Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 13-A Bài 101-108: Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy.

Thứ bảy - 08/07/2023 06:23
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 13-A Bài 101-108: Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy.
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 13-A Bài 101-108: Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy.
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 13-A Bài 101-108: Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy.
-----------------------------
Phúc Âm: Mt 10, 37-42: “Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy; kẻ nào tiếp đón các con, là tiếp đón Thầy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
“Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”. - Ðó là lời Chúa.
-----------------------------
TN 13-A101: ĐỨC ÁI TRỌN HẢO.. 1
TN 13-A102: ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA.. 4
TN 13-A103: HỌC CÁCH TRỞ NÊN ANH CHỊ EM TRONG GIA ĐÌNH CỦA THIÊN CHÚA.. 6
TN 13-A104: YÊU CHÚA TRÊN HẾT.. 10
TN 13-A105: TRIẾT LÝ SỐNG.. 13
TN 13-A106: ĐẶT THẦY TRÊN VÀ TRONG TẤT CẢ.. 17
TN 13-A107: HÃY VÁC THÁNH GIÁ MÌNH VÀ THEO TA.. 21
TN 13-A108: CÓ MỘT CON ĐƯỜNG... 24

--------------------------------
 

TN 13-A101: ĐỨC ÁI TRỌN HẢO

 

Nội dung các Bài đọc Lời Chúa của Chúa nhật 13 Thường niên có thể tóm gọn trong hai từ TN 13-A101


Nội dung các Bài đọc Lời Chúa của Chúa nhật 13 Thường niên có thể tóm gọn trong hai từ, đó là “đón tiếp”. “Đón tiếp” là nghĩa cử của yêu thương, của lòng bao dung và bác ái. Ý nghĩa của từ “đón tiếp” không chỉ dừng lại ở việc “cho khách đỗ nhờ”, mà còn được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Khi có tâm tình đón tiếp, là chúng ta thực hiện Đức Ái ở mức hoàn hảo.

Nội dung Bài sách thánh thứ nhất, trích trong sách Các Vua quyển thứ hai, tương tự như một trình thuật về ông A-bra-ham và bà Sa-ra trong sách Sáng thế. Hai ông bà đã cao niên mà không có con nối dòng. Trong một lần được đón tiếp chu đáo, các vị Sứ thần của Thiên Chúa đã hứa với ông bà: “Bằng giờ sang năm, bà Sa-ra sẽ sinh con trai”. Điều này thật khó tin, đến nỗi bà Sara bật cười (x. St 18,1-15). Sau này, bà đã sinh hạ Isaac vào lúc ông A-bra-ham đã 100 tuổi. Cũng tương tự như vậy, cặp vợ chồng ở Su-nêm đã đón tiếp ngôn sứ Ê-li-sa, là người của Thiên Chúa, và ông này đã nói: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”. Lời tuyên bố của vị ngôn sứ sau đó đã được thực hiện. Như thế, sự niềm nở đón tiếp là một trong những lý do để nhận được lời chúc phúc đến từ Thiên Chúa và các vị sứ giả của Ngài. Khi A-bra-ham và bà Sa-ra, cũng như cặp vợ chồng ở Su-nêm, đã đón tiếp “Người của Thiên Chúa”. Họ đã thể hiện một lòng mến hoàn hảo.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su cũng nhấn mạnh đến sự đón tiếp. Nếu hai cặp vợ chồng trong Cựu Ước nhờ sự đón tiếp nồng hậu mà được Chúa thưởng cho sinh con nối dòng, thì đối với những ai đón tiếp Chúa Giê-su sẽ đạt phần thưởng cao quý là được gặp Chúa Cha.

Phần đầu của bài Tin Mừng trong Chúa nhật này có thể làm cho chúng ta cảm thấy “sốc”. Bởi lẽ Chúa mời gọi dành cho Người một tình yêu vượt lên mọi mối tương quan huyết nhục thiêng liêng là cha mẹ anh em họ hàng. Hãy tìm hiểu đôi chút bối cảnh xã hội của bài Tin Mừng. Vào thời đó, một số người Do Thái tin Đức Giê-su là Đấng Thiên sai và thành tâm đón nhận giáo huấn của người. Những người này gặp rất nhiều khó khăn đến từ phía các chức sắc Do Thái giáo và từ phía gia đình. Nhiều người thậm chí bị cha mẹ và gia đình tẩy chay. Chúng ta nhớ lại trường hợp Chúa Giê-su chữa lành người mù bẩm sinh, được trình bày trong Tin Mừng thánh Gio-an. Cha mẹ anh cũng không dám can thiệp vì sợ bị đuổi ra khỏi hội đường. Qua lời giáo huấn trong Tin Mừng, Chúa Giê-su muốn khẳng định: những ai muốn tin theo Người, phải dành cho Người một lòng mến ưu tiên. Phải can đảm chấp nhận vượt lên mọi ràng buộc và đôi khi phải chấp nhận hy sinh đối với những mối liên hệ thiêng liêng thân thiết. Những lời Chúa Giê-su không thể được coi như sự miệt thị hoặc khinh thường những người thân. Bởi lẽ liền sau đó, Chúa dạy chúng ta phải yêu thương kể cả những người bé mọn. Một chén nước lã rất đơn giản, nhưng cũng có giá trị nếu chúng ta cho đi vì lòng mến. Như thế, tình yêu mến dành cho Chúa là nền tảng cho những mối liên hệ khác. Người tin vào Chúa Giê-su không chỉ giới hạn tình yêu của mình nơi những người thân, mà còn trải rộng và lan tỏa đến mọi người, kể cả những người bé mọn vô danh trong cuộc sống.

Là Ki-tô hữu, chúng ta được Chúa đón tiếp vào gia đình của Người. Thánh Phao-lô (Bài đọc II) suy tư về ý nghĩa của Bí tích Thanh Tẩy. Nhờ được “dìm mình trong sự chết của Đức Giê-su”, chúng ta trở nên tạo vật mới và được Người đón nhận vào Giáo Hội. Chúng ta trở nên nghĩa thiết với Người và nghĩa thiết với tất cả anh chị em Ki-tô hữu trên toàn thế giới.  Chính vì thế mà chúng ta thường gọi Giáo Hội là “gia đình của Chúa”. Cộng đoàn giáo xứ cũng được gọi là một gia đình. Bởi lẽ mọi thành viên đều được mời gọi sống chan hòa yêu thương nhau, noi gương tình yêu hy sinh của Chúa Giê-su.

“Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”. Hành trình của người môn đệ Đức Giê-su cũng là hành trình thập giá. Nói cách khác, người môn đệ khước từ thập giá, sẽ không phải là môn đệ đích thực. Chúa Giê-su đã khẳng định điều đó. Lời Chúa không khuyên chúng ta đi tìm thập giá cho mình, cũng không chủ trương một thứ bệnh hoạn thích đi tìm đau khổ hoặc thích làm cho người khác đau khổ. Chúa không bao giờ tạo ra thập giá rồi đặt trên vai chúng ta, vì bản chất của Người là tốt lành và yêu thương. Thập giá là gánh nặng, là khổ đau, là mâu thuẫn, là những bất đồng trong cuộc sống nhân sinh. Có những khi thập giá đến từ bên ngoài; có những lúc thập giá đến do những bất cẩn của bản thân. Vác thập giá là đón nhận những thử thách gian nan và những đau khổ với tâm tình của Chúa Giê-su. Trong hành trình thập giá cuộc đời, có Chúa Giê-su cùng vác với chúng ta. Người thêm sức để chúng ta có thể vượt qua thập giá mà đến vinh quang.

“Khi hiến thân, là khi được nhận lãnh; khi thứ tha, là khi được tha thứ, khi quên mình, là lúc gặp lại bản thân; khi chết đi là khi vui sống muôn đời”. Nội dung “Kinh Hoà Bình” mà chúng ta vẫn hát là lời cầu nguyện của Thánh Phan-xi-cô khó khăn. Lời kinh này diễn tả một triết lý xem ra trái ngược với lối suy nghĩ thực dụng của người đời. Tuy vậy, đó lại là tinh thần Tin Mừng, thể hiện lời dạy của Chúa Giê-su.

Lời Chúa hôm nay lưu ý chúng ta: chúng ta đã đón tiếp Chúa vào cuộc đời như thế nào? Đón Chúa đến trong cuộc đời không chỉ thể hiện qua lòng đạo đức cá nhân, mà còn hệ tại ở việc đón tiếp tha nhân. Cuộc sống gia đình hay cộng đoàn là một chuỗi những khác biệt: khác biệt về quan điểm, về sở thích, về nguồn gốc, về lối sống. Đón tiếp anh chị em mình, như trên đây đã nói, không phải chỉ là “cho khách đỗ nhờ”, mà còn là chấp nhận những khác biệt của người khác để tạo nên một cuộc sống hài hoà.

Ông A-bra-ham và bà Sa-ra đã được Chúa cho sinh con ở tuổi già. Cặp vợ chồng ở Su-nêm cũng thế. Họ đã được ơn lạ, nhờ quảng đại đón tiếp các vị sứ giả của Thiên Chúa. Chúa Giê-su đang đi ngang qua cuộc đời của chúng ta. Hãy mở rộng tâm hồn để đón tiếp Người. hãy dành cho Người một “cõi riêng tư” trong tâm hồn chúng ta. Chúa Giê-su tự đồng hóa với những người cô thế cô thân, chúng ta có thể gặp Người ở bất cứ môi trường và hoàn cảnh nào, qua những anh chị em bất hạnh. Nguyện xin Chúa rộng mở con tim chúng ta để chúng ta được gặp gỡ và đón tiếp Người. A-men.

+ ĐTGM Giu-se Vũ Văn Thiên

--------------------------------

 

TN 13-A102: ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA


Phải yêu Chúa nhất

 

Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Mát-thêu ghi lại lời Chúa Giê-su nói với các môn đệ TN 13-A102


Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Mát-thêu ghi lại lời Chúa Giê-su nói với các môn đệ mình rằng: “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10, 37).

Nghe lời tuyên bố của Chúa Giê-su ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Chúa Giê-su, với đòi hỏi thật gắt gao. Bước đầu Chúa chỉ đòi người môn đệ phải yêu Chúa hơn cha mẹ; tiếp đến, Chúa bảo họ phải yêu Chúa hơn cả con cái là những giọt máu của chính bản thân mình; và cuối cùng Chúa đòi buộc họ phải vác lấy thập giá mình mà đi theo Chúa thì mới xứng đáng làm môn đệ Chúa. Tựu chung lại là phải yêu Chúa đến nỗi mất mạng vì Chúa.

Có người đặt câu hỏi: Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao?

Không, để làm môn đệ cho xứng với Chúa, người ta phải dành hết tình yêu đối với Chúa, giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất, chọn Chúa. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Ngài là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Chúa Giê-su yêu cầu con người dành cho Ngài một vị trí đặc biệt và cao nhất. Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải … mà là cái tôi.

Phải từ bỏ mình

Chúa đòi người môn đệ phải từ bỏ tất cả, ngay cả mạng sống mình để đi theo. Chúa Giê-su không cho phép môn đệ nào được lấy cớ yêu cha yêu mẹ, yêu con cái hay sự sống của mình mà từ chối Chúa. Tất cả những lý do trên đều không xứng với Chúa. Người đòi hỏi người môn đệ phải dành cho Chúa một tình yêu tuyệt đối.

Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Chúa làm cho sống và Chúa làm cho chết. Mọi sự đều là của Chúa. Chúa ban cho rồi Chúa lại lấy đi. Chúa có quyền đòi chúng ta phải dâng tất cả cho Người, nhất là khi hiến dâng, chúng ta không những không mất mát mà còn được lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn.

Ðó là ý tưởng mà Chúa nói tiếp: “Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ đành mất sự sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó“. Nghĩa là Chúa Giê-su đòi người môn đệ phải dám hy sinh tất cả cho Người để chứng tỏ tình yêu tuyệt đối, đối với Người và để minh chứng Người thật là Thiên Chúa. Và khi hy sinh như vậy, họ tìm được sự sống.

Và vác thập giá mình

Cái tôi cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Chúa Giê-su, nên Chúa Giê-su thêm: “Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đánh mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó” (Mt 10, 38-39).

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giê-su, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức Cố Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI viết: Con đường “chịu mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giê-su thành Na-gia-rét 2007, 333).

Chúa Giê-su mời gọi ai muốn làm môn đệ Chúa thì phải: “Vác thập giá mà theo” (Mt 10, 38). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với tình yêu và lòng yêu mến. Chúa Giê-su dặn dò các ông rằng: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy.” Nghe câu nói này, chúng ta thấy nó không còn phù hợp với ý nghĩ con người trong thời đại hôm nay. Bởi vì, khi nói về thập giá, là chúng ta nói đến đau khổ, hy sinh và sự chết. Chẳng ai lại chấp nhận thập giá.

Hỏi: Chúa Giê-su có thích khổ đau và thập giá không? Không, Chúa Giê-su đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích. Nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giê-su, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là hy sinh và từ bỏ để sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Vác thập giá mình mà theo Đức Giê-su là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ là “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình.

Không phải ngẫu nhiên Chúa Giê-su nói đến “Thập Giá”. Vác lấy thập giá mà theo Chúa Giê-su có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ hy sinh nào vì tình yêu đối với Chúa. Nhưng chúng ta không vác thập giá một mình, vì có Chúa cùng đi, Người đi trước để chúng ta tiếp bước theo sau, Người đi mau để chúng ta được lôi kéo dắt dìu, Người nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin đến giúp chúng con để chúng con tiến bước theo Chúa cho đến trọn đời. A-men.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

---------------------------------------

 

TN 13-A103: HỌC CÁCH TRỞ NÊN ANH CHỊ EM TRONG GIA ĐÌNH CỦA THIÊN CHÚA


Nền tảng vững bền cho các mối tương quan.

 

Có lẽ chưa bao giờ chúng ta nghe nói hoặc gặp cha mẹ nào, kể cả chúng ta, chọn đoạn văn này TN 13-A103


Có lẽ chưa bao giờ chúng ta nghe nói hoặc gặp cha mẹ nào, kể cả chúng ta, chọn đoạn văn này của thánh Mátthêu cho con mình khi đưa con đến nhà thờ lãnh bí tích Thánh tẩy, bắt đầu cuộc sống theo Chúa Giêsu, bởi vì đoạn văn này thật khó nghe đối với các bậc cha mẹ: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10: 37). Có cha mẹ nào lại nói, thậm chí dạy con cái mình như vậy không? Dạy con cái yêu thương cha mẹ còn chưa thấy đâu, ai đời lại bảo chúng hãy yêu “người khác” hơn yêu cha mẹ mình! Ngược lại, cha mẹ nào thực sự là cha mẹ, mà lại không “nước mắt chảy xuôi” yêu thương con cái mình cơ chứ? Thế mà “Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy!” Nếu không phải ngược đời thì hẳn những ý nghĩ như thế này quả là lạ lùng?

Quả vậy, đây là những lời giảng dạy vừa ngược đời vừa lạ lùng của Chúa Giêsu. Ngược đời nhưng không hề ngược ngạo; lạ lùng nhưng không hề trái lẽ. Bởi vì Chúa Giêsu đã từng phản ứng mạnh mẽ với những người Pharisêu khi họ trách khéo Ngài: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa? Ngài trả lời:“Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: “Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa” (Mt 15: 2-6). Chúa Giêsu không chỉ nói mà còn hành động cụ thể cho thấy Ngài tuân giữ điều răn thứ bốn trong Mười Điều Răn: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20: 12) mà Thiên Chúa đã ghi khắc vào bia đá trao cho Môsê, và vẫn còn được giữ gìn cách cung kính nơi cực thánh của đền thờ Giêrusalem vào thời của Ngài: “Sau đó, Ngài đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2: 51). Chúa Giêsu còn làm dấu lạ chữa khỏi bệnh cho bà mẹ vợ ông Phêrô: “Chúa Giêsu đến nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang nằm liệt và lên cơn sốt. Ngài đụng vào tay bà, cơn sốt dứt ngay” (Mt 8: 14-5). Chắc chắn gia đình là điều rất quan trọng cho dân Do thai thời Chúa Giêsu: chính dân tộc này được coi là “con” Thiên Chúa, thừa kế những lời hứa của Chúa và những nguời thuộc về dân này được coi là “anh em” với nhau.

Nhưng những lời của Chúa Giêsu mà chúng ta nghe hôm nay cho thấy cách nhìn của Ngài rất sâu xa, vượt ra khỏi cách nhìn nhận và cách sống thường tình của phàm nhân chúng ta, vốn bó hẹp vào cái tôi, vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em, họ hàng, dân tộc, quốc gia…của mình. Những mối tương quan này rất thiết thân và quan trọng đối với mỗi người được sinh ra ở đời, nhưng rồi ra không sớm thì muộn ai cũng nhận ra rằng chúng không phải luôn luôn vững chắc, đáng được coi là tiêu chuẩn tuyệt đối làm nền tảng mãi mãi cho cuộc hiện sinh của mỗi hữu thể con người. Dù ở lứa tuổi nào, một ngày kia, người ta cũng sẽ đi đến điểm kết thúc của đời mình là cái chết. Sự sống hằng ngày và tương lai của con người không quá chắc chắc như người ta vẫn tưởng, trong một thế giới, xưa cũng như nay, có rất nhiều tai ương và nguy cơ rình rập bất ngờ ập tới. Vì “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mt 24: 35). Vậy đâu mới là nền tảng vững bền mãi mãi cho các mối tương quan trong cuộc hiện tồn của mỗi người chúng ta? Hãy lặng nghe lời Chúa Giêsu: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 50). Chúa Giêsu cho thấy một điều hoàn toàn mới mẻ: bất cứ ai cũng có thể cảm nhận mình thuộc về gia đình này, nếu người đó nỗ lực tìm hiểu ý muốn của Cha, Đấng ngự trên trời, và thi hành ý muốn ấy. Bất cứ ai: lớn hoặc bé, đàn ông hay phụ nữ, khỏe mạnh hay bệnh tật, thuộc mọi văn hóa và vị trí xã hội, nếu thực thi ý muốn của Thiên Chúa: mến yêu Chúa và mến yêu mọi người như anh chị em, thì Chúa Giêsu nhìn nhận người ấy là người nhà: anh chị em của Ngài.

Phải biết cách từ bỏ để đi theo Chúa Giêsu.

Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong đời sống của những môn đệ Ngài là điều sẽ khiến cha mẹ, anh chị em của họ, nếu không tin nhận Chúa Kitô, chống lại họ, vì Ngài đòi hỏi lòng trung thành tột bậc. Trong nhiều gia đình, những người đến với Chúa Giêsu và sống theo lời Ngài sẽ bị phản đối bởi những thành viên gia đình không tin theo Ngài. Chúng ta, môn đệ của Chúa Kitô, yêu thương mọi người trong gia đình của mình. Nhưng tình yêu của chúng ta dành cho Chúa Kitô phải là nền tảng và lớn lao hơn nhiều so với tình yêu của chúng ta dành cho những người thân trong gia đình mình, nếu không chúng ta không xứng đáng với Chúa Kitô: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10: 37). Khi sự chia rẽ như thế xảy ra, người tự xưng là môn đệ có thể bị cám dỗ giảm nhẹ sự cam kết với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, sự thỏa hiệp như vậy không phải là một lựa chọn tốt lành, vì Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ của Ngài yêu mến Ngài trên hết, thậm chí còn hơn cả những người thân thiết nhất của họ. Nếu không, họ đã đánh mất sự sống vĩnh cửu của mình: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10: 39).

Mặc dù con cái được kêu gọi tôn kính cha mẹ, nhưng họ cũng được kêu gọi trung thành với Chúa Giêsu Kitô. Giờ đây, một môn đệ của Chúa Kitô hoàn thành các bổn phận trần thế, kể cả tôn kính cha mẹ, vì vâng lời Chúa Kitô, chứ không phải vì lý do nào khác ngoài sự vâng lời Chúa Kitô. Khi những hướng dẫn và ý kiến ​​của cha mẹ mâu thuẫn với mệnh lệnh và sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, thì lòng trung thành với Chúa Giêsu luôn chiếm vị trí ưu tiên nơi người môn đệ chân chính, ngay cả khi lòng trung thành đó gây ra sự chia rẽ và xung đột giữa các thành viên trong gia đình.

Tuy nhiên, cũng cần nhớ là khi Chúa Giêsu nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10: 34-36), Ngài như muốn nói rằng người không tin Ngài mới là người sẽ chống lại người tin Ngài, chứ không phải ngược lại. Môn đệ của Đấng Kitô là những người “có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại” (Cl 3: 12). Chắc chắn lòng trung thành với Chúa Giêsu sẽ không làm cho người môn đệ của Ngài “chống lại” những người thù ghét họ vì Danh Chúa Kitô. Thánh Phaolô nói: “Đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người…Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12:18- 21).

Trên thực tế, điều này có nghĩa là nếu bạn đang sống dưới mái nhà của cha mẹ và họ hướng dẫn bạn những điều trái ngược với Lời của Chúa Kitô trong Kinh thánh, thì bạn phải vâng lời Chúa Kitô hơn cha mẹ mình. Vâng lời Chúa Kitô không có nghĩa là bạn bất kính với cha mẹ mình, hay nặng lời hoặc tìm cách gây sự với họ. Nhưng điều đó có nghĩa là bạn sẽ vâng lời và noi theo Chúa Kitô, ngay cả khi việc theo Chúa Kitô mâu thuẫn với kỳ vọng, ý kiến ​​và lời khuyên của cha mẹ bạn. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5:29).

Thực vậy, Chúa Giêsu không thúc ép ai phải xa cha bỏ mẹ, nhưng Ngài đặt vấn đề về tình yêu. Ngài cũng không bảo chúng ta ghét những người thân yêu của chúng ta. Và nếu thiếu tình yêu có thể là nguồn gốc của những tổn thương, thì tình yêu cũng có thể trở nên ngột ngạt, thậm chí độc hại, khi nó trở nên chiếm hữu độc tôn và khi người “được yêu” chỉ sống dưới sự kiểm soát của người khác. Dĩ nhiên Chúa Giêsu không yêu cầu chúng ta cắt đứt mối liên hệ với những người thân yêu của mình. Không phải thế, Ngài mời gọi yêu thương mọi người, thậm chí Ngài mời gọi chúng ta yêu kẻ thù của mình. Nhưng không phải với một tình yêu vẫn còn chứa đầy bản năng ích kỷ, vốn rất dễ trở thành vật cản cho một tình yêu rộng lớn hơn. Đó chính là thứ tình yêu φιλια - philia – ưa thích - như những người Pharisêu “Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “rápbi” (Mt 23: 5-7), thể hiện mình hay thậm chí như Giuđa hôn Chúa Giêsu lúc nộp Ngài. Tình yêu mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta là ἀγάπε - agape – bác ái vị tha, là tình yêu vô vị lợi của người Kitô hữu, tình yêu đặc trưng cho tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người trần thế.

Một chén nước lã cho kẻ bé nhỏ làm nên môn đệ của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy xác định và chọn lựa mối tương quan đích thực, mối tương quan mang lại sự sống, sự giải thoát, không bị bất cứ sự ràng buộc nào, để bước đi theo Ngài trong một tình yêu bao la như “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4: 16). Tình yêu thương này được biểu lộ rỏ ràng khi người môn đệ Chúa Giêsu quan tâm giúp đỡ những người yếu đuối nhất, là những người cần đến tình yêu thương đó hơn những người khác: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10: 42). Đó là phần thưởng dành cho tình thương vị tha mà Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa Tình Yêu, mong chờ các môn đệ của Ngài thực hiện, điều mà từ lâu các kinh sư, biệt phái, thậm chí các tư tế Do thái giáo, và cả chúng ta ngày nay, vẫn quên bẵng trong đời sống tưởng chừng đã đủ đạo hạnh của mình, vì: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10: 40). Hy vọng rằng chúng ta vượt ra khỏi lối mòn suy nghĩ của Phêrô và các tông đồ thuộc nhóm mười hai: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19: 27) và rằng hành động của chúng ta không bị điều khiển bởi bất cứ phần thưởng nào, ngoài lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Mt 19: 28-29).

Chúng ta hãy xin như Thánh Inhaxiô: “Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu, và trọn cả ý muốn của con, cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa. Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng. Ðược như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.”

Phêrô Phạm Văn Trung.

---------------------------------------

 

TN 13-A104: YÊU CHÚA TRÊN HẾT


Anh chị em thân mến,

 

Trong bài Tin Mừng tuần trước, Đức Giê-su đã khuyên các môn đệ đừng sợ, nhưng hãy can đảm TN 13-A104


Trong bài Tin Mừng tuần trước, Đức Giê-su đã khuyên các môn đệ đừng sợ, nhưng hãy can đảm thi hành sứ mạng truyền giáo, cho dù phải hy sinh mạng sống thì cũng đừng lo, bởi vì cuộc sống của người môn đệ chân chính là của Chúa và thuộc về Chúa.

Tin mừng hôm nay là phần kết luận bài giảng truyền giáo của Đức Giê-su. Trong đó, Người đưa ra các tiêu chuẩn mà người môn đệ của Nước Trời cần phải có. Qua Bí Tích Thánh Tẩy chúng ta đã trở thành tín hữu của Chúa và là thành viên của Hội Thánh. Vì thế, việc rao giảng Nước Thiên Chúa là bổn phận. Tuy là như thế, nhưng không phải người tín hữu nào cũng là môn đệ chân chính của Đức Giê-su cả đâu! Có sự khác biệt giữa người môn đệ chân chính và người chỉ khoác trên mình bảng hiệu Ki-tô hữu.

Căn cứ vào những gì mà Đức Giê-su dậy bảo hôm nay, chúng ta nhận thấy điều kiện để trở thành môn đệ của Chúa không lệ thuộc vào các việc như: tuân giữ các giới răn, siêng năng cầu nguyện, lĩnh nhận các Bí Tích, hăng say tham gia công tác trong xứ đạo và những việc đạo đức khác nữa. Vẫn biết rằng, tất cả các điều kể trên là bổn phận của người tín hữu, và chúng ta thật có lỗi nếu không thực hiện các điều này. Nhưng các tiêu chuẩn mà Chúa dành cho các môn đệ hôm nay đòi hỏi chúng ta cần có một chọn lựa, thứ chọn lựa đòi hỏi sự hy sinh. Đây không phải là điều dễ dàng. Bởi vì, yêu sách của Đức Giê-su đưa ra hôm nay rất quyết liệt, khó thực hiện, đòi hỏi người môn đệ phải có thái độ sẵn sàng để dứt bỏ.

Chúng ta cùng nhau nghe lại điều Chúa phán: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.” (Mt 10: 37) Tình Yêu Chúa của người môn đệ phải vượt lên trên tất cả mọi thứ tình yêu khác. Đức Giê-su đã nói thêm rằng chúng ta phải yêu Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức mình. Nói chung, yêu Chúa trên hết mọi sự. Yêu Chúa như Chúa yêu. Yêu Chúa rồi làm như Chúa đã dậy trong Bữa Tiệc Ly. Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng rồi bẻ ra và trao cho các môn đệ rồi phán “Này là Mình Thầy.” Tình yêu của Đức Giê-su là của lễ hiến dâng lên Cha, rồi trao ban cho các môn đệ. Tất cả cử chỉ của Chúa như hiến dâng, bẻ ra, trao ban đều là các tiêu chuẩn mà các môn đệ của Chúa phải áp dụng.

Chúng ta cũng nhận ra trong các mối quan hệ của con người, tuy hiếm nhưng cũng có vài trường hợp đặc biệt, họ sẵn sàng hy sinh cho nhau. Nhưng động lực để họ hy sinh cho nhau xuất phát từ mối tình của họ đối với Chúa trước, Cho nên, để yêu Chúa hơn tất cả là lúc chúng ta chọn lựa Chúa là người quan trọng nhất, không có Chúa trong cuộc đời thì mọi sự và mọi việc chúng ta làm chẳng có giá trị gì.

Thưa anh chị em,

Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta cũng hồi tâm để kiểm tra xem chúng ta yêu Chúa đến độ nào, có yêu Chúa trên hết mọi sự không? Bởi vì, chỉ có can đảm nhìn nhận, chúng ta mới biết mình là ai? Có phải là môn đệ chân chính của Chúa hay là cứ mãi sống dưới nhãn hiệu của người tín hữu, và các điều cần làm để vui lòng Chúa thì lại bỏ quên.

Để xứng đáng là môn đệ của Chúa, chúng ta phải cố gắng thay đổi nơi chúng ta đang sống thành nơi mà mọi người cùng được nuôi dưỡng và lớn lên trong Tình Yêu Chúa. Và như thế thì mọi mối tương quan mà chúng ta đang xây dựng như vợ chồng, con cái, bạn bè, thân hữu, v.v… đều được đặt trên nền tảng và cùng qui hướng về Tình Yêu Chúa.

Do đó, chúng ta phải nhìn nhận rằng nếu tình yêu của chúng ta dành cho Chúa không quan trọng và chưa lớn hơn tất cả thứ tình yêu khác thì chúng ta làm sao có thể dâng hiến đời mình cho Chúa trong tất cả, đặt Người lên trên mọi sự như thời gian, công sức, tài năng và tiền của cho Người được?

Làm sao chúng ta có thể nói rằng tôi yêu Chúa hơn mọi sự, trên tất cả mọi thứ mà lại không có thời gian để tâm sự với Người. Hơn thế nữa, thời giờ là của Chúa ban cho!

Dựa vào kinh nghiệm trong cuộc sống, khi yêu nhau là muốn ở bên nhau. Có nhiều đôi bạn trẻ đã chia sẻ rằng họ chỉ mong ở bên nhau, thậm chí chẳng biết và chẳng có chuyện gì để nói. Giống như thế, im lặng để nhìn ngắm Chúa và lắng nghe tiếng Người là phương thế cầu nguyện tốt nhất. Anh chị và tôi là những người thật xứng đáng là môn đệ của Chúa, nhưng chúng ta đã yêu Chúa bằng cách dùng thời gian theo ý Chúa hay chưa?

Cùng một cách như thế, chúng ta hãy tự hỏi tôi đã xử dụng khả năng mà Chúa trao ban như thế nào? Để xây dựng công ích, mưu cầu ích lợi chung hay là ích kỷ dùng cho riêng gia đình mình mà thôi.

Tiến xa hơn một bước và cũng thật là khó khăn khi chúng ta đề cập đến việc xử dụng tiền bạc. Vấn đề này rất tế nhị. Bởi vì tiền của gắn liền với sinh hoạt hàng ngày của chúng ta. Trên thực tế, tôi biết rằng có nhiều anh chị em tỏ vẻ chán nản và thất vọng khi nghe linh mục nói đến tiền. Thậm chí, có nhiều người không muốn đến Nhà Thờ vì chẳng nghe được những lời giáo huấn từ cha xứ, thay vào đó chỉ nghe đề cập đến nhà xứ thiếu chỗ này, hụt chỗ kia… tiền ơi là tiền.

Quả thật, bản thân tôi rất ngại khi đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, chúng ta cần phải đối diện với thách đố là chúng ta đã yêu Chúa và đặt Chúa trên mọi nhu cầu và mãnh lực mà tiền bạc có thể chi phối cuộc sống của chúng ta hay chưa? Như chúng ta thường nghe nói “tiền bạc là ông chủ xấu nhưng lại là một đầy tớ tốt”. Vì thế, anh chị em hãy tự vấn mình đã coi tiền của như phương tiện mà Chúa ban để xây dựng công ích hay lại tôn nó lên vai trò của một ông chủ điều khiển cuộc sống mình.

Người môn đệ chân chính của Chúa hãy học nơi Người lòng quảng đại và tinh thần bác ái trong việc xử dụng tiền của.

Khi suy niệm và trình bầy mấy điểm nói trên, tôi chợt nhớ đến đời sống và gương sáng của Thánh Nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su. Hành trình đời sống của Ngài chỉ vỏn vẹn 24 năm. Ngoài thời gian thơ ấu sống trong sự bao bọc của cha mẹ, thời gian còn lại Ngài sống trong đan viện của Dòng Kín Ca-mê-lô. Cuộc sống nghèo, chẳng có nhiều tiền để cho ai. Công việc của Ngài thật âm thầm, lo việc trong nhà. Thế mà công trạng của Ngài lại được sánh ngang hàng với Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e bôn ba khắp nơi để truyền giáo. Bởi vì Thánh Nữ đã yêu Chúa bằng cả cuộc đời. Mọi việc Ngài làm, mọi cử chỉ và mọi lời Ngài nói đều phát sinh từ tình yêu mà Ngài dâng tặng cho Chúa để cầu nguyện cho việc truyền giáo.

Giống như Chúa, noi gương Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, chúng ta phải yêu Chúa trên hết mọi sự, chọn Chúa trước khi chọn lựa các điều khác. Trong cử chỉ, lời nói và việc làm của cuộc sống, chúng ta đừng hỏi tôi muốn gì mà là Chúa muốn gì. Đây không phải là điều dễ làm. Chúa biết rõ nỗi khó khăn mà chúng ta sẽ gặp phải. Vì thế, sau khi đưa ra các điều kiện đòi hỏi người môn đệ cần có, Chúa đã phán tiếp: ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng làm môn đệ của Thầy.

Tóm lại, trên hết mọi sự và trong tất cả, chúng ta hãy yêu Chúa trước. Tình yêu Chúa bao hàm việc hy sinh, từ bỏ và dâng hiến. Tình yêu đáp trả mà chúng ta có được cũng xuất phát từ Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu chúng ta trước. Người yêu con người đến nỗi đã gửi người Con duy nhất, hiến mạng sống của người Con làm quà tặng ban cho chúng ta sự sống đời đời.

Một lần nữa, chúng ta tin vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta đang cử hành. Đây là quà tặng tình yêu của Thiên Chúa thể hiện trong Thánh Lễ này. Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy, nhớ đến thân xác của Thầy đã hy sinh làm của ăn nuôi sống chúng ta.

Trước khi đón nhận Mình Chúa, chúng ta thú nhận mình bất xứng. Và sau đó mới đón nhận thân xác Người và được biến đổi để xứng đáng thành người môn đệ của Chúa, và giống như Chúa chúng ta sẽ nỗ lực yêu thương và nuôi sống nhau.

Tình Yêu là thế. Chỉ có ai yêu mến Chúa hơn mọi thứ tình trên trần gian này mới thật là người môn đệ của Chúa và sẽ làm được các việc như Chúa đã làm. Amen!

Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT

------------------------------

 

TN 13-A105: TRIẾT LÝ SỐNG

 

Trình thuật Mt 10:37-42 là giáo huấn của Chúa Giêsu, ngắn gọn nhưng có sức chuyển tải triết TN 13-A105


Trình thuật Mt 10:37-42 là giáo huấn của Chúa Giêsu, ngắn gọn nhưng có sức chuyển tải triết-lý-sống sâu sắc. Có thể chia làm hai phần:

1. BỎ MÌNH

– Đây là một việc làm không dễ chút nào, thế nhưng chúng ta PHẢI NỖ LỰC, nghĩa là chúng ta phải “chết dần,” cứ “chết” từng ngày: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 10:37-39)

2. TÌNH YÊU

– Chúa Giêsu nói: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mt 10:40-42) Việc nhỏ nhưng hóa TO nhờ hành động với tình yêu chân thành.

Việc làm không quan trọng bằng cách làm. Việc bình thường được làm một cách phi thường vẫn có giá trị khác thường. Chén nước lã chỉ là thứ tầm thường nhưng lại có thể trở nên công trạng, được Chúa Giêsu “ghi nhớ” nếu chén nước lã được chúng ta trao cho người khác với lòng thương xót. “Chất yêu thương” rất quan trọng! Xem ra nước lã chẳng có giá trị gì và không khác gì là thứ vô ích. Nhưng “của cho” không bằng “cách cho.” Chén nước lã vẫn có thể là Chén Tình Nghĩa. Nước cũng là chất liệu đặc biệt vì được dùng trong Bí tích Thánh Tẩy.

Cuộc sống có nhiều dạng khát, dạng nào cũng mãnh liệt, nhưng cấp bách nhất là KHÁT CHÚA. Không ai có thể “giải khát” chúng ta ngoài Đức Kitô – nguồn nước trường sinh. Tín nhân biết khát Chúa suốt đời, như Thánh Vịnh gia bày tỏ: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.” (Tv 63:2)

Mỗi sáng thức dậy, việc “dâng ngày” là điều rất cần thiết, và phó thác mọi việc “từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa.” Đó là lương thực bổ dưỡng cần “điểm tâm” để đủ sức sống thêm một ngày mới. Thánh Georgius nhận định: “Đức ái không ghen ghét, bởi vì nó không khát vọng và xem nhẹ tất cả, kể cả địa vị cao quý của người thế tục.” Thực sự chỉ có “nước yêu thương” mới cần thiết để có thể giải khát bất cứ ai.

Khát là tình trạng thiếu, đặc biệt là thiếu nước, mà nước là loại ẩm thực cấp bách hơn thực phẩm. Người ta có thể nhịn đói lâu, nhưng không thể nhịn khát lâu. Dạng khát nào cũng cần được “giải khát,” càng sớm càng tốt! Thể lý đã vậy, tâm linh còn cấp bách hơn. Biết khát khao là một trong tám mối phúc: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.” (Mt 5:6)

Nước lã là loại nước tự nhiên, rất bình thường, nhạt nhẽo, vô vị, không màu sắc, được kết hợp bởi Hydrô và Ôxy (H2O), thậm chí người ta còn ví von “người dưng” với “nước lã” để nói về hai người không có họ hàng với nhau. Tuy nhiên, nước lã lại có giá trị cao và rất cần thiết trong sinh hoạt thường nhật. Thứ bình thường mà lại khác thường. Thiếu nước thì chết chắc! Nơi nào có nước (và không khí) là có sự sống. Vì thiếu nước (và không khí) nên các hành tinh khác không có sự sống.

Hằng ngày trên thế giới vẫn có nhiều người không đủ nước sạch để sinh hoạt, có những người ở ngay trong các thành phố. Khổ lắm! Đó là tiếng vọng của Chúa Giêsu từ Thập Giá trên Đồi Canvê xưa: “Tôi khát!” (Ga 19:28) Hãy tạ ơn Chúa khi uống một ly nước (nước sạch, nước ngọt, nước sinh tố, nước sữa,…), và đừng quên cầu nguyện cho những người nghèo khổ, họ thèm khát mà không có. Dạng khát nào cũng dữ dội – dù xác hay hồn. Cơn khát dữ dội lắm!

Trong đời sống đạo, chúng ta cũng thường gặp những người khát tình yêu thương, dạng này còn cấp bách hơn mọi cơn khát bình thường. Chính chúng ta cũng đang khát Nước Trường Sinh mà Chúa Giêsu đã ban cho người phụ nữ thành Samari năm xưa. (x. Ga 4:7-30)

Qua trình thuật 2 V 4:8-11, 14-16, Kinh Thánh cho biết rằng khi ông Êlisa đi qua Sunêm, có một phụ nữ giàu sang giữ ông ở lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. Bà ấy nói với chồng: “Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó.” Phụ nữ này có con mắt “tinh đời” lắm, đặc biệt là phụ nữ này có trái tim đập những nhịp đập thương xót. Bà giàu sang nhưng tốt bụng, rộng lòng giúp đỡ người khác.

Rồi một lần ông đến nơi ấy, ông vào phòng trên lầu để nghỉ ngơi. Ông biết ơn bà nên hỏi ý tiểu đồng xem nên làm gì cho bà ấy. Giêkhadi đáp: “Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già.” Thấy bà này tốt bụng nên ông muốn đền ơn đáp nghĩa. Ông bảo tiểu đồng gọi bà ấy. Bà tới đứng ngoài cửa, ông Êlisa nói: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai.” Bà nói: “Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài!” Khát khao được làm mẹ là khát khao chính đáng và mãnh liệt của phụ nữ, nên khi nghe nói vậy, bà mừng lắm nhưng vẫn bán tín bán nghi. Mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa. Quả thật, bà ấy đã có thai. Tới năm sau, cũng vào độ ông Êlisa nói, bà hạ sinh một bé trai kháu khỉnh. Thiên Chúa đã “giải khát” cho bà.

Tình thương của Thiên Chúa luôn tràn đầy mặt đất. (Tv 33:5; Tv 119:64) Ngài biết rõ từng người cần gì nên Ngài ban cho ngày mặc dù chúng ta chưa lên tiếng cầu xin, ngay cả người vô thần cũng vẫn được Ngài chở che, nếu không thì họ không thể sống. Tín nhân chúng ta càng phải biết ơn Ngài hơn: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài. Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.” (Tv 89:2-3) Lời chúc tụng đó có vẻ đơn giản nhưng lại vô cùng thâm thúy và cần thiết. Mặc dù việc chúng ta ca tụng Chúa chẳng thêm gì cho Ngài nhưng lại sinh ơn ích cho phần rỗi của chính chúng ta. Thật kỳ diệu quá chừng!

Thánh Vịnh gia xác định: “Hạnh phúc thay dân nào biết ca ngợi tung hô; nhờ Thánh Nhan soi tỏ, họ tiến lên, lạy Chúa. Nhờ được nghe danh Ngài, họ suốt ngày hớn hở; bởi vì Ngài công chính, nên họ được hiên ngang. Sức hùng cường hiển hách của dân chính là Ngài, hồng ân Ngài làm nổi bật uy thế chúng con. Đấng bảo vệ chúng con là người của Đức Chúa, vua chúng con thuộc quyền Đức Thánh của Israel.” (Tv 89:16-19) Có Chúa trong lòng thì an tâm, chẳng lo sợ gì, và hơn thế nữa, chúng ta còn có thể làm được những điều phi thường, bởi vì chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14:12)

Chúng ta thực sự là con cái của Thiên Chúa, dù chúng ta mang thân phận cát bụi và vướng “nghiệp chướng” tội lỗi, nhưng chúng ta đã được tái sinh trong Nước và Thánh Thần. Chúng ta còn được tẩy rửa trong Máu và Nước chảy ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhờ đó chúng ta lại được cải tử hoàn sinh. Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới.” (Rm 6:3-4)

Thật vậy, chúng ta không chỉ được sống mà còn được sống dồi dào trong Đức Kitô. (Ga 10:10) Trên cả tuyệt vời. Cuộc sống luôn có những cái “nếu.” Có “cái nếu” không nên đặt ra, nhưng cũng có “cái nếu” nên đặt vấn đề. Thánh Phaolô vừa phân tích vừa đưa ra “cái nếu” cần thiết: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu.” (Rm 6:8-11)

Đó là đại phúc cho chúng ta. Chắc chắn chúng ta không thể nhờ vào ai ngoài Đức Giêsu Kitô, vì Ngài đã xác định: “Thầy là con đường, là sự thật, và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) Hơn nữa, Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất.

Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin ban ơn thông minh để chúng con có thể hiểu được triết lý tâm linh mà Ngài muốn chúng con sống. Xin dạy chúng con biết việc phải làm, cách yêu thương, và những thứ phải dứt khoát từ bỏ. Chúng con tha thiết cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

---------------------------------------

 

TN 13-A106: ĐẶT THẦY TRÊN VÀ TRONG TẤT CẢ

 

Nhà tu đức học nổi tiếng của Ấn Độ, cha Anthony de Mello SJ (1931-1987) có làm một bài thơ TN 13-A106


Nhà tu đức học nổi tiếng của Ấn Độ, cha Anthony de Mello SJ (1931-1987) có làm một bài thơ với nội dung sau đây : Một hôm lang thang trên phố, tôi bỗng thấy một cửa hiệu với hàng chữ này : “Tại đây có bán chân lý”. Tò mò, tôi bước vào cửa hiệu. Cô bán hàng niềm nở tiếp đón tôi và hỏi : “Ông muốn mua loại chân lý nào ? Chân lý từng phần hay chân lý toàn diện ?” Tôi cho cô biết dĩ nhiên tôi đang đi tìm thứ chân lý toàn diện, thứ chân lý không pha trộn giả dối, thứ chân lý mà lý trí tôi phải đầu phục hoàn toàn. Tôi muốn có chân lý đơn thuần và toàn diện. Cô bán hàng nhìn tôi rồi bằng một giọng đầy ái ngại, cô nói : “Thưa ông, giá của món hàng rất cao”. Đã cương quyết mua cho bằng được chân lý toàn diện, tôi liền hỏi : “Giá bao nhiêu, xin cho biết”. Cô bán hàng trả lời : “Nếu ông muốn mua thứ chân lý này, ông phải trả giá bằng cả cuộc sống của ông !” Tôi ra khỏi cửa tiệm, lòng buồn rười rượi. Tôi cứ nghĩ rằng mình có thể mua chân lý toàn diện bằng một giá rẻ mạt. Thì ra tôi chưa sẵn sàng để đón nhận chân lý. Tôi vẫn chưa muốn cho đi cuộc sống của tôi. Tôi vẫn còn bám chặt vào những sở hữu của mình.

            Bài thơ ngụ ngôn trên đây hẳn muốn nói lên thái độ của nhiều người trong chúng ta đối với Đấng tự xưng là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, cũng như nói lên đòi hỏi của Người đối với chúng ta.

            1. Yêu mến Thầy trên tất cả.

            “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”. Câu nói cứng cỏi khó ngờ ! “vô nhân đạo” thật ! có nguy cơ bị hiểu sai trong thời đại chúng ta, một thời đại vốn đã gay go đối với bậc cha mẹ vì quan hệ khó khăn với con cái. Khó tin rằng Đức Giê-su muốn khuyên bảo con cái đừng mến yêu cha mẹ nữa ! Điều răn thứ 4 của Thiên Chúa vẫn là một điều răn thánh thiêng. Chính Đức Giê-su đã nêu gương vâng phục và trung thành cách tế nhị đối với mẹ Người (x. Lc 2,50; Ga 19,26-27). Người cũng đã nhắc lại : việc nâng đỡ cha mẹ cách cụ thể thậm chí vượt lên trước “việc dâng lễ phẩm cho Đền thờ” (x. Mt 15,3-6). Vậy Đức Giê-su muốn nói gì ở đây qua những lời cứng cỏi ấy ?

            Người lấy chính bổn phận thiêng thánh số một để mạnh mẽ bảo chúng ta rằng phải yêu mến Người hơn những ai đáng yêu mến nhất, hơn những ai chúng ta phải yêu mến nhất. Theo Đức Giê-su, làm tín hữu đôi khi có thể gây nên sự chống đối nơi những ai gần chúng ta hơn cả. Đức Giê-su yêu cầu chúng ta lúc ấy phải có khả năng yêu mến Người hơn. Trong thời đại này, chúng ta biết rõ điều ấy hay xảy đến. Tin Mừng đề nghị một chọn lựa dứt khoát, thể hiện ra thành cả một nhân sinh quan. Vì lựa chọn căn bản này, vốn làm ta không còn sống như xưa nữa, Đức Giê-su thường trở nên một nguyên nhân bất hòa, thậm chí trong những gia đình hiệp nhất hơn cả nhờ tình cảm tự nhiên.

            Câu thứ hai hoàn toàn song song với câu thứ nhất : sau tương quan con cái-cha mẹ… nay là tương quan cha mẹ-con cái… Đức Giê-su đòi chiếm chỗ nhất trong các tình yêu của chúng ta : một tham vọng khó hiểu, khó chấp nhận, nếu Người chẳng phải là Thiên Chúa ! Trong mọi nhà sáng lập tôn giáo lớn, Đức Giê-su là người duy nhất đã nói như vậy. Những vị khác chỉ nói : “Phải yêu mến Thượng Đế. Phần tôi, tôi chỉ là phát ngôn nhân của Người”. Vâng, trong mọi tôn giáo, người ta đặt Thiên Chúa lên trên tất cả. Nhưng ở đây là chính Đức Giê-su. Táo bạo chừng nào ! Thật ra, không có vấn đề chọn lựa giữa hai tình yêu : “Đức Giê-su hay cha mẹ tôi, vợ (chồng) tôi, con cái tôi”. Chỉ có một tình yêu, chỉ có một cách thức yêu mến đích thực. Tình yêu đối với mọi người khác chỉ trở nên đúng đắn (khỏi trở thành độc chiếm như vẫn thường thấy) khi được bao trọn trong tình yêu đối với Đức Giê-su (hay đối với Thiên Chúa cũng vậy). Thiên Chúa phải chiếm chỗ đầu trong con tim chúng ta thì cha mẹ, con cái, bản thân, tha nhân và mọi cái khác mới được yêu đúng cách, đúng chỗ, đúng lượng.

            “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”. Nấc thứ ba (quan trọng nhất) trong chiếc thang từ bỏ là bản thân : “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con đã bỏ trước” (Đường Hy Vọng 3). Việc ám chỉ thập giá khiến chúng ta nghĩ rằng Đức Giê-su đã không bao giờ đề nghị với chúng ta những rứt bỏ như thế nếu Người đã chẳng thực hành điều đó trước tiên. Mọi thập giá được vác… là vác “theo” Đức Giê-su. Khi đau khổ… là bạn bước sau thập giá của Người.

            Vác thập giá “mình” ! Có lẽ chúng ta bị cám dỗ muốn cho kiểu nói này mất tất cả sức mạnh và tính tàn nhẫn của nó. Đối với Mt, đây không phải là một ảnh tượng đạo đức, một ngôn ngữ ước lệ diễn tả những hy sinh nhỏ bé trong cuộc đời. Thời ông, việc đóng đinh thập giá vẫn là hình khổ dành cho những ai bị cho là chống lại hoàng đế Rô-ma, hình khổ khủng khiếp nhất và ô nhục nhất (vì phải lột truồng hoàn toàn). Bị phó mặc cho cơn cuồng nộ của đám lính xâm lược trước đó (tra tấn, đánh đòn), người can án thập giá hấp hối trong những cơn dày vò kinh khủng dưới con mắt của đám đông. Chắc Đức Giê-su từng thấy nhiều kẻ bị đóng đinh trước khi chính mình cũng chịu như vậy ! Tại Palestine bị quân Rô-ma xâm chiếm, đó là cách thức xử tử thông thường. Một sử gia thời ấy kể rằng khi Hê-rô-đê Cả mất, thủ lãnh quân đội Rô-ma là Varus đã cho đóng đinh cùng lúc 2000 người Do-thái ! Thập giá đâu phải là một đồ thờ phượng hay một món trang sức đeo trên mình !

            “Ai tìm giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Đây còn là một tuyên bố xem ra đi ngược với tất cả những gì thế giới văn minh đòi hỏi. Ngày nay, cái thiên hạ tìm kiếm nhất chính là “triển nở chính mình”, “thể hiện chính mình”. Thế mà Đức Giê-su đề nghị chúng ta hãy “liều mạng sống”, “đánh mất bản thân”, “bỏ mình bước theo Người” ! Tuy nhiên, nếu chịu khó suy nghĩ một chút, thì sau cơn choáng váng đầu tiên, chúng ta sẽ khám phá thấy tư tưởng Đức Giê-su hàm chứa một trong những định luật căn bản nhất của cuộc sống con người. Ai không có khả năng từ bỏ chính mình vì kẻ khác thì cũng chẳng có khả năng yêu mến. Kinh nghiệm sống thường nhật giúp ta khám phá thấy phải “mất chính mình” mới phát triển mình thật sự trong tình yêu tha nhân. Một nghịch lý vốn chỉ có thể giải thích trong ánh sáng của mầu nhiệm Vượt qua (chết và sống lại), mà chính Đức Giê-su đã đích thân trải nghiệm trước rồi. Mất sự sống… để được sự sống ! “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa bình).

            Lời Đức Giê-su không hề có tính cách khổ dục (thích chịu đau đớn để đạt khoái lạc), tiêu cực, buồn bã, song là một lời tích cực và vui tươi. Vì chính là chuyện “được”. Đức Giê-su đề nghị chúng ta chết cho bản thân mình để thực sự sống : “Tôi đến để họ được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Thành thử đây chẳng phải một kích động tự sát tự hủy. Đây là vấn đề tình yêu thường nhật, một tình yêu đòi hỏi ta “liều mạng” vì tha nhân để trọn vẹn triển nở chính mình ! Thay vì phá hủy con người, sự từ bỏ xây dựng những con người thượng đẳng. Hãy nghĩ đến cha Charles de Foucauld, mẹ Têrêxa thành Calcutta, mục sư Martin Luther King, chị Chiara Lubich, cậu Carlo Acutis và bao nhiêu người khác ! Còn cứ khép kín trong tính ích kỷ nhỏ nhen của mình, trong sự triển nở cá nhân riêng mình, thì theo Đức Giê-su, đó là cách chắc chắn nhất để làm hỏng đời mình.

            2. Nhìn thấy Thầy trong tất cả.

            “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy…”. Câu này như chuyển sang một đề tài khác. Thật ra, chúng ta vẫn nằm trong cùng một tư tưởng : yêu mến Đức Ki-tô, nhưng yêu mến Người qua việc tiếp đón những kẻ hiện thân cho Người.

            Thế giới hiện đại của chúng ta, cái thế giới xem ra cổ võ sự triển nở cá nhân thậm chí bằng cách đè bẹp, tiêu diệt người khác (ví dụ trong việc phá thai, giúp chết êm dịu, thanh lọc chủng tộc, trục xuất dân nhập cư, sách nhiễu người khác chính kiến, tống ngục kẻ phê phán nhà cầm quyền…), chính thế giới đó cũng đã tìm ra kiểu nói ghê gớm tàn bạo : “Tha nhân là hỏa ngục” (triết gia vô thần Jean-Paul Sartre) ! Phần Đức Giê-su, Người luôn cổ võ lòng hiếu khách, việc tiếp đón, sự cởi mở, và Người đồng hóa mình với những ai cần được đón tiếp, cần được nhớ tưởng (x. Mt 25,31-46). Chúng ta có chừa một ít nơi mâm cơm cho người lạ nghèo khổ không ? Có chia sẻ bàn tiệc sự sống cho mọi bào thai đang đợi ngày chào đời không ? Có dám lên tiếng bênh vực kẻ bị chà đạp nhân quyền, bị tước đoạt tự do, những tù nhân lương tâm không? Người khách được tiếp đón trong nhà chúng ta (có khi chỉ trong lòng chúng ta) là một sự hiện diện của Chúa, cần có thái độ niềm nở ! Đó là hình thức tươi vui của tình yêu. Đó là món quà thông thường nhất mà ta luôn có thể trao tặng, ngay cả khi quá nghèo và không có chi cho người khác ngoài thái độ đón tiếp ấy.

            Đức Giê-su đã gợi lên ba loại thành viên của cộng đoàn : ngôn sứ, chính nhân và kẻ bé mọn ! Hai hạng đầu đã được kính trọng trong Do-thái giáo. Nhưng Đức Giê-su thêm các “kẻ bé mọn”, các “môn đệ tầm thường”, những kẻ người ta luôn dễ bỏ qua để chú ý đến các siêu Ki-tô hữu, các tông đồ chiến sĩ, các nhà đại dấn thân ! Trong một thế giới dễ phi nhân hóa và đang tìm những lãnh vực hiệp thông mới (trên Internet, trên cầu truyền hình…), lời kêu mời của Đức Giê-su vẫn còn giá trị. Những ai chủ trương liên lạc với nhau bằng các phương tiện kỹ thuật, chỉ muốn gặp gỡ hay điều động những tập thể lớn lao… đều được nhắc nhớ hành vi đơn sơ : tặng “ly nước lã” cho người đang khát, tiếp xúc thăm viếng kẻ lâm khổ sầu  : một cử chỉ nhỏ bé nhưng tượng trưng mối liên hệ đích

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

---------------------------------------

 

TN 13-A107: HÃY VÁC THÁNH GIÁ MÌNH VÀ THEO TA

 

Đời là bể khổ (Lời Phật). Sau khi nguyên tổ Adong phạm tội không vâng lời, Thiên Chúa đã phán TN 13-A107


Đời là bể khổ (Lời Phật). Sau khi nguyên tổ Adong phạm tội không vâng lời, Thiên Chúa đã phán: ngươi phải đổ mồ hôi máu mới có cơm ăn áo mặc, phải đau khổ và phải chết (St 13:17-19). Nhưng Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu xuống thế làm người chịu chết chuộc tội cho chúng ta và qua phép Thánh Tẩy, chúng ta đã được Chúa ban ơn tha tội (Rm 5 và 6). Tại sao Chúa Giêsu vẫn dạy chúng ta phải vác Thánh giá mình mà theo Chúa. Giáo Hội, qua những Tin Mừng ở Chúa Nhật này, đã khuyên chúng ta phải vác Thánh giá như thế nào để được theo Chúa.

Hỡi muôn dân! Hãy vỗ tay vui mừng hoan hô kêu cầu lên Thiên Chúa (Tv 47/48:2)

Lạy Thiên Chúa, nhờ hồng ân nuôi dưỡng, Chúa đã chọn chúng con làm con cái của ánh sáng. Chúng con cầu xin Chúa đừng để chúng con bị bao phủ bởi bóng tối của sợ hãi nhưng luôn luôn đứng trong ánh sáng sự thật. Qua Chúa Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa, Đấng hằng sống hằng trị với Chúa trong hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, là một Thiên Chúa duy nhất đến muôn đời đời. Amen.

Bài đọc 1 (2V 4:8-11, 14-16a) hôm nay mời gọị chúng ta suy niệm về tặng phẩm chúng ta có được do lòng thành khi tiếp khách. Đây là câu chuyện tiên tri Êlisa; ông thường xuyên dừng chân nghỉ tại nhà một gia đình giầu có khi đi ngang qua Shunem cách Samaria chừng 30 dặm về hướng Đông Bắc, thuộc miền đất của Issachar là một trong 12 chi bộ Israel. Người thiếu phụ không rõ tên nhưng là người đầu tiên đã mời Elisa dùng cơm tối tại nhà mình và nói với chồng chuẩn bị một phòng cho Êlisa ở mỗi khi Êlisa đến Shunem mà không cần biết Êlisa là ai ngoài ý nghĩ ông ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Có lẽ bà ta là một người giầu có và quyền thế nên không vì thế mà quên rằng đa số những phụ nữ thời xưa không ham danh lợi và ảnh hưởng. Để đáp trả lòng hiếu khách ấy của bà, Êlisa đã hỏi người hầu của mình là phải làm gì để đền ơn đó, và được biết là bà ta không có con trai.

Đây là một vấn đề rất quan trọng. Không có con trai là sẽ không có người săn sóc mình khi tuổi già và cũng chẳng có ai để nối dõi giòng giống. Người xưa quan niệm người đàn bà là quyết định việc nối dõi tông đường nên phải có con trai. Không con trai là một tủi nhục. Vì vậy Êlisa nói tiên tri là bà ta sẽ có con trai quả là một quà tặng vĩ đại cho cặp vợ chồng này.

Qua những câu tiếp theo bài đọc này chúng ta thấy bà ta có cẻ hoài nghi và xin tiên tri đừng để bà phải mừng hụt (2V 4:16). Và Êlisa đã không làm bà ta thất vọng. Một năm sau khi ông tiên đoán, bà đã sinh được một con trai khỏe mạnh. Nhưng thảm cảnh đã xẩy ra là người con bị bệnh nhức đầu và chết (2V 4:18-20). Người đàn bà can đảm và quyết định này đã cầu cứu Êlisa xin cho con bà được sống. Và con trai của bà đã sống lại. Thế là bà đã được phần thưởng hai lần do lòng hiếu khách của bà (2 V 4:22-37).

Giống như những chúa nhật trước, bài đọc 2 (Rm 6:3-4, 8-11), được trích từ thư gửi tín hữu Rôma của thánh Phaolô nóí về phép Thánh tẩy. Nước là một yếu tố thích hợp với nghi thức rửa tội, vì chữ baptizb tiếng Hy Lạp có nghĩa là “nhúng vào hay chìm sâu vào”. Theo thánh Phaolô, phép rửa là một thông phần với sự chết của Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã “sống lại từ cõi chết” để cho chúng ta có được một đời sống mới và sống với Đức Kitô. Phaolô cho rằng vì tội lỗi nên tử thần đã xâm nhập vào loài người. Chúa Giêsu phục sinh chính là một khải hoàn trên tội lỗi và sự chết. Do đó dìm vào nước là một biểu hiệu rất thích hợp với sự chết nhưng lại trồi ra khỏi nước phải là dấu hiệu của một cuộc sống mới. Phaolô tiếp tục bảo đảm với độc giả là, bây giờ Chúa Giêsu đã khải hoàn sống lại thì sẽ không bao giờ có thể chết trở lại. Cũng như vậy, chúng ta đã “chết cho tội lỗi” nghĩa là cách sống cũ của chúng ta thì chúng ta được coi như “sống cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.” Qua nước của phép rửa, chúng ta được sống lại với đời sống mới của hồng ân Chúa Giêsu, Đấng đã chết và chịu táng trong mồ rồi sống lại. Tương tự như vậy, chúng ta đã chết trong tội lỗi để được sống cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.

Vậy tại sao Chúa lại nói “Muốn theo Chúa thì phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự”? Đây là một thách đố khá cam go. Bài Tin Mừng Máthêu hôm nay (Mt 10:37-42) chính là một thách đố và gồm có hai phần. Phần đầu Chúa Giêsu tranh luận về giá trị của những người theo Chúa dựa vào việc họ nghĩ thế nào về những người trong gia đình mình, để rồi đi đến những lời khuyên quá gai góc mà họ phải đối diện. Dù cho có giảm bớt căng thẳng thì tiếng“kẻ nào”hay “ai” yêu cha mẹ hơn ta... cũng đã như cái neo buộc họ vào cọc rồi. Phần hai nói về ý nghĩa luân lý và thiêng liêng của phần thưởng mà Chúa Giêsu muốn truyền đạt cho các môn đệ và những ai muốn lắng nghe và theo giảng huấn của Chúa. Trong bài thuyết giảng này, tác giả nhắc đến tên 12 môn đệ (Mt 10:1-4) và miêu tả Chúa Giêsu đã sai họ ra đi nhập thế trong dân nhà Israel để thi hành sứ vụ giảng Lời Chúa và chữa lành thế nào (Mt 10:5-15). Nhưng trước khi đi, Chúa Giêsu đã nói cho họ biết họ sẽ phải trực diện với nhiều gian nan thử thách trên đường đi. Họ sẽ bị truy nã và phải tỏ ra can đảm. Tuy nhiên họ cũng được an ủi và khuyến khích. Thiên Chúa đã lo lắng và che chở cho họ như chim trời, cả con chim sẻ nhỏ tí cũng đã được Ngài săn sóc lo lắng và chở che, chẳng lẽ Ngài lại không bảo vệ che chở họ sao? Chúa cũng báo động cho họ biết Chúa Giêsu sẽ là căn cớ gây chia rẽ trong những cộng đồng mà họ thăm viếng và ngay cả trong gia đình (Mt 10:16-36).

Đây là bối cảnh của bài giảng huấn Tin Mừng Phúc Âm hôm nay về nghĩa vụ của người môn đệ. Chúng ta được kêu gọi phải yêu Chúa Giêsu hơn cả cha mẹ con cái, phải vác thánh giá mình mà theo Chúa Giêsu cho dù có phải chết. Đó là đòi hỏi căn bản. Sự thành công của đòi hỏi này phụ thuộc vào lòng hiếu khách trong những mục vụ tương ứng. Văn hóa của miền Cận Đông cổ xưa lại thực hành theo hệ thống bảo trợ nghĩa là chủ nhà có trách nhiệm bảo vệ hoặc cung cấp nhu cầu cho khách, đồng thời khách cũng đáp ứng lại bằng một hành động hay cử chỉ gì đó đối với chủ nhà. Điều này có nghĩa là -trong một số trường hợp- khách sẽ là người trung gian cho chủ nhà với người có quyền thế để làm bất cứ điều gì mà chủ nói hay ước muốn. Vậy người môn đệ được sai đi nhập thế trong muôn dân làm đại diện cho Chúa Giêsu thì cũng là đại diện cho Thiên Chúa. Nếu chúng ta đặt nặng giá trị cuộc sống hằng ngày của chúng ta, chúng ta sẽ mất nó đi như Chúa Giêsu nói. Còn nếu chúng ta thực hành lòng hiếu khách, chỉ một chén nước lã cho những đứa con thấp hèn nhất của Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ nhận được phần thưởng của Thiên Chúa ban bù lại cho.

Xem vậy câu “từ bỏ cha mẹ anh chị em mình...” tuy là một đòi hỏi rốt rối và căn bản, là một thách đố cam go ai thưc hành được mới là anh hùng và xứng đáng là người môn đệ của Chúa Giêsu. Từ bỏ dĩ nhiên không có nghĩa là đoạn tuyệt mọi sự cả vật chất lẫn tinh thần. Theo tinh thần bác ái và yêu thương mà Chúa đã dạy thì người môn đệ không dứt bỏ cha mẹ anh chị em minh theo nghĩa đen như vậy.

      Đ/c: Lạy Chúa! Muôn đời con sẽ ca ngợi lòng nhân từ của Chúa.

        Con sẽ ca ngợi lời hứa của Chúa đến muôn đời;
        Miệng lưỡi con sẽ tuyên xưng lòng thủy trung của Chúa qua muôn ngàn thế hệ.
        Vì Chúa đã phán, “Lòng nhân ái của Chúa được thiết kế cho đến muôn đời.”
        Trên thiên đàng Chúa đã xác nhận lòng thủy trung của Chúa.
     Đ/c: Lạy Chúa! Muôn đời con sẽ ca ngợi lòng nhân từ của Chúa.

       Phúc cho những ai biết kêu vang nỗi vui mừng;
       Lạy Chúa! Họ bước đi trong ánh sáng Chúa dẫn đường.
       Nhân danh Chúa họ vui mừng suốt ngày thâu đêm
       Họ hoan hỉ trong niềm công chính ngàn đời của Chúa.
    Đ/c: Lạy Chúa! Muôn đời con sẽ ca ngợi lòng nhân từ của Chúa

      Chúa là vẻ huy hoàng sức mạnh của họ,
      Nhờ ân huệ của Chúa tiếng còi của chúng con được hứng khởi âm vang.
      Vì lá chắn của chúng con thuộc về Chúa,
      Và vua của chúng con thuộc về đấng thánh duy nhất của Israel
   Đ/c: Lạy Chúa! Muôn đời con sẽ ca ngợi lòng nhân ái của Chúa. Amen.

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

---------------------------------------

 

TN 13-A108: CÓ MỘT CON ĐƯỜNG...

 

Chẳng có lối nào tốt hơn con đường Chúa Kitô. Vì chỉ có con đường Chúa Kitô mới là đường TN 13-A108


Chẳng có lối nào tốt hơn con đường Chúa Kitô. Vì chỉ có con đường Chúa Kitô mới là đường dẫn lối về trời. Nhưng con đường Chúa Kitô luôn đòi phải hiến mình, đòi phải hy sinh, đòi phải trầy trụa, rát buốt...

Đó là con đường đáp tiếng "Xin vâng" tuyệt đối theo gương Chúa Kitô, nhất quyết lắng nghe và chấp nhận lời lời Chúa thành lời chủ đạo của cuộc đời mình: "Hãy bỏ mình, vác thập giá đời mình mà theo Thầy" (Mt 17, 26).

Và hôm nay, Chúa nhật XIII thường niên, cũng lại là lời mời gọi tương tự: "Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều hiến mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được" (Mt 10, 37-39).

Trí khôn nhân loại dù thời tiền sử hay "bốn chấm không" (4.0), dù ở "đỉnh" nào của hôm nay hay tiến xa đến mọi "đỉnh" tương lai, lại có thể giải thích mầu nhiệm Tình Yêu của Đấng chết treo thập giá.

Đừng mong khôn ngoan nhân loại có thể khám phá thập giá. Đối diện thập giá, loại tư tưởng ấy chỉ là ảo giác, là rồ dại, là đem thân chống lại quyền linh của Đấng chịu chết treo vì yêu mà thôi.

Chỉ những ai cảm nhận mình yếu đuối, nhận ra thân phận đáng thương, tội lỗi, hè hạ, rốt cùng và đáng chết, mới có thể khám phá tình yêu dẫn đưa Con Người cứu độ trên thập giá nhằm mang lại sự sống vì yêu và chết vì yêu là gì.

Chính vì nhận ra thân phận mình khi đối diện với thập giá, thánh Phaolô thốt lên: "Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu" (Rm 6, 1-11).

Xác tín tình yêu, sự sống, sự chết và mọi ý nghĩa của ơn cứu độ từ nơi thập giá Chúa Kitô mà một đời, từ khi bắt gặp chân lý đức tin, thánh Phaolô không ngừng dâng hiến mình, dâng cả dòng máu, dâng trọn sự sống cho danh Chúa, cho ơn gọi sống chết vì Nước Trời, vì tình yêu nghĩa thiết với Chúa Kitô.

Lịch sử của Hội Thánh không ngừng chứng minh bằng biết bao nhiêu gương các vị thánh. Một khi cảm thấu tình yêu thập giá của Chúa Kitô, họ không ngừng bước tới trên con đường Chúa Kitô đã đi để vui, để hạnh phúc mà dâng hiến chính mình cho lý tưởng Nước Trời, cho vinh danh Thiên Chúa.

Chỉ cần kể về sự nếm trải thập giá và lời đáp "Xin vâng" của những khuôn mặt tiêu biểu thế kỷ XX, cũng đủ rọi sáng cho ta để sống lời mời gọi của Đấng chết trên thập giá: "Hãy bỏ mình, vác thập giá đời mình mà theo Thầy".

Chẳng hạn thánh linh mục Josemaria Escriva de Balaguer (Tây Ban Nha), vị sáng lập tổ chức Opus Dei (Công Trình của Thiên Chúa); thánh linh mục Maximilian Kolbe chết thay người bạn tù trong thời tàn sát của Đức quốc xã; thánh linh mục Padre Pio (quen gọi là Cha Piô Năm Dấu) gần 50 năm sống trong sự đau đớn và bị chống đối…

Những khuôn mặt ấy là bài học lớn, là vốn sống mạnh mẽ, là tấm gương tuyệt vời cho chúng ta, khi đáp trả lời mời gọi của Chúa sống hoàn hảo hai tiếng “Xin vâng” của bản thân mình.

Lịch sử ơn cứu độ và lịch sử Hội Thánh nhiều lần chứng minh hai tiếng “Xin vâng” luôn luôn gắn liền với thập giá và sự hiến mình.

Và khi tiếp bước Chúa Kitô để sống lời mời gọi: “…Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy…”, chúng ta cũng đang khắc họa mình thành hình ảnh vị thánh thời đại, tiếp tục nối dài lịch sử của tầng tầng lớp lớp người sống "Xin vâng" để hiến mình vì tình yêu thập giá.

Đức Phanxicô, ngay sau ngày được bầu chọn giáo hoàng, đã nói: "Khi chúng ta bước đi mà không có thánh giá, khi chúng ta xây dựng Hội Thánh mà không có thánh giá, khi chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô mà không có thánh giá, thì chúng ta không phải là môn đệ của Chúa.

Cầu mong tất cả chúng ta có được sự can đảm bước đi cùng với thánh giá của Chúa Kitô, xây dựng trên máu Chúa Kitô đổ ra trên thánh giá, và tuyên xưng một vinh quang duy nhất là Chúa Kitô bị đóng đinh trên thánh giá".

Hãy luôn nhớ: Con đường thập giá mà Kitô hữu mang lấy là minh chứng cho thế giới và cho từng con người qua mọi thời đại biết rằng, chỉ có nơi thập giá, loài người mới tìm được sức mạnh, sự nâng đỡ, ủi an, ý nghĩa và cùng đích của đời mình mà thôi.

Bởi thập giá dù có khó chấp nhận đến đâu, một khi đã làm người, đã sống và đồng hành trong cuộc đời, không ai có thể vượt ra ngoài con đường thập giá. Chúng ta bước đi cùng Chúa Kitô trên con đường thập giá để khám phá niềm vui sống, mục đích sống và hạnh phúc trọn kiếp sống...

Hãy luôn ghi khắc: Trong lòng đời đầy biến động, mỗi con người có một con đường để đi về cùng đích. Đó là con đường mang tên Kitô... mục lục

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

---------------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây