Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 12-A Bài 101-127 Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác

Chủ nhật - 25/06/2023 03:22
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 12-A Bài 101-127 Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 12-A Bài 101-127 Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 12-A Bài 101-127 Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác
--------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 10, 26-33: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
“Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
“Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời”. - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------------
TN 12-A101: Đừng sợ làm nhân chứng cho Đức Kitô. 2
TN 12-A102: Điều đáng phải sợ. 4
TN 12-A103: Chúa Nhật 12 Thường Niên. 7
TN 12-A104: Chúa Nhật XII thường niên A.. 8
TN 12-A105: Chúa Nhật 12 Thường Niên A.. 10
TN 12-A106: Sợ Đấng có thể… tiêu diệt?. 18
TN 12-A107: Hãy nói ra giữa ánh sáng. 20
TN 12-A108: Chú giải của Noel Quesson. 22
TN 12-A109: Làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh. 26
TN 12-A110: HÃY VỮNG TIN.. 29
TN 12-A111: MUÔN NGÀN NỖI SỢ HÃI 31
TN 12-A112: CỨ NÓI ĐI, ĐỪNG SỢ! 33
TN 12-A113: KHÔNG CÒN SỢ HÃI VÌ CÓ CHÚA CHỞ CHE.. 34
TN 12-A114: ĐỪNG SỢ.. 36
TN 12-A115: TRÁCH NHIỆM... 38
TN 12-A116: HÃY NÓI GIỮA BAN NGÀY.. 39
TN 12-A117: ANH EM ĐỪNG SỢ.. 41
TN 12-A118: SỐNG NIỀM TIN.. 43
TN 12-A119: TUYÊN XƯNG CHÚA GIÊSU.. 45
TN 12-A120: MỘT NIỀM PHÓ THÁC.. 47
TN 12-A121: HÃY SỢ ĐẤNG CÓ QUYỀN TIÊU DIỆT CẢ HỒN LẪN XÁC! 49
TN 12-A122: ĐỪNG SỢ! 51
TN 12-A123: ĐỪNG SỢ.. 54
TN 12-A124: DẠN DĨ SỐNG VÀ RAO GIẢNG TIN MỪNG CỦA CHÚA KITÔ.. 56
TN 12-A125: NHIỀU CHỌN LỰA, NHƯNG CHỌN LỰA NÀO?. 61
TN 12-A126: ĐỪNG SỢ! 63
TN 12-A127: LOÀI CHIM SẺ.. 66

---------------------------------------------
 

TN 12-A101: Đừng sợ làm nhân chứng cho Đức Kitô


—Lm JB. Lê Ngọc Dũng

 

Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy làm chứng nhân cho Ngài: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người TN 12-A101


Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy làm chứng nhân cho Ngài: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời” (Mt 26,32).

Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, có ý nghĩa như thế nào?

Chắc chắn không chỉ là việc dùng lời nói, để tuyên bố rằng tôi theo đạo Công Giáo, tôi tin vào Đức Kitô, hay chỉ là đi rao giảng rằng, Ngài là Con Thiên Chúa, đã tử nạn và đã phục sinh. Nhưng chắc chắn và quan trọng hơn là việc sống, sống chứng nhân cho Đức Kitô. Mà sống chứng nhân cho Đức Kitô chính là sống bác ái yêu thương. Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh về việc sống Lời Chúa, sống bác ái yêu thương.

Trong bữa ly Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: "Điều giúp mọi người nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau." (Ga 13, 35).

Lòng yêu thương mà Ngài dạy luôn bao hàm sự hy sinh, như Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu” (Ga 15,13).

Chúng ta thường e dè sợ hãi khi sống chứng nhân tình yêu vì sợ mất mát thua thiệt. Do vậy, trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy bảo các môn đệ: “Đừng sợ”, đến ba lần:

- “Anh em đừng sợ người ta” (Mt 10,26);
- “Anh em đừng sợ những kẻ giết chết thân xác” (Mt 10,28);
- “Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,31).

Chính sự sợ hãi đã khiến nhiều người trong chúng ta giữ một thái độ, nguội lạnh, thiếu nhiệt tâm và thiếu quảng đại trong đời sống thường ngày. Ngược lại, chúng ta cần phải can đảm, không e sợ tuyên xưng mình là môn đệ của Đức Giêsu, bằng những thái độ khoan dung tha thứ, bằng sự hy sinh phục vụ, bằng sự sẵn sàng cho đi mà không mong nhận lại. Điều này thật là có ý nghĩa nhất là khi chúng ta sống trong một thế giới đầy những nghi ngờ tranh chấp và thù địch.

Một nữ tài xế taxi sau đi đón một vị khách lên xe đã bị vị khách này kề dao vào cổ và đòi tiền. Thì ra đây là một tên cướp. Cô bình tĩnh lấy tất cả tiền ra đưa cho kẻ cướp và nói: “Đây là tất cả số tiền mà tôi kiếm được trong ngày hôm nay, nếu anh thấy ít quá thì có thể lấy thêm mấy đồng tiền lẻ trong túi tôi nữa”.

Tên cướp có vẻ sững sờ bởi thái độ của nữ tài xế. Cô nói tiếp: “Anh sống ở đâu? Muộn rồi. Gia đình anh có thể lo lắng cho anh. Tôi sẽ đưa anh về nhà”. Trước sự quan tâm của nữ tài xế, tên cướp đã thu dao lại.

Trên đường đi, cô trò chuyện với tên cướp: “Gia đình tôi từng sống một cuộc sống rất khó khăn, nên tôi học lái xe và trở thành tài xế taxi. Mặc dù tôi không kiếm được nhiều tiền, nhưng chúng tôi đã sống tốt hơn trước đây. Nhưng hãy nhìn anh xem! Một người đàn ông với cơ thể khỏe mạnh. Anh không thể làm gì để kiếm sống sao? Nếu anh tiếp tục đi con đường này, cuộc sống của anh sẽ bị hủy hoại!”

Khi đến nơi tên cướp muốn xuống, nữ tài xế nói với theo: “Nghe này, không phải là anh cướp của tôi, mà là tôi đưa tiền cho anh đấy. Hãy dùng số tiền đó để làm việc đúng đắn và đừng đi ăn cướp nữa”.

Tên cướp im lặng suốt quãng đường đi đột nhiên nói lớn và trả lại tiền cho nữ tài xế: “Chị à, tôi hứa sẽ không lặp lại chuyện này một lần nữa, dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra”.

Không sợ bị thua thiệt, không sợ bị bách hại để làm chứng cho tình yêu cho chân lý. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và các môn đệ của Ngài, là chúng ta, cần phải tiếp tục làm.

Đức Giêsu nói: “Hãy làm chứng cho Ta trước mặt người đời”. Nhiều người nghĩ rằng làm chứng cho Chúa bằng tham dự lễ Chủ Nhật là đủ, bằng giữ luật Chúa, ăn chay cầu nguyện là đủ. Nhưng Chúa Giêsu còn đòi chúng ta làm chứng cho Ngài ngoài những việc đó.

Chúng ta làm chứng cho Chúa chính trong cuộc sống thường ngày. Giữa một xã hội có nhiều sự gian ác chúng ta làm chứng cho sự thiện hảo. Giữa một xã hội thất vọng chán chường, chúng ta làm chứng cho sự hy vọng vui tươi. Giữa một xã hội đầy dẫy nghi ngờ và chia rẽ, chúng ta làm chứng cho sự tin tưởng, đoàn kết yêu thương.

Chúng ta phải là chứng nhân cho Chúa trên đường đi, trong hàng quán, trên xe, trong chợ, trong công xưởng nhà máy, trong trường học cũng như trong những văn phòng làm việc, nơi đồng ruộng... Nói tắt một lời, làm chứng cho Chúa mọi nơi.

Tất cả những điều này đòi chúng ta có đức tin mạnh mẽ và can đảm không sợ sệt; không sợ bị thua thiệt, bị coi thường; không sợ bị trù dập, bị bách hại. Chúng ta cần gắn bó với Đức Giêsu, Đấng đang đồng hành với chúng ta trên con đường dương thế, trên mọi nẽo đường đời để chúng ta thêm can đảm, vững tâm, để làm điều Đức Giêsu đã làm, thực hiện sứ vụ Đức Giêsu đã thực hiện. Đó là làm chứng cho chân lý và tình yêu.

-----------------------------

 

TN 12-A102: Điều đáng phải sợ


--Lm. Xuân Hy Vọng

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ!

 

Không biết tự bao giờ, chúng ta bắt đầu có những nỗi sợ hãi mà không thể giải thích được! Từ TN 12-A102


Không biết tự bao giờ, chúng ta bắt đầu có những nỗi sợ hãi mà không thể giải thích được! Từ khi nào con trẻ lại sợ bóng tối? Lớn dần lên bắt đầu sợ ma, nhưng lại thích nghe từ bạn bè, người lớn những chuyện về ma quỷ? Và rất nhiều nỗi sợ khác đáng lí ra không nên khiếp sợ thì chúng ta lại sợ hãi vô cùng!

Có lẽ vì bản tính yếu đuối của con người, và hậu quả của sự tội, nên chúng ta thường trở nên hoảng sợ trong ý nghĩ, sợ hãi do trí tưởng tượng hay suy đoán mà ra. Trong khi đó, những việc nên sợ, những chuyện không đáng phải sợ thì chúng ta lại xem đó là điều không đáng sợ và cho đó là bình thường, chẳng cần bận tâm!

Thật ra, chẳng phải đến thời đại chúng ta mới có điều này, mà từ rất xa xưa, thời Cựu ước đã diễn ra qua lời thuật lại của tiên tri Giê-rê-mi-a: sợ bị vu cáo, sợ người thân thích rình xem sự vấp ngã của bản thân, sợ bị mắc lừa, sợ bị nhục nhã ê chề…. Và trên hết điều đáng kính sợ và nên làm mà không được quên: “hãy ca tụng Chúa, hãy ngợi khen Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo, cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ” (x. Gr 20, 13).

Nỗi sợ hãi chiếm lĩnh con người, tâm tư, ý nghĩ, chi phối các sinh hoạt của con người, cho nên chúng ta thường có xu hướng không sợ những điều đáng/nên phải sợ. Có nhiều cha bạn của con rất ư là sợ ma! Khi nghe đến chuyện một linh mục sợ ma, thì phản ứng đầu tiên của giáo dân là: ôi, cứ tưởng chỉ có giáo dân sợ thôi chứ, các cha mà cũng sợ ma sao! Thật ra, đâu phải trở thành linh mục rồi mới sợ ma hay hết sợ ma! Trước khi được đào tạo trở thành một thừa tác viên linh mục, thì ứng viên đã có nỗi sợ này từ nhỏ rồi, và điều này cứ theo đương sự suốt (có thể mức độ sợ sẽ giảm dần theo năm tháng!!!). Ngoài ra, rất nhiều câu chuyện về một số cha ngại đến nỗi sợ không dám tiến gần quan tài để rảy nước Thánh hay an ủi gia đình tang quyến, mà chỉ đứng từ xa rảy nước Thánh khi cử hành các nghi thức tang lễ tại gia và trong Thánh lễ an táng, đặc biệt trong nghi thức tiễn biệt! Một trong nhiều lí do mà chúng ta thường được nghe: sợ ngã bệnh hay cơ thể sẽ trở nên không khoẻ khi tiếp xúc với hơi người đã qua đời!

Ở đây, chúng ta không có tham vọng tìm ra nguyên nhân hay lí do hầu giải thích; tuy nhiên dẫu biết một lí do gì đi chăng nữa, chúng ta đều thấy điều mà chúng ta không đáng sợ thì chúng ta lại sợ hãi vô cùng; ngược lại, điều chúng ta nên và đáng phải sợ thì chúng ta cho là bình thường! Nào là chúng ta sợ mỗi khi lãnh nhận bí tích Hoà giải, ngại xếp hàng đi xưng thú tội lỗi của mình; trong khi đó chúng ta lại không sợ việc phạm tội, không sợ làm Chúa phiền lòng, chẳng e sợ khi làm người khác tổn thương như nói xấu anh chị em, nói sau lưng người khác, dèm pha, đồn thổi, loan tin thất thiệt…Chúng ta sợ, không dám tuyên xưng đức tin qua đời sống đạo, sợ không dám làm chứng cho Chúa giữa đời; trong khi đó chúng ta dường như lại không sợ một khi chưa chu toàn bổn phận sống đạo và làm gương lành gương tốt trong gia đình, lối xóm, cộng đoàn giáo xứ! “Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời” (Mt 10, 32-33). Chúng ta sợ người khác hại đến thân thể, thân xác, ảnh hưởng đến đời sống vật chất, đời sống thể lý của mình, nhưng chúng ta lại không sợ bị mất linh hồn, mỗi khi chúng ta rơi vào cạm bẫy tội lỗi, thói hư tật xấu, xa lìa, hờ hững, dửng dưng trước sự thống khổ của anh chị em, xa rời, nguội lạnh trong đời sống đức tin, làm những việc không ích lợi cho đời sống linh hồn! "Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục” (Mt 10, 28). Chẳng phải những gì Chúa dạy nên và đáng phải kính sợ, thì chúng ta cần để tâm, khắc sâu trong lòng mà nỗ lực sống thực thi mỗi ngày sao? “Các con đừng sợ những gì, những việc, những ai không đáng lo hãi, vì các con đáng giá hơn chim sẻ bội phần” (x. Mt 10, 31), vì chính Chúa Giê-su Ki-tô đã đổ máu ra cứu chuộc chúng ta, giúp chúng ta vượt lên những nỗi sợ hãi vô hình này. Và nhờ ân sủng đức tin mà chúng ta được lãnh nhận, cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, ban cho chúng ta lòng can đảm, sự khôn ngoan vượt thắng những sợ hãi này, như lời xác tín của Thánh Phao-lô gửi cho giáo đoàn Rô-ma “sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người (x. Rm 5, 15).

Giờ đây, chúng ta cùng khẩn cầu xin Chúa giúp mỗi người chúng ta vượt lên những sợ hãi dưới đây, và cho chúng ta luôn biết tín thác vào Chúa và sống như lời nhắn nhủ của Ngài “các con đừng sợ hãi…” qua đôi dòng suy tư trở về với lòng mình ‘chẳng ngại/chẳng sợ….nhưng lại sợ’:

Lạy Chúa, lắm lúc chúng con:
Chẳng ngại nhắm mắt làm điều trái với lương tâm
Nhưng e sợ mở mắt cảm thông, chia san với anh chị em.
Chẳng sợ đưa tin buồn, tin hãi, tin vịt
Nhưng e ngại loan truyền Tin Mừng, tin tưởng, tin vui.
Chẳng ngại đưa chân đến những nơi đánh mất nhân phẩm
Nhưng e sợ bước chân tới những ai đang khốn khổ nghèo hèn.
Chẳng sợ tích trữ quá nhiều của cải vật chất, đánh mất linh hồn
Nhưng e ngại chia sẻ thật lòng với anh chị em.
Chẳng ngại để cuộc sống mình câu kết với tội lỗi
Nhưng e sợ trao đời sống mình trong bàn tay Chúa.
Chẳng sợ mỗi khi tự mãn tự kiêu với thành quả bản thân
Nhưng e ngại chia vui thành công với người khác.
Chẳng ngại xét đoán, lên án người khác
Nhưng e sợ mỗi lúc nhìn lại bản thân mình.
Chẳng sợ với những dự định ảo của bản thân
Nhưng e ngại đón nhận chương trình của Chúa.
Chẳng ngại khi chỉ biết tung tăng ngao du khắp nơi
Nhưng e sợ mỗi lúc tham dự Thánh Lễ trọn vẹn.
Chẳng sợ khi ưu tiên đi phượt những nơi xa xôi
Nhưng e ngại đến với những ai đang gần kề cần đến mình.
Chẳng ngại mỗi lúc mua sắm, tiêu tiền thả ga
Nhưng e sợ khi phải giúp đỡ, bớt xén từng đồng.
Chẳng sợ học đòi gương mù gương xấu
Nhưng e ngại học - sống gương tốt gương lành.
Chẳng sợ khi mất nhiều thời gian cho tán gẫu, ‘buông dưa buông lê’
Nhưng e sợ mỗi lần tâm sự, cầu nguyện cùng Chúa.
Chẳng ngại buông lời khiến anh chị em tổn thương
Nhưng e ngại nói lời xin lỗi - cám ơn với người…..
‘E ngại’ mà vậy thì thôi
‘Chẳng sợ’ ra thế, hỡi ôi làm gì?
Làm ngược lại chẳng hại chi
Mang điều tươi sáng, tiếc gì người ơi! Amen!

-----------------------------

 

TN 12-A103: Chúa Nhật 12 Thường Niên


--Lm Gioan Phan Tiến Dũng

 

Trong cuộc sống, con người chúng ta sợ nhất điều gì? Phải chăng là sợ ma, nghèo đói, bệnh tật TN 12-A103


Trong cuộc sống, con người chúng ta sợ nhất điều gì? Phải chăng là sợ ma, nghèo đói, bệnh tật, thiên tai, chiến tranh…? Nhưng tại sao con người lại sợ những điều vừa kể trên? Vì nó làm cho con người đau khổ, lo lắng, bất an. Thật vậy, cuộc sống ngày hôm nay có quá nhiều điều làm cho con người phải sợ. Chính vì lẽ đó, Lời Chúa hôm nay hướng dẫn soi sáng, và dạy chúng ta: Hãy tin vào Thiên Chúa, hãy cậy trông vào Ngài, với niềm hy vọng nơi Chúa, Ngài sẽ ban ơn giúp sức, phù trì và dạy chúng ta phải sống như thế nào trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Trong bài đọc 1, từ miệng ngôn sứ Giêrêmia cho biết, con người vu cáo, lên án lẫn nhau, con người lừa lọc nhau để tìm cái lợi cho bản thân; và rồi con người phải lãnh lấy những hậu quả mà mình gây ra. Người chịu đau khổ nhất là những con người nghèo, những người phận nhỏ. Khi những con người này kêu van, Chúa đã dùng ngôn sứ đến để an ủi, dạy bảo họ là hãy vững tin vào Chúa, Ngài đã nghe tiếng họ kêu van và Chúa sẽ ra tay bênh đỡ, cứu sống. Ơn cứu giúp này được dành cho tất cả những ai biết kính sợ và đặt niềm tin cậy vào Chúa vì “Ngài sẽ giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo”.

Bài đọc 2 trong thư gởi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô đã khuyên nhủ cho họ biết về những ơn ban của Thiên Chúa. Đó là ơn tha thứ và thánh hóa. Ơn của Chúa ban lớn lao gấp bội trước những yếu đuối và tội lỗi của con người. Nhưng không phải cứ cậy dựa vào lòng thương xót Chúa mà ỷ lại, rồi cứ thản nhiên mà phạm tội; để rồi coi việc yếu đuối và tội lỗi như là chuyện của con người, sau đó đến cầu xin là Chúa sẽ tha thứ. Chúa biết con người yếu đuối, dễ chiều theo ý riêng mà phạm tội, đồng thời Chúa luôn ban ơn kêu mời và ban huấn lệnh để giúp con người sống theo ý Chúa. Điều quan trọng là chúng ta có tin tưởng vào đường lối-huấn lệnh và thánh ý Chúa. Chính khi chúng ta tin, thì ân sủng của Chúa mới tuôn đổ trên chúng ta, và nhờ chính ơn Thánh Chúa mới giúp chúng ta vượt qua được những yếu đuối, tội lỗi để trở nên những ngưới con cái tốt lành của Chúa.

Tin mừng Mattheu hôm nay có tới 3 lần Chúa Giêsu lặp đi lặp lại “anh em đừng sợ”. Chúa mời gọi chúng ta đừng sợ cái gì? Tại sao lại đừng sợ? “Đừng sợ” cũng chính là sứ điệp mà Thánh GH. Gioan Phaolo II trên cương vị Giáo hoàng của mình Ngài đã gởi đến cho đoàn chiên. “Anh chị em đừng sợ, bởi vì chính Thiên Chúa là Chúa của chúng ta.” Đừng sợ để giao phó cuộc sống của mình cho Chúa dẫn dắt và hướng dẫn. Ngài sẽ có cách cho chúng ta và chính Ngài sẽ ban ơn phù trì. Điều này được chứng minh qua cuộc đời của một vị Thánh. Chúng ta biết trong cuộc sống của Gioan Phaolo II, biết bao nhiêu điều đau khổ, mất mát, tang thương đã xảy đến cho Ngài. Mất mẹ, mất cha, mất tất cả anh chị em, chỉ còn lại một mình Ngài. Thế mà, trước lời mời gọi của Chúa, JPII đã tín thác, hoàn toàn thuận theo Thánh ý Chúa. Ngài đã từ bỏ tất cả để chọn Chúa. Với con người tín thác như vậy, Chúa đã trao cho Ngài những sứ vụ đặc biệt trong Giáo hội. Không những thế, Chúa còn dẫn dắt và bảo vệ Ngài trên những nẻo đường mà không ai nghĩ tới. Có lúc tưởng chừng như Ngài sẽ bị chết vì bị sát hại; lúc lớn tuổi, Ngài lại bị bệnh pakinson, thế mà không bao giờ Ngài thất vọng, ngã lòng vẫn trông cậy vào Chúa. Cuộc sống của Ngài là cả một hành trình liên lỉ tín thác vào Chúa trong sự che chở và chỉ bảo của Mẹ Maria. Thật vậy, Thánh GH JPII đã tin, đã sống, và đã công bố niềm tin của mình vào Chúa và trở nên một mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta,những ai tin và sống dấn thân cho Chúa.

Thưa anh chị em, điều gì đang làm cho chúng ta lo sợ, bất an? Những lúc chúng ta bỏ Chúa, chối Chúa, không tin vào Ngài và làm theo những ý riêng ích kỷ, hẹp hòi, tìm tư lợi riêng, những lúc như vậy chúng ta chắc chắn sẽ gặp những điều lo lắng, bất an. Thật vậy, tội lỗi chính là căn nguyên làm cho con người bất an và hoang mang lo lắng nhất. Vì không có Chúa thì chắc chắn không có nguồn ơn thánh và bình an đích thực.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy tin vào Thiên Chúa và những ơn ban của Ngài, vì chúng ta thực sự là những người con mà Chúa luôn yêu thương cách đặc biệt. Vậy, liệu bạn và tôi ngay từ bây giờ có dám can đảm mà dấn thân để đặt trọn niềm tin yêu vào Chúa, và để cho Chúa hoàn toàn hướng dẫn cuộc sống của chúng ta trong thánh ý Ngài? Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn của mọi ơn phúc, xin uốn nắn tâm hồn chúng con, để chúng con luôn sống trong tin yêu và phó thác. Amen.

-----------------------------

 

TN 12-A104: Chúa Nhật XII thường niên A


--Lm GB Phạm Hồng Thái

 

Chúng ta không thể phủ nhận rằng cuộc sống con người có những nỗi lo sợ như lo sợ về cơm TN 12-A104


Chúng ta không thể phủ nhận rằng cuộc sống con người có những nỗi lo sợ như lo sợ về cơm áo, gạo tiền, lo sợ về an ninh, về sức khỏe…  nhưng Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết vượt lên trên những nỗi lo sợ đó và có tin cậy vào Chúa quan phòng.

Lo sợ thứ nhất là sợ người đời và điều tối đa là họ có thể giết được thân xác chúng ta nhưng nếu so sánh với Thiên Chúa thì ta vẫn phải sợ Thiên Chúa hơn vì Thiên Chúa còn ở trên người đời và Thiên Chúa không những có quyền trên thân xác mà còn có quyền trên cả linh hồn ta nữa như lời Chúa Giêsu: “Thiên Chúa là Đấng có thể ném cả xác và hồn xuống địa ngục”, phải sợ Thiên Chúa vì chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền ấn định số phận đời đời của con người. Tuy nhiên đối với Thiên Chúa chúng ta phải có lòng kính sợ nghĩa là đi đôi với tâm tình sợ, ta phải có lòng kính mến kèm theo nữa vì Thiên Chúa có tình phụ tử đối với con người: Chúa luôn yêu thương quan phòng và chăm sóc chúng ta như cha mẹ chăm lo cho con cái. Nhờ có lòng kính sợ, chúng ta sẽ sống công chính, thánh thiện, vui tươi và phó thác cậy trông Chúa. Với ân sủng của Chúa Giêsu, chúng ta tin tưởng và luôn có được tinh thần lạc quan. Chị Bernadette, người được Đức Mẹ hiện ra ở Lộ đức năm 1858 đã cầu nguyện cùng Chúa: “Con không xin Chúa cho con khỏi phải chịu đau khổ nhưng xin Chúa đừng bỏ con một mình lúc phải  đau khổ”.

Chúa Giêsu dùng hai hình ảnh để khuyến khích chúng ta đặt lòng tin vào Chúa quan phòng khi Chúa nói: tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi và hình ảnh con chim sẻ giá trị không đáng gì thua xa so con người thế mà Chúa cũng không lãng quên chúng.

Tiên tri Giêrêmia vì trung thành với Chúa, nên từ vua quan tới dân chúng ghen ghét ông, nhưng ông vẫn không nói ngược với những điều Chúa tỏ cho ông biết về Giêrusalem và dân tộc của ông. Ông bị bắt bớ, bị hành hạ, bị bỏ xuống giếng nước đầy bùn nhưng rồi được kéo lên … Vị tiên tri này là hình ảnh Chúa Giêsu không sợ kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Biết bao nhiêu thánh tử đạo sau này vẫn ghi nhớ và thực hành điều Chúa dạy phải: “Vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta” như các tông đồ, các vị tử đạo qua các thế kỉ của Hội thánh, của Giáo hội Việt nam… và ngày nay vẫn có nhiều  tử đạo vì trung thành với lời Chúa dạy.

Chúng ta thấy các tông đồ khi sợ người và khi không sợ người Do thái khác nhau thế nào? Ông Phêrô vì sợ sệt nên chối Chúa và khi Chúa chịu chết thì ông cùng với các tông đồ ở trong phòng đóng kín cửa vì sợ người Do thái. Trái lại sau được ơn Chúa Thánh Thần thì ông và các bạn hết sợ: mở cửa ra ngoài làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh cho dù có bị đánh đòn, giam cầm tù tội và đổ máu mình ra vì Chúa nữa.

Chúa Giêsu hứa cho những người tin kính Chúa điều gì? Chúa hứa như sau: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên Trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên Trời”. Chúng ta ai cũng nhắm tới chung cuộc. Nếu chung cuộc đời mình khi ra trước Tòa Phán xét mà ta được Chúa tuyên xưng, được Chúa đón nhận thì quả là tốt đẹp như lời Chúa trong sách Khải Huyền: “Hãy trung thành cho đến chết và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống ( Kh 2,10)”. Trái lại nếu bị Chúa chối bỏ và không được đón nhận vào giờ phút đó thì đó thật là tai hoạ khủng khiếp!

Thánh kinh có tới 365 lần kêu gọi ta “Đừng sợ”. Trong cuộc bầu Giáo hoàng năm 1978, giáo hữu khắp năm châu hướng về Vatican để đón chờ vị Giáo hoàng mới. Bỗng ngày 16/10/1978, làn khói trắng tỏa lên từ cơ mật viện là tín hiệu cho biết đã có Giáo Hoàng mới. Chuông ở các nhà thờ đổ vang mừng biến cố này. Đức Hồng y Karol Wojtyla đắc cử Giáo hoàng lấy danh hiệu là Gioan Phaolô II. Lời nói đầu tiên của ngài là: “Đừng sợ! Hãy tin vào Chúa Kitô”. Đức tân Giáo Hoàng đã nhắc lại sứ điệp của Chúa Giêsu hôm nay và ngài đã thực hiện lời này trong suốt 27 năm triều đại Giáo hoàng của ngài, dù ngài có chịu đau khổ thậm chí đã bị ám sát khi Mehmet al-Agca bắn những viên đạn vào trúng bụng, vào tay máu chảy loang lổ ra chiếc áo dòng trắng tinh của ngài, nhưng ngài vẫn tin tưởng Chúa, phó thác mạng sống cho Chúa và Đức Mẹ nên ngài đã đem lại những thành quả tốt đẹp cho Giáo hội và cho cả thế giới. Ngài có niềm tin vào lời Chúa: “Sự Thật sẽ giải thoát anh em (Ga 8, 32)” và  cuối cùng sự thật sẽ toàn thắng!

Nguyện xin ơn Chúa giúp chúng ta sống lời Chúa dạy hôm nay: “Đừng sợ” để chúng ta can đảm tuyên xưng Chúa trong cuộc sống người kitô hữu và không quên rao giảng lời Chúa cho những người chưa nhận biết đồng thời làm chứng cho Chúa trước mặt người đời để sẽ được Chúa xưng nhận trước mặt Chúa Cha trên Trời. Amen.

-----------------------------

 

TN 12-A105: Chúa Nhật 12 Thường Niên A


--Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy mời gọi chúng ta suy niệm những bổn phận mà các sứ giả TN 12-A105


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy mời gọi chúng ta suy niệm những bổn phận mà các sứ giả Thiên Chúa phải chu toàn, dù họ là những ngôn sứ, tông đồ, nhà truyền giáo hay đơn giản là những môn đệ. Không được im lặng, hãy làm chứng và đừng bao giờ sợ hãi. Thiên Chúa ở cùng họ.

Gr 20: 10-13

Bài Đọc I trích dẫn “Lời Trần Tình” cuối cùng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Trong hoàn cảnh bị bách hại, ngôn sứ Giê-rê-mi-a kêu cầu cùng Thiên Chúa, phó thác cho Ngài sứ mạng của mình và hát lên niềm vui của mình.

Rm 5: 12-15

Bài Đọc II tiếp tục trích dẫn thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma. Phần trích dẫn hôm nay gợi lên phản đề của triều đại ân sủng được Đức Giê-su thiết lập, phá hủy sự thống trị của cái chết và tội lỗi kể từ nguyên tổ A-đam.

Mt 10: 26-33

Tin Mừng trích dẫn “diễn từ về sứ vụ” của Đức Giê-su trong đó thánh Mát-thêu tập hợp những huấn thị mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài nhắm đến sứ mạng tương lai của họ: nói công khai và không sợ hãi, luôn luôn tuyên xưng Ngài là Chúa bất chấp những bách hại.

BÀI ĐỌC I (Gr 20: 10-13).

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một ngôn sứ hấp dẫn nhất trong truyền thống ngôn sứ. Ông thi hành sứ mạng của mình ở Giê-ru-sa-lem vào cuối thế kỷ VII và đầu thế kỷ VI tCn, nghĩa là vào thời kỳ bi thảm đặc biệt đối với quê hương ông: thời kỳ vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong, kinh thành Giê-ru-sa-lem và Đền Thánh bị quân Ba-by-lon tàn phá (598-587 tCn).

Vốn bản tính hiền hòa không muốn làm mất lòng ai, một tâm hồn rất đa cảm, ngôn sứ Giê-rê-mi-a lãnh nhận sứ mạng loan báo những tai họa, công bố những sứ điệp ngược lại với những viễn kiến của mọi người. Ông có sứ mạnh rao giảng ăn năn sám hối cho các vị lãnh đạo và dân chúng, những người nầy cứng lòng tin không chịu nghe ông.

Trong tác phẩm của mình, thỉnh thoảng ông bày tỏ những phàn nàn, những xao xuyến, thậm chí những nghi ngờ nữa. Những lời trần tình tản mạn được các nhà biên soạn tập hợp lại dưới nhan đề: “Lời Trần Tình của Giê-rê-mi-a” (11: 18-23; 12: 1-6; 15: 10 và 20; 17: 14-18; 18: 18-23; 20: 7-18). Vào Chúa Nhật nầy, chúng ta đọc Lời Trần Tình sau cùng.

1.Đơn độc một mình:

Vào thời kỳ thế lực Át-sua hoàn toàn suy yếu, ấy vậy Giê-rê-mi-a lại loan báo những cuộc tấn công gây tang tóc từ phía một kẻ thù lân bang. Tuy nhiên, những lời loan báo của ông chẳng được ai quan tâm.

Khi Giê-ru-sa-lem bị vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so xâm chiếm vào 598 tCn, và một phần dân cư bị dẫn đi lưu đày, vị ngôn sứ báo trước cuộc lưu đày sẽ dài lâu, nhưng đó sẽ là cuộc thử thách có lợi, phong phú về phương diện tinh thần. Người ta gán cho ông có tinh thần chủ bại.

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn báo trước những tàn phá mới càng trầm trọng hơn. Khi người ta đọc cho vua Giê-hô-gia-kim nghe những sấm ngôn của vị ngôn sứ, đọc đến đâu vua xé và ném vào lò lửa. Bằng hành động biểu tượng, ngôn sứ Giê-rê-mi đập vỡ chiếc bình gốm để cảnh tỉnh đồng bào ông đó sẽ là số phận của Giê-ru-sa-lem. Ông trở nên trò cười cho mọi người. Một ngày kia, trong Đền Thờ, ông công bố rằng những tàn phá sẽ sớm xảy đến. Người ta bắt ông, đánh đòn ông, xích ông lại. Một lần khác, người ta ném ông vào một cái giếng cạn đầy bùn.

Dân chúng chán ngấy vị ngôn sứ loan báo tai họa nầy. Thân nhân của ông, bạn bè của ông, những người đồng hương của ông đều âm mưu hãm hại ông:

“Con nghe biết bao người vu cáo:

‘Kìa lão “Tứ phía kinh hoàng!, hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!’

Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vất ngã.

Họ nói: ‘Biết đâu nó chẳng mắc lừa,

rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó’” (Gr 20: 10).

Ở Giê-ru-sa-lem, có những ngôn sứ khác đồng thời với ông tuyên sấm bình an, nhưng họ không được Đức Chúa ủy quyền. Giê-rê-mi-a biết rằng những lời của ông thì chân thật vì chúng phát xuất từ Thiên Chúa. Ông sống trước những biến cố khủng khiếp mà ông tiên báo và ông cảm thấy một nỗi phiền muộn mênh mông.

2.Thiên Chúa sẽ báo oán cho những phận hèn.

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a chỉ nương tựa vào một mình Đức Chúa. Vốn là một con người cầu nguyện và nội tâm, ngôn sứ không ngừng đối thoại với Thiên Chúa. Ông phó thác công việc của ông cho Ngài, vì biết rằng Đức Chúa là Đấng bênh vực những người đơn côi cô thế và phận hèn. Vị ngôn sứ mong ước được thấy đối thủ của ông phải hổ ngươi bẽ mặt:

“Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con
như một trang chiến sĩ oai hùng.
Vì thế những kẻ từng hại con
sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con.
Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề:
đó là nỗi ô nhục không thể nào quên” (Gr 20: 11).

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a diễn tả nhiều lần niềm ước mong nầy. Nhưng ông không bao giờ có ý định trả thù đối với bất kỳ cá nhân nào. Ông hoàn toàn phó thác vào duy chỉ một mình Thiên Chúa. Thỉnh thoảng ông thôi phàn nàn để cầu bầu cho những kẻ thù của ông.

3.Niềm hoan hỉ:

“Lời Trần Tình của Giê-rê-mi-a” kết thúc với một tiếng reo vui, tràn đầy niềm tín thác, vì ông tin chắc rằng lời nguyện xin của ông sẽ được nhậm lời:

“Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa,

vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo” (Gr 20: 13).

Khi thành thánh Giê-ru-sa-lem bị quân Ba-by-lon đánh chiếm trong cảnh hỗn loạn vào năm 587 tCn, ngôn sứ Giê-rê-mi-a được nể trọng và không phải bị dẫn đi lưu đày. Trong cảnh tang thương lớn lao của dân tộc ông, từ vị ngôn sứ loan báo tai họa, ông trở thành ngôn sứ loan báo niềm hy vọng. Ông khẳng định rằng không có gì bị mất đi, Thiên Chúa sẽ thiết lập một Giao Ước mới, Giao Ước sẽ được ghi khắc không phải trên bia đá mà trong lòng dạ của con người. Ông tiên cảm một tôn giáo mang chiều kích nội tâm hơn bằng chính cuộc sống của mình.

Sau khi ông qua đời, ảnh hưởng của ông thật lớn lao. Không một tác phẩm ngôn sứ nào được những người lưu đày ở Ba-by-lon đọc đi đọc lại nhiều như tác phẩm của Giê-rê-mi-a. Việc báo ứng mà ông đã từng khẩn nguyện với Thiên Chúa thuộc trật tự tâm linh.

BÀI ĐỌC II (Rm 5: 12-15)

Trong chương năm thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô thiết lập tiền đề về ơn cứu độ phổ quát Đức Giê-su đem lại. Ngài là Đấng Cứu Độ của muôn người: không ai có thể được cứu mà không qua Ngài. Mọi người là những tội nhân, vì thế, tất yếu đều phải qua Ngài để được công chính hóa. Thánh nhân ca ngợi Đức Giê-su đích thật là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát. Trên cõi thế nầy, không ai có thể nên công chính nếu Đức Giê-su đã không hành động ở nơi người ấy.

Như trong chương trước đó, thánh Phao-lô đã ra sức thiết lập tiền đề của mình khởi đi từ truyền thống Kinh Thánh: tổ phụ Áp-ra-ham được cứu nhờ tin. Ở đây cũng vậy, thánh nhân lại viện dẫn Cựu Ước như phản đề. Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất, nhờ chỉ mình Ngài mà ơn cứu độ đã xâm nhập trần gian. A-đam là tội nhân nguyên khởi, qua ông mà tội đã lan tràn đến hết mọi người. Cựu Ước và Tân Ước đối xứng với nhau thật hoàn hảo. Hình ảnh Cựu Ước loan báo được ứng nghiệm trong thế giới Ki-tô giáo. Rõ ràng toàn bộ chương trình cứu độ xuất phát từ chính Thiên Chúa. Tấm màn đen tối của Cựu Ước làm rực sáng lên Đức Ki-tô trong Tân Ước. Dự định của thánh nhân dễ dàng nhận ra: phải lớn tiếng cao rao ơn cứu độ phổ quát nơi Đức Giê-su Ki-tô.

Như vậy, chúng ta phải ghi nhận rằng thánh Phao-lô thiết lập tiền đề thần học của mình ở Rm 5: 12-21. Các câu 5: 1-11 hình thành nên một loại chuyển tiếp giữa tiền đề thần học này và tiền đề thần học trước đó: sự công chính hóa không bởi công nghiệp của Lề Luật nhưng bởi đức tin. Đó là tiền đề mà chúng ta đang tìm hiểu ở đây.

Bản văn mà Phụng Vụ đề xuất cho chúng ta chỉ là một phần của đề tài mà thánh Phao-lô trình bày. Đề tài phải được đọc trên hậu cảnh mà chúng ta vừa mới gợi lên. Sự hiểu biết của đoạn trích nầy tùy thuộc vào hậu cảnh nầy.

Câu 12 bắt đầu một sự đối chiếu vĩ đại nhằm diễn tả tiền đề của thánh Phao-lô, vì thế thống trị toàn bộ bản văn và sẽ được nối tiếp chỉ ở câu 18. Hai thành viên của sự đối chiếu được tách riêng ra bởi một loạt những khảo sát thần học, những khảo sát nầy gặp thấy vài khía cạnh của vấn đề. Tư tưởng của thánh Phao-lô xô đẩy lẫn nhau; cường độ của suy tư vượt lên trên trật tự hợp lý. Trong niềm hưng phấn của cuộc tranh luận, thánh nhân suy nghĩ nhanh hơn là nói.

Để làm sáng tỏ hơn, chúng ta sẽ trình bày sự đối chiếu theo sơ đồ như sau: vì một người duy nhất, tội lỗi xâm nhập thế gian, và từ đó, tội lỗi gây nên cái chết (5: 12); cũng vậy, vì một người duy nhất, sự công chính hóa đã được thực hiện, và từ đó, ơn công chính hóa nầy đem lại sự sống (5: 18).

Do từ sự đối chiếu nầy, bản văn phụng vụ chỉ giữ lại câu 12, vì thế, câu nầy chưa hoàn tất, thậm chí còn rườm rà phức tạp nữa. Vế thứ nhất của câu 12: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên cái chết” nối lại lập luận với điều đi trước: tóm lại, vì xuất hiện trong chức năng cứu độ viên mãn của mình, Đức Giê-su đặt mình trong tư thế đối lập với nguyên tổ A-đam. Vì bất tuân, nguyên tổ A-đam đã đem tội lỗi vào thế gian và hậu quả của nó là sự chết đã gây tác hại ngay tức khắc trên thân phận con người.

Sự chết cô động và tóm gọn tất cả sự dữ trong thế gian. Sự chết tinh thần hệ tại nơi sự đoạn tuyệt giữa con người với Thiên Chúa mà sự chết thể l‎ý xem ra là dấu chỉ rõ ràng nhất. Thánh Phao-lô lập luận trong viễn cảnh Cựu Ước, theo đó có một sự liên kết chặt chẽ giữa tội lỗi và mọi hình thức sự dữ trong thế gian. Con người phải chịu trách nhiệm đưa sự dữ vào trong công trình tạo dựng vốn tốt lành. Con người đã làm hỏng công trình của Thiên Chúa. Suy tư nầy dẫn chúng ta trực tiếp vào trọng tâm của giáo thuyết về tội nguyên tổ.

Vế thư hai của câu 12 có thể được hiểu theo hai cách tùy theo cách giải thích của đại từ liên hệ Hy lạp: đại từ nầy có thể quy chiếu đến số nhiều: “mọi người” hay số ít: “người nầy” (A-đam) hoặc “sự chết” của vế đi trước đó. Theo cách hiểu thứ nhất: “Sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội”, thánh nhân nhấn mạnh rằng, do tội của chính mình, con người liên đới với tội Ađam. Theo cách hiểu thứ hai: “Sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì A-đam mọi người đã phạm tội”, thánh nhân soi sáng mối liên hệ nhân quả giữa tội A-đam và tội của toàn thể nhân loại, tội của toàn thể nhân loại một cách nào đó chuẩn nhận tội nguyên tổ. Ý nghĩa của câu không thay đổi là mấy nếu đại từ liên hệ được quy chiếu không đến nguyên tổ A-đam nhưng đến sự chết: “Sự chết đã lan tràn tới mọi người vì tình trạng của sự chết (gây ra bởi tội A-đam), mọi người đã phạm tội”. Văn phạm không giúp giải quyết cuộc tranh luận giữa các nhà chú giải. Vả lại, văn phạm không nêu lên vấn đề về ‎ý nghĩa sâu xa của đoạn văn, nó đem đến những dấu nhấn khác nhau trong một sự khẳng định tự căn bản vẫn là như nhau.

Các câu 13-14 nhấn mạnh sự kiện theo đó mọi người đều là tội nhân. Người ta có thể nghĩ rằng những người trước ông Mô-sê đã không bị tội tác hại. Họ đã không biết luật, vì thế họ đã không thể vi phạm luật. Tuy nhiên, phải nhận chân rằng họ cũng chết, cũng bị thống trị và nghiền nát do hậu quả của tội. Vì thế, người ta có thể kết luận rằng chính họ cũng là những tội nhân. Ở phần cuối của câu: “A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới” thánh nhân dẫn đưa chúng ta từ hình bóng của Cựu Ước đến thực tại của nó trong Tân Ước.

Phản đề khởi sự ở câu 12 thật sự được khai triển ở câu 15. Đức Ki-tô trổi vượt vô cùng tận trên nguyên tổ A-đam. Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội lỗi của con người. Nếu như tội lỗi của con người có thể hủy hoại tất cả công trình sáng tạo, thì ân sủng của Thiên Chúa đổi mới thế gian biết chừng nào! Thánh Phao-lô tiếp tục nhấn mạnh sự siêu vượt của Đức Ki-tô trong mối liên hệ với nguyên tổ A-đam ở những câu 16-17 và tiếp đó lấy lại sự đối chiếu còn bỏ lững ở câu 12.

TIN MỪNG (Mt 10: 26-33).

Bản văn Tin Mừng Mát-thêu hôm nay được trích từ diễn từ thứ hai của Đức Giê-su được gọi “diễn từ về sứ vụ” (10: 5-42). Thánh Mát-thêu đã kết tập ở đây những lời khuyên bảo và những huấn thị mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài, nhắm đến sứ mạng tương lai của họ.

Đức Giê-su vừa mới phác họa bức tranh tăm tối về những khó khăn mà các Tông Đồ sẽ phải đối đầu: những thù ghét sẽ nổi lên dữ dội chống lại họ như đã chống lại Thầy họ, những lời vu khống mà người ta sẽ cáo tội họ như người ta cáo tội Thầy họ. Nhưng đừng để nỗi sợ hãi làm mình nao núng.

1.Sức mạnh của sứ điệp.

Bất chấp thái độ thù địch, các môn đệ đừng sợ, hãy mạnh dạn lớn tiếng công bố giữa thanh thiên bạch nhật sứ điệp mà Ngài đã trao gởi cho họ: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (10: 26).

Đức Giê-su giáo huấn chỉ một nhóm nhỏ môn đệ trong chỗ thân tình, còn với đám đông Ngài chỉ dạy bằng dụ ngôn; tuy nhiên, khi thời gian đến “không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết”. Qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su sẽ đưa Mặc Khải đến hồi viên mãn. Lúc đó, các môn đệ của Ngài, các thừa tác viên của Lời Ngài, những người phục vụ Lời Ngài, sẽ phải thông truyền Lời Ngài cách công khai cho hết mọi người, công bố lớn tiếng Lời Ngài “trên mái nhà”. Mái nhà, theo kiểu xây nhà của người xứ Pa-lét-tin, là một sân thượng, ở đó vào lúc chiều hôm mát mẽ người ta trò chuyện với nhau từ sân thượng nầy sang sân thượng khác. Đức Giê-su đối lập Mặc Khải chưa hoàn tất với Mặc Khải nên trọn, cũng như sự nhát đảm hiện nay của nhóm Mười Hai với lời rao giảng đầy quyền năng của họ sau biến cố Ngũ Tuần.

2.Những kẻ bách hại không thể giết được linh hồn.

Các môn đệ sẽ trải qua những nhục hình, đòn vọt, tù đày…, và phần lớn trong số họ được phúc tử đạo. Tuy nhiên, những kẻ bách hại không thể làm gì được trên lương tâm của họ, đức tin của họ, chính trên pháo đài nội tâm nầy mà tâm hồn của mỗi người hình thành nên. Vì thế, Đức Giê-su khuyên các môn đệ: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Chính Thiên Chúa mà các môn đệ phải sợ vì chỉ mình Ngài mới có quyền năng ấn định số phận đời đời của con người. Như vậy, thánh Mát-thêu đối lập sợ hãi con người với sợ hãi Thiên Chúa. Theo nghĩa Kinh Thánh, “sợ hãi Thiên Chúa” dẫn đến một cuộc sống công chính, tránh xa tội lỗi. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô một cách nào đó tóm lược lời nói nầy: “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người là Chúa ngự trị trong lòng anh em.” (1Pr 3: 14-15).

3.Tình phụ tử của Thiên Chúa.

Những lời khuyên bảo của Đức Giê-su được thánh Mát-thêu sưu tập và đặt bên cạnh nhau khiến gây nên những trái ngược. Sau Thiên Chúa là vị Thẩm Phán, lại đến Thiên Chúa là Phụ Tử, Ngài ân cần săn sóc các thụ tạo của Ngài, dù chúng chỉ là những chim sẻ không đáng giá là bao.

Kiểu nói: “Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” được mượn ở Cựu Ước: “Không một sợi tóc nào trên đầu Giô-na-than sẽ rụng xuống đất, vì hôm nay ông đã hành động cùng với Thiên Chúa” (1Sm 14: 45; x. 2Sm 14: 11; 1V 1: 52), có nghĩa ơn quan phòng của Thiên Chúa.

4.Lời chứng của Chúa Con.

Viễn cảnh của những cuộc bách hại là điểm nhấn của diễn từ về sứ vụ. Giờ đây thánh Mát-thêu gợi lên những nguy cơ chối đạo có thể bất ngờ xảy đến: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Theo lối hành văn đối xứng rất được người Do thái ưa chuộng, lời khẳng định nầy hàm chứa lời tuyên bố tương tự theo lối phủ định: “Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kỹ thuật hành văn này nhấn mạnh lời hứa của Đức Giê-su vào giờ xét xử thời chung cuộc.

Bản văn Tin Mừng Mát-thêu nầy có một hậu cảnh bi thảm. Nó loan báo một thời kỳ bách hại dữ dội trong lịch sử. Những kẻ bách hại sẽ bất ngờ xuất hiện rất sớm. Vào năm 36, thánh Tê-pha-nô sẽ mở đầu một danh sách dài của những người tử đạo, tiếp đó thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan, vào năm 42. Theo sau những bách đạo của chính quyền Do thái giáo, đến những bách đạo của chính quyền Rô-ma. Bản văn của sách Khải Huyền đã nêu rõ lời bối cảnh này: “Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi phải chịu: nầy ma quỷ sắp tống một số người trong các ngươi vào ngục để thử thách các ngươi… Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống”  (Kh 2: 10).

-----------------------------

 

TN 12-A106: Sợ Đấng có thể… tiêu diệt?


--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

 

Chúng ta là những kẻ hay sợ sệt, mà Đức Giê-su thì biết rất rõ điều đó. Trong cuộc sống, ai trong TN 12-A106


Chúng ta là những kẻ hay sợ sệt, mà Đức Giê-su thì biết rất rõ điều đó. Trong cuộc sống, ai trong chúng ta mà không từng trải qua những giây phút sợ hãi, còn nguyên nhân của các nỗi sợ đó thì nhiều vô kể; trong số đó, nỗi sợ ám ảnh ta nhất chính là: bị coi thường, bị đánh giá thấp, bị chê bai hoặc bị loại bỏ. Hầu như tất cả mọi hành vi, mọi sinh hoạt của ta đều bị chi phối bởi điều này: người ta sẽ đánh giá tôi thế nào đây? Trong một chừng mực nào đó nỗi sợ này là tích cực, bởi vì nó tập cho ta ý thức tự trọng; tuy nhiên rất thường khi nó lại là rào cản không cho phép ta sống tự do và thoải mái, vươn lên và rộng mở.

Để giải quyết vấn đề lớn và phổ thông này, Tin Mừng hôm nay trao vào tay chúng ta chìa khóa của lời giải đáp.

Trước hết Lời Chúa cống hiến cho ta một giải pháp hợp lý những mang tính tiêu cực. Nếu sợ hãi là điều thực sự không thể tránh, thì ta cần xác định chủ thể đe dọa mình là ai cái đã; nếu mối đe dọa tới từ người phàm thì sợ hãi đó cũng chỉ là tương đối thôi! Có một thời, nhất là trong một xã hội định canh định cư, khi mà mỗi cá nhân đều sống trong một môi trường khép kín (sau lũy tre làng), thì sự đánh giá của bà con chòm xóm là cả một mối bận tâm lớn; ăn mặc như thế, nói năng như thế thì người ta sẽ đánh giá mình thế nào đây? Ngày nay, khi mà nhiều người sống và làm việc trong một xã hội luôn chuyển động, thì sự kiểm tỏa này hầu như bắt đầu sụp đổ; giữa những người xa lạ, họ thấy mình ít bị kiểm tỏa hơn, không mấy ai quan tâm tới cách ăn mặc, nói năng của mình..., do đó họ ít giữ gìn hơn trong lời ăn tiếng nói, sống tự do thoải mái hơn, thâm chí có khuynh hướng buông thả. Dầu thế nào đi nữa thì nỗi sợ xã hội “sợ những kẻ giết thân xác” này chắc chắn sẽ ngày càng suy yếu; và đó chính là thời điểm thuận lợi để ta xây dựng cho mình một nỗi sợ mới, căn cơ và vững chãi hơn; “anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”.

Tuy nhiên đó mới là thay đổi đối tượng sợ hãi của ta, và làm cho nỗi sợ trường kỳ của chúng ta đánh trúng mục tiêu hơn mà thôi! Tin Mừng không chỉ cống hiến có thế, nó phải có khả năng phá tan mọi nỗi sợ hãi to nhỏ trong ta, vượt xa nỗi sự của dân chúng trong thời Cựu Ước. Tin Mừng cho ta nhận ra giá trị rất đặc sắc và trường tồn của mình mà không ai có thể cướp mất được, kể cả khi ta đáng bị người đời nguyền rủa và lên án. Khả năng này trước hết hệ tại ở việc hiểu biết chính xác về chính “Đấng có thể tiêu diệt” là ai, qua lăng kính của Thập Giá.

Đấng có thể tiêu diệt đó khi đánh giá tôi thì Người sẽ đánh giá như thế nào; nếu người đời thường khi tỏ ra rất khắt khe xét nét, bắt bẻ từng li từng tí, thì Đấng đó sẽ xét tôi ra sao; đó quả là một vấn nạn nghiêm trọng! Câu trả lời Đức Giê-su dưa ra làm tất cả chúng ta té ngửa vì ngỡ ngàng: Đấng đó không những không xét nét, mà còn đánh giá ta rất cao trước cả khi (đúng hơn: bất chấp) ta làm hay nói điều gì. Đức Giê-su trưng ra hai hình ảnh rất đời thường để minh họa cho xác quyết này: “hai chim sẻ chỉ bán được một hào rơi xuống đất” và “tóc trên đầu rụng” là những chuyện quá tầm phào ít ai quan tâm tới…, thế mà Cha Trên Trời quan tâm tới giá trị của chúng để rồi, “không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em… ngay cả tóc trên đầu anh em Người cũng đếm cả rồi”. Cuối cùng Người đi tới kết luận đầy an ủi: “anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ”. Nếu “Đấng có thể tiêu diệt” sẽ đánh giá tôi như thế, cho dầu tôi có là tật nguyền, thiểu năng, ngu dốt, bệnh hoạn hay nghèo hèn, thậm chí cả khi tôi đầy những khiếm khuyết, lầm lỡ hay tội lỗi. Đấng coi tôi là có giá trị lớn như thế lẽ nào lại đang tâm xét nét, kết án và tiêu diệt tôi?

Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, các nỗi sợ hãi lẽ ra đã phải bị tiêu diệt từ lâu rồi - từ ngày lãnh phép Thanh Tẩy, không những vì nhận ra mình có giá trị quá cao quí như thế, mà còn vì Đức Giê-su hầu như cương quyết bảo đảm: không để một ai trong những kẻ thuộc về Người phải rơi rụng; “Không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay cha tôi” (Ga 10:28-29). Và rồi Người còn cam kết với Cha: “Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất!” (Ga 17:12). Sau những xác quyết và cam kết vững chãi như thế, lẽ nào ta có thể tiếp tục sợ hãi được nhỉ, kể cả sợ tội, sợ có thể bị tiêu diệt trong hỏa ngục đời đời! Tôi thiết nghĩ: Ki-tô hữu chúng ta, bất luận là ai, phải là những người được “hưởng niềm vui trọn vẹn” nhất (xem Ga 17:13).

Kể từ ngày trở thành Ki-tô hữu, lẽ ra nỗi sợ hãi duy nhất chúng ta chỉ phải là: đánh mất niềm tin tưởng phó thác tuyệt đối nơi Chúa Cha nhân từ, và nơi Con của Người là Đấng đã cứu độ và tha thứ bằng Thập Giá Người?

Lạy Chúa là Cha từ nhân, không hiểu sao, một khi đã tin Cha là Đấng yêu con tới độ đã cho Con mình xuống thế để chết cho con, thế mà trong con vẫn còn mãi vấn vương sợ hãi. Tất cả là vì con vẫn chưa tin vững chắc rằng: Cha thật từ ái vô biên! con vẫn còn coi Cha là… Đấng có thể tiêu diệt con trong hỏa ngục. Xin Cha cho con nhận thức và xác tín, khi nhìn lên Thập Giá Đức Ki-tô rằng: con có một giá trị vô song trước mặt Cha, giá trị còn hơn cả máu châu báu Con Cha…, và Cha không bao giờ muốn con bị tiêu diệt. Amen.

-----------------------------

 

TN 12-A107: Hãy nói ra giữa ánh sáng


--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

 

Chương 10 ghi lại những điều liên quan đến việc chọn lựa nhóm Mười Hai, sứ vụ và phần thưởng TN 12-A107


cho họ. Dàn bài của chương nầy có thể phân chia như sau: bổn phận phải làm của các tông đồ (10,5b-15); những phản ứng của con người trước hoạt động của các tông đồ (10,16-25); làm thế nào để chịu được và vượt qua những hoàn cảnh bất thuận lợi như thế (10,26-39); cuối cùng là phần thưởng dành cho các tông đồ (10,40-42). Đoạn 10,26-39 có thể phân chia thành hai phần: bổn phận loan báo điều đã nghe (10,26-31); tương quan với Chúa Giêsu (10,32-39). Cấu trúc của đoạn 10,26-31 như sau: – Mở đầu và kết thúc bằng mệnh mệnh “Vậy đừng sợ!” (10,26a.31a); – Loan báo là ý muốn của Thiên Chúa (10,26b-27); – Thiên Chúa gìn giữ người tông đồ (10,28-31). Sự xuất hiện của mē oun + phobeomai, “đừng sợ”, trong hai câu 10,26 và 31 làm thành inclusio đóng khung đoạn nầy. Các câu 10,32-33 thuộc về đoạn tiếp theo, và nói đến tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Giêsu và con người.

Chủ đề của đoạn là đề đến việc đừng sợ để loan báo tin mừng. “Đừng sợ” xuất hiện đến 3 lần (10,26a.28.31a). Một đàng việc loan báo tin mừng là ý muốn của Thiên Chúa nên không có gì phải sợ. Thiên Chúa sẽ trợ giúp để việc ấy được hoàn thành. Đàng khác Thiên Chúa gìn giữ người tông đồ. Người không để họ phải hư nát hoàn toàn do bắt bớ và giết chết khi loan báo tin mừng. Loan báo là ý muốn của Thiên Chúa (10,26-27). Mở đầu hai câu là mệnh lệnh ngỏ với các tông đồ “Đừng sợ chúng!” (c. 26). Autous, “chúng”, ám chỉ những người bắt bớ các tông đồ (x. 10,19.23) và “người đời” (10:17.32). Tiếp theo là mệnh đề gar, “vì”, giải thích lý do tại sao không phải sợ hãi. Mệnh đề nầy được trình bày thành hai phần song song và đồng nghĩa: “điều che đậy sẽ được mở ra – điều giấu kín sẽ được thấu biết”. Câu hỏi đặt ra là nội dung của điều được giấu kín là gì? Chủ ngữ của động từ ở dạng thụ động apokalyptō, “tỏ lộ” và ginōskō, “thấu biết”?

Tin mừng, cho đến lúc trước khi các tông đồ được sai đi, được rao giảng cách đặc biệt và riêng tư cho họ (13,11). Bây giờ đã đến lúc tin mừng phải được loan báo bởi các tông đồ. Tin mừng nầy không thể bị che giấu do sợ hãi, vì Thiên Chúa sẽ ban cho các tông đồ điều họ sẽ nói (10,19), và Chúa Thánh Thần sẽ nói trong họ (10,20). Như thế, Thiên Chúa là tác nhân làm cho tin mừng được tỏ lộ, apokalyptō, và nhận biết, ginōskō, qua lời rao giảng của các tông đồ. Vậy, các tông đồ không phải sợ những người bắt bớ, vì lúc Thiên Chúa muốn cho tin mừng được loan báo là lúc Người hoạt động trong các tông đồ để điều nầy được thực hiện.

Câu 27 tiếp theo trình bày cách thế loan báo tin mừng như thế nào để được gọi là không sợ hãi. Các tông phải loan báo tin mừng nơi ánh sáng và trên mái nhà. Hai câu 26 và 27 được trình bày gồm những cặp từ tương phản: che dấu-tỏ lộ, giấu giếm-nhận biết, bóng tối-ánh sáng, rỉ tai-loan báo. Chúa Giêsu không nói rõ nội dung loan báo là gì, mà chỉ nói “điều Tôi nói với anh em”. Chúng ta có thể hiểu “điều” ấy chính là những lời giáo huấn của Người. Trong câu 11,25 chúng ta gặp thấy cả hai hạn từ kryptō, “giấu giếm”, và apokalyptō, “tỏ lộ”. Chúng có Thiên Chúa làm chủ ngữ. Từ “tỏ lộ” được dùng duy nhất cho Chúa Cha (10,27;11,25; 16,17) và Chúa Con (11,27). “Tỏ lộ” là đưa ra ánh sáng điều đã được thực hiện mà người ta chưa biết đến. Điều được tỏ lộ liên quan trực tiếp đến các lời, việc và Chúa Giêsu; tauta “những điều nầy” ám chỉ các lời nói và việc làm của Chúa Giêsu (11,25). Nói tóm, đó là mầu nhiệm Nước Trời. Vậy các tông đồ không phải sợ, vì Thiên Chúa muốn điều Người đã nói với các ông qua Chúa Giêsu được tỏ lộ ra cho mọi người.

Thiên Chúa gìn giữ người tông đồ (10,28-31). Chủ đề “đừng sợ” tiếp tục được bàn đến trong đoạn nầy. Chúa Giêsu đưa ra mệnh lệnh “Đừng sợ!” hai lần, và phân biệt hai đối tượng khác nhau (10,28[2x]). Câu 28 chia thành hai phần kết cấu theo dạng đối đảo: A “…giết thân xác, …không thể giết được linh hồn” – A’ “…có thể giết linh hồn và thân xác”. Trường hợp thứ nhất “Đừng sợ người chỉ giết được thân xác” ám chỉ sự kiện các tông đồ sẽ bị bắt và bị giết (x. 24,9), như các ngôn sứ trước họ đã chịu (x. 23,34.37). Trường hợp thứ hai “Phải sợ Đấng có thể giết chết thân xác, và ném linh hồn vào hoả ngục” ám chỉ quyền năng và quan phòng của Thiên Chúa. Theo kết cấu đối đảo nầy, việc giết được hay không giết được linh hồn là điểm được nhấn mạnh. Chỉ sợ ai giết được linh hồn mà thôi.

Sōma mà Chúa Giêsu nói đến bao hàm cả con người hơn là một thể xác. Nhiều lần Matthêô dùng từ nầy để chỉ cả con người, bao hàm cả linh hồn và thể xác, như khi nói đến việc tay hay chân có thể gây nên dịp tội. Trong trường hợp nầy “toàn sōma”, nghĩa là cả con người, bị ném xuống hoả ngục (5,29-30; x. 6,23.25). Tuy nhiên, Matthêô cũng phân biệt sōma, “thể xác” và psychē “linh hồn” như hai yếu tố tách biệt trong một vài trường hợp, chẳng hạn như ở câu 28 nầy (x. 26,12; 27,58.59). Psychē, “linh hồn”, đồng nghĩa với sự sống của con người (2,20; 6,25). Khác với sōma, psychē không bị tiêu tán bởi cái chết. Bởi đó, Chúa Giêsu thường nói phải lo lắng cho sự sống đời sau hơn là sự sống đời nầy (16,25.26; 20,28). Vậy, lý do thứ hai người tông đồ không phải sợ là vì người bắt bớ không có quyền năng như Thiên Chúa để có thể giết được linh hồn.

Một lý do khác nữa để đừng sợ dựa trên sự lo lắng và quan phòng cách đặc biệt của Thiên Chúa (10,29-30). Chúa Giêsu dùng hình ảnh con chim sẻ và giá trị của nó để nói đến việc chăm sóc của Người. Trong Matthêô con chim sẻ trị giá chỉ một đồng tiền bằng đồng (assarion); trong khi giá của nó trong Luca là hai đồng (Lc 12,6). Một đồng tiền bằng đồng (copper coin) trị giá chỉ bằng một phần mười sáu của đồng bạc (denarius). Một đồng bạc là lương làm công một ngày (20,2). Giá không đáng kể của con chim ngụ ý giá trị của nó rất khiêm tốn. Rồi việc nó chết đi, “rơi xuống đất” không ngoài sự cho phép của Thiên Chúa; tương tự việc một sợi tóc rơi xuống. Vậy, Chúa Giêsu đưa ra lý chứng a fortiori. Người đi từ điều nhỏ nhất là giá trị của con chim và sợi tóc (10,30) để đi đến điều lớn hơn là các tông đồ. Việc con chim chết đi, hay sợi tóc rụng xuống Thiên Chúa còn cho phép, huống gì là việc các tông đồ bị bắt bớ hay giết đi đều không ngoài ý muốn của Thiên Chúa.

Để kết luận, Chúa Giêsu thêm lần nữa mệnh lệnh “Vậy đừng sợ!” (10,31). Lần nầy, oun, “vậy”, qui về những điều đã trình bày trước như là nền tảng cho mệnh lệnh nầy. Khẳng định “Các con quí giá hơn nhều chim sẻ” muốn nói là các tông đồ có một chỗ đặc biệt trong sự chăm sóc của Thiên Chúa (x. 6,26).

Chúa Giêsu sai các tông đồ đi loan báo tin mừng. Thử thách và bắt bớ luôn đến với họ. Tuy nhiên họ không phải sợ bất cứ điều gì, vì Thiên Chúa luôn ở với họ. Người muốn tin mừng được loan báo, nên Người ban cho các tông đồ miệng lưỡi và ân sủng. Nếu phải bị giết chết, điều ấy là ý muốn của Người. Người tông đồ chỉ sợ một mình Thiên Chúa để khỏi sợ những điều khác.

-----------------------------

 

TN 12-A108: Chú giải của Noel Quesson


“Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”.

 

Ngày nay, chúng ta thấy việc truyền bá Phúc âm trong thế giới sống theo vật chất của chúng ta TN 12


Ngày nay, chúng ta thấy việc truyền bá Phúc âm trong thế giới sống theo vật chất của chúng ta thật khó khăn. Vào thời của Thánh Mátthêu, điều đó cũng đã khó khăn rồi. Người ta cảm thấy trong những câu này của Đức Giêsu một ý muốn khích lệ: Anh em chớ nản chí, hãy vượt lên trên sự sợ hãi để rao giảng! Không gì có thể ngăn cản sức mạnh truyền bá chân lý. Sự thuyết giáo của Đức Giêsu tự nó là một hành động rất khiêm nhường, một "sứ điệp được che giấu... nói lúc đêm hôm... nói nhỏ vào tai". Sau nhiều thế kỷ, chúng ta thấy rằng Tin Mừng đã đi giáp vòng trái đất và vượt qua mọi chướng ngại. Lạy Chúa, xin nhắc chúng con có lòng can đảm để nói về Lời Chúa.

“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.

“Anh em đừng sợ!”

Ba lần, điệp khúc này trở lại trong miệng Đức Giêsu (Mt 10, 26.28.31). Tôi tưởng tượng Đức Giêsu ngửng cao đầu một cách hiên ngang khi nói ra những lời đó. Chính Người chưa khi nào Người sợ hãi. Người biết Người sẽ bị giết chết bởi lẽ sự thù hận của các kẻ thù dâng cao lên xung quanh Người như một con sóng đáng sợ, ngay khi Người bắt đầu đi rao giảng. Nhưng Đức Giêsu biết những “giá trị thật”.

Đối với Người, đời sống trần gian ít giá trị so với sự sống đời đời mà Người biết từ bên trong như Con của Cha. Con người có thể tấn công sự sống của thân xác. Nhưng họ không có quyền gì trên “sự sống thật" hoàn toàn thoắt khỏi ảnh hưởng của họ. Thánh Vịnh 123,7 đã nói đến linh hồn thoát khói lưới của kẻ đánh lưới chim muốn bắt lấy nó”.

Người tử đạo biết điều đó và theo bước Đức Giêsu. Người bị bách hại cao cả hơn kẻ bách hại người ấy. Người bị hành hình cao cả hơn tên đao phủ. Bề ngoài, kẻ bách hại mạnh hơn: hắn có vũ khí, có quyền lực bạo tàn. Hắn chỉ mạnh trên bình diện của sự tàn ác... mạnh một cách thú vật!

Người bị bách hại mạnh bởi một sức mạnh nội tâm không thể đánh bại. Là một gói cơ bắp lớn hơn những cơ bắp của đối thủ thì không đáng kể. Là một lih hồn mạnh mẽ" hơn, đó mới là đáng kể.

Đúng hơn anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.

Hỏa ngục, tiếng Do Thái là "Gué-H.innum" là một thung lũng ở phía Nam Giêrusalem, được coi như một hình ảnh tượng trương của Hỏa Ngục. Thung lũng đó bị chúc dữ từ những thời xa xưa vì là nơi người ta đã sát tế nhiều người. Đó là nơi bi thảm dùng để thiêu sinh trẻ con, người ta đặt chúng trên những cánh tay đã nung nóng đỏ của thần Moloch. Vào thời của Đức Giêsu thung lũng hỏa ngục tộc ác đó luôn là một bãi rác tởm lợm mênh mông của thành Giêrusalem. Người ta thường xuyên đốt rác và xác người chết ở đó. Cách nay hai năm, tôi mạo hiểm đến đó một mình, giữa những tảng đá bị lửa làm cháy nám. Đây đó, một vài cuộn khói còn bốc lên... Than ôi, truyền thống nhân loại còn ghi nhớ mãi sự tàn bạo kinh hoàng ấy, và đâu phải chi có ở Giêrusalem!

Tuy nhiên Đức Giêsu lặp lại với chúng ta: "Đừng sợ những kẻ. giết thân xác... hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt linh hồn!". Công thức này đáng kinh ngạc và cũng nghịch lý “Linh hồn" không thể giết được!. Công thức đáng sợ? Vậy "giết một linh hồn" có nghĩa là gì?

Nỗi sợ hãi duy nhất của chúng ta, Đức Kitô khẳng định, chính là đánh mất đức tin…

Nỗi sợ hãi duy nhất của chúng ta phải là sợ không đủ can đảm để "tuyên xưng và sống đức tin của chúng ta".

Không phải những kẻ bách hại làm mất Giáo hội... mà là những kẻ bỏ đạo!

Điều làm Giáo Hội phải động viên toàn bộ lực lượng chính là sự đánh mất đức tin trong các linh hồn! Khi người ta nghĩ đến những chiến dịch của dư luận để cứu lấy các hải cẩu con, hoặc cá voi, hoặc những phong cảnh cần được bảo vệ, hoặc các di tích cổ... thì thử hỏi người ta làm gì để cứu lấy các linh hồn? Người ta phải làm gì để con người không bị hư mất, không bị phá bủy từ bên trong khi đánh mất hết mọi ý nghĩa của cuộc sống? Các cộng đoàn Kitô hữu sẽ bị phán xét sau này, về những "linh hồn" mà họ để cho mất đi, Đó là hoả ngục! Đó là điều Đức Giêsu sợ! Đó là điều chúng ta phải sợ!

Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em".

Một hình ảnh không thể nào quên được. Đối với Đức Giêsu, không gì thoát được sự chăm chút lạ lùng của Chúa Cha. Biến cố nhỏ nhất đã được Thiên Chúa muốn hoặc dự kiến. Ví dụ như một con chim rời khỏi tổ. Một hiện tượng vô nghĩa chăng? Không, Thiên Chúa chăm sóc mọi tạo vật của Người. Không có gì thoát khỏi Người. Những công thức triệt để này được đánh dấu bới tâm thất Sê-mít không nên làm cho chúng ta kết luận về một thứ thuyết định mệnh phải, quả thật không có gì thoát khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa dẫn đưa các sự vật theo bản chất của chúng: những con người tự do được Thiên Chúa hướng dẫn một cách tự do... Thiên Chúa chăm chút đến những hành động tự do của chúng ta: không một hành động nào thoát khỏi Người. Nhưng Người tôn trọng chúng... và có thể nói rằng, Người muốn chúng, khi chúng ta muốn chúng! Đó chính là trách nhiệm rất lớn của tự do con người.

“Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người chúng đếm cả rồii. Vậy anh em đừng sợ: anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ".

Thay vì làm chúng ta sợ, sự chăm chút của Thiên Chúa trên mỗi hành động của chúng ta phải làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui: tôi được yêu mến... yêu mến không chút xao nhãng... không một phút giây nào lơi lỏng. Đấng yêu tôi, biết tôi đến từng chi tiết nhỏ. Người biết tôi hơn cả tôi biết chính mình.

Sự cầu nguyện của tôi trong lúc này có thể có hình thức sau đây: tôi để cho Thiên Chúa nhìn tôi! Các bạn cố gắng nhận thức một cách cụ thể rằng sức mạnh sáng thế vĩ đại trong lúc này không bị vận hành của vũ trụ và lịch sử hoàn vũ làm cạn kiệt mà còn hoàn toàn lưu tâm đến "tôi": Dưới mắt Thiên Chúa, tôi "đáng giá" hơn tất cả chim chóc của thế gian! Và trên thế gian có nhiều tổ chim chóc? Cha Cardjin, người sáng lập J.O.C. (thanh lao công) đã nói: "Linh hồn của một công nhân trẻ còn đáng giá hơn tất cả vàng bạc của thế gian!".

Vậy thì, Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự xảy đến cho con? Chúa săn sóc trên mọi sự? Chúa yêu thương con? Quả thật, làm sao con có thể sợ? Điều gì xấu có thể đến với con, nếu con vẫn ở dưới ánh mắt của Chúa. Nhưng một cách chính xác, tất cả vấn đề là ở chỗ đó.

Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.

Phải vấn đề "linh hồn" vẫn luôn là điều chủ yếu. Một cách chính xác đây là sự tuyên xưng đức tin! Phải là một sự tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người... do đó không chỉ là, một. loại đức tin dưới tầng hầm mà không ai có thể xác nhận. Cũng không chỉ là tự nhủ mình là "tín hữu' khi nói ra điều đó, không gây mâu thuẫn cũng không gặp nguy hiểm nào... hoặc khi điều đó không đem lại sự cam kết nào..khi điều đó không thay đổi gì cho đời sống tôi. Vấn đề là “tuyên bố nhận Đức Giêsu”, trước một tòa án, trước một người nào đó không đồng ý, và đang cố làm cho các bạn nói điều ngược lại, trước một người nào đó sắp chế giễu các bạn, sắp hành hạ, tra khảo các bạn, hoặc gởi các bạn như một người điên đến bệnh viên tâm thần, như điều đã xảy ra trước đây ở Liên xô.

Có phải tôi tuyên bố nhận Đức Giêsu trước mặt thiên hạ không?

Có phải tôi thực hành đức tin của tôi? tôi trả giá nào cho điều đó? Tôi hy sinh điều gì? Có phải tôi phục vụ Thiên Chúa và Đức Kitô của Người? Hoặc có phải tôi chỉ dùng thời gian để phục vụ chính mình? Tôi làm gì cho Thiên Chúa?

Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.

Một lần nữa, chúng ta thừa nhận rằng chính chúng ta tạo nên sự phán xét của chúng ta ngay từ bây giờ. Đức Giêsu chỉ chia ly với những người đã chia ly với Người, chỉ chối những người đã bắt đầu chối Người trước kia. Chối Đức Giêsu. Tôi nghĩ đến sự chối Chúa của Thánh Phêrô... mà Đức Giêsu đã tha thứ một cách tài tình sau ba lần tuyên xưng đức tin và tình yêu mến của Thánh Phêrô: "Phêrô, anh có yêu Thầy không?". Vậy không có sự chối Chúa nào là không tránh được. Và chung cuộc, không một tội lỗi nào, dù nặng nề nhất mà không thể tha thứ được.

Một cách chính xác là với điều kiện phải "tuyên bố nhận Đức Giêsu" và tin một cách chắc chắn rằng Đức Giêsu cứu độ và tha thứ.

Tất cả sự nghiêm túc của tự do chúng ta nằm trong khả năng mà chúng ta dùng để nói: "Tôi tin vào Chúa"...đến độ sẵn sàng chịu đổ máu nếu cần. Chúng ta chớ quên điều đó.

Đến độ chịu đổ máu! Điều này hiếm khi có hình thức của sự tử đạo. Nhưng điều đó thường mang khuôn mặt của sự trung tín anh hùng của chúng ta, của những bổn phận hàng ngày, của những can đảm trước điều xảy đến, của những thử thách…

-----------------------------

 

TN 12-A109: Làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh


--Lm. Joshepus Quang Nguyễn

 

Bài sách tiên tri Giê-rê-mi-a hôm nay tuy vắn tắt nhưng gợi lên hình ảnh của một đời người nhiều TN 12-A109


Bài sách tiên tri Giê-rê-mi-a hôm nay tuy vắn tắt nhưng gợi lên hình ảnh của một đời người nhiều nước mắt. Vị ngôn sứ được chọn ngay từ trước khi thành hình trong lòng mẹ để đảm nhiệm một sứ vụ gay go bạc bẽo. Ông đã muốn chối nhưng không được. Ông phải ra đi tiên báo những hoạn nạn sẽ xảy tới. Ông bị xã hội bắt bớ, họ hàng tẩy chay, ông một thân một mình chịu bao đau khổ nhưng vì là tiên tri của những biến cố đó, tiên tri Giê-rê-mi-a đã phải sống trước nơi bản thân tất cả số phận cay đắng của dân bội bạc. Ông là vị ngôn sứ khổ sở, là hình ảnh của Ðấng sẽ đến gánh tội thiên hạ, là người được chọn để đi vào con đường hẹp. Ông là người đi trước chúng ta về phương diện đau khổ ở đời. Tuy nhiên có một điều làm ta hết sức khâm phục vị ngôn sứ, đó là trong mỗi hoàn cảnh khó khăn như vậy, bao giờ ngài cũng hướng về Thiên Chúa, cầu khẩn Người thương che chở giữ gìn. Đáp lại, Thiên Chúa an ủi nâng đỡ ngài và thêm sức mạnh để ngài tiếp tục thi hành sứ vụ.

Bí tích Rửa tội cho Ki-tô hữu được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ của Chúa Ki-tô, để làm chứng nhân cho Tin Mừng. Trong sứ vụ ấy, chắc chắn chúng ta phải chấp nhận những thiệt thòi bách hại vì chúng ta là môn đệ Chúa. Nhưng tình yêu của Chúa là khí giới để chúng ta đối phó với nghịch cảnh và được can đảm để tiếp tục sống những gì Chúa Ki-tô dạy ta. Kẻ thù của ngôn sứ Giê-rê-mi-a tưởng ngài khiếp sợ trước những tấn công dồn dập nhưng ngôn sứ lại vững như đồng bởi vì “Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng”. Thiên Chúa bênh đỡ vị ngôn sứ của Người là Giê-rê-mi-a thế nào thì Người cũng bênh đỡ chúng ta như vậy. Giê-rê-mi-a bị kẻ thù bách hại và được Thiên Chúa cứu thoát. Nhân loại bị tội lỗi làm cho phải chết và nhưng được Thiên Chúa cứu sống. Cho nên, trong bài đọc 2, Thánh Phao-lô Tông đồ nói: “Sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người”.

Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa lớn lao như vậy qua Chúa Giêsu Kitô. Cho nên, Chúa Giêsu khuyên “đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn”, vì chúng ta có Chúa là Đấng “có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Người sẽ bênh vực chúng ta vì chúng ta có một giá trị độc đáo đối với Người. Đến như những sinh vật nhỏ bé không giá trị như chim sẻ mà Chúa còn lo lắng cho chúng, thì đời nào Người lại bỏ rơi linh hồn chúng ta trong khi chúng ta có giá trị hơn chim sẻ trăm ngàn lần. Chẳng lẽ Chúa chăm sóc từng sợi tóc của chúng ta mà lại để kẻ thù cướp mất linh hồn ta. Chính Chúa Giê-su đã sống điều Người dạy. Người không sợ rao giảng Tin Mừng. Người không sợ nói lên những sai lầm của nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư. Người không sợ những người có thể giết Người bằng cách lên án bất công và đóng đinh Người vào thập giá. Người chỉ kính sợ duy một mình Thiên Chúa Cha, Đấng có quyền trên sự sống xác hồn và cho Người được sống lại từ cõi chết.

Hôm nay, Chúa Giêsu ba lần trấn an các môn đệ đừng sợ: 1) Đừng sợ rao giảng lời chân lý vì Tin Mừng cần được công bố cho tất cả mọi người ở mọi nơi mọi thời; 2) Đừng sợ bị bách hại, đe dọa khi thi hành sứ vụ, vì tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa luôn ở cùng người được sai đi; và 3) Đừng sợ khi tuyên xưng Danh Thầy, vì lòng tín nghĩa sẽ được đền đáp. Tựa như Giê-rê- mi-a, vị ngôn sứ không hề nao núng trước những tai họa và bất công, chúng ta cũng được mời gọi đừng sợ sống làm chứng cho Chúa trong hoàn cảnh hiện tại. Hôm nay cũng thế, tội ác và tội lỗi tràn ngập thế gian, nhưng chúng ta có Chúa Giêsu, Đấng đã đến để tái tạo ân sủng và nói cho ta biết: Thiên Chúa không bỏ ta mồ côi, nhưng đồng hành với chúng ta, mời gọi chúng ta tín thác nơi lòng từ bi và ân nghĩa của Ngài.

Bản chất con người thường sợ nguy hiểm, cho nên nhiều lúc không dám lộ ra căn tính đích thực là Kitô hữu. Chúng ta là Ki-tô hữu, là môn đệ Chúa Ki-tô, muốn làm chứng nhân của Chúa, chúng ta cần xác tín rằng bên ta luôn có Thiên Chúa hiện diện để bênh vực ta và giúp đỡ ta thi hành sứ mệnh chứng nhân. Noi gương Chúa Giê-su đã làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, ta cũng can đảm làm chứng cho những giá trị Tin Mừng bằng cách sống chính những giá trị ấy qua tư tưởng, lời nói cũng như hành động của ta trong cuộc sống thường ngày. Cụ thể, nếu sinh ra đời hay mỗi mai thức dậy sáng nay, chúng ta được thân hình lành lặn, khỏe mạnh, bình an, được sống tự do, không phải mang bệnh tật nào hay nằm trong phòng cấp cứu, thì chúng ta cần phải cảm tạ ơn Chúa đồng thời đừng sợ làm chứng tình yêu của Ngài qua việc phụng thờ Ngài và loan truyền quyền năng của Ngài. Hay nếu chúng ta sinh ra có cha có mẹ và ba mẹ của chúng ta vẫn còn sống, thì chúng ta còn may mắn hơn những người khác vì họ vẫn còn sống chung với chúng ta, vẫn thương yêu, săn sóc chúng ta. Như thế, chúng ta phải cảm tạ Chúa và làm chứng cho Chúa bằng việc phải thương yêu, chăm sóc các ngài tinh thần cũng như vật chất nhất là vâng lời các ngài. Nếu chúng ta chưa từng cảm nhận sự nguy hiểm ngồi mặt trận, sự cô đơn trong nhà tù, sự đau đớn khi bị tra tấn, cảnh nhục nhã, trốn tránh, sự đói ăn khát uống, cảnh sống lang thang vô gia cư… thì chúng ta cảm tạ Chúa vì chúng ta hạnh phúc hơn mấy trăm triệu người trên thế giới, đồng thời phải làm chứng cho Chúa bằng việc cầu nguyện, giúp đỡ, ủi an và chia sẻ vật chất cho họ. Và nếu bây giờ chúng ta đang gặp đau khổ về tinh thần cũng như vật chất, chúng ta đừng sợ “nghịch cảnh” ấy, vì đó là một hiện tượng rất gần gũi với con người trực tiếp hoặc gián tiếp dù người đó giàu, nghèo, chức quyền, thường dân, giáo sĩ hay giáo dân, bác sĩ hay bệnh nhân... Nhưng điều quan trọng là làm thế nào, dù đâu khổ chúng ta không sợ. Nói rằng đau khổ làm sao mà không buồn, không khổ, không sợ sao được? Tôi đã từng thắc mắc như nhưng sau khi gặp đau khổ, tôi nghiệm ra rằng lúc mình gặp nghịch cảnh là cơ hội để nghiệm thấy quyền năng của Chúa, cần tin tưởng phó thác vào Chúa và Chúa sẽ ban cho ta giàu nghị lực, ý chí để vươn lên trong mọi nghịch cảnh. Vì chưng, Chúa nói: "ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”. “Lửa thử vàng, gian nan thử đức tin”. Trong hành trình sống đạo, hẳn không thiếu những nghịch cảnh. Tuy nhiên, khi đối diện với chúng, mỗi người chúng ta hãy kiên trì và trung thành với ơn gọi mà mình đã khám phá và cảm nghiệm được quyền năng của Chúa. Mỗi khi khó khăn thử thách đến với chúng ta, đừng sợ nhưng hãy trung thành đến cùng. Xin hãy nhớ rằng những điều tốt đẹp ngày hơm nay là kết quả của những thử thách ngày hôm qua. Vì thế, Đức Hồng Y Phanxicơ Xavie Nguyễn Văn Thuận của chúng ta: " ‘Khổ’. Đúng vậy. Thương khó, bỏ dễ. Khó mới quí, bỏ là quỉ” (ĐHV, số 60).

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa cho chúng ta biết làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời nhờ thế đức tin của Chúa ta mỗi ngày một vững mạnh và sắt son. Vì thế, đừng sợ trước những nghịch cảnh của cuộc đời, chúng ta hãy vui lòng vác Thánh giá theo chân Chúa. « Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin chúng ta đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Vì vậy, chúng ta được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người » (1Pr 1,7-9). Amen.

-----------------------------

 

TN 12-A110: HÃY VỮNG TIN


Tuần 12 TN-A: Mt 10, 26-33

Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

 

Theo quy luật tự nhiên, tất cả những ai biết nói là nhờ biết nghe, những ai sống đúng sống đẹp TN 12-A110


Theo quy luật tự nhiên, tất cả những ai biết nói là nhờ biết nghe, những ai sống đúng sống đẹp, là nhờ được chăm sóc, đầu tư, là nhờ hiểu được giá trị thật của tình yêu. Khi có thực, có lực, có tâm có đức, không ai có thể cản trở bạn tiến tới đích thành công, không thế lực nào khiến bạn phải chùn bước tiến, dù từng phút từng giây bạn đang phải chiến đấu. Câu nói vu vơ: làm sao tôi biết bạn ngứa chỗ nào mà gãi ? Nghe có vẻ hợp lý, thực ra: tình yêu thương, nghĩa cử bác ái, phải xuất phát từ trái tim nhạy cảm trước sự tự do, hoàn toàn không phải là thụ động, không phải là con khóc mới “cho bú”, ai cầu cứu van xin, mới bố thí ! Đồng ý rằng: kẻ có tiền, cũng có quyền, trai tài giỏi, có quyền sánh duyên cùng phụ nữ xinh đẹp, nồi nào úp vung nấy; nhưng trên hết, mọi người đều bình đẳng trước phẩm giá cao quý của mình.

Tại hành trình trần thế, muôn vàn thách đố, Đức Giêsu gián tiếp nói: hãy làm gì để có sự tự tin, làm gì để quên “cái sợ”, các môn đệ và chúng ta hẳn đã nghe, đã được đánh động, mỗi người sẽ sống niềm tín thác đó thế nào ? Đức Giêsu cũng cho thấy sứ vụ người môn đệ, trọng trách người kitô hữu: “nghe nơi bóng tối, phải nói ra ánh sáng, nghe rỉ tai phải nói công khai cho mọi người”. Sống có trách nhiệm, sống có tình có lý, sống để không thẹn với trời đất: tốt danh hơn lành áo, con người tự nhiên phải nghiêm túc với bản thân, sống chuẩn mực để không mất danh thơm tiếng tốt. Lời Chúa, ơn Chúa, tình yêu của Chúa, bao giờ cũng đẹp, do đó kẻ nhận lãnh, phải chia sẻ, phải sống niềm tin. “Các con đừng sợ”, vẫn mãi là lời trấn an cần thiết trong đời sống người theo Chúa, dù là tội nhân, dù là đang lầm đường sai lối.

Hãy vững tin, “các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Khi lưu ý đừng sợ những thế lực trần gian, Đức Giêsu còn khích lệ hãy vững tin vào tình yêu và quyền năng của Đấng thấu biết vạn vật: chim trời, hoa huệ ngoài đồng, sợi tóc trên đầu. Thiên Chúa biết sự giới hạn, biết cả những nhu cầu của từng người: dù niềm tin của ta còn yếu kém, tình yêu của ta còn nhỏ hẹp, ích kỷ, tâm hồn của ta chưa đủ quảng đại, Đức Giêsu vẫn hiện diện đồng hành giúp ta. Xã hội cho rằng: thứ đắt giá hơn vàng hay kim cương chính là niềm tin, vì những thứ khác, tiền có thể mua được, còn niềm tin thì không ! Hãy vững tin: giầu nghèo, ốm đau khoẻ mạnh, khôn hay khờ, đều có cơ hội để minh chứng niềm tin vào Đấng ta tin thờ, con người được nên công chính là vì tin, chứ không phải vì làm những điều luật dạy (Rm 3, 28).

Hãy vững tin, đời người được đo bằng tư tưởng và hành động chứ không phải bằng thời gian, vì thế: một người có niềm tin, bằng 99 người không có hứng thú với hoàn cảnh sống của mình. Hãy vững tin, “tóc trên đầu các con cũng được đếm cả rồi, các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần”. Có ơn ban của Chúa, có tình yêu và sức mạnh của Chúa, ta sẽ thấy sự biến đổi kỳ diệu, hầu biết mở miệng tuyên xưng niềm tin vào Chúa cách trọn vẹn hơn. Dấu chứng tình yêu của người môn đệ, của người kitô hữu không phải chỉ là nghe, mà còn là hiểu, là sống giáo huấn của Đấng là Thầy là Chúa bằng hành động cụ thể nhất. Tình yêu khởi đầu bằng niềm tin, trưởng thành và vững chắc hơn cũng từ niềm tin, cho dẫu tự do hành động mỗi người mỗi khác.

Người ta có kể hai chú mèo được chủ thương, lúc nào cũng quấn quýt, meo meo, bên chủ, ấy vậy chúng vẫn cảm thấy còn thiếu thiếu cái gì đó ! Dù nhàn rỗi, và được chủ thương, hai chú mèo cũng chưa thấy hạnh phúc ! Rồi một hôm, hai chú mèo tâm sự và có ý tìm cách cải thiện nhằm giúp cuộc sống có ý nghĩa hơn. Rồi chúng đã biết nói chuyện và đùa giỡn với mấy bạn chó. Hai chú mèo đã nghiệm ra tất cả đều đáng thương, dù là chó, là mèo, chúng đều có sứ mạng riêng với chủ. Chó trông coi nhà, mèo thì xua đuổi đám chuột. Cuộc đời thật đáng yêu, đừng để chuỗi ngày buồn tẻ, khiến bạn cảm thấy bi quan về một cuộc sống tồi tệ. Điều quan trọng là hướng ta đi tới đích thành công, chứ không phải vị trí ta đang đứng.

Biết người biết ta muôn đời không khổ, biết mỗi chúng ta đều đáng thương hơn đáng trách, bổn phận mỗi người là giúp nhau sống tốt sứ vụ của mình hơn là ngồi đó ganh tỵ. Hãy vững tin, Chúa là tình yêu, là Đấng giầu lòng xót thương, khi cuộc đời ta là tháng tháng ngày ngày có sự mật thiết nên một tình yêu. Hãy vững tin, như đứa trẻ được bao bọc bởi tình yêu của cha mẹ, nhờ đó được lớn khôn, được trưởng thành, được có cơ hội phát huy tình yêu mến. Người kitô hữu được bao bọc bởi tình yêu thương của Chúa, hiệp nhất nơi giáo hội, tất cả chỉ sống động khi niềm tin được minh chứng. Hãy vững tin, mỗi ngày qua đi dù ta chưa đạt tới đỉnh cao của thành công, thì ít ra ta cũng đã gần hơn vị trí của ngày hôm trước. Xin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, tiếp tục hiện diện yêu thương, dẫn dắt con đi trong đường lối của Chúa. Amen.

-----------------------------

 

TN 12-A111: MUÔN NGÀN NỖI SỢ HÃI


 Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Nói về sợ, chúng ta có muôn vàn nỗi sợ: sợ bệnh tật, sợ già nua, sợ chết chóc. Sợ tai họa, sợ TN 12-A111


Nói về sợ, chúng ta có muôn vàn nỗi sợ: sợ bệnh tật, sợ già nua, sợ chết chóc. Sợ tai họa, sợ chiến tranh, sợ nghèo đói.  Sợ bóng tối, sợ khổ đau, sợ ngu dốt v.v…  Danh sách các nỗi sợ của chúng ta còn rất dài, nhưng xem xét kỹ đa số đều là sản phẩm của trí tưởng tượng, nó không có thật, nó chưa xảy ra, và rất nhiều khi chẳng bao giờ xảy ra.  Có lẽ Chúa Giêsu cũng thấy trước các nỗi sợ sẽ ám ảnh các tông đồ nên Ngài đã lập đi lập lại điệp từ “anh em đừng sợ”.

“Anh em đừng sợ” phải làm chứng cho sự thật. Sự thật cần phải được tỏ lộ. Tin mừng cần phải được công bố. Không lên tiếng cho sự thật là đồng lõa với gian dối xảo quyệt. Không làm chứng cho tin mừng là thỏa hiệp với thế gian và ma quỷ.

“Anh em đừng sợ” thế gian, vì nó chỉ giết được thân xác chứ đâu giết được linh hồn. Có chăng là anh em hãy sợ Đấng có thể hủy diệt cả hồn và xác trong hỏa ngục.

“Anh em đừng sợ” mà hãy sống lạc quan trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài sẽ gìn giữ và canh chừng chúng ta khỏi mọi sự dữ đang rình rập chung quanh cuộc đời chúng ta. Vì ngay cả đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.  Vậy anh em đừng sợ, anh em còn qúy giá hơn muôn vàn chim sẻ ngòai đồng” (Mt10,30-31)

Như vậy, nếu chúng ta vẫn còn sợ nghĩa là đức tin chúng ta còn yếu kém. Chúng ta còn sợ nghĩa là chúng ta chưa tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể làm ra mọi sự thì Ngài cũng có đủ sự khôn ngoan, sức mạnh để hướng dẫn mọi sự theo ý của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy mạnh dạn phó thác đường đời cho Chúa. Chính Người sẽ hướng dẫn và bảo vệ cuộc đời chúng ta trong tình yêu quan phòng của Ngài.

Có một anh sĩ quan trẻ. Một hôm anh đi du lịch bằng đường thủy với vợ con. Tàu rời bến được vài ngày thì gặp bão. Mọi người rất sợ, còn anh thì bình thản như chẳng có gì xảy ra. Vợ anh trách là anh không quan tâm gì đến an nguy của vợ con. Anh không nói nhiều, vào phòng rồi quay trở ra với một thanh kiếm trong tay. Anh dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu cô vợ tái mặt, nhưng liền sau đó bỗng cười lớn tiếng không tỏ gì là sợ hãi nữa.

– Viên sĩ quan nói: Làm sao em có thể cười khi anh dí mũi kiếm vào ngực em?

– Bà vợ đáp: Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm ấy ở trong tay một người rất thương mến em!

– Anh chồng đáp: Vậy tại sao em lại muốn anh sợ cơn bão này, khi anh biết rằng nó ở trong tay của cha anh là người hằng yêu mến anh?

Cuộc đời luôn có những hiểm nguy, những khó khăn khiến chúng ta luôn lo sợ, bất an. Nhưng tin tưởng vào sự quan phòng đầy tình thương của Thiên Chúa, chúng ta hãy tin rằng ngài sẽ dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của cuộc đời, Ngài sẽ bồng ẵm chúng ta qua những hiểm nguy. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ làm những việc tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta. Vì mạng sống chúng ta thật quý giá hơn so với vạn vật mà Ngài đã tạo dựng nên.

Vậy, Nếu chúng ta tin rằng Chúa luôn yêu thương chúng ta. Hãy gạt ra ngoài mọi nỗi sợ hãi. Hãy can đảm sống cho Chúa. Sống làm chứng cho Chúa và luôn tin tưởng phó thác cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Và cũng trong đức tin đó, chúng ta sẽ vượt thắng được mọi nghi nan, sợ hãi và để tâm hồn mình luôn bình an, hạnh phúc trước mọi gian nguy.

Lậy Chúa, Chúa đã chăm sóc từng con chim trên trời và đếm từng sợi tóc trên đầu chúng con. Xin gìn giữ, chở che cuộc đời chúng con trong bàn tay quan phòng của Chúa luôn mãi. Amen.

-----------------------------

 

TN 12-A112: CỨ NÓI ĐI, ĐỪNG SỢ!


Bông Hồng Nhỏ

 

Mẹ ơi! Con không đi học đâu. – Sao vậy con yêu? Con sợ cô giáo phạt. Từ thuở bé, chúng ta đã TN 12-A112


– Mẹ ơi! Con không đi học đâu.

– Sao vậy con yêu? Con sợ cô giáo phạt.

Từ thuở bé, chúng ta đã có những nõi sợ. Nỗi sợ hãi khiến cho chúng ta không dám làm điều  này, điều kia. Lớn lên, chúng ta có nhiều cái để sợ hơn.

Hôm nay, Đức Giêsu  quả quyết với các môn đệ: “Anh em đừng sợ người ta”(Mt 10, 26). Theo Thầy, chắc hẳn người môn đệ không tránh khỏi sự bách hại của những kẻ chống đối Thầy. Thầy là ánh sáng thế gian nhưng thế gian lại chuộng bóng tối hơn ánh sáng. Điều Thầy đã dạy cho các môn đệ phải chăng là một bí mật cần được giấu kín? Điều Thầy đã dạy, người môn đệ cần phải rao giảng cho mọi người được biết. Thầy dạy mọi điều trong cuộc sống, là yêu thương, tha thứ,… Đi trong ánh sáng, người môn đệ công khai sống và làm chứng cho Thầy: “Điều Thầy nói cho anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều an hem nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”(Mt 10, 27). Thế nhưng để sống và làm chứng cho Thầy không phải là điều dễ dàng. Tại sao vậy?

Theo Thầy là để được nên giống như Thầy, đống hình đồng dạng với Thầy. Vì, “trò không hơn Thầy” (Mt 10, 24). Thầy Giêsu hiểu rõ nỗi sợ của các môn đệ. Sợ bị bách hại, sợ bị đổ máu. Ngay lúc này, các ông theo Thầy Giêsu  đó, đầy nhiệt huyết và yêu mến thế nhưng các ông vẫn mang trong mình con người thế gian. Các ông vẫn ham danh vọng, kỳ vọng về một tương lai xán lạn, một ngày Thầy sẽ giải phóng dân tộc. Ngày ấy, các ông sẽ được vinh danh. Thầy khẳng khái tuyên bố: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được  linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hòn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10, 28).Thế gian có thể bách hại người môn đệ nhưng không thể lấy đi sự sống đời đời mà thiên Chúa hứa ban. Chỉ có một điều cần phải sợ. Hãy sợ điều này: làm cho Chúa buồn. Đối với Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là những người con. Đến cả chim trời, Thiên Chúa còn yêu thương thì chúng ta là con cái trong nhà thì Thiên Chúa mãi là Cha yêu thương. Vậy nên đừng sợ gì cả. Thiên Chúa sẽ dẫn ta đi và Thánh Thần sẽ dạy ta phải nói gì, làm gì. Lời Thầy vẫn mời gọi mỗi chúng ta mỗi ngày. Để sống và rao giảng lời Chúa, chúng ta cần Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

Lạy Chúa! Xin cho chúng con can đảm sống lời Chúa. Chúa không thua lòng quảng đại của chúng con. Xin cho con biết quảng đại hơn với Chúa và tha nhân.

-----------------------------

 

TN 12-A113: KHÔNG CÒN SỢ HÃI VÌ CÓ CHÚA CHỞ CHE


Lm. Inhaxiô Trần Ngà

 

Có người mù nọ dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ bắc ngang con sông nhỏ. Khi qua được nửa cầu TN 12-A113


Có người mù nọ dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ bắc ngang con sông nhỏ. Khi qua được nửa cầu, bất thần anh bị trượt chân và rơi xuống. May thay, anh vớ được cây tre bắc cầu. Thế là anh nắm chặt cây tre đó bằng cả hai tay và toàn thân anh được treo lơ lửng mà không rơi xuống nước, nhờ níu vào cây tre này.. Anh cố rướn mình đu người lên nhưng không đủ sức, vì hai cánh tay gầy guộc không kham nổi sức nặng của toàn thân.

Anh kinh hoàng tột độ! Sợ rằng lát nữa đây, khi đôi tay không còn sức níu, toàn thân anh sẽ rơi bõm xuống và dòng nước ác nghiệt sẽ kết liễu đời anh.  

Đang khi còn treo mình lơ lửng như thế, anh hình dung ra biết bao nhiêu điều khủng khiếp sẽ xảy đến với mình trong chừng mươi phút nữa. Có thể anh sẽ rơi xuống ngay trên những mỏm đá lởm chởm giữa dòng sông và phải tan xương nát thịt. Rồi sau đó, thân xác anh sẽ bị cuốn theo dòng nước hung tợn và sẽ làm mồi cho tôm cá… Anh toát mồ hôi lạnh. Anh gào anh khóc thảm thiết, gào thật to để may ra có người nghe thấy và đến cứu mình.

Một số người đi qua thấy vậy bảo rằng: “Đừng sợ! Ta đang ở trong mùa khô và nước sông chỉ cao chừng nửa mét. Buông tay ra đi! Không hề hấn gì đâu! Chân anh chỉ cách mặt nước có một thước thôi mà.”

Nhưng anh không tin. Làm sao tin được người lạ! Biết đâu người ta lừa dối anh. Anh vẫn tiếp tục kêu gào, tiếp tục van xin người qua kẻ lại kéo anh lên.

Cuối cùng, kiệt sức, anh buông mình xuống trong tuyệt vọng.

Quá bất ngờ, anh rơi xuống dòng nước hiền hoà chỉ dâng cao ngang đầu gối, thấp hơn cây tre bắc cầu chừng 3 mét thôi! Anh cười lên khanh khách như một gã điên khùng! Cười sung sướng vì tưởng phải chết mà vẫn còn được sống và nhất là cười cho sự khờ khạo, ngu xuẩn của mình. 

Như người mù trên đây, cuộc đời chúng ta bị bao trùm bởi vô vàn nỗi sợ do chính mình tạo nên. 

Có người đang khoẻ thì sợ những chứng bệnh nan y có thể xảy đến trong nay mai; người đang có việc làm hẳn hoi thì sợ có ngày mất việc và túng thiếu; người đang còn trẻ thì sợ khi già yếu không ai phụng dưỡng chăm sóc; người đang yên ổn sống trong tiện nghi thì sợ mai đây khi thất cơ lỡ vận, không còn được thoải mái như hiện giờ…

Thế là con người tự tạo ra vô vàn nỗi sợ rồi để cho chúng đe doạ và khủng bố đời mình.

Chính vì nỗi sợ gây nên nhiều bất hạnh cho con người như thế, nên qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su ba lần nhắn nhủ chúng ta đừng sợ vì có Chúa chăm sóc giữ gìn; nếu chúng ta có ngã, có rơi thì cũng chỉ ngã, chỉ rơi vào trong bàn tay êm ái của Ngài.

“Anh em đừng sợ người đời…” (Mat-thêu 10, 26)

“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn (Mat-thêu 10, 28).

“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Ngài cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10, 29-31).

Thế nhưng, như người mù ngu xuẩn kia không tin vào những lời trấn an của những người qua lại, chúng ta cũng không hoàn toàn tin vào lời Chúa, chúng ta vẫn cứ sợ, cứ lo và cứ để cho bao nỗi sợ đe doạ, khủng bố chúng ta suốt đời.

Lạy Thiên Chúa từ nhân,

Xin cho chúng con tin rằng Chúa là Đấng quyền năng và là Cha giàu lòng thương xót, hằng che chở gìn giữ và giúp chúng con vượt qua tất cả phong ba bão táp trên đường đời.

Xin cho con vững tin rằng dù chúng con có vấp ngã và rơi xuống, thì luôn có bàn tay Chúa đỡ lấy chúng con. Và mai đây, khi phải từ giã đời nầy, chúng con sẽ không phải rơi vào cõi hư vô tăm tối nhưng là rơi vào lòng bàn tay nhân ái của Chúa mà thôi.

-----------------------------

 

TN 12-A114: ĐỪNG SỢ


Lm. Trần Việt Hùng

 

Các con đừng sợ người đời, Hại thân hại xác, hại người trần gian. Linh hồn cao trọng trên ban TN 12-A114


Các con đừng sợ người đời,
Hại thân hại xác, hại người trần gian.
Linh hồn cao trọng trên ban,
Không ai giết chết, phá tan được hồn.
Những điều kín nhiệm giả ngôn,
Bày ra ánh sáng, nên khôn giữa đời.
Rỉ tai nghe biết tạm thời,
Mái nhà rao giảng, rạng ngời công khai.
Các con hãy sợ Thiên Sai,
Ném hồn lẫn xác, khỏi ngai Vua Trời.
Con người quí trọng trong đời,
Hồn mang ảnh Chúa, cao vời biết bao.
Sánh xem chim sẻ thế nào?
Chúa thương chăm sóc, với bao ân tình.
Trên đầu số tóc đẹp xinh,
Tháng ngày Tạo Hóa, anh minh an bài.
Lo gì hãi sợ ngày mai,
Quan phòng cuộc sống, tương lai mong chờ.
Cuộc đời đáng giá vô bờ,
Quê trời hưởng phúc, phụng thờ Chúa ta.

Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác nhưng không thể giết được linh hồn.” Chúa khuyến khích những kẻ tin là đừng sợ. Chúa biết rõ các môn đệ của Chúa sẽ phải đối diện với những đối xử khắc nghiệt của thế gian. Họ sẽ phải chấp nhận thiệt thòi, mất mát, chịu nhạo báng chê cười và sau cùng sẽ bị giết vì danh Chúa. Hầu hết các tông đồ và những người kế vị các ngài trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội đã dùng mạng sống để minh chứng cho niềm tin.

Ngay từ khởi đầu, khi Giáo Hội còn non yếu, đã bị tẩy chay và bị bách hại. Tại Roma, cái nôi của Giáo Hội, gần 300 năm nhà cầm quyền cấm đạo. Biết bao cuộc ruồng bắt các tín hữu, giam cầm, đánh đập, bị thú dữ ăn thịt, bị thiêu sống, bị bỏ đói và bị đóng đinh thập giá. Không thiếu những hình phạt ghê rợn nào mà các Kitô hữu không phải chịu. Họ là các anh hùng của đức tin. Các anh hùng tử đạo đã trải qua biết bao gian khổ để lãnh triều thiên vinh quang. Họ đã can đảm đứng trước sự chết. Các Ngài sống rất kiên cường và không sợ hãi.

Trong số những vị anh hùng dám chết vì Đạo, trong đó có những vị Giáo Hoàng, Giám mục, Linh mục, thầy Sáu, giáo dân, có những thiếu nữ trẻ như thánh Cecilia, thánh Agnes…Các ngài xứng đáng lãnh triều thiên tử đạo, vì các ngài hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa Kitô sống lại. Cái chết chỉ còn là phương tiện để đưa các ngài vào hưởng hạnh phúc trường sinh.

Nhìn lại cuộc sống đạo của chúng ta, chúng ta cảm thấy hổ thẹn trước những chứng nhân anh hùng. Chúng ta còn lo lắng xôn sao qúa nhiều thứ trong đời. Chúng ta lo phụng dưỡng cho thân xác và cuộc sống hưởng thụ. Chúng ta lo sợ nhiều thứ. Sợ bị đau yếu, sợ bị đói khát, sợ bị người ta khinh bỉ, sợ người dèm pha, sợ đau khổ và sợ chết. Trong trái tim ta còn nhiều nỗi sợ, vì chúng ta bám víu vào những giá trị vật chất mau qua chóng hết.

Truyện kể về trái tim con chuột. Có một chú chuột kia rất sợ mèo. Một vị Thần tội nghiệp nó, nên biến nó thành con mèo. Thành mèo rồi, nó lại sợ con chó. Vị Thần biến nó thành con chó. Thành con chó rồi, nó lại sợ cọp. Vị Thần yêu thương cho nó biến thành con cọp. Nhưng thành cọp, nó lại sợ người thợ săn. Vị Thần đành chào thua. Thần nói rằng: Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa, thì cũng không giúp được mi hết sợ. Vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột.

Mang thân phận con người, hầu như ai cũng thường đương đầu với sự sợ hãi. Chúa dậy chúng ta đừng sợ chi cả, vì chúng ta có Cha trên trời quan phòng mọi sự. Chúng ta đáng giá hơn chim sẻ bội phần. Đừng sợ, chúng ta hãy phó thác cuộc đời trong vòng tay nhân ái của Chúa. 

-----------------------------

 

TN 12-A115: TRÁCH NHIỆM


Lm Vũđình Tường

 

Trách nhiệm và quyền lợi thường sát cánh bên nhau. Có đôi khi trách nhiệm đơn côi, lẻ bóng TN 12-A115


Trách nhiệm và quyền lợi thường sát cánh bên nhau. Có đôi khi trách nhiệm đơn côi, lẻ bóng hoặc quyền lợi âm thầm đến sau. Mỗi cá nhân có trách nhiệm với luật pháp nơi họ cư trú. Họ còn trách nhiệm với giới luật yêu thương của Thiên Chúa. Dù họ tin có Thiên Chúa hay chối bỏ không tin Thiên Chúa hiện hữu họ cũng không thể chối bỏ luật yêu thương của Thiên Chúa bởi Thiên Chúa gieo cấy luật yêu thương vào trong tim con người. Luật xã hội dù do những khối óc thông minh kết hợp lại làm ra nhưng vẫn có chỗ sơ hở cho người khác lợi dụng và luật xã hội thường phức tạp, khó hiểu, có nhiều cách giải thích, nên cần có luật sư chuyên ngành giải thích. Giới luật yêu thương của Thiên Chúa không có kẽ hở và cũng không cần luật gia chuyên môn giải thích. Luật yêu thương rất đơn giản, rõ ràng, mạch lạc. Luật đó tóm gọn lại như sau: Đừng làm cho người ta những gì mình không muốn xảy ra cho mình. Đơn giản hơn nữa là: yêu người như yêu ta. Luật xã hội có cảnh sát canh chừng, bắt phạt những người phạm luật. Thiên Chúa luôn đối xử với ta như người trưởng thành và có trách nhiệm nên luật yêu thương không làm điều đó. Điều này không có nghĩa làm ngơ cho kẻ lạm dụng luật yêu thương. Thiên Chúa nhân từ ban cho họ một thời gian để họ thống hối, ăn năn. Khi thời hạn đã mãn mà không ăn năn, hối cải họ sẽ phải trả sự công bằng với Thiên Chúa. Thời gian tại thế lương tâm họ luôn nhắc nhở họ thống hối, ăn năn trở về con đuờng công chính để được thứ tha. Nếu họ cố tình dối gạt lương tâm, lớn tiếng biện minh bằng cách này, cách nọ lấn át tiếng lương tâm, họ chắc chắn sẽ không tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trong ngày sau hết. Người đời lầm tưởng họ tránh khỏi án phạt. Đúng thế họ có thể tránh khỏi án phạt xã hội nhưng không thể tránh khỏi án phạt của Thiên Chúa. Trong nước Thiên Chúa trắng đen rõ ràng, mạch lạc, không có tình trạng mập mờ. Đức Kitô đưa ra lời cảnh cáo chung như sau

Không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết Mt 10,26.

Điều này xác định tất cả đều được phơi bày ra ánh sáng công chính của Thiên Chúa. Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu đừng sợ sống và thực hành giới luật yêu thương. Không có gì để sợ bởi tình yêu mạnh hơn tất cả phán đoán, phê bình, chỉ trích của con người. Kitô hữu ngại nói với thân hữu về tình yêu Chúa. Kitô hữu chán nản khi người ta làm ngơ về tình yêu Chúa. Kitô hữu cảm thấy bất an khi thân hữu phê bình mình là đạo đức giả. Sống trong tin yêu của thời đại này duờng như là một mình, cô đơn chèo ngược nước, trái với trào lưu xã hội hiện thời. Chèo ngược nước sớm mỏi mệt, vất vả và dễ chùn tay mỏi cánh buông xuôi. Truyền thống Chúa Nhật dành riêng cho Chúa bị các sinh hoạt xã hội từ từ lấn át. Hầu như ngày nay Chúa Nhật trở thành bận rộn hơn cho nhiều gia đình vì mọi thứ đều dồn vào cuối tuần. Các ngày trong tuần có chương trình rõ ràng, mạch lạc trong khi Chúa Nhật là ngày mọi sự đều đến bất ngờ mà không nỡ chối bỏ. Bạn bè thăm viếng bất thình lình, các môn thi thể thao đều dồn vào cuối tuần, các buổi gây quĩ cho trường, gây quĩ xã hội cũng dành vào cuối tuần và ngay cả các sinh hoạt cộng đồng xã hội cũng dành vào cuối tuần nên cuối tuần trở thành đầy ắp các sinh hoạt, cái nào cũng quan trọng nên việc tham dự thánh lễ cuối tuần, nay viện lí do này không đi, mai vì bận rộn khác không thể và dần dà thói quen bỏ lễ Chúa Nhật trở thành tập quán xấu mà không cảm thấy hối hận vì bỏ lễ.

Đức Kitô khuyên chúng ta cần tìm giờ, tìm cơ hội để nói về tình yêu Chúa cho tha nhân. Cần nói cho thân hữu biết về tình yêu Chúa về sự hiến thân làm của lễ cứu độ linh hồn ta, về sự chết và Phục Sinh vinh hiển của Đức Kitô. Nếu chúng ta không nhận biết Đức Kitô và nói về Ngài đến khi hiện diện trước Chúa Cha, Đức Kitô cũng không có gì nhiều để giới thiệu với Chúa Cha về người đó. Vì thế nói về tình yêu Chúa cho tha nhân không phải mang lợi ích cho Đức Kitô mà là cho chính ta. Tuyên xưng Đức Kitô trước mặt thiên hạ, thành quả cuối đời là được Đức Kitô nhận diện và giới thiệu cùng Chúa Cha. Nhận biết Thiên Chúa thì có ích cho chính ta và cho tha nhân.

-----------------------------

 

TN 12-A116: HÃY NÓI GIỮA BAN NGÀY


JM. Lam Thy

 

Trong bài giảng lễ ngày đăng quang (16/10/1978), Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nói một TN 12-A116


Trong bài giảng lễ ngày đăng quang (16/10/1978), Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nói một câu bất hủ: “Đừng sợ, hãy mở cửa lòng đón Đức Ki-tô“. Lời của Thánh nhân gợi nhớ lại Lời dậy của Đức Ki-tô cách nay 21 thế kỷ: ”Vậy anh em đừng sợ người ta… Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10, 26.28). Đó là câu trong trích đoạn bài Tin Mừng hôm nay (CN XII.TN-A – Mt 10, 26-33).

Lời dậy của Đức Ki-tô về vấn đề sợ hãi đối với con người nói chung, và cách riêng đối với các môn đệ. Sợ hãi là điều làm con người nhụt chí không dám làm gì cả. Sống trên thế gian, con người gặp đủ mọi chuyện: nào thiên tai, chiến tranh, đói kém, giặc giã, khủng bố ở khắp mọi nơi. Sự hăm dọa cướp tài sản, bắt bớ làm con tin, dọa tù đầy làm biết bao người sợ hãi. Sợ hãi có thể làm tê liệt cuộc sống, hành động, suy nghĩ của con người. Tất cả những sự sợ hãi ấy đều có thể làm cho con người quên cả Thiên Chúa là Đấng quan phòng mọi sự, đang cầm quyền sinh tử của con người. Có lẽ cũng nghĩ đến vấn đề sợ hãi của Giáo dân trước ba thù, nên trong bài giảng lễ ngày đăng quang (16/10/1978), Thánh Gio-an Phao-lô II đã nói một câu bất hủ: “Đừng sợ, hãy mở cửa lòng đón Đức Ki-tô“.

Người tín hữu khi được làm chứng nhân cho Chúa sẽ xảy ra cảnh “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10, 21-22) và vì thế, con người sinh ra sợ hãi, không dám công khai nhận mình là môn đệ của Chúa trước cộng đoàn. Con người sống trên đời ai mà chẳng “tham sinh uý tử” (tham sống sợ chết). Biết rõ tâm trạng con người là như vậy (các môn đệ của Chúa cũng không ngoại lệ), nên Đức Ki-tô mới khuyên nhủ “đừng sợ kẻ có thể giết được thân xác chớ không thể giết được linh hồn” (Mt 10, 28).

Lời Chúa luôn vang lên giữa cộng đồng, giữa thế giới có nhiều hận thù, tranh chấp, khó khăn. Các môn đệ theo chân Chúa trong suốt hành trình truyền giáo và hành trình đức tin đã làm gương cho nhân loại về Lời Chúa. Các môn đệ, các tông đồ của Đức Giê-su khi Người còn sống vẫn mập mờ về Lời Chúa nói, họ vẫn tranh giành quyền hành, vẫn sợ kẻ thù, ngày Chúa chịu khổ hình và chết trên thập giá, họ chạy tán loạn như gà con mất mẹ, họ đóng cửa kín vì sợ người Do-thái bắt và giết họ. Nhưng khi Chúa Thánh Thần xuống vào ngày lễ Ngũ Tuần đã biến đổi họ tất cả. Họ đã hiên ngang đi khắp tứ phương thiên hạ để rao giảng, làm chứng cho Chúa phục sinh. Họ đã nhớ lời Chúa dậy: ”Anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10, 28).

Các môn đệ và các tông đồ đã minh chứng cho nhân loại thấy sự can đảm, trung tín và không sợ chết của các ngài cho Lời Chúa được tồn tại. Ngay tại đất nước Việt Nam, chỉ trong thời gian khoảng 3 thế kỷ (từ thế kỷ XVI tới đầu thế kỷ XX) đã có hơn 130.000 vị anh hùng tử vì đạo. Các ngài đã kiên cường, hiến dâng mạng sống, hiến dâng cuộc đời mình để làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu. Lời Chúa vẫn luôn hướng dẫn cho biết bao nhiêu người trên thế giới này can đảm, quảng đại và vững tin sống trọn con đường tình yêu của Chúa, để làm chứng cho Chúa, bởi vì ”Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống“ (Ga 14, 6).

Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay và đặc biệt bài Tin Mừng mời gọi mỗi người Ki-tô hữu nhìn vào thực tế cuộc sống. Sống ở trần gian, mỗi người chúng ta phải đương đầu với cuộc sống, vất vả lo cơm ăn, áo mặc. Chúng ta phải đương đầu với trăm ngàn nghịch cảnh, với những thử thách, với những vất vả gian lao trong đời sống giữ đạo và thực hành đạo. Chúng ta được mời gọi sống theo Lời Chúa ngõ hầu có đủ can đảm, có đủ lòng tin để vượt thắng tất cả những điều không phù hợp với giáo lý, với đức tin, với lẽ đạo. Chúng ta là những người có lòng tin phải sống thế nào để của cải vật chất không cản ngăn chúng ta tìm kiếm Nước Trời. Là môn đệ của Chúa, chúng ta luôn nhớ rằng kết hiệp với Chúa (”Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” – Gl 2, 20), chúng ta sẽ vượt thắng được mọi thử thách, khó khăn và không hề sợ hãi để mở lòng ra đón Đức Ki-tô.

Nói tóm lại, người Ki-tô hữu phải nhập tâm Lời dạy của Đức Ki-tô: Mạnh dạn, hiên ngang làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu độ, không sợ nhũng thế lực thù địch có thể hãm hại bằng mọi cách, kể cả việc cướp đi mạng sống của mình. Đồng thời lấy châm ngôn sống đúng với những gì Chúa hằng mong đợi. Cụ thể là “Trước khi NÓI VỀ CHÚA cho cộng đồng nghe, thì phải biết NÓI VỚI CHÚA”. Khi “Nói về Chúa” thì hãy nói giữa ban ngày, nói công khai, không úp mở, không e thẹn, ngập ngừng(“Hãy nói giữa ban ngày, đừng có sợ” – mm Mt 10, 27). Muốn được vậy thì hãy “Nói với Chúa” cách khiêm tốn và kín đáo (không khoe khoang, khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện). Nói rõ hơn là phải biết cầu nguyện – cầu nguyện liên lỉ –  xin Chúa ban Thánh Linh soi sáng và thêm sức mạnh cùng lòng dũng cảm để thi hành trọn hảo sứ mệnh loan báo Tin Mừng đã được trao phó. Ước được như vậy.

Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa củng cố lòng tin cho chúng con để chúng con luôn can đảm vượt thắng mọi sự mà hăng say làm chứng nhân cho Chúa . Ôi! “Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, Chúa sẽ chẳng bỏ rơi bao giờ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XII/TN).

-----------------------------

 

TN 12-A117: ANH EM ĐỪNG SỢ


Fx Đỗ Công Minh

 

Nỗi sợ hay Sợ hãi là một trạng thái cảm xúc tiêu cực, luôn đem lại cảm giác khó chịu – tim đập TN 12-A117


Nỗi sợ hay Sợ hãi là một trạng thái cảm xúc tiêu cực, luôn đem lại cảm giác khó chịu – tim đập nhanh, mồ hôi vã ra không ngớt cho con người mang nó.Từ khi mới lọt lòng, con người chúng ta đã mang trong mình vô vàn những nỗi sợ hãi. Nỗi sợ thì muôn hình vạn trạng – nó có thể là sợ bóng tối, sợ không gian kín hay là một trạng thể vô hình nào đấy mang hơi hướng tâm linh(Theo leading Performance). Bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu cũng nói đến nỗi sợ của các môn đệ là những người tin theo Chúa: “Anh em đừng sợ người ta, không có gì che dấu mà không được tỏ lộ, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra lúc ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”.

Đức Giêsu nói điều gì? Người nói những Lời cảnh báo, những chân lí của cuộc sống, những chỉ dẫn để con người đạt tới sự sống vĩnh cửu nước Trời. Người kêu gọi mỗi người chúng con hãy mở lòng ra đi đến với người khác, loan truyền một cách sống bác ái yêu thương. Giáo lý của Người là chống lại cái ác đem đến điều hoàn thiện. Điều răn duy nhất của Người để lại là “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương “. Những điều ấy đã được Đức Giêsu sống và rao giảng, Người truyền dạy cho các môn đệ: “Hãy đi và cứ làm như vậy”. Thế nhưng cũng đã có những người môn đệ sợ hãi khi phải loan báo về Giáo lý của Người, bởi khi phải nói với mọi người về một Tin Mừng của Thiên Chúa Cha là chống lại trật tự của một thế giới muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống trần tục  với nhiều thú vui bất xứng; tranh giành hơn thua theo kiểu “mạnh được yếu thua, mạnh ai nấy sống”, một thế giới bắt con người tôn thờ, thuần phục Mamon là tiền tài, dục vọng, danh vọng, tôn thờ ác thần, sự dữ và sự chết.

         Đức Giêsu nhắn nhủ các môn đệ của Người cũng là với từng người chúng con hôm nay:” Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngư trên trời. . .”.

Ngày hôm nay,Chúa đã đến trần gian hơn 2000 năm, giáo lý của Người đã được các tông đồ, các môn đệ và các đấng kế vị loan truyền. Đã có cả tỷ người tin theo, Phúc âm của Người vẫn được tiếp tục rao giảng qua các vị thừa sai, qua các tín hữu sống Lời Người: “Anh em hãy đi khắp thề gian giảng dạy và làm phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần và dạy cho họ tuân giữ các điều Thầy dạy “.Thế nhưng không phải số đông trong nhân loại chúng con đã tin nhận Chúa. Ngay tại Việt Nam chúng con, số người tin vào Chúa chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ, chưa đến 10% tín hữu Công Giáo, Tin Lành.

Xin cho con biết từ bỏ đi nỗi SỢ khi nói về Chúa, về Lời Người. Không chỉ biết nói về Chúa, nhưng quan trọng hơn là loan báo về Chúa bằng cách sống yêu thương, dấn thân phục vụ người khác, nhất là những người nghèo hèn, bất hạnh, bị bỏ rơi, bị loại trừ. Dám đấu tranh xây dựng một cuộc sống bác ái yêu thương để tất cả mọi người  đều là anh em con một Cha trên trời .AMEN.

-----------------------------

 

TN 12-A118: SỐNG NIỀM TIN


Lm. Jos. DĐH.

 

Lì và liều, là hai thành phần mà xã hội thời nào cũng kiêng nể, dè chừng đến độ phải cảnh giác TN 12-A118


Lì và liều, là hai thành phần mà xã hội thời nào cũng kiêng nể, dè chừng đến độ phải cảnh giác như câu vè: thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ liều mình cố thây. Trong tương quan tha nhân, người ta vẫn khẳng định: khôn chết, dại chết, biết mới sống. Tính anh hùng, khả năng hiểu biết, ở hoàn cảnh nào cũng được tôn trọng ; người mẫu mực, uy tín, dễ thu phục được nhiều phần tử trong xã hội, dù đối tượng đó cấp tiến hay bảo thủ. Kinh nghiệm người xưa cũng nói rằng: ăn ngay, sống thật, mọi tật mọi lành, thực ra, từ khi có trí khôn, con người đã biết ý thức làm việc thiện xa tránh điều xấu.

Vào khoảng thập niên 60, rất nhiều người thích thú với dịch giả Nguyễn Hiến Lê về tác phẩm “Quẳng gánh lo đi và vui sống” ; song đó vẫn chỉ là giải pháp tình thế, bao lâu con người còn lầm tưởng về khả năng tự tháo gỡ, tự sức mình thắng nỗi sợ hãi đang bao trùm. Đấng bậc sinh thành, các chuyên viên tâm lý, bằng trí hiểu, bằng kinh nghiệm, họ có thể khuyên bảo con cháu: đời người như bóng câu, hơi đâu mà nghĩ tới chuyện lặt vặt. Người ta lý lẽ hay lắm: ngày hôm qua chỉ là giấc mơ, ngày mai chỉ là ảo tưởng, hôm nay mới là ngày đáng sống…. Cư xử với nhau có ân nghĩa, sống với nhau có lý có tình, có trước có sau, thực ra cũng chỉ là khởi đầu cho việc sống niềm tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa.

Trong đời sống tự nhiên, nhiều người có tiền, có quyền, có vệ sĩ, nhưng ai dám chắc là họ không có ưu tư phiền muộn ? Trong đời sống thiêng liêng, đâu phải cứ đi lễ chùa, đọc kinh niệm phật hàng ngày, đi đủ các nơi linh thánh hành hương là tâm hồn bình an ? Đức Giêsu dư biết con người sai lạc khi cậy dựa vào thế lực vật chất, quên mất Đấng hằng yêu thương quan phòng đang nâng đỡ bổ sức, ban phát niềm vui bình an cho nhân loại. Đức Giêsu thấu biết con người giới hạn, sợ đủ mọi thứ, lo lắng ưu phiền về của ăn thức uống, sợ cô đơn, sợ bị phản bội, sợ đau khổ, sợ phải chết….! Và chắc chắn còn nhiều thứ sợ khác nữa. Phương thế để hết sợ, đó là có tình yêu Chúa, là sống thánh ý Chúa: “điều gì Thầy nói trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng, điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà”.

Đức Giêsu không có ý định huấn luyện các học trò trở nên “gan lì”, hoặc biến đổi những ai theo Ngài sẽ chai cứng đến độ “điếc không sợ súng”, vì mang thân phận con người yếu đuối, tội lỗi, nhát sợ, Ngài lưu ý chúng ta biết đến sự hiện diện của tình yêu Chúa. Biết can đảm để tuyên xưng niềm tin Thiên Chúa quyền năng, sống tín thác vào tình yêu hiệp thông, cũng là ơn gọi sống niềm tin nơi Đức Kitô là Thầy, là Thiên Chúa cứu độ. Khi trấn an các học trò đừng sợ những thứ vu vơ, đừng sợ thế gian, vì cùng lắm họ chỉ giết được thân xác, nhưng không thể giập tắt được niềm tin, không thể giết được linh hồn, hẳn Ngài có ý nhắc chúng ta hãy tin vào tình yêu thương và sức mạnh trong Chúa.

Giá trị của con người không phụ thuộc thân thế dòng tộc, nhưng tuỳ thuộc vào cách sống. Người học trò thấm nhuần đạo lý của thầy, ắt không phải do có đầu óc thông thái, mà do trò biết chăm chỉ lắng nghe, tin điều thầy truyền dạy là đúng. Người môn đệ theo Đức Kitô đủ can đảm vượt qua sợ hãi, để không mắc sai lầm, đâu phải do tài trí thông minh, nhưng là do biết cậy trông vào sức mạnh của tình yêu Chúa, biết sống niềm tin nơi Đấng đã thắng thế gian. Khi lý giải về sự quan phòng yêu thương, Đức Giêsu cho chúng ta biết “hai con chim sẻ đáng giá một đồng, vậy mà không con nào rơi xuống đất mà Chúa Cha không biết đến”. Tin và sống niềm tin Thiên Chúa là Cha luôn là dấu chỉ con người ngập tràn tình yêu mến, đang chia sẻ và sống thánh ý Chúa cách trọn vẹn.

Xã hội thời nào cũng dễ dàng tuyên dương người có công, khen thưởng những vị có thành tích, và trân trọng người có đức có tài. Đức Giêsu đã nói và vẫn đang nói: “ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, làm Đấng cứu độ, đó chỉ là bước khởi đầu theo Chúa, bước tiếp theo là mỗi người phải sống niềm tin Đức Giêsu là Thiên Chúa bằng hành động, bằng sự tự do của mình. Sở dĩ người ta sợ ốm đau bệnh tật, sợ thất bại, sợ bị thua thiệt vì mang danh Kitô hữu, là do người ta chưa dám sống đức tin, chưa để tình yêu Chúa hiện diện nâng đỡ bổ sức cho ta mà thôi.

Người trẻ hôm nay rất tha thiết với tình yêu, họ nói: đường đời trăm lối đi, chỉ mong một lối về, vạn người thích, chỉ muốn một người thương. Tình yêu đôi lứa là vậy, tất cả hệ tại “thuỷ chung”. Tình yêu giữa con người dành cho Thiên Chúa, tuỳ thuộc mỗi người biết sống và thể hiện niềm tin của mình bằng hành động, bằng lý trí, ý chí, tự do của từng hoàn cảnh mỗi người. Con đường trở về với Thiên Chúa là Cha nhân hậu, hẳn có nhiều cơ hội, mỗi người mỗi khác, nhưng tất cả phải khởi đi từ tin yêu và thật lòng sám hối. Có nhiều phương thế để người tín hữu chống trả cám dỗ, thắng vượt sợ hãi, nhưng hữu hiệu nhất vẫn là sống niềm tin vào sự hiện diện của tình yêu Chúa. Có nhiều cách tuyên xưng niềm tin Đức Kitô là Thầy là Chúa, nhưng cách rõ ràng hơn cả vẫn tự nguyện trở nên học trò, tự nguyện trở nên chứng nhân của tình yêu Giêsu. Amen.

-----------------------------

 

TN 12-A119: TUYÊN XƯNG CHÚA GIÊSU


P.Trần Đình Phan Tiến

Qúy vị và các bạn thân mến,

 

Trên thế gian có những bậc thầy hết lòng vì học trò, đó là những người thầy tốt, văn hoặc võ, nghề TN 12-A119


Trên thế gian có những bậc thầy hết lòng vì học trò, đó là những người thầy tốt, văn hoặc võ, nghề nghiệp, khi những người thầy ấy truyền hết bí quyết cho học trò của mình. Vâng, họ yêu thương học trò của họ , vì vậy, họ không “giữ” riêng cho họ bất cứ một bí quyết nào mà không truyền hết cho học trò.

Hôm nay, Tin Mừng ( Mt 10, 26 -33) cho chúng ta biết về một “Người Thầy” đứng trên tất cả những người thầy của thế gian, Người Thầy ấy cũng bộc lộ hết những bí quyết cho môn đệ của mình. Đó là Chúa Giêsu, vâng , trang Tin Mừng hôm nay cho chúng ta ba chủ đề:

Thứ nhất: Đừng sợ khi phải nói về Thiên Chúa cho người ta.
Thứ Hai: Quyền năng của Thiên Chúa bao trùm tất cả.
Thứ ba: Tuyên xưng Chúa Giêsu.

Vâng, thưa quý vị, khi nói đến “đừng sợ hãi”, chúng ta luôn liên tưởng ba yếu tố nêu trên. Điều thứ nhất, chúng ta đừng sợ ai khác ngoài Thiên Chúa. Bởi vì , ngoài Thiên Chúa ra không ai có chân lý. Khi chúng ta nói về Thiên Chúa là chúng ta đứng về phía chân lý, vậy còn gì là phải sợ hãi nữa. Vì, không có sự thật nào được che giấu, Chúa Giêsu : “Điều gì các con nghe ban đêm, thì hãy nói giữa ban ngày. Điều gì các con nghe thì thầm , thì hãy nói trên mái nhà” ( c 27)

Vâng, Chúa dạy chúng ta”đừng sợ” có nghĩa là : Đừng sợ làm chứng cho sự thật, đứng về phía sự thật, bảo vệ sự thật, làm theo lẽ phải , làm theo sự khôn ngoan, thì chắc chắn không có gì phải sợ. Chỉ sợ khi làm điều xấu, điều bất công, bất chính, bất minh, điều trái luân thương đạo lý. Vì , lẽ thường người không có đức tin, họ bất chấp tất cả, họ làm càn, làm liều, làm bừa, thì mặc nhiên họ phải sợ công lý, công lý của Thiên Chúa , đó là chân lý. Vâng, chỉ có một chân lý duy nhất, không có hai chân lý. Vì, sự thật cùng đích, hay là cùng đích của sự thật chỉ có một. không bao giờ có hai sự thật. Nếu kẻ nào nói có hai sự thật, thì kẻ đó là satan.

Chúng ta nhớ có lần Chúa Giêsu đã nói : “Những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy cũng cho anh em biết …” .Điều đó cho thấy Chúa Giêsu là một Vị Thầy chân chính, hết mực yêu thương môn đệ của mình.

Vậy, hôm nay, Tin Mừng một lần nữa nhắc lại cho chúng ta về “ Tâm Tính” của Thầy Giêsu, Người Thầy đã truyền hết cho chúng ta những bí quyết “sống”. Sống với thế gian, sống với sự sống của Thiên Chúa đó là : Chân lý.

Có thể nói ngay mà không sợ sai là : Chân lý là Lời Chúa, vậy sống có Lời Chúa, chúng ta không “sợ” gì cả. Rõ ràng, nếu chúng ta sống có Lời Chúa mà còn sợ hãi, thì coi như chúng ta không sống theo Lời Chúa. Vì quyền năng của Thiên Chúa bao trùm tất cả. Thiên Chúa đứng trên tất cả, vì vậy, khi chúng ta sống theo Lời Chúa mặc nhiên, chúng ta sẽ không còn sợ hãi gì nữa. Nếu sợ hãi chúng ta sẽ thiếu can đảm, và như vậy sẽ  không có lòng trung tín.

Khởi đi từ Bài đọc I hôm nay ( Gr 20, 10 -13), chúng ta thấy tiên tri Giê-rê-mia nói tiên tri về Thiên Chúa, thì bị Pha-sua đánh và cùm chân. Nhưng, sáng hôm sau thì tháo cùm và thả người ra. Rồi sau đó, chúng ta thấy tiên tri Giê-rê-mia phải chịu khổ vì dân chúng, nhưng, cuối cùng Giê-rê-mia cũng cất lời ngợi khen Thiên Chúa: “Hãy ca tụng Chúa, hãy ngợi khen Chúa…” vì Chúa đã giải thoát ông.

Bài đọc II (Rm 5, 12 -15) thánh Phao-lô cho chúng ta biết , :”… nếu không có luật thì không bị coi là có tội…”. Nhưng, thật ra, xét cho cùng “luật “ đầu tiên, hay là khởi sự lề luật chính “Lời” của Thiên Chúa. Vì Ađam đã bất tuân Lời Chúa, nên sinh ra tội. Từ đó, chúng ta hiểu được Lời Chúa chính là lề luật đầu tiên.

Trở lại ý nghĩa  thứ ba Đoạn Tin Mừng hôm nay là ý quan trọng nhất : Tuyên xưng Chúa Giêsu.

Chúa nói :” Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên nhận nó trước mặt Cha thầy, Đấng ngự trên trời.”

Vâng, cầu nầy chính là câu làm rõ nghĩa cho câu ở trên ( c 26) :” Vậy các con đừng sợ người ta…” Vì, “  Các con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác và hồn vào lửa không hề tắt…” ( c 28). Chúa Giêsu đã nói rõ điều đó, “đừng sợ”, nhưng tại sao “đừng sợ”, vì , người đời không thể nào giết hại được linh hồn. Nếu chúng ta biết tuyên xưng Chúa Giêsu mọi nơi, mọi lúc, thì không có thế lực thù địch nào làm hại ta được. Người đời , dù có làm hại ta, nhưng, chỉ làm hại được thân xác là cùng, đáng sợ nhất là kẻ làm hại linh hồn ta, đó là satan, và nếu chúng ta theo satan, thì Thiên Chúa sẽ (giết) ném cả xác và hồn vào lửa không hề tắt.

Chúng ta thấy, Lời Chúa hôm nay quả ứng dụng với tất cả những ai bước theo Chúa cách trung tín như gương các thánh Tử Đạo. Các ngài đã anh dũng hy sinh, dù đầu rơi, máu chảy, nhưng không sờn lòng, nả chí. Gương can đảm anh dũng hy sinh vì Chúa, tạo nên một đức tin kiên cường, son sắt. và những gương chống chứng nhân vô cùng anh dũng của các vị thánh chưa tuyên.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con biết can đảm đối với cuộc sống thế trần, vì chúng con có Chúa là “Gương mẫu” cho đời chúng con./. Amen.

-----------------------------

 

TN 12-A120: MỘT NIỀM PHÓ THÁC

 

Nhiều người than phiền là cuộc sống này quá bất công. Có những người tốt lành đôi khi gánh chịu TN 12-A120


Nhiều người than phiền là cuộc sống này quá bất công. Có những người tốt lành đôi khi gánh chịu nhiều hoạn nạn, trong khi nhiều người gian ác lại được phong lưu. Sự dữ và bất công trong cuộc sống là một trong những lý do làm cho con người dễ nổi loạn. Họ chống đối nhau và thậm chí chống đối cả Thiên Chúa. Tuy vậy, có một thực tế là dù người ta chống đối Thiên Chúa, thì sự dữ vẫn còn đó và cuộc sống trần gian cũng không được cải thiện tốt hơn.

Có những đau khổ từ bên ngoài mà đến, như bệnh tật, tai nạn, thiên tai. Có những đau khổ do những người xung quanh gây hấn do hận thù ghen tương, hãm hại. Cũng có những đau khổ do chính bản thân mình gây ra, như một hậu quả tất yếu vì đã sống buông thả và thiếu tiết độ, ví dụ như bệnh tật do uống nhiều rượu, tai nạn do bất cẩn…

Theo quan điểm Do thái Ki-tô giáo, đau khổ và sự ác mà nó diễn tả không nằm trong chương trình khởi thủy của Tạo hóa. Nói cách khác, nó không phát xuất từ Thiên Chúa. Vì vậy, khác với những tôn giáo khác, Ki-tô giáo không có một vị thần ác là nguyên nhân của đau khổ. Đối với người Công giáo, đau khổ là phương thế để thánh hóa bản thân, là đền tội mình, cầu nguyện cho tha nhân và cứu các linh hồn. Khi chấp nhận đau khổ, con người thông phần với đau khổ của Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã chịu chết vì nhân loại.

Bài đọc I hôm nay nói đến sự hiềm khích của một số người đương thời đối với Ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Ông là một ngôn sứ gánh chịu nhiều đau thương. Mọi tai ương trong cuộc đời ông đều là biểu tượng cho thân phận tương lai của dân tộc Do Thái. Vì thẳng thắn và trung thành chuyển tải sứ điệp của Chúa, mà ông bị người đời gọi là “lão tứ phía kinh hoàng”. Giữa một đám đông những người đồng bào, mà ông cảm thấy cô đơn trơ trọi. Ông đã mấy lần suýt chết vì âm mưu của quan lại triều đình. Nhưng trên hết mọi sự, nơi Giê-rê-mi-a là lòng tín thác nơi Thiên Chúa, Đấng ông phụng thờ. Ông đã tìm thấy sự an ủi khi hoàn toàn cậy trông vào Chúa. Ông đã tìm ra ý nghĩa của đau khổ: đó là giúp con người thanh luyện và trung thành.

Thánh vịnh 68 trong phần Đáp ca của Thánh lễ là lời cầu nguyện của người đang bị bách hại. Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, tác giả Thánh vịnh gặp trăm bề đau khổ, thậm chí do những người ruột thịt gây nên, nhưng ông vẫn một niềm cậy trông và phó thác. Ông tin rằng Thiên Chúa là nơi ẩn náu vững bền. Ngài là Đấng không ngoảnh mặt làm ngơ trước lời van xin của những người hoạn nạn.

“Đừng sợ!”. Đức Giê-su lặp đi lặp lại lời trấn an này với các môn đệ. Bài Tin Mừng này nằm trong văn mạch của bài giảng về sứ mạng truyền giáo. Chúa Giê-su chọn, gọi và sai mười hai tông đồ. Người dặn dò các ông rất chu đáo về cách đối nhân xử thế trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thấy trước những khó khăn thử thách trong sứ mạng, Người trấn an các ông: đừng sợ!

“Đừng sợ!”, vì Chúa thấu hiểu lòng con người. Chẳng có gì là bí mật đối với Ngài. Vì thế, lời giảng dạy của vị tông đồ phải là những điều chân thật ngay chính.

“Đừng sợ!”, vì Chúa mới là Đấng định đoạt tương lai của con người. Thế gian dù có mạnh mẽ nhưng chỉ là nhất thời. Quyền lực thế gian chỉ có thể bách hại được thân xác, chứ chẳng bao giờ giết chết tâm hồn và Đức tin.

Khi trấn an các môn đệ, Chúa Giê-su cũng cho các ông thấy trước phần thưởng trên trời mà Chúa Cha sẽ ban cho người công chính. Nếu chối Chúa ở đời này, Chúa Giê-su cũng sẽ chối bỏ chúng ta trước tòa Chúa Cha.

Cuộc đời này còn đầy những gian nan khốn khó. “Thế gian là bãi chiến trường” – người ta nói thế. Tuy vậy, thế gian cũng là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Vì thế, cuộc đời cũng là cuộc chiến đấu để chứng tỏ lòng trung thành và để giành chiến thắng.

Hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời nơi tình thương của Chúa. Tình thương Chúa lớn lao hơn gấp bội tội lỗi của con người. Tội A-đam không thể nào sánh với ân huệ của Thiên Chúa (Bài đọc II). Tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta thể hiện qua cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giê-su. Chính người đã mang lấy tội lỗi của chúng ta. Qua cuộc khổ nạn của Người chúng ta tìm thấy ý nghĩa của đau khổ: đó là đau khổ giúp ta thanh luyện bản thân và cộng tác với Chúa Giê-su để đem ơn Cứu độ cho trần gian.

+ ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

-----------------------------

 

TN 12-A121: HÃY SỢ ĐẤNG CÓ QUYỀN TIÊU DIỆT CẢ HỒN LẪN XÁC!

 

Trong cuộc đời này, ai ai cũng có những nỗi sợ hãi. Càng làm lớn, càng nhiêu trách nhiệm, càng có TN 12-A121


Trong cuộc đời này, ai ai cũng có những nỗi sợ hãi. Càng làm lớn, càng nhiêu trách nhiệm, càng có địa vị, danh vọng. chức tước cao bao nhiêu thì sự sợ hãi lại càng nhiêu bấy nhiêu. Những nỗi sợ như sợ khó, sợ khố, sợ tai nạn, sợ nghèo đói, sợ chiến tranh, sợ thất nghiệp. Sợ sai lâm, sợ bị chê bai, sợ bị người ta coi thường, sợ bị phê bình chỉ trích, sợ thất nghiệp, sợ con cái hư hỏng, sợ bệnh tật, và sợ Coronavirus... là những cái sợ mà ai cũng có!

Thế nhưng có một cái sợ, mà đáng lý ra tất cả mọi người có trí khôn, có sự hiểu biết ở trên trần gian này đều phải sợ, nhưng có nhiều người lại không… sợ! Đó là sợ “Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28).

Vì không biết sợ “Đấng có quyền tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”, cho nên:

* Mới có những chính trị gia, bác sĩ, y tá, và cả những thanh niên nam nữ… ủng hộ, cô võ, hô hào hợp thức hóa và thực hiện những vụ ngừa thai, phá thai, cho những dịch vụ nghiên cứu tế bào gốc, cho việc hợp thức hóa hôn nhân đồng tính, cho các dịch vụ phim ảnh khiêu dâm, cho việc buôn bán xì ke ma túy, cho việc trợ tử và cho án tử hình...

* Mới có những người, thậm chí cả những người Công Giáo, bỏ phiếu bầu cho những ứng cử viên, cho những chính trị gia, những người công khai chống báng những Giáo Huấn của Giáo Hội, coi thường luật Chúa, chuyên ủng hộ và cổ võ những điều vô luân như phá thai, trợ tử, hôn nhân đồng tính...

* Mới có những người lơi dụng những cuộc biểu tình để tấn công cảnh sát, cướp bóc, đập phá, phóng hỏa những thánh đường và những nơi linh thiêng của các tôn giáo, trong đó có những nhà thờ Công Giáo nữa.

Bạn thân mến, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã phán: “Anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu điệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28). Kính sợ Thiên Chúa là điều phải lẽ và là điều vô cùng quan trọng và cần thiết mà tất cả chúng ta phải ghi nhớ, bởi vì Kinh Thánh chỉ rõ cho ta thấy, ai kính sợ Đức Chúa thì được ít là ba mối lợi lớn lao này:

I. ĐƯỢC THIÊN CHÚA BẢO VỆ, CHE CHỞ, CHÚC LÀNH & TRÁNH ĐƯỢC NHỮNG SỰ DỮ:

* “Phúc thay tâm hồn kẻ kính sợ Đức Chúa! Họ nương tựa vào Người là khiên mộc vững chắc, là sức mạnh đỡ nâng, là tàn che gió nóng, là bóng mát giữa trưa. Người giữ gìn cho khỏi vấp ngã, và bảo vệ cho khỏi té nhào. Người nâng cao tâm hồn, sáng soi con mắt, Người ban sức khoẻ, sự sống và phúc lành... Nhờ kính sợ ĐÚC CHÚA mà tránh được sự dữ (He 34:17-20; Cn 16:6b)

2. ĐƯỢC ƠN KHÔN NGOAN & HIẾU BIẾT:

* “Kính sợ ĐÚC CHÚA là bước đầu của khôn ngoan; biết Đấng Chí Thánh mới là hiếu biết thật” (Cn 9:10).

* “Kính sợ CHÚA là đầu mối khôn ngoan. Sáng suốt thay kẻ thực hành như vậy. Mãi đến thiên thu còn vang tiếng ngợi khen Người” (Tv 111:10).

3. ĐƯỢC HƯỚNG SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI:

* “Kính sợ ĐỨC CHÚA là nguồn sự sống, giúp ta tránh được cạm bẫy tử thần... Lòng kính sợ ĐỨC CHÚA đem lại sự sống, cho người ta ăn no ngủ kỹ, thoát khỏi mọi tai ương” (Cn 14:27; 19:23).

Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ơn khôn ngoan, ơn thông minh và ơn hiểu biết, để bạn và tôi nhận ra rằng. trên đời này chẳng có gì đáng để sợ, ngoài việc sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục để nhờ vậy, chúng ta sẽ biết tôn trọng sự sống, tôn trọng nhân phẩm của mọi người, tuân giữ những lề luật của Chúa, những Giáo Huấn của Giáo Hội, và sẽ sống đẹp lòng Ngài trong mọi nơi mọi lúc.

Chúng ta cũng cầu nguyện cho những người không biết kính sợ Chúa, hay chưa biết kính sợ Ngài, nhất là cầu nguyện cho những chính trị gia, các bác sĩ y tá đang hành nghề phá thai, cho những người đang chủ trương dùng bạo lực đề hôi của, để cướp bóc, gây bất an cho xã hội và cho Giáo Hội, xin cho họ ơn hoán cải... Xin cho họ ơn khôn ngoan để họ biết kính sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác [của họ | trong hoả ngục.

Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

-----------------------------

 

TN 12-A122: ĐỪNG SỢ!


Chúa là sức mạnh của dân Người, là nơi ẩn náu cứu chuộc cho những ai được Chúa chọn lựa. Lạy Chúa! Xin hãy cứu dân Người và chúc lành cho gia nghiệp Người và cai trị chúng đến muôn đời! (Tv 28 (27): 8-9)

 

Lạy Chúa! Xin ban cho chúng con biết luôn luôn kính trọng và mến yêu thánh danh Chúa vì Chúa TN 12-A122


Lạy Chúa! Xin ban cho chúng con biết luôn luôn kính trọng và mến yêu thánh danh Chúa vì Chúa chẳng bao giờ ngừng hướng dẫn những ai luôn luôn biết đặt tin tưởng vào tình yêu Chúa. Qua Chúa Giêsu Kito, Con Chúa, đấng hằng trị với Chúa trong hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, là một Thiên Chúa duy nhất, đến muôn đời. Amen.

Phụng vụ Chúa Nhật tuần này đề cập đến sự sợ. Tiên tri Giêrêmia quá lo sợ vì bị kẻ thù bao quanh hãm hại. Nhưng đừng lo vì đã có Thiên Chúa bảo vệ. Vì tội tổ tông do Ađam phạm đã khiến toàn thể loài người phải chết. Nhưng nhờ Chúa Giêsu Kitô, ân sủng Thiên Chúa đã được ban ra cho tất cả mọi người mọi dân tộc. Vậy chúng ta cũng đừng có lo lắng. Chúa Giêsu -qua Tin Mừng Mátthêu- cũng đã chứng minh với các Tông đồ là tại sao không nên sợ hãi loài người bởi vì Chúa biết trước hết mọi sự. Chúa cho biết, loài người nam cũng như nữ, ai ai cũng có giá trị như nhau dưới mắt Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự. Bất cứ ai tuyên xưng Chúa Giêsu trước mặt mọi người thì đều được Ngài nhận biết trước mặt Thiên Chúa ở trên Thiên quốc. Vậy những gì Chúa nói với các ngươi dù ở trong bóng tối hãy mang ra ánh sáng mà nói. Đừng sợ!

Bài đọc 1 (Gr 20:10-13) là một phần của bản “thú tội” của tiên tri Giêrêmia. Thú tội là một từ mà các học giả Kinh Thánh đặt tên cho đoạn văn mà Giêrêmia nói ra nỗi lòng lo lắng áy náy và than khóc của ông với Thiên Chúa. Bản thú tội này xẩy ra sau câu chuyện của tư tế Pashur, là một trong những tư tế ở trong đền thờ lúc đó đã làm khó muốn hãm hại Giêrêmia vì Giêrêmia đã tiên đoán là dân Babylones sẽ phá hủy đền thánh. Để hiểu biết rõ về nỗi lo buồn của Giêrêmia chúng ta cần để ý là tiên tri không bao giờ đi tìm kiếm sự sống cho cá nhân mình, ngay cả trong lúc đang than khóc, ông cũng tự coi mình đã bị Thiên Chúa phỉnh gạt và chấp nhận cuộc sống như vậy của một tiên tri (Gr 20:7).

Bài đọc bắt đầu với thông báo “Tứ phía đầy kinh hoàng!...” Giêrêmia dùng những từ này để tiên đoán việc đền thờ Jerusalem bị phá hủy, nhựng những lời này không do miệng lưỡi của những kẻ chống đối tiên tri nói ra. Giống như ông Job, Giêrêmia tin rằng bạn bè của ông đã quay lưng lại với ông (G 19:19). Những hành động “báo thù” mà họ âm mưu để hãm hại và giết chết ông thì chúng ta có thể tưởng tượng ra được. Tuy nhiên Giêrêmia đã đối đầu với nỗi sợ đó và quay trở lại với Chúa là Đấng hành xử như môt anh hùng, làm cho chúng phải “trượt ngã bất ngờ.” Giêrêmia coi mình là người công chính mà Thiên Chúa đã biết rất rõ tận tâm can ông. Ông đã cầu nguyện để ông có thể là chứng nhân cho quyền lực của Chúa, Đấng đã làm cho kẻ thù của ông phải xấu hổ.

Những lời thú tội sau cùng của Giêrêmia đã biến đổi từ than khóc đến ca tụng ngợi khen. Ông hát lớn bài chúc tụng ca vang trước Thiên Chúa bởi vì ông đã bảo vệ những người nghèo khổ là những kẻ thấp hèn của Israel khỏi “bạo lực của những kẻ gian ác.” Rõ ràng là Thiên Chúa đã bảo vể người nghèo khó không chỉ vì tình trạng kinh tế họ không có đủ cơm ăn áo mặc nhà ở mà còn vì hoàn cảnh lệ thuộc của họ nơi Ngài. Dù tiên tri không xin để có được bổn phận tuyên xưng Lời của Thiên Chúa, nhưng ông không bao giờ lưỡng lự ấp úng trong việc vâng lời và cho mình là không cần phụ thuộc vào lòng nhân lành của Thiên Chúa.

Bài đọc 2 (Rm 5:12-15) đọc lên nghe như những vần thơ được lấy ra từ chương 5 của thư gửi cho tín hữu Rôma và là phần khởi đầu cho nền tảng thần học của thánh Phaolô về bí tích Thánh Tẩy. Phép Thánh Tẩy là sự thông phần vào cuộc tử nạn, cái chết rồi táng trong mồ của Chúa Kitô để cho tội lỗi không còn thống trị nơi thân xác nữa và chúng ta sẽ được sống trong Chúa Kitô (Rm 6). Bối cảnh của bài đọc này hôm nay cho thấy sự cần thiết của phép Thánh Tẩy. Tội lỗi đã xâm nhập thế giới vì ông Ađam đã không vâng lời Thiên Chúa và đưa đến hậu quả là cái chết. Ađam đã mang lại cho nhân loại tình trạng khó khăn có tính phổ quát, nghĩa là tất cả mọi người đều phải tham phần vào tội của Ađam và phải chết.

Sự xuất hiện của Maisen trong đoạn văn này cũng rất tài tình thích hợp và quan trọng đối với khoa thần học của thánh Phaolô. Maisen đại diện Thiên Chúa mang luật của Thiên Chúa đến cho dân. Vậy trong thời gian giữa Ađam và Maisen, nhân loại không có lề luật hướng dẫn, do đó loài người -về mặt pháp lý- không có trách nhiệm về cái tội mà trong thời gian họ không có hiểu biết về luật lệ. Tuy nhiên, ở điểm này thì tội đã có vì tử thần đã xâm nhập thế giới rồi. Tội lỗi không thể tách biệt khỏi sự chết. Chết là hậu quả của tội.

Điểm chính và quan trọng của Phaolô ở đây là Thiên Chúa đã ban tặng phẩm sự chết của Con Một Ngài, một tặng phẩm to lớn và có sức nặng vượt quá cả hậu quả của hành động Ađam không vâng lời. Chính nhờ cái chết của mình, Chúa Giêsu đã thiêu hủy một lần cho tất cả. Tử thần bị phá hủy thì tội lỗi cũng tiêu tan. Hồng ân của Thiên Chúa được ban ra chính là tặng phẩm giúp cho chúng ta được tiếp cận đến với Chúa Giêsu Kitô qua phép Thánh Tẩy.

Bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay (Mt 10:26-33) là những lời giáo huấn của Chúa Giêsu cho 12 Tông đồ khi Ngài sai họ đi gặt lúa trong những cánh đồng phì nhiêu, nói về sự cần thiết của người môn đệ là phải can trường biến những tiếng nói thì thầm thành tiếng la lớn trên nóc nhà. Khi Chúa Giêsu vừa kết thúc những hướng dẫn đó thì cũng là lúc Chúa sai họ ra đi muôn phương trên khắp thế giới. Và họ chắc chắn sẽ gặp phải những chống đối và truy nã của những kẻ không muốn nghe lời họ. Đáp trả của họ đối với những truy nã đó dĩ nhiên rất đơn giản là “Đừng sợ ai cả.” Điều này là quan trọng. Thực vậy, chỉ trong một bài Tin Mừng ngắn gọn này, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ đến ba lần câu “Đừng Sợ! Sợ hãi không phải là thái độ có thể chấp nhận được của người môn đệ Chúa Kitô.”

Ý kiến tế nhị và lời lẽ kín trong câu Chúa Giêsu nói ‘Điều mà Ta nói với các ngươi trong “bóng tối”....hoặc qua tiếng “thì thầm”’ cũng là lời kêu gọi chúng ta phải chú ý đến nhiệm vụ của người môn đệ sau khi Chúa phục sinh. Toàn thể sứ điệp của Chúa Giêsu vẫn chưa được tuyên bố, ngay cả bởi những người thân cận nhất của Chúa vì các môn đệ vẫn còn thiếu hiểu biết hoàn toàn về vương quốc và việc Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh có ý nghĩa gì. Ở cuối bài Phúc Âm này, khi đã thấu hiểu vấn đề thì các môn đệ đã được kêu gọi để chia sẻ Tin Mừng với muôn dân. Các ông bắt đầu xuất hành, nhập thế ở thời điểm đó để tuyên bố Tin Mừng khi thời cơ thuận tiện.

Lời cảnh báo về gian nan khổ ải và chết chóc là những hậu quả của sứ mệnh này, nó sẽ tạo sợ hãi. Tuy nhiên Chúa Giêsu sẽ giúp các môn đệ chuyển đổi nỗi sợ hãi bị hãm hại thể xác và chết chóc đó thành điều quan trọng và thiết yếu là giữ được linh hồn khi chạm trán với những kẻ gian ác. Vì có căn cước là người của Thiên Chúa do chính Chúa Giêsu cấp, họ được Thiên Chúa săn sóc và bảo vệ. Họ phải hành động làm sao để chứng tỏ họ tin tưởng vào Thiên Chúa và luôn luôn ở trong Ngài.

Thánh Vịnh đáp ca (Tv 69:8-10, 14, 17, 33-35 (14c)          

R/- Lạy Chúa! Xin trả lời con vì tình yêu của Chúa bao la cao cả.
Vì Chúa mà con bị súc phạm xỉ vả làm xấu hổ.
Bị anh em lơi là bỏ bơ vơ,
bị con cháu coi như người khách lạ.
Vì nhiệt tình với Nhà Chúa nung nấu lòng con
Mà những kẻ súc phạm Chúa đổ ập trên đầu con.
Con cầu xin Chúa, lạy Chúa!
Ban cho chúng con thời gian ân huệ, lạy Thiên Chúa!
Xin Chúa hãy liên tục giúp đỡ trả lời con
vì lòng nhân hậu vô biên của Chúa.
Lạy Chúa!
Xin hãy trả lời con, vì lòng khoan dung Chúa dồi dào.
Xin hãy quay mặt lại với con vì lòng độ lượng Chúa bao la vĩ đại.
“Các ngươi là những kẻ thấp hèn, hãy nhìn kỹ và hãy vui mừng;
“Các ngươi là những kẻ tìm kiếm Thiên Chúa, lòng trí các ngươi sẽ được hồi sinh!
“Vì Chúa lắng nghe kẻ khó nghèo và không bỏ con dân Ngài để chúng bị tù tội.
“Hãy để trời đất vinh danh Ngài,
và biển nước cùng mọi sự chuyển động bên trong!”
R/- Lạy Chúa! Xin trả lời con vì tình thương Chúa bao la như trời cao biển rộng! Amen.

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

-----------------------------

 

TN 12-A123: ĐỪNG SỢ

 

Đừng sợ” là chủ đề của Chúa nhật này. Giê-rê-mi-a sống giữa cảnh thù nghịch. Ông bị tấn TN 12-A123


“Đừng sợ” là chủ đề của Chúa nhật này. Giê-rê-mi-a sống giữa cảnh thù nghịch. Ông bị tấn công tứ bề và bị ghét bỏ, nhưng ông không sợ hãi và nao núng, vì xác tín rằng có Chúa luôn ở với ông như người lính chiến hùng dũng (x. Gr 20, 10-13).

Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ biết trước về thân phận khổ sở của những người theo Chúa và khuyên họ đừng sợ (x. Mt 10, 26-33). Còn thánh Phao-lô nói với những kẻ tội lỗi, ngày đêm tâm trí giày vò và lo sợ. Nhưng đừng sợ vì có Chúa Giê-su ban ơn dư đầy cho gấp bội (x. Rm 5,12-15).

Có Chúa ở cùng tôi, tôi còn sợ gì

Cho dù quân thù gieo khủng bố khắp nơi, gài bẫy rình chờ người công chính vấp ngã. Nhưng Giê-rê-mi-a tin, Chúa sẽ đưa tay giải thoát người kính sợ Chúa. Ông còn xác tin rằng kẻ thù của ông sẽ lao đao, thất bại; sẽ hổ ngươi và nhục nhã. Và niềm tin ấy đã biến thành lời cầu nguyện: xin cho con được thấy kẻ thù của con bị báo thù. Chúa sẽ cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ (Gr 20,13).

Chúa Giê-su bảo các môn đệ : “Đừng sợ”

Chúa Giê-su nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không giết được linh hồn” (Mt 10, ….). Quả thật, không có gì phải sợ. Thử thách và khổ đau ở đời thoạt nhìn vào thì thấy sợ, thấy ghê. Nhưng dưới ánh sáng của Chúa, và bằng con mắt đức tin, chúng ta thấy chúng đang dần dần tan biến, bởi tự bản chất của chúng đâu có bền vững. Chúa Giê-su Ki-tô đã chiến thắng tử thần, dọi ánh sáng tối tăm, kẻ ưu phiền vui sướng hân hoan. Mai ngày, Người sẽ đến trong vinh quang để phán xét mọi hành động và ý nghĩ thâm sâu của con người, nên con cái, nhất là các môn đệ Chúa chẳng có gì phải sợ. Người ta có thể giết các môn đệ của Chúa, nhưng có nên sợ những kẻ chỉ giết được xác mà không giết được hồn không?

Giữa bao nghịch cảnh và mọi khổ đau, Chúa vẫn ở với chúng ta như một người cha săn sóc đếm từng sợi tóc trên đầu người con, để không một cái tóc nào rụng xuống mà không có ý của Người.

Hai con chim sẻ chỉ đáng giá một đồng xu thôi, thế mà Cha trên trời vẫn săn sóc đến chúng. Còn chúng ta, chúng ta đáng giá ngàn ngàn lần con chim sẻ. Nói một cách đơn giản, những đau khổ rủi ro ở đời không làm chúng ta quên lòng nhân nghĩa Chúa.

Đừng sợ

Trên đời con người có nhiều thứ bủa vậy, một trong những thứ đó là cái “sợ”. Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới. Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui… Nỗi sợ có vẻ gắn liền với sự mong manh của phận người. Người ta sợ nhiều thứ: sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết… Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và dù muốn dù không con người vẫn bị bủa vây bởi trăm ngàn mối hiểm nguy. Thấu hiểu điều đó, nên khi dạy dỗ cho các môn đệ, Chúa Giê-su khuyên: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn… Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (x. Mt 10, 28-31).

Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giê-su đã trở thành sức mạnh cho Giáo Hội. Hai mươi thế kỷ sau, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lặp lại lời Thầy Chí Thánh: “Đừng sợ”. Ngài đặt câu hỏi: Tại sao chúng ta không nên sợ hãi? Ngài trả lời: Vì con người đã được Thiên Chúa cứu chuộc. Các Ki-tô hữu không nên sợ hãi bất kỳ cơn bão nào có thể ập đến với họ, vì họ có hy vọng vào Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến cứu thế gian khỏi bóng tối. Thiên Chúa làm chủ, là tình yêu, Ngài nắm trong tay vận mệnh của thế giới này. Nếu chúng ta hiểu điều đó, chúng ta không còn sợ hãi về “tình hình thế giới hiện tại”, ngay cả khi nó trở nên đen tối hơn.

Thật vậy, sống ở đời làm sao tránh khỏi những căng thẳng, lo âu, sợ hãi khi gặp khó khăn, nguy hiểm. Chính Chúa Giê-su cũng có những lúc bàng hoàng xao xuyến. Khi bảo “anh em đừng sợ” Chúa Giê-su muốn ta đừng để cảm xúc sợ hãi làm tê liệt đời sống chúng ta. Người bảo chúng ta: “Đừng sợ”. “Đừng sợ” ngay trong mọi biến động, “Đừng sợ”, vì “Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ” (Gr 20,13). “Đừng sợ”, khi phải đối diện với đau khổ hay sự chết bởi vì Thiên Chúa, Đấng yêu thương quan tâm chăm sóc chúng ta, vì Ngài là Cha nhân từ, trung tín, thấu hiểu chúng ta cần gì, vì đối với Ngài, chúng ta “quý hơn muôn vàn chim sẻ” (x. Mt 10,31). Ta hãy sống như con thơ phó thác cách đơn sơ trọn vẹn cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, trong mọi công việc.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm sống thật, hành động thật và tin tưởng phó thác nơi Chúa. Đừng sợ những khó khăn thử thách trong đời sống đạo. Đón nhận con đường khổ giá như là điều kiện cần cho phần rỗi của mình. Luôn nhớ rằng khi chúng ta tin và sống đạo, hẳn chúng ta không thể thoát khỏi sự hiểu lầm, chống đối và đôi khi cả cái chết nữa. Tuy nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra ý nghĩa của đau khổ và ngang qua đó, chúng ta sẽ thấy cùng đích của cuộc đời nằm ở nơi Thiên Chúa chứ không phải những thứ mau qua, chóng hết ở đời này.

Lạy Chúa, nỗi sợ làm cho con chùn bước, rụt rè trong đời sống đức tin của con, xin cho con thêm sức mạnh để con không còn sợ hãi Chúa ơi. Amen.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

-----------------------------1

 

TN 12-A124: DẠN DĨ SỐNG VÀ RAO GIẢNG TIN MỪNG CỦA CHÚA KITÔ

 

Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước Chúa Giêsu nói: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước TN 12-A124


Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước Chúa Giêsu nói: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10: 7-8), sau đó Ngài bảo các môn đệ: “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10: 16).

Môn đệ của Chúa Kitô không sợ bị vu khống và gièm pha khi rao giảng Tin mừng.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo các môn đệ đừng sợ bị vu khống và gièm pha khi rao giảng Tin mừng: “Vậy anh em đừng sợ người ta” (Mt 10: 26). Những người thuộc về Thiên Chúa có thể bị bách hại: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy” (Mt 10: 17-18) hoặc: “Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy” (Mt 24: 9), nhưng đó lại là mối phúc mà Chúa Giêsu công bố: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5: 11). Sẽ đến một ngày mọi người sẽ biết toàn bộ sự thật về những người khác, ý định thực sự của họ, toan tính thực sự trong lòng dạ của họ; những điều ẩn giấu sẽ được tỏ lộ: “Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết” (Mt 10: 26). Thánh Phaolô cũng nói: “Chính Chúa sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng thích đáng” (1Cr 4: 5). Trong khi chờ đợi ngày tỏ lộ mọi sự thật ấy “Anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10:19-20).

Chúa Giêsu cảnh báo các môn đệ về sự sợ hãi cách sai lạc. Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta phải kính sợ; Ngài là Hoàng tử và Thẩm phán tối cao của chúng ta - chứ không phải con người. Các thánh tử đạo đã tuân giữ giới răn này của Chúa cách trọn vẹn, vì ý thức rõ rằng sự sống đời đời quý giá hơn nhiều so với cuộc sống trần thế. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã nói đến ở mối phúc cuối cùng trong Bài Giảng Trên Núi: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5: 10-12). Vì vậy, người Kitô hữu không nên sợ hãi những kẻ chỉ có thể giết thân xác. Chỉ có Chúa mới có thể ném cả xác và hồn vào địa ngục: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10; 28). Kitô hữu sống trong sự kính sợ Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải sống dưới ánh sáng của những thực tại đời đời của Thiên Chúa. Chúng ta cần nhận biết rằng chúng ta luôn sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa, là Đấng mà mỗi người chúng ta sẽ phải ra trình diện: “Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Hípri 4: 3). Và chúng ta cần nhận ra rằng tất cả chúng ta cuối cùng đều phải chịu trách nhiệm trước sự phán xét của Thiên Chúa: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Hípri 9: 27). Và chúng ta biết rằng: “Thật là khủng khiếp, khi phải rơi vào tay Thiên Chúa hằng sống!” (Hípri 10: 30-31).

Lý do người loan truyền Tin mừng của Chúa Kitô bị chống đối

Trong buổi tiếp kiến chung vào sáng thứ Tư 29/04/2020, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Lối sống Tin Mừng gây khó chịu cho thế gian. Thế gian, với những thần tượng của nó, những thỏa hiệp và ưu tiên của nó, không thể chấp nhận lối sống này. Các cấu trúc tội lỗi, những thứ thường được tạo ra bởi não trạng của con người và xa lạ với “Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận” (Ga 14,17), chỉ có thể chối bỏ tinh thần nghèo khó, hiền lành hay trong sạch và tuyên bố rằng lối sống theo Tin Mừng là một sai lầm và là một vấn đề, và do đó là điều gì đó cần gạt ra ngoài lề. Thế gian nghĩ rằng: đây là những người duy tâm hoặc cuồng tín... Họ nghĩ như thế. Nếu thế gian dựa trên tiền bạc, thì bất cứ ai chứng tỏ rằng cuộc sống có thể được viên mãn trong việc trao ban và từ bỏ, đều trở thành sự phiền toái đối với hệ thống của lòng tham lam. Từ “phiền toái” này là chìa khóa, bởi vì chứng tá Kitô giáo duy nhất, điều mang lại nhiều điều tốt đẹp cho nhiều người bởi vì họ sống theo nó, lại gây phiền toái cho những người theo não trạng thế gian. Họ thấy nó như một lời trách móc. Khi sự thánh thiện xuất hiện và cuộc sống của con cái Chúa nổi bật lên, trong vẻ đẹp đó có một điều không thoải mái, đòi hỏi phải chọn lựa: hoặc để cho chính mình bị tra vấn và mở lòng ra với điều tốt hoặc từ chối ánh sáng đó và trở nên cứng lòng, thậm chí đến mức chống đối và giận dữ: “Nó như kẻ luôn chê trách tâm tưởng của ta, thấy mặt nó thôi là ta chịu không nổi. Vì nó sống thật chẳng giống ai, lối cư xử của nó hoàn toàn lập dị. Nó coi ta như bọn lọc lừa, tránh đường ta đi như tránh đồ dơ bẩn…Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào. Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm” (Kn 2,14-16, 19-20).

Tin mừng của Chúa Kitô phải được rao truyền một cách trọn vẹn.

Chúa Kitô cũng bảo các Tông đồ phải nói ra một cách rõ ràng: “để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10:18). Phương pháp dạy dỗ của Chúa Giêsu là dùng dụ ngôn nói với dân chúng đông đảo để họ dần dần khám phá ra con người thật của Ngài qua từng giai đoạn một cách dễ dàng. Nhưng sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các Tông đồ sẽ rao giảng công khai từ mái nhà những gì Chúa Giêsu đã dạy họ: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10: 27). Đó là điều Chúa Kitô nói với các Tông đồ như một lời hứa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Chúng ta cũng phải làm cho giáo lý của Chúa Kitô được biết đến một cách trọn vẹn, không mơ hồ, không bị ảnh hưởng bởi sự e dè cách sai lầm hoặc sợ hãi về hậu quả, như các Tông Đồ cầu nguyện trong cơn bách hại: “Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn” (Cv 4: 29). Thánh Phaolô chia sẻ với giáo đoàn Côlôxê của Ngài: “Tôi phải rao giảng lời của Ngài cho trọn vẹn” (Cl 1: 25).

Thiên Chúa yêu thương các thụ tạo của Ngài, dù nhỏ bé và rất ít giá trị.

“Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em” (Mt 10: 29). Từ ngữ một xu trong tiếng Hy lạp là ασσαριόν - assarion - trị giá 1/16 denarius La mã. Denarius là một đồng bạc La Mã tương đương với tiền lương một ngày của một người lao động phổ thông (Mt 20:1-16). Người ta có thể mua hai con chim sẻ với giá một assarion (Mt 10:29) hoặc năm con chim sẻ với giá hai assarion (Luca 12:6). Trích dẫn một tài liệu từ thời hoàng đế Diocletianus (trị vì 284-305 sau Công nguyên), Deissmann nói rằng nếu chúng ta phân tích các con số này như một tài liệu kinh tế của thời kỳ Đế quốc La Mã, chúng ta sẽ học được ba điều:

Theo giá cả mua bán thì một assarion đổi được hai con chim sẻ.
Chim sẻ là một thứ rất rẻ được bán ở chợ để làm thức ăn cho người nghèo.
Chúng được bán theo cặp hoặc theo năm con.

“Assarion”, được dịch sang tiếng Anh là “penny – 1/100 của đồng bảng Anh”, hoặc thậm chí là “farthing - 1/4 của penny”, là một đồng tiền có giá trị rất nhỏ. Chúa Kitô dùng nó để minh họa rằng Thiên Chúa yêu thương các thụ tạo của Ngài biết bao. Như Thánh Giêrônimô đã nói: “Nếu những con vật tầm thường và rẻ tiền không thể chết nếu không có ý muốn của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của chúng, vì có một sự quan phòng trong tất cả mọi thứ, và giữa những thứ này có những thứ vốn sẽ bị diệt vong lại không bị diệt vong ngoài ý muốn của Thiên Chúa, thì bạn vốn là vĩnh cửu không nên sợ rằng bạn sống mà không có sự quan phòng của Thiên Chúa.” [*]

Chúa Giêsu một lần nữa dạy chúng ta về sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa là Cha: “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?... Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài, còn tất cả những thứ kia, Ngài sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:25-34). Khi chúng ta có đức tin đủ mạnh vào quyền năng và uy quyền tối cao của Thiên Chúa trên muôn vật, chúng sẽ thấy lòng mình mãn nguyện như tác giả Thánh vịnh 27: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa? Khi ác nhân xông vào,định nuốt sống thân tôi, ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy, lại lảo đảo té nhào. Dù cả một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì. Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin” (Tv 27: 1-3).

Sống đời chứng nhân đức tin.

Ở đây, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng việc công khai tuyên xưng đức tin của chúng ta nơi Ngài - bất kể hậu quả ra sao - là điều kiện không thể thiếu để được cứu độ đời đời. Sau Cuộc Phán Xét, Chúa Kitô sẽ đón nhận những ai làm chứng cho đức tin của mình và lên án những ai sợ hãi và xấu hổ vì Ngài: “Còn những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy ngùn ngụt: đó là cái chết thứ hai” (Khôn ngoan 21:8). Giáo hội tôn vinh những vị thánh dù không chịu tử đạo về thể xác nhưng vẫn là “chứng nhân đức tin” vì các ngài có cuộc sống làm chứng cho đức tin Công giáo. Mặc dù mọi Kitô hữu không chịu tử đạo về thể xác hoặc bị giết chết vì đức tin của mình, nhưng tất cả các Kitô hữu đều được kêu gọi trở thành những người làm chứng cho đức tin. Chúng ta được kêu gọi phục vụ người khác, dù ở nhà, ở chợ, hay ở trong khu phố, xóm làng. Giữa mọi người, Kitô hữu là những người sẵn sàng cúi xuống sàn nhà để dọn dẹp rác rến, dành thêm thì giờ để nâng đỡ người khác, nói lời động viên “đem lại sự sống đời đời” (Ga 6: 68) và giúp đỡ những người thiếu thốn. Thánh Phaolô nói: “Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6:10). Mục đích sau cùng và tột đỉnh của Kitô hữu là gì (?) nếu không phải ân huệ ban sự sống đời đời của Thiên Chúa, mà thánh Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Rôma: “Ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người…Điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị” (Rm 5: 5-17).

Phêrô Phạm Văn Trung
-----------------------------
[*] ST. JEROME, COMMENTARY ON MATTHEW, Translated by THOMAS P. SCHECK, Ave Maria University, THE CATHOLIC UNIVERSITY OF AMERICA PRESS, Washington, D.C, BOOK ONE, trang 123.

-----------------------------

 

TN 12-A125: NHIỀU CHỌN LỰA, NHƯNG CHỌN LỰA NÀO?

 

Lời Chúa dạy "Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn", trở thành TN 12-A125


Lời Chúa dạy "Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn", trở thành lời an ủi, động viên niềm tin, niềm hy vọng của ta vào chính Chúa. Bởi Chúa là chính Thiên Chúa, đến trần gian cứu chuộc và loan báo cho mọi người biết bản thân Người là Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa hứa ban.

Vì thế, chúng ta cần ý thức: Uy danh của Chúa lớn lao là vậy, mà loài người còn không tha, nhưng đã lên án tử cho Người, thì huống hồ loài người với nhau. Họ dễ dàng ra tay tàn sát nhau. Những cuộc giết hại nhau tập thể hoặc cá nhân không còn hiếm hoi, không còn lạ thường giữa trần đời này.

Xưa khi giết Chúa Giêsu, người Do thái nghĩ, họ đã khử trừ thứ tôn giáo mới. Và do cái chết thê thảm đó, các môn đệ sẽ thoái chí, buộc lòng phải giải tán.

Nhưng họ lầm. Họ lầm vì họ không biết rằng, họ chỉ có thể giết được thân xác của Giêsu, chứ không giết được linh hồn Người. Họ lầm vì họ chỉ có thể giết được thân xác Giêsu, nhưng chính Thiên Chúa nơi con người Giêsu ấy, làm sao giết được! Họ lầm vì họ không ngờ rằng, cái thân xác mà họ treo trên cây thập giá đó đã sống lại chỉ trong một thời gian ngắn: trên dưới 40 tiếng đồng hồ.

Bởi loài người không thể giết Thiên Chúa, nên Kitô giáo vẫn tồn tại, đạo Chúa vẫn không ngừng phát triển.

Trải qua lịch sử, những cái chết, sự hy sinh, sự phấn đấu cho lý tưởng của những vị thánh luôn là bài học lớn cho chúng ta. Tiên tri Giêrêmia mà phụng vụ Lời Chúa nhắc đến trong bài đọc I là một trong rất nhiều tấm gương cụ thể ấy.

Tiên tri là người bất khuất, không biết sợ hãi, miễn là lệnh truyền của Chúa được công bố, tình thương của Chúa được vinh danh, đời sống toàn dân được cảnh báo, dù là những cảnh báo thảm khốc, gây rúng động khiến mọi người thù ghét.

Tiên tri Giêrêmia thi hành sứ mạng cuối thế kỷ VII đầu thế kỷ VI (tCn), đó là thời bi thảm: đế quốc Babylon tiêu diệt vương quốc Giuđa (598-587 tCn).

Nhưng trước khi mọi hiểm họa xảy ra, tiên tri hết sức kêu gào đòi mọi thành phần trong vương quốc ăn năn tội, quay về với Chúa, phải từ bỏ ngẫu tượng... để thoát mọi trận đòn Chúa giáng trên dân tộc. Nhưng lời ông chẳng ai quan tâm.

Khi tai họa thật sự xảy ra, các trí thức và ưu tú bị buộc lưu đày, ông nói lên niềm an ủi và tình thương mà Chúa vẫn tiếp tục dành cho dân - rằng, lưu đày không những sẽ chỉ thoáng chốc, mà còn là thử thách có lợi, phong phú về tinh thần, sẽ khiến dân khi mất tất cả sẽ tin vào Chúa, sẽ quay về với Chúa - lại bị cho là kẻ chủ bại, bắt tay với ngoại xâm, nội gián để phá nền móng dân tộc và quốc gia...

Khi tiên báo những tàn phá mới ghê gớm hơn: kẻ thù sẽ bình địa Giêrusalem, Đền Thờ bị xúc phạm và bị phá hủy không thương tiếc, tiên tri lại bị vua Giêhôgiakim (lãnh đạo Giuđa) giận dữ, xé sấm ngôn ném vào lửa.

Có lần tiên tri đập vỡ bình gốm, cảnh báo Giêrusalem sẽ tan nát như chiếc bình, ông lại trở nên trò cười cho mọi người. Lần khác, trong Đền Thờ, ông công bố những tàn phá mà ngoại xâm sẽ xúc phạm và dành cho Đền Thờ, người ta bắt, đánh đòn, xích ông lại. Họ còn muốn giết tiên tri khi ném ông xuống một giếng cạn.

Đám đông bất mãn với tiên tri. Họ cho rằng, ông chỉ là kẻ trù ẻo và loan báo tai họa. Họ nói về ông: "Kìa lão 'Tứ phía kinh hoàng'! Hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi". Gia đình, bạn bè, đồng hương của ông đều âm mưu hãm hại ông.

Tiên tri Giêrêmia là tấm gương cho chúng ta về sự can đảm làm chứng cho Thiên Chúa, rao giảng điều công chính, sống chết cho niềm xác tín mà mình rao giảng. Đó là cách để thể hiện mạnh mẽ hai tiếng "đừng sợ" mà chúng ta lãnh nhận từ Chúa Kitô.

Cái "đừng sợ" của chúng ta hôm nay đó là ý thức đức tin từ những việc làm hết sức nhỏ nhặt hằng ngày. Ví dụ làm dấu thánh giá trang nghiêm. Thử hỏi để mọi người suy nghĩ: mỗi khi vào tiệm ăn, mình có dám tuyên xưng đức tin bằng dấu thánh giá trước khi bưng một tô phở hay cầm một dĩa cơm không?

Những việc xem ra nhỏ nhặt, lại là hành động tuyên xưng đức tin quí giá!

Tại sao có những việc lớn lao ta lại làm được, còn những việc rất nhỏ bé như thế lại không thể được? Bao hàm trong cái không thể đó, là sự sợ hãi: sợ người khác thấy, sợ người khác biết mình có đạo, sợ bị chê cười… Những cái sợ không đáng sợ lại là thực tế của người Công giáo.

Ví dụ về dấu Thánh giá chỉ là một ví dụ đại diện cho biết bao nhiêu lời nói, việc làm, suy tư, hình thức biểu lộ đức tin của từng người Công giáo.

Hãy chọn đức tin làm lẽ sống và chọn Chúa Kitô làm gia nghiệp đời mình.

Bởi chọn lựa ấy là chọn lựa quan trọng và cần thiết.

Vì giữa bao nhiêu cạm bẫy và cám dỗ, ta dễ mất phương hướng, nghi nan, chao đảo, có khi mất cả đức tin, nếu không chọn lựa dứt khoát đứng về phía đức tin, về phía Chúa Kitô.

Chọn Chúa chẳng những để bảo vệ mình khỏi ngã nhào mà còn đứng vững trong đức tin của mình.

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

-----------------------------

 

TN 12-A126: ĐỪNG SỢ!

 

Nàng là một thiếu nữ Rumani trẻ trung, xinh đẹp, đạo hạnh và đầy tinh thần tông đồ. Dẫu có TN 12-A126


Nàng là một thiếu nữ Rumani trẻ trung, xinh đẹp, đạo hạnh và đầy tinh thần tông đồ. Dẫu có lệnh của nhà nước cấm dạy giáo lý (câu chuyện xảy ra cách đây hơn 4 thập niên), nàng vẫn bí mật quy tụ một số trẻ em để giúp chúng dọn mình xưng tội rước lễ vỡ lòng. Mật vụ biết được nhưng vẫn để đó. Cho đến một hôm, vào chính ngày đám cưới của nàng, trong lúc hai họ vui vầy bên cô dâu chú rể tràn trề hạnh phúc, nhân viên an ninh ập vào giữa đám tiệc, trưng bằng cớ về việc nàng vi phạm luật và lập tức còng tay nàng. Trong lúc ai nấy kinh hoàng, khóc lóc thảm thiết, cô dâu điềm tĩnh đưa chiếc còng số 8 lên môi, kính cẩn hôn lấy và nói : “Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa đã tặng cho con một món quà nhân ngày cưới của con.” Rồi cô im lặng bước theo đoàn người áp giải… Năm năm sau, cô trở về, thân tàn ma dại vì bao cực hình, hãm hiếp, gian khổ. May thay, người chồng vẫn trung thành đợi chờ cô. Anh nói: “Đối với anh, em vẫn còn là một trinh nữ”. Gia đình hòa hợp và cô lại… tiếp tục dạy giáo lý !

1. Đừng sợ loan báo Tin Mừng.

Ngày nay, chúng ta thấy khó gieo rắc Tin Mừng trong thế giới duy vật vô thần của chúng ta. Vào thời Mát-thêu, hẳn cũng đã khó khăn rồi. Ta cảm thấy trong các câu nói của Đức Giê-su có một ý muốn khuyến khích cổ vũ : chớ nản chí, hãy vượt thắng nỗi sợ [1]. Nỗi sợ đây không phải là nỗi sợ “cá nhân”: sợ đau, sợ già, sợ tai nạn, sợ dịch bệnh, sợ bom nguyên tử. Nhưng là nỗi sợ trước đòi hỏi của đức tin : sợ cường quyền vô thần hạch sách, sợ bênh vực cho sự thật và công lý trong chế độ độc tài, sợ truyền bá giáo lý hay dấn thân vào việc tông đồ khó khăn, sợ mất giờ mất tiền mất sức vào việc đó, tóm lại là sợ không muốn công bố Tin Mừng ! Chẳng có gì ngăn cản nổi sức mạnh bành trướng của chân lý đâu! Lời rao giảng của Đức Giê-su tự nó đã là một hành vi hết sức khiêm tốn, một “sứ điệp che đậy… nói trong bóng tối, rỉ bên lỗ tai”. Nhưng ta thấy đó, sau bao thế kỷ, Tin Mừng đã đi vòng thế giới và vượt qua mọi trở ngại. Dĩ nhiên, sau công đồng Vatican, chớ nên có thái độ “đắc thắng tự tôn” song cần khiêm tốn và tế nhị, nhưng không vì thế mà cứ câm như hến. Dẹp thói sợ hãi dư luận, dẹp nỗi e ngại cường quyền, dẹp kiểu lập luận tránh né : chuẩn bị đất cho Tin Mừng đã. Năm thế kỷ Ki-tô giáo hiện diện trên đất Việt với bao máu đào tử đạo tưới đẫm và sự đóng góp lớn lao cho văn hóa dân tộc, cụ thể bằng chữ Quốc ngữ, chưa đủ để chuẩn bị ư ? Có lẽ chúng ta sẽ không còn đứng trước những kẻ tra tấn quyết tâm bắt chúng ta chà đạp Thập giá [2], nhưng khi chúng ta cảm thấy xấu hổ vì Đức Ki-tô, chẳng hạn trong môi trường làm việc của mình, thì hãy nhớ lời cảnh báo của Người lập tức : “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy”.     

2. Đừng sợ kẻ bách hại đàn áp.

“Đừng hãi sợ !” Điệp khúc trở lại ba lần trên miệng Đức Giê-su (x. Mt 10,26.28.31). Ta như thấy Đức Giê-su hiên ngang nói những lời này. Dù sao, Người chẳng phải sợ. Người biết mình sẽ bị giết, vì mối căm thù của kẻ địch dâng lên quanh Người như một con sóng đáng ngại, ngay từ khởi điểm sứ vụ của Người. Nhưng Chúa Giê-su thấy rõ đâu là những “giá trị đích thực”. Đối với Người, cuộc sống trần gian chẳng đáng là bao so với cuộc sống vĩnh cửu mà Người biết rõ tự bên trong, vì là Con Thiên Chúa. Loài người có thể tấn công sự sống thân xác. Họ chẳng có quyền chi trên “sự sống thực” vốn hoàn toàn thoát khỏi tầm tay chi phối của họ. Ngay Thánh vịnh 123,7 đã nói : “Hồn ta tựa cánh chim, thoát lưới người đánh bẫy”. Các vị tử đạo đều biết rõ điều đó. Người bị bắt bớ vì tôn giáo lớn lao hơn kẻ bách hại. Người bị hành hạ vì lẽ công chính cao cả hơn tên đao phủ. Tay bắt bớ xét bên ngoài thì mạnh nhất: y có vũ khí, và có bạo lực tàn nhẫn. Nhưng y chỉ mạnh ở mức độ “thú vật” mà thôi… Người bị bách hại thì mạnh nhờ một mãnh lực bất khả thắng bên trong mình. Vai u thịt bắp, vũ trang đầy mình đâu đáng kể! Có “một tâm hồn mạnh mẽ” mới đáng khâm phục.

Một “phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn”, kiểu nói lạ lùng, nghịch lý ! Làm sao có thể giết được một “linh hồn” thiêng liêng bất tử ! Giết như thế có nghĩa là gì ? Đức Ki-tô muốn quả quyết : nỗi sợ duy nhất của chúng ta phải là sợ mất đức tin, sợ thiên hạ kéo khỏi Người, khỏi Giáo hội, khỏi sự sống đời đời với Thiên Chúa. Đây là một nguyên tắc nghiêm trọng và rõ ràng giúp phân biệt các nỗi sợ đúng và sai. Cái làm cho Giáo hội điêu đứng, không phải là những kẻ bắt bớ bách hại… nhưng là những kẻ rời bỏ đức tin ! Cái phải động viên toàn lực Giáo hội, đó chính là sự mất mát hay còn thiếu đức tin trong các linh hồn ! Khi nghĩ tới những chiến dịch vận động dư luận để cứu các đàn hải cẩu, cá voi bị săn bắt, các thú rừng gặp nguy cơ tuyệt chủng, hay các thắng cảnh bỏ phế, các di tích điêu tàn… thì người ta đã làm gì để cứu các linh hồn, trước hết là những tín hữu lơ đạo, bỏ đạo, thứ đến là những con người vô đạo, chống đạo ? Đã làm gì để loài người khỏi hư hỏng, khỏi bị tàn phá từ bên trong khi mất tất cả ý nghĩa cuộc sống và chẳng nhận biết Đấng Cứu Chuộc?

Nhưng đức tin nói đây không chỉ là ngấm ngầm, chẳng ai nhận thấy, song cần phải được tuyên xưng. Tuy thế, tuyên xưng đây không chỉ là tỏ mình như “tín hữu” khi chẳng có chống đối hay nguy hiểm nếu nói lên điều đó, khi điều đó chẳng buộc tôi phải dấn thân cam kết gì, khi điều đó chẳng thay đổi gì trong cuộc sống của tôi cả. Đây là “tuyên xưng Đức Giê-su” trước một tòa án trần đời, trước ai đó không đồng ý, tìm cách buộc bạn nói ngược lại (bằng dụ hay dọa), trước ai đó sẽ chế nhạo, hành hạ, thậm chí sát hại bạn (như nhiều Kitô hữu tại Âu Mỹ đang là nạn nhân vì lập trường phò sự sống hay chống lại đồng tính hôn nhân). Phải chăng tôi đã “tuyên xưng Đức Giê-su” như thế trước mặt người đời ? Đã thực hành đức tin trong những hoàn cảnh ấy? Tôi đặt vào đó cái giá nào? Tôi hy sinh cái gì? Phải chăng tôi phục vụ Thiên Chúa và Đức Ki-tô của Người? Hay chỉ bỏ giờ để phục vụ chính tôi, để “được việc” cho tôi thay vì “đúng việc” của tôi?

Đức tin và tình yêu của ta chỉ tỏ ra nghiêm túc khi ta nói “Lạy Chúa, con tin ở Chúa”… cho đến đổ máu nếu cần. Cho đến đổ máu ! Điều đó ngày nay có thể ít khi mặc hình thức tử đạo. Nhưng thường biểu lộ qua sự trung tín cách anh hùng, qua việc chu toàn bổn phận thường nhật, qua thái độ can đảm trước những gì xảy đến, qua việc vui lòng chịu đựng các thử thách…

 3. Đừng sợ vì đã có Cha trên trời.

Để diễn tả điều ấy, Đức Giê-su dùng những kiểu nói hơi ngoa, đầy tính chất khôi hài dí dỏm: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không ? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em” Đối với Đức Giê-su, chẳng có chi thoát khỏi sự chú ý phi thường của Cha trên trời. Một biến cố nhỏ nhất cũng được Người ước muốn và tiên liệu. Sự chăm chú theo dõi đầy tình hiền phụ của Thiên Chúa trên mỗi hành vi chúng ta như thế khiến chúng ta an tâm và tràn ngập vui mừng : tôi được yêu thương… được yêu thương không chút đãng trí, chẳng phút ngừng nghỉ …được yêu thương một cách cá nhân, như chỉ có tôi với Người. Đấng yêu tôi biết tôi tận những chi tiết nhỏ nhất. Hơn cả tôi biết mình. Người biết cả số lượng tóc tôi ! Vậy hãy để cho Người nhìn ngắm ! Hãy cố gắng nhận thức cách cụ thể rằng sức mạnh lớn lao tạo dựng thế giới, điều hành của vũ trụ và lịch sử, lúc này đây vẫn trọn vẹn quan tâm đến tôi, dẫu có thể tôi đang khổ sở vì đức tin mình : trước mắt Người là Hiền phụ, tôi “giá trị” hơn mọi con chim, hơn mọi của cải của thế giới ! Vâng, lạy Chúa, Chúa biết rõ mọi cái xảy đến cho con ! Chúa chăm sóc và yêu thương con ! Nếu thế, làm sao con hãi sợ ? Có thể xảy ra sự gì xấu cho con, nếu con luôn ở dưới cái nhìn của Ngài ? “Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại chúng ta nổi ?” (Rm 8,31).

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

----------------------------
[1] Nhiều chuyên gia thống kê về Kinh Thánh cho biết trong toàn bộ Thánh Kinh có 366 câu Chúa nói: “Đừng sợ hãi”, nghĩa là đủ cho mỗi ngày một câu, kể cả năm nhuận ! Ngoài ra còn có 53 lời khuyên hay câu chuyện về lòng can đảm, đủ cho mỗi tuần một lời hay một chuyện, kể cả năm nhuận !

[2] Tuy thế đôi khi vẫn còn những trường hợp gây lo ngại như vụ linh mục Giuse Trần Ngọc Thanh, O.P. bị chém trong tòa giải tội và linh mục P.X Lê Tiên vị quấy rối nơi bàn thờ tại giáo phận Kontum mới đây. Nhiều Hội Thánh và Mục sư Tin lành từ bao lâu nay cũng gặp những trường hợp tương tự.

-----------------------------

 

TN 12-A127: LOÀI CHIM SẺ

 

Loài Chim Sẻ Chúa Lo Đầy Đủ, Tóc Thế Nhân Ngài Đếm Rõ Ràng. Chim sẻ là loài chim rất phổ TN 12-A127


Loài Chim Sẻ Chúa Lo Đầy Đủ
Tóc Thế Nhân Ngài Đếm Rõ Ràng

Chim sẻ là loài chim rất phổ biến trên thế giới, cách riêng là với người Việt. Chúng thường sống theo bầy đàn với số lượng lớn và rất thích ở gần con người, vì dễ tìm kiếm thức ăn. Theo sử học, nhà động vật học Passer Domesticus đã phát hiện chim sẻ lần đầu tiên vào năm 1758. Đây là loài chim có thân hình nhỏ bé, có thể là một trong những giống chim nhỏ nhất trong thế giới động vật. Một con trưởng thành có kích thước từ 10-15cm kể cả lông đuôi và nặng khoảng 24-40g, một số con có thể nặng 50g.

Chim sẻ rất gần gũi, thân thiện, chúng có thể làm tổ ngay trên mái nhà. Mùa sinh sản của chim sẻ vào mùa xuân, vì mùa này dồi dào lượng thức ăn, vì chúng ăn tạp, đồng thời nhiệt độ ấm áp để chim con phát triển ổn định và mau chóng. Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định mọi sự cho chim sẻ – loài chim rất bình thường, không mấy giá trị đối với con người. Chim sẻ chẳng đáng gì mà còn được Ngài quan tâm như vậy, huống chi con người – thụ tạo giống hình ảnh Ngài.

Là con người, ai cũng có những tâm sự buồn – đủ dạng, đủ kiểu, đủ mức, đủ cỡ. Những nỗi lòng thầm kín không biết tỏ cùng ai, như hoàng hậu Étte đã từng than thở với Thiên Chúa: “Con cô đơn, chẳng còn ai cứu giúp, ngoại trừ Ngài.” (Et 4:17L)

Chỉ có Thiên Chúa biết, vì Ngài thấu suốt mọi sự. (1 Sb 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6) Và “đừng sợ chi cả!” (St 15:1; St 21:17-18; St 26:23-24; St 35:16-17; St 43:23; St 46:1-4; St 50:18-21; Xh 14:13; Đnl 31:6; Is 41:10; Is 41:13; Is 43:1; Is 43:13; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Ga 14:27; Lc 1:13;Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Kh 1:17-18;…)
Thiên Chúa cho phép, Ngài muốn vậy và Ngài luôn động viên chúng ta.

Thật vậy, trình thuật Mt 10:26-33 (≈ Lc 12:2-9) là lời động viên của Chúa Giêsu. Ngài khuyến khích chúng ta can đảm nói sự thật và nói công khai. Trong đó có ba cái “đừng” Ngài muốn chúng ta làm.

Thứ nhất là “đừng sợ người ta.” Ngài giải thích: “Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.” Mọi bí mật sẽ được bật mí – bằng cách nào đó, chẳng chóng thì chày. Thẳng thắn thì không gì phải sợ, chỉ những kẻ cong queo mới lén lút vì sợ người khác biết. Không sợ người ta nên mới dám ăn to nói lớn, nói công khai, nói rõ ràng, nói huỵch toẹt. Có sao nói vậy là thượng sách, bởi vì chỉ có sự thật mới có thể giải thoát. (x. Ga 8:32)

Thứ hai là “đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.” Ngài lý giải: “Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” Ngài bảo “đừng sợ” những kẻ không đáng sợ, mà hãy sợ Đấng đáng sợ. Ngài giải thích rõ ràng, dẫn chứng cụ thể, so sánh thú vị. Con chim bé nhỏ có đáng chi mà Ngài còn lo cho nó sống thì Ngài không bao giờ làm ngơ chúng ta, những người được tạo dựng giống hình ảnh Ngài. (x. St 1:26-27) Sợi tóc mong manh còn được Ngài đếm rạch ròi kia mà! Ngài muốn nhắc nhở chúng ta tín thác, vì Thiên Chúa là Đấng quan phòng và tiền định từ đời đời.

Thứ ba là “đừng giấu giếm đức tin.” Ngài nói: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” Ai không sợ thì mới không chối Ngài – tức là tuyên xưng Ngài, ai sợ thì chối ngay. Không hẳn là nói “tôi không tin,” mà qua động thái cũng tỏ rõ sự chối bỏ.

Vì hèn nhát mà chối bỏ Thiên Chúa thì sẽ chết thêm lần thứ hai: “Những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy ngùn ngụt: đó là cái chết thứ hai.” (Kh 21:8) Đó là hồ lửa được mệnh danh là “cái chết thứ hai,” nơi dành cho Tử thần và những người không có tên trong Sổ Trường Sinh. (x. Kh 20:14-15)

Ngôn sứ Giêrêmia bày tỏ nỗi lòng qua trình thuật Gr 20:10-13. Ông bộc bạch: “Con nghe biết bao người vu cáo: ‘Kìa, lão Tứ-Phía-Kinh-Hoàng! Hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!’ Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói: ‘Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó’.” Ông bị người ta ghét và gán cho nickname là “Tứ Phía Kinh Hoàng.” Cái lên nghe rất “kêu” và cho thấy rằng người ta ghét ông dữ lắm!

Thế nhưng ông vẫn tin tưởng: “Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.” Cây ngay không sợ chết đứng. Người ta vẫn đặt điều, bịa chuyện để hại người khác. Có những người không ngại “dựng đứng” chuyện gì đó, họ giết người không vũ khí.

Theo nhân tính, khi bị người ta xa lánh thì ai cũng cảm thấy buồn, nhưng phải cố gắng vượt qua tất cả để có thể vẫn mãi là chính mình, và không oán ghét họ. Ông Giêrêmia đã có cảm giác đó, nhưng ông đã chiến thắng và thành tín cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can, con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài. Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo.” Giữ được niềm tin khi mọi người ủng hộ mình là điều không khó, nhưng vẫn giữ được niềm tin mới là điều quan trọng.

Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên khi đau khổ: “Âu cũng vì Ngài, mà con bị người đời thóa mạ, chịu nhuốc nhơ phủ lấp mặt mày. Anh em nhà kể con như người dưng nước lã, hàng máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi. Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân. Lời kẻ thóa mạ Ngài, này chính con hứng chịu.” (Tv 69:8-10) Độc ác bị hành, hiền lành bị ghét. Đời là thế. Không ai vừa lòng hết mọi người. Chấp nhận thì lòng thanh thản.

Thánh Vịnh gia tâm sự: “Lạy Chúa, phần con xin dâng Ngài lời nguyện, lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân. Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày, vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ.” (Tv 69:14) Đừng lo sợ gì, vì tất cả không ngoài ý Chúa: “Chính Người đánh phạt rồi lại xót thương, đẩy xuống tận âm ty trong lòng đất sâu thẳm, rồi kéo ra khỏi đại họa tiêu vong, chẳng có chi thoát khỏi tay Người.” (Tb 13:2) Thánh Vịnh gia tiếp tục cầu xin: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà đáp lại lời con; xin mở lượng hải hà mà đoái thương nhìn đến.” (Tv 69:17)

Ai cũng là tội nhân nên luôn cần được tha thứ. Cứ kiên tâm cầu nguyện, Chúa vẫn lắng nghe và thấu suốt nỗi lòng của chúng ta, Ngài chưa ra tay vì “giờ Ngài chưa đến.” Sự thật mãi mãi là sự thật, không thể khác hơn, bởi vì Thiên Chúa là chân lý, là nguồn sự thật: “Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên, người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi. Vì Chúa nhận lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm. Ca tụng Chúa đi, hỡi trời cao đất thấp, hỡi biển sâu cùng hải vật muôn vàn!” (Tv 69:33-35)

Có hai hình ảnh tương phản: Ông Ađam và Đức Giêsu – một vị gieo mầm tội, một vị diệt gốc tội. Hai hình ảnh tương phản nhưng vẫn một tổng thể, như đầu mở và đầu khép của vòng tròn. Thật kỳ lạ, Tội Nguyên Tổ được Giáo Hội gọi là “Tội Hồng Phúc” (Felix Culpa – Happy Fault) khi công bố Tin Mừng Phục Sinh (Exultet). Thánh Phaolô giải thích: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Ađam đã phạm. Ađam là hình ảnh Đấng sẽ tới.” (Rm 5:12-14)

Có sai lầm nên phải có luật. Luật như dây cương cần thiết để kiềm chế ngựa chứng. Tất cả chúng ta đều là những con ngựa bất kham đối với Thiên Chúa, cần phải được đóng hàm thiếc và cột dây cương trên đường đua về đích là Nước Trời. Thánh Phaolô giải thích thêm: “Sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (Rm 5:15) Vẫn là hai hình ảnh tương phản – một bên sa ngã và phải chết, một bên giải thoát và cứu sinh.

Cuộc sống luôn có những chuỗi giằng co giữa thiện – ác, lành – dữ, yêu – ghét, tội – phúc,… Sự giằng co đó liên tục xảy ra mọi nơi và mọi lúc, phải can đảm và mạnh mẽ mới khả dĩ vượt qua. Kiếp phàm nhân là thế. Đó là nỗi niềm không của riêng ai trên suốt cuộc lữ hành trần gian này. Vô cùng nhiêu khê. Vì thế, tín nhân luôn phải cầu xin ơn Chúa để có thể chiến thắng mọi mưu ma chước quỷ – đặc biệt là chiến thắng chính mình, vì đó là nội gián nguy hiểm nhất. Mọi thứ phải bắt đầu từ chính mình: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Đây là cách chiến thắng ma quỷ của Thánh Gioan Vianney: “Cách thế để chiến thắng ma quỷ khi nó kích gợi các cảm xúc giận ghét những người làm tổn hại chúng ta là hãy lập tức cầu nguyện cho họ biết cải thiện.”

Lạy Thiên Chúa chí thánh, không có Ngài thì chúng con chẳng làm được gì. Xin thêm sức mạnh để chúng con đủ sức chống lại ma quỷ. Chúng con không thể hiểu được Thánh Ý Ngài, nhưng xin Ngài giúp chúng con biết đón nhận mọi sự để vinh danh Ngài và đền tội của chúng con ngay đời này để giảm bớt thời gian thanh tẩy đời sau. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Trầm Thiên Thu

-----------------------------`

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây