Rao giảng Tin Mừng là bổn phận tiên quyết của các Tông đồ sau khi Chúa sống lại. Nhờ việc rao giảng này, nhân loại sẽ đón nhận Tin Mừng, tin vào Chúa và làm thành cộng đồng đức tin. Bài Tin Mừng hôm nay nói lên thời điểm này với những chi tiết vô cùng phấn khởi, vừa chan chứa niềm vui Phục Sinh vừa đầy tràn tình thương giữa thầy trò, huynh đệ và hiệp nhất. Thực ra sách Tin Mừng Gio-an đã kết thúc ở chương 20, nhưng chương 21 được thêm vào để cho ta thấy được ở cuối thời của các Tông đồ một hình ảnh thật đẹp về Giáo Hội: dưới sự dẫn dắt của Chúa, các Tông đồ đã đưa các tín hữu đến chia sẻ sự sống Chúa ban, tức là sự sống trong Thánh Thần. Bàn tiệc Thánh Thể là nơi quy tụ mọi người với Chúa. Vai trò lãnh đạo của Phê-rô là phải gìn giữ đoàn chiên nhân danh Chúa Ki-tô. Mặc dù ông đã không theo Chúa trong cuộc Khổ nạn của Người, nhưng từ nay ông sẽ một lòng gắn bó yêu thương để theo Thầy trong sứ mệnh cho dù phải hy sinh mạng sống. Vậy hình ảnh Giáo Hội sơ khai ấy gợi cho ta những tâm tình nào?
a) Sự thân mật của Chúa Giê-su đối với môn đệ Người
Hình ảnh vị Mục Tử Nhân lành là đề tài thường gặp thấy nhất trong lịch sử Giáo Hội sơ khai. Người ta vẽ hình, tạc tượng Chúa Giê-su đi bên đàn chiên, vác con chiên lạc trên vai, trên bức tường sau bàn thờ, tại những địa điểm hội họp... Hình ảnh ấy được gợi hứng từ bài diễn từ của Chúa Giê-su về chức phận mục tử của Người (Ga 10:1-19), nhưng có lẽ nhất là do trình thuật về cuộc hiện ra của Chúa tại bờ hồ Ti-bê-ri-a sau khi Người sống lại. Sự thân mật Chúa Giê-su dành cho các môn đệ được biểu lộ qua những chăm sóc yêu thương và ân cần lo lắng cho những nhu cầu vật chất cũng như tâm linh của họ. Suốt một đêm họ vất vả buông lưới mà không bắt được con cá nào. Đói, mệt và nhất là chán nản. Chúa Giê-su giúp họ giải quyết từng nhu cầu một.
Chán nản là căn bệnh nguy hiểm nhất và dễ gây hậu quả tai hại nhất, do đó cần chữa trị trước. Mẻ lưới đầy cá sẽ giúp họ lấy lại tinh thần đã mất. Mới ngày nào cũng sau một mẻ lưới đầy cá, họ đã được Chúa gọi làm những kẻ lưới cá bắt người ta (Lc 5:1-11). Họ hăng say theo Chúa, được huấn luyện làm tông đồ, được sai đi thực tập việc rao giảng và trở về đầy phấn khởi. Nhưng sau cái chết của Người, họ mất hết cả tinh thần, từ sứ mệnh lưới người ta họ lại muốn trở về với công việc lưới cá. Bởi vậy, hôm nay và cũng như ở chính nơi đây ba năm trước, mẻ lưới nhắc nhở họ về sứ mệnh Chúa đã trao và kêu gọi họ đặt tất cả tin tưởng vào Người. Họ chỉ là thợ gặt, còn chủ ruộng là Chúa. Kết quả công việc là do ân sủng và quyền năng của Chúa. Mẻ lưới đã giúp cho người môn đệ Chúa thương mến nhận ngay ra được Người và làm cho ông Phê-rô tìm lại được cá tính hăng say nhiệt thành đã mất.
Tiếp đến là những nhu cầu vật chất. Ta cứ thử tưởng tượng mình đang mệt nhọc, đói khát mà được mẹ cho một ly nước đá, một cái bánh mì thịt nguội thật ngon, thì hạnh phúc biết mấy. Chúa Giê-su đầy thương mến như một bà mẹ. Trên than hồng, Người đã dọn sẵn nào cá nướng, nào bánh thơm. Người còn làm cho các ông phấn khởi thêm khi âu yếm ra lệnh: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” để đề cao thành công của họ.
Sự thân mật Chúa Giê-su dành cho các môn đệ dường như có phần thay đổi và rõ ràng hơn từ khi Người khẳng định: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa... nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15:15). Bữa Tiệc ly đã thăng hoa tình thầy trò và biến đổi thành tình bạn. Tiệc Thánh Thể hôm ấy đượm tâm tình ly biệt và tế tự. Còn bữa Tiệc Thánh Thể hôm nay của Chúa Phục Sinh với các môn đệ đầy ắp yêu thương chăm sóc của vị Mục Tử Nhân lành.
b) Đáp lại tình yêu
Lòng yêu thương của Chúa Giê-su đã được đáp lại qua việc tuyên xưng tình yêu. Ông Phê-rô đã tuyên xưng đức tin (Mc 8:27-30). Nhưng chưa đủ. Ông còn phải tuyên xưng tình yêu nữa. Việc chăn dắt đàn chiên của Chúa không phải chỉ dùng đầu óc. Nếu thế thì chắc chắn Phê-rô cần phải có bằng tiến sĩ về quản trị! Nhưng Chúa cần ông có một trái tim nồng cháy mới cáng đáng nổi công việc chăn dắt này. Những đặc tính của tình yêu (1 Cr 13) sẽ giúp ông đối phó với bao khó khăn của sứ mệnh mục tử. Sứ mệnh luôn luôn đi đôi với tình yêu. Động lực chính để ta thi hành bất cứ sứ mệnh nào, đó là tình yêu. Nếu không, ta chỉ là kẻ làm thuê để lãnh tiền lương, “nên khi thấy sói đến sẽ bỏ chiên mà chạy” (Ga 10:12). Sự thân mật Chúa dành cho ông Phê-rô lúc này thật ngọt ngào qua ngôn từ đối đáp. Cách Chúa gọi tên ông, câu hỏi như đâm thẳng vào trái tim ông, chân thành tha thiết và thẳng thắn (mến Thầy hơn các anh em này), cách ông trả lời với tất cả tín thác, buồn vì hối hận, tất cả đều nói lên tình yêu tha thiết giữa hai người, đâu cần tới những mỹ từ văn hoa bay bướm mà là những lời rõ ràng ngắn gọn. Ngay cả đến mệnh lệnh cũng mang một sắc thái đặc biệt, vì là mệnh lệnh của tình thương yêu và tin tưởng.
c) Qua Giáo Hội, ta tham dự vào sự thân mật ấy của Chúa Giê-su
Thường thì ta không dễ nhận ra sự thân mật với Chúa qua môi trường Giáo Hội. Hình ảnh Giáo Hội nhiều khi không còn chân thực đối với ta nữa. Một phần lỗi ở chính ta đã không kết hiệp với Chúa và với anh chị em. Một phần tại người khác, có thể do một linh mục khó tính gắt gỏng ta đã gặp, có thể do những giáo dân không mấy thiện cảm với ta. Khía cạnh loài người của Giáo Hội dễ làm cho ta vơ đũa cả nắm, căn cứ vào hành động xấu của cá nhân để xét đoán tập thể. Hình ảnh của Giáo Hội ban đầu qua cuộc họp mặt giữa các môn đệ với Chúa (Ga 21:1-19), hoặc như sách Công Vụ kể lại (Cv 2:42-47) vẫn luôn là lý tưởng mời gọi tín hữu mọi thời mọi nơi xây dựng cho cộng đoàn của mình được như thế. Hành vi tha thứ một cách tế nhị của Chúa dành cho Phê-rô đã chối Người là một gương mẫu để ta sẵn sàng tha thứ cho anh chị em.
Chúa Giê-su Thánh Thể là mối giây liên kết mọi người. Lời gọi “Hãy theo Thầy” cũng là lời Chúa nói với mỗi người. Ta chỉ có thể theo Chúa nếu ta liên kết với Người và anh chị em, đó là tính cách cộng đoàn và liên đới của Giáo Hội Người, một đề tài suy niệm thật ý nghĩa trong mùa Phục Sinh. Những con người mới bước theo Chúa Giê-su phục sinh cần phải sống một cuộc sống mới, sống trong Thánh Thần.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
· Xét lại sự thân mật với Chúa Giê-su, tôi thấy tình trạng của tôi như thế nào? Tôi phải làm gì để cải thiện tình trạng ấy?
· Chúa trao cho tôi sứ mệnh nào? Tôi có lấy lòng yêu mến Chúa làm động lực thúc đẩy tôi thi hành sứ mệnh ấy không?
· Nếu tôi ở bậc sống gia đình và có con cái, tôi đã chu toàn trách nhiệm mục tử của tôi thế nào?
· Quan hệ của tôi với cộng đoàn, giáo xứ như thế nào? Hay chỉ là nơi tôi đến “xem lễ” rồi “về bình an” mà không cần biết giáo hội địa phương ấy là gì?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình... Lạy Chúa Giê-su, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện.”
dựa theo lời của thánh Têrêxa Hài Đồng Giê-su (Trích RABBOUNI, lời nguyện 62)
Tin Mừng Gioan đã kết thúc nơi câu: “Những điều đã được chép đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (20, 31).
Còn đoạn Tin Mừng được đọc trong thánh lễ hôm nay là một phụ trương, có lẽ đã được một trong những đồ đệ của Gioan soạn thảo.
Phụ trương này có ý nói đến vai trò của Phêrô. Xem ra đây cũng là ý Giáo Hội, vì chỉ muốn nhắc đến vai trò của Phêrô khi không cho đọc những câu kế tiếp nói về tông đồ Gioan.
1. Sáng kiến của ông Phêrô
Sau khi Đức Giêsu bị đóng đinh, cũng như hai môn đệ Emmau, Phêrô và các bạn trở về quê cũ tiếp tục nghề chài lưới.
Thánh sử Gioan chắc hẳn có thâm ý, khi cho thấy sáng kiến “chài lưới” phát xuất từ Phêrô: “Tôi đi đánh cá đây” (Ga 21, 3). Còn các bạn khác thì “cùng đi” với ông.
Nhớ lại lần Gioan và Phêrô chạy tới mồ Chúa, tuy Gioan chạy nhanh hơn, nhưng vẫn chờ cho Phêrô vào trước rồi ông vào sau.
Ngày hôm nay, nhiều người nhấn mạnh vai trò của đặc sủng mà quên đi vai trò của Phêrô và cũng quên đi rằng quyền bính cũng là đặc sủng. Chính Chúa đã xây Giáo Hội trên Phêrô: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực của tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16, 18-19).
Đặc sủng nào cũng để xây dựng Hội Thánh và đặc sủng vẫn phải nhường bước cho quyền bính, nếu không Giáo Hội của Chúa sẽ không còn sự duy nhất nữa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chính Gioan là người đã phát hiện ra Chúa, nhưng cũng lại chính Phêrô là người đầu tiên nhảy xuống biển bơi vào bờ gặp Chúa.
2. Thành bại tuỳ thuộc vào ơn Chúa
Phêrô có sáng kiến đi đánh cá, nhưng đêm ấy “họ không bắt được gì cả”.
“Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là luống công”.
Nếu Phêrô đã không nghe lời Chúa mà thả lưới “bên phải mạn thuyền” (Ga 21, 6), thì chẳng bắt được 153 con cá to. Con số này chỉ tất cả các loài cá có trong biển, theo quan niệm thời đó. Và như vậy, nó cũng ám chỉ mọi dân tộc trên thế gian này.
Trong việc “đánh cá người”, đã đành nhiệt huyết là quí, nhưng còn phải tựa vào ơn Chúa nữa, và có thể nói đây là yếu tố quyết định. Bài học này đôi khi người ta dễ quên.
3. Ông Phêrô “kéo lưới vào bờ”
Nhờ Chúa hướng dẫn, Phêrô mới bắt được cá, nhưng Đức Giêsu Phục Sinh cũng để cho Ông Phêrô vinh dự được “kéo lưới vào bờ” (Ga 21, 11).
Câu này nói đến việc Phêrô sẽ làm việc nơi các người kế vị ông cho đến khi con thuyền Giáo Hội đưa tất cả các dân tộc vào đạo thánh Chúa.
Chúa không muốn cứu rỗi con người cách riêng lẻ, nhưng muốn họ được cứu rỗi trong chính Giáo Hội mà Phêrô được đặt làm đầu. Chính Phêrô sẽ kéo mọi người về với Chúa để tất cả mọi người chỉ có “một chủ chiên duy nhất” là Đức Kitô.
4. Ông Phêrô tuyên xưng lòng mến
Chúa trao nhiệm vụ cho Phêrô và Người cũng muốn ông trước đó phải tuyên xưng lòng “mến Thầy hơn các anh em”.
Đức Giêsu hỏi Phêrô ba lần và có lẽ ông nghĩ rằng đó là cách nhắc lại ba lần ông đã chối Thầy. Tuy nhiên, có thể hiểu theo một nghĩa khác: ba lần Phêrô tuyên xưng lòng mến là một hình thức cam kết pháp lý theo một khoản luật được áp dụng trong thế giới sếmít (x. St 23, 3-18).
Không chỉ là một cam kết môi miệng mà thôi, rồi đây Phêrô sẽ còn phải đổ máu đào ra để chứng minh lòng mến đó: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng vì bạn hữu”.
Kết luận
Đức Kitô đã xây dưng Giáo Hội của Người trên Phêrô và Phêrô được mời gọi cam kết yêu mến Thầy hơn tất cả mọi người trước khi được Người trao nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội. Chúng ta còn ngại ngùng gì khi phải bước theo Chúa qua Phêrô, thủ lãnh hữu hình của Giáo Hội ?.
Oâng Phêrô và các Tông Đồ không sợ sệt trước quyền uy và đã nói một câu bất hủ " Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các ông (Thượng Hội Đồng) treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người chỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội." Dù bị đòn vì tội dám rao giảng danh Đức Giêsu, nhưng lòng các Ngài hân hoan vì cảm thấy xứng đáng chịu khổ nhục vì Danh Thánh Aáy. * BÀI ĐỌC 2: Kh 5, 11-14
* BÀI TIN MỪNG: Ga 21,1-19 Đức Giêsu hiện ra ở biển hồ Tibêria
Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. Oâng Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Oâng Simon Phêrô nói với các ông:"Tôi đi đánh cá đây" Các ông đáp:"Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông:" Này các chú, không có gì ăn ư?" Các ông trả lời:"Thưa không." Người bảo các ông:"Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì luới đầy những cá. Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó!" Vừa nghe nói "Chúa đó!", ông Simon Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông:"Đem ít cá mới bắt được tới đây!" Oâng Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn!" Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Oâng là ai?", vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi chỗi dậy từ cõi chết.
Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: "Này anh Simon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" Oâng đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giêsu nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy." Người lại hỏi: "Này anh Simon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không?" Oâng đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói:"Hãy chăn dắt chiên của Thầy." Người hỏi lần thứ ba:"Này anh Simon, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?" Oâng Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần:"Anh có yêu mến Thầy không?" Oâng đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giêsu bảo:"Hãy chăm soác chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến ơi anh chẳng muốn." Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy." Ngẫm:
* Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Vâng lời là gì? Các thuộc tính của nó? 2. Vâng lời ai? 3. Tầm quan trọng và hiệu quả của Đức Vâng Lời? 4. Kinh nghiệm sống cho các thành viên Khôi Bình? * Suy tư gợi ý:
1. Định nghĩa Đức Vâng Lời. Các thuộc tính của nó.
Trong Bài đọc 1, Thánh Phêrô đã khẳng định trước Thượng Hội Đồng là các Tông Đồ cần phải vâng Lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Trong bài đọc 2, Đức Giêsu vì vâng lời Thiên Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập giá, nên Thiên Chúa dã cho Ngài Phục Sinh trong vinh quang bất diệt. Trong Bài Tin Mừng, các Tông Đồ đã vâng theo sự chỉ dạy của "Một người" mà các Tông Đồ xem như có kinh nghiệm về nghề đánh cá hơn mình (lúc đó các Tông Đồ chưa biết người đó là Đức Giêsu), nên đã thả lưới bên phải mạn thuyền và kết quả mỹ mãn. Vậy vâng lời là gì và các thuộc tính của nó như thế nào?
Vâng là tuân phục, nghe theo. Lời là ý kiến, sự chỉ dạy , mệnh lệnh của người khác mình, thường là người trên mình về tuổi tác, kinh nghiệm, tài năng hay chức vụ. Vâng lời là làm đúng theo ý của người cố vấn hoặc ra lệnh cho mình. Nhưng đề tài của chúng ta bàn ở đây là Đức Vâng Lời. Tại sao lại có chữ Đức? Vì Vâng lời với tất cả ý nghĩa tràn đầy của nó phải bao hàm các thuộc tính: khiêm nhường, tự do và tình yêu.
– Trước hết, vâng lời là một nổ lực chống lại tính tự kiêu, một tội đứng hàng đầu trong bảy mối tội. Khuynh hướng tự nhiên luôn cho mình là tốt nhất, hay nhất, giỏi nhất. Chúng ta không muốn đầu luỵ ai về bất cứ vấn đề gì. Lu-xi-phe muốn có quyền bằng Thiên Chúa. Adam và Eva ăn trái cấm để biết lành dữ như Thiên Chúa. Do đó hành động vâng lời của ta luôn hàm chứa một sự khiêm hạ, một sự chấp nhận người khác hơn mình.
– Kế đến, sự vâng lời chỉ có giá trị đích thực khi ta đang ở trong tình trạng tự do. Chỉ riêng từ "VÂNG" cũng đủ nói lên sự tự nguyện chấp nhận chỉ đạo của người khác. Không thể nói đến Đức Vâng Lời khi ta bị ép buộc phải làm một điều gì với một họng súng đen ngòm bên mang tai.
– Cuối cùng, sự vâng lời đòi buộc ta phải hành động với tình yêu. Ta chấp nhận lệnh truyền với sự tự do có nghĩa là ta đã có tình yêu rồi. Tình yêu đối với tha nhân và chân lý. Ta vâng lời vì yêu mến người sai bảo ta. Ta vâng lời vì điều được sai bảo là chân lý dẫu rằng nhiều lúc ta không mấy thiện cảm đối với người truyền lệnh. Đến đây, một câu hỏi được đặt ra là ta phải vâng lời ai? 2. Ta phải vâng lời ai?
Trong bài đọc 1, Thánh Phêrô cả quyết: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm." Ta cần phải xác định quan niệm về Thiên Chúa và người phàm. Nếu hiểu Thiên Chúa là Đấng linh thiêng thì làm sao ta có thể trông thấy và tiếp xúc với Ngài được? Và nếu hiểu nguời phàm là những người cụ thể trong cộng đồng nhân loại với ta, thì suốt cuộc đời ta, ta chỉ tiếp xúc với người phàm và vâng lời người phàm mà thôi sao! Quan niệm như thế e không chỉnh lắm. Thiên Chúa ở đây phải được hiểu là chân lý, là tất cả những gì hợp với đức tin và luân lý. Người phàm hay người thế gian phải được hiểu là những người không tin có Chúa, là những thế lực chỉ nhằm hạnh phúc tạm thời của trần gian, là ác thần thù địch cùng Thiên Chúa. Nên bất cứ ai nói lên được tiếng nói của công lý, của bác ái, Ta xem đó như là tiếng nói, là mệnh lệnh của Thiên Chúa và ta có bổn phận nghe theo. Ngược lại, nếu ai đó bó buộc ta phải theo những chủ thuyết vô thần, vô luân, thì đó là mệnh lệnh của người phàm, chẳng nhũng ta không phải vâng lời mà còn có bổn phận phản bác lại. Oâng Phêrô không thể vâng lời quí ông trong Thượng Hội Đồng khi họ cấm đoán ông rao truyền Đức Kitô Phục sinh, vì sự kiện này là một chân lý. Tuy nhiên ông lại nghe theo lời khuyên nhẹ nhàng của một người đáng tin cậy dể thả lưới phía phải mạn thuyền. Người con gái ngoan đạo sẽ cưỡng lại lệnh phá thai dù làcủa cha mẹ, đấng sinh thành và dưỡng dục mình… nhưng có thể vâng lời một người bạn gái khuyên bảo mình tiếp tục vững lòng tin nơi Chúa. Như thế, Đức Vâng Lời mang một giá trị đặc biệt và đem lại hiệu quả khôn lường. 3. Tầm quan trọng và hiệu quả của việc Vâng lời Thiên Chúa.
Lu-xi-phe không vâng lời Thiên Chúa chấp nhận mình là kẻ thụ tạo nên đã trở thành quỉ dữ. Adam Eva đã không vâng lời Thiên Chúa, ăn trái cấm, nên đã nếm trãi sự khổ cực và sự chết. Còn Abraham đã vâng lời Thiên Chúa hiến tế dứa con độc nhất của mình nên đã trở thành tổ phụ của một dân tộc con đàn cháu đống. Tiếng xin vâng của Đức Mẹ đã ban tặng cho trần gian một Đấng Cứu Tinh duy nhất. Sự Vâng lời của Chúa Giêsu đối với Đức Chúa Cha đã ban cho nhân loại sự sống trường cửu. Như vậy, Đức Vâng Lời đã mang lại nhiều hoa trái trường cữu. Vấn đề là trong cuộc sống đời thường, ta không biết đâu là ý Chúa để nói lên hai tiếng xin vâng, 4. Một kinh nghiệm sống cho các thành viên Khôi Bình
Làm sao phân biệt được đâu là Ý CHÚA đâu là Ý PHÀM? Chân lý tuyệt đối là vô hạn mà trí khôn ta thì hữu hạn. Chân lý tuyệt đối lại hiện hữu thông qua những chân lý tương đối. Nghĩa là chân lý đó bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nơi thế này, lúc cách khác. Chính vì vậy giới tín hữu bình dân như ta thường hay nói luật Chúa thì bất biến nhưng luật Giáo Hội có thể thay đổi tuỳ nơi tuỳ lúc. Cách đây 50 năm, Giáo Hội cấm ta lập bàn thờ tổ tiên, ăn đồ cúng. Ngày nay tín hữu có thể dâng mâm ngũ quả lên bàn thờ tế lễ. Còn luật xã hội thì trăm hoa đua nở, mỗi châu mỗi khác, mỗi nước mỗi cách. Lúc thì vượt biên là phản quốc, lúc lại Việt Kiều là yêu nứơc . Vấn đề còn lại là với trí khôn và lương tâm Chúa ban cho mỗi người, trong mỗi hoàn cảnhh cụ thể, với ơn Thánh Linh soi dẫn, với sự tư vấn của các bậc trách nhiệm, ta có thể biết được điều lành phải vâng phục và điều ác phải né tránh. Dù sao với lương tâm ngay chính, khi chúng ta vâng lời thực hành một điều mà ta xét thấy là thiện, thì lúc đó ta không còn chịu trách nhiệm nữa.
Nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con khả năng nghe được tiếng Chúa để con biết làm theo lời Chúa dạy. Trước mắt, xin cho con biết vâng lời những người có trách nhiệm phần hồn phần xác của con. Đó là giáo quyền, là cha mẹ, là thầy dạy, là bạn hữu xa gần, là thế quyền hợp pháp và hợp luân lý đạo đức. Sự vâng lời của con sẽ là bằng chứng hùng hồn con là con ngoan của Chúa, là đồ đệ trung thành của Đức Kitô Phục sinh. Amen.
"Chúng ta hãy dùng bữa với nhau" là một cách mời gọi thời thượng. Điều này minh hoạ một sự kiện rõ ràng rằng dùng bữa không chỉ để mưu tìm một sự no thỏa tự nhiên phần xác. Nhiều dịch vụ trong thương trường đã được ký kết với nhau trên bàn ăn. Người ta mời nhau một bữa ăn trưa để trò chuyện và thương lượng một vấn đề, một dịch vụ. Người ta tổ chức các biến cố trong cuộc đời họ như cưới xin, sinh nhật, tạ ơn… để chia sẻ của ăn với nhau qua những ngôn từ lịch lãm: chung vui, liên hoan…
Chúng ta cũng thấy xu hướng ấy trong cách đối xử của thầy trò Giêsu- môn đệ. Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta nghe câu truyện Phêrô và những đồng nghiệp của ông ra khơi đánh cá – nghề chuyên môn cũ- họ cực nhọc suốt đêm mà chẳng được gì cho đến khi gặp lại Đức Kitô phục sinh. Nghe lời chỉ dẫn của Ngài, họ đã lưới được nhiều cá đến nỗi lưới tưởng như muốn rách! Có lẽ sự cố này làm họ nhớ lại lời hứa của Thầy là biến họ nên những "kẻ chài lưới người". Đó là lúc từ ngoài khơi về đến bờ, họ thấy Chúa Giêsu đã dọn sẵn cá và bánh. Ngài mời họ ăn và sau khi ăn, Chúa Giêsu hỏi Phêrô ba lần: "Con có yêu mến Ta không?" Phêrô đã trả lời Ngài: "Có", mỗi lần hỏi như thế, Ngài đã mời gọi ông " chăn dắt đàn chiên của Ngài".
Thiên Chúa thường dùng của ăn để ám chỉ việc Ngài quan tâm tới dân Ngài trong bối cảnh tạo dựng. Nơi vườn địa đàng, Thiên Chúa nuôi dưỡng Adong và Evà với "cây hằng sống". Ở Ai Cập, Thiên Chúa thiết lập bữa ăn Vượt Qua để chuẩn bị giaỉ phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ. Trong sa mạc, Ngài dùng Manna nuôi dưỡng họ suốt 40 năm trường. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu trao cho môn đệ bánh và rượu, cả hai đã trở nên chính thịt và máu Ngài. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã khai mở Thánh Kinh cho hai môn đệ trên đường đi Emmau và họ đã nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh. Hôm nay, Chúa Giêsu lại nuôi dưỡng các môn đệ bằng cá và bánh trước khi kêu gọi họ chăn dắt đoàn chiên của Ngài và theo Ngài.
Chúng ta thấy được hoa quả của việc Thiên Chúa quan tâm đối với dân của Ngài qua bài đọc thứ nhất. Các môn đệ đã sung sướng đón nhận mọi khổ nhục vì Tin Mừng. Điều gì đã đem lại cho họ sự ao ước rao giảng Tin Mừng dù phải chịu tù đày và bắt bớ? Đó chính là sứ điệp của Chúa và sứ điệp ấy được diễn tả một lần nữa qua ngôn từ "của ăn". Có rất nhiều đoạn Kinh Thánh đã ám chỉ Nước Trời như bữa tiệc hay như "Tiệc cưới của Con Chiên", là chính Chúa Giêsu, Đấng đã chết để gánh tội thế gian và đã phục sinh vinh hiển. Tiệc Cưới này chính là tiệc cưới của Tân Lang Giêsu, Chiên Thiên Chúa và tân nương của Ngài là Giáo Hội. Chúng ta có cơ hội tham dự tiệc cưới này hàng ngày qua việc tham dự thánh lễ. Chúa Giêsu ban cho chúng ta chính Thần Khí của Ngài để chúng ta có thể bước vào cung lòng tình yêu của Chúa Cha và Con. Ngài nuôi dưỡng chúng ta bằng chính lời của Ngài trong Kinh Thánh và bằng chính thịt và máu Ngài qua bí tích Thánh Thể. Sau khi đã nuôi dưỡng chúng ta bằng chính sức sống của Ngài (Lời- Thịt và Máu), Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy ra đi và nuôi dưỡng tha nhân bằng chính những điều chúng ta nhận được từ Ngài.
Lạy Chúa, Thế giới đang khao khát Ngài. Xin giúp chúng con biết tìm đến Ngài để kín múc sự sống thần linh và đem chia sẻ với mọi người hầu thoả cơn đói khát của họ. Xin hãy mở lòng chúng con biết đáp trả lời mời gọi để theo và chăn dắt đàn chiên của Ngài.
· Cv 5,27b-32.40b-41: Vị thượng tế hỏi các tông đồ: «Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà kìa các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi». Bấy giờ Phê-rô và các tông đồ khác đáp lại rằng: «Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm (…)».
· Kh 5,11-14: Muôn thiên thần ở chung quanh ngai … lớn tiếng hô: «Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang và muôn lời cung chúc».
· TIN MỪNG: Ga 21,1-19
Đức Giê-su hiện ra ở biền hồ Ti-bê-ri-a
Khi ấy, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở biển hồ Ti-bê-ri-a.Người tỏ mình ra như thế này: Ông Si-mon Phê-rô, ôngTô-ma gọi là Đi-đi-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na, miền Ga-li-lê, các người con ông Giê-bê-đê, và hai môn đệ khác nữa. Tất cả đang ở với nhau. Ông Si-mon Phê-rô nói với các ông: «Tôi đi đánh cá đây». Các ông đáp: «Chúng tôi cùng đi với anh». Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. Người nói với các ông: «Này các chú, các chú không kiếm được gì ăn sao?» Các ông trả lời: «Thưa không». Người bảo các ông: «Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá». Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: «Chúa đó!» Vừa nghe nói «Chúa đó!» ông Si-mon Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách khoảng gần một trăm thước.
Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giê-su bảo các ông: «Đem ít cá mới bắt được tới đây!» Ông Si-mon Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được 153 con. Cá nhiều như vậy mà không bị rách lưới. Đức Giê-su nói: «Anh em hãy đến mà ăn!» Không ai trong các môn đệ dám hỏi «Ông là ai?» vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh, trao cho các ông, rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-mon Phê-rô: «Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thày hơn các anh em này không?» Ông đáp: «Thưa Thầy, có, Thầy biết con yêu mến Thầy». Đức Giê-su nói với ông: «Hãy chăm sóc chiên con của Thầy». Người lại hỏi: «Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không?» Ông đáp: «Thưa Thầy, có, Thầy biết con yêu mến Thầy». Người nói: «Hãy chăn dắt chiên của Thầy». Người hỏi lần thứ ba: «Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thày hơn các anh em này không?» Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần «Anh có yêu mến Thầy không?» Ông đáp: «Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy». Đức Giê-su bảo: «Hãy chăm sóc chiên của Thầy».
Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.
Người nói vậy có ý ám chỉ ông sẽ chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: «Hãy theo Thầy!»
1. Các tông đồ đánh cá suốt đêm mà không được gì cả, nhưng nghe lời Đức Giê-su, các ông đánh được rất nhiều cá. Điều đó có ý nghĩa gì không?
2. Khi lên bờ, các tông đồ thấy có sẵn cá và bánh cùng với than hồng đang cháy. Điều ấy có ý nghĩa gì, nhất là khi điều ấy lại xảy ra trước khi Đức Giê-su muốn trao trách nhiệm cho Phê-rô?
3. Tại sao trước khi trao nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên cho Phê-rô, Đức Giê-su lại hỏi ông tới ba lần «Anh có yêu mến Thầy không?». Có cần thiết phải hỏi nhiều lần như thế không?
Suy tư gợi ý:
1. Bài học cho những người làm tông đồ Chúa
Sau khi Đức Giê-su sống lại, Ngài chỉ thỉnh thoảng hiện ra và nói chuyện với các môn đệ, chứ không còn cảnh thầy trò suốt ngày bên nhau lang bạt từ làng này sang làng khác, thành này sang thành khác để loan báo Tin Mừng nữa. Vì thế, các môn đệ phải nghĩ tới chuyện kiếm gì để ăn, và các ông rủ nhau đi đánh cá, làm nghề cũ của mình. Nhân dịp này, Đức Giê-su đã cho các ông – cũng là cho chúng ta, những người muốn làm tông đồ của Ngài – một bài học bằng một biểu tượng sống động. Các ông đánh cá suốt đêm, nhưng không bắt được gì cả. Nhưng khi các ông làm theo lời Đức Giê-su – lúc đó các ông chưa nhận ra là Ngài – thì các ông thành công mỹ mãn. Lưới đầy cá đến nỗi kéo lên không nổi. Điều này cho thấy: không phải con người cứ có tài năng và cứ nỗ lực làm điều mình muốn thì sẽ đạt được kết quả. Cổ nhân ta có câu: «Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên» (L’homme propose, Dieu dispose). Điều này làm ta nhớ lại lời nói của Đức Giê-su: «Không có Thầy, anh em không làm gì được» (Ga 15,5). Tuy nhiên, người tin vào Đức Giê-su không hề bi quan và cho rằng mình yếu đuối bất lực không làm được gì, vì họ tin rằng nhờ quyền năng của Thiên Chúa ở trong họ, họ có thể làm được tất cả mọi sự: «Đối với Thiên Chúa, không có sự gì là không thể làm được» (Lc 1,37), và «Tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). Sự kiện nhờ Đức Giê-su, nhờ vâng lời Ngài mà các tông đồ bắt được mẻ lưới đầy cá chứng tỏ điều ấy.
Trong câu chuyện này, điều rất có ý nghĩa là: mặc dù các tông đồ đánh được thật nhiều cá, nhưng khi lên bờ, các ông thấy Đức Giê-su đã lo liệu cá và bánh cùng với than hồng để nướng cho các ông. Ngài lo lắng cho các ông thật tươm tất như một bà mẹ. Như vậy, nếu không lo đánh cá hay không đánh được cá, các ông vẫn có cá và bánh để ăn. Hành động này của Đức Giê-su có thể làm an tâm những người làm tông đồ cho Chúa: Thiên Chúa quan phòng luôn luôn quan tâm lo lắng đến những nhu cầu thực tế của đời sống cho những người làm việc cho Ngài.
Sự kiện lạ lùng này xảy ra ngay trước khi Đức Giê-su trao nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội cho Phê-rô càng làm nổi bật ý nghĩa trên. Ngài dường như muốn nói với Phê-rô: «Anh hãy chăm lo Giáo Hội của Thầy, Thầy chỉ cần anh lo việc ấy thôi. Còn việc sinh kế của anh, hãy phó thác cho Thầy, Thầy sẽ lo tất cả cho anh để anh hoàn toàn an tâm làm điều Thầy giao phó». Vì thế, những ai lo việc cho Thiên Chúa, hãy an tâm về đời sống cụ thể của mình. Ngài không thua lòng quảng đại của ta và để ta thiệt thòi đâu. Ngài đã từng nói: «Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước đã, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau» (Mt 6,33). Chẳng lẽ đó là một lời hứa hão?
Thật vậy, Ngài sẽ không để những người làm việc cho Ngài phải lâm tình trạng thiếu thốn, miễn là họ biết chấp nhận sống tinh thần thanh bần, một thứ thanh bần tự nguyện, không chủ trương phải thỏa mãn đầy đủ những nhu cầu giả tạo. Kinh nghiệm cho tôi thấy rằng Thiên Chúa có hàng trăm ngàn cách thức khác nhau để hỗ trợ cho những ai lo lắng cho công việc của Ngài. Nếu không thế thì làm sao tôi có thể dành ưu tiên thì giờ cho những công việc của Ngài được? Tuy nhiên, những vị lãnh đạo trong Giáo Hội (giáo phận, giáo xứ, v.v…) không nên vì thế mà bỏ mặc những người đang lo việc cho Chúa ở dưới tay của mình. Các ngài nên bắt chước Thiên Chúa, biết quan tâm lo lắng đến đời sống cụ thể của những người lo việc cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội dưới quyền mình, dù họ là giáo sĩ hay giáo dân, đồng thời biết chia sẻ một cách quảng đại và cụ thể với họ ngay cả trong lãnh vực vật chất. Chúa đã quan tâm lo lắng cho đời sống mình thế nào, mình cũng hãy quan tâm lo lắng cho những người làm việc Chúa dưới quyền mình như vậy. 2. Làm công việc của Chúa, phải có nhiều tình yêu
Trước khi giao cho Phê-rô trách nhiệm coi sóc Giáo Hội của Ngài, Đức Giê-su hỏi ông tới ba lần «Anh có mến Thầy không?» đến nỗi đã làm ông buồn. Điều ấy không phải là không có ý nghĩa. Làm việc cho Chúa, cho Giáo Hội, cho nhân loại, hay cho xã hội đòi hỏi những người làm công việc ấy phải dấn thân, quên mình, phải có bụng chung, nghĩa là phải có rất nhiều tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân. Không có tình yêu, chúng ta không thể nào làm công việc ấy tốt đẹp được, vì nó đòi hỏi rất nhiều hy sinh, nhiều mồ hôi nước mắt, sự chấp nhận thiệt thòi. Không có tình yêu đích thật đối với Thiên Chúa và tha nhân mà làm việc cho Ngài, nhất là việc loan báo Tin Mừng và chăm sóc cho những cộng đoàn Giáo Hội, chúng ta sẽ không thể đáp ứng được những đòi hỏi gắt gao của công việc, không thể kiên nhẫn chịu đựng những bực bội, khó chịu, những hàm oan, đau khổ, v.v… Tệ nhất là ta biến việc phục vụ Thiên Chúa và tha nhân thành một lý do để được ưu đãi, được phục vụ, thành một cơ hội để hưởng thụ, để có những đặc quyền đặc lợi, nhất là để áp bức và gây bất công cho người khác.
Những ai đang phụ trách chăm sóc các cộng đoàn Giáo Hội, những ai đang làm việc cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và xã hội, hãy lắng nghe trong thâm tâm tiếng Chúa thường hỏi mình: «Con có thật sự yêu mến Cha không?», và hãy làm theo những gì tình yêu ấy đòi hỏi.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, con muốn lo việc cho Chúa, nhưng quả thật con còn có biết bao nhu cầu của bản thân con, của gia đình con khiến con phải lo lắng. Vì thế, con còn tâm trí hay thì giờ đâu để lo việc cho Chúa! Nhưng xin Chúa hãy giúp con tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, để con dám dấn thân thật sự cho những công việc của Chúa, của anh em đồng đạo và của đồng bào con. Amen. (NCK)
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, Chúa Kitô Phục sinh đã trao phó sứ mạng cho cộng đoàn các: PS 3-C106
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, Chúa Kitô Phục sinh đã trao phó sứ mạng cho cộng đoàn các môn đệ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” ( 20, 21 ). Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta một hình mẫu của việc thực thi sứ mạng đó. Chúng ta sẽ suy niệm trình thuật về lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình cho các môn đệ sau khi Người từ cõi chết sống lại, theo Tin Mừng theo Thánh Gioan ( 21, 1 – 14 ).
Hôm ấy, “ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh” ( 21, 2 – 3a ). Các môn đệ đang ở với nhau, làm thành một cộng đoàn. Tổng cộng là bảy người. Hình như tác giả cố ý không muốn trình bày ở đây Nhóm Mười Hai. Một cách riêng lẻ, ông Simon Phêrô lấy quyết định đi đánh cá, và cả nhóm liền đồng ý đi với ông. Cuộc đi đánh cá này là hình ảnh của việc thi hành sứ mạng thừa sai của cộng đoàn. Quyết định thực hiện sứ mạng ở đây không phải là một quyết định chung, cũng chẳng phải là quyết định do một người nào đó đưa ra và những người khác trong nhóm phải thi hành theo. Đây là một quyết định cá nhân và được những người khác trong nhóm hưởng ứng.
“Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả” ( 21, 3b ). Trạng từ chỉ thời gian “đêm ấy” là một yếu tố quan trọng của trình thuật. Họ làm việc ban đêm, tức là trong hoàn cảnh không có ánh sáng, và kết quả là không thu được kết quả nào. Chính Đức Giêsu đã từng tuyên bố, trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, rằng Người là ánh sáng thế gian ( 9, 5 ). Như thế, các môn đệ làm việc “đêm ấy” tức là họ làm việc mà không có Đức Giêsu. Trong hoạt động của các môn đệ đêm ấy, thiếu sự hiện diện và hành động của Đức Giêsu.
Vậy bóng đêm được nói đến ở đây không chỉ là bóng đêm vật lý, mà còn là kết quả của một thái độ sống: quả thực, đó chính là quyết định của cá nhân ông Simon Phêrô và những người khác hùa theo quyết định đó. Chính Chúa Cha muốn những hoạt động của các môn đệ Đức Kitô thành công và sinh hoa kết trái, nhưng phải là hoạt động trong sự nên một với Đức Kitô: “Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” ( 15, 2.8 ). Sự thất bại trong sứ mạng trước hết là ở sự không nên một với Đức Kitô: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” ( 15, 5 ).
“Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu” ( 21, 4 ). Trời sáng và sự hiện diện của Đức Giêsu được cố ý gắn kết với nhau trong trình thuật. Đức Giêsu là ánh sáng thế gian, và trong sự hiện diện của Đức Giêsu, các môn đệ của Người sẽ thực hiện được những công việc của Chúa Cha như Đức Giêsu đã nói: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” ( 9, 4 – 5 ).
Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra sự hiện diện của Người, vì các ông vẫn còn ở trong bóng tối của quyết định làm việc không có sự hiện diện của Người. Nhóm các môn đệ vẫn còn khép kín nơi chính mình và công việc của họ không được gắn với Đức Giêsu, nên không thành công. Họ tập trung hoàn toàn vào những nỗ lực của mình nên không nhận ra Đức Giêsu khi Người hiện diện.
“Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư ?" Các ông trả lời: "Thưa không” ( 21, 5 ). Sẽ là rất ý nghĩa khi chúng ta nhớ rằng, trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, lương thực của Đức Giêsu là thi hành chương trình của Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” ( 4, 34 ). Có lẽ Đức Giêsu hỏi các môn đệ về loại lương thực quan trọng đó. Đức Giêsu đã hoàn tất công trình Chúa Cha trao phó cho Người: “Đức Giêsu nói: "Thế là đã hoàn tất !" Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” ( 19, 30 ). Nhưng các môn đệ thì chưa. Câu trả lời của các môn đệ cho thấy họ đã hoàn toàn thất bại, và điều đó có nghĩa là khi không có sự hiện diện của Đức Giêsu, người ta sẽ không thể thi hành được chương trình của Chúa Cha.
“Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” ( 21, 6 ). Các môn đệ thành công rực rỡ khi hành động theo sự chỉ dẫn của chính Đức Giêsu. Kết quả của việc thi hành sứ mạng được nối kết chặt chẽ, nếu không nói là tuỳ thuộc, vào sự mau mắn và ngoan nguỳ làm theo lời Đức Giêsu.
“Người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó !" Vừa nghe nói "Chúa đó !", ông Simôn Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển” ( 21, 7 ). Người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến đã nhanh chóng nhận ra sự hiện diện của Đức Chúa khi nhìn thấy kết quả của lần bủa lưới này, tức là khi nhìn thấy kết quả của công việc thừa sai. Người môn đệ này vốn có mối tương quan gắn bó mật thiết với Đức Giêsu và là người trung thành đi với Đức Giêsu trọn con đường thập giá của Người. Ông là người đã chứng kiến và làm chứng về sự sống trào vọt từ thập giá Đức Giêsu ( 19, 35 ), nên ông cũng là người mau chóng hiểu được hoa trái của sự sống ấy. Ông nói cho ông Simon Phêrô biết trực giác của mình. Ông thực hiện một sự hiệp thông sâu xa đích thực trong cộng đoàn các môn đệ.
Đây là lần thứ hai trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, kể từ khi Chúa Kitô phục sinh, ta thấy có sự khác biệt rất quan trọng và mang tính bổ túc cho nhau giữa người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến với ông Simon Phêrô. Trước cùng một dấu hiệu, người môn đệ kia nhận ra ý nghĩa và tin, còn ông Simon Phêrô thì lại mù tịt. Chuyện ấy xảy ra nơi ngôi mộ trống, và bây giờ, trên biển hồ Tibêria. Chính tình yêu đối với Đức Giêsu làm cho người ta nhanh chóng nhận ra những dấu chỉ về sự hiện diện của Người khi Người đã phục sinh.
Ông Phêrô không hiểu nguyên nhân của sự thành công mà các ông đang được hưởng. Ông không hiểu ý nghĩa của sự kiện mà ông đang sống trong đó. Nhưng vừa khi nghe người môn đệ kia nói “Chúa đó !”, thì ông hiểu ngay, và lập tức thay đổi thái độ sống và cách thức nhìn nhận thực tại. Tác giả Gioan đã dùng những hình ảnh biểu tượng rất đậm đặc về ý nghĩa để diễn tả sự thay đổi này của ông Phêrô: ông khoác áo vào và nhảy xuống biển.
“Simon Phêrô khoác áo vào”. Hạn từ chìa khoá để hiểu chi tiết này là động từ “diezôsato” ( bản tiếng Việt dịch là “khoác” ). Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, cách diễn tả này chỉ xuất hiện trong trình thuật Tiệc Ly, khi Đức Giêsu khoác vào mình chiếc khăn thắt lưng, dấu hiệu của thân phận tôi tớ, và rửa chân cho các môn đệ, có ý diễn tả thái độ phục vụ cho đến tận cùng trong cái chết của Người ( 13, 4 . 5 ). Vậy, trước đó, ông Phêrô ở trần, tức là ông không đón nhận thân phận tôi tớ và cái chết thập giá của Đức Giêsu như là cách diễn tả tuyệt đối của tình yêu, càng không lấy đó làm quy luật hành động cho mình. Nhưng bây giờ ông đã hiểu. Ông làm một hành động cho thấy: như Đức Giêsu đã khoác vào mình chiếc khăn thắt lưng tôi tớ để phục vụ đến tận cùng, chính ông chọn sống đúng thái độ phục vụ tận cùng trong yêu thương như Đức Giêsu vậy. Như Đức Giêsu, ông sẵn sàng hy sinh mạng sống mình. Và để diễn tả thái độ và chọn lựa sống đó, ông nhảy xuống biển.
“Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước. Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa” ( 21, 8 – 9 ).
Bước lên bờ, điều đầu tiên ập vào mắt các môn đệ là than hồng và thức ăn mà Đức Giêsu đã chuẩn bị sẵn cho các ông. Đức Giêsu tiếp tục hiện diện với các môn đệ trong tình yêu thương và sự phục vụ tận tình của Người. Bữa ăn mà Người ân cần chuẩn bị chính là dấu hiệu Người đón nhận họ làm anh em và làm bạn hữu của Người. Và đó cũng chính là sự chuẩn nhận của Đức Giêsu đối với sứ mạng thừa sai mà các ông thực hiện qua hình ảnh cuộc thả lưới theo lời của Người. Bữa ăn Người đã chuẩn bị sẽ đem lại sức mạnh cho họ sau những giờ làm việc cật lực của họ. Đàng khác, những thức ăn đã được Đức Giêsu chuẩn bị cũng là những thức ăn mà Người đã phân phát cho đám đông dân chúng trong dịp lễ Vượt Qua được kể ở Ga 6, 9.11. Ở đó, bánh đã được Đức Giêsu dùng để nói về bánh hằng sống là chính mình Người: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” ( 6, 51 ).
“Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây !” ( 21, 10 ). Bên cạnh những chiếc bánh và những con cá mà Đức Giêsu đã chuẩn bị như là ân huệ nhưng không diễn tả tình yêu mến của Người dành cho các môn đệ, Người muốn các ông đóng góp kết quả công việc của các ông để làm thành một bữa tiệc có thể hiểu như là Tiệc Thánh Thể ( xem 21, 13 ). Như vậy là sẽ có hai loại thức ăn trong bữa tiệc này: do Đức Giêsu ban nhưng-không và do kết quả công việc của các môn đệ làm theo lời của Đức Giêsu. Người bảo họ đem phần kết quả công việc đó nối kết nên một với ân huệ do chính Người đã ân cần ban tặng một cách hoàn toàn nhưng-không. Như thế, cộng đoàn các môn đệ được nuôi dưỡng bởi tình yêu nhưng-không của Đức Giêsu và bởi sứ mạng thực thi theo lời của Người. Hai thực tại đó không thể tách rời được, trái lại, luôn phải gắn kết với nhau để làm thành lương thực cho cộng đoàn môn đệ.
“Ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách” ( 21, 11 ). Có một cách giải thích, theo đó, con số 153 là tổng số các loại cá theo cách tính của các nhà vạn vật học Hy Lạp, và như thế, lưới của các môn đệ ở đây quy tụ mọi gia đình nhân loại trong một Hội Thánh duy nhất.
“Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn !” ( 21, 12a ). Đức Giêsu, Chúa Phục Sinh, không hiện diện ở giữa cộng đoàn môn đệ như một ông chủ bảo các đầy tớ tính sổ công việc của mình. Người hiện diện như một người bạn, ân cần chuẩn bị và chân tình ngỏ lời mời các môn đệ dùng bữa. Thật đúng như lời Người đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” ( 15, 13 – 15 ).
“Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai ?", vì các ông biết rằng đó là Chúa” ( 21, 12b ). Đức Giêsu đã từng nói với các ông: “Ngày ấy, anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa” ( 16, 23 ).
“Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy” ( 21, 13 ). Câu này ám chỉ một cách hết sức rõ ràng đến 6, 11 trong trình thuật Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều: cũng bánh và cá, cũng cùng những hành động của Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu trao thức ăn cho các môn đệ. Người là trung tâm của cộng đoàn, từ đó các môn đệ nhận được sức mạnh và tình yêu, để rồi đến lượt mình, chính các ông cũng sẽ hiến mình như thế.
“Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết” ( 21, 14 ).
Tóm lại, đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa tìm hiểu nói với chúng ta những nội dung quan trọng trong đời sống của cộng đoàn các môn đệ của Chúa Kitô Phục Sinh. Sứ mạng của cộng đoàn đó sẽ chỉ thành công nếu được thực hiện trong quyền năng của lời của Đức Kitô Phục Sinh và trong ánh sáng là chính Người. Chính Người hằng ưu ái chăm lo cho các môn đệ của Người với tất cả lòng yêu thương ân cần tuyệt vời của Người. Người trân trọng sự đóng góp của các môn đệ và thông ban cho họ chính sự sống của Người. Chúng ta có thể gặp thấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay tất cả những yếu tố quan yếu nhất của Hội Thánh: mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ.
Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã truyền lệnh các Tông Đồ hãy đi loan báo Tin Mừng: “Như Cha: PS 3-C107
Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã truyền lệnh các Tông Đồ hãy đi loan báo Tin Mừng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” ( Ga 20, 21 ). Lệnh truyền này mang tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, Truyền giáo chính là bản chất của Giáo Hội. Hay nói cách khác, Giáo Hội của Đức Giêsu phải truyền giáo. Bao lâu Giáo Hội không còn truyền giáo, thì bấy lâu Giáo Hội đánh mất căn tính của mình. Hình ảnh mẻ cá lạ với 153 con mà lưới không bị rách mà Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay thuật lại chính là một lời mời gọi ra đi để quy tụ muôn dân và hướng tới một Giáo Hội phổ quát.
Tuy nhiên, Giáo Hội mà Chúa Giêsu thiết lập và trao phó cho các Tông Đồ chăm sóc, loan truyền phải là một Giáo Hội đi trên, sống với và hướng về tình yêu. Chính vì thế, trước khi trao cho Phêrô quyền lãnh đạo Giáo Hội, cũng như mặc khải cho ông về sứ mạng truyền giáo qua mẻ cá lạ, Chúa Giêsu đã trắc nghiệm Phêrô về lòng yêu mến của ông.
Con có yêu mến Thầy không ?
Sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho các Tông Đồ trên biển hồ Tibêria và truyền lệnh cho các ông thả lưới bên phải mạn thuyền sau một đêm vất vả mà không được gì ( x. Ga 21, 6 ). Họ đã nghe theo vị khách lạ xem ra có vẻ dày dạn về kinh nghiệm đánh bắt cá truyền bảo. Kết quả thật mỹ mãn. Đó là một mẻ lưới đầy cá. Khi thấy những sự kiện lạ như vậy, Gioan đã hô lên: “Chúa đó !” Phải chăng vì lòng mến Chúa cách đặc biệt mà ông đã nhận ra Chúa trước anh em ? Quả thật, cũng vì lòng mến Chúa Giêsu tha thiết, nên Gioan cũng là người tin vào Chúa Phục Sinh trước Phêrô khi cả hai cùng chạy ra một vào ngày thứ nhất trong tuần ( x. Ga 20, 1 – 9 ).
Khi nghe Gioan nói: “Chúa đó !” các ông vào bờ và Đức Giêsu trực tiếp phục vụ các ông. Một bữa ăn đầy tình Thầy trò và huynh đệ giữa anh em.
Sau bữa ăn, chính là phần trao ban sứ vụ lãnh đạo cho Phêrô. Nhưng trước khi trao, Đức Giêsu cất tiếng hỏi vị Tông Đồ trưởng tới ba lần: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” ( Ga 21, 15a ). Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” ( Ga 21, 15b ). Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” ( Ga 21, 15c ). Chúa hỏi Phêrô tới ba lần như vậy là vì muốn phục hồi địa vị môn đệ của ông sau khi ông đã sa ngã qua ba lần vì chối Thầy. Hơn nữa, Đức Giêsu muốn cho chính Phêrô hiểu rằng: đây là vai trò đặc biệt mà Chúa trao cho ông và cũng cho ông thấy rằng Lòng Mến là nền tảng căn bản, quan trọng phải có của người môn đệ. Quả thật: “Đức Mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” ( 1Cr 13, 4 – 7 ). Hay: “Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng Đức Mến là quan trọng nhất” ( 1Cr 13, 13 ).
Có Lòng Mến sẽ vượt qua mọi thử thách và ngay cả cái chết. Vì thế, Đức Giêsu nói tiếp với Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” ( Ga 21, 18 ). Cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu loan báo cho Phêrô có nghĩa là: ông không còn làm chủ đời mình nữa, mà là một đời môn đệ đích thực. Ông phải trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu chịu đóng đinh. Bị kẻ khác thắt lưng còn có nghĩa là bị bắt, chịu trói và bị giết chết. Thật vậy, phải tin yêu hết lòng thì mới không xấu hổ và sẵn sàng loan báo về một Đức Giêsu trần trụi trên thập giá. Điều này đã được chính Phêrô diễn tả khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” ( Cv 5, 41 ).
Phêrô đã xác tín mạnh mẽ và tin theo Đức Giêsu cách tuyệt đối. Chúa biết lòng ông, nên sau khi hỏi Phêrô đến ba lần “con có mến Thầy không ?”, sau những lần trả lời đầy khiên tốn và yêu mến, Chúa đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội cho ông. Như thế: Mầu nhiệm Phục Sinh chấm dứt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu, thì đồng thời khai mở mầu nhiệm Giáo Hội.
Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội
Hình ảnh mẻ cá lạ và có tới một 153 con mà lưới không bị rách, diễn tả mầu nhiệm Giáo Hội phổ quát. Theo các nhà động vật học của Hy Lạp thời bấy giờ, trên thế giới có tất cả là 153 loại cá. Mẻ cá lạ này, Chúa mặc khải cho các ông thấy rằng: Công cuộc loan báo Tin Mừng dưới quyền lãnh đạo của Phêrô phải được các ông loan đi tới tận cùng trái đất, cho hết mọi người, để mọi người được ơn cứu độ.
Nếu hình ảnh 153 con cá tượng trưng cho sứ mạng của người môn đệ, thì hình ảnh chiếc lưới lành lặn không bị rách mặc dù cá nhiều đến như vậy là tượng trưng cho một Giáo Hội của Chúa luôn đứng vững trước mọi cạm bẫy của “ba thù”. Mặt khác, dù nhiều chủng loại, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, thì vẫn là cộng đồng duy nhất trong một chiếc lưới của Chúa dưới vị lãnh đạo của Phêrô. Vẫn là một Chủ Chăn và một đoàn chiên duy nhất.
Khi truyền lệnh cho Phêrô thả lưới bên phải thuyền, ông đã vâng lời và kết quả đã thành công. Sự kiện này cho thấy, viễn tượng truyền giáo của Giáo Hội có thành công hay không nhờ vào việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa và trung thành với lời hứa của Ngài. Chính thánh nhân cũng đã quả quyết cách khẳng khái khi bị quan tòa tra hỏi: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” ( Cv 5, 29 ). Khi vâng lời trong lòng mến, các ngài đã “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” ( Cv 5, 41 ).
Đây cũng chính là nền tảng sứ mạng Tông Đồ của chúng ta sau khi được Chúa gọi vào làm “vườn nho của Ngài”.
Sứ điệp cho chúng ta ngày hôm nay
Chúa đã trao phó cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài vì ông đã vâng lời, khiêm tốn, tin tưởng và yêu hết lòng. Chúa trao cho ông vì chính Ngài cũng tin tưởng và yêu mến ông tha thiết.
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao ? Gẫm lại lịch sử đời chúng ta: chúng ta cũng thấy có biết bao lần chúng ta sa ngã phạm tội, nhưng có khi không hề nói lên lời sám hối, hoặc sám hối hời hợt cho qua. Phải chăng lòng mến của chúng ta chưa đủ mạnh như Phêrô để một lần cho cả đời ? Xin cho mỗi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho chúng ta sau những lần ngã quỵ vì yếu đuối. Để mỗi lần như vậy, chúng ta lại càng yêu mến Chúa nhiều hơn như Phêrô.
Hôm nay, Chúa cũng trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Hãy loan tin ấy tới tận cùng trái đất. Đây là trách nhiệm của mỗi chúng ta khi đã lãnh nhận và cảm nghiệm được tình yêu ấy trong cuộc đời. Cuộc đời làm chứng của người môn đệ là luôn gắn liền với Thập Giá và những hy sinh, vất vả, cô đơn, hiểu lầm, và ngay cả cái chết như Phêrô để làm chứng cho Thiên Chúa là Tình Yêu. Hình ảnh 153 loài cá là hình ảnh một thế giới yêu thương, hiệp nhất và phổ quát.
Như vậy, sứ mạng truyền giáo cũng đòi hỏi mỗi người chúng ta phải vượt ra khỏi chính mình để loại bỏ những bon chen, cố chấp, hẹp hòi, nghi kỵ và sợ sệt, để biết thích ứng với từng hoàn cảnh như văn hóa, truyền thống, thiếu thốn, bệnh tật trong khi loan báo Tin Mừng...
Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta và các thừa sai của Chúa trên cách đồng truyền giáo bao la ngàn trùng. Để các ngài ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh đến tận cùng trái đất. Xin cũng cho chúng ta đón nhận tất cả mọi thử thách trước, trong và sau khi loan báo Tin Mừng với tâm niệm rằng: vì lòng mến Chúa, xin cho con đón nhận tất cả, bởi vì tần số của tình yêu là yêu không giới hạn.
Nếu được như thế, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu dành cho Phêrô khi xưa: “Hãy theo Thầy” và cùng Thầy lên đường... ?
Đây chính là sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến cho các Tông Đồ trong lần thứ 3 Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Tàu Titanic dài 269 m và rộng 28 m. Trọng tải 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong: PS 3-C108
Tàu Titanic dài 269 m và rộng 28 m. Trọng tải 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong tàu là 18m. Titanic có thể chở tổng cộng 3.547 người, gồm cả thủy thủ đoàn. Vào đầu thế kỷ 20, Titanic được coi là một đỉnh cao của kiến trúc hàng hải, một tiến bộ công nghệ vượt bực, mà tạp chí The Shipbuilder tấm tắc ca ngợi là con tàu "không thể chìm".
Tàu bắt đầu được đóng vào năm 1909 và được hạ thủy năm 1912. Là con tàu lớn, hiện đại, lộng lẫy và sang trọng nhất lúc đó, Titanic mang theo tham vọng thống trị tuyến đường biển xuyên Đại Tây Dương của công ty sở hữu nó, hãng vận tải biển The White Star Line. Tuy nhiên, trong chuyến vượt Đại Tây Dương đầu tiên và cũng là cuối cùng của nó vào tháng 4 năm 1912, Titanic đã đắm do đâm vào một tảng băng trôi, khiến hơn 1.500 người tử nạn. Vụ đắm tàu này đã đi vào lịch sử như là vụ tai nạn hàng hải nghiêm trọng nhất trong thời bình ( Wikipedia ).
Tuy nhiên, con thuyền đánh cá mong manh của ngư phủ Phêrô và quý đồng nghiệp lại ra khơi ròng rã suốt 21 thế kỷ. Đến nay vẫn đang tiếp tục phiêu lưu cùng Chúa Giêsu. Thuyền vẫn hăng say lướt song, dù trải qua biết bao phong ba bão táp. Đó chính là con thuyền Hội Thánh đầy thánh thiện, tình yêu và phục vụ.
Con Thuyền Thánh Hóa
Nhọc nhằn, mệt mỏi thâu đêm, tất cả sáu môn đệ theo thuyền trưởng Phêrô lão luyện, đều phờ phạc trắng tay. Nhưng khi các ông tuân theo Thánh Ý Chúa, thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì không sao kéo nổi, vì lưới đầy những cá. ( Ga 21, 6 ) Mặc dù trời đã sáng, không còn là thời điểm thích hợp đánh cá, theo như luật tự nhiên. Nhưng Thiên Chúa quyền năng và siêu việt, không hề bị những quy luật của tạo vật chi phối.
Sau khi Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI từ nhiệm, giới truyền thông quốc tế đua nhau dự đoán người kế vị qua danh sách 10 vị Hồng Y nổi danh. Thậm chí, họ còn tung ra lời tiên báo của thánh Malachi với viễn tượng thật u tối, đau buồn cho Hội Thánh. Nhưng chẳng ai có thể ngờ được rằng, Đức Hồng Y Argentina, Jorge Mario Bergoglio nhận sứ vụ kế vị Thánh Phêrô thứ 266, trở thành Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Một bất ngờ thật lớn cho mọi người và toàn thể Dân Chúa, vì đó chính là tác động trực tiếp của Đức Chúa Thánh Thần trên Cơ Mật Viện, trong một thế giói đang đắm chìm vào tà thuyết duy vật và khuynh hướng tục hóa.
Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã tâm sự cùng các môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em... Thật vậy, nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em” (Ga 16, 7). Như thế nhờ Đức Chúa Thánh Thần bảo trợ, Con Thuyền Hội Thánh mới có thể bền vững tồn tại, sau hơn hai ngàn năm ra khơi, dẫu luôn bị vùi dập bể dâu.
Con Thuyền Tình Yêu
Sau mẻ cá lạ lùng, Chúa Phục Sinh thân mật và ân cần chia sẻ bánh và cá với các môn đệ. Người không nhắc lại ba lần ông Phêrô phản bội chối Người, cũng như không hạch tội đã qua, mà chỉ hỏi ba lần ông Phêrô có yệu mến Người không. Ba lần ông Phêrô đều mạnh dạn khẳng định tình yêu dành cho Người. Ba lần Chúa Giêsu thương yêu trao sứ vụ mục tử, săn sóc đoàn chiên của Người. Một quyết định dứt khoát, minh bạch và công khai sự ủy quyền.
Như thế, vì yêu Chúa Giêsu thực tình, tông đồ Phêrô điều khiển, lèo lái con thuyền Hội Thánh với cả một Tình Yêu nồng nàn, chứ không phải với quyền lực thô bạo, hắc ám, phong kiến, hay độc tài theo thế gian. Di sản Tình Yêu của Chúa Giêsu được lưu truyền muôn đời và trở thành dấu ấn sáng chói của Con Thuyền Hội Thánh, vì Người đã phán: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế !” ( Mt 28, 20 ). Sau này ông Phêrô đã chịu tử hình để minh chứng tình yêu cháy bỏng đó.
Chúa Giêsu đã tin tưởng hoàn toàn ông Phêrô, khi trao phó sứ vụ cao cả đó: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…” ( Mt 16, 17 – 19 ).
Con Thuyền phục vụ
Trước khi chịu cuộc khổ nạn, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, kể cả người sắp mưu phản, nộp người cho quân dữ, để dạy các môn đệ biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, mà Người trao phó. Hôm nay, Chúa Phục Sinh còn đích thân làm bếp, nhóm than, nướng bánh và cá phục vụ các môn đệ, vừa đói khát đi đánh cá trở về. Người còn lên tiếng mời gọi: “Anh em đến mà ăn !” ( Ga 21, 12).
Nhưng không chỉ là phục vụ trong nội bộ, mà Con Thuyền Hội Thánh ra khơi thả lưới khắp nơi, hầu quy tụ mọi dân tộc, sắc tộc, mọi người trong gia đình nhân loại vào một Giáo Hội duy nhất. Thời xa xưa, các nhà vạn vật học Hy Lạp đã thống kê tất cả có 153 loài cá trên thế giới. Như vậy, Thánh Ý Chúa muốn mời gọi mọi người trên dương gian về với Con Thuyền Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô.
“Phêrô, con là đá, Ta xây Hội Thánh Ta trên đá này, và cửa hỏa ngục mở tung không thắng nổi !” Hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu biến động, nội công ngoại kích, lắm giai đoạn đến mức tuyệt vọng, nhưng “Hội Thánh Chúa” không phải hội của loài người. ( Đường Hy Vọng, 249 ).
“Con tin Hội Thánh, vì Chúa Giêsu đã lập Hội Thánh, và chỉ lập Hội Thánh ấy thôi. Con đau khổ vì những bất toàn nơi bộ mặt nhân loại của Hội Thánh, nhưng con liên đới với những bất toàn ấy. Con nỗ lực để tẩy luyện và thực hiện ý Chúa Giêsu nơi Hội Thánh” ( Đường Hy Vọng, 268 ).
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ mọi người, để cùng hợp tác với Hội Thánh rao truyền hồng ân cứu độ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Sao Biển dẫn dắt chúng con đang lênh đênh, lao đao, vất vả giữa giông tố bão bùng cuộc đời, luôn tin yêu vào Giáo Hội và cùng ra khơi với Con Thuyền Hội Thánh. Amen.
Chàng trai trẻ rất muốn từ bỏ mọi sự để đi theo thầy, nhưng anh ta nói rằng gia đình anh quá: PS 3-C109
Chàng trai trẻ rất muốn từ bỏ mọi sự để đi theo thầy, nhưng anh ta nói rằng gia đình anh quá yêu thương anh nên không thể để anh ra đi được. “Yêu thương à ?” – Thầy nói với anh ta: “Chưa chắc !” Rồi thầy tiết lộ cho anh một bí quyết yoga, qua bí quyết này anh sẽ đóng vai một người chết để kiểm chứng. Ngày hôm sau, anh ta chết như thật, gia đình than khóc thảm thiết. Thầy xuất hiện và nói với mọi người: “Tôi có khả năng cứu sống anh ấy nếu có ai đó chết thay vào chỗ của anh. Có ai tình nguyện không ?” Thật bất ngờ cho “người chết”. Mọi người trong gia đình bắt đầu đưa ra những lý do giải thích vì sao họ cần phải sống. Cuối cùng, người vợ của anh đúc kết cảm nghỉ của mọi người và nói với thầy: “Thưa ngài, thực sự không cần phải có ai thay chỗ anh ấy. Chúng tôi có thể sống mà không cần có sự hiện diện của anh ấy !”
Câu chuyện tuy là hư cấu giả tưởng nhưng phần nào lột tả thứ tình con người nhân loại dành cho nhau trong mọi mối tương quan. Đức Kitô đã minh định: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người dám thí mạng sống của mình cho người mình yêu” ( Ga 15, 13 ). Lời minh định ấy không chỉ khởi đi từ môi miệng hay lý thuyết suông, nhưng Đức Kitô đã sống và thực hiện lời ấy qua cuộc đời của Ngài trong suốt 33 năm khi Ngài xuống trần mặc lấy kiếp phàm nhân.
Để minh chứng cho lời minh định ấy, Đức Kitô thực hiện một cách triệt để qua cuộc Thương Khó và cái chết thê lương của Ngài trên đỉnh đồi Canvê vào chiều thứ sáu. Hoa trái, quà tặng của tình yêu dâng hiến, tình yêu vô vị lợi theo như lời minh định của Đức Kitô là sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài.
Tình yêu nơi Đức Kitô, ta được mời gọi chiêm ngắm qua hình tượng thập giá với hai thanh ngang dọc kết nên. Theo chiều dọc, Đức Kitô đã yêu Chúa Cha hết lòng, hết linh hồn; chiều ngang, Ngài yêu Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse bằng tấm lòng con thảo nơi mái ấm Nadarét và yêu con người nhân loại bằng tình bằng hữu.
Ta có thể nói và xác định một điều rằng: tình yêu của Đức Kitô tuyệt hảo đến độ không ngôn ngữ, lời thơ hay ý nhạc của con người trần gian nào có thể diễn tả hết được. Đặc biệt khi ta là người đang đắm chìm trong những ích kỷ, hận thù và ganh ghét. Thánh Phaolô đã cảm ra tình yêu của Đức Kitô dành cho nhân loại qua thư ngài viết gửi cho Giáo Đoàn Rôma: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì người lương thiện chăng ? Thế mà Đức Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” ( Rm 5, 7 – 8 ).
Tình yêu nơi Đức Kitô gắn liền với đồng cảm, bao dung và tha thứ. Khởi đi từ sự đồng cảm mà Ngài đã mời, chọn 12 con người thấp kém, hành nghề ngư phủ làm đồ đệ, từ sự đồng cảm, Ngài đã đi và đến với những mảnh đời bất hạnh, Ngài ra tay cứu vớt, lôi kéo và trở thành bạn với những người tội lỗi: Dakêu, Mátthêu, Maria Magđala…
Sự bao dung và tha thứ của Đức Kitô được tỏ rõ nét qua câu chuyện người con hoang đàng ( x. Lc 15, 11 – 32 ); qua hình ảnh người đàn bà ngoại tình ( x. 8, 1 – 11 ); khi bị treo trên thập giá Đức Kitô đã tha thứ cho những kẻ gây nên đau khổ và cái chết cho Ngài qua lời cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” ( Lc 23, 34 ); sự bao dung và tha thứ của Đức Kitô đã đem đến cho người trộm lành món quà vô giá, đó là hạnh phúc Nước Trời. Đặc biệt, sau khi sống lại từ cõi chết, Đức Kitô không hề nghĩ đến việc phải hiện ra và báo tin cho Caipha, Hêrôđê, Phlatô, những kẻ đã trực tiếp kết án Ngài cách bất công.
Tình yêu nơi Đức Kitô là thế, Ngài đã yêu trước khi Ngài hành động, Ngài yêu bằng cả trái tim và thân xác của Ngài. Đức Kitô không chỉ yêu, nhưng Ngài con khát khao tình yêu ấy được nhân rộng ra, trước tiên là 12 môn đệ mà Ngài chọn làm cộng sự, trở thành cánh tay nối dài. Vì thế, đã có lần Ngài phán: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những mong lửa ấy bùng lên” ( Lc 12, 49 ). Ta có thể hình dung lửa ấy chính là tình yêu của Đức Kitô.
Một trong những cánh tay nối dài mà Đức Kitô chọn đích danh làm cho “lửa yêu” từ nơi Đức Kitô bùng cháy lên nơi trần gian này là ông Phêrô một trong 12 môn đệ mà Đức Kitô đã chọn. Nơi biển hồ Tibêria, sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết, Ngài đã hiện ra với 12 môn đệ của Ngài, nơi đây Đức Kitô đã chọn ông Phêrô làm người dẫn dắt đàn chiên của Ngài nơi trần thế.
Trước khi giao nhiệm vụ quan trọng Đức Kitô đã hỏi ông Phêrô không chỉ một lần, nhưng đến ba lần: “Này Simôn con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không ?” ( Ga 21, 16 ). Điều này nói lên rằng Đức Kitô không chọn cộng sự theo dáng vẻ bên ngoài, không đặt nặng quá khứ, cũng chẳng quan trọng về tài năng, Ngài mong ước cộng sự của Ngài có một tình yêu như Ngài đã từng yêu, tình yêu ấy sẽ thực hiệt tốt tất cả những gì Ngài mong ước. Thánh Augustinô đã cảm ra được chân lý ấy khi ngài nói với cộng sự: “Cứ yêu đi rồi hãy hành động”.
Trong cuộc sống, ai trong chúng ta không mong ước sẽ thực hiện được những việc lớn, ai trong chúng ta không mơ ước ngày nào đó cha mẹ, anh em và những người trên ta giao phó cho ta một công việc, một chức vụ… Có thể nói, ước mơ lớn nhất của ta là người Kitô hữu. Đó là ta được chính Đức Kitô mời gọi và trao ban cho ta công việc, trọng trách như đã mời gọi và trao ban cho Thánh Phêrô. Khi được Đức Kitô mời gọi và trao ban công việc và trọng trách, ta có dám ngửa mặt và khẳng khái thưa với Ngài như Thánh Phêrô: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy” ( Ga 21, 17 ) không ? Đây là điều ta tự hỏi và trả lời với lòng mình giữa cuộc sống hôm nay.
Xã hội ngày nay, nhiều người nói rằng: “Con người nhân loại không còn cảm và sống chữ yêu”, điều này chỉ đúng được 50%. Vì sao thế ? Xin thưa rằng, con người ngày nay vẫn yêu đấy chứ! nhưng có điều là người ta yêu bản thân, yêu những đam mê, ý riêng; yêu chức quyền, bổng lộc và những thứ đem lại cho họ điều họ mong ước nơi cuộc sống: nhà cao cửa rộng, xe hơi đời mới, vợ đẹp, con khôn… Tình yêu đó, ta gọi là yêu “cục bộ”, yêu “vụ lợi”. Từ tình yêu “cục bộ” và “vụ lợi” đó đã đẩy một xã hội, gia đình và ngay cả Giáo Hội rơi vào tình trạng hỗn độn, luôn tranh dành và cấu xé lẫn nhau. Vũ khí dùng để tranh dành và cấu xé lẫn nhau là “tiền và quyền”.
Giữa một xã hội xuống cấp tha hóa về đạo đức, gạt bỏ luân lý, không coi trọng nhân phẩm, sự sống con người, không còn công lý, dạy nhau sống và nói sai sự thật… Giữa một thời đại mà quyền lực sự dữ luôn mời gọi, xúi giục lối yêu “cục bộ và vụ lợi” bằng nhiều hình thức khác nhau. Giữa một thời đại như thế ta phải làm gì khi ta mang danh xưng là người Kitô hữu ? Hơn nữa, ta đã và đang được tình yêu của Đức Kitô Phục Sinh bao bọc. Có phải chăng ta lên tiếng ta thán “trách trời, trách người”, hay ta thỏa hiệp với những điều xấu qua lối sống trái ngược với Tin Mừng, và nhất là ta thực hiện công việc từ đời cho đến đạo không khởi đi từ một tình yêu như Đức Kitô mong ước !?!
Đức Kitô đã Phục Sinh, Ngài đã từ trạng thái hữu hạn, bước qua cái vô hạn, từ trạng thái hư nát, bước qua cái bất diệt, từ con người cũ, đổi sang con người mới…” Qua đau khổ Đức Kitô đã chiến thắng như lời tiên báo của Ngài: “Thầy đã thắng thế gian” ( Ga 16, 33 ), sự Phục Sinh của Đức Kitô đã khơi nên nguồn sống mới. Ta là đàn chiên, là những người đã được tắm trong dòng Máu Thánh của Ngài. Điều Đức Kitô luôn mong ước ta và sẽ hỏi ta như Ngài đã từng hỏi Thánh Phêrô: “Này con, con có yêu mến Thầy không ?”
Nếu ta thực sự yêu mến Đức Kitô thì điều tất yếu là ta luôn lắng nghe và bước theo con đường mà Ngài đã vạch cho ta qua ngôn ngữ của Thánh Phaolô: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đùng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” ( Cl 3, 1 – 3 ).
Thượng giới là nơi khai sinh “Chân-Thiên-Mỹ”, là Vương Quốc của “Tình Yêu”, là mái nhà cho những tâm hồn khao khát Thiên Chúa và là nơi không có vành khăn tang, không chia ly và nước mắt. Nhưng, hướng về thượng giới với ta là những người yếu đuối cả tinh thần lẫn thể xác thật khó và rất khó, ta khác chi những chú cá lội ngược dòng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Xin tạo cho con một quả tim trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy, xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài, xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con đường lối Ngài con sẽ giới thiệu cho người tội lỗi ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài. Lạy Chúa xin mở miệng con Cho con cất tiếng ngợi khen Ngài. Amen.
Các môn đệ đâu hết mà để Chúa nấu? Đi đánh cá hết rồi. vả nữa, anh quản lý chuyên môn nấu cơm thì PS 3-C110
Các môn đệ đâu hết mà để Chúa nấu? Đi đánh cá hết rồi. vả nữa, anh quản lý chuyên môn nấu cơm thì đã chết rồi. Nhưng quan trọng hơn tất cả: Là Thầy Giêsu đã chết. Cách đây ít hôm, Thầy có hiện ra vài lần: đúng thật là Thầy. Nhưng rồi Thầy lại biến đi. Còn ai đâu mà dạy dỗ, bảo ban, chỉ đường dẫn lối. Buồn quá! chẳng biết làm sao. Thôi lại rủ nhau đi đánh cá.
Cả một đêm, mười một ông hì hục, mà cá trốn đi đâu hết, chả được con cá nào. Đúng là: Họa vô đơn chí. Xui đến cùng mạng. Chán chường đến tột độ. Các ông định đưa thuyền vào bờ, thì bỗng ở trên bờ có một lệnh truyền vang lên: “Cứ thả lưới bên phải thì sẽ bắt được cá”. Giọng nói nghe quen thế nhỉ? Gioan phát giác, ghé vào tai Phêrô và nói: “Thầy đó”.
Lưới được kéo lên, quá trời là nhiều cá. Cả một đêm vất vả, bây giờ đã tỉnh hẳn. Toàn thân nghe phấn khởi lạ lùng. Căng sức trai trẻ, các ông đưa thuyền đầy ắp cá vào bờ. Phấn khởi, nhưng vẫn cứ đói và mệt. Thèm lắm một miếng cơm giờ này. Trời tối đen, càng làm cho ánh lửa hồng hiện rõ và ấm cúng. “Các anh hãy lại và ăn đi”. Mùi cá nướng bốc lên thơm ngon ngào ngạt. Bên bếp lửa hồng, tiếng nổ lách tách của những thanh gỗ, càng làm cho khung cảnh trở nên ấm cúng gần gũi. Thầy Giêsu đang ngồi lặng lẽ. Nhanh tay lật qua lật lại những con cá vàng ươm thơm phức.
Thầy đây, đúng rồi! Thầy đã sống lại thật rồi không còn hiện diện gần gũi như mọi khi, nhưng Thầy vẫn luôn có mặt bên cạnh các ông. Tất cả mọi hoạt động của các ông, Thầy đều biết rõ. Thầy đã có mặt đúng lúc để cứu chữa một chuyến đánh cá hoàn toàn thất bại. Và giờ này, như một người Thầy, và hơn nữa, như một người mẹ, Ngài đã hạ mình vào bếp, làm bếp, để chuẩn bị bữa tối cho các ông. Trời về đêm thật lạnh, tuy dù ngọn lửa hồng Thầy đốt lên kia, bên bờ biển cát có làm cho thân xác ấm lại, nhưng thực, chính cái tình yêu cao cả của Thầy, diễn ra qua cử chỉ, mới làm cho tâm hồn các ông thật ấm êm, vui sướng. Quả thật, Thầy sống lại, là một sự thật không còn gì phải suy nghĩ hay tranh cãi nữa.
Thầy không còn hiện diện như một con người xưa, nhưng tình yêu của Thầy và quyền năng của Thầy lúc nào cũng còn phủ lấp đầy ắp trên đời các ông. Và chính trong cái tình yêu ngọt ngào và vui sướng ấy, Thầy đã chính thức trao phó Giáo Hội của Ngài cho Phêrô. Cả chiên mẹ, lẫn chiên con. Cả trọn vẹn Giáo Hội. Trách nhiệm nặng nề vô cùng. Nhưng đừng sợ, chỉ cần một tình yêu trọn vẹn với Ngài, và cũng chỉ cần một tình yêu trọn vẹn ấy, là có thể gánh vác được trách nhiệm.
Chỉ có một câu hỏi mà được lặp lại mấy lần: “Simon, con có yêu mến Thầy hơn những anh em này không?”. Chỉ là tình yêu, một tình yêu trọn vẹn, và đây là chiếc chìa khóa duy nhất để Chúa trao trách nhiệm, và hoàn thành trách nhiệm.
Gợi ý suy niệm:
1- Đã lần nào bạn nhận ra, sự chăm sóc của Chúa dành cho đời chưa? 2- Bạn thực sự, bạn yêu ai hơn Chúa?
Vào dịp lễ Giáng sinh năm 1971, viên quản trại đã phân phát cho những tù binh Mỹ đang bị giam giữ PS 3-C111
Vào dịp lễ Giáng sinh năm 1971, viên quản trại đã phân phát cho những tù binh Mỹ đang bị giam giữ tại Hoả Lò, một nhà tù ở Hà Nội, vài ba cuốn Kinh Thánh. Tuy nhiên ông bảo họ phải gom trả vào đêm Noel. Thế là những người lính Mỹ quyết định phải tận dụng khoảng thời gian vắn vỏi ấy. Họ lấy cộng dây thép làm bút. Lấy nước hoà vào bụi gạch làm mực và viết một vài đoạn chính yếu lên những mẩu giấy vụn. Trong số các đoạn Kinh Thánh được chép lại, có dụ ngôn về con chiên lạc. Các tù binh đã sánh ví mình là con chiên lạc ấy. Và họ cũng ghi thêm mấy câu của thánh vịnh 23: Chúa là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì.
Chủ đề về người mục tử cũng là một chủ đề rất quen thuộc trong Kinh Thánh, bởi vì một số người Do Thái vốn sinh sống bằng nghề chăn nuôi súc vật. Và họ đã sánh ví Thiên Chúa với người mục tử. Thực vậy, qua Tin Mừng Chúa Giêsu đã xác quyết: Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên ta biết Ta. Ta hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc về đoàn này. Cả những chiên ấy, Ta cũng sẽ dẫn dắt và chỉ còn một đoàn chiên và một chủ chiên.
Từ đó chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay để nghe Người uỷ thác cho Phêrô tiếp nối sứ mạng mục tử chăn dắt đoàn chiên của Người. Quả là giây phút trọng đại khi Chúa phán với Phêrô: Con hãy chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Thầy.
Tiếp nối vào đó, khi Giáo Hội đã được phát triển, thì tước vị mục tử cũng được mở rộng. Thực vậy, thánh Phêrô thường gọi các Giám mục, những người lãnh đạo Giáo Hội tại từng địa phương là các mục tử, ngài muốn chia sẻ cho họ phần nào vai trò nặng nề của mình và đã nhắn nhủ họ: Các con hãy sống xứng đáng là những mục tử của đoàn chiên Chúa đã trao phó. Hãy nhiệt tình phụng sự đoàn chiên.
Cũng trong tinh thần chia sẻ ấy, chúng ta gọi các linh mục là các mục tử, bởi vì các ngài là những người được tham dự vào quyền bính của thánh Phêrô, của các tông đồ và của các Giám mục, lãnh nhận sự uỷ thác của Đức Kitô.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta nhận thấy, danh hiệu mục tử trước hết được dành cho Đức Kitô. Sau đó, Đức Kitô đã chia sẻ cho Phêrô và các tông đồ. Rồi đến lượt thánh Phêrô và các tông đồ lại chia sẻ cho các Giám mục và linh mục. Chính vì thế trong giây phút này, chúng ta hãy cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa chúc phúc lành cho các vị lãnh đạo Giáo Hội. xin giúp chúng con nhìn thấy các vị ấy thực sự là những dấu chỉ sống động của Chúa đang hiện diện giữa chúng con, cho dù các vị ấy có phạm phải những sai lầm. Và nhất là xin Chúa giúp chúng con biết cộng tác với các ngài, để qua các ngài, Nước Chúa được mở rộng ở khắp nơi trên thế giới.
CHÚA GIÊSU PHỤC SINH ĐI CHỌN MỘT NGƯỜI CHĂN DẮT CHIÊN CỦA CHÚA
Sách Tin Mừng Gioan kể chuyện thánh Phêrô chối Chúa (Ga 18,15-17) với mấy đặc điểm sau PS 3-C112
Sách Tin Mừng Gioan kể chuyện thánh Phêrô chối Chúa (Ga 18,15-17) với mấy đặc điểm sau đây:
Khi bọn sai nha đến bắt Chúa, Chúa ra đón và hỏi: các anh tìm ai? Họ đáp: Giêsu Nadaret.
Chúa trả lời: “Ta Là”. Họ ngã ngửa. Họ đứng lên, Chúa hỏi nữa. Rồi Chúa nói: Tôi đã bảo các anh: “Ta Là”. Trong bản văn Hy Lạp (Ego eimi: Ta Là) đây là Thánh Danh Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê (Xh 3,14). Trong Sách Tin Mừng Gioan nhiều lần Chúa Giêsu dùng danh xưng này để nói về mình.
Khi ông Simon Phêrô vào sân dinh Thượng Tế và ngồi sưởi ké bên đống lửa than của bọn sai nha, ba lần bị chỉ mặt là môn đệ của Chúa Giêsu thì ba lần ông chối: Không phải (oukh eimi: ‘tôi không là’ ngược với lời Chúa Giêsu khẳng định: ‘Ta Là!’
Hôm nay, người môn đệ mà trong bữa Tiệc Ly ông đã nhờ hỏi nhỏ Chúa xem ai là kẻ phản nộp Chúa, nói với ông: “Chúa đấy”. Nghe thế ông liền lấy áo quấn ngang lưng, vì ông đang trần truồng, và ông nhảy xuống nước.
Trong sách Sáng Thế, sau khi trái cấm mở mắt cho Adam + Evà thấy mình trần truồng, họ lấy lá vả (là thứ lá cây lớn nhất thường thấy) quấn ngang lưng; rồi khi nghe tiếng bước chân Thiên Chúa thì họ núp vào lùm cây. Thiên Chúa gọi: “Ađam, người ở đâu?”.
Sách Tin Mừng Gioan không kể chuyện gì xảy ra với ông Simon Phêrô sau tiếng gà gáy, như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng để dành đến hôm nay mới trở lại câu chuyện. Ông Simon Phêrô phản ứng giống Ađam. Ađam ở trong vườn thì có lùm cây mà núp, Phêrô đang trên thuyền thì chỉ có cách nhảy xuống nước mà núp.
Vào bờ ông cũng thấy một đống lửa than, Chúa Giêsu dọn cho ông và các bạn, lại có bánh và cá đặt trên. Đống lửa than này làm sao mà không gợi cho ông Phêrô nhớ lại đống lửa than của của bọn sai nha trong sân dinh Thượng Tế cái đêm tăm tối kia.
Chúa bảo: ‘hãy đến mà ăn’. Chúa đến, cầm lấy bánh và cá trao cho các ông. Cảnh này gợi lại hôm Chúa ngồi trên núi, trao bánh và cá cho đám đông (ch.6).
Sau bữa Chúa đãi đám đông trên núi, tại Ca-phac-na-um, khi nhiềumôn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (6,67) thì ông Phêrô thay mặt nhóm Mười Hai khẳng khái: “Bỏ Thầy chúng con đi với ai …”.
Sau bữa ăn sáng quanh đống lửa than bên hồ, Chúa gọi đích danh và hỏi: “Simon con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Sự so sánh này làm cho ông phải nhớ lại lời ông cam kết trong bữa Tiệc Ly: “Con sẽ hy sinh mạng sống con vì Thầy” (13,37). Hôm nay thì ông không còn dám vỗ ngực tự phụ như thế nữa. Ông dựa vào Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết …”. Phiền nỗi là Chúa lặp lại cùng một câu hỏi hai lần nữa, nhưng tế nhị bỏ cái vế so sánh cho ông đỡ ngượng. Đến lần thứ ba thì ông hết chịu nổi, ông buồn, và ông nại đến sự thông biết vô cùng của Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết …” (x.Tv 139).
Bên đống lửa than trong sân dinh Thượng Tế, ba lần trong một đêm ông nhận rằng ông chẳng là gì.
Sáng nay ông và các bạn nhận mình là những kẻ đánh cá vô tích sự, suốt đêm chẳng được gì để ăn.
Sáng nay ông vừa nhận ra mình là kẻ trần truồng và đi núp, giống như Ađam.
Bên đống lửa than của Chúa ở bờ hồ, khi trả lời câu Chúa hỏi ba lần, ông chỉ còn biết dựa vào sự thông biết, sự thông biết vô cùng của Chúa.
Bây giờ thì Chúa có thể an tâm trao cả chiên mẹ. chiên con của Chúa cho ông chăn nuôi, và Chúa cũng đòi ông giữ cả lời hứa hy sinh mạng sống, nhưng không phải thay cho Chúa, mà để tôn vinh Thiên Chúa giống như Thầy Giêsu, vị Mục Tử kiểu mẫu, hiến mạng sống vì đoàn chiên.
Ngày đầu, ông nghe lời Thầy của ông là vị Tiền Hô giới thiệu Chúa Giêsu và đi theo.
Hôm nay, sau khi đã cho ông biết rõ sứ mạng và số phận của ông, chính Chúa Giêsu trực tiếp gọi ông: “Hãy theo Thầy”.
Trong nghi thức bầu Giáo Hoàng, sau khi đắc cử, vị tân cử phải trả lời hai câu hỏi theo nghi thức: “Ngài có nhận kết quả bầu cử này không?” và “Ngài nhận tông hiệu là gì?”
Đức Thánh Cha Phanxicô đã trả lời câu hỏi thứ nhất như sau: “Tôi là kẻ tội lỗi và tôi ý thức điều đó, nhưng tôi rất tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, vì các vị đã bầu tôi, đúng hơn, vì Chúa đã chọn tôi, tôi nhận”. (ĐHY Philippe Barbarin kể lại trong lời tựa cuốn sách “Amour, Service et Humilité” (Bài giảng tĩnh tâm của ĐHY Jorge Mario Bergoglio S.J., cho các Giám Mục Tây Ban Nha năm 2006)
Sau tuần lễ Vượt Qua và Phục Sinh các Tông đồ lại đi làm, trở về với cuộc sống thường nhật. Họ PS 3-C113
Sau tuần lễ Vượt Qua và Phục Sinh các Tông đồ lại đi làm, trở về với cuộc sống thường nhật. Họ lui về Galilêa, chuẩn bị thuyền bè để ra khơi đánh cá. Sau một tuần lễ nghỉ, nói đến việc đi làm thật chán ngấy. Nhất là đã có bao nhiêu biến cố xảy ra, vừa vui, vừa buồn, vừa hồi hộp. Phêrô nói với các bạn một câu cụt ngủn: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông uể oải trả lời: “Chúng tôi đi với”. Họ không đi đánh cá thì không biết làm gì. Mà không làm gì thì không có ăn!
Đời sống lam lũ làm ăn chiếm cả thời giờ của chúng ta, làm hùng hục, làm hai ba “job”, làm như…trâu, nên mới có danh từ “đi cày”. Vì thế, nhiều khi chúng ta quên cả Chúa, không nhận ra Chúa như các Tông đồ sáng hôm nay. Sau một đêm thức trắng mà không bắt được một con cá nào, họ chèo thuyền về bến. Chúa Giêsu hiện ra hỏi họ nột câu đầy thân tình: “Này, các con có gì ăn không?”. Các ông không nhận ra Chúa và vì mệt nhọc, bực bội, nên trả lời khô khan rằng không có.
Vậy, nhận định thứ nhất là Chúa hằng ở với chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời. Nhất là lúc buồn rầu chán nản thất bại, nhưng chúng ta không hay biết. Bà Thánh Catharina bị cám dỗ về đức tin rất nặng. Hôm sau, được Chúa hiện ra, Bà hỏi Chúa với vẻ hờn dỗi: “Lạy Chúa, khi con đau khổ chiến đấu, thì Chúa ở đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Ta ở trong lòng con”.
Ta không nhận ra Chúa vì thiếu điều kiện. Trong 7 ngư phủ trở về, chỉ có một mình Gioan nhận ra, vì –theo Phúc Âm- Ông là đồ đệ Chúa yêu thương. Yêu là tần số đặc biệt để bắt được tiếng Chúa.
Nhận định thứ hai, qua bài Phúc Âm, là vai trò của Phêrô. Phêrô là một người lãnh đạo. Ông quyết định đi đánh cá, thả lưới bên hữu thuyền, theo lời người khách lạ chập chờn trong màn sương sớm, và bắt được 153 cá lớn mà lưới không rách…
Giáo hội gồm nhiều thành phần, nhiều sắc tộc, trải bao cuộc sóng gió ba đào vẫn không nao núng. Và, sau phép lạ vừa nói, Gioan tường thuật ngay câu chuyện Chúa chọn Phêrô để “cai trị đoàn chiên mẹ và đoàn chiên con”; một sứ mạng phục vụ hơn là cai quản, dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất là yêu mến. “Hỡi Simon, con Gioan, con có yêu mến Thầy không?” “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy” – “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy” (Gio 21, 16-17).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa lúc vui, cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, thành công không tự mãn, thất bại không nản lòng. Tất cả mọi việc con xin dâng cho Chúa, phần thắng lợi để tôn vinh Chúa, phần thiếu xót con xin nhận lãnh để đền tội lỗi của con, nhưng “mọi sự đều là ơn của Chúa”.
Mầu nhiệm Phục Sinh là điểm quy chiếu căn bản của đời sống đức tin nơi các Kitô hữu. Giáo hội PS 3-C114
Mầu nhiệm Phục Sinh là điểm quy chiếu căn bản của đời sống đức tin nơi các Kitô hữu. Giáo hội được khai sinh từ biến cố quan trọng này. Vì thế, trong những Chúa Nhật mùa Phục sinh, Giáo hội chọn những bài học trong phụng vụ để mời gọi chúng ta nhìn lại Giáo hội thuở sơ khai, nhất là học hỏi cảm thức đức tin nơi các Tông đồ sau khi các Ngài đã tiếp cận với Đấng Phục sinh. Đức tin của các Tông đồ có một nền tảng chắc chắn, dựa vào kinh nghiệm được gặp gỡ Chúa, Đấng đã từ cõi chết chỗi dậy, và đức tin đó được thông truyền cho chúng ta ngày hôm nay.
Mẻ cá lạ lùng, hình ảnh Giáo hội phổ quát
“Tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Đó là những tín điều căn bản về Hội Thánh mà chúng ta vẫn tuyên tín. Hình ảnh mẻ cá lạ thường mà thánh Gioan thuật lại hôm nay giúp chúng ta tái khẳng định những xác tín quan trọng ấy.
Phêrô đã gặp Chúa sau khi Chúa sống lại. Các Tông đồ khác cũng vậy. Chúa Giêsu vẫn đang sống, vẫn đang hiện diện giữa họ, nhưng không phải với cách thức như trước đây khi Ngài chưa đi thụ nạn. Vì vậy, Phêrô và các bạn khác vẫn chưa thực sự cắm sâu vào mầu nhiệm Phục sinh một cách tròn đầy. Họ đã trở về cuộc sống đời thường với nghề đánh cá: “Tôi đi đánh cá đây” (Ga 21,3), và “Chúng tôi cùng đi với anh”. Nhưng suốt đêm các ông không bắt được con cá nào. Sau đó, Chúa hiện ra và chỉ dẫn các ông: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”. Phêrô đã vâng theo và phép lạ đã xảy ra qua một mẻ cá đầy ắp.
Thánh ký Gioan là một thần học gia uyên thâm. Ngài không mô tả sự kiện như một biến cố bình thường. Những chi tiết thánh ký thuật lại đều mang chở một ý nghĩa thần học sâu sắc. Các tác giả Tin mừng nhất lãm, như Lc 5, 1-11, cũng thuật lại sự kiện trên, nhưng đặt trong một bối cảnh khác và với một hướng đích khác. Còn thánh Gioan đã lồng câu chuyện vào trong kinh nghiệm của các Tông đồ khi gặp gỡ Đấng Sống lại.
Mẻ cá 153 con là hình ảnh biểu trưng tính phổ quát của ơn cứu độ. Con số đó cũng gợi lên tính viên mãn của ân sủng mà Chúa Giêsu đã hiển thị qua sự Phục sinh của Ngài. Thời bấy giờ, theo cái nhìn hải dương học, tất cả chỉ có 153 loại cá. Thánh Gioan đã vay mượn ý niệm đó để quảng diễn mầu nhiệm Giáo hội. Giáo hội mà Đức Kitô Phục sinh khai mở sẽ đem lại ơn cứu độ phổ quát cho tất cả mọi người không phân biệt ai, và đây cũng chính là đặc nét ‘công giáo’ của Hội thánh Chúa Kitô.
Sức mạnh của Lời
Lời khuyến mời của Chúa Giêsu “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”, quả là một thách đố đối với Phêrô. Ngài đã từng là dân thuyền chài chuyên nghiệp, đã cực nhọc thâu đêm mà không kết quả gì. Ông thực sự nản lòng và toan tính gác lưới. Nhưng Phêrô đã gặp Chúa và đã nghe Lời của Ngài. Theo bản năng tự nhiên, chẳng ai dại gì mà làm điều xuẩn ngốc đến như vậy, vì có cá đâu mà bắt, và đó là dựa vào kinh nghiệm của đời thường. Tuy nhiên, Phêrô đã không hành xử theo khuynh hướng tự nhiên. Ông hoàn toàn quy thuận lời của Chúa. Đây chính là hình ảnh biểu thị thái độ đức tin khi đứng trước những nghịch lý của Lời. Chúa Giêsu đã huấn luyện Phêrô để biến đổi ông trở nên người rao giảng Tin mừng, nhất là chuẩn bị để Phêrô trở thành người chăn dắt ‘chiên con lẫn chiên mẹ của Thầy’. Chúa Giêsu đã giúp Phêrô nhận ra rằng, chỉ khi nào chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa và vâng theo lời chỉ hướng của Ngài, chúng ta mới có thể thành công. Chính kinh nghiệm này đã biến đổi con người Phêrô cách tận căn. Trong Tin mừng Luca, kết quả cuối cùng là Phêrô đã hối hận và bước theo Chúa Giêsu. Còn trong Tin mừng Gioan, Phêrô đã dần dần đi sâu vào cảm thức đức tin để trở thành người lãnh đạo, chăn dắt đoàn chiên của Chúa, Đấng Phục sinh.
Tình yêu, phương thức điều quản Giáo hội
Sau khi kéo cá lên bờ, Thầy trò cùng ngồi với nhau ăn cá nướng. Đây là thời điểm để các Tông đồ, đặc biệt Thánh Phêrô trải nghiệm giây phút quan trọng nhất liên quan đến Giáo hội của Chúa Giêsu. Chúa đã chính thức cắt đặt Phêrô làm thủ lĩnh và làm người cai quản. Chúa huấn luyện đức tin của Phêrô qua mẻ cá lạ thường, và bây giờ Chúa lại đặt ra một điều kiện tối quan trọng cuối cùng để trao quyền bính cho ông: Đó chính là tình yêu. Tình yêu là điều kiện ‘sine qua non’, không có không được. Chúa hỏi Phêrô 3 lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ba lần Chúa Giêsu hỏi và 3 lần Phêrô trả lời, tương thích với 3 lần Phêrô đã chối Chúa vì yếu đuối. Điều đó cho thấy rằng, tội lỗi hay sự yếu đuối của con người sẽ không là gì cả so với sức mạnh của tình yêu và ân sủng. Nếu chúng ta nghiên cứu bản văn theo nguyên ngữ Hy Lạp, chúng ta sẽ thấy Thánh Gioan có một dụng ý sâu xa. Hai lần đầu, Chúa Giêsu hỏi Phêrô về tình yêu với hạn từ ‘agapao’ và Phêrô trả lời với xác quyết: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” với hạn từ ‘phileo’. ‘Agapao’ là yêu mến theo lẽ tự nhiên khi chúng ta biểu tỏ tình cảm đối với người khác. Còn ‘Phileo’ nói về sự tương giao thân tình và thắm thiết giữa 2 người như những người bạn tri kỷ, suốt đời cùng nhau gắn bó.
Trong lần hỏi thứ 3, Chúa thay đổi và dùng từ ngữ ‘phileo’ và Phêrô đã trả lời cũng với hạn từ ấy. Thánh Gioan cho ta thấy, Chúa đã từ từ huấn luyện Phêrô, biến đổi ông, để ông không phải chỉ là người lãnh đạo theo phong thái xã hội bình thường, nhưng biến đổi để ông trở nên một người bạn nghĩa thiết, giúp Phêrô đi dần vào sự kết hiệp thâm sâu với Ngài.
Đó là điều kiện Chúa đặt ra cho Phêrô, cũng như cho các mục tử, những người lãnh đạo đàn chiên mà Chúa trao phó ngày hôm nay.
Trong câu kết của bài Tin mừng, Chúa nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”. Như vậy, để trở nên những con người theo sát gót chân Đức Kitô, trở nên những học trò và môn đệ của Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết tuân theo lời Ngài. Đồng thời Chúa cũng đặt ra điều kiện rất căn bản là phải thực hành tình yêu cách triệt để. Quả thật, tình yêu chính là phương thức để điều quản Giáo hội, không phải chỉ là ngày xưa, nhưng đó là nguyên tắc cho chính chúng ta ngày hôm nay. Nguyên tắc căn bản đó còn phải được áp dụng mãi mãi.
Kết luận
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”. Phêrô đã khẳng khái trả lời trước mặt vị thượng tế. Bài đọc trong sách Công vụ Tông đồ hôm nay đã thuật lại giai thoại ấy. Phêrô đã vâng lời Đức Giêsu, đã thả lưới xuống bên phải mạn thuyền và phép lạ đã xảy ra. Cũng vậy, trong cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn được mời gọi lắng nghe tiếng Chúa và vâng nghe lời của Chúa. Đây là chìa khóa để giúp chúng ta tăng trưởng trong đời sống đức tin, đức tin đặt để nơi Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, đồng thời đức tin đó dẫn đưa chúng ta đến chân trời rộng mở của tình yêu. Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy mau mắn trả lời Chúa Giêsu như Thánh Phêrô năm xưa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.
Bước sang Chúa nhật thứ Ba sau Đại lễ Phục Sinh, phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta tích cực PS 3-C115
Bước sang Chúa nhật thứ Ba sau Đại lễ Phục Sinh, phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta tích cực gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh trong đời sống thường ngày. Gặp được Chúa sẽ có niềm vui, vui vì Chúa đã sống lại. Thánh Phêrô Tông Đồ cho chúng ta kinh nghiệm sống động về cuộc gặp gỡ này, ông hân hoan vui mừng cả khi người Do Thái đánh đòn, cấm không được rao tin Chúa Kitô Phục Sinh (x.Cv 5,40b). Vì thế lời Ca nhập lễ bảo ta ca vang: "Cả trái đất, nào tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên, mừng danh thánh rạng ngời, hãy dâng Người lời ca tụng tôn vinh. Hallêluia".
Trang Tin Mừng (Ga 21, 1-19) thật là đẹp, đẹp về con người người, vì các môn đệ tin Chúa đã sống lại ; đẹp về công việc, đi bắt cá suốt đêm không được gì, này có mẻ lưới đầy cá; đẹp về thời gian, bởi đây là buổi bình minh của ngày thứ nhất trong tuần; đẹp về nơi chốn vì Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các ông ở trên bờ (x. Ga 21,4).
Một chi tiết rất hay đáng chúng ta lưu ý là: "Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bời biển" (Ga 21,4). Biển là gì nếu không phải là biểu tượng của thế gian đang bị xô đẩy bởi những con sóng dữ dội và những vòng xoáy của ba thù? Và bờ biển ở đây là gì, hả chẳng tượng trưng cho sự sống đời đời đó sao ? Các môn đệ đã vất vả, cực nhọc suốt đêm trên biển để đánh bắt cá, đương đầu với những con sóng của cuộc sống hay chết, nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi sống lại, Người đứng trên bờ. Theo thánh Grêgôriô Cả (540-604), Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh giải thích thì: Chúa Giêsu đứng trên bờ, vì sau khi sống lại, Người đã vượt qua các điều kiện của một xác thịt mong manh hay hư nát, Người đứng trên bờ để nói cho các môn đệ về mầu nhiệm phục sinh, rằng: "Thầy không hiện ra với anh em trên mặt biển nữa (x. Mt 14,25), bởi vì Thầy không còn ở với anh em trong lúc biển gầm bão tố nữa". Đó chính là ý nghĩa Chúa muốn nói với các môn đệ sau khi sống lại: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em" (Lc 24,44). Người không nói điều này bởi vì Người không còn ở với họ. Thân xác vĩnh hằng lúc ẩn lúc hiện rất xa vời với thân xác hay chết của các môn đệ. Người nói, Người không còn ở giữa họ nữa. Chúa ở trên bờ để kéo các ông lên bờ và biến các ông từ nay trở thành những kẻ lưới người ở trên bờ, chứ không lưới cá ở dưới nước nữa. (Trích Homélies sur l'Évangile, no 24)
Trở lại với mẻ cá lạ của các môn đệ làm theo lệnh truyền của Chúa Phục Sinh, vào buổi bình minh của ngày mới, Chúa hiện ra với các môn đệ lần thứ ba. Nếu như Tin Mừng không nói rõ, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng chính Chúa sẽ chuẩn bị một cái gì đó cho chính mình cũng như các môn đệ, những ngư dân mệt mỏi suốt đêm nay cần đồ ăn sáng.
Chúa Giêsu Phục Sinh đã cách mạng hóa cuộc sống của họ và biến đổi lịch sử nhân loại ở mọi nơi mọi thời. Các Tông Đồ thấy rằng họ đã thất bại, họ đã không đạt được tầm mức mà Đấng Mê-sia mong đợi. Trong lưới của Phêrô và các môn đệ, người ta nhận ra sự kiệt sức, gần như đầu hàng, không hướng về Thiên Chúa, nhưng lại đối diện với sự nghèo nàn của chính họ. Phêrô nói: "Tôi đi đánh cá đây"(Ga 21,3), ngay lập tức những người khác cũng đi theo, dường như muốn nói: "Bây giờ họ không có gì khác để làm".
Quả thật, con người của các Tông Đồ lúc này: Sau "khổ đau" của Thánh Giá, họ đã trở về gia đình, với cộng việc thường nhật, có người đi đánh cá, nghĩa là họ trở về lại con người và làm những công việc trước lúc chưa gặp Chúa Giêsu. Điều này cho thấy bầu khí phân tán và rối loạn trong nhóm (x. Mc 14, 27, và Mt 26, 31). Đó là khó khăn cho các môn đệ để hiểu những gì đã xảy ra, khi mà tất cả dường như đến hồi kết, thì trên đường Emmaus, Chúa Giêsu đã đến với các môn đệ dưới dạng khách đồng hành. Giờ đây, Chúa gặp gỡ họ lúc họ đang ở biển, là nơi mà tâm trí họ nặng trĩu vì những thử thách gian truân của cuộc đời; Người gặp họ vào rạng sáng ngày sau khi họ vất vả cực nhọc vô dụng suốt đêm. Lưới họ không có gì, cách nào đó, điều này cho thấy cảm nghiệm của họ với Chúa Giêsu, họ biết Chúa đang ở bên họ, và Chúa hứa với họ nhiều điều. Tuy nhiên, họ thấy mình bây giờ với mẻ lưới trống rỗng.
Chúng ta cũng vậy, có lúc thấy mình với mẻ lưới trống rỗng. Đi bộ, kiệt sức, trên đường Emmaus của chúng ta, Chúa tiến lại gần để giúp chúng ta thực hiện những bước nhảy vọt về sự khiêm nhường và tin tưởng vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Các tông đồ thấy mỏi mệt, nhưng xúc động trước tình yêu của Chúa Kitô, họ thả lưới ở "phía bên kia" thuyền. Tại sao lại ‘bên kia ? Bên kia là bên của lòng thương xót của Thiên Chúa. Tấm lưới của Phêrô đã được thả xuống từ một phần của lòng thương xót Chúa. Quả thật, lòng thương xót của Thiên Chúa là rất cần thiết trong thế giới hôm nay. Chúng ta hãy vâng nghe Lời Chúa, tin tưởng làm theo những gì Chúa truyền dạy để xứng đáng được kể là dân của lòng Chúa xót thương.
Chúa Giêsu hỏi Phêrô: "Con có yêu mến Thầy không?" Một câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản PS 3-C116
Chúa Giêsu hỏi Phêrô: "Con có yêu mến Thầy không?" Một câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản nhưng không phải ai cũng có đủ can đảm để trả lời một cách dễ dàng như Thánh Phêrô đã thưa: "Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy".
Một buổi sáng Chủ Nhật, người mẹ bảo người con trai rằng, hôm nay mẹ muốn con chở mẹ đi tham dự Thánh lễ, vì lâu nay anh ta không đến nhà thờ. Trong lúc đang buồn ngủ và mệt mỏi, vì đêm qua anh ta đi chơi về rất khuya. Vả lại, anh ta cũng chẳng tha thiết gì với đạo nghĩa. Trong lúc bực tức vì mất giấc ngủ, anh ta trả lời với người mẹ rằng: "Mẹ đi theo Chúa của mẹ đi. Nếu mẹ có thấy Chúa thì hãy chỉ cho con. Con có thấy Chúa đâu." Người mẹ đau buồn và lặng lẽ đi. Phải chăng câu nói của chàng thanh niên ấy cũng là câu nói của nhiều người trong chúng ta hôm nay? Chúng ta cũng đang hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa trong thế giới này? Để trả lời cho câu hỏi đó, chúng ta hãy trở lại với trang Tin Mừng hôm nay qua biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ tại bờ biển Tibêria.
Sau một đêm dài vất vả mệt nhọc, các Tông đồ đã thất vọng vì không bắt được con cá nào, thì lúc trời rạng sáng, Chúa Giêsu hiện đến với các ông trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết đó là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và được đầy cá. Sau khi các ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Phêrô: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ sau khi từ cõi chết sống lại.
Cái Chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu là nền tảng cho đời sống của đức tin chúng ta, vì Ngài chiến thắng sự chết và đã mở ra cho chúng ta con đường hướng đến cuộc sống mới. Chúng ta được tái sinh bởi nước và máu của Ngài. Ngài là Cha yêu thương và tha thứ cho chúng ta ngay cả khi chúng ta là tội nhân. Đức Giáo hoàng Phanxicô nói trong bài giáo lý về Kinh Tin Kính trong Năm Đức Tin: "Giờ đây, chúng ta xem xét lại ý nghĩa sự phục sinh của Chúa Kitô đối với chúng ta và đối với ơn cứu độ dành cho chúng ta..." Thật vậy, chúng ta đang sống trong niềm vui mừng Chúa phục sinh. Nếu trong lòng của chúng ta không có niềm tin thì cũng trở nên vô ích. Hơn nữa, lòng yêu mến của chúng ta không chỉ dừng lại ở việc giữ các giới răn, mà là sự sống mới với niềm vui Chúa phục sinh. Chúng ta cần thay đổi cách nhìn Thiên Chúa. Niềm tin và hy vọng của chúng ta đặt trên nền tảng chứng thực của các Tông đồ, và niềm tin đó được nuôi dưỡng hằng ngày bằng cách nghe Lời Chúa, cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và thực hành các công việc bác ái. Để nhận biết và gặp gỡ Thiên Chúa, chúng ta cần có thái độ cộng tác và cảm nghiệm đức tin qua biến cố trong cuộc đời của chúng ta.
Nếu bạn hỏi: Có thấy Thiên Chúa không? Bạn từ đâu đến? Bạn sẽ đi về đâu? Nếu bạn trả lời thắc mắc này, thì tôi sẽ chỉ cho bạn thấy Thiên Chúa ở đâu. Trong lớp giáo lý, cô giáo hỏi một bé gái: "Con tin có Thiên Chúa không?" - Cô bé mở tròn đôi mắt và trả lời: "Thưa cô, có chứ! Con luôn tin có Thiên Chúa." - Sao con biết có Thiên Chúa mà tin? - Cô bé vô tư trả lời: "Hãy nhìn bầu trời, cảnh vật núi rừng, biển khơi, thì chúng ta có thể nhận ra Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên những thứ đó. Qua đó, con tin có Thiên Chúa." - "Con chỉ cho cô biết Thiên Chúa của con ở đâu?" - Cô bé tiếp tục trả lời: "Thưa cô, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, không có chỗ nào mà không có Thiên Chúa, và Chúa ở trong tâm hồn của con nữa."
Với thân phận yếu đuối và giới hạn của con người, chúng ta tìm kiếm Chúa trong đức tin và lòng yêu mến của chúng ta qua Bí tích Thánh Thể được tái diễn trên bàn thờ. Ngài đang hiện diện và chờ đợi chúng ta đến với Ngài. Ngài là người Cha yêu thương đang mong chờ chúng ta trở về với Ngài. Vì nơi Ngài, chúng ta được sống trong nguồn yêu thương, niềm vui và được đổi mới trong Chúa Phục Sinh.
Lạy Chúa, chúng con luôn yêu mến Ngài vì Ngài là nguồn ơn cứu độ và hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng con. Amen.
Yêu thương là một hoạt động sâu thẳm trong tâm hồn, nhưng cũng là một động lực thúc đẩy sức PS 3-C117
Yêu thương là một hoạt động sâu thẳm trong tâm hồn, nhưng cũng là một động lực thúc đẩy sức sống. Thiên Chúa là Tình Yêu và Người dựng nên con người để con người được chia sẻ tình yêu với Thiên Chúa. Tương quan cuộc sống con người với Thiên Chúa hay con người với nhau, chính là tương quan tình yêu.
- Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con vượt qua được mọi gian khó, để trung thành với Chúa. Xin Chúa thương xót …
- Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con nhận biết Chúa đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Xin Chúa Kitô ...
- Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con được vào cộng đoàn "chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh và bái phục Chúa đến muôn thuở muôn đời". Xin Chúa thương xót ...
GIẢNG
Người ta nói: Sống với nhau "vì tình vì nghĩa, chẳng ai vì đĩa xôi đầy", cho nên những ai vì tiền vì của mà bán nghĩa bạn bè, sẽ bị người đời khinh chê sỉ nhục. Vợ chồng sống với nhau được, là nhờ vì tình vì nghĩa. Cha mẹ hy sinh cho con cái, cũng chỉ nhờ vì nghĩa vì tình. Tình càng nồng, nghĩa càng hậu, cách cư xử càng nhân ái, càng trung thực. Điều này đòi buộc chính bản thân con người phải cảm nghiệm.
Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng chỉ vì không có thiện cảm với Chúa, luôn ganh tỵ và sợ hãi Chúa, nên các lính canh đã nhận tiền để xuyên tạc; các thượng tế, kinh sư thì tìm cách che giấu sự thật, bịt mắt bưng tai. Còn các Tông Đồ và môn đệ của Chúa thì bởi vì gặp được Chúa, nên càng xác tín hơn. Họ yêu Thầy, sống chết với Thầy, bởi vì chính bản thân họ đã được cảm nghiệm ở bên cạnh Thầy. Sự thật đã được liên kết trong tình yêu, nên họ không thể xuyên tạc hay làm ngược lại điều chính họ đã sống. Tình yêu đối với Thầy, thúc đẩy họ phải rao giảng về Thầy -cho dù có gặp phải người đời hoặc những kẻ có thế lực chống đối, ngược đãi, đe doạ mạng sống. Ông Phêrô -một con người bộc trực và cũng dễ chao đảo- nhưng sau khi đã cảm nghiệm được Tình Thương Yêu của Chúa, đứng trước hội đồng Dothái giáo đã mạnh dạn phản bác lời cấm đoán của vị thượng tế: "Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người phàm" (Cv 5,29). Tình yêu đối với Thầy đã thúc đẩy ông can đảm nói lên cả những điều mà những kẻ có thế lực đang cấm cản ông, điều mà trước đây vì nhát sợ, vì chưa đủ mức độ yêu thương, ông đã 3 lần chối bỏ: "Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi, nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người chỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm Thủ Lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israen ơn sám hối và ơn tha tội" (5,30-31). Chỉ có Tình Yêu của Chúa và có tình yêu đối với Chúa / mới có thể giúp cho các Tông Đồ can đảm và kiên cường như thế. Cũng chỉ có Tình Yêu của Chúa và có tình yêu đối với Chúa như thế, mới có thể giúp cho Giáo Hội từ thuở sơ khai cho đến ngày hôm nay, vẫn phát triển không ngừng giữa biết bao gian nan thử thách. Thánh Gioan -được mệnh danh là "người môn đệ được Đức Giêsu thương mến" (Ga 21,7)- nhờ tấm lòng yêu quý dành cho Thầy sâu đậm hơn những anh em khác, nên sớm nhận ra Chúa trên bãi biển hơn những Tông Đồ khác.
Như thế, tình yêu đóng vai trò rất quan trọng trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, cho nên sau ngày sống lại, Chúa Giêsu đã muốn đặt tiêu chuẩn để trao trách nhiệm cho Thánh Phêrô: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?" (21,15). Chúa Giêsu hỏi tới 3 lần, để Thánh Phêrô xác định tình yêu tuyệt đối của mình nơi Chúa: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy" (21,17).
Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống chúng ta, nhưng chỉ có tình yêu mới giúp chúng ta nhận ra được Chúa. Nhờ Tình Yêu của Chúa và nhờ tình yêu của chúng ta đối với Chúa, chúng ta mới có đủ can đảm, sáng suốt để trung thành với Chúa vượt qua những gian truân, đau khổ, thử thách của cuộc đời cho đến cùng. Xin Chúa Thánh Thần đã cho Đức Giêsu Kitô phục sinh, giúp chúng con phục sinh tình yêu của chúng con đối với Chúa.
Mặc dầu trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu phục sinh là Đấng đầy tràn vinh quang, tuy nhiên đối với PS 3-C118
Mặc dầu trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu phục sinh là Đấng đầy tràn vinh quang, tuy nhiên đối với Giáo hội trên trần gian, Người lại muốn hiện diện một cách khác: Người muốn tỏ ra là một người bạn rất gần gũi với tất cả mọi người.
Với ý hướng này, chúng ta hãy dừng lại những chi tiết thật đơn sơ trong bài Tin mừng hôm nay, để nhận ra sự hiện diện rất gần gũi thân thương của Đấng Phục Sinh.
Các Tông đồ đã đánh cá suốt đêm trên biển hồ Tibêria mà không bắt được con cá nào cả. Khi Đức Giêsu hiện đến, Ngài thăm hỏi như một người bạn có sự quan tâm và khi thấy họ gặp khó khăn, Ngài đã giúp họ vượt qua. Ngài rất gần gũi: “ Này các chú, không có gì ăn ư?” (Ga 21, 5b). Hay có thể diễn giải: Thầy đói rồi, có cái gì cho Thầy ăn không?
Sau khi sống lại, qua các lần hiện ra dọc theo Tin Mừng ta cũng đã bắt gặp thái độ này của Chúa Giêsu khi Ngài hiện ra với bà Maria Mađalêna. Ngài hiện diện như một người làm vườn và thăm hỏi khi thấy nỗi khổ của người khác: “Này bà sao bà khóc?” (Ga 20, 13) Bà tìm ai? Còn đối với hai môn đệ trên đường Em-mau thì sao? Vẫn thần thái đó, vẫn cách thức đó, Ngài hiện diện như một khách hành hương và đồng cảm với những suy nghĩ lo lắng hoang mang của họ: “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy ?” (Lc 24, 17).
Chúng ta lại thấy một chi tiết rất thân tình và đơn sơ trong bài Tin mừng hôm nay. Ngài hiện đến như một người đồng nghiệp, quan tâm đến sự thành công hay thất bại của bạn hữu mình. Khi các tông đồ gặp thất bại: “suốt đêm ấy họ không bắt được gì cả” ( Ga 21, 3b), thì Người gợi ý: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”( Ga 21, 6a)
Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện và có đó. Ngài hiện diện một cách rất gần gũi trong cuộc đời của chúng ta, khi chúng ta lao động vất vả và nhất là chịu đựng những thất bại. Chúa hiện diện để thông cảm với những khó nhọc của chúng ta và đôi khi, Ngài tìm cách để giúp chúng ta tháo gỡ những khúc mắc mà chính chúng ta không tài nào thoát ra được.
Noi gương các tông đồ, chúng ta phải biết lắng nghe để nhận ra ý Chúa và thực thi mau mắn. Các ngài đã làm theo gợi ý của Chúa, nên các Ngài đã thành công: “các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6b).
Xin Chúa Kitô Phục Sinh luôn ban Thánh Thần cho chúng ta, để chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện rất thân tình của Ngài. Ngài luôn mang đến sự bình an và hạnh phúc thật. Bên cạnh đó, xin cho chúng ta có lòng nhiệt thành, hăng say đem tình thương của Chúa chia sẻ cho người khác, để họ cũng nhận ra được sự hiện diện của Chúa qua những cử chỉ thật dễ thương của chúng ta.
Chúng ta hãy để Chúa Phục Sinh luôn là người bạn thân của chúng ta và chúng ta cũng hãy là người bạn thân của tất cả những ai mà chúng ta đang gặp gỡ và sẽ gặp gỡ trong cuộc đời của mình.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến và đang ở thật gần bên chúng con. Lạy Đấng Phục Sinh, xin ở mãi với chúng con, xin đừng rời xa chúng con vì chúng con luôn cần Ngài. Al-lê-lu-ia.
Vâng lời là một trong ba lời khấn trong nghi thức khấn dòng: Khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Vâng PS 3-C119
Vâng lời là một trong ba lời khấn trong nghi thức khấn dòng: Khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Vâng lời là bỏ ý riêng mình, vâng theo ý Chúa qua sự vâng phục ý của bề trên. Vâng lời đòi hỏi sự khiêm nhu đích thực. Thơ gởi tín hữu Do-thái đã diễn tả về Chúa Giêsu:Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục (Dt 5, 8). Chúa đã nêu gương vâng phục thánh ý Chúa Cha. Sau khi các tông đồ đã được diện kiến và chia sẻ ăn uống với Chúa Kitô phục sinh, các Ngài đã mạnh dạn ra đi làm nhân chứng. Các tông đồ là những nhân chứng sống động và can đảm nhất. Các Ngài đã đối diện với nhiều quyền lực cả thần quyền lẫn thế quyền. Người ta hăm dọa và cấm cản các tông đồ. Bấy giờ ông Phêrô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (Tđcv 5, 29). Một chọn lựa tuyệt đối. Các tông đồ đã chọn Chúa, vâng lời Thiên Chúa. Sự chọn lựa này có thể đưa đến sự giam tù, đầy ải khổ đau và chết chóc.
Những sự kiện mới xảy ra hôm nào: Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy (Tđcv 5, 30). Tin tức còn nóng hổi. Các nhân chứng còn đang hiện diện đầy phấn khởi. Tân hồn của các Tông đồ sôi xục niềm tin. Các ông ra đi rao giảng tin vui cho mọi người. Chẳng chút sợ hãi từ nan. Lòng nhiệt thành của các Tông đồ làm cho các nhà chức trách lo ngại. Nhưng dù có cấm cản và đe dọa, các Tông đồ vẫn một lòng trung kiên: Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người."(Tđcv 5, 32). Các nhân chứng vâng theo ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Niềm tin và lòng trung tín của các Tông đồ là những hạt giống gieo mầm đức tin cho các thế hệ và cho mỗi người chúng ta. Đức tin của chúng ta cậy dựa vào những lời chứng của các tông đồ xưa.
Tâm hồn của các tông đồ hân hoan và vui mừng cho dù khổ đau trăm bề. Chứng nhân cho sự thật đồng nghĩa với sự khổ nhục vì danh Chúa Kitô. Chỉ có sự thật mới có thể giải thoát. Người đời không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của các nhân chứng sự thật. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu (Tđcv 5, 41). Chịu tù đầy, đánh đòn và giam giữ trở nên nguồn sinh lực hân hoan cho các tông đồ. Trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều chứng nhân dám xả thân mang tin mừng cứu độ đến mọi người khắp mọi nơi. Đã có những vị tử đạo bỏ mình nơi vùng hoang sơ của những bộ lạc sống sơ khai man rợ. Tinh thần lạc quan và nhiệt tình của các nhà truyền giáo đã giúp họ xông pha trên mọi nẻo đường dù gian khó. Qua các Ngài, hôm nay chúng ta được thừa hưởng kho tàng mầm sống đức tin.
Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người tín hữu đã được gieo mầm đức tin và được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô. Cả cuộc đời của chúng ta đã bỏ vốn đầu tư trong một niềm tin. Chúng ta đã cống hiến nhiều thời gian, sức lực, khả năng, của cải và cả đời sống nơi Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta đã đặt trọn niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu vào Đấng trung gian của vũ trụ. Chúng ta đã chọn Chúa Giêsu Kitô là trung tâm điểm của đời sống tâm linh. Chúng ta đã hy sinh, hãm mình, thi hành bác ái và tuân giữ giới răn của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta đang trông chờ điều gì? Đó chính là sự sống lại và sự sống hạnh phúc ngày sau. Chúng ta biết rằng con đường lên thiên đàng là thiên đàng. Vâng theo thánh ý Chúa trong cuộc lữ hành trần thế là chúng ta đang dõi theo con đường hướng thượng.
Hằng ngày chúng ta vác thánh giá đi theo Chúa. Theo Chúa là theo con đường đi lên, con đường an vui hạnh phúc, con đường ngược dòng và cả con đường khổ giá. Chúng ta đã đầu tư biết bao nhiêu công sức để học hỏi, tìm hiểu và sống niềm tin của mình qua năm tháng. Đừng để niềm tin của chúng ta trở thành trống rỗng, mê tín, hình thức và trình diễn bên ngoài. Chúng ta hãy chìm sâu vào cốt lõi của niềm tin. Tinh thần vâng phục sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp. Biết tìm từ bỏ ý riêng và chấp nhận ý Chúa. Vâng phục không phải là đánh mất mình nhưng là chia sẻ một cuộc sống hài hòa trong yêu thương bác ái. Vâng lời trọng hơn của lễ là thế. Chúng ta biết trăm người trăm ý, nên cần có những quyết định và ý kiến chung để thi hành. Tuy rằng không có ý nào là tuyệt đối nhưng có đa số quyết định. Giáo hội là Nước Trời tại thế nhưng giáo hội cũng là tổ chức xã hội, cần có sự nhất trí để dẫn dắt mọi tín hữu đi trong đường lối Chúa. Chúng ta cũng biết sự vâng phục sẽ nhẹ nhàng hơn đôi chút khi có sự đối thoại và thông cảm. Hãy sống niềm tin đích thực trong mọi trạng huống ở đời.
Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần và nhiều cách với nhiều người. Đôi khi các tông đồ cũng chẳng nhận ra Chúa. Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu (Ga 21, 4). Chúa đến với các tông đồ khi Chúa muốn.Chúa cho ai ân sủng, người đó lãnh nhận. Chúng ta không nên phân bì, so sánh hay ganh tị. Ân sủng là qùa tặng nhưng không. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu lại yêu cầu các tông đồ làm một việc có vẻ như thách thức tinh thần vâng phục. Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá (Ga 21, 6). Vâng lời Thầy, con thả lưới. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp đã cật lực thâu đêm mà chẳng bắt được gì. Vâng lời Thầy, các ông đã kéo được mẻ cá to. Sự vâng phục đã mang lại niềm vui và thành qủa to lớn.
Chúa Giêsu là Chúa và là Thầy. Chúa vẫn dùng những cử chỉ thân thương gần gũi để chia sẻ cuộc sống với các tông đồ:Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy (Ga 21, 13). Bánh và cá đã trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Trên sườn núi Chúa cũng đã biến hóa bánh và cá hai lần để nuôi dân con số trên cả mấy ngàn người. Chúa quan tâm sự vất vả, mệt nhọc và đói khổ của dân chúng. Sự hiện diện của Chúa mang lại niềm an vui, no thỏa và ủi an. Chúng ta tín thác vào lòng thương xót của Chúa moi nơi mọi lúc. Nếu chúng ta có Chúa hiện diện là có sự bình an, có niềm vui hoan lạc và hy vọng. Hãy kết hợp thường xuyên với Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta sẽ được an nghỉ: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28).
Sách Khải Huyền của thánh Gioan mở ra cho chúng ta một viễn tượng tuyệt vời nơi đất mới trời mới: Tôi thấy và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu (Kh 5, 11). Đây làthực tại của niềm tin. Tất cả niềm hy vọng của chúng ta đặt vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta hy vọng sẽ cùng chung hưởng một cõi sống vĩnh hằng. Những đau khổ của chúng ta hôm nay, chẳng là gì so với vinh quang bất diệt mà chúng ta sẽ được dự phần. Thánh Gioan diễn tả: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời! "(Kh 5, 13).
Lạy Chúa, chúng con cứ mải mê tìm kiếm những của cải và thú vui thế
sự để thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Xin cho chúng con biết nhìn lên, hướng thượng và chiêm ngắm vinh quang mà Chúa đang dành sẵn cho chúng con. Xin cho chúng con cùng được thông phần hạnh phúc với các thánh trong Nước Trời. Amen.
Các môn đệ của Chúa Giêsu, sau khi Thầy bị bắt, bị kết án tử hình: đóng đinh trên Thập giá. Các Ông PS 3-C120 Dalat
Các môn đệ của Chúa Giêsu, sau khi Thầy bị bắt, bị kết án tử hình: đóng đinh trên Thập giá. Các Ông thất vọng hoàn toàn, nản chán hoàn toàn vì các Ông tưởng rằng:” Thế là xong, thế là hết “. Do đó, tất cả các Ông trở về nghề cũ. Phêrô dù chán nản, nhưng vẫn được coi là thủ lãnh, ông không ra lệnh cho các bạn nhưng mời gọi cách kín đáo:” Tôi đi đánh cá đây “. Các bạn đồng môn hiểu ý Phêrô và đồng thanh thưa với Phêrô:” Chúng tôi cùng đi với anh “.
Thực lạ lùng, hai lần hiện ra trong nhà Tiệc Ly, các môn đệ đã nhận ra Chúa Phục Sinh, nhưng họ vẫn còn ngờ ngợ.Do đó, lần này Chúa không hiện ra nơi nhà Tiệc Ly nữa mà Chúa lại có mặt trên bờ Biển Hồ Tibêriát từ sáng tinh mơ.Gioan, người môn đệ được Chúa thương mến nhạy cảm hơn, tinh tế hơn đã nhận ra Chúa Phục Sinh, nhưng môn đệ này lại cứ im lặng, ngồi yên trong thuyền. Phêrô luôn là người bộc trực, nóng nảy, Ông đang ở trần vì đang trên thuyền ngoài khơi, nhảy vội xuống nước bơi vào vì Ông nôn nóng muốn gặp Chúa Giêsu sống lại. Đúng là hai người hai phản ứng khác nhau nhưng mẫu số chung vẫn là yêu mến Chúa. Hội Thánh cũng vậy thôi vì Hội Thánh gồm nhiều người trên khắp mặt đất với những suy nghĩ, văn hóa, ngôn ngữ khác nhau nhưng tựu chung tất cả đều tin và yêu mến Chúa. Như Phêrô và các môn đệ đánh bắt cá trên Biển Hồ Tibêriát sau khi Chúa Giêsu chịu chết. Họ là những tay đánh bắt cá lành nghề, nhưng suốt đêm không bắt được con cá nào. Nghe lời người lạ trên bờ Biển Hồ, đó là Chúa Giêsu Phục Sinh mà họ chưa nhận ra, họ chèo ra biển và thả lưới như người lạ bảo, họ đã bắt được mẻ cá lạ lùng 153 con cá lớn. Họ vui mừng, đang mệt, đang buồn, bỗng trở nên sung sướng hân hoan. Họ đã chèo vào bờ và đến ăn. Lúc đó họ đã nhận ra người lạ là Đức Giêsu Phục Sinh. Đây là lần thứ ba Chúa đã hiện ra cho các môn sau khi Ngài đã từ cõi chết sống lại.
Cũng trong bài tường thuật của thánh Gioan hôm nay, Chúa Giêsu sống lại đã hỏi thánh Phêrô đến ba lần về lòng yêu mến của thánh Phêrô. Vâng, vị tông đồ Phêrô là người rất bộc trực, nóng nhưng rất nhiệt tình. Trước khi Chúa chịu chết, Ngài đã loan báo cho Phêrô biết Ông sẽ chối Chúa ba lần trước khi gà gáy. Phêrô vẫn tự tin, tự mãn cho rằng dù ai chối, dù ai bỏ
Thầy, riêng Ông thì không, nhưng thực tế Phêrô đã chối Chúa ba lần. Hôm nay, Chúa hỏi Phêrô có yêu mến Chúa đến ba lần làm Ông bực, tự ái. Chúa Giêsu muốn biết sự xác quyết sâu xa của Phêrô về lòng mến Phêrô dành cho Chúa để từ đó Chúa sẽ cất nhắc Ông làm đầu Giáo Hội, chăn dắt chiên mẹ, chiên con của Chúa. Đây là lần thứ ba Chúa hỏi Phêrô:” Anh có yêu mến Thầy không ? “ ( Ga 21, 17 ). Phêrô đáp:” Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy “ ( Ga 21, 17 ). Chúa đã chọn Phêrô để Phêrô:” Chăm sóc chiên của Thầy “.
Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử với Chúa Giêsu, Ông cũng được chia sẻ Thập giá với Đức Kitô, đồng thời được đi theo Thầy, và được chết cùng Thầy:” Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn “ ( Ga 21, 18 ). Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được Chúa mời gọi đáp lại tình thương của Ngài bằng chính đời sống bác ái, yêu thương của chúng ta đối với anh chị em của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết can đảm vượt thắng con người cũ, mặc lấy Đức Kitô và sống bác ái hòa hợp với mọi người. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: 1.Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra lần thứ ba với các môn đệ ở đâu ? 2.Tại sao Gioan lại nhận ra Chúa Phục Sinh đang đứng trên bờ Biển Hồ Tibêriát ? 3.Tại sao Chúa Phục Sinh lại hỏi Phêrô tới ba lần về lòng yêu mến Chúa ? 4.Chúa loan báo Phêrô sẽ phải chết cách nào ?
Đức Giêsu Mạc Khải Lòng Thương Xót Qua Ơn Ban Bình An
(Cv 5,12-16; Kh 1,9-13.17-19; Ga 20,19-31)
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong Đêm Vọng Phục Sinh vừa qua, Giáo Hội công bố Tình yêu của Thiên Chúa trải dài trên PS 3-C121
Trong Đêm Vọng Phục Sinh vừa qua, Giáo Hội công bố Tình yêu của Thiên Chúa trải dài trên nhân loại và trong cuộc sống của con người ngang qua các bài đọc trong phần phụng vụ Lời Chúa.
Hôm nay, Chúa Nhật II Phục Sinh, Giáo Hội cử hành đại lễ kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Qua thánh lễ này, Mẹ Giáo Hội muốn làm cho bản trường ca tình yêu của Thiên Chúa một lần nữa rõ nét hơn nơi trái tim và lòng dạ thương xót của chính Chúa Giêsu, Đấng hiện thân lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa có tên là Tình Yêu
Nói đến Thiên Chúa, ấy là chúng ta nói đến bản chất của Người là “Tình Yêu”. Chính thánh Gioan đã khẳn định như thế trong thư của ngài: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Vì yêu, Ngài đã tạo dựng trời đất muôn vật; đã tuyển chọn Israel làm dân riêng; đã nghe thấy tiếng van xin thống thiết của dân Người và đã ra tay giải thoát, dẫn đưa họ từ Ai cập trong thân phận nô lệ trở về Đất Hứa, nơi tràn trề sữa và mật; đồng thời nuôi sống họ bằng Manna và chim cút; vì yêu, Thiên Chúa đã không chấp nhất những tội vô ơn bạc nghĩa của dân...
Bởi lẽ, ở đâu tội lỗi tràn đầy, ở đó ân sủng chứa chan gấp bội, và lòng thương xót của Thiên Chúa luôn phủ lấp muôn vàn tội lỗi, sẽ tẩy trắng như tuyết, sạch như bông..., nên Thiên Chúa đã không bỏ rơi kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, đau đớn vì họ đang đi đến hố diệt vong!
Vì thế, nhiều lần nhiều cách, Người đã gửi các ngôn sứ, thẩm phán, vua chúa ... để nhắc nhở và mời gọi dân đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa. Cuối cùng, Thiên Chúa đã trao ban chính Con Một của Người là Đức Giêsu, Ngài đã đến trần gian trong thân phận của con người, để dạy dỗ, yêu thương, tha thứ, chữa lành bệnh tật... và đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc đời. Đỉnh cao của lòng thương xót ấy chính là cái chết đau thương trên thập giá vì con người... Và cũng chính tình yêu, Ngài đã khai mở Giáo Hội ngang qua lưỡi đòng đâm thâm. Chính từ cạnh sườn, Máu và Nước của lòng dạ xót thương đã chảy ra để lộ hiện dung mạo Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, nhằm khai sinh và nuôi dưỡng Giáo Hội bằng chính nguồn sung mãn của lòng thương xót...
Trao ban bình an là trao ban lòng dạ thương xót của Thiên Chúa
Không dừng lại ở đó, lòng thương xót của Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu sống lại để chứng minh con đường cứu chuộc của Thiên Chúa nơi lịch sử cứu độ, trong cuộc đời, sứ vụ, sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu được móc nối chặt chẽ trên cùng một con đường tình yêu, được khởi đi và kết thúc do lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nên ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu đã trao chuyển lòng thương xót của Thiên Chúa cho các môn đệ qua ơn ban bình an. Vì: tình yêu là bản chất của Thiên Chúa; thì lòng thương xót chính là biểu hiện của tình yêu và nhân loại được mời gọi sáp nhập, dìm mình vào trong đại dương lòng thương xót ấy ngang qua sự bình an sâu thẳm của tâm hồn.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu hai lần hiện ra với các môn đệ. Cả hai lần, Ngài đều trao ban bình an cho các ông.
Khi trao ban cho các ông sự bình an, Đức Giêsu muốn cho các ông bình tâm để nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua lịch sử cứu độ, và nhất là trên chính cuộc đời của từng người, để các ông đọc lại cuộc đời của mình và dân tộc mình trên nền tảng thương xót cảu Thiên Chúa để các ông chan chứa niềm tin và hy vọng, ngõ hầu can đảm làm chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa, và nhất là nơi cuộc thương khó và phục sinh của Thầy Giêsu.
Muốn có được điều đó, các ông cần đón nhận sự bình an của Đức Giêsu trong tâm tình của những người có đức tin và lòng mến, chứ không như theo quan niệm thói đời về sự bình an khi phỏng chiếu nó theo kiểu may rủi...
Thật vậy, sự bình an mà Đức Giêsu trao tặng, chính là một ơn cao trọng, biểu lộ tình yêu và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, để nở hoa tình yêu và kết trái tha thứ. Thế nên, bản chất của nó khác xa một lời chào hay một nghĩa cử xã giao. Điều này chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14,27).
Khi bình an của Đức Giêsu được trao ban và những ai được đón nhận, thì sự bình an ấy sẽ sinh hoa trái và làm cho người đón nhận được biến đổi. Điều này ta thấy diễn biến của tâm trạng Tôma, từ một người cứng lòng tin, đến nỗi ông thách thức luôn cả Đấng Phục Sinh!!! Tuy nhiên, Đức Giêsu thấu hiểu nỗi yếu đuối của ông, bởi vì qua biến cố Ngài chịu khổ nạn, tinh thần của Tôma đang hoảng loạn và hoài nghi mọi chuyện, nên Đức Giêsu một lần nữa đem lòng quý mến ông, thương xót ông, nên đã hiện ra và đáp ứng nhu cầu hiếu tri của người môn đệ cứng tin. Tôma đứng trước Đấng đầy lòng thương xót và được nghe thấy Thầy của mình không trách móc, nhưng lại yêu thương và mời gọi ông, cho ông được đặc ân sỏ ngón tay và lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn... Đến lúc này, Tôma đã đụng chạm được vào tận căn của lòng thương xót nơi Thầy mình, vì thế, ông đã thốt lên: “Lậy Chúa là Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Đây là một lời tuyên xưng đức tin nơi tâm hồn bình an thực sự của Tôma. Cũng chính vì lời tuyên xưng đầy tin tưởng này mà Đức Giêsu đã trao ban mối phúc lòng thương xót: “Vì con đã thấy Thầy nên con đã tin; nhưng phúc cho những ai đã không thấy mà đã tin” (Ga 20,29).
Như vậy, hai lần hiện ra, Đức Giêsu đều muốn các ông rồi mai đây sẽ trở thành chứng nhân của lòng thương xót, ngang qua cuộc sống và hành động của chính mình, để Thầy và trò cùng đi chung con đường thương xót, nhằm trải dài ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho nhân loại.
Sống và thi hành sứ điệp lòng thương xót của Thiên Chúa trong cuộc đời Kitô hữu
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói: “Trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào, và cách riêng trong thời hiện tại chúng ta đang sống, Giáo Hội phải coi một trong những nhiệm vụ chính yếu của mình là rao truyền và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót đã được mạc khải một cách tuyệt vời trong Đức Kitô.”
Khám phá ra sứ điệp thương xót của Đức Giêsu ngang qua lời cầu chúc bình an cho các môn đệ, mỗi người chúng ta cũng hãy xin ơn bình an đó cho chính mình, và loan truyền sự bình an sâu thẳm ấy cho anh chị em chúng ta.
Đây là sứ mạng của mỗi chúng ta! Chúng ta không được dửng dưng với lòng thương xót và cũng không được thờ ơ khi thấy con người, nhân loại hôm nay vô tâm, quay lưng lại với lòng thương thương xót của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina: “Ta khao khát lòng thương xót của Ta được tôn thờ (NK, 998) ; Hãy công bố sự tôn kính lòng thương xót của Ta cho mọi tạo vật (NK 1572). Người nào tín thác nơi lòng thương xót của Ta, thì sẽ không bị tàn lụi, vì tất cả những việc của người đó đều là việc của Ta, và những kẻ thù của họ đều sẽ bị tan tác dưới bệ chân Ta (NK,723). “Ta đòi hỏi con việc làm cho lòng thương xót phát xuất từ tình yêu đối với Ta. Con sẽ tỏ bày lòng thương xót với những người chung quanh con, mọi nơi mọi lúc. Con không được lùi bước hay biện hộ hoặc tự miễn trách nhiệm cho bản thân việc đó. Ta ban cho con ba cách sử dụng lòng thương xót đối với người thân cận: Thứ nhất – bằng việc làm; thứ hai – bằng lời nói; thứ ba – bằng lời cầu nguyện. Trong cả ba cấp đó cần chứa đựng đầy lòng thương xót, và đó là bằng chứng không thể nghi ngờ được của tình yêu dành cho Ta” (NK, 742)
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa, con xin tín thác nơi Ngài. Amen.
Từ thuở có trí khôn đến nay, tôi xác định mình là con của một gia đình đạo gốc. Tôi được học từ bé PS 3-C122
"Từ thuở có trí khôn đến nay, tôi xác định mình là con của một gia đình đạo gốc. Tôi được học từ bé ở một trường Công Giáo do các Sơ phụ trách. Tất cả các chị em tôi cũng đều được học như tôi. Cuộc sống đức tin của mình cứ xuôi chèo như thế lâu dài: đi lễ ngày Chúa Nhật, xưng tội Mùa Chay. Cùng với niềm say mê hát xướng, tôi đã gia nhập vào ca đoàn nhiều năm, hát vì thích nhạc đạo và vì thích được hát, chưa ý thức rằng hát là để ca tụng Chúa.
Tôi đã lập gia đình với một người cũng có đạo gốc như tôi và còn là con nhà một “Ông Trùm“ có nhiều con đi tu. Cuộc sống cứ trôi đi tự nhiên, như dòng nước chảy. Rồi dần dần sự mai một đức tin cứ lớn dần theo thời gian. Tôi còn bị tác động thêm bởi các bất bình, bất mãn cuộc đời xảy đến. Cái ung nhọt mất niềm tin vào Chúa lớn dần, đến mức độ tôi tự thấy xa hẳn Hội Thánh. Tôi đã bỏ đạo trong suốt 15 năm, thưa thớt dần dần bỏ lễ Chúa Nhật, không xưng tội, rước lễ và cả không tham gia sinh hoạt Giáo Xứ !
Cuộc sống không có Chúa cứ thế diễn ra, khiến cho mẹ ruột tôi và bố mẹ chồng rất buồn. Các cụ nói xa rồi lại nói gần về sự bất hạnh nếu xa rời Chúa, tôi bất cần ! Tôi lại càng cảm thấy mình đúng khi đã cắt tỉa đi những rườm ra hình thức tôn giáo, mà tôi cho là giả tạo, mê hoặc con người. Thậm chí tôi còn nghĩ rằng tôn giáo là liều thuốc an thần cho nhân loại. Cũng như tôi đã thầm trách nền giáo dục Công Giáo, đã làm cho tôi cảm thấy mất tự do. Thoát ra khỏi vòng kềm toả tôn giáo, tôi cảm thấy rất vui sướng, vì khung trời tự do thoải mái sống hưởng thụ. Hơn nữa, tôi còn tự biện hộ rằng mình vẫn sống đạo làm người, yêu thương đồng lọại, giúp đỡ tha nhân chung quanh. Tôi đã khóc cười với những người anh em và tự mãn mình đã làm đúng, làm đủ bổn phận con người.
Bất ngờ, con gái tôi bỏ nhà ra đi. Tôi đau khổ khóc thầm. Trải qua bao đêm mất ngủ, tôi hóa ra ngây dại, mất hết mọi cảm giác. Tôi vẫn đến cơ quan làm việc, nhưng không còn một chút hăng hái nào, mà máy móc như con rôbô. Tôi hụt hẫng tột độ. Tôi đã muốn chết vì thương nhớ con. Tôi thất vọng cái kiếp người tràn đầy bi kịch ! Gia đình tôi trở thành bãi chiến trường không đổ máu, nhưng lại đổ lệ đầy thương đau ! Tôi lại càng thêm oán giận cuộc đời. Điên cuồng chống lại tất cả. Chưa bao giờ gia đình tôi lại sóng gió đến thế ! Chính lúc đau khổ đó, Chúa đã đến với tôi, ban lại niềm tin. Ngoài Chúa ra, chẳng còn ai cứu nổi gia đình tôi ! Tôi bỗng nhiên nhớ ra, vững tin rằng: “Những gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa" ( Lc 18, 27 ).
Từ chuyện xảy ra với con gái tôi, Chúa đã dẫn tôi trở về. Hơn nữa, Ngài còn dẫn cả gia đình tôi thật sự trở về. Cứ lần theo con đường để trở về, chúng tôi đã gặp Chúa. Thì ra bấy lâu này, Ngài thầm lặng chờ đợi tôi. Ngài vẫn hằng yêu thương tôi, Ngài đã cho tôi một thể nghiệm của Người Cha mất con đau đớn như thế nào. Tôi đã thật sự khổ sở và sâu xa hối hận. Tôi bước qua nhiều chặng đường trong sự trở về, như một khám phá mới. Tôi cứ phải lột dần những rào cản của cuộc sống đi hoang đã thành nếp. Chúa đã lôi kéo tôi, chồng tôi, con tôi, trên bước đường trở về, vội vã cứ y như là chạy vậy !
Hiện nay gia đình tôi bỗng đổi khác tận gốc rễ. Từ ngày Chúa “chạm” tôi, Chúa “chạm” chồng con tôi, chúng tôi liền thấy mình được thoát ra khỏi vòng vây hãm của khổ đau và những mâu thuẫn, như không thể khắc phục được. Nay chúng tôi được dễ dàng thương yêu nhau, vì có Chúa ở trong và ở bên tôi.
Từ khi hai vợ chồng tôi cùng đến cầu nguyện và gia nhập nhóm Thánh Kinh Cầu Nguyện. Chúa đã “chạm" mạnh vào gia đình tôi và hiện nay vợ chồng tôi đã được nhận chìm trong Đức Kitô. Cả gia đình tôi đã cảm nhận được hạnh phúc thật sự." (Theo Maria Vũ Kim Hồi, Chúa Giêsu đã biến đổi đời con, Thanhlinh.net ).
Sau bao năm xa rời Đức Tin, chị Maria đã tìm lại Chúa, nhờ sự cố con gái bỏ nhà đi. Chị không ngờ Chúa Giêsu vẫn liên lỉ quan tâm, chờ đón gia đình chị trở về đoàn tụ trong Lòng Thương Xót. Cũng như xưa các môn đệ đâu thể nào ngờ Chúa Phục Sinh, vẫn còn chờ đón vỗ về họ, sau một đêm chài lưới hoàn toàn vô vọng.
Tim Mừng hôm nay, Thánh Gioan tường thuật Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêriat, với bữa sáng sẵn sàng phục vụ. Sau một đêm vất vả, trắng tay, Chúa Giêsu hiện ra hỏi thăm, chỉ chỗ thả lưới hiệu quả, mà không một ai nhận ra Người.
Nhận ra Chúa
Ông Phêrô và các bạn chài đều nhìn thấy, đều nghe thấy Người đang đứng trên bờ Biển Hồ lúc tảng sáng, hỏi thăm họ đánh cá. Vâng lời Người, họ thả lưới bên hữu thuyền, liền bội thu. Thế mà chỉ có ông Gioan, ngạc nhiên khám phá ra Người, chính là Chúa Giêsu Phục Sinh, liền thầm thì tiết lộ cho ông Phêrô: “Chúa đó !”
Tương tự tại “ngôi mộ trống”, cũng chỉ duy nhất một mình ông Gioan thấu đáo hiểu dấu chỉ Người đã sống lại, qua khăn che đầu và băng vải xếp gọn ghẽ. Chắc chắn chân dung, vóc dáng, lời nói của Người hẳn đã hằn sâu, in đậm nét trong lòng, cũng như trí nhớ Người môn đệ Chúa yêu, chẳng thể nào phai nhoà đi. Như vậy, một lần nữa, nhờ con tim mách bảo, linh cảm, nhờ lửa mến nóng bỏng, môn đệ Gioan đã kịp thời nhận ra Thầy Chí Thánh.
Lửa mến xua tan màn đêm tăm tối, tội lỗi, u mê, đốt cháy chướng ngại vật che chắn, vật chất, tiền tài, danh vọng, vượt qua cám dỗ vị kỷ, chia rẽ, dao động, nghi kỵ, phân hoá. “Chúa đó !” một khám phá tuyệt diệu chỉ dành cho một tình yêu bén nhạy, bền bỉ, sâu đậm, trung thành và viên mãn. “Chúa đó !” một lời giới thiệu tràn trề vui mừng và hy vọng ! “Chúa đó !” một tiếng reo khải hoàn, vì được cứu thoát khỏi khốn khổ, thử thách, thất bại, lẫn thất vọng.
Đến với Chúa
Lần này, môn đệ Gioan ắt hẳn kính lão đắc thọ, không dám xớn xác, tuỳ tiện, như hôm chạy đua nước rút ra ngôi mộ trống, bỏ xa lắc ông Phêrô tội nghiệp, lẹt đẹt theo sau. Mặc dầu ông Gioan rất phấn khích, sốt ruột, mong mau được gặp lại Chúa Phục Sinh, nhưng cũng phải dằn lòng, dành ưu tiên cho vị tiên chỉ Simon Phêrô nhảy xuống nước, bơi vào diện kiến Đấng Phục Sinh trước.
“Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.” Không ngần ngại bỏ tất tần tật, bạn chài, thuyền lưới, cá mú, ông Phêrô tức khắc nhảy ra khỏi thuyền, bơi vào gặp Chúa ngay. Một hành động tích cực cao độ biểu lộ tâm hồn khao khát Chúa, tâm hồn từ bỏ chức tước, danh vọng, tiền tài, của cải, tâm hồn sẵn sàng, tỉnh thức, chạy đến với Chúa. Nhất là sau một đêm hì hục, miệt mài, vất vả chài lưới trắng tay. "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng" ( Mt 11, 28-30 ).
Đi theo Chúa
Dù trên bếp hồng, đã sẵn sàng cá nướng thơm nồng, hoà quyện mùi bánh mới hấp dẫn, Đức Giêsu vẫn yêu cầu các môn đệ đóng góp thành quả vừa đánh bắt được: “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” Rồi Người tiếp tục phục vụ các môn đệ: “Anh em đến mà ăn !” Sau khi ăn xong, Người mới trang trọng phỏng vấn ông Simon Phêrô về tình yêu tối thượng dành cho Người.
Ba câu hỏi lập đi lập lại: “Này anh Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không ?” Gọi ngay tên cúng cơm, chính xác con ai, Đức Giêsu thân mật đòi hỏi một tình yêu tận hiến agapé trọn hảo, chứ không dừng lại tình yêu huynh đệ philia thường tình. Bởi vì, “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi !” Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó” ( Mc 12, 29-31 ).
Sau ba lần xác nhận tình yêu dâng hiến, ông Simon Phêrô được Chúa mời gọi: “Hãy theo Thầy !” Đồng thời giao cho ông trọng trách phục vụ đoàn chiên: “chăn dắt” và “chăm sóc.” Vừa hướng dẫn vừa nuôi dưỡng như vị mục tử nhân lành, “thấm đẫm mùi chiên”, chứ không phải cất nhắc lên ngôi cai trị, hay chiếm hữu.
Như vậy, ai muốn đi theo Chúa thì nghe và thực hành Lời Chúa: Mến Chúa, yêu người và phục vụ tha nhân. Không riêng gì các đấng bản quyền, mà tất cả con chiên, giáo hữu muốn theo Chúa, cũng đều phải tuân giữ nghiêm nhặt hai điều này.
“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng Chúa phải chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” ( Đường Hy Vọng, số 241 ).
Lạy Chúa Phục Sinh, xin mở mắt, mở tai, mở lòng chúng con luôn nhận ra Chúa trong từng anh chị em chung quanh, để yêu thương và phục vụ. Xin thúc đẩy chúng con năng hạnh ngộ cùng Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, để luôn được Chúa hâm nóng lửa mến, hầu luôn được sống kết hiệp cùng Người trong mọi lúc, mọi nơi.
Lạy Mẹ Maria, chúng con khấn xin Mẹ giúp chúng con thấu hiểu những dấu chỉ của Chúa gửi đến, để vâng theo Thánh Ý Chúa trong suốt cuộc đời ba đào, gian lao, vất vả, hầu gặt hái được thành quả đáng mừng, như mẻ cả bội thu của các môn đệ. Amen.
Chúa Phục Sinh hiện ra với Maria Macđala và Ngài nhắn gởi là sẽ gặp các môn đệ ở Galilê PS 3-C123
Chúa Phục Sinh hiện ra với Maria Macđala và Ngài nhắn gởi là sẽ gặp các môn đệ ở Galilê ( Mt 28, 10 ). Trong khi chờ đợi, các Tông Đồ trở về với nghề xưa, trở về biển hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm tình thầy trò.
Phêrô kêu gọi anh em đi đánh cá. Tối hôm ấy, họ thức trắng đêm mà vẫn trắng tay, chẳng được con cá nào. Họ sửa soạn giũ lưới đi nghỉ, Chúa hiện đến trên bờ. Trời vừa tảng sáng để có thể nhận biết người và thuyền. Nhưng họ vẫn không nhận ra Chúa Giêsu đứng đó, cũng giống như trường hợp của Maria Macđala bên ngôi mộ (Ga 20, 14 ), cũng như hai môn đệ Emmau ( Lc 14, 13 ).
Từ xa xa, Chúa Giêsu gọi các môn đệ một cách thân mật: “Các chú có gì ăn không ?” Một câu hỏi đối với dân miền biển nên phải hiểu là: đánh cá có được gì không ? Các môn đệ trả lời một tiếng vắn vỏi: “Thưa không” xem ra mệt mỏi chán chường. Chúa bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền”. Họ vâng lời và họ kéo được quá nhiều cá hơn sức họ mong tưởng. Thấy thế hẵn là các môn đệ nhớ lại phép lạ ngày nào bên bờ biển hồ Galilê, Chúa cũng bảo Phêrô ra khơi và họ đã bắt cá nhiều đến nỗi phải nhờ thuyền bạn bè chở giúp ( Lc 5, 1-11 ).
Gioan là người đầu tiên nhận ra Thầy: “Chúa đó”. Lúc ấy Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Ngài. Phêrô thật nồng nhiệt, hăng hái. Các môn đệ cho thuyền vào bờ. Chúa Phục Sinh đã chuẩn bị sẵn “than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa”. Bữa ăn sáng thật “thơ mộng” ngay tại bãi biển này, bữa ăn Chúa dọn sẵn và cũng có phần đóng góp của các môn đệ: “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” Cho đến lúc này các môn đệ mới nhận ra là Chúa và không ai dám hỏi gì nữa, không còn ai hồ nghi gì nữa. Sau bữa ăn thân mật ấy, Chúa tâm sự riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con có yêu mến Thầy không ? Trước khi đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, Chúa muốn ông phải yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người khác. Phêrô đã bày tỏ tình yêu của mình một cách đơn sơ và chân thành: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng: Hãy chăn dắt đoàn chiên của Thầy.
Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy cũng là ba lần Phêrô được giao phó trách nhiệm chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong Giáo Hội tinh thần: "Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát" ( 1Pr 5, 2-4 ).
Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng, mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là ân sủng.
Nhiều vị thánh gọi đoạn Tin Mừng hôm nay là cuộc đối thoại tình yêu. Chúa Giêsu hỏi ba lần: “Con có yêu mến Thầy không ?”, đáp lại ba lần “Có” cũng là để bù lại ba lần chối Thầy. Trước thái độ ba lần từ chối của Phêrô, Chúa không đòi hỏi Phêrô ba lần xin lỗi hay để trừng phạt, song ba lần Chúa muốn được nghe Phêrô nói: “Con yêu mến Thầy”. Như trước đây với Maria Macđala, lần này là Phêrô và sau này là mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu muốn nói: “Con yêu nhiều thì sẽ được tha thứ nhiều và ngược lại, con được tha thứ nhiều vậy con hãy yêu nhiều”.
Tiếng gọi lãnh đạo của Chúa là tiếng tình yêu, Chúa Giêsu cũng không hỏi Phêrô con đã có chìa khóa lãnh đạo cao cấp chưa ? Hay có bằng cấp gì ? Tốt nghiệp đại học nào chưa ? Song như có lần Chúa Giêsu nói: “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lề luật của Ta” thì bây giờ Ngài nói: “Con yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. Chúa Giêsu quan niệm về lãnh đạo là yêu thương, là phục vụ, rửa chân cho những người mình lãnh đạo, Chúa Giêsu không quan niệm nền tảng và phương pháp lãnh đạo là thao tác thôi.
Đối với những người lãnh đạo không phải là thao tác bắt người ta làm theo ý mình, song bằng tình yêu giúp nhau thực hiện ý Chúa. Như trong trường hợp của Phêrô, tình thương của Chúa đối với Phêrô và của Phêrô đối với Chúa, tình thương ấy xóa bỏ hận thù, xóa bỏ lỗi lầm xưa và đưa người yêú kém kia trở lại sống trong tình yêu của Chúa. “Anh em yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên của Thầy”.
Lời mời gọi ấy nhằm vào hàng giáo sĩ. Dĩ nhiên, sau cùng là lời mời gọi đối với mỗi người tín hữu, ai cũng có trách nhiệm liên đới đối với vận mệnh phần rỗi của mỗi anh em mình, về phận sự chăn dắt, nuôi nấng và đưa anh em về đoàn chiên và gìn giữ họ an toàn trong Đức Tin. Hãy vì yêu mến Chúa mà làm phận sự chăn dắt và yêu người, tức là làm việc tông đồ truyền bá Tin Mừng và làm cho anh em mình nhận biết và phụng thờ Thiên Chúa ( dmhcg.org ).
Nhìn lại cuộc đời của Thánh Phêrô, chúng ta thấy một điều rất rõ là trong trái tim vị Tông Đồ lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì ông cũng không giận Chúa. Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa. Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.
Chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa Giêsu không trao Giáo hội cho một người trí thức thông thái, có tài lãnh đạo, có uy tín, mà Chúa lại trao Giáo Hội cho Phêrô, một Tông Đồ nhiều khuyết điểm, bị la mắng nhiều hơn khen ngợi ? Chắc chắn nơi Phêrô có một lòng mến Chúa thiết tha. Sau ba lần hỏi: Con có yêu mến Thầy không ? Và sau ba lần Phêrô xác định tình yêu ấy, Chúa Giêsu trao Giáo Hội cho Ngài. Ngài vâng lời Chúa về Giêrusalem, bài giảng đầu tiên hùng hồn mang về cho Chúa 3.000 người xin rửa tội. Kể từ đó, Ngài đi vào cánh đồng truyền giáo bao la, là thành đô Rôma. Đối diện với gian nguy bắt bớ tù đày, Thánh Nhân đã can trường làm chứng cho Đức Giêsu Phục sinh. Ngài đã lấy máu đào tử đạo minh chứng cho lòng yêu mến Thầy. Ngài đã viết nên trang sử vàng, hào hùng, vẻ vang cho Giáo Hội sơ khai.
Lòng khiêm nhường, lòng yêu mến Chúa của Thánh Phêrô, kinh nghiệm về ơn tha thứ của Chúa, tất cả đều dẫn đưa Thánh Nhân đến với tình yêu của Chúa. Nhờ tình yêu Chúa dẫn lối mà Ngài đã đi bất cứ nơi nào Chúa muốn, cho dẫu nơi đó là ngục tù, là cái chết, bởi lẽ vì tình yêu của Chúa lớn hơn tất cả.
Lòng mến Chúa sẽ mở cửa cho người tín hữu chúng ta đi vào Nước trời. Chúa không đòi hỏi nơi mỗi người sự khôn ngoan, tài năng. Chúa chỉ cần lòng mến “con có yêu mến Thầy hơn những người này không ?” Lòng mến Chúa chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình. Khi nói yêu mến Chúa là chúng ta sẵn sàng chấp nhận mọi đau thương, thử thách, và hy sinh. Và khi nói yêu mến hơn những người này, thì cũng có nghĩa là phải hy sinh, chịu khó, và chấp nhận hơn nếu Chúa muốn, để làm chứng nhân cho Ngài trong chính cuộc đời mình.
Khi yêu mến Chúa, chúng ta sẽ làm mọi sự đẹp lòng Chúa. Lòng Mến là thước đo cho mọi giá trị cả đạo lẫn đời.
Yêu là gì ? Chưa ai có một định nghĩa đầy đủ và chính xác nhất. Người ta định-nghĩa-mà-không-định PS 3-C124
Yêu là gì ? Chưa ai có một định nghĩa đầy đủ và chính xác nhất. Người ta định-nghĩa-mà-không-định-nghĩa, và chỉ “mơ hồ” nói: “Yêu là chết trong lòng một ít”. Thế nào là ít hay nhiều ? Mức độ cũng thật trừu tượng ! Khi yêu người ta có thể hạnh phúc hoặc đau khổ, thường là khổ, nhưng vẫn phải có trách nhiệm – dù nhẹ hay nặng. Yêu là lĩnh vực tình cảm, của trái tim, nhưng vẫn cần có lý trí, dù đôi khi chính lý trí cũng không thể hiểu lý lẽ của trái tim.
Trái tim là trung tâm phân phối máu giúp cơ thể sống, cũng là trung tâm tình yêu. Tình yêu đa dạng, riêng tình yêu Công Giáo được mệnh danh là Đức Mến hoặc Đức Ái. Thánh Giêrônimô phân tích: “Nếu ai không có Đức Ái thì dù có Đức Tin chính xác, đều không tài nào có hạnh phúc vĩnh viễn; bởi vì trong tất cả các đức thì Đức Ái chiếm hàng thứ nhất. Linh hồn không có Tình Yêu thì tuyệt đối không thể sống nổi, linh hồn cần có Tình Yêu”.
Thánh Phaolô cũng đã xác định: “Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất” ( 1Cr 13, 13 ). Sự chết so với tình yêu chân thật thì chỉ là… “chuyện nhỏ”. Tình yêu “nổi tiếng” thế giới là tình yêu của Romeo và Juliet mà đại văn hào Shakespeare đã phác họa. Việt Nam có chuyện tình Lan và Điệp, chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ, hoặc chuyện tình Mộng Thường. Thế nên Đại văn hào Victor Hugo đã định nghĩa: “Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu”.
Khi người ta điệu các Tông Đồ đến giữa Thượng Hội Đồng; vị thượng tế hỏi: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi !” ( Cv 5, 28 ). Bấy giờ ông Phêrô và các Tông Đồ khác đáp lại: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” ( Cv 5, 29 ). Một câu nói can đảm và tuyệt vời, Phêrô hôm nay chứ không còn là Phêrô hôm qua nữa !
Ông Phêrô còn hùng hồn nói thẳng: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ítraen ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người” ( Cv 5, 30-32 ).
Thế rồi các Tông Đồ bị họ đánh đòn và họ cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Tuy nhiên, khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” ( Cv 5, 41 ). Yêu như điếu đổ, yêu hết cỡ thợ mọc, yêu như điên, càng khổ càng thú vị. Người ta gọi đó là “thú đau thương”. Cảm nhận được lòng thương xót của Chúa rồi nên các ông không thể làm trái với tiếng gọi của tình yêu.
Tác giả Thánh Vịnh tuyên xưng: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” ( Tv 30, 2 ).
Thật vậy, “từ âm phủ Ngài đã kéo lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” ( Tv 30, 4 ). Do đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ Thánh Danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” ( Tv 5, 5-6 ). Có quan tâm mới góp ý chân thành, dù lời thật làm mất lòng, như tục ngữ Việt Nam nói: “Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt, cho bùi”.
Với lòng tin mến, chúng ta hãy thành tâm cầu nguyện và tuyên xưng: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” ( Cv 5, 11-13 ).
Thánh Gioan tường thuật về thị kiến: Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc” ( Kh 5, 12 ). Con Chiên Giêsu đã chịu đau khổ đến tột cùng nên Ngài xứng đáng lãnh nhận những gì xứng đáng nhất. Ai yêu nhiều thì được thương nhiều, ai khổ công thì được tưởng thưởng. Đó là công lý công minh và chính trực !
Thánh sử Gioan cho biết thêm: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” ( Kh 5, 13 ). Cả bốn Con Vật thưa: “Amen”. Và rồi các Kỳ Mục cùng phủ phục xuống thờ lạy. Mọi loài đều tâm phục khẩu phục mà thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, vì mọi loài tin thật và yêu mến.
Tại Biển Hồ Tibêria, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ. Người tỏ mình ra như thế này: Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Giêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Rồi mọi người cùng lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Đến sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Ngài nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư ?” ( Ga 21, 5 ). Các ông trả lời: “Thưa không”. Ngài bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” ( Ga 21, 6 ). Dù chưa nhận ra đó là Sư Phụ Giêsu, nhưng các ông vẫn thả lưới xuống, và rồi họ không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.
Lúc đó, người-môn-đệ-được-Đức-Giêsu-thương-mến nói nhỏ với ông Phêrô: “Chúa đó !” ( Ga 21, 7 ). Ôi chao ! Vừa nghe nói “Chúa đó !”, ông Simôn Phêrô giật mình và vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi ông liền nhảy ùm xuống biển. Ngại quá ! Nhưng bản tính Phêrô nóng nảy mà thật thà, có gì nói thẳng, chẳng úp mở chi cả, và muốn làm gì thì làm ngay. Thấy anh Hai làm vậy, các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
Khi lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” ( Ga 21, 10 ). Ông Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn!” ( Ga 21, 12 ). Lúc này các ông biết rõ đó là Sư Phụ Giêsu rồi. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Ngài cũng làm như vậy.
Thánh Gioan cho biết đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Khi các môn đệ ăn xong, giây phút quan trọng bắt đầu. Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” ( Ga 21, 15a ). Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” ( Ga 21, 15b ). Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc CHIÊN CON của Thầy” ( Ga 21, 15c ). Ngài lại hỏi: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không ?” ( Ga 21, 16a ). Ông cũng đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” ( Ga 21, 16b ). Ngài nói: “Hãy chăn dắt CHIÊN của Thầy” ( Ga 21, 16c ).
Sau đó, Ngài hỏi lần thứ ba: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không ?” ( Ga 21, 17a ). Ông Phêrô gãi đầu. Hôm nay sao Thầy kỳ hết sức, hỏi hoài ! Ông buồn vì Ngài hỏi tới ba lần. Ông xác quyết: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” ( Ga 21, 17b ). Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc CHIÊN của Thầy” ( Ga 21, 17c ). Rồi Ngài nói với Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” ( Ga 21, 18 ).
Thánh Gioan nói rằng Ngài nói vậy có ý ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Nghĩa là Thánh Phêrô cũng bị đóng đinh như Thầy, nhưng cảm thấy bất xứng nên ông xin được đóng đinh ngược đầu xuống đất. Vậy là ông đã trung tín với lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy theo Thầy” ( Ga 21, 19 ).
Người Việt nói: “Quá tam ba bận”. Chúa Giêsu cũng muốn ông Phêrô xác nhận ba lần, không phải Ngài ép buộc, mà Ngài muốn người ta hoàn toàn tự do mà tình nguyện theo Ngài. Đó là lời Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta hằng ngày, và Ngài muốn chúng ta trả lời thật lòng. Tự bản chất, tình yêu có sức mạnh phi thường, một khi đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu thì khó có ai khả dĩ cưỡng lại mãnh lực này.
Về tình yêu, các Thánh có nhiều cách cảm nhận:
“Yêu là chiến thắng Thiên Chúa” ( Thánh Bênađô );
“Thiên Chúa dùng tình yêu thánh thiện để cứu chuộc loài người chúng ta, đến nỗi vì chúng ta mà hy sinh mạng sống của mình. Như vậy, mặc dù chúng ta hết lòng yêu Ngài thì cũng không đủ để báo đáp tình yêu của Ngài” ( Thánh Phanxicô Salê);
“Chúa Giêsu là nguyên nhân của tình yêu đến cuồng nhiệt” ( Thánh Madeleine Barat );
“Có tình yêu thì không có nhọc nhằn; cho dù có nhọc nhằn thì nhọc nhằn này cũng bị tình yêu hóa lỏng” ( Thánh Augustinô );
“Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con” ( Thánh Phanxicô Assisi );
“Ái tình là đao kiếm của chúng ta, dùng nó để trừ ma giết địch, để cho Vua Giêsu ngự trị trong lòng mọi người” ( Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu );
“Tình Yêu là sợi dây đoàn kết mọi chi thể của Giáo Hội, không chỉ là đối với người hàng xóm còn sống, mà còn mở rộng ra đến cả những người chết trong ân sủng và tình yêu” ( Thánh Tôma Aquinas );
“Không có Đức Ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy” ( Thánh Inhaxiô Loyola ).
Và còn rất nhiều cách nói về tình yêu nữa…
Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng con biết yêu thương như Chúa Giêsu. Xin Tình Yêu Kitô biến đổi tất cả chúng con nên hoàn thiện qua sự tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi lúc càng nên mới hơn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Người ta yêu quí Đức giáo hoàng Phanxicô, vì ngài khiêm nhường. Tấm hình Đức Phanxicô PS 3-C125
Người ta yêu quí Đức giáo hoàng Phanxicô, vì ngài khiêm nhường. Tấm hình Đức Phanxicô hôn nhẫn Đức HY GB Phạm Minh Mẫn đủ nói lên lòng khiêm nhường của ngài. Thường tình người dưới hôn nhẫn người trên. Với Đức Phanxicô thì người trên lại hôn nhẫn người dưới. Làm lớn, làm người trên khiêm nhường. Có thế, chúng ta mới hiểu câu chuyện trong BTM thánh lễ hôm nay. BTM: Trong BTM, trước khi trao chức giáo hoàng, để chăm sóc đoàn chiên, Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này hơn không ?” (Ga 21,15). Chúa chẳng những hỏi một lần, mà hỏi ba lần, đến nỗi thánh Gioan kể lại “Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần” (Ga 21,17).
Các nhà Kinh Thánh cho rằng thánh Phêrô buồn vì Chúa nhắc ông nhớ đến tội chối Chúa ba lần của ông.
Theo phép lịch sự, cái hay cái tốt của người thì nói ra, cái xấu cái dở của người thì bỏ đi. Vậy mà trong giây phút long trọng phong chức giáo hoàng cho thánh Phêrô, Chúa Giêsu lại nhắc đến tội chối Chúa ba lần của ngài.
Chúa Giêsu nhắc đến tội của vị giáo hoàng đầu tiên không phải để bêu xấu, mà để thánh Phêrô khiêm nhường. Làm giáo hoàng cần đức khiêm nhường. Nhớ đến khuyết điểm, nhớ đến tội lỗi của mình, thì không dám kiêu ngạo, không dám vênh vang khinh người. Nhờ đó, mà thương những người tội lỗi, cảm thông với những người yếu đuối.
Trong bàn tiêc ly, Chúa Giêsu đã báo trước tội chối Chúa của thánh Phêrô, nhưng rồi Chúa nói tiếp: “Phần anh, một khi anh đã trở lại, anh hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,32). Bđ1: Cám ơn Chúa, thời chúng ta có Đức giáo hoàng Phanxicô khiêm nhường, chúng ta còn có Đức giáo hoàng Bênêđíctô can đảm. Ngài đã từ chức ngày 28-2 vừa rồi. 600 năm mới có chuyện Đức giáo hoàng từ bỏ địa vị. Đạo cũng như đời dễ gì người ta chịu bỏ cái ghế của mình. Có thì người ta bám cho chặt, chưa có thì người ta giành giật. Thế giới đã khen ngợi Đức Bênêđíctô can đảm.
Bđ1 đã nói đến đức can đảm của giáo hoàng Phêrô và các tông đồ. Các nhà lãnh đạo Do Thái cấm các ngài không được rao giảng về Chúa Giêsu. Nhưng thánh Phêrô, vị giáo hoàng đầu tiên, khẳng khái đáp: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29).
Các tông đồ bị các nhà lãnh đạo cho đánh đòn, nhưng các ngài “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).
Đức giáo hoàng Phanxicô cũng nói: “Khi bước đi theo Chúa mà không vác thập giá, xây dựng Giáo Hội mà không có thập giá, và tuyên xưng Đức Kitô mà không nói đến thập giá, Chúng ta không phải là môn đệ của Chúa, mà là những kẻ làm tôi tớ cho thế gian này”. Bđ2: Chúa Giêsu là thầy của mọi giáo hoàng, là mẫu gương của các nhà lãnh đạo. Chúa Giêsu khiêm nhường. Thư Philípphê đã viết “Đức Giêsu Kitô bản thân vốn là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân tôi đòi, trở nên giống phàm nhân” (Pl 2,7).
Cũng thư Philipphê đã mô tả đức can đảm của Chúa Giêsu: “Người vâng lời cho đến nỗi phải chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người” (Pl 2,8-9)
Trên trời, các thiên thần tung hô: “Con chiên đã bị giết, nay xứng đáng lãnh nhận phú quí và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc” (Kh 5,12).
Dưới đất vạn vật tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và con chiên, lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời” (Kh 5,13).
Chúng ta cám ơn Chúa đã cho Giáo hội Đức Phanxicô khiêm nhường và Đức Bênêđíctô can đảm. Khiêm nhường và can đảm giống như Chúa Giêsu.
Si-en-ki-e-vich là nhà văn Balan đươc giải thưởng Nobel năm 1905 với tác phẩm “Quo Vadis”, PS 3-C126
Si-en-ki-e-vich là nhà văn Balan đươc giải thưởng Nobel năm 1905 với tác phẩm “Quo Vadis”, “Chúa Đi Đâu” ? Tác phẩm được ông Nguyễn Hữu Dũng dịch sang tiếng Việt. Nhà Văn Học Hà Nội xuất bản năm 1985. Năm 2002 in lại lấn thứ hai. Tên sách Quo Vadis là câu nói của thánh Phêrô hỏi Chúa “Quo Vadis Domine”, “Chúa ơi, Chúa đi đâu đấy” ?
Khi ông Nêrô, hoàng đế Rôma bắt bớ, giết chết các Kitô hữu, thánh Phêrô chạy trốn khỏi thành Rôma. Tới cổng thành thì gặp Chúa Giêsu vác Thánh Giá đi vào thành, thánh Phêrô hỏi Chúa: “Chúa ơi, Chúa đi đâu đấy ?” Chúa trả lời: “Thầy vào thành Rôma để chết lần thứ hai thay cho con !” Thánh Phêrô hối hận trở lại thành Rôma. Vua Nêrô bắt và đóng đinh ngài như đóng đinh Chúa. Thánh Phêrô cảm thấy mình không xứng đàng được đóng đnh giống như Chúa. Ngài xin đóng đinh ngược: đầu ngược xuống đất, chân chỏng lên trời.
BTM : Bài TM thánh lễ hôm nay Chúa Giêsu đã báo trước về cái chết của thánh Phêrô. Chúa nói: “`Khi còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng, và lôi anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga 21,18).
Để có can đảm chết cho Chúa và đoàn chiên, Chúa Giêsu đòi thánh Phêrô phải có lòng mến. Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” Chẳng những Chúa hỏi ngài một lần, mà là ba lần. Thánh Phêrô đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15).
Ngoài lòng mến, Chúa Giêsu còn đòi lòng yêu mến Thánh Thể. “Bước lên bờ, các tông đồ nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa…Đức Giêsu nói: ‘Anh em đến mà ăn’…Đức Giêsu cầm lấy bánh trao cho các ông, rồi cá” (Ga 21, 9.12).
Thánh Anrê Trần văn Trông tử đạo ngày 28-11-1835. Biết mình sắp bị giết, người thanh niên Trần Văn Trông tìm cho được vị linh mục để xưng tôi và được rước Mình Thánh Chúa.. Biết cha Ngôn đang trốn trên thuyền lênh đênh trên dòng sông Hương, anh Trông tìm đến, quì xuống xưng tội. Cha Ngôn giơ Mình Thánh Chúa lên. Anh kêu lên: “Ôi Vị Khách quí”.
Sau khi rước Chúa, anh xuống thuyền và hiên ngang tiến ra pháp trường, giơ đầu cho lý hình chém.
Nước Do Thái chỉ có hai cái hồ. Một cái rộng lớn hơn ở miền Nam, gọi là Biển Chết. Nước trong PS 3-C127
Nước Do Thái chỉ có hai cái hồ. Một cái rộng lớn hơn ở miền Nam, gọi là Biển Chết. Nước trong hồ qúa mặn, không một sinh vật nào sống nổi, nên gọi là Biển Chết. Môt cái ở miền Bắc nhỏ hơn, rộng 12 cây số, có ba tên gọi: hồ Galilê, hồ Giê-nê-xa-rét và hồ Ti-bê-ri-a.
Cái hồ này đã nuôi sống dân tộc Do Thái về vật chất, cung cấp tôm cá và hải sản. Và cái hồ này cũng đã nuôi dưỡng dân tộc Do Thái về tinh thần.
Ba năm trước trên bờ hồ Galilê này, Chúa Giêsu đã gọi 4 môn đệ đầu tiên: đó là các ông Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Sách TM kể rằng: “Đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì Đức Giêsu thấy ông Simôn với người anh là ông Anrê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Người bảo: ‘Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người’” (Mc 1,16-18).
Ba năm sau cũng trên bờ hồ Tibêria này, Đức Giêsu đã hỏi ông Phêrô: “’Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?’ Ông đáp: ‘Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.’ Đức Giêsu nói với ông: ‘Hãy chăm sóc chiên con của Thầy’” (Ga 21,15).
Trên bờ hồ Giênêxarét, ba năm trước Chúa Giêsu đã chọn thánh Phêrô làm môn đệ, ba năm sau Chúa chọn thánh nhân làm giáo hòang, làm người cai quản Hội Thánh, “chăm sóc chiên con của Thầy”.
Khi đặt thánh Phêrô làm giáo hòang, Chúa biết con người của Phêrô: một con người đã ba lần chối Chúa. Ở tòa án thượng tế Cai-pha, ông đã dễ dàng chối Chúa với cô gái gác cổng. Cô gái nói với thánh Phêrô: “Cả bác này nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao ?”. Thánh Phêrô liền đáp: “Đâu phải !” (Ga 18,17).
Song, Chúa cũng biết thánh Phêrô là một con người luôn luôn đi đầu mọi việc, có tính chỉ huy, lãnh đạo:
– Chính thánh Phêrô đã rủ các tông đồ đi đánh cá: Ông nói: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với”.
– Chính thánh Phêrô là người xuống hồ kéo thuyền vào bờ, khi Chúa nói: “Đem ít cá mới bắt được tới đây.”
Chúa biết thánh Phêrô chối Chúa, vì thánh Phêrô kiêu ngạo, cậy mình, ỷ vào tài năng của mình, vào sức mạnh của mình. Trong bàn tiệc ly, Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô: “Simon, Simôn ơi, kìa Xatan đã xin được sàng anh em như sàng gạo. Nhưng thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh”. Ông Phêrô thưa lại: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng”. Chúa Giêsu nói lại: “Này anh Phêrô, Thầy bảo cho anh biết: hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối Thầy” (Lc 22,31-34).
Phải cậy dựa vào Chúa, thánh Phêrô sẽ trở thành một vị giáo hòang xứng đáng. Do đó, Chúa đã dạy cho Phêrô và các tông đồ bài học tín thác cuộc đời vào Chúa. Đánh cá vào ban đêm thường là bắt được nhiều cá, thế mà thánh Phêrô và các tông đồ đã không bắt được con cá nào. Song, dù là ban ngày, nghe lời Chúa bảo, các ông đã bắt được cá đầy lưới.
Cậy dựa vào Chúa và sống khiêm nhường đó là đức tính của vị giáo hòang. Chúa Giêsu đã hỏi thánh Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?”. Chúa hỏi những ba lần, khiến thánh Phêrô buồn. Chúa hỏi ba lần, để nhắc nhớ ba lần thánh Phêrô chối Chúa, để thánh Phêrô sống khiêm nhường.
Bài TM thánh lễ hôm nay đã kể lại cuộc bầu cử vị giáo hòang đầu tiên của Hội Thánh, để rồi từ đó Giáo hội đã có những vị Giáo hòang kế tiếp lãnh đạo Giáo hội. Đức giáo hòang Bênêđíctô 16 hôm nay là vị giáo hòang thứ 265.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức giáo hòang và các vị lãnh đạo của Giáo hội.
Chúa nhật 2 Phục sinh tuần trước, Chúa đã cho chúng ta được vào Giáo hội, vào cộng đoàn những PS 3-C128
Chúa nhật 2 Phục sinh tuần trước, Chúa đã cho chúng ta được vào Giáo hội, vào cộng đoàn những người tin theo Chúa, để chúng ta cùng sinh hoạt chung với nhau. Chúa nhật 3 Phục sinh tuần này, Chúa cho thánh Phêrô lãnh đạo Giáo hội, lãnh đạo cộng đoàn, lãnh đạo chúng ta. Người lãnh đạo Giáo hội chúng ta quen gọi là Đức Giáo hoàng, Đức Thánh Cha. Bài Tin Mừng: Câu chuyện bài Tin Mừng thánh lễ hôm nay Chúa Giêsu đã đặt thánh Phêrô làm đầu Hội thánh. Trước khi đặt thánh Phêrô làm Giáo hoàng, Chúa Giêsu muốn cho thánh Phêrô cũng như các tông đồ ý thức về sứ vụ của mình. Sứ vụ đó được diễn tả qua hình ảnh “thả lưới bắt cá”. Thánh Gioan kể: “Ong Simôn Phêrô nói với các tông đồ: ‘Tôi đi đánh cá đây’. Các ông đáp: ‘Chúng tôi cùng đi với anh’. Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả” (Ga 21,3).
Thánh Gioan kể tiếp: “Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: ‘Này các chú không có gì ăn ư ?’. Các ông trả lời: ‘Thưa không’. Người bảo các ông: ‘Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá’. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21,4-6).
Nhiệm vụ “thả lưới bắt cá”, nhiệm vụ truyền giáo là do Chúa trao phó, chứ không phải do thế gian, do mình. Chúa sai đi, chứ không phải tự ý mình đi. Vì thế, phải làm nhiệm vụ vì Chúa, với Chúa. Với Chúa thì thành công “lưới đầy những cá”; còn không với Chúa, theo ý mình thì thất bại “không bắt được gì cả”. Làm với Chúa, thì dù không hợp thời vì thả lưới vào ban ngày, vẫn bắt được nhiều cá; còn làm theo ý mình, thì dù hợp thời vì thả lưới vào ban đêm, cũng không bắt được gì cả.
Các tông đồ đã bắt được 153 con cá (21,11). Theo thánh Giêrônimô, đó là con số mà thời đó chỉ về tất cả các loại cá dưới biển. Các tông đồ phải đi truyền giáo cho mọi dân tộc, đi khắp nơi; không riêng cho một nước, một dân tộc. Công giáo có nghĩa là đạo chung cho tất cả mọi người.
Nhiệm vụ truyền giáo là một nhiệm vụ rất vất vả, rất nguy hiểm, như ra khơi, như xuống biển. Biển khơi tượng trưng cho thế giới của sự dữ, của ma qủi, đầy sóng gió. Song đã có Chúa, Chúa “đứng trên bãi biển” (21,4), tức là trên nền đất cứng, vững chắc, tức là Chúa đã sống lại, đã chiến thắng sự chết, sự dữ; nhất là đã có Thánh Thể Chúa bổ dưỡng: “Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa…Đức Giêsu nói: ‘Anh em đến mà ăn’…Đức Giêsu cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá Người cũng làm như vậy” (21,9.12.13).
Sau khi cho các tông đồ ý thức về nhiệm vụ truyền giáo, bây giờ Chúa Giêsu muốn trao riêng cho thánh Phêrô nhiệm vụ lãnh đạo Giáo hội, chức vụ Giáo hoàng. Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô ba lần: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (21,15.16.17). Trước khi trao, Chúa Giêsu hỏi: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Chúa Giêsu cũng hỏi ba lần, khiến ông buồn. Chúa Giêsu muốn quyền lãnh đạo được tình yêu, được tinh thần hy sinh phục vụ chỉ đạo, chứ không vì tiền bạc, danh vọng, địa vị, “ăn trên ngồi trốc”. Ba lần cũng để nhắc nhớ ba lần thánh Phêrô đã chối Chúa, đã không dám hy sinh bản thân cho Chúa. Qủa thật, đời giáo hoàng của thánh Phêrô, như Chúa báo trước “Lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (21,18). Số phận của Giáo hoàng Phêrô cũng giống như số phận của Chúa Giêsu: đó là “Con chiên bị giết” mà thánh Gioan mô tả trong sách Khải Huyền trong bài đọc 2. Bài đọc 2: Trong sách Phúc Âm, thánh Gioan Tẩy Giả đã nói: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Con Chiên đã bị giết để gánh tội trần gian, Con Chiên đã hy sinh phục vụ cho nhân loại. Chính vì thế, theo thánh Gioan, Chúa Giêsu chết đúng vào giờ người Do Thái giết con chiên, để đến tối ăn mừng lễ Vượt Qua.
Vì hy sinh cho đoàn chiên, Con Chiên đã được Thiên Chúa tôn vinh. Sách Khải huyền trong bài đọc 2 thánh lễ viết: “Con chiên đã bị giết, nay xứng lãnh nhận phú qúy và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang và muôn lời cung chúc” (Kh 5,12). Phú qúy, uy quyền, khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang, muôn lời cung chúc, tất cả là 7, con số chỉ sự hoàn toàn. Con Chiên được chúc tụng là hoàn toàn.
Nay thánh Phêrô cũng không còn vì mình mà chối Chúa nữa; song vì Chúa, vì các con chiên Chúa trao cho chăn dắt, đã sẵn sàng tuyên xưng Danh Chúa Giêsu, như thánh Luca kể trong sách Công Vụ Tông Đồ đọc ở bđ 1. Bài đọc 1: Đây là lần thứ hai thánh Phêrô cùng các tông đồ bị bắt. Lần này bị bỏ tù. Ban đêm Thiên thần đến cứu ra khỏi tù và bảo vào Đền Thờ Giêrusalem giảng. Sáng đến, lính đến nhà tù, nhà tù vẫn cửa kín cài then, còn người thì không thấy. Được tin các tông đồ đang giảng ở Đền thờ, lính đến bắt, điệu về Thượng Hội Đồng, tức là cơ quan tối cao của đạo Do Thái. Vị thượng tế thay mặt hội đồng nói: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông” (Cv 5,28). Thánh Phêrô đáp lại: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (5,29). Sau đó, họ cho đánh đòn các tông đồ, rồi thả về. Thánh Luca kể: “Các tông đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (5,41).
Thánh linh mục Phaolô Phạm Khắc Khoan, vị thánh già tuổi nhất trong hàng Các Thánh Tử Đạo VN, 69 tuổi, cũng sẵn sàng chịu khổ vì Chúa. Năm 1837 khi đi dâng lễ ở họ Đông Biên về, cha bị bắt và bị điệu về giam ở tỉnh Ninh Bình. Khi quan bảo cha đạp chân lên Thánh giá, cha đáp: “Quan bảo tôi chà đạp lên Thánh giá là điều chẳng hợp lý tí nào ?”. Quan nói: “Sao lại không hợp lý, ta chỉ cho ông con đường sống mà không hợp lý à ?”. Cha đáp lại: “Thưa quan, nếu nước nhà có biến, mà quan sợ chết đào ngũ, thì quan là kẻ hèn nhát. Cũng vậy, tôi nhờ ơn Vua cả trên trời, tôi đâu có quyền sợ chết mà bỏ Người được”. Trước khi bị chém đầu, ngài đã hát 3 lần Halleluia. Ngài lên giọng như hát Halleluia Đêm vọng Phục sinh.
"Khi trời đã sáng, Chúa Giêsu đứng trên bãi biển" (Ga 21,7)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ trên Biển Hồ. PS 3-C129
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ trên Biển Hồ. Chúa chỉ cho các môn đệ bắt được nhiều cá, Chúa còn nướng cá và bánh cho các ông ăn. Khung cảnh thật ấm cúng.
Khung cảnh Thánh lễ cũng ấm cúng như vậy: chúng ta đang ngồi quanh bàn tiệc của Chúa. Chính Chúa dọn tiệc cho chúng ta và đang ở giữa chúng ta.
Xin cho bữa tiệc thánh này giúp chúng ta tin Chúa vững vàng hơn và yêu mến Ngài nồng nàn hơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Rất nhiều lần chúng ta dự Thánh lễ mà không ý thức sự hiện diện thân mật gần gũi của Chúa.
- Rất nhiều lần chúng ta rước lễ mà không ý thức mình đang hưởng dùng lương thực do chính Chúa dọn cho chúng ta.
- Rất nhiều lần chúng ta họp nhau trong Thánh lễ mà không chút tâm tình liên kết với những anh chị em cùng dự tiệc thánh với mình.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Cv 5,27b-32.40b-41)
Trích đoạn này từ sách Công vụ nhấn mạnh đến Danh Chúa Giêsu phục sinh:
- Vì rao giảng Danh Chúa Giêsu nên các tông đồ bị Thượng Hội Đồng do thái bắt. - Dù vậy, ngay giữa Thượng Hội Đồng, các ông lại rao giảng Danh Chúa Giêsu.
- Sau khi được thả ra, các ông sung sướng vì đã có dịp chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu, và tiếp tục rao giảng Danh Ngài.
2. Tin Mừng (Ga 21,1-9)
Phần cuối của Tin Mừng Gioan (có lẽ không do Gioan viết, mà do các đồ đệ của Gioan), tường thuật cuộc hiện ra cho các tông đồ trên biển hồ Tibêria:
- Theo gợi ý của Phêrô, người số tông đồ khác trở lại nghề cũ là đi đánh cá.
- Khi đó xảy ra lại một tình huống giống y lần đầu tiên Phêrô gặp Chúa Giêsu và được Ngài gọi: các ông không đánh được cá, nhưng nhờ Chúa Giêsu nên sau đó đánh được rất nhiều cá (x. Lc 5,4-11)
- Các tông đồ nhận ra Chúa Giêsu: đầu tiên là Gioan, kế đến là các ông khác.
- Bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò nhận ra nhau.
3. Bài đọc II (Kh 5,11-14)
Trong một thị kiến, Thánh Gioan nhìn thấy Chúa Giêsu trong hình dáng của Con Chiên:
- Con Chiên đã bị giết, nhưng đã sống lại và xứng đáng được hưởng mọi quyền lực và vinh quang.
- Tất cả các thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất và ngoài biển khơi đều tôn thờ và tung hô Con Chiên.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Sức khám phá của tình yêu
Một giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu nhìn bằng kính hiển vi thì lại là cả một thế giới sống động. Một cái hồ nếu được nhìn bởi một người nông dân thì cũng chỉ là một cái hồ, nhưng dưới mắt của một nghệ sĩ thì lại là cả một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời không thể nào tả xiết.
Như thế nghĩa là gì? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ Tibêria cũng thế: lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu phục sinh hiện đến với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ngay ra ấy là Thầy. Do đâu mà Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế? Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến Chúa nhiều nhất. Chính Tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng Tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.
Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? thích chở nhau đi chơi? thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ! Phải không? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sự sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên Thánh Augustinô đã nói rất đúng: "Ubi amatur, non laboratur": khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.
Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
2. Thủ lãnh giáo hội (Ga 21,1-19)
Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau:
Ông đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo thánh.
Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: "Quo vadis?" nghĩa là "Người đi đâu đó?" Người ấy trả lời: "Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa". Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.
Con người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay: "Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa" (Ga 21,18-19).
Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm "Đá tảng", thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay:
Sau biến cố Phục Sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định: "Tôi đi đánh cá đây". Các môn đệ khác cũng đồng tình: "Chúng tôi cùng đi với anh". Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói: "Chúa đó!" Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.
Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: "Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không?". Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa, Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: "Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn" (x. Lc 7,47). Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn Ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.
Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy" (Ga 21,17).
Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu "Như Thầy Đã Yêu".
****
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tha thứ cho thánh Phêrô thật nhiều, và thánh nhân cũng đã yêu mến Người thiết tha.
Xin cho chúng con luôn cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa, cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương, để như thánh Phêrô, chúng con sẽ đi bất cứ nơi nào Chúa muốn đưa chúng con đi, cho dù nơi đó là thập giá, là cái chết thương đau.
Như thánh Phêrô, xin cho chúng con xác tín rằng: Hiến thân vì Chúa là lãnh nhận, nô lệ cho Chúa là tự do, và chết với Chúa là sống mãi muôn đời Amen. (Thiên Phúc)
3. Tình yêu và lý luận
Bài Tin Mừng tuần trước thuật lại cách mà Tôma đã nhận ra Chúa Giêsu phục sinh: Tôma đã tuyên bố "nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở bàn tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Đây là kiểu tin bằng lý luận, nghĩa là chỉ tin khi nào đã có đủ bằng cứng rõ ràng hiển nhiên. Còn bài Tin Mừng tuần này thuật lại cách mà Gioan đã nhận ra Chúa: một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. và Tin Mừng ghi chú "Gioan là người môn đệ Chúa yêu". Chính Tình Yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra.
Như thế có hai con đường dẫn tới đức tin: Con đường thứ nhất là bằng lý luận để chỉ tin sau khi có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên; và con đường thứ hai là bằng tình yêu, nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc lý luận.
Trong vở tuồng "Tiếng hò Sông Hậu" có hai anh em sinh đôi tên Chơn và Chất, giống hệt nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ, Chơn bị bắt đày đi Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ già khi ấy đã mù lòa cả hai mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến, Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản đi thì bà mẹ mù lòa ấy nói ngay: "Phải mày là thằng Chơn đó không?" Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời "Không, con là thằng Chất đây mà, anh Chơn con còn đang ngồi tù mà". Nhưng bà mẹ nói "thôi mà, con gạt ai được chứ gạt mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà". Chính tình yêu đã giúp cho người mẹ mù lòa ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường hợp của Thánh Gioan cũng vậy: trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa Giêsu thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.
Có lẽ vì thường nghe những luận điệu bôi bác niềm tin tôn giáo cho nên chúng ta bị ảnh hưởng và cũng nghĩ rằng chỉ có con đường nhận thức bằng lý luận, với những bằng chứng rõ ràng hiển nhiên là con đường độc nhất đúng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh suy nghĩ lại xem, trong cuộc sống có bao nhiêu điều chúng ta tin tưởng mà đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên đâu? Rất ít, hầu hết những điều ta tin tưởng là do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy ta khi ta còn học ở trường. Vốn liếng kiến thức của chúng ta hầu hết là từ hai nguồn đó. Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những người có đạo đã tin không có đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì là lời chỉ trích không đứng vững. Tác giả vở tuồng "Tiếng hò Sông Hậu" nói trên cũng đâu phải là người có đạo, thế mà tác giả đã đề cao cách nhận thức rất cảm động của một người mẹ nhận ngay ra con mình nhờ vào tình mẫu tử thiêng liêng. Nghĩa là: ai cũng vậy, dù có đạo hay không có đạo, ai cũng có những nhận thức, những niềm tin không hẳn dựa vào những lý luận hiển nhiên mà chỉ dựa vào tình yêu.
Mà xem ra con đường tình yêu lại nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. Khi các Tông đồ nói cho Tôma hay là Chúa Giêsu đã sống lại, Tôma đã không tin ngay, ông đòi phải thấy tận mắt, sờ tận tay, thậm chí còn đòi thọc cả bàn tay vào vết thương cạnh sườn Chúa. và rồi đang khi các Tông đồ kia vui mừng vì Thầy đã sống lại thì Tôma vẫn còn hoài nghi, ray rứt. Đến 8 ngày sau khi Chúa Giêsu hiện đến một lần nữa thì Tôma mới tin và mới được vui mừng như các ông kia. Còn đối với Gioan, vì yêu Chúa nhiều, nên chỉ vừa thấy bóng dáng lờ mờ của Chúa là Gioan đã nhận ra ngay và đã tin, một niềm tin rất nhanh chóng, rất nhẹ nhàng mà cũng không kém phần vững chắc.
Các bạn trẻ còn ở lứa tuổi hay thắc mắc về đức tin và cũng dễ bị lung lạc bởi những luận điệu bài bác đức tin. Hôm nay, chúng ta đã thấy có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy cũng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Nghĩa là một mặt chúng ta phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt rộng thêm để nhận biết thêm được những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết được, như thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay vậy!
4. Sự hiện diện của Đấng phục sinh
Các bài tường thuật về việc Chúa Giêsu phục sinh hiện ra muốn giúp cho chúng ta hiểu biết về cách thức hiện diện của Ngài:
- Chúa đã hiện ra lúc các môn đệ đang làm công việc thường ngày là chài lưới à Người không ở đâu xa nhưng vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta và trong những công việc bình thường của chúng ta.
- Người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu là Gioan, vị tông đồ yêu mến Chúa đặc biệt à Tuy Chúa Giêsu luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhưng thường thì chúng ta không nhận ra Ngài. Muốn nhận ra Ngài thì cần có lòng yêu mến, như Thánh Gioan tông đồ.
- Chúa Giêsu đã nướng cá và bánh cho các môn đệ và sau đó cùng ngồi với họ quanh bếp lửa hồng để ăn bánh và cá nướng à Chúa Giêsu phục sinh không chỉ hiện diện bên cạnh chúng ta, mà còn chăm sóc chúng ta.
- Mặc dù Thánh Phêrô đã 3 lần chối Chúa, nhưng Chúa tha thứ cho ông và vẫn trao cho ông nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của Ngài à Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta không phải để bắt lỗi chúng ta, mà để trao cho chúng ta sứ mạng làm chứng về Ngài.
5. Đừng xóa sổ người ta
Một nhà độc tài kia không chấp nhận thuộc cấp của mình phạm sai lầm. Hễ lỡ phạm sai lầm, dù chỉ một lần, thì lập tức bị "xóa sổ". Đôi khi chúng ta cũng cư xử như thế, nghĩa là xoá sổ người khác. Thế nhưng ai trong chúng ta lại muốn bị phán xét chỉ vì một lần lầm lỡ trong đời?
Sau khi Phêrô chối Thầy, lẽ ra Chúa Giêsu có thể xóa sổ ông vì tội yếu đuối, hèn nhát. Nhưng Ngài đã không làm như vậy. Ngài không giáng cấp ông. Thậm chí Ngài còn không nhắc lại lỗi lầm của ông. Việc Giuđa phản Thầy là một việc có dự mưu và được thi hành một cách lạnh lùng theo đúng tính toán. Còn việc Phêrô chối Thầy không phải là có dự mưu. Nó là hậu quả của tính yếu đuối chứ không phải do tính xấu. Chúa Giêsu hiểu điều đó, bởi Ngài là kẻ thấu suốt lòng mọi người.
Sau bữa ăn sáng, Chúa Giêsu quay nhìn Phêrô và hỏi: "Phêrô, con có mến Thầy hơn những người khác không?" Một câu hỏi lạ. Phải chăng Ngài còn chưa biết rằng ông rất yêu mến Ngài? Dù vậy Chúa Giêsu vẫn hỏi. Và Phêrô thưa: "Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy". Phêrô đã nói thật, vì thực sự ông rất yêu mến Chúa Giêsu.
Mặc dù Phêrô có lỗi, nhưng Chúa Giêsu biết nơi ông cũng còn một phương diện khác, tốt hơn. Mạnh mẽ và yếu đuối cùng tồn tại trong cùng một con người. Chúa Giêsu khuyến khích Phêrô tiến lên. Ngài muốn ông bày tỏ công khai lòng yêu mến của ông đối với Ngài, bởi vì trước đó ông đã công khai chối Ngài.
Chúa Giêsu không ghi sổ tội của Phêrô, nhưng Ngài muốn ông làm một cái gì đó vì Ngài: chăm sóc đàn chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Có thể coi đây là việc đền tội cũng được, vì đây là cách đền tội tốt nhất, như sau này Phêrô viết: "Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi" (1 Pr 4,8).
Tôi dám chắc rằng Phêrô không bao giờ quên tội ông đã chối Thầy. Nhưng tôi không chắc rằng tội đó ám ảnh ông như cách nhiều người khác bị tội lỗi họ ám ảnh. Từ lần sa ngã ấy Phêrô đã học được một bài học lớn. Ông đã biết rằng ông không mạnh mẽ như ông nghĩ. Học được một điều gì từ kinh nghiệm thì tốt hơn rất nhiều so với học bằng lý thuyết. Điều chúng ta học được từ một lần sa ngã, mỗi khi nhớ lại sẽ khơi lên trong lòng chúng ta sự biết ơn hơn là sự dằn vật cắn rứt.
Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Phêrô có cơ sở để đứng dậy sau khi sa ngã. Chúng ta có thể hình dung rằng Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Phêrô đứng vững trước Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa Giêsu.
Chuyện của Phêrô là một an ủi lớn cho chúng ta. Xét cho cùng, chúng ta đều là những người tội lỗi, không kiên trì sống theo những điều chúng ta tin tưởng. Nhìn gương thánh Phêrô, chúng ta phải học biết tha thứ cho chính mình vì những yếu đuối và sa ngã nhất thời. Chúng ta không nên xét đoán bản thân mình hay xét đoán người khác dựa trên những sa ngã nhất thời ấy, mà phải xét đoán dựa trên cam kết sống suốt đời theo những điều mình tin tưởng. (FM)
6. Ơn gọi thứ hai
Ngày xưa có một người làm nghề đốt lửa. Một buổi chiều mùa đông khi anh đang trên đường về nhà thì trời đổ tuyết. Muốn tới nhà sớm, anh đi tắt qua một cánh đồng. Bỗng anh thấy một nhúm lửa, một nhúm lửa nhỏ thôi, chỉ cháy âm ỉ nhờ một vài que củi nhỏ. Quanh nhúm lửa ấy có một nhóm người vừa run lập cập vừa cố đứng sát nhúm lửa ấy để sưởi ấm. Nhưng nào có thấm tháp vào đâu. Anh dừng lại, nói vài lời ngắn ngủi với họ về giá trị của lửa, rồi vội vã đi tiếp.
Nhưng mới đi được một chút thì anh cảm thấy hối hận. Lẽ ra anh phải nán lại lâu hơn để giúp đám người ấy khơi to ngọn lửa. Nhưng mà nếu làm thế thì phải mất thêm giờ, có thể bị viêm phổi nữa. Vả lại chắc gì người ta sẽ biết ơn anh. Những suy nghĩ trái ngược nhau ấy khiến anh chần chừ. Nhưng sau cùng anh quay lại. Vừa thấy anh, mọi người đều vui mừng reo lên: "Tới đây, tới đây". Không chờ mời lần thứ hai, người thợ đốt lửa ngồi xuống và khơi ngọn lửa to lên. Thế là mọi người đều được sưởi ấm. Ai nấy đều đồng thanh "Xin cám ơn anh đã dừng lại giúp chúng tôi".
Về đến nhà, người thợ nhóm lửa lên giường ngủ ngay. Đêm đó anh mơ thấy Chúa hiện ra nói: "Ta đã chọn con làm người thợ nhóm lửa, nhưng con đã làm Ta thất vọng". Anh giật mình thức dậy và không tài nào ngủ tiếp. Anh nhớ lại thời gian đầu làm nghề nhóm lửa anh đã coi việc đem lửa sưởi ấm cho mọi người là một nhiệm vụ cao đẹp thế nào; khi đó anh đã nhiệt tình giúp đỡ mọi người thế nào. Vậy mà với năm tháng dần trôi, anh trở nên lười biếng, tính toán, sợ mất giờ, sợ người ta không biết ơn anh. Tình yêu của anh đối với lửa đã lạnh nhạt. Ơn gọi của anh đã đông cứng.
Nhưng đêm nay Chúa đã hiện ra với anh. Ngài đã gọi anh lần thứ hai. Từ đó trở đi người thợ nhóm lửa hăng say trong nhiệm vụ, không sợ mất giờ, không ngại cực khổ nữa.
Trong Tin Mừng, có hai lần Chúa gọi Phêrô. Lần thứ nhất là lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ (Mc 1,16-18). Lần thứ hai là sau khi Ngài sống lại, và được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai lần cách nhau 3 năm. Trong 3 năm ấy, nhiều sự việc đã xảy ra, Phêrô đã khám phá thêm nhiều điều về Đấng đã kêu gọi mình, về nhiệm vụ mà Ngài muốn ông làm, và nhất là về chính bản thân của ông. Khi Chúa gọi Phêrô lần thứ hai, ông đã khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Vì thế, tiếng "Vâng" thứ hai của ông chín chắn và sáng suốt hơn nhiều so với tiếng "vâng" lần thứ nhất.
Câu chuyện của Phêrô là chuyện kêu gọi – sa ngã – và kêu gọi lại. Ơn gọi không phải là một lần Chúa gọi, một lần con người đáp trả, rồi xong. Tiếng Chúa gọi phải được ta nghe nhiều lần và đáp trả nhiều lần. Mỗi ngày Chúa mở ra một đoạn đường mời ta tiến bước, ngày hôm sau Chúa mở thêm một đoạn khác nữa. Ta càng bước theo, tiếng gọi của Ngài càng rõ hơn và lời đáp trả của ta càng sâu xa hơn và xác tín hơn.
Mọi ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương: yêu thương Chúa, và yêu thương những chiên con chiên mẹ của Ngài, tức là yêu thương các anh chị em trong cộng đoàn của ta. (FM)
7. Chịu khổ vì Chúa
Bài trích sách Công vụ kể chuyện các tông đồ gặp sự chống đối của các nhà cầm quyền do thái. Nhưng khi các ông được thả ra, thì uy tín của các ông tăng thêm, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin được rằng cùng một con người ấy chỉ trước đó không bao lâu đã từng chối Chúa 3 lần. Bây giờ ông đứng giữa quãng trường mạnh dạn lớn tiếng làm chứng cho Chúa. Hơn nữa ông còn chịu khổ vì đã làm chứng như thế. Phêrô cùng các bạn đã bị nhốt vào tù, bị đánh đòn. Nhưng các ông lại hãnh diện vì đã chịu khổ vì Chúa. Bởi đâu Phêrô có lại sự can đảm như thế? Thưa bởi Chúa Thánh Thần, Đấng phù trợ các tông đồ.
Từ thời các tông đồ trở đi, vẫn luôn có nhiều kitô hữu, nhờ ơn Chúa giúp, đã vượt thắng sự sợ hãi để luôn can đảm làm chứng cho Chúa dù giữa muôn vàn khó khăn.
Rất dễ tin Chúa khi bạn quỳ gối nhắm mắt cầu nguyện trong nhà thờ. Rất dễ tin Chúa khi bạn sống an toàn xa cách những xáo trộn khó khăn. Nhưng tin Chúa như thế đó là một thứ tín ngưỡng quá nghèo nàn. Chúa mà bạn tin trong những lúc như thế đó là một Thiên Chúa bị giam hãm trong một cái khung chật hẹp.
Chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu. Ngài cần chúng ta làm chứng cho Ngài trong thế giới hôm nay. Mặc dù chúng ta không phải chịu nhiều gian truân bắt bớ như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta phải can đảm được đầu với những loại khó khăn khác, đó là đương đầu với sự xấu, đương đầu với khuynh hướng thờ ơ tôn giáo của nhiều người thời nay.
Chúng ta không thể biết trước ơn gọi làm kitô hữu sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu và sẽ đòi hỏi chúng ta những gì. Nếu chúng ta mà biết trước những nơi đó và những khó khăn đó thì có lẽ chúng ta rất sợ hãi. Về điều này thì chúng ta giống như Phêrô. Lần đầu tiên Chúa gọi ông thì ông chưa biết rốt cuộc ông sẽ chịu tử đạo. Nhưng chúng ta hãy cố gắng sống như Phêrô. Chúa dẫn ta đi đâu thì ta đi đấy. Chúa muốn ta chịu gì thì chúng ta chịu nấy. Và chúng ta tin tưởng rằng những gian truân chúng ta phải chịu vì Chúa sẽ được thưởng gấp trăm. (FM)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã chết và sống lại vinh quang, đem niềm vui cho toàn thế giới. Chúng ta hãy hân hoan ca tụng Người và dâng lời cầu xin:
1. Đức Thánh Cha (Gioan Phaolô II) kế vị thánh Phêrô / để củng cố niềm tin của Dân Chúa trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gìn giữ Người luôn được bình an / và ban choi Người được sức khỏe dồi dào.
2. Vâng lệnh Chúa Giêsu / các tông đồ đã thu được một mẻ cá lạ lùng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hoạt động rao giảng Tin mừng của các nhà truyền giáo / cũng đạt được những kết quả như lòng ước mong.
3. Không có Thầy / anh em không làm gì được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu hiểu rằng / với ơn Chúa trợ giúp / họ sẽ đạt được những kết quả bất ngờ.
4. Hãy đi theo Thầy / Chúa Giêsu mời gọi thánh Phêrô / nhưng cũng mời gọi hết thảy những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn dấn thân theo Chúa / bất chấp mọi hiểm nguy gian khổ trong đời sống thường ngày.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cũng biết noi gương thánh Phêrô mà xác nhận lòng thương mến của chúng con đối với Chúa, không phải bằng những lời nói suông mà bằng những việc làm cụ thể trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu đã giao trách nhiệm cho Phêrô chăm sóc đàn chiên của Ngài là Giáo Hội. Giờ đây, chúng ta hãy hợp ý với Đức Giáo Hoàng và các Giám mục cầu nguyện cho Nước Cha trị đến.
- Sau kinh Lạy Cha: Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin Cha ban thêm cho chúng con lòng can đảm và trung thành dù phải sống giữa những thử thách khó khăn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…
VII. GIẢI TÁN
Chúa đã tha thứ cho Phêrô và trao cho ông sứ mạng phục vụ anh chị em mình. Chúa cũng đã tha thứ tội lỗi chúng ta và khuyến khích chúng ta phục vụ anh chị em chúng ta. Anh chị em hãy ghi nhớ và thực hiện Lời Chúa. Chúc anh chị em ra về bình an.
Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh. Hãy làm cho ơn phục sinh vươn mạnh, lớn lên và PS 3-C130
Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh. Hãy làm cho ơn phục sinh vươn mạnh, lớn lên và bung ra cả trong chiều sâu nội tâm của đức tin, trong các sinh hoạt đạo đức cá nhân hay tập thể, lẫn trong đời sống thường ngày của mình. Đó là cách tốt nhất để diễn tả niềm tin phục sinh. Đó cũng là cách tốt nhất để cùng với Chúa Kitô, ta làm cho đời sống của ta, xung quanh ta tràn ngập niềm vui phục sinh. Tôi gọi đó là phục sinh đức tin.
1. NHỮNG LÝ DO CẦN ĐẾN ƠN PHỤC SINH ĐỨC TIN.
Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong nội tâm, để nội tâm lắng đọng một chiều sâu phục sinh đích thực: Biết bao nhiêu người, kể cả bạn và tôi đã mừng Chúa phục sinh, nhưng sự mừng ấy có khi chỉ là lễ hội, là sự háo hức về một đêm thánh mà trong đó phụng vụ có nhiều diễn tả lạ, khác mọi cử hành phụng vụ khác. Thiếu chiều sâu nội tâm của đức tin, vì thế, mừng ơn phục sinh vĩ đại, nhưng lòng ta, ơn phục sinh chẳng thấm, chẳng biến đổi gì. Ta chẳng phục sinh.
Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong các sinh hoạt đạo đức: Nhiều người sống nguội lạnh, bỏ cầu nguyện, bỏ các giờ kinh sớm chiều, bỏ luôn cả việc tham dự thánh lễ và lãnh nhận bí tích. Nhiều người chạy theo dục vọng, tiền tài đã sống bê tha trong tội lỗi, thậm chí nhiều năm không đến nhà thờ, bỏ luôn cả việc xưng tội, rước lễ. Nhiều anh chị em tích cực hơn, nhưng chỉ giữ đạo theo mùa: Cứ đến lễ trọng, mùa Vọng, mùa Chay, mùa Giáng Sinh, mùa Phục Sinh thì chạy đôn, chạy đáo tìm linh mục giả tội, nhưng rồi vẫn không mấy thay đổi. Nhiều người còn chịu khó giữ đạo, giữ các giờ kinh, tuy đấy đã là điều tốt, nhưng cần phải tốt hơn trong sự chăm chú cầu nguyện, suy tư và chiêm ngắm lời kinh mà mình đọc, chứ đừng chỉ giữ giờ kinh, giờ cầu nguyện, cả đến việc dự lễ mỗi ngày như một thói quen. Vì thế, họ cần phải phục sinh đức tin của chính mình.
Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong đời thường. Từ trước tới nay, ta chưa bao giờ, hoặc có nhưng rất ít, rất thiếu sót sự gắn bó với Thiên Chúa trong từng công việc, trong các bổn phận, và mọi lao nhọc… Vì thế, khi phải lao tác, vất vả, lắm lúc gặp nhiều trở ngại, nhiều thất bại và không biết bao nhiêu cay đắng khác…, ta chỉ thấy mệt mỏi, chỉ thấy đời ta đầy nặng nhọc, đầy oan khuất. Ta cần biết rằng, cuộc đời vẫn thế, bất cứ ai sống trong đời đều cũng giống như ta. Chỉ khác ở chỗ, họ đã tin tưởng vào Chúa Kitô. Họ kết hợp với thánh giá của Người trong từng ngày sống. Họ hiến dâng cho Người tất cả suy nghĩ, việc làm, niềm tin, hy vọng, sự sống, mọi hoàng cảnh, mọi tương quan… Nhờ đó, họ chấp nhận cuộc sống dễ dàng hơn. Họ đủ nghị lực mà gánh vác chính cuộc đời của họ. Ta cần phải phục sinh đức tin như họ để ta cũng được ơn bình an của Đấng Phục Sinh.
Ngược với những người phải ngày đêm vất vả là những người sống xa hoa. Nhất là trong thời hiện tại, người ta có quá nhiều phương tiện hưởng thụ, đến nỗi lao thân vào lối sống duy vật và nô lệ cho lối sống ấy. Đây là đối tượng khẩn thiết nhất cần đến ơn phục sinh đức tin. Vì chỉ có thể sống lại trong đức tin, họ mới có thể thuộc về thế giới của sự sống tự do, sự sống mới, khơi nguồn từ nguồn Phục Sinh là chính Chúa Kitô. Bởi chỉ có ai bước đi trong ơn phục sinh của Đấng Thiên Chúa làm người, người ta mới thực sự sống tự do, không nô lệ.
Với tất cả những lý do cụ thể bên trên, ta thấy phục sinh đức tin là việc làm khẩn cấp. Vậy để phục sinh đức tin, ta cần phải làm gì? Tôi muốn đưa ra vài suy nghĩ của riêng cá nhân tôi, chỉ xin là những gợi ý khả dĩ giúp ta bước vào hành trình phục sinh chính đức tin của mình.
2. GẮN BÓ CÁ VỊ VỚI CHÚA KITÔ.
Chấp nhận tin không có nghĩa chỉ đơn thuần là chấp nhận một giáo lý, giáo điều, một mớ luật lệ, hay những nghi thức nào đó là đủ. Ngay cả khi ta chấp nhận Hội Thánh và đi theo đường lối của Hội Thánh, thì đó cũng chưa phải là điểm mấu chốt của đức tin. Tin trước hết là hiệp thông với Chúa Kitô, là gắn bó cá nhân cách mật thiết với Chúa Kitô. Bởi vậy, những gì chúng ta đã từng sống, đã từng hành động cho cái gọi là con người của tôn giáo Kitô giáo, nhưng chưa có chiều sâu bằng một cảm nghiệm nội tâm về tình yêu Chúa Kitô, mà chỉ là giữ và buộc mình phải chấp nhận luật lệ, chấp nhận giáo lý, thì giờ đây, ta hãy chỉnh đốn lại, hãy làm cho tất cả những gì ta phải giữ từ trước tới nay nằm trong tương quan tình yêu Chúa Kitô. Tôi tạm gọi việc chỉnh đốn lại cách sống, cách thực hành đức tin là phục sinh đức tin.
Như vậy phục sinh đức tin có nghĩa là hãy nhìn vào Chúa Kitô trước đã. Từ nay tôi giữ đạo, tôi chấp nhận lề luật, tôi thực hiệc các hành vi đạo đức, tôi sống tốt trong tương quan với mọi người… không chỉ vì luật của Chúa, của Hội Thánh dạy như thế, mà vì tình yêu của Chúa Kitô dành cho tôi, và của tôi đáp trả tình yêu ấy. Vì tình yêu của Chúa Kitô và vì yêu mến Người, tôi thực hiện nghĩa vụ tôn thờ Thiên Chúa, tôi sống lẽ sống mà đạo dạy tôi, tôi quan tâm đến nguời xung quanh… Vì Chúa Kitô, tôi chấp nhận lề luật của Thiên chúa, và chấp nhận đường lối Hội Thánh hằng chỉ dạy tôi.
Chỉ khi nào sống trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, việc giữ đạo của ta mới nhẹ nhàng. Cũng giống hai người đàn ông cùng cuốc một thửa đất, nhưng một người là tù binh bị ép buộc phải lao động, còn người kia là người cha trong gia đình. Người cha trong gia đình vì thương vợ, thương con, ông miệt mài làm việc, dù mệt nhọc nhưng ông cảm thấy vui, cảm thấy lòng thanh thản và an ủi vì nhờ bàn tay lao động của ông, gia đình ông có thể sinh sống. Ông luôn sống trong hy vọng về một kết quả tốt sẽ đến cho tương lai của gia đình ông. Càng hy vọng, ông càng vui. Người đàng ông là tù binh chắc chắn sẽ không bao giờ có được cảm nghiệm về niềm vui mà người cha trong gia đình có được. Bởi việc ông làm không phải là tình yêu, không phát xuất từ động cơ của lòng yêu thương mà chỉ là ép buộc, chỉ là hình phạt, là đền tội, hoàn toàn không có tự do trong lao động của ông. Cách nào đó, giữ đạo cũng gần giống như chuyện hai người đàn ông cuốc đất. Nếu tôi yêu mến Chúa, việc thực hành đạo của tôi là niềm hạnh phúc, là nhu cầu cần đáp ứng của tình yêu, do tình yêu, phát xuất từ tình yêu đối với Thiên Chúa của tôi. Nếu không có lòng yêu mến Chúa, đức tin chỉ là một gánh nặng vô cùng.
Ta cần phục sinh đức tin của mình, để đức tin của ta có một tương quan cá vị với tình yêu của Chúa. Chỉ có đức tin trong tương quan tình yêu, việc giữ đạo của ta mới là việc làm tự do, mang lại hạnh phúc, thấm đẫm và ngày càng đi vào chiều sâu nội tâm.
Nếu ta phục sinh đức tin của mình trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, cuộc đời ta sẽ được nâng đỡ, được ủi an. Có đức tin trong tương quan cá vị với Chúa Kitô, ta sẽ cảm nhận một điều lớn lao: gánh nặng của sự sống mà ta phải mang gánh trong đời có Chúa cùng sớt chia với ta…
3. THOÁT LY NHỮNG NHU CẦU GIẢ TẠO.
Một trong những nguy cơ giết chết đức tin của người tín hữu chính là lòng ham mê ngẫu tượng của thời đại.
Họ trang bị cho mình mọi thứ vật chất, mọi tiện nghi, mọi phương thế thụ hưởng, và coi đó là những thứ cần thiết như đích điểm của đời người, đến nỗi cuốn mình chạy theo nó, quay quắt với nó như cơn bão xoáy không chừa lại một chỗ nào cho sự sống tinh thần có thể ngoi ngóp. Đúng hơn, đấy chính là trận bão của những nhu cầu giả tạo, nhu cầu trước mắt, cuốn phăng lòng người theo nó. Bởi vậy mà không ít người đau khổ khi mình thua anh kém chị dù chỉ một chiếc áo, một đôi dép. Họ tôn thờ vật chất đến độ như chỉ có nó mới là vẻ đẹp của đời mình vậy. Chính vì thế, ngày càng có nhiều người tôn thờ chủ nghĩa thời thượng, chủ nghĩa “mode”. Sự tôn thờ này đã biến họ thành nô lệ cho vật chất. Họ phải liên tục đổi di động, đổi xe gắn máy, đổi đồng hồ, đổi những thứ trang xức khác…, làm sao cho những gì họ có phải mới liên tục, phải “mode” liên tục. Họ tôn thờ vật chất một cách đam mê và cuồng tín. Tôi gọi đó chính là sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại.
Điều mỉa mai đau đớn là, dù ngụp lặn trong thế giới vật chất, vượt trên cả sự tìm tòi vật chất: con ngưới trầm mình với vật chất như thể nên một với nó, thì lại có một thực tế khác, dù âm thầm, vẫn không kém mạnh mẽ lên án thái độ nô lệ ngẫu tượng thời đại của con người. Thực tế đó chính là tiếng nói của lương tâm, là đời sống tinh thần, là thế giới thiêng liêng của tâm hồn. Cố tình vượt qua giới hạn của tiếng nói nội tâm mình như thế, con người trở nên chao đảo, bấp bênh, thiếu bình an, và đói khát chân lý. Tình trạng này làm cho con người sống hết sức ngột ngạt.
Bởi con người đâu chỉ là vật chất, nhưng trước hết là tinh thần. Đời sống tinh thần mới là sức mạnh làm nên giá trị của đời người. Vì thiếu niềm tin, vì lạc mất tinh thần, sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại cũng sẽ đẩy chủ nghĩa cá nhân lên ngôi. Bởi càng tiện nghi bao nhiêu, con người càng dễ sống một mình bấy nhiêu.
Nhưng các tiện nghi vật chất không bao giờ là đối tượng chia sẻ sự sống, suy nghĩ, tình cảm…, điều mà từ rất xa xưa, Ađam đã cảm nghiệm, vì ông không thể “tìm được một trợ tá tương xứng” (St 2, 20). Không thể chấp nhận một xã hội chỉ là cá nhân, Ađam thao thức tìm kiếm sự chia sớt tương xứng, và Chúa đã ban cho ông như lòng ông mong đợi. Nhưng oái oăm và nghịch lý quá đỗi! Trong khi Tổ Tông của mình cố thoát ra khỏi chủ nghĩa cá nhân, thì loài người hôm nay, dẫu quá kinh nghiệm về sự tai hại của chủ nghĩa này, lại cứ tìm về, cứ cố tình đuổi theo nó bằng mọi thứ tiện nghi, mọi thứ trang bị cho chính cá nhân, biến cá nhân thành trọng tâm cho sự quan tâm của chính mình. Thật vô phúc cho ai sống gần những cá nhân chỉ tôn thờ chính mình như thế!
Rồi từ chỗ chỉ biết sống cho riêng cá nhân mình, sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại, càng biến con người thành động vật sống ích kỷ không thể tả. Nhưng như một hệ luận tất yếu: càng sống ích kỷ, con người càng cô độc. Nếu tiếng nói của nội tâm bị coi thường, cuộc sống của con người vốn đã ngột ngạt, sự cô độc sẽ làm cho con người ngày càng chơi vơi hụt hẩng, ngày càng cay đắng với chính mình, với thế giới quanh mình gấp nhiều lần hơn.
Không còn chỗ bám cho đức tin, con người tự giết chết mình, giết chết cả những tương quan quanh mình cách thảm hại. Bởi dù họ sống, nhưng lối sống ích kỷ ấy chỉ là lối sống thiếu sức sống. Nói nặng hơn, cá nhân mình, một khi chỉ là đối tượng chăm sóc của bản thân, cá nhân ấy trở thành cá nhân què quặt, dị tật.
Như vậy, trong sự phục sinh đức tin của mình, cùng với việc sống cá vị và liên kết mật thiết với Chúa Kitô, người tín hữu hãy ra khỏi chính mình để sống đức tin với anh chị em. Họ cần để cho lòng mình thanh thoát, khỏi những vướng bận của trần gian, của những tiện nghi vật chất.
Người tín hữu cần học biết điều này: Đức tin là đức tin cá nhân của bản thân gắn bó với Thiên Chúa. Càng chìm sâu bao nhiêu trong sự gắn bó với Chúa, sẽ càng đầy tràn lòng yêu mến, và chắc chắn đức tin càng sáng chói bấy nhiêu. Nó đòi hỏi ý thức và sự dấn thân thực sự của cá nhân trong tương quan với Chúa Kitô, với Thiên Chúa. Nhưng đức tin chỉ có thể được nuôi dưỡng trong đời sống cộng đoàn. Bởi Thiên Chúa, nền tảng của đức tin chúng ta là một Thiên Chúa “không phải trong một ngôi đơn độc, nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể” (kinh Tiền Tụng lễ Chúa Ba Ngôi). Người không cứu chuộc từng người đơn độc, nhưng trao ban tình thương cho tất cả mọi người.
Cũng vậy, Chúa Kitô không phải là “Đấng ở cùng một người”. Nhưng Người là Đấng “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chúa Kitô không nhập thể và chết cho bất cứ cá nhân nào, nhưng cho cả thế giới qua lớp lớp thế hệ. Chính vì thế, hôm nay Chúa Kitô đã phục sinh, chúng ta cũng hãy làm phục sinh đức tin của mình trong tương quan với cộng đoàn Hội Thánh, với mọi người xung quanh. Chính trong cộng đoàn mà ta liên kết, gương tốt của người này sẽ ảnh hưởng trên người kia; gương xấu của người này sẽ là bài học lớn cho kinh nghiệm sống của người kia, để có thể lách mình khỏi những sai sót mà anh em vấp phải.
Ngoài ra, đức tin còn phải được gìn giữ, phát triển nhờ sự đào tạo liên tục trong suốt đời người bằng mọi nỗ lực cá nhân như: Tìm về một lối sống đơn sơ, giản dị chứ không tìm một lối sống dễ dãi; không nhắm tiện nghi và hưởng thụ, nhất là không nhắm vào nó đến nỗi quay quắt với vật chất như chỉ có nó là sự bảo đảm cho đời mình; hãy biết hy sinh, hãy chấp nhận giới hạn trong tất cả những đòi hỏi vật chất. Hãy là người biết khôn ngoan nói không với những nhu cầu giả tạo. Hãy bền chí theo đuổi cái đẹp của tinh thần, của tình yêu, của sự thầm lặng, của ơn gọi sống nghèo khó, chứ không khoác lên mình những hào quang chỉ được xây dựng từ trần thế cho riêng cá nhân mình.
4. CUỘC PHỤC SINH CỦA CHÚA KITÔ ĐỐI VỚI CHÚNG TA.
Cùng Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta bước vào hành trình phục sinh đức tin của chính mình. Trong hành trình này, Chúa Kitô chính là điểm dừng quang trọng nhất mà đức tin của ta phải tiến đến. Và sự phục sinh của Người là lời mời gọi mạnh mẽ nhất cho hành trình phục sinh đức tin của chính ta.
Phục sinh nào cũng đòi hỏi hy sinh lớn lao, rát buốt. Chính Chúa đã rơi vào những tình huống như thế. Để tiến vào sự phục sinh vĩnh cửu của Người, Người đã từng đối mặt với những đau đớn cả tâm hồn lẫn thể xác. Người đã phải rơi vào nỗi cô đơn, bế tắc, vùi giập. Cái chết của Chúa tưởng đã là tiếng nói sau cùng, là thất bại thảm khốc. Nhưng Chúa đã vượt qua. Người đã đứng lên. Người sống lại. Người chiến thắng.
Sự phục sinh của Chúa vừa là mẫu gương cho sự phục sinh đức tin của ta, vừa là nguồn mạch ban ơn phục sinh cho ta.
Vì thế, như Chúa Kitô, ta vượt qua chính con người nhiều đam mê của bản thân, vượt qua mọi rào cản khách quan lẫn chủ quan để được phục sinh đức tin từng ngày trong nội tâm, trong mọi sinh hoạt đạo đức, lẫn trong đời thường của ta.
Cùng với những nỗ lực nhìn về Chúa Kitô để phục sinh đức tin, ta vững một niềm xác tín rằng, Chúa Kitô ban ơn phục sinh từng ngày cho ta. Bởi giữa mọi lý do gây ra tình trạng chết của đức tin do thiếu chiều sâu nội tâm, do thiếu ý thức trong việc sống đạo, thiếu ý thức về ý nghĩa đạo đức của đời thường, thậm chí do cám dỗ chạy theo lối sống xa hoa, hưởng thụ và thực nghiệm…, ta vẫn trung thành mong đợi ơn phục sinh, và tin tưởng vào sự phục sinh bừng lên nơi cuộc đời mỗi người, thì chính lòng mong đợi và sự tin tưởng ấy, đã cho thấy nguồn ơn phục sinh của Chúa đang thấm vào đời ta.
Mặt khác, dù cho còn đó bao nhiêu lý do cám dỗ ta đi xa đức tin, thậm chí tiêu diệt đức tin, và dù cho lòng ta nhiều khi còn hời hợt, còn thiếu chiều sâu nội tâm, thiếu ý thức, ta vẫn mong ước được phục sinh đức tin của mình. Niềm mong ước này không thể có được, nếu không có ơn phục sinh của Chúa khơi nguồn và ban ơn.
Từ nay, bước theo Chúa Kitô, ta ngước nhìn Người để nếu Người đã phục sinh, ta cùng phục sinh đức tin của mình trong từng hoạt động, từng ngày sống của ta. Ta cũng sẽ gắn bó đời mình với Chúa, can đảm thoát ly mọi nhu cầu giả tạo, để được chìm đắm trong nguồn ơn phục sinh của Chúa. Có như thế, trong cuộc phục sinh của Chúa Kitô, có những cuộc phục sinh trong đức tin của mỗi người. Và cuộc phục sinh của mỗi người trong tương quan với ơn phục sinh của Chúa Kitô, có sự phục sinh của nhiều người, của cả Hội Thánh..….
Cuộc sống luôn cho chúng ta những cơ hội để làm việc, để thăng tiến. Có những khi thất bại PS 3-C131
Cuộc sống luôn cho chúng ta những cơ hội để làm việc, để thăng tiến. Có những khi thất bại hay yếu đuối, cuộc sống lại cho chúng ta những cơ hội để sửa đổi, để chuộc lỗi. Cơ hội để làm lại, để chuộc lỗi luôn cần thiết nơi chúng ta. Ai nên khôn mà không từng thất bại. Ai bước đi mà không từng vấp té. Thế nên, cần lắm những cơ hội để đứng dậy sau những lần vấp ngã.
Có những vấp ngã thể xác. Có những vấp ngã tâm hồn. Vấp ngã nào cũng cần đứng dậy. Vấp ngã nào cũng cần một bàn tay ai đó trợ giúp. Vấp ngã nào cũng cần cơ hội để đứng dậy chuộc lại lỗi lầm.
Ông Mahatma Gandhi đã kể rằng: “Hồi tôi 15 tuổi, tôi mắc một tật rất xấu, là tội ăn trộm. Khi đó tôi mắc nợ người bạn một số tiền khá lớn, thế rồi tôi đã về lấy của cha tôi một vòng đeo tay bằng vàng để bán lấy số tiền trả nợ.
Nhưng sau đó, tôi luôn luôn bị lương tâm cắn rứt, khiến tôi luôn mất bình an. Tôi nhất quyết phải đến thú tội với ba tôi càng sớm càng tốt. Nhưng khi đến trước người, vì xấu hổ và sợ hãi nên tôi không thể thốt ra lời. Sau đó tôi liền nghĩ ra một cách thú tội bằng giấy mực. Tôi đã cầm tờ giấy đó đến trước mặt cha tôi, toàn thân tôi run rẩy và trao tờ giấy đó cho cha tôi. Ông đã đọc tờ thú lỗi của tôi, sau đó ông nhắm mắt lại trong giây lát và đã xé tờ giấy thành nhiều mảnh, rồi nói với tôi: ”Biết mình là điều rất tốt”, và đến ôm chầm lấy tôi trong vòng tay tràn đầy yêu thương, tha thứ của người. Từ giây phút đó tôi hiểu và thương mến cha tôi hơn”.
Chúa Giêsu cũng cho Phêrô cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Khi Chúa thử thách lòng tin của Phêrô. Chúa bảo Phêrô hãy ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Phêrô đã mệt sau một đêm vất vả chẳng được gì! Thế mà, ông vẫn tin, vẫn thả lưới. Lưới đã đầy. Lòng tin của ông cũng đầy tràn sau mẻ cá kỳ diệu.
Lòng tin ấy đã giúp Phêrô mạnh dạn 3 lần cam kết với Chúa rằng “con sẽ yêu mến Thầy hơn những người này”. Lời cam kết này sẽ đi trọn cuộc đời của thánh nhân. Ngài đã trung thành đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ niềm tin của mình vào Thầy chí Thánh Giêsu là Thiên Chúa Đấng cứu độ trần gian.
Cuộc đời thánh Phêrô tưởng chừng đã kết thúc sau 3 lần chối Chúa. Thế nhưng, Chúa đã phục sinh. Cuộc đời ông cũng phục sinh nhờ lòng thương xót của Chúa. Chúa đã tìm đến với ông. Chúa không oán trách. Chúa còn cho ông cơ hội minh chứng cho tình yêu của mình. Lòng thương xót của Chúa đã cải lão hoàn sinh cho con người cũ của Phêrô. Con người của hèn nhát, của chối Chúa, bỏ Thầy thành con người mới can trường, mạnh mẽ ra đi loan báo tin mừng Chúa đã phục sinh.
Cuộc đời cần lắm những lần tha thứ cho nhau. Cuộc đời càng cần hơn khi ta bỏ qua tính tự ái để cho anh em cơ hội chuộc lỗi lầm. Vợ chồng hãy tha cho nhau không chỉ một lần mà cần nhiều lần để giúp nhau cơ hội sửa đổi sai lầm. Cha mẹ hãy tin tưởng con cái hơn khi cho chúng cơ hội đứng dậy sau những lần vấp ngã. Bạn bè vẫn cần cơ hội để thể hiện lòng chân thành dành cho nhau.
Ước gì chúng ta biết học nơi Chúa lòng bao dung và tính nhẫn nại để luôn cho nhau cơ hội chuộc lỗi lầm. Xin cho chúng ta luôn ý thức là người luôn có yếu đuối, luôn lớn lên trong tình thương tha thứ của mọi người thì cũng cảm thông tha thứ cho nhau. Amen.
Có một lời tâm sự viết như sau: “Hôm qua, bị ngã rất đau, muốn khóc lắm, nhưng không dám khóc PS 3-C132
Có một lời tâm sự viết như sau: “Hôm qua, bị ngã rất đau, muốn khóc lắm, nhưng không dám khóc. Và cũng không thể khóc, vì cảm giác đau đã trôi qua nhanh, nhường chỗ cho cảm giác xấu hổ.
Tất cả mọi người nhìn vào, hình như đâu đó có tiếng ai đó chê bai: “Lớn thế rồi mà đi đứng còn ngã”. Đâu đó còn có cái nhếch môi cười, và đâu đó còn có cả cái xuýt xoa...
Tự dưng ước mình chỉ là một đứa trẻ, là trẻ con thì được ngã, ngã thoải mái, khóc thoải mái. Tiếc là đã lớn, lớn không được ngã. Ngã người cười chê…”
Ngã là chuyện thường tình. Nhưng xem ra nguời ta chỉ chấp nhận cho trẻ con được ngã, còn người lớn thì hình như không được phép ngã. Dẫu biết rằng: “Ai nên khôn mà không dại một lần”; và: “Một lần ngã là một lần bớt dại – Cho thêm khôn chút nữa trong đời”. Nhưng xem ra người ta dễ xem thường nhau mỗi khi ai đó vấp ngã trong đời.
Đôi khi chúng ta vẫn chê trách, đàm tiếu với nhau về những lầm lỗi, khiếm khuyết của người này, người nọ. Đôi khi chúng ta ít cảm thông với những yếu đuối, thiếu sót của tha nhân. Dẫu biết rằng không ai hoàn hảo. Nhưng chúng ta vẫn thích bỉu môi, xuýt xoa về những lầm lỗi của tha nhân.
Người lớn không nên ngã. Ngã bị người đời cười chê, bị người đời xem thường. Ngã là biểu hiện sự vô ý tứ hay bồng bột. Ngã là dấu chỉ của sự chưa cứng rắn hay trưởng thành. Thế là, người ta thường kết án nặng lời với những cái ngã của anh em. Người ta ít cảm thông cho cái ngã của tha nhân. Người ta thường xem thường những ai lớn rồi mà còn ngã. Xem ra, người bị ngã đã đau còn đau hơn bởi sự thiếu cảm thông của anh em mình. Họ bị cô đơn trong nỗi quặn đau không nói thành lời, vì chẳng ai hiểu mình, chẳng ai cảm thông với mình.
Có người còn nói rằng: đau nhất là ngã hai lần cùng một lỗi. Ngã một lần, lần sau lại ngã. Có dại mới ngã, có ngã mới bớt dại, mỗi lần ngã thêm một lần bớt dại, mỗi lần ngã là một lần đau đớn. Nhưng có cái dại nào giống cái dại nào đâu! Thế nên, làm người thường vấp ngã về thể xác và tinh thần không chỉ một lần mà có khi rất nhiều lần. Không chỉ khi còn trẻ mà có khi vào tuổi gần đất xa trời vẫn vấp ngã vì dại! Nhưng nếu mỗi lần vấp ngã mà có ai đó cầm tay, nâng đỡ thì có lẽ cái đau sẽ bớt đi và tinh thần đứng lên làm lại sẽ mạnh mẽ hơn.
Phêrô đã từng vấp ngã. Tuy đối tượng khác nhau nhưng hoàn cảnh vẫn không thay đổi. Thế mà ông ngã đến ba lần. Ông vấp ngã không ai nâng đỡ ông. Không ai kéo ông đứng lên. Vì ông phạm tội chẳng ai biết. Ông té chẳng ai hay. Thế nhưng, có một người biết hết mọi sự. Có một người vẫn nhìn theo ông. Đó là Thầy Giêsu. Ngài không nói. Nhưng ánh mắt như một lời nhắc nhở, động viên Phêrô hối cải và làm lại cuộc đời. Ánh mặt biểu lộ tấm lòng. Ánh mắt bày tỏ tấm lòng nhân ái mà Chúa dành cho Phêrô. Ánh mắt ấy không xét tội của Phêrô. Ánh mắt ấy chỉ nhắc nhở Phêrô đã ngã đến ba lần mà là cái ngã mà Thầy đã cảnh báo trước nhưng ông vẫn xem thường.
Xem ra Chúa cũng nhìn Phêrô như một học trò cần được yêu thương vỗ về hơn luận phạt. Phêrô ngã Chúa nâng đỡ. Phêrô sai đường Chúa uốn nắn. Chúa không nói với Phêrô: “lớn thế còn ngã”. Chúa cũng không xem thường Phêrô, nhưng Chúa chỉ mời gọi Phêrô: “Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin”.
Hôm nay, sau khi Chúa sống lại, Ngài đã không tìm Phêrô để luận tội. Ngài chỉ đòi Phêrô nói lên tình yêu của mình với Thầy Chí Thánh Giêsu. Chúa đã hỏi Phêrô đến ba lần: “con có yêu mến Thầy không”. Ba lần công khai nói lên tình yêu để xoa dịu nỗi đau dằn vặt lương tâm sau ba lần ông vấp ngã đến chối Chúa ba lần.
Phêrô hiểu tình yêu của Thầy. Phêrô hiểu Thầy luôn yêu Phêrô. Và Thầy cũng hiểu tấm lòng chân thành của Phêrô. Phêrô có té nhưng không chủ ý. Phêrô té vì yếu đuối. Phêrô té vì nhu nhược. Nhưng Phêrô không té vì phản bội. Phêrô vẫn yêu Thầy và gắn bó với Thầy. Thế nên, khi được hỏi: “con có yêu mến Thầy không?”. Phêrô đã mạnh dạn thưa: “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”
Cuộc đời hôm nay, có lẽ có nhiều lần chúng ta cũng từng vấp té, nhưng chẳng ai cảm thông, nâng đỡ. Đôi khi còn bàn tán, xem thường. Mỗi lần vấp té đã đau lại càng đau hơn khi không nhận được sự cảm thông nâng đỡ từ anh em. Một mình ta quặn đau. Một mình ta phải đương đầu với khó khăn. Một mình phải gượng đứng dậy. Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, chán trường muốn buông xuôi mặc cho dòng đời đưa đẩy. Nhưng không Chúa biết mọi sự. Chúa vẫn nhìn chúng ta như Ngài đã từng trìu mến nhìn Phêrô. Chúa đã từng hứa: “cho dù người mẹ có bỏ con, Ta vẫn không bỏ các ngươi”. Chúa vẫn ân cần vực dậy khi chúng ta váp té trên đường.
Xin Chúa cho chúng ta luôn nhận ra Chúa luôn yêu thương để không bao giờ thất vọng về bản thân mình, nhưng luôn đứng dạy làm lại cuộc đời sau những lần vấp ngã. Xin cho chúng ta cũng biết học nơi Chúa để luôn nâng đỡ nhau, và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Amen.
Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Có thể chia đời ngài ra làm hai. Cuộc đời phần một, từ khi PS 3-C133
Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Có thể chia đời ngài ra làm hai. Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy. Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Rôma. Cuộc đời phần một: Phêrô đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14, 66-72). Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mãnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất. Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin (Mt 14, 31) Lần thứ hai: Ngu tối (Mt 15, 16) Lần thứ ba: Satan (Mc 8, 33) Chúa chỉ khen có một lần khi Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa “Này anh Simon, con ông Gioana, anh có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy” (Mt 16,16-17).
Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy 3 lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn. Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông đã oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mảnh, giữa trọn vẹn và dang dỡ, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn luôn có một tâm hồn chân thành.
Phần hai cuộc đời Thánh Phêrô: là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca bắt đầu từ trang Tin mừng Chúa nhật hôm nay. Câu chuyện kể về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria. Chúa Phục Sinh đã đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời. Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây. Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ và ban tặng mẻ cá lạ lùng.
Sau mẻ cá, Đấng Phục sinh đã hỏi Ông: Phêrô, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa hỏi ba lần. Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu. Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ. Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy. Rồi Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết, lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh đã phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào. Thế rồi Chúa bảo ông: hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được”. Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.
Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong Giáo hội tinh thần:"Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát." (1Pr 5,2-4).
Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng, mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng. Cũng như tất cả là ân sủng đối với Thánh Phaolô. Khi được tha thứ và yêu thương, ngài đã hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô, sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô.
Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi. Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11,23-27). Phaolô viết từ ngục thất cho Timôthê "anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì “tôi biết tôi đã tin vào ai... (2Tim 1,8-12). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt "chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi;bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cr 4,8-9) Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr 5, 14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài "tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi" (Gal 2, 20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng thánh nhân đã sống và chết cho sứ mạng. Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô, mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?. .. Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8, 35-39). Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô hay Thánh Phaolô đều là tình yêu cứu độ.
Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ông được Chúa yêu thương, được Chúa chọn lựa một cách đặc biệt. Tại sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài lãnh đạo, có tài hoạch định? Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô về tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa. Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không”, sau ba lần Phêrô xác định lòng yêu mến, Chúa trao Giáo hội cho ngài.
Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.
Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau ? Thích chở nhau đi chơi ? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau ? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại dột! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngốc nghếch! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ khạo ! Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác. Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm hạnh phúc, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc. Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực. Yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân. Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.
Chúa hỏi Phêrô: con có yêu mến Thầy không? Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: con có yêu mến Thầy không?
Các môn đệ của Chúa sau khi Thầy Giêsu bị bắt, bị kết án tử, chịu đóng đinh vào Thập giá, người PS 3-C134
Các môn đệ của Chúa sau khi Thầy Giêsu bị bắt, bị kết án tử, chịu đóng đinh vào Thập giá, người ta táng xác Người trong mồ, nhưng Người đã phục si nh khải hoàn ra khỏi mồ…Các môn lúc đó như rắn mất đầu, tâm trí bị lu mờ, đức tin hoảng loạn, họ không còn nhớ lời Thầy đã loan báo tới ba lần trước khi Người nộp mình theo ý Chúa Cha rằng:” Người sẽ chiến thắng tử thần và sống lại vinh quang “…Do đó, khi Thầy bị giết, rồi Thầy được an táng trong huyệt đá mới, các môn đệ đã tán loạn trở về làng để làm nghề cũ của mình.
Các môn đệ là những người đã sống với nhau thời gian Chúa Giêsu mời gọi họ…Họ đã được Thầy Giêsu đào tạo, huấn luyện…Các môn đệ đã được sống bên cạnh Chúa, học hỏi và chứng kiến nhiều phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Chết chết, tất cả đều sụp đổ vì các môn đệ đâu đã hiểu được ý của Thầy Giêsu. Phêrô dù bộc trực cản đường cứu thế của Thầy, rồi chối Thầy ba lần, nhưng các môn đệ vẫn nể nang, kính trọng Ông vì Ông là thủ lãnh các môn đệ. Hôm nay, Ông không ra lệnh cho các bạn bè của Ông ra khơi đánh cá, nhưng Ông gợi ý:” Tôi đi đánh cá đây “. Các bạn khác vì mến Phêrô, nên họ xin Phêrô cho họ đi đánh cá với Ông. Thật thân tình! Thật hạnh phúc ! khi các môn đệ những giờ phút này đang ở bên nhau. Biển Hồ là nơi lý tưởng để các Ông đánh bắt cá ! Gioan, vị tông đồ được Chúa Giêsu thương mến đã nhận ra Chúa Phục Sinh đang đứng trên bờ. Tuy nhiên, Gioan vẫn điềm nhiên ngồi yên trong thuyền. Phêrô nghe Gioan hô Chúa đó ! Ông hồ hởi, phấn khởi, nồng nhiệt, vội khoác áo vào vì Ông đang ở trời và nhảy xuống biển để đi tới gặp Chúa Giêsu sống lại. Chúa Phục Sinh đang đứng trên bờ nhìn xem đám môn đệ thân yêu của mình đã mất ngủ, mệt mỏi và vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào. Phêrô và Gioan, hình ảnh của hai con người tâm tính khác nhau, nhưng tất cả đều phát xuất vì lòng mến, vì tình thương.Đây cũng là đặc tính của Giáo Hội. Hội Thánh của Chúa Kitô tuy nhiều thành phần nhưng tất cả đêu hiệp nhất, tôn trọng sự khác biệt của nhau.
Tin vào lời của Chúa phục sinh, các môn đệ đã thả lưới theo lệnh Chúa truyền, mặc dù cả đêm vất vả không được một con cá nào. Mẻ cá ngoài sức tưởng tượng đã nói lên quyền năng của Chúa sống lại. Người đã củng cố đức tin của các môn đệ, làm cho tâm trí của các Ông trở nên mới. rồi Người sai các Ông đi vào thế giới để lưới người ta bởi vì “ Không có Thầy các con không thể làm được gì cả “ ( Ga 15,5 ). Hội Thánh ngày hôm nay vẫn tiếp tục làm công việc của Chúa trao phó, nhờ Chúa hiện diện việc truyền giáo luôn mang lại kết quả tốt đẹp.
Chúa sống lại vẫn luôn hiện diện với Hội Thánh qua Bí tích Thánh Thể. Chúa nuôi dưỡng con cái của Ngài bằng chính thịt máu của Ngài. Bao lâu còn các Linh mục bấy lâu còn Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là Bí tích nuôi sống dân Chúa. Giáo Hội luôn tồn tại nhờ sự có mặt của Chúa phục sinh và sự tác động hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Simon Phêrô trở nên vị lãnh đạo của Hội Thánh khi Ông tuyên tín ba lần “ yêu mến Chúa “. Chúa cất nhắc Phêrô làm đầu Hội Thánh và bắt đầu từ Phêrô các Đức Giáo Hoàng là những Đấng kế vị thánh Phêrô lãnh đạo Giáo Hội của Chúa. Phêrô thật sự theo Chúa, theo chính con đường của Chúa khi Chúa nói:” Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý.Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh không muốn “ ( Ga 21,18-19 ). Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra Chúa đang hiện diện giữa chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao Chúa sống lại,lại tỏ mình cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria ? 2.Tại sao Gioan lại nhận ra Chúa phục sinh liền ? 3.Thái độ của Simon Phêrô khi nghe Gioan nói:” Chúa đó “ ? 4.Tại sao Chúa phục sinh lại hỏi 03 lần về lòng yêu mến của Phêrô đối với Ngài ? 5.Chúa nói với Phêrô thế nào về sứ mạng của Phêrô ?
Nhờ mắt thấy tai nghe và những lần Chúa hiện ra sau khi Người sống lại, các môn đệ Chúa đã PS 3-C135
Nhờ mắt thấy tai nghe và những lần Chúa hiện ra sau khi Người sống lại, các môn đệ Chúa đã vững niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Giờ đây là lúc họ lên đường với sứ mệnh làm chứng nhân cho Người. Bài đọc trích sách Công vụ kể lại các tông đồ bắt đầu “nếm mùi” bách hại vì sứ mệnh. Bài đọc 2 vẫn tiếp tục chia sẻ với chúng ta cảm nghiệm của tông đồ Gio-an gặp gỡ Chúa Phục Sinh qua thị kiến thiêng liêng và cầu nguyện. Đặc biệt bài Tin Mừng kể thêm lần thứ ba Chúa hiện ra với các môn đệ tại Ga-li-lê như Người đã hứa. Tuy nhiên lần hiện ra này, qua mẻ lưới đầy cá, Chúa Giê-su đã dẫn các môn đệ tới mẻ lưới thiêng liêng bắt các linh hồn và trao cho họ sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Đáng kể nhất là việc Chúa Giê-su ban cho Phê-rô nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội trần gian để ông tiếp tục con đường theo Chúa.
Trước hết cùng với các môn đệ Chúa Giê-su, chúng ta hãy trở lại Ga-li-lê để gặp Chúa. Thành Ca-phác-na-um thuộc Ga-li-lê là nơi vô cùng ý nghĩa đối với Chúa Giê-su và các môn đệ. Nơi đây thầy trò đã có duyên gặp gỡ nhau. Sau mẻ lưới lạ đầu tiên, Chúa Giê-su đã gọi anh em ông Phê-rô và hai anh em khác làm môn đệ đầu tiên của Người. Nơi này cũng là trung tâm truyền giáo phát xuất những cuộc đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi, qua Sa-ma-ri xuống tận Giu-đê. Ba năm sau, sau khi Chúa phục sinh, mẻ lưới cá thứ hai đã giúp các môn đệ nhớ lại tiếng gọi truyền giáo ban đầu “từ nay anh em sẽ là những kẻ lưới người như lưới cá”, đồng thời mở ra một chân trời mới để các ông thực sự gánh vác công việc mở mang Nước Thiên Chúa. Theo khoa học cổ đại Hy-lạp, người ta tin có tất cả một trăm năm mươi ba loại cá khác nhau. Một trăm năm mươi ba con cá lớn bắt được trong phép lạ này là con số tượng trưng cho toàn thể nhân loại. Cũng tựa như lời Chúa Giê-su truyền trước khi Người lên trời: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15). Chúa Giê-su về trời, nhưng Người không mang theo uy quyền của Người, mà Người trao lại cho ông Phê-rô và những người kế vị để “chăn dắt chiên của Thầy”. Trong tâm tình chia sẻ khổ đau, Chúa Giê-su còn báo trước những bách hại sẽ đến với Phê-rô và các bạn khi họ lên đường truyền giáo. “Anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Cái chết làm chứng cho đức tin đang chờ đợi Phê-rô và các bạn đấy!
Lời tiên báo đó đã ứng nghiệm mau chóng. Bài trích sách Công vụ Tông Đồ thuật lại việc các tông đồ bị các nhà lãnh đạo tôn giáo bách hại như thế nào. Các ông hăng hái rao giảng về Chúa Giê-su Na-da-rét. Rồi thượng tế và đám lâu la Xa-đốc “ra tay hành động”, bắt các tông đồ tống vào ngục. Được thiên thần cứu ra, các ông chẳng chút sợ hãi, lại tiếp tục rao giảng nữa. Biết là chưa thể hành động quyết liệt hơn, họ tạm tha cho các ông, nhưng nghiêm ngặt răn đe các ông không được tiếp tục rao giảng nữa. Chẳng đe dọa nào ngăn cản được các ông, vì các ông lý luận chắc như đinh đóng cột rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”! Đe dọa không làm các ông sợ hãi, trái lại, các ông còn “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su” nữa. Quả là một nhắc nhở và gương mẫu cho chúng ta ngày nay, vì chúng ta cần nhiều can đảm hơn để dám đi ngược lối sống “không tin vào Phục Sinh” của rất nhiều người hôm nay. Thái độ làm chứng nhân của các tông đồ là một cuộc xét lương tâm cho tất cả chúng ta. Quả thực nhiều khi chúng ta thấy mình hèn nhát, không dám can đảm làm chứng cho Chúa và lối sống Ki-tô. Chúng ta dễ trở nên “đồng lõa” với thế gian này để mong được sống yên thân. Chúng ta không muốn “được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”, mà chỉ cho là bị thiệt thòi vì danh Người, hay nói khác đi bị thua thiệt vì là Ki-tô hữu.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Nói đến “xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”, chúng ta phải chiêm ngưỡng chính Chúa Giê-su để biết Người được coi là xứng đáng chịu chết nhục nhã vì làm Con Thiên Chúa như thế nào. Người được Chúa Cha trao phó sứ mệnh làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Người đã lấy chính mạng sống mình để chứng tỏ rằng Thiên Chúa vô cùng yêu thương thế gian là tất cả chúng ta. Chết như thế đối với Chúa Giê-su là một vinh dự chứ không phải một sự áp đặt. Theo gương Thầy, thánh Phao-lô cũng xác tín rằng vinh dự của ngài là thập giá Chúa Ki-tô. Riêng thánh Gio-an, trong bài đọc hôm nay, ngài đã được diễm phúc nghe triều thần thiên quốc tung hô Chúa Phục Sinh: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc”. Chúng ta được mời gọi hãy sẵn sàng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su bằng cách quay lưng lại với lối sống tội lỗi của thế gian, để bước đi theo đường lối của Chúa. Ngay ở cuộc sống trần gian này, ta vẫn có thể cùng với các thiên thần và mọi loài thọ tạo trên trời, cất tiếng tung hô Chúa bằng những lời nói yêu thương và những việc bác ái giúp đỡ nhau, bằng những việc thờ phượng trong các buổi tụ họp dâng Thánh lễ hay cầu nguyện, để tất cả những việc này trở thành “lời chúc tụng, danh dự, vinh quang và quyền năng” dâng lên Chúa! A-men!
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 21:1-19)
Tất cả chúng ta vẫn còn nhớ câu chuyện xảy ra ba năm trước cũng tại bờ biển hồ Ti-bê-ri-a này: PS 3-C136
Tất cả chúng ta vẫn còn nhớ câu chuyện xảy ra ba năm trước cũng tại bờ biển hồ Ti-bê-ri-a này: đánh được mẻ lưới thật nhiều cá theo lời dạy của Chúa Giê-su, ông Phê-rô đã sấp mình trước mặt Người và thú nhận mình là kẻ tội lỗi, rồi Chúa đã gọi ông đi theo Người. Hôm nay, cũng với một mẻ lưới đếm được 153 con cá lớn, Chúa đòi ông Phê-rô phải công khai ba lần phát biểu lòng yêu mến của ông đối với Chúa, trước khi Người trao cho ông sứ vụ lãnh đạo cộng đồng Dân Mới của Chúa. Chúa Giê-su không phải là con người tình cảm lãng mạn, nhưng Người muốn cho ông Phê-rô và các bạn ông thấy rõ chân lý lãnh đạo là phục vụ trong tình yêu.
Có nhiều cách lãnh đạo. Nhưng đối với Chúa Giê-su, ý niệm lãnh đạo được khẳng định như sau: "Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em.” (Mát-thêu 20:25-26). Rồi Chúa đã nêu gương lãnh đạo: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (20:28). Sau khi sống lại, Chúa Giê-su đã muốn gặp các tông đồ thân yêu của Người tại nơi đầy kỷ niệm, nơi Người đã hứa sẽ làm cho các ông trở thành “những kẻ lưới người như lưới cá” (Mát-thêu 4:19). Hôm nay Chúa thực hiện lời hứa ấy và trao quyền lãnh đạo cho các ông và đặc biệt cho ông Phê-rô quyền “chăn dắt các chiên con và chiên” của Người. Chúa đòi Phê-rô tuyên xưng tình yêu: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Không phải một lần, nhưng ba lần, khiến cho Phê-rô “buồn”. Ông buồn không phải vì nghĩ rằng Chúa chưa tin tưởng ở tình yêu chân thành của ông, nhưng vì ba lần này nhắc ông nhớ lại mình đã ba lần chối bỏ Chúa trong cuộc Thương khó của Người. Tuyên xưng tình yêu để chuộc lại lỗi lầm là cách cha mẹ thường muốn con cái làm, để chúng quên đi mặc cảm tội lỗi. Tuy nhiên ba lần cũng là cách người Do-thái diễn tả điều gì ở mức độ cao nhất. Do đó, rõ ràng Chúa muốn Phê-rô quên đi tội lỗi mình và yêu mến Chúa nhiều nhất. Như vậy Phê-rô mới có thể đảm nhận được sứ vụ quan trọng là lãnh đạo Giáo Hội của Chúa.
Phục vụ Chúa và Giáo Hội là công việc đòi hỏi rất nhiều hy sinh. Chúa Giê-su đã ám chỉ hy sinh lớn lao nhất mà ông Phê-rô phải chấp nhận, là ông sẽ phải “dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Tại Giê-ru-sa-lem, ông Phê-rô đã mạnh dạn rao giảng Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh thập giá. Ông nhiệt thành phục vụ Giáo Hội Chúa. Dù bị ngăn cấm, đánh đòn và giam trong ngục, ông vẫn luôn biểu lộ tình yêu bằng cách “vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”. Tại Rô-ma, Phê-rô đã chịu đóng đinh giống như Thầy mình, mặc dù theo truyền thống kể lại, ông nhận thấy mình không đáng được giống như Thầy nên xin người ta đóng đinh ngược đầu xuống đất. Tình yêu là động lực duy nhất để ông phục vụ Chúa và anh chị em. Ông đã noi theo tấm gương phục vụ của Thầy. Ông đã thực hiện lý tưởng của Thầy, là “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Gio-an 15:13). Cùng với Phê-rô, các tông đồ khác cũng đều theo gương Thầy mà hy sinh tính mạng mình cho công việc rao giảng Tin Mừng và phục vụ Giáo Hội.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta có muốn Chúa Giê-su hỏi chúng ta cùng một câu hỏi Người đã hỏi ông Phê-rô không? Chắc chắn có chứ! Mỗi người chúng ta đều được Chúa gọi để phục vụ và phục vụ trong yêu thương. Nếu không phải vì yêu mến Chúa và yêu thương mọi người, chúng ta sẽ khó chấp nhận hy sinh trong khi phục vụ. Ở Việt Nam, nhiều bác sĩ không phải là “lương y như từ mẫu”, vì động lực duy nhất để họ “làm bác sĩ” là đồng tiền, chứ không phải tình thương yêu. Trong giáo xứ hay cộng đồng, chúng ta làm công việc phục vụ nhiều khi do những động lực không phải là tình yêu, mà là để vinh danh mình hoặc vì những lợi lộc khác. Sở dĩ thánh Phê-rô và các bạn đã học và thực hành bài học phục vụ trong tình yêu là vì các ngài đã lắng nghe Chúa gọi: “Hãy theo Thầy”. Chúng ta cũng hãy theo Chúa như vậy!
Chúng con lại được nghe một bài Tin Mừng dài nữa thuật lại cho chúng ta câu chuyện về việc PS 3-C137
1. Chúng con lại được nghe một bài Tin Mừng dài nữa thuật lại cho chúng ta câu chuyện về việc Chúa Giêsu Phục sinh.
Cha đố chúng con câu chuyện hôm nay xảy ra ở đâu?
- Ở biển hồ Tibêria. - Biển hồ này ở miền nào của nước Do thái vậy? - Ở miền Bắc! - Miền này cò tên gọi là miền gì? - Miền Gallilê. - Chúa hiện ra với ai nhỉ? - Với các môn đệ của Chúa. - Có phải với tất cả các môn đệ không?
- Thưa không….Chỉ hiện ra với 7 môn đệ là những người trước đây đã sinh sống tại miền này mà thôi.
Đối với Chúa Giêsu thì đây là nơi có thật nhiều kỷ niệm êm đềm.
Chúng con biết nơi đây có làng Nagiareth thân yêu. Và đây là nơi Chúa bắt đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa.
Chính ở nơi đây Chúa đã chọn các môn đệ đầu tiên. Đó là ông Phêrô, An drê, Giacôbê và Gioan.
Vâng đúng là Chúa đã bắt đầu những việc hết sức quan trọng từ vùng đất này và phần lớn công việc rao giảng Tin Mừng của Chúa diễn ra tại ở đây. Hằng năm Chúa có về Giêrusalem nhưng chỉ về vào những dịp quan trọng nhất là những dịp lễ, về vì bổ phận.
Cha đố chúng con Giêrusalem ở chỗ nào trong nước Do thái?
- Thưa ở miền Nam đất nước Do Thái. - Miền này gọi là miền nào chúng con? - Miền Giuđêa nơi có một địa điểm rất quan trọng và cũng rất nổi tiếng đó là thành thánh Giêrusalem.
Giêrusalem là thủ đô của nước Do thái, nơi mà Chúa Giêsu mới trải qua những ngày đau khổ tột cùng và chết một cách tất tưởi như một tên tử tội tại đây.
Chúng con biết sau khi Chúa từ cõi chết sống lại, đầu tiên Chúa đã hiện ra với Bà Maria Mađalena. Và cũng chính bà là người đầu tiên mang Tin Mừng Phục sinh báo cho các môn đệ. Rồi Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau. Sau đó đích thân Chúa hiện ra cho các môn đệ. Chúng con còn nhớ không. Lần đầu tiên Chúa hiện ra thì không có mặt ông Tôma ở đó. Tới lần thứ hai ông Tôma mới có mặt. Chúng con còn nhớ câu chuyện của ông Tôma không? Trong câu chuyện này chúng con còn nhớ Chúa nói với ông Tôma thế nào không? Ai nhớ được nói cho cha nghe coi nào?
- Chúa nói với ông Tôma: "Phúc cho những ai không thấy mà tin"
Sau lần hiện ra này như đã báo trước, Chúa hẹn gặp các môn đệ ở Gallilê. Và hôm nay là ngày Chúa thực hiện lời hứa.
2. Theo Tin Mừng thì sau lần hiện ra với các môn đệ trong đó có cả ông Tôma, Chúa Giêsu không hiện ra một lần nào ở Giêrusalem nữa. Chính vì thế mà các môn đệ "Giải tán" và như Tin Mừng ghi lại thì ông Phêrô cũng như nhóm các môn đệ đầu tiên của Chúa cũng trở về quê quán của mình. Quê quán của họ đều ở miền Gallilê.
Trong khi chờ đợi Chúa thực hiện lời hứa thì hôm đó Phêrô nói với một nhóm anh em: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông khác đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh".Đêm hôm ấy họ không bắt được con cá nào…sự việc rất giống với lần đầu tiên lúc họ mới gặp Chúa. Rồi có một người đứng đó. Người ấy bảo đem lưới mà thả bên phải mạn thuyền. Họ làm như thế và bắt được rất nhiều cá. Gioan thốt lên:
- Thầy đó.
Phêrô choáng váng. Ông vội khoác áo vào, nhảy xuống khỏi thuyền bơi thật nhanh vào bờ.
Trên bờ, Chúa đã nhóm lửa sẵn và bảo họ đi lấy cá.
Phêrô vội vàng thi hành. Ông không dám hỏi một lời.
Sau bữa ăn Chúa phá vỡ im lặng. Ngài quay về phía Phêrô. Ông vẫn im lặng. Chúa hỏi:
- Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không? (Chúa gọi ông bằng tên riêng của ông chứ không gọi bằng tên Chúa đặt: Phêrô: Đá)
Ông cảm thấy như đau nhói ở trong lòng. Trả lời với Chúa làm sao bây giờ. Nhìn vào tận cõi lòng ông thấy lòng yêu Chúa vẫn còn nóng bỏng. Ông nói thật và để cho Chúa phán xét:
- Thưa Thầy, thầy biết con yêu mến Thầy.
Chúa lại nhìn ông một lần nữa rồi Ngài lặp lại cũng một câu hỏi như trên:
- Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?
Ông cũng lập lại câu trả lời như ông đã trả lời ở trên.
- Thưa Thầy có. Thầy biết con yêu mến Thầy.
Rồi lần thứ ba Chúa lại hỏi để được nghe lại một lần nữa lời tuyên xưng tình yêu của một kẻ được Chúa yêu thương nhất, nhưng cũng đã vấp phạm nhiều nhất.
- Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy không? - Thưa Thầy, thầy biết mọi sự. Thầy biết rằng con yêu mến thầy.
Ba lần ông chối Ngài,
Ba lần Chúa cho ông cơ hội để nhắc lại tiếng nói tình yêu để tuyên xưng lòng tin tưởng của mình.
Không một lời rầy la Không một lời trách móc Không một lời buộc tội Chỉ là cơ hội để xác định lại mối dây liên hệ yêu thương.
Đó là cách Chúa cư xử với những kẻ khiêm nhường và rồi sau đó ông bắt đầu một đoạn đời mới:
- Hãy chăn giữ các chiên của ta.
Phêrô được sai đi đến Giêrusalem, trở về chính nơi ông đã vấp ngã và lúc này ông đủ can đảm để không phản đối.
Ông vâng lời trở về Giêrusalem và ở đó lần đầu tiên ông rao giảng là rao giảng cho những người đã hò la muốn giết chết Thầy của mình.
Ông dùng khả năng của ông để đem về cho Chúa 3000 tín hữu sau bài giảng đầu tiên.
Ông phải giáp mặt với gian nguy, bắt bớ.
Trước kia ông run sợ trước câu hỏi của một đứa con gái. Giờ đây ông đối diện với cả một đám đông mà không hề run rẩy.
Câu chuyện truyền kỳ về những ngày cuối cuộc đời ông chắc chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông đến Roma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bách đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người vai mang thập giá đang đi ngược hướng về phía thành.
Ông hỏi:
- "Quo vadis": Ngài đi đâu đó?
Người ấy trả lời:
- Ta đi vào Roma để cho người ta đóng đinh Ta một lần nữa
Phêrô hiểu ý. Ông quay đầu trở lại. Ông vào Roma và chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng ông cảm thấy không xứng đáng được chịu đóng đinh một cáchnhư thầy nên ông xin được chết trên thập giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất. Ông thực hiện đúng lời của Chúa:
- Khi về già ngươi sẽ dang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn" (Ga 21,18-19)
Trình thuật sau cùng trong Tin Mừng thánh Gioan kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu phục sinh với PS 3-C138
Trình thuật sau cùng trong Tin Mừng thánh Gioan kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu phục sinh với các môn đệ ở biển hồ Tibêria. Các môn đệ trải qua một đêm thả lưới, đến sáng vẫn chưa bắt được con cá nào. Nghe tiếng Đức Giêsu từ trên bờ vọng ra: “Cứ thả lưới xuống bên phải thuyền thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng lần này không sao kéo lên được vì lưới đầy cá. Như đã có kinh nghiệm đọc ra dấu chỉ, các môn đệ nhận ra Chúa và đến với Người.
Điểm nhấn của trình thuật sau cùng này trong tin mừng Gioan là ba lần Đức Giêsu hỏi ông Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?” và cũng ba lần ông can đảm và khiêm tốn đáp rằng: “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” (Ga 21, 15-17)
Đức Giêsu và Phêrô đã có ít nhất ba năm đồng lao cộng khổ, đã cùng chia nhau biết bao thăng trầm sóng gió trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng. Ba năm không phải là khoảng thời gian quá ngắn để có thể hiểu được lòng dạ một người vốn gần gũi bên mình. Thế nên, thật ngạc nhiên khi Thầy Giêsu lại hỏi Phêrô đến ba lần câu hỏi về tình yêu của ông dành cho Người. Vì Đức Giêsu chưa hiểu được tấm lòng Phêrô? hay là vì Phêrô đã chưa một nào lần thật lòng tuyên xưng tình yêu của mình dành cho Thầy Giêsu?
Nhiều người giải thích rằng, ba lần Đức Giêsu gạn hỏi là một cách khéo léo để nhắc Phêrô về ba lần ông đã chối Thầy trong cuộc thương khó. Điều ấy có thể đúng. Thế nhưng rõ ràng Thầy Giêsu đến với Phêrô không phải để vặn vẹo hay hạch tội, nhưng là để dứt điểm chữa lành mặc cảm tội lỗi và để hàn gắn những đổ vỡ trong tâm hồn Phêrô. Ba lần đối diện với câu hỏi của Đức Giêsu là ba lần Phêrô có cơ hội để xác tín về tình yêu của mình. Tình yêu ấy vượt qua những lỗi lầm sai phạm và những bất trung bất tín… Có lẽ ít khi ta thấy ông Phêrô tuyên xưng lòng mến cách điềm tĩnh và lặng lẽ như lần này, bởi tính cách của ông luôn sôi nổi, mạnh mẽ. Nhưng để thưa lên những lời như thế, Phêrô hoàn toàn cậy dựa vào ơn Chúa, vì cú vấp ngã đau thương của ông trong cuộc thương khó của Thầy Giêsu đã giúp Phêrô nhận ra mình mong manh và dễ ngã thế nào.
Kinh nghiệm của tông đồ Phêrô cho ta thấy rằng ta cần ơn đặc biệt để yêu mến và bước đi theo Chúa. Phêrô đã từng tự tin và cậy vào sức riêng. Vấp ngã và được Đức Giêsu nâng dậy giúp Phêrô hiểu mình hơn, biết Chúa hơn và nhờ đó có thể theo Chúa hơn.
Theo Chúa luôn là một hành trình riêng tư, một tương quan cá vị với Chúa. Nơi đó, chỉ có Chúa và ta. Trải qua nhiều kinh nghiệm khác nhau, thăng trầm, hăng say hay cả những vấp ngã, ta học được bài học yêu thương và lớn lên trong lòng mến. Theo Chúa trong đời sống thường ngày cũng cần những nỗ lực bản thân và ơn Chúa trợ giúp. Câu hỏi Chúa dành cho ông Phêrô “con có yêu mến Thầy không?”cũng áp dụng cho mỗi người chúng ta vào một thời điểm nào đó trên hành trình theo Chúa hoặc cũng có thể là ngay hôm nay.
Để trả lời cho Chúa, chúng ta cần nhìn vào cõi lòng mình để biết mình hơn, để nhìn ra con tim đang nghiêng về đâu giữa nhiều chọn lựa. Thật tốt lành nếu chúng ta cũng có thể thưa lên với Chúa câu nói đầy xác tín của Phêrô “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết rõ con yêu mến Thầy.” Và nếu câu trả lời không hẳn như thế, chúng ta cũng đừng vội hốt hoảng nhưng xin Chúa giúp để can đảm chọn Chúa, để con tim biết yêu mến hơn và để theo sát Chúa hơn. Ước gì Chúa tiếp tục đến với chúng ta mỗi ngày để hướng dẫn và chỉ dạy chúng ta trong những bôn ba vất vả, xin Chúa nâng đỡ khi chúng ta yếu đuối hay vấp ngã và xin Chúa thực hiện những điều kỳ diệu từ những nỗ lực bé nhỏ bình thường của chúng ta.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến tặng ban chúng con một con đường dẫn đến nguồn mạch hạnh phúc vĩnh cửu, là hiểu biết và yêu mến Cha trên trời, và sống ơn gọi con cái Chúa mỗi ngày trong bác ái yêu thương. Nhưng theo Chúa bao giờ cũng có những thách đố. Yêu mến Chúa không phải lúc nào cũng dễ dàng, vì con tim chúng con còn nhiều ích kỷ. Lời mời gọi theo Chúa luôn bị xen lẫn với nhiều mời gọi hấp dẫn khác, và chúng con thường chọn cho mình những hấp dẫn và ích lợi trước mắt, mà xao lãng thân phận con cái Chúa.
Khi gặp khó khăn hay vấp ngã, chúng con dễ chán nản, thất vọng và buông xuôi, xin Chúa hãy đến và thương xót chúng con, để những vấp ngã không làm chúng con gục ngã, nhưng là dịp để chúng con thêm vững mạnh tiếp tục dấn thân. Ước gì trên mọi bước đường cuộc sống, chúng con có thể thân thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, Chúa biết rõ mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa”. Amen.
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta nhìn lại phép lạ “Mẻ Lưới Đầy Cá” tại biển hồ Galilê. Chúng ta PS 3-C139
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta nhìn lại phép lạ “Mẻ Lưới Đầy Cá” tại biển hồ Galilê. Chúng ta không thể nắm trọn vẹn ý nghĩa phép lạ “Mẻ Lưới Đầy Cá”, nếu chúng ta không đi vào bầu khí của ngày đầu Phục Sinh khi Chúa hiện ra và ra lệnh cho các môn đệ: “…Người đã trỗi dậy từ cõi chết và người đi Galilê trước các ông, ở đó các ông sẽ được thấy Người” (Mt 28,7). Một câu hỏi đặt ra là “tại sao Chúa lại hẹn gặp các môn đệ tại Galilê mà lại không ở một nơi nào khác? Cũng như “tại sao Mẻ Lưới Đầy Cá lại xảy ra ở biển hồ Galilê mà lại không ở một nơi nào khác?” Đây chính là chìa khóa để chúng ta đi vào phép lạ “Mẻ Lưới Đầy Cá."
Suy Niệm Chúa Nhật III Phục Sinh: MẺ LƯỚI ĐẦY CÁ (Ga 21,1-14) 1.GALILÊ, ĐIỂM HẸN CỦA CHÚA GIÊSU
Chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa để hiểu mầu nhiệm Vượt Qua. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Ngôi mộ này ngôi mộ của ông Giuse, một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ. Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng đất.
Một đêm thật u buồn, thật ảm đạm! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó. Và khi lóe lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: "Ai sẽ lăn tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to lớn, thật là một trở ngại... Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra một bên, và xác của Thầy cũng không còn ở đó nữa. Sứ thần Chúa loan báo Tin Vui: Đấng Bị Đóng Đinh đã chỗi dậy, Ngài hẹn gặp các môn đệ tại Galilê.
Tại sao Chúa lại hẹn gặp các môn đệ tại Galilê mà lại không ở một nơi nào khác?
Vậy việc hẹn gặp ở Galilê mang ý nghĩa gì?
Và đâu là lý do để Chúa hẹn gặp các môn đệ ở Galilê?
Câu trả lời vẫn là: Galilê là quê hương của các môn đệ.
Mọi sự đều bắt đầu ở đó. Một ngày kia, Đức Giêsu đã đến với họ. Ngài bắt gặp họ đang hành nghề đánh cá. Họ hết sức xúc động trước cái nhìn và lời lẽ của Ngài. Họ bị đánh động và cảm thấy như một niềm hy vọng mãnh liệt vươn dậy trong lòng, đến nỗi họ đã không ngần ngại đi theo Ngài với niềm hăng say nhiệt tình của tuổi trẻ và với tất cả niềm hạnh phúc vì đã tìm ra Đấng mà các tiên tri loan báo, Đấng mà mọi người chờ mong.
Galilê, đó là nơi mà Đức Giêsu đã để lại dấu vết hiện diện của Ngài:
- là Cana, nơi Ngài đã hóa nước thành rượu ngon, - là ngọn núi nơi Ngài công bố các Mối Phúc Thật, - là những phép lạ chữa lành bệnh tật mà họ là nhân chứng với tất cả sự kinh ngạc, - là những đám đông hứng khởi và ngày một đông đảo hơn, - là những bữa ăn cùng nhau chia sẻ, - là những nẻo đường rong ruổi mà các môn đệ đi theo Đức Giêsu.
Như thế, Galilê, một vùng đất đã ghi đậm kỷ niệm về tất cả những lời nói và hành động hết sức gần gũi của Đức Giêsu Nagiaret. Chính vì vậy, biến cố Phục Sinh cần phải được nối lại với những gì xảy ra trước đó ở Galilê.
Trở lại Galilê là cách thức giúp họ tìm lại một con người rất thật và rất gần gũi của Đức Giêsu. Gặp lại như thế quả là hết sức cần thiết, nhất là vào thời điểm mà Đức Giêsu khẳng định với họ cách long trọng về vương quyền của Ngài trước khi trở về với Chúa Cha (Mt 28,18).
Các môn đệ cần phải hiểu rằng không có sự cắt đứt giữa Đức Giêsu Lịch Sử và Đức Chúa Phục Sinh, Đấng chiến thắng sự chết cũng chính là con người rất gần gũi, “rất người’ mà họ đã từng kề cận, đã từng chung sống.
Được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh ở Galilê, nghĩa là ở chính nơi mà họ đã biết đến, đã ngưỡng mộ và yêu mến Ngài, quả là một khoảnh khắc mang tính chất quyết định. Cuộc gặp gỡ đã nối kết vinh quang của Đấng Phục Sinh với cuộc đời trần thế của Ngài và do đó tạo nên một ký ức sống động về kinh nghiệm Tin Mừng Phục Sinh. Các môn đệ sống lại kinh nghiệm đó, nhưng lần này là trong Ánh Sáng Phục Sinh. Từ nay tâm trí họ, Đức Giêsu Lịch Sử và Đức Chúa Phục Sinh là một.
Hơn nữa, một điều chúng ta cần lưu ý ở đây là việc trở lại Galilê cũng như việc Chúa Phục Sinh tỏ mình cho các môn đệ xảy ra giữa hai biến cố Phục Sinh và Hiện Xuống. Vì thế, cần phải hiểu việc Chúa hiện ra tại Galilê như sự chuẩn bị cho biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cuộc gặp gỡ này, Chúa Giêsu cho môn đệ thấy rằng, vinh quang Thiên Chúa mà Ngài vừa bước vào cũng chính là ánh vinh quang của đức ái thần linh đã dẫn dắt Ngài suốt trên con đường trần thế và đưa Ngài đến chỗ trao hiến chính mạng sống mình. Sự trao hiến này mạnh hơn cả sự chết và đó cũng chính là sự sống mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.
Như vậy việc trở lại Galilê mang chiều kích của một kinh nghiệm thiêng liêng, chứ không phải chỉ là sự trở về một nơi chốn theo nghĩa địa lý. Đó thực sự là một cuộc khám phá, dưới ánh sáng của ChúaThánh Thần. Dưới ánn sáng của Chúa Thánh Thần, các môn đệ cũng như chúng ta khám phá ra nơi nhân tính của Đức Kitô Lịch Sử, một tình yêu siêu việt đã hiến ban cho chúng ta cách nhưng không. Khi đón nhận tình yêu này, chúng ta thông hiệp vào sự sống viên mãn. Một sự sống vừa nâng cao và tái tạo chúng ta từ nơi thâm sâu của con người, vừa dẫn đưa chúng ta vào một thế giới rộng lớn bao la. Một kinh nghiệm như thế cho chúng ta thấy rằng mình được nâng đỡ, được bao bọc bởi một tình yêu, một tình yêu chỉ mong muốn thông ban sự sống, thông ban sự thánh thiện, thông ban niềm vui và vinh quang của Thiên Chúa cho chúng ta.
2.MẺ LƯỚI ĐẦY CÁ
Không có trang Tin Mừng nào giúp chúng ta hiểu về ý nghĩa của cuộc hẹn tại Galilê hơn là trình thuật về việc Chúa hiện ra bên bờ hồ trong Tin Mừng Gioan. Một trình thuật thật sống động, cho chúng ta thấy cách đơn giản và sâu sắc cuộc gặp gỡ giữa Đấng Phục Sinh với các môn đệ của Ngài.
Các môn đệ bấy giờ đã trở về Galilê. Họ gặp lại khung cảnh của mình, thậm chí trở về với nghề đánh cá. Phêrô đi bước đầu làm gương: “Tôi đi đánh cá đây”. Và những người khác cũng bắt chước theo: “Chúng tôi cùng đi với anh”.
Mọi người ra đi, lên thuyền. Nhưng đêm ấy họ không bắt được con cá nào (Gn 21,3).
Trở về lúc sáng sớm, từ trên thuyền họ thấy một người đứng trên bờ. Người đó có vẻ như đang chờ đợi họ.
Quả vậy, khi khoảng cách đủ gần để nghe, người đó nói với họ: “Này các con, không có gì ăn ư?”Các ông trả lời: “Thưa không”. Người đó lại nói: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy cá” (Gn 21,4-6). Bấy giờ người môn đệ Đức Giêsu yêu mến nói với Phêrô: “Chúa đó”. Gioan đã nhận ra Ngài. Ngay lập tức Phêrô nhảy ngay xuống biển và bơi vào gặp Thầy. Khoảng cách chỉ gần một trăm thước. Các môn đệ khác chèo thuyền vào sau, kéo theo lưới đầy cá.
Khi đã lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn bếp hồng với cá đặt trên, và có cả bánh nữa.
Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây”. Rồi Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn.” Không ai trong đám môn đệ dám hỏi: “Ông là ai?” Vì các ông biết đó là Chúa (Gn 21,7-13).
“Chúa đó!” Quả thật, đúng là Ngài. Các môn đệ gặp lại đúng con người ngày xưa khi Ngài lần đầu tiên đến với họ bên bờ hồ. Bây giờ lại một lần nữa Ngài đến bên họ, vẫn gần gũi và thân mật như thuở ban đầu.
Sự tỏ hiện của Đấng Phục Sinh với các môn đệ bên bờ hồ Galilê không có gì là kinh dị hoặc gây choáng ngợp. Ngài đến với họ không hào quang rực rỡ, chỉ như một con người rất ư đơn giản. Lời Ngài nói cũng thế, rất thân tình: ‘Này các con, không có gì ăn ư?” Hay lời mời: “Anh em đến mà ăn”. Ngay cả mẻ cá lạ lùng vẫn có cái gì đó quen thuộc đối với các môn đệ, bởi nó gợi nhớ lại thuở ban đầu của sứ vụ ở Galilê cũng như nhắc lại dấu ấn của Thầy: một vị Thầy quan tâm đến nghề nghiệp của họ và tỏ ra gần gũi với họ.
Chính vì thế mà tâm trí họ có thể nối kết cách rất tự nhiên Đấng Phục Sinh với vị Thầy mà họ đã từng biết: Đức Giêsu Nagiaret.[1]
Được gặp gỡ Đấng Phục Sinh ở Galilê, nghĩa là ở chính nơi mà họ đã biết đến, đã ngưỡng mộ và yêu mến Người, quả thực là một khoảnh khắc mang tính chất quyết định.
Cuộc gặp gỡ đã nối kết vinh quang của Đấng Phục Sinh với cuộc đời trần thế của Người và do đó tạo nên một ký ức sống động về kinh nghiệm Tin Mừng. Các môn đệ sống lại kinh nghiệm đó, nhưng lần này là trong ánh sáng Phục Sinh. Từ nay trong tâm trí họ, Đức Giêsu Nagiaret và Đấng Phục Sinh là một.
3.BIỂN HỒ GALILÊ VỚI CHÚNG TA HÔM NAY Chính tại Biển Hồ năm xưa các môn đệ đã nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh. Hôm nay Chúa Kitô Phục Sinh cũng vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta. Nhưng trên Biển Hồ cuộc đời không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Dòng đời thường có những khúc quanh bất ngờ. Có những lúc chúng ta phải đối diện với những vất vả, lên ghềnh xuống thác. Có những lúc niềm tin bị chao đảo trước những thử thách của cuộc sống. Có những lúc chúng ta hoảng hốt không nhận ra đâu là bến bờ. Những lúc đó không dễ gì chúng ta nhận ra bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Nhưng chính lúc đó lại là lúc Đức Kitô Phục Sinh đang âm thầm vẫy gọi chúng ta.
Rồi khi chúng ta bị chán nản và thất vọng. Khi chúng ta đã cố gắng hết sức. Cố gắng bằng tất cả những khả năng tự nhiên cũng như siêu nhiên. Cố gắng hết sức bằng những nỗ lực tinh thần cũng như thể xác. Nhưng chúng ta vẫn gặp những thất bại này rồi đến những thất bại khác. Chúng ta như bị chìm ngập trong tủi nhục. Chúng ta thất vọng. Chúng ta cô đơn. Chúng ta muốn buông xuôi. Chúng ta muốn bỏ cuộc. Nhưng chính lúc ấy lại là lúc chúng ta phải nhìn vào các môn đệ trên Biển Hồ. Hãy tin tưởng và thả lưới. Và một mẻ lưới đầy cá sẽ đến với chúng ta. Amen
Lm. Giáo Phận Phú Cường ------ [1] Eloi Leclerc, Gặp gỡ Đức kitô Phục Sinh tại Galilê, Anh em Đàlạt, nxb Phương Đông, 2009, trg.15
Bài Tin mừng hôm nay đưa chúng ta trở lại môi trường đánh cá của người môn đệ để cho chúng PS 3-C140
Bài Tin mừng hôm nay đưa chúng ta trở lại môi trường đánh cá của người môn đệ để cho chúng thấy công cuộc Phục Sinh được thực hiện giữa đời thường. Khi khởi sự công việc rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đến bờ hồ Tibêria tuyển chọn những môn đệ đầu tiên để huấn luyện các ông. Bây giờ, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu lại hiện đến với các ông cũng ở tại biển hồ Tibêria này để trao sứ mạng loan báo Tin mừng cho các thị chứng nhân, những người gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh hiện ra thật sự.
Bảy người tiếp tục đánh cá ở Biển hồ Tibêria theo đề nghị của Phêrô. “Bảy” là biểu tượng của sự hoàn thiện, sự đầy đủ, nên Phêrô và các anh em tượng trưng tất cả các môn đệ của Chúa Giêsu. tất cả đều đã sống dưới sự chỉ dạy của Thầy Giêsu, người trao cho Phêrô nhiệm vụ đứng đầu trong nhóm anh em. Nên Phêrô là hình ảnh của người đứng đầu Giáo hội, và hành động mang nghĩa biểu tượng, các môn đệ cùng đi theo Phêrô, diễn tả sự hiệp nhất.
Các môn đệ hoạt động với nghề đánh cá, một nghề cực nhọc đòi hỏi nhiều công sức, nhưng thành quả thế nào thì không thể do mình quyết định được. Các môn đệ đi ra biển đánh cá trầy trật suốt đêm, nhưng các ông không bắt được gì cả. Chỉ sau khi các môn đệ vâng nghe lời Chúa Giêsu chỉ dẫn chính xác, thả lưới bên phải mạn thuyền mới thu được một mẻ cá phong phú. Kinh nghiệm cho thấy “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”, chúng ta làm công kia việc nọ đạt được kết quả thế nào, không nhờ những vất vả mệt nhọc của chính mình, nhưng nhờ vào lòng tin và vâng phục Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Phục Sinh không ở trên thuyền, nhưng lại hướng dẫn con thuyền Giáo hội, và con thuyền cần phải nhắm vào Chúa mà đi vào. Con thuyền Giáo hội có lúc gặp phong ba, có lúc việc loan báo Tin mừng với sức lực con người dường như vô vọng. Nhưng rồi Thiên Chúa luôn đồng hành với con người trong nỗi thất vọng của con người. Chúa vẫn liên kết với con người bằng một lòng thương mến, để ân cần săn sóc và hướng dẫn con người.
Đấng Phục Sinh chờ các môn đệ vào tới bờ, và Người đã chuẩn bị sẵn bữa sáng cho các môn đệ với than hồng và cá nướng. Người mời tất cả các môn đệ ăn điểm tâm với Người, nhưng Người cũng cho họ cơ hội họ đóng góp phần mình với lời mời “đem cá mới đánh bắt được lại đây”. Chúa Giêsu cũng lặp lại cử chỉ quen thuộc “cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy”. Cử chỉ thân thuộc này duy nhất Thầy mới thực hiện giúp các môn đệ nhận ra sự gần gũi của Chúa Phục Sinh đang hiện diện giữa họ. Người là Đấng đã sống lại, tiếp tục hướng dẫn, bày tỏ cử chỉ yêu thương, cho các ông được hiệp thông với Người và ban cho các ông sự sống viên mãn.
Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.
Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt. Trong đó có hai môn đệ không được nêu tên mà cần điền vào là tên của tất cả chúng ta, những người cũng được mời gọi trở nên môn đệ của Chúa Kitô. Vâng, những người loan báo Tin mừng của Chúa Giêsu phục sinh không phải là những siêu nhân, nhưng là những người rất bình thường như bao người. Vì thế, ngay trong cuộc sống rất đỗi thường ngày, chúng ta cũng được mời gọi thực thi sứ vụ ấy.
Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới, được Chúa Giêsu trao cho Phêrô quyền lãnh đạo “Hãy săn sóc chiên của Thầy”. Tất cả chúng ta những tín hữu sống dưới sự điều hành của người đứng đầu Giáo hội là đức Giáo hoàng, diễn tả sự hiệp nhất trong cùng một Hội Thánh để có thể hiệp thông trong cùng một Thánh lễ, hân hoan loan báo Tin mừng Chúa phục sinh, theo gương các tông đồ, dầu bị chất vấn, các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu.
Lạy Chúa, xin cho con luôn hãnh diện vì được loan báo Tin mừng của Chúa vì nhận ra Chúa luôn đồng hanh với con. Amen.
Với và qua trang Tin Mừng mà ta vừa nghe, ta nhận thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade PS 3-C141
Với và qua trang Tin Mừng mà ta vừa nghe, ta nhận thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade, xứ Galiêa, nơi các môn đệ đã quen thuộc với nghề đánh cá. Đây cũng là nơi các ông đã được Chúa báo trước rằng: Các ông sẽ gặp Ngài tại Galilêa.
Trang Tin Mừng (Ga 21, 1-19) thật là đẹp, đẹp về con người, vì các môn đệ tin Chúa đã sống lại ; đẹp về công việc, đi bắt cá suốt đêm không được gì, nay có mẻ lưới đầy cá; đẹp về thời gian, bởi đây là buổi bình minh của ngày thứ nhất trong tuần; đẹp về nơi chốn vì Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các ông ở trên bờ (Ga 21,4).
Nhìn lại theo nhiều nhà chú giải thì mẻ cá lạ lùng này chính là một hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Thực vậy, các môn đệ theo lời Chúa chỉ dạy đã hoạt động và ngay khi không có chút hy vọng gì thì cũng vẫn có thể quy tụ mọi người từ mọi nơi thành một cộng đoàn duy nhất, vì các ông đã làm theo lời Đấng đã sống lại. Con số 153 con cá được đưa ra ở đây cũng có thể góp phần làm nổi bật ý tưởng trên. Theo thánh Hiêrônimô thì các nhà động vật học hồi xưa phân biệt được 153 loại cá. Do đó con số này tượng trưng cho tất cả mọi thứ cá trong biển. Và như thế, dưới cái nhìn của các nhà chú giải thì mẻ lưới của các tông đồ sẽ quy tụ toàn thể gia đình nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất.
Suốt đêm hôm ấy các ông đã vất vả và cực nhọc mà chẳng đánh bắt được gì. Sáng đến, theo sự chỉ dẫn của một người lạ mặt trên bờ hồ, các ông đã đánh được một mẻ cá lớn. Mẻ cá lạ lùng này đã giúp các ông nhận ra Chúa Giêsu, Thầy của các ông. Người nhận ra Chúa đầu tiên cũng chính là Gioan, vị môn đệ được Ngài yêu thương.
Phêrô và các môn đệ khác đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào, thế nhưng vào ban sáng, vâng theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã thả lưới một lần nữa và đã có được một mẻ cá lạ lùng.
Điều kỳ lạ ở đây, xét cho cùng, chưa phải là mẻ lưới đầy cá. Điều kỳ diệu ở đây chính là các tông đồ hôm nay đã trở thành những con người khác rồi. Mới cách đây ít bữa, các ông ấy, nói chung, còn là những con người nhút nhát, thô thiển, mộc mạc lắm. Thế mà, hôm nay thật đường hoàng, dõng dạc, ung dung trước Công nghị Do Thái. Công nghị ấy, đến ông Giêsu nó còn giết được, cỡ như ông Phêrô và các bạn ông, nó coi ra gì.
Và rồi ta thấy Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu, phải chăng đó là do động lực của tình yêu? Còn Phêrô là người đầu tiên nhảy xuống biển để tiến đến với Chúa, phải chặng đó là do động lực lòng hăng say nhiệt thành? Còn Chúa Giêsu thì đã cẩn thận dọn bữa cho các ông, như cho những người con yêu dấu.
Một chi tiết hay là sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: "Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?". Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa. Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: "Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn". Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.
Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy".
Từ đó, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo Hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu "Như Thầy đã yêu".
Trong lần hiện ra này, Chúa Giêsu một lần nữa muốn thẩm định lại tình yêu và lòng trung thành của Phêrô trước khi trao phó hoàn toàn cho ông quyền dẫn dắt đòan chiên của Chúa. Chúa Phục sinh đã hỏi Phêrô đến ba lần: Simon con ông Gioan, con có yêu mến Thày hơn những người này không? Chúa Giêsu đã không đặt cho ông một điều kiện nào, không đòi ông phải có khả năng hay trình độ, mà Chúa chỉ muốn ông công khai bày tỏ lòng yêu mến của ông đối với Chúa.
Lòng có yêu mến Chúa, đương nhiên sẽ yêu mến anh chị em của mình, vì đó là Luật yêu thương của Chúa, nên có yêu Chúa thì Ngài mới cho chúng ta sức mạnh của Ngài mà gánh vác, mà chịu đựng, mà giữ vững được lòng tin cho đến trọn đời!?. Bởi nếu chúng ta không có sức và ơn Chúa ban thì tất cả chúng ta đây chẳng làm được việc gì cho nên!? Và ông Phêrô là một con người rất trung trực đã được Chúa Giêsu tuyển chọn để thay thế Ngài mà chăn dắt cả chiên mẹ lẫn chiên con của Thầy. Ông đã được Chúa tuyển làm Đầu của Hội Thánh từ thời tiên khởi và Hội Thánh ấy đã kiên cố, người theo càng ngày càng đông đảo, vững mạnh, và nổi bật của mọi thời đại, và cho đến ngày hôm nay.
Tiếc thay cho những ai không hiểu được một điều thật đơn giản là Một Giáo Hội vững mạnh và duy nhất của Thiên Chúa đã được hình thành từ thời Chúa Giêsu, rồi được trao phó cho ông Phêrô, và những người kế vị sau này; chúng ta gọi các ngài là Đức Giáo Hoàng. Mọi hội thánh khác có hình thức hao hao giống, tất cả đều là được biến đổi để phù hợp cho một lối sống thiếu đạo đức, rối đạo, thiếu sự khiêm nhường, thiếu đức bác ái, và nhất là không biết sống hy sinh, và không hiểu thế nào là đi con đường Thập Giá của Chúa.
Khi được hỏi đến ba lần phêrô cũng cảm thấy buồn, ông buồn không phải vì nghĩ rằng Thày không tin ông, nhưng ông buồn vì mỗi lần trả lời là mỗi lần ông biết rõ nhất về con người của mình, để ông không còn cậy dựa vào khả năng riêng của mình nữa, mà ngay cả đến tình yêu của ông đối với Chúa, ông cũng chỉ dám khiêm tốn để trài lòng ra với Chúa: Lạy Thày Thày biết mọi sư, Thày biết con yêu mến Thày. Trước sư khiêm tốn của ông Simon, Chúa Giêsu đã hoàn toàn tin nhiệm và tuyên bố: Con hãy chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Thày, tức là Simon có bổn phận không chỉ chăm lo cho những chiên con mà còn chăm lo cho cả các chiên mẹ và tất cả đều là chiên của Thầy chứ không phải là chiên của Phêrô.
Điều ta cần ghi nhận là vị trí tối thượng của Phêrô được đặt trên tình yêu tối thượng của ông đối với Đức Giêsu, bởi vì Người chỉ giao nhiệm vụ chăn chiên sau khi đã hỏi Phêrô là có yêu thương Người hơn những môn đệ khác không. Nơi ông, tình yêu đối với Đức Giêsu càng sống động, thì bản thân ông càng mất tầm quan trọng, ông càng phải săn sóc những ai được giao phó cho ông, ông phải dẫn họ đến với Đức Giêsu và giữ cho họ kết hợp với Người. Đức Giêsu hỏi Phêrô ba lần là ông có yêu mến Người không. Phêrô không khẳng định mạnh để trả lời; ông nhắc lại rằng, Đức Giêsu biết, và ông tuyên xưng chính tình yêu của ông. Lần thứ ba, ông buồn, vì ông nhớ lại chuyện chối Đức Giêsu ba lần. Nhưng Đức Giêsu đã tha thứ cho ông rồi. Bây giờ, khi ông đã trải nghiệm tối đa sự yếu đuối của bản thân, thì Đấng Phục Sinh giao phó nhiệm vụ mục tử cho ông. Lần thứ ba, ông trả lời thẳng thắn, ông không thể che đậy gì với Chúa, vì ở với Người, mọi chuyện được bảo đảm.
Nếu trước đây, ông đi theo Chúa để được thụ giáo với Người, thì bây giờ, ông theo Chúa để trở thành hiện thân của Người giữa thế gian. Có Chúa ở với ông, nên ông trở nên mạnh mẽ và can đảm. Đứng trước thày Thượng tế, Phêrô và các tông đồ đã khẳng khái tuyên bố: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, Đấng mà các ông đã giết và treo Người trên thập giá”. Khi bị đánh đòn, các ông lại “hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” Bài đọc I). Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đã giúp các ông có thêm nghị lực và nhiệt huyết để làm chứng về Người.
Chúa Phục sinh hiện đến và cho Phêrô một cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Sau khi đã cho các ông một mẻ lưới đầy cá và cùng ngồi ăn uống với các ông, Chúa đòi Phêrô phải công khai nói lên tình yêu của mình với Thầy Chí Thánh trước mặt các môn đệ khác. Chúa hỏi Phêrô con ông Giona, "con có yêu mến Thầy không?". Câu hỏi được lập lại ba lần như cơ hội cho Phêrô chuộc lại lỗi lầm vì tội ba lần chối Chúa. Chúa đã cho Phêrô cơ hội để nói lên lòng mình yêu mến Chúa. Chúa còn trao trọng trách cho Phêrô chăn dắt đàn chiên của Chúa, như dấu chỉ sự tín nhiệm mà Chúa đã ưu ái dành cho ông.
Và rồi cuộc đời của chúng ta đôi khi cũng giống như Phêrô năm nào. Đã nhiều lần chúng ta chối Chúa, bỏ Chúa để chạy theo danh lợi thú trần gian. Đã nhiều lần chúng ta xúc phạm tới tha nhân trong lời nói và hành động. Và chắc chắn cũng có nhiều lần chúng ta bị mặc cảm vì những hành động tội lỗi của mình. Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta. Chúa vẫn tạo cho chúng ta rất nhiều cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa vẫn muốn trao cho chúng ta rất nhiều trọng trách trong việc hướng dẫn anh em. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Dù rằng chúng ta vẫn còn đó bản tính xác thịt yếu đuối. Chúa không muốn chúng ta mãi mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng hãy chuộc lại lỗi lầm, hãy hết mình phục vụ cho danh Chúa được cả sáng trên trần gian.
Chúng ta thực hiện việc tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô phục sinh. Nhưng đức tin của chúng ta PS 3-C142
Chúng ta thực hiện việc tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô phục sinh. Nhưng đức tin của chúng ta có xác thực không? Để nhận định điều này, chỉ cần nhìn đến đời sống của mình: đức tin có làm cho chúng ta trở nên những chứng nhân Tin mừng hay không? Chúng ta có thực sự đang là những chứng tá nhiệt thành của niền tin. Nhìn vào các Tông đồ, qui tụ quanh Phêrô, sau sự phục sinh của Chúa Giêsu, các ông luôn bận tâm đến việc đưa những chứng cứ niềm tin của mình vào Đức Kitô phục sinh đến với người khác. Không có gì ngăn cản được kế hoạch của các Ngài, làm tiêu tan đi nhiệt huyết của các Ngài. Các Ngài đi mạnh mẽ cho đến khi tử đạo. Nếu được niềm tin này kích hoạt, chúng ta cũng sẽ trở nên những chứng nhân của Đức Kitô mang đến cho thế giới sự tốt lành, chân lý và tình yêu của Người.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Tin mừng: Ga 21, 1-19
Khi hiện ra với các môn đệ bên hồ Tibêria, Chúa Giêsu giao phó cho Phêrô sứ mạng lãnh đạo Giáo Hội của Người. Ông đã đón nhận trách nhiệm như một cụôc tử đạo của mình.
Bản văn được viết sau cái chết của Phêrô và được thêm vào Tin mừng thứ tư. Chương này nhắm mục đích làm nổi bật quyền tối thượng của Phêrô.
Mạc dầu chối Chúa ba lần, nhưng Chúa Giêsu vẫn trao cho Phêrô uy quyền tối thượng lãnh đạo Giáo Hội của Người. Sứ mạng này đòi hỏi nơi ông một tình yêu lớn lao: Con có yêu Thầy hơn những người này không? Nhiều nhà chú giải nhất trí Chúa Giêsu hỏi ông đến ba lần xem ra để bù lại ba lần ông chối Thầy. Nhưng theo Bulman và nhiều nhà chú giải khác thì việc lập lại này nhằn tăng phần long trọng. Việc lập lại có ý nói rằng Phêrô được chính thức trao phó nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Chúa.
Ngày nay, Đức Giáo Hoàng là người kế vị trực tiếp của Thánh Phêrô. Cần phải biết khiêm nhường yêu mến đón nhận sự giáo huấn của Ngài. Lắng nghe Ngài là lắng nghe chính Chúa Giêsu Kitô.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Sứ mạng của các vị Chủ Chăn, sứ mạng yêu thương: Không như các thủ lãnh của thế gian, không như các tổ chức của trần thế, Chúa Giêsu chọm người lãnh đạo Hội Thánh của Người không phải dựa trên tài đức, nắng lực lãnh đạo, sự khôn ngoan hay thế lực giàu có mà chỉ rất đơn giản là tình yêu, yêu chính Người, yêu phải hơn người khác. Chính vì tiêu chuẩn này mà Chúa đã hoàn toàn quên Phêrô là anh chàng phản bội Người để chọn ông là người lãnh đạo Hội Thánh. Một điều mà ở thế gian này không ai làm bao giờ. Đáp lại lời của Thầy, Phêrô cũng khẳng định tình yêu của ông dành Cho Thầy. Chắc chắn giờ đây ông đón nhận nhiệm vụ chăn dắt dân Chúa không vì danh vọng, không vì quyền lực. Ông đón nhận và thi hành chỉ vì yêu mến vâng lời Thầy mình mà thôi. Tình yêu Thầy đã thanh luyện ý hướng phục vụ của ông; tình yêu Thầy đã giúp ông can đảm nhận lãnh sứ vụ và tình yêu Thầy cũng đã thanh tẩy ông khỏi mọi tội lỗi. Trong Hội Thánh, mọi phẩm trật, mọi trách vụ đều phải đi vào quĩ đạo tình yêu này như Phêrô. Tất cả các Chủ chăn của Hội Thánh đếu mang lấy sứ mạng yêu thương. Đi ra khỏi yêu thương sẽ là cướp chứ không còn là mục tử.
Là con cái Hội Thánh, mỗi Kitô hữu có trách nhiệm vâng lời các Đấng Bản quyền của mình, nhưng trong đức tin thì cần phải biết yêu thương kính mến và luôn cầu nguyện cho các Ngài biết thực thi quyền bính của mình bằng yêu thương.
2. Tình yêu là mối dây liên kết trong Hội Thánh: Phêrô được mời gọi vì yêu để rồi thực thi quyền bích phục vụ anh em, phục vụ Hội Thánh nhờ sức mạnh của tình yêu. Cho nên, mối dây liên kết trong Hội Thánh, nhất là sự liên kết giữa chủ chăn và cộng đoàn làmối dây tình yêu. Chủ chăn yêu Chúa Giêsu Kitô, yêu mến anh chị em mà hết lòng tận tuỵ; Giáo dân yêu Chúa Giêsu Kitô nơi con người của vị mục tử để biết tôn trọng, biết vâng lời các Ngài. Nếu không yêu thương thì chắc chắn sẽ là quyền lực, là độc tài, là thống trị nơi các vị lãnh đạo. Nếu không yêu thương thì sẽ là oán ghét, là bôi nhọ và tố cáo nơi người tín hữu. Khởi từ Chúa Giêsu Kitô vị sáng lập Hội Thánh, qua các Tông đồ nền tảng của Hội Thánh cho đến mọi Kitô hữu luôn là một dòng chảy không ngừng của tình yêu. Đi ra khỏi dòng tình yêu ấy là ra khỏi Hội Thánh, là tách rời khỏi đàn chiên của Chúa Giêsu Kitô. Vì thế, sống trong Hội Thánh, thuộc về Hội Thánh là phải sống và thực thi tình yêu. Nói yêu Chúa mà không yêu Hội Thánh, không tuân phục trong tình yêu huấn quyền của Hội Thánh đó là kẻ nói dối. Hội Thánh tuy là một tổ chức, một cơ cấu nhưng lại có đối tượng cụ thể là những con người từ chủ chăn cho đấn giáo dân nhỏ bé nhất. Vì thế, yêu Hội Thánh là phải yêu thương lẫn nhau, không có khái niệm chung chung, trừu tượng về Hội Thánh .
Ngày nay, mỗi người dù ở bất cứ cương vị nào trong Hội Thánh phải luôn tự hỏi lòng mình tôi đang sống với nhau, đang sống trong Hội Thánh có vì yêu hay không?
3. Nhận ra Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh hiện diện bằng Tình yêu: Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ bên bờ hồ mà các ông không nhận ra. Khi chứng kiến mẻ cá lạ chỉ có người môn đệ 'Chúa Giêsu yêu' mới nhận ra và nói với Phêrô: " Chính Thầy đó". Người môn đệ nhận ra Chúa không phải vì thấy trực tiếp mà vì thấy phép lạ Chúa làm. Không phải ai cũng nhận ra như ông. Đều là môn đệ nhưng chỉ có tình yêu (được Thầy yêu và chắc chắn ông cũng yêu thầy hơn các anh em khác) đã làm cho ông qua dấu chỉ phép lạ đã nhận ra Thầy mình. Cũng như chỉ nhìn thấy dấu chỉ mộ trống và khăn liệm mà ông đã tin Thầy mình sống lại. Tình yêu đã dẫn tới niềm tin, đã đưa tới chỗ nhận ra Chúa Giêsu phục sinh đang hiện diện sống động. Trong cuộc sống Kitô hữu để có thể cảm nghiệm và nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đòi hỏi không chỉ bằng đức tin đơn thuần nhưng là một đức tin được thắp sáng, được nuôi dưỡng bởi tình yêu. Tin cần thiết nhưng chưa đủ cần phải có con tim. Chính tình yêu đã cuốn hút con người về phía Thiên Chúa. Nhờ tình yêu người ta sống trong nhau; với tình yêu người ta luôn hiện diện bên nhau cho dù có phải xa cách nhau về không gian địa lý, một sự hiện diện thẳm sâu tận cõi lòng; trong tình yêu người ta luôn hướng về nhau.
Kitô hữu phải có tình yêu Thiên Chúa mới có thể nhận ra Người đang hiện diện, mới có thể luôn hướng về Người và mới có thể tin theo Người. Đức tin của mỗi người phải đi tới tình yêu và được tình yêu nuôi dưỡng mới có thể phát triển.
I. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu phục sinh vẫn đang hiện diện để trao ban tình yêu cứu độ của Ngừơi cho mỗi người chúng ta. Trong niềm vui tri ân chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa những ước nguyện chân thành của chúng ta.
1. Chúa Giêsu vẫn đang sống và hiện diện trong Giáo Hội, vẫn đang mời gọi Giáo Hội ra khơi. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục và cho mọi thành phần dân Chúa luôn nhận ra và bước theo lời mời gọi của Người.
2. Người môn đệ được Chúa yêu đã nhận ra Người qua mẻ cá lạ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam chúng ta trong năm Thánh này ra khơi được những mẻ cá lạ và qua đó giúp cho nhiều người biết nhận ra và tin theo Chúa, để Giáo Hội Việt Nam thực sự chu toàn tốt đẹp sứ mạng Loan báo Tin Mừng được Chúa trao phó thực thi trên mảnh đất quê hương Việt Nam thân yêu.
3. Chúa Giêsu phục sinh đã trao phó sứ mạng chăn sóc dân Chúa cho Phêrô và các Đấng kế vị Ngài. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu thương kính trọng và vâng lời các Giám mục, các linh mục của mình.
* Lời kết: Lạy Chúa Giêsu Kitô phục sinh, Chúa vẫn hằng hiện diện và đồng hành với chúng con. Chúng con xin dâng lời cảm tạ. Xin gia tăng tình yêu của Chúa cho chúng con để chúng con luôn biết kiến tạo và trao ban tình yêu cho nhau. Nhờ đó, xây dựng sự hiệp nhất yêu thương trong Giáo Hội ngày càng phát triển. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Thiên Chúa không chỉ yêu thương chúng ta như một người cha nhân hậu mà còn như một người PS 3-C143
Thiên Chúa không chỉ yêu thương chúng ta như một người cha nhân hậu mà còn như một người mẹ hiền. Chính Thiên Chúa đã mặc khải điểu này qua miệng tiên tri Isaia: “Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” (Is 66,13); và sau này, trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh gà mẹ mà than thở rằng: “Hỡi Giêrusalem… đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu” (Mt 23,37). Tình yêu từ mẫu đó vẫn còn được Chúa Giêsu thể hiện cả khi Người phục sinh.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đã hiện ra trên bờ biển hồ Tibêria, đang khi các Tông đồ vất vã đánh cá suốt đêm mà không được gì. Người hiểu nỗi vất vả của các ông và giúp các ông có một mẻ cá lớn. Hơn nữa, như một người mẹ biết các con mình đang rất đói và mệt, Chúa Giêsu đã nhóm lữa, nướng bánh và cá, Người gọi các ông đến, “cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy (Ga 21,12-13). Sau đó, Người cũng dùng lời hằng sống mà soi sáng hướng dẫn cho các ông. Khung cảnh trên biển hồ Tibêria lúc đó thật đầm ấm như hình ảnh người mẹ hiền dạt dào tình mẫu tử đang thi hành sứ mạng nuôi dưỡng và dạy dỗ con cái của mình.
Sự chăm sóc ân cần mà Chúa Giêsu dành cho các môn đệ hôm xưa, nay vẫn còn tiếp tục cho mỗi người chúng ta. Nơi thánh lễ, Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta bằng Lời hằng sống và trao ban chính Thịt Máu Người để nuôi dưỡng xác hồn chúng ta.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con phụ ơn bội nghĩa với tình yêu hiền mẫu của Chúa, nhưng luôn biết đón nhận sự dạy dỗ và chăm sóc của Chúa mỗi ngày như những người con ngoan hiền. Amen.
Vào một ngày ba năm về trước, Phêrô sắp xếp lưới ở bên hồ. Vào thời điểm đó, cũng là mở PS 3-C144
Vào một ngày ba năm về trước, Phêrô sắp xếp lưới ở bên hồ. Vào thời điểm đó, cũng là mở đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Hôm đó, Chúa nói với Phêrô: “Hãy theo tôi”! Phêrô bỏ lưới và theo Chúa.
Ba năm sau, khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra Phêrô và các tông đồ khác. Ngài canh tân lời kêu gọi trước đây: “Hãy theo tôi”! Từ nay Phêrô theo Chúa Giêsu là trở thành mục tử đàn chiên. Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: "Tôi sẽ làm cho anh trở thành kẻ chài lưới người ta”. Phêrô bỏ lưới và theo Chúa. Hôm nay Phêrô nhảy xuống nước:
- Phêrô thả những tấm lưới nặng vì mẻ cá lạ lùng. - Phêrô lao xuống ngay lập tức đến với Chúa Giêsu. - Phêrô vội đến với Chúa Giêsu mà quên đi tất cả. - Phêrô bị ràng buộc bởi mối tình âu yếm Chúa Giêsu dành cho mình. Và vì thế
Phêrô quên đi việc từ chối Thầy.
- Phêrô mình trần nhưng không lẩn trốn. - Thay vì lánh xa lẩn trốn, Phêrô mặc áo vào, lao mình xuống nước để được gặp Chúa Giêsu.
Thiên Chúa luôn trung thành. Vào thời của Adam và Eva, sau khi ông bà không vâng lời Thiên Chúa, họ phát hiện ra họ trần truồng và trốn tránh Thiên Chúa. Trong những ngày Chúa phục sinh, Phêrô nhận ra mình trần trước Chúa. Nhưng thay vì chạy trốn, Phêrô lại lao vào Chúa Giêsu! Phêrô biết tình âu yếm của Thiên Chúa. Phêrô biết rằng sự âu yếm của Thiên Chúa bao trùm mình. Phêrô quên đi sự bất xứng của chính mình và chỉ nhớ tình bạn của Chúa Giêsu.
Phêrô biết sự không chung thủy của mình, nhưng Phêrô biết nhiều hơn rằng Chúa Giêsu Kitô là một người bạn trung thành. Phêrô dựa vào lòng trung thành của Con Thiên Chúa để lao về phía Chúa Giêsu.
Sự trung thành của Thiên Chúa bao trùm nhân loại bằng một tình yêu trìu mến.
- Từ nay mọi người bất cứ ai, thay vì che dấu sự trần truồng của mình trước mặt Thiên Chúa, đều có thể nhận được áo của Đấng Phục Sinh. Phêrô có thể lao vào tình yêu trìu mến của Thiên Chúa. Phêrô có thể tin tưởng vào sự trung tín của Thiên Chúa.
- Thiên Chúa chuẩn bị một bữa tiệc cho người đã lao xuống với Ngài.
- Thiên Chúa nuôi dưỡng và sưởi ấm họ: khi lên bờ, họ thấy một ngọn lửa than hồng với cá trên đó và bánh. Phêrô rời khỏi bờ vực tội lỗi. Phêrô đến bờ khác: bến bờ chuyên cần phục vụ Giáo Hội của Chúa. Phêrô sẽ không rời khỏi bến bờ này.
Vị tông đồ trung thành. Từ nay theo Chúa Giêsu, Phêrô sẽ lao xuống:
- Phêrô sẽ lao mình xuống vực sâu nhân loại để đưa con người đến bến bờ Thiên Chúa.
- Phêrô sẽ lên đường để mang về những con chiên bị lạc, bị giấu như Adam và Eva ẩn giấu mình vì sợ bị kết án.
- Phêrô sẽ đi tìm con chiên đói và con chiên chết lạnh.
- Từ giờ trở đi, Phêrô trong vai trò của Chúa Giêsu, sẽ nuôi dưỡng và sưởi ấm nhân loại bằng tình bạn mà Phêrô đã được đổ đầy.
Chúa Giêsu nói với Phêrô: "Hãy chăn các chiên của Thầy". Chúa Giêsu yêu cầu Phêrô nhận lấy vai trò của Chúa trong nhân loại. Chúa hỏi Phêrô: "Anh có yêu mến Thầykhông? Anh có yêu mến Thầy đến mức thích cuộc sống của những con chiên của Thầy hơn cuộc sống của anh không? Anh có yêu mến tôi đến mức làm bạn với mọi người, thậm chí là kẻ thù của anh không”?
Chúa Giêsu đã thúc giục bạn mình ba lần, buông bỏ những tấm lưới có thể giữ Phêrô ở bờ bên kia: bến bờ mà Tình yêu đến chống lại sự ích kỷ, bến bờ mà Tình yêu trao ban mạng sống cho tất cả mọi người. Phêrô neo đậu với Chúa và với một mình Chúa. Phêrô là bạn của Chúa và sẽ là một người bạn trung thành với mọi người.
Cần phải 3 năm Phêrô mới học được rằng sự trung thành của Thiên Chúa vượt qua mọi sự bất trung của con người! Lạy Chúa xin cho con cũng biết học như thánh Phêrô để con biết trở về với Chúa. Amen! Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
Trưa hôm ấy, các vị khách mời cùng với gia chủ dùng bữa trưa thân mật trong bầu khí gia đình PS 3-C145
Trưa hôm ấy, các vị khách mời cùng với gia chủ dùng bữa trưa thân mật trong bầu khí gia đình. Chợt một vị khách có địa vị cao đang ngồi ăn, cần thêm chiếc ly nên cất tiếng gọi người nấu bếp: Chị Bếp ơi! Cho tôi thêm một chiếc ly nhé!
Khi nghe gọi mình là chị bếp, người giúp việc cảm thấy bị xúc phạm. Chị bị xúc phạm vì bị xem là người bồi bếp, mà theo quan niệm của nhiều người, nghề bồi bếp là nghề hèn kém, nên tỏ ra bực bội tức tối và cằn nhằn với người bên cạnh: Người ta có tên hẳn hoi, sao không gọi tên mà gọi là chị bếp!
Đối với nhiều người, việc bếp núc bị xem là việc hèn hạ, thường được giao cho tôi tớ đảm trách và những người danh giá không bao giờ chấp nhận làm thứ việc này. Từ đó, nghề làm thuê nấu nướng bị xem là nghề thấp kém và những người đảm nhận việc này bị người đời gán cho cái tên không mấy tốt đẹp là người nấu bếp.
Thế mà, qua bài Tin mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu cho chúng ta một người nấu bếp lạ thường.
Người nấu bếp này xuất thân từ trời. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần dựng nên trời đất, trăng sao, muôn loài muôn vật trong vũ trụ bao la vô biên vô tận này.
Thế mà vì yêu thương nhân loại, Ngôi Hai Thiên Chúa hạ mình xuống thế làm người phàm và lại còn hạ mình làm người nấu nướng hầu hạ các môn đệ của mình vào một buổi sáng đẹp trời trên bãi biển Ga-li-lê.
Đúng vậy, khi biết đoàn con của mình phải vất vả chèo chống suốt đêm mà không bắt được con cá nào, vừa mệt, vừa đói, vừa rét, vừa thất vọng… Chúa Giê-su đon đả đến viếng thăm các ông khi trời vừa hừng sáng.
Ngài không đến tay không nhưng mang theo những đồ cần dùng để nấu nướng như củi, than, cá và bánh (vì trên bãi biển vào lúc trời hừng sáng làm gì có củi, có than hay bánh và cá).
Thế rồi Ngài ngồi xuống bên bờ biển vắng, nhóm lửa lên, cho thêm than vào cho hừng lên, rồi tự tay nướng bánh và cá, rồi sau đó, Ngài mời gọi đoàn con từ biển mới bước lên, vừa đói, vừa lạnh… đến chia nhau ăn.
Người mẹ gia đình nấu nướng phục vụ chồng con là chuyện bình thường vì trong gia đình các thành viên đều là người ruột thịt với nhau.
Người tôi tớ nấu nướng phục dịch chủ mình là điều phải lẽ vì y được trả lương để hầu hạ những người giàu có, quyền thế hơn mình.
Đằng này, Chúa Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa, Chúa tể trời đất, là Vua các vua, là bậc thầy cao cả… mà lại xăn tay vào việc bếp núc để phục dịch các môn đệ, các tôi tớ của mình là chuyện lạ đời, có một không hai.
Xưa nay chưa từng có một vị vua, một ông chủ giàu sang quyền thế, một bậc thầy cao cả, hay một đấng sáng lập tôn giáo nào có hành vi tương tự.
Lạy Chúa Giê-su,
Tình thương Chúa dành cho chúng con vô biên vô hạn nên Chúa đã thực hiện bất cứ việc gì dù lớn dù nhỏ, dù khó khăn gian khổ, dù là việc thấp hèn của người làm bếp, việc rửa chân cho các học trò trước khi nhập tiệc và thậm chí còn hiến thân chịu khổ nạn và chịu chết cho muôn người được sống… Chúa sẵn sàng làm tất cả để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho loài người mà Chúa hết lòng yêu thương.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, dù không thể hy sinh quên mình làm những việc lớn lao thì cũng sẵn sàng làm những việc phục vụ nho nhỏ hằng ngày hầu mang lại lợi ích cho những anh chị em chung quanh mình.
Chúa Phục Sinh hiện ra với Maria Mađalêna và nhắn gởi là sẽ gặp các môn đệ ở Galilê (Mt 28,10) PS 3-C146
Chúa Phục Sinh hiện ra với Maria Mađalêna và nhắn gởi là sẽ gặp các môn đệ ở Galilê (Mt 28,10). Trong khi chờ đợi, họ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm tình thầy trò.
Phêrô kêu gọi anh em đi đánh cá. Tối hôm ấy, họ thức trắng đêm mà vẫn trắng tay, chẳng được con cá nào. Họ sửa soạn giũ lưới đi nghỉ, Chúa hiện đến trên bờ. Trời vừa tảng sáng để có thể nhận biết người và thuyền. Nhưng họ vẫn không nhận ra Chúa Giêsu đứng đó, cũng giống như trường hợp của Maria Mađalêna bên ngôi mộ (Ga 20,14), cũng như hai môn đệ Emmau (Lc 14,13).
Từ xa xa, Chúa Giêsu gọi các môn đệ một cách thân mật: “Các chú có gì ăn không?”. Một câu hỏi đối với dân miền biển nên phải hiểu là: đánh cá có được gì không? Các môn đệ trả lời một tiếng vắn vỏi: “Thưa không” xem ra mệt mỏi chán chường. Chúa bảo: Hãy thả lưới bên hữu thuyền. Họ vâng lời và họ kéo được quá nhiều cá hơn sức họ mong tưởng. Thấy thế hẳn các môn đệ nhớ lại phép lạ ngày nào bên bờ biển hồ Galilê, Chúa cũng bảo Phêrô ra khơi và họ đã bắt cá nhiều đến nỗi phải nhờ thuyền bạn bè chở giúp (Lc 5,1-11).
Gioan là người đầu tiên nhận ra Thầy: “Chúa đó”. Lúc ấy Phêrô cho thuyền vào bờ. Chúa bảo đem đến ít cá để nướng ăn điểm tâm. Cho đến lúc này các môn đệ mới nhận ra là Chúa và không ai dám hỏi gì nữa, không còn ai hồ nghi gì nữa. Sau bữa ăn thân mật ấy, Chúa tâm sự riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con có yêu mến Thầy không? Trước khi đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, Chúa muốn ông phải yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người khác. Phêrô đã bày tỏ tình yêu của mình một cách đơn sơ và chân thành: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng: Hãy chăn dắt đoàn chiên của Thầy.
Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong Giáo hội tinh thần:"Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát" (1Pr 5,2-4). Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng, mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Chúa đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận suy niệm bài tin mừng hôm nay và nhắn gởi các mục tử như sau: Chúa Giêsu hỏi ba lần: “Con có yêu mến Thầy không ?”, đáp lại ba lần “Có” cũng là để bù lại ba lần chối Thầy. Trước thái độ ba lần từ chối của Phêrô, Chúa không đòi hỏi Phêrô ba lần xin lỗi hay để trừng phạt, song ba lần Chúa muốn được nghe Phêrô nói: “Con yêu mến Thầy”. Như trước đây với Madalena, lần này là Phêrô và sau này là mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu muốn nói: “Con yêu nhiều thì sẽ được tha thứ nhiều và ngược lại, con được tha thứ nhiều vậy con hãy yêu nhiều”. Tiếng gọi lãnh đạo của Chúa là tiếng tình yêu, Chúa Giêsu cũng không hỏi Phêrô, con đã có chìa khóa lãnh đạo cao cấp chưa ? Hay có bằng cấp gì ? Tốt nghiệp đại học nào chưa ? Song như có lần Chúa Giêsu nói: “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lề luật của Ta” thì bây giờ Ngài nói: “Con yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. Chúa Giêsu quan niệm về lãnh đạo là yêu thương, là phục vụ, rửa chân cho những người mình lãnh đạo, Chúa Giêsu không quan niệm nền tảng và phương pháp lãnh đạo là thao tác thôi. Đối với những người lãnh đạo không phải là thao tác bắt người ta làm theo ý mình, song bằng tình yêu giúp nhau thực hiện ý Chúa. Như trong trường hợp của Phêrô, tình thương của Chúa đối với Phêrô và của Phêrô đối với Chúa, tình thương ấy xóa bỏ hận thù, xóa bỏ lỗi lầm xưa và đưa người yêú kém kia trở lại sống trong tình yêu của Chúa. “Anh em yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Lời mời gọi ấy nhằm vào hàng giáo sĩ. Dĩ nhiên, sau cùng là lời mời gọi đối với mỗi người tín hữu, ai cũng có trách nhiệm liên đới đối với vận mệnh phần rỗi của mỗi anh em mình, về phận sự chăn dắt, nuôi nấng và đưa anh em về đoàn chiên và gìn giữ họ an toàn trong Đức tin. Hãy vì yêu mến Chúa mà làm phận sự chăn dắt và yêu người, tức là làm việc Tông đồ truyền bá Tin mừng và làm cho anh em mình nhận biết và phụng thờ Thiên Chúa (dmhcg.org).
Nhìn lại cuộc đời của Thánh Phêrô, chúng ta thấy một điều rất rõ là trong trái tim vị Tông đồ, lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì Phêrô cũng không giận Chúa. Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa. Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.
Chúa Giêsu hỏi Phêrô đến ba lần có yêu mến Ngài không. Phêrô cảm thấy nhói đau vì câu hỏi đụng đến vết thương chưa lành của ba lần chối Chúa. Sự cắn rứt dày vò vì lầm lỗi của mình có thể làm người ta trở nên cứng lòng và chai lỳ trong tội lỗi. Tuy nhiên, Phêrô đã trả lời; và ba lần trả lời là cả ba lần Phêrô đối lại việc mình đã chối Thầy trước đây bằng tâm tình thống hối và bằng việc khẳng định tình yêu không thay đổi dành cho Thầy Giêsu.Việc chăm sóc đàn chiên yêu dấu mà Ngài đã đổ máu ra để cứu chuộc, Chúa chỉ giao cho người nào dám khẳng định tình yêu của mình dành cho Đức Kitô đến độ say mê như thế mà thôi.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu không trao Giáo hội cho một người trí thức thông thái, có tài lãnh đạo, có uy tín, mà Chúa lại trao Giáo hội cho Phêrô, một Tông đồ nhiều khuyết điểm, bị la mắng nhiều hơn khen ngợi? Chắc chắn nơi Phêrô có một lòng mến Chúa thiết tha. Sau ba lần hỏi: Con có yêu mến Thầy không? Và sau ba lần Phêrô xác định tình yêu ấy, Chúa Giêsu trao Giáo Hội cho Ngài. Ngài vâng lời Chúa về Giêrusalem, bài giảng đầu tiên hùng hồn mang về cho Chúa 3.000 người xin rửa tội. Kể từ đó, Ngài đi vào cánh đồng truyền giáo bao la, là thành đô Roma. Đối diện với gian nguy bắt bớ tù đày, Thánh Nhân đã can trường làm chứng cho Đức Giêsu Phục sinh. Ngài đã lấy máu đào tử đạo minh chứng cho lòng yêu mến Thầy. Ngài đã viết nên trang sử vàng, hào hùng, vẻ vang cho Giáo Hội sơ khai.
Thánh Phêrô đã sửa chữa lỗi chối Chúa bằng cách tuyên xưng tình yêu, và rồi sẽ hiến mình vì đàn chiên được giao phó. Lòng khiêm nhường, lòng mến Chúa của Thánh Phêrô, kinh nghiệm về ơn tha thứ của Chúa, tất cả đều dẫn đưa Thánh Nhân đến với tình yêu của Chúa. Nhờ tình yêu Chúa dẫn lối mà Ngài đã đi bất cứ nơi nào Chúa muốn, cho dẫu nơi đó là ngục tù, là cái chết, bởi lẽ vì tình yêu của Chúa lớn hơn tất cả.
Khi Thánh Phêrô yêu mến và gắn kết đời mình với Chúa, ông có thể vượt thắng mọi yếu đuối và làm điều Chúa muốn.Chúng ta đừng thất vọng vì lỗi lầm đã phạm. Hãy can đảm tuyên xưng tình yêu đối với Chúa và hoàn thành tốt sứ mạng được giao phó là đem Tin Mừng Tình Yêu đến trong môi trường mình đang sống và làm việc. Lòng mến Chúa sẽ mở cửa cho chúng ta đi vào Nước Trời. Chúa không đòi hỏi nơi mỗi người sự khôn ngoan, tài năng. Chúa chỉ cần lòng mến “con có yêu mến Thầy hơn những người này không?”. Khi yêu mến Chúa, chúng ta sẽ làm mọi sự đẹp lòng Chúa. Lòng mến là thước đo cho mọi giá trị đạo đời.
Vào một ngày trong tuần, khi trời đã sáng, Đức Giêsu Phục sinh đứng trên bờ biển, Ngài đứng chờ PS 3-C147
Vào một ngày trong tuần, khi trời đã sáng, Đức Giêsu Phục sinh đứng trên bờ biển, Ngài đứng chờ để gặp các tông đồ chính lúc họ mệt mỏi, thất vọng và đói khát vì suốt một đêm thâu không bắt được con cá nào. Ngài đứng chờ để trao ban cho các tông đồ sự hiện diện, quan tâm, chăm sóc, phục vụ: “Này các chú, không có gì ăn ư? hãy thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, anh em đến mà ăn, và trao bánh cùng cá cho các ông...”
Đức Giêsu đã vượt qua biển trần gian bằng chính cuộc khổ nạn cùng cái chết thập giá và nay Ngài đã phục sinh, Ngài đang hiện diện ở một bến bờ khác, bến bờ đời đời để chờ đợi các tông đồ, nhưng các ông không nhận ra Ngài: “Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu” (21,4)
Đức Giêsu Phục sinh vẫn hiện diện để chăm sóc và quan tâm đến mọi vấn đề của con người như Ngài đã bận tâm đến nỗi bận tâm của hai môn đệ Emmau: “các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24,17). Như Ngài đã bận tâm đến lo lắng, mất mát của Maria Macdala: “Này bà sao bà khóc, bà tìm ai?”(Ga 20,15). Và hôm nay Ngài đứng trên bờ biển chờ đợi các tông đồ khi các ông vừa qua kinh nghiệm thất bại, mệt mỏi, đói khát không phải một hai giờ, một hai mẻ lưới, mà kinh nghiệm thất bại ấy là suốt một đêm thâu. Ngày hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh vẫn luôn hiện diện ở mọi bến bờ của cuộc đời, của ngày sống con người, Ngài hiện diện cận kề với con người ngay chính trong công việc sinh sống, làm ăn vất vả hằng ngày của họ, Ngài quan tâm đến những vấn đề của con người đang đối diện, Ngài chờ đợi để đáp ứng những nhu cầu, để làm cho con người những điều diệu kỳ như mẻ lưới đầy cá mà Ngài đã làm cho các tông đồ ở Tibêria xưa.
Bảy tông đồ sau một đêm mệt nhọc vất vả xoay sở dưới biển với thuyền và lưới mà không được gì, thì Đức Giêsu đã chờ các ông sẵn trên bờ biển, nhưng các ông không nhận ra Ngài, Ngài đã phải gợi chuyện, hỏi thăm bằng sự quan tâm: “Này các chú, không có gì ăn ư?” và Ngài tìm cách giúp đỡ: “hãy thả lưới bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá".Chính mẻ cá lạ đã giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh trước nhất: "Chúa đó". Còn các tông đồ khác phải cần đến việc Chúa nướng cá, trao cho bánh và được cùng ăn với Chúa, các ông mới nhận ra Ngài: “sau đó không ai trong các môn đệ dám hỏi ông là ai, vì các ông biết đó là Chúa” (21, 12).
Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, xin cho chúng con đừng bao giờ quên Chúa vẫn đứng ở “trên bờ” biển cuộc sống của chúng con đợi chờ chúng con, Chúa vẫn hiện diện ở mọi bến bờ của niềm vui, của thành công, và của thất vọng, nao núng, của khổ đau, lo lắng…để hướng dẫn, để trao ban bánh, để chăm sóc cho từng người, từng gia đình, cộng đoàn chúng con bằng chính Mình Máu Chúa, bằng Lời của Chúa, bằng các ân huệ…Xin cũng cho chúng con một dấu chỉ và một sự nhạy bén thiêng liêng, để chúng con có thể nhận ra và có thể nói được chính “Chúa đó” trong từng ngày sống của chúng con như Gioan, người môn đệ Chúa yêu. Amen
Hôm nay trình thuật của thánh Gioan kể lại sự kiện Đức Giêsu “tỏ mình ra” cho các môn đệ ở PS 3-C148
Hôm nay trình thuật của thánh Gioan kể lại sự kiện Đức Giêsu “tỏ mình ra” cho các môn đệ ở biển hồ Tibêria, sau khi Ngài Phục Sinh.
Sự kiện Phục Sinh làm cho các ông mừng rỡ lấy lại niềm tin đã mất trong cuộc tử nạn của Thầy mình. Đã tan đi những hoài bão kiểu trần tục, lúc này các ông trở về với nghề chài lưới đời thường. Khi họ đang “ở với nhau”, ông Phêrô như lá cờ đầu khởi xướng công việc: “Tôi đi đánh cá đây.” Tất cả đồng lòng với ông và cùng nhau ra đi chèo thuyền đánh cá ngay. “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Vậy mà sao suốt đêm họ trắng tay chẳng bắt được con cá nào cả? Hết giờ, trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, mà các ông “mơ màng” như Maria Mácđala hôm trước tưởng là “người làm vườn”, có “ông bác” nào đó đánh tiếng hỏi thăm các chú có gì ăn không? Đang chán nản họ buông câu cụt ngẫng “thưa không”. Chắc họ đang thả lưới bên trái mạn thuyền, ông ấy bảo cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền sẽ bắt được nhiều cá. Họ nghe theo và thả ngay thì… woa! không kéo nổi vì lưới đầy những cá ngoài sự mong tưởng của các ông. Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến mới giật thót mình nói nhỏ với Phêrô: “Chúa đó!”
Bởi ông Gioan yêu mến Thầy mình lắm nên mới tinh ý phát giác qua dấu chỉ nhanh nhất như vậy. Lập tức Phêrô vội khoác áo vào và nhảy tùm xuống biển mà “náu”! Suốt đêm đánh cá không kết quả cho thấy sự nghèo nàn kém cỏi, khi làm việc chỉ cậy dựa vào sức riêng mình. Nhưng khi có Chúa can thiệp, con người vâng theo Ý Chúa thì kết quả sẽ tuyệt diệu ngoài sức tưởng tượng. Mẻ cá diệu kỳ hôm nay hẳn làm các ông nhớ hồi nào Thầy gọi “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Từ nghề lưới cá đến sứ vụ “lưới người” của các môn đệ, sẽ thành công ngoài mơ ước nếu biết “vâng nghe” Lời Chúa. Mẻ cá lạ này đếm được 153 con. Các nhà sinh vật học đã ghi vào danh mục cá biển gồm 153 loài. Mẻ lưới thu được 153 con, tượng trưng Nước Chúa như tấm lưới thu góp tất cả mọi tâm hồn. Nước Trời mở rộng cho hết mọi người không phân biệt màu da chủng tộc, quê hương.
Đức Giêsu bảo các ông đem ít cá mới bắt được lên bờ có sẵn than hồng và bánh. Người mời “Anh em đến mà ăn!” Thưởng thức bữa ăn gồm bánh và cá, với cử chỉ Người “cầm lấy” và “trao cho”, lúc này các ông chỉ biết im lặng, không ai dám hỏi “Ông là ai?” vì đã nhận ra mồn một đó là Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh! Xin cho chúng con đủ lòng tin yêu cậy dựa nơi Chúa, để chúng con nhận ra và mau mắn làm theo lời dạy của Chúa, Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu cho sứ vụ của người phàm chúng con. Xin cho chúng con biết đến gặp gỡ Chúa trong Lời Chúa và Bữa Tiệc Thánh Thể, để chúng con nhận ra và kín múc sức mạnh, nguồn sống từ chính Chúa Phục Sinh, mà đơm hoa kết trái trong cuộc đời theo Chúa của chúng con. Amen.
Chúng ta vẫn thường nói với nhau rằng, sở dĩ Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô “con có yêu mến Thầy PS 3-C149
Chúng ta vẫn thường nói với nhau rằng, sở dĩ Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô “con có yêu mến Thầy không?” tới 3 lần là vì trước đó thánh nhân đã chối Chúa tới 3 lần. Điều này không sai, nhưng có lẽ không chỉnh lắm, vì việc chối Chúa là điều nghịch với đức tin, trong khi ở đây Chúa Giêsu đang hỏi thánh Phêrô về đức mến.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta không nhằm bàn chuyện 3 lần chối tương đương 3 lần yêu, mà điều quan trọng là Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: điều kiện đứng đầu trong các điều kiện của vai trò mục tử là lòng yêu mến Chúa.
Khi thiết lập người đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu lại đặt một vị đã từng 3 lần chối Chúa. Nếu xét theo cách nhìn của chúng ta thì có lẽ Phêrô không xứng đáng và không đủ tiêu chuẩn làm mục tử. Nhưng dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, Người không nhìn Phêrô của ngày hôm qua mà là bắt đầu từ lúc này và hướng về tương lai. Phêrô từng lầm lỡ và khiêm tốn ăn năn để đứng lên, nên cũng chính Phêrô cảm thông được với những con chiên mà Chúa Giêsu trao phó cho ngài. Thiên Chúa đi tìm con chiên lạc thay vì ở nhà với 99 con chiên không lạc. Thiên Chúa cũng chọn một vị mục tử đã từng lạc lối, nhưng điều quan trọng là: “này Phêrô, một khi anh đã trở lại, anh hãy làm cho anh em vững tin”.
Khi đặt Phêrô làm mục tử chăn dắt Giáo Hội hoàn vũ, Chúa Giêsu chắc chắn không dựa trên tiêu chuẩn: thông minh, tài giỏi, oai phong, lợi khẩu… mà là lòng yêu mến. Chúa Giêsu chọn Phêrô vì thánh nhân đã yêu mến nhiều. Phêrô yêu mến nhiều là vì “ngài đã được tha thứ nhiều” (x.La 7,47).
Và vì yêu mến là tiêu chuẩn Chúa chọn mục tử, thì đòi hỏi mục tử cũng phải biết chăn dắt chiên bằng lòng yêu mến, chứ không phải bằng sự độc tài, quyền thế và chiếm hữu.
Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì yêu mến đoàn chiên, thì đến lượt mục tử Phêrô cũng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên như Thầy: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn." Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy” (Ga 21,18-19).
Mục tử có thể thiếu thiếu những tiêu chuẩn khác như thông minh hay lợi khẩu, nhưng mục tử không thể thiếu lòng yêu mến; có làm được mọi sự phi thường, nhưng không có lòng mến thì vô ích. Cảm nghiệm được điều này, thánh Phaolô đã nói: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi (1Cr 13,1-3).
Người Do-thái không dùng thể so sánh tuyệt đối, nhưng dùng sự lặp lại 3 lần để chỉ điều tuyệt đối. Vì thế, khi lặp lại 3 lần sự tuyên xưng yêu mến thì có nghĩa là mức độ yêu mến của mục tử là trên hết và là điều kiện quan trọng nhất trong mọi điều kiện. Cuộc đối thoại hôm nay giữa Chúa Giêsu và thánh Phêrô nói rõ cho biết làm Kitô hữu có nghĩa là gì. Mỗi ngày, Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta có yêu mến Người một các đặc biệt và ‘trên hết mọi sự’ hay không: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Cũng như thánh Phêrô, chúng ta trả lời “có”, mặc dù chúng ta đầy những yếu đuối; và Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta bước theo Người vì tình yêu (x.Ga 19), và cùng với Người gánh vác Dân Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chọn thánh Phêrô làm người chăn dắt Giáo Hội vì thánh nhân đã yêu mến Chúa. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng, tất cả mọi quyền bính trong Giáo Hội đều khởi đi từ lòng yêu mến, và đức mến là đồng phục của mọi Kitô hữu, để chúng con giữ trọn điều răn Chúa là: “Trước yêu mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy” Amen.
Theo trình thuật của tác giả Tin Mừng thứ IV, cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh hôm nay với PS 3-C150
Theo trình thuật của tác giả Tin Mừng thứ IV, cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh hôm nay với các môn đệ là lần hiện ra thứ ba (số đông) sau khi từ cõi chết sống lại. Cuộc hiện ra với nhiều môn đệ lần thứ ba này không còn ở Giêrusalem nữa, mà là về miền Bắc nơi có biển hồ Galilê, theo như những gì Người đã báo trước.
Galilê là nơi Chúa Giêsu khởi sự rao giảng Tin Mừng và chọn các môn đệ, thì nay sau khi sống lại, Chúa Giêsu cũng mời gọi các môn đệ bắt đầu từ đây mà làm chứng cho Người “bắt đầu từ Galilê cho đến tận cùng trái đất”. Theo tường thuật của tác giả Tin Mừng, chúng ta gặp thấy một số chi tiết mang tính biểu tượng sau đây:
- Trước hết, điều chắc chắn là hôm nay các môn đệ đã tụ tập về đây theo cuộc hẹn trước của Thầy. Thầy đã nói điều này trước khi bước vào cuộc tử nạn và sau khi Phục Sinh cũng đã nhắc đi nhắc lại để hẹn các ông về gặp nhau ở Galilê (Mt 26,32; 28,7.10; Mc 14,28; 16,7). Và có lẽ chờ Thầy chưa đến, các ông rủ nhau làm một chuyến đánh cá hồi nhớ nghề cũ và kiếm cái để ăn. Tin mừng kể rằng các môn đệ vất vả suốt đêm mà không bắt được gì, cho tới sáng Chúa hiện ra và bảo hãy thả lưới vào bên phải mạn thuyền. “Thả lưới vào bên phải thuyền” thiết nghĩ không có gì mới, và những tay nghề như Phêrô hay Anrê có lẽ cả đêm cũng đã thả lưới đủ bên trái hay bên phải rồi. Thực ra, những chi tiết như “vất vả suốt đêm”, “trời sáng Chúa Giêsu đến” và “thả bên phải mạn thuyền” mang ý nghĩa biểu tượng. Đặc biệt hình ảnh “bên phải mạn thuyền” gợi nhớ sự kiện một tên lính đã dùng giáo đâm vào cạnh sườn phải Chúa Giêsu làm máu và nước chảy ra. Với sức riêng ỷ lại vào khả năng mình và mò mẫm trong bóng tối, công việc truyền giáo (bắt cá) của các mnôn đệ hoàn toàn thất bại, cho tới khi có ánh sáng Đấng Phục Sinh đến, và khi bắt đầu truyền giáo bằng Tình Yêu từ cạnh sườn của Đấng Phục Sinh thì kết quả mới bội thu.
- Chi tiết khi các môn đệ bước lên bờ, thì đã có cá nướng sẵn, nhưng Chúa Giêsu bảo đem cá các ông vừa mới bắt được đến nữa cũng mang một ý nghĩa biểu tượng. Đấng Phục Sinh không dọn sẵn cho các môn đệ tất cả, nhưng cần sự cộng tác của các ông. Thiên Chúa ghi nhận công lao vất vả của con người, để cùng kết hợp trong hy tế của Chúa Giêsu đem lại ơn cứu độ cho muôn dân.
- Lưới đầy những CÁ LỚN, được 153 con mà lưới không bị rách: Các nhà chú giải vẫn xem con số 153 là tượng trưng cho 153 loài cá dưới biển. Cũng cần phải nói thêm rằng, chi tiết “lưới nhiều cá thế mà không bị rách, thuyền chở nặng gần chìm mà không chìm” cũng là một ý nghĩa biểu tượng mà tác giả Tin Mừng muốn chuyển tải. Giáo Hội quy tụ muôn dân nhưng vẫn đủ chỗ, không bao giờ thiếu chỗ cho các công dân gia nhập Nước Trời, và ân sủng của Thiên Chúa mà các chứng nhân mang đến cho mọi người không bao giờ bị vơi.
- Cuối cùng, hình ảnh tông đồ trưởng Phêrô khoác áo vào và nhảy xuống biển, cũng gợi lại hình ảnh Chúa Giêsu mang lấy chiếc khăn để quỳ xuống rửa chân, nhiệm ý diễn tả các sứ giả Tin Mừng là phải mang lấy sự phục vụ của Chúa để đến với mọi người giữa biển đời bao la.
Tóm lại, rao giảng về Đấng Phục Sinh phải khởi đi từ Tình Yêu nơi trái tim (cạnh sườn) Chúa chứ không phải từ sức riêng mình; rao giảng bằng sự cộng tác chính mình với ân sủng Chúa chứ không ỷ lại vào Chúa. Đặc biệt, rao giảng bằng phục vụ chứ không phải để được phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin dạy chúng con biết làm cho ánh sáng phục sinh của Chúa chiếu toả trên mọi người bằng chính đời sống phục vụ của chúng con. Amen.