở những nơi người ta đào vàng, rồi chị trốn thoát trở thành trẻ em đường phố…may mắn thay số phận cho chị được khá lên và hiện nay chị đang nuôi dưỡng hơn 200 em bị bỏ rơi khuyết tật. Với sức khoẻ của chị như hiện nay chị đang bị bệnh ung thư chẳng biết công việc của chị rồi sẽ ra sao! Chị có hai câu nói làm tôi cảm phục và nhớ mãi. Đó là chị nói có những đêm chị trằn trọc chị như có linh cảm như có bé nào đó bị bỏ rơi và như có một sức mạnh vô hình thúc đẩy chị phải thức dậy để mang bé đó vào nhà thì chị mới yên lòng cho dù trời đêm mưa gió. Khi chị Quỳnh Hương dẫn chương trình hỏi “Nếu có một ai đó muốn mua hay xin các con của chị thì chi có cho hay bán không?”. Chị trả lời rất dứt khoát “Không, không, không tất cả là con của tôi, tôi nuôi chúng đến khi nào tôi chết thì thôi…”. Còn nhiều còn nhiều những tấm gương trong cuộc sống đã yêu, đã sống hy sinh vì yêu.

Người Kitô hữu chúng ta được tạo dựng và được cứu độ trong tình yêu của Thiên Chúa, lại được mời gọi sống điều răn yêu thương, cho nên có thể nói được yêu thương là căn tính, là bản chất của người Kitô hữu. Điều này đòi buộc mỗi người chúng ta phải luôn tự hỏi mình xem mình đã sống và đã thực hành điều răn Chúa dạy như thế nào. Tình yêu của người Kitô hữu chúng ta không hệ tại ở những cảm xúc tự nhiên nhưng phải là tiếp nối của tình yêu của Chúa Kitô, một tình yêu siêu vượt trên những cảm xúc tự nhiên. Tình yêu đó mang một khả năng biết mở rộng vòng tay, mở rộng con tim để đến với mọi người kể cả những người không có thiện cảm đối với chúng ta. Yêu là nhận ra Chúa nơi tha nhân. Yêu vì họ cũng là con của Chúa như chúng ta, không yêu thương thì không còn là Kitô hữu. Càng biết yêu thương, dám yêu, yêu không loại trừ là càng ngày càng trở nên những người Kitô hữu đích thực.

Ước gì mỗi người chúng ta thích được chữ yêu thương nơi tâm hồn chúng tađể chúng ta được trở nên những tín đồ trung thành của Thiên Chúa tình yêu.

-----------------------------

 

PS 5-C64. HÃY YÊU THƯƠNG NHAU


Ga 13,31-33a.34 - 35

 

Thỉnh thoảng có những người giáo dân nhờ tôi đánh máy di chúc, thường thì trong di chúc đều: PS 5-C64


1. Thỉnh thoảng có những người giáo dân nhờ tôi đánh máy di chúc, thường thì trong di chúc đều có lời căn dặn đại khái: “Má (cha…) mong muốn anh chị em chúng con hoà thuận thương yêu nhau…”. Cách nào đó, những bậc cha mẹ nầy đã thấm nhuần được tinh thần của Đức Giêsu. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trong bầu khi dùng buổi tiệc cuối cùng với các môn đệ, trước lúc bước vào con đường khổ nạn, Đức Giêsu đã trối cho các môn đệ, cũng là cho mỗi người chúng ta nữa về giới luật yêu thương. Người nói rõ rằng: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34).

2. Giới luật yêu thương Chúa ban có gì mới ? Thực ra lời dạy yêu thương nhau đã có từ xưa, có thể nói từ khi con người xuất hiện. Chúng ta vẫn nghe nói: “Tứ hải giai huynh đệ” (bốn bể là anh em), hay “ thương người như thể thương thân”, hay “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy là khác giống nhưng chung một giàn”... Ngay trong Cựu Uớc cũng đã dạy rất rõ:”Hãy yêu đồng loại như chính mình…” (Lêvi 19,18). Nhưng tình yêu tha nhân nầy, ta tạm gọi là kiểu cũ, so với lời dạy và gương sống của Đức Giêsu, ta tạm gọi là kiểu mới, thì còn nhiều hạn chế, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó qua một vài điểm so sánh:

- Yêu tha nhân theo kiểu cũ, mà ta thường đối với nhau, đó là lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn. Đành rằng yêu người khác như bản thân mình là rất quý, nhưng vì lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn nên làm sao tránh khỏi những vị kỷ, bất ổn, mà chúng ta sẽ bàn tiếp ở những điểm sau. Còn yêu thương theo kiểu mới, thì yêu như chính Chúa yêu thương chúng ta, cho nên những bất ổn đó sẽ được khắc phục.

- Yêu tha nhân theo kiểu cũ, do lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn, cho nên sẽ giới hạn về đối tượng. Người Do thái xưa được dạy chỉ phải yêu: đồng đạo, đồng chủng, đồng hương… chứ không phải yêu thương tất cả mọi người. Cho dù xã hội ngày nay rất tiến bộ, nhưng tình yêu tha nhân theo kiểu cũ vần còn tồn tại, ta vẫn còn nghe những cụm từ “không đội trời chung với kẻ thù”, “đối với kẻ địch thì phải khôn ngoan, cương quyết…” ! Còn yêu thương theo kiểu mới đó là yêu thương hết mọi người, dù kẻ làm khó dễ, thù nghịch với ta (x. Mt 5,43-48).

- Yêu tha nhân theo kiểu cũ, chúng ta còn dễ thấy ở mục đích yêu thương: yêu thương người khác vì mình. Sống hiền hoà với tha nhân để tránh gây thù oán, để được yên ổn. Cũng có thể yêu thương người khác vì người đó đem lại cho ta lợi lộc, hoặc thoả mãn ước muốn nào đó của ta… Còn yêu thương theo kiểu mới, đó là yêu thương vì lợi ích của người được yêu thương, chẳng hạn Thiên Chúa vì yêu thương muôn loài nên Ngài đã tạo dựng và luôn chăm sóc cho muôn loài, đặc biệt là loài người. Đức Giêsu vì yêu thương ta nên sẵn lòng chịu nạn chịu chết vì ta.

- Yêu tha nhân theo kiểu cũ do lấy mình làm điểm quy chiếu, nên hay có sự thay đổi trong yêu thương. Vừa lòng thì còn quý mến, hết vừa lòng thì thôi. Lòng dạ con người thay đổi nào ai có thể lường ? Còn yêu thương theo kiểu mới do Chúa dạy đó là tình yêu không thay đổi, cho dù đối tượng có trở nên bất trung, bất xứng. Ngay trong Cựu Ước cũng đã nói lên điều đó:”Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (x. Tv 118 ; 136), dù dân Do thái có trung thành với Thiên Chúa hay không !? Nơi Đức Giêsu, một điển hình rõ nét, Người vẫn một mực yêu thương Phêrô, Giuđa dù các ông có phản bội Chúa hay chưa ! Người cũng đối với mọi người chúng ta như thế.

Đức Giêsu đã dạy, đã sống và muốn chúng ta cũng hãy đối xử với nhau: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.

3. Nhưng sống yêu thương nhau như Chúa dạy thực ra không phải dễ, do chúng ta thường có khuynh hướng quy về cái tôi vị kỷ của mình. Chính thánh Phaolô đã từng thốt lên:”Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tối ghét thì tôi cứ làm” (Rm 7,15). Do quy về cái tôi, nên chúng ta hay có thái độ so bì, ganh tỵ ngay cả những người thân thương ruột thịt của mình, nhiều khi với lý do rất đơn giản như: nó đẹp hơn tôi, nó giàu hơn tôi, nó được cha mẹ quan tâm hơn tôi, được hưởng gia tài nhiều hơn tôi… nên tôi ghét! Do quy hướng về mình, nên ta thường muốn được cái lợi, được hưởng thụ, được phục vụ mà ít quan tâm đến lợi ích của người khác, ít quan tâm phục vụ, hy sinh cho người khác. Nếu sống mà như thế thì làm sao ta có thể yêu thương như Chúa được. Đức Giêsu, Đấng đến không để được phục vụ mà để phục vụ. Vậy trong tinh thần bác ái, phục vụ người khác theo gương Đức Giêsu, chúng ta có thể bớt so bì, ganh tỵ… để dễ yêu mến người khác hơn.

4. Chúa dạy chúng ta yêu thương mọi người, không giới hạn đối tượng, nhưng Chúa cũng lưu tâm các môn đệ của Chúa, các Kitô hữu, cách đặc biệt về giới luật nầy: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Nếu anh em trong một nhà, nếu các Kitô hữu không yêu thương nhau thì làm sao mà có thể yêu thương những người khác được ? Vậy hãy cố gắng thực hiện giới luật yêu thương quan trọng nầy nơi gia đình, cộng đoàn, nơi làm việc, xóm làng…

Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm của mình: Tại sao người ta không xin gia nhập Giáo Hội, không đánh giá cao bản thân, gia đình, đoàn thể, xóm giáo, họ đạo chúng ta ? Chắc do nhiều nguyên nhân, nhưng thiết nghĩ, một trong những nguyên nhân chính yếu đó là do chúng ta sống thiếu yêu thương nhau ! Nếu đúng như vậy, mọi người chúng ta hãy cố gắng thực hiện lệnh truyền của Chúa:”Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, đó là phương cách sống chứng nhân cho Đức Kitô cách hữu hiệu.

-----------------------------

 

PS 5-C65.  CỐ LÊN,KƯM SUN  


TIN MỪNG CHÚA NHẬT V PHỤC SINH (Năm C)

Ga 13, 31 -35

 

Không cần những màn đấu đá bạo lực, không có những màn khêu gợi, thậm chí hiếm thấy: PS 5-C65


Không cần những màn đấu đá bạo lực, không có những màn khêu gợi, thậm chí hiếm thấy những cảnh âu yếm hôn hít, phim ảnh Hàn Quốc âm thầm nhưng mãnh liệt và toàn diện chiếm lĩnh cả màn ảnh rộng, lẫn màn ảnh nhỏ khắp trên đất nước Việt-Nam. Những bà nội trợ và nam thanh nữ tú không bỏ sót tập phim nào, cặp mắt đỏ hoe sau mỗi lần dán mắt vào màn hình. Nhiều phụ huynh an tâm khi cho con cái xem phim Hàn. Tâm lý từng nhân vật, những đấu tranh nội tâm, cái thiện và cái ác, ...về mọi vấn đề,về mọi lãnh vực, tất cả được các biên kịch và đạo diễn nghiên cứu công phu, cùng với giàn diễn viên đẹp, cảnh trí tuyệt vời, góc quay chọn lọc, như nói lên sự trân trọng khán giả, làm câu chuyện thấm vào lòng người xem, là những gì làm nên thành công của phim ảnh Hàn Quốc. Mỗi bộ phim tạo nên một cơn sốt. “CỐ LÊN,KƯM SUN ”, bộ phim truyền hình dài tập đang được tiếp tục phát trên VTV1 ,không nằm ngoài chiều hướng ấy: một kịch bản nhẹ nhàng,sâu sắc,đầy tình người và có tính giáo dục cao.

 Giây phút cảm động nhất của cốt chuyện và diễn tiến bô phim là, sau nhiều do dự,nhìn lén khuôn mặt đẫm nước mắt của người phụ nữ được đẩy trên gường đến bên cạnh giường mình nằm, người phụ nữ mà lát nữa đây Cô sẽ hiến thận để cứu,  Na Kưm Sun rụt rè đưa bàn tay nắm lấy bàn tay của người phụ nữ. Dường như chỉ chờ có thế, người phụ nữ vội chụp lấy bàn tay của cô con gái,mà Bà đã bỏ rơi hơn hai chục năm qua, với bao dằn vặt,đau khổ,mặc cảm và hối hận gặm nhấm tâm hồn,bên trong một thân thể bị bênh hoạn gậm nhắm tưởng không mong gì còn cứu được. Đứa con gái bị bà bỏ rơi đã cứu cả thể xác lẫn tâm hồn bà. Với Kưm Sun, để làm được cử chỉ hoà giải nầy, cô đã phải trải qua biết bao đấu tranh tư tưởng: sững sờ khi hay tin mẹ đẻ vẫn còn sống nhưng đã để mặc cô chịu trăm bề cơ cực, thiếu thốn và phải nhờ bàn tay tần tảo yêu thương của người bà mới trưởng thành và nên người được. Sau những giây phút bị ‘sốc’, là sự giận ghét tủi hờn, nhất là khi nghe người chồng sau của người mẹ vô tâm ấy tìm đủ cách để có được một trái thận của cô nhắm cứu vợ ông. Dù tế nhị và tốt bụng, với ông, mục đích cuối cùng vẫn là vụ lợi.Người bà, người thím, cha mẹ chồng, các anh chồng và cả người bác sĩ trẻ thầm yêu cô, đều lên tiếng phản đối và ngăn cản cô hiến thận cho người đàn bà đã bỏ rơi cô ấy.

 Nhưng Kưm Sun đã quyết: cô sẽ hiến một trái thận để cứu sống người phụ nữ nầy, vì như lời cô van vỉ thuyết phục người bà vốn vô cùng hận ghét cô con dâu cũ:” thân thể của con là do bà ấy cho” hoặc với cha mẹ và các anh chồng: ”làm sao con sống cả đời còn lại trong mặc cảm tội lỗi được”. Bao nhiêu vất vả,tủi hổ khác cô đã vượt qua,không làm tâm hồn cô nên chai đá, hận đời,hận người, ngược lại đã làm cho cô nên bao dung hơn, nhân hậu hơn. Cuộc đời Cô là một chuỗi nhưng chinh phục: tâm hồn chân thành,rộng mở của cô đã chinh phục trọn vẹn bà mẹ chồng, vốn gán cho cô là nguyên nhân cái chết do tai nạn giao thông của cậu út, chồng Kưm Sun,mà bà yêu thương nhất nhà. Tảng băng dần tan và thái độ hắt hủi,lạnh lùng và xua đuổi của bà mẹ chồng đã biến thành tình mẫu tử thâm sâu. Kưm Sun đã thuyết phục được người bà, vợ chồng chú thím, những cấp trên và thầy dạy ở thẩm mỹ viện, cô bạn đồng nghiệp hay ganh tị bươi móc, đã làm cho ông bác sĩ già kính phục và nhất là khiến cho anh bác sĩ trai tân say mê vì nết na đức hạnh và lòng chân thành,bao dung, lạc quan của cô.

 Theo gương Thầy Chí Thánh,vị phó tế đầu tiên của Giáo Hội đã xin Chúa tha thứ cho những kẻ ném đá giết mình. Từ đó lịch sử Giáo Hội ghi lại không biết bao gương tha thứ, không chỉ của các vị thánh,mà cả của những Kitô hữu bình thường và tầm thường: Không cần phải những tâm hồn cao cả thánh thiện như Đức Gioan-Phaolô II, mới đến thăm và tha thứ tên sát nhân người Thổ Nhĩ Kỳ đã muốn lấy tình mạng Người đang bị giam giữ trong tù. Ba bà mẹ Công giáo người Indonesia đã ra trước toà đang xử những tên Hồi giáo quá khích đã dùng rìu chặt đầu ba nữ sinh con gái các bà và đã nói những lời tha thứ cho bọn mặt người dạ thú nầy:”Chúa Giêsu dạy chúng tôi phải tha thứ và chúng tôi vâng lời Người mà tha cho các anh”.

Hãy đọc một đoạn trong cuốn:” Được bỏ lại để nói lên: Khám phá ra Thiên Chúa giữa Vụ diệt chủng Rwanda” (Nhà Xuất Bản Hay, 2006) của Immaculata Ilibagiza, cô gái có ông bà, cha mẹ và ba anh em trai trong số hơn 800.000 ngàn người thuộc bộ tộc Tutsi bị người bộ tộc Hutu thảm sát tại Rwanda trong vòng 100 ngày năm 1994 (mà nay Canada xin lỗi vì đã không ngăn chận thảm hoạ diệt chủng ấy):Bottom of Form “Trong con mắt của Thiên Chúa,những tên sát nhân nầy là thành viên trong gia đình của Người, đáng được yêu thương và tha thứ. Tôi biết tôi không thể xin Chúa yêu thương tôi,nếu như tôi không sẵn lòng yêu thương các con cái Người. Lúc ấy,tôi cầu nguyện cho những kẻ giết người, cho tội lỗi của chúng được tha thứ. Tôi cầu nguyện để xin Chúa dẫn dắt họ biết nhận ra sai lầm kinh khiếp trong các hành động của họ trước khi họ từ giả cõi đời  - trước khi họ bị gọi tính sổ về những tội nặng nề của họ.Tôi cầm chuỗi hạt mân côi của bố tôi và tôi xin Chúa giúp đỡ tôi và lần nữa tôi nghe tiếng Người nói: hãy tha thứ cho họ;họ không biết việc họ làm. Tôi đã bước một bước quyết định tới chỗ tha thứ cho những kẻ sát nhân. Cơn giận của tôi thoát khỏi người tôi – tôi đã mở lòng mình với Chúa và Người đã chạm đến con tim tôi với một tình yêu vô bờ. Lần đầu tiên, tôi thấy những kẻ sát nhân thật đáng thương. Tôi xin Chúa tha thứ cho tội lỗi của họ và hướng linh hồn họ về phía Ánh Sáng đẹp đẽ của Người”.

 Tất cả muốn nhắc nhủ tín hữu Công giáo rằng: điều kiện tiên quyết để yêu thương,chính là hoà giải và tha thứ. Hoà giải và tha thứ không chỉ giúp “chữa lành” (healing) người đi theo Chúa, mà còn cho những kẻ sống trong hân thù,mù quáng. Kẻ sát hại nữ tu người Ấn Độ,Rani Maria, ngày 25.02.1995 đã nhận ra lòng nhân từ và thứ tha của Chúa qua vị nữ tu thánh thiện nầy và đã ăn năn trở lại đạo (hãng tin AsiaNews số ra ngày 18.04.2010). Tình yêu,lòng yêu thương Phúc Âm không như con người muốn hướng nó theo ý mình,để biện hộ cho những suy nghĩ,lời nói và hành động của con người. Love story - chuyện tình - được khai thác quá nhiều và lệch lạc, nặng về tính chất  giật gân, “xì-căng-đan”, nhục dục, trao đổi “ú đi dì lại” đến nỗi trong các tiểu thuyết, thi ca, phim ảnh, khó lòng tìm thấy một cái nhìn tương đối nhân bản và đạo hạnh về tình yêu và những chuyện “ông ăn chả, bà ăn nem” là chuyện thường tình. Từ đó, ly dị, nạo phá thai, sống chung trước hoặc không cần hôn nhân, là hậu quả tất yếu.Tình yêu Thiên Chúa là tình yêu trao ban,tận hiến,quên mình và hy sinh. No suffering, no love (không có đau khổ,không có tình yêu), như lời Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI dạy, khi Người suy gẫm bài học ấy tại Lộ-Đức,từ Mẹ Maria: đau khổ vì phải từ bỏ ý riêng mình để đón nhận thánh ý Chúa; đau khổ vì phải từ bỏ những ích kỷ,hận thù,ganh ghét,và cả danh lợi, để tha thứ và yêu thương tha nhân,kẻ thù nghịch. Làm gì có loại tình yêu khai sinh và kết thúc trên Thanh Giá lại có nội dung và danh hiệu nào khác,ngoài ĐAU KHỔ. Tình yêu chỉ có thể là hoa trái của cây đau khổ.

 Kưm Sun,nhân vật truyện phim mà chúng ta đã phân tích, luôn thấy mình hạnh phúc,vững vàng đương đầu với những thử thách, vì biết những người thân luôn yêu thương và sẵn sàng hỗ trợ tinh thần cho mình. Cô không ngừng tự nhắc nhở mình:”Cố lên,Kưm Sun”, vì biết rõ những người thân luôn nói và làm với Cô:”Cố lên, Kưm Sun, chúng ta luôn ở bên con”. Và Kưm Sun đầy tin yêu,hy vọng,bao dung,biết ơn để tha thứ, để nghĩ về và thực hiện những điều tốt đẹp,đầy tình nhân ái. Mạch tình yêu sẽ chỉ phun trào những giòng nước tình hêu ngọt ngào, không thể bị ô nhiễm vì rác rưởi hận thù,nhỏ nhe, ích kỷ. Vẳng lên trong sâu thẳm tâm hồn tiếng Thầy Chí Thánh:”Cố lên, ơn Ta đã đủ cho con” (x Cor 12,9). Và chúng ta, Kitô hữu, cũng sẽ giúp nhau thêm lòng tin,thêm can đảm, khi chúng ta cũng nói với nhau:”Cố lên,người anh/chị em. Chúa luôn ở bên người anh/chị em. Giáo Hội luôn ở bên người anh/chị em. Chúng tôi luôn ở bên người anh/chị em”. NIỀM TIN  là thứ mà Satan và những thế lực xấu xa đang tìm mọi cách để xói mòn, phá đổ, làm tiêu tan trong lòng các tín hữu Công giáo đối với Giáo Hội, với Vị Đại Diện Chúa Kitô – Niềm Tin Yêu Hy Vọng Phục Sinh -, với các chủ chăn – giám mục,linh mục -, và với nhau. Vì thế, điều cần thiết nhất trong giai đoạn đầy thách thức,sóng gió nầy, là GIỮ VỮNG NIỀM TIN, cho mình và cho anh em. Và thứ vũ khí duy nhất – mà Satan và hoả ngục không thể có – là YÊU THƯƠNG.

 Giờ đây, chúng ta có thể bắt chước nhân vật Na Kưm Sun mà hô “ Cố lên, các tín hữu Công giáo”, “Cố lên,các Vị chủ chăn”, “Cố lên, các linh mục và tu sĩ”.  Điều đành động Đức hồng y Roger Etchagaray nhất,khi Ngài lần đầu sang thăm Việt Nam, là thấy các tín hữu Công giáo luôn hát ngợi ca cảm tạ tình yêu của Chúa, dù lời ca tiếng hát như tắc nghẹn và ngấn nước mắt. Dù nghẹn ngào, phải nuốt ngược nước mắt, để giữ vững NIỀM TIN cho nhau giữa bao nghi kỵ,cố tâm chia rẽ của kẻ thù Satan, chúng ta sẽ mãi hô lên:"Cố lên, các tín hữu Công giáo Việt Nam".Và đặc biệt, có một người đang rất cần đến tâm tình yêu mến, hiếu kính, trung thành,bênh vực và cầu nguyện của con cái khắp trên thế giới:”Cố lên,thưa Đức Thánh Cha”.

ĐƯỜNG TÌNH CHÚA DẪN CON ĐI 47

-----------------------------

 

PS 5-C66. Yêu thương

 

Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, tình yêu vốn là một đề tài được khai thác nhiều nhất.: PS 5-C66


Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, tình yêu vốn là một đề tài được khai thác nhiều nhất. Nào sách báo và phim ảnh; nào âm nhạc và tuồng kịch; nào truyền thanh và truyền hình…tất cả đều nói đến tình yêu. Tuy nhiên, nhiều khi tình yêu lại được nhìn từ một góc cạnh lệch lạc và què quặt, khiến cho tình yêu ngày hôm nay như đang đi trên bờ một vực thẳm với những sa đoạ trong nếp sống, những suy đồi trong luân lý và những đổ vỡ trong hôn nhân.

Thế nhưng, Chúa Giêsu đã đến và Ngài đã xác định cho chúng ta một lập trường rõ rệt, Ngài đòi hỏi nơi chúng ta một tình yêu chân thành dành cho Ngài cũng như dành cho tha nhân: Các con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình.

Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy: mặc dù tình yêu đang bị thui chột và tàn úa đi rất nhiều, nhưng không phải là không còn những tình yêu chân thành vá tốt đẹp. Tình yêu không chết, nhưng nó phát triển một cách âm thầm, không ồn ào, không rùm beng quảng cáo.

Đúng thế, ngày hôm nay vẫn còn có những người vì yêu thương mà hết năm này qua năm khác, hy sinh cả cuộc đời để chăm sóc cho những kẻ ốm đau. Ngày hôm nay vẫn còn có những người dâng hiến bản thân để làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.

Ngày hôm nay vẫn còn có những ông chồng, mặc dù đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, vẫn trung thành với người vợ bệnh tật và vẫn luôn chịu khó làm lụng để chăm sóc cho đàn con thơ dại. Ngày hôm nay vẫn còn những người vợ ân cần lo lắng cho chồng, cho con, mặc dù người chồng thì độc ác và con cái thì ngang bướng ngỗ nghịch.

Vậy đâu là suối nguồn mang lại sức mạnh nâng đỡ cho những tình yêu yêu cao đẹp ấy? Câu trả lời duy nhất, đó là sức mạnh và vẻ cao đẹp của tình yêu chỉ có thể xuất phát từ nơi Thiên Chúa, từ nơi Đức Kitô mà thôi.

Đúng thế, tình yêu cũng có cái gia phả, cũng có cái gốc gác và cội nguồn của nó. Nó xuất từ nơi Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn mạch mọi thương yêu, như lời thánh Gioan Tông Đồ đã xác quyết: Thiên Chúa là tình yêu. Rồi từ đó, vũ trụ vạn vật và nhất là con người đều là những dấu chỉ, những biểu hiện của một tình yêu bao la mà Ngài đã thực hiện mà thôi.

Hơn thế nữa, mặc dù biết trước con người sẽ phản bội, quay lưng chống lại Ngài, thế mà Ngài vẫn yêu thương và đi bước trước đến với chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ và thập giá, như lời thánh Gioan Tông đồ cũng đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Ngài đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài, để những ai tin vào danh Con Một Ngài thì sẽ được sống. Chính vì thế, Ngài có quyền đòi hỏi nơi chúng ta một tình yêu thương chân thành, bởi vì tình yêu chỉ có thể được đáp trả bằng tình yêu mà thôi.

Đồng thời Đức Kitô cũng đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu tuyệt vời nhất: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Đúng thế, Ngài đã đổ máu ra để cứu chuộc chúng ta, nhờ đó chúng ta được xoá bỏ bản án của tội nguyên tổ, lấy lại địa vị làm con cái Chúa. Kể từ nay, chúng ta là anh em một nhà vì có chung cùng một người cha là Thiên Chúa. Chính vì thế, Ngài đã truyền dạy: Phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình. Đồng thời, nhờ tình bác ái yêu thương đối với anh em, mà chúng ta trở nên người môn đệ đích thực của Chúa: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.

Như vậy, tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân chỉ là hai phương diện của một giới luật duy nhất, đó là giới luật yêu thương. Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta nơi những người anh em. Ngài hẹn gặp chúng ta nơi những kẻ bất hạnh và khổ đau, như lời Ngài đã phán: Tất cả những gì các con làm cho một trong số những kẻ bé mọn nhất, là các con đã làm cho chính Ta vậy. Thế nhưng, liệu chúng ta có thực sự tìm gặp Chúa nơi những người anh em của mình hay không?

-----------------------------

 

PS 5-C67. Yêu người như Chúa - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt Web

 

Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi mã lạp sơn để trình bày về tình: PS 5-C67 FB


Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi Mã Lạp Sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.

Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu.

Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ.

Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người”.

Nhận được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.

Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm vui lại trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.

Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến và phục vụ nhau.

Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của rõ nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa, loan báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.

Yêu thương nhau đó là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn các môn đệ của Người phải yêu như như Thiên Chúa đã yêu.

Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh em. Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn. Yêu như Thiên Chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.

Yêu như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội. Yêu như Thiên Chúa làm nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
2. Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong giáo xứ chưa?
3. Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?

-----------------------------

 

PS 5-C68. Ai yêu thương đều là Kitô hữu


(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta tiến lại gần một người, người ta vừa mang vào căn: PS 5-C68


Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta tiến lại gần một người, người ta vừa mang vào căn nhà dành cho những người hấp hối. Đó là một bà lão. Mình phủ đầy những mảnh giẻ rách, nước da đen đầy những vết thương hôi thối. Mẹ Têrêsa đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng người đàn bà đáng thương nầy đang hấp hối… có lẽ khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn là nên tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén xúp nóng và tràn đầy tình thương yêu.

Người đàn bàn đáng thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ Têrêsa bằng một giọng thều thào: “Tại sao bà lại làm như thế?”

Mẹ Têrêsa trả lời:

- “Bởi vì tôi rất yêu mến bà…”.

Một tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất tận đáy lòng đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã bắt đầu xuất hiện.

- Ôi, bà hãy nhắc lại một lần nữa đi!

- Tôi rất yêu mến bà, Mẹ Têrêsa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu dàng.

- Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà!

Người đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Têrêsa và kéo về phía bà ta, như muốn lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ tuyệt vời nhất trên cõi đời nầy…

Bằng chính tình yêu của mình, Mẹ Têrêsa đã làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta – “Yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương chúng ta” – Và đó cũng là điều răn mới của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu, trong nỗi bồi hồi xúc động của giây phút chia ly, đã dốc hết lòng mình với các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Lời di chúc của người sắp ra đi thật là trang trọng và thâm sâu! Trước đó, Thầy đã khẳng định đây là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!

Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.

Nhưng, thưa anh chị em, yêu thương nhau, đâu phải chỉ có kitô giáo mới giảng dạy. Văn hoá Á Đông đã từng nêu châm ngôi: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn biển là anh em. Đạo lý cha ông ta cũng đã răn dạy: thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng thương yêu rộng mở của người đối với người trong một xã hội.

Vậy thì giới răn yêu thương của Kitô giáo có đem đến cái gì mới mẻ hơn chăng?

Chỉ dựa vào lời di chúc của Chúa Giêsu trước giờ tử nạn, chúng ta đã tìm ra được nét độc đáo và đặc thù của tình yêu Kitô giáo. Đó là yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng thuộc về Chúa Giêsu.

Nét mới mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ: mẫu mực, thước đo tình yêu đối với tha nhân không còn là “tình anh em máu mủ”, cũng không còn là “bản thân mình” nữa. Mẫu mực, thước đo của tình yêu Kitô giáo là chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính mình, Ngài đã khéo so sánh: “Không ai có tình yêu lớn hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13).

Đó là bản đúc kết, là bản tóm tắt nội dung cuộc sống và cái chết của Đấng bị đóng đinh thập giá để nói lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết mọi người không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó phải là mẫu mực để chúng ta noi theo.

Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải yêu thương anh em, yêu thương người khác như chính Ngài đã yêu thương mọi người đến tột cùng, đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.

Chính tình yêu thương vô vị lợi, phổ quát, bao dung nầy sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc sống hằng ngày, không phải chúng ta không biết đến đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng là yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương họ. Chúng ta cũng vẫn được giảng dạy: Tình yêu là dấu chứng thuộc về Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến chỗ sống, luôn luôn vẫn có một khoảng cách: chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha nhân. Chúng ta vẫn muốn giới hạn tình yêu tha nhân trong một mức độ nào đó để khỏi phải quá thiệt thòi cho mình. Chúng ta vẫn muốn dựa vào tấm áo hay một danh xưng để xác định chúng ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám “liều mạng” để chỉ khẳng định chân tính Kitô hữu của mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật. Vì thế mà ngay đối với người bên cạnh, có thể là linh mục chánh hay phó xứ, có thể là một anh chị em trong cộng đoàn, có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi cái lý luận trần tục: người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại như thế ấy! Quan hệ của chúng ta với tha nhân còn mang nặng tính vụ lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì về niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình Yêu cả! Trái lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa, không làm cho ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi vì “người ta cứ dấu nầy mà nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau”. “Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau”. Vậy, ai không yêu thương nhau, người ấy không phải là Kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo. Thiên Chúa là tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Không yêu thương nhau là không biết Thiên Chúa, là chối đạo.


Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục làm chứng bằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng đọng để ân sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới răn mới và những khoảng cách xa vời trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới răn yêu thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy chúng ta.

-----------------------------

 

PS 5-C69. Chú giải của Noel Quesson

 

Từ đây cho đến hết Mùa Phục sinh, chúng ta sẽ đọc một số trích đoạn “cuộc nói chuyện cuối: PS 5-C69


Từ đây cho đến hết Mùa Phục sinh, chúng ta sẽ đọc một số trích đoạn “cuộc nói chuyện cuối cùng của Đức Giêsu” vào chiều Thứ Năm Thánh, hôm trước ngày Người "ra đi": đó là di chúc tinh thần của Ngài.

Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói

Ta có cảm tưởng rằng, Đức Giêsu được tự do, Người có thể bắt đầu bày tỏ một số tâm sự... như thể sự hiện diện của kẻ phản nộp đã bít cứng cổ họng Người, khiến không có dịp thốt nên lời.

Khi chúng ta nghĩ đến những nỗi cô đơn thương đau, những khó khăn trong mối quan hệ, những tình trạng chặn nghẽn tâm lý, đôi khi ngăn cản chúng ta không thể nói hết những gì' cần phải diễn tả... lúc đó ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì trong thân phận con người, Người đã thấu cảm những tình huống đau thương như thế.

Khi chúng ta chịu đựng những xung đột giữa người đời, trong các nhóm, những chống đối và hiểu lầm... chúng ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì Người cũng đã chịu đựng những điều như thế. Chiều hôm đó, bầu khí trong nhóm đang tụ tập chung quanh bàn ăn với Người, trở nên bi thiết: một người trong họ vừa bước ra ngoài... để phản bội nhóm. Đó là thái độ quá quắt của kẻ "không có, tình yêu”: tố cáo bạn hữu, ruồng bỏ một người mà mình đã trải qua nhiều năm tháng kết tình kết nghĩa.

Đức Giêsu không phải là không có khả năng thông cảm mọi khó khăn của ta. Người đã sống những khốn khó đó.

Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.

Đức Giêsu luôn hoàn toàn thanh thản. Trong tình trạng nguy kịch phải đường đau, Người vẫn giữ được một sự bình an siêu phàm. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự bình an đó.

Sự bình an của Đức Giêsu được diễn tả trong một câu nằm giữa hai phó từ: giờ đây... sắp sửa. Những động từ ở đầu câu thuộc thời hiện tại (nhằm diễn tả một tình trạng bất định theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là thời gian của "các vật chưa hoàn tất"), và những động từ ở cuối câu thuộc thời tương lai. Toàn thể một thái độ tinh than tiềm ẩn đằng sau cấu trúc ngôn ngữ trên. Trong giây phút hiện tại, giây phút đầu tiên của cuộc Thụ Khổ mà Giua đã mở ra… Đức Giêsu đã nghĩ đến kết quả của tiến trình sắp được thể hiện qua biến cố Phục sinh. Như thế, niềm hy vọng đã giúp ta cảm thấy trước những gì vẫn còn ở trong tương lai! "Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta" (Rm 8,18). Cũng như Đức Giêsu, ngay từ bây giờ, giữa đau khổ hiện tại, tôi có thể đã nếm cảm được thứ hạnh phúc vô biên đó, sẽ được thể hiện cách trọn vẹn, mãi mãi nhưng muộn hơn, sau này.

Giờ đây, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.

Chúng ta trở lại mạc khải đáng ngạc nhiên trên đây, khiến ta có dịp bước sâu vào "nội tâm của Đức Giêsu. Tiến trình cuộc Thương khó vừa mới được mở ra, do thái độ bước ra ngoài của "kẻ trao nộp Đức Giêsu”. Do đó, ngay tức khắc, đối với Đức Giêsu, vinh quang của Người đã hiện ra rồi! Đó là sự thực. Thật là khó khăn chúng ta mới tin được rằng, thập giá đã là vinh quang của Đức Giêsu. Chúng ta có khuynh hướng dễ khóc thương trong Ngày Thứ Năm, Thứ Sáu Thánh dù rằng ngay sau đó phải vội bỏ qua để sống niềm vui rộn rã của Chúa nhật Phục sinh. Thế nhưng, chính "Đấng chịu đóng đinh" đã được tôn vinh và làm vinh quang Thiên Chúa? Đến khi nào ta mới hết coi thập giá như một vật ghê tởm, cần phải tìm hết cách thủ tiêu? Thực sự, nhìn theo quan điểm của Đức Giêsu, thập giá của Người, chính là vinh quang của Người? "Không có tình yêu nào lớn hơn" (Ga 15,13). Tuy nhiên, kẻ yêu thương, theo kinh nghiệm, luôn biết rằng, tình yêu thương dẫn đến hy sinh bản thân cho người mình yêu mến. Còn kẻ chỉ biết yêu bản thân mình, sẽ không thể hiểu được.

Bạn có muốn biết mình thương yêu người nào không?

Bạn hãy tự hỏi xem bạn có thể hiến thân mình cho họ vì yêu thương không. Nhưng coi chừng, một giọng nói lừa đảo của thế giới hiện đại sẽ trấn an bên tai bạn rằng, hiến thân như thế là lầm to, bạn sẽ thành nạn nhân, sẽ mất nhân vị, bạn phải nghĩ đến mình một chút; để cho đời thêm tươi.

Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi

Đó là những lời đầy âu yếm, những lời nói của người mẹ. Trong tất cả các Tin Mừng, đây là lần duy nhất Đức Giêsu dùng kiểu xưng hô: “Hỡi các con bé nhỏ của Thầy…”

Đức Giêsu phải ra đi. Người biết rõ điều đó. Người đã phát biểu thành lời. Nhưng thật đáng tiếc, Sách Bài đọc đã cắt bỏ một câu như sau: ‘Anh em sẽ tìm kiếm Thầy, nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: Nơi tôi đi, các ngươi không thể đến được’, bây giờ Thầy cũng nói với anh em như vậy”. Thế giới ngày nay đang đặt nặng vấn đề sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa. Đức Giêsu biết rằng, buổi chiều mà Người đang sống với các bạn hữu của mình là buổi chiều cuối cùng. Người sắp để họ ở lại một mình, không có sự hiện diện của Người cách hữu hình, nhân loại, cụ thể... nhưng rất hữu ích? Sẽ có thời gian vắng mặt. Nhưng rõ ràng, Đức Giêsu muốn nói lên điều gì về vấn đề này. Chúng ta hãy lắng nghe tiếp.

Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau

Đức Giêsu phải ra đi. Nhưng Ngài loan báo cách hiện diện mới mẻ của Ngài. "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23). Và thánh Gioan quảng diễn như sau: "Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta" (1 Ga 4,12).

Vâng, tình yêu đích thực là một "sự hiện diện thực sự” của Thiên Chúa. "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ". Đức Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu nguyện (Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn, cho mặc, viếng thăm, săn sóc) cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là “các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Đức Giêsu luôn hiện diện trong mọi người đang cần đến tôi và tôi đang phục vụ (Mt 25,31-46).

Nếu thực là thế! Nếu thực là "Thiên Chúa đã chết", thì sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại chỉ là hiện tượng tình yêu đã chết". Nhưng hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện đại không ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những làn phát sóng, trong mọi thứ quảng cáo. Người ta chỉ bàn luận, chỉ ca ngợi "tình yêu”. Nhưng là thứ tình yêu nào chứ? Éros hay Agapè, "tình yêu bản thân" hay "tình yêu kẻ khác"? tình yêu là từ hàm hồ nhất, giả dối nhất. Khi bạn nói: "Tôi thích kẹo cao su!”… bạn có thích nó thực sự hay bạn tiêu huỷ nó nhằm lợi ích cho bạn? Khi bạn yêu một người nào đó, bạn có yêu họ theo cách đó... nghĩa là chỉ vì bạn hay vì họ? Ngôn ngữ Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác biệt nhau để diễn tả hai thực tại yêu thương đối nghịch nhau:

-Éros: Yêu mình... đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến huỷ hoại họ.

-Agapé: Yêu tha nhân... đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác.

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.

Chỉ một từ “như” đơn giản... nhưng đã vạch trần mọi hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp đi lặp lại.

Yêu như Đức Giêsu! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em mình, một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó là việc Đức Giêsu vừa làm. Yêu như Đức Giêsu! Đó là "hiến mạng sống cho kẻ mình yêu thương" (Ga 10,11-15,13). Đó là điều Người sáp thực hiện, vào ngày mai, trên thập giá.

Đức Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: "Việc cha yêu con, đâu phải trò đùa". Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã dẫn Người đến thái độ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình.

Để yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong chính sự "khác biệt" của họ, chúng ta cần từ bỏ quan niệm coi mình là trung tâm mọi giá trị. Đối với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Đức Giêsu chấp nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi yêu thương họ, trong cả khả năng thụ tạo nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, "kẻ khác" đã chiếm hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở nên một địch thù với tôi, và kết án tử hình tôi!

Đối với Đức Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp đi lặp lại cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu thương. Thế mà, Đức Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới mẻ. Phải, yêu như Đức Giêsu hẳn là phải rất độc đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới. Người ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn tới.

Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau

Chỉ có ba dòng Tin Mừng, mà Đức Giêsu đã ba lần lặp lại điệp khúc: Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ đó, Người đã gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau, khiến chúng ta phải yêu thương.

1. Đó là lệnh truyền của Đức Giêsu: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới".

2. Đó là gương mẫu của Đức Giêsu: "Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

3. Sau cùng, đó là dấu chỉ Đức Giêsu: "Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu...".

Như thế, Đức Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp tục sứ vụ của Người, lúc Người rời bỏ thế gian. Tình yêu huynh hệ là "thể thức" thực sự, giúp Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng "Thời gian cuối cùng", mở đầu bằng cài chết của Người. Gioan đã không thuật lại việc lập phép Thánh Thể, như ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc rửa chân " và trao ban "giới răn mới quan trọng" như thể dưới mắt ông, Tình yêu là một tái diễn sự Hiện Diện đích thực của- Đức Kitô, cũng thực sự và hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình., của Bí tích Thánh Thể. Nhằm bổ sung những gì mà các thánh sử khác không nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn". Theo thánh Mát-thêu, Máccô và Luca, Đức Giêsu nói: "Này là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ đổ ra". Còn theo Gioan, Đức Giêsu đã nói: "Thầy rửa chân cho anh em, Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Nhưng, đó cũng chính là “sự hiện diện" có tình nghi thức và thực sự. Có một điều gì đó chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận ra môn đệ Đức Giêsu không chỉ là Thánh lễ. "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau".

Nhờ những điều kiện nào, để người ngoài Kitô giáo có thể đọc được dấu chỉ này? Làm sao dấu chỉ này chỉ dành riêng cho những giây phút các Kitô hữu quy tụ giữa bốn bức tường của Giáo hội? Chắc chắn Đức Giêsu đã nói đến một dấu chỉ được trao gởi trong đời thường: đó là dấu chỉ duy nhất mà "mọi người" có thể nhìn thấy. Trong những điều kiện đó, chúng tá của Kitô hữu chỉ có thể được nhận biết nếu chúng ta quan tâm đến những trách nhiệm lớn lao của thế giới hiện nay: công lý, hoà bình, đói khổ, phẩm giá con người. Bí tích Thánh Thể sẽ "dẫn" chúng ta tới phố xá, các văn phòng làm việc, những nẻo đường đời, tới trường lớp và đại học ta đang theo đuổi tới mọi nơi ta đang phục vụ".

-----------------------------

 

PS 5-C70. Suy niệm của nhóm Nha Trang


“Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy thương yêu nhau”.

BÀI TIN MỪNG

I. Ý CHÍNH:

 

Bài Tin Mừng hôm nay là một đoạn được trích trong bài Từ Biệt của Chúa Giêsu, nói về: PS 5-C70


Bài Tin Mừng hôm nay là một đoạn được trích trong bài Từ Biệt của Chúa Giêsu, nói về việc Chúa Giêsu ban cho các môn đệ giới luật mới, luật yêu thương nhau.

II. SUY NIỆM:

1. “Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc”:

Có lẽ Giuđa ra khỏi phòng tiệc sau lúc rửa chân và trước lúc thiết lập Bí tích Thánh Thể. Chính lúc này Chúa Giêsu mới có thể nói một cách cởi mở về số phận của Người và đồng thời trăn trối những điều quan trọng cho các môn đệ.

2. “Bây giờ Con Người được vinh hiển”:

• “Bây giờ” diễn tả ý nghĩa vào chính lúc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Chính hành vi Giuđa bước ra khỏi phòng tiệc là cử chỉ nói lên việc Giuđa quyết định phản nộp Thầy mình, chính lúc đó Chúa Giêsu coi như là khởi sự cuộc khổ nạn của Người.

• “Con người được vinh hiển”: Chúa Giêsu coi việc Người chịu chết trên Thánh Giá như một chiến thắng: chiến thắng Satan. Và vì vậy Người cho biết Người sẽ bước lên Thập giá trong tư thế một kẻ chinh phục (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34). Và như vậy, cho đến khi ấy, đời Chúa Giêsu chỉ là một sự chuẩn bị, “Bây giờ” mới là lúc bắt đầu thảm kịch cứu rỗi.

• “Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người”:

Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng cách “Vâng lời cho đến chết và chết trên cây Thập giá” (Ga 4,34; 17,4).

3. “Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người”:

Nếu Chúa Giêsu làm vinh hiển Thiên Chúa Cha bằng cái chết của Người trên Thập giá, thì đáp lại, Chúa Cha sẽ ban cho Người vinh hiển sau khi Người chịu nạn chịu chết, bằng cách cho bản tính loài người chịu đau khổ của Người được thông phần vinh quang rực rỡ bản tính của Thiên Chúa.

4. “Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con …”:

Vì sắp phải lìa xa các môn đệ, nên Chúa Giêsu đã tỏ ra cho các ông biết cuộc biệt ly tạm thời này bằng những lời lẽ rất thân thiết.

Kiểu nói “các con yêu quý” diễn tả một tâm tình thắm thiết đầy tình thương yêu của Chúa Giêsu đối với các môn đệ của Người.

5. “Thầy ban cho các con điều răn mới …”:

Đây là ý muốn của Chúa Giêsu tỏ bày cho các môn đệ trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu nói những lời này trong tư thế của một sư phụ nói lời trăn trối trước khi ra đi (Mt 24, 45-51) và trong tư thế một Người Cha hằng lo lắng bảo đảm hạnh phúc cho con cái mà ông sắp từ giã. Nếu các môn đệ thực hiện thì luật yêu thương này sẽ đền bù cho các ông sự mất mát không còn được thấy Thầy cách khả giác nữa và làm cho các ông xứng đáng gặp lại Người.

“Điều răn mới”: Chúa Giêsu muốn so sánh với luật tự nhiên mà Môisen đã thừa nhận khi dạy phải yêu thương tha nhân như chính mình (Lv 19,18). Nhưng tình yêu tha nhân theo luật này có tính cách tiêu cực vì chỉ nhằm tránh những gì có thể gây ra thù oán hoặc nếu có hành động tích cực thì lại mang tính cách vụ lợi: làm cho tha nhân những điều mình muốn thôi. Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần sửa lại luật này cho hoàn hảo hơn: “Xưa … nhưng nay Ta bảo …” (Mt 7,12; 19,9; 22,39-40).

6. “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau”:

Với luật mới này, Chúa Giêsu còn thêm nhiều điều trong những đòi hỏi của tình bác ái huynh đệ: yêu tha nhân như chính mình chưa đủ, người môn đệ cần phải yêu thương tha nhân như chính Đức Kitô đã thương yêu họ, mà tình yêu Chúa Giêsu đối với chúng ta là ân cần, tận tâm, vô vị lợi (Ga 13,13-16; 15,16-19; Rm 15,13). Người đã hiến thân mình cho nhân loại đến cùng, nghĩa là cho đến chết (Ga 13,1; 15,12-14). Thánh Gioan đã ghi rõ ràng: “Chính điều này mà Ta nhận ra được lòng yêu mến: Là Đấng ấy (Đức Kitô) đã thí mạng mình vì chúng ta, nên ta cũng phải thí mạng mình vì anh em (1 Ga 3,16).

7. “Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy”:

Bác ái của người môn đệ Chúa Giêsu theo luật mới này phải có tính cách cụ thể, rõ ràng đến nỗi tự nó cho thấy họ là môn đệ của Chúa Giêsu ngay cả đối với những người chưa biết gì về Ki-tô Giáo (Ga 14,31; 17,21; 1Ga 2,7-11; 20,21).

Luật yêu tha nhân theo kiểu Chúa Giêsu đã yêu nhân loại là luật riêng của Chúa, nên cứ dấu đó mà người ta nhận ra môn đệ chân chính của Người. Và như vậy, tình yêu tha nhân được truyền dạy chỉ có thể được thực hiện giữa những người tin vào Chúa Giêsu Ki-tô. Đó là tính cách mới mẻ của luật mới này.

III. ÁP DỤNG:

A. Ap dụng theo Tin Mừng:

Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng hôm nay để nhắc nhở chúng ta về luật yêu thương nhau và đồng thời và đồng thời cũng gây cho chúng ta ý thức về bổn phận phải yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, để nhờ đó chúng ta xứng đáng với danh nghĩa người Ki-tô hữu, môn đệ của Chúa Kitô.

B. Áp dụng thực hành:

Nghe lời Chúa phán:

1/ Bây giờ con Người được vinh hiển: Chúa Giêsu được vinh hiển nhờ chiến thắng Satan bằng Thập Giá qua những hy sinh, hãm mình và chết đi cho tội lỗi trong đời sống hằng ngày.

2/ Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người: Chúa Giêsu làm vinh danh Thiên Chúa Cha bằng sự vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá. Chúa muốn mời gọi chúng ta noi theo người làm vinh danh Thiên Chúa bằng cách vâng theo ý Chúa trong mọi việc mình làm, tức là làm mọi việc và chịu đựng mọi sự vì lòng mến Chúa.

3/ Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình.

càng làm vinh danh Chúa, càng được công phúc trước mặt Chúa và càng được hy vọng vinh hiển với Chúa trong Nước-Trời.

4/ “thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau”. Mỗi lần chúng ta đọc lời này là mỗi lần Chúa nhắc chúng ta nhớ lại luật yêu thương nhau, nhưng sự yêu thương của chúng ta vẫn còn tính cách ích kỷ vì chỉ yêu theo sở thích và được mối lợi cho riêng mình. vì thế Chúa bảo ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, một tình yêu hướng tha và vô vị lợi.

Cần chiêm ngắm và suy niệm cuộc đời Chúa Cứu Thế để khám phá ra cách thể Chúa yêu thương chúng ta và nhờ đó chúng ta biết yêu thương nhau cũng theo cách thể như vậy.

5/ Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau. Muốn nhập đoàn quân nào phải đeo phù hiệu binh chủng đó. gia nhập đoàn quân của Chúa Kitô thì phải đeo phù hiệu của Chúa. phù hiệu của Chúa Kitô là yêu thương nhau.

Đồng phục của người Ki-tô hữu là bác ái.

-----------------------------

 

PS 5-C71. YÊU EM ANH ĐỂ TRONG LÒNG …


bài đã viết ngày 06.05.2007

 

Năm ngoái bay tới New York, tôi được một người bạn đưa đi thăm mấy bảo tàng viện.  Ðến khu: PS 5-C71


Năm ngoái bay tới New York, tôi được một người bạn đưa đi thăm mấy bảo tàng viện.  Ðến khu trình bày các cổ vật miền Á châu, tôi cảm thấy như đi vào miền đất quen thuộc. Tới khu Việt nam, tôi càng cảm thấy lòng mình như ấm lại.  Nhưng càng đi sâu vào nghệ thuật, tôi càng xa lạ với những điều anh bạn thao thao bất tuyệt giải thích.  Tôi không có kiến thức về nhân chủng và khảo cổ học.  Cái nhìn của tôi chỉ phớt qua trên mặt những cổ vật.  Bao nhiêu nền văn minh nấp sau những báu vật đó không tỏa chút ánh sáng nào vào tâm trí tôi.  Cổ vật trở thành vô nghĩa, vô hồn và không chút giá trị gì đối với một người “dốt đặc cán mai” như tôi. 

ÐIỀU RĂN MỚI 

Giới răn tình thương cũng chịu một số phận tương tự.  Chúng ta đã nói về đức ái rất hay, nhưng có lẽ vẫn chưa hiểu hết ngọn nguồn sâu xa của đức ái.  Có lẽ khi nghe Chúa công bố “điều răn mới,” một vài môn đệ hời hợt có thể có những nhận định tương tự như tôi trước cổ vật. Họ có lý khi thấy chẳng có gì mới nơi điều răn của Thày.  Nói khác, họ chẳng thấy có giá trị nào đặc biệt nơi những điều Thày vừa trình bày.  Họ đã nghe nhàm tai giới răn thương yêu.  Từ Ngũ Kinh đến các ngôn sứ, họ đã thấy nhai đi nhai lại điều răn đó.  Vậy thì mới ở chỗ nào ?

Trước hết, giữa giới răn thương yêu và vinh quang Ðức Kitô bên Chúa Cha có một mối liên kết.  Tình yêu là phản ảnh Ðức Kitô vinh quang, Ðấng mang đến cho toàn thể vũ trụ một cái nhìn đặc biệt về tình yêu.  Người trở thành con đường để con người đi lên với Thiên Chúa và Thiên Chúa xuống với con người.  Tất cả sứ mệnh của Người có thể tóm gọn trong lời ngôn sứ Isaia 61:1-2: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4:18-19)   Khi xuống trần gian, Ðức Giêsu nhắm làm vinh danh Thiên Chúa Cha.  Vinh quang Thiên Chúa là con người được hạnh phúc. Vinh quang chỉ đến khi con người thực sự trở thành con người.  Chính vì thế, Người quyết tâm hồi phục địa vị cao cả của con người trên vũ trụ. 

Hơn nữa, tình yêu đưa con người vào cảnh “trời mới đất mới.”  Nơi đó Thiên Chúa và dân Người hiệp nhất trong một tình yêu tuyệt vời.  Ðây là  một thời gian vui tươi và hạnh phúc vô tận.  Cảnh tượng này thực sự phản ánh một lối nhìn về sự hoàn thành thời đại cánh chung mới, đã khai trương nơi cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.  Khi vùng dậy từ cõi chết, Người hoàn toàn thay đổi các mãnh lực của trời đất.  Tình yêu  thay đổi hoàn toàn vạn vật.  Bởi đấy, Người căn dặn môn đệ: “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em.” (Ga 13:34)  Ở đây, Người cố ý nói tới agape, một thứ tình yêu đòi hỏi phải hoàn toàn tín thác và trông cậy.  Ðó chính là tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, một tình yêu gương mẫu cho chúng ta yêu tha nhân.  Khi xét đến những đòi hỏi của tình yêu này, chúng ta mới thấy mức độ cách mạng của giới răn thương yêu như thế nào và nó đòi phải thay đổi thái độ tới mức nào.

Sau cùng, đức ái phải luôn đi kèm với công lý.  Dù hết sức tìm cách giải cứu người phụ nữ ngoại tình, Ðức Giêsu không bao giờ bao che tội lỗi cho cô.  Nếu hôm đó, Chúa chỉ nghĩ đến việc thực thi đức ái hay tỏ lòng từ bi mà thôi, chắc chắn công lý đã bị coi thường.  Cô sẽ trở về tiếp tục cuộc sống ô nhục.  Phẩm giá không được phục hồi.  May mắn thay Chúa đã nghiêm chỉnh đòi hỏi công lý nơi chính cô khi nói: “Cô hãy về và đừng phạm tội nữa.”   Nhờ đó, Chúa đã tạo được sự quân bình và nền tảng cho đức ái.  Nói khác, Chúa đòi hỏi cô phải giữ nhân đức “công bình xã hội.” Ðây là một nhân đức  cá nhân, chứ không phải là đặc tính của những hệ thống xã hội, như người Do thái hay hầu hết mọi người vẫn tưởng.  Người Do thái gào thét đòi ném đá cô để thực thi công bình xã hội như luật Môsê đòi hỏi.  Họ xử dụng “công bình xã hội” như một nguyên tắc quy định trật tự xã hội.  Họ chú trọng tới quyền lực, chứ không phải nhân đức.[1]  

Không có công lý, đức ái dễ khiến con người mù quáng.  Rõ ràng tình yêu phải đi kèm với công lý.  Nếu không, bác ái có thể tiếp tay với chế độ trù dập con người.  Chính công lý đã vực cô dậy.  Ðức ái phải đi kèm công lý mới trả lại phẩm giá cho con người.   Khác hẳn Chúa, đa số ngày nay Kitô hữu chỉ lo làm việc bác ái, bất kể công lý.  Không có điều kiện công lý đi kèm, hoạt động bác ái chỉ lấp đầy bao tử, bất chấp tiếng gào thét của lương tâm.  Ðó là lý do tại sao con người vẫn không ngóc đầu lên làm người được ! Con người có gì khác con vật ?!

Nhưng địa vị con người cao cả hơn vũ trụ.  Theo thánh Phaolô, con người là Ðền Thờ Thiên Chúa.  Khi vào Ðền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu đã đánh đuổi con buôn như biểu lộ sự quyết liệt tranh đấu chống lại bất công đối với Ðền thờ Thiên Chúa hay con người.  Ðó là một việc làm vô cùng ý nghĩa không phải chỉ cho thân xác Người, nhưng cho cả phẩm giá con người nữa .  Sự giận dữ của Người cũng bắt nguồn từ một loại tình yêu – tình yêu đối với Chúa Cha và với Nhà Cha.  Khi sự thánh thiện và uy nghi của Chúa Cha hay Nhà Cha bị đe dọa hay coi thường, chắc chắn Ðức Giêsu phản ứng mãnh liệt.  Thái độ nhiệt tình đối với Ðền Thờ Thiên Chúa đã làm hao mòn thân xác Người.    Sở dĩ phải tỏ thái độ quyết liệt, vì Người muốn tranh đấu để tái lập sự công bình và phục hồi giá trị đích thực cho Ðền Thờ.  Chúng ta có thể thấy tất cả nỗ lực giành lại công lý cho Thiên Chúa và con người nơi Ðức Giêsu ở đây. 


NƯỚC THIÊN CHÚA 

Kitô hữu được kêu gọi xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian.  Sứ mệnh cao cả không thể hoàn thành, nếu họ không biết Nước Thiên Chúa là gì.  Thánh Phaolô xác định rất rõ: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17)   Trong thực tế, chúng ta làm ngược lại.  Những việc bác ái, đóng góp từ xưa tới nay xoay quanh vấn đề gì ?  Từ trong nước đến hải ngoại, chúng ta thi đua nhau  đóng góp cho chuyện ăn chuyện uống chuyện xây nhà thờ, xây tòa giám mục v.v., chứ không hề băn khoăn về “sự công chính” một chút nào cả.  Có những tòa giám mục sang trọng như ốc đảo trù phú xa hoa giữa một đại dương nghèo đói, tràn ngập các nạn nhân của chế độ bất công.

Thay vì trở thành những trung tâm rao giảng Tin Mừng, nhiều nhà thờ và cơ sở giáo hội hôm nay đang phát ra những phản chứng.   Làm sao những giá trị Tin Mừng có thể xâm nhập vào văn hóa và xã hội từ những phản chứng đó ?!  Lỗi đó tại ai ?  Kitô hữu có thể phủi tay trước tình trạng tha hóa đó của dân tộc không ?   Không phải chỉ có những việc xấu xa đã gây nên nông nỗi.  Nhưng nếu không kèm theo công lý, ngay cả việc tốt, như công cuộc bác ái, cũng có thể gây những hậu quả xấu khôn lường. 

Từ nay, bác ái phải có điều kiện.  Ðiều kiện đây là “công bình xã hội.”  Chắc chắn có người phản hồi: bác ái có điều kiện không còn phải là bác ái nữa.  Thực ra, điều kiện kèm theo đó không đánh mất bản chất công cuộc bác ái, vì nhằm đem lại lợi ích cho chính những người nghèo.  Không có điều kiện đó, việc bác ái trở thành vô ích và không thể nâng người nghèo trỗi dậy.

Trước hết, cần phải hiểu đúng nhân đức “công bình xã hội.” “Công bình xã hội cần phải chiếm địa vị ưu tiên trong sự quan tâm của mọi người.  “Nếu hiểu đúng nghĩa, “công bình xã hội” là một nhân đức đặc biệt có tính “xã hội” theo hai chiều hướng.  Thứ nhất, “công bình xã hội” đòi phải có tài đưa ra sáng kiến, hợp tác và quy tụ người khác thành tổ chức để hoàn thành tác vụ công bình.  Hoạt động này đòi phải được thực hiện với người khác.  Ðó là lý do tại sao nó được gọi là một loại đặc biệt của đức công bình.  Thứ hai, “công bình xã hội” luôn nhắm tới công ích, chứ không nhắm lợi ích của một tác nhân mà thôi.  Nhân đức công bình có tính “xã hội”, vì mục tiêu đầu tiên nhằm giúp đỡ tha nhân.”[2]

Bất cứ một sự trợ giúp nào cũng phải nhằm xây dựng một xã hội công bình.  Một xã hội đầy dẫy bất công làm sao tạo nên sự công chính cần thiết cho việc xây dựng Nước Trời ?  Chúng ta vẫn kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ chỉ giao thương với Việt nam nếu chấm dứt cảnh đàn áp bất công và vi phạm nhân quyền.  Nhưng chính chúng ta lại tiếp tục gởi tiền về giúp đỡ Việt nam một cách vô tội vạ, không cần biết đồng tiền đi tới đâu và làm những gì.  Có thể nhiều người nhân danh sự nghèo đói và người nghèo để khai thác bất chính.  Nhiều khi chúng ta “giao trứng cho ác” mà không hay biết.

Ðã có những trường hợp bị lừa đảo. Sau khi đi một vòng khắp các cộng đoàn Việt nam ở Hoa kỳ xin tiền trợ giúp đồng bào nghèo hay xây nhà thờ, có những giáo sĩ sắm những xe hơi đời mới hay những biệt thự lộng lẫy.  Tuy vậy, không nên vì những cá nhân lạm dụng đó mà chúng ta dẹp bỏ việc bác ái đối với đồng bào. 

Từ trước tới nay, chúng ta làm việc bác ái một cách vô tổ chức.  Tất cả đều tùy thuộc vào tình cảm hay niềm tin vào một người hay một tổ chức bác ái v.v.  Ðã đến lúc chúng ta cần sát cánh để tạo một sức mạnh thực sự giải phóng dân tộc khỏi ách lầm than, nghèo đói.  Không những cần tổ chức quy mô để tránh lạm dụng, lãng phí, mà còn giúp ích cho nhiều người một cách hữu hiệu hơn.  Hơn nữa, còn phải có một tầm nhìn để khám phá những nhu cầu thực sự của những người nghèo. 

Từ nay, thay vì giao tiền cho một người trợ giúp người nghèo, chúng ta hãy cố gắng mở ra những quỹ tín dụng giúp vốn và kỹ thuật cho người nghèo tự nuôi thân.  Nói khác, giúp cho họ có cần câu và kỹ thuật câu còn quan trọng và cần thiết hơn cung cấp những con cá qua bữa.  Mỗi giáo xứ hay mỗi nhà dòng ở Việt nam có thể trở thành những nơi cung cấp vốn cho những người nghèo, bất phân lương giáo.  Quỹ tín dụng được xây dựng trên niềm tin.  Còn chỗ nào đáng tin bằng Nhà Chúa ?  Nhà Chúa không đồng nghĩa với nhà xứ hay nhà dòng. Nhà Chúa phải theo đúng tiêu chuẩn Tin Mừng và chiều hướng Giáo Hội.  Bởi thế, cần có những cơ quan giám sát để kiểm tra con người và cơ sở trước khi giao phó công cuộc tín dụng đó.  Ngay cả trong khi hoạt động vẫn cần đến sự kiểm soát này.  Về vấn đề này, các chuyên viên ngân hàng nên tình nguyện tham gia giúp đỡ cộng đồng trong công cuộc bác ái theo chiều hướng mới.

Nhưng trên hết vẫn là việc nâng cao ý thức giáo dân về công lý.  Cho tới nay, hầu như người Công giáo không hay biết gì về học thuyết xã hội của Giáo hội.  Ðó là một thiếu sót rất lớn.  Kitô giáo là một Ðạo nhập thể.  Theo Ðức Kitô, không thể không dấn thân.  Nếu chỉ thỏa mãn với những giáo lý về bí tích, phụng vụ và những tổ chức đình đám trong khuôn viên nhà thờ, chắc chắn Kitô hữu vẫn còn “nhốt” Chúa ở trên trời.  Sống đạo như thế là sống nửa vời.  Không thể yên lương tâm với lối sống đạo như thế.

Khi thấy được bản chất Nước Thiên Chúa, người Công giáo không thể ngồi yên nhìn cảnh bất công đang xảy ra dầy dẫy chung quanh.  Không có công bình cũng chẳng có bác ái thực sự.  Ý thức về công bình sẽ mở rộng tầm nhìn của Kitô hữu về trách nhiệm và quyền lợi của một người công dân trong nước trần gian và Nước Chúa.  Ðó là điều kiện căn bản để bảo đảm công ích.  Trước tiên, muốn “nhìn nhận và tôn trọng nhân phẩm phải bênh vực và cổ động nhân quyền cơ bản và bất khả nhượng.”[3]  Nhân quyền không chỉ có ngoài xã hội.  Ngay cả trong Giáo hội, nhân quyền cũng phải được quyền bính tôn trọng.  Nếu không, xã hội cũng như Giáo hội không thể đạt tới công ích.  Ðừng tưởng kế hoạch ngũ niên hay những phương tiện sản xuất sẽ quyết định sự thành công.  Yếu tố chính vẫn là con người.

Ðúng như Chúa nói: “Con người sinh ra không phải vì lề luật,” cơ chế, hay tổ chức.  Nhưng tất cả đều phải phục vụ con người.  Bởi thế, công bình xã hội cũng phải lấy con người làm gốc.  Không gì có thể thay thế con người.   Thực tế, “ngoài đời chủ trương công bình xã hội không đòi những con người nhân đức, chỉ cần có những chương trình hoàn hảo.  Theo Giáo hội, công bình xã hội là nhân đức cá nhân; ngoài đời cho rằng công bình xã hội là một thành quả chính trị.  Giáo hội tin con người lương thiện sẽ làm cho chương trình xã hội tốt đẹp;  ngoài đời tin rằng những chương trình xã hội tốt đẹp sẽ làm cho con người lương thiện.  Giáo hội và ngoài đời  có rất ít điểm giống nhau về công bình xã hội.”[4]  Nếu cứ tiếp tục chà đạp nhân phẩm hay không tôn trọng nhân quyền, tất cả mọi guồng máy, tổ chức, cơ chế sẽ nếm mùi thất bại thê thảm. 

Bởi vậy, không những phải nhìn nhận quyền làm người, nhưng còn phải lo đào luyện cho con người có nhân đức.  Nhân đức đó trước tiên là công bình xã hội.  Thật vậy, “công bình xã hội là một nhân đức, một thuộc tính của các cá nhân.  Nếu không, đó chỉ là một sự dối trá.  Nếu Tocqueville có lý khi nói ‘nguyên tắc liên đới là luật lệ đầu tiên của nền dân chủ,’ thì công bình xã hội là đức tính đầu tiên của dân chủ, vì người ta thường thực hành nguyên tắc liên kết như thế trong cuộc sống hằng ngày.”[5]  Chính vì thiếu đức tính căn bản đó, nên xã hội Việt nam đầy dẫy những con người thiếu khả năng xây dựng dân chủ.  Cuối cùng, con người mất hạnh phúc.  Tự do chỉ còn là cái bánh vẽ.  Nhân quyền trở thành ảo mộng. 

VÀO ÐỜI 

Vậy những ai đang mất quyền làm người hôm nay ?  Trước hết, đó là những người nghèo khổ, người tù vì lương tâm, vì tranh đấu cho nhân quyền, tự do tôn giáo, các người thiểu số, những trẻ em không được cắp sách đến trường, những người bệnh tật, già nua, những người bị cướp đất, những công nhân và nông dân bị ức hiếp, những cô gái phải bán mình v.v.  Tất cả đều là con đẻ của chế độ bất công, không biết tôn trọng nhân quyền.  Quyền lợi của phe nhóm vượt trên tất cả mọi quyền lợi người dân.  Chính vì sự chênh lệch ấy, nhiều người đã mất cơ hội để phục vụ đất nước và Giáo hội.  Trật tự xã hội bị xáo trộn vì thứ tự các giá trị bị đảo lộn.

Trước tình thế đó, đáng lẽ các Kitô hữu phải tích cực tố cáo những tệ trạng và can đảm đứng lên đòi hỏi quyền làm người.  Nhưng giáo dân quá thụ động, hoàn toàn lệ thuộc vào hàng giáo phẩm, trong khi họ có quyền tham gia và sinh hoạt chính trị.  Nếu cứ thụ động như thế, họ sẽ thất vọng.  Các GMVN hiện nay hơi khó hiểu cho nhiều người...   Chỉ cần nhìn sang hàng giám mục ở Phillippines và Nam Hàn, họ sẽ thấy nhiều điều cần suy nghĩ.  Nhìn sang Phillippines, ai cũng thấy tấm gương anh dũng của ÐHY Jaime Sin, người đã từng kêu gọi dân chúng xuống đường lật đổ TT Marcos.  Bên Phi châu, các giám mục tại các nước Mali và Nigeria đang kêu gọi và hướng dẫn dân chúng xử dụng quyền bầu cử để chọn những vị lãnh đạo xứng đáng trong một thể chế dân chủ và tự do.  Họ còn dám lên tiếng  phê bình những ứng viên có những lời hứa thiếu nền tảng thực tế.

Trong cuộc tiếp kiến các Đức Giám Mục Venezuela viếng thăm Tòa Thánh vào hôm thứ Sáu 27/4, Đức Thánh Cha đã bày tỏ quan ngại sâu xa của ngài về tình trạng nhân quyền tại Venezuela và những dấu hiệu cụ thể về hiện tượng lạm dụng quyền lực tại quốc gia này.   Đức Thánh Cha nói Giáo Hội không thể không bảo vệ phẩm giá con người, và do đó cần có tự do để trình bày công khai ý kiến của mình trước công chúng.  Đức Tổng Giám Mục Roberto Luckert, phó chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Venezuela cho biết: “Trong suốt buổi tiếp kiến chúng tôi đã trình bày cho ngài về những vấn đề chúng tôi đang gặp phải trong việc giáo dục giới trẻ, tình trạng thiếu an ninh, và sự chà đạp nhân quyền trong nước.[6] 

Tại Việt nam, tình trạng đàn áp nhân quyền gấp nhiều lần Venezuela.  Nhưng các GMVN có dám trình bày tất cả cho ÐGH như các GM Venezuela không ?  Nhiều người cho rằng phải đặt mình trong hoàn cảnh Việt nam mới có thể thông cảm với các GMVN.  Hoàn cảnh Việt nam khó lắm !  Vâng, đúng thế.   Hoàn cảnh Venezuela hay các nước Phi châu cũng không dễ tí nào đâu ! 

Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả
Anh hùng hào kiệt có hơn ai ?!
                                    (Phan Bội Châu)  

Lạy Chúa, xin nhìn đến quê hương yêu dấu của chúng con !   Xin cho GHVN luôn đồng hành với dân tộc đau khổ.  Xin cho giới lãnh đạo GHVN thoát ra khỏi những tiện nghi và chấp nhận đau khổ với dân chúng.  Xin đừng để tinh thần hèn nhát mãi thống trị tâm hồn chúng con.  Nhưng xin Chúa sai Thánh Linh ban ơn can đảm và mạnh bạo cho chúng con. Amen.  

đỗ lực 06.05.2007

-----------------------------

 

PS 5-C72. ĐÀO TẠO TÔNG ĐỒ


Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô-Quang-Kiệt

 

Bài Tin Mừng hôm nay [Lc 5, 1 - 11] tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được: PS 5-C72


Bài Tin Mừng hôm nay [Lc 5, 1 - 11] tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu c̣n muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến tŕnh của phép lạ, Chúa Giêsu đă áp dụng một chương tŕnh đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ. Chương tŕnh đào tạo này gồm 4 điểm.

 ĐIỂM THỨ NHẤT: CẢM NGHIỆM VỀ SỰ NGHÈO NÀN CỦA BẢN THÂN.

Phêrô và các bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay năo nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô gặp thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rơ sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nh́n rơ những thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.

 ĐIỂM THỨ HAI: CẢM NGHIỆM VỀ SỰ CAO CẢ CỦA THIÊN CHÚA.

Người tông đồ phải làm chứng về Thiên Chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên Chúa, chưa từng tiếp xúc với Người th́ không thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa thường chủ động tỏ ḿnh ra. Chúa tỏ ḿnh cho Môsê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa tỏ ḿnh ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường đi Đa mát. Hôm nay Chúa tỏ ḿnh ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ hăi v́ thấy ḿnh tội lỗi, Phêrô vội quỳ xuống xin Chúa rời xa. Phêrô đă sống bên cạnh Chúa. Ông đă được tiếp xúc với Chúa. Ông đă cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao giảng chỉ là để kể lại những ǵ ông đă mắt thấy tai nghe.

 ĐIỂM THỨ BA TRONG CHƯƠNG TR̀NH ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ CỦA CHÚA ĐÓ LÀ SỰ VÂNG LỜI TUYỆT ĐỐI.

Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bảo ông ra khơi đánh cá, lại c̣n chỉ rơ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đă tăm tắp làm theo. Phêrô đă vâng lời tuyệt đối. Phêrô đă học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đă thành công. Ông đă thấy kết quả rơ ràng. Và Chúa đă đặt ông làm tông đồ trưởng.

 ĐIỂM SAU CÙNG MÀ CHÚA MUỐN NGƯỚI MÔN ĐỆ PHẢI CÓ:  ĐÓ LÀ SẴN SÀNG RA ĐI.

Ra đi là một thái độ liều lĩnh. V́ vượt qua những khoảng không gian vật lư cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba băo táp. Vượt qua những khoảng không gian vật lư đă khó. Vượt qua những khoảng không gian tâm lư c̣n khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo là bỏ lại tất cả: gia đ́nh, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đă thành thạo để bắt tay vào nghề mới c̣n chập chững. Bỏ lưới cá để chài người.

Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ được những thói tật xưa cũ th́  người ta vẫn c̣n ở khởi điểm. Muốn lên  đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự  ái tự măn của ḿnh. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ  hẹp ḥi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi những ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.

Khi đă từ bỏ  tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó  thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta. Vũ khí  chỉ có ḷng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.

 Mỗi người được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được sự  hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự  thánh thiện cao cả cũng như t́nh yêu của Thiên Chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối, chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đă làm việc th́ phần thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.

 Lạy Chúa, xin hăy dạy bảo con theo đường lối của Chúa.
 Amen.

 KIỂM  ĐIỂM ĐỜI SỐNG

Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không?
Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của ḿnh không?
Bạn đă ra đi khỏi chính ḿnh chưa? Bạn có cảm thấy Chúa có chương tŕnh đào tạo ḿnh không?

 ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Chúa Nhật V - TN C:  Lc 5, 1 - 11
http://www.daminhvn.net/component/mailto/?tmpl=component&link=aHR0cDovL3d3dy5kYW1pbmh2bi5uZXQvdGluLW11bmcvMTIwOC1jaHVhLW5oYXQtdi10bi1jLWRhby10YW8tdG9uZy1kby5odG1s

-----------------------------

 

PS 5-C73. NẾU CHỮ “HY SINH” CÓ Ở ĐỜI


Cô gái Việt Nam ơi !
nếu chữ "hy sinh" có ở đời
tôi muốn nạm vàng muôn cực khổ
cho lòng cô gái Việt Nam tươi.

( thơ Hồ Dzếnh )

Nói chữ “hy sinh” ở đời, sao chỉ giới hạn với cô gái Việt Nam, thôi. Hy sinh ở đời, nay vẫn muốn:

 

Nói chữ “hy sinh” ở đời, sao chỉ giới hạn với cô gái Việt Nam, thôi. Hy sinh ở đời, nay vẫn muốn: PS 5-C73


Nói chữ “hy sinh” ở đời, sao chỉ giới hạn với cô gái Việt Nam, thôi. Hy sinh ở đời, nay vẫn muốn. Những muốn nạm vàng cực khổ, để mọi người vui. Vui vì những “hy sinh” có ở đời, là ý nghĩa mọi cuộc tình. Tình đời. Tình người. Tình Chúa với dân con nhà Đạo. Như trình thuật Thánh Sử nói hôm nay.

Trình thuật hôm nay, Thánh Gio-an nói về một tình yêu rất đặc biệt. Thứ tình trọn đầy ý nghĩa mà Đức Chúa đã làm gương. Tình Chúa nêu gương, là tình Ngài bày tỏ không chỉ riêng tư, có một người. Như tình người dưới thế, ta luôn có với nhau. Tình Thầy luôn yêu, là tình đượm sắc mầu thương mến, rất hy sinh. Thầy hy sinh cho tất cả. Hy sinh đến chết. Hy sinh để ta được sống. Để ta cứ yêu. Yêu như Thầy vẫn hy sinh.

Ngôn ngữ phàm trần, không thấy có cụm từ nào được người đời biết đến, nhiều bằng từ ngữ “yêu”. Yêu, là phạm trù phổ biến dễ truy cập nhất. Một đề tài nói đến cả trong mọi trường hợp. Mọi địa hạt: từ nghệ thuật đến văn chương, thi tứ. Từ thơ nhạc, cho đến phim ảnh văn xuôi, truyện ngắn. Nhất nhất, nói về tình yêu. Tình yêu có chữ “hy sinh” ở đời, là tình ta nghe biết nhiều nhất.

Với đời thường, tình yêu là cảm xúc ướt át, diễm lệ mọi người quanh ta, hằng đeo đuổi, đeo và đuổi cho đến khi nào không thể làm gì hơn được nữa, mới thôi. Yêu, theo nghĩa dân gian người phàm, là tình thấy đầy nơi phố chợ. Ở đó, có tình đằm thắm lúc ban đầu. Nhưng, nhạt dần với tháng năm. Tình nào không kèm chữ “hy sinh”, chung cuộc rồi ra cũng sẽ chán. Rất chán, khi vừa xuất hiện đối tượng mới. Đối tượng tươi trẻ, hấp dẫn hơn. Tràn đầy nhựa sống hơn.

Tình đời mau chán, bởi người người chỉ chú trọng đến xác thân. Đến dục tính. Tình đời loại này, thường dẫn đến điểm thoát rất nhanh, nơi đọan cuối của đường hầm, nhiều tăm tối. Nôm na hơn, ta gọi đấy “tình là tình nhiều khi không rồi có” hoặc: “tình là tình nhiều lúc có cũng như không”. Tình như thế, tuyệt nhiên là tình không mang dáng vẻ “hy sinh” nghĩa hiệp, nào hết.

Tình “có hy sinh”, là mối tình được thể hiện bằng hành động, chứ không phải bằng lời. Tình đó là tình được dặn dò khuyên nhủ, như một lệnh truyền ngày Chúa giã từ, với chia tay. Lệnh truyền Chúa nơi tình có hy sinh vẫn được nhấn mạnh rất nhiều lần; vìNgài vẫn thường bảo: “Với dấu này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” ( Ga 13, 35 )

Làm người, ai cũng từng hơn một lần, đã biết yêu. Là môn đệ của Thầy, người người lại càng phải biết yêu thương nhau nồng nàn hơn nữa. Yêu, say đắm hơn bao giờ hết. Yêu, như Thầy vẫn thương chúng ta. Yêu thương nhau, là thứ tình thực tiễn được đánh giá qua cách thức ta đối xử với nhau. Xử sự với nhau, thật hiền hòa. Thật tử tế. Ta hành xử với nhau thật kiên nhẫn. Rất chịu đựng.

Tình ta thương nhau, là tình của những người đồ đệ theo chân Chúa. Đó là tình không kiêu sa. Cũng chẳng mượt mà, trau chuốt đánh bóng chính người mình. Tình ta thương nhau, như tình Chúa yêu ta là tình không dày đạp người khác. Dày vùi và đạp lên đó để mọi người nhìn mình cho rõ, như người hùng anh cần được yêu. Phải được tôn kính. Tình ta thương nhau, là cùng vui với người vui. Cùng khóc với người đang khóc. Cùng đạt ước nguyện tạo niềm vui cho nhau. Tình ta thương nhau, là biết thương tiếc khóc than vì người khác đã mất mát. Từng khổ đau.

Yêu thương nhau như tình Thầy yêu ta, là biết nói lên sự thật. Với lòng xót thương không bến bờ. Yêu thương nhau như Thầy yêu ta, là yêu thương đấy, vẫn yêu trong hy sinh tha thứ cho người mình thương yêu. Thương yêu rất mực tin tưởng vào người mình yêu thương. Yêu trong kiên định, cả vào những giây phút gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Yêu, cả vào lúc thấy có khổ đau. Những lúc đang trầm mình dưới bùn đen, ở dưới thấp. Yêu như thế, mới giống tình Chúa yêu thương mọi người, không xét nét.

Tình có hy sinh là chấp nhận thua thiệt, để người kia được lợi. Yêu trong hy sinh, là biết tự kiềm chế mọi đam mê, dục vọng. Yêu rất hy sinh, là như thể đang chết dần chết mòn cho những cảm xúc vinh vang, hãnh tiến. Yêu trong hy sinh, là chết đi cho chính mình. Chết cho con người mình. Chết, không phải về thể xác. Mà, chết cho nhu cầu xác thân, tạm bợ. Dù, nhu cầu ấy vẫn chính đáng. Vẫn rất cần.

Yêu trong hy sinh, càng không phải là yêu với mặc cảm tội lỗi. Mặc cảm thâm trầm, vì đã làm điều bất ưng và bất xứng, nay muốn tự hủy. Tự hủy, bằng tâm trạng âm thầm, khúm núm, cúi đầu sợ sệt. Yêu trong hy sinh, càng không phải là những khuyên răn, khích lệ bạn bè nguời thân hãy có cùng tâm trạng hủy diệt, vùi dập thân xác như mình. Nói khác đi, tình “có hy sinh”, là quà tặng Chúa ban nhưng-không gửi đến để người người chấp nhận một chọn lựa. Chấp nhận cơ hội vinh thăng cho tình yêu ta đang có, sẽ ngày càng tốt đẹp hơn lên.

Với dặn dò đàn con biết tỏ bày tình có hy sinh, Đức Chúa đã nêu gương để ta cũng có cử chỉ tự hạ làm người thấp hèn. Ngài tự giáng hạ vào chốn nghèo hèn, để Thiên Chúa là Cha sẽ nâng Ngài lên nơi vinh hiển. Noi gương Chúa, ta cũng tự hạ chính mình nhịn nhường mọi vinh hoa, phú quý sang qua người khác. Nhường nhau, để tạo cuộc sống mới dồi dào sức sống.

Tự hạ, nhưng không tự hủy. Tự hạ, không có nghĩa dứt bỏ phẩm giá con người rất vinh quang. Vinh quang, vì mang thân phận làm con dân Đức Chúa. Tự hạ, là tự giảm chính mình xuống mức thấp hơn người khác. Tự đặt mình ở mức thấp, để người khác được nổi bật hơn, hạnh phúc hơn mình. Thực tế, trong sống đời dân gian trầm hạ, cũng nên tìm ra phương cách hoặc động thái khả dĩ giúp ta cởi thoát những hành vi không mang đặc thù của người con yêu Đức Chúa. Cởi thoát, là tự mình không đòi ở chỗ cao, trên người khác. Hoặc, người khác phải cảm nhận công sức mình, đã bỏ ra. Cởi thoát, là không đòi cho được quyền ra lệnh người khác thực hành ý kiến của mình.

Tham dự tiệc thương yêu hôm nay, ta cầu mong Thầy Chí Thánh giúp ta yêu thương mọi người như một nhân vị, chứ không như sự vật. Cầu và mong sao, ta tạo được cho mình và mọi người những tình tự “có hy sinh” đưa ta vào cuộc sống rất vui. Sống can đảm, để giải quyết mọi bất đồng trong tương quan với mọi người chung quanh. Cầu và mong sao, tình của ta luôn là tình “có hy sinh” như Đức Chúa từng dạy bảo. Và cầu mong sao, trong yêu thương giao dịch, tình của ta với người, vẫn là tình hy sinh ở mức cao độ, như Thầy thương ta.

Trong hân hoan cầu và mong như thế, ta cũng hăng say cùng người nghệ sĩ hát bài ca của người tự do con cái Chúa, hát rằng:

“Hôm nay ta yêu, yêu tình nước non ngập lòng,
Hôm nay ta thương, thương khắp nhân lọai trên đời
Lời tha thiết, bài thơ khúc ca ân tình
Ta sẽ xây nguồn vui dựng một ngày mai”.
( Xuân Lôi – Y Vân 29.12.1961 )


Vâng. Yêu thương, là thương khắp nhân lọai trên đời. Yêu như thế, ta sẽ xây nguồn vui dựng ngày mai. Ngày của trời mới. Đất mới. Nơi, có “chữ Hy sinh” trong mọi thứ tình. Tình ta yêu Chúa. Yêu thương mọi người. Yêu “có hy sinh”. Và, rất trữ tình.

 Lm. PHAN ĐỖ PHỤC LINH, MAI TÁ diễn giải

-----------------------------

 

PS 5-C74. NHƯ THẦY ĐÃ YÊU

 

Wiliam Oscar Wilde đã viết về một huyền thoại tình yêu: “Hoạ mi và bông hồng đỏ”. Một: PS 5-C74


Wiliam Oscar Wilde đã viết về một huyền thoại tình yêu: “Hoạ mi và bông hồng đỏ”.

Một sớm mùa hè, con hoạ mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Hoạ mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu một bông hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Hoạ mi phải ra tay giúp đỡ. Hoạ mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:

- Chị Hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
- Hoạ mi ơi! Em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?

Chị Hồng rung rung cành lá giận dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng dậu.

- Chị Hồng ơi, có phép mầu nào làm nở cho em một bông hồng đỏ chăng?
- Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho thương đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
- Được, những phép mầu cần phải có máu đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.

- Hoạ mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.

Hoạ mi đã hót say mê đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở tươi.

Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong dạ hội. Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đóa hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo cô gái một bông hồng giả đang ngự trị... Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đóa hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.

Hoạ mi yêu người, đã lấy máu và sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một tình yêu chân thật.

Câu chuyện là một huyền thoại, chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” ( Ga 15,13 ).

Hoạ mi đã cất tiếng hót bi thương trước khi chết vì muốn hiến tặng đoá hồng. Chúa Giê-su trước khi chịu khổ nạn, chịu chết đã để lại cho các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 13, 34 ). Chỉ thị này bao hàm mọi chỉ thị khác.

Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giê-su đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.

Như Cha đã yêu mến Thầy. Đức Giê-su đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người ( x. Ga 3, 35; 5, 20; 17, 24 ). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này ( x. Mt 3,17; 17, 5 ). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẽ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Người.

Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II trong thông điệp Sự Rạng Ngời Chân Lý số 20 đã viết: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giê-su, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giê-su đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy.

Yêu như Thầy đã yêu là yêu như thế nào?

Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại. “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.

“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15, 15a ). Ngài là Thầy, là Chúa. Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không, Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết” ( Ga 15, 15b ).

Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người. Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha...

Tình yêu của Chúa cao đẹp quá, cao quý quá. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu” ( Ga 13, 34 ). Quả thật là quá khó đối với con người! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Đức Giê-su tuôn chảy đến nhân loại. Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời: “Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R. Tagore).

Chính Tình Yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương, bác ái; chính Tình Yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta và chính nhờ Tình Yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương “như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy: “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta” ( Mt 25, 40 ).

 Lm. Giu-se NGUYỄN HỮU AN

-----------------------------

 

PS 5-C75. Điều răn mới


“Thầy ban cho anh em điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Gioan 13:34).

 

Ban cho anh em: Chúa không ban cho tất cả mọi người, mà chỉ là một số người. Điều này: PS 5-C75


- Ban cho anh em: Chúa không ban cho tất cả mọi người, mà chỉ là một số người. Điều này nói lên rằng điều mà Chúa sắp sửa ban là một cái gì hết sức đặc biệt, hết sức riêng tư và chỉ dành cho một số người được tuyển lựa kỹ lưỡng. Vì đã là đặc biệt, riêng tư thì không thể trao ban bừa bãi.

Tuy nhiên, sự trao ban của Chúa Giêsu đối với các Tông Đồ, là những kẻ mà ngài đã tuyển chọn không chỉ nhằm cho phần riêng của các ngài, mà qua các ngài, nó cũng được trao ban cho tất cả những ai sẽ tin vào các ngài mà nhận ra đấng đã trao ban ân huệ này. Đó là tất cả mọi người chúng ta, những Kitô hữu là những kẻ qua lời giảng dậy mà tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, được Cha sai đến để cứu chuộc và giải phóng con người khỏi tội lỗi.

- Giới răn mới: Chúa ban gì? Và cái đặc biệt ấy là gì? Ngài đã nói với các ông: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới” (Gioan 13:34). Điều răn mới có nghĩa là khác với các điều răn cũ từ trước.

Mới về hình thức: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa Giavê đã ban cho dân riêng ngài 10 giới răn được ghi khắc trên 2 tấm bia đá. Ngài ban cho họ những giới răn này qua Maisen. Nhưng trong Tân Ước, Thiên Chúa không dùng những tấm bia đá mà là chính Ngôi Lời nhập thể. Chúa Con, nơi đó Thiên Chúa Cha đã ghi khắc toàn bộ những giới răn của Ngài. Nơi ngài Lời Thiên Chúa không hề bị đập vỡ và biến mất như 2 bia đá của Maisen.

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa ban lề luật. Trong Tân Ước, Ngài ban chính Con của ngài. Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, và cũng là Thiên Chúa.

Mới về nội dung: Nội dung của 10 giới răn mà Thiên Chúa đã ban cho dân riêng Do Thái bao hồm toàn lẽ sống được củng cố trên:

* Sự công chính, và công bằng. Tránh dâm dục. Tránh tham lam. Không giết người. Không thề gian... Tóm lại, là tất cả những gì mà con người cần phải giữ để tránh xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Những điều giúp cho con người khỏi phải phạt. Nhưng trong giới luật mới, giới luật mà Chúa Giêsu ban đây vượt qua tất cả mọi ràng buộc và sợ hãi ấy. Nó đặt định và qui hướng về tình yêu. Vì tình yêu thì loại bỏ sự sợ hãi. Và đâu có bác ái, thì ỡ đó không cần công bình nữa. Vì bác ái vượt trên những đòi hỏi của công bình.

* Thương nhau. Hay làm một điều gì tốt cho nhau cũng là điều mà lề luật cũ đòi hỏi dựa trên công bình. Nhưng trong luật mới, giới răn mới, ngài còn dậy ta đi xa hơn, đó là thương yêu cả kẻ thù của mình. Đâylà một trong những điểm mới trong giới luật mà Chúa Giêsu ban cho các tông đồ. Phêrô trước đó đã có lần hỏi Chúa là khi người khác xúc phạm đến ông, liệu ông phải tha bao nhiêu. Tha 7 lần không? Đối với ông số 7 là tượng trưng cho sự tha thứ nhiều và rất nhiều mà ông có thể làm được. Nhưng Chúa Giêsu lại nói khác: “Phải tha đến 70 lần 7” (Mt 18:22). Hẳn là Phêrô đã không ngờ câu trả lời của Chúa.

Không những thế, Chúa còn bảo phải chúc phúc cho người nguyền rủa mình. Làm ơn cho kẻ bách hại mình. Cầu nguyện cho kẻ hại mình. Những việc làm mà ngoài Chúa ra không ai dám nghĩ tới, mà nếu có nghĩ tới cũng không thực hành được.
* Yêu như Chúa yêu. Không những chỉ chúc lành cho người làm khổ mình. Yêu kẻ thù mình. Làm ơn cho kẻ ghét bỏ mình... Mà khi làm tất cả những việc ấy, chúng ta còn cần phải làm như Chúa đã làm. Và ở điềm này, giáo lý của Chúa mới thật sự là “mới”. Nó vượt xa tất cả những lề luật, những giới răn, và những gì con người đã làm từ trước khi đối diện với Thiên Chúa và đồng loại.

Yêu như Chúa yêu. Có lẽ vì thế mà ngài gọi điều này là mới. Bởi vì trước đó, con người ta chỉ yêu nhau tối đa là như mình yêu và yêu bằng mình là quá lắm. Nhưng yêu như Chúa yêu thì như thế nào? Thánh Kinh đã cho biết rồi: “Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ thí mạng mình vì ngươờ mình yêu” (Gioan 15:13). Ngài đã nói, và đã thí mạng thật sự trên đồi Gongotha qua nhục hình thập giá. Trước khi chết còn hổn hển van xin cho kẻ giết mình: “Lậy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết” (Luca 13:34).

- Đây là giới răn thầy: “Thầy ban cho anh em điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Gioan 13:34). Tình yêu là một bản năng và cũng là một nhu cầu. Có ai sống được mà không cần đến tình yêu. Và có ai trên cõi đời này mà không cần đến tình yêu. Yêu và được yêu là hai mặt của đồng tiền cuộc sống. Thế nhưng, tại sao Chúa lại phải ra lệnh, phải ban bố thành giới răn: “Đây là điều răn thầy”. Như vậy, yêu thương không lẽ trở thành máy móc và ràng buộc đến thế sao?

Thật ra khi Chúa Giêsu liên kết tình yêu với những đòi hỏi cần thiết và làm nên một giới luật, ngài không chỉ nói cho chúng ta biết cái giá trị cao cả của tình yêu, một tình yêu tràn đầy dành cho Thiên Chúa và tha nhân, mà ngài còn muốn nâng cấp tình yêu ấy thành một đòi hỏi để chúng ta không thể vì lơ là mà quên sót bổn phận yêu và được yêu.

Thật vậy, ngày nay hơn bao giờ hết, nhân loại đang mất dần đi cái ý thức và giá trị của tình yêu.Tình yêu thay vì được định giá bằng những hy sinh cao cả như chính Chúa Giêsu đã làm, con người ngày nay đã biến tình yêu thành một cách thức thỏa mãn nhu cầu tình cảm và tình dục. Những cái mà khi thỏa mãnh chúng, chỉ làm giảm giá trị của tình yêu.

Hơn thế nữa, vì để mất đi ý nghĩa của tình yêu, con người quay về mình như trụ điểm của tình yêu nên nẩy sinh tình yêu ích kỷ, và yêu chính mình. Mà vì tìm mình, yêu mình nên tình yêu đã bị coi thường. Tệ nạn phá thai, đồng tính, và hôn nhân đồng tính. Những đổ vỡ đưa con người đến chỗ ly dị nhau. Tất cả là những hậu quả xấu xa, và tồi tệ nhất của sự tìm kiếm và yêu chính mình.

* * *

Giới răn mới. Giới răn yêu thương là một ân huệ rất đặc biệt mà chính Chúa Giêsu đã ban tặng tất cả những ai tin nhận ngài là cứu Chúa và là đấng Thiên Sai. “Thầy ban cho anh em điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Gioan 13:34). Mà vì đã là giới luật thì con người không được quyền lơ là hay từ chối. Bởi vì từ chối giới luật yêu thương này cũng là từ chối Chúa. Từ chối cội nguồn hạnh phúc và cứu độ.

 T.s. Trần Quang Huy Khanh

-----------------------------

 

PS 5-C76. VÒNG TRẦU CỦA MẸ

 

Để diễn tả tình yêu thời mới, người ta hay nói chơi: "honey, money!", nghĩa là "tình ơi, tiền: PS 5-C76


Để diễn tả tình yêu thời mới, người ta hay nói chơi: "honey, money!", nghĩa là "tình ơi, tiền đây!" Nhưng vẫn luôn có thứ tình yêu vượt lên tất cả. Tình yêu tinh ròng, tình yêu nguyên thủy, mà tình mẹ là điển hình.

THỜI ĐIỂM NGÀY VINH DANH MẸ

Quanh năm vất vả lam lũ mà được một ngày mát mày mát mặt thì người mẹ nào cũng thấy hả dạ. Ấy là ngày Vinh Danh Mẹ. Người Mỹ cũng thương mẹ lắm chứ. Ngày Vinh Danh Mẹ, con cái thường mua hoa mua quà cho mẹ, lại mời mẹ đi ăn tiệm nữa. Vậy mà Trà Lũ trong cuốn Đất Thiên Đàng lại bảo như thế còn thua người Việt mình: "Ở đây, mỗi năm một lần, con cái mới nhớ tới cha mẹ, mới mua quà, mới mua thiệp, mới mời đi ăn tiệm. Việt Nam mình hơn hẳn họ mặt này. Chúng ta yêu mẹ quanh năm. Từ bé cho đến trưởng thành, chúng ta quấn quyít bên mẹ."

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.


Người Việt mình diễn tả tình mẹ sống động và cụ thể lắm: Mẹ biểu trưng cho những gì chín nhất, ngon nhất, ngọt nhất, quý nhất.

MẸ SUY NGHĨ BẰNG TIM

Tình mẹ Việt Nam lại không dễ nhận ra bằng con mắt thịt. Không hôn hít rầm rộ như kiểu Âu Mỹ, mà đôi khi thật thầm lặng kín đáo chẳng kịp nhận ra.Thấy thế mà chẳng phải thế; nói vậy mà chẳng phải vậy. Nhưng phải cảm được bằng con mắt và lỗ tai thứ ba, nghĩa là bằng con tim. Vì người mẹ Việt Nam thường suy nghĩ bằng tim.

Mẹ tôi cũng đã nhiều lần suy nghĩ bằng tim: nói vậy mà chẳng phải vậy. Hồi chúng tôi còn nhỏ, mẹ tôi cưng thằng Út nhất nhà, nhất là từ ngày ba tôi qua đời. Nó cũng biết vậy nên lờn mặt. Tôi còn nhớ, có lần nó phạm một tội “tầy trời” gì đó, bà bực mình la lối om xòm, rồi vừa giậm chân bình bình đe dọa vừa chạy đi kiếm roi, phen này đập cho mày một trận nên thân. Bấy nhiêu động tác cũng đủ bảo đảm cho thằng Út có dư giờ cao chạy xa bay. Bà diễn thêm một màn ngoạn mục nữa là hò hét mấy đứa anh đứa chị đi bắt thằng Út về cho bà. Mấy anh chị thì đã chỉ chờ “nói dzậy thì cứ hiểu như dzậy” để trả thù thằng Út vì cái gì cũng được hơn anh chị, nên bèn hè nhau đi bắt “can phạm” đem về nộp cho “triều đình".

Trời ơi, biết làm sao bây giờ. Đã lỡ phát thanh hô hào nhân dân nhất trí, đến khi “nhân dân” cộng tác với "nhà nước" đưa can phạm đến tận "triều đình" mà không xử thì mất mặt "bầu cua cá cọp" và không còn thể thống gì hết nữa. Thế là "nhà nước" bất đắc dĩ phải làm Bao Công Xử Án bằng cách bắt thằng Út lên đo giường. Rồi bà vung roi quất tứ tung chung quanh cho bụi bay mù mịt làm ra vẻ chiến trường đã đến hồi lửa khói ngút ngàn! Và dĩ nhiên là cũng phải có màn rê roi qua cái mông tội nhân theo chiêu thức “hải triều lãng lãng” như trong Anh Hùng Lĩnh Nam, có ý phủi bụi quần cho hắn thì đúng hơn.

Thằng Út rất thông minh về ngón nghề này, hiểu ý mẹ, bèn khóc thét lên với giọng thê lương ai oán. Tưởng rằng đến giây phút gay cấn khốc liệt này thì sẽ được mấy anh chị nhào tới can mẹ, chứ nào ngờ bốn bề án binh bất động. Mẹ tôi tiến thoái lưỡng nan, đâm bí. Không đánh nữa thì sẽ bị "quần hùng" cười là “đã bảo mẹ cưng thằng Út như vậy là làm cho nó hư”, mà đánh tiếp thì co thắt khúc ruột e không ổn. Thế là bà òa lên khóc tru trếu: “Các anh chị hè nhau đánh nó chết đi. Nó mồ côi chẳng ai thương.”

Câu chuyện mẹ tôi như vậy đấy! Chỉ có mình bà có quyền đánh thằng Út chứ có ai dám động đến. Có giời mà hiểu được. Chưa kể có nhiều lần đứa em gái áp út bị ăn đòn lây. Số là mỗi lần thằng Út có tội thì dễ gì mà bắt nó lên giường để đánh đòn được. Thế là đứa gái áp út được bà dụ ngọt là "con cứ nằm giả vờ thì em nó mới chịu nằm", vì ra như có bạn đòn đỡ mất mặt trước "bá quan văn võ". Nhưng nhiều lần từ chuyện đánh giả vờ, bà bỗng tìm ra nhiều giống tội khác rồi hóa ra đánh thật. Tội nghiệp con bé! Thì ra “con tim có lý lẽ mà cái đầu không biết được”, đúng như một câu nói của người Tây phương.

VỒNG TRẦU CHO MẸ

Lý lẽ con tim thì vậy. Đôi khi có vẻ không công bằng. Vậy mà thiếu tình mẹ là hỏng ngay. Tục ngữ đã bảo: “mất mẹ liếm lá đầu đường” là đúng, ít ra về mặt tinh thần, anh em sẽ tan tác rời rạc. Người Việt đã có cả một trường ca vinh danh Mẹ Việt Nam, do Phạm Duy đánh nhịp.

Mẹ Việt Nam không son không phấn
Mẹ Việt Nam chân lấm tay bùn.


Văn minh Âu Mỹ thường được gọi là văn minh thiên về bố, dùng đầu nhiều hơn. Cái gì cũng phải có lý, cũng phải đo lường chiết toán được, nói vậy thì chỉ có thể hiểu được là vậy. Làm sao có thể đo được độ ngon của miếng sầu riêng, làm sao có thể tìm ra lý của vụ mẹ tôi đánh thằng Út?! Nhưng rồi nhìn kỹ thì mình thấy mẹ thương mỗi đứa con mỗi kiểu khác nhau, tùy thời tùy mức. Anh em mỗi người mỗi tính thì mẹ trở thành chất keo mầu gắn liền tất cả. Chắc chắn vì người mẹ nào cũng đã cả đời chịu thua thiệt. Mà cũng chính vì cứ cam chịu phần thấp nên mới thành "lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào". Chỗ trũng nhất trên mặt đất thì nhận được tất cả, từ mọi thác suối, sông rạch, mưa trời, rồi biến chế tất cả, dung hóa thành đại dương bát ngát.

Sang Mỹ rồi mà mẹ tôi vẫn nghiền ăn trầu. Bà trồng trầu thật giỏi. Vồng nào vồng nấy xanh lên tươi tốt. Bà phân biệt lá ngọn lươn với lá ngọn vượt: con coi này, lá ngọn vượt mọc ngang từ phía trên thì hơi vàng và dầy, ăn miếng nào cũng đậm ấm chân răng; còn lá ngọn lươn bò từ dưới lên như con lươn trông thì xanh mướt đẹp mã mà ăn nhạt nhẽo vô duyên lắm. Thì ra cũng thấy vậy mà chẳng phải vậy. Nhưng vào mùa đông thì vồng trầu rụi hết, mấy đứa cháu phải chạy đi tìm mua trầu cho bà ở các tiệm Việt kẻo nó đắng cái miệng làm sao ấy, thiếu gì cũng được chứ không thể thiếu trầu!

Vì thế trong Ngày Vinh Danh Mẹ, người Việt nên tặng mẹ mình một vồng trầu thay vì bó hoa. Lá trầu là chính cõi lòng người mẹ Việt Nam, càng bị nhai nát thua thiệt càng nẩy sinh tình yêu như đã từng được diễn tả trong truyện thiêng Trầu Cau của nét văn hóa Việt Nam. Cũng là chính cái hồn ẩn mật của Việt Tộc vẫn kiên trì tồn tại chảy thành dòng tình yêu, qua bao thế hệ, qua bao đắng cay đầy đọa vùi giập. Sức chịu đựng của người Việt lạ lùng quá phải không?

Con đường nghiền nát trầu cau
Nên màu đỏ thắm nên màu sắt son.


BÚP BÊ KHÔNG MẶT

Dân Amish ở Bắc Hoa Kỳ có một lối sống an bình hạnh phúc rất ngược với những lề thói của các khuôn mẫu và tiêu chuẩn của xã hội hiện tại. Họ thuộc một thứ giáo phái đặc biệt rất ngặt do Jacob Ammann lập ở Thụy sĩ, nhưng bị bách hại phải chạy sang vùng Alsace-Lorraine, rồi di sang Mỹ khoảng năm 1720. Họ nhất định sống với nhau thành những cộng đồng riêng biệt trong những nông trại vùng Pennsylvania, Ohio, Indiana, Iowa, Nebraska. Lối sống của họ thật giản đơn chứ không phức tạp đến ngộp thở như xã hội bây giờ.

Một trong những phong tục đặc biệt của người Amish là khi con gái đi lấy chồng, bà mẹ tự tay làm cho con một búp bê không mặt, nghĩa là trên mặt không có mắt, mũi, miệng, tai gì hết, và các ngón tay ngón chân cũng không rõ nét. Mà bà mẹ nào cũng làm như vậy, không cần phải đẹp đẽ cầu kỳ gì cả, nhưng mỗi búp bê đều mang sắc thái riêng, nhận ra ngay được nét riêng biệt của người mẹ làm.

Trao búp bê không mặt cho con là trao một của hồi môn đầy ý nghĩa, sẽ làm cho con giầu lắm, chứ không bao giờ trao vàng bạc gì cả, vì người Amish không đeo vàng, không trang điểm. Quần áo phụ nữ thường là màu đậm, và rất giống nhau, khỏi mất công đua đòi. Thậm chí áo họ mặc thường ngày cũng không có cúc, vì cúc cũng là đồ trang sức khoe mẽ.

Con búp bê đó sẽ để mãi trong phòng, luôn nhắc nhở cho con rằng không cần phải sơn trét vào mặt những vinh hoa giả tạo. Bên trong nội tâm con, dưới mái nhà con, đã sẵn kho tàng giầu có rồi, con hãy hướng vào mà khai mỏ, mà xây dựng cho gia đình con thành một tổ ấm. Con hãy tập âm thầm chịu đựng, ẩn mặt đi và bằng lòng thua thiệt thì gia đình mới hạnh phúc được. Đúng là họ cũng biết theo con đường "nghiền nát trầu cau" đấy chứ.

TIN VUI THỂ HIỆN TÌNH YÊU

Không ngờ mà đạo sống người Việt và người Amish lại giống nhau như thế. Vì đó chính là cách thể hiện tình yêu tinh ròng, nguyên thủy. Như Chúa Giêsu đã định nghĩa: Không có tình yêu nào hơn được tình của người hy sinh đến chết cho người mình thương. Đây mới là cách dựng xây tình yêu đích thật, bằng hy sinh quên mình. "Thầy dạy chúng con một giới mệnh mới là hãy yêu nhau. Như Thầy đã yêu các con, cả các con cũng phải yêu nhau. Cứ xem tình các con yêu nhau, mọi người sẽ nhận ra các con là môn đồ của Thầy" (Gioan 13:34-35).

Hình ảnh mẹ tôi xử tội thằng Út vẫn mãi đi theo tôi, đặc biệt trong Ngày Vinh Danh Mẹ mỗi năm. Ngày Vinh Danh Mẹ cũng nhằm vào tháng Năm, tháng mà theo truyền thống đạo Chúa gọi là Tháng Hoa dâng kính Đức Mẹ Maria.

Những nhà văn hóa tha hồ mà tìm cách giải nghĩa hiện tượng tại sao người Việt rất sùng kính Đức Mẹ, hơn truyền thống của nhiều dân tộc. Nào là bảo văn hóa Việt là văn hóa tình mẹ, nào là hình ảnh Chim Âu tổ mẫu bay suốt dọc dài lịch sử, bay vào mạch máu, bay vào nhịp tim mỗi người Việt cho đến hôm nay. Nào là hiện tượng Quan Thế Âm bên Ấn Độ thì là đàn ông, mà bước vào văn hóa Việt thì lại trở thành một người mẹ luôn lắng nghe được mọi tiếng rên xiết thương đau của con người. Chắc chắn vì hình ảnh người mẹ gần tim hơn đầu khi chạm tới huyền nhiệm Thiên Chúa là Cha Tình Thương. Và tôi vẫn nghĩ Đức Mẹ cũng thương theo cái kiểu mẹ tôi. Ai nói sao, mặc. Chẳng cần phải lý luận rằng kiểu đó có làm cho con mình hư hay không. Mẹ chỉ biết thương thôi.

PHÚT TỊNH TÂM

Thể hiện tình yêu cũng là cảm nhận tình yêu. Bằng một việc cụ thể tỏ lộ tình thương, qua người mẹ còn sống hay đã qua đời. Mình cảm nhận tình yêu rõ nhất qua việc làm sống lại tình mẹ với chính Đức Mẹ Maria. Mình nhìn lên với con mắt tin yêu nói với Đức Mẹ: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Mẹ". Một bông hồng tình yêu vừa nở trên môi, vừa rạng rỡ trong tim.

Tình yêu này không hơn tình mẹ mình thì ít ra cũng bằng được như vậy. Cảm nhận này là phép mầu cho lòng mình dịu lại mỗi khi cuộc sống nặng trĩu ưu tư và căng thẳng. Và mình nghe vẳng lên đâu đây câu hát: “Tình yêu như trái chín con tim bồi hồi...”

Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường

-----------------------------

 

PS 5-C77. Yêu thương anh em


Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau.

 

Không phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy về tình yêu thương. Văn hoá Á đông đã từng nhấn: PS 5-C77


Không phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy về tình yêu thương. Văn hoá Á đông đã từng nhấn mạnh: Tứ hải giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. Cha ông chúng ta thuở trước cũng đã khuyên nhủ: Thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng yêu thương rộng mở đối với mọi người trong xã hội. Vậy giới luật của Chúa có điều chi mới mẻ?

Dựa vào những lời tâm sự cuối cùng của Chúa, chúng ta có thể tìm thấy được những nét độc đáo của tình thương yêu trong Kitô giáo. Nét độc đáo thứ nhất đó là hãy yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Thực vậy, cái khuôn mẫu lý tưởng, cái thước được dùng để đo tình yêu thương của chúng ta, không còn là mối liên hệ máu mủ, cũng không còn là chính bản thân của mình nữa, nhưng là chính tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã xuống thế và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta như lời Ngài đã nói: Không ai có tình yêu cao quý hơn người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu. Chỗ khác Ngài cũng bảo: Ta là mục tử tốt lành. Người mục tử tốt lành thì hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Tình yêu ấy không bị giới hạn, không bị ngăn cách nhưng được dành cho hết mọi người.

Bên cạnh thập giá Đức Kitô không ai là không có chỗ của mình, kể cả những kẻ tội lỗi, đĩ điếm và trộm cướp. Ngài không huỷ diệt một khả năng nào để vươn lên. Đứa con hoang đàng cũng có chỗ trong nhà cha mình. Người trộm cắp cũng được mời gọi tham dự tiệc cước và người phụ nữ nhẹ dạ cũng có thể hôn chân Ngài. Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy một Thiên Chúa đầy lòng nhân từ và thương xót đối với mọi người, không trừ một ai. Tình yêu thương vô bờ ấy phải trở nên mẫu mực để chúng ta noi theo: Hãy yêu thương như như Thầy đã yêu thương các con.

Nét độc đáo thứ hai đó là tình yêu thương phải trở nên dấu chỉ của những người thuộc về Chúa. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau. Thực vậy, Chúa Giêsu không đòi hỏi các môn đệ của mình phải thông thái như các tiến sĩ luật, cũng không bắt họ phải sống gò bó nhiệm nhặt như nhóm biệt phái. Điều duy nhất Ngài đòi hỏi nơi các ông đó là tình yêu thương.

Ngay từ đầu các tín hữu đã thực sự sống tình bác ái yêu thương để làm chứng cho Đức Kitô phục sinh và trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội, các tâm hồn ở mọi nơi và trong mọi lúc, vẫn nhận ra Thiên Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của những người tin Chúa, được biểu lộ bằng hành động bác ái yêu thương.

Trong cuộc sống hằng ngày không phải chúng ta không biết rằng thương yêu là đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng, thương yêu là giới luật mới của Chúa Giêsu, thương yêu là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến chỗ sống, từ chỗ hiểu đến chỗ làm luôn luôn có một khoảng cách. Chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho người khác. Chúng ta vẫn muốn giới hạn tình thương ấy trong một phạm vi hạn hẹp nào đó. Chúng ta vẫn thích tính toán cộng trừ để tình thương không làm chúng ta bị thiệt thòi mà trái lại còn đem đến những lợi ích riêng tư. Chúng ta vẫn muốn dựa vào màu cờ, sắc áo hay danh xưng để xác định chúng ta thuộc về Chúa, chúng ta không dám chứng tỏ bằng những hành đông yêu thương và hy sinh mạng sống của mình. Quan hệ của chúng ta còn quá vụ lợi.

-----------------------------

 

PS 5-C78.Giới răn yêu thương – R. Veritas.

 

Ngày nay, nếu có ai ghé thăm Tientina Alba, một làng nằm ở phía bắc Rumani, đều trông thấy bên: PS 5-C78


Ngày nay, nếu có ai ghé thăm Tientina Alba, một làng nằm ở phía bắc Rumani, đều trông thấy bên ngoài làng có một gò đất lớn, bên trên cắm một cây Thánh Giá thật to. Đó là nấm mồ tập thể của 5,000 tín hữu Công giáo thuộc Giáo hội Đông phương nước Rumani đã bị quân xâm lược sát hại vào buổi sáng ngày lễ Phục Sinh ngày 1/04/1941.

Tientina Alba trong tiếng Rumani có nghĩa là "Suối trắng". Nhưng vào một buổi sáng cách đây hơn nửa thế kỷ nó đã trở thành một con suối máu của 5,000 người Công giáo chết vì Chúa Kitô. Quân xâm lược đã triệt để thi hành chính sách tiêu diệt tôn giáo. Người dân Rumani sống tại vùng này đều thuộc Giáo hội Công giáo Đông phương, nên đó là một chướng ngại lớn đối với đường lối xâm lăng diệt chủng này.

Anh chị em thân mến!

Biến cố thương đau trên đây trong lịch sử Giáo hội Rumani giúp chúng ta hiểu được phần nào sứ điệp của Tin Mừng Chúa Nhật V Phục Sinh hôm nay. Đó là điều giúp chúng ta có thể bước vào cuộc sống Phục Sinh vinh quang trên thành thánh Giêrusalem thiên quốc. Người Kitô hữu cũng phải đi theo con đường của Chúa Giêsu Kitô bước đi trên con đường tăm tối của bắt bớ, khổ đau và cái chết.

Thành thánh Giêrusalem thiên quốc như đã diễn tả trong chương 21 của sách Khải Huyền là một kinh thành kỳ lạ, nó là điểm thành toàn của lịch sử cứu độ cứu độ sau khi vượt thắng tất cả mọi lực lượng lịch sử xã hội tiêu cực và chiến thắng kinh thành thế tục gian ác tội lỗi của trần gian này. Sau khi chiến thắng kinh thành Babylon hiện thân của mọi quyền lực chính trị, ý thức hệ và kinh tế trần gian bắt bớ chống đối Giáo hội, sau khi đánh tan mọi lực lượng sự dữ do ma quỉ chỉ huy, cộng đoàn Kitô hữu hân hoan khải hoàn bước vào kinh thành thiên quốc. Họ bước vào trời mới đất mới, nơi không còn khóc than, khổ đau, chết chóc, buồn thương và mệt nhọc nữa.

Bởi vì, thế giới cũ đã qua rồi và mọi sự đã được đổi mới. Giờ đây, họ được sự hiện diện rạng ngời của Thiên Chúa, Đấng ở cùng chúng tôi. Nhưng trước đó, con đường của Giáo Hội lữ hành là con đường khổ nạn của Chúa Giêsu.

Trong khung cảnh thân tình của bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ lời tâm huyết. Sau khi Giuđa, kẻ phản bội Ngài rời khỏi nhà Tiệc Ly để đi vào đêm tối mịt mù. Đêm tối của tâm hồn và cuộc đời Giuđa và đêm tối của thế giới.

Qua đó, Chúa Giêsu mới thổ lộ cho các tông đồ biết rõ hơn con đường dẫn Ngài tới chỗ vinh quang, đó là con đường của Thập Giá. Chính khi bị treo khổ nhục trên Thập Giá, cũng là chính lúc Chúa Giêsu được tôn vinh và thành toàn chương trình cứu độ trần gian của Ngài.

Như vậy, những khổ hình Thập Giá thay vì dấu chỉ của hình phạt, thì nó lại trở thành dấu tích yêu thương cao vời nhất mà Thiên Chúa và Chúa Giêsu đã dành cho con người. Do đó, chỉ những ai sống yêu thương mới hiểu được cái logic ngược đời ấy của Thập Giá. Đồng thời đây cũng là kiểu cách hành động của Thiên Chúa.

Giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu trăn trối lại cho các tông đồ và cho cộng đoàn Giáo hội thật mới mẻ, vì nó diễn tả thái độ dấn thân tuyệt đối và trọn vẹn mà Chúa Giêsu đã ký kết với loài người bằng chính máu của Ngài. Tình yêu thương ấy là tình yêu thương hai chiều bình đẳng giữa các tín hữu. Bởi vì trong cộng đoàn ai cũng cần yêu thương và được yêu thương. Nhưng từ nay không còn chuyện yêu người như yêu mình nữa, mà yêu người như chính Thầy đã yêu chúng con, nghĩa là Kitô hữu phải yêu thương nhau với cùng cường độ trong cùng tâm tình và kiểu cách của Chúa Giêsu là tận hiến vô biên và trọn vẹn. Tình yêu thương của Chúa Giêsu là suối nguồn, mẫu mực và linh hồn tình yêu thương của Kitô hữu. Và sau cùng, tình yêu ấy là căn cước, là chứng tích sống động giúp nhận ra ai là thành viên thực sự thuộc cộng đoàn Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô.

Trong chương 14 sách Tông đồ Công vụ, thánh Phaolô cũng chỉ cho chúng ta con đường chắc chắn giúp tiến về kinh thành Giêrusalem. Đó là noi gương Chúa Giêsu can đảm tiến bước trên con đường Thập Giá của lòng tin.

Phần thứ hai của sách Tông đồ Công vụ, các chương 13-28 nêu bật sự truyền giáo của thánh Phaolô. Các trình thuật cho chúng ta thấy ba nhân tố thần học song song quan trọng sau đây:

1. Gương mặt của Saolô lòng đầy hận thù, hăng hái tìm cách bắt hại và bỏ tù tất cả những ai tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu và gương mặt của một Phaolô không ngừng thôi thúc Kitô hữu vững vàng trong lòng tin và kiên trì chịu đựng mọi bắt bớ gian lao thử thách vì Chúa Giêsu Kitô.

Kinh nghiệm cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Kitô Phục Sinh đã khiến cho Phaolô xác tín rằng con đường duy nhất giúp hiện thực ơn gọi làm người toàn vẹn là bước theo Chúa Giêsu Kitô và sống Tin Mừng của Ngài, cho dù có phải trả giá đắt đỏ bằng chính sự sống của mình đi nữa.

2. Nhân tố thần học song song thứ hai là kinh nghiệm đau khổ mà thánh Phaolô phải chịu vì Thập Giá Chúa Kitô và kinh nghiệm bách hại mà cộng đoàn Kitô phải sống. Phaolô đã lâm cảnh lao đao lận đận, ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh vì Chúa Kitô và vì Tin Mừng của Ngài. Và Kitô hữu trong cộng đoàn tiên khởi thời đó cũng như trong các thế hệ sau này khắp nơi trên thế giới đều phải sống kinh nghiệm Thập Giá như thầy mình là Chúa Giêsu Kitô.

Chỉ khi biết phám phá ra cái logic lạ lùng ngược đời ấy, con người và thế giới mới tìm được thế quân bình hạnh phúc trọn vẹn thời khai nguyên vũ trụ và mới thực hiện được chương trình sống mà Thiên Chúa muốn.

Nói cách khác, con đường dẫn đến cuộc sống giờ đây là con đường dẫn tới Thập Giá và khổ đau mà Kitô hữu cần phải chấp nhận mỗi ngày trong tâm tình của Chúa Giêsu Kitô, để sinh vào cuộc sống và thế giới này, để mở mắt nhìn thấy cha mẹ, người thân, mặt trời, trăng sao, thú vật và hoa cỏ xinh tươi. Đứa bé nào cũng phải xé lòng mẹ và khóc tiếng chào đời. Nó chào đời và đời chào đón nó bằng tiếng khóc pha trộn nỗi vui mừng và niềm hy vọng.

3. Mấu điểm thần học song song thứ ba được nêu bật trong phần 2 của sách Tông Đồ Công Vụ là cái song song giữa kiểu cách mà Thiên Chúa hướng dẫn cuộc sống của thánh Phaolô với kiểu cách Thiên Chúa hướng dẫn cộng đoàn Kitô hữu, Giáo hội và thân mình mầu nhiệm của Ngài.

Trên con đường cuộc sống lòng tin, chúng ta tất cả đều cần đến người hướng đạo có nhiều kinh nghiệm chỉ bảo, khuyên nhủ và khuyến khích. Thánh Phaolô đã được Annania chỉ bảo, giảng giải và hướng dẫn trên con đường cuộc sống mới do Chúa Kitô Phục Sinh chỉ vẽ cho ông. Giờ đây thánh nhân chọn lựa các linh mục, các vị hữu trách có nhiệm vụ hướng dẫn cộng đoàn Kitô hữu. Đó là những vị bô lão. Bô lão ở đây không ám chỉ sự già dặn của tuổi tác cho bằng sự già dặn kinh nghiệm trong cuộc sống lòng tin, lòng tin cậy trông và lòng mến.

Vị linh mục, người lãnh đạo tinh thần của cộng đoàn già dặn về tuổi tác là một phần thứ yếu, nhưng phải già dặn về kinh nghiệm sống thân tình với Thiên Chúa và thông hiểu giáo huấn Tin Mừng của Chúa cũng như giáo huấn của Giáo hội, đó là điều thiết yếu mà linh mục cần phải có. Chúng ta hiểu tại sao trước khi trao cho Phêrô trọng trách hướng dẫn Giáo Hội, Chúa Giêsu đã ba lần hỏi xem ông có yêu mến Ngài hơn những người này không? Chính tình yêu là linh hồn của công tác rao giảng nước Chúa và là hộ chiếu giúp tín hữu được bước vào kinh thành hạnh phúc. Nó là một tình yêu trọn vẹn trong mọi chiều kích thần học cũng như xã hội ở đời này cũng như trong cuộc đời mai sau. Amen.

-----------------------------

 

PS 5-C79. Giới răn yêu thương

 

Thánh Gioan đã mở ra một tương lai tươi đẹp cho toàn thể nhân loại. Trong bài đọc thứ hai được trích: PS 5-C79


Thánh Gioan đã mở ra một tương lai tươi đẹp cho toàn thể nhân loại. Trong bài đọc thứ hai được trích từ chương áp cuối của sách Khải Huyền, tức chương 21,2-5, sẽ có một trời mới, đất mới, một thành thánh Giêrusalem mới, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. Người sẽ lau sạch nước mắt của họ, nhưng trong thời lữ hành tại thế, các tín hữu cũng như toàn thể Hội Thánh phải chịu nhiều gian lao thử thách. Bài đọc một thuật lại cuộc viếng thăm của hai tông đồ Phaolô và Barnaba tại các giáo đoàn Listra, Ticonio và Antiokia. Hai vị tông đồ khuyên nhủ các tín hữu giữ vững đức tin mặc dù những gian lao thử thách: "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa".

Tâm điểm của Lời Chúa Chúa Nhật thứ 5 Phục Sinh năm C, chính là giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu ban bố và trăn trối cho các môn đệ trước khi Người ra đi chịu chết: "Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Giới luật yêu thương của Cựu Ước: "Ngươi không được để lòng ghét anh em. Ngươi không được trả thù, không được oán hận. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình" (Lêvi 19,17-18). Giới luật đó đã được Chúa Giêsu hoàn tất và ban bố như luật tối thượng của giao ước mới, của luật mới: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất, còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình. Tất cả luật Môisen và các sách Ngôn Sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy" (Mt 22,37-40).

Luật yêu thương này là cốt tủy của đạo Chúa và cũng là nền tảng của mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cũng như giữa con người với nhau. Mến Chúa yêu người đi song đôi với nhau. Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu tha nhân và tình yêu tha nhân là thước đo tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa là mẫu mực để tình yêu con người trở nên hoàn thiện. Chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước để mỗi người noi theo: Tình yêu cốt tủy ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau" (1Ga 4,10-11).

Yêu thương bằng cả con tim và bằng hy sinh cả mạng sống chứ không phải chỉ yêu thương bằng môi miệng. Tình yêu bao giờ cũng minh chứng bằng việc làm, bằng hành động. Luật yêu thương còn là điểm nòng cốt để chứng tỏ chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Đây cũng là dấu chỉ để người khác nhận ra chúng ta là người Kitô. Và đây cũng là chứng tá của các môn đệ Kitô cho thế giới đầy bất hoà hôm nay. "Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy ở điểm này, là các con có lòng yêu thương nhau".

Lời Chúa Chúa Nhật thứ 5 Phục Sinh mời gọi mỗi tín hữu Chúa Kitô, những người môn đệ của Chúa hôm nay hãy xây dựng trời mới, đất mới, bằng chính lòng tin sắt đá và tình yêu tinh ròng. Hãy kiểm điểm lại cách ăn nết ở của mình, xem đã nhập tâm giới luật yêu thương của Chúa đến đâu. Bao lâu còn bất hoà chưa sẵn lòng tha thứ, còn để bụng thù oán, bấy lâu mình chưa phải là môn đệ của Chúa Kitô.

Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con thực thi giới răn yêu thương. Xin đổ tràn tình yêu của Chúa xuống trên chúng con để chúng con có thể yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật lòng trong mọi hoàn cảnh.

-----------------------------

 

PS 5-C80. SỰ PHONG PHÚ CỦA YÊU THƯƠNG

Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta biết bản tính phức tạp của con người, và cả những động lực: PS 5-C80


Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta biết bản tính phức tạp của con người, và cả những động lực liên kết đàng sau mỗi việc chúng ta làm. Ít nhất có năm loại yêu thương.

Loại thứ nhất là yêu thương vụ lợi. Chúng ta yêu thương người khác bởi vì họ có ích cho chúng ta. Nhưng như thế giống với tình ích kỷ hơn là tình yêu. Tôi muốn có một vật nào đó của bạn, nhưng tôi không muốn có bạn.

Loại thứ hai là yêu thương lãng mạn. Đó là loại tình cảm hướng chúng ta về người khác bởi vì niềm vui thích mà người khác đem lại cho chúng ta. Chúng ta say mê người khác. Nhưng đó không phải là tình yêu. Chúng ta tưởng rằng mình yêu người khác, nhưng thật ra, chúng ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu này không kéo dài, đó là lý do làm cho một số các cuộc hôn nhân thất bại.

Loại thứ ba yêu thương có tính chất dân chủ, đặt trên nền tảng bình đẳng theo luật pháp. Chúng ta tôn trọng những người khác vì họ là những công dân. Chúng ta thừa nhận tự do của họ để ngược lại, tự do của chúng ta cũng được thừa nhận. Lý do chúng ta góp phần vào điều tốt cho người khác là niềm hy vọng được đáp lại bằng điều tốt.

Loại thứ tư là yêu thương nhân bản. Đó là tình yêu dành cho nhân loại nói chung. Nhược điểm của nó là một tình yêu trừu tượng không có gì cụ thể: “Tôi yêu nhân loại, nhưng tôi không thể dính dáng gì với họ”.

Loại thứ năm là tình yêu Kitô giáo, tóm tắt trong giới răn: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”. Ở đây chúng ta đang nói về tình yêu thương vô vị lợi, yêu thương cả khi chúng ta không được gì trong tình yêu ấy. Tình yêu ấy vẫn luôn tồn tại cho dù bị thù ghét và bách hại. Nó không phải là một nhiệt tình đột biến, nhưng là một quan hệ bền vững. Nó biểu lộ trong việc phục vụ, yêu mến và hy sinh bản thân. Loại yêu thương này chỉ có thể hoàn thành với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần.

Người ta nói rằng nếu bạn làm một công nghiệp tốt, nhưng có một hậu ý không nói ra thì tốt hơn không làm. Nhưng việc bác ái là ngoại lệ duy nhất. Cho dù người ta làm việc bác ái với một lý do không rõ ràng thì nó vẫn là một hành động tốt và đem lại lợi ích cho người khác, lý do của bạn không có gì quan trọng. Ngoài ra, việc tính ích kỷ và lòng quảng đại cùng có mặt trong chúng ta làm cho điều tốt mà chúng ta thực hiện càng được đáng khen. Nó đến từ một cuộc tranh đấu.

Người ta thường xem vấn đề yêu thương là được yêu thương hơn là trở thành một con người yêu thương. Vì thế, mọi nỗ lực của người ta là làm cho mình dễ thương, khả ái bằng việc đạt đến sự thành công, có vẻ đẹp mê hồn, có quyền lực hoặc giàu có… Và như thế sau cùng họ không có tình yêu thương, bởi lẽ họ được yêu thương không phải vì chính họ mà vị sự vật họ có, hoặc sự nghiệp họ đã hoàn thành. Nhưng nếu họ trở thành một con người yêu thương, họ có thể được yêu vì chính họ. Và sau cùng, mọi người chúng ta muốn được yêu vì chính mình. Những ai không được yêu thì tìm cách cho người ta ngưỡng mộ mình.

Có ba tình trạng: (1) Không yêu thương và không được yêu thương, điều này xem ra giống hoả ngục trần gian. (2) Yêu thương nhưng không được yêu thương đáp lại –dù đây là điều đau khổ nhưng vẫn tốt hơn tình trạng đầu tiên. (3) Yêu thương và được yêu thương –đây là tình trạng được chúc lành mà Đức Giêsu đã vui hưởng: “Như Cha Thầy đã yêu mến Thầy, cũng thế Thầy đã yêu mến anh em!”.

Yêu thương biểu lộ điều tốt nhật trong con người đang yêu. Người ta sống trong sự tốt lành nhất và rực rỡ nhất khi yêu. Họ giống như một ngọn đèn toả sáng. Tình yêu là một chọn lựa chớ không phải là một cảm nhận. Nhưng từ chối yêu thương là bắt đầu chết. Điều tệ hại nhất là sự dửng dưng lạnh giá.

NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC:

1. Một ông nọ người Hy Lạp, năm mươi tuổi đã chết trong một nhà tế bần ở New York. Ông đã có một đời sống tốt lành, theo lời ông nói. Ông đã muốn có lại một đời sống tốt đẹp, muốn vui vẻ bỏ bớt tiền bạc và sức khoẻ để thực hiện điều ấy ở Mỹ, chỉ cần ông có thể có lại vợ con, gia đình và có lại tình yêu thương ngày nào. Tình yêu đã là một điều quan trọng trong đời sống. Chính tình yêu đã giữ cho mọi sự vật, ở bên nhau và đem lại ý nghĩa cho đời sống.

Hôm trước ngày ông mất, ông đã nhắn lại cho những thành viên của gia đình mà theo lời ông hay gây gổ và xung khắc nhau. Ông nói với họ một cách nghiêm trang rằng họ phải học yêu thương nhau, phải cố gắng nhiều hơn để sống yêu thương. Yêu thương là tất cả, tất cả. Họ phải tin vào điều đó, vì đó là lời nói của người sắp chết.

Đức Giêsu đã nói những lời tương tự cho các bạn hữu của Người trong đêm trước khi Người chết. Người đã cho họ một sứ điệp đơn giản, rõ ràng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

2. Người ta kể câu chuyện về một cậu bé mười hai tuổi tên Stephen. Cậu bị què vì bệnh viêm tuỷ xám. Cậu có một em trai Mark, mười tuổi. Như những đứa con trai khác, chúng thường đánh nhau, nhưng trong thâm tâm, chúng vẫn đối xử tốt với nhau. Thỉnh thoảng Stephen ganh tỵ với em mình có đôi chân mạnh khoẻ.

Một đêm kia, nó nằm mơ thấy mình ở trong rừng sâu và huyền bí. Ở đó, nó đến một hang động tối đen. Giữa hang động một ngọn lửa cháy sáng. Kế đó, từ bóng tối một người mặc áo choàng dài bước ra. Ông ta nói với Stephen, ông là thần của khu rừng và để thưởng cho người nào tìm ra hang động, người ấy sẽ có một lời ước được thực hiện –chỉ một lời ước thôi cho dù là ước muốn điều gì.

Stephen không cần nhiều thời gian để suy nghĩ. “Tôi muốn có một đôi chân khoẻ mạnh” nó nói. Lúc đó, ông thần bỏ áo choàng ra và trước khi Stephen hiểu được ý nghĩa, nó thấy mình nằm lại trên giường. Em nó nằm ngủ ở giường bên cạnh với những tiếng thở đều đều. Ông thần giở cái chăn ra khỏi đôi chân của Mark.

“Ông định làm gì?” Stephen hỏi.

“Tôi sẽ bắt đầu cuộc phẫu thuật” Ông thần nói.

“Cuộc phẫu thuật gì?”.

“Chuyển đổi. Khi cuộc phẫu thuật hoàn tất, cậu sẽ có đôi chân của Mark còn nó sẽ có đôi chân của cậu. Nhưng đừng lo. Không ai biết được đâu, người ta sẽ nghĩ rằng mọi việc vẫn như cũ”.

“Tôi không bao giờ nghĩ mọi việc vẫn như thế” Stephen nói.

“Cậu chắc không mong tôi lôi đôi chân khoẻ từ trong không khí ra đó chứ?”.

Nhưng Stephen ở trong tình trạng xúc động mạnh. Một hình ảnh loé ra trong tâm trí cậu. Cậu thấy chính mình tự do chạy nhảy còn phía sau cậu, em Mark của cậu kéo lê đôi chân của nó. Cậu không thể làm điều đó cho đứa em trai của mình. “Tôi không muốn điều đó” cậu hét to.

Khi nghe tiếng hét, ông Thần già tức giận bỏ đi. Stephen vui mừng khi nhìn lại mình. Sáng hôm sau, cậu thức dậy và nhìn sang em cậu. Nhớ lại giấc mộng, cậu mỉm cười. Từ ngày đó trở đi cậu không bao giờ cảm thấy ganh tỵ với em cậu và yêu thương nó hơn bao giờ hết.

Stephen muốn sống hạnh phúc nhưng không phải bằng cái giá là gây ra đau khổ cho em trai cậu. Hạnh phúc thật chỉ tìm thấy trong tình yêu vô vị lợi. Yêu thương là đặt người khác đừng trước mình.

-----------------------------

 

PS 5-C81: YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY YÊU


Ga 13,31-35

 

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Đó là lệnh truyền, lời trăn trối: PS 5-C81


Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Đó là lệnh truyền, lời trăn trối, là di chúc của Chúa Giêsu. Đó là điều đảm bảo sự sống đời đời cho chúng ta là môn đệ bước theo Ngài.

Thật vậy, trong bữa tiệc ly, trước khi đi vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu đã để lại cho các Tông đồ và cho tất cả những người đi theo Chúa lời tâm huyết:  "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Đây còn là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!

Vì  là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ và là dấu chỉ cho mọi người nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.

Yêu thương nhau, đâu phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy. Người ta từng nói: bốn biển là anh em (tứ hải giai huynh đệ) hay Đạo lý cha ông ta cũng đã răn dạy: thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng thương yêu rộng mở của người đối với người trong một xã hội.

Đối với Kitô giáo, yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng thuộc về Chúa Giêsu. Nét mới mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ thước đo tình yêu đối với tha nhân không còn là "tình anh em máu mủ", cũng không còn là "bản thân mình" nữa nhưng là chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời Chúa Giêsu đã bằng chứng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính mình, Ngài đã khéo léo khi so sánh: "Không ai có tình yêu lớn hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu" (Ga15, 13).  Hẳn thật đó là bản đúc kết, là bản tóm tắt nội dung cuộc sống và cái chết của Đấng bị đóng đinh vào thập giá để nói lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết mọi con người không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó phải là mẫu mực để chúng ta noi theo.

Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt Phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải "yêu thương anh em", yêu thương người khác "như chính Ngài đã yêu thương" mọi người đến tột cùng, đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.

Chính tình yêu thương vô vị lợi, bao dung này sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ của Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn của các Kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu.

Trong cuộc sống hàng ngày, không phải chúng ta không biết đến đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng là yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương họ. Chúng ta vẫn được giảng dạy: Tình yêu là dấu chứng thuộc về Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến cuộc sống, luôn luôn vẫn có một khoảng cách: chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu tha nhân trong mức độ nào đó để khỏi phải quá thiệt thòi cho mình. Chúng ta vẫn muốn dựa vào tấm áo hay danh xưng để chúng ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám "liều mạng" để chỉ khẳng định chân tính Kitô hữu của mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật. Vì thế mà ngay đối với người bên cạnh, người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối lại như thế ấy! Quan hệ của chúng ta đối với tha nhân còn mang nặng tính vụ lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì về niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình Yêu cả! Trái lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa, không làm cho ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi vì: "người ta cứ dấu này mà nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau".

"Như thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau".

Vậy, ai không yêu thương nhau, người ây không xứng là người kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo. Thiên Chúa là tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Không yêu thương nhau là không biết Thiên Chúa, là chối đạo.

Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục sống đức tin, làm chứng về đức tin mà mình lãnh nhận từ khi lãnh bí tích Rửa Tội, đó là bằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng đọng để ân sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới răn mới và những khoàng cách xa vời trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới răn yêu thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tối cao đã hy sinh tính mạng vì yêu thương chúng con. Chúa yêu chúng con và Chúa muốn chúng con hạnh phúc, được hạnh phúc đời đời với Chúa ngay khi còn sống ở đời này, xin cho chúng con biết sống đức tin chính là giữ lời Ngài truyền dạy, đó là yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng con. Amen.

-----------------------------

 

PS 5-C82:  NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC


Ga 13,31-35

 

Ngày hôm nay, các tổ chức, các công ty-xí nghiệp họ thường có những huy hiệu hay những bộ: PS 5-C82


Ngày hôm nay, các tổ chức, các công ty-xí nghiệp họ thường có những huy hiệu hay những bộ đồng phục để người ta nhận ra thành viên của tổ chức ấy, hoặc để các thành viên trong tổ chức đó nhận ra nhau. Bài Phúc âm chúng ta vừa nghe, CG không dùng những hình thức bên ngoài để người ta nhận ra ai là môn đệ Chúa, nhưng dấu hiệu để chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Chúa đó là phải có lòng yêu thương.

Có lẽ khi nói đến hai chữ "yêu thương" ai trong chúng ta cũng đều hiểu và cảm nhận được ngay. Vì con người không thể sống nếu không biết yêu thương. Ngay khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để trong lương tâm của mỗi người khả năng yêu thương. Nhờ đó con người có thể yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau. Chính vì hai chữ "yêu thương" nó quan trọng như thế cho nên khi CG sắp bước vào cuộc khổ nạn, CG đã để lại cho các môn đệ lời trăn trói sau cùng, đó là: "các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con".

Nhưng yêu thương như Chúa yêu thương là như thế nào?

Tâm lý tự nhiên, chúng ta thường yêu thương những người trong gia đình, trong huyết tộc, hay yêu thương những người thương ta, làm ơn cho ta. Nhưng CG  yêu thương tất cả mọi người, từ những em bé, những kẻ tội lỗi, những người bị xã hội ruồng bỏ, và cả những kẻ làm hại Ngài, giết chết Ngài. Tình yêu đó đã làm cho Ngài không ngại khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài không ngại rửa chân cho Giuđa kẻ sắp phản bội Ngài. Ngay cả lúc trên thập giá, khi còn chút hơi mọn, thay vì Ngài trách mắn những kẻ làm khổ mình nhưng Ngài lại "xin Chúa Cha tha cho họ". Ngài không nhìn họ là kẻ thù nhưng Ngài thấy nơi họ là những con người cần được thương xót.

Khi yêu thương chúng ta, Chúa không so đo hơn thiệt, không đặt bất cứ điều kiện nào. Ngài cho tất cả, hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để ta được hạnh phúc. Ngài cũng muốn chúng ta là  môn đệ của Ngài cũng phải biết yêu thương tất cả mọi người như vậy.

Nhìn vào đứa con người ta có thể nhận ra cha mẹ của chúng, qua nét mặt, lời nói. Cũng thế, Chúa Giêsu sẽ được nhiều người nhận biết khi chúng ta là những môn đệ của Chúa biết phác hoạ lại chân dung của Thầy bằng một đời sống biết yêu thương.

 Mẹ Têrêxa Calculta đã dùng chính cuộc đời của mình để yêu thương và giúp đỡ người nghèo. Một lần nọ, mẹ đưa về nhà dòng một ông lão bị bỏ rơi trên đường phố, mình đầy ghẻ chóc. Sau một thời gian được mẹ săn sóc, ông xin được rửa tội. Mẹ mới hỏi: tại sao ông muốn được rửa tội. Ông trả lời: vì tôi thấy tình thương của Chúa dành cho tôi qua sự săn sóc của mẹ. Chính cách sống yêu thương của Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho nhiều người tin vào Chúa mà còn  làm cho cả thế giới thấy được tinh thần yêu thương của kitô giáo. 

Làm sao chúng ta có thể nói với anh chị em lương dân đạo công giáo là đạo của tình yêu, Thiên Chúa chúng ta thờ, Ngài yêu thương hết mọi người mà chính bản thân, gia đình của chúng ta lại không yêu thương, không giúp đỡ nhau.

Tuy nhiên, nói yêu thương thì rất dễ nhưng để yêu thương như Chúa yêu không phải là chuyện dễ chút nào. Bởi vì đã gọi là yêu thương thì phải chấp nhận hy sinh: hy sinh tiền của, sức khoẻ, thời giờ, nhất là khi phải yêu thương những người chúng ta không thích, những người làm khổ chúng ta. Tự sức chúng ta thật khó để thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa nhưng chúng ta sẽ làm được nếu dựa vào Chúa, noi gương Chúa. Nhờ kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ tập nhận ra Chúa qua anh chị em. Bởi vì Chúa Giêsu đã đồng hoá Ngài nơi tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.

Xã hội ngày hôm nay, người ta có thể mua được nhiều thứ bằng tiền, nhưng cái đang rất cần để mang lại hạnh phúc là yêu thương thì lại càng ít được quan tâm. Chính vì sự vắng bóng tình yêu nên cuộc sống của con người càng trở nên khô cằn. Biết bao gia đình tan vỡ, con cái chống lại cha mẹ, vợ chồng ly tán, anh chị em bất hoà cũng chỉ vì thiếu vắng tình yêu.

Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta, biết can đảm thực thi lệnh truyền yêu thương của Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Bằng một đời sống biết quan tâm và giúp đỡ nhau, không chỉ là cơm áo gạo tiền, nhưng một lời nói tốt, một lời cầu nguyện, một sự thông cảm tha thứ đó cho nhau đó cũng là chúng ta đang thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa, đó là chúng ta đang làm chứng cho Chúa.

-----------------------------

 

PS 5-C83: GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG (Thiếu nhi)


Ga 13,31-35

 

Chúng ta đang sống trong tuần 5 mùa phục sinh. Bây giờ con xin hỏi các em thiếu nhi:: PS 5-C83


Chúng ta đang sống trong tuần 5 mùa phục sinh. Bây giờ con xin hỏi các em thiếu nhi:

1. Chúng ta vừa nghe đọc bài Tin Mừng Chúa Giêsutheo thánh nào? Thưa thánh Gioan. Thầy xin hỏi các em câu thứ 2:

2. Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là gì? Thưa: "Thiên Chúa là Tình yêu".

Bài Tin Mừng thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe nằm trong bối cảnh những lời giã biệt của Chúa Giêsu trước khi Ngài bước vào cuộc thương khó.

Chúng ta cũng đặc nghi vấn:tại sao Hội Thánh lại chọn bài Tin Mừng này, khi chúng ta đang sống trong những ngày hoan lạc Phục Sinh? Xin thưa rằng: chúng ta đang sống trong giai đoạn cuối của mùa Phục Sinh. Lúc này là thời gian cuối cùng mà Chúa Giêsu Phục Sinh hiện diện với các tông đồ, vì Ngài sắp về trời vinh hiển.

Giáo Hội muốn cho chúng ta nghe lại những lời giã biệt của Chúa Giêsu, vì những lời đó như là lời trăn trối, là lệnh truyền của Chúa cho các môn đệ và cho mọi người chúng ta.Lệnh truyền này như một điều răn mới truyền lại cho chúng ta.Vậy thầy xin hỏi tiếp các em thiếu nhi:

3. Điều Răn mới mà Chúa Giêsu ban cho các tông đồ cũng như cho chúng ta là điều gì? Thưa là điều luật yêu thương: "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".

Thật vậy, dấu hiệu nhận biết chúng ta là người con Chúa là chúng ta biết yêu thương nhau. Chính Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ và cho chúng ta điều đó: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau".Nhiều người không cùng đạo với chúng ta cũng rất thán phục chúng ta, khi họ thấy chúng ta biết sống đoàn kết yêu thương nhau, yêu thương mọi người. Qua đời sống tốt lành, đời sống yêu thương đó, họ sẽ có thiện cảm với chúng ta với đạo của chúng ta.

Các em thiếu nhi thân mến, Chúa cũng mời gọi các em sống tình yêu thương của Chúa ngay trong gia đình qua việc biết sống ngoan hiền, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, anh chị em. Các em cũng thể hiện tình yêu thương đó tại những nơi công cộng, nơi học đường, nơi trường lớp của các em bằng cách kính trọng, lễ phép với những người lớn tuổi, với thầy cô giáo. Các em cố gắng học tập tốt, biết yêu thương giúp đỡ mọi người, đối xử tốt với bạn bè.

Khi các em sống gương mẫu, hiền hòa như vậy, các em đang sống đúng ý Chúa, các em đang thể hiện tình yêu thương của Chúa cho mọi người. Chúng ta luôn tâm niệm rằng: khẩu hiệu của người Công Giáo của chúng ta là biết yêu thương nhau.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết sống yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.

-----------------------------

 

PS 5-C84: CHÚA NHẬT V PHỤC SINH


Ga 13,31-35

 

Trước khi một ai đó sắp chết, họ thường gọi người thân lại để trăn trối những điều quan trọng: PS 5-C84


Trước khi một ai đó sắp chết, họ thường gọi người thân lại để trăn trối những điều quan trọng. Cũng vậy, khi biết mình sắp đi vào cuộc khổ nạn, CG quy tụ các môn đệ lại bên bàn tiệc ly để trao lại một lời trăn trối đầy tâm huyết: " Các con hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con". Để thực hiện Lời trối của CG: "hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương", trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu xem CG đã yêu môn đệ của Ngài như thế nào? Cứ mỗi Chúa Nhật, OBACE đến nhà thờ dự lễ, chúng ta được nghe đọc Phúc âm. Phúc âm chính là những lời ghi lại những hành động yêu thương của CG dành cho nhân loại, và cách riêng là dành cho các môn đệ của Ngài. Hành động yêu thương ấy thể hiện cách cụ thể qua việc: CG tin tưởng chọn gọi các môn đệ, tận tình hướng dẫn dạy dỗ cho các ông nhiều điều, đồng hành cảm thông chia sẻ với các ông những vui buồn, khó khăn trong cuộc sống. Tình yêu của CG dành cho các môn đệ còn được diễn tả một cách ấn tượng và cảm động qua việc CG hạ mình rửa chân cho từng người môn đệ trong buổi tiệc ly. Hành động hạ mình này như là một sứ điệp tóm kết ý nghĩa của tất cả những gì CG đã làm cho các môn đệ từ xưa đến nay: "hy sinh phục vụ vì yêu".

Trong cuộc sống đời thường xung quanh con, con nhận ra có một tấm gương hy sinh phục vụ giống Chúa: " Gần nhà con có một người bác, con quen gọi là bác út. Bác Uùt vào tuổi 45, có được 8 người con. Đùng một cái, vợ bể nợ bỏ xứ đi xa. Từ đó, mỗi ngày, bác phải đi làm thuê đóng thùng suốt lúa cho người ta, lãnh 7000 đồng mỗi ngày mua gạo nuôi con. Ngày thường, nhà ăn cực ăn khổ lắm. Đến Chúa Nhật, bác út dành ít tiền mua miếng thịt heo kho cho các con ăn. Trong bữa ăn, bác chỉ ăn toàn là nước thịt với rau, còn thịt thì nhường cho con. Mấy đứa con hỏi, sao cha không ăn thịt đi? Bác trả lời: bên chỗ làm, ba ăn sung sướng lắm, tụi con đừng lo, cứ ăn đi.  Mỗi khi trong gia đình có thức ăn ngon, bác đều nhường hết cho con. Sau này, các con đã khôn lớn, trong một lần dạy con, bác mới nói thiệt: thật ra, chỗ làm của cha ăn uống cũng kham khổ lắm nhưng vì cha thấy các con còn nhỏ, cần phải ăn nhiều để lớn, để có sức học, mà gia đình mình lại nghèo nên cha phải nhường cho tụi con ăn."

Không chỉ có người cha trong câu chuyện, mà con biết rằng trong OBACE đây, cũng có rất nhiều người có cách yêu giống như Chúa: yêu bằng hy sinh phục vụ. Trước tiên là các ông chồng. Các ông là trụ cột trong gia đình, con nhận thấy việc hy sinh của các ông là cố gắng đổ mồ hôi, vất vả kiếm đồng tiền để lo cái ăn, cái mặc trong gia đình. Hay hơn nữa, con nghe nói có một số ông hy sinh cả việc uống rượu, cờ bạc để tiết kiệm tiền cho con ăn học, cho vợ sắm sửa quần áo mới. Có những ông rành tâm lý hơn, đi làm về mệt lắm, mà còn xuống bếp phụ vợ nấu nồi cơm, lặt bó rau, để tìm kiếm nụ cười trên khuôn mặt vợ, để tạo thêm  bầu khí đầm ấm trong gia đình. Còn các bà, các chị thì việc hy sinh cũng chẳng kém. Sáng sớm đã phải thức dậy nấu cơm nước cho chồng con ăn, quét dọn nhà cửa, khệ nệ bưng thao đồ đi giặt, rồi còn phải đưa con cái đi học. Ban ngày, để san sẻ gánh nặng với chồng, chị còn tìm một việc gì đó để làm kiếm thêm vài chục ngàn. Có nhiều người vợ khác vì kinh tế gia đình khó khăn, dù chân yếu tay mềm mà cũng vất vả đi làm như chồng để cùng chồng xây dựng tương lai gia đình. Chưa kể những khó nhọc chất trên vai các chị khi con bệnh, con đau, khi gặp phải người chồng không biết lo, lại quen cờ bạc, rượu chè, gặp phải người mẹ chồng không biết cảm thông, tối ngày cứ để ý đến những chuyện vụn vặt để bắt lỗi, để chì chiết làm khổ dâu con.

Vợ chồng hy sinh cho nhau, hy sinh cho con để xây dựng hạnh phúc gia đình là điều đáng khen. Nhưng đáng mừng hơn nữa, có nhiều đôi vợ chồng công giáo còn quảng đại hơn, biết hy sinh cho bà con lối xóm. Hễ nghe làng xóm có hữu sự, đám ma, đám cưới, đám dỗ, thì sắp xếp người trong gia đình đến tiếp giúp. Mỗi tuần, hai vợ chồng làm lương cũng đâu có bao nhiêu, vậy mà một tuần lễ dám bỏ tiền ra mua một chục kg gạo, mấy chai nước mắm, 50g bột ngọt để cho gia đình nghèo trong xóm. Vợ chồng đồng lòng với nhau trong rất nhiều việc, nhưng đáng trân trọng nhất ở đây là anh chị biết tâm đầu ý hợp trong việc hy sinh phục vụ người nghèo. Đó là những việc làm rất hay thể hiện tình người với nhau và cũng là một hành động truyền giáo thiết thực nhất trong hoàn cảnh xã hội hôm nay.

Con vừa mới kể những tấm gương hy sinh phục vụ thiết thực trong đời sống gia đình, trong tương quan xóm làng. Con thiết nghĩ đây cũng là dịp thuận tiện để mỗi người trong chúng ta nhìn lại đời sống đạo của mình, tôi có biết hy sinh phục vụ cho người khác chưa hay tôi luôn là gánh nặng để người ta phải hy sinh. Thay cho lời kết, nguyện xin Đức Kitô Phục sinh ban cho chúng ta có được cách yêu giống Chúa, để từ đó, mỗi người chúng ta biết quảng đại hy sinh cho nhau bằng những việc cụ thể trong đời sống hằng ngày, hầu xây dựng hạnh phúc trần thế trong hiện tại và hướng đến thiên đàng vĩnh cửu mai sau. Amen.

-----------------------------

 

PS 5-C85: DI CHÚC CỦA ĐỨC GIÊSU


Ga 13,31-35

 

Điều răn mới: Như Thầy đã yêu, anh em hãy yêu thương nhau. Khi Giuđa đi rồi: Đức Giêsu đã: PS 5-C85


Điều răn mới: Như Thầy đã yêu, anh em hãy yêu thương nhau.

Khi Giuđa đi rồi: Đức Giêsu đã bảo: Anh làm gì thì làm mau đi. Là đi nộp Người.(c.23)

Con Người được tôn vinh: Đức Giêsu sắp hoàn tất. Người chịu nộp dể làm trọn ý Cha. Sự thương khó và thập giá đang ở trước mặt, rất gần. Con Người được tôn vinh: không phải bằng sự thương khó và thập giá. Đau khổ và sự chết là đáng sợ vô cùng. Không tôn vinh đau khổ và sự chết. Nhưng đau khổ và sự chết để hoàn tất hành trình tự hạ tự hủy để thực hiện một sự vâng phục tuyệt đối như ý Cha thì sẽ được thưởng công là tôn vinh. Không muốn nhưng làm theo ý Cha thì Cha thưởng. Hoàn toàn theo ý Cha thì Cha thưởng hoàn toàn. Nếu có phần ý riêng thì sẽ bớt phần đó ra.

Và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người: Lần đầu tiên Thiên Chúa được vâng phục trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu đại bại để Thiên Chúa đại thắng. Từ đầu đến giờ Thiên Chúa toàn là thua vì loài người không vâng phục. Giờ đây, bắt đầu một khởi nguyên mới với một nhân loại biết vâng phục theo gưong Đức Giêsu. Deus vincit ! Thiên Chúa chiến thắng!

Nếu Thiên Chúa được tôn vinh, Thiên Chúa sẽ tôn vinh Người nơi chính mình và ngay lập tức Thiên Chúa sẽ tôn vinh Nguời: Là ngay lập tức,không chờ đợi chút nào hết, cho Người Phục Sinh vinh quang và đặt Người làm Chúa và Đấng Cứu Độ.

Nhưng đỉnh của công cuộc nầy là YÊU THƯƠNG. Đức Giêsu chịu tất cả vì yêu thương và chỉ vì yêu thương: Yêu thuơng Cha và yêu thương con người. Yêu thương Cha vì 'ý Cha muốn thế'. Yêu thương con người là để mở ra cho loài người con đường cứu độ, con đường sự sống và sống đời đời. Con đường sự sống đời đời cho con ngưòi là" như Thầy đã yêu , anh em hãy yêu thương nhau". Tất cả mọi việc làm và lời dạy của Đức Giêsu tóm lại trong di chúc nầy. Và đây là dấu hiệu phân biệt của người môn đệ. Mt đã viết mệnh lệnh cuối cùng là: Hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ. ( Mt.28,19). Và 'các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung'....(Cv, 3,44).

Yêu nhau như Thầy là 'mới'. Người đã hy sinh phục vụ đến hiến mạng sống để cho chúng ta tấm gương 'như Thầy'.

Xưng mình là tín hữu, là môn đệ, mỗi người hãy tự vấn:

Trong gia đình có đạo, trong họ đạo người ta có thấy dấu chứng yêu thương không ? Người ta có nhận ra chúng ta là môn đệ không? Hay chỉ nghe phàn nàn: có đạo mà dữ quá, chưởi quá ! Tệ hơn: tu mà vậy ! Có đạo mà vậy thì con cần gì có đạo !

Mẹ Têrêsa Calcutta làm việc bác ái mà không cần giảng đạo. Người ta thấy Chúa qua việc yêu thương bà làm. Làm như Thầy thì người ta sẽ thấy Thầy. Hãy làm chứng bằng những việc yêu thương như Thầy đã yêu thương. Chúng ta hãy quyết tâm thực hiện di chúc của Chúa Giêsu. Alleluia.

-----------------------------

 

PS 5-C86: LUẬT YÊU THƯƠNG


Ga13,31-33,34-35

 

Yêu thương là "chuyện cũ", Luật Cựu Ước cũng đã từng nói:"Ngươi phải yêu đồng loại như chính: PS 5-C86


Yêu thương là "chuyện cũ", Luật Cựu Ước cũng đã từng nói:"Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình". Thế tại sao Chúa Giêsu lại nói: "Thầy ban cho các con một giới răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con"? Cái mới trong giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta và muốn chúng ta đem vào thực hành trong đời sống gì? Đó chính là hãy yêu thương nhau "như Thầy đã yêu"!

Đại văn hào Victo Hugo đã nói: " Thế giới không có người biết yêu thì mặt trời sẽ tắt". Quả thật, yêu và được yêu là nhu cầu căn bản và cần thiết nhất của con người trong mọi thời đại.

Thế nào là người biết yêu? Đây là một câu hỏi xem ra không cần thiết nhưng kỳ thực lại rất quan trọng. Bởi lẽ, tình yêu đích thực là tình yêu không vị kỷ. Người biết yêu là người biết mag lại hạnh phúc cho người mình yêu.

Sau khi chiếc tàu Titanic lộng lẫy và kiêu sa chìm xuống lòng đại đương, một tờ báo xuất bản ở Anh đã đăng kề nhau hai bức ảnh minh hoạ có nội dung như sau:

Trong bức ảnh thứ nhất, người ta thấy chiếc tàu chạm vào tảng băng, bên dưới có dòng chữ: "Sự yếu đuối của con người và sức mạnh của thiên nhiên".

Còn bức ảnh thứ hai, người ta lại thấy có một người đàn ông nhường chiếc phao cấp cứu của mình cho một người đàn bà đang bế con trên tay. Lần này, bức ảnh chú thích bằng dòng chữ: "Sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của con người".

Sức mạnh và sự vĩ đại đích thực của con người không nằm trong khả năng chinh phục hay chế ngự thiên nhiên, mà chính là khả năng chế ngự bản thân, vượt thắng sự ích kỷ. Khi thắng vượt được sự ích kỷ nơi bản thân của mình rồi, con người sẽ trở nên vĩ đại vì biết hướng đến tha nhân. Khi đó, họ đã biết cách yêu và trở thành người biết yêu!

Yêu đúng cách là "yêu như Chúa yêu". Đó là một tình yêu "cúi mình xuống rửa chân cho môn đệ", một tình yêu "mở con đường sống cho người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình", một tình yêu tha thứ cho người môn đệ thân tín chối mình, một tình yêu tha bổng cho tên trộm có lòng hối cải năn năn, một tình yêu tha thứ cho kẻ hành khổ mình. . . Nước của Chúa là Vương quốc của tình yêu. Con người sống trong vương quốc này phải là những con người biết yêu "như Thầy đã yêu". Con người chúng ta được Chúa cứu chuộc để trở thành những con người biết yêu thương nhau. Mẫu số chung của những người mang danh Kitô hữu là Tình yêu: "Cứ dấu này mà người ta nhận ra các con là mộn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau". Bộ y phục để chúng ta mặc vào dự tiệc Nước Trời là tình yêu. Món quà mà Chàng Rể mong chờ ta mang đến tặng Ngài cũng chính là tình yêu: "Ta muốn lòng nhân cứ không cần hy lễ".

Chúa đã ban cho chúng ta một kho tàng vô tận là con tim và tấm lòng yêu mến. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng phát huy và sử dụng nó cho thật tốt và thật hữu hiệu để nó trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện cho chúng ta. Chúng ta có thể nghèo về vật chất, về địa vị và danh vọng trong xã hội. Nhưng đừng để cho mình nghèo nàn và thiếu thốn về tình yêu. Thắng vượt tính ích kỷ và vụ lợi, con người sẽ trở nên giàu có về tình yêu. Gandhi đã nói: "Sức mạnh vĩ đại nhất mà nhân loại có trong tay chính là tình yêu".

Hãy yêu thương thật nhiều để trở thành con cái của Thiên Chúa Tình yêu và thuộc về Vương quốc của tình yêu.

-----------------------------

 

PS 5-C87: YÊU NHƯ THẦY ÐÃ YÊU


Ga 13, 31 - 33a. 34 - 35

 

Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em........ Trong bộ phim La Strada của Fredorico Fellini: PS 5-C87


Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34)

Trong bộ phim La Strada của Fredorico Fellini được trình chiếu 1954, khán giả thường nhắc lại một cảnh gây ấn tượng: một anh hề đang nói chuyện với 1 thiếu nữ. Cô nàng tỏ ra mệt mỏi vì phải cố gắng thương yêu những người không thể yêu và cũng chẳng đáng yêu, và nàng không muốn liên hệ với họ nữa. Khi (cuộc gặp gỡ sắp kết thúc) thiếu nữ định ra về, anh hề nói với nàng: Nếu em không yêu những người ấy thì ai sẽ yêu họ.

Lời anh hề nói với cô thiếu nữ làm tôi liên hệ với lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con hãy yêu". Đó cũng là lời Chúa Giêsu muốn nói với từng người chúng ta.

Chúa muốn chúng ta yêu thương tha nhân, nhưng thực tế chúng ta đã yêu thương tới mức độ nào? Có sẵn sàng yêu những người chúng ta không thích? Những người không ưa chúng ta, những kẻ nghịch thù có ý muốn làm hại chúng ta?

"Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13, 35)

Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương nhau và Ngài là mẫu gương sống động cho chúng ta noi theo. Ngài đã từ trời xuống thế, đi tìm kiếm kẻ tội lỗi để cứu giúp. Dù tội là chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng Chúa Giêsu lại đi tìm kẻ đang chống lại Ngài và chịu vác thập giá để đền thay tội lỗi cho tội nhân, chuộc họ khỏi đau khổ đời đời. Chính Chúa Giêsu biết Giuđa sẽ phản bội nhưng Ngài vẫn thương yêu Giuđa, nhận ông làm người thân cận của mình, nhưng Giuđa đã không màng đến tình cảm đó, không biết hối cải, sửa mình. Giuđa là đại diện cho những  Kitô hữu không vâng giữ lời Chúa, cứng lòng trước những lời nhắc bảo của các mục tử và muốn sống xa đàn, không theo ý của chủ chiên.

Tuy nhiên, có một điều Giuđa không ngờ là cho dù ông có yêu mến Chúa Giêsu hay không thì Chúa vẫn thực hiện được kế họach ngàn đời của Ngài là cứu vớt các linh hồn. Thiên Chúa khôn ngoan, quyền phép và đầy tình yêu thương muốn chúng ta cộng tác vào công trình lớn lao của Ngài. Đó là một vinh dự, là hồng phúc cho con người. Nhưng nếu có ai muốn chống lại kế họach của Thiên Chúa, muốn phá hại công trình của Người thì vô phúc cho kẻ đó, còn chương trình Ngài vẫn không bế tắc.

Chính lúc Giuđa nộp Ngài, chính lúc Ngài bị trói hết chân tay trên thập giá, lại là lúc nhân lọai được ơn cứu rỗi, là lúc Ngài được tôn vinh.

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta noi gương Ngài, dùng tình yêu hóa giải hận thù, dùng sự hy sinh giúp đỡ thật tình đáp lại thái độ hằn thù, chua chát của kẻ ghét mình.

Khi yêu thương, chúng ta trở nên giống Thầy Chí Thánh và được gọi là con cái sự sáng, là con Chúa Trời. Và chắc chắn chúng ta sẽ được phần thưởng, được hưởng gia tài của người con Chúa.

Nếu chúng ta không biết yêu thương và tha thứ, chúng ta sẽ không có niềm hy vọng, như Giuđa bởi cứng lòng mà chết đau đớn trong tuyệt vọng, không biết trông cậy vào lòng nhân từ Chúa, không biết chạy đến Chúa với lòng khiêm nhu, sám hối để được Chúa nhân hậu thứ tha.

Ngày hôm nay, ai trong chúng ta cũng biết rõ giới răn Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ: "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13, 34); nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?(Mt 5, 46) Đối với người Công Giáo thì không được coi ai là kẻ thù, nhưng luôn cầu nguyện và mong điều tốt lành cho mọi người, mong cho chân lý, công bằng, bác ái đươc thực thi. Ước gì chúng ta biết sống triệt để giới luật yêu thương Chúa Giêsu đã truyền để xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.

-----------------------------

 

PS 5-C88: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG


Ga 13, 31 - 33a. 34 - 35

 

Có thể nói bất cứ trong một gia đình nào khi người cha hay mẹ sắp lìa bỏ trần gian này, các ngài đều: PS 5-C88


Có thể nói bất cứ trong một gia đình nào khi người cha hay mẹ sắp lìa bỏ trần gian này, các ngài đều mong mỏi đàn con, đàn cháu của mình còn ở lại trần gian biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Dù trong lúc các ngài chỉ nói thều thào trong hơi thở yếu ớt các ngài vẫn cố gắng để thốt lên những lời ấy.

Ðoạn Tin mừng Giáo hội cho chúng ta suy niệm trong Chúa nhật hôm nay nằm trong bối cảnh trước khi Chúa Giêsu lìa bỏ trần gian này mà về cùng Chúa Cha. Có lẽ, Người cũng không an tâm mấy khi nhìn thấy các Tông đồ vẫn còn nhiễm những tư tưởng của người thế gian. Các ông theo Chúa nhưng vẫn còn ham muốn chút quyền lợi cho cá nhân mình.

Một lần kia hai người con ông Dêbêđê vì muốn chiếm địa vị quan trọng bên cạnh Chúa Giêsu nên đã xin với Người: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang." (Mc 10, 37). Cũng vì lời xin này mà các Tông đồ bất bình với nhau (Mc 10, 41). Nếu các ông thật sự yêu thương nhau theo kiểu có phúc cùng hưởng có họa cùng chia thì chắc điều này không thể xảy ra.

Vì vậy, trong bối cảnh này Chúa Giêsu đã nhắn nhủ với các ông: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Mc 13, 34 - 35)

Ðiều răn mới này Chúa Giêsu kêu mời các Tông đồ và mỗi người chúng ta hãy biết thi hành trong cuộc sống. Hơn nữa, đã nói đến điều răn thì đó là điều bắt buộc chứ không phải muốn làm thì làm, muốn không thì không. Và đây chính là nét độc đáo của người môn đệ Chúa Giêsu.

Mỗi người chúng ta được kêu mời trở nên Chúa Kitô cho nhau. Nghĩa là vì yêu thương nhau và chúng ta trở nên tôi tớ cho nhau trong việc phục vụ. Ðiều này được biểu lộ rõ nét trong đời sống gia đình. Vợ chồng là Chúa Kitô của nhau vì yêu thương nhau. Cha mẹ trở nên Chúa Kitô cho con cái.

Cha mẹ sẽ an lòng nhắm mắt ra đi nếu đàn con đàn cháu biết yêu thương phục vụ nhau. Cũng thế, Chúa Giêsu cũng sẽ rất vui khi thấy chúng ta biết tích cực mỗi ngày trở thành Chúa Kitô cho nhau trong việc phục vụ. Xin Chúa Giêsu Phục sinh tiếp tục đồng hành và ban thêm sức mạnh để chúng ta thực hiện trọn vẹn lời trăn trối đầy yêu thương này.

-----------------------------

 

PS 5-C89: LUẬT CŨ NGHĨA MỚI


Ga 13,31-33a.34 – 35

"Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau".

 

Anh em đừng để mắc nợ ai điều gì ......... Tình thương giữa người với người không bao giờ là: PS 5-C89


"Anh em đừng để mắc nợ ai điều gì ngoài món nợ tình thương" (Rm 13,18). Tình thương giữa người với người không bao giờ là một đề tài xa lạ hay lỗi thời từ ngàn xưa cho đến thời nay. Bao lâu và ở bất cứ nời nào có con người hiện diện thì ở đó cần có tình yêu. Điều ấy như một điều tất phải có để con người có thể tồn tại và phát triển. Tất cả văn hoá của các dân tộc, giáo huấn của các tiền nhân dù là công giáo hay ngoài công giáo đều không thể thiếu giáo luật yêu thương. Bởi đó không chỉ là điều lệ tự nhiên của con người mà còn là giáo huấn của trời, của Chúa. Và Đức Giêsu đã cho giới luật yêu thương ấy một ý nghĩa tuyệt vời hơn nữa. "Cứ dấu này mà người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em hãy yêu thương nhau" (Ga 13, 35).

Chúa Giêsu xuống thế làm người, người ta đã nghĩ rằng Ngài sẽ dạy những giáo lý cao siêu huyền bí, cho con người thực hành những chuyện cao vời hơn chính tầng mây để đạt được cuộc sống vĩnh cữu. Thế mà thực tế lại hoàn toàn trái ngược. Ngài lại dạy một giáo lý hết sức quen thuộc mà ai cũng đã biết rõ, thuộc nằm lòng từ thuở còn trong nôi. Hãy yêu thương nhau. Đó thực ra là điều Thiên Chúa đã phú bẩm trong lương tâm tất cả nhân loại này. "Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" dạy về điều gì thì ai ai cũng hiểu. Ngay bên Trung Hoa với một nền văn hoá đậm bản sắc Phong kiến thì cũng không thiếu những luật lệ như Kiêm Ái của Mặc tử. Yêu người như yêu mình, yêu bằng hành động cụ thể. Đức Phật bên Ấn Độ thì dạy phải có lòng từ bi. Và cũng với lòng từ bi ấy mà Ngài đã lên đường tìm cho đồng bào mình con đường đến hạnh phúc. Như thế, cho đến khi giáo lý yêu thương của Đức Giêsu ra đời thì điều ấy đã được nói đến rất lâu rồi. Đến Đức Giêsu cũng không dạy điều gì khác hơn. Có khác là Ngài đã dám thí mạng sống mình cho người mình yêu (Ga 15,13). Tức là giá trị và ý nghĩa của hành vi yêu thương ấy. Một tình yêu nhưng không và hiến dâng.

Bài học yêu thương ai cũng nhớ, cũng thuộc, cũng có thể trình bày rõ ràng, rành mạch. Nhưng xem ra nhân loại này vẫn còn đầy dẫy những đau thương và thách đố do chính con người tạo ra cho đồng loại mình. Nguyên nhân chính là bởi con người đã không thể yêu như Chúa yêu. Vì khi làm như thế, con người sẽ bị mất mát, bị đau thương và có khi phải chết nữa. Con người mở rộng trí khôn để đón nhận giáo huấn nhưng lại đóng cửa trái tim và bàn tay nên giáo huấn ấy không thành hiện thực. Lịch sử loài người cho thấy con người ngày càng tách biệt nhau. Nếu Thời công xã nguyên thuỷ con người sống thành "bầy đàn", mọi sự là của chung, thì thời hiện đại "mạnh ai nấy sống". Rồi khi con người tiến dần đến thềm văn minh thì cũng là lúc con người tiến dần đến ranh giới của chia cắt. Phân chia quốc gia, lãnh thổ, dân tộc, gia đình, rồi đến sự phân chi tài sản, giàu nghèo, thân phận. Đó là số phận của cái gọi là văn minh hiện đại. Tình yêu như mờ nhạt dưới bảo táp của giá cả, của miếng ăn, áo mặc, danh dự, uy quyền. Ai dám "liều yêu" thì coi như kẻ lập dị, không biết thời thế. Đức Giêsu đến để làm sống lại nền văn minh tình thương ấy. Ngài đã tự huỷ, bỏ mình để gắn kết, để hiệp thông. Ngài đã làm gương cho chúng ta về một đời sống yêu thương trọn hảo. "Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng hãy rửa chân cho nhau" (Ga 13,14). Khi sống giới luật yêu thương thì không những chúng ta đã hoàn thành cái nhiệm vụ của con người với con người mà chúng ta còn được cứu độ. "Phúc cho ai biết thương xót thì họ sẽ được Thiên Chúa thương xót" (Mt 5,7). Lẽ ra chúng ta không được cái phần thưởng ấy vì đó là nhiệm vụ chúng ta phải làm, phải thực hiện. Nhưng Thiên Chúa đã cho hành vi tự nhiên ấy một phần thưởng thì quả thật hành vi ấy phải rất cao trọng và lớn lao. Khi yêu thương thì chúng ta chu toàn lề luật của Thiên Chúa (x. Rm 13,18).

Người ta thích nói về tình yêu nhưng ngại sống cho tình yêu. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau, biết dám vì người khác mà hy sinh bản thân mình để chúng con cũng xứng đáng được gọi là môn đệ của Chúa.

-----------------------------

 

PS 5-C90: YÊU ÂM THẦM


Ga 13,31-33a. 34- 35

 

Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu: PS 5-C90


Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu ước là "Ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình" (Lv 19,18) thành: " Yêu thương nhau như Ta yêu thương chúng con". "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là các con hãy yêu thương thau như Thầy yêu thương các con "

Như vậy, tình yêu thương mà chúng ta có với nhau không phải là một tình yêu lấy cái tôi làm chủ, mà tình yêu luôn hướng về Thiên Chúa và tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Giới răn mới của Chúa được đồng hoá với tình yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta, một tình yêu khiêm hạ, chấp nhận hy sinh vì người khác. Như thế, nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì là kẻ nói dối. Ai yêu mến Chúa thì cũng yêu thương anh em mình. Chính vì thế mà yêu thương trở thành dấu chỉ của những người thuộc về Chúa, là môn đệ Chúa. "Với dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau" .

Nói lên những lời nầy, chắc rằng mỗi người chúng ta đều có thể nói được như vậy và mỗi người chúng ta cũng có thể hiểu được như vậy. Với những bài giáo lý mà chúng ta đã học được từ nhỏ, với những lời giảng dạy mà chúng ta đã nghe qua trong xứ đạo, chắc chắn mỗi người chúng ta hiểu được như vậy và nói được như vậy. Chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu chúng ta, nhưng sống thực được những điều này mới là một việc khó, cần phải cố gắng liên lỉ hằng ngày. "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là đấng trọn lành ". "Chúng con hãy làm những việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy những việc tốt lành đó mà ngợi khen Cha chúng con, Đấng tốt lành ở trên trời ". Đó là lời giảng dạy của Chúa cho các môn đệ trước khi Chúa từ giã các ngài, trước khi Chúa thực hiện một hành động yêu thương cuối cùng cùng, tuyệt đỉnh của tình yêu là chết trên thánh giá.

Chúa Giêsu đã khuyên dạy các môn đệ: "Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương thau như Thầy đã yêu thương các con".Là môn đệ Chúa chúng ta không thể mơ ước chết một cách rình rang, chết một cách long trọng để mọi người nhìn thấy. Nhưng những hy sinh nhỏ nhặt hàng ngày không ai nhìn thấy trong âm thầm, để chúng ta có thể sống tình thương thật sự thiết thực đối với anh chị em, có thể phục vụ anh chị em trong những việc nhỏ nhặt hàng ngày. Những điều đó không ai trông thấy, nhưng chính những việc làm đó là những điều rất cần thiết để tôn vinh Thiên Chúa.Hơn nữa, nếu chúng ta sống điều chúng ta tin, nếu chúng ta sống điều chúng ta nói. Và hôm nay, chắc chắn mỗi người chúng ta có thể nói: Chúa dạy mình yêu thương Chúa và yêu thương anh em như chính Chúa đã làm gương. Vậy thì chúng ta sẽ cố gắng sống hằng ngày trong cuộc sống của mình để làm vinh danh Chúa, để cho anh chỉ em xung quanh nhìn thấy những việc tốt, việc phục vụ mà chúng ta thực hiện, để rồi mọi người đều thấy Chúa qua hành động của mỗi người chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho con có trái tim biết yêu thương để mọi việc con làm đều quy về tình yêu Chúa và mưu ích cho anh em. Amen

-----------------------------

 

PS 5-C91: ĐIỀU RĂN MỚI


Ga 13,31-33a.34 – 35

Chúa phán: " Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như chính Thầy đã yêu thương anh em..." (Gn 13, 34)

 

Ngày 16.08.1987, một chuyến máy bay của Mỹ bị rơi ngay sau khi vừa cất cánh gần phi trường Detroit: PS 5-C91


Ngày 16.08.1987, một chuyến máy bay của Mỹ bị rơi ngay sau khi vừa cất cánh gần phi trường Detroit. Có 155 người thiệt mạng; một người duy nhất sống sót là một bé gái tên Cêcilia, 4 tuổi. Em sống sót được chính là nhờ sự hi sinh của mẹ em, bà Paula Chican. Khi máy bay đang rơi, bà đã lấy thân mình cuộn tròn lấy em bé, che chở cho em khỏi tai nạn. Đây là một hành động nói lên tình yêu vô cùng cao quý! Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay cũng muốn trình bày cho chúng ta chính đề tài: điều răn mới của Đức Kitô: Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương...

a. Trước hết có mấy điều cần chú thích:

* điều răn mới: Luật yêu thương này đã có trong Cựu Ước (Lv 19, 18); luật cũng dạy: yêu đồng loại như chính mình. Tuy nhiên, sau này, nhất là thời Chúa Giêsu, người ta đã bóp méo lề luật đó theo ý mình, cho dễ giữ...Chúa Giêsu đã giải thích rộng điều răn mới này trong ch. 15, 1-17. Chính Chúa đã trở thành mẫu gương sáng ngời cho một Tình Yêu chân thành, Tình yêu hiến tế qua cái chết của Ngài trên Thập giá.

* dấu chỉ là môn đệ của Chúa: Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh: Tín hiệu cho mọi người nhận biết ai là môn đệ Chúa Kitô: đó là Tình Yêu. Yêu như Chúa, yêu đến mức sẵn sàng tha thứ cho chính kẻ thù. Từ căn bản điểm này, người ta gọi Kitô giáo là đạo yêu thương...

b. Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa nói với các môn đệ: các con hãy yêu thương nhau... Mới nghe qua, các ông nghĩ yêu thương nhau có gì là khó, nhất là vì cùng là môn đệ Chúa thì làm sao người ta phải từ chối mà không yêu thương nhau. Chúa lại nói tiếp: hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương.... Rồi Chúa còn nói mạnh hơn: đây là lệnh truyền của Thầy: hãy yêu thương nhau... Chúa còn gọi đó là điều răn mới. Lúc đó các môn đệ rất mù mờ về chuyện này; chỉ sau khi Thánh Thần ngự xuống, các ông mới hiểu rõ mà thôi...

Có thể nói, ngày hôm nay chúng ta hiểu rõ điều răn yêu thương này hơn thời của Chúa Giêsu; nhưng liệu chúng ta có yêu thương hay sống luật yêu thương như Chúa không? Thầy ban cho các con một điều răn mới. Đó là lệnh truyền, không phải là một lời đề nghị. Vậy yêu thương không phải là hành động của tình cảm mà là của ý chí. Có người nói với tôi: thưa cha, cha có cách nào làm cho con đừng nghĩ xấu, đừng oán ghét chồng con không? Tôi trả lời: tôi không có cách nào cả...Nhưng chúng ta nên xem lại: chúng ta có nghĩ rằng mình phải yêu thương chồng mình vì Chúa dạy, vì là lệnh truyền của Chúa, dù chồng mình chẳng đáng ưa chút nào không?

Điểm thứ 2: Hãy yêu thương như Thầy yêu thương, bằng một tình yêu hi sinh,tha thứ vô điều kiện: Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết... Trở lại câu chuyện người chồng không đáng thương chút nào cả. Khi người chồng lầm lỗi chị nọ có sẵn sàng tha thứ? khi người chiống đáng ghét chi có sẵn sàng yêu thương ? Những lúc đó chúng ta hãy nhìn Thiên Chúa Ngài là mẫu gương yêu thương, tha thứ

c. Gợi ý sống và chia sẻ:

Chúa Giêsu yêu nhân loại chúng ta bằng tình yêu hi sinh, tha thứ vô điều kiện, vì thế Người là mẫu gương sáng ngời về yêu thương tha thứ. Ta có sẵn sàng yêu thương tha nhân như Chúa yêu thương ta không?

-----------------------------

 

PS 5-C92: YÊU THƯƠNG LÀ PHỤC VỤ


Ga 13,31-35

1. LỜI CHÚA: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34).

2. CÂU CHUYỆN: ĐẶC ĐIỂM CỦA TÌNH YÊU THỰC SỰ:

- YÊU THƯƠNG LÀ QUÊN MÌNH VÌ NGƯỜI MÌNH YÊU:

 

Vào năm 1995, một trận động đất với cường độ mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kô-bê Nhật Bản: PS 5-C92


Vào năm 1995, một trận động đất với cường độ mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kô-bê Nhật Bản. khiến cho nhiều nhà cửa trong thành phố sụp đổ trở thành những đống gạch khổng lồ, gây thiệt hại rất lớn cho thành phố về người và của. Các đội cứu hộ ngày đêm làm việc khẩn trương để lôi ra từ những đống gạch đổ nát nhiều xác chết và người bị thương. Nhưng cũng chính từ tai họa này, người ta đã khám phá ra một câu chuyện cảm động về một tình yêu hy sinh quên mình như sau:

Đến ngày thứ hai của cuộc đào bới, thì từ dưới một ngôi nhà đổ nát, người ta đã đào lên được hai mẹ con vẫn còn sống thoi thóp. Đứa con nhỏ mới được vài tháng tuổi đang nằm ngủ yên trong lòng mẹ, đang khi mẹ của em lại bị hôn mê bất tỉnh. Sau khi được cứu sống, một nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ trẻ ấy như sau: "Làm thế nào mà hai mẹ con chị có thể sống được đến hai ngày dưới đống gạch đổ nát kia?". Chị đáp: "Tuy bị vùi dưới tòa nhà, nhưng rất may chúng tôi đã không bị đè chết. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tôi khóc đòi ăn đang khi tôi chẳng còn giọt sữa nào. Tôi quờ quạng tìm xem có cái gì ăn cho đỡ đói không. Bất ngờ bàn tay tôi chạn vào một con dao sắc trong cái giỏ bên mình. Tôi cầm dao rạch một đường ở ngón cái cho chảy máu, rồi ấn ngón tay bị cắt vào miệng con để bú máu thay vì sữa mẹ. Sau khi bú ngón tay của tôi được mươi phút thì cháu nằm im ngủ. Nhưng rồi lại tiếp tục khóc vì đói. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi ngón tay khác và cho cháu bú. Sau đó tôi ngất đi lúc nào không biết cho tới khi cả hai mẹ con được cứu sống". Nhà báo tiếp tục hỏi: "Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ bị mất máu chết sao?" Chị ta trả lời: "Lúc ấy, tôi không nghĩ đến mình, mà chỉ lo kiếm cái gì cho con bú để nó được sống!".

- YÊU THƯƠNG KHÔNG ÍCH KỶ NHƯNG LUÔN NGHĨ ĐẾN NGƯỜI YÊU:

Một ông lão đang đào đất gieo trồng mấy hột đào. Cháu trai của ông thấy vậy liền thắc mắc hỏi: "Ông ơi, tại sao ông lại phải vất vả trồng đào làm chi? Liệu ông có sống được tới ngày cây đào ra trái hay không?". Bấy giờ ông lão mới âu yếm đặt tay lên vai đứa cháu, vừa cười vừa nói: "Này cháu, trái đào chúng ta ăn bây giờ chẳng phải là do người khác sống trước chúng ta đã trồng đó sao ? Chúng ta ăn trái đào do người trước trồng, thì tại sao ta lại không trồng cho người sau được hưởng ? Còn nếu ai cũng nghĩ rằng: chỉ khi nào được ăn mình mới trồng, thì liệu bây giờ chúng ta có được ăn những trái đào này hay không hả cháu?"

- YÊU THƯƠNG LÀ QUẢNG ĐẠI CHO HƠN NHẬN:

Một sinh viên nghèo nọ theo học ngành mỹ thuật, ngày kia ghé thăm phòng vẽ của một danh họa Pháp. Bấy giờ căn phòng thật vắng lặng. Rồi cậu ta thấy có một lão hành khất đang ngồi ở một góc tối để chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Thấy bộ dạng tiều tụy đáng thương của người hành khất, cậu sinh viên kia động lòng trắc ẩn liền mở bóp ra và tìm mãi mới lấy ra được một quan tiền tặng cho ông lão nghèo khổ kia. Khi họa sĩ đến làm việc, người hành khất mới hỏi xem cậu sinh viên có lòng quảng đại kia là ai. Dựa theo lời của người hành khất, họa sĩ đã trả lời: "Thưa đó là một sinh viên nghèo nhưng rất hiếu học". Chiều hôm đó, cậu sinh viên đã nhận được một món quà gói kín, trên có đề tên người gửi là "Nam tước Giắc đờ Rót-sin" (Jacques De Rothschild). Mở gói quà ra, cậu rất vui mừng đếm được tới 10 ngàn quan, kèm theo một bức thư nội dung như sau: "Đây là số tiền lời do một quan tiền mà cậu đã bố thí cho người nghèo sáng hôm nay!". Thì ra người hành khất ngồi chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ chính là một nam tước ham thích hội họa. Ông cũng là một người giàu có và tốt bụng.

- TÌNH YÊU CÓ SỨC ĐỔI MỚI NGƯỜI YÊU:

Cách đây ít lâu, đài truyền hình Thành phố đã chiếu một bộ phim giáo dục rất hay, mang tựa đề "Giai điệu hạnh phúc" (La Mélodie du bonheur). Câu chuyện về một cô dự tu tên là Ma-ri. Chị được mẹ bề trên sai đi làm gia sư trong một gia đình của viên đại úy góa vợ. Mấy đứa con của viên đại úy lúc đầu tỏ ra ngang bướng khó dạy. Nhưng nhờ thái độ khoan dung vui vẻ cùng với tài nhảy múa đàn hát, nhất là nhờ một tình thương bao la, cảm thông và chia sẻ... mà cô giáo Ma-ri đã dần dần cảm hóa được lũ học trò tinh nghịch và biến chúng trở thành những học sinh chăm ngoan và tài giỏi.

- TÌNH YÊU TÁI TẠO SỨC SỐNG MỚI CHO CỘNG ĐOÀN:

Một tu viện trưởng đến thăm một vị ẩn sĩ khôn ngoan, để xin tư vấn về cách điều hành tu viện. Ông cho biết: trước đây tu viện của ông là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương đến viếng thăm và cầu nguyện. Nhà nguyện trong tu viện luôn vang tiếng hát cầu kinh của khách thập phương. Số người đến gõ cửa xin vào tu đông đến nỗi không còn chỗ nhận thêm. Thế nhưng hiện nay tu viện lại rơi vào tình trạng vắng tanh vắng ngắt. Các tu sĩ chỉ còn lèo tèo mười lăm người già. Ai nấy chỉ lo cho bản thân mình mà không biết nghĩ đến kẻ khác. Nói chung tình trạng tu viện hiện đã xuống cấp tồi tệ. Sau đó, tu viện trưởng đã yêu cầu vị ẩn sĩ tư vấn để tìm ra nguyên nhân để khắc phục. Vị ẩn sĩ đã góp ý như sau: "Theo thiển ý tôi thì nguyên nhân chủ yếu của tình trạng xuống cấp kia chính là tội vô tình!" và giải thích thêm: "Đức Giê-su hiện đang cải trang thành một người trong tu viện, mà không ai nhận ra Người".

Nhận được lời giải đáp, tu viện trưởng trở về tu viện triệu tập các tu sĩ và cho biết Đức Giê-su hiện đang cải trang thành một thành viên trong nhà dòng. Ai trong cộng đoàn cũng có thể là Đức Giê-su ! Từ ngày đó, các tu sĩ đã đối xử với nhau như đối với Đức Giê-su: họ đã biết quan tâm phục vụ nhau, tôn trọng nhau và sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm khuyết điểm cho nhau. Bầu khí cộng đoàn dần dần nồng ấm trở lại và mọi người đều thấy an vui. Ngày ngày họ chăm chỉ lao động khiến năm ấy tu viện được một mùa nho và lúa mì bội thu. Họ chia sẻ hoa lợi cho dân nghèo chung quanh. Tấm gương đạo đức của họ đồn xa khiến khách hành hương khắp nơi lại lục tục kéo về tu viện dự lễ, nghe giảng và xưng tội. Số tu sĩ ngày một gia tăng. Chính nhờ thực hành tình yêu thương nhau cụ thể mà tu viện đã từ tình trạng mất sinh khí trở nên sinh động và ngày một nên tốt đẹp hơn.

3. SUY NIỆM:

- THẾ NÀO LÀ MỘT TÌNH YÊU ĐÚNG NGHĨA:

Yêu thương không dừng lại những biểu hiện bên ngoài như: Mắt nhìn đắm đuối, lời nói dịu dàng, cử chỉ âu yếm, tim đập loạn nhịp... Tình yêu đúng nghĩa biểu lộ qua các việc: Luôn nghĩ đến và làm điều tốt cho người mình yêu, quảng đại cho đi mà không tính tóan, không chấp nhất những lầm lỗi và bào chữa lỗi lầm cho người mình yêu, sẵn sàng hy sinh chịu chết cho người yêu.

- YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY:

"Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Đức Giê-su đòi các môn đệ thực hành giới răn mới yêu thương như Người qua các việc làm cụ thể như sau: Rửa chân hầu hạ cho các môn đệ, cảm thông chia sẻ với môn đệ như "bạn hữu thân tình". "Yêu cho đến cùng" qua việc hiến thân làm của ăn cho môn đệ và sẵn sàng chịu chết đền tội thay cho họ.

Các tín hữu hôm nay cũng được Chúa mời gọi: "Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu". Chúng ta chỉ có thể thực hành được giới răn mới này khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa, ý thức giới hạn của mình để xin Chúa giúp, noi gương Người phục vụ anh em, luôn quên mình và hy sinh cho tha nhân ngay cả mạng sống của mình. Tóm lại, tình yêu "như Thầy đã yêu" không phải là thứ tình yêu vị kỷ, chiếm đoạt, lợi dụng người yêu để trục lợi (Éros), nhưng là một tình yêu quảng đại, vị tha, sẵn sàng hiến dâng và luôn hy sinh cho người yêu (Agapè).

- YÊU THƯƠNG LÀ PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO HỮU HIỆU:

Có nhiều dấu hiệu để giúp người khác nhận ra người ki-tô hữu như: đeo ảnh, làm dấu thánh giá, treo ảnh Chúa trong nhà... Nhưng dấu hiệu quan trọng nhất mà Đức Giê-su dạy trong Tin mừng hôm nay chính là sống tình yêu thương. Đây cũng là một phương thế truyền giáo hữu hiệu như Lời Chúa phán: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).

Tiếc thay, hiện nay vẫn còn những bất đồng sâu sắc về đức tin giữa những người cùng tôn thờ Thiên Chúa và cùng tin vào Đức Giê-su, nhưng chưa hiệp thông với nhau, còn đang phân hóa thành các tôn giáo như: Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo, Tin Lành... Thậm chí còn có những mối hận thù và giết hại lẫn nhau giữa những người cùng tin vào Chúa Giê-su như hai cộng đồng Công Giáo và Tin Lành ở Bắc Ai-Len, hai bộ tộc Hu-tu và Tút-si ở Ru-ăng-đa... Biết đến bao giờ mọi tín hữu mới có thể cùng đọc chung kinh tin kính, mừng các đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh trong cùng một ngày, cùng cử hành một lễ nghi phụng vụ ? Thế giới hiện nay giống như một sa mạc khô khan cằn cỗi vì thiếu tình yêu. Ước chi các cộng đoàn Ki-tô sẽ trở thành những ốc đảo, có những thảm cỏ xanh tươi và suối nước trong lành, cuốn hút các con chiên lạc quay về sống trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em như lời cầu nguyện của Đức Giê-su: "Xin cho chúng nên một" (Ga 17,21).

4. THẢO LUẬN:

1) Bạn thích câu chuyện nào nhất trong các câu chuyện kể trên và rút được bài học vào về tình yêu chân chính ?

2) Bạn có hài lòng về bầu khí yêu thương theo lời Chúa dạy trong gia đình, hội đòan, xứ đạo của bạn hiện nay chưa ? Tại sao ? 3) Bạn cần làm gì để loan báo Tin Mừng tình thương, giúp người lương nhận ra Chúa đang hiện diện trong cộng đòan của bạn ?

5. NGUYỆN CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU, xin dạy chúng con biết yêu thương và hợp tác với người khác trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian. Xin cho chúng con biết đến với tha nhân không chút thành kiến, nhưng luôn tin tưởng họ. Khi làm việc chung, xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa ở giữa chúng con để sẵn lòng bỏ qua những tự ái, ích kỷ nhỏ nhen hay những thành kiến hẹp hòi về người khác.

LẠY CHÚA, ước chi chúng con dám quên mình đến với tha nhân. Xin cho chúng con đón nhận được ơn Thánh Thần sẵn sàng mở rộng đôi tai để lắng nghe người khác, mở lòng để đóan nhận mọi người và mở rộng tay để nối vòng tay lớn. Xin cho thánh ý Chúa sớm được thực hiện nhờ sự hiệp nhất của các môn đệ Chúa, cùng nhau xây dựng một "Trời Mới Đất Mới" công bình và yêu thương, bắt đầu từ gia đình, cộng đoàn rồi đến xứ đạo và sau cùng đến mọi dân tộc trên thế giới.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH www.hiephoithanhmau.com

-----------------------------

 

PS 5-C93: YÊU THƯƠNG NHAU


Ga 13,31-35

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

Cả cuộc đời của Chúa Giêsu nói lên Tình Yêu. Ngài đã diễn tả Tình Yêu hoàn hảo, trọn vẹn nhất là: PS 5-C93


Cả cuộc đời của Chúa Giêsu nói lên Tình Yêu. Ngài đã diễn tả Tình Yêu hoàn hảo, trọn vẹn nhất là cái chết trên thập giá:" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ).Chúa nhật V Phục Sinh cho chúng ta thấy bối cảnh của Nhà Tiệc Ly, chiều Thứ Năm Thánh khi Chúa Giêsu dùng bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng với các môn đệ, những người thân tin nhất với Chúa Giêsu. Ngài cho các môn đệ hiểu rõ về tình thương của Ngài đối với họ. Tình thương đòi phải trung thành không phản bội, giờ này Giuđa kẻ phản bội Chúa vẫn đang có mặt, Ngài đã tế nhị vạch mặt kẻ phản lại Ngài và Giuđa đã bỏ ra đi trong bóng đêm. Lúc đó, Chúa Giêsu nói:" Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người ".

Chúa Giêsu luôn hướng về giờ này. Giờ đau thương nhưng lại là giờ tử nạn. Giờ chết nhưng là Giờ Phục Sinh. Mầu nhiệm tử nạn đan quyện Mầu nhiệm sống lại. Thập giá là do sự độc ác của con người bầy ra để đóng đinh, xử tội người khác. Nhưng đối với Chúa Giêsu, Thập giá mang ơn cứu độ cho con người. Thánh giá trở nên vinh quang, khải hoàn. Giờ chết trở thành giờ cứu rỗi. Bóng tối trở nên ánh sáng. Giờ định mệnh xem ra là tang thương, nhưng giờ này lại là giờ vinh hiển bới qua cái chết, Chúa đã đánh bại tử thần. Qua cái chết, và Phục sinh, Chúa đã cứu độ nhân thế. Giờ ăn lễ Vượt qua cuối cùng, Chúa đã bộc bạch tâm tình cho các môn đệ. Ngài gặp gỡ các môn đệ để chia ly với các môn đệ:"Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi ". Chúa tỏ hết tâm hồn yêu thương các môn đệ và rồi Ngài dạy dỗ các môn đệ " Hãy yêu thương nhau ". Ra đi để chịu chết, Chúa Giêsu không để lại cho các môn đệ của cải, vàng bạc, ruộng vườn vv...Ngài để lại cho các môn đệ một di chúc, một lời trăn trối yêu thương. Đây là giới luật yêu thương. Chúa không chỉ nói với các môn đệ riêng tư là hãy yêu thương nhau nhưng Ngài còn đi xa hơn nữa là dạy cả Giáo Hội phải sống chia sẻ Tình Thương. Chiều thứ năm thánh, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ một bài học yêu thương:" Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương ". Ở đây không phải chỉ là tình bằng hữu nhưng là tình thương thật sự. Tình thương hiến mạng sống cho nhau.

Tình yêu mà Chúa truyền cho các môn đệ thực hành là tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Tình yêu không nằm trên môi miệng, trong lời nói mà tình yêu diễn tả bằng chính mạng sống của con người. Do đó, người Kitô hữu càng gắn bó với Chúa, càng mật thiết với Chúa, họ càng yêu thương như Chúa, đặc biệt quan tâm, yêu thương các người nghèo, người neo đơn, cơ nhỡ, tàn tật vv...Các Thánh đã làm gương cho chúng ta về giới luật yêu thương chẳng hạn như Chân Phước Têrêsa Calcutta, Cha thánh Maximialô Kolbê, Thánh Phanxicô Assisi, Thánh Anphongsô vv...Nhiều bác sĩ đã tận tình làm công việc từ thiện bác ái giúp đỡ người nghèo, và những người neo đơn, cơ cực. Nhiều thiện nguyện viên trên thế giới đã lăn xả làm việc không mệt mỏi giúp đỡ những người nghèo khổ, những nơi có bão lụt, thiên tai vv...Đức Bác Ái Kitô giáo không phải là một lời khuyên nhưng là một điều răn mới. Yêu nhau quả thực từ xưa đến nay vẫn đã được con người thực hành, nhưng mới ở chỗ, Chúa Giêsu nói và đã thực hiện là không loại trừ bất cứ ai cả, đặc biệt mới là yêu thương ngay cả kẻ thù:" Ai vả má phải, đưa cả má trái ". Yêu như Chúa yêu. Đó là cái mới của giới luật yêu thương mà Chúa đã dạy cho nhân loại.

Yêu thương là cốt lõi của Tin Mừng Chúa Giêsu. Yêu thương cũng là cốt lõi của Đạo Công Giáo. Bởi vì, Chúa Giêsu đã dạy:" Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương các con ". Nơi khác chúng ta đọc thấy:" Cứ dấu này người ta sẽ nhận ra các con là môn đệ của Ta.Đó là các con hãy yêu mến nhau ". Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại:" Họ bỏ tất cả làm của chung, cùng nhau cầu nguyện, bẻ bánh...đến nỗi những người chung quanh đều kêu lên:" Kìa xem họ yêu thương nhau ".

Yêu thương là cái tinh túy nhất của Đạo do Chúa Giêsu thiết lập. Liệu chúng ta có sống thực hành đức ái như Chúa đã dạy không và nhiều người khi nhìn vào chúng ta họ có kêu lên:" Kìa xem các Kitô hữu yêu thương nhau " không ?

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết thực hành giới răn của Chúa là yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.


-----------------------------

 

PS 5-C94: VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU


Ga 13,31-35

Lm. Anmai, CSsR

 

Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo (sáng tạo mới). Người ta vẫn: PS 5-C94


Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo (sáng tạo mới).

Người ta vẫn thường dùng chữ tận thế để diễn tả sự tan vỡ của lịch sử và vũ trụ vật chất. Sự tan vỡ, sự tận thế là điểm tất yếu để cho thế giới mới xuất hiện. Tận thế, theo cách nói, cách diễn đạt của con người chính là giây phút quặn đau để chấm dứt cõi tạm và đưa vào con người vào cuộc sống mới (Rm 8, 21.22; 2 P 3, 10.13; Kh 21, 1.5)

Gioan đã được "ơn" để thấy vũ trụ thời cánh chung. Trời cũ đất cũ đã qua đi. Cách riêng, biển là nơi ủ ấp những sự dữ cũng sẽ không còn nữa. Một trời mới đất mới sẽ xuất hiện để thay cho trời cũ đất cũ. Một Giêrusalem mới tự trời cũng sẽ xuống và chỉnh tề như một tân nương. Hội Thánh mới là dân Thiên Chúa sẽ xuất hiện đó là mỗi người chúng ta. Tất cả trong tư thế sẵn sàng để đón chờ đức lang quân. Người đến đó chính là Thiên Chúa và Thiên Chúa ở cùng họ. Với tình thương, Thiên Chúa sẽ lau khô giọt lệ trên khuôn mặt của họ. Chúa sẽ khử trừ sự chết. Thiên Chúa phán: này Ta làm mới mọi sự.

Thế giới mới, cuộc sống mới mà Thiên Chúa hứa này hoàn tất mọi lời hứa và công trình của Ngài. Ơn cứu độ đã hứa, đã chuẩn bị một thời gian thật dài trong lịch sử nay hoàn thành. Chúa Giêsu là thủ lãnh của vạn vật tập họp tất cả trong Ngài và Ngài trong tư cách là con trao lại Thiên Chúa Cha để như lời Chúa Giêsu nói là tất cả mọi sự là của Cha.

Thế giới mới này đã được hoàn tất và sẽ phục hồi tất cả những gì đã mất, đã hư hỏng để công trình cứu độ của Thiên Chúa hoàn thành. Thế giới mới này không chỉ phục hồi tình trạng nguyên khởi của nhân loại mà còn tiến xa hơn, đạt tới viên mãn hơn. Tất cả cái xấu bị loại bỏ. Cái bất toàn được cải thiện và nâng cao. Cái tốt do lòng tin - cậy - mến được giữ lại làm chất liệu để xây dựng trời mới đất mới.

Niềm tin để xây dựng trời mới đất mới được Phaolô và Banaba nhắc nhở cho mọi người.

Phaolô và Banaba đi rao giảng Tin mừng. Khởi đầu từ Antiôkia là nơi Thánh Thần "thổi hơi" cho các ông và mời gọi các ông đi rao giảng. Các ông đã đi từ thành này sang thành khác, đảo nọ sang đảo kia với biết bao nhiêu khó khăn vất vả, lo lắng, sỉ nhục và thậm chí còn bị cầm tù. Thế nhưng vượt trên tất cả những khó khăn ấy lại là niềm vui vì danh Chúa và cứu độ các linh hồn. Lòng các ông dần dần thay đổi. Các ông yêu những người các ông được sai đến như Chúa Giêsu đã yêu các ông. Các ông đã thực thi giới răn mới nhận được từ Chúa. Vì thực thi như vậy, những ai tiếp xúc, những ai gặp gỡ nhìn thấy nơi các ông hình ảnh của Chúa Giêsu.

Cuộc đời của các tông đồ quả là cuộc đời đầy gian nan khốn khổ ấy vậy mà các ông lại để giờ khích lệ và khuyên nhủ người ta giữ vững đức tin "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa." Các môn đệ có lẽ phần nào giống như Thầy của mình trong bàn Tiệc Ly. Dù biết phải đón nhận đau khổ, đón nhận cái chết trên thập giá nhưng lại bảo các môn đệ giữ vững niềm tin. Các môn đệ mời gọi con người ta đi theo con đường hẹp, đi theo con đường thập giá.

Đó là niềm tin. Niềm hy vọng thì qua thánh Gioan tông đồ, chúng ta được mời gọi để chờ đợi cái ngày trời mới đất mới đến. Trời mới đất mới mà Gioan thấy cũng chỉ là trong viễn tượng và là viễn tượng của lòng tin. Nếu không hy vọng vào trời mới đất mới đến thì sẽ nản lòng và cứ mãi bám vào cái cũ, bám vào cái trời cũ đất cũ mà con người đang sống. Để có một niềm hy vọng vào lời của Gioan không phải là chuyện đơn giản.

Thêm một bậc nữa để sống trong trời mới đất mới đó là tình yêu, đó là lòng mến. Tình yêu và lòng mến đó ngày hôm nay Chúa Giêsu đã trình bày hết sức rõ ràng trong Tin mừng theo Thánh Gioan

Chúa Giêsu biết trước cái ngày mà Ngài phải ra đi nhưng rồi Ngài loan báo cách hiện diện mới mẻ của Ngài. "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23). Và thánh Gioan quảng diễn như sau: "Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta" (1 Ga 4,12).

Vâng, tình yêu đích thực là một "sự hiện diện thực sự" của Thiên Chúa. "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ". Chúa Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu nguyện (Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn, cho mặc, viếng thăm, săn sóc) cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là "các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Chúa Giêsu luôn hiện diện trong mọi người đang cần đến tôi và tôi đang phục vụ (Mt 25,31-46).

Nếu thực là thế ! Nếu thực là "Thiên Chúa đã chết", thì sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại chỉ là hiện tượng tình yêu đã chết". Nhưng hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện đại không ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những làn phát sóng, trong mọi thứ quảng cáo. Người ta chỉ bàn luận, chỉ ca ngợi "tình yêu". Nhưng là thứ tình yêu nào chứ ? Éros hay Agapè, "tình yêu bản thân" hay "tình yêu kẻ khác" ? tình yêu là từ hàm hồ nhất, giả dối nhất. Khi chúng ta nói: "Tôi thích bánh bía Sóc Trăng !"... chúng ta có thích nó thực sự hay chúng ta sử dụng nó nhằm thoả mãn cho lợi ích của chúng ta ? Khi chúng ta yêu một người nào đó, chúng ta có yêu họ theo cách đó. .. nghĩa là chỉ vì chúng ta hay vì họ ? Ngôn ngữ Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác biệt nhau để diễn tả hai thực tại yêu thương đối nghịch nhau:

- Éros: Yêu mình... đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến hủy hoại họ.
- Agapé: Yêu tha nhân.. . đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác.

Chúa Giêsu nói: như Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy thương nhau. Với một từ "như" hết sức đơn giản. .. nhưng đã vạch trần mọi hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp đi lặp lại.

Yêu như Chúa Giêsu yêu ! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em mình, một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó là việc Chúa Giêsu vừa làm. Yêu như Chúa Giêsu yêu ! Đó là "hiến mạng sống cho kẻ mình yêu thương" (Ga 10,11-15,13). Đó là điều Người sắp thực hiện, vào ngày mai, trên thập giá.

Chúa Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: "Việc cha yêu con, đâu phải trò đùa". Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã dẫn Người đến thái độ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình.

Để yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong chính sự "khác biệt" của họ, chúng ta cần từ bỏ quan niệm coi mình là trung tâm mọi giá trị. Đối với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Chúa Giêsu chấp nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi yêu thương họ, trong cả khả năng thụ tạo nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, "kẻ khác" đã chiếm hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở nên một địch thù với tôi, và kết án tử hình tôi !

Đối với Chúa Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp đi lặp lại cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu thương. Thế mà, Chúa Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới mẻ. Phải, yêu như Chúa Giêsu hẳn là phải rất độc đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới. Người ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn tới.

Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: "là anh em có lòng yêu thương nhau".

Vỏn vẹn với 3 dòng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã ba lần lặp lại điệp khúc: Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ đó, Người đã gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau, khiến chúng ta phải yêu thương.

Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới".
Đó là gương mẫu của Chúa Giêsu: "Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".


Sau cùng, đó là dấu chỉ Chúa Giêsu: "Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu...".

Như vậy, Chúa Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp tục sứ vụ của Người, lúc Người rời bỏ thế gian. Tình yêu huynh hệ là "thể thức" thực sự, giúp Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng "Thời gian cuối cùng", mở đầu bằng cài chết của Người. Gioan đã không thuật lại việc lập phép Thánh Thể, như ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc rửa chân " và trao ban "giới răn mới quan trọng" như thể dưới mắt ông, Tình yêu là một tái diễn sự Hiện Diện đích thực của Đức Kitô, cũng thực sự và hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình, của Bí tích Thánh Thể. Nhằm bổ sung những gì mà các thánh sử khác không nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn". Theo thánh Mát-thêu, Máccô và Luca, Chúa Giêsu nói: "Này là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ đổ ra". Còn theo Gioan, Chúa Giêsu đã nói: "Thầy rửa chân cho anh em, Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Nhưng, đó cũng chính là "sự hiện diện" có tình nghi thức và thực sự. Có một điều gì đó chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận ra môn đệ Chúa Giêsu không chỉ là Thánh lễ. "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau".

Chúa Giêsu từ vương quốc Tình Yêu đến và Ngài lại trở về vương quốc Tình Yêu. Ngài đã mở đường bằng Tình Yêu và những ai yêu thật sự như Chúa Giêsu yêu sẽ có một chỗ trong vương quốc Tình Yêu ấy.

Muốn có chỗ trong trời mới đất mới hay vương quốc Tình Yêu của Chúa Giêsu thì ngay trong cái cõi tạm, ngay trong cái trời cũ đất cũ này con người phải sống niềm tin, niềm hy vọng và đặc biệt tình yêu mà Chúa Giêsu đã sống.


-----------------------------

 

PS 5-C95: CỘNG ĐOÀN CỦA NHỮNG NGƯỜI YÊU NHAU


Ga 13,31-35

Lm. Jude Siciliano, OP

 

Các bạn đã bao giờ xem bộ phim "Nếu hôm nay là thứ ba, đây ắt hẳn là nước Bỉ" chưa? Đó là phim: PS 5-C95


Các bạn đã bao giờ xem bộ phim "Nếu hôm nay là thứ ba, đây ắt hẳn là nước Bỉ" chưa? Đó là phim về một nhóm du khách người Mỹ, thực hiện một chuyến du lịch qua bảy thành phố Châu Âu trong 18 ngày, chỉ dừng chân tại mỗi thành phố 2 ngày. Dù vội vàng nhưng mỗi thành phố họ gắng tham quan cho được một nhà thờ, bảo tàng hay kỳ quan liên quan đến khảo cổ học. Có lẽ vài người trong chúng ta cũng đã từng tham gia vào một chuyến du lịch như thế và kỳ nghỉ hè được mong đợi này khiến chúng ta kiệt sức, mong muốn được quay trở lại làm việc ngay!

Bài đọc một trong sách Tông đồ Công vụ hôm nay nhắc tôi nhớ lại bộ phim đó và những lời tường thuật của mấy người bạn về những chuyến đi xuyên quốc gia tương tự. Chúng ta dõi theo những hành trình giảng đạo của Phao-lô và Ba-na-ba, bắt đầu tại thành phố Đéc-bê, sau đó quay trở lại Lýt-ra (một điểm dừng chân khá là táo bạo của Phao-lô vì lần trước ông đã từng bị một nhóm người ném đá gần chết!); Các ông đi đến I-cô-ni-a, An-ti-ô-khi-a, Pi-xi-đi-a, Pam-pi-li-a, Péc-ghê và sau đó trở lại An-ti-ô-khi-a.

Dĩ nhiên Phao-lô và Ba-na-ba không đi theo một "Quyển sách hướng dẫn của Michel về các thành phố lớn trong vùng tiển Á". Các ông xác tín vào một sự hướng dẫn hoàn toàn khác. Vì khi trở lại An-ti-ô-khi-a và tường thuật về những thành công do sự nỗ lực trong sứ vụ của hai ông, chúng ta được kể lại rằng, "Hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông". Đó cũng chính là một chủ đề xuyên suốt sách Công vụ - Thánh Thần cùng hoạt động và gia tăng sức mạnh cho các nhà giảng thuyết tiên khởi khi họ nỗ lực rao giảng Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô. Phao-lô và Ba-na-ba cũng nói cho các môn đệ tụ họp trong các hội thánh hai ông thăm viếng biết về cái giá phải trả của những nỗ lực bản thân: "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa". Các tông đồ đang nói từ chính kinh nghiệm của các ngài.

Vậy thì, các cuộc lữ hành của chúng ta sẽ dẫn chúng ta tới đâu, vì chính chúng ta cũng được trao nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới? Có thể chúng ta sẽ không bước vào một hành trình sứ vụ loan báo Tin Mừng đầy sóng gió như hai vị tông đồ điển hình này. Dù vậy, Bí tích Rửa tội đã xức dầu chúng ta trở thành những ngôn sứ trong chính môi trường sống của mình. Không được trốn tránh trách nhiệm đó!

Chúng ta hãy cùng nhau liệt kê "lĩnh vực sứ vụ" của chúng ta: ở bữa ăn sáng, nơi làm việc, giữa những người bạn trong các buổi gặp mặt, trên mạng hay trong siêu thị... Tôi không đề nghị chúng ta đứng ở tiệm xà bông và thuyết giảng; dù cho có xấu hổ ít đi một chút vì đức tin cũng chẳng hề gì. Nhưng những sinh hoạt hằng ngày, lối sống, các giá trị, việc đánh giá của chúng ta phải khơi gợi nên sự tò mò cho những người chung quanh. Ai biết được, biết đâu họ lại tò mò tự đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng: "Điều gì làm cho bạn khác biệt như thế nhỉ?" "Với tất cả những vấn đề đó, làm sao anh có đủ sức mạnh để vượt qua nhỉ?" "Làm sao anh vẫn tràn trề hy vọng như vậy nhỉ?" Khi đó, chúng ta sẽ có cơ hội thực hiện điều mà chính hai vị tông đồ đã làm - "Công bố Tin Mừng".

Chúng ta có thể cảm thấy mình không được huấn luyện đủ về mặt thần học, nhưng chúng ta nên nói từ chính hiểu biết, từ trái tim và từ chính cảm nghiệm đức tin của mình. Giống như Phao-lô và Ba-na-ba, chúng ta không đơn độc trên hành trình, vì Thánh Thần sẽ là "người hướng dẫn hành trình" cho chúng ta. Đó cũng chính là điều mà sách Công vụ Tông đồ thực sự nói tới: Thánh Thần hoạt động nơi những con người bình thường giúp họ công bố Tin Mừng và như sách Công Vụ kể, nhận "khá nhiều người làm môn đệ". Hãy thử xem!

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu công bố nhiệm vụ trung tâm của các môn đệ, cho dù chúng ta đang ở trên đường hay ở trong nhà mình. "Anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy: là anh em có lòng yêu mến nhau."

Tình yêu khắc dấu cuộc đời Đức Giêsu. Người đã trao tặng toàn bộ cái tôi của Người vì yêu chúng ta. Con người đã cảm nghiệm tình yêu này bằng nhiều cách. Người bày tỏ tình yêu bạn bè cho những ai gần gũi với Người nhất. Với lòng trắc ẩn, Người chữa lành những ai tìm đến Người với những đau khổ về tinh thần và thể xác. Người diễn tả tình yêu qua việc đón nhận những người tìm kiếm sự công nhận của một xã hội luôn bỏ lơ họ, làm bạn đồng hành và cho cùng ngồi ăn uống với Người. Người nói những lời yêu thương thứ tha cho các tội nhân và thậm chí còn ăn uống với họ nữa. Sau cùng, Người sẽ chẳng bao giờ rút lại thông điệp về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta dù nó dẫn Người đến cây thập giá.

Bài tin mừng hôm nay nằm trong phần mở đầu diễn từ từ biệt của Đức Giêsu đối với các môn đệ (13, 31 - 17, 26) trong bữa Tiệc Ly. Trình thuật bắt đầu bằng việc Giu-đa ra đi để phản bội Đức Giêsu và Đức Giêsu nói những người đồng bàn rằng: giờ báo oán và tôn vinh của Thiên Chúa đã bắt đầu. Điều Đức Giêsu sắp chịu sẽ tôn vinh Thiên Chúa vì nó mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại. Thời điểm đen tối bắt đầu và thế nhưng một thời của ánh sáng mới cũng sắp được khởi sự vì hành động yêu thương của Đức Giêsu sẽ giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thập giá không phải là một dấu hiệu thất bại đối với Đức Giêsu. Ngược lại, nó biểu lộ sự chiến thắng của Thiên Chúa đối với tội lỗi và bóng tối. Chiến thắng đó đã được khởi sự nhưng dưới con mắt của những người quan sát bất cẩn, những gì đang xảy ra cho Đức Giêsu lại có vẻ là sự thất bại. "Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người". Trong Tin Mừng Gio-an, Thiên Chúa luôn được đặt tại vị trí trung tâm, là Nhân Vật chính trong vở kịch. Vì thế, điều sắp xảy đến cho Đức Giê-su sẽ là một mặc khải trọn vẹn về tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế giới.

Dầu vậy, những biến cố sẽ xảy đến vẫn cứ là nguyên nhân gây đau khổ và phá vỡ mọi niềm hy vọng của các môn đệ. Đức Giê-su sẽ bị tách ra khỏi họ. Chỉ dẫn của Người trước lúc ra đi là họ phải yêu thương nhau như chính Người đã yêu thương họ; tình yêu thương của họ sẽ là dấu hiệu cho mọi người biết họ là môn đệ của Đức Giê-su.

Những lời trăng trối của các bậc vĩ nhân không bao giờ nhắm những chuyện nhỏ nhặt, vặt rãnh. Đúng hơn, chúng thường là những giáo huấn cốt lõi tóm lược toàn bộ cuộc đời của những vĩ nhân đó. Vì vậy, những lời từ biệt của Đức Giê-su cũng là những lời trọng tâm - đó là điều Người muốn các môn đệ nhớ về Người và tiếp tục thực hiện trong danh Người. Người nói với các môn đệ rằng, cái chết của Người sẽ tỏ lộ cho mọi người biết Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Khi đó, chúng ta phải phản ánh tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta và bằng việc yêu thương nhau, tất cả mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Đức Giê-su.

Dân It-ra-en đã được lệnh là phải yêu thương nhau; nhưng họ không bị yêu cầu phải yêu thương kẻ thù. Tình yêu của Đức Giêsu đã vượt qua mọi ranh giới quốc gia và văn hoá. Người dạy chúng ta phải yêu thương dù là ta thấy người khác đáng yêu hay không. Người dạy về một tình yêu hiến tế mang lại hoà bình cho nhân loại và lôi kéo mọi người đến với nhau thành một cộng đoàn yêu thương. Sau đó, trong bữa ăn Người sẽ minh chứng một cách thức của tình yêu qua việc rửa chân cho các môn đệ. Người làm chủ phải trở nên người phục vụ kẻ khác.

Đức Giê-su đặt quy định đầu tiên cho cộng đoàn của Người, là phải yêu thương và phục vụ. Cộng đoàn phải là nơi phản ánh và là khuôn mẫu của tình yêu mà Đức Giê-su đã sống và dạy các môn đệ Người. Còn dấu hiệu nào hùng hồn hơn một cộng đoàn yêu thương trong thế giới này! Một cộng đoàn với những dấu hiệu phân biệt: Tha thứ lẫn nhau; săn sóc, thậm chí quan tâm đặc biệt, các thành viên nhỏ nhất; chia sẻ đồ dùng; sẵn sàng phục vụ nhau...Một cộng đoàn yêu thương như thế sẽ từng ngày thu hút người khác đế gia nhập với chúng ta. Tình yêu này sẽ lôi kéo người khác vì, liệu ai có thể chống cưỡng lại được một nhóm người yêu thương nhau như thế trong 'cái thế giới chẳng còn mấy ai biết yêu thương' này?

Dẫu sao, chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều để có thể trở thành những cộng đoàn phản ánh tình yêu Đức Giêsu cho thế giới! Không những vậy, ngày càng có nhiều người rời bỏ các cộng đoàn Kitô hữu vì, như họ nói, họ không cảm nghiệm được tình yêu đó trong các giáo hội của họ do tình trạng bè phái, chia rẽ giữa các thành viên. Thay vì một tinh thần hăng say lên đường, nhập cuộc như chúng ta đọc trong sách Công vụ hôm nay, họ lại chỉ cảm thấy sự cô lập và não trạng co cụm, phòng thủ. Chẳng phải mấy năm gần đây nhiều người đã rút lui khỏi các cộng đoàn Công Giáo vì những cớ gây vấp phạm của chúng ta sao? Chẳng phải họ bỏ đi vì thế gian lôi kéo họ mạnh hơn chúng ta sao? Chẳng phải đó là do họ chưa thấy giáo xứ của chúng ta thực sự là một cộng đoàn cởi mở, yêu thương, đón nhận sự đa dạng của mọi thành viên sao?

Cho dù là lý do gì đi nữa thì chúng ta vẫn có nhiều việc phải làm nếu chúng ta muốn nỗ lực hàn gắn những chia rẽ, tha thứ những xúc phạm, săn sóc người nghèo khổ và chào đón những người mới vào sống trong cộng đoàn của chúng ta. Ước gì công việc này của chúng ta sẽ luôn được nâng đỡ nhờ lời nguyện mà chúng ta đọc trong thánh lễ này: "Lạy Chúa Kitô đầy lòng lân tuất, xin hãy biến chúng con thành một cộng đoàn phản ánh tình yêu của Ngài ngõ hầu chúng con trở thành dấu hiệu cho sự hiện diện phục sinh của Ngài trong thế giới hôm nay."


Anh em Học Viện Đaminh chuyển ngữ.

-----------------------------

 

PS 5-C96: TÔN VINH


Ga 13,31-35

Lm Vũđình Tường

 

Hy sinh lớn, tôn vinh lớn; hy sinh nhỏ, tôn vinh nhỏ. Tôn vinh lớn nhất, cao trọng nhất, trọn vẹn: PS 5-C96


Hy sinh lớn, tôn vinh lớn; hy sinh nhỏ, tôn vinh nhỏ. Tôn vinh lớn nhất, cao trọng nhất, trọn vẹn nhất là thí mạng sống cho người mình yêu như Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha xuống thế để thực hiện trọn vẹn ý Chúa Cha.

Ta đến không phải để làm theo ý Ta mà làm theo ý Đấng đã sai ta (Gn 6,38)

Đức Kitô thể hiện ý đó bằng con đường khổ nạn, con đường thập giá, con đường bị chính môn đệ mình bán rẻ, chối bỏ, phân tán và lẩn trốn sau cửa then cài vì sợ.

Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình chết cho người mình yêu (Gn 15,13)

Đức Kitô yêu mến Chúa Cha đến nỗi - thể hiện ý Cha - chết trên thập tự, ban ơn cứu độ cho nhân loại. Ngài chấp nhận hy sinh với í chí sắt son, quyết tâm vượt qua tất cả mọi chướng ngại, rào cản, vực sâu. Không gì ngăn cản, lay chuyển, tình yêu Ngài dành cho Cha. Ý Ngài đã quyết và Ngài quyết tâm thực hiện tốt đẹp, trọn vẹn điều mình đã quyết. Ngài chấp nhận mọi đau khổ rùng rợn, hành hạ thân xác.

Họ thay nhau nguyền rủa, xỉ nhục, vu vạ, cáo gian; Ngài đứng lặng câm, ngán ngẫm lời thề gian, làm chứng dối của người không tôn trọng sự thật. Nghe những lời đó tinh thần ngài đau khổ đến chết được nhưng Ngài không hề đối chất.

Linh hồn Thầy đau buồn đến nỗi chết (Mt 26,38)

Nhìn những cánh tay dâng lên nắm chặt hung hăng thét 'giết nó đi', giết nó đi' khiến Ngài liên tưởng đến tính bồng bọt, háo thắng của con người. Kẻ chống đống Ngài nghĩ giết chết thì còn chi để nói, để sợ. Họ đã lầm và lầm lớn. Chính lúc Ngài chết đi lại là lúc thức tỉnh lương tâm người lính gác dưới chân thập tự khi anh ta tuyên xưng,

Người này quả thật là con Thiên Chúa (Mat 27,54)

Kẻ mưu toan đóng đinh giết Đức Kitô, ngày họ mất an; đêm mất ngủ, lo lắng vì tin Ngài sống lại từ cõi chết. Tổ chức họp kín liên miên. Tìm cách dậy lính phao tin dối trá. Họ chạy cửa trước, luồn cửa sau, lo đủ tiền đút lót. Ban hành lệnh lạc, ra sức đối phó, bịt miệng dân chúng đồn thổi tin Đức Kitô Phục Sinh. Họ đóng đinh diệt khẩu không ngờ có hàng triệu triệu môi miệng ngày đêm cao rao, ca tụng Đấng bị diệt khẩu. Đấng một thời rao giảng giờ đây trở thành Đấng được mọi thế hệ rao giảng.

Vui mừng


Đức Kitô vui mừng khi thấy giờ hiến tế đến gần. Giờ Ngài từ lâu mong đợi. Không phải Ngài ham chết, sợ sống hay coi thường sự sống. Vì yêu quí sự sống nên Ngài tự hiến để ban sự sống trường sinh cho toàn dân. Qua đó Ngài tôn vinh Chúa Cha.

Con Người được tôn vinh. Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. (Gn13,31)

Hoa trái của tôn vinh


Cái chết và sự Phục Sinh của Ngài mang lại hoa trái đầu tiên để tôn vinh Chúa Cha. Lịch sử nhân loại từ trước tới nay và từ nay về sau, sẽ không còn tôn vinh nào cao quí, tuyệt vời hơn tôn vinh Đức Kitô dành cho Chúa Cha. Tôn vinh cao cả vô song Ngài thể hiện trên thập tự. Tự hiến giọt máu cuối cùng trong tim diễn tả tình yêu tuyệt vời dành cho Cha.

Thứ đến là hoa quả ơn cứu độ Đức Kitô ban cho con người. Những ai tin vào Ngài nhận sự sống trường sinh.

Hoa quả cho vũ trụ là toàn thể vũ trụ được đổi mới nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Thánh Gioan (Kh 21,1) nhìn thấy trời mới, đất mới mở ra cho toàn dân. Đức Kitô Phục Sinh Vinh Hiển luôn ở với dân Ngài. Một dân được tuyển chọn bằng máu của con Chiên hiến tế là chính Đức Kitô chịu đóng đinh, ban ơn cứu độ cho những ai tin, sống tinh thần Tin Mừng. Lời loan báo xưa của thiên sứ thể hiện,

Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta trong thành vua Đavít. (Luca 2,10)

Các phụ nữ ra thăm mộ từ sáng sớm nghe thiên sứ loan báo, Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói (Mat 28,6).

Đổi mới


Trong Cựu Ước Yavê Thiên Chúa đổi mới qua trận lụt Đại Hồng Thuỷ. Chỉ ít người ngay lành sống sót.

Đức Kitô hiến tế để đổi mới, không phải huỷ diệt mà là đổi mới. Vẫn trời cũ, đất cũ, vũ trụ cũ, con người cũ. Đổi mới đến cho những ai chấp nhận ơn Cứu Độ Đức Kitô ban. Ơn cứu độ thay đổi con người từ nội tâm đến lối sống. Trong tinh thần đổi mới đó người ta sống với nhau bằng yêu thương. Cư xử với nhau bằng bác ái. Thông cảm cho nhau bằng thứ tha và giao hoà. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là Anh em có lòng yêu thương nhau c.35


-----------------------------

 

PS 5-C97: YÊU THƯƠNG ĐÍCH THỰC


Ga 13,31-35

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

Thực tế, giới răn yêu thương không phải là một cái gì mới mẻ và lạ lùng. Cái mới và lạ lùng, chính là: PS 5-C97


Thực tế, giới răn yêu thương không phải là một cái gì mới mẻ và lạ lùng. Cái mới và lạ lùng, chính là Tin Mừng đưa tình yêu lên tầm cao mới, chiều sâu mới. Tình yêu đạt tới đích điểm của nó là hy sinh mạng sống: "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ). Đây xem ra không phải là một việc dễ dàng và đơn sơ, nhưng không phải vì khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều hy sinh cố gắng mà chúng ta được miễn trừ yêu thương. Vậy, chúng ta phải sống thế nào để Lời Chúa và giới răn yêu thương của Chúa đi vào cụ thể trong đời sống thường ngày của chúng ta ?

Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, Ngài lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Ngài phục sinh vinh hiển khi Ngài được tôn phong làm vua vũ trụ vạn vật. Đức Giêsu Kitô cũng được vinh hiển khi Tin Mừng cứu độ của Ngài được rao giảng khắp nơi, qui tụ muôn người tin Ngài làm gia nghiệp, làm cứu Chúa của mình. Một trong khía cạnh phụng vụ và Tin Mừng của thánh Gioan cho chúng ta biết: " Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau ". " Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em " ( Ga 13, 34 ). Tình yêu là một mầu nhiệm. Nên, yêu nhau giúp chúng ta trở nên môn đệ Chúa. Yêu nhau là dấu chỉ chúng ta là con của Cha trên trời và yêu nhau là dấu chỉ chúng ta là anh em của nhau.


Yêu nhau như Chúa đã yêu là cúi xuống rửa chân cho nhau để noi gương bắt chước Chúa đã khiêm nhượng, đã cúi mình thẩm sâu để làm một công việc của một tên đầy tớ, một tên nô lệ dẫu người đó là một kẻ phản bội như Giuđa Iscariốt. Yêu như Thầy đã yêu là yêu cho đến chết, yêu cho đến cùng...yêu trên thập giá.Yêu như Thầy đã yêu là một tình yêu cao sâu, mầu nhiệm và hoàn toàn linh thánh. Đây không phải là tình yêu vị kỷ nhưng là một tình yêu vị tha, tình yêu hiến dâng, hy sinh cho người khác. Yêu như Thầy yêu là ban chính Mình Máu Thánh để nuôi dưỡng nhân loại, nuôi sống con người. Chúa đã yêu thương nhân loại, yêu thương con người để nêu gương cho chúng con hãy bắt chước Chúa yêu thương anh chị em đồng loại của chúng con.Yêu thương là cốt lõi của Đạo Đức Kitô. Do đó, cái chính yếu của Đạo là tình yêu, cốt lõi của Tin Mừng là tình yêu. Càng gắn bó, càng sống mật thiết với Chúa, càng biết thương mến anh chị em, càng yêu mến người nghèo, người bơ vơ, vất vưởng. Chúa Giêsu trong nhà Tiệc Ly ngày Thứ Năm Thánh đã dạy các môn đệ và nhân loại một bài học sâu xa, bài học để đời:" Yêu thương và yêu thương cho đến cùng, yêu thương đến hy sinh mạng sống, yêu thương đến chết trên thập giá ". Các thánh là những người đã đạt đến trình độ yêu thương như Chúa Giêsu. Các Ngài đã dám tin, đã dám liều mình coi thường mạng sống để yêu thương nhân loại, yêu thương người nghèo. Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã nói: " Chúng con đã được rước Chúa trong Thánh Thể, bây giờ hãy đi sờ đụng Chúa trong người nghèo...". Đó là tình yêu thật, tình yêu đã trở thành lạ lùng, linh thiêng và mầu nhiệm.

Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn biết yêu thương đồng loại, yêu thương người khác như Chúa đã yêu. Amen.


-----------------------------

 

PS 5-C98: DẤU CHỈ MÔN ĐỆ CHÚA KITÔ


Ga 13,31-35

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 

Là Kitô hữu, bình thường ai cũng muốn kẻ khác nhận biết mình là con cái Chúa trong Hội Thánh: PS 5-C98


Là Kitô hữu, bình thường ai cũng muốn kẻ khác nhận biết mình là con cái Chúa trong Hội Thánh. Dĩ nhiên vẫn có đó những Kitô hữu không muốn kẻ khác nhận biết mình là con cái Chúa. Với xã hội rộng lớn, bản thân không nắm rõ. Tuy nhiên ngay trong chính mãnh đất thân yêu Việt Nam này thì đã từng có nhiều người e ngại kẻ khác biết mình là Kitô hữu. Sợ bị thua thiệt về đường công danh, lợi lộc hay học vấn mà nhiều người đã ghi vào lý lịch ba chữ "không tôn giáo". Ngay cả đến hôm nay, trong các lớp học cấp ba, cao đẳng, đại học, khi mà một số thầy cô còn dè bỉu Công giáo qua các bài học về thuyết tiến hóa, về sự hình thành tôn giáo... Các thầy cô thường lấy chuyện Kinh thánh Ađam - Evà ra mà diễu cợt. Tôi đã nghe nhiều em học sinh, sinh viên thú nhận rằng những lúc ấy các em dường như không muốn ai biết mình là Công giáo. Nhiều thầy cô có thể vì thiếu hiểu biết hay vì cố tình xuyên tạc nên đã có những lời giảng dạy mang tính phê bình chỉ trích tôn giáo, cách riêng Công giáo. Rất nhiều em học sinh, sinh viên viên vì chưa hiểu biết giáo lý, nhất là Thánh Kinh nên có thái độ tự ti là điều dễ hiểu.

Tuy nhiên bài viết này không trực tiếp đề cập đến cái thực tế đang tồn tại ấy. Xin được mạn bàn về cái dấu chỉ mà Chúa Giêsu nói đến trong đoạn văn Tin mừng Gioan 13,33-35. Dấu ấy là "các con yêu thương nhau". Yêu thuơng nhau thì cũng có ba bảy đuờng yêu thương. Không phải hễ yêu thương nhau là ta đã là môn đệ Chúa Kitô. Để đích thực là môn đệ của Người thì ta phải "yêu thương nhau như Người yêu thương ta" ( x.Ga 15,12 ). Đây mới chính là dấu chỉ chính danh, chính hiệu.

Vậy thế nào là yêu thương nhau như Chúa Kiô yêu thương ta? Chúng ta vốn quen tai với những dẫn giải rằng phải yêu thương cho đến cùng, phải hiến dâng mạng sống vì người mình yêu, phải cúi xuống rửa chân cho nhau tức là hầu hạ nhau... Rồi phải yêu thương không chỉ người dễ thương mà còn cả những người dễ ghét, những người bắt bớ hoặc đang làm hại chúng ta. Yêu thương nhau như Chúa yêu là giang tay đón nhận cả người phản bội mình làm bạn hữu...Những dẫn giải trên không sai nếu không muốn khẳng định là rất đúng. Tuy nhiên, bản thân vẫn thấy còn lấn cấn chút gì đó trong thực hành.

Thế nào là yêu đến cùng đây? Không lẽ ta phải dùng chính cái chết của mình để minh chứng. Quả thật đã và đang có nhiều người sống yêu thương đến cùng như vậy. Thế nhưng ngoài các Thánh Tử Đạo thì có mấy ai chấp nhận chết vì yêu thương, chưa kể chết cho người tội lỗi. Cúi xuống để hầu hạ nhau ư? Vẫn có đó nhiều người xưng mình là tôi tớ, là đầy tớ mà đâu có chịu cúi xuống. Dù vậy, có ai dám to gan nói họ chưa phải là môn đệ của Chúa. Giang tay ra đón nhận nhau cả những khi họ là người công chính lẫn khi họ là người bất nhân, tàn ác, quả là không mấy dễ dàng. Và tính chất vị tha của tình yêu trong những cách thế ấy hình như chưa mấy rõ nét.

Yêu thương ai là nỗ lực làm cho người mình yêu phát triển và nên tốt đẹp hơn cả mình.

Một trong những cách thế yêu nhau như Chúa yêu ta mà Tin Mừng gợi ý, đó là làm cho người mình yêu được phát triển và gặt hái thành quả hơn cả mình. "không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại..." ( Ga 15,16 ). "Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa..." ( Ga 14,12 ).

Quả thật sau khi Chúa Giêsu về trời và Thánh Thần được ban xuống thì các Tông đồ đã làm được nhiều sự lạ cả thể hơn cả Thầy chí thánh. Các Ngài cũng chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, phục sinh kẻ chết, rao giảng Tin Mừng mà kết quả xem ra khả quan hơn Thầy khi Thầy còn tại thế. Xưa những ai đụng đến gấu áo của Thầy thì được chữa lành mọi bệnh tật thì nay chỉ cần bóng Phêrô phủ trên ai thì họ đều được chữa lành. ( x.Cv 5,15-16 ).

Chúng ta có thể đã cúi xuống hầu hạ một ai đó nhưng muốn họ hơn cả mình thì còn phải xét lại. Chúng ta có thể đã tận lực tận tâm lo cho một ai đó về thể chất hay tinh thần nhưng với ý hướng là muốn cho họ vượt qua mình thì cũng hơi khó. Một anh chị em dân tộc thiểu số thẳng thắn thú nhận rằng: con có thể giúp cho người xóm giềng làm ăn kinh tế nhưng muốn cho họ giàu hơn con thì con không muốn. Các em thiếu nhi cũng tự nhận rằng bày cho bạn làm toán thì được nhưng không muốn bạn ấy học giỏi hơn mình. Và chính bản thân tôi, một linh mục chính xứ đang có linh mục phó xứ và thầy phó tế phụ giúp, đã nhiều lần tôi hướng dẫn các ngài trong lãnh vực mục vụ và cách thế giảng dạy, tuy nhiên thử hỏi mình có thực tâm muốn thầy sáu hay cha phó có uy tín trước mặt bà con giáo dân hơn mình không. Một câu hỏi thật khó trả lời.

Không phải đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, không phải giữ luật tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, không phải siêng năng lãnh nhận các Bí tích, không phải chuyên chăm đọc kinh, lần hạt... là những dấu chỉ minh chứng ta là môn đệ Chúa Kitô. Những điều ấy tuy là cần nhưng không đủ. Bởi chưng vẫn đó nhiều người đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, tham dự Thánh lễ Chúa Nhật đều đặn, thường xuyên lãnh nhận các Bí tích hay siêng năng lần chuổi kính Đức Mẹ mà vẫn sống "không ra người có đạo", nói theo kiểu cách bình dân. Tất thảy chỉ vì một lẽ này: người ta sẽ nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau, yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con.

Yêu ai mà muốn người mình yêu nên tốt đẹp và phát triển hơn cả mình, đúng là một trong những dấu chỉ minh chứng đó là một tình yêu vị tha, một tình yêu vô vị lợi. Và chắc chắn đó là một trong những cách thế yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.


-----------------------------

 

PS 5-C99: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI


Ga 13,31-35

LM Phạm Thanh Liêm, SJ

 

Theo tin mừng Máccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu phục sinh cho đến khi các ngài được: PS 5-C99


Theo tin mừng Máccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu phục sinh cho đến khi các ngài được chính Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho: "Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Magdala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Ngài mà nay đang buồn bã khóc lóc. Nghe bà nói Ngài đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin. Sau đó Ngài tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này. Sau cùng, Người tỏ mình cho chính nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy" (Mc.16, 9-14).

Đức Giêsu đã phục sinh. Từ biến cố này, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu không chỉ là một con người, một tiên tri, một vị Kitô vua (Mc.8, 27), nhưng còn là Đấng vô cùng đặc biệt: Ngài là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.14, 62), ngang hàng với Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), có trước Abraham (Ga.8, 57-58), có quyền tha tội (Mc.2, 5.7). Những trích dẫn này giả sử người đọc đều biết cái nhìn của các sách tin mừng về chân tướng của Đức Giêsu, là cái nhìn về Đức Giêsu dưới ánh sáng Phục Sinh. Khi Đức Giêsu nói những điều trên, các tông đồ đã không hiểu; nhưng một khi Đức Giêsu phục sinh, với ơn Thánh Thần, các tông đồ nhớ lại những lời của Đức Giêsu, và lúc đó họ hiểu lời Đức Giêsu đã nói với họ.

Tác giả tin mừng Gioan, sau một thời gian dài suy gẫm, đã nhận ra Lời hằng ở nơi Thiên Chúa từ đời đời (Ga.1, 1), và Lời đã nhập thể (Ga.1, 14). Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, nên Ngài có trước Abraham. Những suy tư về Ba Ngôi sau này, có cùng quan niệm của Gioan về Lời hằng có và nhập thể. Vào thời điểm của tin mừng Gioan và trước đó, chưa có từ ngữ Ba Ngôi, nhưng tin mừng Matthêu cũng đã nhắc đến Cha, Con, và Thánh Thần: "vậy anh em hãy đi làm muôn dân thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, Con, và Thánh Thần" (Mt.28, 19).

Một điều quan trọng cần hiểu, là tương quan giữa Cha, Con, và Thánh Thần. Đức Giêsu ý thức "Cha trọng hơn Thầy" (Ga.14, 28); có những điều "chẳng có ai biết, kể cả Con Người, chỉ có Cha biết thôi" (Mc.13, 32). Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng ý thức "nếu các ông không tin rằng Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết" (Ga.8, 24), đồng thời cũng nhận ra mọi người phải tôn vinh Ngài: "để ai nấy đều tôn vinh người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người Con thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con" (Ga.5, 23). Đức Giêsu luôn được phân biệt với Thiên Chúa Cha, ngay cả khi Ngài nói: "Ta và Cha là một" (Ga.10, 30).

Các nhà thần học hiểu rằng, cách nói như thể Đức Giêsu kém Thiên Chúa Cha là nói theo nhiệm cục cứu độ, chứ thật sự ba ngôi đều ngang bằng nhau và là một trong tất cả. Nói trong nhãn quan nhiệm cục cứu độ, Chúa Cha là nguyên ủy và cùng đích mọi sự, Chúa Con thực hiện công trình cứu độ, và Thánh Thần thánh hóa và hoàn tất những gì Chúa Con đã khởi đầu. Con người và công trình cứu độ con người, là điều vô cùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm trong dòng lịch sử. Khi cứu độ con người, Thiên Chúa, qua những sáng kiến để cứu độ con người, cho con người biết Thiên Chúa tuyệt vời như thế nào.

Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài sống và hành xử, chính là Thiên Chúa sống và hành xử. Đức Giêsu đã yêu thương con người, phản ánh Thiên Chúa yêu thương con người. Đây chính là con đường giúp con người hạnh phúc. Trước khi chịu khổ hình, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga.13, 34-35). Yêu thương tha nhân như chính mình (Mc.12, 31) đã là một điều khó, thế mà Đức Giêsu còn dạy: hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Đức Giêsu đã yêu thương con người đến chết, đến hiến mạng sống cho con người. Yêu như Chúa yêu, đó là huấn lệnh của Đức Giêsu cho các môn đệ của Ngài.

Yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em. Đây là điều rất khó, nhưng nó làm con người được hạnh phúc thật. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài là Đấng chỉ biết yêu thương, làm tất cả vì yêu thương. Thiên Chúa yêu thương con người ngay lúc con người còn là tội nhân, Ngài thông cảm với những yếu đuối của con người, Ngài biết tại sao họ lại hành xử và phản ứng như vậy, nên Ngài thông cảm và tha thứ cho họ. Để chúng ta có cùng cách hành xử của Thiên Chúa, có con tim giống như Chúa, bao dung nhân hậu giống như Chúa, mình cũng cần có cái nhìn giống như Chúa; có như vậy, mình mới có thể yêu thương, tha thứ cho tha nhân.

Thù hận, tìm cách trả thù, chỉ làm cho con người khổ sở bất hạnh. Ngay cả khi người ta xúc phạm đến mình, nếu mình tha thứ, mình sẽ sống an bình và hạnh phúc hơn. Yêu thương, là cung cách hành xử của Thiên Chúa, là vương đạo, là Thiên Chúa đạo. Thiên đàng, là nơi người ta yêu thương, quan tâm đến nhau, và như vậy con người hạnh phúc. Không có con đường hạnh phúc nào khác ngoài con đường yêu thương. Yêu thương cả kẻ thù ghét mình, vì nếu mình không yêu thương mình không được hạnh phúc thật

Làm sao để người ta có cung cách hành xử của Thiên Chúa? Làm sao để người ta có cái nhìn về người khác như Thiên Chúa nhìn họ? Làm sao để có thể yêu thương tha thứ và khoan dung đối với người khác như Thiên Chúa đối với họ? Cầu nguyện, chiêm ngắm Đức Giêsu hành xử, đối xử với tha nhân, đối xử với những người ghét Ngài, chúng ta sẽ dần dần trở nên giống như Đức Giêsu, sẽ trở nên giống Thiên Chúa.

Với Đức Giêsu và Thánh Thần, Thiên Chúa đang làm mới tất cả. Khi đón nhận tin mừng Phục Sinh, người ta được biến đổi. Người ta có cái nhìn mới về Thiên Chúa và về vũ trụ này. Một khi sống như Đức Giêsu chỉ dạy: yêu thương như Ngài yêu thương, thì Kitô hữu làm cho thế giới này dễ thương và đáng yêu đáng sống hơn. Thiên Chúa đang làm mới mọi sự, trong và nhờ Đức Giêsu Kitô.


-----------------------------

 

PS 5-C100: ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỨC ÁI


Ga 13,31-35

LM Nguyễn Hữu Thy

 

Cách đây chưa lâu, tôi được mời tham dự vào một buổi bàn cãi về vấn đề « Hiệp nhất các giáo: PS 5-C100


Cách đây chưa lâu, tôi được mời tham dự vào một buổi bàn cãi về vấn đề « Hiệp nhất các giáo phái kitô giáo ly khai », do một số các gia đình tổ chức. Buổi bàn cãi rất sôi nổi, và tôi còn nhớ ý kiến của một người phụ nữ đầy vẻ nóng nảy, nhìn về hướng tôi với những lời phát biểu như sau: « Các nhà thần học các ngài thật sự là những cái gông kìm hãm trên con đường tiến về sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Với vô số các lý thuyết của mình, các ngài đã làm cho Kitô giáo trở nên quá phức tạp và mù mịt, đến nỗi - do chấp nhất vào các hệ thống và tư tưởng thần học trừu tượng - chính các ngài cũng không còn nhìn thấy được chân lý đơn sơ của Kitô giáo nữa ! Vâng, thật ra trọn vẹn niềm tin Kitô giáo chỉ có thể tóm tắt trong một câu hết sức đơn giản: Con người cần phải yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như chính mình. Chính trên nền tảng này, chính trên giáo huấn rõ ràng và quan trọng này, sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu phải được thể hiện. Thế tại sao sự việc lại trở nên quá phức tạp như thế ? »

Và sau khi người phụ nữ vừa chấm dứt lời phát biểu của mình thì một tràng pháo tay tưởng thưởng của hầu hết mọi người hiện diện đồng loạt nổi lên ! Và tất cả mọi con mắt trong phòng đều căng thẳng và tò mò đổ dồn về phía tôi, như chờ nghe sự tự bênh vực và bào chữa của tôi trước một lời phê bình quá thẳng thừng như thế ! Và sự việc thiết tưởng không hề đơn giản chút nào ! Chính Ðức Giêsu cũng đã phát biểu những lời phê bình thẳng thắn như thế đối với các vị kinh sư và các nhà thần học ngày xưa, vào thời của Người, là những người cũng vì tự giam mình trong đủ các thứ luật lệ và giáo điều rườm rà nên không còn phân biệt và khám phá ra được đâu là điều chủ yếu và cao trọng nhất trong tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân nữa ! Vì thế, ngoài dự đoán của mọi người có mặt hôm đó, tôi đã tán đồng ý kiến của người phụ nữ đó: Bà ta có lý ! Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể phủ nhận được những sự khác biệt và những rào cản quan trọng - nhiều khi khó lòng vượt qua - giữa các giáo phái thuộc Kitô giáo, cũng như giữa các kitô hữu.

Vâng, đức ái thực sự là trọng điểm có tính cách quyết định của Kitô giáo, là sự hoàn tất mọi lề luật ! Nhưng phải chăng đó là một điều đặc biệt ? Phải chăng giới luật đức ái - nhiều hay ít - không phải là nền tảng cho mọi tôn giáo ? Phải chăng chỉ Kitô giáo mới có thể sở hữu danh từ và giới luật đó cho một mình mà thôi ? Phải chăng chúng ta không tìm gặp giáo lý nền tảng đó trong Hồi Giáo, Phật Giáo và trong các tôn giáo lớn khác trên thế giới ? Mặc dù trong thực hành, mỗi tôn giáo áp dụng giới luật từ bi bác ái mỗi khác, theo nhân sinh quan và vũ trụ quan của tôn giáo đó, nhưng trên nguyên tắc, đã là một tôn giáo thì tôn giáo nào cũng đều luôn luôn nhắm tới đức ái để hành đạo.

Phải chăng là một thái độ mang vẻ trịnh thượng khi chúng ta nghe đọc trong bài Tin Mừng hôm nay những lời: « Thầy ban cho các con một giới răn mới » ? Và đâu là điều mới mẻ trong giới răn này ? Phải chăng danh từ « mới mẻ » ở đây được hiểu là: vì chúng ta thường hay quên giới luật nền tảng đó, nên cần phải luôn nhắc nhở lại ?

Chiếc chìa khóa để hiểu được ý nghĩa bài Tin Mừng nằm ở phần hai của câu nói mà chúng ta đang bàn tới: « ..., như Thầy đã yêu thương các con » (Ga 13,34). Ðức Giêsu ban cho chúng ta một chuẩn độ mới, khi Người nói về đức ái, cũng như Người muốn cho người ta phải hiểu đức ái là gì, đó chính là Người: « Thiên Chúa là tình yêu ! »

Và ý nghĩa sâu xa là ở chỗ: Chính lúc Ðức Giêsu ban cho các môn đệ giới luật đức ái, thì Giu-đa Ít-ca-ri-ốt rời phòng Tiệc Ly ra đi, bấy giờ định mệnh của Ðức Giêsu đã được quyết định, bấy giờ nhân loại đã sẵn sàng phản bội, bắt trói, kết án, hành hạ và giết hại Người, và - như tất cả chúng ta đều biết - không vì bất cứ lý do một tội phạm nào, nhưng chỉ vì tình yêu xã kỷ và triệt để của Người đối với nhân loại. Cuộc khổ nạn thập giá của Ðức Giêsu đã mặc khải cho thấy đâu là tình yêu đích thực và đâu là tình yêu và tính cách nhân bản tạm thời hạn hẹp !

« Các con hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con ! » Ðó là giới luật đức ái của Ðức Kitô. Nhưng để biết được các hành động và chính cuộc sống chúng ta còn cách xa với giới luật đó như thế nào, thì người ta có thể đọc thấy được qua thái độ dửng dưng và xa lạ của chúng ta trước cuộc sống đầy bác ái của bao vị thánh nhân, như: Phan-xi-cô As-si-si, Ma-xi-mi-li-an Kol-bê hay Mẹ Tê-rê-xa Cal-cut-ta, v.v...Ðức tin Kitô giáo của các ngài đối với chúng ta xem ra thái quá, hơi sôi nổi, không bình thường. Nhưng thực ra sự thật lại ngược lại: Ðức ái triệt để của các vị thánh nhân vạch trần quan điểm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là: còn thiếu thốn hạn hẹp, chưa dứt khoát và chưa thành tâm !

Tất cả chúng ta đều biết rõ là cuộc sống và cách cư xử của chúng ta, những kitô hữu bình thường, hãy còn cách xa với chuẩn độ về đức ái mà chính Ðức Giêsu đã thiết đặt bằng chính sự sống và cái chết của mình. Vâng, chẳng những còn cách xa, nhưng trong thực tế, cái chuẩn độ về một đức ái triệt để như thế hầu như chỉ là một điều lý tưởng, nếu không nói là một ảo tưởng, khi so sánh với thái độ sống cụ thể của con người !

Mặc dầu thế, ở đây khi nhìn vào con người cụ thể người kitô hữu, tôi xin mượn phép định nghĩa rằng: Người kitô hữu là một người luôn nỗ lực vươn tới cái ảo tưởng về tình yêu đó. Theo ý nghĩa này, có lẽ ở đây câu nói của cố tổng thống Do-thái, David Ben Gurion (1886-1973), được áp dụng cho chúng ta, những kitô hữu: « Ai không có ảo tưởng, thì không phải là một người thực tế ! » Amen


------------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây