Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14–A Bài 151-163 Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng ----------------------------- Phúc Âm: Mt 11, 25-30: "Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng".
Câu chuyện “Thế à” nổi tiếng về vị Thiền sư Hakuin được nhiều người biết đến: “Thiền sư Hakuin TN 14-A151
Câu chuyện “Thế à” nổi tiếng về vị Thiền sư Hakuin được nhiều người biết đến:
“Thiền sư Hakuin rất được mọi người trọng vọng, kính nể vì phong cách đạo đức thánh thiện của ông. Một ngày kia, có một người con gái trẻ đẹp, nhà gần chùa của thiền sư bị chửa hoang. Người ta không biết cha đứa bé là ai. Bố mẹ cô gái vô cùng tức giận và xấu hổ nên đánh đập tra khảo cô con gái về lai lịch tình nhân của cô. Ban đầu cô con gái không chịu nói gì cả, nhưng sau vì bị đánh đập dữ dội, cô tiết lộ đó là thiền sư Hakuin. Tin xấu đồn ra nhanh chóng. Cha mẹ cô gái giận dữ, đùng đùng lên chùa và mắng xối xả vào mặt Hakuin. Khi họ dứt lời, Hakuin chỉ thốt lên hai tiếng “Thế à!”. Sau khi đứa bé chào đời, gia đình cô gái mang đứa bé quẳng cho Hakuin nuôi. Thiền sư cũng chỉ nói hai tiếng: “Thế à!”. Hakuin chăm sóc đứa bé thật tử tế và bồng nó đi xin sữa khắp nơi. Một năm sau, cô gái vì cảm thấy ray rứt, hối hận nên đã thú thực với cha mẹ người cha đứa bé không phải là Hakuin mà là một chàng thanh niên làm việc ở chợ cá. Cha mẹ cô ta vội chạy lên chùa dập đầu tạ lỗi với Hakuin và xin mang đứa bé về. Thiền sư vẫn thản nhiên như không, thốt lên hai tiếng “Thế à!” và trao đứa bé lại cho gia đình.
Đang khâm phục thái độ của Thiền sư Hakuin, tôi được lời Chúa hôm nay soi dẫn để suy nghĩ, nghiền ngẫm về nhân đức hiền lành.
Hiền lành nói chung
Đức Cha G.B Bùi Tuần đã chia sẻ: “Hiền lành và khiêm nhường là những giá trị đạo đức chung. Nghĩa là bất cứ ai, không phân biệt thuộc dân tộc nào, tôn giáo nào, văn hoá nào, hễ sống hiền lành và khiêm nhường, thường được đánh giá là đạo đức. Có thể nói: Hiền lành và khiêm nhường là vẻ đẹp gọi được là căn bản của bất cứ ai muốn sống nên người. Hơn nữa, hiền lành và khiêm nhường nhiều nơi được coi như tinh hoa của nền văn hoá do các thánh hiền đã dạy, và được các thế hệ tổ tiên truyền lại”.
Hiền lành trong Kitô Lời Chúa
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Dacaria cho dân Do Thái biết Đấng Messia sẽ đến là Đấng “khiêm tốn ngồi trên lưng lừa” (Dcr 9, 9); Ngài sẽ là một vì Thiên Chúa đem đến bình an, hạnh phúc cho dân bằng sự nhẹ nhàng, khiêm tốn chứ không phải bằng vũ lực, chiến tranh hay muốn biểu dương quyền lực…
Trong bài Tin Mừng, sau khi cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với đám đông dân chúng: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11, 29).
Trước đoạn Tin Mừng này, trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã nói đến mối phúc thứ hai: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp” (Mt 5, 4).
Như vậy sự hiền lành trong Kitô giáo được bắt nguồn từ sự khiêm hạ của Đức Giêsu, Ngài chính là “Người tôi tớ đau khổ” mà Isaia đã loan báo. Ngài là người được Thiên Chúa tuyển chọn và rất mực yêu thương. Người rất hiền lành và dịu dàng: “không lớn tiếng giữa phố phường, không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, Người cũng không dập tắt tim đèn còn khói” (Is 42,3). Để nói về sự khiêm nhường của Người, chúng ta chỉ có thể đọc lại lời thánh ca trong thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi giáo đoàn Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Như vậy qua lời Chúa, qua giáo huấn của những bậc hiền triết, qua tấm gương của những chân tu, và nhất là bằng tất cả con người của Đức Giêsu Kitô với lời nói, việc làm, chúng ta đón nhận giáo huấn về sự hiền lành và được mời gọi sống hiền lành để “được đất hứa làm gia nghiệp”. Tuy nhiên, thế nào là hiền lành.
Thế nào là Hiền lành?
Từ điển Wiktionary Tiếng Việt đã định nghĩa: Hiền lành là tính từ chỉ một người nào đó rất tốt bụng, hay giúp người. Stratu còn cho biết người hiền lành không hề có một hành động gây hại cho bất kỳ ai. Có người cho ý kiến : người hiền lành là người sống hòa nhã, chân thật, không làm điều ác, không thích gây gổ cãi cọ bao giờ, biết nhường nhịn mọi người.
Theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh thánh thì hiền lành có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo. Tất cả những biểu hiện nói trên cho chúng ta một nét chung của người hiền lành: “Tâm bất biến giữa dòng dời vạn biến”.
Phúc cho những ai hiền lành
Như vậy, người hiền lành không phải là kẻ nhu nhược, sợ hãi không dám hành động, mà bởi vì họ là kẻ mạnh, họ làm chủ được cảm xúc của mình và họ biết mình phải làm gì. Sự hiền lành đạt đến mức tột độ khi người ta thực sự rập khuôn cuộc đời mình với khuôn mẫu mầu nhiệm thánh giá của Đức Kitô. Nó là sự tự hủy, coi bản thân mình chẳng là gì, mà chỉ nghĩ đến người khác.
Những người có tâm tính hiền lành tự nhiên phải cám ơn Chúa, vì đó có thể gọi là “hoa đồng cỏ nội”, nét đẹp dịu dàng, chất phác của thiên nhiên làm cho mọi người dễ chịu, đi ngang qua ai cũng muốn ngắm nhìn. Dân gian thường hay nói họ: “hiền như cục đất”, muốn ném đâu thì ném. Quả thật họ là những người không thích tranh luận, không muốn hơn thua, sao cũng được. Họ quan niệm: “Ai nhất thì tôi thứ hai, ai mà hơn nữa, tôi thì thứ ba”
Tuy nhiên thật quý giá cho những ai có tính khí hung hăng, nhưng luôn thao thức để rèn luyện nhân đức hiền lành theo lời mời gọi của Thầy Giêsu. Họ phải cắn răng chịu đựng, ngậm đắng nuốt cay… để tránh những xung đột, những va chạm… vì họ muốn yêu thương “như Thầy yêu thương”.
Có những người chia sẻ với tôi, mỗi sáng thức dậy họ đều cầu nguyện: “Xin cho con trong ngày hôm nay được hiền lành như Chúa Giêsu”, vì họ biết mình rất nóng nảy. Và lời nguyện đó trở thành lời nguyện tắt trong suốt ngày, để khi gặp những gì không vừa ý, họ nhớ đến sự hiền lành và cố gắng bỏ qua. Tuy nhiên có những khi không thể chịu nổi, họ cũng lỡ lời lớn tiếng nạt nộ người khác. Nhưng điều đó cho thấy sự nổ lực để muốn trở nên hiền lành là đáng quý hơn những vấp váp do tính khí hung hăng.
Hãy học với tôi…
Nhìn vào thực trạng xã hội và thực tế đời sống gia đình hôm nay, lời mời gọi: “hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” của Đức Giêsu càng trở nên cấp bách. Chỉ vì những xung đột nho nhỏ, hoặc những va chạm giao thông chẳng đáng gì mà nhiều khi trở thành những vụ án mạng. Chỉ vì chồng thích xem đá banh, vợ mê phim Hàn Quốc cũng đủ trở thành nguyên nhân cho một vụ ly dị… Nói theo lý thuyết, chỉ cần nhường nhịn nhau một chút là mọi sự sẽ tốt đẹp. Tuy nhiên, nếu nhường nhịn được thì đâu có chuyện gì để nói.
Vấn đề ở đây là chúng ta phải nhìn với cái nhìn đức tin. Chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta được nghe biết rát nhiều về Đức Giêsu, nhưng chúng ta có cố gắng để học hỏi cung cách hiền lành và đời sống yêu thương của Ngài không, hay việc đi lễ của chúng ta chỉ lề luật, và việc sống đạo của chúng ta chỉ là hình thức bên ngoài?
Nếu Kitô hữu thực sự luôn thao thức để thực hành lời Chúa, luôn cố gắng để trở nên giống Đức Giêsu, thì rõ ràng họ sẽ trở thành ánh sáng cho trần gian.
Ước mong qua lời Chúa hôm nay, trước hết mỗi người chúng ta, nhất là các bạn trẻ hãy cố gắng cho mình biết sống đạo thực sự chứ đừng giữ đạo bằng những lề luật bên ngoài. Khi đã muốn sống đạo, chúng ta mới thực hành bước tiếp theo là cầu nguyện cho mình được hiền lành như Đức Giêsu. Với lời nguyện xin được trở nên hiền lành nghĩa là chúng ta muốn đem tình yêu thương đến cho người khác, không muốn để người khác phải khổ vì bị mình chửi mắng, đánh đập, hành hung, làm hại, xúc phạm… thì tự nhiên những hành động của chúng ta cũng sẽ hiền lành hơn mỗi ngày vì chúng ta biết nghĩ đến người khác.
“Lạy Trái Tim Cực Thánh Đức Chúa Giêsu, xin uốn lòng chúng con nên giống như Trái Tim Chúa.”
Ngày nay, chúng ta chẳng lạ gì với những quảng cáo. Chúng ta có thể gặp mọi loại hình quảng cáo TN 14-A152
Ngày nay, chúng ta chẳng lạ gì với những quảng cáo. Chúng ta có thể gặp mọi loại hình quảng cáo ở khắp mọi nơi, khi đi trên đường, đến nơi làm việc, đi mua sắm, hay thậm chí ngồi ở một chỗ mà chúng ta vẫn nắm bắt được rất nhiều thông tin qua các phương tiện kỹ thuật số. Nếu chúng ta yêu thích thời trang thì quảng cáo về thời trang giới thiệu cho ta mẫu mới, giá rẻ, chất lượng; nếu chúng ta thích du lịch thì quảng cáo về du lịch sẽ cho chúng ta nhiều địa điểm hấp dẫn với không gian yên tĩnh, thoáng mát, đầy đủ tiện nghi, đảm bảo rằng ta sẽ hài lòng. Vì đã quá quen với cách người ta quảng cáo nên chúng ta không mấy để tâm và tin tưởng về những quảng cáo ấy. Có một người cũng giới thiệu về mình cho chúng ta, nhưng không phải là để kiếm chác thu lợi cho bản thân nhưng là để đỡ nâng người khác: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28). Chúng ta có để tâm khi nghe lời mời gọi của Đức Giêsu hay cho rằng Người cũng chỉ nói suông như bao nhà quảng cáo khác? Chúng ta có được cuốn hút hay thắc mắc về lời mời gọi của Ngài không? Chúa thực có biết những nỗi đau, gánh nặng nề của ta? Làm sao Ngài có thể gánh lấy những nỗi đau thương của ta? Và làm thế nào ta có thể đến với Ngài?
Dân gian có câu: “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Thật vậy, mỗi người một hoàn cảnh, với nỗi đau và sự khốn khó riêng chẳng ai giống ai. Đã là người, ai cũng có những nỗi ưu tư, lo lắng, không phải chỉ người lớn mà ngay cả những đứa trẻ. Còn nhỏ thì chịu áp lực về học hành, thi cử, chạy đua theo thành tích của người lớn. Còn người lớn thì lo lắng về bệnh tật, kinh tế- tài chính, việc, tương lai của con cái, mất mát người thân, … Nếu kể ra cho hết những lo lắng ấy thì kể đến suốt đời cũng không hết vì ngày nào cũng có khốn khó của ngày đó (x. Mt 6,34).
“Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6,34). Đó là lời của Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết về thực tại của cuộc sống trần gian này. Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhưng đã xuống thế làm người, cùng sống và trải qua hết những nỗi khổ đau của thân phận làm người như ta. Ngài đã từng chịu nỗi đau mất mát Cha Thánh Giuse, bị phả báng, bị ruồng bỏ, bị đánh đập, và bị giết như người tội lỗi dù Ngài hoàn tôafn vô tội. Trong sách tiên tri Dacaria đã tiên báo về Ngài: Ngài là Đức Vua Chính Trực, Toàn Năng nhưng lại rất khiêm tốn, ngồi trên lưng lừa; Ngài sẽ đến và đem lại cảnh hòa bình cho muôn dân (x. Dcr 9, 9-10). Ngài đã gánh lấy những nỗi đau khổ của chúng ta để chúng ta được sống. Hãy chiêm ngắm Thánh giá, chúng ta sẽ nhận ra rằng: tất cả những nỗi đau của chúng ta chẳng sánh được với nỗi đau thương của Ngài đã phải chịu vì yêu thương ta để chu toàn thánh ý của Chúa Cha.
Chu toàn thánh ý Chúa Cha là cách sống viên mãn và hạnh phúc. Tuy nhiên, có một số quan điểm cho rằng: Tôi sống tốt thế mà khi tôi xin được hết bệnh mà tôi đâu có hết bệnh? Tôi xin được giàu có mà sao mãi vẫn “nghèo rớt mùng tơi”? Hãy thinh lặng và nhìn lại, phải chăng chúng ta đang muốn điều tốt đẹp theo ý chúng ta, mà không để cho Thiên Chúa được thực hiện chương trình tốt đẹp của Ngài dành cho chúng ta? Trong thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma, ngài đã khẳng định: “Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8, 13). Đúng vậy, sự sống không theo cái nhìn của thế gian, nhưng là sự sống- hạnh phúc thật trong Chúa. Đó chính là bình an nội tâm, dù trong những phong ba bão táp của cuộc sống hay bệnh tật, hoàn cảnh khốn khó nhưng vẫn ánh lên niềm vui. Đó là nghịch lý của cuộc sống và là mầu nhiệm Nước Trời; chỉ khi chúng ta mở lòng để Thần Khí tác động, chúng ta mới hiểu được.
Thật vậy, chúng ta hãy đơn sơ dâng lên Chúa tất cả những khó khăn, nghịch cảnh, bệnh tật, nỗi đau của chúng ta. Ngài chẳng bỏ rơi chúng ta bao giờ: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có Chúa đón nhận con” (Tv 26, 10). Để rồi, chúng ta khiêm tốn đón nhận tất cả những điều ấy, và cùng với Chúa Giêsu dâng hiến lễ lên Chúa Cha, đồng thời, giúp chúng ta và những người xung quanh sống vui trong hành trình dương thế. Như vậy, chúng ta đang được hưởng hạnh phúc Nước Trời rồi!
Lạy Chúa Giêsu, lời mời gọi của Chúa không phải là quảng cáo nhưng là lời chân thật, lời yêu thương tha thiết của Chúa dành cho nhân loại. Con cám ơn Chúa đã mời gọi chúng con đến với Ngài, chỉ nơi Ngài, chúng con mới tìm thấy niềm vui. Xin cho chúng con biết “mạnh dạn” chạy đến với Ngài, trút cho Ngài gánh nặng của chúng con, trong tâm tình đơn sơ, phó thác và khiêm tốn đón nhận tất cả để dược cùng Ngài vào dự phần vinh phúc Nước Trời Amen.
Ðức Giêsu đã mạc khải mầu nhiệm về Cha của Ngài cho những kẻ bé mọn, những kẻ vô danh TN 14-A153
Ðức Giêsu đã mạc khải mầu nhiệm về Cha của Ngài cho những kẻ bé mọn, những kẻ vô danh tiểu tốt. Ðối với xã hội họ chẳng là gì, chẳng có quyền gì, nhưng đã được Ðức Giêsu yêu thương và dạy cho biết về mầu nhiệm cao siêu, huyền nhiệm Nước Trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã không chê sự hèn mọn của chúng con. Chúa đã cho chúng con được hạnh phúc biết về Thiên Chúa Cha, Ngài là Cha yêu thương chúng con. Xin cho toàn thế giới này cũng được nhận ra Cha là Ðấng đầy yêu thương để họ được hạnh phúc. Amen.
Ghi nhớ : “Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng”.
8.Hãy học cùng Ta: hiền lành và khiêm cung--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm --ViKiNi Có lần báo chí đăng tin: Một anh tài xế khốn nạn, chịu không nổi vợ, đã mướn ba tên chuyên môn sát nhân để thủ tiêu vợ. Anh bị bắt và điều tra. Anh đáp: “Nó cằn nhằn tôi suốt ngày, làm cho đời tôi thành địa ngục”.
Biết bao kẻ phạm tội ác như thế, chỉ vì không sống hiền lành và khiêm tốn. Chị vợ nóng nảy gắt gỏng đã biến gia đình thành địa ngục, đã biến anh chồng thành kẻ sát nhân.
Vua Salômon đã nói: “Thà phải sống trong lẫm lúa nóng hừng hực còn hơn là sống trong ngôi nhà xinh đẹp với một bà vợ gắt gỏng” (Nguyễn hiến Lê dịch: Carnegie - Giúp chồng thành công trang. 128)
Nhiều gia đình không đến nỗi khủng khiếp như thế; nhưng cũng chất đầy những đau khổ để giết nhau dần dần bằng lối sống bẳn gắt, từ giận chửi nhau đến đánh nhau. Hết chiến tranh nóng lại tới chiến tranh lạnh, buồn bực, âm ỉ, mặt nặng mặt nhẹ, rêu rao bêu xấu, thù vặt.
Muốn sống bình an thật sự, muốn được sống êm ấm, an vui, phải sống theo lời Chúa kêu gọi: “Hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ mát bồi dưỡng”.
Học cùng Đức Giêsu hiền lành và khiêm tốn như thế nào?
Trong vườn cây Dầu, quân dữ hùng hổ kéo đến tìm bắt Chúa Giêsu. Phêrô giật mình thức dậy, rút gươm đột xuất chém đứt tai tên đầy tớ thầy cả thượng phẩm. Đức Giêsu hiền từ bảo Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao, ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”, rồi Người thương lấy tai đứt ráp lại cho anh được lành. Có ai hiền lành chịu nhục như thế không? Không tức giận, mắng chửi, không đánh phạt quân dữ hung hăng, mà còn thương yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ thù.
Đang cơn đau đớn quằn quại trên thập giá, Đức Giêsu vẫn nhớ cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết”. Người không xin Thiên Chúa toàn năng công thẳng kết án, trả thù, giáng phạt quân dữ chết tươi. Người không đe dọa báo oán, không kêu xin cứu mình, nhưng kêu xin Chúa Cha nhân từ tha thứ cứu chữa kẻ giết mình; khác hẳn những nạn nhân loài người thường chửi rủa đe dọa kẻ làm hại mình. Lòng Đức Giêsu rộng rãi bao la vô bờ: che chở bênh vực kẻ thù, cầu khẩn ân xá cho kẻ giết mình. Không thể tìm thấy đâu trên khắp mặt đất, hay dưới gầm trời bốn bể có người nào khoan nhân, dung thứ như Người. Chẳng bao giờ, từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế, tìm được ai thương yêu kẻ thù như Người, may ra chỉ có những người theo gương Người, được một phần nào thôi, như Thánh Stêphanô vị tử đạo tiên khởi.
Sự hiền lành của Đức Giêsu không phải là thứ hiền lành nhu nhược, nhút nhát hèn hạ; mà là thứ hiền lành cứu nhân độ thế, hiền lành của tình thương vô cùng: Xin tha cho họ để họ khỏi bị phạt đời đời, xin tha cho họ để họ được cứu độ trở nên con Thiên Chúa, như Người đã tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình, tha cho viên sĩ quan đã đâm thấu qua Trái tim Người.
Sự hiền hậu của Đức Giêsu không phải là thứ hiền mù quáng, lầm lạc, mà là thứ hiền lành thẳng thắn, minh chính để trừ khử, sữa sai tội lỗi và sự dữ. Thấy quỷ ác hãm hại người ta, Người đã nghiêm khắc truyền lệnh: “Hãy ra khỏi người này”. Một lệnh truyền dứt khoát, ngắn gọn, mạnh mẽ.
Khi biệt phái chụp mũ Người lấy quyền tướng quỷ mà trừ quỷ. Người vạch rõ ác ý, sai lầm của họ: “Nếu Ta dùng tướng quỷ mà trừ quỷ, thì con cháu các người nhờ ai mà trừ quỷ. Nếu Ta dùng ngón tay Thiên Chúa, thì đó là nước Trời đã đến giữa các ngươi”
Sự hiền lành của Đức Giêsu là thứ hiền lành hạ mình xuống, chứ không phải nâng mình lên; thắng mình chứ không khuất phục người; sẵn sàng chịu nhục, chịu vả má, chứ không vả lại, chịu đánh chứ không đánh lại, chịu chết chứ không giết lại.
Đó là sự hiền lành anh hùng hạ mình xuống như những kẻ bé mọn và được Thiên Chúa như Mẹ Hiền luôn luôn thương giúp những đứa con thơ mọn. Còn những đứa lớn mạnh cậy mình khôn ngoan, thông thái không nhờ đến Mẹ, bất chấp lời Mẹ, nhưng tâm hồn chúng lại đầy mặc cảm, cô đơn, băn khoăn, lo lắng, buồn rầu.
Thánh Matthêu cho thấy Tin mừng của Đức Giêsu bị thất bại đối với các thầy tiến sĩ, luật sĩ, và biệt phái, nhưng lại được đông đảo dân chúng nồng nhiệt đón nhận. Vì thế, Đức Giêsu đã cảm tạ ngợi khen Đức Chúa Cha đã thương mặc khải cho những kẻ bé mọn. Họ đã học được sự hiền lành và khiêm nhường của Người và sống theo lời Người dậy. Tâm hồn họ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, trở nên êm ái nhẹ nhàng trước những ách nặng và gồng gánh đầy khổ đau của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, Chúa đã ưu đãi những kẻ bé mọn thấp hèn. Xin làm cho trái tim con đừng bao giờ kiêu ngạo, trương phình lên như con bò, nhưng hãy vui vẻ sống nhỏ bé như con nhái để mong có thể chui qua lỗ kim mà vào ở nhà tình thương êm ái, ấm cúng của Chúa muôn đời.
Đoạn Tin Mừng ghi lại lời nguyện của Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha, trong tâm tình vui mừng TN 14-A154
Đoạn Tin Mừng ghi lại lời nguyện của Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha, trong tâm tình vui mừng và cảm tạ, vì Cha đã đặc biệt yêu thương những người bé mọn, đơn sơ, và mạc khải cho họ những điều sâu nhiệm. Tiếp đến, Chúa Giêsu mời gọi tất cả những ai vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến với Ngài để tìm sự nghỉ ngơi, bồi dưỡng. Chỉ nơi Chúa, chúng ta mới tìm lại sức mạnh, an vui và thanh thản cho tâm hồn mình. Nhưng để được như vậy, Chúa muốn chúng ta hãy mang lấy "ách" và "gánh" của Ngài, nghĩa là học nơi Ngài sự hiền lành và khiêm nhường.
Hiền lành. Thánh Matthêu dùng từ Hy lạp là Praus: có nghĩa là lòng từ bi, bác ái, bao gồm thái độ hiền hoà, dịu dàng và bao dung đối với mọi người. Điều này trái ngược với tính thô bạo cứng cỏi, cũng không yếu nhược hay nhát đảm. Chúa Giêsu hiền lành nhưng không im lặng trước sự dữ. Ngài đã từng lên án gắt gao thói giả hình của nhóm biệt phái, đã xô đuổi con buôn ra khỏi đền thờ, dám vì công lý mà chịu thiệt thân, không oán hận, còn xin Chúa Cha thứ tha cho họ. Sự hiền lành của Chúa Giêsu còn là sự cảm thông sâu xa với người tội lỗi. Ngài đến gặp gỡ, đối thoại, và đồng bàn với họ. Ngài mở cho họ một con đường để tiến tới sự sống mới. Ngài giúp họ làm lại cuộc đời như Madalena, như Giakêu, hay như người thiếu phụ bên bờ giếng Giacóp. Dụ ngôn người Cha nhân hậu nói lên tấm lòng hiền lành sâu thẳm của Ngài.
Khiêm nhường. Thánh Matthêu dùng từ Hy lạp là Tapeinos. Chữ này có nghĩa là chấp nhận "đứng thấp", "ở dưới". Căn bản của khiêm nhường là biết mình như thế nào thì sống như thế ấy, không tự ti cũng không tự tôn, không tỏ ra hơn cái mình "là". Người khiêm nhường luôn mở rộng tâm hồn để đón nhận, học hỏi và thay đổi, không bao giờ sợ bị tổn thương hay mất mát. Các bậc chân nhân là những người đã sống khiêm nhường sâu xa, không muốn tỏ lộ gì ra bên ngoài, nhưng âm thầm kín đáo bên trong: “Chân nhân bất lộ tướng”. Tuy nhiên, bài học khiêm nhường ở đây không chỉ theo nghĩa từ ngữ hoặc là tính cách cao đẹp của các hiền nhân, mà còn là tấm gương độc nhất của Chúa Giêsu, Đấng “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế… (Pl 2,6-10).
Khiêm nhường là hàng rào bảo vệ tốt nhất cho chúng ta tránh khỏi bờ vực của thói kiêu căng, tự mãn. Người kiêu căng là người vượt quá cái “là” của mình, bị coi là người “việt vị” trong bóng đá, vì đã vượt quá vị trí của mình. Sách Châm Ngôn cho biết: “Kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào”(16,18). Đức Gioan Phaolô I nói rằng:“Trên thiên đàng không thiếu những người thu thuế và gái điếm, nhưng chắc chắn không có kẻ kiêu ngạo”. Chỉ trong sự khiêm nhường, ta mới thực sự là chính mình và mới có khả năng đạt tới cùng đích của đời mình.
Thế gian coi sự hiền lành và khiêm nhường là một thái độ sống yếu nhược. Thế nhưng sự thật nơi họ lại ẩn chứa một nội lực thâm sâu, một tính khí anh hùng, vì dám nhẫn nhục và kiên trì đến cùng trước mọi nghịch cảnh. Vương Thông đã định nghĩa như sau: ANH là người tự biết mình. HÙNG là người tự thắng mình. Những người hiền lành và khiêm nhường là những người anh hùng, vì họ đã đã biết mình và đã thắng được chính mình, thắng được tính nóng nảy và kiêu căng của mình. Thánh nhân là gì nếu không phải là người đã chiến thắng được chính mình, không còn nô lệ cho đam mê và dục vọng của mình nữa, nên hoàn toàn có tự do để sống cho Thiên Chúa và tha nhân.
Người hiền lành và khiêm nhường là dấu chỉ của Chúa Cứu thế. Trong một xã hội cạnh tranh, giữa những lối sống phô trương và loại trừ, họ biết sống âm thầm lặng lẽ và chia sẻ nỗi đau của người khác. Họ giống như những tia sáng nhỏ trong bóng tối mênh mông, nhưng đủ để làm sáng lên một dấu chỉ nhiệm mầu. Xưa Thiên Chúa đã tỏ mình ra trong con người khiêm hạ của Đức Kitô, thì nay, Chúa cũng đang tỏ mình ra trong những thân phận bé nhỏ, nhưng ít ai nhận ra. Trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn sống an vui, là dấu chỉ của niềm hy vọng vào Chúa. Đó cũng là những ý nghĩa tuyệt vời của đời Kitô hữu, khi ta biết sống hiền lành và khiêm nhường như Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Trong một thế giới đầy xung đột và tranh chấp, phân chia cao thấp, kẻ mạnh được kẻ yếu thua, thắng thì làm vua, thua làm giặc. Sự thật và lẽ phải trong tay người quyền thế, nên người hiền lành bị áp chế và xử tệ, khiêm nhường bị coi là yếu nhược, bất tài, cả hai xếp loại như “phường giá áo túi cơm”. Thế nhưng đối với Chúa, người hiền lành mới chân thành, đạo đức, kẻ khiêm nhường mới yêu thương vâng phục, nên mới đáng là những người được chúc phúc, vì đem lại an bình cho thế tục nhiễu nhương. Chúa đã sống hiền lành và khiêm nhượng, để con noi gương mà tiến bước theo Ngài, không dựa vào địa vị hay tiền tài mà ỷ lại, không xem thành bại để quyết đoán đúng sai, nhưng biết xử khoan thai ôn hòa và độ lượng, luôn kiên trì và nhẫn nhục để yêu thương. Hiền lành không phải không nóng giận, nhưng cũng phải tỏ ra những lúc cần, vì sống tình thân nhưng vẫn nói lên sự thật, cho dù gặp khốn khó hay có những nguy cơ, như Chúa đã trả giá khi thanh tẩy đền thờ. Khiêm nhường không phải là thỏa hiệp, để cho sự ác cứ nối tiếp hoành hành, nhưng tích cực tạo môi trường lành mạnh, cũng không thể giả vờ mà lờ đi sự dữ, nhưng góp phần dẹp những thứ xấu xa. Con sống hiền lành và khiêm nhượng, không phải là cúi đầu im lặng cho qua, trước những tha hóa xảy ra trong cuộc sống, hoặc đứng bên lề trước những bất công, nhưng hành động với tấm lòng nhân ái, để cuộc đời giảm bớt những họa tai. Noi gương hiền lành và khiêm nhu như Chúa, con coi thường những được mất hơn thua, không tranh đua nhưng quên mình vì công ích, luôn phục vụ cho dù mang thương tích, dám chịu thiệt thân, làm sáng đẹp tinh thần, để gian trần nhận ra Chúa từ nhân. Amen. (Trích sách: Lời nguyện của người trẻ, số 25) ------------------------------
Chị Têrêsa thành Lisieux sống và mang tinh thần bé nhỏ: Luôn làm những việc bé nhỏ, chị đã TN 14-A155
Chị Têrêsa thành Lisieux sống và mang tinh thần bé nhỏ: Luôn làm những việc bé nhỏ, chị đã thổ lộ và cầu nguyện: “Con là một linh hồn rất bé mọn, chỉ có thể dâng những điều bé mọn cho Chúa”.
Nhờ tinh thần phó thác vào Chúa, chị cảm nhận ra tình yêu Chúa ngay cả những đen tối nhất của tâm hồn đó là cảm nghiệm được nước Trời: “Ngay cả những khi gặp thử thách ốm đau, con không sợ, vì Chúa luôn ở bên con, nâng đỡ con, vì Ngài đã nâng đỡ con từ khi con còn tấm bé, và sẽ nâng đỡ con mãi mãi cho đến hơi thở cuối cùng”.
Chính tinh thần bé nhỏ đã khiến chị sờ tới nước Trời và trong Thiên Chúa chị được bình an tâm hồn khi đặt mỗi gánh nặng bệnh tật vào Chúa.
Suy niệm
Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha: “Con xưng tụng Cha vì Cha đã mạc khải nước Trời cho những người bé mọn”. Người mang tâm tình thơ ấu bé nhỏ, người anh em hay chị em, tín thác vào tình yêu của Chúa Cha và để cho Ngài làm việc.
Chúa Giêsu đã chọn lựa những con người bé nhỏ, tầm thường để mạc khải nước Chúa và những người mang Tin Mừng đó là những anh thuyền chài không được trọng dụng trong xã hội.
Còn những con người học thức tài ba như Phaolô như Matthêu lại tự chấp nhận bé nhỏ để nước Trời được tỏa hiện trong các ông và tự các ông đến với anh em mình. Người mang tinh thần bé nhỏ được nước Trời mạc khải, được phác họa với hình ảnh Kinh Thánh:
“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ
Trong con hồn lặng lẽ an vui” (Tv130,2).
Nhỏ bé, nép mình vào lòng Chúa, phó thác tất cả để được Thiên Chúa đỡ nâng, vì thế Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy đến với lòng Chúa để được nâng đỡ bồi dưỡng tâm hồn.
Cuộc sống hôm nay, con người luôn mong muốn được vĩ đại, sự mong muốn và phấn đấu vĩ đại của con người đã lấn át mạc khải nước Trời. Con người quên tinh thần bé nhỏ tín thác, sự vĩ đại mà họ muốn khẳng định và định đoạt tất cả, cái giá của sự vĩ đại mang danh “tự do” làm cho tôi và bạn quên Thiên Chúa gạt Ngài ra khỏi đời sống trong từng cách sống. Dù rằng, chúng ta vẫn luôn tuyên xưng mình là người có đạo, người tin Chúa. Đó chính là một thực tế của thế giới ngày hôm nay ở khắp mọi châu lục, đặc biệt là châu Âu, cái nôi của Kitô giáo. Nơi cuộc sống của chúng ta cũng thế.
Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta cũng đã cảm nghiệm được vất vả, mang gánh nặng, chịu gian nan thử thách, chịu đau khổ cả tinh thần lẫn vật chất, từ bản thân đến gia đình và xã hội. Với tinh thần bé nhỏ bên Chúa, con người hôm nay tìm thấy được một nơi yên nghỉ sau những giây phút mệt mỏi của đời sống và đặt tất cả mọi nỗi lo âu, những gánh nặng trần thế như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Các con hãy mang lấy ách của Ta”. Đây là kiểu nói bóng trong truyền thống Kinh Thánh nơi các thầy rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai là thầy (x. Hc 51,26; Is 55,1). Chúng ta nhìn nhận và học nơi Thầy Giêsu hiền lành và khiêm nhu, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới như Thầy đã dạy.
Thật thế, con người sẽ tìm thấy bình an, khi nhìn nhận sự bé nhỏ của mình trước Đấng Tạo Hóa và phó thác vào Ngài, họ sẽ được chính nước Trời khi giữa phong ba, giữa những mỏi mệt của cuộc sống đó là mầu nhiệm nước Trời mà người không tin vào Chúa Giêsu không thể cảm nghiệm.
Ý lực sống
“Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng vì nước Trời thuộc về chúng” (Mt 19,14).
Bài Phúc âm Chúa Nhât XIV Thường Niên A hôm nay (Mt 11,25-30) là một bản tóm tắt đấy TN 14-A156
Bài Phúc âm Chúa Nhât XIV Thường Niên A hôm nay (Mt 11,25-30) là một bản tóm tắt đấy đủ và chất lượng nhât về chân dung của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người. Cũng là bài thực hành cho các Kitô hữu là môn đệ của Chúa Giêsu trong các thời kỳ khác nhau của lịch sử cứu độ. Vì thế chúng ta hãy để cho Lời Chúa thay đổi chúng ta hầu làm cho mỗi người nên giống Chúa Giêsu hơn
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 11,25-30: Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. - Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 10,37-42: Bài Phúc âm có 2 nội dung chính như sau:
3.1 Một là Chúa Giêsu mạc khải về cách hành động khác thường của Thiên Chúa (Cha): “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. - Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.”
3.2 Hai là Chúa Giêsu mạc khải về mình là Đấng hiền dịu và khiêm nhường trong lòng và Chúa mời gọi những ai khó nhọc và gánh nặng hãy đến với Người để Người nâng đỡ ủi an: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Những lời tuyên bố và mời gọi ngọt ngào trên của Chúa Giêsu khiên người nghe, nhât là những người khó nhọc và gánh nặng, cảm thất được an ủi và nhẹ long.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt Mt 10,37-42:
4.1 Chúng ta hãy đón nhận mạc khải của Chúa Giêsu: trước hết là mạc khải về cách hành động khác thường của Thiên Chúa để cảm nhận niềm hạnh phúc của những người được Thiên Chúa yêu thương và biệt đãi; kế đến là mạc khải của Chúa về chính mình Người để chúng ta chạy đến với Người để được Người nâng đỡ ủi an và học sống hiền dịu và khiêm cung với Người.
4.2 Chúng ta hãy sống hiến hòa và chỉ nói những lời ngọt ngào: Đó là điều chẳng những đẹp lòng Chúa mà còn mát lòng người. Đó cũng là điều đem lại bình an cho chính chúng ta: “hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã mạc khải những mầ nhiệm của Thien Chúa và đã dậy chúng con sống hiền hòa và khiêm tốn. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
1.- «Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người đón nhận được mạc khải về cách hành động khác thường của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ và tất cả giáo dân để mọi Kitô hữu nhìn nhận và quảng bá vai trò của Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi giáo dân biết chạy đến với Chúa Giêsu để được Người nâng đỡ úi an
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho các Kitô hữu khô đạo và tân tòng để họ mạnh dạn bước theo Chúa Giêsu.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con và Người đã mạc khải những mầu nhiệm của Thien Chúa và đã dậy chúng con sống hiền hòa và khiêm nhường. .
Chúng con xin Cha ban cho chúng con một tinh thần tỉnh táo để chúng con học cùng Chúa Giêsu mà sống như Người đã dẫy Chúng con cầu xin nhân danh Kitô, Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Sàigòn ngày 8 tháng 7 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Hiền hậu và khiêm nhường. Đó là phẩm tính của Chúa Giê-su. Qua mầu nhiệm Nhập thể và TN 14-A157
Hiền hậu và khiêm nhường. Đó là phẩm tính của Chúa Giê-su. Qua mầu nhiệm Nhập thể và qua cuộc khổ nạn đau thương, Chúa Giê-su đã chứng minh điều đó. Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Trọn vẹn cuộc sống nơi dương thế của Người diễn tả sự khiêm nhường và hiền hậu. Đức tin Ki-tô giáo đã nhận ra Đức Giê-su qua hình ảnh người Tôi tớ Đức Gia-vê được diễn tả trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Ngài hiền lành như con chiên bị đem đi giết. Cây sậy đã gục ngã Ngài không nỡ bẻ gẫy. Tim đèn còn khói Ngài cũng không nỡ lòng nào dập tắt nó đi” (Is 42,3). Lời giải thích của ông Phi-lip-phê với vị thái giám người E-thi-óp, trong sách Tông đồ Công vụ, cũng đã chứng minh điều này (x. Cv 8,26-40). Nơi Đức Giê-su thành Na-da-rét, Thiên Chúa đã hạ mình xuống để gặp gỡ con người và kết thân với họ. Đức Giê-su đến trần gian như người phục vụ. Chính Người đã tuyên bố: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45).
“Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi!”. Da-ca-ri-a là một ngôn sứ thời hậu lưu đày, khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Ông loan báo cho It-ra-el niềm hy vọng. Đó là Đấng Thiên Sai sẽ đến để giải phóng It-ra-el, thiết lập hoà bình và nối liền bờ cõi. Cũng như hình ảnh người Tôi tớ trong ngôn sứ I-sai-a đã nói ở trên, Ki-tô giáo cũng nhận ra qua lời ngôn sứ Da-ca-ri-a lời loan báo Đức Giê-su. Người khiêm tốn ngôi trên lưng lừa. Chúng ta sẽ thấy hình ảnh này trong Tin Mừng, trong trình thuật Đức Giê-su long trọng vào thành Giê-ru-sa-lem (x. Lc 19,28-38).
Ki-tô hữu là người tin theo và làm môn đệ của Chúa Giê-su. Ai muốn theo Chúa thì phải được đào tạo trong mái trường của Chúa, nhờ đó họ mang lấy đức hiền hậu và khiêm nhường. Xem ra vị thày Giê-su ưu tiên dạy cho các môn sinh bài học về khiêm nhường và phục vụ. Khiêm nhường và hiền hậu chính là cội nguồn của các đức tính khác, như một tác giả tu đức đã viết: “Khiêm nhường là mẹ của các nhân đức khác”. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy đến và học cùng Chúa để trở nên giống như Người, nhờ đó chúng ta có tinh thần hy sinh phục vụ anh chị em mình, như Chúa Giê-su đã phục vụ mọi người và hiến mạng sống mình vì họ.
Hiền hậu và khiêm nhường là điều kiện cần thiết để có được đức tin chân thành. Trong lời cầu nguyện với Chúa Cha, Chúa Giê-su đã chúc tụng Chúa Cha vì Người đã mạc khải Nước Trời và ban đức tin cho những người bé mọn. Trong truyền thống Thánh Kinh, những người bé mọn cũng đồng nghĩa với người khiêm nhường. Bởi lẽ bé mọn là thái độ khiêm tốn và hoàn toàn phụ thuộc vào Chúa, luôn cậy tin và phó thác nơi sự dẫn dắt của Người. Chúa Cha không mặc khải Nước Trời cho những bậc khôn ngoan thông thái. Nói đúng hơn là Người không tỏ mình cho những ai tự phụ mình là khôn ngoan thông thái. Vì con tim của họ đã bị lấp đầy bởi sự kiêu ngạo và những đam mê. Họ không cần đến Thiên Chúa, vì tự cho mình đã có mọi sự đầy đủ.
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Giữa cuộc đời đầy biến động và lo âu, lời mời gọi này làm vơi nhẹ những ưu phiền nơi chúng ta. Hãy đến với Chúa để cảm nhận tình thương của Người. Hãy đến với Chúa để có cái nhìn tích cực lạc quan hơn về cuộc sống xung quanh chúng ta.
Chúng ta đến với Chúa bằng cách nào? Chúa luôn mời gọi chúng ta, thậm chí Chúa luôn chờ đợi và gõ cửa tâm hồn chúng ta, như Chúa đã nói qua thánh Gio-an tông đồ: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với ta” (Kh 3,20). “Dùng bữa với Chúa”, đó là cách diễn tả sự thân tình, gắn bó và hiệp thông sâu xa. Như thế, đến với Chúa là có trái tim rộng mở để đón tiếp Người, đồng thời chuyên cần thực thi những gì Chúa dạy. Đến với Chúa cũng là quảng đại tiếp đón anh chị em mình, nhất là những người đang cơ nhỡ, cô thế cô thân. Theo thánh Phao-lô, đến với Chúa là hoàn toàn thuộc về Đức Ki-tô và biết lắng nghe sự hướng dẫn của Thần Khí. Khi thành tâm đến với Chúa, người tín hữu có thể diệt trừ những ích kỷ nhỏ nhen, nhờ đó cảm nhận được sự sống thiêng liêng nơi bản thân mình.
Trong bối cảnh xã hội ảnh hưởng nghiêm trọng bởi những trào lưu vô thần, duy vật và hưởng thụ hôm nay, hiền hậu và khiêm nhường trở nên những điều “xa xỉ” và hiếm thấy. Đôi khi hiền hậu và khiêm nhường bị phê phán là “hèn hạ”, là “cam chịu”. Tuy vậy, Đức Giê-su, vị Thày và là Chúa của chúng ta đã chấp nhận mọi sỉ nhục, đã chịu chết đau thương để diễn tả tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại. Những ai muốn theo Chúa Giêsu, không thể chọn lựa con đường khác với con đường thập giá.
Ước chi mỗi Ki-tô hữu cố gắng diễn tả hình ảnh Đức Giê-su hiền hậu và khiêm nhường trong đời sống cá nhân, và trong mối tương quan đối với anh chị em mình. Như thế, chúng ta xứng đáng là môn sinh theo học trường của vị Thày Giê-su.
Trong lời cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan và TN 14-A158
Trong lời cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan và thông thái biết, Cha lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy” (Mt 11,25), Chúa Giêsu nhắc đến những người “bé mọn”.
Người “bé mọn” là ai mà lại được Cha yêu thương tỏ mình? Họ chính là người nghèo của Chúa. Họ nhiệt thành đi tìm Chúa. Họ thấy mình cần Chúa, ước mong được Chúa ngự vào tâm tư mình.
Bằng câu chuyện cụ thể sau đây, ta có thể hiểu “người khôn ngoan và thông thái” mà Chúa Giêsu nói đến là ai.
Người đàn ông đến xin cho con trai ông được rước lễ trọng thể, nhân dịp giáo xứ chúng tôi tổ chức rước lễ trọng thể vào một ngày giữa tháng 7, dù con ông đang học giáo lý ở một giáo xứ khác. Tôi đồng ý với điều kiện, cha xứ, nơi mà em đang học giáo lý cho phép.
Nếu chuyện chỉ có thế thì không còn gì đáng nói. Nhưng lần thứ hai, đến gặp tôi, ông cho biết, con ông học trường tư, nội trú, có tiếng là nghiêm khắc trong vấn đề kỷ luật và học tập. Đầu tháng 7, con ông tựu trường để vào lớp 12.
Bình thường, trường đã nghiêm khắc. Bây giờ lên lớp 12, chắc chắn trường sẽ còn nghiêm khắc hơn. Con ông không dám và cũng không được phép nghỉ học bất cứ ngày nào. Trong khi tuần đầu của tháng 7 là tuần các em chuẩn bị rước lễ trọng thể ở giáo xứ chúng tôi tĩnh tâm. Nhưng vì luật của nhà trường như thế, người đàn ông đòi tôi phải cho em khỏi tĩnh tâm, và vẫn cho phép em cùng được rước lễ chung với các học viên khác.
Nghe xong câu chuyện, tôi buồn, thở hắt ra mà không biết phải nói lời nào. Chọn lựa của người Công giáo thời nay là như thế sao: Sự học hành thay Thiên Chúa. Kiến thức ở đời thay lý lẽ đức tin. Giá trị trần thế thay giá trị Nước Trời. Cái chóng qua thay cho vĩnh cửu. Kiến thức đức tin bị đạp xuống hàng thứ yếu, đẩy kiến thức học vấn của đời tạm bợ vượt lên hàng chủ yếu.
Kiến thức đức tin là đường lối của Thiên Chúa, là phương hướng dẫn con người đến gặp chính Thiên Chúa, lại bị đạp xuống hàng thứ yếu, có khác gì Thiên Chúa đã bị người ta đẩy xuống để cuộc đời vượt lên!
Hóa ra đời mới là “thiên chúa” của họ, còn Thiên Chúa lại bị họ biến thành một thứ xa xí phẩm nào đó, có cũng được, không có cũng không sao. Mà kẻ loại chính Thiên Chúa không ai khác hơn là chính con cái trong nhà, là người Công giáo chính hiệu, là chính con Thiên Chúa.
Đáng thương cho lối suy nghĩ nông nổi dẫn đến cả một quyết định, cả một chọn lựa sai lầm lớn không thể nói hết. Người ta chấp nhận hình thức và sẵn sàng phục vụ thứ hình thức ấy một cách giả trá thay cho thực chất, thay cho lòng yêu mến Chúa thật. Chỉ cần đánh lừa lương tâm rằng, con tôi đã lãnh bí tích rồi, thế là đủ, chẳng cần để ý đến việc nó có hiểu biết gì về bí tích mà nó lãnh nhận hay không.
Người đàn ông trong câu chuyện bên trên muốn trang bị cho con của ông giàu có về sự học hành, lớn lao về đường công danh, bảo đảm cho tương lai đời nó.
Khi trang bị cho con mình, ông cũng đồng thời nghĩ tới ông, nghĩ tới gia đình ông bằng một giấc mơ thiên đàng trần thế về danh giá ở đời, về sự nổi nang, ngưỡng mộ trong ánh mắt mọi người xung quanh.
Nhưng ông lầm. Tìm kiếm thông thái và khôn ngoan trần thế mà không tháp nhập trần thế vào sự cứu độ siêu nhiên, ông có thể tìm được thành công trần thế, nhưng chắc chắn đời đời vắng bóng siêu nhiên.
Chính ông đã tự gieo, cũng như đã gieo vào tâm tư của con ông lối suy nghĩ, lối sống làm ngắn đời mình. Ông đã đánh cắp đời mình đã vậy, lại còn đánh cắp đời con của ông. Nguy hiểm hơn khi sự đánh cắp này có dấu hiệu “di truyền”.
Không biết có bi quan lắm không, nếu nói rằng, một khi con ông “thừa hưởng” thái độ đánh cắp ấy của ông, thì nó sẽ còn bao nhiêu lần đánh cắp như thế đến bao nhiêu thế hệ con người! Siêu nhiên mà vắng bóng, vĩnh cửu mà bị đánh mất, Thiên Chúa bị đẩy xa đời người, thông thái và khôn ngoan vẫn cứ là dốt nát.
Qua lời cầu nguyện cùng Chúa Cha, “Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan và thông thái biết, Cha lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy”, Chúa Giêsu dạy ta phải có thái độ phó thác tuyệt đối của một người có tinh thần nghèo khó trọn vẹn.
Chỉ có trong ta tinh thần của một người nghèo, ta mới thấy mình chẳng là gì, chẳng có gì. Tất cả là bởi Chúa, phát xuất từ Chúa. Đối với Kitô hữu, chúng ta cần biết rằng, chính bản thân ta cũng chỉ là bụi đất, rồi sẽ trở về bụi đất. Tất cả những hy vọng, những tìm kiếm, những bươn chãi, những tranh giành, những vất vả, những hao mòn lặn lội mới có trong cuộc đời này… đều chỉ là hư không, tất cả chỉ là một trò ảo thuật.
Ta không là chủ đời mình, càng không bao giờ là chủ những gì mình tạo ra. Cùng với sự tắt thở của thân xác, ngay lập tức, ta trở nên thối rữa, nhơ nhớp. Vì thế, Chúa Giêsu dạy ta phải có thái độ phó thác tuyệt đối cho Chúa như một người bé mọn, chẳng có gì.
Phó thác tuyệt đối cho Chúa là làm giàu Thiên Chúa cho đời mình. Thiên Chúa là Vĩnh Cửu. Ai làm giàu Thiên Chúa, người đó bước vào vĩnh cửu. Vì thế, chỉ những ai biết làm giàu Thiên Chúa cho đời mình mới là người thật sự khôn ngoan.
Cuộc đời mà ta đồng hành với nó, chỉ là người bạn bạc bẽo. Lẽ nào ta chọn sự bạc bẽo làm chúa thay Thiên Chúa đầy lòng xót thương, Đấng mà ta phải tôn thờ suốt đời!
Đừng quên rằng, những người chỉ biết tìm kiếm sự thông thái, tìm kiếm khôn ngoan trần thế sẽ bị Chúa che giấu. Họ chỉ là những kẻ dại khờ, đui mù trước Chúa.
Chúa chỉ mạc khải chính Chúa cho những người bé mọn. Đó là những người nghèo khó thật sự, là những người phó thác trọn đời mình trong tay Chúa thực sự.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Chúng con xin lặp lại chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu mà Vinh danh Cha rằng: Chúng con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan và thông thái biết, Cha lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy, nên suốt đời, chúng con nguyện trở thành người nghèo của Cha, và là người bé mọn trong Nước Cha, biết phó thác đời mình trong tay Cha. Xin dẫn dắt chúng con đi tới, để chúng con hạnh phúc mãi mãi vì được ở trong nhà Cha.
Chúa Giêsu dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen TN 14-A159
Chúa Giêsu dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11 : 25-26). Chỉ những kẻ bé mọn mới hiểu và đón nhận được Tin Mừng Nước Trời. Những người khôn ngoan, các tiến sĩ luật Do thái giáo thời Chúa Giêsu, đã tạo ra một loạt luật lệ mà họ nhân danh Thiên Chúa áp đặt lên con người. Họ nghĩ rằng Thiên Chúa yêu cầu dân tuân giữ điều này. Nhưng Luật Yêu Thương do Chúa Giêsu đưa ra lại nói ngược lại: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Ngài cho mặt trời của Ngài mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5: 43-45). Điều quan trọng không phải là chúng ta làm gì cho Chúa, mà là Chúa làm gì cho chúng ta, cùng với tình yêu bao la của Ngài! Khi mọi người hiểu lời của Chúa Giêsu, họ sẽ tràn ngập niềm vui.
Những người tự coi mình là thông thái và khôn ngoan thời Chúa Giêsu không nhận ra được Ngài là chân lý. Các Kinh Sư, những người chuyên về Kinh Thánh, làm sáng tỏ những điều Thiên Chúa truyền dạy như sách Đệ Nhị Luật viết: “Đức Chúa sẽ lấy làm vui vì hạnh phúc của anh em, cũng như Ngài đã lấy làm vui vì hạnh phúc của cha ông anh em, miễn là anh em nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Ngài, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ” (30, 9-10). Nhưng họ lại đặt thêm ra nhiều thứ luật. Đến thời Chúa Giêsu, bộ luật đạo Do Thái đã có 613 điều. Các Kinh Sư và Pharisêu đã đi quá mức, đến chỗ nô lệ cho luật của mình, quá câu nệ vào hình thức bên ngoài. Họ cho rằng Lề luật và những qui định, chuẩn mực của họ là quan trọng hơn cả, với lý do tuân giữ luật là tuân giữ Giao ước với Thiên Chúa.
Ngày nay, nhiều người lại bám vào những hiểu biết khoa học duy lý và duy vật. Họ cho rằng có thể hiểu được mọi sự theo kiểu lấy cái “tư duy thuần lý” làm chuẩn mực cho mọi hiểu biết, không cần đến một đấng Linh Thánh Siêu Việt nào. Do đó, họ rơi vào thứ thế giới quan duy vật, dẫn đến thứ nhân sinh quan vô thần và một lối sống lấy lợi ích vật chất làm tiêu chuẩn. Họ tự làm ra những khoản luật nhằm có được những lợi ích ấy. Họ cũng như các Kinh sư Do thái ngày xưa không thể hiểu được lề luật mới, tức là sự dạy bảo của Chúa Giêsu về tình yêu thương vô cùng tận của Thiên Chúa. Sự dạy bảo yêu thương này thay đổi mối tương giao của dân Thiên Chúa với Ngài, nhờ đó thay đổi mối tương giao giữa người và người với nhau.
Chúa Giêsu, Con Chúa Cha, biết Chúa Cha. Ngài biết điều mà Chúa Cha muốn, ngay cả trước khi Lề Luật được ban cho Môsê. Điều Chúa Cha muốn nói với chúng ta, Ngài đã trao cho Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu đã mạc khải điều đó cho những người bé mọn: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11:27). Ngày nay, Chúa Giêsu cũng tiếp tục dạy nhiều điều cho người có tinh thần nghèo khó và những người bé mọn, vì họ sẵn sàng mở lòng đón nhận sứ điệp của Ngài. Người khôn ngoan và thông thái trần thế cũng sẽ hiểu ra sứ điệp của Ngài nếu họ trở thành những người có tinh thần nghèo khó, sẵn sàng buông bỏ những suy nghĩ, những toan tính và lối sống vốn lấy mình làm trung tâm, để trở nên bé mọn, nghe và làm theo những lời dạy bảo của Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu. Không phải ai cũng có thể giàu có, nhưng tất cả đều có thể có tinh thần nghèo khó. Không phải tất cả đều có thể khôn ngoan và thông thái, nhưng tất cả chúng ta đều có thể khiêm nhường và suy phục trước mặc khải của Thiên Chúa. Không ai có thể tự khen mình trước mặt Thiên Chúa bằng những việc lành và đức hạnh của mình, nhưng bất cứ ai cũng có thể thú nhận tội lỗi của mình và khiêm nhường kêu đến Giêsu Kitô để mình được cứu độ.
Chúa Giêsu mời gọi tất cả những ai đang mệt đi tìm sự nghỉ ngơi trong Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11: 28). Đây là những người đang mệt mỏi dưới sức nặng của những áp lực và những đòi hỏi nặng nề mà các điều luật chi li yêu cầu tuân giữ. Nhiều lần các điều luật này đã được vận dụng để yêu sách mọi người phải phục tùng, một cách miễn cưỡng. Điều Chúa Giêsu muốn nói là ngược lại. Chúa Giêsu nói: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Ngài yêu cầu mọi người hãy gạt sang một bên những thầy dạy tôn giáo thời bấy giờ, hãy nghỉ ngơi và bắt đầu học hỏi nơi Ngài, Đấng “hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Chúa Giêsu không thích những Kinh sư tự hào về hiểu biết của mình, nhưng Ngài giống những người đang mệt mỏi dưới sức nặng của các điều luật quá chú trọng đến thể hiện bên ngoài mà quên đi thực chất bên trong: “Trở về với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ” (Đnl 30:10). Chúa Giêsu, vị Thầy dạy mới, nói lên những gì từ kinh nghiệm của cuộc sống vì Ngài biết rõ những gì xảy ra trong lòng dân chúng, một dân chúng đau khổ biết bao: “Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9:36).
Chúa Giêsu mời gọi tất cả những ai bị đè bẹp dưới gánh nặng của việc tuân giữ lề luật đi tìm sự nghỉ ngơi nơi Ngài, bởi vì Ngài có khả năng xoa dịu và an ủi những người đau khổ, mệt mỏi và chán nản: “Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Trong lời mời gọi này vang lên những lời đẹp đẽ của ngôn sứ Isaia an ủi những người sống trong cảnh lưu đày: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào. Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống” (Is 55,1-3).
Lời mời gọi này gắn liền với sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vốn mời gọi mọi người đến gặp gỡ sự khôn ngoan: “Hỡi những kẻ khao khát Ta, nào hãy đến. Hãy ăn cho no thoả hoa trái của Ta” (Hc 24, 19) dành cho tất cả những ai đi tìm kiếm sự khôn ngoan đó: “Đường khôn ngoan là đường thú vị, nẻo khôn ngoan là nẻo bình an” (Châm ngôn 3,17). Và sách Huấn ca nói thêm: “Khôn ngoan làm cho con cái mình nên cao trọng, và săn sóc những ai kiếm tìm mình” (Hc 4:11-6). Lời mời gọi này chứa đựng một đặc điểm rất quan trọng của khuôn mặt đầy yêu thương của Thiên Chúa, như khuôn mặt của một người mẹ dịu dàng và chăm lo, mang lại sự an ủi, sức sống cho dân Ngài và khiến họ cảm thấy hạnh phúc, như tiên tri Dacaria mời gọi trong bài đọc thứ nhất: “Nào thiếu nữ Xion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Ngài là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ. Ngài sẽ quét sạch chiến xa khỏi Épraim và chiến mã khỏi Giêrusalem; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Ngài bẻ gãy, và Ngài sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Ngài thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Dcr 9:9-10).
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, giống như Chúa Cha, cũng là cung lòng từ mẫu mà Chúa Cha ban cho những người mệt mỏi: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy, tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về” (Is 66,10-13).
“Hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:29). Tôi có muốn học nơi Chúa Giêsu không? Là con cái bé nhỏ của Chúa Cha, và được sống trong cộng đoàn Dân Chúa là Hội thánh, tôi có nhận ra mình được nghỉ ngơi bồi dưỡng không? Với sự cố gắng lắng nghe, phân định và làm theo ơn thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, tôi có thể giúp cho gia đình, giáo họ, giáo xứ, là những cộng đoàn gần gũi của tôi, trở thành nơi nghỉ ngơi bồi dưỡng tâm linh cho cuộc đời mọi người không? Tôi cần phải nghe lời Thánh Phaolô nói với cộng đoàn tín hữu Rôma: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Chúa Kitô, thì không thuộc về Chúa Kitô…nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8: 9,11-13).
Chưa bao giờ Đức Giê-su nói với Thiên Chúa một cách vừa thân tình vừa trang trọng như thế TN 14-A160
Chưa bao giờ Đức Giê-su nói với Thiên Chúa một cách vừa thân tình vừa trang trọng như thế: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất.” Chúng ta đang ở vào một trong những lúc quyết liệt nhất của Tin Mừng. Vị Chúa Tể trời đất ấy, Đức Giê-su cho thấy là mình biết Người cách mật thiết đến độ chúng ta có thể qua đó nhận ra được những tia sáng đầu tiên của một mầu nhiệm khôn dò : trong Thiên Chúa duy nhất có nhiều chuyển động tình yêu, nhiều “tương quan” mà chúng ta diễn tả bằng những từ ngữ : Cha, Con và Thánh Thần. Kiểu gọi Thiên Chúa như thế khai mở một cuộc cách mạng tôn giáo thực sự. Tất cả Cựu Ước và toàn bộ văn chương Do-thái đã chẳng bao giờ dám sử dụng tiếng xưng hô “Lạy Cha” (Abba: dịch sát là “Ba ơi”) đối với Đấng Vĩnh Cửu. Thiết tưởng nên dừng lại một phút để thờ lạy và cảm tạ vì những ánh sáng từng bất khả đạt đối với chúng ta như thế : “Không ai, Đức Giê-su nói, biết được Chúa Cha trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.”
Chúa Con đã mạc khải Thiên Chúa là Tình Yêu. Và vì là tình yêu trong bản chất mầu nhiệm của Người, vị Thiên Chúa nầy cũng tất nhiên thương mến chúng ta, thương mến những người bé mọn, vì chính Đức Giê-su đã nói : “Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”. Mầu nhiệm Nước Trời ở đây chẳng phải là những phương diện riêng biệt hay đặc biệt cao sâu của sứ vụ Đức Giêsu, song là ý nghĩa tổng quát của toàn thể công trình mạc khải của Người. Bậc “khôn ngoan thông thái” ở đây là hạng học thức, chuyên môn, có thẩm quyền trong lãnh vực tôn giáo (x. Is 29,14 và 1Cr 1,19) nhưng lý tưởng của họ ngày càng thoái hóa thành sự hiểu biết có tính cách vật chất lẫn thuần lý về Lề luật và về các truyền thống ráp-bi (giáo sĩ). Họ thường bất thẩm thấu lời giảng của Đức Giêsu, thậm chí chống lại giáo thuyết của Người, đồng thời luôn khinh bỉ -cho là hư vô- đám cùng dân lẫn bọn “tội lỗi” (“thu thuế và đĩ điếm”) ám chỉ qua từ “bé mọn” là những người đã mau mắn thống hối, nhanh chóng tin nhận Đức Giê-su (x. Mt 21,32), những kẻ “nghèo khó trong tinh thần” của Tám mối phúc thật (x. Tv 19,8; 116,6). Phần chúng ta, có lúc chúng ta cũng nghĩ rằng mình chỉ là hư vô. Không đúng ! Thiên Chúa đâu có yêu hư vô; chúng ta vẫn là một cái gì đó và thậm chí còn hơn thế nữa, vì Thiên Chúa yêu chúng ta. Đến sống cuộc đời chúng ta và nếm trải cuộc sống nầy, đặc biệt cuộc sống của những kẻ tầm thường bé mọn, Người đã nói với chúng ta: “Hãy đến cùng Ta, hết thảy những ai đang vất vả mang gánh nặng nề”.
Gánh nặng nào đây? Gánh nặng của một cuộc đời vốn đã rất gian khổ (vì sinh kế, vì bệnh tật, vì chung đụng, vì lắm bất công, thậm chí đàn áp…) mà trên đó đôi khi người ta còn chất thêm gánh phụ trội là một thứ luật tôn giáo mang tính cách lạm dụng áp chế hay được giảng dạy cách sai lầm (khiến có kẻ đã từ đó cho tôn giáo là thuốc phiện mê dân, là công cụ của giai cấp bóc lột!) Người ta lúc ấy có cảm tưởng khủng khiếp rằng mình không thể tuân theo các quy định, chẳng bao giờ có thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, nhìn đâu cũng thấy lỗi, làm chi cũng sợ tội, hình ảnh hỏa ngục cứ ám ảnh không ngớt trong đầu. Như thế là cất đi tự do nội tâm và niềm vui của chúng ta, là giật chúng ta khỏi Thiên Chúa. Nhưng nếu Người là kẻ khiến cuộc sống ta ra nặng nề, thì đâu còn là Thiên Chúa Tình Yêu nữa!
Đức Giê-su đã mạnh mẽ tố cáo những ai khiến hạng bé mọn có lương tâm áy náy như thế: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu nói nhưng chẳng làm: họ bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,3-4).
Có lẽ chúng ta từng bị chấn thương bởi những người ra sức biến chúng ta thành kẻ luôn mang mặc cảm tội lỗi. Thật khó mà thoát khỏi một nền giáo dục tôn giáo vụng về, trình bày Thiên Chúa như một ông Ba Bị và các giới răn như biểu hiện của một ý chí độc đoán. Hình như chỉ có một cách duy nhất là không ngừng trở lại với Đức Giê-su, nhìn Người, nghe Người, hoàn toàn tin tưởng vào Đấng nói với chúng ta : “Phần Ta, Ta có thể cho con sự nghỉ ngơi tuyệt diệu trong bình an với Thiên Chúa”.
2. Để ban cho con người “gánh nặng” của Thiên Chúa.
Nhưng không có bình an với một Thiên Chúa “dổm” luôn luôn bằng lòng về chúng ta với giá rẻ, giá hạ. Đừng tự nhủ: mình cứ phạm tội, chẳng cần chừa cải, Thiên Chúa vẫn luôn thương xót thứ tha mà !?! Nên nhớ sau khi cứu mạng sống và chẳng kết án người phụ nữ ngoại tình, Đức Giê-su vẫn nghiêm khắc nhắc nhở bà: “Chị về đi; từ nay đừng phạm tội nữa!” (x. Ga 8,1-11). Tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu đòi hỏi, tình yêu nâng cao, tình yêu muốn cho ta nên thánh; bình an của Người là một bình an phải chinh phục qua gian khổ, qua việc chiến đấu và chiến thắng ma quỷ, thế gian, xác thịt. Đức Giê-su nói: “Hãy mang lấy ách tôi”. Đây đúng là ách vì là một lề luật. Không ai có thể sống bất cần luật, và luật của Đức Giê-su, luật tình yêu, là luật trói buộc chưa từng thấy, triệt để hơn luật Mô-sê nhiều, chất chứa một đòi hỏi vô biên. Có ai đã dạy một luân lý cao siêu như Người, đưa ra một thang giá trị ngược đời như Người (x. Bài giảng trên núi trong Mt 5-7), thậm chí mời gọi không những bỏ của cải, mà còn bỏ cả bản thân, cả mạng sống để nên môn đệ Người? Nhưng đây là nghịch lý, được Đức Giê-su khẳng quyết kẻo chúng ta khó chấp nhận : “Ách này êm ái, gánh này nhẹ nhàng”. Vì Người ban cho môn đồ sức mạnh để mang ách ấy trong vui tươi, trước đấy còn làm gương cho họ bằng cách sống điều mình đòi hỏi.
Lề luật của Đức Giê-su duy trì chúng ta trong nỗ lực nhưng lại để chúng ta trong bình an. Đó là kinh nghiệm của hết thảy mọi vị thánh, mọi tâm hồn miệt mài bước đi trên con đường tu đức gian khổ với 3 cấp độ lên dần: thanh tẩy, đức chiếu, kết hiệp : “Sẽ đến một ngày bạn nói được như tôi: Lạy Chúa, con tin. Bấy giờ bạn sẽ quên hết mọi lao nhọc. Bạn sẽ tìm thấy niềm vui mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban cho, và bên kia niềm vui là sự an bình khôn tả” (Jacques Loew). Và chúng ta lúc ấy cũng sẽ có thể thốt lên như Gio-an thánh sử: “Các điều răn của Người đâu có nặng nề” (1 Ga 5,3). Tóm lại, Đức Giêsu chẳng đòi hỏi ít thua các giáo sĩ Do-thái đâu. Người đòi hỏi nhiều hơn nhưng cách khác: lấy tình yêu để thực thi luật tình yêu! Tình yêu làm mọi gánh hóa ra nhẹ nhàng. “Nơi nào có tình yêu, nơi ấy chẳng có gian khổ”, thánh Au-gút-ti-nô từng bảo thế. Nếu một ách làm chúng ta tê liệt và khiến chúng ta buồn nản thì chắc chắn đó không phải là ách của Đức Giê-su!
Chúng ta chỉ gặp ách tạo buồn nản và gây tê liệt khi thay vì đến trường của Người như Người mời gọi: “Hãy học với tôi”, chúng ta học đòi theo những thúc đẩy mù quáng và mâu thuẫn của bản năng con người, những cái nhìn thiển cận và tầm thường của tinh thần thế tục, học đòi theo sự khôn ngoan nhân loại, thứ khôn ngoan tự biết mình không thể ban ý nghĩa đích thực cho cuộc sống và hạnh phúc chân chính cho tâm hồn. Chúng ta chỉ gặp ách tạo buồn nản và gây tê liệt khi thay vì đến trường của Người, chúng ta chạy theo xu hướng gọi là “bình quyền” của trần gian, của thời đại: công nhận hôn nhân đồng tính, đòi cho phụ nữ được lãnh chức tư tế thừa tác, linh mục được lập gia đình… Cuộc khủng hoảng lớn lao hiện giờ trong Giáo hội Đức với gần cả triệu người rời bỏ niềm tin Ki-tô chẳng chứng minh cho cái ách nặng nề, nguy hiểm đó sao? Nhưng nơi trường của Đức Kitô, chúng ta học biết rằng mình là con cái được yêu đang tiến về Chúa Cha, dưới sự dẫn dắt của Chúa Con hiền lành và lòng đầy khiêm nhượng, nhưng cũng với bao nỗ lực của mình.
Thánh tử đạo A-nê Lê Thị Thành (1781-1841) là một chứng minh hùng hồn cho khẳng định vừa nói trên của Thầy Chí Thánh. Bị bắt ngày 14-4-1841 tại làng Phúc Nhạc cùng với nhiều hương chức vì tội chứa chấp “đạo trưởng” Galy Lý, bà bị áp giải về Nam Định. Sáu ngày sau, ra trước công đường, bị quan tòa bắt chối đạo, bà đáp : “Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, chẳng bao giờ bỏ đức tin…”. Các quan truyền đánh đòn bà hết sức hung dữ, nhưng bà vẫn tỏ ra kiên trì lì lợm. Tới lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba, thấy bà Thành vẫn một lòng trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà bước qua Thánh giá. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là phụ nữ yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để cưỡng bách con đạp lên Thánh giá này”. Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo bà lại rồi thả rắn độc vào trong, nhưng bà đã giữ được bình tĩnh cách lạ lùng, đứng yên chẳng hề nhúc nhích nên rắn chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Ngoài những cực hình tra tấn nặng nề và ăn uống kham khổ, bà còn phải chịu thêm nỗi đau đớn của bệnh kiết lỵ. Thế nhưng bà vẫn không một chút thở than. Trong giờ hấp hối, người ta thường nghe bà cầu nguyện : “Lạy Chúa ! Chúa đã chịu chết vì con, con hết lòng theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con.” Cuối cùng bà dâng lời sau hết: “Giê-su Ma-ri-a Giu-se ! Con xin phó linh hồn và thân xác con trong tay Ba Đấng, xin ban ơn cho con được tuân theo ý Chúa trong mọi sự.” Bà A-nê đã về nhà Cha trên trời trong tinh thần thánh thiện ấy ngày 12-7-1841, sau ba tháng bị giam cầm vì đức tin.
Bao Nhiêu Khiêm Hạ Vẫn Chưa Đủ, Một Chút Tự Kiêu Là Quá Thừa. Thánh “Bông Hoa Nhỏ TN 14-A161
Bao Nhiêu Khiêm Hạ Vẫn Chưa Đủ Một Chút Tự Kiêu Là Quá Thừa.
Thánh “Bông Hoa Nhỏ” Têrêsa cho biết: “Sống khiêm nhu bé nhỏ là nhận biết mình hư vô nên không ngã lòng trước tội lỗi của mình, vì trẻ nhỏ thì thường ngã.” Có những cái bé nhỏ mà quan trọng, có những cái to lớn mà bình thường – thậm chí là tầm thường.
Kinh Thánh cho biết: “Trên mặt đất có bốn loài bé nhỏ, nhưng rất mực khôn ngoan: Loài kiến là đám dân yếu ớt, nhưng mới mùa hè đã biết chuẩn bị thức ăn. Loài ngân thử là đám dân nhược tiểu, nhưng lại biết làm nhà nơi hốc đá. Châu chấu nào có vua đâu, thế mà vẫn di chuyển theo hàng ngũ. Thằn lằn, ta bắt được bằng tay, nhưng nó sống cả nơi đền đài vua chúa.” (Cn 30:24-28) Con người tuy to lớn mà chưa chắc khôn khéo hơn chúng!
Bé nhỏ cũng có nghĩa là khiêm nhường, to lớn cũng có nghĩa là kiêu căng. Mặc dù Đức Maria cao trọng hơn mọi người nhưng chỉ nhận mình là nữ tỳ. Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả là nhân vật quan trọng nhưng sống rất giản dị, muốn nhỏ lại để Chúa lớn lên. Khiêm nhường là nhân đức nền tảng, rất quan trọng nhưng thực sự khó thể hiện, vì “cái tôi” chẳng là gì mà lại rất cồng kềnh, không dễ đè bẹp nó. Thật vậy, khi có vài người ngồi với nhau, ai cũng muốn nói nhiều để thể hiện “bản lĩnh” của mình. Những người không nói thì lại bị chê trách này nọ. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Nhiêu khê!
Cầu nguyện có thể giải quyết được nhiều vấn đề. Tuy nhiên, Thánh Isaak Syria phân tích: “Cầu nguyện là một chuyện, chiêm niệm trong cầu nguyện là chuyện khác. Cầu nguyện là gieo vãi, chiêm niệm là gặt hái, khi người thợ ngỡ ngàng nhìn thấy cảnh tượng tuyệt vời mở ra trước mắt: những quả bắp xinh đẹp trổ ra từ những hạt giống trần trụi bé nhỏ mà họ đã gieo vãi.”
Cầu nguyện không chỉ là xin. Chúa Giêsu đã dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, và hơn thế nữa, Ngài nêu gương: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” (Mt 11:25-26) Ngài là Sư Phụ hiền lành và khiêm nhường (Mt 11:29) nên Ngài chỉ thích những con người “bé nhỏ.”
Sau khi dâng lời tạ ơn, Chúa Giêsu cho biết: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” (Mt 11:27) Ai khiêm tốn thì Ngài mặc khải cho những điều bí ẩn. Ngài luôn mời gọi mọi người: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11:28-30)
Trong cuộc sống không ai lại không vất vả và có những gánh nặng nề, không cách này thì cách khác, dù theo nghĩa bóng hoặc nghĩa đen, chắc chắn không có ai không cần Ngài nâng đỡ. Cuộc đời có rất nhiều thứ chúng ta phải “gồng mình” mà chịu đựng, thậm chí có những lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi và hầu như kiệt sức. Cái ách thô ráp và cái gánh nặng trĩu ở đâu cũng có, dù trong gia đình hoặc cộng đoàn tu trì. Có lẽ chúng ta chưa thực sự kề vai vào gánh vác Ách và Gánh của Chúa Giêsu nên chúng ta vẫn thường than thở đủ thứ, rồi trách mình hoặc trách người. Thế mới biết phàm nhân yếu hèn lắm, vậy mà lúc nào cũng rình nổi loạn. Cái tôi thật tồi tệ!
Được sinh ra làm người là một đại ân, có vóc dáng và tâm trí bình thường lại là đặc ân khác, được lành lặn và khỏe mạnh lại thêm đại ân nữa. Hơn nữa, chúng ta lại được Chúa Giêsu cứu độ, đó là một đặc ân cao cả khác nữa. Ơn chồng lên ơn. Quá nhiều. Như vậy, chúc tụng và tạ ơn là một trong các bổn phận ưu tiên hàng đầu mà chúng ta phải thực hiện đối với Thiên Chúa. Có nhiều cách thể hiện, một cách đơn giản là tránh tội: “Hãy run sợ, và đừng phạm tội nữa, trên giường nằm, suy nghĩ và lặng thinh.” (Tv 4:5) Một cách khác đơn giản là ca hát: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa.” (Ep 5:19)
Con cái không thể nào trả hiếu cho cha mẹ, và cha mẹ cũng không đòi hỏi gì, chỉ cần con cái ngoan ngoãn là trả hiếu rồi. Ca dao nhắn nhủ thật chí lý: “Ai mà phụ nghĩa quên công / Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.” Lòng biết ơn rất quan trọng, dù chúng ta đang ở trên Tabor hoặc Canvê. Thật dễ tạ ơn khi phấn khởi đứng trên đỉnh Tabor, nhưng rất khó tạ ơn khi ủ rũ sầu thảm trên đỉnh Canvê. Hằng ngày, một lời cảm ơn rất đơn giản nhưng lại rất thường bị lãng quên. Cuộc đời tín nhân phải là bản “trường ca tri ân” vô tận. Trong đó có những “nốt tình” khác nhau về trường độ và cao độ, mỗi “nốt” có vị trí khác nhau nhưng vẫn luôn hài hòa để tạo thành bản tổng phổ hoàn chỉnh để ca tụng Lòng Thương Xót bao la của Thiên Chúa dành cho mình, cho gia đình và mọi người.
Biết ơn là biết hạ mình, nhận biết mình bé nhỏ. Theo nghiên cứu tâm lý, người ta cảm thấy hạnh phúc hơn nếu biết ơn về những điều tích cực trong cuộc sống (tức là những gì mình có) hơn là cứ lo lắng về những gì mình không có. Biết ơn là một trong những cảm xúc mạnh mẽ nhất mà con người khả dĩ có được trong cuộc sống hằng ngày. Điều đó liên quan việc đền ơn đáp nghĩa bằng một cách nào đó. Cựu nghị sĩ Hạ viện Les Brown (sinh 1945, Hoa Kỳ) có cách ví von đơn giản mà thú vị: “Người ngồi trong bóng râm ngày hôm nay là nhờ đã trồng cây từ lâu về trước.” Người trồng đó có thể là chính mình hoặc một người nào đó, thường là người khác trồng và chúng ta được hưởng lúc này.
Luật yêu của Chúa Giêsu khác Cựu Ước – tương đương mà dị biệt, có vẻ “ngược đời” lắm, nhưng đó lại là nghịch-lý-thuận. Cựu Luật dựa trên nền tảng công bằng: “Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, mạng đền mạng.” (Xh 21:24; Lv 24:20; Đnl 19:21) Đó là luật báo phục tương xứng. Thế là “huề vốn,” như vậy là thụ động tiêu cực. Còn Tân Luật dựa trên nền tảng yêu thương, mà yêu thương thì phải tha thứ. Tân Luật chủ động và tích cực. Hiểu cho sâu xa thì ai cũng là ân nhân của chúng ta, dù ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nghĩa là chúng ta luôn phải biết ơn người khác, đặc biệt là với Thiên Chúa. Biết ơn thì phải biết tạ ơn.
Tự vấn và tự trả lời, Thánh Vịnh gia nói: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa.” (Tv 116 [114-115]:12-13) Tạ ơn Thiên Chúa là bổn phận của chúng ta, và công việc chúng ta thể hiện đó chẳng thêm gì cho Ngài nhưng lại sinh ơn cứu độ cho chính chúng ta. Đề cập việc tạ ơn, chúng ta có thể nhớ lại chuyện mười người phong hủi. Cả mười người đều được sạch, nhưng chỉ có một người ngoại bang trở lại tạ ơn Chúa Giêsu. (Lc 17:11-19) Như vậy, chắc chắn chín người kia là “đạo gốc,” chính đạo chứ không tà đạo, thế nhưng họ vẫn vô ơn vì có lẽ tưởng mình là “đệ nhất phàm nhân.” Câu chuyện này vừa “nhắc khéo” vừa “nguyền rủa” chúng ta về việc vô ơn bội nghĩa đối với Thiên Chúa và tha nhân. Kinh dị thật!
Những người khiêm nhường biết mình và biết người, vui vẻ nhớ ơn chứ không miễn cưỡng, chiếu lệ. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” (Dcr 9:9) Lý do để chúng ta vui mừng rất rõ ràng. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều cách, dạng phổ biến nhất là Hồng Ân. Thánh Ân của Ngài cũng lạ “phép lạ” luôn xảy ra trong cuộc đời hằng ngày của mỗi chúng ta – đơn giản mà cần thiết là không khí. Không cần phải tìm đâu xa.
Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài là Đấng cứu thoát chúng ta khỏi kẻ thù và làm cho chúng ta được sống bình an và an cư lạc nghiệp: “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Épraim và chiến mã khỏi Giêrusalem; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy, và Người sẽ công bố hòa bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.” (Dcr 9:10) Vả lại, “chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Có những thứ người ta gọi là ngẫu nhiên nhưng thực ra đó là Chúa cho phép chúng ta gặp điều này hoặc sự nọ, theo quan phòng mầu nhiệm của Ngài.
Thánh Gióp là tấm gương điển hình. Sau khi bị mất tất cả, từ tài sản tới con cái, chính ông cũng bị bệnh tật, bị mọi người xa tránh, cả vợ ông cũng nguyền rủa ông, nhưng ông vẫn tận trung với Thiên Chúa. Ông minh định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21) Cả đời chúng ta cũng không thể so sánh với một góc nhỏ của Thánh Gióp. Đau khổ (tinh thần hoặc thể lý) là “visa” để nên thánh đấy. Thật vậy, Thánh Inhaxio Loyola nói “Nếu Thiên Chúa để anh em phải chịu nhiều đau khổ, đó là dấu Người đã có những chương trình lớn lao dành cho anh em, và chắc chắn Người muốn biến đổi anh em thành một vị thánh.”
Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, chẳng có thần linh nào khác, chính Ngài “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên,” (1 Sm 2:6; Kn 16:13) Ngài “bắt phải nghèo và cho giàu có, hạ xuống thấp và nhắc lên cao.” (1 Sm 2:6-7) Nghe có vẻ “oải” quá, nhưng không phải vậy, Ngài vẫn “thành tín trong mọi lời Ngài phán, và đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm. Ai quỵ ngã, Ngài đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Ngài cho đứng thẳng lên.” (Tv 145:13-14) Thánh Vịnh gia đã trải nghiệm: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống.” (Tv 30:4) Hồng ân chồng lên hồng ân nhờ đức tin quyện vào đức mến và đức cậy.
Thánh Phaolô nói: “Vì tính xác thịt ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn.” (Gl 5:17) Thần Khí Chúa rất quan trọng trong đời chúng ta, vì chính Chúa Thánh Thần tác động và biến đổi chúng ta, như Thánh Phaolô nói: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9)
Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ hơn: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới. Vậy thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để phải sống theo tính xác thịt. Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống.” (Rm 8:11-13) Chúng ta luôn là “con nợ” của Thiên Chúa và tha nhân. Mặc dù vậy cũng vẫn phải biết ơn, bởi vì mắc nợ cũng là một dạng mang ơn vậy. Thọ ân thì phải tri ân.
Hồng ân lớn nhất mà chúng ta mắc nợ Chúa Giêsu là ơn cứu tử, điều mà chính Ngài đã minh định: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10:15) Chính cái chết của Ngài là Hồng Ân vô giá, chẳng bao giờ chúng ta có thể đền đáp cân xứng. Nhưng Ngài không đòi hỏi gì nhiều ở chúng ta, Ngài chỉ cần chúng ta thật lòng tin yêu Ngài và cảm tạ Ngài trong mọi hoàn cảnh. Đơn giản vậy mà sao khó quá vậy? Vì tôi tồi tệ lắm!
Cuộc sống vốn dĩ nhiêu khê vì bao nỗi khổ, người ta càng cần khiêm nhường hơn. Cứ đơn giản hóa và đi xuyên qua đau khổ thì sẽ an tâm vui sống, và rồi sẽ gặp được Thiên Chúa – Nguồn Hạnh Phúc duy nhất. William Clement Stone (1902-2002, nhà từ thiện Hoa Kỳ) đặt vấn đề: “Nếu thực sự có lòng biết ơn, bạn sẽ làm gì? Hãy CHIA SẺ với mọi người.” Bà Betty Smith (1896-1972, tác giả Hoa Kỳ) xác định: “QUAN TÂM mọi việc xung quanh cho dù đó là gặp lần đầu hay lần cuối, rồi cuộc sống của bạn sẽ hạnh phúc.” Đó là sống hòa đồng, không kỳ thị hoặc dị ứng với bất kỳ ai.
Lạy Thiên Chúa uy quyền, xin đè bẹp “cái tôi” của chúng con xuống để chúng con có thể vươn tới Ngài. Xin ban thêm cho chúng con được dồi dào ba đức đối thần và các đức đối nhân để đủ can đảm vượt lên chính mình và vượt qua mọi bất trắc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Truớc tiên, xin kể lại cho anh chị em nghe một truyện ngắn: Trong một hội dòng nọ, có một TN 14-A162
Truớc tiên, xin kể lại cho anh chị em nghe một truyện ngắn: Trong một hội dòng nọ, có một đấng bề trên rất uyên bác, học vấn tinh thông với nhiều học vị cao cấp trong đạo. Cha có thói quen xử dụng cụm từ “I know – Tôi hiểu, tôi biết”. Anh em nghe nhiều cũng quen tai. Một lần kia, Cha đi thăm một cộng đoàn bên Á Châu. Anh em thật vui mừng đón tiếp và mời Ngài đi thăm các cơ sở truyền giáo do anh em phụ trách. Ngôn ngữ bất đồng, nên anh em có nhiệm vụ làm thông dịch. Chưa kịp dịch thì Ngài đã đáp “I know - tôi hiểu”. Một lần “I know, tôi hiểu, tôi biết” thì còn chịu đuợc, nhưng lần nào cũng tôi hiểu, tôi biết ngay cả trước khi người bản xứ nói thì quả thật ‘coi trời bằng vung’.
Thưa anh chị em,
Câu chuyện trên nhắc cho tôi rằng: Thông minh, tài giỏi không là một tội. Nhiều người trong chúng ta vẫn cầu xin cho mình hay con cái được thông minh và học giỏi đó hay sao! Thông minh là quà tặng của Thiên Chúa. Người ban cho ai tùy ý Người. Tuy nhiên, thông minh tài giỏi thuờng hay đưa con người rơi vào sự cám dỗ của tính kiêu căng và ngạo mạn. Và con người với tính kiêu ngạo như thế thì họ còn coi ai ra gì nữa! Họ nghĩ là với tài trí mà họ đang có thì họ có thể làm chủ đời họ (rồi làm chủ và thống trị người khác), sau đó thì không cần đến Thiên Chúa.
Trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã trải qua kinh nghiệm đắng cay này: những người thông minh thay vì đón nhận lại từ chối Người. Thật vậy, những người trong hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo thời Đức Chúa thuờng là những người thông thái, hiểu biết và giải thích lề luật cho người khác theo; nhưng chính vì quá thông minh nên họ không nhận ra căn tính của Đức Giêsu. Trong khi đó, vì hòan cảnh và điều kiện của cuộc sống cho nên những người thấp cổ bé miệng, ít học thuờng có nhiều cơ hội để đón nhận điều mới. Họ có thể đón nhận Lời giảng dậy của Người một cách dễ dàng hơn.
Đức Giêsu đã nhận ra tình trạng sống của bọn dân đen, những người thấp cổ, bé mọn. Họ bị những người lãnh đạo, thông luật bó những gánh nặng chất lên vai họ. Chính vì thế, phần kế tiếp trong trình thuật Tin Mừng là lời mời gọi của Chúa dành cho những ai đang vất vả mang gánh năng nề (nặng nề trong cuộc sống, nặng nề vì tuân giữ lề luật, nặng nề vì quá khứ tội lỗi… v.v); Hãy đến với Người, học nơi Người, tôn Người làm Thầy; và Người sẽ bổ duỡng để họ đủ sức mà tiếp tục buớc theo Người.
Như anh chị em đã biết, sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng không phải là điều dễ dàng. Học theo lối sống của Đức Giêsu rất khó khăn vì đó là cuộc sống từ bỏ, hy sinh. Và, chúng ta cũng không nên lầm tuởng là Người đến để phá hủy (gánh nặng của) lề luật; nhưng kiện tòan. Và điều trọng đại nhất mà Đức Giêsu muốn là Tình Yêu, Lòng Nhân Nghĩa.
Thưa anh chị em,
Tôi không quá lạc quan hoặc bi quan quá khi nhìn về cuộc đời. Ta có thể nói cuộc sống là chuỗi ngày vui buồn lẫn lộn. Không ai vui cả đời và không ai sầu muôn kiếp. Trong thi thi hành bổn phận đuợc trao phó, các tu sĩ và linh mục cũng gặp những gánh nặng không sao kể xiết! Trong cuộc sống gia đình, anh chị em đã trải qua trăm cay nghìn đắng nào ai thấu cho!
Nói chung, dù sống theo ơn gọi nào, đã là con người thì đau khổ, gánh nặng, niềm vui và nỗi buồn gắn liền với cuộc sống. Không ai tránh thoát và cũng không có ai đuợc sai đến để cất đi các nỗi cơ cực và nhọc nhằn trong cuộc sống của chúng ta. Chúa mời mọi người, tất cả chúng ta, không loại trừ một ai: “Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách (gánh nặng) của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.”
Hãy đến cùng Chúa và học với Người. Người không dậy bằng lý thuyết, nhưng bằng những kinh nghiệm. Cuộc sống của Người là chứng từ hùng hồn về bài học hôm nay.
Đức Giêsu, khi chấp nhận cuộc sống ở trần gian, Người cũng không có ngoại lệ. Người đã đối diện và thắng vuợt các gánh nặng: như gánh nặng của lề luật, gánh nặng của trách nhiệm, gánh nặng khi đối diện với những kẻ chống đối rồi giết Người, gánh năng để bảo vệ nhân phẩm và căn tính làm người của đàn chiên mà Thiên Chúa trao phó cho Người; và gánh nặng duy nhất là Người phải từ bỏ ý riêng mình mà vâng phục ý định của Cha. Người đã sống như một trẻ nhỏ, hoàn toàn lệ thuộc vào Cha. Và, với thân phận bé mọn của một trẻ thơ, Người đã đón nhận Mạc Khải của Cha một cách thật trọn vẹn; và sẵn sàng chia sẻ bí nhiệm đó cho những ai bé mọn. (Mt 11:25)
Hơn nữa, Chúa đã không hứa sẽ cất đi tòan bộ gánh nặng trong cuộc đời của chúng ta. Chính vì thế, cho dù vất vả với cuộc sống, cần tuân giữ các khỏan luật. Nhưng chúng ta không mang gánh nặng một mình. Con đuờng chúng ta đuợc mời gọi buớc đi là con đuờng của Chúa. Chúa đã đi truớc. Hôm nay, Chúa mời chúng ta: Hãy đến với Chúa, ngồi nghỉ duới chân Người, lắng nghe và kể cho Người nghe về cuộc đời mình. Hãy mời Chúa đến không như một vị khách quí mà thôi; nhưng còn là người tình để cùng dùng bữa với nhau. (Kh 3:20) Người sẽ thật vui mừng đến chia vui, sẻ buồn với chúng ta như đã chia sẻ với Maria, và đó là phần tốt nhất mà Maria đã chọn (Lc 10:42). Trong tinh thần đó, thì gánh nặng không còn. Trong Tình Yêu tất cả đều nhẹ nhàng.
Và với khí cụ ‘hiền lành và khiêm nhường’ Người đã hoàn thành chuơng trình mà Cha muốn Người thi hành. Hiền lành và khiêm nhường không chỉ là các nhân đức cho bằng đó là cách sống của Chúa. Hiền lành để mời gọi mọi người đến với Người. Khiêm nhường để uy quyền cuả Thiên Chúa đuợc tỏ hiện như lời của Thánh Phaolô “Đức Giê-su Ki-tô… đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, hạ mình vâng lời cho đến nỗi chết. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người.”(Phi-lip-phê 2:6-9)
Tóm lại, Tin mừng của Chúa hôm nay là lời mời gọi không chỉ dành cho những ai đang vất vả lầm than mà thôi; nhưng đó là lời mời gọi dành cho tất cả chúng ta: Hãy đến với Nguời, hãy học nơi Người; bởi Người muốn tham dự, đồng hành và chia sẻ với cuộc đời chúng ta. Thật vậy, trong Đức Giêsu chúng ta được bổ sức để thi hành Ý của Thiên Chúa như Lời đã phán hãy mang lấy ách của Chúa.
Thật vậy, Đức Giê-su không mời gọi chúng ta đi theo Người để có cuộc sống thoải mái và không còn đau khổ nữa. Trái lại, theo Chúa là chấp nhận một cuộc sống bấp bênh, liều lĩnh đối diện với mọi hiểm nguy với đầy thách thức mà chúng ta phải vượt qua. Con đường và cuộc sống mà Chúa dọn cho chúng ta bước vào là một cuộc sống mà trong đó con người đối xử với nhau một cách thật nhân từ và khiêm cung để phục vụ nhau. Tuy nhiên, ai được mời gọi đi vào nếp sống như thế đều cảm nhận được sự thanh nhàn khi phục vụ; vui vẻ khi phục vụ như một người anh em, không ai làm nô lệ ai. Vì là anh em cho nên họ cũng được kêu gọi để làm người phục vụ nhau như gương của Chúa, Đấng đã đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Như thế, để hoàn thành nhiệm vụ cao cả và khó khăn như thế chúng ta hãy đến với Chúa, hãy học nơi Người. Đừng trì hoãn, đừng nại vào các lý do như: con không xứng đáng, con đã có hẹn, con yếu đuối và tội lỗi, con lo sợ, con phải đi thăm thân nhân, người nghèo, kẻ ốm đau và thiếu thốn hay các lý do khác giống như thế. Những điều đó Chúa đều biết. Hãy đến với Chúa ngay, rồi Người sẽ bổ sức và ban sức mạnh để chúng ta trở thành nguồn trợ lực và bổ sức cho nhau. Amen!
Lạy Thiên Chúa là tình yêu đầy lòng thương sót, mà chúng con đã lãnh nhận giữa đền thánh Chúa TN 14-A163
Lạy Thiên Chúa là tình yêu đầy lòng thương sót, mà chúng con đã lãnh nhận giữa đền thánh Chúa. Lời tán tụng Chúa giống như danh Chúa đã vang đến tận cùng thế giới; cánh tay mặt của Chúa đầy tràn sự công chính cứu chuộc (Tv 48(47):10-11).
Lạy Thiên Chúa -nhờ Con Một Chúa hạ mình xuống làm người- đã làm cho loài người sa ngã được sống lại, xin hãy đổ tràn đầy những kẻ tin Chúa niềm hân hoan thánh thiện, vì chúng là những kẻ đã được Chúa cứu thoát khỏi cảnh tù đầy của tội lỗi và cho hưởng phúc hân hoan muôn đời. Qua Chúa Giesu Kito, Chúa chúng con đấng hằng sống hằng trị với Chúa Cha trong hiệp nhất với Chúa Thánh Thần là một Thiên Chúa duy nhất, đến muôn đời. Amen.
Chúng ta cùng nhau suy niệm về câu nói của Chúa Giêsu: “Ách ta thì dễ dàng, gánh ta thì nhẹ nhàng. Ai đau khổ buồn phiền hãy đến với ta sẽ được an ủi và nhẹ bớt gánh nặng.”
Bài Phúc Âm hôm nay (Mt 11:25-30) là một thí dụ giảng huấn của Chúa Giêsu về sự khôn ngoan thấy tương tự như trong sách Sirach 51:23-30. Theo cách nói của Mathieu với khán thính giả Kito giáo người Do Thái thì Chúa Giêsu bắt đầu dùng công thức chúc phúc cổ truyền của người Do Thái -“Con ngợi khen Cha là Chúa thiên đàng và dưới đất”- nhưng từ Thiên Chúa là “Cha” đã thể hiện 5 lần trong bản tin mừng ngắn gọn này. Ngài đã ca ngợi và dâng lời tạ ơn sự mạc khải của Thiên Chúa như cách nói của Chúa Giêsu mà Người thường nói về “ước muốn ân sủng” của Thiên Chúa. Ước muốn chỉ là hành động “chờ mong hay nhân từ hiền lành”. Ngoài ra nó không phải là một cái gì có thể đạt được qua một trí thức siêu đẳng, mà chỉ là thể hiện một “ý niệm nhỏ nhoi”, một cách nói ẩn dụ, đơn giản chẳng cần phải có học thức cao xa. Và thế nào là mạc khải? Là hiểu biết hay cảm nghiệm về một Thiên Chúa tự tạo mà Chúa Giêsu là Người là Con duy nhất đã tiếp cận được. Nói cách khác chúng ta có thể biết được Thiên Chúa qua con người Chúa Giêsu.
Vậy Chúa Giêsu, giống như sự khôn ngoan đã được nhân cách hóa trong sách Sirach. Sách mời gọi chúng ta là những kẻ đã mệt mỏi kiệt sức hãy đến với Người và nghỉ ngơi trong Người thì sẽ được an vui mát mẻ. Từ ách của chúa Giêsu theo sát sự bắt buộc của luật Torah vì vào thế kỷ 1 và 2 các rabbis dùng cách ní đó trong câu “ách của Torah” và “ách của vương quốc thiên đàng” cũng có cùng một nghĩa. Tiếng “hiền lành khiêm nhường trong lòng” cũng có cùng một nghĩa, và từ “thấp hèn” hay “tự hạ mình xuống hàng tôi tớ” cũng giống vậy thôi.
Chúng ta hãy tự vấn xem chúa Giêsu có ý nói gì khi Người nói “ách ta thì dễ dàng và gánh ta thì nhẹ nhàng?” Những ai đau khổ và gánh nặng hãy đến với Ta sẽ được nhẹ bớt, an ủi và hạnh phúc.
Thánh vịnh đáp ca 145
R/. Con sẽ ca tụng danh Chúa, là quân vương và Thiên Chúa của con đến muôn đời. Alleluia. Con sẽ tán tụng Chúa là Thiên Chúa và là quân vương của con, Và con sẽ chúc phúc danh Chúa đền muôn ngàn đời Mỗi ngày con sẽ chúc phúc Chúa Và con sẽ ca tụng danh Chúa đến muôn đời Chúa đầy khả ái và hằng cứu giúp Ít nổi cơn thịnh và lòng từ bi thì vĩ đại. Chúa tốt lành với hết mọi người, lại đầy nhiệt huyết trong công trình của Chúa. Hãy để công trình của Chúa cảm tạ Chúa, lạy Chúa! Và hãy để những kẻ trung thành tin vào Chúa chúc phúc Chúa. Hãy để cho họ giãng luận về vinh quang nước Chúa Và nói về quyền uy của Chúa Chúa nhiệt tình trong mọi công trình của Chúa Và mọi công trình của Chúa đều là thánh thiêng. Chúa vực dậy tất cả những ai ngã quị, Và nâng ngẩng lên những ai cúi đầu thấp. R/. Con sẽ ca tụng danh Chúa, là quân vương và Thiên Chúa của con đến muôn đời. Alleluia [Thánh vịnh 145:1-2, 8-9, 1011, 13-14 (1)]